Upload
duongduong
View
229
Download
9
Embed Size (px)
Citation preview
BỒI DƯỠNG LÀM VĂN HAY LỚP 11
NHỮNG BÀI VĂN CHỌN LỌC PTTHBỒI DƯỠNG LÀM VĂN HAY LỚP 11
(Tư liệu tham khảo dành cho phụ huynh và giáo viên)
LÊ LƯƠNG TÂM - THÁI QUANG VINH
- NGÔ LÊ HƯƠNG GIANG - TRẦN THẢO LINH
(Tuyển chọn và giới thiệu)
LỜI NÓI ĐẦU
Các em học sinh thân mến
Việc đánh giá học tập môn Văn học của các em, phần lớn nhà trường
thường nhìn ở kết quả một bài viết theo một đề bài nhất định.
Bài viết có chất lượng là thước đo năng lực và có ý nghĩa quyết định
cho điểm kiểm tra thường xuyên tại lớp, điểm học kì, điểm cuối năm và quan
trọng nhất là thi tuyển sinh vào đại học.
Phải có những bài viết được tổ chức với cấu trúc chặt chẽ; phải có
những câu văn, đoạn văn diễn đạt thật khúc chiết sinh động thì chúng ta mới
đạt tới cái đích học tốt bộ môn mà mình yêu thích.
Do đó, chúng tôi cho rằng các em phải tiếp xúc thật nhiều với những
bài viết hay. Trước hết là những bài thuộc các đơn vị giới hạn trong chương
trình, trong sách giáo khoa.
Cuốn sách:
BỒI DƯỠNG LÀM VĂN HAY 11
Ngoài việc cung cấp những bài viết hay của các tác giả có uy tín, của
các bạn học sinh đã đạt giải, đạt điểm cao thì nó đặc biệt chú trọng tới một
lượng đề luyện tập rất phong phú đa dạng. Nó bám sát chương trình lớp 11
từ Văn học Việt Nam, Văn học nước ngoài và Lí luận văn học; từ những bài
khái quát đến những bài phân tích bình giảng, từ những đề có dung lượng
“quy mô” tới những đề giải quyết một vấn đề nhỏ mà thú vị.
Hy vọng cuốn sách sẽ đem đến cho các em nhiều hứng khởi trong việc
học tốt môn văn học ở lớp 11. Và đây chính là điều kiện đề các em tự tin
bước vào những kì thi có tính quyết định đối với cuộc đời mình.
Chúc các em thành công.
CÁC TÁC GIẢ
HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
NGÔ GIA VĂN PHÁI
A. BÀI VĂN
Phân tích đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” (Hoàng Lê nhất thống chí -
Ngô gia văn phái).
BÀI LÀM
Đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” trong Hoàng Lê nhất thống chí đã cho
thấy sự thối nát của phủ chúa Trịnh: cha, con, anh, em tranh giành quyền lực,
việc phế con trưởng lập con thứ hoàn toàn do quyền lợi ích kỉ của phe đảng,
không vì quyền lợi của đất nước, của nhân dân.
Cuộc tranh giành đó Trịnh Tông là kẻ đang bị thất thế, có nguy cơ bị
hại, phải nhờ mẹ là thái phi họ Dương kêu với quận Huy mới bảo toàn được
tính mệnh.
Lính kiêu binh phần nhiều đều thuộc phe của Trịnh Tông. Tông mà bị
diệt trừ thì họ mất chỗ dựa và có thế bị diệt theo. Số phận của các đám gia
thần, tôi tớ, binh lính của các tập đoàn phong kiến xưa nay là vậy. Có thể kế
các nhân vật kiêu binh như: Dự Vũ, đầu bếp của Tông; Gia Thọ là gia thần,
Bằng Vũ là gia binh. Chúng căm ghét quận Huy như kẻ thù của chúng.
Vì thế, lời nói của Dự Vũ, Gia Thọ đều có tính chất xúi giục, hậu thuẫn
cho Tông làm phản. Tông mời cơm ngỏ ý chỉ là một biểu hiện phó thác chính
thức, lái mũi nhọn chĩa vào quận Huy.
Mục đích nổi loạn cùa kiêu binh là trả thù, rửa hận. Lời nói của Dự Vũ
đã cho thấy quân lính “căm ghét”, “hậm hực” khinh bỉ cách làm của chúa Trịnh
và quận Huy, chỉ muốn diệt trừ cho hả giận. Đề xuất kế sách của Bằng Vũ
chứng tỏ quân lính rất khinh nhờn thế lực của phủ chúa: “Đánh một hồi trống
làm hiệu, rồi kẻo ùa cả vào, nắm cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm
một cái là xong thôi mà!”.
Sự can thiệp của bọn quý tộc, thân tộc trong phủ như quận Viêm, con
hắn là Chiếu lĩnh bá, quận Hoàn, Thánh mẫu... cho thấy chúng chỉ muốn lợi
dụng để hớt lấy công hoặc che chắn đế bảo vệ quyền lợi mình. Tiêu biểu cho
thái độ bàng quan là Viêm quận công. Tiêu biểu cho thái độ hớt công là Bùi
Bật Trực và Chiếu lĩnh bá. Mặt khác qua sự can thiệp này ta thấy phủ chúa
hoàn toàn bất lực, kiêu binh lộng hành, làm chủ tình thế. Ở nơi tập trung
quyền hành trung ương chỉ là một đám lưu manh họp chợ để giở thói côn đồ
thanh toán nhau!
Đoạn văn đã miêu tả một cuộc nổi loạn của binh lính. Thế lực của họ
thật mạnh. Xuất phát từ lòng căm phẫn, khinh bỉ, muốn rửa hận, trả thù, quân
kiêu binh đã tụ tập, bàn định và thống nhất với nhau rất nhanh. Họ nổi lên chi
phối các sự kiện lịch sử. Họ mớm lời và xúi giục Trịnh Tông, họ quyết định
cách nổi loạn, bầu người chủ mưu, không cần chỉ dụ của ai hết. Trịnh Tông
phó thác chỉ là kẻ ăn theo, Trần Hữu Cầu viết hịch chỉ là một việc hiếu sự.
Bằng Vũ quyết định ngày khởi sự, không cần tâu với Thánh mẫu. Khi nghe
tiếng trống, quân lính “nhảy nhót, hăng hái, cầm binh khí xô lấn nhau mà vào
trong phủ”, “họ hò reo quát tháo long trời lở đất”.
Đoạn giết quận Huy đã thế hiện sức mạnh của kiêu binh. Họ dọa quận
Châu. Thoạt đầu, do thói quen phục tùng, họ sợ quận Huy, song chỉ được
một lát, từ tư thế ngồi họ nhao nhao đứng dậy vây lấy voi chiến, nềm gạch
ngói vào voi, dùng câu liêm kéo quản tượng xuống giết, rồi kéo quận Huy
xuống đánh chết, mồ bụng lấy gan ăn sống, sau đó lấy đá ghè chết em quận
Huy. Tất cả sự nổi loạn, tàn bạo đã thể hiện cụ thể, sống động, nó cho thấy
sức mạnh của đám đông có thể làm nổi thuyền, có thể làm lật thuyền.
Trịnh Tông đúng là ông chúa bù nhìn, hắn lên ngôi chúa hoàn toàn nhờ
sự đưa đẩy tình cờ của số phận, tất cả chỗ dựa là đám lính tráng tự phát nổi
lên. Cho nên khi đã làm chúa rồi, vẫn không sao làm chủ được đám âm binh
làm loạn: phá nhà, giết người, cướp của... Trịnh Tông trở thành nhân vật hài
hước khi được bọn lính tráng đặt lên cái mâm rồi nâng lên hạ xuống như
“giỡn quả cầu” trong tiếng reo hò của đám loạn quân và dân hàng phố đông
như họp chợ...
Kiêu binh đã lập Trịnh Tông lên, cảnh khiêng Tông trên chiếc mâm gỗ,
đưa lên, đưa xuống, mọi người xúm lại đông như họp chợ. Hai tiếng “họp
chợ” thật mỉa mai! Họ lại đặt sập gụ ngoài phủ đường để đưa Tông lên ngôi.
Mấy chữ “ngoài phủ đường” cũng hài hước, chẳng có chút ụy nghiêm nào. Họ
lại xin di phá tất cả dinh cơ quận Huy, làm náo động kinh thành liền trong mấy
ngày.
Trái lại với sức mạnh bạo lực của kiêu binh, giai cấp thống trị tỏ ra hoàn
toàn bất lực và thảm hại.
Sự bất lực thảm hại của phe quận Huy đã quá rõ. Không đề phòng,
thiếu mưu lược, sờ đến cung thì cung đứt dây, sờ đến súng thì súng không
nổ! Hai anh em Huy bị giết nhanh chóng! Chúa thì chạy trốn, đói bụng khóc
nheo nhéo phải dọa bị bắt mới không khóc nữa. Những kẻ nắm quyền quốc
gia trong phủ mà như thế, thật là hài hước hết mức!
Phe theo Tông cũng bất lực không kém. Quận Châu lúc đầu theo Huy
đứng trong cửa định lên giọng đe quân lính. Kiêu binh mới đe một câu liền
mở cửa ngay. Thế mà khi kiêu binh đã giết hết anh em quận Huy rồi, Châu
còn phất cờ đuôi báo và khua chiêng thu quân, làm như mình đã là người chỉ
huy quân đội của phe Trịnh Tông vậy!
Đoạn trích cho thấy Trịnh Tông, Thánh mẫu chỉ là đám bèo bọt trôi nổi
trên bề mặt dòng thác lịch sử. Tông chỉ là con rối trong tay kiêu binh. Chỉ của
Thánh mẫu chỉ là bản viết tức thời trước việc đã rồi. Khi kiêu binh thừa thế đốt
phá, trả thù riêng, “Tông hạ chỉ ngăn cấm mà họ vẫn không thôi” chứng tỏ
Tông chẳng có chút uy quyền nào cả. Khi chúa vờ giết phứa “một người
thường dân” (vì không dám đụng vào kiêu binh!) thì việc phá phách mới tạm
ngừng, nhưng việc bắt người vẫn đang tiếp tục. Đoạn văn đã cho thấy làn
sóng nổi loạn của quân lính và số phận bèo bọt của một vương triều, chứng
tỏ sự thối nát cùng cực của một chế độ.
Có thề nói quận Huy và Trịnh Tông ở hai phía là những nhân vật của
một tấn bi hài kịch lịch sử nói về sự suy sụp của triều đại họ Trịnh. Một triều
đại phong kiến lâu đời, hiển hách đã rơi vào tình trạng suy sụp một cách thảm
hại. Bố chết nằm đấy, anh em đã xung đột, tranh nhau ngai vàng. Đám lính
tráng nổi lên làm chủ cả thành Thăng Long, phá nhà, đốt nhà, cướp của, giết
người vô tội vạ v.v... Quận Huy bị phanh thây. Trịnh Cán bị phế truất. Tất cả
là do bọn lính tráng, bọn bồi bếp tự phát nổi lên. Trịnh Tông lên ngôi mà bất
lực trước đám, âm binh bất trị... Đúng là tấn bi kịch lịch sử.
Nhưng chất hài của tấn kịch lịch sử này cũng rất rõ: Những nhân vật đã
bị lịch sử lên án, đã hết vai trò lịch sử, vẫn cố khẳng định uy quyền của mình
và trở thành những vai hề như quận Huy vẫn tin ở uy quyền của mình, biết
trước âm mưu nổi loạn của đám kiêu binh vẫn không thèm phòng bị gì, một
mình giữa đám loạn quân hung hãn vẫn quát tháo thị oai. Nhưng bắn cung
cung gẫy, bắn súng súng không nổ... cuối cùng bị kéo cổ xuống đất. Đúng là
hài hước. Trịnh Tông thì tuy vẫn được gọi bằng những danh hiệu những từ
ngữ trang trọng cao quy của bậc đế vương: thế tử, mặt rồng, Thánh chúa...
nhưng ngai vàng chỉ là cái mâm đặt trên vai đám lính tráng, để cho hàng phố
đến xem như họp chợ.
Những tư liệu được trình bày hết sức cụ thể, tỉ mỉ: về lai lịch tính cách
các nhân vật, về địa chỉ của các vụ việc, về âm mưu của các phe phái, về quá
trình hình thành, phát triển và kết thúc của sự kiện.v.v…Nghĩa là những tư
liệu đủ để dựng lại bộ mặt, không khí của lịch sử một cách cụ thể, sinh động.
Bút pháp tả thực của lối chép sử biên niên không che dấu một nụ cười
mỉa mai và xót xa trước tình cảnh đất nước bị rữa nát từ chính quyền trung
ương. Cơn hấp hối vào giờ chót của một triều đại bao giờ cũng chẳng là một
màn bi hài của lịch sử?
B. LUYỆN TẬP
1. “Chính kiến của tác giả Ngô Gia Văn Phái là muốn ca ngợi sự nghiệp
của nhà Lê nhưng ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt đã đi được chính kiến ấy”.
Hãy phân tích đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” để làm rõ ý kiến ấy.
2. “Cuộc đảo chính của đám kiêu binh trong phủ Chúa là một trò đùa,
một cuộc họp chợ nhưng mức độ tàn bạo có tính trung cổ”.
Hãy phân tích đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” để làm rõ ý kiến ấy.
3. Hãy phân tích màn hài kịch về sự đăng quang của Chúa Trịnh Tông
trong đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn”.
4. Phân tích nhân vật Quận Huy để cho thấy cái chết của y là tất yếu và
hài hước.
5. Hãy tìm một chi tiết hài hước độc đáo của đoạn trích. Kể lại và cho
thấy ý nghĩa của nó.
Phân tích đoạn “Quang Trung tiến quân ra Bắc” trong tiểu thuyết
“Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô Gia Văn Phái.
BÀI LÀM
1) Khái quát chung:
“Hoàng Lê nhất thống chí” là một trong những đỉnh cao của văn xuôi
viết bằng chữ Hán trong quá khứ. Tác phẩm này gồm 17 hồi, viết theo thể
“chí” - một thể tiểu thuyết cổ điển có nguồn gốc từ Trung Quốc (Đông Chu liệt
quốc, Tam Quốc chí...). Đó là một bức tranh rộng lớn về xã hội thời vua Lê -
chúa Trịnh, về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và sự kiện nhà Nguvễn thống nhất
đất nước.
Các tác giả của cuốn sách được gọi là Ngô Gia Văn Phái, gồm Ngô Thì
Chí, Ngô Thì Du và Ngộ Thì Thiến. Có nhiều tài liệu cho rằng phần chính biên
gồm 7 hồi đầu do Ngô Thì Chí viết; phần tục biên Ngô Thì Du viết 7 hồi, Ngô
Thì Thiến viết hồi cuối cùng... Điều lạ là lối diễn đạt trong việc dựng lại các sự
kiện và nhân vật lịch sử khá thống nhất. Nguyên tắc tôn trọng sự thật lịch sử
và giọng kể khách quan được các tác giả tôn trọng khá triệt để và thống nhất.
Tác phẩm viết theo lối chương hồi. Ở đầu mồi hồi bao giờ cũng có hai
câu văn biền ngẫu giới thiệu những sự kiện chính (hay nhân vật) diễn ra trong
hồi ấy. Hồi sách thường kết thúc ở những tình tiết hay, hấp dẫn sẽ được nói
tiếp ở những hồi sau để cuốn hút người đọc. Đó là kết cấu bề mặt của tác
phẩm.
Xung quanh việc xác định thể loại của “Hoàng Lê nhất thống chí”, có rất
nhiều ý kiến. Nếu căn cứ vào kết cấu bề mặt của tác phẩm, ta có thế coi đây
là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi. Nhưng nếu xét mức
độ hư cấu sự kiện và nhân vật lịch sử, tác phẩm thực chất chỉ là một cuốn kí
sự lịch sử ghi chép theo lối biên niên. Theo trên, ta có thể gọi “Hoàng Lê nhất
thống chí” là một cuốn truyện kí lịch sử (viết về người thật, việc thật nhưng
theo lối viết của tiểu thuyết).
Có một điều lưu ý thêm là tên của cuốn sách. Tác phẩm thường được
gọi là “Hoàng Lê nhất thống chí” hay “An Nam nhất thống chí”. Có lẽ tên gọi
sau chính xác hơn, vì cho đến cuối cuốn sách, nhà Nguyễn thống nhất đất
nước chứ đâu phải nhà Lê? Gọi theo lối thứ nhất, chẳng qua là do những
người viết vốn là trung thần nhà Lê (Ngô Thì Chí đã chết trên đường chạy
theo Lê Chiêu Thống sang Trung Quốc). Tên “Hoàng Lê nhất thống chí”, thực
chất là một hoài niệm đẹp; một ước muốn, một tình cảm “trung quân” cuối
cùng mà những người viết sách có thể làm được. Dĩ nhiên, do tôn trọng lịch
sử, các sự kiện được họ ghi lại, dù ngoài ý muốn, vẫn hoàn toàn là chân thật.
2) Nội đung:
2.1. Đoạn trích “Quang Trung tiến quân ra Bắc” kể lại sự kiện Quang
Trung tiến quân ra Bắc lần thứ hai (1788) lãnh trách nhiệm đánh đuổi xâm
lăng. Trước đó hai năm, Quang Trung đã kéo quân ra Bắc với mục đích “Phò
Lê diệt trịnh” (1786) và được vua Lê phong tước Uy quốc công, gả công chúa
Ngọc Hân và cắt đất Nghệ An cho Tây Sơn làm lễ khao quân... Lần này,
Nguyễn Huệ ra Bắc không phải với tư cách là một trung thần của nhà Lê.
Trong bối cảnh vua Lê Chiêu Thống đã bán rẻ nước ta cho nhà Thanh,
Nguyễn Huệ ra Bắc với tư thế của người anh hùng cứu nước; bảo vệ chủ
quyền thiêng liêng của dân tộc.
Sử cũ chép lại sự kiện này theo năm tháng và một vài tình tiết lịch sử
chính. Ví dụ, ngày 21 tháng 12 năm 1788 (tức ngày 24 tháng 11 năm Mậu
Thân), Nguyễn Huệ nhận được tin cấp báo của vua Ngô Văn Sở. Ngay hôm
sau, ông làm lễ tế trời đất, lên ngôi Hoàng Đế rồi xuất quân ra Bắc. Ngày 26
tới Nghệ An... Ngày 20 tháng chạp(25-1-1789) tới Tam Điệp... khoảng thời
gian Quang Trung chỉ huy quân đội Tây Sơn hành quân từ Phú Xuân ra tới
Tam Điệp diễn ra trong vòng một tháng.
Khác với biên niên sử, trích đoạn nói riêng (toàn tác phẩm nói chung)
tuy vẫn nhằm mục đích chép sử nhưng trích đoạn đã “chép” một cách chi tiết
các sự kiện và nhân vật lịch sử (tái hiện). Các sự kiện được thuật lại và được
tô đậm bằng miêu tả, các nhân vật không chỉ được nhắc tới với một vài nhận
xét tổng quát, chung chung mà được khắc họa khá toàn diện ở nhiều thời
điểm, ở hành động, ngôn ngữ... của nó. Nói khác đi, sự kiện và nhân vật lịch
sử ở đây đã được hình tượng hóa, trở thành những tình tiết và nhân vật của
văn chương.
2.2. Các tình tiết trong đoạn trích giảng không nhiều. Các tình tiết ấy
được thể hiện trùng với ba thời điểm chính ở ba địa điểm của cuộc tiến quân.
Ở Phú Xuân, sau khi nhận được tin cấp báo quân Thanh đã vào Thăng
Long, Quang Trung “giận lắm, liền họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm
quân đi ngay”. Nghe các tướng lĩnh phân giải, Nguyễn Huệ làm lễ lên ngôi
Hoàng Đế cho chính vị hiệu và làm yên lòng người, rồi “hạ lệnh xuất quân,
hôm ấy nhằm ngày 25 tháng chạp 01 năm Mậu Thân”.
Tới Nghệ An, Quang Trung cho mời Nguyễn Thiếp vào hỏi ý kiến và
cùng lúc, sai Hám Hổ hầu “kén lính”, “cứ ba suất đinh thì lấy một người”. Sau
đó, nhà vua “cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn”, tổ chức quân đội và
“cưỡi voi ra doanh yên ủy quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà nghe
lệnh”. Cuộc hành quân trên đất hậu phương được tổ chức khá chắc chắn: số
thân quân vùng Thuận Quảng được phiên chế vào bốn doanh tiền, hậu, tả,
hữu; số lính mới tuyển thì làm trung quân (đi ở giữa, có bốn doanh quân trên
bảo vệ).
Khi đến núi Tam Điệp, nghe kể quân Tây Sơn bỏ Thăng Long rút về
Tam Điệp, Quang Trung đoán biết ngay là kế củạ Ngô Thì Nhậm. Nhà vua tin
là sẽ đuổi được giặc Thanh trong 10 hôm; ông đã sai Ngô Thì Nhậm chuẩn bị
bang giao giữ hòa hiếu giữa hai nước. Cuối cùng, Quang Trung chia đội hình
hành quân theo thế trận xiết chặt vòng vây Thăng Long hết sức chính xác và
tài tình.
2.3. Qua những tình tiết trong ba thời điểm kể trên, các tác giả đã khắc
họa được khá nhiều nét tính cách của nhân vật vua Quang Trung.
Trước hết, Quang Trung là người anh hùng, có bản lĩnh, có tầm nhìn xa
trông rộng, biết việc, biết người và biết lắng nghe ý kiến của người khác.
Chính vì thế mà khi nghe tin quân Thanh vào Thăng Long, ông định kéo quân
đi ngay, tức là dám nhận lấy trách nhiệm trước lịch sử. Ông thực sự nhận
trách nhiệm đánh xâm lăng nhưng khi nghe lời các tướng lĩnh luận bàn, ông
làm lễ lên ngôi Hoàng Đế. Ông biết lắng nghe ý kiến của người khác nên khi
vừa tới Nghệ An, ông đã cho mời La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp vào hỏi ý
kiến. Được Nguyễn Thiếp phân tích rõ tình hình đất Bắc và cố vũ, Quang
Trung càng quyết tâm hành động hơn. Ông cũng đủ bình tĩnh và sáng suốt để
nghe Sở và Lân ra tạ tội ở Tam Điệp. Ông phân xử công, tội rất công minh;
biết chê và khen thuộc hạ dưới quyền thật đúng lúc. Đánh giá của ông về Ngô
Thì Nhậm thật công bằng và sáng suốt, có tác dụng động viên những người
hiền tài đem hết sức lực và tài năng cống hiến cho đất nước.
Qua đoạn trích, ta còn thấy Quang Trung là một người anh hùng giỏi
cầm quân.
Việc giỏi cầm quân của Quang Trung thể hiện rất rõ ở việc ông giỏi
thuyết phục và khơi dậy được ý chí cứu nước của binh sĩ. Đoạn văn tiêu biểu
khắc họa tính cách này của Quang Trung là đoạn ông “cưỡi voi ra doanh yên
ủy quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà nghe lệnh...”. Lời “yên ủy” của
ông cũng là “lệnh”? Là lời “yên ủy” khi ông phân tích truyền thống đánh giặc
vẻ vang của dân tộc, dã tâm xâm lược của nhà Thanh... Là “lệnh” khi ông
khép lại “những kẻ có lương tri lương năng, hãy nên cùng ta hiệp lực, để
dựng nên công lớn”, “kẻ nào ăn ở hai lòng... sẽ bị giết chết ngay tức khắc”.
Lời, ý đều hùng hồn, khúc chiết và tác dộng rất mạnh vào việc củng cố quyết
tâm đánh giặc cho tướng sĩ.
Tài giỏi cầm quân của Quang Trung thế hiện rất rõ qua việc ông chỉ huy
hai chặng đường hành quân. Chặng thứ nhất, cho đến nay, người ta vẫn
chưa lí giải được làm thế nào mà Quang Trung có thế đưa một đội quân lớn
từ Phú Xuân ra tới Nghệ An trong vòng có hai ngày! Từ đây, cuộc hành quân,
dù còn ở hậu phương (Thanh - Nghệ), Quang Trung đã rất thận trọng. Việc
đội trung quân, bao gồm lính mới tuyển ở Nghệ An, đi ở giữa đội hình tiền,
hậu, tả, hữu của thân quân nói rất rõ điều đó. Và ở chặng thứ ba, tuy chưa
nói đến ở đoạn trích, ta đã thấy cuộc hành quân được nhà vua tổ chức theo
đội hình chiến đấu, theo thế bàn tay năm ngón, xiết chặt lấy Thăng Long. Đó
chính là “phương lược tiến đánh đã có sẵn” và kết quả đã được nhà vua báo
trước “chẳng qua mươi ngày, có thể đuổi được người Thanh”.
3. Đoạn trích chỉ vẻn vẹn có năm trang sách. Mặc dù vậy, thông qua
những tình tiết chọn lọc, tiêu biểu, các tác giả đã kể lại khá chân thực cuộc
tiến công, dũng mãnh của quân đội Tây Sơn, trong đó hình ảnh người anh
hùng dân tộc Quang Trung được khắc họa thật đậm nét và độc đáo.
Trong mạch ngầm của đoạn văn, dù các tác giả đứng về phía nhà Lê
mà phản ánh lịch sử, ta vẫn thấy toát lên một niềm tự hào dân tộc thật sảng
khoái.
LUYỆN TẬP
1. Anh (chị) hãy tóm tắt ngắn gọn một trong hai đoạn trích của Hoàng
Lê nhất thống chí:
a) Kiêu binh nổi loạn.
b) Quang Trung tiến quân ra Bắc.
2. Đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” là “sự biến đầu tiên bộc lộ cuộc khủng
hoảng trong nội bộ giai cấp thống trị đương thời sau khi chúa Trịnh Sâm chết”
(SGK 11).
Anh (chị) hãy bình giảng đoạn trích để làm sáng tỏ nhận định trên.
3. Hình tượng vua Quang Trung dưới cái nhìn của Ngô gia văn phái -
một dòng họ cựu thần nhà Lê.
4. Bình giảng lời dụ của vua Quang Trung: “Quân Thanh sang xâm lấn
nước ta (...) chớ bảo ta không báo trước”.
5. Tại sao có thể nói: “Hoàng Lê nhất thống chí” là một truyện kí biên
niên sử.
BÀI CA NGẤT NGƯỞNG
NGUYỄN CÔNG TRỨ
A. BÀI VĂN
Phân tích bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ.
BÀI LÀM 1
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1859) là một ông quan lớn văn võ toàn tài
dưới triều Nguyễn. Nhắc đến ông người ta nhớ đến công lao khai khẩn đất
hoang, lấn biển, lập nên hai xã Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình).
Người ta cũng không quên một nhà thơ với những vần thơ đầy khẩu khí của
một bậc chính nhân quân tử về chí nam nhi phụng sự đất nước, về cái tôi
ngất ngưởng của một con người hiểu rõ về mình, về xã hội mà mình đang
sống. Nếu như Chí anh hùng tràn đầy khí phách của người tuổi trẻ, thì Bài ca
ngất ngưởng, được viết lúc ông đã thành danh, là bài thơ tổng kết về cuộc đời
và khẳng định cái tôi (bản ngã) của cụ Thượng Trứ.
Để làm rõ được cái tôi ngất ngưởng của mình, nhà thơ đã chọn thể hát
nói bằng chữ Nôm - một thể thơ tài tử của dân tộc tương đối tự do, viết ra
không phải để đọc mà để ngâm nga, hát xướng. Người thể hiện có thể theo
đà cảm xúc mà luyến láy cho phù hợp. Bài thơ vì vậy mà đầy âm sắc, nhạc
điệu.
Nếu tính cả nhan đề, bài thơ có đến năm lần dùng từ “ngất ngưởng”,
được đặt ở cuối mỗi đoạn như nốt nhấn của bài ca. Đây là cái dáng vẻ của
một tinh thần ngạo nghễ, tự coi mình, hơn người, trên thiên hạ. Đây cũng là
tư thế chung của toàn bài.
Mở bài ta bắt gặp sự khác đời trong cách tự giới thiệu về mình:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự.
Câu thơ chữ Hán tạm dịch là: Phàm những việc trong trời đất này
không có việc gì không phải là phận sự của ta - Tiếp theo tác giả dùng một
loạt từ Hán - Việt cùng thủ pháp liệt kê, kể cụ thể những chức tước danh
phận của mình: Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông.../ Lúc bình
Tây, cờ đại tướng/ Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên... Nhịp thơ trầm bổng
nhấn nhá của lối ca trù nghe thật êm đềm nhẹ nhàng như mặt sông mùa
xuân. Một sự khẳng định tài năng kiệt xuất của mình thật khéo mà cũng thật
kiêu ngạo khác đời. Nguyễn Công Trứ dám nói thẳng không hề né tránh.
Ngay cả cách đưa biệt hiệu “ông Hi Văn” vào bài cũng chẳng giống ai. Hi Văn
- chữ Hán có nghĩa là nhà văn hiếm. Tự gọi mình một cách trang trọng là ông
và nhận mình như vậy thì chỉ có ông. Nguvễn Công Trứ đã phá vỡ tính phi
ngã của thi pháp trung đại, không chịu ép mình vào cái ta chung của cộng
đồng, xã hội. (Ở câu cuối ta thấy ông còn tự tách mình ra, đối lập mình với cả
tầng lớp phong kiến). Tất nhiên ông có cái thế của một bậc đại nhân quân tử
để viết như vậy. Nhưng nói được như ông ở thơ văn trung đại không nhiều.
Nếu có chăng, trước đó có Nguyễn Trãi với một tình yêu lãng mạn ở Cây
chuối, Phạm Thái đau đớn xót xa đến tuyệt vọng trước cái chết của người
yêu trong Văn tế Trương Quỳnh Như. Gần nhất có cách xưng danh khắng
định mình của Hồ Xuân Hương (Này của Xuân Hương mới quệt rồi - Mời
trầu), hay Nguyễn Du (Thiên hạ ai người khóc Tố Như - Độc Tiểu Thanh kí).
Các nhà văn ấy vẫn còn nhún nhường, khép nép hoặc còn bóng gió, chung
chung.
Cái ngất ngưởng còn ở lối sống, cách sống khác đời. Nguyễn Công Trứ
là người biết sống. Khi trai trẻ, hoạt động hăng hái hết mình theo quan niệm
nhập thế hành đạo tích cực của nho gia, Trở về già thì sống nhàn hạ hưởng
lạc. Một trong những thú vui của ông là nghe hát ả đào (còn gọi là ca trù).
Người ta lên xe xuống ngựa xênh xang thì cụ Thượng Trứ ngao du sơn thủy,
thưởng lãm chùa chiền cùng các cô đầu bằng xe bò. Mà là bò cái vàng với cái
mo cau che sau đuôi. Cụ giải thích: Để che miệng thế gian:
Điển viên dạo chiếc xe bò cái
Sẵn chiếc mo che miệng thế gian
Sự ngông ngạo này chính ông đã nhận xét: Bụt cũng nực cười...
Nguyễn Công Trứ đã vượt ra khỏi lẽ sống được tầm thường ở đời:
Được mất dương dương người tái thượng
Khen che phơi phới ngọn đông phong
Khi cơ, khi tửu, khi cắc khi tùng
Không phật, không tiên, không vướng tục
Như trên đã nói, Nguyễn Công Trứ tự tách mình ra khỏi cái trật tự xã
hội nhố nhăng, ô uế, bẩn thỉu, nhiều kẻ vỗ ngực là quân tử nhưng thực chất
chỉ là hạng cây vông: Tuổi tác càng già càng xốp xáp/ Ruột gan không có, có
gai chông (Vịnh cây vông).
Ngông ngạo nhưng ở hai bài này Nguyễn Công Trứ không rơi vào tình
thế bi quan bế tắc hay phá phách bất cần đời như một số nhà văn lãng mạn
sau này. Mục đích sống của ông rất rõ ràng: Phò vua giúp nước:
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Hay như có lần đối lại ý của một nhà sư ông hóm hỉnh nêu:
Hay tám vạn nghìn tư mặc kệ
Không quân thần phụ tử đếch nên người.
Nói khác đi, sự ngất ngưởng của ông ta là để nhằm lật tung cái trật tự
xã hội phong kiến đương thời tưởng như yên ả bằng phẳng nhưng thực chất
thối nát, mục ruỗng đến cùng cực. Ông không muốn mình bị “đồng hóa” cùng
hội cùng thuyền với lũ tham quan vô lại.
Vì vậy tiếng cười tự trào của Nguyễn Khuyến có ngạo nghễ nhưng
không ngoa ngôn, lộng ngữ, vừa cụ thể lại vừa có tính biểu tượng, vừa có
chút trào phúng lại vừa mang tính triết lý, thể hiện quan niệm sống của nhà
thơ.
Thơ văn Nguyễn Công Trứ vốn phóng khoáng ngang tàng như bản
chất con người ông. Bài ca ngất ngưởng là một trong những bài thơ hay được
nhiều người nhắc đến với sự tán thưởng thích thú. Một phần bởi bài thơ giàu
tính nhạc, nhưng phần lớn bởi bản lĩnh vững vàng cứng cỏi của con người tài
năng xuất chúng này. Nguyễn Công Trứ đã thổi một luồng sinh khí mới lạ cho
văn chương đương đại, đưa yếu tố cá nhân, cái tôi cần được giãi bày vào
trực tiếp trong văn chương. Đó cũng là một trong những bước đệm quan
trọng để văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX có những bước chuyến
mình vượt bậc, bước qua cái ta, giải phóng yếu tố cá nhân, cho văn chương
Việt Nam tiến kịp nền thơ ca nói riêng và văn học nghệ thuật hiện đại thế giới
nói chung.
ĐINH THỊ THÚY LAN
BÀI LÀM 2
Từ xa xưa đến nay, thơ trước hết là tấm gương phản chiếu tâm hồn và
tình cảm của chính nhà thơ. Không những thế, qua thơ người đọc còn thấy
rất rõ cốt cách và phong độ của mỗi thi nhân. Ai đó đã nói: Văn là người. Điều
đó thật đúng với những nhà văn, nhà thơ lớn. Ở họ văn với người là một, con
người trong văn chương và con người ngoài đời tuy không hẳn đồng nhất,
nhưng rất thống nhất. Nguyễn Công Trứ thuộc những nhà văn như thế. Cho
nên, qua Bài ca ngất ngưởng ta có thể hình dung rất rõ chân dung một
Nguyễn Công Trứ tự họa.
Bao trùm lên toàn bộ bài ca là hình tượng một con người “ngất
ngưởng”. Nhưng đó không phải là cái ngất ngưởng của một người gàn dở, tự
hợm mình và hợm đời, mà lài cái ngất ngưởng của một con người đầy tự tin
và đầy tự tin và đầy bản lĩnh. Con người ấy ý thức rất rõ về tài năng và phẩm
giá của chính mình. Cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ không phải là
kiểu sống ngất ngưởng thông thường mà là một lối sống độc đáo, một vẻ đẹp
ngang tàng, phóng túng của một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.
Chẳng thế mà ngay từ câu đầu của bài ca, Nguyễn Công Trứ đã coi:
mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không phải nhận sự của ông “Vũ trụ
nội mạc phi phận sự”. Câu thơ toàn là âm Hán, vang lên trang trọng, thiêng
liêng, biểu lộ một thái độ đầy tự tin, kiêu hãnh và một ý thức rất sâu sắc về
trách nhiệm của chính mình. Không phải ngẫu nhiên mà khi đọc thơ văn
Nguyễn Công Trứ chúng ta thấy rất nhiều lần ông nhắc tói “Chí nam nhi”, “Chí
làm trai”, “Chí tang bồng”, “Phận sự làm trai”, “Nợ nam nhi”, “Nợ tang bồng”...
Phải chăng đó chính là lẽ sống nhập thế tích cực của một nhà nho chân
chính. Trong bài thơ này thái độ tự tin, kiêu hãnh ấy lại được thể hiện bằng
một giọng diệu “ngất ngưởng”, “ngang tàng”. Cứ xem cách xưng hô ở câu thơ
thứ hai, Nguyễn Công Trứ tự gọi mình là “Ông Hi Văn”, tự giới thiệu chính
mình là người có tài lớn và coi việc ra làm quan như “đã vào lồng”, ta cũng đủ
thấy rõ thái độ người viết vừa như trang nghiêm lại vừa như “u mua”, hài
hước.
Thái độ ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ không phải chỉ lúc làm
quan đương chức “Khi Thủ khoa, khi Tham tá, khii Tổng đốc Đông”. Hoặc:
“Lúc Bình Tây, cờ Đại tướng; có khi về Phủ doãn Thừa Thiên” mà sau khi về
hưu, không làm quan nữa, thái độ ấy càng thêm đậm nét, tính cách “ngất
ngưởng” càng thêm ổn định. Phải chăng khi đã thoát ra khỏi chốn quan
trường, khi đã “tháo cũi, sổ lồng”, không chịu một sự ràng buộc nào nên ông
càng trở nên “ngất ngưởng”. Ông ngất ngưởng trong cung cách sống. Một
cách sống có vẻ khác người, ngược đời: Người đời thường cưỡi ngựa,
Nguyễn Công Trứ cưỡi bò, đeo nhạc ngựa và thung dung trong tư thế:
“Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gói tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng bật cười ông ngất ngưởng”
Không chỉ mình cung cách sống, thái độ ngất ngưởng của ông còn thể
hiện rất rõ trong quan niệm được mất và sự lạc quan, bình thản trước cuộc
đời:
“Được mất dương dương người Tái thượng
Khen chề phơi phới ngọn đông phong”.
Cũng giống như chuyện ông già biên ải mất ngựa (Tái ông thất mã),
Nguyễn Công Trứ quan niệm được mất là lẽ thường tình; ở đời may rủi hay
sướng khổ đều như nhau, vì thế không có gì phải vội vàng hốt hoảng. Cũng
như khen chê là chuyện bình thường, có gì mà phải bi quan sầu muộn, hãy
phơi phới như ngọn đông phong; hãy “quảng gánh lo đi mà vui sống” (Lâm
Ngữ Đường).
“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không Tiên, không vương tục”.
Trong xã hội phong kiến, một xã hội đầy những khuôn mẫu, lễ nghi và
nhiều luật lệ hết sức chặt chẽ, hà khắc, quan niệm và cách sống ngất
ngưởng, “ngông nghênh” kiểu Nguyễn Công Trứ như trên quả là một sự
thách thức, một sự “chòng ghẹo” cuộc đời. Thực ra thái độ và cách sống ấy
của ông được bắt nguồn từ một bản lĩnh và một ý thức muốn khẳng định cái
cá nhân độc đáo của mình. Dường như ông muốn chống lại sự vùi dập và
bóp nghẹt cái tôi cá nhân của xã hội phong kiến thời bấy giờ. Mặt khác, quan
niệm và cách sống ấy cũng bắt nguồn từ sự tự ý thức rất rõ về tài năng và
phẩm giá của chính bản thân mình. Chẳng thế mà ông tự ví mình với bao
danh tướng từ đời Hán đến đời Tống của Trung Hoa: “Chẳng Thái, Nhạc
cũng vào phường Hàn, Phú”. Chẳng thế mà ông đau đáu một tấm lòng trước
sau thủy chung như nhất: “Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn sơ chung”. Câu thơ
rưng rưng một niềm cảm động và vang lên như một lời thề son sắt. Sinh ra và
lớn lên vào buổi giao thời cuối Lê đầu Nguyễn, ông đỗ đạt và làm quan vào
thời kỳ mà nhà Nguyễn mới thống nhất đất nước, chấm dứt nội chiến, củng
cố quân quyền và phục hưng nho học. Hoàn cảnh lịch sử ấy là cơ sở tinh
thần cho cả một tầng lớp nho sĩ đang hăm hở bước vào một triều đại mới với
một lẽ sống mới, cố gắng vươn lên trong một vận hội mới để khẳng định
mình. Chính Nguyễn Công Trứ từng tự nhủ:
“Đã sinh ra ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
Ông tâm niệm và đã làm được hơn thế. Tên tuổi của ông đã được non
sông ghi nhận. Hình bóng và phong cách của Nguyễn Công Trứ vẫn còn in
đậm trong mỗi trang thơ của chính ông.
Kết thúc bài ca, Nguyễn Công Trứ viết: “Trong triều ai ngất ngưởng như
ông!”. Câu thơ buông lấp lửng: vừa như hỏi vừa như khẳng định; vừa như tự
hào, ngợi ca, vừa tự giễu mình một cách thấm thìa; vừa như là lời tự bạch
của ông, lại vừa như một nhận xét bình giá của người đời... Đúng như câu
thơ và cả bài thơ cũng “ngất ngưởng” như ông vậy. Cái vẻ đẹp ngất ngưởng
từ bài ca và cuộc đời Nguyễn Công Trứ đã trở thành một cách sống, một mẫu
hình in đậm trong hàng loạt nhà nho tài tử sau này. Ta như còn gặp lại hình
bóng và cốt cách ấy của ông ở một Tú Xương, một Tản Đà - Nguyễn Khắc
Hiếu và phần nào ở nhà văn Nguyễn Tuân ngày nay.
LUYỆN TẬP
1. Bài thơ có tất cả bao nhiêu từ “ngất ngưởng”? Hãy giải thích từng
câu thơ có từ đó để cho thấy quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ.
2. Cuộc đời của Nguyễn Công Trứ có nhiều lúc “lên voi” nhưng cũng
lắm phen “xuống chó”. Tại sao tổng kết đời mình, ông không nhắc những năm
tháng bi cực của mình?
3. Khi gọi mình là “ông ngất ngưởng” nhà thơ đã lạ hóa chính mình.
Điều này có ý nghĩa gì trong việc bộc lộ cá tính của Nguyễn Công Trứ?
4. Nên hiểu câu:
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng như thế nào? Thực ra Bụt có cười
khi thấy “dạng từ bi” của “tay kiếm cung”?
5. Có ý kiến cho rằng tùng trong câu thơ sau là cây tùng - một biểu
tượng của đấng trượng phu mà nhà thơ rất tâm đắc.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Anh (chị) hiểu từ này như thế nào?
6. Khi nhà thơ viết:
Khônq Phật, không Tiên, không vướng tục
thì Nguyễn Công Trứ đã khẳng định mình là người như thế nào?
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về “Người thiếu phụ Tây Phương”)
CAO BÁ QUÁT
A. BÀI VĂN
Phân tích bài “Dương phụ hành” của Cao Bá Quát.
BÀI LÀM
Vẫn thể Đường thi xưa, vẫn âm điệu, vần luật cũ, nhưng từ đề tài, nhân
vật, đến kết cấu, cách nhìn, cảm xúc... có nhiều điểm mới. Hình như trước
Cao Bá Quát chưa ai viết như vậy. Tám câu thơ, hai khổ tứ tuyệt, không cần
đề, thực, luận, kết. Vào bài, rồi vẽ người, dựng cảnh luôn. Bức tranh hiện rõ
hai hình ảnh đối mà không chọi, đối mà không cân xứng, quá xa với quan
điểm hội họa phương Đông. Người thiếu phụ Tây Dương tọa hưởng hạnh
phúc lứa đôi dưới trăng sáng (tọa minh nguyệt) chiếm lĩnh rộng, dài suốt bảy
dòng thơ. Chỉ còn lại mấy chữ cuối “Nam nhân hữu biệt li” - người Nam đang
chịu cảnh cô đơn li biệt, - dành cho nhà thơ, một đấng mày râu vốn ngang
tàng khinh bạc. Đọc suốt mấy trăm năm thơ văn trung đại nước ta, kể từ thời
Lí - Trần, đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm,
Nguyễn Gia Thiều..., chúng ta chỉ gặp toàn những hình ảnh, những cảnh đời,
những số phận khổ đau, bất hạnh, bị lệ thuộc, bị khinh rẻ, lãng quên. Chưa
thấy một ai, chưa có một chân dung nào của “thân bồ liễu” được văn chương
tái tạo rõ nét, mạnh bạo, vừa đẹp đẽ, vừa chứa chan hạnh phúc như thế. Từ
cái áo “trắng như tuyết”, đến cái cử chỉ “kéo áo chồng”, rồi cách cư xử bình
đằng, quá bình đẳng “tay biếng cầm cốc sữa... nũng nịu đòi chồng đỡ dậy...”.
Tất cả cứ diễn ra đàng hoàng, tự nhiên giữa biển trời, dưới trăng sáng, thách
thức cả gió rét đêm sương. Bài thơ có ba nhân vật. Một phụ nữ như thế, hồn
nhiên, chủ động. Còn hai người đàn ông? Người chồng... thì đã đành. Anh là
cội nguồn cho ra hạnh phúc cho nàng, anh sẵn sàng “để nàng tựa vai”, “đòi
nâng đỡ dậy”, như chiều chuộng, như nâng niu. Còn nhà thơ của chúng ta,
khác gì ngọn đèn trước trăng sáng, hòn đảo giữa biển khơi. Trăng và biển là
thiên nhiên, là vũ trụ, cũng là ánh sáng trong lành, là bao la trời đất soi to, chở
che hạnh phúc mà người phụ nữ kia đang được hưởng. Nhìn thấy nhỡn tiền
rồi ghi lại bằng những câu thơ uyển chuyển, chân xác với một cảm hứng trân
trọng, đồng tình, không chút ghét ghen, đố kị, nhà thơ - vốn lớn lên từ cửa
Khổng sân Trình, nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ - phải có một nhãn quan
đổi mới, một cách nhìn mạnh bạo lắm lắm! Cách nhìn ấy vừa tạo những cảm
xúc thẩm mĩ mới, vừa góp phần tự phê phán tích cực:
Tân Gia từ vượt con tàu,
Mới hay vũ trụ một màu bao la.
Giật mình khi ở xó nhà,
Văn chương chữ nghĩa khéo là trò chơi
Có thể nói “sự bừng tỉnh” của một số nhà nho sĩ nước ta khi xúc tiếp
với thế giới bên ngoài, từ Lê Quí Đôn (thế kỉ XVIII), đến Cao Bá Quát (giữa
thế kỉ XIX), sau này có Nguyễn Trường Tộ, đã cất lên những tiếng nói dũng
cảm chống lại những quan điểm bao thủ hẹp hòi, tư tưởng “duy ngã độc tôn”
không chỉ trong tầng lớp thi thư mà cả tỏa ánh sáng ra toàn xã hội. Phải
chăng cũng từ đó mà suốt cả trăm năm trên đất nước Việt Nam luôn xuất hiện
những hành động phản nghịch, những con người phản nghịch chính đáng.
Đáng tiếc là giai cấp phong kiến thống trị từ Lê Trịnh đến nhà Nguyễn quá trì
trệ, bảo hoàng. Trở lại với bài Dương phụ hành, chúng tôi thấy, tuy vóc dáng
nhỏ nhắn, nó vẫn đủ tư thế đế mở cửa cho cuộc hành trình mới, một cách
nhìn một mơ ước, một khát vọng.
Chúng ta hãy ngắm lại bức tranh đời mà nhà thơ đã vẽ. Tám, chín phần
dành nét tằi hoa, sảng khoái cho hạnh phúc lứa đôi của thiên hạ. Chỉ còn một
hai phần chấm phá về mình. Thiên hạ “tọa minh nguyệt” - ngồi dưới trăng
sáng. Còn mình: “đăng hỏa minh” - ngọn đèn sáng (bản dịch là “đèn le lói”, e
không sát ý tình của thơ). Thiên hạ thì chồng vợ để huề, áo ấm, miếng ngon.
Còn mình thì “hữu biệt li” - chỉ có sự biệt li làm bạn. Cùng một gầm trời, cùng
cảnh ngộ lênh đênh đất khách, mà sao đôi nơi ấm lạnh khác vời làm vậy? Kết
bài là một câu thơ buông lửng: “khởi thức Nam nhân hữu biệt li” - Hỏi có biết
người Nam đang ở cảnh biệt li? Nửa muốn hỏi người, nửa tự thán, bùi ngùi,
cám cảnh cho mình. Phảng phất đâu đây cái âm hưởng trong câu thơ nổi
tiếng của Nguyễn Du: “Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”. Nguyễn Du dám
xưng tên với thiên hạ. Thật là mạnh dạn và thống thiết. Còn Cao Bá Quát,
Chu Thần tiên sinh từng nổi tiếng một thời, chỉ tự gọi mình là “nam nhân”, một
người phương Nam nào đó, vô danh, vô ảnh. Khiêm tốn và đắng cay biết
nhường nào! Nếu hiểu rằng thời gian làm bài Dương phụ hành này, Cao Bá
Quát đang chịu án phạm luật về thi cử, bị cách chức, làm tùy tùng hầu hạ phái
bộ An Nam đi công cán Tân Gia Ba, chúng ta thấm thìa hơn cái thân phận
đớn đau và cảm xúc nhân tình, nhân ái của cụ. Thấy người hạnh phúc, mừng
cho người, không chút tị hiềm, dè bỉu, còn mình bất hạnh, bất hạnh từ cái
danh kẻ sĩ đến cái tình phu thê, cố hương, cố quốc..., chỉ đành lặng im,
nhưng là sự lặng im trong suy nghĩ, đối chất, chứ không phải lặng im đầu
hàng.
Cổ nhân nói: “Người cùng thì thơ hay”. Cao Bá Quát cũng đã nói
“Người cùng thơ dễ hay, người đạt thơ khó hay”. Quan điểm của thầy Huấn
đạo họ Cao không cực đoan như người cổ. Song đọc những bài thơ của cụ,
đến bài Dương phụ hành này, chúng ta vẫn thấm sâu hơn cái chân lí: Muốn
có thơ hay, nhà thơ phải từng nếm trải những cay đắng của cuộc đời, chí ít
cũng phải biết cảm thông, chia sẻ với những con người đắng cay, cùng cực.
Điều cao cả hơn nữa ở hồn thơ Cao Bá Quát là: Trong khi mình cay đắng,
cùng cực như thế, mà vẫn chấp nhận và trân trọng vị ngọt ngào, hạnh phúc
của người khác ở những phương trời khác. Bài thơ Dương phụ hành, vì thế
vừa ló dạng một cách nhìn mới mẻ, vừa đậm đà cảm hứng nhân văn. Tất cả,
bắt nguồn từ một bản lĩnh làm người, bản lĩnh Cao Bá Quát.
VŨ DƯƠNG QUỸ
B. LUYỆN TẬP
1. Nhìn người đàn bà phương Tây xa lạ, Cao Bá Quát đã miêu tả hình
thức và lối ứng xử của một nền văn hóa xa lạ.
Do đâu mà nhà thơ lại tỏ cái nhìn đầy cảm tình với đôi lứa Tây phương
ấy?
2. Màu trắng thường là y phục tang lễ của người phương Đông. Cao Bá
Quát nhìn màu trắng ấy ở người phụ nữ phương Tây rất đẹp”
Hãy phân tích ý kiến trên.
3. Do đâu mà tác giả biết cuộc đối thoại của đôi vợ chồng phương Tây
là đang quan tâm tới “thuyền Nam đèn le lói”
4. Ngọn gió bể trong đêm sương thổi lạnh có ý nghĩa như thế nào với
vợ chồng người phương Tây và với thân phận cô đơn của một người đang
ngắm họ.
5. Câu thơ cuối cùng
Biết đâu đến khách biệt li này
Nó gợi lên từ cảnh âu yếm hạnh phúc của lứa đôi kia.
Anh (chị) có thế đoán được tâm trạng bên trong của người đang thốt ra
câu thơ đó.
Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát với thi pháp văn học trung đại qua
“Bài ca ngất ngưởng” và “Dương phụ hành”.
YÊU CẦU
Đây là một đề khó, có tính lí luận, đòi hỏi phải hiểu biết ít nhiều về thi
pháp, thi pháp văn học trung đại, thi pháp văn học hiện đại.
Với trình độ học sinh lớp 11, dù là học sinh giỏi, học sinh chuyên Văn,
đề cũng chỉ yêu cầu nêu được mấy ý chính sau:
- Bài ca ngất ngưởng và Dương phụ hành đã có phần “vượt rào” thi
pháp văn học trung đại đề cao cá tính, ý thức tự khẳng định, bộc lộ tình cảm
nhân bản riêng tư, đặc biệt là tình cảm nam nữ, đề cao sự bình đẳng giữa
nam và nữ trong quan hệ tình cảm.
- Tuy nhiên cả hai bài đều vẫn nằm trong thể thi pháp văn học trung đại
bởi vẫn nêu cao đặc trưng, vẫn dùng điển tích (Bài ca ngất ngưởng), bởi vì
chỉ bộc lộ tính cách riêng một cách dè dặt, kín đáo (Dương phụ hành), về
phương pháp làm bài, đề không yêu cầu phải giới thiệu về thi pháp mà yêu
cầu phân tích bài thơ dưới ánh sáng của thi pháp để thấy phần “vượt rào” và
phần chưa “vượt rào” văn học trung đại ở hai bài thơ.
BÀI LÀM
Xuất hiện vào những năm cuối của thế kỉ XIX Dương phụ hành của
Cao Bá Quát và Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ đã ghi được
những dấu mốc trên tiến trình văn học trung đại Việt Nam, được coi như một
sự vượt rào về thi pháp, một báo hiệu về thời cận đại.
Nói đến văn học trung đại là nói đến tính phi ngã và tính quy phạm. Từ
trước đến nay chúng ta đều quan niệm tính quy phạm của dòng văn học trung
đại là một bức thành kiên cố. Nó đã bó buộc, giam hãm nguồn cảm xúc của
thi nhân, không để cho nguồn cảm xúc ấy tuôn trào một cách tự nhiên dù nó
là một tình cảm nhân bản rất con người. Rất ít nhà thơ thời kì này nhận thức
được đúng đắn những hạn chế đó. Dòng cảm xúc trong con người họ đã bị
ức chế, bị dồn nén và bị uốn theo một lối mòn “muôn thuở”. Nhưng đã có
những con người không đi theo vết xe của người đi trước, họ đã tìm đến
những lối rẽ mới, thể hiện đầy đủ hơn tính người và rõ nét hơn bản ngã của
cá nhân. Vì thế khi Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ) và Dương phụ
hành (Cao Bá Quát) ra đời đã mang đến cho ta những tư tưởng tình cảm
mới, cách nhìn mới từ xưa đến nay chưa mấy ai khơi nguồn.
Ngược dòng thời gian trở về với lịch sử của dân tộc dưới chế độ phong
kiến, chúng ta nhận thấy có một lớp sương mờ đang bao trùm lên khắp bầu
trời và xã hội Việt Nam. Con người ấy, xã hội ấy cứ bình lặng trôi xuôi, không
có một sự cựa quậy, phản kháng, khẳng định cá tính. Chế độ phong kiến
không công nhận cá nhân, tỏa chiết những tình cảm tự nhiên của con người
trong vòng kim cô của lễ giáo và tôn ti trật tự. Nhưng khi thưởng thức cái âm
hưởng hùng mạnh trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, chúng ta
thấy ông cha ta không phải ai cũng chịu cúi đầu. Trong bài thơ ta thấy nổi
cộm lên cá tính của một tâm hồn tự do phóng khoáng, thích nói đến bản thân
mình, kể cả những cái riêng nhất, cái mà dòng văn học trung đại không bao
giờ đề cập đến. Mở đầu bài thơ Nguyễn Công Trứ đã khẳng định một cách
hùng hồn vai trò của mình:
“Vũ trụ nói mạc phi phận sự”
Đâu còn tư tưởng vô vi của Lão - Trang. Lòng nhiệt tình, niềm say mê
với công việc và trách nhiệm đã giúp ông ý thức được vai trò của mình trong
cuộc đời, trong xã hội. Ở đây ta bắt gặp một hình ảnh của thiên nhiên: đó là
vũ trụ - một hình ảnh quen thuộc và chiếm ưu thế trong thơ ca trung đại.
Nhưng không gian vũ trụ trong câu thơ này lại không chiếm lĩnh tất cả. Tồn tại
song song với nó còn là không gian xã hội - mà ở đây chính là vai trò cá nhân
của tác giả. Nguyễn Công Trứ không trở về với không gian tình tại, với mây
ngàn bạc nội, núi cao suối vắng, trầm tư sau lũy tre làng hoặc lặng lẽ bên
luống cúc, thư trai mà với bản lĩnh và ý thức về trách nhiệm của mình, ông đã
hòa mình vào cái náo nức hồ hởi, cái vòng đời đang lăn chuyển trong xã hội.
Rõ ràng trong cái thế thừa đã bước đầu có sự cách tân, dọn đường cho một
phong cách nghệ thuật mới sinh động nảy nở...
Sau khi thể hiện mình một cách tổng quát nhất, cái “tôi" đã bắt đầu
khoa trương về cuộc đời, về những lần thi thố tài năng của mình với một
giọng thơ say mê nhiệt huyết. Lời thơ dài ngắn khác nhau, ngắt nhịp theo lời
kể và đặc biệt là với cách dùng từ “khí”, Nguyễn Công Trứ đã khắc họa một
cách chính xác, đàng hoàng về tài năng của mình. Khi Nguyễn Công Trứ viết:
“Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”, ta thấy nảy sinh ra một mâu thuẫn. Bản thân
ông tự thấy mình cần phải có phận sự đối với trời đất, có trách nhiệm với
cuộc đời. Vậy mà khi làm quan, khi mà ông có điều kiện để thể hiện rõ nhất
phận sự của mình thì ông lại cảm thấy bị như bị vào “lồng”. Nguyễn Công Trứ
đã gọi việc ra làm quan tựa như một cái “lồng”. Một hình ảnh thật mới mẻ,
thật táo bạo. Thời ấy ai dám nói như Nguyễn Công Trứ bởi việc ra làm quan
tuy có nhiều ràng buộc song nó vẫn là đối tượng của sự tôn kính, ngưỡng
vọng của người đời... “Vào lồng” rồi ông vẫn tiếp tục chơi ngông.
“Gồm thao Xược đã nên tay ngất ngưởng”
Giọng văn hơi khoa trương mà không hề gây khó chịu bởi nhà thơ rất
có ý thức về tài năng và phẩm hạnh của mình. Cá tính của nhà thơ còn xuyên
suốt khắp bài thơ, nó như một đốm sáng làm cho giá trị của tác phẩm thêm
rực rỡ lung linh. Nguyễn Công Trứ là một con người của tự do, một tâm hồn
phóng khoáng và ưu hoạt động. Chính vì thế khi bị giam chân vào trong cái
“lồng” của xã hội thì cũng là lúc ông có dịp để thể hiện cái “ngất ngưởng” của
mình rõ hơn cả. Nhưng chế độ phong kiến hà khắc đã không dung nạp cái
thói ngạo nghễ, khinh đời đầy ý thức cá nhân của ông. Song Nguyễn Công
Trứ không hề cúi đầu khuất phục mà cái “ngất ngưởng” trong ông lại như có
động lực thúc đẩy để phát triển lên tới đỉnh cao của cá tính. Khác hẳn với cái
ta chung chung, mang tính chất tập đoàn, Nguyễn Công Trứ đã tự xưng danh,
biến cái ta thành cái tôi, thành lẽ sống cho bản thân mình.
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”
Có lẽ khi ra làm quan, cá tính của Nguyễn Công Trứ phần nào vẫn bị
chế độ phong kiến chi phối, lấn át nên bây giờ khi đã thôi làm quan thì cá tính
kia mới bộc lộ một cách đầy đủ nhất, mãnh liệt nhất bởi không có gì ràng
buộc. Việc cho bò đeo nhạc ngựa thời ấy đã là ghê gớm lắm rồi, vậy mà khi
đến nơi cửa phật ông còn mang vài cô “Kiều” mà ông tả là “gót tiên đủng
đỉnh”. Mức độ ngang tàng giờ đây đã phát triển lên đỉnh cao và nhà thơ của
chúng ta đã quên đi hết thảy những ràng buộc cấm kị của thi pháp trung đại,
cái thú vị hành lạc của nhà thơ bắt đầu thể hiện. Ông đã từng nói “cuộc hành
lạc chơi đâu là lãi đấy”.
Nguyễn Công Trứ đã xé rào thi pháp văn học trung đại lúc nào cũng
không biết. Tư tưởng của nhà thơ là một tư tưởng cách tân mang đậm dấu ấn
thời đại bởi nó không chỉ là sự cách tân bằng văn hóa mà bằng cả cuộc đời
ông đang sống. Sự thoát li với thế lực còn thể hiện ở câu thơ:
“Kia núi nọ phau phau mây trắng...”
Sức chiếm lĩnh của không gian lên cao của thi pháp trung đại không
phải là nhạt nhòa trong phong cách thơ của nhà thơ. Lên cao để mà thoát tục,
xa lánh bụi trần là một sở thích của thi nhân thời xưa. Nguyễn Công Trứ cũng
muốn hòa mình vào thiên nhiên cao rộng để cho lòng thêm thanh thản sáng
trong.
Có thế nói cá tính ngông của Nguyễn Công Trứ thể hiện đầy đủ nhất,
toàn diện nhất khi ông viết câu thơ:
“Được mất dương dương người tái thượng”
Điển cố một lần nữa trở lại với thơ ông. Rõ ràng sức nặng của thi pháp
trung đại vẫn chiếm lĩnh tư tưởng của nhà thơ. Nhưng ta vẫn thấy cái gì đó
mới mẻ lớn lao đằng sau cái “dương dương” tự đắc của Nguyễn Công Trứ
vậy.
Nguyễn Công Trứ tuy đã có sự ngấp nghé vượt rào thi pháp trung đại
nhưng ông vẫn luôn ý thức được cái gì cần phải có và quay trở về với quỹ
đạo của cương thường, có khi đến mức tôn thờ:
“Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”
Văn học trung đại đã có nhiều trang viết về đạo trung quân. Nguyễn
Công Trứ đã đi theo con đường đó để kế thừa và thể hiện cái đạo cao quý
trong con người của mình. Rồi sau đó ông lại viết: “Trong triều ai ngất
ngưởng như ông”. Nhà thơ xưng “ông” với thiên hạ, với cuộc đời, không ngại
ngùng dè dặt mà vẫn hiên ngang. Rõ ràng cái “ngất ngưởng” ở đây đã trở
thành một hình tượng tự thuật độc đáo, có ý vị hài hước. Nhưng đàng sau nụ
cười đó lại là một thái độ, một quan niệm nhân sinh ít nhiều mang màu sắc
hiện đại bởi nó đã đề cao vai trò cá nhân với sự khẳng định cá tính, không đi
theo con đường chính thống sáo mòn trong đó chỉ có hình ảnh tập đoàn cùng
những giáo điều khô khan, còn quyền sống của con người bị che lấp vùi dập.
Nguyễn Công Trứ đã vượt lên trên cái đó với một phong cách nghệ
thuật nỗi bật. Ông đã dùng hình tượng phi chính thống, nói nhiều đến cái tôi,
bước đầu phá vỡ tính quy phạm của văn học trung đại. Nhìn chung Nguyễn
Công Trứ đã vượt xa thời đại của ông rất nhiều.
Nếu chỉ có mình Nguyễn Công Trứ dám vượt rào thi pháp văn học
trung đại thì sự cách tân kia cũng chưa phải là đáng kể. Cùng với Nguyễn
Công Trứ, Cao Bá Quát một lần nữa đã làm cho “hàng rào” của thi pháp trung
đại bị đẩy lùi, bị lung lay. Nếu như Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
đem lại cho ta một tâm trạng hồ hởi, náo nức thì Dương phj hành lại len vào
trong hồn ta với một chất tình man mác, tràn đầy tính nhân văn, nhân bản. Bài
thơ đã khắng định, đã đề cao những tình cảm riêng tư của con người. Đó là
một nguồn cảm hứng rất đổi thân thuộc đối với thi nhân nếu như họa không bị
thi pháp văn học trung đại phong tỏa. Đọc bài thơ ta như lạc vào một miền đất
mới mà trên đó nảy sinh biết bao tâm tư tình cảm của con người, vẫn là một
bài hành - một thể loại phổ biến của thi pháp trung đại cùng với không gian lữ
thứ của một chủ thể trữ tình li hương song bài thơ lại được tác giả thổi vào
một cái nhìn mới lạ, mang đậm tính nhân văn cao đẹp. Sự cách tân đã bước
đầu thế hiện:
“Thiếu phụ Tây Dương áo trắng phau”
Người thiếu phụ phương Tây hiện ra với một cái nhìn trân trọng và trìu
mến của tác giả. Lịch sử văn học đã mấy ai dám đưa hình ảnh người phụ nữ
vào trong văn thơ táo bạo như Cao Bá Quát, mà lại là hình ảnh người đàn bà
phương Tây đầy xa lạ. Ông nói thẳng vào điều mình nhìn thấy, không vòng
vo, không còn những ước lệ đặc trưng dành cho người con gái như trong thơ
Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều. Cái đập vào mắt nhà thơ đầu tiên là trang
phục màu trắng của người thiếu phụ. Cao Bá Quát đã mở hồn mình ra để cho
cái màu trắng tinh khiết trang nhã kia in vào, xâm chiếm lấy con người tác giả.
Người đàn bà kia không chỉ cuốn hút nhà thơ bằng trang phục khác xa với
người con gái phương Đông mà những hành động cử chỉ của bà ta với chồng
đã thực sự làm cho tâm hồn nhà thơ rung động, cảm hứng thơ trỗi dậy mãnh
liệt:
“Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu...”
Sự hà khắc của những điều khó khăn trong chế độ phong kiến đã trói
buộc tình cảm con người, đã không để nó phát sinh một cách tự nhiên. Tuy
vậy hình ảnh đôi vợ chồng kia đối với nhà thơ không hoàn toàn lập dị. Một
thoáng ngạc nhiên để rồi thay vào đó là một cái nhìn đầy thiện cảm, không tỏ
ý bất động. Đâu còn thấy hình ảnh người phụ nữ Việt Nam e lệ, kín đáo bên
người chồng và nguyện là người “nâng khăn sửa túi”, “cử án tu mi” suốt cuộc
đời. Những cái đó giờ đây đã trở thành bảo thủ lạc hậu vì nó không đề cao sự
bình đẳng trong quan hệ giữa người với người, đặc biệt là quan hệ vợ chồng.
Câu thơ này chứng tỏ Cao Bá Quát đã có một cái nhìn thật tinh tế và tiến bộ.
Những điều mới lạ vẫn tiếp tục dâng trải trước mắt nhà thơ:
“Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy”
Lòng ta cũng cảm thấy lâng lâng, lan tỏa một niềm vui trước những cử
chỉ tự nhiên gần gũi của đôi vợ chồng nọ. Và khi đó chúng ta nhìn về quê
hương xứ sở của mình bấy giờ mới cảm thấy sao mảnh đất đó lại xa vời,
khắc nghiệt quá vậy. Kể cũng đúng bởi những tình cảm rất con người kia
không bao giờ nảy nở trực tiếp, nó đã bị những giáo điều khô khan của chế
độ phong kiến chèn ép làm thui chột. Tư tưởng đó đã ảnh hưởng mãnh liệt
đến các trang thơ. Tính quy phạm quả là hạn chế. Nhưng đến thời Cao Bá
Quát thì một lần nữa nó lại bị phá tung ra và ít nhiều ảnh hưởng đến dòng văn
học hiện đại sau này. Không phải ngẫu nhiên mà chúng ta có được một
phong cách đầy mới mẻ và hấp dẫn mà bởi chính nhà thơ đã phần nào thấm
ý thức được cách nhìn của mình, một sự cách tân độc đáo vượt xa thời trung
đại. Người con gái phương Đông đang sống trên quê hương tác giả nhút
nhát, e dè bao nhiêu thì “thiếu phụ Tây Dương" kia lại bạo dạn tự nhiên bấy
nhiêu và điều quan trọng là giữa hai vợ chồng đó phải có một sự bình đẳng
gần như tuyệt đối thì người vợ mới có thể nũng nịu đến như vậy. Khả năng
cảm nhận của nhà thơ cũng thật nhạy cảm, tinh tế, chính vì vậy nên khi đứng
trước những cử chỉ thân mật âu yếm của đôi vợ chồng nọ, nhà thơ của chúng
ta không hề là gỗ đá mà tâm hồn đã bắt đầu xao động, từ sự ngạc nhiên đồng
cảm đến nỗi niềm tủi thân của người xa quê hương, xa gia đình:
“Biết đâu đến khách biệt li này?”
Chủ thể trữ tình đã hiện ra. Biết bao cảm xúc đang dồn nén giờ đã bật
tung ra từng câu chữ, dường như để trách móc mà lại như để tìm kiếm một
tâm hồn đồng cảm để giải bày... Cảm nhận của văn học trung đại là cảm nhận
trên cái toàn thể, cái ta trữ tình, những câu thơ về tình yêu, về tình vợ chồng
thật hiếm. Cao Bá Quát đã vượt qua cản đó để đến với người đọc bằng một
cái “tôi” trữ tình đầy tính nhân văn. Tuy Cao Bá Quát thể hiện nỗi nhớ người
thân của mình (ở đây chính là người vợ tào khang nơi quê nhà) vẫn chưa
dám bộc bạch thẳng mà thể hiện qua yếu tố khách quan, đi từ ngoại cảnh và
để ngoại cảnh tác động đến lòng người. Song đọc bài thơ ta thấy thấp thoáng
hiện lên một sự chuyển biến về cảm thức tiến bộ của tác giả. Bài thơ thể hiện
một nỗi khát khao hạnh phúc của chính bản thân tác giả cũng như của tất cả
mọi người. Đây là một chủ nghĩa nhân văn hết sức cao đẹp mà Cao Bá Quát
đã đề cập tới.
Bài thơ kết thúc ở đây nhưng những dư âm của nó vẫn âm vang mãi
trong lòng người. Nó như một “kì quan” đối với con người lúc bấy giờ, bởi nó
đã mở ra một thế giới mới, một thế giới riêng tư, thế giới của tình yêu.
Hơn một thế kỉ đã trôi qua kể từ ngày Nguyễn Công Trứ và Cao Bá
Quát ra đi nhưng sự nghiệp văn thơ của hai ông vẫn còn, đặc biệt là Bài ca
ngất ngưởng và Dương phụ hành đã vượt qua sức cản phá của thời gian. Bởi
vì về mặt tư tưởng, nó có ý nghĩa nhân văn, về văn học, nó có ý nghĩa cách
tân. Nó đã đem vào văn học một tiếng nói mới, tiếng nói của cá nhân, tiếng
nói của cá tính. “Phong cách ấy là con người” (Buýtphông). Nguyễn Công Trứ
với cá tính ngang tàng đã tạo nên một phong cách rất riêng trong nghệ thuật.
Còn Cao Bá Quát với bút pháp đằm thắm chất nhân văn đã mang đến cho
cuộc đời những tình cảm nhân bản cao đẹp, những tình cảm riêng tư thầm
kín. Với những phong cách ấy, tính quy phạm của dòng văn học trung đại dần
dần bị phá vỡ để thay vào đó là “cái tôi” đòi khẳng định. Nó như báo hiệu sự
ra đời của một dòng văn học hoàn thiện hơn, gần người hơn, nền văn học
mang trong mình một chủ nghĩa nhân văn mới” Nền văn học hiện đại Việt
Nam.
NGUYỄN THU PHƯƠNG
TÁC GIẢ NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
A. BÀI VĂN
Anh (chị) hãy nêu những bài học thấm thìa nhất về cuộc đời và thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu.
BÀI LÀM
Nhận xét về cuộc đời và thơ văn Đồ Chiểu, ông Phạm Văn Đồng viết:
“Trên trời có vì sao có ánh sáng khác thường... Con mắt của chúng ta phải
chăm chú nhìn thì mới thấy và càng nhìn thì mới càng sáng”. (Nguyễn Đình
Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc). Càng suy nghĩ về cuộc đời
và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu ta càng thấy thấm thìa bởi “ánh sáng khác
thường” từ ngôi sao sáng đó.
Điều khiến ta thấm thìa nhất qua cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu phải
chăng là: cuộc đời ấy đã nêu cao “một tấm gương sáng ngời về nghị lực và
đạo đức, đặc biệt là về thái độ suốt đời gắn bó và chiến đấu không mệt mỏi
cho lẽ phải, cho quyền lợi của nhân dân, đất nước” (nhận định của SGK Văn
11). Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu cũng để lại nhiều bài học, nhưng phải chăng
điều thấm thìa nhất qua sự nghiệp thơ văn của ông là: có một sự thống nhất
cao độ, tuyệt đẹp giữa lý tưởng sống trong cuộc đời thực tại và trong thơ văn.
Thơ văn ông cho ta thấy người chiến sĩ Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ đầy khí
tiết đất Gia Định, thầy giáo mù Đồ Chiểu và nhà thơ ở Ba Tri... là một. Một
con người chiến đấu suốt đời không biết mệt mỏi cho lẽ phải, cho nhân dân
đất nước với một khí phách, một nghị lực phi thường. Bình thường một con
người sống cương trực, thẳng thắn, biết yêu quí lẽ phải, đứng về phía chân
lý, đấu tranh chống lại bọn bất nghĩa, bất nhân... đã là đáng để cho ta tôn
trọng, mến yêu. Với Đồ Chiểu, sống trong mù lòa, tàn tật mà vẫn giữ trọn
được đạo lý, cốt cách cao đẹp thì lại càng kính phục biết bao nhiêu. Giặc
Pháp nhảy vào Nam Bộ, không đánh giặc được bằng gươm, ông đánh giặc
bằng mưu trí, cùng bàn kế đánh giặc với các lãnh tụ nghĩa quân như Trương
Định, Đốc Binh Là. Giặc chiếm hết Nam bộ, sống trong đất giặc chiếm, ông ta
chối mọi sự mua chuộc của kẻ thù, kiên quyết giữ vững khí tiết đến phút chót
cuộc đời, trong khi biết bao kẻ làm ngơ trước nỗi nhục của giang sơn, đất
nước, cam tâm làm tay sai cho giặc. Phải đặt trong hoàn cảnh đó chúng ta
mới càng thấy nhân cách cao cả và tấm lòng tận trung ngay thắng của nhà
thơ mù Đồ Chiểu. Trước khi Pháp sang, ông đã dùng ngòi bút để “đâm mấy
thằng gian” vô đạo, bất nhân. Đến khi Pháp sang, ông tiếp tục nêu cao tinh
thần chiến đấu vì chính nghĩa bằng ngòi bút sắc bén của mình, ở Nguyễn
Đình Chiểu, văn với người là một. Ông viết thế nào thì sống và hành động thế
ấy. Văn thơ của ông thể hiện rất rõ chân dung tinh thần của ông: một con
người luôn vì nghĩa đứng về lẽ phải, chống lại cái ác và bọn bất nhân một
cách quyết liệt, đến cùng. Trước khi Pháp sang, với tác phẩm Lục Vân Tiên,
ông đã thể hiện rõ lý tưởng sống này. Ông ca ngợi hết lời những con người
cao đẹp vì nghĩa xả thân đánh cướp, trừ gian như Vân Tiên, Hớn Minh, Tử
Trực... Ông cũng ca ngợi và tôn vinh những con người thủy chung, trong
sáng, có nghĩa có tình như Kiều Nguyệt Nga. Mặt khác, ông không tiếc lời lên
án bọn người bất nhân, bất nghĩa như Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, Võ Thể Loan...
Yêu và ghét ở Đồ Chiểu rạch ròi, phân minh, không một chút lẫn lộn thiện ác,
bạn thù. Giặc Pháp xâm chiếm nước ta, quân bán nước và lũ cướp nước giờ
đây trở thành bọn bất lương, bất nghĩa. Ngòi bút “chí công” của ông liền chỉa
vào những kẻ “Quang vùa hương xô bàn độc”, “Phạt cho đến người hèn, kẻ
khó, thâu của quay treo. Tội chẳng tha con nít, đàn bà, đốt nhà, bắt vật.” Lòng
căm thù giặc của Đồ Chiểu thể hiện trong những dòng chữ như bốc lửa:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan,
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”
(Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc)
Nhưng đối với những tấm gương xả thân vì nghĩa lớn, ngã xuống vì
dân tộc, lời thơ ông lại đầy trân trọng và xót thương:
“Làm người trung nghĩa đáng bia son
Đứng giữa càn khôn tiếng chẳng mòn
Cơm áo đền bù ơn đất nước
Râu mày giữ vẹn phận tôi con
Tinh thần hai chữ phao sương tuyết
Khí phách ngàn thu rỡ núi non”
(Thơ điếu Phan Tòng)
Đặc biệt, trong bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc, lần đầu tiên trong lịch sử
văn học nước ta, ông đã dựng lên được hình tượng người nghĩa sĩ quân
nông dân hết sức chân thực. Những con người quanh năm “côi cút làm ăn,
toan lo nghèo khó”, khi giặc đến, bỗng trở thành người nghĩa sĩ anh hùng:
“Chỉ nhọc quan quản giống trống kỳ trống giục, đạp rào lướt tới coi giặc
cũng như không, nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào liều
mình như chẳng có”
(Văn té nghĩa sĩ cần Giuộc)
Sống trong vòng vây của giặc, trước bao nhiêu âm mưu dụ dỗ của kẻ
thù. Đồ Chiểu vẫn nêu cao tinh thần trung nghĩa, ngòi bút của ông vẫn sáng
ngời chủ nghĩa yêu nước.
“Thà cho trước mắt mù mù
Chẳng thà ngồi thấy kẻ thù quân thân”
(Ngư tiều y thuật vấn đáp)
Cho đến những ngày cuối đời, quê hương, đất nước rơi hẳn vào tay
giặc, từ trong đau thương mất mát, thơ văn Đồ Chiểu vẫn vút lên những âm
thành trong trẻo thể hiện niềm tin ở tương lai đất nước:
“Chừng nào thánh đế ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông”
(Xúc cảnh)
Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là một cuộc đời hết lòng vì nghĩa. Dù mù
lòa, dù gieo neo, vất vả, con người tưởng như đã là phế nhân ấy vẫn một
lòng tôn thờ chính nghĩa, quyết liệt chống lại các thế lực bạo tàn, phi nhân
bằng ngòi bút sắc bén của mình. Ông sống thế nào thì viết thế ấy. Trung thực
và thẳng thắn, thơ văn ông là tâm hồn và chí khí của ông. Làm sao không xúc
động và thấm thìa trước một cuộc đời, một sự nghiệp văn chương và một
nhân cách cao cả như thế!
Trong diễn văn đọc tại lễ kỉ niệm 75 năm ngày Nguyễn Đình Chiểu mất,
Hoài Thanh viết: “Sự gắn bó sâu xa với quần chúng là đặc điểm nổi bật trong
cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu, là nhân tố chủ yếu đào tạo nên con người, sự
nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu”. Hãy chứng minh nhận định trên.
BÀI LÀM
Xưa nay, vốn dĩ không có gì được coi là bất tử trước thời gian. Năm
tháng đi qua, bụi thời gian sẽ xóa mờ, sẽ vùi chôn đi tất cả. Nhưng thời gian
vẫn bất lực trước những dòng thơ đầy nhiệt huyết, đầy yêu thương, căm thù,
có máu hòa trong nước mắt của Nguyễn Đình Chiểu - một nhà thơ kiệt xuất,
một người chiến sĩ yêu nước chân chính. Văn thơ Nguyễn Đình Chiểu khắc
sâu, in đậm trong lòng người những dấu ấn khó phai nhạt, không xa lạ, không
mĩ miều, kiểu cách, thơ ông là tiếng nói chân chất, giản dị mà gần gũi. Hình
ảnh những con người bình thường, những người lao động trong thơ ông vẫn
mộc mạc, quê mùa, chất phác và bộc trực như muôn đời nay vẫn thế. Ngôn
ngữ trong thơ ông là những tiếng nói đời thường, đượm màu dân dã, bình dị,
đậm màu quê hương. Hoài Thanh dã từng viết: “Sự gắn bó sâu xa với quần
chúng nhân là đặc điểm nổi bật trong cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu, là nhân tố
chủ yếu đào tạo nên con người và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Đình Chiểu”.
Vâng! Đó là tất cả những gì bất tử với thời gian, vĩnh viễn ghi dấu trong
lòng người.
Đã gần một trăm năm qua đi mà dấu ấn một thời kì lịch sử của nước ta
trong những năm gần cuối thế kỉ XX chưa hề phai nhạt trong lời thơ Nguyễn
Đình Chiểu. Đất nước đầy những biến động, bão táp, những loạn li, đau
thương. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu cũng đầy những đau khổ uất ức,
những giọt nước mắt khóc cho mình và khóc cho mọi người.
Đau thương, bão táp đã ập xuống đời ông giữa lúc tuổi thanh xuân
chan chứa tình yêu cuộc sống, hạnh phúc gia đình và niềm tin, ước mơ về
một tương lai rực rỡ, xán lạn. Mẹ mất - nước mắt khóc thương và nỗi đau tột
cùng đã cướp đi ánh sáng đôi mắt ông rồi bị từ hôn... Bấy nhiêu đau khổ, uất
ức cũng đủ để quật ngã một con người bình thường, nhưng không, Nguyễn
Đình Chiểu đã vượt qua chính bi kịch của đời mình bằng một tình yêu đất
nước, yêu cuộc sống vô song, một niềm tin bền bỉ, sắt đá. Nhưng đó vẫn
chưa phải là tất cả, suốt bốn mươi năm trời tàn tật, sống trong sự đùm bọc,
yêu thương của đồng bào Gia Định, nhân dân đã nâng đỡ tâm hồn đầy đau
thương, mất mát của ông và cũng chính từ cuộc sống gắn liền với tâm tư, tình
cảm của nhân dân đã tạo nên những tầm cao trong tư tưởng Nguyễn Đình
Chiếu, những tầm cao ấy “là nhân tố chủ yếu đào tạo nên con người, sự
nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu”.
Từ chủ nghĩa nhân đạo bước sang chủ nghĩa yêu nước, tâm hồn
Nguyễn Đình Chiểu không phải không có những chuyển biến về mặt tư
tưởng, nó ghi dấu qua hai mốc chính đó là tác phẩm nổi tiếng Lục Vân Tiên
và văn chương yêu nước chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Văn tế nghĩa
sĩ cần Giuộc. Bước chuyển đó chứng tỏ sự phát triển thuận theo yêu cầu lịch
sử nhưng điều chúng ta muốn nói ở đây là cả hai tư tưởng nhân nghĩa và yêu
nước của tác giả đều hướng tới nhân dân, vì dân và in dấu tình cảm của
nhân dân.
Ở Nguyễn Đình Chiểu, quan niệm về nhân nghĩa rất gần với quan niệm
của nhân dân. Trong Lục Văn Tiên, ông ca ngợi Lục Vân Tiên, Tử Trực, Hớn
Minh là những người trọng nghĩa khinh tài, có những cử chỉ, hành động nghĩa
hiệp của người quân tử nhưng cũng là nhân dân Nam bộ mà gần gũi hơn là
hình ảnh ông Ngư, bà Ngư, ông Tiều, chú Tiểu đồng và nàng Nguyệt Nga
chung thủy. Những con người ấy xuất thân từ cuộc sống lao động, bình dị,
lương thiện nhưng trong hành động, lời lẽ của họ toát ra vẻ chân chất, hồn
hậu, trong sáng mà cao thượng.
Lục Vân Tiên đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga, nhưng khi Nguyệt Nga
ngỏ lời cảm tạ cử chỉ nghĩa hiệp ấy, chàng liền cười mà rằng:
“Văn Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn”
(Lục Vân Tiên)
Nụ cười của Vân Tiên mới đáng yêu làm sao, đó là nụ cười của người
quân tử, nụ cười của quân chúng rộng lượng. Trong nụ cười của chàng có
một cái gì đó thật mộc mạc và chân chất, gần gũi nhân dân không một chút
gượng ép, giả dối. Hay hành động của ông Ngư và gia đình cứu Vân Tiên
thoát nạn cũng là một việc làm nhân nghĩa, trong sáng không một mảy may
tính toán:
“Ngư rằng, lòng lão chẳng mơ
Đốc lòng nhẫn nghĩa há chờ trả ơn”
(Lục Vân Tiên)
Đằng sau những triết lí, tư tưởng dường như nặng tính chất Nho giáo
ấy thực ra là tác giả đề cao tình cảm cha con, vợ chồng, bạn bè... đó là
những đạo lí truyền thống từ muôn đời nay của dân tộc ta, dù trải qua bao
sóng gió cũng không hề đổi thay.
Trong tác phẩm Lục Vân Tiên, hiện thân của Nguyễn Đình Chiểu - nhân
vật Lục Vân Tiên rõ ràng cũng đấu tranh cho lí tưởng nhân nghĩa, nhưng lí
tưởng ấy không phải để phục vụ, củng cố địa vị của triều Nguyễn đương thời,
mà là điều Nguyễn Đình Chiểu ước mong về một xã hội phong kiến lí tưởng,
xa xưa như ông đã từng hình dung, mơ ước qua sách vở nhưng điều cơ bản
là tất cả những suy nghĩ, mơ ước ấy trước hết vẫn là hướng tới quyền lợi,
hạnh phúc của nhân dân trong thời đại ông.
Với Nguyễn Đình Chiểu, nhân đạo chủ nghĩa là một cái gì đó rất gần
gũi, thiết thực. Trước hết, nhân đạo là thương yêu những người dân lao động
nghèo khổ, là đấu tranh vì phẩm giá con người, là những cảm thông sâu sắc
với nỗi khổ của nhân dân trong cuộc sống cơ hàn, đói rách. Góc nhìn của
Nguyễn Đình Chiểu về nhân dân trong xã hội phong kiến mới chỉ là sự đồng
điệu, cảm thông của tâm hồn, phải đến khi thực dân Pháp lê gót giày trên
khắp sáu tỉnh Nam bộ thì hình ảnh nhân dân trong văn chương yêu nước
chống thực dân Pháp của ông mới thực sự gây ấn tượng, in dấu và soi sáng
tư tưởng của ông trên từng trang giấy.
Khi tiếng súng đầu tiên của thực dân Pháp dội trên đất nước ta cũng là
khi triều đình Nguyễn bạc nhược, hèn nhát đầu hàng kẻ thù để mặc nhân dân
trong cái cảnh “nước mất nhà tan”, loạn li, đau thương và tang tóc. Tiếng
khóc, tiếng kêu than của họ vẫn văng vẳng trong lời nói của Nguyễn Đình
Chiểu:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng?
Nỡ để dân đen mắc nạn này”
(Chạy Tây)
Câu hỏi đặt ra nhưng biết tìm câu trả lời ở đâu? Ở những kẻ áo mão,
cân dai “bán nước hại dân” kia ư? Không! Chính lúc này trong hoàn cảnh đau
thương, tăm tối nhất của đất nước, của mỗi cuộc đời sắp rơi vào nô lệ thì
hình ảnh nhân dân sáng bừng lên như một bó đuốc giữa đêm đen. Phải!
Chính họ, chính những người “dân đen”, dân cày, những người dân lao động
thuần phác nhất đã vùng dậy đấu tranh chống giặc cứu nước, tự mình cứu
lấy chính bản thân mình. Điểm sáng trong tâm hồn, trong thơ văn Nguyễn
Đình Chiểu chính là ỗ chỗ đó. Ông không chỉ tìm thấy trong tâm hồn những
người dân lao động kia những nét đẹp thuần túy, chất phác mà phát hiện lớn
của ông chính là lòng yêu nước âm thầm cháy trong mỗi con người họ, mà
giờ đây nó đang bùng cháy dữ dội, như muốn đốt cháy kẻ thù.
Đó chính là cái khác, cái cao hơn trong tư tưởng của Nguyễn Đình
Chiểu so với các nhà văn, nhà thơ lúc bấy giờ và trước đó. Thực ra phát hiện
của Nguyễn Đình Chiểu không phải là hoàn toàn mới, hình ảnh nhân dân
trước đây không phải là chưa có trong văn học Việt Nam, nhưng họ chỉ xuất
hiện với tư cách là những nhân vật phụ, hình ảnh của họ mới chỉ là thoáng
qua mờ nhạt, chưa để lại dấu ấn nào sâu sắc, đậm nét nhưng đến Nguyễn
Đình Chiểu, đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc cái bóng mờ nhạt ấy đã rực sáng
lên với tất cả vẻ đẹp ẩn giấu trong tâm hồn tự ngàn xưa.
Họ! Vâng, những con người bình dị ấy, ý thức dân tộc của họ buổi ban
đầu chỉ đơn thuần là lòng yêu quê hương, yêu mảnh đất nơi họ từng sinh ra
và lớn lên, yêu những cái cây, ngọn cỏ. Nhưng giặc Pháp đã tàn phá, chà đạp
lên những tình cảm thiêng liêng ấy, tiếng súng kẻ thù làm thức tỉnh trong sâu
thẳm tâm hồn họ tiếng gọi “hãy giữ lấy những gì mình yêu thương, thờ phụng,
giữ lấy những gì đã có và đã là của mình”.
Sức lớn lên của lòng căm thù và tình yêu quê hương đã tạo cho họ một
sức mạnh phi thường để làm nên những việc cũng phi thường, không ai có
thể ngờ tới.
“Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ”
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Vì sao ư? Vì sao những con người hiền lành chất phát kia hôm qua còn
“Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhưng; chỉ biết ruộng trâu, ở trong
làng bộ” (Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc) chỉ quen với cuộc sống nghèo khổ, trong
trói buộc, bó hẹp sau lũy tre làng, trong những sớm hôm đầu tắt, mặt tối đi về
để kiếm sống, dường như họ bị lãng quên trong những lo toan, vất vả, lăn lộn
của cuộc sống đời thường?
“Nhớ lính xưa côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó”
Chỉ bằng hai từ “côi cút” thôi, tác giả đã gói trọn được bao nhiêu yêu
thương đồng cảm, xót xa của mình trước thân phận của người nông dân
nghèo, thân phận của con ong, cái kiến trong xã hội phong kiến. Hôm qua họ
là những người bị lịch sử bỏ quên nhưng hôm nay họ đã trở thành những
nhân vật chính, người chiến sĩ dũng cảm, tung hoành trong trận chiến, ngày
đêm sống, chết gần kề.
Vì sao ư? Vì họ yêu nước, yêu quê hương từ những tình cảm chân
thành nhất, họ yêu từ trong máu thịt của mình: Họ yêu nước không phải bởi
bất cứ một khái niệm sách vở trừu tượng nào, mà họ yêu bởi những cái bình
dị, gần gũi nhất: ngọn rau, tấc đất, bát cơm, manh áo và lòng căm thù giặc
của họ cũng cụ thể như vâỵ - nó muốn biến ngay thành những hành động
quyết liệt tiêu diệt kẻ thù “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ” (Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc).
Trên đường đua tiếp sức của lịch sử, các thế hệ người Việt Nam đã đi lên với
gậy với tre; xưa Thánh Gióng nhổ tre đánh giặc, đến giờ những người nông
dân lại cầm ngọn tầm vông đánh giặc. Dù trong chiến đấu, họ vẫn mang dáng
vẻ, phong cách của người lao động “Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng
đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém
rớt đầu quan hai nọ” (Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc).
Có thể nói Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ Việt Nam đầu tiên đã xây
dựng và đề cao người dân trong cuộc chiến tranh nhân dân. Với Văn tế nghĩa
sĩ cần Giuộc ông đã dựng lên một tượng đài bất tử về người nông dân cầm
vũ khí chống giặc, giữ nước.
Hình ảnh người nông dân yêu nước trong văn thơ Nguyễn Đình Chiểu
là một phát hiện đầy mới mẻ và có giá trị. Họ - những con người có từ ngàn
xưa nhưng cũng chỉ thật nổi bật lên trong giai đoạn lịch sử này khi ý thực hệ
phong kiến đang có nguy cơ tan rã và giai cấp phong kiến đang rút lui khỏi vũ
đài lịch sử. Chính trong khoảng thời gian này Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc đã ra
đời như một bước nhảy vọt về tư tưởng, về cái nhìn đối với người dân lao
động, ở Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, tư tưởng nhân dân đã chiến thắng một
cách rực rỡ; phải có một sự từ bỏ, phải có một sự đấu tranh với chính mình ở
mức độ mãnh liệt, Nguyễn Đình Chiểu mới có thể đón nhận tư tưởng nhân
dân đi vào trong thơ văn sâu sắc như thế. Năm trăm năm trước đây, Nguyễn
Trãi đã từng viết “Làm lật thuyền mới biết dân như nước”. Nhưng trong khuôn
khổ chế độ phong kiến của xã hội Việt Nam ở thế kỷ XV chưa cho phép ông
ghi lại hình ảnh những người đã cùng ông mười năm kháng chiến chống
quân Minh. Gần gũi hơn là nhà thi hào dân tộc Nguyễn Du với những kiệt tác
chan chứa trong lòng nhân đạo, những dòng nước mắt khóc thương cho
những kiếp người lầm than, đau khổ nhưng trong tác phẩm của Nguyễn Du
lại không hề có bóng dáng những người dân cày đã từng gây ra bão táp cuối
thế kỷ XVIII, làm đảo lộn, rung chuyển cả một xã hội phong kiến đang mục nát
đến cùng cực ấy... Chỉ đến Nguyễn Đình Chiếu “lần đầu tiên trong lịch sử văn
học dân tộc mới có được sự tương xứng giữa phong cách người nông dân
trong văn học với phong cách người nông dân ngoài đời”.
Câu hỏi được đặt ra là, cái gì? Động lực nào đã thúc đẩy Nguyễn Đình
Chiểu tạo nên viên ngọc Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc với hình ảnh, nhân vật
trọng tâm là những người dân lao động thuần phác mà trước đây chưa hề
có?
Phải chăng điểm xuất phát của tư tưởng nhân dân trong thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu là cuộc sống gắn bó sâu sắc với quần chúng nhân dân?
Một cuộc đời có quá nhiều những dấu ấn, tình cảm, kỉ niệm của nhân dân
ngay từ buổi đầu tác giả chào đời, những tình cảm sâu nậng, gắn bó với nhân
dân trong những ngày đau thương nhất của đời mình đã tạo cho Nguyễn
Đình Chiểu một cái nhìn sắc sảo, một tiếng nói đồng cảm với cuộc sống của
những con người thấp bé nhất trong xã hội. Ông yêu thương những con
người ấy bằng một thứ tình cảm chỉ có được ở một tâm hồn giàu tình nhân
nghĩa, yêu nước ở ông cũng gắn liền với yêu thương nhân dân, cho dù trong
ông, tư tưởng trung quân, ái quốc dù ít, dù nhiều vẫn tồn tại, nhưng Nguyễn
Đình Chiểu yêu nước trước hết vẫn là thương dân:
“Ghét đời Ngũ Bá phân vân
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn”
(Lẽ ghét thương)
Trong tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu, nước với dân là một, không có
dân nghĩa là không có nước và ngược lại. Cũng vì có một tình yêu thương
nhân dân tha thiết nên tình cảm yêu nước của ông mới dạt dào, mạnh mẽ, cụ
thể, máu thịt và vững chắc như thế.
Lòng thương đã tạo nên niềm tin, sức mạnh giúp ông trong công việc
của một người thầy thuốc, thầy dạy “nhân”, dạy “nghĩa”:
“Thấy người đau giống mình đau
Phương nào cứu đặng mau mau trị lành”
Tình thương vô bờ bến ấy luôn hướng tới những người dân lao động,
lương thiện, nghèo khó. Ông đã từng lên tiếng khích lệ những người có tài
còn ẩn thân trong xã hội:
“Thương dân sao chẳng lập thân
Đến khi nắng hạ toan phần làm mưa”
Phê phán những người cầm quyền, khiếp nhược:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này”
Yêu và thương đó là nguồn gốc của sự đồng cảm, mến phục sâu sắc
của tác giả đối với những người đang sống và những người đã ngã xuống vì
quê hương và đó cũng là nguồn gốc của lòng căm thù giặc sôi sục:
“Khá thương thay
Dân sa nước bấy chầy
Giày ép mỡ dầu hết sức”
(Văn tế nghĩa sĩ trận vùng Lục tỉnh)
Nếu như ở Nguyễn Đình Chiểu ta tìm thấy một khía cạnh rất mới trong
tâm hồn tác giả, đó là những tư tưởng tiến bộ vượt bậc của ông trong cái nhìn
đối với nhân dân thì trong quan niệm về người anh hùng - Nguyễn Đình Chiểu
một lần nữa đã vượt qua vòng vây tư tưởng của lễ giáo phong kiến vượt qua
chính mình để hướng tới một quan niệm anh hùng rất gần gũi và gắn bó với
quần chúng, khác hẳn quan niệm phong kiến về “trung quân ái quốc”.
Không xa lạ, cao sang nhưng người anh hùng ấy đã gắn bó với quần
chúng nhân dân bằng tình thương, tình người, tình yêu nước cùng chung ý
chí giết giặc. Hình ảnh Trương Định, Phan Tòng hay Lục Vân Tiên - những
người lãnh tụ anh hùng, quả cảm ấy là tấm gương yêu nước, kiên định không
có gì lay chuyển được. Họ là niềm tin, là chỗ dựa của nhân dân nhưng chính
họ đã dựa vào nhân dân, đã được nhân dân tiếp sức:
“Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền
Theo bụng dân phải chịu tướng quân thù, gánh vác một vai khốn ngoại”
(Văn tế Trương Định)
Và được nhân dân thương mến:
“Thương ơi! Người ngọc ở BìnhĐông
Lớn nhỏ trong lòng thảy mến trông”
(Văn tế Phan Tòng).
Có thể nói dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Đình Chiểu hình ảnh
người anh hùng lúc bấy giờ về căn bản đã mang những nét gần với những
người anh hùng theo quan niệm của chúng ta ngày hôm nay. Họ anh hùng
cũng một phần quan trọng là do lòng tin yêu của quần chúng và cũng chính từ
lòng tin yêu ấy đã tạo nên một điểm tựa vững chắc, để họ dám đương đầu,
gánh vác những công việc hết sức khó khăn, gian khổ mà không một chút
tính toán vụ lợi riêng tư và dứt khoát với giáo điều phong kiến ngu trung.
Xuyên suốt chiều sâu tâm hồn Nguyễn Đình Chiểu và cuộc đời cầm bút viết
văn của ông, tính nhân dân, tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước đã quán xuyến
toàn bộ tác phẩm của ông.
Cả một đời người sống gần gũi gắn bó với nhân dân, ông đã tìm thấy ở
họ những phong cách sống thật bình dị mà trong sáng, cao thượng, tìm thấy
những giá trị cao đẹp không gì sánh nổi. Và cũng chính từ đó ông đã tìm thấy
triết lí, ý nghĩa sống cho đời mình. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đạt tới đỉnh
cao giá trị về nội dung tư tưởng không chỉ bởi mọi suy nghĩ, tình cảm, ước
mơ và khát vọng của ông đều phù hợp với đời sống tinh thần của đông đảo
quần chúng lao động mà nó còn chinh phục lòng người, chinh phục mọi tầng
lớp nhân dân bởi “nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu rất gần gũi với văn học
dân gian. Ngôn ngữ của Nguyễn Đình Chiểu trong thơ văn yêu nước cũng
như Lục Văn Tiên là ngôn ngữ của quần chúng, chữ thường dùng rất táo bạo
đầy cảm xúc, có khi nóng bỏng như hơi thở cuộc sống và chất chứa bao
nhiêu đau xót, buồn giận, vui mừng...” (Hoài Thanh).
Ngôn pgữ đời thường, những cách nói thông dụng đã đem lại trong thơ
văn Nguyễn Đình Chiểu cái bình dị, chân chất chỉ tìm thấy ở những con người
lao động thật thà, chất phác. Khi viết về người nông dân mộ nghĩa đã nói
bằng tiếng nói của họ: “Trông tin quan như trời hạn trông mưa (...) ghét thói
mạt như nhà nông ghét cỏ”.
Hay:
“Thương quan tướng khóc quan tướng chiu chít như gà
Giận thằng tà mắng thằng tà om sòm như nhái”
Khi viết về Bùi Kiệm trong Lục Vân Tiến Nguyễn Đình Chiểu hạ câu:
... “Con người Bùi Kiệm máu dê,
Ngồi chề bê mặt như sề thịt trâu”
Ôi! Nghe mới thân thuộc và buồn cười làm sao, những ngôn ngữ tưởng
chừng như không bao giờ thành thơ, thành văn vậy mà nó đã đi sâu vào tác
phẩm của Nguyễn Đình Chiểu mới thật tự nhiên và sống động làm sao và
cũng chính âm hưởng, ngữ điệu từ đó đi ra tạo nên cho tác phẩm của ông
một sự hấp dẫn, lôi cuốn đến kì lạ.
Nếu có người nào đó đặt câu hỏi “Ai là người đã tạo nên lịch sử?”. Tôi
e không ngần ngại đáp rằng - chính nhân dân là người đã tạo nên lịch sử và
cũng chính là người phán xét lịch sử. Nhân dân có từ thuở khai sinh ra loài
người và còn mãi muôn đời sau. Lịch sử Văn học Việt Nam cũng bắt đầu từ
cái buổi bình minh của dân tộc. Trải qua bao tháng năm thời gian đã dựng
nên bao thành tựu, bao bước ngoặt nhưng cũng chính nó đã xóa bỏ, vùi chôn
đi bao nhiêu. Không có gì vĩnh cửu với thời gian! Đó là quy luật ư? Có lẽ.
Nhưng cuộc đời, con người và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đã bất tử với thời
gian, bởi lẽ nó bất tử với lòng người, bởi qua bao tháng năm vẫn còn đó sừng
sững tượng đài người nông dân Việt Nam, trong thơ ca, trong lòng người đọc,
vẫn còn mãi tấm lòng yêu nước, yêu nhân nghĩa của người dân lao động Việt
Nam, vẫn còn mãi tấm lòng tin yêu nhân dân của nhà thơ lớn Nguyễn Đình
Chiểu.
LÊ KIM OANH
B. LUYỆN TẬP
1. Bài học thấm thìa nhất về cuộc đời nhà văn thơ Nguyễn Đình Chiểu?
2. Có ý kiến cho rằng: Nếu không bị mù lòa thì Nguyễn Đình Chiểu nhất
định phải là một Phan Tòng, Trương Định, đứng lên cầm gươm chống Pháp.
Anh (chị) hãy bình luận về ý kiến trên.
3. Anh (chị) hãy giải thích và bình luận hai câu thơ của Nguyễn Đình
Chiểu:
Chở bao nhiều dạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
4. Đọc thơ Đồ Chiểu, Lê Anh Xuân viết:
Tám năm xa quê hương
Trăm năm gần Đồ Chiểu
Nay lòng ta càng hiểu
Thơ là súng, là gươm.
Nhân ý thơ trên, anh (chị) hãy phân tích và làm sáng tỏ tính chiến đấu
trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
A. BÀI VĂN
Phân tích bài “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu.
BÀI LÀM 1
1. “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” - bức tượng đài hào hùng và khúc ai ca bi tráng.
Giá trị nghệ thuật hết sức đặc sắc, làm cho bài Văn tế nghĩa sĩ cần
Giuộc trở thành bất tử là lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của văn học Việt
Nam, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng được bức tượng đài về những người
nông dân yêu nước, những người anh hùng vô danh “sống đánh giặc, thác
cũng đánh giặc”. Bức tượng đài được đắp xây bằng nghệ thuật ngôn từ này
có những đường về ngoại hình rất nổi, rất đặc thù của người nông dân nghèo
mà giàu nghĩa khí không trộn lẫn vào ai khác được: “Ngoài cật một manh áo
vải” Vũ khí họ mang theo khi ra trận cũng là những công cụ thô sơ lạc hậu.
“Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”, “gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay”, có
khi chỉ là một đoạn gậy gộc: “trong tay cầm một ngọn tầm vông”. Thế nhưng
tinh thần chiến đấu của họ đã tỏa sáng lên bức tượng đài: “Đạp rào lướt tới
coi giặc cũng như không”, “Xô cửa xông vào liều mình như chẳng có”. Những
đường nét ghi lại hành động chiến đấu của họ thật đẹp, thật khỏe, thật hào
hùng.
Nét độc đáo tạo nên tinh thần ngoan cường hiếm có kể trên bắt nguồn
từ phẩm chất cao cả của người nông dân mặc áo nghĩa quân. Trước khi trở
thành nghĩa sĩ, dũng sĩ, họ chỉ là người dân cày chất phác, cần cù, giản dị. Họ
có “đôi bàn tay vàng” trong nghề nông: “Việc cuốc, việc cày, việc bừa việc cấy
tay vốn quen làm”. Họ có đôi mắt hiền lành, ánh lên vẻ đẹp hòa bình của đời
sống thường nhật: “Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”.
Nhưng đối với quân xâm lược lòng căm thù của họ thật sâu sắc: “Mùi tinh
chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Tinh thần và
lòng quyết tâm chiến đấu của họ rực rỡ hào quang của chân lí, chính nghĩa:
“Hai vầng nhật nguyệt chói lòa đâu dung lũ treo dê bán chó”.
Những người nông dân anh hùng đã hi sinh trong trận đánh ngày 16-
12-1861 ở Cần Giuộc sẽ mãi mãi là vô danh như hàng trăm, hàng ngàn người
nông dân anh hùng khác đã hi sinh trong các cuộc khởi nghĩa kháng Pháp
cuối thế kỉ XIX. Nhưng với bức tượng đài hào hùng, văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã làm cho họ trở thành bất tử. Họ sống mãi trong
lâu đài văn chương, văn hóa của nhân dân.
2. Mọi giá trị nghệ thuật đặc sắc khác của bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Là nó thực sự trở thành khúc ai ca bi tráng biểu hiện tấm lòng ngưỡng
mộ và tiếc thương của cả một dân tộc đối với những người nông dân yêu
nước, những nghĩa sĩ, những anh hùng vô danh này. Nguyễn Đình Chiểu đã
viết những câu văn thật xúc động khi khóc thương họ:
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo
Ngữ điệu câu văn đọc lên nghe như có tiếng khóc nức nở, tắc nghẹn.
Lời khóc tắc nghẹn nên nó mất mát các từ, các tiếng. Đáng ra đầy đủ là là
phải: “Nước mắt khóc người anh hùng lau không hết được” có nghĩa là khóc
và nước mắt chảy mãi, chảy hoài..
Tiếc thương và ngưỡng mộ, Nguyễn Đình Chiểu muốn các nghĩa sĩ
không chết. Ông vận dụng cả tiềm thức và tâm linh để sáng tạo nên những
hình tượng có tính siêu hình đặng nói cái vĩnh hằng, bất tử của những người
nghĩa sĩ: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh”.
Tiếng lòng của Nguyễn Đình Chiểu trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
cũng là tiếng lòng của cả một thời đại. Vua Tự Đức đã từng rung động với bài
Văn tế và cho in phổ biến nó trong các tỉnh ở đồng bằng Nam bộ. Miên Thẩm
Tùng Thiện Vương vắ công chúa Mai Am những người thuộc hoàng tộc triều
Nguyễn cũng có thơ biểu hiện sự cộng hưởng, đồng sáng tạo với Nguyễn
Đình Chiểu:
Bồi hồi đọc mãi bản văn ai
Phách cứng văn hùng cảm động thay...
... Quốc ngữ một thiên truyền mãi mãi
Còn hơn xây mộ cất khô hài.
(Thơ của Mai Am công chúa).
Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc là tác phẩm bất hủ sẽ trường tồn với lịch sử
Việt Nam, nhân dân Việt Nam.
BÀI LÀM 2
1. Đây là bài văn tế các nghĩa sĩ đã hi sinh anh dũng trong trận tấn công
đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định (Long An ngày nay).
Về cơ bản. “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” là tiếng khóc lớn của Nguyễn
Đình Chiểu - lý luận văn học gọi là “nhân vật trữ tình”. Nhân vật này (thứ tự
xuất hiện không quan trọng, thường người ta hay phân tích nhân vật người
nông dân đánh giặc trước làm cơ sở cho tác giả bộc lộ cảm nghĩ của mình).
2.1. ...“Một trận khói tàn, nghìn năm tiết rõ” (Về nhân vật người nghĩa sĩ
Cần Giuộc):
Đây là nhân vật tập thể, nhân vật đám đông (trường hợp này hay bắt
gặp trong những tác phẩm sử thi, kiểu như “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn
Trãi). Trong văn học trung đại, đám đông chỉ thấp thoáng hiện ra theo ước lệ
(người nông dân thường xuất hiện theo công thức (ngư, tiều, canh, mục).
Điều độc đáo trong bút pháp Đồ Chiểu là nhân vật tập thể nông dân đã hiện
ra trong văn chương giống như họ đã tồn tại trong đời thực, cụ thể, sinh động,
chân thực với một quan điểm mỹ học và quan điểm lịch sử mới mẻ mang tính
dân tộc và tính nhân dân sâu sắc.
“Súng giặc đất rền...”
Âm vang tiếng súng gợi lên cơn tao loạn của đất nước một thời. Hoàn
cảnh xuất hiện nhân vật của bài thơ là thời điểm những năm đầu Pháp xâm
lược nước ta. Đó là một hoàn cảnh dữ dội, là chiến tranh, là thử thách lớn
của lịch sử. Vận nước là thước đo lòng người.
Trước đòi hỏi của vận nước, tiếc thay... “Hỡi trang dẹp loạn rày đâu
vắng?”. (1) Ghé vai gánh vác sứ mệnh dân tộc lúc này lại là những con ngưới
“côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó”, tức là người nông dân đích thực. Tác giả
nhấn mạnh cái gốc nông dân, hơn nữa: Nông dân trong chế độ phong kiến -
đó là cái đáng quí đầu tiên, cái mới đặc sắc của hình tượng này. Hàng loạt
đối lập giữa cái quen và cái không quen (“làm ăn”, “nghèo khó”, “ruộng trâu”,
“cuốc”, “cày”, “bừa”, “cấy” đối lập với “cung”, “ngựa”, “trường nhung”, “khiên”,
“súng”, “mác”, “cờ”...) đã nêu bật bản chất lao động thuần túy của người nông
dân. Đám đông hiện dần lên: đó là những người nông dân cần cù, nghèo khó,
hiền lành, cuộc sống tù đọng âm thầm bị thít chặt trong khóm tre làng.
Nguyễn Đình Chiểu với vài nét phác vẽ, đã tóm đúng cái thần của người nông
dân trong xã hội nông nghiệp lạc hậu thế kỷ XIX.
Khi Pháp xâm lược, lạ lùng thay, người nông dân “lành như đất” bỗng
trở thành người lính can trường. Điều kỳ diệu nào đã tạo nên sự biến chuyển
đó?
Y thức dân tộc trong một hoàn cảnh đặc biệt và lòng quả cảm là hai lời
giải đáp sâu sắc của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Điều lý thú là khi lý giải quá
trình chuyển biến từ người nông dân thành nghĩa sĩ, tác giả đã phát hiện ra
chất nghĩa đậm sắc thái nông dân, khiến hình tượng của tác giả phải được
gọi chính xác bằng một hợp từ: nông dân - nghĩa sĩ.
Thì đây, hãy lắng nghe những mong mỏi, yêu ghét của họ:
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời
hạn trông mưa; mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mạt như nhà nông
ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp: muốn tới ăn gan.
Ngày xem ống khói chạy đen sì: muốn ra cắn cổ”.
Nếu lối nói đầy ví von so sánh của câu trước (như trời hạn trông mưa...,
như nhà nông ghét cỏ) mới cho tới tư duy ngôn ngữ nông dân thì kiểu diễn
đạt bộc trực nhưng mạnh mẽ, dứt khoát của câu sau đã đưa hình tượng vào
vùng tư duy nông dân Nam bộ.
Song, Đồ Chiểu không nhìn nhận người nghĩa sĩ nông dân như một
thực thể bản năng mà như một thực thể ý thức. Hình ảnh Tổ quốc hiện lên
trong tâm hồn họ lớn lao, rực rỡ, thiêng liêng dường nào: “Một mối xa như đồ
sộ, hai vầng nhật nguyệt chói lòa...”. Vì thế, lòng yêu nước đã trở thành sự
thực bên trong dẫn đến nét đẹp nhất ở người nghĩa sĩ vì nghĩa lớn này “mến
nghĩa làm quân chiêu mộ”. Chính ý thức vì nghĩa tự nguyện này là nguyên cớ
sâu xa tạo nên bức tranh chiến trận kỳ lạ:
“Ngoài cật cỏ một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu bầu ngòi trong
tay cầm một ngọn tầm vòng, chi nài sắm dao tu nón gõ.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng dốt xong nhà dạy đạo kia, gươm
đeo dùng bằng dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chỉ nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc
cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như
chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lủ ó sau trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ”.
Mật độ động từ lớn (đốt, chém, đạp, lướt, đâm, hè, ó...) gợi một bức
tranh công đồn ào ạt, vang động. Những nhịp ngắn: đạp rào / lướt tới, đâm
ngang / chém ngược... dồn dập, gấp gáp như nhịp đi chiến trận. Song điều
cốt yếu trong đoạn văn này là sự sử dụng triệt để thủ pháp tương phản để
xoáy vào cái thế ta đối lập với thế địch, cái chí ta đối lập với chí địch. Ta
nghèo nàn (áo vải, tầm vông, rơm con cúi, dao phay...), địch hiện đại (đạn
nhỏ, đạn to, tàu thiếc tàu đồng...), ta can trường (đạp rào lướt tới coi giặc
cũng như không), dịch khiếp nhược (mã tà ma ní hồn kinh...). Phép đối lập
mang chiều sâu thực tại: phản ánh cuộc chạm trán không cân sức giữa hai
lực lượng, hai nền kinh tế (đội quân khởi nghĩa mang đậm dấu ấn thời đại, họ
mang cả nền nông nghiệp vào trận đánh). Phép đối lập cũng mang chiều sâu
chân lý của chiến tranh vệ quốc (một thời): nghèo nàn thắng hiện đại, lòng
dũng cảm đè bẹp sức mạnh vật chất, yếu tố tinh thần sức mạnh chính nghĩa
là yếu tố quyết định trong chiến tranh. Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là nhà
chép sử mà còn là nhà nghiền ngẫm lịch sử. Vì vậy, nhân vật đám đông nông
dân nghèo nàn, rách rưới bước vào trang văn Đồ Chiểu bỗng mang tầm vóc
của hình tượng sử thi bi tráng, sinh động chân thực mà giàu sức khái quát,
xứng đáng là tượng đài tráng lệ chưa bao giờ có trong văn học Việt Nam
trước đó.
2.2. “Nước mắt anh hùng”..
Văn tế là một tiếng khóc. Khi hồi tướng - tiếng khóc nén lại. Khi than
tiếc - tiếng khóc òa ra.
- Tiếng khóc Đồ Chiểu là một tiếng khóc lớn:
“Hỡi ôi! Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”.
Tiếng khóc Đồ Chiểu chọn ba yếu tố hợp thành: Nước - Dân - Trời.
Nước có biến mới thấy “lòng dân”. Lòng dân được ghi nhận tại “trời” (tức là
lịch sử). Như vậy, Đồ Chiểu nhân danh lịch sử mà khóc dân, cũng như
Nguyễn Trãi nhân danh nhân dân mà nói về lịch sử:
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phất phới”.
Hay:
“Phúc chu thủy tín dân do thủy” (làm lật thuyền mới biết sức dân như
nước).
Chính vì thế, nỗi đau, giọt nước mắt Đồ Chiểu mới được phóng to độ
lớn thế này.
“Đoái trông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng,
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ”
Hình ảnh trước: thương xứ sở. Hình ảnh sau: xứ sở thương. Như vậy,
đau thương bao trùm xứ sớ. Không chỉ đau cho người tiết liệt mà đau cho cả
quê hương.
- Tiếng khóc Đồ Chiểu còn thăm thẳm độ sâu. Đau gắn với căm (mắc
mớ chi cha ông nó... vì ai khiến quan quân khó nhọc...), đau gắn với thương:
“Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều,
Não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”.
Đây không còn là văn mà là lệ.
Đau còn gắn với cảm phục, ngợi ca. Nếu tác giả từng viết rất hay về cái
sống, thì phần cuối viết rất sâu sắc về cái chết. Cái chết cao cả (thà thác mà
đặng câu địch khái...), cái chết bất tử (sống đánh giặc, thác cùng đánh
giặc...).
Tất cả những điều trên hòa thành một giọng điệu trữ tình đa thanh, giàu
cung bậc. Đây là cái thang của mỗi người và mọi người. Có người khi phân
tích “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc”, cứ băn khoăn bởi tư tưởng trung quân rớt
trong mấy chữ: ”... Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã đành rành,
một chữ ấm đủ đền công đó”, hay “Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám
bởi một câu vương thổ”.
Nhưng nên nhớ: Nguyễn Đình Chiểu có tôn quân nhưng không ngu
trung. Cả bài Văn tế chẳng là tiếng khóc những người đành giặc trái ý vua đó
sao?
3. “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu là khúc ca bi
tráng về những người anh hùng thất trận. Nó là cánh cửa mở rộng cho người
nông dân vô danh lam lũ bước vào văn học như một tượng đài tráng lệ.
“Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” là tác phẩm văn học lớn trong lịch sử văn
học Việt Nam. Sự hòa quyện giữa tư tưởng yêu nước và tinh thần nhân dân
tạo nên độ lớn này.
Phân tích bài “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu để cho thấy cuộc đối đầu giữa lòng dân và súng đạn đã tạo nên nét đẹp của người nghĩa sĩ nông dân.
BÀI LÀM
Khi khóc Nguyễn Văn Trỗi, người con anh dũng của miền Nam thành
đồng, nhà thơ Tố Hữu từng nhận thấy:
Có những phút làm nên lịch sử
Có cái chết hóa thành bất tử
Có những lời hơn mọi bài ca
Có những người như chân lí sinh ra
Nhưng, trước Tố Hữu gần 100 năm, giữa trang văn của nhà thơ mù xứ
Đồng Khởi, đã sừng sững hiện lên bóng dáng của những người con anh dũng
đất Sài Gòn Chợ Lớn, những con người “làm nên lịch sử”, những con người
“như chân lí sinh ra”, người nghĩa sĩ nông dân cần Giuộc.
Khi đọc Văn tế... không ai có thế vô tình lướt qua câu văn mở đầu của
nó, câu văn gắn liền với một tiếng than “Hỡi ơi” rất quen thuộc. Nhưng, trong
tiếng than ấy, là cả một tình thế căng thẳng của thời đại, của đất nước: tình
thế có ngoại xâm và có cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Lúc giặc nổ súng
vào đất nước, tấm lòng yêu nước và sự căm phẫn kẻ thù của nông dân không
ai thấu hiểu, chỉ có trời hiểu biết cho. Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc chính là sự
đối đầu giữa lòng dân và súng đạn, giữa tâm hồn tình cảm và vũ khí tối tân;
giữa thô sơ mộc mạc thiếu thốn với cái hiện đại, đầy đủ giữa cái anh hùng,
cao cả dũng mãnh với cái đê hèn. Nguyễn Đình Chiểu đã triển khai cái nhìn,
suy tư của mình trên cơ sở cái từ đối lập ấy, trong quan hệ giữa nghĩa sĩ
nông dân với lũ giặc. Người nghĩa sĩ nông dân đem tấm lòng mình mà đối
chọi với bọn quan quân không có tấm lòng, với bọn giặc ngoại xâm chỉ biết ỷ
vào thế lực súng đạn. Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên, hình ảnh tấm lòng
xuất hiện rất nhiều lần trong bài văn tế... và mỗi lần có mặt, nó đều hiện diện
với tất cả bản sắc riêng của mình, với những dấu ấn ngày càng một cụ thể
hơn, rõ nét hơn. Có khi đó là tấm lòng ở thế đối đầu cùng súng đạn, “Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”. Có khi đó là tấm lòng tự nguvện chiến
đấu, tự nguyện phụng thờ một lí tưởng cao đẹp “mến nghĩa làm quân chiêu
mộ”. Có khi đó là “tấm lòng son” chưa thỏa được ước nguyền, vẫn tồn tại vĩnh
viễn cùng thiên nhiên cây cỏ: “Tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm”.
Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc trước hết là sự hừng sáng của tấm lòng
nông dân, tấm lòng mến nghĩa trước họa ngoại xâm. Thiếu thốn đủ thứ, họ
chỉ biết đem lòng ra mà đánh giặc. Những con người ấy đã đứng lên tự giải
phóng mình, bảo vệ lấy mình, bằng những gì họ có. Đọc Văn tế... người ta
không thể không nghĩ đến ý tưởng của Ph.Ăng- ghen, khi ông cho rằng,
người đầu bếp sẽ đánh giặc theo cách của đầu bếp, bằng lập là, dao, thớt...
và người nông dân sẽ đánh giặc theo cách của người nông dân, bằng “manh
áo vải”, “ngọn tầm vông”, “lưỡi dao phay”, “rơm con cúi”...
Nhà thơ mù xứ Đồng Khởi rất chú ý đến quá trình phát triển của hình
tượng nghệ thuật. Bài Văn tế... thể hiện một quá trình phát triển hết sức hợp
lí, không hề đứt quảng, một quá trình biện chứng từ người nông dân áo vải,
trở thành người nghĩa sĩ cần Giuộc, và cuối cùng là anh hùng thực sự. Nhưng
tư cách người hùng ẩn mình ngay trong người nghĩa sĩ. Nguyễn Đình Chiểu
đã dùng một dung lượng khá thích đáng (từ câu 3 đến câu 9), để mô tả quá
trình ấy. Có người cho rằng, chính hoàn cảnh có tiếng súng ngoại xâm, chính
sự hèn hạ của triều đình, sự vắng bóng của những “trang dẹp loạn” đã buộc
người nông dân phải đứng lên cầm súng. Nhưng nét độc đáo của Nguyễn
Đình Chiểu còn ở chồ, ông đã thổi vào trong bài Văn tế... một giọng diệu, một
ngữ điệu nghệ thuật. Ông đã nhập thân vào người nông dân mà khám phá ra
những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm bên trong của họ. Họ đâu phải là những bù
nhìn, những con người chỉ biết “giã nhà đeo bức chiến bào - Thét roi cầu Vị
ào ào gió thu” (Chinh phụ ngâm), chỉ là những con rối, những thằng hề ra trận
không hề suy nghĩ! Họ là những con người thực sự, có những toan tính thực
sự, những suy nghĩ và cảm nhận bằng giọng điệu của mình:
7. Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan, ngày xem ống
khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
8 Một mối xa thư đồ sộ, há để ai thèm rắn đuổi hươu, hai vầng nhật
nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
9. Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kinh chẳng thèm trốn
ngược trôn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ?”.
Giọng điệu nghệ thuật ấy đã làm cho gương mặt tâm hồn của người
nghĩa sĩ thêm sâu sắc và phong phú. Họ đã sống cùng đất nước này, đâu chỉ
ở những ngày lam lũ, hay những ngày làm chủ sa trường, mà còn sống
chung đất nước trong những suy tư, trong từng nếp nghĩ. Nỗi đau mất nước
đã từng canh cánh trong tâm hồn của những con người ấy. Họ sống cùng đất
nước bằng tất cả sự tự nguyện, chủ động của mình và những suy nghĩ ấy đã
thúc đẩy họ trở thành nghĩa sĩ. Cũng cần lưu ý rằng, ở đây, còn có giọng
điệu, ngữ điệu của Nguvễn Đình Chiểu, của cái tôi trữ tình. Có khi đó là giọng
điệu hoài niệm sâu xa, là niềm thương xót cảm phục chân thành, là nỗi đau
buốt giá. Có khi là giọng ngợi ca ngưỡng vọng, khi gần gữi thân quen... cái
giọng điệu đa dạng và linh hoạt ấy đã làm cho bài văn tế có rất nhiều yếu tố
tự sự, hồi tưởng này bão hòa tình cảm của con người.
Trong tư tưởng nghệ thuật của nhà văn, những người anh hùng ấy
không bao giờ trở thành cát bụi, mà hóa thân vào dáng sông hình núi, vào
tâm khảm của con người. Không phải ngẫu nhiên, trong phần cuối của bài
văn tế này, hàng loạt ý niệm về một thời gian vĩnh viễn, muôn đời được lặp đi
lặp lại: “nghìn năm tiết rỡ”, “muôn đời ai cũng mộ”, “sống đánh giặc, thác cũng
đánh giặc”, “sống thờ vua, thác cũng thờ vua...” Nhà thơ Pháp V.Huygô đã
từng có lần nhận thấy cái chết trong lòng người, trong sự lãng quên mới là cái
chết đáng sợ nhất (Đêm Đại dương). Cho nên, điều đáng quý nhất là những
người nghĩa sĩ anh hùng nông dân cần Giuộc không chỉ bất tử trong thời gian
mà còn bất tử nơi lòng người. Họ sống trong lòng già trẻ nơi chợ Trường
Bình, nơi sông Cần Giuộc, sống trong lòng mọi người: “Danh thơm đồn sáu
tỉnh chúng (tức mọi người - P.H.C chú thích) đều khen”, “tiếng ngay trải muôn
đời ai cũng mộ”… có lẽ không có một sức sống nào vững bền hơn thế.
Truyền thống bất tử hóa người anh hùng, bất tử hóa cái đẹp ấy vốn đã từng
đằm sâu trong hàng nghìn năm văn hóa dân gian, trong từng pho cổ tích và
huyền thoại, từ Trầu cau, Chủ Đồng Tử, Tấm Cám đến Thánh Gióng, Thạch
Sanh... và những người nghĩa sĩ cần Giuộc cũng vậy, họ đã từng sinh ra từ
nhân dân, bất tử trong nhân dân.
PHẠM HỮU CƯỜNG
Hình tượng người nghĩa sĩ nông dân trong vài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu và cảm nghĩ của bản thân.
BÀI LÀM
Vinh quang có khi không làm nên anh hùng. Một thời kì lịch sử đã đi
qua, đau thương và anh dũng. Còn lại với hôm nay không phải là thành
quách, lâu dài; còn lại với hôm nay là những con người - những nghĩa sĩ -
nông dân trong văn chương Đồ Chiểu.
Họ sinh ra không phải đã là anh hùng, cùng không nuôi ý định trở thành
anh hùng. Những con người ấy lớn lên trong bình lặng, chân chất, đói nghèo.
Cuộc sống cấy cày đẩy họ vào những lo toan sớm tối - lo toan suốt một đời
người. Trên những cánh đồng xưa chìm trong mênh mông, bóng họ hôm nao
cũng miệt mài:
“Cui cút làm ăn...”
“Cui cút” - âm thầm, lẻ loi, có gì như hắt hiu và tội nghiệp, Như biết
cảnh mình, biết phận, biết thân. Cứ mỗi ngày, những dáng hình nhỏ bé ấy lại
thêm một lần thu vào lặng lẽ, lặng lẽ đến gần như không tồn tại. Và phải
chăng, chính lịch sử đã lãng quên những kẻ chân lấm tay bùn?
Nhưng rồi, Tổ quốc lao đao trong tiếng “súng rền” xối xả. Cuộc sống đã
mất đi nhịp điệu ngày thường - nhịp điệu tẻ buồn song yên ổn. Với họ, giờ
đây trong những “toan lo” không chỉ có tính suy khó nghèo. Đó còn là những
thấp thỏm, âu lo, những ngóng trông, hồi hộp
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như, trời
hạn trông mưa”...
Dầu “mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm” thì cơn mưa ngày hạn hán ấy
vẫn chỉ là mong mỏi, để rồi thấm thìa bơ vơ - nỗi bơ vơ của những đứa con bị
bỏ rơi trong nguy biến và vô vọng.
Thế mà...
Hình như trong huyết quản của người nông dân, máu nghĩa sĩ vẫn rần
rật chảy. Từ thuở xưa, trước mũi kiếm quân thù, cha ông họ từng:
“Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông”.
Nên không chịu chung trời với bọn đê hèn là điều tất yếu. Gót giày
chúng xéo lên mình Tổ quốc, phỉ báng những điều thiêng liêng trong cõi lòng
phụng thờ thầm kín, cướp đi giấc ngủ yên bình nơi thôn dã, làm sao có thể
dung tha? Những con người rất đỗi hiền lành ấy uất lên vì căm giận, vì bất
bình, vì bàn tay chưa thể giơ lên thành nắm đất, vì tất cả những gì đang ngùn
ngụt bốc lên sau những dằn nén ngột ngạt:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; Ngày xem ống
khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hưu; hai vầng nhật
nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó”.
Cơn giận của lòng yêu nước mạnh hơn những tức tưởi tầm thường.
Mạnh hơn sự yếu hèn. Mạnh hơn cái chết. Và họ xông ra chiến trường không
đợi “ai đòi ai bắt”, mặc cho chốn “trường nhung”, “mắt chưa từng ngó”, khi
“ngoài cật có một manh áo vải”, “trong tay cầm một ngọn tầm vông”. Liều lĩnh
ư? Nông nổi ư? Không, chí căm thù hun nên lòng nhiệt huyết, hun nên dạ sắt
gan đồng, hun nên một sức mạnh tinh thần đủ để làm nên những điều kì diệu:
“Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ”.
“Con cúi” và “dao phay” - không phải chiến công nào cũng giành được
từ vũ khí thô sơ. Nhưng kì tích đôi khi không bắt đầu từ lẫy lừng, danh tiếng.
Thắng lợi ấy đủ vọng vào lòng người niềm tự hào chẳng dễ gì có được - niềm
tự hào cất lên từ tiếng reo hân hoan của cõi lòng phấn chấn - tự hào bằng
một niềm tin!
Những bàn tay quen việc cấy cày - những bàn tay chẳng bao giờ muốn
cầm vũ khí - lại kinh ngạc chốn sa trường. Họ là nông dân. Nhưng trên trận
mạc sống còn, màu áo bình dị ấy nhuộm thêm màu khói lửa. Phải chăng,
chính họ đã hóa nên anh hùng?
Anh hùng - đó không phải là đoàn quân ào ạt ra trận. Cũng chẳng là
những chàng trai “mài gươm bóng nguyệt”, quyết chí phục thù. Họ từng lao
vào trận địa, hiên ngang và anh dũng, quên mình, quên đạn, quên bom:
“Chỉ nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi
giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông
vào, liều lĩnh như chẳng có”.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh; bọn
hè trước, lũ ó sau trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ”.
Ai tạc vào thế kỉ tối đen một tư thế tràn ánh sáng? Tư thế của người
anh hùng, người nghĩa sĩ đánh Tây! Lịch sử cần đến họ hay cuộc đời cần họ
mà trong tư thế quật cường, ta nhận ra chân dung những con người đang
gánh trên vai mình vận mệnh non sông. Ngoài họ ra nào vua, nào chúa...!?
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Triều đình quy hàng trong nhục nhã. Họ có khác nào những đứa trẻ bơ
vơ. Ai sẽ lấp đầy “khoảng trống” ấy? Nhưng thay vì tiếng khóc cô đơn, đứa trẻ
tự tạo cho mình tiếng gọi của chàng trai Phù Đổng - tiếng gọi anh hùng! Để rồi
những con người quanh năm côi cút ấy không còn bị lãng quên. Bởi chính họ,
trên vũ đài lịch sử, đã khẳng định được mình - sự khẳng định nghiệt ngã mà
bản lĩnh.
Những người nghĩa sĩ ấy sinh ra đâu phải để cầm gươm. Nhưng cỏn
con thôi, một lưỡi dao phai, thô sơ thôi, mồi rơm con cúi - họ vẫn có cho mình
vũ khí “đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không” - vũ khí bình dân ấy mang
trong mình sức mạnh của tấc lòng. Đấy là tất cả những gì họ có, nghèo nàn,
lạc hậu. Nhưng khi mũi dao kia phóng vào đầu quan hai nọ, khi ngọn tầm
vông quê mùa quặt chết lũ chó dê, cơn vũ bão cuốn họ đi trong hừng hực lửa,
biến những thứ tầm thường thành linh diệu. Họ đánh giặc bằng cả sức mình,
bằng tất cả những gì có trong tay cộng với lòng yêu nước, căm thù giặc cháy
bỏng.
Nhưng... “Ôi thôi thôi!” - Tiếng khóc quặn lòng, tiếng khóc xát vào nỗi
đau. Họ ngã xuống nơi chiến trường, ngã xuống vì ai? Một sự nghiệp chưa
thành, dở dang như cuộc đời họ... Tiếng khóc ấy, khóc cho những linh hồn,
cho những tấc lòng, cho cả một cơ đồ “ngã gió xiêu mưa”. Cái chết ấy tạc nên
tượng đài của họ, vĩnh viễn nằm trong lòng người - cái chết tráng và bi.
Nỗi hãi hùng đạn bom, tính mạng không thể ủ kín để vẹn toàn, họ đã hi
sinh - dầu chẳng “gươm hùm treo mộ” - vẫn thỏa lòng, thỏa chí. Bởi họ bỏ
mình cho một lẽ sống, một tâm niệm, rằng: “Tấc đất ngọn rau ơn Chúa, tài bồi
cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó”, rằng
“Sống đạnh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh”, rằng “sống
thờ vua, thác cũng thờ vua”... rằng:
“Tha thác mà đặng câu địch khải, về theo tổ phụ cũng vinh: hơn còn mà
chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ”.
Lẽ nhục - vinh ấy không chỉ bắt đầu từ quan niệm về đạo đức. Nó dẫn
họ về với những điều khí tiết, thiêng liêng. “Thà thác...” mà chẳng chịu “đầu
Tây” — lời khí khái tuyên ngôn cho một đời người. Phải đâu, khổ là nhục. Cái
nhục ấy - nhục của kẻ bị đọa đày, kẻ bị đày xuống làm thân nô lệ. Và đau
thương hơn tất cả - nhục mất nước - họ chẳng thể khoanh tay đứng nhìn!
Đau đớn hấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”.
Những tiếng nấc nghẹn ngào, vỡ ào trong điêu linh, ai oán. “Mẹ già
ngồi khóc trẻ”, “vợ yếu chạy tìm chồng” - lại cui cút, tiêu điều, lại oan trái, tang
thương. Những cảnh ngộ ấy xuất hiện bất ngờ nhưng làm thấm thìa nỗi đau.
Thì ra chiến tranh đã cướp đi không chỉ của người nghĩa sĩ sự sống. Họ mãi
mãi nằm xuống để lại “mẹ già”, “vợ yếu”, “con thơ” để lại sau lưng trách nhiệm
nặng nề với những con người bơ vơ ấy, với non sông:
“Binh tướng nó hãy đông sông Bến Nghé, ai là nên bốn phía mây đen;
ông cha ta còn ở đât Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ?"
Người nghĩa sĩ nông dân trong bài văn tế giúp ta hình dung cả một thời
đại họ từng sống qua những năm cuối cùng của thế kỉ XIX sang đầu XX khổ
nhục mà vĩ đại (Phạm Văn Đồng). Lịch sử đã tạo nên anh hùng cũng như anh
hùng có thể vần xoay thời thế. Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên một tượng
đài nghệ thuật bất hủ về họ, về những người anh hùng “tuy thất thế nhưng
vẫn hiên ngang”. Cái hiên ngang của cả một dân tộc, một giống nòi!
TRẦN THỊ THU HÀ
LUYỆN TẬP
1. Hãy cho biết ý kiến của anh chị về nhận định sau:
“Bằng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nhà thơ mù xứ Đồng Khởi, lần
đầu tiên, hình ảnh người nông dân hiện lên trong văn học với tất cả sự bình dị
và những phẩm chất anh hùng của họ”.
2. Nhận định về bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu,
ông Phạm Văn Đồng cho rằng đó là “Khúc ca của những người thất thế
nhưng vẫn hiên ngang”. Anh (chị) hãy phân tích bài văn để làm sáng tỏ nhận
định trên.
3. Trong Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu có một
tượng đài nghệ thuật mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước
chống ngoại xâm. Anh (chị) hãy phân tích bài văn tế để làm rõ vẻ đẹp hiếm có
của hình tượng nghệ thuật đó.
4. Bàn về nét đặc sắc trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, SGK 11 viết:
“Ngôn ngữ và hình tượng nhân vật của Đồ Chiểu có sắc thái miền Nam độc
đáo”.
Hãy phân tích “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” để làm sáng tỏ nhận định
trên.
5. Tấm lòng và tình cảm của nhà thơ mù Đồ Chiểu đối với những người
nghĩa sĩ - nông dân đã chiến đấu hi sinh cho Tổ quốc qua bài “Văn tế nghĩa sĩ
cần Giuộc”.
6. Hãy thống kê bài Văn tế những từ, cụm từ nào có yếu tố “nghĩa”.
Cho biết yếu tố này có ý nghĩa thế nào trong việc dựng tượng đài về những
nghĩa sĩ - nông dân đã đứng lên làm lịch sử.
7. Hãy phân tích hình ảnh so sánh:
Ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ
8. Hai dòng sau do đâu mà làm cho người đọc đồng tình sâu sắc:
Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương xô bàn độc thấy lại
thêm buồn
Sống làm chi ở lính Mã Tà, chia rượu nhạt, gặm bánh mì, nghe càng
thêm hổ.
9. Phân tích giá trị của hai từ trẻ và yếu trong hai hình tượng Mẹ già
ngồi khóc trẻ
Vợ yếu chạy tìm chồng.
10. Do đâu mà gọi đoạn cuối bài “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” là “tiếng
khóc vĩ đại?”
TÁC GIẢ NGUYỄN KHUYẾN
A. BÀI VĂN
Nhà thơ Xuân Diệu viết: “Nguyễn Khuyến mặc dầu không cầm gươm
chiến đấu dưới lá cờ phấn nghĩa cần Vương, vẫn đáng được xếp vào hàng
những nhà thơ yêu nước” (Thơ văn Nguyễn Khuyển - NXB Văn học, 1974).
Hãy giải thích và chứng minh.
BÀI LÀM
Thế nào là một người yêu nước? Thế nào là một nhà thơ yêu nước?
Trong trường kỳ lịch sử, có nhiều thời điểm, những câu hỏi ấy được đặt ra
tưởng như bình dị, giản đơn mà đôi khi thật khó trả lời cho trọn vẹn. Câu hỏi
ấy cũng đặt ra với nhà thơ Nguyễn Khuyến (1835-1909) trong thời đại chúng
ta. Và nhà thơ Xuân Diệu đã trả lời.
“Nguyễn Khuyến mặc dầu không cầm gươm chiến đấu dưới lá cờ phấn
nghĩa Cần Vương, vẫn đáng được xếp vào hàng những nhà thơ yêu nước”.
Nguyễn Khuyến sinh ra và lớn lên đúng vào giai đoạn bi hùng nhất của
lịch sử dân tộc: Pháp xâm lược nước ta (1858), triều đình nhà Nguyễn đầu
hàng, cam tâm làm nô lệ, một phong trào yêu nước kháng Pháp nổi lên mạnh
mẽ ngay từ buổi ban đầu; sau khi được thổi bùng lên bởi chiếu Cần Vương;
biết bao tấm gương hy sinh chói lọi vì độc lập của đất nước. Trong bối cảnh
lịch sử đó, nhiều người băn khoăn tự hói: Tại sao Nguyễn Khuyến không làm
một Thủ Khoa Huân? Trương Định, Phan Tòng? Nguyễn Trung Trực hay một
Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám? Tại sao ông không có mặt trong đội
ngũ những chí sĩ cần Vương kháng Pháp. Câu hỏi đó quả có phần nghiệt ngã
đối với nhà thơ Nguyễn Khuyến. Bởi ông đã trót làm quan với triều đình nhà
Nguyễn tới chức Bố Chánh. Và mặc dầu cuối đời ông kiên quyết chối từ sự lôi
kéo của bọn thực dân, về quê dạy học, sống một cuộc đời thanh bạch...
Nhưng quả là ông đã “Không cầm gươm chiến đấu dưới lá cờ phấn nghĩa
cần Vương”. Đó là một sự thật lịch sử. Tuy nhiên, sẽ là vội vã khi chỉ vì thế
mà ta kết luận: Nguyễn Khuyến không phải là con người yêu nước, chưa phải
là nhà thơ yêu nước.
Không, Nguyễn Khuyến “đáng được xếp vào hàng những nhà thơ yêu
nước”. Nhưng chúng ta đều biết, mặc dầu Nguyễn Khuyến chưa phải là một
chiến sĩ cần Vương xông ra trận tiền đánh giặc, nhưng đọc thơ ông, ta thấy
tấm lòng nhà thơ thật nặng tình với quê hương xứ sở, một con người luôn
trăn trở, băn khoăn, đau đớn, uất ức trước một xã hội đầy nhố nhăng. Không
ra trận, ông làm thơ, nén một nụ cười châm biếm sâu cay vào cái xã hội nửa
Tây, nửa ta ấy. Không yêu nước, không nặng lòng với quê hương, xứ sở làm
sao tâm hồn ông lại có thể rung động và hòa nhập với phong cảnh làng quê
đến thế. Một bầu trời thu “xanh ngắt mấy tầng cao” (Thu vịnh), một ánh trăng
lóe lên trên mặt nước óng ánh. Nếu như trong cuộc đời, Nguyễn Khuyến bất
hợp tác với kẻ thù là một bằng chứng, chứng tỏ ông là người yêu nước thì
trong thơ văn, tấm lòng yêu nước của nhà thơ thể hiện rất rõ ở tiếng cười
châm biếm sâu cay đối với hiện thực xã hội đầy cảnh bất công, ngang trái.
Trước hết ta thấy ông đả kích bọn thực dân vơ vét hết tài nguyên của đất
nước ta:
“Rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặm
Nước độc ma thiêng mấy vạn người
Khoét rỗng ruột gan trời đất cả
Phá tan phên dậu hạ đi rồi”
(Hoài cổ)
Ông vạch trần những trò bịp bợm của thực dân trong ngày Hội Tây và
nói lên nỗi nhục của người dân mất nước:
“Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu”
Ông châm biếm những nhà tiến sĩ giấy, thứ quan lại chỉ còn là bù nhìn,
con rối trong tay bọn thực dân:
“Ghế chéo lọng xanh ngồi bánh chọe
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chai”
Có khi ông mượn lời người vợ hát chèo mà ném thẳng những lời khinh
bỉ vào mặt lũ bán nước”
“Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”
Nếu như Tú Xương đã đem cái “đít của bà đầm” đặt lên trên “đầu ông
cử”.
“Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngóng đầu rồng”
thì Nguyễn Khuyến còn ngang ngược hơn nữa, ông đặt mảnh váy của lũ me
Tây, gái đĩ, ngang với lá cờ tam tài của thực dân:
“Ba vuông phấp phới cờ bay dọc
Một bức tượng hoành váy sắn ngang”
(Lấy Tây)
Bên cạnh những vần thơ châm biếm sâu cay ấy, ta còn thấy tình cảm
yêu nước thầm kín của Nguyễn Khuyến thấp thoáng trong nhiều bài thơ, khi
ông mượn tiếng cuốc kêu mà thổ lộ tâm sự:
“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”
Khi thì ông vịnh Phổng đá trong hòn non bộ để tỏ thái độ của mình:
“Ông đứng làm chi đó hỡi ông?
Trơ trơ như đá vững như đồng
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó
Non nước vơi đầy có biết không?”
Tóm lại, thơ Nguyễn Khuyến dù là thơ phong cảnh hay thơ châm biếm,
thơ tự vịnh hay thơ giễu người, thì đó vẫn là thơ của một con người nặng tình
với đất nước. Ngay cả những bài như khóc Dương Khuê, ở một phương diện
nào đó, cũng là tiếng nói của một con người cô đơn trước thời thế.
Dân tộc ta có một truyền thống yêu nước lâu đời và sâu sắc. Chúng ta
cảm ơn những con người yêu nước, khi giặc đến đã cầm súng, cầm gươm ra
trận... Nhưng ta cũng vô cùng trân trọng và ghi nhận những tâm hồn cao đẹp,
nặng tình, nặng nghĩa với đất nước, quê hương qua những trang thơ, Nguyễn
Khuyến là một tâm hồn như thế.
Lòng yêu nước của Nguyễn Khuyến biểu lộ trong thơ văn của ông như thế nào? Hãy phân tích và dẫn chứng.
BÀI LÀM
Khoảng hậu bán thế kỷ thứ 19, lịch sử nước ta đã trải qua một biến cố
vô cùng quan trọng, đó là việc nước ta bị Pháp xâm chiếm và đô hộ. Nước
mất, làm con dân ai chẳng đau lòng. Nhất là giai cấp sĩ phu từ xưa vẫn tự hào
lãnh trách nhiệm dìu dắt quốc dân, đến đây, phải đau đớn nhận thấy sự bất
lực và vô dụng của mình, nhiều người đành rút về ẩn cư và đem tấm lòng với
đất nước gởi vào lắm áng văn giá trị. Một trường hợp tiêu biểu là Nguyễn
Khuyến. Thi văn ông có khá nhiều bài diễn tả những dằn vặt, những tỏ lường
của ông trong cơn vong quốc, chứng tỏ tác giả đã nung nấu một lòng yêu
nước thiết tha. Chúng ta hãy thử xem lòng yêu nước ấy của Nguyễn Khuyến
qua những văn thơ của ông như thế nào.
Yêu nước ấy là muốn cho nước được độc lập, được vinh quang. Nước
mất chủ quyền, dân tộc sống trong vòng nô lệ ngoại bang. Người đã biết nghĩ
đến nước không khỏi cảm thấy tủi đau. Nguyễn Khuyến đã mượn tiếng cuốc
kêu đêm hè để biểu lộ tình cảm ấy. Ông viết:
Khoắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục đế thác bao giờ
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sâu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Nghe cuốc kêu mà tưởng như máu chảy hồn tan là bởi tiếng cuốc rung
gợi trong tâm hồn tác giả lắm nỗi xót xa. Nhưng Nguyễn Khuyến không phải
chỉ là người dân tầm thường. Ông là bậc sĩ phu đã đạt tới bậc cao tuyệt vời
của danh vọng sĩ phu, do đó mà ông tự coi như có trách nhiệm lớn đối với
dân, với nước. Ông từng than thở cho mình, cho sự bất lực của giai cấp
mình:
Sách vở ích gì cho buổi ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
Điều ông có thể tự an ủi ấy là thái độ bất hợp tác của ông đối với địch.
Không ham địa vị giàu sang, không chịu những phĩnh phờ lừa gạt của thực
dân và tay sai, ông đã treo ấn từ quan, trở về sống đạm bạc, nghèo thiếu ở
nông thôn, để nêu cao tiết tháo bất khuất. Thái độ ấy ông cũng thường hay
mượn vần thơ giải tỏa, để tự hiện bạch. Khi thì ông tự ví mình với một “mẹ
mốc” tuy nhan sắc tuyệt trần, nhưng giả điên giả dại, tự bôi tấm váy nhơ, cho
không ai chú ý, để có thể yên thân mà dành cả tâm tư cho chồng con xa
vắng:
So danh giá ai bằng mẹ Mốc.
Ngoài hình hài gấm vóc chẳng thêm ra
Tấm hồng nhan đem bôi lấm xóa nhòa
Làm thế để cho qua mắt tục.
Khi thì ông tự ví mình như một sương phụ nghèo đói bị người ta cám
dỗ bằng đủ mai mối, mồi bả, nhưng vẫn kiên trinh ở vậy vẫn một dạ trung
thành với kỷ niệm người cố phu. Đó là ý nghĩa bài Gái góa.
Vốn xưa cha mẹ dặn lời
Từ hôn chi để kè cười người chế
Mụ hỏi mụ thương chỉ thương thế
Thương thì hay nhưng kế không hay
Thương thì gạo vải cho vay
Lấy chồng thì gái già này xin van
Nhưng những cảm nghĩ của Nguyễn Khuyến về đất nước, về thời cuộc
không phải chỉ giam hãm ở một thái độ thụ động, tự mình mình biết, tự mình
mình hay, bộc lộ ra bằng những lời thở than hay biện bạch đối với chính
mình. Ông còn hướng ra ngoài, hướng ra cái xã hội lố lăng, những nhân vật
đê tiện mà cuộc đô hộ của ngoại nhân đẻ ra. Ở đây ông ra khỏi lối thơ tâm sự
và lấy giọng trào lộng để mỉa mai, chế diễu hay cảnh cáo. Yêu nước tất nhiên
là phải ghét bọn qụân thù kéo đến cướp nước. Ác cảm của ông đối với người
Pháp tỏ rõ trong nhiều câu chuyện còn truyền tụng. Như một lần, đến chơi
nhà một người bạn, người này vừa tiễn một viên công sứ Pháp ra cửa, ông
tấm tức ứng khẩu:
Hốt đáo nhĩ môn phùng nhi cấu.
Đời bấy giờ gọi Pháp là quỷ, nhà nho khinh bỉ coi họ như một loài “cẩu”
hung hãn, phải đề phòng. Nhưng nghĩ lại, ngoại nhân đáng ghét, song còn
đáng ghét hơn nữa là bọn tay sai ngoại nhân, được chúng bôi mặt vẽ mày
cho ra đảm đang những công vụ quốc gia, khoe khoang hách dịch với đồng
bào. Bọn này không xa lạ gì lắm với tác giả, có kẻ xuất thân ngay trong hàng
khoa cử. Tác giả đã chế riễu cái khoa danh cuối mùa của họ.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh ấy mới hời.
hoặc mỉa mai thói tham lam vơ vét của họ:
Bây giờ đã trót trầy da trán
Ngày trước đi đâu mất máy lông
Bây giờ có viên án sát hình như được thực dân ủy cho dò la và mua
chuộc đám chí sĩ Việt Nam, thường hay lui tới thăm hỏi Nguyễn Khuyến, lại
trong lúc lai vãng tống tặng, hay sinh tài câu thi vần phú. Nhân dịp quan An
gởi biếu một chậu hoa trà, cụ Tam Nguyên liền có bài thơ tạ như sau:
Bác lại cho ta một chậu trà
Ta say ta chả biết mùi hoa
Da mồi tóc bạc ta già vậy
Áo tía đai vàng bác đấy a
Mưa bụi những kinh phường xỏ lá
Gió may lại sợ đứa giơi già
Xưa nay ta vẫn xem bằng mũi
Đếch thấy mùi thơm một chút khà
Tác giả đã tự cho là một mẹ mốc, đã tự phô trương mình là một anh
lòa, vậy thì những “dính chung, chu tử” của cái “Tân trào” kia đối với tác giả
còn có hương vị gì hấp dẫn nữa. Nghĩ mà giận ông án sát mê muội, thật đáng
cụ văng tục cho một tiếng “đếch”. Nếu ông hiểu được cụ đã nguyện “sạch
như nước, trắng như ngà, trong như tuyết, mảnh gương trinh bằng vặc quyết
không nhơ”, thì đâu ông còn dám múa lưỡi khoe khôn với cụ!
Ghét Tây, ghét bọn quan lại làm tôi tớ cho Tây, Nguyễn Khuyến còn
ghét nữa những tục lệ lố lăng mà họ xướng ra, như những ngày hội Tây, hội
Phá ngục Bát ti, hội Đình chiến... đều là những kỷ niệm trong lịch sử Pháp,
nào có liên quan gì đến ta đâu. Vậy mà họ bày ra hội hè linh đình, với những
trò vui thô bỉ như liếm chảo, đập nồi. Dân chúng vô tình tham dự hết mình.
Tất cả hể hả trong bầu không khí vui sướng. Nguyễn Khuyến đứng nhìn mà
tủi cho quốc thể, đau cho quốc hồn, giận lây cả đám quần chúng vô tâm:
Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui the bao nhiêu nhục bấy nhiêu
Thật là một lời cảnh cáo nghiêm khắc, một tiếng gọi hồn nước thiết tha
mà đau đớn hướng vào những ai còn biết nghĩ, biết thương.
Ngoài ra, những bài tâm sự hay trào phúng, ta cũng còn có thể thấy
lòng yêu nước của Nguyễn Khuyến trong nhiều bài thơ nông thôn của ông.
Yêu nước, đối với ông không phải chỉ là than thở giận hờn trước thời cuộc đất
nước. Yêu nước đối với Nguyễn Khuyến cũng còn là, trở về một giọng thơ
thanh thản hơn, nhận xét và ca tụng những vẻ đẹp của đất nước, yêu nước
ấy là yêu cảnh sắc quê hương. Quê hương ta phần lớn là nông thôn với
quang cảnh đơn sơ thân thuộc những lũy tre, những mái tranh, những ngõ
đất, những ao nước... Nguyễn Khuyến đem tất cả những vật liệu ấy vào thi
phẩm. Đọc những vần thơ mùa thu của ông như:
Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
hay:
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm khuya đốm lập lòe
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
Ta cảm thấy một rung động nhẹ nhàng, thanh tao. Tác giả đã thi vị hóa
cảnh quê của chúng, làm cho chúng ta cũng cảm thấy yêu mến quê hương
hơn.
Và yêu nước đối với Nguyễn Khuyến cũng còn là yêu lớp người nền
tảng của đất nước, lớp dân quê, dân cày, đã hai sương một nắng sản xuất và
đóng góp cho nền kinh tế đất nước. Ông đã cúi xuống phản ánh sinh hoạt của
họ. Dân quê ta đa sô là tiểu nông bần nông đã phải sống chật vật, eo hẹp như
thế nào, ông đã nói lên trong bài Làm ruộng:
Phần thuế quan thu phần trả nợ
Nửa công đứa ở nửa thuê bò
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa giàu chè chả dám mua...
Và những trận lụt tai hại, thêm vào chính sách cao thuế nặng của thực
dân đã làm cho nông thôn ta lo lắng- buồn đau như thế nào, ông đã nói lên
trong nhiều bài khác:
Quai Mễ Thanh Liêm đã lỡ rồi
Vùng ta thôi củng lụt mà thôi
Gạo năm ba bát cơ còn kém
Thuế một hai nguyên dáng chửa đòi...
Như vậy ta thấy, qua thi văn Nguyễn Khuyến, tác giả đã chứng tỏ một
tấm lòng yêu nước chân thành. Nguyền Khuyến đã không hổ danh một vị ông
Tam Nguyên, đại biểu cho giai cấp sĩ phu trong lúc quốc phá gia vong. Ngày
nay đọc lại những vần thơ trong đó biểu lộ, khi thì nồng nàn hiển hiện khi thì
bóng gió xa xôi, lòng tác giả thiết tha rung động với non sông, với dân tộc
trong cơn bĩ cực, ta càng thấy yêu mến nhà nho và nhà thơ nổi danh của làng
Yên Đổ.
PHẠM THẾ NGŨ
THU VỊNH
A. BÀI VĂN
Bình giảng bài Thu vịnh để qua đó thấy được chân dung của nhân vật
trữ tình: cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến.
BÀI LÀM
Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm.
Mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu.
Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm (Xuân Diệu). Trong ba kiệt tác ấy, Thu vịnh
dường như có thần hơn cả. Bài thơ không chỉ là một minh chứng về tài năng
mà còn mang đậm hình ảnh Nguyễn Khuyến với những băn khoăn, trăn trở
đáng trọng. Trăn trở ấy hiện ngay trong câu thơ đầu tiên.
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
Có phải vô tình chăng khi cả ba bài thơ mùa thu của cụ, da trời đều
mang màu “xanh ngắt”? Xanh ngắt chứ không phải xanh lơ, xanh dịu hay
xanh lục. Chỉ riêng mấy tiếng “mấy từng cao” đã thấy một độ cao khá lớn.
Nhưng khi bàn tay Nguyễn Khuyến tô vẽ cho da trời một màu “xanh ngắt” thì
trời thu như bị đẩy lên cao hơn, xa hơn, chẳng dừng lại ở mấy tầng nữa mà
gấp bội lần như thế.
Đến câu thơ sau:
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Câu thơ vẻn vẹn bảy âm tiết mà đã có tới hai từ láy song vẫn không hề
thúc ép, gượng gạo “lơ phơ” là một từ láy chỉ số lượng chẳng mấy đông đúc,
thậm chí rất thưa thớt, vả chăng, khi thu sang, thân măng đã thành thân tre,
có hình cong như cần câu và lá hãy còn thựa thớt lắm. Không chỉ mô tả được
dáng điệu của sự vật, từ láy này còn gợi cả một chuyển động, dù rất nhỏ -
nếu không tinh mắt, thì khó mà phát hiện ra. Ngay đến gió thu cũng chi “hắt
hiu” chứ không phải là cơn gió mạnh mẽ căng đầy nhựa sống, cũng không
phải là cơn gió lay lắt cuối mùa. Hơi “gió hắt hiu” gợi một cảm giác buồn sầu
thanh nhẹ, ngắm dần vào con người. Và khi đã ngắm rồi thì buồn và sầu sẽ bị
đẩy lên tới đỉnh điểm.
Câu thơ đầu tiên đã tạo được một ấn tượng mạnh mẽ từ màu “xanh
ngắt” thì đến câu thứ ba, một lần nữa, ấn tượng ấy lại được khắc họa:
Nước biếc trông như từng khói phủ.
Đáng chú ý là sự xuất hiện hình ảnh so sánh đầu tiên và duy nhất trong
bài thơ. So sánh, không phải để cụ thể hóa đối tượng, sự vật mà để cho nó
trở nên huyền ảo, mông lung hơn. Do vậy, cảnh thu như nhiều hơn là thực.
Có trời, có nước, có trúc và bây giờ đến trăng:
Song thưa để mặc bóng trăng vào
Ngỡ là thêm sự vật thì bức tranh thu sẽ trở nên đông đúc, rộn rã hơn.
Nào ngờ càng thêm vào thì cái lạnh lẽo đơn độc càng tăng lên gấp bội. Lúc
này, trăng không khơi gợi được cảm xúc của thi nhân cũng tỏ ra hờ hững với
trăng nên mới “để mặc”. Hờ hững với trăng hay là còn hờ hững cả với đời
nữa vậy?
Đúng! vẫn chưa rõ duyên cớ. Song tôi chắc chắn rằng nỗi buồn của
Nguyễn Khuyến chưa đến mức tuyệt vọng, bởi nếu tuyệt vọng thì cụ còn nhìn
cảnh âu sầu hơn thế rất nhiều. Tâm trạng của cụ Tam Nguyên lúc này vui thì
không vui mà tuyệt cùng không phải là tuyệt vọng. Chỉ buồn, chỉ cứ ngồi bất
động mà buồn. Con người ta nếu nằm ở hai trạng thái tình cảm minh bạch, rõ
ràng: Vui thì vui mà buồn tuyệt vọng thì tuyệt vọng rõ đi - thì chẳng có gì đáng
nói. Cứ như trường hợp nửa nọ nửa kia của Nguyễn Khuyến thì quả là một
sự khó chịu khủng khiếp. Con người như vô cảm (?), nửa muốn phó mặc
những gì đang diễn ra trước mát, nửa lại không.
Nếu như bốn câu thơ đầu bộc lộ một nỗi buồn vô cớ thì đến hai câu
luận đã thấy rõ lí do:
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Chỉ trong khoảng thời gian năm ngoái đến năm nay đã xảy ra những
biến cố gì để thi nhân phải quay về cảm xúc trong “hoa năm ngoái” và xót xa
trước tiếng “ngỗng nước nào”? “Một tiếng trên không ngỗng nước nào” là một
câu hỏi hoài nghi song cũng là một câu trả lời chắc chắn. Thế mới đau, thế
mới uất, mới rầu... Âm thanh duy nhất của bài thơ cất lên không chút rộn rã
đà đành, lại chỉ duy nhất “một tiếng” và đặt vào chú “ngỗng nước nào” thì u
hoài, lạc lõng biết bao nhiêu.
Mà toàn bộ bài thơ, hình như cái gì cũng ít ỏi: trúc thì “lơ phơ”, song thì
“thưa”, hoa thì “mấy chùm”, ngỗng thì “một tiếng”... Lạ! Vì mải mê suy nghĩ mà
hững hờ với cảnh hay đấy chỉ là những âm thanh, sự vật của tâm tưởng, của
cảm giác? Dù sao những sự vật đó đều tạo cho bài thơ một không gian lí
tưởng để con người tự đối diện với chính mình mà giãi bày tâm sự. Cho vơi
bớt đi chăng? Có lẽ càng giãi bày bao nhiêu thì nỗi niềm ấy càng hun đúc lại
bấy nhiêu; bởi làm gì có tri âm mà giãi bày giữa cõi đời ô trọc này?
Tất cả vẫn chỉ là cảnh, bóng dáng con người chỉ thấy rõ nét nhất trong
hai câu kết:
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Song lại là con người vô ngôn, bất động mặc dù có hành động “toan cất
bút" - nhưng chỉ là “toan”. Chỉ có cuộc sống nội tâm là hoàn toàn xáo trộn. Vì
“thẹn với ông Đào” chăng? Một cái “thẹn” đáng trân trọng đã nâng cao tầm
vóc Nguyễn Khuyến hơn, đẹp hơn, đáng kính hơn.
Có một điều tôi chợt băn khoăn. Chẳng rõ thời điểm thi nhân viết bài
thơ này là khi nào? Băn khoăn và cũng chợt nhận ra rằng, bài thơ được viết ở
nhiều khoảnh khắc khác nhau “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao” là hiện hữu
rành rành của ngày, nhưng đến “Song thưa đế mặc bóng trăng vào” thì đã
chuyển sang đêm mất rồi. Không rõ có phải do công việc bộn bề nên vần thơ
dang dở thi nhân phải gác lại chờ trăng lên viết tiếp? Hay là cái nỗi sầu kia cứ
hút lấy thi nhân, không dứt ra được và Nguyễn Khuyến cứ chìm trong cái bể
sâu bất tận ấy từ ngày tới đêm?
Bài thơ có một không gian rất rộng. Trời thì bị đẩy lên cao tít tắp, nước
như sâu hơn và cảnh thì thờ ơ lãnh đạm: Giữa một khu cảnh rộng rãi khác
thường ấy, con người co lại như một chấm nhỏ. Bỗng thấy chơ vơ, lạc lõng.
Buồn đến nao lòng.
Có thế nói, mỗi dòng thơ, mỗi âm tiết thơ ở bài này đều ắp đầy những
băn khoăn trăn trở của cụ Tam Nguyên trước cuộc đời. Đọc kĩ bài Thu vịnh,
phần nào, cũng thấy rõ thêm tính cách thi nhân của Nguyễn Khuyến là vậy.
THU ĐIẾU
A. BÀI VĂN
Phân tích bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến.
BÀI LÀM 1
1. Vài nét về tác giả và tác phẩm
Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, hiệu là Quế Sơn. Ở làng Yên Đổ,
huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam (nay thuộc Hà Nam Ninh). Ông vốn dòng dõi
nhà nho nghèo. Học giỏi, ông đỗ đầu cả ba kỳ thi (thi hương, thi hội, thi đình)
nên gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông làm quan đến chức Tống đốc. Năm
1883, buồn vì không làm được ích lợi cho quốc gia trong khuôn khố của chế
độ thực dân, ông cáo quan về dạy học. Tác phẩm của ông gồm có Quế Sơn
thi tập bằng chữ Hán và nhiều thơ, văn, câu đối bằng chữ Nôm, hầu hết được
sáng tác trong thời gian cáo quan về nhà. Ông mất năm 1909.
2. Thời đại Nguyễn Khuyến và hoàn cảnh sáng tác của bài thơ.
Cuộc đời Nguyễn Khuyến nằm gọn trong cảnh “nước mất nhà tan”. Bên
cạnh triều đình bù nhìn, hèn nhát, phản bội quyền lợi của dân tộc, có những
tên bán nước, cầu vinh, có những người cố tình bưng tai bịt mắt để trục lợi,
có những kẻ làm quan chỉ nhằm đục khoét của dân, có những phường “vá áo
túi cơm” mang danh khoa bảng mà bất tài, bất lực..v..v. Ngòi bút đả kích của
Nguyễn Khuyến đã chỉa thẳng vào những con người ấy, kể cả bọn thực dân
“Vịnh Kiều, Ồng Nghè tháng Tám, Hỏi thăm quan tuần mất cướp, Hội Tây,
Gục nhe...”
Đời sống của nhân dân dưới hai tầng áp bức bóc lột, ngày càng cơ
cực- thiên tai đe dọa, sưu thuế nặng nề... Lâu năm sống ở nông thôn, ông
rung cảm với cảnh sống của người nông dân một cách sâu sắc. Những mũi
tên trào phúng của ông bắn vào bọn thống trị đương thời. Tấm lòng yêu nước
của ông lắng sâu trong lòng. Nhiều lúc ông thấy phải xa lánh cuộc đời xấu xa,
lánh những thực tế đau buồn để hòa vào thiên nhiên cho tâm hồn chơi vơi
trên mặt nước, bay trên từng mây. Bài Thu Điếu được sáng tác trong hoàn
cảnh như vậy. Ta còn rung cảm qua bài thơ chính là vì hình tượng tâm tư của
tác giả, vì thái độ phán kháng, dù là tiêu cực, của một con người có tài không
chịu khuất phục bọn cướp nước và bán nước.
3. Phân tích bài thơ
Quan hệ đồng nhất hay chủ đề của bài thơ này là gì? Ta phân tích cấu
trúc của bài thơ mới có thể xác nhận được.
Câu “thừa” đặt vấn đề, nói đến người đi câu:
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Câu “thực” lẽ ra phải miêu tả buổi câu cá, nhưng tác giả chỉ miêu tả
thiên chiên:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lả vàng trước gió khẽ đưa vèo
Câu “luận” lẽ ra phải luận về câu cá, nhưng tác giả cũng chỉ nói đến
thiên nhiên:
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Nqõ trúc quanh co khách vắng teo
Câu “kết” nói rõ: Câu mãi mà không được cá, thực ra cũng chằng kết
luận gì về câu cá.
Vậy thì tác giả diễn tả cái gì trong bài thơ này? Phải phân tích những
yếu tố trong bài thơ và những nét đối lập giữa chúng với nhau mới thấy được.
Bài thơ thể hiện hai trạng thái đối lập nhau: tĩnh và động, nhưng tĩnh nhiều
hơn động:
Ao thu lạnh lẽo, nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Từng mây lơ lửng, trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Chỉ có tiếng động khẽ phá vỡ không khí yên tĩnh này:
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Tác dụng của hai tiếng động khẽ ấy nêu rõ được tính chất của trạng
thái yên tĩnh và của bức tranh hiện thực:
Người câu cá (tác giả) ngồi trên thuyền câu “tựa gối ôm cần”, nhưng
không phải để câu cá mà là để nhìn mặt nước và “sóng biếc theo làn hơi gợn
tí”. Bỗng chiếc lá vàng bay vèo trước mắt, kéo ông trở về thực tại, rồi ông
ngước mắt nhìn lên: “từng mây lơ lửng trời xanh ngắt” rồi lại nhìn xuống đất:
“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Rồi bỗng “Cá đâu đớp động dưới chân
bèo” làm ông chú ý tới việc đi câu và mới biết mình: “Tựa gối ôm cần lâu
chẳng được”. Rõ ràng tác giả không tả buổi câu cá, mà chỉ tả cái dáng điệu
người câu cá. Thông qua dáng người câu cá, tác giả miêu tả tâm trạng cô
đơn của mình.
Những từ ngữ miêu tả tâm trạng cô đơn, vắng vẻ trong bài thơ là
những yếu tố chủ yếu diễn đạt hệ thống tâm tư của nhà thơ. Thuyền câu ở
đây cũng không phải là một “con thuyền” linh hoạt như thuyền của ông Tô Tử
trên sông Xích Bích:
Ông Tô Tử qua chơi sông Xích Bích
Một con thuyền với một túi thơ
Cũng không phải là một “lá thuyền” mơ mộng:
Thuyền một lá xông pha dòng Bạch Lộ
Nhởn nhơ nhường lên bến tiên hương
mà là một chiếc thuyền cô đơn, bé tẻo teo.
Sự bé nhỏ của chiếc thuyền càng làm tăng thêm cảnh “lạnh lẽo” của ao
thu, đồng thời như quên cả cái tồn tại vật chất bên ngoài, mà chỉ còn lại cái
suy tưởng bên trong của người câu cá. Tất cả là vắng vẻ, cô đơn. Nhà thơ
chìm đắm triền miên trong dòng suy tưởng. Nhìn lên bầu trời thì:
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Mây cũng chơi vơi ở giữa bầu trời bao la xanh ngắt, không trung êm
ắng, mọi hoạt động như ngừng đọng. Nhìn xuống đất thì chung quanh ao
cũng đượm một màu hiu quạnh:
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Ngõ trúc bên ao cũng mang hình ảnh ngõ trúc của nhà tác giả. Dù nhìn
xuống mặt nước, nhìn ra chung quanh, nhìn lên trời hay xuống đất, lúc nào
cái nhìn của nhà thơ cũng là cái nhìn trong suy tưởng.
BÀI LÀM 2
“Thu điếu” là một trong ba bài thư viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến
rất nổi tiếng xưa nay. Mùa thu đã thú vị, mùa thu ngồi câu cá lại càng thú vị
hơn. Niềm thú vị ấy đã trở thành cảm hứng cho một trong những bài thơ hay
nhất của Nguyễn Khuyến.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khuyến giới thiệu và hạn định khái quát nơi
phát sinh cảm hứng với câu phá đề:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Địa điểm là ao, thời gian là thu, một mùa thu. Hai từ “ao”, “thu” được kết
hợp thành một nghĩa “ao thu”, một thứ ao riêng chỉ đến mùa thu mới có
những nét ấy. Cảm xúc ban đầu của Nguyễn Khuyến về ao thu được phát
hiện nhờ tính chất “lạnh lẽo” và “nước “trong veo”. Chính nhờ vậy mà lòng
nhà thơ tràn trề cảm hứng. Sau một mùa hạ nóng nực, kéo dài, cái “lạnh lẽo”
của mùa thu với bao cảm xúc, cái lạnh nhưng lại có “nước trong veo”. Ao
lạnh, nước yên, nước trong nhìn tận đáy. Trời cũng lặng gió, bầu trời cũng
phải thật trong, nước mới có thể “trong veo” như thế. Cái “ao” ở đây gợi lên
một cái gì rất thân quen bình dị trong cuộc sống ở nông thôn.
Trên cái nền ấy là hình ảnh người ngồi câu cá.
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Người ngồi câu cá không phải ngồi trên bờ như những người khác ngồi
mà ngồi trên “một chiếc thuyền câu”, vì thế tầm nhìn rộng hơn, bao quát hơn.
Nhà thơ lại ngồi trên một chiếc thuyền câu “bé tẻo teo” nghĩa là rất nhỏ có thể
đó là một thứ “thuyền thúng” rất phổ biến ở vùng quê miền Bắc, vừa vặn cho
một người ngồi. Vừa thực mà vừa mơ, cả không gian như co lại trong cái lạnh
mùa thu và trên chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Nhờ vậy nhà thơ đã nhận ra
nhiều vẻ của mùa thu:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Trong bốn câu thơ trên, hai câu thực là cảnh gần, hai câu luận là cảnh
xa. Cảnh gần thì có “sóng biếc gợn” và lá vàng đưa tiếng và hình cực nhỏ
cuối hai câu nổi lên hai từ “tí”, “vèo”, một từ diễn tả sự cực nhỏ của hình khối,
một từ diễn tả sự cực nhỏ, của âm thanh. Vẻ tĩnh lặng của mùa thu cứ tăng
dần qua từng cấp độ. Không gian động mà tĩnh ở hai câu luận, cảnh thu như
xa hơn một chút, cảnh ngoài giới hạn của ao thu, phía trên là bầu trời mùa
thu, trước mắt là làng xóm mùa thu. Trời thu xanh, xóm làng thì vắng vẻ. Trời
thu thì xanh ngắt, đó cũng là điểm đặc trưng khơi gợi của trời thu.
Từng mây lơ lửng ở bên dưới là để làm rõ thêm trời xanh ngắt. Một cái
nhìn và cảm thật tinh tế! Cảnh xóm làng thì vắng vẻ gần như tuyệt đối: “vắng
teo”. Hai câu kết con người mới xuất hiện, chính là tác giả bài thơ:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được.
Một tư thế có thể ngồi lâu để mà vừa câu cá, vừa trầm tư, thưởng thức
cái cảnh đẹp của mùa thu. Nhưng ngồi đã lâu mà vẫn chưa có cá. Hình như
nhà thơ chỉ một điều gì đó mà chính mình cũng không rõ.
Thế rồi “Cả đâu đớp động dưới chân bèo”
Một câu kết mơ hồ mà cũng như có thực: Có thể cá cắn câu mà cũng
có thể không. Cái rung động nhẹ nhành ấy khiến cả không gian mùa thu như
lắng đọng lại.
“Thu điếu” với sự điêu luyện trong việc sử dụng tiếng nói dân tộc uyển
chuyển, phong phú đạt đến mức tuyệt đối trong sáng và tinh tế. Nhờ đó đã
diễn tả được vẻ đẹp giản dị thực sự của mùa thu ở những làng quê Việt Nam,
đồng thời trong “Thu điếu” ta cũng nhận ra một vẻ đẹp của tâm hồn trong
sáng tinh tế, mà giản dị, chân thành, gắn bó với quê hương và dân tộc.
THU ẨM
A. BÀI VĂN
Phân tích bài thơ “Thu ẩm” của Nguyễn Khuyến.
BÀI LÀM
Thu ẩm có nghĩa là mùa thu uống rượu (Âm: uống, uống rượu). Nó có
nghĩa là một trong bài thơ Nôm về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: Thu
điếu (Mùa thu câu cá) Thu vịnh (mùa thu làm thơ) và Thu ẩm. Cũng có nhiều
bài thơ khác về mùa thu bằng chữ Hán, ba bài này đều in đậm hai nét tiêu
biểu cho tâm hồn thơ của tác giả: đó là dáng thu, hồn thu của đồng bằng Bắc
bộ thời xưa và thắm đượm vào cảnh vật là tâm tư của nhà thơ trước cảnh
tình đất nước thời gian ông từ quan về sống ở quê nhà. Tất nhiên, ở mỗi bài
là dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng.
Dáng thu trong Thu vịnh là cái gì cao thăm thẳm xa vời, quen mà hóa
lạ. Trời thu thì xanh ngắt những mấy từng; cây tre thu lại chỉ còn một cần trúc;
khói phủ thành từng trên mặt nước; song cửa đê mặc ánh trăng vào; hoa năm
nay giấu vào hoa năm ngoái, tiếng ngỗng vang trong mơ hồ... Hồn thu như
lắng chìm vào bên trong, ấn chứa ở chiều sâu. Dáng thu, hồn thu trong Thu
điếu là cái gì cũng như thu mình cho nhỏ bé, cho lặng im: Chiếc thuyền câu
bé tẻo teo, mặt ao chỉ gọn tí, mảnh lá vàng rơi vèo không thành tiếng, cá quẫy
chỉ động nhẹ dưới chăn bèo. Tất cả cùng mọi vật khác đều như im lìm trong
một không khí lặng yên, tĩnh mịch của một sự đợi, đợi chờ tưởng như ông
câu cũng hóa đá trong tư thế tựa gối ôm cần. Tâm tư cụ Tam Nguyên ngụ
trong cái lắng chìm vào bên trong, cái đợi chờ mỏi mòn trong yên lặng như
thế.
Với lên hai bài thơ thu kia mấy dòng như vậy là mượn chút so sánh để
nhìn được rõ hơn dáng thu, hồn thu và tâm tư nhà thơ trong bài Thu ẩm này.
Dáng thu, hồn thu, cả tâm tư nhà thơ có khác.
Cảnh vật vẫn là cảnh vật ở hai bài thơ kia: Từ nhà từ vườn nhìn ra
đồng, cái ao, rặng tre, hàng dậu, lối xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu
khói phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Khác một chút là ở hai bài thơ trên
kia, Nguyễn Khuyến là nhà thơ, là ông câu cá, còn ở đây ông khề khà ly
rượu. Nhưng cũng chính từ cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến dạng,
đầy bất ngờ mà thú vị.
Hai câu đề:
Ba gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Nhà tranh mà gọi là nhà cỏ thì giá trị đã hạ một bậc nhưng chữ nghĩa
khác nhau chưa mấy. Nhưng thấp le te đã rõ là thấp và chẳng còn lành lặn,
mái tranh đã rách nát, xác xơ đổi dạng. Tiếp theo: Ngõ tối và đêm sâu là cảnh
bình thường nhưng lại có ánh lửa đom đóm lập lòe làm cho ngõ tối và đêm
sâu lúc tối, lúc sáng thành ra cũng biến dạng.
Hai câu thực cũng vậy:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làm áo lóng lánh bónq trăng loe.
Sương thu lớt phớt như khói mỏng phủ bờ giậu khiến cho cây xanh
cũng chẳng còn màu đêm. Câu thơ đặc biệt miêu tả tài tình: Mặt ao cũng
không còn phẳng lặng mà lăn tăn gợn sóng và ánh trăng chiếu vào nên lóng
lánh; bóng trăng chiếu xuống nước gợn sóng cũng chẳng còn nguyên hình
mà chao lại loe ra, dồn lại, biến dạng liên tiếp.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Cảnh trời và cảnh mình. Trời cũng như mình đều do ai đó làm cho biến
đổi: Trời thì ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy mà cũng đỏ hoe?
Người nghiên cứu bảo cụ Tam nguyên đau mắt, có lần mắt đỏ như máu, hay
là do rượu say? Say rượu cũng thường đỏ mắt. Chữ “ai” lấp lửng một mối
hoài nghi, nghe lửng lơ nhưng chắc không phải vô ý. Bỗng dưng lại lấy một
thế lực nào đó bên ngoài tác động vào trời, nhuộm cả da trời, rồi bỗng dưng
mắt mình “đỏ hoe nước mắt”. Đây cũng là nét tâm tư của nhà thơ? Nó cùng
một mạch cảm thương như hoa năm nay mà nhìn ra hoa năm ngoái, và tiếng
ngỗng bay qua trời mình mà nghĩ mà ngỡ là ngỗng nước nào. Tâm tư nhà thơ
không ngoài nét buồn đau trước cánh nước mất, lũ giặc lũ gian giày xéo mà
mình thì bất lực, bứt rứt không nguôi.
Cuối cùng là tửu tượng cũng chẳng còn bình thường: Rượu tiếng rằng
hay chả mấy nên chỉ dăm ba chén đã say nhè. Nhìn chung tại sao lại có sự
biến hình đổi dạng này? Do rượu chăng? Sao nhìn vật một hóa thành hai, ba,
hoặc nhòa nhạt tất cả. Dáng hình biến đổi, màu sắc, đường nét nổi lên nhòe
ra chập lại, lảo đảo như say.
Âm thanh cũng theo điệu ấy, có vẻ say. Rõ nhất và cũng bất ngờ nhất,
thú vị nhất là ở tất cả các từ: le te, lập lòe, đỏ hoe, say nhè. Cả câu: Làn ao
lóng lánh bóng trăng loe có đến bốn tiếng có phụ âm l, càng tăng gấp bội cái
cảm giác ngửa nghiêng, chao đảo không chỉ ở bóng trăng dưới nước mà ở cả
mặt ao, làn ao. Từ đó mà cảm giác ngả nghiêng chao đảo ấy lan tỏa ra toàn
bài để rồi kết thúc bằng hai chữ “say nhè” ở chót câu cuối nhưng rồi âm thanh
và ý nghĩa lại dội ngược lên toàn bài.
Thế là nhà thơ một mình đối diện với bầu rượu trong đêm thu này. Sau
dăm ba chén, tâm tư đã nhòa ra, thẩm thấu vào cảnh vật, khiến cho dáng thu,
hồn thu đều cùng biến dạng, lảo đảo, say nhè. Cái hay, cái tài của bài thơ Thu
Ẩm này là ở đó. Nhà thơ say vì nỗi buồn trước vận nước và bứt rứt khôn
nguôi trong lòng. Mượn vài chén rượu cho khuây nhưng uống vào lại thấy nỗi
niềm ấy hiện ra rõ rệt hơn, làm lảo đảo cả cảnh vật đêm thu. Có lúc không
rượu mà tâm trạng chừng vui hơn, cụ Tam nguyên đã tự cười mình và cũng
thấy người mình như say: Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say kia mà!
LÊ TRÍ VIỄN.
Có ý kiến cho rằng Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ đặc săc của làng cảnh Việt Nam. Anh (chị) hãy chứng minh điều đó qua việc phân tích chùm thơ về mùa thu của ông.
BÀI LÀM
1. Không phải tôi đang làm cái việc của người đọc ở những thế kỷ sau.
Bởi tôi đang là người của thế kỷ này, làm sao biết bậc lớp hậu sinh nghĩ gì,
yêu ghét những gì. Nhưng cứ theo quy luật thông thường, để cho hành trang
không quá cồng kềnh trên con đường xa. Người ta lại đành lòng bỏ bớt.
Không phải mọi giá trị hôm nay được ngưỡng mộ tôn vinh, đều đủ sức đeo
bám theo con người vào thế kỷ tới. Thời gian sàng lọc hay con người sẽ quên
đi nhiều, hay các giá trị tự nó vơi đi? Nguyễn Trãi sẽ còn gì? Nguyễn Du sẽ
còn gì? Hồ Xuân Hương? Tú Xương?... Và Nguyễn Khuyến? Nguyễn Khuyến
cũng thế, rồi người ta sẽ quên đi nhiều. Nhưng thời gian không nỡ quên các
Chùm thơ thu của Yên Đổ. Bởi xem ra là những kỷ vật cuối cùng mà thi nhân
tặng cho thi ca mai hậu. Đến nó cũng bị lãng quên, nghĩa là hết! Rồi đây, cái
làng xưa với những nhà cỏ hao gầy và đơn sơ có thể không còn nữa, những
làng ao chuôm cỏn con có thể bị vùi lấp, cái cảnh quan thôn xã giao hòa với
thiên nhiên, được ôm ấp trong vòng tay của thiên nhiên bây giờ cũng đổi
khác. Thì có lẽ ba bài thơ thu ấy vẫn cứ còn. Nó còn như một ký ức về cội
nguồn, như một ảnh hình được lưu giữ trong tâm linh người Việt, thuộc về
văn hóa Việt.
Tôi tin thế và hằng mong thế!
Ba bài thơ thu ấy là một thế giới. Chúng nói cùng ta về một thứ chỉnh
thể của văn chương: chỉnh thể chùm. Ba thi phẩm được viết khá gần nhau,
nếu không nói là thuộc về cùng một hơi thơ, một mạch cảm hứng. Tuy ba mà
một, tuy một mà ba. Nguyễn Khuyến đã có Tam nguyên trong khoa cử, lại có
Tam thủ tuyệt thi trong thơ ca. Ba bài thơ tự kết với nhau hợp thành một
không gian riêng, một thời gian riêng, một bầu khí quyển riêng, mang một sinh
khí riêng. Thế giới ấy là của riêng Nguyễn Khuyến. Ông đã tạo ra nó bằng cả
tâm hồn mình, và ông đã chọn cái thế giới ấy làm nơi cư trú riêng cho cốt
cách của mình. Tâm hồn ông đã chọn nơi này để ký thác vào thế giới này đã
nhận ông để biến cái thên thế phù du trôi nổi thành giá trị vĩnh hằng.
2. Thơ ẩn dật điền viên ở ta không thành hẳn một thi phái, trào lưu,
nhưng thời nào cũng thấy. Đối với ta, nó không xa lạ. Tuy nhiên đây vẫn là
một cõi riêng của Nguyễn Khuyến. Ta không thấy có ở người khác. Ông nhào
nặn, tái tạo từ những nguyên liệu, vật liệu quen thuộc của cảnh quê, nhưng lại
khắc phục được cái thô mộc, quê kệch để làm cho tất cả trở nên thanh nhã
hơn, cao sang hơn. Toàn bộ cái nguyên tắc xây cất, tái tạo của thi nhân để
làm thành cái nẻo riêng, cái khuôn viên riêng của mình ở cõi thu này có thể
tóm tắt vào một chữ: THANH.
Bước vào cõi thu Nguyễn khuyến là bước vào thế giới khiêm nhường
mà thanh cao. Những sự vật chốn thôn dã quê mùa bỗng trút bỏ cái thô mộc,
vụng về để trở nên thanh thoát, bỗng thoát khỏi cái lam lũ, tồi tàn thành tinh
tế, thanh cao. Đúng thế, chưa có ở đâu mà những nếp nhà, bờ giậu, mặt ao,
lối ngõ, con thuyền, đám bèo, ngọn khói, tiếng ngỗng trời, tiếng cá quẩy v.v...
Chùm thơ thu Nguyễn Khuyến. Ông đã khơi dậy từ đó một chất thơ mà không
cần phải cầu đến lối thi vị hóa. Và các sự vật ấy đã óng lên một chất thơ mà
vẫn giữ nguyên được cái chân chỉ duyên quê trong bản tính của mỗi sự vật.
Cảnh thơ dân dã mà nho nhã, quê kiểng mà chẳng quê mùa! Bao trùm lên là
một không khí thanh đạm, thanh vắng. Nó là không gian Nguyễn Khuyến, là
bầu khí quyển riêng của Yên Đổ. Vì thế bước vào thế giới này là bước tới một
nơi thật quen của ta, nhưng dường như ta vẫn phải đi thật chậm, thật gượng
nhẹ, nhón chân, hoặc ta nên yên lặng không di dịch mà trầm ngâm cùng thi
nhân, nếu không muốn trở thành phàm nhân, lố bịch.
Ở trung tâm của cõi thu Nguyễn Khuyến là một nếp nhà giản dị mà
thích thảng: “Năm gian nhà cỏ thấp le te”. Nhưng vẫn có đủ “Song thưa để
mặc bóng trăng vào”, vẫn mở thông ra thiên nhiên, giao hòa với trời cao -
thấp đấy mà cao đấy! Vẫn là cái “Mái rạ nghìn năm” ấy thôi, nhưng không
phải là “Mái nhà tranh thấp ngủ im hơn” trong tủi sầu, trì trệ. Cũng không phải
là “Mái gianh ơi hỡi mái gianh, Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương”
đầy nhẫn nại, thương nhớ. Cũng không phải là “Đôi mái nhà tranh lấm tấm
vàng” phong tình lãng mạn...Bản lĩnh của Nguyễn Khuyến là ở đấy! Chữ “le
te” vẫn giữ cho năm gian nhà cỏ vẹn nguyên là nhà cỏ đời thường. Nó không
định trở thành “thảo đường”, “am mây” một cách ẩn dật, cùng không mặc cảm
thành tội nghiệp, tồi tàn. Không thấp kém, không cao đạo, mà thanh cao! Nó
là gian - nhà - Nguyễn - Khuyến!
Trước sân là bờ giậu thưa, ở đó những xế chiều trông ra có thể gặp
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái” vừa như một ảo giác, lại vừa như một
hiện hữu. Còn khi trời về tối có thể thấy bảng lảng khói sương “Lưng giậu
phất phơ màu khói nhạt”. Trước nhà là một khoảng ao bé. Khi phẳng lặng có
thế thấy “Nước biếc trông như từng khói phủ” mơ hồ, dường có lại dường
không. Khi hiu hắt gió, Có thể thấy “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí”. Và đêm
trăng thu thì ở đó sẽ khuấy động những ánh vàng “Làn ao lóng lánh bóng
trăng loe”. Trên mặt nước ngày thu lặng là “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”,
không phải là “Con thuyền gối bãi suốt ngày ngơi” mà là con thuyền bất động
mà thảng thốt trên nước, xế ra chút nữa là lối ngã luồn trong vòm tre, bóng
trúc quanh co, uốn lượn, mở ra chiều sâu thâm u cho không gian thu làng
quê: “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Và khi bóng đêm thôn ổ đong đầy
thì nó sẽ là “Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe” hoang dã và có phần bí ẩn. Và
ngước lên, bất cứ lúc nào, ta cũng có thể gặp bầu trời thu trong trẻo, yên tĩnh
và thăm thẳm. Lúc này là “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao” nhẹ nhõm,
thoáng đãng; lúc khác lại thấy lơ lửng cả những xốp mây bông lặng lẽ trôi, di
chuyển mà như không di chuyển: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”. Và lúc
khác, cô đơn thảng thốt hơn sẽ thấy lạ lùng trước sắc xanh của nó: “Da trời ai
nhuộm mà xanh ngắt”.
Mải mê vào cái khuôn, viên riêng của Nguyễn Khuyến, dường như tôi
đã xáo trộn cả ba bài thu lên, rồi để chúng liên kết lại theo trật tự đầy cảm tính
của mình, chẳng biết sự minh họa vụng về của tôi có xúc phạm đến tiền nhân.
Nhưng nếu được làm một họa sĩ vẽ cõi thu Nguyễn Khuyến thì hẳn là tôi
không thể làm khác thế! nghĩa là tôi sẽ dùng một gam màu thật ĐẠM, thật
THANH để chấm phá như thế về nơi ẩn cư của Yên Đổ. Đấy không phải là
chốn “thảo đường” như trong thơ chữ Hán, không phải là “am mây” lánh đời.
Nguyễn Khuyến đã ở ẩn bằng việc hòa mình vào thôn quê, thôn ổ.
3. Trên cái nền ấy ta thấy hiện ra cốt cách một thi nhân - nho gia.
Người sau ít ai để ý rằng: Ba bài thơ Nôm nhưng lại mang ba cái nhan đề
hoàn toàn Hán. Vì thế mà gây lúng túng trong việc dịch. Thu điếu là Mùa thu
câu cá, Thu ẩm là Mùa thu uống rượu, còn Thu vịnh là Mùa thu làm thơ hay
Vịnh mùa thu. Xét đơn thuần về tính chất quán của ba nhan đề trong một
chùm người ta thấy nên dịch Mùa thu làm thơ. Nhưng cần thấy một sự nhất
quán khác: Nhất quán trong con người Nguyễn Khuyến! Làm thơ câu cá,
uống rượu... là những thú chơi tao nhã của những tao nhân mặc khách thuở
xưa, nhất là những khi nhàn tản. Trở về vườn Bùi với một tâm sự u uẩn,
Nguyễn Khuyến muốn ẩn cư, muốn tìm những nhã thú kia để hưởng những
phút thư nhàn thanh thản của một kẻ sĩ lánh đời. Mùa thu câu cá, thì chẳng
câu được con cá nào! Mùa thu uống rượu, cũng chẳng được là bao. Và mùa
thu làm thơ, cũng thế: “Nhân hứng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông
Đào”, cảm hứng thơ ca mới dâng lên khi đối diện với cảnh thu êm ả, thanh
tĩnh thì lập tức một nỗi thẹn dâng lên, chẹn ngang làm cụt hứng. Vậy là trong
ông vẫn có một tâm sự ẩn kín. Dường như xúc cảm của một thi nhăn vừa mới
dâng lên thì nỗi niềm của một nho gia đã cản lại. Nó không cho phép ông
được hưởng một sinh thú ở đời dù đó là một cái thú trong sạch nhất, vô hại
nhất. Tâm sự ấy là nỗi ưu thời mẫn thế, ông không muốn quên mà không thể
quên. Ông muốn mang về vườn Bùi chốn cũ để nó tiêu tan trong thảo mộc
điền viên, nhưng nó chẳng thể tan. Nó vẫn nghèn nghẹn trong lòng. Vì thế,
trong cả ba bài thu này, ông định làm việc gì thì không có kết quả việc ấy.
Nghĩa là nhàn cư mà chẳng thể nhàn tâm. Cái cốt cách thanh cao của
Nguyễn Khuyến là ở đấy.
Và cứ để ý mà xem, ba bài thơ ấy dường như có một trật tự nào đấy.
Không phải là trật tự thời gian. Không phải bài Thu điếu có vẻ như buổi chiều,
Thu vịnh là thời gian tổng hợp, còn Thu ẩm thì nghiêng vế đêm, mà trật tự
nằm ngay trong các trạng thái cô đơn của thi nhân, ở Thu vịnh là một nỗi
ngượng ngùng với tiền nhân: “Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại
thẹn với ông Đào”, ở Thu điếu là một nỗi lo âu triền miên, chìm đắm: “Tựa gối
ôm cần lâu chẳng được, cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Và cuối cùng ở
Thu ẩm, ông đã khóc một mình đơn độc dưới đêm thu, giữa những cảnh thân
thiết vườn Bùi: “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, Mắt lão không vầy cũng đỏ
hoe”. Nỗi u uẩn muốn giấu kín bằng cốt cách điềm tĩnh. Nhưng vẫn không giữ
được lâu mãi. Nó đã ùa ra thành nước mắt khi một mình đối ẩm với bầu trời.
Thực là “Nói lời trước mặt rơi châu vắng người”.
4. Nhưng dẫu sao Nguyễn Khuyến cũng là một thi sĩ. Con người thi
nhân đã được ngòi bút thi sĩ truyền vào thơ ca thật tinh diệu. Ở đây ta có thể
thấy một tấm lòng quê thuần khiết, một cái nhìn Đường thi vào làng cảnh Việt
Nam trong cái yên tĩnh đời đời của đồng quê, của mùa thu.
Mùa thu phải chăng là mùa mà thiên nhiên trở nên thư thái hơn. Nó là
cái quãng lặng để hòa giải hai đối cực của mùa hè nóng nực và mùa đông
buốt giá. Sự hòa giải ấy khiến cho tất cả đều như được thanh lọc. Tất cả đều
êm ái hơn, nhẹ nhàng hơn, mênh mông hơn, thoáng đãng hơn, thưa thoáng
hơn, trong trẻo hơn, mát mẻ hơn... Nắm được “thần” của mùa thu phải chăng
là cảm được và truyền được những nét ấy vào thi ca của mình?
Chùm thơ này, bài nào cũng làm được điều đó. Hãy nhìn riêng vào Thu
vịnh:
Trời xanh ngắt mấy từng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như từng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Hai câu đề đã ghi ngay được cái thần thái của trời thu. Câu thứ nhất
gợi ra cái nền phông cảnh bằng nét rộng khoáng đạt. Chữ xanh ngắt nói
được cái sắc xanh riêng của mùa thu với tất cả vẻ êm ả, mát mẻ và trong
xanh của nó. Ba chữ “Mấy từng cao” cho thấy tầm nhìn thi sĩ rộng mở cùng
với các tầng trời, ở trên nền ấy hiện ra tiền cảnh là “cần trúc lơ phơ...” Chữ
“cần” gợi được nét cong, mềm mại thật hợp với điệu thu. Chữ “lơ phơ” tả sự
lưa thưa mà lay động. Chữ “hắt hiu” thật là cái hồn của gió thu. Những gợn
gió thật mỏng manh nếu không tinh tế thì khó mà nhận biết. Thi sĩ đã dùng cái
“động” để gợi cái “tĩnh” trong bao la của thinh không. Bức tranh cứ hạ dần độ
cao.
Hai câu thực tả mặt nước và mặt đất. Nếu xanh ngắt rất đặc trưng cho
trời thu thì xanh biếc lại đúng cái thần của nước thu. Nước trời soi chiếu nhau
qua cảm quan của thi sĩ và với hai sắc độ ấy, bức tranh thu của Nguyễn
Khuyến đã lan tỏa một gam xanh vừa thanh đạm vừa sâu lắng, cái mà Xuân
Diệu đã gọi là những điệu xanh. Thi sĩ nhìn ra cái làn hơi vừa có vừa như
không quấn quýt đầu con sóng. Ấy là nét hư ảo chỉ có trong vườn thu. Cái
ngôi nhà cỏ thấp le te của Nguyễn Khuyến ở đây được hiện ra qua một khung
cửa sổ. Đây là không gian quen thuộc của trăng thu, không gian quen thuộc
của các thi sĩ phương Đông. Cửa sổ mở thông vào thiên nhiên cho tâm hồn
hòa với tạo vật. Chữ “song thưa” rất không đâu mà thật ăn nhịp, hòa điệu với
cái không khí riêng của mùa thu. Có phải vì đến mùa thu thì cái vẻ “thưa” kia
mới trở thành ấn tượng của thi ca? vầng trăng tri kỉ thoải mái đi về cùng với
thi nhân.
Đến hai câu luận, không gian và thời gian bỗng mở rộng ra:
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Câu trên là một ảo giác về thời gian, câu dưới là một niềm thảng thốt
trước không gian. Với hai câu thơ này, bức tranh thu như trở nên thi vị, hư
huyền. Chữ “năm ngoái” vốn được Nguyễn Du tái tạo từ chữ “y cựu” (y như
cũ) trong thơ Thôi Hộ. Đến đây nó lại trôi về Yên Đổ, đậu lên cái chùm hoa
nơi lưng giậu của Nguyễn Khuyến, phủ lên hình ảnh thơ một chút hoài niệm,
bâng khuâng. Nơi lưng giậu là một hiện hữu trong không gian. Nhưng “hoa
năm ngoái” đã lại không xác thực về thời gian. Có một cái gì đó ngưng đọng
trên những chùm hoa kia. Hoa vẫn lặng lẽ ở đó từ năm ngoái, hay hoa mới
trở về từ trong kỷ niệm? Phải trong lòng nặng nỗi u hoài không dễ tỏ bày, thi
nhân mới có cái cảm nhận huyền hồ ấy! Với một tiếng ngỗng kêu, không gian
chợt mở ra, mênh mông, xa vắng, ở bài Thu điếu ta gặp một tiếng cá quẫy
vọng lên từ đáy nước, ở đây ta gặp một tiếng chim di trú rơi xuống từ không
trung. Đến từ hai phía khác nhau nhưng cùng đánh động một tâm hồn. Và cả
hai đều là những tiếng động nhằm làm cho cái tĩnh của trời, của nước trở nên
thẳm sâu, thanh vắng. Âu đó cũng là thủ pháp dùng cái động để gợi cái tĩnh
vậy. Hai chữ “nước nào” cũng rất không đâu, nhưng sao lại gồm chứa trong
đó tất cả sự xa vắng của không gian thơ!
Chữ nghĩa của Yên Đổ ở đâu cũng rưng rưng xót cảm! Cuối cùng, Thu
vịnh khép lại bằng bức tự họa thật nhanh mà thật động:
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Nỗi niềm u uẩn không chịu buông tha cho Yên Đổ. Cái cảm giác “thẹn
với ông Đào” là cái nét thanh cao của Nguyễn Khuyến. Nó không chỉ in vào
riêng bài thu này, mà nó đã đổ bóng xuống cả ba bài thơ, làm nên một chân
dung thật nhất quán của Nguyễn Khuyến - một thi nhân tao nhã, một nho gia
khí tiết. Và tất cả đã làm thành một cây cổ trúc thanh cao, chỉ cần một gợn gió
nhẹ thôi cũng xao mình, lay động trăn trở! Giữa trời yên mà nó có được yên.
Mà có lẽ trong thế giới của ba bài thu kia, nó vẫn cứ hắt hiu, cứ lay động đến
muôn đời!
B. LUYỆN TẬP
1. Mùa thu là bạn muôn đời của thi nhân. Trong lịch sử thơ ca Việt Nam
xưa nay có không biết bao nhiêu bài viết về mùa thu tựu trung có uy danh vào
loại nhất phải nói tới chùm thơ “Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh” của Nguyễn
Khuyến.
Anh (chị) hãy lần lượt bình giảng ba bài thơ trên để thấy cái hay, cái
đẹp của làng quê Việt Nam dưới con mắt nhà thơ Nguyễn Khuyến.
2. Nhận định về Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu nhận xét: Nguyễn Khuyến
là “nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam”.
Ý kiến anh (chị) về nhận định trên của Xuân Diệu như thế nào?
Phân tích chùm thơ (Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh) để làm sáng tỏ nhận
định trên.
3. Qua chùm thơ mùa thu của Nguyễn Khuyến, anh (chị) thấy bức chân
dung tinh thần (hình tượng nhân vật trữ tình) của Nguyễn Khuyến hiện lên
như thế nào?
4. Trong ba bài thơ viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến (Thu điếu, Thu
ẩm, Thu vịnh), anh (chị) thích bài thơ nào nhất? Hãy bình giảng để nói rõ cái
“thích nhất” của mình.
5. Tại sao lại nói Thu vịnh là bài thơ tả cảnh ngụ tình nhiều ẩn ý đặc
sắc?
6. Thu trong Thu ẩm chật chội, bức bối, nhập nhòe...” Hãy phân tích bài
thơ để làm rõ ý kiến đó.
7. Những “cái lạ” mà anh (chị) cảm nhận được qua bài thơ Thu điếu.
KHÓC DƯƠNG KHUÊ
A. BÀI VĂN
Phân tích bài “Khóc Dương khuê" của Nguyễn Khuyến.
BÀI LÀM
Bác Dương thôi đã thôi rồi.
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta
Mở đầu là cảm giác sửng sốt và nỗi “ngậm ngùi” của Nguyễn Khuyến
trước sự ra đi đột ngột và vĩnh viễn của bạn mình - Dương Khuê, ở đoạn sau,
cảm nhận ấy còn được nhắc lại.
“Làm sao bác vội về ngay.
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời”
Câu “làm sao bác vội về ngay” trong nguyên tác bằng chữ Hán là “Hốt
văn công phó chí” (1), dịch nghĩa là “Chợt nghe tin báo bác đã qua đời”. Câu
thơ dịch không dùng chữ theo nghĩa đen “đã qua đời” mà theo nghĩa bóng
“vội về ngay”. Cả bốn lần nói về cái chết của Dương Khuê, Nguyễn Khuyến
đều cố tránh cánh diễn đạt trực tiếp về một mất mát đau lòng, một thực tế có
vẻ phi lý nhưng lại hiển nhiên:
“...thôi đã thôi rồi” (câu 1)
“...vội về ngay” (câu 25)
“...mãi lên tiên” (câu 28)
và “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở” (câu 35).
Cuộc tử biệt sinh ly đem đến cho người đang sống một tâm trạng hai
chiều bạn mất và mất bạn.
Cái chết của bạn sống lại trong lòng tác giả một quãng đời quan trọng
với bao kỷ niệm tưởng đã lùi sâu vào dĩ vãng, từ những chuyện nghiêm chỉnh
như thi cử đến những chuyện phóng khoáng như cuộc rượu, câu thơ, con
hát... Quãng đời ấy lại gắn liền với một cục thế hết sức phức tạp và đen tối.
Năm 1882. Hà thành thất thủ; năm 1883, thất thủ kinh đô: Hiệp ước Hác -
măng (Harmand) rồi hiệp ước Pa - tơ - nốt (Patennôtre) nhục nhã... Hầu như
cơn giông tố ba đào “quốc biến” cứ dồn dập đuổi theo Tam Nguyên trẻ tuổi
vừa mới xuất chinh (2).
Hai người kết bạn với nhau ít nhất cũng ba mươi tám năm kể từ khoa
thi Giáp Tý (1864). Sau cái sự kiện năm 1883, mỗi người chọn lấy một cách
xử thế. Nguyễn “cáo về” ở tuổi năm mươi, tuổi của sự dày dặn và chính chắn.
Hai mươi bốn năm tiếp theo, ông là chính nhân đáng giá của lịch sử đất nước
với hàng loạt vấn đề cũ và mới như nước mắt, dân nô lệ, nạn đói, kẻ sĩ biến
chất, bọn cơ hội, tùy thời “bung ra” và lấn lướt...” bao nhiêu sự kiện phản ảnh
vào ông bao nhiêu dằn vặt, tranh đấu trong tâm hồn ông!” (Xuân Diệu) (3).
Thơ văn ông đẫm lệ nhân sinh và vũ trụ. Dương ở lại theo “phận đẩu thăng”,
thơ văn nặng mùi hưởng lạc. Như vậy, ba mươi tám năm bầu bạn, họ không
phải luôn luôn và hoàn toàn tượng tri, tương đắc. Nhất là khoảng thời gian
mười chín năm cuối với vấn đề nổi cộm là họ Dương ở lại công tác với kẻ thù
dân tộc (?). Dĩ nhiên, họ Dương không thuộc “ê kíp” (4), những tên nhồi tro
xác cụ Phan vào thuốc súng rồi bắn xuống “Lan Giang” (4) những kẻ bày trò
văn chương thi vịnh Kiều đề đánh hỏa mù vấn đề chính trị (5).
Một câu hỏi lý thú được đặt ra là: Nguyễn Khuyến nhìn nhận bạn như
thế nào mà luôn một lúc “sáng tác một bài Nôm song song với bài chữ” (6) để
“Khóc Dương Khuê”, bài nào cũng hay và bài thơ dịch còn được đánh giá là
áng văn vào hàng hay nhất về tình bạn trong Văn chương nước nhà?
Những câu thơ tuyệt vời dưới đây đâu phải là chuyện kỷ xảo hoặc tài
chơi chữ mà sự chuyển tải những xao xuyến tâm hồn, một tiếng khóc chân
thành:
“Rượu ngon không có bạn hiền.
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết.
Viết đưa ai, ai biết mà đưa?
Giường kia treo cũng hững hờ.
Đàn kia gẩy củng ngẩn ngơ tiếng đàn”.
Một câu lục bát chỉ mười bốn tiếng, có đến năm từ “không” lặp đi lặp lại
nỗi tiếc bạn không nguôi, nỗi đau mình cô độc trước cuộc đời bất như ý. Còn
ai để giải bày tâm sự: “viết đưa ai” và còn ai có thể hiểu được mình “ai biết
mà đưa?” Nỗi cô đơn của tác giả đã vượt quan hệ Dương - Nguyễn lớn lên
thành nỗi đau đời! Thực dân Pháp đã ngồi yên chỗ, ngọn cờ cần Vuơng đã
ngã xuống... trong tâm trạng lớp người như Yên Đổ, đại cục của đất nước coi
như đã hỏng. Âu trong nỗi buồn mất bạn là nỗi buồn nhân thế, một nỗi buồn
thế kỷ. Điều ấy giải thích vì sao tác giả đã tìm được sự đồng cảm của nhiều
thế hệ bạn đọc. “Đàn kia” có “gẩy” nữa cũng chỉ làm “ngẩn ngơ” những ai
đang “ngất ngơ, lơ láo” trong cảnh “ngày loạn, người cùng”(7). Nỗi buồn nhân
thế ấy đã được tác giả khái quát vào một câu thơ đậm chất triết lý: “Ai chẳng
biết chán đời là phải”. Không chán sao được khi cái đạo của đời thì đang sụp
đổ, còn mình thì:
“Nghĩ đến bút nghiên trào nước mắt
Ngước nhìn sông núi xiết buồn đau!” (8)
Trở lại câu hỏi đã được đặt rạ.
Nguyễn Khuyến vẫn giữ một tình bạn chân thành “từ trước đến sau”,
thủy chung như nhất. Ông hết sức ân cần với bạn:
Cầm tay hỏi hết xa gần.
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can.
Và thực sự đau xót khi nhận được tin chẳng lành:
“Chợt nghe, tôi bỗng tay chân rụng rời”
Nhưng, Nguyễn Khuyến cũng có một thái độ rạch ròi trong việc Dương
Khuê ra hợp tác với Tây. Có điều thái độ đó được chuyển tải ra câu chữ hết
sức kín đáo và tinh tế.
Tác giả dành hai mươi câu thơ (từ câu 3 đến câu 22) trên tổng số ba
mươi tám câu toàn bài để nói về ba mươi tám năm hai người là bạn của
nhau. Mười sáu câu trên nói về mười chín năm đầu, lúc cuộc đời dù sao vẫn
còn suôn sẻ, khi cả hai tuổi xuân đang phơi phới. Ở tám câu còn lại thì bốn
câu cuối (các câu 19,20,21,22) nhắc lại lần gặp nhau gần nhất. Không bao
giờ là lần cuối, lần vĩnh biệt. Bốn câu trên (các câu 15,16,17,18) tóm lược
chín năm cuối cùng kể từ cái mốc 1883: “Buổi dương cửu... thì thôi mới là!”
Mười chín năm va đập trong cơn quốc biến, chính là lúc vàng đưa vào
lửa, lúc nhân cách con người được thử thách trước vận hạn “nước loạn, nhà
nghèo”. Lẽ nào lại “dám than trời” cái “phận đẩu thăng?”. Lẽ nào phải đi xin
giống khác miếng ăn, “ăn vào thì lại nhục”(9). Vẫn biết, mỗi người có một
cảnh ngộ, có kẻ vì cơm áo, có người mất lòng tin và dũng khí... an phận
“sáng vác ô đi, tối vác về”. Nguyễn Khuyến cũng nghèo, gốc gác vốn nghèo,
làm quan thanh liêm, về già có người “cho thịt” mà ông “ôm mặt khóc”. Khóc
vì “Những nỗi cực nhục ở trên đời” (Xuân Diệu) (10). Đối với kẻ sĩ chân chính,
danh tiết còn nặng hơn hình hài. “Nghèo chứ không khốn khổ. Kẻ sĩ không thi
hành đạo đức thì mới khốn khổ (Trang Tử) (11). Vả lại, rộng và lớn hơn
khuôn khổ chữ trung cũ kỹ đối với một dòng họ, một triều đại, vượt khỏi cấp
độ truyện cổ “Bá Di, Thúc Tề”, đây là vấn đền nỗi nhục của quốc gia Đại Việt
văn hiến. Trước họ mấy thập kỷ, Đồ Chiểu đã dứt khoát: “Thà đui mà giữ đạo
nhà”, “thà thác mà chẳng đầu Tây” (12)... Dương Khuê không hẳn không biết
Nguyễn Khuyến từng băn khoăn “về hay ở?” (13), “Mừng thấy các ông lùi
mạnh bước” (14), mừng thấy “Đạo ta có lẽ chưa cùng chăng?” (15), “Khóc
Dương Khuê” không phải là việc “đập cổ kính...” (16) mà đây là lần cuối nói
với nhau một lời phải, lúc đậy nắp quan tài cho người đã khuất:
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!” (câu 18)
Câu thơ dịch trên, nguyên văn chữ Hán là “Giải tổ quy điền viên”, dịch
nghĩa “Cởi dây ấn về với ruộng vườn”, ý tứ rõ ràng cụ thể. Câu thơ dịch thanh
thoát, ngôn từ dung dị, nhạc điệu uyển chuyển mềm mại làm cho ý nghĩa “co
giãn”, vừa mang sắc thái triết lý, vừa là một lời trách cứ nhẹ nhàng nhưng dứt
khoát.
Không ai có thể dịch đúng ý tác giả hơn chính tác giả, nhất là đối với
con người “nếu ngày xưa có thi thơ Nôm thì Nguyễn Khuyến lại đoạt thêm
một cái bảng vàng Tiến sĩ thơ Nôm nữa, chứ chẳng chơi!” (17).
Câu thơ trên - “cái gai hoa hồng” ấy - luôn nhắc nhở con người hãy
nghĩ về danh tiết.
PHAN THỊ BẠCH HUỆ.
So với bài văn tế khác “Khóc Dương Khuê” có sự sáng tạo khá độc đáo về chủ đề và bố cục, có tiếng khóc bạn rất chân thành”. Anh (chị) thử trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên.
BÀI LÀM
Khóc Dương Khuê là bài thơ hay, là đỉnh cao trong cuộc đời sáng tác
của Nguyễn Khuyến. Bài thơ có sức hấp dẫn lớn đối với nhiều thế hệ. Ở quê
tôi, mà có lẽ cũng nhiều nơi như thế, trong các buổi lễ hiếu, lễ thọ các cụ rất
thích đọc bài thơ này và bài Di chúc của Nguyễn Khuyến.
Từ sự nhận thức về bài văn, chúng tôi xin đề xuất thêm vài ý kiến nhỏ:
a) Về chủ đề bài văn: Thông thường, ở mỗi bài văn tế, (Văn tế Phan
Châu Trinh của Phan Bội Châu, Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình
Chiểu chẳng hạn) đều có thể phát biểu chủ đề một cách ngắn gọn: Ca ngợi
và tiếc thương. Ca ngợi là ca ngợi công đức, sự nghiệp của người đã khuất.
Bài văn tế hay phải miêu tả, ca ngợi được những nét tiêu biểu, điển hình của
người đó. Mặt khác, người làm bài văn (thường thì đọc khi đứng tế luôn) còn
tỏ rõ niềm thương tiếc của mình. Niềm tiếc thương này càng quảng đại, càng
đại diện cho được nhiều người bao nhiêu, bài văn càng có giá trị. Đôi khi,
trong quá trình miêu tả, ca ngợi các tác giả có lồng vào lời phê phán. Cũng
phải thôi, ở đời ai mà hoàn mỹ, hoàn hảo được. Khi Phan Bội Châu viết về
Phan Châu Trinh: Quay đầu lại giả ơn tù đảo, tấm thân già con nặng gánh
giang sơn; Bước chân đi tìm bạn Âu châu, đôi tay trắng quyết phất cờ xã hội
là tác giả có ý phê phán chủ chương “Pháp - Việt đề huề” của ông Tây Hồ. Ây
vậy mà lời phê phán khéo léo đó đã chìm hút đi trong câu thơ tuyệt bút. Viết
Văn tế Nghĩa sĩ cần Giuộc Nguyễn Đình Chiểu cũng nhằm ca ngợi và tiếc
thương những người nghĩa sĩ đã vong trận.
Với bài Khóc Dương Khuê thay vì ca ngợi công đức sự nghiệp của bạn,
Nguyễn Khuyến đã đưa một chuỗi hồi ức đẹp đẽ về tình bạn. Cũng có chỗ tác
giả tỏ ý chê trách bạn. Nhưng trách mà thương, có thương mới trách. Chính
vì xác lập ý tưởng của mình như thế ngay từ lúc cầm bút nên tác giả mới lấy
nhan đề Khóc Dương Khuê. Như vậy, ngay từ chủ đề, tác giả đã ghi một sáng
tạo. Chúng tôi nhận thấy việc phát biểu chủ đề là cần thiết.
b) Về bố cục bài thơ: Với bố cục của bài thơ, Nguyễn Khuyến ghi thêm
một điểm sáng tạo thứ hai. Văn khóc bạn, viếng bạn là loại văn điếu người
chết. Nó cũng theo một lề lối như bài văn viết theo thể phú Đường luật. Nghĩa
là phải có bốn đoạn (lung khởi, thích thực, ai vãn và kết), Nguỵễn Khuyến
thuộc hàng khoa bảng đậu đạt, ông nắm vững, thành thục mọi quy định của
loại văn này. Nhưng tác giả muốn sáng tạo. Ở bài này, trên căn bản tác giả
vẫn men theo mạch kết cấu của bài văn theo thể phú Đường luật. Cái mốc để
chia đoạn là khúc rẽ trong đồ thị diễn biến tình cảm của tác giả.
c) Về cơ sở của tình bạn: Điều này quan hệ đến cách nhìn nhận, đánh
giá về cuộc đời và văn nghiệp của Dương Khuê. Cái vị thế của Dương Khuê
cũng giống như người nghĩa sĩ trong bài văn tế “Nghĩa sĩ Cần Giuộc”, có một
vai trò quan trọng nếu không muốn nói là định đoạt ít nhất là với giá trị nội
dung bài thơ. Về điểm này, sách giáo viên, văn 11, NXB Giáo dục - 1991 có
ghi một câu ngờ ngợ: “Dương Khuê thì làm quan cho Pháp, và chạy theo lối
sống hành lạc. May là trong tâm can có lúc còn chút ngao ngán với sự đời...
Tình hình như thế, nhưng Nguyễn Khuyến vần giữ tình bạn cũ”. Nói Dương
Khuê làm quan cho Pháp thì Nguyễn Khuyến làm quan cho ai? Một câu danh
ngôn đại ý nói: Muốn biết một người tốt xấu ra sao ta hãy xem bạn của người
đó. Gớt - nhà thơ Đức nổi tiếng cũng nói: “Hãy cho tôi biết anh giao du với ai,
tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai”. Nguyễn Khuyến giao du với Dương Khuê.
Qua bài thơ, ông đã nhìn nhận bạn mình một cách thẳng thắn và đích xác. Cả
bài thơ là những dòng tình cảm nóng hổi, chân thành chảy tràn trề, tự nhiên
từ đáy lòng Nguyễn Khuyến dành cho bạn. Đây quyết không thể là một sự
chiếu cố.
Như trên đã nói, câu hỏi ở giáo khoa có chi tiết mà chưa đủ. Các câu
hỏi có nghiêng về nêu những biểu hiện của tình bạn mà chưa lí giải được
nguyên nhân, cơ sở của nó. Chúng tôi nghĩ đây là một mặt nội dung quan
trọng cần chỉ rõ.
Viết “Khóc Dương Khuê, ngoài tình bạn. Nguyễn Khuyến còn muốn bày tỏ một thái độ gì?”. Hãy phân tích bài thơ và làm sáng tỏ thái độ ấy của tác giả.
BÀI LÀM
“Khóc Dương Khuê” là một kiệt tác về tình bạn. Khóc Dương Khuê,
Nguyễn Khuyến còn muốn tỏ rõ một thái độ chính trị trong thời cuộc lúc đó.
Điều ấy, không hiểu vì lẽ gì, có lúc đã lọt qua mắt người đọc (như ở vài sách
giáo khoa chẳng hạn?). Muốn hiểu điều ấy cần phân tích cả bài thơ có thể
cách lý giải thỏa đáng.
Mở đầu bài thơ là cảm giác sửng sốt và “ngậm ngùi” của Nguyễn
Khuyến trước sự ra đi đột ngột và vĩnh viễn của Dương Khuê.
“Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta!”
Nguyễn Khuyến thực sự đau xót khi nhận được tin bạn mình đã mất.
“Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng tay chân rụng rời”.
“Khóc Dương Khuê” là bài thơ Nôm của Nguyễn Khuyến tự dịch bài
chữ Hán của mình, bài "Văn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng Thư”.
Câu thơ trên không dịch sát nghĩa của nguyên tác là đã qua đời mà là “vội về
ngay”.
Cả bốn lần nói về cái chết của bạn. Nguyễn Khuyến đều nói tránh đi về
một mất mát đau lòng đã trở thành hiển nhiên:
“...thôi đã thôi rồi” (câu 1)
“...vội về ngay” (câu 25)
“...mãi lên tiên (câu 28)
“Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở” (câu 35).
Cái chết của bạn làm sống lại trong lòng Nguyễn Khuyến một quãng
đời quạn trọng, từ những chuyện trọng đại như thi cử, làm quan đến những
chuyện phóng khoáng như thú vui con hát, cuộc rượu, câu thơ...Quãng đời ấy
gắn liền với một cuộc thế hết sức đen tối và phức tạp. Hà thành (1882), kinh
đô (1883)... lần lượt thất thủ, vua Tự Đức băng hà, triều đình chia rẽ, kẻ chủ
hòa, người chủ chiến. Hiệp ước Hác - măng (Harmand) rồi hiệp ước Pa - tơ -
nốt (Patennôtre)... Nước mất, nhà tan!
Ít nhất cũng từ khoa thi năm Giáp Tý (1864), hai người đã là bạn của
nhau, tính ra là là ba mươi tám năm cho đến ngày Dương Khuê mất. Sau các
sự kiện bi thảm năm (1883). Nguyễn “cáo quan” về ở ẩn, về vào lúc tuổi mới
năm mươi. Ông là chứng nhân lịch sử của một thời kỳ nước mất, dân nô lệ,
"... bao nhiêu sự kiện phản ảnh vào ông bao nhiêu dằn vặt, tranh đấu trong
tâm hồn ông!” (Xuân Diệu - Đọc thơ Nguyễn Khuyến - Thơ văn Nguyễn
Khuyến - NXB Văn học - Hà Nội, 1971).
Nguyễn cáo về, còn Dương ở lại. Một vấn đề nổi cộm là Dương Khuê ở
lại, cộng tác với kẻ thù dân tộc. Mặc dù họ Dương không thuộc hàng tán tận
lương tâm, trở thành tay sai đắc lực cho giặc như Nguyễn Thân, Hoàng Cao
Khải...nhưng Nguyễn Khuyến đã nhìn nhận bạn như thế nào mà đã viết một
bài thơ hay đến thế về tình bạn?
Những câu thơ dưới đây là một tiếng khóc chân thành, xưa nay từng
làm xao xuyến biết bao tâm hồn người đọc.
“Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa?
Giường treo cũng hững hờ
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn”.
Buồn đau da diết. Còn ai để giãi bày tâm sự - “viết đưa ai” - và còn ai
có thể hiểu được mình - “ai biết mà đưa?”. Vừa tiếc bạn, vừa đau mình cô
độc bất như ý. Nỗi đau riêng đã trở thành nỗi đau đời. Thực dân Pháp đã ngồi
yên chỗ, đại cục của đất nước coi như đã hỏng... Tác giả triết lý:
“Ai chẳng biết chán đời là phải”
Không buồn chán sao được khi cuộc đời đang điên đảo, kẻ sĩ phần lớn
biến chất, đạo lý sụp đổ, còn mình thì:
Nghĩ đến bút nghiên tràn nước mắt
Ngước nhìn sông núi xiết buồn đau.
Nguyễn Khuyến giữ một tình bạn chân thành, thủy chung. Nhưng ông
cũng có thái độ rạch ròi trong việc bạn mình ở lại hợp tác với Tây.
Trong hai mươi câu thơ (từ câu 3 đến câu 22) nói về quãng đời hai
người là bạn của nhau có một sự phân lượng có dụng ý. Mười hai câu trước
nói về đoạn đời đầu dù sao vẫn còn suông sẻ, lúc hai người tuổi xuân còn
phơi phới, ở tám câu còn lại thì bốn câu cuối (các câu 19, 20, 21, 22) nhắc lại
lần gặp cuối cùng, lần chia tay vĩnh viễn. Còn bốn câu trên (các câu 15, 16,
17, 18) là các câu Nguyễn Khuyến đã gửi gắm hết sức tinh tế và kín đáo một
thái độ chính trị trước vận hạn của đất nước:
Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,
Phận đẩu thăng chẳng dám than trời:
Bác già tôi củng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!
Cơn quốc biến, đối với người, chính là lúc “lửa thử vàng, gian nan thử
sức” (ca dao), lúc “lúc nước loạn mới biết tôi chung, nhà nghèo biết con hiếu”.
Lẽ nào lại còn “dám than” cái “phận đẩu thăng”.
Đối với kẻ sĩ chân chính, danh tiết còn nặng hơn hình hài. Cái danh tiết
này còn gắn liền với nỗi nhục của quốc gia Đại Việt. Trước họ (Nguyễn
Khuyến, Dương Khuê...) Đồ Chiểu đã nói dứt khoát:
- Thà đui mà giữ đạo nhà (Ngư tiều y thuật vấn đáp)
- Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây (Thơ điếu Phan Tòng)
Đậy nắp quan tài cho bạn, thả hòn đất xuống huyệt cho người đã khuất,
Nguyễn Khuyến cũng nói với bạn (và với đời) một lời đầy ý nghĩa:
“Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là” (câu 18).
Câu thơ trên, trong nguyên văn chữ Hán có nghĩa là “Cởi dây ấn về với
ruộng vườn”. Câu thơ dịch thanh thoát, mềm mại, chuyển tải ý nghĩa hết sức
tinh tế.
Không ai có thể dịch đúng ý tác giả hơn chính tác giả. Hơn nữa, tác giả
lại là con người “nếu ngày xưa có thi thơ Nôm thì Nguyễn Khuyến lại đoạt
thêm một cái bảng vàng tiến sĩ thơ Nôm nữa, chứ chẳng phải chơi”. (Tiểu sử
- Thơ văn Nguyễn Khuyến).
Trong thơ văn trung đại, rất hiếm có những bài thơ khóc bạn được như Nguyễn Khuyến. Hãy phân tích bài “Khóc Dương Khuê” để thấy những điểm độc đáo của nó.
BÀI LÀM
1. Nguyễn Khuyến từ trong phong cách ứng xử, sinh hoạt đến học vấn
đều tỏ rõ là một bậc túc Nho. Song thơ viết về tình bạn của ông hầu như
không vướng víu, câu nệ với nếp nghĩ và cách làm bao nhiêu nhà Nho học
vẫn quen theo. Thơ tình bạn của ông có giọng điệu thanh thoát, tự nhiên và
đặc biệt, hầu như không có màu sắc tượng trưng, ước lệ với cách dùng hình
ảnh ẩn dụ, ví von.
Hay tin bạn qua đời, ông kêu lên:
Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nhớ tiếc bạn không nguôi, ông kể lại những kỷ niệm với bạn thật cụ
thể:
- Cũng có lúc chơi nơi dặm khách
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo
- Có khi bài soạn câu văn
Biết bao động bích điểm phần trước sau.
Lời kể ở đây thật bồi hồi, xúc động, nó chỉ theo cái nhịp đập của con tim
đang thổn thức, theo cái trí nhớ minh mẫn của một người ưa cuộc sống bình
đạm.
Bác già tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là.
Muốn đi tuổi già thên nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần.
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can.
Đọc những dòng này lên, ta như thấy rõ cảnh tay trong tay ân cần thân
ái của những cặp bạn già tri âm tri kỷ thuở nào. Các cụ ngồi đấy, trên bậc
thềm của những căn nhà lợp lá, dưới bóng râm của giàn mướp giàn bầu nơi
xóm mạc quê ta, vẳng lên từ đâu có tiếng gà eo óc gáy khiến cảnh quan như
thêm tĩnh lặng, êm đềm...
Rõ ràng là, chính việc sử dụng một lối viết không ngại sự kể lể, giãi bày
cụ thể, mà tránh đi những ví von khuôn sáo đã khiến cho cái hay của bài thơ,
của tình bạn trong bài này đã được tô đậm hơn lên.
2. Thơ cổ (và phần nào cả thơ bây giờ) vốn rất ngại ngùng khi dùng các
hư từ, thán từ. Bởi vì, dùng không khéo sẽ rất dễ sa vào tình trạng ẩm ở, dở
dang, như ngô như ngọng ngay.
So với người cùng thời, và nhất là so với các nhà thơ xuất thân Nho
gia, quả thực, Tam Nguyên Yên Đổ đã bình thản và mạnh dạn hơn nhiều
trong việc dùng những hư từ và thán từ này. Trong bài “Khóc Dương Khuê”,
ông đã hơn một lần dùng từ “thôi”. Đọc đi đọc lại, dẫu khó tính, cũng phải chịu
là ông dùng rất đạt:
- Bác Dương thôi đã thôi rồi!
- Bác già tôi cũng già rồi.
Biết thôi thôi thế thì thôi mới là,
Là trùng lặp đấy, là láy lại ý từ đấy, là nói chuyện đời người kiếp người,
số phận, chuyện hệ trọng đấy, mà chỉ một chữ “thôi” đặt vào trong một sự sắp
xếp đầy ý tứ, bề ngoài cứ như không, cứ nhẹ như một hơi thở nhẹ và ngắn.
Đố ai thay được chữ “thôi” ở bài này. Chữ “thôi” ấy được đưa ra, hẳn đã từ
một sự lựa chọn từ núi ngôn từ dân dã và cao sang trong bấy nhiêu năm, bấy
nhiêu cuộc đời, bấy nhiêu hoàn cảnh mà tác giả của nó từng biết.
3. “Khóc Dương Khuê” là một bài thơ nói về nỗi đau khi mất bạn. Mất,
là vì bạn đã chết, đã qua đời. Sự thực là như thế. Song có lẽ hơn rất nhiều
bài thơ viết về đề tài này từ xưa lại lại nay, tác giả của nó đã dùng một số từ
thật đắt. Những từ nói về cái chết, cái mất mát to lớn hẳn là không gì bù đắp
được ấy của Nguyễn Khuyến vừa gợi lên được cái bàng hoàng, cái đau đớn,
cái hụt hẫng trong lòng nhà thơ, lại vừa có vẻ tao nhã, thanh cao mà thật gần
chứ không một chút hệ lụy kiêu sa nào.
Ông viết, nào là: “Thôi đã thôi rồi, thôi thế thì thôi mới là” rồi lại: “vội về
ngay, mải lên tiên, bác chẳng ở...”
Chuyện đáng chú thêm là kèm theo những từ và những cụm từ, nhà
thơ không thể đế cho nỗi đau đớn của mình tự nhiên trào ức ra, cho đỡ bớt,
cho nguôi ngoai đi phần nào, mà ta như thấy có cả sự trách cứ, hờn dỗi nào
đó đối với người quá cố:
Vội vàng chi đã mải lên tiên...
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở...
Có người bảo ấy là Nguyễn Khuyến có cười cợt một tí cho đỡ đau
thương mà thôi. Còn người đọc bây giờ, cũng muốn cho rằng phải thật quý
bạn đến mức nào đó, mới viết ra được tự nhiên như vậy (mà không sợ dưới
sâu kia bạn lại mếch lòng).
Thì đây, sự tin mến quý trọng là đây:
Bạn quy tiên rồi, nên:
Câu thơ nghĩ đắn do không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa?
Tri kỷ tri âm, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu là vậy.
Cùng với một vài câu trích trọn vẹn ở trên, bài thơ khóc bạn này của
Nguyễn Khuyến được truyền tụng, còn là vì ở đây có được cái câu hay hay
này nữa:
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan.
Đây là những câu có thể đứng độc lập được, như thơ ca dân gian.
LUYỆN TẬP:
1. Phân tích bài “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến để thấy rằng
đây là tiếng khóc bạn rất chân thành là thấm thìa.
2. Bình giảng những câu thơ sau:
“Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn
(...)
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là.
Anh (chị) có nhận xét gì qua cách kể kỷ niệm của Nguyễn Khuyến với
bạn? Cách kể đó thấy tình bạn của hai người như thế nào?
3. Niềm đau xót của nhà thơ về sự qua đời của bạn tập trung ở đoạn
nào? Hãy phân tích đoạn thơ ấy.
4. Hãy nói cách hiểu của anh (chị) về hai dòng thơ cuối:
“Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan.
5. Phân tích tâm trạng của Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Khóc Dương
Khuê”
6. Phân tích bài “Khóc Dương Khuê” trong mối liên hệ với những bài
thơ khóc bạn khác để thấy nét cảm động riêng của bài thơ này.
THƯƠNG VỢ
TÚ XƯƠNG
A. BÀI VĂN
Phân tích bài thơ “Thương vợ” của Tú xương.
BÀI LÀM 1
Ông Tú thương vợ bắt đầu bằng việc tính công. Đúng hơn là sự biết ơn
công lao bà Tú:
“Quanh năm... một chồng”
Ông Tú nói chuyện bà Tú buôn bán để nuôi con và nuôi mình. Cách nói
đáng lưu ý. Chẳng lẽ bà Tú chạy chợ hết 365 ngày. Ông Tú tính cả, không chỉ
quanh năm mà hết quanh năm này đến năm khác.
Cách nói cường điệu để bày tỏ lòng biết ơn bà Tú một cách triệt để.
Dân gian cũng thường nói “quanh năm tận tháng” bên cạnh “đầu tắt mặt tối”.
Đây là cách nghĩ, cách nói quần chúng để ghi công lao bà Tú về mặt thời gian
lao động. Còn cái nơi bà Tú buôn bán là “ở mom sông”. Có người cho biết:
mom sông Vị là nơi đầu chỗ sông Vị Hoàng chảy thông ra sông Nam Định.
Thời sông Vị Hoàng chưa bị lấy thì mom sông này là nơi buôn bán của bà con
tiểu thương, thuyền bè qua lại hay đậu ở đấy. Bà Tú có ngôi hàng buôn
chung gạo với người khác ở mom sông đó. Về sau, sông Vị Hoàng bị lấp.
Chốn buôn bán của bà Tú cũng tàn lụi theo. Nhưng như Xuân Diệu đã nhận
xét (ngay khi sông Vị Hoàng chưa bị lấp): “ở mom sông là cheo leo, chênh
vênh chứ không phải ở cái bến ngang sông tấp nập bình thường”. Cảnh ngộ
làm ăn như thế mà bà Tú vẫn “nuôi đủ năm con với một chồng”. Tất cả những
sáu miệng ăn. Trừ bà Tú chưa tính. Thành tích này, nói là bà Tú tần tảo vất
vả, nói là bà Tú vị tha, cao cả thì cũng là tần tảo vất vả, cũng là vị tha, cao cả
hết mực. Nhưng ở đây, nói là sự việc là bất công, vô lý thì cũng là hết mực vô
lý bất công. Đẻ con ra, có ít đâu. Những năm đứa. Phải nuôi chúng khôn lớn.
Trách nhiệm đó là của bà Tú. Dĩ nhiên rồi. Nhưng anh chồng “trên đồng cạn,
dưới đồng sâu, chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” đâu? Thì ở đây làm gì có.
Ông Tú không phải là loại chồng đó. Ông là loại chồng “tiền bạc phó cho con
mụ kiếm”, loại chồng “thưng đấu nhờ lưng một mẹ mày”. Ông Tú đã không
cùng bà Tú nuôi con đã đành. Mà như có kẻ ác khẩu đã châm biếm: Ông còn
là một “thứ con” đặc biệt đế bà Tú nuôi riêng! Đoảng thế là cùng! Chế độ xã
hội cũ đã sản sinh ra loại chồng đoảng, loại ông chồng “dài lưng tốn vải ăn no
lại nằm” như ông Tú không ít.
Nhưng ở ông Tú, có một điều này là khác, là rất khác: Ông tỏ ra biết
nhận lỗi, biết đền bù lại bằng cái tình, bằng tấm lòng. Cái thái độ của Tú
Xương trở nên dễ thương ở điểm này. Bài thơ của Tú Xương hay bắt đầu từ
điểm này. Ông nói chuyện bà Tú nuôi con đã đành, mà còn là nuôi mình, nói
theo kiểu nói toạc, không một chút ngượng bút, ngượng miệng, lại như vừa
nói vừa tủm tỉm cười, tự trách sao mình vô tích sự, lại để vợ phải nuôi. Việc
nuôi chồng của bà Tú, có thể là ông chưa xem là sung sướng. Cái cảnh “Cơm
hai bữa; cả kho rau muống; quá một chiều: khoai lang lúa ngô” thì có gì là
sung sướng, chắc còn xa sự sung sướng. Nhưng xem ra ông Tú đã không
dám đòi hỏi gì hơn. Ông đã thấy vui, đã ra vẻ bằng lòng, và đặc biệt là đã
cảm cái ơn của bà Tú lắm lắm rồi. Và do như thế mà ngay trong cặp thơ đề,
hình ảnh bà Tú đã thấp thoáng hiện lên lớn, đẹp vô cùng. Cả đám cha con
ông Tú sống trong sự cưu mang của bà Tú, tựa như đàn gà con đang được
“mẹ gà ấp ủ”. Văn chương chữ nghĩa của ông Tú ở đây đơn giản mà thân
tình đến kỳ lạ, có sức gợi phong phú vô cùng. Ông nói: “Nuôi đủ năm con với
một chồng”, nói như nói chơi mà ý tình sâu nặng, chân thành biết bao nhiêu.
Ông Tú không gộp sáu cha con lại mà nói. Ông nói “năm con” riêng, “một
chồng” riêng. Như thế là vì con ơn mẹ là chuyện con với mẹ đã đành. Còn
phần ông, ông chịu ơn vợ thì ông phải nói riêng ra cho thật rõ, nói riêng ra để
khỏi mập mờ dù là một chút. Cũng như trong ý thơ, ông không tính đến bà
Tú. Chỉ nói chuyện bà “nuôi đủ năm con với một chồng”. Không tính đến bà
thì cái lòng vị tha, cái công lao của bà càng thêm rõ. Mà cái lòng tri ân của
ông - thay mặt cả lũ trẻ con năm đứa nữa - đối với bà Tú cũng càng rõ thêm.
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.
Hai câu thực gợi lên cảnh làm ăn vất vả, tội nghiệp hàng ngày của bà
Tú. Chẳng hay ông Tú dã đón nhận câu ca dao “Con cò lặn lội bờ sông, gánh
gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”, từ bao giờ? Qua tiếng ru con của một bà
mẹ láng giềng hay chính là ru Trần Tế Xương của bà cụ Nhuận? Chắc chắn
từ “Con cò lặn lội bờ sông”, hình ảnh những bà vợ Việt Nam ngàn xưa trong
xã hội cũ, ngược xuôi tần tảo, gian nan cực nhọc để nuôi chồng con cũng từ
lâu đã đi vào hồn thơ giàu rung động của Tú Xương với bao nhiêu xót xa
thương cảm. Để giờ đây, trong lúc nghĩ đến bà Tú thì con cò ấy bỗng vụt dậy
vỗ cánh bay và thi hứng “Thương vợ” của Tú Xương. Ca dao xưa nói: “Con
cò lặn lội bờ sông”, trông đã vất vả, tội nghiệp. Con cò của ca dao lặn lội bờ
sông. Khung cảnh đã mênh mông, heo hút đến rợn người. Trong thơ ông Tú,
có cái rợn ngợp của không gian, lại còn thêm cái rợn ngợp của thời gian. “Lặn
lội thân cò khi quãng vắng”. Chép như thế, dễ thường mất đi cái hoang vắng
của thời gian làm mất đi cái khối hình của ý thơ. Ca dao nói: “Con cò lặn lội”.
Tú Xương chuyển lại thành “lặn lội thân cò”. Hai từ “lặn lội” chen lên đứng đầu
câu. Cảnh lặn lội lại càng lặn lội. Ca dao nói con cò, Tú Xương nói “thân cò”.
Ý thơ cứ xoáy sâu vào sự cực khổ. “Thân” trong ngôn từ văn chương tiếng
Việt trước hết là chỉ cái thân thế con người “Vai năm tấc rộng thân mười
thước cao”. (Truyện Kiều). Nhưng còn là chỉ một đời người, một kiếp người
“Thân này ví đổi thành trai được, sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu” - Hồ
Xuân Hương: “Thân lươn bao quản lấm đầu, chút lòng trinh bạch từ sau xin
chừa” (Truyện Kiều) mà nói chung trong văn học xưa là đau khổ, là ê chề, tủi
cực. Tú Xương đã nghĩ kiếp đời bà Tú bằng thứ ngôn ngữ có độ dày của giời
gian, của truyền thống đó. Trong câu thơ, “thân cò” không “khóc nỉ non”. Bởi ở
đây sự gian khổ đang được nén xuống. Nhưng càng nén lại càng đau. Câu
thơ đó vẫn bị rỉ rả tiếng khóc cho thân cò. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Tú
Xương đã nâng cái tầm khái quát con cò trong ca dao từ ngàn xưa lên một
mức để nói cho hết tấm lòng thương cảm da diết của mình đối với cuộc đời
làm ăn vất vả của bà Tú. Câu thơ trở thành như một bức họa phác thảo về
một người dàn bà mỏng manh, gầy guộc, lúi húi một mình kiếm sống giữa
cuộc đời trơ trụi. Cái cảnh bà Tú lặn lội sớm khuya để nuôi chồng nuôi con
giữa cái thời buổi “sống chết mặc bây”, cái thời buổi nghĩa tình đã bạc quá
vôi, chính là người đàn bà trong bức họa phác thảo đó.
“Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Ý tình của thơ đúng là đang triển khai. Câu thực thứ nhất mới nói cái
vất vả, cái cô đơn. Câu thực thứ hai này nói rõ thêm cái vật lộn. Vật lộn là có
chuyện đụng chạm đến người chung quanh, đến xã hội rồi. Có sách chú
thích: “Cứ buổi trưa hay chiều có chuyến đò chở những người đi buôn gạo ở
những chợ Thông, chợ Quán (bên kia bên Tân Đệ) về quán bánh dày ở đầu
tỉnh Nam là nơi bán gạo. Quán bánh dày quen gọi là “Mom”, những người này
thường eo sèo với nhau là bán đắt bán rẻ. Có sách lại chú thích: “Eo sèo là kỳ
kèo mặc cả, cãi cọ nhau”. Đúng đây chưa phải là cảnh cạnh tranh cuớp giật
gì nhau ghê gớm, càng chưa phải cái cảnh “cá nuốt cá”, “tre buộc tre” trong
bọn thống trị với nhau và giữa bọn thống trị đối với dân lao động bị áp bức
trong xã hội đó. Cảnh làm ăn của lớp tiểu thương như bà Tú với nhau trong
xã hội cũ về bản chất không có như vậy. Ở đây, trước hết, chỉ mới là sự chen
chúc. Vì cái sống mà phải chen chúc. Chen chúc với nhau trên những chuyến
đò đưa khách sang sông. Chật hẹp, bấp bênh, mỏng manh, chơi vơi quá
chừng! Và dường như sông nước càng mênh mông bao nhiêu thì cái độ chơi
vơi, mỏng manh, bấp bênh đó lại càng tăng lên bấy nhiêu. Và tội nghiệp bà
Tú. Hẳn đã có lần bà nghe mẹ dặn: “Con ơi, mẹ dặn câu này, sông sâu chớ
lội đò đầy chớ khoan sang” (ca dao).
Ấy thế mà bây giờ, vì cuộc sống của chồng con mà con gái của mẹ vẫn
bất chấp, vẫn phải liều lĩnh để sang sông “buổi đò đông”. Lời mẹ dặn, có thể
vì cuộc sống mà quên. Hoặc nhớ nữa, nhưng biết làm sao hở mẹ? Cuộc sống
trong xã hội bất công khắc nghiệt với con người đến thế. Bọn bóc lột, ngồi
mát ăn bát vàng, sống trên mồ hôi nước mắt của người bị trị.
Người dân lao động luôn luôn bị cái quy luật cạnh tranh sinh tồn, đặc
biệt là cái quy luật bần cùng hóa của chế độ thực dân nửa phong kiến uy
hiếp, nên lắm lúc vì cái ăn cái mặc hàng ngày của gia đình mà buộc phải liều
lĩnh, phải bực dọc, phải cau có, phải mè nheo, phải chen lấn... thì cũng là điều
thường tình, dễ hiểu và đáng thương hơn đáng trách. Sự tha hóa của con
người có khi chính là bắt đầu từ những dấu hiệu đó. Tú Xương nhận biết sâu
sắc cái hiện thực phũ phàng, bất nhân đó mà càng xót xa thương vợ khi viết
câu thơ trên:
“Một duyên hai nợ âu đành phận.
Năm nắng mười mưa dám quản công”.
Trong ấn tượng của ông Tú, kiếp sống của bà Tú thật là căng thẳng,
nặng nhọc. Một cuộc đời, một kiếp sống như thế mà không sinh ra vật vã,
dằng dặc với nó sao chịu được. Tú Xương nói chuyện ông bà lấy nhau,
chuyện bà Tú lấy ông Tú. Kể cũng là cái duyên, về tư cách làm chồng thì quả
là ông còn nhiều khuyết điếm. Nhưng chẳng gì thì ông cũng có chân Tú Tài
để may khỏi tiếng “cha cu”. Ông cũng hào hoa, cũng duyên dáng, cũng thơ
phú lừng danh, đặc biệt là đối xử với bà Tú cũng tử tế, cũng nhiều lúc đùa vui,
tình tứ. Còn về đường con cái, thì “Trời cho” cũng “năm con” rồi. Một cảnh
chồng con như thế, bình thường không đáng gọi là duyên sao. Nhưng ở đây,
sao đã nói đến “một duyên” rồi lại nói đến “hai nợ”? Nghe lại nặng nề, chua
chát, éo le, thậm chí còn như dằn vặt, vật vã nữa. Trước hết có vấn đề chữ
nghĩa nên hiểu thế nào? “Một duyên hai nợ”, một hai là số chỉ thứ tự hay số
lượng? Có lẽ cái âm hưởng dằn vặt của câu thơ này và cả cái lối nói cũng
theo kiểu tăng cấp, bồi thán (năm nắng mười mưa) trong luật đối của câu thơ
sau, dễ khiến ta hiểu theo nghĩ thứ hai. Và như thế thì ý thơ muốn nói: duyên
thì có một mà nợ lại thành hai. Trở lại nguồn gốc xa xưa của chữ nghĩa thì
đúng là giáo lý của đạo Phật đã nói đến túc trái tiền duyên. Đạo Phật - quan
niệm rằng sự vật, con người có quan hệ với nhau ví như vợ chồng lấy nhau là
do có cái duyên từ kiếp trước. Và như thế thì cái duyên cũng là cái nợ từ kiếp
trước mà con người ở kiếp này phải trả. Duyên và nợ, theo quan niệm đó của
đạo Phật thành ra như một. Trong văn học chịu ảnh hưởng của đạo Phật, từ
lâu cũng nói đến duyên nợ “Ví chăng duyên nợ ba sinh, làm chi đem thói
khuynh thành trêu người”. (Truyện Kiều). Nhưng cũng từ lâu, trong văn học
và trong ngôn ngữ dân gian đã có hiện tượng dân gian hóa quan niệm về
duyên nợ theo hướng làm mờ nội dung triết lý siêu hình của nó và muốn tách
duyên riêng nợ riêng. Nói đến duyên là nói đến sự may mắn, thuận chiều. Nói
đến nợ là nói đến sự đau khổ, phải chịu đựng. Ở Tú Xương trong trường hợp
này, xu hướng dân gian hoá đó dường như dẫn đến một sự tách chia đã khá
rạch ròi duyên và nợ. Câu thơ của Tú Xương muốn nói: Cuộc đời của bà Tú
“duyên” thì có một mà “nợ” thì đến hai, nghĩa là một cuộc đời oái oăm, cay
đắng mà đành cam phận. Tú Xương thương xót cho cuộc đời đó mà thành ra
dằn vặt thay, vật vã thay. “Một duyên hai nợ âu dành phận”. Âm hưởng của
câu thơ đúng là âm hưởng dằn vặt, vật vã. Và nói là “đành phận” thì đúng lại
là vừa cam chịu vừa như không muốn cam chịu. Cái ý có vẻ như ngược chiều
nhau này chính là tâm trạng của Tú Xương trong khi nghĩ đến cuộc đời của
bà vợ. Cái sự thật khách quan chua chát và tâm trạng chủ quan thương vợ
của ông Tú xen lẫn trong ý thơ. Hai câu luật vừa nổi lên hình ảnh bà Tú vị tha,
cao cả vừa ngầm chứa ý nghĩa tố cáo xã hội đương thời, cái xã hội ma quái
đã dồn những con người chịu thương chịu khó như bà Tú đến bước cơ khổ,
quằn quại, có duyên mà không vui được với duyên. Duyên có một mà nợ
những là hai, vui sao được.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không”.
Không vui được, đã đành. Còn phải phát khùng lên với nó. Bài thơ đã
kết lại bằng một tiếng chửi mát. Nhìn cuộc đời bà Tú như thế, có chửi cũng là
điều dễ hiểu. Nhưng ở dây, ai chửi, chửi ai? Và chửi cái gì? Thì vẫn là ông Tú
thương xót cho bà Tú mà chửi thay cho bà Tú. Chứ bà Tú mà dư luật thành
Nam đã hằng khen là chịu thương chịu khó, tần tảo nuôi chồng nuôi con, bà
Tú “năm nắng mười mưa dám quản công” hẳn có bao giờ lại chửi như thế.
Ông Tú đã chửi mát chính ông Tú về cái tội “ăn ở bạc”, cái tội làm chồng mà
“hờ hững cũng như không”, làm chồng mà để vợ phải trăm cơ nghìn cực như
thế! “Có chồng hờ hững cũng như không” chữ nghĩa của Tú Xương ở đây lại
cũng buột ra quá cái mức tự nhiên và giản dị nhưng ý tình lại cũng sắc biết
bao nhiêu, cảm động bao nhiêu. Ngày trước, Thúy Kiều trong buổi trao duyên,
tự nhiên cứ cố buộc vào mình cái tội phụ chàng Kim Trọng “Vì ta khăng khít
cho người dở dang”, “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây” (Truyện Kiều) mà
thực ra, Kiều đâu có phụ. Ở đây, Tú Xương đối với bà Tú, nói là không giúp
đỡ bà Tú được gì thì đúng, chứ nói “ăn ở bạc” với bà Tú thì đâu đã đến thế.
Và nói là “hờ hững” thì cũng một mặt thôi, chứ đâu tất cả là “hờ hững”, đến
mức là kết tội là “ăn ở bạc”. Đúng là giữa Thúy Kiều và Tú Xương, hai cảnh
ngộ khác nhau rất xa, nhưng nhân cách lại có mặt giống nhau. Đó là nhân
cách của những con người biết yêu thương cho người khác hơn mình biết
nghĩ cho người khác hơn mình. Thúy Kiều là cho người yêu. Tú Xương là cho
bà vợ. Tú Xương càng thương, càng nghĩ đến bà Tú bao nhiêu thì càng thấy
mình “ăn ở bạc, càng thấy mình “hờ hững” bấy nhiêu. Đọc đi dọc lại câu thơ
cứ thấy nhói lên một lời tự phán, một lời thương cảm của ông Tú. Nhớ lại xã
hội thời ông Tú, trong tầng lớp của ông (thậm chí cả trong nhân dân lao động
một phần) có khối gì anh chồng lêu lổng chỉ quen hách dịch, ăn bám vợ,
không thỏa mãn thì giở trò dã man đánh vợ. Ít tệ bạc hơn thì cũng ăn bám vợ
mà chẳng bao giờ biết nghĩ mình ăn bám. Người vợ đối với họ, thực tế đã bị
biến thành một thứ “nô lệ”, một thứ nô lệ đặc biệt, một thứ nô lệ mà không bị
gọi là nô lệ, vẫn được gọi là bu nó, bà nó, thế thôi. Cho nên, thái độ, tình ý
của thơ của Tú Xương ở đây quả là đáng quý, khiến cho mọi người dễ cảm
thông.
Tú Xương tự phán, tự rủa mà vô hình trung lại để lộ rõ thêm nhân cách
của mình, mà vô hình trung lại tự rũ bỏ được con người phong kiến, con
người Nho gia trong mình để cho một Trần Tế Xương ân tình, một Trần Tế
Xương nhân ái, một Trần Tế Xương nhân dân hiện lên, đáng quý biết bao
nhiêu. Nhưng ở đây, Tú Xương chửi mình đã đành, lại còn chửi lây sang cả
cái “thói đời” cái “thói đời ăn ở bạc”. Trong cái “thói đời ăn ở bạc” ấy, có anh
“chồng hờ hững cũng như không” là ông Tú, nhưng còn bao nhiêu thứ khác
đáng chửi hơn. Cái tiếng chửi của Tú Xương lại chính là muốn hướng vào cái
“thói đời ăn ở bạc” nói chung đó. Nghe lại tiếng chửi của Tú Xương. Đúng là
ông đang thay bà Tú mà chửi cả cái “thói đời ăn ở bạc”, nghĩa là cả cái xã hội
thực dân nửa phong kiến bất nhân đương thời. Cái xã hội đó đẻ ra cái thói
đời đó. Cái thói đời đó là bạc bẽo, là đểu cáng, là chen lấn, là cướp giật, là
sống chết mặc bây... để những người lương thiện như vợ ông Tú, tần tảo mà
vẫn đói nghèo, thương chồng con mà thành khổ cực, có duyên mà không vui
nổi với duyên. Cái “thói đời” đó, Tú Xương không chửi vung lên sao yên. Tú
Xương là bậc “thần thơ”, “thánh chữ”. Tú Xương chỉ chửi một tiếng, có vẻ
như chửi mát, chửi bâng quơ, chửi cái anh “chồng hờ hững” là mình, mà hóa
ra lại là chửi cả cái xã hội, chửi cả cái đời bấy giờ. Nói chữ nghĩa nhưng
chính là nói thái độ. Vấn đề bài thơ đặt ra không chỉ còn là vấn đề thái độ của
Tú Xương đối với người vợ của mình mà đã mở rộng sang vận đề thái độ của
Tú Xương đối với xã hội. Vai trò của các câu kết trong thơ Tú Xương thường
làm nhiệm vụ nâng cao, mở rộng ý nghĩa xã hội của nội dung thơ như vậy.
Nói kết nhưng lại là mở, chính là như vậy.
Bài thơ Thương vợ là tất cả tấm lòng biết ơn sâu sắc, là niềm thương
cảm da diết của Tú Xương đối với cuộc đời cần mẫn, nhân ái nhưng vất vả
cực nhọc của bà Tú. Mặt khác, cũng là sự tự phán, sự hối hận rất mực chân
thành của Tú Xương về những thiếu sót của mình đối với vợ, và đặc biệt
cũng là thái độ của Tú Xương oán đời, giận đời bạc bẽo, gây khổ cực cho
những người chân chính như bà Tú. Cảm xúc nghệ thuật của Tú Xương vừa
có cái độ dày của cảm xúc truyền thống, của nhân dân, của văn học dân gian,
vừa nóng hổi cái cảm hứng thời cuộc của ông. Qua bài thơ Thương vợ, hiện
lên một bà Tú chưa phải là một bậc nghĩa liệt, nhưng là một người vợ, một
người mẹ Việt Nam với bao nhiêu phẩm chất cao quý: Chịu thương chịu khó,
hy sinh tất cả cho chồng cho con mặc dù cuộc đời phải ngược xuôi tất tả, tủi
nhục, đắng cay. Thơ Thương vợ của ông Tú, chữ nghĩa giản dị mà ý tình lại
sâu nặng.
Đặt bài Thương vợ vào trong lịch sử thơ cả cũ mà đối chiếu, lại càng
thấy nó đáng quý bao nhiêu. Suốt thời đại phong kiến, trong văn học viết, hỏi
đã mấy ai trực tiếp làm văn thơ về người vợ của mình, trừ lúc vợ chết mà họ
thường làm văn tế. Hai trường hợp; Ngô thi sĩ viết “khúc ai lục”, Phạm
Nguyễn Du viết “Đoạn trường lục” là quả đặc biệt mà chính hoàn cảnh lịch sử
cuối thế kỷ XVIII đã cho phép. Sự sụp đổ tan tành của chế độ phong kiến Lê -
Trịnh - Nguyễn, sự trỗi dậy mãnh liệt của trào lưu tư tưởng nhân đạo chủ
nghĩa của quần chúng, đã đề ra “Đoạn trường lục” và “Khúc ai lục”. Nhưng
sao đó, trong hoàn cảnh lịch sử đầu thế kỷ XIX cũng không còn những tác
phẩm như vậy ra đời nữa. Trước sau Tú Xương một ít, có Nguyễn Khuyến,
Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, đều có thơ văn khóc vợ. Có nhiều
trường hợp khá chân thành, thắm thiết, nhưng nói chung vẫn chưa ai làm thơ
văn về vợ, đặc biệt là khi vợ chồng đang sống với nhau kiểu Tú Xương. Phải
chăng hệ ý thức phong kiến đã không cho phép những bà vợ Việt Nam xưa
trở thành đề tài trong thơ văn của chính những ông chồng của họ?. Ở
phương diện này, có lẽ Tú Xương thành ra một trường hợp mới mẻ, độc đáo
của văn học. Bài thơ “Thương vợ” cũng thành ra một hiện tượng đặc sắc, quý
báu của lịch sử văn học dân tộc.
NGUYỄN ĐÌNH CHÚ.
BÀI LÀM 2
Trần Tế Xương, bậc “thần thơ, thánh chữ”, một tú tài nổi tiếng tài hoa ở
đất thành Nam đã in đậm trong tâm trí những người yêu thơ. Ai đã một lần
đọc bài thơ “Thương vợ” của ông chắc hẳn không quên một Tú Xương có
những tình cảm sâu sắc đối với người vợ yêu dấu của ta cũng gặp ở đây một
Tú Xương với những suy nghĩ về chính mình. Độc giả sẽ được thưởng thức ở
đây cả cái tài thơ trữ tình của một vị tú tài.
Vào đầu bài thơ bằng bút pháp trữ tình, Tú Xương đã phác họa trước
mắt độc giả một hình ảnh bà Tú đảm đang vất vả nuôi chồng nuôi con.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông.
Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Tú Xương đã từng “quanh năm” ở đầu câu thơ, đầu bài thơ không
những có hàm ý chỉ thời gian kéo dài mà còn gợi hình ảnh bà Tú đầu tắt mặt
tối nơi đầu sông, cuối bãi để buôn bán nuôi chồng nuôi con. Điều đáng chú ý
ở đây Tú Xương viết bà Tú buôn bán ở “mom” sông chứ không phải ven
sông. Ven sông có lẽ rộng rãi hơn mom sông. Tú Xương cảm thông với nỗi
vất vả của vợ vì bà Tú buôn bán nhỏ chứ không to tát gì. Lời thơ chân thành
không hoa mỹ gì mà hàm chứa biết bao nhiêu tình yêu thương của ông Tú đối
với bà Tú. Ông Tú Xương làm thơ, lời thơ là lời đùa đùa vui vui âu yếm vợ
cho khuây khỏa nỗi vất vả quanh năm. Tú Xương cảm nhận sâu sắc cái ơn
của vợ đối với con và đặc biệt là đối với mình. Thái độ của Tú Xương đối với
vợ lúc này là “vuốt râu nịnh vợ con bu nó” thật cởi mở, rạch ròi, chu đáo,
không mập mờ. “Nuôi đủ năm con với một chồng”, ở ngay đầu bài thơ Tú
Xương đã nhậnn mình là một kẻ “ăn báo cô” vợ, là gánh nặng của vợ. Lời thơ
giản dị mà rất hay, ông không gộp cả năm con với một chồng thành sáu
người mà (là “một chồng” tương ứng với vế “năm con”, điều đó thể hiện niềm
cảm phục biết ơn của ông đối với bà, bởi sinh hoạt của ông nếu không tốn
kém hơn thì phải tốn kém bằng năm đứa con, nó đã trở thành “cấp số nhân”
chứ không phải là “cấp số công” nữa. Càng thấy vợ vất vả bao nhiêu đối với
mình và con thì Tú Xương càng cảm thấy mình là đồ vô tích sự bấy nhiêu;
Càng cảm thông với nỗi vất vả của vợ mình càng trân trọng tấm lòng của vợ
đối với mình bấy nhiêu. Tú Xương không chỉ thương cảm vợ mình vì nỗi vất
vả mà ông còn hiểu và cảm thông cả nỗi giày vò về tinh thần:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng”
Hình ảnh con cò trong ca dao và hình ảnh bà Tú của chúng ta thoạt
nhìn giống như hai chị em. Này nhé cũng cảnh sông nước, cũng lặn lội nuôi
chồng nuôi con. Thế nhưng con cò trong ca dao chỉ vất vả nuôi con trong khi
chồng vắng nhà (đi lính) còn bà Tú thì không những nuôi phải nuôi con mà
còn phải nuôi cả ông Tú. Cảnh buôn bán của bà Tú còn khổ hơn trong hình
ảnh:
“Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Tú Xương nói “đò đông” hay “đò đầy” cũng vậy. Rõ ràng đây là một
chuyến đò chở quá tải vừa chòng chành vừa hỗn độn rất đáng ngại, ấy vậy
mà bà Tú vẫn phải qua. Hình ảnh bà Tú được Tú Xương tả như một vị nội
tướng đầy dũng cảm dám chấp nhận mọi khó khăn với một lòng vị tha rất
cao. Phải hiểu và cảm thông sâu sắc với nỗi khổ của vợ, Tú Xương mới dựng
nên một hình ảnh một bà Tú như vậy. Về vật chất đã thiếu thốn, về tinh thần
thì bà Tú cũng không được thoải mái chút nào. Tú Xương chỉ đỗ tú tài mà tú
tài thời đó dở dang, dang dở không làm đựợc ruộng như dân mà cũng chưa
được bổ dụng quan chức nên ông chỉ ở nhà để vợ nuôi ăn học. Vợ ông được
mỗi cái danh gọi là bà Tú. Bà Tú vốn là con cái nhà dòng dõi.
“Con gái nhà dòng lấy chồng kẻ chợ
Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ”.
"... Đầu sông bãi bến đua tài buôn chín bán mười. Trong họ ngoài làng
vụng lẽ chào dơi nói thợ” vậy mà bà phải vất vả lặn lội bán buôn nơi đầu sông
cuối bãi để nuôi chồng nuôi con. Trong khi buôn bán không tránh khỏi sự “eo
sèo” cãi lộn và nỗi khổ nỗi tủi của bà Tú như nhân lên đến nghẹn ngào trong
cổ. Hơn nữa, việc ông Tú thi không đỗ cũng tác động mạnh mẽ đến tinh thần
của bà. Tú Xương vì thế càng cảm thông và thương yêu bà bộị phần, và cũng
thấy tủi hổ cho mình nữa. Tú Xương thương vợ, cảm thông với nỗi vất vả chịu
đựng của vợ cả về vật chất tinh thần. Càng thương vợ bao nhiêu, ông càng
quý trọng bà bấy nhiêu bởi bà là người tháo vát đảm đang. Bà không những
phải lo cho gia đình đủ ăn mà còn phải lo toan bao công việc khác nữa. Tú
Xương quý trọng bà cũng bởi tính hy sinh hết mình cho chồng con của bà Tú:
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”.
Tú Xương đã sáng tạo chữ “duyên nợ” thành “một duyên hai nợ” vừa
miêu tả được tình thương yêu của ông đối với bà vừa dự cảm những khó
khăn thử thách mà vợ chồng thi sĩ thành Nam phải vượt qua. Duyên nợ chỉ
“một hai” mà đủ sức giúp nhau vượt qua “năm mười mưa nắng”. Mưa nắng
của đất trời và mưa nắng của cuộc sống. Chi mà duyên một cuộc đời đeo hai
gánh nợ, âu cũng là số phận bà đành chịu một đời “năm nắng mười mưa. Ấy
là Tú Xương nghĩ vậy chứ bà thì không hề có ý ấy. Ông thấy được ở bà một
người vợ vô cùng nhân hậu, giàu đức tính hy sinh. Còn chúng ta, độc giả hình
dung thấy một ông Tú đang buồn vì chưa làm tròn trách nhiệm của một người
cha, người chồng đối với đàn con và vợ. Nhưng dù sao thì ông Tú Xương
cũng là một con người có nhân cách cao đẹp bởi ông cũng đã tự suy nghĩ,
dằn vặt mình. Ông văng ra một câu chửi: chửi anh chồng vô tích sự là mình,
chửi luôn cả cái thói đời bạc bẽo đã đẻ ra cái loại chồng đoảng như mình. Một
tiếng chửi mà đế lộ nhân cách, nhân phẩm cao đẹp.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không”.
Tú Xương tự thấy mình chẳng giúp ích được gì cho gia đình mà tất cả
chỉ trông vào đôi bàn tay của bà Tú. Không còn cách gì tạ lại ơn của vợ, Tú
Xương chỉ bối rối, dằn vặt và cảm thấy mình vô tích sự quá. Cũng có lúc ông
đã nghĩ:
“Chi bằng đi học làm thầy phán,
Sáng rượu sâm banh, tối sữa bò”
Hay: “Quẳng bút lông đi, nắm bút chì”
Đi làm thầy phán, hay “nắm “bút chì” là đi làm cho Tây, viết chữ Tây thì
Tú Xương sung sướng, vợ con ông Tú sung sướng, bà Tú không phải buôn
ngược bán xuôi nhưng lương tâm, lương tri của ông không cho phép, để rồi
ông vẫn phải ngồi nhìn vợ tảo tần buôn bán nuôi mình nuôi con. Tú Xương
xót xa khi thấy mình trở thành gánh nặng cho vợ, cho gia đình. Dù sao đây
cũng là phẩm chất cao đẹp của Tú Xương vì sống trên đất nước như nước ta
xưa cái thuyết “tam tòng”, cái thuyết “phu xướng phụ tùy” của Nho giáo từng
dẫn các ông chồng, nhất là trong hàng ngũ Nho sĩ, tới lối sống ăn bám vợ. Đã
không biết ngượng, không ít ông lại còn quay ra bắt nạt vợ. Tú Xương cũng
khó mà thành anh chồng lí tưởng, vì cũng ăn bám như ai, nhưng kể ra thì Tú
Xương là người còn biết hối, biết đem tấm lòng của mình ra mà đãi vợ.
Hai câu thơ là tiếng khóc, tiếng nấc của Tú Xương vì cảm thương vợ và
cũng là giận và thương chính mình. Tú Xương khóc cũng đúng thôi bởi làm
trai phải có chí “tề gia trị quốc, bình thiên hạ” nhưng ông tề gia không nổi, nói
gì đến trị quốc, càng không nói tới việc bình thiên hạ.
Người xưa quan niệm “Văn dĩ tải đạo” nghĩa là văn thơ phải chuyển tải
những đạo lý cao siêu mà hiện thân là những người anh hùng liệt nữ. Ấy vậy
mà giữa thời đại đó Tú Xương lại viết thơ với tất cả cái xù xì của cuộc sống.
Tú Xương viết cả về người vợ đảm đang nhân hậu của mình, mà viết về
người vợ đang sống với những lời thơ chân thành xúc động. Vốn thơ nói về
tình yêu trai gái thì nhiều nhưng nói về tình cảm vợ chồng thì quá ít, họa là
sau này có Tú Mỡ viết về vợ khi bà đã qua đời. Vì vậy bài thơ “Thương vợ”
của Tú Xương đáng là một bông hoa rực rỡ nở trên ngọn cây văn thơ viết về
tình “chồng vợ”. Ta càng ghi nhận ở đây công lao Việt hóa thơ Đường của Tú
Xương. Bài “Thương vợ” làm theo thể Đường luật đấy cũng đề, thực, luật,
kết, thất ngôn bát cú. Nhưng không chút khệnh khạng, chỉnh tề, “mũ cao, áo
dài”, đạo mạo mà gần gũi thân thương như lời nói hàng ngày. Tú Xương đã
dùng thể thơ Đường luật của Trung Quốc, thể thơ “đài các, quan phương”,
trang trọng để viết về người vợ của mình nhưng khi đọc lên ta thấy nó bay
nhẹ như thơ Việt bởi tình cảm của ông đối với vợ chân thành xúc động, ông
lại có tài trong việc điều khiển đội quân ngôn từ và cách sử dụng hình ảnh thơ
dân gian.
Ở đây Tú Xương đã tả bà Tú như một vị thiên thần trời sai xuống đế
giúp ông Tú Vị Xuyên trên bước đường danh vọng, để cho nước Nam ta có
một bậc đại thi hào. Tên bài thơ là “Thương vợ”, chồng thương vợ thì lời thơ
không thể cao giọng, sáo rỗng rồi. Nhưng không được phép quá xuề xòa, thô
thiển vì tình yêu thương, lòng kính trọng biết ơn và vì Tú Xương là một tú tài,
một nhà trí thức, một nhà thơ. Ông đã chọn đúng giọng điệu để tìm về cội
nguồn dân tộc, khơi mạch và lắng đọng thêm. Hình ảnh, lời lẽ dân gian được
ông nâng lên tầm bác học, tầm thi hào.
Tú Xương đã ra đi cách chúng ta hơn tám thập kỷ ấy vậy mà nhà thơ
thành Nam với bài “thương vợ” vẫn sống mãi trong lòng bạn đọc yêu thơ.
NGUYỄN THỊ HlỀN.
Phân tích “Thương vợ” của Trần Tế xương để cho thấy hình ảnh và ngôn ngữ dân gian rất đậm nét trong bài thơ
BÀI LÀM
Trước đây hơn nửa thế kỉ, năm 1935, cụ Trần Thanh Mại, một trong
những người đầu tiên nghiên cứu, giới thiệu thơ Trần Tế Xương, từng nhận
xét: “Đối với ông Trần Tế Xương, tư tưởng ở trong óc ra thế nào được dùng
ngay thể ấy, lanh lẹ, tươi tắn, không trau chuốt, không gọt đẽo, không dụng
công. Hơi văn đi như một luồng nước chảy xuôi dòng, êm khỏe, mau...”. Đến
nay, lớp con cháụ chúng ta, đọc thơ ông Tú, không ai không nhận rõ vị ngọt
ngào của luồng nước ngôn từ xuôi chảy khỏe, êm, mau lẹ và nặng ân tình ấy.
Tiêu biểu nhất là bài thơ Thương vợ.
Thơ Đường đấy, cũng đề thực luận kết, thất ngôn bát cú. Nhưng không
một chút khệnh khạng, chỉnh tề, mũ cáo áo dài đạo mạo, mà gần gũi thân
thương như lời nói hằng ngày. Tên gốc của bài thơ là “Tặng bà Tú”. Chồng
tặng vợ, thì rõ ràng là không thể cao giọng, sáo rỗng rồi. Nhưng cũng không
được phép quá xuề xòa, thô thiển. Vì tình yêu, lòng quý trọng. Cũng vì mình
là một trí thức, một nhà thơ, ông Tú chọn đúng giọng điệu, tìm về cội nguồn
của dân tộc, khơi mạch và lắng lọc thêm. Vì thế, nét dẹp nhất, vị ngọt ngào
nhất của bài thơ là ở những hình ảnh, thành ngữ, những lời lẽ dân gian mộc
mạc, được nâng lên tầm bác học, tầm thi hào.
Người xưa từng hát:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Tú Xương viết:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con, với một chồng
Mới nhìn ngỡ hai bức chân dung của hai chị em ruột, giống nhau như
đúc. Cũng cảnh sông nước, cũng chiếc đòn gánh trên vai, cũng thân cò hôm
sớm nuôi chồng... Nhưng người chị ca dao bước đi sao thảm hại, vừa đi, vừa
khóc, vừa khóc vừa kể lể, than vãn. Còn người em, bà Tú Xương khác hẳn.
Khác từ thời gian, đến nơi chốn, công việc. “Quanh năm... mom sông”. Không
phải “bờ sông”, “ven sông”. Bờ sông, ven sông dù sao cũng dài rộng và ít
nhiều phẳng phiu. Còn “mom sông”, nơi bà Tú kiếm ăn, thì thật nhỏ nhoi,
chênh vênh, nguy hiểm, đất có thể lở, nước có thể tràn lên bất cứ lúc nào.
Khác đến cái bộ dạng con người. Ca dao kể xuôi: “Con cò lặn lội”. Tú Xương
đảo lại: “Lặn lội thân cò”. Những bước đi chật chưỡng, bì bõm, thụt lầy trong
bùn nước sớm nắng chiều mưa, nhìn thấy trước rồi con người hiện sau. Nỗi
gian lao cơ cực nhân lên bội phần. Lại nữa, ca dao nói: “Con cò”, hoặc “cái
cò”, vẽ một hình ảnh cụ thể. Ông Tú đối thành “Thân cò”, nghĩa khát quát
hơn, vừa hàm ý so sánh vừa gợi liên tưởng rộng dài về những cuộc đời vất
vả, những kiếp người bị đọa đày, rất đáng cảm thông. “Thương thay thân
phận con rùa, lên đình đội hạc xuống chùa đội bia” (ca dao). “Thân lươn bao
quản lấm đầu” (Truyện Kiều)... Và hình ảnh chuyến đò nữa. Cha ông xưa dặn
dò: “Con ơi nhớ lấy câu này, sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua”. Vậy mà, bá
Tú vẫn phải qua sông trên những con đò như thế. Và hơn thế, chắc hẳn nhiều
lần bà đã phải lời nọ, tiếng kia, giằng co, chen lấn, rồi mới được xuống đò. Vì
vậy, ông Tú đối từ “đầy” thành “đông”, kết hợp với mấy từ tượng hình, tượng
thanh, tạo nên câu thơ có hình có giọng: “Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Rõ
là chuyến đò chở nhiều người, vừa quá tải, vừa hỗn độn, chòng chành rất
đáng sợ. Đi một mình phải “lặn lội khi quãng vắng”, đến chồ nhiều người thì
“eo sèo đò đông...”. Chỗ nào, lúc nào bà Tú cũng gặp nhiều hiểm nguy và
trăm ngàn cay đắng. Chỉ đảo nhẹ một cấu trúc câu, thay một vài chữ trong
kho tàng tiếng nói dân gian, nhà thơ đất Vị Hoàng đã sáng tạo được một hình
tượng thẩm mĩ tuyệt vời chân thực, giản dị, tự nhiên, thấm đẫm chất dân tộc,
rất gần gũi, sống mãi trong không gian và thời gian. Trần Tế Xương tạc riêng
hình ảnh vợ mình. Khi nhìn ngắm, chúng ta thấy rung rinh, ẩn hiện biết bao
hình hài, dường nét chung của vạn triệu bà mẹ, người chị Việt Nam ngày ấy
cũng như bây giờ. Những bà mẹ, người chị gian nan, vất vả hơn nhiều những
“con cò, con vạc” thuở xưa và cũng bản lĩnh chu đáo, đủ đầy nhân hậu chẳng
kém gì người xưa.
Bước chân hiện thực của lời thơ luôn gắn bó với mạch trữ tình. Tình
cảm của nhân vật, tình cảm của nhà thơ, khởi từ dòng đầu, càng đi càng
thấm thìa. Tấm lòng của bà Tú với chồng, với con mỗi ngày thêm sâu nặng.
Lời thơ ông Tú cũng mỗi lúc càng thêm tha thiết. Ông giới thiệu bà “Nuôi đủ
năm con với một chồng”, ở ngay phần mở đầu, tiếp sau ông nói giùm bà
những nỗi niềm, tâm trạng:
Một duyên, hai nợ âu dành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Tiếng Việt ta có những từ ghép thật hay, biểu hiện thật đẹp đẽ quan hệ
người với người: Yêu mến, nhớ thương, tình nghĩa, duyên nợ, v.v... Từ lời nói
hằng ngày, bà con cất lên thành câu hát: “Một yêu tóc bỏ đuôi gà... hai yêu,
ba yêu. Hỡi ai, trăm mến, ngàn thương...” Học tập cách nói ấy, Tú Xương
sáng tạo chữ “duyên nợ” thành “một duyên, hai nợ”, vừa miêu tả tình nghĩa
vợ chồng, vừa cảm thông với những khổ cực mà chính mình, đức ông chồng
hư đốn đã gieo xuống cuộc đời người vợ đáng thương, đáng trọng. “Duyên”,
bà chỉ được “một”, mà “nợ” bà chịu gấp hai, ba. Vậy mà bà vẫn chấp nhận.
Ba chữ “âu đành phận” có cái gì như chua chát của cuộc đời người phụ nữ,
song cũng có cái gì ngọt dịu, đáng yêu của tình cảm người vợ thảo hiền. Tình
nghĩa bà Tú thực đã lay động ngòi bút, giọng điệu nhà thơ. Ông kể tiếp: “Năm
nắng, mười mưa...” chứ không phải “một nắng, hai sương” trong thành ngữ.
Như thế, khi đã làm vợ, rồi làm mẹ, bà Trần Tế Xương đã vượt lên trên
những tình cảm thông thường để gánh vác thiên chức lớn lao của nữ giới. Đó
là nghĩa vụ, là nhân cách, cũng là quyết tâm, ước nguyện hạnh phúc cao cả.
Tài thơ của ông Tú và tấm lòng người vợ thân yêu đã đồng vọng cái tài và cái
tình của bà chúa thơ nôm xưa: “Chồn bước hay đâu khéo hẹn hò, Duyên chi
hay bởi nợ chi ru”. Thế đấy, vợ chồng thi sĩ Thành Nam yêu nhau bằng chữ
Duyên - tình cảm, rồi sống với nhau bằng chữ nợ - cuộc đời. Duyên một, nợ
hai ba... Tất cả đều vì cái tình, cái nghĩa con người mà gắng sức vượt qua
“năm, mười” mưa nắng, mưa nắng của cuộc đời, mưa nắng của cái tính
ngang ngược, đành hanh mà không ít lần ông Tú đã gây ra, làm khổ bà Tú. Vì
thế, chắc có lần bà đã bẳn gắt:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không!
Vẫn cách nói dân gian, nghĩ sao nói vậy, đến đây không nuột nà ý nhị
nữa, mà có phần thô nháp, xù xì. Song nghe vẫn lọt tai, không làm cho nhau
phật ý. Bởi vì, bước đi trữ tình của nhà thơ đã tới đích. Tình cảm yêu thương,
trân trọng, bao dung đã đến độ chín muồi. Ngôn ngữ thơ chuyển sang dòng
trào lộng, hóm hỉnh, để đùa vui, để chòng ghẹo nhau, nhích lại gần nhau hơn.
“Cha mẹ thói đời...” Nghĩa hiển ngôn là lời bà Tú trách chồng, trách thiên hạ,
nhưng là trách yêu, những tiếng hờn dỗi có duyên thầm. Nghĩa hàm ẩn —
đây mới là nghĩa thực - là tiếng lòng của nhà thơ ăn năn, tự thẹn, xấu hổ vì...
mình đã nhiều lần có lỗi với người vợ yêu. Cả tình thơ, lẫn lời thơ rất dân tộc,
rất Tú Xương, bất ngờ và thú vị. Cụ Trần Thanh Mại kế rằng: “Khi nghe ông
Tú đọc hết hai câu cuối, bà Tú khẽ đưa mắt, nguýt yêu ông, cười tình, tỏ ý
khiêm tốn, không nhận công lao. Trong đôi mắt bà, thoắt sáng lên niềm tự
hào, tự đắc chính đáng. Có lẽ đây là cái giây phút người đàn bà vất vả, cực
nhọc suốt cuộc đời thấy hạnh phúc nhất, sung sướng nhất... Nhà nghiên cứu
văn học kết luận: “Bà Tú không phải chỉ là một người đàn bà. Bà còn là một vị
thiên thần trời sai xuống, không phải để giúp ông Vị Xuyên trên bước đường
danh lợi, mà để cho nước Việt Nam một nhà đại thi hào”.
Nối ý bậc tiền nhân, chúng tôi trộm nghĩ thêm rằng: vẻ đẹp thiên thần
của bà Tú Xương, của những người mẹ, người vợ Việt Nam chúng ta đâu chỉ
do trời mà trước hết là do... người, do cha mẹ, do những bà con chân bùn tay
lấm, lặn lội thân cò tự ngàn đời trên mảnh đất lắm sông nước, nhiều nắng
mưa này, sinh ra và dạy bảo. Còn tài thơ của thi hào Vị Xuyên trước hết ở
tấm lòng nhà thơ với... đời, với người, rồi đến công lao, bà Tú và... sâu rộng
hơn nữa là, nó được khơi mạch từ suốt nguồn trong mát của tiếng nói dân
gian, văn học truyền miệng, những bài ca dao, những câu thành ngữ nôm na,
mộc mạc, ẩn chứa biết bao vàng ngọc ở bên trong.
VŨ DƯƠNG QUỸ
Phân tích bài Thương vợ để cho thấy khả năng biểu đạt ngôn ngữ độc đáo của nhà thơ.
BÀI LÀM
Thương vợ - một trong những bài thơ hay, thể hiện rõ rệt phong cách
thơ Tú Xương.
Ở đây, từ hướng ngôn ngữ học, chúng tôi xin nêu thêm vài suy nghĩ về
khả năng biểu đạt của ngôn từ trong bài thơ nói trên.
1. Trước hết, cần nói ngay rằng chủ đề bài thơ rất rõ ràng, hiện ra ngay
ở tiêu đề bài thơ. Nếu cần nói thêm cho cụ thể, thì đó là: Thương vợ là bài
thơ nói về sự ân cần đằm thắm của nhà thơ đối với người vợ hiền thục, đảm
đang, tần tảo, rất mực yêu chồng, thương con của mình.
Với chủ đề như vậy, theo chúng tôi, nét hóm hỉnh - một nét đặc trưng
của phong cách thơ Tú Xương - e không có ở trong bài thơ này. Ngay bốn
câu cuối là lời bà Tú qua giọng nói của nhà thơ cũng không có nét ấy.
2. Sự lam lũ vất vả và đảm đang tần tảo của bà Tú được thể hiện ngay
trên câu chữ của bài thơ với những hình ảnh rất gần gũi với cuộc sống của
người bình dân mà chúng ta đã gặp nhiều trong ca dao, dân ca, tục ngữ: Lặn
lội thân cò, eo sèo mặt nước buổi đò đồng, Năm nắng mười mưa v.v...
Có lẽ không cần nói gì thêm về khả năng biểu đạt của các thành ngữ
trong những câu thơ này.
Điều chúng tôi thấy cần quan tâm là khả năng biểu đạt to lớn của
những từ ngữ hết sức thông thường, dễ bị bỏ qua. Đó là mom sông và quanh
năm. Những từ ngữ này tạo thành một cặp đối lập - liên kết giữa một không
gian chật hẹp (mom sông) với một thời gian dài, liên tục, không xác định
(quanh năm).
Với một không gian chật hẹp, người mua kẻ bán đông đúc, bà Tú phải
vất vả lắm, tất bật ngược xuôi lắm mới may ra Nuôi đủ năm con với một
chồng. Nỗi vất vả ấy, sự tất bất ấy tăng lên gấp bội khi phải kéo dài quanh
năm, hết ngày lại ngày, hết năm lại năm.
Sự đối lập - liên kết giữa mom sông - Quanh năm liên hội ngũ nghĩa với
Eo sèo mặt nước buổi đò đông và Năm nắng mười mưa càng cho thấy rõ
hơn nỗi vất vả, lam lũ cực nhọc mà bà Tú phải chịu đựng, nếm trải, đồng thời
nói lên sự đảm đang, tháo vát lo toan của bà.
Có hiểu được sâu sắc cái cảnh quanh năm buôn bán ở mom sông của
vợ, có thực sự cảm thông và yêu thương vợ, nhà thơ mới có thể tạo nên
những câu thơ đầy ân tình với những chữ nghĩa bình dị nhưng ẩn chứa ý
nghĩa sâu sắc như vậy.
3. Ngoài nội dung trên, bài thơ Thương vợ còn có một nội dung khác.
Đó là nỗi lòng của tác giả. Nhà thơ cảm thấy mình bất lực, vô tích sự, đã
không đỡ đần được gì cho vợ mà bản thân lại còn trở thành một phần gánh
nặng đối với vợ.
Nội dung này ẩn sau cách thể hiện nội dung thứ nhất và hội tụ lại ở một
từ với.
Cũng như từ và, từ cùng, từ với về từ loại chỉ là từ quan hệ, dùng để
nối các từ, các ngữ với nhau. Khả năng biểu đạt nghĩa của chúng hết sức
thấp. Sắc thái tu từ của chúng càng thấp. Bởi vậy, thơ ca rất kị các từ quan
hệ. Nhưng từ với trong bài thơ Thương vợ có một vị trí đặc biệt, có khả năng
biểu đạt to lớn.
Quả vậy, trong khi và, cùng nối kết các từ ngữ có quan hệ ngang hàng,
đồng đẳng, tạo nên giá trị thiên về liệt kê số lượng, thì với nỗi kết các từ ngữ
có quan hệ không ngang hàng, không đồng đẳng với nhau, nên nó mang
nghĩa cộng thêm vào, gia tăng về lượng. Theo đó, câu thơ”
Nuôi đủ năm con với một chồng
Trong cảm nhận của nhà thơ và của chúng ta là: Nuôi đủ năm con đối
với bà Tú đã là một gánh nặng rồi và bây giờ lại thêm một chồng, thì cái gánh
nặng biết bao nhiêu, và chắc chắn đôi vai gầy của bà Tú phải vất vả, cực
nhọc nhiều lắm mới kham nổi.
Thế là, chỉ bằng một từ với, nhà thơ cũng đồng thời nói rõ hơn, cụ thể
hơn những vất vả, lo toan của bà Tú với gia đình, chồng con, và bộc lộ nỗi
chua chát, bất lực của mình khi phải để cho vợ một mình gánh vác việc nhà,
lo toan mọi bề. Qua đó, nhà thơ cảm thấy mình có lỗi với gia đình, trước hết
với bà Tú. Âu chi, đó cũng là một cách nhà thơ ngầm “thú lỗi” với người vợ
nhân hậu của mình.
Có đặt tình cảm và thái độ ấy vào hoàn cảnh lịch sử xã hội của nhà thơ
- cái xã hội mà người phụ nữ, người vợ bị coi thường, bị chi phối bởi đạo lí
tam tòng tứ đức, bởi lề giáo phong kiến nặng nề - mới thấy hết sự ân tình,
đằm thắm của nhà thơ đối với vợ, mới thấy được sự hàm ơn của nhà thơ đối
với bà Tú - một điều hiếm thấy trong thơ ca cổ.
Khả năng biểu đạt của ngôn từ trong bài thơ Thương vợ là ở đấy. Giá
trị của bài thơ cũng ở đấy.
B. LUYỆN TẬP
1. Nhận xét về Tú Xương, Nguyễn Tuân viết: “Tú Xương đã băng được
minh thơ tới chúng ta bằng nước bước lãng mạn trữ tình”
Hãy làm rõ ý trên qua phân tích bài “Thương vợ”.
2. Phân tích hình tượng bà Tú trong bài Thương vợ của Tú Xương.
3. Phân tích hình tượng ông Tú trong bài thơ Thương vợ của Tú
Xương.
4. Bên cạnh một Tú Xương quyết liệt, dữ dội trong châm biếm, trào
phúng, còn có một Tú Xương da diết và đằm thắm trong trữ tình. Bài “Thương
vợ” là bài tiêu biểu cho khuynh hướng thứ hai. Anh (chị) hãy phân tích tác
phẩm để làm sáng tỏ điều đó.
MỒNG HAI TẾT VIẾNG CÔ KÍ
TÚ XƯƠNG
A. BÀI VĂN
Phân tích bài thơ “Mồng hai Tết viếng cô Kí” của Tú Xương.
BÀI LÀM
Là một nhân chứng của lịch sử Việt Nam trong giai đoạn đất nước
chuyển từ xã hội phong kiến sang xã hội thực dân nửa phong kiến. Trần Tế
Xương chấp nhận cảnh “Chạy ăn từng cảnh toát mồ hôi”, dù ông có đậm dọa
“Chẳng sang Tàu, tớ cũng sang Tây”, nhưng cho đến khi nhắm mắt ông vẫn
chỉ sống thanh bạch, nhờ một tay người vợ xoay xở.
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng”
Chính vì thế Tú Xương càng bật ra tiếng thơ hài hước đến mức cay độc
khi phải chứng kiến những cảnh chướng tai gai mắt trong xã hội, mà “cố Kí” là
một đối tượng có sức gợi cảm nên thơ.
Có lẽ khi cô Kí còn sống, Tú Xương đã ngán ngẩm lắm rồi khi nghĩ đến
nhân tình thế thái. Nhưng vì sau khi cô Kí chết, ông mới có thơ về cô. Và
chăng khi người nằm xuống, chấm dứt một cuộc đời, nhưng lại để lại một câu
chuyện hay hay? Có thể đem ra trình làng!
Cho nên tác giả làm như ngạc nhiên mà thật ra là để mở đầu câu
chuyện một cách ngộ nghĩnh:
“Cô Kí sao mà đã chết ngay,
Ô hay! Giời chẳng nể ông Tây...”
Như vậy, ở hai câu đầu, ta đã thấy lộ ra ba nhân vật: “Cô Kí- ông Tây”
và bóng dáng mờ nhạt của thầy Kí, đằng sau tên “cô Kí”. Những từ rất Nôm
— thường thấy trong bút pháp thơ Đường luật của Tú Xương:
“Ô hay... mà sao...”
Thoáng nghe, ta thấy Tú Xương là một người hàng xóm thật dồi dào
tình làng nghĩa “hàng phố”. Ông tiếc thương cô Ký với tất cả tấm lòng và oán
trách ông trời: sao chẳng “nể ông Tây”.
Như vậy, người đã chết nhưng “chưa hết chuyện”. Đọc qua lời thơ, ta
nghe như tác giả kêu lên, có thể “diễn Nôm” hai câu thơ này như sau:
“Ôi, cô Kí ơi! Sao cô đi đâu? Vội vã thế?”
Sao cô không sống nữa với thầy Kí và ông Tây? Sao cô “đi sớrn thế?”.
Và khi đọc lại... càng đọc... ta càng thấy những lời gay gắt, nêu hiểu cái
nghĩa sâu kín của lời thơ:
“Sao cô Kí lại lìa đời thanh thản dễ dàng thế?”
Cô làm nên bao nhiêu chuyện, sao không ở lại mà thụ hưởng hậu
quả...?
Với cách hiểu đó ta thấy tác giả mở đầu câu chuyện về cái chết của cô
Kí bằng sự trách cứ bâng quơ, nếu không muốn nói là ỡm ờ:
“Ô hay! Giời chẳng nể ông Tây?”
Nhịp thơ 2/5 phá cách để diễn tả một lời than thật Việt Nam để gởi gắm
với ẩn ý rằng:
“Đáng đời ông lắm! Ông có là ông Tây, là viên Cẩm thì giời củng không
tha cô gái - già nhân ngãi, non vợ chồng này!”
Thật là một giọng thơ tài tình “ý tại ngôn ngoại”.
Chua chát hơn, tác giả dùng lời nói ngược để mỉa mai cô Kí trong từ
“gái tơ” - một từ để chỉ cô gái ngây thơ trong trắng- Đã thế, gái tơ mà lại “đi
lấy làm hai họ”. Câu thơ tuy lắt léo nhưng không đến nỗi khó hiểu.
Nghĩa là cô Kí làm vợ bé của thầy Kí - thế đã là một chuyện để tác giả
kết án: “đua nhau lấy các thầy”. Ớ đây cô Kí lại làm vợ - làm dâu hai họ: “họ
nhà thầy Kí, họ ông Tây”. Nghệ thuật bình đối được sử dụng thật đắt:
“Gái tơ đi lấy làm hai họ
Năm mới vừa sang được một ngày...”
Năm mới ư? Năm mới có điều gì trong thơ Tú Xương ở lúc này ngoài
việc “Gái tơ đi lấy làm hai họ”? Một sự đối lập - một thứ “quái thai” của xã hội
đương thời! Cái năm mới này nghe ra còn cay đắng hơn, ngán ngẩm hơn cả
cái năm mới mà nhà thơ Vị Xuyên ngồi mà nghe về thiên hạ:
“Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau”
Bằng giọng thơ tài tình của tác giả, người nông cạn có thể hiểu rằng
nhà thơ đang nức nở:
“Cô Kí ơi, đang mùa xuân rộn rã, hưởng xuân mới được một ngày...
sao cô đã ra đi”
Và tiếp theo nỗi tiếc của tác giả là cái “sự thương” của ông chồng và
“nước mắt” của hàng phố:
“Hàng phố khóc bằng câu đối đỏ
Ông chồng thương đến cái xe tay”
Ồ! Hóa ra... Cô Kí nằm xuống hàng phố khó bằng những câu đối đỏ
chói, rực rỡ để đón chào xuân? Và ông chồng... chồng cô thương cô ư?
Không! Không phải thương cô... mà.
“Thương đến cái xe tay”.
Như vậy là khi “người bạn trăm năm” của ông ta nằm xuống, ông chỉ
còn nỗi niềm thương oán là: cửa hàng bán xe tây của ông từ nay chẳng còn
ai đi lại giao thiệp với ông Cẩm nữa. Ông mở cửa hiệu xe tay, làm cai cu li xa,
do ông Cẩm kiểm soát, đánh thuế và điều hành loại xe này.
Không rõ tên cúng cơm của cô Kí là gì. Hàng phố gọi là cô Kí, kể ra gọi
như vậy tiện đủ mọi đường... Cô Kí lấy ông Kí vì cửa hiệu xe tay. Chiếc xe tay
là hình ảnh của một thời kì kinh tế Việt Nam chuyển mình từ xã hội phong
kiến quá ư lạc hậu qua xã hội nửa phong kiến, nửa thực dân. Cái xã hội “mới”
này cần phương tiện đi lại cách tân hơn là “bỏ người trong võng” khiêng đi.
Nó cần cho nhiều “thầy”, nhiều “cậu ấm, cô chiêu”... từ nay, cô Kí vĩnh viễn ra
đi, làm sao cửa hàng phát đạt, hưng thịnh, để ông thu hốt “trăm nghìn vạn
mớ”, để “cho gà ăn bạc” nữa?
Trong cặp luận với hai vế bình đối rất chỉnh này, đập vào mắt ta tai ta
hai tiếng “khóc, thương” nhưng trớ trêu thay, người “khóc” cô lại bằng một
tâm trạng rộn ràng đón xuân, với câu đối rực rỡ!
Còn ông chồng... Xưa nay, người ta dùng bao nhiêu từ hoa mỹ để nói
đến tình nghĩa tào khang - nào là “hương lửa ba sinh” - nào là “trăm năm tạc
một chữ đồng đến xương” (Nguyễn Du) nhưng... khi cô Kí nằm xuống, ông
chỉ “thương đến cái xe tay”.
Vì cô Kí mất rồi, cửa hiệu lấy đâu ra những đặc ân hậu hỉ của ông Tây?
Chính lúc này, không phải là lúc ông thương - mà là lo - “thương” ở đây là lo.
Vì lúc này đây, ông biết trước cái vầng hào quang “bảo hộ” sẽ tắt, và những
cái xe tay của ông rồi sẽ ế ẩm bởi bị chèn ép.
Qua hai cặp thực và luận, tác giả đã vận dụng nghệ thuật đối để phơi
bày một câu chuyện trái tai gai mắt xoay quanh ba nhân vật sống thức bây
giờ. Tất cả đều éo le, ngược ngạo... câu chuyện được khép lại với những chi
tiết đối lập khá hay ho: Một cô Kí có hai chồng, một tin buồn giữa ngày vui,
hàng xóm “khóc” trong tâm trạng rộn ràng đón xuân, người “thương” lại không
ngừng cho người chết - mà thương cho những cái xe tay... vô tri vô giác... (vô
tri vô giác nhưng nó là tiền).
Nghệ thuật đối trong thơ đã nhấn mạnh những éo le, những cảnh
ngược đời, có thật xuất hiện nhan nhản trước mắt tác giả - khi đồng bạc trắng
trùm lên, thay đổi mọi cương thường đạo lí.
Cố Kí lấy thầy Kí - vì tiền. Thầy Kí để cô Kí đi với ông Tây cũng vì tiền.
Vì tiền, chồng không cần vợ chung thủy, vợ chẳng cần giữ đoan chính...!
Nếu ở hai phần thực - luận, lời phê phán mỉa mai cay đắng còn ẩn hiện
trong các các hình ảnh đối lập thì ở hai câu kết, tác giả như một lời kêu to
kèm theo cái chép miệng, cái lắc đầu của ông Tú Vị Xuyên:
“Gớm ghê cho những cô con gái
Mà vẫn đua nhau lấy các thầy...”
Không, nếu gọi hai câu kết là một lời than cũng chưa đúng hẳn, nó chỉ
mới là một nửa, là một lời nói chưa hết ý - vì đọc đến đây, ta sẽ tự hỏi: Tác
giả trách ai đây? Phê phán, kết tội ai đây? Các “cô con gái” gớm ghê hay các
thầy đáng gớm ghê, nên họ đua nhau - đồng nghĩa với chen lấn xô đẩy nhau
vào cảnh “đua nhau lấy các thầy” thật là một lời mỉa mai, ngán ngẩm, những
cũng có vị đắng trên môi.
Ôi, nếu trước kia Hồ Xuân Hương rất sợ cái cảnh:
“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”.
Đến mức phải chém cha cái số, cái kiếp ấy, thì lúc này các cô không
còn sợ gì hết do đồng tiền vừa có sức mạnh “vạn năng” vừa có sức quyến rũ
ghê gớm! Âu cũng là một bước trượt dài về đạo lí sống của xã hội đương thời
mà Tú Xương vừa phê phán lại vừa chua xót ngậm ngùi.
Kết thúc bài thơ, ta thấy Tú Xương không chỉ luôn luôn là một người
trào phúng sâu cay, nhưng bên cạnh cái sâu cay ấy cũng còn một chút xót xa,
một lời khuyên nhủ nhiều thiện ý.
Đối tượng mà ông tấn công cũng không nương tay, vạch trần sự bạc
bẽo mà không nhượng bộ là “thầy Kí”. Trước cái chết của vợ, hắn còn lộ rõ
sự bất nghĩa, hám tiền. Đối với ông Tây thì sao? Tác giả nhắc đến ông Tây
một lần duy nhất trong câu hai: “Ô hay! Giời chẳng nể ông Tây” như muốn nói
với dân An Nam cũng còn có người nể ông, sợ ông, nhưng trời “thì chẳng nể
ông đâu”. Tóm lại, bài thơ mang một chủ đề rất bình thường; phúng điếu một
người hàng xóm - thế mà, trong bài thơ ấy, ta thấy rõ thái độ tố cáo phê phán
của tác giả với ba hạng người trong xã hội bấy giờ. Một ông Tây làm cò mít
xe, chuyên đánh thuế, trông coi xe tay (một thứ xe kéo), một ông Kí lục cai xe,
và một “cô Kí” kiêm me Tây... và ba nhân vật ấy xoay quanh nhau một chiếc
xe tay... Tức xoay quanh những đồng tiền. Nụ cười của Tú Xương trước một
đám ma đã trầm ngâm sâu lắng hơn là nụ cười ồn ào:
“Ôi khí ơi là khí”
Nhưng vẫn là nụ cười đả kích, không khoan nhượng những gì “chướng
tai gai mắt”.
HẠ LAN
B. LUYỆN TẬP
1. Qua bài thơ “Mồng hai Tết viếng cô Kí”, ta không chỉ thấy được quan
hệ tay ba biểu hiện cho đạo đức gia đình Việt Nam truyền thống bị băng hoại
mà còn thấy các quan hệ xã hội được kết dính bởi đồng tiền”.
Hãy phân tích bài thơ để làm rõ ý kiến trên.
2. Tiếng cười mỉa mai mà thể tất nhân tình của Tú Xương qua bài thơ
“Mồnq hai Tết viếng cô Kí”.
HƯƠNG SƠN PHONG CẢNH CA
CHU MẠNH TRINH
A. BÀI VĂN
Phân tích bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca” của Chu Mạnh Trinh.
BÀI LÀM
1. Có lẽ danh lam thắng cảnh nào cũng sẵn sàng ban tặng cho con
người muôn vàn tứ thơ. Nhưng không phải danh thắng nào cũng được đền
bù xứng đáng. Có biết bao cảnh trí thần tiên chẳng cần đợi thơ ca tôn vinh -
tự nó đã làm một bài thơ tuyệt mĩ. Ở những trường hợp như thế phải chăng
thơ ca đã trở nên bất lực? Nhưng cũng có những thắng cảnh vốn đã mĩ lệ, lại
đưọc soi mình vào thơ thì càng quyến rũ bội phần. Khi ấy, cảnh thì dâng hiến
cho thơ hào phóng, còn thơ dường như cũng trả xong món nợ của mình.
Trường hợp phong cảnh Hương Tích với Chu Mạnh Trinh chẳng phải là như
thế sao? Hương Sơn được tôn vào hàng “Nam thiên đệ nhất động”. Còn
Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh cũng đáng là một áng thơ
long lanh như gấm dệt. Có thể gọi là “Hương Sơn đệ nhất thi” được chứ sao!
Thơ ca và thắng cảnh đâu phải lúc nào cũng được đẹp duyên như thế!
2. Phải nói ngay rằng âm nhạc đã góp phần tạo nên vẻ đẹp quyến rũ
của bài thơ này. Bình thường, bài thơ chân chính nào cũng có một nền nhạc
riêng của nó, cho dù nó được viết lối tự do hay theo cách luật. Nhưng khi một
thi sĩ lại chủ động viết theo thể hát nói, thì rõ ràng nhạc điệu (gồm cả của âm
nhạc lẫn của ngôn ngữ) càng muốn giành lấy địa vị tiên phong. Có thể thấy
khá rõ lời thơ chập chờn, chấp chới bay trong nhịp điệu, còn nhạc điệu như
đang dìu từng lời thơ bay lượn trong cái thế giới trong lành, thanh tịnh của
chốn Hương Sơn. Tất cả cứ lâng lâng chơi vơi, cứ khoan hòa dìu dặt như cái
nhịp chèo, nhịp bước của du khách ngày càng nhập sâu vào lòng cảnh trí
thanh vắng, mơ màng, vừa trần gian, vừa thoát tục. Nếu như đang nghe lời
thơ đưọc hát ngâm theo thể thức ca trù, với lối ngân rung, buông bắt, với
tiếng đàn, tiếng phách, tiếng trống điểm nhịp rất riêng thì tất cả giọng ngất
ngây, khoan khoái của một tâm hồn đang ân thưởng cái “Thú Hương Sơn ao
ước bấy lâu nay” càng có dịp tràn ra đầy đủ. Vâng, chọn hát nói để phô bày
những cảm xúc Hương Sơn của mình, dường như hồn thơ của Chu Mạnh
Trinh đã gửi mình đúng chỗ. Vậy là thơ và nhạc đã được Hương Tích xe
duyên nên thi phẩm này. Chẳng phải đây cũng là một nét duyên của Hương
Sơn phong cảnh ca đó ư?
3. Nếu người nghệ sĩ cảm nhận danh thắng Hương Sơn cũng như
Bồng Lai hay Thiên Thai, Từ Thức..., thì xem như chưa bắt được cái “thần”
của chốn này. Những nơi kia là cảnh tiên, là chốn mộng mơ tình tứ, hứa hẹn
những mối phong tình lãng mạn. Còn Hương Sơn khác! Hương Sơn là cảnh
bụt, là nơi du khách tìm đến vãn cảnh nhưng cũng để hành hương. Con
người đến đây để thưởng ngoạn một danh lam, nhưng cũng là một dịp dọn
lòng khỏi những tục lụy để mà thanh lọc tâm hồn, thanh thản tâm linh. Vì thế,
thắng cảnh Hương Sơn thơ mộng mà linh thiêng, quyến rũ mà thanh tịnh, mĩ
lệ nhưng bàn bạc vị thiền. Thi nhân có nhận ra điều đó, mới là thấm cảnh
Hương Sơn. Hồn thơ phải dồi dào sự đắm say nhưng cũng không thể thiếu
thành kính. Có như thế mới đồng điệu được với Hương Sơn. Và may thay,
Hương Sơn phong cảnh ca của Trúc Vân Chu Mạnh Trinh đã thu được vào
từng lời thơ cái hồn riêng của cảnh.
4. Bài thơ mở đầu bằng một câu thơ ngắn với bốn tiếng:
Bầu trời cảnh bụt
Toàn bài đều viết bằng những câu dài với 7 hoặc 8 tiếng. Duy có câu
mở đầu này là ngắn đặc biệt. Cái hình thức kia đâu phải ngẫu nhiên. Câu thơ
vẽ không gian, nhưng vang lên như một vỡ lẽ kì thú của chốn non nước này:
Đây là thế giới của cảnh bụt. Câu thơ bốn tiếng khác nào như mở ra một cổng
trời, một miền non nước, một thế giới, mà ở trên trán vòm cổng ấy khắc bốn
chữ giới thiệu với du khách về cái xứ sở sắp bước vào kia là thuộc về cảnh
bụt. Nó không phải là đất Phật như Tây Trúc, nhưng cảnh sắc ở đều thuộc về
bụt, đều ngấm vị thiền!
Và bốn tiếng ấy dường như cũng xác định chủ âm của bài thơ. Bắt đầu
từ đây ngòi bút của Chu Mạnh Trinh sẽ chuyển động theo cảm hứng ấy: Vừa
làm sống dậy những nét thanh tú của danh lam, vừa đem lại vị thiền cho
thắng cảnh. Toàn bộ bài thơ được kết cấu theo các lớp cảnh cứ dần dần mở
ra cùng với bước chân của du khách, thì ở lớp cảnh nào thi hứng của Chu
Mạnh Trinh cũng được khơi từ hai nguồn ấy. Đây là cái nhìn lướt bao quát:
Kia non non, nước nước, mây mây,
Cảnh non nước đã được điệp trùng, luyến láy theo cái lối đặc trưng của
ca trù, khiến cho cảnh non nước, mây trời vừa có được vẻ quấn quýt lại vừa
trải dài như vô tận. Giọng điệu thơ có cái vẻ náo nức, ngất ngay của người
được thỏa lòng ao ước, lại cũng nghiêm trang chứ không hẳn là đong đưa
tình tứ. Câu chữ như thế thật tài hoa và cũng thật tự nhiên!
Phần lớn những nơi được xem là danh thắng đều là chốn sơn thủy hữu
tình, có núi non, có rừng suối, với những chim bay, cá lượn. Hương Sơn cũng
thế! Những Hương Sơn là cảnh bụt, cho nên:
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lửng lơ khe Yến cá nghe kinh.
Thoáng bên tai một tiếng chày kình,
Khánh tang hải giật mình trong giấc mộng.
Chim ở đây dường như cũng quên mình là chim, cá ở đây đã quên
mình là cá. Tự bao giờ chúng đã thành những tín đồ. Có phải bầu không khí
bao trùm lên Hương Sơn là không khí thiền — vị thiền tan vào rừng mơ, vị
thiền đã hòa vào suối Yến mà chim ca ở đây nhiễm vào mình Phật tính? Hay
sống trong cảnh bụt, ngay đến chim, cá cũng thanh lọc, cũng được khơi dậy
cái cốt - cách - bụt kia chăng? Du khách từ cái thế giới đầy biến động vào đây
dường như cũng bừng ngộ, Nghĩa là cũng nhập vào là một với cảnh Bụt chốn
này. Tiếng chim “thỏ thẻ”, dáng cá “lửng lơ” và giờ đây là “tiếng chày kình”...
Những âm thanh, dáng điệu ấy tạo nên cái bầu không khí rất Hương Sơn.
Chim cúng trái, cá nghe kinh, con người đi vào cảnh thảng thốt với tiếng chày
kình... Tất cả đều cởi bỏ hệ lụy trần gian, đang hòa nhập vào không khí linh
thiêng. Tại khoảnh khắc ấy cả chim, cả cá, cả người đều dường như đang
thoát tục. Làm sao Chu Mạnh Trinh viết được như thế? Cái sinh khí Hương
Sơn vô hình là thế, vậy mà thi nhân đã thấy nó hiện hình trong tất cả, hòa
nhập vào tất cả, hòa tan trong tất cả! Có lẽ chỉ với những hình ảnh như thế
thôi, cái thần thái của Hương Sơn đã nhập vào thơ rồi!
5. Thế rồi, thi sĩ cứ say sưa thưởng ngoạn cảnh Hương Sơn như một
tạo tác nguy nga, mĩ lệ của tạo hóa bày ra sống động dưới trời Nam bằng lối
kể điểm danh những địa danh nổi tiếng của Hương Sơn:
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh
Những từ “này” để trỏ liên tiếp gợi sự phong phú, gợi thế liên hoàn, lại
gợi được cả cái cảm xúc được ân hưởng thỏa thuê. Cảnh sắc cũng thật giàu
có, đủ cả suối, chùa, am, động... tất cả như bày đặt ra theo bước du khách.
Chu Mạnh Trinh lại kết hợp cả lối tạo hình với những nét vừa mĩ lệ vừa hư
huyền, với những màu vừa lộng lẫy vừa cách điệu, với những mảng vừa trầm
tĩnh vừa biến ảo. Trong dăm ba câu mà ta thấy được con mắt tạo hình của thi
sĩ lúc ngây ngất ngước lên, khi mải mê nhìn xuống, vừa nắm bắt cái bóng
nguyệt lồng trong thăm thẳm tầng hang, đã đuổi theo những thang mây lượn
cùng vách núi:
Nhác trông lên ai khéo vẽ hình,
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,
Gập gềnh mấy lối uốn thang mây.
Với những câu thơ này, du khách dường như đã đặt những bước chân
cuối cùng vào chốn Hương Sơn.
Tuy nhiên, thú Hương Sơn chưa phải đã hết.
Nếu như tiếng chày kình động tiếng chuông Hương Sơn mới đánh thức
người khách tang hải trong cái giấc mộng lớn của cuộc đời, thì đến đây cuộc
hành hương mới kết thúc. Ấy là cái khoảnh khắc thi nhân quên mình là thi sĩ
để làm sống trong giây phút cái nỗi niềm Phật tử:
Lần tràng hạt niệm nam mô Phật,
Cửa từ bi công đức, biết là bao!
Kẻ vãn cảnh đã cởi bỏ lốt tục lấm bụi trần ai để tâm hồn chan hòa với
chốn này. Vẻ đẹp của thắng cảnh, vị thiền của danh lam đã hòa nhập kẻ vãn
cảnh với người hành hương trong cái trạng thái tâm linh thanh cao và yên tịnh
ấy. Sức quyến rũ cuối cùng của Hương Sơn dường như ở đấy!
B. LUYỆN TẬP
1. Phân tích giá trị nội dung và đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ
“Hương Sơn phong cảnh ca” của Chu Mạnh Trinh.
2. Phân tích suy nghĩ của nhà thơ ở năm dòng thơ cuối:
“Chừng giang sơn còn đợi ai đây
(…)
Càng trông phong cảnh càng yêu”
3. Ở một bài khác về Hương Sơn, Chu Mạnh Trinh viết:
“Lạ thay vừa bén mùi thiền
Mà trăm não với ngàn phiền sạch không”
Hãy phân tích “Hương Sơn phong cảnh ca” để cho thấy cảnh ở đây làm
cho con người trở nên thanh khiết, trong sáng hơn.
4. “Cảnh đẹp Hương Sơn trong Hương Sơn phong cảnh ca Chu Mạnh
Trinh chủ yếu là kể chứ ít tả, nó có phần hư ảo nhưng chủ yếu vẫn là cảnh
thiên nhiên tươi đẹp”.
Anh (chị) hãy phân tích bài thơ để làm rõ ý kiến trên.
PHAN BỘI CHÂU
A. BÀI VĂN
Về thơ văn Phan Bội Châu, có ý kiến nhận định: “Ở Phan Bội Châu, người chiến sĩ và nhà văn là một”. Hãy giải thích và chứng minh ý kiến trên.
BÀI LÀM
“Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân
Việt Nam, trước Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân vật vĩ đại”
(Tôn Quang Phiệt). Sự nghiệp giải phóng dân tộc cứu nước, cứu dân, là lí
tưởng cao cả nhất, khát vọng mãnh liệt nhất mà vì nó, ông đã lao tâm khổ tứ,
tận tụy hi sinh cả cuộc đời. Mọi hoạt động của đời ông đều hướng vào mục
đích đó. Văn chương cũng là một vũ khí được ông sử dụng để phục vụ cho
cách mạng, nhưng thứ văn chương tuyên truyền chính trị của ông lại là thứ
văn chương đầy tính nghệ thuật, thứ văn chương đích thực rung động lòng
người. Trong sáng tác, người chiến sĩ nơi ông có đầy đủ phẩm chất của
ngưòi nghệ sĩ. Nhận định về văn thơ Phan Bội Châu, có ý kiến cho rằng: “Ở
Phan Bội Châu, người chiến sĩ và nhà văn là một”.
Câu nói trên tuy ngắn gọn nhưng bao hàm một ý nghĩa khái quát, chứa
đựng hai phạm trù “chiến sĩ”, “nhà văn” và quan hệ giữa chúng.
Trước nhất, khái niệm chiến sĩ, với Phan Bội Châu, không chỉ có nghĩa
là người làm cách mạng, người chiến đấu trong mặt trận chính trị, mà còn
mang một ý nghĩa rộng hơn, bao trùm hơn. Đó là cái chất chiến sĩ, cái “chất
thép”, cái tinh thần kiên quyết, cái tâm cao cả của một con người suốt đời
tranh đấu cho lí tưởng cao đẹp vì dân, vì nước. Cái tâm ấy chính là mảnh đất
màu mỡ tốt tươi làm nảy sinh và nuôi dưỡng những áng thơ văn “lôi đình”, đó
cũng là linh hồn của các tác phẩm của người chiến sĩ - nhà văn.
Thế còn phẩm chất nhà văn? Đó là cái tâm hồn giàu trí tưởng tượng,
dồi dào cảm xúc và cái cảm xúc ấy đã biến thành cảm hứng sáng tạo, đã
thăng hoa thành hình tượng nghệ thuật.
Quan hệ giữa chiến sĩ và nhà văn là quan hệ giữa thép và tình, giữa
tâm và tài (tài sáng tạo nghệ thuật), giữa nội dung tư tưởng và nghệ thuật
biểu hiện. Quan hệ đó không dễ thống nhất là một, không phải lúc nào cũng là
một. Có nhà văn không phải là chiến sĩ và ngược lại. Có khi người chiến sĩ
tung ra rất nhiều mà nhà văn không kịp hứng. Và ngược lại, có trường hợp
nhà văn chưa rung động đúng tầm những tư tưởng, tình cảm của người chiến
sĩ.
Phan Bội Châu sinh ra không phải là nhà văn. Bình sinh ông rất thích
câu thơ của Viên Mai “Lập thân tối hạ thị văn chương” (Lập thân thấp nhất ấy
văn chương); ông vào đời để làm chiến sĩ “Tôi được trời phú cho bầu máu
nóng cũng không đến nỗi ít. Lúc còn bé đọc sách của cha tôi, đến chỗ nói
người xưa chết để thành đạo nhân, nước mắt tôi lại đầm đìa nhỏ xuống ướt
đẫm cả mặt giấy”, “Than ôi, trời long đất lở, lúc này là lúc nào đây! Làm thân
nam nhi đội trời đạp đất, trước cảnh non sông như thế, ai mà trơ như gỗ đá
cho đành?”. Những dòng chữ ấy viết về chí, về tâm của người “chiến sĩ” trẻ
Phan Văn San (Phan Bội Châu) là những dòng văn chương Ngục trung thư
của “nhà văn” Phan Bội Châu.
Phan Bội Châu cầm bút không phải ngâm vịnh, cũng không nhằm mục
đích “làm văn”, ông dùng văn chương như thứ vũ khí để đấu tranh cách
mạng. Thơ văn Phan Bội Châu chủ yếu là thơ văn tuyên truyền cổ động, song
một phần không nhỏ thơ văn ấy đã đạt được giá trị của những công trình
nghệ thuật. Đọc tác phẩm của Phan Bội Châu, ta thực sự cảm nhận được ở
đó một tâm hồn, một ý chí và một nhân cách cao đẹp, một nghệ sĩ nhạy cảm
trước mọi âm thanh, tiếng động của cuộc đời, một tài năng nghệ thuật bậc
thầy.
Văn tức là người. Lí tưởng cứu dân cứu nước, chủ nghĩa dân chủ và
nhân đạo mà Phan Bội Châu thấm nhuần cũng là lí tưởng văn thơ chân chính
của mọi thời đại. Con người chiến sĩ Phan Sào Nam với cuộc đời cách mạng
đầy thử thách và những cống hiến đẹp đẽ là đảm bảo đầu tiên cho thơ văn
của ông. Như Biêlinxki đã từng nói: “Nhà thơ, ngay cả các nhà thơ vĩ đại nhất
cũng phải đồng thời là những nhà tư tưởng”.
Thơ tức là tấm lòng. Thơ là sự sống. Cái tâm hồn của Phan đã thăng
hoa thành nghệ thuật. Raxun Gamzatốp trong Đaghextan của tôi đã nói:
“Giống như ngọn lửa bốc lên từ những cành khô, tài năng bắt nguồn từ tình
cảm mạnh mẽ của con người”. “Thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ
cười trong sáng hay từ những giọt nước mắt đắng cay”. Trên suốt chặng
đường cách mạng trường kì gian khổ, Phan Bội Châu đã viết với mục đích
tuyên truyền và cổ động cách mạng nhưng những tác phẩm của ông được
viết ra bằng trái tim nồng nhiệt chân thành nên tự nó đã giàu chất văn học và
sức cảm hóa sâu xa.
Văn học có chức năng giáo dục. Khi dân tộc Việt Nam đang mất quyền
tự do thì “Văn học là diễn đàn duy nhất mà ở đó, dân tộc ấy có thể nói lên tất
cả lòng căm phẫn và lương tri của mình” (Gherxen). Phan Bội Châu dùng văn
chương làm vũ khí sắc bén để chiến đấu và xây dựng căn cứ chắc chắn trong
lòng dân. Nhiệm vụ của người chiến sĩ lúc ấy là thức tỉnh đồng bào, nung
nóng lòng yêu nước, nuôi dưỡng chí phục thù mở mang dân trí, nâng cao dân
trí, chống mọi sự trì trệ về tư tưởng, về hành động.
Thứ văn chương tuyên truyền cách mạng ấy xuất phát từ trái tim đầy
nhiệt huyết lại được biểu hiện từ một tài năng nghệ thuật bẩm sinh. Phan Bội
Châu là người có năng khiếu văn chương từ bé, lại được nuôi dưỡng trong
một gia đình giàu truyền thống chữ nghĩa, lớn lên trên mảnh đất xứ Nghệ nên
nhà thơ và trữ tình. Ông được trang bị một vốn văn hóa thông tuệ, thêm nữa
cuộc đời cách mạng đầy bôn ba thử thách là vốn sống và nguồn cảm hứng
không vơi cạn. Tất cả chung đúc kết tinh nên một Phan Bội Châu chiến sĩ -
nghệ sĩ.
Ở Phan Bội Châu, chiến sĩ và nghệ sĩ, chất “thép” và chất tình, cái tâm
và cái tài hoa quyện là một. Phan Bội Châu viết theo mệnh lệnh của trái tim
nhưng trái tim ấy hoàn toàn thuộc về cách mạng.
Văn chương Phan Bội Châu là một bộ phận khắng khít trong toàn bộ
công tác cách mạng của ông.
“Mõ chuông là cái lưỡi đây
Lôi đình trên ngọn bút này nổi lên”
Nói như Trần Văn Giầu: “Lôi đình trên ngọn bút, đó là phong khí, là
thực chất thơ văn Phan Bội Châu. Thơ văn phục vụ chính trị một cách trực
tiếp, nhưng không phải như vậy mà nghèo nàn chỉ biết khua chuông và nghị
luận. Trái lại, ngoài nội dung tư tưởng cao quý, thơ văn Phan Bội Châu nhiều
khi lai láng tình cảm, bay bổng tưởng tượng, bao giờ cũng hùng biện và lâm li
dễ thấm sâu vào lí trí và cõi lòng”.
Lí tưởng chính trị mà Phan Bội Châu phô diễn vẫn thường mang hình
thức của một cái “tôi” trữ tình. Đọc Phan Bội Châu người đọc tưởng như
được tiếp xúc trọn vẹn với hình ảnh bản thân tác giả, một con người với chiều
sâu thăm thẳm của một tâm hồn lớn, với những đau khổ lớn và nghị lực phi
thường:
“Một đỉnh núi cao với một tôi
Hỏi non non đứng đã bao hồi
Nổi chìm kim cổ xem mây lượn,
Ấm lạnh xuân thu sẵn đá bồi
Hồn nước thề mình son một tấm
Tuồng đời thay kẻ bạc đôi ngươi
Ngại ngùng gió Bắc kinh đoàn nhạn
Có nhớ Nam chăng nhạn nhạn ôi!”
Yêu nước - chất chiến sĩ - nhưng rất đỗi bâng khuâng rạo rực ngọt
ngào - chất thi sĩ:
“Hào đại hải âm thầm trước mặt
Dải Cửu Long quanh quất miền Tây
Một tòa san sát xinh thay
Bên kia Vân Quảng, bên này Côn Lôn”
Yêu nước - cái tâm - kết hợp với nghệ thuật - cái tài - làm nên những
câu thơ mà đọc lên ta thấy lòng đau nhớ nước phảng phất như nghe tiếng
Văn chiêu hồn của Nguyễn Du:
“Nhác trông phong canh Thần Châu
Gió mây phẳng lặng, dạ sầu ngẩn ngơ
Hồn cố quốc vẩn vơ vơ vẩn
Khôn tìm đường dò nhắn hỏi han
Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn
Khói tuôn khí uất, sóng cồn trận đau”
(Hải ngoại huyết thư)
“Trong văn chương Phan Bội Châu có cả một pho tình cảm vĩ đại,
không có một tí mập mờ nào giữa ghét và yêu”.
(Đặng Thai Mai)
Ông ghét cay ghét đắng, căm thù tột độ kẻ thù xâm lược:
"Ví như giống hồ trùng cổ hoặc
Khiến cho người mặt quắt thịt rơi...
Nó nuôi mình như trâu như chó
Nó coi mình như cỏ như rơm...”
(Hải ngoại huuyết thư)
Ông thương yêu rất mực những con người bị chà đạp, khổ đau:
“Than ôi! Giấc trần mộng nghìn thu một phút, nỗi thương tâm luồng gió
thối luồng sầu
Kiếp thương sinh bảy nổi ba chìm tình đồng chủng giọt mưa tuôn giọt
khóc.
... Dân sở tại hồn xiêu phách rụng, giọt khả bi chưa ráo cạnh sông dài.
Khách qua đường mát rát gan mềm, thây bất hạnh còn phơi bên núi dốc”
Để có được tình yêu vĩ đại, lòng căm thù vĩ đại như thế trong thơ cần
có lí tưởng cao đẹp và bản lĩnh của một người chiến sĩ, đồng thời phải có một
trái tim “nghệ sĩ dễ rung động” và một ngọn bút tài hoa. Ngòi bút Phan Bội
Châu hội tụ đầy đủ những yếu tố đó.
Với Phan Bội Châu nhà cách mạng là sự đảm bảo cho nhà thơ lại là sự
bổ sung cho nhà cách mạng để tạo nên mối tương quan hài hòa: Phẩm chất
chiến sĩ đã giúp ông giữ được bản lĩnh, tạo nên mảnh đất tươi tốt nuôi dưỡng
nguồn thơ, nhưng chính con người thơ với cảm hứng dạt dào say đắm và tài
hoa văn chương đến lượt mình lại thăng hoa cái tâm của người chiến sĩ
thành nghệ thuật, thành cái đẹp, thành cái vĩnh hằng trong lòng người.
Thời gian và cuộc đời... đó thước đo giá trị tác phẩm của người nghệ
sĩ. Với Phan Bội Châu, thời gian - lịch sử đã làm minh chứng hùng hồn nhất
cho cái chân giá trị của nhà văn - chiến sĩ.
Đọc Phan Bội Châu bao thế hệ thanh niên Việt Nam đều cùng chung
một cảm nghĩ: Có cái gì như náo nức, như giục giã lòng mình vùng dậy xông
lên làm một điều gì đó có ích cho Tổ quốc.
Với nhà văn còn gì quý hơn, đáng trân trọng hơn thế. Thơ văn Phan
Bội Châu là thành tựu rực rỡ của sự kế thừa truyền thống yêu nước và văn
chương của dân tộc Việt Nam - Yêu nước và văn chương, thanh gươm và
cây bút, hai cái đó đã hòa quyện là một tạo nên cốt cách Phan Bội Châu - nhà
văn và chiến sĩ, cốt cách đó cũng là hướng phấn đấu của những nhà văn
cách mạng, của nền văn học cách mạng như Phạm Văn Đồng đã nói: “Những
người làm nghệ thuật chúng ta trong cuộc sống và trong hoạt động nghệ thuật
hãy thực hiện sự thống nhất hài hòa giữa người nghệ sĩ và người chiến sĩ
cách mạng XHCN, làm chiến sĩ bằng tác phẩm nghệ thuật của mình”.
KHẮC MAI XUÂN
BÀI CA CHÚC TẾT THANH NIÊN
PHAN BỘI CHÂU
A. BÀI VĂN
Anh (chị) hãy bình giảng bài thơ Bài ca chúc Tết thanh niên của Phan Bội Châu.
BÀI LÀM
Trong ký ức của nhiều thế hệ người Việt Nam, Phan Bội Châu là một
nhà yêu nước nồng cháy thiết tha, một nhân vật lịch sử kiệt xuất, tiêu biểu
cho phong trào đấu tranh giành độc lập của dân tộc mấy chục năm đầu thế kỷ
XX.
Phan Bội Châu có một tiểu sử oanh liệt. Ngay đến những năm cuối đời,
khi bị giặc Pháp giam lỏng ở Huế, Phan Bội Châu vẫn được sự quan tâm đặc
biệt của đồng bào, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Ông rất có ý thức bồi
dưỡng thế hệ trẻ và đặt vào họ những hy vọng lớn lao. Đầu năm 1927, học
sinh trường Quốc học và trường Dòng ở Huế tổ chức chúc thọ ông tròn tuổi
60. Đáp lại tình cảm ấy, Phan Bội Châu đã ứng khẩu đọc bài Bài ca chúc Tết
thanh niên, theo thể hát nói. Thông qua những lời bộc bạch chân thành, tác
giả thiết tha kêu gọi thanh niên hãy từ bỏ lối sống tầm thường, quyết tâm tu
dưỡng, vươn tới lý tưởng cách mạng cứu nước, bắt kịp thời đại mới. Đó
chính là sự kỳ vọng và sự bàn giao trách nhiệm của thế hệ Phan Bội Châu
cho thế hệ thanh niên kế tiếp.
Mở đầu Bài ca là tiếng gọi đột ngột, khẩn cấp, giục giã: “Dậy! Dậy!
Dậy”. Đây là lời của ai? Hãy đọc kỹ những câu thơ tiếp theo:
Dậy! Dậy! Dậy!
Bên án một tiếng gà vừa gáy.
Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng.
Cách mở đầu thật độc đáo. Tác giả muốn lay tỉnh mạnh mẽ lớp hậu
sinh hãy mở mắt nhìn ra một ngày mới bắt đầu: Trời đã sáng, chim chóc đã
cất tiếng hót tưng bừng rộn rã. Điều đáng nói ở đây là tiếng gà, tiếng chim kia
đều có sức thôi thúc, giục giã khác thường. Thì ra, những âm thanh đời
thường vốn rất là quen thuộc ấy được “nghe” qua tâm trạng hy vọng, mong
chờ một thời cơ mới và thế hệ mới của tác giả bỗng trở thành có tính biểu
tượng đầy ý nghĩa của “vận hội mới”. Cảm động biết bao khi ta hiểu đây là
tâm trạng của một người đang sống trong hoàn cảnh nghiệt ngã, bị kẻ thù kìm
kẹp hòng cắt lìa khỏi thực tế đấu tranh của dân tộc, nhưng vẫn gắn bó với
cuộc sống, tin tưởng ở thế hệ tương lai của đất nước.
Xét đến cùng, tiếng thúc giục “Dậy! Dậy! Dậy” không chỉ là lời kêu gọi
tâm huyết của Phan Bội Châu. Đó là tiếng gọi của Tổ Quốc, của non sông mà
Phan Bội Châu là người đại diện. Tiếng gọi Phan Bội Châu - Tổ quốc ấy ta
còn thấy vang ở nhiều tác phẩm khác của nhà cách mạng. Trong cuốn Trùng
Quan tâm sử ông từng viết “Non sông như cũ, thành quách y nguyên! Chủ
nhân là ai? Quốc dân ơi! Đồng bào ơi! Dậy! Dậy! Dậy!”
Đoạn thơ tiếp theo, Phan Bội Châu dành mấy dòng nói về bản thân
mình. Lời thơ chân thành, tha thiết khiến cho người đọc vô cùng xúc động:
Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng?
Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng,
Hai mươi năm lẻ đã từng chua với xót.
Trời đất may còn thân sống sót,
Tháng ngày khuây khỏa lũ đầu xanh.
Khác với giọng vui tươi, phấn khởi phần đầu, những câu thơ ở đây có
nhịp điệu chậm rãi, nặng trĩu ưu tư, phiền muộn. Trước “tân vận hội”, Phan
Bội Châu cảm thấy chạnh buồn khi tâm sự với mùa xuân của đất trời và cũng
là tâm sự với thế hệ trẻ, những người tri âm, tri ki của nhà thơ. Ở đây có
nhiều cách hiểu về mùa xuân; xuân vừa có nghĩa là đất nước quê hương vừa
để chỉ những lớp người trẻ tuổi. Phan Bội Châu bộc bạch hết nỗi niềm tâm
sự. Đấy trước hết là nỗi đau của một người đã từng phải làm “khách không
nhà trong bốn biển”, suốt nai mươi năm bôn tẩu, nhưng rốt cuộc “trăm thất bại
không một thành công”. Đúng là trong nỗi đau này không chỉ có “thẹn” mà còn
có thêm nỗi “buồn” và nỗi “tủi” lẫn cả sự chua xót đắng cay. Đây là nỗi đau xót
của một trượng phu, một anh hùng, một nhân vật lịch sử kiệt xuất. Đây còn là
nỗi đau của cả một dân tộc, một đất nước. Câu thơ “Thẹn cùng sông, buồn
cùng núi, tủi cùng trăng” được ngắt đều thành ba nhịp, ba vế đối nhau, mỗi
trạng thái tình cảm đặt vào trong quan hệ của một hình ảnh biểu tượng của
đất nước, thể hiện nỗi đau của tầm vóc núi sông, tầm vóc thời đại. Ta liên
tưởng đến nỗi đau lớn của Đặng Dung thời trước trong bài thơ Cảm hoài đầy
bi tráng: “Thù nước chưa xong, đầu đã bạc”. Đây là tâm sự của một con
người đã từng trải qua mấy chục năm tung hoành, khi ở Nhật Bản, lúc ở
Trung Quốc, lúc ở Xiêm La, nay phải sống trong vòng kiềm tỏa của quân thù
và tuổi già đã đến, chỉ còn biết trông cậy vào “lũ đầu xanh” để khuây khỏa
“tháng ngày”. Như vậy, Phan Bội Châu ý thức sâu sắc vai trò lịch sử của mình
đã chấm dứt và cụ nghiêm khắc tự đánh giá bản thân mình. Điều này chứng
tỏ sự sáng suốt nhân cách cao đẹp của nhà cách mạng. Riêng việc hiểu được
bản thân mình, thấy được giới hạn của mình cũng đã thể hiện một phần tầm
vóc lớn của tác giả, khiến người đọc vô cùng cảm phục.
Thất bại, nhưng không thất vọng; nhà thơ đặt hy vọng vào thế hệ thanh
niên:
Thưa các cô, các cậu, lại các anh.
Một chữ thưa mà hàm chứa bao nhiêu niềm trân trọng và tin yêu. Đó
vừa là đức khiêm nhường, vừa thể hiện tấm lòng thiết tha của nhà cách mạng
lão thành đối với vận mệnh của đất nước. Thì ra, đối với Phan Sào Nam, dẫu
ở tuổi 60, dẫu đã là một nhân vật lừng danh, nhưng bất kể già trẻ gái trai, ai
có tinh thần cứu nước, biết thương xót giống nòi thì đều phải kính trọng. Ta
còn nhớ có lần, Phan đã “ngàn vạn lạy” các chú lính tập để họ quay về với Tổ
quốc (Việt Nam vong quốc xứ). Hơn nữa, cách xưng hô thích hợp để tác giả
trình bày những vấn đề trọng đại tiếp theo. Bởi vậy, có thể nói, ở đây, cụ
Phan đã chọn lựa được những lời lẽ và giọng điệu thích hợp nhất để phô diễn
ý tưởng của mình.
Tâm sự với thanh niên, Phan Bội Châu khẳng định “đời đã mới, người
càng nên đổi mới”. Câu thơ có cách diễn đạt tăng cấp: lúc nào cũng cần đổi
mới, huống chi đời đã đổi mới, tức là có cơ hội mới, vận hội mới. Đến câu tiếp
theo “Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn”, tác giả nói cụ thể hơn nhiệm vụ
của thanh niên phải cùng nhau đoàn kết giành lại chủ quyền cho giang sơn
mà cha ông từ ngàn xưa để lại. Công việc này thật khó khăn, nặng nề, vì thế
không những phải dũng cảm, mà còn phải khôn khéo kiên trì, nhất là phải biết
đoàn kết, biết “liên hiệp lại” thành một khối vững chắc:
Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan
Đây đoàn thể quyết ghe phen liên hiệp lại.
Trải qua những năm tháng hoạt động cách mạng, cụ Phan ý thức rất rõ
về tầm quan trọng của sự đoàn kết. Ngay những năm đầu ra nước ngoài,
trong Thư gửi người trong nước khuyên nhân dân giúp tiền cho học sinh đi
học ngoại quốc, Phan Bội Châu đã nêu rõ: “Hễ người đông thì xong công
việc, đồng tâm thì sức sẽ khỏe; góp nhiều mảnh da để may áo cừu, góp nhiều
cây lại để chống nhà. Muôn búa vào rừng cây to cũng ngã; xe cát suốt ngày,
biển sâu cũng lấp”. Những câu thơ trên đây hấp dẫn người đọc không phải
chỉ ở nội dung mà chính là ở cách nói, ở bầu nhiệt huyết. Nó còn có sức
thuyết phục lớn vì được bảo chứng bằng cách cả cuộc đời hoạt động cách
mạng không mệt mỏi của nhà đại ái quốc.
Lời khuyên nhủ có lúc chuyển sang giọng dịu dàng, nhỏ nhẹ, như vỗ
về:
Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi
Xếp bút nghiêng mà tu dưỡng lấy tinh thần,
Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn...
Có lúc lại sôi nổi, hào hùng và quyết liệt:
Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ
Nhưng đấy mới thực là giọng chủ đạo của thơ Phan Bội Châu - đúng
như Tố Hữu nhận xét: “Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng”. Qua giọng thơ và
hình ảnh thơ, ta thấy hiện lên thật rõ nét một Phan Bội Châu tuy tuổi đã già,
thân bị giam cầm nơi Bến Ngự, mà tinh thần vẫn hăm hở sục sôi, vẫn khao
khát tung hoành và đặc biệt là vẫn muốn chuyển mình theo “tân vận hội”.
Khát vọng ấy ông muốn truyền tới lớp đầu xanh với tất cả niềm tin của
mình:
Chữ rằng: Nhật nhật tân, hựu nhật tân.
Phân tích “Bài ca chúc Tết thanh niên” của Phan Bội Châu
BÀI LÀM
1. Bấy giờ Phan Bội Ghâu về ở Huế mới hơn được một năm. Thực dân
Pháp chưa siết chặt ngay việc giám sát ông. Ông hãy còn có những hoạt
động gắn với quần chúng cách mạng, nhất là thanh niên học sinh, ông viết
Văn tế Phan Chu Trinh, ông nói chuyện với học sinh nữ học Đồng Khánh...
Trước Tết năm ấy, ngày 29 tháng 1 năm 1927, học sinh ở các trường trung
học Huế nhờ ông Võ Liêm Sơn, một thân sĩ yêu nước, giáo viên trường Quốc
Học, làm một bài ca trù đến mừng thọ ông. Nhân đó, ông đáp lại bằng bài
này.
Vậy, nếu trong đời sáng tác của Phan Bội Châu có hai giai đoạn, giai
đoạn ở nước ngoài, từ 1905 đến 1925, trong đó có những năm ông tự cho là
đắc ý nhất là những năm 1905 - 1908 và giai đoạn bị giam lỏng ở Huế từ
1926 cho đến chết, thì bài này làm vào đầu giai đoạn sau, lúc ông đánh giá
đời mình là:
Trời đất may còn thân sống sót
Tháng ngày khuây khỏa, lũ đầu xanh.
nghĩa là còn sống đó, nhưng chẳng làm được gì to lớn cho đất nước như ý
ông mong muốn.
Bấy giờ, thực dân đang đẩy mạnh việc khai thác nước ta, cơ nghiệp
của chúng ngày càng mở rộng, đô thị phát triển, quá trình tư sản hóa trong xã
hội được khuyến khích, những hình thức sinh hoạt phương Tây dần dần xâm
nhập, làn sóng ăn chơi đua đòi lan tràn, lôi cuốn không ít thanh niên, kể cả
một số thanh niên học sinh. Trên văn đàn công khai lại đang có những điệu
buồn rũ rượi của thứ thơ văn kiểu Giọt lệ thu, Một tấm lòng, Tuyết Hồng lệ sử.
Tất cả đang làm cho thanh niên quên đứt thân phận nô lệ và chẳng còn nghĩ
gì đến nhiệm vụ đối với nước nhà.
2. Được viết ra trong hoàn cảnh đó cho học sinh là thành phần tri thức
của thanh niên, bài ca còn nhằm mục đích nào khác là nhân năm mới đánh
thức họ dậy khỏi cơn mê của thường tình xã hội, mê ăn mê chơi, và thúc giục
họ hãy lập chí, hãy rèn luyện để bước lên con đường mới mẻ là con đường lí
tưởng hy sinh phấn đấu cứu nước cứu nòi.
Bài học lí tưởng đó là bài học lớn nhất của bài ca.
3. Đi liền với mục đích giáo dục ấy, đồng thời là hi vọng lớn lao đối với
thanh niên, người viết, nhân xuân đến, lấy xuân mở đầu câu tâm sự: 3 câu
đầu: là cảnh xuân của đất trời rộn rã; tiếp theo 5 câu: là tóm tắt một đời chiến
đấu, nhiệm vụ không thành, nhìn lại chỉ buồn cùng tủi với non sông; sau đó
mười mấy câu: là sự kì vọng ở thanh niên với lí tưởng cứu nước cao đẹp bỏ
xa mọi thứ tầm thường thấp thỏi. Đó mới thật sự là cái mới xứng đáng với
năm mới.
Nội dung như vậy khá phong phú. Cảnh và tình, câu tâm sự là lời
khuyên răn, có nhận định tình hình trước mắt, có mong ước biến chuyển ở
tương lai. Lại là lời xuân, lời chúc. Phải tươi vui, hào hứng, hòa được máu
nóng với nhựa xuân, xuân tuổi trẻ. Cho nên lời thơ mượn cái rộng rãi, tự do,
không hạn định chữ, hạn định câu, không đòi hỏi đối ngẫu, không gắt gao
niêm luật, mà lại dồi dào êm điệu tự tình của thể ca trù, để được bộc lộ tương
đối thoải mái. Nói tương đối vì, dù sao, đây cũng là lời nói trong hoàn cảnh có
thực dân theo dõi, không phải hoàn toàn tự do như thời ở nước ngoài, “bút
mặc” đang còn “tung hoành”.
4.1. Ba câu mở đầu:
Dậy! Dậy! Dậy!
Bên án một tiếng gà vừa gáy,
Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng.
Cảnh bình minh một ngày: Gà gáy đánh thức, chim chóc họa theo, ca
mừng ngày mới. Nhưng cũng là cảnh Tết, cảnh xuân, bắt đầu một năm mới.
Trong thiên nhiên, mọi vật hòa nhau trong một nỗi mừng mới, vui tươi rộn rã:
tiếng gà vừa gáy, ngỏ ý chào mừng. Con người trước cảnh xuân mới cũng
vậy: bỏ cái gì cũ, đón cái gì mới, tống cựu nghênh tân, hi vọng tốt lành ở năm
mới.
Nhưng tại sao lại bắt đầu bằng một lời đánh thức, mà lại gấp gáp, hối
hả? Dậy! Dậy! Dậy! Như có ai đang ngủ quá say, và người đánh thức đang
nóng ruột? Té ra ở đây không phải chỉ có tiếng gà, tiếng chim đánh thức tạo
vật và con người, mà còn có cả tấm lòng đang cháy bỏng vì việc nước việc
non, đang trông mong ở đám thanh niên, mà họ thì đang còn trong giấc ngủ li
bì. Cho nên bài thơ chúc Tết lại bắt đầu bằng một tiếng gọi tỉnh giấc.
Như trang nhạc khởi đầu bằng một nốt chủ đạo, đây cũng là một âm
thanh định chiều chung cho cả bài: âm hưởng chung của bài thơ sẽ là âm
hưởng thức tỉnh.
4.2 - Năm câu tiếp theo:
Xuân ơi xuân, xuân có biết chăng?
Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng.
Hai mươi năm lẻ đã từng bao chua với xót.
Trời đất may còn thân sống sót,
Tháng ngày khuây khỏa lũ đầu xanh.
Thức tỉnh cái gì? Lấy gì mà thức tỉnh? Chim chóc thì reo vui mừng năm
mới, mừng xuân. Còn con người Việt Nam đầu năm 1927 này chẳng lẽ chỉ
biết làm như loài chim chóc sao?
Những năm 1925 - 1926 là những năm sôi nổi phong trào yêu nước,
nhân dịp đấu tranh đòi không được xử tội Phan Bội Châu và trả lại tự do cho
ông, nhân dịp để tang Phan Chu Trinh. Cũng những năm ấy, trên báo Hữu
Thanh ở Hà Nội, Ngô Đức Kế vạch mặt yêu nước giả hiệu của Phạm Quỳnh;
Huỳnh Thúc Kháng mở đầu khoá học của Viện dân biểu Trung kì đã đọc một
bài diễn văn làm phấn chấn lòng người. Và xa xa, các phong trào đấu tranh
của công nhân đồn điền, và trong bí mật, phong trào ra nước ngoài theo học
lớp thanh niên do cách mạng vô sản lỗi lạc Lí Thụy chủ trì ở bên kia biên giới.
Riêng ở Huế, việc học sinh đánh điện can thiệp cho Phan Bội Châu, câu trả
lời đanh thép của cô giáo trường Đồng Khánh trước tên thanh tra mật thám
về việc đánh điện ấv, phong trào truy điệu Phan Chu Trinh, các buổi diễn
thuyết của Phan Bội Châu trước học sinh, phong trào bãi khóa ở các trường,
việc một số thầy giáo bị đổi đi, hoặc bị huyền chức, hoạt động của “Học Xá
Quảng Nam” vừa có tính chất khuyến học, vừa có tính chất yêu nước... tất cả
như chưa phai mờ trong kí ức.
Vậy nên phải mượn dịp xuân này, đáp lại lời chúc chân thành bằng một
tấm lòng càng chân thật hơn, và nhân đó nhắc đến trách nhiệm đối non sông
đất nước.
Ba lần gọi xuân: Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng? rất thân mật,
như gọi một lòng bạn để cho mình gửi câu tâm sự. Xuân là ai? Xuân của đất
trời thì không đáng trách. Còn xuân của dân tộc, xuân của tuổi trẻ, tức các
bạn thanh niên, các bạn có biết cho chăng? Đâu phải là một lời than cho lợi
ích cá nhân mình. Đây là tâm sự một đời lo toan cho nước. Lo toan, bôn tẩu
một đời mà nay rút lại chỉ: một thẹn, hai buồn, ba tủi. Và cùng sông, cùng núi,
cùng trăng. Sông núi còn đây, trăng sao còn đây; lời thề một đời còn đó, đinh
ninh như trăng sao, sông núi, mà trách nhiệm nào có hoàn thành được mảy
may! Tính lại hai mươi năm lẻ, từ 1905 ra đi đến 1927, đã từng bao chua với
xót. 1905 - 1908 được mấy năm đắc ý; nhưng rồi 1908 Nhật giải tán học sinh
Việt Nam, trục xuất ông, ông phải sang Thái Lan, Trung Quốc, có thời gian
phải đi bán sách rong ở bến xe bến tàu đế kiếm ăn cho mình và cho đồng chí,
rồi bị quân phiệt Quảng Đông bắt giam suýt chết... cho đến 1925 thì bị thực
dân Pháp bắt cóc đưa về định xử tử...
Ba câu thơ tóm cả một cuộc đời, như một lời nhận tội với non sông, tội
quá lớn, nhấn ba lần mà thấy chưa đủ, như một nỗi đau, đứt làm ba đoạn nên
lại càng đau: Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng. Cho nên còn
dằn vặt, trăn trở, giày vò thêm, thấm tận tim gan, đắng cay tận đầu lưỡi: Hai
mươi năm lẻ đã từng bao chua với xót. Thất bại, đắng cay như thế nên sống
đây chẳng qua là sống sót, sống sót cái tấm thân, chứ còn trí tuệ, tài năng,
hoạt động có còn gì! Và ngày qua tháng lại chỉ còn khuây khỏa với mấy đứa
trẻ cháu đầu xanh trong nhà. Sau này, Trong lời cảm tạ cuối cùng, ông sẽ
đọc: Những ước anh em đầy bốn biển, Ai ngờ trăng gió nhốt ba gian. Cái
trống rỗng của cuộc đời đáng lẽ phải rộn ràng, sôi nổi, té ra từ đây ông đã
thấm thìa.
Phải chăng đó là sự thất bại, đắng cay của một con người? Vâng, là
một con người, nhưng đúng hơn, là một thế hệ, một giai đoạn cách mạng.
Anh hùng nhưng không tránh được đau thương.
Gần mười năm sau Thế Lữ mới viết Nhớ rừng để nhớ một thời oanh
liệt, và Huy Thông mới viết Con voi già để gợi lại một thời hào hùng đã qua.
Lời thơ to tát nhưng yếu đuối. Còn đây là một sự đau thương từ gốc của nó
mà ra.
Mượn vai xuân mà nói câu tâm sự của mình, nhưng từ câu tâm sự ấy
mà xót đau cho một nhiệm vụ không thành, để thức tỉnh cho xuân. Nói mình
nhưng để thia lia bắn đến bạn là như vậy.
4.3 - Mười ba câu còn lại:
Thưa các cô, các cậu, lại các anh,
Đời đã mới, người càng nên đổi mới
Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội,
Xúm vai vào xốc vác cựu giang san.
Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan,
Đây đoàn thể quyết ghe phen liên hiệp lại.
Bỏ đối tượng giả thiết là xuân, đây nói với đối tượng trực tiếp đến chúc
mình đang ở trước mặt. Ông già 60 (ông sinh năm 1867) nói chuyện với bọn
trẻ mười tám, đôi mươi. Tại sao lại có cách xưng hô lắp đi nhấn lại có vẻ trịnh
trọng như thế này?
Nhất định không phải là lời khách sáo.
Trong văn học không thiếu những cử chỉ lễ phép bất thường, đột ngột,
vừa có ý nghĩa sân khấu vừa có ý nghĩa nhân sinh: cái lạy của Thúy Kiều đối
với Thúy Vân, của Vân Tiên đối với Nguyệt Nga, của Vương Tư Đồ đối với
Điêu Thuyền. Ấy không phải là lạy đích thân con người ở vai dưới trước mặt,
mà lạy cái hi sinh cao cả ở con người họ, hi sinh cho một cái gì quý hơn mình,
cao hơn mình, mà mình phải chịu ơn.
Ơ đây có lẽ không đến như vậy. Nhưng cái trịnh trọng trong xưng hô là
cân ngang với cái trân trọng của mong ước, của kì vọng cao cả ở con người
họ. Trách nhiệm lớn lao trước non sông đất nước mình không làm được, nay
mình đem đặt vào vai những kẻ này. Việc ấy không lớn sao? Họ nhận lấy là
họ thay mình, làm tốt cho mình. Họ không trở thành một đối tượng cao quý
cho mình kính trọng, khâm phục, biết ơn hay sao?
Nhân năm mới sẽ nói đến cái mới. Cái mới bắt đầu từ bản thân con
người. Trời đất, cuộc đời đổi mới mà con người vẫn cứ li bì trong cái cũ thì
ích gì? Cho nên phải tỉnh dậy mà đổi mới.
Đi học mà nói đổi mới là nói cái gì? Cũng vẫn tiếp tục đi học, nhưng
chắc là phải từ bỏ cái học với mục đích tầm thường “tối rượu sâm banh, sáng
sữa bò”, và thỏa mãn với tương lai tôi đòi cho thực dân, để cho cái học của
mình có ý nghĩa. Tức là nhìn thấy vận hội đất nước đang mở ra một thời kì
mới trước mắt, và mỗi một thanh niên nên xúm vào một vai để xốc vác cho
cái cựu giang san đang còn nóng lòng chờ đợi ở con cháu của mình. Mà
không phải thô thiển, vụng về như thế hệ trước; phải đi cho êm, đứng cho
vững, trụ cho gan, nghĩa là hành động cho khéo léo, kẻ địch không hề biết, và
khi đã tìm được chỗ đứng thì phải bám cho chắc, cho vững, dù có phong ba
bão táp cũng xuống tấn, mà trụ lại, gan góc, dạn dày, bất chấp mọi nguy
hiểm, gian lao. Muốn được vậy, không thể nào không cùng nhau xây dựng
thành đoàn thể để có đủ sức mạnh cho công cuộc đấu tranh vĩ đại vì Tổ
Quốc, giống nòi.
Tân vận hội là thế nào? Trong bài thơ chưa thật rõ, nhưng trong tình
hình bấy giờ chắc ai cũng hiểu. Cho nên cái gánh giang san, mỗi người phải
một vai. Nặng lắm, lớn lắm, khó khăn lắm. Như người vác nặng trên vai mà
leo đèo, chung quanh là vực là hố, phải hết sức thận trọng, hết sức quan tâm,
hết sức kiên cường: đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan. Tưởng chừng
như trong từng bước, con người lấy nỗ lực chủ quan của mình làm quyết
định, cứng rắn, vững bền cho từng bước tiến lên: đi đã hay đứng càng thêm
tốt, và trụ lại càng quan trọng hơn.
Trở lên là phong trào, là mọi người, mọi thanh niên, đây là đi sâu vào
tâm tư, ý chí từng người:
Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi,
Cởi lốt xưa mà tu dưỡng lấy tinh thần.
Chẳng thèm chơi, chẳng thèm mặc, chẳng thèm ăn!
Đúc gan sắt để dời non lấp bể!
Xối máu nóng rửa vết dơ nô lệ!
Chí ngày xưa vừa có nghĩa là lí tưởng vừa có nghĩa là một yếu tố tâm lí
bảo đảm thực hiện được lí tưởng là ý chí, nghị lực, sức mạnh tinh thần. Vậy,
ai có chí gánh vác giang san, kẻ ấy phải cởi lốt xưa - lốt xưa là cuộc sống an
phận, tầm thường, thấp thỏi, sống như cây, quấn mình vào trong cái ăn mặc,
cái vợ con, tiền tài, danh vọng, cởi lốt xưa ấy để nâng mình lên cao, tu dưỡng
lấy tinh thần để thanh cao, cho hơn người, xứng đáng làm chiến sĩ cho quốc
gia dân tộc. Tu dưỡng ấy sẽ là: Chẳng thèm chơi, chẳng thèm mặc, chẳng
thèm ăn. Đừng hiểu lầm cái ý thậm xưng trong cách diễn đạt. Đây muốn nói:
chẳng thèm chơi bời trác táng, chẳng thèm đua đòi mặc theo thời thượng, mà
chỉ nên để sức lo cho nước nhà, chỉ nên thèm những cái khác, thèm đúc cho
gan vàng dạ sắt, thèm cho việc được việc dời non lấp bể, thèm cho được việc
xối máu nóng rửa vết dơ nô lệ. Ngày xưa có người say rượu mà nói: “Chí của
ông say đâu phải ở rượu mà ở chốn nước non”. Phan Bội Châu nói về thơ tù
cũng có câu: “Chí ông từ đâu phải ở chỗ làm thơ”. Ấy, đối với thanh niên, hữu
chí là như vậy. Chí lớn, chí cứu nước. Đó là lí tưởng thanh niên, cao cả, hào
hùng. Bởi vì đó là chuyện dời non lấp bể, rửa vết dơ nô lệ, nghĩa là thay
chuyển tình thế, cởi ách nô lệ, nói trắng ra là giành độc lập cho dân tộc, đánh
đuổi bọn thống trị ngoại bang, nhưng ở đây không tiện nói ra nhưng ai cũng
hiểu.
Cũng bởi đó là chuyện lớn lao nên lời thơ đi suốt một hơi, toàn là thể
cầu khiển, động viên: Cởi lốt xưa! Chẳng thèm chơi! Đúc gan sắt! Xối máù
nóng. Và trong lời cầu khiển nó, một lần thứ ba, bài thơ lại nhấn lại điệp khúc
đã hai lần hiện ra ở trên. Câu thơ đứt làm ba trong nhịp điệu:
Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng.
Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan.
và đây: Chẳng thèm chơi, chẳng thèm mặc, chẳng thèm ăn
nhưng mỗi lần mỗi khác. Lần đầu là một sự xót đau ba lần thấm thía. Lần thứ
hai là một thái độ trách nhiệm ba lần thận trọng, ba lần nín thở lấy hết sức
bình sinh. Câu thứ ba này lại là một sự từ chối ba lần lập lại nhưng lòng dặn
với lòng, như thề độc sẽ rứt bỏ một cái gì cứ bám lấy mình mà mình nhất định
phải trừ khử.
Đâu phải chuyện vu vơ, trừu tượng. Gởi một tờ báo hằng ngày như tờ
Lục tỉnh tân văn vào những ngày trước và sau Tết Đinh Mão (1927) thì cũng
thấy: Tiếng vang của các phong trào yêu nước và cách mạng trên báo chí
công khai chỉ còn là một thứ hơi hướng leo pheo ở các kiểu Bàn về hiệp
quần. Bàn về Tết tiết kiệm. Muốn cho một nước văn minh, người trong nước
phải như thế nào? Người đàn bà và xã hội. Nhưng bên cạnh lại lòe loẹt hình
ảnh thô bạo của một cuộc sống ăn chơi mà hiện thân là các thứ quảng cáo
quyến rũ: bốn thứ rượu, ba loại thuốc, tiệm ăn, đồ trang sức... và tất yếu còn
có thuốc chữa bệnh hoa liễu. Đặc biệt, số ngày 7 tháng 2 năm 1927 tức ngày
mồng năm sau Tết, lại có bài Tin kinh đô tường thuật cái Tết ở Huế. “Ngoài
dân đã phố phường thì năm nay rõ lắm thứ... Ở làng Gia Lạc, cách Huế 3km
có họp chợ phiên, mỗi năm một lần, buổi mai hồi 9 giờ ngày mồng một tết cho
đến 4 giờ chiều mới bãi. Chợ ấy tuy hàng hóa buôn bán không bao nhiêu,
song người đi chợ thì đông, vì có ý đến chợ đó để xem nhau cách ăn mặc,
kiểu trang sức, cho nên người ta đã đành mà người ngoại quốc ở nước này
cũng đến xem đông lắm... Còn như ở kinh thành ngày mồng một Tết có hát
tuồng ở các rạp, có bày những sòng bài bạc ở các tiệm khách trú và ở hai
bên đường...”.
Cho nên, đứng về phía người khuyên, người chúc, thì đó là một lời
chúc cao cả, sát thực tế trước mắt, đó là một kì vọng cao xa xuất phát từ một
lòng tin mãnh liệt: Tin vào tương lai đất nước, tin vào thanh niên. (Ai nói thanh
niên hay lay trời, trời phải rung, lay đất, đất phải chuyển, tôi không ngạc
nhiên), đó là lời ông nói. Phía người nghe, người được chúc, thì đó là lời ông
nói. Đứng về phía người nghe, người được chúc, thì đó là một niềm tin tự hào
không gì lớn bằng, một món quà đẹp hơn muôn ngàn gấm hoa, đưa con
người lên ngang tầm với lịch sử, xứng đáng là những “chàng trai trẻ, những
gái yêu” của giống nòi (chữ của Tố Hữu), nhân ngày dầu xuân này. Chất lí
tưởng tràn trề ở người chúc, ở người được chúc, ở lời thơ. Có lẽ trong phút
giây đó, mọi người trong buổi gặp mặt này đã sống một phút hoa đăng của
lòng yêu nước thắm tươi, hào hùng nhất.
Đến đây, niềm say sưa lí tưởng đã lên đến tột đỉnh.
Vì vậy mới có hai câu cuối cùng, như giải tỏa cho không khí căng thẳng
ở trên, trở lại với sự tỉnh táo bình thường trước niềm xuân mới:
Mới thế này là mới hỡi chư quân.
Chữ rằng: Nhật nhật tân, hựu nhật tân
Duy cái mới đối với mọi người, đối với các bạn thanh niên, phải là cái
mới như vậy. Và cứ như vậy, mỗi ngày lại càng phải mới hơn nữa. Thế là gạt
phắt đi mọi cái mới thường tình người đời đem ra chúc nhau: Mới chức, mới
tiền, mới tuổi thọ, mới nhiều con như Tú Xương đã có lúc bực mình văng lời
mai mỉa. Cũng gạt qua một bên cái say sưa, mê nhiều hơn tỉnh, của một kẻ
tài thơ nhưng ít tài đời như Tản Đà mà bấy giờ cũng đang là một sức hút đối
với thanh niên, nhất là thanh niên học sinh:
Gặp xuân ta giữ xuân chơi
Câu thơ chén rượu là nơi đi về.
Với lời đánh thức như vậy là một lời đánh thức không phải cho một lúc
mà lâu dài, đích đáng. Đánh thức một thế hệ cần thiết, vì một trách nhiệm còn
cấp thiết hơn.
4.4 - Tiếc rằng điều kiện lịch sử bấy giờ không cho phép nói cụ thể hơn,
mà chỉ nói được khái quát và trừu tượng. Cũng tiếc rằng Phan Bội Châu cũng
chưa có cách nói giản dị hơn, mà phải dùng phương pháp cách nói của
phương pháp cổ điển truyền thống, khiến cho lời thơ không tránh được chúc
ồn ào. Mặc dù vậy, vượt qua bao nhiêu hạn chế của thời đại, bao nhiêu ràng
buộc của thực dân, trong bài ca chúc Tết này, nhân năm mới, lấy gương thất
bại xót đau của bản thân, ông đã khích lệ lòng yêu nước của anh chị em
thanh niên, đưa nó lên thành lí tưởng cao quý, anh hùng, với triển vọng chói
lọi những hy sinh lớn lao, tạo ra một bài học vô cùng quý giá về phẩm chất
con người Việt Nam biết dâng đời cho đất nước, dân tộc.
5. Để hiểu thấu tâm trạng của ông, gì bằng đọc thêm bài thơ Tạ ơn
người cho lịch sử mới:
Quên lửng năm trời đã bấy nay,
Ơn người tặng lịch nhắc cho hay.
Á Âu xáo lộn đen pha đỏ,
Tân cựu phân minh tớ đội thầy.
Tháng Một đứng trên đầu tháng chạp.
Ngày Nam nằm dưới đít ngày Tây.
Xem trên mặt giấy càng thêm cám,
Năm mới đâu nào? Mới ở đâu?
Cũng là tâm trạng chất chứa đau thương căm giận trước bất kì một sự
việc nhỏ nhặt nào mà thông thường người ta vô tình không hề để ý.
Có người cho La Fontaine là cây ngụ ngôn nên sinh ra quả là ngụ
ngôn. Cũng ý ấy nhưng rõ hơn và sâu hơn, Lỗ Tấn nói: “Phàm chảy ra từ
mạch máu là máu”. Phan Bội Châu là con người chứa chất máu yêu nước,
cho nên lời nói ra không thể tránh được lời yêu nước. Càng thấm thía vì sao
năm ấy ông lại có lời chúc Tết thanh niên như vậy.
B. LUYỆN TẬP
1. Phân tích hình tượng Con voi già Bến Ngự
(Phan Bội Châu những năm bị quản thúc cuối đời ở Huế) trong Bài ca
chúc Tết thanh niên của Phan Bội Châu.
2. Phân tích tám dòng đầu Bài ca chúc Tết thanh niên để cho thấy lời
tâm tình đau xót của con người yêu nước vĩ đại.
3. Phân tích đoạn thơ (13 dòng cuối) để thấy lời kêu gọi thức tỉnh thanh
niên của Phan Bội Châu rất tha thiết và đầy kì vọng.
4. So sánh hai bài: Chơi xuân và Bài ca chúc Tết thanh niên của Phan
Bội Châu để thấy nét riêng và chung của nhà thơ - nhà cách mạng vĩ đại thời
trẻ và lúc về già.
5. So sánh hai hình tượng nhân vật trữ tình ở hai bài thơ “Xuất dương
lưu biệt” và “Bài ca chúc Tết thanh niên” của Phan Bội Châu.
XUẤT DƯƠNG LƯU BIỆT
PHAN BỘI CHÂU
A. BÀI VĂN
Vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong bài thơ Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu.
BÀI LÀM
Trong lí luận văn học, người ta thường quan niệm, nhân vật trữ tình là
hình tượng văn học trực tiếp thổ lộ những cảm xúc, tình cảm, tâm trạng trong
tác phẩm. Nhân vật trữ tình không có diện mạo, ngôn ngữ, hành động... cụ
thể, chi tiết như nhân vật tự sự. Trong một bài thơ trữ tình, nhân vật trữ tình
có thể là chính tác giả, cũng có thể là nhà thơ hóa thân vào nhân vật khác tạo
thành nhân vật trữ tình nhập vai. Ở bài Xuất dương lưu biệt, nhân vật trữ tình
chính là nhà thơ - nhà chiến sĩ cách mạng Phan Bội Châu. Bởi vậy, nói đến
vẻ đẹp của nhân vật trữ tình ở bài thơ này cũng tức là nói đến vẻ đẹp tâm hồn
của tác giả.
Sinh thời, Phan Bội Châu rất tâm đắc câu thơ của Viên Mai (Trung
Quốc):
Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương.
Có thể tạm dịch là:
Mỗi bữa không quên ghi sử sách,
Lập thân hèn nhất ấy văn chương.
Như thế cũng có nghĩa là Phan Bội Châu không muốn lấy văn chương
làm lẽ sống. Nhưng do yêu cầu của cách mạng, trong hơn nữa thế kỷ cầm
bút, ông đã sử dụng cả chữ Hán lẫn chữ Nôm, sáng tác một khối lượng tác
phẩm đồ sộ, gồm hàng trăm bài thơ, bài văn và hàng chục cuốn sách, bằng
nhiều thể loại khác nhau. Trong đó, bài thơ Xuất dương lưu biệt là một trong
những tác phẩm tiêu biểu, vẻ đẹp của bài thơ này trước hết là vẻ đẹp tâm hồn
của nhân vật trữ tình - tác giả.
Thơ Phan Bội Châu phản ánh cuộc đời cách mạng của nhà chí sĩ lúc
lạc quan đắc ý, lúc thất bại đau buồn. Bởi vậy, khi phân tích thơ văn của ông
không thể không tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của mỗi tác phẩm. Nói ở phạm vi
hẹp hơn, ta chỉ có thể hiểu được vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong bài thơ
Xuất dương lưu biệt nếu hiểu được kĩ lưỡng hoàn cảnh ra đời của bài thơ
này.
Vào cuối thế kỷ XIX, sau cái chết oanh liệt của Cao Thắng và của Phan
Đình Phùng, phong trào Cần Vương đã thất bại. Dẫu trên rừng Yên Thế
(thuộc địa phận tỉnh Bắc Giang) vẫn còn đì đoàng tiếng súng của nghĩa quân
Hoàng Hoa Thám, nhưng thực chất, giặc đã làm chủ tình thế. Dần dần, chúng
đặt ách nô lệ lên cả ba kì. Đất nước ta lúc này thật là tăm tối. Câu chuyện
“Bình Tây phục quốc” tưởng chỉ là một mớ ký ức tê tái (Đặng Thai Mai) của
người Việt Nam. Nhưng rồi, nhờ truyền thống quật cường của dân tộc, nhờ
ảnh hưởng của “tân thư” từ nước ngoài... đến những năm đầu thế kỷ XX, cả
một lớp nhà nho đầy nhiệt huyết đã thức tỉnh với những phong trào: Duy Tân,
Đông Du, Đông kinh nghĩa thục, chống thuế ở Trung kì... Họ tập hợp nhau lại
bắt liên lạc với những lực lượng chống Pháp ở trong nước. Nhiều cậu học
sinh cắt nghiến búi tóc trên đầu, quyết tâm đoạn tuyệt với lối học cử tử để đi
tìm lí tưởng mới. Họ thoát li gia đình và xuất dương, đi Tàu, đi Nhật, đi Xiêm -
“tất cả chí hướng của thế hệ trí thức yêu nước đã nhằm vào một mục tiêu vĩ
đại: “Khôi phục nước nhà” (Đặng Thai Mai). Trong bối cảnh ấy, năm 1905.
Phan Bội Châu cùng với Tiểu La Nguyễn Thành lập tổ chức Duy Tân hội. Sau
đó, theo chủ trương của hội. Phan Bội Châu chia tay bè bạn sang Trung Quốc
và Nhật Bản, tranh thủ sự giúp đỡ của những nước này đối với phong trào
cách mạng Việt Nam.
Trước khi lên đường, vào lúc chia tay, Phan Bội Châu đã sáng tác bài
Xuất dương lưu biệt (có nghĩa là: Để lại lúc từ biệt ra nước ngoài) bằng chữ
Hán theo thể thất ngôn bát cú, Đường Luật. Bài thơ này đã nhanh chóng
được phổ biến rộng rãi và được dịch ra tiếng Việt. Bản dịch của Tôn Quang
Phiệt in ở sách giáo Khoa là bản dịch khá thành công, tuy có một vài chỗ
chưa lột tả tinh thần nguyên tác.
Bài Xuất dương lưu biệt thể hiện rõ tư thế hào hùng, sự quyết tâm cao
độ và những ý tưởng mới mẻ của nhân vật trữ tình - nhà cách mạng Phan Bội
Châu buổi đầu ra nước ngoài tìm đường cứu nước.
Mở đầu bài thơ, nhân vật trữ tình trực tiếp thể hiện lí tưởng sống, một
khát vọng lớn lao. Là đấng nam nhi sinh ra ở đời thì phải làm những việc lớn
lao phi thường (“điều lạ”), phải chủ động xoay chuyển đất trời, không thể để
cho trời đất tự chuyển vần (“Há để trời đất tự chuyển vần đấy sao?”). Ý tưởng
táo bạo này có lần đã được họ Phan nhắc đến với thái độ lạc quan trong bài
Chơi xuân:
Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi,
Sinh thời thế phải xoay nên thời thế.
Đúng là làm trai, khát vọng làm được những việc to lớn vốn được Phan
Bội Châu tâm niệm từ rất sớm. Sau này, ông đã kể lại trong một tác phẩm tự
thuật: “Từ lúc bé đọc sách hiểu được ít nhiều nghĩa lí vẫn không thiết gì sống
theo thói thường như người xung quanh” (Phan Bội Châu niên biểu). Những
cũng phải đến những năm đầu thế kỷ XX, khi họ Phan có điều kiện xuất
dương cứu nước, khát vọng làm trai trong con người nay mới được thể hiện
đầy đủ. Thật ra, từ xa xưa, chí làm trai đã thường được nói đến trong văn
học. Phạm Ngũ Lão - một viên tướng lừng danh thời Trần đã từng đánh đông
dẹp bắc, vẫn thấy chưa trả xong “món nợ” của kẻ làm trai và cảm thấy thẹn
thùng khi nghe chiến tích của Khổng Minh Gia Cát Lượng.
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.
(Thuật Hoài)
Trong buổi “giã nhà” cùng ba quân ra chiến trường, hình tượng người
chinh phụ trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn dường như đẹp hơn,
hùng dũng hơn:
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Và Nguyễn Công Trứ cũng đã không chỉ một lần tâm niệm:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
(Đi thi tự vịnh)
“Chí làm trai” là tư tưởng rất đáng trân trọng, là sức mạnh tinh thần giúp
cho nhiều người lập nên nhiều công tích vang dội, có ích cho đất nước, cho
xã hội. Đối với Phan Bội Châu, thực hiện chí nam nhi chính là chủ động tiến
hành sự nghiệp cứu nước. Trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ như đã trình
bài ở trên, việc khẳng định chí nam nhi càng có ý nghĩa cao cả.
Đến hai câu thực, ý tưởng của nhân vật trữ tình được triển khai rõ hơn:
“Giữa khoảng trăm năm này cần phải có ta chứ, chẳng nhẽ ngàn năm sau lại
không có ai (để lại tên tuổi) ư?”. Người xưa quan niệm một kiếp người là 100
tuổi. Do đó, “giữa khoảng trăm năm” có nghĩa là cuộc sống một cá nhân trong
thực tại. Còn ngàn năm sau là nói đến lịch sử, nói đến tương lai. Câu đầu của
phần thực, người dịch chuyển chữ ta thành chữ tớ. Tớ nói được cái hăm hở,
lạc quan, trẻ trung, nhưng lại làm mất đi sự trịnh trọng đường hoàng không
thật phù hợp với nội dung của đoạn thơ: Long trọng tuyên bố về một lẽ sống,
một tư thế vào đời của đấng tu mi nam tử. Hơn nữa, câu thơ dịch thanh thoát
đọc êm tai, nhưng lại làm mất đi âm điệu chắc nịch, nói như “đinh đóng cột”
của tác giả. Hai câu thơ trên thoạt xem dường như có chút ngông nghênh tự
phụ, thực ra là sự bộc lộ ý thức sâu sắc về cái “tôi” cá nhân tích cực. Cái “tôi”
này chẳng những khẳng định trách nhiệm đối với hiện tại, tức là đối với vận
mệnh hôm nay của đất nước, mà còn khẳng định nghĩa vụ đối với lịch sử
muôn đời. Thật là tư thế của con người có chí khí lớn, muốn vươn tới đỉnh
cao của lịch sử, phóng tầm mắt đến nghìn đời sau. Tư thế ấy càng được
khẳng định hiên ngang hơn nữa ở hai câu luận:
Non sông đã chết, sống chỉ nhục
Hiền thánh đã vắng thì đọc sách cũng ngu thôi.
Ở con người này, số phận gắn làm một với số phận của đất nước sống
chết cùng non sông, làm nhục cùng Tổ quốc, ở con người này dường như
chẳng có chút băn khoăn về quan hệ cá nhân, quan hệ đời tư. Một tư thế sử
thi hùng vĩ biết bao!
Ở đây, nhân vật trữ tình tuy nói về mình nhưng cũng là nói cho cả một
thế hệ, cả một dân tộc đang chuyển mình theo một lý tưởng cứu nước mới,
phù hợp với thời đại mới. Hiền thánh đã chết, kinh sử mất thiêng, nhà thơ dứt
khoát hướng thẳng về tương lai, đầy lạc quan tin tưởng.
Bài thơ kết bằng hai câu tuyệt đẹp, đầy cảm hứng lãng mạn.
Muốn vượt biển Đông theo cánh gió.
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi
Đúng là con đại bàng cất cánh bay ra biển khơi, bay vào thời đại. Hình
ảnh thơ nếu hiểu đúng theo nguyên tắc còn lãng mạn và hào hùng hơn nữa.
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi
(Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên)
Xuất dương lưu biệt là bài thơ tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách
Phan Bội Châu ở giai đoạn đầu của cuộc đời cách mạng, khi ông xuất dương
ra đi cứu nước theo đường lối cách mạng mới mà ông xiết bao tin tưởng. Bài
thơ mang khẩu khí của bậc trượng phu đội trời đạp đất. Cái hay của bài thơ
xuất phát từ cái vẻ đẹp của nhân vật trữ tình với khát vọng làm nên sự nghiệp
lớn lao, với khí thế hăm hở và “một dự cảm mới mẻ” (Nguyễn Huệ Chi). Bởi
vậy, bài thơ có giá trị khích lệ, động viên, tuyên truyền cách mạng mạnh mẽ,
nhất là đối với thế hệ thanh niên yêu nước hồi đầu thế kỷ này.
B. LUYỆN TẬP
1. Phân tích vẻ đẹp của người anh hùng ra đi trong bài thơ “Xuất
dương lưu biệt” của Phan Bội Châu.
2. Bình giảng bốn dòng cuối bài “Xuất dương lưu biệt” của Phan Bội
Châu:
“Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài
Muốn vượt bể đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”
3. Anh (chị) có suy nghĩ về nhận định sau đây:
“Bài thơ xuất dương lưu biệt thể hiện rõ tư thế quyết tâm hăm hở và
những ý nghĩ cao cả, mới mẽ của nhà lãnh đạo cách mạng Phan Bội Châu
trong buổi đầu xuất dương cứu nước”.
4. Thông qua bài thơ đã học của Phan Bội Châu, anh (chị) hãy phân
tích một vài nét tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật của tác giả.
THỀ NON NƯỚC
TẢN ĐÀ
A. BÀI VĂN
Phân tích bài “Thề non nước” của Tản Đà.
BÀI LÀM 1
1. Ghép núi Tản, sông Đà làm bút danh để trước tác cả một đời trên cõi
trần ai này, dường như trong Tản Đà đã có Thề non nước. Ông đã tự tìm đến
cái bút hiệu thuộc về non nước này, hay nước non đã tự tìm đến thi sĩ như
một hẹn hò, một duyên nghiệp? Thật khó mà nói cho cùng. Chỉ biết rằng
nước - non đã thực sự là một ám ảnh lớn trong suốt cả đời văn của thi sĩ. Bất
cứ người đọc Tản Đà cũng có thể thấy hình tượng non - nước trở đi trở lại
trong văn chương của thi sĩ như một mạch nguồn cuốn tuôn chảy khi thì chứa
chan ào ạt, khi thì âm thầm len lấn vào biết bao thi đề, thi tứ, thi cảm của thi
nhân. Mạch nguồn ấy cũng đã đem về cho Tản Đà nhiều áng thi ca hào hoa
phong nhã, thanh tú.
Thực ra, ở thời Tản Đà, non nước cũng là một hình tượng, một biểu
tượng có một sức ám ảnh đặc biệt đối với văn chương nước nhà, nhất là thơ
ca. Ấy là thời mà Chiêu hồn nước đã trở thành một nguồn cảm hứng da diết
đối với mọi cây bút có tâm huyết với non sông. Người thì nói lối hô hào thống
thiết, kẻ thì dùng lối chập chờn bóng gió xa xôi. Bởi bấy giờ giang sơn Tổ
quốc ta đang ở trong cảnh ngộ mất chủ quyền. Tuy vậy, cũng ít người có
được tiếng nói văn chương như Tản Đà.
Có trong mình cả một tâm hồn dào dạt phong tình, cả một tấm lòng tha
thiết với đất nước, tiếng thơ Tản Đà như một bản hợp ca của cả hai bè ấy. Nó
cứ dập dìu, có lúc đuổi nhau, quyện lấy nhau, có lúc chuyển hóa sang nhau,
và thường khi hòa nhập hẳn vào nhau. Và thật kỳ lạ, điểm hẹn thề của cả hai
tiếng lòng ấy đã đặt vào hình tượng non - nước. Chẳng phải thế sao? Non -
nước vừa là một hình tượng của lòng yêu nước, vừa là biểu tượng của tình
yêu đôi lứa. Cho nên khi hai tiếng non - nước cất lên từ hồn thơ Tản Đà,
người ta thấy đó là lời đồng vọng của những gì thẳm sâu trong tâm thức của
thi nhân.
Thế đấy, Thề non nước đâu chỉ là sản phẩm từ cuộc tao ngộ của một
đôi trai gái phong tình trong truyện ngắn cùng tên. Thề non nước trước hết là
đứa con tinh thần ra đời từ cuộc giao duyên tiền định kia trong hồn thơ của thi
sĩ. Việc sinh thành ấy dường như là tất yếu!
2. Thề non nước, chào đời tới hai lần. Lần đầu là một bài thơ lẻ, lần thứ
hai lồng ghép với một truyện ngắn. Riêng việc đến với cuộc đời một cách dặc
biệt như thế, đủ thấy thề non nước có một ý nghĩa thế nào đối với tư tưởng
Tản Đà. Đúng là bài thơ có tới ba lớp nghĩa. Ba lớp nghĩa ấy giao nhau,
nhưng phần chính là chồng lên nhau. Ba lớp ý tưởng tương ứng với ba lớp ý
nghĩa của hình tượng non nước. Nếu không có truyện ngắn Thề non nước kể
lại tình tiết người khách làng chơi và cô đào Vân Anh cùng vịnh một bức tranh
sơn thủy có tên là Thề non nước, thì người đọc thơ vẫn cứ thấy lớp nghĩa thứ
nhất của bài thơ là tái hiện vẻ đẹp thơ ca của một cảnh thiên nhiên sơn thủy.
Có thể thấy trong thơ những nét vẽ theo lối tả thực khá lộng lẫy:
Trời tây ngả bóng tà dương,
Cùng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
Là một thi sĩ từng được đào luyện trong nền giáo dục theo loại hình
trung đại, từng theo đòi văn chương cử tử, Tản Đà chưa thoát hẳn hệ thống
thi pháp trung dại. Câu thơ vẽ hình ảnh núi non này vẫn dùng những vật liệu
quen thuộc của trung đại với những “bóng tà dương”, “vẻ ngọc nét vàng”, với
lối ước lệ, cách điệu cổ điển. Đây là những thứ mà thi sĩ ngỡ chỉ là y phục.
Tản Đà muốn trút bỏ, nhưng nó thật là một thứ vòng kim cô siết chặt lên
những tung phá tự do của thơ Tản Đà khiến cho sự bức phá của hồn thơ bị
ách tắc bởi thi pháp. Và có lẽ đó cũng là điều dĩ nhiên. Thi pháp trung đại vẫn
cố giành lấy một nửa Tản Đà, không cho ông vượt thoát để sang hẳn bờ hiện
đại, để ông chỉ là một cây cầu nối giữa đôi bờ mà thôi.
Nhưng lớp nghĩa tả thực chỉ là xuất phát điểm. Nó đem lại cho bài thơ
những hình thể sống động ít nhiều mang tính trực quan, làm cho người đọc
có thể có được những rung động thẩm mĩ trực tiếp. Trước mắt người đọc
hiện lên một cảnh trí cụ thể có không gian thực và thời gian thực cảm nhận
được bằng giác quan. Dường như một bài thơ mà thiếu đi điều đó thì dù nó
có những ẩn ý sâu xa đến mấy, tầm vóc tư tưởng cao siêu đến đâu cũng sẽ
rơi vào trừu tượng. Mà trừu tượng thuần túy là chỗ chết của thơ. Vì vậy, hình
tượng trực quan làm nên hình hài của thơ, làm tiền đề không thể thiếu cho sự
thăng hoa của tư tưởng thơ.
3. Cốt lõi của cấu trúc bài thơ vẫn là cuộc đối thoại giữa non và nước.
Cả non và nước đều “tranh thủ” phô diễn tâm tình cho nên ý nghĩa tả thực bị
mờ đi và các lớp nghĩa bóng có xu hướng trôi lên bình diện thứ nhất. Có
nghĩa là ở đây cảnh non nước bị mờ đi trước tình non nước. Vì thế bài thơ đã
đi sâu vào địa hạt của nghĩa bóng ngay từ đầu, và nhất là khi non và nước lại
biết cất lên những tiếng nói trực tiếp bày tỏ.
Vậy là có một đôi trai gái “náu mình” trong non và nước. Cái tình huống
nảy sinh cuộc đối thoại này là cảnh dâu bể. Bức tranh sơn thủy, nhưng chỉ có
sơn không có thủy. Nói đúng hơn, Sơn thì vẫn còn đó, nhưng thủy đã ra đi -
dưới chân núi có rặng dâu xanh tốt, qua đó người đọc có thể hình dung trước
kia là biển xanh (nước) theo luật “thương hải biến vi tang điền”. Thành thử
bức tranh không vẽ nước mà vẫn có nước vậy. Theo cái lôgic nội tại của hình
tượng, cảnh đổi thay dâu bể trong thiên nhiên đã trở thành cảnh biệt li lưu lạc
của tình yêu đôi lứa. Đây là chỗ để Tản Đà bắc nhịp cầu nối các lớp nghĩa với
nhau. Thì hiện tại là dâu bể. Cả thiên nhiên, cả lứa đôi, cả non nước đều
trong cơn dâu bể. Hiện tại, thực tại dâu bể kia đã chia lìa tất cả.
Và núi đã thành núi tương tư. Dựa vào những sự vật được mô tả trong
bức tranh, Tản Đà đã không dừng lại ở việc vịnh lại bức tranh một cách máy
móc, mà tái tạo thành hình tượng núi - tương - tư trong dáng vẻ một nàng cô
phụ:
Non cao những ngóng cùng trông,
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
Mỏi mòn trong tương tư, con người ta có thể bị hao gầy thân xác, nên
chính xác hao gầy về thân xác là một bằng chứng sống của nỗi tương tư.
Ngày xưa Trương Cửu Linh đã viết:
Nhớ chàng như mảnh trăng đầy
Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm
(Lời dịch của Ngô Tất Tố)
Ở đây cũng vậy, núi tương tư được mô tả như một hình ảnh mà nét
nào cũng hư hao, gầy mòn, tàn tạ đi. Nhớ thương đã làm nhan sắc phôi pha
theo ngày tháng. Tuy hao gầy nhưng non vẫn không hề đổi thay, lòng vẫn
chung tình, son sắt:
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non còn nước hãy còn thề xưa.
Có thể nói toàn bộ phần ấy là lời của non. Không phải non đang tự họa
về cái dáng vóc hình hài của mình mà đang tự tình, đạng phô diễn cái tình
nhớ nhung, chung thủy của mình.
4. Lời của nước cũng rất mực thủy chung. Mỗi lời là một sự khẳng định
đinh ninh, trước sau như một. Mỗi lời của nước đều dựa vào quy luật vĩnh
diễn của tự nhiên, đều tạc vào sông núi.
Non cao đã biết hay chưa
Nước đi ra biển lại mưa về nguồn.
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non nước nước chưa nguôi lời thề.
Hai chữ non nước bắt đầu từ câu đầu tiên của bài thơ cứ lúc chia tách
thành non, nước có lúc nhập vào nhau. Nhưng chưa lúc nào có được sự
quấn quít, xoắn xuýt, hạnh phúc tràn ngập như ở câu cuối cùng này. Chữ
nghĩa trong bàn tay Tản Đà đâu phải là những kết hợp vô tình?
- Cả non và nước đều khẳng định đinh ninh: sông cạn đá mòn, vật đổi
sao dời... nhưng thề xưa thì quyết không mảy may di dịch. Trước cảnh thế
gian biến cải, một lời thề đinh ninh ấy có thể làm niềm tin duy nhất của nước
non. Trong cái biến nhất thời khẳng định cái bất biến đời đời, chẳng phải đó
chính là tư tưởng cốt lõi của Thề non nước chăng?
5. Lớp nghĩa thứ ba được suy ra từ đó là vấn đề chủ quyền của đất
nước. Có thể nhất thời đất nước bị mất chủ quyền. Nhưng chủ quyền rồi sẽ
trở về, đó là niềm tin đinh ninh, một chân lí vĩnh viễn. Hiện tại là ngắn ngủi, và
sẽ kết thúc. Nước sẽ trở về trong “Nghìn năm giao ước kết đôi”, không chỉ
như thực hiện một lời thề, mà nước sẽ trở về như một quy luật, một lẽ sống
của nước - non.
Trong hoàn cảnh đương thời, viết về đất nước, vẫn sao vẫn cứ là một
việc mạo hiểm. Tản Đà đã phải dùng đến một chuyện phong tình để khoát lên
cái tư tưởng sâu xa của bài thơ. Điều lí thú là cả phong tình và yêu nước đều
là những luồng tình cảm dồi dào trong hồn thơ Tản Đà, nên nó mới quyện lại
thành một bài thơ nhuần nhuyễn như vậy.
Có thể thấy non nước là một biểu tượng được dùng phổ biến trong thơ
ca thời này. Về sau, chúng ta thấy viết về Tổ quốc, thơ ca hay dùng trực tiếp
biểu tượng đất nước. Phải chăng cảm xúc thiên nhiên ở cả hai biểu tượng thì
như nhau, còn cảm xúc phong tình trong non nước đậm hơn, trong khi đó
cảm xúc chính trị trong đất nước trực tiếp hơn? Dẫu sao trong thơ ca (ở cấp
độ hình tượng bao trùm tổng quát chứ không nói cấp độ từ) từ non nước đến
đất nước, dường như vẫn là hai chặng đường!
BÀI LÀM 2
1) Vài nét về tác giả và tác phẩm:
Tản Đà tên là Nguyễn Khắc Hiếu sinh năm 1888 ở làng Khế Thượng,
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, bên sông Đà, dưới chân núi Tản Viên. Thuở
nhỏ, ông học chữ Hán nhưng không đỗ. Nhà nghèo, ông chỉ biết có nghề văn
mà văn chương thì" “rẻ như bèo” thời bấy giờ, nên ông sống rất chật vật. Tuy
vậy, ông vẫn giữ được cốt cách và “lương tri” của một nhà chân nho không
khuất phục bọn thống trị đương thời. Ông làm thơ, viết văn, làm báo, xuất bản
sách, đi khắp Bắc, Trung, Nam, vẫn nghèo túng. Những năm cuối đời, ông
phải làm thêm nghề tướng số kiếm ăn, thật là mỉa mai đối với một nhà thơ có
tài. Ông mất năm 1939. Tác phẩm chính của ông gồm có: Giấc mộng lớn,
Giấc mộng con, Khối tình con, Thề non nước...
Bài thơ Thề non nước rút từ truyện ngắn cùng tên. Truyện kể lại cuộc
gặp gỡ giữa một cô đào là Vân Anh với một người đi nghe hát. Hai bên ý hợp
tâm đầu. Nhưng rồi người con trai ra đi. Vân Anh chờ đợi mãi. Khi gặp lại
nhau, cả hai cùng làm bài thơ này đề lên một bức tranh sơn thủy.
2. Phân tích bài thơ:
Quan hệ đồng nhất hay chủ đề của bài thơ này là gì. Chúng ta hảy đi từ
cấu trúc của bài thơ, tìm ra những nét bất biến, đó là những yếu tố được lặp
đi lặp lại nhiều lần, thể hiện nội dung cơ bản hay một mặt nào đó của nội
dung cơ bản của bài thơ. Ở đây, “lời thề” đã được lặp lại bốn lần:
- Nước non nặng một lời thề
- Nhớ lời nguyện nước thề non
- Còn non còn nước vẫn còn thề xưa
- Non non nước nước chưa nguôi lời thề.
Mở đầu bài thơ bằng câu: Nước non nặng một lời thề và kết thúc bài
thơ bằng câu: Non non nước nước chưa nguôi lời thề. Non tượng trưng cho
người kỹ nữ, nước tượng trưng cho nhà văn, khách làng chơi. Trong 22 câu,
15 nhắc đến non và nước, trong đó:
Hai câu nhắc đến “nước”:
- Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
- Nước kia dù hãy còn đi
Năm câu nhắc đến “non”:
- Non cao những ngóng cùng trông
- Non cao tuổi vẫn chưa già
- Non cao đã biết hay chưa
- Bảo cho non chớ có buồn làm chi
- Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
Tám câu nhắc đến cả “nước” và “non”:
- Nước non nặng một lời thề
- Nước đi đi mãi, không về cùng non
- Nhớ lời nguyện nước thề non
- Nước đi chưa lại, non còn đứng không
- Non thời nhớ nước, nước mà quên non
- Còn non còn nước vẫn còn thề xưa
- Nước non hội ngộ còn luôn
- Non non nước nước không nguôi lời thề
Sự lặp lại nhiều lần nước non, non nước là non non nước nước đã nêu
bật hai hình ảnh gắn bó với nhau, và qua đó biểu hiện rõ mối tình chung thủy,
tha thiết, nồng nàn và mối tương tư day dứt trong lòng của cô gái đang trông
chờ khắc khoải. Đó là quan hệ đồng nhất, là linh hồn của kết cấu bài thơ.
Tác giả đã thể hiện cái linh hồn cốt tủy ấy trong kết cấu nghệ thuật như
thế nào?
Qua miêu tả bức tranh sơn thủy, tác giả đã khéo vận dụng nghệ thuật
tượng trưng để biểu hiện hình tượng người con gái khắc khoải trông chờ
người yêu xa vắng:
- Trái núi (non cao), tượng trưng cho người con gái
- Cây mai, tượng trưng cho thân hình người con gái
- Dòng suối, tượng trưng cho mắt người con gái
- Khóm mây, tượng trưng cho tóc người gái
- Nương dâu, tượng trưng cho nước đã đi ra bể.
Ánh sáng của bức tranh là một buổi chiều tà, tượng trưng cho cuộc đời
đang tàn tạ của người con gái.
Dựa vào mối quan hệ đồng nhất và căn cứ vào những nét đối lập, có
thể chia hệ thống hình tượng này ra bốn cấp độ như sau:
- Hoàn cảnh của nước và non (4 câu thơ đầu).
- Tâm trạng của non trong những ngày vắng nước
- Lời an ủi của nước đối với non
- Nước non khẳng định lại lời nguyền.
Lựa chọn yếu tố nào để phân tích? Tác giả miêu tả hoàn cảnh xa cách
của “nước” và “non”, qua đó nêu lên cảnh ngộ khái quát của “non” một mình
chờ đợi. Mở đầu bài thơ, tác giả giới thiệu “non” và “nước” giao ước với nhau
bằng một lời thề sâu nặng: “Nước non nặng một lời thề, cũng như Nguyễn Du
đã từng nói trong Kiều: Song song hai mặt một lời đinh ninh. Nhưng rồi nước
đi, đi mãi, một mình “non” ở lại đợi chờ. Cảnh ngộ đau buồn này được diễn
đạt bằng hai ý với hai yếu tố ngôn ngữ lặp đi lặp lại trong một cấu trúc đan
chéo:
- Nhắc lại lời thề: Câu 1 và câu 3:
- Nhắc lại hoàn cảnh xa cách: câu 2 và câu 4.
Những yếu tố lặp lại ấy diễn tả những sắc thái ý nghĩa và biểu cảm
khác nhau:
Lời thề ở câu 1 nêu lên sự giao kết sâu nặng trong một lời tường thuật
bình thưòng. Còn ở câu 3 thì lời thề được diễn đạt bằng một hình thức khác
hơn: Nhớ lời nguyện nước thề non “Nguyện nước thề non” là phỏng theo
thành ngữ chữ Hán “thệ hải minh sơn” (chỉ biển mà thề, chỉ non mà hẹn),
đồng thời cũng gợi lên hình ảnh “nước” và “non” cùng nhau thề thốt.
Câu 2 diễn tả sự xa cách đang diễn ra, (nước) ở đầu câu, “non” đứng ở
cuối câu, giữa “nước” và “non” là những từ “đi mãi không về” tạo ra cái thế xa
cách trùng trùng về thời gian và không gian. Đi mãi, không về đứng bên nhau
đã nói lên cái day dứt của buổi đầu xa cách đang còn ấm hơi thở của nhau.
Câu 4 lặp lại ý câu 2, cũng nói sự xa cách, nhưng là xa cách thực sự,
đã lâu dài. Nhịp điệu hài hòa của câu thơ chia đều ra làm hai vế 4- 4 đã diễn
đạt được ý: Nước đi chưa lại non còn đứng không. Và tâm trạng của “non”
trong những ngày vắng “nước” Non cao những ngóng cùng trông, hình ảnh
của “non” thật não nùng” đăm đăm nhìn mải về một phương trời xa xăm, mờ
mịt. Im lặng và “những ngóng cùng trông”. Từ đệm “những” ở đây đặt trước
động từ để nhấn mạnh ý liên tục và kéo dài của thời gian, có lẽ còn hơn nàng
Kiều: Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm. Hình tượng “non cao” không chỉ
diễn tả sự mong đợi “đã mòn con mắt” mà còn diễn tả sự lẻ loi, trơ trọi, lặng lẽ
như “hòn đá vọng phu”. Tác giả đã khéo vận dụng những hình ảnh tiêu biểu
màn ước lệ để vừa tả bức tranh vừa tả người con gái tương tư: “suối khô
dòng lệ”, dòng lệ đã cạn vì tháng đợi năm chờ khắc khoải, nên: Xương mai
một nắm hao gầy. Tóc cũng đã bạc như khóm mây đầy sương tuyết: Tóc mây
một mái đã đầy tuyết sương. Đến buổi về già: Trời tây ngả bóng tà dương,
người con gái không còn đủ sức chống lại sự tấn công và tàn phá thiên nhiên
nữa, nên cũng đã xấu đi, sắc cũng đã lạt phai rồi: Càng phơi vẻ ngọc nét
vàng phôi pha. “Suối, sương mai, tóc mây, vẻ ngọc, nét vàng” là những yếu tố
then chốt biểu thị trường nghĩa tương tư tiều tụy, héo hon, vì sầu não nhớ
thương của một con người. Tuy nhiên: Non cao tuổi vẫn chưa già, người con
gái chung tình vẫn thấy mình còn nhiều sức sống: Sức sống của tình yêu làm
con người vẫn trẻ. Cho nên, người con gái trách móc người yêu: Non thời
nhớ nước, nước mà quên non.
Phần còn lại của bài thơ là lời của người khách lãng du từ một phương
trời xa xăm nào đó vọng về an ủi. Khác với đoạn trên miêu tả về người con
gái tương tư nên nói bằng tình cảm, đoạn này phải dùng lý trí để chinh phục
tình cảm. Sức mạnh của lý lẽ đưa ra là sức mạnh của quy luật tự nhiên và
quy luật tình cảm.
Bắt đầu, người con trai cũng nhắc lại lời thề để đối đáp:
Dù cho sông cạn đá mòn
Còn non, còn nước, vẫn còn thề xưa.
Người con trai giả định dù có những biến đổi lớn lao như sông cạn, đá
mòn thì tấm lòng của anh cũng vẫn sắc son, không thay đổi, lời thề cũ vẫn
còn, nghĩa cũ vẫn như xưa. Đó là biện pháp dựa vào quy luật tự nhiên để chỉ
ra chiều sâu của tình cảm, có tính chất thuyết phục. Hơn nữa, điều giả định
ấy (sông cạn, đá mòn) khó có thể xảy ra hay không phải lúc nào cũng xảy ra,
cho nên lại càng tăng thêm lòng tin vào thủy chung duy nhất.
Người con trai lại dựa vào quy luật tuần hoàn của nước: Nước đi ra bể
lại mưa về nguồn để chứng minh quy luật tự nhiên của con người, của vạn
vật. Nước về nguồn, chim về tổ, con người trở lại với gia đình. Đó là lệ
thường dễ gây cho cô gái một niềm hy vọng về ngày mai đoàn tụ. Trên cơ sở
nhận thức ấy, người con trai khẳng định một lòng tin:
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo non chớ có buồn làm chi
Trong thực tế vẫn còn xa cách, nhưng xa cách để hứa hẹn ngày tái ngộ
tốt đẹp.
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
“Ngàn dâu xanh tốt” là hình ảnh thương yêu đượm màu hy vọng. Lời an
ủi mang sức thuyết phục: Có tình có lý, đanh thép, thể hiện sực gắn bó thủy
chung của “nước” đối với “non”.
Tất cả những việc trên đều dẫn đến kết luận tất nhiên:
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi lời thề.
Lời thề non nước khẳng định lại ở câu kết thúc. Hình thức láy lại non
non nước nước có ý nghĩa khái quát chỉ sự gắn bó không bao giờ phai nhạt
giữa hai người.
Tóm lại, toàn bộ bài thơ là một bức tranh trữ tình, một hệ thống hình
tượng biểu lộ sắc nét qua tâm tư người con gái và người con trai, một mối
tình chung thủy. Đó là chủ đề của bài thơ. Nhưng chủ đề này mang tư tưởng
gì của thi sĩ? Tất nhiên, mối tình chung thủy thoát ra từ hệ thống hình tượng
ấy không phải là một mối tình lứa đôi, vì nếu chỉ là mối tình lứa đôi giữa nhà
thơ và kỹ nữ, thì có gì đáng để người đời ca ngợi, lưu truyền. Đó là một mối
tình đồng điệu giữa nhà thơ và- người kỹ nữ bị vùi dập, qua đó, tác giả lên án
chế độ áp bức bóc lột chà đạp tài năng phẩm chất của con người.
BÀI LÀM 3
Trong nền văn học Việt Nam, có một thi nhân đặc biệt, chiếm vị trí cũng
đặc biệt trên thi đàn. Đó là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Đặc biệt bởi tài sử
dụng ngôn ngữ của ông mà có người đã khâm phục như một nhà ảo thuật
ngôn ngữ. Đặc biệt bởi vì ông là “chiếc gạch nối giữa thơ cũ và thơ mới”
(Hoài Thanh). Sinh thời, ông viết nhiều tác phẩm hay, nhưng nổi tiếng nhất
vẫn là bài thơ “Thề non nước”.
Bài thơ có gì đặc biệt lại cùng tác giả rạng danh trên thi đàn Việt Nam
đến như vậy?
Ta hãy xem:
Nước non nặng một lời thề
Nước đi, đi mãi không về cùng non.
Hình ảnh một cuộc chia ly hiện ra buồn bã qua một câu thơ như một lời
thở dài nặng trĩu. “Nước non” gợi lên hình ảnh về một bức tranh sơn thủy, có
núi sông. “Nước non” ở câu trên đi cạnh nhau như một đôi bạn quấn quýt, và
trọng tâm của câu đặt vào chữ “nặng” càng làm rõ cái sắt đá của lời thề.
Tưởng chừng như không gì chia cách được nước non. Ấy thế mà:
Nước đi, đi mãi không về cùng non.
“Nước, non” bị tách ra hai đầu câu thơ, như cùng tồn tại ở hai cực, tách
biệt và xa cách làm sao. Nước đi như một tất yếu khách quan của qui luật vận
động. Còn non đứng lại, chỉ biết chờ mong. Từ “đi” được lấy và được ngăn
cách, tạo cảm giác về một sự day dứt khắc khoải khôn nguôi. Non khắc khoải
điều gì?
Nhớ lời nguyện nước thề non
Nước đi chưa lại non còn đứng không.
Lời “nguyện nước thề non” thiết tha là thế, sâu nặng là thế, ấy mà non -
nước vẫn cách chia. Một lần nữa, non - nước lại đứng ở hai vế câu đối lập:
Nước đi chưa lại non còn đứng không.
Vẫn gợi hình ảnh hai thế giới tách biệt, vẫn gợi sự chia li cách trở. Thế
nên:
Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Sương mai một nắm hao gầy
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Trời tây ngả bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
Hình ảnh của non hiện ra ở đây cụ thể hơn, như một người con gái.
Những “dòng lệ sương mai, tóc mây, vẻ ngọc nét vàng” đầy ước lệ chẳng đã
nói lên điều đó sao? Người con gái nhưng buồn. Một lần nữa cái phong vị
chia ly lại thấm đều trên từng câu chữ, lại khắc đậm thêm trong ta một nỗi u
tình sâu kín. Nhạc thơ hầu hết là thanh bằng, tạo âm điệu trầm buồn da diết.
Tứ thơ chất chứa nỗi cô đơn:
Sương mai một nắm hao gầy
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
Điều gì cũng chỉ có một! Một mái tóc mây, một dáng vẻ hao gầy, một
mình non đứng cô đơn. Thế nhưng, nỗi sầu thì cứ tuôn ra đầy vơi, nỗi buồn
như muốn trào ra từng lời nói, câu thơ ẩn ngầm một sự đối lập xót xa.
Tất cả chỉ vì nước đã ra đi, đi xa lắm. Nhưng nước thì làm sao không
chảy cho được, cũng như người trai sao yên vị một chỗ cho đành. Nước đi
theo lẽ tự nhiên như người trai phải ra đi vì đất nước. Nhưng sao người con
gái lại thảm sầu đến thế! Phải chăng thời buổi nhiễu nhương đã bức lìa câu
thề non - nước, tách rời hai thực thể vốn dĩ phải gần nhau. Lời thơ hiển hiện
mà ý từ cứ ẩn ngầm. Ta bắt gặp trong khung cảnh một câu chuyện tình quen
thuộc bóng dáng một xã hội loạn li mà tác giả không đề cập tới. Tuy thế, ý tứ
và hình ảnh cứ như bật dậy khỏi trang giấy, đây vào lòng người đọc một cách
sống động lạ thường.
Có vẻ như bức tranh “Thề non nước” sẽ nhuốm một màu sắc bi quan u
tối, nếu như không có những câu thơ:
Non cao tuổi vẫn chưa già
Non thời nhớ nước, nước mà quên non
Dù cho sông cạn đá mòn
Còn non, còn nước hãy còn thề xưa.
Non cao đã biết hay chưa
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
Nếu như ở đoạn thơ trên, sự ra đi “nước” là một qui luật tự nhiên thì ở
đoạn này, viễn cảnh về sự trở lại của “nước” cũng tuân theo một qui luật tự
nhiên bất di bất dịch. Có thể nó đoạn thơ này là lời an ủi thiết tha, chân thành
của “nước” dành cho “non”.
Dù cho sông cạn đá mòn
Còn non, còn nước hãy còn thề xưa.
Lời thề vàng đá ngày nao vẫn còn đó, sâu nặng trong mỗi người. Cho
nên đáp lại sự chung thủy đợi chờ của non là sự sắt son của nước.
Non cao đã biết hay chưa
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
Cặp từ “non, nước” được liên tiếp lặp lại ở những vị trí khác nhau, ngày
càng gần lại, ban đầu còn cách biệt câu trên câu dưới, còn song đôi nhưng
chưa gặp gỡ thì sau đã đi liền nhau như tái hợp, sum vầy. Ta thấy từ trong
mỗi câu thơ lóe lên những tia hi vọng tươi sáng, hợp thành một niềm tin chắc
chắn vào một ngày sum họp gần kề. Tản Đà đã rất hữu ý khi sắp xếp từng
câu chữ.
Đoạn thơ như một lời an ủi nhiệm màu thổi vào lòng non ngọn lửa hồng
ấm áp của niềm tin và sự lạc quan. Nước non tuy xa cách, nước tuy đi khuất
nhưng có một ngày quay về với non:
Nước đi ra bể lại đi về nguồn.
Như một người con trai đạt thành sự nghiệp qui cố hương với tấm lòng
thanh thản tươi vui.
Tầng nghĩa thức ba của cặp từ “non - nước” hiện ra ngay ở đây hàm ý
về tấm lòng Tản Đà đối với non nước, quê hương. Nếu như ở một đoạn thơ
đầu, ông bộc lộ nỗi buồn chán cho cảnh đất nước qua giọng thơ sầu não thì ở
đoạn này, một nhịp thơ khoan thai mà âm điệu vui vẻ lại vẽ nên một Tản Đà
khác hẳn, một Tản Đà ngập tràn hi vọng một ngày mai tươi sáng, một tương
lai tốt đẹp cho nước nhà.
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi.
Non non nước nước không nguôi lời thề.
Màu xanh tươi tắn và khỏe khoắn của ngàn dâu tượng trưng cho một
khởi đầu tốt đẹp sau những thay đổi tang thương. Từng lời từng chữ cứ
quyện vào nhau, đan kết lại trong một nỗi hân hoan dào dạt. Ta như thấy
được nét mặt vui mừng của người chinh phụ khi đón chồng về, như cảm
nhận được niềm vui ngân lên trong những thanh âm trong trẻo của hai câu
thơ cuối.
Bức tranh “Thề nước non” mang một hình ảnh cụ thể của một bức
tranh sơn thủy nhưng lại mang nét trừu tượng của một bức tranh phức tạp.
Cái hay của bài thơ là ở ngôn ngữ nghệ thuật ngôn ngữ điêu luyện của Tản
Đà, cũng là ở tấm lòng ưu ái của ông với đất nước.
Bài thơ mang một giá trị cao là vì thế. Nó là một trong vài dấu son cuối
cùng của thơ cổ, chuyển tiếp sang thời kì thơ mới hiện đại.
LÊ QUỲNH CHI
B. LUYỆN TẬP:
1. Phân tích lời tâm sự của nhân vật “Non” trong bài “Thề non nước”
của Tản Đà.
2. So sánh hai dòng đầu và hai dòng cuối của bài “Thề non nước” để
thấy được phát triển tình cảm của nhân vật trữ tình.
3. Hãy phân tích mối quan hệ gắn bó giữa Non và Nước trong bài thơ
“Thề non nước” của Tản Đà.
4. Thề non nước là bài thơ đậm đà màu sắc dân tộc. Anh (chị) hãy làm
sáng tỏ nhận xét trên.
5. Phân tích tính đa nghĩa của bài thơ “Thề non nước”.
6. Sắc gợi của hình tượng “non” và “nước"
7. Đọc Thề non nước của Tản Đà, người thì cho rằng viết về tình yêu
thắm thiết giữa nam nữ, người thì nói tác giả viết về phong cảnh thiên nhiên
hữu tình, người thì cho rằng Tản Đà muốn thổ lộ nỗi cô đơn của mình, nhưng
có người lại khẳng định: Thông qua chuyện tình yêu và lời thề thủy chung gắn
bó giữa non và nước, tác giả muốn thổ lộ một lòng yêu nước thầm kín trước
hiện tại và niềm ước vọng vào ngày mai.
Theo anh (chị) nên hiểu bài thơ thế nào và phân tích bài thơ để làm rõ
cách hiểu đó.
8. Phong cách và tài năng của Tản Đà qua bài thơ Thề non nước.
CHA CON NGHĨA NẶNG
HỒ BIỂU CHÁNH
A. BÀI VĂN
Phân tích nhân vật Trần Văn Sửu trong đoạn trích “Cha con nghĩa nặng”, từ đó hãy nêu ý nghĩa “biểu chánh” của tác phẩm.
BÀI LÀM
Ai đã từng đọc tác phẩm cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh hẳn
không khỏi xúc động trước tình cha con thắm thiết của ông Trần Văn Sửu với
hai con người là Quyên và Tí. Mặc dù gặp hoàn cảnh éo le, trôi dạt, bỏ quê
hương ra đi hơn mười một năm nhưng ông Sửu vẫn luôn hướng về các con,
lo cho cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của con mình. Có thể nói, ông
Sửu là một người cha đã chịu bao nhiêu đau khổ nhưng luôn nêu cao tình
cảm thương con, luôn hi sinh vì các con. Ông là một người cha thật điển hình,
gặp bao khó khăn, khổ ải, thay tên đổi họ, sống cũng như chết - mà linh hồn
vẫn ngời sáng hướng về các con.
Ông Sửu là một người cha phải chịu đựng bao nhiêu nỗi đau khổ. Từ
lúc còn trai trẻ, ông đã phải chịu đựng một cuộc sống chung với người vợ
thiếu đạo đức. Nếu đọc từ đầu tác phẩm, chúng ta sẽ hiểu hơn điều này. Một
con người thật thà, chăm chỉ, thương vợ thương con như ông mà phải sống
với người vợ đàng điếm, lăng loàn, lại có ngoại tình thì thật là bất hạnh. Ngay
trong lời nói của Trần Văn Tí - người con trai ông cũng đã thể hiện rõ điều đó:
“Cưới vợ làm gì? Cưới vợ đặng báo hại như má báo hại cha hồi trước đó
sao?. Cũng vì người vợ thiếu đạo đức này cùng với sự nóng tính của mình,
ông lại phạm tội ngộ sát vợ (do một lần Trần Văn Sửu bắt được vợ ngoại tình
lại ăn nói láo xược, tức quá, Sửu xô vợ và không may vợ bị chết). Thế rồi,
ông phải bỏ quê hương đi trốn biệt, sống chui lủi mười một năm trời, thay tên
đổi họ. Cuộc đời ông thật là bất hạnh, có nhà cửa, con cái mà cũng như
không, phải sống đơn độc nơi đất khách quê người, từ người Kinh đến thành
người Thổ. Ngay cả cái tên Trần Văn Sửu ông đã mang từ khi lọt lòng mẹ.
Ông cũng không được giữ lấy mà đành phải đổi thành Sơn Rùm. Mười một
năm ấy ông cũng không được sống thanh thản với cõi lòng mình, trong ông
luôn canh cánh một nỗi lo không dứt: lo cho hai đứa con còn đang ở quê nhà,
lo cho nỗi oan khuất của mình chưa được giải tỏa. Tuy nhiên, cuộc đời đầy
khổ ải trong mười một năm qua của ông cũng chưa được kết thúc khi ông trở
lại quê nhà thăm con. Mục đích trở về làng của ông thật giản dị, trong sáng.
Vậy mà, ông vẫn không được chấp nhận. Ai đã từng là người cha chắc đều
thấu hiểu nỗi đau xót của ông: xa cách con bao nhiêu năm, bây giờ chỉ chờ
một lúc nữa thôi, ông sẽ thỏa lòng mong nhớ, ông sẽ gặp được con, sẽ giải
đáp được bao nhiêu câu hỏi mà ông luôn mong có được ngày trả lời. Không
biết giờ đây chúng có còn nhớ đến ông không? Bấy lâu nay chúng sống ra
sao, giờ đây chúng lớn bằng chừng nào? Nhưng do lời khuyên ngăn của bố
vợ mà ông đành gạt nước mắt quay trở lại: “Sống làm chi, rồi quan làng họ
bắt, đây sinh chuyện ra nữa. Mày thiệt là khốn nạn lắm. Đi liền bây giờ đi. Vô
Rạch Giá, Cà Mau mà trốn cho biệt tích, đừng có về đây nữa...”. Như vậy,
cuộc gặp gỡ không hẹn trước của ông đã tan vỡ trong sự đau xót. Bao mơ
ước có ngày gặp lại con của ông đã tan tành. Nỗi đau khổ của ông không chỉ
có vậy. Ông ra đi dưới ánh trăng trong trẻo, sáng sủa lại phải hoảng hốt bỏ
chạy mà người đuổi lại chính là con trai mình. “Cha chạy trước, con chạy sau,
nhưng vì cha sợ chúng bắt phải chạy đặng thoát thân, nên chạy mau quá, con
theo không kịp”. Ông chạy trốn con như một kẻ tội phạm bị truy bắt. Ông chạy
trước để tránh gặp mặt con (điều mà ông không hề muốn); con chạy sau đuổi
theo cha để kịp ngăn chặn những hành động buông xuôi của cha và mong
gặp lại cha sau bao năm xa cách. Có thể nói, Trần Văn Sửu là một người cha
chịu bao nhiêu cay đắng, bất hạnh của cuộc đời, những cay đắng, bất hạnh
không biết bao giờ mới hết.
Tuy phải chịu khổ cực nhưng Trần Văn Sửu vẫn luôn là người cha
thương yêu các con. 11 năm trời thể xác ông như tàn tạ, như đã chết, nhưng
tâm hồn, tình thương vẫn sống, vẫn lớn dần, ngời sáng hướng về các con. Có
thể nói, mười một năm trời ấy, tình thương yêu, nhớ các con lớn dần lên
trong ông, tích tụ lại và đến một ngày nó thôi thúc ông quay về làng tìm gặp
con mình. Động cơ trở về làng của ông Sửu là tìm hiểu cuộc sống và giải tỏa
nỗi băn khoăn cho những đứa con. Đó là một người cha đầy trách nhiệm, biết
quan tâm đến cuộc sống vật chất và tinh thần của con. Tuy sống trong khổ
cực, sống cũng như chết, nhưng không vì thế mà ông buông xuôi, quên lãng
các con. Phút đầu gặp bố vợ, ông nói: “Mười mấy năm con thương nhớ
chúng nó quá tía ơi”, “Con nhớ sắp nhỏ quá”... Qua những câu nói của ông
Sửu, ta càng thấm thía hơn tình yêu thương của ông với các con. Trong câu
nói của ông dường như có nước mắt, như van nài năn nỉ người bố vợ vì một
mục đích duy nhất: được gặp con. Có lẽ, mười một năm qua ông đã cố sống
để mong có ngày này: “Mười một năm cực khổ hết sức, sống ráng mà sống,
là vì trông mong có ngày thấy được mặt con”.
Khi biết những điều lo lắng của mình đã được giải tỏa, ông đã chấp
nhận cái chết để mong con mình được sung sướng, không phải liên lụy vì ông
- một người cha đã từng bị người đời cho là kẻ phạm tội. Hành động của ông
có thể hơi kì quặc nhưng cũng không hợp lí, đúng với tâm lí và phẩm chất của
người cha luôn luôn cầu mong cho được hạnh phúc. Ông ra đi tìm cái chết
trong sự sung sướng, thỏa mãn vì các con ông giờ đây đang được hạnh
phúc. Chính vì vậy, cảnh dòng sông - nơi ông định trầm mình được Hồ Biểu
Chánh tả lại thật đẹp. Nó như tô đậm thêm hình ảnh đáng thương đáng quý
của người cha: “Bấy giờ mình còn sống làm gì nữa! Bấy lâu nay mình lăn lóc
chịu cực khổ mà sống, ấy là vì mình thương con, mình sợ nó không hiểu việc
xưa (...) chết mới quên hết việc cũ được, chết đặng hết buồn rầu, cực khổ
nửa”. Tuy nhiên, ý định của ông không thành vì con trai đã kịp ngăn lại. Ông
Sửu gặp được con, mừng mừng tủi tủi. Có lẽ đây là giờ phút vui sướng nhất
của ông sau mười một năm. Tí tỏ ý sẵn sàng đi nuôi cha nhưng ông Sửu vẫn
tỏ ra là một người cha hết lòng vì con, ông Sửu khuyên Tí về nhà với ông
ngoại, còn ông lại tiếp tục cuộc đời mai danh ẩn tích, chấp nhận cuộc đời tha
phương lặng lẽ, không tên tuổi, họ hàng, sống cũng như chết, bởi ông nhận
ra rằng: Chỉ có như vậy hạnh phúc của con mới được trọn vẹn, các con sẽ
không phải bận bịu, liên lụy vì ông. Có thể nói, đến giây phút này, được gặp
con, được biết những điều mà ông hằng mong ước cho cuộc sống của các
con, ông vẫn từ chối quay trở về làng cùng chung hưởng cảnh sum họp gia
đình. Ông chấp nhận cảnh chia lìa là để con được hưởng hạnh phúc trọn vẹn.
Ông luôn luôn hi sinh bản thân mình để giành lấy hạnh phúc cho hai con.
Tìm hiểu nhân vật người cha - ông Trần Văn Sửu, một con người chịu
đau khổ nhưng luôn mong con được hạnh phúc, hi sinh tất cả vì con, ta lại
nhớ đến nhân vật Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Lão Hạc
cũng là một người cha đầy đau khổ vì nghèo quá mà đành phải để con đi làm
đồn điền cao su, cuối cùng lão đã tìm đến cái chết để giữ lại cho con mảnh
vườn và số tiền bấy lâu ông dành dụm được mà không muốn tiêu phí vào
việc chữa chạy bệnh tật ốm đau của mình.
Tóm lại, Cha con nghĩa nặng là một tác phẩm đề cao giá trị con người.
Đó là tình cha con, nêu cao ý nghĩa nhân bản, nhân văn thật xúc động. Qua
tác phẩm, ta hiểu thêm về ý nghĩa “biểu chánh”, đó là đề cao tình người với
người, khuyên con người sống có tình có nghĩa, thủy chung với nhau, biết hi
sinh bản thân mình để đem lại, giành lại nguồn vui cho mọi người, cho những
người trong gia đình cũng như những người khác. Đặc biệt là trong tình cảm
giữa những người cùng chung một gia đình: Hãy sống với nhau chân thành,
tình sâu, nghĩa nặng, bỏ qua những thiếu sót sai lầm của nhau để cùng chung
hưởng cuộc sống hạnh phúc. Đọc đoạn trích của tác phẩm, chúng ta thêm
khâm phục Hồ Biểu Chánh - con người đạo đức cao cả; khâm phục và cảm
thông với Trần Văn Sửu - người cha điển hình, của tình thương yêu vợ con,
hết lòng vì hạnh phúc của người thân.
NGỌC DIỆP
Phân tích tình cha con qua hai nhân vật Sửu (người cha) và Tí (người con) trong đoạn trích tác phẩm “Cha con nghĩa nặng” của Hồ Biểu Chánh.
BÀI LÀM
Hồ Biểu Chánh là một nhà văn rất quen thuộc của nhân dân Nam bộ.
Ông là tác giả của hơn 60 cuốn tiểu thuyết, ông được xem là một trong số ít
người tiên phong đặt nền móng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Tiểu thuyết
của ông chẳng những đã phản ánh một phong cách phong phú và chân thật
cuộc sống của nhân dân Nam bộ mà còn thể hiện đạo đức tốt đẹp của con
người giữa cuộc đời. Tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng đã nêu bật tình cảm
sâu sắc xúc động của nhân vật cha Sửu và nhân vật con Tí mà đoạn hiện in
trong sách Văn 11 là một trường hợp tiêu biểu.
Trước hết ta thấy đoạn trích hiện lên trước mặt người đọc hình ảnh của
ba nhân vật, song điều đáng quan tâm thì chỉ có hai (Sửu và Tí). Mặc dù chỉ
qua một đoạn trích nhưng số phận của nhân vật Sửu hiện lên khá đầy đủ.
Trần Văn Sửu sống trong hoàn cảnh thật éo le. Do vô tình, ông mang tiếng là
người giết vợ. Sợ pháp luật săn đuổi trừng trị, Trần Văn Sửu phải sống chui
lủi, đến tên tuổi tung tích của mình cũng phải tìm cách xóa sạch. Trên mười
năm trời, Trần Văn Sửu phải chịu đau khổ về thể xác, tâm hồn, chịu cảnh cắn
rứt dằn vặt của lương tâm. Những điều này được thể hiện qua lời nói của
nhân vật khi gặp lại bố vợ và đứa con trai yêu quý của mình. Tác giả chưa
miêu tả chiều sâu của nội tâm nhân vật chủ yếu dùng hành động và lời nói để
thể hiện phẩm chất đạo đức của Trần Văn Sửu. Trong hoàn cảnh cuộc sống
không đáng sống, thậm chí Trần Văn Sửu đã sống những ngày không ra cuộc
sống của con người nhưng ông đã không chết được vì lòng thương con, vì sự
cắn rứt của lương tâm. Ông vốn là người lương thiện, hiền lành chất phác,
thương vợ, thương con mà vợ ông lại là con người đàng điếm lăng loàn. Ông
sợ là khi mình chết đi mà các con ông không hiểu được cha của nó một cách
đúng đắn, chúng sẽ sống trong đau khổ vì là con của người cha tàn bạo. Rõ
ràng Trần Văn Sửu có cõi tâm cao thượng chỉ muốn riêng mình nhận lấy nỗi
khổ đau cùng với người vợ bất hạnh, không muốn những đứa con ngây thơ
trong trắng của mình phải chịu vạ lây, không muốn cho tâm hồn chúng vẩn
lên những nỗi đau u uất. Thì ra những năm tháng sống đau khổ về thể xác, về
tâm hồn, ông Sửu đã không chết, vì thương con, vì ý muốn tốt đẹp cho con.
Ông Sửu bươn bả về làng tìm gặp lại những đứa con sau bao năm
tháng chờ đợi con khôn lớn để có thể giãi bày cùng chúng. Đây là lúc ông có
thể thực hiện điều tâm niệm ấy. Gặp lại bố vợ, ông Sửu chấp nhận tất cả
những lời mắng nhiếc, sỉ nhục để đạt được mục đích của mình. Trần Văn
Sửu đã nói với cha vợ những lời chứa chan nước mắt đau khổ, làm hiện lên
nguyên vẹn tấm lòng thương con vô hạn của người cha. Nỗi nhớ thương con
cháy lòng khiến ông trở thành người kiên quyết: “xăm xăm bước đi về cửa”,
“lột nón xuống mà cầm trên tay”. Mặt khác cũng chính vì lòng thương con,
khao khát được gặp mặt con khiến ông trở thành người mềm yếu một cách
chân thực: “... cúi mặt ngó xuống đất, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng...
Trần Văn Sửu nói tới đó rồi khóc rấm rứt”. Trần Văn Sửu than rằng: “Mười
một năm nay cực khổ hết sức, song ráng mà sống, là vì trông mong có ngày
thấy được mặt con. Nay về đến đây, chưa gặp con được mà phải đi, thì làm
sao được, trời đất ơi!”. Chỉ bằng một lời than thế thôi mà cũng gợi ra trước
mắt ta cuộc đời khổ ải của Trần Văn Sửu và nỗi lòng yêu thương con da diết,
muốn gặp mặt con dù một chút mà cũng không được. Nỗi nhớ thương con
cháy lòng khiến Sửu không kiềm giữ được đã thốt thành lời: (3 lần với Hương
Thị Tào):
"... Con thương sắp nhỏ quá”
"... Con thương nhớ chúng nó quá tía ơi!”
"... Con nhớ sắp nhỏ quá”.
Chính tấm lòng yêu thương con của ông Sửu đã lay thức và làm bừng
tỉnh những tình cảm tốt lành trong Hương Thị Tào. Từ chỗ ông nhiếc mắng
ban đầu “Mày thiệt là đồ khốn nạn lắm. Đi liền bây giờ đi... đừng có về đây
nữa” đến chỗ ông già cũng nghẹn ngào xúc động cùng Sửu: “Hương Thị Tào
nghe mấy lời thảm thiết ấy thì cảm động quá, chịu không nổi, nên ông cũng
khóc”. Sau khi nghe Hương Thị Tào cho biết là các con vẫn thương mình,
Trần Văn Sửu chỉ muốn được nhìn thấy mặt chúng dù phải dấu mình dưới
dạng người Thổ. Chi tiết đó thể hiện rất rõ nỗi lòng thương con của người cha
bất hạnh. Sửu trở về nhà khao khát gặp con bao nhiêu thì sẵn sàng lặng lẽ ra
đi bấy nhiêu khi biết được các con đã hiểu đúng mình và chúng sắp sửa được
sống sung sướng hạnh phúc. Vì sợ liên lụy đến con, ông Sửu sẵn sàng từ bỏ
khát vọng cháy bỏng trong lòng mình là được gặp lại chúng. Trần Văn Sửu
vui lòng “lãnh các sự đau đớn cực khổ, buồn rầu đó, miễn là con được giàu
có, sung sướng thì thôi”. Vĩnh biệt người bố vợ hiền từ nhân ái, ông Sửu ra đi
quyết tâm không về nữa.
Bằng một đoạn văn đọc thoại nội tâm: “Bây giờ mình còn sống nữa làm
gì! Bấy lâu mình lăn lóc chịu cực khổ mà sống, ấy là vì mình thương con,
mình sợ nó không hiểu việc xưa rồi nó trở oán mình, mình sợ nó bơ vơ, đói
rách, mà tội nghiệp thân nó. Bây giờ mình biết rõ nó thương mình, nó còn
kính trọng mình, mà nó lại gần được giàu có sung sướng hết thảy nữa, vậy
thì mình nên chết rồi, chết mới quên hết việc cũ được, chết đặng hết buồn
rầu, cực khổ nữa”, một đoạn văn rất mới so với văn học trung đại, Hồ Biểu
Chánh đã tái hiện được vẻ đẹp tâm hồn của người cha: Sửu trở về cũng là vì
muốn gặp được con, lầm lũi ra đi vĩnh viễn cũng là vì con. Hai thái cực đó làm
hiện lên tấm lòng nhân ái của người cha bất hạnh một tình huống éo le. Và
bây giờ ông muốn chết đi, nên chết để “quên hết việc cũ”, “hết buồn rầu, cực
khổ”, chết để khỏi liên lụy đến con! Tiếp đó, Hồ Biểu Chánh đã để cho nhân
vật hồi tưởng lại quá khứ sống vì con, chết vì con của đời mình (“Anh ta nghĩ
như vậy rồi nhắm mắt lại”...). Trong trí tưởng tượng của ông Sửu, hình ảnh
của người vợ khi chết như là nỗi ám ảnh về tội lỗi dai dẳng, giày vò tâm can
ông. Điều đó làm ông muốn chết và quên đi chuyện cũ để hết nỗi đau khổ.
Mặt khác hình ảnh thơ ngây của những đứa con ngoan ngoãn làm cho ông
đau đớn trong lòng, trong tận cùng của nỗi đau ấy, cái đẹp của lòng lương
thiện và tình thương con cũng ngời sáng. Nhân vật Trần Văn Sửu trong đoạn
trích Cha con nghĩa nặng như là hiện thân của những phẩm chất đạo đức
truyền thống giàu tính nhân bản. Con người hiền lành lương thiện ấy đã phải
sống một cuộc đời bất hạnh, song lòng lương thiện, đức vị tha bao dung, tình
thương con của người cha đó vừa có tác dụng truyền cảm vừa có ý nghĩa
giáo dục sâu sắc. Câu chuyện được kết cấu theo trật tự thời gian, nhân vật
được khắc họa chủ yếu qua hành trang và lời nói, mục đích sáng tác nhằm
giáo huấn, tuyên truyền đạo đức. Đó là những điều chúng ta gặp trong văn
học dân gian và văn học trung đại. Nhìn chung cuộc gặp gỡ giữa Sửu và bố
vợ là một trường đoạn bộc lộ tâm trạng. Đó là nỗi khát khao tình cảm của một
người cha đối với con, là sự giãi bày những uẩn khúc đã giấu trong lòng suốt
11 năm trời. Sở dĩ 11 năm qua Trần Văn Sửu chưa muốn kết thúc cuộc đời
mình chính là mong có phút gặp gỡ cùng con. Nhưng chưa gặp con là đã gặp
lại người bố vợ. Ngôn ngữ đối thoại ở đây đầy tâm trạng và rất xúc động đồng
thời mang sắc thái ngôn ngữ Nam bộ đặc sắc. Sự phát triển tính cách nhân
vật ở đoạn này dựa trên quy luật tâm lí và hoàn toàn hợp lí. Đó là một thành
công trong xây dựng nội tâm nhân vật của tác giả. Tác giả khéo tạo tình
huống để nhân vật có thể bộc lộ nội tâm của mình.
Bên cạnh tình cảm của người cha đối với con thật sâu sắc, là tấm lòng
hiếu nghĩa của đứa con khi gặp lại cha sau 11 năm xa cách. Dường như 11
năm trời hình bóng người cha không thể nào phai mờ trong đứa con hiếu
nghĩa. 11 năm trôi qua. Tí (con) phải sống thiếu tình thương yêu của người
cha đối với mình, chính vì thế khi gặp lại người cha, tình phụ tử trào dâng
choán ngập hết tâm hồn Tí. Lúc này đây Tí chỉ biết có mình cha, khao khát
được sống trong tình thương yêu của người cha.
Tình nghĩa sâu nặng giữa hai cha con Tí đem đến cho ta niềm xúc
động thật thấm thía. Bởi tình nghĩa đó không hiện diện ở một phía (Sửu) mà
đến từ hai phía như một sự gặp gỡ vừa tất yếu vừa thiêng liêng. Trước hết
tình thương cha, hiểu cha, muốn gắn bó với cha khiến cho Tí trở nên đĩnh
đạc và chủ động. Nó đĩnh đạc và chủ động hỏi ông ngoại: “Cha tôi đi đâu rồi
ông ngoại?”. Đĩnh đạc và chủ động chạy theo cha khi Sửu bỏ đi. Nó đâm đầu
chạy riết theo, tiếng nói cất thêm từ niềm sâu thẳm của tình nghĩa phụ tử sao
mà xúc động: “Ai đó? Phải cha đó không, cha?”. Trong khi Trần Văn Sửu
muốn tự tử kết thúc cuộc đời đau khổ của mình thì Tí đến với tấm lòng yêu
cha chân thành, đã cứu cha trở về với cuộc sống. Cảnh cha con gặp nhau
thật cảm động, sinh động và giản dị: “Thằng Tí chạy riết lại nắm lấy tay cha
nó, dòm sát trong mặt rồi nhìn mà ôm cứng trong lòng mà nói: “Cha ôi! Cha!
Cha chạy đi đâu giữ vậy”. Lúc ấy Trần Văn Sửu mất trí khôn, hết nghị lực,
máu trong tim chảy thình thịch, nước trong con mắt tuôn ròng ròng, đứng xui
xị xui lơ, không nói được một tiếng chi hết”. Khi gặp được cha rồi, Tí nhất
quyết không rời cha nửa bước. Cậu ta kiên quyết: cha đi đâu con theo đó”,
“Hễ cha đi thì con đi theo”, “Đi theo đặng mà làm mà nuôi cha; chừng nào cha
chết rồi con sẽ về”. Mặc dù đã mười một năm không gặp cha, không được
cha âu yếm, nuôi nấng, nhưng khi được gặp, mối tình phụ tử lập tức tràn đầy.
Như vậy, Trần Văn Sửu trở về cũng vì con mà ra đi cũng vì con, cho nên Tí
cũng vì cha mà đi theo cha để chăm sóc cha quên đi cuộc sống hiện tại
mình... Ấy chính là cái “nghĩa nặng” của tình cha con thể hiện ở đây.
Tóm lại: Đoạn trích Cha con nghĩa nặng in trong sách giáo khoa văn 11
là một cuộc gặp gỡ đầy xúc động và chứa chan nước mắt giữa cha con ông
Sửu, Qua những tình huống đầy kịch tính, tác giả đã nêu bật cái đẹp nội tâm
của hình tượng nhân vật cha và con. Ở đây cha nghĩ về con là hết lòng và đối
với cha cũng hết nghĩa. Đoạn trích bên cạnh nghệ thuật miêu tả dựng cảnh
khác, hấp dẫn phải nói đến ngôn ngữ nghệ thuật của tác giả. Cha con nghĩa
nặng mang dấu ấn của thời kỳ đầu văn chương đổi mới theo xu hướng hiện
đại. Trước hết nó được viết bằng chữ quốc ngữ, bằng lời ăn tiếng nói đời
thường (bởi ngôn ngữ đời thường), bằng những câu văn xuôi rất mới mẻ, tuy
nhiên vẫn còn rơi rớt của lối văn biền ngẫu “Trên trời trăng thanh vằng vặc,
dưới sông dòng bích nao nao...”. Truyện mang dấu ấn của buổi giao thời...
VŨ THỊ LOAN
LUYỆN TẬP
1. Đoạn trích “Cha con nghĩa nặng” đã kể lại một cách giản dị tình cảm
thiêng liêng của cha con vì nghĩa mà sống hết lòng cho nhau.
Anh (chị) hãy phân tích đoạn trích để thấy nội dung giáo lí in đậm trong
những trang sách của Hồ Biểu Chánh.
2. Phân tích nhân vật ông Sửu để thấy nghĩa vụ của một người cha với
con mình.
3. Phân tích nhân vật “thằng Tí” để thấy nghĩa nặng rất cảm động của
con với cha.
4. Phân tích nhân vật Hương Thị Tào để thấy đạo lí đã cho ông giải
quyết mọi vấn đề hợp đạo nghĩa.
5. Nhận xét về cách kể chuyện của Hồ Biểu Chánh trong đoạn trích
“Cha con nghĩa nặng”
TÁC GIẢ XUÂN DIỆU
A. BÀI VĂN
Nêu những nét chính trong sự nghiệp văn học của nhà thơ Xuân Diệu.
DÀN BÀI
Cũng như nhiều nhà thơ, nhà văn Việt Nam, sự nghiệp văn học của
Xuân Diệu diễn ra theo hai giai đoạn chính:
1) Trước cách mạng tháng tám: Xuân Diệu sáng tác cả thơ lẫn văn.
a) Về thơ: Thành tựu nổi bật với các tập Thơ thơ (1938). Gửi hương
cho gió (1945).
Lúc này thơ Xuân Diệu luôn rạo rực tình yêu, tình yêu đôi lứa, yêu cuộc
sống với muôn ngàn thanh sắc. Thơ ông luôn “vội vàng” “giục giã” tận hưởng
tình yêu và vẻ đẹp thiên nhiên. Say đắm nồng nàn, vồ vập nhưng vẫn đơn
côi, bơ vơ. Đó chính là đặc điểm thơ tình Xuân Diệu trong cuộc đời cũ.
Thơ Xuân Diệu đổi mới nhiều trong cảm nhận và diễn đạt. Tiếp nhận
mạnh thơ lãng mạn Pháp, thơ Xuân Diệu bộc lộ và khẳng định rõ “cái tôi”:
“Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”, / “tôi muốn tắt nắng đi”... Đồng thời thơ
Xuân Diệu vẫn học hỏi ở thơ phương Đông cổ xưa. Nhờ vậy thơ ông thể hiện
những nét tinh vi tế nhị của lòng người, của cảnh sắc thiên nhiên. Thơ Xuân
Diệu tạo nhiều hình ảnh mới với cách kết hợp từ lạ:
- Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
- Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
- Lá liễu dài như một nét mi.
Lấy người làm chuẩn cho vẻ xinh đẹp, tinh tú như thế là một nét mới so
với thơ cổ. Các tác giả của Thi nhân Việt Nam đã đánh giá Xuân Diệu “mới
nhất trong các nhà thơ mới”.
b) Về văn: Hai tập Phấn thông vàng (1939) và Trường ca (1945) có
nhiều dòng văn đẹp, mượt mà, trữ tình như thơ.
2) Sau cách mạng tháng tám.
a. Về thơ: Nhiều tập nối tiếp nhau ra đời khẳng định năng lực, bút lực
Xuân Diệu: Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau - cầm tay (1962). Một khối hồng
(1964). Tôi giàu đôi mắt (1970)...
Khắc phục tâm trạng buồn, cô đơn thời trước, thơ Xuân Diệu bây giờ
ca ngợi cuộc sống mới xây dựng và chiến đấu, thể hiện sự gắn bó hòa hợp
giữa cái riêng và cái chung, giữa cá thể thi sĩ và tập thể nhân dân. Nhà thơ
khẳng định.
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu, gian lao.
Ngoài giọng điệu trữ tình là chủ đạo, thơ Xuân Diệu còn thể hiện giọng
chính luận và trào phúng đả kích.
b. Về văn: Nhiều tập tiểu luận phê bình có giá trị (thí dụ: Dao có mài
mới sắc, các nhà thơ cổ điển Việt Nam...)
Tóm lại, non nửa thế kỉ sáng tác, Xuân Diệu thực sự là nhà thơ lớn của
dân tộc ta. Riêng về mặt thơ tình, ông xứng với lời thơ của "Khương Hữu
Dụng: “Một thế hệ yêu - tỏ tình qua Xuân Diệu”.
Thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu qua các bài “Đây mùa thu tới”, “Vội vàng”, “Thơ duyên”, “Nguyệt cầm”.
BÀI LÀM
Mạnh mẽ, sôi nổi và ồn ào, Xuân Diệu với làng thơ như có sẵn duyên
với nghệ thuật, bất ngờ viết lên trang đời những dòng thơ ngọt ngào cảm xúc,
mang theo chất men say của thế giới tâm hồn ăm ắp sự sống. Yêu thơ, yêu
đến mãnh liệt, sống với thơ sống đến cuồng nhiệt, Xuân Diệu rộng mở vòng
tay đón nhận tình yêu nồng ấm tha thiết bằng cặp mắt “xanh non” của mình.
Thơ ông vì vậy đi vào lòng người tự nhiên với biết bao tâm trạng và tình cảm.
Yêu đời, yêu người ấy là cốt cách của ông, viết về thiên nhiên ấy chính là
nghệ thuật của người cầm bút. Cảnh sắc trong thơ ông có lúc mơn mởn sự
sống nhưng nhiều khi lại trầm lắng và sâu sắc đến không ngờ. Ta đón nhận
nơi ông một hồn thơ như vậy.
Thiên nhiên - một thế giới nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu. Hoài Thanh
đã từng nói: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, mới từ
cách nhìn, cách cảm, mới từ chiều sâu suy nghĩ đến cách diễn đạt bằng
những hình tượng thơ, cũng như bao nhà văn, nhà thơ khác, những tác phẩm
của ông gắn liền với hai nhân vật “thiên nhiên” và “con người”. Ông yêu con
người và say đắm cùng thiên nhiên. Từ nỗi cô đơn vì tình yêu say đắm, đơn
phương nơi thế giới loài người, ông tìm đến với thiên nhiên, mang đến cho nó
một tâm hồn thời đại, một tiếng nói của nhà thơ và tâm sự của một người biết
yêu. Xuân Diệu thường nôn nóng đón chờ ở thiên nhiên một tiếng nói cảm
thông, an ủi, chan chứa yêu thương. Ta hiểu tâm trạng của ông đối với nhân
tình thế thái nên ta tìm thấy trong những bài thơ ông viết về thiên nhiên một
vẻ Đẹp và Buồn. Trong bốn bài Đây mùa thu tới, Vội vàng, Thơ duyên,
Nguyệt Cầm tiêu biểu cho phong cách và thơ Xuân Diệu thì có ba bài viết về
mùa thu. Vội vàng được tác giả lấy cảm hứng từ mùa xuân nhưng vẫn thoảng
chút bâng khuâng của một tâm hồn đa sầu, đa cảm, đa tình và rất đa tài nữa.
Xuân Diệu đã thổi vào những vần thơ về thiên nhiên tình cảm nồng nàn, sôi
nổi, chính vì vậy nó đã trở thành nhân vật không thể thiếu, tràn trề, đầy sức
sống, chứa chan cảm xúc đẹp và buồn một cách rất Xuân Diệu. Thiên nhiên
trong thơ xưa thường có những hình ảnh ước lệ của thơ Đường “Tin sương
hiu hắt hơi may” hay “Lác đác ngô đồng mấy lá bay”. Đến Xuân Diệu ông vẫn
vận dụng vốn văn chương cổ truyền ấy nhưng đã có sự cách tân, sáng tạo.
Tiêu biểu là bài Đây mùa thu tới:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng!
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
Đã bao giờ mùa thu Việt Nam được tả đẹp như thế. Ở Nguyễn Khuyến
là những hình ảnh thơ thanh thoát, man mác một nỗi buồn thoảng qua bầu
trời thu trong xanh:
- “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao...”
- “Nước biếc trông như tầng khói phủ” còn Xuân Diệu, ông nhìn mùa
thu thật là, cái giá lạnh trong tâm hồn cô đơn đã thấm sâu vào từng hình ảnh
“Rặng liễu đìu hiu” - Một hình ảnh ước lệ, hiu hắt và yếu ớt. Để rồi kéo theo
hàng loạt những ẩn dụ, tượng trưng gây ấn tượng, cảm xúc mạnh mẽ: “Tóc
buồn”, “lệ ngàn hàng”. Câu thơ như trầm xuống, buồn mà vẫn đẹp, những
thanh bằng liền nhau, dàn trải và mênh mông. Nhưng rất đột ngột, mùa thu tới
nghe rất hân hoan, như thỏa nguyện niềm ước mong bấy lâu. Cảm xúc ấy
thường trực trong con người Xuân Diệu như chỉ chờ lúc để bật ra. Đó là một
mong muốn, khát khao giao cảm đến kỳ lạ chỉ Xuân Diệu và mình Xuân Diệu
mới có. Câu thơ tưởng như báo hiệu một điều gì mới nhưng bỗng chững lại,
hạ xuống, và màu sắc thiên nhiên lại hiện ra: phai mà vẫn thắm, tàn mà như
mới và vẫn đẹp “Với áo mơ phai dệt lá vàng”: “Áo mơ phai” sắc đất, sắc trời,
sắc cây lá, màu của thời gian và tiếng gọi của lòng người, hòa hợp, đan kết
bao trùm lên cảnh vật trong thế giới suy tư của nhà thơ. Hình ảnh thơ đẹp và
sáng tạo nên đến không ngờ, nó có vẻ gần với những vần thơ đẹp trong Mùa
xuân chín của Hàn Mặc Tử “trong làn nắng ửng, khói mơ tan” nhẹ nhàng,
thanh lọc, lãng đãng như gần, như xa.
Đi sâu vào cảm xúc nhà thơ, mùa thu lại hiện ra đặc sắc hơn bao giờ
hết: “Hơn một loài hoa đã rụng cành”. “Sắc đỏ rũa màu xanh”, “luồng rung rẩy
rung rinh lá...” Tác giả đón nhận và cảm nhận bằng trực giác. Cái lạnh trong
lòng đã khiến nhà thơ tưởng như “Những luồng rung rẩy rung rinh”. Luôn luôn
thường trực trong Xuân Diệu ấy là nỗi buồn cô đơn cùng với nỗi niềm cô
quạnh để rồi chỉ thấy trong mùa thu “Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.
Từ “hoa lá cành” tác giả đi vào “trăng sương gió” vẫn long lanh đọng theo
những giọt buồn. Toàn thân nhà thơ run lên, những xúc cảm mạnh mẽ, lan
tỏa và thấm đẫm vào thiên nhiên. Một cảm giác lạnh lẽo, chợt ùa về, chợt
xâm chiếm, chợt ngưng đọng và tan ra... Nếu Đây mùa thu tới đẹp trong cái
tang tóc của thiên nhiên giữa những dự cảm giao mùa của Xuân Diệu thì với
Nguyệt Cầm một ấn tượng siêu thực, bao trùm lên tất cả khiến ta ớn lạnh:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh,
Trăng thương, thương nhớ, hỡi trăng ngần”
Trăng đẹp quá, đẹp lộng lẫy đến lạnh lùng, một cái lạnh da diết nhập
vào năm từ “trăng” “nguyệt” không đủ sức chứa trong haị câu thơ, cái lạnh ấy
lan tỏa vào đất trời, vào tâm hồn thi nhân đang mở rộng lồng mình. Điệp từ
“trăng” xoáy sâu vào lòng người tạo nên một ấn tượng, một niềm cảm xúc
mãnh liệt và da diết nhất. Trăng đẹp bởi trăng lạnh do tiếng đàn ngân nga, réo
rắt. Trăng hiện ra và trăng in đậm:
“Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh
Linh lung bóng sáng bỗng rùng mình”.
Bầu trời trong vắt, trong như thủy tinh, sáng như thủy tinh nhưng cái
trong ấy chỉ làm tăng thêm cái lạnh, lạnh của đất trời nhưng lại gây u ám cho
lòng người. “Bóng sáng bỗng rung mình” ở đây có từ chuyển đổi từ thị giác
sang xúc giác, cái lạnh của thiên nhiên hay chính cái lạnh của tác giả khiến thi
nhấn ớn lạnh, rùng mình, lại thêm “đàn ghê như nước lạnh”... Như làm nổi bật
hai cái hoang vắng, hiu hắt, lạnh lẽo của thiên nhiên “dấu phẩy ngắt giữa
nước và lạnh như một cái rùng mình giữa hai lần lạnh”. Cảm giác ngày một
tăng lên, cái lạnh ngày một thấm sâu trong tâm hồn và trải rộng ra cùng đêm
khuya lặng ngắt:
“Bón bề ánh nhạc: biển pha lê;
Chiếc đảo hồn tôi rợi bốn bề...
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao khuê”
Tất cả các hình ảnh “bốn bề, rợn bốn bề, làm thinh, nín thở...” đã tạo
nên cái tĩnh cho cả khổ thơ nhưng lại khuấy động cảm xúc tưởng đã trầm
lặng của nhà thơ. Hai từ “bốn bể” được đặt đầu câu thứ nhất và cuối câu thứ
hai đã gói trọn tâm hồn tác giả trong ngoại cảnh làm tăng thêm nỗi cô đơn.
Nhà thơ chơi vơi theo tiếng đàn, lơ lửng cùng ánh “nguyệt tỏ ngời”, vươn tới
một thế giới không tưởng “sao Khuê”, thế giới của tâm linh đẹp, huyền ảo và
cũng thật lạnh. Nguyệt cầm ngoài sự hòa hợp giữa trăng và tiếng đàn còn có
tiếng nói chung của nhà thơ thiên nhiên - đêm thu. Cảnh giác lạnh, hình
tượng đẹp, trong như “pha lê” đã theo suốt chiều dài câu chữ như một sự hòa
hợp thú vị. Chỉ với mùa thu, vậy mà biết bao trạng thái tình cảm, đã làm trái
tim tác giả rung động. Xuân Diệu nói bằng âm thanh, hình tượng của thiên
nhiên và bằng cả tiếng lòng sôi nổi thương yêu tha thiết, mãnh liệt của mình.
Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu, của tuổi trẻ. Thơ duyên ấy là cái
mộng mơ trong sáng của một con mắt đang yêu:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền”
Lời thơ đẹp trong là sự huyền diệu của vạn vật trong mối giao duyên
(đất trời, đất - trời, cây - chim) và mối lương duyên đang hé nở trong lòng
người. Màu xanh của lá, màu xanh của trời, màu xanh trong mắt thi nhân,
màu xanh trong tâm hồn và suy nghĩ. Tất cả đã làm nên một ước vọng: Hồn
thu. Nhưng thật bất ngờ, thoáng chút buồn thoảng qua đã khiến thiên nhiên
buồn trở lại, xa vắng, cô liêu.
“Con đường nho nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang, nắng trở chiều.”
Thì ra không phải thiên nhiên mà do một tình cảm mới lạ lùng đang
xâm chiếm tâm hồn. “Gió xiêu xiêu” khiến con đường cũng “xiêu xiêu” là bởi
tâm hồn nhà thơ cũng “xiêu xiêu”. Chỉ trong hai câu thơ mà có tới ba từ láy,
ba từ láy hoàn toàn “nho nhỏ”, “xiêu xiêu”, “lả lả”. Cái gì cũng nghiêng đi như
chính tình cảm của nhân vật trữ tình đang xao xuyến, ngây ngất trong tình
yêu.
“Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em”
Mở đầu bài thơ là”Chiều mộng hòa thơ” nhưng đến kết thúc đã đột ngột
trở thành “chiều hôm ngơ ngẩn”. Phải chăng đó chính là tâm trạng, là nỗi lòng
đang trắc trở băn khoăn, ngẩn ngơ của chính tác giả trước mùa thu? Bài thơ
là sự thay đổi của tâm trạng trữ tình làm thiên nhiên cũng thay đổi. Đó chính
là sự phức tạp trong cảm xúc của Xuân Diệu nhưng lại có sự nhất quán trong
tư tưởng và cách biểu hiện. Thiên nhiên đẹp một cách dịu dàng trong mối
giao hòa đầy chất thơ. Độc đáo và tài hoa, ấy là Xuân Diệu và hồn thơ Xuân
Diệu.
Nhanh hơn, gấp gáp hơn, Vội vàng - đúng như nhan đề - đã khơi sâu
một cảm giác mãnh liệt, một tư tưởng sống hết mình, sống là mình.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Xuân Diệu mang cảm hứng thời gian và ý thức cá nhân vào mùa xuân.
Từ gốc độ cá nhân, tác giả nhìn sự biến thiên của sự vật. Điệp từ “ta muốn”
thể hiện một ước vọng, một khát khao đến cháy bỏng, đến nao lòng. Mùa
xuân tươi đẹp, mùa của tình yêu đã đến.
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si”
Tác giả có quyền ao ước hạnh phúc. Mùa xuân đã ban phát niềm vui
cho tất cả, và Xuân Diệu - nhà thơ của tình yêu ấy - yêu đến say mê cuồng
nhiệt đã giao cảm với đất trời để thấy mình trong đó. Nhà thơ có cảm nghĩ
thật đặc biệt:
“Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Với việc thu ảnh hưởng của văn học phương Tây trong cách dùng từ
ngữ hình ảnh (này đây, này đây) với một tình yêu mãnh liệt luôn thường trực
trong lòng, Xuân Diệu đã qua thiên nhiên nói lên tình yêu cuộc sống tha thiết
đến vồ vập “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Đây là sự thăng hoa của
ấn tượng cảm xúc nồng nàn và say mê. Tác giả yêu mùa xuân, mùa của tình
yêu, như đã bao lần gán cho nó hình ảnh người phụ nữ:
“Lá liễu dài như một nét mi
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Xuân Diệu luôn bộc lộ một cách trực diện những cảm nghĩ của mình.
Điều đó khiến ông khác với các nhà thơ khác, nhất là các nhà thơ thời trước,
khiến thơ ông thu hút và làm say mê biết bao tâm hồn. Vội vàng là bài thơ viết
về mùa xuân, ở đó bùng lên một ngọn lửa sống nồng ấm mãnh liệt, gấp gáp
và tươi vui, sống cho mình và cho mùa xuân của đất trời, của mọi người.
Thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu có những nét đặc sắc, độc đáo. Mùa xuân
cũng như mùa thu hay buổi giao mùa, thơ Xuân Diệu vẫn khắc họa đậm nét
cá tính và tình yêu của ông. Thiên nhiên buồn hay vui, trầm lắng hay sôi nổi
đều đi qua con mắt thẩm mĩ giao cảm mới mẻ của Xuân Diệu. Thơ ông là
tiếng lòng ông, thiên nhiên là tâm sự khỏa lấp khoảng trống trong tâm hồn
ông. Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu, thiên nhiên là hình thức biểu hiện của
tình yêu đó, là nơi ông gửi gắm tâm trạng, những ý nghĩ khiến ông trăn trở.
Khi ông thất vọng cô đơn, thiên nhiên lạnh lẽo trầm lắng, khi ông vội vã sống,
vội vã yêu, thiên nhiên tươi sáng chan hòa. Tuy nhiên nếu như để tâm hồn
mình cũng ngập chìm trong đó, ta sẽ thấy vương vấn man mác một nỗi buồn
mới nhìn tưởng như là muôn thuở nhưng nhìn kĩ thì nó mang dấu ấn của một
lớp người, của một thời đại đã qua có thể được sự cảm thông của nhiều thế
hệ sau.
TRẦN LIÊN HƯƠNG
B. LUYỆN TẬP
1. Thông qua phân tích một số bài thơ của Xuân Diệu sáng tác trước
1945 hãy chứng minh nhận định của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh:
“Nhìn một cách tổng quát, toàn bộ sự nghiệp văn học của Xuân Diệu,
thấy có một tư tưởng chi phối tất cả, ấy là một niềm khát khao giao cảm với
đời - cuộc đời hiểu theo nghĩa chân thật và trần thế nhất”. (Văn 11 - Sgk).
2. Trong thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh viết:
“Không cần phải là con hổ ngự trị trong rừng xanh, không cần phải là
con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm mới là sống. Sự bồng bột của
Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung
động tinh vi:.
Anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua bài thơ “Đây mùa thu tới”
và “Thơ duyên” của Xuân Diệu.
ĐÂY MÙA THU TỚI
A. BÀI VĂN
Bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu.
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng:
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”.
DÀN BÀI
I. YÊU CẦU CHUNG
Thí sinh phải nắm vững yêu cầu của đề về thể loại và nội dung. Và thể
hiện được khả năng đó trong bài làm của mình. Đề yêu cầu bình giảng một
đoạn thơ, khi bình giảng đoạn thơ thí sinh phải nêu được nội dung cần giảng,
bình của đoạn và nêu được quan hệ giữa đoạn thơ bình giảng với toàn bài,
chú ý khám phá các dấu hiệu nghệ thuật và khai thác giá trị của đoạn thơ.
II. YÊU CẦU CỤ THỂ:
1) Giới thiệu vài nét về nhà thơ Xuân Diệu và đoạn trích cần bình giảng
trong mối quan hệ với toàn bài thơ “Đây mùa thu tới”.
a) Xuân Diệu là nhà thơ xuất sắc của thơ ca lãng mạn Việt Nam thời kỳ
1930 - 1945. Thơ Xuân Diệu lúc này bộc lộ lòng yêu cuộc sống yêu con người
và khát khao hạnh phúc. Ông là một hồn thơ nhạy cảm với đời với thiên
nhiên, Thơ Xuân Diệu là tâm hồn Xuân Diệu, luôn luôn mở rộng để đón nhận
hương sắc muôn màu của cuộc sống, từ cảm sắc tươi đẹp của thiên nhiên
đến những cảm giác u uẩn trong lòng người. Từ mối giao hòa cùng thiên
nhiên Xuân Diệu đã viết nhiều bài thơ đặc sắc, một trong số đó là bài “Đây
mùa thu tới” viết trước cách mạng (1938). Đoạn thơ bình giảng là đoạn đầu
của bài “Đây mùa thu tới”.
b) Cả bài thơ gợi tả phong cảnh khi mới chớm vào mùa thu, mang nỗi
buồn của mùa thu, buồn mà đẹp.
2) Bình giảng đoạn thơ:
a) Hai câu thơ đầu:
a1) Hai câu thơ mở đầu gợi cảnh buồn. Cái buồn của lòng người thấm
vào cảnh vật.
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”
a2) Liễu vẫn là một thi đề quen thuộc trong thơ cổ, thơ Đường tượng
trưng cho vẻ đẹp duyên dáng mềm mại của người thiếu nữ. Nhưng cái mới
của nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu là ở chỗ đem lại cho liễu một dáng hình cụ
thể, một tâm hồn con ngưòi và một nỗi sầu muộn rất người. Liễu nghiêng
mình “đứng chịu tang”, lá buông dài như làn tóc mây, khi lay trong gió chớm
thu về và buồn hơn nữa là lệ tuôn tiếp nối.
a3) Hình ảnh “rặng liễu” xuất hiện ngay đầu bài thơ trong dáng “đứng
chịu tang” là gợi nên một cảm giác nặng nề, dằn vặt. Hãy chú ý sự tưởng
tượng phong phú của thi nhân: dáng liễu mềm buông rủ như những cô thiếu
nữ xỏa tóc, tuôn lệ trong một khung cảnh buồn bã đìu hiu. Câu thơ chưa nhắc
đến thu mà người đọc đã chớm nhận ra thấp thoáng bóng thu sang.
b) Hai câu thơ tiếp theo:
b1) Hai câu thơ tiếp theo như một tiếng reo thầm khi mùa thu đột ngột
hiện ra trong màu áo mơ phai dệt lá vàng. Một niềm vui chợt đến nhẹ nhàng
một chút yêu đời, yêu cuộc sống:
“Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”.
Nếu âm điệu trong hai câu thơ đầu thật buồn, thật trầm thì đến đây lời
thơ biến đổi, êm đềm hơn, trau chuốt hơn với điệp khúc “mùa thu tới” âm
vang như tiếng chào thân quen vồn vã nhưng ít nhiều có nhuốm vẻ thảng thốt
bâng khuâng, bởi nhà thơ thấy “mùa thu tới” không chỉ một mình mà còn
mang theo cả sắc “lá vàng” dệt từ lớp áo mong manh phai nhạt của trời thu.
Hai câu thơ thật đẹp với sự lan tỏa của các âm tiết vang tạo thành tiếng nhạc
du dương để phần nào xua đi không khí âm u: mấy câu thơ đầu và gieo vào
lòng ta một cảm giác mơ hồ xôn xao.
- Mùa thu đến trong dáng vẻ tươi sáng, thanh nhẹ. Nhờ vậy mà đoạn
thơ có buồn nhưng không hiu hắt, bi thương...
b2) Mùa thu tới là một thi đề quen thuộc của nhiều thế hệ thi sĩ. Mùa
thu khơi dậy nhiều cảm xúc đánh thức mọi giác quan tinh tế của con người:
“Ngô đồng nhất diệp lạc. Thiên hạ cộng tri thu” (Ngô đồng một lá rụng - thiên
hạ đều biết thu). Đã là thi sĩ, không ai có thể vô tình không nói đến cảnh thu.
Thế kỷ trước, nhà thơ Yên Đổ đã vang danh trong văn học với ba bài thơ mùa
thu trác tuyệt. Sang đầu thế kỷ XX, Tản Đà cũng bùi ngùi mượn tiếng tỏ sầu
“cảm thu, tiễn thu”. Đến lớp thi nhân cùng thời Xuân Diệu, mùa thu là cả một
nỗi niềm riêng của mỗi người. Trước cách mạng bao giờ thu cũng đẹp mà
buồn: Khi thì man mác, bâng khuâng (Thu rừng - Huy Cận); khi thì huyền
diệu, kì ảo (Tiếng trúc tuyệt vời - Thế Lữ); khi thì lạnh lùng, chán chường (Thu
- Chế Lan Viên); khi ngỡ ngàng ngơ ngác (Tiếng thu - Lưu Trọng Lư).
b3) Trong âm hưởng của tiếng đàn thu muôn điệu ấy bài thơ thu của
Xuân Diệu vẫn có nét riêng. Cái tài tình của thi nhân là nói đến một đề tài
quen thuộc nhưng không trùng lặp sáo mòn và chắc chắn rằng màu “mơ phai”
của Xuân Diệu để lại những ấn tượng không thể mờ phai, nó khác với màu
vàng của thơ Nguyễn Du, khác với chiếc lá vàng trong thơ Nguyễn Khuyến và
không gian vàng tuyệt diệu của Bích Khuê:
“Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: thu mênh mông”
3) Tóm lại:
Đoạn thơ có vị trí quan trọng trong bài thơ. Mùa thu của Xuân Diệu hiện
ra với những hình ảnh, màu sắc, âm thanh biến ảo lạ lùng, ẩn chứa những
cảm xúc tinh tế của một tâm hồn Á đông trước thiên nhiên - cảm xúc ấy lại
diễn tả bằng một ngôn ngữ mới lạ hiện đại. Đúng như có người nói: “Xuân
Diệu là nhà thơ của niềm giao cảm hết mình giữa con người và con người,
giữa con người với thiên nhiên”.
Bức tranh chuyển mùa trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu tinh tế và gợi cảm. Hãy phân tích và chứng minh để nêu rõ: Đây là bức tranh thu tiêu biểu của thơ lãng mạn 1930 - 1945.
BÀI LÀM
Nhà thơ thường dễ nhạy cảm với sự đổi thay của đất trời. Với Xuân
Diệu, một nhà thơ mới, một nhà thơ lãng mạn tiêu biểu lại càng không dễ bỏ
qua sự biến đổi diệu kì của hai mùa xuân, thu. Đó là hai mùa tồn tại duy nhất
trong ý niệm của nhà thơ. Bởi thế, thơ viết về thu của Xuân Diệu khá nhiều.
“Đây mùa thu tới” không chỉ là một bức tranh chuyển mùa tinh tế và gợi cảm,
nó còn là một tâm hồn tiêu biểu cho thời đại lãng mạn 30 - 45. Đất trời và con
người của một thời đã được Xuân Diệu ghi lại trong bài thơ thu đầy lãng mạn
đó.
Dường như thơ viết về mùa thu đã rất nhiều, trước Xuân Diệu và cả
sau này nữa. Sức hấp dẫn của mùa thu nơi đồng bằng Bắc bộ đã khiến
Nguyễn Khuyến không khỏi làm ngơ và cho ra đời chùm thơ thu nổi tiếng.
“Đây mùa thu tới của Xuân Diệu cũng chính là sự kế thừa truyền thống đó,
tuy nhiên đã được nhà thơ thổi vào đấy nét mới mang âm hưởng của thời đại.
Bài thơ cổ điển vừa hiện đại, vừa mang cái buồn của ông cha lại vừa có tiếng
reo vui của thế hệ trẻ trước sự giao mùa của thiên nhiên. Quan niệm về thời
đại thiên nhiên và thời gian đời người đã ảnh hưởng lớn tới sáng tác của các
nhà thơ; khi hè đã qua mà đông thì chưa đến, “nằm áp giữa hai khối khí nóng
lạnh đó, thu là một lãnh thổ bị lấn cả đôi đầu nên hay có những trở trời”. Hơn
nữa, thu là khoảnh khắc ngưng kì diệu để cho sự vật lần cuối được bừng sắc
để rồi đi vào héo úa. Các nhà thơ xưa không làm ngơ trước “phút an lạc vĩnh
hằng” này và đã nương gửi cái hài hòa của tâm hồn mình với đất trời thường
là những nỗi buồn mang tính suy tưởng, triết lí nhưng lại không bộc lộ rõ mà
nấp sau bộ mặt buồn mênh mang, khiến người đọc thơ có cảm giác buồn lây
mà vẫn mặc nhiên chấp nhận nó, không cần giải thích. Với Xuân Diệu thì
khác, nhà thơ có phản ứng mạnh với các thay đổi của mùa thu. “Đây mùa thu
tới” tuy vẫn tiếp mạch buồn của thơ thu cổ nhưng đã biến tấu theo chủ quan
của tác giả và theo thời đại, vì thế bài thơ không đơn thuần là sự báo mùa,
mà còn là sự hối thúc của thời gian.
Thời đại của Xuân Diệu là thời đại của hy vọng nhưng cũng là thời đại
của thất vọng. Xã hội có những “rung chuyển” mạnh mẽ đã hất con người ra
khỏi những mối quan hệ tự nhiên - xã hội - con người, chưa tìm được vị trí
cho mình trong cuộc đời. Thời đại 30 - 45 là thời đại các nhà thơ tỏ ra bơ vơ,
cô độc, lạc lõng và nháo nhác đi tìm chỗ đứng của mình trong cuộc đời. Khi
Xuân Diệu nói về Tản Đà, hẳn ông cũng có nghĩ cho cả mình: “Mọi cái cũ đã
phá đi và chưa có chút gì của cái mới thay thế; con người chỉ là một cái gì sẽ
có thật trong tương lai và là một ảo ảnh của hiện tại”. Đó là lúc con người tự ý
thức rõ cá nhân mình, tự khám phá, bộc lộ mình để mong tìm gặp những tâm
hồn đồng điệu.
Cái “tôi” trong “Đây mùa thu tới” được biểu hiện trong tiếng reo vui:
“Đây mùa thu tới! Mùa thu tới”, tiếng reo được buột miệng rất tự nhiên, hứng
khởi, quên đi cả truyền thống buồn của thơ thu, vì thế, ngay sau đó là sự
chữa lại: “Với áo mơ phai dệt lá vàng” giọng thơ chùng xuống, trầm lặng một
cách o ép. Cũng từ đây, giọng văn mất hẳn sự xôn xao, reo vui đón nhận giao
mùa, chủ đề trữ tình cũng “lặn” mất hay đúng hơn biến sang một dạng khác
để dễ bày tỏ hơn. Nếu chủ thể tình bộc lộ mình một cách trực tiếp qua niềm
vui khám phá đón nhận mùa thu ở trên thì ở khổ dưới, một cách gián tiếp chủ
thể trữ tình đã phải khép mình lại, ý tứ hơn với những “nàng trăng tự ngẩn
ngơ”, “ít nhiều thiếu nữ buồn không nói”. Trong cái tự ngẩn ngơ kia chưa hẳn
đã là quên đi mà chính là nhớ đến. Trạng thái ngẩn ngơ có thể chỉ trạng thái
giả, thực tế thì vẫn rất nhạy cảm. Nếu ngẩn ngơ thật thì sẽ không bao giờ
thấy được: “non xa khởi sự nhạt sương mờ” không nghe được “rét mướt luồn
trong gió” và không cảm được “đã vắng người sang những chuyến đò”. Cái
tôi vẫn ẩn nấp đâu đấy chứ chưa hề mất hẳn. Hai câu cuối cùng:
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì
chủ đề trữ tình trở lại xuất hiện lần nữa dưới dạng một chủ đề khác nhưng
vẫn tiếp nối mạch cảm xúc ở câu trên. Nếu ở trên là “tự ngẩn ngơ” thì ở câu
này lại là “buồn không nói”. Không nói nhưng lại nghĩ rất nhiều. Khác hẳn với
câu thơ của khổ đầu reo vui, hoan hỉ, câu thơ này mang nét người lớn hơn,
mặc dù vẫn là cái lớn ngượng ngập, kiểu cách của các thiếu nữ: Điệu tựa cửa
nhìn xa và nghĩ ngợi có vẻ già nua nhưng lại “nghĩ ngợi gì” cũng như “tôi
buồn không hiểu vì sao tôi buồn” mà thôi. Ta sẽ thấy mức độ cảm xúc của cái
“tôi” trong bài giảm dần, lúc đầu còn cất lời hồ hởi, phấn chấn, sau đó là trạng
thái trẻ con nhưng điệu đàng hơn “tự ngẩn ngơ”, cuối cùng là nét trầm mi lộ rõ
trên khuôn mặt “buồn không nói” của thiếu nữ. Phải chăng đó là cá nhân
muốn khám phá, được bộc lộ còn chưa đúng lúc đúng chỗ. Hoài Thanh gọi
thời đại 30 - 45 là “thời đại chữ tôi” không phải là vô cớ. Hàng trăm định nghĩa
về “tôi”: “Tôi là khách bộ hành phiêu lãng” hay “Tôi chỉ là một khách si tình”,
lúc thì “Tôi là chim non đến từ núi lạ”... Nhiều cái tôi xưng danh nhưng tất cả
đều giống nhau ở sự cởi mở, tự cho mình thoát khỏi những ràng buộc. Đây là
nét đổi thay táo bạo trong thơ ca Việt Nam bởi trước đó, trong tư tưởng của
nhà thơ cổ không hề có quan niệm về cái tôi như thế mà chỉ là cái “ta” chung
chung. Tuy nhiên, trong “Đây mùa thu tới” Xuân Diệu đồng thời thể hiện cái
“tôi” song vẫn e ngại, dè dặt nên hay nói khéo, nói tránh. Điều này cũng dễ
hiểu bởi vì sau quan niệm thơ tự do, cởi mở, lãng mạn này chỉ phát huy được
trong phạm vi thế giới tình cảm, chứ chưa nhập vào sự đa dạng thực sự của
đời sống. Ngay cách gọi “nàng trăng" cũng chỉ được sử dụng giới văn nghệ sĩ
chưa phổ biến bởi nó có vẻ gì điệu đàng, câu chữ Xuân Diệu được coi là nhà
thơ mới nhất trong các nhà thơ mới và lãng mạn nhất trong các nhà thơ mới
cũng bởi lối dùng từ, lối cảm thụ văn chương của ông ở mức khác hẳn mọi
người. “Hơn một” là bao nhiêu? “ít nhiều” là bao nhiêu? Cách nói của nhà thơ
không khỏi gây ngỡ ngàng cho mọi người. Đã thế lại thêm “trong vườn...
rủa... xanh” rồi thì “những luồng run rẩy rung rinh lá”, hàng loạt âm "r" tạo cảm
giác lành lạnh đang xâm nhập vào chính cơ thể mình và chứng tỏ một con
mắt nhìn tinh tế, một khám phá mới lạ. Ta nhớ đến những câu thơ khác của
Xuân Diệu:
Cây bên đường, trụi lá đứng tần ngần
Khắp xương nhánh chuyển một luồng tê tái
Và giữa vườn mi, hoa run sợ hãi
Bao nỗi phôi pha, khô héo rụng rơi.
(Tiếng gió)
Ở Xuân Diệu cũng như ở nhiều nhà thơ khác, mùa thu thường choáng
một chỗ đặc biệt trong thơ. Không chỉ riêng mình Xuân Diệu “buồn không nói”
mà nỗi buồn ấy tồn tại trong “vô thức tập thể” của cả một lớp người. Có người
gọi đó là thứ “bệnh thời đại”, đó là bệnh muốn được khẳng định, bệnh cảm
thấy bơ vơ, lạc lõng, không có chỗ đứng hay chưa tìm được cho mình chỗ
đứng trong cuộc đời. Bởi vậy, cá nhân cô đơn phải tự tìm lấy phương thuốc
của mình, tự chữa cho mình. Với Xuân Diệu, ông đã khám phá, tìm ra nét mới
của mùa thu. Các nhà thơ khác cùng có cái nhìn mới về mùa thu, nhưng chỉ
có Xuân Diệu nói lên lời rằng: “Với lòng tôi trời đất chỉ có hai mùa: Xuân và
Thu, hai mùa đặc biệt ý nhị, hai mùa có bình minh”. Nhiều chi tiết rất lãng mạn
trong bài “Đây mùa thu tới”, đây cũng chính là xu thế chung của thời đại 30 -
4. Các nhà thơ đi tìm cái tinh tế và lãng mạn nhất để qua đó bộc lộ mình. Với
Thế Lữ thì:
Mắt lệ đắm trông niềm cách biệt,
Phút giây chừng mỏi gối phiêu lưu...
Với Lưu Trọng Lư thì:
Biết sao trái được tính trời
Giang hồ cốt ấy trọn đời phiêu linh...
hay là Nguyễn Bính:
“Giếng thôi mưa ngập nước tràn
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều”
Nhưng tất cả không bằng được Xuân Diệu khi ông nói:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Lung linh bóng sáng bỗng rùng mình.
Thơ lãng mạn 30 - 45 là cuộc đi tìm kiếm cái đẹp. Với “Đây mùa thu
tới”, Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ đẹp tự nhiên của mùa thu mà bấy lâu bị
mọi người nhìn nó bằng con mắt buồn buồn. Bức tranh thu đẹp bởi sức
tưởng tượng mới lạ của Xuân Diệu và hấp dẫn bởi từng chi tiết tinh tế. vẫn là
những chất liệu thơ ca quen thuộc khi ông dùng lá, trăng, chuyến đò, mây
trời, chim chóc, có điều nó được sử dụng theo lối nói khác hẳn, thiên nhiên
không nhất nhất là chuẩn mực cho con ngưòi nữa mà con người đã trở thành
nét tiêu chuẩn để nói về thiên nhiên. Khổ thơ đầu nói đến rặng liễu nhưng
cách nói như đang hướng người đọc nhìn về một cô gái buồn rượi. Lá liễu rủ
vừa được xem là “tóc buồn buông xuống”, vừa được ví là “lệ ngàn hàng”. Lối
so sánh thiên nhiên - con người này khá phổ biến ở hiện đại thơ lãng mạn.
Anh Thơ trong “Bến đò ngày mưa” cũng nhân hóa thiên nhiên như thế:
Tre rũ rượi ven bờ chen ướt át
Chuối bơ phờ đầu bến đứng dầm mưa.
Nói đến trăng, Xuân Diệu cũng tiếp mạch ví von ấy chứ không chỉ nhắc
một cách chung chung “bóng trăng”, “trăng sáng”... mà cụ thể cả cách gọi lẫn
cách tả trăng:
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ.
Xuân Diệu nói đến mùa thu nhưng không chỉ nhắc đến sắc vàng vọt
của thu nữa mà ông đã mở rộng tầm nhìn để thu về những màu sắc khác làm
thay đổi không khí thu bấy lâu. Ngoài sắc áo vàng còn có màu “áo mơ”, đỏ,
xanh...
Trong màu sắc đỏ rũa màu xanh.
Nói đây là bài thơ tiêu biểu của thơ ca lãng mạn 30 - 45 có lẽ bởi hồn
của bài thơ. Thời đại Xuân Diệu, các tác giả có xu hướng đi tìm cái mới, đi
khám phá thiên nhiên để được khẳng định mình nhưng vì phong trào thơ mới,
thơ của cái “tôi” còn phải đối đầu gây gắt với thơ cũ nên dù muốn cởi mở lòng
mình vẫn có nét e dè, chưa thực sự nói hết lòng mình. Cảm xúc ở “Đây mùa
thu tới” với nỗi buồn truyền thống để nói về thu và tâm thế thời hiện đại đang
hoang mang như “đứa con lạc mẹ” và phân vân “bâng khuâng đứng giữa hai
dòng nước”.
“Đây mùa thu tới” là một khởi sắc rất đáng kể so với thơ thu trước nó.
Bài thơ tập trung miêu tả sự chuyển động của thiên nhiên ở những biểu hiện
nhỏ bé, tinh vi nhất nhưng lại thể hiện một tâm hồn thơ mới rộng mở, tiêu biểu
cho cả một thời đại. Bài thơ không một dáng vẻ to tát nói về đất trời hay nỗi
niềm ẩn sĩ mà là khao khát mạnh mẽ, rất con người là muốn được bộc lộ cá
nhân trước sự đổi thay của đất trời.
Xuân Diệu đề cập đến một cái “tôi” cô đơn, đang đi tìm mình trong cuộc
đời, những ngẩn ngơ, đìu hiu, buồn không nói, run rẩy, u uất... chứng tỏ điều
đó. Cái tôi đó cũng ý thức được bản thân mình trong xã hội nên càng khao
khát hơn được bày tỏ cho chúng ta về chính họ, muốn phơi bày tâm hồn, cõi
lòng họ. Không chỉ Xuân Diệu tỏ ra đồng cảm với nỗi buồn không nói của ít
nhiều thiếu nữ, ngay Thế Lữ (Cây đàn muôn điệu) cũng tỏ bày:
Tôi ngại ca tiếng lòng phấn khởi
Tôi thở than cùng thiếu nữ bâng khuâng.
Xuân Diệu hay Thế Lữ đều muốn được chú ý, muốn được hòa hợp với
mọi người và bản thân nhà thơ cũng tỏ ra biết thông cảm. Hơn một lần Xuân
Diệu viết về mùa thu với mong muốn được hòa hợp giữa con người với thiên
nhiên, giữa con người với nhau giữa cảnh với nhau:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.
(Thơ duyên)
Khi Xuân Diệu tìm thấy cho mình một “nàng trăng ngẩn ngơ”, thì Lưu
Trọng Lư cũng thổn thức với “Tiếng thu”:
Em không nghe mùa thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
Đều giống nhau ở cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến trước mùa thu chứ
không chỉ là cảm xúc buồn, sẵn lòng đón nhận điều gì âm u, tê tái của mùa
đông, vẻ đẹp của mùa thu được các nhà thơ phát hiện và tỏ ra thích thú: “Đây
mùa thu tới! Mùa thu tới” hay “Em không nghe mùa thu” hay “Thu đến nơi nơi
động tiếng huyền” đều là những lời ca vang, reo mừng khi đất trời chuyển
mùa. Mùa thu rõ ràng đã trở thành một mùa thu hoàn toàn khác với thơ cổ.
Vẫn còn nét buồn cố hữu của thu sang thi nhân đã nhìn nhận nó ở một góc
độ khác, tươi mới hơn, lạ lẫm hơn, thậm chí lạ với nét buồn của mùa thu. Chế
Lan Viên không chỉ nhận mùa thu mà còn tỏ ra tiếc nuối, muốn níu kéo:
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi một lá vàng
Với nửa hoa tươi muôn cánh rã
Về đây đem chắn nẻo xuân sang.
Rõ ràng phải có những cảm xúc đặc biệt với mùa thu, các nhà thơ mới
ưu ái thu đến thế. Không riêng mình Xuân Diệu biết phấn khởi, hớn hở khi thu
đến, nhiều nhà thơ khác cũng cảm mến mùa thu theo cách ấy. Hình như nỗi
buồn thời đại cộng với lãng mạn tuổi trẻ có nét giao thoa, gần gũi với mùa thu.
Đa phần các nhà thơ lấy cảnh thu để bày tỏ lòng mình.
Với một người luôn “vội vàng”, giục giã, sợ thời gian trôi chảy, tuổi trẻ
tàn phai như Xuân Diệu lại càng không thể làm ngơ trước giao mùa dù đó là
mùa thu. Mùa thu là mùa đáng buồn nhất trong quan niệm của thơ ca cổ,
trung đại. Con người thời ấy luôn tiếc nuối những ngày nắng ấm đã qua, chờ
đợi ngày rét mướt, ảm đạm của thu - đông mang tới. Ở thời của Xuân Diệu
dường như thi sĩ chỉ quan tâm tới cái hiển hiện của mùa thu, nhà thơ thường
khám phá vẻ đẹp hiện tại mà chưa cần bận tâm tới mùa đông cận kề. Nhà
thơ nhìn mùa thu bằng con mắt thật của chính mình, không thông qua một
ước lệ tượng trưng nào còn rơi rớt lại của thời đại trước, ảo não đến như Huy
Cận cũng thấy được một chút gì vương vấn chứ chưa buồn hẳn:
Rơi rơi... dìu dịu rơi rơi...
Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ...
Nỗi buồn này cũng với thơ cổ điển; nó mang dáng vẻ lãng mạn tâm lí,
dòng tâm linh sâu thẳm, nên ý thơ cũng khó hiểu. Thơ Xuân Diệu cũng khó
hiểu nhưng rất thực: “Những luồng run rẩy rung rinh lá” “Cành biếc run run
chân ý nhi”...
Với “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu, chúng ta thấy nét chung của thơ
ca lãng mạn 30 - 45 là sự cởi bỏ mọi ràng buộc, khao khát giải phóng cá
nhân, là sự tự do cho tâm hồn bay bổng, đón nhận thiên nhiên, vạn vật. Xu
thế chung của thế hệ Xuân Diệu là thấy vui mừng vì được tự do cá nhân, tự
do đi tìm những tâm hồn đồng điệu cho mình. Song vẫn còn nét buồn vì dù
sao vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của thơ ca trung đại, ý thức hệ tư tưởng
về cái “tôi” vẫn chưa định hình rõ nét và buồn hơn cả vì chưa khẳng định
được bản thân, chưa tạo được cho mình thế đứng riêng, độc lập. “Đây mùa
thu tới” mang được nét lớn đó vào nội dung của bài thông qua nghệ thuật
biểu hiện rất tài tình của Xuân Diệu. Trong bài có cả niềm vui được chứng
kiến, được đón nhận mùa thu với đổi thay mới mẻ, lạ lẫm, gây tò mò cho
những con người vừa “trẻ tuổi” vừa “trẻ lòng”. Còn nét buồn chủ yếu là do cá
nhân cảm thấy thời gian cứ trôi, tuổi trẻ có giới hạn mà con người vẫn chưa
làm được gì để khẳng định mình. Thiên nhiên trong “Đây mùa thu tới” vừa tả
khái quát sự giao mùa, vừa đặc tả sự chuyển động, trở mình của mùa thu ở
mức rất tinh vi, tinh tế.
Thời đại thơ lãng mạn 30 - 45 đã qua những âm vang và những gì nó
để lại cho thơ ca Việt Nam thật đáng giữ gìn. Đó là một cuộc cách mạng thực
sự làm thay đổi nhãn quan thơ, cách cảm thụ, đánh giá thơ. Mở ra cho thơ ca
Việt Nam một hướng đi mới, một kiểu sáng tác mới tiến bộ hơn thơ ca cổ.
Thơ lãng mạn đáp ứng được nhu cầu biểu hiện và tiếp nhận của quần chúng.
Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu nhất và có những đóng góp lớn lao cho nền
văn học đó. Bức tranh thu “Đây mùa thu tới” của ông được xem là tiêu biểu
cho thơ lãng mạn 30 - 45 cũng bởi chất lãng mạn thời đại thấm nhuần trong
từng câu chữ. Đúng như đánh giá về Xuân Diệu “ông là nhà thơ lãng mạn, là
nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. (Hoài Thanh — Thi nhân Việt Nam).
NGUYỄN MAI HIÊN
Bình giảng bài thơ “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu
YÊU CẦU
Nội dung: về nội dung và nghệ thuật của bài thơ, cần làm rõ như đã
nêu trong phần yêu cầu của đề trước. Nhưng về phương pháp và hành văn
có nét khác.
Phương pháp: Kiểu bài bình giảng đòi hỏi phải đi vào cảm thụ trực tiếp
ngôn từ, hình ảnh nghệ thuật, trước nhất để đạt yêu cầu hiểu nghĩa lí và
thưởng thức bài thơ rồi trên cơ sở đó mới bàn luận, bình giảng.
So với kiểu bài phân tích, kiểu bài bình giảng đào sâu và mở rộng hơn
ở cả hai yêu cầu bình và giảng. Hai yêu cầu đó đều dựa trên cơ sở cảm thụ,
phân tích hình tượng nhưng được thực hiện một cách chọn lọc chứ không
nhất thiết phải trải đều trên toàn bộ bài thơ, bài văn.
Hành Văn: Lời văn, bài bình giảng có yêu cầu tái hiện hình tượng trong những liên tưởng và thể hiện cảm xúc cá nhân, do đó, có tính hình tượng hơn và tác động vào cảm xúc của người đọc nhiều hơn.
BÀI LÀM
Thơ Xuân Diệu là cả một bầu xuân, là cái bình chứa muôn hương của
tuổi trẻ. Thi sĩ không ngớt chào mời giục giã mọi người hãy tận hưởng tuổi trẻ
và tình yêu - “phần ngon nhất của cuộc đời”. Xuân Diệu đã từng bỏng môi, rát
lưỡi, đau răng vì đã uống tham lam vào suối mặt trời, đã ăn hăm hở vào trái
mùa xuân. Là con người yêu sống, ham sống, cho nên khi cảm nhận được sự
trôi chảy không ngừng của thời gian, sự tàn lụi của cảnh vật (dù là mới chớm)
nhà thơ hốt hoảng buồn sầu cũng là điều dễ hiểu. Đây mùa thu tới tiêu biểu
cho tâm trạng ấy của ông.
Mùa thu là người bạn muôn đời của thi ca. Cái rét buốt tê tái của mùa
đông qua đi để nàng xuân đến với bao nhiêu niềm vui và sự sống, có lẽ gây
ấn tượng mạnh hơn trong lòng người, nhưng lại không gợi thi tử nhiếu như
mùa thu, phải chăng vì thu dịu dàng, thu buồn hơn. Với những tâm hồn thi sĩ
đa cảm, đa tình, niềm vui phơi phới đã dễ rung động, những nỗi buồn thì càng
gợi cảm xúc nhiều hơn. Xuân Diệu cũng vậy. Thi sĩ đã để cho lòng mình, hồn
mình rung lên những nhịp đập xốn xang khi mùa thu đến. Đây mùa thu tới
phảng phất một nỗi buồn nhưng lại đẹp đến nao lòng.
Nhà thơ cảm nhận mùa thu tới trong vẻ đẹp của nỗi buồn:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
Mở đầu bài thơ là hình ảnh liễu - một hình ảnh quen thuộc trong Đường
thi. Trước đó, Nguyễn Du đã từng có câu thơ rất hay về liễu: “Lơ thơ tơ liễu
buông mành”. Mặc dù học tập hình ảnh ước lệ trong văn chương cổ, nhưng
“liễu” của Xuân Diệu không có vẻ gì là vay mượn. Cảnh mang hồn của Xuân
Diệu, hồn Việt Nam tuy quen mà lạ, tuy ước lệ mà lại rất cụ thể bởi cách liên
tưởng sáng tạo và độc đáo: “đìu hiu đứng chịu tang”. Với nét bút mềm mại và
khoáng đạt, nhà thơ đã vờn vẻ vào không gian dáng hình yểu điệu, lả lướt
của những rặng liễu thả dài sóng tóc gội đầm đìa trong những cơn mưa lệ. Từ
láy “đìu hiu” cùng với nghệ thuật láy âm “buồn buông”, “ngàn hàng”... đầy sức
gợi. Câu thơ gợi cảm giác nhiều hơn là tả. Liễu buồn nhưng đẹp ảo não,
thướt tha. Càng buồn, càng đẹp. Càng đẹp lại càng buồn. Cảnh thấm đậm
tâm trạng khiến cho người đọc không khỏi vấn vương chút tơ lòng. Cái tài của
tác giả là cảnh buồn nhưng không chết lặng mà có hồn.
Câu thơ thứ ba cất lên tiếng lòng thi sĩ: “Đây mùa thu tới - mùa thu tới”.
Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của thi sĩ đã bắt kịp bức thông điệp của đất trời.
Dường như giữa im lìm của vạn vật, chỉ một mình nhà thơ lắng nghe được
bước chuyển rất nhẹ của thời gian. Câu thơ có giá trị như một lời thông báo,
xác nhận sự hiện diện của thời gian. Trong một câu mà có tới hai lần “mùa
thu tới”, thi sĩ như vội vàng, cuốn quýt thốt lên khi mùa thu vừa bước đến.
Như đã chờ đợi từ lâu, Xuân Diệu mở rộng lòng mình để đón thu. Ông cảm
nhận thêm một dáng vẻ của mùa thu:
“Với áo mơ phai dệt lá vàng”
Xuân Diệu đã khoát lên mùa thu một chiếc áo vàng sáng rạng rỡ, kiều
diễm và sang trọng. Không gian như òa sáng bởi màu vàng mơ đầy gợi cảm.
Mùa thu đẹp, thơ mộng, cảnh sáng nhưng buồn thì cũng buồn vô tận.
Bức tranh chớm thu có đường nét mềm mại của liễu, có màu sắc, có
tình người. Hình ảnh liễu cùng với màu áo mơ phai mở đầu đã gây một ấn
tượng ban đầu cho người đọc để đến khổ thứ hai, mùa thu được cảm nhận
tinh tế và đầy cảm giác:
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh,
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.
Cảnh thu có hoa, có lá, có gió, trổ vào không gian những cành trơ trụi
khẳng định trong rét mướt. Ân tượng lớn nhất trong khổ thơ là cách diễn đạt
rất mới, rất tinh vi: “hơn một loài hoa”, “rũa màu xanh”... Tất cả đều ở độ mới
chớm, mới bắt đầu. Hơn một loài hoa chứ không phải tất cả các loài hoa,
trong vườn sắc đỏ mới “rũa” màu xanh, chứ không phải “rửa”, Ta có cảm giác
màu đỏ đang lấn dần, lấn dần để cuối cùng tràn ngợp, khắc khoải một màu đỏ
lụi tàn. Câu thơ gợi cảm giác, như có sự nhói buốt trong tâm hồn. Lẽ ra, vào
thu ở ta, mùa vàng là màu hợp hơn nhưng ở đây, Xuân Diệu đã chọn màu đỏ
để đối chọi với màu xanh đang bị lấn dần tạo ấn tượng trong lòng người.
Hai câu thơ sau mới thật là tuyệt bút, với sư quan sát tinh vi mang hồn
Việt Nam. Sự thật chỉ có gió thổi làm cho lá rung rinh nhưng Xuân Diệu đã
tưởng tượng làm cho gió cũng run rẩy vì rét. Bốn âm “r” đã phát huy tác dụng.
Người đọc như run lên vì rét, sau lưng rung động vì hay. Như một nhà điêu
khắc tài ba, Xuân Diệu đã trổ, đã khắc vào không gian những nhánh khô
không còn sức sống, xương xẩu, gầy guộc, khắc khổ, mà không phải nhiều
nhánh, chỉ có “đôi nhánh”, lại đặt trong cái rét đến buồn lòng, nên cành nhỏ
nhoi, mỏng manh, càng buồn gấp bội. Câu thơ có bảy chữ thì có đến sáu chữ
gây ấn tượng. Trong ca dao đã có không ít lần xuất hiện hình ảnh cành trúc,
đến Nguyễn Khuyến đã tiến lên một bước: “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu:”, và
đến đây, Xuân Diệu đã đẩy lên một mức. Có lẽ là cao nhất: “nhánh”, nghe đã
thấy nhỏ nhoi chứ không nói gì đến một loạt các từ cùng nghĩa sau đó: “Khô
gầy xương mỏng manh”. Câu thơ đầy chất tạo hình của Xuân Diệu đã mài
nhọn các giác quan cho ta. Tất cả đều ở mức độ khởi sự, các thông tin đều
mang tính vi lượng. Tác giả đã để lại trong lòng người đọc cảm giác tê buốt
thấm thía đến từng thớ thịt, đã chạm vào chỗ da non của từng người. Đây là
thời điểm giao mùa. Nếu như không có một tâm hồn tinh tế thì thi sĩ không thể
cảm nhận được tinh vi đến vậy. Cảnh vật đang dần dần tàn lụi, thời gian
không ngừng trôi chảy, nên một con ngưòi ham sống như Xuân Diệu làm sao
không buồn. Có lẽ, do lòng yêu tuổi trẻ, do muốn ngăn sự già nua tàn tạ nên
nhà thơ luôn luôn cảnh giác và báo động:
“Dưới gốc nào đâu có xác ve
Thế mà ve đã tắt theo hè”
Hay:
“Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”.
Chính vì vậy mà nhà thơ cảm thấy cô đơn, buồn sầu khi thu tới:
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò...”
Cảm giác cô đơn không khơi gợi từ mọi vật, vầng trăng được miêu tả
trong câu thơ độc đáo và tinh nghịch: Trong một phút thả lòng, bâng khuâng,
ngẩn ngơ khó nói thì bị thi nhân tinh quái bắt quả tang. Giữa thiên nhiên và
con người như có sự hòa đồng, giao cảm nên con người mới có thể hiểu
được giây phút tự “ngẩn ngơ” của thiên nhiên. Hình ảnh non xa sương mờ
thấp thoáng, nhạt nhòa gợi không khí sương khói bảng lảng, mơ hồ thật đẹp
nhưng vẫn thoáng buồn.
“Đã nghe rét mướt luồn trong gió...”
Có gió thì mới rét và rét thì mới gió, nhưng ở dây, Xuân Diệu đã tách
gió và rét ra làm hai, cái rét luồn, ẩn trong gió, chưa thực sự hiện diện, chưa
lộ mặt bởi đây mới chỉ là bắt đầu. Xuân Diệu đã phát huy cao độ khả năng
cảm thụ với nhãn lực tinh tường. Thật ra là cảm thấy cái rét lẩn khuất trong
gió nhưng thi nhân lại nói là “đã nghe”. Dường như giữa con người và thiên
nhiên có một mối dây vô hình gắn bó và am hiểu. Đây là gió từ hồn thổi ra.
Hình như, tác giả cố tìm bóng dáng cuộc sống của con người nhưng không
có:
“Đã vắng người sang những chuyến đò...”
Con thuyền trong thơ Nguyễn Trãi đã buồn “Cô chu trấn nhật các sa
miên” (Con thuyền gối đầu trên cát ngủ suốt ngày) nhưng ở đây, hình ảnh con
thuyền còn buồn hơn vì nó lênh đênh trên sông nước, đợi chờ khắc khoải một
bóng người nhưng “đã vắng”, không phải chỉ “vắng” trong hiện tại mà “đã”: từ
trước đây.
Tất cả đều vắng vẻ. Đấy là sự cô đơn, chia lìa trên mặt đất, của người
vì không đoàn tụ. Ở khổ cuối là sự chia lìa của thiên nhiên:
“Mây vẩn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li”
Nhà thơ đã cảm thấy bước chuyển rất nhẹ của thiên nhiên: “mây vẩn”,
có sự xuất hiện của sự sống: đàn chim nhưng là “chim bay đi”. Đò đã vắng,
chim lại bay đi, để lại một khoảng trống không mênh mông, xa vắng. Nỗi buồn
thương tràn sang cảnh vật và quay trở lại xoáy vào lòng người, da diết thấm
thìa khôn cùng. Không chỉ riêng thiên nhiên nói lên cái u uất chia li mà chính
lòng người cũng phải cất lên thành lời “Khí trời u uất hận chia li”. Nỗi đau xót,
u uất dằn xuống.
Hai câu kết bài thơ đầy sức gợi
“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”
Con người đẹp nhất khi có niềm vui và nụ cười, còn ở dây, thiếu nữ
“buồn không nói”, trầm ngâm suy tư. Câu thơ không xác định ở số lượng “ít
nhiều”, ở hướng nhìn “nhìn xa”, “không nói”, “nghĩ ngợi gì”. Người thiếu nữ
này cũng là một cảnh quan, nhưng là nét đẹp cao nhất của cảnh, biết cảm
thụ, nghe được tất cả những cái vắng lặng từ những cảnh quan khác dồn tới
mà buồn, chữ “hành khách” ở câu thơ của Nguyễn Trãi: “Dã kính quan lương
hành khách thiểu” còn là người nói chung, nhắc đến nó để nói sự không có.
Còn ở đây, hình ảnh thiếu nữ là cụ thể, là có thật, đang tồn tại. Trạng thái
buồn không xác định lí do, tư thế nhìn cũng không xác định duyên cớ. Bài thơ
khép lại ở một trạng thái, một tư thế.
Đây mùa thu tới có lúc sử dụng thi liệu ước lệ của thơ Đường nhưng
kết thúc lại không giống thơ Đường, câu cuối của thơ Đường thường đóng lại,
khép kín ý thơ từng bài. Nhưng ở đây, tác giả lại mở ra, khơi gợi ở người đọc
một cảm hứng đồng sáng tạo. Nó để ngõ dành cho sự liên tưởng, cảm nhận
của từng người đọc. Bài thơ kết thúc cũng là lúc ta bắt đầu cảm thấy được cái
điều “ít nhiều thiếu nữ buồn không nói. Đó chính là tài năng của Xuân Diệu.
Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cách diễn đạt truyền thống và mới
mẽ do học tập văn hóa Phương Tây, với tâm hồn thi sĩ giàu cảm xúc và tài
năng, Xuân Diệu đã góp phần cho Thơ mới nói riêng và nền văn học nói
chung một tác phẩm có giá trị: Đây mùa thu tới. Bài thơ mang hồn thơ Xuân
Diệu, hồn Việt Nam.
Đây là “tiếng thở dài của những tâm hồn cô đơn tội nghiệp đi tìm nhau”.
Có lẽ, tác giả muốn gởi gắm một lời khuyên mang ý nghĩa nhân bản:
Những con người lẻ loi cô đơn hãy xích lại gần nhau để giải tỏa nỗi cô đơn
này.
Đây mùa thu tới như một bức tranh lụa cổ hòa sắc lạnh. Hình ảnh mùa
thu nên thơ, nên họa trong tác phẩm không phải không liên quan đến những
cảnh quan mĩ lệ của đất Việt. Phải chăng hồn dân tộc của bài thơ không hỏi
mà hiện ra ở điều đó? Xuân Diệu đã đem đến cho chúng ta một bức tranh
thiên nhiên u buồn mà rất đỗi xinh đẹp, một tâm hồn chân thành và tha thiết,
nỗi buồn trong sáng, nỗi cô đơn tràn ngập trong thơ ấy là nỗi buồn chung của
cả một thế hệ thanh niên mất nước ngày đêm khao khát sự hòa nhập với
cuộc đời.
ĐẶNG THU THỦY
B. LUYỆN TẬP:
1. Nếu coi các hình tượng trong bốn khổ thơ Đây mùa thu tới là phân
thân của chính nhà thơ thì ta có thể tìm thấy mạch vận động tâm trạng của
nhân vật trữ tình được không? Sự phát triển cảm xúc ấy được biểu lộ như thế
nào?
2. Liễu chịu tang ai? Và buồn vì lẽ gì? Theo anh (chị) bốn dòng thơ đầu
biểu hiện độc đáo như thế nào về nội dung và nghệ thuật?
3. Hình ảnh thiếu nữ tựa cửa gây ấn tượng gì khi “mùa thu tới”?
4. Hãy phân tích “Đây mùa thu tới” để làm rõ quan niệm thơ chính của
Xuân Diệu: “Người đọc thơ muốn rằng thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời
sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đi qua như vậy, tâm
hồn, trí tuệ phải in vào đó thật sâu sắc, càng cá thể càng độc đáo, càng hay”
5. Thông qua những bài thơ viết về mùa thu sau đây (Thu hứng hoặc
Đăng cao của Đỗ Phủ; Thu vịnh của Nguyễn Khuyến và Đây mùa thu tới của
Xuân Diệu).
Anh (chị) hãy nêu lên màu sắc riêng trong tâm hồn của mỗi nhà thơ
trước cảnh thu.
6. Kết cấu không gian của bài thơ có dụng ý nghệ thuật như thế nào?
7. Những câu thơ khổ 2 miêu tả khu vườn chớm thu ở một thời điểm rất
ngắn.
Sự kết hợp của những sự vật riêng lẻ ở khu vườn bắt đầu là hoa rụng,
sau đó là phai, tiếp theo là nhựa sống khô kiệt khiến lá “rung rinh” và cuối
cùng cành khô phơi xương màu trắng có ý nghĩa như thế nào?
8. Câu thơ của Nguyễn Du nói về người phụ nữ một thời nhan sắc.
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai,chồng con đó biết là cậy ai?
(Văn chiêu hồn)
Liên hệ với nàng trăng của Xuân Diệu:
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Có ý nghĩa giống và khác nhau như thế nào?
9. Phân tích câu thơ:
Những luồng run rẩy rung rinh lá.
10. Rét mướt là đặc trưng của mùa đông. Tại sao mới chớm thu mà:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Viết một đoạn văn để cảm nhận hai câu cuối.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì
VỘI VÀNG
A. BÀI VĂN
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu:
“Tôi muốn tắt nắng đi
…
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
BÀI LÀM
Vội vàng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu,
được in trong tập Thơ Thơ, xuất bản lần đầu năm 1938. Vội vàng là tiếng nói
của tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt và quan niệm nhân sinh mới
chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống. Đoạn thơ đầu của bài thơ thể hiện
cảm xúc: Với rộn ràng, say đắm của nhà thơ khi mùa xuân đến.
Mở đầu đoạn thơ là ý nguyện của thi sĩ - một tâm hồn yêu đời:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Bằng biện pháp điệp ngữ, bài thơ thể hiện ý chí của chủ thể trữ tình cái
“tôi” muốn tắt nắng để đừng mất màu đẹp rực rỡ, buộc gió không cho hương
bay đi, để được hưởng thụ nó, thưởng thức nó. Ý nguyện của thi sĩ là muốn
tác động vào vũ trụ để giữ nguyên vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp thực của nó
trong hiện tại, vẻ đẹp chóng mất, chóng phai tàn. Đó là một ý nguyện chủ
quan của thi sĩ. Điều đó dường như vô lí “xa rời cuộc sống”, “thoát li hiện
thực” nhưng nó lại có lí trong tâm hồn thi sĩ yêu đời, trân trọng và nâng niu
cuộc sống.
Tình yêu thiên nhiên - một tình cảm muôn đời của người nghệ sĩ nhưng
sự cảm nhận của Xuân Diệu - thi sĩ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài
Thanh) thật lạ. Dường như mọi giác quan của thi sĩ đều run lên đón nhận mọi
âm thanh, mọi sắc màu, đón nhận cái hữu tình và cả cái vô tình vấn vương
của tạo hóa. Từ ý nguyện dẫn đến hành động; ý nguyện giữ mãi cuộc sống,
để hưởng thụ cuộc sống. Điều đó thể hiện nhiệt tình sống của tác giả khi chợt
đến mùa xuân.
Rồi đây nữa, hình ảnh của sự sống muôn màu sắc, thật tốt tươi, thật
ngon lành đang dạt dào ùa vào tâm hồn thi sĩ:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”.
Điệp ngữ “này đây” liệt kê một loạt những hình ảnh đẹp miêu tả xuân:
hoa của đồng nội xanh rì; lá của cành tơ phơ phất; của yến oanh khúc hát
tình ca say mê cuồng nhiệt trong tình yêu; ánh sáng chớp hàng mi.
Trước mùa xuân tươi đẹp ấy ai mà không rung động? Vậy thì tâm hồn
thi sĩ Xuân Diệu sao lại không say trong chập chờn của “ong bướm” ngày
xuân đang vào độ tràn đầy hạnh phúc bên “yến oanh” quấn quýt để hưởng
“khúc tình si”? Không sao xuyến đến nao lòng sao được trước cái mát mẻ,
tươi non của sắc “Hoa của đồng nội xanh rì” và lá non bên “cành phơ phất”?
Những hình ảnh thơ thật chân thật, tươi nguyên và tràn trề nhựa sống.
Nhà thơ lãng mạn đón nhận sự sống thanh xuân bằng - cặp mắt “xanh non”,
cặp mắt, “biếc rờn” ngơ ngát và đầy vui sướng. Nhà thơ đã phát hiện ra biết
bao vẻ đáng yêu, đáng say đắm của thế giới thiên nhiên và con người trần
thế rất đỗi bình dị và gần gũi này. Phát hiện ra nó, đón nhận nó và cao hơn
nữa là sự níu giữ sự sống bằng cả tấm lòng, bằng cả ý muốn chủ quan của
mình. Điều đó giải thích tại. sao “tôi muốn”, lí giải ý nguyện của mình vì: Mùa
xuân đẹp lắm.
Sự sống mùa xuân quanh ta thật hấp dẫn, thật say lòng người khiến
tâm hồn thi sĩ như cất lên tiếng reo vui:
“Mỗi buổi sớm thần Vui hàng gõ cửa”
Vẻ đẹp mùa xuân - một vẻ đẹp say đắm, xanh non, tươi trẻ, vẻ đẹp
thực của trần thế rất bình dị và gần gũi, nó không phải là vẻ đẹp ở chốn tiên
thơ mộng, huyền ảo và hấp dẫn mà Thế Lữ đã tìm ra:
“Trời cao - xanh ngắt – Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai
Theo chim, tiếng sáo lên khơi
Lại theo dòng suối bên người tiên nga”
(tiếng sáo thiên thai – Thế Lữ)
Vẻ đẹp mà Xuân Diệu cảm thấy là vẻ đẹp của thiên nhiên quanh ta
nhưng nó đẹp - một vẻ đẹp tươi trẻ, say đắm, nó hợp với con người nơi trần
thế và trong vẻ đẹp tươi trẻ của mùa xuân ấy, cảm xúc của nhà thơ thật vui,
rộn ràng và say đắm.
Niềm say mê ấy thật cuồng nhiệt và mãnh liệt biết bao khi thi sĩ thốt lên:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Hình ảnh thơ độc đáo, hình ảnh so sánh rất Xuân Diệu. Nhà thơ đã so
sánh khái niệm thời gian “tháng giêng” - một hình ảnh vô hình với một hình
ảnh cụ thể “cặp môi” và truyền cho người đọc một cảm giác thật cụ thể
“ngon”, “gần”.
Sau cái phút giây bồng bột cảm hứng ấy, nhà thơ chợt tỉnh lại được và
tự ý thức được về thời gian:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Một trạng thái đối lập mở ra một trạng thái tâm hồn mới: mùa xuân đẹp
hấp dẫn làm cho thi sĩ “sung sướng” nhưng rồi có cái gì đó khiến cho thi sĩ
phải “vội vàng”, phải hưởng thụ mùa xuân ngay lúc mùa xuân đến, phải
hưởng thụ ngay cái vẻ say đắm của nó trong hiện tại, phải tận hưởng mùa
xuân khi nó còn tươi non, hấp dẫn và phải hưởng ngay khi nó còn “mới bắt
đầu” để sau này khi mùa xuân đã qua, mùa hạ đến không phải nuối tiếc, ân
hận.
Nhà thơ bộc lộ niềm say mê, vui sướng bất chợt khi mùa xuân vừa đến
nhưng rồi nhà thơ chợt tỉnh lại được, ý thức được về thời gian mà từ đó
hưởng thụ mùa xuân ngay trong thực tại.
Đoạn thơ làm nổi bật phong cách thơ Xuân Diệu: dùng diệp ngữ, sử
dụng biện pháp thậm xưng, hình ảnh đẹp, độc đáo, táo bạo. Thơ xưa nào đã
mấy ai dám bộc lộ tiếng nói cương quyết và dứt khoát như sự lên tiếng của
Xuân Diệu? Và đã mấy ai dám so sánh mùa xuân với hình ảnh cụ thể, rất
thực “cặp môi gần” trong tình yêu lứa đôi, vật chất hóa khái niệm trừu tượng
là thời gian ca ngợi vẻ hấp dẫn của mùa tháng giêng, mùa xụân. Không có
tình yêu tha thiết, yêu cuộc sống đến mức cuồng nhiệt làm sao có được
những vần thơ mê say và cháy bỏng ấy.
Ta hãy lật giở những trang thơ mùa xuân của các thi sĩ xưa và nay xem
họ tìm thấy và cảm nhận được những gì ở mùa xuân:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Một vẻ đẹp kiều diễm. Còn đây hình ảnh rất gần gũi, bình dị nhưng gợi
buồn:
“Mưa đổ bụi êm đềm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”
(Chiều Xuân - Anh Thơ)
Còn xuân ở đây rất đẹp, tràn trề sức sống, rạo rực niềm vui:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Tôi đưa tay, tôi hứng”
(Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải)
“Nhà thơ thực sự đón nhận mùa xuân với tất cả tài hoa của ngòi bút, sự
thăng hoa của tâm hồn... Nghe bằng tai chưa đã, anh nghe cả bằng trái tim
xáo động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo” (Vũ Dương Quỹ).
Còn đây nữa, sự cảm nhận mùa xuân của một tâm hồn cách chúng ta
sáu thế kỉ đó là Nguyễn Trãi:
“Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đây buồng lạ, mầu thâu đêm
Tình như một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem”
(Cây chuối)
Một sự giao cảm của thiên nhiên, một hình ảnh rất thực, đẹp đẽ và
thanh tú nhưng cũng hết sức phong tình. Bài thơ làm ta liên tưởng một mối
tình vừa chớm nở trong trắng, say đắm, kín đáo, e ấp. Điều đó càng làm
chúng ta thấy rõ: xưa và nay các nhà thơ đã viết và viết nhiều về mùa xuân
nhưng nó rất giản dị, rất đời thường và có chăng chỉ bộc lộ một cách kín đáo,
tế nhị như Nguyễn Trãi đã viết trong bài thơ trên mà thôi. Và càng chứng
minh cho chúng ta thấy sự táo bạo của Xuân Diệu.
Thi sĩ cảm nhận thiên nhiên, cuộc sống bằng con mắt tươi non và từ đó
diễn tả niềm ham sống say mê, mãnh liệt, một khát vọng hưởng thụ vẻ đẹp có
thực nơi trần thế.
Niềm khao khát giao cảm với đời đặt vào hoàn cảnh thanh niên sống
nỗi sầu thế kỉ, nỗi buồn thời đại, những dòng thơ này có ý nghĩa giúp cho con
người tình yêu cuộc sống và tận hưởng niềm hạnh phúc trần thế, giúp cho
chúng ta - mỗi con người phải biết quý trọng tuổi thanh xuân của mình, tuổi
thanh xuân không phải bao giờ trở lại để cho chúng ta sau này không phải ân
hận, nuối tiếc. Đoạn thơ cũng thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ. Tuy
Xuân Diệu không nói đến sự cống hiến nhưng chúng ta phải nhận thức được
điều đó: yêu đời, yêu cuộc sống để có trách nhiệm với đời, để làm cho cuộc
sống có ý nghĩa xứng đáng chứ không phải chỉ tận hưởng, hưởng thụ những
gì tốt đẹp nhất của mùa xuân, của tuổi thanh xuân cho thỏa mãn,
Đoạn thơ càng làm cho chúng ta hiểu hơn về Xuân Diệu một tâm hồn
yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt và hiểu được cách nhìn, đón nhận một
cảm xúc của ông khi mùa xuân đến. Đoạn thơ cũng giúp cho chúng ta càng
yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống hơn. Trân trọng biết bao biết bao một tâm hồn
- một nhà thơ của mùa xuân và tuổi trẻ, luôn luôn sôi nổi tình yêu, dạt dào tình
đời đã, đang và sẽ mãi mãi sống trong lòng những người biết và yêu thơ ông.
TRẦN THỊ MINH NGUYỆT
B. LUYỆN TẬP
1. Thơ Xuân Diệu trước 1945 dù nhiều khi mang cảm xúc mãnh liệt
cường tráng nhưng vẫn luôn chênh vênh, hụt hẫng.
Hãy phân tích Vội vàng để làm sáng tỏ nhận định.
2. Con người tình nhân và thi nhân biểu hiện trong bài thơ Vộỉ vàng của
Xuân Diệu.
3. Bằng việc phân tích bài thơ Vội vàng anh (chị) hãy làm sáng tỏ ý kiến
của nhà nghiên cứu phê bình Nga Khrapchenko: “Mỗi sáng tạo nghệ thuật
chân chính tuyệt nhiên không phải là sự minh họa giản đơn cho tư tưởng này
hoặc tư tưởng khác”.
4. Bình giảng đoạn thơ kết thúc trong vội vàng:
Ta muốn ôm
…
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”
5. Bàn về Xuân Diệu, nhà phê bình Hoài Thanh đã khẳng định “Xuân
Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt
muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn,
người đều nồng nàn, tha thiết”.
Anh (chị) đánh giá nhận định trên như thế nào qua bài thơ Vội Vàng
(Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học tái bản. Hà Nội, 1984, tr. 103)
Này đây trong đoạn thơ:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Của yến anh này đây khúc tình si
a) Nằm ở những vị trí nào trong những câu thơ
b) Gắn bó với những sự vật, con vật nào?
c) Ý nghĩa biểu thị của hai tiếng này trong đoạn thơ.
7. “Nếu đoạn thơ đầu là dọn tiệc thì đoạn cuối là phá cổ. Cả hai đều có
quan hệ nhân quả với nhau”
Hãy phân tích hai đoạn thơ để thấy điều đó.
8. Câu: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Và: Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào ngươi
Có mối quan hệ tương hổ với nhau như thế nào?
9. Hãy phân tích cái nhịp điệu hành khúc ở bài Vội vàng của Xuân Diệu
10. Tại sao từ việc xưng “tôi” đầu bài thơ về cuối tác giả lại xưng “ta”?
THƠ DUYÊN
A. BÀI VĂN
Phân tích bài “Thơ Duyên” của Xuân Diệu.
BÀI LÀM 1
Hồn thơ Xuân Diệu luôn mở rộng ra cả đất trời và cõi người. Nó luôn
khao khát được giao cảm với con người, thiên nhiên, vũ trụ. Thơ duyên biểu
hiện điều ấy.
Thơ duyên chưa hẳn là bài thơ tình vốn rất đắm say sôi nổi trong thơ
Xuân Diệu. Bài thơ có anh và em họ đi xa nhau như không quen biết. Em thì
“điềm nhiên” anh thì “lững thững” và cả hai đều “vô tâm”.
Có lẽ duyên ở đây là “tác hợp cơ trời” của thiên nhiên, vũ trụ và lòng
người. Sự hòa thơ, hòa nhạc âm thầm, mãnh liệt và đầy quyến rũ. Nó khởi
đầu từ cái “buổi ấy lòng ta nghe ý bạn” để rồi nhìn đâu cũng thấy chiều mộng,
nghe đâu cũng động tiếng huyền nó vô thanh với tác nhưng náo nức con tim.
Tất cả đều cặp đôi trong yêu thương đắm đuối, mỗi lúc một mãnh liệt,
lơi lả. Chiều mộng thì hòa thơ với nhánh duyên, trên cây me thì cặp chim ríu
rít như không biết buổi chiều mà ngỡ là sáng bình minh. Chim chuyền cành
này qua cành khác, bầu trời trong xanh thì như đổ tràn ánh sáng như ngọc
lấp lánh qua muôn lá, mùa thu tới thì khắp nơi như tiếng nhạc đón mừng
(“động tiếng huyền” - tiếng huyền là tiếng đàn), con đường “nho nhỏ” thì đi với
gió “xiêu xiêu”, cành hoang thì lả tả như có tình với “nắng chiều”, con cò trên
ruộng thì như cảm thông với “Mây biếc về đâu bay gấp gấp” nên cánh nó
cũng “phân vân”, chim cũng thế, hoa cũng vậy, tất cả đều giao hòa cảm thông
như vốn có duyên với nhau tự bao giờ. Và tất nhiên con người cũng thế, anh
với em tuy chưa quen biết nhau và cũng chẳng có mối lái gì (băng nhân) mà
tự nhiên cũng cứ đi sóng đôi với nhau nhịp nhàng như “một cặp vần” trong bài
thơ, thậm chí “Lòng anh thôi, đã cưới lòng em”...
- Cảnh trong thơ tươi tắn, trong sáng, tình trong thơ thì hòa hợp nhịp
nhàng. Đây là một bài thơ vui tuy viết về một cảnh chiều thu. Trong thơ truyền
thống, cảnh chiều mà lại là chiều thu thì nói chung là buồn. Thơ xưa nói đến
cảnh chiều thì thường có chim mỏi về rừng, người lữ thứ tha hương thì nhớ
nhà, chân bước vội. Còn mùa thu thì lá vàng rơi rụng, hoa sen tàn tạ trên các
đầm ao... ở đây cảnh chiều thu lại vui. Xuân Diệu có bài thơ xuân không mùa,
nghĩa là mùa nào cũng là xuân cả, vì xuân tự trong lòng nhà thơ tỏa ra trời
đất bốn mùa:
“Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm,
Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu.
Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều.
Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng
Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng...”
Nhưng cảnh thu thực ra cũng có cái vui của nó chứ, nhất là mùa thu ở
một nước nhiệt đới như nước ta. Xuân Diệu là nhà “Thơ mới”, ông không
nhìn cảnh vật theo công thức, ước lệ của thơ cổ, ông khám phá cái đẹp, cái
vui của mùa thu có thật trên đất nước bằng con mắt chân thật của mình và
thấy mùa thu rất thơ mộng: “Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên”, không
khí mùa thu khô ráo và sáng, trời thu thì cao và trong xanh, khí hậu mùa thu
không nóng và chưa rét, con người cảm thấy dễ chịu, tâm hồn thơ thới sảng
khoái, gió rì rào trong lá cành, chim chóc ríu rít, nghe như đâu đây vang vọng
lại tiếng nhạc của đất trời:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền”.
Nhưng niềm vui của mùa thu không ồn ào mà êm ái dịu dàng. Phải có
một tâm hồn lắng nghe, tinh tế và nhạy cảm mới thấy hết được. Nhà thơ đi
giữa đất trời như đi giữa một “bài thơ dịu”, không dám ồn ào, chỉ “lững đững”
trên đường, lắng nghe bước đi nhẹ nhàng êm ái và lặng lẽ của mùa thu:
“Ai hay tuy lặng bước thu êm”.
Và cũng lắng nghe nơi lòng mình niềm cảm thông với vạn vật và nỗi
khao khát thương yêu, khao khát hòa hợp với mọi người, nhất là với cô gái
nào kia ngẫu nhiên cùng bước lên đường.
- Trong thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh có một nhận xét rất tinh tế về
Xuân Diệu: “... Sự sống muôn hình thức nhưng hình thức nhỏ nhặt thường lại
ẩn náu một nguồn sống dồi dào. Không cần phải là con hổ ngự trị trong rừng
xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm mới là
sống. Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn
cả trong những rung động tinh vi!”.
Bài Thơ duyên là một trường hợp Xuân Diệu bày tỏ sức sống của mình
trong những cảm nhận hết sức tinh vi về thiên nhiên và sự sống. Nhìn chung
cảnh thơ yên tĩnh mà vẫn có một cái gì xôn xao từ trong lòng sự vật, chỉ cảm
thấy được nhưng khó phân tích, diễn giải cho rõ ràng:
"... Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền”
"... Con đường nho nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả tả cành hoang, nắng trở chiều”.
Bình hai câu thơ trên, Hoài Thanh viết: “Cảnh như muốn theo lời thơ
mà tan ra. Nó chỉ mất một tí rõ ràng để được thêm rất thơ mộng”.
Thiên nhiên đúng là có hồn, nó lặng lẽ vận động, nhưng chỉ là những
biến thái tinh vi không thể gọi tên ra được. “Nắng trở chiều” là màu sắc thế
nào? Thật khó nói rõ ra được.
Sự cảm nhận còn tỏ ra tinh vi hơn nữa trong mấy câu thơ này:
“Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng dang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”.
Hoài Thanh viết: “Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay tới ráng chiều
(“Lạc hà dữ cô lộ tề phi - Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”, dịch là: “Ráng
chiều và cánh cò đơn chiếc láng bay - Nước mùa thu cùng trời thu một sắc”)
đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của
hơn một ngàn năm và của hai thế giới”.
Sự cách biệt ấy thể hiện ở chỗ, một đằng thì tả sự vận động bên ngoài,
mắt thường thấy được, một đằng thì cảm nhận được sự vô hình, chỉ mới có
trong gân cốt của cánh cò.
Cũng như vậy: “Chim nghe trời rộng dang thêm cánh - Hoa lạnh chiều
thưa sương xuống dần”, nhà thơ dường như nhận thấy cái cảm giác trống trải
rợn ngợp của con chim trước không gian cao rộng, và cái cảm giác se lạnh
của bông hoa khi sương chiều buông xuống...
Bài thơ giúp ta hiểu được ở Xuân Diệu một hồn thơ yêu đời, yêu sống,
khao khát giao cảm với thiên nhiên, với con người. Nó cũng giúp ta cảm nhận
được một cảnh vật thu tươi tắn, trong trẻo thơ thới, êm ả, dịu dàng, như gợi
mát tâm hồn ta. Nó còn giúp ta mài sắc cảm giác của mình để biết kĩ lưỡng
hơn, tinh tế hơn với cuộc sống này trong mỗi giây phút của đời mình.
BÀI LÀM 2
Một vũ trụ bao la, vài làn gió liêu xiêu với những cành cây lả lả trong sự
đổi thay của đất trời bỗng làm cho tâm hồn thi nhân rung động, bỗng bừng lên
niềm giao cảm trước các mênh mông vô tận của thiên nhiên, của cuộc đời; để
lời thơ lại dồi dào lên đầu ngọn bút. Có lẽ bạn sẽ cười: đề tài đó không còn là
mới lạ nữa, nó đã quen và gần gũi lắm rồi. Nhưng cái hay của bài thơ là ở
hồn thơ, cái hồn lại ẩn kín ẩn sâu kì diệu lắm. Vì vậy, trong cái quen thuộc
bình thường kia còn có những vẻ đẹp tìm ẩn của thiên nhiên, vẻ đẹp tìm ẩn
của hồn người luôn luôn giao hòa gắn bó. Thơ duyên của Xuân Diệu là một
bài thơ như thế.
Bài thơ đã mang đến cho người đọc một cảm giác dễ chịu, khoan
khoái, nó mở ra một không gian thoáng đãng qua hình ảnh “chiều mộng hòa
thơ” và “nhánh duyên”. Trong các chiều mộng mơ, có lẽ thi nhân sẽ say sưa,
đã chếch choáng trước cảnh nên thơ của đất trời, cho nên cảm xúc cứ theo
đà ấy mà trào dâng, để tâm hồn rung lên những ý thơ tuyệt diệu hòa vào cái
buổi chiều mộng mơ ấy. Chính nó cái hòa thơ trong một buổi chiều để từ
cảnh mà sinh tình, cái tình bao la lại trùm lên cảnh trong cái duyên gắn bó với
hồn người với cây cỏ mây trời. Thiên nhiên trời đất được mở ra không nhanh,
không vội vàng mà lan tỏa từ từ nhẹ nhàng, nó đến với người đọc từ cái say
của thi sĩ. Không say sao lại có cái chiều mộng hòa thơ?
Đoạn đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên hài hòa có màu sắc có âm
thanh, có cảnh có tình. Đất trời mùa thu! Đó là màu xanh ngọc lấp ló sau
những vòm me xanh ngắt, là tiếng líu ríu lách tách của một sức sống đang
vươn lên phơi phới của một cặp chim chuyền. Và mùa thu là tiếng đàn bay
bổng lâng lâng trong không gian mùa thu êm dịu. Trong cái bát ngát của màu
xanh, có một tiếng chim lao xao trong tiếng đàn ngân nga trải dài quả là hình
ảnh vô cùng lãng mạn, nó đẹp trong cái vẻ êm ả, bình yên bởi cảnh động
trong những âm thanh dìu dịu.
Người ta bảo mùa thu buồn lắm, nhưng cảnh trong bài thơ không cảnh
lúc nào bởi nó có những âm thanh huyền dịu, đang chen nhẹ nhàng vào giao
hòa trong gió mây, bay qua những vòm me xanh, thổi tan vào bầu trời xanh
như ngọc. Chính cách miêu tả cụ thể sinh động này mà ta mới hiểu được cái
chiều mộng ở trên kia, mới thấy được làm sao mới có bài thơ hòa trong chiều
mơ, làm sao lại có một nhánh duyên yêu kiều bí ẩn đến như vậy.
Thơ viết về thiên nhiên, về vũ trụ đất trời không phải là hiếm. Vì thế để
nó sống và tồn tại không phải là điều dễ dàng. Và có lẽ, cái chất sống của bài
thơ này không chỉ là cái cảnh vật cụ thể, sinh động của chiều thu như ở trên
mà còn là cái say của lòng thi sĩ với đất trời cởi mở giao hòa, sự hòa quyện
giữa linh hồn và cảnh vật. Nếu ở đoạn văn cảnh được miêu tả ở chiều sâu, ở
sự cụ thể chính xác, thì ở các đoạn tiếp theo cảnh được mở ra theo chiều
rộng, cảnh vật bay lên lâng lâng tạo cho người đọc một cảm giác bất ngờ, sau
chuyển sang cảm giác thoải mái dễ chịu trước cái không gian bao la vô tận vô
cùng. Nhà thơ đã đem đến cho người đọc một sự tiếp nhận thanh thoát không
gò bó chút nào. Từ bầu trời xanh ngọc, từ vòm lá me bay với tiếng đàn êm
dịu, ý thơ bỗng vút lên bay cao bay xa, nơi đó là:
Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Cảnh vật ở đây rõ ràng không còn cụ thể mà dưới con mắt nhìn say
sưa của nhà thơ, tất cả lâng lâng đều như nhớ lại, có cái gì vừa vời vợi xa
xôi, lại vừa làm quen gần gũi. Dường như nhà thơ đã thu vào tầm mắt cả vũ
trụ bao la, dường như tất cả những lá bay theo cảnh hoang trong các buổi
nắng trở chiều.
Xiêu xiêu là gì? Lả lả là gì? Không ai hay chỉ biết nó gợi hình gợi âm
sắc lắm. Người ta nghe thấy những gì thoang thoảng lao xao trong gió, người
ta thấy cái la đà, phất phơ chếch choáng trong những cành hoang. Tất cả đều
là cảnh đấy nhưng sao mà trong mà êm, nhẹ đến nỗi cảnh muốn bay lên
trong không trung, như muốn tan ra loãng vào mây gió. Như thế mới thấy
được cái đẹp của tiết trời sang thu: dịu dàng và thanh thoát cái đẹp đã cuốn
hút thi nhân, đã làm say lòng người để cho mọi vật dưới con mắt nhà thơ trở
nên lung linh, cảnh đấy mà như tan ra trở thành vô hình. Như thế mới thấy
thế nào là: “Lần đầu rung động nỗi thương yêu”. Lâu nay ta cứ thấy có “anh”
có “em” là nghĩ ngay đến tình yêu trai gái. Trong bài này, Xuân Diệu cũng
nhắc đến nhiều lần: “Em bước điềm nhiên không vướng chân - Anh đi lững
thững chẳng theo gần”; “anh với em như một cặp vần” hay là “lòng anh thôi
đã cưới lòng em”. Nhưng xin những người thâm thơ hãy hiểu thoáng hơn, cởi
mở hơn để cho cảnh cho tình đẹp với vẻ đẹp tự nhiên của nó. Cảnh đẹp thế
này làm sao nhà thơ không thể gọi bằng em? Chính cái “Em bước điềm nhiên
không vướng chân - Anh đi lững thững chẳng theo gần” càng khẳng định cái
say của thi nhân là có thực, càng làm cho cảnh đẹp hơn lên. Em là em, là cả
đất trời, là vũ trụ bao la kia muôn màu muôn vẻ dưới chiều thu! Anh là kẻ
đang khao khát, đang đi tìm cái nhựa sống ở đời. Vô tâm thôi nhưng cái
huyền dịu, cái mộng mơ của em đã níu kéo hồn anh, đã đến trong con mắt
của anh tự nhiên, bình thản, tâm hồn thi sĩ đã đến đúng cái nơi con tim khao
khát kiếm tìm. Vì thế mà “Anh với em như một cặp vần”, vì thế mà giữa người
với cảnh không còn giới hạn khoảng cách mà đã hòa vào nhau như một, tình
và cảnh giao hòa tha thiết,
Cái hay cái tinh tế của bài thơ là Xuân Diệu đã phát hiện được cái hơi
thở của sự “chuyển mùa” thu đến. Nhà thơ nghe được hơi muôn loài. Bài thơ
diễn tả được niềm giao cảm đầy tinh tế và hứng khởi của nhà thơ với cuộc
với thiên nhiên vũ trụ, đất trời. Sao nhà thơ lại có thể nhìn thấy ở đám mây cái
dáng bay gấp gấp, sao nhìn thấy ở con cò một đôi cánh phân vân. Rõ ràng
cái “gấp gấp” và “phân vân” kia là tâm trạng ở bên trong của sự vật, cái ở bên
trong bí ẩn tiềm tàng mà nhà thơ vẫn cảm và nói lên quả là thơ tuyệt diệu
lắm.
Ta bắt gặp một cách tả mới, một cách nhìn mới: nhà thơ không chỉ là
bút pháp chân thực cụ thể sinh động, không chỉ ta theo chiều rộng của không
gian bao la thoáng đãng mà nhà thơ còn miêu tả cái hồn của đất trời, của cỏ
cây hoa lá. Nhà thơ đã đi sâu vào bên trong tâm tình của sự vật. Cái đẹp của
đất trời, cái hứng khởi say sưa của thi nhân khiến cho dưới con mắt của nhà
thơ, tất cả đều tràn đầy sức sống, tất cả như đang cựa quậy, chuyển hóa, tất
cả đều trong mình cái cảm giác lâng lâng của chiều thu:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng dang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.
Vì thế mà có một áng mây bay vội vã, có một con cò còn dang cánh
phân vân; vì thế mà trời rộng thêm ra bởi đôi cánh vẫy vùng của một con chim
tự do trong trời đất và một bông hoa bỗng thấm lạnh chiều sương.
Cảnh đẹp như thế sao ta chẳng gọi là em?
Cảnh đến người, nhà thơ tìm đến cảnh bằng sự tự nguyện, nhất thành
và say sưa dưới một đôi mắt khách quan nên nào phải “băng nhân gạ tỏ
niềm” mà “Lòng anh vẫn cưới lòng em”. “Cưới” ở đây là sự gặp gỡ, sự hòa
quyện, mối giao hòa giữa cảnh và tình, giữa lòng người với cuộc đời, với vũ
trụ bao la. “Anh cưới em” bởi trái tim yêu đời của anh đã tìm thấy em, đó là
cái hẹp của cuộc sống, ở đây cái tình yêu đất trời, cuộc đời, cỏ cây hoa lá của
nhà thơ cũng giống như tình yêu trai gái: Nó cũng tha thiết, mặn nồng, cũng
say và đầy ngưỡng mộ. “Lòng anh thôi đã cưới lòng em” bởi vì nhà thơ đã
nghe được hơi thở của đất trời, của muôn hoa sắc lá, bởi nhà thơ nghe được
sự chuyển mùa, sự giao cảm ở bên trong linh hồn cây cỏ. Thế mới thấy cái
duyên của mùa thu như thế nào, thế mới thấy đưọc cái duyên của tác giả, sâu
sắc hơn, ta đọc được cái duyên giữa người với cảnh, với vũ trụ, giữa con
người với con người, những cái duyên yêu kiều đã làm nên một bài Thơ
duyên tuyệt diệu. Ta bảo ta chán thơ thiên nhiên, đất trời bởi nó không còn đề
tài mới lạ, nó trở thành quen thuộc và quen thuộc và muôn thuở của mỗi nhà
văn nhưng nếu ta biết tìm từ trong cái quen thuộc ấy: cái sâu xa của hồn thơ,
cái gởi gắm của hồn thi sĩ thì sẽ thấy thú vị và chẳng chán chút nào. Thơ
duyên là bức tranh mùa thu với vẻ đẹp thoáng đãng êm dịu, vẻ đẹp lâng lâng
bay bổng. Bài thơ viết về mối quan hệ, mối giao cảm của nhà thơ với đất trời
với cuộc đời nhưng nó đã tựu trung được cách miêu tả thiên nhiên; cũng là
những cảnh được miêu tả theo chiều sâu cụ thể tỉ mỉ sinh động, cảnh được
miêu tả theo chiều mở rộng của không gian mang hơi thu lãng đãng và cảnh
được tả bằng sự phát hiện và lột tả ở bên trong linh hồn. Chính điều đó đã
gợi sự tiếp nhận thoải mái thánh thoát ở người đọc; đã làm nên cái duyên của
bài thơ. Ơi Xuân Diệu một hôm nào đó đã thốt lên rằng:
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn
Thì hôm nay đã hòa mình vào cuộc sống, không thể đối lập cái tôi của
mình với cuộc sống, với người đời và thế giới. Hôm nay nhà thơ đã khẳng
định mình: Khát khao giao cảm với đời, yêu cuộc sống với vũ trụ bao la, Với
“con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu - lả lả cành hoang nắng trở chiều” để đến
bây giờ “Lòng anh thôi đã cưới lòng em”.
B. LUYỆN TẬP:
1. Bức tranh thiên nhiên được biểu hiện hài hòa và tinh tế trong “Thơ
duyên” như thế nào? Hãy chứng minh qua phân tích tác phẩm.
2. Những biến thái tinh vi của cảnh sắc vào lòng người trong bài Thơ
duyên.
3. Buổi chiều thu ở đây như buổi sáng mùa xuân đầy sức sống. Lí giải
điều này như thế nào?
4. So sánh thiên nhiên buổi chiều trong thơ Xuân Diệu ở “Thơ duyên”
với thơ xưa.
5. Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
(Xuân Diệu - Thơ duyên)
a) Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp của hai dòng thơ trên.
b) Có người cho rằng hai dòng thơ trên đã nói khá rõ hồn thơ Xuân
Diệu trước 1945. Ý kiến của các anh (chị) như thế nào?
6. Có người cho rằng “chim chuyền” trong câu thơ sau:
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
là chim đã tới độ cập kê tìm đến lứa đôi. Đây không phải là chim
chuyền cành hiểu theo nghĩa động từ.
Ý kiến của anh (chị) thế nào?
7. Có ý kiến cho rằng câu thơ.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá.
Không phải trời đổ màu xanh ngọc từ trên xuống cho lá mà ngược lại,
lá xanh ngọc để cho cả bầu trời một màu xanh ngọc.
Anh (chị) có đồng ý với cách phân tích trên?
8. “Xuân Diệu viết văn như trẻ con tập nói” (Hoài Thanh). Hãy làm rõ
điều ấy qua câu: Lòng anh thôi đã cưới lòng em
9. Có người nói Thơ duyên không phải là bài thơ về tình yêu. Nó là cái
duyên giữa thiên nhiên và thiên nhiên; thiên nhiên và con người.
Ý kiến của anh (chị) về cách hiểu trên như thế nào?
TRÀNG GIANG
HUY CẬN
A. BÀI VĂN
Bình giảng bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận
BÀI LÀM
Phong trào thơ mới qua đi đã để lại cho nền văn học Việt Nam những
tác phẩm có giá trị. Tràng giang của Huy Cận mang vào trong thơ ca giai
đoạn này một hơi thở riêng, độc đáo, một phong cách riêng, vẻ đẹp riêng, và
vì thế, Tràng giang vẫn còn “chảy” mãi cho đến tận bây giờ và mai sau.
Cùng với rất nhiều nhà thơ khác đương thời, Huy Cận luôn mang trong
tâm tư của mình nỗi sầu của cả một thế hệ:
Màu năm tháng cũng ngậm ngùi thế nhỉ?
Nhưng, đó là nỗi sầu nhân gian, nỗi sầu như từ “vạn kỉ” chảy về. Tràng
giang tiêu biểu cho phong trào cách thơ anh là vậy. Nỗi lòng của tác giả trong
Tràng giang man mác, bâng khuâng toàn vũ trụ để đi đến cái cuối cùng, cái
cốt lõi là nỗi buồn “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Tràng giang là một bài thơ đẹp. Nó đẹp trước hết bởi nỗi buồn. Thường
thường, đẹp và buồn như hai người tâm giao, nhất là đối với các thi sĩ thơ
mới:
Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp,
Nỗi lòng ấy không thể đem ra mà đong, mà đếm. Nỗi lòng ấy cứ lớp lớp
vỗ vào nhau, trào lên nhau ngày càng nặng trĩu. Cái nặng của lòng người lại
được gợn lên bằng sóng nước dập dềnh bao la nên càng hụt hẫng, chơi vơi
hơn. Nỗi buồn làm cho thi nhân cảm thấy cô độc quá:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Dường như cái có thật ấy bỗng trở nên mờ ảo, hư vô. Có cái gì đó hiện
thân của sự cằn cỗi, héo hon và hiện thân của một Huy Cận đang cô độc đến
rợn người... Đó là nỗi buồn trống trải, bơ vơ. Đã có lúc hồn của thi nhân lay
lắt trong ngọn gió “đìu hiu”, trong cái không gian tĩnh lặng đến tuyệt đối, một
âm thanh buồn cũng không thể gợi lên. Đã có lúc hồn của thi nhân như tan ra,
trải ra trên sông nước dập dềnh và tràn vào vũ trụ bao la với “sông dài, trời
rộng”, với “nắng xuống trời lên”... Mọi cảnh vật đối với nhà thơ đều mênh
mang quá, còn bản thân ông lại chỉ là một “bến cô liêu”. Cái hữu hạn bỗng
nhỏ nhoi trước cái vô hạn và càng như thế lại càng buồn hơn. Đã có lúc Huy
Cận dường như bơ vơ đi tìm nơi nương náu để đỡ trống trải, nhưng mà chỉ
thấy “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng - Mênh mông không một chuyến đò
ngang”, sắc màu “bờ xanh”, “bãi vàng” không sưởi ấm được con người cô
độc, mà càng làm cho hồn của thi nhân thêm buồn. Nồi buồn ấy bao trùm
toàn bài thơ, làm nên vẻ đẹp của tác phẩm. Nhưng đến khổ cuối, nỗi buồn đó
như được vỡ ra, như được lí giải. Điều quan trọng là Huy Cận tìm được
nguyên cớ khiến cho tạo vật thấm đượm nỗi buồn:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Và như thế, bài thơ lại càng trở nên đẹp hơn ở cái tình của thi nhân.
Trong khi một số nhà thơ khác có phần còn đang “say”, đang “điên”, đang
trong chốn “điêu tàn” hay mê mải với tình yêu, thì Huy Cận lại đau vì phải xa
mái nhà xưa. Cũng là nỗi buồn riêng tư, nhưng cái riêng tư của thi nhân rộng
lớn quá, nhân ái quá và cao cả quá. Thôi Hiệu xưa kia nhớ nhà trong buổi
chiều tà, khói sóng. Thì nay, Huy Cận thương nhà khi không có cả cái cớ để
mà buồn thương, để mà gợi nhớ!
Ta nhận thấy trong cái hùng vĩ của thiên nhiên “lớp lớp mây cao đùn
núi bạc”, trong cái nhà nhỏ nhoi yếu ớt của một sinh vật sống. “nghiêng bóng
nhỏ cánh chiều sa” và trong cái “dờn dợn” của nước non... có mang một tâm
sự u uẩn, nặng trìu. Phải chăng đó là tâm sự “Bâng khuâng trời rộng nhớ
sông dài”, là niềm khao khát được sống trong sự giao cảm giữa con người
với con người, con người với dân tộc, với đất nước của chính nhà thơ.
Có thể nói chính cái nỗi buồn cao cả ấy đã làm nên nội dung tình cảm
của bài thơ làm nên vẻ đẹp riêng tư của Tràng giang. Mặt khác, phải thấy
rằng, Huy Cận là một nhà thơ trẻ (lúc bấy giờ) đầy tài năng. Tràng giang biểu
hiện sinh động cho nghệ thuật thơ ca Huy Cận,
Đọc Tràng giang, ta thấy bài thơ có những hình ảnh rất độc đáo và sinh
động. Đó là hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Những ngôn từ
vương vãi ở đâu đó được nhà thơ nối lại thành một câu thơ giản dị gần gũi có
sức khêu gợi sâu xa: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Chỉ có “củi khô” mới
nói lên được những gì nhà thơ muốn nói. Ngoài nỗi buồn ra, ta còn cảm nhận
được cả nỗi đau đời còn chắt lại. Và như thế, với riêng thơ ca, cũng đủ in
đậm một nỗi lòng trong bao nhiêu nỗi lòng, của bao nhiêu nhà thơ khác. Bài
thơ còn có rất nhiều hình ảnh đẹp và buồn. Đó là hình ảnh của một “Tràng
giang” mênh mang sóng nước, một cồn nhỏ hắt hiu, một màu xanh, một màu
xanh lặng lẽ của cây lá. Và hình ảnh cuối cùng, như trĩu xuống vì lòng thi
nhân cũng đã quá mặng với đất trời rồi:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Đó là một hình ảnh kì vĩ quá cả sức tưởng tượng làm cho ta có cảm
giác như một hình hoang đường. Mây không gợi sự nhẹ nhàng mà gợi sự u
uất. Bên cái hùng vĩ ấy, cánh chim bỗng trở nên bé nhỏ hơn, yếu đuối non
nớt hơn. Một cánh chim chiều cũng đủ để làm nên nỗi buồn. Nhưng cánh
chim ấy lại như chao xuống vì sức nặng của hoàng hôn nhịp nhàng trong buổi
chiều tà bóng xế. Ta có cảm giác như cánh chim nhỏ nhoi lắm, lại vừa rộng
lớn lắm, còn đủ sức để cõng cả bóng chiều, nâng đỡ cả đám mây cao núi bạc
cho dù, có một lúc nào đó chới với giữa không gian. Có lẽ đây là hình ảnh
quen thuộc trong thơ Đường, nhưng sao ở đây nó lại mới đến thế, lạ và đẹp
đến thế?
Có thể nói trong Tràng giang, Huy Cận đã làm công việc cao cả của
một người nghệ sĩ, đó là “sự giày vò ngôn từ”. Ngôn ngữ trong Tràng giang
không đơn điệu mà sinh động cô đọng với các điệp từ “điệp điệp”, “song
song”, “đìu hiu”, “chót vót”, “lặng lẽ”, “lớp lớp”, “dợn dợn”, đôi khi từ ngữ trong
Tràng giang được sử dụng rất đắt không thể thay thế được.
Tràng giang có niêm luật chặt chẽ như một bài thơ Đường luật. Vì thế
đọc lên, ta có cảm giác như giọng thơ hoài cổ, chắc, khỏe và cũng chất đầy
nỗi bâng khuâng nhớ mong, chất đầy tâm sự thầm kín.
Đọc Tràng giang, cái đọng lại cuối cùng, ấy là tư thế của con người -
một thi nhân trước vũ trụ. Tư thế ấy thật đẹp, thật lớn lao biết bao. Nỗi buồn
đã không làm cho con người trở nên yếu đuối, nhỏ nhoi. Con người ở đây
vừa kiêu hãnh, vừa buồn thương. Để cảm nhận, thu hút cả thiên nhiên dưới
tầm mắt của mình, nhà thơ phải đứng từ rất cao, rất xa mới thấy “Sóng gợn
tràng giang”, mới thấy một làng xa, mới thấy “nắng xuống chiều lên”, “bờ xanh
tiếp bãi vàng”, “mây cao đùn núi bạc”... Nhà thơ đã dựng lên một không gian
ba chiều rộng lớn, mênh mông, sâu thẳm và cao vời vợi. Trùm lên không gian
ấy là sự tĩnh lặng đến gần như là tuyệt đối, duy chỉ có tiếng lòng nhà thơ đang
thầm gợi trong xa xăm một dáng hình Tổ quốc.
Khó có thể nói hết được cái giới hạn cuối cùng của nỗi lòng trong Tràng
giang, cũng như khó có thể nói hết vẻ đẹp tận cùng của nó. Nội dung tình
cảm và nghệ thuật điêu luyện trong Tràng qiang đã làm nên phong cách riêng
Huy Cận - một điều rất cần thiết đối với người nghệ sĩ.
Vẻ đẹp của bài thơ Tràng giang đã làm nên sức sống mãnh liệt của nó.
Tràng giang vẫn là một dòng chảy bất tận trong văn mạch dân tộc suốt hơn
nửa thế kỉ qua và có lẽ còn chảy mãi mãi đến tận sau này. Tràng giang tồn tại
trong văn chương bằng vẻ đẹp đầy kiêu hãnh của một sự sáng tạo nghệ thuật
và một cái “tâm” bao la, cao cả của người nghệ sĩ.
TRẦN HÒA BÌNH
B. LUYỆN TẬP
1. Phân tích hình tượng con sông vô định chảy trong “Tràng giang” và
nỗi buồn vũ trụ của thi nhân qua tác phẩm.
2. Yếu tố truyền thống và hiện đại trong bài Tràng giang?
3. Có người thay dòng thơ
Sông dài, bờ rộng bến cô liêu.
Anh (chị) cho biết ý kiến của mình.
4. Anh (chị) có cảm nhận gì về linh hồn sông nước quê hương trong bài
Tràng giang của Huy Cận.
5. Hãy bình luận ý kiến: “Tràng giang” đã bộc lộ kín đáo mà thấm thìa
tình quê hương đất nước” (Nguyễn Hoành Khung - SGK văn 11)
6. Anh (chị) hãy bình giảng một bài thơ khác của Huy Cận sáng tác
trước mà mình yêu thích nhất.
7. Bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng trong Tràng giang của
Huy Cận.
ĐÂY THÔN VĨ DẠ
HÀN MẶC TỬ
A. BÀI VĂN
Phân tích bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.
BÀI LÀM 1
Hàn Mặc Tử là một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn luôn quằn quại, đau
đớn, dường như ở đây có một cuộc vật lộn và giằng xé: Có lẽ đó chỉ là nỗi
hoài hương của lòng sầu xứ. Và nó cần có khói sóng để làm duyên cớ. Nỗi
nhớ của Huy Cận là thường trực, có cần đến thứ khói nào để làm duyên cớ
đâu! Nhớ nhà như là để vượt, thoát, để trốn chạy nỗi cô đơn cố hữu mà thôi:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Dòng sông chảy mênh mang giữa trời đất đến đây như bỗng dội lên
những tiếng sóng khác: Tiếng sóng của lòng quê! Hay chính lòng quê cũng
đang xao xuyến dâng lên để thành một dòng tràng giang của tâm hồn mà
nhập vào tràng giang của trời đất?
Đứng trước những dòng sông lớn, ta có cảm tưởng như đang đối diện
với sự trường tồn, trường cửu. Nghìn năm trước khi chưa có ta, nó vẫn chảy
thế này. Nghìn năm sau, khi ta biến khỏi mặt đất này, nó vẫn chảy thế kia.
Tràng giang vẫn điềm nhiên, dửng dưng không thèm biết đến sự có mặt của
con người. Sự lặng lẽ của tràng giang là miên viễn. Và hình như trong bài
thơ, Huy Cận đã thâu tóm được nhịp chảy trôi miên viễn ấy. Những từ láy,
nhất là láy nguyên điệp điệp, song song, lớp lớp, dợn dợn... không chỉ gợi
được sự đường bệ, mà còn gợi được nhịp triền miên. Những cặp câu tương
xứng như trùng lặp, nối tiếp, đuổi nhau không ngừng nghỉ: Sóng gợn tràng
giang buồn điệp điệp/Con thuyền xuôi mái nước song song. Các vế câu vừa
cắt rời, vừa kết nối liên tiếp như một chuỗi dài, tạo ra nhịp chảy trôi, dong
duổi, miên man: “Nắng xuống/trời lên/ sâu chót vót - Sông dài /trời rộng/ bến
cô liêu, Hàng nối hàng, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng... Tất cả những yếu tố
ấy như những bè khác nhau, kết lại với nhau tạo thành một âm hưởng trôi
xuôi vô tận cứ ngầm chảy trong lòng bài thơ khiến cho ta có một cảm tưởng
thật rõ rệt: Dòng tràng giang không chỉ chảy trong không gian, mà còn chảy
trong thời gian... Từ thuở khai thiên lập địa, sông chảy miết qua các thời đại
mà về đây! Phải chăng đây là chiều thứ tư đầy mơ hồ và hư ảo của không
gian Trường giang?
Tôi đọc bài thơ bao nhiêu lần và không sao xóa được khỏi lòng mình
cái cảm giác bâng quơ này: mình là cái cành củi khô luân lạc trên dòng tràng
giang kia hay mình là cánh chim nhỏ lạc lõng dữ dội giữa linh hồn và thể xác.
Ông tạo ra cho thơ mình một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái và xa lạ
với cuộc đời thực. Bên cạnh đó, vẫn có những vần thơ trong trẻo đến lạ
thường, Đây thôn Vĩ Dạ rút trong tập Thơ Điên là một bài thơ như thế. Phải
bằng trí giác nhạy cảm của mình, độc giả mới có thể cảm nhận được bài thơ.
Từ các hành động tiếp nhận văn học khác nhau của người đọc với
thông điệp thẩm mĩ mà nhà văn gửi tới đã dẫn đến những sự cảm nhận khác
nhau. Có lẽ do thi pháp của thơ Hàn Mặc Tử mà Đây thôn Vĩ Dạ gây ra nhiều
bàn cãi, có nhiều ý kiến không thống nhất.
Hàn Mặc Tử là một tài năng không bình thường. Ông đã đưa đến cho
bài thơ mới một tiếng nói độc đáo, sáng tạo và rất riêng. Trong thơ ông có
những bài giàu cảm hứng, đầy tài hoa. Đó là một số bài hay nhất trong những
bài hay nhất của phong trào Thơ mới. Thơ Hàn có sự kết hợp hài hòa giữa tư
duy tôn giáo lẫn tư duy nghệ thuật cho nên rất khó nắm bắt. Chính từ trong
cuộc đời đầy bất hạnh vì bệnh tật giày vò đau đớn về thể xác, hồn thơ Hàn đã
phát huy đến cao độ. Thơ Hàn được rất nhiều người ưa thích.
Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ nhỏ trong một khối lượng thơ khá lớn của
Hàn Mặc Tử. Bài thơ nói lên vẻ u buồn của một tình yêu giữa thiên nhiên hòa
quyện với lòng người. Bức tranh thôn Vĩ mà Hoàng Cúc gửi chỉ là một cái cớ
trực tiếp để nảy sinh ra thơ. Còn động lực, cội nguồn sâu xa làm nên cảm
hứng toàn bài thì Hàn đã có lâu rồi. Đó là vẻ đẹp của một dáng Huế yêu kiều -
nơi đã khắc chạm một dấu ấn khó quên của một người con gái và nơi để lại
một mối tình đơn phương trong lòng Hàn:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Mở đầu bài thơ là một lời mời nhẹ nhàng như trách móc. Một lời mời
dịu dàng cho một phong cảnh thật nên thơ. Thôn Vĩ nói riêng và Huế nói
chung được đặc tả bằng ánh sáng của buổi bình minh và một vườn cây quen
thuộc. Nắng ấy tỏa ra sức nóng cho bức tranh, sức nóng cho sự sống và
phần nào đó nói lên sự lên hương của đời. Ta hình dung ra nắng trong và
sáng chảy dài trên những tán cau còn ướt đẫm sương đêm. Như thế nó mới
tạo được cái thơ mộng, mới mẻ của nắng mới lên. Và trong cái nắng buổi mai
ấy, cây vườn được gội xanh thêm. Xanh và trong như vậy mới so sánh được
với ngọc. Và thật tài tình khi thi sĩ buông ra câu thơ:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Ở đây có hơi hướng Á Đông cổ điển. Sự sáng tạo độc đáo mặt chữ
điền thể hiện cái hài hòa giữa con người và vườn tược quê hương. Hình ảnh
con người hiện lên trong thơ hiền hậu, thật thà, khỏe mạnh và rất đẹp. Nhịp
điệu nhẹ nhàng khoan thai của xứ Huế được khắc họa rất thành công. Thôn
Vĩ không được nhìn bằng cái nhìn của thị giác mà chu yếu bằng tâm tưởng -
thôn Vĩ trong trái tim thơ. Vì thế mà khổ thơ gợi lên một cái gì đó nửa như
bâng khuâng, nửa như nuối tiếc, nửa như gần gũi, nửa xa vời. Người đọc bắt
đầu được đón nhận một nỗi buồn thấp thoáng:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Nếu ở trên là cảm nhận trực giác thì ở đây là ảo giác mất rồi. Cái thực,
cái ảo đan xen vào nhau làm cho không gian thêm một lần rợn ngợp. Thơ
Hàn Mặc Tử chuyển từ đột ngột là thế đấy. Đoạn thơ trên miêu tả cảnh thực
thì ở đây tất cả như ở trong mộng ảo, trong không gian tràn ngập ánh trăng.
Đó là cái nhìn cảnh bằng cả thế giới tâm linh. Cái được nói tới hoàn toàn nằm
ngoài bức tranh nhưng thức dậy trong tâm tưởng thi sĩ. Ở đây, nét buồn được
khắc sâu hơn, ý tình thảng thốt, thơ kết tinh trong nỗi buồn không có đáy. Tác
giả đã đặt dấu hiệu cho sự xa cách chia biệt đôi ngả:
“Gió theo lối gió mây đường mây”
Đoạn thơ không còn theo mạch cảm xúc tả cảnh nữa, nó đã đi vào tâm
sự riêng của thi sĩ, tâm sự cô đơn buồn vắng. Hai câu thơ sau là một thông
điệp đầy bí ẩn:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Trong thơ, cảnh không còn là một khách thể mà trở thành bản ngã. Nó
đã hòa quyện vào từng tế bào của cơ thể và sâu thẳm của tâm linh. Thơ Hàn
Mặc Tử tả cảnh rất đặc sắc nhưng không tránh khỏi tư duy tôn giáo lẫn bút
pháp siêu thực. Cho nên cái mà ông biêu hiện bằng ngôn ngữ ấy rất khó nắm
bắt. Từ “ai” trong câu thơ không xác định được. Còn hai hình ảnh thuyền và
trăng rất lãng mạn và mĩ lệ. Nhưng thuyền đậu bến trăng thì không sao lí giải
nổi. Thuyền chở trăng lại càng mơ hồ hơn. Ở đây bút pháp siêu thực đã làm
cho nghệ thuật phần nào có chỗ bí ẩn. Đó là ảo ảnh của một người đang
sống nghĩ đến cõi mộng, ảo ảnh giữa thực tại và một dĩ vãng đã xa. Nhưng
cảm giác chung ta vẫn thấy hiện ra một nỗi buồn trống trải. Buồn vì lẽ gì cũng
chắng rõ nữa. Trong đó có cái nỗi buồn lỡ hẹn. Hàn Mặc Tử, muốn băng vượt
thời gian, muốn dồn nén, muốn hối thúc tất cả để cho kịp. Vì mục đích gì hay
chỉ vì một buổi tối (tối nay)? Ý thơ còn bỏ ngõ. Đến khổ thơ cuối, có cái gì đó
nhạt nhòa, phủ lấp. Không gian biến thái trong chập chờn của tâm trạng thi sĩ.
Nhà thơ lặng đi trong suy tưởng:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.
Tất cả những gì của ngày ấy chợt hiện về như một cuốn phim quay
nhanh. Nó nhạt nhòa, mơ hồ và rất mông lung, kì ảo. Màu trắng ở đây cũng là
màu của kí ức sống lại. Cho nên nó đã lôi cuốn người đọc vào những ảo giác.
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ý thơ chơi vơi, chập chờn, cảm được mà thật khó cắt nghĩa. Không có
cái gì là định hình ở đây cả mà tất cả chỉ tồn tại như ảo ảnh mà thôi. Câu thơ
này như một chất xúc tác hấp dẫn làm nên men cảm thức người đọc và tạo
nên một cái gì đó rất mơ hồ. Người đọc được đặc trong hai không gian: Thực
và ảo đan cài vào nhau. Cứ như thế, như thế, nó tạo nên một sự mơ hồ len
thấu vào lòng người đọc.
Nếu cảm nhận bài thơ một cách toàn khối trong một chỉnh thể thống
nhất thì bài thơ bộc lộ một nỗi buồn mênh mông, khó tả, vừa kín đáo tế nhị
của một mối tình đơn phương trong phút giây tuyệt vọng, ở bài thơ này, mỗi
câu đều ôm chứa một chất thơ hoàn chỉnh. Nó trong sáng mà đượm buồn.
Đây thôn Vĩ Dạ giữ mãi một khúc điệu nhẹ nhàng êm thấm, xen lẫn
trong những vần thơ cuồng loạn của Hàn Mặc Tử. Bài thơ gây men say cho
cảm giác, để lại dư âm những giọt máu khác đang tuôn ra từ cơ thể bệnh tật
của ông. Bởi lẽ, tác phẩm nghệ thuật là con đẻ tinh thần của nhà văn, nó
được viết ra từ máu huyết, tâm linh và trí não của tác giả.
BÀI LÀM 2
Hàn Mặc Tử đã có những phút giây chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau
của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ
Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái
tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình
riêng đã ở trong mối tình chung mà hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc
Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung
cảnh thiên nhiên hòa với lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể
hòa vào nhau. Mở đầu bài thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật
trữ tình:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa
bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của
cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua không được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn
mà, ấp áp tình quê của thôn Vĩ - vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng,
một phương diện của cảnh Huế.
Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Nét đặc sắc của thôn Vĩ - quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu
đến đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước
mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức
sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút
vươn mình đón lấy những tia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng
vàng buổi bình minh. Cái “Nắng” làng cau nắng mới lên” sao gợi một nỗi niềm
làng mạc quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những
câu thơ của Tố Hữu trong bài Xuân lòng:
“Nắng xuân tưới trên thân dừa xanh dịu
Thu cau non lấp loáng muôn gươm xanh
Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu
Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh”.
Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một
năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia
nắng đầu tiên chiếu rọi xuống làng quê mà trước hết nó chiếu vào những
vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sánh lên, lấp lánh như
những viên ngọc được đính vào chiếc áo choàng nhung xanh mịn:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
“Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự
ngạc nhiên đến thẫn thờ”. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân
đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn
tược hiện ra, nhắm mắt vào ta cũng có thể hình dung ra ngay cái màu xanh
mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh
của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn. Những tán lá cành cây
được sương đêm gột rửa trở thành cành vàng lá ngọc. Không phải xanh
mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có “xanh như ngọc” mới diễn
tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quý,
không một chút gợn, một màu xanh tỏa ánh tạo nên vẻ đẹp óng ánh, lấp lánh,
trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều
tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề
nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét, màu sắc của
cảnh sắc mà mắt thường của chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu
sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những
vần thơ trong trẻo như vậy. Ai đã từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt
ở xứ Huế thì mới thấm thìa những vần thơ này:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao có
mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả
che ngang gương mặt chữ điền. “Mặt chữ điền” - khuôn mặt ấy chỉ hiện ra
thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.
Thôn Vĩ Dạ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách
tả cảnh làng quê ở khổ đầu đã hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh
sông, với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong, sầu muộn hư ảo trong giấc
mộng:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Gió và mây đã gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn
hơn: gió đi theo đường của gió, mây đi theo đường của mây, gió và mây xa
nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà
thơ với người yêu cỏ thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm quan của nhà
thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người
xưa trong cuộc sống? Nỗi buồn về sự chia li, giã biệt đọng lại trong lòng
người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn
thấy giọng thơ tươi mát đầy sức sống như ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại
Hàn Mặc Tử - một tâm hồn đau buồn, u uất:
“Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp
màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn
Mặc Tử thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là “dòng nước buồn thiu”
gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi
buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những con người
sống trong vòng đời tối tăm, bế tắc. Mặt nước sông Hương êm quá gợi gợi
đến những bến bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt, lênh đênh của số kiếp
con người. Tâm trạng thoắt vui - thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp
rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạn khác sống cùng thời với Hàn Mặc Tử. Ý thơ
thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt thật tuyệt
diệu, thực đấy mà mộng đấy:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử.
Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh trăng, một ánh vàng sáng loáng chiếu
xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh
nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! “Dòng nước buồn thiu” đã
hóa thành dòng sông trăng. Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi
ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Ý thơ
lồng trong ngôn ngữ thơ thật tài hoa, thật là thơ đẹp với xứ Huế mộng mơ.
Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm
chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng, vầng trăng trong hai câu thơ
này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình quê chưa bị phôi
pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không
giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:
“Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô”
Hay:
“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”
“Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ
của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông”. Nó là ông, là trời
đất, là người ta. Trăng biến hóa vô lường trong thơ ông, khi hữu thể khi vô
hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng.
Trở lại với dòng sông trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ. Ở đây sông là sông
trăng nhưng thi nhân lại xót xa hỏi:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền
không chở kịp trăng về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng
của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình
nên ông mặc cảm về thời gian cuộc dời ngắn ngủi. Vầng trăng không kịp về
và Hàn Mặc Tử cũng không đợi được vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm
sau ông vĩnh biệt cuộc đời.
Nhưng hiện tại, con người còn đang sống và tiếp tục giấc mơ:
“Mơ khách đườngxa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Trái, tim khao khát yêu thương, nhưng nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông
đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ
của ước ao, hy vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn
vào đấy tác giả thấy choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh
khiết, cao quý của người yêu.
Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng
cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Câu thơ đã tả thực cảnh Huế. Huế - kinh thành sương khói. Trong
màng sương khói đó con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa
đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong
những câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói,
trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu, họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám
khẳng định tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ hỏi:
Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng. Sự thất
vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi
không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại
nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ “ai”, mở đầu:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”; tiếp đến: “Thuyền ai đậu bến sông trăng
đó” và kết thúc là “Ai biết tình ai có đậm đà?” càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ
sương khói hơn, huyền bí hơn.
Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh và người của miền quê
đất nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của
nhà thơ với nghệ thuật gợi liên tưởng, hòa quyện thiên nhiên với lòng người.
Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên,
nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con
người đau thương ấy có sức bay bổng lạ kì” nhưng nó cũng giản dị, trong
sáng, tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Xin thành kính thắp một nén nhang trước
một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời thổn thức vì tình yêu, một tâm
hồn thi sĩ đã thăng hoa nỗi đau thương, bất hạnh của đời mình thành những
đoá hoa thơ mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là Đây thôn Vĩ Dạ.
VŨ MINH HUYỀN
Phân tích khổ thơ đầu của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.
BÀI LÀM
Nếu nhân loại không còn khao khát nữa
Và nhà thơ - nghề chẳng kẻ nào yêu.
Người - thi sĩ - cuối cùng vẫn là Hàn Mặc Tử
Vẫn hiện lên ở đáy vực đợi chờ.
(Trẩn Ninh Hồ)
Hàn Mặc Tử - thi nhân của những mối tình “khuấy” mãi không thành
khối. Tử yêu nhiều nhưng chua xót nhận ra rằng: trăng là người bạn tình và là
người bạn tình chung thủy cuối cùng của đời mình. Trong đời thơ, đời người
quá ngắn. Hàn say mê bốn thiếu nữ (Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình, Ngọc
Sương). Hoàng Cúc, một thiếu nữ thôn Vĩ Dạ là mối tình đầu của Tử, hai
người quen nhau ở Quy Nhơn, Tử là nhân viên sở Đạc Điền, còn cha Hoàng
Cúc là chủ sở. Hàn thầm yêu Cúc từ 1936 nhưng vì rụt rè nên chỉ dám bộc
bạch tâm sự cùng thơ và bạn bè... Năm 1939 biết Tử mắc bệnh nan y, lại
được người khác nhắc nhở, thúc giục Cúc gửi tặng thi nhân Hàn Mặc Tử bưu
ảnh phong cảnh Huế và mấy dòng hỏi thăm mà không ký tên. Hàn lầm tưởng
đó là cảnh “Bến Vĩ Dạ lúc hừng đông hay đêm trăng?”. Để tạ lòng cố nhân,
Tử gửi tặng Hoàng Cúc bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Đọc bài thơ này, người vô tâm
mấy cũng không thể không nhớ khổ thơ đầu:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?
Cảm nhận “Đây thôn Vĩ Dạ” phải gắn với mối tình đầu của Tử và Hoàng
Cúc. Nhưng lâu nay, bị ám ảnh bởi yếu tố ngoài văn bản ngôn ngữ - đặc biệt
là ý kiến “Hoàng Cúc đã gửi cho Hàn Mặc Tử một tấm hình cô mặc áo dài
trắng trường Đồng Khánh (...), và trách Hàn Mặc Tử sao lâu nay không ra
thăm thôn Vĩ Dạ” nên nhiều người đã hiểu câu mở đầu bài thơ là lời trách nhẹ
nhàng, nhỏ nhẹ - đúng là giọng hờn dịu ngọt của các cô gái Huế: trách mà cứ
như là lời chào mời khách về thăm thôn Vĩ. Những lời bình ấy xem ra có lẽ
thoát ly văn bản. Căn cứ vào đâu mà nói: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” là
câu hỏi trách móc của một cô thôn nữ. Hơn nữa như Hoàng Cúc khẳng định:
Sau tấm bưu ảnh không có lời trách móc nào. Làm sao lại có thể trách người
đang từng giờ, từng phút đợi tử thần mang đi? Thơ trữ tình là thơ hướng nội.
Thơ Hàn Mặc Tử càng là thơ hướng nội. Câu hỏi “Sao anh không về chơi
thôn Vĩ?” có thể là câu tự vấn của chính bản thân Tử. “Anh” ở đây là đại từ
nhân xưng được dùng ở ngôi thứ nhất, chứ không phải ngôi thứ hai. Một câu
hỏi mang tính chất giãi bày, câu thơ thể hiện niềm nuối tiếc. Nhân vật trữ tình
đã tự trách mình sao lại không về chơi thôn Vĩ. Dòng thơ đượm buồn, có pha
chút hối hận. Cả bài “Đây thôn Vĩ Dạ” phải chăng là để trả lời câu hỏi đã đặt
ra ở câu đầu tiên của bài thơ. (Có lẽ nên đặt dấu châm hỏi ở vị trí cuối cùng
của dòng thơ thứ hai thì hợp lý hơn).
Trước khi tạo nên bài “Đây thôn Vĩ Dạ” bất hủ này, Hàn Mặc Tử đã có
lần đi qua khu vườn nhà Hoàng Cúc ở bến Vĩ Dạ, nhưng chỉ đứng ở cổng mà
nhìn vào. Ân tượng sâu sắc đầu tiên còn lại trong độc giả khi đọc khổ thơ đầu
là cảnh “bến Vĩ Dạ lúc hừng đông”. Qua cảnh này, Tử muốn gửi gắm những
tâm sự kín đáo nào đây? Trong muôn vàn cây, lá của Vĩ Dạ, nhà thơ nhắc
đến hàng cau tắm nắng bình minh, bao đời nay của người Việt Nam, cây cau
vẫn gợi mối tình đôi lứa, bằng biện pháp nghệ thuật tăng cấp tiệm tiến, nhà
thơ đã nhấn mạnh ý “nắng mới lên”, “xanh như ngọc”. Nắng bình minh (nắng
mới lên) đẹp thì đẹp, nhưng qua cái nhìn của thi nhân lãng mạn nó cũng qua
nhanh “hơi rượi say” (bởi vậy liền sau cảnh hừng đông là cảnh bến sông đêm
trăng buồn đến nao lòng).
“Nắng hàng cau - nắng mới lên” đi liền với “vườn ai mướt quá xanh như
ngọc”. Cũng là vườn mang hương vị ngọt ngào của ca dao, nhưng vườn mà
Tử miêu tả khác với vườn của Nguyên Bính, ở đây, người ta thấy xuất hiện
trong thơ một khu vườn “mướt quá xanh như ngọc”. “Vườn ai” - vườn có một
đối tượng có vẻ như phiếm chỉ, nhưng cũng có thể là vườn của người mình
thương, vườn tình của cô gái.
Rõ ràng, khu vườn trong thơ Tử không phải là “vườn hồng”, cũng
không phải là khu vườn có “bóng hoàng lan”, mà là vườn xanh như ngọc.
Phép so sánh khá mới lạ này cho độc giả có thể nghĩ đến “vườn em” là vườn
cành vàng lá ngọc. Vào khu vườn ấy đâu phải dễ dàng. Câu thơ thứ tư nói rõ
thêm ý tưởng ấy:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Hình ảnh lá trúc góp phần làm rõ thêm tính quyền quí của khu vườn Vĩ
Dạ. Khuôn mặt chữ điền bị lá trúc che ngang lâu nay đã trở thành thách đố
đối với bao nhiêu bạn yêu thơ. Nhiều người đồng tình khẳng định khuôn mặt
chữ điền là khuôn mặt phúc hậu, hiền lành, trung thực, ca dao Huế đã từng
có câu:
Mặt em, vuông tượng chữ điền
Da em thì trắng, ảo đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa có lời thủy chung.
Nhà thơ quá cố Chế Lan Viên đã có ý nghi ngờ, khi ông nêu ra câu hỏi
“Con gái mặt chữ điền thì đẹp gì mà Hàn Mặc Tử ca ngợi”. Gương mặt chữ
điền trong câu thơ là gương mặt ai? Một số người cho rằng: Gương mặt ấy
chính là gương mặt Hoàng Cúc, người khác lại nghĩ là gương mặt Hàn Mặc
tử. Hình ảnh lá trúc làm nảy sinh sự tranh cãi khá gay gắt. Lá trúc thực ở
ngoài đời hay là lá trúc vẽ trên những bức rèm treo trước cửa các nhà quyền
quý? Người ta nói “Văn chương tự cổ vô bằng cứ” cũng không phải là không
có nguyên cớ. Theo thiển nghĩ của người viết bài này thì trung tâm phát sóng
của khổ thơ nằm trong chi tiết thẩm mỹ:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Lá trúc ấy phải ở trong vườn ngọc kia. Nó che khuất, che lấp cả sự
phúc hậu, hiền lành, trung thực. Phải chăng nó thực sự trở thành trở lực ngăn
cách tình người. Nó làm cho “Gió theo lối gió, mây đường mây”; nó tạo nên
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”; nó đưa đến tâm trạng hy vọng mỏng
manh mà thất vọng tràn trề: “Có chở trăng về kịp tối nay”, nó kết lại trong một
lời trách:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Câu kết bài thơ đã trả lời khá đầy đủ lý do “Sao anh không về chơi thôn
Vĩ”.
Chỉ thiên về việc khai thác vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên và con
người xứ Huế, có thể người bình thơ mắc phải những sai lầm là không hiểu
hết bi kịch tình yêu của Tử. Khi Hàn Mặc Tử viết: “Đây thôn Vĩ Dạ” thì tình
cảm của thi nhân với Hoàng Cúc cũng chỉ còn trong quá vãng. (Lúc này, Hàn
Mặc Tử đã yêu người khác). Hơn nữa, Tử lại đang ở trong tình trạng hoang
mang, bi quan đến cực độ khi biết mình bị bệnh nan y. Khổ thơ đầu nói riêng
và cả bài “Đây thôn Vĩ Dạ” nói chung vẫn nằm trong cảm hứng “đau thương”
của Hàn Mặc Tử.
TRỊNH THỊ TÚ
B. LUYỆN TẬP
1. Thử viết lại ba câu hỏi ở ba khổ thơ. Sau đó, anh chị hãy phân tích
mạch vận động cảm xúc của “Đây thôn Vĩ Dạ”.
2. Có người cho rằng các hình tượng, câu chữ trong “Đây thôn Vĩ Dạ”
đều hàm chứa ý nghĩa ẩn dụ. Hãy chứng minh.
3. Đây là bài thơ miêu tả thiên nhiên hay lời của một trái tim yêu ứa
máu?
4. Có những cách hiểu “mặt chữ điền”
a) Tấm bình phong trước nhà.
b) Mặt người con gái phúc hậu là “em” trong bài.
c) Mặt của chính Hàn Mặc Tử.
Anh (chị) theo ý kiến nào? Hãy làm sáng rõ điều đó.
5. Có người hiểu “Đây thôn Vĩ Dạ” như một bức tranh thi vị của xứ Huế,
có người lại cảm nhận bài thơ trước hết là thể hiện mối tình riêng tư của Hàn
Mặc Tử?
Theo anh (chị) nên hiểu như thế nào về nguồn cảm hứng của bài thơ,
về tâm sự của nhà thơ gửi trong đó, và về những sáng tạo nghệ thuật độc
đáo của ông trong thi phẩm này?
6. Hãy phân tích hai bài thơ Tràng giang và Đây thôn Vĩ Dạ để cho thấy
cái riêng biệt độc đáo trong cách cảm nhận thiên nhiên của Huy Cận và Hàn
Mặc Tử?
7. Phân tích cấu tứ độc đáo của bài thơ và mạch xúc cảm của nhân vật
trữ tình trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử?
8. Người ta nói Hàn Mặc Tử là ngôi sao chổi kì lạ rực rỡ trện vòm trời
thơ ca Việt Nam.
Anh (chị) hãy phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ để thấy rõ điều đó.
TỐNG BIỆT HÀNH
THÂM TÂM
A. BÀI VĂN
Bình giảng “Tống biệt hành” của Thâm Tâm
BÀI LÀM 1
Thơ mới chỉ có hai cuộc tiễn đưa đặc biệt: một của Thế Lữ - “Giây phút
chạnh lòng” và một nửa của Thâm Tâm – “Tống biệt hành”. Còn thì chỉ là
những cuộc biệt ly thông thường, cuộc chia tay giữa người tình với người
tình, giữa người thân với người thân. Thương nhớ chỉ quẩn quanh nơi những
không gian xa cách, những mối tình phôi pha...
Anh biết em đi chẳng trở về
Dặm ngàn liễu khuất với sương khe
Em đừng quay lại nhìn anh nữa
Anh biết em đi chẳng trở về.
(Thái Can - Anh biết em đi)
Tất nhiên, những khúc ly biệt ấy đều có những giá trị, những hấp dẫn.
Nhưng ta càng biết quý những cuộc biệt ly của những tầm cao nhân cách.
Đó là những khúc biệt ly mang chất thẩm mỹ bi tráng.
Thế Lữ và Thâm Tâm đã cảm hứng từ cuộc tiễn đưa con người chí lớn,
con người khát vọng cái cao cả - khát vọng lý tưởng nồng cháy:
Non nước đang chờ gót lãng du
Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ
Anh đi vui cảnh lạ đường xa
Đem chí bình sinh giải nắng mưa
Thân đã hiến cho đời gió bụi
Đâu còn lưu luyến chút duyên tơ
(Giây phút chạnh lòng)
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn chưa về, bàn tay không
Thì đừng bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong
(Tống biệt hành)
Trong bi kịch, các nhân vật trữ tình này vẫn lồng lộng chất tráng ca.
Đó cũng chính là tâm hồn thời đại trong bối cảnh không khí thời đại.
Thuở ấy, những thanh niên trí thức, sinh viên học sinh đã cảm nhận
được cái vô nghĩa của những nhân cách an phận, nhàn du nhỏ bé mà sau
này, Chế Lan Viên viết:
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn
…
Lương thiện đấy, nhưng không có nội dung!
Thậm chí, có những người “vô tư”
Quanh Hồ Gươm không ai bàn chuyện vua lê
Lòng ta đã hóa thành rêu phong chuyện cũ.
(Chế Lan Viên)
Những con người nhỏ bé ấy đã đứng ngoài những cảm nhận về nỗi
dân tộc đang trong gông xiềng nô lệ, về nỗi nhân dân đang đói khổ, đau khổ...
Kiếp người cơm vãi cơm rơi, Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi...” (Tố Hữu),
về nỗi những Chí Phèo đang lâm vào thảm trạng tha hóa, và đang bị cự tuyệt
quyền làm người lương thiện... (nhân vật của Nam Cao).
Có một tầng lớp thanh niên có học biết nặng lòng với đất nước, với
nhân dân. Họ ưu tư, trăn trở trên đời sống chung của dân tộc. Nhưng nhìn
quanh, họ chỉ thấy những bức tường bế tắc!
Thuở ấy, không khí thời đại ảm đạm lắm.
Một lá cờ Cần Vương phất cao với bao tâm huyết. Rồi từ Bắc chí Nam,
Cần Vương đi vào thất bại. Những chiến sĩ Đông Kinh Nghĩa Thục ra quân,
những Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... cũng lâm vào thất bại. Vận hội may
mắn của cái dân tộc điêu linh này chưa tới? Rồi Việt Nam Quốc Dân đảng
nồng nhiệt liều thân... cũng chỉ để lại một tiếng bom của Phạm Hồng Thái.
Không thành công cũng thành nhân”...
Đúng như sau này, Chế Lan Viên viết:
Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời.
Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa
Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời.
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng giọt thấm mưa rơi...
Trong không khí thời đại ấy, những con người có học, có tâm huyết đã
buồn. Ai đã chê Thơ Mới buồn? Thậm chí, ai đã cho Thơ Mới là bạc nhược?
Hơn nữa, ai đã kết tội Thơ Mới là có lợi cho địch? Đến bây giờ, khi không khí
của hai cuộc chiến tranh đã lùi xa, khi mọi lí lẽ đã được suy ngẫm, kiểm
nghiệm, chúng ta mới biết sợ những thái độ “khoa học” chưa hoàn chỉnh này.
Chất buồn của Thơ Mới là chất buồn mang tầm cao thời đại. Đó là chất
buồn nhân tính.
“Tống biệt hành” là khúc trữ tình buồn ấy, là khúc bi tráng ca của một
tâm hồn non nước.
Đưa người ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Trên bình diện nội dung công khai, đã có hai nhân vật trữ tình: người ra
đi và người đưa tiễn. Rồi cả ở những đoạn thơ sau, vẫn là hai con người ấy:
Đưa người ta chỉ đưa người ấy
... Ta biết người buồn chiều hôm trước
... Ta biết người buồn sáng hôm nay
Nhưng có thật là có hai người không? Hay chỉ là một nhân vật trữ tình
ở dạng phân thân? Hai con người này có những ranh giới nhập nhoạng mơ
hồ, có khi chập vào nhau:” ”... tiếng sóng ở trong lòng” và “hoàng hôn trong
mắt trong”; có khi ở trong nhau mà tự vấn:
Người đi? ừ nhỉ, người đi thật!
Đoạn thơ đầu, bằng thể thất ngôn cổ điển, bằng nghi vấn tu từ thể
điệp... Thâm Tâm đưa ta vào một không khí Đường thi trang trọng. Ta chìm
vào trong một trầm tư.
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng...
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
Như một hành động chọn lọc “...ta chỉ đưa người ấy” cuộc tiễn đưa bắt
đầu đi vào chiều hoành tráng “một giã gia đình, một dửng dưng”. Tính cách
thời đại xuất hiện. Con người ấy có dáng dấp Kinh Kha “Ai đồng chí trong
đám người tiểu kỷ, Trên kinh thành lơ lửng một thanh gươm...” con người ấy
mang phong thái chiến sĩ “Tráng sĩ một đi không trở về...”.
Cái chất lãng mạn hoành tráng này, về sau sẽ được tái diễn trong
những vần thơ của Quang Dũng, Chính Hữu ở giai đoạn thơ thời đầu kháng
chiến chống Pháp (1946-1947-1948):
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
(Tây Tiến - Quang Dũng)
Nhớ đếm ra đi đất trời bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa...
(Ngày về - Chính Hữu)
Cao cả trác tuvệt như vậy mà ai lại dám bảo đó là những vần thơ “buồn
rớt, mộng rớt... yêng hùng...” ai lại dám bắt “lột xác, nhận đường...”
Thâm Tâm đi bước thứ nhất, để cho Quang Dũng, Chính Hữu, đi bước
thứ hai trong cảm hứng lãng mạn hoành tráng.
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Vì sao người buồn? Không phải vì cuộc ra đi bịn rịn. Người buồn vì nỗi
những nhân cách ở tầm thông thường không thể hiểu người. Đó là những
“một chị, hai chị cũng như sen, khuyên nốt em trai dòng lệ sót”
Nỗi buồn ấy hiện ra trong buổi chiều.
Ta biết người buồn sáng hôm nay
Vì sao người buồn? Vì phải xa những tấm lòng trẻ thơ, xa những “em
nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc”. Nỗi buồn ấy lấy bối cảnh một ban mai rực rỡ (Trời
chưa mùa thu tươi lắm thay) tương ứng hài hòa với ánh sáng tinh khôi trong
mắt trẻ. Đó là thẩm mỹ của cái đẹp - buồn.
Người đi? Một dấu hỏi.
Ừ nhỉ, người đi thực!
Một trả lời trong cảm thán. Cũng có thể là một tự hỏi mình.
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Nhân vật bà mẹ đến đây mới thật sư xuất hiện. Trước, trong câu: Ba
năm mẹ già cũng đừng mong, chỉ là một cách nói. Bi kịch của lòng mẹ là bi
kịch của:
Lá vàng thì ở trên cây
Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời
(Ca dao)
Chị thà coi như là hạt bụi
Đó là một câu tâm lý học. Các bà chị đã tự bằng lòng mình về việc
thương em (Khuyên nốt em trai dòng lệ sót); bây giờ, lòng thành thanh thản.
Em thà coi như hơi rượu say
Thâm Tâm dành cho “em” cái ngôi kết thúc. Người tình của Dũng là
nàng Loan (nhân vật của Nhất Linh), trong tiến đưa đã:
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
Dưa tiễn anh ra chốn hải hồ
Thế Lữ
Người tình của chàng trai chí lớn này thì, trong ly biệt, hoài niệm một
chất nồng say đã được hưởng... Câu thơ không tiếc nuối, chỉ là man mác. Nó
ngân vang tạo ra dư âm chung của toàn bài...
Sau 1945, Thâm Tâm cùng với dân tộc, đi vào cuộc trường kỳ kháng
chiến chống Pháp. Và anh đã chết cái chết đẹp của người chiến sĩ.
Phải chăng, bằng chính cuộc đời mình, Thâm Tâm đã thực hiện hóa cái
giấc mơ của nhân vật trữ tình trong thơ mình?
HOÀNG THIỆU KHANG
BÀI LÀM 2
Bài thơ mở đầu bằng câu hỏi như tiếng thì thầm, băn khoăn ngạc nhiên
nhưng kì thực là tâm trạng buồn tê tái của người đưa tiễn:
Đưa người ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Câu thơ đầu toàn thanh bằng trầm lắng như tiếng lòng của người đưa
tiễn. Không gian ở đây không lặp lại như trong thơ cổ thường dùng dòng sông
như một hình ảnh biểu tượng cho sự chia li. Và thời gian cũng không phải là
cảnh hoàng hôn gợi lên một nỗi buồn mênh mông như trong thơ cổ. Tả không
gian và thời gian trong thơ xưa đều bị phủ định bằng hàng loạt những từ
không: không có bến sông, bóng chiều không thắm, không vàng vọt. Nói
nhiều cái không để tô đậm, làm nổi bật lên một cái có thực là tâm trạng tê tái
của con người.
Không cần mượn cảnh để tả tình nữa. Thâm Tâm đã trực tiếp miêu tả
tâm trạng của con người. Tâm trạng ở đây được cụ thể hóa bằng một ấn
tượng như “có tiếng sóng ở trong lòng” được tạo nên bằng những, những nỗi
niềm bâng khuâng xao xuyến. Tâm trạng của con người còn được cụ thể hóa
bằng một cảm nhận trong mắt như chất chứa một mối sầu chia li, một nỗi nhớ
thương mênh mang, vời vợi: “Sao có tiếng sóng ở trong lòng”. Mặt khác,
chính là nhờ phủ định hàng loạt những thi liệu quen thuộc trong thơ cổ (không
qua sông, bóng chiều không thắm, không vàng vọt). Thâm Tâm đã tạo ra sự
hiện diện của những cái không có, nối liền cảnh chia li hiện tại với cảnh cũ
người xưa, tạo nên sự giao thoa, cộng hưởng, làm cho câu thơ có sức lay
động, dư ba. Bốn câu thơ mở đầu này, với hàng loạt những điệp từ (đưa
người - không đưa, sao có — sao đầy, không thắm — không vàng vọt) và hai
câu hỏi tu từ đã tạo nên một giai điệu đặc biệt, một giọng điệu vừa rắn rỏi,
gân guốc vừa sâu lắng, thiết tha. Giọng điệu ấy của đoạn thơ cũng chi phối
toàn bộ bài thơ.
Trong tống biệt hành, gương mặt tinh thần của người ra đi:
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng...
Li khách! Li khách! Con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay không?
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong
Hình ảnh người ra đi hiện lên trong tâm tư, trong kí ức. Người ở lại như
một nhân vật lãng mạn có dáng dấp của một đấng trượng phu. Nhân vật này
được vẽ bằng một nét bút cường điệu nhằm làm nổi bật cái “chí lớn”, một ý
chí sắt đá quyết tâm ra đi không gì lay chuyển nổi (Một giã gia đình, một dửng
dưng), một thái độ sống chết vì nghĩa lớn (Chí lớn chưa về bàn tay không).
Hình ảnh li khách làm gợi lên trong tâm trí người đọc hình ảnh của một trang
nghĩa sĩ thuở xưa “dứt áo ra đi”, “một đi không trở về”. Trong hoàn cảnh cụ
thể của đất nước lúc bấy giờ, thái độ kiên quyết, dứt khoát, gạt tình riêng để
ra đi của li khách là một thái độ, một tư thế mang đậm màu sắc của cái cao
cả, có sức hấp dẫn mạnh mẽ mạnh mẽ người đọc.
Đoạn thơ này có sự đan cài, xen kẽ, hòa quyện giữa hai giọng điệu của
người đưa tiễn và li khách, tạo nên tính chất phức điệu (poly- phone) của
ngôn ngữ.
Những hình ảnh của li khách hiện ra không chỉ có thái độ dứt khoát,
“dửng dưng” với tất cả. Trong tâm tâm tư sâu kín của anh vẫn còn chất chứa
biết bao tình cảm dành cho những người thân yêu, ruột thịt. Thâm Tâm đã
phát hiện ra thể hiện thật sâu sắc, thấm thìa những nét đối lập mà thống nhất
trong con người li khách. Ra đi một giã gia đình, một dửng dưng” mà trong đôi
mắt u ẩn vẫn chất chứa nỗi sầu li biệt “Đầy hoàng hôn trong mắt trong”. Muốn
vượt lên, nỗ lực thoát khỏi những trường lực của tình cảm thường tình để đi
theo tiếng gọi của cái cao cả “Chí lớn chưa về bàn tay không” mà vẫn chồng
chất, dằng dặc những buồn thương:
... Ta biết người buồn chiều hôm trước.:.
... Ta biết người buồn sáng hôm nay...
Té ra, người ra đi không hề “dửng dưng”! Đằng sau cái bề ngoài có vẻ
dửng dứng ấy là cả một thế giới nội tâm chất đầy những day dứt, dằn vặt ở
bên trong, là sự dằn lòng đến đau đớn của li khách. Người ra đi bị níu lòng từ
nhiều phía: Mẹ già, những người chị và đứa em nhỏ “Ngây thơ đôi mắt biếc,
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay”. Thâm Tâm đã cực tả tình cảm thương
tiếc, níu kéo của người thân của li khách. Những người chị tàn tạ như sen
cuối hạ đã khóc nhiều, khóc đến những giọt nước mắt cuối cùng để khuyên
can, van nài người em ở lại: “Một chị, hai chị cũng như sen - Khuyên nốt em
trai dòng lệ sót”. Cực tả tình cảm của những người thân cũng là để tô đậm
thêm cái ý chí của người ra đi. Song, dẫu tình cảm gia đình vô cùng quyến
luyến vẫn không lay chuyển được chí lớn của li khách:
Người đi? ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say.
Li khách đã đi rồi mà người đưa tiễn còn ngơ ngác như không tin đó là
sự thật. Và khi chợt nhận ra li khách đã “đi thực” thì bàng hoàng sực tỉnh,
bâng khuâng, buồn man mác. Ba câu cuối cùng vẫn là lời của người đưa tiễn
nhưng lại được diễn tả bằng ngữ điệu và ý thức của người ra di, nhấn mạnh
một lần nữa cái chí lớn (Chí lớn chưa về bàn tay không) của li khách. Giọng
thơ có vẻ dứt khoát, nhưng vẫn không dấu nỗi sự đau đớn, như dằn lòng mà
dứt áo ra đi.
Bài thơ đã tạo nên một chất lượng thẩm mĩ mới với thi liệu cũ. Đó là cái
cao cả với thế giới nội tâm sâu kín, toàn vẹn chân thật của con người đầy
nhân tính, nhân đạo. Nó là cái nhìn nhiều chiều và sâu sắc về con người.
TRẦN ĐĂNG XUYỀN
BÀI LÀM 3
Rung động sâu xa về cuộc chia tay da diết và đằm thắm tình đời, tình
người đã thôi thúc nhà thơ Thâm Tâm viết bài thơ Tống biệt hành. Bởi thế mà
giọng thơ như gợi nhớ về những điều gì đã xa của quá khứ, để lại trong lòng
người những ấn tượng khôn nguôi.
Chia li! Đó là điều đã và sẽ xảy ra trong cuộc đời của mỗi con người.
Bởi thế mà đề tài “Tống biệt” không phải là đề tài xa lạ đối với chúng ta. Thi
hào Nguyễn Du xưa đã từng viết rất hay về những cuộc tiễn đưa, Thâm Tâm
đã nói lên một tiếng thơ riêng - Một điệu hồn của một thi sĩ chắc đã từng có
những cuộc chia li da diết và xót đau trong cuộc đời:
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng.
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Những câu thơ đã gợi lên trong lòng người đọc những cảm xúc bâng
khuâng, khó tả. Có lẽ người ta cảm thấy buồn nhiều hơn. Cảm xúc buồn cũng
toát lên từ những câu thơ, những hình ảnh gợi lên cảm giác. Cả đoạn thơ là
cả một chữ “không” và những dấu hỏi (?) “không đưa qua sông”, “không
thắm”, “không vàng”... khắc họa một cảm giác gần như chơi vơi rợn ngập
trong lòng. Có cái gì đó vừa như là thực, vừa huyền hồ, hư ảo. Rõ ràng “Đưa
người ta không đưa qua sông, Mà sao có tiếng sóng ở trong lòng”. Câu thơ
đã xác định rõ khoảng không gian của cuộc tiễn đưa người đọc hình dung
cuộc tiễn đưa đó đang diễn ra ở một bến sông xa vắng, trong ánh hoàng hôn.
Không có sóng, không có nước, mà sao có “sóng trong lòng”. Một khoảng
không gian nữa được xác định. Trên kia là không gian có thực, cuộc tiễn đưa
diễn ra trên khoảng không gian ấy. Nhưng đây là không gian trong lòng
người. Thời gian cũng được xác định nhưng đó cũng là thời gian của lòng
người. “Bóng chiều không thắm, không vàng vọt - Sao đầy hoàng hôn trong
mắt trong?” Lại một lần “không” và câu hỏi vẫn chưa được xác định, nhưng
nếu người đọc để ý, phát hiện và nắm bắt được những điều huyền diệu ẩn
chứa trong tình cảm con người thì sẽ thấy tác giả nói như vậy là rất hợp lôgic
tâm lí của mỗi con người.
Một lần “không”, hai lần “không” và câu hỏi đầy nghi ngờ chưa được
giải đáp để rồi chỉ nói một chữ “có”.
Không có bến sông, không có bóng chiều vàng vọt, nhưng lại có tình
người da diết và đằm thắm khôn cùng. Có biết, bao nhiều điều muốn nói đằng
sau những từ “không” ấy. Có cái gì nhói lên thật xót đau trong lòng người ra đi
và người ở lại. Bởi thế, họ mới nhìn thấy “hoàng hôn” trong mắt nhau. Những
nét buồn ánh lên trong mắt. Nỗi đau chia li đã làm cho con người chơi vơi,
đưa người ta vào một trạng thái tâm trạng lơ lửng. Chỉ biết “đau” và cảm thấy
“đau”.
Phải chăng cuộc chia ly quá bất ngờ đối với mỗi người nên một lần nữa
người ta phải xác định cảm xúc của mình.
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng...
Đúng “ta chỉ đưa người ấy”. Chỉ có một người ra đi nhưng chưa biết là
ai và chưa biết người ấy đi đâu. Chỉ biết rằng “người ấy” đã tạm biệt gia đình
và “một dửng dưng”. Người đọc cảm thấy như vừa hụt hẫng một cái gì chứa
đựng trong lòng người ra đi. Sự “dửng dưng” kia không phải là tâm trạng lúc
này của người ra đi. Có một nỗi đau đớn trong lòng nên họ đã tạo nên tư thế
“dửng dưng” cho mình để nén ghìm nỗi đau. Con đường ra đi không định và
chính “người ấy” cũng không biết. Nhưng “người ấy” ra đi với một quyết tâm
lớn:
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại.
Đến đây có nhiều ý kiến cho rằng “người ấy” chính là người chiến sĩ ra
đi tìm đường cứu nước. Tôi cho rằng ý kiến đó không hoàn toàn đúng, bởi
không có một cơ sở nào để khẳng định như thế. Người đi tác giả không nói
rõ. Và chỉ biết rằng “người ấy” người ấy ra đi với một quyết tâm lớn là thực
hiện được “chí lớn” của mình. Rất có thể “người ấy” ra đi để tìm một cuộc
sống mới, một cuộc sống tươi sáng hơn cuộc đời mà anh ta đã sống. Đặt
trong hoàn cảnh những năm bốn mươi bài thơ ra đời, đó không phải là lẽ
sống và ý tưởng tiến bộ của những đấng nam nhi hay sao? Nhưng có điều
con đường tiến tới tương lai đối với họ còn mờ mịt, chưa xác định. Họ chấp
nhận chia li, họ quyết tâm nhưng không phải họ không buồn không đau. Hai
chữ “li khách” và dấu chấm than (!) đằng sau vừa nói lên nỗi đau của sự chia
li, vừa nói lên quyết tâm một cách dứt khoát. Cũng như người ra đi trong bài
Đất nước của Nguyễn Đình Thi.
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
“Người ấy” ra đi với một tâm trạng buồn khôn xiết, với một nỗi đau:
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giờ chưa mùa thu, tươi thắm thay,
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...
Đây là một cuộc tiễn đưa thật cảm động và xót thương. Nỗi xót xa cứ
dâng ngập trong lòng người ra đi và người ở lại. Hình ảnh những người chị
như những đóa sen cuối hạ của một miền quê lam lũ, và đứa em gái ngây thơ
với chiếc khăn tay cứ lần lượt hiện ra trong tâm trí của người ra đi, nhói lên
trong tâm hồn người ấy một nỗi xót xa vô hạn. Và vẫn biết ra di là phải chấp
nhận những đắng cay, những xót xa và phải trả giá đắt cho cuộc ra đi của
mình, nhưng “người ấy” vẫn quyết tâm cho đến cùng. Sự ra đi của người ấy
cứ gợi lên trong lòng người đọc liên tưởng đến chàng Kinh Kha thời Chiến
quốc “một đi không trở lại”, “ra đi không vương thê nhi”.
Sự ra đi càng bất ngờ, người ra đi càng quyết tâm bao nhiêu và nỗi đau
được nén ghìm lại thì cuộc ra đi càng tiến triển theo chiều hướng tốt đẹp.
Người ở lại mặc dù đau xót và nhớ thương nhưng cũng không cản trở người
ra đi thực hiện “chí lớn”. Những người chị đã “khuyên em trai” trong tiếng nấc
xót xa. Và đứa em nhỏ “ngây thơ đôi mắt biếc” trao cho anh chiếc khăn kỉ
niệm. Rõ ràng là cả người đi và người ở đều phải chấp nhận những đắng
cay, tiếc thương không ai ngăn cản công việc của ai. Mỗi người một phương
đau xót nhưng họ điềm nhiên chấp nhận:
Người đi, ừ nhỉ, người đi thực
Dường như từ nay nỗi đau chia li đã đẩy con người vào trạng thái nửa
như mơ, nửa như tỉnh và không định. Đến bây giờ, người đi, đi thật rồi người
ở lại mới giật mình, bàng hoàng “ừ nhỉ”, “người đi thực”. Câu thơ thốt lên
trong một trạng thái tâm hồn xiết đau. Người ở lại vừa như bừng tỉnh một cơn
ác mộng. Tất cả những gì vừa diễn ra lại trở về nén ghìm trong nồi buồn đau
của người ra đi.
Mẹ thà coi như chiếc lá bay.
Chị thà coi như là hạt bụi.
Em thà coi như hơi rượu say
Người đi dường như xác định được trước tất cả những gì sẽ xảy ra. Và
“người ấy” đã để lại sau mình những nỗi buồn đau để ra đi với một tâm trạng
khôn nguôi. Hai chữ “thà coi” được nhắc đi nhắc lại bao lần với ba lần nhắc
đến “mẹ”, đến “chị”, đến “em” một lần nữa lại khẳng định quyết tâm ra đi của
“người ấy”. Mẹ nhắc đến thoáng qua, chị thoáng qua, em thoáng qua để rồi
“thà coi” như “hạt bụi”, như “lá bay” như “hơi rượu say”. Tôi cho rằng đây là
một cách nói của người ra đi cụ thể là của tác giả Thâm Tâm để ghìm nén nỗi
đau lại, để tâm hồn thanh thản ra đi nuôi dưỡng “chí lớn” của mình. “Thà coi”
là như thế, thà chấp nhận là như thế còn hơn chịu mãi một nỗi đau: Chí lớn
không thành.
Ta biết người ra đi trong bài thơ có một khát vọng rất chính đáng và cao
đẹp. Người ấy nuôi dưỡng hi vọng thực hiện được khát vọng đó ở một
phương trời xa nào đó.
Bài thơ đã kết thúc ở trong nỗi đau được ghìm nén và sự quyết tâm ra
đi của “người ấy”. Âm hưởng của bài thơ vẫn còn đọng lại trong tâm hồn
người đọc. Người đọc cảm thấy được cả nỗi đau của sự chia li. Song sự
quyết tâm một cách dứt khoát của người ra đi cũng đủ để cho người đọc
đương thời và hôm nay tin tưởng rằng trong cuộc đời thực của mỗi người sẽ
có những cuộc ra đi như thế và đã có những người thành công trở về.
Bài thơ viết theo thể “hành”, tạo được không khí cổ kính, nhưng nội
dung lại mang sắc thái rất mới mẻ độc đáo, ghìm nén nỗi đau lại, để tâm hồn
thanh thản ra đi nuôi dưỡng “chí lớn” của mình. “Thà coi” là như thế, thà chấp
nhận là như thế còn hơn là chịu mãi một nỗi đau: chí lớn không thành. Ta biết
người ra đi trong bài thơ có một khát vọng rất chính đáng và cao đẹp. Người
ấy nuôi dưỡng hi vọng thực hiện được khát vọng đó ở một phương trời xa
nào đó.
Bài thơ đã kết thúc ở đây, trong nỗi đau được kìm nén và sự quyết tâm
ra đi của “người ấy”. Âm hưởng của bài thơ vẫn còn đọng lại trong tâm hồn
của người đọc. Người đọc cảm thấy được cả nỗi đau của sự chia li. Song sự
quyết tâm một cách dứt khoát của người ra đi cũng đủ để cho người đọc
đương thời và hôm nay tin tưởng rằng trong cuộc đời thực của mỗi người sẽ
có những cuộc ra đi như thế và đã có những người thành công trở về.
Bài thơ viết theo “hành” vừa tạo được không khí cổ kính, mang lại sắc
thái rất mới mẻ, độc đáo. Cho nên hôm nay, có lẽ sự quyết tâm ra đi thực
hiện “chí lớn” của “người ấy” trong bài thơ Tống biệt hành vẫn còn có ý nghĩa
với mỗi con người chân chính.
NGUYỀN QUANG MINH
Bình giảng khổ đầu “Tống biệt hành” để làm sáng tỏa đó là cuộc chia li của ai với ai.
BÀI LÀM
Biệt li luôn là nỗi đau khổ lớn nhất của con người. Trong kho tàng thi ca
của nhân loại đã có rất nhiều bài viết về đề tài tống biệt như:
“Đừng là thuyền trên sông
Thuyền chở người li biệt
Đừng làm trăng trên sông
Trăng chiếu người biệt li”
Cũng chọn đề tài này và viết theo thể hành - một thể thơ cổ phong,
nhưng Thâm Tâm không chỉ bộc lộ được tình cảm xúc động của người đưa
tiễn và người ra đi, mà còn khắc sâu ấn tượng trong lòng người đọc về một
cuộc chia li hiếm có. Ấn tượng ngay từ những dòng đầu của bài thơ chúng ta
thấy ẩn sâu trong giọng thơ cứng cáp, phảng phất hơi thơ cổ có chút gì đó
bâng khuâng khó hiểu của thời dại - những năm tiền khởi nghĩa:
“Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiềng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”
“Tống biệt hành” là một áng thơ hay, Tô Hoài đã từng nói: “Nó mang
tâm sự của người cầm bút của thời đại, giữa khi cả đất nước và dân tộc
chuẩn bị tổng khởi nghĩa tiến tới cách mạng tháng Tám 1945 vĩ đại. Tuy nhiên
cho đến nay bài thơ còn đặt ra rất nhiều tranh luận trong giới phê bình; đặt
biệt là xung quanh vấn đề người ra đi là ai và đây thực chất là cuộc chia li
giữa ai với ai. Có tài liệu cho rằng: “Người ra di ở đây là một chiến sĩ cách
mạng, giã nhà lên đường đi chiến đấu và đó là cuộc chia tay giữa người bạn
ấy với nhà thơ”, lại có lời bình hoàn toán trái ngược lại với ý kiến trên: “Chí
lớn mà con đường nhỏ, cuộc đi chưa thấy có căn cứ gì cho nghiệp lớn ngoài
sự hăng hái tinh thần... ở, lại thì bế tắc, nhưng ra di thì chưa thấy gì là tươi
sáng, cái vẻ bi hùng của Kinh Kha bên sông Dịch thì cũng chẳng lừa được
chính mình. Mấy câu thơ kết, lòng người như sụp xuống cả kẻ tiễn lẫn người
đi đều tuyệt vọng đến hư vô”... biết bao cách lí giải khác nhau được đưa ra,
nhìn chung đều là sự suy diễn từ cuộc đời và sáng tác của Thâm Tâm. Văn
bản của bài thơ vẫn là cơ sở chính yếu để tìm ra cách giải thích hợp lí mà
theo đánh giá của Vũ Quần Phương: “Chữ nghĩa, câu thơ như không dính
nhau”. Nếu không áp đặt quá công thức thì “Tống biệt hành” có thể chỉ là một
cuộc tiễn đưa được tưởng tượng, cả người đi lẫn người tiễn đều là do Thâm
Tâm hư cấu nên trên cái nền tình cảm của nhà thơ, chỉ là cuộc tiễn đưa giữa
tác giả với chính cái “tôi” lãng mạn của mình.
Từ cổ chí kim, khi nói đến chia tay người ta nghĩ ngay đến sự có mặt
của hai thực thể. Trong “Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng
Lăng” của Lý Bạch có sự xuất hiện của nhà thơ và “cố nhân”:
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc Lâu
Yên ba giang thượng há Dương Châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tuế lưu
trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, khi Kiều tiễn biệt Thúc Sinh có mặt cả
“người đi” và “kẻ ở”:
Người lên ngựa, kể chia bào.
Còn ấn tượng đầu tiên “Tống biệt hành” mang đến cho bạn đọc là một
sự khó hiểu giữa ý tứ và cách thể hiện. Nếu trong “Tống biệt hành” người ra
đi và kẻ ở lại chỉ là một người thì trong bài thơ sẽ chỉ có một thực thể thế
nhưng ngay từ những dòng đầu của bài đã thấy xuất hiện liền hai thực thể:
“ta” với “người”:
Đưa người ta không đưa qua sông.
sự khó hiểu ấy tự nhiên dẫn người đọc vào một cuộc chia li đầy ấn tượng
hiếm có.
Các thi nhân xưa dù những bậc “Tiên thi” hay “Thánh thi” khi mô tả sự li
biệt bao giờ cũng lấy bến đò, dòng sông làm biểu tượng.
“Chia phôi khác cả mối lòng
Người như mây nổi kẻ trông bóng tà”
(Tiễn bạn - Lý Bạch)
“Gạt hàng lệ lúc lên sông tiễn bước
Trời cao cao man mác nghĩ buồn thay”
(Tiễn Vi Phúng - Đỗ Phủ)
Tuy nhiên trong “Tống biệt hành” của Thâm Tâm là cuộc biệt li không
phải diễn ra trên một dòng sông, hay một bến đò nào nhưng âm vang của
tiếng sóng vẫn dội lên:
“Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng”
Một câu thơ hoàn toàn thanh bằng, đi liền sau là sự nổi lên của bốn
thanh trắc: “có tiếng sóng ở” gợi nện trong mỗi người sự hình dung về hình
ảnh của những con sóng của lòng đau đớn vì biệt li, thương nhớ cứ dâng trào
lên đến cực điểm. Âm vang của tiếng sóng không được mô tả trực tiếp nhưng
lại đầy sức gợi, đặc biệt là gợi trong ta buổi Thái tử Yên Đan tiễn Kinh Kha
qua sông Dịch thuở nào. Tuy có sự khác nhau, một qua sông và một không
qua sông, nhưng đều là những cuộc ra đi vì nghĩa lớn của những kẻ anh
hùng xứng danh. Tráng sĩ Kinh Kha xưa lên đường để diệt giặt Tần và người
ra đi ở đây ắt hẳn cũng giống như Kinh Kha một đi không trở lại khi:
“Chí lớn chưa về bàn tay không”
Buổi tiền biệt đã buồn lại càng thêm phần buồn hơn, tăng cấp hơn khi
ấn tượng chia li lại đặt trong thời điểm: Chiều hoàng hôn. Một nhà thơ nước
ngoài từng xúc động trước thời điểm nắng chiều nhạt màu, mà hoàng hôn lại
chưa xuống:
“Mỗi người đứng trên trái tim trải đất
Lòng xuyên qua một tia nắng mặt trời
Và chưa chi chiều đã tắt”
Còn ở đây “bóng chiều không thắm, không vàng vọt” mà trong mắt đã
nhuốm “đầy hoàng hôn”. Màu của hoàng hôn không chỉ là màu của tâm tưởng
kẻ ra đi: buồn và lo bởi gia cảnh:
Mẹ - lá bay Chị- hạt bụi
Em - hơi rượu say.
mà còn là màu của tâm trạng thảng thốt không tin vào sự thực của người ở
lại: “Người đi? ừ nhỉ người đi thực”. Bóng hoàng hôn chỉ trong một đôi mắt mà
chở được cả hai tâm trạng, hai nỗi niềm của kẻ ở người đi. Đây cũng là điều
hiếm có của một cuộc tống biệt.
Chỉ ngay từ những dòng thơ đầu, bằng những câu hỏi tu từ song hành
hô ứng nhau:
Sao có tiếng sóng ở trong lòng.
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong.
bằng sự phối hợp thanh bằng - trắc đầy hàm ý, sự sử dụng các hình ảnh điển
cố điển tích cùng cách diễn đạt rất mới, Thâm Tâm đã bước đầu đưa bạn đọc
vào không khí của buổi tiễn biệt hiếm có, đầy ấn tượng sâu sắc. Một cuộc
tống biệt với sự cộng hưởng, giao thoa cảm xúc của nhân vật. Hai người
nhưng một tâm trạng.
Hiếm có một tác phẩm tống biệt nào dù văn chương hay đời thực lại có
được sự độc đáo ấn tượng như cuộc chia li trong “Tống biệt hành” của Thâm
Tâm: “Nó đã làm sống dậy cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ... nhưng
đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại”. Bởi ở cái thời đại ấy những
con người như Thâm Tâm đang bơ vơ không biết đi đâu về đâu và lúc nào
cũng thấy u uất, lòng yêu nước thầm kín và khát vọng “lên đường”.
NGUYỄN THỊ THU HẰNG
B. LUYỆN TẬP
1. Trong Thi nhân Việt Nam (1941) nhà phê bình Hoài Thanh cho rằng
Tống biệt hành của Thâm Tâm đã làm sống lại “cái không khí riêng của nhiều
bài thơ cổ: Điệu thơ gấp, câu thơ rắn rỏi gân guốc (...) nhưng vẫn đượm chút
bâng khuâng khó hiểu của thời đại”.
Anh (chị) hãy bày tỏ ý kiến của mình về nhận định trên.
2. Anh (chị) hãy phân tích hiệu quả nghệ thuật mà Thâm Tâm đã sử
dụng trong bài thơ Tống biệt hành.
3. Hiếm có một cuộc chia li nào lại khắc sâu ấn tượng trong lòng người
đọc bằng cuộc chia li trong Tống biệt hành của Thâm Tâm:
(1) Hãy cho biết đó là cuộc chia li giữa ai với ai?
(2) Bình giảng khổ thơ đầu để làm sáng tỏ điều đó.
3. Vẻ đẹp của hình tượng người “li khách” trong Tống biệt hành.
4. Anh (chị) hãy giải thích và bình luận về ý nghĩa khổ thơ cuối cùng (4
dòng) ở bài Tống biệt hành của Thâm Tâm.
5. Anh (chị) có nhận xét gì về đặc sắc nghệ thuật trong bài Tống biệt
hành của Thâm Tâm.
6. Bốn dòng thơ đầu có sự đối lập bằng trắc. Cấu trúc như vậy đã làm
nổi hình tượng kẻ đi người ở ra sao?
7. Cách hiểu những câu thơ cuối:
a) (Người mẹ) thà coi (đứa con của mình) như chiếc lá bay.
b) (Đối với) mẹ (ta) thà coi như chiếc lá bay.
Anh (chị) chọn cách nào? Tại sao?
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
NGUYỄN TUÂN
A. BÀI VĂN
Phân tích vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.
DÀN BÀI
1. Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa - khí phách. Ngay từ trước cách
mạng tháng Tám, ngòi bút ấy đã biết hướng thiện, hướng mĩ để tìm ra và lưu
giữ lại cho đời những vẻ đẹp của một thời vang bóng. Trong nhiều vẻ đẹp của
Vang bóng một thời xuất bản năm 1940, nói lên một vẻ đẹp chói lòa, rực rỡ,
vẻ đẹp của hìnn tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù
nổi tiếng của ông.
2. Nhân vật Huấn Cao được sáng tạo từ một nguyên mẫu có thực trong
cuộc đời: đó là nhà thơ Cao Bá Quát anh hùng khí phách lại nổi tiếng viết chữ
đẹp một thời. Nguyên mẫu vốn đã đẹp, nhưng khi đi vào tác phẩm, nhờ điển
hình hóa nghệ thuật, đã trở thành một hình tượng nhân vật lung linh tỏa sáng
với ba vẻ đẹp rực rỡ chói lòa: vẻ đẹp tài hoa; của khí phách hiên ngang bất
khuất, của “thiên lương” trong sáng. Ba vẻ đẹp này không tách rời nhau mà
gắn bó chặt chẽ với nhau để làm nên vẻ đẹp của nhân vật lí tưởng của
Nguyễn Tuân. Và nhà văn, với nghệ thuật già giặn, khi miêu tả trực tiếp, lúc
miêu tả gián tiếp, lúc đặc tả thành ấn tượng nổi bật, luôn đặt nhân vật vào
những tình huống để thử thách và trong quan hệ đối sánh với viên quản ngục
và thầy thơ lại... tất cả đã làm bật lên vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao.
a) Huấn Cao là một con người tải hoa khác thường. Ông viết chữ rất
đẹp. Đây là viết chữ Hán, một nghệ thuật, một thú chơi tao nhã của người
xưa gọi là thư pháp. Người ta treo chữ đẹp (hoặc viết trên lụa, hoặc khắc trên
gỗ phủ sơn mài) trong nhà, nơi trang trọng nhất như treo những bức họa quí.
Tài viết chữ của Huấn Cao như thế nào, cứ xem thái độ của viên quản
ngục thì rõ: “Biết đọc vở nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở
nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình
một câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông
lắm (...) có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một vật báu trên đời”. Tất
nhiên, chữ ông Huấn Cao phải đẹp lắm, quí lắm thì viên quản ngục và thầy
thơ lại mới phải kiên trì và dụng công đến như thế trong cách đối xử “biệt
nhỡn” đối với ông để được ông cho chữ. Mà đâu phải chỉ có kiên trì và công
phu. Còn phải dũng cảm nữa. Bởi vì biệt đãi một tên tử tù là một việc làm rất
nguy hiểm. Mới biết chữ ông Huấn Cao đẹp đến chừng nào qua ước mơ và
hành động của viên quản ngục.
b) Huấn Cao là một con người có khí phách khác thường. Một tử tù chỉ
đợi ngày ra pháp trường mà không hề tỏ ra nao núng, vẫn ung dung đường
hoàng. “Đến cái cánh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là...”. Khí phách anh
hùng của Huấn Cao cũng được làm nổi rõ trong mối quan hệ với viên quản
ngục. Viên quan coi tù này hoàn toàn có quyền dùng những thủ đoạn tàn bạo
đối với ông, nhưng ông chẳng những không sợ mà còn “cố tình làm ra khinh
bạc đủ điều”. Ngục quan vào gặp ông trong nhà giam “khép nép” hỏi: “Vậy
ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi cố gắng chu tất”, ông đã trả lời
thẳng: “Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà người đừng
đặt chân vào đây”. Một tử tù mà đáp lại lời cầu xin của ngục quan như vậy,
xưa nay thật hiếm có.
Nhưng quản ngục chẳng những không nổi nóng mà còn tỏ ra kính nể
hơn nữa, bởi vì “y cũng thừa hiểu những con người chọc trời khuấy nước,
đến trên đầu người ta, người ta cũng chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ
mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”,
c) Tuy nhiên Huấn Cao không phải là một con người có trái tim bằng
thép. Đúng là tiền bạc và quyền thế không lung lạc được ông, Ngay cả việc
cho chữ cũng vậy, ông đã nói: “Ta nhất sinh không phải vì vàng ngọc hay
quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ”. Cho nên khi tưởng rằng
người quản ngục trong các trại giam này cũng giống như mọi tên quản ngục
khác, nghĩa là kẻ đại diện thô bạo của quyền lực phi nghĩa, thì ông tỏ ra hết
sức cứng rắn. Nhưng khi hiểu rằng đây là một tâm hồn trong sáng lạc vào
giữa đám người “cặn bã”, ông liền thay đổi thái độ. Hóa ra con người ấy cũng
có lúc mềm lòng: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào
ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý
như vậy. Thiếu chút nữa, ta, đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Đây là
cái mềm lòng của một “thiên lương” trong sáng, một “chữ tâm” cao cả đã
khiến Huấn Cao sẵn sàng cho chữ ngục quan - dòng chữ cuối cùng của một
đấng tài hoa và một bậc anh hùng nghĩa sĩ. Và ta hiểu ông cho chữ ngục
quan không chỉ vì mục đích chơi chữ đơn thuần, mà chủ yếu là cho chữ để
cứu người, cứu một con người đã lầm đường lạc lối, như ta đã thấy trong
cảnh cho chữ ở cuối truyện.
d) Ba vẻ đẹp nói trên - tài hoa, khí phách, thiên lương - của nhân vật đã
được đẩy lên đến đỉnh cao và bộc lộ sáng lòa trong hình tượng lẫm liệt của
Huấn Cao cho chữ viên quản ngục. Cảnh cho chữ được nhà văn đặc tả thành
“một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” ở chốn đã tôn cao vẻ đẹp của nhân
vật và bộc lộ sâu sắc chủ đề tác phẩm:
“Trong không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một
bó đuốc tẩm dầu rọi lèn ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa
bạch còn nguyên vẹn lần hồ (...). Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng
xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh (...). Người tù viết xong một
chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đảnh dấu ô
chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu
mực (...) Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng thẳng người
dậy và đĩnh đạc bảo”
- Ở đây lẫn lộn, ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi (...). Thoi mực,
thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên
không?.., Tôi bảo thực đấy: thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy
thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến cái chuyện chơi chữ. Ở đây,
khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời
lương thiện đi”.
Đoạn văn đã sử dụng thành công bút pháp đối lập: Đối lập ánh sáng và
bóng tối, cái đẹp và sự bẩn thỉu hôi hám. Và người tử tù, tuy cổ đeo gông,
chân vướng xiềng, nhưng tư thế thì hiên ngang lồng lộng trước sự khúm núm
đầy cảm phục của người quản ngục. Đó là sự chiến thắng của cái tài, cái đẹp,
cái thiên lương kết tinh cao độ ở hình tượng lẫm liệt của Huấn Cao đối với
bóng tối, sự nhơ bẩn của xã hội phi nghĩa.
Và khi người quản ngục vái người tù một cái, chắp tay nghẹn ngào nói:
“kẻ mê muội này xin bái lĩnh” thì không phải chỉ là tạ ơn người đã cho chữ
mình mà vái một nhân cách đẹp: vẻ đẹp của tài hoa, của khí phách anh hùng
và của thiên lương trong sáng cao cả.
3. Ba vẻ đẹp trên đây hội tụ ở một con người đã làm nên vẻ đẹp của
nhân vật lí tưởng trong tác phẩm của Nguyễn Tuân: Con người tài hoa, Khí
phách. Với hình tượng Huấn Cao. Nguyễn Tuân đã sáng tạo được một nhân
cách kiên dũng, bất khuất trong vị thế một người tử tù trong một truyện ngắn
trang nghiêm, cổ kính. Hình tượng ấy, không chỉ biểu lộ cái tài, mà còn biểu lộ
sâu sắc cái tâm hướng thiện - hướng mĩ của nhà văn lớn Nguyễn Tuân.
Hãy phân tích giá trị tư tưởng và nghệ thuật của đoạn truyện tả cảnh nhân vật Huấn Cao “cho chữ” trong buồng giam (truyện ngắn Chữ
người tử tù của Nguyễn Tuân). Vì sao nói được rằng đó là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.
BÀI LÀM
Chữ người tử tù là một truyện ngắn đẹp và hay hơn cả trong tập truyện
Vang bóng một thời (1940) của Nguyễn Tuân viết trước Cách mạng tháng
Tám. Đoạn cuối tả nhân vật Huấn Cao cho chữ trong buồng giam là giai đoạn
giàu giá trị tư tưởng và nghệ thuật.
Truyện Chữ người tử tù kể về một người chống đối triều đình - người
tử tù Huấn Cao đang bị giam trong ngục chờ ngày đi nhận cái chết. Viên quản
ngục biết đó là người tài, đặc biệt viết chữ vuông vức, rất đẹp nên đã ngầm
trọng đãi để cố xin lấy vài chữ. Hiểu tấm lòng trọng tài của quản ngục, Huấn
Cao đã thuận cho mấy chữ cuối cùng.
Nội dung tốt, tư tưởng ca ngợi, tôn vinh cái đẹp trong cảnh đen tối, tội
lỗi ấy, nếu không gặp ngòi bút uyên bác, tài hoa của Nguyễn Tuân thì cũng
khó bộc lộ một cách sinh động và thuyết phục. Chỉ riêng đoạn “cho chữ”, nhà
văn ham săn tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã tạo thành một đoạn kết truyện xúc
động, trang trọng, cổ kính, hấp dẫn. Trước hết người viết truyện đã dựng một
màn kịch với sự đối lập, tương phản gay gắt. Buồng giam chật chội, hôi hám
đầy phân chuột, phân gián đối lập với cảnh cho chữ tài hoa, đẹp đẽ. Ánh đỏ
ngọn đuốc, màu trắng tinh của lụa bạch át đi cái tối tăm của phòng giam ban
đêm. Mùi thơm của chậu mực bốc lên át đi mùi hôi phân chuột, phân gián.
Người tù đĩnh đạc, đàng hoàng với cây bút trong tay đối lập và át đi, vượt lên
gông xiềng nặng nề kìm kẹp cái cao cả tương phản với cái thấp hèn và chiến
thắng tù ngục trói buộc. Cái đẹp tỏa sáng, chiến thắng cái xấu, cái ác. Một
màn kịch thật hay, giàu ý nghĩa! Hơn nữa, Nguyễn Tuân đã khắc họa kết cấu
truyện này những chi tiết, hình tượng sinh động, đầy ấn tượng tạo không khí,
khung cảnh cần thiết trong việc cho chữ trong đêm tù. Người đọc thấy biểu
hiện ra âm vang, hình bóng một thời xa xưa. Tiếng mõ vẳng lại, bó đuốc cháy
sáng rực, phiến lụa trắng óng ả được đánh dấu bằng những đồng tiền kẽm.
Trong vang và bóng ấy lồng lộng hình tượng Huấn Cao cổ đeo gông, chân
vướng xiềng đang hoa tay thảo những nét chữ đẹp. Hình tượng quản ngục
trân trọng, cảm động chắp tay vái người tù và tuôn nước mắt để “lời vàng
vâng lĩnh ý cao” thật xúc động. Nhà văn phải am hiểu sâu, tinh tường mới có
thể miêu tả như vậy. Ngôn ngữ ở đây thật chắt lọc, chuẩn xác và tinh tế, tạo
hồn cho cả đoạn văn. Những từ Hán - Việt dùng đắc dịa, thích hợp với việc
nói chuyện cũ, góp phần làm sống lại một thời vang bóng. Đó là những từ
như “lạc khoản”, “thiên lương”, “bái lĩnh”... Đồng thời Nguyễn Tuân còn có
cách viết, đặt câu vừa tạo hình vừa gợi cảm rất riêng. Thí dụ lời khuyên của
Huấn Cao với quản ngục: “Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi
cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện...”. Kết hợp “lành” với “vững”
tạo thành từ mới lạ “lành vững” thật độc đáo, rất Nguyễn Tuân.
Những giá trị nghệ thuật vừa nêu trên đã làm sáng tỏa giá trị tư tưởng
của đoạn văn. Thứ nhất là sự trân trọng, ca ngợi cái đẹp. Cái đẹp của nét chữ
vuông vức, tươi tắn. Cái đẹp của người cho chữ với chí lớn, khí mạnh, tài cao
và lòng sáng. Cái đẹp còn ở nơi những người như viên quản ngục quan, thầy
thơ lại biết quý trọng, tôn sùng cái đẹp. Thứ hai, đoạn kết thúc truyện còn toát
lên tinh thần yêu nước của tác giả. Quá hình tượng đẹp của người tử tù cao
cả, hiên ngang đầy sức hấp dẫn và lời khuyên hướng thiện, ta thấy thái độ và
tấm lòng Nguyễn Tuân đối với cuộc sống, với nước nhà. Có thể nói nhân vật
Huấn Cao ít nhiều mang hình bóng của Cao Bá Quát ngẩng đầu trước cường
quyền và “cúi đầu trước hoa mai”. Đồng thời Huấn Cao còn”vang bóng” con
người Nguyễn Tuân trong cuộc đời nhem nhuốc, tù hãm lúc bấy giờ, một con
người khí khái, ngang tàng và yêu xứ sở.
Cảnh cho chữ đúng là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Nguyễn Tuân đúng là nhà văn tài hoa làm sang trọng cho văn chương, đốt
cháy lên ngọn đuốc của cái Đẹp. Nói rằng cảnh cho chữ là cảnh xưa nay
chưa từng có vì cổ kim làm gì có chuyện cho chữ đẹp trong tù khi bản án tử
hình đã kề sát cổ. Cũng chưa có việc người tử tù lại khuyên bảo người quản
ngục, người tử tù lại đĩnh đạc cao giọng nói đến chữ “thiên lương”, “lương
thiện” để mở cho kẻ coi ngục hướng đi, cách sống. Và độc đáo hơn nữa là
viên quản ngục trong thời phong kiến tàn lụi, thối nát lại biết trân trọng cái
đẹp, cái cao cả và cúi đầu xin làm theo điều tốt đẹp.
Tác giả "Vang bóng một thời” - dù còn hạn chế này nọ - đã tạo được
một “cõi riêng” giàu giá trí nội dung và nghệ thuật trong Chữ người tử tù.
DÀN Ý
Giá trị nghệ thuật:
1. Dựng nên màn kịch với sự đối lập, tương phản thật gay gắt
2. Khắc họa những chi tiết, hình tượng sinh động, đầy ấn tượng tạo
không khí, khung cảnh rất sống thực, hấp dẫn.
3. Sử dụng ngôn ngữ chắt lọc, chuẩn xác, tinh tế để tái hiện một câu
chuyện xưa độc nhất vô nhị và giàu ý nghĩa.
Giá trị tư tưởng:
1. Trân trọng, đề cao, ca ngợi cái đẹp: Cái đẹp của tài hoa, của nét
chữ, của thiên lương, hướng thiện và của lòng yêu mến, lưu giữa cái đẹp...
2. Toát lên tinh thần yêu nước, chống đối cái xấu, cái ác trong xã hội
cũ.
Cảnh tượng xưa nay chưa từng có:
1. Cho chữ đẹp trong tù.
2. Người tử tù khuyên bảo người coi ngục việc giữ lương tâm trong
sạch, đổi nghề. Quản ngục cúi đầu lĩnh ý.
3. Quản ngục, thư lại biết trọng cái đẹp, cái cao cả.
Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.
BÀI LÀM
Cái đẹp hay cái xấu là những khái niệm thường được nhắc tới trong
cuộc sống của con người. Nhà văn là con người có cách kết tụ chúng lại
thành những mảnh đậm, gây ấn tượng mạnh. Trong truyện ngắn của mình,
với hình ảnh nhận vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã tập trung được gần như
hoàn thiện những vẻ đẹp thanh cao, tinh khiết đã và đang tản mạn trong cuộc
đời.
Qua lời bàn tán qua lại giữa thơ lại và quản ngục tỉnh Sơn thì Huấn Cao
là kẻ đã có tài đức lớn, nào viết chữ đẹp nổi tiếng, nào là đám chỉ huy dân
chúng chống lại triều đình, lại có tài bẻ khóa vượt ngục coi chốn lao tù như
nơi không người... Với những lời nói phát ra từ miệng của những kẻ đối đầu
(đại diện cho bộ máy triều đình), hình ảnh của Huấn Cao càng có tầm lớn, đi
vào lòng người như một kẻ anh hùng, một trượng phu đã vượt lên cái bình
thường của cuộc đời nhỏ hẹp.
Huấn Cao viết chữ Nho đẹp, lẽ ra ông trung thành với đạo thánh hiền,
giữ mình theo lễ nghĩa Nho giáo, trung với vua, một lòng một dạ với triều
đình. Một kẻ giỏi giang, nhân cách cao đẹp, đáng là thầy của bao kẻ trong
thiên hạ mà lại đứng lên làm phản. Mặt trái này phải chăng có nguyên nhân.
Trong sự đối đầu giữa hai thế lực, Huấn Cao phải chăng đại diện cho
cái bất trung, bất nghĩa ở đời? Nếu vậy thì sự mâu thuẫn gay gắt giữa cái đẹp
nhân cách (đến kẻ thù cũng phải công nhận) và hành động của ông khiến
người ta khó có thể tin được. Một con người chín chắn, trí tuệ như không thể
không có thể sự thống nhất trong nhân cách hành động và phong cách sống.
Ông vượt lên cuộc đời nhỏ hẹp vì nhân cách lớn, đồng thời bằng nhân cách
ấy, ông nhận ra bao nỗi khổ đau âm ỉ của con người, và đi đến quyết định giải
phóng họ. Cái bị phủ nhận ở đây là xã hội, một xã hội không còn chỗ cho cái
đẹp, một xã hội phi nghĩa. Chống lại xã hội ấy chính là Huấn Cao tự bảo vệ
cái tốt đẹp của mình, chiến đấu vì sự hoàn thiện của bản chất đó.
Hơn thế nữa, có lẽ Huấn Cao còn nghĩ tới nhiều người với sự cảm
thông thiết tha những nỗi khổ của họ khi sống gượng ép ngạt thở trong sự tối
tăm của xã hội. Giải phóng cho họ cũng đồng nghĩa với mục đích mà những
nhân cách lớn như Huấn Cao hướng tới.
Nhưng cái thiện ý cao cả ấy của Huấn Cao phải dang dở khi ông không
may bị bắt. Sự hoàn thiện ở ông đang chịu thử thách nghiệt ngã của tù lao,
gông xiềng. Huấn Cao rất dễ phô đẹp, khoe giỏi khi vùng vẫy tự do, với đồng
chí của mình nhưng khi đã ở tù thì không gian của cái đẹp ấy đã bị thu hẹp
lại, bó buộc con người trong cái mất tự do. Cái phi nghĩa đang tạm thời chiến
thắng và nở nụ cười kiêu ngạo nham hiếm chế giễu ông, hành hạ ông và các
bạn với một cái gông tới 7,8 tạ như hòng đè bẹp mọi suy nghĩ. Song với Huấn
Cao, dù thế nào cũng vẫn là sự nhất quán trong nhân cách là sự vượt lên trên
đời thường để sống đúng với mình. Ông bình thản, lướt ánh mắt sáng lên nhà
lao, lên những bộ mặt bất nhân nham nhở, cái nhìn đó như chỉ để nhìn chứ
không phải để tìm cho mình một ấn tượng, cái nhìn không căm hờn, không
van xin, cầu khẩn. Đó là cái nhìn của kẻ dám chịu, biết hy sinh đế sống đẹp
cho đời.
Cái nhìn khác thường ấy, thái độ ngang tàng ấy ở một tên tù phải
chăng là khiến người ta nghĩ đó không còn là một tên tù nữa. Viên quản ngục
đã ngây người ngay từ giây phút đầu tiên. Con người ác thường ngày trong
hắn như bị lãng quên đi để được thay thế bằng sự nhân từ. Huấn Cao như là
một thứ ánh sáng kì lạ, đi tới đâu, cái đẹp trang nghiêm đi theo và ảnh hưởng
tới đó. Quản ngục thấy nể sợ khi có một người nghệ sĩ trong tay mình.
Cái chậc lưỡi tiếc rẻ của thầy thơ lại khi nghe tin một kẻ tài như ông
Huấn mà làm phản thể hiện một mức độ nhận thức chưa đúng đắn về ông.
Thầy thơ lại chỉ biết tiếc cho một tài năng bí mật song chưa nhìn ra được cái
cao cả của sự hy sinh đó. Chính vì tài năng đức độ ấy mà Huấn Cao tự thấy
mình có trách nhiệm giải phóng con người. Thầy thơ lại hiền lành ấy rất gần
với mỗi chúng ta, gặp việc gì là nói thẳng nói thật, biết trân trọng cái đẹp song
lại như là quá nhút nhát, vướng bận đời thường.
Quản ngục lại khác, y đã chủ động tìm Huấn Cao như không kìm nén
nổi lòng mình. Từ lúc Huấn Cao tới, y bứt rứt không yên, trăn trở với những
suy nghĩ chưa từng thấy. Sẵn có trong tâm tính một Huấn Cao tài hoa giờ gặp
được ông, sự giả dối ác nhân trong hắn nếu có tan biến hết. Môi trường hắn
sống chưa thay đổi, nhưng con người đã đổi rồi. Sự day dứt bắt nguồn từ chỗ
đó, Huấn Cao thì lại không tin hắn, vì trước cái xấu bao giờ người ta cũng
phải cảnh giác. Huấn Cao đề phòng nó là thể hiện một bản tính của cái đẹp
nhưng đồng thời cũng tạo ra bi kịch. Tấm lòng thực của quản ngục và vị trí
địa vị của hắn đã mâu thuẫn nhau, khiến hắn khổ sở. Một bức lụa có chữ của
ông Huấn, niềm ao ước đầy tính nghệ thuật ấy của quản ngục lại không được
đáp ứng. Quản ngục suy nghĩ đến mất ngủ chỉ vì một cái đẹp. Hắn vì cái đẹp
tròn trịa ấy mà sợ ông Huấn như sợ một đấng thiêng liêng mà “không dám
can đảm giáp mặt một người cách xa y nhiều quá”. Quả là nhiều thật, như
thiên đường và địa ngục, ánh sáng và bóng tối.
Đến lúc này ta không thể coi quản ngục là cái ác, là bóng tối nữa. Bây
giờ hắn biến thành một ánh sáng rồi. Cái thứ ánh sáng nơi quản ngục mới là
thứ ánh sáng khó thấy nhất và cũng đáng trân trọng nhất. Nó không sáng lòa
như mặt trời nhưng nó là sự phản chiếu lấp lánh của ánh sáng mặt trời trên
một dòng nước, dù dòng nước đó tù đọng dơ dáy đến đâu. Quản ngục đã
được cảm hóa bằng khí phách, bằng vẻ đẹp, bằng thiên lương tìm ẩn thống
nhất trong con người ông Huấn. Cái thiện đến với người này muộn màng
nhưng có ý nghĩa xiết bao.
Điều đáng chú ý là khi quản ngục thổ lộ nỗi niềm cùng thầy thơ lại thì
người này cũng rất cảm động và tận tình giúp đỡ. Như vậy, quản ngục không
phải là một người cá biệt chịu tác động của ông Huấn. Từ hai người này,
chúng ta thấy trong cuộc đời cái đẹp vẫn cần thiết biết bao. Ai cũng sẵn sàng
đón tiếp nó, vì tất cả đều là con người. Cái đẹp đã tồn tại sẵn và rất cần sự
đánh thức cái thiên lương bản tính tốt đẹp sẵn có ở mỗi người.
Một nét rất quan trọng trong vẻ đẹp Huấn Cao là lòng vị tha phục thiện.
Khi đã hiểu tấm lòng quản ngục (mà cũng nhờ vào sự truyền đạt ngập ngừng
rất thực của thầy thơ lại). Ông Huấn sẵn sàng chia sẻ nỗi niềm với hai người
bạn mới - hai phát hiện dáng quý của cuộc đời. Ông Huấn dám quên mình nổi
loạn cũng vì cái đẹp, một ngày còn được sống vì những cái đẹp vẫn còn là
một hạnh phúc của ông. Tác dụng tích cực của ông Huấn không chỉ khi hoạt
động ngoài đời mà phát huy ngay cả khi ngồi tù (không gian hẹp không ngăn
cản được), bằng chứng là có hai kẻ “biệt nhỡn liên tài”, phục thiện như những
người tốt đẹp nhất: Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang tô
đậm nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết
xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm
đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò thì run run
bưng chậu mực”.
Như vậy, cái không khí này có một vẻ gì đó rất thiêng liêng: không phải
là nhà tù (vì không có tù nhân và quản ngục) lại càng không phải xưởng vẽ (vì
còn có xiềng, gông) cũng không phải chỉ là chữ viết bình thường như người ta
viết một văn tự mà ở đây cả ba đều xuất hồn mình theo từng nét chữ, người
viết để dòng cảm xúc chảy trào ra còn người xem như uống lấy từng giọt. Họ
quên hết xung quanh; màn đêm, ngục tù, cái án tử hình khủng khiếp... để say
sưa sung sướng trong cái trần thế khoái lạc của sự giao cảm nghệ thuật:
cuộc sống đã cho xuất nghĩa đủ đầy của nó trong không gian, thời gian đặc
biệt.
Câu chuyện kết thúc trong âm vang những lời tâm sự nhắn gửi của
Huấn Cao. Trong không khí này, với bức lụa trắng tinh nguyên còn đó không
thể nào quản ngục quên được những lời tâm huyết kia. Từng lời của Huấn
còn đọng lại ở tất cả những gì, những ai ông đã đi qua, đã bắt gặp. Ông đang
đi trên con đường chính nghĩa, ông làm đẹp cuộc đời ở nơi này để ra đi đuổi
hết bóng tối ở nơi khác. Ông tạm biệt nơi này để bắt đầu một cuộc chiến đấu
mới vì con người và cho con người.
Nguyễn Tuân đã gửi vào Huấn Cao tâm tư của một thời Cái đẹp không
bao giờ chết, vẫn sống lại trong tác phẩm và đến với chúng ta như một người
bạn vĩnh cửu của con người.
PHAN NGỌC THANH
B. LUYỆN TẬP
1. Thành công của Nguyễn Tuân không chỉ xây dựng được hình tượng
nhân vật Huấn Cao độc đáo mà cả quản ngục cũng rất đẹp.
Anh (chị) hãy làm sáng tò ý kiến trên.
2. Hãy chỉ ra đặc sắc nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong việc tạo không
khí truyện, kết cấu, miêu tả tâm lí, sử dụng ngôn ngữ điêu luyện trong “Chữ
người tử tù”.
3. Hình ảnh tấm lụa ở cuối truyện?
4. Những câu nói của Huấn Cao ở trong thiên truyện đã thể hiện khá rõ
tính cách ngỡ như đối lập nhưng rất thống nhất của con người đầy nhân cách
và bản lĩnh.
Anh (chị) hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
5. Nguyễn Tuân thường được mệnh danh là cây độc huyền cầm trong
văn học Việt Nam.
Anh (chị) hãy phân tích một khía cạnh về việc sử dụng ngôn ngữ văn
học của ông trong “Chữ người tử tù” để làm sáng tỏ điều đó.
6. Bình luận lời khuyên của Huấn Cao khi cho chữ viên quản ngục: “Ở
đây lẫn lộn (...) cái đời lương thiện đi. Từ đó nêu lên ý nghĩa hành động cho
chữ của Huấn Cao.
7. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân có hai nhân vật
đặc sắc là Huấn Cao và viên quản ngục.
Nếu cần chọn một trong hai nhân vật để làm rõ sự sáng tạo độc đáo
của tác giả, anh (chị) sẽ chọn nhân vật nào? Hãy cho biết tại sao lại lựa chọn
như vậy?
8. Nguyễn Tuân kết thúc truyện “Chữ người tử tù” bằng hai cảnh sau:
“Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà
dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “kẻ mê muội này xin bái
lĩnh”
Anh (chị) hãy giải thích cảnh kết thúc kì lạ đó bằng cách:
a) Nêu các tình tiết chính của cốt truyện dẫn đến tình tiết kết thúc
b) Trình bày những nét chủ yếu trong nhân cách hai nhân vật người tù
và quản ngục để thấy cái kết thúc kì lạ nhưng có thể hiểu được.
THẠCH LAM
A. BÀI VĂN
Nhận xét về đặc điểm truyện ngắn của Thạch Lam, nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng:
“Nhiều truyện ngắn của Thạch Lam không có chuyện mà man mác như một bài thơ (...) đem đến cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm lành mát dịu”.
Anh (chị) hãy chứng minh ý kiến trên.
BÀI LÀM
Trong vườn hoa văn học Việt Nam xuất hiện nhiều bông hoa tươi đẹp.
Chen giữa những đóa hoa rực rỡ muôn hồng ngàn tía có một loài hoa thanh
khiết sắc hương hoa mộc. Đọc văn Thạch Lam, người ta nhận thấy mùi
hương hoa mộc tha thiết, dịu dàng đưa hồn người đắm chìm trong những
cảm xúc mênh mông, chan chứa tình thương. Đúng như lời nhận định của
nhà văn Nguyễn Tuân: “Nhiều truyện ngắn Thạch Lam không có truyện mà
man mác như một bài thơ, (...), đem đến cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm,
thơm lành và mát dịu”.
Truyện thường phải có xung đột, có kịch tính, vậy mà truyện ngắn của
Thạch Lam lại “như một bài thơ”. Thơ là tiếng nói của tâm hồn, của cảm xúc
được chắt lọc và thường được biểu hiện bằng những vần điệu êm ái, nhẹ
nhàng. Truyện của Thạch Lam cũng nhẹ nhàng, man mác như một bài thơ.
Ông luôn hướng về người nghèo, cảm thông với nỗi đau của họ, nhưng ông
không tập trung làm nổi bật mâu thuẫn giai cấp mà ông lặng lẽ ghi lại những
niềm vui nhỏ bé hiếm hoi trong cuộc đời buồn thảm của họ một cách trân
trọng, cảm thông.
Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, nhà văn thể hiện niềm thương xót đối
với những người dân lao động nghèo khổ, đặc biệt là hai chị em Liên và An.
Ông không nêu rõ tại sao chị em Liên bị đẩy vào cảnh khốn khó, không nêu lí
do tại sao những đứa trẻ phải đi nhặt rác bên đường... Nhưng đọc văn ông, ta
thấy trào dâng một niềm xót xa vô hạn đối với những con người nơi phố chợ
tù túng, nghèo khổ. Chị em Liên đón nhận và ngắm nhìn thiên nhiên trong
buổi chiều tà nơi phố huyện bằng đôi mắt ngây thơ và hết sức tinh tế. Giọng
văn nhẹ nhàng của Thạch Lam hướng người đọc nhập vào niềm vui của trẻ
thơ. Mảng tối và mảng sáng trong truyện cũng thật kì lạ. Mảng sáng nhỏ nhoi
của những con đom đóm, của những ngôi sao của những ngọn đèn le lói bên
cạnh bóng tối mênh mông càng làm cho phố huyện thêm buồn tẻ. Quen dần
với nỗi buồn vắng lặng, trống trải nơi đây, chị em Liên không có gì vui hơn là
thức đợi tàu. Tuy buồn ngủ ríu cả mắt, nhưng hai chị em vẫn gắng gượng
thức. Chi tiết Liên quạt cho em ngủ trong lúc thức đợi tàu qua gây xúc động
cho người đọc về tình cảm gắn bó ruột thịt. Hình ảnh con tàu với tiếng còi rít
lên gợi âm thanh ồn ào. Đoàn tàu rầm rộ, các toa tàu sáng trưng lố nhố người
là một thế giới mới mẻ hấp dẫn đối với chị em Liên, đối với cuộc sống buồn tẻ
nơi phố huyện. Bằng giọng văn nhẹ nhàng, mượt mà giàu chất thơ, Thạch
Lam đã khắc họa khát vọng, ước mơ chân chính của trẻ em Việt Nam được
quyền sống hạnh phúc như ước mơ của chị em Liên, thể hiện trong việc chờ
đợi con tàu.
Vẻ đẹp thanh khiết trong truyện Dưới bóng hoàng lan gợi lên cho người
đọc cảm xúc nhẹ nhàng, thanh thản. Lời văn êm ả như những câu thơ đưa ta
về nơi miền quê của nhân vật Thanh. Khung cảnh quê nhà tĩnh lặng gợi cho
chàng tình cảm thân thương gắn bó. Nơi đây, chẳng có những người thân
như người bà đã săn sóc chàng từ nhỏ và cô gái hàng xóm dịu dàng, ngoan
ngoãn. Đứng bên cạnh bà, lắng nghe những lời ân cần của bà, Thanh thấy
như mình còn nhỏ bé, như thuở ấu thơ. Sống lại với những cảm xúc ấm áp,
Thanh càng cảm thấy yêu thương bà hơn, gắn bó nhiều hơn với quê hương
giàu kỉ niệm. Chàng vẫn bắt gặp những nhân vật quen thuộc nơi quê nhà:
giàn thiên lí, cây hoàng lan, căn nhà, mảnh vườn và cả con mèo già nữa.
Tình cảm giữa Thanh và Nga cũng rất trong sáng, thanh cao. Điều đó người
đọc có thể nhận thấy qua việc tác giả mô tả khá kĩ, cử chi ân cần của chàng
khi mời Nga cùng ăn cơm và nụ cười vui tươi của Nga khi nhìn thấy chàng ăn
ngon miệng. Họ cùng ra vườn hái hoa, cùng nhắc lại những kỉ niệm ấu thơ.
Mùi hoàng lan thoang thoảng bay trong gió ngát; khi Nga trở về, Thanh cảm
thấy “có cái gì đó dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây khiến chàng vương phải”. Chi
tiết này khiến ta gợi nhớ đến câu thơ của Xuân Diệu:
Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ đứt động vào sẽ tiêu.
Trong đôi mắt của người hạnh phúc, sung sướng; xung quanh họ như
có sợi tơ mềm mại chăng, sợi tơ đó dịu ngọt như tình cảm dạt dào trong họ.
Họ trân trọng và nâng niu tình cảm trong sáng ấy không muốn nó đứt ra và
biến đi. Chất thơ thấm đượm trong từng lời văn của Thạch Lam. Đọc văn ông,
ta thấy hiện rõ những tình cảm giữa con người với nhau và con người với quê
hương, như cảm xúc nhẹ nhõm khi ta bắt gặp mảnh trời xanh tan tác trong
lòng bể nước, một nhánh lan rơi, một cử chỉ âu yếm, ân cần của bà đối với
cháu, của người thân đối với người thân.
Đọc văn Thạch Lam, ta còn cảm nhận được vẻ đẹp của tâm hồn và vẻ
đẹp của thiên nhiên giàu chất thơ. Ta như đắm chìm vào những suy tư, cùng
cảm thông với nỗi đau của những người bất hạnh. Ta muôn chia sẻ niềm vui
với chị em Liên đợi tàu, và ta xót xa khi phải bắt gặp cảnh tội nghiệp của
những đứa bé nghèo bới rác bên đường. Trong Gió lạnh đầu mùa hành động
cho áo của chị em Sơn cũng gợi cho ta nhiều suy nghĩ và cảm phục. Những
đứa trẻ cũng giàu xúc cảm, hết lòng vì bạn. Tình cảm ấm áp dần xóa tan đi
cái lạnh đầu mùa giá buốt của mùa đông.
Cái đẹp giàu chất thơ trong Dưới bóng hoàng lan, với mảnh trời xanh
quen thuộc, giàn thiên lí pha xanh lên tà áo của. Nga, hương thơm ngan ngát
của cây hoàng lan như gợi trong ta nhiều kỉ niệm êm mát, ngọt ngào đến lịm
người khi trở về vườn quê xưa.
Vẻ đẹp bí ẩn của vũ trụ với những chòm sao lấp lánh xen ánh sáng lập
lòe của những con đom đóm qua ánh mắt trẻ thơ trong lời văn tinh tế của
Thạch Lam dường như khiến tâm hồn người đọc thêm tinh tế và phong phú.
Thạch Lam là cây bút đầu tiên có ý thức khai thác chất thơ trong đời
sống bình dị thường nhật. Nhà văn thường đi sâu vào khai thác nội tâm, thế
giới cảm giác trong sáng tác thường trong lành, giàu cảm xúc hướng người
đọc gắn liền với cái chân, thiện, mĩ. Văn của ông nhẹ nhàng như một bài thơ
không có kịch tính xung đột, dễ đi vào lòng người một cách nhẹ nhõm, thấm
thìa.
PHẠM THANH THÚY
HAI ĐỨA TRẺ
THẠCH LAM
A. BÀI VĂN
Cảm nhận của anh (chị) sau khi đọc truyện “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
BÀI LÀM 1
Không hiểu sao, cứ mỗi lần đọc xong truyện ngắn Hai đứa trẻ của
Thạch Lam, gấp trang sách lại rồi, dường như tôi vẫn âm vang tiếng trống thu
không, cái tiếng trống phát ra “trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một
vang ra để gọi buổi chiều”. Tiếng trống ấy vốn là thứ âm thanh bình thản để
báo giờ khắc. Nhưng trong câu văn Thạch Lam nó không còn dửng dưng,
bình thản nữa. Trong buổi chiều quê “êm ả như ru”, trong khung cảnh
“phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đảm mây ánh hồng như hòn
than sắp tàn” thì tiếng trống vang lên tha thiết như một tiếng gọi, thức dậy ở
cảnh vật, ở lòng người cảm giác bâng khuâng. Và trong buổi chiều quê tĩnh
lặng ấy nó như vang xa hơn, lay động lòng người nhiều hơn. Nguyễn Tuân có
nói rằng, với ông khó nhất khi viết truyện là tạo được một không khí nào đó.
Khi tạo được rồi thì mạch truyện cứ thế mà tuôn chảy. Thạch Lam, với tiếng
trống thu không thể bắt đầu câu chuyện về những con người bé nhỏ, đã tạo
được một không khí riêng, một mạch nhịp riêng cho thiên truyện của mình.
Trong buổi chiều quê mơ hồ và man mác ấy, mọi thứ hiện lên thật lặng
lẽ. Âm thanh dường như cố nhỏ lại, màu sắc nhòe đi, hoạt động của con
người cũng thật khẽ khàng. Thạch Lam đã lắng nghe được nhịp cuộc đời
trong sự tĩnh lặng ấy. Ông dường như nghe được cả tiếng rì rào của đất đai,
hơi thở của cây cỏ và nỗi bâng khuâng của lòng người mà tiếng trống kia vừa
thức dậy. Ông cảm nhận được từ “tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng theo gió
nhẹ đưa vào” cho đến tiếng “muỗi đã bắt đầu vo ve”:.. Nhữung âm thanh nhẹ
và mỏng như thoảng trong gió ấy tạo nên cảm giác yên tĩnh của chiều quê và
sự tế vi của cảm xúc. Ông nhìn thấy cảnh vật cũng nhòe đi theo nỗi bâng
khuâng: “Dãy tre làng trước mặt đã đen lại”; “cửa hàng hơi tối”, chợ “đã vãn
từ lâu”, “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”... Trong cái không khí lặng lẽ
man mác ấy, nhân vật chính của truyện — hai chị em Liên - xuất hiện cùng
với nỗi bâng khuâng mơ hồ mà chỉ có trái tim giàu cảm thông và nhạy cảm
của Thạch Lam mới cảm nhận được: “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc
sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê
thắm thìa vào tâm hồn ngây thơ của chị: Liên không hiểu sao nhưng thấy lòng
buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”.
Thạch Lam chọn cái “giờ khắc của ngày tàn” để miêu tả những con
người nhỏ bé nơi một phố huyện khuất lấp sau bóng thị thành. Cái thế giới
của họ dường như càng buồn bã hơn khi nó được bắt đầu vào giờ tàn của
ngày và kéo dài trong đêm tối mênh mông. Nhưng đấy cũng chưa hẳn là bóng
đêm đáng sợ như nhiều người đã lầm tưởng. Bóng đêm ấy đã hiện lên với
không ít chất thơ và sự dịu dàng: “Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm
như nhung và thoảng qua gió mát”. Một đêm phố huyện “trẻ con tập hợp nhau
ở thềm hè, tiếng cười nói vui vẻ”. Một đêm phố huyện với “vòm trời với hàng
ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh"... Đây là một đêm rất riêng của vùng quê
mà chị em Liên cảm nhận được. “Một mùi âm ấm bốc lên, hơi nóng của ban
ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng
của đất của quê hương này”... Và khi mọi xáo động đi qua, đêm tối mênh
mông kia dường như che chở, bao bọc, cho ta cảm giác, bình yên: “Đêm tối
vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh
mang và yên lặng”... Có lẽ đấy là những dòng miêu tả hay nhất về đêm miền
quê rất đỗi bình dị, thân thiết mà ta có được trong văn chương. Phải nặng
lòng gắn bó với quê hương nhiều lắm mới cảm nhận một cách sâu sắc và tha
thiết đến vậy.
Trong bóng đêm lặng lẽ ấy dễ khiến lòng người nao nao. Thạch Lam đã
nao lòng trước những đứa trẻ đang nhặt nhạnh những thứ còn xót lại trên nền
chợ trống trơn. Ông đã nao lòng trước hình ảnh bóng tối ngập đầy dần đôi
mắt trẻ thơ. Bây giờ ông lại nao nao trước cảnh sinh hoạt và bóng dáng
những cuộc đời thầm lặng nơi phố huyện này. Trước cái thế giới âm thầm và
lặng lẽ của những con người bé nhỏ, nhà văn như muốn đưa lòng mình ra mà
cảm thông, mà chia sẻ và che chở cho họ, cho những cuộc đời lặng lẽ như
những cái bóng trong đêm. Đó là chị em Liên đêm đêm vẫn mơ về vầng sáng
nơi Hà Nội xa xôi. Đó là mẹ con chị Tí ngày ngày “mò cua bắt tép, tối bán
hàng nước, chả kiếm được bao nhiều, nhưng chiều nào cũng dọn hàng” như
chờ đợi một sự may mắn nào đó. Đó là “vợ chồng bác Xẩm góp chuyện bằng
mấy tiếng dàn bầu bật trong im lặng”. Rồi bác phở Siêu, bà cụ Thi một bà già
hơi điên điên... Từng ấy con người, từng ấy cuộc đời đã họp thành phố
huyện. “Chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng
cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Thạch Lam không chỉ miêu tả, mà
ông suy gẫm, tạo nên một “tiếng nói” rất riêng vọng lên từ những cuộc đời
khuất lấp và lầm lũi kia. Có một nhà phê bình văn học đã nói rằng văn học
không chỉ là sự đời, mà là “tiếng nói” của con người về cuộc đời. Vận vào văn
Thạch Lam thật đúng.
Thạch Lam nhìn thế giới của những con người bé nhỏ kia như đang
chìm dần vào bóng tối. Họ là những con người, đúng hơn là những cái bóng,
bé nhỏ trong cái bóng đêm mênh mông của kiếp người. Họ hiện ra trong bóng
tối lờ mờ của những ngọn đèn không đủ sáng. Đó là một thế giới đầy bóng tối
mà ánh sáng mới hiếm hoi làm sao! Trong cái thế giới bóng đêm ấy, ánh đèn
bác phở Siêu chỉ là “một chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối”. Ánh
đèn trong cửa hàng chị em Liên thì “thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên
nứa”. Đến những cánh cửa nhà ai hé mở thì cũng chỉ để lọt ra “một khe ánh
sáng”... Có lẽ chưa mấy ai miêu tả ánh sáng là chấm, là hột, là khe một cách
riết róng như Thạch Lam. Hình như để đối lập lại, ông miêu tả bóng tối thật
tràn trề: “Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về
nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Bóng tối dày đặc đến độ
dường như cản cả âm thanh lại: “Trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một
tiếng ngắn khô khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối”.
Đến tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi hơi điên cũng “nhỏ dần đi” trong
bóng tối. Ngoài sân ga “cũng im lặng, tối đen như ngoài phố” và “đêm ở thành
phố tịnh mịch và đầy bóng tối”.
Cái ánh sáng rực rỡ của một “Hà Nội nhiều đèn quá” đối với chị em
Liên chỉ còn trong kỉ niệm của thời gian đã qua mà bây giờ trở thành nỗi khát
khao. Cái ánh sáng của “vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh” lại
quá xa xôi, thuộc về “vũ trụ thăm thẳm bao la”, “đầy bí mật và xa lạ”, “làm mỏi
trí nghĩ”... Thành ra, những con người như chị em Liên lại quay về quầng
sáng nơi mặt đất, “quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động trên
chõng hàng của chị Tí”. Đây là quầng sáng cứ trở đi trở lại trong truyện, trở đi
trở lại trong tâm trí Liên như một thứ “ám ảnh” về cái -thực tại mà cô đang có.
Cái thực tại mà khi “những cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm hồn”, khi
chập chờn trong giấc ngủ Liên nhận ra “thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa
xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.
Tác giả xa xót cho những cuộc đời bé nhỏ như những “chiếc đèn con”,
“chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”. Tất cả tình thương của ông tụ hội lại nơi
quầng sáng bé nhỏ này đây khiến cho ông đã thông cảm được với họ, lắng
nghe được khát vọng của họ.
Trong thăm thẳm của bóng đêm âm u, ông vẫn nhìn thấy ở họ lấp lánh
mơ ước. Mơ ước về một cái gì tươi sáng hơn. Và hình ảnh một đoàn tàu
mang một thứ ánh sáng khác đi qua nơi phố huyện đã trở thành nỗi khát khao
của những người như chị em Liên. Thế là hình ảnh hai đứa trẻ cứ đêm đêm
cố thức đợi tàu trở thành nỗi ám ảnh không thể quên của người đọc. Hai chị
em cố đợi chuyến tàu đêm sẽ dừng lại nơi phố huyện mấy phút không nhằm
để bán được hàng, thực hiện cuộc mưu sinh hàng ngày, mà chỉ vì để “được
nhìn chuyến tàu”. Một chuyến tàu mang một thế giới khác đến, một chuyến
tàu từ Hà Nội về. Cho nên dù “chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi,
thưa vắng người và hình như kém sang hơn” vẫn là nỗi thổn thức của chị em
Liên. Bởi “họ ở Hà Nội về, Hà Nội xa xăm. Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên
náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác
hẳn, đối với Liên, khác hẳn các vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh sáng
lửa của bác Siêu”. Mà nào đâu chỉ chị em Liên. Cả phố huyện tĩnh lặng bỗng
“náo động” lên vì chuyến tàu. Hình như ai cũng đợi chuyến tàu, “sự hoạt động
cuối cùng của đêm khuya”, và hình như còn chờ đợi cái gì khác nữa. Hình
ảnh đoàn tàu gợi cho ta hình ảnh “cánh buồm đỏ thắm” của Grin. Hai hình
ảnh khác nhau mà niềm hy vọng, nỗi khát khao gần gũi nhau biết dường nào.
Cho nên chuyến tàu đã đi qua mà ánh mắt của chị em Liên vẫn bị hút theo
“cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất
sau rặng tre”... Ánh mắt trẻ thơ khát khao hút theo bóng dáng con tàu khiến
người đọc nao lòng.
Con tàu đã đi qua. Phố huyện trở lại sự tĩnh lặng vốn có. Cô bé Liên
cũng đã “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh” mà không hiểu sao dường như ta vẫn
nghe “tiếng còi xe lửa ở đâu vẳng lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn
gió xa xôi”. Cái âm thanh mơ hồ ấy âm vang trong lòng chị em Liên. Trong
lòng mỗi người dân nơi phố huyện và trong lòng mỗi chúng ta. Nó không chỉ
là âm vang của âm thanh mà là âm vang của khát vọng. Nơi phố huyện xưa
của Thạch Lam, chị em Liên và những bóng người thầm lặng đợi chờ tiếng
trống thu không man mác, tiếng còi tàu âm u và thăm thẳm trong đêm. Họ
chờ đợi và hy vọng một cái gì đó sẽ đến, như mỗi chúng ta đã từng bao nhiêu
lần hy vọng, bao nhiêu lần chờ đợi trong đời. Ai chẳng chờ đợi, hy vọng
chuyến tàu của đời mình. Có lẽ vì vậy mà đọc lại Hai đưa trẻ của Thạch Lam,
ta thấy dư vang của nỗi lòng ông vẫn gần gũi với chúng ta biết dường nào...
LÊ TIẾN DŨNG
BÀI LÀM 2
Nếu để ý kỹ thấy có một điều rất lạ: Trong các văn phẩm Thạch Lam,
bóng tối hiện diện tràn lan với tất cả các sắc độ đậm nhạt khác nhau của nó.
Hãy chưa kể đến Hai đứa trẻ, ở rất nhiều câu chuyện, và có thể nói là hầu
hết, bóng tối lại cứ có mặt, cứ lại thấy các nhân vật âm thầm trong bóng tối
cả. Tối ba mươi. Trong bóng tối buổi chiều, toàn bóng tối đã hắn rồi! Ở những
truyện khác, bằng một cách hết sức tự nhiên, các nhân vật của Thạch Lam
thể nào cũng lại có lúc ăn nói, nghĩ ngợi, đi về trong bóng tối (Người lính cũ,
Đói, Người đầm, Tiếng chim kêu, Cô hàng xén.,.); hoặc trong bóng tối ở một
sắc độ nhẹ hơn là những bóng rợp (Dưới bóng hoàng lan), bóng trăng (Nhà
mẹ Lê), bóng đèn (Người bạn trẻ) v.v... Nếu nhìn sang các nhà văn khác cùng
thời, đương nhiên nhiều khi họ cũng dùng khung cảnh đêm tối, nhưng rõ ràng
là không nhiều, Vả lại đêm tối của họ chỉ thuần là việc tuân theo thời gian tự
nhiên, chảy trôi tuần tự hết ngày sang đêm, là chuyện thường tình, không
hàm một nghĩa gì đặc biệt. Ví như Nam Cao chẳng hạn, ngoài chuyện trăng
sáng, Nửa đêm — thời gian không gian đêm chỉ có ý nghĩa vật lý - còn lại hầu
hết các truyện các, câu chuyện cứ xảy ra ngang nhiên giữa thanh thiên bạch
nhật, các nhân vật cứ cọ sát, sôi sục, căng thẳng, nhức nhối, quyết liệt. Vậy
thì bóng tối trong văn Thạch Lam hẳn là có duyên cớ và mang một ý nghĩa gì
đặc biệt...
Khung cảnh của Hai đứa trẻ là một ga xép trong một đêm trôi đầy bóng
tối mênh mông, quạnh quẽ mà khởi đầu là tiếng trống thu không báo một
ngày tàn, kết thúc là vào lúc rất khuya “đêm trong phố tịch mịch và đầy bóng
tối”. Trong cái đêm trôi ấy, các nhân vật hiện ra như những vụn đời bé nhỏ,
âm thầm, yên lặng nhiều hơn là cử động, nếu có cử động thì cũng khẽ khàng,
se sẽ, chầm chậm, “từ từ” (hai chị em Liên những cử chỉ “gượng nhẹ”, “cúi
nhìn”, “lặng ngước mắt lên”, “khẽ quạt”, “gượng nhẹ ngồi”...); và nghĩ nhiều
hơn nói, nếu có nói cũng nhỏ nhẹ, “chậm rãi”, “bâng quơ”, “vẩn vơ”, nói để
cho có chuyện, ơ hờ, chứ cũng chẳng cần phải nói. Các nhân vật được lược
giản tối da, được thu gọn lại hết sức chỉ còn tựa hồ như những bóng thầm
trong một bóng đêm rộng lớn vô cùng. Không chỉ có con người, mà tất cả đồ
vật cũng hiện lên cỏn con, bé mọn: những chiếc đèn con, cái chông nan con,
bếp lửa con, con đom đóm, chấm lửa đi trong đêm và trên cao là hàng ngàn
vì sao li ti xa hút. Khung cảnh xung quanh (thời gian, không gian, tiếng động)
cũng lại chìm dần, rỗng ra, êm đềm lặng trôi, xa vắng: trống thu không “từng
tiếng vang ra”, “chiều êm ả như ru”, “bóng tối ngập đầu”, “đêm mùa hạ êm
như nhung và thoảng qua gió mát”, “đồng ruộng mênh mang yên lặng”, “chỉ
còn đêm khuya, tiếng cầm canh và chó cắn”, “gió đã thoáng lạnh”, “đêm trong
phố tịch mịch và đầy bóng tối”... Trong cái thế giới lặng thầm và có nguy cơ
chìm khuất ấy liệu có gì khuất lên, níu giữ được không? Một bà cụ “hơi điên”
đột nhiên xuất hiện, vang lên tiếng cười “giòn giã”, “khanh khách” trong một
chốc lát, rồi lại thản nhiên “đi dần vào bóng tối”, không để lại dấu vết gì. Lại
nữa tiếng rít của đoàn tàu “rầm rộ đi tới” rồi “vụt qua”, và ngay lập tức “xa xa
mãi rồi khuất sau rặng tre”. Đây là tiếng vang của sự sống cuối cùng trong
đêm còn xót lại để rồi lịm hẳn. Nó là sự bấm nút quan trọng khiến cho nhân
vật ngồi nhớ, chạnh lòng, chạnh nghĩ và mơ tưởng. Như thể nốt nhấn trong
âm hưởng đêm trôi, hai tiếng động - một của người, một của con tàu, đã làm
cho bóng đêm tới chỗ ngự trị hoàn toàn, chiếm lĩnh hoàn toàn. Các nhân vật
lọt thỏm vào đêm mênh mông, hiu quạnh, tựa như viên sỏi rơi xuống mặt hồ
tịch mịch, không một tiếng vang, chỉ còn lại vài vòng sóng đủ để nhận biết là
còn tồn tại. Liên, An, chị Tí, bác Siêu, bố con bác Xẩm, cứ thế, như những
bóng thầm hòa lẫn vào bóng tối, lặn chìm, khuất dạng vào bóng tối, thuận
theo bóng tối mà mất hút. Nhờ thế câu chuyện phả vào ta một niềm thương
cảm mênh mông, một nỗi bâng khuâng dìu dặt, một nỗi lo lắng mơ hồ... Hết
thảy cứ miên man, quyện lấy, ảm lấy tâm hồn độc giả.
Có phải không, trong đêm người ta được sống với mình, được sống là
mình nhiều nhất và sâu sắc nhất. Như một tập tính tâm linh ẩn dụ, mê hoặc,
Thạch Lam cứ để bóng tối tràn ra đầu ngòi bút. Tạng của ông không thích
những cái gì sáng trắng, chói gắt, sinh sự - sự sinh ồn ĩ.
Hẳn là trong một đêm khuya vắng lắm, cặp mắt u buồn nhiều bóng tối
của Thạch Lam cứ tư lự thả vào một khoảng không vô định, rồi bỗng ông run
rẩy với từng dòng của Hai đứa trẻ một mạch đến con chữ chót cùng. Bóng
của đời ông, của tâm hồn thanh tao và yếu đuối hợp vào bóng tối trong trang
viết đã sinh thành Hai đứa trẻ như một bài thơ ngần rung, đẹp, với nhiều
thương cảm, bâng khuâng...
BÀI LÀM 3
Có một thời, lối “tư duy từ điển” đã làm bó tay không ít người nghiên
cứu văn học Việt Nam, đẩy họ đến tình trạng lay hoay trong “cái rọ” của khái
niệm. Dựa vào khái niệm, người ta khảo cứu văn chương như một thực thể bị
chia cắt một cách siêu hình thành những dòng, những khuynh hướng khác
nhau. Khi đem những tiêu chỉ của chủ nghĩa hiện thực phê phán qui chiếu vào
văn học 1930 - 1945 sẽ dễ thấy nổi lên tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nguyễn
Công Hoan... còn nhiều sáng tác của Thanh Tịnh, Thạch Lam... Như bị lùa
vào cái dòng lãng mạn (mà lãng mạn trong cái dân tộc lầm than thì không thể
tha thứ!). Tuy nhiên, lịch sử bao giờ cũng mang tính khách quan của nó, “tư
duy mới” đã gạt bỏ những hướng đi duy lí chủ quan, để tuy chậm, song chưa
muộn, mấy năm gần đây Thạch Lam và một số “danh bút” của một thời văn
chương được khẳng định trở lại.
Đọc Thạch Lam, càng thấy ông thật sự là cây bút tài hoa, một nhà văn
mà tri thức phương Tây rất phong phú cũng không lấn át được một tâm hồn
“thuần Việt”. Sáng tác của ông trong cái vẻ ngoài bình dị là một tấm lòng mẫn
cảm, một nhân cách văn hóa, một người bạn của lớp người nghèo khổ ở thời
đại ông. Những truyện ngắn “Nhà mẹ Lê”, “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam chỉ
khác với “Tắt đen”, “Bước đường cùng”... ở điển hình và tiếng nói riêng của
tác giả và cái chung duy nhất giữa họ là một tấm tình hòa cảm, bao dung.
Khi nghiên cứu khu vực lưu trú của người Việt, chúng ta thường chú ý
tới hai khu vực cơ bản: thành thị và nông thôn, ít lưu tâm tới khu vực cư trú
tồn tại ở “ranh giới mờ" giữa lối sống đô thị và làng xã là cái phố huyện. Phố
huyện - có thế được coi như trạm trung chuyển của sự giao lưu giữa thành thị
và nông thôn. Dấu ấn của hai nhịp điệu sống, hai lối sống cơ bần của xã hội
để lại khó rõ nét trong sinh hoạt cộng đồng phố huyện. Ở thời của Thạch Lam
(thậm chí tới ngày nay) văn minh đô thị chưa là tiêu biểu cho xã hội, làng xã
và các phố huyện mới thật sự là bộ mặt của xã hội. Dạo quanh bất kỳ một
phố huyện nào cũng có thể xác định những nét cơ bản về phương thức sinh
tồn, đặc điểm kinh tế... của một cơ cấu địa phương. Rộng hơn, có thể hiểu
được những nét lớn của xã hội, vì lẽ, mấy nghìn năm nay “Văn hóa lúa nước”
tạo dựng nên một xã hội Việt nam truyền thống; bên những ưu điểm còn buộc
nó phải vận hành trong một vòng quay tù túng, ngưng trệ. Đã từ lâu, nhiều
người nhận ra, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” dường như đã nhận chân theo kiểu
văn chương. Nên không ngẫu nhiên, Thạch Lam lại chọn một phố huyện để
nhận chân sự mòn mỏi đơn điệu của lớp người đông nhứt trong xã hội lúc đó
là những người nghèo.
“Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một
vang ra để gọi buổi chiều về. Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những
đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn trong lò. Dãy tre làng trước mặt đen
lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.
Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu
ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”... Phố huyện lúc chiều tàn thật
thanh bình, yên ả; cũng là lúc cư dân của nó bước vào một đêm mới, lặp lại
những gì đã diễn ra như bao nhiêu đêm trước: Chị em cô hàng xén lại ngồi
trước cửa ngóng trời, ngóng đất, ngóng người; mẹ con chị hàng nước lại dọn
cái bàn nước; bác hàng phở nhóm lại bếp lửa; gia đình bác Xẩm lại chờ
khách đến nghe...”. Chừng ấy con người trong bóng tối mong đại một cải gì
tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”... Thật ra, nhịp điệu
sống không nhất thiết chỉ có những ngày vui vẻ. Xã hội dù tươi đẹp vẫn có
những ngày hè mưa buồn, những ngày thu heo hắt, những ngày đông ảm
đạm, nhưng đó là sự bất thường của tự nhiên. Còn cái đêm u tịch được
Thạch Lam dựng lại là cái đêm buồn mang số nhiều: “Từ khi có cái cửa hàng
này, đêm nào Liên và em cũng ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với
cái tối của quãng phố xung quanh”, “Chị Tí chả kiếm được bao nhiêu, nhưng
chiều nào chị cũng dọn từ chập tôi cho đến đêm”... Dạng huống số nhiều của
hành động chỉ ra sự lặp lại nhàm chán của sinh hoạt phô huyện, nhàm chán
nhưng vẫn lặp lại vì miếng cơm, manh áo: “Ôi chao, sớm muộn gì thì có ăn
thua gì”. “Cũg như mọi đêm Liên không còn trông mong còn ai đến mua nữa”,
một cách kiếm sống hú họa, vật vờ. Tác giả đồng điệu với Liên và những
người xung quanh cô bằng cách dựng lại mọi chi tiết từ không gian rộng đến
sự vật nhỏ nhoi đang chìm trong bóng đêm: “Đường phố và các con ngõ rộng
dần dần chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con
đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn”, “đêm tối vẫn bao
bọc xung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và
yên lặng”. Tối đến mức cả phố huyện đều “thu nhỏ lại”. Vài ánh sáng lọi qua
phên nứa, ngọn đèn con của chị hàng nước, cái bếp lửa cửa bác hàng phở
trở nên lắc lay thảm hại trước bóng đêm, đến ngay cả âm thanh cũng chìm
nghỉm trong đó: “Tiếng dàn bầu bần bật trong yên lặng". “Trống cầm canh ở
phố huyện đánh tung lên một tiếng ngắn khô khan, không vang động ra xa, rồi
chim ngay vào bóng tối”, “tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ rồi, và mất dần
trong bóng tối”. Bóng tối nhấn chìm cả âm thanh thì quả là rất gợi, nhưng rất
thực, thực bởi diễn biến tâm trạng của nhân vật: “đêm tối với Liên quen lắm”,
“tâm hồn Lièn yên tình hẳn, có những cảm giác ma hồ lihônq hiểu”, “Liên thấy
mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết”. Trạng thái bàng bạc của tâm
hồn Liên là trạng thái của cả nhóm người quanh Liên qua những mẩu đối
thoại rời rạc, vẩn vơ, những câu hỏi đã quen và những câu trả lời cũng đã
quen. Nghĩa là mọi người cùng mòn mỏi, cùng u ám, cùng vô định.
Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng đêm, giữa âm thanh và tĩnh
lặng đem lại cảm giác nặng nề và chị em Liên “buồn ngủ ríu cả mắt”, “vẫn cố
gượng để thức khuya chút nữa”, “vì muốn được nhìn chuyến tàu”. Chuyến tàu
như ngôi sao băng đêm nào cũng vụt qua thinh không phố vắng vào lúc chín
giờ. Chuyến tàu đến rồi đi, nó thuộc về một thế giới khác. Nó lướt qua phố
huyện đang chìm trong đêm đen. Nó tỏa sáng. Nó vang động. Nó xa xăm. Nó
là giấc mơ huyền ảo. Nó như không có thật. Chuyến tàu vụt qua chỉ đủ sức
an ủi những con người lam lũ đang an phận nghèo. Tuy thế nó vẫn là một hy
vọng. Chuyến tàu chấm dứt một ngày sinh sống của phố huyện về một thời
gian và làm tăng nỗi đợi chờ khắc khoải cho ngày hôm sau.
Thử đặt một giả định: Phố huyện không có chuyến tàu đi qua hàng
đêm, con người sẽ gửi gắm ước mơ khoáng hậu của họ vào đâu? Sẽ là khó
trả lời, vì chuyến tàu là sự tương phản cuối cùng, mang ý nghĩa nhất mà
Thạch Lam cần biểu đạt. Mọi hình ảnh không gian, thời gian sự vật, con
người trong trạng thái chờ đợi mòn mỏi suốt mấy trang giấy chỉ nhằm tới chi
tiết cuối cùng: lúc con tàu đi qua. Con tàu hi vọng đồng thời là “thuốc thử” đối
với xã hội và kiếp người. Là nhà văn tâm huyết với dân tộc, Thạch Lam nắm
bắt được sự ngưng trệ, tù túng của xã hội ông. Ông muốn ánh sáng văn minh
chiếu rọi lên đêm đen của dân tộc. Ông không hướng nhân vật của ông tới
hành động tự phát của anh Pha, tới sự nhẫn nhục có bản lĩnh của chị Dậu,
ông hướng họ tới văn hóa, để vượt thoát khỏi tình trạng ngột ngạt. Truyện
ngắn không có bóng dáng một xã trưởng, một thầy lý, một thầy đội nào...
nhưng vẫn làm người đọc liên tưởng tới nguyên nhân nỗi thống khổ của
những con người trong truyện.
Ở “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam không lựa chọn lối viết miêu tả sự vật,
không đứng ở vị trí người kể chuyện. Bằng các cảm giác, các tâm trạng, ông
đưa người đọc vào thế giới nội tâm của nhân vật, qua thế giới nội tâm người
đọc liên tưởng, tự hình dung về điều tác giả muốn đặt ra. Bút lực của ông thật
vững vàng khi phân tích cảm giác một cách nhẹ nhàng, tinh tế nhưng biểu
cảm và sâu sắc. Những câu văn đẹp, mang chất thơ giàu hình ảnh như của
Thạch Lam thật hiếm thấy trong văn chương. Không lẫn vào đâu được, cái
chợ huyện đã tan lúc chạng vạng: “Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị,
lá nhãn, bã mía. Một mủi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát
bụi, quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê
hương này”... Phải là người có khả năng quan sát đầy mĩ cảm mới có thể viết
được câu văn như: “Qua khe lá của cành hàng ngàn ngôi sao lấp lánh; một
con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vừng sáng nhỏ nhấp nháy rồi hoa bàng
rụng xuống vai. Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một”... Trong “Hai đứa
trẻ”, những câu văn đẹp mang một hiệu năng đa dạng: Vừa hấp dẫn đầy chất
thơ, vừa buồn man mác; vừa xót xa thương cảm, vừa thêm gắn bó với quê
hương.
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là khoảnh khắc của mọi khoảnh khắc, là một
đêm buồn bã giữa những đêm buồn bã, một đêm có “dấu chấm lửng” ở cả hai
đầu. Thạch Lam đã lựa chọn đúng cả không gian, thời gian, con người và địa
điểm rất chung và rất riêng. Phố huyện, nơi cả đời mong được tới một lần của
dân quê xưa có dáng dấp của làng xã, văn minh thành thị có ghé qua với
đường tàu hỏa và phố xá có đèn dây sáng xanh, có gánh phở đêm, có phu
gạo, phu xe... vẫn là nửa quê nửa tĩnh; Hà Nội vẫn là hình ảnh mơ hồ “không
rõ rệt cái gì, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh”. Có lẽ vì xem nhân vật của
mình bé nhỏ, đáng thương mà Thạch Lam dùng “Hai đứa trẻ” để chỉ hai chị
em Liên trong khi Liên đã là một cô gái.
Thạch Lam dằn vặt trước cuộc sống, ông dùng văn chương thể hiện
mối quan tâm với đồng loại. Thạch Lam day dứt vì nhịp điệu mòn mỏi của
cuộc sống đồng bào ông, ông muốn đi tìm một giải pháp. Giải pháp của ông
có thể không trùng khớp với yêu cầu của chúng ta hôm nay thì vẫn phải ghi
nhận ở ông một tấm tình hòa cảm, bao dung. Dù sao chăng nữa, Thạch Lam
vẫn là sản phẩm của thời đại ông, không thể đòi hỏi ở ông những gì ông chưa
có hoặc không thể có.
B. LUYỆN TẬP
1. Hãy phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ để làm sáng rõ nhận định sau
của Phan Huy Dũng. “Văn Thạch Lam (...) ít sự kiện, hành động nhưng đầy
ắp những bâng khuâng. Nó cho ta cơ hội hiểu thấu nghĩa lí sâu xa của cuộc
đời giản dị, qua sự chiêm nghiệm lặng lẽ.
2. Cảm nhận của anh (chị) về truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
3. Thể hiện tâm trạng đợi tàu của Liên và An, Thạch Lam đã miêu tả rất
chi tiết kĩ càng. Nhà văn muốn nói gì với người đọc qua chi tiết độc đáo này?
4. Một vài nét tiêu biểu của phong cách nghệ thuật Thạch Lam qua việc
anh (chị) phân tích hai tác phẩm “Gió lạnh đầu mùa” và “Hai đứa trẻ”.
5. Phân tích và bình luận hình tượng ánh sáng và bóng tối trong Hai
đứa trẻ của Thạch Lam.
6. Nhận xét về những câu đối thoại trong tác phẩm Hai đứa trẻ của
Thạch Lam.
7. Chất thơ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
8. Phân tích những nét tính cách của nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ
của Thạch Lam.
9. Sách Văn học 11 (1996) nhận định về truyện ngắn Thạch Lam: “Mỗi
truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương”, Hãy phân tích Hai đứa trẻ để
làm rõ nhận định đó.
10. Bức tranh phố huyện và tâm trạng của Liên qua Hai đứa trẻ của
Thạch Lam. Từ đó rút ra ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm.
Tìm những nét chung và riêng của Thạch Lam qua hai tác phẩm Hai
đứa trẻ và Dưới bóng hoàng lan.
SỐ ĐỎ
VŨ TRỌNG PHỤNG
A. BÀI VĂN
Phân tích tính cách nhân vật Xuân tóc đỏ trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.
BÀI LÀM
Có ai ngờ một cái tên Xuân bình thường kết hợp với hai chữ “tóc đỏ”
cũng bình thường lại trở thành tên gọi nổi tiếng của một kiểu người trong xã
hội, đưa đến sự bất tử cho một tác phẩm có thể làm vinh quang cho bất kì
nền, văn học nào: tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.
Thời thơ ấu, Xuân vốn là đứa trẻ mồ côi, không phải là ngoan ngoãn gì
cho lắm nhưng cũng chưa đến nỗi nào, hắn chỉ bị ông bác họ đuổi ra khỏi
nhà. Cuộc sống lang thang không nhà lấy vỉa hè làm giường, lấy me sấu làm
cơm, tuy có tiêm nhiễm cho hắn nhiều thói lưu manh, nhưng hắn chỉ là một
thứ nạn nhân của xã hội thực dân ngày đó. Hắn đọc trên loa những lời dối trá
quảng cáo cho các thứ thuốc đất thó cũng chỉ là để làm công kiếm ăn chứ
không có ý thức gì về những lời dối trá ấy. Hắn kiếm ăn bằng nghề nhặt banh
quần vợt cho những kẻ giàu sang, và ngây ngô đến nỗi khi bị các quan Tây
túm cổ đuổi ra, tống vào đồn cảnh sát, mà cũng chẳng rõ mình bị đuổi vì tội
gì. Rồi cả đến lần đầu “tiếp kiến” bà Phó Đoan, hắn cũng bị bà ta khinh như
một người đạo đức... thật.
Hắn hư hỏng nhưng dốt nát, vô học, chẳng có mưu mô thủ đoạn gì,
nếu có lưu manh thì cũng chỉ lưu manh một cách tự phát vô ý thức.
Nhưng rồi sự tình cờ đưa hắn hội nhập vào trào lưu Âu hóa của những
vợ chồng Văn Minh, bà Phó Đoan, Tuýp Phờ Nờ, những Tuyết, Hoàng Hôn,
Cố Hồng, ông Phán mọc sừng... cả những vua Xiêm, vua Nam, Phủ toàn
quyền; thế là Xuân Tóc Đỏ bắt đầu biến đổi. Hắn cứ tha hóa dần: Từ Xuân
Tóc Đỏ thành me xừ Xuân, đốc tờ Xuân, giáo sư Xuân, Xuân nhà Âu hóa...
cho đến cuối cùng thành “anh hùng cứu quốc” của cái xã hội Âu hóa lưu
manh ấy. Bắt đầu chỉ là một công cụ vô ý thức cho xã hội ấy lợi dụng. Xuân
tiến đến lợi dụng cái xã hội ấy như những công cụ tiến thân. Bắt đầu chỉ lắng
nghe một cách ngây ngô người ta giới thiệu mình là “nhà thẩm mĩ”, “nhà cải
cách”, Xuân tóc đỏ dần dần biết sử dụng những danh hiệu ấy để vụ lợi. Bắt
đầu: kính chào ngài... một người mọc sừng mà không hiểu tại sao phải làm
như thế, để sử dụng nó như một lợi khí kiếm chác.
Nếu đầu tiên Xuân Tóc Đỏ là, một tên lưu manh khờ khạo thì đến cuối
tác phẩm, Xuân đã là một tên lưu manh ranh mãnh, tinh quái. Hắn là một sản
phẩm của xã hội Âu hóa nhưng cũng lá một chủ đề của xã hội ấy. Hắn là nạn
nhân của một bọn bịp bợm lưu manh nhưng chính hắn, Xuân Tóc Đỏ, cũng
đã bịp trở lại chúng. hãy nghe hắn oang oang “hiểu dụ” công chúng sau khi
thua trận một cách vẻ vang: đâu chỉ có cái hùng hồn của tên giao thuốc nữa,
hắn đang khoác lác thật sự về mình đấy. vẫn vô học, vẫn dốt nát nhưng hắn
không ngô nghê nữa. Có thể hắn không hiểu hết mọi lời khoa trương mà hắn
nói, nhưng hắn hiểu hắn đang muốn gì và hắn sẽ đạt được điều gì.
Vậy Xuân Tóc Đỏ là ai? Một kẻ dốt nát, vô học, lưu manh, lừa đảo, đã
nhờ vào một xã hội lừa đảo để trở nên lừa đảo số một. Xuân, vì thế, trở thành
điển hình cho một xã hội, mội loại người, nhân vật điển hình số một của tác
phấm Số dỏ. Cái “số đỏ” của hắn là thế. Rơi vào guồng máy của Âu hóa,
không phải ai cũng có thể thành Xuân Tóc Đỏ. Nhưng Xuân Tóc Đỏ mà không
rơi vào xà hội ấy thì cũng không trở thành Xuân Tóc Đỏ. Phải có số đỏ nhanh,
phải có xã hội số đỏ, nhưng phải có hắn thì mới có Xuân Tóc Đỏ. Xuân Tóc
Đỏ mà là tri thức tiêu biểu, là “anh hùng cứu quốc”, thì xã hội ấy khỏi nói cũng
biết rồi.
Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích “Hạnh phúc một tang gia” trích tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng.
BÀI LÀM
Ta thật buồn cười với tiếng khóc “Hứt!... Hứt!... Hứt!” của ông Phán
mọc sừng. (Ấy cái tên cũng thật kì quái). Ông khóc bố ông ấy đấy. Nghe đau
xót nghê! Rồi bên cạnh đấy là cụ Hồng cũng “mếu máo” và “ngất đi”. Rõ ràng
là những đứa con có hiếu!
Vũ Trọng Phụng khép lại trang văn đoạn Hạnh phúc của một tang gia ở
những chi tiết ấy. Dư âm nức nở của những kiểu khóc còn đó, đọng mãi trong
lòng độc gia, để rồi khi giễu kẻ ngụy trang, giả tạo ta lại trề môi: “Hứt!... Hứt!...
Hứt!.”
Chương truyện được bắt đầu từ chỗ: “Ba hôm sau, ông cụ già chết
thật” mà suốt chương không khí cứ rộn rã tưng bừng. Nhân vật trong truyện
thì vuì sướng thật, còn ta “cười” thật đau cho đời cũng thật thấm thía. Nghệ
thuật trào phúng của chương truyện đã khiến cho ta bật lên cái cười hài hước
mà buốt lòng ấy.
Phải chăng ngẫu nhiên mà Vũ Trọng Phụng đặt tên chương là Hạnh
phúc của một tang gia. Cái “tít” này đã là một điều không bình thường. Ta tìm
ra ở đây cái nghịch lí của một bên là hạnh phúc một bên là tang gia. Đã “tang
gia” thì còn gì là “hạnh phúc”? Nhưng tác giả đã chỉ ra được rất nhiều cái
hạnh phúc và rất nhiều những kịch tính trào phúng khác.
Hạnh phúc một tang gia chỉ là một chương nhỏ của tác phẩm Số đỏ.
Dường như nhà văn đặt các nhân vật vốn dĩ đốn mạt ở các chương trên, vào
hoàn cảnh “tang gia” để cái bản chất lừa lọc, bịp bợm, và thất đức, bất hiếu
càng nổi cộm hơn, chân thật hơn. Ta hãy xem từng khuôn mặt đang nhăn
nhó và đau đớn như thế nào trước sự mất mát lớn lao kia.
Cụ cố Hồng ung dung hút thuốc phiện và lảm nhảm gắt: “Biết rồi khổ
lắm nói mãi!” đến 1872 lần. Một câu nói vô vị mà hễ động mồm là cụ tuôn ra.
Có thể thấy, nó đã được đi vào đời sống cũng hết sức sinh động như vốn cái
hài hước, mai mỉa của nó. Có lẽ cụ được nói nhiều lần cái câu nói ấy cũng là
một hạnh phúc. Vì có bao giờ cụ được nói nhiều như thế dâu. Ta còn thấy cụ
cố Hồng mơ tưởng. “Cụ cố Hồng nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái
lúc cụ được mặc đồ xô gai, lụ khụ vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên
hạ phải chỉ trỏ khen ngợi”. Đó chỉ là một màn kịch để lừa thiên hạ và để được
hưởng tiếng khen. Tình cảm phụ tử là hoàn toàn giả dối, lừa bịp trong cái xã
hội bát nháo ấy. Ông Phán mọc sừng lại có một niềm vui ở khía cạnh khác:
được chia thêm vài nghìn đồng. Ông còn đau xót vì bị cấm sừng, vì vợ ngoại
tình, mà mừng rơn vì thêm nặng hầu bao. Cái cười được bật lên từ sự đánh
tráo cái giả, cái thật. Sừng hươu vô tình lại có giá trị to đến thế. Ông Phán
mọc sừng, là một chân dung của kẻ không có tí ti ý thức về nhân cách. Ông ta
không biết nhục và là một con người vô liêm sĩ. Giữa cái đau thương vì tang
tóc ấy, ông ta lại thấy một niềm hãnh diện.
Cái bản chất ích kỉ, bon chen của từng nhân vật đã khiến ta cười giễu
cợt. Tiếng cười ấy, thấm sự đắng chát còn bởi sự biến chất trong mỗi con
người đã trở thành bản chất hằn sâu. Cụ già chết mà tất cả chẳng ai nhắc
đến cụ. Mọi người đều lo riêng cho họ. Ai ai cũng náo nức, sung sướng. Họ
rộn rã hồ hởi trước cái chết của một người thân. Cái chất trào phúng của tác
phẩm nói chung và ở chương này nói riêng được toát lên trong từng câu,
từng chữ, từng chân dung của mỗi một người, được toát lên nhờ sự pha trộn
trắng đen thật - giả. Ông Văn Minh chỉ phiền nỗi không biết đối xử với Xuân
Tóc Đỏ ra sao mà đã khiến ông có cái bộ mặt đúng một nhà có đám - lúc nào
cũng đăm đăm chiêu chiêu.
Nhà có đám được Vũ Trọng Phụhg tạo dựng như một cơ hội để trưng
bày mốt. Mốt mặc áo tang lễ, Mốt các ban bệ. Mốt các bộ lễ. Mốt kèn ta, kèn
tây v.v... và vân vân... Thành thử đám tang trở thành một dịch vụ, một dịp làm
quen, một dịp để phô trương, một dịp để chim chuột lẫn nhau.
Cái cười đau xót không chỉ được toát lên từ cái nghịch lí, cái mâu thuẫn
giữa “hạnh phúc” với “tang gia”, mà còn được toát lên từ những tình tiết bất
ngờ. Tác giả dùng hình thức trì hoãn của tình thế kịch. Nén chốt lại là để bung
ra được mạnh hơn... chưa phát tang được vì chuyện cô Tuyết. Phái trẻ lập
tức la ó. Cậu tú Tân điên người lên, bà Văn Minh sốt cả ruột. Ông Tuýp PN
rất bực mìmh. Nhưng khốn nỗi, người ta bực bội không phải vì thương một
ông già chết mà chưa được đem đi chôn. Người ta muốn chôn cho chóng cái
xác chết ấy để được hưởng hạnh phúc. Bởi sau đó, cái di chúc chia tài sản sẽ
thành hiện thực. Mỗi người sẽ thêm nặng hầu bao”. Và ngay trong đám ma
thôi, họ cũng sẽ được hạnh phúc. Kẻ hạnh phúc vì được trổ tài điện ảnh,
người hạnh phúc vì được lời khen của thiên hạ, người mừng vui vì đây là dịp
may hiếm có để lấy lại danh dự. Và chung quy lại, họ hạnh phúc vì được chôn
kẻ đã chết. Thật là bất nhân!
Vũ Trọng Phụng viết: “Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó,
gọi phường ken, thuê xe đám ma”. Nếu không có các từ “cáo phó”, “kèn”,
“đám ma”, có lẽ ta hiểu nhầm sang đám cưới mất. Mà có những từ ấy, cũng
không làm mất hết cái vui tươi, rộn rã như ngày hội. Giọng văn vẫn đều đều
tường thuật ra, đầy tính chất hài hước, mỉa mai.
Bộ mặt đám ma và bộ mặt riêng của từng người được nhà văn khắc
họa rõ nét hơn, phong phú hơn. Tính trào phúng còn được phô bày trên mọi
khuôn mặt trong cái xã hội trưởng giả, thượng lưu mà bất nhân ấy. Chưa nói
gì đến cái đám ma, ta hãy xem người dân ở đây ra sao đã. Trước một linh
hồn vừa siêu thoát, đáng lẽ họ phải ngậm ngùi, lặng lẽ mới phải. Nhưng ở
đây, họ chen chúc, tò mò để xem được cái đám ma này. Điều ấy cũng nói lên
cái kì quặc hài hước ở đây. Quanh lề đám ma, mọi thứ cũng trở nôn nhốn
nháo, nực cười đi thì phải, còn bản thân đám rước đang chủng chỉnh bò
chậm chạp kia, cũng chất chứa đầy những tấm hài kịch. Nếu nhắm mắt lại, ta
không chứng kiến bất cứ một hiện trạng đau lòng nào, thì tai ta cũng bị khua
lên bởi âm thanh “lốc cốc xoàng” của những kèn ta, kèn tây. Thứ nhạc đám
ma rầu rĩ thê thảm ở đây trở thành bản hòa tấu hỗn độn, góp thêm vào cái
không khí vui tươi, nhịp nhàng khi đưa đám. Mở mắt ra thì đầy rẫy những
tượng lạ. Quả là đông người. Người nối người âm thầm và lặng lẽ tiễn đưa
người xấu số, nhưng dường như chẳng có bất cứ ai nghĩ rằng mình đang
đưa ma. Với con mắt quan sát tinh tế, Vũ Trọng Phụng chỉ ra cả một thế giới
hài hước. Này đây những bạn thân cụ cố Hồng rất oai vệ với đủ các huân
chương, huy chương, đủ những bội tinh, lại cảm động trước cô Tuyết ăn mặt
nửa kín nửa hở. Hóa ra họ đi đưa ma chỉ là lí do xã giao, khi có dịp là con
người trần tục, dâm dục xuất hiện. Này đây, ở dưới những bộ mặt nghiêm
chỉnh vẫn thì thầm những tiếng của đời thường. Điều đáng tức cười là họ
hưởng niềm vui với bộ mặt buồn rầu. Họ đưa ra những lời bàn tán, trao đổi,
nhận xét rất xa lạ với nỗi đau thực tế. Phải chăng Vũ Trọng Phụng không phải
chỉ là đả kích mà là hài hước trước thói đời đen bạc. Đám ma trở thành đám
hội.
Ngòi bút của Vũ Trọng Phụng miêu tả đám đưa ma với bao nét hài
hước khác. Hình ảnh “lợn quay đi lọng” miêu tả sự phú quý rởm đời. Một đám
ma kết hợp cả Ta, Tàu, Tây, cổ xưa và hiện đại chứng tỏ những gia đình này
là những kẻ vô văn hóa, chạy theo thời thượng một cách ngu ngốc. Một nét
kịch của cảnh đưa ma là sự đóng góp của Xuân. Người ta còn phê bình lào
xào thái độ của Xuân thì bỗng Xuân xuất hiện với sự đóng góp của “Phật
giáo”, với sáu chiếc xe, hai vòng hoa. Chỉ một từ “món ấy” (giá không có món
ấy thì hiếu không được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi”). Một lần nữa,
tác giả vạch mâu thuẫn giữa cái danh và cái thực, cái bên trong và cái bên
ngoài. Đám ma thì to tát, tiếng khóc thì thảm thiết, nhưng rỗng tuếch lòng
người. Vũ Trọng Phụng không quên khi kổ lại và thêm vào những lời bình:
“Thật là đám ma to tát, có thể làm người chết nằm trong quan tài cũng phải
mỉm cười, nếu không gật gù cái đầu”. Đây là cách nói mỉa mai vì nếu người
chết biết thì cụ sẽ đau lòng lắm, vì không ai để ý đến cụ cả. Có người buồn,
có ngưởi vui, có người đăm chiêu có vẻ cảm động... nhưng tất cả đều chẳng
phải cho ông. Cái mặt buồn rầu đưa đám ấy chỉ là cái vỏ để che cho bản chất
thờ ơ, hờ hững, kệch cỡm, giả dối của mọi người.
Trong quá trình miêu tả, tác giả sử dụng toàn những từ chỉ sự nhốn
nháo, những cấu trúc ngôn từ nghịch lí, tương phản, pha trộn nhiều phong
cách Tây, Tàu, Ta có cả để thể hiện sự hỗn hợp cặn bã của nền văn hoá. Và
tính cách trào phúng hài hước không chỉ toát ra ở chân dung, hành động mà
tiềm ẩn trong cái giọng mỉa mai châm biếm của chính nhà văn nữa. Tác giả
viết: “Tuyết bèn mặc bộ ngây thơ để thiên hạ phải biết rằng mình chưa đánh
mất cả chữ trinh”. Cả chữ trinh! Chao ôi! Một khái niệm mới nực cười làm
sao. Chưa mất cả, nhưng đâu còn nguyên vẹn. Và cái hành động rất ý tứ của
ông Phán mọc sừng khi nghẹn ngào hứt hứt: “Dúi tay vào Xuân Tóc Đỏ một
cái giấy bạc năm đồng gấp tư”.
Thế đấy, con người ta vẫn gào khóc, vẫn thảm thiết như đau đớn, quằn
quại lắm, những vẫn có thể he hé mắt xem có ai thấy không, vẫn nhắc nhở,
thầm nhủ với mình những lợi ích cá nhân. Và đau đớn thay khi người ta đội
ơn và tôn vinh kẻ đã giết cha mình. Xuân Tóc Đỏ đã đem đến niềm vui tràn
ngập cho gia đình, địa vị của họ được củng cố, được nhấc lên cao hơn. Nó
bỗng thành nhân vật quan trọng của đám ma.
Với Hạnh phúc của một tang gia Vũ Trọng Phụng đã phanh phui, bóc
trần cả một xã hội giả dối, chó đểu. Với cách viết trào phúng, với những chi
tiết đầy kịch tính, tác giả đã khắc họa một cách sâu sắc những chân dung
biếm họa trào phúng. Và qua tiếng cười còn là nỗi đau của nhà văn trước
cảnh đời đen bạc bất nhân bất hiếu này.
Hạnh phúc của một tang gia đã chửi thẳng vào cái xã hội thượng lưu
tởm lợm và bỉ ổi thời trước. Cái xã hội mà con người sống với nhau bằng sự
lừa lọc, giả dối và những ngón đòn xảo trá. Tác giả không khỏi xót xa khi tạo
nên những chuỗi cười trào phúng. Và chỉ có tiếng cười hài hước ấy mới
phanh phui hết cái xấu xa bỉ ổi của hiện thực, mới tố cáo vào một cách sâu
sắc hơn bao giờ hết. Chúng ta cũng lây niềm chua chát ấy.
(THIÊN HƯƠNG)
Trong chương Hạnh phúc của một tang gia (Số đỏ), Vũ Trọng Phụng viết:
“Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm"
1. Hãy chứng tỏ điều đó qua các nhân vật trong chương truyện.
2. Câu văn tưởng chừng ngược đời kia của Vũ Trọng Phụng đã thâu tóm cả một thứ “thế thái nhân tình” được xây dựng trên hai điều lớn nhất: sự tàn nhẫn và sự dối trá, hãy làm sáng tỏ.
BÀI LÀM
Tiếng nói căm hờn mãnh liệt cái xã hội thực dân phong kiến tư sản hết
sức bất công, tàn bạo, thối nát, cái xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là “khốn
nạn”, “chó đểu” và ông khao khát thay đổi nó từng ngày, từng giờ trong “Số
đỏ” nói chung và “Hạnh phúc một tang gia” nói riêng cứ xoáy sâu vào tâm trí
độc giả. Một “thế thái nhân tình” được xây dựng trên hai điều, sự tàn nhẫn và
sự dối trá là biểu hiện sâu sắc nhất được thâu tóm trong câu văn tưởng
chừng ngược đời mà lại có lí: “Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng
lắm”.
Một gia đình đông đúc, nhiều con cháu, họ hàng và người quen của cụ
cố Hồng là cả một xã hội phong kiến tư sản thối nát. Khi sinh ra, lớn lên,
trưởng thành bước vào đời, con người ta lúc nào cũng cầu mong cho mình
được hạnh phúc. Khi ra đi về với cát bụi, không có gì hơn ngoài mong muốn
được đón nhận giọt nước mắt đau thương của người đang tồn tại và đang
sống. Vậy mà, khi đi xuống nơi “suối vàng”, cái chết của cụ tổ lại mang lại bao
nhiêu niềm vui, niềm phấn khởi, hân hoan của con cháu gia đình cụ Hồng.
Tình cảm ngược đời ấy chỉ tồn tại trong xã hội bất công và đầy rẫy sự thối
nát, bẩn thỉu, câu chuyện dường như là điển hình cho cái xấu xa mà xã hội đã
đang mang lại cho tác phẩm Vũ Trọng Phụng. Ngay ở tiêu đề đoạn trích, tác
giả đã có ý nhấn mạnh cái hạnh phúc bên bờ của một người vừa từ trần thế
đến nơi tận cùng của số phận. Hạnh phúc lại đi liền với tang gia và tang gia
tạo nên hạnh phúc, Nếu chỉ đọc tiêu đề, độc giả sẽ hoàn toàn tin tưởng vào
hai khái niệm trái ngược đó; nhưng khi vào sâu thế giới của tác phẩm, độc giả
nhận thấy rằng: tình cảm ấy tồn tại trong nhà cụ cố Hồng rất tự nhiên, hợp lí.
Nhìn nét mặt hành động của mỗi nhân vật trong chương truyện, người
đọc cảm nhận cái hạnh phúc mà họ được nhận và đã chờ rất lâu để cụ cố
mất đi. Khi tắt thở, không biết cụ tổ có nhận thấy cái chết ấy đã làm cho nhiều
người được sung sướng lắm. Niềm hạnh phúc được tràn ra qua cái nhắm
mắt mơ màng của cụ cố Hồng khi nghĩ “đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ
chống gậy, vừa ho khạc, vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ:
- Ui kìa, con giai nhớn đã già thế kia kìa!
Cụ chắc cả mười phần, rằng ai cũng phải khen ngợi một cái đám ma
như thế, một cái gậy như thế... “viễn cảnh hiện ra trước mắt cụ Hồng sao mà
lạ lùng và cay đắng quá. Người ta đến đưa thi thể cụ cố xuống nơi suối vàng,
chứ đâu phải ngắm nhìn “con giai” cụ đã bao nhiêu tuổi, chống gậy gì và đám
ma to hay là bé. Nhưng, những suy nghĩ ấy đã phản ánh đúng tâm trạng của
cụ Hồng trong cái đám ma “rộn ràng”, “huyên náo”...
Còn ông Phán mọc sừng thì lại thấy “không ngờ rằng giá trị đôi sừng
hươu vô hình trên đầu ông mà lại to đến như thế? Ông hạnh phúc khi được
cụ cố Hồng nói nhỏ vào tai là sẽ chia cho con gái và con rể thêm một số tiền
là vài nghìn đồng. Dường như đến đưa ma cụ cố, ông Phán mọc sừng lại
được đón nhận số tiền lớn ấy một cách bất ngờ. Dù sao “cái chết kia” cũng
mang lại cho ông niềm hạnh phúc, sung sướng biết bao. Với cái sừng mà
Xuân Tóc Đỏ vô tình hay cố ý gắn cho ông Phán cũng đủ để ông cảm ơn hắn.
Trong bầu không khí của một đám ma nhốn nháo, “thằng bồi tiêm đã đếm
được một nghìn tám trăm bảy hai, câu gắt “Biết rồi khổ lắm nói mãi!” của cụ
cố Hồng thì ông Phán mọc sừng đã kịp trù tính với Xuân công cuộc doanh
thương... và điều trước tiên là trả nốt năm đồng cho Xuân. Ngay trong giờ
phút thiêng liêng của một đời người đã kết thúc ấy mà người ta vẫn không
quên đi được chút ít ánh hào quang của đồng tiền, họ càng lao theo nó say
đắm và đam mê hơn.
“Trước những cặp mắt của một bầy con chí hiếu chỉ nóng ruột đem
chôn cho chóng cái xác của cụ tổ”, thì cụ cố Hồng nhắm nghiền mắt lại kêu
khổ lắm. Sao mà bộ mặt giả dối của họ xấu xa và đê hèn đến thế. Họ đến với
đám ma là để trưng bày trang phục sáng tạo của mình cho mọi người chiêm
ngưỡng". Cậu Tú Tân thì điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh
mà cậu mãi không dược dùng đến. Bà Văn Minh thì sốt ruột vì mãi không
được mặc những đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen “demières
creations”. Những cái rất ăn với nhau mà tiệm Âu hóa một khi đã lăng xê ra
thì có thể bán cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết cũng hưởng
chút ít hạnh phúc ở đời”, vậy là, họ đi đám ma mà dường như là đi dự đám
cưới. Họ chỉ biết thỏa mãn cái mong muốn, ước vọng của mình trong khi
không hề để ý đến ai đã khám cho cụ tổ khi cụ bị bệnh và sau khi qua đời.
Đến cả đứa cháu gái Văn Minh giàu sang của cụ cũng hờ hững, tự nhiên phơi
bày nhừng bộ đồ tân thời không hợp chút nào. Với bộ y phục ngây thơ của
Tuyết đã đủ cho thấy cái chết của cụ tổ chỉ làm cho họ hạnh phúc, sung
sướng mà thôi.
Mỗi người, mỗi vẻ, mấy ông cảnh binh Minđơ và Mintoa cũng sung
sướng cực điểm khi được cái đám ma “to lớn” này thuê giữ gìn trật tự. “Thành
thử tang gia ai cũng vui vẻ cả”. Chỉ trừ một mình Tuyết, cô không phải buồn vì
cái chết của cụ tổ mà vì cô không gặp được “người tình Xuân Tóc Đỏ”.
Một đám ma theo cả lối Ta, Tàu, Tây, “có kiệu bát cống, lợn quay đi
lọng, cho đến lốc cốc xoàng và bú dích và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối,
vài ba trăm người đi đưa, lại có cậu Tú Tân chỉ huy”, lộn xộn, lao xao và
huyên náo, nó xứng đáng như là một hội chợ để các nhà tài tử thi nhau chụp
ảnh. “Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài
cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu...” câu văn nghe
sao mà chua chát và đắng cay đến vậy. Dường như trong cái xã hội phức tạp
ấy không còn tồn tại tình người. Họ đối xử với nhau chỉ là do cái ánh sáng
chói chang của đồng tiền đưa lối, dắt đường. Đưa một số phận con người về
bên kia của thế giới, của trần gian mà trong ánh mắt, đôi chút suy nghĩ của họ
đâu có gì gửi gắm vào bản thân người chết. Trong trái tim họ, dường như
không còn có sự tồn tại của tình thương giữa người với người, giữa họ là
khoảng cách của sự tàn nhẫn và dối trá.
Đọc phần đầu của đoạn trích, cứ tưởng tâm địa của bọn cháu cụ cố tổ
ghê tởm đến thế là cùng. Nhưng chưa hết, chính lũ con cháu bất hiếu, vô đạo
kia lại muốn khẳng định chúng là người hiếu thảo nhất trên đời. Đám ma mà
chúng đang tổ chức phải trở thành một kiểu mẫu trong thiên hạ: Những kẻ
mong cho cha ông mau chết đã tìm thấy hạnh phúc vì đó là dịp để họ bày tỏ
lòng hiếu thảo bằng cách tổ chức một đám ma thật to, thật vang, cái mong
muốn “bẩn thỉu” ấy tồn tại trong mỗi đứa cháu, bất nhân, bất nghĩa là cả bao
phức tạp, xô bồ của cuộc sống xã hội thối nát, “chó đểu”.
Câu chuyện của một gia đình trở thành cái tiêu biểu cho cả một xã hội,
từ cái hạnh phúc, sung sướng của một “lũ người gớm ghiếc” là một “thế thái
nhân tình” được xây dựng trên nền tảng là sự tàn nhẫn và sự dối trá. Con
người với con người đối với nhau mà nhự là băng đá tê cứng, đóng lạnh,
không một chút hơi ấm của tình yêu thương. Cụ tổ mất đi lại không hề mảy
may làm cho bất kì một con người nào đau khổ, bọn chúng tìm đến đám ma
mà để lấy và thực hiện sớm bản di chúc. Chỉ còn lặng lẽ sau trang sách là nỗi
đau đớn không nguôi của nhà văn và độc giả. Những đứa cháu, “lũ” con của
cụ tự cho mình là chí hiếu, chúng không nhận thấy trong suy nghĩ, hành động
của chúng là tàn nhẫn và dối trá đến cao độ. Nhịp cầu mà họ tạo nên để đến
với hai chữ “chí hiếu” là từ tàn nhẫn và dối trá mà ra, nó “mỏng manh”, dễ
dứt.
Cố lấy vẻ bề ngoài mà cho đậy cái bên trong xấu xa, thối nát là một sự
dối trá đến tàn nhẫn. Trong thế giới mà bọn họ đang sống, đang tồn tại đâu có
phải là một “thế thái nhân tình”. Cái thế giới của tình người chỉ đáng có khi
con người biết tin yêu và tôn trọng lẫn nhau. Còn ở đây, con người như là vật,
hiến dâng cho cái vòng quay bất nhân của đồng tiền.
Nỗi hạnh phúc, sung sướng của bản thân họ là khác nhau nhưng đều
quy tụ chung dưới hai điều tàn nhẫn và dối trá. Những người đi đưa đám thật
đông đảo; sự xấu xa, đồi bại của xã hội có mặt khắp nơi. Băng điệp khúc
“đám cứ đi”, tác giả đã đặc tả một đám ma thật to thiên hạ tha hồ chiêm
ngưỡng. Nhưng trong cái đám ấy, chẳng có ai thật lòng đi đưa đám. Tất cả -
trong gia đình hay ngoài gia đình, già hay trẻ, đàn ông hay đàn bà, tuy cố giữ
vẻ mặt buồn rầu nhưng thực lòng thì đang vui vẻ, hạnh phúc vì một điều gì
đó. “Đám cứ đi” - nghĩa là sự vô liêm sỉ, sự giả dối cứ ngang nhiên diễn ra,
không hề khép lại và chẳng biết sẽ kéo dài đến đâu, lúc nào thì kết thúc. Cái
thế giới tình người mà tác phẩm, đoạn trích có nói, có thể hiện chỉ là sự tàn
nhẫn và dối trá. Sự tàn nhẫn, dối trá ấy đâu chỉ diễn ra trong xã hội “người
dưng”, mà nó tồn tại sâu sắc, đậm nét hơn cả trong bản thân những con
người trong cùng một gia đình, họ hàng, thân quen. Cái đám ma giàu sang,
phú quí, ồn ào của cụ tổ đâu có thể che lấp được bản chất tàn nhẫn, dối trá
của cụ cố Hồng, ông bà Văn Minh, Xuân Tóc Đỏ và cả sư cụ Tăng Phú...
Sự lố lăng của đám tang với hình ảnh của hai tên đại bịp xuất hiện:
Xuân Tóc Đỏ và sư cụ Tăng Phú lại làm cho cái tàn nhẫn và dối trá được bộc
lộ rõ hơn, sâu sắc hơn. Tại sao bà cụ cố Hồng lại hí hửng vì sự có mặt của
hai nhân vật này? Vì sáu chiếc xe có lọng cắm trên chở sư chùa Bà Banh? Vì
2 vòng hoa đồ sộ? Điều đó ai mà biết được! Chỉ biết sự có mặt của những
thứ trên làm cho đám tang vốn đã lố lăng càng thêm lố lăng, chỉ biết sư cụ
Tăng Phú đã chớp lấy “thời cơ tang gia để kiếm lợi trong cuộc đấu tranh
chính trị nhằm củng cố thanh thế của Hội Phật giáo”. Còn Xuân Tóc Đỏ lại là
ân nhân của gia đình cụ cố Hồng và là “người chồng ăn hỏi” của cô Tuyết.
Hạnh phúc gia đình, thế giới tình người trong gia đình ấy là sự dối trá, bởi
cách bịp bợm của vợ chồng Văn Minh và sự tôn sưng lên mây cao của họ, sự
tàn nhẫn và dối trá trong lối sống của họ là cái để họ tạo nên cái sụp đổ của
xã hội thối nát. Dưới con mắt sắc xảo của Vũ Trọng Phụng, những con người
xấu xa ấy không phải là một “nhóm người”, chúng thật đông đảo và có mặt
khắp nơi. Bởi vậy, có người đã coi đám tang của cụ cố tổ là hành trình xuống
rnộ của toàn xã hội thực dân phong kiến.
Với một tác phẩm hiện thực sâu sắc: “Số đỏ”, Vũ Trọng Phụng đã thể
hiện khá rõ và đậm nét bản chất thối tha, dối trá, tàn nhẫn và “chó đểu” của xã
hội cũ. Tình yêu thương, lòng nhân ái cao cả của một thế giới tình người
không bao giờ có thể tồn tại trong cái xã hội ấy dù chỉ là một giây.
TRẦN THỊ MAI
B. LUYỆN TẬP
1. Anh (chị) hãy phân tích đoạn trích “Hạnh phúc một tang gia” (Số đỏ -
Vũ Trọng Phụng) để làm sáng tỏ nhận định: “Hạnh phúc một tang gia” được
coi như một màn hài kịch sắc sảo?
2. Anh (chị) hãy viết một bài giới thiệu ngắn về nhà văn Vũ Trọng
Phụng và tiểu thuyết số đỏ (trong đó cần lưu ý tới chương Hạnh phúc một
tang gia.)
3. Anh (chị) hãy phân tích chương “Hạnh phúc một tang gia” để làm
sáng tỏ nhận định:
Đọc “Số đỏ”, dường như mỗi chi tiết lại chứa đựng một mâu thuẫn nào
đó và đằng sau mỗi chi tiết ấy, ẩn hiện thấp thoáng một nụ cười vừa thông
minh sắc sảo, vừa đầy khinh bỉ và căm phẫn của nhà văn đối với tầng lớp xã
hội lố bịch, nhố nhăng...”
4. Nói về Số đỏ và nhân vật Xuân Tóc Đỏ của Vũ Trọng Phụng, có ý
kiến cho rằng: “Một xã hội bịp bợm đã đẻ ra một tên đại bịp”.
Ý kiến của anh (chị) như thế nào? Hãy phân tích và chứng minh qua
nhân vật Xuân Tóc Đỏ và tác phẩm Số đỏ.
TÁC GIẢ NAM CAO
A. BÀI VĂN
Nhà văn Nam Cao đã từng lấy lời của Francois Coppee (1842 - 1908), nhà văn, nhà thơ Pháp làm đề từ cho truyện ngắn Nước mắt của mình: “Người ta chí xấu xa, hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ, và nước mắt là một miếng kính biển hình vũ trụ”. Rồi trong truyện ngắn Lão Hạc, Nam Cao lại viết: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhân, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương...
Tìm hiểu những ý kiến trên nhằm làm rõ một nét trong cách nhìn đời, nhìn người đầy tinh thần nhân đạo của Nam Cao.
BÀI LÀM 1
Nhà danh họa Pháp Henri Matisse đã từng nói: “Đối với người nghệ sĩ
thì sáng tạo bắt đầu từ cái nhìn...” Câu nói ấy có lẽ cũng là tâm trạng chung
cho tất cả các nhà văn chân chính, những con người trên hành trình văn
chương của mình vẫn luôn khao khát đươc cập bến bờ chân - thiện mĩ. Nam
Cao là một trong số những nhà văn như thế. Suốt cả một đời sáng tạo đầy
cay cực nhưng cũng rất đẹp của mình. Nam Cao luôn trăn trở, day dứt đến
vấn đề Đôi mắt, đến cách nhìn những con người khốn khổ quanh ông. Và văn
chương chính là nơi để ông gửi gắm nỗi niềm thao thức đó. Trong truyện
ngắn Nước mắt ông đã lấy lời của nhà thơ, nhà văn Pháp Francois Coppee
làm đề từ: “Người ta chỉ xấu xa hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của của
phường ích kỉ và nước mắt miếng kính hình vũ trụ”. Rồi trong truyện ngắn
Lão Hạc, Nam Cao lại thốt lên những suy tư trăn trở của mình. “Chao ôi! Đối
với những người quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ
gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để ta tàn nhẫn,
không bao giờ ta thấy họ là người đáng thương, không bao giờ ta thương...”.
Những quan điểm đó đã được ông viết ra cách đây hơn nửa thế kỉ mà
ta cứ ngỡ như là ông viết cho hôm nay và cho cả mai sau. Bởi những lời tâm
huyết chân thành ấy mãi mãi là một chân lí nghệ thuật, một ngọn lửa soi sáng
cho chúng ta tìm đến chủ nghĩa nhân đạo của Nam Cao.
Văn chương không bao giờ phản ánh chỉ để mà phản ánh, miêu tả chỉ
để mà miêu tả, mà tận sâu thẳm mỗi lời văn, mỗi trang viết mà nhà văn dâng
tặng cho đời phải được nghiền ngẫm trong một quan điểm nghệ thuật, một
cách nhìn nghệ thuật, cách nhìn ấy chi phối lao động sáng tạo của nhà văn và
quyết định chỗ đứng của anh ta trong làng văn và trong lòng độc giả. Với
Nam Cao cái nhìn nghệ thuật ấy mang một ý nghĩa nhân đạo thật cao quý.
Trên những trang viết mà ông dồn hết cả tinh anh, tinh huyết, trên mỗi giọt
mực mà ông đã thả vào bao mồ hôi nước mắt, bao nỗi thương đời, đau đời,
đều thấm nhuần một cái nhìn đầy nhân ái, và xiết bao trân trọng đối với
những kiếp người cùng khổ quanh ông.
Nam Cao ghét cay ghét đắng những con mắt ráo hoảnh tình thương,
những con mắt lạnh lùng nghiệt ngã đối với đau khổ của con người, Lão Hạc,
Chí Phèo, rồi Điền, Hộ... đều là những hình tượng sống động đầy ám ảnh
trong một cái nhìn Nam Cao.
Lão Hạc, một nông dân lẩm cẩm, ít học và có thể là gàn dở nữa, dưới
con mắt của Nam Cao, đã được đẩy lên cái ngưỡng tột cùng của vẻ đẹp nhân
cách. Một người cha nghèo không đủ tiền cưới vợ cho con để rồi phải day
dứt, ân hận ở đời, một con người vì cùng quẫn quá phải đánh lừa một con
chó để rồi phải giày vò đau đớn cho đến chết. Bên miệng vực của cái đói khổ,
khốn cùng, trong con người lão Hạc vẫn luôn luôn thắp lên một vẻ đẹp tỏa
sáng, vẻ đẹp của nhân cách, của thiên lương. Đó đâu chỉ là vẻ đẹp của người
cha hay người mẹ?... Đó là một con người, sâu sắc và thăm thẳm. Nam Cao
nhìn thấu suốt được điều đó và đã phát hiện ra vẻ đẹp cao quý trong con
người nông dân với vẻ bề ngoài mà người ta tưởng như là “gàn dở, ngu
ngốc, bần tiện, xấu xa...”. Cái nhìn nhân ái đầy trân trọng ấy xuất phát từ đâu
nếu không phải từ một trái tim nặng trĩu nỗi niềm đau đời, thương đời của
Nam Cao?
Nước mắt của ông không chảy dầm dề, tràn trề trên trang giấy như Ngô
Tất Tố, nước mắt của ông chảy vào trong để thấu suốt hơn, và sâu sắc thăm
thẳm hơn. Trên những trang viết tưởng chừng như sắc lạnh, dửng dưng kia
là một nỗi lòng yêu thương thống thiết đến khắc khoải, cái nhìn sâu tận đáy
của ông đã giúp cho ông phát hiện ra những đốm lửa nhân tính, thiên lương
còn âm ỉ cháy trong những con người dị hình dị dạng, những con người luôn
đi trên cái ranh giới mong manh cuối cùng phân biệt con người với con vật
người. Và ta hiểu vì sao những tác phẩm của ông lại chứa đựng một năng
lượng tinh thần mạnh mẽ và sâu sắc đến vậy.
Nếu như Ngô Tất Tố, với tấm lòng chan chứa yêu thương của mình chỉ
thấy được con người trong con người mà thôi thì với Nam Cao, với đôi mắt
sâu sắc của mình, với một tấm lòng sống thật sâu trong cuộc sống đã phát
hiện và đã khẳng định cái con người ngay trong chính con vật - người, trong
những kẻ mà bộ mặt đã bị rạch nát giầy xéo và tâm hồn đã bị mụ mị trong cõi
tối tăm vô thức. Và Chí Phèo có lẽ là nơi tập trung cái nhìn nghệ thuật đau
đáu và sắc sảo của Nam Cao. Một kẻ cỗi cằn và u tối như thế, ở những con
mắt khác, những con mắt ráo hoảnh, lạnh lùng, những con mắt không tình
thương thì chỉ là những con vật đầy thú tính, những con người sống kiếp cỏ
cây, những kẻ “bần tiện, xấu xa và bỉ ổi”. Nhưng đối với Nam Cao, Chí Phèo
không chỉ là bản bi ca về kiếp người bị tha hóa trong xã hội cũ mà còn là khúc
tráng ca về những lẽ sống lương thiện, về vẻ đẹp nhân tính trong mỗi con
người, về chất người trong mỗi con người.
Chí Phèo là hình tượng bất hủ về bi kịch nhân cách, là nỗi đau đớn lớn
nhất của Nam Cao. Cuộc đời Chí là một chuỗi vật vã đến quằn quại để đi tìm
nhân cách, để khẳng định nhân phẩm trong con người hắn. Xây dựng nhân
vật Chí Phèo, Nam Cao không những chỉ tố cáo xã hội tàn ác bất công đã xô
đẩy con người ta đến bước đường cùng tội lỗi mà điều cao cả hơn, thiêng
liêng hơn, điều đã làm cho Nam Cao sống mãi với nhân vật bất hủ của mình
là ông đã phát hiện và đã khẳng định ánh lửa nhân tính còn sót lại và vẫn âm ỉ
cháy trong đáy thẳm tâm hồn của con người bất hạnh ấy, dù rất le lói mong
manh. Với đôi mắt đầy tình thương của mình, Nam Cao đã đánh thức chất
người trong con người mà suốt cuộc đời tưởng như chỉ có thù hằn và căm
giận. Những trang viết miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau lần gặp gỡ với Thị Nở
có lẽ là những trang văn đẹp nhất, lung linh chất thơ nhất. Trong “thiên trữ
tình tàn nhẫn” này, chưa bao giờ ngòi bút của Nam Cao lại có những trang
văn dịu ngọt, đằm thắm và trong trẻo đến thế: “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ
quá, tiếng người thuyền chài gõ mái chèo đuối cá, tiếng người đi chợ lao
xao... ”. Nam Cao đã đưa Chí Phèo về với một trái tim người trọn vẹn, trái tim
trong trẻo thuần khiết của ngày xưa, biết yêu thương cảm xúc, biết nhớ nhung
hờn dỗi, biết khao khát một tình yêu, một mái ấm gia đình. Trái tim ấy đã trở
về nhịp đập và trỗi dậy trong hắn một khát khao bỏng rát được làm người
lương thiện. Phát hiện và khẳng định được bản chất tốt đẹp trong những con
người lao động đau khổ bị đọa đày trong kiếp thú là một minh chứng thật
hùng hồn cho chủ nghĩa nhân đạo cao cả của Nam Cao. Phải có một niềm tin
to lớn ở con người, phải có đôi mắt đầy nhân ái và sâu thăm thẳm, Nam Cao
mới phát hiện được những đốm sáng đặc biệt không bao giờ tắt trong trái tim
con người, Văn học phản ánh hiện thực đâu chỉ để mà phản ánh một cách
hời hợt, nông cạn. Văn học với thiên chức cao quý của nhà văn là biết phát
hiện ra những ý nghĩa nhân sinh to lớn.
Nghệ thuật biết tìm thấy cái bình thường trong cái phi thường, nhưng
nghệ thuật còn biết phát hiện cái phi thường trong cái bình thường, thậm chí
tầm thường. Và có lẽ, chỉ với những nhà văn lớn, những trái tim lớn, những
khối óc lớn với những quan điểm thẩm mĩ tiến bộ sâu sắc về nhân sinh mới
có những phát hiện tầm vóc như thế. Trở lại với những trang viết và những
suy tư về Nam Cao, ta hiểu vì sao chủ nghĩa nhân đạo của ông lại chứa đựng
sức nặng như vậy. “Không có thành tựu nghệ thuật nào nằm ngoài cái nhìn
nghệ thuật của nhà văn”. Một ai đó đã nói như vậy. Với những trang viết đầy
sức ám ảnh của mình, Nam Cao đã đặt ra một vấn đề không chỉ cho một thời
mà cho cả mọi thời đại rằng: Nhà văn chân chính, phải biết nhìn con người ở
bản tính tốt đẹp của người ta, biết phân biệt đâu là thực chất bên trong, đâu là
những biểu hiện sai lệch bên ngoài. Muốn có được điều đó, nhà văn ấy phải
sống thật sâu, thật hết mình trong đời sống, và đặc biệt phải có tình thương
lớn (chứ không phải là thương hại). Quan điểm ấy là ngọn đuốc soi đường
trong mỗi sáng tác của ông và cho tất cả những ai muốn trở thành nhà văn
chân chính.
Với những quan điểm nghệ thuật tiến bộ ấy và với những sáng tạo văn
chương thấm đẫm chất đời và tình người của mình, Nam Cao thực sự trở
thành con người thánh thiện trong văn chương nhưng lại là con người chân
thật, giản dị giữa cuộc đời những con người khốn khổ này. Một đời văn như
ông thật là đẹp và chủ nghĩa nhân đạo của Nam Cao sẽ còn sức ám ảnh,
rung động nhiều người, nhiều thế hệ.
HOÀNG HÀ
BÀI LÀM 2
Cùng với Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Nam Cao
bước vào nhà trường phổ thông với một khuôn mặt khá đậm nét, một tư cách
nhà văn nhân đạo chủ nghĩa sâu sắc, tiêu biểu cho những giá trị tinh thần cao
cả nhất của dân tộc Việt Nam chúng ta. Tác phẩm của ông được giảng chính
thức cả hai cấp học: Lão Hạc (lớp 8). Đời thừa, Chí Phèo (lớp 11), Đôi mắt
(lớp 12). Ngoài ra, còn truyện Một đám cưới, Trăng sáng và rất nhiều đoạn
văn trích của Nạm Cao được in trong SGK để đọc thêm.
So với những nhà văn cùng thế hệ, chỗ đứng của ông trong chương
trình, trong SGK, trong tâm tưởng mỗi người yên ổn hơn, bền vững hơn và
chắc sẽ bền vững hơn nữa. Những nhân vật như lão Hạc, Chí Phèo, Hoàng,
Độ, rồi Hộ, Điền... dường như quá quen thuộc đối với chúng ta. Thuộc tên,
quen mặt, biết rõ tính tình, nhân cách, nhớ cả những hành động, lời nói... như
những hình tượng điển hình, những con người sống động có thật. Các Mác
từng nói: “Con người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Với những nhân
vật của Nam Cao, chúng ta từng nhìn họ trong sự tổng hòa xã hội ấy. Và khi
phân tích, đánh giá nhân vật, cũng như lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn, chúng
ta đã đạt tới những chiều sâu, sự chính xác nhất định. Song với Nam Cao
như thế chưa đủ. “Một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên bên trên tất cả các
bờ cõi và giới hạn... Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái... Nó làm cho người
gần người hơn”. Mượn lời nói của Hộ nhân vật chính trong truyện ngắn Đời
thừa, Nam Cao từng khát khao sáng tạo những tác phẩm vượt lên trên mọi
bờ cõi, giới hạn, xây dựng những nhân vật “gần người hơn”. Phải chăng, ở
đây, nhà văn muốn nói chữ người theo nghĩa “Con Người” viết hoa, con
người nhân tính, nhân bản, sản phẩm tuyệt vời của tạo hóa, vượt lên trên tất
cả mọi sinh vật khác, vượt lên trên tất cả những ngăn cách của hoàn cảnh xã
hội, của số phận mỗi cá nhân. Người phải gần người, mỗi cá nhân phải xứng
đáng là Con Người, mọi người gần gũi, yêu thương nhau, sống với nhau
bằng tình bác ái, sự cảm thông, sống bằng cái thiện, trước hết trong chính
mình rồi dùng cái thiện mà gần gũi, ràng buộc với ngừời khác... Với cách hiểu
Nam Cao như thế, chúng ta thử đọc lại Nam Cao, tiếp xúc với các nhân vật
của ông trong cái gốc Con Người - nhân tính phổ quát, con người tự làm chủ
mình; chịu trách nhiệm về chính mình, vượt lên tất cả các bờ cõi và giới hạn.
Không kể hoàn cảnh xã hội, xuất thân giai cấp, thành phần nào, dường
như tất cả nhân vật trong tác phẩm Nam Cao mà chúng tôi nêu trên đều giống
nhau ở một bản tính tốt đẹp. Sự vật vã, nỗi gian lao trên con đường đi tìm
nhân cách, tìm sự sống sao cho xứng đáng Con Người, sao cho “gần người
hơn”. Điểm khác nhau giữa họ tất nhiên là cách đi, là số phận mỗi người...
Trước hết xin bàn về Chí Phèo. Trang đầu của cuộc đời Chí, như nhà văn kể,
là thân phận một người vừa ở tù ra (không rõ được tha hay vượt ngục) với
những bộ dạng “trông gớm chết”. Lời nói, hành động đầu tiên của Chí khi về
làng là... rửa hận, đòi trả thù. Trong cái làng Vũ Đại đầy thù hận ấy, cách xử
sự này không đáng trách. Tiếp xúc với Chí Phèo, nhiều người bỏ qua cái
bước khởi đầu này, xáo trộn trang sách của Nam Cao, nhìn ngắm Chí Phèo
theo cái chiều con người bị xô đẩy: từ lương thiện, bị lưu manh hóa, phạm tội
rồi bế tắc, từ vào tù, ra tù, say rượu, chém chết... E rằng không đúng chủ đích
sáng tác của nhà văn, không đúng dòng đời, bước đi của Chí Phèo. Mở đầu
tác phẩm, Nam Cao giới thiệu một nhân cách đã bị xua đuổi, bị tha hóa,
không chỉ là bút pháp nghệ thuật hấp dẫn, mà chắc có ngầm ý. Phải chăng,
nhà văn muốn nói: chính cái nhà tù đế quốc, cái dã tâm bẩn thỉu của bọn
cường hào ở nông thôn lúc bấy giờ là... cha mẹ đẻ ra Chí Phèo, đẻ ra nhân-
cách-tha-hóa-Chí-Phèo, chứ không phải Chí Phèo xương thịt, nhân chi sơ...
Đến với người đọc, Chí Phèo là một thân phận bơ vơ, oan ức, bị cướp đoạt
tất cả, mất hết tất cả. Do đó điểm khởi đầu của anh ta là lên tiếng đòi lại, nhớ
lại, để tìm về. Tiếp theo nhà văn như một người tế nhị kể lại quá khứ tuy
không tốt đẹp, nhưng có chút gì đáng thương của Chí Phèo, bởi đó là một
con người có nhân cách lương thiện, như để người đọc thông cảm, cũng để
nhắc nhở, khích lệ Chí. Chẳng thế mà giọng văn Nam Cao ở những dòng đầu
này khi xuất khi nhập, bên ngoài bên trong nhân vật, linh hoạt, tinh tế, hấp
dẫn, truyền cảm. Song Chí Phèo chưa kịp nhớ lại, chưa bước được một bậc
nào “căn nhà lương thiện bị mất” đã bị mất tiếp, đẩy xa tiếp. Thế là anh ta
phải vật vã, nhiều lần vật vã để trở về, để tìm lại nhân cách lẫn người, tìm
lương thiện. Đường đời của Chí gồm ba chặng: chặng 1, đòi lại cội nguồn,
tuổi trẻ; chặng 2, đòi cơm ăn nhà ở, ruộng vườn; chặng 3, đòi hạnh phúc,
được làm người lương thiện. Mỗi chặng, Chí đã nhích lên một chút, nhất là
những ngày anh ta được gần Thị Nở. Lúc này, Chí Phèo đã thực sự sống
những giây phút “gần người hơn”, đúng là con người với bản tính hiền lành,
chất phác ngây thơ, mơ mộng nữa chứ. Nhưng tiếc thay, cái xã hội vạn ác lúc
bấy giờ không chấp nhận Chí Phèo, cố ý hoăc vô tình chặn bước chân ngược
dòng ấy của Chí. Do đó, anh ta phải hành động theo cách riêng, đúng luật lệ
của anh ta, để bước vào giây phút cuối cùng bất tử. “Trước những giây phút
cuối cùng của một nhân cách ngược dòng ấy, Chí Phèo tự đốt cháy mình,
thắp sáng ngọn lửa khao khát làm người lương thiện” (Lê Dy, báo GVND
9.2.1987). Có thể nói gọn thế này được chăng: Con đường đi tìm nhân cách
của chàng thanh niên Chí Phèo là tìm lại cuộc đời”, cố thắp sáng mình lên để
tìm lại tất cả, trong đó cái quan trọng nhất là cái bản tính người hiền lành,
lương thiện. Thông cảm với Chí, song chúng ta cần chê trách anh ta một cách
nghiêm khắc. Vì bản lĩnh của Chí quá yếu đuối. Anh bị kẻ thù đánh ngã đã
đành, có lúc anh tự quật ngã mình, như lúc Chí say sưa triết lí với Tự Lãng
chẳng hạn. Vì vậy sự cùng đường của Chí Phèo có một ý nghĩa nhân sinh
nghiệt ngã (xem bài “tìm thêm lời đáp một câu hỏi Chí Phèo”)
Con đường thứ hai đi tìm nhân cách là con đường của lão Hạc (trong
truyện Lão Hạc), của các nhà văn Hộ (truyện Đời thừa). Xin tạm gọi là: Con
đường của tình thương và danh dự. Vì thương người con trai phẫn chí bỏ
nhà ra đi do nghèo thiếu, do bị phụ tình, lão Hạc đã chấp nhận cuộc sống cô
đơn, đói khổ đến cùng cực, Lão cố nhịn ăn, nhịn mặc, làm thuê, làm mướn,
dành tiền đợi con về cưới vợ, có nhà, có đất sinh sống làm ăn. Lão nuôi chú
chó Vàng, kỉ vật con trai để lại, tôn xưng nó là “Cậu Vàng” với tất cả nỗi đắm
say, khát vọng được sống cùng con cháu, được làm cha, làm ông đàng
hoàng như mọi người bình thường khác. Nhưng rồi lão phải bán “Cậu Vàng”,
tự hủy diệt niềm vui nho nhỏ, khát vọng chính đáng. Đó là cái chết lần thứ
nhất của Lão Hạc. Mặc dù biết rằng do đói nghèo phải làm cái việc cực chẳng
đã, lão Hạc vẫn day dứt. “ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn. Nó cứ làm in
như nó trách tôi; nó kêu ư ử, nhìn tôi như muốn bảo tôi rằng: A, lão già tệ lắm.
Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à...? Thì ra tôi già bằng
này tuổi đầu rồi mà đi đánh lừa một con chó...”. Tự giết một niềm vui của
chính mình, như lại hối vì danh dự làm người khi đối diện với một con vật,
một loại động vật xưa nay được coi là có nghĩa nhất, lão Hạc phải qua một bi
kịch nhân tính thật cao cả. Và rồi, để xứng đáng là Con Người, một người cha
thực sự biết thương con, lão Hạc đã tự vẫn. Đó là cái chết thứ hai, Cái chết
này dữ dội, đau đớn về thể xác gấp nhiều lần trước, nhưng tâm hồn người
cha ấy thanh thản hơn lần trước. Bởi vì lão Hạc đã thấm thía đến tận cùng cái
kiếp sống vô nghĩa, sống thừa của đời mình. Bởi vì lão sợ nếu sống nữa sẽ
ăn lẹm vào mấy đồng vốn lão dành cho con, sẽ không đủ sức giữ gìn mảnh
đất của đứa con trước khi chết, lão đã lo chu tất mọi việc: gửi tiền, gửi nhà
đất nơi ông giáo, người láng giềng trung hậu. Do đó, trong khi cả làng bàn
tán, bình luận, có người còn chê trách ông lão khốn khổ thì chính ông giáo —
nhân vật hóa thân của nhà văn và chúng ta, bạn đọc xưa và nay thấu tỏ, cảm
thương. Chao ôi! Trong cõi đời này “Hạnh phúc là một cái chăn quá hẹp,
người này co thì người kia bị hở” (Trong truyện Mua nhà của Nam Cao). Lão
Hạc đã cố gắng chịu “hở”, chịu lạnh để dành chút hơi ấm, mong đắp cái chăn
hạnh phúc cho đứa con, đã quên mình đi vì nhân cách một người làm cha,
nhân cách con người biết tự trọng, luôn đối mặt với sự sống của mình, không
một lời trách giận ai. Nhưng sự im lặng ấy của lão Hạc như một trái bom nổ
chậm chôn vào tâm hồn mỗi bạn đọc những suy nghĩ sâu xa về thủ phạm đã
hai lần gieo cái chết cho những con người bé nhỏ mà nhân nghĩa. Không ai
khác ngoài xã hội thực dân nửa phong kiến đầy bất công phi lí lúc bấy giờ.
Chiều sâu của truyện ngắn Lão Hạc là ở đấy, tính nhân văn và tính hiện thực
cũng là ở đấy. Con đường đi tìm nhân cách của lão Hạc khác với Chí Phèo.
Cũng là chết, cũng là sự vật vã về cuộc sống, nhưng nếu Chí Phèo đốt mình
lên để tìm kiếm, thì lão Hạc tắt dần ngọn lửa, chuyển giao ánh sáng, ngòi nổ
cho những người mà lão yêu thương, người con trai tha hương và ông giáo
tốt bụng. Còn nhà văn Hộ (truyện Đời thừa) anh đi tìm nhân cách bằng con
đường nào? Trước hết cũng là tình thương. Vì thương Từ - một cô gái ngây
thơ trong trắng bị lừa gạt - Hộ đã cưới Từ làm vợ, coi con Từ như con mình,
rồi phấn đấu làm tất cả mọi việc để xứng đáng người chồng, người cha. Sau
đó, Hộ luôn khát khao viết những áng văn có ích cho đời, những áng văn giúp
con người biết sống “gần người hơn”, xứng đáng là “Con Người”. Nhưng cái
thói xấu “háo danh, buông thả, thích chơi bời” - đã lôi kéo anh, xé rách cái ô
tình thương anh vừa xòe ra che chở vợ con, xé rách cả tài năng, mơ ước của
chính anh. Hộ từng có ý nghĩ đẹp: “Kẻ mạnh chính giúp đỡ kẻ khác lên trên
đôi vai của mình. Vả lại hèn biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi vợ
con thì còn mong làm nên trò gì nữa”. Nhưng anh không thắng nổi chính anh.
Do đó, anh phạm hết sai lầm này đến thất hứa khác. Anh làm khổ vợ con, ô
danh người trí thức: ba hoa, chè rượu, rồi về nhà đánh vợ chửi con, rồi bất
tỉnh, mê mệt như một xác chết. Tìm hiểu nguyên nhân sự sa ngã của Hộ, có
người đổ tại hoàn cảnh xã hội, để rồi căm thù cái khách quan, thông cảm và
tha thứ cái chủ quan của Hộ. “Anh chỉ là một một người khổ sở. Chính vì em
mà anh khổ”, Từ đã nói với Hộ như thế. Đặt trong hoàn cảnh của Từ, nghĩ
như vậy là đúng, đúng lòng từ bi của đức Phật. Nhưng với tư cách con người
tự chủ, biết chịu trách nhiệm về mọi ý nghĩ hành động của mình, Hộ đã khóc
và “cố nói qua tiếng khóc: Anh... anh... anh... chỉ là... một thằng... khốn nạn”.
Những giọt nước mắt, những tiếng nói trên từ đâu, nếu không phải từ cái gốc
tình thương, cái gốc nhân cách người chồng, người cha, người nghệ sĩ chân
chính? Với truyện Đời thừa nói chung, nhân vật Hộ nói riêng, có lẽ chúng ta
nên nhìn từ cái tôi của mỗi con người hơn là nhìn từ hoàn cảnh xã hội để
nương nhẹ cho con người, nhất là Hộ. Chia tay bạn đọc, nhà văn Hộ chưa tới
đích, nhưng ít ra anh cũng biết quay lại tự nhìn mình, kết án mình để làm
điểm tựa cho cuộc lột xác ngày mai. Trong cuộc sống, dù ở đâu, xã hội nào,
lứa tuổi, giai cấp nào, con người cũng cần biết xấu hổ, tự phê phán, sám hối.
Thế hệ trẻ trong trường học hiện nay, phải chăng cần hướng theo những
dòng chảy mang vị chua chát mà chứa đựng nhiều chất bổ nhân tính, nhân
bản như thế trong mỗi tác phẩm Nam Cao?
Con đường thứ ba đi tìm nhân cách của các nhân vật trong tác phẩm
Nam Cao là “Cách nhìn đời, nhìn người, sự cảm thông và những công việc cụ
thể”. Xin trở lại với truyện ngắn Lão Hạc. Tuy không phải là nhân vật chính
yếu, nhưng ông giáo, người hàng xóm của lão Hạc vẫn sáng lên như một
nhân vật có tầm sâu triết lí. Nếu lão Hạc cố xứng đáng người cha hết mực
thương con, thì ông giáo này rất xứng đáng là người trung thực, hết mực cảm
thông với bạn. Lão Hạc là đường nét, hình khối, màu sắc nổi cộm trên bức
tranh. Ông giáo là cái “gam” chìm làm nền cho bức tranh. Lão Hạc nói nhiều,
than thở nhiều, hành động nhiều. Ông giáo ít nói chỉ nghĩ nhiều, day dứt
nhiều. Ông ta nghĩ về những quyển sách quý mà ông ta phải bán đi để cứu
đói cho gia đình, về việc con chó Vàng mai bị người ta giết thịt, về mấy củ
khoai luộc, bát nước chè tươi, về cuộc đời và nhân cách người bạn láng
giềng khốn khổ. “Chao ôi, đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố
tìm mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở... không bao giờ ta thương...”. Chính
tình thương và cái nhìn bình tĩnh đã giúp ông giáo hiểu đúng lão Hạc. Hiểu
đúng người, cảm thông với nỗi đau của người khác cũng là một nhân cách
đáng trọng chứ sao! Và đáng trọng hơn nữa là, ông giáo đã nhận giúp lão
Hạc giữ vườn, giữ tiền để trao cho con trai lão sau này... trong cái xã hội đầy
kẻ cướp ấy, hành động của ông giáo thật dũng cảm. “Lão Hạc ơi, lãọ hãy yên
tâm mà nhắm mắt... Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão... Để đến khi con trai lão về tôi
sẽ trao lai hắn... trọn vẹn...”. Những lời khấn thầm ấy của ông giáo hẳn đã làm
cho hương hồn con người cao quý kia thêm mát mẻ!
Ông giáo - nhà văn, rồi nhă văn kiêm ông giáo là những nhân vật trở đi
trở lại nhiều lần trong tác phẩm Nam Cao. Đó là những nhân vật thuộc mảng
đề tài người trí thức trong văn nghiệp của Nam Cao đây chúng ta không nhìn
nhận họ trong hoàn cảnh xuất thân, đặc điểm nghề nghiệp, thành phần, mà
xem xét đánh giá họ với tư cách con người nhân tính phổ quát. Nhân vật tôi -
nhà văn Độ (trong Đôi mắt) cũng như ông giáo (trong Lão Hạc) đích thực là
những con người có cách nhìn, cách nghĩ để có cách sống không chỉ đúng
mà còn thấm đẫm tấm lòng nhân ái, vị tha. May mắn hơn ông giáo, Độ được
sống ở giai đoạn sang trang của lịch sử dân tộc, giai đoạn sau Cách mạng
tháng Tám. Do đó con đường anh đi rộng rãi sáng tỏ hơn. Anh nhìn đời, nhìn
người sâu sắc hơn - không chỉ bằng tấm lòng cảm thương mà còn bằng cả
thái độ trân trọng tin yêu, trước hết là đối với những người nhà quê, những bà
con xa gần của Chí Phèo, của Thị Nở, lão Hạc... bước vào những ngày đầu
kháng chiến chống Pháp, trong khi nhà văn Hoàng, lớp nhà văn đàn anh của
Độ chỉ thấy rặt những cái “lỗ mãng, ích kỉ, tham lam, bần tiện, vừa ngố, vừa
nhặng xị...”, thì Độ đã nhìn rõ và rất trân trọng những nét đẹp bên trong thuộc
bản chất người nông dân Việt Nam. Anh nói với Hoàng: “Có bao nhiêu cái kì
lạ lắm. Người nhà quê dẫu sao thì cũng còn là một cái bí mật đối với chúng
ta... Nhưng đến hồi Tổng khởi nghĩa thì tôi mới ngã ngửa người. Té ra, người
nông dân nước mình vẫn có thể làm cách mạng hăng hái lắm. Tôi đã theo họ
đi đánh phủ. Tôi đã gặp họ ở mặt trận...”. Lời nói ấy ý nghĩ và hành động của
Độ mới chân thành, chính xác làm sao! Nó không chỉ đúng với lớp nhà văn
thời Độ, Hoàng sống, mà còn như một định hướng đúng đắn đối với lớp trí
thức, nhà giáo chúng ta ngày nay, sống và làm việc vào thời kì mà người
nông dân cần tiếp tục được nhận thức sâu hơn, để có cách nghĩ và cách làm
sát hợp, đổi mới kịp thời. Từ cách nhìn đúng, Độ đã có những việc làm cụ thể
nghiêm túc. Anh nhận làm một “anh tuyên truyền nhãi nhép” đi mọi vùng quê
hương để vừa dạy bảo, vừa học tập bà con, đồng bào; làm người cán bộ văn
hóa cùng ăn, ngủ, làm việc với công nhân rồi lọm cọm đi bộ vài chục cây số"
đến thăm bạn, thuyết phục, vận động bạn cùng mình đổi thay cách nhìn, cách
sống. Chuyến đi ấy của Độ không thành công. Nhưng nhân cách anh càng
được thử thách, con đường anh đi càng rõ nét, hằn sâu trong trái tim, trí óc.
Với Độ, Hoàng vừa là bạn, vừa là chính mình để anh kiểm nghiệm con đường
đi. Tuy không nói ra nhưng ý nghĩ này của Độ: “Tôi thầm rủa sự tình cờ sao
lại xô đẩy anh (tức là Hoàng) về đây với bằng ấy thứ cặn bã của giới thượng
lưu trí thức. Sao anh không đi theo bộ đội... những bạn văn nghệ sĩ của anh
để tìm những cảm hứng mới cho văn nghệ... “thực sự là một thái độ dứt
khoát, mội sự lựa chọn đúng đắn, thức thời, một nhân cách đẹp đẽ khiêm
nhường, thực sự cầu thị, chân thành, gắn bó với nhân dân, vì con người,
“gần người hơn”... So với Chí Phèo, lão Mạc, ông giáo, Hộ, con đường đi tìm
nhân cách của Độ ít đau khổ, day dứt, quằn quại hơn, nhưng điều anh tìm
được lớn lao, cơ bản hơn; Biết cảm thông độ lượng với những hạn hẹp để
trân trọng những vẻ đẹp của con người, sống vì con người, vì đất nước,
không phải chỉ với nhân tính, nhân bản, mà còn với tư cách công dân, góp
phần thúc đẩy lịch sử liến lên. Chí Phèo, lão Hạc, ông giáo, nhà văn Hộ là
những nhân cách bị cầm tù, hoàn cảnh xã hội cầm tù và chính mình tự cầm
tù, buộc trói mình. Còn ở Độ, có sự lột xác, giải kiếp; tự nguyện biến đổi. Do
đó con đường đi tìm nhân cách của anh có ý nghĩa khơi mở, chỉ đường rất
thiết thực.
Trở lại cái định nghĩa của Mac “Con người là tổng hòa các mối quan hệ
xã hội”, chúng ta thấy rõ các nhân vật của Nam Cao có số phận khác nhau,
có những con đường đi tìm nhân cách khác nhau, vì họ bị những quan hệ xã
hội, những hoàn cảnh sống va đập, chi phối. Song tất cả họ đều giống nhau ở
cái bản tính làm người, cái khát vọng được “gần người hơn”. Vì sao? Vì họ có
chung một người mẹ, mang chung một dòng máu, có những nét xương thịt,
hình hài tương tự. Người mẹ ấy là tác giả, nhà văn Nam Cao, một nhà văn
“Trung thực vô ngần, luôn nghiêm khắc tự đấu tranh bản thân để vượt mình,
cố thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ nhen, khao khát hướng tới tâm hồn
trong sạch và mơ tới những cảnh sống, những con người thật đẹp” “Nhật kí
Nam Cao ghi ngày 31 tháng 8 năm 1950). Mỗi nhân vật là một mảnh hồn, của
nhà văn, nhiều nhân vật thực sự là hiện thân của nhà văn. Đọc truyện Nam
Cao, cứ ngỡ như chính anh đang nhập hồn mà vật vã mà giãi bày, trò chuyện
ngay trước mặt chúng ta. Thật thế! Ta thấy nhà văn giàu tài năng này, con
người cả nghĩ này đã tự biến mình thành cái kẹp chả trong chính tay mình, cứ
đem mình ra mà quạt dưới than hồng cuộc sống, cho đến khi vàng hươm ra,
cả làng cả nước cứ dậy lên không biết bao nhiêu mùi vị của chính tâm hồn
mình... Chính cái mùi vị tâm hồn và nhân cách Nam Cao đã dẫn người đọc
đến với Chí Phèo, lão Hạc, ông giáo, Hộ, Độ... để cùng nhau rong ruổi trên
những nẻo đường đi tìm nhân cách, để biết thế nào là “con người”, “gần
Người hơn”. Từ anh Chí, đến nhà văn Độ, người đã thành thiên cổ, kẻ đang
đi, có người vừa vạch được một hướng đi. Đi tiếp thế nào, bước cụ thể ra
sao, ấy là việc của tôi, của bạn, những người đọc Nam Cao, tri kỉ tri âm với
Nam Cao. Ôi, những con đường đi tìm nhân cách...!
B. LUYỆN TẬP
1. Nam Cao đã viết trong Đời Thừa “Một tác phẩm thật giá trị… phải
chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó
ca ngợi lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người
hơn”.
Anh (chị) hiếu ý kiến trên như thế nào? Qua những tác phẩm của Nam
Cao, anh (chị) hãy chứng minh rằng: Nam Cao đã cố gắng sáng tạo những
tác phẩm văn chương có giá trị như ông mơ ước.
2. Hãy phân tích một số tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao để làm sáng
rõ quan niệm của Nam Cao:
“Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay. (...) Văn
chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những
nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì chưa có?...
(Đời thừa – SGK 11)
3. Trong truyện Trăng sáng (1943) Nam Cao viết: “Nghệ thuật không
cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên ánh trăng lừa dối, nghệ
thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than”.
Anh (chị) hãy giải thích và bình luận ý kiến trên.
ĐỜI THỪA
NAM CAO
A. BÀI VĂN
Phân tích truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao.
BÀI LÀM
Truyện ngắn Đời thừa viết năm 1943. Có thể xem Đời thừa, về mặt chủ
đề, góp phần chuẩn bị trực tiếp cho tiểu thuyết Sống mòn của nhà văn hoàn
thành vào năm sau đó, năm 1944. Không phải ngẫu nhiên mà cả hai tác
phẩm đều có tính chất tự truyện và nhan đề đều bộc lộ một tâm trạng, một tư
tưởng sáng tạo gần gũi nhau.
Đời thừa viết về cuộc sống của một trí thức nghèo, một nhà văn. Hộ là
một con người trung thực, thương yêu vợ con, rất có trách nhiệm đối với gia
đình, là một người cầm bút có suy nghĩ đúng đắn, nghiêm túc về nghề pghiệp,
có hoài bão xây dựng được mội tác phẩm thật có giá trị “sẽ làm mờ hết các
tác phẩm cùng ra một thời”, thậm chí có thể được trao giải Nobel. Nhưng
trong thực tế, Hộ phải chịu bao nhiêu cảnh buồn lo, cực nhục trong cuộc
sống. Hộ phải làm quần quật nhưng vẫn không kiếm đủ tiền để nuôi sống gia
đình, chạy chữa thuốc men cho một bầy con nhỏ quặt quẹo, ốm luôn. Là một
người đàn ông, một người chồng, một người cha có tinh thần tự trọng, Hộ rất
khổ tâm trước cảnh nhà túng thiếu, nhất là nhìn thấy Từ, vợ mình, người đàn
bà đã chịu nhiều đau khổ với người tình cũ, đến với mình đầy ân nghĩa, lại
phải chịu đựng, lầm lũi, vất vả quá. Lúng túng, khổ tâm vì chuyện gia đình. Hộ
không mấy khi được ngồi viết văn một cách thanh thản, thực hiện được
những điều mình ưa thích, mong muốn. Và bất chấp động cơ, ý nghĩa tốt đẹp,
Hộ phải viết một cách cẩu thả, bôi bác, đế kiếm tiền, tạo ra những sản phẩm
mà mỗi lần đọc lại “hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách mà
mắng mình như một thằng khốn nạn”. Những sự dằn vặt trong gia đình vì
nghèo, vì cảnh vợ con nheo nhóc, thêm sự bất mãn, sự xấu hổ trong việc viết
văn mà Hộ thiết tha và đặt bao nhiêu hi vọng, càng ngày càng biến Hộ thành
một người bẩn tính, thô bạo, bất cần. Hộ mắng chửi vợ con, say rượu liên
miên. Nhưng mỗi khi tỉnh lại, Hộ lại buồn bã, hối hận, càng thương vợ thương
con và tự trách mình.
Qua tác phẩm của Nam Cao, ta thấy những người tốt, những người có
mơ ước hoài bão, những người lao động trung thực, cần cù, sao mà khổ quá,
khổ cả về vật chất và tinh thần!
Trong hoàn cảnh như vậy, những người như Từ chỉ biết chịu đựng,
nhẫn nhục, và càng hiểu chồng, thương chồng. Nhưng Hộ là một nhà văn, Hộ
càng thấy hoàn cảnh sống thật là nặng nề, không lối thoát, một bi kịch thật sự.
Hộ có lúc nói ra miệng là vợ con làm khổ mình, nhưng trong thâm tâm anh
biết không phải như vậy. Chẳng biết trách ai, anh tự trách mình, xỉ vả mình,
gặm nhấm một mình nỗi bất bình và đau khổ.
Nhân vật chính trong tác phẩm là nhà văn. Cho nên trong tác phẩm,
thông qua cuộc sống và nhất là suy nghĩ của nhân vật Nam Cao đã đề cặp
trực tiếp đến một vấn đề mà ông thường xuyên quan tâm, đó là vấn đề sáng
tạo nghệ thuật, quan niệm và yêu cầu của ông về văn chương.
Hộ rất thiết tha với nghề văn. Sáng tạo văn chương là khát vọng, là lí
tưởng của đời Hộ. Lúc đầu, Hộ coi khinh những lo lắng tùn mùn về vật chất,
dồn hết tâm sức vun trồng cho cái tài mỗi ngày một thêm nảy nở. Hộ đọc,
ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Hộ biết đi vào
nghề văn sẽ nghèo, sẽ khổ, nhưng Hộ chấp nhận. Văn chương cũng mang lại
cho Hộ niềm vui không gì sánh được. Mỗi lần Hộ tâm sự với vợ nhân đọc
được một đoạn văn hay:
« … Này, Từ ạ... Nghĩ cho kỉ, đời tôi không đáng khổ mà hóa khổ, chính
tôi làm cái thân tôi khổ, tôi mê văn quá nên mới khổ. Ấy thế, mà tuy khổ thật,
nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa
chắc tôi đã đổi. Tôi cho rằng: những khi được đọc một đoạn văn như đoạn
này, mà lại hiểu được tất cả cái hay thì dẫu ăn một món ngon đến đâu cũng
không thích bằng. Sướng lắm! Sao thiên hạ lại có người tài đến thế?”
Theo Hộ, một tác phẩm thật có giá trị, tác phẩm Hộ mong viết được
trong cả một đời văn của mình, không thể chỉ có giá trị địa phương thôi,
không chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội, mà “Phải vượt lên trên tất cả các
bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải
chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau dớn lại vừa phấn
khởi. Nó ca tụng lòng thương, tính bác ái, sự công bình. Nó làm cho người
gần người hơn”
Chắc chắn đó cũng là mong ước, là yêu cầu của Nam Cao về một tác
phẩm hay, về văn chương. Văn chương không chỉ là nghề mà còn là nghiệp,
một sự ràng buộc, một nhu cầu nội tại văn chương, về phương diện sáng tác
cũng như thưởng thức, là nỗi đau mà cũng là niềm vui, là hạnh phúc, tự
nguyện của từng người. Văn chương là lĩnh vực của tài năng, của sự liên tài.
Tác dụng cao quý của văn chương là nhân đạo hóa xã hội và cuộc sống, làm
cho con người cảm thông với nhau, gần gũi nhau.
Nam Cao phê phán nghiêm khắc bệnh cẩu thả trong văn chương xem
những người viết văn cẩu thả là những tên bất lương. Ông viết: “Sự cẩu thả
trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong
văn chương thì thật là đê tiện”. Nam Cao cũng khẳng định rất rõ ràng viết văn,
làm nghệ thuật là tìm tòi phát hiện, sáng tạo: không ngừng, mang đến cho
người đọc một cái gì lạ, một cái gì mới, một cái gì độc đáo, mà điều này thì
chỉ có tài năng và công phu mới làm được. Nam Cao viết: “Văn chương
không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa
cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi,
khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”!
Đó là quan niệm rất chính xác, một yêu cầu rất cao về văn chương.
Nhà văn, nghệ sĩ tất nhiên phải biết “hành nghề”, phải am hiểu về kĩ thuật,
phải “khéo tay” ở một mức độ nhất định, nhất là trong một số ngành nghệ
thuật nào đó, chẳng hạn như điêu khắc, biểu diễn âm nhạc v.v... Nhưng nhà
văn, nghệ sĩ, về bản chất hoạt động mà nói, không phải là người thợ, cho dù
là thợ khéo tay, làm theo những kiểu mẫu có sẵn, theo “đơn đặt hàng” của
người khác. Văn chương nghệ thuật là hoạt động tinh thần, là “Thôi thúc bên
trong” là tình cảm, tư tưởng không nén nổi của người nghệ sĩ cất lên thành
lời, thành nhạc, thành tranh... Chỉ có thứ văn chương “gan ruột”, không viết ra
không được đó mới rung động được tâm hồn người khác, mới có giá trị.
Hơn nữa, trong lĩnh vực văn chương, chỉ có thật, chân thành, chưa đủ,
mà còn phải sâu sắc, phải mới, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo
những gì chưa có”. Không sâu sắc, không phát hiện và tạo được cái mới,
không có được một cách nhìn mới, tiếng nói mới, thì cũng không thể nào có
được một chỗ đứng thật sự trong thế giới nghệ thuật.
Theo Nam Cao những nguời cầm bút chì viết được những cái vô vị,
nhạt nhẽo, gợi những tình cảm nông cạn, “diễn một vài ý rất thông thường
quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi”, chẳng đem một
chút mới lạ gì đến văn chương, là những kẻ vô ích, những người thừa. Trong
tác phẩm, Nam Cao đã dùng các khái niệm người thừa, đời thừa theo một
nghĩa xác đinh. Thừa là không có ích, không cần thiết cho con người, xã hội.
Chỉ có những con người trung thực, những người có suy nghĩ đúng và có yêu
cầu về giá trị của con người trong cuộc sống, về sự sáng tạo đích thực, mới
biết thế nào là thừa, mới dám nhận và xót xa về tình trạng thừa của mình.
Người thừa, đời thừa là một nhận thức, một tiếng kêu về sự vô vị, bế tắc
trong cuộc sống.
Chủ đề này Nam Cao đã nêu ra dưới dạng này, dạng khác trong nhiều
truyện ngắn của mình, đặc biệt là sau này đã khai thác một cách rộng hơn,
sâu hơn trong tiểu thuyết Sống mòn.
Những nhân vật của Nam Cao, đặc biệt là những nhân vật trí thức,
thường sống nhiều với nội tâm. Để trình bày đời sống bên trong của nhân vật,
có khi tác giả trực tiếp dùng biện pháp miêu tả tâm lí, nhưng lại hay để cho
nhân vật tự bộc lộ, tự nói với mình, “độc thoại bên trong”. Trong Đời thừa,
Nam Cao cũng kết hợp hai biện pháp: miêu tả những hành động cử chỉ của
nhân vật, quan hệ, lời ăn tiếng nói của nhân vật, đồng thời để nhân vật tự bộc
lộ, tự nói với mình (độc thoại bên trong). Chính do vậy mà tác phẩm mang
nhiều tính chất trữ tình, nhiều đoạn văn thật sự làm xúc động người đọc, vì
những sụy nghĩ chân thành, vì những nỗi đau của nhân vật và của chính tác
giả. Ở chiều sâu của Đời thừa, có một chất thơ từ niềm khát khao cái đẹp,
khát khao một cuộc sống trong đó con người biết thương yêu nhau và có thể
sống một cách xứng đáng, có ý nghĩa. Nam Cao hay nói đến Tsêkhốp, mong
viết được như Tsêkhốp. Ở Nam Cao, cũng có chất thơ, chất trữ tình, có nỗi
buồn, tình yêu thương xót xa đối với con người như ở Tsêkhốp. Và, cũng như
Tsêkhốp Nam Cao cảm nhận sâu xa ý nghĩa và bi kịch của cuộc đời trong
những cái tư tưởng chừng nhỏ nhặt, vô nghĩa hằng ngày ở xung quanh.
Những cảnh bực bội, thương tâm trong gia đình mà Hộ và Từ đã trải
qua, lòng tự tin đến ngông nghênh và sự chán chường, những ý nghĩ cao quý
và tầm thường luôn giằng xé tâm trí Hộ trong khi cầm bút, cũng là chuyện
thường tình, không có gì đáng nói, nhưng qua tài năng và tâm hồn của Nam
Cao đã trở thành nỗi đau, bi kịch của con người, của cuộc sống, nỗi đau và bi
kịch của con người thừa, của đời thừa. Tác phẩm của Nam Cao luôn luôn
khiến người ta chú ý hơn, nhìn sâu hơn vài cái bình thường, cái hằng ngày ở
xung quanh và ở chính mình, sống có ý thức hơn, nhân ái hơn, kéo con
người ra khỏi tình trạng nhỏ nhen, lố bịch, độc ác, tự bằng lòng một cách vô
lối, tức là làm cho người ta “bất an” như một nhà văn có tên tuổi đã nói về
chức năng của văn chương.
Đời thừa có một kết cấu rất tự nhiên. Thực chất đây là một loại truyện
không có cốt chuyện. Sự việc hầu như không có gì. Nhà văn có nói qua về
quá khứ bất hạnh của Từ, về quá trình Hộ và Từ quen biết nhau và nên vợ
nên chồng, về một buổi gặp gỡ giữa Hộ và các bạn làng văn, nhưng tập trung
chủ yếu vào suy nghĩ và nỗi khổ tâm củ Hộ vì không được thực hiện nguyện
vọng thiết tha của đời mình là viết văn, hoàn thành những tác phẩm thật có
giá trị như mình mong ước và tin rằng có khả năng làm được. Lẽ ra phải dồn
hết tâm lực cho văn chương, cống hiến cho sự nghiệp cao quý đã lựa chọn
tất cả những gì tốt đẹp nhất của mình, thì Hộ lại tất tưởi lo kiếm sống, luôn
luôn bị quấy rầy bởi cảnh gia đình nheo nhóc, túng quấn, do đó mà con người
cũng trở nên thô bỉ, hèn kém, mộng tưởng ban đầu cũng tàn lụi dần. Tâm
trạng của Hộ bị giằng xé một bên là khát khao sáng tạo, vươn tới những đỉnh
cao trong văn chương và, bên kia, là những đòi hỏi thực dụng, cấp bách của
cuộc sống gia đình vất vả, thiếu thốn hàng ngày. Đặc sắc và chiều sâu của
tác phẩm là ở sự giằng xé trong tâm trạng của Hộ, ở chất lượng những suy
nghĩ của nhân vật chính phát ngôn cho tác giả về cuộc đời, về sáng tạo văn
chương.
Có thể nói nhân vật trong Đợi thừa là một nhân vật - tâm trạng. Chất
thơ, chất trữ tình bàng bạc khắp tác phẩm do đấy mà ra.
Chiều sâu và sự mới mẻ của chủ đề, chất lượng suy nghĩ, chất thơ và
chất trữ tình đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho Đời thừa, cũng như cho
nhiều tác phẩm khác của Nam Cao có cấu tạo một cách rất tự nhiên, khiến
cho người đọc có thể trở lại nhiều lần với truyện ngắn của ông, dừng lại trên
từng ý, từng câu văn ông viết ra.
GS NGUYỄN VĂN HẠNH
B. LUYỆN TẬP
1. Hộ mạt sát mình là người thừa, đời thừa. Tại sao lại lựa chọn hai
tiếng sau để đặt cho tên truyện.
2. Bình giảng đoạn cuối truyện: “Đột nhiên Hộ nảy ra ý muốn lại gần (...)
hai hàng lệ đầm đìa tấm thương”
3. Phân tích những mâu thuẫn giằng xé nội tâm nhân vật Hộ để thấy
khả năng phân tích tâm lí nhân vật của Nam Cao.
4. Anh (chị) có nhận xét gì về giọng văn đặc sắc trong Đời thừa của
Nam Cao.
5. Ghi lại đoạn văn thể hiện quan niệm nghệ thuật của Nam Cao trong
Đời thừa. Anh (chị) hãy dùng chính tác phẩm này để làm sáng tỏ quan niệm
ấy của nhà văn.
CHÍ PHÈO
NAM CAO
A. BÀI VĂN
Chí Phèo giết Bá Kiến trong trạng thái tỉnh rượu hay say? Ý nghĩa cái chết của hai nhân vật Chí Phèo và Bá Kiến?
BÀI LÀM
Chí Phèo là nhân vật điển hình xuất hiện sắc của nhà văn Nam Cao
trong truyện ngắn Chí Phèo ra đời năm 1941. Đây là một người nông dân
cùng quẫn vốn lương thiện, hiền lành, tự trọng nhưng đã bị Bá Kiến cho đi tù
oan, bị lưu manh hóa, côn đồ hóa. Sau khi gặp Thị Nở, được hưởng tình cảm
yêu thương. Chí muốn trở lại lương thiện. Tuyệt vọng vì không thể hoàn
lương. Chí cầm dao đến nhà kẻ thù, sau khi đã nốc rất nhiều rượu. Vậy Chí
Phèo giết Bá Kiến trong trạng thái say hay tỉnh?
Theo tác giả miêu tả thì Chí đã uống đến hai chai rượu. Cũng theo
truyện thì Chí rắp tâm đến nhà thị Nở “để đâm chết cả nhà nó. Chí có ý định
đó vì Thị Nở nghe lời bà cô của thị, đã cự tuyệt quan hệ với Chí Phèo. Nhưng
rồi Chí không đến nhà người tình bội bạc mà lại đến thẳng nhà Bá Kiến. Nhà
văn đưa ra lời bình: “Những thằng điên và những thằng say rượu không bao
giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định làm”. Căn cứ vào những chi tiết đó,
ta có thể kết luận Chí Phèo xông đến và đâm chết Bá Kiến trong trạng thái
say.
Nhưng phân tích và kết luận như thế chưa đủ. Trước khi hạ thủ kẻ thù,
Chí đã nói những lời rất tỉnh táo. Chí nói ba câu rất gọn và rõ. Một câu khắng
định quyết liệt: “Tao muốn làm người lương thiện!”. Một câu hỏi uất ức: “Ai
cho tao lương thiện?”. Rồi một câu phủ định đau xót: “Tao không thể là người
lương thiện nữa”. Chí Phèo muốn. Chí Phèo hỏi và Chí Phèo hiểu mình
không thể trở thành người lương thiện được nữa với những vết mảnh chai
trên mặt, dấu vết của tội lỗi, của bao lần rạch mặt, ăn vạ, ức hiếp, gây rối.
Như vậy là Chí rất tỉnh. Vả lại lời văn của Nam Cao cho chúng ta thấy rõ khi
Chí Phèo uống thêm chai rượu nữa nhưng “càng uống càng tỉnh ra”. Tỉnh ra,
Chí buồn, khóc rưng rức rồi ra đi với con dao ở thắt lưng. Phải nói, theo cách
dẫn truyện Nam Cao, Chí Phèo đang tỉnh.
Do đó, người đọc hiểu Chí Phèo đã giết Bá Kiến trong trạng thái vừa
tỉnh vừa say, nhưng có lẽ phần tỉnh nhiều hơn.
Cái chết của hai nhân vật Chí Phèo và Bá Kiến có nhiều ý nghĩa. Thứ
nhất, nó tố cáo xã hội thực dân - phong kiến đã tàn nhẫn đẩy người cố nông
như Chí Phèo vào bế tắc, cùng đường không lối thoát. Chí Phèo vốn lương
thiện, có nhân cách. Chỉ vì sự ghen hão của tên bá hộ cáo già, anh trai làng
vô tội đó đã phải vào tù đến bảy, tám năm. Nhà tù của thực dân đã lưu manh
hóa con người lương thiện ấy. Rồi Bá Kiến tiếp tục đẩy sâu Chí Phèo vào
vũng bùn tội lỗi, biến anh thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Kết cục là Chí
Phèo tự sát sau khi đã đâm chết tên thủ phạm Bá Kiến. Anh chưa tìm được
lối thoát, một mặt không thể sống hung hãn, ngập trong rượu và máu như
trước được nữa, mặt khác cũng không thể trở lại con đường sống lương
thiện. Ý nghĩa khách quan của cái chết Chí Phèo là khi chưa được ánh sáng
cách mạng soi rọi thì cuộc đời người nông dân nghèo hèn trong xã hội cũ rất
dễ rơi và kết thúc bi thảm.
Cái chết của Bá Kiến và Chí Phèo còn nói lên sự phản kháng của con
người dưới đáy xã hội. Dù sự phản kháng này là manh động, liều lĩnh, đơn
độc nhưng cũng giáng một đòn chí tử, đích đáng vào kẻ có tội ác, đầu mối
của những bi kịch trong cái làng Vũ Đại khốn khổ. Kẻ gieo gió đã phải gặt
bão. Bá Kiến đã bị trừng phạt bởi chính người mà hắn đã đào luyện thành tên
tay chân đắc lực. Bá Kiến chết cùng với tội lỗi của hắn. Chí Phèo chết trong
người cố nông đáng thương, đáng giận ấy gục xuống trên vũng máu, chưa
phải là hết chuyện. Sẽ có thể có Chí Phèo con ra đời nếu xã hội bất công, xấu
xa ấy chưa thay đổi.
Đoạn kết thúc truyện Chí Phèo của Nam Cao là một bi kịch gợi nhiều xót xa. Chí Phèo muốn trở lại làm người lương thiện mà không được, trong cơn đau đớn tuyện vọng, Chí Phèo đã đâm chết kẻ thù là Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.
Anh (chị) hãy nêu cảm nghĩ của mình về cảnh kết thúc truyện Chí Phèo.
BÀI LÀM
Truyện ngắn Nam Gao trước cách mạng tháng Tám là thế giới của
những số phận bi thảm, nhưng bi kịch đầy xót xa của những kiếp dân cày
cùng cực trong xã hội thực dân phong kiến. Chính ở đó, tôi đã gặp, đã biết và
đã khóc cho số phận con người - Chí Phèo (Truyện “Chí Phèo”) Người ta gọi
Chí Phèo là một thằng lưu manh, côn đồ một gã « đầu bò”, một quỷ dữ. Cả
cái làng Vũ Đại sợ Hắn, ghê tởm hắn như thể hắn chui từ địa ngục lên chứ
không phải ở tù ra. Mà nói cho cùng thì nhà tù thời ấy nào có khác gì địa
ngục. Cũng toàn những kẻ “đầu trâu mặt ngựa”, với những thủ đoạn, mưu mô
đủ để biến một chàng trai lực điền khỏe mạnh thành kẻ có bộ dạng “trông
gớm chết!”: đầu “trọc lốc”, răng “trắng hớn”, cái mặt “cơng cơng” chằng chịt
những vết sẹo ngang, sẹo dọc. Bi kịch của Chí Phèo có lẽ bắt đầu từ cái ngày
bà ba trẻ đẹp của ông Lý Kiến bắt hắn lên “bóp chân”, “xoa bụng”, “đấm lưng”
mà ông Lý lại được cái “khỏe ghen”. Vậy là làng Vũ Đại mất đi một anh canh
điền hiền lành rồi thay vào đó là kẻ lưu manh Chí Phèo. Hắn cứ sống vất
vưởng, côn đồ, quậy phá, ăn vạ, say sưa như thế cho đến ngày gặp Thị Nở.
Cứ tưởng rằng đau khổ của Chí sẽ chấm dứt, cuộc đời đang ở bên kia dốc
của Chí sẽ ấm lại với “bát cháo hành bốc khói”, với tình yêu thương quê mùa,
chân chất, đơn giản của một người đàn bà cũng không kém phần giản đơn,
quê mùa như thế. Nhưng trời ơi, đó lại là khởi đầu của một bi kịch mới - bi
kịch lớn nhất, thảm nhất, xót xa nhất trong đời Chí Phèo! Chính cái lúc Chí
tỉnh rượu, lúc chí cảm nhận được sống ấy, tình yêu ấy cũng là lúc Chí nhận ra
một sự thực đau lòng: cuộc đời không dang tay đón Chí, không chấp nhận
cho Chí làm lại “con người lương thiện”, không cho Chí một con đường về...
Đau đớn quá! Đoạn kết trong tác phẩm chính là cao trào của bi kịch ấy.
Chí lại uống rượu, nhưng càng uống, càng tỉnh, càng buồn. Cảm giác
“buồn” đã có một thời gian trong cuộc đời Chí bị chìm vào quên lãng, nay trở
lại trong tâm hồn hắn càng lúc càng thấm sâu để rồi trở thành nỗi đau tê dại,
điên cuồng của một con người bị chính xã hội loài người chối bỏ. Nỗi đau ấy
quá sức chịu đựng của Chí. Nỗi đau ấy dẫn Chí thẳng đến ngõ nhà Bá Kiến
rồi “xông xông đi vào” với con dao ở thắt lưng. Chí làm cụ Bá thấy bực mình.
Cụ chỉ muốn tống hắn đi cho chóng nên đã móc sẵn năm hào. Nhưng than ôi,
mấy lần năm hào của cụ thì nào có thấm tháp gì so với nỗi đau khổ triền miên
mà Chí Phèo đã từng chịu đựng. Chí đến gặp cụ với bộ dạng của một thằng
say nhưng với trí óc và tâm hồn của một người tỉnh táo - một con người vừa ý
thức được sự “không tồn tại” của mình. Chí dõng dạc nói:
- “Tao không đến đây xin năm hào”.
- “Tao đã bảo tao không đòi tiền”.
- “Tao muốn làm người lương thiện”.
Cả đời, chưa bao giờ Chí Phèo dõng dạc như thế, dứt khoát như thế,
kiêu hãnh và đầy tự tin như thế. Phải chăng anh canh điền 20 tuổi khỏe mạnh
và đầy lòng tự trọng của ngày trước đã trở về? Trở về để đòi lại thứ quí giá
nhất của đời mình. Nhưng muộn rồi, Chí Phèo ơi! Xã hội không cho hắn trở
về. In dấu trong suy nghĩ, trong tiềm thức của dân làng Vũ Đại, hắn là một
“con quỷ dử”. Và cho dù hắn đã tìm lại được lương thiện của mình người ta
cũng vẫn chỉ coi hắn là một thằng bất lương thôi. Người ta không thể nhét vào
đầu cái suy nghĩ: “Chí Phèo lại là người lương thiện”. Ngay cả Bá Kiến, đến
khi chết dưới lưỡi dao của hắn cũng chẳng thể ngờ được điều đó kia mà.
Chính vì thế, hắn không thể sống còn. Thương cho Chí Phèo, đau khổ cả một
đời, đến lúc chết cũng không thoát khỏi sự đau khổ ấy. Cái chết của hắn đầy
thê thảm, bi đát. Chí Phèo “giẫy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi”,
mắt “trợn ngược”, mồm “ngáp ngáp, nhưng không ra tiếng”... Tôi vẫn nghĩ đó
là cái chết đầy uất ức. Chí đã được ai trả lời cho câu hỏi lớn của đời mình
đâu? “Ai cho tao lương thiện?”. “Ai cho tao lương thiện?”... Câu hỏi ấy ngàn
đời còn vang lên. Chí vẫn còn muốn hỏi, muốn nói, muốn kể tội những kẻ đã
đầy đọa, đã bóp méo cuộc đời Chí ư? Những Chí Phèo ơi, Bá Kiến và cả làng
Vũ Đại làm sao trả lời câu hỏi ấy cho anh đây?
Hình ảnh Chí Phèo quằn quại trong vũng máu mãi mãi là nỗi thương
tâm của mọi người.
Cái chết của Chí Phèo cũng là đoạn kết cho tấn bi kịch của những
người dân cày cùng cực dưới xã hội “một cổ hai tròng”. Họ không chỉ là
những người cùng cực bình thường. Họ còn là những người bị lưu manh hóa,
bị tha hóa. Tôi chưa bao giờ muốn gọi Chí Phèo là một thằng lưu manh. Tôi
gọi anh là “người - nông - dân - bị - lưu - manh - hóa”. Trở thành lưu manh
không phải lỗi của hắn mà là tội của bọn cường hào ác bá đã đẩy con người
đến bước đường cùng không lối thoát. Nam Cao hẳn cũng buồn lắm khi
không thể mở ra cho nhân vật của mình một con đường, mặc dù ngòi bút của
ông khi viết về cuộc đời và cái chết của Chí Phèo có vẻ lạnh lùng, dửng dưng
như thể cái chết đó là một điều tất yếu vậy. Cái hay, cái tài của Nam Cao là ở
chỗ đã đưa một kẻ đang bị nhận chìm trong vũng bùn của tội lỗi - một con quỷ
dữ - vụt đứng dậy trong tư thế của một con người, đầy tình cảm của độc giả
từ cao trào của sự ghê tởm, căm ghét, khinh bỉ sang đỉnh điểm của lòng
thương cảm, xót xa mà không hề gượng ép chút nào. Sự chuyển đổi cảm xúc
ấy diễn ra đầy tự nhiên, không gò bó. Chính nhờ Nam Cao mà Chí Phèo đã
có được sức sống mạnh mẽ đến vậy trong lòng độc giả.
Mỗi lần đọc “Chí Phèo” là mỗi lần cảm nhận khác nhau về cảnh đời, số
phận của những con người trong xã hội cũ. Và mỗi lần như vậy, tôi lại càng
thương cảm hơn cho cái dáng vẻ ngất ngưởng, dềnh dàng bước ra từ trang
sách của Chí Phèo. Càng thêm căm ghét cái xã hội bất công cũ đã đầy dọa,
vùi dập, con người hóa côn đồ và cắt đứt đường hoàn lương của họ. Đau
lòng và đau đớn lắm dù biết rằng những gì cảm nhận được về cuộc đời cũ
vẫn còn ít ỏi lắm, nhỏ bé lắm, hữu hạn lắm!
Phân tích nhân vật Chí Phèo để làm nổi bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao.
BÀI LÀM 1
Khi Chí Phèo “Ngất ngưởng bước ra từ những trang sách của Nam
Cao, thì người ta liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi
là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào
xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán
sữa nhưng chị vẫn còn được là con người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và
linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ” (Giáo sư Nguyễn Đặng Minh).
Trong muôn vàn nỗi khốn khổ tủi nhục mà Chí đã nếm trải, không thể không
chú ý đến cái bi kịch cự tuyệt quyền làm người của y. Đó cũng là chủ đề
xuyên suốt tạo nên giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm “Chí Phèo”
“Bi kịch là tình cảm éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà
con người phải chịu đựng”. Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một
chuỗi dài bi kịch mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước.
Nhiều người khẳng định. Chí xuất hiện tiếng chửi, điều ấy đúng! Nhưng có lẽ
chưa đủ, Nam Cao thường giới thiệu với người đọc ở giai đoạn quan trọng
nhất của số phận nhân vật. Đọc những dòng dầu tiên của tác phẩm, độc giả
thấy xuất hiện một nhân vật chưa nêu tên, dường như chỉ có một hành động
một cuộc đối thoại. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp, nhờ những câu văn
ngắn, nhịp văn gấp tưởng chừng như các câu văn bị xé rách, bị cắt vụn mà
người đọc có cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại của Chí trong
cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn
loài). Chí chửi làng “cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người”...
Nhưng không ai lên tiếng cả. Người ta không lên tiếng vì người ta không công
nhận Chí là người. Cả làng Vũ Đại không ai hiểu Chí, giá có người để chửi
nhau, có lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi vì người ta sống - dù là để chửi nhau cũng
không thể chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi người đẻ ra y. Chửi người đẻ
ra mình thì cũng là chửi chính bản thân. Tiếng chửi của Chí thể hiện sự vật
vã, dẫu là vô ý thức, để tìm ra căn nguyên của đau khổ. Nhưng khốn khổ
thay, Chí càng chửi càng bế tắc. Giá như ngày ấy ở làng Vũ Đại có một người
lên tiếng, cũng như sau đó, Thị Nở “không chỉ biết cho mà còn biết giữ”... Giá
như... giá như... chỉ cần một lần giá như xảy ra, chỉ cần một trong hàng nghìn
người ở làng Vũ Đại coi Chí là người thì tấn bi kịch của đời Chí sẽ có cơ hội
không xảy ra. Nhưng chuyện gì đã xảy ra thì nó đã xảy ra... Nam Cao ngược
dòng thời gian trở lại với quá khứ để dẫn dắt người đọc, giúp họ thấu hiểu
quá trình bị cự tuyệt làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời, ông cũng
chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.
Chỉ là một “đứa con hoang”, “một anh đi thả ống lươn (...) một buổi
sáng tinh sương đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đục để
bên một lò gạch bỏ không, anh ta rước lấy và mang cho một người đàn bà
góa bụa”. Năm từ “một” tồn tại trong một câu văn dài, dường như đã báo
trước cuộc đời cô độc triền miên của Chí. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời,
Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí trở thành kẻ
không cha, không mẹ, cũng may cho đời Chí có lẽ vì lớn lên cùng với những
người lao động, Chí trở thành anh canh điền khỏe mạnh, biết tự trọng, “biết
không thích những cái gì mà người ta khinh”. Anh khát khao “có một gia đình
nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”. Nhưng đời đã không dành
cho Chí cái mà anh có thể với trong tầm tay.
Một cơn ghen vu vơ của cụ Bá đã đẩy Chí vào tù. Cái thế lực phong
kiến cấu kết với nhà tù thực dân tước bỏ quyền tự do của Chí gần bảy - tám
năm. Đây là lần thứ hai Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù đã biến Chí
thành con người khác. “Hắn về lần này trông khác hẳn”. Quyền làm người
của Chí đã bị cự tuyệt bởi nhà tù đã cướp đi của y một phần thân hình, ở tù ra
trông hắn như một thằng “sáng cả” (lính Tây), đầu trọc lốc, răng cạo trắng
hớn, mặt đen lại rất “cơng cơng”, (“câng câng” là còn ra cái mặt người), “hắn
mặc quần áo nái đen với cái áo tây vàng, cải ngực phanh ra đầy những nét
chạm trỗ rồng phượng với một ông tướng cầm trùy trông gớm chết”. Đó là
hình hài của kẻ côn đồ, hung hãn chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm
trước, hôm sau, Chí đã điên cuồng lao vào trả thù Bá Kiến bằng cách ăn vạ,
chửi đổng. Nếu như trả thù là cái quyền của người có thù (oán thì trả oán, ân
thì trả ân) thì Bá Kiến đã khéo léo tước luôn quyền ấy của Chí. Không trả
được thù, Chí lại từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ
mù quáng của Bá Kiến. Hắn chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ đòi tiền, để đâm
chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Từ đó, hắn chìm trong cơn
say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say.
“Hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiều hạnh phúc, làm chảy
máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”. Cứ như thế đời hắn trượt
dài. Nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Đời hắn đã
xem như đời bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ
Đại đều tránh mặt, mỗi lần hắn qua. Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự có
mặt của hắn ở trên đời. Có thể nói, trước khi gặp Thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt
quyền làm người đến cao độ. Nhưng có lẽ hắn không nhận ra điều ấy hoặc
nhận ra một cách vô thức, không tìm thấy lối thoát, Chí đành phải dấn thân
vào cuộc đời say rượu, chửi đổng, ăn vạ, đâm thuê chém mướn.
Người ta sẽ đỡ khổ, nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta
sẽ đỡ đau đớn khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết. Trước khi
gặp Thị Nở, Chí Phèo chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu
có biết chính xã hội thực dân phong kiến chẳng những đã sinh ra Chí mà còn
nuôi dưỡng tính côn đồ hung hãn của Chí bằng cách tước đoạt dân quyền
làm người của y. Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ tột cùng của sự tha hóa,
đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một con quỷ dữ thì
Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh của nhân vật một đốm lửa
nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước trở lại làm người lương thiện. Vai trò, vị trí
của Thị Nở trong tác phẩm là rất quan trọng. Con người “dở hơi, xấu ma chê
quỷ hờn”, lại là nguồn sáng duy nhất còn lại ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng
cõi đời tăm tối của Chí. Tình thương của Thị đã gợi dậy cái tính người mà lâu
nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở, Chí nghe được âm
thanh của cuộc sống mà lâu nay hắn không để ý. Sau bao nhiêu năm, bây giờ
hắn mới nghe tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi
chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh ấy gợi nhớ
trong Chí những ước mơ rất người đã có từ thở xa xưa. Lần đầu tiên Chí cảm
thấy buồn, rồi hắn “sợ tuổi già đói rét, ốm đau và cô độc cô độc còn sợ hơn
đói rét và ốm đau”. Bát cháo hành của Thị Nở đã đánh thức trong Chí những
tình cảm lành mạnh. Ăn cháo mà hắn thấy mắt ươn ướt. Chỉ cần một sự
thương yêu - dù là tình thương yêu của kẻ dở hơi, của một con người con gái
quá lứa lỡ thì, có dòng giống ma hủi, cũng đủ làm sống lại bản tính người đã
chết. Sức cảm hóa của tình thương vô biên. Nam Cao đã thực sự hóa thân
vào nhân vật để cảm thông, để chia sẻ những giây phút hạnh phúc rất người
của Chí. Thế là sau hơn hai mươi năm bị cự tuyệt quyền làm người, Chí
Phèo đã tự tìm cho con đường trở lại làm người. Chí đã tạo ra chiếc cầu nối
để làm hòa với thế giới người. Chiếc cầu ấy chính là Thị Nở. Thị có thể sống
chung với hắn thì làng Vũ Đại cũng có thể chấp nhận hắn. Nhưng bi kịch và
đau đớn thay cho Chí, Thị Nở không thể gắn bó với Chí. Vì theo bà cô Thị,
“đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha,
không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”.
Thế là một chút hạnh phúc nhỏ nhoi Chí đã có ở trong tay một lần nữa
lại bị xã hội kia cướp đoạt. Thị Nở là chiếc cầu vồng sau cơn mưa. Chí đau
đớn nghĩ ra rằng chẳng có chiếc nào đưa Chí trở về với cuộc sống con người,
xã hội đã cự tuyệt đến cao độ quyền được sống, được làm người của Chí.
Không ai cho Chí làm người lương thiện kể cả khi Chí đòi làm người lương
thiện. Chí không thể xóa được những vết sẹo đã vạch lên trên mặt mình. Chí
đau xót cảm thấy: “Không được nữa rồi chỉ còn cách này”. Chí còn cách chết
trong, hơn sống đục. Chí đã nói câu cuối cùng với Bá Kiến và cũng là tự nói
với bản thân mình. Hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí cho người đọc
thấy cuối cùng rồi Chí cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trả của Chí
là quá đắt. Cái chết của Chí là lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội vô nhân, là
lời kêu cứu khẩn thiết về quyền con người. Chí chết, mồm ngáp ngáp trong
vũng máu, nhưng Chí không tuyệt tự. Sức sống, sức mở và giá trị điển hình
của nhân vật này là vô biên. Chí không chỉ đại diện cho nỗi khổ của người
nông dân thời kì nước ta còn sống trong vòng nô lệ. Chí còn đại diện cho cái
phần khùng điên khuất tối mà sinh ra trên cõi đời này, ai cũng có thể có, nếu
không biết tự kiềm chế và nêu bị các thế lực hắc ám “nuôi dưỡng”.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí do nhiều căn nguyên. Có
căn nguyên từ xã hội và cũng có căn nguyên từ bản thân Chí. Khi quyền con
người còn bị xúc phạm thì bi kịch của đời Chí Phèo còn được nhắc đến như
một nỗi đau của toàn nhân loại.
HÀ THỊ ANH ĐÀO.
BÀI LÀM 2
Chí Phèo là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông
dân và là một kiệt tác trong nền văn xuôi trước cách mạng. Khác với đa số
truyện ngắn khác, Chí Phèo vừa phản ánh xã hội nông thôn trên bình diện
dấu tranh giai cấp vừa thể hiện vấn đề con người bị tha hóa. Qua hình tượng
Chí Phèo, một trường hợp nông dân bị lưu manh hoa. Nam Cao không những
đã miêu tả sâu sắc, cảm động cuộc sống đày đọa của người nông dân bị đè
nén bóc lột đến cùng cực, mà còn dõng dạc khẳng định nhân phẩm của họ
trong khi họ bị xã hội vùi dập đến mất cả hình người, tính người.
1. Trong làng Vũ Đại, Chí Phèo là một “thằng cùng hơn cả dân cùng”,
không cha không mẹ, không thân thích họ hàng, không nhà không cửa, không
tấc đất cắm dùi..., cả đời Chí Phèo “chưa bao giờ được chăm sóc bởi một
bàn tay đàn bà” đến nỗi mơ ước được chung sống với một người phụ nữ xấu
đến “ma chê quỷ hờn” cũng không đạt được. Chí Phèo sống cuộc sống tối
tăm của một con vật và chết cái chết thê thảm của một con người, số phận
khốn khổ của Chí Phèo cũng chính là số phận của cả một lớp người cố cùng
dưới đáy xã hội nông thôn Việt Nam cũ.
Từ tuổi thơ “bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ” đến tuổi
thanh niên “làm canh điền cho ông Lí Kiến”, Chí Phèo sống cuộc sống lao
động cực khổ của người cố nông ở nông thôn. Quãng đời lương thiện ấy
chấm dứt khi Chí bị lão Lí Kiến cho giải lên huyện rồi đi ở tù.
Sau 7, 8 năm biệt tích trở về Chí đã hoàn toàn thay đổi. Hắn trở nên xa
lạ với dân làng Vũ Đại và cùng xa lạ với bản thân. Hắn không còn là người
nông dân lao động nữa mà là phần tư bị loại ra ngoài xã hội loài người. Dù
vậy, hình tượng Chí Phèo không phải là ngẫu nhiên, cá biệt xã hội thực dân,
phong kiến trước đây không hiếm những trường hợp người lao dộng bị đề
nén bóc lột đến cùng cực đã quay lại chống trả bằng con đường lưu manh.
Bá Kiến đẩy Chí Phèo vào nhà tù (giai cấp địa chủ phong kiến còn chỗ dựa
nào tốt hơn là bộ máy cai trị của “nhà nước bảo hộ” trong việc đàn áp nông
dân!) nhà tù thực dân, cái nhà tù đã bắt giam người ta lúc lương thiện và thả
ra khi trở thành hung ác - đã giết chết cái phần người của Chí, biến Chí thành
Chí Phèo, một người nông dân hiền lành thành một con thú dữ. Hiện tượng bi
thảm ấy là có tính quy luật, tính phổ biến trong cái xã hội ăn thịt người đó.
Trong nhiều truyện ngắn khác của Nam Cao, ta đã gặp những họ hàng xa
gần của Chí Phèo: Trạch Văn Đoành (Đôi móng giò), cu Lộ (Tư cách mõ)... và
ngay trong Chí Phèo là Năm Thọ, Binh Chức, những tiền bối gần gũi của hắn.
Chí Phèo chết nhưng hiện tượng Chí Phèo phải chăng, sẽ hết? Nghe tin Chí
Phèo chết, Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và bỗng “thấy thoáng hiện ra một
cái lò gạch cũ bỏ không xa nhà cửa và vắng người lại qua...”. Câu chuyện kết
thúc ở đó. Sau này Thị Nở có tìm đến cái lò gạch cũ và cho ra đời một Chí
Phèo con để “nối nghiệp” bố hay không, điều đó chưa có gì chắc, nhưng có
một điều chắc là: hiện tượng Chí Phèo chưa hết chừng nào bọn địa chủ
cường hào còn tác oai tác quái trên đầu dân lành không cho ai được sống.
“Tre già măng mọc, có bao giờ hết những thằng du côn!” Sức mạnh phê phán
của Chí Phèo trước hết là ở chỗ đã vạch ra thật hùng hồn cái quy luật tàn
bạo, khủng khiếp trong xã hội thực dân, phong kiến đó.
Đi vào cuộc đời người nông dân lưu manh hóa - vừa tiêu biểu cho số
phận cực khổ của người nông dân bị đè nén bóc lột vừa tiêu biểu cho sự tha
hóa đó phổ biến trong cái xã hội tàn phá tâm hồn con người - ngòi bút Nam
Cao đã đạt tới một sức mạnh phê phán mãnh liệt, sâu sắc ít có.
2. Nhưng giá trị độc đáo của Chí Phèo không phải chỉ ở đó. Vẽ nên
hình ảnh người nông dân lưu manh đầy thú tính, Nam Cao không hề bôi nhọ
nông dân mà trái lại, đã đi sâu vào đời sống tâm hồn của nhân vật để phát
hiện và khẳng định nhân phẩm đẹp đẽ của người nông dân ngay trong khi họ
bị rách nát cả bộ mặt người, giết chết cả tâm hồn người.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp trong chuỗi ngày
tăm tối dằng dặc của Chí Phèo. Thị Nở không phải đã khởi dậy bản năng sinh
vật ở nơi gã đàn ông Chí Phèo mà sự săn sóc giản dị, đầy ân tình cùng tình
thương yêu mộc mạc chân thành của người đàn bà khốn khổ ấy đã khiến bản
chất người lao động lương thiện trong Chí Phèo thức dậy. Lần đầu tiên sau
bao nhiêu năm, Chí Phèo mới lại nghẹ thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười
nói của mấy người đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá...
Những âm thanh quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy hôm
nào chả có, nhưng hôm nay bỗng vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo như
là tiếng gọi tha thiết của sự sống vẳng đến đôi tai lần đầu tiên tỉnh táo của
anh. Chí Phèo ăn bát cháo hành từ tay Thị Nở và bỗng nhận ra rằng cháo
hành ăn rất ngon. Hương vị cháo hành hay hương vị tình yêu thương chân
thành cảm động, của hạnh phúc giản dị mà thấm thìa, lần đầu tiên Chí Phèo
được hưởng? Lần đầu tiên Chí Phèo “mắt ươn ướt nước” và cười cái cười
“nghe thật hiền”. Giờ đây, Chí Phèo mới trở lại là mình, anh rưng rưng và bẽn
lẽn khi trở về với cuộc sống con người. Anh tha thiết được trở lại với xã hội
loài người, anh “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”
Lòng yêu thương, cái tính người cảm động đã thức dậy trong Chí Phèo,
phần sâu kín nhất trong tâm hồn, cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao
động bị che lấp, vùi dập bao nhiêu lâu vẫn không tắt. Xưa kia, Chí Phèo đã
từng mơ ước một cuộc sống hạnh phúc giản dị trong lao động. Tuy còn trẻ
trung, anh cũng phân biệt được tình yêu chân chính và thói dâm dục xấu xa:
bị gọi lên bóp chân cho “bà ba”, “anh chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Bản
chất trong trắng, lương thiện của người nông dân trong Chí Phèo đã bị bọn
cường hào và nhà tù thực dân ra sức bóp chết. Chí Phèo không chịu trách
nhiệm về tội lỗi của mình. “Trần trụi giữa bầy sói”, anh không thể hiền lành,
mà muốn sống anh phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều lĩnh,
gan góc, những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, “hắn
say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Chí Phèo gây tội ác một
cách vô ý thức, linh hồn của anh đã bị cướp đi rồi.
Nhưng hôm nay Chí Phèo không say. Tình yêu đã thức tỉnh anh và hé
mở cho anh con đường trở lại làm người. Anh hồi hộp, hi vọng. Nhưng con
đường ấy bị chặn đứng: bà cô Thị Nở không cho phép cháu bà “đâm đầu đi
lấy một thằng (...) chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ!”. Mọi người đã quen coi
Chí Phèo như một con vật và không công nhận anh là con người từ lâu rồi.
Thế là Chí Phèo rơi vào một bi kịch tâm hôn đau đớn. Bi kịch của một con
người bị cự tuyệt không được làm người. Chí Phèo uống và “ôm mặt khóc
rưng rức”. Anh lại xách dao đi, và như mọi lần, vừa đi vừa chửi.
Nhưng bước chân Chí Phèo hôm nay không hẳn là bước chân loạng
choạng của kẻ say. Anh đến thẳng nhà Bá Kiến chứ không rẽ vào nhà thị Nở.
Có thể vì anh say nên quên dự tính lúc ra đi và đi theo thói quen. Nhưng đúng
hơn là anh đã đi theo sự thôi thúc của lòng căm thù giai cấp vẫn âm ỉ chưa tắt
trong đáy khối óc u tối dày đặc này đã bùng lên. Quằn quại đau khổ vì tuyệt
vọng, Chí Phèo càng thấm thía tội ác của kẻ đã cướp quyền làm người, cướp
cả hình người, hồn người của mình. Trước Bá Kiến, Chí Phèo “chỉ tay vào
mặt” lão, dõng dạc đòi quyền làm người. Lưỡi đao căm thù của Chí Phèo đã
vung lên.
Không phải là một vụ giết người mới của một Chí Phèo lưu manh mà
đây là một hành động lấy máu rửa thù của người nông dân cùng khổ đã uất
ức vùng lên, vùng lên một cách cô độc, tuyệt vọng, manh động. Giết chết kẻ
thù, Chí Phèo cũng “chỉ còn một cách” kết liễu cuộc đời mình. Ý thức nhân
phẩm đã trở về. Chí Phèo không bằng lòng trở lại cuộc sống thú vật nữa.
Trước đây để bám lấy sự sống, Chí Phèo đã phải bán linh hồn cho quỷ, giờ
đây, linh hồn trở về, Chí Phèo lại phải thủ tiêu cuộc sống của mình!
Chí Phèo đã chết. Chết vì không tìm ra đường sống. Kẻ thù đã bị đền
tội, nhưng “tre già măng mọc, thằng ấy chết còn thằng khác”. Cuộc sống vẫn
tối tăm.
Qua Chí Phèo, Nam Cao đã như mơ hồ cảm thấy cái khốc liệt của mối
mâu thuẫn giai cấp ngàn đời giữa nông dân và địa chủ không gì có thể xoa
dịu, cái sức mạnh ghê tởm của mối căm thù giai cấp đang âm ỉ trong lòng trật
tự phong kiến nông thôn, càng nén xuống thì càng dễ nổ bùng không gì có
thể dập tắt.
NGUYỄN HOÀNG KHUNG
B. LUYỆN TẬP
1. Nhận định về tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, từ điển văn học có
viết: “Điều đặc sắc là khi miêu tả người nông dân lưu manh hóa, Nam Cao
không hề bôi nhọ nông dân mà trái lại, đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát
hiện và khẳng định nhân phẩm của họ, ngay trong khi họ bị xã hội cướp mất
cả nhân hình, nhân tính”.
Hãy phân tích nhân vật Chí Phèo để làm sáng tỏ ý kiến trên.
2. Vì sao Chí Phèo lại tự sát sau khi giết Bá Kiến? Từ bi kịch đó, ành
(chị) hãy nêu lên giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả của
truyện ngắn Chí Phèo. (Nam Cao)
3. Phân tích hai câu nói cuối cùng của Chí Phèo với Bá Kiến để cho
thấy rõ chủ đề của tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao)
4. Đọc truyện Chí Phèo (Nam Cao), anh (chị) thích nhất chi tiết hoặc
hình ảnh nào? Hãy viết một bài phân tích hoặc bình giảng về chi tiết, hình ảnh
đó.
5. Phân tích đặc điểm ngôn ngữ kể chuyện giai đoạn văn: “Hắn vừa đi
vừa chửi (...) cả làng Vũ Đại cũng không ai biết”.
6. Có người nhận xét: “Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã tạo thành ánh chớp
lên trong chuỗi tăm tối của đời Chí Phèo.. Thị Nở không phải khơi dậy bản
năng sinh vật mà bằng sự săn sóc giản dị ân tình cùng tình thương mộc mạc
của người đàn bà khốn khổ đã khiến bản chất lao động lương thiện trong Chí
Phèo thức dậy”. Hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua việc phân tích mối tình
Chí Phèo — Thị Nở để khẳng định cái nhìn nhân đạo đầy tin yêu vào con
người của Nam Cao.
7. Sách giáo khoa văn 11 nhận xét: “Ngòi bút Nam Cao vừa tỉnh táo,
sắc lạnh vừa nặng trĩu suy nghĩ và đằm thắm yêu thương”. Hãy chứng minh
điều đó qua đoạn văn cuối tác phẩm Chí Phèo (“Chí Phèo đấy hở” cho đến
hết)
8. Ý nghĩa của hình tượng ánh trăng và đêm trăng ở trong tác phẩm
Chí Phèo của Nam Cao.
9. Người ta nói rằng Binh Chức và Năm Thọ là tiền thân của Chí Phèo.
Anh (chị) hiểu điều đó ra sao?
Nhà thơ Trần Đăng Khoa cho rằng: “Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh. Để đạt được một lúc ba điếu ấy, đối với các thi sĩ vẫn là điều bí mật”.
Anh (chị) hãy bình luận nhận định trên. Liên hệ với thực tế Thơ mới 1932 - 1945 để làm rõ ý kiến của anh (chị).
BÀI LÀM
Có những bài thơ khi đi qua đời ta, giản dị và mong manh, với những
nhịp đập rất mực mảnh mai êm ái của trái tim, những rung động mơ hồ của
cảm xúc... nhưng đã để lại trong ta một nốt nhấn cứ ngân nga, ngân nga
mãi... Những nốt nhấn cảm xúc, ấy đeo đẳng, ám ảnh suốt một đời, làm ta
xúc động và trăn trở.
Phải chăng đó là những câu thơ hay, những câu thơ đã đạt được
những phẩm chất đích thực và phải chăng đó cũng chính là những day dứt
băn khoăn của người nghệ sĩ suốt một đời sống chết với thơ.
Trần Đăng Khoa, nhà thơ đã từng đem lại cho tuổi thơ chúng ta một thế
giới hồn nhiên, trong trẻo, tươi nguyên của trẻ thơ, đã tâm sự rất chân thành
về thơ: “Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh. Để đạt được ba điều ấy
đối với thi sĩ vẫn là một điều bí mật”.
Vâng, thơ luôn luôn là một sự bí mật, một thế giới luôn đem đến cho ta
những giây phút ngạc nhiên mới lạ đến ngỡ ngàng, một thế giới khác, nhưng
không hề xa lạ với cõi đời rất thực của chúng ta. Thơ mãi mãi là một sự bí
mật nhưng không phải là thứ bí mật mặc chiếc áo huyền bí, cao siêu, mà trái
lại nó rất giản dị, giản dị mà vẫn gây xúc động ám ảnh đến không ngờ.
Có những nhà thơ, khi bước vào con đường thơ ca, đã trải lên trên đó
không biết bao nhiêu mĩ từ lóng lánh, những ngôn từ óng chuốt hoa mĩ,
những cách đặt từ câu dáng dấp tân kì... mà quên mất rằng cái lỏi đích thực
của thơ ca không nằm ở cái bề ngoài chải chuốt ấy, nó đọng lại ở bề sâu cảm
xúc, ở sự chân thật của trái tim, tâm hồn của nhà thơ. Khi nhà thơ xúc động
chân thành đến tận đáy tâm hồn, anh sẽ sáng tạo nên được được những vần
thơ hay, những vần thơ ấy đôi khi không cần đến vẻ cầu kì bên ngoài mà vẫn
rung động lòng người. Đó là thơ giản dị. Để đạt được đến độ “giản dị” có lẽ
nhiều nhà thơ đã phải trả giá bằng cả cuộc đời mình.
Giản dị là một yêu cầu, một phẩm chất không thể thiếu đối với nhà thơ
hay và đó cũng là một quá trình lao động nghệ thuật hết sức cay cực của bao
nhà nghệ sĩ. Cái giản dị của thơ cũng như cái duyên thầm của một người con
gái đẹp, nó không trang sức mà vẫn lấp lánh ánh sáng của vẻ đẹp toát ra từ
bên trong. Nhà thơ không thể đánh lừa độc giả bằng những ngôn từ hoa mĩ
hào nhoáng bên ngoài để che đậy sự trống rỗng vô hồn trong cảm xúc và
trong suy tưởng. Cái lớp vỏ sặc sở bên ngoài chỉ là sản phẩm của những
người thợ khéo tay, những người thợ thơ mà thôi. Trong khi đó, thơ không
phải là một thứ nghề, một thứ công việc đơn thuần. Chỉ riêng những tỉa tót
khéo léo, những kĩ xảo thì không thể làm nên thơ và càng không phải làm nên
thơ hay. Những bài thơ hay phải đạt đến độ giản dị, độ trong suốt, thứ ánh
sáng trong suốt đã được tinh lọc qua bảy sắc cầu vồng. Nhà thơ, khi đứng
trước trang giấy trắng chỉ có thế làm nên thơ với những xúc cảm chân thật hết
mình, của chính mình. Cảm xúc chân thật, tự nó sẽ gợi nên thơ, nó không
cần sự hào nhoáng giả tạo, không cần kêu gọi, ồn ã. Thơ tự đến khi nhà thơ
sống hết mình với bao nhiêu xúc cảm đang bề bộn trong lòng. Có phải thế
chăng mà mỗi khi đọc lên bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên, dù không hề tìm
thấy dấu vết của một sử dụng nghệ thuật nào, lòng ta bỗng như chùn xuống,
một nỗi buồn thật thâm thìa, len lỏi trong ta. Nỗi buồn ấy tỏa ra trên những lời
thơ thật chân phương hồn hậu:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Và lắng lại trên những cảnh tưởng xót xa, ám ảnh:
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”...
Bài thơ kết lại trong một nỗi buồn thật u hoài và có lẽ nỗi buồn ấy sẽ
sống mãi với chúng ta bởi nó được thốt lên từ một tấm lòng thật sự thành
tâm, nén tâm hương mà thi sĩ Vũ Đình Liên dâng lên lớp người như ông đồ
có lẽ dễ làm cay mắt tất cả chúng ta. Mà nào có nhiều nhặn gì đâu, một bài
thơ thật giản dị, một giây phút xúc động của nhà nghệ sĩ mà tại sao nó cứ ám
ảnh mãi trong lòng người? Bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên có lẽ là một minh
chứng thật sống động cho sức sống của những vần thơ giản dị, những vần
thơ được cất lên với tất cả tấm lòng thành tâm, với tất cả nỗi đau, niềm
thương tiếc của nhà nghệ sĩ nên ta cảm thấy như nó không cần những kĩ xảo,
những thủ thuật khéo léo nào. Giản dị trong thơ đâu phải là một “kĩ thuật”, nó
tự nhiên đối với những nhà thơ thật sự có tâm huyết, và có tài.
Và chúng ta cũng không nên hiểu giản dị là một sự hời hợt, sự thô sơ.
Giản dị, chứ không giản dơn, tầm thường. Giản dị trong thơ như một thứ ánh
sáng được lọc qua bảy sắc màu rực rỡ. Nó được biểu hiện ở những vần thơ
thật cô đọng hàm súc: giản dị trong thơ không những là sự chân thật của cảm
xúc mà còn ở bề mặt của ngôn từ. Nhà thơ Xuân Diệu đã từng nói “Người
làm thơ, phải biết dùng im lặng, tức là phải biết viết một cách hàm súc”. Thơ
không cần sự dài lời, sự dông dài, lòe loẹt. Có những vần thơ như những
thoáng mong manh êm ái của cảm xúc, những rung động rất mơ hồ mà vẫn
ngân lên trong tâm hồn người đọc bao nhiêu nỗi niềm:
“Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”
Sự giản dị thoát ra từ cái lắc đầu thật đáng yêu của nhà thơ
“Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”
Câu thơ không hề có một phép tu từ nào để người ta phải mổ xẻ, phải
tìm kiếm, thế mà mỗi khi đọc lên, ta vẫn thấy đằng sau đó ẩn chứa rất nhiều
nỗi niềm, những nỗi niềm không thể toát lên thành lời.
Những nhà thơ lớn, những bút pháp lớn bao giờ cũng tâm niệm về sự
giản dị trong thơ. Sự giản dị ấy chính là sự giản dị chân thật của tình cảm
được biểu hiện trên bề mặt ngôn ngữ súc tích và cô đọng. Trong thơ, sự dài
dòng là điều kiêng kị. Sự ồn ào, khoa trương luôn đi liền với thứ chủ nghĩa
tình cảm to tướng mà hời hợt, không sâu. Sự tiết kiệm ngôn từ cho thơ, theo
tòi cũng là một sự giản dị trong thơ, và đó cũng chính là một băn khoăn, một
yêu cầu rất nghiệt ngã đặt ra đối với nhà thi sĩ.
Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, có những người khi đau khổ.
Họ khóc rất to, ồn ào nhưng sau đó, họ quên đi như chưa bao giờ từng biết
đến, nhưng cũng có những người, trước đau khổ biết nén chặt nước mắt lại
không cho nước mắt trào ra, và lúc ấy, nỗi đau càng nhân lên gấp bội. Nước
mát không trào ra nhưng nó mãi mãi gây xúc động trong lòng người. Sự giản
dị trong thơ, xét cho cùng cũng chính là một con đường để nhà thơ khiến cho
người đọc phải rung động, phải khóc, cười với những điều viết ra trên trang
giấy. Nhà thơ khi sáng tạo nên những đứa con tinh thần của mình, đều khao
khát hướng tới người đọc, đi tìm tri kỉ, tri âm, để từ những con chữ sẽ biến
thành những nhịp cầu đồng điệu.
Bởi thế nên, thơ của họ luôn khiến cho người ta phải xúc động. phải
trăn trở, nghĩ suy. Ai đó nói rằng: “Nghệ thuật chỉ làm nên những câu thơ, trái
tim mới là thi sĩ”. Quả vậy, thơ hay là thơ phải khiến cho con người ta phải
xúc động tận đáy lòng, khiến cho tâm hồn người đọc cũng bắt nhịp đồng điệu
với trái tim thi sĩ. Và muốn như thế, nhà thơ phải sống hết mình cho thơ với
bao nhiêu bộn bề cảm xúc của mình. Thơ muốn cho người ta khóc, trước hết
mình phải khóc, muốn làm cho người ta cười, mình phải cười trước đã... có
xúc động mãnh liệt, có tâm huyết với từng dòng chữ, từng lời thơ của mình
buông ra trên tờ giấy trắng, nhà thơ mới có thể viết nên những vần thơ bất tử.
Sự hời hợt cằn khô, giá lạnh của cảm xúc chỉ làm nên những trang viết cao
đạo, giáo huấn khô khan, xa vời với cảm xúc thơ. Thơ chỉ đến khi trong tim thi
sĩ xúc cảm dâng trào mãnh liệt. Đó là những lúc thăng hoa, những phút giây
thần hứng, có khi sáng tạo được những câu thơ hay không ngờ. Có lẽ Hàn
Mạc Tử cũng trải qua những phút giây như vậy để viết nên được những dòng
thơ tuyệt vời mà đến nay vẫn ám ảnh chúng ta:
“Thuyền ai đậu bến sống trăng đó
Có chớ trăng về kịp tối nay”
Câu thơ đau đáu một nỗi niềm mong đợi, một tia hi vọng mong manh
trong sự tuyệt vọng đến quặn lòng của thi nhân. Liệu rồi con thuyền chở đầy
trăng ấy có neo đậu được bến bờ ước vọng và liệu rồi tình yêu thiết tha nồng
hậu của thi nhân có tìm được ai chia sẻ? Con thuvền ấy có kịp chở về những
hẹn hò, mong nhớ; những đợi chờ khắc khoải mà thi nhân muốn gửi gắm đến
người con gái mình yêu? Câu thơ cứ như xoáy vào hồn ta đau đáu một nỗi
niềm! Có lẽ những vần thơ khắc khoải ấy đã thoát thai từ một trái tim yêu
đang tuyệt vọng không cùng của thi nhân. Những giây phút ấy, Hàn Mạc Tử
đã “vắt kiệt” bao đau đớn, bao mong nhớ, bao yêu thương tha thiết của mình
để dâng cho đời những vần thơ làm xao lòng người đến vậy!
Bản chất của thơ chính là sự bộc lộ sâu sắc của thế giới nội tâm. Thơ,
suy cho cùng là tiếng lòng của thi nhân được cất lên từ một sự dồn nén cảm
xúc đến cao độ. Nhà thơ lắng nghe những nhip đập của trái tim mình và viết.
Khi anh ta đi tận cùng mình, sống hết mình với những gì mình định viết, anh
ta sẽ tìm gặp được tri âm sẽ làm cho người ta xúc động.
Dĩ nhiên thơ không chấp nhận sự xúc động giây lát, thoáng qua, hời
hợt, mà cao hơn nó phải vươn tới sự “ám ảnh”. Để đạt được sự ám ảnh trong
thơ, của thơ, thật chẳng giản đơn chút nào đối với người nghệ sĩ. Có những
bài thơ đi qua đời ta mà chẳng để lại một dấu vết gì, nó trôi tuột theo dòng
chảy thời gian và chìm vào sự quên lãng. Trái lại có những bài thơ, mới đọc
một lần đã thấy có cái gì mới lạ, càng đọc càng bị cuốn hút, càng bị ám ảnh.
Một câu thơ, một bài thơ ám ảnh là một câu thơ, một bài thơ đã để lại
trong tâm hồn ta những xúc động sâu xa, có thể niềm vui rạo rực, có thể là
nỗi buồn mênh mang, nhưng tất cả đều đầy ấn tượng. Nhà thơ Tố Hữu đã
từng nói: “Bài thơ hay làm cho người ta không còn nhìn thấy câu thơ, chỉ còn
cảm thấy tình người. Quên rằng đó là tiếng nói của ai, người ta cảm thấy như
là tiếng ca cất lên từ lòng mình, như là của mình vậy”. Đó cũng là một cách
nói về những câu thơ, bài thơ đạt được mức “ám ảnh”, đến và “làm tổ” được
trong tâm hồn độc gia. Trong đời tôi, cũng đã từng có những phút giây như
thế. Tôi cứ bị hai câu thơ của Xuân Diệu trong bài thơ Đây mùa thu tới ám
ảnh hoài:
“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì...”
Có phải vì tôi là thiếu nữ mà tôi thích hai câu ấy không? Hay chính là có
lúc tôi cũng đã từng đứng tựa cửa nhìn vào một khoảng không vô định trong
cái dáng vẻ đám chiêu, buồn buồn, nhất là vào những chiều thu khi gió heo
may lành lạnh đã về. Nhà thơ không biết người thiếu nữ ấy đang nghĩ ngợi gì,
nhưng kì thực lại là rất biết đấy. Tinh tế là vậy, sâu sắc là vậy, chỉ mấy chữ
“buồn không nói” và “tựa cửa nhìn xa” là đủ cho ta neo giữ suốt đời những
câu thơ như vậy rồi. Câu thơ kết lại một bài thơ, nhưng lại mở ra những chân
trời mới bao la, chân trời của sức gợi, của liên tưởng. Không hiểu có cái gì
giăng mắc trong hình ảnh thơ, có cái gì ẩn giấu đằng sau ánh mắt nhìn xa
xăm vời vợi ấy mà ta cứ cảm thấy một nỗi u buồn ám ảnh, một điệu hồn buồn
thương, xao xác không nguôi...
Một câu thơ ám ảnh là một câu thơ có sức gợi, nó kết thúc trên ngôn
từ, trên các phần thể phách, nhưng linh hồn của bài thơ, sức ảm ảnh của nó
cứ ngân nga mãi trong hồn người đọc. Đạt được điều đó tức cũng là đạt đến
chỗ tinh diệu của thơ. Câu thơ ám ảnh cũng đồng thời là câu thơ phải thật sự
tiêu biểu cho một trạng huống của cảm xúc nào đó. Và từ cái cảm xúc ấy,
người đọc có khi quên đi chủ thể sáng tạo, quên đi các ngôn từ, mà cảm thấy
nó như một tấm gương trong suốt, người đọc soi vào và thấy mình trong đó.
Đã có ai xa quê nhà mà không từng nhớ một con đường làng, một dòng sông,
một bóng hình thôn nữ, một trưa hè. Hàn Mặc Tử nhà thơ yêu thiết tha sự
sống, yêu thiết tha cuộc đời này đã nói hộ cho biết bao thế hệ một thoáng
chênh chao trong hoài niệm, trong xác cảm về người con gái của quê hương:
“Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”
Người em gái bên bờ sông lấp lóa ánh nắng ấy không còn là của riêng
nhà thơ nữa. Hình ảnh thật đẹp ấy đã trở thành một phần trong tâm hồn.
Trong kí ức của mỗi người xa quê.
Thơ là như thế, nào có xa lạ gì đâu nhưng vì sao vẫn luôn gây cho ta
bao ngỡ ngàng, thích thú, mới lạ. Ta không thể hiểu hết, mà chính những nhà
thi sĩ, những chủ thể sáng tạo tràn đầy tâm huyết ấy cũng không thể hiểu nổi
mình trên những trang thơ. Có ai làm thơ mà không muốn được nếm trải cái
hạnh phúc được bạn đọc xúc động, cảm thông. Có ai làm thơ mà không ao
ước thơ mình giản dị, xúc động và ám ảnh? Nhưng để đạt được cùng một lúc
ba phẩm chất cao quý ấy. Đối với nhà thơ vẫn còn là một điều bí mật, hoặc là
một công việc sáng tạo hết sức nghiệt ngã, khó khăn, chẳng dễ một chút nào
nếu muốn đi đến tận cùng của chân lí, của cái đẹp, của thơ, của nghệ thuật
thi ca.
Sáng tác thơ ca trong hành trình sáng tạo của nhà nghệ sĩ như một bản
khúc ca dang dở, chẳng có bao giờ kết thúc; bởi họ luôn bị đời sống ám ảnh,
trái tim họ luôn luôn trăn trở, thao thức, luôn luôn tự vượt mình để hiến dâng
cho đời những vần thơ đẹp nhất. Sẽ chẳng có ai đi đến tận cùng của cái đẹp,
và cũng chẳng có ai đi tới cái đích tận cùng là của thi ca. Giản dị, xúc động và
ám ảnh là ba phẩm chất cao quý nhất của thơ ca và cũng là điểm sáng vẫy
gọi nhà thơ trên con đường dẫn đến thơ ca đích thực. Chân lí của thơ ca nói
riêng và của nghệ thuật nói chung là sáng tạo.
Giản dị, xúc động và ám ảnh là những cái đích mà nhà thơ cần đạt tới,
là một sự bí mật muôn đời đối với nhà thơ trên con dường sáng tạo nghệ
thuật. Nhà thơ Trần Đăng Khoa, từ trải nghiệm của bản thân đã có một lời
nhận xét thật là thú vị và chuẩn xác vô cùng.
HOÀNG HÀ
Những ấn tượng sâu sắc nhất của anh (chị) về hình tượng người nông dân trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
BÀI LÀM
Có những tác phẩm văn học đọc xong, gấp sách lại và ta quên đi, khép
luôn cả trí nhớ của mình về nó. Cho đến lúc cầm lại nó, ta mới chợt nghĩ là
mình đã đọc rồi. Nhưng có những khi, có những cuốn sách như dòng sông
chảy qua tâm hồn ta, để lại một lớp phù sa, để lại những ấn tượng khắc chạm
trong tâm khảm. Như con người nông dân trong văn học hiện thực phê phán
1930 - 1945 đọc rồi thì không thể quên được, nó cứ ám ảnh, đeo đuổi ta mãi.
Người nông dân bước vào văn học từ những câu xa xưa, từ những áng
văn cổ điển. Đến với dòng văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 ta gặp
những chị Dậu, anh Dậu, cái Tí, cái Dần, Chí Phèo, Thị Nở, lão Hạc, anh
Pha... Họ đến và họ không ra di, họ bắt ta phải xót xa, cay đắng mãi với cuộc
đời của họ. Họ bắt ta phải ngẫm nghĩ mãi về ánh sáng lương tâm, lương tri
trong con người họ, về sự cựa mình để bứt ra cuộc sống ngột ngạt ấy của họ.
Sau cuộc sống của những con người ấy lại có thể khổ đến thế? Có
những lúc ta vẫn buột miệng nói: “Khổ như chị Dậu”. Cái nghèo khổ đè nặng,
ấn mãi cuộc đời chị xuống. Cuộc đời được nảy sinh, tồn tại trong túp lều như
nhà chứa tro hoặc chứa phân, cuộc đời “quanh năm không dám chơi không
dám nào” mà cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Cái nghèo khổ dồn nén,
chất chứa trong hai đồng bảy bạc sưu. Hơn cả sự nghèo đói, trong đêm đen.
“Tắt đèn”, chị đã quằn quại, chị đã đau cái nỗi đau lớn nhất của người mẹ bán
con. Ôi đứa con nuôi từ hòn máu nuôi đi, mang nặng đẻ đau, bán nó đi chị rứt
từng khúc ruột. Đó là một phần máu mủ, một phần xương thịt của chị. Tiếng
kêu trời của chị cứ bám lấy ta, cào cấu trong ta: “Trời ơi tôi bán cả con lẫn
chó và hai gánh khoai mới được hai đồng bảy bạc. Tưởng rằng đủ tiền nạp
sưu cho chồng thì chồng tôi khỏi bị hành hạ đêm nay. Ai ngờ lại còn suất của
người chết nữa, khốn nạn thân tôi! Trời ơi! Em tôi chết rồi còn phải đóng sưu
hỡi trời! Tôi biết đâm đầu vào đâu cho được hai đồng bảy bây giờ?” Đâm đầu
vào đâu? Câu hỏi của chị nhức nhối lòng ta. Ta phải thốt lên “Trời ơi là trời,
sống làm sao được đây?”. Quanh chị Dậu, quanh cái thẻ sưu, thực cả một
“thiên la địa võng bóc lột sự sống, bức tử sự sống” (Nguyên Tuân). Có ai
trong chúng ta khi bưng bát cơm ăn mà không nghẹn ngào nghĩ đến chị Dậu.
Có ai trong chúng ta khi sà vào lòng mẹ mà không thổn thức cùng với Tí “con
van thầy, con van u, thầy u cho con ở nhà chơi với em con”, “con ăn với ai,
con ngủ với ai”. Tí khổ lắm, bảy tuổi đầu Tí đã phải toan lo, bảy tuổi đầu Tí đã
phải chia lìa gia đình, cắp sách đến trường sung sướng, ta lại càng xót xa khi
nghĩ đến cái Tí. Đọc Tắt đèn rồi cứ đêm đêm, điện sáng lên, cái tối tăm, cái
cay cực của cuộc sống lại giày vò ta. Sống lại cuộc đời của họ ta lại thấy ngột
ngạt, tức thỡ.
Còn Chí Phèo, cái anh Chí Phèo ấy đã găm lại trong ta bởi cái kì dị,
quái gở của cả hình thức, lẫn cuộc đời và con người. Những cái đó, làm cho
tôi, lần đầu tiên tiếp xúc với tác phẩm, cảm thấy sợ hãi. Sợ hãi cái con quỷ dữ
ấy, sợ hãi cái thằng người say triền miên, sợ hãi, ám ảnh cái bóng Chí Phèo
vật vờ dưới chân hắn trong đêm trăng. Tưởng như ngửi thấy mùi rượu, thấy
được máu đang tứa ra trên khuôn mặt không tuổi ấy. Rồi cái sợ ấy ngấm mãi
vào người và dần dần, trở thành sự chà xát ghê gớm. Chua xót lắm chứ, cái
chua xót lớn nhất - Chí Phèo không được sống như một con người. Chị Dậu
khổ, nhưng chị là một con người, là người mẹ, là người vợ. Còn Chí Phèo,
hãy thử hỏi xem có nỗi đau nào lớn hơn thế nữa! Không có gì khốn nạn và
cùng cực hơn anh nông dân Chí Phèo ấy. Cho đến bây giờ, tiếng thét, tiếng
kêu của anh ta mới nguôi đi trong tôi “tao muốn làm người lương thiện”.
Không, tiếng kêu đó sẽ chẳng bao giờ dịu đi, nó vật vã cái phần nhân bản cao
quý của con người, nó giày vò cái phần lương tri, lương năng trong con
người. Nó không còn là khổ, là đau nữa, nó sâu, đâu tận trong tâm can ta.
Những con người nông dân ấy đã phải sống quằn quại trong lòng chảo
của xã hội xấu xa. Xã hội không cho họ con đường sống. Đọc rồi ta nhớ mãi
những con người, những cuộc đời, những số phận bi thảm, những kết cục
đau đớn của họ. Nhát dao của Chí Phèo cho đến bây giờ vẫn còn đau trong
tôi. Cái nhát dao kết liễu cuộc đời của anh Chí, và đó cũng là cái nhát dao
khoét sâu trong ta. Nam Cao đã để lại cho lão Hạc cào cấu ta bởi cơn giãy
chết điên dại của lão. Sao họ khổ đến thế, đến cái chết, cũng cứ phải khổ,
cũng cứ phải vật vả. Cái chết đớn đau, cái chết rùng rợn, bao nhiêu cái khắc
nghiệt của cuộc sống đã dồn cả hai tiếng đồng hồ giãy chết của lão Hạc. Và
cho đến khi đã vào hòm rồi, người nông dân vẫn cứ còn khổ (Chiếc quan tài -
Nguyễn Công Hoan)
Cuộc sống của những người nông dân ấy tăm tối đớn đau. Làm gì có
cảnh:
“Trên đồng lúa xanh rờn và ướt lặng
Lũ cò con chốc chốc vụt bay lên
Làm giật mình những cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa”.
(Anh Thơ)
“Cô nàng yếm thắm” ấy chợt đến rồi chợt đi, trong ta những chị Dậu,
Chí Phèo thì sống mãi. Ôi những người nông dân thuở ấy càng nghĩ càng
thương, càng đau. Càng sung sướng trong cuộc sống “Lúa mượt đồng ấm áp
làng quê” lại càng xót xa cho họ.
Họ không chỉ găm lại trong ta bởi cái khổ, họ còn trong ta bởi cái ánh
sáng lương tâm, lương tri trong họ, bởi sức sống ngầm trong con người họ,
cuộc đời cay cực, bất công, dù cuộc sống quá tối tăm, chị Dậu vẫn sáng lên
những phẩm cách trong sạch. Tôi nhớ mãi ánh mắt của chị điềm tĩnh “quét”
năm gian đình. Đó không chỉ là một ánh mắt, là nghị lực, là sức sống của chị.
Ánh mắt sáng rực nhân cách ấy rọi chiếu như tia đèn pha, dường như muốn
thiêu đốt những rác rưởi trong đình làng, trong xã hội. Ánh mắt đầy sức mạnh
theo sát ta trên chặng đường đời, góp sức đốt trụi những ý nghĩ thấp hèn,
những lời van vỉ, dựng ta dậy, xốc ta đi. Giữa bãi bùn lầy nhơ nhuốc của lòng
chảo “Tắt đèn”, chị là thứ “hương sen dã ngoại”. Một mùi hương không thể
lẫn, một mùi hương thoang thoảng thôi nhưng không bao giờ hết. Cuối tác
phẩm, chị Dậu rứt ra, lao vào đêm đen. Nhưng chính chị, bằng cuộc đời bị
dồn đến chân tường ấy, vẫn gieo trong ta một niềm tin mãnh liệt: dù hiện thực
có nghiệt ngã hơn thế nữa thì chị Dậu vẫn đẹp, vẫn trong sáng. Niềm tin ấy
hòa trong máu ta đốt thành niềm yêu say cuộc sống.
Có phải vì Chí Phèo được mô tả như một con quỷ, một con vật không
tuổi, nên cái phần “người” trong hắn làm ta bàng hoàng, chỉ một bát cháo
hành của thị Nở, một “đặc ân” mà cuộc đời ban cho hắn cũng đủ thức dậy cái
phần lương tâm, lương tri cái bản chất con người, trong lúc tưởng như nó đã
hủy diệt trong cái vỏ kì quái, gớm ghiễc. Không, nó vẫn sống và mãnh liệt. Tôi
nhớ mãi cái buổi sáng Chí Phèo tỉnh dậy, lần đầu tiên tỉnh dậy, lắng nghe âm
thanh cuộc sống, tâm hồn rung lên những nhịp rung mới lạ. Chí nhớ lại có
một thời Chí cũng có những ước mơ nho nhỏ, có một thời Chí cũng là người:
là “con người” trong Chí đòi một cuộc sống lương thiện, muốn hòa mình, gia
nhập cái xã hội bình dị của những người dân. Cái phần nhỏ bé nhưng kì diệu
ấy có sức đốt nóng ghê gớm. Cái ấn tượng ấy không mất di, nó thì thầm trong
tôi: Dù người ta có nói gì với bạn đi nữa thì bạn hãy tin rằng cuộc sống vẫn
đẹp và con người vẫn đẹp. Tôi lại thấy thoang thoảng đâu đây mùi cháo hành
thơm nồng thấy rạo rực như được sống cái buổi sáng mà Chí Phèo tỉnh giấc,
có tiếng chân, có tiếng người đi chợ về hỏi nhau...
Và lão Hạc nữa, lão Hạc có cuộc đời khổ cực, đến giọt nước mắt cũng
phải dồn hai gò má lại mà “ép” ra. Có những lúc đói, thiếu đào được củ gì ăn
củ nấy nhưng lão vẫn không bán một tấc đất, mảnh vườn của con. Giữa lúc
con người sống với nhau như thú vật ấy, cái tình của lão với con chó vàng
mới đẹp làm sao. Đôi mắt van vỉ của con chó là cái tình của lão Hạc đấy, nói
với lão Hạc là nói với chúng ta, và cái đẹp nhất, cái in đậm nhất trong ta chính
là cái tình ấy. Có một thời không dám đọc Lão Hạc vì nó khủng khiếp quá, vì
cái chết của lão ghê gớm quá. Nhưng, cái tình, cái đẹp trong câu chuyện ấy
cũng nhiều lắm. Cái ân tình trĩu nặng như chính mảnh đất lão đã sống, đã
chết để gìn giữ.
Tôi muốn giữ chặt lấy thân hình lão đang cào cấu, nắn thẳng lại những
cánh tay, bàn chân co quắp, và tôi thấy rõ ràng từ đôi mắt lão ứa ra những
giọt nước mắt hiếm hoi, tôi thấy đôi tay lão từ từ nhấc dậy vuốt ve con chó
vàng, tôi thấy miệng lão mấp máy dặn dò ông giáo canh giữ mảnh vườn. Lão
Hạc ơi, lão hãy yên lòng mà nhắm mắt!...
Trong đêm tối một tia sáng cũng đủ rạch màn đêm, trong khổ đau,
người nông dân vẫn giữ cái phần "người”, đốt sáng rực cái phần “người” ấy.
Chúng ta - người đọc - không thể nào quên được đôi mắt của chị Dậu, bát
cháo hành của Thị Nở, nụ hôn đẫm nước mắt của con Tí với em nó. Những
cái đó thấm mãi vị ngọt ngào trong ta.
“Bát cháo chan đầy nước mắt” của người nông dân xưa ấy, ta ăn và
thấy nghẹn ngào, đắng chát. Cái ý nghĩa họ sống khổ! Cứ bám riết lấy ta, bắt
ta đau. Và chính họ cũng đã đốt lên, hằn sâu trong ta những tia sáng cao đẹp
của nhân phẩm. Ta sống, ta lớn lên, mang theo mãi trong mình những ấn
tượng, những cảm xúc sâu sắc ấy. Và mỗi lần nghĩ về họ, những người nông
dân ấy, ta lại thấy tất cả còn mới nguyên như lần đầu ta bước vào đêm đen
“Tắt đèn”, như lần đầu tiên ta đến làng Vũ Đại...
Và họ đứng bên nhau, hòa vào nhau, trở thành một bức tượng son sắt
trong ta: Người nông dân thuở ấy.
TRẦN THỊ NGỌC HOA
Những đóng góp và hạn chế của văn học lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945.
BÀI LÀM
Trong suốt thời kì tồn tại, từ khoảng năm 1932 cho đến cách mạng
tháng Tám 1945, và mãi cho đến những năm gần đây, dòng văn học lãng
mạn Việt Nam đã chịu không ít những lời phê phán, có khi rất dữ dội. Nhưng
nói gì thì nói, dòng văn học ấy đã thuộc về nên văn học Việt Nam, một thời nó
đã hấp dẫn, tác động đến một bộ phận không nhỏ người thưởng thức văn
học, đặc biệt là lớp người trẻ tuổi có ít nhiều học vấn. Ngày nay, khi đã ở cách
xa dòng văn học ấy một khoảng thời gian gần nửa thế kỉ, ta có thể bình tĩnh
đánh giá nó thấu đáo hơn, công bằng hơn, và cũng độ lượng hơn.
Trước hết, ta không quên rằng văn học lãng mạn Việt Nam đã nảy sinh
và phát triển trong một hoàn cảnh nghiệt ngã: cả dân tộc đang nô lệ. Làm sao
nhà văn có thể thoát khỏi cái vòng kiềm tỏa khủng khiếp ấy. Đó là cái khoảng
thời gian mà mỗi người, khi bước vào đời, chỉ có quyền chọn một trong hai
cách sống: hoặc cứu nước, sẵn sàng vào tù ra: sẳn sàng dấn thân vào cái
chết, hoặc là cam chịu (một cách có ý thức hay không ý thức) cảnh cá chậu
chim lồng để chỉ được vui gượng và nếu buồn cũng chỉ là buồn riêng. Văn
học lãng mạn Việt Nam là tiếng nói, tiếng thở dài có thể cảm thông của một
lớp người vui gượng buồn riêng đó. Cho nên, giữa nhiều mục đích của việc
sáng tạo văn học, các nhà văn lãng mạn Việt Nam đã chọn cho mình một mục
đích được họ coi là tối thượng: Phụng sự nghệ thuật. Với Thế Lữ, nhà thơ
tiên phong của phong trào thơ mới, mục đích ấy là:
Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp có muôn hình, muôn thể.
(Cây đàn muôn điệu)
Trong văn xuôi, với Khải Hưng và Nhất Linh, nghệ thuật chỉ là “đẹp”
(tên một tiểu thuyết).
Thật ra, văn học lãng mạn 1930 - 1945 không phải là một dòng văn học
thuần nhất. Nó tập hợp nhiều người và một số nhóm mà chủ trương, có tuyên
bố hay không tuyên bố, đôi khi lại khác nhau. Nó bao gồm cả tiểu thuyết,
truyện ngắn, thơ, kịch. Tuy nhiên, nghĩ đến dòng văn học này, người đọc
thường hay nghĩ tới những tiểu thuyết của nhóm “Tự lực văn đoàn” (Chủ yếu
là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo) và phong trào thơ mới từ Thế Lữ, Lưu
Trọng Lư qua Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính đến Hàn Mặc Tử, Chế Lan
Viên. Điều đó có cái lí của nó: đó là những tác phẩm, những tác giả thực sự
có tác động đến người đọc và để lại dấu ấn sâu xa trong nền văn học nước
nhà, đó là những tác phẩm, tác giả hình thành nên những đóng góp và hạn
chế chủ yếu của nền văn học này đối với thời đại và văn học.
Văn học lãng mạn Việt Nam có những mặt yếu của nó. Nó đã không nói
đến những vấn đề nóng bỏng trước mắt. Nó né tránh nỗi khổ nhục của dân
tộc, những đau đớn của kẻ nghèo, những bất công giữa cảnh bần cùng với
cảnh xa hoa. Nó quên đi và làm cho mọi người quên đi, dẫu là trong phút
chốc, những đen tối nghiệt ngã của đời sống. Lật nhiều trang sách, đọc nhiều
bài thơ lãng mạn, người ta thấy trong cuộc đời hình như không có nỗi lo nào
ghê gớm ngoài nỗi lo không được yêu nhau, không có nỗi đau khổ nào đáng
sợ bằng nỗi đau của tình yêu bị cấm ngăn hay bị phụ bạc. Từ trên rừng xuống
dưới biển, văn học lãng mạn không cho người ta nhìn thấy những cảnh chen
chúc vật lộn để kiếm sống, để sống của con người mà đâu đâu cũng chỉ có
một sự hài hước đẹp đẽ của thiên nhiên từ cánh rừng già “Với giọng nguồn
hét núi” đến cảnh trăng lên thơ mộng trên biển Đồ Sơn, những lũy tre xanh
êm đềm rủ bóng những sườn đồi chênh vênh, những hang sâu động thẳm
thường làm nền cho những cuộc tình éo le và cảm động. Cái chất thi vị hóa
đời sống ấy phổ biến trong tác phẩm lãng mạn đến nỗi nhà văn hiện thực
Nam Cao từng phải kêu lên: “Nghệ thuật không cần phải làm ánh trăng lừa
dối, không nên là ánh trăng lừa dối...”
Muốn thoát li khỏi xã hội, văn học lãng mạn đưa người đọc vào cõi vũ
trụ của cá nhân, mà mỗi trang sách, mỗi câu thơ là một sự khám phá vào cái
vô tận vô cùng của nó. Cái tôi đam mê, cái tôi chán chường, cái tôi hào hứng,
cái tôi phản kháng, cái tôi cam chịu, cái tôi thắm tươi, cái tôi tật bệnh... bao
nhiêu là khía cạnh của cái tôi, đồng thời hay lần lượt hiện ra, lên tiếng đòi chỗ
đứng của mình dưới mặt trời như một cái thật khẩn thiết. Chưa bao giờ trong
văn chương Việt Nam, cá nhân con người được nói đến một cách tập trung
và quyết liệt đến như thế. Hình như, không có gì chính đáng bằng, đáng quan
tâm bằng số phận của cá nhân, hạnh phúc và đau khổ của cá nhân. Cá nhân
là tất cả và tuyệt đối, hưởng thụ cá nhân là chính đáng và cần kíp. Xuân Diệu
kêu gọi:
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi, tình non sắp già rồi.
(Giục giã)
Văn học lãng mạn tìm đến nhiều hướng thoát nhưng trước hết là đến
với tình yêu. Tình yêu ấy hầu như trở thành một thứ tôn giáo. Ngọc, trong
Hồn bướm mơ tiên của Khải Hưng, đưa tình yêu đến trước Phật đài để tôn
thờ nói bất vọng bất diệt trong cõi vĩnh hằng. Một nhân vật trong truyện ngắn
Trên sông Hương, cũng của Khải Hưng, thì nói: “Ngoài em ra, ngoài ái tình
của đôi ta ra, anh không còn cần một thứ gì khác nữa”.
Nhưng trong cái xã hội ngày ấy, nhà văn lãng mạn đi đâu cho thoát khỏi
bế tắc của đời sống? Chung quy lại vẫn là bóng tối, vẫn là cái tẻ nhạt và vô
nghĩa của đời sống. Văn học lãng mạn đã nâng cái buồn lên thành một tiêu
chuẩn của sự sống, sống là phải buồn và buồn cần phải chia sẻ. Từ cái buồn
thoáng qua, vô cớ thời Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, cái buồn trở nên mênh mông,
một nỗi “sầu vận cố” với Huy Cận, và càng trở nên bi thương, điên loạn với
Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử... đọc thơ lãng mạn, người đọc chìm ngập trong
nỗi buồn!
Nhưng tất cả chỉ có thế thôi, văn học lãng mạn đâu đáng được tồn tại
suốt mười lăm năm như thế và lập được một lớp người đọc khá đông, không
phải là những kẻ “mù lòa”, ưu ái và ủng hộ đến như thế.
Đầu tiên, thái độ thoát li xã hội, xét cho thấu đáo, có mặt tích cực của
nó. Văn học lãng mạn đã không hòa giọng vào cái hợp xướng hoàn ca của
những thứ cũng là gọi văn chương, ca ngợi một cách vô liêm sỉ nước “đại
Pháp” và sự văn minh khai hóa của nó trên đất nước Việt Nam này. Nỗi buồn
lâm li của văn học lãng mạn ít ra cũng giúp người ta biết buồn nếu chưa biết
làm gì khác trong cuộc sống nô lệ ngày ấy. Cái tâm trạng phủ nhận hết thảy.
“Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau” của Chế Lan Viên cũng đáng được thông
cảm. Trong những hành động phiêu lưu đầy chất anh hùng cá nhân của một
anh chàng Dũng trong Đoạn tuyệt và Đôi bạn của Nhất Linh, người đọc có thể
tìm thấy một thái độ không an phận, một tiếng vỗ cánh muốn bay lên của một
con chim biết chán chường những thức ăn béo bổ trong cái lồng son dành
cho mình. Một bài thơ thường được nhắc tới nhiều của thơ ca lãng mạn, bài
Nhớ rừng của Thế Lữ, đã nói được những ít cái cay đắng của cuộc đời nô lệ
và một khát vọng (dẫu là bất lực) về một cuộc đời tự do:
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi.
... Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!
Trong không khí oi bức ngột ngạt của xã hội thực dân phong kiến ngày
ấy, văn học lãng mạn đã cố gắng tìm được một lối thoát phù hợp với sức vóc
của mình: chống lễ giáo phong kiến. Có thể nói: Nhờ nhiều tác phẩm của
nhóm Tự lực văn đoàn, người đọc hiểu và cảm được tính chất phi lí tàn bạo,
cái đần độn, man rợ của nhiều thứ lễ giáo cho đến lúc ấy vẫn còn được coi là
bất khả xâm phạm.
Đó là thứ quan niệm hôn nhân “môn đăng hộ đối” không đếm xỉa gì đến
quyền sống của con người, mù quáng đến phi lí, vô nhân đạo (như trong Nửa
chừng xuân của Khải Hưng) là thứ chủ trương vừa tàn nhẫn vừa giả dối đến
khôi hài: cấm người quả phụ tái giá (như trong Lạnh lùng của Nhất Linh),
hoặc tục ép duyên dẫn đến hậu quả vô cùng tại hại (như trong Đoạn tuyệt của
Nhất Linh). Thái độ của các nhà văn lãng mạn đối với lễ giáo phong kiến là
không hòa hoãn. Với họ, lễ giáo phong kiến đã hết thời rồi, và sự tồn tại của
nó không chỉ là việc có hại mà còn hoàn toàn lố bịch.
Chống lại lễ giáo, văn học lãng mạn đã ca ngợi tình yêu. Chưa bao giờ
trong văn học Việt Nam, đặc biệt là trong thơ, tình yêu - một tình cảm đẹp của
con người - lại được nói đến với đầy đủ cung bậc như thế.
Sự phong phú của chủ đề tình yêu trong văn học lãng mạn may ra chỉ
có văn học dân gian (chủ yếu là ca dao) mới đuổi kịp. Trong Thi nhân Việt
Nam của Hoài Thanh có thơ của 45 nhà thơ thì hầu như chỉ có một người
không nói đến tình yêu! Cho đến ngày nay, những câu thơ, những bài thơ tình
ngày ấy không phải không còn làm rung lên nơi người đọc những tình cảm
đẹp và trong sáng, hoặc mộc mạc như:
Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
(Nguyễn Bính)
Hoặc say đắm mà hoài nghi như:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhẫn ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
(Hàn Mặc Tử)
Với văn học lãng mạn, thiên nhiên không chỉ là một phương tiện mà là
một chủ thể, một nguồn cảm hứng lớn, một đối tượng miêu tả chủ yếu. Có thể
nói, qua văn học lãng mạn, người đọc biết mở mắt ra để chiêm ngưỡng thiên
nhiên. Người ta rung động vì vẻ đẹp một mái cong trước tam quan một ngôi
chùa vùng Kinh Bắc, vẻ thước tha nơi rặng liễu ven hồ Tây một sớm vào thu,
vẻ xanh tươi của một ngôi vườn xứ Huế, vẻ mộc mạc của một giậu mùng tơi,
một thôn xóm đồng bằng, hay là một đồi chè thoai thoải ở vùng Trung Châu...
Bao người, chỉ nhờ đọc văn học - lãng mạn mà biết được và yêu mến một
bến đò Trung Hà, một ngôi chùa Long Giang, một con đê Yên Phụ, một làng
xanh Vĩ Dạ, một con đường đi chùa Hương thơ mộng như đường đến cõi
tiên... Ta cũng nên nhớ rằng, trong bối cảnh xã hội ngày ấy, tình yêu thiên
nhiên, thiên nhiên Việt Nam, không phải không gắn liền ít nhiều với một niềm
tự hào dân tộc chính đáng. Giữa lúc không ít kẻ hễ mở miệng là chỉ nói đến
Tây, ca ngợi người Tây, ca ngợi cảnh Tây, thì tình yêu thiên nhiên, sự ca ngợi
thiên nhiên và con người Việt Nam dẫu có lúc thi vị hay quá đáng đi nữa,
cũng là một sự trở về cội nguồn.
Không phải không có lúc ta coi nhẹ những đóng góp về nội dung của
văn học lãng mạn Việt Nam, thậm chí phủ nhận. Tuy nhiên về mặt hình thức,
văn học lãng mạn có những đóng góp mà ai cũng phải công nhận. Những tác
phẩm lãng mạn, đặc biệt là hai thể loại tiểu thuyết và thơ, đánh dấu sự cáo
chung của văn học có để đưa văn học Việt Nam vào thời kì hiện đại. Với sự
nhạy cảm trước cái cũ, cái gò bó khuôn sáo của hình thức cũ, văn học lãng
mạng mạnh dạn tìm cái mới. Phong trào thơ mới từ 1932 để cởi trói cho thơ
Việt Nam, tiếp nhận cái không khí mới trong thơ phương Tây nhưng lại tìm
đến với những thể loại dân tộc như thể lục bát, thể ca trù và cả các thể
Đường luật để đổi mới chúng, làm cho chúng có đủ sự uyển chuyển để diễn
tả được vô vàn tâm trạng của con người hiện đại. Cho đến nay, thơ Việt Nam
vẫn còn tiếp nhận và phát huy những thành quả của cuộc cách tân hình thức
thơ ca ấy. Người đọc sẽ không quên những bài thơ tiên phong như Nhớ rừng
đầy giọng phóng túng và hào hùng của Thế Lữ, tiếng thu tự do và đầy nhạt
tính của Lưu Trọng Lư...
Tiểu thuyết Việt Nam với những tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn, đã
đoạn tuyệt với kĩ thuật tiểu thuyết chương hồi vốn được coi là mẫu mực của
tiểu thuyết, cũng đã từ bỏ kiểu cú pháp biền ngẫu rườm rà, những đối chọi
thời Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc Phách. Một kỹ thuật kết cấu hiện đại, kết
hợp với một cú pháp hiện đại trong văn xuôi, đó là những đóng góp lớn của
tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam cho văn học nước nhà. Và từ những cách tân
trong thơ, tiểu thuyết... Văn học lãng mạn thực sự đã đẩy ngôn ngữ đến mức
hoàn thiện.
Văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 phát sinh và tồn tại
như một sản phẩm tất yếu của lịch sử. Ngày nay, thật khó mà làm một phép
cộng trừ nhân chia đơn giản để rút ra trong hai mặt đóng góp và hạn chế của
dòng văn học đó, cái còn lại là gì và bao nhiêu. Phê phán những hạn chế của
tác phẩm vàn học, của một nền văn chương là cần thiết. Song cái cần thiết
hơn là tìm cho được, với thái độ trân trọng đãi cát tìm vàng, từ tác phẩm đó,
nền văn chương đó, những gì cần thiết cho con người, góp phần nâng cao
tâm hồn con người. Những điều ấy, ta có thể tìm thấy trong văn học lãng mạn
Việt Nam, ít ra là trong rất nhiều tác phẩm. Vả lại, nền văn học nước nhà, tuy
có những khúc quanh, những điểm uốn, nhưng vẫn luôn là một sự tiếp tục.
VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
NGANG TRÁI
(Trích Âm mưu và tình yêu)
F.SILE
A. BÀI VĂN
Phân tích đoạn trích Ngang trái trong vở kịch Âm mưu và tình yêu của Sile.
BÀI VĂN
1. Friđrich Sile (1759 - 1805) vừa là nhà thơ vừa là tác giả kịch xuất sắc
của nền văn học Đức thế kỉ XVIII. Sile được ghi nhận như một tác giả lớn của
nền văn học thế giới với các tác phẩm kịch nổi tiếng: Những tên cướp, Âm
mưu và tình yêu...
Kịch của Sile là những tác phẩm mẫu mực của thể loại kịch.
Một trong những đặc điểm nổi bật về nghệ thuật xây dựng nhân vật
kịch của Sile là nhân vật thường trở thành người phát ngôn trực tiếp cho tư
tưởng tác giả, những tư tưởng tiên tiến của thời đại. Lòng nhiệt tình lên án
chế độ phong kiến và sự thẳng thắn trong việc phát biểu quan điểm chính trị
của mình đã khiến Sile thường để cho các nhân vật chính diện nào cũng thể
hiện y chí ngoan cường chống bạo quyền, lòng khao khát hướng tới tự do.
Điều ấy làm cho các nhân vật, bất kể xuất thân từ tầng lớp nào, giới tính và
trình độ văn hóa như thế nào cùng đều có những phát biểu và hành dộng
giống nhau. Đó là loại nhân vật mang đặc điểm “chung", đặc điểm thời đại rõ
rệt: tính khái quát cao, con cái “riêng”, cái cá thể hóa, mặt cá tinh mờ nhạt.
Khi các nhà nghiên cứu, phê bình nhận xét “xây dựng nhân vật theo kiểu Sile”
hay “Sile hóa nhân vật, chính là để nó đặc điểm này.
Mặc dù vậy, các vở kịch của Sile vẫn hấp dẫn, lôi cuốn sự chú ý của
công chúng trên thế giới hàng trăm năm qua. Bởi khát vọng tự do, ý chí quật
cường được hun đúc trong tư tưởng và tâm hồn nhà văn cũng như tài năng
nghệ thuật xuất sắc vẫn là những dấu ấn mạnh mẽ, nỏng bỏng và sục sôi
nhất trong toàn bộ cuộc đời nghệ thuật của Sile.
2. Âm mưu và tình yêu là tác phẩm tố cáo chế dộ phong kiến mãnh liệt
nhất của Sile. Xung đột của vở kịch được xây dựng trên cơ sở mâu thuẫn
giữa tình yêu trong trắng, thắm thiết của một đôi trai tài, gái sắc và những âm
mưu xấu xa, đen tối của triều đình phong kiến cùng bọn quan lại chóp bu.
Fecđinăng - con trai tể tướng Fôn Vante yêu Luizơ - con gái nhạc công
Mile, một thường dân. Đó là mối tình trong trắng, dũng cảm, bất chấp sự cách
biệt về địa vị xã hội. Tình yêu ấy vấp phải bao âm mưu đen tối: âm mưu của
tể tướng muốn con trai lấy phu nhân Minfo, nhân tình đã thất sủng của công
tước - người đang trị vì đất nước, để có điều kiện ngày càng leo cao trên
bước đường công danh, âm mưu của Đổng lí Vuôm bày cho tể tướng, gây
mối nghi ngờ cho Fecđinăng là Luizơ có tình ý với một kẻ khác. Fecđinăng
đau khổ uống thuốc độc và bắt Luizơ phải uống. Âm mưu đã làm cho tình yêu
tan vỡ.
Cảnh “Ngang trái” diễn ra tiếp sau khi tể tướng tới nhà nhạc công Mile,
sỉ nhục Luizơ, gọi nàng là con đĩ, hòng làm cho Luizơ vì tự trọng mà từ bỏ
tình yêu với Fecđinăng. Trước sự sỉ nhục ghê tởm đó, Luizơ ngất đi và nhạc
công Mile tát cho tể tướng một cái sau khi nói những lời: “Thưa ngài, đứa con
là máu thịt của kẻ làm cha... Lăng nhục con tức là tát vào mặt cha và một cái
tát phải được trả bằng một cái tát”. Tể tướng sai các nhân viên pháp đình lôi
Luizơ bêu trên giá nhục hình. Fecđinăng kiên quyết bảo vệ người yêu nhưng
tể tướng cũng cương quyết không nhượng bộ. Không còn cách nào khác,
Fecđinăng thét lên rằng sẽ phanh phui hết những hành động tàn ác, đê tiện
của tể tướng. Tể tướng chịu thua, hạ lệnh thả Luizơ.
Tên của cảnh “Ngang trái" do người soạn sách giáo khoa đặt. Đó là sự
ngang trái bởi xung đột cha con, mà một bên đại diện cho những âm mưu xấu
xa, đen tối, một bên là đại diện cho tinh thần khẳng khái bảo vệ tình yêu,
chống bạo ngược, cường quyền. Tình cha con đã bị mối xung đột gay gắt
trên phá vỡ đến mức không thể nào hàn gắn nổi. Đây là một cảnh ngắn,
nhưng đã thể hiện đầy đủ năm bước phát triển của một vở kịch và đặc điểm
độc đáo của nghệ thuật kịch Sile.
3. Ngang trái - một vở kịch ngắn
“Ngang trái” là một cảnh đầy kịch tính, vô cung căng thẳng, có đầy đủ
các bước phát triển của vở kịch. Phần giới thiệu: Luizơ đang ngất xỉu, tể
tướng hạ lệnh bắt nàng. Đây là nguyên nhân dẫn đến xung đột cụ thể cha và
con, giữa tể tướng và Fecđinăng, giữa âm mưu đen tối, xấu xa và tình yêu
trong sáng, chân thành, thắm thiết trong đoạn trích. Bước phát triển: nhân
viên pháp đình xông vào bắt Luizơ nhiều lần, đều bị Fecđinăng chống cự.
Fecđinăng van xin nhưng tể tướng không động lòng mà càng giận dữ, kiên
quyết. Cao trào: Fecđinăng đòi giết Luizơ, nhưng tể tướng không sợ mà vẫn
thách thức: “Đâm đi, nếu mũi kiếm của mày còn đủ nhọn”. Đột biến:
Fecđinăng tuyên bố phơi bày bí mật của tể tướng. Mở nút: Tể tướng thôi
không hạ lệnh bắt Luizơ: “Buông con bé ấy ra”. Năm bước phát triển của một
vở kịch dường như được tập trung trong một đoạn trích ngắn ngủi! Nghệ
thuật tạo dựng kịch tính (một trong những đặc điểm thể hiện tài năng xuất sắc
của Sile), được phát huy cao độ qua các bước xây dựng tình huống. Đầu tiên
là cách bố trí thế và lực của hai bên. Tình huống căng thẳng thể hiện trong số
lượng nhân vật cùng một lúc xuất hiện rất đông, dàn thành hai lực lượng đối
địch không cân xứng. Nếu bên Âm mưu là cha, là quận công, là các nhân
viên pháp đình, là số đông, nhiều tay kiếm, thì bên tình yêu là con, là dân
thường và một tay kiếm của Fecđinăng. Sự chênh lệch về thế lực hai phe
càng làm tăng sự đối lập gay gắt.
Sự căng thẳng của xung đột còn được tạo nên bởi những pha (kết hợp
các hành động) khác nhau, tăng dần mức độ quyết chiến. Lúc đầu, Fecđinăng
(chắc vì còn do dự trong việc đối đầu với cha) đã chỉ dùng đốc kiếm ngăn
cản, tiếp đến, vì mức độ dữ dội của xung đột tăng, chàng quay mũi kiếm đâm
bị thương mấy nhân viên pháp đình. Không thể ngăn cản được mức độc tàn
bạo và quyết liệt của tể tướng chìa mũi kiếm vào Luizơ, hòng mong cái chết
của nàng khiến tể tướng run sợ. Đây chính là đỉnh điểm của xung đột.
Ngôn ngữ nhân vật cũng được đẩy tăng dần mức độ căng thẳng, dâng
đến đỉnh cao với những lời lặp đi lặp lại, với mức độ gay gắt, quyết chiến
càng tăng dần. Đầu tiên, tể tướng không nói trực tiếp với Fecđinăng mà chỉ ra
lệnh ngày càng sôi sục, giận dữ đối với bọn nhân viên pháp đình: “Chúng bây
giúp tao một tay. Bắt lấy nó... tao phải nhắc lại lệnh của tao hay sao?... Quân
tôi đòi hèn mạt”. Còn Fecđinăng, đối với bọn quan quân rất kiên quyết: “Chớ
có đứa nào tìm cách động vào nàng... Thề độc có tử thần cùng tất cả mọi loài
ma quỷ, lùi lại!”, nhưng đối với cha lúc đầu còn nhún nhường, van xin... “Xin
cha hãy nghĩ đến bạn thân cha, cha ơi, đừng dồn ép con thêm nữa”. Trọng
lượng lời van xin tăng dần: “Đừng dồn ép con đến chỗ cùng đường cha ơi!”.
Đến lúc tể tướng đối thoại trực tiếp với Fecđinăng: “Tao muốn xem liệu chính
tao có phải nếm lưỡi kiếm này không?” thì Fecđinăng cay đắng thốt lên:
“Thượng đế đã lầm, đã lẫn, chọn tên đao phủ đê hèn lên làm tể tướng mạt
hạng”. Lời nói đối chọi nhau gay gắt: Lôi nói đi/ Cha vẫn cương quyết ư? Lôi
nó đi/ cha vẫn cương quyết ư? Lôi nó đi/ Thà tôi đâm lưỡi kiếm này qua xác
vợ tôi còn hơn. Thái độ của hai nhân vật chính cũng tăng dần mức độ gay
gắt. Tể tướng từ đe dọa tới sôi sục giận dữ, cường độ, khiêu khích rồi như bị
sét đánh, còn Fecđinăng từ giận dữ đến van xin, cương quyết rồi ghê gớm.
Các pha hành động, ngôn ngữ và thái độ nhân vật được dẫn dắt khéo léo,
hợp lôgic, dồn dập, làm xung đột kịch càng ngày càng gay gắt, thúc đẩy hành
động và sự kiện, làm cho nhân vật bắt buộc lộ rõ nét tính cách. Tất cả diễn tả
tài năng nghệ thuật của Sile trong việc xây dựng nghệ thuật kịch.
4. Xung đột cha - con, xung đột âm mưu và tình yêu.
Xung đột trong “Ngang trái” là xung đột cha - con, bắt nguồn từ một
mâu thuẫn sâu xa, lớn lao, toàn diện hơn được khái quát bằng hai từ âm mưu
và tình yêu. Xung đột giữa người cha - viên tể tướng, điển hình của tầng lớp
quý tộc phong kiến già cỗi, xấu xa và tàn bạo, luôn có ý thức cao về, địa vị và
quyền lực và người con - Fecđinăng, điển hình cho tầng lớp thanh niên quý
tộc và tư sản tiến bộ, giàu lí tưởng, nhiệt tình, trung thực, là xung đột giữa cái
ác và cái thiện, và cao hơn là xung đột giữa ý thức hệ phong kiến lỗi thời, trì
trệ với ý thức hệ của các lực lượng tiên tiến trong thế kỉ ánh sáng.
Qua xung đột và hành động kịch, tính cách hai nhân vật chính được thể
hiện tập trung. Là một viên quan giữ chức vụ cao nhất trong triều đình, nhưng
cuộc đời của tể tướng Fôn Vante đầy rẫy những âm mưu và hành động đen
tối. Dưới ngòi bút sắc sảo của Sile, bộ mặt tể tướng hiện lên như một kẻ
chuyên quyền, bạo ngược, nham hiểm, không từ thủ đoạn xấu xa, độc ác nào
để thực hiện mục đích của mình. Tham vọng quyền lực khiến Fôn Vante
không từ âm mưu và tội ác nào. Ông ta đã từng bí mật sát hại người tiền
nhiệm để leo lên địa vị tể tướng. Bây giờ, nhằm cung cố địa vị của mình, lấy
quyền làm cha, tể tướng tính kế ép Fecđinăng phải lấy phu nhân Minfo, bất
chấp tuổi tác và việc không có tình yêu giữa hai người. Và bằng mọi giá,
không từ cả mưu ma chước quỷ, tể tướng quyết tâm chia rẽ tình yêu giữa con
trai mình - Fecđinăng và cô gái bình dân nghèo, Luizơ. Tới nhà nhạc công
Mile, dùng vũ lực và quyền uy, để sỉ nhục Luizơ và ra lệnh bắt nàng, tại đây,
tể tướng hiện nguyên hình là một kẻ bạo ngược, cục cằn thô lỗ khi quát mắng
Fecđinăng: “Thằng kia, tránh xa con đĩ ấy ra!”, gọi Luizơ là con đĩ và đe dọa
bằng lời lẽ ghê rợn: “Ném đá cho nó tỉnh” khinh bỉ, chửi rủa bố Luizơ: “Lão
khốn kiếp! Giá treo cổ vẫn còn chỗ cho lão”. Tể tướng sẵn sàng dùng nhục
hình đối với dân thường dù họ không có tội. Fecđinăng đã van xin tể tướng
với tư cách một người con cầu khẩn một người cha, nhưng tưởng với tư cách
một người con cầu khẩn một người cha, nhưng tể tướng không hề có chút
rung động, thương tâm, tôn trọng con mình. Để bảo vệ tình yêu của mình và
để giữ trọn đạo làm con, Fecđinăng đã nhiều lần nhún nhường nhưng tể
tướng chỉ càng lấn tới. Tham vọng quyền lực, thói chuyên quyền độc đoán, ý
thức phân biệt đẳng cấp đã giết chết tình cảm cha con trong trái tim tể tướng,
khiến ông ta không hề mủi lòng trước sự van xin và không hề chùn tay trước
sự quyết liệt của con trai. Nhưng tể tướng lại có một chỗ yếu: rất sợ lộ bộ mặt
thâm hiểm của mình. Chính vì thế, ông ta đột ngột như bị sét đánh khi nghe
Fecđinăng thề sẽ phanh phui bí mật xấu xa của mình và chịu thua phen này:
thả Luizơ.
Fecđinăng là một chàng trai mạnh mẽ, nhiệt tình, cao thượng, có một
tình yêu trong trắng, chân thật. Vượt qua hàng rào đẳng cấp và những thành
kiến phong kiến hủ lậu, chàng yêu tha thiết Luizơ, cô gái trong trắng như thiên
thần. Có nghị lực, trung thực, tâm hồn nhạy cảm, trái tim nồng cháy,
Fecđinăng không chấp nhận cuộc hôn nhân do tể tướng sắp đặt với những
mục đích thấp hèn. Tình yêu giữa Luizơ và Fecđinăng là một tình yêu trong
trắng, tự do, không vụ lợi, một tình yêu tự nhiên, chân thành của hai trái tim
trẻ tuổi. Vì vậy Fecđinăng cương quyết bảo vệ tình yêu của mình, bảo vệ
người yêu trong bất kì hoàn cảnh nào. Mở đầu trích đoạn “Ngang trái” là cảnh
Fecđinăng chạy tới đỡ Luizơ đang bị ngất. Xuyên suốt cảnh là thái độ phản
ứng mạnh mẽ, quyết liệt của Fecđinăng trước lệnh bắt Luizơ của tể tướng và
hành động của các nhân viên pháp đình đối với nàng. Chàng đã giận dữ,
đứng ngăn giữa Luizơ và bọn chúng, đe dọa và đâm bị thương mấy đứa khi
chúng hung dữ xông tới. Tuy nhiên ở địa vị làm con Fecđinăng có những
nhún nhường nhất định. Vì bảo vệ người yêu mà phải chống lại cha, sự khó
xử của chàng được bộc lộ rất rõ. Đối với cha, Fecđinăng vẫn nhẹ nhàng, bình
tĩnh cầu xin, hi vọng được sự cảm thông. Đến khi Fôn Vante cuồng nộ tự
giằng lấy Luizơ, Fecđinăng vẫn không dám xông vào, chỉ cay đắng dùng lời lẽ
nhận xét tể tướng. Đã ba lần chàng nhắc câu hỏi, câu hỏi chứa đựng sự nhún
mình, cầu xin. Chỉ đến khi giành lại được Luizơ từ tay các nhân viên pháp
đình, Fecđinăng chĩa mũi kiếm vào nàng và tuyên bố: “Thà tôi đâm lưỡi kiếm
này qua xác vợ tôi còn hơn nhìn nàng bị cha sỉ nhục”. Gọi Luizơ là vợ, chàng
đã nhận trách nhiệm cao cả là phải bảo vệ nàng trước lũ côn đồ. Song tể
tướng không hề xúc động mà còn thách thức chàng. Đến lúc ấy, tuyệt vọng
“chàng đành ngước mắt lên trời với thái độ ghê gớm và xin chúa chứng giám:
“Tôi đã dùng hết mọi phương tiện của con người, bây giờ chỉ còn cách dùng
đến thủ đoạn của loài ma quỷ”. Gọi cách thức mình sẽ làm trong sự tuyệt
vọng là thủ đoạn của loài ma quỷ (tố cáo cha mình), Fecđinăng bộc lộ một
tâm hồn trong trắng, trung thực biết bao. Tình yêu mãnh liệt, tính cương trực
và sự khôn khéo của Fecđinăng đã giúp chàng giải thoát được Luizơ.
Tính cách và phẩm chất của Fecđinăng tạo sức lôi cuốn mãnh liệt, gây
nên những xúc cảm cao cả đối với người xem kịch.
Khi vở Âm mưu và tình yêu mới ra đời ở Đức, đã được sự chào đón
nồng nhiệt của lớp trẻ, bởi lẽ, hình tượng Pecđinăng đã hiện lên “cao hơn một
anh hùng thời đại”, là người phát ngôn cho cuộc nổi loạn của những người
con chống lại các ông bố trong trào lưu “Bão táp và xung kích”, cho thế hệ
thanh niên đang tuyên chiến với thói hư tật xấu và đạo đức giả của một chế
độ cũ đang hấp hối.
5. Nhân vật của Sile - người phát ngôn cho tinh thần thời đại.
Tư tưởng của Sile chi phối mạnh mẽ cách xây dựng nhân vật. Do nhiệt
tình trình bày những tư tưởng tiến bộ của thời đại nên các nhân vật của Sile
thường là “người phát ngôn cho tinh thần thời đại”. (Mac). Nhân vật mang tính
chung khái quát mà có phần thiếu chiều sâu cá tính như Ăngghen nhận xét:
Nhìn vật của Sile chạy theo lí tưởng mà quên mất thực tế. Các nhân vật của
Sile về ngôn ngữ, hành động thường được đẩy lên cao độ có lúc phi cá biệt
hóa. Lời lẽ của Fecđinăng có chỗ không phải là lời con nói với cha mà là lời lẽ
của những con người trung thực, quả cảm, phê phán cường quyền: “Thượng
đế đã lầm, chọn tên đao phủ đề hèn lên làm tể tướng mạt hạng. Trong vở
kịch còn có một câu khác của Pecđinăng: “Trong trái tim con có một nơi mà
tiếng cha không bao giờ vọng đến, con xin cha đừng bước tới chỗ đó!”.
Thẳng thắn và bạo liệt, nhưng không phải là lời lẽ của một kẻ làm con!
Fecđinăng thường nhân danh tình yêu để đối chọi với âm mưu. Đó là khát
vọng tự do, ý chí quật cường của tác giả và thời đại.
Âm mưu và tình yêu là môt tác phẩm mẫu mực về nghệ thuật bi kịch
Đức, trong đó “Ngang trái” là một cảnh độc đáo thể hiện tập trung nội dung tư
tưởng và đặc thù nghệ thuật của vở kịch. Hành động kịch trong trích đoạn
“Ngang trái” được xây dựng chặt chẽ, hợp lôgic, xung đột kịch gay gắt, ngôn
ngữ ngắn gọn, sắc sảo, giàu kịch tính. “Tác phẩm thực sự lôi cuốn mạnh mẽ
người đọc vì cái sôi sục của thời kì cách mạng lúc đó đang lan tràn”
(LAFFONT - BOMPIANI - TỪ ĐlỂN CÁC NHÂN VẬT)
BIỂN ĐÊM
V.HUY GÔ
A. BÀI VĂN
Phân tícn bài thơ Biển đêm của V.Huy gô
BÀI LÀM
1. Vichto Huygô là nhà văn của nước Pháp và nhân loại. Ông là người
đứng đầu trường phái lãng mạn Pháp. Với tấm lòng nhân ái cao cả, ông bênh
vực những người nghèo khổ chống lại chế độ độc tài của Napôlêông III. Bởi
vậy, ông bị lưu đày ở nước ngoài hơn mười chín năm.
Sự nghiệp sáng tác của ông rất đồ sộ. Nhiều tác phẩm của ông là kiệt
tác của văn học thế giới: “Nhà thờ đức bà Pari”, “Những người khốn khổ”,
“Năm chín mươi ba”, “Lá mùa thu”, “Tia sáng và bóng tối”. “Trừng phạt”,
“Chiêm ngưỡng”...
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của ông là niềm tin sâu sắc vào
phẩm chất cao quý của người lao động.
2. “Biển đêm” là một bài thơ trong tập thơ “Tia sáng và bóng tối” của
Vichto Huygô xuất bản năm 1840. Bài thơ viết về số phận những người thủy
thủ.
2.1 Hình ảnh người thủy thủ hiện lên thấp thoáng. Họ lên đường mang
niềm vui của những người được đến chân trời xa lạ:
Buổi ra đi vui sướng đường xa.
Nhưng niềm vui đó lụi tắt ngay. Họ đã:
Chôn vùi thân dưới sóng muôn trùng.
Cơn cuồng phong đã ném họ vào biển khơi muôn trùng. Và, sóng của
đêm như con thú dữ đã vồ lấy họ như vồ mồi. Thi thể họ trôi dạt muôn
phương. Số phận họ thật bi thảm. Hình ảnh: “Trán anh va vào đá nhô đầu” đối
đáp với hình ảnh lúc lên đường.
Sự đối lập đó đẩy nỗi bi đát đến tột cùng. Biện pháp nghệ thuật đó để
lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
2.2 Hình ảnh những người thân: những thủy thủ đã vùi thân trong biển
khơi, nhưng những người thân của họ vẫn đợi chờ, nhắc nhở.
2.2.1 Trên bãi biển, sớm chiều những người cha, người mẹ vẫn đợi
chờ, vẫn hy vọng, ngóng trông.
Các bậc cha mẹ vẫn tin là con mình sẽ về. Ngày lại ngày, họ sống trong
khắc khoải chờ mong.
Số phận họ mới thật bi đát. Người chết đi thì đã đành phận, nhưng còn
người sống thì chỉ còn là sự tồn tại của thể xác, tinh thần thì đã tê cứng, đúng
là:
Lá vàng còn ở trên cây
Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời
2.2.2 Và, những người vợ:
Chí đêm đêm giông bão gào bay
Những người vợ bơ phờ mỏi mắt
Kể về anh, khêu lớp tro tàn
Của lòng đau và của lò than
Đêm về, nhà vắng vẻ, những người quả phụ cô đơn cảm thấy thấm thìa
nỗi buồn. Còn những đêm giông bão thì nỗi buồn đó càng da diết: Trống vắng
bơ vơ. Họ ngồi bên lò than, “khêu lớp tro tàn”, “kể về anh”, nhắc lại quá khứ,
thời các anh còn sống, những ngày hạnh phúc. Giờ đây, thời gian đã phủ bụi,
tro tàn bếp lạnh nên họ cố “khêu lớp tro tàn” để lòng đỡ giá lạnh.
Nỗi đau của người chết, của người thân còn được tác giả đẩy đến mức
tột cùng. Tác giả muốn nói với ta về số phận của những người lao động:
Niềm vui thì ít ỏi, nỗi buồn thì mênh mông.
2.2.3 Cuộc sống vẫn trôi di. Người chết không còn biết gì. Cha mẹ, vợ
con sống trong buồn đau khắc khoải. Nhưng đó là nỗi đau riêng, còn cuộc
sống thì vẫn diễn ra bình thường.
Tối đến:
Nhà nhà vui bên lửa vây quanh
Có người vẫn còn nhớ các anh, “nhắc đến tên anh”. Trong họ, có
những người vợ trẻ của các anh. Không chờ đợi được, họ đã yêu người khác
nhưng trong đáy lòng, họ vẫn còn nhớ anh:
Trong khúc hát, tiếng cười, câu chuyện
Giữa cái hôn của cả người yêu.
Mọi người còn nhớ anh, nghĩa là các anh vẫn còn, các anh đang được
hưởng cảnh sung sướng:
Vua đảo này hay gặp chốn giàu sang?
Họ nghĩ rằng các anh đang sung sướng. Có ai biết đâu là cái các anh
đã vùi xác trong biển khơi.
2.2.4 Hoài niệm
Nhưng rồi các anh rơi vào sự quên lãng của thời gian. Đó là điều tất
nhiên. Cuộc đời biết bao lo toan:
Người người lo thuyền lưới, đi cày
Hình ảnh các anh mờ dần
Chẳng ai nhớ dáng hình anh nữa.
Ngay cả tên anh thì cùng với năm tháng, người đời cũng quên đi:
Chẳng còn gì ai biết nữa tên anh.
Các anh chỉ còn là bóng hình trong quá khứ:
Hòn đá trong nghĩa địa vắng tanh
Cả gốc liễu mùa thu trút lá
Và cả người hành khất bên cầu
Hát điệu buồn, ai nhớ anh đâu
Hòn đá trong nghĩa trang, cây liễu thu là những hình ảnh nói lên nỗi cô
đơn. Cô đơn thì dễ hoài niệm. Nhưng hòn đá và gốc liễu cũng không còn nhớ
anh đâu.
Người hành khất bên cầu là kẻ lang thang. Con người khốn khổ đó hát
điệu buồn, nói về những số phận bất hạnh. Nhưng trong điệu buồn đó, người
hành khất cũng quên cả các anh - Đoạn thơ này đẩy sự đau xót đến tột cùng.
2.2.5 Nỗi lòng tác giả:
Trong các khổ thơ trên, thông qua hiện thực miêu tả, nhà thơ đã nói lên
lòng mình. Nhưng phải đến khổ cuối cùng nhà thơ mới trực tiếp nói lên sự
đồng cảm:
Ôi! Đâu hết những người thủy thủ
Chim trong đêm bi thảm đời người
Xót thương cho những người đã chết và cảm thông với những người
thân, những bà mẹ sống trong nỗi kinh hoàng.
Và, trước biển, nhà thơ vẫn nhớ đến những người thủy thủ ra đi không
ngàv về
Phải chăng lúc triều lên sóng vỗ
Những tiếng người tuyệt vọng kêu la
Mỗi chiều về lại đến cùng ta
3. Mở đầu là hình ảnh người thủy thủ mang niềm vui lên đường, kết
thúc là hình ảnh các anh trong tiếng kêu la. Tác giả muốn nói gì với chúng ta?
Cuộc sống của con người lao động là vậy đó. Vui ít, buồn nhiều. Thật bi đát,
Âm hưởng của bài thơ buồn. Nhưng nỗi buồn không làm ta bị lụy. Vì sao vậy?
Cuộc sống đầy rẫy khó khăn. Để kiếm miếng ăn, con người phải chấp nhận
cái chết. Cuộc sống nghiệt ngã là vậy. Người đời phải hiểu điều đó, phải nhớ
những người đã chết cho hôm qua để có cuộc sống hôm nay.
Thông qua nghệ thuật, nhà thơ đã gửi đến chúng ta tấm lòng đồng
cảm, tiếng nói xót thương những kiếp người nghèo khổ.
Sức rung động của “Biển đêm’’ là ở tấm lòng và tài năng của Vichto
Huygô.
CÂU HỎI LUYỆN TẬP
1. Nêu xuất xứ của bài thơ?
2. Hình ảnh người thủy thủ trong hoài niệm của nhà thơ?
3. Cấu từ bài thơ?
ĐẢM TANG LÃO GÔRIÔ
BANZẮC
A. BÀI VĂN
Phân tích đoạn trích “Đám tang lão Gôriô” của Banzắc.
BÀI LÀM
1. Đám tang lão Gôriô được đặt vào một không gian, thời gian xác định
với những con người và sự kiện có thực xảy ra - một đặc điểm bút pháp hiện
thực của Banzắc, đem lại cho người đọc ấn tượng như thật về sự kiện được
kể.
Đó là ấn tượng về sự thê thảm, cô đơn, về số phận người nằm xuống -
một người cha tử tế và đứng đắn, có hai cô con gái giàu sang, là ấn tượng về
nỗi nhạt nhẽo, vô ơn của tình người và sự lạnh lùng đến tàn nhẫn của cái xã
hội tôn thờ đồng tiền. Đoạn trích có giá trị hiện thực và khái quát đến mức
điển hình. Nó góp phần quan trọng vào việc thể hiện chủ đề tác phẩm.
Bố cục đoạn trích có thể xác định như sau:
- Đám tang từ quán trọ của bà Vôke đến nhà thờ và cuộc hành lễ tại
nhà thờ.
- Đám tang đi từ nhà thờ đến nghĩa trang.
- Raxtinhắc sau đám tang.
2. Một đám tang vội vàng
Đám tang diễn ra trong một không gian, thời gian xác định. Lão Gôriô
chết tại quán trọ của bà Vôke, cuộc hành lễ tổ chức tại nhà thờ Thánh Êchiên
duy Mông và chôn cất tại nghĩa địa cha Lasezơ. Đấy là con đường đi đến nơi
an nghỉ cuối cùng của lão Gôriô.
Cảnh chiều tàn, không khí ảm đạm, vắng vẻ. Ánh sáng và màu sắc
càng thê lương trên nghĩa địa, khi cuối cùng, phía xa xa, trung tâm thành phố
đã lên đèn. Buổi lễ cầu hồn diễn ra dưới ánh sáng lờ mờ của một giáo đường
nhỏ, thấp và tối. Lễ chôn cất thực hiện trọng buổi Hoàng hôn ẩm ướt. Khung
cảnh thật rầu rĩ, thê thảm.
Đám tang còn thê thảm hơn với một thời gian nghi lễ vội vàng, gấp rút,
qua quýt: nghi lễ trong nhà thờ hết hai mươi phút, giờ đưa ra nghĩa địa là năm
giờ rưỡi, sáu giờ rưỡi hạ huyệt. Tác giả nêu sự chính xác đến từng phút.
Công việc vội vã, sơ sài, dường như còn thể hiện ở cả những dòng văn ngắn
ngủi: một bài thánh kinh, bài kinh siêu độ, bài kinh cầu hồn, bài kinh đọc lúc
hạ huyệt ngắn ngủi, đọc xong là nhà đạo biến ngay. Dường như không ai
nghe thấy những lời cầu kinh của các vị nhà đạo, tiếng của chú bé hát lễ,
tiếng khóc của người thân và bạn bè.
Người ta thường đo tính chất trang trọng của đám tang bằng kích
thước thời gian. Bởi đây là những nghi lễ cuối cùng đối với người đã khuất.
Nhưng đám tang lão Gôriô lại là một đám tang buồn thảm, vội vã, sơ sài, qua
quýt. Yếu tố thời gian đã được nhấn mạnh để làm tăng ấn tượng trên.
3. Một đám tang không người đưa tiễn
Nỗi bi đát thật sự, nỗi đau đớn tận cùng đối với số phận người ra đi là
đám tang không có người đưa đám, như nhận xét của vị linh mục. Kể làm gì
những kẻ khiêng đòn, phu đào huyệt, đám người nhà thờ. Một người cha tử
tế và đứng đắn, chưa bao giờ to tiếng, không hề làm hại ai, vậy mà đến lúc
nằm xuống, trong giờ phút “nghĩa tử là nghĩa tận” (tức nghĩa vụ cuối cùng với
một con người) con cháu chẳng một ai, không một kẻ thân thích kề bên. Vậy
mà lão Gôriô có những hai cô con gái! Hai cô con gái yêu quý mà anh đang
được đặt trên ngực lão Gôriô: cái hình ảnh thuộc về một thời mà Đenphin và
Anaxtazi còn bé bỏng, lúc hấp hối lão còn nhắc đến tên. Hai cô con gái sống
ở rất gần mà lúc ở nhà thờ, Raxtinhắc hoài công để ý tìm nhưng không hề
thấy. Hai cô con gái giàu sang mà ngay đến cả bài kinh ngắn ngủi cầu cho
ông cụ cũng do chàng sinh viên nghèo trả tiền.
Một “nhân vật” đặc biệt xuất hiện trong đám tang: hai cỗ xe không
người hiện diện của nó chỉ làm tăng nỗi bi đát của người đã khuất. Đây chính
là “người đại diện” cho hai nhân vật quan trọng nhất của đám tang: hai cô con
gái, những người thân cuối cùng, duy nhất của lão Gôriô. Rõ ràng, hai cô và
hai gia đình đều biết chuyện bố mất, nhưng họ đều “bận” không đến được, và
không hẹn mà cùng cử hai chiếc xe đến thay, không người, không tiền bạc.
Hai cái xe không diễn tả được việc vừa có mặt vừa vắng mặt của hai cô
con gái. Vắng mặt thật và có mặt giả. Nếu không có hai chiếc xe ấy, linh hồn
người cha xấu số đỡ bất hạnh hơn. “Nhân vật” hai cỗ xe không qua đã có khả
năng hùng hồn trong việc diễn ta sự nhẫn tâm vô bờ của con người trong
quan hệ máu mủ, ruột rà.
Còn có một sức mạnh vô hình ám ảnh dám tang lão Gôriô. Là nguyên
nhân của nỗi bạc bẽo của người đời, của người thân thích đối với người đã
khuất - đó chính là đồng tiền. Trong một đám tang, người ta ít nhắc đến tiền,
bởi ở đó, không khí thành kính với người đã khuất và nỗi đau thương của
người đang sống ngự trị tất cả. Vậy mà Banzắc đã không ngần ngại nhắc đến
tiền - biểu tượng của sự lạnh lùng, sòng phảng, trong đoạn văn rất ngắn này:
anh ta (Crixtôphơ) kiếm được mấy món tiền kha khả, những nghi lễ xứng
đáng với giá tiền bảy mươi quan, bài kinh ngắn ngủn... chàng sinh viên trả
tiền, hai gã đào huyệt mới hất được vài xẻn đất đã đòi tiền đãi công. Tất cả
các chi tiết này đã qui tụ lại hình ảnh tuy lạc lõng với đám tang nhưng có sức
mạnh chi phối quan hệ giữa người và người: tiền.
4. Một đám tang - chôn hai người
Đám tang đã chôn lão Gôriô, người cha bất hạnh. Nhưng không chỉ
như vậy. Một nhân vật có mặt suốt từ đầu đến cuối đám tang là Raxtinhăc. Đó
là một chàng sinh viên nghèo, sống cùng quán trọ với lão Gôriô, biết tường
tận về sự giàu sang cũng như sự nhẫn tâm của các cô con gái Gôriô và tình
yêu thương con cũng như sự bất hạnh đau khổ của lão. Lão Gôriô chết,
chàng một mình chạy đến báo tin cho các cô con gái, tự mình đưa quan tài
lão Gôriô đi làm lễ chôn cất và tự trả tiền tất cả. Trước sự tàn nhẫn, vô ơn của
những đứa con, sự lạnh lùng, sòng phảng của người đời, chàng đã nghẹn
ngào rơi nước mắt: giọt nước mắt... của một trái tim trong trắng, thứ nước
mắt rơi xuống mặt đất rồi từ đó lại vút lên trời cao.
Nhưng đấy lại là giọt nước mắt trong trắng cuối cùng của Raxtinhăc. Từ
đây, tính cách chàng đã thay đổi. Sự kiện cuối cùng này của tiểu thuyết Lão
Gôriô được tiếp tục ở những tiểu thuyết khác: Raxtinhăc chấp nhận lối sống
tư sản, tàn bạo, nhẫn tâm, và cố gắng bằng đủ mọi thủ đoạn xấu xa để ngoi
lên trong xã hội tư sản.
Do vậy, còn có thể nói, đám tang lão Gôriô cũng đã chôn vùi luôn cả
hình ảnh một thanh niên trong trắng, biết yêu thương, biết xúc động trước
những tình cảm chân thật của con người, biết căm giận cái ác, cái tàn nhẫn,
xấu xa... để chỉ còn lại một kẻ tán thành chính lối sống tàn bạo, nhẫn tâm,
sặc mùi tư sản ấy.
5. Yếu tố kì ảo duy nhất
Đoạn trích đã thể hiện tài năng của Banzắc trong việc sử dụng các chi
tiết hiện thực không chỉ mang ý nghĩa hiện thực sâu sắc mà còn có ý nghĩa
điển hình và khái quát cao. Bên cạnh những chi tiết đời sống chân thực như
chuyện cử hành tang lễ vội vàng trong một không gian chật hẹp, thời gian
ngắn ngũi, ai cũng nghĩ đến tiền bạc trong cái đám tang nghèo khó này, hai
cỗ xe không người đi đưa đám..., nhà văn đôi khi vẫn sử dụng yếu tố tượng
trưng, kì ảo. Đó là hình ảnh giọt nước mắt chân thực, trong trắng, đầy tình
thương của chàng sinh viên nghèo, giọt nước mắt rơi xuống đất rồi lại vút lên
trời cao. Một yếu tố kì ảo nhất trong vô số các chi tiết hiện thực chính xác. Nó
bộc lộ sự đánh giá và những tình cảm chủ quan của nhà văn bên sự khách
quan lạnh lùng của việc miêu tả hiện thực. Tất cả đã góp phần tạo dựng nên
bức tranh xã hội và tình người rất toàn vẹn, tinh vi và sâu sắc của Banzắc,
“bâc thầy của chủ nghĩa hiện thực”.
Về tác phẩm, chính Banzắc đã phát biểu: “Lão Gôriô, cuốn sách tuyệt
vời, nhưng buồn ghê gớm là buồn, để nói lên sự thật đầy đủ, phải vạch ra cái
đạo đức thối tha của Pari”. Chọn vấn đề cha con để miêu tả, Banzắc đã trình
bày bi kịch của lão Gôriô - một người cha - một bi kịch không chỉ có tính chất
cá nhân mà mang ý nghĩa xã hội. Sự tan vỡ của tình cha con là hậu quả của
một xã hội bị thế lực của đồng tiền thống trị. Vào giờ phút hấp hối, người cha
bị ruồng bỏ, “vua Lia của thế kĩ XIX”, nhận thấy tai họa của sự đổ vỡ gia đình,
cá nhân: “Tổ quốc sẽ bị diệt vong nếu như những người cha bị giày xéo dưới
chân xã hội, thế giới dựa trên tình cha con, tất cả sẽ sụp đổ nếu những đứa
con không còn yêu thương cha chúng nữa”…
Đọc “Hạnh phúc một tang gia” (Số đỏ - Vũ Trọng Phụng) và “Đám tang lão Gôriô”(Lão Gôriô – Bazắc) anh chị có suy nghĩ gì không? Hãy phân tích hai đoạn trích để nói cảm nhận của mình.
BÀI LÀM
Có những nhà văn trên thế giới hoàn cảnh sống hoàn toàn khác nhau
nhưng lại gặp nhau ở cùng một quan điểm nghệ thuật. Bởi lẽ dù ở thời đại
nào thì những vấn đề sâu xa nhất thuộc về bản chất xã hội cũng vẫn cứ gặp
nhau, giống nhau, đi chung một con đường và phát triển cùng quy luật.
Ô. Banzắc là một nhà văn lớn của nước Pháp ở thế kỉ XIX, Vũ Trọng
Phung là nhà văn lớn của Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX. Hai nhà văn, hai
cuộc đời, hai hoàn cảnh sống nhưng lại có điểm giống nhau về bản chất của
xã hội tư bản.
Đọc Lão Gôriô của Ô. Banzắc chắc chắn không ai quên những trang
viết sắc lạnh đến tàn nhẫn của nhà văn khi miêu tả đám tang lão Gôriô. Cũng
như vậy, ta gặp lại cảnh đám tang trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
qua tiếng cười hoạt kê, châm biếm sâu sắc bản chất của xã hội tư sản Việt
Nam những năm đầu thế kỉ này.
Lão Gôriô là một tư sản giàu có một thời. Ông chủ hãng buôn bán lúa
mì ấy đã một thời khiến nhiều người mơ ước. Vậy mà đến khi khánh kiệt vì
gia tài bị con gái bòn rút, lão phải ra ở quán trọ của bà Vôke. Cái chết của lão
trong quán trọ không khiến cho một ai trong gia đình lão phải bận tâm. Lão
còn gì để người ta phải để ý? Lão chết trong cô đơn, nghèo khó. Nếu không
có sự quan tâm của Ráxtinhắc thì không hiểu ai sẽ chôn cái xác đau khổ ấy.
Cảnh chuẩn bị cho đám tang hết sức sơ sài. Ráxtinhắc làm công việc cuối
cùng với người chết bằng lòng thương của kẻ khó với kẻ khó. Anh đặt lên
ngực lão Gôriô hình ảnh ngây thơ trong trắng “và không biết lí sự” của hai cô
con gái ngày xưa. Kỉ vật thiêng liêng ấy được đặt nơi trái tim lão như muốn an
ủi người đã khuất bằng hình ảnh đẹp, giả dối về hai đứa con. Nghĩa tử là
nghĩa tận. Có lẽ Ráxtinhắc nghĩ vậy mà cố làm nốt công việc này để coi đó
như một cử chỉ an ủi người quá cố. Nó an ủi ông cụ, nhưng khách quan lại
đối lập với hiện tại. Cả hai người con gái đã từng được bố yêu chiều hết mức
đều tìm cớ vắng mặt ngay trong phút cuối cùng của đời lão. Nó khiến cho ta
nghĩ đến nhiều điều trái ngược và cả sự pha trộn phức tạp quá khứ và hiện
tại, chân thật và giả dối, ước mơ và thất vọng... Phải chăng từ sâu thẳm lòng
mình lão Gôriô chết vì đau đớn nhận ra chân tướng của các con gái. Xót xa,
chua chát hơn là những cử chỉ thân thiết, cảm thông của những con người
không phải là ruột thịt, nghèo hèn mà thương người, giàu tình nghĩa. Người
ngoài mà còn nhận xét về lão Gôriô: “Ông cụ là người tử tế và đứng đắn,
chưa bao giờ to tiếng, không hề làm hại ai và chưa từng làm điều gì nên tội”.
Cảnh này lên án sự vô tình, bạc bẽo của hai cô gái vắng mặt: Ông bố già
nghèo túng, ốm đau, đơn chiếc chết đi có lẽ đã lầm trút tất cả tình yêu thương
và của cải của họ. Ông bố hết của cải dường như không còn cần thiết, do đó
không còn quan hệ gì với hai người con gái lấy chồng quý tộc.
Lễ cầu kinh dẫn ra trong một giáo đường nhỏ, thấp. Con người dự lễ thì
thiếu vắng. Chỉ có Raxtinhắc và Crittôphơ. Lão Gôriô nằm trong sự âm thầm,
cô quạnh, như lặng đi trong niềm xúc động nén chặt. Lễ cầu kinh diễn ra đúng
nghi thức với những đại diện của tôn giáo và nhà thờ, với các lớp bài bản
quen thuộc của tôn giáo trong đám tang. Nhà văn chỉ dùng vài dòng miêu tả
ngắn. Lễ cầu hồn không thêm một lời nói, một động tác, một giây phút thừa.
Không có cả một không khí bi thương, tang tóc, thường thấy trước một linh
hồn vừa được siêu thoát. Tất cả dường như đều vội vã, qua quýt, lấy lệ, cho
thật xứng đáng với số tiền ít ỏi mà nhà đám đã bỏ ra, cho đúng với tính chất
bố thí (làm phúc). Đúng là tiền “nào của ấy”, thật sòng phẳng, đúng luật,
chẳng còn phàn nàn gì được. Duy chỉ thiếu tình người ở những trong “người
nhà đạo” đang là nơi gửi gắm niềm tin cậy ở phần lớn các con chiên.
Đám tang không có người dự. Ta có thể hình dung một đám tang mà
chỉ có độc nhất một chiếc xe tang, theo sau là xe của linh mục cho phép thêm
cả Ráxtinhắc và Crittôphơ, một sự trống vắng đến thê thảm.
Hai chiếc xe đến sau, mang cùng một cung cách hai ông con rể. Chi tiết
ấy khác nào một nét vẽ nghịch mắt. Một nét giễu cợt. Hai chiếc xe bất ngờ,
treo huy hiệu quý tộc, chúng cố ý tách riêng ra để nêu cao vẻ sang trọng,
kênh kiệu, để khỏi bị hòa lẫn trong đám tang. Chúng miễn cưỡng phải có mặt
theo nghĩa vụ, hay xấu hổ vì phải nhận kết thân với một người quá nghèo
hèn? Hiện tượng không có người ngồi trên hai chiếc xe đưa tang cũng có thể
nói lên ý nghĩa của một cái chết. Cả cái xã hội hào nhoáng kia chỉ là cái xác
mà chẳng có hồn. Đó cũng là một thứ vật chất giá lạnh không tình người.
Đến nghĩa trang, màn kịch bước vào giai đoạn chót. Đám người đưa
tang chỉ vì nghĩa vụ, mệnh lệnh, chỉ chờ dịp “biến” càng nhanh, càng tốt.
Không một tiếng khóc than. Không một vẻ sầu bi. Không một nắm đất đưa
tiễn. Ông cụ nằm đấy đất chưa phủ lên người đã bị bọn phu đào huyệt đòi trả
công. Tất cả, chẳng có gì đáng trân trọng, chẳng có gì đáng quyến luyến,
chẳng có gì đáng bận tâm trong cái nhá nhem, chạng vạng của một ngày tàn -
đã quá sáu giờ chiều. Chỉ còn có hơi tiền lạnh lẽo và sự vô tình cũng lạnh lẽo
không kém ở xứ sở của cái chết - nghĩa địa.
Dưới ngòi bút của Banzắc cả xã hội ấy chỉ vì tiền. Đồng tiền được tôn
thờ, lối sống vì tiền đã ăn sâu vào đến tận những ngõ ngách thầm kín dễ rung
động nhất, dễ được bao dung nhất. Nó tàn phá tan hoang tất cả những gì đẹp
đẽ.
Có những trái tim trong trắng, chưa từng trải cũng bị đồng tiền làm thui
chột đi. Raxtinhắc nhỏ những giọt nước mắt cuối cùng cho một con người “tử
tế và đứng đắn”, “không hề làm hại ai và chưa từng làm điều gì nên tội”.
Những giọt nước mắt của anh bao trùm cả trời đất như muốn khóc cho thói
đời bạc bẽo, khóc cho cả xã hội tư sản vô tình đến tàn nhẫn. Nhưng sự phá
hoại của đồng tiền thật là ghê gớm. Nó làm cho con người có lương tri còn
sót lại cũng bị biến chất. Ban đầu anh căm ghét, khinh bỉ đồng tiền để rồi sau
đó thấy nó và cuộc sống của nó cũng “lấp lánh ánh đèn... rào rào” như cái tổ
ong mật đáng thèm khát. Anh muốn lại gần muốn thử thách với nó.
Banzắc đã lên án nó một cách mạnh mẽ. Ông kết tội cả xã hội bạc tình
bạc nghĩa, phủ nhận nó trong khi vạch ra sức mạnh ghê gớm và sức hút khó
cưỡng lại của nó như những qui luật khắc nghiệt của xã hội tư sản. Đó cũng
chính là chỗ tiến bộ của Banzắc - bậc thành chủ nghĩa hiện thực, đồng thời
cũng là hạn chế của nhà văn.
Nếu Banzắc sử dụng một bút pháp sắc lạnh để phê phán thì trong Số
đỏ, Vũ Trọng Phụng lại dùng bút pháp hoạt kê để miêu tả. Chẳng có đám tang
nào đem lại hạnh phúc cho một gia đình. Vậy mà ở chương Hạnh phúc của
một tang gia người đọc lại cảm nhận được tất cả niềm vui sướng, hạnh phúc
của một gia đình, một xã hội trước đám tang của cụ cố tổ. Mỗi thành viên từ
trong gia đình đến ngoài xã đều tìm niềm hạnh phúc theo cách riêng của
mình.
Cuộc họp bàn giữa các thành viên chủ chốt của gia đình là cuộc họp
bàn vô cùng quan trọng khi ông cụ “nằm xuống”. Bên ngoài nhìn vào ai cũng
tưởng là cuộc họp quan trọng bàn về việc “báo hiếu”, bởi lẽ họ bàn căng
thẳng, cụ cố Hồng và cụ bà đã cãi nhau rất lâu, ông Văn Minh thì “đăm đăm,
chiêu chiêu”. Thực chất họ không bàn chuyện tổ chức đám tang mà lại bàn
chuyện lo đám cưới cho cô Tuyết. Thế là từ chuyện “báo hiếu” sang chuyện
“báo hỉ”, từ chuyện khóc sang chuyện cười. Cụ cố Hồng - con trai trưởng -
trước cái chết của ông bố đáng kính thì mơ màng, tưởng tượng lúc mặc xô
gai, được ho khạc, khóc mếu, trước sự trầm trồ thán phục của thiên hạ “Úi...
con giai nhớn đã già đến thế kia à?”. Ông cháu đích tôn Văn Minh thì đăm
chiêu vì tìm cách trả ơn Xuân, và lo chia gia tài theo chúc thư. Ông Phán mọc
sừng sung sướng vì cái sừng vô hình trên đầu lại có giá trị vài nghìn bạc. Cô
Tuyết mong ông chết để được mặc bộ “ngây thơ”. Tú Tân sung sướng vì
được chụp ảnh. Tiệm may âu hóa thì hạnh phúc vì sẽ thu được nhiều tiền khi
đưa ra thị trường những “đặc sản” nhà mình là các kiểu quần áo tang. Cái
chết của cụ cố tổ là niềm hạnh phúc lớn lao, niềm hạnh phúc không nén nổi,
cứ tràn ra. Nó chẳng làm cho ai sầu não, tiếc thương mà trái lại đã làm chc
nhiều người “sung sướng” lắm, “thỏa thích” lắm để “tưng bừng, vui vẻ” đi đưa
cáo phó, gọi phường kèn, thuê ke đám ma... Thành ra “tang gia ai cũng vui vẻ
cả”. Đó là không khí của ngày chuẩn bị hội hè vui vẻ.
Mâu thuẫn giữa cái thật và cái giả, giữa cái bên ngoài và cái thực chất
bên trong cứ được nhà văn miêu tả qua nghệ thuật trào phúng xuyên suốt
cảnh đám ma. Khác với đám tang của lão Gôriô, đám tang này rất trọng thể,
đúng là “một đám ma gương mẫu” nhưng kì thực lại giống như một đám hội,
đám rước.
Nếu đám tang lão Gôriô là đám tang của kẻ khó thì đám tang này lại
phô bày sự sang trọng, thừa thải của tất cả mọi thứ. Từ cái trịnh trọng cần có
đến cái hổ lốn, hỗn độn không nên có. Một đám ma “to tát”, “long trọng”, có
kiệu bát cống, lợn quay đi lọng. Vài trăm câu đối vòng hoa, vài trăm người đi
đưa, máy ảnh chụp lia lịa như ở hội chợ... kèn đám ma thì đầy đủ cả ta, Tàu,
Tây... (Ta nhớ đến lễ cầu hồn của lão Gôriô chỉ là hai mươi xu). Đám ma to
tát đến nỗi người thật thà nhất trong gia đình này là cụ bà mà cũng cảm thấy
“hết sức sung sướng”. Người hàng phố thì “nhốn nháo cả lên khen đám ma
to”. Đám to đến nỗi “có thể làm cho người nằm trong quan tài nếu không mỉm
cười sung sướng thì cũng gật gù cái đầu”.
Kì thực, những cái “to tát”, “long trọng”, "danh giá” của cái “đám ma
gương mẫu” ấy chỉ là sự phô trương giả dối, lộ liễu, hợm người, hợm của lố
lăng, vô văn hóa. Cảnh ấy cho thấy ở xã hội ấy người ta quen và rất thích, rất
bằng lòng với sự lừa dối mọi người, lừa dối chính mình bằng những trò lòe
loẹt, om sòm.
Nhà văn muốn đưa lên cận cảnh một vài nhóm nhân vật ngoài xã hội
cùng chung hưởng niềm hạnh phúc ấy. Đó là sự hí hửng, mẫn cán của hai
viên cảnh sát Minđơ, Mintoa được thuê giữ trật tự cho đám ma. Đó là những
quan khách đến viếng đám ma để có dịp khoe các loại huân chương và các
kiểu râu ria. Đó là những bộ mặt “trai thanh, gái lịch” đi đưa để “cười tình
nhau”, “chê bai nhau”, “hẹn hò nhau”... hoặc khoe khoang của cải, sở thích...
Đáng mỉa mai là họ làm tất cả những việc ấy bằng vẻ mặt buồn rầu của
những người đi đưa đám. Những mẩu đối thoại mà họ nói với nhau khi tác giả
có ý ghi lại đã nói lên rằng: Những kẻ đi đưa ma hoàn toàn dửng dưng với
người chết. Bởi họ đều thản nhiên vui vẻ, để soi mói, ngắm nghía, bình phẩm
nhau với những chuyện đồi bại thường ngày.
Đám tang của lão Gôriô tẻ nhạt, thiếu vắng, nghèo khổ nhưng ít nhất
còn được một người dưng nhỏ vài giọt nước mắt xót thương, còn được lời
nhận xét chân thành cuối cùng bằng sự cảm thông trân trọng, ở đây đám tang
này được cả xã hội chú ý, quan tâm, tốn tiền, hao của, thừa thải mọi thứ. Vậy
mà trong sự to tát, trọng thể ấy vẫn thiếu một thứ quan trộng nhất là lòng
thương tiếc, sự đau buồn chân thành với người đã khuất. Thiếu một chút ấy
thôi thì tất cả đều trở nên vô nghĩa và giả dối. Hàng trăm người đi đưa, cảnh
con cháu khóc tưởng ngất đi, cảnh chụp ảnh có dàn dựng như sân khấu kia,
cảnh kèn ta, tàu, tây với bao thứ nghi thức cồng kềnh kia liệu có khiến cho
người chết “mỉm cười sung sướng” khi nhận ra vẻ dửng dưng, sung sướng
của những người đưa đám mình không?
Những người đưa đám lão Gôriô đều cố gắng đi cho thật nhanh, về cho
thật nhanh còn ở đây đám tang cụ cố cứ từ từ chuyển động một cách nghiêm
trang khi thực đây đâu phải là đám ma thật mà chỉ là đám hội đám rước vui vẻ
như một trò hề hấp dẫn. Kết thúc đám tang của lão Gôriô là cái nhìn của
Raxtinhắc về nguồn ánh sáng hấp dẫn của xã hội thượng lưu mà anh đang
chuẩn bị lao vào. Màn cuối cùng của đám tang cụ cố tổ là ông cháu rể quý
hóa khóc rống lên, la oặt người đi trong khi tranh thủ thanh toán một món tiền
với Xuân... Cảnh này là đỉnh cao của sự trào phúng trong màn kịch một đám
ma gương mẫu” vì sự giả dối bịp bợm đã lên tới độ vô liêm sỉ đến ghê tởm.
Hai cảnh đám ma diễn ra với hai con người cùng thuộc giai cấp tư sản
nhưng lại đối lập nhau. Sự đối lập về hình thức tổ chức đám tang nhưng lại
thống nhất ở bản chất của nó. Banzắc và Vũ Trọng Phụng đã cùng gặp nhau
ở một điểm. Đó là sự thống nhất ở cách nhìn nhận và đánh giá giai cấp tư
sản và cả xã hội của những kẻ thượng lưu danh giá. Banzắc cố tình miêu tả
sự giá lạnh về mọi thứ tình cảm trong xã hội ấy vì sự chi phối của đồng tiền.
Mọi sự thật giả đều được phơi bày qua giọng văn lạnh lùng, phũ phàng đến
tàn nhẫn. Ngược lại Vũ Trọng Phụng lại thể hiện bút pháp đối lập sâu sắc qua
nghệ thuật châm biếm cái thật giả. Mọi sự ồn ào, huyên náo của đám tang,
mọi sự “tưng bừng”, nhộn nhịp của xã hội ấy cũng nhằm mục đích che đậy cái
bản chất lạnh lùng đến vô tình vì đồng tiền. Cảnh đám ma trong xã hội tư sản
giả dối, bịp bợm. Con cháu lão Gôriô vô tình với lão vì chúng đã bòn rút hết
tiền của lão. Con cháu cụ tổ làm đám ma linh đình như thế cũng chỉ nhằm
mục đích chia tiền của cụ, để rồi khi đã chia xong rồi thì cụ cũng lại rơi vào
quên lãng như lão Gôriô. Đó là điều mà Vũ Trọng Phụng đã gặp Banzắc ở
cùng luồng tư tưởng: Hai cái chết là liều thuốc thử nghiệm với cả xã hội tư
sản.
Xưa nay văn học thế giới viết về cảnh tang ma không hiếm. Nhưng lại
như một sự vô tình những người biên soạn sách giáo khoa văn học lớp 11 lại
chọn cảnh hai đám ma này trong chương trình giảng dạy. Sự so sánh hai
cảnh này có vẻ như khập kiễng nhưng ít nhất cũng đem lại cho người đọc
một nhận thức mới về nội dung: Văn học phản ánh hiện thực bằng nghệ thuật
điển hình hóa.
TÔI YÊU EM
A.PUSKIN
A. BÀI VĂN
Phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình qua bài thơ “Tôi yêu em” của Puskin
BÀI LÀM
Bài thơ Tôi yêu em là một bài thơ tình đặc sắc của Puskin. Ta tìm gặp ở
bài thơ tâm hồn Nga, tính cách Nga, hồn thơ Nga sôi nổi, đằm thắm, ngọt
ngào...
Tôi yêu em đến nay chừng có thể
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai...
Ghi nhận sự có mặt của câu thơ đầu là hình ảnh của chủ thể trữ tình.
Nó không bằng một cái tên cụ thể nào hết, mà là em và tôi. Nhân vật tôi ư?
Không cần thiết phải nghi vấn, là người khác hay tác giả. Thống nhất nhưng
không đồng nhất. Thơ trữ tình luôn lưu ý ta về đặc điểm này. Và em nữa,
cũng như tôi vậy thôi. Chỉ có điều em và tôi là hai trong một chính thể. Tôi yêu
em, vâng, tôi đã yêu, yêu say đắm, yêu vô vọng và cuồng nhiệt. Em không
biết ư? Nó chưa tắt đâu, chưa tàn đâu, hay đúng hơn, sẽ không bao giờ lụi
tàn đâu. Tôi yêu em bằng tình yêu số một, tình yêu duy nhất, tình yêu vĩnh
cửu. Có lẽ em không biết, nhưng với tôi, trước sau không khoảng cách, bởi
tôi là tôi. Tôi không phải là một người nào khác.
Nhưng không muốn em bận lòng thêm nữa
Hay hồn em phải gợn sóng u hoài.
Từ sâu thẳm của tôi là nỗi đau của sự chấm dứt một mối tình - một mối
tình cô đơn và lạc lõng. Tôi yêu em, nhưng tôi không muốn làm bận em, hay
gây day dứt cho em. Tôi đứng giữa hai con đường. Tất cả đều khó tin và đều
buồn như nhau. Mặc dầu thế tôi càng yêu em. Trái tim mách bảo với tôi
không thể rủ bỏ dễ dàng được đâu. Đã có sự mâu thuẫn giữa con người suy
nghĩ và con người hành động. Một mối mâu thuẫn giữa tình cảm và lí trí đã
giằng xé tôi, co giật tôi. Chia tay thì tôi đã tự nguyện chia tay, nhưng câu thơ
sao trăn trở rớm máu! Tự nguyện mà sao lòng quặn lại, xót xa... Càng day
dứt, càng đau, càng yêu. Tôi muốn có em, nhưng tôi biết rằng không thể. Tôi
đứng đứng ở tư thế yêu và rất yêu nhưng chỉ là tình cảm từ một phía. Tình
yêu tôi mất phương hướng, tôi chao đảo, tôi chới với. Em đấy, nhưng rất xa
xôi, có thể tôi không bao giờ với tới được.
Tôi yêu em âm thầm không hi vọng
Khi rụt rè, khi hậm hực lòng ghen.
Tôi đơn phương? Điều đó quá rõ. Biết rằng tôi yêu em, nhưng : cũng
biết là không mơ có được em. Tôi yêu một cách vô vọng. Ý thức đấy tôi tới
một mối bi kịch sâu sắc. Điệp từ Tôi yêu em như một minh chứng về sự yêu
tột đỉnh của tôi. Yêu và ghen, đó là sắc thái tự nhiên của tình yêu, càng đơn
phương, càng vô vọng, tôi càng tự biểu hiện mình rõ rệt và tự nhiên hơn. Bài
thơ Tôi yêu em - đó là tiếng lòng của tôi, nhưng tôi phải để cho em tự do lại là
tiếng nói đầy lí trí. Rụt rè, mãnh liệt, hậm hực, ghen tuông... trong tình yêu, ấy
là điều dễ có. Si mê, đau khổ và cao thượng, vô vọng nhưng kết thúc, tôi đã
thốt lên:
Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em.
Một câu thơ vị tha, một tấm lòng vị tha. Tình đơn phương mà không tàn
lụi đi. Trái lại, tình cảm của tôi càng thêm mãnh liệt. Giọng điệu cũng như tâm
trạng thơ, vừa thiết tha, vừa đau đớn. Đó chính là ấn tượng riêng của tôi yêu
em.
Bao nhiêu nỗi niềm, bao nhiêu hi vọng, bao nhiêu cay đắng và day dứt,
tôi đã cất lên được tiếng lòng mình: Tôi yêu em.
HAI TÂM TRẠNG
(Trích Chiến tranh và hòa bình)
L.TÔNXTÔI
A. BÀI VĂN
Phân tích đoạn trích “Hai tâm trạng” trong tiểu thuyết “Chiến tranh và hòa bình” của L. Tônxtôi.
BÀI LÀM
1. Lep Nicôlaievits (1982 - 1910) là nhà văn vĩ đại của Nga và thế giới.
Ông là tấm gương tìm tòi về sự thật. Một trong những sự thật mà Tônxtôi tìm
kiếm suốt đời, đó là tìm hiểu sự thật lịch sử và bản chất tính cách Nga. Về sự
thật lịch sử, ông đã dựng lại những biến cố lịch sử trọng đại có liên quan đến
vận mệnh toàn dân, dựng lại bức tranh linh hoạt rộng lớn với các tầng lớp xã
hội. Từ đó, nhìn nhận và đánh giá các biến cố lịch sử theo quan điểm nhân
dân, coi quần chúng nhân dân như người sáng tạo lịch sử, như ngọn nguồn
đạo đức và sức mạnh của cộng đồng. Điều này thể hiện qua tất cả các tác
phẩm mang tính sự thi, từ Truyện Xevaxtôpôn đến Chiến tranh và hòa bình.
Đánh giá cao cống hiến của Tônxtôi, Lênin coi Tônxtôi là “tấm gương phản
chiếu cách mạng Nga”.
Dường như Tônxtôi đã miêu tả được bản chất tính cách Nga qua một
số nhân vật như Natasa, Cutudôp, Karataiep... (Chiến tranh và hòa bình). Đó
là những tính cách tốt đẹp, những tâm hồn giản dị, những “trí tuệ của trái
tim”...
Bên cạnh những bức tranh tuyệt vời về đời sống Nga, đặc điểm nghệ
thuật nổi bật của các tác phẩm Tônxtôi là sự xâm nhập một cách nhuần
nhuyễn bản chất quá trình phát triển xã hội vào quá trình phát triển tâm lí con
người. Nói đơn giản, tác phẩm Tônxtôi đã đạt đến trình độ phân tích tâm lí
xuất sắc khi coi cuộc sống là một quá trình vận động và tâm lí con người “như
một dòng sông”, lưu chuyển không ngừng.
2. Chiến tranh và hòa bình là tác phẩm lớn nhất của L.Tônxtôi, được
gọi là “tác phẩm vĩ đại của thế kỉ XIX”(Gorki). Với chủ đề chiến tranh, nhà văn
ca ngợi cuộc chiến tranh nhân dân, bản chất anh hùng và khả năng quyết
định vận mệnh đất nước của nhân dân, phê phán cuộc xâm lược bành trướng
của Napolêông. Trong chủ đề chiến tranh, nhà văn mô tả cuộc sống sinh hoạt
bình thường của giai cấp quý tộc Nga. Xen vào hai chủ đề đó là việc kể về
con đường đi tìm chân lí của một số thanh niên quý tộc tiến bộ. Tác phẩm là
đỉnh cao của nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí con người, còn được gọi
là nghệ thuật về “phép biện chứng tâm hồn”.
“Hai tâm trạng” là đoạn trích nói về tâm trạng nhân vật Anđrây
Bôncônxki, một thanh niên đại quý tộc, có tư tưởng tiến bộ, từ tâm trạng buồn
bã, bi quan chuyển sang yêu đời, yêu sự sống. Đây là một thiên diễn tả tâm lí
tinh vi, xuất sắc, thể hiện tài năng nghệ thuật của L.Tônxtôi. Muốn hiểu được
đoạn trích này, cần biết đôi điều về nhân vật Anđrây Bôncônxki.
Anđrây là một thanh niên đại quý tộc, thông minh, sắc sảo, tinh tế, giàu
nghị lực và nhiều hoài bảo. Là mẫu người quý tộc tiên tiến, lí tưởng của thời
đại, của nước Nga thế kỉ XIX, chàng khao khát chân thực, cao thượng, căm
ghét mọi giả dối, xấu xa, thấp hèn. Nhưng xã hội thượng lưu - môi trường
sống của chàng lại đầy rẫy những giả dối, công thức, xấu xa. Mâu thuẫn giữa
khát vọng và hiện thực chuyển thành xung đột nội tâm. Vì vậy, cả cuộc đời
chàng luôn đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi về chân lí, hạnh phúc, về
những giá trị đạo đức, tinh thần. Thực chất, những vấn đề luôn nung nấu
trong tâm hồn Anđrây cũng là những vấn đề mang tầm cỡ dân tộc, thời đại và
nhân loại mà chính L.Tônxtôi cũng day dứt và khao khát khám phá suốt đời.
Trốn chạy xã hội thượng lưu cũ kĩ, sáo mòn, giả dối, Anđrây hăm hở ra trận
tìm vinh quang cá nhân. Chạm trán với cái chết, Anđrây mới nhận thức được
rằng, vinh quang không thể có khi con người mưu cầu mục đích cá nhân, đặc
biệt trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa mà cuộc chiến tranh 1805 là ví dụ.
Trở về nhà, Anđrây đột ngột phải chứng kiến cái chết đau thương của người
vợ trẻ trong cơn sinh nở. Tuyệt vọng, đau đớn vô cùng, tâm hồn chàng trở
nên khép kín, lãnh đạm, thờ ơ với cuộc sống.
Đoạn trích “Hai tâm trạng” miêu tả giai đoạn này trong cuộc đời Anđrây.
Những day dứt, dằn vặt, suy tư và sự chuyển biến đột ngột, mạnh mẽ trong
tâm hồn chàng được phản chiếu qua một hình ảnh thiên nhiên độc đáo: cây
sồi già.
3. Một cây sồi - hai tâm trạng
Hiện lên trước mắt người đọc là hai bức tranh của cùng một cây sồi
trong một khu rừng vào hai thời điểm tương đồng với hai tâm trạng khác biệt
của Anđrây. Bức tranh thứ nhất được chiêm ngưỡng bằng con mắt buồn bã,
chán nản, bi quan của Anđrây bắt đầu chuyến đi xa. Bức tranh thứ hai được
soi rọi bằng ánh sáng rực rở của một tâm hồn đã hồi sinh, tràn ngập lòng yêu
đời, yêu sự sống của Anđrây trên đường về. Khoảng cách hai tháng giữa hai
chuyến đi với những sự kiện, những cuộc gặp gỡ là cơ sở hiện thực hợp lí
cho sự đổi thay bất ngờ trong tâm hồn nhân vật. Là vật chứng kiến, cây sồi
như tâm gương thu gọn, ánh chiếu rõ nét những chuyển biến tinh vi trong bộ
mặt tâm lí nhân vật với hai thời điểm khác nhau này. Những sắc thái đổi thay
trên toàn cảnh thiên nhiên chính là sự khúc xạ của những biến đổi trong thế
giới nội tâm, một thế giới sâu xa, phức tạp và đầy bí ẩn của con người.
Lần thứ nhất, Anđrây gặp cây sồi là vào đầu mùa xuân. Mùa xuân lưu
dấu trên mọi vật dọc đường đi của chàng. Mọi cây cối, cảnh vật đều ở trạng
thái mới mẻ, tinh khôi, dấu vết của một mùa xuân sinh sôi, nảy nở, đẹp tươi.
Vậy mà cây sồi vẫn bất chấp phép nhiệm màu của mùa xuân: vỏ cây nứt nẻ
đầy những vết sứt sẹo, ngón tay quều quào, rạn gẫy, sây sát, trông như một
quái vật già. Phép nhân hóa khiến cây sồi hiện lên sống động, như một thực
thể có linh hồn, đầy cá tính. Vẻ già nua, xấu xí của cây sồi tương ứng với tâm
trạng bên trong của nó, bộc lộ qua một loạt tính từ miêu tả: cau có, lầm lì, què
quặt, khinh khỉnh. Giữa rừng xuân tràn ngập ánh nắng và sức sống mà cây
sôi già vẫn thở than, rên rỉ với những lời lẻ mỉa mai, chán chường, nghi ngờ
cái gọi là mùa xuân, hạnh phúc, tình yêu! Điệp từ dối trá, khờ khạo, điên rồ,
được lặp đi lặp lại nhiều lần như nhấn mạnh nỗi nghi ngờ, sự mỉa mai. Lời lẽ
ấy, dáng vẻ ấy đặc biệt gây ấn tượng đối với Anđrây khiến chàng phải ngoái
cố nhìn lại cây sồi mấy lần, dường như chờ đợi ở nó một cái gì. Lời thở than
của cây sồi đồng vọng với những tâm tư sâu thẳm trong trái tim chàng: “Phải
cây sồi ấy nói phải, một ngàn lần phải... cuộc đời của chúng mình hết rồi”.
Anđrây đọc được tâm sự cây sồi hay cây sồi cảm nhận, thấu hiểu những uẩn
khúc lắng sâu trong tâm hồn chàng? Có lẽ với một trái tim nhạy cảm, Anđrây
đã nhìn thấy chính tâm trạng mình, con người mình qua vẻ cô đơn, già nua,
khép kín và tuyệt vọng của cây sồi: sự hoài nghi, vẻ ngờ vực ghê gớm, niềm
bi quan sâu sắc... Kí thác nỗi niềm tận đáy tâm tư vào cây sồi cô độc, buồn bã
giữa rừng xuân tràn trề nhựa sống. Anđrây như thấy thiên nhiên, đất trời cùng
chia sẻ nỗi buồn, tìm thấy ở cây sồi một hỗn hòa hợp, một lời tri kỉ, một chốn
sẻ chia, giải bày. Nhà văn đã hình tượng hóa nét lãnh đạm, thờ ơ với cuộc
sống của Anđrây bằng cách đối lập với khu rừng mùa xuân đầy sức sống và
đồng nhất nó với hình ảnh cây sồi cằn cỗi, cau có, khinh khi...
Cảnh rừng xuân thứ hai hiện ra tươi mát, trong sáng, sống động và đầy
hương sắc: Cây cối đầy đặn, rợp bóng và rậm rạp, lá cây xanh mọng, óng
ánh dưới nắng, cảnh vật nở hoa, tiếng họa mi thánh thoát. Trung tâm của bức
tranh rừng xuân đó vẫn là cây sồi dạo trước với đầy đủ dáng vẻ cao xa,
khoáng đạt và tráng lệ, tạo nên một bức phong cảnh tuyệt đẹp, hùng vĩ về
rừng Nga: Tỏa rộng thành một vòm lá xum xuê, xanh tốt thẫm mà, đang như
say sưa ngây ngất, khẽ đung đưa trong ánh nắng chiều... xuyên qua lớp vỏ
cứng già. Những khóm lá non xanh tươi đã đâm thẳng ra ngoài. Mùa xuân và
quy luật tự nhiên đã chiến thắng, từ cây sồi tỏa ra hừng hực sức sống mùa
xuân với vẻ đẹp mạnh mẽ, muôn đời của tự nhiên. Hòa với trạng thái mới mẻ
của cây sồi, Anđrây bỗng có một cảm giác vui sướng vô cớ đầy sức xuân,
cảm giác mình đã đổi mới. Tâm hồn đã hồi sinh mãnh liệt của chàng được
phụ họa, được tiếp sức bởi cả sức xuân của cây sồi hùng vĩ trong rừng Nga.
Dường như nỗi bi quan, niềm nghi ngờ, sự tuyệt vọng của Anđrây đã bị sức
sống của rừng xuân, của tuổi trẻ đẩy lùi.
Dùng thiên nhiên làm thước đo thế giới tâm hồn con người. Tônxtôi coi
việc hòa nhập, mở lòng trước thiên nhiên là dấu hiệu của một tầm hồn nhạy
cảm và tinh tế, phong phú và mạnh mẽ.
4. Bí mật của hai tâm trạng - phép biện chứng tâm hồn
Lí giải cho những chuyển biến, những vận động tinh vi trong tâm hồn
nhân vật, Tônxtôi đã sử dụng điêu luyện nghệ thuật miêu tả độc thoại nội tâm.
Đó là những ý nghĩ thầm kín, là lời nhân vật tự nhủ thầm hoặc nói to lên với
chính mình, bộc lộ trực tiếp mọi sắc thái của bộ mặt tinh thần nhân vật.
Những nghĩ suy thầm kín không chỉ thể hiện những suy tư, xúc cảm mà còn
bộc lộ sâu sắc, tinh vi sự vận động, lưu chuyển biện chứng của thế giới nội
tâm nhân vật. Hơn nữa, độc thoại nội tâm thường thể hiện sự tự nhận thức
của nhân vật với những day dứt, trăn trở, giằng xé, mâu thuẫn trong tâm hồn.
Đoạn độc thoại “Sống hay không sống” của Hămlet (Hămlet - Sêcxpia), của
Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích (Truyện Kiều - Nguyễn Du), của Chí Phèo buổi
sáng tỉnh rượu (Chí Phèo - Nam Cao) là những ví dụ. Còn khi cuộc sống nội
tâm thanh nhàn, phẳng lặng, ít phải nghĩ ngợi, con người đâu cần đến độc
thoại nội tâm! Trong độc thoại nội tâm, những liên tưởng, hồi ức luôn xen kẽ,
con người thường nhớ về quá khứ, suy ngẫm hiện tại và khẳng định cách
ứng xử trong tương lai. Dùng biện pháp độc thoại nội tâm, nhà văn có khả
năng thâm nhập vào chiều sâu tâm lí nhân vật, phát hiện sự vận động biện
chứng tâm hồn con người với những nguồn gốc, động lực sâu xa của những
suy tư và xúc cảm...
Cuối phần một, sau lời lẽ cây sồi già và lời đồng tình hưởng ứng của
Anđrây là lời độc thoại nội tâm chậm rãi, lặng buồn: một loạt những ý tưởng
mới mẻ, vô hi vọng nhưng buồn dìu dịu do cây sồi già gợi lên. Tất cả những
phảng phất một nỗi buồn sâu lắng (bởi những sự kiện đã diễn ra trong đời
chàng đều đau đớn mạnh mẽ, sâu sắc) mà dịu nhẹ (vì tất cả đã lùi vào dĩ
vãng). Chỉ còn đây một con người sống nốt cho hết cuộc đời mình, không còn
hi vọng gì về hạnh phúc, tình yêu, lẽ sống, không ưu tư, không ước muốn.
Cuối phần hai, một loạt những hồi ức tốt đẹp nhất, ân tượng nhất của
cuộc đời Anđrây dồn dập ùa về trong tâm hồn chàng.
- Chiến trường Auxterlitx với bầu trời cao lồng lộng.
Cách đâv bốn năm, năm 1805, Anđrây tham gia trận Auxterlitx với giấc
mộng công danh, mong muốn đạt được chiến công như của Napôlêông - từ
một đại úy trở thành hoàng đế khiến cả thế giới phải nể phục, nhờ một trận
đánh lẫy lừng - trận Tulông. Giấc mộng Tulông ám ảnh suốt một thời tuổi trẻ
của Anđrây. Trong trận chiến với quân Pháp tại Auxterlitx, Anđrây cầm cờ
xông lên và trúng đạn ngã xuống. Chàng nhìn lên, thấy bầu trời xanh vô tận
trên đầu. Tới lúc ấy, chàng mới nhận thấy hết cái vô nghĩa, bé nhỏ của việc đi
tìm vinh quang bằng con đường chiến tranh, gây đổ máu và chết chóc. Bầu
trời cao lồng lộng từ lúc đó là nơi soi sáng, thức tỉnh tâm hồn chàng. Hình ảnh
ấy thường trở đi trở về trong nghĩ suy và tình cảm của Anđrây nhất là vào
những khúc ngoặt của cuộc đời.
- Khuôn mặt đầy vẻ trách móc của vợ khi tắt thở
Sau khi bị thương ở Auxterlitx, Anđrây đột ngột về nhà trong một đêm
đông giá lạnh đúng lúc vợ chàng sinh đứa con đầu lòng và qua đời. Khuôn
mặt nàng đượm vẻ trách móc. Anđrây ân hận, đau buồn vì cái chết của vợ. Bi
kịch vỡ mộng ở chiến trường cùng bi kịch gia đình đã đẩy Anđrây vào tâm
trạng chán chường, tuyệt vọng.
- Pie trên chuyến phà
Đang trong tâm trạng ấy thì Pie - Pêdukhốp một người bạn thân, hiền
lành, tốt bụng đến thăm Anđrây. Trên chuyến phà, Pie khuyên Anđrây hãy
sống vì người khác, quên đi nỗi buồn đau của riêng mình.
- Và kỉ niệm gần nhất còn tươi rói trong tâm hồn chàng là người con gái
bồi hồi, xúc động muốn bay lên với vầng răng.
Tất cả những hồi ức và liên tưởng ấy - bài học cay đắng nơi chiến
trường, kỉ niệm đau thương về người vợ, tấm lòng chân thành của người bạn,
vẻ đẹp hồn nhiên, tươi trẻ, đầy sức sống của cô gái mới quen - đã làm
Anđrây bừng tỉnh. Phút thay đổi tâm hồn được diễn tả bằng nhịp điệu gấp
gáp, sôi động của câu văn. Cái tâm trạng náo nức, hăm hở, đầy nghị lực, biểu
hiện trong những lời khẳng định dứt khoát, mạnh mẽ, quả quyết: “Không,
cuộc đời chưa chấm dứt ở tuổi ba mươi mốt”. Anđrây đã hiểu rằng không thể
chỉ đắm chìm trong đau khổ, cần phải vượt lên sự cô đơn, không phải chỉ
sống vì mình mà phải biết sống vì người khác. Dòng suy tư thể hiện rõ ràng
và sinh động năng lực tư duy khúc chiết, trong sáng của công tước Anđrây,
một con người trung thực, chân thành, giàu nghị lực. Vào giờ phút này,
Anđrây đã tìm được câu trả lời cho niềm day dứt suốt đời mình: sống cho
mình hay sông cho mọi người? “Sao cho cuộc sống của ta trôi qua không
phải chỉ vì mình ta”. Câu trả lời đã giúp chàng trở nên mạnh mẽ, giàu nghị lực
và niềm tin trên con đường đi tìm chân lí, bởi chàng vốn là người “dốc hết tâm
hồn đi tìm một điều duy nhất, làm sao trở thành người tốt hoàn toàn”. Nhân
vật Anđrây Bôncônxki mang một vẻ đẹp trí tuệ sâu xa và tâm hồn cao cả vì lẽ
đó.
Qua đoan trích “Hai tâm trạng”, chúng ta có thể cảm nhận được phong
cách và cá tính sáng tạo của Tônxtôi. Bằng ngòi bút hiện thực, tài phân tích
tâm lí tinh vi, sắc sảo, nhà văn miêu tả con người như nó đang tồn tại, tính
cách con người được quan niệm như một dòng sông, vận động và lưu
chuyển không ngừng. Động lực của phép biện chứng tâm hồn bắt nguồn từ
những cảm xúc, suy tư, những trăn trở trong tâm hồn con người để vươn tới
sự hoàn thiện mình. Để đi sâu vào phép biện chứng tâm hồn đó, Tônxtôi triệt
để sử dụng hai phương thức nghệ thuật. Một là, dùng thiên nhiên để vừa tạo
dựng phong cảnh, không gian, thời gian, không khí và phong vị Nga, vừa góp
phần khắc họa những diễn biến tâm lí tinh vi của nhân vật. Chiến tranh và hòa
bình đã có những bức tranh thiên nhiên trở thành mẫu mực cổ điển trong kho
tàng văn chương thế giới về miêu tả nội tâm: bầu trời Auxterlitx lồng lộng của
Anđrây Bôncônxki, đêm trăng huyền ảo ở Otratnôiê của Natasa Rôxtôva, bầu
trời đầy tiếng nhạc thần kì đêm trước trận chiến đấu của Pêchia Rôxtôp, ngôi
sao Chổi rực sáng trên nền trời Matxvơva của Piê Bêdukhốp, và hình ảnh cây
sồi già mùa xuân của Anđrây. Đó là những hình tượng thiên nhiên độc đáo,
tượng trưng cho những gì cao cả, tốt đẹp, vĩnh hằng mà các nhân vật này
khát khao vươn tới, Hai là, nhà văn đã dùng ngôn ngữ miêu tả độc thoại nội
tâm để thâm nhập và phản ánh dòng suy tư, cảm xúc của nhân vật một cách
chính xác, khúc chiết và đầy tinh tế, khiến cho nhân vật của Tônxtôi có một
chiều sâu tâm lí, một sự đầy đặn về tâm hồn và một tầm cao trí tuệ khó quên.
BÀI THƠ “28”
R.TAGORE
A. BÀI VĂN
Phân tích bài “28” trong tập thơ “Dâng” của R.Tagore.
BÀI LÀM
1. Rabinđranat R.Tagorẹ (1861 - 1941) là nhà thơ, nhà viết kịch, nhà
văn hóa thiên tài của Ấn Độ. R.Tagore đã để lại cho kho tàng văn học Ấn Độ
và thế giới một di sản lớn lao: 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 cuốn tiểu thuyết...,
đặc biệt là tập thơ Dâng được giải thưởng Nobel năm 1913.
Cống hiến vĩ đại nhất của R.Tagore là ở chỗ ông đã phát huy được
truyền thống đấu tranh yêu nước và nhân đạo chủ nghĩa của dân tộc Ấn Độ,
kết hợp với tinh hoa văn hóa Phương Tây.
R.Tagore ca ngợi tình yêu thương cao cả giữa con người một cách
chân thành, rộng mở với lòng từ bi và đức tin của truyền thống tôn giáo Ấn
Độ. Ông tiếp thu những nét tích cực trong chủ nghĩa nhận đạo phương Tây,
như đòi hỏi giải phóng cá tính, đề cao tinh thần tự giác đấu tranh cho tự do,
đòi công bằng bác ái, tin ở sức mạnh con người.
Theo R.Tagore, con người là đáng tôn thờ nhất, do đó, ông đề xướng
“tôn giáo con người”. Tầng lớp nhân dân lao động cùng khổ cũng được
R.Tagore luôn quan tâm.
Mặc dù chủ nghĩa nhân đạo của R.Tagore có màu sắc duy tâm, huyền
bí, nhưng nội dung cơ bản của nó vẫn là yêu đất nước, yêu con người, yêu
sự sống.
Yêu thiên nhiên là một đặc điểm nổi bật trong cá tính R.Tagore.
R.Tagore chủ trương con người cần hòa đồng với thiên nhiên, coi thiên nhiên
như người bạn tâm tình và là đối tượng của thơ ca. Trong các tác phẩm của
R.Tago, thiên nhiên xuất hiện không chỉ như môi trường sống, hoạt động của
con người mà là một thế giới mĩ lệ, một thế giới của cái đẹp, của nghệ thuật,
của thơ ca.
Tính đa cảm, thích trầm tư là đặc điểm khác trong cá tính đã ảnh
hưởng rất rõ trong các tác phẩm của R.Tagore. Ông rung động trước tất cả
mọi điều, dù là nhỏ nhặt của cuộc sống, đặc biệt là vẻ đẹp thiên nhiên, con
người và nỗi đau khổ con người. Nét trầm tư, suy nghĩ đã tạo nên chất triết lí
với các cung bậc ý nghĩa, chiều sâu tình cảm trong thơ ông. Tác phẩm của
R.Tagore tràn ngập tinh thần dân tộc, yêu nước, chống thực dân, thức tỉnh
niềm khát khao giải phóng, độc lập, tự do của nhân dân Ấn Độ. Bên cạnh đó,
văn thơ R.Tagore còn chứa chan một tình yêu thiên nhiên và niềm tin mãnh
liệt vào cuộc sống và con người.
Bút pháp nghệ thuật R.Tagore vừa mang tính hiện thực vừa giàu chất
biểu tượng. Dưới cái vỏ thần bí, cao siêu vẫn cháy bỏng một lòng tin yêu
cuộc sống và những vấn đề của cuộc đời trần tục hàng ngày. Thơ trữ tình
R.Tagore là những bản tình ca say đắm, là bức tranh thiên nhiên mĩ lệ muôn
màu và những hình ảnh lung linh, huyền diệu.
2. Bài “28” được tin trong tập Người làm vườn, là một trong những bài
thơ tình hay nhất thế giới. Bài thơ khẳng định: tình yêu là sự đồng điệu, hòa
hợp, dâng hiến tâm hồn, tin yêu và hiểu biết, chia sẻ lẫn nhau. Nhưng trái tim
con người, thế giới tâm hồn con người lại mãi là một cõi bí mật lớn lao. Chính
vì vậy, việc tìm tới sự đồng điệu, chan hòa vào thế giới tâm hồn của người
yêu luôn là những khát khao không bao giờ vươn tới nổi. Điều đó tạo nên vẻ
hấp dẫn muôn đời của tình yêu.
Chất triết lí được trình bày qua những lập luận chặt chẽ với một hệ
thống hình ảnh rực rỡ, sinh động. Với cách đặt vấn đề, phản đề, nghi vấn, giải
thích để đi tới chân lí, bài thơ rất đặc trưng cho tư duy người Ấn: tìm tới chất
triết lí trong muôn vàn hiện tượng đời sống.
- Những nghịch lí muôn đời của trái tim
Nghĩa bài thơ được diễn theo tầng bậc từ thấp đến cao, từ cụ thể đến
trừu tượng, từ nghĩa thực đến nghĩa triết lí, và cảm xúc trong bài cũng được
nâng dần theo các tầng nghĩa của bài. Sự đan chéo giữa lời lẽ của một người
tình pha một triết gia làm cho ý nghĩa và cảm xúc trong bài thơ càng thêm sâu
sắc, cao siêu.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh đối mắt - “cửa sổ tâm hồn”. Đôi mắt ấy,
dưới con mắt nhà thơ, như ánh sáng kì diệu của trời đất, đang muốn rọi sáng
tân đáy sâu của trái tim người yêu, như trăng kia muốn vào sâu biển cả. Đó
chính là niềm khát khao hòa hợp tâm hồn, là khát vọng muốn chan hòa và
thấu hiểu người mình yêu. Nhưng đôi mắt ấy cũng đủ chứa một nỗi băn
khoăn, u buồn vì khát khao trên là vô vọng.
Rất chân thành, chàng trai thô lộ: “Anh đã để cuộc đời anh trần trụi
dưới mắt em, Anh không giấu em một điều gì”. Nhưng, một nghịch lí xảy ra:
“Chính vì thế mà em không biết gì cả về anh”. Vì sao vậy? Bởi tất cả những
điều em biết về anh đều mới chỉ là cái bề ngoài (ví như ăn mặc, hành động,
lời nói... ), còn cái đáy sâu thăm thẳm của tâm hồn anh, trái tim anh (những
suy nghĩ, cảm xúc) dễ đâu nắm bắt được.
Vẫn một mực chân thành, chàng trai sẵn sàng hiến dâng cuộc đời cho
người yêu. Cả đoạn thơ là những lời nguyện ước thiêng liêng với những hình
ảnh, từ ngữ đẹp đẽ, sang trọng. Nhưng cái phần cuộc đời ấy vẫn chỉ là những
cái đó có thể nắm bắt được, dù rất quý giá, cao sang. Một phản đề được đưa
ra: cái quý giá nhất của cuộc đời chàng trai lại là một trái tim - một thế giới
tinh thần bí ẩn, vô biên, một vương quốc mà em là nữ hoàng, là người làm
chủ nó mà cũng không thể biết được biên giới của nó xa gần, rộng hẹp đến
đâu. Đây chính là một khoảng cách không bao giờ phá vỡ nổi, một đỉnh cao
không bao giờ bị chinh phục của tình yêu. Niềm hòa hợp, đồng cảm dù đẹp
đẽ đến đâu cũng không bao giờ trọn vẹn bởi đặc tính hay của trái tim con
người.
Một giả thiết lại được nêu lên: Nếu trái tim chàng trai có những phút
giây lạc thú, thì người yêu cũng dễ chia vui bằng nụ cười nhẹ nhõm, nếu trái
tim chàng khổ đau thì người yêu cũng thông cảm bằng hàng lệ trong.
Nhưng chàng trai tự biết mình có một trái tim phức tạp hơn nhiều: trái
tim anh lại là tình yêu. Một trái tim đâu chỉ có những vui sướng, khổ đau dễ
chia sẻ, cảm thông, mà bao gồm nhiều nỗi đối lập, mâu thuẫn: vừa sung
sướng - vừa khổ đau, vừa thiếu thốn — vừa giàu sang, mà tất cả đều vô biên,
trường cửu, một thế giới bí ẩn, không giới hạn, không ai có thể đo đếm được
(ca dao Việt Nam cũng từng có một câu mang ý nghĩa tương tự: “Sông sâu
còn có kẻ đo, Lòng người ai dễ mà đo cho tường”).
Bài thơ được kết cấu theo tầng bậc. Ý một: anh xin dâng hiến trọn vẹn
cuộc đời anh cho em. Ý hai: nhưng không bao giờ em có thể chiếm lĩnh trọn
vẹn trái tim anh. Hai ý này ngày càng được bổ sung ở mức độ cao hơn trong
những lập luận của toàn bài.
Sự đối lập giữa khát vọng giãi bày, dâng hiến, chan hòa vào tâm hồn
người yêu và cái bí ẩn không gì khám phá nối của trái tim là những đối lập tồn
tại mãi mãi trong tình yêu. Sự hòa hợp trọn ven trong tình yêu là điều không
thể đến, nhưng tình yêu luôn là niềm khao khát cái trọn vẹn ấy.
Nếu mỗi người tình đều biết hướng về cái trọn vẹn, để nắm bắt, dựng
xây, điều đó sẽ đem đến hạnh phúc trong tình yêu.
Phải chẳng đấy là triết lí tiềm ẩn của thơ tình R.Tagore?
- Sức mê hoặc, quyến rủ của nghệ thuật bài thơ “28”
Bài thơ là một hệ thống tầng tầng lớp lớp những hình ảnh tượng trưng
và so sánh: đôi mắt em muốn nhìn... như trăng kia muốn rào sâu biển cả (sự
khao khát hòa hợp, thấu hiểu tâm hồn), đời anh là viên ngọc, đóa hoa (những
gì đẹp đẽ nhất, quý giá nhất của đời anh), em là nữ hoàng của vương quốc
đó (em là người làm chủ trái tim anh), em có biết gì biên giới của nó đâu (cái
bí ẩn vô biên của trái tim anh)... Hệ thống những hình ảnh tượng trưng, so
sánh này làm cho những hình ảnh của tình yêu, của tâm hồn, của trái tim
người đang yêu được mĩ lệ hóa, lung linh những sắc màu huyền diệu. Bài thơ
mang tính chất, mê hoặc vì lẽ đó.
Đây là một bài thơ trữ tình giàu chất triết lí. Chất triết lí của bài thơ thể
hiện trên nhiều bình diện: Đó là những lập luận, đưa ra giả thiết rồi phản bác
lại với những mẫu câu lặp lại: Nếu... chỉ là... nhưng. Sự vật của đời sống
không chỉ được nhìn nhận theo một chiều mà luôn đặt trong sự nghi vấn để
tìm sự thật cuối cùng. Nhà thơ hướng về cái vô hạn của vũ trụ (biển cả,
vương quốc) để xác định giới hạn, bản chất của thế giới tâm linh - phần bí ẩn,
sâu xa nhất của tâm hồn con người và nêu lên những đối lập, mâu thuẫn
muôn đời như là những quy luật vĩnh cửu của tình yêu.
Tago muốn nói điều gì về tình yêu? Có lẽ ông muốn nói lên một chân lí:
tình yêu là một cuộc dâng hiến trọn vẹn và khám phá, đi tìm. Nhưng trái tim
tình yêu mãi mãi vẫn là những điều bí ẩn. Chiếm lĩnh cái bí ẩn, vô bờ, không
giới hạn của tâm hồn người yêu sẽ luôn là những khát khao vĩnh cửu của con
người.
TÀI LIỆU SỬ DỤNG CHÍNH
1 - Một số bài giảng thơ văn Hồ Chí Minh. NXBGD 1984
2- Thơ và lời binh (Vũ Quần Phương) NXBGD 1989
3- Giảng văn 1930 - 1945 (Văn Tâm) NXBGD 1991
4- Giảng văn (tập 1 & 2) (trường ĐHSP TPHCM) 1981
5- Thơ và thẩm bình thơ (Nguyễn Công Trứ) 1990
6- Những bài giảng chọn lọc (ĐHSP Hà Nội) 1991
7- Tác phẩm văn học (Hà Minh Đức chủ biên) NXBKHXH 1991
8- Những bài giảng văn ở đại học (Lê Trí Viễn) NXBGD 1982
9- Văn học dân gian VN trong nhà trường (Nguyễn Xuân Lạc) NXBGD
1998
10- Cảm nhận và suy tưởng (Hoàng Thiệu Khang) NXB Văn học 1994
11- Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp (Nguyễn Thị Dư
Khánh) NXBGD 1995
12- Nam Cao một đời người, một đời văn (Nguyễn Văn Hạnh) NXBGD
1993
13- Giảng văn dưới ánh sáng ngôn ngữ học (Đài Xuân Ninh) NXB
TPHCM 1985
14- Giảng văn (2 tập) NXBĐH & THCN
15- Nhĩ từ công việc dạy văn (Đỗ Kim Hồi) NXBGD 1997
16- Tiếng nói tri âm (2 tập) NXB Trẻ 1994 & 1996
17- Tinh hoa thơ mới... (Lê Bá Hán chủ biên) NXBGD
18- Giảng văn văn học Việt Nam NXBGD 1997
19- Phân tích thơ văn 12 (Đỗ Kim Hồi – Nguyễn Đức Quyền) NXBGD
1998
20- Những bài làm văn chọn lọc 12 Trần Đồng Minh
21- Những bài làm văn chọn lọc 12 Đỗ Kim Hồi chủ biên, NXBGD 1998
22- Những bài làm văn chọn lọc 11 Đặng Hiển chủ biên.
23- Giới thiệu đề thi tuyển sinh (Nguyễn Xuân Lạc - Trần Đồng Minh).
24- Giảng văn (Trần Đình Sử Tuyển) NXB Hà Nội.
25- Để viết hay bài văn 12 (Trần Đình Sử - Phan Huy Dũng - Nguyễn
Đăng Điệp)
26- Trên đường bình văn (Vũ Dương Quỹ) NXBGD 1993
27- Một số nhân vật trong tác phẩm tự sự ở sách giáo khoa 12 (Vũ
Dương Quỹ chủ biên) NXBGD 1996
28- 21 bài văn hay (Lưu Đức Hạnh - Đinh Văn Hiền) NXB Hải Phòng
1997
29- Nam Cao (Văn Giá tuyển chọn) NXBGD 1997
30- 20 bài giảng văn chọn tuyển (10, 11, 12) (Nguyễn Sĩ Bá — Nguyễn
Quốc Văn - Nguyễn Quang Trung - Trần Trung)
31- 217 đề và bài văn (Nguyễn Đặng Minh chủ biên)
32- Những bài làm văn chọn lọc (Trần Đồng Minh - Dương Thanh Vân -
Võ Thị Quỳnh)
33- 45 bài văn 10, 11, 12 Thái Quang Vinh
34- Những bài làm văn chọn lọc 10, 11, 12 Thái Quang Vinh.
35- Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 10, 11, 12 NXBGD 1998
36- Đề ôn luyện lớp 12 PTTH môn Văn ( Nguyễn Văn Long chủ biên)
NXBGD 1993.
MỤC LỤC
• Kiêu binh nổi loạn
• Bài ca ngất ngưởng
CAO BÁ QUÁT
• Dương phụ hành
• Bài ca ngất ngưởng & Dương phụ hành
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
• Bài học thấm thìa.
• Ý kiến Hoài Thanh
• Văn tế Nghĩa sĩ cần Giuộc
• Xúc cảm
TÁC GIẢ NGUYỄN KHUYẾN
• Ý Xuân Diệu.
• Lòng yêu nước
• Thu vịnh
• Thu điếu
Thu ẩm
• Chùm thơ mùa thu
• Khóc Dương Khê
• Tiếng khóc chân thành.
• Thái độ Nguyễn Khuyến qua tiếng khóc
• Độc đáo trong tiếng khóc bạn
TÚ XƯƠNG
• Thương vợ
• Mồng hai Tết viếng cô Kí
• Hương sơn phong cảnh ca
PHAN BỘI CHÂU
• Về thơ văn Phan Bội Châu
• Bài ca chúc Tết thanh niên
• Xuất dương lưu biệt
• Thề non nước
• Cha con nghĩa nặng
XUÂN DIỆU
• Sự nghiệp.
• Thiên nhiên
• Đây mùa thu tới
• Vội vàng
Thơ duyên
• Tràng giang
• Đây thôn Vĩ Dạ
• Tống biệt hành
• Chữ người tử tù
THẠCH LAM
• Đặc điểm truyện ngắn của Thạch Lam
Hai đứa trẻ
SỐ ĐỎ
• Xuân tóc đỏ
• Hạnh phúc một tang gia
• Vắn tắt sự nghiệp Vũ Trọng Phụng
NAM CAO
• Đời thừa
• Chí Phèo
• “Thơ hay là thơ giản dị...”
• Người nông dân 1930 - 1945
• Thơ lãng mạn 1930 - 1945
VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
• Ngang trái
• Biển đêm
• Đám tang lão Gôriô
• Tôi yêu em
• Hai tâm trạng
• Bài thơ 28
---//---
NHỮNG BÀI VĂN CHỌN LỌC PTTHBỒI DƯỠNG LÀM VĂN HAY LỚP 11
TƯ LIỆU THAM KHẢODÀNH CHO PHỤ HUYNH VÀ GIÁO VIÊN
LÊ LƯƠNG TÂM - THÁI QUANG VINH
- NGÔ LÊ HƯƠNG GIANG - TRẦN THẢO LINH
(Tuyển chọn và giới thiệu)
NHÀ XUẤT BẢN ĐÀ NẴNG
Địa chỉ: 17 Quang Trung - Đà Nẵng
Tel: 0511.822434 - Fax : 0511.822250
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc : VÕ VĂN ĐÁNG
Tổng biên tập: NGUYỄN ĐỨC HÙNG
Biên tập: HUỲNH YÊN TRẦM MY
Bìa: ĐỖ DUY NGỌC
Sửa bản in: HOÀNG HỮU
In 1.500 cuốn, khổ 16 x 24 cm. Tại cty CP In Bến Tre. Giấy TNKHXB số:
51/583/XB - QLXB. QĐXB số: 380/QĐXB. In xong và nộp lưu chiểu quí III
năm 2005.