Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
www.VPBS.com.vn Trang | 1
Tăng trưởng tín dụng so với đầu năm (%)
Nguồn: NHNN, VPBS
Chỉ số vĩ mô 2016 2017F
Tăng trưởng GDP (%) 6,21 6,40
Thặng dư thương mại (USD) 2,59 tỷ 1,0 tỷ
Thâm hụt ngân sách/GDP
(%, theo cách tính mới)
4,24 3,5
Tỷ giá trung tâm
(VND/USD) 22.159 22.935-23.267
Lạm phát (%, cả năm) 4,74 5,0
Lợi suất trái phiếu 5 năm (%) 5,6 6,2
Nguồn: NHNN, TCTK, VPBS
Tăng trưởng GDP theo ngành (%)
Nguồn: TCTK, VPBS
Tăng trưởng GDP: GDP năm 2016 của Việt Nam tăng 6,21% so với năm ngoái, thấp hơn so với mục tiêu 6,7%. Nguyên nhân chính dẫn đến mức tăng trưởng thấp hơn kỳ
vọng là do ngành công nghiệp khai khoáng giảm sút và ngành nông nghiệp tăng trưởng thấp so với cùng kỳ năm trước.
FDI: Tổng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) cấp mới và tăng thêm tính đến hết ngày 26/12/2016 đạt 24,37 tỷ USD, tăng 7,1% so với năm trước. Trong khi đó, vốn giải ngân ước tính đạt 15,8 tỷ USD, tăng 9% so với năm 2015, là mức giải ngân vốn FDI cao nhất từ trước đến nay.
Cán cân thương mại: Năm 2016 Việt Nam xuất siêu 2,68 tỷ USD – trái ngược với mức nhập siêu 3,54 tỷ USD năm
2015. Trong năm 2017, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam sẽ chịu nhiều thách thức và tác động trực tiếp từ những biến động chính trị và xã hội trên thế giới, mà cụ thể tại Mỹ và EU.
Thâm hụt ngân sách: Thâm hụt ngân sách ở mức 5,52%
cả năm do tăng trưởng GDP thấp hơn kế hoạch. Dự báo sẽ ở mức 3,5% GDP vào cuối năm nay do cách tính toán mới,
so với 4,24% năm 2016. Tỷ giá: năm 2017, tỷ giá có thể sẽ tiếp tục tăng vì Fed dự
báo sẽ có thêm 3 đợt tăng lãi suất trong năm 2017, tăng cầu tiền USD vì chính sách thúc đẩy tài khóa của Mỹ.
Lạm phát: Chúng tôi cho rằng, lạm phát năm 2017 chủ yếu sẽ bị ảnh hưởng bởi giá xăng dầu và diễn biến thị
trường tiền tệ thế giới. Dù còn nhiều thách thức, song Chính phủ đã đề ra mục tiêu kiểm soát lạm phát ổn định ở mức dưới 4% trong năm 2017.
Lợi suất trái phiếu chính phủ: Theo nhận định của VPBS, lợi suất TPCP năm 2017 sẽ có xu hướng tiếp tục tăng, và lợi suất các kỳ hạn dài hơn sẽ tăng nhanh hơn khi nền kinh tế dần ổn định, giúp cải thiện đường lợi suất.
Thị trường chứng khoán (TTCK): Mặc dù VNINdex giảm 4% trong quý 4/2016, nhưng cả năm chỉ số đã tăng giá rất tốt từ mức đáy 520 điểm lên mức đỉnh 2016 là 690 điểm vào tháng 10, một phần quan trọng có sự đóng góp của cổ phiếu dầu khí khi mà giá dầu hồi phục ấn tượng trong năm qua. Trong năm 2017, chúng tôi khá lạc quan do kì vọng và đợt tăng mạnh của ngành ngân hàng, cũng
như triển vọng các tổng công ty lớn của nhà nước niêm yết có thể thu hút dòng tiền vào thị trường. Dựa trên các giả định khác nhau về tiềm năng tăng trưởng EPS thị trường, chúng tôi kì vọng VNIndex có thể tăng lên 750 điểm (P/E ở mức 17,0) như là kịch bản cơ bản, và 780 điểm (P/E ở mức 17,5) như là kịch bản lạc quan cho năm 2017.
Triển vọng ngành: Chúng tôi lạc quan với các ngành
ngân hàng, tiêu dùng, thép, thủy - hải sản, xây dựng, kho vận, và dầu khí.
* Vui lòng đọc khuyến nghị ở cuối báo cáo này.
(5)
-
5
10
15
20
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
2014 2015 2016
0
2
4
6
8
10
12 Tăng trưởng GDP
Nông, lâm, thủy sản
Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ
BÁO CÁO TRIỂN VỌNG THỊ TRƢỜNG 2017
25/1/2017
Tháng
www.VPBS.com.vn Trang | 2
NỘI DUNG
TỔNG QUAN ............................................................................................................................ 3
TRIỂN VỌNG KINH TẾ THẾ GIỚI ............................................................................................. 3
Mỹ ........................................................................................................................................ 4
EU ........................................................................................................................................ 5
Nhật Bản ............................................................................................................................... 6
Trung Quốc ........................................................................................................................... 7
GDP ........................................................................................................................................ 9
Tăng trưởng GDP .................................................................................................................... 9
Tiêu dùng ............................................................................................................................ 11
Chi tiêu và đầu tư chính phủ .................................................................................................. 11
Đầu tư toàn xã hội ............................................................................................................... 13
Cán cân thương mại ............................................................................................................. 15
CHỈ TIÊU KINH TẾ ................................................................................................................ 18
Lạm phát ............................................................................................................................ 18
Thị trường ngoại hối ............................................................................................................. 19
Cán cân thanh toán .............................................................................................................. 21
Tăng trưởng tín dụng và M2 ................................................................................................... 22
Lợi suất trái phiếu chính phủ .................................................................................................. 23
Lãi suất thị trường liên ngân hàng .......................................................................................... 25
Lãi suất huy động và lãi suất cho vay ..................................................................................... 26
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN THỊ TRƢỜNG ................................................................... 28
Thông tư 41/2016/TT-NHNN .................................................................................................. 28
Các biện pháp gia tăng quy mô thị trường ............................................................................... 29
Giá hàng hóa cơ bản ............................................................................................................. 29
THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN ................................................................................................ 32
TRIỂN VỌNG THỊ TRƢỜNG .................................................................................................... 38
TRIỂN VỌNG CÁC NGÀNH QUÝ IV/2016 ............................................................................... 40
NGÀNH NGÂN HÀNG ............................................................................................................. 40
NGÀNH HÀNG TIÊU DÙNG ..................................................................................................... 46
NGÀNH KHO VẬN ................................................................................................................. 53
NGÀNH DẦU KHÍ .................................................................................................................. 59
NGÀNH THÉP ....................................................................................................................... 61
NGÀNH XÂY DỰNG ............................................................................................................... 65
NGÀNH THỦY SẢN ................................................................................................................ 69
www.VPBS.com.vn Trang | 3
TỔNG QUAN
GDP năm 2016 của Việt Nam tăng 6,21% so với năm ngoái, thấp hơn so với mục tiêu
6,7% và thấp hơn cùng kỳ năm ngoái tăng trưởng 6,68%. Bên cạnh những diễn biến
phức tạp và thách thức của nền kinh tế toàn cầu trong năm 2016, nền kinh tế Việt Nam
còn phải hứng chịu những hậu quả nghiêm trọng do biến đổi khí hậu và thiên tai gây
nên, đặc biệt là đối với ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản. Khu vực nông – lâm – thủy
sản chỉ tăng 1,36% so với năm ngoái, mức tăng trưởng thấp nhất trong 10 năm qua.
Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,57%, thấp hơn cùng kỳ và khu vực dịch vụ đạt
mức tăng 6,98% là mức tăng cao nhất kể từ năm 2012 đến nay.
Dự báo năm 2017 là một năm có nhiều diễn biến khó lường, cả từ kinh tế thế giới và
điều kiện tự nhiên tại Việt Nam. Hiện tượng El Nino có thể suy giảm, tuy nhiên hiện
tượng xâm nhập mặn vẫn diễn biến phức tạp và tình hình ô nhiễm môi trường chưa có
xu hướng giảm bớt sẽ tiếp tục tác động tiêu cực đến khu vực nông nghiệp.
Việc Mỹ rút khỏi TPP có thể tác động tiêu cực đến cán cân thương mai và dòng vốn FDI
vào Việt Nam, và ảnh hưởng đến ngành công nghiệp chế biến chế tạo, dù dự báo tác
động không quá lớn. Rủi ro tiềm năng từ việc đồng Nhân dân tệ (NDT) giảm giá mạnh
cũng sẽ tác động tiêu cực đến cán cân thương mại và tỷ giá. Trong khi đó lạm phát sẽ
gia tăng do giá xăng dầu, giá các dịch vụ công và giá cả hàng hóa trên thế giới gia tăng.
Tuy nhiên, công cuộc cải cách chi tiêu công và cải cách DNNN đang ngày càng được đẩy
mạnh sẽ giúp cải thiện tính hiệu quả của cả nền kinh tế. VPBS dự báo tăng trưởng GDP
2017 sẽ ở mức 6,4% so với cùng kỳ.
Tổng hợp các chỉ số kinh tế 2013-2016
Dự phóng
Năm 2013 2014 2015 2016 2017
Tăng trưởng GDP (% so với cùng kỳ) 5,42 5,98 6,68 6,21 6,4
Cán cân thương mại (tỷ USD) (0,14) 0,80 (3,54) 2,59 1,0
Bội chi NSNN/GDP (%) 6,6 5,7 6,1 4,24* 3,50*
Tăng trưởng tín dụng (% so với đầu năm) 12,52 14,16 17,29 18,71 18,0
CPI (% so với cùng kỳ) 6,04 1,84 0,60 4,74 5,0
Tỷ giá trung tâm (VND/USD) 21.036 21.246 21.890 22.159 22.935 – 23.267
Lợi suất trái phiếu 5 năm (%) 8,5 6,1 6,6 5,6 6,2
* Theo cách tính mới
Nguồn: NHNN, TCTK, VPBS
TRIỂN VỌNG KINH TẾ THẾ GIỚI
Triển vọng kinh tế thế giới năm 2017 được nhận định khá sáng sủa nhưng xuất hiện
những rủi ro kinh tế rất cao. Mức độ tăng trưởng sẽ có nhiều cấp độ và phân hóa dựa
trên cấu trúc kinh tế của từng quốc gia. Tuy nhiên nền kinh tế thế giới sẽ có một số nét
chính như sau:
- Kinh tế thế giới đang chia thành hai thái cực trái chiều: một bên là Mỹ đang thắt
chặt các chính sách tiền tệ của mình bằng cách nâng lãi suất cơ bản, một bên là
EU và các quốc gia khác đang nới lỏng các chính sách tiền tệ và tài khóa, liên tục
mở rộng các gói hỗ trợ kinh tế và hạ lãi suất. Trong bối cảnh đó, việc Fed tiếp tục
tăng lãi suất trong năm 2017 có thể tiếp tục khiến làn sóng rút vốn, thoái vốn từ
các quốc gia mới nổi về Mỹ có thể dâng cao trong năm tới.
- Bên cạnh đó, làn sóng phản đối thương mại toàn cầu hóa đang có xu hướng dâng
cao sau cuộc trưng cầu dân ý Brexit và việc ông Donald Trump – người ủng hộ
chính sách bảo hộ mậu dịch đã bất ngờ đắc cử Tổng thống Mỹ. Điều này có thể
www.VPBS.com.vn Trang | 4
làm suy giảm hoạt động thương mại của các quốc gia mới nổi và những nền kinh
tế phụ thuộc chính vào xuất khẩu.
- Chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc hoàn toàn có thể xảy ra trong
năm 2017 khi tổng thống Donald Trump bày tỏ quan điểm cứng rắn về mặt
thương mại, muốn đánh thuế cao đến 45% các mặt hàng nhập khẩu từ Trung
Quốc. Để đáp trả biện pháp này, Trung Quốc rất có thể sẽ phá giá đồng Nhân
dân tệ để giữ giá hàng hóa của mình tại Mỹ vẫn ở mức giá thấp. Tuy nhiên điều
này vô tình sẽ khiến giá hàng hóa Trung Quốc trên toàn thế giới sụt giảm. Trong
bối cảnh đó, Việt Nam để đảm bảo tính cạnh tranh thương mại của mình có thể
cũng sẽ phải phá giá tiền Đồng.
Trong báo cáo mới nhất của mình, World Bank (WB) đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế
thế giới năm 2017 xuống còn 2,7% vì lo ngại những rủi ro từ những chính sách kinh tế
mới của Trump và tiến trình Brexit: Anh rời khỏi liên minh châu âu EU. Trong khi đó, IMF
mới đây giữ nguyên dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu của mình ở mức 3,4%. Tuy
nhiên đồng quan điểm với WB, IMF cũng cảnh báo nguy cơ bất ổn kinh tế toàn cầu trong
năm 2017 là rất cao mà nguyên nhân chính là từ sự điều chỉnh chính sách kinh tế của
tổng thống Mỹ mới đắc cử Donald Trump.
Mỹ
Tăng trƣởng GDP phục hồi mạnh mẽ
Theo Cơ quan thống kê của Mỹ, tăng trưởng GDP quý III/2016 đạt 3,5%, là mức tăng ấn
tượng so với mức tăng 1,4% vào quý II. Đây cũng là mức tăng trưởng GDP theo quý cao
nhất kể từ quý III/2014. Tuy nhiên các chuyên gia dự báo sẽ rất khó để Mỹ có thể duy
trì đà tăng trưởng này trong 3 tháng cuối năm 2016, nhiều khả năng kinh tế Mỹ sẽ tăng
trưởng khoảng 2,2% vào quý IV/2016.
Theo công ty Markit Economics, chỉ số nhà quản trị mua hàng PMI của Mỹ kết thúc năm
2016 đạt 54,3 điểm – mức cao nhất kể từ tháng 3/2015. Số lượng việc làm mới cũng
tăng ở mức nhanh nhất nhờ số lượng các đơn đặt hàng mới và khối lượng sản xuất tăng
mạnh.
Theo Bộ Lao động Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ đã giảm xuống còn 4,6% - mức thấp nhất
kể từ năm 2007. Riêng trong tháng 11, thị trường Mỹ đã có thêm 178.000 công việc mới
và khiến tỷ lệ thất nghiệp giảm mạnh từ 4,9% xuống còn 4,6%. Mức lương cũng tăng
thêm 2,5% so với cùng kỳ năm trước, dự báo nhờ vậy lạm phát cũng sẽ tăng theo.
Fed tăng lãi suất lần thứ hai kể từ tháng 12/2015
Dựa trên những số liệu kinh tế tích cực, Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã quyết định
tăng lãi suất cơ bản thêm 0,25% trong kỳ họp tháng 12/2016, đồng thời đưa ra khả
năng sẽ tiếp tục tăng lãi suất cơ bản 3 lần trong năm 2017. Theo đó, mức lãi suất cơ
bản Mỹ giao động trong khoảng 0,5% - 0,75%. Đây là lần tăng lãi suất thứ hai của Fed
kể từ tháng 12/2015. Trong năm 2016, thị trường đã nhiều lần đưa ra những dự đoán về
kế hoạch tăng lãi suất của Mỹ, nhưng Fed vẫn duy trì mức lãi suất cũ cho đến tận tháng
12 khi Fed cảm thấy nền kinh tế Mỹ đã đủ „sức khỏe‟ để đón nhận mức lãi suất cao hơn.
Đồng USD Mỹ liên tục tăng giá trong năm 2016
Theo chỉ số đồng USD Mỹ so với rổ tiền tệ gồm 6 loại tiền tệ khác nhau thì đồng USD đã
tăng lên mức đỉnh 14 năm. Cụ thể sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, đồng USD đã tăng
giá 6% so với đồng EUR và tăng 12% so với đồng Yên Nhật. Đồng USD Mỹ tăng mạnh
trong thời gian qua nhờ những kết quả kinh tế khả quan: kinh tế tăng trưởng và tỷ lệ
thất nghiệp suy giảm. Bên cạnh đó, việc Fed nâng lãi suất và hệ quả của sự kiện Brexit
cũng khiến cho đồng USD tăng giá so với các đồng tiền khác. Theo các chuyên gia, trong
quý I/2017, đồng USD vẫn sẽ duy trì đà tăng của mình.
www.VPBS.com.vn Trang | 5
Những yếu tố chính ảnh hƣởng tới thị trƣờng Việt Nam
Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong nhiều năm qua và là đối tác
thương mại quan trọng. Sự tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ và những diễn biến kinh tế -
chính trị có những tác động trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam cũng như tới
phát triển kinh tế của nước ta.
Theo chúng tôi, trong năm 2017, sẽ có hai yếu tố chính ảnh hưởng tới sự tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam:
Fed tăng lãi suất:
Nếu duy trì được đà tăng trưởng hiện tại, một số quan chức Fed đưa ra dự báo cho rằng
Fed sẽ nhanh chóng tăng lãi suất trong năm 2017 nhằm kiềm chế lạm phát, kiểm soát
tăng trưởng kinh tế. Trong báo cáo gần nhất của mình, Fed dự báo tăng trưởng kinh tế
Mỹ năm 2016 sẽ đạt 1,9% và năm 2017 là 2,1%.
Tuy vậy, việc tăng lãi suất còn phụ thuộc rất nhiều vào các chính sách kinh tế mới của
Tổng thống Donald Trump và tác động của những chính sách này tới nền kinh tế. Vào
thời điểm hiện tại, vẫn chưa thể khẳng định ông Trump sẽ đưa ra những chính sách kinh
tế gì để duy trì và đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế Mỹ.
Trong trường hợp Fed tăng lãi suất nhiều lần trong năm 2017, đồng USD sẽ tăng giá
mạnh so với đồng VND khiến cho giá trị các khoản nợ công của Việt Nam tính theo USD
cũng gia tăng. Bên cạnh đó, việc tăng lãi suất cũng sẽ phần nào khiến các nhà đầu tư
rút vốn khỏi các thị trường mới nổi như Việt Nam để tìm tới các thị trường triển vọng
hơn và an toàn hơn.
Chính sách kinh tế của Trump:
Trong cuộc bầu cử, tổng thống mới đắc cử Donald Trump bày tỏ quan điểm ủng hộ chính
sách bảo hộ mậu dịch, hạn chế hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Mỹ bằng cách áp
dụng thuế quan tối thiểu 5% với mọi loại hàng nhập khẩu. Điều này đồng nghĩa với việc
xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Mỹ có thể gặp nhiều cản trở trong năm
2017.
Ngày 23/1/2017, tân Tổng thống Mỹ Donald Trump đã chính thức ký sắc lệnh về việc
nước Mỹ rút lui khỏi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Nếu không có sự
tham gia của Mỹ, hiệp định TPP sẽ không thể được thực hiện – điều này được quy định
bởi chính các điều khoản của hiệp định này.
Đối với Việt Nam, không có TPP đồng nghĩa với việc dòng vốn đầu tư FDI đổ vào với kỳ
vọng được hưởng lợi từ các điều khoản của TPP sẽ sụt giảm, mặc dù những cải cách kinh
tế được thực hiện nhằm chuẩn bị cho việc tham gia TPP sẽ vẫn được thực hiện và góp
phần khiến Việt Nam trở thành thị trường thu hút đầu tư. Dù vậy, sự sụt giảm vốn FDI
sẽ không quá nặng nề, do ngay từ khi được ký kết, TPP đã gặp phải sự chống đối từ Mỹ,
và các ứng cử viên chủ chốt trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ đều đã bày tỏ quan điểm
chống lại TPP. Việc này cũng có nghĩa thị trường đã tính đến khả năng hiệp định này bị
hủy bỏ.
EU
Tăng trƣởng kinh tế suy giảm, lạm phát thấp
Theo cơ quan thông kê châu Âu Eurostat, GDP theo giá hiện hành của 19 quốc gia thuộc
Eurozone chỉ tăng 0,4% trong quý III/2016, tiếp tục giảm so với mức 0,47% quý II và
0,62% quý I/2016. Nguyên nhân chính là vì tăng trưởng kinh tế của 2 nền kinh tế lớn
nhât châu ÂU là Đức và Pháp đều suy giảm trong quý III. Kinh tế Đức mất đà tăng
trưởng trong khi Pháp bất ngờ sụt giảm. Điều này cho thấy sự phục hồi kinh tế tại
Eurozone vẫn còn rất chậm chạp.
Lạm phát của 19 quốc gia thuộc liên minh EU kết thúc năm 2016 ước tính đạt 1,1%,
www.VPBS.com.vn Trang | 6
tăng so mức 0,6% hồi tháng 11/2016. Tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực liên minh kinh tế lớn
nhất thế giới này là 9,8% - mức tỷ lệ thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008.
Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) tiếp tục cắt giảm lãi suất xuống mức thấp kỷ lục
0,25% để đối phó với lạm phát thấp và khôi phục đà tăng trưởng kinh tế.
Anh công bố kế hoạch rời châu Âu
Thủ tướng Anh - bà Theresa May mới đây đã công bố kế hoạch rời khỏi Liên minh châu
Âu của nước Anh. Theo đó, Anh sẽ quyết định thực hiện một “Brexit cứng” tức là thay vì
giữ lại một số những quan hệ nhất định với EU, nước Anh sẽ dứt khoát rời khỏi thị
trường chung này và cải tổ hoàn toàn mối quan hệ của mình với EU. Điều đó có nghĩa là
Anh sẽ rút khỏi hiệp định miễn thuế giữa Anh và EU, chấm dứt việc tự do nhập cư từ EU
sang Anh, dừng việc chuyển lượng lớn tiền sang Brussels, và tự do thương thảo các hiệp
định thương mại với các quốc gia khác.
Các nhà đầu tư tỏ ra không mấy tích cực về kế hoạch này của nước Anh khi đồng bảng
Anh lao dốc và chạm đáy mức thấp nhất kể từ năm 1985 so với đồng USD sau khi thông
tin về “Brexit cứng” bị tiết lộ. Một loạt các ngân hàng tài chính lớn của thế giới đã và
đang chuyển trụ sở của mình tại Anh sang các quốc gia khác, và rút hoạt động kinh
doanh ra khỏi Anh kể từ khi có kết quả bỏ phiếu Brexit.
Ảnh hƣởng của Brexit tới EU và thế giới
Mặc dù các nhà lãnh đạo EU và Anh đều một mực khẳng định Brexit sẽ không gây ảnh
hưởng ngiêm trọng tới sự phát triển kinh tế của cả hai khu vực này, nhưng điều khiến
các nhà đầu tư lo ngại là liệu sẽ có thêm nhiều những cuộc trưng cầu dân ý khác giống
Brexit hay không. Điều này đang đe dọa sự tồn tại của liên minh kinh tế lớn nhất hành
tinh nói riêng và thương mại toàn cầu hóa nói chung.
Trước mắt, không chỉ Anh và EU mà còn cả các quốc gia khác trên thế giới sẽ cần
khoảng thời gian nhất định để ổn định và thiết lập lại các mối quan hệ giao thương với
EU và Anh.
EU là đối tác thƣơng mại quan trọng của Việt Nam
Sau Mỹ, EU là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam, là thị trường xuất khẩu lớn
thứ hai của Việt Nam. Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường chung EU
đang được hỗ trợ rất lớn từ hiệp định thương mại EU-Việt Nam (EVFTA) giữa Việt Nam
và 28 nước thành viên của EU được ký kết vào tháng 12/2015 và dự kiến sẽ có hiệu lực
từ năm 2018. Với tiến trình Brexit, Việt Nam sẽ phải thực hiện nhưng vòng đàm phán
mới và thiết lập những mối quan hệ thương mại mới với Anh.
Bên cạnh đó, những bất ổn kinh tế từ Brexit và vấn nạn người nhập cư tại EU phần nào
sẽ ảnh hưởng tới nhu cầu hàng hóa, phát triển kinh tế của các nước thành viên, và đồng
thời hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang EU trong giai đoạn sắp tới. Kinh tế suy
giảm sẽ làm giảm nhu cầu hàng hóa tiêu thụ, đồng thời làm giảm số lượng hàng hóa
xuất khẩu sang thị trường này.
Nhật Bản
Kinh tế tăng trƣởng vƣợt dự báo
Kinh tế Nhật Bản quý III/2016 đang lấy lại đà tăng trưởng khi GDP quý III tăng 2,2% so
với quý trước, là mức tăng ấn tượng so với quý II chỉ tăng 0,7%, và vượt xa mức dự báo
0,8% của các nhà phân tích. Bất chấp việc đồng Yên tăng giá, xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ của Nhật Bản trong quý III/2016 tăng 8,1% so với quý trước, tăng mạnh sau khi
giảm 6% vào quý II/2016. Theo Markit, chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) của Nhật
Bản kết thúc tháng 12/2016 đạt mức điểm cao nhất trong vòng 1 năm, và luôn đạt trên
50 điểm trong suốt quý III, cho thấy sự cải thiện trong sản xuất công nghiệp của Nhật
Bản.
www.VPBS.com.vn Trang | 7
Tuy nhiên nhu cầu tiêu dùng trong nước vẫn còn rất yếu khi mức tăng tiêu dùng cá nhân
đã giảm từ 0,5% trong quý II xuống còn 0,3% trong quý III/2016. Niềm tin người tiêu
dùng Nhật Bản đã giảm từ mức cao nhất 43 điểm từ tháng 9/2016 xuống còn 42,3 điểm
trong tháng 10/2016, theo báo cáo của Văn phòng Nội các Nhật Bản. Bên cạnh đó, việc
ông Donald Trump bảo vệ chủ nghĩa bảo hộ thương mại có thể ảnh hưởng tới sự phát
triển kinh tế của một đất nước phụ thuộc vào xuất khẩu như Nhật Bản.
Năm 2016, đồng JPY tăng giá so với các đồng tiền khác như USD, GBP sau sự kiện Brexit
và việc Donald Trump đắc cử thổng thống, vì các nhà đầu tư tìm tới JPY như một địa chị
trú ẩn. Điều này đã phần nào gây cản trợ tới hoạt động xuất khẩu của Nhật Bản.
Thông qua kế hoạch ngân sách kỷ lục
Chính phủ Nhật Bản khẳng định ưu tiên hàng đầu trong năm 2017 là khôi phục nền kinh
tế. Chính phủ Nhật đã thông qua kế hoạch ngân sách cho năm 2017 với mức kỷ lục hơn
97.450 tỷ Yên tương đương với 831 tỷ USD. Tuy nhiên nhiều chuyên gia tài chính cho
rằng Nhật Bản khó đạt mục tiêu hạn chế tài chính và khôi phục lại sức mạnh tài chính vì
chi phí an sinh xã hội tăng mạnh trong thời gian gần đây và chi tiêu quốc phòng cũng
tăng tháng thứ 5 liên tiếp khiến kế hoạch ngân sách tài khóa 2017 tăng lên mức kỷ lục.
Nhật Bản: nhà đầu tƣ chiến lƣợc của Việt Nam
Không chỉ là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 của Việt Nam, Nhật Bản còn là nhà đầu tư
lớn thứ 2 của Việt Nam chỉ sau Hàn Quốc trong năm 2016. Tính đến cuối tháng 11/2016,
Nhật Bản đã đầu tư tổng cộng 42 tỷ USD vào nước ta.
Triển vọng kinh tế tương đối khả quan của Nhật Bản sẽ là yếu tố chính hỗ trợ hoạt động
xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản cũng như hoạt động đầu tư vào Việt
Nam.
Trung Quốc
Tăng trƣởng kinh tế tƣơng đối ổn định
Tăng trưởng GDP của Trung Quốc trong quý IV đạt 6,8%, vượt dự báo 6,7%. Như vậy
tăng trưởng GDP cả năm 2016 đạt 6,7%, hoàn thành mục tiêu tăng trưởng của chính
phủ. Chỉ số PMI tháng 12 của Trung Quốc đạt mức 51,9 điểm, tăng so với mức 50,9
điểm của tháng 11, cho thấy nền kinh tế của Trung Quốc đang dần ổn định trở lại. Tổng
kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc giảm 7,7% so với năm ngoái, trong khi đó nhập
khẩu cũng giảm tới 5,5%.
Tuy nhiên những rủi ro với nền kinh tế Trung Quốc vẫn tồn tại khi gắng nặng nợ công
của quốc gia này ngày một tăng và chưa có tiến bộ rõ ràng trong việc giải quyết dư thừa
công suất và hiệu quả thấp tại các ngành công nghiệp chủ chốt.
Triển vọng đồng NDT suy yếu
Trong năm 2016, dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc giảm gần 320 tỷ USD xuống còn 3.011
tỷ USD. Mức giảm này thấp hơn so với mức giảm 513 tỷ USD trong năm 2015, tuy nhiên
trong 6 tháng cuối năm 2016 dự trữ ngoại hối sụt giảm liên tục cả 6 tháng liên tiếp và
đà giảm này chưa có nhiều dấu hiệu sẽ dừng lại. Đồng NDT giảm giá tổng cộng 6,6% so
với USD trong năm 2016, là mức giảm lớn nhất theo năm kể từ năm 1994.
Ba yếu tố chính góp phần gây nên tình trạng này bao gồm: (1) khi đồng USD mạnh lên,
Trung Quốc sử dụng dự trữ ngoại hối để duy trì giá trị của NDT. (2) Dòng vốn ngoại rời
khỏi nước này trong do triển vọng FED tăng lãi suất USD và chính sách kiểm soát vốn
được nới lỏng. (3) NHTƯ Trung Quốc đã dùng dự trữ ngoại hối để hỗ trợ thị trường
chứng khoán suy giảm trong năm 2015.
Ngoài ra, điều đáng lưu ý là khoản mục Lỗi và sai sót ròng từ năm 2009 trở về đây tăng
mạnh, cùng với xu hướng chuyển tài sản ra nước ngoài của giới “siêu giàu” Trung Quốc
theo các kênh không chính thức. Theo Bản Điều tra của Hurun, một tổ chức chuyên
www.VPBS.com.vn Trang | 8
nghiên cứu về sự giàu có của Trung Quốc, 64% giới siêu giàu Trung Quốc (có tài sản từ
100 triệu NDT – 15,3 triệu USD trở lên) đã hoặc đang thực hiện chuyển tài sản của họ ra
nước ngoài do tình trạng ô nhiễm môi trường, môi trường kinh doanh giảm chất lượng và
chiến dịch chống tham nhũng những năm gần đây của các lãnh đạo Trung Quốc.
Tỷ lệ dự trữ ngoại hối/M2 đã giảm từ 19% năm 2014 xuống 15,5% năm 2015. Tỷ trọng
thấp so với cung tiền đồng nghĩa kho dự trữ sẽ hao mòn nhanh chóng trong trường hợp
nhà đầu tư rút vốn. Trong khi đó, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) lưu ý một quốc gia cần duy
trì tỷ lệ này trên 20% để được xem là "vững chãi". Chúng tôi ước tính ngưỡng dự trữ
ngoại hối an toàn tối thiểu của Trung Quốc theo khuyến nghị của Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF) ở mức 2.600-2.800 tỷ USD.
Trung Quốc gần đây đã tăng cường trừng phạt những người đầu cơ đồng NDT giảm giá
và áp dụng các biện pháp quản lý chặt chẽ hơn đối với việc đầu tư ra nước ngoài và việc
chuyển tiền ra nước ngoài. Tuy nhiên, dự kiến xu hướng chuyển tài sản ra nước ngoài
của người giàu Trung Quốc sẽ tiếp tục trong những năm tới, góp phần làm suy giảm dự
trữ ngoại hối. Đồng thời, với triển vọng Mỹ thực hiện các gói nới lỏng tài khóa và Fed
tăng lãi suất 3 lần trong năm 2017, dự báo dòng vốn rút ra khỏi Trung Quốc sẽ tiếp tục
gia tăng.
VPBS cho rằng nếu dự trữ ngoại hối tiếp tục suy giảm nhanh chóng, Trung Quốc có thể
sẽ phải thực hiện việc phá giá với biên độ lớn một lần, giống như đã thực hiện năm
2015. Điều này có thể sẽ gây xáo trộn thị trường tài chính toàn cầu và làm gia tăng
căng thẳng trong quan hệ với Mỹ.
Trong nhiều năm qua, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam nhờ giá
thành rẻ. Tuy nhiên, việc đồng Nhân dân tệ liên tục mất giá trong thời gian qua sẽ khiến
hàng hóa Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt Nam, và khiến các doanh nghiệp sản
xuất Việt Nam mất vị thế cạnh tranh trong nước và cả trên thị trường quốc tế, tác động
tiêu cực đến cán cân thương mại của Việt Nam với Trung Quốc nói riêng và các nước
khác nói chung.
Để đảm bảo sức cạnh tranh thương mại của mình, Việt Nam có thể cũng sẽ phải tăng tỷ
giá VND/USD nhưng việc này đồng thời sẽ khiến các khoản nợ công bằng ngoại tệ của
chính phủ khi quy ra VND gia tăng.
Dự trữ ngoại hối (tỷ USD)
Nguồn:NHTƯ Trung Quốc, VPBS
-
500
1.000
1.500
2.000
2.500
3.000
3.500
4.000
www.VPBS.com.vn Trang | 9
GDP
Tăng trƣởng GDP
GDP năm 2016 không hoàn thành mục tiêu
Theo Tổng cục Thống kê (TCTK), GDP năm 2016 của Việt Nam tăng 6,21% so với năm
ngoái, thấp hơn so với mục tiêu 6,7%. Đúng như dự báo trước đó trong các báo cáo của
chúng tôi, kinh tế Việt Nam không thể hoàn thành mục tiêu GDP đề ra đầu năm 2016.
Bên cạnh những diễn biến phức tạp và thách thức của nền kinh tế toàn cầu trong năm
2016, nền kinh tế Việt Nam còn phải hứng chịu những hậu quả nghiêm trọng do biến đổi
khí hậu và thiên tai gây nên, đặc biệt là đối với ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Khu vực nông – lâm – thủy sản chỉ tăng 1,36% so với năm ngoái, mức tăng trưởng thấp
nhất trong 10 năm qua. Trong đó, ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất (khoảng
75%) trong khu vực nhưng chỉ tăng thấp 0,72%. Ngành lâm nghiệp và thủy sản tăng lần
lượt 6,11% và 2,80% so với năm ngoái. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chịu ảnh
hưởng nghiêm trọng từ diễn biến thời tiết bất lợi: tình hình hạn hán và xâm nhập mặn
do hiện tượng El Nino, liên tục những đợt lũ trong các tháng cuối năm tại các tỉnh mùa
Trung và sự cố nhiễm độc môi trường biển tại các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Trong 3 khu vực chính, công nghiệp và xây dựng vẫn có mức tăng trưởng cao nhất. Năm
2016, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,57% so với năm ngoái. Tuy vậy mức
tăng này thấp hơn khá nhiều so với mức tăng trưởng năm 2015 là 9,64%. Ngành công
nghiệp chế biến chế tạo đạt mức tăng trưởng ấn tượng 11,90% so với năm ngoái, là
mức tăng cao nhất trong 5 năm qua. Cùng với đó, ngành xây dựng cũng tiếp tục tăng
trưởng ở mức cao – tăng 10% so với năm ngoái. Trong khi đó, do giá dầu thô thế giới
tụt dốc, lượng dầu thô khai thác cũng giảm theo, ngành khai khoáng tính chung cả năm
2016 giảm tới 4%, mức giảm sâu nhất kể từ năm 2011 đến nay.
Trong khi 2 khu vực nông – lâm – thủy sản và công nghiệp & xây dựng đều có mức tăng
trưởng thấp hơn so với năm ngoái, thì khu vực dịch vụ đạt mức tăng 6,98% là mức tăng
cao nhất kể từ năm 2012 đến nay. Trong đó chiếm tỷ trọng lớn nhất và tăng mạnh nhất
là ngành bán buôn bán lẻ, tăng 8,28% so với năm 2015. Bên cạnh đó, tăng trưởng của
khu vực cũng được cải thiện nhờ các ngành như tài chính & bảo hiểm (tăng 7,79%), dịch
vụ lưu trú và ăn uống (tăng 6,30%) và bất động sản (tăng 4%).
Tăng trưởng GDP và các khu vực (%) Chỉ số PMI của Việt Nam
Nguồn: TCTK, VPBS Nguồn: Markit, VPBS
0
2
4
6
8
10
12
Tăng trưởng GDP Nông, lâm, thủy sản
Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ
52,4
40
42
44
46
48
50
52
54
56
03/1
2
06/1
2
09/1
2
12/1
2
03/1
3
06/1
3
09/1
3
12/1
3
03/1
4
06/1
4
09/1
4
12/1
4
03/1
5
06/1
5
09/1
5
12/1
5
03/1
6
06/1
6
09/1
6
12/1
6
www.VPBS.com.vn Trang | 10
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Chỉ số sản xuất công nghiệp IIP cả năm 2016 ghi nhận mức tăng trưởng 7,5% so với
năm ngoái, thấp hơn nhiều so với mức tăng 9,8% của năm 2015, chủ yếu do chỉ số IIP
của ngành khai khoáng giảm mạnh 5,9%.
Chỉ số IIP của ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng mạnh 11,2% từ mức tăng
10,6% năm 2015. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,5% so với năm ngoái, mức
tăng khá tương đồng với mức tăng cùng kỳ năm 2015. Ngành cung cấp nước và xử lý
rác thải tăng 7,2% so với năm trước.
Những phân ngành có chỉ số IIP tăng cao trong năm vừa qua gồm: sản xuất kim loại
(tăng 17,9%); dệt (tăng 17,3%); sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học
(tăng 12,8%). Một số sản phẩm công nghiệp tăng cao như tivi (70%), thép cán
(26,8%), ô tô (21,9%) và thép thô (20,5%).
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp, chế biến chế tạo tính chung 11 tháng đầu năm
2016 tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn so với mức tăng 12,6% vào cùng
kỳ năm trước. Trong đó, những ngày có chỉ số tiêu thụ tăng cao: sản xuất xe có động cơ
(20,8%), sản xuất sản phẩm điện tử, vi tính và quang học (15,1%), và đồ uống
(11,9%).
Chỉ số PMI đạt kết quả tích cực vào cuối năm
Chỉ số Nikkei PMI của Việt Nam kết thúc năm 2016 đạt mức 52,4 điểm, duy trì trên mức
50 điểm trong suốt cả năm 2016. Đặc biệt, chỉ số PMI tháng 11 của Việt Nam đạt 54
điểm - mức điểm cao nhất trong vòng 18 tháng qua.
Kết quả này cho thấy lĩnh vực sản xuất của Việt Nam trong năm 2016 đã có sự cải thiện
mạnh mẽ. Các điều kiện hoạt động sản xuất đều được cải thiện hơn so với năm 2015, số
lượng các đơn đặt hàng mới liên tục tăng. Trong đó, theo khảo sát của Nikkei, số lượng
các đơn đặt hàng xuất khẩu mới tăng cao nhất trong lịch sử kể từ năm 2011.
Chỉ số PMI ngành sản xuất tại hầu hết các thị trường trong khu vực đều cho thấy sự cải
thiện trong tháng 12/2016, ngoại trừ Indonesia và Malaysia khi chỉ số PMI giảm điểm so
với tháng trước đó. Theo Nikkei, điều kiện kinh doanh của ngành sản xuất tại khu vực
ASEAN đang suy yếu do nhu cầu của khách hàng yếu hơn và tổng lượng các đơn đặt
hàng giảm mạnh. Tuy vậy so với các nước trong khu vực Đông Nam Á, chỉ số PMI của
Việt Nam luôn nằm trong top dẫn đầu và có đạt sự chuyển biển rõ rệt.
Chỉ số nhà quản trị mua hàng PMI
Việt Na Indonesia Malaysia Đài Loan Hàn Quốc Trung Quốc Nhật Bản
12/2016 52,4 49 47,1 56,2 49,4 51,9 52,3
11/2016 54 49,7 47,1 54,7 48 50,9 51,8
10/2016 51,7 48,7 47,2 52,7 48 51,2 51,7
9/2016 52,9 50,9 48,6 52,2 47,6 50,1 50,4
Chỉ số trên 50 thể hiện sự tăng trưởng của các hoạt động sản xuất công nghiệp và ngược lại Nguồn: Markit, VPBS tổng hợp
www.VPBS.com.vn Trang | 11
Tiêu dùng
Tăng trƣởng tiêu dùng thấp hơn so năm ngoái
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả năm 2016 đạt 3.527,4 tỷ
đồng, tăng 10,2% so với năm trước. Nếu loại trừ yếu tố giá thì tổng mức bán lẻ hàng
hóa và dịch vụ tiêu dùng chỉ tăng 7,8%, thấp hơn mức tăng 8,5% của năm trước.
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa cả năm 2016 ước tính đạt
2.676,4 tỷ đồng, chiếm 76% tổng mức tiêu dùng, và tăng 10,2% so với năm ngoài.
Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 10,7% và chiếm 12% tổng mức tiêu dùng.
Doanh thu từ dịch vụ lữ hàng chỉ chiếm 1% và nhưng tăng 12% so với năm ngoái
Tăng trưởng doanh thu bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng
(%) Tỷ trọng doanh thu bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng theo
lĩnh vực
Nguồn: TCTK, VPBS
Theo Neilsen, chỉ số niềm tin người tiêu dùng của Việt Nam vẫn ổn định về sự lạc quan
và là quốc gia thứ 7 lạc quan nhất trên toàn cầu. Tuy vậy theo khảo sát của Nielsen, Việt
Nam là một trong top 10 quốc gia tiết kiệm nhất thế giới với 70% số người được khảo sát
để tiền nhàn rỗi của họ vào tiết kiệm. Do vậy người tiêu dùng Việt chi tiêu một cách thận
trọng. 85% số người khảo sát cho biết họ đang thay đổi thói quen chi tiêu để tiết kiệm
hơn chi phí cho gia đình.
Chi tiêu và đầu tƣ chính phủ
Năm 2015-2016 là thời điểm quốc hội và Chính phủ Việt Nam có nhiều nỗ lực tăng cường
cải cách chi tiêu công (một trong 3 trụ cột cải cách kinh tế cùng với cải cách DNNN và cải
cách hệ thống ngân hàng).
Trong năm 2015 và đầu năm 2016, Chính phủ ban hành một loạt quy định mới về đầu tư
công. Các quy định mới này nhằm mục tiêu tăng cường hiệu quả của đầu tư công, đồng
thời, thu hút vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước và nước ngoài đầu tư vào các lĩnh
vực nút thắt của nền kinh tế như kết cấu hạ tầng, cung ứng dịch vụ công, khoa học công
nghệ, khí tượng thủy văn, khu công nghiệp, khu công nghệ cao...
Những thay đổi trên đây đã trực tiếp ngăn chặn và giảm thiểu hiện tượng đầu tư dàn
trải, tràn lan vượt quá khả năng cấp vốn của Nhà nước và góp phần giảm tốc độ tăng nợ
công của đất nước.
0
2
4
6
8
10
12
14
Tăng trưởng danh nghĩa
Tăng trưởng thực
75,9%
11,7% 1,0%
11,4%
Bán lẻ hàng hóa
Khách sạn, nhà hàng
Du lịch lữ hành
Dịch vụ khác
3.527
nghìn tỷ
www.VPBS.com.vn Trang | 12
Nguồn: VPBS tổng hợp
Về cuối năm 2016, so với nhiều năm trước, Quốc hội đã rất tích cực tham gia ban hành
các Nghị quyết về kế hoạch tài chính, về cơ cấu lại nền kinh tế, về kế hoạch đầu tư công
trung hạn giai đoạn 2016-2020. Đặc biệt, trong Nghị quyết năm nay về dự toán ngân
sách nhà nước năm 2017 quán triệt tinh thần triệt để tiết kiệm, đề cao kỷ luật, tăng
cường kiểm soát chặt chẽ trong chi tiêu ngân sách.
ơ
Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2016 ước tính đạt 1.039 nghìn tỷ đồng, bằng
102,4% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 830 nghìn tỷ đồng, bằng 105,7%; thu
từ dầu thô đạt 40 nghìn tỷ đồng, bằng 72,5%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động
xuất, nhập khẩu đạt 166 nghìn tỷ đồng, bằng 96,5%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước cả năm 2016 ước tính đạt 1.180 nghìn tỷ đồng, bằng 92,7%
dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 261 nghìn tỷ đồng, bằng 102,4%; chi phát
triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính đạt 852 nghìn tỷ
đồng, bằng 101,8%; chi trả nợ và viện trợ đạt 154 nghìn tỷ đồng, bằng 99,3%.
Ngày ra văn
bảnTên văn bản
Ngày có
hiệu lực
26/11/2014Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh
nghiệp1/07/2015
25/06/2015 Luật Ngân sách Nhà nước 1/01/2017
28/08/2015 Nghị quyết 1023/NQ-UBTVQH13 Ban hành các nguyên tắc, tiêu chí và định mức
phân bổ vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2020
14/09/2015 Quyết định 40/2015/QĐ-TTg Ban hành nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ
vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2020
12/11/2015 Nghị quyết 100/2015/QH13 của Quốc hội về việc phê duyệt chủ trương đầu tư
các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020
17/11/2015Thông tư 190/2015/TT-BTC hướng dẫn việc quản lý, sử dụng chi phí trong quá
trình lựa chọn nhà thầu các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước và vốn trái
phiếu chính phủ
1/01/2016
24/12/2015 Thông tư 206/2015/TT-BTC Quy định về tổ chức thực hiện dự toán ngân sách nhà
nước năm 20161/01/2016
18/06/2014 Luật Đầu tư công 1/01/2015
5/08/2014 Chỉ thị 23/CT-TTg về lập kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm 2016-2020
14/02/2015 Nghị định 15/2015/NĐ-CP Về đầu tư theo hình thức đối tác công tư 10/04/2015
17/03/2015Nghị định 30/2015/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu
thầu về lựa chọn nhà đầu tư5/05/2015
8/09/2015 Thông tư Liên tịch 07/2015/TTLT-BKHĐT-BTC Quy định chi tiết việc cung cấp,
đăng tải thông tin về đấu thầu và lựa chọn nhà thầu qua mạng1/11/2015
10/09/2015Nghị định 77/2015/NĐ-CP Về kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm
1/11/2015
30/10/2015Thông tư 38/2015/TT-BCT về việc quy định chi tiết một số nội dung về đầu tư
theo hình thức đối tác công tư thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương15/12/2015
31/12/2015Nghị định 136/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư
công15/02/2016
Ngày ra
văn bản Tên văn bảnNgày có
hiệu lực
25/6/2015 Luật Ngân sách Nhà nước của Quốc hội, số 83/2015/QH13 01/01/2017
01/01/2017Nghị định 163/2016/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Ngân sách Nhà nước01/01/2017
08/11/2016Nghị quyết 24/2016/QH14 của Quốc hội về kế hoạch cơ cấu lại
nền kinh tế giai đoạn 2016-202008/11/2016
09/11/2016 Nghị quyết 25/2016/QH14 của Quốc hội về kế hoạch tài chính
5 năm quốc gia giai đoạn 2016-202009/11/2016
10/11/2016 Nghị quyết 26/2016/QH14 của Quốc hội về kế hoạch đầu tư
công trung hạn giai đoạn 2016-202010/11/2016
11/11/2016 Nghị quyết 27/2016/QH14 của Quốc hội về dự toán ngân sách
Nhà nước năm 201711/11/2016
14/11/2016Nghị quyết 29/2016/QH14 của Quốc hội về việc phân bổ ngân
sách trung ương năm 201714/11/2016
21/12/2016Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải
pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2017
01/01/2017
www.VPBS.com.vn Trang | 13
Bảng: Một số khoản thu nội địa năm 2016
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
Nguồn: Bộ Tài Chính, VPBS
Triển vọng
Năm 2017, Luật Ngân sách Nhà nước 2015 bắt đầu có hiệu lực. Có nhiều nội dung thay
đổi, trong đó liên quan đến tính bội chi NSNN, có hai nội dung đáng chú ý. Thứ nhất, các
khoản chi tiêu bằng trái phiếu chính phủ mà trước đây không tính vào chi ngân sách (ví
dụ các khoản đầu tư theo Nghị quyết 12/2011/QH13 về kế hoạch vốn trái phiếu chính
phủ giai đoạn 2011-2015, vốn TPCP giai đoạn 2014-2016 chuyển sang, v.v.) nay sẽ
được đưa vào tính trong chi tiêu ngân sách. Thứ hai, tỷ lệ bội chi ngân sách sẽ theo
thông lệ quốc tế, không bao gồm khoản mục chi trả nợ gốc. Do vậy ước tính tỷ lệ bội chi
năm 2017 sẽ chỉ ở mức 3,5% GDP, giảm so với mức 4,24 ước thực hiện năm 2016.
Theo Nghị quyết 27/2016/QH14 về dự toán ngân sách nhà nước, dự kiến NSNN sẽ trả nợ
gốc 163,8 nghìn tỷ đồng, tăng thêm 105 nghìn tỷ đồng so với cùng kỳ. Nếu tính theo cách
tính của năm 2016, tỷ lệ bôi chi sẽ lên đến 6,72% GDP. Tuy nhiên, do năm nay sẽ tính cả
trái phiếu chính phủ vào NSNN nên hiện chưa rõ trong số trả nợ này có bao gồm 130,6
nghìn tỷ đồng TPCP đáo hạn trong năm 2016 hay không.
Đầu tƣ toàn xã hội
Theo Tổng cục Thống kê, vốn đầu tư toàn xã hội năm 2016 ước tính đạt 1.485,1 nghìn
tỷ đồng, tăng 8,7% so với năm 2015 và bằng 33% GDP.
Mức tăng trưởng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2016 thấp hơn khá nhiều so với mức tăng
trưởng của hai năm trước. Mặc dù tăng trưởng đầu tư khu vực Nhà nước tăng so với năm
2015 nhưng tăng trưởng đầu tư của hai khu vực ngoài Nhà nước và FDI đều giảm khá
mạnh so với những năm trước. Trong năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo đẩy
nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, đặc biệt là trong những tháng cuối năm. Vốn
đầu tư từ Ngân sách Nhà nước thực hiện năm 2016 bằng 97,8% kế hoạch năm và tăng
15,1% so với năm 2015.
Tuy vậy cơ cấu vốn đầu tư đang dần dịch chuyển dần khu vực Nhà nước sang khu vực
ngoài Nhà nước và FDI. Tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực Nhà nước đã giảm liên tiếp từ
40,4% năm 2013 xuống còn 37,6% năm 2016 trong khi đó, tỷ trọng vốn đầu tư từ các
khu vực ngoài nhà nước và FDI đều tăng lên và đạt mức tỷ trọng cao nhất trong 5 năm
qua.
STT Chỉ tiêu 2015Dự toán
2016
Ƣớc thực
hiện 2016
% thực
hiện 2016
so với
cùng kỳ
% thực
hiện 2016
so với dự
toán
Dự toán
2017
% dự
toán 2017
so với
cùng kỳ
A Tổng thu ngân sách 997 1,015 1,039 4.2% 102.4% 1,212 16.7%
1 Thu nội địa 740 785 830 12.2% 105.7% 990 19.3%
2 Thu từ dầu thô 68 55 40 -41.5% 72.5% 38 -3.0%
3 Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu 177 172 166 -6.4% 96.5% 180 8.4%
4 Thu viện trợ 12 3 4 -70.8% 116.7% 4 2.9%
B Thu kết chuyển 10 5 5 -53.0% 100.0%
C Tổng chi ngân sách nhà nƣớc 1,193 1,273 1,180 -1.1% 92.7% 1,390 17.9%
1 Chi đầu tư phát triển 237 255 261 10.3% 102.4% 357 36.8%
2 Chi thường xuyên 792 837 852 7.6% 101.8% 905 6.3%
3 Chi trả nợ và viện trợ 83 95 13.9% 99 4.1%
4 Dự phòng 26 6 29
5 Chi khác 86 25
Bội chi (không bao gồm trả nợ gốc) 191 195 2.2% 178 -8.6%
Bội chi/GDP 4.60% 4.24% 3.50%
Chi trả nợ gốc 65 59 -9.4%
Bội chi (bao gồm trả nợ gốc) 256 254 254 -0.8%
Bội chi/GDP 6.10% 4.95% 5.52%
www.VPBS.com.vn Trang | 14
Tăng trưởng đầu tư phát triển toàn xã hội (%) Tổng đầu tư toàn xã hội theo khu vực
2012 2013 2014 2015 2016
Tổng vốn đầu tư 7 8,4 11,5 11,9 8,7
Khu vực Nhà nước 9,6 8,7 10,2 6, 7,2
Khu vực ngoài Nhà nước 8,1 7,1 13,6 12,8 9,7
Khu vực FDI 1,4 9,9 10,5 19,9 9,4
Nguồn: TCTK, VPBS
FDI
Tổng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) cấp mới và tăng thêm tính đến hết ngày
26/12/2016 đạt 24,37 tỷ USD, tăng 7,1% so với năm trước. Trong khi đó, vốn giải ngân
ước tính đạt 15,8 tỷ USD, tăng 9% so với năm 2015, là mức giải ngân vốn FDI cao nhất
từ trước đến nay. Nhờ triển vọng tích cực từ các hiệp định thương mại tự do đã ký kết,
và kỳ vọng hiệp định thương mại TPP sẽ thành công đã mang lại nguồn vốn FDI dồi dào
cho Việt Nam trong năm 2016.
Một số dự án lớn nổi bật trong quý III bao gồm:
- LG Display Hải Phòng – 1,5 tỷ USD
- LG Innotek Hải phòng – 550 triệu USD
- Seoul Semiconductor Vina Hà Nam – 300 triệu USD
- Amata Long Thành Đồng Nai – 300 triệu USD
Lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo là lĩnh vực thu hút nguồn vốn FDI nhất với tổng
vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 15,54 tỷ USD, tăng nhẹ 2,04 % so với năm ngoái,
chiếm 63,8% tổng vốn FDI. Lĩnh vực bán buôn bán lẻ và sửa chữa ô tô và xe có động cơ
đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư nước ngoài đạt 1,89 tỷ USD, chiếm 7,8% tổng vốn
FDI.
FDI cấp mới – tăng thêm và giải ngân (tỷ USD)
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ KH & ĐT, VPBS
37,8% 40,4% 39,9% 38,0% 37,6%
38,9% 37,6% 38,4% 38,7% 39,0%
23,3% 22,0% 21,7% 23,3% 23,4%
0%
20%
40%
60%
80%
100%
2012 2013 2014 2015 2016
Khu vực Nhà nước Khu vực ngoài Nhà nước Khu vực FDI
11,00 11,00 10,46
11,50 12,35
14,50
15,80
18,59
14,70
13,01
21,63
20,23
22,76
24,37
0
5
10
15
20
25
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Vốn thực hiện Vốn đăng ký & Cấp mới
www.VPBS.com.vn Trang | 15
FDI theo lĩnh vực (%) FDI theo đối tác (%)
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, VPBS
Hàn Quốc vẫn là nhà đầu tư lớn nhất của Việt Nam trong tổng số 68 quốc gia có dự án
đầu tư được cấp phép mới năm nay. Tổng số vốn đăng ký cấp mới từ các nhà đầu tư Hàn
Quốc là 5,52 tỷ USD, chiếm 36,3% tổng vốn đăng ký cấp mới. Tiếp theo đó là Nhật Bản
với 2,59 tỷ USD, chiếm 10,6% và Singapore với 2,42 tỷ USD, chiếm 9,9%.
Triển vọng:
Năm 2016, nguồn vốn FDI dồi dào đổ vào Việt Nam nhờ những thông tin tích cực về
Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP). Một loạt các doanh nghiệp trong và
ngoài khối TPP đã đón đầu cơ hội, đầu tư vào Việt Nam để được hưởng lợi về các ưu đãi
thuế quan sau khi TPP được ký kết. Bên cạnh đó, tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam
khá ổn định, hoạt động sản xuất công nghiệp được cải thiện mạnh mẽ so với Trung Quốc
và các nước trong khu vực ASEAN. Các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam
cũng được tạo nhiều thuận lợi và điều kiện trong bối cảnh các nước khác không còn ưu
đãi về tài chính, do vậy Việt Nam trở thành điểm đến đầu tư hấp dẫn.
Chúng tôi tin rằng vốn đầu tư trong nước và FDI năm 2017 sẽ vẫn tiếp tục khả quan kể
cả khi hiệp định TPP không được thực thi nhờ tình hình kinh tế và chính trị ổn định của
Việt Nam. Bên cạnh đó, so với các quốc gia khác trong khu vực, hoạt động sản xuất
công nghiệp của Việt Nam đang ngày một cải thiện, và là một môi trường lý tưởng để
phát triển cho các doanh nghiệp nước ngoài.
Cán cân thƣơng mại
Việt Nam xuất siêu 2,68 tỷ USD cả năm 2016
Theo số liệu ước tính của Tổng cục Thống kê (TCTK), năm 2016 Việt Nam xuất siêu 2,68
tỷ USD – trái ngược với mức nhập siêu 3,54 tỷ USD năm 2015. Như vậy Việt Nam đã ghi
nhận mức thặng dư thương mại hàng hóa cao nhất trong 10 năm qua. Nguyên nhân
chính là vì kim ngạch nhập khẩu trong năm 2016 tăng rất thấp, chỉ 4,6% - mức tăng
thấp nhất trong vòng 10 năm qua, trong khi xuất khẩu có mức tăng trưởng cải thiện hơn
so với năm ngoái.
Cụ thể, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2016 ước tính đạt 175,9 tỷ USD, tăng 8,6% so
với năm ngoái, cao hơn mức tăng 7,9% cùng kỳ năm ngoái. Nếu loại trừ yếu tố giá, thì
kim ngạch xuất khẩu ước tính tăng 10,6% so với năm 2015. Xuất khẩu của khối FDI
chiếm tới 71,5% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước – mức cao nhất ghi nhận trong cùng
kỳ các năm qua. Tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp khối FDI đã tăng
liên tiếp trong 6 năm qua trong khi đó tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu vực nội địa
vẫn tiếp tục giảm sau 6 năm liên tiếp. Điều này cho tháy xuất khẩu của Việt Nam phụ
thuộc phần lớn vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
63,8%
7,8%
6,9%
3,8% 17,7%
Công nghiệp chế biến, chế tạo
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy Hoạt động kinh doanh bất động sản
Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ
Khác
28,9%
10,6%
9,9% 7,7%
7,6%
6,7%
16,2%
Hàn Quốc
Nhật Bản
Singapore
Trung Quốc
Đài Loan
Hồng Kông
Khác
www.VPBS.com.vn Trang | 16
Cán cân thương mại (tỷ USD)
Nguồn: TCHQ, TCTK, VPBS
So với năm 2015 cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu thay đổi không đáng kể. Điện thoại và
linh kiện vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong năm 2016 với tổng kim ngạch đạt
34,5 tỷ USD chiếm 19.6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Các mặt hàng xuất khẩu chính
khác là dệt may (23,5 tỷ USD, chiếm 13,4%), nông sản (22,1 tỷ USD, chiếm 12,6%),
điện tử, máy tính và linh kiện (18,4 tỷ USD, chiếm 10,5%).
Tăng trưởng xuất khẩu năm 2016 không quá cao so với cùng kỳ năm ngoái vì một số
mặt hàng chủ lực có tốc độ tăng trưởng thấp hơn nhiều so với 2015. Cụ thể như điện
thoại và linh kiện tăng 14,4% (tăng 66,5% năm 2015); dệt may tăng 3,3% (tăng 8,7%
năm 2015), điện tử, máy tính và linh kiện tăng 18,4% (tăng 36,3% năm 2015); giày
dép tăng 7,6% (tăng 17,6% năm 2015).
Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 173,26 tỷ USD, chỉ tăng 4,6% so với
năm 2015, thấp hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ các năm trước. Trong đó, nhập khẩu
từ khu vực FDI và trong nước tăng lần lượt 5,1% và 4%. Kim ngạch nhập khẩu một số
mặt hàng tăng mạnh trong năm qua là: lúa mỳ (tăng 68,3%); rau quả (tăng 47,2%);
điện tử máy tính và linh kiện (tăng 20,1%) và sản phẩm chất dẻo (tăng 17,1%). Trong
khi đó, một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu chỉ tăng nhẹ hoặc giảm so với các năm
trước như máy móc, thiết bị tăng 1,8% so với năm trước (tăng 20,1% cùng kỳ năm
2015); điện thoại các loại và linh kiện giảm 0,3% (tăng 39,06% cùng kỳ năm 2015); ô
tô giảm 2,3% (tăng 63,4% cùng kỳ năm 2015).
Hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong năm 2016 vẫn là Mỹ (38,1 tỷ USD,
tăng 14% so với năm 2015) và EU (34 tỷ USD, tăng 10%). Các thị trường xuất khẩu chủ
lực khác của Việt Nam lần lượt là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và ASEAN. Tuy nhiên
xuất khẩu sang thị trường ASEAN giảm nhẹ 4,8% so với năm ngoái. Về thị trường hàng
hóa nhập khẩu, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với tổng
kim ngạch 49,8 tỷ USD, tăng không đáng kể (0,5%) so với năm 2015. Theo sau lần lượt
là Hàn Quốc (31,7 tỷ USD, tăng 14,6%), ASEAN (23,7 tỷ USD, giảm 0,3%), và Nhật Bản
(15 tỷ USD, tăng 6,7%).
Triển vọng:
Năm 2016, tăng trưởng xuất khẩu và nhập khẩu thấp cho thấy sự khó khăn của nền
kinh tế thế giới tác động tới tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam. Bên cạnh
đó, tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu từ các doanh nghiệp FDI đang tăng liên tục cho thấy
xuất khẩu Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Như vậy xuất khẩu Việt Nam không những chịu ảnh hưởng từ những biến động
kinh tế thế giới mà còn từ những rủi ro kinh doanh của các tập đoàn đa quốc gia.
(20)
(15)
(10)
(5)
-
5
10
15
20
(200)
(150)
(100)
(50)
-
50
100
150
200
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Xuất khẩu (Trái) Nhập khẩu (Trái) Cán cân thương mại (Phải)
www.VPBS.com.vn Trang | 17
Mặt hàng xuất khẩu chính (%) Mặt hàng nhập khẩu chính (%)
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, VPBS
Cụ thể như trong tháng cuối năm của năm 2016, tình hình xuất khẩu của Việt Nam nói
chung và xuất khẩu mặt hàng điện thoại, điện tử và linh kiện nói riêng phần nào chịu
ảnh hưởng từ sự cố thu hồi Samsung Galaxy Note 7. Cụ thể xuất khẩu tháng 12 ước tính
giảm 0,8% so với tháng trước, trong đó riêng mặt hàng điện thoại và linh kiện giảm tới
11,4%.
Trong năm 2017, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam sẽ chịu nhiều thách thức và
tác động trực tiếp từ những biến động chính trị và xã hội trên thế giới, mà cụ thể tại Mỹ,
EU và Trung Quốc. Cụ thể tại Mỹ, tổng thống Donald Trump đã ra quyết định Mỹ rút khỏi
Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP). Xuất khẩu của Việt Nam sang thị
trường Mỹ tuy không bị suy giảm do yếu tố này nhưng sẽ không có thêm được những hỗ
trợ về thuế như kỳ vọng nếu TPP được thông qua.
Bên cạnh đó, những chính sách kinh tế mới của tổng thống mới đắc cử Donald Trump
hiện tại còn khá mơ hồ. Nhưng những quan điểm của ông cho thấy ông ủng hộ các biện
pháp hạn chế thương mại, giảm thiểu các hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Mỹ, tăng
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Mỹ nhằm mục đích tăng việc làm cho người
dân Mỹ. Những chính sách hạn chế thương mại và những rủi ro từ thị trường Mỹ sẽ tác
động trực tiết tới xuất khẩu của Việt Nam và tổng kim ngạch xuất khẩu khi Mỹ là thị
trường xuất khẩu lớn nhất của nước ta.
Tương tự, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam còn chịu tác động từ những rủi ro chính trị
từ EU sau sự kiện Brexit. Mặc dù, Brexit không tác động trực tiếp tới tình hình hoạt động
xuất khẩu của Việt Nam, nhưng điều đáng lo ngại là nó đã dấy lên chủ nghĩa dân tộc và
đe dọa sự tồn tại của nền liên minh kinh tế lớn nhất thế giới này. Sau Anh, nhiều quốc
gia khác cũng có thể sẽ tổ chức những cuộc trưng cầu dân ý tương tự. Năm 2017, EU sẽ
đón chờ những cuộc bầu cử quan trọng tại những quốc gia thành viên lớn nhất của mình
là Đức, Pháp và Ý. Kết quả của những cuộc bầu cử này và những chính sách mới được
đưa ra trong năm 2017 sẽ chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới nền kinh tế châu Âu đồng thời các
hoạt động xuất khẩu sang EU.
Việc dự trữ ngoại hối của Trung Quốc liên tục sụt giảm thời gian gần đây và triển vọng
đồng NDT giảm giá như đã đề cập tại phần Triển vọng Kinh tế Thế giới cũng là đặt ra
những nguy cơ suy giảm cán cân thương mại của Việt Nam.
19,6%
13,4%
12,6%
10,5% 7,3%
36,6%
Điện thoại và linh kiện
Dệt, may
Nông sản
Điện tử, máy tính và linh kiện
Giày dép
Khác
16,21%
16,03%
6,09%
6,06%
5,65% 4,97%
45,0%
Máy móc thiết bị, DC, PT khác
Điện tử, máy tính và LK
Vải
Điện thoại và linh kiện
Ô tô
Sắt thép
Khác
www.VPBS.com.vn Trang | 18
CHỈ TIÊU KINH TẾ
Lạm phát
Theo Tổng cục Thống kê, CPI tháng 12 tăng 0,23% so với tháng 11 và 4,74% so với
cuối năm 2015. Đúng như dự báo của VPBS từ đầu năm, Chính phủ đã tận dụng cơ hội
để đẩy nhanh kế hoạch điều chỉnh giá hàng hóa và dịch vụ công, đặc biệt là dịch vụ y tế
và giáo dục. Diễn biến CPI năm 2016 chủ yếu do các yếu tố dưới đây:
CPI nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng mạnh trong năm, đặc biệt là trong quý IV.
Các tỉnh, thành phố lần lượt điều chỉnh tăng giá từng bước theo Thông tư liên
tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính.
Trong năm 2016, CPI nhóm thuốc và dịch vụ y tế đã tăng 55,72% so với cuối
năm 2015, trong đó CPI nhóm dịch vụ y tế tăng đến 77,57%.
CPI nhóm giáo dục tăng 10,81%, trong đó dịch vụ giáo dục tăng 12,50%. CPI
nhóm giáo dục tăng mạnh nhất trong tháng 9 với sự điều chỉnh tăng học phí theo
Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 2/10/2015 của Chính phủ.
Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống và nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng – chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong rổ hàng hóa – có mức tăng CPI không quá cao, so với cuối năm 2015 lần
lượt là 2,87% và 3,26%, đã giúp cho lạm phát được ổn định dưới ngưỡng 5% dù giá dịch
vụ công được đẩy lên cao trong năm.
Triển vọng:
Chúng tôi cho rằng, lạm phát năm 2017 chủ yếu sẽ bị ảnh hưởng bởi giá xăng dầu và
diễn biến thị trường tiền tệ thế giới.
Sau 8 năm, OPEC lần đầu tiên chính thức đạt được thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu
mỏ. Mức giảm từ 33,6 triệu thùng/ngày xuống còn 32,4 triệu thùng/ngày được áp dụng
từ ngày 1/1/2017 đã khiến giá dầu thế giới tăng vọt. Kể từ đầu năm 2016, giá dầu đã
tích lũy dần và tăng từ mức 35 USD/thùng hồi đầu năm lên 52 USD/thùng vào thời điểm
cuối năm. Tuy Bộ trưởng Dầu mỏ của Arab Saudi trong một phát biểu gần đây đã thể
hiện niềm tin rằng các thành viên OPEC sẽ không duy trì thỏa thuận trong nửa cuối năm
2017, song ông cũng ám chỉ rằng trong trường hợp cần thiết, các nước OPEC sẵn sàng
gia hạn thỏa thuận này. Giá dầu năm 2017 được kỳ vọng sẽ tăng, với mức dự báo của
VPBS vào khoảng 60-63 USD/thùng trong trường hợp các nước OPEC tuân thủ nghiêm
ngặt thỏa thuận, và 50-55 USD/thùng trong trường hợp kém tuân thủ. Giá dầu đắt đỏ
hơn sẽ tạo động lực đẩy lạm phát tăng lên.
Lạm phát Giá xăng RON92
Nguồn: TCTK, Petrolimex, VPBS
-0,40
-0,20
0,00
0,20
0,40
0,60
0,80
1,00
0
1
1
2
2
3
3
4
4
5
5
01/1
5
03/1
5
05/1
5
07/1
5
09/1
5
11/1
5
01/1
6
03/1
6
05/1
6
07/1
6
09/1
6
11/1
6
CPI theo tháng (P) CPI theo năm (T)
16400
13750
16500
14690
17590
13000
13500
14000
14500
15000
15500
16000
16500
17000
17500
18000
12/1
5
01/1
6
02/1
6
03/1
6
04/1
6
05/1
6
06/1
6
07/1
6
08/1
6
09/1
6
10/1
6
11/1
6
12/1
6
www.VPBS.com.vn Trang | 19
Trong nước, kể từ giữa tháng 8, giá xăng dầu đã được Bộ Công Thương – Tài chính tăng
liên tiếp 6 lần, giảm 1 lần sau đó tiếp tục tăng liên tiếp 4 lần tính đến ngày 4/1/2017.
Giá xăng RON92 đã tăng từ mức đáy 14.690 đồng/lít hồi đầu tháng 8/2016 đến 17.590
đồng/lít vào thời điểm cuối năm. Mức giá này có thể sẽ tiếp tục tăng nếu OPEC duy trì
thỏa thuận cắt giảm của mình trong nửa cuối năm 2017. Đồng thời, Bộ Tài chính đang
dự thảo tăng thuế môi trường để bù vào phần thuế nhập khẩu giảm đi đổi với xăng dầu,
lên đến tối đa 8.000 đồng/lít, nếu được áp dụng cũng sẽ làm tăng chi phí vận tải và giá
cả hàng hóa.
Mức lương cơ sở sẽ tăng thêm 7,44% kể từ ngày 1/7/2017 theo Nghị quyết số
27/2016/QH14 cũng sẽ góp phần gây áp lực lên lạm phát trong năm nay.
Dù còn nhiều thách thức, song Chính phủ đã đề ra mục tiêu kiểm soát lạm phát ổn định
ở mức dưới 4% trong năm 2017. VPBS dự báo CPI cả năm 2017 ở mức 5% so với cùng
kỳ.
Thị trƣờng ngoại hối
Tỷ giá USD/VND
Nguồn: Bloomberg, VCB, VPBS tổng hợp
Năm 2016 là năm đầu tiên Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều hành tỷ giá theo cơ chế tỷ
giá trung tâm. Trong ba quý đầu năm, cung cầu ngoại tệ trên thị trường nội địa khá ổn
định, tỷ giá niêm yết tại các ngân hàng thương mại không có biến động đáng kể. Do Fed
đã liên tục trì hoãn việc tăng lãi suất trong năm 2016, chỉ tăng duy nhất 1 lần vào tháng
12, thị trường hối đoái từ đầu năm đến tháng 11 không có điểm nóng. Tại Vietcombank,
tỷ giá ngày 7/11/2016 là 22.295-22.365 đồng/USD, giảm 175 đồng mỗi chiều so với đầu
năm. Tỷ giá trên thị trường tự do đến trước ngày bầu cử Tổng thống Mỹ cũng gần sát với
tỷ giá niêm yết tại Vietcombank, nằm dưới mức trần tỷ giá theo quy định của NHNN.
Bắt đầu từ giữa tháng 11, tỷ giá bắt đầu tăng mạnh cùng với sự hồi phục trở lại của kinh
tế Mỹ, kéo theo sự tăng giá của đồng USD trên thị trường thế giới. Việc Donald Trump
đắc cử Tổng thống Mỹ cùng những hứa hẹn về chính sách nới lỏng tài khóa, và việc Fed
quyết định nâng lãi suất trong kỳ họp ngày 13-14/12 là hai sự kiện có tác động mạnh tới
thị trường tiền tệ thế giới và tỷ giá tại Việt Nam. Tuy nhiên, với lượng dự trữ ngoại hối
tăng cao trong năm 2016 – đạt 41 tỷ USD vào thời điểm cuối năm 2016, cùng với việc
ban hành Thông tư 31/2016/TT-NHNN cho phép các tổ chức tín dụng tiếp tục cho vay
ngoại tệ đến hết năm 2017, nhu cầu ngoại hối cho hoạt động sản xuất, kinh doanh được
đảm bảo ổn định và do đó không gây thêm sức ép lên tỷ giá.
20000
20500
21000
21500
22000
22500
23000
23500
24000
01/1
5
02/1
5
03/1
5
04/1
5
05/1
5
06/1
5
07/1
5
08/1
5
09/1
5
10/1
5
11/1
5
12/1
5
01/1
6
02/1
6
03/1
6
04/1
6
05/1
6
06/1
6
07/1
6
08/1
6
09/1
6
10/1
6
11/1
6
12/1
6
Chào bán - OTC Tỷ giá trần/sàn
Bình quân liên ngân hàng Chào bán - VCB
www.VPBS.com.vn Trang | 20
DXY USD/VND JPY/VND EUR/VND KRW/VND MYR/VND SGD/VND
30/12/2016 102,21 22.785 196,43 24.247,6 19,1 5.123,84 15.902,2
08/11/201 97,86 22.365 214,97 24.760,8 20,2 5.342,18 16.130,8
Tăng/(Giảm) 4,44% 1,88% -8,62% -2,07% -2,92% -4,09% -1,42%
04/01/2016 98,87 22.540 190,12 24.681,2 19,02 5.231,11 15.933,6
Tăng/(Giảm) 3,38% 1,09% 3,32% -1,76% 3,10% -2,05% -0,20%
Nguồn: Vietcombank, VPBS tổng hợp
Kể từ ngày 8/11, tỷ giá trung tâm tăng 0,59%, tỷ giá bán tại Vietcombank đã tăng
1,9%, còn tỷ giá trên thị trường tự do tăng 3,36%. Tính từ đầu năm, tỷ giá trung tâm
tăng 1,23%, tỷ giá bán tại Vietcombank tăng 1,11% trong khi tỷ giá bán trên thị trường
tự do tăng 1,94%.
Đổi lại, việc đồng VND không yếu đi nhiều so với đồng USD lại khiến VND tăng giá so với
các đồng tiền chủ chốt khác. Cụ thể, cũng tính từ thời điểm 8/11, VND đã tăng 8,62% so
với JPY, 2,07% so với EUR, 2,92% so với KRW, 1,42% so với SGD và 4,09% so với MYR.
Trong dài hạn, việc đồng VND mạnh lên so với các đồng tiền khác sẽ gây tổn thất cho
hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp, và giảm sức cạnh tranh của hàng hóa
Việt Nam trên các thị trường xuất khẩu. Cụ thể, đồng VND mạnh kéo theo giá nhập khẩu
giảm và do đó, việc nhập khẩu nguyên vật liệu và hàng hóa thành phẩm trở nên rẻ hơn
so với tiêu thụ hàng hóa trong nước. Trên thị trường xuất khẩu, hàng Việt Nam sẽ trở
nên đắt đỏ và kém hấp dẫn hơn so với hàng hóa các nước khác.
Triển vọng:
Bước sang năm 2017, tỷ giá có thể sẽ tiếp tục tăng vì những lý do sau đây:
Chính sách thúc đẩy tài khóa vốn được hứa hẹn bởi Tổng thống đắc cử Donald
Trump, tập trung vào các dự án cơ sở hạ tầng và tăng khối lượng việc làm tại Mỹ sẽ
khiến cho dòng tiền tiếp tục đổ về Mỹ, tăng cầu đối với đồng USD và tiếp tục đẩy tỷ
giá tăng cao.
Fed dự báo sẽ có thêm 3 đợt tăng lãi suất trong năm 2017, khiến việc nắm giữ USD
trở nên hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư.
Mỹ đã rút khỏi TPP, sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam do Mỹ đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất. Xuất khẩu không tăng trưởng như
kỳ vọng sẽ làm giảm nguồn cung ngoại tệ.
Triển vọng dự trữ ngoại hối Trung Quốc sụt giảm và đồng NDT giảm giá sẽ gây áp
lực lớn cho giá trị VND.
Tuy nhiên, tỷ giá cũng sẽ được hỗ trợ phần nào do:
NHNN đang có khối lượng dự trữ ngoại hối lớn và sẵn sàng bán ra với giá thấp để
đảm bảo giảm thiểu nguy cơ tỷ giá tăng do hoạt động đầu cơ.
Theo quyết định số 58/2016/QĐ-TTg, Nhà nước sẽ đẩy mạnh thoái vốn tại nhiều
doanh nghiệp lớn trong giai đoạn hướng đến năm 2020, hứa hẹn đem lại nguồn thu
ngoại tệ và tăng lượng dự trữ ngoại hối.
VPBS dự báo tỷ giá VND/USD sẽ tăng khoảng 4-5% cho cả năm 2017 lên mức 22.935 –
23.267 VND/USD.
www.VPBS.com.vn Trang | 21
Cán cân thanh toán
Bảng: Cán cân thanh toán năm 2016 Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: NHNN, VPBS
Tính chung 9 tháng năm 2016, cán cân thanh toán tổng thể có sự tăng trưởng ngoạn
mục, thặng dư 9,7 tỷ USD, tăng mạnh so với mức thâm hụt 3,4 tỷ USD của cùng kỳ
năm trước. Điều này đạt được nhờ vào sự cải thiện vượt bậc của tất cả các hạng mục
thành phần bao gồm Cán cân vãng lai thặng dư 8,4 tỷ USD so với mức thâm hụt 171
triệu USD cùng kỳ; Cán cân vốn và tài chính thặng dư 5,9 tỷ USD so với mức thặng dư
nhẹ 327 triệu USD cùng kỳ năm trước.
Đóng góp lớn nhất vào sự gia tăng 8,5 tỷ USD của cán cân vãng lai thuộc về hạng mục
cán cân thương mại hàng hóa, tăng gần 3 lần trong 9 tháng 2016 so với cùng kỳ, đóng
góp 91% vào tổng tăng trưởng. Các khoản mục dịch vụ, chuyển giao thu nhập đầu tư và
chuyển giao vãng lai không thay đổi nhiều.
Cán cân vốn và tài chính tăng 5,6 tỷ USD 9 tháng 2015 lên 5,9 tỷ USD trong 9 tháng
năm nay chủ yếu do do khoản mục đầu tư trực tiếp ròng tăng 1,8 tỷ USD (+32,1% so
với cùng kỳ), đầu tư gián tiếp ròng tăng 656 triệu USD và khoản mục đầu tư khác tăng
3,2 tỷ USD (+56,2% so với cùng kỳ). Trong khoản mục đầu tư khác, tiền và tiền gửi của
tổ chức tín dụng trong nước tăng 6,1 tỷ USD, tiền và tiền gửi của khu vực khác tăng 1
tỷ USD trong khi khoản mục vay vốn ngắn hạn ròng giảm 2,1 tỷ USD và vay vốn dài
hạn giảm 1,7 tỷ USD so với cùng kỳ. Như vậy, trong 9 tháng năm nay, để bù đắp lại
việc giảm vay vốn nước ngoài, các tổ chức tín dụng trong nước đã rút ròng 1,88 tỷ USD
tiền gửi tại nước ngoài về nước (so với 4,26 tỷ USD gửi ròng ra nước ngoài trong cùng
kỳ năm ngoái). Khoản mục tiền và tiền gửi của khu vực khác trong nước tiếp tục giảm
5,6 tỷ USD, thấp hơn mức giảm 6,6 tỷ USD cùng kỳ năm trước.
Dự trữ ngoại hối tăng từ mức khoảng 29 tỷ USD cuối năm 2015 lên 38,7 tỷ USD tính
đến cuối tháng 9 năm 2016. Theo đại diện của NHNN, dự trữ ngoại hối của Việt Nam
đến cuối năm 2016 đạt 41 tỷ USD, là mức cao nhất từ trước đến nay. Như vậy, trong cả
năm 2016, Việt Nam đã có thặng dư cán cân thương mại trong cả 4 quý, và ở mức cao
ngay từ đầu năm
2014 2015
% tăng
giảm so
với cùng kỳ
9T 2015 9T 2016
% tăng
giảm so
với cùng kỳ
A Cán cân vãng lai (1+2+3) 9,060 906 -90.0% (171) 8,373
1Cán cân thương mại hàng hóa và
dịch vụ 8,596 3,096 -64.0% 877 8,399 857.7%
2 Thu nhập đầu tư (9,143) (9,925) 8.6% (6,825) (6,024) -11.7%
3 Chuyển tiền 9,607 7,735 -19.5% 5,777 5,998 3.8%
BCán cân vốn và tài chính
(4+5+6+7+8+9) 5,571 1,575 -71.7% 327 5,934 1714.7%
4 Đầu tư trực tiếp 8,050 10,700 32.9% 6,250 8,050 28.8%
FDI vào Việt Nam 9,200 11,800 28.3% 7,150 8,850 23.8%
FDI của Việt Nam ra nước ngoài (1,150) (1,100) -4.3% (900) (800) -11.1%
5 Đầu tư vào giấy tờ có giá 93 (65) 28 684 2342.9%
6 Vay trung-dài hạn 5,378 5,049 -6.1% 3,028 1,294 -57.3%
7 Vay ngắn hạn 1,042 790 -24.2% 734 (1,323)
8 Tiền và tiền gửi (9,080) (14,846) 63.5% (9,893) (2,963) -70.0%
Tổ chức tín dụng (1,462) (5,296) 262.2% (3,283) 2,654
Khu vực khác (7,618) (9,550) 25.4% (6,610) (5,617) -15.0%
9 Tài sản khác 88 (53) 180 192 6.7%
C Lỗi và sai sót (D-A-B) (6,256) (8,513) 36.1% (3,533) (4,654) 31.7%
D Cán cân tổng thể 8,375 (6,032) (3,377) 9,653
www.VPBS.com.vn Trang | 22
Dự trữ ngoại hối (triệu USD) Cán cân thanh toán theo quý (triệu USD)
Nguồn: NHNN, VPBS
Tăng trƣởng tín dụng và M2
Theo thông tin từ NHNN, tính đến ngày 29/12/2016, tổng phương tiện thanh toán tăng
17,88% so với cuối năm 2015, cao hơn so với mức tăng 13,55% cùng kỳ năm trước.
Cùng thời điểm tín dụng tăng trưởng 18,71%. Tín dụng tăng mạnh trong những ngày
cuối năm và đạt mục tiêu mà NHNN đề ra. Cũng tính đến ngày 29/12, tăng trưởng huy
động vốn của các tổ chức tín dụng đạt 18,38%. Tốc độ tăng trưởng huy động giúp các
ngân hàng duy trì tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi đảm bảo đúng theo quy định
của Thông tư 36/2014/TT-NHNN, Thông tư 06/2016/TT-NHNN và Quyết định số
2509/QĐ-NHNN.
Thông tư 06/2016/TT-NHNN hiệu lực từ ngày 1/7/2016, đã định nghĩa khái niệm Ngân
hàng Thương mại Nhà nước (NHTMNN) là NHTM có sở hữu nhà nước 100% vốn điều lệ.
Như vậy, nhóm ngân hàng có sở hữu nhà nước trên 50% vốn điều lệ gồm VCB, BID,
CTG và Agribank không thuộc nhóm NHTMNN và do đó, phải duy trì tỷ lệ dư nợ cho vay
trên tổng tiền gửi tối đa là 80%. Tuy nhiên, đến ngày 27/12/2016, Quyết định số
2509/QĐ-NHNN được ban hành, cho phép ba ngân hàng quốc doanh – BID, CTG và VCB
– duy trì tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tiền gửi là 90% kể từ thời điểm Thông tư 06 có
hiệu lực, đã thể hiện kỳ vọng thúc đẩy tăng trưởng tín dụng của NHNN.
Tuy mức tăng trưởng tín dụng cao hơn hẳn so với năm 2015 và 2014, song dư nợ tín
dụng chủ yếu tập trung vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời tín dụng đối với
lĩnh vực đầu tư, kinh doanh bất động sản chậm lại. Tuy vậy, tỉ lệ nợ xấu trong tổng dư
nợ tín dụng vẫn có dấu hiệu tăng trong quý I/2016, từ mức 2,55% cuối năm 2015 lên
2,62% cuối quý I. Tỷ lệ nợ xấu sau đó đã có xu hướng giảm nhẹ về cuối năm. Theo
NHNN, tỷ lệ nợ xấu cuối tháng 11 ước tính còn khoảng 2,46%.
Trong quý III/2016, huy động tiền gửi ngoại tệ tiếp tục sụt giảm nhẹ so với quý II/2016,
khi trần lãi suất huy động tiền gửi bằng USD đối với khách hàng cá nhân tiếp tục duy trì
ở mức 0%. Cụ thể, huy động ngoại tệ tại BID giảm 14,2%, MBB giảm 5,57%. Tính
chung 8 ngân hàng niêm yết (trừ NVB), huy động ngoại tệ quý III giảm nhẹ 2,25%. Mặt
bàng lãi suất huy động VND trong năm tương đối ổn định ở mức 5-5,3% đối với kỳ hạn 3
tháng, 5,7-6% kỳ hạn 6 tháng và 6,7-6,8% kỳ hạn 12 tháng, trong năm biến động
không đáng kể so với mặt bằng lãi suất cuối năm 2015.
5.000
10.000
15.000
20.000
25.000
30.000
35.000
40.000
45.000
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
1Q
2016
1H
2016
3Q
2016
2016E
Triệu
-8.000
-6.000
-4.000
-2.000
0
2.000
4.000
6.000
8.000
www.VPBS.com.vn Trang | 23
Tăng trưởng huy động (lũy kế theo tháng, % so
với đầu năm)
Tăng trưởng tín dụng (lũy kế theo tháng, % so với
đầu năm)
Nguồn: NHNN, VPBS
Triển vọng:
Theo hoạch định của NHNN, mục tiêu tăng trưởng tín dụng cho năm 2017 sẽ là 18% và
tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán 16-18%. Tăng trưởng tín dụng đang phải chịu
tác động tiêu cực bởi những diễn biến sau:
- Với việc Mỹ rút khỏi TPP và dự kiến chính sách tăng thuế hàng nhập khẩu được áp
dụng tại Mỹ - thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam, sẽ ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của Việt Nam và giảm sức hút đối với các dòng vốn
ngoại.
- Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch về Ngân sách Nhà nước cho năm 2017, trong đó
nêu rõ sẽ không sử dụng Ngân sách Nhà nước để tăng vốn cho các ngân hàng
thương mại. Trong khi đó, BID và CTG đang gặp khó khăn về giải pháp tăng vốn.
Điều này sẽ tạo hiệu ứng tiêu cực đến tăng trưởng tín dụng xuyên suốt năm 2017.
Tuy nhiên, khó khăn này sẽ được tháo gỡ nếu trần sở hữu của khối ngoại được nới
rộng hơn cho các ngân hàng.
- Tỷ lệ nợ xấu vẫn còn tương đối cao ở nhóm các ngân hàng thương mại sẽ khiến các
ngân hàng phải thận trọng hơn trong tăng trưởng tín dụng, đồng thời nỗ lực giảm nợ
xấu. Trong năm 2016, STB và EIB là điển hình về việc không tăng trưởng tín dụng vì
nợ xấu.
- Thông tư 06 quy định tăng hệ số rủi ro tín dụng bất động sản từ năm 2017, đồng
thời giảm dần tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn trong năm 2017 và 2018
cũng sẽ thắt chặt việc tăng trưởng tín dụng có rủi ro cao.
Tuy nhiên, với những động thái tích cực từ Ngân hàng Nhà nước ngay đầu năm 2017
như nâng tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tiền gửi đối với VCB, BID và CTG lên 90%, ban
hành Thông tư 41 – gián tiếp trì hoãn thời điểm áp dụng Basel II và thông tin Chính phủ
sẽ cân nhắc nâng giới hạn sở hữu nước ngoài đối với ngân hàng đều sẽ tạo hiệu ứng tốt
cho tăng trưởng tín dụng trong những năm tới. VPBS nhận định mức tăng trưởng 18% là
hoàn toàn có thể.
Lợi suất trái phiếu chính phủ
Chính phủ đã hoàn thành kế hoạch phát hành 281 nghìn tỷ đồng trái phiếu năm 2016 từ
đầu tháng 12. Tính đến cuối năm 2016, tổng khối lượng trái phiếu Chính phủ (TPCP) và
trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh (TPĐCPBL) đã phát hành trong năm là 316.229,16 tỷ
đồng, tăng đến 29,95% so với tổng khối lượng phát hành năm 2015. Trong đó, Kho bạc
Nhà nước (KBNN) đã phát hành 281.750,16 tỷ đồng, vượt mức kế hoạch 281.000 tỷ
đồng đề ra, tăng 44,19% so với tổng khối lượng phát hành năm trước. Trong năm 2016,
(5)
-
5
10
15
20
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
2014 2015 2016
(5)
-
5
10
15
20
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
2014 2015 2016
www.VPBS.com.vn Trang | 24
KBNN đã hai lần điều chỉnh kế hoạch phát hành TPCP, từ 220.000 tỷ đồng theo Công
văn số 521/KBNN-QLNQ ngày 5/2 lên 250.000 tỷ đồng theo Công văn số 2828/KBNN-
QLNQ ngày 30/6 và lên 281.000 tỷ đồng theo Công văn số 4182/KBNN-QLNQ ngày
29/9. Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCSXH) phát hành 13.000 tỷ đồng TPCPBL, đạt
100% hạn mức cho phép của Bộ tài chính theo Công văn số 7867/BTC-TCNH. Tổng khối
lượng phát hành của NHCSXH giảm 13,04% so với năm 2015. Ngân hàng Phát triển Việt
Nam (NHPTVN) đã phát hành thành công 21.479 tỷ đồng TPĐCPBL trong năm 2016,
giảm 34,9% so với năm trước.
Kỳ hạn phát hành TPCP bình quân năm 2016 đạt 8,74 năm, cao hơn 1,76 năm so với
năm 2015. Kỳ hạn bình quân của tổng danh mục TPCP tính đến giữa tháng 12/2016 là
5,74 năm, cao hơn mức 4,44 năm cuối năm trước. Với việc nâng cao kỳ hạn bình quân
của TPCP, áp lực lên nợ công phần nào được giảm tải. Tuy phát hành thành công và thu
về được đến 281 nghìn tỷ đồng TPCP, giải ngân nguồn vốn huy động trong năm 2016
ước đạt chỉ được 55,2% so với kế hoạch năm. Việc giải ngân chậm nguồn vốn từ TPCP,
đặc biệt là nguồn vốn phục vụ các dự án của Bộ Giao thông Vận tải diễn ra do nhiều dự
án thực hiện điều chỉnh giảm chi phí và chậm tiến độ quyết toán.
Tỷ lệ phát hành thành công TPCP và TPCP bảo lãnh trong quý IV thấp hơn hẳn so với 3
quý còn lại trong năm, chỉ đạt mức 52% (so với 75,6% trong quý I, 85% trong quý II và
80,2% trong quý III).
Trên thị trường sơ cấp, lợi suất TPCP tiếp tục giảm so với quý III, đặt biệt là các trái
phiếu có kỳ hạn ngắn hơn. Cụ thể, lợi suất TPCP kỳ hạn 5 năm giảm 48 điểm cơ bản, kỳ
hạn 7 năm giảm mạnh 75 điểm cơ bản, kỳ hạn 10 năm giảm 40 diểm cơ bản và kỳ hạn
15 năm giảm 27 điểm cơ bản. Nhờ Ngân hàng Nhà nước liên tục bơm tiền qua nghiệp vụ
thị trường mở, thanh khoản của hệ thống được bảo đảm dù thời điểm cuối năm tín dụng
tăng nhanh đồng thời có nhiều bất ngờ ảnh hưởng đến tỷ giá.
Khác với thị trường sơ cấp, lợi suất trên thị trường thứ cấp lại tăng cao so với thời điểm
cuối quý III, tuy nhiên vẫn thấp hơn thời điểm đầu năm, khi thanh khoản còn căng
thẳng và lãi suất liên ngân hàng luôn duy trì ở mức cao.
Tuy nhiên, lợi suất trái phiếu các kỳ hạn 5 năm và dưới 5 năm tăng nhanh, trong khi lợi
suất các kỳ hạn dài hơn thay đổi không đáng kể khiến cho đường cong lãi suất bị gãy ở
phía trên. Đường lợi suất trở nên phẳng hơn do những biến động bất ngờ vào cuối năm,
như việc ông Donald Trump đắc cử Tổng thống Mỹ cùng những tuyên bố dẹp bỏ thỏa
thuận TPP đã khiến các nhà đầu tư tỏ ra quan ngại về tính ổn định đối với tăng trưởng
kinh tế Việt Nam trong tương lai gần.
Lợi suất trái phiếu trên thị trường thứ cấp
(%/năm)
Lợi suất trái phiếu trên thị trường thứ cấp
(%/năm)
Nguồn: Bloomberg, VPBS
1N 2N 3N 5N 7N 10N 15N
31/12/2016 4,35% 4,83% 5,21% 5,60% 5,81% 6,38% 7,34%
30/9/2016 3,63% 4,41% 4,74% 5,18% 5,73% 6,46% 7,28%
Tăng/giảm 73 bps 41 bps 48 bps 42 bps 9 bps -9 bps 6 bps
31/12/2015 4,97% 5,31% 5,82% 6,63% 6,95% 7,18% 7,75%
Tăng/giảm -62 bps -49 bps -61 bps -103 bps -114 bps -80 bps -41 bps
3%
4%
5%
6%
7%
8%
1N 2N 3N 5N 7N 10N 15N
30/12/2016
30/9/2016
31/12/2015
www.VPBS.com.vn Trang | 25
Triển vọng:
Năm 2017, Bộ Tài chính đặt mục tiêu phát hành 340 nghìn tỷ đồng TPCP, tăng gần 60
nghìn tỷ đồng so với năm 2016. Khối lượng huy động dự kiến để trả nợ gốc khoảng 156
nghìn tỷ đồng và bù đắp bội chi 184 nghìn tỷ đồng. Lợi suất TPCP đang phải chịu áp lực
tăng từ nhiều nguồn:
- Cung TPCP theo dự kiến khá cao, trong khi đó cầu sẽ hạn chế. Với dự báo tín dụng
tăng trưởng 18% và giá USD tăng cao trong năm 2017, TPCP không phải kênh đầu
tư hấp dẫn đối với nhà đầu tư.
- Nợ công tăng cao đến sát mức giới hạn 65% GDP, đồng thời chỉ số CDS – phí bảo
hiểm rủi ro tín dụng của Việt Nam đang trên đà tăng trở lại kể từ tháng 9/2016, sẽ
làm giảm giá trị của TPCP và đẩy lợi suất tăng lên.
- Mặt bằng lãi suất và lạm phát cũng đang chịu áp lực tăng – lãi suất cao sẽ hút vốn
đầu tư sang kênh tín dụng, và lạm phát tăng sẽ kéo giá trị thực của TPCP xuống
thấp, và lợi suất theo đó sẽ tăng lên.
Tuy nhiên, cũng có những nguồn lực khác sẽ góp phần hỗ trợ giảm lợi suất TPCP:
- Mục tiêu thoái vốn Nhà nước đến năm 2020 đã được hoạch định khá rõ ràng. Nguồn
thu kỳ vọng từ công tác thoái vốn sẽ làm giảm áp lực nợ công và từ đó giảm lợi suất
TPCP. Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng việc Nhà nước thoái vốn có thể tác động tích
cực lên nền kinh tế, và thay vì đầu tư vào TPCP, nhà đầu tư sẽ hào hứng hơn với các
kênh đầu tư khác như cổ phiếu, làm giảm cầu đối với TPCP và theo đó đẩy lợi suất
tăng lên.
- Nỗ lực và ý chí giảm mặt bằng lãi suất của NHNN, nếu thành công, sẽ kéo được dòng
vốn đầu tư qua kênh TPCP và do đó làm giảm lợi suất.
Theo nhận định của VPBS, lợi suất TPCP năm 2017 sẽ có xu hướng tiếp tục tăng, và lợi
suất các kỳ hạn dài hơn sẽ tăng nhanh hơn khi nền kinh tế dần ổn định, giúp cải thiện
đường lợi suất.
Lãi suất thị trƣờng liên ngân hàng
Trên thị trường liên ngân hàng, sau giai đoạn căng thẳng về thanh khoản hồi quý I và
đầu quý II, từ cuối quý II, lãi suất đã liên tục giảm dần xuống mức thấp kỷ lục, với lãi
suất qua đêm chỉ 0,271% thời điểm cuối quý III, đầu quý IV.
Lãi suất thị trường liên ngân hàng (%/năm)
Nguồn: Bloomberg, VPBS
0
1
2
3
4
5
6
7
01/16 02/16 03/16 04/16 05/16 06/16 07/16 08/16 09/16 10/16 11/16 12/16
Qua đêm 1 Tuần 2 Tuần 1 Tháng
www.VPBS.com.vn Trang | 26
Thời điểm cuối năm, tín dụng tăng trưởng nhanh và USD tăng giá khiến thanh khoản hệ
thống nóng trở lại và đẩy lãi suất liên ngân hàng lên cao, tiệm cận 5%. Tuy nhiên, cùng
thời điểm Ngân hàng Nhà nước liên tục bơm tiền vào hệ thống qua nghiệp vụ thị trường
mở, góp phần đẩy lãi suất giảm nhanh nửa cuối tháng 12 năm 2016.
Tại ngày 30/12/2016, lãi suất liên ngân hàng ở mức như sau:
Qua đêm (3,25%, +2,85% so với cuối kỳ trước).
1 tuần (4,30%, +3,80%).
2 tuần (4,30%, +3,60%).
1 tháng (4,80%, +3,20%).
Triển vọng:
Trong năm 2017, Fed dự kiến sẽ nâng lãi suất thêm 3 lần, đồng thời các chính sách thúc
đẩy tài khóa của ông Trump khả năng cao sẽ đẩy giá đồng USD lên cao, làm tăng tỷ giá
và kéo theo thanh khoản hệ thống nóng dần lên.
Tuy nhiên, cơ hội tăng trưởng tín dụng đối với hệ thống ngân hàng có thể sẽ không
nhiều như năm 2016, vì các ngân hàng phải kiểm soát một số tỷ lệ hoạt động như tỷ lệ
an toàn vốn, tỷ lệ nợ xấu, v.v..., vốn đang khá căng thẳng vào thời điểm cuối năm
2016. Mặt bằng lợi suất trái phiếu lại đang ở mức khá thấp so với năm 2014 và 2015,
chưa thực sự là kênh thu hút dòng vốn đầu tư.
VPBS nhận định, mặt bằng lãi suất cho vay liên ngân hàng năm tới sẽ có nhiều biến
động mạnh, tuy nhiên sẽ không còn những thời điểm nóng như đầu năm 2016.
Lãi suất huy động và lãi suất cho vay
Lãi suất huy động
Trong năm 2016, lãi suất huy động biến động trong phạm vi không đáng kể. Thanh
khoản hệ thống dồi dào suốt từ quý II đến gần cuối năm, KBNN sớm đạt chỉ tiêu phát
hành TPCP với 2 lần điều chỉnh mục tiêu phát hành trong năm và lãi suất huy động USD
tiếp tục duy trì ở mức 0% không gây áp lực lên mặt bằng lãi suất, giúp lãi suất huy động
duy trì ổn định trong năm.
Mặt bằng lãi suất huy động tiền đồng cuối quý IV/2016 không đổi so với mức ghi nhận
vào cuối quý III và quý II/2016, phổ biến ở mức:
4,5-5,4%/năm đối với tiền gửi kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng.
5,4-6,5%/năm đối với tiền gửi kỳ hạn 6 tháng đến dưới 12 tháng.
6,4-7,2%/năm đối với tiền gửi kỳ hạn trên 12 tháng.
Lãi suất cho vay
Trong năm 2016, một số ngân hàng lớn, trong đó tiêu biểu là Vietcombank đã giảm lãi
suất cho vay đối với doanh nghiệp. Trong tháng 4 và tháng 5/2016, các ngân hàng đã
giảm lãi suất cho vay trung – dài hạn đối với các doanh nghiệp chịu thiệt hại do thủy hải
sản chết bất thường ở miền Trung. Đến giữa tháng 10/2016, Vietcombank tiếp tục giảm
lãi suất cho vay ngắn hạn đối với năm lĩnh vực ưu tiên theo quy định tại Thông tư
08/2014/TT-NHNN xuống còn tối đa 6%/năm – mức giảm tương đương gần 1 điểm phần
trăm so với mặt bằng chung tại thời điểm đó. Lãi suất cho vay duy trì ổn định suốt từ
cuối quý II đến hết năm 2016. So với thời điểm cuối năm 2015, lãi suất cho vay bởi khối
NHTM có sở hữu Nhà nước giảm nhẹ ở cả khu vực cho vay ngắn hạn và trung – dài hạn.
www.VPBS.com.vn Trang | 27
Lãi suất cho vay phổ biến thời điểm 16/12/2016
(%/năm)
Lãi suất tiền gửi VND trung bình của cá nhân
(%/năm)
Nguồn: NHNN, VPBS
Triển vọng
Mặc dù Nhà nước vẫn đặt mục tiêu giảm mặt bằng lãi suất trong năm 2017, song VPBS
nhận định lãi suất đang phải chịu áp lực tăng giá trong năm tới do các nguyên nhân
chính sau:
- Chi phí vốn của ngân hàng sẽ tăng trong năm 2017 do tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay
trung – dài hạn sẽ bị giảm từ 60% xuống 50% theo quy định của Thông tư
06/2016/TT-NHNN.
- Nguồn cung tín dụng chịu áp lực giảm do các ngân hàng tiếp tục phải trích lập dự
phòng cho các khoản nợ xấu chưa xử lý được, kể cả các khoản nợ đã bán cho VAMC.
Nguồn cung giảm sẽ khiến cho giá – lãi suất cho vay chịu áp lực tăng. Giá USD được
dự báo sẽ tăng trong năm 2017, cùng với lượng lớn TPCP dự kiến sẽ được phát hành
trong thời gian tới sẽ góp phần hút vốn đầu tư của các NHTM sang những kênh cạnh
tranh hơn.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của Nhà nước về việc nỗ lực giảm mặt bằng lãi suất nhằm hỗ
trợ doanh nghiệp và kiểm soát lạm phát, mặt bằng lãi suất năm 2017 sẽ có xu hướng ổn
định trong thời gian đầu và tăng dần đến cuối năm.
Nhóm NHTM Đối tƣợngNgắn
hạn
Trung –
dài hạn
NHTM VND: 9,3-10,3
Nhà nước- Sản xuất kinh doanh
thông thường
- 5 lĩnh vực ưu tiên theo
quy định của Chính phủ6,0-7,0 9,0-10,0
NHTM VND:
cổ phần- Sản xuất kinh doanh
thông thường
- 5 lĩnh vực ưu tiên theo
quy định của Chính phủ7,0 10,0-10,5
6,8-8,5
7,8-9,0 10,0-11,0
4,5
5,0
5,5
6,0
6,5
7,0
01/16 03/16 05/16 07/16 09/16 11/16
3 Tháng 6 Tháng 12 Tháng
www.VPBS.com.vn Trang | 28
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN THỊ TRƢỜNG
Thông tƣ 41/2016/TT-NHNN
Thông tƣ 41/2016/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn đối với ngân hàng, chi
nhánh ngân hàng nƣớc ngoài
Ngày 30/12/2016, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 41/2016/TT-NHNN, có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 1/1/2020 quy định về tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng và chi
nhánh ngân hàng nước ngoài.
Điểm nổi bật của thông tư này là giảm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) xuống 8% (so
với mức 9% theo quy định hiện hành của Thông tư 36/2014/TT-NHNN), và thay đổi
cách tính tỷ lệ an toàn vốn. Theo cách tính tỷ lệ an toàn vốn mới, tỷ lệ an toàn vốn tại
các ngân hàng ước tính sẽ giảm mạnh, do công thức tính mới theo chuẩn Basel II đưa
thêm yêu cầu về vốn đối với rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. Trong đó, yêu cầu về
vốn đối với rủi ro hoạt động với hệ số rủi ro cao là điểm mới trọng yếu dẫn đến sự sụt
giảm tỷ lệ an toàn vốn.
Thông tư 41 có thể coi là văn bản có tính hướng dẫn chi tiết, cụ thể cách thực hiện trụ
cột thứ nhất của tiêu chuẩn Basel II – tỷ lệ an toàn vốn bắt buộc. Một số điểm nổi bật
của Thông tư 41 so với quy định hiện hành được tóm lược dưới đây:
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% giống như tiêu chuẩn Basel II.
Yêu cầu khắt khe hơn về việc xếp hạng tín nhiệm và sử dụng xếp hạng tín
nhiệm. Thông tư đưa ra định nghĩa rõ ràng về doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm
độc lập, xếp hạng tín nhiệm tự nguyện và xếp hạng tín nhiệm thỏa thuận, đồng
thời yêu cầu chỉ được sử dụng xếp hạng tín nhiệm thỏa thuận khi tính tổng tài
sản có rủi ro. Các yêu cầu về chất lượng và năng lực của doanh nghiệp xếp hạng
tín nhiệm cũng được nêu ra trong thông tư mới này.
Định nghĩa về rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động để đưa vào công thức tính tỷ
lệ an toàn vốn.
Vốn yêu cầu cho rủi ro hoạt động được đưa thêm vào công thức tính tỷ lệ an toàn
vốn. Trong đó, vốn yêu cầu được tính bằng 15% trung bình chỉ số kinh doanh
của quý gần nhất và 2 quý cùng kỳ liền trước, với chỉ số kinh doanh là tổng giá
trị tuyệt đối của thu nhập lãi thuần, giá trị tuyệt đối của thu nhập và chi phí hoạt
động, dịch vụ khác, giá trị tuyệt đối của lãi/lỗ từ kinh doanh ngoại hối, mua bán
chứng khoán kinh doanh và chứng khoán đầu tư.
Tổng tài sản có rủi ro được chia thành tài sản tính theo rủi ro tín dụng và tài sản
tính theo rủi ro tín dụng đối tác, thay vì cách chia thành tài sản có nội bảng và
cam kết ngoại bảng như quy định hiện hành. Đồng thời, các hệ số rủi ro trong
từng hạng mục được quy định rõ, cân nhắc cùng lúc nhiều yếu tố như thời hạn,
biên độ biến động, xếp hạng tín nhiệm của đối tác, v.v.
Thông tư có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2020, tuy nhiên các ngân hàng có thể đăng
ký áp dụng sớm hơn tùy theo năng lực.
Như vậy, sau nhiều lần trì hoãn áp dụng Basel II, Thông tư 41 một cách gián tiếp cho
thấy Nhà nước một lần nữa trì hoãn triển khai Basel II và quyết tâm bắt đầu áp dụng
tiêu chuẩn này trên toàn hệ thống vào năm 2020. Đồng thời, việc thực hiện thí điểm
Basel II từ tháng 9/2017 rất có thể cũng sẽ được hoãn lại, thay vào đó các ngân hàng
có thể tự nguyện áp dụng Basel II bằng cách đăng ký thực hiện theo Thông tư 41 trước
năm 2020.
VPBS nhận định Thông tư 41 là một trong những bước ngoặt đối với hệ thống ngân
hàng, đồng thời cũng mở ra cơ hội tăng trưởng cho ngành ngân hàng trong thời gian
ngắn, đặc biệt là năm 2017, 2018 khi các ngân hàng thương mại cổ phần đang gặp khó
khăn đối với việc đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo tiêu chuẩn Basel II.
www.VPBS.com.vn Trang | 29
Các biện pháp gia tăng quy mô thị trƣờng
Trong năm 2017, VPBS kỳ vọng có hai động lực chính thúc đẩy quy mô giao dịch thị
trường gia tăng là sự niêm yết của các doanh nghiệp lớn và việc triển khai các sản phẩm
chứng khoán phái sinh.
Sự niêm yết của các doanh nghiệp lớn
Thứ nhất, thời gian vừa qua, thị trường đã đón nhận nhiều doanh nghiệp lớn của Nhà
nước sau khi IPO đã lên sàn giao dịch như SAB, BHN, v.v.. Dự kiến trong năm 2017, dự
kiến nhiều doanh nghiệp đã IPO sẽ tiếp tục lên sàn như Petrolimex, Vinatex, VEAM, các
ngân hàng, v.v.
Đồng thời, cũng trong năm nay sẽ có nhiều đợt IPO của các doanh nghiệp nhà nước lớn
như Tổng Công ty Điện lực Dầu khí (PV Power), Công ty Lọc hóa Dầu Bình Sơn (BSR),
Tổng Công ty Vật tư Nông nghiệp (Vigecam), Tổng Công ty Xi măng Việt Nam hay Tổng
Công ty Viễn thông Mobifone, v.v.. Theo quy định tại Nghị định 145/2016/NĐ-CP và
Thông tư 115/2016/TT-BTC, trong vòng 15-20 ngày sau khi IPO, cổ phiếu của doanh
nghiệp sẽ được đưa lên đăng ký giao dịch trên sàn.
Như vậy, có thể thấy trước tổng giá trị vốn hóa của thị trường sẽ tăng lên rất nhiều
cùng với việc các doanh nghiệp lớn này tham gia giao dịch.
Triển khai thị trường chứng khoán phái sinh
Kế hoạch mở cửa thị trường chứng khoán phái sinh đã được tích cực chuẩn bị trong
nhiều năm qua và dự kiến, thị trường trường CKPS sẽ được chính thức bắt đầu vận hành
từ giữa năm 2017. Hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu, hợp đồng tương lai trái phiếu
chính phủ, và các loại chứng quyền sẽ được đưa ra. Bên cạnh đó, việc hợp nhất hai Sở
giao dịch sẽ được thực hiện, giúp hình thành một chỉ số chứng khoán chung làm chỉ số
cơ sở cho CKPS, và nâng cao sự minh bạch và chất lượng dịch vụ của thị trường.
Các sản phẩm CKPS đã giúp gia tăng mạnh giá trị giao dịch trên thị trường chứng khoán
tại nhiều nước và dự kiến, sẽ giúp gia tăng giá trị giao dịch tại Việt Nam.
Giá hàng hóa cơ bản
Dầu thô
Diễn biến nổi bật nhất đối với dầu thô trong quý IV/2016 là việc OPEC lần đầu tiên đạt
được thỏa thuận cắt giảm sản lượng sau 8 năm. Kế hoạch về một thỏa thuận cắt giảm
sản lượng nêu ra từ cuối tháng 9 đã được hiện thực hóa trong cuộc họp của OPEC ngày
30/11. Theo thỏa thuận này, sản lượng dầu mỏ sẽ được cắt giảm 1,2 triệu thùng mỗi
ngày xuống còn 32,4 triệu thùng/ngày, với Arab Saudi giảm 486 nghìn thùng/ngày, Iraq
giảm 210 nghìn thùng/ngày và UAE giảm 139 nghìn thùng/ngày. Nhờ sự đồng thuận của
cả các quốc gia ngoài OPEC, dẫn đầu ở Nga, tổng sản lượng ước tính sẽ giảm tới 1,8
triệu thùng/ngày. Tác động của Brexit diễn ra chậm hơn so với dự kiến, cùng với thỏa
thuận cắt giảm sản lượng của OPEC đã khiến giá dầu thô tăng mạnh trong quý IV/2016.
Cụ thể, giá dầu WTI tăng 12,6% và giá dầu Brent tăng 13,9% trong quý.
Việc cắt giảm sản lượng được thực hiện bắt đầu từ ngày 1/1/2017, và cho đến cuối
tháng 1/2017 ước tính sẽ giảm được 1,7 triệu thùng/ngày – gần sát với mức mục tiêu
1,8 triệu thùng. Như vậy, phía các nước thành viên OPEC đang tuân thủ khá tốt thỏa
thuận cắt giảm sản lượng của mình. Tuy nhiên, trong buổi lễ nhậm chức của mình, tân
Tổng thống Mỹ Donald Trump đã tuyên bố sẽ tiếp tục tăng cường khai thác dầu đá phiến
trong năm 2017, và các công ty năng lượng Mỹ ngay sau đó đã đưa thêm 29 giàn khoan
vào khai thác, nâng tổng số giàn khoan lên 551, tính đến thời điểm ngày 20/1/2017.
OPEC đã thể hiện quyết tâm duy trì giá dầu thô trong khoảng 50-60 USD/thùng trong
năm 2017, và sẵn sàng gia hạn thời gian cắt giảm sản lượng trong nửa cuối năm 2017
nếu thấy cần thiết.
www.VPBS.com.vn Trang | 30
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã tổng kết năm 2016 với những kết quả rất tích cực: tổng
sản lượng khai thác dầu thô đạt 17,23 triệu tấn, vượt 1,19 triệu tấn so với kế hoạch
năm và hoàn thành sớm kế hoạch năm trước gần 1 tháng. Khai thác dầu ở nước ngoài
cũng vượt 0,6% kế hoạch năm – đạt 2,03 triệu tấn. Khai thác khí đạt 10,61 tỉ m3, vượt
10,4% so với kế hoạch năm. Tổng sản lượng khai tác qui dầu đạt 27,84 triệu tấn, vượt
2,19 triệu tấn so với kế hoạch năm.
Nhu cầu đối với dầu mỏ tăng cao trong năm 2017 cùng với sự đồng thuận trong cắt
giảm sản lượng của OPEC, giá dầu thô thế giới năm 2017 sẽ duy trì ở mức cao, theo dự
báo của VPBS giá dầu sẽ dao động trong khoảng 50-55 USD/thùng.
Chỉ số hàng khô Baltic
Chỉ số hàng khô Baltic (BDI) tiếp tục tăng trong quý IV và đạt mức 961 điểm vào cuối
năm – tương đương với mức tăng 9,83% so với cuối quý III và 101,05% so với cuối
năm ngoái.
NÔNG NGHIỆP Đơn vị Giá hiện
tại
Thay đổi
3T
Thay đổi
1N Tác động
Cao su (Thái Lan) USD/tấn 2.240,0 44,43% 85,12% Ngành cao u
Cao su (Tocom) USD/tấn 2.246,2 55,40% 83,92% Ngành cao su
Cotton (Nymex) USD/tấn 0,7 3,08% 8,71% Dệt may
Đường tinh luyện (Sao Paulo) USD/tấn 770,0 8,23% 40,00% Thực phẩm
NĂNG LƢỢNG
LPG-Butane (Arab) USD/tấn 420,0 31,25% -11,58% CPI, Năng lượng
LPG-P opane (Arab) USD/tấn 380,0 28,81% -17,39% CPI, Năng lượng
Khí thiên nhiên USD/Mmbtu 3,7 28,15% 59,35% CPI, Năng lượng
Xăng A92 (Singapore) USD/thùng 62,8 10,95% 23,28% CPI, Năng lượng
Dầu thô WTI (New York) USD/thùng 53,7 11,36% 45,03% CPI, Năng lượng
KIM LOẠI
Quặng sắt (TQ) USD/tấn 78,9 41,19% 81,02% Xây dựng, khai khoáng
Thép cán nóng (TQ) USD/tấn 538,0 33,39% 75,24% Xây dựng, khai khoáng
Thép cán nguội (TQ) USD/tấn 684,0 34,12% 69,73% Xây dựng, khai khoáng
Đồng (London) USD/tấn 5.523,0 13,92% 17,37% Khai khoáng
Nhôm (London) USD/tấn 1.704,0 2,36% 13,58% Khai khoáng
Vàng thế giới USD/ounce 1.147,5 -12,80% 8,14%
VẬN TẢI
Chỉ số hàng khô Baltic (BDI) Chỉ số 961,0 9,83% 101,05% Vận tải
Số liệu cập nhật ngày 31/12/2016
Nguồn: Bloomberg, VPBS
Cao su và đƣờng
Đúng như kỳ vọng, giá cao su và giá đường tăng mạnh trong năm 2016. Giá cao su
Tocom cuối quý IV tăng lên 2.246,2 USD/tấn, cao hơn 44,43% so với cuối quý trước và
83,92% so với cuối năm ngoái. Giá đường tinh luyện tăng 8,23% so với cuối quý trước
và 40% so với cuối năm ngoái, lên mức 770 USD/tấn vào cuối năm 2016.
Mặc dù ngành công nghiệp ô tô được kỳ vọng tăng trưởng không cao trong năm 2017,
giá cao su tăng mạnh chủ yếu do sự sụt giảm sản lượng từ Thái Lan - một trong những
quốc gia chính trồng và xuất khẩu cao su. Sự cắt giảm sản lượng của các nước
www.VPBS.com.vn Trang | 31
Indonesia, Thái Lan và Malaysia nhằm nâng giá cao su trong thời gian gần đây được dự
báo sẽ tác động tiêu cực đến nguồn cung cao su trong vòng ít nhất 7 năm tới – thời gian
cần thiết để cây cao su trưởng thành và có thể thu hoạch được.
Đồng thời, điều kiện thời tiết thiếu thuận lợi, cùng với trận lụt tại miền Nam Thái Lan –
một trong những khu vực sản xuất cao su chủ lực của nước này, gây thiệt hại đến 112
nghìn héc ta cây cao su – dự kiến sẽ khiến sản lượng cao su của nước này giảm đến
10% - khiến giá cao su tiếp tục tăng cao.
Đối với đường, sự sụt giảm sản lượng tại Thái Lan trong năm 2016 – giảm đến 18% so
với năm 2015 – cũng góp phần đẩy giá đường lên cao đến cuối năm 2016. Đồng thời,
sản lượng mía sụt giảm tại Ấn Độ vào cuối năm 2016 cũng tác động tới giá đường.
VPBS nhận định giá cao su sẽ tiếp tục tăng cao đến giữa quý II/2017, do Thái Lan sắp
bước sang mùa khô, và sản lượng cao su trong mùa này ước tính sẽ giảm đến 150 nghìn
tấn/tháng. Đồng thời, việc cắt giảm sản lượng dầu mỏ trong nửa đầu năm 2017 của
OPEC sẽ khiến giá cao su nhân tạo tăng lên và theo đó nhu cầu đối với cao su tự nhiên
cũng sẽ tăng. Giá đường cũng sẽ duy trì ở mức cao trong quý I/2017.
Ngành công ty sản xuất cao su tự nhiên và đường sẽ được hưởng lợi như CTCP Hoàng
Anh Gia Lai (HAG), CTCP Cao su Tây Ninh (TRC), CTCP Cao su Phước Hòa (PHR), CTCP
Cao su Đồng Phú (DPR), CTCP Đường Biên Hòa (BHS) và CTCP Mía đường Thành Thành
Công Tây Ninh (SBT).
www.VPBS.com.vn Trang | 32
Nguồn: HSX, HNX, VPBS
THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
Diễn biến thị trường chứng khoán trong quý IV/2016
Nguồn: Bloomberg, VPBS
Diễn biến trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong quý IV/2016 không mấy tích cực
với sự sụt giảm đều sau đợt tăng đáng kể từ đầu năm. Tuy nhiên nhìn chung năm 2016
là một năm khá tốt, chỉ số VN-Index đã tăng từ mức thấp 520 điểm cuối tháng 1 tới
đỉnh ở 690 điểm trong tháng 10, và HNX index tăng từ khoảng trên 73 điểm cuối tháng
1 lên tới đỉnh tại 88 điểm trong tháng 7 – và một lần nữa suýt soát chạm mức đỉnh này
vào tháng 10. Khởi đầu quý tại một ngưỡng cao, nên sự tụt giảm trong Quý 4 không bị
nhìn nhận như một sự sụt giảm mà chỉ giống như một sự điều chỉnh về thế cân bằng.
Mặc dù đôi lúc thị trường có nguy cơ tụt giảm sâu hơn, song thực tế chỉ số VN-index chỉ
giảm gần 2%, và chỉ số HNX giảm gần 6%.
Diễn biến của chỉ số VN-index và VN30 giống nhau rõ rệt. Khác với quý III, khi các mã
tăng giá chủ yếu là blue-chip, sự tụt giảm trong quý IV lại tương đối đồng đều. Sàn Hà
Nội cũng có diễn biến tương tự, ngoại trừ mười ngày cuối tháng 10, khi thỏa thuận cắt
giảm sản lượng dầu thất bại vì Iran từ chối tham gia khiến giá dầu thô giảm mạnh. Sự
kiện này khiến cổ phiếu PVS giảm giá, và do PVS có tỷ trọng lớn trên chỉ số HNX, gây ra
một ảnh hưởng ở toàn sàn.
Giá trị mua - bán ròng của khối ngoại tại HSX (tỷ
đồng)
Giá trị mua – bán ròng của khối ngoại tại HNX
(tỷ đồng)
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
600
610
620
630
640
650
660
670
680
690
01/1
0
08/1
0
15/1
0
22/1
0
29/1
0
05/1
1
12/1
1
19/1
1
26/1
1
03/1
2
10/1
2
17/1
2
24/1
2
31/1
2
VN-Index
VN30
HNX-Index
71
-1.518
-1.152
-1.600
-1.400
-1.200
-1.000
-800
-600
-400
-200
0
200
Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12
-94
-63
57
-120
-100
-80
-60
-40
-20
0
20
40
60
80
Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12
www.VPBS.com.vn Trang | 33
Khối ngoại tỏ ra không mấy mặn mà với cổ phiếu của Việt Nam trong quý IV, với lượng
bán ròng 2.600 tỷ VND (115 triệu USD) trên sàn HSX và 100 tỷ VND (4.44 triệu USD)
trên sàn HNX, nối tiếp đợt bán ròng thậm chí còn xối xả hơn trong tháng 9. Tuy vậy,
như nhận định dưới đây, động thái này dường như không liên quan nhiều tới bản thân
thị trường Việt Nam, mà nguyên nhân chính là do kết quả bầu cử của nước Mỹ diễn ra
đầu tháng 11. Thêm nữa, mặc dù nhà đầu tư nước ngoài rút vốn khỏi thị trường chứng
khoán Việt Nam, song giá trị thị trường không bị ảnh hưởng, và mức tụt giảm lớn nhất
trong tháng 11 chỉ chiếm chưa tới 0.1% giá trị vốn hóa của sàn HSX.
Diễn biến theo ngành
Các ngành có kết quả vượt trội – Q4/2016
Nguồn: Bloomberg, VPBS tổng hơp
Trong phân tích dưới đây, kết quả của ngành sẽ được so sánh với chỉ số VNXAll, một chỉ
số nhánh của VN-index tổng hợp các mã đáp ứng mức vốn hóa và tự do chuyển nhượng
tối thiểu. Ngoài việc loại trừ các công ty nhỏ, các cổ phiếu được nhà nước nắm giữ một
phần với các mức vốn hóa khác nhau cũng sẽ có tỷ trọng khác nhau. Quan trọng hơn,
các chỉ số ngành sử dụng trong phân tích này dựa vào các cổ phiếu thuộc bộ chỉ số
VNXAll-Index thay vì các cổ phiếu thuộc VN-Index.
Trong quý vừa rồi, chỉ số ngành hàng tiêu dùng có kết quả khả quan nhất, theo sau là
bất động sản. Mặc dù tại thời điểm kết thúc quý, chỉ số hàng tiêu dùng thiết yếu thấp
hơn chỉ số VNAll-Index, song phần lớn thời gian chỉ số này vẫn có kết quả vượt trội hơn.
Các ngành có kết quả thấp – Q4/2016
Nguồn: Bloomberg, VPBS tổng hợp
-12,0%
-10,0%
-8,0%
-6,0%
-4,0%
-2,0%
0,0%
2,0%
4,0%
03/1
0
10/1
0
17/1
0
24/1
0
31/1
0
07/1
1
14/1
1
21/1
1
28/1
1
05/1
2
12/1
2
19/1
2
26/1
2
Hàng tiêu dùng phi thiết yếu
Hàng tiêu dùng thiết yếu
Bất động sản
Chỉ số VNAll index
-20,0%
-15,0%
-10,0%
-5,0%
0,0%
5,0%
03/1
0
10/1
0
17/1
0
24/1
0
31/1
0
07/1
1
14/1
1
21/1
1
28/1
1
05/1
2
12/1
2
19/1
2
26/1
2
Năng lượng Tài chính
Y tế Công nghệ
Chỉ số VNAll Index
www.VPBS.com.vn Trang | 34
Các ngành có hệ số tương quan cao
Nguồn: Bloomberg, VPBS tổng hợp
Có khá nhiều các ngành có kết quả thấp hơn chỉ số VNXAll-Index, trong đó ngành y tế
diễn biến xấu nhất nhất, mặc dù ngành năng lượng kết thúc quý ở vị trí sau cùng.
Ngành tài chính có diễn biến khá giống VNXAll-Index, chỉ thấp hơn đôi chút. Ngành công
nghệ mặc dù thời điểm kết thúc năm đã vươn lên dẫn đầu, song phần lớn thời gian
trong quý – đặc biệt là tháng 10 – chỉ số này thấp hơn VNAll index.
Phần lớn các chỉ số ngành thuộc VNXAll có mối tương quan với chỉ số chung bởi xét cho
cùng nền kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Các yếu tố thế giới cũng có ảnh
hưởng lớn tới nền kinh tế Việt Nam, một nền kinh tế với quy mô vốn hiện còn khiêm tốn
và chịu ảnh hưởng nhiều từ xuất nhập khẩu.
Trong phân tích này, chúng tôi sử dụng bình quân của các chỉ số ngành (không tính
trọng số) để tìm hiểu xem các ngành nào đi theo theo xu thế chung, và các ngành nào
có biến động độc lập. Biểu đồ trên cho thấy các ngành có mối tương quan cao với đường
bình quân – với hệ số tương quan cao hơn hoặc bằng 0.9, trong đó chỉ số bằng 1.0 biểu
hiện mối tương quan tuyệt đối. Mặc dù phân tích này không chỉ ra nguyên nhân, song
chúng ta vẫn có thể đi đến kết luận rằng các ngành này đang chịu tác động bởi các yếu
tố giống nhau, ít nhất là trong quý 4.
Phân tích nhân tố là một công cụ trong xác suất thống kê cho phép xác định nguyên
nhân – „nhân tố‟. Ví dụ, nếu nền kinh tế Việt Nam chịu tác động chính bởi giá dầu và
lượng mưa, thì phân tích nhân tố của 10 chỉ số ngành sẽ giúp xác định hai nhân tố này.
Nghiên cứu sâu hơn sẽ cho thấy các chỉ số nào tương quan với giá dầu, chỉ số nào tương
quan với lượng mưa.
Sử dụng phương pháp phân tích nhân tố cho các chỉ số ngành trong quý vừa rồi cho
thấy bốn yếu tố: một yếu tố chỉ tác động tới ngành y tế, một yếu tố chỉ tác động tới
ngành nguyên vật liệu, một yếu tố chỉ tác động tới ngành hàng tiêu dung không thiết
yếu, và một yếu tố thứ tư tác động tới các ngành hàng tiêu dùng thiết yếu, tài chính,
công nghiệp, bất động sản, dịch vụ tiện ích, và phần nào đó ảnh hưởng tới ngành năng
lượng.
Yếu tố thứ tư này có mối tương quan mật thiết cùng chiều với giá vàng thế giới và chỉ số
chứng khoán các nền kinh tế Châu Á mới nổi trong khu vực, và tương quan ngược chiều
với chỉ số chứng khoán của Mỹ và tỷ giá VND/USD. Nghiên cứu này cho thấy 6 ngành
trên chịu tác động không chỉ bởi các yếu tố cấu phần lên nó, mà còn bởi các yếu tố toàn
cầu – đặc biệt là sức hấp dẫn của các cổ phiếu Mỹ, phần nào do đồng USD tăng giá.
-14,0%
-12,0%
-10,0%
-8,0%
-6,0%
-4,0%
-2,0%
0,0%
2,0%
4,0%
03/1
0
10/1
0
17/1
0
24/1
0
31/1
0
07/1
1
14/1
1
21/1
1
28/1
1
05/1
2
12/1
2
19/1
2
26/1
2
HSX (trọng số đều) Tài chính
Công nghiệp Dịch vụ tiện ích
Bất động sản Tiêu dùng thiết yếu
www.VPBS.com.vn Trang | 35
Các ngành có hệ số tương quan thấp
Nguồn: Bloomberg, VPBS tổng hợp
Ngành y tế có kết quả rất thấp so với xu thế chung, do Chính phủ tiến hành tăng giá
dịch vụ đáng kể trong quý III và mã chứng khoán JVC ghi nhận thua lỗ lớn trong quý
III. Thời điểm báo cáo tài chính quý III được phát hành cũng là lúc giá trị của ngành sụt
giảm, dẫn tới kết luận rằng đây chính là một nhân tố kéo chỉ số ngành đi xuống.
Chỉ số ngành đôi lúc không thực sự khách quan do chịu sức ảnh hưởng của một vài công
ty quy mô lớn. Ngành công nghệ thông tin bị chi phối bởi FPT, và giá trị ngành tương
quan với 99.6% giá trị của công ty trong quý, và 96.7% trong năm, nghĩa là ngành này
chịu tác động bởi các quyết định do hội đồng quản trị FPT đưa ra nhiều hơn là những
thay đổi của nền kinh tế. Có thể nói FPT chính là nhân tố tác động tới chỉ số ngành.
Ngành nguyên vật liệu chịu tác động lớn bởi HPG, nhưng bức tranh phức tạp hơn vì
trong quý IV, chỉ số này không chỉ chịu tác động bởi một yếu tố duy nhất – không phải
giá hàng hóa, không phải tỷ giá, không phải lượng cầu đối với nguyên vật liệu, cũng
không phải giá cổ phiếu HPG. Lý do đưa ra có thể là do các hậu quả mà ngành nông
nghiệp năm 2016 phải hứng chịu do diễn biến thời tiết bất lợi, và bởi ngành nguyên vật
liệu có cấu phần quan trọng là các công ty phân bón, vốn là một nhân tố độc lập không
liên quan nhiều tới HPG, lý giải cho biến động của ngành trong quý IV.
Ngành hàng tiêu dùng không thiết yếu là ngành có nhiều khác biệt nhất trong quý. Mặc
dù MWG chiếm tới 44% vốn hóa của ngành, song mã này có biến động giá gần như độc
lập hoàn toàn với diễn biến toàn ngành. Tuy nhiên, do GPD bình quân trên đầu người
Việt Nam tăng cao hơn lạm phát, với mức 2.215 USD, và mặc dù không đạt được mục
tiêu do chính phủ đặt ra, song nguyên nhân chính là do sự tụt giảm của ngành nông
nghiệp. Do đó, GPD tăng có thể do thu nhập tại các khu vực thành thị tăng, thúc đẩy chi
tiêu các mặt hàng tiêu dùng. Dẫu cho nếu không phải như vậy, thu nhập cao hơn cùng
với mức sống được cải thiện tại Việt Nam cũng mang lại sức hấp dẫn cho các cổ phiếu
tiêu dùng, với dự đoán về một sự tăng trưởng trong tương lai.
-18,0%
-16,0%
-14,0%
-12,0%
-10,0%
-8,0%
-6,0%
-4,0%
-2,0%
0,0%
2,0%
4,0%
03/1
0
10/1
0
17/1
0
24/1
0
31/1
0
07/1
1
14/1
1
21/1
1
28/1
1
05/1
2
12/1
2
19/1
2
26/1
2
HSX (trọng số đều) Y tế
Công nghệ Nguyên vật liệu
Tiêu dùng phi thiết yếu
www.VPBS.com.vn Trang | 36
Xu thế đi ngược lại với các thị trường toàn cầu trong Quý IV
Nguồn: Bloomberg, VPBS tổng hợp
Trong năm 2016, diễn biến thị trường cổ phiếu và giá vàng thế giới có xu thế ngược
chiều nhau – khi một bên tăng và bên kia giảm. Đây là điều dễ lý giải nếu tính bất ổn là
nguyên nhân chính tác động tới xu hướng của nguồn vốn trên toàn cầu.
Tuy nhiên diễn biến trong quý IV lại khác. Biểu đồ trên cho thấy giá vàng và chỉ số
S&P500 có mối tương quan ngược chiều, trong khi chỉ số VNXAll-Index có xu thế khá
tương đồng với S&P500 – cho tới ngày 9/11/2016. Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ diễn ra
vào ngày 8/11/2016, thông tin về kết quả đã có vào buổi tối hôm đó và ngày hôm sau.
Donald Trump bất ngờ thắng cử và trong suốt chiến dịch tranh cử, ông đã tỏ thái độ ủng
hộ chính sách bảo hộ thương mại, phản đối thỏa thuận tự do thương mại hiện có, từ
chối tham gia hiệp định TPP và tỏ thái độ thù định đối với Trung Quốc. Thị trường đã
phản ứng ngay, với nguồn vốn từ vàng và các thị trường mới nổi đổ về các cổ phiếu của
Mỹ.
Điều này báo hiệu sự dịch chuyển trong các nhân tố toàn cầu ảnh hưởng tới nền kinh tế
Việt Nam; trong khi việc đánh giá giá trị trước đây dựa vào thế mạnh và điểm yếu của
các nền kinh tế khác nhau, hàng hóa khác nhau, tính ổn định và bất ổn của các thị
trường, thì giờ đây nhà đầu tư lại cân nhắc rào cản thương mại giữa các nước với nhau.
Đây có thể là một thực tế mới đối với thị trường chứng khoán Việt Nam – ít nhất trong
giai đoạn ông Trump vẫn còn là tổng thống Mỹ.
Một kết quả khá bất ngờ rút ra từ phân tích này cho thấy trong năm 2016 không có bất
kỳ mối liên hệ nào, vào bất kỳ thời điểm nào, giữa khối lượng đầu tư của khối ngoại vào
thị trường chứng khoán Việt Nam với bất kỳ chỉ số chứng khoán nào. Khối lượng mua
bán của nhà đầu tư nước ngoài không liên quan tới sự tăng giảm của thị trường chứng
khoán. Điều này không có nghĩa nhà đầu tư nước ngoài không có mối liên hệ gì, mà có
thể do họ hành động giống với nhà đầu tư trong nước – đầu tư dựa trên nhu cầu cá
nhân và giá trị của cổ phiếu, thay vì như một nhóm các nhà đầu tư với quan điểm khác
biệt đối với Việt Nam. Điều này cũng cho thấy thị trường Việt Nam đang được coi như
một phần không tách rời trong bức tranh đầu tư toàn cầu.
-12,0%
-10,0%
-8,0%
-6,0%
-4,0%
-2,0%
0,0%
2,0%
4,0%
6,0%
03/1
0
10/1
0
17/1
0
24/1
0
31/1
0
07/1
1
14/1
1
21/1
1
28/1
1
05/1
2
12/1
2
19/1
2
26/1
2
Chỉ số VNAll index Vàng S&P Index
www.VPBS.com.vn Trang | 37
Diễn biến theo khu vực
Nguồn: Bloomberg, VPBS tổng hợp
Trong quý IV, bốn quốc gia Đông Nam Á mà VPBS đang theo dõi có diễn biến khá trái
chiều, cho thấy mặc dù các yếu tố toàn cầu có sức ảnh hưởng, song các yếu tố trong
nước vẫn có vai trò quan trọng hơn.
Thị trường Phillippines dưới quyền của Tổng thống Duterte, người vừa lên chức vào
tháng 5/2016, được đánh giá là đặc biệt bất ổn. ng theo đuổi chính sách chống lại tội
phạm buôn bán ma túy và các phần tử „gây rối‟ khác trong cả nước một cách không
khoan nhượng, và đã xúc phạm tới các nước khác cùng lãnh đạo của họ – trong đó đáng
chú ý có người Mỹ nói chung và tổng thống Obama nói riêng. ng cũng tìm cách tái lập
quan hệ với Trung Quốc và Nga, tuyên bố rằng ba nước được thống nhất để “chống lại
thế giới” trong một bài phát biểu tại Trung Quốc vào ngày 20/11/2016, khiến cho thị
trường Philippines tụt dốc thê thảm và tới giờ vẫn chưa thể phục hồi.
Tổng thống Trump nhậm chức ảnh hưởng tới Indonesia mạnh hơn Việt Nam, khiến giá
trị thị trường của nước này lập tức giảm 4%. Sau đó thị trường đã hồi phục phần nào,
song một lần nữa lại bị ảnh hưởng tiêu cực bởi những cáo buộc thống đốc Cơ đốc giáo
báng bổ Hồi giáo, châm ngòi cho các cuộc biểu tình bạo lực; một cuộc động đất diễn ra
vào đầu tháng 12; và một cuộc tấn công khủng bố ngay trước lễ Giáng sinh.
Thị trường Bangkok, trái lại, có một quý tăng trưởng khá. Vào ngày 13/10/2016, nhà
vua Thái băng hà khiến người dân lo sợ tình hình bất ổn có thể xảy ra, vì đất nước này
tin rằng quãng thời gian bình yên gần đây là do sự tôn kính của người Thái dành cho
đức vua của họ, và sự tôn kính này sẽ không dành cho người kế thừa ông. Tuy nhiên,
vẫn chưa có biến động gì xảy ra, và – thay vì những phiên tụt giảm sau khi ông Trump
đắc cử – thị trường lại đi lên như để minh chứng rằng chính trị Thái Lan hiện tại thậm
chí còn ổn định hơn cả trong quá khứ.
Việt Nam, như đã đề cập ở trên, được chia thành hai giai đoạn riêng biệt – diễn biến
đồng bộ với thị trường chứng khoán Mỹ trước ngày 09/11/2016, và sau đó theo chiều
hướng ngược lại. Tuy nhiên, so với các thị trường khác trong khu vực, thị trường Việt
Nam tương đối ổn định, và sự giảm điểm trong quý này chủ yếu do thị trường cuối
tháng 9 đã tăng quá cao, chứ không phải do thái độ tiêu cực của nhà đầu tư đối với nền
kinh tế: mặc dù thị trường giảm điểm trong quý vừa rồi, song chưa khi nào rơi xuống
mức điểm thấp nhất ghi nhận ngay sau 2 tuần của Quý IV.
-16,0%
-14,0%
-12,0%
-10,0%
-8,0%
-6,0%
-4,0%
-2,0%
0,0%
2,0%
4,0%
6,0%
01/1
0
08/1
0
15/1
0
22/1
0
29/1
0
05/1
1
12/1
1
19/1
1
26/1
1
03/1
2
10/1
2
17/1
2
24/1
2
Thành phố HCM Jakarta Bangkok Philippines
www.VPBS.com.vn Trang | 38
TRIỂN VỌNG THỊ TRƢỜNG
Xu hướng dài hạn của VN-Index
Nguồn: Bloomberg, VPBS tổng hợp
Như nhận định của chúng tôi đưa ra trong báo cáo triển vọng thị trường quý trước,
trong Qúy IV/2016, chỉ số VN-Index đã bứt phá lên trên đường xu hướng dài hạn
(đường xu hướng 1) với CARG trung bình cho cả giai đoạn từ 2002 đến nay ở mức
7,3%.
Phân ngành ICB Tổng LNST (tỷ đồng) Tổng EPS (đồng)
2015 2016 % thay đổi 2015 2016 % thay đổi
Công nghệ Thông tin 2.001 2.502 25,1% 24.775 33.062 33,4%
Công nghiệp 10.528 15.268 45,0% 500.493 559.732 11,8%
Dầu khí 2.197 973 -55,7% 16.104 -1.027 -106,4%
Dịch vụ Tiêu dùng 1.188 2.781 134,1% 104.823 92.423 -11,8%
Dược phẩm và Y tế 1.369 222 -83,8% 59.218 45.448 -23,3%
Hàng Tiêu dùng 13.586 21.426 57,7% 239.472 276.738 15,6%
Ngân hàng 22.635 24.041 6,2% 10.778 8.857 -17,8%
Nguyên vật liệu 9.503 11.720 23,3% 169.948 163.419 -3,8%
Tài chính 9.878 10.339 4,7% 105.344 100.376 -4,7%
Tiện ích Cộng đồng 19.200 8.163 -57,5% 80.038 67.736 -15,4%
Tổng HSX và HNX 92.086 97.435 5,8% 1.310.995 1.346.765 2,7%
Nguồn: Bloomberg, VPBS tổng hợp
Theo số liệu cập nhật tới thời điểm hiện tại từ Bloomberg, tổng LNST trượt trong năm
2016 của các công ty niêm yết trên cả 2 sàn Hồ Chí Minh và Hà Nội tăng 5,8% so với
cùng kỳ. Nguyên nhân là do sự sụt giảm đáng kể đến từ ba nhóm ngành dược phẩm và
y tế, dịch vụ tiện ích và dầu khí, trong đó đóng góp lớn nhất khiến tổng LNST cả 2 sàn
vào chiều sụt giảm là ngành dịch vụ tiện ích. Không bất ngờ khi nhóm ngành dầu khí và
dịch vụ tiện ích tiếp tục có tên trong danh sách này khi các doanh nghiệp ngành dầu khí
vẫn đang gặp khó khăn chung trong khi các công ty về dịch vụ tiện ích cũng trải qua
một thời kỳ không mấy thuận lợi do sản lượng sụt giảm vì El Nino cũng như lỗ nặng do
biến động tỷ giá. Trong khi đó, mức sụt giảm LNST tới 83,8% của nhóm ngành y tế lại
tương đối gây sốc và hoàn toàn trái ngược với diễn biến tích cực của nhóm cổ phiếu
ngành y dược trên thị trường trong thời gian vừa qua. Việc sụt giảm này chủ yếu đến từ
khoản thua lỗ tới hơn 1.300 tỷ đồng của JVC mới bị phanh phui sau khi báo cáo tài chính
hợp nhất kiểm toán năm tài chính 2015-2016 được công bố đầu tháng 8. Nếu loại bỏ
yếu tố đột biến này, các công ty thuộc nhóm ngành y tế ghi nhận mức tăng trưởng LNST
trượt trong 12 tháng gần nhất khoảng hơn 38,8%. Ở chiều ngược lại, ngành hàng tiêu
dùng và ngành dịch vụ tiêu dùng có mức tăng trưởng LNST cao nhất, tương ứng 134%
và 57,7% so với cùng kỳ, đóng góp 147% và 30% vào mức tăng chung. Ngành công
nghiệp tăng trưởng 11,8% so với cùng kỳ, đóng góp 89% vào mức tăng chung.
www.VPBS.com.vn Trang | 39
Diễn biến TTCK Đông Nam Á
Thị trường Sàn
Bangkok
Sàn
Jakarta
Sàn
Philippines
Sàn Hồ
Chí Minh
P/E 16,7 24,2 18,6 15,9
P/B 1,9 2,4 2,2 2,0
ROE 11,1 10,2 12,7 12,2
ROA 2,8 2,6 2,8 2,1
Vốn hóa Thị
trường. (tỷ
USD)
419,7 424,8 165,3 65,5
Đầu tư Ròng
Nước ngoài –
Q4/16 (triệu
USD)
(1.545,2) (1.366,6) (668,3) (114,3)
Lạm phát (so
với cùng kỳ) 1,13% 3,02% 2,60% 4,74%
Lợi tức trái
phiếu 5 năm 2,26% 7,50% 3,98% 5,60%
Nguồn: Bloomberg, VPBS tổng hợp
P/E của chỉ số VN-Index liên tục tăng trong quý III, điều chỉnh nhẹ trong quý IV và chốt
quý ở mức 15,9x, vẫn thấp hơn đáng kể so với một số thị trường trong khu vực. Tuy
nhiên, cần lưu ý các thị trường lân cận đều đã được nâng hạng lên nhóm mới nổi trong
khi Việt Nam hiện vẫn chỉ được xếp vào nhóm cận biên với quy mô và mức vốn hóa thấp
hơn rất nhiều. Tuy nhiên chúng tôi nghĩ rằng chúng ta nên chỉ bị chiết khấu khoảng
10% so với các thị trường cận biển khác, vì Việt Nam đang ở giai đoạn chuyển mình
mạnh mẽ vì câu chuyện thay đổi cơ chế sở hữu tại hàng loạt các doanh nghiệp thuộc
hàng lớn nhất nền kinh tế, nên mức định giá cũng có thể tăng cao hơn do tiềm năng
tăng trưởng trong tương lai.
Theo số liệu từ Bloomberg, trong quý III, Việt Nam là thị trường duy nhất trong khu vực
bị khối ngoại bán ròng với tổng giá trị lên tới hơn 150 triệu USD. Trong quý IV, khối
ngoại bán ròng tại sàn HSX với giá trị thấp nhất, chỉ 114 triệu USD. Dòng tiền nội vẫn
đóng vai trò quyết định trong việc giữ P/E của VN-Index ở mức cao.
Chúng tôi cho rằng trong năm 2017, cùng với các tín hiệu giãn việc thực hiện Basel II
cho các ngân hàng thương mại, và với các chính sách cải cách thị trường, dòng tiền nội
sẽ vẫn tiếp tục là động lực rất lớn cho thị trường chứng khoán. Ngoài ra, dòng tiền ngoại
cũng có thể diễn biến tích cực hơn khi mà số lượng lớn Tập đoàn, tổng công ty nhà nước
được niêm yết, kinh doanh trong nhiều lĩnh vực hấp dẫn, với tiềm năng tăng trưởng
mạnh mẽ. Ngoài ra, Thủ tướng cũng gần đây đưa ra các thông điệp rõ ràng về việc thúc
đẩy mở room ngành ngân hàng trong năm 2017, sẽ thu hút một lượng ngoại hối không
nhỏ từ các tổ chức đầu nước nước ngoài. Ngành dầu khí cũng là ẩn số có thể gây bất
ngờ, khi mà giá dầu năm 2017 có thể biến động rất mạnh phụ thuộc vào các thỏa thuận
giữa các cường quốc xuất khẩu dầu mỏ. Nếu diễn biến thuận lợi, giá dầu mà vượt 60
USD/thùng thì KQKD của các công ty dầu khí năm 2017 có thể tốt hơn kì vọng, trong
khi định giá một số cổ phiếu đang khá rẻ, có thể thu hút một lượng tiền đầu tư rất lớn
từ nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Mô hình dự báo VNIndex dựa vào các biến số vĩ mô của Việt Nam trong quá khứ cũng
như trong năm 2017 cho thấy chỉ số VN-Index bình quân 2017 có thể diễn biến thuận
lợi. Chúng tôi chia ra 2 kịch bản:
(1) Kịch bản cơ sở, VNI có thể tăng lên 750 điểm, tương ứng với mức P/E 2017 mục tiêu
là 17,0 lần, trên cơ sở EPS toàn thị trường tăng 5% so với năm 2015.
(2) Kịch bản lạc quan, VNI có thể tăng lên 780 điểm, tương ứng với mức P/E 2017 mục
tiêu là 17,5 lần, trên cơ sở EPS toàn thị trường tăng 6,5% so với năm 2015.
0
4
8
12
16
20
24
28
P/E P/B ROE ROA
Sàn Bangkok Sàn Jakarta
Sàn Philippines Sàn Hồ Chí Minh
www.VPBS.com.vn Trang | 40
TRIỂN VỌNG CÁC NGÀNH QUÝ IV/2016
NGÀNH NGÂN HÀNG
Chỉ số giá cổ phiếu ngành ngân hàng (% tăng trưởng 1 năm)
Nguồn: Bloomberg, VPBS
Trong vòng 12 tháng qua, giá cổ phiếu ngân hàng diễn biến kém hơn so với chỉ số VN-
Index. Trong khi VN-Index tăng đến 14,82%, lợi suất của ngành ngân hàng ở mức -
10,84%. Cổ phiếu ngân hàng sụt giá kể từ giữa năm, sau khi các ngân hàng công bố kết
quả kinh doanh 6 tháng đầu năm với mức nợ xấu tăng cao. Kết quả kinh doanh 9 tháng
đầu năm không có nhiều biến chuyển, với mức lợi nhuận thấp do chi phí giải quyết nợ
xấu tăng cao một lần nữa khiến cổ phiếu nhóm ngành này đi xuống. Chỉ đến cuối tháng
12, cổ phiếu ngân hàng mới có dấu hiệu phục hồi trở lại cùng với tốc độ tăng trưởng tín
dụng khả quan ở thời điểm cuối năm.
Thu nhập lãi thuần 9 tháng đầu năm tăng trƣởng tốt
Theo tính toán của VPBS, tính đến cuối tháng 9 năm 2016, các ngân hàng niêm yết, chỉ
trừ STB và EIB, đều có tăng trưởng thu nhập lãi thuần khả quan. Trong đó, VCB dẫn đầu
với tăng trưởng thu nhập lãi thuần so với cùng kỳ lên tới 23,88%, theo sau là BID –
21,78% và CTG – 18,40%.
Tăng trưởng thu nhập lãi thuần phần lớn đến từ lãi cho vay khách hàng và lãi từ chứng
khoán đầu tư. Cùng với tăng trưởng tín dụng khả quan, đạt 18,71% cả năm 2016, tăng
trưởng thu nhập lãi cho vay bình quân 8 ngân hàng niêm yết 9 tháng đầu năm đạt
25,42% so với cùng kỳ. Mặt bằng lãi cho vay vào thời điểm cuối năm 2016 không thay
đổi so với cuối năm 2015, vẫn duy trì ở mức 6,8-9,0% cho vay ngắn hạn và 9,3-11%
cho vay trung, dài hạn đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường.
Tăng trưởng huy động và tín dụng so với cuối năm
2015
Tăng trưởng tín dụng dài hạn so với cuối năm 2015
(trung bình 8 ngân hàng niêm yết)
Nguồn: BCTC các NH, VPBS tổng hợp
-20
-15
-10
-5
0
5
10
15
20
10/15 12/15 02/16 04/16 05/16 07/16 09/16
Ngành Ngân hàng VNINDEX
-10%
-5%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
BID CTG VCB MBB ACB STB SHB EIB
Tăng trưởng huy động Tăng trưởng tín dụng
100%
115%
122%
110% 114%
80%
90%
100%
110%
120%
130%
2015 6M 2016 9M 2016
Dài hạn Tổng cho vay
www.VPBS.com.vn Trang | 41
Đồng thời, nhờ quy định của Thông tư 36 về việc tăng tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho
vay trung dài hạn, các ngân hàng đã đẩy mạnh cho vay dài hạn, với tổng cho vay dài
hạn tăng trung bình 22% tại 8 ngân hàng niêm yết trong 9 tháng đầu năm 2016. Tăng
trưởng tổng cho vay khách hàng đạt mức trung bình 14%, trong đó MBB và ACB tăng
trưởng nhanh nhất, đạt lần lượt là 20% và 19%, cao hơn mức tăng trưởng tín dụng bình
quân cả nước.
Tính đến tháng 10/2016, dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế tăng 12,66% so với cuối
năm 2015, trong đó dư nợ ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tăng 13,56%;
hoạt động thương mại, vận tải và viễn thông tăng 12,85% và công nghiệp và xây dựng
tăng 7,35%.
Thu nhập từ kinh doanh ngoại tệ tiếp tục tăng mạnh nhờ cơ chế tỷ giá trung
tâm
Cơ chế tỷ giá mới áp dụng từ đầu năm 2016 đã tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân
hàng tham gia tích cực vào kinh doanh ngoại hối. Doanh thu từ kinh doanh ngoại hối 9
tháng đầu năm 2016 tăng mạnh so với cùng kỳ, trung bình 8 ngân hàng niêm yết tăng
60,82%, trong đó thành công nhất là BID và CTG. BID từ mức lỗ do kinh doanh ngoại
hối và vàng 9 tháng đầu năm 2015 đã có lãi lớn cùng kỳ 2016. CTG có tốc độ tăng
trưởng lãi kinh doanh ngoại hối đạt gần 400%. VCB vẫn giữ vững kết quả kinh doanh
ngoại hối với mức tăng nhẹ 2,47%, trong khi ACB (+170,2%), STB (+187,7%) và EIB
(+13,95%) đều có mức tăng ấn tượng.
Dù vậy, MBB (-58,8%) và SHB (-24,6%) lại có kết quả kinh doanh ngoại hối đi ngược lại
với xu hướng chung của ngành.
Chi phí lãi tăng nhanh hơn thu nhập lãi
Tuy các ngân hàng nhìn chung đều đạt mức tăng trưởng lợi nhuận khá khả quan, một
điều đáng lưu tâm là tốc độ tăng trưởng chi phí lãi nhanh hơn đáng kể so với tốc độ tăng
trưởng thu nhập lãi. Điều này có thể là do tăng trưởng tín dụng nhanh, đồng thời yêu
cầu tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu trước thời hạn Thông tư 06 bắt đầu có hiệu lực đã
đẩy lãi suất đi vay lên cao hơn. Tại thời điểm cuối năm, do tính mùa vụ và thanh khoản
hệ thống trở nên căng thẳng, lãi suất liên ngân hàng và lợi suất trái phiếu chính phủ đều
tăng nhanh, đồng thời NHNN cũng bơm thêm tiền vào hệ thống qua thị trường mở.
Tuy nhiên, vẫn có một số ít các ngân hàng như VCB và ACB quản lý khá tốt chi phí lãi,
và có mức tăng trưởng chi phí lãi thấp hơn tăng trưởng thu nhập lãi. Ngược lại, MBB và
STB là hai ngân hàng gặp phải vấn đề khi tăng trưởng chi phí lãi cao gấp 1.78 lần (MBB)
và 3.76 lần (STB) thu nhập lãi khi so 9 tháng đầu năm 2016 với cùng kỳ năm 2015.
Tăng trưởng chi phí lãi 9T/2016 so với cùng kỳ (tỷ
đồng)
Tăng trưởng thu nhập lãi 9T/2016 so với cùng kỳ
(tỷ đồng)
Nguồn: BCTC các NH, VPBS tổng hợp
32% 29%
17% 21%
13%
68%
13%
-3%
-20%
0%
20%
40%
60%
80%
0
5.000
10.000
15.000
20.000
25.000
30.000
35.000
40.000
45.000
50.000
BID CTG VCB MBB ACB STB SHB EIB
9T'2015 9T'2016 Tăng trưởng chi phí lãi
28% 24%
20%
12% 14% 18%
14%
-3%
-20%
0%
20%
40%
60%
80%
0
5.000
10.000
15.000
20.000
25.000
30.000
35.000
40.000
45.000
50.000
BID CTG VCB MBB ACB STB SHB EIB
9T'2015 9T'2016 Tăng trưởng thu nhập lãi
www.VPBS.com.vn Trang | 42
Kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm phân hóa
Dù thu nhập lãi thuần toàn ngành khả quan, song do chi phí lãi tăng nhanh, đồng thời
chi phí dự phòng rủi ro tín dụng rất cao tại một số ngân hàng như BID, EIB và SHB đã
khiến kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm phân hóa mạnh mẽ trong toàn ngành.
Nhóm các ngân hàng có kết quả kinh doanh khả quan gồm VCB, CTG, ACB và MBB. Các
ngân hàng trên có đặc điểm chung là cùng tăng trưởng tín dụng tốt, đạt mức tăng
trưởng trong 3 quý đầu năm 2016 từ 15-20%. Đồng thời, nhóm 4 ngân hàng kể trên
cũng dẫn đầu về kiểm soát nợ xấu, với tỷ lệ nợ xấu tại thời điểm cuối quý III/2016 ở
ngưỡng dưới 2%. Nhờ sớm trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trong năm trước, dù tăng
trưởng tín dụng cao, song VCB, MBB và ACB lại có mức trích lập dự phòng rủi ro tín
dụng giảm so với cùng kỳ năm ngoái và do đó, không ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả
kinh doanh trong năm 2016.
BID và SHB có kết quả kinh doanh kém hơn, với mức tăng trưởng lợi nhuận trước thuế
so với cùng kỳ đạt lần lượt 4,02% và 8,36%. Hai ngân hàng này tuy có tăng trưởng tín
dụng khá tốt, song lại đều gặp vấn đề liên quan tới nợ xấu và chi phí dự phòng rủi ro tín
dụng. BID sau khi sáp nhập với MHB đang phải tích cực trích lập dự phòng và kiểm soát
nợ xấu. Cụ thể, tuy lợi nhuận trước dự phòng tăng trưởng đến 34% so với cùng kỳ, cao
nhất trong khối ngân hàng niêm yết, do chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tăng 76%, lợi
nhuận trước thuế của BID chỉ tăng có 4% so với cùng kỳ. Đối với SHB, hơn 1/3 đầu tư
vào chứng khoán nợ là nợ đã bán cho VAMC, do đó SHB vẫn liên tục phải trích lập dự
phòng rủi ro ở mức cao, khiến chi phí dự phòng tăng 25,19% so với cùng kỳ. Thêm vào
đó, tăng trưởng thu nhập lãi thuần không mấy khả quan do chi phí lãi tăng nhanh hơn
thu nhập lãi.
EIB và STB là hai ngân hàng có vấn đề về kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm 2016
khi lợi nhuận trước thuế giảm đến 70,15% và 74,30%. EIB có tỷ lệ nợ xấu cao vượt mức
cho phép, đồng thời tỷ lệ chi phí dự phòng rủi ro tín dụng cũng cao ngất ngưởng, chiếm
33% tổng thu nhập hoạt động và không thể tăng trưởng tín dụng trong năm 2016. STB
cũng gặp vấn đề với nợ xấu khi tỷ lệ nợ xấu cuối quý II tiến sát đến giới hạn 3%. Tăng
trưởng tín dụng chỉ vỏn vẹn 5%, tổng thu nhập lãi tuy tăng 18,04% trong chi phí lãi
tăng đến 67,74% khiến thu nhập lãi thuần của STB giảm mạnh nhất toàn ngành – giảm
35%. Thêm vào đó, chi phí hoạt động chiếm đến 77,5% tổng thu nhập hoạt động khiến
lợi nhuận trước thuế của STB giảm đến 74,3% so với cùng kỳ - kết quả kinh doanh tệ
nhất trong số 8 ngân hàng niêm yết.
Nợ xấu quý III cao hơn cùng kỳ 2015
Vấn đề nợ xấu của quý II đã phần nào được kiểm soát, tuy nhiên so với cùng kỳ 2015,
tỷ lệ nợ xấu tại thời điểm cuối quý III 2016 vẫn đang ở mức cao hơn. Đúng như dự báo
của VPBS từ đầu năm 2016, nhiều ngân hàng đang phải chịu áp lực về lợi nhuận do
chưa trích lập đủ 20% dự phòng cho TPĐB và do vậy, phải tăng mạnh trích lập dự
phòng trong năm 2016, làm bốc hơi một phần không nhỏ lợi nhuận sau thuế. Cụ thể, tại
EIB, chi phí dự phòng rủi ro tín dụng 9 tháng đầu năm 2016 của EIB tăng vọt đến
85.2% so với cùng kỳ năm trước ; còn tại BID, chi phí 9 tháng tăng đến 76,07% so với
cùng kỳ năm trước.
Mặc dù Thông tư 14/2015/TT-NHNN và Thông tư 08/2016/TT-NHNN đã tạo ra cơ chế
linh động hơn trong xử lý nợ xấu, song vấn đề nợ xấu vẫn tồn đọng và chưa được giải
quyết triệt để. Thông tư 14 cho phép công ty VAMC mua nợ xấu của ngân hàng với giá
thị trường và trả bằng phát hành trái phiếu có thể được chuyển nhượng, còn Thông tư
08 cho phép gia hạn thời hạn trái phiếu đặc biệt từ 5 năm lên 10 năm, khiến thị trường
kỳ vọng công tác xử lý nợ xấu có diễn biến tốt hơn trong nửa cuối năm 2016.
www.VPBS.com.vn Trang | 43
Nợ xấu (tỷ đồng) Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng 9T/2016 (tỷ đồng)
Nguồn: BCTC các NH, VPBS tổng hợp
Tuy nhiên, thực tế là tình hình nợ xấu không cải thiện nhanh như kỳ vọng. Thứ nhất,
VAMC và DATC vẫn còn gặp khó khăn về vốn. Thứ hai, nợ xấu tuy được bán cho VAMC
nhưng tỷ lệ nợ xấu thu hồi được vẫn còn thấp, chỉ khoảng 15% dư nợ gốc nội bảng tính
đến cuối tháng 10/2016, đồng thời thị trường mua bán nợ xấu chưa được hình thành
khiến VAMC gặp khó khăn khi bán nợ. Tuy VAMC và DATC đã quyết định cùng hợp tác
để xử lý nợ xấu, song chỉ với 2 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này có lẽ vẫn là
chưa đủ. Thêm nữa, điểm mới trong Luật Dân sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2017)
quy định không cho phép thu giữ tài sản đảm bảo nếu người đi vay không đồng ý bàn
giao, sẽ làm xấu thêm tình hình nợ xấu vốn vẫn còn căng thẳng trong toàn hệ thống.
Cuối quý III, tỷ lệ nợ xấu cao tập trung ở các ngân hàng thương mại quy mô nhỏ hơn là
STB (2,37%), SHB (2,25%) và EIB (3,35%). Có lẽ để kiểm soát tỷ lệ nợ xấu cao đột
biến hồi cuối quý II, STB và EIB hầu như không tăng trưởng tín dụng.
Đồng thời, STB còn gặp vấn đề đối với kiểm soát chi phí lãi tiền gửi và chi phí hoạt động
sau sáp nhập. Tín dụng tăng trưởng không nhiều song chi phí lãi tiền gửi tăng mạnh
69,8% khiến thu nhập lãi thuần sụt giảm nghiêm trọng. Đồng thời, tỷ trọng chi phí hoạt
động trên tổng thu nhập hoạt động của STB tăng vọt từ mức 54.6% 9 tháng đầu năm
2015 lên 77.6% 9 tháng đầu năm 2016. Tính đến hết quý III năm 2016, trong số 8
ngân hàng niêm yết chỉ có STB và EIB là ghi nhận lợi nhuận sau thuế 9 tháng sụt giảm.
Cụ thể, lợi nhuận của STB giảm 72,47% còn EIB giảm 69,73% so với cùng kỳ.
Trong nhóm 3 ngân hàng quốc doanh, BID có tỷ lệ nợ xấu tương đối cao, tính đến cuối
quý III là 2,03% - thậm chí còn cao hơn cuối quý II. Tuy vậy, nhờ tăng trưởng tín dụng
và huy động tốt nên BID vẫn có biên lợi nhuận khá dù tăng trưởng lợi nhuận sau thuế
không đáng kể.
Nhu cầu tăng vốn nhằm đáp ứng CAR theo thông tƣ 06 và hƣớng đến Basel II
Với lịch trình áp dụng Basel II đã được đề ra, ba ngân hàng quốc doanh đều đã lập kế
hoạch để tăng vốn trong năm 2016.
Đối với VCB, từ đầu năm 2016 đã được ĐHĐCĐ thông qua phương án tăng vốn điều lệ
bằng hai cách: (1) phát hành cổ phiếu thưởng với tỷ lệ 35% cho cổ đông hiện hữu và
(2) chào bán riêng lẻ không quá 10% vốn điều lệ cho nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN).
Phương án (1) đã được thực hiện, trong khi đó với phương án (2), Vietcombank đã tìm
được đối tác là Quỹ đầu tư GIC với mong muốn mua 7,7% cổ phần, song vẫn chưa được
Chính phủ và NHNN phê duyệt trong năm 2016 do mức giá chào mua thấp hơn giá cổ
phiếu của VCB trên thị trường. Ngoài ra, VCB đã tăng vốn cấp 2 thành công bằng cách
phát hành 2000 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 10 năm ra công chúng vào ngày 26/10/2016.
Với hệ só an toàn vốn CAR ở mức 10,29% vào thời điểm cuối năm 2016, VCB có dư dả
thời gian để tăng vốn cấp 1 bằng phương án chào bán riêng lẻ ra NĐTNN.
0%
1%
2%
3%
4%
5%
6%
--
2.000
4.000
6.000
8.000
10.000
12.000
14.000
16.000
BID CTG VCB MBB ACB STB SHB EIB
T6'2016 Nợ xấu T9'2016 Nợ xấu
T6'2016 Tỷ lệ nợ xấu T9'2016 Tỷ lệ nợ xấu
76%
30%
-4%
-34% -31% -33%
44%
85%
-40%
-20%
0%
20%
40%
60%
80%
100%
0
1.000
2.000
3.000
4.000
5.000
6.000
7.000
8.000
BID CTG VCB MBB ACB STB SHB EIB
9T'2015 9T'2016 Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng
www.VPBS.com.vn Trang | 44
Đối với BID, có 3 phương án tăng vốn trong năm 2016 đã được thông qua trong kỳ họp
ĐHĐCĐ là (1) phát hành cổ phần cho NĐTNN, (2) phát hành trái phiếu chuyển đổi và
(3) phát hành cho cổ đông hiện hữu để tăng vốn điều lệ thêm 27,63%, trong đó có phát
hành cổ phiếu trả cổ tức tương đương 8,5% vốn điều lệ và phát hành thêm cho cổ đông
hiện hữu 8,54% với dự kiến nguồn mua của cổ đông Nhà nước lấy từ nguồn ngân sách
nhà nước (NSNN). Đối với phương án (1), trong năm 2016, BID chưa có động thái gì về
việc tìm được đối tác nước ngoài để phát hành vốn. Phương án (3) đã bị Nhà nước bác
bỏ và BID đã phải trả đến 2.900 tỷ đồng cổ tức năm 2015 trong tháng 11/2016. Phương
án (2) đã được thực hiện trong tháng 8 khi BID phát hành 2 đợt trái phiếu kỳ hạn 10
năm với tổng trị giá 2.700 tỷ đồng. Tuy nhiên, đến tháng 12/2016 BID bị yêu cầu mua
lại 695 tỷ đồng trái phiếu trước hạn, làm giảm tỷ lệ vốn cấp 2. Như vậy, trong ba ngân
hàng thương mại nhà nước, BID đang gặp khó hơn cả. Tính đến cuối năm 2015, hệ số
CAR của BID chỉ vừa đủ mức 9% theo quy định của thông tư 36. Để hướng tới tuân thủ
Basel II, việc tăng vốn là bắt buộc đối với BID. Tuy nhiên, với tỷ lệ vốn cấp 2 đã chạm
trần quy định, BID bắt buộc phải tìm phương án tăng vốn cấp 1. Do NSNN còn gặp khó
khăn, chào bán riêng lẻ cho nhà đầu tư nước ngoài có lẽ là phương án khả thi nhất đối
với ngân hàng này. Tìm kiếm đối tác sáp nhập không phải phương án khả thi do BID vẫn
đang phải nỗ lực giải quyết tồn đọng nợ xấu và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng sau
sáp nhập với ngân hàng MHB giữa năm 2015. Với tỷ lệ sở hữu nước ngoài còn thấp – chỉ
hơn 2%, BID có thể sẽ tìm kiếm đối tác nước ngoài trong thời gian tới.
CTG đã được thông qua kế hoạch tăng vốn trong năm 2016 bằng 2 phương án là: (1)
hoàn thành thương vụ sáp nhập với PGBank để tăng vốn thêm 3.000 tỷ đồng và (2)
không thực hiện trả cổ tức bằng tiền mặt. Việc sáp nhập với PGBank theo phương án (1)
vẫn chưa được thực hiện đến hết năm 2016 và phương án (2) cũng đã bị Nhà nước bác
bỏ. Để tăng vốn cấp 2, CTG vừa kịp phát hành 2 đợt trái phiếu kỳ hạn 10 năm trong
tháng 12, ngay trước khi kết thúc năm tài khóa, với tổng trị giá 2.900 tỷ đồng. CTG đã
trình Nhà nước để xin được nới room cho NĐTNN lên 40%. Trong ngắn hạn, CTG có thể
tiếp tục phát hành trái phiếu để nâng tỷ lệ vốn cấp 2. Trong năm 2017, CTG có lẽ sẽ
phải gấp rút hoàn tất phương án sáp nhập PGBank để tăng vốn cấp 1. Trong dài hạn,
Nhà nước có thể sẽ cân nhắc phương án nới room NĐTNN cho ngân hàng này để tạo
điều kiện tăng trưởng trong khuôn khổ các quy định khắt khe hơn của Basel II.
Nhìn chung, nhóm Ngân hàng Thương mại Cổ phần có hệ số CAR trung bình là 11,76%
cuối tháng 11/2016. Tại thời điểm cuối năm ngoái, các ngân hàng thương mại cổ phần
niêm yết đều có hệ số CAR khá cao, ở mức từ 13-17%.
Triển vọng 2017
Tăng trƣởng tín dụng
Tăng trưởng tín dụng sẽ chậm hơn so với 2016 do quy định về hệ số rủi ro BĐS theo
thông tư 06 bắt đầu có hiệu lực, đồng thời để kiểm soát nợ xấu, các ngân hàng thương
mại nhà nước và cổ phần sẽ phải hãm lại đà tăng trưởng tín dụng của mình. Tuy nhiên
với kỳ vọng kinh tế tăng trưởng khả quan, đây sẽ là cơ hội tốt cho những ngân hàng có
hệ số an toàn vốn và tỷ lệ cho vay/huy động còn thấp, đó là VCB và các ngân hàng
thương mại cổ phần nhỏ hơn.
Kinh doanh ngoại hối
VPBS dự báo lãi từ kinh doanh ngoại hối sẽ tiếp tục tăng tỷ trọng trên tổng thu nhập của
ngân hàng. Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, GDP năm 2017 tăng 6,7%, trong
đó kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 6-7% và tỷ lệ nhập siêu trên tổng kim ngạch xuất
khẩu ước tính là 3%. Cùng với cơ chế tỷ giá linh hoạt, hoạt động kinh doanh ngoại hối
sẽ tăng trưởng tốt trong năm tới và đem lại lợi nhuận cho các ngân hàng.
Nhu cầu tăng vốn cấp 1 đối với nhóm Ngân hàng Thƣơng mại Nhà nƣớc
Theo ước tính của HSC, hệ số CAR của CTG và BID nếu tăng vốn điều lệ không thành
www.VPBS.com.vn Trang | 45
công trong năm 2017 sẽ giảm xuống dưới mức quy định 9%, cụ thể là CTG 8,4% và BID
7,8%. Trong khi đó, các phương án tăng vốn đối với hai ngân hàng này khá hạn chế.
Theo nhận định của HSC, phương án tăng vốn khả dĩ nhất cho BID là phát hành quyền
mua cổ phiếu trong năm 2017 còn đối với CTG, sau đợt phát hành trái phiếu tháng
12/2016, có lẽ cần phải cân nhắc đến các phương án tăng vốn cấp 1.
Nợ xấu
Với thực trạng nợ xấu vẫn chưa được xử lý triệt để, các ngân hàng sẽ phải thận trọng
hơn trong tăng trưởng tài sản và do đó, nợ xấu sẽ không gia tăng như năm 2016. Đồng
thời, do đã bán bớt nợ xấu cho VAMC và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, tình hình nợ
xấu dự báo sẽ được cải thiện. Tuy nhiên, do những hạn chế trong công tác xử lý nợ xấu
như đã đề cập ở trên, mức độ cải thiện sẽ còn bị hạn chế.
Cùng với quy định mới về xử lý tài sản đảm bảo bắt đầu hiệu lực từ ngày 1/1/2017, việc
tự xử lý nợ xấu của các ngân hàng sẽ gặp khó khăn, khi việc thu giữ tài sản đảm bảo
không thể được thực hiện nếu không có sự chấp thuận của bên đi vay, và chỉ có thể
được giải quyết tại tòa án. Quy định này sẽ khiến cho quá trình tự xử lý nợ xấu trở nên
gian nan và tốn kém hơn.
Cổ phiếu khuyến nghị
NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM (VCB)
MUA với mức giá kỳ vọng là 40.000/cổ phiếu.
Kết quả kinh doanh năm 2016 khả quan: huy động vốn tăng 19,4% so với đầu năm –
vượt 4% kế hoạch, tín dụng tăng 18,9% - vượt 1,6% kế hoạch. Tỷ lệ nợ xấu ở mức khá
an toàn – 1,44%, giảm 0,4% so với cuối năm 2015. Hệ số an toàn vốn ở mức 10,29%,
đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của Nhà nước. Lợi nhuận trước thuế và
dự phòng đạt 14.605 tỷ đồng – tăng 15%, sau khi trích lập dự phòng, lợi nhuận trước
thuế còn 8.212 tỷ đồng – tăng 23,4%, vượt 2,7% kế hoạch năm 2016. Đồng thời, tại
thời điểm cuối năm 2016, VCB đã mua lại toàn bộ số nợ xấu trị giá 4.300 tỷ đồng đã
bán cho VAMC trước đó, đưa số dư nợ xấu tại VAMC trở về 0, sớm hơn so với kế hoạch
ban đầu 3 năm.
Tuy thương vụ phát hành vốn cho GIC gặp trở ngại về giá và chưa đi đến kết quả, VCB
vẫn là ngân hàng có nhiều cửa tăng vốn và hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn cả trong
số 3 ngân hàng quốc doanh. Các chỉ tiêu hoạt động của VCB đều ở mức tốt hơn trung
bình ngành, trong đó các chỉ tiêu tăng trưởng như tăng trưởng EPS, lợi nhuận và cho
vay đều ở mức cao nhất toàn ngành. Tuy P/E ở ngưỡng khá cao, song PEG lại thấp hơn
mức trung bình, điều này cho thấy giá giao dịch chưa phản ánh được hết tiềm năng tăng
trưởng của VCB. Hơn nữa, với CTG và BID đang gặp khó khăn trong việc tăng vốn, cơ
hội tăng trưởng tín dụng trong năm 2017 đối với VCB là rất khả quan. Lợi nhuận từ kinh
doanh ngoại hối cũng sẽ tiếp tục tăng trưởng ổn định, đóng góp vào lợi nhuận của VCB
trong năm tới.
VPBS dự phóng cho cả năm 2017, VCB sẽ đạt tăng trưởng huy động 12%, tăng trưởng
tổng tài sản 13,3%, dư nợ tăng 15% và đầu tư trái phiếu tăng 5% so với 2016. Tổng
thu nhập hoạt động tăng 14,4% so với 2016 lên 37.471 tỷ đồng. Chi phí hoạt động tăng
12,4%, do đó thu nhập trước dự phòng tăng 15,6%, lên mức 23,940 tỷ đồng.
Chi phí dự phòng trong năm 2017 ước tính một cách thận trọng khoảng 7.013 tỷ đồng.
Theo đó, LNTT 2017 ước tính đạt 16.927 tỷ đồng, tăng 69,3% so với 2016. LNST ước
đạt 12.735 tỷ đồng. Thu nhập mỗi cổ phiếu (EPS) đạt 3.542 đồng. Giá trị số sách mỗi cố
phiếu (BVPS) cuối năm 2017 sẽ ở mức 19.547 đồng.
Với các giả định và dự phóng như trên, chúng tôi cho rằng cổ phiếu VCB sẽ tăng giá
trong năm tới.
www.VPBS.com.vn Trang | 46
NGÀNH HÀNG TIÊU DÙNG
Năm 2016 là một năm tích cực với ngành hàng tiêu dùng Việt Nam đối với cả 3 lĩnh vực
chính bao gồm: Thực phẩm và đồ uống, Bán lẻ (hàng điện máy, đồ trang sức…) và dịch
vụ viễn thông. Triển vọng tăng trưởng của ngành vẫn tiếp tục lạc quan trong khoảng 5
năm tới, nhờ lợi thế về dân số đông, tỷ lệ người trẻ trong dân số cao, mức thu nhập của
người dân tiếp tục tăng, và nhu cầu sử dụng các sản phẩm/dịch vụ cao cấp hơn tiếp tục
gia tăng. Ngoài ra triển vọng vĩ mô 2017 được kỳ vọng tốt hơn năm 2016 tiếp tục hỗ trợ
tốt đối với ngành hàng tiêu dùng. Trong năm 2017, GDP được kỳ vọng tăng trưởng ở
mức 6,7%, cao hơn so với mức 6,25% của năm 2016. Kể từ đầu năm 2016, cổ phiếu
ngành hàng tiêu dùng đã có sự tăng trưởng liên tiếp lên tới 70%, trước khi bị giảm vào
tháng 12/2016, giúp cho mức tăng cả năm đạt được là 52%. Kết quả này là tương đối
khả quan, xét trong bối cảnh cả năm VNIndex chỉ tăng 29% và HNX Index tăng 12,3%.
Tuy nhiên, lĩnh vực hàng tiêu dùng Việt Nam cũng đang phải đối mặt với một số khó
khăn: nhiều doanh nghiệp nội mới chỉ tập trung phát triển các sản phẩm thuộc phân
khúc phổ thông, vốn đã có dấu hiệu bão hòa và mang lại biên lợi nhuận thấp hơn so với
sản phẩm thuộc phân khúc cao cấp. Ngoài ra sức ép cạnh tranh đang tăng lên nhanh
chóng do sự gia nhập ồ ạt của các đối thủ mạnh từ nước ngoài, vốn có những lợi thế về
vốn, kinh nghiệm, cũng như về công nghệ.
Lĩnh vực thực phẩm & đồ uống
1/ Thực phẩm
Trong năm 2016, doanh thu ngành thực phẩm đạt khoảng 18,92 tỷ USD, tăng 8,5% so
với 2015, trong đó các sản phẩm lương thực vẫn chiếm khoảng 55% tổng doanh số thực
phẩm cả nước. Chúng tôi kỳ vọng tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm của ngành
đạt khoảng 10,6%/năm trong giai đoạn 2015-2020, tức là một viễn cảnh khá tươi sáng.
Với khoảng 6 triệu hộ gia đình sẽ thoát khỏi mức nghèo trong 5 năm tới, và đạt được
mức thu nhập bình quân trong khoảng từ 5.000 – 10.000 đô/năm (số liệu từ BMI),
chúng tôi kỳ vọng mức tiêu dùng dành cho các sản phẩm có thương hiệu sẽ tăng nhanh.
Xu hướng này sẽ có tác động tích cực tới khả năng mở rộng các chuỗi cửa hàng trong
lĩnh vực bán lẻ, trước tiên là ở các thành phố lớn và tiếp tục trải rộng ra các vùng nông
thôn các năm sau. Hơn thế nữa, lĩnh vực sản xuất thực phẩm của Việt Nam sẽ mở rộng
nhanh trong vài năm tới nhờ tiêu dùng nội địa tăng trưởng, lực lượng lao động, tương
đối trẻ, với mặt bằng lương có tính cạnh tranh so với các nước láng giềng.
-10
0
10
20
30
40
50
60
70
80
1/16 4/16 7/16 10/16
Consumers Sector VN-Index HNX-IndexNgành tiêu dùng
www.VPBS.com.vn Trang | 47
Nguồn: BMI, VPBS
Lĩnh vực bánh kẹo cũng được dự kiến sẽ tăng trưởng tốt trong vài năm tới. Thu nhập
tiếp tục được cải thiện cũng dẫn đến nhu cầu tăng lên đối với các sản phẩm cao cấp,
giúp tăng trưởng doanh thu cho các nhà sản xuất, vốn đã đầu tư để mở rộng các dòng
sản phẩm bánh kẹo cao cấp. Hơn thế nữa, thị trường chính cho sản phẩm bánh kẹo là
những người trẻ tuổi, khoảng dưới 30 tuổi, hiện đang chiếm khoảng hơn 50% dân số.
Nhóm dân số trẻ rất tích cực tiếp thu các dòng sản phẩm mới (của cả các thương hiệu
trong và ngoài nước), giúp tăng nhu cầu tiêu thụ. Do đó, đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực
này đã tăng mạnh trong những năm gần đây thông qua việc thiết lập các nhà máy mới
hoặc mua cổ phần chi phối những doanh nghiệp bánh kẹo lớn trong nước.
Lĩnh vực sữa cũng ghi nhận doanh thu khoảng 8.600 tỷ đồng trong năm 2016, tăng
8,9% theo năm và VPBS dự báo sẽ ghi nhận tốc độ tăng trưởng 11,5%/năm từ giai
đoạn 2016 – 2020, giúp doanh thu toàn ngành trên cả nước đạt 13.200 tỷ vào năm
2020. Những yếu tố hỗ trợ chính cho việc tăng trưởng này là thu nhập tiếp tục cải thiện,
thay đổi trong thói quen ăn uống và tiến trình đô thị hóa. Hơn nữa, việc nhanh chóng
gia tăng quy mô đàn gia súc cùng với tăng đầu tư của cả khu vực nhà nước và khu vực
tư nhân cũng là nhân tố chính cho tăng trưởng ngành sữa và giảm phụ thuộc vào sữa
nhập khẩu. Những nhà sản xuất lớn trên cả nước là Vinamilk, Anco, Cô gái Hà Lan, Ha
Noi Milk.
2/ Lĩnh vực đồ uống
Trong năm 2016, tổng sản lượng đồ uống có cồn được tiêu thụ đạt 4,3 tỷ lít, tăng 5,9%
theo năm, và tổng doanh thu đồ uống có cồn đạt khoảng 31.600 tỷ đồng, tăng 8,8%
theo năm. Trong giai đoạn 2016-2020, tổng chi tiêu cho sản phẩm đồ uống có cồn được
dự báo tăng trưởng với tốc độ khoảng 10,9%/năm, với lượng tiêu thụ được dự đoán
tăng trưởng 8,1%/năm. Xu thế là người tiêu dùng Việt Nam có xu hướng dịch chuyển
sang sử dụng các sản phẩm và thương hiệu cao cấp hơn, đặc biệt là các sản phẩm ngoại
nhập, nhờ thu nhập của người dân được cải thiện và yêu cầu về chất lượng, mẫu mã
ngày càng gia tăng. Kết hợp với triển vọng kinh tế khả quan và xu hướng mở rộng mạng
lưới bán lẻ trên cả nước, VPBS duy trì quan điểm lạc quan đối với ngành bia, rượu –
nước giải khát Việt Nam
DOANH THU NGÀNH THỰC PHẨM 2013-2020 (triệu đồng)
Doanh thu thực phẩm (LHS) Tăng trưởng doanh thu thực phẩm theo năm (RHS)
www.VPBS.com.vn Trang | 48
Nguồn: VPBS, BMI
Với lĩnh vực bia, chúng tôi dự đoán lượng tiêu thụ bình quân đầu người tiếp tục tăng
trưởng, từ mức 55,2 lít năm 2015 lên 83,2 lít vào năm 2020, tức mức tăng trường gộp
là 7,2%/năm trong 5 năm tới. Cơ cấu dân số trẻ và năng động, cùng với sự gia tăng
lượng khách du lịch đến Việt Nam sẽ đảm bảo mức tăng trưởng của ngành. Tuy nhiên,
các chính sách bảo hộ của nhà nước có thể sẽ là rào cản với các hãng bia quốc tế đang
muốn gia nhập thị trường. Hai hãng bia nội địa lớn nhất là Sabeco và Habeco, đã được
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam gần đây và nhận được sự chú ý lớn từ
các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Trong năm 2016, tổng doanh thu đồ uống không cồn đạt 36.300 tỷ đồng, tăng trưởng
8,8% theo năm. Cà phê, chè và các đồ uống nóng chiếm khoảng 65% trong khi nước
giải khát chiếm khoảng 31% thị phần trong năm 2016. VPBS dự đoán tốc độ tăng
trưởng gộp của doanh thu trong giai đoạn 2016 – 2020 ở mức rất hấp dẫn, đạt 11,3%.
Lĩnh vực bán lẻ
Lĩnh vực bán lẻ tiếp tục được hỗ trợ mạnh mẽ nhờ cơ cấu dân số trẻ, thu nhập cải thiện,
niềm tin người tiêu dùng về triển vọng kinh tế và tăng trường mạnh về chi tiêu của các
hộ gia đình. Ngoài ra, việc các doanh nghiệp trong ngành liên tiếp ra mắt các sản phẩm
mới với nhiều tính năng cải tiến, giá hợp lý và các chiến dịch marketing hiệu quả cũng là
động lực lớn đối với tăng trưởng của ngành. Trong 9 tháng 2016, theo thông tin thu
thập được của VPBS, tỷ lệ tăng trưởng doanh thu của ngành là 9,8% theo năm, đạt
2.610 tỷ đồng. Theo BMI, tổng tăng trưởng tiêu dùng hộ gia đình có thể đạt bình quân
9,2%/năm, và tiêu dùng bình quân đầu người được dự đoán tăng từ 1.197 USD trong
năm 2017 lên 1.608 USD/người vào năm 2020. Triển vọng tích cực đã thúc đẩy nhiều
thương hiệu nước ngoài như Minoso (Nhật Bản), AEON (Nhật Bản), Zalora (Singapore) …
mở rộng hoạt động tại Việt Nam. Các công ty nước ngoài cũng đẩy mạnh việc thâu tóm
các doanh nghiệp Việt Nam như: Nguyễn Kim, Metro, Big C, Highland … Trong thời gian
gần, hai công ty bia nội địa lớn nhất, là Sabeco và Habeco, cũng dự định bán phần lớn
cổ phần của mình, khả năng cao là bán cho các nhà đầu tư nước ngoài.
SẢN LƢỢNG TIÊU THỤ ĐỒ UỐNG CÓ CỒN DOANH THU ĐỒ UỐNG KHÔNG CỒN
Sản lượng tiêu thụ, triệu lít (LHS)
% tăng trưởng doanh thu (RHS) Doanh thu, triệu đồng
% tăng trưởng doanh thu
www.VPBS.com.vn Trang | 49
Nguồn: VPBS, BMI
Trong lĩnh vực bán lẻ hàng điện máy, MWG hiện đang dẫn đầu, với 929 cửa hàng
Thegioididong và 172 cửa hàng DienmayXANH (số liệu cuối tháng 10/2016). Các nhà
bán lẻ lớn khác bao gồm: FPT, Vienthong A, Viettel với khoảng 200 – 300 điểm bán lẻ
mỗi thương hiệu trên cả nước. FPT đang dự định bán hệ thống phân phối và bán lẻ của
mình, bao gồm 270 cửa hàng, để tập trung vào mảng viễn thông và phần mềm trong
năm 2017. Sự mở rộng nhanh chóng của các chuỗi bán lẻ đã gia tăng áp lực trong
ngành, dẫn đến nhiều cửa hàng nhỏ lẻ đã phải đóng cửa. Hệ thống Nguyễn Kim hiện
đang có khoảng 24 cửa hàng điện máy trên cả nước, và đang có kế hoạch mở rộng
tham vọng lên 50 cửa hàng vào năm 2019, với sự giúp đỡ từ đối tác chiến lược Central
Group – một hãng bán lẻ lớn từ Thái Lan.
Lĩnh vực dịch vụ viễn thông
Cơ sở hạ tầng mạng lưới viễn thông và internet ở Việt Nam tiếp tục tăng trưởng thuộc
loại nhanh nhất trên thế giới trong 10 năm qua. Tính tới Q3/216, tổng số thuê bao điện
thoại đạt hơn 131 triệu chiếc (trong đó điện thoại di động chiếm 94,86%, điện thoại cố
định: 5,14%), gấp 10 lần so với 2005; tỷ lệ sử dụng dịch vụ Internet băng thông rộng
đạt 6,5 thuê bao/100 dân, gấp đôi so với năm 2010 và gấp 30 lần so với 2005 (theo Bộ
Thông tin & Truyền thông). Động lực tăng trưởng hiện nay đến từ việc triển khai công
nghệ quang hóa để thay thế cho công nghệ cáp đồng, các công nghệ mới trong lĩnh vực
băng thông rộng di động (3G, 4G-LTE, FTTH với thiết bị có dây …) cũng như các sản
phẩm và dịch vụ công nghệ mới có giá ngày càng hợp lý, giúp số người dân có điều kiện
tiếp cận dịch vụ ngày càng tăng lên.
Thị trường di động của Việt Nam hiện đang rất bão hòa với tỷ lệ số thuê bao bao phủ
đạt 140%, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Tổng doanh thu trong năm
2016 đạt khoảng 17,3 tỷ USD, cao gấp 10 lần so với 2005. Cạnh tranh giữa các nhà
cung cấp dịch vụ chính trong ngành làm cho giá dịch vụ giảm và thu hẹp biên lợi nhuận.
Tình trạng này có thể tiếp tục xấu đi khi công nghệ 4G được đưa ra thị trường bởi các
công ty viễn thông lớn mà Nhà nước nắm quyền chi phối, công nghệ 4G được dự đoán
có phí thuê bao thậm chí thấp hơn công nghệ 3G. Các cơ quan quản lý đã ít có can thiệp
vào cuộc chiến về giá cũng như chưa đưa ra các biện pháp thiết lập lại tình trạng cân
bằng của ngành, khi mà hầu hết các doanh nghiệp tư nhân (Vietnamobile, GT Mobile, S-
phone …) hiện không đủ khả năng cạnh tranh lại với các doanh nghiệp lớn của Nhà
nước. Mặc dù tiềm năng tăng trưởng doanh thu từ khu vực nông thôn vẫn tiếp tục khả
quan, VPBS dự đoán tăng trưởng doanh thu ngành đạt 9 – 10%/năm trong 2 năm tới,
DOANH THU TIÊU DÙNG NGÀNH BÁN LẺ THEO TỪNG PHÂN KHÚC 2015-2020
Thực phẩm và đồ uống không cồn
Quần áo và giầy dép
Hàng tiêu dùng hộ gia đình
Hàng tiêu dùng cá nhân, chăm sóc sức khỏe
www.VPBS.com.vn Trang | 50
do chi phí đầu tư cao tại những khu vực khó khăn, nhu cầu sử dụng thấp, không mang
lại đủ doanh thu cần thiết cho khoản đầu tư. Thay vào đó, chúng tôi kỳ vọng các công ty
có thể tăng lợi nhuận bằng cách cải thiện doanh thu trung bình trên người sử dụng
(ARPU) bằng cách đưa những dịch vụ mới và cao cấp hơn tới các khách hàng hiện tại.
Nguồn: VPBS, BMI
Lĩnh vực điện thoại cố định được kỳ vọng tiếp tục xu hướng sụt giảm do xu hướng sử
dụng các dịch vụ điện thoại di động và dịch vụ VOIP. Theo Bộ Thông tin & Truyền thông,
tổng số thuê bao cố định vào cuối năm 2016 đạt khoảng 5,5 triệu, giảm 9,8% theo năm
và giảm 42% so với năm 2012. Các doanh nghiệp chính cung cấp dịch vụ bao gồm VNPT
và Viettel, các doanh nghiệp này sẽ tiếp tục mở rộng mạng lưới điện thoại cố định, đặc
biệt ở các khu vực nông thôn để duy trì lượng khách hàng hiện tại và củng cố thị
trường.
Nguồn: BMI, VPBS
Ngược lại, mảng internet băng thông rộng cố định đã có tăng trưởng rất bền vững
khoảng 25%/năm trong vòng 2 năm qua. Bộ thông tin và truyền thông dự đoán doanh
thu cho lĩnh vực này tiếp tục tăng trưởng ở tỷ lệ 21,2%/năm trong 2 năm tới với triển
vọng tăng trưởng từ việc triển khai quang hóa và các gói dịch vụ cao cấp. Tính đến cuối
quý 3/2016, số thuê bao xDSL đạt 2,2 triệu, 573.000 thuê bao internet cáp đồng và 5,8
triệu thuê bao internet cáp quang.
DỰ BÁO THỊ TRƢỜNG DI ĐỘNG VIỆT NAM (đv: nghìn thuê bao)
Thị phần internet băng thông rộng cố định (%)
Điện thoai di động Dịch vụ 3G & 4G
Khác
www.VPBS.com.vn Trang | 51
Cổ phiếu khuyến nghị
Công ty cổ phần Đầu tƣ Thế giới Di động (MWG)
MUA với giá mục tiêu điều chỉnh là 185.000 đồng/cổ phiếu, tương đương với tiềm năng
tăng giá 17%.
Thegioididong.com hiện đang dẫn đầu thị trƣờng bán lẻ thiết bị di động: MWG
chiếm khoảng 35% thị phần cả nước trong mảng phân phối các thiết bị di động, mảng
này được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng với nhiều triển vọng khả quan như việc đưa ra
các công nghệ mới như dịch vụ 4G, các chuẩn WIFI mới, việc triển khai các mẫu sản
phẩm mới theo từng năm, việc giảm giá bán giúp cho sản phẩm được bán nhanh hơn,
xu hướng mua hàng trả góp cũng như lợi thế về hệ thống phân phối rộng lớn của MWG.
DienmayXANH.com hiện cũng đang dẫn đầu trong mảng phân phối thiết bị điện
máy, MWG đang sở hữu hệ thống phân phối lớn nhất trên cả nước với 172 cửa hàng
(phân bố trên cả 3 tỉnh thành, ở cả những khu vực nông thôn và đảo xa), và thực hiện
những chiến dịch marketing đầy tham vọng để chiếm lĩnh thêm thị phần. Theo thông tin
từ MWG, DienmayXANH.com hiện đang chiếm khoảng 17% thị phần (cao hơn mức 8%
của năm 2015), hiện công ty đang có kế hoạch đạt 30% thị phần trong vòng 3 năm tới.
Công ty hiện vẫn tiếp tục gia tăng khoảng cách về thị phần với các đối thủ bằng việc
liên tiếp mở các cửa hàng mới. Đóng góp của DienmayXANH.com vào tổng doanh thu
trong năm 2016 là 28,2%, cao hơn nhiều so với mức 2015 chỉ là 16,2%.
Tiềm năng lớn từ Bach Hoa Xanh, chuỗi bán lẻ tập trung chủ yếu vào việc bán các
sản phẩm sạch và đạt tiêu chuẩn. Đến giữa tháng 1/2017, MWG đã mở và vận hành 50
cửa hàng và có kế hoạch mở 300 cửa hàng Bach Hoa Xanh ở TP Hồ Chí Minh trong năm
2017, hướng tới mục tiêu trong vòng 4 năm gia nhập top 3 doanh nghiệp lớn nhất trong
thị trường trị giá 60 tỷ USD này. Năm 2017, Công ty cũng đặt kế hoạch tăng doanh thu
của chuỗi Bach Hoa Xanh lên gấp 10 lần so với nắm 2016, và bắt đầu mở rộng ra toàn
quốc vào giữa năm 2018.
Dựa trên kết quả 10 tháng 2016 khả quan, chúng tôi dự đoán doanh thu thuần 2016
của công ty đạt 40.100 tỷ đồng, tăng 58% theo năm; tuy nhiên do công ty đang phải
chi nhiều cho các chiến dịch marketing và quảng cáo, đặc biệt cho mảng Điện máy
xanh, chúng tôi điều chỉnh dự đoán lợi nhuận 2016 xuống còn 1.530 tỷ đồng, tăng 42%
theo năm. Chúng tôi dự đoán lợi nhuận sau thuế 2017 đạt mức 2.065 tỷ đồng, tăng
35% so với 2016 trên cơ sở kế hoạch mở rộng mạng lưới bán hàng quyết liệt từ ban
quản trị. Mức EPS kỳ vọng 2017 đạt 14.057 đồng, và chỉ số P/E 2017 dự kiến là 11,4
lần, vẫn ở mức tương đối hấp dẫn.
Công ty cổ phần FPT (FPT)
MUA cho mã FPT với giá mục tiêu điều chỉnh đạt 52.000 đồng/cổ phiếu, cao hơn 8,2%
so với mục tiêu trước đây của chúng tôi, tương đương tiềm năng tăng giá 17,6% với
những lý do sau:
Mảng phân phối sẽ tăng trƣởng cao trở lại trong năm 2017 và 2018, do trong năm
2016 FPT mất quyền phân phối độc quyền đối với các sản phẩm Apple và phải chịu các
chi phí giải phóng hàng tồn kho đối với sản phẩm điện thoại Lumia. Trong lĩnh vực bán
lẻ, FPT cũng sẽ mở mới 75 cửa hàng trong năm 2017, cao hơn 20% so với năm 2016.
Ngoài ra, trong 6 tháng đầu năm 2017, FPT kỳ vọng hoàn tất thương vụ bán phần lớn cổ
phần của mình tại mảng phân phối-bán lẻ. Điều này có thể tạo ra động lực lớn giúp cổ
phiếu FPT tăng giá trong ngắn hạn.
Dự án quang hóa cũng đã hoàn tất ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, và tại các
thành phố cấp 2 trên cả nước, chi phí triển khai dự án chỉ khoảng 35 – 40% so với Hà
Nội và Hồ Chí Minh. Ngoài ra, mức doanh thu bình quân mỗi khách hàng đối với dịch vụ
cáp quang cũng lớn hơn đáng kể so với cáp đồng, giúp cải thiện biên lợi nhuận của
www.VPBS.com.vn Trang | 52
mảng viễn thông trong năm tới.
Mảng tích hợp hệ thống và dịch vụ công nghệ thông tin đƣợc dự đoán có đƣợc
lợi nhuận tốt hơn trong nawm 2017 nhờ hai hợp đồng quốc tế mới được ký gần đây
với tổng giá trị lên tới 460 tỷ đồng. Đáng chú ý, việc ghi nhận doanh thu và lợi nhuận
trong lĩnh vực này thường được thực hiện vào cuối năm, không phải vào cuối của từng
quý.
Thị trƣờng quốc tế của FPT đang có sự tăng trƣởng tốt và có tiềm năng lớn để
thúc đẩy doanh thu trong vài năm tới. FPT Nhật Bản chính thức đạt cột mốc doanh thu
100 triệu USD (khoảng 2.280 tỷ đồng) trong 10 tháng đầu năm 2016. Với cột mốc này,
FPT Nhật Bản đã gia nhập top 50 công ty IT có doanh thu lớn nhất Nhật Bản. Trong 10
tháng đầu năm 2016, thị trường quốc tế của FPT ghi nhận doanh thu đạt 4.720 tỷ đồng,
tăng 28%, lợi nhuận trước thuế đạt 713 tỷ đồng, tăng 39% theo năm và đóng góp 31%
vào tổng lợi nhuận trước thuế hợp nhất cả tập đoàn.
FPT đã trả cổ tức 20% bằng tiền mặt và 15% bằng cổ phiếu trong năm 2016. Do kết
quả kinh doanh thuận lợi trong năm 2016, cùng với triển vọng khả quan trong năm
2017, chúng tôi kỳ vọng mức cổ tức này sẽ được duy trì trong năm 2017. Chúng tôi dự
phóng lợi nhuận sau thuế 2017 của FPT đạt 2.556,8 tỷ đồng, tăng 10,2% theo năm. EPS
2017 được dự đoán đạt mức 5.565 đồng, và chỉ số P/E 2017 đạt 8,1 lần, vẫn ở mức
tương đối hấp dẫn đối với một cổ phiếu hàng đầu, đang hoạt động trong lĩnh vực còn
nhiều tiềm năng tăng trưởng. Lưu ý là dự báo của chúng tôi chưa bao gồm lợi nhuận đột
biến phát sinh nếu thương vụ bán mảng phân phối/bán lẻ diễn ra thành công, vì FPT
chưa cung cấp thông tin cụ thể.
Công ty cổ phần Bóng đèn Phích nƣớc Rạng Đông (RAL)
MUA với giá mục tiêu 115.000 đồng/cổ phiếu, tương đương với tiềm năng tăng giá
17,9%.
Sản lƣợng tiêu thụ bóng LED đang tăng nhanh, dần thay thế bóng đèn compact.
Sản lượng tiêu thụ đèn LED hiện tăng trưởng với tốc độ hơn 210%/năm trong 5 năm
qua và đã trở thành xu hướng tất yếu tại khu vực Đông Nam Á. Theo Bộ Thông tin và
Truyền thông, các hộ gia đình Việt Nam có thể tiết kiệm 15-20% chi phí điện hàng năm
nếu chuyển sang sử dụng sản phẩm bóng đèn LED. Mặc dù giá bóng đèn LED đắt gấp 2-
3 lần nhưng có thời gian sử dụng lâu hơn gấp 3 lần so với bóng đèn compact có độ sáng
tương đương và có hiệu quả sử dụng tiết kiệm điện gấp khoảng 6 lần. Bóng đèn LED
được sản xuất từ nhựa và nhôm, những vật liệu khó vỡ hơn nên có độ an toàn cao hơn
so với bóng đèn compact được làm từ vật liệu thủy tinh. Hiện nay đèn LED chỉ chiếm
48% doanh thu từ mảng bóng đèn và 20% tổng doanh thu. Trên phạm vi toàn thị
trường, tỷ lệ sử dụng hiện tại của bóng đèn LED chỉ chiếm 28% tổng lượng tiêu thụ của
Việt Nam, so với tỷ lệ gần 40% ở các nước Châu Á Thái Bình Dương khác, do đó doanh
thu RAL có tiềm năng tăng trưởng lớn nhờ công ty hiện tiếp tục đầu tư vào công nghệ và
các cơ sở sản xuất đèn LED.
Giá bán lẻ các sản phẩm đèn LED đang giảm nhanh, giúp cho sản phẩm hợp túi
tiền hơn đối với các hộ gia đình. Nguyên liệu sản xuất chính của đèn LED là chip LED
(chiếm khoảng 60% giá thành sản phẩm đèn LED) đang giảm giá nhanh chóng, do vậy
RAL có thể giảm giá bán lẻ sản phẩm để tăng cạnh tranh với DQC và các sản phẩm
Trung Quốc mà không bị ảnh hưởng quá nhiều tới biên lợi nhuận của mình. Trong thực
tế, giá của chip LED đã giảm từ 30-40% trong năm 2015 và khoảng 7-10% trong 9
tháng đầu năm 2016. Trong khi đó, giá sản phẩm đèn LED giảm 40% trong năm 2015
và 11% trong 9 tháng đầu năm 2016. Trong năm 2017, chúng tôi kỳ vọng sản lượng
tiêu thụ đèn LED sẽ tiếp tục tăng trưởng, giúp giảm chi phí cố định trên mỗi sản phẩm
được bán ra.
Sản phẩm của RAL có chất lƣợng tốt hơn so với các sản phẩm của Trung Quốc và
www.VPBS.com.vn Trang | 53
các sản phẩm của Việt Nam hiện có trên thị trường. Nói chung, sản phẩm của RAL vượt
trội về các mặt thời gian sử dụng, chất lượng chiếu sáng, và dịch vụ hậu mãi, nhưng sự
khác biệt này không dễ dàng để người tiêu dùng nói chung có thể nhận ra ngay trong
thời gian đầu sử dụng. Nhưng sau từ 1 đến 2 năm, chất lượng tốt của các sản phẩm
RAL, đi kèm với các kế hoạch quảng bá hiệu quả, có thể giúp công ty chiếm lại phần lớn
thị phần sản phẩm đèn LED từ các nhà sản xuất bóng đèn giá rẻ trên thị trường.
Kết quả kinh doanh tốt đảm bảo tỷ lệ cổ tức tiền mặt cao. RAL đã trả cổ tức tiền
mặt 40% trong năm 2016. Với dự báo kết quả kinh doanh tiếp tục khả quan trong năm
2017, chúng tôi kỳ vọng RAL tiếp tục duy trì mức tỷ lệ cổ tức tiền mặt hấp dẫn trong
năm 2017.
Với năm tài chính kết thúc 2016, VPBS dự báo doanh thu của RAL đạt 2.822 tỷ đồng,
tăng 6,1% theo năm và lợi nhuận ròng đạt 139 tỷ đồng, tăng 48% theo năm. Đối với
năm tài chính 2017, VPBS dự báo doanh thu đạt 3.021 tỷ đồng, tăng 7% theo năm, và
lợi nhuận ròng đạt 163 tỷ đồng, tăng 17,2% theo năm, tương ứng với mức EPS 2017
đạt 14.1701 đồng.
RAL phiên giao dịch hôm nay giảm 0,4% và đóng cửa ở mức 94.500 đồng/cổ phiếu. RAL
hiện được giao dịch ở mức P/E 2016 đạt 7,8 lần và P/E 2017 đạt 6,7 lần (theo dự phóng
của VPBS), mức định giá trên là rất hấp dẫn khi so với trung bình ngành hoặc so với VN-
Index. Đối thủ cạnh tranh trực tiếp nhất của RAL là DQC, hiện đang được giao dịch ở
mức P/E 2016 là 12,8 lần và P/E 2017 dự phóng là 12,9 lần (mặc dù DQC có quy mô bé
hơn RAL). Tuy nhiên hai rủi ro lớn nhất đối với cổ phiếu RAL là: (1) thanh khoản của cổ
phiếu thấp, khiến cho việc giao dịch khối lượng lớn cổ phiếu sẽ gặp khó khăn và (2)
Công tác quan hệ nhà đầu tư của công ty không tốt, hạn chế thông tin cho các nhà đầu
tư và chuyên viên phân tích.
NGÀNH KHO VẬN
Trong 12 tháng qua, chỉ số giá cổ phiếu ngành Logistics biến động theo xu hướng chung
của thị trường với tốc độ thấp hơn. Các nhà đầu tư vào cổ phiếu Logistics đạt lợi nhuận
16,1% cả năm, thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng của VN-Index ở mức 30,1% nhưng
vẫn cao hơn một chút so với tốc độ tăng trưởng của chỉ số HNX-Index ở mức 13,8%.
Trong năm 2017, các doanh nghiệp logistics Việt Nam vẫn có triển vọng tích cực nhờ
vào những động lực tăng trưởng khác nhau, bất chấp một sự thất vọng lớn gần đây khi
Tổng thống đắc cử Mỹ Donald Trump đã tuyên bố rút khỏi hiệp định TPP, do đó hạn chế
một số cơ hội thương mại nhất định với các đối tác nước ngoài.
Điều kiện kinh tế thuận lợi: Tốc độ tăng trưởng GDP cho năm 2016 giảm nhưng
vẫn ở mức đáng khích lệ là 6,2% so với con số 6,7% của năm 2015 chủ yếu là bởi
vì:
Chỉ số giá cổ phiếu ngành Logistics (% tăng trƣởng/năm)
Dữ liệu tại 16/01/2017, nguồn: Bloomberg, VPBS
-5
0
5
10
15
20
25
30
35
Ngành Logistics VN-Index HNX-Index
www.VPBS.com.vn Trang | 54
1) Những bất lợi về môi trường như ô nhiễm biển, hạn hán và xâm nhập mặn;
2) Sản lượng khai thác dầu giảm 1,67 triệu tấn do giá dầu thấp;
3) Khối lượng khai thác than đá cũng giảm 1,3 triệu tấn khi dự trữ than trong nước
vẫn ở mức cao, giá than kém cạnh tranh so với các nước khác trong khu vực dẫn
đến giảm sản lượng xuất khẩu.
Tuy nhiên, GDP năm 2017 dự kiến sẽ phục hồi và đạt mục tiêu trước đó dành cho năm
2016 ở mức 6,7% khi hiện tượng El Nino đã kết thúc, qua đó thúc đẩy các hoạt động
của ngành nông nghiệp, những động thái tích cực của Chính phủ để thúc đẩy giải ngân
vốn theo kế hoạch đầu tư công trong năm 2016, các hiệp định FTA đi vào hiệu lực trong
thời gian gần đây, xuất khẩu tăng trưởng lành mạnh cũng như sự mất giá của đồng VND
có khả năng duy trì dưới mức 3%.
Nhu cầu vận tải tăng trƣởng bền vững: Dịch vụ vận tải đóng vai trò quan trọng
không thể phủ nhận đối với sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu. Do đó, ngành
Logistics sẽ phát triển tương ứng với sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu. Điều
này đã được chứng minh trong suốt 5 năm qua khi tổng kim ngạch xuất khẩu và
nhập khẩu tăng với tốc độ CAGR tương ứng là 17,8% và 14,5%, theo số liệu từ Tổng
cục Thống kê (TCTK). Về lâu dài, ngành Logistics Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ:
1) Vị trí địa kinh tế thuận lợi với đường bờ biển dài khoảng 3.260 km;
2) Đường biên giới tiếp giáp với nhiều quốc gia như Trung Quốc, Campuchia, Lào;
3) Vùng biển rộng lớn liên quan đến nhiều tuyến thương mại hàng hải quan trọng:
trong 10 tuyến hàng hải thương mại lớn nhất trên thế giới, có một tuyến băng
qua biển Đông và 5 tuyến thương mại khác có liên quan.
Theo BMI Research, tốc độ CAGR bình quân cho xuất khẩu sẽ là 10,5% và nhập khẩu sẽ
là 11%. Như vậy, đến năm 2020, kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu sẽ tương ứng là
267,5 triệu USD và 279 triệu USD.
Kim ngạch xuất nhập khẩu dự báo đến năm 2020 (triệu USD)
Nguồn: TCTK, BMI dự báo
Những động lực tăng trưởng dài hạn nói trên tác động theo các mức độ khác nhau đối
với từng phân khúc của ngành:
1. Khai thác cảng: Phân khúc này được hưởng lợi nhiều nhất. Trong 11T/2016, tổng
giá trị thương mại quốc tế đạt 316,9 tỷ USD, tăng 5,8% theo năm. Trong đó, giá trị
xuất khẩu và nhập khẩu lần lượt là 159,9 tỷ USD, tăng 7,8% theo năm và 157 tỷ
USD, tăng 3,7% theo năm. Trong năm 2017, VPBS dự báo tổng giá trị thương mại
sẽ tăng 6,5% do:
1) Hai hiệp định FTA với EAEU và Hàn Quốc có hiệu lực trong thời gian gần đây;
0
50
100
150
200
250
300
350
2014 2015 2016F 2017F 2017F 2018F 2019F 2020F
triệu USD
Xuất khẩu
www.VPBS.com.vn Trang | 55
2) Các tập đoàn đa quốc gia tăng cường đầu tư giúp gia tăng dòng chảy FDI tiêu
biểu như LG Display với dự án giá trị 1,5 tỷ USD, tập đoàn Samsung với dự án
Trung tâm R&D có tổng giá trị đầu tư là 300 triệu USD;
3) Thu nhập cá nhân tăng và những mô hình kinh doanh vận tải mới giúp thay đổi
thói quen của người tiêu dùng trong việc sử dụng các hình thức vận tải thay thế.
(i) Cảng biển: Trong 10T/2016, tổng số lượng hàng hóa thông qua cảng biển đạt
387,6 triệu tấn, tăng 10% theo năm. Trong đó, tổng khối lượng của hàng hóa xuất
khẩu và nhập khẩu lần lượt là 91,5 triệu tấn và 118,4 triệu tấn. Chính sách biên mậu
của Trung Quốc trong năm 2015 khiến cho những container đến Trung Quốc bị trì
hoãn làm gia tăng thời gian lưu giữ tại các cảng của Việt Nam, do đó phân khúc
container lạnh ghi nhận doanh thu kỷ lục trong năm. Trong năm 2016, số lượng
container lạnh đã giảm 50% nhưng nếu loại bỏ phần doanh thu cao bất thường trong
năm 2015, sản lượng container lạnh vẫn cho thấy dấu hiệu tăng trưởng tích cực. Vào
đầu năm 2017, GMD sẽ khởi động hai dự án lớn là Gemalink Cái Mép - Thị Vải và giai
đoạn đầu tiên của cảng Nam Đình Vũ với tổng giá trị đầu tư khoảng 9.700 tỷ đồng.
Đến cuối năm 2018, khi dự án Gemalink và Nam Đình Vũ được hoàn thành và đưa
vào hoạt động, tổng công suất của hệ thống cảng của GMD trên cả nước sẽ đạt 3
triệu TEU/năm. Đối với năm 2016, dựa trên kết quả thống kê của 10T/2016 từ cục
Hàng Hải Việt Nam, chúng tôi dự báo tổng khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển
đạt mức 468,2 triệu tấn, tăng 10,5% theo năm; tổng số container dự kiến đạt 12,6
triệu TEU, tăng 9,6% theo năm. Đối với năm 2017, dựa trên triển vọng ngành,
chúng tôi dự báo tổng số lượng hàng hóa thông qua cảng biển lên tới 503,6 triệu
tấn, tăng 8% theo năm, trong đó, tổng số lượng container thông qua cảng biển đạt
14,1 triệu TEU, tăng 12% theo năm.
(ii) Cảng hàng không: Trong 11T/2016, tổng trọng lượng hàng hoá thông qua ACV là
995 nghìn tấn, tăng 12% theo năm; tổng số lượt khách thông qua hệ thống sân bay
là 74 triệu người, tăng 29% theo năm; tổng lưu lượng bay là 509 nghìn chuyến, tăng
25% theo năm. Trong giai đoạn 2016 – 2018, ACV lên kế hoạch đầu tư khoảng
17.500 tỷ đồng vào tài sản cố định. Trong đó, 6.500 tỷ đồng được tài trợ từ nguồn
vốn nhà nước sẽ được sử dụng nâng cấp tài sản khu bay, phần còn lại là 11.500 tỷ
được tài trợ bởi nguồn vốn tự có sẽ được sử dụng để đầu tư tài sản của ACV. Đối với
năm 2016, ACV ước tính rằng tổng số hành khách thông qua cảng sẽ đạt 81,1 triệu
lượt, tăng 28,8% theo năm; tổng số lần HCC đạt 562 nghìn chuyến, tăng 26% theo
năm; tổng trọng lượng hàng hóa đạt 1.035 nghìn tấn, tăng 6% theo năm. Đối với
năm 2017, dựa trên kết quả của năm 2016 và triển vọng ngành vận tải hàng không
nói chung, VPBS dự báo tổng lưu lượng hành khách sẽ đạt 92,2 triệu lượt, tăng
13,7% theo năm; tổng trọng lượng hàng hóa đạt 1.159,3 nghìn tấn, tăng 12% theo
năm; tổng số lần HCC đạt 614 nghìn lượt, tăng 9,3% theo năm.
2. Dịch vụ vận tải: Nhu cầu sử dụng dịch vụ vận tải sẽ gia tăng theo xu hướng phát
triển của nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, đây là phân khúc có sự cạnh tranh gay gắt
nhất với nhiều doanh nghiệp khác nhau cùng cung cấp dịch vụ tương đồng.
(i) Vận tải hành khách:
a. Đối với vận tải đường không, hiện có hai đối thủ cạnh tranh chính là Vietnam
Airlines (HVN) và VietJetAir. Sự cạnh tranh giữa hai doanh nghiệp này đang gia
tăng mạnh mẽ khi HVN, mặc dù, đang dẫn trước với 62% thị phần (bao gồm cả
thị phần của Jetstar Pacific - công ty con của HVN) nhưng VietJetAir đang nhanh
chóng thu hẹp khoảng cách với 36,2% thị phần vào năm 2015 từ con số trước đó
là 29,4% trong năm 2014. HVN sẽ phát triển đội máy bay của mình lên 116
chiếc cho đến năm 2018, trong khi con số này đối với Jetstar Pacific và VietJetAir
lần lượt là 30 chiếc đến năm 2020 và 200 chiếc cho đến năm 2023.
b. Đối với đường bộ, Vinasun Corp. (VNS) đang trong thời gian khó khăn khi Grab
www.VPBS.com.vn Trang | 56
đang mở rộng mô hình kinh doanh của mình bằng cách kết nối với các thương
hiệu taxi truyền thống khác để trực tiếp đối đầu với VNS trong Uber đang dần mở
rộng đội xe của mình mà không bị kiểm soát bởi pháp luật. VNS, tuy nhiên, cũng
sẽ tiếp tục tăng dần số lượng đội xe của mình với đa số là xe 7 chỗ và mua thêm
2.000 chiếc cho dịch vụ cao cấp V-Car đến cuối năm 2018. Trong khi đó, các
doanh nghiệp như WCS dự kiến sẽ duy trì sự tăng trưởng ổn định nhờ mô hình
kinh doanh phù hợp với nhu cầu phổ thông.
c. Đối với đường sông, SKG và SWC hoạt động tại thị trường trong nước được bảo
vệ bởi chính sách Bộ GTVT quy định rằng chỉ có doanh nghiệp nội được quyền
cung cấp dịch vụ vận chuyển trong lãnh thổ Việt Nam. Do đó, chúng tôi hy vọng
hai công ty này sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng của họ và bảo vệ thị phần của
mình.
(ii) Vận chuyển hàng hóa: Phân khúc vận tải biển vẫn phải đối mặt với thời kỳ khó
khăn, đặc biệt là những doanh nghiệp vận tải hàng rời, do nguồn cung vượt quá lực
cầu trên phạm vi thế giới dẫn đến sự suy giảm của chỉ số BDI và sự phục hồi của giá
dầu sau quyết định của OPEC làm gia tăng chi phí hoạt động. Tuy nhiên, chỉ số BDI
đã tăng dần kể từ báo cáo Triển vọng thị trường gần nhất của chúng tôi. Trong thời
gian sắp tới, chúng tôi kỳ vọng phân khúc này sẽ phục hồi. Phân khúc vận tải hàng
lỏng cũng khá tích cực do nhu cầu vận chuyển dầu khí, nhiên liệu trong nước và
quốc tế vẫn tăng trưởng ổn định. Ảnh hưởng tiêu cực của giá dầu thô tăng cao sẽ
được bù đắp bởi sự gia tăng ở sản lượng khai thác dầu tương ứng vì vậy chúng tôi hy
vọng rằng các doanh nghiệp hoạt động trong phân khúc vận chuyển hàng lỏng như
PVT có thể duy trì tỷ suất lợi nhuận của nó và thậm chí là tăng doanh thu. Vận
chuyển hàng hóa đường không đang nhanh chóng phát triển do nhu cầu đi lại gia
tăng, thu nhập cá nhân tăng lên và bùng nổ thương mại quốc tế. Các công ty như
VNF, TCL trong phân khúc vận tải hàng khô có khả năng tiếp tục duy trì tốc độ tăng
trưởng ổn định do nhu cầu vận tải trong nước tăng liên tục từ các hoạt động kinh tế
sôi động.
3. Các dịch vụ vận tải khác: Các công ty cung cấp dịch vụ hỗ trợ Logistics như HAH,
STG cho thấy tốc độ tăng trưởng doanh thu nhẹ trong năm 2016. Nhóm này trực
tiếp hưởng lợi từ nhu cầu sử dụng dịch vụ 3PL leo thang do sự tăng trưởng của
dòng chảy thương mại, số lượng khách hàng mới ngày càng tăng cũng như những
thói quen thay đổi của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc sử dụng các dịch vụ
Logistics chuyên nghiệp. Chúng tôi tin tưởng rằng nhóm công ty này sẽ duy trì tốc
độ tăng trưởng tích cực trong dài hạn.
Nhìn chung, ngành Logistics sở hữu hàng loạt các cơ hội để phát triển do đó chúng tôi
kỳ vọng tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp sẽ sớm tăng vọt nhưng, vào năm 2017,
chúng tôi lo ngại rằng ngành này chưa hoàn toàn tận dụng được các lợi thế đã đề cập
nên chúng tôi đưa ra dự báo thận trọng rằng tốc độ phát triển chung của ngành sẽ
nhỉnh hơn năm 2016 khoảng 2-3% vì:
1) Thỏa thuận TPP có nhiều khả năng sẽ bị bãi bỏ trong khi hiệp định thay thế là
RCEP vẫn chưa được hoàn chỉnh;
2) Các doanh nghiệp logistics Việt Nam vẫn cần thời gian để thích ứng với các điều
kiện quy định trong các hiệp định FTA đã được phê duyệt gần đây;
3) Đề án phát triển của Chính phủ đối với ngành Logistics chỉ là trong giai đoạn đầu
thực thi nên cần thêm thời gian để thực sự có hiệu quả.
Tuy nhiên, triển vọng của ngành là rất hứa hẹn theo quan điểm của chúng tôi.
www.VPBS.com.vn Trang | 57
KHUYẾN NGHỊ CỔ PHIẾU
CTCP Tập đoàn Container Việt Nam (VSC)
MUA với giá mục tiêu 66.300 đồng/cổ phiếu, tương ứng với tiềm năng tăng giá là
15,5%.
Dựa trên kết quả kinh doanh trong 9T/2016, chúng tôi dự báo doanh thu ròng hợp nhất
vào năm 2016 đạt 1.049,2 tỷ đồng (tăng 13,1% so với cùng kỳ) và LNST của cổ đông
công ty mẹ là 242,1 tỷ đồng (giảm 13,6% so với cùng kỳ). Trong năm 2017, doanh thu
thuần hợp nhất dự kiến đạt 1.227,6 tỷ đồng (tăng 17% theo năm) và LNST của cổ đông
công ty mẹ ước đạt 307,8 tỷ (tăng 27,1% so với cùng kỳ) dựa trên các giả định sau
đây:
1. Tổng khối lượng hàng hóa dự kiến sẽ tăng 20% trong năm 2017. Dòng vốn FDI
mạnh mẽ đầu tư vào lĩnh vực sản xuất ở các tỉnh phía Bắc của Việt Nam sẽ tạo
nên động lực phát triển mạnh mẽ và bền vững.
2. Cảng Xanh VIP mới được đưa vào hoạt động vào năm 2015 vì vậy có rất nhiều
dư địa để tăng công suất lên mức tối đa. Ngoài ra, vị trí lợi thế (tại Khu kinh tế
Đình Vũ-Cát Hải) và xu hướng sử dụng tàu lớn hơn sẽ nhanh chóng tăng tỷ lệ sử
dụng cảng mới này, có thể lên tới 90% công suất thiết kế theo dự báo của VPBS.
Trong 3 – 4 năm tới, VSC và các công ty Logistics khác sẽ có nhiều cơ hội để duy trì
tăng trưởng. Theo quy hoạch của Chính phủ Việt Nam, sắp tới sẽ có một trung tâm
Logistics sẽ được phát triển sớm đến năm 2020 với tổng diện tích 20 ha. Trung tâm dịch
vụ hậu cần này liên kết các ICDs (cảng cạn), cảng biển khác ở khu vực Đông Bắc Bắc bộ
của Việt Nam như Hải Phòng, Hòn Gai, Cái Lân do đó sẽ làm tăng hiệu quả hoạt động
giữa các công ty Logistics.
VSC tăng 0,5% trong ngày hôm nay để đóng cửa ở mức 57.400 đồng/cổ phiếu. VSC
được giao dịch ở mức P/E 2016 là 10,8x và P/E 2017 là 8,5x theo dự báo của VPBS.
Hiện nay, P/E của ngành là 13,8x, cũng có nghĩa là mức P/E của VSC thấp hơn so với
ngành 22% và còn thấp hơn nữa khi so với mức P/E của VN-Index là 16,4x. Với vị thế là
một công ty hàng đầu trong lĩnh vực khai thác cảng cộng với lợi thế sở hữu Cảng Xanh
VIP, với vị trí kinh tế thuận lợi và hiện đang hoạt động chỉ là 50% công suất thiết kế,
chúng tôi kỳ vọng rằng LNST của VSC sẽ tăng mạnh trong 2 năm tới.
CTCP GEMADEPT (GMD)
MUA với giá mục tiêu 33.200 đồng/cổ phiếu, tương ứng với tiềm năng tăng giá là
18.2%.
Dựa trên kết quả kinh doanh trong 9T/2016, chúng tôi dự báo doanh thu ròng hợp nhất
vào năm 2016 đạt 3.790,7 tỷ đồng (tăng 5,7% so với cùng kỳ) và LNST của cổ đông
công ty mẹ là 358,3 tỷ đồng (giảm 10,9% so với cùng kỳ). Trong năm 2017, doanh thu
thuần hợp nhất dự kiến đạt 3.977 tỷ đồng (tăng 3,6% theo năm) và LNST của cổ đông
công ty mẹ ước đạt 466,4 tỷ đồng (tăng 30,2% so với cùng kỳ) dựa trên các giả định
sau đây:
1. Doanh thu từ mảng khai thác cảng biển dự kiến sẽ tăng trưởng 2,5% khi:
a. công suất cảng Nam Hải Đình Vũ tăng lên;
b. Trung tâm Mekong Logistics và cảng cạn Nam Hải được đưa vào hoạt động
do đó cải thiện hiệu quả các dịch vụ vận chuyển của GMD;
c. Công suất thực tế của hệ thống cảng nói chung có thể được tăng cường đến
mức tối đa là 120%.
2. Doanh thu từ các dịch vụ Logistics dự kiến tăng trưởng 5,6% theo năm khi trung
tâm Mekong Logistics và cảng cạn Nam Hải được đưa vào hoạt động. Việc đưa
www.VPBS.com.vn Trang | 58
vào hoạt động 2 dự án trên tạo ra tác động kép đối với cả 2 mảng kinh doanh
chính của GMD.
3. Công ty liên kết của GMD là CTCP Dịch vụ hàng hóa Sài Gòn (SCSC) dự kiến sẽ
tiếp tục đạt được kết quả kinh doanh tích cực. Lợi nhuận từ SCSC được dự kiến
vào khoảng 60 tỷ đồng.
4. Công ty không còn phải gánh chịu khoản lỗ khoảng 99 tỷ đồng từ thanh lý tài
sản cố định (một tàu tuổi đời cao dùng trong tuyến vận tải biển quốc tế) và lỗ
từ dự án cao su.
Trong 3 – 4 năm tới, GMD vẫn còn rất nhiều cơ hội tăng trưởng đến từ những dự án
cảng Nam Đình Vũ, Gemalink Thị Vải – Cái Mép. Mới đây, UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
đã xét duyệt dự án Trung tâm Logistics Cái Mép hạ trị giá 30.000 tỷ đồng với quy mô
800ha. Trung tâm logistics Cái Mép hạ bao gồm: một cảng nước sâu có diện tích khoảng
100 ha, chiều dài bến khoảng 1.800 m, có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải trên
100.000 DWT và ngay phía sau cảng là Trung tâm logistics với diện tích hơn 700 ha.
Như vậy, có thể thấy tiềm năng trong dài hạn từ dự án Gemalink là rất lớn. GMD giảm
trong ngày hôm nay khoảng 0,3% và đóng cửa ở mức 27.900 đồng/cổ phiếu, và được
giao dịch ở mức P/E 2016 là 14x và P/E 2017 là 10,7x, tức là còn khá hấp dẫn.
Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam – CTCP (ACV)
MUA với giá mục tiêu 57.100 đồng/cổ phiếu, tương ứng với tiềm năng tăng giá là
17.7%.
Dựa trên kết quả kinh doanh trong 11T/2016, chúng tôi dự báo doanh thu ròng hợp
nhất vào năm 2016 đạt 16.415,4 tỷ đồng (tăng 24,2% so với cùng kỳ) và LNST của cổ
đông công ty mẹ là 2.976,2 tỷ đồng (tăng 18,1% so với cùng kỳ). Trong năm 2017,
doanh thu thuần hợp nhất dự kiến đạt 18.014,0 tỷ đồng (tăng 9,7% theo năm) và LNST
của cổ đông công ty mẹ ước đạt 4.349,3 tỷ đồng (tăng 46,1% so với cùng kỳ) dựa trên
các luận điểm sau đây:
1. ACV hiện là đơn vị khai thác cảng hàng không độc quyền tại Việt Nam theo
quyết định của Bộ GTVT và Chính phủ Việt Nam. Trong tương lai, theo chủ
trương xã hội hóa, các công ty tư nhân có thể được cho phép tham gia khai
thác, nhưng quy mô của họ sẽ vẫn khá hạn chế, không ảnh hưởng đến thị phần
chi phối và các kế hoạch mở rộng của ACV.
2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định cùng với sự phát triển nhanh chóng của các
hãng hàng không giá rẻ giúp thay đổi hành vi của người tiêu dùng. Lưu lượng
hành khách, tổng trọng lượng hàng hóa và số lần HCC theo đó sẽ tăng trưởng.
Dựa trên dự báo ACV, trong năm 2017, lưu lượng hành khách sẽ đạt 89 triệu
lượt (tăng 9% theo năm); tổng trọng lượng hàng hóa vận chuyển là 1.072 nghìn
tấn (tăng 4% theo năm); tổng số lần HCC là 606 nghìn lần (tăng 8% theo
năm). Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng con số này có thể cao hơn dựa vào sự phát
triển của ngành du lịch và nhu cầu vận chuyển trong nước và cũng như trên thế
giới.
3. Triển vọng tăng trưởng nếu Bộ GTVT phê duyệt đề án tăng giá dịch vụ của ACV.
Theo đó, ACV ước tính tổng doanh thu sẽ tăng thêm 900 tỷ đồng/năm nếu đề
nghị này đã được chấp thuận.
Trong 3 – 4 năm tới, ACV sở hữu nhiều cơ hội tăng trưởng từ các dự án mở rộng nhà ga
hành khách lớn như dự án mở rộng nhà ga cảng Phú Quốc, Tân Sơn Nhất, Phú Bài, Đà
Nẵng… Tổng chi phí đầu tư theo kế hoạch cho giai đoạn 2016-2018 là khoảng 17.500 tỷ
đồng. Theo thông tin mới nhất từ cuộc họp của Chính phủ, Phó Thủ tướng Trịnh Đình
Dũng vừa phê duyệt kế hoạch mở rộng Tân Sơn Nhất. Theo đó, 2 đường lăn mới, nhà ga
hành khách lưỡng dụng T3 và T4 với tổng công suất 20 triệu hành khách/năm sẽ được
www.VPBS.com.vn Trang | 59
xây dựng. Tổng thời gian thi công dự kiến là 3 năm với tổng giá trị đầu tư dự kiến
19.700 tỷ đồng. Yếu tố chính cho sự tăng trưởng doanh thu ACV là lưu lượng hành
khách sẽ dự kiến đạt 104 triệu trong năm 2018 và 115 triệu vào năm 2019, cũng như
doanh thu tiềm năng còn rất lớn từ các dịch vụ phi hàng không, vì vậy chúng tôi dự báo
mức lợi nhuận ACV sẽ tăng cao trong 2 năm tiếp theo. ACV giảm ngày hôm nay khoảng
1% và đóng cửa ở mức 48,500 đồng/cổ phiếu và được giao dịch ở mức P/E 2016 là
20,4x và P/E 2017 là 14,0x.
NGÀNH DẦU KHÍ
Nguồn: Bloomberg, VPBS
Trong 12 tháng qua, ngành công nghiệp dầu khí diễn biến gần như vượt trội so với VN-
Index; tuy nhiên, điều này bắt đầu thay đổi trong tháng 11/2016, khi ngành dầu khí bắt
đầu diễn biến kém hiệu quả hơn. So với một năm trước đây, ngành công nghiệp này đã
tăng 11,5% khi những công ty lớn trong ngành như PVS, PVD, GAS, đã có sự phục hồi
giá ấn tượng mặc dù đã giảm giá trở lại trong thời gian gần đây do kết quả kinh doanh
không thuận lợi trong Q4/2016.
Thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu gần đây với mức cắt giảm 1,8 triệu thùng/ngày giữa
các nước OPEC và ngoài OPEC chỉ mang lại sự lạc quan giới hạn vì những nhà đầu tư
vẫn thận trọng với việc số dàn khoan tại Mỹ tăng liên tiếp trong 11 tuần qua, nhằm để
tăng cung sản lượng dầu trong tương lai; mức độ tuân thủ thực tế của các nước chấp
nhận cắt giảm sản lượng; và sản lượng dầu tăng lên đối với các nước OPEC được miễn
thỏa thuận - Libya và Indonesia - do điều kiện kinh tế khó khăn phát sinh từ cuộc xung
đột vũ trang gần đây. Hiện nay, giá dầu Brent dường như đã đạt đến trạng thái cân
bằng ở mức khoảng USD52-57/thùng, mặc dù tiếp tục dư cung. Đến giữa tháng 1 năm
2017, trữ lượng dầu thô của Mỹ đã đạt 1,18 tỷ thùng, trong đó có dự trữ dầu chiến lược,
giảm 0,12% so với tuần trước đó nhưng tăng tới gần 2,6% theo năm. Đến T12/2016,
sản lượng dầu thô của Mỹ là 8.890.000 thùng/ngày, giảm 6,3% theo năm nhưng tăng
2,6% theo tháng.
Đối với năm 2017, OPEC dự đoán rằng tổng nhu cầu trên toàn thế giới có thể đạt 95,6
triệu thùng/ngày, cao hơn mức nhu cầu năm 2016 là 1 triệu thùng. OPEC cũng dự
nguồn cung toàn cầu trong năm 2017 sẽ giảm 0,2 triệu thùng/ngày, xuống mức
95.400.000 thùng/ngày. Nếu các nước OPEC và ngoài OPEC tuân thủ nghiêm ngặt thỏa
thuận, có nghĩa là ít nhất 70% tổng số lượng cắt giảm thỏa thuận được thực hiện, và
sản lượng dầu sản xuất của các công ty Mỹ là vừa phải, VPBS dự báo giá dầu Brent có
thể lên tới 60 USD/thùng trong 1H2017 và 63 USD/thùng trong 2H2017. Tuy nhiên, nếu
tỷ lệ tuân thủ giữa các quốc gia là thấp hơn so với dự kiến, giá dầu Brent được dự báo
sẽ dao động chủ yếu trong phạm vi từ 50-55 USD/thùng trong năm 2017. Dự báo thận
-15
-10
-5
0
5
10
15
20
25
30
35Ngành Dầu Khí VNINDEX HNXINDEX
www.VPBS.com.vn Trang | 60
trọng như vậy là phù hợp với triển vọng không kéo dài thời gian cắt giảm sản lượng dầu
hơn 6 tháng cho các công ty sản xuất dầu, theo thông báo của Bộ trưởng Bộ năng lượng
của Ả-rập Xê-út, người có tầm ảnh hưởng nhất trong OPEC.
Từ biểu đồ trên, chúng ta có thể thấy rằng số lượng giàn khoan ở Bắc Mỹ đã đạt 675
giàn tính đến đầu T1/2017, tăng 68% từ mức thấp điểm trong T7/2016. Donald Trump,
Tổng thống mới của Mỹ, có khả năng sẽ thực hiện những chính sách để thúc đẩy sản
xuất dầu và khí đốt trong nước, tăng nguồn cung trong tương lai - đặc biệt là nếu giá
dầu tiếp tục tăng đến 60 USD/thùng. Đối với năm 2017, PXS, PLC, và CNG có thể tăng
lợi nhuận, trong khi PVD, PVS, PVC, PGS sẽ tiếp tục sụt giảm lợi nhuận. Đối với năm
2017, PVD được dự báo sẽ không có lợi nhuận và PVC được dự báo sẽ bị lỗ.
KHUYẾN NGHỊ CỔ PHIẾU
Công ty Cổ phần Kết cấu Kim loại và Lắp máy Dầu khí (PXS)
MUA với giá mục tiêu là 12.000 đồng/cổ phiếu, tương đương với 20,2% tiềm năng tăng
giá, trong đó tỷ lệ cổ tức dự kiến là 13,1%.
Đối với năm 2016, ban lãnh đạo PXS ước tính tổng doanh thu đạt 1.550 tỷ đồng, giảm
11,1% so với cùng kỳ và LNST đạt 86,2 tỷ đồng, giảm 21,1% so với cùng kỳ. Lý do
chính cho sự suy giảm là diễn biến bất lợi của giá dầu, dẫn đến các dự án xây dựng khác
nhau trong lĩnh vực năng lượng bị trì hoãn hoặc hủy bỏ - bao gồm mỏ Kình Ngư Trắng,
Nhà máy đạm Cà Mau, nhà máy nhiệt điện Long Phú, và nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2
– khi khách hàng đang gặp khó khăn tài chính. Trong Q4/2016, PXS sẽ ghi nhận 100 tỷ
đồng doanh thu từ các giàn khoan P10, P11 và P12 cho Bộ Quốc phòng. Tổng giá trị của
dự án này là 682 tỷ đồng với 582 tỷ còn lại được ghi nhận vào năm 2017. Tổng dư nợ
vào cuối Q3/2016 đạt 450 tỷ đồng, với 60% là nợ ngắn hạn. Lãi suất vay nợ ngắn hạn là
5%/năm, và nợ dài hạn là 7,5-9,0%/năm. Công ty hiện đang có khoản tiền gửi rất nhỏ
tại Ocean Bank – đang trong giai đoạn khó khăn tài chính và gần đây đã được mua lại
bởi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với giá 0 đồng.
Đối với năm 2017, VPBS ước tính doanh thu của PXS đạt 1.600 tỷ đồng, tăng 3% theo
năm, và LNST đạt 95,3 tỷ đồng, tăng 10% theo năm. Chi phí đầu tư dự kiến là 225 tỷ
đồng để mở rộng cảng chính, mua sắm cần cẩu bánh xích, và nâng cấp thiết bị. Cổ tức
bằng tiền dự kiến là 10-13% trên mệnh giá, so với mức 13% trong năm 2016. Những
dự án đóng góp chính cho daonh thu năm 2017 được liệt kê dưới đây:
Nguồn: Baker Hughes, VPBS
US rig count vs oil price Số giàn khoan tại Bắc Mỹ và giá dầu S
ố lƣ
ợn
g g
iàn
kh
oan
Giá
dầu
THÁNG 1/2013 - THÁNG 1/2017
www.VPBS.com.vn Trang | 61
Tên dự án Doanh thu ghi nhận trong năm 2017
(đồng) Giàn khoan P10, P11 và P12 cho Bộ Quốc phòng 582 tỷ
Nhiệt điện Thái Bình 180 tỷ
Nhiệt điện Sông Hậu 160 tỷ
Nhiệt điện Long Phú 165 tỷ
Mỏ Thỏ Trắng – Vietsovpetro 70 tỷ
Nhà máy đạm Cà Mau 100 tỷ
Ngoài ra, PXS gần đây đã ký một hợp đồng lớn trị giá 2.600 tỷ đồng với Công ty hóa
dầu Long Sơn, đồng sở hữu bởi PetroVietnam và Siam Cement Group. Giai đoạn xây
dựng sẽ mất 2-3 năm, và doanh thu từ dự án này sẽ được ghi nhận chủ yếu trong 2018-
2019. Dự án có thể bắt đầu từ T7/2017. Ngoài ra, PXS sẽ ký hợp đồng trị giá 450 tỷ
đồng để xây dựng thêm hai giàn khoan cho Bộ Quốc Phòng là P13 và P14 sẽ ghi nhận
vào năm 2018. PXS được tham gia đấu thầu xây dựng hợp đồng cho các cơ sở ở mỏ Cá
Voi Xanh, hai nhà máy điện trong khu vực Dung Quất, hai nhà máy điện tại tỉnh Quảng
Nam, và 4-5 nhà máy điện ở đồng bằng sông Cửu Long, đảm bảo đủ khối lượng công
việc cho 6 năm tới, mặc dù lợi nhuận có thể thấp hơn hơn các dự án ngoài khơi.
PXS giảm trong ngày hôm nay, khoảng 1%, đóng cửa ở mức 9.900 đồng/cổ phiếu. PXS
được giao dịch ở mức P/E của 2016 là 6,9x và P/E của năm 2017 là 6,3x theo dự báo
của VPBS, tức là khá rẻ so với cả ngành công nghiệp dầu khí và VN-Index. Dự kiến mức
cổ tức tiền mặt là 10,2-13,1% cho năm 2017, khiến PXS trở nên hấp dẫn như một cổ
phiếu thu nhập.
NGÀNH THÉP
Ngành công nghiệp thép của Việt Nam đã có một năm thành công với sự phục hồi mạnh
mẽ, thể hiện qua những kết quả tích cực nhờ vào các yếu tố vĩ mô và hoạt động doanh
nghiệp khởi sắc. Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), tổng sản lượng thép sản xuất và
tiêu thụ của các công ty thành viên của VSA đạt lần lượt là 17,1 và 15,0 triệu tấn, với
mức tăng tương ứng là 19,6 và 27,9% theo năm, trong đó sản lượng xuất khẩu tăng
48,7% so với năm trước lên 2,8 triệu tấn. Tiêu thụ thép xây dựng trong năm 2016 đạt
mức tăng trưởng là 25,5% so với năm trước, đạt 8,1 triệu tấn. Tiêu thụ tôn mạ trong
năm 2016 là 2,8 triệu tấn, tăng 33,5% so với năm trước. Tiêu thụ ống thép đạt 1,9 tỷ
tấn, tăng 30,6% so với năm trước. Trong năm 2016, Việt Nam tiếp tục nhập khẩu lượng
lớn thép, đạt 19,8 triệu tấn và tăng 17,1% so với năm 2015, trong đó khối lượng nhập
khẩu phôi thép tăng 59,4% so với năm trước mặc dù Bộ Công thương đã áp thuế chống
bán phá giá phôi thép và thép dài nhập khẩu.
Chỉ số giá cổ phiếu ngành thép (% tăng trưởng 1 năm)
Nguồn: Bloomberg, VPBS
0
50
100
150
200
% VN-Index HN-Index Thép
www.VPBS.com.vn Trang | 62
Nhu cầu thép trong nƣớc tăng nhờ vào sự phục hồi của ngành bất động sản và
xây dựng Việt Nam. Trong năm 2016, bất động sản của Việt Nam vẫn ghi nhận tín
hiệu tích cực với nhiều dự án được thực hiện. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam cũng thúc
đẩy các dự án đầu tư công thông qua các dự án theo hình thức Hợp tác Công-Tư (PPP).
Do vậy, nhu cầu vật liệu xây dựng thô, như thép xây dựng, tăng mạnh. Bên cạnh đó,
nhu cầu tiêu thụ thép toàn cầu cũng ghi nhận tăng trưởng trở lại nhờ sự phục hồi của
ngành bất động sản Trung Quốc. Nhờ chính sách cắt giảm lãi suất và hạ tỷ lệ dự trữ bắt
buộc của các ngân hàng Trung Quốc, thị trường bất động sản tại nước này đã phục hồi
mạnh sau khi chạm đáy vào giữa năm 2015. Tăng trưởng GDP trong năm 2016 của
Trung Quốc ước tính là 6,7%, đóng góp từ lĩnh vực bất động sản chiếm 25,0% trong
tổng GDP nước này. Sự gia tăng nhu cầu thép của Trung Quốc giúp các sản phẩm thép
Việt giảm bớt áp lực cạnh tranh ở thị trường trong nước và xuất khẩu.
Việt Nam áp thuế chống bán phá giá chính thức đối với thép xây dựng nhập
khẩu và thuế chống bán phá giá tạm thời đối với sản phẩm tôn mạ nhập khẩu.
Vào T7/2016, Bộ Công thương Việt Nam đã ra quyết định áp thuế chống bán phá giá
chính thức đối với các sản phẩm phôi thép và thép dài nhập khẩu, với mức thuế lần lượt
là 23.3% và 14,2%, và giảm dần còn 0% vào năm 2020 nếu các dòng thuế này không
được gia hạn. Gần đây, các công ty thép Việt đã yêu cầu Bộ Công Thương áp thuế chống
bán phá giá này với các sản phẩm thép xây dựng có mã HS 7213.91.90 đang được
hưởng thuế suất chỉ 3,0%. Bộ Công Thương cũng vừa mới áp dụng thuế chống bán phá
giá tạm thời đối với sản phẩm tôn mạ nhập khẩu từ Trung Quốc và Hàn Quốc, với mức
thuế suất từ 4,02% đến 38,34% từ 16/9/2016 đến 13/1/2017. Tuy nhiên, mức thuế
chống bán phá giá chính thức vẫn chưa được công bố. Các sản phẩm tôn mạ hiện nay
của Trung Quốc đang được bán với giá thấp hơn các sản phẩm Việt Nam cùng loại
khoảng 25-35%, chúng tôi cho rằng tỷ lệ thuế suất chính thức sẽ dao động trong phạm
vi chênh lệch giá như trên.
Tỷ suất lợi nhuận đƣợc cải thiện nhờ vào lƣợng hàng tồn kho chi phí thấp đƣợc
nhập từ đầu năm 2016. Trong năm 2015, giá nguyên liệu sản xuất thép tiếp tục giảm
và ghi nhận mức thấp nhất vào cuối năm, do đó nhiều công ty sản xuất thép Việt đã
nhập một lượng lớn nguyên liệu để phục vụ sản xuất trong năm 2016. Việc áp dụng
thuế chống bán phá giá tạm thời đối với các sản phẩm phôi thép và thép dài nhập khẩu
vào T3/2016 khiến cho giá bán các mặt hàng này tăng mạnh, chủ yếu đến từ mục đích
đầu cơ của các nhà phân phối và bán lẻ. Bên cạnh đó, giá thép tăng cũng đến từ nhu
cầu thực tế từ sự phục hồi của ngành xây dựng. Do vậy, nhờ vào sản lượng bán hàng
tăng lên cùng với giá bán cao hơn và giá nguyên liệu tồn kho thấp, nhiều doanh nghiệp
sản xuất thép Việt Nam đã có một năm thành công với lợi nhuận ấn tượng.
Cập nhật về nguyên liệu thép toàn cầu – Diễn biến trái chiều của giá than mỡ
và quặng sắt vào cuối năm 2016.
Giá quặng phục hồi mạnh mẽ trong năm 2016. Giá quặng sắt toàn cầu đã kết thúc
xu hướng giảm giá liên tục trong hai năm liên tiếp kể từ năm 2014. Tính đến hết năm
Thị phần thép xây dựng VN Thị phần ống thép VN Thị phần tôn mạ VN
Nguồn: VSA Nguồn: VSA Nguồn:VSA
Hòa
Phát,
22%
VNSte
el,
21%
Pomin
a, 12%Vinaky
oei,
9%
Posco
SS,
7%
Khác,
29%
Hòa
Phát,
26%
Hoa
Sen,
20%
Thép
Minh
Ngọc,
12%
Ống
thép
Việt
Đức,
8%
SeAh
VN,
8%
Khác,
26% Hoa Sen,
32%
Nam
Kim,
15%Tôn
Đông Á,
13%
Tôn
Phương
Nam, 8%
Maruichi
SunSteel
, 8% Khác,
24%
www.VPBS.com.vn Trang | 63
2016, giá quặng sắt giao ngay đạt 78,9 USD/tấn, tăng 77,8% so với năm trước. Vào
đầu năm 2017, giá quặng sắt tiếp tục duy trì đà tăng trưởng, đạt đỉnh trong vòng 1 năm
tại mức 83,7 USD/tấn vào ngày 16/1/2017. Nguyên nhân chính dẫn đến xu hướng phục
hồi mạnh mẽ của giá quặng sắt là do nhu cầu từ Trung Quốc được phục hồi, lượng cung
bị cắt giảm từ các nhà sản xuất có chi phí cao và các giao dịch đầu cơ. Đối với năm
2017, VPBS dự kiến đà tăng trưởng của giá quặng sắt sẽ dừng lại khi Trung Quốc lên kế
hoạch cắt giảm 100-150 triệu tấn thép thô vào năm 2020 để giảm bớt dư thừa. Bên
cạnh đó, nhiều nước khác đang áp thuế chống bán phá giá lên sản phẩm thép xuất khẩu
của Trung Quốc, vì vậy nhu cầu quặng sắt để làm thép sẽ giảm mạnh và theo đó làm
giảm giá bán nguyên liệu này. Ngoài ra, với mức giá cao như hiện nay, nhiều nhà khai
thác quặng sắt toàn cầu sẽ tiến hành tăng sản lượng khai thác, gây ra tình trạng thừa
cung nguyên liệu này trong năm 2017. VPBS dự báo giá quặng sắt giảm xuống khoảng
70-75 USD/tấn, đây cũng là mức giá cân bằng cho những quý sau của năm 2017.
Ngược lại, sau khi chạm đỉnh tại mức 308,8 USD/tấn vào giữa T10/2016, giá than cốc
giảm liên tục về mức 172,6 USD/tấn vào giữa T1/2017. Theo The Mining News, Mỹ sẽ
tăng sản lượng khai thác than mỡ của mình vào năm 2017, trong đó có khoảng 9 triệu
tấn than mỡ của Mỹ sẽ được xuất khẩu. Hai công ty khai thác than mỡ lớn nhất của Úc,
cụ thể là South32 và Aglo American, sẽ chạy hết công suất trong năm 2017. Canada dự
kiến sẽ xuất khẩu khoảng 1,5 triệu tấn than mỡ từ T4/2017. Do đó, VPBS dự báo giá
than mỡ sẽ tiếp tục xu hướng giảm, về mức 145-155 USD/tấn, đây cũng là mức giá cân
bằng trong những quý cuối của năm.
Diễn biến giá nguyên liệu thép trong trong 1 năm
Nguồn: Bloombergrg, VPBS
TRIỂN VỌNG NGÀNH
Chúng tôi vẫn duy trì quan điểm tích cực về triển vọng của ngành thép trong năm 2017
dựa trên:
Ngành xây dựng sẽ vẫn ghi nhận tốc độ tăng trƣởng cao trong năm nay.
Mặc dù có rất nhiều mối lo ngại về bong bóng bất động sản trong năm nay, Việt
Nam vẫn đang tập trung vào các dự án đầu tư công để duy trì tốc độ tăng trưởng
GDP, do đó nhu cầu về thép xây dựng sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao trong năm
nay. Ngoài ra, Việt Nam đang thu hút nhiều dự án FDI thông qua các Hiệp định
thương mại tự do (FTA), dẫn đến sự gia tăng nhu cầu thép cho xây dựng trụ sở
và nhà xưởng.
Chính phủ Việt Nam quyết định bảo hộ thị trƣờng sản xuất thép trong
nƣớc. Bằng cách áp dụng thuế chống bán phá giá phôi thép, thép dài và tôn mạ,
các doanh nghiệp thép Việt Nam đang quay trở lại ấn tượng và giành lại thị phần
không nhỏ từ thép nhập khẩu. Chúng tôi hy vọng rằng Chính phủ Việt Nam sẽ áp
đặt thuế chống bán phá giá chính thức cho sản phẩm tôn mạ trong tương lai gần
để cải thiện khả năng cạnh tranh của ngành thép trong nước, là ngành công
0
25
50
75
100
0
200
400
600
800
1/16 2/16 3/16 4/16 5/16 6/16 7/16 8/16 9/16 10/16 11/16 12/16 1/17
USD/tấn USD/tấn
Giá HRC (cột trái) Giá than mỡ (cột trái) Giá thép phế (cột trái) Giá phôi thép (cột trái) Giá quặng sắt 62% Fe (cột phải)
www.VPBS.com.vn Trang | 64
nghiệp nặng quan trọng của bất kỳ quốc gia nào.
Giá than mỡ và quặng sắt đƣợc dự báo sẽ giảm trong năm nay do nguồn
cung tăng cao và nhu cầu chững lại, nhƣ chúng tôi dự báo ở trên. Tuy
nhiên, giá nguyên liệu thép trung bình trong năm 2017 được dự báo sẽ cao hơn
giá trung bình trong năm 2016. VPBS cũng dự báo giá bán của thép dài, thép
ống và tôn mạ sẽ tăng 10-12% trong năm 2017 để bù đắp chi phí nguyên liệu
tăng thêm.
Tiêu thụ thép Việt Nam thấp hơn khá nhiều so với các nƣớc trong khu
vực. Theo VSA, tiêu thụ thép trên mỗi đầu người trong năm 2016 chỉ đạt 200
kg/người, khá thấp so với mức 350 kg/người/năm ở Thái Lan, 1.000
kg/người/năm ở Hàn Quốc và mức trung bình thế giới là 240 kg/người/năm. Do
vậy, ngành thép Việt vẫn còn nhiều tiềm năng tăng trưởng trong các năm tới.
Tuy nhiên, ngành thép Việt cũng đối mặt với nhiều thách thức trong năm nay, cụ
thể:
Nhiều nƣớc đang áp thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm thép nhập
khẩu, trong đó có Mỹ, Úc và các nước Châu Á. Do vậy, các nhà xuất khẩu thép
Việt Nam cần phải đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và hiểu rõ về các hàng rào
thuế quan và hàng rào kỹ thuật để tránh bị áp thuế.
Lo ngại bong bóng bất động sản tại Việt Nam có thể khiến nhu cầu tiêu
thụ thép giảm mạnh. Tuy nhiên, nhu cầu bất động sản ở Việt Nam vẫn còn khá
lớn, chủ yếu tập trung phân khúc nhà giá bình dân với giá bán dưới 1 tỷ đồng
mỗi căn, tạo ra lực cầu ổn định cho các sản phẩm thép.
Tồn kho thép tại các cảng của Trung Quốc ghi nhận mức cao nhất kể từ
2014. Theo Steelhome, tồn kho thép Trung Quốc tại các cảng lớn đạt 111,6 triệu
tấn. Giá đồng CNY giảm so với đồng USD trong thời gian gần đây đã dẫn tới giá
thép xuất khẩu của TQ giảm theo và gia tăng áp lực cạnh tranh đến các doanh
nghiệp xuất khẩu thép Việt Nam, đặc biệt là tại các thị trường Châu Á.
Doanh nghiệp thép Việt vẫn phụ thuộc khá nhiều vào nguyên liệu nhập
khẩu (như là than mỡ, thép cán nóng, thép phế liệu…), do vậy sẽ chịu ảnh
hưởng khá lớn từ biến động giá nguyên liệu thế giới. Tuy nhiên, dự án Formosa
giai đoạn 1 đi vào hoạt động và cung cấp phôi thép và thép cán nóng (HRC) có
thể là tin tốt đối với các doanh nghiệp đang nhập khẩu nguyên liệu này phục vụ
cho quá trình sản xuất.
Trong năm 2017, VSA dự báo ngành thép Việt Nam sẽ tăng trưởng 10-12%, phù hợp với
mục tiêu tăng trưởng GDP trong năm 2017 là 6.7%. Theo đó, tổng sản lượng thép ước
tính đạt 19,6 triệu tấn trong năm 2017, trong đó thép xây dựng chiếm 48,0%, thép cán
nguội chiếm 20,9%, tôn mạ chiếm 19,3% và ống thép chiếm 11,5%.
Cổ phiếu khuyến nghị:
CTCP Tập đoàn Hoa Sen (HSG)
MUA với giá mục tiêu 12 tháng là 64.300 đồng/cổ phiếu, tương ứng với mức P/E
NTC2017 mục tiêu là 7,0 lần và tiềm năng tăng giá là 32,0%
Trong NTC2016, sản lượng tiêu thụ đạt 1,3 triệu tấn, tăng 21,6% so với năm trước.
Trong cơ cấu doanh thu theo sản phẩm, tôn và thép dày mạ chiếm tỷ trọng 70,0% tổng
sản lượng tiêu thụ, còn ống thép và ống nhựa chiếm lần lượt 28,0% và 2,0% tổng sản
lượng trong NTC2016. Trong NTC2016, doanh thu của HSG đạt 17.894 tỷ đồng, tăng
2,4% so với năm trước và lợi nhuận ròng sau thuế đạt 1.504 tỷ đồng, tăng 130,3% so
với năm trước nhờ vào sản lượng bán hàng tăng lên 1.3 triệu tấn, giá bán diễn biến
thuận lợi và tồn kho giá thấp.
Trong NTC2016, doanh thu từ xuất khẩu chiếm 40,0% tổng doanh thu bán hàng của
HSG. HSG đang xuất khẩu đi 65 nước và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, tăng 6 nước
www.VPBS.com.vn Trang | 65
so với NTC2015. Hiện này công ty đang thực hiện đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu
và không phụ thuộc vào bất kỳ thị trường tiêu thụ nào. HSG cũng đang tăng tỷ trọng
tiêu thụ nội địa để giảm thiểu rủi ro từ việc áp thuế chống bán phá giá từ các thị trường
xuất khẩu. Trong niên độ tài chính qua, HSG đã mở 60 chi nhánh để đẩy mạnh bán
hàng. Trong các năm tới, HSG sẽ tiếp tục đẩy mở rộng lên 500 chi nhánh với mục tiêu
20-30 chi nhánh bán lẻ tại mỗi tỉnh thành.
Kế hoạch doanh thu và lợi nhuận sau thuế của HSG trong NTC2017 đạt 23.000 tỷ đồng,
tăng 28,5% với tổng sản lượng bán hàng là 1,6 triệu tấn, tăng 19,5%. Do giá nguyên
vật liệu như quặng sắt và than mỡ diễn biến phức tạp trong NTC2017 nên công ty chỉ
đặt kế hoạch lợi nhuận sau thuế tăng 9,7%, đạt 1.650 tỷ đồng, với giả định giá thép cán
nóng (HRC) là 400 USD/tấn.
Trong NTC2017, VPBS dự báo doanh thu và lợi nhuận ròng hợp nhất đạt lần lượt 23.226
tỷ đồng và 1.805 tỷ đồng, tăng 29,8% và 20,0% so với cùng kỳ năm trước, dựa trên
những giả định sau:
1. Doanh thu hợp nhất của HSG trong NTC2017 đạt 23.226 tỷ đồng, tăng 29,8% so
với cùng kỳ năm trước, với giả định giá bán trung bình tăng 8,0% và sản lượng
tiêu thụ tăng 20,0% so với NTC2016.
2. Biên lợi nhuận gộp giảm từ mức 23,4% trong NTC2016 xuống còn 22,0% trong
NTC2017 do ảnh hưởng từ sự tăng giá nguyên liệu đầu vào như HRC và than mỡ.
3. Tỷ lệ chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp/doanh thu trong NTC2017 sẽ duy
trì tại mức như năm trước.
4. Chi phí tài chính trong NTC2017 sẽ không tăng mạnh so với NTC2016 do chi phí
tài chính từ khoản nợ vay tăng thêm để phục vụ dự án Cà Ná sẽ được vốn hóa
trong năm 2017.
Giá cổ phiếu hiện đang giao dịch tại mức giá 48.700 đồng, với P/E trượt 12T là 6,5 lần
và P/E NTC2017 là 5,3 lần, khá rẻ so với mức trung bình ngành và thị trường chung. Tỷ
lệ cổ tức trong NTC2017 sẽ tối đa là 85%. HSG dự kiến sẽ trả cổ tức bằng tiền mặt tối
đa là 10% (trên mệnh giá) và cổ tức bằng cổ phiếu tối đa là 75%, trong đó 55% từ lợi
nhuận sau thuế chưa phân phối và 20% từ thặng dư vốn chủ sở hữu tại thời điểm
30/9/2016.
NGÀNH XÂY DỰNG
Giá trị ngành xây dựng Việt Nam trong năm 2016 tăng 10,4% so với cùng kỳ
năm ngoái, ước tính đạt 1.089 nghìn tỷ (tại giá hiện thời), hoàn thành 104,0% kế
hoạch năm và chiếm 6,2% GDP của Việt Nam, so với mức 6,2% trong năm 2015. Trong
năm qua, các doanh nghiệp xây dựng trong nước đã cải thiện năng lực xây dựng, thắng
nhiều hợp đồng lớn và cải thiện khả năng cạnh tranh so với các doanh nghiệp nước
ngoài đến từ Nhật, Hàn Quốc và các nước phương Tây.
Chỉ số giá cổ phiếu ngành xây dựng (% tăng trưởng 1 năm)
Nguồn: Bloomberg, VPBS
-10
0
10
20
30
40% VN-Index HN-Index Xây dựng
www.VPBS.com.vn Trang | 66
Ngành xây dựng đƣợc hƣởng lợi nhiều từ tăng trƣởng bất động sản. Trong năm
2016, tăng trưởng bất động sản Việt Nam tiếp tục được duy trì nhờ giá bán ổn định,
thanh khoản cao và nhiều sản phẩm được tung ra. Theo Hiệp hội Bất động sản TP.HCM,
tồn kho bất động sản cuối năm 2016 là 31.842 tỷ đồng, giảm 37,4% so với cùng kỳ
năm ngoái. Tăng trưởng tín dụng bất động sản tại ngày 31/10/2016 ghi nhận ở mức
cao, đạt 8,3% so với cùng kỳ với dư nợ bất động sản đạt 425.521 tỷ đồng.
Đô thị hóa kích thích nhu cầu về cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị. Trong năm 2016,
dân số tại các thành phố lớn và tổng dân số Việt Nam lần lượt ước tính đạt 32,1 triệu và
92,7 triệu, với tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn 1996-2016 tương ứng là
3,2% và 1,1%, vì vậy, tỷ lệ đô thị hóa là 34,6%. Do đó, cơ sở hạ tầng đã được cải thiện
cùng với sự gia tăng dân số đô thị.
Tốc độ đô thị hóa tại Việt Nam
Nguồn: WorldBank
Nhu cầu xây dựng tăng nhờ vào sự gia tăng giải ngân FDI. Trong năm 2016, tổng
vốn FDI đăng ký cấp mới đạt 24,4 tỷ USD, tăng 7,1% so với năm trước. Khu vực công
nghiệp thu hút số lượng vốn FDI lớn nhất đạt 9,8 tỷ USD, chiếm 64,6% tổng nguồn vốn
FDI đăng ký mới trong năm 2016. Vốn FDI tập trung vào lĩnh vực công nghiệp kích thích
nhu cầu xây dựng các nhà máy mới và mở rộng các khu công nghiệp. Lĩnh vực bất động
sản dẫn đầu về số lượng với 3.100 dự án FDI đăng ký mới và đứng thứ 2 về giá trị với
1,5 tỷ USD. Đến hết năm 2016, tổng vốn FDI giải ngân ước đạt 15,8 tỷ USD, tăng 9,0%
theo năm và đạt mức cao nhất từ trước đến nay.
Triển vọng 2017
Các dự án cơ sở hạ tầng đô thị sẽ tiếp tục tăng trong 10 năm tới. Chúng tôi dự
báo dân số đô thị của Việt Nam và tổng dân số sẽ đạt 43,9 triệu và 103,7 triệu trong
vòng mười năm tới, với tỷ lệ đô thị hóa đạt 42,4%. Do đó, nhu cầu cải thiện cơ sở hạ
tầng đô thị sẽ vẫn ở mức cao. Theo báo cáo của BMI Việt Nam, những dự án mới về hạ
tầng giao thông, năng lượng, tiện ích, định cư/không định cư sẽ được tập trung phát
triển.
Chính phủ Việt Nam đang tìm kiếm những tổ chức tƣ nhân dƣới hình thức hợp
tác Công-Tƣ (PPP) để tài trợ cho nhu cầu đầu tƣ cơ sở hạ tầng. Theo Bộ trưởng
Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, có 108 dự án PPP ưu tiên thực hiện trong giai đoạn
2016-2020 với tổng số vốn đầu tư là 385 nghìn tỷ đồng, trong đó có 120 nghìn tỷ đồng
được tài trợ bởi Ngân sách chính phủ. Vốn cần thiết còn lại sẽ được tài trợ từ các khoản
đóng góp từ khu vực tư nhân dưới hình thức vốn trực tiếp, công nghệ, nguồn nhân lực
và từ các tổ chức nước ngoài như ABD, AFD, JIC và vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA). Theo Bộ Xây dựng, tổng số vốn cần để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông Việt
Nam là 9-10 tỷ USD trong giai đoạn 2016-2020, đặc biệt là tại các trung tâm kinh tế và
công nghiệp trọng điểm của đất nước. Xu hướng này sẽ cung cấp cơ hội to lớn cho các
doanh nghiệp lớn như CII, CIENCO 1, LICOGI, CC1… Ngoài ra, Chính phủ đang đẩy
mạnh việc thoái vốn các doanh nghiệp và các dự án nhà nước cũng như nâng giới hạn
sở hữu nước ngoài để thu hút các nhà đầu tư ngoại.
0,0%
10,0%
20,0%
30,0%
40,0%
50,0%
0
40.000.000
80.000.000
120.000.000
Ngƣời
Dân số tại thành thị Tổng dân số Tỷ lệ đô thị hóa
www.VPBS.com.vn Trang | 67
Dự báo nguồn vốn FDI cao cũng là yếu tố quan trọng thúc đẩy nhu cầu xây
dựng trong năm 2017. Nhờ có nhiều tín hiệu tích cực của nền kinh tế, Việt Nam vẫn là
điểm đến lý tưởng của dòng vốn FDI trong những năm tiếp theo. Mặc dù TPP có khả
năng thất bại khi Trump sẽ trở thành tổng thống mới của Mỹ, các hiệp định thương mại
song phương và đa phương (FTA) khác sẽ bù đắp và thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam. Dự kiến, Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ tăng vốn FDI trong 2 năm tới.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng vốn đầu tư FDI được dự báo sẽ tăng 10-12%/năm
trong 3 năm tới, và chiếm 22-25% của tổng vốn đầu tư vào nền kinh tế.
Sự tăng trƣởng tiềm năng của ngành bất động sản thành phố Hồ Chí Minh vào
năm 2017 dự kiến sẽ vẫn ổn định. Theo CBRE, từ Q1/2017 đến 2018, dự kiến sẽ có
60 nghìn căn hộ tại Thành phố Hồ Chí Minh và 50 nghìn căn hộ tại Hà Nội sẽ được bán
ra thị trường, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, trong đó có khoảng 31% là
phân khúc cao cấp, 36% ở phân khúc trung cấp và 23% trong phân khúc cấp thấp.
Theo Savills Việt Nam, địa bàn Quận 2 sẽ cung cấp số lượng căn hộ tại thành phố Hồ Chí
Minh nhiều thứ 2, vào khoảng 8.700 căn, trong giai đoạn 2016-2018. Ở quận 2, khu vực
Thủ Thiêm có lợi thế rất rõ ràng do quy hoạch toàn diện và đầy đủ cũng như được kết
nối tốt với các quận trung tâm thông qua mạng lưới hệ thống giao thông được phát triển
tốt.
Cổ phiếu khuyến nghị:
CTCP Đầu tƣ Hạ Tầng Kỹ Thuật TP.HCM (HSX: CII)
MUA với giá mục tiêu là 36.200 đồng/cổ phiếu, tương ứng với tiềm năng tăng trưởng 17,5%.
CTCP Đầu tư Hạ Tầng Kỹ Thuật TP.HCM (HSX: CII) là một trong những doanh nghiệp lớn
trong mảng xây dựng cơ sở hạ tầng, bao gồm 5 lĩnh vực đầu tư chính là mảng phát triển cầu
đường, mảng sản xuất và phân phối nước sạch, bất động sản, xuất dựng cơ sở hạ tầng và
dịch vụ thu phí giao thông đường bộ.
CII hiện đang khai thác 5 dự án BOT, một dự án BT và đang xây dựng ba dự án BOT và
một dự án BT, bao gồm dự án BOT mở rộng xa lộ Hà Nội, dự án BOT cầu Rạch Miễu giai
đoạn 2, dự án BOTA cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận và dự án BT xây dựng hạ tầng
khu dân cư Thủ Thiêm. Hai dự án mới là Rạch Miễu 2 và Xa lộ Hà Nội mở rộng 2 cũng
được dự kiến bắt đầu thu phí từ năm 2018. Hiện nay CII đang chờ kế hoạch đấu thầu dự
án Đường trên cao số 1 từ Chính phủ vào cuối năm nay. Dự kiến CII có thể khởi công dự
án này vào cuối năm 2017 trong trường hợp thắng thầu. Tổng vốn đầu tư tạm tính ban
đầu cho dự án này lên đến 19.500 tỷ với thời gian xây dựng trong 3 năm. Hiện công ty
cũng đang tìm kiếm cơ hội bằng cách mua lại các dự án BOT dọc Quốc lộ 1A tại khu vực
Đồng bằng sông Cửu Long.
Về dự án cao ốc 152 Điện Biên Phủ, hiện CII chỉ mới trong giai đoạn hoàn thiện hồ sơ và
sẽ khởi công và đầu năm 2017. Dự án này được dự kiến sẽ được hoàn thành trong 20-
25 tháng. Dự án căn hộ Lakeview 1 tại Quận 2, TP HCM dự kiến sẽ ghi nhận doanh thu
trong năm sau khi công ty đã hoàn thành bàn giao các căn hộ cho người mua nên trong
Q4/2016 doanh thu từ mảng bất động sản sẽ không đột biến. Công ty dự kiến sẽ nâng
sở hữu của NBB lên 51% trong năm 2017. Trong 5 năm tới, CII vẫn sẽ chú trọng khai
thác các dự án tại Thủ Thiêm, bao gồm 2 dự án Thủ Thiêm Lakeview và Thủ Thiêm
Marina Bay. CII hiện đang sở hữu 9,6 ha tại khu đô thị Thủ Thiêm nhờ vào dự án BT
xây dựng cơ sở hạ tầng tại đây. CII cũng đang đầu thầu các dự án tại Thủ Thiêm, như là
dự án Hồ trung tâm. Dự báo doanh thu từ mảng bất động của CII sẽ chiếm tỷ trọng cao
trong những năm tới.
www.VPBS.com.vn Trang | 68
Khu đô thị mới Thủ Thiêm quận 2
Nguồn: CII
Mới đây, CII đã hoàn thành việc phát hành 40 triệu USD trái phiếu chuyển đổi cho nhà đầu
tư Hàn Quốc với lãi suất trái phiếu là 1%/năm (thanh toán nửa năm một lần) và thời hạn trái
phiếu là 5 năm. Khoản 20 triệu USD trái phiếu chuyển đổi còn lại của CII phải được phát
hành trong vòng 6 tháng sau đợt phát hành 40 triệu USD trái phiếu chuyển đổi đầu tiên kết
thúc.
Doanh thu hợp nhất của CII trong 9T/2016 đạt 838 tỷ đồng, giảm 36,9% so với cùng kỳ năm
trước và chỉ hoàn thành 27,7% kế hoạch năm của ban lãnh đạo. LNST của CII trong 9T2016
đạt 765 tỷ đồng, tăng 10,7% so với cùng kỳ, nhờ đóng góp chính từ các khoản doanh thu tài
chính lớn trong kỳ. Tỷ lệ cổ tức bằng tiền mặt năm 2016 của CII là 20,0%/mệnh giá. Hiện
CII đã trả 6,4% cổ tức bằng tiền mặt vào ngày 7/10/2016. Công ty dự kiến sẽ trả 6,5% cổ
tức bằng tiền mặt vào tháng 1/2016 và phần còn lại 7,0% vào tháng 4/2016.
Trong năm 2016, VPBS dự báo doanh thu của CII đạt 1.879 tỷ đồng, tăng 7,3% so với năm
ngoái và lợi nhuận ròng thuộc cổ đông công ty mẹ đạt 810 tỷ đồng, tăng 43,1% so với năm
ngoái. Năm 2017, VPBS dự báo CII có thể đạt LNST giành cho cổ đông công ty mẹ ở mức
1.012 tỷ đồng, tăng trưởng 25%, dựa trên cơ sở:
(1) Doanh thu từ mảng thu phí giao thông sẽ tăng trưởng tích cực vào những năm tới nhờ
vào đóng góp ban đầu từ hai dự án mới là Rạch Miễu 2 và Xa lộ Hà Nội mở rộng.
(2) Dự án Thủ Thiêm Lakeview 1 sẽ đóng góp doanh thu trong năm 2017.
(3) Tăng sở hữu LGC trên 51% sẽ giúp lợi nhuận CII tăng lên nhờ khoản lãi từ đánh giá lại
khoản đầu tư vào công ty này, dự kiến giúp CII ghi nhận khoản lợi nhuận tài chính trước
thuế đột biến ước tính 1,240 tỷ đồng trong năm 2017.
(4) Nâng tỷ lệ sở hữu nước ngoài lên 70,0% sẽ thu hút thêm nhiều cổ đông nước ngoài quan
tâm.
Cổ phiếu hiện đang giao dịch tại mức giá 30.800 đồng/cổ phiếu, với P/E2016 là 9,5 lần và
P/E2017 ở mức 7,5 lần, tức là mức định giá tương đối hấp dẫn so với P/E trung bình ngành là
10,3 lần và VNIndex là 16,5 lần khi mà CII giữ vai trò là doanh nghiệp đầu ngành với tiềm
năng to lớn. Lợi suất cổ tức tiền mặt dự kiến của CII ở mức là 7,5%.
www.VPBS.com.vn Trang | 69
NGÀNH THỦY SẢN
2016 là năm đầy khó khăn cho ngành thủy sản Việt Nam do nhiều yếu tố tác động như
là thiếu hụt nguồn nguyên liệu, xâm nhập mặn, cá chết hàng loạt tại các bãi biển miền
Trung và quy định kiểm tra 100% lo hàng cá tra xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt
Nam khi xuất khẩu vào Mỹ của Cục quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản
(Nafiqad). Tuy nhiên, xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong năm 2016 vẫn hoàn thành kế
hoạch năm, đạt 7 tỷ USD và tăng 6,5% so với cùng kỳ. Tổng sản lượng thủy sản trong
năm đạt 6,7 triệu tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ, trong đó thủy sản nuôi trồng chiếm
53,7% và thủy sản đánh bắt chiếm 46,3%.
Trong năm 2016, giá trị xuất khẩu cá tra Việt Nam ước tính đạt 1,7 tỷ USD, tăng 7,1%
so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó xuất khẩu sang Mỹ đạt 354,2 triệu USD, tăng
22,2% so với cùng kỳ năm ngoái, xuất khẩu sang Trung Quốc và Hồng Kông đạt 270,6
triệu USD, tăng 84,4% so với cùng kỳ năm ngoái; tuy nhiên, xuất khẩu sang Châu Âu
giảm 9,9% so với cùng kỳ năm ngoái xuống còn 238,8 triệu USD. Do chương trình
thanh tra cá da trơn và áp thuế chống bán phá giá của Mỹ, nhiều doanh nghiệp xuất
khẩu cá tra Việt Nam đang chuyển hướng sang thị trường xuất khẩu khác như là Trung
Quốc và Hồng Kông. Cho tới thời điểm này, chương trình thanh tra cá da trơn của Mỹ
chưa tác động rõ rệt lên các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam. Xuất khẩu qua
Châu Âu sụt giảm khiến cho thị trường này chỉ còn đứng thứ ba sau Mỹ và Trung Quốc
do các mặt hàng cá tra Việt Nam đang bị truyền thông trong khu vực bôi xấu, ảnh
hưởng đến sản lượng bán hàng trong năm.
Giá trị xuất khẩu tôm Việt Nam trong năm 2016 ước tính đạt 3,1 tỷ USD, tăng 4,2% so
với cùng kỳ năm ngoái. Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu tôm lớn nhất của Việt Nam,
chiếm 20,6% tổng giá trị xuất khẩu tôm, theo sau là Châu Âu (chiếm 17,0%), Nhật
(chiếm 15,3%), Trung Quốc (chiếm 11,9%) Hàn Quốc (chiếm 8,6%), Đông Nam Á
(chiếm 7,4%) và các nước khác (chiếm 19,1%). Trong năm 2016, tôm Việt trên thị
trường Mỹ phải chịu thuế chống bán phá giá với mức trung bình là 4,78% trong đợt xem
xét lần thứ 10 của Bộ Thương Mại Mỹ (POR10), so với mức thuế chống bán phá giá tạm
thời là 3,56%, ngoại trừ CTCP Minh Phú (OTC: MPC) được hưởng mức thuế là 0%.
Triển vọng 2017
Khí hậu năm nay sẽ diễn biến thuận lợi hơn cho ngành thủy sản Việt Nam. Theo
Climate Prediction Center, hiện tượng El Nino (hay còn gọi là Dao động phương Nam -
ENSO) được dự báo tình hình khí hậu từ đây đến giữa năm 2017 là trung tính, tức là
không xảy ra El Nino hay La Nina, với xác suất xảy ra El Nino cao nhất cũng chỉ là
35,0% và xác suất xảy ra La Nina cũng chỉ là 15,0% trong tháng 8,9,10/2017. Do vậy,
chúng tôi dự báo xác suất xảy ra xâm nhập mặn do nắng hạn trong năm nay là không
cao và diễn biến thời tiết sẽ thuận lợi hơn cho ngành thủy sản Việt Nam.
Chỉ số giá cổ phiếu ngành thủy sản (% tăng trưởng 1 năm)
Nguồn: Bloomberg, VPBS
0
10
20
30
40
% VN-Index HN-Index Thủy sản
www.VPBS.com.vn Trang | 70
Dự báo hiện tượng El Nino trong năm 2017
Nguồn: Climate Prediction Center
Ngành thủy sản Việt Nam vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển nhờ nhu cầu tiêu
thụ thủy sản toàn cầu luôn tăng trƣởng hằng năm. Theo Cơ quan Khí Tượng và Đại
Dương Quốc Gia Hoa Kỳ(NOAA), tiêu thụ thủy sản trên mỗi đầu người của US đạt hơn
7,3 kg trong năm 2016, tăng so với mức 6,6 kg trong năm 2014 và 7,0 kg trong năm
2015, nhưng vẫn thấp hơn mức 10 năm trước. Nhu cầu tiêu thu cá thịt trắng (bao gồm
cá tra, cá tuyết, cá rô phi và các loại cá da trơn khác) chiếm khoảng 27,0% nhu cầu tiêu
thụ thủy sản của Mỹ. Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức khi xuất khẩu qua thị
trường Nhật Bản do bởi quy định kiểm tra 100% các lô thủy sản nhập khẩu, do vậy
chúng tôi kỳ vọng Việt Nam có thể tăng sản lượng thủy sản xuất khẩu qua Nhật bằng
cách cải thiện chất lượng và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về tiêu chuẩn tại thị trường
này. Chúng tôi cũng kỳ vọng xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Trung Quốc sẽ tiếp tục
tăng nhờ nhu cầu tiêu thụ tại nước này vẫn duy trì ở mức cao trong năm 2017. Vì vậy,
tiềm năng tăng trưởng của ngành thủy sản Việt Nam còn khá cao, đặc biệt là cá tra Việt
Nam.
Tuy nhiên, ngành thủy sản Việt Nam vẫn sẽ gặp nhiều thứ thách trong năm nay
đến từ biến đổi khí hậu, dịch bệnh và những rủi ro xuất khẩu. Biến đổi khí hậu
dẫn đến thay đổi điều kiện sinh sống dưới nước như dòng hải lưu, sóng, gió xoáy và
nhiệt độ nước biển, dẫn đến ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực cho hoạt động nuôi trồng
và đánh bắt thủy sản. Các hoạt động nuôi trồng và chế biến thủy sản hiện nay ở Việt
Nam vẫn chưa đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, khiến cho xác suất xảy các lô
hàng bị từ chối từ các nhà nhập khẩu là khá cao.
Trong năm 2017, ngành thủy sản Việt Nam đặt mục tiêu đạt 6,9 triệu tấn sản lượng tiêu
thụ và 7,3 tỷ USD giá trị xuất khẩu. Cá tra, sản phẩm đặc thù của Việt Nam, sẽ tiếp tục
là sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam nhờ vào giá bán hợp lý và mùi vị dễ ăn hơn
so với các loại cá da trơn khác.
Cổ phiếu khuyến nghị
CTCP Vĩnh Hoàn (VHC)
MUA với giá mục tiêu là 72.300 đồng/cổ phiếu, tương ứng với tiềm năng tăng giá là
28,4%.
VHC vừa công bố kết quả ước tính năm 2016 với doanh thu đạt 7.214 tỷ đồng, tăng
11,1% so với năm trước và chỉ hoàn thành 93,8% kế hoạch năm, trong đó doanh thu từ
các sản phẩm thủy sản, bột cá và mỡ cá chiếm 94,4% tổng doanh thu của công ty.
Trong năm 2016, tổng kim ngạch xuất khẩu của VHC ước tính đạt 273,8 triệu USD,
trong đó kim ngạch xuất khẩu cá tra đạt 249 triệu USD, tăng 7,9% so với năm trước.
Theo đó, thị phần xuất khẩu cá tra của công ty ước tính đạt 14,9% tổng kim ngạch xuất
khẩu cá tra Việt Nam. VHC đã xuất khẩu được 1,4 triệu USD các sản phẩm collagen và
gelatin, tuy chỉ hoàn thành 21,7% kế hoạch năm nhưng đạt mức tăng trưởng khá cao so
với năm trước (năm 2015 chỉ đạt 200.000 USD). Điều này cho thấy các sản phẩm mới
Xác s
uất
(%)
Thời gian
www.VPBS.com.vn Trang | 71
của công ty là collagen và gelatin đã bước đầu thâm nhập được các thị trường xuất khẩu
sau thời gian dài thử nghiệm. Xuất khẩu các sản phẩm giá trị gia tăng mặc dù chỉ đạt
3,4 triệu USD, nhưng ghi nhận mức tăng trưởng là 36% theo năm. Vào tháng 9/2016,
dây chuyền sản xuất cá tẩm sốt Teriyaki đã đi vào hoạt động với công suất 2.000
tấn/năm. Dự kiến mảng này sẽ mang lại doanh thu khoảng 15,0 triệu USD/năm cho
VHC nếu dây chuyền này hoạt động hết công suất trong những năm tới.
Thị trường xuất khẩu cá tra chính của VHC vẫn là Mỹ, chiếm 57,8% tổng kim ngạch xuất
khẩu cá tra của công ty. Theo sau đó là các thị trường Châu Âu (chiếm 16,0%), Trung
Quốc (chiếm 6,1%), Canada (chiếm 5,5%), Úc (chiếm 4,1%), Hồng Kông (chiếm
3,9%)…
Năm 2016, lợi nhuận ròng sau thuế của VHC ước tính đạt 550 tỷ đồng, tăng 70,5% so
với năm trước và vượt 57,1% kế hoạch năm của ban lãnh đạo.
Trong năm 2017, VHC đặt mục tiêu xuất khẩu cá tra đạt 285 triệu USD, tăng 14,5% so
với năm 2016. Hiện các dây chuyền chế biến cá tra của VHC đang chạy hết công suất
(700 tấn/ngày), do vậy công ty sẽ tiếp tục đầu tư nâng công suất thêm 20,0% trong
năm nay. Ngoài ra, công ty sẽ tiếp tục đẩy mạnh tiêu thụ các sản phẩm giá trị gia tăng
mang lại biên lợi nhuận gộp cao (25 - 30%) lên mức 5 triệu USD trong năm 2017.
Trong năm 2017, VPBS dự báo doanh thu hợp nhất đạt 8.450 tỷ đồng, tăng 17,4% so
với năm ngoái và lợi nhuận sau thuế đạt 663 tỷ đồng, tăng 25,5% so với năm ngoái dựa
trên các gỉa định:
(1) Công suất chế biến cá tra tăng thêm 20,0% sẽ đẩy mạnh sản lượng tiêu thụ tại các
thị trường lớn.
(2) Năm 2017 công ty sẽ không bị ảnh hưởng xấu từ El Nino như trong năm 2016.
(3) VHC sẽ tiếp tục đẩy mạnh tiêu thụ các sản phẩm giá trị gia tăng mang lại biên lợi
nhuận gộp cao trong các năm tới.
Giá cổ phiếu hiện đang giao dịch tại mức giá là 56.300 đồng, với P/E trượt 12T là 9,5 lần
và P/E2017 ở mức 7,9 lần, tức lá rất hấp dẫn nếu so với ngành thủy sản và thị trường
chung trong khi VHC lại là công ty đầu ngành. Lợi suất cổ tức tiền mặt của VHC hiện tại
là 2,7%.
www.VPBS.com.vn Trang | 72
LIÊN HỆ
Mọi thông tin liên quan đến báo cáo này, xin vui lòng liên hệ Phòng Phân tích của VPBS:
Nguyễn Thị Thùy Linh
Giám đốc – Vĩ mô & Tài chính
Lê Anh Minh
Giám đốc – Phân tích cơ bản
Nguyễn Anh Minh
Chuyên viên phân tích
Nguyễn Thu Thủy
Chuyên viên phân tích
Aidan Christian
Chuyên viên phân tích
Nguyễn Thị Ngọc Anh
Trợ lý phân tích
Lê Việt Anh
Trợ lý phân tích
Nguyễn Lan Hƣơng
Trợ lý phân tích
Mọi thông tin liên quan đến tài khoản của quý khách, xin vui lòng liên hệ:
Lê Kiên Cƣờng
Phòng Môi giới Khách hàng Tổ chức
+848 3823 8608 Ext: 202
Trần Thanh Bạch
Phó Giám Đốc Dịch vụ Ngân hàng Cá nhân
Cao cấp Prestige
+84 190 056 1218 Ext: 2607
Lý Đắc Dũng
Giám đốc Khối Môi giới
Khách hàng Cá nhân
+844 1900 6457 Ext: 1700
Võ Văn Phƣơng
Giám đốc Môi giới Nguyễn Chí Thanh 1
Thành phố Hồ Chí Minh
+848 6296 4210 Ext: 130
Domalux
Giám đốc Môi giới Nguyễn Chí Thanh 2
Thành phố Hồ Chí Minh
+848 6296 4210 Ext: 128
Trần Đức Vinh
Giám đốc Môi giới PGD Láng Hạ
Hà Nội
+844 3835 6688 Ext: 369
Nguyễn Danh Vinh
Phó Giám đốc Môi giới Lê Lai
Thành phố Hồ Chí Minh
+848 3823 8608 Ext: 146
www.VPBS.com.vn Trang | 73
Hội sở Hà Nội 362 Phố Huế Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội T - +84 1900 6457 F - +84 (0) 4 3974 3656 Chi nhánh Hồ Chí Minh 76 Lê Lai
Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh T - +84 (0) 8 3823 8608 F - +84 (0) 8 3823 8609 Chi nhánh Đà Nẵng 112 Phan Châu Trinh, Quận Hải Châu, Đà Nẵng T - +84 (0) 511 356 5419 F - +84 (0) 511 356 5418
KHUYẾN CÁO
Báo cáo phân tích được lập và phát hành bởi Công ty CP Chứng khoán Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBS). Báo cáo này không trực tiếp hoặc ngụ ý dùng để phân phối, phát hành hay sử dụng cho bất kì cá nhân hay tổ chức nào là công dân hay thường trú hoặc tạm trú tại bất kì địa phương, lãnh thổ, quốc gia hoặc đơn vị có chủ quyền nào khác mà việc phân phối, phát hành hay sử dụng đó trái với quy định của pháp luật. Báo cáo này không nhằm phát hành rộng rãi ra công chúng và chỉ mang tính chất cung cấp thông tin cho nhà đầu tư cũng như không được phép sao chép hoặc phân phối lại cho bất kỳ bên thứ ba nào khác. Tất cả những cá nhân, tổ chức nắm giữ báo cáo này đều phải tuân thủ những điều trên.
Mọi quan điểm và khuyến nghị về bất kỳ hay toàn bộ mã chứng khoán hay tổ chức phát hành là đối tượng đề cập trong bản báo cáo này đều phản ánh chính xác ý kiến cá nhân của những chuyên gia phân tích tham gia vào quá trình chuẩn bị và lập báo cáo, theo đó, lương và thưởng của những chuyên gia phân tích đã, đang và sẽ không liên quan trực tiếp hay gián tiếp đối với những quan điểm hoặc khuyến nghị được đưa ra bởi các chuyên gia phân tích đó trong báo cáo này. Các chuyên gia phân tích tham gia vào việc chuẩn bị và lập báo cáo không có quyền đại diện (thực tế, ngụ ý hay công khai) cho bất kỳ tổ chức phát hành nào được đề cập trong bản báo cáo.
Các báo cáo nghiên cứu chỉ nhằm mục đích cung cấp thông tin cho những nhà đầu tư cá nhân và tổ chức của VPBS, Báo cáo nghiên cứu này không phải là một lời kêu gọi, đề nghị, mời chào mua hoặc bán bất kỳ mã chứng khoán nào.
Các thông tin trong báo cáo nghiên cứu được chuẩn bị từ các thông tin công bố công khai, dữ liệu phát triển nội bộ và các nguồn khác được cho là đáng tin cậy, nhưng chưa được kiểm chứng độc lập bởi VPBS và VPBS sẽ không đại diện hoặc đảm bảo đối với tính chính xác, đúng đắn và đầy đủ của những thông tin này. Toàn bộ những đánh giá, quan điểm và khuyến nghị nêu tại đây được thực hiện tại ngày đưa ra báo cáo và có thể được thay đổi mà không báo trước. VPBS không có nghĩa vụ phải cập nhật, sửa đổi hoặc bổ sung bản báo cáo cũng như không có nghĩa vụ thông báo cho tổ chức, cá nhân nhận được bản báo cáo này trong trường hợp các đánh giá, quan điểm hay khuyến nghị được đưa ra có sự thay đổi hoặc trở nên không còn chính xác hay trong trường hợp báo cáo bị thu hồi.
Các diễn biến trong quá khứ không đảm bảo kết quả trong tương lai, không đại diện hoặc bảo đảm, công khai hay ngụ ý, cho diễn biến tương lai của bất kì mã chứng khoán nào đề cập trong bản báo cáo này. Giá của các mã chứng khoán được đề cập trong bản báo cáo và lợi nhuận từ các mã chứng khoán đó có thể được dao động và/hoặc bị ảnh hưởng trái chiều bởi những yếu tố thị trường hay tỷ giá và nhà đầu tư phải ý thức được rõ ràng về khả năng thua lỗ khi đầu tư vào những mã chứng khoán đó, bao gồm cả những khoản lạm vào vốn đầu tư ban đầu. Hơn nữa, các chứng khoán được đề cập trong bản báo cáo có thể không có tính thanh khoản cao, hoặc giá cả bị biến động lớn, hay có những rủi ro cộng hưởng và đặc biệt gắn với các mã chứng khoán và việc đầu tư vào thị trường mới nổi và/hoặc thị trường nước ngoài khiến tăng tính rủi ro cũng như không phù hợp cho tất cả các nhà đầu tư. VPBS không chịu trách nhiệm về bất kỳ thiệt hại nào phát sinh từ việc sử dụng hoặc dựa vào các thông tin trong bản báo cáo này.
Các mã chứng khoán trong bản báo cáo có thể không phù hợp với tất cả các nhà đầu tư, và nội dung của bản báo cáo không đề cập đến các nhu cầu đầu tư, mục tiêu và điều kiện tài chính của bất kỳ nhà đầu tư cụ thể nào. Nhà đầu tư không nên chỉ dựa trên những
khuyến nghị đầu tư, nếu có, tại bản báo cáo này để thay thế cho những đánh giá độc lập trong việc đưa ra các quyết định đầu tư của chính mình và, trước khi thực hiện đầu tư bất kỳ mã chứng khoán nào nêu trong báo cáo này, nhà đầu tư nên liên hệ với những cố vấn đầu tư của họ để thảo luận về trường hợp cụ thể của mình.
VPBS và những đơn vị thành viên, nhân viên, giám đốc và nhân sự của VPBS trên toàn thế giới, tùy từng thời điểm,có quyền cam kết mua hoặc cam kết bán, mua hoặc bán các mã chứng khoán thuộc sở hữu của (những) tổ chức phát hành được đề cập trong bản báo cáo này cho chính mình; được quyền tham gia vào bất kì giao dịch nào khác liên quan đến những mã chứng khoán đó; được quyền thu phí môi giới hoặc những khoản hoa hồng khác; được quyền thiết lập thị trường giao dịch cho các công cụ tài chính của (những) tổ chức phát hành đó; được quyền trở thành nhà tư vấn hoặc bên vay/cho vay đối với (những) tổ chức phát hành đó; hay nói cách khác là luôn tồn tại những xung đột tiềm ẩn về lợi ích trong bất kỳ khuyến nghị và thông tin, quan điểm có liên quan nào được nêu trong bản báo cáo này.
Bất kỳ việc sao chép hoặc phân phối một phần hoặc toàn bộ báo cáo nghiên cứu này mà không được sự cho phép của VPBS đều bị cấm.
Nếu báo cáo nghiên cứu này được phân phối bằng phương tiện điện tử, như e-mail, thì không thể đảm bảo rằng phương thức truyền thông này sẽ an toàn hoặc không mắc những lỗi như thông tin có thể bị chặn, bị hỏng, bị mất, bị phá hủy, đến muộn, không đầy đủ hay có chứa virus. Do đó, nếu báo cáo cung cấp địa chỉ trang web, hoặc chứa các liên kết đến trang web thứ ba, VPBS không xem xét lại và không chịu trách nhiệm cho bất cứ nội dung nào trong những trang web đó, Địa chỉ web và hoặc các liên kết chỉ được cung cấp để thuận tiện cho người đọc, và nội dung của các trang web của bên thứ ba không được đưa vào báo cáo dưới bất kỳ hình thức nào, Người đọc có thể tùy chọn truy cập vào địa chỉ trang web hoặc sử dụng những liên kết đó và chịu hoàn toàn rủi ro.