267
1 NHỮNG BÀI GIẢNG TÓM TẮT CỦA KHOÁ THIỀN MINH SÁT MƯỜI NGÀY Thiền sư Goenka - Thích Minh Diệu dịch Nguyên tác: "The Discourse Summaries", S.N. Goenka (1994) ---o0o--- http://thuvienhoasen.org Mục Lục ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU VỀ KHÓA THIỀN MƯỜI NGÀY LỜI NÓI ÐẦU CHÚ Ý TRÊN VĂN BẢN BÀI GIẢNG CỦA NGÀY ĐẦU TIÊN

CỦA KHOÁ THIỀN MINH SÁT MƯỜI NGÀY Thiền sư Goenka … · đại văn minh vật chất phát triển đã kích ... tính triết lý, tranh cãi bằng lý thuyết

  • Upload
    others

  • View
    3

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

1

NHỮNG BÀI GIẢNG TÓM TẮT

CỦA KHOÁ THIỀN MINH SÁT

MƯỜI NGÀY

Thiền sư Goenka - Thích Minh Diệu

dịch

Nguyên tác: "The Discourse

Summaries", S.N. Goenka (1994)

---o0o---

http://thuvienhoasen.org

Mục Lục

ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU VỀ KHÓA

THIỀN MƯỜI NGÀY

LỜI NÓI ÐẦU

CHÚ Ý TRÊN VĂN BẢN

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY ĐẦU TIÊN

2

VÀI LỜI KHUYÊN VỀ CÁCH

HÀNH TRÌ

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ HAI

NGÀY THỨ BA CỦA KHÓA TU

NGÀY THỨ TƯ

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ NĂM

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ SÁU

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ BẢY

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ TÁM

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ CHÍN

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ

MƯỜI

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ

MƯỜI MỘT

---o0o---

3

ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU VỀ KHÓA

THIỀN MƯỜI NGÀY

Đức Phật thành đạo đắc quả bằng con

đường thiền định tư duy quán xét chính

bản thân. Giáo pháp ngài để lại hàm

chứa cốt yếu dựa trên nền tảng giới,

định, tuệ. Đỉnh cao của sự tu tập là

thành tựu trí tuệ đoạn trừ mọi tập khí

cấu uế của thân, tâm và tự giải thóat.

Phương pháp thiền Vipassana tu tập

không ngoài giới, định và tuệ. Nhìn

lướt qua họa đồ giảng dạy trong suốt

mười ngày chúng ta thấy một sự tu tập

tịnh tiến được xếp đặt cho hành giả.

Nội qui về thời khóa biểu để thực hành

mỗi ngày và những qui định cần phải

tuân thủ như giữ sự tịnh khẩu tối đa

trong suốt chín ngày tu đầu cộng với

4

năm giới qui y phải tuân giữ được xem

như là nền tảng của giới cho khóa tu

mười ngày. Mỗi ngày ngồi thiền mười

giờ và trong ba ngày rưởi đầu sự tập

trung vào khu vực hai lỗ mũi và quán

sát những cảm thọ ở khu vực này cốt

yếu làm cho tâm người hành giả tập

trung vào một điểm được xem như sự

thực hành định tâm để làm tiền đề đi

vào sự hành trì quán sát Vipassana

(minh sát) trong suốt sáu ngày rưỡi còn

lại, một sự quán sát thân và tâm bằng

chánh niệm và xả ly bằng tuệ quán.

Đọc qua tài liệu này nhận ra sự cần

thiết cho người muốn tìm hiểu và thực

hành thiền Vipassana, bản thân tôi và

một số Chư vị Tăng ni đồng tu học ở

Ấn đã tham gia vài khóa tu mười ngày

5

Vipassana tất cả chúng tôi đều tự cảm

nhận sự giải thoát những căng thẳng

của tâm. Và cũng trong thời ggian tu

tập này là cơ hội để chúng ta quán xét

lại những hành vi tư tưởng cũng như

việc làm của chúng ta trước đây, nhìn

lại chính mình, con người thật của

chính chúng ta để tự trau sửa những sai

lầm và hướng thân, tâm đến những

điều tốt đẹp hơn có lợi cho bản thân và

người khác.

Dịch ra tiếng việt "Những bài giảng cốt

yếu cho khóa tu thiền mười ngày" có

tựu đề bằng tiếng Anh là: "THE

DISCOURSE SUMMARIES" cuả

Thiền sư Goenka đã giảng trong thời

gian Ngài hướng dẫn cho các vị Thiền

sinh tu khóa mười ngày. Nhờ lần phiên

6

dịch này chúng tôi đã có cơ hội ôn lại

và hiểu thêm về phương pháp hành trì

Vipassana, thời gian phiên dịch chủ

yếu là những lúc rảnh sau khi làm việc

của người nghiên cứu mỗi ngày, vì vậy

chúng tôi không đặt nặng phải dịch

theo tiêu chuẩn văn phong hoặc văn

phạm nào đó mà mục đích ở đây dịch

ra nội dung chính xác theo văn bản và

theo quan điểm Phật giáo. Phần sau của

mười một bài giảng là phần bổ sung

giải thích về một số thuật từ Pàli và

trích dẫn nguồn gốc của những bài kệ

và dẫn chứng được Ngài Goenka giảng

trong mười bài giảng, chúng tôi không

đưa ra đây. Nếu chư vị đọc giả muốn

biết rõ xin hãy tìm đọc văn bản gốc của

nó đã nói ở trên. Mục đích người dịch

7

chủ yếu giới thiệu đến chư Vị phật tử

cũng như những ai muốn tìm hiểu

phương cách sống để tự điều phục tâm

mình làm lợi ích cho chính mình cũng

như mọi người trong hòan cảnh thời

đại văn minh vật chất phát triển đã kích

động làm mất đi tính tự chủ tâm thức

con người hậu quả là nhiều vấn đề đạo

đức gia đình, xã hội đang biến chuyển

theo đà suy thoái. Có lẽ thiền

Vipassana là một trong những phương

pháp hữu hiệu xua tan mọi khổ đau

căng thẳng và cần thiết cho con người

thời đại. Phương pháp này Đức phật đã

hành trì và đã truyền trao lại cho chư vị

để tử của ngài.

Bản dịch không sao tránh khỏi những

khiếm khuyết, kính mong chư vị đọc

8

giả góp ý để bản dịch được bổ sung

hoàn tất hơn.

Mọi công đức phiên dịch này xin hồi

hướng cho vạn loại chúng sanh hạnh

phúc, sớm quay về chân lý giác ngộ và

giải thóat.

Ngày 23-5-2001

Pune University Campus

Thích Minh Diệu

Cẩn chí.

---o0o---

LỜI NÓI ÐẦU

S.N. Goenka đã nói: "giải thoát có thể

đạt được chỉ khi thực tập và không bao

giờ đạt được bằng sự bàn luận ngoài

môi". Một khóa tu thiền Vipassana là

9

một cơ hội để thực hiện những bước cụ

thể hướng đến sự giải thóat. Trong một

khóa tu tập như vầy, người tham gia sẽ

học cách giải tỏa tâm căn thẳng và

thành kiến có tác dụng làm rối loạn

trong cuộc sống thường nhật. Bằng sự

tu tập như vậy, chúng ta bắt đầu khám

phá ra cách sống một cách an ổn, sáng

tạo, hạnh phúc trong mỗi sát na. Đồng

thời chúng ta khởi hành tiến đến mục

đích tối thượng, mục đích mà nhân loại

khao khát để có: sự thanh tịnh tâm, sự

giải thoát mọi triền phược khổ đau và

giác ngộ viên mãn.

Ngoài yếu tố này ra, giải thoát không

thể đạt được chỉ bằng suy tư về nó,

hoặc ước mong về nó. Chúng ta phải

tiến hành những bước để hướng đến

10

mục đích. Vì lý do này, trong một khóa

tu tập vipassana luôn luôn nhấn mạnh

về phương pháp hành trì thực tiễn.

Không chấp nhận về sự bàn luận mang

tính triết lý, tranh cãi bằng lý thuyết và

những câu hỏi không liên quan đến

kinh nghiệm riêng của chúng ta. Một

cách hợp lý, người hành giả được

khuyến khích để tìm ra những câu trả

lời về những câu hỏi của họ ở bên

trong chính mìnhï. Vị thầy giúp đỡ

hướng dẫn bất cứ điều gì cần thiết

trong tu tập, nhưng nó tùy thuộc vào

mỗi người để thực hành những hướng

dẫn này: chúng ta phải chiến đấu với

chính chúng ta, tự giải thoát chính

mình.

11

Sự nhấn mạnh này được đưa ra, tuy

nhiên một số vấn đề giải thích cần thiết

để hổ trợ mỗi tình huống cho việc tu

tập. Vì vậy mỗi buổi tối của mỗi ngày

tu tập, Ngài Goenka cung cấp một bài

pháp (dhamma talk), để đặt vào khung

cảnh những điều tu tập của ngày đó, và

làm sáng tỏ phương pháp tu tập trong

những yếu tố khác nhau. Những bài

pháp này, ông ta lưu ý, không được

xem như là những trò chơi bằng tri

thức hoặc tình cảm. Mục đích của nó

đơn giản là để giúp hành giả để hiểu

những gì để làm và tại sao phải làm để

họ sẽ thực tập theo phương pháp thích

hợp và sẽ thành tựu kết quả khả quan.

Đó chính là những bài pháp được trình

bày ở đây trong hình thức cô đọng.

12

Mười một bài giảng cung cấp một cái

nhìn phổ quát về lời dạy của Đức Phật.

Tuy nhiên, sự hướng đến chủ đề này

không phải bằng học gỉa hoặc phân

tích. Thay vì giáo lý được trình bày

trong đường hướng là nó mở ra cho

hành giả: như một tổng thể năng động

và cụ thể. Tất cả những khía cạnh khác

nhau của nó được xem là để phơi bày

một sự nhấn mạnh tổng hợp: kinh

nghiệm của thiền định. Kinh nghiệm

này nung nấu bên trong để dẫn đến một

đời sống chân thật và sự tỏa rạng đến

phương pháp hành trì.

Không có kinh nghiệm này chúng ta

không thể nắm bắt được ý nghĩa trọn

vẹn về những gì được dạy trong những

buổi giảng này, hoặc sự thật về lời dạy

13

của Đức Phật. Nhưng điều này không

có nghĩa rằng không có một vị trí thích

hợp cho sự đánh giá bằng tri thức về

Giáo pháp. Sự hiểu bằng tri thức có giá

trị như là một sự giúp đỡ cho tu tập

thiền định, mặc dù bản thân thiền định

là một tiến trình vượt qua những giới

hạn của trí thức.

Vì lý do này, những tóm tắc này đã

được chuẩn bị, để đưa một tóm tắc

những điểm cốt lõi của mỗi bài giảng.

Chúng được tập trung chủ yếu để đưa

ra sự cảm hứng và sự hướng dẫn cho

những hành giả thiền vipassana như đã

được dạy bởi Ngài Goenka. Cho những

người khác có cơ hội để đọc nó, hy

vọng rằng những bài giảng sẽ hổ trợ sự

khuyến khích để tham gia ở khóa thiền

14

vipassana và để kinh nghiệm những gì

đã được trình bày ở đây.

Những bài tóm tắc không được sử

dụng như một cẩm nang để chính bạn

thực hành nó cho việc học thiền

vipassana, một sự thay thế cho khóa

thiền 10 ngày. Thiền định là một vấn

đề rất hệ trọng, đặc biệt phương pháp

thiền Vipassana, nó giải quyết những

cấp độ sâu thẳm của tâm thức. Nó

không bao giờ đạt tới được một cách

nhẹ nhàng hoặc một cánh ngẫu nhiên.

Phương pháp thích hợp để học thiền

Vipassana chỉ bằng cách tham gia một

khóa đặc biệt, ở đó có môi trường thích

hợp để hổ trợ cho người thiền hành và

một người hướng dẫn kinh nghiệm.

Nếu ai đó chọn cách không theo lời

15

chú ý và cố gắng tự học thiền

Vipassana qua sự tự đọc về nó, vị ấy tu

tập hoàn toàn với sự liều lĩnh của mình.

Một điều may mắn những khóa thiền

Vipassana được Ngài Goenka dạy bây

giờ được tổ chức theo định kỳ ở nhiều

nơi trên thế giới. Những chương trình

(tu tập cho các khóa thiền) có thể có

được bằng cách viết thư đến bất cứ

trung tâm nào danh sách được ghi sau

lưng của cuốn sách này.

Những bài tóm tắc chủ yếu được căn

cứ vào những bài giảng của Ngài

Goenka ở Trung tâm thiền Vipassana,

địa danh Massachusetts, ở U.S.A trong

suốt tháng 8 năm 1983. Ngoại trừ là

bài tóm tắt ngày thứ 10 được dựa vào

16

bài giảng ở Trung tâm vào tháng 8 năm

1984.

Trong lúc Ngài Goenka đã xem qua tài

liệu này và đã phê chuẩn cho xuất bản,

Ngài không có thì giờ để kiểm tra văn

bản một cách kỹû lưỡng. Vì vậy, người

đọc có thể thấy một vài lỗi và khiếm

khuyết. Những khuyết điểm này không

phải là trách nhiệm của vị Thầy, cũng

không phải của lời dạy, nhưng của

chính tôi. Sự phê bình sẽ đón nhận để

có thể giúp để sửa sai những lỗi như

vầy trong văn bản.

Cầu nguyện cho tác phẩm này giúp

nhiều người trong sự hành trì của họ về

Chánh pháp.

17

Cầu nguyện tất cả chúng sanh đều hạnh

phúc.

William Hart

---o0o---

CHÚ Ý TRÊN VĂN BẢN

Những bài pháp của Đức phật và chư

Đệ tử của Ngài được Ngài Goenka

trích dẫn được rút ra từ Những bản kết

tập về Luật (Vinaya-pitaka) và những

bài Kinh (Sutta-pitaka) trong kinh điển

Pāli. (Một số những trích dẫn có mặt

trong cả hai Bộ (kinh và luật), mặc dù

trong những trường hợp như vầy chỉ có

tham khảo về kinh được trích đưa ra ở

đây). Cũng có một vài trích dẫn rút ra

từ văn học kinh tạng Pāli. Trong những

18

bài thuyết giảng này, Ngài Goenka giải

thích những đoạn văn này thường bằng

sự diễn giải hơn bằng sự phiên dịch

theo từ ngữ Pāli. Mục đích là nhằm đưa

ra phần trọng tâm của mỗi đoạn trích

trong ngôn ngữ bình dị, nhấn mạnh

mối quan hệ của nó đến sự hành trì

thiền Vipassana.

Nơi nào một đoạn trích Pàli xuất hiện

trong ý nghĩa bản tóm tắc, sự giải thích

được đưa ra trong bài giảng của Ngài

Goenka được căn cứ vào bản tóm tắc

này. Ở sau lưng của quyển sách này,

trong phần Pàli với sự phiên dịch tiếng

anh, với sự cố gắng được tiến hành để

đưa ra những lối giải thích chính xác

cho những đoạn văn đã được trích dẫn,

19

vẫn chú trọng quan điểm của Một hành

giả tu thiền.

Trong cuốn sách về những bài tóm tắc,

những thuật từ Pàli sử dụng được duy

trì cho ý nghĩa cần thiết tối thiểu nhất.

Nơi nào các từ như vầy được sử dụng,

vì mục đích cho sự thích hợp số nhiều

của nó đuợc đưa ra trong hình thức Pàli

ví dụ, số nhiều của samkhara là

samkharà, của kalàpa là kalàpà, của

paràma là paramà.

---o0o---

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY ĐẦU

TIÊN

Những khó khăn ban đầu

Mục đích cho vấn đề thiền định này

Tại sao sự phấn khởi được chọn như là

20

điểm khởi đầu.

Bản chất của tâm

Lý do về những khó khăn và cách khắc

phục chúng

Những nguy hiểm cần phải tránh

Ngày thứ nhất có nhiều khó khăn và

không thích nghi một phần vì chúng ta

không quen ngồi lâu suốt ngày và cố

gắng để tập trung, nhưng hầu như vì

phương cách thiền định mà chúng ta đã

bắt đầu đang thực hành: chánh niệm

bằng hơi thở, không gì khác hơn chỉ là

sự thở.

Nó sẽ dễ hơn và nhanh hơn để tập

trung tâm ra khỏi những cảm thọ bất an

này nếu, cùng với sự tỉnh giác của hơi

thở, chúng ta đã bắt đầu tưởng tưởng

21

tượng hình ảnh hhoặc hình ảnh của một

thiên thần. Nhưng các bạn được yêu

cầu chỉ theo dõi hơi thở, như bản chất

như thật của nó, không có sự qui định

nó; không dùng lời hhoặc hình thức

tưởng tượng có thể được thêm vào.

Những yếu tố đó không được chấp

nhận vì mục đích tối hậu của sự thiền

định này là không phải sự tập trung vào

tâm. Sự tập trung chỉ là một sự trợ

giúp, một bưước dẫn đến mục đích cao

hơn: thanh lọc tâm, loại trừ tất cả mọi

cấu uế củatâm, mọi bất thiện vây

quanh, và vì vậy sự thành tựu giải thoát

ra khỏi tất cả mọi khổ đau, thành tựu

sự giác ngộ viên mãn.

22

Mỗi sát na mỗi cấu uế sinh khởi trong

tâm, như sân hận, cáu ghét , tham lam,

sợ hãi vân vân, chúng ta trở nên đau

khổ. Bất cứ khi nào những điều không

muốn lại đến, chúng ta trở nên căn

thẳng và bắt đầu thắt nốt ở bên trong.

Bất cứ khi nào những điều mong muốn

lại không đến, lại một lần nữa chúng ta

tạo ra sự căn thẳng xung quanh. Suốt

cuộc đời chúng ta lập lại tiến trình này

cho đến khi tòan bộ cấu trúc thân và

tâm trở thành một khối của những thắc

gút phức tạp. Và chúng ta không giữ

căng thẳng này ở trong chúng ta, mà

còn đẩy nó đến mọi người đến tiếp xúc

với ta. Dĩ nhiên, điều này không phải là

một phương cách đúng để sống.

23

Các bạn đã đến với khóa tu thiền này

để học nghệ thuật sống: làm sao để

sống hài hòa và an lạc cho chính chúng

ta, và để tạo ra sự hài hòa và an lạc đến

cho mọi người khác; làm thế nào để

sống hạnh phúc trong mỗi ngày trong

khi tiến tu hướng đến hạnh phúc tối

thuợng của một tâm hồn hoàn toàn

thanh tịnh, một tâm hồn tràn đầy với

tình thương vị tha, với lòng từ bi, với

sự hân hoan trong sự thành công của

người khác , với sự xả ly.

Để học nghệ thuật sống hài hòa, trước

nhất chúng ta phải tìm nguyên nhân

của sự bất hòa. Nguyên nhân luôn luôn

nằm ở bên trong và vì lý do này các

bạn phải khám phá thực tại của chính

các bạn. Phương pháp này giúp các bạn

24

làm như thế, để thực nghiệm cấu trúc

thân và tâm của các bạn, hướng đến

những gì quá nhiều tham đắm, kết quả

chỉ là những căng thẳng và khổ đau. Ở

cấp độ kinh nghiệm chúng ta phải hiểu

bản chất, thân thể và tâm của riêng

mình; chỉ từ đó chúng ta có thể kinh

nghiệm bất cứ những gì có thể vượt

ngoài thân và tâm. Vì vậy, đây là một

phương pháp kỷ thuật của sự giác ngộ

chân lý và tự giác ngộ, sự khảo sát thực

tại của những gì chúng ta gọi là tự ngã

(oneself). Nó cũng có thể được gọi một

phương pháp của Thượng Đế hiểu biết,

bởi lẽ đằng sau Thượng đế không có gì

khác hơn là sự thật , tình thương và sự

thanh tịnh.

25

Kinh nghiệm trược tiếp về thực tại là

điều quan trọng. "biết về chính bạn"- từ

thực tại thô, hiển nhiên, bên ngoài đến

những thực tại vi tế hơn, đến thực tại vi

tế nhất của thân và tâm. sau khi kinh

nghiệm qua những thực tại này, từ đó

chúng ta có thể đi xa hơn đến sự kinh

nghiệm thực tại tối hậu vượt ra ngoài

kinh nghiệm thân và tâm.

Hơi thở là một đặc điểm thích hợp từ

đó để bắt đầu cuộc hành trình này. Sự

sử dụng một cái ngã tự tạo, một sự tập

trung vào một đối tượng tưởng tượng-

một câu thần chú hoặc một hình tượng-

sẽ chỉ dẫn vào phương hướng của

những sự tưởng tượng, những sự ảo

tưởng; nó sẽ không giúp chúng ta khám

phá những sự thật vi tế hơn về chính

26

chúng ta. Để thể nhập vào sự thật vi tế

hơn, chúng ta phải bắt đầu với sự thật,

với một sự ngẫu nhiên, thực tại thô như

hơi thở. Hơn nữa, nếu một câu thần

chú được sử dụng, hoặc hình tượng của

môt vị thần linh, từ đó phương pháp trở

thành một đảng phái. Một câu thần chú

hoặc một hình tượng sẽ được tương

đồng với với một văn hóa, một tôn giáo

hoặc cái gì đó, và một nền tảng khác

nhau của những yếu tố này nó không

thể tìm ra sự chấp nhận. Khổ đau là căn

bệnh chung. Phương thuốc điều trị cho

căn bệnh này không thể là một đảng

phái; nó cũng phải là một phương

thuốc phổ quát. Sự chánh niệm hơi thở

chấp nhận sự yêu cầu này. Hơi thở là

thông dụng cho tất cả: sự theo dõi nó

27

sẽ có thể chấp nhận cho mọi người.

Mỗi tiến trình về phương pháp tu tập

phải hoàn toàn vượt ngoài chủ nghĩa

giáo phái.

Hơi thở là một công cụ và với công cụ

này để khám phá sự thật về chính

chúng ta. Thực tế, ở mức độ kinh

nghiệm, các bạn biết rất ít về bản thân

của các bạn. Các bạn chỉ biết hình thức

bên ngoài của nó, những bộ phận và

những vai trò của nó mà bạn có thể

điều khiển một cách ý thức. Các bạn

không biết gì về các cơ quan bên trong

chúng nó hoạt động vượt qua sự kiểm

soát của các bạn, không có gì khác hơn

là thân thể được kết hợp từ vô số các tế

bào, và những tế bào luôn thay đôỉ

từng sát na. Vô số những phản ứng

28

sinh lý điện lực hấp dẫn đang xảy ra

liên tục khắp thân thể, nhưng các bạn

không có kiến thức gì về chúng nó.

Về phương pháp này, bạn phải biết

chính bạn về những gì mà bạn chưa

biết trước đây. Về mục đích này hơi

thể sẽ hổ trợ nó hoạt động như là một

nnhịp cầu từ chỗ không biết đến chỗ

biết đuợc, vì hơi thở có một vai tròvới

thân thể mà nó có thể hoặc là nhận thức

hoặc là không nhận thức, có ý chủ ý

hoặc tự động. Chúng ta bắt đầu với sự

hít thở có ý thức và chủ ý, và tiến hành

bằng sự chánh niệm hơi thở một cách

tự nhiên và bình thường. Và từ đó các

bạn sẽ thăng tiến để duy trì sự những

sự thật vi tế ở trong các bạn. Mỗi tiến

trình là một bước đi vào thự c tại; mỗi

29

ngày bạn sẽ thể nhập sâu hơn để khám

phá những thực tại vi tế hơn về chính

bạn, về thân và tâm của bạn.

Hôm nay các bạn chỉ được yêu cầu để

theo dõi vai trò vật lý của hơi thở,

nhưng đồng thời mỗi các ban đang theo

dõi tâm của mình, vì tính chất của hơi

thở được liên hệ rất chặt chẽ với trạng

thái tâm của chúng ta. Ngay lúc bất cứ

cấu uế, phiền não sinh khởi trong tâm,

hơi thở trở nên khác thường- chúng ta

bắt đầu thở hơi nhanh một tí và nặng

một tí. Khi những phiền não qua đi, hởi

thở trở nên nhẹ nhàng trở lại. Vì vậy

hơi thở có thể giúp để khám phá thật

tại không chỉ ở thân thể mà còn ở tâm

thức nữa.

30

Thực tại của tâm mà các bạn bắt đầy

kinh nghiệm hôm nay, nó có thói quen

luôn luôn lang thang từ nơi này đến nơi

khác. Nó không muốn tháp tùng với

hơi thở, hhoặc ở trên bất cử đối tượng

nào của sự tập trung: thay vì nó chạy

rong rêu.

Và khi nó lang thang, nơi nào tâm thức

đến? Bằng sự hành trì của bạn, các bạn

đã thấy hoặc là nó lang thang ở quá

trong hoặc là nó lang trong tương lai.

Đây là thói quen của tâm; nó không

muốn ở lại trong giây phút hiện tại.

Thự c tế, chúng ta phải sống với hiện

tại. Quá khứ là những gì đã qua gợi

nhớ lại; tưông lai là những gì chúng ta

chưa đến được, cho đến khi nó trở

thành hiện tại. Nhớ lại qúa khứ và suy

31

nghĩ về tương lai là quan trọng, nhưng

chỉ khi nào chúng nó sẽ giúp chúng ta

giải quyết những vấn đề trong hiện tại.

Những vì những thói quen đã ăn sâu,

tâm thức luôn luôn tìm cách trốn khỏi

thực tại đi vào quá khứ hoặc tuơng lai

mà không thể nào nắm bắt được, và vì

vậy tâm hoang vu này duy trì khổ đau

và dao động. Phướng pháp mà các bạn

đang học ở đây được gọi là 'nghệ thuật

sống', và cuộc sống có thể được sống

thực sự chỉ trong hiện tại mà thôi. Vì

vậy, tiến trình đầu tiên là học cách làm

thế nào để sống trong giây phút hiện

tại, bằng cách kiềm chế tâm ở ngay

thực tại hiện tại: hơi thở bây giờ đang

đi và và ra hai lỗ mũi. Đây là một thực

tại của sát na này, mặt dù nó là thực tại

32

bên ngoài (thô). Khi tâm thức đi khỏi,

một trạng thái thư gỉang, không có

những căn thẳng, chúng ta chấp nhận

vấn đề rằng, vì thói quen cũ của tâm,

nó đã lang thang. Ngay lúc chúng ta

hiểu rằng tâm thức đã lang thang, tự

nhiên, tự động, nó sẽ trở lại với sự tỉnh

giác của hơi thở.

Các bạn nhận ra một các dễ dàng

khuynh hướng của tâm vây tròn trong

những ý niệm hoặc ở quá khứ hoặc ở

tương lai. Ở đây những ý niệm này

thuộc loại khuynh hướng gì của tâm?

Hôm nay, các bạn đã quan sát chính

mình rằng có nhiều ý niệm khởi lên mà

không có kết quả, đầu hoặc đuôi. Cách

ứng sử tâm như vầy thông thường được

xem như một dấu hiệu của mách (ba

33

lơn). Tuy nhiên, ở đây, tất các bạn đã

khám phá ra rằng các bạn tương đương

với mád, đã đánh mất đi vô minh, ảo

giác, ảo tưởng-moha. Ngay cả khi có

một kết quả đối với những ý niệm,

chúng nó có khi đối tượng của chúng là

những yếu tố hoặc là lạc hoặc là khổ.

Nếu là lạc, chúng ta bắt đầu phản ứng

với sự ưa thích, rồi phát triển nó thành

tham, dính mắc- ràga. Nếu nó là khổ,

chúng ta bắt đầu phản ứng với không

thích, rồi phất triển nó thành sân giận,

cáu ghét - dosa. Tâm thức luôn được

chứa đầy với vô minh, tham đắm và

sân hận. Tất cả các pháp bất thiện khác

phát nguồn từ ba căn bản bất thiện này,

và mỗi pháp bất thiện tạo ra một sự đau

khổ.

34

Mục đích của phương pháp này là

thanh lọc tâm thức, để nó thoát khỏi

khổ đau bằng cách đoạn trừ dần dần

những bất thiện pháp ở trong tâm. đây

là một cuộc giải phẩu đi sâu vào tâm

vô thức của chúng ta, được tiến hành

để khám phá và dời đi những khó khăn

phức tạp bị che đậy ở đó. Ngay tiến

trình đầu tiên của phương pháp này

phải làm tịnh hóa tâm thức, và đây là

trường hợp: bằng cách theo dõi hơi thở,

các bạn đã tiến hành không chỉ tập

trung vào tâm thức mà còn làm cho nó

trở nên thanh tịnh. Có lẽ suốt ngày hôm

nay chỉ có vài giây tâm các bạn được

tập trung hoàn toàn vào hơi thở của

bạn, nhưng mỗi tâm niệm như vậy là

có năng lực chuyển những thói quen

35

trong tâm của bạn. Ở tâm niệm đó các

bạn đang ở trong chánh niệm thực tại

hiện hữu, hơi thở vào hoặc ra trong hai

lỗ mũi, không có ảo tưởng gì cả. Và

các bạn không thể ham muốn thở nhiều

hơn nữa hoặc cảm thấy nổi giận đối với

hơi thở của bạn: các bạn chỉ đơn giản

theo dõi, đừng phản ứng với nó. Ở tâm

niệm như vậy, tâm thức thoát khỏi ba

căn bản phiền não, đó chính là thanh

tịnh. Tâm niệm thanh tịnh này ở cấp độ

vô thức có một sự ảnh hưởng mạnh đến

những phiền não từ lâu đã tích tụ trong

vô thức. Sự tiếp xúc của sức mạnh tích

cực và tiêu cực này sản sinh một sự

bùng nổ. Một số phiền não tiềm ẩn

trong vô thức sinh khởi ở cấp độ tỉnh

36

thức,và biểu hiện như những sự không

hài hòa khác nhau thuộc thân và tâm.

Khi chúng ta gặp tình huống như vầy,

sẽ có nguy hiểm sinh khởi về bất an, và

tăng trưởng những khó khăn. Tuy

nhiên, để sáng suốt để hiểu ra rằng

những gì dường như có một khó khăn

là thực tế một dấu hiệu của sự thành

công trong thiền định, hơn nữa, thực tế

phương pháp đã tiến hành thực tập. Sự

khai mở đi vào vô thức đã bắt đầu, và

một số những cấu uế tàng ẩn ở đó đã

bắt đầu xuất hiện ra ngoài vết thương.

Mặc dù tiến trình có bất an, đây là cách

duy nhất để lấy mủ đi, dời cấu uế ra

khỏi trú xứ của nó. Nếu chúng ta tiếp

tục hành trì theo phương pháp thích

hợp, tất cả những khó khăn này lần

37

lựơt sẽ tiêu tan. Ngày mai sẽ có một sự

dễ chịu hơn và ngày mốt lại thêm hơn

một tí nữa. Từng tí một, tất cả những

vấn đề sẽ qua khỏi, nếu các bạn thực

hành.

Không ai có thể làm công việc thay thế

cho bạn; các bạn phải làm việc của

chính mình. Các bạn phải khám phá

thực tại ở nơi các bạn. các bạn phải tự

giải thóat.

---o0o---

VÀI LỜI KHUYÊN VỀ CÁCH

HÀNH TRÌ

Suốt những giờ thiền định, luôn luôn

hành trì ở trong nhà. Nếu các bạn có

thiền định ở ngoài trong sự tiếp xúc

trực tiếp của mặt trời và gió, các bạn sẽ

38

không thể tập trung đi sâu và chiều sâu

của tâm thức. Suốt thời gian nghỉ xả

hơi các bạn có thể ở ngoài.

Các bạn phải duy trì bên trong những

giới hạn của khu vực khóa tu. Các bạn

đang tiến hành khai mở tâm thức của

các bạn; duy trì ở trong phòng hành trì.

Quyết tâm để duy trì trong giai đoạn

khóa tu, chấp nhận trưước những khó

khăn. Khi những vấn đề sinh khởi

trong suốt thời gian hành trì, nhớ ràng

đây là sự quyết định mạnh mẽ. Có thể

có hại cho việc rời khỏi ở giữa khóa tu.

Tương tự, quyết định mạnh mẽ để thi

hành tất cả các giới điều, qui luật, trong

đó điều quan trọng nhất là giới tịnh

khẩu. Cũng quyết tâm tuân thủ nội qui

39

giờ giấc, và đặc biệt có mặt trong nhà

tu thiền ba lần ngồi thiền tập thể mỗi

lần một giờ trong một ngày.

Tránh sự bất lợi của việc ăn quá nhiều,

nguy hiểm về tự mình không tự chủ đối

với trạng thái hôn trầm và nguy hiểm

vì không giữ tịnh khẩu.

Thực hành chính xác khi các bạn được

huớng dẫn để thực hành. Không than

phiền nó, để qua một bên vì thời gian

khóa tu bất cứ những gì mà bạn có thể

đọc hoặc học ở nơi khác. Sự pha trộn

phương pháp tu tập là một điều vô

cùng nguy hiểm. Nếu có điều gì chưa

rõ đối với các bạn, hãy đến vị Hướng

dẫn để làm rõ vấn đề. Chỉ cung cấp

một lối mòn tương xứng đối với

40

phương pháp này; nếu các bạn thực

hành như vậy, các bạn sẽ gặt hái những

kết quả mỹ mãn.

Sự dụng thời giờ quí báu, cơ hội,

phương pháp, để giải thoát bạn ra khỏi

những trói buộc của tham, sân, si,và

hoan hỷ an lạc, hài hòa và hạnh phúc

thật sự.

Hạnh phúc chân thật đến với các bạn./.

---o0o---

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ HAI

Ðịnh nghĩa phổ quát về tội và phước

Bát thánh đạo: Giới và Ðịnh

Ngày thứ hai đã qua. Mặc dù có phần

nào tốt hơn ngày đầu, những khó khăn

41

vẫn còn hiện hữu. Tâm thức thì quá

dao động, kích thích, hoang vu như

một con bò hoang hoặc con voi hoang

nó tạo ra sự tàn phá dữ dội khi nó đi

vào nơi cư trú của con người. Nếu một

người thông minh điều phục và huấn

luyện thú hoang, thì dù tất cả sức mạnh

của nó được dùng cho mục đích phá

hoại, bây giờ bắt đầu phục vụ cho xã

hội trong những cách xây dựng. Tương

tự, tâm thức, nó có sức mạnh và nguy

hiểm hơn cả một con voi hoang, phải

được điều phục và huấn luyện; thì sức

mạnh lớn lao của nó sẽ bắt đầu phục vụ

chúng ta. Nhưng các bạn phải thực

hành rất là nhẫn nại, kiên trì, và liên

tục. Sự duy trì liên tục trong thực hành

là bí quyết của sự thành công.

42

Các bạn phải tíến hành công việc tu

tập; không ai có thể tu giúp cho các

bạn. Với tình thương bao la và lòng từ

bi Bậc giác ngộ chỉ phương pháp để

hành trì, nhưng ngài không thể mang

bất cứ ai lên trên vai của Ngài để đến

mục đích tối thượng. Các bạn phải tiến

hành những tiến trình này chính các

bạn, chống lại kẻ thù ở nơi các bạn, kết

quả các bạn tự giải thóat chính mình.

Tất nhiên, một khi các bạn bắt đầu tu

tập, các bạn nhận sự hổ trợ của tất cả

sức mạnh Giáo pháp, nhưng các bạn

vẫn phải tự mình hành trì. Các bạn phải

tự mình đi trọn vẹn con đường.

Để hiểu cái gì là con đường căn cứ vào

đó các bạn đã bắt đầu đi, Đức Phật mô

tả nó bằng những thuật từ rất giản dị:

43

Từ bỏ tất cả những việc làm tội lỗi và

bất thiện,

Hãy làm những việc làm có đạo đức và

thiện lành

Hãy thanh lọc tâm,

Đây là lời dạy của Chư vị Giác ngộ.

Nó là phương pháp phổ quát có thể

dùng cho mọi người thuộc bất kỳ

nguồn gốc, sắc tộc, hoặc quốc gia nào.

Nhữngù vấn đề dẫn đến từ sự định

nghĩa sai lầm về tội và phước. Khi

nguồn cốt lõi giáo pháp đã mất đi, nó

trở thành một phe phái, và rồi mỗi phái

lại đưa ra định nghĩa khác nhau về sự

trung thực, như thế, sau khi có một

hình thức đặc biệt bên ngoài, hoặc diễn

bày những nghi lễ nào đó, hoặc nắm

giữ một số niềm tin. Tất cả những vấn

44

đề này là những định nghĩa thuộc phe

phái, có thể chấp nhận đối với một số

người này và không thể chấp nhận đối

với số người khác. Tuy nhiên, Giáo

pháp đưa ra một định nghĩa phổ quát

về sai lầm và sự trung thực (đúng). Bất

cứ hành động nào mà có hại đến người

khác, làm cho họ bất an, và hài hòa thì

nó là sai lầm (tội) . Bất cứ việc làm nào

giúp người khác, giúp họ an ổn và hài

hòa thì nó là hành động đạo đức, lương

thiện. Đây là một sự định nghĩa không

thích ứng với bất cứ giáo điều nào,

nhưng lại thích ứng với qui luật tự

nhiên. Và theo qui luật tự nhiên chúng

ta không thể làm hành động gì mà có

hại đến người khác mà không có gây ra

một tâm cấu uế trong tâm của chúng ta

45

trước: sân hận, sợ hãi, cáu ghét vân

vân.;và bất cứ khi nào chúng ta tạo ra

một tâm bất thiện, thì chúng ta trở nên

đau khổ, chúng ta cảm nhận những khổ

sở của địa ngục ở trong đó. Tương tự,

chúng ta không thể làm một việc để

giúp người khác mà trước hết chúng ta

không tạo ra tình thương, lòng từ, thiện

chí; và ngay lúc chúng ta bắt đầu phát

triển những phẩm chất tâm thanh tịnh

như vầy, chúng ta bắt đầu vui với an

lạc thiên giới ở trong chúng ta. Khi các

bạn giúp người khác, đồng thời cấc bạn

giúp cho chính mình; khi các bạn làm

hại người khác, đồng thời các bạn làm

hại bản thân mình. Đây là Diệu pháp,

chân lý, qui luật- qui luật phổ quát của

tự nhiên.

46

Con đường của Giáo pháp được gọi là

Bát chánh đạo, cao thượng ở ý nghĩa

mà bất cứ ai hành trì nó chắc chắn trở

thành một vị có tâm cao thượng, một

Bậc thánh nhân. Giáo pháp được chia

làm ba phần: giới , định và trí tuệ. Giới

(Siila) là đạo đức - từ bỏ những việc

làm bất thiện của thân và khẩu. Thiền

Định (Samaadhi) là việc làm thiện phát

triển sự kiềm chế tâm. Thực hành cả

hai thì có ích, nhưng không phải Giới

cũng không phải Thiền định có thể

đọan tận tất cả những phiền não đã tích

tụ trong tâm. vì mục đích này, phần thứ

ba của Giáo pháp phải được hành trì:

Pan~n~aa, sự phát triển Trí tuệ, tuệ

quán, để làm thanh tịnh tâm. Phần giới

gồm có ba phần trong Bát thánh Đạo:

47

1. Sammaa-vaacaa- chánh ngữ, sự

thanh tịnh về lời nói. Để hiểu những gì

là sự thanh tịnh của lời nói, chúng ta

phải biết những gì là bất tịnh của lời

nói. Nói láo để lừa gạt người khác, nói

thô bạo làm tổn hại đến người khác,

nói sau lưng, nói vu khống, nói lảm

nhảm và tranh cãi không có mục đích

tất cả là những bất tịnh của miệng. Khi

chúng ta từ bỏ những bất thiện này,

những gì còn lại là chánh ngữ (lời nói

chơn chánh).

2. Sammaa-kammanta: chánh nghiệp,

sự thanh tịnh về nhũng việc làm của

thân. Về con đường của Chánh pháp

chỉ có một thước đo để định mức thiện

hoặc bất thiện của một hành động, nó

là thân, khẩu hay là ý, và hành động

48

giúp người hay là làm hại người khác.

Vì vậy, ghiết hại, trộm cắp, phạm tội

hãm hiếp, hoặc tà dâm, và uống rượu

say chúng ta hành động vô ý thức có

thể làm hại đến người khác, và làm hại

cho chính mình. Khi chúng ta từ bỏ

những việc làm bất thiện về thân này,

những hành động còn lại là chánh

mạng (việc làm chân chánh từ thân).

3. Sammaa-aajiiva: chánh nghiệp. Mọi

người phải có một vài phương kế để

sinh nhai để giúp chính mình và những

ai sống nương vào vị ấy, nhưng nếu

phương tiện hổ trợ sự sinh tồn của vị

ấy có hại cho người khác, thì nó không

phải là chánh mạng. Có lẽ chúng ta

không thể chính mình làm nhũng việc

sai lầm bằng phương cách sống của

49

chúng ta, nhưng khuyến khích người

khác làm như vậy; nếu như vậy chúng

ta không thực hành đúng với chánh

mạng. Ví dụ, bán rượu, mở sòng bạt,

bán vũ khí, bán thú sống, hoặc thịt thú

tất cả đều là những hành động phi

chánh mạng. Ngay cả trong nghề

nghiệp cao nhất, nếu những việc làm

của chúng ta chỉ vì phá hoại người

khác, thì chúng ta không hành trì chánh

mạng. Nếu sự vận động là để trình diễn

một phần của chúng ta như là một

thành viên của xã hội, để cung cấp kỷ

năng của chúng ta và nổ lự của chúng

ta cho một việc tốt phổ quát, trong việc

đápû lại vì việc làm này, chúng ta đón

nhận một phần thưởng tương xứng

bằng việc làm này chúng ta nuôi bản

50

thân mình và chúng ta sống nhờ vào

đó, một người làm việc như vầy là thực

hành đúng chánh mạng.

Một người tại gia, một người không

tôn giáo, cần tiền để vì cuộc sống của

anh ta. Tuy nhiên, sự nguy hiểm là lối

kiếm tiền đó trở thành một phương tiện

để tâng bốc cho tự ngã: chúng ta tìm để

thu nhập cao càng nhiều càng tốt cho

chính mình, và cảm thấy khinh miệt

những ai thu nhập ít. Thái độ như vầy

gây hại cho người khác và cho chính

chúng ta, vì tự ngã lại tăng trưởng hơn,

càng khó để chúng ta giải thóat. Vì

vậy, một đặc tính cốt lõi của chánh

mạng là bố thí, làm từ thiện, chia sẻ

một phần chúng ta làm ra cho những

người khác. Thì chúng ta có lợi không

51

chỉ cho chính mình mà còn lợi ích cho

người khác.

Nếu giáo pháp chỉ có những sự khuyên

bảo khuyến khích để từ bỏ những việc

làm có hại đến người khác, thì nó sẽ

không có kết quả. Một cách tri thức,

chúng ta có thể hiểu những nguy hiểm

của những hành động bất thiện và

những ích lợi của những hành động

thiện, hoặc chúng ta có thể chấp nhận

sự quan trọng của giới vì lòng tận tụy

đối với người giảng nó. Nhưng chúng

ta vẫn tiếp tục làm sai, vì chúng ta

không tự chủ với tâm thức của mình.

Vì vậy, phần thứ hai của Giáo pháp ,

Chânh định: sự phát triển khả năng

điều khiển tâm chúng ta. Trong phần

52

này gồm có ba phần trong Bát thánh

đạo:

1. Sammaa-vaayaama : (chánh tinh

tấn, thực tập đúng cách) bằng sự thực

tập của các bạn, các bạn đã thấy thế

nào là sự yếu ớt và không vững chắc

của tâm, luôn luôn dao động từ đối

tượng này sang đối tượng khác. Tâm

thức như vầy đòi hỏi sự thực tập để

tăng sức mạnh cho nó. Có bốn cách

thực tập để tăng sức mạnh cho tâm

thức: tránh xa và từ bỏ tất cả các bất

thiện pháp có thể phát sanh, không cho

nó tiếp xúc với bất cứ bất thiện pháp

nào mà nó chưa khởi sinh, duy trì và

phát triển tất cả các thiện pháp hiện tại

có mặt trong tâm thức và hướng tâm

đến các thiện pháp mà nó chưa hành

53

trì. Một cách trực tiếp, bằng sự thực tập

tỉnh giác qua hơi thở (Anaapaana) các

bạn đã bắt đầu thi hành những cách tu

tập này.

2. Sammaa-sati: tỉnh giác, tỉnh giác với

niệm thực tại. Về quá khứ chỉ có thể là

những ký ức; về tương lai chỉ có thể là

những ước mong, lo sợ và tưởng

tượng. Các bạn đã bắt đầu thực tập

chánh niệm (sammaa-sati) bằng sự tự

luyện tập để duy trì tỉnh giác mọi tình

huống biểu hiện thực tại ở mỗi sát na,

trong khu vực giới hạn của hai lỗ mũi.

Các bạn phải phát triển khả năng để

tỉnh giác toàn bộ thực tại, từ cấp độ thô

nhất đến vi tế nhất. Để bắt đầu, các bạn

hãy tập trung hơi thở có ý thức , và có

tập trung, từ đó hơi thở tự nhiên và nhẹ

54

nhàng, đến sự tiếp xúc của hơi thở. Bây

giờ các bạn sẽ sử dụng một đối tượng

tỉnh lặng vi tế hơn của sự chú ý: các

cảm thọ tự nhiên và bằng thân thể

trong khu vực giới hạn này (khu vực ở

hai lỗ mũi). Các bạn có thể cảm nhận

nhiệt độ của hơi thở, hơi lạnh khi nó đi

vào, hơi ấm khi nó đi ra khỏi thân thể.

Vượt qua vấn đề đó, có những cảm thọ

không thể diễn tả được không liên hệ

đến hơi thở: nóng , lạnh, ngứa, kích

động, dao động, ép nén, căng thẳng,

đau v.v.. các bạn không thể chọn loại

cảm thọ nào để cảm nhận, vì các bạn

không thể tạo ra các cảm thọ. Chỉ theo

dõi; chỉ duy trì tỉnh giác. Hình thức của

cảm thọ không quan trọng; điều quan

55

trọng là tỉnh giác với thực tại về cảm

thọ mà không phản ứng lại nó.

Đặc tính thói quen của tâm thức, như

các bạn đã thấy, là xoay cuốn theo

những tư tưởng thuộc tương lai hoặc

quá khứ, tạo ra tham ái và sân hận.

Bằng sự thực hành chánh niệm các bạn

đã bắt đầu phá vỡ thói quen này.

Không phải sau khóa tu tập này các

bạn sẽ quên tất cả quá khứ và không

còn nghĩ ngợi gì về tương lai nữa.

Nhưng thực tế các bạn đã thường phí

bỏ khả năng của các bạn bằng sự lôi

cuốn vô ích vào quá khứ hoặc tương

lai, qúa nhiều đến nổi khi các bạn cần

nhớ lại hoặc lên kế hoạch gì đó, các

bạn không thể làm như ý muốn. Bằng

sự phát triển chánh niệm, các bạn sẽ

56

học các đặt tâm thức của các bạn vững

chắc hơn trong giây phút thực tại, và

các bạn sẽ thấy rằng cấc bạn có thể nhớ

lại quá khứ khi cần thiết và tạo ra

những kế hoạch thích hợp cho tương

lai. các bạn sẽ có thể có một đời sống

lành mạnh và hạnh phúc.

3. Sammaa-samaadhi: chánh định: chỉ

có sự tập trung không phải là mục đích

của pháp môn này; sự tập trung các bạn

phát triển phải có một nền tảng về sự

thanh tịnh. Với một căn bản của tham,

sân hoặc si mê chúng ta có thể tập

trung tâm thức, nhưng vấn đề này

không phải là chánh định. Chúng ta

phải tỉnh giác thực tại hiện hữa ở trong

chúng ta, không có tham và sân. Duy

57

trì sự tỉnh giác như vầy liên tục từng

giây phút- đây gọi là chánh định.

Bằng sự chấp hành năm giới một cách

nghiêm túc, các bạn bắt đầu thực tập

giới. Bằng sự luyện tập tâm để duy trì

tập trung vào một điểm, một đối tượng

thật của niệm hiện tại, không móng

khơi tham hoặc sân hận, các bạn đã bắt

đầu phát triển chánh định. Bây giờ giữ

sự luyện tập một cách tinh tấn để làm

nhạy bén tâm thức của bạn, để khi các

bạn bắt đầu thực tập trí tuệ các bạn sẽ

có thể thể nhập những cấp độ sâu của

vô thức, để loại trừ phiền não ẩn núp ở

đó, và hoan hỷ với hạnh phúc thật sự -

hạnh phúc của sự giải thóat.

Chân hạnh phúc đến với các bạn.

58

Cầu mong cho tất cả chúng sanh đều

hạnh phúc.

---o0o---

NGÀY THỨ BA CỦA KHÓA TU

Bát thánh đạo: Trí tuệ - trí tuệ do

truyền đạt, trí tuệ bằng tri thức, trí tuệ

bằng kinh nghiệm.

Kalaapaa: bốn yếu tố

Ba đặc tính: vô thường, bản chất huyển

hóa của Ngã, và khổ.

Sự thể nhập qua thực tại hiển nhiên

Ngày thứ ba đã qua. Chiều mai các bạn

sẽ đi vào lãnh vực của Trí tuệ

(pan~n~aa), phần thứ ba của Bát thánh

Đạo. Không có trí tuệ, phương pháp

hành trì không thể thực hiện hoàn hảo.

59

Chúng ta bắt đầu hành trình bằng tu tập

giới (Siila), đó là, bằng cách từ bỏ

những hành viù gây tác hại cho người

khác; nhưng mặc dù chúng ta có thể

không gây hại đến người khác, chúng

ta vẫn còn gây hại cho chính chúng ta

bằng cách tạo ra những phiền não trong

tâm. Vì vậy, chúng ta tiến hành sự

luyện tập thiền định, học cách điều

phục tâm, để đè nén những phiền não

đã sinh khởi. Tuy nhiên, sự đè nén

phiền não không làm chúng tiêu mất.

Chúng lưu lại trong vô thức và sinh

trưởng ở đó, tiếp tục gây tác hại đến

chính chúng ta. Vì vậy, tiến trình thứ

ba của Giáo pháp ( trí tuệ: pan~n~aa):

không phải đưa ra một chứng nhận giải

thoát mọi phiền não cũng không phải

60

sự đè nén chúng, mà thay vì cho phép

chúng sinh khởi để tiêu diệt chúng. Khi

phiền não được đoạn trừ , tâm thức

thoát khỏi mọi cấu nhiễm. Và khi tâm

thức được thanh tịnh, khi đó không cần

bất cứ nỗ lực gì để chúng ta từ bỏ

những việc làm có hại cho người khác

bằng sự tự nhiên một tâm thức thuần

tịnh có đầy đủ thiện chí, từ tâm đối với

mọi người. Tương tự, không cần bất cứ

nổ lực gì để chúng ta từ bỏ những hành

động có hại đến chính bản thân. Chúng

ta sống một cuộc sống lành mạnh và

hạnh phúc. Vì vậy mỗi tiến trình của

phương pháp hành trì phải đưa đến một

tiến trình kế tiếp. Giới dẫn đến sự phát

triển thiền định (samaadhi), chánh

định; định đưa đến sự phát triển trí tuệ

61

(Pan~n~aa), trí tuệ thanh lọc tâm thức;

trí tuệ đưa đến niết bàn (nibbaana) sự

giải thoát mọi trần cấu, sự giác ngộ

hoàn tòan.

Trong bát chánh đạo Trí tuệ bao gồm

có hai:

1- Sammaa-san’kappa: chánh tư duy:

thật sự không cần thiết toàn bộ tiến

trình tư duy chấm dứt trước khi chúng

ta có thể bắt đầu phát triển trí tuệ. Tư

duy tồn tại, nhưng cách thức của sự tư

duy thay đổi. Những cấu uế ở bề mặt

của tâm thức bắt đầu đi qua vì sự hành

trì tỉnh giác về hơi thở. Thay vì tư duy

về tham, sân và si mê, chúng ta bắt đầu

có những tư duy lành mạnh, tư duy về

62

giáo pháp, con đường giải thoát cho

chúng ta.

2- Sammaa-ditthi: chánh kiến: đây là

trí tuệ chính hiệu, sự hiểu biết thực tại

như thật chính nó, không phải như nó

sẽ biểu hiện.

Có ba tiến trình về sự phát triển trí tuệ.

Tiến trình thứ nhất là trí tuệ nhận được

bằng cách nghe hoặc đọc lời nói của

người khác (sutta-mayaa pan~n~aa:

văn tuệ). Trí tuệ thâu nhận này rất là

hữu ích để đặt chúng ta vào một

phương hướng thích hợp. Tuy nhiên,

không thể giải thoát bằng trí tuệ này, vì

thực tế nó chỉ là trí tuệ vay mượn mà

thôi. Chúng ta chấp nhận nó như chân

lý có thể vì lòng tin mù quáng, hoặc có

63

thể vì sân hận, trong sợ hãi rằng không

tin chúng ta sẽ bị rơi vào địa ngục,

hoặc có thể vì sự tham lam, trong sự hy

vọng rằng sự tin tưởng sẽ đưa chúng ta

đến thiên đàng. Nhưng trong trường

hợp này, nó không phải là trí tuệ của

chính chúng ta.

Vai trò của văn tuệ sẽ đưa đến một giai

đoạn kế tiếp: cintaa-mayaa pan~n~aa,

tư duy trí tuệ (tư tuệ). Một cách lý trí,

chúng ta kiểm tra những gì chúng ta

nghe hoặc đọc để xem nó có mạch lạc,

thực tế, lợi ích hay không; nếu như vậy

thì chúng ta chấp nhận. Trí tuệ tư duy

này cũng rất quan trọng, nhưng nó

cũng rất nguy hiểm nếu nó được xem

như là tối hậu hơn hết. Một số người

phát triển khả năng tri thức, và do đó

64

cho rằng anh ta là một người trí tuệ.

Tất cả những gì anh ta học chỉ nhằm

phục vụ để nâng cao tự ngã của bản

thân; anh ta càng xa lìa sự giải thóat.

Vai trò thích hợp của tư tuệ là để dẫn

đến giai đoạn kế tiếp: bhaavanaa-

mayaa pan~n~aa (tu tuệ) trí tuệ phát

triển do sự tu tập của chính chúng ta, ở

cấp độ kinh nghiệm. Đây là trí tuệ thự

sự. Văn tuệ và tư tuệ rất có ích nếu

chúng nó cho ra một nguồn cảm hứng

và hướng dẫn để sử dụng tiến trình kế

tiếp. Tuy nhiên, chỉ có trí tuệ tự chứng

mới có thể giải thoát, vì đây là trí tuệ

của chính chúng ta, được căn cứ vào

chính kinh nghiệm của chúng ta.

65

Một ví dụ cho ba loại trí tuệ: một vị

Bác sĩ cho một toa thuốc tây cho một

bệnh nhân. Bệnh nhân về nhà,và vì quá

tin vào vị bác sĩ của anh ta, anh ta đọc

tên toa thuốc hàng ngày, đây là trí tuệ

nhận được (văn tuệ). Không hài lòng

với toa thuốc ấy, bệnh nhân trở lại Bác

sĩ, và yêu cầu và nhận một sự giải thích

về toa thuốc, tại sao nó cần thiết và làm

thế nào để sử dụng nó; đây là trí tuệ tư

duy. Cuối cùng anh ta uống thuốc; chỉ

có vậy từ đó bệnh tật của anh thuyên

giảm. Lợi lạc chỉ có từ bước thứ ba (tu

tuệ, trí tuệ do thực hành mà có).

Các bạn tham gia khóa tu này là các

bạn tự mình uống thuốc, đêå phát triển

tu tuệ nơi các bạn. Làm như vậy, các

bạn phải hiểu chân lý ở cấp độ kinh

66

nghiệm. Quá nhiều sự lẫn lộn hiện

hành vì phương pháp và các sự vật dẫn

đến hình thành khác hoàn toàn với bản

chất thật sự của nó. Và bên ngoài hình

thức của thân thể, chân lý không thể

kinh nghiệm được; nó chỉ có thể trí

thức hóa. Vì vậy, các bạn phải phát

triển khả năng để kinh nghiệm chân lý

trong chính các bạn, từ thô nhất đến

cấp độ vi tế nhất, để thoát ra khỏi tất cả

những vô minh và trói buộc.

Mỗi chúng ta biết rằng toàn bộ vũ trụ

là sự thay đổi liên tục, nhưng chỉ có trí

tuệ tư duy về thực tại này sẽ không

giúp ích gì; chúng ta phải kinh nghiệm

nó ở trong mỗi chúng ta. Có thể một

biến cố đau thương, như cái chết của

người thân, ép buộc chúng ta đương

67

đầu với vấn đề khắc nnghiệt của vô

thường, và chúng ta bắt đầu phát triển

trí tuệ, để thấy sự vô ích về sự nỗ lực

để có những vật chất thế gian và sự

tranh cãi với người khác. Nhưng ngay

lúc những thói quen cũ của tự ngã

khẳng định lại chính nó, và trí tuệ khô

héo, vì nó không được căn cứ trực tiếp,

kinh nghiệm cá nhân. Chúng ta không

có kinh nghiệm thực tại vô thường

trong mỗi chúng ta.

Mọi vật đều vô thường (phù du) sinh

khởi rồi tàn phai ở mỗi sát na - anicca

(vô thường); nhưng sự nhanh chóng và

liên tục của tiến trình tạo ra sự ảo

tưởng về thường còn. Ngọn đèn cầy và

ánh sáng của ngọn đèn điện cả hai đều

thay đổi liên tục. Nếu bằng nhận thức

68

các giác quan của chúng ta, chúng ta có

thể khám phá tiến trình của sự thay đổi,

như trường hợp ánh sáng ngọn đèn cầy,

từ đó chúng ta có thể thoát khỏi sự ảo

tuởng. Nhưng khi nào, như trong

trường hợp của ánh sáng đèn điện, sự

thay đổi quá nhanh và sự liên tục đến

đổi các căn của chúng ta không thể

khám phá ra nó, từ đó ảo ggiác càng

khó phá vỡ. Chúng ta có thể khám phá

sự liên tục của nước trong một dòng

sông, nhưng làm thế nào để chúng ta

hiểu rằng một người đang tắm trong

dòng sông đó cũng thay đổi trong từng

sát na?.

Chỉ có cách duy nhất phá vỡ ảo giác là

để học để khám phá trong chính chúng

ta, và để kinh nghiệm thực tại ở mỗi cơ

69

cấu thân và tâm của chúng ta. Đây là

những gì Bồ tát Siddattha Gotama đã

làm để trở thành một Vị Phật. Để sang

một bên mọi thành kiến trước đây,

Ngài đã kiểm nghiệm chính mình để

khám phá bản chất chân lý của cơ cấu

thân và tâm. bắt đầu từ cấp độ vi tế

nhất, và ngài đã khám phá ra rằng toàn

bộ cấu trúc thuộc về vật lý, toàn bộ thế

giới vật chất, được kết hợp bằng những

tiểu nguyên tử, trong Paali gọi là

at.t.ha kalaapaa. Và ngài đã khám phá

rằng mỗi tố chất này gồm bốn yếu tố:

đất, nước, lửa và không khí và những

đặc tính hổ trợ của chúng. Những

thành phần này, ngài đã tìm ra, là

những nền móng xây dựng căn bản của

vật chất, và chính chúng nó luôn luôn

70

sinh diệt liên tục mong chóng-hàng tỉ

lần trong một giây. Trong thực tế

không có sự lâu bền trong thế giới vật

chất; nó không có gì chỉ là sự biến đổi

và dao động. Các nhàkhoa học hiện đại

đã xác định những khám phá của Đức

Phật, và đã chứng minh bằng thực

nghiệm rằng toàn bộ thế giới vật chất

được kết hợp bởi những thành phần

tiểu nguyên tử luôn sinh diệt liên tục.

Tuy nhiên, những nhà khoa học này

không giải thoát khỏi những khổ đau,

vì trí tuệ của họ chỉ là tri thức. Không

như Đức Phật, họ không có kinh

nghiệm trực tiếp ở nơi họ. Khi chúng ta

tự kinh nghiệm thực tại của vô thường

nơi mỗi chúng ta, chỉ khi nào chúng ta

bắt đầu thực nghiệm về khổ.

71

Khi sự tuệ tri về vô thường phát triển

trong mỗi chúng ta, một yết tố khác

của trí tuệ sinh khởi: không có "cái ta"

và "cái của ta" (anattaa). Toàn bộ cơ

cấu thân và tâm, không có gì (trong

thân và tâm của mỗi chúng ta) có thể

kéo dài hơn một sát na, không có gì

chúng ta có thể xem như tự ngã bất

biến hoặc linh hồn bấn biến. Nếu có cái

gì đó thật sự là "của ta", thì chúng ta

phải có thể có nó, để làm chủ nó,

nhưng thực tế chúng ta không điều

khiển được nó ngay cả thân thể của

chúng ta. Nó luôn thay đổi, suy tàn, bất

kể đến sự mong ước của chúng ta.

Từ đó phần thứ ba này của trí tuệ phát

triển: khổ (dukkha). Nếu chúng ta nổ

lực để thu đạt hoặc nắm giữ đối với

72

những gì mà chúng thay đổi vượt qua

sự kiểm soát của chúng ta, từ đó chúng

ta bị trói buộc và tạo ra khổ sở cho

chính mình. Thông thường, chúng ta

nhận ra khổ với những kinh nghiệm

cảm xúc bất lạc, nhưng những cảm thọ

lạc có thể xem như đồng đẳng với với

các nguyên nhân của khổ, nếu chúng ta

tăng trưởng sự tham đắm về nó, vì

chúng nó đồng nghĩa với vô minh.

Tham đắm những gì mang tính tạm bợ

thì chắc chắn mang lại kết quả đau khổ

mà thôi.

Khi hiểu biết về vô thường (anicca),

khổ (dukkha) và vô ngã (anattaa) là

một điều chắc chắn, trí tuệ này sẽ biểu

hiện trong đời sống hàng ngày của

chúng ta. Chẳng hạn chúng ta đã học

73

để thể nhập vượt qua thực tại hiển

nhiên ở đó,cũng vậy trong nhũng tình

huống ngoại tại chúng ta sẽ có thể thấy

sự thật một cách rõ ràng và cũng đồng

thời nhận ra chân lý thực tối hậu.

Chúng ta làm muội lượt vô minh và

sống một cuộc đời lành mạnh và hạnh

phúc.

Nhiều ảo tưởng được tạo ra bằng thực

tại hiển nhiên, cũng cố và kết hợp-

chẳng hạn như ảo tưởng về cái đẹp

thân thể. Thân thể dường như đẹp chỉ

khi nó được phối hợp. Những phần

riêng biệt của nó nhìn một cách riêng

rẻ, thì chẳng có gì hấp dẫn và đẹp cả

(asubha). Cái đẹp thân thể là bề ngoài,

thực tại ở bên ngoài, không phải là

chân lý rốt ráo.

74

Tuy nhiên, sự hiểu biết về bản chất

không thật của cái đẹp thân thể sẽ

không đưa đến giận ghét người khác.

Khi trí tuệ sinh khởi, tự nhiên, tâm trở

nên thăng bằng, không cấu nhiểm,

thuần tịnh , đầy thiện chí hướng đến

moị vật. Sau khi kinh nnghiệm thực tại

trong mỗi chúng ta, chúng ta có thể

làm muội lượt ảo tưởng (vô minh) ,

tham lam và sân hận, và có thể sống an

bình và hạnh phúc.

Sáng mai, các bạn sẽ tiến hành những

bước tiến đầu tiên của các bạn vào lãnh

vực trí tuệ khi các bạn bắt đầu thực

hành Vipassan. Đừng hy vọng rằng

ngay khi các bạn bắt đầu thì các bạn sẽ

thấy tất cả những phần tử vi tế sinh diệt

trong thân thể các bạn. Không, các bạn

75

bắt đầu với sự thật thô và bên ngoài, và

bằng cách duy trì niệm xả, từ từ chúng

ta thể nhập vào chân lý vi tế hơn, chân

lý tối hậu của tâm thức, của thân thể,

của những yếu tố thuộc về tâm và cuối

cùng chân lý tối hậu vượt qua yếu tố

thân và tâm.

Để thành tựu mục đích này, các bạn

phải nổ lực chính mình. Vì vậy, giữ

giới thật nghiêm túc, vì đây là nền

móng của sự thiền định, và giữ thực tập

hơi thở đến 3 giờ chiều ngày mai; duy

trì sự theo dõi thực tại xung quanh khu

vực hai lỗ mũi. Giữ tâm các bạn thật

nhạy bén để khi các bạn bắt đầu thực

hành Vipassana vào ngày mai, các bạn

có thể đi sâu vào cấp độ sâu hơn và

đoạn ttrừ những phiền não tìm ẩn ở đó.

76

Hãy hành trì tinh tấn, liên tục, kiên cố,

vì sự tốt đẹp và sự giải thoát cho các

bạn.

Cầu mong tất cả chư vị thành công

trong sự hành trì những bước đầu tiên

về giáo lý giải thoát.

NGÀY THỨ TƯ

Những câu hỏi liên quan đến vấn đề

làm sao để thực hành thiền Vipassana

Qui luật về giáo lý nghiệp quả

Sự quan trọng của hành động thuộc về

tâm

Bốn sự tập hợp của tâm:sự hiểu biết (ý

thức), sự nhận thức, sự cảm thọ , sự

phản ứng

Ngày thứ tư là ngày rất quan trọng. Các

bạn đã bắt đầu thể nhập vào dòng sông

77

của chánh pháp (Ganges of Dhamma),

khám phá chân lý nơi các bạn ở cấp độ

những cảm thọ về thân. Trong quá khứ,

vì vô minh, những cảm thọ này là

những nguyên nhân cho sự tăng trưởng

những khổ đau trong các bạn, nhưng

chúng nó cũng có thể dùng để đoạn trừ

khổ đau. Các bạn đã tiến hành bước

đầu tiên vào con đường giải thoát bằng

sự luyện tập quan sát những cảm thọ về

thân và duy trì bình thản tâm. Vài vấn

đề về phương pháp thường được hỏi:

Tại sao di chuyển sự chú ý trên thân

thể theo một trật tự và tại sao phải theo

trật tựnày? bất cứ trật tự nào đều có thể

thực hành, nhưng một trật tự là đủ.

Ngược lại nguy hiểm về sự không chú

ý ở một vài bộ phận của thân thể, và

78

những phần này sẽ duy trì không cảm

xúc và trống không. Cảm thọ có mặt

khắp thân thể, và trong phương pháp

này, tầm quan trọng là phát triển khả

năng kinh nghiệm cảm thọ ở mọi nơi.

Vì mục đích này, di chuyển sự chú ý

các cảm thọ theo trật tự rất là có lợi.

Nếu trong một phần của thân thể không

có cảm thọ, các bạn có thể duy trì sự

chú tâm của các bạn ở đó khoảng một

phút. Trong thực tế, ù cảm thọ luôn có

mặt ở đó, như ở mọi bộ phận khác của

thân thể, nhưng nó có một tính chất vi

tế như vầy đến nổi tâm của các bạn

không nhận ra nó một cách ý thức, và

vì vậy nơi này dường như vô giác (

không cảm nhận được ). Duy trì

khoảng một phút, theo dõi một cách

79

tĩnh lặng và xả ly. Ðừng tạo ra sự tham

đắm vì một cảm thọ, hoặc sân hận

hướng đến sự mù quáng. Nếu các bạn

làm như vậy, các bạn đã làm mất sự

thăng bằng ở các bạn, và tâm mất thăng

bằng thì rất là ngu ngốc; nó chắc chắn

không thể kinh nghiệm những cảm thọ

vi tế hơn. Nhưng nếu tâm duy trì sự

thăng bằng, nó trở nên nhạy bén hơn và

mạnh hơn, khả năng khám phá các cảm

thọ vi tế nhiều hơn. Theo dõi những

phần của thân thể một cách xả ly

khoảng một phút, không quá một phút.

Nếu trong vòng một phút không có

cảm thọ khởi lên, lúc đó mỉm cười và

dời đi nơi khác. Vòng quan sát kế tiếp,

lại duy trì một phút nữa; sớm muộn gì

các bạn sẽ bắt đầu kinh nghiệm cảm

80

thọ ở đó và khắp thân thể. Nếu các bạn

duy trì đã một phút nhưng vẫn không

cảm nhận một cảm thọ, thì tập trung

cảm nhận sự xúc chạm quần áo của bạn

nếu nó là nơi được bao phủ, hoặc sự

tiếp xúc với môi trường nếu nó không

bị bao phủ. Bắt đầu với những cảm thọ

bề ngoài như vầy,và tuần tự các bạn

cũng sẽ bắt đầu để cảm nhận những

cảm thọ khác.

Nếu sự chú ý được đặt vào một phần

của thân thể và một cảm thọ khởi lên ở

một nơi khác, chúng ta có nên nhảy lui

trở lại hoặc hướng đến để theo dõi cảm

thọ này hay không?không nên làm như

vậy mà tiếp tục di chuyển sự quan sát

theo trật tự. Ðừng tìm cách làm không

cho sinh khởi những cảm thọ ở những

81

phần khác của thân thể.-các bạn không

thể làm như thế- nhưng cũng đừng chú

trọng đến chúng nó. Theo dõi mỗi cảm

thọ chỉ khi nào các bạn đến với chúng

nó, di chuyển theo trật tự. Ngược lại

các bạn sẽ nhảy từ nơi này đến nơi

khác, bỏ sót nhiều phần của cơ thể

không quan sát, thì sự theo dõi quan sát

của các bạn chỉ là những cảm thọ thô

mà thôi. Các bạn phải tự huấn luyện

chính mình để quan sát tất cả những

cảm thọ khác nhau trong mỗi phần của

thân thể, thô hoặc tế, lạc hoặc bất lạc,

dễ nhận hoặc khó nhận. Vì vậy đừng

bao giờ cho phép sự quan sát chú ý

nhảy từ chỗ này đến chỗ khác.

Bao lâu chúng ta nên giữ sự quan sát

trải qua từ đầu đến chân? Ðiều này sẽ

82

khác nhau tùy theo tình huống mà

chúng ta đang đối diện. Sự hướng dẫn

là để đặt sự chú tâm của các bạn vào

một khu vực xác định, và ngay lúc các

bạn nhận ra cảm thọ, thì hãy di chuyển

tiếp tục. Nếu tâm thức đủ sự nhảy cảm

nó sẽ nhận rõ cảm thọ ngay lúc nó đến

khu vực đó, và các bạn có thể duy

chuyển tiếp tục liền. Nếu tình huống

này xảy ra khắp thân thể, có thể di

chuyển sự tập trung từ đầu đến chân

trong vòng 10 phút; nhưng không nên

di chuyển nhanh hơn khoảng thời gian

vừa nói. Tuy nhiên, Nếu tâm thức

không bén nhạy, có thể có nhiều khu

vực ở đó cần thiết chờ khoảng một

phút để cảm thọ sinh khởi. Trong

trường hợp này, có thể mất khoảng 30

83

phút hoặc một giờ để di chuyển sự

quan sát từ đầu đến chân. Thời gian

cần để quan sát một vòng thân thể

không quan trọng. Chỉ duy trì hành trì

nhẫn nại, kiên trì; các bạn chắc chắn sẽ

thành tựu.

Khoảng giới hạn về khu vực quan sát

phải như thế nào để có thể đặt sự chú

tâm vào đó được? Hãy lấy một phần

của thân thể khoảng hai hoặc ba inch (1

inch =2.54cm) chiều rộng; từ đó di

chuyển sự quan sát đến khu vực khác

có độ rộng tương đương như vậy. Nếu

tâm thức chưa nhạy bén, sử dụng khu

vực rộng hơn, chẳng hạn như toàn bộ

khuôn mặt, hoặc toàn bộ cánh tay phần

trên; rồi từ từ cố gắng thu nhỏ lại khu

vực tập trung. Cuối cùng các bạn có thể

84

cảm nhận những cảm thọ ở mỗi phần

của thân thể, nhưng giai đoạn này, mỗi

khu vực có độ rộng khoảng hai hoặc ba

inch là đủ.

Chúng ta có nên cảm nhận những cảm

thọ chỉ trên bề mặt của thân thể hay là

cũng ở bên trong nữa? Ðôi khi một vị

thiền giả cảm nhận những cảm thọ bên

trong ngay lúc anh ta bắt đầu hành trì

Vipassana; đôi khi ở giai đoạn đầu anh

ta cảm nhận những cảm thọ chỉ ở bề

mặt. Một trong hai cách đều tốt cả. Nếu

những cảm thọ chỉ xuất hiện trên bề

mặt, theo dõi chúng nó qua nhiều lần

cho đến khi các bạn cảm nhận cảm thọ

ở mọi nơi trên bề mặt, sau đó các bạn

sẽ bắt đầu thể nhập vào cảm thọ bên

trong. Tuần tự tâm thức sẽ phát triển

85

khả năng cảm nhận những cảm thọ ở

mọi nơi, cả hai bên trong và bên ngoài,

trong mỗi phần cấu trúc của thân thể.

Nhưng hãy bắt đầu, những cảm thọ

thuộc bên ngoài là đủ rồi.

Con đường dẫn xuyên qua toàn bộ lãnh

vực cảm nhận bằng giác quan, đối với

thực tại tối hậu nó vượt qua kinh

nghiệm bằng giác quan. Nếu các bạn

tiếp tục thanh lọc tâm các bạn với sự

hổ trợ của cảm thọ, chắc chắn các bạn

sẽ đạt giai đoạn tối hậu.

Khi nào chúng ta không ý thức, các

cảm thọ là một phương tiện để tăng

trưởng phiền não của chúng ta, vì

chúng ta phản ứng lại chúng nó với

tham hoặc sân. Vấn đề sinh khởi ngay

86

hiện tại, những căn thẳng phát nguồn, ở

cấp độ của những cảm thọ bằng thân.;

vì vậy, đây là cấp độ ở đó chúng ta

phải thi hành để giải quyết vấn đề, để

thay đổi thói quen của tâm thức. Chúng

ta phải học cách tỉnh giác đối với tất cả

những cảm thọ sinh khởi mà không

phản ứng lại chúng, chấp nhận sự thay

đổi của chúng, vì đó là bản chất khách

quan. Bằng cách thực hành như vậy,

chúng ta loại trừ thói quen về sự phản

ứng thiếu ý thức, chúng ta giải thoát

chính mình ra khỏi khổ não.

Cảm thọ là gì? Bất cứ điều gì chúng ta

có thể cảm nhận ở cấp độ bằng thân thể

thì là một cảm thọ- bất cứ cảm thọ tự

nhiên, thông thường, bình thường bằng

thân thể, hoặc là lạc hay khổ, thô hay

87

tế, mạnh hoặc yếu. Ðừng bao giờ phớt

lờ một cảm thọ trên yếu tố rằng nó

được tạo ra do những điều kiện môi

trường, hoặc do ngồi quá lâu, hoặc do

một chứng bệnh từ trước. Bất cứ lý do

gì, vấn đề là các bạn cảm nhận một

cảm thọ. Trước đây các bạn có thói

quen đẩy ra những cảm thọ bất lạc và

kéo lại những cảm thọ lạc. Bây giờ các

bạn chỉ quan sát như là một đối tượng,

đừng đồng nhất chúng nó với những

cảm thọ.

Một sự quan sát không lựa chọn, đừng

bao giờ cố chọn những cảm thọ; thay

vì chấp nhận bất cứ những gì sinh khởi

một cách tự nhiên. Nếu các bạn khởi

lên tìm cái gì đó riêng biệt, đặc biệt,

các bạn sẽ tạo ra những khó khăn cho

88

chính mình, và sẽ không thể tiếp tục

duy trì phương pháp. Phương pháp

hành trì không phải để kinh nghiệm

điều gì đó mang tính đặc biệt, mà thích

hợp hơn chỉ duy trì trạng thái xả trong

vấn đề của bất cứ cảm thọ nào. Trong

quá khứ các bạn đã có những cảm thọ

tương tự trong thân thể các bạn, nhưng

các bạn không tỉnh thức về nó một

cách có ý thức, và các bạn đã phản ứng

lại nó. Bây giờ các bạn đang học để

duy trì cấp độ bình thản (trạng thái xả).

Nếu các bạn thực hành theo cách này,

tuần tự toàn bộ qui luật tự nhiên sẽ trở

nên rõ ràng đối với các bạn. Ðây là

những gì Giáo pháp định nghĩa: bản

chất tự nhiên, qui luật, chân lý. Ðể hiểu

chân lý ở cấp độ kinh nghiệm, chúng

89

phải khảo sát chúng nó trong cấu trúc

toàn bộ thân thể của chúng ta. Ðây là

những gì mà Thái tử Sidddhattha

Gotama đã thực hành để trở thành một

vị Phật, và nó trở thành quá rõ ràng đối

với Ngài, và sẽ trở thành rõ ràng cho

bất cứ ai thực hành như Ngài đã thực

hành, cái mà toàn bộ vũ trụ, trong thân

thể cũng như bên ngoài nó, mọi thứ

luôn luôn thay đổi. Không có gì là kết

quả cuối cùng; mọi vật được liên hệ

trong tiến trình của hình thành (bhava).

Và một thực tại khác sẽ trở nên rõ

ràng: mọi vật xảy ra đều có nguyên

nhân. Mỗi sự thay đổi có một nguyên

nhân, nguyên nhân tạo ra kết quả, và

rồi kết quả lần lược trở thành nguyên

nhân cho sự thay đổi khác, tạo ra một

90

vòng mắc xích vô tận nhân và quả. Và

một qui luật nữa trở nên rõ ràng: khi

nguyên nhân như thế nào thì kết quả sẽ

như thế ấy; khi hột giống như thế nào

thì sẽ dẫn đến qủa trái như thế ấy.

Trên cùng một mảnh đất chúng ta gieo

hai loại hạt giống, một loại mía và một

loại "neem" một loại cây nhiệt đới rất

đắng. Từ giống mía phát triển thành

cây mía có vị ngọt trong mỗi sớ mía, từ

giống neem thành cây và có vị đắng

trong mỗi sớ của nó. Chúng ta có thể

hỏi tại sao Tự nhiên lại từ tốn (tình

thương) đối với cây này và thô lỗ đối

với cây khác. Thực tế, Tự nhiên không

phải từ tốn cũng không phải thô lỗ; nó

tiến hành theo qui luật đã đặt định.

Chúng ta chỉ giúp cho tính chất của

91

mỗi hạt giống biểu hiện. Nếu chúng ta

gieo trồng những hạt giống ngọt, thu

họach sẽ là vị ngọt. Như hạt giống hiện

có, cũng vậy quả trái sẽ như vậy; khi

những hành động như thế này thì kết

quả sẽ thương xứng như vậy.

Vấn đề là chúng ta rất tỉnh táo ở thời

gian gặt hái, muốn nhận quả ngọt,

nhưng trong suốt thời thời vụ gieo

chúng ta không tỉnh táo, và trồng giống

trái đắng. Nếu chúng ta muốn quả ngọt

chúng ta nên trồng những loại giống

tuơng xứng. Cầu nguyện hoặc mong

ước vì một phép màu chỉ là tự lừa dối

mình; chúng ta phải hiểu và sống theo

qui luật tự nhiên. Chúng ta phải cẩn

trọng về những việc làm của chúng ta,

vì những việc làm này là hạt giống liên

92

quan đến phẩm chất của những gì mà

chúng ta sẽ nhận là vị đắng hoặc ngọt.

Có ba loại hành động: bằng thân , bằng

lời nói và bằng ý nghĩ suy tư. Chúng ta

học để quan sát chính chúng ta và tuệ

tri ngay lập tức rằng hành động thuộc

về tâm thức là quan trọng nhất, vì đây

là hạt giống, hành động sẽ dẫn đến kết

quả. Những thước đo để đo lường

cường độ của nó. Chúng nó phát nguồn

như hành động bằng ý nghĩ, và hành

động này biểu hiện bằng kết quả ở cấp

độ thân hoặc là lời nói (miệng). Vì vậy

Ðức Phật đã tuyên bố:

Tâm thức dẫn đầu tất cả mọi vấn đề,

Tâm làm chủ, tâm tạo ra mọi vật. Nếu

với tâm không thuần tịnh Nói lên hoặc

93

hành động, Thì khổ não sẽ theo sau các

bạn Như bánh xe theo sau dấu chân

của con vật kéo xe.(PC. I,1)

Nếu với tâm thanh tịnh Các bạn nói lên

hhoặc hành động Thì hạnh phúc sẽ

theo sau các bạn Như chiếc bóng

không tách rời hình. (PC. I,2)

Nếu đây là vấn đề, từ đó chúng ta phải

biết cái gì là tâm thức và nó làm việc

như thế nào. Chúng ta đã bắt đầu quan

sát hiện tuợng này bằng sự tu tập của

các bạn. Khi các bạn hành trì, nó sẽ trở

nên rõ ràng rằng có bốn phần chính

hoặc những thành phần tập hợp của

tâm thức.

Phần thứ nhất được gọi là

Vin~n~aan.a, nó có thể được dịch là sự

94

nhận thức. Các cơ quan giác quan

không hoạt động trừ phi tâm thức tiếp

xúc với chúng nó. Ví dụ, nếu chúng ta

bị thu hút trong một sắc đẹp, một âm

thanh có thể đến nhưng chúng ta sẽ

không nghe nó, vì tất cả tâm thức của

chúng ta đang tập trung vào ở mắt. Vai

trò của phần này của tâm là để nhận

thức, đơn giản để biết, không có sự

phân biệt. Một âm thanh đến tiếp xúc

với tai, và tâm thức chỉ lưu ý vấn đề

rằng có một âm thanh đã đến.

Rồi phần kế tiếp của tâm thức bắt đầu

làm việc: san~n~aa (sự nhận thức).

Một âm thanh đã đến, và từ kinh

nghiệm quá khứ của chúng ta và ký ức

(bộ nhớ), chúng ta nhận ra nó: một âm

thanh, qua lời nói, những tiếng khen,

95

tiếng tốt ; hoặc một âm thanh , lời nói ,

những tiếng chê, tiếng xấu. Chúng ta

đưa ra một sự đánh giá về tốt hoặc xấu,

theo kinh nghiệm quá khứ của chúng

ta.

Ngay lúc đó phần thứ ba của tâm thức

bắt đầu làm việc: cảm thọ (vedanaa).

Ngay lúc âm thanh vừa đến, một cảm

thọ xuất hiện trên thân thể, nhưng khi

sự nhận thức nhận ra nó và cho ra một

sự đánh gía, cảm thọ trở nên thích thú

hay không thích thú tùy theo sự đánh

gía đó. Ví dụ: một âm thanh đến bằng

những lời nói, những lời ca ngợi , tốt

đẹp- và chúng ta cảm nhận một cảmthọ

lạc xuyên khắp thân thể. Hoặc ngược

lại một âm thanh đến mang theo những

lời nói, những lời chê bai, xấu - và

96

chúng ta cảm nhận một cảm thọ bất lạc

xuyên qua thân thể. Những cảm thọ

khởi lên ở thân, và được cảm nhận

bằng tâm; đây là vai trò được gọi là

Vedanaa (cảm thọ).

Sau đó phần thứ tư của tâm thức bắt

đầu làm việc: san’khara (tâm sở hành,

sư phản ứng của tâm thức). Một âm

thanh đến với những lời nói, những lời

khen ngợi, tốt... cảm thọ lạc khởi lên-

và chúng ta bắt đầu thích nó: "Tiếng

khen này là tuyệt vời! Tôi muốn khen

nhiều hơn nữa!" hoặc một âm thanh

đến với những lời nói, những lời chê

bai, xấu... cảm thọ bất lạc khởi lên- và

chúng ta bắt đầu không thích nó: "Tôi

không thích lời chê bai này, hãy chấm

dứt ngay!". Ở mỗi cơ quan của các căn,

97

cùng một tiến trình như vậy xảy ra; mắt

, tai, mũi, lưỡi, thân. Tương tự, khi một

ý nghĩ hoặc một sự tưởng tượng tiếp

xúc với tâm, cùng một cách một cảm

thọ sinh khởi trong thân, lạc hoặc bất

lạc, và chúng ta bắt đầu phản ứng với

thích ù hoặc không thích nó. Ðiều ham

thích tạm thời này phát triển thành

tham muốn nhiều; điều không thích

này phát triển thành sân giận lớn.

Chúng ta bắt đầu cột những thắt nốt

bên trong.

Ðây là hột giống chắc thật đưa đến kết

quả, sự phản ứng lại sẽ dẫn đến kết

quả: san’khara (sự phản ứng thuộc về

tâm). Mỗi sát na chúng ta gieo hột

giống này, phản ứng lại với thích hoặc

không thích, tham lam hoặc sân giận,

98

và bằng cách làm như vậy chính chúng

ta tạo ra đau khổ.

Có những phản ứng chỉ tạo ra một ấn

tượng rất nhẹ, và bị tiêu diệt ngay tức

thời, còn những phản ứng tạo ra một ấn

tượng sâu hơn một tí thì nó bị tiêu diệt

sau một chập thời gian, và những phản

ứng nào có ấn tượng rất sâu, và mất

một khoảng thời gian dài mới loại bỏ

được nó. Vào mỗi cuối của một ngày,

nếu chúng ta cố gắng ghi nhớ lại tất cả

những phản ứng của tâm mà chúng ta

đã tạo ra, chúng ta sẽ chỉ có thể nhớ lại

một hoặc hai phản ứng mà đã tạo ấn

tượng sâu nhất trong suốt ngày. Cùng

một cách như vậy, ở cuối mỗi tháng

hoặc mỗi năm, chúng ta sẽ có thể nhớ

lại chỉ một hoặc hai phản ứng mà đã

99

tạo ra ấn tượng sâu nhất trong suốt thời

gian ấy. Và thích nó hoặc không thích,

ở cuối cuộc đời, những gì phản ứng đã

tạo ra mạnh nhất chắc chắn khởi lên

trong tâm; và cuộc sống kế tiếp sẽ bắt

đầu với tâm thức của cùng một tính

chất, sau khi sở hữu những phẩm chất

như nhau của vị ngọt hoặcø đắng.

Chúng ta taọ ra tương lai chúng ta,

bằng những phản ứng của mình.

Vipassana dạy nghệ thuật chết: làm thế

nào để chết an lạc và nhẹ nhàng. Và

chúng ta học nghệ thuật chết bằng cách

học nghệ thuật sống: làm thế nào để

làm chủ trong giây phút hiện tại, làm

thế nào để không tạo ra một phản ứng

ở m?i sát na này, và làm thế nào để

sống một cuộc đời hạnh phúc tại đây

100

và ngay bây giờ. Nếu hiện tại là tốt,

chúng ta không cần lo lắng cho tương

lai, chỉ là sản phẩm của hiện tại, và vì

vậy chắc chắc là tốt.

Có hai vấn đề trong phương pháp tu

tập:

Thứ nhất là phá vỡ những chướng ngại

giữa những cấp độ nhận thức và vô

thức của tâm thức. Thông thường thì

tâm nhận thức không biết gì về những

gì đang được kinh nghiệm bởi tâm vô

thức. Bị che đậy bởi sự không nhận

thức này, sự phản ứng luôn xảy ra ở

cấp độ không nhận thức; vào lúc chúng

nó hướng đến cấp độ nhận thức, chúng

nó trở thành quá mạnh về cường độ

đến nổi chúng nó dễ dàng vượt qua

101

năng lực của tâm thức. Bằng phương

pháp tu tập này, toàn bộ khối tập hợp

của tâm thức trở nên nhận thức, tỉnh

giác; tâm vô thức (vô minh) được loại

trừ.

Vấn đề thứ hai của phương pháp là sự

bình thản (tâm xả). Chúng ta tỉnh thức

tất cả những gì chúng ta kinh nghiệm,

và mỗi cảm thọ, nhưng đừng phản ứng

lại, đừng tạo ra sự thắt gút mới của

tham hoặc sân giận, đừng làm khổ cho

chính mình.

Ðể bắt đầu, trong lúc các bạn ngồi

thiền, hầu như các bạn sẽ phản ứng lại

những cảm thọ, nhưng một vài khoảnh

khắc sẽ đến khi các bạn duy trì bình

thản (tâm xả), mặc dầu cảm thọ rất là

102

đau. Những khoảnh khắc như vầy có

năng lực rất mạnh trong việc chuyển

những thói quen trong tâm thức. Dần

dần các bạn sẽ đến một trạng thái ở đó

các bạn có thể mỉm cười với bất cứ

những cảm thọ, biết nó là vô thường

(anicca), chắc chắn vượt qua.

Ðể thành tựu trạng thái này, các bạn

phải thực tập chính các bạn; không ai

có thể thay thế làm cho các bạn. Một

điều rất tốt là các bạn đã tiến hành

bước thứ nhất của phương pháp tu tập;

bây giờ tiếp tục bước từng bước một

hướng đến sự giải thoát cho các bạn.

Cầu mong tất cả các bạn vui với chân

hạnh phúc.

103

Cầu mong tất cả chúng sanh được an

vui.

---o0o---

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ

NĂM

Tứ thánh đế: khổ đế, nguyên nhân của

khổ, sự đoạn diệt khổ và con đường

đoạn diệt khổ

Chuổi mắc xích của sự sinh khởi có

điều kiện.

Ngày thứ năm đã qua; các bạn còn năm

ngày nữa để tu tập. Hãy sử dụng tốt

nhất trong năm ngày còn lại bằng nỗ

lực hành trì, với sự hiểu biết đúng đắn

về phương thức hành trì.

Từ sự quan sát theo dõi hơi thở với một

khu vực giới hạn, các bạn đã tiến hành

104

quan sát những cảm thọ xuyên suốt

thân thể. Khi chúng ta bắt đầu sự hành

trì này, rất có thể rằng chúng ta sẽ bắt

đầu đương đầu với những cảm thọ thô,

cứng ngắt, khốc liệt, bất lạc chẳng hạn

như cảm thọ đau, căng thẳng vân vân.

Các bạn đã đương đầu với những cảm

thọ như vầy ở quá khứ, nhưng thói

quen tâm thức của các bạn đã phản ứng

lại những cảm thọ này, để xoay cuộn

vào tham đắm và trói cuộn trong đau

khổ, luôn bị dao động quấy nhiễu. Bây

giờ các bạn đang hành trì cách quan sát

không phản ứng lại, cách kiểm tra các

cảm thọ một cách khách quan, không

đồng nhất với chúng nó.

Sự đau còn hiện hành, sự khổ còn hiện

hành. Sự khóc than sẽ không xoa tan

105

đau khổ cho bất cứ ai. Làm thế nào để

chúng ta loại trừ khổ đau? Làm thế nào

chúng ta sống với sự khổ đau?

Một vị Bác sĩ điều trị một bệnh nhân

phải biết căn bịnh của bệnh nhân, và

điều gì là căn nguyên của căn bệnh.

Nếu có một nguyên nhân, thì phải có

cách loại trừ nó bằng sự dời đi nguyên

nhân đó. Một khi nguyên nhân đã dời

rồi, căn bệnh tự động sẽ lành. Vì vậy,

những tiến trình phải được thực hành là

để loại trừ căn nguyên.

Trước tiên chúng ta phải chấp nhận vấn

đề khổ. Mọi nơi khổ hiện hành, đây là

sự thật hiển bày ở khắp mọi nơi.

Nhưng nó trở thành một chân lý cao

thượng khi chúng ta bắt đầu sự quan

106

sát nó mà không phản ứng lại, vì bất cứ

ai thực hành như vậy chắc chắn vị ấy

sẽ trở thành một người Cao thượng,

một Vị thánh.

Khi chúng ta bắt đầu sự quan sát chân

lý thứ nhất, chân lý của khổ, từ đó ngay

tức khắc nguyên nhân của khổ trở nên

rõ ràng, và chúng ta cũng bắt đầu sự

quan sát nó; đây là chân lý thứ hai. Nếu

nguyên nhân được loại trừ, thì khổ sẽ

được loại trừ; đây là chân lý thứ ba- sự

đoạn trừ khổ đau. Để thành tựu sự đoạn

trừ khổ chúng ta phải tiến hành những

phương thức; đây là chân lý thứ tư- con

đường dẫn đến chấm dứt khổ bằng sự

đoạn trừ các nguyên nhân của nó.

107

Chúng ta bắt đầu bằng sự thực hành để

quán sát không phản ứng lại. Kiểm tra

nỗi đau mà các bạn kinh qua một cách

khác quan, như thể nó là cái đau của ai

đó. Tự suy xét nó như một nhà khoa

học quan sát một thực nghiệm trong

phòng thí nghiệm của anh ta. Khi các

bạn thất bại, hãy cố gắng trở lại. Luôn

có gắng, và các bạn sẽ thấy rằng dần

dần các bạn đang làm muội lược những

khổ đau.

Mỗi chúng sanh đau khổ. Cuộc đời bắt

đầu bằng tiếng khóc; sanh là một nỗi

khổ lớn. Và bất cứ ai đã được sinh thì

ắt hẳn phải chịu những khổ đau của

bệnh và tuổi già. Nhưng không có gì

khác nhau û về nỗi khổ đau trong đời

sống của chúng ta có thể có, không có

108

ai muốn chết, vì chết là một nỗi khổ

đau lớn.

Mặc dù đời sống, chúng ta đương đầu

với những vấn đề mà chúng ta không

thích, và tách xa những gì mà chúng ta

thích. Không muốn những điều xảy ra,

muốn những điều đừng xảy ra, và

chúng ta cảm nhận nỗi đau khổ.

Sự hiểu biết đơn giản thực tại này ở

cấp độ nhận thức sẽ không giải thoát

cho bất cứ ai. Nó chỉ có thể cho một sự

cảm hứng để nhìn trong mỗi chúng ta,

để kinh nghiệm chân lý và tìm con

đường thoát khổ. Đây là những gì mà

Thái Tử Siddhatha Gotama đã làm để

trở thành một Vị Phật: Ngài đã bắt đầu

quán sát thực tại trong cấu trúc thân thể

109

của Mình như một nhà khoa học

nghiên cứu, di chuyển từ sự thật thô,

bên ngoài đến sự thật vi tế hơn và vi tế

nhất. Ngài đã thấy rằng bất cứ khi nào

chúng ta phát triển tham đắm, hoặc là

chấp giữ một cảm thọ lạc hoặc là loại

bỏ một cảm thọ bất lạc, và sự tham

đắm đó không được thỏa mãn, thì

chúng ta bắt đầu khổ đau. Và đi xa hơn

nữa, ở cấp độ vi tế nhất, Ngài đã thấy

rằng khi nhìn với tâm tập trung (định),

một điều rõ rằng sự tham đắm đối với

năm thủ uẩn (năm sự tập hợp tạo thành

một cá thể) là khổ. Một cách ý thức,

chúng ta có thể hiểu rằng sắc uẩn, thân

thể, không phải là "Tôi", không phải

"của Tôi", nhưng chỉ là một khách

quan, sự thay đổi các hiện tượng vượt

110

ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta;

tuy nhiên, thực ra, chúng ta đồng nhất

chính mình với thân thể, và phát triển

tham đắm tột cùng đối với nó. Tương

tự chúng ta phát triển sự tham đắm đối

với bốn thủ uẩn còn lại: thức uẩn,

tưởng uẩn, thọ uẩn, hành uẩn (phản

ứng),và dính mắc vào chúng nó như '

Tôi, của Tôi' mặc dù bản chất của

chúng luôn liên tục thay đổi. Vì những

mục đích thích đáng chúng ta phải sử

dụng từ 'Tôi' và 'của Tôi', nhưng khi

chúng ta phát triển sự tham đắm về

năm thủ uẩn, chúng ta tạo ra đau khổ

cho chính chúng ta. Khi nào có tham

đắm, khi đó tất nhiên có khổ, và tham

đắm nhiều hơn, khổ não sẽ nhiều lên

một cách tương xứng.

111

Có bốn loại tham đắm mà chúng ta

luôn phát triển trong đời sống. Thứ

nhất là tham đắm về những ham muốn

của chúng ta, đối với thói quen của

tham đắm này. Bất cứ khi nào tham

đắm khởi lên trong tâm thức, nó được

kết hợp với một thân cảm thọ. Mặc dù

ở một cấp độ sâu, một cơn bão của dao

động đã bắt đầu, ở một cấp độ bên

ngoài chúng ta thích cảm thọ và mong

muốn nó tiếp tục duy trì. Vấn đề này có

thể được so sánh với một cảm giác khó

chịu của một cơn đau nhức: làm như

vậy chỉ tăng thêm tức tối với nó, và chỉ

khi chúng ta hoan hỷ với cảm thọ của

cảm giác khó chịu. Cùng một cách như

vậy, ngay khi tham muốn được tràn

đầy, cảm thọ được phối hợp với ham

112

muốn cũng đi qua, và vì vậy chúng ta

tạo ra một tham muốn mới theo cách

đó cảm thọ có thể tiếp tục. Chúng ta trở

nên say đắm vào tham đắm và tăng

trưởng đau khổ cho chính mình.

Một tham đắm khác là sự chấp giữ

'Tôi, của Tôi', không biết gì thật sự 'cái

Tôi' này. Chúng ta không thể chịu đựng

bất cứ sự phê bình gì về 'cái tôi' của

chúng ta hoặc bất cứ sự phương hại

nào đến nó. Và sự tham đắm lang rộng

bao gồm bất cứ điều gì thuộc về 'tôi' ,

bất cứ những gì là 'của tôi'. Tham đắm

này sẽ không mang lại khổ đau nếu bất

cứ những gì là 'của tôi' có thể tiếp tục

thường hằng, và cái 'tôi' cũng có thể

duy trì để vui thú với nó mãi mãi,

nhưng qui luật tự nhiên thì sớm muộn

113

gì chúng ta hoặc bất cứ ai phải qua đời.

Tham đắm đối với điều gì mang tính

chất vô thường thì chắc chắn mang lại

khổ đau mà thôi.

Tương tự, chúng ta phát triển chấp đắm

đối với những quan điểm và niềm tin

của chúng ta, và không thể chịu đựng

bất cứ sự phê bình nào về chúng nó,

hoặc ngay cả chấp nhận rằng những

người khác có thể có những quan điểm

khác. Chúng ta không hiểu rằng mỗi

người mang một cặp kính màu, mỗi

màu khác nhau ở mỗi người. Bằng sự

tháo cặp kính màu ra, chúng ta có thể

thấy sự thật như đang hiển bày, không

ngừng nghỉ, nhưng thay vì chúng ta

duy trì chấp đắm màu sắc cặp kính màu

114

của chúng ta, với những định kiến từ

lâu và niềm tin của chúng ta.

Còn một sự tham đắm khác nữa là sự

bám chặt vào những nghi lễ, tế tự của

chúng ta, và những phương pháp hành

trì thuộc tôn gíáo. Chúng ta sai đề hiểu

rằng những thứ này chỉ là những sự

trưng bày bên ngoài, mà chúng nó

không hàm chứa cốt lõi của chân lý.

Nếu có ai đó được chỉ phương cách để

kinh nghiệm chân lý trực tiếp trong

chính anh ta nhưng anh ta vẫn tiếp tục

dính mắc những hình thức trống rỗng

bề ngoài, tham đắm này tạo ra một sự

tranh đấu trong người này, mà kết

ûïquả gặt hái trong khổ đau.

115

Tất cả những nổi khổ trong cuộc đời,

nếu được kiểm tra xít sao, sẽ thấy được

phát sinh từ một trong bốn tham chấp

này. Đây là những gì Thái tư Siddhatha

Gotama đã tìm ra trong việc tìm kiếm

chân lý cuả Ngài. Nhưng ngài vẫn tiếp

tục khảo sát ở nơi chính bản thân mình

để khám phá nguyên nhân sâu thẳm

nhất của nỗi khổ, để hiểu toàn bộ hiện

tượng vận hành như thế nào, để truy

tìm đến căn nguyên của nó.

Hiển nhiên, những nỗi khổ trong cuộc

đời- sanh, già, chết, thống khổ thuộc về

thân và tâm- là kết quả tất yếu của của

một kiếp người đã sinh ra trong cuộc

đời. Điều gì là nguyên nhân của sinh?

Tất nhiên, nguyên nhân thực tại là sự

phối hợp của cha mẹ, nhưng trong một

116

quan điểm rộng hơn, sanh xảy ra vì tiến

trình bất tận của sự hình thành trong đó

toàn bộ vũ trụ được liên hệ với nhau.

Ngay lúc chết tiến trình vẫn không

chấm dứt: thân thể tiếp tục suy mòn,

tiếp tục phân rã, trong khi tâm thức tiến

hành liên kết với một vật thể sống

khác, và tiếp tục vận hành, hình thành.

Và tại sao lại có tiến trình hình thành

này? Vấn đề trở nên rõ ràng với Ngài

rằng (Thái tử Gotama) nguyên nhân là

sự tham đắm mà chúng ta phát triển. Vì

sự tham đắm chúng ta tạo ra những

phản ứng mạnh (samkhara), chúng nó

tạo ra một ấn tượng sâu trong tâm thức

của chúng ta. Vào lúc chấm dứt cuộc

đời, một trong những ấn tượng này

sinh khởi trong tâm ta và sẽ đưa ra một

117

lực đẩy cho dòng hoạt động tâm thức

để tiếp tục.

Ơû đây điều gì là nguyên nhân của

tham đắm này? Ngài đã thấy rằng nó

sinh khởi vì những phản ứng liên tục

xảy ra của sự thích và không thích.

Ham thích phát ttriển thành sự tham

đắm nhiều; không ham thích phát triển

thành sân giận lớn, hình ảnh phản

chiếu của tham đắm, và cả hai chuyển

vào sự chấp đắm. Và tại sao có những

phản ứng hiện hành của sự thích và

không thích? Bất cứ ai theo dõi chính

mình sẽ thấy rằng chúng nó xảy ra là vì

những cảm thọ thuộc về thân thể. Khi

nào một cảm thọ lạc sinh khởi, chúng

ta thích nó và muốn nó tồn tại và tăng

trưởng nó thêm lên. Khi nào một cảm

118

thọ bất lạc sinh khởi, chúng ta không

thích và muốn loại trừ nó đi. Từ đây có

câu hỏi tại sao lại có những cảm thọ

này? Rõ ràng chúng nó sinh khởi vì sự

tiếp xúc giữa một trong các căn với

một đối tượng đặc biệt của căn đó: sự

tiếp xúc của mắt với hình sắc, tai với

âm thanh, mũi với hương, lưỡi với vị,

thân thể với xúc chạm, tâm với tư

tưởng hoăc sự tưởng tượng. Ngay khi

có một sự tiếp xúc, một cảm thọ bắt

buộc sinh khởi, lạc thọ, khổ thọ,hoặc

bất khổ bất lạc thọ.

Và điều gì là nguyên nhân của xúc? tất

nhiên, toàn bộ vũ trụ chứa đựng tất cả

những đối tượng thuộc về các căn. Bao

lâu sáu căn- năm căn thuộc về thân

cùng với một căn thuộc về tâm-đang

119

thi hành chức năng (của chúng nó),

chúng nó chắc chắn đương đầu với

những đối tượng của chúng nó một

cách tương xứng. Và tại sao những cơ

quan cảm nhận này tồn tại? Rõ ràng

rằng chúng nó là những phần không thể

tách khỏi dòng hoạt động của tâm và

thân; chúng nó sinh ra ngay lúc đời

sống bắt đầu. Và tạisao dòng vận hành

đời sống, Sự vận hành của thân và tâm,

xảy ra? Vì sự vận hành của tâm thức,

từ sát na này đến sát na khác, từ đời

sống này đến đời sống khác. Và tại sao

có dòng vận chuyển của tâm thức này?

ngài đã thấy rằng nó sinh khởi là vì

san’khaaraa, những sự phản ứng thuộc

về tâm. Mỗi phản ứng đưa ra một lực

đẩy cho dòng vận chuyển của của tâm

120

thức; dòng vận hành tiếp tục vì sự thúc

đẩy đến với nó bằng những phản ứng.

Và tại sao những phản ứng này xảy ra?

Ngài đã thấy rằng chúng nó sinh khởi

vì vô minh. Chúng ta không biết những

gì chúng ta đang làm, không biết cách

để chúng ta phản ứng lại, và vì vậy

chúng ta liên tục tạo ra san’khaaraa.

Bao lâu vô minh còn hiện hữu thì khổ

đau sẽ còn tồn tại.

Nguồn gốc của chu trình khổ, nguyên

nhân sâu thẳm nhất, là vô minh. Từ vô

minh phát sinh vòng luân chuyển các

biến cố bởi vô minh chúng ta tạo ra

chập chồng núi khổ cho chính chúng

ta. Nếu vô minh có thể được đoạn trừ,

khổ hải cũng sẽ được đoạn trừ.

121

Làm thế nào chúng ta có thể phá vỡ vô

minh này? làm thế nào chúng ta có thể

phá vỡ vòng mắc xích (luân hồi)?

Dòng vận hành của cuộc đời, của thân

và tâm, đã bắt đầu. Vi phạm tự tử sẽ

không giải quyết vấn đề; nó sẽ chỉ tạo

ra khổ đau mới mà thôi. Chúng ta cũng

không thể hoại diệt các căn mà không

hoại diệt chính chúng ta. Bao lâu các

căn còn hiện hành, cảm xúc tất nhiên

xảy ra với các đối tượng của chúng nó

một cách tương xứng, và khi nào có

một cảm xúc thì một cảm thọ chắc

chắn sinh khởi trong thân .

Ngay bây giờ và tại đây, ở sự liên kết

của cảm thọ, chúng ta có thể phá vỡ

vòng luân hồi. Trước đây, mỗi cảm thọ

đã đưa ra một phản ứng thích hoặc

122

không thích, nó phát triển thành tham

lam hoặc sân giận, khổ não nhiều.

Nhưng bây giờ, thay vì phản ứng lại

với cảm thọ, các bạn đang hành trì chỉ

quan sát một cách bình thản, tuệ tri

rằng: 'vấn đề này rồi nó cũng phải thay

đổi.' Trong cách này cảm thọ này chỉ

đưa đến trí tuệ, đến sự nhận thức về vô

thường (anicca). Chúng ta dừng lại sự

vận hành bánh xe đau khổ và bắt đầu

quay nó sang một hướng ngược lại,

hướng đến sự giải thóat.

Bất cứ sát na nào ở đó chúng ta không

tạo ra một phản ứng mới (san’khaaraa),

một trong những phản ứng cũ sẽ sinh

khởi lên bề mặt của tâm thức, và cùng

với nó một cảm thọ sẽ sinh ra trong

thân thể. Nếu chúng ta duy trì bình

123

thản (xả), nó trôi qua và phản ứng cũ

khác sinh ra vào vị trí của nó. Chúng ta

tiếp tục duy trì bình thản đối với các

cảm thọ thuộc về thân và những phản

ứng cũ sinh khởi và trôi qua, một cách

liên tục tuần tự. Nếu vì vô minh chúng

ta phản ứng lại với những cảm thọ, thì

chúng ta tăng trưởng san’khaaraa, tăng

trưởng khổ đau cho chính chúng ta.

Nhưng nếu chúng ta phát triển trí tuệ

và không phản ứng lại với những cảm

thọ, thì tuần tự và lần lượt san’khaaraa

được đoạn trừ, khổ đau được đoạn trừ.

Toàn bộ phương pháp là phương cách

để loại trừ khổ. Bằng cách hành trì, các

bạn sẽ thấy rằng các bạn chấm dứt sự

trói buộc những thắt gút mới, và những

thắt gút cũ tự động mở ra. Tuần tự, các

124

bạn sẽ phát triển hướng đến một trạng

thái ở đó tất cả san’khaaraa (sự phản

ứng) đang dẫn đến sự sống mới, và vì

vậy một nỗi khổ mới, đã được đoạn

trừ: trạng thái hoàn toàn giải thóat,

hòan tòan giác ngộ.

Để bắt đầu công việc , không cần thiết

rằng chúng ta phải trước tiên tin vào

những kiếp sống quá khứ và tương lai.

Trong sự hành trì Vipassana, hiện tại là

điều quan trọng nhất. Ơû đây trong

cuộc sống hiện tại, chúng ta duy trì tạo

ra san’khaaraa (sự phản ứng), duy trì

tạo ra khổ đau cho chính chúng ta. Nếu

các bạn hành trì, chắc chắn một ngày

nào đó khi đó các bạn sẽ có thể nói

rằng các bạn đã đoạn trừ hết tất cả

san’khaaraa, đã chấm dứt tạo ra bất cứ

125

san’khaaraa mới nào, và vì thế chính

các bạn đã thoát khỏi mọi khổ đau.

Để thành tựu mục đích này, các bạn

phải hành trì chính mình. Vì vậy nổ lực

hành trì trong suốt năm ngày còn lại,

để loại trừ khổ đau trong các bạn, và an

vui với hạnh phúc của sự giải thóat.

Cầu mong tất cả các bạn an vui với

hạnh phúc chân thật.

Cầu mong tất cả chúng sanh được

hạnh phúc.

---o0o---

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ SÁU

Tầm quan trọng của sự phát triển tỉnh

thức và niệm xả đối với các cảm thọ

Bốn yếu tố và mối quan hệ của chúng

với cảm thọ

126

Bốn nguyên nhân của sự sinh khởi một

sự việc

Năm hạ phần kiết sử: tham, sân, và

hôn trầm thân và tâm, trạo cử, nghi

ngờ

Ngày thứ sáu đã qua, các bạn còn bốn

ngày còn lại để thực hành. Trong bốn

ngày các bạn có thể loại trừ một số tâm

phiền não, và nắm bắt phương pháp để

hành trì nó trong suốt cuộc đời của các

bạn. Nếu các bạn tu tập với sự hiểu biết

thích hợp và biết làm sao để áp dụng

phương pháp trong đời sống hằng

ngày, từ đó chắc chắn nó rất có lợi cho

các bạn. Vì vậy, hãy nắm bắt phương

pháp một cách thíh hợp.

127

Đây không phải là phướng pháp tiêu

cực. Giáo pháp dạy chúng ta chấp nhận

sự thật cay đắng của khổ, nhưng nó

cũng chỉ cho chúng ta con đường thoát

khổ. Vì lý do này nó là một phương

pháp tích cực, được kết hợp với chủ

nghĩa thực tế và cũng như ' chủ nghĩa

thực hành '- mỗi người phải thực hành

để tự giải thoát chính mình.

Trong một vài lời, toàn bộ giáo pháp

được giải thích:

"Tất cả các hành (san’khaaraa) là vô

thường,

Khi chúng ta hiểu điều này với trí tuệ

chân thật.

Thì chúng ta thoát khỏi mọi khổ đau.

Đây là con đường thanh tịnh.

128

Ơû đây từ san’khaaraa có nghiã không

chỉ những phản ứng thuộc về tâm mà

còn những kết quả của những phản ứng

này. Mỗi phản ứng thuộc về tâm là một

hột giống dẫn đến một kết quả, và mọi

thứ chúng ta kinh nghiệm trong cuộc

đời là một kết quả, một kết quả của

những hành động của chúng ta, đó là,

san’khaaraa của chúng ta, quá khứ

hoặc hiện tại. Vì vậy, ý nghĩa là, "mọi

thứ sinh khởi, dẫn đến hình thành, øsẽ

mất đi, sẽ phân tán." Chỉ chấp nhận sự

thực tại này bằng tình cảm, hoặc vì sự

mộ đạo, hoặc một cách tri thức, sẽ

không thanh lọc tâm. Nó phải được

chấp nhận ở mức độ thực tế, qua sự

kinh nghiệm tiến trình sinh và diệt

trong chính chúng ta. Nếu chúng ta

129

kinh nghiệm vô thường một cách trực

tiếp bằng sự quan sát những cảm thọ

trong thân của chúng ta, thì sự hiểu biết

(trí tuệ) phát triển là trí tuệ chân thật,

trí tuệ của chính chúng ta. Và với trí

tuệ này chúng ta sẽ giải thoát khổ đau.

Mặc dù nỗi đau vẫn còn tồn tại, chúng

ta không còn khổ sở vì nó nữa. Thay vì

chúng ta có thể mỉm cười với nó, vì

chúng ta có thể quan sát nó.

Từ trước, thói quen thuộc về tâm tìm

cách để đẩy ra những cảm thọ khổ đau

và kéo lại những cảm thọ an lạc. Bao

lâu chúng ta bị liên lụy vào trò chơi của

khổ và lạc, đẩy và kéo, tâm thức bị dao

động, và nổi khổ của chúng ta tăng

trưởng. Nhưng một khi chúng ta thực

hành để quán sát một cách khách quan

130

không có đồng nhất với những cảm

thọ, từ đó tiến trình của sự thanh lọc

bắt đầu, và những thói quen cũ của

những phản ứng mù quán và của sự

tăng trưởng những khổ đau của chúng

ta lần lược bị suy yếu và tan vỡ. Chúng

ta phải học cách để quan sát.

Điều này không có nghiã rằng bằng sự

thực hành thiền Vipassana chúng ta trở

thành một 'loài thực vật', đồng ý một

cách thụ động để những người khác

làm hại chúng ta. Hơn nữa, chúng ta

học làm thế nào để hành động thay vì

để phản ứng lại. Trước đây, chúng ta

đã sống một cuộc sống bằng những

phản ứng, và phản ứng luôn luôn là

tiêu cực. Bây giờ chúng ta đang học

cách để sống một cách thích hợp, để

131

sống một đời sống lành mạnh qua hành

động đúng đắn. Khi nào một tình

huống khó khăn xuất hiện trong cuộc

sống, chúng ta đã học để quan sát

những cảm thọ sẽ không để rơi vào sự

phản ứng mù quáng. Thay vì hành giả

sẽ chờ vài giây, duy trì tỉnh giác về

những cảm thọ và cũng như bình thản,

và từ đó sẽ tiến hành một quyết định và

chọn một phương thức của hành động.

Hành động như vầy chắc chắn có lợi,

vì nó bắt đầu từ một tâm thức bình

tỉnh; nó sẽ có một hành động sáng tạo,

có lợi cho chúng ta và người khác.

Dần dần khi chúng ta thực hành để

quan sát hiện tượng của tâm thức và

thân thể, chúng ta loại trừ những phản

ứng, vì chúng ta đoạn trừ vô minh.

132

Loại ra thói quen của phản ứng được

dựa vào vô minh. Một số người không

bao giờ quan sát thực tại không biết

điều gì đang xảy ra ở sâu thẳm bên

trong, không biết cách để anh ta phản

ứng lại với tham ái hoặc sân giận, sự

tạo ra những căng thẳng làm cho anh ta

khổ đau.

Sự khó khăn là tâm thức giả tạm, vô

thường hơn là thân thể. Tiến trình tâm

thức xảy ra quá nhanh đến nổi chúng ta

không thể theo kịp chúng nó trừ phi

chúng ta đã được huấn luyện để thực

hành điều đó. Không biết về thực tại,

chúng ta trú dưới ảo giác mà chúng ta

phản ứng lại với những đối tượng bên

ngoài như sắc , thanh , hương , vị , xúc.

Rõ ràng vấn đề này là như vậy, nhưng

133

ai đó hành trì để quan sát chính mình

sẽ thấy rằng ở mức độ vi tế hơn thực

tại lại khác đi. Toàn bộ vũ trụ bên

ngoài tồn tại đối với một người chỉ khi

anh ta hoặc cô ta kinh nghiệm nó, đó

là, khi một đối tượng thuộc giác quan

đến tiếp xúc với một trong các cơ quan

cảm giác. Ngay khi có một sự tiếp xúc,

sẽ có một sự dao động sinh ra, một sự

cảm thọ. Nhận thức đưa ra một sự đánh

giá đối với cảm thọ như tốt hoặc xấu,

dựa vào những kinh nghiệm và điều

kiện quá khứ, san’khaaraa quá khứ.

Tương ứng với điều này được tô điểm

qua sự đánh giá những cảm thọ trở nên

lạc hoặc bất lạc, và tùy theo loại cảm

thọ, chúng ta bắt đầu phản ứng với

thích hoặc không thích, tham đắm hoặc

134

sân giận. Cảm thọ là sự nối tiếp đã

quên đi giữa đối tượng bên ngoài và sự

phản ứng. Toàn bộ tiến trình xảy ra

một cách nhanh chóng đến nỗi chúng

ta không thể nhận ra nó: vào lúc một

cảm thọ đến ở một cấp độ nhận thức,

nó được lập lại và tăng cường lên nhiều

lần, và trở nên quá mạnh đến nỗi nó có

thể dễ dàng chế ngự tâm thức.

Siddhatha Gotama (Đức phật) đã

chứng đạt sự giác ngộ bằng sự khám

phá ra nguyên nhân căn cội của tham

và sân, và bằng sự đoạn trừ chúng nơi

chúng nó sinh khởi, ở cấp độ của sự

cảm thọ. Những gì chính ngài đã thực

hành, ngài dạy lại cho người khác.

Ngài không phải độc quyền trong sự

truyền dạy điều mà chúng ta nên đoạn

135

trừ tham ái và sân hận; ngay cả trước

thời ngài, điều này đã được dạy ở Aán

độ. Giáo pháp của Đức phật không

phải độc nhất về đạo đức, cũng không

độc nhất về sự phát triển khả năng điều

khiển tâm của chúng ta. Tương tự, trí

tuệ ở những cấp độ tri thức, tình cảm,

hoặc sùng tín cũng đã có mặt trước thời

đức Phật. Yếu tố độc nhất trong lời dạy

của Đức Phật ngoài những vấn đề này,

trong sự nhận ra thân cảm thọ của Ngài

như là điểm then chốt tại đó tham ái và

sân hận phát nguồn, và ở đó chúng nó

phải được đoạn trừ. Trừ phi chúng ta

giải quyết những cảm thọ, chúng ta sẽ

hành trì chỉ ở cấp độ bên ngoài của tâm

thức, trong khi ở những cấp độ sâu

những thói quen phản ứng cũ sẽ tiếp

136

tục. Bằng sự hành trì tỉnh giác về tất cả

những cảm thọ trong chính chúng ta và

để duy trì sự bình thản đối với chúng

nó, chúng ta dừng lại những phản ứng

nơi đó chúng nó khởi hành: chúng ta

loại trừ khổ đau.

Đây không phải là một giáo điều được

chấp nhận bằng niềm tin, cũng không

phải là một triết lý được chấp nhận

bằng lý trí. Chúng ta phải khảo sát

chính chúng ta để khám phá ra chân lý.

Chấp nhận nó như sự thật chỉ khi nào

chúng ta kinh nghiệm nó. Nghe về

chân lý là một sự quan trọng, nhưng nó

phải được dẫn đến sự hành trì thực tế.

Tất cả những lời dạy của Đức Phật phải

được hành trì và kinh nghiệm bằng

137

chính chúng ta để chúng ta có thể loại

trừ khổ đau.

Toàn bộ cấu trúc của thân thể, Đức

phật đã giải thích, được tập hợp của

những thành phần tiểu nguyên tử-

kalaapaa- bao gồm bốn yếu tố và

những tính chất phụ của nó, được kết

hợp với nhau. Ơû thế giới bên ngoài

cũng như bên trong, điều dễ dàng để

thấy là một số vật chất là cứng- yếu tố

đất; một số là chất lỏng- yếu tố nước;

một số là hơi-yếu tố không khí; và

trong mỗi trường hợp, nhiệt độ ở hiện

tại- yếu tố lửa. Tuy nhiên, có ai đó

kiểm tra thực tại trong chính anh ta sẽ

hiểu bốn yếu tố ở cấp độ vi tế hơn.

Toàn bộ sự sắp sếp theo trọng lượng từ

nặng đến nhẹ, là lãnh vực của yếu tố

138

đất. Yếu tố lửa là lãnh vực của nhiệt

độ, từ cực lạnh đến cực nóng. Yếu tố

không khí phải hoạt động với sự

chuyển vận, từ một trạng thái dường

như đứng yên đến sự vận chuyển lớn

nhất. Những thành phần sinh khởi với

một sự ưu thế của một hoặc nhiều yếu

tố; những phần khác tồn tại ở dạng

tiềm ẩn. Tuần tự, một cảm thọ biểu

hiện liên kết với tính chất của yếu tố

mang tính vượt trội trong những thành

phần này. nếu kalaapaa (tiểu nguyên

tử) sinh khởi với một ưu thế của yếu tố

lửa, một cảm thọ xảy ra sẽ nóng hoặc

lạnh, và tương tự cho những yếu tố

khác. Đây là cách thức tất cả những

cảm thọ sinh khởi trong thân thể. Nếu

chúng ta vô minh, chúng ta hướng đến

139

những đánh giá và phản ứng lại những

cảm thọ, chúng ta tạo ra đau khổ mới

cho chính mình. Nhưng nếu trí tuệ sinh

khởi, chúng ta chỉ đơn giản hiểu rằng

những thành phần tiểu nguyên tử đang

sinh khởi với một ưu thế của yếu tố

này hoặc yếu tố khác, và tất cả những

điều này là hiện tượng khách quan,

hiện tượng thay đổi, sinh để rồi diệt.

Với sự hiểu biết này chúng ta khôûng

mất đi sự bình thản của tâm thức chúng

ta khi đối diện với bất cứ cảm thọ nào.

Khi chúng ta tiếp tục quan sát chính

mình, vấn đề trở nên rõ ràng tại sao

kalaapaa sinh khởi: chúng nó được tạo

ra bằng sự nạp vào những gì mà chúng

ta hướng đến dòng vận hành đời sống,

dòng vận hành của thân và tâm. Dòng

140

vận hành của thân đòi hỏi sự nạp vào

bằng vật chất, có hai loại vật chất: thức

ăn chúng ta ăn và môi trường trong đó

chúng ta sống. Dòng vận hành của tâm

đòi hỏi sự nạp vào bằng chất tố tâm, và

nó cũng có hai loại: san’khaaraa sân

giận ở giây phút hiện tại, ngay lập tức

tâm thức tác động đến thân thể, và

kalaapaa sẽ bắt đầu sinh khởi với một

ưu thế vượt trội của yếu tố lửa, gây cho

chúng ta cảm nhận một cảm thọ nóng.

Nếu sự nhập vào là sợ hãi, kalaapaa tạo

ra lúc đó sẽ có một ưu thế vượt trội của

yếu tố không khí, và chúng ta cảm

nhận một cảm thọ của sự hoảng sợ; và

vân vân. Loại thứ hai của tâm thức

nhập vào là một san’khaaraa quá khứ.

Mỗi san’khaaraa là một hột giống sẽ

141

cho ra một kết quả, một kết quả có thể

sau đó một thời gian. Bất cứ những

cảm thọ gì chúng ta kinh nghiệm khi

chúng ta gieo giống, cùng cảm thọ ấy

sẽ sinh khởi khi kết quả của

san’khaaraa đó đến ở bề mặt của tâm

thức.

Về bốn trường hợp này, chúng ta

không nên cố gắng để xác định cái nào

có trách nhiệm cho sự sinh khởi của

một cảm thọ đặc biệt. Chúng ta chỉ nên

chấp nhận những gì cảm thọ xảy ra. Sự

nỗ lực duy nhất nên quan sát mà không

tạo ra san’khaaraa mới. Nếu chúng ta

không nhập vào một phản ứng mới nơi

tâm thức, tự động một phản ứng cũ sẽ

đưa ra kết quả của nó, biểu hiện như

cảm thọ. Chúng ta quan sát và nó sẽ

142

qua đi. Lại nữa chúng ta không phản

ứng lại; vì vậy san’khaaraa cũ khác

phải đưa ra kết quả của nó. Trong cách

này, bằng sự duy trì tỉnh giác và bình

thản, chúng ta cho phép san’khaaraa cũ

sinh ra để rồi diệt đi, một cách tuần tự:

chúng ta loại trừ khổ đau.

Thói quen cũ tạo ra những phản ứng

mới phải được loại trừ, và nó chỉ có thể

được loại trừ một cách tuần tự, bằng sự

hành trì lập lại, bằng sự tiến hành liên

tục.

Tất nhiên có những che lấp và chướng

ngại trên con đường tu tập: năm kẻ thù

có sức mạnh cố gắng để áp đảo các bạn

và chận đứng tiến trình tu tập của các

bạn. Hai kẻ thù đầu tiên là tham ái và

143

sân hận. Mục đính của sự tu tập

Vipassana là để loại trừ hai phiền não

căn bản thuộc về tâm này, nhưng

chúng nó có thể xuất hiện trong lúc các

bạn đang thiền định, và nếu chúng nó

thâm nhập vào tâm thức, tiến trình của

sự thanh lọc phiền não dừng lại. Các

bạn có thể tham ái vì những cảm thọ vi

tế, hoặc ngay cả vì cảnh giới niết bàn;

nó tạo ra không có gì khác cả. Sự tham

ái là ngọn lửa thiêu đốt, không khác gì

nguồn nhiên liệu; nó dẫn các bạn đến

phương hướng trái ngược với sự giải

thóat. Tương tự, các bạn có thể bắt đầu

tạo ra sự sân giận hướng đến cơn đau

mà các bạn kinh qua, và lại nữa các

bạn đi lạc con đường.

144

Một kẻ thù khác là sự lười biếng và dả

dượi. Suốt đêm các bạn ngủ đầy đủ, và

chỉ khi các bạn ngồi để hành thiền, các

bạn cảm thấy rất buồn ngủ. Sự buồn

ngủ này bị gây ra do tâm bất tịnh của

các bạn, nó sẽ bị lái ra ngoài sự hành trì

Vipassana, và vì vậy nó cố gắng làm

ngưng sự thiền định của các bạn. Các

bạn phải tranh đấu ngăn cản kẻ thù này

để không áp đảo các bạn. Thở mạnh

chậm rãi, hoặc đứng dậy, rửa nước lạnh

vào mắt các bạn hoặc đi bộ vài phút rồi

ngồi lại.

Một trong hai điều xảy ra, các bạn có

thể cảm nhận sự dao động lớn lao, cách

khác ở đó sự cấu uế cố gắng làm ngưng

sự tu tập Vipassana của các bạn. Suốt

ngày các bạn chạy nơi này đến nơi

145

khác, làm bất cứ điều gì ngoại trừ thiền

định. Về sau, các bạn hiểu ra rằng các

bạn đã lãng phí thời giờ, và bắt đầu

khóc và ăn năn. Nhưng trên con đường

của Giáo pháp không có chỗ để cho các

bạn khóc. Nếu các bạn tạo ra một sai

lầm, thì các bạn nên chấp nhận nó

trưước một vị trưởng thượng ở người

này bạn có lòng tự tin, và kiên quyết

cẩn trọng không để lập lại sai lầm trong

tương lai.

Cuối cùng , một kẻ thù nguy hại nhất là

nghi ngờ, hoặc về vị Thầy, hoặc về

phương pháp, hoặc về khả năng của

chúng ta để thực hành nó. Sự chấp

nhận mù quáng không có ích gì, nhưng

cũng không nên nghi ngờ một cách phi

lý không bao giờ chấm dứt. Bao lâu

146

các bạn còn duy trì tràn đầy bằng

những nghi ngờ, các bạn không thể tiến

hành ngay cả một tiến trình trên con

đường tu tập. Nếu có bất cứ điều gì

không rõ đối với các bạn, dừng ngần

ngại hãy đến với người hướng dẫn của

các bạn. Trình bày vấn đề với vị Aáy,

và hiểu nó một cách thích hợp. Nếu các

bạn thực hành như các bạn đã được yêu

cầu, những kết quả chắc chắn sẽ đến

với các bạn.

Phương pháp hành trì, không phải bằng

bất cứ phù phép hoặc phép màu nào cả,

nhưng bằng qui luật tự nhiên. Bất cứ ai

bắt đầu thực hành tương xứng với qui

luật tự nhiên chắc chắn khổ đau sẽ

được đọan trừ; đây là phép màu thực tế

vĩ đại nhất.

147

Nhiều người đã kinh qua sự lợi ích của

phương pháp này, không phải chỉ

những người đến với Đức phật vào thời

của ngài, mà còn nhiều người ở những

thời đại sau này, và ở thời đại hiện nay.

Nếu chúng ta hành trì thích hợp, tạo ra

những cố gắng duy trì sự tỉnh giác và

bình thản, thì những lớp bất tịnh của

quá khứ sinh ra trên bề mặt của tâm

thức, và sẽ mất đi. Giáo pháp cho ra

những kết quả tuyệt vời ngay tại đây và

ngay bây giờ, đã cung cấp cho chúng ta

cách hành trì. Vì vậy, thực hành với

tâm tự tin và hiểu biết. Hãy sử dụng tốt

cơ hội quí báu này để loại trừ những

khổ đau, và hưởng an lạc thật sự.

Cầu nguyện cho các bạn hưởng hạnh

phúc chân thật

148

Cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đều

hạnh phúc.

---o0o---

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ BẢY

Tầm quan trọng của sự xả ly đối với

các cảm thọ thô và tế

Sự duy trì tỉnh thức liên tục

Năm người bạn (năm lực): niềm tin, nổ

lực , chánh niệm, thiền định , trí tuệ

Bảy ngày đã qua. Các bạn còn lại ba

ngày nữa để tu tập. Hãy sử dụng tốt

nhất những ngày còn lại bằng nổ lực

hành trì và liên tục, hiểu cách thức mà

các bạn phải thực hành.

Có hai vấn đề của phương pháp hành

trì: sự tỉnh giác và bình thản (tâm xả).

149

Chúng ta phải phát triển sự tỉnh thức ở

tất cả những cảm thọ xảy ra trong thân

của chúng ta, và đồng thời chúng ta

cũng phải duy trì bình thản đối với

những cảm thọ ấy. Bằng sự duy trì bình

thản, tự nhiên chúng ta sẽ thấy, sớm

hay muộn, rằng những cảm thọ bắt đầu

xuất hiện trong những khu vực không

nhìn thấy, và những cảm thọ thô, cứng

ngắt, bất lạc bắt đầu phân tán thành

những dao động vi tế. Chúng ta bắt đầu

kinh nghiệm mỗi dòng an lạc vận hành

của năng lượng xuyên suốt cơ thể.

Sự nguy hiểm, khi tình huống này sinh

khởi, là rằng chúng ta nắm giữ kinh

nghiệm lạc thọ bằng cảm nhận này như

mục đính hướng đến cái mà chúng ta

đã đang hành trì. Thực tế, mục đính

150

của sự hành trì vipassana không phải

để kinh nghiệm một loại cảm thọ đặc

biệt nào đó, mà cốt yếu để phát triển sự

bình thản hướng đến tất cả cảm thọ.

Những cảm thọ luôn luôn chuyển đổi,

hoặc thô hoặc vi tế. Tiến trình tu tập

của chúng ta có thể được đo đạt duy

chỉ bằng sự bình thản mà chúng ta phát

triển hướng đến mỗi cảm thọ.

Ngay sau khi chúng ta đã kinh nghiệm

một dòng vận hành giải thoát của

những dao động vi tế xuyên suốt khắp

thân thể, rất có thể rằng lại nữa một

cảm thọ thô có thể sinh khởi lên ở một

nơi nào đó, hoặc một khu vực không

thấy được. Đây là những dấu hiệu

không phải là sự phản hồi mà tiến trình

phát triển. Khi chúng ta phát triển sự

151

tỉnh thức và bình thản, tự nhiên chúng

ta thâm nhập sâu hơn vào tâm vô thức,

và khám phá những phiền não ẩn núp ở

đó. Bao lâu những phức tạp tiềm ẩn

này còn tồn tại trong vô thức, chúng nó

sẽ mang lại đau khổ trong tương lai.

chỉ có phương cách đoạn trừ chúng nó

là cho phép chúng nó sinh khởi lên bề

mặt của tâm rồi ra đi. Khi san’khaaraa

có gốc rễ sâu như vầy sinh khởi lên bề

mặt, Nhiều San’khaaraa được kết hợp

do những cảm thọ bất lạc, thô hoặc

những khu vực không nhận ra trong

thân thể. Nếu chúng ta tiếp tục quan sát

không phản ứng lại, cảm thọ qua đi, và

với nó san’khaaraa của nó chính là một

sự biểu hiện.

152

Mỗi cảm thọ, dù thô hay tế, có cùng

đặc tính vô thường giống nhau. Mỗi

cảm thọ thô (thuộc bất lạc thọ) sinh

khởi, dường như kéo dài khoảng một

thời gian, nhưng sớm muộn gì nó cũng

trôi qua. Một cảm thọ vi tế sinh khởi và

tiêu tan rất là nhanh chóng, nhưng nó

vẫn có chung một đặc tính. Không có

cảm thọ nào thường tồn cả. Vì vậy

chúng ta không nên có những ưu thích

hoặc định kiến gì đối với bất cứ cảm

thọ nào. Khi một cảm thọ thô, bất lạc

sinh khởi, chúng ta quan sát nó không

khởi lên chán nản. Khi một cảm thọ vi

tế, một cảm thọ lạc sinh khởi, chúng ta

chấp nhận nó, ngay cả hoan hỷ với nó,

nhưng đừng khởi lên kiêu hãnh hoặc

tham đắm nó. Trong mỗi trường hợp

153

chúng ta hiểu bản chất vô thường của

tất cả cảm thọ; do đó chúng ta có thể

mỉm cười khi chúng nó sinh khởi và

khi chúng nó hoại diệt.

Sự bình thản phải được hành trì ở cấp

độ cảm thọ bằng thân để tạo ra một sự

thay đổi thật sự trong cuộc sống của

chúng ta. Ơû mỗi sát na(một đơn vị đo

thời gian nhỏ nhất theo quan điểm Phật

giáo), những cảm thọ đang sinh khởi

trong thân. Thông thường tâm nhận

thức không tỉnh giác đối với chúng,

nhưng tâm vô thức cảm nhận những

cảm thọ và phản ứng lại chúng bằng

tham ái hoặc sân giận. Nếu tâm thức

được luyện tập để tỉnh giác hoàn tòan

tất cả những gì xảy ra trong thân thể và

đồng thời duy trì sự bình thản, thì

154

những thói quen cũ của những phản

ứng mù quángõ sẽ bị phá vỡ. Chúng ta

học cách để duy trì sự bình thản trong

mỗi tình huống, và vì vậy chúng ta có

thể sống một cuộc đời hạnh phúc thanh

bình.

Ơû đây chúng ta đang hành trì để kinh

nghiệm chân lý trong mỗi chúng ta, các

hiện tượng này làm việc như thế nào,

nó tạo ra khổ đau như thế nào. Có hai

vấn đề về hiện tượng con người: vật

chất và tinh thần, thân thể và tâm thức.

Chúng ta phải quan sát cả hai. Nhưng

chúng ta không thể kinh nghiệm thực tế

về thân thể mà không tỉnh giác về

những gì sinh khởi trong thân thể, đó

là, cảm thọ. Tương tự chúng ta không

thể quan sát tâm tách ra khỏi những gì

155

sinh khởi trong tâm, đó là, ý niệm. Khi

chúng ta đi sâu vào sự kinh nghiệm

chân lý của thân và tâm, vấn đề khởi

lên rất rõ ràng rằng bất cứ những gì

sinh khởi trong tâm đều được kết hợp

với một cảm thọ. Cảm thọ có tầm quan

trọng trung tâm cho sự kinh nghiệm

thực tại của thân thể và tâm thức, và nó

là điểm ở đó những phản ứng bắt đầu.

Để quan sát sự thật nơi chúng ta và để

chấm dứt sự tạo ra những tâm phiền

não, chúng ta phải tỉnh giác với những

cảm thọ và duy trì sự bình thản càng

nhiều càng hữu hiệu.

Vì lý do này, trong những ngày còn lại

của khóa tu, các bạn phải thực tập liên

tục với cặp mắt đóng lại trong suốt

những giờ thiền định; nhưng trong suốt

156

thời gian nghỉ ngơi cũng vậy, các bạn

phải nổ lực duy trì sự tỉnh giác và sự

bình thản ở cấp độ của những cảm thọ.

Hành trì bất cứ hành động các bạn phải

thực hành trong phương thức thông

thường, hoặc đi bộ, ăn cơm, uống nước

hoặc tắm giặc; đừng để sự hành trì bị

trì hõan. Tỉnh giác những cử động của

thân thể, và đồng thời của những cảm

thọ, nếu có thể trong một phần của thân

thể trong sự hoạt động của nó, ngoài ra

những phần khác của thân thể cũng

vậy. Duy trì tỉnh giác và bình thản.

Tương tự, buổi tối khi các bạn lên

giường ngủ, khép mắt lại và cảm nhận

cảm thọ bất cứ nơi nào trong thân các

bạn. Nếu các bạn ngủ với sự tỉnh giác

như vầy, tự nhiên ngay lúc các bạn

157

thức dậy vào buổi sáng, các bạn sẽ tỉnh

giác về cảm thọ. Có thể các bạn không

thể ngủ đầy đủ, hoặc các bạn có thể

duy trì tỉnh giác hoàn toàn suốt đêm.

Đây là một điều vi diệu, ggiúp các bạn

nằm trên giường duy trì tỉnh giác và sự

bình thản. Thân thể sẽ nhận sự nghỉ

nngơi nó cần thiết, và không có nghỉ

ngơi nào hơn cho tâm thức về sự duy

trì tỉnh giác và bình thản. Tuy nhiên,

nếu các bạn bắt đầu lo lắng các bạn

đang bị chứng mất ngủ thì các bạn sẽ

tạo ra những căng thẳng, và sẽ cảm

thấy mệt mỏi vào ngày kế tiếp. Các bạn

cũng không nên ép thúc cố thức, duy trì

thế ngồi suốt đêm; điều đó sẽ dẫn đến

một sự cực đoan. Nếu thời giờ ngủ đến,

tốt hơn; hãy ngủ. Nếu giấc ngủ chưa

158

đến, cho phép thân thể nghỉ bằng cách

nằm ở tư thế nghiêng một bên, và cho

phép tâm nghỉ ngơi bằng sự duy trì tỉnh

giác và bình thản.

Đức Phật nói: "khi một thiền giả thực

hành tinh tấn, không sao lãng với mỗi

sát na tỉnh giác và bình thản đối với

những cảm thọ, một hành giả như vầy

phát triển trí tuệ chân thật và hiểu rõ

những cảm thọ". Hành giả biết thế nào

một người thiếu trí tuệ phản ứng lại

những cảm thọ, và tăng trưởng khổ

đau. Hành giả cũng hiểu rằng thế nào

một người ghi nhớ trong tâm về bản

chất vô thường của tất cả những cảm

thọ sẽ không phản ứng lại chúng, và sẽ

loại trừ khổ đau. Đức phật nói tiếp:

"với sự tuệ tri thông suốt này, hành giả

159

có thể kinh nghiệm trạng thái vượt qua

thân và tâm- niết bàn (Nibbaana)."

Chúng ta không thể kinh nghiệm niết

bàn cho đến khi nào san’khaaraa nặng

nhất được đoạn trừ- những

san’khaaraa đó sẽ dẫn đến một đời

sống tương lai ở một hình thức thấp

hơn nơi đó khổ não sẽ ngự trị. May

mắn, khi chúng ta bắt đầu thực hành

Vipassana, chính những San’khaaraa

sinh khởi trước. Chúng ta duy trì bình

thản, chúng nó sẽ trôi qua. Khi tất cả

những San’khaaraa này được đoạn trừ,

thì tự nhiên chúng ta kinh nghiệm niết

bàn lần đầu tiên. Sau khi kinh nghiệm

niết bàn, tất cả đều thay đổi ở chúng ta,

và có thể không còn tạo ra bất cứ hành

độngnào dẫn đến một đời sống tương

160

lai trong một hình thức thấp hơn của sự

sống. Tuần tự chúng ta tiến đến những

trạng thái cao hơn, cho đến khi tất cả

san’khaaraa đều được đoạn trừ nó sẽ

dẫn đến một đời sống tương lai ở bất

cứ nơi nào trong thế giới hữu vi (chịu

qui luật sinh diệt) . Một người như vầy

được giải thoát hoàn toàn và vì vậy,

Đức Phật đã kết luận: " thấu rõ toàn bộ

chân lý của thân và tâm, khi vị ấy qua

đời vị ấy vượt qua thế giới có điều kiện

(thế giới chịu qui luật sinh diệt), vì vị

ấy đã thấu hiểu hòan toàn các cảm

thọ".

Các bạn đã thi hành một sự bắt đầu trên

con đường này bằng sự thực hành để

phát triển sự tỉnh giác về những cảm

thọ xuyên khắp cơ thể. Nếu các bạn

161

cẩn trọng không phản ứng lại chúng,

các bạn sẽ thấy rằng từng lớp một,

những san’khaaraa cũ được đoạn trừ.

Bằng sự duy trì bình thản đối với cảm

thọ bất lạc, thô, các bạn sẽ bắt đầu kinh

nghiệm những cảm thọ vi tế hơn và an

lạc. Nếu các bạn tiếp tục duy trì sự

bình thản, sớm muộn gì các bạn cũng

sẽ đạt đến một giai đoạn được Đức

phật mô tả, ở trong đó toàn bộ cấu trúc

thân thể, thiền giả kinh nghiệm không

có gì ngoài sự sinh khởi và hoại diệt.

Tất cả những cảm thọ thô, cứng ngắt bị

tan vỡ; tòan bộ thân thể không có gì

khác hơn những dao động vi tế. Tự

nhiên giai đoạn này rất an lạc, tuy

nhiên nó vẫn không phải là mục đích

cuối cùng và các bạn không được đắm

162

chấp vào nó. Một số những phiền não

thô được đoạn trừ, nhưng những phiền

não vi tế vẫn còn tồn tại trong những

cấp độ chiều sâu của tâm thức. Nếu

chúng ta tiếp tục quan sát một cách

bình thản, một các tuần tự tất cả những

san’khaaraa sâu hơn sẽ sinh khởi rồi

qua đi. Khi tất cả chúng nó được đoạn

ttrừ hoàn tòan, lúc đó các bạn thể

nghiệm'sự bất tử'-một vài cái gì đó

vượt qua thân và tâm, nơi đó không có

gì sinh khởi, và vì vậy cũng không có

gì qua đi- trạng thái không thể diễn bày

của nibbaana.

Mọi người đều thực hành thích hợp để

phát triển sự tỉnh thức và sự bình thản

họ sẽ chắc chắn đến trạng thái này;

163

nhưng mỗi người phải tự tu tập với

chính mình.

Ví như có năm kẻ thù, năm sự ngăn trở

ngăn cản tiến trình tu tập của các bạn,

cũng có năm người bạn, năm năng lực

tốt của tâm, chúng nó sẽ giúp và ủng

hộ các bạn. nếu các bạn giữ năm người

bạn này mạnh và thanh tịnh, không có

kẻ thù nào có thể chế ngự các bạn.

Người bạn thứ nhất là niềm tin, trung

thành, xác tín. Không có niềm tin

chúng ta không thể thực hành, luôn bị

dao động bởi nghi ngờ và hoài nghi.

Tuy nhiên, nếu niềm tin là mù quáng,

nó trở thành một kẻ thù nguy hiểm. Nó

trở nên mù quáng nếu chúng ta mất đi

tư duy phân biệt, hiểu một cách đúng lý

164

về những gì của lòng trung thành có

được. Chúng ta có thể có niềm tin ở bất

cứ vị trời hoặc vị thánh nào, nhưng nếu

nó là niềm tin đúng, với sự hiểu biết

thích hợp, chúng ta sẽ nhớ những đặc

tính tốt của vị ấy, và sẽ tăng thêm sự

cảm hứng để phát triển những đặc tính

này trong chính chúng ta. Sự thành tâm

như vầy là niềm tin có ích lợi và ý

nghiã. Nhưng nếu chúng ta không nỗ

lực phát triển những đặc tính của con

người hướng đến người mà chúng ta có

lòng thành kính, nó là niềm tin mù

quáng, nó rất có hại.

Ví dụ: khi chúng ta qui y với Đức Phật,

chúng ta phải nhớ những phẩm chất

của một Vị phật, và chúng ta phải thực

hành để phát triển những phẩm chất

165

này trong chúng ta. Phẩm chất cốt lõi

của một vị Phật là sự giác ngộ; vì vậy,

qui y là một yếu tố cho sự giác ngộ, sự

giác ngộ mà chúng ta phát triển nơi

mỗi chúng ta. Chúng ta tôn kính với

bất cứ ai đã đạt trạng thái của giác ngộ

hoàn toàn; đó là, chúng ta đưa ra tầm

quan trọng đối với phẩm chất bất cứ

nơi nào nó có thể biểu hiện, không bị

ép buộc đối với một đảng phái đặc biệt

hoặc con người. Và chúng ta tôn kính

Đức phật không phải bằng lễ nghi hoặc

cúng kiến, mà bằng sự thực hành theo

lời dạy của Ngài, bằng cách đi trên con

đường của giáo pháp từ bước đầu tiên,

giới (siila), đến định đến trí tuệ, đến

niết bàn , giải thóat.

166

Bất cứ vị Phật nào đều phải có những

đặc tính sau đây. Vị ấy đã đoạn tận

tham, sân và si mê. Vị ấy đã chiến

thắng tất cả những kẻ thù của mình, kẻ

thù bên trong, đó là, tâm ô nhiễm. Vị

ấy hoàn hảo không chỉ bằng lý thuyết

của Giáo pháp, mà còn bằng cách áp

dụng và thực hành. Vị ấy thuyết giảng

những gì vị ấy thực hành và những gì v

ị ấy nói vị ấy thực hành; không có sự

chênh lệch giữa lời nói và việc làm của

vị ấy. Mỗi tiến trình mà vị ấy sử dụng

là tiến trình chính đáng, dẫn đến

phương hướng đúng. Vị ấy đã thấu rõ

mọi thứ trong vũ trụ, bằng sự khám phá

bên trong vũ trụ. Vị ấy tràn đầy với

tình thương, từ bi, hoan hỷ cảm thông

đối với mọi người, và luôn ggiúp

167

những người đang đi lạc lối tìm ra con

đường đúng đắn. Vị ấy viên mãn sự

bình thản. Nếu chúng ta thực tập để

phát triển những đặc tính này trong

chính chúng ta để đến mục đích tối

hậu, đó là ý nghĩa mà chúng ta qui y

với Đức phật.

Tương tự chúng ta qui y với Giáo pháp

không liên quan gì đến chủ nghĩa đảng

phái; nó không phải là một vấn đề của

việc cải đổi từ một tổ chức tôn giáo này

sang một tổ chức tôn giáo khác. Qui y

pháp có nghĩa là qui y với đạo đức, với

sự điều khiển tâm thức của chúng ta,

với trí tuệ. Đối với một lời dạy trở

thành Giáo pháp, nó cũng phải có

những tính chất xác định như vậy. Thứ

nhất nó phải được giải thích rõ ràng để

168

mọi người có thể hiểu. Chúng ta có thể

thấy nó ở trước mắt chúng ta, chúng ta

có thể kinh nghiệm bằng thực tại không

phải bằng sự tưởng tượng. Ngay cả

chân lý của niết bàn không được chấp

nhận đến khi nào chúng ta đã kinh

nghiệm về nó. Giáo pháp phải mang lại

kết quả lợi ích hiện tại, và tại đây,

không chỉ bằng lời hứa có ích để được

hưởng thụ trong tương lai. Nó có tính

chất của 'đến và xem'; chính chúng ta

quan sát nó, thực nghiệmû nó ở chính

chúng ta, không chấp nhận một cách

mù quáng. Và một khi chúng ta đã nổ

lực và kinh nghiệm nó và sự lợi ích của

nó, chúng ta không thể không khuyến

khích và ggiúp người khác đến để mà

thấy giáo pháp cũng như chúng ta. Mỗi

169

bước trên con đường dẫn đến gần hơn

mục đích tối hậu; không nỗ lực sẽ

không có kết quả. Giáo pháp lợi ích ở

sự bắt đầu, giai đoạn giữa và giai đọan

cuối. Cuối cùng bất cứ ai với khả năng

hiểu biết trung bình (những người bình

thường), với bất cứ tầng lớp nào đều có

thể thực hành và kinh nghiệm sự lợi ích

của Giáo pháp. Với sự hiểu biết này về

những gì bản chất thật chính nó hiện

hữu, nếu chúng ta qui y Giáo pháp và

bắt đầu thực hành theo Giáo pháp, sự

thành tâm của chúng ta thật sự là có ý

nghĩa.

Cùng một cách, qui y Tăng già không

phải là vấn đề của việc lên hệ đến một

đảng phái nào. Bất cứ ai đã đi trên con

đường giới, định và tuệ và bất cứ ai đã

170

đạt ít nhất giải đọan đầu tiên của giải

thóat, vị ấy trở thành một Vị thánh, là

một thành viên của Tăng già. Vị ấy có

thể là bất cứ ai, bất cứ hình thức nào,

bất cứ màu sắc, chủng tộc; tất cả đều

không có sự khác biệt. Nếu chúng ta

hân hoan qua việc thấy một vị như vậy

và để tu tập đi đến cùng một mục đích

cho chính chúng ta, thì sự qui y tăng

già của chúng rất có ý nghĩa, sự thành

tâm chân chánh.

Một người bạn khác là sự tinh tấn nổ

lực. Như niềm tin, nó không được mù

quáng. Ngược lại sẽ có nguy hiểm cho

chúng ta là chúng ta sẽ tu tập sai con

đường, và sẽ không thành tựu kết quả

như chúng ta đã mong muốn. Tinh tấn

phải được kết hợp với sự hiểu biết

171

thích hợp cách thức để chúng ta thực

tập; từ đó nó sẽ rất có ích cho tiến trình

hành trì của chúng ta.

Một người bạn khác là sự tỉnh giác

chánh niệm. Sự tỉnh giác chỉ có thể có

ở sát na hiện tại. Chúng ta không thể

tỉnh giác ở quá khứ , chúng ta chỉ có

thể nhớ đến nó. Chúng ta không thể

tỉnh giác ở tương lai, chúng ta chỉ có

thể có những cảm hứng hoặc những sợ

hãi ở tương lai. Chúng ta phải phát

triển khả năng tỉnh giác về thực tại để

biểu lộ ở nơi chúng ta ngay sát na hiện

tại.

Người bạn kế tiếp là sự nhất tâm

(định), duy trì sự tỉnh giác ở hiện tại

trong mỗi sát na, không để gián đọan.

172

Nó phải thoát khỏi mọi sự tưởng

tượng, tham đắm, sân giận; chỉ như thế

nó mới gọi là chánh định.

Và người bạn thứ năm là trí tuệ- không

phải trí tuệ thu nhập bằng sự lắng nghe

những bài pháp, hoặc đọc một số sách,

hoặc phân tích bằng tri thức; chúng ta

phải phát triển trí tuệ nơi chúng ta ở

cấp độ kinh nghiệm, vì chỉ có trí tuệ

kinh nghiệm này mới có thể đưa chúng

ta giải thóat. Và để có trí tuệ thật sự, nó

phải được căn cứ vào những thân cảm

thọ: chúng ta duy trì sự bình thản đối

với những cảm thọ, hiểu bản chất vô

thường của chúng nó. Đây là sự bình

thản ở cấp độ của tâm thức, nó sẽ giúp

chúng ta duy trì sự bình an giữa những

173

sự thăng trầm trong cuộc sống chúng

ta.

Tất cả sự hành trì Vipassana có vì mục

đích của nó để có thể giúp chúng ta

sống một lối sống thích hợp, thực hành

đầy đủ trách nhiệm thế gian của chúng

ta trong lúc duy trì tâm bình an, duy trì

sự an lạc và hạnh phúc trong chính

chúng ta và làm cho người khác an vui

và hạnh phúc. Nếu các bạn giữ năm

người bạn có sức mạnh này, các bạn

trở thành toàn hảo trong nghệ thuật

sống, và sẽ dẫn đến một cuộc sống lành

mạnh và hạnh phúc.

Tiến hành bằng con đường Chánh

pháp, vì sự tốt đẹp và lợi ích cho các

bạn và cho số đông.

174

Cầu mong tất cả những chúng sanh

đang bị khổ đau được tiếp xúc với giáo

pháp, để xóa tan khổ đau và an hưởng

hạnh phúc thật sự.

Cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đều

được hạnh phúc.

---o0o---

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ

TÁM

Qui luật của sự tăng trưởng và sự

ngược lại của nó

Qui luật của sự đoạn trừ

Sự xả ly là sự an lạc tối thượng

Sự xả ly có thể làm cho chúng ta sống

một đời sống với những việc làm chân

chính

175

Bằng sự duy trì xả ly, chúng ta xác

định một tương lai hạnh phúc cho

chính chúng ta

Ngày thứ tám đã qua, các bạn còn hai

ngày còn lại để tu tập. Trong những

ngày còn lại, thấy rằng các bạn hiểu

phương pháp một cách thích hợp, để

các bạn có thể thực hành nó thích hợp

ở đây và cũng để sử dụng nó trong đời

sống hằng ngày. Hiểu những gì Giáo

pháp là: bản chất tự nhiên, chân lý, qui

luật vũ trụ.

Về phương diện này, có một tiến trình

tăng trưởng liên tục. Về phương diện

khác, có một tiến trình hoại diệt. Điều

này cũng được giải thích rõ trong

những câu kệ:

176

Chân lý vô thường là những sự vật tồn

tại có điều kiện,

Bằng bản chất tự nhiên sinh khởi và

hoại diệt.

Nếu chúng nó sinh khởi và bị tan hoại,

Sự đoạn trừ sự sinh diệt mang lại hạnh

phúc chân thật.

(chư hành vô thường,

thị sinh diệt pháp.

Sanh diệt diệt dĩ,

Tịch diệt vi lạc.)

Mỗi san’khaaraa, mỗi tâm sinh khởi có

điều kiện là vô thừơng, có bản chất tự

nhiên của sự sinh khởi và hoại diệt. Nó

hoại diệt nhưng giây phút kế nó sinh

khởi trở lại; và trở lại nữa; đây là cách

San’khaaraa tăng trưởng. Nếu chúng

ta phát triển trí tuệ và bắt đầu quán sát

177

một cách khách quan, tiến trình của sự

tăng truởng sẽ dừng lại và tiến trình

của sự hoại diệt sẽ bắt đầu. Một

san’khaaraa sinh khởi, nhưng hành giả

chỉ duy trì sự bình thản; nó sẽ mất đi

sức mạnh của nó và sẽ bị tan hoại.

Từng lớp một, san’khaaraa cũ sẽ sinh

khởi và bị hoại diệt, nó đã cung cấp

cho chúng ta duy trì sự bình thản. Bao

nhiêu san’khaaraa bị tiêu diệt thì bấy

nhiêu hạnh phúc chúng ta sẽ an vui, sự

hạnh phúc thoát khỏi phiền não. Nếu

tất cả san’khaaraa cũ đều đoạn diệt thì

chúng ta an vui hạnh phúc vô biên về

sự giải thoát viên mãn.

Những thói quen cũ của tâm thức là

phản ứng, và tăng trưởng những phản

ứng. Những gì không muốn lại xảy ra,

178

và chúng ta tạo ra một san’khaaraa của

sự sân giận. Khi san’khaaraa sinh khởi

trong tâm, nó được phối hợp với một

thân cảm thọ bất lạc. Sát na kế tiếp, vì

thói quen phản ứng cũ, chúng ta lại tạo

ra sự nóng giận, nó được hướng trực

tiếp đến thân cảm thọ bất lạc. Những

kích thích bên ngoài về sân giận là sự

phụ trợ; sự phản ứng là yếu tố dẫn đến

cảm thọ trong chúng ta. Cảm thọ bất

lạc làm chúng ta phản ứng lại bằng sự

sân giận, nó lại gây một cảm thọ bất lạc

khác, nó lại tiếp tục làm cho chúng ta

phản ứng. Trong cách này, tiến trình

tăng trưởng bắt đầu. Nếu chúng ta

không phản ứng lại cảm thọ nhưng

thay vì mỉm cười và hiểu bản chất vô

thường của nó, thì chúng ta sẽ không

179

tạo ra san’khaaraa mới, và san’khaaraa

đã sinh khởi khi đó sẽ tiêu diệt không

có tăng trưởng. Kế đến, một

san’khaaraa khác của cùng một loại sẽ

sinh khởi từ độ sâu của tâm thức;

chúng ta duy trì bình thản, và nó sẽ trôi

qua. Kế đến một cái khác nữa lại sinh

khởi; chúng ta duy trì thản nhiên, và nó

trôi qua. Tiến trình của sự đoạn trừ đã

bắt đầu.

Những tiến trình mà chúng ta quan sát

trong chính chúng ta cũng xảy ra khắp

cả vũ trụ. Ví dụ, có ai đó gieo hạt giống

của cây banyan ( cây bồ đề). Từ hột

giống bé tí đó một cây lớn phát triển,

nó mang vô số trái hằng năm, suốt thời

gian nó sống. Và ngay sau khi nó chết,

tiến trình vẫn tiếp tục, vì mỗi trái mà

180

cây đã mang bao gồm một hột hoặc vô

số hột, có cùng tính chất như hột ban

đầu phát triển thành cây. Bất cứ khi

nào một trong những hạt giống này rơi

vào đất tốt nó sẽ nảy mầm và phát triển

thành một cây khác, lại nữa cây này lại

tạo ra hàng ngàn trái, tất cả trái hàm

chứa những hột giống. Trái và hột

giống, hột và trái; một tiến trình bất tận

tăng trưởng. Cùng một cách này, vì vô

minh chúng ta gieo hột giống

san’khaaraa (sự phản ứng ) , sớm

muộn gì hạt giống cho ra trái , còn gọi

là san’khaaraa, và cũng hàm chứa một

hạt giống của cùng một loại. Nếu

chúng ta cho hạt giống vào vùng đất tốt

nó nảy mầm thành một san’khaaraa

mới, và sự đau khổ của chúng ta tăng

181

bội lên. Tuy nhiên, nếu chúng ta ném

hạt giống vào đất đá, chúng không thể

nảy mầm; không có gì sinh sản từ

chúng nó. Tiến trình tăng trưởng dừng

lại, và tự động tiến trình ngược lại bắt

đầu, tiến trình của sự đoạn trừ.

Nhận ra thế nào tiến trình này vận

hành. Nó được giải thích rằng một số

dữ liệu nhập vào cung cấp cho sự vận

hành của đời sống, của thân và tâm

thức, để duy trì. Sự nhập vào cho thân

là thức ăn và ăn, cũng như môi trường

trong đó chúng ta sống. Nếu ngày nào

đó chúng ta không ăn, dòng vận hành

của vật chất (thân thể) không dừng lại

ngay lập tức. Nó tiếp tục tiêu thụ

những sản phẩm dự trữ của năng lượng

chứa trong thân thể. Khi tất cả những

182

năng lượng dự trữ được tiêu thụ, chỉ

đến lúc dòng vận hành dừng lại, thân

thể sẽ chết.

Thân thể cần thức ăn hai hoặc ba lần

một ngày, nhưng dòng tâm thức đòi hỏi

phải nạp vào trong mỗi sát na. Thức ăn

nạp vào cho tâm thức là san’khaaraa.

Mỗi giây san’khaaraa mà chúng ta tạo

ra có trách nhiệm duy trì dòng vận

chuyển của tâm thức. Tâm thức sinh

khởi ở sát na kế tiếp là sản phẩm của

san’khaaraa này. Mỗi sát na chúng ta

nạp vào san’khaaraa, và dòng vận

chuyển của tâm thức tiếp tục. Nếu ở

bất cứ sát na nào chúng ta không tạo

một san’khaaraa mới dòng tâm thức

vẫn không dừng lại lúc đó; thay vì nó

sẽ rút ra san’khaaraa cũ từ nguồn dự

183

trữ. Một san’khaaraa cũ sẽ bị ép buộc

cho ra một kết quả của nó, đó là, để

đến bề mặt của tâm thức với mục đích

tiếp tục duy trì dòng vận chuyển; và nó

sẽ biểu hiện như là một thân cảm thọ.

Nếu chúng ta phản ứng lại cảm thọ, lại

nữa chúng ta bắt đầu tạo ra một

san’khaaraa mới, gieo trồng những hột

giống mới của khổ đau. Nhưng nếu

chúng ta quán sát những cảm thọ với

sự bình thản, san’khaaraa sẽ mất đi sức

mạnh của nó và bị tiêu diệt. Ở sát na kế

san’khaaraa cũ phải xuất hiện để duy

trì dòng vận hành tâm thức. Lại nữa

chúng ta không phản ứng, và lại nữa nó

bị tiêu diệt. Đến chừng mực nào chúng

ta duy trì tỉnh giác và thản nhiên, tuần

tự những san’khaaraa cũ sẽ xuất hiện

184

ở bề mặt của tâm thức và bị tiêu diệt;

đây là qui luật của tự nhiên.

Chúng ta phải kinh nghiệm tiến trình

chính chúng ta bằng sự thực hành

phương pháp. Khi chúng ta thấy rằng

những thói quen cũ và những đau khổ

cũ của chúng ta đều được đoạn trừ, khi

đó chúng ta biết rằng tiến trình của sự

đoạn trừ được thực hành.

Một phương pháp kỷ thuật hiện hành

trong nghề luyện kim hiện đại. Để tinh

chế một số kim loại nào đó, để làm cho

chúng nó hoàn toàn tinh chất, đều cần

thiết là dời ra khỏi ngay cả một phân tử

pha tạp trong hàng tỉ phân tử. Điều này

được tiến hành bằng cách cán dẹp kim

loại trong một hình thể của một cây

185

que, và rồi tạo ra một vòng đai của

cùng một kim loại đã được tinh chế

cho sự tinh chế đã yêu cầu. Vòng đai

đã được chuyển thành hình cây que, và

tạo ra một sức hút để tự động loại ra

bất cứ những cấu tạp nào trong toàn thể

cây que. Cùng một lúc, tất cả những

phân tử trong cây que kim loại được

sắp ngay thẳng; nó trở thành dễ uốn, dễ

dát mỏng, có thể dùng để làm công

việc. Trong cùng một cách như vậy,

phương pháp thiền Vipassana có thể

được xem như sự trải qua của một

vòng đai tỉnh thức qua cấu trúc cơ thể,

loại trừ ra bất cứ những cấu uế, với

những lợi lạc tương tự như trên.

Sự tỉnh giác và bình thản sẽ dẫn đến sự

thanh lọc tâm thức. Bất cứ điều gì

186

chúng ta kinh qua bằng phương pháp

này, hoặc lạc hoặc bất lạc, không phải

là vấn đề quan trọng. Điều quan trọng

là không phản ứng lại với tham đắm

hoặc sân giận, cả hai yếu tố này chỉ tạo

ra khổ đau. Thước đo duy nhất để đo

đạt tiến trình hành trì của chúng ta là sự

bình thản mà chúng ta đã phát triển. Và

sự bình thản phải có mặt ở cấp độ

những cảm thọ bằng thân thể nếu

chúng ta đi vào chiều sâu của tâm thức

và để loại trừ những cấu uế. Nếu chúng

ta thực hành tỉnh giác đối với những

cảm thọ và duy trì sự bình thản đối với

chúng, thì chúng ta sẽ dễ dàng giữ sự

thăng bằng đối phó với những tình

huống bên ngoài.

187

Đức Phật đã có lần được hỏi điều gì là

sự lợi lạc chân thật. Ngài đáp lại rằng

lợi lạc tối thượng là khả năng duy trì sự

thăng bằng tâm thức của chúng ta cho

dù tất cả những biến đổi , thăng trầm ,

của cuộc đời. Chúng ta có thể đối diện

với những cảm thọ lạc hoặc khổ, chiến

thắng hoặc thất bại, được hoặc mất,

danh thơm hoặc tiếng xấu; mọi người

đều phải đối diện với những điều này.

Nhưng chúng ta có thể mỉm cười trong

mọi hoàn cảnh, sự mỉm cười xuất có

phải phát từ tâm của chúng ta không?

Nếu chúng ta có sự bình thản này ở cấp

độ sâu nhất, thì chúng ta sẽ có sự hạnh

phúc thật sự.

Nếu sự bình thản chỉ là bên ngoài thì

nó sẽ không giúp chúng ta trong cuộc

188

sống hiện tại. Nó như thể mỗi chúng ta

mang một bình xăng, dầu . Nếu một

ánh lửa xảy ra, một kết quả của một

phản ứng ở quá khứ, ngay lập tức một

kết quả bùng nổ tạo ra, sản sinh ra hàng

triệu đóm lửa khác nữa, thêm

san’khaaraa nữa, nó sẽ mang lửa nhiều

thêm nữa, khổ não tăng thêm trong

tương lai. Bằng sự hành trì Vipassana,

chúng ta lần lược rút rỗng bình nhiên

liệu. Những đóm lửa vẫn đến vì

san’khaaraa của quá khứ của chúng ta,

nhưng khi chúng nó đến, chúng nó chỉ

đốt bằng nhiên liệu mà chúng nó mang

đến; nhiên liệu mới không được cung

cấp. Chúng nó cháy nhanh cho đến khi

chúng nó tiêu thụ nhiên liệu chúng nó

có, và từ đó chúng nó bị tiêu hủy đi. Về

189

sau, khi chúng ta tiến xa hơn trên con

đường tu tập, tự nhiên chúng ta bắt đầu

tạo ra dòng nước mát của tình thương

và lòng từ bi, và bình chứa nhiên liệu

bây giờ được chứa đầy với nước mát

này. Ở đây, ngay lúc một đóm lửa đến,

nó bị tiêu hủy ngay. Nó không thể đốt

cháy ngay cả một ít nhiên liệu mà nó

chứa đựng.

Chúng ta có thể hiểu vấn đề này ở mức

độ tri thức, và biết rằng chúng ta nên

có sẳn một máy bơm nước phòng khi

có lửa phát sinh. Nhưng khi lửa đến

thật sự rồi thì chúng ta chuyển sang vòi

bơm xăng và bắt đầu một đám cháy

lớn. Sau đó chúng ta nhận ra sự sai

lầm, nhưng tiếp tục lập lại lần kế nữa

khi lửa đến, vì trí tuệ của chúng ta còn

190

nông cạn. Nếu ai đó có trí tuệ chân thật

ở chiều sâu của tâm thức, khi đối diện

với lửa vị ấy sẽ không đổ xăng vào nó,

biết rằng điều này chỉ gây tác hại. Thay

vì đổ vào nước lạnh của tình thương và

lòng từ bi, giúp đỡ những người khác

và chính mình.

Trí tuệ phải ở cấp độ của những cảm

thọ. Nếu chúng ta tự luyện tập để tỉnh

giác những cảm thọ ở bất cứ hoàn cảnh

nào và duy trì sự bình thản đối với nó,

không có gì có thể xâm nhập các bạn.

Có thể khoảng vài giây các bạn quan

sát không hề phản ứng lại. Khi đó, với

tâm bình thản này, các bạn quyết định

những hành động nào cần tiến hành.

Chắn chắn rằng đó là một hành động

191

đúng, tốt , có lợi cho người khác, vì nó

được tiến hành với một tâm bình thản.

Đôi khi trong cuộc sống rất cần thiết sử

dụng hành động mạnh. Chúng ta đã cố

giải thích cho ai đó một cách lịch sự ,

tử tế, với một nụ cười, nhưng họ chỉ có

thể hiểu bằng những lời nặng nề, hành

động cứng rắn. Vì vậy chúng ta dùng

lời nói mạnh và hoặc hành động bằng

thân. Nhưng trước khi làm như vậy,

chúng ta phải kiểm tra lại chính mình

xem tâm chúng ta có được bình tỉnh

hay không, và xem chúng ta chỉ có

lòng từ bi và tình thương với mọi

người. Nếu như thế, hành động sẽ có

ích; bằng không, nó sẽ không giúp gì

cho người khác. Chúng ta hành động

mạnh để giúp những người sai lầm.

192

Với nền tảng của tình thương và lòng

từ chúng ta không thể là sai.

Trong trường hợp của sự công kích,

một thiền giả Vipassana sẽ thực tập để

tách xa người xung đột và tội phạm,

ban rải lòng từ không chỉ cho tội phạm

mà còn những người gây xung đột.

Chúng ta biết rằng những người xung

đột không biết vấn đề anh ta đang làm

hại chính mình. Hiểu vấn đề này chúng

ta cố gắng giúp anh ta bằng cách ngăn

ngừa anh ta ra khỏi những hành vi sẽ

gây khổ não cho anh ta trong tương lai.

Tuy nhiên chúng ta phải cẩn thận

không phải để kiểm tra những hành

động của chúng ta chỉ sau khi biến cố

đã xảy ra. Các bạn phải tự kiểm tra tâm

193

của mình trước khi hành động. Nếu

tâm tràn đầy những phiền não, chúng ta

không thể giúp bất cứ ai. Trước tiên

chúng ta phải chỉnh đốn những sai lầm

của chúng ta trước rồi mới có thể chính

đốn sai lầm của nngười khác. Trước

tiên chúng ta phải thanh lọc tâm của

chúng ta bằng tự quán sát mình. Sau đó

chúng ta mới có thể giúp chúng sanh.

Đức Phật nói rằng có bốn loại người

trên thế gian này:

- Hạng người đi từ bóng tối vào bóng

tối

- Hạng người đi từ ánh sáng vào bóng

tối.

- Hạng nngười đi từ bóng tối ra ánh

sáng .

194

- Hạng người đi từ ánh sáng vào ánh

sáng.

Những ai thuộc hạng người đầu tiên,

mọi thứ xung quanh chỉ là bất hạnh, tối

tăm, nhưng điều bất hạnh lớn lao nhất

của anh ta là anh ta không có trí tuệ.

Mỗi lúc anh ta gặp khổ đau anh ta tăng

trưởng thêm sân hận, căm ghét, bực tức

và đổ lỗi cho người khác làm cho anh

ta khổ. Tất cả những san’khaaraa của

nóng giận và cáu ghét này sẽ mang anh

ta đến nơi tối tăm hơn và khổ não hơn

trong tương lai.

Người thuộc nhóm thứ hai có những gì

được gọi là ánh sáng trong cuộc đời

này: tiền bạc, địa vị, quyền lực, nhưng

anh ta cũng chẳng có trí tuệ. Vì vô

minh anh ta phát triển chủ nghĩa tự

195

ngã, không hiểu rằng những căng thẳng

của tự ngã sẽ mang lại cho anh ta sự tối

tăm trong tương lai.

Người thuộc nhóm thứ ba có cùng vị trí

như người ở nhóm đầu, bị đoanh vây

bởi tối tăm; nhưng anh ta có trí tuệ, và

hiểu hoàn cảnh. Nhận ra rằng anh ta

hoàn toàn chịu trách nhiệm sự khổ sở

của chính mình, anh ta lặng lẽ và an

lòng làm những gì anh ta có thể thay

đổi tình huống, nhưng không khởi bất

cứ sân giận, hoặc cáu ghét đến với

người khác; thay vì anh ta chỉ có tình

thương và lòng từ với những người

đang gây đau khổ cho anh. Tất cả

những gì anh ta tạo ra cho tương lai là

sự sáng lạng.

196

Cuối cùng người trong nhóm thứ tư, ví

như một người ở nhóm thứ hai, hưởng

thụ tiền bạc, địa vị và quyền lực, nhưng

không như người ở trong nhóm hai,

anh ta có đầy đủ trí tuệ. Anh ta sử dụng

những gì anh ta có để duy trì bản thân

và những người phụ thuộc vào anh ta,

nhưng bất cứ những gì hiện hữa anh ta

sử dụng vì sự tốt đẹp cho người khác,

với tình thương và lòng từ. Sự sáng

suốt ngay bây giờ và trong tương lai.

Chúng ta không thể chọn hoặc là chúng

ta ở đây, đối diện với bóng tối hay là

ánh sáng; điều đó được xác định bởi

san’khaaraa quá khứ của chúng ta.

Quá khứ không thể thay đổi được,

nhưng chúng ta có thể kiềm chế ở hiện

tại bằng sự điều phục chính bản thân.

197

Tương lai chỉ là quá khứ cộng lại

những gì được thêm vào ở hiện tại.

Vipassana dạy phương cách để có thể

tự chủ chính mình bằng sự phát triển

tỉnh giác và thản nhiên đối với những

cảm thọ. Nếu chúng ta phát triển sự tự

chủ này ở giây phút hiện tại, tương lai

tự nhiên sẽ trở nên sáng lạng.

Sử dụng hai ngày còn lại để thực hành

phương cách để tự chủ với giây phút

hiện tại, tự chủ với chính chúng ta.

Duy trì phát triển trong Giáo pháp, loại

trừ tất cả những khổ đau, và an vui với

hạnh phúc chân thật tại đây và ngay

bây giờ.

Cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đều

được hạnh phúc!

198

---o0o---

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ

CHÍN

Sự áp dụng phương pháp vào đời sống

hàng ngày

Mười ba la mật (paaramii)

Ngày thứ chín đã qua. Bây giờ là lúc để

thảo luận làm thế nào để sử dụng

phương pháp trong đời sống hằng

ngày. Điều này có tầm quan trọng

quyết định. Giáo pháp là một nghệ

thuật sống. Nếu chúng ta không thể sử

dụng nó trong đời sống thường ngày,

thì việc tham dự một khóa tu không

khả quan gì so với việc hành trì một

nghi thức hoặc lễ lộc.

199

Mỗi người đối diện với những tình

huống không muốn đã xảy ra trong

cuộc sống. Bất cứ khi nào những vấn

đề không thích xảy ra, chúng ta mất đi

sự bình tỉnh trong tâm thức của chúng

ta và bắt đầu tạo ra phiền não. Và bất

cứ khi nào một phiền não sinh khởi

trong tâm, chúng ta trở nên khổ sở.

Làm sao để chúng ta không tạo ra

phiền não, không tạo ra căng thẳng?

Làm thế nào để chúng ta duy trì sự

bình an và hài hòa?

Những vị Thánh đã khám phá ra thực

tại của thân vàtâm và đã tình ra một

giải pháp cho vấn đề: Bất cứ khi nào

một phiền não sinh khởi trong tâm vì

bất cứ lý do gì, chúng ta nên chuyển sự

chú ý của chúng ta đến một nơi khác.

200

Ví dụ, chúng ta có thể đứng dậy, uống

một ít nước, bắt đầu đếm, hoặc bắt đầu

tụng danh hiệu của một vị chư thiên

hoặc vị thánh hướng đến người mà

chúng ta có sự thành tâm tôn kính.

Bằng sự chuyển đổi sự tập trung chúng

ta sẽ thoát khỏi sự phiền não.

Một giải pháp khả thi. Nhưng những

nhà khám phá khác về sự thật bên

trong đã đi vào cấp độ sâu nhất của

thực tại, đã đến chân lý tối hậu. Những

vị đã giác ngộ này đã tuệ tri rằng bằng

sự chuyển đổi sự chú ý chúng ta tạo ra

một lớp bình an và hài hòa ở cấp độ

nhận thức, nhưng chúng ta đã không

đoạn trừ phiền não đã sinh khởi. Chúng

ta chỉ đè nén nó. Ơû cấp độ vô thức, nó

tiếp tục tăng trưởng và tập trung sức

201

mạnh. Sớm hay muộn miệng núi lửa

ngủ ngầm của phiền não này sẽ phụt ra

và áp đảo tâm thức . Bao lâu những

phiền não còn tồn tại, ngay cả ở cấp độ

vô thức, giải pháp không hoàn hảo

vàchỉ tạm thờiø mà thôi.

Một vị đã hoàn tòan Giác ngộ tìm ra

một giải pháp đúng đắn: đừng chạy

trốn vấn đề; hãy đối diện với nó. Quan

sát bất cứ những phiền não nào sinh

khởi trong tâm. bằng sự quan sát chúng

ta không đè nén nó, chúng ta cũng

không cho nó một sự xác nhận để giải

thích nó bằng những hành động gây tác

hại bằng lời nói hoặc hành động. Giữa

hai cực đoan này là con đường trung

đạo: chỉ quán sát mà thôi. Khi chúng ta

bắt đầu quán sát, phiền não mất đi sức

202

mạnh của nó và trôi qua mà không áp

đảo được tâm thức. Không chỉ thế, mà

một số dự trữ của loại phiền não đó

cũng sẽ bị tiêu diệt. Bất cứ khi nào một

cấu uế sinh khởi ở cấp độ nhận thức,

kho dự trữ của chúng ta về loại cấu uế

đó sinh ra từ vô thức, bắt đầu liên kết

với phiền não hiện tại, và bắt đầu tăng

trưởng. Nếu chúng ta chỉ quan sát,

không chỉ cấu uế hiện tại mà còn một

số phần của phiền não dự trữ sẽ được

đoạn trừ. Bằng cách này, tuần tự tất cả

mọi phiền não đều được đoạn trừ, và

chúng ta bắt đầu giải thóat khổ não.

Nhưng đối với một người bình thường,

không dễ để quan sát một tâm phiền

não. Chúng ta không biết khi nào nó đã

bắt đầu và nó đã áp đảo tâm thức như

203

thế nào. Ngay lúc nó đến bề mặt nhận

thức, nó quá mạnh để quan sát không

phản ứng lại. Mặc dù chúng ta cố gắng

làm như vậy, rất khó khăn để quan sát

một phiền não tinh tế của tâm thức- sân

giận ngấm ngầm, sợ hãi, hoặc tham

lam thay vì, sự chú ý của chúng ta

được hướng đến những kích động của

phiền não bên ngoài, những thứ đó chỉ

làm cho phiền não tăng trưởng.

Tuy nhiên, những vị Giác Ngộ đã

khám phá ra rằng bất cứ khi nào một

phiền não sinh khởi trong tâm, đồng

thời hai vấn đề sinh khởi xảy ra ở cấp

độ thân thể: hơi thở sẽ trở nên khác

thường, và một sự phản ứng sinh-hóa

sẽ bắt đầu trong thân thể, một cảm thọ.

Một giải pháp thực tế đã được tìm ra.

204

Rất khó để quán sát những phiền não vi

tế khởi lên trong tâm, nhưng với sự

luyện tập chúng ta thực tập mau chóng

để quan sát hơi thở và cảm thọ, cả hai

chúng nó đều là những biểu hiện của

thân phiền não. Bằng sự quán sát một

phiền não trong phần nào của thân,

chúng ta cho phép nó sinh lên rồi diệt

đi mà không gây ra bất cứ tác hại nào.

Chúng ta bắt đầu giải thoát phiền não.

Phải trải qua thời gian mới làm chủ

phương pháp thực hành này, nhưng khi

chúng ta hành trì, tuần tự chúng ta sẽ

thấy rằng càng thêm những giải pháp

bên ngoài trong đó trước đây chúng ta

chúng ta đã phản ứng lại với phiền não,

bây ggiờ chúng ta có thể giữ bình tĩnh.

Mặc dù chúng ta phản ứng, sự phản

205

ứng sẽkhông quá mạnh hoặc kéo dài

như nó đã có ở quá khứ. Một lúc nào

đó nó sẽ đến trong một tình huống bực

tức nhất, chúng ta sẽ có thể chú ý sự

cảnh giác được đưa ra bằng hơi thở và

cảm thọ, và sẽ bắt đầu quan sát chúng,

ngay cả trong một vài sát na. Những sát

na của tự quán sát này sẽ hoạt động

như là một thiết bị giảm sốc giữa

những kích động bên ngoài và sự đáp

lại của chúng ta. Thay vì phản ứng lại

một cách mù quáng, tâm thức duy trì

bình thản, và chúng ta có thể sử dụng

những hành động tích cực có lợi cho

chúng ta và người khác.

Các bạn đã tiến hành bước đầu tiên

hướng đến sự đoạn ttrừ những phiền

não và thay đổi những thói quen của

206

tâm thức, bằng sự quán sát những cảm

thọ ở chính các bạn.

Từ lúc sanh ra, chúng ta luôn được

huấn luyện nhìn ra bên ngoài. Chúng ta

không bao giờ quán sát chính mình, và

vì vậy chúng ta không có khả năng đi

đến những cấp độ sâu về những vấn đề

của chúng ta. Chẳng hạn chúng ta tìm

nguyên nhân gây ra sự đau khổ của

chúng ta ở bên ngoài, luôn luôn đổ lỗi

cho nngười khác vì sự bất hạnh của

chúng ta. Chúng ta nhìn những sự vật

chỉ qua một góc cạnh, một phần quan

điểm, những vấn đề đã bị bóp méo đi;

và chúng ta chỉ chấp nhận quan điểm

này như ø chân lý toàn hảo. Bất cứ sự

quyết định nào được tạo ra với thông

tin không hoàn hảo này chỉ sẽ làm hại

207

cho chính chúng ta và người khác. Để

nhìn toàn thể của chân lý chúng ta phải

quan sát nó từ nhiều khía cạnh. Đây là

điều chúng ta học tập để thực hành

bằng sự thực hành Vipassana: để nhìn

thực tại không chỉ bên ngoài mà còn

phải nhìn bên trong nữa.

Nhìn chỉ từ một góc cạnh, chúng ta

tưởng tượng rằng sự khổ đau của

chúng ta được gây ra do người khác,

bởi hoàn cảnh bên ngoài. Vì vậy chúng

ta dốc toàn bộ năng lực của chúng ta

cho sự thay đổi người khác và thay đổi

hoàn cảnh bên ngoài. Thực tế, điều này

chỉ là một nỗ lực vô ích. Chúng ta đã

thực hành quan sát thực tại trong đó

chúng ta sớm tuệ tri rằng con người

hoàn toàn có trách nhiệm với khổ đau

208

hoặc hạnh phúc của chính mình. Ví dụ,

có ai đó bị một người chê bai và bắt

đầu phiền não. Anh ta đổ lỗi người chê

bai anh ta làm cho anh phiền não. Thực

tế người chê bai đã tạo ra khổ sở cho

chính mình khi anh ta phản ứng với lời

chê bai, khi đó anh ta bắt đầu làm ô

nhiểm tâm của mình. Mọi người có

trách nhiệm cho sự khổ não của chính

mình, không có ai vào đó cả. Khi nào

chúng ta kinh nghiệm chân lý này, sự

điên rồ tìm thấy lỗi ở người khác

không còn nữa.

Chúng ta phản ứng lại điều gì? Một

ảnh tượng do chúng ta tạo ra không

phải là thực tế bên ngoài. Khi chúng ta

nhìn ai đó, sự tưởng tượng của chúng

ta bị phủ màu do những huân tập của

209

quá khứ chúng ta. Những san’khaaraa

cũ tác động đến nhận thức chúng tavề

bất cứ hoàn cảnh mới nào. Lần lược, vì

sự nhận thức có điều kiện này, thân

cảm thọ trở nên lạc hoặc bất lạc. Và

theo khuôn mẫu của cảm thọ, chúng ta

tạo ra một phản ứng mới. Mỗi tiến

trình có điều kiện này được tạo ra do

san’khaaraa cũ. Nhưng nếu chúng ta

duy trì tỉnh giác và thản nhiên đối với

những cảm thọ, thói quen của sự phản

ứng mù quán trở nên yếu hơn, và

chúng ta thực hành quan sát thực tại

như nó đang là.

Khi chúng ta phát triển khả năng nhìn

những sự vật từ những khía cạnh khác

nhau, từ đó bất cứ khi nào người khác

chê bai hoặc ngược lại cư sử tệ, sự tuệ

210

tri khởi lên rằng vị này đang có thái độ

sai vì anh ta đang đau khổ. Với sự tuệ

tri này, chúng ta không phản ứng lại

với phiền não, nhưng chỉ cảm nhận

tình thương và lòng từ bi cho người

khổ sở, như một người mẹ sẽ cảm

thông đứa con đang bệnh. Sự nhận

thức phát sinh để giúp người này loại

trừ khổ não của anh ta. Vì vậy, chúng

ta duy trì sự bình an và hạnh phúc, và

giúp những người khác cũng được bình

an và hạnh phúc. Đây là mục đích của

Giáo pháp: để thực tập nghệ thuật

sống, đó là, để đoạn trừ những tâm cấu

uế và để phát triển những phẩm chất

tốt, vì sự tốt đẹp cho chúng ta và người

khác.

211

Có mười phẩm chất tốt thuộc về tâm -

paaramii - điều mà chúng ta phải hoàn

thiện để đến mục đích tối hậu. Mục

đích là một tiến trình của vô ngã hoàn

toàn. Mười paaramii này là những

phẩm chất có khả năng lần lược phân

tán ngã chấp, bằng cách đó mang

chúng ta gần hơn sự giải thoát. Chúng

ta có cơ hội để phát triển mười phẩm

chất này trong một khóa thiền

Vipassana.

Paaramii (Ba la mật: viên mãn, cụ túc)

đầu tiên là nekkhamma - sự xuất ly.

Chúng ta trở thành một vị Tăng hoặc

Ni người xuất ly đời sống tại gia và

sống không sở hữa vật chất, ngay cả

phải xin ăn cho đời sống hằng ngày.

Tất cả điều này được làm vì mục đích

212

phá bỏ tự ngã. Làm thế nào để một

người tại gia có thể phát triển phẩm

chất này? trong một khóa tu như thế

này, chúng ta có cơ hội để thực hành,

từ lúc có mặt ở đây chúng ta sống dựa

vào sự hảo tâm của người khác. Chấp

nhận bất cứ những gì được cúng như

thức ăn, chốn ở, hoặc những nhu cầu

khác, chúng ta tuần tự phát triển phẩm

chất của sự xả ly (xuất gia). Bất cứ

điều gì chúng ta nhận ở đây, chúng ta

sử dụng tốt nhất, tu tập nổ lực để thanh

lọc tâm không chỉ tốt cho bản thân

chúng ta mà còn cho những người

không quen biết đã cúng thí vì sự có

mặt của chúng ta.

Ba la mật kế tiếp là siila - đạo đức.

Chúng ta phát ttriển phẩm chất này

213

bằng cách giữ năm giới trong suốt thời

gian, cả hai trong thời gian khóa tu và

đời sống hằng ngày. Có nhiều chướng

ngại gây khó khăn cho việc hành trì giữ

giới trong đời sống thế tục. Tuy nhiên,

ở đây trong một khóa thiền định, không

có cơ hội nào để phá bỏ giới vì chương

trình và nội qui rất nặng. Chỉ trong nói

năng đã có sự chánh mạng của chúng

ta phát xuất từ sự quán sát nghiêm túc

của giới. Vì lý do này chúng ta phát

nguyện tịnh khẩu trong chín ngày đầu

của khóa tu. Bằng cách này, ít nhất

trong suốt thời gian khóa tu, chúng ta

giữ giới một cách hoàn chỉnh.

Một ba la mật khác là viriya - tinh tấn.

Trong đời sống thường ngày chúng ta

nổ lực, ví du,ï để duy trìù mạng sống

214

của chúng ta. Ở đây, tuy nhiên, tinh tấn

là để làm thanh tịnh tân bằng sự duy trì

tỉnh giác và bình thản. Đây là chánh

tinh tấn, nó dẫn đến giải thóat.

Một ba la mật khác là pan~n~aa - trí

tuệ. Ở thế giới bên ngoài, chúng ta có

thể có trí tuệ, nhưng trí tuệ này chúng

ta có từ đọc sách, nghe từ những người

khác, hoặc chỉ hiểu biết bằng tri thức.

Paaramii đích thực của trí tuệ là sự tuệ

tri những gì khai mở trong chính chúng

ta, bằng tự kinh nghiệm của chúng ta

trong thiền định. Chúng ta liễu tri trực

tiếp bằng cách tự quán sát những yếu

tố của vô thường, khổ và vô ngã. Bằng

sự kinh nghiệm trực tiếp này của thực

tại chúng ta loại trừ khổ đau.

215

Một Ba la mật khác là khanti - sự cảm

thông. Ơû một khóa tu như vầy, tu tập

và sống với nhau trong cùng một

nhóm, chúng ta có thể thấy chính mình

bị phá rối và tức tối do những hành

động của những người khác. Nhưng rất

mau chúng ta liễu tri rằng người gây ra

sự phiền hà vì không biết vấn đề anh ta

đang làm, hoặc anh ta là một người

bệnh. Sự bực tức này sẽ qua đi, và

chúng ta chỉ cảm nhận tình thương và

lòng từ vì người đó. Chúng ta đã bắt

đầu phát triển phẩm chất của sự cảm

thông.

Một Ba la mật khác là sacca - sự thật.

Bằng sự thực hành giới chúng ta thực

tập để giữ sự chân thật bằng lời nói.

Tuy nhiên, sacca phải được hành trì

216

trong ý nghiã sâu hơn. Mỗi bước trên

con đường hành trì phải là một bước

với sự thật, từ sự thật thô, sự thật bên

ngoài, đến sự thật vi tế hơn và cuối

cùng đến chân lý tối hậu (sự thật rối

ráo, chân đế). Không còn lưu lại bất cứ

điểm nào để nghi ngờ nữa. Chúng ta

phải luôn luôn duy trì với thực tại mà

chúng ta kinh nghiệm thực tế ở giây

phút hiện tại.

Một Ba la mật khác nữa là

adhit.t.haana - sự khẳng quyết (sự

quyết định mạnh mẽ và khẳng khái).

Khi chúng ta bắt đầu khóa thiền

Vipassana, chúng ta tạo một sự quyết

định để duy trì trong suốt thời gian của

khóa. Chúng ta xác định giữ giới, luật

của sự tịnh khẩu và tất cả những nội

217

qui của khóa tu. Sau khi được giới

thiệu về pháp tu Vipassana, chúng ta

tạo ra một sự khẳng quyết để hành

thiền trong suốt thời giờ ngồi thiền tập

trung không hề mở mắt, tay, hoặc chân

ra. Ơû giai đoạn về sau của phương

pháp, ba la mật này rất là quan trọng;

khi đến gần mục tiêu tối hậu, chúng ta

phải sẳn sàng ngồi không thay đổi cho

đến khi đạt sự giải thóat. Vì mục đích

này điều cần thiết để phát triển sự

khẳng quyết.

Một Ba la mật khác nữa là mettaa -

tình thương vô ngã vị tha. Trong quá

khứ chúng ta nỗ lực để cảm nhận tình

thương và thiện chí vì người khác,

nhưng điều này chỉ ở cấp độ nhận thức

của tâm. ở cấp độ vô thức những căng

218

thẳng cũ vẫn tiếp tục duy trì. Khi toàn

bộ tâm thức đều thuần tịnh, lúc đó từ

những độ sâu chúng ta có thể hy vọng

vì hạnh phúc của người khác. Đây là

tình thương chân thật, nó giúp cho

người khác và cho chính chúng ta.

Một Ba la mật khác là upekkhaa - sự

bình thản (tâm hỷ xả) . Chúng ta thực

hành để duy trì sự bình an của tâm thức

không chỉ khi kinh nghiệm những cảm

thọ thô, bất lạc, hoặc những khu vực

không nhận ra trong thân thể, mà còn

bề mặt của những cảm thọ vi tế, và lạc.

Trong mỗi tình huống chúng ta hiểu

rằng sự kinh nghiệm của sát na đó là vô

thường, chắc chắn không tồn tại. Với

sự tuệ tri này chúng ta duy trì vô tham

và bình thản.

219

Ba la mật cuối cùng là daana - bố thí,

làm từ thiện. Với người tại gia, đây là

bước đầu tiên quan trọng của việc hành

trì Giáo pháp. Một người tại gia có

trách nhiệm làm kinh tế bằng việc là

chánh mạng, vì sự nuôi sống cho chúng

ta và những người tùy thuộc chúng ta.

Nhưng nếu chúng ta tạo ra tham lam

với tiền bạc chúng ta làm ra, từ đó

chúng ta phát triển tự ngã. Vì lý do

này, một phần chúng ta kiếm được phải

được bố thí cho người khác. Nếu chúng

ta làm điều này, tự ngã sẽ không tăng

trưởng, từ đó chúng ta hiểu rằng chúng

ta kiếm được vì sự ích lợi cho chính

chúng ta và cũng vì ích lợi cho những

người khác nữa. Sự hiểu biết phát sinh

để giúp người khác trong mọi cách mà

220

chúng ta có thể làm. Và chúng ta hiểu

rằng không có sự giúp đỡ nào cho

người khác lớn lao bằng cách giúp họ

tu tập chánh pháp thoát khỏi khổ đau.

Trong một khóa tu như vầy, chúng ta

có một cơ hội tốt để phát triển phẩm

chất này. bất cứ những gì chúng ta thọ

nhận ở đây được cúng dường từ những

người khác; không đòi hỏi tiền trả

phòng và bộ phận quản lý, và cũng

không nhận đối với sự giảng dạy. Đến

lược, chúng ta có thể cúng dường vì sự

lợi ích cho người khác. Số tiền chúng

ta cúng dường sẽ khác tùy theo phương

tiện của chúng ta. Tự nhiên một người

giàu có sẽ mong muốn cúng nhiều hơn,

nhưng ngay cả sự cúng dường ít nhất,

được cúng với sự nhận thức đúng đắn,

221

là sự quí giá trong việc phát triển Ba la

mật này. không mong cầu bất cứ điều

gì đáp trả, chúng ta cho để những

người khác có thể kinh nghiệm những

ích lợi của Giáo pháp và có thể đoạn

trừ phiền não của họ.

Ơû đây chúng ta có cơ hội để phát triển

mười Ba la mật. Khi tất cả những phẩm

chất này được viên mãn, các bạn sẽ đến

mục đích tối hậu.

Duy trì thực hành để phát triển chúng

từng tí một. Duy trì phát triển con

đường của Giáo pháp, không chỉ vì sự

ích lợi riêng các bạn và giải thóat, mà

còn sự lợi ích và giải thoát của nhiều

người.

222

Cầu mong tất cả những người khổ đau

tìm ra Giáo pháp thanh tịnh và được

giải thoát.

Cầu mong tất cả chúng sanh đều được

hạnh phúc.

---o0o---

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ

MƯỜI

Ôn lại phương pháp thực hành

Ngày thứ mười đã qua. Chúng ta hãy

ôn lại những gì chúng ta đã thực hành

trong suốt mười ngày qua.

Các bạn đã bắt đầu sự thực hành bằng

sự qui y tam bảo, đó là, Phật, Pháp và

Tăng. Bằng cách làm này các bạn

không bị chuyển đổi từ tổ chức tôn

giáo này sang tổ chức khác. Trong

223

Vipassana sự chuyển đổi chỉ là chuyển

khổ sang hạnh phúc, từ vô minh sang

trí tuệ, từ trói buộc sang giải thóat.

Toàn bộ giáo pháp mang tính phổ quát

vũ trụ. Các bạn đã Qui Y không phải ở

một cá nhân, giáo điều, hoặc đảng phái,

nhưng ở một phẩm cách của sự giác

ngộ. Có ai đó khám phá con đường dẫn

đến giác ngộ vị ấy là một vị Phật. Con

đường mà vị ấy thấy được gọi là Giáo

pháp. Tất cả ai thực hành con đường

này và đạt đến một trạng thái thuần

tịnh được gọi là Tăng già (đoàn thể

thanh tịnh). Được cảm hứng từ Những

vị này, chúng ta qui Đức phật, Giáo

pháp và Tăng đoàn để đạt cùng một

mục đích của sự thanh tịnh tâm thức.

Sự qui y này thực chất là phẩm chất

224

phổ quát của sự giác ngộ mà chúng ta

tìm để phát triển trong chính chúng ta.

Đồng thời, ở bất cứ người nào tiến

hành con đường tu tập sẽ khởi lên cảm

nhận của lòng biết ơn và sự hiểu biết

để phục vụ người khác mà không mong

cầu đáp lại bất cứ điều gì. Hai phẩm

chất này nổi bậc nhất trong Đức phật

thích ca, một vị Phật lịch sử. Ngài đạt

được giác ngộ viên mãn bằng sự nỗ lực

chính ngài. Tuy nhiên, vì lòng từ bi đối

với chúng sanh, ngài đã dạy phương

pháp mà ngài đã tìm ra cho mọi người.

Những phẩm chất như nhau sẽ xuất

hiện ở bất cứ ai thực hành Giáo pháp

và vị ấy đoạn trừ, đối với một vài mức

độ, thói quen cũ của chủ nghĩa tự ngã.

225

Sự qui y chân thật, sự bảo vệ chân thật,

là giáo pháp mà các bạn phát triển

trong chính các bạn. Tuy nhiên , cùng

với sự kinh ngnhiệm của giáo pháp

chắc chắn phát triển một sự cảm nhận

về lòng biết ơn đối với Đức Phật, vì

Ngài đã tìm ra và đã dạy giáo pháp

này, cũng như sự biết ơn đối với chư vị

đã nổ lực quên mình duy trì gíao pháp

trong hình thức nguyên thủy của nó

qua hơn 25 thế kỷ cho đến ngày hôm

nay.

Với sự tuệ tri này chúng ta đã qui y với

Tam bảo.

Kế đến các bạn đã giữ năm giới. Đây

không phải là một nghi thức tụng đọc

hoặc lễ nghi. Bằng sự giữ năm giới này

226

và tuân thủ, các bạn đã thực hành giới,

nó là nền tảng của sự tu hành. Không

có một nền móng vững chắc tòan bộ

cấu trúc của thiền định sẽ bị suy yếu.

Giới luật mang tính phổ quát và không

thuộc vào một đảng phái. Các bạn tu

tập để từ bỏ những hành động bằng

thân hoặc khẩu có thể gây ảnh hưởng

sự bình an và hài hòa của những người

khác. Từ cấp đô tâm thức, sự cấu uế

phát triển và biểu lộ chính nó bằng lời

nói hoặc hành động. Trong Vipassana

các bạn nỗ lực để thanh lọc tâm để nó

trở nên vắng lặng và an tịnh thật sự.

Các bạn không thể tiến hành thanh lọc

tâm trong khi các bạn vẫn tiếp tục gây

ra những hành động có tác động quấy

nhiễu và cấu uế đến tâm.

227

Nhưng làm thế nào để phá vỡ vòng tội

lỗi ở đó tâm bị quấy nhiễu làm những

việc bất thiện và cứ như thế hành động

ấy lại gây nhiễu hơn nữa đến tâm? Một

khóa tu Vipassana cho các bạn một cơ

hội. Vì chương trình rất nghiêm ngặc,

luật lệ nghiêm túc, phát nguyện tịnh

khẩu, và môi trường tác động cho sự tu

tập rất mạnh, rất khó có thể đời sống

chánh mạng giữ năm giới của các bạn

bị phá vỡ. Vì vậy, suốt mười ngày các

bạn có thể hành trì giới, và với căn bản

này các bạn phát triển định (samaadhi);

và tiếp tục thiền định làm nền tảng cho

trí tuệ, với những điều kiện này các bạn

có thể thể nhập vào những cấp độ chiều

sâu của tâm thức và thanh lọc sự cấu uế

của nó.

228

Suốt khóa tu các bạn hành trì quán sát

về năm giới để có thể thực hành

phương pháp này. Sau khi nhận ra

Giáo pháp chúng ta quyết định chấp

nhận và tu tập Giáo pháp, phải quán sát

bằng những giới luật trong suốt cuộc

đời.

Kế đến các bạn qui phục trước Đức

Phật và vị Thầy hướng dẫn hiện tại cho

khóa tu mười ngày. Sự qui phục này là

vì mục đích dẫn đến một sự phán xét

công bình đối với phương pháp tu tập.

Chỉ có ai đã qui phục giáo pháp này

mới có thể tiến hành tu tập và nỗ lực

một cách trọn vẹn. Người nào với tâm

tràn đầy hoài nghi và do dự thì không

thể nào tu tập một cách thích hợp. Tuy

nhiên, sự qui phục ở đây không có

229

nghĩa là phát triển niềm tin một cách

mù quáng; điều này không có lợi ích gì

cho Giáo pháp cả. Nếu bất cứ nghi ngờ

nào khởi lên trong tâm, các bạn nên

đến vị Thầy hướng dẫn trong những

lúc cần thiết để làm sáng tỏ sự nghi

ngờ.

Sự qui phục còn có nghĩa liên quan đến

nội qui và thời khắc của khóa tu.

Những điều này được xác định, dựa

vào sự kinh nghiệm của hàng ngàn

những người tu tập trước, để có thể

giúp các bạn hành trì liên tục cũng như

để có sự lợi lạc lớn lao nhất trong khóa

tu mười ngày này.

Bằng sự qui phục các bạn tiến hành tu

tập chuẩn xác khi các bạn được hướng

230

dẫn. Bất cứ những gì của phương pháp

các bạn được tu tập trước đây, các bạn

được yêu cầu để sang một bên trong

suốt thời gian khóa tu. Các bạn có thể

thành tựu những ích lợi và quán xét giá

trị của phương pháp chỉ bằng cách

hành trì nó nghiêm chỉnh, trong một

đường lối thích hợp. Pha trộn sự tu tập,

về phương diện khác, có thể dẫn các

bạn vào những khó khăn nguy hại.

Từ lúc các bạn bắt đầu công việc của

các bạn bằng sự thực tập thiền quán hơi

thở (Anaapaana meditation) để phát

huy khả năng chế ngự tâm và sự tập

trung - samaadhi. Các bạn được hướng

dẫn chỉ thở một cách tự nhiên không

thêm vào bất cứ thần chú, kệ tụng, hình

bóng hoặc mô thức nào. Một lý do cho

231

sự nghiêm cấm này là để lưu giữ sự

phổ quát của phương phát tu: hởi thở là

yếu tố quen thuộc và có thể chấp nhận

đối với mọi người, nhưng một câu chú

hoặc một hình tượng có thể chấp nhận

cho một số người mà không thể cho tất

cả.

Nhưng một vấn đề quan trọng hơn nữa

cho lý do chỉ được ï quán sát hơi thở,

toàn bộ tiến trình là một sự khám phá

chân lý trong mỗi chúng ta, về cấu trúc

thân-tâm như thực thể của nó, không

như các bạn phải muốn nó trở thành

như ý của mình. Đó là một sự kiểm

soát của thực tại. Các bạn ngồi xuống

và đóng mắt lại. Không có âm thanh,

không có sự quấy nhiễu bên ngoài,

không có sự di chuyển thân thể. Lúc đó

232

hoạt động nổi bật nhất trong chính các

bạn là hơi thở. Các bạn bắt đầu bằng sự

qúan sát thực tại này: hơi thở tự nhiên,

khi nó đi vào và ra hai lỗ mũi. Khi đó

các bạn có thể thở tự do, các bạn được

phép thở nhẹ đều đặn, cốt để đặt sự chú

ý của các bạn nơi khu vực của hai lỗ

mũi, và từ đó một lần nữa các bạn trở

lui lại hơi thở tự nhiên, thông thường

và nhẹ nhàng. Các bạn đã bắt đầu với

sự thật thô và bề ngoài này, và từ đó

các bạn chuyển xa hơn và sâu hơn,

trong phương hướng của những sự thật

vi tế hơn, sự thật tối hậu. Về toàn bộ

tiến trình, ở mỗi giai đoạn các bạn duy

trì với sự thật mà các bạn thực tế kinh

nghiệm, từ thô nhất đến vi tế nhất. Các

bạn không thể đến chân lý tối hậu bằng

233

cáchï khởi hành với một sự tưởng

tượng. Các bạn sẽ chỉ rối rắm thêm

trong những tưởng tượng lớn hơn và

những sự tự lừa dối.

Nếu các bạn thêm vào một câu chú cho

đối tượng của hơi thở, các bạn có thể

tập trung tâm nhanh hơn, nhưng sẽ có

một sự nguy hiểm trong sự thực hành

bằng cách đó. Mỗi lời chú có một sự

tác động đặc biệt. Bằng sự lập lại một

lời chú hoặc câu chú, chúng ta tạo ra

một sự dao động ảo giác ở đó chúng ta

bị chìm sâu vào. Ở cấp độ bề mặt của

tâm thức một lớp bình an và hài hòa

được tạo ra, nhưng ở cấp độ chiều sâu

những cấu uế vẫn còn tồn tại. Còn

đường duy nhất để loại trừ những

phiền não ngủ ngầm này là thực hành

234

cách quán sát chúng nó, bằng cách

mang chúng nó đến bề mặt để chúng

nó trôi qua. Nếu chúng ta chỉ quán sát

một sự dao động đặc biệt ảo tưởng,

chúng ta sẽ không thể quán sát những

dao động tự nhiên khác nhau liên quan

đến những cấu uế của chúng ta, đó là,

để quán sát một cách tự nhiên những

cảm thọ sinh khởi trong thân chúng ta.

Vì vậy, mục đích của chúng ta là để

khám phá ra thực tại của chính chúng

ta và để thanh lọc tâm, sử dụng một

câu chú tưởng tượng có thể tạo ra

những cản trở.

Một cách tương tự sự tưởng tượng - sự

sao chụp một hình ảnh hoặc tượng hình

bằng tâm thức- có thể trở thành một trở

ngại cho việc hành trì. Phương pháp

235

hướng dẫn đến sự phá vỡ sự thậtù hình

thức để đạt đến chân lý tối hậu. Thực

tại phối hợp và bề ngoài luôn luôn

chứa đầy ảo giác, vì ở cấp độ này hoạt

động nhận thức bị dao động do những

phản ứng của quá khứ. Nhận thức có

điều kiện này phân biệt và chia chẻ dẫn

đến những sự ưa thích và những thành

kiến, để phục hồi lại những phản ứng.

Nhưng bằng thực tại chia chẻ bề ngoài,

chúng ta dần dần đi vào kinh nghiệm

thực tại tối hậu của cấu trúc thân và

tâm.: không có gì khác hơn chỉ những

dao động sinh diệt trong mỗi sát na. Ơû

trạng thái này không thể phân biệt

được, và vì vậy không có sự ưa thích

hoặc những thành kiến có thể sinh ra,

không có sự phản ứng. Phương pháp tu

236

tập dần dần làm yếu đi nhận thức có

điều kiện và vì vậy cũng làm yếu đi

những phản ứng, đưa đến một trạng

thái nơi đó những nhận thức và cảm

thọ tiêu diệt, đó là, kinh nghiệm niết

bàn. Nhưng bằng sự chú ý có chủ tâm

đối với một hình tượng, hoặc tầm nhìn,

chúng ta duy trì ở cấp độ bên ngoài,

bao gồm sự thực tại và không thể vượt

qua nó. Vì lý do này, không nên tưởng

tượng hình tượng cũng không nên đọc

tụng thần chú.

Sau khi tập trung tâm thức bằng sự

quán sát hơi thở, các bạn bắt đầu thực

hành thiền Vipassana để phát triển trí

tuệ (pan~n~aa), quán sát bản chất của

chính các bạn, tẩy sạch tâm thức cấu

nhiễm. Từ đầu tới chân, các bạn bắt

237

đầu quán sát những cảm thọ tự nhiên

trong thân thể, bắt đầu trên bề mặt và

sau đó đi vào sâu hơn, thực tập cảm

nhận những cảm thọ trong và ngoài,

trong mỗi phần của thân thể.

Quán sát sự thực tại như nó đang hiện

hữu, không có bất cứ những thành kiến

nào, để phân tán thực tại bên ngoài và

để đi vào chân lý tối hậu - đây là

Vipassana. Mục đích của sự phân tách

thực tại thô là để có thể làm cho thiền

giả thoát khỏi ảo giác của 'cái tôi'. Aûo

giác này ở đỉnh cao của tất cả tham ái

và sân hận của chúng ta, và mang đến

khổ đau vô biên. Chúng ta có thể chấp

nhận một cách tri thức rằng nó là một

ảo giác, nhưng sự chấp nhận này không

đủ để chấm dứt đau khổ. Không đề cập

238

đến niềm tin tôn giáo hoặc triết học,

chúng ta còn duy trì đau khổ bao lâu

thói quen ngã chấp còn chấp giữ. Để

phá vỡ ngã chấp này chúng ta phải

kinh nghiệm trực tiếp bản chất vô

thường của hiện tượng thuộc về thân và

tâm, sự thay đổi không ngừng vượt qua

sự điều khiển của chúng ta. Duy chỉ có

kinh nghiệm này có thể phá vỡ ngã

chấp, dẫn đến con đường thoát khỏi

tham ái , sân giận và khổ hải.

Vì vậy phương pháp này là một sự

khám phá, bằng kinh nghiệm trực tiếp,

của bản chất thật của hiện tượng mà

chúng ta gọi 'ta, của ta'. Có hai vấn đề

của các hiện tượng

239

này: vật chất và tinh thần, thân thể và

tâm thức. Thiền giả thực tập bắt đầu

bằng sự quán sát thự c tại của thân. Để

kinh nghiệm trực tiếp thực tại này,

chúng ta phải cảm nhận thân thể, đó là,

phải tỉnh giác những cảm thọ toàn bộ

trong thân thể. Vì vậy sự quán sát về

thân - kaayaanupassanaa - liên hệ cần

thiết đến sự quan sát những bộ phận

của tâm thức- dhammaanupassanaa.

Điều này không có nghiã rằng chúng ta

nên quán sát những ý niệm cá nhân.

Nếu chúng ta cố làm như vậy chúng ta

sẽ bắt đầu dính vào tư duy ý niệm.

Chúng ta chỉ nên đơn giản duy trì sự

tỉnh giác tự nhiên của tâm thức ở sát na

này; xem tham ái, sân hận, vô minh và

dao động có mặt hay không. Và bất cứ

240

điều gì sinh khởi trong tâm, Đức phật

đã khám phá, sẽ được kết hợp với một

thân cảm thọ. Vì vậy, trong trường hợp

hành giả đang khám phá khía cạnh của

tâm hoặc thân của hiện tượng của 'cái

ta', sự tỉnh giác về cảm thọ là điều

chính yếu.

Điều khám phá này là sự đóng góp độc

nhất của Đức Phật, của tầm quan trọng

trong Giáo pháp của Ngài. Trước thời

Ngài ở Ấn độ và giữa những người

đương thời với ngài, có nhiều người đã

dạy và thực hành giới và định. Trí tuệ

cũng đã có mặt, ít nhất trí tuệ thuộc về

tri thức hoặc mang tính tôn sùng: nó

được chấp nhận một cách thông thường

rằng những tâm cấu uế là nguồn gốc

của khổ đau, đó là sự tham ái và sân

241

giận phải được đoạn trừ để thanh lọc

tâm thức và để thành tựu giải thóat.

Đức Phật một cách đơn giản đã tìm ra

con đường để làm điều này.

Điều gì đã bị thiếu xót là một sự tuệ tri

về tầm quan trọng của sự cảm thọ. Như

bây giờ, một cách tổng quát nó được

cho rằng những phản ứng lại của chúng

ta là đối với những đối tượng bên ngoài

của các căn- thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp

xúc và suy tư. Tuy nhiên , sự quán sát

về chân lý trong đó biểu lộ giữa đối

tượng và sự phản ứng là một gạch nối

bị quên đi: sự cảm thọ. Sự tiếp xúc của

một đối tượng với một cơ quan cảm

nhận tương ứng dẫn đến sự cảm thọ; sự

nhận thức sát định một sự đánh giá tốt

hoặc xấu, liên quan đến vấn đề mà cảm

242

thọ trở thành vui hoặc không vui. Tiến

trình xảy ra rất nhanh đến nỗi sự nhận

thức về vấn đề chỉ phát triển sau khi

một sự phản ứng đã được lập lại nhiều

lần và đã tập trung sức mạnh có nguy

cơ có thể chế ngự tâm thức. Để giải

quyết những phản ứng này, chúng ta

phải tỉnh giác với chúng ở điểm nơi đó

chúng nó sinh ra; chúng nó bắt đầu với

cảm thọ, và vì vậy chúng ta phải tỉnh

giác với những cảm thọ. Sự khám phá

vấn đề này chưa từng được biết trước

thời Đức phật, đã có thể làm cho Thái

tử Siddhatha Gotama đạt được sự giác

ngộ, và đây là lý do tại sao Ngài luôn

luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của

cảm thọ. Cảm thọ có thể đưa đến sự

phản ứng về sự tham ái, và sân giận, và

243

vì vậy khổ sinh ra, nhưng cảm họ cũng

có thể dẫn đến trí tuệ với trí tuệ này

chúng ta loại trừ sự phản ứng và bắt

đầu thoát khỏi khổ đau.

Trong Vipassan, bất cứ sự tu tập nào

mà ngăn chặn sự tỉnh giác về cảm thọ

đều mang lại tác hại, về sự tập trung

vào một câu thần chú hoặc một hình

tượng, hoặc chỉ chú ý đến sự vận hành

vật lý của thân thể hoặc đối với những

tư duy sinh khởi trong tâm. các bạn

không thể loại trừ khổ đau trừ phi các

bạn đi vào nguồn gốc của nó, sự cảm

thọ.

Phương pháp của Vipassana được Đức

phật giải thích trong bài kinh

Satipat.t.haana sutta (Bài kinh Tứ

244

niệm xứ). Bài kinh này được chia thành

những phần để kiểm tra những yếu tố

khác nhau của phương pháp; quán sát

về thân, về cảm thọ, về tâm, và về các

pháp. Tuy nhiên, mỗi phần của bài

kinh kết luận với cùng một ý nghĩa. Có

những điểm khác nhau từ đó để bắt đầu

sự thực hành, nhưng không có điều gì

khác nhau ở điểm bắt đầu, một thiền

giả phải trải qua những giai đoạn nào

đó, những kinh nghiệm nào đó trên con

đường đi đến mục đích tối hậu. Những

kinh nghiệm này, cốt lõi đối vớiø sự

hành trì của Vipassana, được mô tả

trong những câu được lập lại ở phần

kết luận của mỗi phần.

Phần đầu tiên này là phần trong đó

chúng ta kinh nghiệm sự sinh

245

(samudaya) và diệt (vaya) một cách

riêng biệt. Ở giai đoạn này người hành

thiền tỉnh giác về thực tại thống nhất ,

liên kết trong hình thức của những cảm

thọ thô ở trong thân. Chúng ta tỉnh giác

một cảm thọ, có thể là đau, sinh khởi.

Nó có thể lưu lại trong một thời gian và

cuối cùng nó trôi đi.

Tiếp tục đi vượt qua trạm này, chúng ta

thâm nhập vào trạng thái của

samudaya-vaya (sinh -diệt), trong đó

chúng ta kinh nghiệm sự sinh diệt đồng

thời, không có bất cứ khoảng gián đọan

nào giữa chúng nó. Những cảm thọ thô,

tập hợp chia ra thành những dao động

vi tế, sinh và diệt ngay tức thời, và sự

vững chắc của cấu trúc thân thể và tâm

thức biến mất. Tình cảm rắn chắc và

246

vững mạnh, và cảm thọ rắn chắc và

cường độ mạnh, cả hai đều phân chẻ

thành những dao động không có gì

khác hơn. Đây là một trạng thái của

bhan’ga - sự phân tán - trong đó chúng

ta kinh nghiệm chân lý tuyệt đối của

thân và tâm thức: sự sinh diệt liên tục,

không có gì được xem là vững chắc ở

đây.

Sự phân tán này là một vị trí rất quan

trọng trongtiến trình tu tập, vì chỉ khi

nào chúng ta kinh nghiệm sự phân tán

của cấu trúc thân và tâm thì sự tham

đắm đối với chúng không còn hiện hữu

nữa. Khi đó chúng ta bắt đầu vô tham

trong mọi tình huống ; đó là, chúng ta

đi vào trạng thái của san’khaara-

upekkhaa (các hành đều thanh tịnh).

247

Những phiền não ngủ ngầm sâu kín

bên trong- sam’khaaraa -bị chôn lấp

trong vô thức bây giờ bắt đầu xuất hiện

ở cấp độ bề mặt của tâm thức. Đây

không phải là một sự thối lui; nó là một

sự phát triển, vì trừ phi chúng nó hiện

ra ở bề mặt, những phiền não không

thể đọan trừ được. Chúng nó sinh khởi

chúng ta quán sát một cách bình thản,

và chúng nó tiêu đi tuần tự theo thứ

lớp. Chúng ta sử dụng những cảm thọ

thô và bất lạc như lànhững công cụ với

công cụ này để loại trừ những

san’khaaraa cũ của sân giận đang nằm

trong kho dự trữ; chúng ta sử dụng

những cảm thọ vi tế và hân hoan như

những công cụ với công cụ này để

đoạn trừ những san’khaaraa cũ của

248

tham ái còn lưu trữ. Vì vậy, bằng sự

duy trì tỉnh giác và bình thản đối với

mỗi kinh nghiệm, chúng ta thanh lọc

tâm thức của tất cả những phiền não

phức tạp ngủ ngầm bên trong, và

hướng đến mỗi lúc gần hơn và gần hơn

mục đích của Niết bàn, của sự giải

thóat.

Bất cứ những gì thuộc về trạm khởi

đầu, chúng ta phải đi qua tất cả những

trạm này để đến niết bàn. Chúng ta có

thể đến mục đích sớmtùy thuộc vào

khả năng nổ lực hành trì của chúng ta,

và sự tích tụ những san’khaaraa của

quá khứ mà chúng ta phải đoạn trừ.

Tuy nhiên, trong mỗi trường hợp, ở

mỗi tình huống, sự bình thản là vấn đề

249

cốt lõi, dựa vào sự tỉnh giác của những

cảm thọ. San’khaaraa sinh ra từ điểm

giao cảm của thân cảm thọ. Bằng sự

duy trì bình thản đối với cảm thọ, các

bạn ngăn ngừa không cho san’khaaraa

mới sinh ra, và các bạn đồng thời đoạn

trừ những san’khaaraa cũ. Vì vậy bằng

sự quán sát những cảm thọ một cách

tỉnh lặng, các bạn tuần tự phát triển

hướng đến mục đích của sự giải thoát

những khổ đau.

Thực tập một cách nghiêm túc. Đừng

sử dụng thiền định như một trò chơi,

chỉ thử nghiệm một cách hời hợt tuần

tự các phương pháp hành trì mà không

theo đuổi thật sự. Nếu các bạn làm như

vậy, các bạn sẽ không bao giờ vượt qua

những tiến trình ban đầu của bất cứ

250

phương pháp nào, và vì vậy các bạn sẽ

không bao giờ thành tựu mục đích.

Điều đương nhiên, các bạn có thể tiến

hành những thí nghiệm về những

phương pháp khác nhau để tìm ra một

phương pháp thích hợp cho các bạn.

Các bạn cũng có thể đưa ra hai hoặc ba

cuộc trắc nghiệm của phương pháp

này, nếu cần, nhưng đừng để phí bỏ

suốt cuộc đời của các bạn chỉ vì những

cuộc trắc nghiệm. Một khi các bạn tìm

ra một phương pháp thích hợp, thực

hành nó một cách nghiêm túc để các

bạn có thể phát ttriển đến mục đích.

Cầu mong những người khổ đau ở

khắp mọi nơi tìm thấy con đường giải

thoát khổ đau.

251

Cầu mong mọi chúng sanh đều được

hạnh phúc!

---o0o---

BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ

MƯỜI MỘT

Làm thế nào để tiếp tục thực hành

sau khi hoàn mãn khóa tu

Thực hành từng ngày một, chúng ta đã

đến ngày cận kề của sự hội thảo Giáo

pháp này. Khi các bạn tiến hành sự tu

tập, các bạn được yêu cầu quy phục

hoàn toàn vào phương pháp tu, nội qui

của khóa tu. Không có sự qui mạng

này, các bạn sẽ không có sự kiểm tra

công bằng đối với phương pháp tu. Bây

giờ mười ngày đã qua; các bạn là chủ

nhân của chính mình. Khi các bạn trở

252

lại gia đình của các bạn, các bạn ôn lại

một cách tỉnh lăng những gì các bạn đã

thực hành ở đây. Nếu các bạn thấy rằng

những gì các bạn đã thực tập ở đây là

thực tế, thích hợp và có ích lợi cho

chính các bạn và cho mọi người, thì

các bạn nên chấp nhận nó - không phải

vì người nào đó yêu cầu các bạn làm

như thế, nhưng với một ý chí tự do, của

ý muốn riêng các bạn; không phải chỉ

vì mười ngày, nhưng vì cả cuộc đời của

các bạn.

Sự chấp nhận không phải chỉ ở cấp độ

tri thức hoặc tình cảm. Chúng ta phải

chấp nhận Giáo pháp ở cấp độ thực tế

bằng sự áp dụng nó, sử dụng nó như

một phần trong cuộc đời của các bạn,

vì chỉ có sự hành trì thực tế của giáo

253

pháp sẽ mang lại những ích lợi thiết

thực trong đời sống thường ngày.

Các bạn đã tham gia khóa tu này để

học cách thực hành Giáo pháp - làm

thế nào để sống một cuộc sống của đạo

đức, của sự tự chủ tâm thức của chúng

ta, của sự thanh lọc tâm thức. Mỗi buổi

tối, những bài pháp đã giảng chỉ để làm

sáng tỏ sự thực hành. Nó là sự cần thiết

để hiểu những gì chúng ta đang hành

trì và tại sao chúng ta phải hành trì như

vậy, để chúng ta không bị lầm lẫn hoặc

tu tập sai phương pháp. Tuy nhiên,

trong sự giảng giải về sự hành trì, một

số những vấn đề của lý thuyết được đề

cập một cách tất yếu, và từ khi những

người từ những nguồn gốc khác nhau

đến để tham gia khóa tu, có thể rằng

254

một vài người có thể thấy phần nào đó

của lý thuyết không thể chấp nhận. Nếu

như thế, đừng bận tâm, hãy để nó sang

một bên. Điều quan trọng hơn nữa là

sự thực hành của Giáo pháp. Không ai

có thể không tán thành sống một cuộc

đời mà không làm hại đến người khác,

đối với sự phát triển sự điều khiển tâm

thức của chúng ta, đối với sự giải thoát

phiền não của tâm và sự tạo ra tình

thương và thiện chí. Sự hành trì phải là

điều có thể chấp nhận mang tính phổ

quát, và đây là yếu tố có ý nghĩa quan

trọng nhất của Giáo pháp, vì bất cứ

những ích lợi gì chúng ta gặt hái sẽ

không phải từ những lý thuyết mà phải

từ sự thực hành, từ sự áp dụng Giáo

pháp trong đời sống của chúng ta.

255

Trong mười ngày các bạn chỉ có thể gặt

hái một sự khái lược về phương pháp

hành trì; chúng ta không thể hy vọng

trở thành hoàn hảo trong một thời gian

quá ngắn như vậy. Nhưng ngay kinh

nghiệm sơ lược này không nên xem

thường: các bạn đã tiến hành bước đầu

tiên, một bước rất quan trọng, mặc dù

hành trình quá dài-thực vậy nó là một

hành trình cho suốt cuộc đời.

Một hột giống Giáo pháp đã được gieo,

và đã bắt đầu nảy mầm thành một cây

con. Một người làm vườn giỏi chăm

xóc đặc biệt vào cây con này, và vì sự

chăm xóc ưu đãi nó, cây con đó sẽ tuần

tự phát triển thành cây lớn với thân to

và rễ đâm sâu. Sau đó thay vì sự đòi

256

hỏi phục vụ, nó tiếp tục cho ra, phục

vụ, cho cuộc đời còn lại của nó.

Cây con giáo pháp này đòi hỏi sự chăm

sóc ngay bây giờ. Bảo vệ nó khỏi

những bình luận đánh giá của những

người khác bằng cách ï tạo ra một sự

phân biệt giữa lý thuyết, đối với lý

thuyết này một số người có thể chống

đối, và sự hành trì nó, có thể mọi người

đều chấp nhận. Đừng cho phép những

đánh giá này làm ngưng sự hành trì của

các bạn. Tập trung thiền định một giờ

vào buổi sáng và một giờ vào buổi tối.

Nội qui này là điều quan trọng cốt yếu

trong sự tu tập hằng ngày. Lúc đầu nó

có thể giống như là một gánh nặng để

giành cho hai giờ thiền trong một ngày,

nhưng các bạn sẽ thấy rằng nhiều thời

257

gian sẽ được tiết kiệm mà thời gian đó

đã mất ở quá khứ. Trước tiên, các bạn

cần ngủ ít hơn, thứ hai, các bạn sẽ có

thể hoàn thành công việc của các bạn

sớm hơn, vì khả năng làm việc của các

bạn sẽ phát triển. Khi một vấn đề sinh

khởi các bạn sẽ giữ bình tĩnh, và sẽ có

thể ngay tức thời tìm ra giải pháp đúng

nhất. Khi các bạn đã xây dựng hoàn

hảo phương pháp tu tập, các bạn sẽ

thấy rằng sau mỗi giờ thiền định vào

buổi sáng, các bạn tạo ra năng lượng

đầy đủ cho suốt ngày làm việc, không

có bất cứ sự khuấy động nào cả.

Khi các bạn lên giường vào buổi tối,

khoảng năm phút hãy tỉnh giác những

cảm thọ ở bất cứ nơi nào trong thân các

bạn trước khi ngủ. Sáng hôm sau, ngay

258

lúc các bạn vừa thức dậy, lại nữa hãy

quán sát những cảm thọ trong vòng

năm phút. Những phút thiền định trước

khi ngủ và thức giấc này sẽ xác chứng

rất có lợi.

Nếu các bạn sống trong một khu vực ở

đó có các vị tu thiền Vipassana, mỗi

lần một tuần thiền định với nhau trong

một giờ. Và một lần trong một năm,

một khóa tu mười ngày là một sự cần

thiết. Thực tập hằng ngày sẽ có thể làm

cho các bạn duy trì những gì mà các

bạn đã đạt được ở đây, nhưng một khóa

tịnh tu là điều rất quan trọng để đi sâu

hơn vào thiền định; nhưng vẫn phải

thực hành trong một tiến trình lâu dài.

Nếu các bạn có thể đến một khóa tu

được tổ chức như vầy, rất là tốt. Nếu

259

không, các bạn vẫn có thể có một khóa

tu cho chính mình. Tự thực tập một

khóa mười ngày cho chính mình, bất

cứ nơi nào các bạn có thể tách rời được

những người khác, và nơi nào có ai đó

có thể chuẩn bị thức ăn cho các bạn.

Các bạn biết phương pháp tu tập, biết

thời giờ tu mỗi ngày và nội qui; các

bạn phải ghi nhớ tất cả những điều đó

ngay bây giờ. Nếu các bạn muốn thông

báo cho vị thầy của các bạn trước rằng

các bạn đang tiến hành một khóa tự tu,

tôi sẽ nhớ đến các bạn và gởi tâm từ

của tôi đến các bạn, những sự dao động

của thiện chí; điều này sẽ giúp tạo ra

một môi trường lành mạnh trong đó

các bạn có thể tu tập tốt hơn. Tuy

nhiên, nếu các bạn không thông báo

260

cho vị thầy của các bạn, các bạn không

nên cảm thấy thiếu tin tưởng. Giáo

pháp tự nó sẽ bảo vệ các bạn. tuần tự

các bạn phải đến trạng thái tự chủ. Vị

thầy chỉ là vị hướng dẫn mà thôi; các

bạn phải trở thành vị thầy cuả chính

mình. Khi nào còn dựa vào bất cứ ai thì

sẽ không có sự giải thóat.

Sự thiền định hai giờ một ngày và tịnh

tu khóa mười ngày hằng năm chỉ là sự

cần thiết tối thiểu để duy trì sự tu tập.

Nếu các bạn có nhiều thời giờ hơn nưã,

các bạn nên sử dụng cho thiền hành.

Các bạn có thể tham gia khóa ngắn hạn

một tuần hoặc vài ngày, ngay cả một

ngày. Trong những khóa ngắn hạn như

vầy, dành một phần ba thời giờ cho sự

thực tập thiền hơi thở (anaapaana

261

meditation) và thời gian còn lại cho

thiền Vipassana.

Trong thời giờ thiền tập hằng ngày của

các bạn, hãy sử dụng hết thời gian để

thực tập Vipássana. Chỉ khi tâm của

các bạn bị dao động hoặc trì trệ, nếu vì

bất kỳ lý do nào về sự khó khăn để

quán sát những cảm thọ và duy trì sự

tỉnh lặng, thì khi đó hãy giành một

khoảng thời gian cho sự thực tập thiền

hơi thở.

Khi thực tập Vipassana, cẩn thận đừng

chơi trò chơi của những cảm thọ, thích

thú với những cảm thọ lạc và chán ghét

những cảm thọ khổ. Hãy quán sát mỗi

cảm thọ một cách khách quan. Giữ sự

quan sát của các bạn di chuyển một

262

cách có hệ thống xuyên khắp cơ thể,

không cho phép nó dừng lại lâu trên

bất cứ phần nào của cơ thể. Tối đa chỉ

hai phút cho mỗi phần quán sát, hoặc

năm phút cho trường hợp đặc biệt,

nhưng đừng bao giờ để lâu hơn năm

phút. Giữ sự theo dõi của các bạn di

chuyển và duy trì sự tỉnh giác của mỗi

cảm thọ trong mỗi phần thân thể. Nếu

sự thực tập này bắt đầu trở thành máy

móc, thay đổi phương cách trong đó

các bạn di chuyển sự chú ý của mình.

Trong mỗi trường hợp hãy duy trì tỉnh

giác và bình thản, và các bạn sẽ kinh

nghiệm những lợi ích tuyệt vời của

Vipassana.

Cũng vậy trong cuộc sống làm việc các

bạn phải áp dụng phương pháp này,

263

không chỉ khi các bạn ngồi nhắm mắt

lại. Khi nào các bạn làm việc, tất cả

những chú ý trên công việc làm; hãy

xem công việc như là sự thiền định của

các bạn lúc này. Nhưng nếu có khoảng

thời gian trống, ngay cả năm hoặc

mười phút, hãy tận dụng nó trong sự

tỉnh giác về những cảm thọ; khi nào

các bạn bắt đầu công việc trở lại, các

bạn sẽ cảm nhận sự tươi mát và mới

mẻ trở lại. Tuy nhiên, hãy cẩn thận khi

các bạn thiền định nơi công cộng, nơi

không có mặt những người tu thiền,

các bạn giữ đôi mắt các bạn mở ra;

đừng bao giờ phô bày một sự thực

hành của Giáo pháp.

Nếu các bạn thực tập Vipassana một

cách thích hợp, một sự thay đổi tốt hơn

264

sẽ đến trong đời sống của các bạn. các

bạn nên kiểm tra tiến trình tu tập của

các bạn dựa vào phương cách bằng

cách kiểm tra đạo đức của các bạn

trong những bối cảnh hằng ngày, trong

cách cư xử của các bạn và những mối

tương quan đến người khác. Thay vì

gây tác hại cho người khác, các bạn đã

bắt đầu giúp họ chưa? Khi nào những

tình huống không như ý xảy ra, các bạn

đã giữ tâm các bạn bình tỉnh chưa?

Nếu sự phiền não khởi động trong tâm,

các bạn có nhanh chóng tỉnh giác đến

nó như thế nào? Các bạn nhanh chóng

tỉnh giác những cảm thọ sinh khởi cùng

với những phiền não như thế nào? Các

bạn nhanh chóng khởi động sự quán sát

những cảm thọ như thế nào? Các bạn

265

nhanh chóng lấy lại sự thăng bằng của

tâm thức, và bắt đầu tạo ra tình thương

và lòng từ bi như thế nào? Bằng cách

này để kiểm tra lại chính các bạn, và

tiếp tục tiến lên xa hơn nữa về con

đường hành trì.

Những gì các bạn học được ở đây,

không chỉ lưu giữ bảo tồn nó mà phải

làm cho nó phát triển thêm lên. Luôn

luôn áp dụng Giáo pháp trong cuộc

sống của các bạn. An vui tất cả những

ích lợi của Giáo pháp mang lại, và sống

một cuộc đời hạnh phúc, bình an và hài

hòa, tốt đẹp cho các bạn và những

người khác.

Một điều cần nhắc nhở: các bạn được

phép kể cho những người khác nghe

266

những gì các bạn đã học và thực tập ở

đây; không bao giờ có sự dấu giếm

trong Giáo pháp. Nhưng ở giai đoạn

này đừng nên dạy phương pháp hành

trì cho người khác. Trước khi làm điều

này, chúng ta phải có sự thành tựu

trong tu tập, và phải được huấn luyện

để giảng dạy. Ngược lại, sẽ gây nguy

hại cho người khác thay vì giúp đỡ họ.

Nếu có ai đo,ù các bạn kể cho họ nghe

về Vipassana, muốn thực tập

Vipassana, hãy khuyến khích họ tham

gia một khóa tu được tổ chức như ở

đây, được hướng dẫn bởi Vị thầy

hướng dẫn thích hợp. Bây giờ, tiếp tục

giữ sự tu tập để xây dựng chính các

bạn trong Giáo pháp. Duy trì sự phát

triển trong Chánh pháp , và các bạn sẽ

267

thấy rằng bằng lối sống mẫu mực, các

bạn tự động gây sự hấp dẫn đến người

khác về phương cách tu tập.

Cầu mong chánh pháp được truyền bá

khắp thế gian, vì sự tốt đẹp và ích lợi

cho mọi người.

Cầu mong cho tất cả chúng sanh đều

hạnh phúc, an lạc và giải thóat!

---o0o---

HẾT