Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
NHỮNG BÀI GIẢNG TÓM TẮT
CỦA KHOÁ THIỀN MINH SÁT
MƯỜI NGÀY
Thiền sư Goenka - Thích Minh Diệu
dịch
Nguyên tác: "The Discourse
Summaries", S.N. Goenka (1994)
---o0o---
http://thuvienhoasen.org
Mục Lục
ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU VỀ KHÓA
THIỀN MƯỜI NGÀY
LỜI NÓI ÐẦU
CHÚ Ý TRÊN VĂN BẢN
BÀI GIẢNG CỦA NGÀY ĐẦU TIÊN
2
VÀI LỜI KHUYÊN VỀ CÁCH
HÀNH TRÌ
BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ HAI
NGÀY THỨ BA CỦA KHÓA TU
NGÀY THỨ TƯ
BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ NĂM
BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ SÁU
BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ BẢY
BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ TÁM
BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ CHÍN
BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ
MƯỜI
BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ
MƯỜI MỘT
---o0o---
3
ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU VỀ KHÓA
THIỀN MƯỜI NGÀY
Đức Phật thành đạo đắc quả bằng con
đường thiền định tư duy quán xét chính
bản thân. Giáo pháp ngài để lại hàm
chứa cốt yếu dựa trên nền tảng giới,
định, tuệ. Đỉnh cao của sự tu tập là
thành tựu trí tuệ đoạn trừ mọi tập khí
cấu uế của thân, tâm và tự giải thóat.
Phương pháp thiền Vipassana tu tập
không ngoài giới, định và tuệ. Nhìn
lướt qua họa đồ giảng dạy trong suốt
mười ngày chúng ta thấy một sự tu tập
tịnh tiến được xếp đặt cho hành giả.
Nội qui về thời khóa biểu để thực hành
mỗi ngày và những qui định cần phải
tuân thủ như giữ sự tịnh khẩu tối đa
trong suốt chín ngày tu đầu cộng với
4
năm giới qui y phải tuân giữ được xem
như là nền tảng của giới cho khóa tu
mười ngày. Mỗi ngày ngồi thiền mười
giờ và trong ba ngày rưởi đầu sự tập
trung vào khu vực hai lỗ mũi và quán
sát những cảm thọ ở khu vực này cốt
yếu làm cho tâm người hành giả tập
trung vào một điểm được xem như sự
thực hành định tâm để làm tiền đề đi
vào sự hành trì quán sát Vipassana
(minh sát) trong suốt sáu ngày rưỡi còn
lại, một sự quán sát thân và tâm bằng
chánh niệm và xả ly bằng tuệ quán.
Đọc qua tài liệu này nhận ra sự cần
thiết cho người muốn tìm hiểu và thực
hành thiền Vipassana, bản thân tôi và
một số Chư vị Tăng ni đồng tu học ở
Ấn đã tham gia vài khóa tu mười ngày
5
Vipassana tất cả chúng tôi đều tự cảm
nhận sự giải thoát những căng thẳng
của tâm. Và cũng trong thời ggian tu
tập này là cơ hội để chúng ta quán xét
lại những hành vi tư tưởng cũng như
việc làm của chúng ta trước đây, nhìn
lại chính mình, con người thật của
chính chúng ta để tự trau sửa những sai
lầm và hướng thân, tâm đến những
điều tốt đẹp hơn có lợi cho bản thân và
người khác.
Dịch ra tiếng việt "Những bài giảng cốt
yếu cho khóa tu thiền mười ngày" có
tựu đề bằng tiếng Anh là: "THE
DISCOURSE SUMMARIES" cuả
Thiền sư Goenka đã giảng trong thời
gian Ngài hướng dẫn cho các vị Thiền
sinh tu khóa mười ngày. Nhờ lần phiên
6
dịch này chúng tôi đã có cơ hội ôn lại
và hiểu thêm về phương pháp hành trì
Vipassana, thời gian phiên dịch chủ
yếu là những lúc rảnh sau khi làm việc
của người nghiên cứu mỗi ngày, vì vậy
chúng tôi không đặt nặng phải dịch
theo tiêu chuẩn văn phong hoặc văn
phạm nào đó mà mục đích ở đây dịch
ra nội dung chính xác theo văn bản và
theo quan điểm Phật giáo. Phần sau của
mười một bài giảng là phần bổ sung
giải thích về một số thuật từ Pàli và
trích dẫn nguồn gốc của những bài kệ
và dẫn chứng được Ngài Goenka giảng
trong mười bài giảng, chúng tôi không
đưa ra đây. Nếu chư vị đọc giả muốn
biết rõ xin hãy tìm đọc văn bản gốc của
nó đã nói ở trên. Mục đích người dịch
7
chủ yếu giới thiệu đến chư Vị phật tử
cũng như những ai muốn tìm hiểu
phương cách sống để tự điều phục tâm
mình làm lợi ích cho chính mình cũng
như mọi người trong hòan cảnh thời
đại văn minh vật chất phát triển đã kích
động làm mất đi tính tự chủ tâm thức
con người hậu quả là nhiều vấn đề đạo
đức gia đình, xã hội đang biến chuyển
theo đà suy thoái. Có lẽ thiền
Vipassana là một trong những phương
pháp hữu hiệu xua tan mọi khổ đau
căng thẳng và cần thiết cho con người
thời đại. Phương pháp này Đức phật đã
hành trì và đã truyền trao lại cho chư vị
để tử của ngài.
Bản dịch không sao tránh khỏi những
khiếm khuyết, kính mong chư vị đọc
8
giả góp ý để bản dịch được bổ sung
hoàn tất hơn.
Mọi công đức phiên dịch này xin hồi
hướng cho vạn loại chúng sanh hạnh
phúc, sớm quay về chân lý giác ngộ và
giải thóat.
Ngày 23-5-2001
Pune University Campus
Thích Minh Diệu
Cẩn chí.
---o0o---
LỜI NÓI ÐẦU
S.N. Goenka đã nói: "giải thoát có thể
đạt được chỉ khi thực tập và không bao
giờ đạt được bằng sự bàn luận ngoài
môi". Một khóa tu thiền Vipassana là
9
một cơ hội để thực hiện những bước cụ
thể hướng đến sự giải thóat. Trong một
khóa tu tập như vầy, người tham gia sẽ
học cách giải tỏa tâm căn thẳng và
thành kiến có tác dụng làm rối loạn
trong cuộc sống thường nhật. Bằng sự
tu tập như vậy, chúng ta bắt đầu khám
phá ra cách sống một cách an ổn, sáng
tạo, hạnh phúc trong mỗi sát na. Đồng
thời chúng ta khởi hành tiến đến mục
đích tối thượng, mục đích mà nhân loại
khao khát để có: sự thanh tịnh tâm, sự
giải thoát mọi triền phược khổ đau và
giác ngộ viên mãn.
Ngoài yếu tố này ra, giải thoát không
thể đạt được chỉ bằng suy tư về nó,
hoặc ước mong về nó. Chúng ta phải
tiến hành những bước để hướng đến
10
mục đích. Vì lý do này, trong một khóa
tu tập vipassana luôn luôn nhấn mạnh
về phương pháp hành trì thực tiễn.
Không chấp nhận về sự bàn luận mang
tính triết lý, tranh cãi bằng lý thuyết và
những câu hỏi không liên quan đến
kinh nghiệm riêng của chúng ta. Một
cách hợp lý, người hành giả được
khuyến khích để tìm ra những câu trả
lời về những câu hỏi của họ ở bên
trong chính mìnhï. Vị thầy giúp đỡ
hướng dẫn bất cứ điều gì cần thiết
trong tu tập, nhưng nó tùy thuộc vào
mỗi người để thực hành những hướng
dẫn này: chúng ta phải chiến đấu với
chính chúng ta, tự giải thoát chính
mình.
11
Sự nhấn mạnh này được đưa ra, tuy
nhiên một số vấn đề giải thích cần thiết
để hổ trợ mỗi tình huống cho việc tu
tập. Vì vậy mỗi buổi tối của mỗi ngày
tu tập, Ngài Goenka cung cấp một bài
pháp (dhamma talk), để đặt vào khung
cảnh những điều tu tập của ngày đó, và
làm sáng tỏ phương pháp tu tập trong
những yếu tố khác nhau. Những bài
pháp này, ông ta lưu ý, không được
xem như là những trò chơi bằng tri
thức hoặc tình cảm. Mục đích của nó
đơn giản là để giúp hành giả để hiểu
những gì để làm và tại sao phải làm để
họ sẽ thực tập theo phương pháp thích
hợp và sẽ thành tựu kết quả khả quan.
Đó chính là những bài pháp được trình
bày ở đây trong hình thức cô đọng.
12
Mười một bài giảng cung cấp một cái
nhìn phổ quát về lời dạy của Đức Phật.
Tuy nhiên, sự hướng đến chủ đề này
không phải bằng học gỉa hoặc phân
tích. Thay vì giáo lý được trình bày
trong đường hướng là nó mở ra cho
hành giả: như một tổng thể năng động
và cụ thể. Tất cả những khía cạnh khác
nhau của nó được xem là để phơi bày
một sự nhấn mạnh tổng hợp: kinh
nghiệm của thiền định. Kinh nghiệm
này nung nấu bên trong để dẫn đến một
đời sống chân thật và sự tỏa rạng đến
phương pháp hành trì.
Không có kinh nghiệm này chúng ta
không thể nắm bắt được ý nghĩa trọn
vẹn về những gì được dạy trong những
buổi giảng này, hoặc sự thật về lời dạy
13
của Đức Phật. Nhưng điều này không
có nghĩa rằng không có một vị trí thích
hợp cho sự đánh giá bằng tri thức về
Giáo pháp. Sự hiểu bằng tri thức có giá
trị như là một sự giúp đỡ cho tu tập
thiền định, mặc dù bản thân thiền định
là một tiến trình vượt qua những giới
hạn của trí thức.
Vì lý do này, những tóm tắc này đã
được chuẩn bị, để đưa một tóm tắc
những điểm cốt lõi của mỗi bài giảng.
Chúng được tập trung chủ yếu để đưa
ra sự cảm hứng và sự hướng dẫn cho
những hành giả thiền vipassana như đã
được dạy bởi Ngài Goenka. Cho những
người khác có cơ hội để đọc nó, hy
vọng rằng những bài giảng sẽ hổ trợ sự
khuyến khích để tham gia ở khóa thiền
14
vipassana và để kinh nghiệm những gì
đã được trình bày ở đây.
Những bài tóm tắc không được sử
dụng như một cẩm nang để chính bạn
thực hành nó cho việc học thiền
vipassana, một sự thay thế cho khóa
thiền 10 ngày. Thiền định là một vấn
đề rất hệ trọng, đặc biệt phương pháp
thiền Vipassana, nó giải quyết những
cấp độ sâu thẳm của tâm thức. Nó
không bao giờ đạt tới được một cách
nhẹ nhàng hoặc một cánh ngẫu nhiên.
Phương pháp thích hợp để học thiền
Vipassana chỉ bằng cách tham gia một
khóa đặc biệt, ở đó có môi trường thích
hợp để hổ trợ cho người thiền hành và
một người hướng dẫn kinh nghiệm.
Nếu ai đó chọn cách không theo lời
15
chú ý và cố gắng tự học thiền
Vipassana qua sự tự đọc về nó, vị ấy tu
tập hoàn toàn với sự liều lĩnh của mình.
Một điều may mắn những khóa thiền
Vipassana được Ngài Goenka dạy bây
giờ được tổ chức theo định kỳ ở nhiều
nơi trên thế giới. Những chương trình
(tu tập cho các khóa thiền) có thể có
được bằng cách viết thư đến bất cứ
trung tâm nào danh sách được ghi sau
lưng của cuốn sách này.
Những bài tóm tắc chủ yếu được căn
cứ vào những bài giảng của Ngài
Goenka ở Trung tâm thiền Vipassana,
địa danh Massachusetts, ở U.S.A trong
suốt tháng 8 năm 1983. Ngoại trừ là
bài tóm tắt ngày thứ 10 được dựa vào
16
bài giảng ở Trung tâm vào tháng 8 năm
1984.
Trong lúc Ngài Goenka đã xem qua tài
liệu này và đã phê chuẩn cho xuất bản,
Ngài không có thì giờ để kiểm tra văn
bản một cách kỹû lưỡng. Vì vậy, người
đọc có thể thấy một vài lỗi và khiếm
khuyết. Những khuyết điểm này không
phải là trách nhiệm của vị Thầy, cũng
không phải của lời dạy, nhưng của
chính tôi. Sự phê bình sẽ đón nhận để
có thể giúp để sửa sai những lỗi như
vầy trong văn bản.
Cầu nguyện cho tác phẩm này giúp
nhiều người trong sự hành trì của họ về
Chánh pháp.
17
Cầu nguyện tất cả chúng sanh đều hạnh
phúc.
William Hart
---o0o---
CHÚ Ý TRÊN VĂN BẢN
Những bài pháp của Đức phật và chư
Đệ tử của Ngài được Ngài Goenka
trích dẫn được rút ra từ Những bản kết
tập về Luật (Vinaya-pitaka) và những
bài Kinh (Sutta-pitaka) trong kinh điển
Pāli. (Một số những trích dẫn có mặt
trong cả hai Bộ (kinh và luật), mặc dù
trong những trường hợp như vầy chỉ có
tham khảo về kinh được trích đưa ra ở
đây). Cũng có một vài trích dẫn rút ra
từ văn học kinh tạng Pāli. Trong những
18
bài thuyết giảng này, Ngài Goenka giải
thích những đoạn văn này thường bằng
sự diễn giải hơn bằng sự phiên dịch
theo từ ngữ Pāli. Mục đích là nhằm đưa
ra phần trọng tâm của mỗi đoạn trích
trong ngôn ngữ bình dị, nhấn mạnh
mối quan hệ của nó đến sự hành trì
thiền Vipassana.
Nơi nào một đoạn trích Pàli xuất hiện
trong ý nghĩa bản tóm tắc, sự giải thích
được đưa ra trong bài giảng của Ngài
Goenka được căn cứ vào bản tóm tắc
này. Ở sau lưng của quyển sách này,
trong phần Pàli với sự phiên dịch tiếng
anh, với sự cố gắng được tiến hành để
đưa ra những lối giải thích chính xác
cho những đoạn văn đã được trích dẫn,
19
vẫn chú trọng quan điểm của Một hành
giả tu thiền.
Trong cuốn sách về những bài tóm tắc,
những thuật từ Pàli sử dụng được duy
trì cho ý nghĩa cần thiết tối thiểu nhất.
Nơi nào các từ như vầy được sử dụng,
vì mục đích cho sự thích hợp số nhiều
của nó đuợc đưa ra trong hình thức Pàli
ví dụ, số nhiều của samkhara là
samkharà, của kalàpa là kalàpà, của
paràma là paramà.
---o0o---
BÀI GIẢNG CỦA NGÀY ĐẦU
TIÊN
Những khó khăn ban đầu
Mục đích cho vấn đề thiền định này
Tại sao sự phấn khởi được chọn như là
20
điểm khởi đầu.
Bản chất của tâm
Lý do về những khó khăn và cách khắc
phục chúng
Những nguy hiểm cần phải tránh
Ngày thứ nhất có nhiều khó khăn và
không thích nghi một phần vì chúng ta
không quen ngồi lâu suốt ngày và cố
gắng để tập trung, nhưng hầu như vì
phương cách thiền định mà chúng ta đã
bắt đầu đang thực hành: chánh niệm
bằng hơi thở, không gì khác hơn chỉ là
sự thở.
Nó sẽ dễ hơn và nhanh hơn để tập
trung tâm ra khỏi những cảm thọ bất an
này nếu, cùng với sự tỉnh giác của hơi
thở, chúng ta đã bắt đầu tưởng tưởng
21
tượng hình ảnh hhoặc hình ảnh của một
thiên thần. Nhưng các bạn được yêu
cầu chỉ theo dõi hơi thở, như bản chất
như thật của nó, không có sự qui định
nó; không dùng lời hhoặc hình thức
tưởng tượng có thể được thêm vào.
Những yếu tố đó không được chấp
nhận vì mục đích tối hậu của sự thiền
định này là không phải sự tập trung vào
tâm. Sự tập trung chỉ là một sự trợ
giúp, một bưước dẫn đến mục đích cao
hơn: thanh lọc tâm, loại trừ tất cả mọi
cấu uế củatâm, mọi bất thiện vây
quanh, và vì vậy sự thành tựu giải thoát
ra khỏi tất cả mọi khổ đau, thành tựu
sự giác ngộ viên mãn.
22
Mỗi sát na mỗi cấu uế sinh khởi trong
tâm, như sân hận, cáu ghét , tham lam,
sợ hãi vân vân, chúng ta trở nên đau
khổ. Bất cứ khi nào những điều không
muốn lại đến, chúng ta trở nên căn
thẳng và bắt đầu thắt nốt ở bên trong.
Bất cứ khi nào những điều mong muốn
lại không đến, lại một lần nữa chúng ta
tạo ra sự căn thẳng xung quanh. Suốt
cuộc đời chúng ta lập lại tiến trình này
cho đến khi tòan bộ cấu trúc thân và
tâm trở thành một khối của những thắc
gút phức tạp. Và chúng ta không giữ
căng thẳng này ở trong chúng ta, mà
còn đẩy nó đến mọi người đến tiếp xúc
với ta. Dĩ nhiên, điều này không phải là
một phương cách đúng để sống.
23
Các bạn đã đến với khóa tu thiền này
để học nghệ thuật sống: làm sao để
sống hài hòa và an lạc cho chính chúng
ta, và để tạo ra sự hài hòa và an lạc đến
cho mọi người khác; làm thế nào để
sống hạnh phúc trong mỗi ngày trong
khi tiến tu hướng đến hạnh phúc tối
thuợng của một tâm hồn hoàn toàn
thanh tịnh, một tâm hồn tràn đầy với
tình thương vị tha, với lòng từ bi, với
sự hân hoan trong sự thành công của
người khác , với sự xả ly.
Để học nghệ thuật sống hài hòa, trước
nhất chúng ta phải tìm nguyên nhân
của sự bất hòa. Nguyên nhân luôn luôn
nằm ở bên trong và vì lý do này các
bạn phải khám phá thực tại của chính
các bạn. Phương pháp này giúp các bạn
24
làm như thế, để thực nghiệm cấu trúc
thân và tâm của các bạn, hướng đến
những gì quá nhiều tham đắm, kết quả
chỉ là những căng thẳng và khổ đau. Ở
cấp độ kinh nghiệm chúng ta phải hiểu
bản chất, thân thể và tâm của riêng
mình; chỉ từ đó chúng ta có thể kinh
nghiệm bất cứ những gì có thể vượt
ngoài thân và tâm. Vì vậy, đây là một
phương pháp kỷ thuật của sự giác ngộ
chân lý và tự giác ngộ, sự khảo sát thực
tại của những gì chúng ta gọi là tự ngã
(oneself). Nó cũng có thể được gọi một
phương pháp của Thượng Đế hiểu biết,
bởi lẽ đằng sau Thượng đế không có gì
khác hơn là sự thật , tình thương và sự
thanh tịnh.
25
Kinh nghiệm trược tiếp về thực tại là
điều quan trọng. "biết về chính bạn"- từ
thực tại thô, hiển nhiên, bên ngoài đến
những thực tại vi tế hơn, đến thực tại vi
tế nhất của thân và tâm. sau khi kinh
nghiệm qua những thực tại này, từ đó
chúng ta có thể đi xa hơn đến sự kinh
nghiệm thực tại tối hậu vượt ra ngoài
kinh nghiệm thân và tâm.
Hơi thở là một đặc điểm thích hợp từ
đó để bắt đầu cuộc hành trình này. Sự
sử dụng một cái ngã tự tạo, một sự tập
trung vào một đối tượng tưởng tượng-
một câu thần chú hoặc một hình tượng-
sẽ chỉ dẫn vào phương hướng của
những sự tưởng tượng, những sự ảo
tưởng; nó sẽ không giúp chúng ta khám
phá những sự thật vi tế hơn về chính
26
chúng ta. Để thể nhập vào sự thật vi tế
hơn, chúng ta phải bắt đầu với sự thật,
với một sự ngẫu nhiên, thực tại thô như
hơi thở. Hơn nữa, nếu một câu thần
chú được sử dụng, hoặc hình tượng của
môt vị thần linh, từ đó phương pháp trở
thành một đảng phái. Một câu thần chú
hoặc một hình tượng sẽ được tương
đồng với với một văn hóa, một tôn giáo
hoặc cái gì đó, và một nền tảng khác
nhau của những yếu tố này nó không
thể tìm ra sự chấp nhận. Khổ đau là căn
bệnh chung. Phương thuốc điều trị cho
căn bệnh này không thể là một đảng
phái; nó cũng phải là một phương
thuốc phổ quát. Sự chánh niệm hơi thở
chấp nhận sự yêu cầu này. Hơi thở là
thông dụng cho tất cả: sự theo dõi nó
27
sẽ có thể chấp nhận cho mọi người.
Mỗi tiến trình về phương pháp tu tập
phải hoàn toàn vượt ngoài chủ nghĩa
giáo phái.
Hơi thở là một công cụ và với công cụ
này để khám phá sự thật về chính
chúng ta. Thực tế, ở mức độ kinh
nghiệm, các bạn biết rất ít về bản thân
của các bạn. Các bạn chỉ biết hình thức
bên ngoài của nó, những bộ phận và
những vai trò của nó mà bạn có thể
điều khiển một cách ý thức. Các bạn
không biết gì về các cơ quan bên trong
chúng nó hoạt động vượt qua sự kiểm
soát của các bạn, không có gì khác hơn
là thân thể được kết hợp từ vô số các tế
bào, và những tế bào luôn thay đôỉ
từng sát na. Vô số những phản ứng
28
sinh lý điện lực hấp dẫn đang xảy ra
liên tục khắp thân thể, nhưng các bạn
không có kiến thức gì về chúng nó.
Về phương pháp này, bạn phải biết
chính bạn về những gì mà bạn chưa
biết trước đây. Về mục đích này hơi
thể sẽ hổ trợ nó hoạt động như là một
nnhịp cầu từ chỗ không biết đến chỗ
biết đuợc, vì hơi thở có một vai tròvới
thân thể mà nó có thể hoặc là nhận thức
hoặc là không nhận thức, có ý chủ ý
hoặc tự động. Chúng ta bắt đầu với sự
hít thở có ý thức và chủ ý, và tiến hành
bằng sự chánh niệm hơi thở một cách
tự nhiên và bình thường. Và từ đó các
bạn sẽ thăng tiến để duy trì sự những
sự thật vi tế ở trong các bạn. Mỗi tiến
trình là một bước đi vào thự c tại; mỗi
29
ngày bạn sẽ thể nhập sâu hơn để khám
phá những thực tại vi tế hơn về chính
bạn, về thân và tâm của bạn.
Hôm nay các bạn chỉ được yêu cầu để
theo dõi vai trò vật lý của hơi thở,
nhưng đồng thời mỗi các ban đang theo
dõi tâm của mình, vì tính chất của hơi
thở được liên hệ rất chặt chẽ với trạng
thái tâm của chúng ta. Ngay lúc bất cứ
cấu uế, phiền não sinh khởi trong tâm,
hơi thở trở nên khác thường- chúng ta
bắt đầu thở hơi nhanh một tí và nặng
một tí. Khi những phiền não qua đi, hởi
thở trở nên nhẹ nhàng trở lại. Vì vậy
hơi thở có thể giúp để khám phá thật
tại không chỉ ở thân thể mà còn ở tâm
thức nữa.
30
Thực tại của tâm mà các bạn bắt đầy
kinh nghiệm hôm nay, nó có thói quen
luôn luôn lang thang từ nơi này đến nơi
khác. Nó không muốn tháp tùng với
hơi thở, hhoặc ở trên bất cử đối tượng
nào của sự tập trung: thay vì nó chạy
rong rêu.
Và khi nó lang thang, nơi nào tâm thức
đến? Bằng sự hành trì của bạn, các bạn
đã thấy hoặc là nó lang thang ở quá
trong hoặc là nó lang trong tương lai.
Đây là thói quen của tâm; nó không
muốn ở lại trong giây phút hiện tại.
Thự c tế, chúng ta phải sống với hiện
tại. Quá khứ là những gì đã qua gợi
nhớ lại; tưông lai là những gì chúng ta
chưa đến được, cho đến khi nó trở
thành hiện tại. Nhớ lại qúa khứ và suy
31
nghĩ về tương lai là quan trọng, nhưng
chỉ khi nào chúng nó sẽ giúp chúng ta
giải quyết những vấn đề trong hiện tại.
Những vì những thói quen đã ăn sâu,
tâm thức luôn luôn tìm cách trốn khỏi
thực tại đi vào quá khứ hoặc tuơng lai
mà không thể nào nắm bắt được, và vì
vậy tâm hoang vu này duy trì khổ đau
và dao động. Phướng pháp mà các bạn
đang học ở đây được gọi là 'nghệ thuật
sống', và cuộc sống có thể được sống
thực sự chỉ trong hiện tại mà thôi. Vì
vậy, tiến trình đầu tiên là học cách làm
thế nào để sống trong giây phút hiện
tại, bằng cách kiềm chế tâm ở ngay
thực tại hiện tại: hơi thở bây giờ đang
đi và và ra hai lỗ mũi. Đây là một thực
tại của sát na này, mặt dù nó là thực tại
32
bên ngoài (thô). Khi tâm thức đi khỏi,
một trạng thái thư gỉang, không có
những căn thẳng, chúng ta chấp nhận
vấn đề rằng, vì thói quen cũ của tâm,
nó đã lang thang. Ngay lúc chúng ta
hiểu rằng tâm thức đã lang thang, tự
nhiên, tự động, nó sẽ trở lại với sự tỉnh
giác của hơi thở.
Các bạn nhận ra một các dễ dàng
khuynh hướng của tâm vây tròn trong
những ý niệm hoặc ở quá khứ hoặc ở
tương lai. Ở đây những ý niệm này
thuộc loại khuynh hướng gì của tâm?
Hôm nay, các bạn đã quan sát chính
mình rằng có nhiều ý niệm khởi lên mà
không có kết quả, đầu hoặc đuôi. Cách
ứng sử tâm như vầy thông thường được
xem như một dấu hiệu của mách (ba
33
lơn). Tuy nhiên, ở đây, tất các bạn đã
khám phá ra rằng các bạn tương đương
với mád, đã đánh mất đi vô minh, ảo
giác, ảo tưởng-moha. Ngay cả khi có
một kết quả đối với những ý niệm,
chúng nó có khi đối tượng của chúng là
những yếu tố hoặc là lạc hoặc là khổ.
Nếu là lạc, chúng ta bắt đầu phản ứng
với sự ưa thích, rồi phát triển nó thành
tham, dính mắc- ràga. Nếu nó là khổ,
chúng ta bắt đầu phản ứng với không
thích, rồi phất triển nó thành sân giận,
cáu ghét - dosa. Tâm thức luôn được
chứa đầy với vô minh, tham đắm và
sân hận. Tất cả các pháp bất thiện khác
phát nguồn từ ba căn bản bất thiện này,
và mỗi pháp bất thiện tạo ra một sự đau
khổ.
34
Mục đích của phương pháp này là
thanh lọc tâm thức, để nó thoát khỏi
khổ đau bằng cách đoạn trừ dần dần
những bất thiện pháp ở trong tâm. đây
là một cuộc giải phẩu đi sâu vào tâm
vô thức của chúng ta, được tiến hành
để khám phá và dời đi những khó khăn
phức tạp bị che đậy ở đó. Ngay tiến
trình đầu tiên của phương pháp này
phải làm tịnh hóa tâm thức, và đây là
trường hợp: bằng cách theo dõi hơi thở,
các bạn đã tiến hành không chỉ tập
trung vào tâm thức mà còn làm cho nó
trở nên thanh tịnh. Có lẽ suốt ngày hôm
nay chỉ có vài giây tâm các bạn được
tập trung hoàn toàn vào hơi thở của
bạn, nhưng mỗi tâm niệm như vậy là
có năng lực chuyển những thói quen
35
trong tâm của bạn. Ở tâm niệm đó các
bạn đang ở trong chánh niệm thực tại
hiện hữu, hơi thở vào hoặc ra trong hai
lỗ mũi, không có ảo tưởng gì cả. Và
các bạn không thể ham muốn thở nhiều
hơn nữa hoặc cảm thấy nổi giận đối với
hơi thở của bạn: các bạn chỉ đơn giản
theo dõi, đừng phản ứng với nó. Ở tâm
niệm như vậy, tâm thức thoát khỏi ba
căn bản phiền não, đó chính là thanh
tịnh. Tâm niệm thanh tịnh này ở cấp độ
vô thức có một sự ảnh hưởng mạnh đến
những phiền não từ lâu đã tích tụ trong
vô thức. Sự tiếp xúc của sức mạnh tích
cực và tiêu cực này sản sinh một sự
bùng nổ. Một số phiền não tiềm ẩn
trong vô thức sinh khởi ở cấp độ tỉnh
36
thức,và biểu hiện như những sự không
hài hòa khác nhau thuộc thân và tâm.
Khi chúng ta gặp tình huống như vầy,
sẽ có nguy hiểm sinh khởi về bất an, và
tăng trưởng những khó khăn. Tuy
nhiên, để sáng suốt để hiểu ra rằng
những gì dường như có một khó khăn
là thực tế một dấu hiệu của sự thành
công trong thiền định, hơn nữa, thực tế
phương pháp đã tiến hành thực tập. Sự
khai mở đi vào vô thức đã bắt đầu, và
một số những cấu uế tàng ẩn ở đó đã
bắt đầu xuất hiện ra ngoài vết thương.
Mặc dù tiến trình có bất an, đây là cách
duy nhất để lấy mủ đi, dời cấu uế ra
khỏi trú xứ của nó. Nếu chúng ta tiếp
tục hành trì theo phương pháp thích
hợp, tất cả những khó khăn này lần
37
lựơt sẽ tiêu tan. Ngày mai sẽ có một sự
dễ chịu hơn và ngày mốt lại thêm hơn
một tí nữa. Từng tí một, tất cả những
vấn đề sẽ qua khỏi, nếu các bạn thực
hành.
Không ai có thể làm công việc thay thế
cho bạn; các bạn phải làm việc của
chính mình. Các bạn phải khám phá
thực tại ở nơi các bạn. các bạn phải tự
giải thóat.
---o0o---
VÀI LỜI KHUYÊN VỀ CÁCH
HÀNH TRÌ
Suốt những giờ thiền định, luôn luôn
hành trì ở trong nhà. Nếu các bạn có
thiền định ở ngoài trong sự tiếp xúc
trực tiếp của mặt trời và gió, các bạn sẽ
38
không thể tập trung đi sâu và chiều sâu
của tâm thức. Suốt thời gian nghỉ xả
hơi các bạn có thể ở ngoài.
Các bạn phải duy trì bên trong những
giới hạn của khu vực khóa tu. Các bạn
đang tiến hành khai mở tâm thức của
các bạn; duy trì ở trong phòng hành trì.
Quyết tâm để duy trì trong giai đoạn
khóa tu, chấp nhận trưước những khó
khăn. Khi những vấn đề sinh khởi
trong suốt thời gian hành trì, nhớ ràng
đây là sự quyết định mạnh mẽ. Có thể
có hại cho việc rời khỏi ở giữa khóa tu.
Tương tự, quyết định mạnh mẽ để thi
hành tất cả các giới điều, qui luật, trong
đó điều quan trọng nhất là giới tịnh
khẩu. Cũng quyết tâm tuân thủ nội qui
39
giờ giấc, và đặc biệt có mặt trong nhà
tu thiền ba lần ngồi thiền tập thể mỗi
lần một giờ trong một ngày.
Tránh sự bất lợi của việc ăn quá nhiều,
nguy hiểm về tự mình không tự chủ đối
với trạng thái hôn trầm và nguy hiểm
vì không giữ tịnh khẩu.
Thực hành chính xác khi các bạn được
huớng dẫn để thực hành. Không than
phiền nó, để qua một bên vì thời gian
khóa tu bất cứ những gì mà bạn có thể
đọc hoặc học ở nơi khác. Sự pha trộn
phương pháp tu tập là một điều vô
cùng nguy hiểm. Nếu có điều gì chưa
rõ đối với các bạn, hãy đến vị Hướng
dẫn để làm rõ vấn đề. Chỉ cung cấp
một lối mòn tương xứng đối với
40
phương pháp này; nếu các bạn thực
hành như vậy, các bạn sẽ gặt hái những
kết quả mỹ mãn.
Sự dụng thời giờ quí báu, cơ hội,
phương pháp, để giải thoát bạn ra khỏi
những trói buộc của tham, sân, si,và
hoan hỷ an lạc, hài hòa và hạnh phúc
thật sự.
Hạnh phúc chân thật đến với các bạn./.
---o0o---
BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ HAI
Ðịnh nghĩa phổ quát về tội và phước
Bát thánh đạo: Giới và Ðịnh
Ngày thứ hai đã qua. Mặc dù có phần
nào tốt hơn ngày đầu, những khó khăn
41
vẫn còn hiện hữu. Tâm thức thì quá
dao động, kích thích, hoang vu như
một con bò hoang hoặc con voi hoang
nó tạo ra sự tàn phá dữ dội khi nó đi
vào nơi cư trú của con người. Nếu một
người thông minh điều phục và huấn
luyện thú hoang, thì dù tất cả sức mạnh
của nó được dùng cho mục đích phá
hoại, bây giờ bắt đầu phục vụ cho xã
hội trong những cách xây dựng. Tương
tự, tâm thức, nó có sức mạnh và nguy
hiểm hơn cả một con voi hoang, phải
được điều phục và huấn luyện; thì sức
mạnh lớn lao của nó sẽ bắt đầu phục vụ
chúng ta. Nhưng các bạn phải thực
hành rất là nhẫn nại, kiên trì, và liên
tục. Sự duy trì liên tục trong thực hành
là bí quyết của sự thành công.
42
Các bạn phải tíến hành công việc tu
tập; không ai có thể tu giúp cho các
bạn. Với tình thương bao la và lòng từ
bi Bậc giác ngộ chỉ phương pháp để
hành trì, nhưng ngài không thể mang
bất cứ ai lên trên vai của Ngài để đến
mục đích tối thượng. Các bạn phải tiến
hành những tiến trình này chính các
bạn, chống lại kẻ thù ở nơi các bạn, kết
quả các bạn tự giải thóat chính mình.
Tất nhiên, một khi các bạn bắt đầu tu
tập, các bạn nhận sự hổ trợ của tất cả
sức mạnh Giáo pháp, nhưng các bạn
vẫn phải tự mình hành trì. Các bạn phải
tự mình đi trọn vẹn con đường.
Để hiểu cái gì là con đường căn cứ vào
đó các bạn đã bắt đầu đi, Đức Phật mô
tả nó bằng những thuật từ rất giản dị:
43
Từ bỏ tất cả những việc làm tội lỗi và
bất thiện,
Hãy làm những việc làm có đạo đức và
thiện lành
Hãy thanh lọc tâm,
Đây là lời dạy của Chư vị Giác ngộ.
Nó là phương pháp phổ quát có thể
dùng cho mọi người thuộc bất kỳ
nguồn gốc, sắc tộc, hoặc quốc gia nào.
Nhữngù vấn đề dẫn đến từ sự định
nghĩa sai lầm về tội và phước. Khi
nguồn cốt lõi giáo pháp đã mất đi, nó
trở thành một phe phái, và rồi mỗi phái
lại đưa ra định nghĩa khác nhau về sự
trung thực, như thế, sau khi có một
hình thức đặc biệt bên ngoài, hoặc diễn
bày những nghi lễ nào đó, hoặc nắm
giữ một số niềm tin. Tất cả những vấn
44
đề này là những định nghĩa thuộc phe
phái, có thể chấp nhận đối với một số
người này và không thể chấp nhận đối
với số người khác. Tuy nhiên, Giáo
pháp đưa ra một định nghĩa phổ quát
về sai lầm và sự trung thực (đúng). Bất
cứ hành động nào mà có hại đến người
khác, làm cho họ bất an, và hài hòa thì
nó là sai lầm (tội) . Bất cứ việc làm nào
giúp người khác, giúp họ an ổn và hài
hòa thì nó là hành động đạo đức, lương
thiện. Đây là một sự định nghĩa không
thích ứng với bất cứ giáo điều nào,
nhưng lại thích ứng với qui luật tự
nhiên. Và theo qui luật tự nhiên chúng
ta không thể làm hành động gì mà có
hại đến người khác mà không có gây ra
một tâm cấu uế trong tâm của chúng ta
45
trước: sân hận, sợ hãi, cáu ghét vân
vân.;và bất cứ khi nào chúng ta tạo ra
một tâm bất thiện, thì chúng ta trở nên
đau khổ, chúng ta cảm nhận những khổ
sở của địa ngục ở trong đó. Tương tự,
chúng ta không thể làm một việc để
giúp người khác mà trước hết chúng ta
không tạo ra tình thương, lòng từ, thiện
chí; và ngay lúc chúng ta bắt đầu phát
triển những phẩm chất tâm thanh tịnh
như vầy, chúng ta bắt đầu vui với an
lạc thiên giới ở trong chúng ta. Khi các
bạn giúp người khác, đồng thời cấc bạn
giúp cho chính mình; khi các bạn làm
hại người khác, đồng thời các bạn làm
hại bản thân mình. Đây là Diệu pháp,
chân lý, qui luật- qui luật phổ quát của
tự nhiên.
46
Con đường của Giáo pháp được gọi là
Bát chánh đạo, cao thượng ở ý nghĩa
mà bất cứ ai hành trì nó chắc chắn trở
thành một vị có tâm cao thượng, một
Bậc thánh nhân. Giáo pháp được chia
làm ba phần: giới , định và trí tuệ. Giới
(Siila) là đạo đức - từ bỏ những việc
làm bất thiện của thân và khẩu. Thiền
Định (Samaadhi) là việc làm thiện phát
triển sự kiềm chế tâm. Thực hành cả
hai thì có ích, nhưng không phải Giới
cũng không phải Thiền định có thể
đọan tận tất cả những phiền não đã tích
tụ trong tâm. vì mục đích này, phần thứ
ba của Giáo pháp phải được hành trì:
Pan~n~aa, sự phát triển Trí tuệ, tuệ
quán, để làm thanh tịnh tâm. Phần giới
gồm có ba phần trong Bát thánh Đạo:
47
1. Sammaa-vaacaa- chánh ngữ, sự
thanh tịnh về lời nói. Để hiểu những gì
là sự thanh tịnh của lời nói, chúng ta
phải biết những gì là bất tịnh của lời
nói. Nói láo để lừa gạt người khác, nói
thô bạo làm tổn hại đến người khác,
nói sau lưng, nói vu khống, nói lảm
nhảm và tranh cãi không có mục đích
tất cả là những bất tịnh của miệng. Khi
chúng ta từ bỏ những bất thiện này,
những gì còn lại là chánh ngữ (lời nói
chơn chánh).
2. Sammaa-kammanta: chánh nghiệp,
sự thanh tịnh về nhũng việc làm của
thân. Về con đường của Chánh pháp
chỉ có một thước đo để định mức thiện
hoặc bất thiện của một hành động, nó
là thân, khẩu hay là ý, và hành động
48
giúp người hay là làm hại người khác.
Vì vậy, ghiết hại, trộm cắp, phạm tội
hãm hiếp, hoặc tà dâm, và uống rượu
say chúng ta hành động vô ý thức có
thể làm hại đến người khác, và làm hại
cho chính mình. Khi chúng ta từ bỏ
những việc làm bất thiện về thân này,
những hành động còn lại là chánh
mạng (việc làm chân chánh từ thân).
3. Sammaa-aajiiva: chánh nghiệp. Mọi
người phải có một vài phương kế để
sinh nhai để giúp chính mình và những
ai sống nương vào vị ấy, nhưng nếu
phương tiện hổ trợ sự sinh tồn của vị
ấy có hại cho người khác, thì nó không
phải là chánh mạng. Có lẽ chúng ta
không thể chính mình làm nhũng việc
sai lầm bằng phương cách sống của
49
chúng ta, nhưng khuyến khích người
khác làm như vậy; nếu như vậy chúng
ta không thực hành đúng với chánh
mạng. Ví dụ, bán rượu, mở sòng bạt,
bán vũ khí, bán thú sống, hoặc thịt thú
tất cả đều là những hành động phi
chánh mạng. Ngay cả trong nghề
nghiệp cao nhất, nếu những việc làm
của chúng ta chỉ vì phá hoại người
khác, thì chúng ta không hành trì chánh
mạng. Nếu sự vận động là để trình diễn
một phần của chúng ta như là một
thành viên của xã hội, để cung cấp kỷ
năng của chúng ta và nổ lự của chúng
ta cho một việc tốt phổ quát, trong việc
đápû lại vì việc làm này, chúng ta đón
nhận một phần thưởng tương xứng
bằng việc làm này chúng ta nuôi bản
50
thân mình và chúng ta sống nhờ vào
đó, một người làm việc như vầy là thực
hành đúng chánh mạng.
Một người tại gia, một người không
tôn giáo, cần tiền để vì cuộc sống của
anh ta. Tuy nhiên, sự nguy hiểm là lối
kiếm tiền đó trở thành một phương tiện
để tâng bốc cho tự ngã: chúng ta tìm để
thu nhập cao càng nhiều càng tốt cho
chính mình, và cảm thấy khinh miệt
những ai thu nhập ít. Thái độ như vầy
gây hại cho người khác và cho chính
chúng ta, vì tự ngã lại tăng trưởng hơn,
càng khó để chúng ta giải thóat. Vì
vậy, một đặc tính cốt lõi của chánh
mạng là bố thí, làm từ thiện, chia sẻ
một phần chúng ta làm ra cho những
người khác. Thì chúng ta có lợi không
51
chỉ cho chính mình mà còn lợi ích cho
người khác.
Nếu giáo pháp chỉ có những sự khuyên
bảo khuyến khích để từ bỏ những việc
làm có hại đến người khác, thì nó sẽ
không có kết quả. Một cách tri thức,
chúng ta có thể hiểu những nguy hiểm
của những hành động bất thiện và
những ích lợi của những hành động
thiện, hoặc chúng ta có thể chấp nhận
sự quan trọng của giới vì lòng tận tụy
đối với người giảng nó. Nhưng chúng
ta vẫn tiếp tục làm sai, vì chúng ta
không tự chủ với tâm thức của mình.
Vì vậy, phần thứ hai của Giáo pháp ,
Chânh định: sự phát triển khả năng
điều khiển tâm chúng ta. Trong phần
52
này gồm có ba phần trong Bát thánh
đạo:
1. Sammaa-vaayaama : (chánh tinh
tấn, thực tập đúng cách) bằng sự thực
tập của các bạn, các bạn đã thấy thế
nào là sự yếu ớt và không vững chắc
của tâm, luôn luôn dao động từ đối
tượng này sang đối tượng khác. Tâm
thức như vầy đòi hỏi sự thực tập để
tăng sức mạnh cho nó. Có bốn cách
thực tập để tăng sức mạnh cho tâm
thức: tránh xa và từ bỏ tất cả các bất
thiện pháp có thể phát sanh, không cho
nó tiếp xúc với bất cứ bất thiện pháp
nào mà nó chưa khởi sinh, duy trì và
phát triển tất cả các thiện pháp hiện tại
có mặt trong tâm thức và hướng tâm
đến các thiện pháp mà nó chưa hành
53
trì. Một cách trực tiếp, bằng sự thực tập
tỉnh giác qua hơi thở (Anaapaana) các
bạn đã bắt đầu thi hành những cách tu
tập này.
2. Sammaa-sati: tỉnh giác, tỉnh giác với
niệm thực tại. Về quá khứ chỉ có thể là
những ký ức; về tương lai chỉ có thể là
những ước mong, lo sợ và tưởng
tượng. Các bạn đã bắt đầu thực tập
chánh niệm (sammaa-sati) bằng sự tự
luyện tập để duy trì tỉnh giác mọi tình
huống biểu hiện thực tại ở mỗi sát na,
trong khu vực giới hạn của hai lỗ mũi.
Các bạn phải phát triển khả năng để
tỉnh giác toàn bộ thực tại, từ cấp độ thô
nhất đến vi tế nhất. Để bắt đầu, các bạn
hãy tập trung hơi thở có ý thức , và có
tập trung, từ đó hơi thở tự nhiên và nhẹ
54
nhàng, đến sự tiếp xúc của hơi thở. Bây
giờ các bạn sẽ sử dụng một đối tượng
tỉnh lặng vi tế hơn của sự chú ý: các
cảm thọ tự nhiên và bằng thân thể
trong khu vực giới hạn này (khu vực ở
hai lỗ mũi). Các bạn có thể cảm nhận
nhiệt độ của hơi thở, hơi lạnh khi nó đi
vào, hơi ấm khi nó đi ra khỏi thân thể.
Vượt qua vấn đề đó, có những cảm thọ
không thể diễn tả được không liên hệ
đến hơi thở: nóng , lạnh, ngứa, kích
động, dao động, ép nén, căng thẳng,
đau v.v.. các bạn không thể chọn loại
cảm thọ nào để cảm nhận, vì các bạn
không thể tạo ra các cảm thọ. Chỉ theo
dõi; chỉ duy trì tỉnh giác. Hình thức của
cảm thọ không quan trọng; điều quan
55
trọng là tỉnh giác với thực tại về cảm
thọ mà không phản ứng lại nó.
Đặc tính thói quen của tâm thức, như
các bạn đã thấy, là xoay cuốn theo
những tư tưởng thuộc tương lai hoặc
quá khứ, tạo ra tham ái và sân hận.
Bằng sự thực hành chánh niệm các bạn
đã bắt đầu phá vỡ thói quen này.
Không phải sau khóa tu tập này các
bạn sẽ quên tất cả quá khứ và không
còn nghĩ ngợi gì về tương lai nữa.
Nhưng thực tế các bạn đã thường phí
bỏ khả năng của các bạn bằng sự lôi
cuốn vô ích vào quá khứ hoặc tương
lai, qúa nhiều đến nổi khi các bạn cần
nhớ lại hoặc lên kế hoạch gì đó, các
bạn không thể làm như ý muốn. Bằng
sự phát triển chánh niệm, các bạn sẽ
56
học các đặt tâm thức của các bạn vững
chắc hơn trong giây phút thực tại, và
các bạn sẽ thấy rằng cấc bạn có thể nhớ
lại quá khứ khi cần thiết và tạo ra
những kế hoạch thích hợp cho tương
lai. các bạn sẽ có thể có một đời sống
lành mạnh và hạnh phúc.
3. Sammaa-samaadhi: chánh định: chỉ
có sự tập trung không phải là mục đích
của pháp môn này; sự tập trung các bạn
phát triển phải có một nền tảng về sự
thanh tịnh. Với một căn bản của tham,
sân hoặc si mê chúng ta có thể tập
trung tâm thức, nhưng vấn đề này
không phải là chánh định. Chúng ta
phải tỉnh giác thực tại hiện hữa ở trong
chúng ta, không có tham và sân. Duy
57
trì sự tỉnh giác như vầy liên tục từng
giây phút- đây gọi là chánh định.
Bằng sự chấp hành năm giới một cách
nghiêm túc, các bạn bắt đầu thực tập
giới. Bằng sự luyện tập tâm để duy trì
tập trung vào một điểm, một đối tượng
thật của niệm hiện tại, không móng
khơi tham hoặc sân hận, các bạn đã bắt
đầu phát triển chánh định. Bây giờ giữ
sự luyện tập một cách tinh tấn để làm
nhạy bén tâm thức của bạn, để khi các
bạn bắt đầu thực tập trí tuệ các bạn sẽ
có thể thể nhập những cấp độ sâu của
vô thức, để loại trừ phiền não ẩn núp ở
đó, và hoan hỷ với hạnh phúc thật sự -
hạnh phúc của sự giải thóat.
Chân hạnh phúc đến với các bạn.
58
Cầu mong cho tất cả chúng sanh đều
hạnh phúc.
---o0o---
NGÀY THỨ BA CỦA KHÓA TU
Bát thánh đạo: Trí tuệ - trí tuệ do
truyền đạt, trí tuệ bằng tri thức, trí tuệ
bằng kinh nghiệm.
Kalaapaa: bốn yếu tố
Ba đặc tính: vô thường, bản chất huyển
hóa của Ngã, và khổ.
Sự thể nhập qua thực tại hiển nhiên
Ngày thứ ba đã qua. Chiều mai các bạn
sẽ đi vào lãnh vực của Trí tuệ
(pan~n~aa), phần thứ ba của Bát thánh
Đạo. Không có trí tuệ, phương pháp
hành trì không thể thực hiện hoàn hảo.
59
Chúng ta bắt đầu hành trình bằng tu tập
giới (Siila), đó là, bằng cách từ bỏ
những hành viù gây tác hại cho người
khác; nhưng mặc dù chúng ta có thể
không gây hại đến người khác, chúng
ta vẫn còn gây hại cho chính chúng ta
bằng cách tạo ra những phiền não trong
tâm. Vì vậy, chúng ta tiến hành sự
luyện tập thiền định, học cách điều
phục tâm, để đè nén những phiền não
đã sinh khởi. Tuy nhiên, sự đè nén
phiền não không làm chúng tiêu mất.
Chúng lưu lại trong vô thức và sinh
trưởng ở đó, tiếp tục gây tác hại đến
chính chúng ta. Vì vậy, tiến trình thứ
ba của Giáo pháp ( trí tuệ: pan~n~aa):
không phải đưa ra một chứng nhận giải
thoát mọi phiền não cũng không phải
60
sự đè nén chúng, mà thay vì cho phép
chúng sinh khởi để tiêu diệt chúng. Khi
phiền não được đoạn trừ , tâm thức
thoát khỏi mọi cấu nhiễm. Và khi tâm
thức được thanh tịnh, khi đó không cần
bất cứ nỗ lực gì để chúng ta từ bỏ
những việc làm có hại cho người khác
bằng sự tự nhiên một tâm thức thuần
tịnh có đầy đủ thiện chí, từ tâm đối với
mọi người. Tương tự, không cần bất cứ
nổ lực gì để chúng ta từ bỏ những hành
động có hại đến chính bản thân. Chúng
ta sống một cuộc sống lành mạnh và
hạnh phúc. Vì vậy mỗi tiến trình của
phương pháp hành trì phải đưa đến một
tiến trình kế tiếp. Giới dẫn đến sự phát
triển thiền định (samaadhi), chánh
định; định đưa đến sự phát triển trí tuệ
61
(Pan~n~aa), trí tuệ thanh lọc tâm thức;
trí tuệ đưa đến niết bàn (nibbaana) sự
giải thoát mọi trần cấu, sự giác ngộ
hoàn tòan.
Trong bát chánh đạo Trí tuệ bao gồm
có hai:
1- Sammaa-san’kappa: chánh tư duy:
thật sự không cần thiết toàn bộ tiến
trình tư duy chấm dứt trước khi chúng
ta có thể bắt đầu phát triển trí tuệ. Tư
duy tồn tại, nhưng cách thức của sự tư
duy thay đổi. Những cấu uế ở bề mặt
của tâm thức bắt đầu đi qua vì sự hành
trì tỉnh giác về hơi thở. Thay vì tư duy
về tham, sân và si mê, chúng ta bắt đầu
có những tư duy lành mạnh, tư duy về
62
giáo pháp, con đường giải thoát cho
chúng ta.
2- Sammaa-ditthi: chánh kiến: đây là
trí tuệ chính hiệu, sự hiểu biết thực tại
như thật chính nó, không phải như nó
sẽ biểu hiện.
Có ba tiến trình về sự phát triển trí tuệ.
Tiến trình thứ nhất là trí tuệ nhận được
bằng cách nghe hoặc đọc lời nói của
người khác (sutta-mayaa pan~n~aa:
văn tuệ). Trí tuệ thâu nhận này rất là
hữu ích để đặt chúng ta vào một
phương hướng thích hợp. Tuy nhiên,
không thể giải thoát bằng trí tuệ này, vì
thực tế nó chỉ là trí tuệ vay mượn mà
thôi. Chúng ta chấp nhận nó như chân
lý có thể vì lòng tin mù quáng, hoặc có
63
thể vì sân hận, trong sợ hãi rằng không
tin chúng ta sẽ bị rơi vào địa ngục,
hoặc có thể vì sự tham lam, trong sự hy
vọng rằng sự tin tưởng sẽ đưa chúng ta
đến thiên đàng. Nhưng trong trường
hợp này, nó không phải là trí tuệ của
chính chúng ta.
Vai trò của văn tuệ sẽ đưa đến một giai
đoạn kế tiếp: cintaa-mayaa pan~n~aa,
tư duy trí tuệ (tư tuệ). Một cách lý trí,
chúng ta kiểm tra những gì chúng ta
nghe hoặc đọc để xem nó có mạch lạc,
thực tế, lợi ích hay không; nếu như vậy
thì chúng ta chấp nhận. Trí tuệ tư duy
này cũng rất quan trọng, nhưng nó
cũng rất nguy hiểm nếu nó được xem
như là tối hậu hơn hết. Một số người
phát triển khả năng tri thức, và do đó
64
cho rằng anh ta là một người trí tuệ.
Tất cả những gì anh ta học chỉ nhằm
phục vụ để nâng cao tự ngã của bản
thân; anh ta càng xa lìa sự giải thóat.
Vai trò thích hợp của tư tuệ là để dẫn
đến giai đoạn kế tiếp: bhaavanaa-
mayaa pan~n~aa (tu tuệ) trí tuệ phát
triển do sự tu tập của chính chúng ta, ở
cấp độ kinh nghiệm. Đây là trí tuệ thự
sự. Văn tuệ và tư tuệ rất có ích nếu
chúng nó cho ra một nguồn cảm hứng
và hướng dẫn để sử dụng tiến trình kế
tiếp. Tuy nhiên, chỉ có trí tuệ tự chứng
mới có thể giải thoát, vì đây là trí tuệ
của chính chúng ta, được căn cứ vào
chính kinh nghiệm của chúng ta.
65
Một ví dụ cho ba loại trí tuệ: một vị
Bác sĩ cho một toa thuốc tây cho một
bệnh nhân. Bệnh nhân về nhà,và vì quá
tin vào vị bác sĩ của anh ta, anh ta đọc
tên toa thuốc hàng ngày, đây là trí tuệ
nhận được (văn tuệ). Không hài lòng
với toa thuốc ấy, bệnh nhân trở lại Bác
sĩ, và yêu cầu và nhận một sự giải thích
về toa thuốc, tại sao nó cần thiết và làm
thế nào để sử dụng nó; đây là trí tuệ tư
duy. Cuối cùng anh ta uống thuốc; chỉ
có vậy từ đó bệnh tật của anh thuyên
giảm. Lợi lạc chỉ có từ bước thứ ba (tu
tuệ, trí tuệ do thực hành mà có).
Các bạn tham gia khóa tu này là các
bạn tự mình uống thuốc, đêå phát triển
tu tuệ nơi các bạn. Làm như vậy, các
bạn phải hiểu chân lý ở cấp độ kinh
66
nghiệm. Quá nhiều sự lẫn lộn hiện
hành vì phương pháp và các sự vật dẫn
đến hình thành khác hoàn toàn với bản
chất thật sự của nó. Và bên ngoài hình
thức của thân thể, chân lý không thể
kinh nghiệm được; nó chỉ có thể trí
thức hóa. Vì vậy, các bạn phải phát
triển khả năng để kinh nghiệm chân lý
trong chính các bạn, từ thô nhất đến
cấp độ vi tế nhất, để thoát ra khỏi tất cả
những vô minh và trói buộc.
Mỗi chúng ta biết rằng toàn bộ vũ trụ
là sự thay đổi liên tục, nhưng chỉ có trí
tuệ tư duy về thực tại này sẽ không
giúp ích gì; chúng ta phải kinh nghiệm
nó ở trong mỗi chúng ta. Có thể một
biến cố đau thương, như cái chết của
người thân, ép buộc chúng ta đương
67
đầu với vấn đề khắc nnghiệt của vô
thường, và chúng ta bắt đầu phát triển
trí tuệ, để thấy sự vô ích về sự nỗ lực
để có những vật chất thế gian và sự
tranh cãi với người khác. Nhưng ngay
lúc những thói quen cũ của tự ngã
khẳng định lại chính nó, và trí tuệ khô
héo, vì nó không được căn cứ trực tiếp,
kinh nghiệm cá nhân. Chúng ta không
có kinh nghiệm thực tại vô thường
trong mỗi chúng ta.
Mọi vật đều vô thường (phù du) sinh
khởi rồi tàn phai ở mỗi sát na - anicca
(vô thường); nhưng sự nhanh chóng và
liên tục của tiến trình tạo ra sự ảo
tưởng về thường còn. Ngọn đèn cầy và
ánh sáng của ngọn đèn điện cả hai đều
thay đổi liên tục. Nếu bằng nhận thức
68
các giác quan của chúng ta, chúng ta có
thể khám phá tiến trình của sự thay đổi,
như trường hợp ánh sáng ngọn đèn cầy,
từ đó chúng ta có thể thoát khỏi sự ảo
tuởng. Nhưng khi nào, như trong
trường hợp của ánh sáng đèn điện, sự
thay đổi quá nhanh và sự liên tục đến
đổi các căn của chúng ta không thể
khám phá ra nó, từ đó ảo ggiác càng
khó phá vỡ. Chúng ta có thể khám phá
sự liên tục của nước trong một dòng
sông, nhưng làm thế nào để chúng ta
hiểu rằng một người đang tắm trong
dòng sông đó cũng thay đổi trong từng
sát na?.
Chỉ có cách duy nhất phá vỡ ảo giác là
để học để khám phá trong chính chúng
ta, và để kinh nghiệm thực tại ở mỗi cơ
69
cấu thân và tâm của chúng ta. Đây là
những gì Bồ tát Siddattha Gotama đã
làm để trở thành một Vị Phật. Để sang
một bên mọi thành kiến trước đây,
Ngài đã kiểm nghiệm chính mình để
khám phá bản chất chân lý của cơ cấu
thân và tâm. bắt đầu từ cấp độ vi tế
nhất, và ngài đã khám phá ra rằng toàn
bộ cấu trúc thuộc về vật lý, toàn bộ thế
giới vật chất, được kết hợp bằng những
tiểu nguyên tử, trong Paali gọi là
at.t.ha kalaapaa. Và ngài đã khám phá
rằng mỗi tố chất này gồm bốn yếu tố:
đất, nước, lửa và không khí và những
đặc tính hổ trợ của chúng. Những
thành phần này, ngài đã tìm ra, là
những nền móng xây dựng căn bản của
vật chất, và chính chúng nó luôn luôn
70
sinh diệt liên tục mong chóng-hàng tỉ
lần trong một giây. Trong thực tế
không có sự lâu bền trong thế giới vật
chất; nó không có gì chỉ là sự biến đổi
và dao động. Các nhàkhoa học hiện đại
đã xác định những khám phá của Đức
Phật, và đã chứng minh bằng thực
nghiệm rằng toàn bộ thế giới vật chất
được kết hợp bởi những thành phần
tiểu nguyên tử luôn sinh diệt liên tục.
Tuy nhiên, những nhà khoa học này
không giải thoát khỏi những khổ đau,
vì trí tuệ của họ chỉ là tri thức. Không
như Đức Phật, họ không có kinh
nghiệm trực tiếp ở nơi họ. Khi chúng ta
tự kinh nghiệm thực tại của vô thường
nơi mỗi chúng ta, chỉ khi nào chúng ta
bắt đầu thực nghiệm về khổ.
71
Khi sự tuệ tri về vô thường phát triển
trong mỗi chúng ta, một yết tố khác
của trí tuệ sinh khởi: không có "cái ta"
và "cái của ta" (anattaa). Toàn bộ cơ
cấu thân và tâm, không có gì (trong
thân và tâm của mỗi chúng ta) có thể
kéo dài hơn một sát na, không có gì
chúng ta có thể xem như tự ngã bất
biến hoặc linh hồn bấn biến. Nếu có cái
gì đó thật sự là "của ta", thì chúng ta
phải có thể có nó, để làm chủ nó,
nhưng thực tế chúng ta không điều
khiển được nó ngay cả thân thể của
chúng ta. Nó luôn thay đổi, suy tàn, bất
kể đến sự mong ước của chúng ta.
Từ đó phần thứ ba này của trí tuệ phát
triển: khổ (dukkha). Nếu chúng ta nổ
lực để thu đạt hoặc nắm giữ đối với
72
những gì mà chúng thay đổi vượt qua
sự kiểm soát của chúng ta, từ đó chúng
ta bị trói buộc và tạo ra khổ sở cho
chính mình. Thông thường, chúng ta
nhận ra khổ với những kinh nghiệm
cảm xúc bất lạc, nhưng những cảm thọ
lạc có thể xem như đồng đẳng với với
các nguyên nhân của khổ, nếu chúng ta
tăng trưởng sự tham đắm về nó, vì
chúng nó đồng nghĩa với vô minh.
Tham đắm những gì mang tính tạm bợ
thì chắc chắn mang lại kết quả đau khổ
mà thôi.
Khi hiểu biết về vô thường (anicca),
khổ (dukkha) và vô ngã (anattaa) là
một điều chắc chắn, trí tuệ này sẽ biểu
hiện trong đời sống hàng ngày của
chúng ta. Chẳng hạn chúng ta đã học
73
để thể nhập vượt qua thực tại hiển
nhiên ở đó,cũng vậy trong nhũng tình
huống ngoại tại chúng ta sẽ có thể thấy
sự thật một cách rõ ràng và cũng đồng
thời nhận ra chân lý thực tối hậu.
Chúng ta làm muội lượt vô minh và
sống một cuộc đời lành mạnh và hạnh
phúc.
Nhiều ảo tưởng được tạo ra bằng thực
tại hiển nhiên, cũng cố và kết hợp-
chẳng hạn như ảo tưởng về cái đẹp
thân thể. Thân thể dường như đẹp chỉ
khi nó được phối hợp. Những phần
riêng biệt của nó nhìn một cách riêng
rẻ, thì chẳng có gì hấp dẫn và đẹp cả
(asubha). Cái đẹp thân thể là bề ngoài,
thực tại ở bên ngoài, không phải là
chân lý rốt ráo.
74
Tuy nhiên, sự hiểu biết về bản chất
không thật của cái đẹp thân thể sẽ
không đưa đến giận ghét người khác.
Khi trí tuệ sinh khởi, tự nhiên, tâm trở
nên thăng bằng, không cấu nhiểm,
thuần tịnh , đầy thiện chí hướng đến
moị vật. Sau khi kinh nnghiệm thực tại
trong mỗi chúng ta, chúng ta có thể
làm muội lượt ảo tưởng (vô minh) ,
tham lam và sân hận, và có thể sống an
bình và hạnh phúc.
Sáng mai, các bạn sẽ tiến hành những
bước tiến đầu tiên của các bạn vào lãnh
vực trí tuệ khi các bạn bắt đầu thực
hành Vipassan. Đừng hy vọng rằng
ngay khi các bạn bắt đầu thì các bạn sẽ
thấy tất cả những phần tử vi tế sinh diệt
trong thân thể các bạn. Không, các bạn
75
bắt đầu với sự thật thô và bên ngoài, và
bằng cách duy trì niệm xả, từ từ chúng
ta thể nhập vào chân lý vi tế hơn, chân
lý tối hậu của tâm thức, của thân thể,
của những yếu tố thuộc về tâm và cuối
cùng chân lý tối hậu vượt qua yếu tố
thân và tâm.
Để thành tựu mục đích này, các bạn
phải nổ lực chính mình. Vì vậy, giữ
giới thật nghiêm túc, vì đây là nền
móng của sự thiền định, và giữ thực tập
hơi thở đến 3 giờ chiều ngày mai; duy
trì sự theo dõi thực tại xung quanh khu
vực hai lỗ mũi. Giữ tâm các bạn thật
nhạy bén để khi các bạn bắt đầu thực
hành Vipassana vào ngày mai, các bạn
có thể đi sâu vào cấp độ sâu hơn và
đoạn ttrừ những phiền não tìm ẩn ở đó.
76
Hãy hành trì tinh tấn, liên tục, kiên cố,
vì sự tốt đẹp và sự giải thoát cho các
bạn.
Cầu mong tất cả chư vị thành công
trong sự hành trì những bước đầu tiên
về giáo lý giải thoát.
NGÀY THỨ TƯ
Những câu hỏi liên quan đến vấn đề
làm sao để thực hành thiền Vipassana
Qui luật về giáo lý nghiệp quả
Sự quan trọng của hành động thuộc về
tâm
Bốn sự tập hợp của tâm:sự hiểu biết (ý
thức), sự nhận thức, sự cảm thọ , sự
phản ứng
Ngày thứ tư là ngày rất quan trọng. Các
bạn đã bắt đầu thể nhập vào dòng sông
77
của chánh pháp (Ganges of Dhamma),
khám phá chân lý nơi các bạn ở cấp độ
những cảm thọ về thân. Trong quá khứ,
vì vô minh, những cảm thọ này là
những nguyên nhân cho sự tăng trưởng
những khổ đau trong các bạn, nhưng
chúng nó cũng có thể dùng để đoạn trừ
khổ đau. Các bạn đã tiến hành bước
đầu tiên vào con đường giải thoát bằng
sự luyện tập quan sát những cảm thọ về
thân và duy trì bình thản tâm. Vài vấn
đề về phương pháp thường được hỏi:
Tại sao di chuyển sự chú ý trên thân
thể theo một trật tự và tại sao phải theo
trật tựnày? bất cứ trật tự nào đều có thể
thực hành, nhưng một trật tự là đủ.
Ngược lại nguy hiểm về sự không chú
ý ở một vài bộ phận của thân thể, và
78
những phần này sẽ duy trì không cảm
xúc và trống không. Cảm thọ có mặt
khắp thân thể, và trong phương pháp
này, tầm quan trọng là phát triển khả
năng kinh nghiệm cảm thọ ở mọi nơi.
Vì mục đích này, di chuyển sự chú ý
các cảm thọ theo trật tự rất là có lợi.
Nếu trong một phần của thân thể không
có cảm thọ, các bạn có thể duy trì sự
chú tâm của các bạn ở đó khoảng một
phút. Trong thực tế, ù cảm thọ luôn có
mặt ở đó, như ở mọi bộ phận khác của
thân thể, nhưng nó có một tính chất vi
tế như vầy đến nổi tâm của các bạn
không nhận ra nó một cách ý thức, và
vì vậy nơi này dường như vô giác (
không cảm nhận được ). Duy trì
khoảng một phút, theo dõi một cách
79
tĩnh lặng và xả ly. Ðừng tạo ra sự tham
đắm vì một cảm thọ, hoặc sân hận
hướng đến sự mù quáng. Nếu các bạn
làm như vậy, các bạn đã làm mất sự
thăng bằng ở các bạn, và tâm mất thăng
bằng thì rất là ngu ngốc; nó chắc chắn
không thể kinh nghiệm những cảm thọ
vi tế hơn. Nhưng nếu tâm duy trì sự
thăng bằng, nó trở nên nhạy bén hơn và
mạnh hơn, khả năng khám phá các cảm
thọ vi tế nhiều hơn. Theo dõi những
phần của thân thể một cách xả ly
khoảng một phút, không quá một phút.
Nếu trong vòng một phút không có
cảm thọ khởi lên, lúc đó mỉm cười và
dời đi nơi khác. Vòng quan sát kế tiếp,
lại duy trì một phút nữa; sớm muộn gì
các bạn sẽ bắt đầu kinh nghiệm cảm
80
thọ ở đó và khắp thân thể. Nếu các bạn
duy trì đã một phút nhưng vẫn không
cảm nhận một cảm thọ, thì tập trung
cảm nhận sự xúc chạm quần áo của bạn
nếu nó là nơi được bao phủ, hoặc sự
tiếp xúc với môi trường nếu nó không
bị bao phủ. Bắt đầu với những cảm thọ
bề ngoài như vầy,và tuần tự các bạn
cũng sẽ bắt đầu để cảm nhận những
cảm thọ khác.
Nếu sự chú ý được đặt vào một phần
của thân thể và một cảm thọ khởi lên ở
một nơi khác, chúng ta có nên nhảy lui
trở lại hoặc hướng đến để theo dõi cảm
thọ này hay không?không nên làm như
vậy mà tiếp tục di chuyển sự quan sát
theo trật tự. Ðừng tìm cách làm không
cho sinh khởi những cảm thọ ở những
81
phần khác của thân thể.-các bạn không
thể làm như thế- nhưng cũng đừng chú
trọng đến chúng nó. Theo dõi mỗi cảm
thọ chỉ khi nào các bạn đến với chúng
nó, di chuyển theo trật tự. Ngược lại
các bạn sẽ nhảy từ nơi này đến nơi
khác, bỏ sót nhiều phần của cơ thể
không quan sát, thì sự theo dõi quan sát
của các bạn chỉ là những cảm thọ thô
mà thôi. Các bạn phải tự huấn luyện
chính mình để quan sát tất cả những
cảm thọ khác nhau trong mỗi phần của
thân thể, thô hoặc tế, lạc hoặc bất lạc,
dễ nhận hoặc khó nhận. Vì vậy đừng
bao giờ cho phép sự quan sát chú ý
nhảy từ chỗ này đến chỗ khác.
Bao lâu chúng ta nên giữ sự quan sát
trải qua từ đầu đến chân? Ðiều này sẽ
82
khác nhau tùy theo tình huống mà
chúng ta đang đối diện. Sự hướng dẫn
là để đặt sự chú tâm của các bạn vào
một khu vực xác định, và ngay lúc các
bạn nhận ra cảm thọ, thì hãy di chuyển
tiếp tục. Nếu tâm thức đủ sự nhảy cảm
nó sẽ nhận rõ cảm thọ ngay lúc nó đến
khu vực đó, và các bạn có thể duy
chuyển tiếp tục liền. Nếu tình huống
này xảy ra khắp thân thể, có thể di
chuyển sự tập trung từ đầu đến chân
trong vòng 10 phút; nhưng không nên
di chuyển nhanh hơn khoảng thời gian
vừa nói. Tuy nhiên, Nếu tâm thức
không bén nhạy, có thể có nhiều khu
vực ở đó cần thiết chờ khoảng một
phút để cảm thọ sinh khởi. Trong
trường hợp này, có thể mất khoảng 30
83
phút hoặc một giờ để di chuyển sự
quan sát từ đầu đến chân. Thời gian
cần để quan sát một vòng thân thể
không quan trọng. Chỉ duy trì hành trì
nhẫn nại, kiên trì; các bạn chắc chắn sẽ
thành tựu.
Khoảng giới hạn về khu vực quan sát
phải như thế nào để có thể đặt sự chú
tâm vào đó được? Hãy lấy một phần
của thân thể khoảng hai hoặc ba inch (1
inch =2.54cm) chiều rộng; từ đó di
chuyển sự quan sát đến khu vực khác
có độ rộng tương đương như vậy. Nếu
tâm thức chưa nhạy bén, sử dụng khu
vực rộng hơn, chẳng hạn như toàn bộ
khuôn mặt, hoặc toàn bộ cánh tay phần
trên; rồi từ từ cố gắng thu nhỏ lại khu
vực tập trung. Cuối cùng các bạn có thể
84
cảm nhận những cảm thọ ở mỗi phần
của thân thể, nhưng giai đoạn này, mỗi
khu vực có độ rộng khoảng hai hoặc ba
inch là đủ.
Chúng ta có nên cảm nhận những cảm
thọ chỉ trên bề mặt của thân thể hay là
cũng ở bên trong nữa? Ðôi khi một vị
thiền giả cảm nhận những cảm thọ bên
trong ngay lúc anh ta bắt đầu hành trì
Vipassana; đôi khi ở giai đoạn đầu anh
ta cảm nhận những cảm thọ chỉ ở bề
mặt. Một trong hai cách đều tốt cả. Nếu
những cảm thọ chỉ xuất hiện trên bề
mặt, theo dõi chúng nó qua nhiều lần
cho đến khi các bạn cảm nhận cảm thọ
ở mọi nơi trên bề mặt, sau đó các bạn
sẽ bắt đầu thể nhập vào cảm thọ bên
trong. Tuần tự tâm thức sẽ phát triển
85
khả năng cảm nhận những cảm thọ ở
mọi nơi, cả hai bên trong và bên ngoài,
trong mỗi phần cấu trúc của thân thể.
Nhưng hãy bắt đầu, những cảm thọ
thuộc bên ngoài là đủ rồi.
Con đường dẫn xuyên qua toàn bộ lãnh
vực cảm nhận bằng giác quan, đối với
thực tại tối hậu nó vượt qua kinh
nghiệm bằng giác quan. Nếu các bạn
tiếp tục thanh lọc tâm các bạn với sự
hổ trợ của cảm thọ, chắc chắn các bạn
sẽ đạt giai đoạn tối hậu.
Khi nào chúng ta không ý thức, các
cảm thọ là một phương tiện để tăng
trưởng phiền não của chúng ta, vì
chúng ta phản ứng lại chúng nó với
tham hoặc sân. Vấn đề sinh khởi ngay
86
hiện tại, những căn thẳng phát nguồn, ở
cấp độ của những cảm thọ bằng thân.;
vì vậy, đây là cấp độ ở đó chúng ta
phải thi hành để giải quyết vấn đề, để
thay đổi thói quen của tâm thức. Chúng
ta phải học cách tỉnh giác đối với tất cả
những cảm thọ sinh khởi mà không
phản ứng lại chúng, chấp nhận sự thay
đổi của chúng, vì đó là bản chất khách
quan. Bằng cách thực hành như vậy,
chúng ta loại trừ thói quen về sự phản
ứng thiếu ý thức, chúng ta giải thoát
chính mình ra khỏi khổ não.
Cảm thọ là gì? Bất cứ điều gì chúng ta
có thể cảm nhận ở cấp độ bằng thân thể
thì là một cảm thọ- bất cứ cảm thọ tự
nhiên, thông thường, bình thường bằng
thân thể, hoặc là lạc hay khổ, thô hay
87
tế, mạnh hoặc yếu. Ðừng bao giờ phớt
lờ một cảm thọ trên yếu tố rằng nó
được tạo ra do những điều kiện môi
trường, hoặc do ngồi quá lâu, hoặc do
một chứng bệnh từ trước. Bất cứ lý do
gì, vấn đề là các bạn cảm nhận một
cảm thọ. Trước đây các bạn có thói
quen đẩy ra những cảm thọ bất lạc và
kéo lại những cảm thọ lạc. Bây giờ các
bạn chỉ quan sát như là một đối tượng,
đừng đồng nhất chúng nó với những
cảm thọ.
Một sự quan sát không lựa chọn, đừng
bao giờ cố chọn những cảm thọ; thay
vì chấp nhận bất cứ những gì sinh khởi
một cách tự nhiên. Nếu các bạn khởi
lên tìm cái gì đó riêng biệt, đặc biệt,
các bạn sẽ tạo ra những khó khăn cho
88
chính mình, và sẽ không thể tiếp tục
duy trì phương pháp. Phương pháp
hành trì không phải để kinh nghiệm
điều gì đó mang tính đặc biệt, mà thích
hợp hơn chỉ duy trì trạng thái xả trong
vấn đề của bất cứ cảm thọ nào. Trong
quá khứ các bạn đã có những cảm thọ
tương tự trong thân thể các bạn, nhưng
các bạn không tỉnh thức về nó một
cách có ý thức, và các bạn đã phản ứng
lại nó. Bây giờ các bạn đang học để
duy trì cấp độ bình thản (trạng thái xả).
Nếu các bạn thực hành theo cách này,
tuần tự toàn bộ qui luật tự nhiên sẽ trở
nên rõ ràng đối với các bạn. Ðây là
những gì Giáo pháp định nghĩa: bản
chất tự nhiên, qui luật, chân lý. Ðể hiểu
chân lý ở cấp độ kinh nghiệm, chúng
89
phải khảo sát chúng nó trong cấu trúc
toàn bộ thân thể của chúng ta. Ðây là
những gì mà Thái tử Sidddhattha
Gotama đã thực hành để trở thành một
vị Phật, và nó trở thành quá rõ ràng đối
với Ngài, và sẽ trở thành rõ ràng cho
bất cứ ai thực hành như Ngài đã thực
hành, cái mà toàn bộ vũ trụ, trong thân
thể cũng như bên ngoài nó, mọi thứ
luôn luôn thay đổi. Không có gì là kết
quả cuối cùng; mọi vật được liên hệ
trong tiến trình của hình thành (bhava).
Và một thực tại khác sẽ trở nên rõ
ràng: mọi vật xảy ra đều có nguyên
nhân. Mỗi sự thay đổi có một nguyên
nhân, nguyên nhân tạo ra kết quả, và
rồi kết quả lần lược trở thành nguyên
nhân cho sự thay đổi khác, tạo ra một
90
vòng mắc xích vô tận nhân và quả. Và
một qui luật nữa trở nên rõ ràng: khi
nguyên nhân như thế nào thì kết quả sẽ
như thế ấy; khi hột giống như thế nào
thì sẽ dẫn đến qủa trái như thế ấy.
Trên cùng một mảnh đất chúng ta gieo
hai loại hạt giống, một loại mía và một
loại "neem" một loại cây nhiệt đới rất
đắng. Từ giống mía phát triển thành
cây mía có vị ngọt trong mỗi sớ mía, từ
giống neem thành cây và có vị đắng
trong mỗi sớ của nó. Chúng ta có thể
hỏi tại sao Tự nhiên lại từ tốn (tình
thương) đối với cây này và thô lỗ đối
với cây khác. Thực tế, Tự nhiên không
phải từ tốn cũng không phải thô lỗ; nó
tiến hành theo qui luật đã đặt định.
Chúng ta chỉ giúp cho tính chất của
91
mỗi hạt giống biểu hiện. Nếu chúng ta
gieo trồng những hạt giống ngọt, thu
họach sẽ là vị ngọt. Như hạt giống hiện
có, cũng vậy quả trái sẽ như vậy; khi
những hành động như thế này thì kết
quả sẽ thương xứng như vậy.
Vấn đề là chúng ta rất tỉnh táo ở thời
gian gặt hái, muốn nhận quả ngọt,
nhưng trong suốt thời thời vụ gieo
chúng ta không tỉnh táo, và trồng giống
trái đắng. Nếu chúng ta muốn quả ngọt
chúng ta nên trồng những loại giống
tuơng xứng. Cầu nguyện hoặc mong
ước vì một phép màu chỉ là tự lừa dối
mình; chúng ta phải hiểu và sống theo
qui luật tự nhiên. Chúng ta phải cẩn
trọng về những việc làm của chúng ta,
vì những việc làm này là hạt giống liên
92
quan đến phẩm chất của những gì mà
chúng ta sẽ nhận là vị đắng hoặc ngọt.
Có ba loại hành động: bằng thân , bằng
lời nói và bằng ý nghĩ suy tư. Chúng ta
học để quan sát chính chúng ta và tuệ
tri ngay lập tức rằng hành động thuộc
về tâm thức là quan trọng nhất, vì đây
là hạt giống, hành động sẽ dẫn đến kết
quả. Những thước đo để đo lường
cường độ của nó. Chúng nó phát nguồn
như hành động bằng ý nghĩ, và hành
động này biểu hiện bằng kết quả ở cấp
độ thân hoặc là lời nói (miệng). Vì vậy
Ðức Phật đã tuyên bố:
Tâm thức dẫn đầu tất cả mọi vấn đề,
Tâm làm chủ, tâm tạo ra mọi vật. Nếu
với tâm không thuần tịnh Nói lên hoặc
93
hành động, Thì khổ não sẽ theo sau các
bạn Như bánh xe theo sau dấu chân
của con vật kéo xe.(PC. I,1)
Nếu với tâm thanh tịnh Các bạn nói lên
hhoặc hành động Thì hạnh phúc sẽ
theo sau các bạn Như chiếc bóng
không tách rời hình. (PC. I,2)
Nếu đây là vấn đề, từ đó chúng ta phải
biết cái gì là tâm thức và nó làm việc
như thế nào. Chúng ta đã bắt đầu quan
sát hiện tuợng này bằng sự tu tập của
các bạn. Khi các bạn hành trì, nó sẽ trở
nên rõ ràng rằng có bốn phần chính
hoặc những thành phần tập hợp của
tâm thức.
Phần thứ nhất được gọi là
Vin~n~aan.a, nó có thể được dịch là sự
94
nhận thức. Các cơ quan giác quan
không hoạt động trừ phi tâm thức tiếp
xúc với chúng nó. Ví dụ, nếu chúng ta
bị thu hút trong một sắc đẹp, một âm
thanh có thể đến nhưng chúng ta sẽ
không nghe nó, vì tất cả tâm thức của
chúng ta đang tập trung vào ở mắt. Vai
trò của phần này của tâm là để nhận
thức, đơn giản để biết, không có sự
phân biệt. Một âm thanh đến tiếp xúc
với tai, và tâm thức chỉ lưu ý vấn đề
rằng có một âm thanh đã đến.
Rồi phần kế tiếp của tâm thức bắt đầu
làm việc: san~n~aa (sự nhận thức).
Một âm thanh đã đến, và từ kinh
nghiệm quá khứ của chúng ta và ký ức
(bộ nhớ), chúng ta nhận ra nó: một âm
thanh, qua lời nói, những tiếng khen,
95
tiếng tốt ; hoặc một âm thanh , lời nói ,
những tiếng chê, tiếng xấu. Chúng ta
đưa ra một sự đánh giá về tốt hoặc xấu,
theo kinh nghiệm quá khứ của chúng
ta.
Ngay lúc đó phần thứ ba của tâm thức
bắt đầu làm việc: cảm thọ (vedanaa).
Ngay lúc âm thanh vừa đến, một cảm
thọ xuất hiện trên thân thể, nhưng khi
sự nhận thức nhận ra nó và cho ra một
sự đánh gía, cảm thọ trở nên thích thú
hay không thích thú tùy theo sự đánh
gía đó. Ví dụ: một âm thanh đến bằng
những lời nói, những lời ca ngợi , tốt
đẹp- và chúng ta cảm nhận một cảmthọ
lạc xuyên khắp thân thể. Hoặc ngược
lại một âm thanh đến mang theo những
lời nói, những lời chê bai, xấu - và
96
chúng ta cảm nhận một cảm thọ bất lạc
xuyên qua thân thể. Những cảm thọ
khởi lên ở thân, và được cảm nhận
bằng tâm; đây là vai trò được gọi là
Vedanaa (cảm thọ).
Sau đó phần thứ tư của tâm thức bắt
đầu làm việc: san’khara (tâm sở hành,
sư phản ứng của tâm thức). Một âm
thanh đến với những lời nói, những lời
khen ngợi, tốt... cảm thọ lạc khởi lên-
và chúng ta bắt đầu thích nó: "Tiếng
khen này là tuyệt vời! Tôi muốn khen
nhiều hơn nữa!" hoặc một âm thanh
đến với những lời nói, những lời chê
bai, xấu... cảm thọ bất lạc khởi lên- và
chúng ta bắt đầu không thích nó: "Tôi
không thích lời chê bai này, hãy chấm
dứt ngay!". Ở mỗi cơ quan của các căn,
97
cùng một tiến trình như vậy xảy ra; mắt
, tai, mũi, lưỡi, thân. Tương tự, khi một
ý nghĩ hoặc một sự tưởng tượng tiếp
xúc với tâm, cùng một cách một cảm
thọ sinh khởi trong thân, lạc hoặc bất
lạc, và chúng ta bắt đầu phản ứng với
thích ù hoặc không thích nó. Ðiều ham
thích tạm thời này phát triển thành
tham muốn nhiều; điều không thích
này phát triển thành sân giận lớn.
Chúng ta bắt đầu cột những thắt nốt
bên trong.
Ðây là hột giống chắc thật đưa đến kết
quả, sự phản ứng lại sẽ dẫn đến kết
quả: san’khara (sự phản ứng thuộc về
tâm). Mỗi sát na chúng ta gieo hột
giống này, phản ứng lại với thích hoặc
không thích, tham lam hoặc sân giận,
98
và bằng cách làm như vậy chính chúng
ta tạo ra đau khổ.
Có những phản ứng chỉ tạo ra một ấn
tượng rất nhẹ, và bị tiêu diệt ngay tức
thời, còn những phản ứng tạo ra một ấn
tượng sâu hơn một tí thì nó bị tiêu diệt
sau một chập thời gian, và những phản
ứng nào có ấn tượng rất sâu, và mất
một khoảng thời gian dài mới loại bỏ
được nó. Vào mỗi cuối của một ngày,
nếu chúng ta cố gắng ghi nhớ lại tất cả
những phản ứng của tâm mà chúng ta
đã tạo ra, chúng ta sẽ chỉ có thể nhớ lại
một hoặc hai phản ứng mà đã tạo ấn
tượng sâu nhất trong suốt ngày. Cùng
một cách như vậy, ở cuối mỗi tháng
hoặc mỗi năm, chúng ta sẽ có thể nhớ
lại chỉ một hoặc hai phản ứng mà đã
99
tạo ra ấn tượng sâu nhất trong suốt thời
gian ấy. Và thích nó hoặc không thích,
ở cuối cuộc đời, những gì phản ứng đã
tạo ra mạnh nhất chắc chắn khởi lên
trong tâm; và cuộc sống kế tiếp sẽ bắt
đầu với tâm thức của cùng một tính
chất, sau khi sở hữu những phẩm chất
như nhau của vị ngọt hoặcø đắng.
Chúng ta taọ ra tương lai chúng ta,
bằng những phản ứng của mình.
Vipassana dạy nghệ thuật chết: làm thế
nào để chết an lạc và nhẹ nhàng. Và
chúng ta học nghệ thuật chết bằng cách
học nghệ thuật sống: làm thế nào để
làm chủ trong giây phút hiện tại, làm
thế nào để không tạo ra một phản ứng
ở m?i sát na này, và làm thế nào để
sống một cuộc đời hạnh phúc tại đây
100
và ngay bây giờ. Nếu hiện tại là tốt,
chúng ta không cần lo lắng cho tương
lai, chỉ là sản phẩm của hiện tại, và vì
vậy chắc chắc là tốt.
Có hai vấn đề trong phương pháp tu
tập:
Thứ nhất là phá vỡ những chướng ngại
giữa những cấp độ nhận thức và vô
thức của tâm thức. Thông thường thì
tâm nhận thức không biết gì về những
gì đang được kinh nghiệm bởi tâm vô
thức. Bị che đậy bởi sự không nhận
thức này, sự phản ứng luôn xảy ra ở
cấp độ không nhận thức; vào lúc chúng
nó hướng đến cấp độ nhận thức, chúng
nó trở thành quá mạnh về cường độ
đến nổi chúng nó dễ dàng vượt qua
101
năng lực của tâm thức. Bằng phương
pháp tu tập này, toàn bộ khối tập hợp
của tâm thức trở nên nhận thức, tỉnh
giác; tâm vô thức (vô minh) được loại
trừ.
Vấn đề thứ hai của phương pháp là sự
bình thản (tâm xả). Chúng ta tỉnh thức
tất cả những gì chúng ta kinh nghiệm,
và mỗi cảm thọ, nhưng đừng phản ứng
lại, đừng tạo ra sự thắt gút mới của
tham hoặc sân giận, đừng làm khổ cho
chính mình.
Ðể bắt đầu, trong lúc các bạn ngồi
thiền, hầu như các bạn sẽ phản ứng lại
những cảm thọ, nhưng một vài khoảnh
khắc sẽ đến khi các bạn duy trì bình
thản (tâm xả), mặc dầu cảm thọ rất là
102
đau. Những khoảnh khắc như vầy có
năng lực rất mạnh trong việc chuyển
những thói quen trong tâm thức. Dần
dần các bạn sẽ đến một trạng thái ở đó
các bạn có thể mỉm cười với bất cứ
những cảm thọ, biết nó là vô thường
(anicca), chắc chắn vượt qua.
Ðể thành tựu trạng thái này, các bạn
phải thực tập chính các bạn; không ai
có thể thay thế làm cho các bạn. Một
điều rất tốt là các bạn đã tiến hành
bước thứ nhất của phương pháp tu tập;
bây giờ tiếp tục bước từng bước một
hướng đến sự giải thoát cho các bạn.
Cầu mong tất cả các bạn vui với chân
hạnh phúc.
103
Cầu mong tất cả chúng sanh được an
vui.
---o0o---
BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ
NĂM
Tứ thánh đế: khổ đế, nguyên nhân của
khổ, sự đoạn diệt khổ và con đường
đoạn diệt khổ
Chuổi mắc xích của sự sinh khởi có
điều kiện.
Ngày thứ năm đã qua; các bạn còn năm
ngày nữa để tu tập. Hãy sử dụng tốt
nhất trong năm ngày còn lại bằng nỗ
lực hành trì, với sự hiểu biết đúng đắn
về phương thức hành trì.
Từ sự quan sát theo dõi hơi thở với một
khu vực giới hạn, các bạn đã tiến hành
104
quan sát những cảm thọ xuyên suốt
thân thể. Khi chúng ta bắt đầu sự hành
trì này, rất có thể rằng chúng ta sẽ bắt
đầu đương đầu với những cảm thọ thô,
cứng ngắt, khốc liệt, bất lạc chẳng hạn
như cảm thọ đau, căng thẳng vân vân.
Các bạn đã đương đầu với những cảm
thọ như vầy ở quá khứ, nhưng thói
quen tâm thức của các bạn đã phản ứng
lại những cảm thọ này, để xoay cuộn
vào tham đắm và trói cuộn trong đau
khổ, luôn bị dao động quấy nhiễu. Bây
giờ các bạn đang hành trì cách quan sát
không phản ứng lại, cách kiểm tra các
cảm thọ một cách khách quan, không
đồng nhất với chúng nó.
Sự đau còn hiện hành, sự khổ còn hiện
hành. Sự khóc than sẽ không xoa tan
105
đau khổ cho bất cứ ai. Làm thế nào để
chúng ta loại trừ khổ đau? Làm thế nào
chúng ta sống với sự khổ đau?
Một vị Bác sĩ điều trị một bệnh nhân
phải biết căn bịnh của bệnh nhân, và
điều gì là căn nguyên của căn bệnh.
Nếu có một nguyên nhân, thì phải có
cách loại trừ nó bằng sự dời đi nguyên
nhân đó. Một khi nguyên nhân đã dời
rồi, căn bệnh tự động sẽ lành. Vì vậy,
những tiến trình phải được thực hành là
để loại trừ căn nguyên.
Trước tiên chúng ta phải chấp nhận vấn
đề khổ. Mọi nơi khổ hiện hành, đây là
sự thật hiển bày ở khắp mọi nơi.
Nhưng nó trở thành một chân lý cao
thượng khi chúng ta bắt đầu sự quan
106
sát nó mà không phản ứng lại, vì bất cứ
ai thực hành như vậy chắc chắn vị ấy
sẽ trở thành một người Cao thượng,
một Vị thánh.
Khi chúng ta bắt đầu sự quan sát chân
lý thứ nhất, chân lý của khổ, từ đó ngay
tức khắc nguyên nhân của khổ trở nên
rõ ràng, và chúng ta cũng bắt đầu sự
quan sát nó; đây là chân lý thứ hai. Nếu
nguyên nhân được loại trừ, thì khổ sẽ
được loại trừ; đây là chân lý thứ ba- sự
đoạn trừ khổ đau. Để thành tựu sự đoạn
trừ khổ chúng ta phải tiến hành những
phương thức; đây là chân lý thứ tư- con
đường dẫn đến chấm dứt khổ bằng sự
đoạn trừ các nguyên nhân của nó.
107
Chúng ta bắt đầu bằng sự thực hành để
quán sát không phản ứng lại. Kiểm tra
nỗi đau mà các bạn kinh qua một cách
khác quan, như thể nó là cái đau của ai
đó. Tự suy xét nó như một nhà khoa
học quan sát một thực nghiệm trong
phòng thí nghiệm của anh ta. Khi các
bạn thất bại, hãy cố gắng trở lại. Luôn
có gắng, và các bạn sẽ thấy rằng dần
dần các bạn đang làm muội lược những
khổ đau.
Mỗi chúng sanh đau khổ. Cuộc đời bắt
đầu bằng tiếng khóc; sanh là một nỗi
khổ lớn. Và bất cứ ai đã được sinh thì
ắt hẳn phải chịu những khổ đau của
bệnh và tuổi già. Nhưng không có gì
khác nhau û về nỗi khổ đau trong đời
sống của chúng ta có thể có, không có
108
ai muốn chết, vì chết là một nỗi khổ
đau lớn.
Mặc dù đời sống, chúng ta đương đầu
với những vấn đề mà chúng ta không
thích, và tách xa những gì mà chúng ta
thích. Không muốn những điều xảy ra,
muốn những điều đừng xảy ra, và
chúng ta cảm nhận nỗi đau khổ.
Sự hiểu biết đơn giản thực tại này ở
cấp độ nhận thức sẽ không giải thoát
cho bất cứ ai. Nó chỉ có thể cho một sự
cảm hứng để nhìn trong mỗi chúng ta,
để kinh nghiệm chân lý và tìm con
đường thoát khổ. Đây là những gì mà
Thái Tử Siddhatha Gotama đã làm để
trở thành một Vị Phật: Ngài đã bắt đầu
quán sát thực tại trong cấu trúc thân thể
109
của Mình như một nhà khoa học
nghiên cứu, di chuyển từ sự thật thô,
bên ngoài đến sự thật vi tế hơn và vi tế
nhất. Ngài đã thấy rằng bất cứ khi nào
chúng ta phát triển tham đắm, hoặc là
chấp giữ một cảm thọ lạc hoặc là loại
bỏ một cảm thọ bất lạc, và sự tham
đắm đó không được thỏa mãn, thì
chúng ta bắt đầu khổ đau. Và đi xa hơn
nữa, ở cấp độ vi tế nhất, Ngài đã thấy
rằng khi nhìn với tâm tập trung (định),
một điều rõ rằng sự tham đắm đối với
năm thủ uẩn (năm sự tập hợp tạo thành
một cá thể) là khổ. Một cách ý thức,
chúng ta có thể hiểu rằng sắc uẩn, thân
thể, không phải là "Tôi", không phải
"của Tôi", nhưng chỉ là một khách
quan, sự thay đổi các hiện tượng vượt
110
ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta;
tuy nhiên, thực ra, chúng ta đồng nhất
chính mình với thân thể, và phát triển
tham đắm tột cùng đối với nó. Tương
tự chúng ta phát triển sự tham đắm đối
với bốn thủ uẩn còn lại: thức uẩn,
tưởng uẩn, thọ uẩn, hành uẩn (phản
ứng),và dính mắc vào chúng nó như '
Tôi, của Tôi' mặc dù bản chất của
chúng luôn liên tục thay đổi. Vì những
mục đích thích đáng chúng ta phải sử
dụng từ 'Tôi' và 'của Tôi', nhưng khi
chúng ta phát triển sự tham đắm về
năm thủ uẩn, chúng ta tạo ra đau khổ
cho chính chúng ta. Khi nào có tham
đắm, khi đó tất nhiên có khổ, và tham
đắm nhiều hơn, khổ não sẽ nhiều lên
một cách tương xứng.
111
Có bốn loại tham đắm mà chúng ta
luôn phát triển trong đời sống. Thứ
nhất là tham đắm về những ham muốn
của chúng ta, đối với thói quen của
tham đắm này. Bất cứ khi nào tham
đắm khởi lên trong tâm thức, nó được
kết hợp với một thân cảm thọ. Mặc dù
ở một cấp độ sâu, một cơn bão của dao
động đã bắt đầu, ở một cấp độ bên
ngoài chúng ta thích cảm thọ và mong
muốn nó tiếp tục duy trì. Vấn đề này có
thể được so sánh với một cảm giác khó
chịu của một cơn đau nhức: làm như
vậy chỉ tăng thêm tức tối với nó, và chỉ
khi chúng ta hoan hỷ với cảm thọ của
cảm giác khó chịu. Cùng một cách như
vậy, ngay khi tham muốn được tràn
đầy, cảm thọ được phối hợp với ham
112
muốn cũng đi qua, và vì vậy chúng ta
tạo ra một tham muốn mới theo cách
đó cảm thọ có thể tiếp tục. Chúng ta trở
nên say đắm vào tham đắm và tăng
trưởng đau khổ cho chính mình.
Một tham đắm khác là sự chấp giữ
'Tôi, của Tôi', không biết gì thật sự 'cái
Tôi' này. Chúng ta không thể chịu đựng
bất cứ sự phê bình gì về 'cái tôi' của
chúng ta hoặc bất cứ sự phương hại
nào đến nó. Và sự tham đắm lang rộng
bao gồm bất cứ điều gì thuộc về 'tôi' ,
bất cứ những gì là 'của tôi'. Tham đắm
này sẽ không mang lại khổ đau nếu bất
cứ những gì là 'của tôi' có thể tiếp tục
thường hằng, và cái 'tôi' cũng có thể
duy trì để vui thú với nó mãi mãi,
nhưng qui luật tự nhiên thì sớm muộn
113
gì chúng ta hoặc bất cứ ai phải qua đời.
Tham đắm đối với điều gì mang tính
chất vô thường thì chắc chắn mang lại
khổ đau mà thôi.
Tương tự, chúng ta phát triển chấp đắm
đối với những quan điểm và niềm tin
của chúng ta, và không thể chịu đựng
bất cứ sự phê bình nào về chúng nó,
hoặc ngay cả chấp nhận rằng những
người khác có thể có những quan điểm
khác. Chúng ta không hiểu rằng mỗi
người mang một cặp kính màu, mỗi
màu khác nhau ở mỗi người. Bằng sự
tháo cặp kính màu ra, chúng ta có thể
thấy sự thật như đang hiển bày, không
ngừng nghỉ, nhưng thay vì chúng ta
duy trì chấp đắm màu sắc cặp kính màu
114
của chúng ta, với những định kiến từ
lâu và niềm tin của chúng ta.
Còn một sự tham đắm khác nữa là sự
bám chặt vào những nghi lễ, tế tự của
chúng ta, và những phương pháp hành
trì thuộc tôn gíáo. Chúng ta sai đề hiểu
rằng những thứ này chỉ là những sự
trưng bày bên ngoài, mà chúng nó
không hàm chứa cốt lõi của chân lý.
Nếu có ai đó được chỉ phương cách để
kinh nghiệm chân lý trực tiếp trong
chính anh ta nhưng anh ta vẫn tiếp tục
dính mắc những hình thức trống rỗng
bề ngoài, tham đắm này tạo ra một sự
tranh đấu trong người này, mà kết
ûïquả gặt hái trong khổ đau.
115
Tất cả những nổi khổ trong cuộc đời,
nếu được kiểm tra xít sao, sẽ thấy được
phát sinh từ một trong bốn tham chấp
này. Đây là những gì Thái tư Siddhatha
Gotama đã tìm ra trong việc tìm kiếm
chân lý cuả Ngài. Nhưng ngài vẫn tiếp
tục khảo sát ở nơi chính bản thân mình
để khám phá nguyên nhân sâu thẳm
nhất của nỗi khổ, để hiểu toàn bộ hiện
tượng vận hành như thế nào, để truy
tìm đến căn nguyên của nó.
Hiển nhiên, những nỗi khổ trong cuộc
đời- sanh, già, chết, thống khổ thuộc về
thân và tâm- là kết quả tất yếu của của
một kiếp người đã sinh ra trong cuộc
đời. Điều gì là nguyên nhân của sinh?
Tất nhiên, nguyên nhân thực tại là sự
phối hợp của cha mẹ, nhưng trong một
116
quan điểm rộng hơn, sanh xảy ra vì tiến
trình bất tận của sự hình thành trong đó
toàn bộ vũ trụ được liên hệ với nhau.
Ngay lúc chết tiến trình vẫn không
chấm dứt: thân thể tiếp tục suy mòn,
tiếp tục phân rã, trong khi tâm thức tiến
hành liên kết với một vật thể sống
khác, và tiếp tục vận hành, hình thành.
Và tại sao lại có tiến trình hình thành
này? Vấn đề trở nên rõ ràng với Ngài
rằng (Thái tử Gotama) nguyên nhân là
sự tham đắm mà chúng ta phát triển. Vì
sự tham đắm chúng ta tạo ra những
phản ứng mạnh (samkhara), chúng nó
tạo ra một ấn tượng sâu trong tâm thức
của chúng ta. Vào lúc chấm dứt cuộc
đời, một trong những ấn tượng này
sinh khởi trong tâm ta và sẽ đưa ra một
117
lực đẩy cho dòng hoạt động tâm thức
để tiếp tục.
Ơû đây điều gì là nguyên nhân của
tham đắm này? Ngài đã thấy rằng nó
sinh khởi vì những phản ứng liên tục
xảy ra của sự thích và không thích.
Ham thích phát ttriển thành sự tham
đắm nhiều; không ham thích phát triển
thành sân giận lớn, hình ảnh phản
chiếu của tham đắm, và cả hai chuyển
vào sự chấp đắm. Và tại sao có những
phản ứng hiện hành của sự thích và
không thích? Bất cứ ai theo dõi chính
mình sẽ thấy rằng chúng nó xảy ra là vì
những cảm thọ thuộc về thân thể. Khi
nào một cảm thọ lạc sinh khởi, chúng
ta thích nó và muốn nó tồn tại và tăng
trưởng nó thêm lên. Khi nào một cảm
118
thọ bất lạc sinh khởi, chúng ta không
thích và muốn loại trừ nó đi. Từ đây có
câu hỏi tại sao lại có những cảm thọ
này? Rõ ràng chúng nó sinh khởi vì sự
tiếp xúc giữa một trong các căn với
một đối tượng đặc biệt của căn đó: sự
tiếp xúc của mắt với hình sắc, tai với
âm thanh, mũi với hương, lưỡi với vị,
thân thể với xúc chạm, tâm với tư
tưởng hoăc sự tưởng tượng. Ngay khi
có một sự tiếp xúc, một cảm thọ bắt
buộc sinh khởi, lạc thọ, khổ thọ,hoặc
bất khổ bất lạc thọ.
Và điều gì là nguyên nhân của xúc? tất
nhiên, toàn bộ vũ trụ chứa đựng tất cả
những đối tượng thuộc về các căn. Bao
lâu sáu căn- năm căn thuộc về thân
cùng với một căn thuộc về tâm-đang
119
thi hành chức năng (của chúng nó),
chúng nó chắc chắn đương đầu với
những đối tượng của chúng nó một
cách tương xứng. Và tại sao những cơ
quan cảm nhận này tồn tại? Rõ ràng
rằng chúng nó là những phần không thể
tách khỏi dòng hoạt động của tâm và
thân; chúng nó sinh ra ngay lúc đời
sống bắt đầu. Và tạisao dòng vận hành
đời sống, Sự vận hành của thân và tâm,
xảy ra? Vì sự vận hành của tâm thức,
từ sát na này đến sát na khác, từ đời
sống này đến đời sống khác. Và tại sao
có dòng vận chuyển của tâm thức này?
ngài đã thấy rằng nó sinh khởi là vì
san’khaaraa, những sự phản ứng thuộc
về tâm. Mỗi phản ứng đưa ra một lực
đẩy cho dòng vận chuyển của của tâm
120
thức; dòng vận hành tiếp tục vì sự thúc
đẩy đến với nó bằng những phản ứng.
Và tại sao những phản ứng này xảy ra?
Ngài đã thấy rằng chúng nó sinh khởi
vì vô minh. Chúng ta không biết những
gì chúng ta đang làm, không biết cách
để chúng ta phản ứng lại, và vì vậy
chúng ta liên tục tạo ra san’khaaraa.
Bao lâu vô minh còn hiện hữu thì khổ
đau sẽ còn tồn tại.
Nguồn gốc của chu trình khổ, nguyên
nhân sâu thẳm nhất, là vô minh. Từ vô
minh phát sinh vòng luân chuyển các
biến cố bởi vô minh chúng ta tạo ra
chập chồng núi khổ cho chính chúng
ta. Nếu vô minh có thể được đoạn trừ,
khổ hải cũng sẽ được đoạn trừ.
121
Làm thế nào chúng ta có thể phá vỡ vô
minh này? làm thế nào chúng ta có thể
phá vỡ vòng mắc xích (luân hồi)?
Dòng vận hành của cuộc đời, của thân
và tâm, đã bắt đầu. Vi phạm tự tử sẽ
không giải quyết vấn đề; nó sẽ chỉ tạo
ra khổ đau mới mà thôi. Chúng ta cũng
không thể hoại diệt các căn mà không
hoại diệt chính chúng ta. Bao lâu các
căn còn hiện hành, cảm xúc tất nhiên
xảy ra với các đối tượng của chúng nó
một cách tương xứng, và khi nào có
một cảm xúc thì một cảm thọ chắc
chắn sinh khởi trong thân .
Ngay bây giờ và tại đây, ở sự liên kết
của cảm thọ, chúng ta có thể phá vỡ
vòng luân hồi. Trước đây, mỗi cảm thọ
đã đưa ra một phản ứng thích hoặc
122
không thích, nó phát triển thành tham
lam hoặc sân giận, khổ não nhiều.
Nhưng bây giờ, thay vì phản ứng lại
với cảm thọ, các bạn đang hành trì chỉ
quan sát một cách bình thản, tuệ tri
rằng: 'vấn đề này rồi nó cũng phải thay
đổi.' Trong cách này cảm thọ này chỉ
đưa đến trí tuệ, đến sự nhận thức về vô
thường (anicca). Chúng ta dừng lại sự
vận hành bánh xe đau khổ và bắt đầu
quay nó sang một hướng ngược lại,
hướng đến sự giải thóat.
Bất cứ sát na nào ở đó chúng ta không
tạo ra một phản ứng mới (san’khaaraa),
một trong những phản ứng cũ sẽ sinh
khởi lên bề mặt của tâm thức, và cùng
với nó một cảm thọ sẽ sinh ra trong
thân thể. Nếu chúng ta duy trì bình
123
thản (xả), nó trôi qua và phản ứng cũ
khác sinh ra vào vị trí của nó. Chúng ta
tiếp tục duy trì bình thản đối với các
cảm thọ thuộc về thân và những phản
ứng cũ sinh khởi và trôi qua, một cách
liên tục tuần tự. Nếu vì vô minh chúng
ta phản ứng lại với những cảm thọ, thì
chúng ta tăng trưởng san’khaaraa, tăng
trưởng khổ đau cho chính chúng ta.
Nhưng nếu chúng ta phát triển trí tuệ
và không phản ứng lại với những cảm
thọ, thì tuần tự và lần lượt san’khaaraa
được đoạn trừ, khổ đau được đoạn trừ.
Toàn bộ phương pháp là phương cách
để loại trừ khổ. Bằng cách hành trì, các
bạn sẽ thấy rằng các bạn chấm dứt sự
trói buộc những thắt gút mới, và những
thắt gút cũ tự động mở ra. Tuần tự, các
124
bạn sẽ phát triển hướng đến một trạng
thái ở đó tất cả san’khaaraa (sự phản
ứng) đang dẫn đến sự sống mới, và vì
vậy một nỗi khổ mới, đã được đoạn
trừ: trạng thái hoàn toàn giải thóat,
hòan tòan giác ngộ.
Để bắt đầu công việc , không cần thiết
rằng chúng ta phải trước tiên tin vào
những kiếp sống quá khứ và tương lai.
Trong sự hành trì Vipassana, hiện tại là
điều quan trọng nhất. Ơû đây trong
cuộc sống hiện tại, chúng ta duy trì tạo
ra san’khaaraa (sự phản ứng), duy trì
tạo ra khổ đau cho chính chúng ta. Nếu
các bạn hành trì, chắc chắn một ngày
nào đó khi đó các bạn sẽ có thể nói
rằng các bạn đã đoạn trừ hết tất cả
san’khaaraa, đã chấm dứt tạo ra bất cứ
125
san’khaaraa mới nào, và vì thế chính
các bạn đã thoát khỏi mọi khổ đau.
Để thành tựu mục đích này, các bạn
phải hành trì chính mình. Vì vậy nổ lực
hành trì trong suốt năm ngày còn lại,
để loại trừ khổ đau trong các bạn, và an
vui với hạnh phúc của sự giải thóat.
Cầu mong tất cả các bạn an vui với
hạnh phúc chân thật.
Cầu mong tất cả chúng sanh được
hạnh phúc.
---o0o---
BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ SÁU
Tầm quan trọng của sự phát triển tỉnh
thức và niệm xả đối với các cảm thọ
Bốn yếu tố và mối quan hệ của chúng
với cảm thọ
126
Bốn nguyên nhân của sự sinh khởi một
sự việc
Năm hạ phần kiết sử: tham, sân, và
hôn trầm thân và tâm, trạo cử, nghi
ngờ
Ngày thứ sáu đã qua, các bạn còn bốn
ngày còn lại để thực hành. Trong bốn
ngày các bạn có thể loại trừ một số tâm
phiền não, và nắm bắt phương pháp để
hành trì nó trong suốt cuộc đời của các
bạn. Nếu các bạn tu tập với sự hiểu biết
thích hợp và biết làm sao để áp dụng
phương pháp trong đời sống hằng
ngày, từ đó chắc chắn nó rất có lợi cho
các bạn. Vì vậy, hãy nắm bắt phương
pháp một cách thíh hợp.
127
Đây không phải là phướng pháp tiêu
cực. Giáo pháp dạy chúng ta chấp nhận
sự thật cay đắng của khổ, nhưng nó
cũng chỉ cho chúng ta con đường thoát
khổ. Vì lý do này nó là một phương
pháp tích cực, được kết hợp với chủ
nghĩa thực tế và cũng như ' chủ nghĩa
thực hành '- mỗi người phải thực hành
để tự giải thoát chính mình.
Trong một vài lời, toàn bộ giáo pháp
được giải thích:
"Tất cả các hành (san’khaaraa) là vô
thường,
Khi chúng ta hiểu điều này với trí tuệ
chân thật.
Thì chúng ta thoát khỏi mọi khổ đau.
Đây là con đường thanh tịnh.
128
Ơû đây từ san’khaaraa có nghiã không
chỉ những phản ứng thuộc về tâm mà
còn những kết quả của những phản ứng
này. Mỗi phản ứng thuộc về tâm là một
hột giống dẫn đến một kết quả, và mọi
thứ chúng ta kinh nghiệm trong cuộc
đời là một kết quả, một kết quả của
những hành động của chúng ta, đó là,
san’khaaraa của chúng ta, quá khứ
hoặc hiện tại. Vì vậy, ý nghĩa là, "mọi
thứ sinh khởi, dẫn đến hình thành, øsẽ
mất đi, sẽ phân tán." Chỉ chấp nhận sự
thực tại này bằng tình cảm, hoặc vì sự
mộ đạo, hoặc một cách tri thức, sẽ
không thanh lọc tâm. Nó phải được
chấp nhận ở mức độ thực tế, qua sự
kinh nghiệm tiến trình sinh và diệt
trong chính chúng ta. Nếu chúng ta
129
kinh nghiệm vô thường một cách trực
tiếp bằng sự quan sát những cảm thọ
trong thân của chúng ta, thì sự hiểu biết
(trí tuệ) phát triển là trí tuệ chân thật,
trí tuệ của chính chúng ta. Và với trí
tuệ này chúng ta sẽ giải thoát khổ đau.
Mặc dù nỗi đau vẫn còn tồn tại, chúng
ta không còn khổ sở vì nó nữa. Thay vì
chúng ta có thể mỉm cười với nó, vì
chúng ta có thể quan sát nó.
Từ trước, thói quen thuộc về tâm tìm
cách để đẩy ra những cảm thọ khổ đau
và kéo lại những cảm thọ an lạc. Bao
lâu chúng ta bị liên lụy vào trò chơi của
khổ và lạc, đẩy và kéo, tâm thức bị dao
động, và nổi khổ của chúng ta tăng
trưởng. Nhưng một khi chúng ta thực
hành để quán sát một cách khách quan
130
không có đồng nhất với những cảm
thọ, từ đó tiến trình của sự thanh lọc
bắt đầu, và những thói quen cũ của
những phản ứng mù quán và của sự
tăng trưởng những khổ đau của chúng
ta lần lược bị suy yếu và tan vỡ. Chúng
ta phải học cách để quan sát.
Điều này không có nghiã rằng bằng sự
thực hành thiền Vipassana chúng ta trở
thành một 'loài thực vật', đồng ý một
cách thụ động để những người khác
làm hại chúng ta. Hơn nữa, chúng ta
học làm thế nào để hành động thay vì
để phản ứng lại. Trước đây, chúng ta
đã sống một cuộc sống bằng những
phản ứng, và phản ứng luôn luôn là
tiêu cực. Bây giờ chúng ta đang học
cách để sống một cách thích hợp, để
131
sống một đời sống lành mạnh qua hành
động đúng đắn. Khi nào một tình
huống khó khăn xuất hiện trong cuộc
sống, chúng ta đã học để quan sát
những cảm thọ sẽ không để rơi vào sự
phản ứng mù quáng. Thay vì hành giả
sẽ chờ vài giây, duy trì tỉnh giác về
những cảm thọ và cũng như bình thản,
và từ đó sẽ tiến hành một quyết định và
chọn một phương thức của hành động.
Hành động như vầy chắc chắn có lợi,
vì nó bắt đầu từ một tâm thức bình
tỉnh; nó sẽ có một hành động sáng tạo,
có lợi cho chúng ta và người khác.
Dần dần khi chúng ta thực hành để
quan sát hiện tượng của tâm thức và
thân thể, chúng ta loại trừ những phản
ứng, vì chúng ta đoạn trừ vô minh.
132
Loại ra thói quen của phản ứng được
dựa vào vô minh. Một số người không
bao giờ quan sát thực tại không biết
điều gì đang xảy ra ở sâu thẳm bên
trong, không biết cách để anh ta phản
ứng lại với tham ái hoặc sân giận, sự
tạo ra những căng thẳng làm cho anh ta
khổ đau.
Sự khó khăn là tâm thức giả tạm, vô
thường hơn là thân thể. Tiến trình tâm
thức xảy ra quá nhanh đến nổi chúng ta
không thể theo kịp chúng nó trừ phi
chúng ta đã được huấn luyện để thực
hành điều đó. Không biết về thực tại,
chúng ta trú dưới ảo giác mà chúng ta
phản ứng lại với những đối tượng bên
ngoài như sắc , thanh , hương , vị , xúc.
Rõ ràng vấn đề này là như vậy, nhưng
133
ai đó hành trì để quan sát chính mình
sẽ thấy rằng ở mức độ vi tế hơn thực
tại lại khác đi. Toàn bộ vũ trụ bên
ngoài tồn tại đối với một người chỉ khi
anh ta hoặc cô ta kinh nghiệm nó, đó
là, khi một đối tượng thuộc giác quan
đến tiếp xúc với một trong các cơ quan
cảm giác. Ngay khi có một sự tiếp xúc,
sẽ có một sự dao động sinh ra, một sự
cảm thọ. Nhận thức đưa ra một sự đánh
giá đối với cảm thọ như tốt hoặc xấu,
dựa vào những kinh nghiệm và điều
kiện quá khứ, san’khaaraa quá khứ.
Tương ứng với điều này được tô điểm
qua sự đánh giá những cảm thọ trở nên
lạc hoặc bất lạc, và tùy theo loại cảm
thọ, chúng ta bắt đầu phản ứng với
thích hoặc không thích, tham đắm hoặc
134
sân giận. Cảm thọ là sự nối tiếp đã
quên đi giữa đối tượng bên ngoài và sự
phản ứng. Toàn bộ tiến trình xảy ra
một cách nhanh chóng đến nỗi chúng
ta không thể nhận ra nó: vào lúc một
cảm thọ đến ở một cấp độ nhận thức,
nó được lập lại và tăng cường lên nhiều
lần, và trở nên quá mạnh đến nỗi nó có
thể dễ dàng chế ngự tâm thức.
Siddhatha Gotama (Đức phật) đã
chứng đạt sự giác ngộ bằng sự khám
phá ra nguyên nhân căn cội của tham
và sân, và bằng sự đoạn trừ chúng nơi
chúng nó sinh khởi, ở cấp độ của sự
cảm thọ. Những gì chính ngài đã thực
hành, ngài dạy lại cho người khác.
Ngài không phải độc quyền trong sự
truyền dạy điều mà chúng ta nên đoạn
135
trừ tham ái và sân hận; ngay cả trước
thời ngài, điều này đã được dạy ở Aán
độ. Giáo pháp của Đức phật không
phải độc nhất về đạo đức, cũng không
độc nhất về sự phát triển khả năng điều
khiển tâm của chúng ta. Tương tự, trí
tuệ ở những cấp độ tri thức, tình cảm,
hoặc sùng tín cũng đã có mặt trước thời
đức Phật. Yếu tố độc nhất trong lời dạy
của Đức Phật ngoài những vấn đề này,
trong sự nhận ra thân cảm thọ của Ngài
như là điểm then chốt tại đó tham ái và
sân hận phát nguồn, và ở đó chúng nó
phải được đoạn trừ. Trừ phi chúng ta
giải quyết những cảm thọ, chúng ta sẽ
hành trì chỉ ở cấp độ bên ngoài của tâm
thức, trong khi ở những cấp độ sâu
những thói quen phản ứng cũ sẽ tiếp
136
tục. Bằng sự hành trì tỉnh giác về tất cả
những cảm thọ trong chính chúng ta và
để duy trì sự bình thản đối với chúng
nó, chúng ta dừng lại những phản ứng
nơi đó chúng nó khởi hành: chúng ta
loại trừ khổ đau.
Đây không phải là một giáo điều được
chấp nhận bằng niềm tin, cũng không
phải là một triết lý được chấp nhận
bằng lý trí. Chúng ta phải khảo sát
chính chúng ta để khám phá ra chân lý.
Chấp nhận nó như sự thật chỉ khi nào
chúng ta kinh nghiệm nó. Nghe về
chân lý là một sự quan trọng, nhưng nó
phải được dẫn đến sự hành trì thực tế.
Tất cả những lời dạy của Đức Phật phải
được hành trì và kinh nghiệm bằng
137
chính chúng ta để chúng ta có thể loại
trừ khổ đau.
Toàn bộ cấu trúc của thân thể, Đức
phật đã giải thích, được tập hợp của
những thành phần tiểu nguyên tử-
kalaapaa- bao gồm bốn yếu tố và
những tính chất phụ của nó, được kết
hợp với nhau. Ơû thế giới bên ngoài
cũng như bên trong, điều dễ dàng để
thấy là một số vật chất là cứng- yếu tố
đất; một số là chất lỏng- yếu tố nước;
một số là hơi-yếu tố không khí; và
trong mỗi trường hợp, nhiệt độ ở hiện
tại- yếu tố lửa. Tuy nhiên, có ai đó
kiểm tra thực tại trong chính anh ta sẽ
hiểu bốn yếu tố ở cấp độ vi tế hơn.
Toàn bộ sự sắp sếp theo trọng lượng từ
nặng đến nhẹ, là lãnh vực của yếu tố
138
đất. Yếu tố lửa là lãnh vực của nhiệt
độ, từ cực lạnh đến cực nóng. Yếu tố
không khí phải hoạt động với sự
chuyển vận, từ một trạng thái dường
như đứng yên đến sự vận chuyển lớn
nhất. Những thành phần sinh khởi với
một sự ưu thế của một hoặc nhiều yếu
tố; những phần khác tồn tại ở dạng
tiềm ẩn. Tuần tự, một cảm thọ biểu
hiện liên kết với tính chất của yếu tố
mang tính vượt trội trong những thành
phần này. nếu kalaapaa (tiểu nguyên
tử) sinh khởi với một ưu thế của yếu tố
lửa, một cảm thọ xảy ra sẽ nóng hoặc
lạnh, và tương tự cho những yếu tố
khác. Đây là cách thức tất cả những
cảm thọ sinh khởi trong thân thể. Nếu
chúng ta vô minh, chúng ta hướng đến
139
những đánh giá và phản ứng lại những
cảm thọ, chúng ta tạo ra đau khổ mới
cho chính mình. Nhưng nếu trí tuệ sinh
khởi, chúng ta chỉ đơn giản hiểu rằng
những thành phần tiểu nguyên tử đang
sinh khởi với một ưu thế của yếu tố
này hoặc yếu tố khác, và tất cả những
điều này là hiện tượng khách quan,
hiện tượng thay đổi, sinh để rồi diệt.
Với sự hiểu biết này chúng ta khôûng
mất đi sự bình thản của tâm thức chúng
ta khi đối diện với bất cứ cảm thọ nào.
Khi chúng ta tiếp tục quan sát chính
mình, vấn đề trở nên rõ ràng tại sao
kalaapaa sinh khởi: chúng nó được tạo
ra bằng sự nạp vào những gì mà chúng
ta hướng đến dòng vận hành đời sống,
dòng vận hành của thân và tâm. Dòng
140
vận hành của thân đòi hỏi sự nạp vào
bằng vật chất, có hai loại vật chất: thức
ăn chúng ta ăn và môi trường trong đó
chúng ta sống. Dòng vận hành của tâm
đòi hỏi sự nạp vào bằng chất tố tâm, và
nó cũng có hai loại: san’khaaraa sân
giận ở giây phút hiện tại, ngay lập tức
tâm thức tác động đến thân thể, và
kalaapaa sẽ bắt đầu sinh khởi với một
ưu thế vượt trội của yếu tố lửa, gây cho
chúng ta cảm nhận một cảm thọ nóng.
Nếu sự nhập vào là sợ hãi, kalaapaa tạo
ra lúc đó sẽ có một ưu thế vượt trội của
yếu tố không khí, và chúng ta cảm
nhận một cảm thọ của sự hoảng sợ; và
vân vân. Loại thứ hai của tâm thức
nhập vào là một san’khaaraa quá khứ.
Mỗi san’khaaraa là một hột giống sẽ
141
cho ra một kết quả, một kết quả có thể
sau đó một thời gian. Bất cứ những
cảm thọ gì chúng ta kinh nghiệm khi
chúng ta gieo giống, cùng cảm thọ ấy
sẽ sinh khởi khi kết quả của
san’khaaraa đó đến ở bề mặt của tâm
thức.
Về bốn trường hợp này, chúng ta
không nên cố gắng để xác định cái nào
có trách nhiệm cho sự sinh khởi của
một cảm thọ đặc biệt. Chúng ta chỉ nên
chấp nhận những gì cảm thọ xảy ra. Sự
nỗ lực duy nhất nên quan sát mà không
tạo ra san’khaaraa mới. Nếu chúng ta
không nhập vào một phản ứng mới nơi
tâm thức, tự động một phản ứng cũ sẽ
đưa ra kết quả của nó, biểu hiện như
cảm thọ. Chúng ta quan sát và nó sẽ
142
qua đi. Lại nữa chúng ta không phản
ứng lại; vì vậy san’khaaraa cũ khác
phải đưa ra kết quả của nó. Trong cách
này, bằng sự duy trì tỉnh giác và bình
thản, chúng ta cho phép san’khaaraa cũ
sinh ra để rồi diệt đi, một cách tuần tự:
chúng ta loại trừ khổ đau.
Thói quen cũ tạo ra những phản ứng
mới phải được loại trừ, và nó chỉ có thể
được loại trừ một cách tuần tự, bằng sự
hành trì lập lại, bằng sự tiến hành liên
tục.
Tất nhiên có những che lấp và chướng
ngại trên con đường tu tập: năm kẻ thù
có sức mạnh cố gắng để áp đảo các bạn
và chận đứng tiến trình tu tập của các
bạn. Hai kẻ thù đầu tiên là tham ái và
143
sân hận. Mục đính của sự tu tập
Vipassana là để loại trừ hai phiền não
căn bản thuộc về tâm này, nhưng
chúng nó có thể xuất hiện trong lúc các
bạn đang thiền định, và nếu chúng nó
thâm nhập vào tâm thức, tiến trình của
sự thanh lọc phiền não dừng lại. Các
bạn có thể tham ái vì những cảm thọ vi
tế, hoặc ngay cả vì cảnh giới niết bàn;
nó tạo ra không có gì khác cả. Sự tham
ái là ngọn lửa thiêu đốt, không khác gì
nguồn nhiên liệu; nó dẫn các bạn đến
phương hướng trái ngược với sự giải
thóat. Tương tự, các bạn có thể bắt đầu
tạo ra sự sân giận hướng đến cơn đau
mà các bạn kinh qua, và lại nữa các
bạn đi lạc con đường.
144
Một kẻ thù khác là sự lười biếng và dả
dượi. Suốt đêm các bạn ngủ đầy đủ, và
chỉ khi các bạn ngồi để hành thiền, các
bạn cảm thấy rất buồn ngủ. Sự buồn
ngủ này bị gây ra do tâm bất tịnh của
các bạn, nó sẽ bị lái ra ngoài sự hành trì
Vipassana, và vì vậy nó cố gắng làm
ngưng sự thiền định của các bạn. Các
bạn phải tranh đấu ngăn cản kẻ thù này
để không áp đảo các bạn. Thở mạnh
chậm rãi, hoặc đứng dậy, rửa nước lạnh
vào mắt các bạn hoặc đi bộ vài phút rồi
ngồi lại.
Một trong hai điều xảy ra, các bạn có
thể cảm nhận sự dao động lớn lao, cách
khác ở đó sự cấu uế cố gắng làm ngưng
sự tu tập Vipassana của các bạn. Suốt
ngày các bạn chạy nơi này đến nơi
145
khác, làm bất cứ điều gì ngoại trừ thiền
định. Về sau, các bạn hiểu ra rằng các
bạn đã lãng phí thời giờ, và bắt đầu
khóc và ăn năn. Nhưng trên con đường
của Giáo pháp không có chỗ để cho các
bạn khóc. Nếu các bạn tạo ra một sai
lầm, thì các bạn nên chấp nhận nó
trưước một vị trưởng thượng ở người
này bạn có lòng tự tin, và kiên quyết
cẩn trọng không để lập lại sai lầm trong
tương lai.
Cuối cùng , một kẻ thù nguy hại nhất là
nghi ngờ, hoặc về vị Thầy, hoặc về
phương pháp, hoặc về khả năng của
chúng ta để thực hành nó. Sự chấp
nhận mù quáng không có ích gì, nhưng
cũng không nên nghi ngờ một cách phi
lý không bao giờ chấm dứt. Bao lâu
146
các bạn còn duy trì tràn đầy bằng
những nghi ngờ, các bạn không thể tiến
hành ngay cả một tiến trình trên con
đường tu tập. Nếu có bất cứ điều gì
không rõ đối với các bạn, dừng ngần
ngại hãy đến với người hướng dẫn của
các bạn. Trình bày vấn đề với vị Aáy,
và hiểu nó một cách thích hợp. Nếu các
bạn thực hành như các bạn đã được yêu
cầu, những kết quả chắc chắn sẽ đến
với các bạn.
Phương pháp hành trì, không phải bằng
bất cứ phù phép hoặc phép màu nào cả,
nhưng bằng qui luật tự nhiên. Bất cứ ai
bắt đầu thực hành tương xứng với qui
luật tự nhiên chắc chắn khổ đau sẽ
được đọan trừ; đây là phép màu thực tế
vĩ đại nhất.
147
Nhiều người đã kinh qua sự lợi ích của
phương pháp này, không phải chỉ
những người đến với Đức phật vào thời
của ngài, mà còn nhiều người ở những
thời đại sau này, và ở thời đại hiện nay.
Nếu chúng ta hành trì thích hợp, tạo ra
những cố gắng duy trì sự tỉnh giác và
bình thản, thì những lớp bất tịnh của
quá khứ sinh ra trên bề mặt của tâm
thức, và sẽ mất đi. Giáo pháp cho ra
những kết quả tuyệt vời ngay tại đây và
ngay bây giờ, đã cung cấp cho chúng ta
cách hành trì. Vì vậy, thực hành với
tâm tự tin và hiểu biết. Hãy sử dụng tốt
cơ hội quí báu này để loại trừ những
khổ đau, và hưởng an lạc thật sự.
Cầu nguyện cho các bạn hưởng hạnh
phúc chân thật
148
Cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đều
hạnh phúc.
---o0o---
BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ BẢY
Tầm quan trọng của sự xả ly đối với
các cảm thọ thô và tế
Sự duy trì tỉnh thức liên tục
Năm người bạn (năm lực): niềm tin, nổ
lực , chánh niệm, thiền định , trí tuệ
Bảy ngày đã qua. Các bạn còn lại ba
ngày nữa để tu tập. Hãy sử dụng tốt
nhất những ngày còn lại bằng nổ lực
hành trì và liên tục, hiểu cách thức mà
các bạn phải thực hành.
Có hai vấn đề của phương pháp hành
trì: sự tỉnh giác và bình thản (tâm xả).
149
Chúng ta phải phát triển sự tỉnh thức ở
tất cả những cảm thọ xảy ra trong thân
của chúng ta, và đồng thời chúng ta
cũng phải duy trì bình thản đối với
những cảm thọ ấy. Bằng sự duy trì bình
thản, tự nhiên chúng ta sẽ thấy, sớm
hay muộn, rằng những cảm thọ bắt đầu
xuất hiện trong những khu vực không
nhìn thấy, và những cảm thọ thô, cứng
ngắt, bất lạc bắt đầu phân tán thành
những dao động vi tế. Chúng ta bắt đầu
kinh nghiệm mỗi dòng an lạc vận hành
của năng lượng xuyên suốt cơ thể.
Sự nguy hiểm, khi tình huống này sinh
khởi, là rằng chúng ta nắm giữ kinh
nghiệm lạc thọ bằng cảm nhận này như
mục đính hướng đến cái mà chúng ta
đã đang hành trì. Thực tế, mục đính
150
của sự hành trì vipassana không phải
để kinh nghiệm một loại cảm thọ đặc
biệt nào đó, mà cốt yếu để phát triển sự
bình thản hướng đến tất cả cảm thọ.
Những cảm thọ luôn luôn chuyển đổi,
hoặc thô hoặc vi tế. Tiến trình tu tập
của chúng ta có thể được đo đạt duy
chỉ bằng sự bình thản mà chúng ta phát
triển hướng đến mỗi cảm thọ.
Ngay sau khi chúng ta đã kinh nghiệm
một dòng vận hành giải thoát của
những dao động vi tế xuyên suốt khắp
thân thể, rất có thể rằng lại nữa một
cảm thọ thô có thể sinh khởi lên ở một
nơi nào đó, hoặc một khu vực không
thấy được. Đây là những dấu hiệu
không phải là sự phản hồi mà tiến trình
phát triển. Khi chúng ta phát triển sự
151
tỉnh thức và bình thản, tự nhiên chúng
ta thâm nhập sâu hơn vào tâm vô thức,
và khám phá những phiền não ẩn núp ở
đó. Bao lâu những phức tạp tiềm ẩn
này còn tồn tại trong vô thức, chúng nó
sẽ mang lại đau khổ trong tương lai.
chỉ có phương cách đoạn trừ chúng nó
là cho phép chúng nó sinh khởi lên bề
mặt của tâm rồi ra đi. Khi san’khaaraa
có gốc rễ sâu như vầy sinh khởi lên bề
mặt, Nhiều San’khaaraa được kết hợp
do những cảm thọ bất lạc, thô hoặc
những khu vực không nhận ra trong
thân thể. Nếu chúng ta tiếp tục quan sát
không phản ứng lại, cảm thọ qua đi, và
với nó san’khaaraa của nó chính là một
sự biểu hiện.
152
Mỗi cảm thọ, dù thô hay tế, có cùng
đặc tính vô thường giống nhau. Mỗi
cảm thọ thô (thuộc bất lạc thọ) sinh
khởi, dường như kéo dài khoảng một
thời gian, nhưng sớm muộn gì nó cũng
trôi qua. Một cảm thọ vi tế sinh khởi và
tiêu tan rất là nhanh chóng, nhưng nó
vẫn có chung một đặc tính. Không có
cảm thọ nào thường tồn cả. Vì vậy
chúng ta không nên có những ưu thích
hoặc định kiến gì đối với bất cứ cảm
thọ nào. Khi một cảm thọ thô, bất lạc
sinh khởi, chúng ta quan sát nó không
khởi lên chán nản. Khi một cảm thọ vi
tế, một cảm thọ lạc sinh khởi, chúng ta
chấp nhận nó, ngay cả hoan hỷ với nó,
nhưng đừng khởi lên kiêu hãnh hoặc
tham đắm nó. Trong mỗi trường hợp
153
chúng ta hiểu bản chất vô thường của
tất cả cảm thọ; do đó chúng ta có thể
mỉm cười khi chúng nó sinh khởi và
khi chúng nó hoại diệt.
Sự bình thản phải được hành trì ở cấp
độ cảm thọ bằng thân để tạo ra một sự
thay đổi thật sự trong cuộc sống của
chúng ta. Ơû mỗi sát na(một đơn vị đo
thời gian nhỏ nhất theo quan điểm Phật
giáo), những cảm thọ đang sinh khởi
trong thân. Thông thường tâm nhận
thức không tỉnh giác đối với chúng,
nhưng tâm vô thức cảm nhận những
cảm thọ và phản ứng lại chúng bằng
tham ái hoặc sân giận. Nếu tâm thức
được luyện tập để tỉnh giác hoàn tòan
tất cả những gì xảy ra trong thân thể và
đồng thời duy trì sự bình thản, thì
154
những thói quen cũ của những phản
ứng mù quángõ sẽ bị phá vỡ. Chúng ta
học cách để duy trì sự bình thản trong
mỗi tình huống, và vì vậy chúng ta có
thể sống một cuộc đời hạnh phúc thanh
bình.
Ơû đây chúng ta đang hành trì để kinh
nghiệm chân lý trong mỗi chúng ta, các
hiện tượng này làm việc như thế nào,
nó tạo ra khổ đau như thế nào. Có hai
vấn đề về hiện tượng con người: vật
chất và tinh thần, thân thể và tâm thức.
Chúng ta phải quan sát cả hai. Nhưng
chúng ta không thể kinh nghiệm thực tế
về thân thể mà không tỉnh giác về
những gì sinh khởi trong thân thể, đó
là, cảm thọ. Tương tự chúng ta không
thể quan sát tâm tách ra khỏi những gì
155
sinh khởi trong tâm, đó là, ý niệm. Khi
chúng ta đi sâu vào sự kinh nghiệm
chân lý của thân và tâm, vấn đề khởi
lên rất rõ ràng rằng bất cứ những gì
sinh khởi trong tâm đều được kết hợp
với một cảm thọ. Cảm thọ có tầm quan
trọng trung tâm cho sự kinh nghiệm
thực tại của thân thể và tâm thức, và nó
là điểm ở đó những phản ứng bắt đầu.
Để quan sát sự thật nơi chúng ta và để
chấm dứt sự tạo ra những tâm phiền
não, chúng ta phải tỉnh giác với những
cảm thọ và duy trì sự bình thản càng
nhiều càng hữu hiệu.
Vì lý do này, trong những ngày còn lại
của khóa tu, các bạn phải thực tập liên
tục với cặp mắt đóng lại trong suốt
những giờ thiền định; nhưng trong suốt
156
thời gian nghỉ ngơi cũng vậy, các bạn
phải nổ lực duy trì sự tỉnh giác và sự
bình thản ở cấp độ của những cảm thọ.
Hành trì bất cứ hành động các bạn phải
thực hành trong phương thức thông
thường, hoặc đi bộ, ăn cơm, uống nước
hoặc tắm giặc; đừng để sự hành trì bị
trì hõan. Tỉnh giác những cử động của
thân thể, và đồng thời của những cảm
thọ, nếu có thể trong một phần của thân
thể trong sự hoạt động của nó, ngoài ra
những phần khác của thân thể cũng
vậy. Duy trì tỉnh giác và bình thản.
Tương tự, buổi tối khi các bạn lên
giường ngủ, khép mắt lại và cảm nhận
cảm thọ bất cứ nơi nào trong thân các
bạn. Nếu các bạn ngủ với sự tỉnh giác
như vầy, tự nhiên ngay lúc các bạn
157
thức dậy vào buổi sáng, các bạn sẽ tỉnh
giác về cảm thọ. Có thể các bạn không
thể ngủ đầy đủ, hoặc các bạn có thể
duy trì tỉnh giác hoàn toàn suốt đêm.
Đây là một điều vi diệu, ggiúp các bạn
nằm trên giường duy trì tỉnh giác và sự
bình thản. Thân thể sẽ nhận sự nghỉ
nngơi nó cần thiết, và không có nghỉ
ngơi nào hơn cho tâm thức về sự duy
trì tỉnh giác và bình thản. Tuy nhiên,
nếu các bạn bắt đầu lo lắng các bạn
đang bị chứng mất ngủ thì các bạn sẽ
tạo ra những căng thẳng, và sẽ cảm
thấy mệt mỏi vào ngày kế tiếp. Các bạn
cũng không nên ép thúc cố thức, duy trì
thế ngồi suốt đêm; điều đó sẽ dẫn đến
một sự cực đoan. Nếu thời giờ ngủ đến,
tốt hơn; hãy ngủ. Nếu giấc ngủ chưa
158
đến, cho phép thân thể nghỉ bằng cách
nằm ở tư thế nghiêng một bên, và cho
phép tâm nghỉ ngơi bằng sự duy trì tỉnh
giác và bình thản.
Đức Phật nói: "khi một thiền giả thực
hành tinh tấn, không sao lãng với mỗi
sát na tỉnh giác và bình thản đối với
những cảm thọ, một hành giả như vầy
phát triển trí tuệ chân thật và hiểu rõ
những cảm thọ". Hành giả biết thế nào
một người thiếu trí tuệ phản ứng lại
những cảm thọ, và tăng trưởng khổ
đau. Hành giả cũng hiểu rằng thế nào
một người ghi nhớ trong tâm về bản
chất vô thường của tất cả những cảm
thọ sẽ không phản ứng lại chúng, và sẽ
loại trừ khổ đau. Đức phật nói tiếp:
"với sự tuệ tri thông suốt này, hành giả
159
có thể kinh nghiệm trạng thái vượt qua
thân và tâm- niết bàn (Nibbaana)."
Chúng ta không thể kinh nghiệm niết
bàn cho đến khi nào san’khaaraa nặng
nhất được đoạn trừ- những
san’khaaraa đó sẽ dẫn đến một đời
sống tương lai ở một hình thức thấp
hơn nơi đó khổ não sẽ ngự trị. May
mắn, khi chúng ta bắt đầu thực hành
Vipassana, chính những San’khaaraa
sinh khởi trước. Chúng ta duy trì bình
thản, chúng nó sẽ trôi qua. Khi tất cả
những San’khaaraa này được đoạn trừ,
thì tự nhiên chúng ta kinh nghiệm niết
bàn lần đầu tiên. Sau khi kinh nghiệm
niết bàn, tất cả đều thay đổi ở chúng ta,
và có thể không còn tạo ra bất cứ hành
độngnào dẫn đến một đời sống tương
160
lai trong một hình thức thấp hơn của sự
sống. Tuần tự chúng ta tiến đến những
trạng thái cao hơn, cho đến khi tất cả
san’khaaraa đều được đoạn trừ nó sẽ
dẫn đến một đời sống tương lai ở bất
cứ nơi nào trong thế giới hữu vi (chịu
qui luật sinh diệt) . Một người như vầy
được giải thoát hoàn toàn và vì vậy,
Đức Phật đã kết luận: " thấu rõ toàn bộ
chân lý của thân và tâm, khi vị ấy qua
đời vị ấy vượt qua thế giới có điều kiện
(thế giới chịu qui luật sinh diệt), vì vị
ấy đã thấu hiểu hòan toàn các cảm
thọ".
Các bạn đã thi hành một sự bắt đầu trên
con đường này bằng sự thực hành để
phát triển sự tỉnh giác về những cảm
thọ xuyên khắp cơ thể. Nếu các bạn
161
cẩn trọng không phản ứng lại chúng,
các bạn sẽ thấy rằng từng lớp một,
những san’khaaraa cũ được đoạn trừ.
Bằng sự duy trì bình thản đối với cảm
thọ bất lạc, thô, các bạn sẽ bắt đầu kinh
nghiệm những cảm thọ vi tế hơn và an
lạc. Nếu các bạn tiếp tục duy trì sự
bình thản, sớm muộn gì các bạn cũng
sẽ đạt đến một giai đoạn được Đức
phật mô tả, ở trong đó toàn bộ cấu trúc
thân thể, thiền giả kinh nghiệm không
có gì ngoài sự sinh khởi và hoại diệt.
Tất cả những cảm thọ thô, cứng ngắt bị
tan vỡ; tòan bộ thân thể không có gì
khác hơn những dao động vi tế. Tự
nhiên giai đoạn này rất an lạc, tuy
nhiên nó vẫn không phải là mục đích
cuối cùng và các bạn không được đắm
162
chấp vào nó. Một số những phiền não
thô được đoạn trừ, nhưng những phiền
não vi tế vẫn còn tồn tại trong những
cấp độ chiều sâu của tâm thức. Nếu
chúng ta tiếp tục quan sát một cách
bình thản, một các tuần tự tất cả những
san’khaaraa sâu hơn sẽ sinh khởi rồi
qua đi. Khi tất cả chúng nó được đoạn
ttrừ hoàn tòan, lúc đó các bạn thể
nghiệm'sự bất tử'-một vài cái gì đó
vượt qua thân và tâm, nơi đó không có
gì sinh khởi, và vì vậy cũng không có
gì qua đi- trạng thái không thể diễn bày
của nibbaana.
Mọi người đều thực hành thích hợp để
phát triển sự tỉnh thức và sự bình thản
họ sẽ chắc chắn đến trạng thái này;
163
nhưng mỗi người phải tự tu tập với
chính mình.
Ví như có năm kẻ thù, năm sự ngăn trở
ngăn cản tiến trình tu tập của các bạn,
cũng có năm người bạn, năm năng lực
tốt của tâm, chúng nó sẽ giúp và ủng
hộ các bạn. nếu các bạn giữ năm người
bạn này mạnh và thanh tịnh, không có
kẻ thù nào có thể chế ngự các bạn.
Người bạn thứ nhất là niềm tin, trung
thành, xác tín. Không có niềm tin
chúng ta không thể thực hành, luôn bị
dao động bởi nghi ngờ và hoài nghi.
Tuy nhiên, nếu niềm tin là mù quáng,
nó trở thành một kẻ thù nguy hiểm. Nó
trở nên mù quáng nếu chúng ta mất đi
tư duy phân biệt, hiểu một cách đúng lý
164
về những gì của lòng trung thành có
được. Chúng ta có thể có niềm tin ở bất
cứ vị trời hoặc vị thánh nào, nhưng nếu
nó là niềm tin đúng, với sự hiểu biết
thích hợp, chúng ta sẽ nhớ những đặc
tính tốt của vị ấy, và sẽ tăng thêm sự
cảm hứng để phát triển những đặc tính
này trong chính chúng ta. Sự thành tâm
như vầy là niềm tin có ích lợi và ý
nghiã. Nhưng nếu chúng ta không nỗ
lực phát triển những đặc tính của con
người hướng đến người mà chúng ta có
lòng thành kính, nó là niềm tin mù
quáng, nó rất có hại.
Ví dụ: khi chúng ta qui y với Đức Phật,
chúng ta phải nhớ những phẩm chất
của một Vị phật, và chúng ta phải thực
hành để phát triển những phẩm chất
165
này trong chúng ta. Phẩm chất cốt lõi
của một vị Phật là sự giác ngộ; vì vậy,
qui y là một yếu tố cho sự giác ngộ, sự
giác ngộ mà chúng ta phát triển nơi
mỗi chúng ta. Chúng ta tôn kính với
bất cứ ai đã đạt trạng thái của giác ngộ
hoàn toàn; đó là, chúng ta đưa ra tầm
quan trọng đối với phẩm chất bất cứ
nơi nào nó có thể biểu hiện, không bị
ép buộc đối với một đảng phái đặc biệt
hoặc con người. Và chúng ta tôn kính
Đức phật không phải bằng lễ nghi hoặc
cúng kiến, mà bằng sự thực hành theo
lời dạy của Ngài, bằng cách đi trên con
đường của giáo pháp từ bước đầu tiên,
giới (siila), đến định đến trí tuệ, đến
niết bàn , giải thóat.
166
Bất cứ vị Phật nào đều phải có những
đặc tính sau đây. Vị ấy đã đoạn tận
tham, sân và si mê. Vị ấy đã chiến
thắng tất cả những kẻ thù của mình, kẻ
thù bên trong, đó là, tâm ô nhiễm. Vị
ấy hoàn hảo không chỉ bằng lý thuyết
của Giáo pháp, mà còn bằng cách áp
dụng và thực hành. Vị ấy thuyết giảng
những gì vị ấy thực hành và những gì v
ị ấy nói vị ấy thực hành; không có sự
chênh lệch giữa lời nói và việc làm của
vị ấy. Mỗi tiến trình mà vị ấy sử dụng
là tiến trình chính đáng, dẫn đến
phương hướng đúng. Vị ấy đã thấu rõ
mọi thứ trong vũ trụ, bằng sự khám phá
bên trong vũ trụ. Vị ấy tràn đầy với
tình thương, từ bi, hoan hỷ cảm thông
đối với mọi người, và luôn ggiúp
167
những người đang đi lạc lối tìm ra con
đường đúng đắn. Vị ấy viên mãn sự
bình thản. Nếu chúng ta thực tập để
phát triển những đặc tính này trong
chính chúng ta để đến mục đích tối
hậu, đó là ý nghĩa mà chúng ta qui y
với Đức phật.
Tương tự chúng ta qui y với Giáo pháp
không liên quan gì đến chủ nghĩa đảng
phái; nó không phải là một vấn đề của
việc cải đổi từ một tổ chức tôn giáo này
sang một tổ chức tôn giáo khác. Qui y
pháp có nghĩa là qui y với đạo đức, với
sự điều khiển tâm thức của chúng ta,
với trí tuệ. Đối với một lời dạy trở
thành Giáo pháp, nó cũng phải có
những tính chất xác định như vậy. Thứ
nhất nó phải được giải thích rõ ràng để
168
mọi người có thể hiểu. Chúng ta có thể
thấy nó ở trước mắt chúng ta, chúng ta
có thể kinh nghiệm bằng thực tại không
phải bằng sự tưởng tượng. Ngay cả
chân lý của niết bàn không được chấp
nhận đến khi nào chúng ta đã kinh
nghiệm về nó. Giáo pháp phải mang lại
kết quả lợi ích hiện tại, và tại đây,
không chỉ bằng lời hứa có ích để được
hưởng thụ trong tương lai. Nó có tính
chất của 'đến và xem'; chính chúng ta
quan sát nó, thực nghiệmû nó ở chính
chúng ta, không chấp nhận một cách
mù quáng. Và một khi chúng ta đã nổ
lực và kinh nghiệm nó và sự lợi ích của
nó, chúng ta không thể không khuyến
khích và ggiúp người khác đến để mà
thấy giáo pháp cũng như chúng ta. Mỗi
169
bước trên con đường dẫn đến gần hơn
mục đích tối hậu; không nỗ lực sẽ
không có kết quả. Giáo pháp lợi ích ở
sự bắt đầu, giai đoạn giữa và giai đọan
cuối. Cuối cùng bất cứ ai với khả năng
hiểu biết trung bình (những người bình
thường), với bất cứ tầng lớp nào đều có
thể thực hành và kinh nghiệm sự lợi ích
của Giáo pháp. Với sự hiểu biết này về
những gì bản chất thật chính nó hiện
hữu, nếu chúng ta qui y Giáo pháp và
bắt đầu thực hành theo Giáo pháp, sự
thành tâm của chúng ta thật sự là có ý
nghĩa.
Cùng một cách, qui y Tăng già không
phải là vấn đề của việc lên hệ đến một
đảng phái nào. Bất cứ ai đã đi trên con
đường giới, định và tuệ và bất cứ ai đã
170
đạt ít nhất giải đọan đầu tiên của giải
thóat, vị ấy trở thành một Vị thánh, là
một thành viên của Tăng già. Vị ấy có
thể là bất cứ ai, bất cứ hình thức nào,
bất cứ màu sắc, chủng tộc; tất cả đều
không có sự khác biệt. Nếu chúng ta
hân hoan qua việc thấy một vị như vậy
và để tu tập đi đến cùng một mục đích
cho chính chúng ta, thì sự qui y tăng
già của chúng rất có ý nghĩa, sự thành
tâm chân chánh.
Một người bạn khác là sự tinh tấn nổ
lực. Như niềm tin, nó không được mù
quáng. Ngược lại sẽ có nguy hiểm cho
chúng ta là chúng ta sẽ tu tập sai con
đường, và sẽ không thành tựu kết quả
như chúng ta đã mong muốn. Tinh tấn
phải được kết hợp với sự hiểu biết
171
thích hợp cách thức để chúng ta thực
tập; từ đó nó sẽ rất có ích cho tiến trình
hành trì của chúng ta.
Một người bạn khác là sự tỉnh giác
chánh niệm. Sự tỉnh giác chỉ có thể có
ở sát na hiện tại. Chúng ta không thể
tỉnh giác ở quá khứ , chúng ta chỉ có
thể nhớ đến nó. Chúng ta không thể
tỉnh giác ở tương lai, chúng ta chỉ có
thể có những cảm hứng hoặc những sợ
hãi ở tương lai. Chúng ta phải phát
triển khả năng tỉnh giác về thực tại để
biểu lộ ở nơi chúng ta ngay sát na hiện
tại.
Người bạn kế tiếp là sự nhất tâm
(định), duy trì sự tỉnh giác ở hiện tại
trong mỗi sát na, không để gián đọan.
172
Nó phải thoát khỏi mọi sự tưởng
tượng, tham đắm, sân giận; chỉ như thế
nó mới gọi là chánh định.
Và người bạn thứ năm là trí tuệ- không
phải trí tuệ thu nhập bằng sự lắng nghe
những bài pháp, hoặc đọc một số sách,
hoặc phân tích bằng tri thức; chúng ta
phải phát triển trí tuệ nơi chúng ta ở
cấp độ kinh nghiệm, vì chỉ có trí tuệ
kinh nghiệm này mới có thể đưa chúng
ta giải thóat. Và để có trí tuệ thật sự, nó
phải được căn cứ vào những thân cảm
thọ: chúng ta duy trì sự bình thản đối
với những cảm thọ, hiểu bản chất vô
thường của chúng nó. Đây là sự bình
thản ở cấp độ của tâm thức, nó sẽ giúp
chúng ta duy trì sự bình an giữa những
173
sự thăng trầm trong cuộc sống chúng
ta.
Tất cả sự hành trì Vipassana có vì mục
đích của nó để có thể giúp chúng ta
sống một lối sống thích hợp, thực hành
đầy đủ trách nhiệm thế gian của chúng
ta trong lúc duy trì tâm bình an, duy trì
sự an lạc và hạnh phúc trong chính
chúng ta và làm cho người khác an vui
và hạnh phúc. Nếu các bạn giữ năm
người bạn có sức mạnh này, các bạn
trở thành toàn hảo trong nghệ thuật
sống, và sẽ dẫn đến một cuộc sống lành
mạnh và hạnh phúc.
Tiến hành bằng con đường Chánh
pháp, vì sự tốt đẹp và lợi ích cho các
bạn và cho số đông.
174
Cầu mong tất cả những chúng sanh
đang bị khổ đau được tiếp xúc với giáo
pháp, để xóa tan khổ đau và an hưởng
hạnh phúc thật sự.
Cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đều
được hạnh phúc.
---o0o---
BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ
TÁM
Qui luật của sự tăng trưởng và sự
ngược lại của nó
Qui luật của sự đoạn trừ
Sự xả ly là sự an lạc tối thượng
Sự xả ly có thể làm cho chúng ta sống
một đời sống với những việc làm chân
chính
175
Bằng sự duy trì xả ly, chúng ta xác
định một tương lai hạnh phúc cho
chính chúng ta
Ngày thứ tám đã qua, các bạn còn hai
ngày còn lại để tu tập. Trong những
ngày còn lại, thấy rằng các bạn hiểu
phương pháp một cách thích hợp, để
các bạn có thể thực hành nó thích hợp
ở đây và cũng để sử dụng nó trong đời
sống hằng ngày. Hiểu những gì Giáo
pháp là: bản chất tự nhiên, chân lý, qui
luật vũ trụ.
Về phương diện này, có một tiến trình
tăng trưởng liên tục. Về phương diện
khác, có một tiến trình hoại diệt. Điều
này cũng được giải thích rõ trong
những câu kệ:
176
Chân lý vô thường là những sự vật tồn
tại có điều kiện,
Bằng bản chất tự nhiên sinh khởi và
hoại diệt.
Nếu chúng nó sinh khởi và bị tan hoại,
Sự đoạn trừ sự sinh diệt mang lại hạnh
phúc chân thật.
(chư hành vô thường,
thị sinh diệt pháp.
Sanh diệt diệt dĩ,
Tịch diệt vi lạc.)
Mỗi san’khaaraa, mỗi tâm sinh khởi có
điều kiện là vô thừơng, có bản chất tự
nhiên của sự sinh khởi và hoại diệt. Nó
hoại diệt nhưng giây phút kế nó sinh
khởi trở lại; và trở lại nữa; đây là cách
San’khaaraa tăng trưởng. Nếu chúng
ta phát triển trí tuệ và bắt đầu quán sát
177
một cách khách quan, tiến trình của sự
tăng truởng sẽ dừng lại và tiến trình
của sự hoại diệt sẽ bắt đầu. Một
san’khaaraa sinh khởi, nhưng hành giả
chỉ duy trì sự bình thản; nó sẽ mất đi
sức mạnh của nó và sẽ bị tan hoại.
Từng lớp một, san’khaaraa cũ sẽ sinh
khởi và bị hoại diệt, nó đã cung cấp
cho chúng ta duy trì sự bình thản. Bao
nhiêu san’khaaraa bị tiêu diệt thì bấy
nhiêu hạnh phúc chúng ta sẽ an vui, sự
hạnh phúc thoát khỏi phiền não. Nếu
tất cả san’khaaraa cũ đều đoạn diệt thì
chúng ta an vui hạnh phúc vô biên về
sự giải thoát viên mãn.
Những thói quen cũ của tâm thức là
phản ứng, và tăng trưởng những phản
ứng. Những gì không muốn lại xảy ra,
178
và chúng ta tạo ra một san’khaaraa của
sự sân giận. Khi san’khaaraa sinh khởi
trong tâm, nó được phối hợp với một
thân cảm thọ bất lạc. Sát na kế tiếp, vì
thói quen phản ứng cũ, chúng ta lại tạo
ra sự nóng giận, nó được hướng trực
tiếp đến thân cảm thọ bất lạc. Những
kích thích bên ngoài về sân giận là sự
phụ trợ; sự phản ứng là yếu tố dẫn đến
cảm thọ trong chúng ta. Cảm thọ bất
lạc làm chúng ta phản ứng lại bằng sự
sân giận, nó lại gây một cảm thọ bất lạc
khác, nó lại tiếp tục làm cho chúng ta
phản ứng. Trong cách này, tiến trình
tăng trưởng bắt đầu. Nếu chúng ta
không phản ứng lại cảm thọ nhưng
thay vì mỉm cười và hiểu bản chất vô
thường của nó, thì chúng ta sẽ không
179
tạo ra san’khaaraa mới, và san’khaaraa
đã sinh khởi khi đó sẽ tiêu diệt không
có tăng trưởng. Kế đến, một
san’khaaraa khác của cùng một loại sẽ
sinh khởi từ độ sâu của tâm thức;
chúng ta duy trì bình thản, và nó sẽ trôi
qua. Kế đến một cái khác nữa lại sinh
khởi; chúng ta duy trì thản nhiên, và nó
trôi qua. Tiến trình của sự đoạn trừ đã
bắt đầu.
Những tiến trình mà chúng ta quan sát
trong chính chúng ta cũng xảy ra khắp
cả vũ trụ. Ví dụ, có ai đó gieo hạt giống
của cây banyan ( cây bồ đề). Từ hột
giống bé tí đó một cây lớn phát triển,
nó mang vô số trái hằng năm, suốt thời
gian nó sống. Và ngay sau khi nó chết,
tiến trình vẫn tiếp tục, vì mỗi trái mà
180
cây đã mang bao gồm một hột hoặc vô
số hột, có cùng tính chất như hột ban
đầu phát triển thành cây. Bất cứ khi
nào một trong những hạt giống này rơi
vào đất tốt nó sẽ nảy mầm và phát triển
thành một cây khác, lại nữa cây này lại
tạo ra hàng ngàn trái, tất cả trái hàm
chứa những hột giống. Trái và hột
giống, hột và trái; một tiến trình bất tận
tăng trưởng. Cùng một cách này, vì vô
minh chúng ta gieo hột giống
san’khaaraa (sự phản ứng ) , sớm
muộn gì hạt giống cho ra trái , còn gọi
là san’khaaraa, và cũng hàm chứa một
hạt giống của cùng một loại. Nếu
chúng ta cho hạt giống vào vùng đất tốt
nó nảy mầm thành một san’khaaraa
mới, và sự đau khổ của chúng ta tăng
181
bội lên. Tuy nhiên, nếu chúng ta ném
hạt giống vào đất đá, chúng không thể
nảy mầm; không có gì sinh sản từ
chúng nó. Tiến trình tăng trưởng dừng
lại, và tự động tiến trình ngược lại bắt
đầu, tiến trình của sự đoạn trừ.
Nhận ra thế nào tiến trình này vận
hành. Nó được giải thích rằng một số
dữ liệu nhập vào cung cấp cho sự vận
hành của đời sống, của thân và tâm
thức, để duy trì. Sự nhập vào cho thân
là thức ăn và ăn, cũng như môi trường
trong đó chúng ta sống. Nếu ngày nào
đó chúng ta không ăn, dòng vận hành
của vật chất (thân thể) không dừng lại
ngay lập tức. Nó tiếp tục tiêu thụ
những sản phẩm dự trữ của năng lượng
chứa trong thân thể. Khi tất cả những
182
năng lượng dự trữ được tiêu thụ, chỉ
đến lúc dòng vận hành dừng lại, thân
thể sẽ chết.
Thân thể cần thức ăn hai hoặc ba lần
một ngày, nhưng dòng tâm thức đòi hỏi
phải nạp vào trong mỗi sát na. Thức ăn
nạp vào cho tâm thức là san’khaaraa.
Mỗi giây san’khaaraa mà chúng ta tạo
ra có trách nhiệm duy trì dòng vận
chuyển của tâm thức. Tâm thức sinh
khởi ở sát na kế tiếp là sản phẩm của
san’khaaraa này. Mỗi sát na chúng ta
nạp vào san’khaaraa, và dòng vận
chuyển của tâm thức tiếp tục. Nếu ở
bất cứ sát na nào chúng ta không tạo
một san’khaaraa mới dòng tâm thức
vẫn không dừng lại lúc đó; thay vì nó
sẽ rút ra san’khaaraa cũ từ nguồn dự
183
trữ. Một san’khaaraa cũ sẽ bị ép buộc
cho ra một kết quả của nó, đó là, để
đến bề mặt của tâm thức với mục đích
tiếp tục duy trì dòng vận chuyển; và nó
sẽ biểu hiện như là một thân cảm thọ.
Nếu chúng ta phản ứng lại cảm thọ, lại
nữa chúng ta bắt đầu tạo ra một
san’khaaraa mới, gieo trồng những hột
giống mới của khổ đau. Nhưng nếu
chúng ta quán sát những cảm thọ với
sự bình thản, san’khaaraa sẽ mất đi sức
mạnh của nó và bị tiêu diệt. Ở sát na kế
san’khaaraa cũ phải xuất hiện để duy
trì dòng vận hành tâm thức. Lại nữa
chúng ta không phản ứng, và lại nữa nó
bị tiêu diệt. Đến chừng mực nào chúng
ta duy trì tỉnh giác và thản nhiên, tuần
tự những san’khaaraa cũ sẽ xuất hiện
184
ở bề mặt của tâm thức và bị tiêu diệt;
đây là qui luật của tự nhiên.
Chúng ta phải kinh nghiệm tiến trình
chính chúng ta bằng sự thực hành
phương pháp. Khi chúng ta thấy rằng
những thói quen cũ và những đau khổ
cũ của chúng ta đều được đoạn trừ, khi
đó chúng ta biết rằng tiến trình của sự
đoạn trừ được thực hành.
Một phương pháp kỷ thuật hiện hành
trong nghề luyện kim hiện đại. Để tinh
chế một số kim loại nào đó, để làm cho
chúng nó hoàn toàn tinh chất, đều cần
thiết là dời ra khỏi ngay cả một phân tử
pha tạp trong hàng tỉ phân tử. Điều này
được tiến hành bằng cách cán dẹp kim
loại trong một hình thể của một cây
185
que, và rồi tạo ra một vòng đai của
cùng một kim loại đã được tinh chế
cho sự tinh chế đã yêu cầu. Vòng đai
đã được chuyển thành hình cây que, và
tạo ra một sức hút để tự động loại ra
bất cứ những cấu tạp nào trong toàn thể
cây que. Cùng một lúc, tất cả những
phân tử trong cây que kim loại được
sắp ngay thẳng; nó trở thành dễ uốn, dễ
dát mỏng, có thể dùng để làm công
việc. Trong cùng một cách như vậy,
phương pháp thiền Vipassana có thể
được xem như sự trải qua của một
vòng đai tỉnh thức qua cấu trúc cơ thể,
loại trừ ra bất cứ những cấu uế, với
những lợi lạc tương tự như trên.
Sự tỉnh giác và bình thản sẽ dẫn đến sự
thanh lọc tâm thức. Bất cứ điều gì
186
chúng ta kinh qua bằng phương pháp
này, hoặc lạc hoặc bất lạc, không phải
là vấn đề quan trọng. Điều quan trọng
là không phản ứng lại với tham đắm
hoặc sân giận, cả hai yếu tố này chỉ tạo
ra khổ đau. Thước đo duy nhất để đo
đạt tiến trình hành trì của chúng ta là sự
bình thản mà chúng ta đã phát triển. Và
sự bình thản phải có mặt ở cấp độ
những cảm thọ bằng thân thể nếu
chúng ta đi vào chiều sâu của tâm thức
và để loại trừ những cấu uế. Nếu chúng
ta thực hành tỉnh giác đối với những
cảm thọ và duy trì sự bình thản đối với
chúng, thì chúng ta sẽ dễ dàng giữ sự
thăng bằng đối phó với những tình
huống bên ngoài.
187
Đức Phật đã có lần được hỏi điều gì là
sự lợi lạc chân thật. Ngài đáp lại rằng
lợi lạc tối thượng là khả năng duy trì sự
thăng bằng tâm thức của chúng ta cho
dù tất cả những biến đổi , thăng trầm ,
của cuộc đời. Chúng ta có thể đối diện
với những cảm thọ lạc hoặc khổ, chiến
thắng hoặc thất bại, được hoặc mất,
danh thơm hoặc tiếng xấu; mọi người
đều phải đối diện với những điều này.
Nhưng chúng ta có thể mỉm cười trong
mọi hoàn cảnh, sự mỉm cười xuất có
phải phát từ tâm của chúng ta không?
Nếu chúng ta có sự bình thản này ở cấp
độ sâu nhất, thì chúng ta sẽ có sự hạnh
phúc thật sự.
Nếu sự bình thản chỉ là bên ngoài thì
nó sẽ không giúp chúng ta trong cuộc
188
sống hiện tại. Nó như thể mỗi chúng ta
mang một bình xăng, dầu . Nếu một
ánh lửa xảy ra, một kết quả của một
phản ứng ở quá khứ, ngay lập tức một
kết quả bùng nổ tạo ra, sản sinh ra hàng
triệu đóm lửa khác nữa, thêm
san’khaaraa nữa, nó sẽ mang lửa nhiều
thêm nữa, khổ não tăng thêm trong
tương lai. Bằng sự hành trì Vipassana,
chúng ta lần lược rút rỗng bình nhiên
liệu. Những đóm lửa vẫn đến vì
san’khaaraa của quá khứ của chúng ta,
nhưng khi chúng nó đến, chúng nó chỉ
đốt bằng nhiên liệu mà chúng nó mang
đến; nhiên liệu mới không được cung
cấp. Chúng nó cháy nhanh cho đến khi
chúng nó tiêu thụ nhiên liệu chúng nó
có, và từ đó chúng nó bị tiêu hủy đi. Về
189
sau, khi chúng ta tiến xa hơn trên con
đường tu tập, tự nhiên chúng ta bắt đầu
tạo ra dòng nước mát của tình thương
và lòng từ bi, và bình chứa nhiên liệu
bây giờ được chứa đầy với nước mát
này. Ở đây, ngay lúc một đóm lửa đến,
nó bị tiêu hủy ngay. Nó không thể đốt
cháy ngay cả một ít nhiên liệu mà nó
chứa đựng.
Chúng ta có thể hiểu vấn đề này ở mức
độ tri thức, và biết rằng chúng ta nên
có sẳn một máy bơm nước phòng khi
có lửa phát sinh. Nhưng khi lửa đến
thật sự rồi thì chúng ta chuyển sang vòi
bơm xăng và bắt đầu một đám cháy
lớn. Sau đó chúng ta nhận ra sự sai
lầm, nhưng tiếp tục lập lại lần kế nữa
khi lửa đến, vì trí tuệ của chúng ta còn
190
nông cạn. Nếu ai đó có trí tuệ chân thật
ở chiều sâu của tâm thức, khi đối diện
với lửa vị ấy sẽ không đổ xăng vào nó,
biết rằng điều này chỉ gây tác hại. Thay
vì đổ vào nước lạnh của tình thương và
lòng từ bi, giúp đỡ những người khác
và chính mình.
Trí tuệ phải ở cấp độ của những cảm
thọ. Nếu chúng ta tự luyện tập để tỉnh
giác những cảm thọ ở bất cứ hoàn cảnh
nào và duy trì sự bình thản đối với nó,
không có gì có thể xâm nhập các bạn.
Có thể khoảng vài giây các bạn quan
sát không hề phản ứng lại. Khi đó, với
tâm bình thản này, các bạn quyết định
những hành động nào cần tiến hành.
Chắn chắn rằng đó là một hành động
191
đúng, tốt , có lợi cho người khác, vì nó
được tiến hành với một tâm bình thản.
Đôi khi trong cuộc sống rất cần thiết sử
dụng hành động mạnh. Chúng ta đã cố
giải thích cho ai đó một cách lịch sự ,
tử tế, với một nụ cười, nhưng họ chỉ có
thể hiểu bằng những lời nặng nề, hành
động cứng rắn. Vì vậy chúng ta dùng
lời nói mạnh và hoặc hành động bằng
thân. Nhưng trước khi làm như vậy,
chúng ta phải kiểm tra lại chính mình
xem tâm chúng ta có được bình tỉnh
hay không, và xem chúng ta chỉ có
lòng từ bi và tình thương với mọi
người. Nếu như thế, hành động sẽ có
ích; bằng không, nó sẽ không giúp gì
cho người khác. Chúng ta hành động
mạnh để giúp những người sai lầm.
192
Với nền tảng của tình thương và lòng
từ chúng ta không thể là sai.
Trong trường hợp của sự công kích,
một thiền giả Vipassana sẽ thực tập để
tách xa người xung đột và tội phạm,
ban rải lòng từ không chỉ cho tội phạm
mà còn những người gây xung đột.
Chúng ta biết rằng những người xung
đột không biết vấn đề anh ta đang làm
hại chính mình. Hiểu vấn đề này chúng
ta cố gắng giúp anh ta bằng cách ngăn
ngừa anh ta ra khỏi những hành vi sẽ
gây khổ não cho anh ta trong tương lai.
Tuy nhiên chúng ta phải cẩn thận
không phải để kiểm tra những hành
động của chúng ta chỉ sau khi biến cố
đã xảy ra. Các bạn phải tự kiểm tra tâm
193
của mình trước khi hành động. Nếu
tâm tràn đầy những phiền não, chúng ta
không thể giúp bất cứ ai. Trước tiên
chúng ta phải chỉnh đốn những sai lầm
của chúng ta trước rồi mới có thể chính
đốn sai lầm của nngười khác. Trước
tiên chúng ta phải thanh lọc tâm của
chúng ta bằng tự quán sát mình. Sau đó
chúng ta mới có thể giúp chúng sanh.
Đức Phật nói rằng có bốn loại người
trên thế gian này:
- Hạng người đi từ bóng tối vào bóng
tối
- Hạng người đi từ ánh sáng vào bóng
tối.
- Hạng nngười đi từ bóng tối ra ánh
sáng .
194
- Hạng người đi từ ánh sáng vào ánh
sáng.
Những ai thuộc hạng người đầu tiên,
mọi thứ xung quanh chỉ là bất hạnh, tối
tăm, nhưng điều bất hạnh lớn lao nhất
của anh ta là anh ta không có trí tuệ.
Mỗi lúc anh ta gặp khổ đau anh ta tăng
trưởng thêm sân hận, căm ghét, bực tức
và đổ lỗi cho người khác làm cho anh
ta khổ. Tất cả những san’khaaraa của
nóng giận và cáu ghét này sẽ mang anh
ta đến nơi tối tăm hơn và khổ não hơn
trong tương lai.
Người thuộc nhóm thứ hai có những gì
được gọi là ánh sáng trong cuộc đời
này: tiền bạc, địa vị, quyền lực, nhưng
anh ta cũng chẳng có trí tuệ. Vì vô
minh anh ta phát triển chủ nghĩa tự
195
ngã, không hiểu rằng những căng thẳng
của tự ngã sẽ mang lại cho anh ta sự tối
tăm trong tương lai.
Người thuộc nhóm thứ ba có cùng vị trí
như người ở nhóm đầu, bị đoanh vây
bởi tối tăm; nhưng anh ta có trí tuệ, và
hiểu hoàn cảnh. Nhận ra rằng anh ta
hoàn toàn chịu trách nhiệm sự khổ sở
của chính mình, anh ta lặng lẽ và an
lòng làm những gì anh ta có thể thay
đổi tình huống, nhưng không khởi bất
cứ sân giận, hoặc cáu ghét đến với
người khác; thay vì anh ta chỉ có tình
thương và lòng từ với những người
đang gây đau khổ cho anh. Tất cả
những gì anh ta tạo ra cho tương lai là
sự sáng lạng.
196
Cuối cùng người trong nhóm thứ tư, ví
như một người ở nhóm thứ hai, hưởng
thụ tiền bạc, địa vị và quyền lực, nhưng
không như người ở trong nhóm hai,
anh ta có đầy đủ trí tuệ. Anh ta sử dụng
những gì anh ta có để duy trì bản thân
và những người phụ thuộc vào anh ta,
nhưng bất cứ những gì hiện hữa anh ta
sử dụng vì sự tốt đẹp cho người khác,
với tình thương và lòng từ. Sự sáng
suốt ngay bây giờ và trong tương lai.
Chúng ta không thể chọn hoặc là chúng
ta ở đây, đối diện với bóng tối hay là
ánh sáng; điều đó được xác định bởi
san’khaaraa quá khứ của chúng ta.
Quá khứ không thể thay đổi được,
nhưng chúng ta có thể kiềm chế ở hiện
tại bằng sự điều phục chính bản thân.
197
Tương lai chỉ là quá khứ cộng lại
những gì được thêm vào ở hiện tại.
Vipassana dạy phương cách để có thể
tự chủ chính mình bằng sự phát triển
tỉnh giác và thản nhiên đối với những
cảm thọ. Nếu chúng ta phát triển sự tự
chủ này ở giây phút hiện tại, tương lai
tự nhiên sẽ trở nên sáng lạng.
Sử dụng hai ngày còn lại để thực hành
phương cách để tự chủ với giây phút
hiện tại, tự chủ với chính chúng ta.
Duy trì phát triển trong Giáo pháp, loại
trừ tất cả những khổ đau, và an vui với
hạnh phúc chân thật tại đây và ngay
bây giờ.
Cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đều
được hạnh phúc!
198
---o0o---
BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ
CHÍN
Sự áp dụng phương pháp vào đời sống
hàng ngày
Mười ba la mật (paaramii)
Ngày thứ chín đã qua. Bây giờ là lúc để
thảo luận làm thế nào để sử dụng
phương pháp trong đời sống hằng
ngày. Điều này có tầm quan trọng
quyết định. Giáo pháp là một nghệ
thuật sống. Nếu chúng ta không thể sử
dụng nó trong đời sống thường ngày,
thì việc tham dự một khóa tu không
khả quan gì so với việc hành trì một
nghi thức hoặc lễ lộc.
199
Mỗi người đối diện với những tình
huống không muốn đã xảy ra trong
cuộc sống. Bất cứ khi nào những vấn
đề không thích xảy ra, chúng ta mất đi
sự bình tỉnh trong tâm thức của chúng
ta và bắt đầu tạo ra phiền não. Và bất
cứ khi nào một phiền não sinh khởi
trong tâm, chúng ta trở nên khổ sở.
Làm sao để chúng ta không tạo ra
phiền não, không tạo ra căng thẳng?
Làm thế nào để chúng ta duy trì sự
bình an và hài hòa?
Những vị Thánh đã khám phá ra thực
tại của thân vàtâm và đã tình ra một
giải pháp cho vấn đề: Bất cứ khi nào
một phiền não sinh khởi trong tâm vì
bất cứ lý do gì, chúng ta nên chuyển sự
chú ý của chúng ta đến một nơi khác.
200
Ví dụ, chúng ta có thể đứng dậy, uống
một ít nước, bắt đầu đếm, hoặc bắt đầu
tụng danh hiệu của một vị chư thiên
hoặc vị thánh hướng đến người mà
chúng ta có sự thành tâm tôn kính.
Bằng sự chuyển đổi sự tập trung chúng
ta sẽ thoát khỏi sự phiền não.
Một giải pháp khả thi. Nhưng những
nhà khám phá khác về sự thật bên
trong đã đi vào cấp độ sâu nhất của
thực tại, đã đến chân lý tối hậu. Những
vị đã giác ngộ này đã tuệ tri rằng bằng
sự chuyển đổi sự chú ý chúng ta tạo ra
một lớp bình an và hài hòa ở cấp độ
nhận thức, nhưng chúng ta đã không
đoạn trừ phiền não đã sinh khởi. Chúng
ta chỉ đè nén nó. Ơû cấp độ vô thức, nó
tiếp tục tăng trưởng và tập trung sức
201
mạnh. Sớm hay muộn miệng núi lửa
ngủ ngầm của phiền não này sẽ phụt ra
và áp đảo tâm thức . Bao lâu những
phiền não còn tồn tại, ngay cả ở cấp độ
vô thức, giải pháp không hoàn hảo
vàchỉ tạm thờiø mà thôi.
Một vị đã hoàn tòan Giác ngộ tìm ra
một giải pháp đúng đắn: đừng chạy
trốn vấn đề; hãy đối diện với nó. Quan
sát bất cứ những phiền não nào sinh
khởi trong tâm. bằng sự quan sát chúng
ta không đè nén nó, chúng ta cũng
không cho nó một sự xác nhận để giải
thích nó bằng những hành động gây tác
hại bằng lời nói hoặc hành động. Giữa
hai cực đoan này là con đường trung
đạo: chỉ quán sát mà thôi. Khi chúng ta
bắt đầu quán sát, phiền não mất đi sức
202
mạnh của nó và trôi qua mà không áp
đảo được tâm thức. Không chỉ thế, mà
một số dự trữ của loại phiền não đó
cũng sẽ bị tiêu diệt. Bất cứ khi nào một
cấu uế sinh khởi ở cấp độ nhận thức,
kho dự trữ của chúng ta về loại cấu uế
đó sinh ra từ vô thức, bắt đầu liên kết
với phiền não hiện tại, và bắt đầu tăng
trưởng. Nếu chúng ta chỉ quan sát,
không chỉ cấu uế hiện tại mà còn một
số phần của phiền não dự trữ sẽ được
đoạn trừ. Bằng cách này, tuần tự tất cả
mọi phiền não đều được đoạn trừ, và
chúng ta bắt đầu giải thóat khổ não.
Nhưng đối với một người bình thường,
không dễ để quan sát một tâm phiền
não. Chúng ta không biết khi nào nó đã
bắt đầu và nó đã áp đảo tâm thức như
203
thế nào. Ngay lúc nó đến bề mặt nhận
thức, nó quá mạnh để quan sát không
phản ứng lại. Mặc dù chúng ta cố gắng
làm như vậy, rất khó khăn để quan sát
một phiền não tinh tế của tâm thức- sân
giận ngấm ngầm, sợ hãi, hoặc tham
lam thay vì, sự chú ý của chúng ta
được hướng đến những kích động của
phiền não bên ngoài, những thứ đó chỉ
làm cho phiền não tăng trưởng.
Tuy nhiên, những vị Giác Ngộ đã
khám phá ra rằng bất cứ khi nào một
phiền não sinh khởi trong tâm, đồng
thời hai vấn đề sinh khởi xảy ra ở cấp
độ thân thể: hơi thở sẽ trở nên khác
thường, và một sự phản ứng sinh-hóa
sẽ bắt đầu trong thân thể, một cảm thọ.
Một giải pháp thực tế đã được tìm ra.
204
Rất khó để quán sát những phiền não vi
tế khởi lên trong tâm, nhưng với sự
luyện tập chúng ta thực tập mau chóng
để quan sát hơi thở và cảm thọ, cả hai
chúng nó đều là những biểu hiện của
thân phiền não. Bằng sự quán sát một
phiền não trong phần nào của thân,
chúng ta cho phép nó sinh lên rồi diệt
đi mà không gây ra bất cứ tác hại nào.
Chúng ta bắt đầu giải thoát phiền não.
Phải trải qua thời gian mới làm chủ
phương pháp thực hành này, nhưng khi
chúng ta hành trì, tuần tự chúng ta sẽ
thấy rằng càng thêm những giải pháp
bên ngoài trong đó trước đây chúng ta
chúng ta đã phản ứng lại với phiền não,
bây ggiờ chúng ta có thể giữ bình tĩnh.
Mặc dù chúng ta phản ứng, sự phản
205
ứng sẽkhông quá mạnh hoặc kéo dài
như nó đã có ở quá khứ. Một lúc nào
đó nó sẽ đến trong một tình huống bực
tức nhất, chúng ta sẽ có thể chú ý sự
cảnh giác được đưa ra bằng hơi thở và
cảm thọ, và sẽ bắt đầu quan sát chúng,
ngay cả trong một vài sát na. Những sát
na của tự quán sát này sẽ hoạt động
như là một thiết bị giảm sốc giữa
những kích động bên ngoài và sự đáp
lại của chúng ta. Thay vì phản ứng lại
một cách mù quáng, tâm thức duy trì
bình thản, và chúng ta có thể sử dụng
những hành động tích cực có lợi cho
chúng ta và người khác.
Các bạn đã tiến hành bước đầu tiên
hướng đến sự đoạn ttrừ những phiền
não và thay đổi những thói quen của
206
tâm thức, bằng sự quán sát những cảm
thọ ở chính các bạn.
Từ lúc sanh ra, chúng ta luôn được
huấn luyện nhìn ra bên ngoài. Chúng ta
không bao giờ quán sát chính mình, và
vì vậy chúng ta không có khả năng đi
đến những cấp độ sâu về những vấn đề
của chúng ta. Chẳng hạn chúng ta tìm
nguyên nhân gây ra sự đau khổ của
chúng ta ở bên ngoài, luôn luôn đổ lỗi
cho nngười khác vì sự bất hạnh của
chúng ta. Chúng ta nhìn những sự vật
chỉ qua một góc cạnh, một phần quan
điểm, những vấn đề đã bị bóp méo đi;
và chúng ta chỉ chấp nhận quan điểm
này như ø chân lý toàn hảo. Bất cứ sự
quyết định nào được tạo ra với thông
tin không hoàn hảo này chỉ sẽ làm hại
207
cho chính chúng ta và người khác. Để
nhìn toàn thể của chân lý chúng ta phải
quan sát nó từ nhiều khía cạnh. Đây là
điều chúng ta học tập để thực hành
bằng sự thực hành Vipassana: để nhìn
thực tại không chỉ bên ngoài mà còn
phải nhìn bên trong nữa.
Nhìn chỉ từ một góc cạnh, chúng ta
tưởng tượng rằng sự khổ đau của
chúng ta được gây ra do người khác,
bởi hoàn cảnh bên ngoài. Vì vậy chúng
ta dốc toàn bộ năng lực của chúng ta
cho sự thay đổi người khác và thay đổi
hoàn cảnh bên ngoài. Thực tế, điều này
chỉ là một nỗ lực vô ích. Chúng ta đã
thực hành quan sát thực tại trong đó
chúng ta sớm tuệ tri rằng con người
hoàn toàn có trách nhiệm với khổ đau
208
hoặc hạnh phúc của chính mình. Ví dụ,
có ai đó bị một người chê bai và bắt
đầu phiền não. Anh ta đổ lỗi người chê
bai anh ta làm cho anh phiền não. Thực
tế người chê bai đã tạo ra khổ sở cho
chính mình khi anh ta phản ứng với lời
chê bai, khi đó anh ta bắt đầu làm ô
nhiểm tâm của mình. Mọi người có
trách nhiệm cho sự khổ não của chính
mình, không có ai vào đó cả. Khi nào
chúng ta kinh nghiệm chân lý này, sự
điên rồ tìm thấy lỗi ở người khác
không còn nữa.
Chúng ta phản ứng lại điều gì? Một
ảnh tượng do chúng ta tạo ra không
phải là thực tế bên ngoài. Khi chúng ta
nhìn ai đó, sự tưởng tượng của chúng
ta bị phủ màu do những huân tập của
209
quá khứ chúng ta. Những san’khaaraa
cũ tác động đến nhận thức chúng tavề
bất cứ hoàn cảnh mới nào. Lần lược, vì
sự nhận thức có điều kiện này, thân
cảm thọ trở nên lạc hoặc bất lạc. Và
theo khuôn mẫu của cảm thọ, chúng ta
tạo ra một phản ứng mới. Mỗi tiến
trình có điều kiện này được tạo ra do
san’khaaraa cũ. Nhưng nếu chúng ta
duy trì tỉnh giác và thản nhiên đối với
những cảm thọ, thói quen của sự phản
ứng mù quán trở nên yếu hơn, và
chúng ta thực hành quan sát thực tại
như nó đang là.
Khi chúng ta phát triển khả năng nhìn
những sự vật từ những khía cạnh khác
nhau, từ đó bất cứ khi nào người khác
chê bai hoặc ngược lại cư sử tệ, sự tuệ
210
tri khởi lên rằng vị này đang có thái độ
sai vì anh ta đang đau khổ. Với sự tuệ
tri này, chúng ta không phản ứng lại
với phiền não, nhưng chỉ cảm nhận
tình thương và lòng từ bi cho người
khổ sở, như một người mẹ sẽ cảm
thông đứa con đang bệnh. Sự nhận
thức phát sinh để giúp người này loại
trừ khổ não của anh ta. Vì vậy, chúng
ta duy trì sự bình an và hạnh phúc, và
giúp những người khác cũng được bình
an và hạnh phúc. Đây là mục đích của
Giáo pháp: để thực tập nghệ thuật
sống, đó là, để đoạn trừ những tâm cấu
uế và để phát triển những phẩm chất
tốt, vì sự tốt đẹp cho chúng ta và người
khác.
211
Có mười phẩm chất tốt thuộc về tâm -
paaramii - điều mà chúng ta phải hoàn
thiện để đến mục đích tối hậu. Mục
đích là một tiến trình của vô ngã hoàn
toàn. Mười paaramii này là những
phẩm chất có khả năng lần lược phân
tán ngã chấp, bằng cách đó mang
chúng ta gần hơn sự giải thoát. Chúng
ta có cơ hội để phát triển mười phẩm
chất này trong một khóa thiền
Vipassana.
Paaramii (Ba la mật: viên mãn, cụ túc)
đầu tiên là nekkhamma - sự xuất ly.
Chúng ta trở thành một vị Tăng hoặc
Ni người xuất ly đời sống tại gia và
sống không sở hữa vật chất, ngay cả
phải xin ăn cho đời sống hằng ngày.
Tất cả điều này được làm vì mục đích
212
phá bỏ tự ngã. Làm thế nào để một
người tại gia có thể phát triển phẩm
chất này? trong một khóa tu như thế
này, chúng ta có cơ hội để thực hành,
từ lúc có mặt ở đây chúng ta sống dựa
vào sự hảo tâm của người khác. Chấp
nhận bất cứ những gì được cúng như
thức ăn, chốn ở, hoặc những nhu cầu
khác, chúng ta tuần tự phát triển phẩm
chất của sự xả ly (xuất gia). Bất cứ
điều gì chúng ta nhận ở đây, chúng ta
sử dụng tốt nhất, tu tập nổ lực để thanh
lọc tâm không chỉ tốt cho bản thân
chúng ta mà còn cho những người
không quen biết đã cúng thí vì sự có
mặt của chúng ta.
Ba la mật kế tiếp là siila - đạo đức.
Chúng ta phát ttriển phẩm chất này
213
bằng cách giữ năm giới trong suốt thời
gian, cả hai trong thời gian khóa tu và
đời sống hằng ngày. Có nhiều chướng
ngại gây khó khăn cho việc hành trì giữ
giới trong đời sống thế tục. Tuy nhiên,
ở đây trong một khóa thiền định, không
có cơ hội nào để phá bỏ giới vì chương
trình và nội qui rất nặng. Chỉ trong nói
năng đã có sự chánh mạng của chúng
ta phát xuất từ sự quán sát nghiêm túc
của giới. Vì lý do này chúng ta phát
nguyện tịnh khẩu trong chín ngày đầu
của khóa tu. Bằng cách này, ít nhất
trong suốt thời gian khóa tu, chúng ta
giữ giới một cách hoàn chỉnh.
Một ba la mật khác là viriya - tinh tấn.
Trong đời sống thường ngày chúng ta
nổ lực, ví du,ï để duy trìù mạng sống
214
của chúng ta. Ở đây, tuy nhiên, tinh tấn
là để làm thanh tịnh tân bằng sự duy trì
tỉnh giác và bình thản. Đây là chánh
tinh tấn, nó dẫn đến giải thóat.
Một ba la mật khác là pan~n~aa - trí
tuệ. Ở thế giới bên ngoài, chúng ta có
thể có trí tuệ, nhưng trí tuệ này chúng
ta có từ đọc sách, nghe từ những người
khác, hoặc chỉ hiểu biết bằng tri thức.
Paaramii đích thực của trí tuệ là sự tuệ
tri những gì khai mở trong chính chúng
ta, bằng tự kinh nghiệm của chúng ta
trong thiền định. Chúng ta liễu tri trực
tiếp bằng cách tự quán sát những yếu
tố của vô thường, khổ và vô ngã. Bằng
sự kinh nghiệm trực tiếp này của thực
tại chúng ta loại trừ khổ đau.
215
Một Ba la mật khác là khanti - sự cảm
thông. Ơû một khóa tu như vầy, tu tập
và sống với nhau trong cùng một
nhóm, chúng ta có thể thấy chính mình
bị phá rối và tức tối do những hành
động của những người khác. Nhưng rất
mau chúng ta liễu tri rằng người gây ra
sự phiền hà vì không biết vấn đề anh ta
đang làm, hoặc anh ta là một người
bệnh. Sự bực tức này sẽ qua đi, và
chúng ta chỉ cảm nhận tình thương và
lòng từ vì người đó. Chúng ta đã bắt
đầu phát triển phẩm chất của sự cảm
thông.
Một Ba la mật khác là sacca - sự thật.
Bằng sự thực hành giới chúng ta thực
tập để giữ sự chân thật bằng lời nói.
Tuy nhiên, sacca phải được hành trì
216
trong ý nghiã sâu hơn. Mỗi bước trên
con đường hành trì phải là một bước
với sự thật, từ sự thật thô, sự thật bên
ngoài, đến sự thật vi tế hơn và cuối
cùng đến chân lý tối hậu (sự thật rối
ráo, chân đế). Không còn lưu lại bất cứ
điểm nào để nghi ngờ nữa. Chúng ta
phải luôn luôn duy trì với thực tại mà
chúng ta kinh nghiệm thực tế ở giây
phút hiện tại.
Một Ba la mật khác nữa là
adhit.t.haana - sự khẳng quyết (sự
quyết định mạnh mẽ và khẳng khái).
Khi chúng ta bắt đầu khóa thiền
Vipassana, chúng ta tạo một sự quyết
định để duy trì trong suốt thời gian của
khóa. Chúng ta xác định giữ giới, luật
của sự tịnh khẩu và tất cả những nội
217
qui của khóa tu. Sau khi được giới
thiệu về pháp tu Vipassana, chúng ta
tạo ra một sự khẳng quyết để hành
thiền trong suốt thời giờ ngồi thiền tập
trung không hề mở mắt, tay, hoặc chân
ra. Ơû giai đoạn về sau của phương
pháp, ba la mật này rất là quan trọng;
khi đến gần mục tiêu tối hậu, chúng ta
phải sẳn sàng ngồi không thay đổi cho
đến khi đạt sự giải thóat. Vì mục đích
này điều cần thiết để phát triển sự
khẳng quyết.
Một Ba la mật khác nữa là mettaa -
tình thương vô ngã vị tha. Trong quá
khứ chúng ta nỗ lực để cảm nhận tình
thương và thiện chí vì người khác,
nhưng điều này chỉ ở cấp độ nhận thức
của tâm. ở cấp độ vô thức những căng
218
thẳng cũ vẫn tiếp tục duy trì. Khi toàn
bộ tâm thức đều thuần tịnh, lúc đó từ
những độ sâu chúng ta có thể hy vọng
vì hạnh phúc của người khác. Đây là
tình thương chân thật, nó giúp cho
người khác và cho chính chúng ta.
Một Ba la mật khác là upekkhaa - sự
bình thản (tâm hỷ xả) . Chúng ta thực
hành để duy trì sự bình an của tâm thức
không chỉ khi kinh nghiệm những cảm
thọ thô, bất lạc, hoặc những khu vực
không nhận ra trong thân thể, mà còn
bề mặt của những cảm thọ vi tế, và lạc.
Trong mỗi tình huống chúng ta hiểu
rằng sự kinh nghiệm của sát na đó là vô
thường, chắc chắn không tồn tại. Với
sự tuệ tri này chúng ta duy trì vô tham
và bình thản.
219
Ba la mật cuối cùng là daana - bố thí,
làm từ thiện. Với người tại gia, đây là
bước đầu tiên quan trọng của việc hành
trì Giáo pháp. Một người tại gia có
trách nhiệm làm kinh tế bằng việc là
chánh mạng, vì sự nuôi sống cho chúng
ta và những người tùy thuộc chúng ta.
Nhưng nếu chúng ta tạo ra tham lam
với tiền bạc chúng ta làm ra, từ đó
chúng ta phát triển tự ngã. Vì lý do
này, một phần chúng ta kiếm được phải
được bố thí cho người khác. Nếu chúng
ta làm điều này, tự ngã sẽ không tăng
trưởng, từ đó chúng ta hiểu rằng chúng
ta kiếm được vì sự ích lợi cho chính
chúng ta và cũng vì ích lợi cho những
người khác nữa. Sự hiểu biết phát sinh
để giúp người khác trong mọi cách mà
220
chúng ta có thể làm. Và chúng ta hiểu
rằng không có sự giúp đỡ nào cho
người khác lớn lao bằng cách giúp họ
tu tập chánh pháp thoát khỏi khổ đau.
Trong một khóa tu như vầy, chúng ta
có một cơ hội tốt để phát triển phẩm
chất này. bất cứ những gì chúng ta thọ
nhận ở đây được cúng dường từ những
người khác; không đòi hỏi tiền trả
phòng và bộ phận quản lý, và cũng
không nhận đối với sự giảng dạy. Đến
lược, chúng ta có thể cúng dường vì sự
lợi ích cho người khác. Số tiền chúng
ta cúng dường sẽ khác tùy theo phương
tiện của chúng ta. Tự nhiên một người
giàu có sẽ mong muốn cúng nhiều hơn,
nhưng ngay cả sự cúng dường ít nhất,
được cúng với sự nhận thức đúng đắn,
221
là sự quí giá trong việc phát triển Ba la
mật này. không mong cầu bất cứ điều
gì đáp trả, chúng ta cho để những
người khác có thể kinh nghiệm những
ích lợi của Giáo pháp và có thể đoạn
trừ phiền não của họ.
Ơû đây chúng ta có cơ hội để phát triển
mười Ba la mật. Khi tất cả những phẩm
chất này được viên mãn, các bạn sẽ đến
mục đích tối hậu.
Duy trì thực hành để phát triển chúng
từng tí một. Duy trì phát triển con
đường của Giáo pháp, không chỉ vì sự
ích lợi riêng các bạn và giải thóat, mà
còn sự lợi ích và giải thoát của nhiều
người.
222
Cầu mong tất cả những người khổ đau
tìm ra Giáo pháp thanh tịnh và được
giải thoát.
Cầu mong tất cả chúng sanh đều được
hạnh phúc.
---o0o---
BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ
MƯỜI
Ôn lại phương pháp thực hành
Ngày thứ mười đã qua. Chúng ta hãy
ôn lại những gì chúng ta đã thực hành
trong suốt mười ngày qua.
Các bạn đã bắt đầu sự thực hành bằng
sự qui y tam bảo, đó là, Phật, Pháp và
Tăng. Bằng cách làm này các bạn
không bị chuyển đổi từ tổ chức tôn
giáo này sang tổ chức khác. Trong
223
Vipassana sự chuyển đổi chỉ là chuyển
khổ sang hạnh phúc, từ vô minh sang
trí tuệ, từ trói buộc sang giải thóat.
Toàn bộ giáo pháp mang tính phổ quát
vũ trụ. Các bạn đã Qui Y không phải ở
một cá nhân, giáo điều, hoặc đảng phái,
nhưng ở một phẩm cách của sự giác
ngộ. Có ai đó khám phá con đường dẫn
đến giác ngộ vị ấy là một vị Phật. Con
đường mà vị ấy thấy được gọi là Giáo
pháp. Tất cả ai thực hành con đường
này và đạt đến một trạng thái thuần
tịnh được gọi là Tăng già (đoàn thể
thanh tịnh). Được cảm hứng từ Những
vị này, chúng ta qui Đức phật, Giáo
pháp và Tăng đoàn để đạt cùng một
mục đích của sự thanh tịnh tâm thức.
Sự qui y này thực chất là phẩm chất
224
phổ quát của sự giác ngộ mà chúng ta
tìm để phát triển trong chính chúng ta.
Đồng thời, ở bất cứ người nào tiến
hành con đường tu tập sẽ khởi lên cảm
nhận của lòng biết ơn và sự hiểu biết
để phục vụ người khác mà không mong
cầu đáp lại bất cứ điều gì. Hai phẩm
chất này nổi bậc nhất trong Đức phật
thích ca, một vị Phật lịch sử. Ngài đạt
được giác ngộ viên mãn bằng sự nỗ lực
chính ngài. Tuy nhiên, vì lòng từ bi đối
với chúng sanh, ngài đã dạy phương
pháp mà ngài đã tìm ra cho mọi người.
Những phẩm chất như nhau sẽ xuất
hiện ở bất cứ ai thực hành Giáo pháp
và vị ấy đoạn trừ, đối với một vài mức
độ, thói quen cũ của chủ nghĩa tự ngã.
225
Sự qui y chân thật, sự bảo vệ chân thật,
là giáo pháp mà các bạn phát triển
trong chính các bạn. Tuy nhiên , cùng
với sự kinh ngnhiệm của giáo pháp
chắc chắn phát triển một sự cảm nhận
về lòng biết ơn đối với Đức Phật, vì
Ngài đã tìm ra và đã dạy giáo pháp
này, cũng như sự biết ơn đối với chư vị
đã nổ lực quên mình duy trì gíao pháp
trong hình thức nguyên thủy của nó
qua hơn 25 thế kỷ cho đến ngày hôm
nay.
Với sự tuệ tri này chúng ta đã qui y với
Tam bảo.
Kế đến các bạn đã giữ năm giới. Đây
không phải là một nghi thức tụng đọc
hoặc lễ nghi. Bằng sự giữ năm giới này
226
và tuân thủ, các bạn đã thực hành giới,
nó là nền tảng của sự tu hành. Không
có một nền móng vững chắc tòan bộ
cấu trúc của thiền định sẽ bị suy yếu.
Giới luật mang tính phổ quát và không
thuộc vào một đảng phái. Các bạn tu
tập để từ bỏ những hành động bằng
thân hoặc khẩu có thể gây ảnh hưởng
sự bình an và hài hòa của những người
khác. Từ cấp đô tâm thức, sự cấu uế
phát triển và biểu lộ chính nó bằng lời
nói hoặc hành động. Trong Vipassana
các bạn nỗ lực để thanh lọc tâm để nó
trở nên vắng lặng và an tịnh thật sự.
Các bạn không thể tiến hành thanh lọc
tâm trong khi các bạn vẫn tiếp tục gây
ra những hành động có tác động quấy
nhiễu và cấu uế đến tâm.
227
Nhưng làm thế nào để phá vỡ vòng tội
lỗi ở đó tâm bị quấy nhiễu làm những
việc bất thiện và cứ như thế hành động
ấy lại gây nhiễu hơn nữa đến tâm? Một
khóa tu Vipassana cho các bạn một cơ
hội. Vì chương trình rất nghiêm ngặc,
luật lệ nghiêm túc, phát nguyện tịnh
khẩu, và môi trường tác động cho sự tu
tập rất mạnh, rất khó có thể đời sống
chánh mạng giữ năm giới của các bạn
bị phá vỡ. Vì vậy, suốt mười ngày các
bạn có thể hành trì giới, và với căn bản
này các bạn phát triển định (samaadhi);
và tiếp tục thiền định làm nền tảng cho
trí tuệ, với những điều kiện này các bạn
có thể thể nhập vào những cấp độ chiều
sâu của tâm thức và thanh lọc sự cấu uế
của nó.
228
Suốt khóa tu các bạn hành trì quán sát
về năm giới để có thể thực hành
phương pháp này. Sau khi nhận ra
Giáo pháp chúng ta quyết định chấp
nhận và tu tập Giáo pháp, phải quán sát
bằng những giới luật trong suốt cuộc
đời.
Kế đến các bạn qui phục trước Đức
Phật và vị Thầy hướng dẫn hiện tại cho
khóa tu mười ngày. Sự qui phục này là
vì mục đích dẫn đến một sự phán xét
công bình đối với phương pháp tu tập.
Chỉ có ai đã qui phục giáo pháp này
mới có thể tiến hành tu tập và nỗ lực
một cách trọn vẹn. Người nào với tâm
tràn đầy hoài nghi và do dự thì không
thể nào tu tập một cách thích hợp. Tuy
nhiên, sự qui phục ở đây không có
229
nghĩa là phát triển niềm tin một cách
mù quáng; điều này không có lợi ích gì
cho Giáo pháp cả. Nếu bất cứ nghi ngờ
nào khởi lên trong tâm, các bạn nên
đến vị Thầy hướng dẫn trong những
lúc cần thiết để làm sáng tỏ sự nghi
ngờ.
Sự qui phục còn có nghĩa liên quan đến
nội qui và thời khắc của khóa tu.
Những điều này được xác định, dựa
vào sự kinh nghiệm của hàng ngàn
những người tu tập trước, để có thể
giúp các bạn hành trì liên tục cũng như
để có sự lợi lạc lớn lao nhất trong khóa
tu mười ngày này.
Bằng sự qui phục các bạn tiến hành tu
tập chuẩn xác khi các bạn được hướng
230
dẫn. Bất cứ những gì của phương pháp
các bạn được tu tập trước đây, các bạn
được yêu cầu để sang một bên trong
suốt thời gian khóa tu. Các bạn có thể
thành tựu những ích lợi và quán xét giá
trị của phương pháp chỉ bằng cách
hành trì nó nghiêm chỉnh, trong một
đường lối thích hợp. Pha trộn sự tu tập,
về phương diện khác, có thể dẫn các
bạn vào những khó khăn nguy hại.
Từ lúc các bạn bắt đầu công việc của
các bạn bằng sự thực tập thiền quán hơi
thở (Anaapaana meditation) để phát
huy khả năng chế ngự tâm và sự tập
trung - samaadhi. Các bạn được hướng
dẫn chỉ thở một cách tự nhiên không
thêm vào bất cứ thần chú, kệ tụng, hình
bóng hoặc mô thức nào. Một lý do cho
231
sự nghiêm cấm này là để lưu giữ sự
phổ quát của phương phát tu: hởi thở là
yếu tố quen thuộc và có thể chấp nhận
đối với mọi người, nhưng một câu chú
hoặc một hình tượng có thể chấp nhận
cho một số người mà không thể cho tất
cả.
Nhưng một vấn đề quan trọng hơn nữa
cho lý do chỉ được ï quán sát hơi thở,
toàn bộ tiến trình là một sự khám phá
chân lý trong mỗi chúng ta, về cấu trúc
thân-tâm như thực thể của nó, không
như các bạn phải muốn nó trở thành
như ý của mình. Đó là một sự kiểm
soát của thực tại. Các bạn ngồi xuống
và đóng mắt lại. Không có âm thanh,
không có sự quấy nhiễu bên ngoài,
không có sự di chuyển thân thể. Lúc đó
232
hoạt động nổi bật nhất trong chính các
bạn là hơi thở. Các bạn bắt đầu bằng sự
qúan sát thực tại này: hơi thở tự nhiên,
khi nó đi vào và ra hai lỗ mũi. Khi đó
các bạn có thể thở tự do, các bạn được
phép thở nhẹ đều đặn, cốt để đặt sự chú
ý của các bạn nơi khu vực của hai lỗ
mũi, và từ đó một lần nữa các bạn trở
lui lại hơi thở tự nhiên, thông thường
và nhẹ nhàng. Các bạn đã bắt đầu với
sự thật thô và bề ngoài này, và từ đó
các bạn chuyển xa hơn và sâu hơn,
trong phương hướng của những sự thật
vi tế hơn, sự thật tối hậu. Về toàn bộ
tiến trình, ở mỗi giai đoạn các bạn duy
trì với sự thật mà các bạn thực tế kinh
nghiệm, từ thô nhất đến vi tế nhất. Các
bạn không thể đến chân lý tối hậu bằng
233
cáchï khởi hành với một sự tưởng
tượng. Các bạn sẽ chỉ rối rắm thêm
trong những tưởng tượng lớn hơn và
những sự tự lừa dối.
Nếu các bạn thêm vào một câu chú cho
đối tượng của hơi thở, các bạn có thể
tập trung tâm nhanh hơn, nhưng sẽ có
một sự nguy hiểm trong sự thực hành
bằng cách đó. Mỗi lời chú có một sự
tác động đặc biệt. Bằng sự lập lại một
lời chú hoặc câu chú, chúng ta tạo ra
một sự dao động ảo giác ở đó chúng ta
bị chìm sâu vào. Ở cấp độ bề mặt của
tâm thức một lớp bình an và hài hòa
được tạo ra, nhưng ở cấp độ chiều sâu
những cấu uế vẫn còn tồn tại. Còn
đường duy nhất để loại trừ những
phiền não ngủ ngầm này là thực hành
234
cách quán sát chúng nó, bằng cách
mang chúng nó đến bề mặt để chúng
nó trôi qua. Nếu chúng ta chỉ quán sát
một sự dao động đặc biệt ảo tưởng,
chúng ta sẽ không thể quán sát những
dao động tự nhiên khác nhau liên quan
đến những cấu uế của chúng ta, đó là,
để quán sát một cách tự nhiên những
cảm thọ sinh khởi trong thân chúng ta.
Vì vậy, mục đích của chúng ta là để
khám phá ra thực tại của chính chúng
ta và để thanh lọc tâm, sử dụng một
câu chú tưởng tượng có thể tạo ra
những cản trở.
Một cách tương tự sự tưởng tượng - sự
sao chụp một hình ảnh hoặc tượng hình
bằng tâm thức- có thể trở thành một trở
ngại cho việc hành trì. Phương pháp
235
hướng dẫn đến sự phá vỡ sự thậtù hình
thức để đạt đến chân lý tối hậu. Thực
tại phối hợp và bề ngoài luôn luôn
chứa đầy ảo giác, vì ở cấp độ này hoạt
động nhận thức bị dao động do những
phản ứng của quá khứ. Nhận thức có
điều kiện này phân biệt và chia chẻ dẫn
đến những sự ưa thích và những thành
kiến, để phục hồi lại những phản ứng.
Nhưng bằng thực tại chia chẻ bề ngoài,
chúng ta dần dần đi vào kinh nghiệm
thực tại tối hậu của cấu trúc thân và
tâm.: không có gì khác hơn chỉ những
dao động sinh diệt trong mỗi sát na. Ơû
trạng thái này không thể phân biệt
được, và vì vậy không có sự ưa thích
hoặc những thành kiến có thể sinh ra,
không có sự phản ứng. Phương pháp tu
236
tập dần dần làm yếu đi nhận thức có
điều kiện và vì vậy cũng làm yếu đi
những phản ứng, đưa đến một trạng
thái nơi đó những nhận thức và cảm
thọ tiêu diệt, đó là, kinh nghiệm niết
bàn. Nhưng bằng sự chú ý có chủ tâm
đối với một hình tượng, hoặc tầm nhìn,
chúng ta duy trì ở cấp độ bên ngoài,
bao gồm sự thực tại và không thể vượt
qua nó. Vì lý do này, không nên tưởng
tượng hình tượng cũng không nên đọc
tụng thần chú.
Sau khi tập trung tâm thức bằng sự
quán sát hơi thở, các bạn bắt đầu thực
hành thiền Vipassana để phát triển trí
tuệ (pan~n~aa), quán sát bản chất của
chính các bạn, tẩy sạch tâm thức cấu
nhiễm. Từ đầu tới chân, các bạn bắt
237
đầu quán sát những cảm thọ tự nhiên
trong thân thể, bắt đầu trên bề mặt và
sau đó đi vào sâu hơn, thực tập cảm
nhận những cảm thọ trong và ngoài,
trong mỗi phần của thân thể.
Quán sát sự thực tại như nó đang hiện
hữu, không có bất cứ những thành kiến
nào, để phân tán thực tại bên ngoài và
để đi vào chân lý tối hậu - đây là
Vipassana. Mục đích của sự phân tách
thực tại thô là để có thể làm cho thiền
giả thoát khỏi ảo giác của 'cái tôi'. Aûo
giác này ở đỉnh cao của tất cả tham ái
và sân hận của chúng ta, và mang đến
khổ đau vô biên. Chúng ta có thể chấp
nhận một cách tri thức rằng nó là một
ảo giác, nhưng sự chấp nhận này không
đủ để chấm dứt đau khổ. Không đề cập
238
đến niềm tin tôn giáo hoặc triết học,
chúng ta còn duy trì đau khổ bao lâu
thói quen ngã chấp còn chấp giữ. Để
phá vỡ ngã chấp này chúng ta phải
kinh nghiệm trực tiếp bản chất vô
thường của hiện tượng thuộc về thân và
tâm, sự thay đổi không ngừng vượt qua
sự điều khiển của chúng ta. Duy chỉ có
kinh nghiệm này có thể phá vỡ ngã
chấp, dẫn đến con đường thoát khỏi
tham ái , sân giận và khổ hải.
Vì vậy phương pháp này là một sự
khám phá, bằng kinh nghiệm trực tiếp,
của bản chất thật của hiện tượng mà
chúng ta gọi 'ta, của ta'. Có hai vấn đề
của các hiện tượng
239
này: vật chất và tinh thần, thân thể và
tâm thức. Thiền giả thực tập bắt đầu
bằng sự quán sát thự c tại của thân. Để
kinh nghiệm trực tiếp thực tại này,
chúng ta phải cảm nhận thân thể, đó là,
phải tỉnh giác những cảm thọ toàn bộ
trong thân thể. Vì vậy sự quán sát về
thân - kaayaanupassanaa - liên hệ cần
thiết đến sự quan sát những bộ phận
của tâm thức- dhammaanupassanaa.
Điều này không có nghiã rằng chúng ta
nên quán sát những ý niệm cá nhân.
Nếu chúng ta cố làm như vậy chúng ta
sẽ bắt đầu dính vào tư duy ý niệm.
Chúng ta chỉ nên đơn giản duy trì sự
tỉnh giác tự nhiên của tâm thức ở sát na
này; xem tham ái, sân hận, vô minh và
dao động có mặt hay không. Và bất cứ
240
điều gì sinh khởi trong tâm, Đức phật
đã khám phá, sẽ được kết hợp với một
thân cảm thọ. Vì vậy, trong trường hợp
hành giả đang khám phá khía cạnh của
tâm hoặc thân của hiện tượng của 'cái
ta', sự tỉnh giác về cảm thọ là điều
chính yếu.
Điều khám phá này là sự đóng góp độc
nhất của Đức Phật, của tầm quan trọng
trong Giáo pháp của Ngài. Trước thời
Ngài ở Ấn độ và giữa những người
đương thời với ngài, có nhiều người đã
dạy và thực hành giới và định. Trí tuệ
cũng đã có mặt, ít nhất trí tuệ thuộc về
tri thức hoặc mang tính tôn sùng: nó
được chấp nhận một cách thông thường
rằng những tâm cấu uế là nguồn gốc
của khổ đau, đó là sự tham ái và sân
241
giận phải được đoạn trừ để thanh lọc
tâm thức và để thành tựu giải thóat.
Đức Phật một cách đơn giản đã tìm ra
con đường để làm điều này.
Điều gì đã bị thiếu xót là một sự tuệ tri
về tầm quan trọng của sự cảm thọ. Như
bây giờ, một cách tổng quát nó được
cho rằng những phản ứng lại của chúng
ta là đối với những đối tượng bên ngoài
của các căn- thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp
xúc và suy tư. Tuy nhiên , sự quán sát
về chân lý trong đó biểu lộ giữa đối
tượng và sự phản ứng là một gạch nối
bị quên đi: sự cảm thọ. Sự tiếp xúc của
một đối tượng với một cơ quan cảm
nhận tương ứng dẫn đến sự cảm thọ; sự
nhận thức sát định một sự đánh giá tốt
hoặc xấu, liên quan đến vấn đề mà cảm
242
thọ trở thành vui hoặc không vui. Tiến
trình xảy ra rất nhanh đến nỗi sự nhận
thức về vấn đề chỉ phát triển sau khi
một sự phản ứng đã được lập lại nhiều
lần và đã tập trung sức mạnh có nguy
cơ có thể chế ngự tâm thức. Để giải
quyết những phản ứng này, chúng ta
phải tỉnh giác với chúng ở điểm nơi đó
chúng nó sinh ra; chúng nó bắt đầu với
cảm thọ, và vì vậy chúng ta phải tỉnh
giác với những cảm thọ. Sự khám phá
vấn đề này chưa từng được biết trước
thời Đức phật, đã có thể làm cho Thái
tử Siddhatha Gotama đạt được sự giác
ngộ, và đây là lý do tại sao Ngài luôn
luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của
cảm thọ. Cảm thọ có thể đưa đến sự
phản ứng về sự tham ái, và sân giận, và
243
vì vậy khổ sinh ra, nhưng cảm họ cũng
có thể dẫn đến trí tuệ với trí tuệ này
chúng ta loại trừ sự phản ứng và bắt
đầu thoát khỏi khổ đau.
Trong Vipassan, bất cứ sự tu tập nào
mà ngăn chặn sự tỉnh giác về cảm thọ
đều mang lại tác hại, về sự tập trung
vào một câu thần chú hoặc một hình
tượng, hoặc chỉ chú ý đến sự vận hành
vật lý của thân thể hoặc đối với những
tư duy sinh khởi trong tâm. các bạn
không thể loại trừ khổ đau trừ phi các
bạn đi vào nguồn gốc của nó, sự cảm
thọ.
Phương pháp của Vipassana được Đức
phật giải thích trong bài kinh
Satipat.t.haana sutta (Bài kinh Tứ
244
niệm xứ). Bài kinh này được chia thành
những phần để kiểm tra những yếu tố
khác nhau của phương pháp; quán sát
về thân, về cảm thọ, về tâm, và về các
pháp. Tuy nhiên, mỗi phần của bài
kinh kết luận với cùng một ý nghĩa. Có
những điểm khác nhau từ đó để bắt đầu
sự thực hành, nhưng không có điều gì
khác nhau ở điểm bắt đầu, một thiền
giả phải trải qua những giai đoạn nào
đó, những kinh nghiệm nào đó trên con
đường đi đến mục đích tối hậu. Những
kinh nghiệm này, cốt lõi đối vớiø sự
hành trì của Vipassana, được mô tả
trong những câu được lập lại ở phần
kết luận của mỗi phần.
Phần đầu tiên này là phần trong đó
chúng ta kinh nghiệm sự sinh
245
(samudaya) và diệt (vaya) một cách
riêng biệt. Ở giai đoạn này người hành
thiền tỉnh giác về thực tại thống nhất ,
liên kết trong hình thức của những cảm
thọ thô ở trong thân. Chúng ta tỉnh giác
một cảm thọ, có thể là đau, sinh khởi.
Nó có thể lưu lại trong một thời gian và
cuối cùng nó trôi đi.
Tiếp tục đi vượt qua trạm này, chúng ta
thâm nhập vào trạng thái của
samudaya-vaya (sinh -diệt), trong đó
chúng ta kinh nghiệm sự sinh diệt đồng
thời, không có bất cứ khoảng gián đọan
nào giữa chúng nó. Những cảm thọ thô,
tập hợp chia ra thành những dao động
vi tế, sinh và diệt ngay tức thời, và sự
vững chắc của cấu trúc thân thể và tâm
thức biến mất. Tình cảm rắn chắc và
246
vững mạnh, và cảm thọ rắn chắc và
cường độ mạnh, cả hai đều phân chẻ
thành những dao động không có gì
khác hơn. Đây là một trạng thái của
bhan’ga - sự phân tán - trong đó chúng
ta kinh nghiệm chân lý tuyệt đối của
thân và tâm thức: sự sinh diệt liên tục,
không có gì được xem là vững chắc ở
đây.
Sự phân tán này là một vị trí rất quan
trọng trongtiến trình tu tập, vì chỉ khi
nào chúng ta kinh nghiệm sự phân tán
của cấu trúc thân và tâm thì sự tham
đắm đối với chúng không còn hiện hữu
nữa. Khi đó chúng ta bắt đầu vô tham
trong mọi tình huống ; đó là, chúng ta
đi vào trạng thái của san’khaara-
upekkhaa (các hành đều thanh tịnh).
247
Những phiền não ngủ ngầm sâu kín
bên trong- sam’khaaraa -bị chôn lấp
trong vô thức bây giờ bắt đầu xuất hiện
ở cấp độ bề mặt của tâm thức. Đây
không phải là một sự thối lui; nó là một
sự phát triển, vì trừ phi chúng nó hiện
ra ở bề mặt, những phiền não không
thể đọan trừ được. Chúng nó sinh khởi
chúng ta quán sát một cách bình thản,
và chúng nó tiêu đi tuần tự theo thứ
lớp. Chúng ta sử dụng những cảm thọ
thô và bất lạc như lànhững công cụ với
công cụ này để loại trừ những
san’khaaraa cũ của sân giận đang nằm
trong kho dự trữ; chúng ta sử dụng
những cảm thọ vi tế và hân hoan như
những công cụ với công cụ này để
đoạn trừ những san’khaaraa cũ của
248
tham ái còn lưu trữ. Vì vậy, bằng sự
duy trì tỉnh giác và bình thản đối với
mỗi kinh nghiệm, chúng ta thanh lọc
tâm thức của tất cả những phiền não
phức tạp ngủ ngầm bên trong, và
hướng đến mỗi lúc gần hơn và gần hơn
mục đích của Niết bàn, của sự giải
thóat.
Bất cứ những gì thuộc về trạm khởi
đầu, chúng ta phải đi qua tất cả những
trạm này để đến niết bàn. Chúng ta có
thể đến mục đích sớmtùy thuộc vào
khả năng nổ lực hành trì của chúng ta,
và sự tích tụ những san’khaaraa của
quá khứ mà chúng ta phải đoạn trừ.
Tuy nhiên, trong mỗi trường hợp, ở
mỗi tình huống, sự bình thản là vấn đề
249
cốt lõi, dựa vào sự tỉnh giác của những
cảm thọ. San’khaaraa sinh ra từ điểm
giao cảm của thân cảm thọ. Bằng sự
duy trì bình thản đối với cảm thọ, các
bạn ngăn ngừa không cho san’khaaraa
mới sinh ra, và các bạn đồng thời đoạn
trừ những san’khaaraa cũ. Vì vậy bằng
sự quán sát những cảm thọ một cách
tỉnh lặng, các bạn tuần tự phát triển
hướng đến mục đích của sự giải thoát
những khổ đau.
Thực tập một cách nghiêm túc. Đừng
sử dụng thiền định như một trò chơi,
chỉ thử nghiệm một cách hời hợt tuần
tự các phương pháp hành trì mà không
theo đuổi thật sự. Nếu các bạn làm như
vậy, các bạn sẽ không bao giờ vượt qua
những tiến trình ban đầu của bất cứ
250
phương pháp nào, và vì vậy các bạn sẽ
không bao giờ thành tựu mục đích.
Điều đương nhiên, các bạn có thể tiến
hành những thí nghiệm về những
phương pháp khác nhau để tìm ra một
phương pháp thích hợp cho các bạn.
Các bạn cũng có thể đưa ra hai hoặc ba
cuộc trắc nghiệm của phương pháp
này, nếu cần, nhưng đừng để phí bỏ
suốt cuộc đời của các bạn chỉ vì những
cuộc trắc nghiệm. Một khi các bạn tìm
ra một phương pháp thích hợp, thực
hành nó một cách nghiêm túc để các
bạn có thể phát ttriển đến mục đích.
Cầu mong những người khổ đau ở
khắp mọi nơi tìm thấy con đường giải
thoát khổ đau.
251
Cầu mong mọi chúng sanh đều được
hạnh phúc!
---o0o---
BÀI GIẢNG CỦA NGÀY THỨ
MƯỜI MỘT
Làm thế nào để tiếp tục thực hành
sau khi hoàn mãn khóa tu
Thực hành từng ngày một, chúng ta đã
đến ngày cận kề của sự hội thảo Giáo
pháp này. Khi các bạn tiến hành sự tu
tập, các bạn được yêu cầu quy phục
hoàn toàn vào phương pháp tu, nội qui
của khóa tu. Không có sự qui mạng
này, các bạn sẽ không có sự kiểm tra
công bằng đối với phương pháp tu. Bây
giờ mười ngày đã qua; các bạn là chủ
nhân của chính mình. Khi các bạn trở
252
lại gia đình của các bạn, các bạn ôn lại
một cách tỉnh lăng những gì các bạn đã
thực hành ở đây. Nếu các bạn thấy rằng
những gì các bạn đã thực tập ở đây là
thực tế, thích hợp và có ích lợi cho
chính các bạn và cho mọi người, thì
các bạn nên chấp nhận nó - không phải
vì người nào đó yêu cầu các bạn làm
như thế, nhưng với một ý chí tự do, của
ý muốn riêng các bạn; không phải chỉ
vì mười ngày, nhưng vì cả cuộc đời của
các bạn.
Sự chấp nhận không phải chỉ ở cấp độ
tri thức hoặc tình cảm. Chúng ta phải
chấp nhận Giáo pháp ở cấp độ thực tế
bằng sự áp dụng nó, sử dụng nó như
một phần trong cuộc đời của các bạn,
vì chỉ có sự hành trì thực tế của giáo
253
pháp sẽ mang lại những ích lợi thiết
thực trong đời sống thường ngày.
Các bạn đã tham gia khóa tu này để
học cách thực hành Giáo pháp - làm
thế nào để sống một cuộc sống của đạo
đức, của sự tự chủ tâm thức của chúng
ta, của sự thanh lọc tâm thức. Mỗi buổi
tối, những bài pháp đã giảng chỉ để làm
sáng tỏ sự thực hành. Nó là sự cần thiết
để hiểu những gì chúng ta đang hành
trì và tại sao chúng ta phải hành trì như
vậy, để chúng ta không bị lầm lẫn hoặc
tu tập sai phương pháp. Tuy nhiên,
trong sự giảng giải về sự hành trì, một
số những vấn đề của lý thuyết được đề
cập một cách tất yếu, và từ khi những
người từ những nguồn gốc khác nhau
đến để tham gia khóa tu, có thể rằng
254
một vài người có thể thấy phần nào đó
của lý thuyết không thể chấp nhận. Nếu
như thế, đừng bận tâm, hãy để nó sang
một bên. Điều quan trọng hơn nữa là
sự thực hành của Giáo pháp. Không ai
có thể không tán thành sống một cuộc
đời mà không làm hại đến người khác,
đối với sự phát triển sự điều khiển tâm
thức của chúng ta, đối với sự giải thoát
phiền não của tâm và sự tạo ra tình
thương và thiện chí. Sự hành trì phải là
điều có thể chấp nhận mang tính phổ
quát, và đây là yếu tố có ý nghĩa quan
trọng nhất của Giáo pháp, vì bất cứ
những ích lợi gì chúng ta gặt hái sẽ
không phải từ những lý thuyết mà phải
từ sự thực hành, từ sự áp dụng Giáo
pháp trong đời sống của chúng ta.
255
Trong mười ngày các bạn chỉ có thể gặt
hái một sự khái lược về phương pháp
hành trì; chúng ta không thể hy vọng
trở thành hoàn hảo trong một thời gian
quá ngắn như vậy. Nhưng ngay kinh
nghiệm sơ lược này không nên xem
thường: các bạn đã tiến hành bước đầu
tiên, một bước rất quan trọng, mặc dù
hành trình quá dài-thực vậy nó là một
hành trình cho suốt cuộc đời.
Một hột giống Giáo pháp đã được gieo,
và đã bắt đầu nảy mầm thành một cây
con. Một người làm vườn giỏi chăm
xóc đặc biệt vào cây con này, và vì sự
chăm xóc ưu đãi nó, cây con đó sẽ tuần
tự phát triển thành cây lớn với thân to
và rễ đâm sâu. Sau đó thay vì sự đòi
256
hỏi phục vụ, nó tiếp tục cho ra, phục
vụ, cho cuộc đời còn lại của nó.
Cây con giáo pháp này đòi hỏi sự chăm
sóc ngay bây giờ. Bảo vệ nó khỏi
những bình luận đánh giá của những
người khác bằng cách ï tạo ra một sự
phân biệt giữa lý thuyết, đối với lý
thuyết này một số người có thể chống
đối, và sự hành trì nó, có thể mọi người
đều chấp nhận. Đừng cho phép những
đánh giá này làm ngưng sự hành trì của
các bạn. Tập trung thiền định một giờ
vào buổi sáng và một giờ vào buổi tối.
Nội qui này là điều quan trọng cốt yếu
trong sự tu tập hằng ngày. Lúc đầu nó
có thể giống như là một gánh nặng để
giành cho hai giờ thiền trong một ngày,
nhưng các bạn sẽ thấy rằng nhiều thời
257
gian sẽ được tiết kiệm mà thời gian đó
đã mất ở quá khứ. Trước tiên, các bạn
cần ngủ ít hơn, thứ hai, các bạn sẽ có
thể hoàn thành công việc của các bạn
sớm hơn, vì khả năng làm việc của các
bạn sẽ phát triển. Khi một vấn đề sinh
khởi các bạn sẽ giữ bình tĩnh, và sẽ có
thể ngay tức thời tìm ra giải pháp đúng
nhất. Khi các bạn đã xây dựng hoàn
hảo phương pháp tu tập, các bạn sẽ
thấy rằng sau mỗi giờ thiền định vào
buổi sáng, các bạn tạo ra năng lượng
đầy đủ cho suốt ngày làm việc, không
có bất cứ sự khuấy động nào cả.
Khi các bạn lên giường vào buổi tối,
khoảng năm phút hãy tỉnh giác những
cảm thọ ở bất cứ nơi nào trong thân các
bạn trước khi ngủ. Sáng hôm sau, ngay
258
lúc các bạn vừa thức dậy, lại nữa hãy
quán sát những cảm thọ trong vòng
năm phút. Những phút thiền định trước
khi ngủ và thức giấc này sẽ xác chứng
rất có lợi.
Nếu các bạn sống trong một khu vực ở
đó có các vị tu thiền Vipassana, mỗi
lần một tuần thiền định với nhau trong
một giờ. Và một lần trong một năm,
một khóa tu mười ngày là một sự cần
thiết. Thực tập hằng ngày sẽ có thể làm
cho các bạn duy trì những gì mà các
bạn đã đạt được ở đây, nhưng một khóa
tịnh tu là điều rất quan trọng để đi sâu
hơn vào thiền định; nhưng vẫn phải
thực hành trong một tiến trình lâu dài.
Nếu các bạn có thể đến một khóa tu
được tổ chức như vầy, rất là tốt. Nếu
259
không, các bạn vẫn có thể có một khóa
tu cho chính mình. Tự thực tập một
khóa mười ngày cho chính mình, bất
cứ nơi nào các bạn có thể tách rời được
những người khác, và nơi nào có ai đó
có thể chuẩn bị thức ăn cho các bạn.
Các bạn biết phương pháp tu tập, biết
thời giờ tu mỗi ngày và nội qui; các
bạn phải ghi nhớ tất cả những điều đó
ngay bây giờ. Nếu các bạn muốn thông
báo cho vị thầy của các bạn trước rằng
các bạn đang tiến hành một khóa tự tu,
tôi sẽ nhớ đến các bạn và gởi tâm từ
của tôi đến các bạn, những sự dao động
của thiện chí; điều này sẽ giúp tạo ra
một môi trường lành mạnh trong đó
các bạn có thể tu tập tốt hơn. Tuy
nhiên, nếu các bạn không thông báo
260
cho vị thầy của các bạn, các bạn không
nên cảm thấy thiếu tin tưởng. Giáo
pháp tự nó sẽ bảo vệ các bạn. tuần tự
các bạn phải đến trạng thái tự chủ. Vị
thầy chỉ là vị hướng dẫn mà thôi; các
bạn phải trở thành vị thầy cuả chính
mình. Khi nào còn dựa vào bất cứ ai thì
sẽ không có sự giải thóat.
Sự thiền định hai giờ một ngày và tịnh
tu khóa mười ngày hằng năm chỉ là sự
cần thiết tối thiểu để duy trì sự tu tập.
Nếu các bạn có nhiều thời giờ hơn nưã,
các bạn nên sử dụng cho thiền hành.
Các bạn có thể tham gia khóa ngắn hạn
một tuần hoặc vài ngày, ngay cả một
ngày. Trong những khóa ngắn hạn như
vầy, dành một phần ba thời giờ cho sự
thực tập thiền hơi thở (anaapaana
261
meditation) và thời gian còn lại cho
thiền Vipassana.
Trong thời giờ thiền tập hằng ngày của
các bạn, hãy sử dụng hết thời gian để
thực tập Vipássana. Chỉ khi tâm của
các bạn bị dao động hoặc trì trệ, nếu vì
bất kỳ lý do nào về sự khó khăn để
quán sát những cảm thọ và duy trì sự
tỉnh lặng, thì khi đó hãy giành một
khoảng thời gian cho sự thực tập thiền
hơi thở.
Khi thực tập Vipassana, cẩn thận đừng
chơi trò chơi của những cảm thọ, thích
thú với những cảm thọ lạc và chán ghét
những cảm thọ khổ. Hãy quán sát mỗi
cảm thọ một cách khách quan. Giữ sự
quan sát của các bạn di chuyển một
262
cách có hệ thống xuyên khắp cơ thể,
không cho phép nó dừng lại lâu trên
bất cứ phần nào của cơ thể. Tối đa chỉ
hai phút cho mỗi phần quán sát, hoặc
năm phút cho trường hợp đặc biệt,
nhưng đừng bao giờ để lâu hơn năm
phút. Giữ sự theo dõi của các bạn di
chuyển và duy trì sự tỉnh giác của mỗi
cảm thọ trong mỗi phần thân thể. Nếu
sự thực tập này bắt đầu trở thành máy
móc, thay đổi phương cách trong đó
các bạn di chuyển sự chú ý của mình.
Trong mỗi trường hợp hãy duy trì tỉnh
giác và bình thản, và các bạn sẽ kinh
nghiệm những lợi ích tuyệt vời của
Vipassana.
Cũng vậy trong cuộc sống làm việc các
bạn phải áp dụng phương pháp này,
263
không chỉ khi các bạn ngồi nhắm mắt
lại. Khi nào các bạn làm việc, tất cả
những chú ý trên công việc làm; hãy
xem công việc như là sự thiền định của
các bạn lúc này. Nhưng nếu có khoảng
thời gian trống, ngay cả năm hoặc
mười phút, hãy tận dụng nó trong sự
tỉnh giác về những cảm thọ; khi nào
các bạn bắt đầu công việc trở lại, các
bạn sẽ cảm nhận sự tươi mát và mới
mẻ trở lại. Tuy nhiên, hãy cẩn thận khi
các bạn thiền định nơi công cộng, nơi
không có mặt những người tu thiền,
các bạn giữ đôi mắt các bạn mở ra;
đừng bao giờ phô bày một sự thực
hành của Giáo pháp.
Nếu các bạn thực tập Vipassana một
cách thích hợp, một sự thay đổi tốt hơn
264
sẽ đến trong đời sống của các bạn. các
bạn nên kiểm tra tiến trình tu tập của
các bạn dựa vào phương cách bằng
cách kiểm tra đạo đức của các bạn
trong những bối cảnh hằng ngày, trong
cách cư xử của các bạn và những mối
tương quan đến người khác. Thay vì
gây tác hại cho người khác, các bạn đã
bắt đầu giúp họ chưa? Khi nào những
tình huống không như ý xảy ra, các bạn
đã giữ tâm các bạn bình tỉnh chưa?
Nếu sự phiền não khởi động trong tâm,
các bạn có nhanh chóng tỉnh giác đến
nó như thế nào? Các bạn nhanh chóng
tỉnh giác những cảm thọ sinh khởi cùng
với những phiền não như thế nào? Các
bạn nhanh chóng khởi động sự quán sát
những cảm thọ như thế nào? Các bạn
265
nhanh chóng lấy lại sự thăng bằng của
tâm thức, và bắt đầu tạo ra tình thương
và lòng từ bi như thế nào? Bằng cách
này để kiểm tra lại chính các bạn, và
tiếp tục tiến lên xa hơn nữa về con
đường hành trì.
Những gì các bạn học được ở đây,
không chỉ lưu giữ bảo tồn nó mà phải
làm cho nó phát triển thêm lên. Luôn
luôn áp dụng Giáo pháp trong cuộc
sống của các bạn. An vui tất cả những
ích lợi của Giáo pháp mang lại, và sống
một cuộc đời hạnh phúc, bình an và hài
hòa, tốt đẹp cho các bạn và những
người khác.
Một điều cần nhắc nhở: các bạn được
phép kể cho những người khác nghe
266
những gì các bạn đã học và thực tập ở
đây; không bao giờ có sự dấu giếm
trong Giáo pháp. Nhưng ở giai đoạn
này đừng nên dạy phương pháp hành
trì cho người khác. Trước khi làm điều
này, chúng ta phải có sự thành tựu
trong tu tập, và phải được huấn luyện
để giảng dạy. Ngược lại, sẽ gây nguy
hại cho người khác thay vì giúp đỡ họ.
Nếu có ai đo,ù các bạn kể cho họ nghe
về Vipassana, muốn thực tập
Vipassana, hãy khuyến khích họ tham
gia một khóa tu được tổ chức như ở
đây, được hướng dẫn bởi Vị thầy
hướng dẫn thích hợp. Bây giờ, tiếp tục
giữ sự tu tập để xây dựng chính các
bạn trong Giáo pháp. Duy trì sự phát
triển trong Chánh pháp , và các bạn sẽ