40
Câu 1: Quan điểm chính trị xã hội của Nho gia. Nhận xét mặt tích cực và hạn chế. So sánh đường lối chính trị của Nho gia, Đạo gia và Pháp gia. a.Quan điểm chính trị xã hội của Nho gia: Phái Nho gia do Khổng Tử sáng lập; Mạnh Tử phát triển về phía duy tâm tiên nghiệm; Tuân Tử phát triển về phía duy vật. *Khổng Tử: ¤ng coi xã hội là tổng hợp các mối quan hệ giữa người và người như: vua-tôi, cha-con, chồng vợ, anh em, bạn bè. Coi 5 mối quan hệ đó là ngũ luân trong đó 3 mối quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng là mối quan hệ cơ bản nhất, gọi là Tam cương. Ông muốn thiết lập một trật tự xã hội có đẳng cấp, có tôn ti trật tự, từ vua tôi đến thứ dân phải lấy nhân, nghĩa, lễ, chính danh làm chuẩn mực. Ông coi trọng giáo dục, phản đối bạo lực và chiến tranh. Đường lối này gọi là đường lối “đức trị” hay “nhân trị”. Phạm trù cơ bản trong học thuyết chính trị- đạo đức của Khổng Tử là Nhân- Nghĩa, Lễ, Chính danh -Nhân: là lòng thương người. Người có nhân là người có đạo đức hoàn toàn. Trung và thứ là hai khía cạnh của nhân. Trung là tính ngay thẳng với người, điều gì mình muốn thì hãy làm cho người. Thứ là lòng vị tha, điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người. Người nhân biết thương người nhưng cũng biết ghét người. Nhân có tính đẳng cấp thể hiện trong các mối quan hệ cụ thể. Trong đạo nhân, hiếu là gốc. Hiếu không chỉ thể hiện ở việc nuôi nấng cha mẹ mà quan trọng là lòng thành kính. -Nghĩa: là hành vi đạo đức biểu hiện đức nhân. Người làm việc nghĩa thì hy sinh lợi ích của mình, vì người khác. Nghĩa và lợi không thể dung hợp nhau. -Lễ: bao gồm nhiều mối quan hệ rộng lớn từ quan hệ với thần linh đến quan hệ ứng xử giữa người với người, quan hệ đạo đức, phong tục tập quán, quan hệ nhà nước, luật pháp,... Trong quan hệ với nhân, lễ là hình thức để thể hiện lòng nhân. Tuân theo lễ là điều kiện thực hiện nhân đức. Người quân tử không bao giờ làm trái với lễ. Cùng với lễ, nhạc cũng có vai trò quan trọng. Nhạc mà chính trực, trang nghiêm, hoà nhã có tác dụng nuôi dưỡng tâm tính, cảm hoá lòng người, hướng cái tâm con người tới chân, thiện, mỹ. -Chính danh: Coi chính danh là điều cơ bản để trị nước. Một trong những nguyên nhân loạn lạc của xã hội là do danh thực không phù hợp nhau, vì theo ông nếu danh thực không phù hợp nhau; mà ngôn không thuận thì sự việc không thành; sự việc không thành thì lễ nhạc không hưng thịnh. Danh là tên, khái niệm, bản chất. Chính danh có nghĩa là người ở cương vị nào thì phải xứng đáng với cương vị đó, phải làm đúng danh phận, chức trách của mình. Nhân, nghĩa, lễ, chính danh không chỉ đạo làm người, mà còn là đạo trị nước. Để cai trị đất nước, người cầm quyền trước hết phải có đạo đức. 1

Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

Câu 1: Quan điểm chính trị xã hội của Nho gia. Nhận xét mặt tích cực và hạn chế. So sánh đường lối chính trị của Nho gia, Đạo gia và Pháp gia.

a.Quan điểm chính trị xã hội của Nho gia:

Phái Nho gia do Khổng Tử sáng lập; Mạnh Tử phát triển về phía duy tâm tiên nghiệm; Tuân Tử phát triển về phía duy vật.

*Khổng Tử:

¤ng coi xã hội là tổng hợp các mối quan hệ giữa người và người như: vua-tôi, cha-con, chồng vợ, anh em, bạn bè. Coi 5 mối quan hệ đó là ngũ luân trong đó 3 mối quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng là mối quan hệ cơ bản nhất, gọi là Tam cương.

Ông muốn thiết lập một trật tự xã hội có đẳng cấp, có tôn ti trật tự, từ vua tôi đến thứ dân phải lấy nhân, nghĩa, lễ, chính danh làm chuẩn mực. Ông coi trọng giáo dục, phản đối bạo lực và chiến tranh. Đường lối này gọi là đường lối “đức trị” hay “nhân trị”.

Phạm trù cơ bản trong học thuyết chính trị- đạo đức của Khổng Tử là Nhân- Nghĩa, Lễ, Chính danh

-Nhân: là lòng thương người. Người có nhân là người có đạo đức hoàn toàn. Trung và thứ là hai khía cạnh của nhân. Trung là tính ngay thẳng với người, điều gì mình muốn thì hãy làm cho người. Thứ là lòng vị tha, điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người. Người nhân biết thương người nhưng cũng biết ghét người. Nhân có tính đẳng cấp thể hiện trong các mối quan hệ cụ thể. Trong đạo nhân, hiếu là gốc. Hiếu không chỉ thể hiện ở việc nuôi nấng cha mẹ mà quan trọng là lòng thành kính.

-Nghĩa: là hành vi đạo đức biểu hiện đức nhân. Người làm việc nghĩa thì hy sinh lợi ích của mình, vì người khác. Nghĩa và lợi không thể dung hợp nhau.

-Lễ: bao gồm nhiều mối quan hệ rộng lớn từ quan hệ với thần linh đến quan hệ ứng xử giữa người với người, quan hệ đạo đức, phong tục tập quán, quan hệ nhà nước, luật pháp,... Trong quan hệ với nhân, lễ là hình thức để thể hiện lòng nhân. Tuân theo lễ là điều kiện thực hiện nhân đức. Người quân tử không bao giờ làm trái với lễ. Cùng với lễ, nhạc cũng có vai trò quan trọng. Nhạc mà chính trực, trang nghiêm, hoà nhã có tác dụng nuôi dưỡng tâm tính, cảm hoá lòng người, hướng cái tâm con người tới chân, thiện, mỹ.

-Chính danh: Coi chính danh là điều cơ bản để trị nước. Một trong những nguyên nhân loạn lạc của xã hội là do danh thực không phù hợp nhau, vì theo ông nếu danh thực không phù hợp nhau; mà ngôn không thuận thì sự việc không thành; sự việc không thành thì lễ nhạc không hưng thịnh. Danh là tên, khái niệm, bản chất. Chính danh có nghĩa là người ở cương vị nào thì phải xứng đáng với cương vị đó, phải làm đúng danh phận, chức trách của mình.

Nhân, nghĩa, lễ, chính danh không chỉ đạo làm người, mà còn là đạo trị nước. Để cai trị đất nước, người cầm quyền trước hết phải có đạo đức.

Để cho đất nước thịnh trị, phải biết thượng hiền. Phải thực hiện 3 điều là thực túc, binh cường, dân tín. Nếu bất đắc dĩ phải bỏ bớt những điều trên, thì trước hết bỏ bỏ binh cường, sau đó bỏ thực túc, nhưng không bỏ lòng tin của dân được, nếu không chính quyền sẽ sụp đổ.

Đường lối nhân trị của Khổng Tử có tính chất điều hoà mâu thuẫn giai cấp, phản đối đấu tranh. Khuyên giai cấp thống trị phải biết yêu thương, tôn trọng, chăm lo nhân dân. Dân phải an phận, lấy nghèo làm vui, coi việc oán trách cảnh nghèo hèn, ưa dùng bạo lực là mầm móng của loạn.

*Mạnh Tử:

Một trong những quan điểm quan trọng nhất của học thuyết Mạnh Tử là thuyết tính thiện. Mạnh tử đưa ra 3 căn cứ để lý giải bản tính của con người là bản tính thiện: Tính thiện của con người biểu hiện ở bốn đức tính lớn: nhân, nghĩa, lễ, trí. Bốn đức lớn đó bắt nguồn ở tứ đoan (4 đầu mối của thiện) đó là lòng trắc ẩn (biết thương xót) lòng u tố (biết thẹn ghét) lòng từ nhượng (biết cung kính) và lòng thị phi (biết phải trái). Bản tính thiện của con người còn xuất phát từ cái chung của loài người. Tính thiện của con người đều bắt nguồn từ cái “tâm” của mỗi con người. Tâm là do trời phú cho ta, nhờ có cái tâm mà phân biệt điều phải trái, thiện ác.

Ông phát triển học thuyết nhân của Khổng Tử thành học thuyết nhân chính, chủ trương lấy đức để thu phục lòng người, phản đối việc cai trị bằng bạo lực. Phân biệt vương chính (cai trị bằng nhân nghĩa) với bá chính (cai trị bằng bạo lực). Coi dân là quan trọng nhất, kế đến là giang sơn xã tắc, vua là thường. Quan hệ vua tôi là quan hệ hai chiều, tôn trọng lẫn nhau. Nếu vua coi bề tôi như cỏ rác thì bề tôi coi vua như kẻ thù. Nếu vua không có đạo đức thì không còn xứng đáng là vua nữa và nhân dân có quyền lật đỗ ngôi vua.

1

Page 2: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

Do chế độ công hữu tan rã, chế độ tư hữu ra đời do đó chủ trương để cho dân có hằng sản mới có hằng tâm tức dân có tư liệu sản xuất ổn định thì mới có cái tâm ổn định.

* Tuân Tử:

Ông cho rằng, con người phải hành động phù hợp với lẽ tự nhiên, con người có thể cải tạo tự nhiên và xã hội để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Phê phán việc tôn thờ trời, ỉ lại ở trời, khuyên con người nên tin sức mình, ra sức phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm, ăn ở điều độ, giữ gìn sức khoẻ thì trời sẽ không để cho nghèo khó, bệnh tật. Chủ trương sửa trị việc nước, giáo dục đạo đức, lễ nghĩa làm cho xã hội tiến bộ văn minh hơn. Đó là chức năng sánh ngang với trời. Phân chia đẳng cấp xã hội theo nghề nghiệp: sĩ, nông, công, thương. Nghi thức cúng lễ nếu lấy làm văn minh thì tốt.

Tóm lại, quan điểm chính trị- xã hội của Phái Nho gia là lấy nhân, nghĩa, lễ, chính danh làm phạm trù cơ bản trong học thuyết chính trị- đạo đức. Đặc biệt với Khổng Tử coi chính danh là điều cơ bản để trị nước; để cai trị đất nước người cầm quyền trước hết phải có đạo đức. Không những thế để đất nước thịnh trị phải biết thượng hiền và thực hiện 3 điều: thực túc, binh cường, dân tín. Đường lối nhân trị của Khổng Tử có tính chất điều hoà mâu thuẫn giai cấp, phản đối chiến tranh. Mạnh Tử thì phát triển học thuyết nhân của Khổng Tử thành học thuyết nhân chính, chủ trương lấy đức để thu phục lòng người, phản đối việc cai trị bằng bạo lực. Phan biệt vương chính với bá chính, coi dân là quan trọng nhất và quan hệ vua tôi là quan hệ hai chiều, tôn trọng lẫn nhau. Còn Tuân Tử phê phán việc tôn thờ trời, ỉ lại ở trời và khuyên con người nên tin ở sức mình. Chủ trương sửa trị việc nước, giáo dục đạo đức, lễ nghĩa làm cho xã hội tiến bộ, văn minh hơn.

Tuân Tử đề cao lễ trị. Ông cho rằng lễ là do người quân tử đặt ra để điều lý vạn sự và giữ cái mối trị trong thiên hạ: trời đất là cái đầu sự sinh, lễ nghĩa là cái đầu sự trị, quân tử là cái đầu lễ nghĩa. Lễ là cốt để phân biệt ra trật tự và định giới hạn cho minh bạch, khiến việc hành động của nhân dân không rối loạn, ông tin rằng dùng lễ có hiệu quả rất lớn về việc xã hội và quốc gia trọng lễ quý nghĩa thì nước trị, giản lễ rẻ nghĩa thì quốc loạn. Theo ông, lễ có ảnh hưởng đến sự linh hoạt của người ta ở trong xã hội mà việc trị loạn đều bởi đó mà ra. Ông cho rằng làm vua muốn được dân yêu dân quý thì phải có nhân có nghĩa hết nhân với thiên hạ thì ai cũng yên, hết nghĩa với thiên hạ thì ai cũng quý. Vậy lấy nhân nghĩa mà trị thiên hạ thì thiên hạ cho

ngôi vua là gốc chung của thiên hạ. Nguời dân tuy phải phục tùng theo vua nhưng khi vua là kẻ tàn ác thì dân có quyền được trừ bỏ đi. Phạt người có tội là để khiến những kẻ gian ác đừng làm những điều phi pháp và sự thưởng phạt của vua bao giờ cũng phải công minh và xứng đáng.

b.Nhận xét mặt tích cực và hạn chế:

* Ưu điểm:

-Đề cập đến tất cả các vấn đề của triết học, nhưng tập trung vào vấn đề chính trị xã hội, đạo đức;

-Có nhiều yếu tố duy vật, vô thần và tư tưởng biện chứng tự phát;

-Có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử Trung Hoa và nhiều dân tộc xung quanh;

-Có đóng góp to lớn vào kho tàng tư tưởng của nhân loại.

* Nhược điểm:

- Nặng về giáo dục chính trị đạo đức không coi trọng việc giáo dục tri thức khoa học, kỹ thuật. Khổng Tử coi sản xuất là công việc của kẻ tiểu nhân, không phải là trách nhiệm của người quân tử;

- Chủ trương theo khuôn mẫu cũ, không khuyến khích việc sáng tạo ra cái mới;

- Trong thời kỳ trung đại chịu ảnh hưởng nặng nề của hệ tư tuởng chính trị và đạo đức phong kiến;

- Tư tuởng triết học và đường lối giáo dục không gắn khoa học với kỹ thuật và sản xuất;

- Sự thống trị của hệ tư tuởng Nho gia trong suốt thời kỳ phong kiến đã làm mất đi tính sáng tạo và tự do tư tưởng trong thời cổ đại.

c. Đường lối chính trị xã hội của phái Đạo gia

Nếu đường lối chính trị xã hội của phái Nho gia là chủ trương theo đường lối đức trị, chú tâm đến việc trị dân, giáo dục dân theo Nhân, Nghĩa, Lễ, Chính danh thì đường lối chính trị xã hội của phái Pháp gia lại chủ truơng trị dân theo quan niệm thuyết vô vi của Lão Tử. vô vi là sống hoạt động theo lẽ tự nhiên thuần phác, không làm trái với tự nhiên không can thiệp vào trật tự tự nhiên. Vô vi cũng có nghĩa là giữ gìn bản tính tự nhiên của mình, của vạn vật. Có nghĩa là chỉ cần làm cho dân no bụng, xương cốt mạnh mà lòng hư tĩnh, khiến cho dân không biết không muốn. Không dùng

2

Page 3: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

luật pháp không cần giáo dục nhân nghĩa lễ trí theo chính sách vô vi thì mọi việc đều trị.

Theo Lão Tử, người có nhân nghĩa lễ trí thì họ ắt hành động một cách tự nhiên chứ không có chủ ý làm. Ông viết: Lễ là biểu hiện sự suy vi của sự trung hậu thành tín, là đầu mối cảu sự hỗn loạn. Dùng trí để tính tóan trước thì chỉ là cái lòe loẹt của đạo mà là nguồn gốc của sự ngu muội. Thời xưa người khéo dùng đạo trị nước thì không làm cho dân khôn lanh cơ xảo mà làm cho dân đôn hậu, chất phác. Dân sở dĩ khó trị là vì nhiều trí mưu. Cho nên dùng trí mưu trị nước là cái họa cho nước, không dùng trí mưu để trị nước là cấi phúc cho nước. ông chủ trương hạn chế quyền lực của Nhà nước và hoạt động của dân đến mức tối đa. Để cho dân theo lối sống chất phác thời nguyên thủy không dùng công cụ thay sức người, không dùng thuyền xe, binh khí, duy trì tình trạng nước nhỏ dân ít, dân các nước sống bên cạnh nhau nhưng không qua lại với nhau, không đi ra khỏi nước, chỉ dùng lối thắt gút. Ông chủ trương dứt thánh bỏ trí, dứt bỏ nhân nghĩa, xảo lợi, không có trộm, giặc. Không trọng người hiền để dân không tranh

Về quan hệ giữa nước lớn và nước nhỏ: Ông chủ trương khiêm hạ, nước lớn mà khiêm hạ với nước nhỏ thì được nuớc nhỏ xưng thần, nước nhỏ mà khiêm hạ với nước lớn thì được nước lớn che chở.

d. Đường lối chính trị của phái Pháp gia:

Khác với đường lối đức trị của phái Nho gia và đường lối vô vi của phái Đạo gia, phái Pháp gia chủ trương trị dân theo đuờng lối pháp trị. Hàn Phi là đại diện tiêu biểu cho phái Pháp gia với thuyết Pháp trị. Ông cho rằng để cai trị xã hội cần phải có 3 yếu tố là Pháp, Thuật, Thế.

- Pháp là pháp luật. Hàn Phi cho rằng pháp luật phải được công bố cho mọi người biết để tuân theo. Pháp luật phải thay đổi phù hợp với tình hình cụ thể, không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng với mọi thời đại. Phép trị dân không cố định, chỉ dùng pháp luật để trị mà thôi, pháp luật mà biến chuyển được theo với thời đại thì thiên hạ sẽ trị...Thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì loạn. Hàn Phi đưa ra lý luận tham nghiêm để làm tiêu chuẩn cho đường lối pháp trị. Ông cho rằng bất cứ lý luận nào cũng cần phải thông qua thực tế và thí nghiệm khách quan mới có thể đánh giá chính xác được. Hàn Phi phê phán chủ trương phục cổ, sùng bái các vua đời xưa của Nho gia, Đạo gia.

Hàn Phi cũng dựa vào thuyết tính ác của Tuân Tử để khẳng định tính đúng đắn của chủ trương pháp trị, Hàn Phi cho rằng con người có bản tính ích kỷ, thích tìm điều lợi, tránh điều hại. Vì thế người ta luôn chỉ lo mưu lợi cho bản thân mình. Do đó phải căn cứ vào tâm lý tránh hại và cầu lợi của con người để đặt pháp luật trọng thưởng nghiêm phạt để duy trì trật tự xã hội.

Hàn Phi phê phán ảo tưởng và sự có hại trong đường lối đức trị của Nho gia. Ngoài ra ông còn lập luận rằng người thiện trong xã hội rất ít, người bất thiện thì nhiều. Do đó trị nước phải căn cứ vào số đông mà dùng pháp trị.

- Thế, theo quan niệm Hàn Phi là địa vị, thế lực quyền uy của người cầm đầu. Kiệt làm thiên tử, chế ngự được thiên hạ không phải vì hiền mà vì có quyền thế. Nghiêu thất phu không trị nổi ba nhà không phải vì hiền, mà vì địa vị thấp

- Thuật, phương pháp mưu lược thủ đoạn trong việc trị dân. Nếu pháp được công bố rộng rãi thì thuật là cơ trí, thủ đoạn ngấm ngầm của vua không để ai biết. Chính vì thế Hàn Phi nói vua dùng luật như trời, dùng thuật như quỷ.

Thuật của Pháp gia có kế thừa yếu tố chính danh của Nho gia. Vua cứ theo thuật “lấy danh mà trách thực” để thưởng phạt. Thưởng phát được ví như hai tay của vua hay hai cái cán của thuật. Vua cần thường xuyên kiểm tra bề tôi bằng cách tự mình trực tiếp hay thông qua nguời được vua giao. Vua phải luôn luôn giữ kín sở thích, tâm ý của mình, không cho người khác biết được để lợi dụng gièm pha, xu nịnh hoặc làm hại vua.

e. So sánh đường lối chính trị của Phái Nho gia, Đạo gia và Pháp gia:

* Gièng nhau:

- Đề cập đến tất cả các vấn đề của triết học, nhưng tập trung vào vấn đề chính trị xã hội, đạo đức; Có nhiều yếu tố duy vật, vô thần và tư tưởng biện chứng tự phát; Có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử Trung Hoa và nhiều dân tộc xung quanh; Có đóng góp to lớn vào kho tàng tư tưởng của nhân loại.

- Nặng về giáo dục chính trị đạo đức không coi trọng việc giáo dục tri thức khoa học, kỹ thuật; Chủ trương theo khuôn mẫu cũ, không khuyến khích việc sáng tạo ra cái mới; Trong thời kỳ trung đại chịu ảnh hưởng nặng

3

Page 4: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

nề của hệ tư tuởng chính trị và đạo đức phong kiến; Tư tuởng triết học và đường lối giáo dục không gắn khoa học với kỹ thuật và sản xuất; Sự thống trị của hệ tư tuởng Nho gia trong suốt thời kỳ phong kiến đã làm mất đi tính sáng tạo và tự do tư tưởng trong thời cổ đại.

- Đối với phái Nho gia và Pháp gia đều sử dụng Chính danh làm điều cơ bản để trị nước và phê phán mê tín dị đoan.

* Khác nhau:

Phái Nho gia Phái Đạo gia Phái Pháp gia

1, Điều cơ bản trị nước

-Nhân, nghĩa, lễ, chính danh trong đó chính danh là điều cơ bản trị nước.

-Không làm cho dân khôn ngoan, cơ xảo mà làm cho dân đôn hậu, chất phát

-Kế thừa yếu tố Chính danh của Nho gia nhưng thường xuyên kiểm tra bề tôi

2, Điều quan trọng của người cầm quyền

-Nhân, nghĩa, lễ, chính danh là đạo làm người và đạo trị nước. Để cai trị đất nước, người cầm quyền phải có đạo đức

Người cầm quyền mà dùng mưu trị nước là cái hoạ cho nước

Vua dùng luật như trời, dùng thuật như quỷ. Vua thường xuyên kiểm tra bề tôi và luôn giữ kín sở thích và tâm ý của mình

3, Đường lối cai trị nước

-Đường lối nhân trị có tính chất điều hoà mâu thuẫn giai cấp, phản đối chiến tranh. Khuyên giai cấp thống trị yêu thương, chăm lo cho nhân dân và dân phải an phận

-Thực hiện 3 điều: Thực túc, binh cường và dân tín.

-Dân chỉ cần “no bụng”, không dùng luật pháp, không cần giáo dục Nhân, nghĩa, lễ, trí.

-Chủ trương từ bỏ nghệ thuật, hạn chế quyền lực nhà nước và nhân dân tối đa. Để cho dân sống theo lối chất phát thời nguyên

-Để cai trị xã hội cần 3 yếu tố: Pháp, Thuật và Thế.

-Pháp luật được công bố rộng rãi cho mọi người biết và tuân theo. Có thay đổi cho phù hợp tình hình cụ thể. Đưa ra lý luận “tham nghiêm” để làm tiêu chuẩn cho

Phái Nho gia Phái Đạo gia Phái Pháp gia

Dân tín là quan trọng nhất

-Phản đối cai trị bằng bạo lực, phân biệt vương chính với bá chính. Coi dân quan trọng nhất

thuỷ

-Duy trì tình trạng nước nhỏ, dân ít, không qua lại lẫn nhau

-Chủ trương dứt thánh bỏ trí

-Quan hệ nước lớn, nhỏ thì dùng chủ trương “Khiêm hạ”

đường lối pháp trị.

-Chế ngự được thiên hạ là do có quyền thừa và địa vị cao

-Đường lối pháp trị là tư tưởng của giai cấp quý tộc mới.

Tóm lại mỗi trường phái triết học trên đều có những ưu điểm riêng nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại những nhược điểm của nó nhưng nhìn chung các trường pháp này đã có những đóp góp to lớn vào kho tàng tư tưởng của nhân loại.

4

Page 5: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

Câu 2: Bản thể luận và nhân sinh quan của Phật giáo trong triết học ấn Độ cổ đại. Nhận xét mặt tích cực và hạn chế.

Phật giáo là một trường phái triết học tôn giáo xuất hiện sớm, ra đời trong làn sóng đấu tranh chống lại sự thống trị của đạo Bàlamôn, chống lại phân biệt đẳng cấp và đòi bình đẳng xã hội; do Tất Đạt Đa sáng lập, ông xuất gia đi tìm con đường giải thoát, sau khi tu luyện giác ngộ ông lấy hiệu Buddha, thu nhận đồ đệ và đi khắp nước ấn Độ để truyền bá học thuyết của mình.

*Quan điểm bản thể luận:

Là trường phái triết học vô thần (không triệt để), có một số yếu tố duy vật, biện chứng. Nhưng nhìn cung là một trào lưu triết học duy tâm chủ quan.

-Về nguồn gốc thế giới:

Thế giới tồn tại khách quan không phụ thuộc vào thần thánh, không do thần thánh sáng tạo ra. Phật giáo không thừa nhận Brahma- sáng tạo thế giới và atman- linh hồn bất tử. Thừa nhận có thần tiên là đẳng cấp cao hơn con người, nhưng không có vai trò đặc biệt, không sáng tạo ra thế giới. Vũ trụ vô cùng vô tận với hàng nghìn thế giới chia thành tiểu thiên, trung thiên và đại thiên thế giới. Thế giới do các yếu tố vật chất và tinh thần kết hợp với nhau tạo nên. Vật chất gồm: sắc- là những yếu tố có hình thù như đất, nước, lửa, gió và không- là những yếu tố không có hình thù. Các yếu tố tinh thần gọi là danh, thụ, thưởng, hành, thức. Con người do 5 yếu tố tạo nên (ngũ uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành, thức). Dùng thuyết nhân quả để giải thích nguồn gốc của tất cả các sự vật, hiện tượng. Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân, nhân kết hợp với duyên thì sinh ra quả. Quả kết hợp với duyên lại biến thành nhân và sinh ra quả khác.

-Về sự biến đ ổi của thế giới: Phật giáo đưa ra thuyết vô thường, vô ngã

+Vô thường: không có gì ổn định, bất biến. Thế giới biến đổi không ngừng, sự biến đổi diễn ra trong khoảng khắc gọi là niệm vô thường và sự biến đổi diễn ra theo những chu kỳ nhất định gọi là nhất kỳ vô thường.

+Vô ngã: không có atman tức không có bản chất bất biến, nằm ngoài sự vật. Sự vật mất đi thì bản chất cũng không còn; con người chết đi thì linh hồn cũng không còn. Tuy nhiên thừa nhận sự tái sinh ở kiếp sau, sự luân hồi qua 6 kiếp.

*Nhân sinh quan Phật giáo:

-Thuyết luân hồi, nghiệp báo:

Phật giáo tuy bác bỏ Brahma và atman nhưng lại kế thừa thuyết luân hồi, nghiệp báo trong đạo Bàlamôn. Con người chịu sự luận hồi qua 6 kiếp: địa ngục, ác quỷ, atula, súc vật, người và thần tiên. Sự luận hồi và cuộc sống ở kiếp này phụ thuộc vào cái nghiệp mà con người gây ra ở kiếp trước.

-Thuyết tứ diệu đ ế:

+Khổ đế: cái gì làm cho ta khó chịu đựng, gồm 8 cái khổ: sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bắt đắc, thủ ngũ uẩn.

+Tập đế hay nhân đế: gồm 12 nguyên nhân: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục căn, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử.

+Diệt đế: cho rằng cái khổ có thể tiêu diệt được bằng cách tiêu diệt mọi ham muốn dục vọng.

+Đạo đế: con đường tu luyện để tiêu diệt cái khổ, gồm có Bát chính đạo với 8 phương hướng:

Chính kiến: thấy, xem xét sự vật một cách đúng đắn hoặc hiểu biết đúng đắn; Chính tư duy: suy nghĩ đúng đắn; Chính ngữ: lời nói đúng đắn; Chính nghiệp: hành vi đúng đắn; Chính mệnh: mưu sinh đúng đắn; Chính tinh tiến: cố gắng, nỗ lực phấn đấu một cách đúng đắn; Chính niệm: ghi nhớ, tâm niệm đúng đắn; Chính định: tập trung tư tưởng một cách đúng đắn.

Tám điều này được gộp thành 3 điều: Giới gồm chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh; Định gồm chính tinh tiến, chính niệm, chính định và Tuệ gồm chính kiến, chính tư duy.

*Mục đí ch cao nhất của Đ ạo Phật là sự giải thoát, bằng cách tu luyện để từ bỏ mọi ham muốn dục vọng đời thường, tiêu diệt vô minh, đạt đến sự sáng suốt, khi đó con người sẽ thoát khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo hoà nhập với cõi vĩnh hằng (nhập Niết bàn). Niết bàn theo phái Thiền tông, là một trạng thái tư duy hoàn toàn thanh thản, hạnh phúc khi đã dứt bỏ mọi đau khổ do tham sân si, khi đã hoàn toàn thoát khỏi sinh lão bệnh tử, luân hồi, nghiệp báo. Theo Tịnh độ tông, Niết bàn là cõi bồng lai cực lạc, ở về phía Tây, nơi ở của các Phật tổ, Bồ tát và những người đã tu luyện đắc đạo.

* Nhận xét mặt tích cực và hạn chế:

Ư u đ iểm:

5

Page 6: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

-Là trường phát triết học vô thần (không triệt để), có yếu tố duy vật, biện chứng

-Chống lại sự phân biệt đẳng cấp, chủ trương bình đẳng xã hội

-Khinh ghét những ham muốn dục vọng vật chất tầm thường

-Có tính nhân đạo cao, khuyên con người làm điều thiện, tránh xa điều ác, thương yêu, cứu giúp mọi người. Không dùng bạo lực trong quan hệ giữa các giáo phái khác nhau cũng như với các tôn giáo khác

Nh ư ợc đ iểm:

-Phật giáo là trường phái duy tâm chủ quan, cho rằng nguyên nhân cơ bản của cái khổ là vô minh; và sự sáng suốt, giác ngộ của con người là yếu tố quyết định sự giải thoát con người khỏi cái khổ.

-Cuộc đời là giả, ảo; mọi ham muốn đời thường đều tội lỗi. Trái lại Niết bàn, cái mà Phật cho là thực tại thì hoá ra chỉ là điều tưởng tượng thuần tuý, không có gì làm bằng chứng.

-Nhận thức luận duy tâm. Theo Phật giáo, nhận thức chỉ thực hiện bằng sự tu luyện, thiền định. Không nhận thức vai trò của nhận thức cảm tính và tư duy cũng như vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức

-Xa lánh cuộc đời, phủ nhận sự biến đổi, cải tạo xã hội bằng thực tiễn cách mạng.

Câu 4: Sự đối lập giữa quan điểm duy tâm và duy vật, biện chứng và siêu hình trong triết học Hy Lạp cổ đại.

Triết học Hy Lạp ra đời trong điều kiện chế độ chiếm hữu nô lệ đang cực thịnh, cuộc đấu tranh giữa giai cấp nô lệ và chủ nô rất gay gắt. Sự phân công lao động trí óc và chân tay dẫn đến hình thành một tầng lớp trí óc chuyên nghiên cứu triết học và khoa học. Sự phát triển thủ công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp và hàng hải dẫn đến sự ra đời hành loạt đô thị và tạo điều kiện cho sự phát triển triết học, khoa học, văn hoá, nghệ thuật. Các trường phái triết học Hy Lạp là thế giới quan của giai cấp chủ nô. Các nhà triết học cho rằng chế độ nô lệ là hợp lý.

* Lênin coi cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm ở Hy Lạp cổ đại là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối: đường lối Democrit và đường lối Platon

- Về nguồn gốc của vũ trụ:

Democrit cho rằng cơ sở đầu tiên tạo nên vũ trụ là nguyên tử (atom: không thể phân chia được). Nguyên tử là hạt vật chất nhỏ nhất không thể phân chia đuợc nữa. Nguyên tử đồng nhất về chất, chỉ khác nhau về hình dáng, kích thước, tư thế, trật tự sắp xếp, tạo nên những vật thể khác nhau. Nguyên tử luôn luôn vận động trong chân không (không gian) Vũ trụ hình thành do sự va chạm của nguyên tử trong cơn lốc nguyên tử. Ông chỉ thừa nhận tất nhiên, phủ nhận ngẫu nhiên cho ngẫu nhiên chỉ là hiện tượng chưa rõ nguyên nhân.

Platon cho rằng thế giới ý niệm có trước thế giới sự vật cảm tính. Sự vật cảm tính luôn luôn biến đổi, chỉ là cái bóng của ý niệm, nên là tồn tại không chân thực, ý niệm tồn tại vĩnh cửu, bất biến là tồn tại chân thực, ý niệm bao gồm nhiều loại: ý niệm đạo đức, ý niệm thẩm mỹ, ý niệm khoa học…Trong đó ý niệm phúc lợi là cao nhất, ý niệm là bản chất chung của mọi sự vật, hiện tượng, là cơ sở thống nhất của thế giới, là linh hồn của vũ trụ, ý niệm thông qua các quan hệ toán học, biểu thị bằng con số, tạo nên sự vật cảm tính.

-Về con người.

Democrit bác bỏ quan niệm cho rằng thần thánh sinh ra con người. ông cho rằng con người xuất hiện trên trái đất như là kết quả của sự tiến hoá tự

6

Page 7: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

nhiên. Linh hồn con người được cấu tạo từ nguyên tử có hình cầu, nóng rực và linh động.

Platon thì cho rằng con người gồm thể xác và linh hồn tồn tại độc lập với nhau. Thể xác được tạo thành từ đất, nước, lửa, không khí. Linh hồn là một bộ phận của linh hồn vũ trụ do Thượng đế sinh ra, do đó nó bất tử, tồn tại vĩnh hằng. Khi có thể chết nó bay lên cư ngụ ở một vì sao.

-Về nhận thức:

Democrit cho rằng nhận thức bắt nguồn từ cảm giác. Nhưng nhận thức cảm tính là sự nhận thức mờ tối, chỉ có nhận thức lý tính mới phát hiện ra nguyên tử.

Platon cho rằng nhận thức là sự hồi tưởng của linh hồn về thế giới ý niệm có trước thế giới vật chất. Platon coi nhận cảm tính chỉ là sự nhận thức cái bóng của ý niệm, chỉ cho ta những quan niệm, chứ không phải là tri thức chân thực. Chỉ có nhận thức lý tính, tức nhận thức khái niệm mới đạt đến tri thức chân thực, ông đưa ra câu chuyện về hang động để chứng minh luận điểm đó.

-Về chính trị:

Democrit đứng trên lập trường của phái chủ nô dân chủ, chống lại đuờng lối Platon. Tuy nhiên ông vẫn coi chế độ nô lệ là hợp lý.

Platon chủ trương xây dựng một nhà nước lý tưởng. Đó là nhà nước cộng hoà bao gồm 3 đẳng cấp: Nhà triết học làm vua, vệ binh bảo vệ đất nước, người lao động sản xuất. Đây là nhà nước độc tài do giai cấp chủ nô thống trị.

Tóm lại, Lênin coi cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT ở Hy Lạp cổ đại là cuộc đấu tranh giữa 2 đường lối: đường lối Đêmôcrit và đường lối Platôn. Về bản thể luận, Đêmôcrit cho rằng cơ sở đầu tiên tạo nên vũ trụ là nguyên tử, vũ trụ hình thành do sự va chạm nguyên tử, còn Platôn cho rằng thế giới ý niệm có trước thế giới sự vật cảm tính, ý niệm là linh hồn của vũ trụ. Về vấn đề nhận thức luận, Đêmôcrit cho rằng nhận thức bắt nguồn từ cảm giác. Nhưng nhận thức cảm tính là sự nhận thức mờ tối, chỉ có nhận thức lý tính mới phát hiện ra nguyên tử, còn Platôn cho rằng nhận thức là sự hồi tưởng của linh hồn về thế giới ý niệm có trước thế giới vật chất. Nhận thức cảm tính chỉ là sự nhận thức cái bóng của ý niệm, chỉ cho ta những quan niệm, chứ không phải là tri thức chân thực. Chỉ có nhận thức lý tính,

tức nhận thức khái niệm mới đạt đến tri thức chân thực. Đặc biệt hơn thế về đường lối chính trị, Đêmôcrit đứng trên lập trường của phái chủ nô dân chủ, chống lại đường lối Platôn. Tuy nhiên ông vẫn coi chế độ nô lệ là hợp lý, còn Platôn đưa ra Nhà nước lý tưởng là nhà nước cộng hoà gồm 3 đẳng cấp: Nhà nước triết học làm vua, Vệ binh bảo vệ đất nước, Người lao động sản xuất. Đây là Nhà nước độc tài do giai cấp chủ nô thống trị.

* Sự đối lập giữa siêu hình và biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại được biểu hiện rõ nhất qua hai trường phái triết học Hêraclit và trường phái Elê

-Hêraclit:

Ông là người sáng lập ra phép biện chứng duy vật cổ đại. Tư tưởng biện chứng của ông được thể hiện trong những câu châm ngôn nổi tiếng. Ông cho rằng vạn vật không ngừng biến đổi như một dòng chảy. Theo ông: “Mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều biến đổi”, “Người ta không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông”.

Hêraclit nêu ra tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của mâu thuẩn, trong sự vật hiện tượng. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao hàm những mặt đối lập, ông nói: “Cùng một cái ở trong chúng ta sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già”.

Các mặt đối lập làm tiền đề cho nhau, có mặt này mới có mặt kia. “Bệnh tật làm cho sức khoẻ quý hơn, cái ác làm cho cái thiện cao cả hơn, cái đói làm cho cái no dễ chịu hơn”. Các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau: ông nói: “Cái nóng lạnh đi, cái lạnh nóng lên, cái ướt khô đi, cái khô ướt lại”

-Trường phái Elê: không thừa nhận sự vận động của thế giới

Xênôphan cho rằng thế giới là một khối duy nhất bất động, không do thần thánh sinh ra. Con người sáng tạo ra thần thánh theo trí tưởng tượng của mình.

Pacmênit và Dênôn cũng cho rằng tồn tại là duy nhất, không thể phân chia được, không vận động, không biến đổi. Tồn tại là bất biến, Nó không sinh ra, cũng không mất đi, nó hoàn chỉnh, duy nhất, bất động và vô hạn”. Dênôn đưa ra những nghịch lý để phủ nhận sự vận động như: nghịch lý phân đôi, nghịch lý Asin không đuổi kịp con rùa, nghịch lý mũi tên đang bay mà bất động.

7

Page 8: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

Câu 5: Quan điểm của các nhà triết học Tây Âu trung cổ (về quan hệ giữa triết học với tôn giáo, về vấn đề bản thể luận, nhận thức luận, con người và xã hội).

Xã hội Tây Âu trung cổ là xã hội phong kiến. Đế quốc La Mã tan rã, các vương quốc phong kiến được thành lập. Hai giai cấp cơ bản trong xã hội được hình thành là giai cấp địa chủ quý tộc và giai cấp nông nô. Thiên chúa giáo trở thành tôn giáo chính thống và cùng với thế lực phong kiến trở thành lực lượng thống trị xã hội. Thế quyền và thần quyền dựa vào nhau, cấu kết nhau. Giáo triều La Mã, các giáo hội địa phương và tầng lớp giáo sĩ có quyền lực rất lớn trong xã hội. Thần học chi phối và bao trùm toàn bộ đời sống chính trị và tinh thần của xã hội. Do sự độc quyền của giao hội, sự ngự trị của chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh viện trong đời sống xã hội, con người không còn có tự do tư tưởng. Văn hoá, khoa học vì thế chậm phát triển. Triết học bị thống trị bởi thần học, trở thành tôi tớ của tôn giáo.

* Triết học Tây Âu từ thế kỷ II - IV:

- Tectuliêng: Ông cho rằng Thượng đế là vị chúa duy nhất, thiêng liêng và cao cả. Ngài ở khắp mọi nơi nhưng không nhìn thấy được. Lý trí con người thì thấp kém, chỉ nhận được giới tự nhiên. Còn niềm tin vượt ra ngoài cái trần tục, hướng tới nhận thức Thượng đế.

- Ôguytxtanh:

+Về bản thể luận: ông cho rằng toàn bộ thế giới là do Thượng đế sáng tạo ra và được nhận thức bởi Thượng đế. Thượng đế có sức mạnh vạn năng, quyền lực tuyệt đối. Tuy nhiên Thượng đế không có mặt trong thế giới cảm tính.

+ Về nhận thức: ông cho rằng nhận thức của con người là nhận thức Thượng đế. Chân lý chỉ có thể đạt được bằng niền tin tôn giáo. Thượng đế ở trong mỗi người nên nhận thức cũng chính là sự tự nhận thức. Thượng đế là chân lý tối cao, là chân lý của mọi chân lý.

+Về xã hội: Nhà nước là vương quốc điều ác. Nhà thờ là vương quốc của sự thánh thiện. Do đó, quyền lực nhà thờ phải được đặt trên quyền lực của nhà vua. Ông tích cực bảo vệ sự bất bình đẳng xã hội. Thượng đế ban thưởng cho người này sung sướng và bắt người kia phải chịu đoạ đày khốn khổ. Người nghèo không nên yêu của cải, mà chỉ nên yêu Thượng đế vì cuộc sống trần gian chỉ là tạm bợ.

+Về con người: Con người do Thượng đế sáng tạo ra. Con người có tự do trong giới hạn sự tiền định của Thượng đế. Con người là “kẻ bộ hành tạm thời trên trái đất” là “cây nến trước gió mạnh”. Cuộc sống trần gian là tội lỗi, tạm thời và chỉ là sự chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu ở thế giới bên kia. Giới tự nhiên vật chất là đáng nguyền rũa, người ta càng chóng thoát khỏi xiềng xích của nó thì càng chóng đạt tới hạnh phúc.

*Chủ nghĩa kinh viện Tây Âu trung cổ. Cuộc đấu tranh giữa hai trường phái triết học là phái duy danh và phái duy thực

-Chủ nghĩa kinh viện là triết học chính thống của giai cấp phong kiến Tây Âu trung cổ, được chính thức giảng dạy trong nhà trường. Về bản chất, nó là thứ triết lý viễn vông, xa rời hiện thực, không quan tâm đến nội dung mà chỉ chú trọng đến sách vở kinh điển, tranh cãi với nhau những vấn đề vô bổ.

-Cuộc đấu tranh giữa phái duy danh và phái duy thực về vấn đề giữa cái chung và cái riêng; giữa khái niệm và sự vật. Phái duy thực: cho rằng cái chung, cái phổ biến, khái niệm là thực tại, có trước thế giới vật chất. Nó là thực thể tinh thần không phụ thuộc vào sự vật cụ thể. Phái duy danh: cho rằng cái chung, cái phổ biến, khái niệm không có tính thực tại. Nó chỉ là tên gọi mà con người đặt ra cho các sự vật, hiện tượng. Không có cái nhà, con người nói chung mà chỉ có cái nhà và con người cụ thể.

-Tômat Đacanh: Triết học của ông được Nhà thờ coi là học thuyết duy nhất đúng đắn và lấy làm hệ tư tưởng của mình.

+Về quan hệ giữa triết học và thần học: ông cho rằng, đối tượng của triết học là chân lý của lý trí, đối tượng của thần học là chân lý của niềm tin. Niềm tin cao hơn lý trí, do đó triết học phải phục tùng tôn giáo. Triết học là tôi tớ của tôn giáo.

+Về bản thể luận: ông cho rằng, giới tự nhiên là do Thượng đế sáng tạo ra. Mọi trật tự trong tự nhiên, từ sự vật không có linh hồn đến con người rồi đến thần thánh và sau cùng là Chúa trời đều do Thượng đế sắp xếp. Mọi đẳng cấp trong xã hội, quyền lực của nhà vua đều do Thượng đế quy định. Mọi cái trong tự nhiên và xã hội đều có mục đích do Thượng đế an bày. Ông chứng minh sự tồn tại của Thượng đế bằng lập luận dựa trên 5 yếu tố: Thượng đế là động lực đầu tiên; Thượng đế là nguyên nhân đầu tiên; Thượng đế là cái tất nhiên tuyệt đối; Thượng đế là cái hoàn thiện tuyệt đối; Thượng đế là lý trí tối cao điều chỉnh thế giới.

8

Page 9: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

+Về mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung: Ông đứng trên lập trường duy thực ôn hoà. Ông cho rằng cái chung tồn tại trên 3 phương diện: tồn tại trước sự vật trong trí tuệ của Thượng đế; tồn tại trong sự vật với tư cách là tạo vật của Thượng đế; tồn tại sau sự vật trong trí tuệ của con người bằng con đường trừu tượng hoá.

+Về nhận thức: áp dụng học thuyết về hình dạng của Arixtôt, ông coi hình dạng là bản chất của sự vật. Ông chia hình dạng thành hình dạng cảm tính và hình dạng lý tính. Hình dạng lý tính cao hơn hình dạng cảm tính. Nhận thức chính là nhận thức hình dạng. Thượng đế là hình dạng cua mọi hình dạng.

-Đơnxcôt: nhà duy danh

+Về quan hệ giữa triết học và thần học: ông cho rằng đối tượng của thần học là Thượng đế, đối tượng của triết học là tự nhiên. Ông đề cao vai trò của niềm tin tôn giáo so với lý trí.

+Về con người: ông cho rằng linh hồn là hình thức của cơ thể con người và do Thượng đế ban cho khi mới sinh ra.

+Về quan hệ giữa cái chung và cái riêng: ông cho rằng cái chung vừa tồn tại trong sự vật với tính cách là bản chất của sự vật, vừa tồn tại sau sự vật với tính cách là những khái niệm được lý trí con người trừu tượng hoá khỏi sự vật.

Tóm lại: Chịu sự chi phối và thống trị của tôn giáo và thần học. Triết học trở thành tôi tớ của tôn giáo; Tìm cách chứng minh Thượng đế sáng tạo thế giới và quyết định mọi trật tự trong tự nhiên và xã hội, là cơ sở của tri thức và đạo đức con người; Một số nhà Triết học có yếu tố duy vật, núp dưới hình thức duy danh, thần luận, nhưng không dám công khai bác bỏ sự tồn tại của Thượng đế; Thần học đặt niềm tin lên trên hết. Niềm tin cao hơn lý trí. Khoa học phải phục tùng tôn giáo; Theo quan điểm thần học, con người là thực yếu đuối. Cuộc sống vật chất là tạm bợ, tội lỗi. Mục đích tối cao là Thiên đường;

Câu 6: Những thành tích và những hạn chế của chủ nghĩa duy vật Tây Âu thế kỷ XVII-XVIII

Triết học duy vật phương Tây thế kỷ XVII-XVIII là thế giới quan của giai cấp tư sản đang lên, có chức năng chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cuộc cách mạng tư sản.

-Về vai trò của triết học và khoa học: các nhà triết học duy vật đề cao vai trò của triết học và khoa học trong việc nhận thức quy luật và sức mạnh tự nhiên, giúp con người làm chủ tự nhiên.

-Về bản thể luận: các nhà triết học đứng trên lập trường duy vật vô thần, chống lại thế giới quan duy tâm, tôn giáo của Nhà thờ. Họ khẳng định vật chất tự nhiên là thực thể duy nhất. Vật chất luôn luôn vận động. Vận động do nguyên nhân bên trong của vật chất. Tuy nhiên thế giới quan của họ nhìn chung là siêu hình và máy móc.

-Về con người: con nguời là sản phẩm của tự nhiên, là thể thống nhất giữa cơ thể và ý thức. Họ bác bỏ linh hồn bất tử, linh hồn tách rời cơ thể. Theo họ nhân cách con người là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục. Tuy nhiên họ chưa thoát khỏi cách nhìn nhận máy móc về con người.

-Về nhận thức: các nhà triết học duy vật đề cao vai trò nhận thức cảm tính, của tư duy và thực nghiệm khoa học.

-Về chính trị xã hội: Họ chống lại tư tưởng và trật tự phong kiến, tuyên truyền tư tuởng chính trị của giai cấp tư sản. Họ đưa ra thuyết kết ước xã hội. Theo họ nhà nước là do sự thoả thuận giữa các tầng lớp nhân dân lập ra. Họ đề cao hình thức nhà nước dân chủ, chống lại quyền lực phong kiến và nhà thờ. Nhà nước là kết quả của sự thoả thuận chung theo kết ước của xã hội, không hề có nguồn gốc thần thánh. Tuy nhiên họ chưa thấy được tính giai cấp của nhà nước.

-Về vấn đề tôn giáo: họ vạch trần bản chất tôn giáo và tính phản động, phản tiến bộ của nó. Theo họ, tôn giáo là do con người sáng tạo ra. Tuy nhiên họ chỉ thấy nguồn gốc nhận thức, chưa thấy nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Họ chủ trương xoá bỏ tôn giáo bằng cách giáo dục quần chúng và tiêu diệt giới tu hành.

9

Page 10: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

Câu 7: những luận điểm cơ bản của Chủ nghĩa hiện sinh. Mặt tích cực và ảnh hưởng tiêu cực của nó.

a- Nguồn gốc ra đời

Chủ nghĩa hiện sinh có nguồn gốc từ nhà triết học kiêm thần học Đan Mạch tên là Kiêckêgô.

Chủ nghĩa hiện sinh ra đời do hai nguồn gốc:

- Sự khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản đã đẩy con người vào tình trạng tha hoá cùng cực. Hai cuộc chiến tranh thế giới do chủ nghĩa đế quốc gây ra đã đem lại sự tàn phá, đau thương chết chóc khủng khiếp, gây ra tình trạng khủng hoảng sâu sắc trong đời sống tinh thần của con người.

- Sự bất lực của các hệ thống triết học duy lý và khoa học kỹ thuật trong việc giải quyết những mâu thuẫn xã hội. Con người bị bỏ rơi, họ không còn tin tưởng vào lý trí, vào khoa học kỹ thuật, vào xã hội và nhà nước, vào tương lai.

Những nguyên nhân trên dẫn đến tâm trạng bi quan, tuyệt vọng của con người, cho rằng tất cả mọi cái đều phi lý. Con người không còn tin vào bất cứ cái gì bên ngoài có thể cứu giúp được họ. Mỗi cá nhân chỉ còn cách dựa vào chính bản thân mình, tự cứu mình, tự lựa chọn con đường riêng cho mình.

Kierkegaard là người đầu tiên đã gọi mình là hiện sinh. Theo ông mỗi người phải chọn con đường riêng cho mình mà không cần sự trợ giúp của những tiêu chuẩn khách quan, phổ biến, "Tôi phải tìm một chân lý cho chính tôi... cái lý tưởng mà tôi có thể sống hay chết vì nó". Chống lại quan điểm truyền thống cho rằng sự lựa chọn về đạo đức có liên quan đến sự phán xét khách quan cho điều thiện và điều ác, những nhà hiện sinh lập luận rằng những quyết định đạo đức không hề có một cơ sở khách quan, hợp lý nào.

Xét về nguồn gốc xa xưa nhất của chủ nghĩa hiện sinh, người ta nói đến Xôcrat, Ôguytxtanh. Đặc biệt là B. Patxcan. Những ông tổ của chủ nghĩa hiện sinh: Ph. Nitsơ, E. Hutxéc.

Chủ nghĩa hiện sinh chia làm hai nhánh: Chủ nghĩa hiện sinh hữu thần (tôn giáo) và chủ nghĩa hiện sinh vô thần.

Chủ nghĩa hiện sinh tôn giáo có S. Kierkegaard, K. Jaspers, G. Marcel. Chủ nghĩa hiện sinh vô thần có M. Heidegger, J.P. Sartre, A. Camus.

b- Những luận điểm cơ bản của Chủ nghĩa hiện sinh

Chủ nghĩa hiện sinh có nhiều đại biểu với những quan điểm khác nhau, nhưng nhìn chung họ nhấn mạnh sự hiện hữu của cá nhân cụ thể, và do đó nhấn mạnh tính chủ quan, tự do cá nhân và sự lựa chọn của cá nhân.

Những chủ đề chính của chủ nghĩa hiện sinh.

+ Về vấn đề tồn tại: Chủ nghĩa hiện sinh không phủ nhận tồn tại khách quan của thế giới, nhưng theo họ tồn tại tự nó không là cái gì cả. Sartre chia tồn tại thành hai miền: tồn tại trong nó và tồn tại cho nó.

Tồn tại trong nó, tức tồn tại tự nó chỉ đơn thuần là sự có mặt ở đó, như viên sỏi, như cái rễ cây hạt dẻ kia. Tồn tại tự nó thì dày đặc, không có ý thức về chính nó và về thế giới chung quanh. Nó là đồng nhất với chính nó, không có quan hệ gì với cái khác, không cần bất cứ một cái gì khác làm nguyên nhân, cứu cánh cho nó. Nó chẳng là cái gì cả. Nó là tồn tại hổn độn, thừa thải, phi lý và gây ra sự buồn nôn.

Tồn tại cho nó là tồn tại có ý thức, ý thức về đối tượng và về chính mình. Tồn tại ch nó không phải là ý thức thuần tuý, và ý thức về một đối tượng. Đó là sự sáng suốt mà nhờ đó đối tượng được nhận thức. Tồn tại cho nó cũng là tự ý thức, nghĩa là biết được là mình đang có ý thức về đối tượng. Con người là một tồn tại cho nó, một tồn tại có ý thức.

Các nhà phân tích chủ nghĩa hiện sinh thường phân biệt khái niệm tồn tại với khái niệm hiện sinh hay hiện hữu. Chỉ có tồn tại có ý thức mới là sự hiện hữu, sự hiện sinh, và như vậy chỉ con người mới có hiện hữu, hiện sinh, còn đồ vật chỉ đơn giản tồn tại mà thôi. Đồ vật chỉ hiện hữu khi con người có những cảm xúc về nó; sự hiện hữu của đồ vật là do con người đem lại.

Rõ ràng quan điểm của chủ nghĩa hiện sinh về tồn tại và con người là một quan điểm duy tâm chủ quan, siêu hình. Tồn tại tự nó là những đồ vật không có quan hệ với nhau, không thể nhận thức được. Còn tồn tại của con người là tồn tại có ý thức. Tồn tại của con người bị đồng nhất với ý thức. Con người trong chủ nghĩa hiện sinh là một cá nhân đơn nhất, với những tâm lý, những xúc cảm, những đau khổ, những trăn trở riêng tư của nó; con người bị chia cắt khỏi mặt sinh học của nó, khỏi những quan hệ xã hội và hoạt động thực tiễn của xã hội.

+ Về quan hệ giữa hiện sinh và bản chất

Các nhà hiện sinh cho rằng hiện sinh có trước bản chất, hiện sinh là tính thứ nhất so với bản chất. Con người không có một bản chất vốn có nào

10

Page 11: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

cả, nó không giống như cái tên của nó, nó không phải là cái mà người định nghĩa về nó, không phải là bản chất mà triết học, khoa học gán cho nó. Mỗi cá nhân trở thành cái gì là do sự hiện sinh của nó, do ý thức của nó. Giữa cá nhân này với cá nhân khác không có một bản chất chung nào cả. Đồ vật cũng vậy, nó không phải là cái tên mà người ta đặt cho nó, cái bản chất mà người ta gán cho nó ngay từ đầu, một cái bản chất có sẳn, có trước nào.

Trong tác phẩm Buồn nôn của Sartre, nhân vật Roquentin đang ngồi trên một cái ghế trên chiếc xe buýt. Anh ta phát hiện ra sự hiện sinh của nó, nó không phải là cái ghế mà người ta đã đặt tên cho nó như vậy. Roquentin phát hiện ra rằng những đồ vật, trong sự hiện sinh đích thực của chúng, không có liên quan gì đến những cái tên mà chúng ta đặt cho chúng, không có liên hệ gì với bản chất mà chúng ta gán cho chúng. Nghĩa là, sự hiện sinh của đồ vật là hoàn toàn do cảm xúc của ta đem lại cho chúng.

+ Sự trăn trở hay sự đau khổ cũng là một chủ đề của chủ nghĩa hiện sinh. Đó là trạng thái không thoả mái, lo sợ khủng khiếp nói chung, không gắn một cách trực tiếp với một đối tượng cụ thể nào cả. Các nhà hiện sinh có một cái nhìn đen tối, bi quan về cuộc sống, họ phủ nhận tư tưởng về hạnh phúc, chủ nghĩa lạc quan của các nhà khai sáng. Họ khai thác triệt để khía cạnh của bi kịch, đau khổ, tuyệt vọng trong sự hiện hữu của con người. Kierkegaard viết: Nghe tiếng la thét của người mẹ khi sinh ra đứa con, thấy sự vật lộn của người đang chết trong giờ phút hấp hối cuối cùng, rồi hãy nói, cái mở đầu và cái kết cục như vậy liệu có thể coi là sung sướng chăng?

+ Sự phi lý của cuộc đời

Triết học hiện sinh là một trào lưu triết học phi duy lý. Nó không thừa nhận chủ nghĩa duy lý trong triết học và khoa học, không thừa nhận sự giải thích sự vật, hiện tượng bằng lý luận, bằng khoa học. Nó không thừa nhận bất kỳ mối liên hệ khách quan nào, bất kỳ bản chất và quy luật khách quan nào.

Cái phi lý là cái không có bản chất, không có tính tất yếu, không có quy luật, không có nguyên nhân, mục đích, nói chung là không thể giải thích bằng lý trí. Ngay sự hiện diện của con người đã là điều phi lý. Mỗi chúng ta chỉ đơn giản bị ném vào thế giới trong lúc này, chỗ này. Thế nhưng như Kierkegaard hỏi, tại sao lại là chỗ này? tại sao lại vào lúc này? Không có một lý do nào cả, không có mối liên hệ tất yếu nào cả, chỉ là ngẫu nhiên, và như thế đời tôi chỉ là một sự kiện ngẫu nhiên, phi lý.

B. Pascal diễn đạt sự phi lý bằng những lời như sau: Khi tôi nghĩ về khoảng khắc ngắn ngủi của đời tôi trong sự vĩnh cửu của thời gian trước và sau tôi, về khoảng không nhỏ bé của tôi và tôi có thể nhìn thấy trong sự mênh mông vô tận của không gian mà tôi không biết và nó cũng không biết tôi, tôi sợ hãi, tôi kinh ngạc, tự hỏi tại sao tôi sinh ra ở đây mà không phải là ở một nơi nào khác, lúc này mà không phải là lúc khác.

+ Hư vô

Chủ nghĩa hiện sinh phủ nhận mọi bản chất, kết cấu. Con người hiện sinh không một bản chất, một kết cấu tri thức, một giá trị đạo đức, một mối quan hệ xã hội nào cả. Nói tóm lại, nó chỉ đơn thuần là một sự trống rỗng, hư vô. Nó sống trong sự đau khổ, lo âu, tuyệt vọng, đang đứng bên bờ vực thẳm.

+ Cái chết

Đối với con người hiện sinh, cái chết là vấn đề quan trọng nhất. Con người hiện sinh là con người luôn sợ hãi trước cái chết, vì sự sống là sự tồn tại dẫn đến cái chết. Cái chết treo lơ lửng trên đầu, trong mỗi giây phút của cuộc sống. Theo Sartre, cái chết cũng phi lý như sự sinh ra. Nó không là cái gì khác hơn là chỉ xoá đi sự hiện hữu của tôi. Cái chết cũng là một bằng chứng khác về sự phi lý của cuộc đời.

+ Sự tha hoá

Khái niệm tha hoá được Hêghen, Phoiơbăc, Mác và một số nhà triết học dùng trong những bối cảnh nhất định. Thí dụ, Phoiơbăc nói về sự tha hoá của con người trong niềm tin tôn giáo, con người đánh mất bản chất sáng tạo của mình trong sự tôn thờ thần thánh; anh ta càng hiến dâng cho thần thánh nhiều bao nhiêu thì cái anh ta giữ lại cho mình càng ít bấy nhiêu. C. Mác nói về sự tha hoá của con người lao động trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lao động của người công nhân không còn là cái thuộc về anh ta; sản phẩm lao động của anh ta cũgn không thuộc về anh ta.

Chủ nghĩa hiện sinh phát triển khái niệm tha hoá đến cực đoan, không thể chấp nhận được. Con người hiện sinh là những người bị tha hoá, tách rời, trờ thành xa lạ với tất cả: với thế giới đồ vật, với xã hội, trong lao động, tỏng quan hệ với người khác, kể cả trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa con cái với nhau, và kể cả sự tha hoá ngay cả trong tình yêu.

11

Page 12: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

Sartre cho rằng: "địa ngục là những người khác" (L. Trong quan hệ với người khác bao giờ cũng là quan hệ mâu thuẫn. quan hệ người chủ- người nô lệ. Người khác nhìn tôi, xâm phạm tự do của tôi, biến tôi trở thành đối tượng của nó, thành đồ vật. Tôi cũng vậy, khi tôi tìm cách nô dịch người khác thì người khác cũng tìm cách nô dịch tôi, khi tôi cố gắng giải thoát tôi khỏi người khác thì người khác cũng tìm cách giải thoát họ ra khỏi tôi).

+ Tự do và trách nhiệm

Các nhà hiện sinh, đặc biệt là Sartre nói đến tự do với một ý nghĩa đặc biệt đến mức đôi khi họ gọi triết học của mình là "triết học về tự do". Tự do là thuộc về con người. Con người - đó là tự do. Ông nói, con người "bị kết án tự do". Các nhà hiện sinh giải thích tự do một cách chủ quan: tự do là sự tự lựa chọn cái gì phù hợp với xúc cảm nội tâm, cái gì mà cá nhân coi là đúng đắn.

Tự do theo quan điểm của chủ nghĩa hiện sinh là tự do tuyệt đối. Tự do là sự lựa chọn một cách hoàn toàn chủ quan, không do bất kỳ sự quy định nào bên ngoài, không có bất kỳ tính tất yếu nào, không bị ràng buộc bởi bất kỳ cái gì có sẵn, kể cả phong tục, tập quán, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ, luật pháp, tôn giáo v.v...

Tự do chỉ là sự lựa chọn thuần tuý trong ý thức, không cần đếm xỉa đến hiệu quả thực tế của sự lựa chọn đó. Do đó, trong bất cứ trường hợp nào con người cũng có tự do. Tuy nhiên, vì tự do kiểu như vậy không đem lại một kết quả gì cả, cho nên như nhận xét của một nhà triết học Pháp, tự do của Sartre là tự do không để làm gì cả.

Sartre gắn liền tự do với trách nhiệm cá nhân. Người hiện sinh hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự lựa chọn và hành vi của mình. Sự tự do không bị quy định bởi bất kỳ cái gì khác ngoài trách nhiệm cá nhân.

Hạn chế trong quan niệm tự do của các nhà hiện sinh là xem xét tự do trong sự tách rời với cái tất yếu, định nghĩa tự do là không bị quy định bởi bất kỳ cái tất yếu khách quan nào. Nếu như vậy, con người chẳng có một chút tự do nào, vì những sự lựa chọn tuỳ ý trái với quy luật khách quan chẳng đem lại một kết quả nào. Tự do theo quan điểm của triết học Mác là nhận thức được cái tất yếu và quy luật khách quan, vận dụng chúng một cách có kế hoạch, phục vụ cho cuộc sống con người. Con người càng nhận thức và vận dụng được quy luật thì càng có tự do. Như vậy, tự do không chỉ là vấn đề ý thức, mà suy cho cùng, là vấn đề thực tiễn có tính lịch sử. Không

thể có tự do tuyệt đối, bởi vì tự do bị quy định bởi cái tất yếu. Chỉ có tự do tương đối mỗi ngày phát triển cao hơn cùng với sự phát triển của nhận thức và thực tiễn mà thôi.

Ngoài ra, trách nhiệm cá nhân mà chủ nghĩa hiện sinh nói đến do đâu mà có. Trách nhiệm cá nhân bao giờ cũng liên quan đến tự ý thức và lương tâm của mỗi cá nhân. Tuy nhiên nó không phải là cái vốn có trong mỗi người. Trách nhiệm cá nhân là kết quả của sự phản ánh của cá nhân về cái tất yếu khách quan trong tồn tại xã hội, là sự đáp ứng của cá nhân đối với những yêu cầu của đạo đức, nghĩa vụ xã hội. Nếu không có nhận thức đúng đắn về tính tất yếu và quy luật khách quan, không được giáo dục một cách đầy đủ, thì cá nhân không thể có ý thức trách nhiệm được.

Nhận xét chung:

- Chủ nghĩa hiện sinh là sự phản ứng của con người trước tình trạng con người bị hạ thấp, bị bỏ rơi, bị tha hoá cùng cực trong thời kỳ tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa hiện sinh vô thần nêu cao vấn đề tự do của con người chống lại niềm tin mù quáng và ràng buộc của đạo đức, tôn giáo.

- Tuy nhiên chủ nghĩa hiện sinh là trào lưu triết học duy tâm, phủ nhận thực tại khách quan và quy luật khách quan, phủ nhận khả năng nhận thức của con người nên không thể tìm ra con đường đúng đắn để giải phóng con người.

- là trào lưu triết học bi quan về cuộc sống, tuyệt đối hoá tự do cá nhân đối lập với xã hội nên hậu quả tiêu cực của nó đối với lớp trẻ là điều không thể tránh khỏi.

12

Page 13: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

Câu 8: Thực chất của cuộc cách mạng trong triết học do các Mác và ăngghen thực hiện, V. I. Lê nin phát triển

* Thực chất của cuộc cách mạng trong triết học do các Mác và ăngghen thực hiện.

Triết học Mác lênin là sự kế thừa có phê phán và chọn lọc những tư tưởng triết học của nhân loại trong quảtình lịch sử. đông thời sự ra đời của triết hoc Mác lênin là một bước ngoặc vĩ đại rong sự phát triển tư tưởng triết học của nhân loại. triết học mác có những cái mới về chất so với các hệ thống triết học trước đó.

+ Mác và angghen đã phát triển chủ nghĩa duy vật lên hình thức cao của nó là chủ nghĩa duy ật biện chứng và phát triển phép biện chứng lên hình thức cao là phép biện chứng duy vật. nếu trước đây, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng tách rời nhau, chủ nghĩa duy ật thì siêu hình còn phép biện chứng là duy tâm, thì sau khi triết học mác ra đời, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng kết hợp với nhau thành một thể thống nhất.

+ Việc sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện quan trọng nhất của bước ngặc cách mạng trong triết học do mác và angghen thưc hiện. trước mác, các nhà triết học đều không tách khỏi duy tâm khi giảỉ thích các hiện tượng xã hội. họ đều cho rằng tinh thần, tư tưởng là yếu tố quyết định trong lịch sử. mác và angghen đã vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào đời sống xã hội. vạch ra những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. chính vì thế triết học mác và chủ nghĩa duy vật cân đối hoàn chỉnh và triệt để.nó bao quát cả tự nhiên xh và tư duy.

+ Triết học mác –lênin không chỉ giải thích thế giới mà vấn đề quan trọng là cải tạo thế giới. mác viết “các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề là cải tạo thế giới”.

+ Triết học mác lênin co sự thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học.

Với sự ra đời của riết học mác lênin, giai cấp vô sản và nhân dân lao động có một lý luận triết học khoa học để gải thích đúng đắn các hiện tượng tự nhiên và xã hội. triết học mác lênin là vũ khí lý luận cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động để đấu tranh xoá bỏ áp bức bất công, xây dựng xh khong có giai cấp, không có người bóc lột.

những quan điểm trong triết học mác, nhất là quan diểm CNXH và chủ nghĩa cộng sản không phải là những hoài bảochủ quan loài người, mà trái lại chúng có cơ sở khoa học vững chắc, dựa trên sự nghiên cứu nghiên túc và lô gíc chặt chẽ của triết học và các khoa học xã hội.

+ Triết học mác có sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. lần đầu trong lịch sử triết học mác và angghen đã vạch ra một cách đầy đủ và chính xác vai trò của hoạt động thực tiễn với tính cách là hoạt động vật chất cải tạo tự nhiên và xã hội dối với quá trình nhận thức, tiêu chuẩn của chân lý. sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc của triết học mác lênin.

+ triết học mác đã đem lại một quan niệm đúng dắn về đối tượng của triết học.một mặt nó chấm dứt quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa học. mặt khác nó bác bỏ những quan niệm sai trái phủ nhận hay hạ thấp vai trò của triết học.

* Lênin phát triển triết học mác

Triết học mác được lê nin phát triển và vận dụng trong cách mạng vô sản nên được gọi là

triết học mác lênin.

Vlađimir Ilich Lênin (1870-1924), sih ở Simbirsh. lênin là người vận dụng và phát triển chủ nghĩa mác nói chung và triết học mác nói riêng.

Lênin phát triển chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng lý luận nhận thức, lý luận về giai cấp, lý luận về nhà nước và cách mạng vô sản, về chuyên chính vô sản, về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.

1) Điều kiện lịch sử

+ Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX củ nghĩa tư bản đã bước sang một giai đoạn mới, CNTB dộc quyền, CN đế quốc, là giai đoạn cao nhất của chủ nghĩa tư bản, là CNTB đang chết. các nước TB chia nhau thị trường thế giới và gây ra cuộc chiến tranh thế giới 1914-1918.

+ Cách mạng vô sản đã trở thành nhiệm vụ trực tiếp.

+ Sau khi angghen qua đời, các phần tử cơ hội trong quốc tế II xuyên tạc CN mác. tình hình đó đòi hỏi lênin phải tiến hành dấu tranh để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa mác.

+ Cuối thế kỷ XIX, trong khoa học tự nhiên nhất là trong vật lý, một loại phát minh khoa học làm đảo lộn quan niệm siêu hình vật chất và vận

13

Page 14: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

động, gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học. chủ nghĩa duy tâm lợi dụng tình trạng khủng hoảng này để tấn công và bác bỏ chủ nghĩa duy vật. lênin phải tiến hành đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật.

2) Sự phát triển của lênin dối với triết học mác

Trước năm 1907, lênin lãnh đạo phong trào công nhân nga, tiến hành đấu tranh chống phái dân tuý. lênin viết các tác phẩm như: những người bạn dân thế nào và hộ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao (1894); nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và sự phê phán trong cuốn sách của storuvê về nội dung đó (1894); làm gì (1902); hai sách lược của đảng dân chủ - xã hội trong cách mạng dân chủ (1905).

Sau thất bại của cuộc cách mạng 1905-1907, lênin viết tác phẩm chủ nghĩa duy vật và chr nghĩa kinh nghiệm phê phán (1908); bút ký riết học (1914-1915). ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa mác; tác phẩm các mác; chủ nghĩa cứu quốc; giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1916); nhà nước và cách mạng (1917); trong tác phẩm chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán lênin phê phán chủ nghĩa duy tâm chủ quan và phảt triển chủ nghĩa duy vật, phát triển lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng trong tác phẩm bút ký triết học lênin tổng kết và phát triển phép biện chứng duy vật.

Lênin dã vận dụng sáng tạo hủ nghĩa mác vào hoàn cảnh cụ thể của nước Nga và lãnh đạo thành công cuộc cách mạng vô sản thàng 10 Nga, mở ra cho nhân loại một thời đại mới: thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trong phạm vi toàn thế giới.

Sau cách mang tháng 10, lênin nghiên cứu giải quyết các vấn đề cách mạng vô sản, xây dựng cương lĩnh xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ, vấn đề xây dựng đảng và nhừ nước. những tác phẩm trong thưòi kỳ này là: những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền xô viết (1918); bệnh ấu trỉ tả khuynh trong phong trào cộng sản (1920); về chính sách kinh tế mới (1921); về tác dụng của chủ nghĩa duy vật... đặt biệt trong chính sách kinh tế mới. lênin nêu lên tư tưởng về kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Câu 9: Bản chất thế giới quan duy vật biện chứng. các nguyên tắc phương pháp luận của nó và sự vận dụng trong thực tiễn cách mạng XHCN ở Việt Nam.

² Cách 1

Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người và xã hội loài người. Tồn tại trong thế giới dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình, những tri thức này dần dần hình thành nên thế giới quan. Khi đã hình thành, thế giới quan lại trở thành nhân tố định hướng cho quá trình con người tiếp tục nhận thức thế giới.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời với tính cách là sự tổng hợp về mặt mặt triết học bao trùm lên cả những hiện tượng của tự nhiên, của xã hội loài người và tư duy bằng một quan niệm thống nhất, kết hợp một cách hữu cơ trong mình nó phương pháp giải thích về mặt triết học và phân tích hiện thực với tư tưởng về sự biến đổi thế giới bằng thực tiễn cách mạng. Nét đặc trưng nhất của CNDVBC khác với triết học cũ tự hạn chế mình về cơ bản trong việc giải thích thế giới. Ở đây thể hiện nguồn gốc giai cấp của triết học Mác với tính cách là thế giới quan của giai cấp công nhân, giai cấp cách mạng nhất có sứ mệnh xoá bỏ chế độ xã hội dựa trên chế độ người bóc lột người và xây dựng một xã hội không giai cấp (xã hội CSCN).

Vì vậy phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những qui luật phổ biến phản ánh đúng hiện thực. Do đó, bản chất của thế giới quan DVBC là sự nghiên cứu những qui luật chung nhất về sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; là những nguyên tắc và cơ sở chung của thế giới khách quan và sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người. Những việc đó đem lại cho ta một quan niệm khoa học đúng đắn về những hiện tượng và những quá trình, một phương pháp giải thích, nhận thức và cải tạo thực tế hiện thực.

Từ đó ta thấy rằng bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác và là mối liên hệ rất đa dạng và phong phú; do đó khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính quy luật của chúng. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của

14

Page 15: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp; chỉ trên cơ sở đó mới nhận thức đúng sự vật. Đồng thời quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ; phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên... để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân nhưng chúng ta cũng cần lưu ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định.

Trong hoạt động thực tiễn theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật khác; và phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp các phương tiện khác nhau để tác động. Và mọi sự vật hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động và phát triển, nên trong nhận thức và hoạt động của bản thân, chúng ta phải có quan điểm phát triển; có nghiã là khi xem xét bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong sự vận động, sự phát triển, vạch ra xu hướng biến đổi chuyển hoá của chúng, phải thấy rõ các hiện tượng đang tồn tại ở sự vật và khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng; thấy được cái biến đổi đi lên, cũng như biến đổi có tính thụt lùi và còn phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta.

Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, ngoài quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử cụ thể còn đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển như thế nào; qua đó với tính chất của mình ba quan điểm sẽ góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta.

wSự vận dụng của Đảng ta trong thực tiễn cách mạng Việt Nam

Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, học tập lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là hệ tư tưởng và là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của chúng ta. Học tập lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không phải là học thuộc lòng từng câu, từng chữ, mà cái chính là phải nắm bắt được, hiểu được thực chất tinh thần của nó. Phải nắm được, hiểu được

thực chất tinh thần phép biện chứng duy vật với cả một hệ thống phạm trù, nguyên lý, qui luật... Biết vận dụng nó vào đời sống, giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra một cách đúng đắn, sáng tạo.

-Biết kế thừa và phát triển những di sản tư tưởng, lý luận của chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, coi đó là những thành quả giá trị về sự vận dụng sáng tạo của CN Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.

-Tiếp thu có chọn lọc những thành tựu lý luận, những kinh nghiệm thành công và không thành công của các Đảng, ở các nước anh em, những giá trị văn hoá, những tri thức khoa học, những tinh hoa của loài người và thời đại.

-Thường xuyên tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn của dân tộc và cách mạng nước ta. Nhất là kinh nghiệm thực tiễn bước đầu, của những năm thực hiện công cuộc đổi mới.

-Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới nhận thức, như tạo ra bầu không khí dân chủ trong đời sống tinh thần, tôn trọng sự thật, động viên khích lệ sự tranh luận khoa học để đi đến chân lý, mở rộng thông tin nhiều chiều, phong phú, chính xác, kịp thời...

-Kiên quyết đấu tranh chống khuynh hướng tư tưởng bảo thủ trì trệ, nhận thức suy nghĩ thủ cực đã trở thành lực cản sự phát triển xã hội. Đồng thời cũng đấu tranh chống mọi sự nôn nóng vội vàng, cực đoan, thiếu thận trọng, thiếu trách nhiệm trông nhận thức và thực tiễn.

-Đổi mới nhận thức để có nhận thức đúng đắn, khoa học, làm cơ sở hướng dẫn thực tiễn, thúc đẩy xã hội ta vận động, phát triển đúng hướng, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử, phù hợp với thời đại và trung thành với lý tưởng XHCN của chúng ta.

² Cách 2:

wBản chất của thế giới quan DVBC:

Trước Mác, CNDV thường bị tách rời với phép biện chứng. Tuy vậy trong các học thuyết duy vật trước Mác cũng có chứa đựng một số tư tưởng biện chứng nhất định. Nhưng do hạn chế về trình độ phát triển khoa học và về lịch sử nên nói chung nên quan điểm siêu hình là một thiếu sót lớn chi phối CNDV trước Mác. Đặc biệt là CNDV thế kỷ XVII-XVIII ở Tây Âu.

15

Page 16: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

Trong khi đó, phép biện chứng lại được quan tâm nghiên cứu và phát triển trong một số hệ thống triết học duy tâm, nhất là trong triết học Hêghen. Hêghen là người có công lao to lớn trong việc khôi phục và phát triển phép biện chứng, nhưng dưới cái vỏ duy tâm thần bí. Vì vậy, để xây dựng triết học DVBC, Mác đã phải cải tạo cả CNDV cũ, siêu hình và cả phép biện chứng duy tâm. Giải thoát CNDV khỏi tính hạn chế siêu hình và phép biện chứng khỏi CNDT, Mác đã tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa thê giới quan duy vật và phuơng pháp biện chứng. Như vậy, CNDV macxít là CNDV biện chứng, còn phép biện chứng macxít là phép biện chứng duy vật. Duy vật và biện chứng là hai yếu tố khăng khít, là hai đặc trưng triết học macxít.

Triết học macxít là thế giới quan của giai cấp công nhân - giai cấp tiến bộ và cách mạng của thời đại. Đó là thế giới quan khoa học và cách mạng, là vũ khí tư tưởng trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi áp bức và bóc lột.

Chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng mang đặc tính bản chất bên trong là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng. Triết học Mác là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, một hệ tư tưởng đã được luận chứng bằng lý luận khoa học, phản ánh những qui luật phát triển khách quan của lịch sử.

Câu 10: Những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật (hai nguyên lí, ba qui luật và 6 cặp phạm trù) và ý nghĩa PPL của nó (các nguyên tắc:toàn diện, phát triển và lịch sử cụ thể).

Phép biện chứng duy vật (PBCDV) là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp. Hệ thống các quy luật, phạm trù của nó không chỉ phản ánh đúng đắn thế giới khách quan mà còn chỉ ra những cách thức để định hướng cho con người trong nhận thức và cải tạo thế giới.

PBCDV bao gồm 2 nguyên lý cơ bản, những cặp phạm trù và những quy luật cơ bản vừa là lý luận DVBC vừa là lý luận nhận thức khoa học, vừa là lôgic học của CN Mác.

+ Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

Liên hệ là sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, ảnh hưởng, quy định lẫn nhau, tác động chuyển hoá lẫn nhau…giữa các mặt bên trong sự vật (mối liên hệ bên trong) hoặc giữa các sự vật khác nhau (mối liên hệ bên ngoài).

Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: PBCDV khẳng định rằng trong tự nhiên, XH và tư duy, không có SVHT nào tồn tại một cách riêng lẻ, cô lập tuyệt đối mà trái lại chúng tồn tại trong sự liên hệ ràng buộc, phụ thuộc, tác động, chuyển hoá lẫn nhau.

+ Nguyên lý về sự phát triển:

Nếu vận động là mọi biến đổi nói chung, chưa nói lên khuynh hướng cụ thể: đi lên hay đi xuống, tiến bộ hay lạc hậu thì phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.

Nội dung nguyên lý về sự phát triển: PBCDV khẳng định rằng mọi lĩnh vực trong thế giới (vô cơ-hữu cơ; tự nhiên-XH và tư duy) đều nằm trong quá trình phát triển không ngừng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.

Phát triển là khuynh hướng chung và là khuynh hướng chủ đạo của thế giới, phát triển không loại trừ sự thụt lùi, tức là sự thoái hoá, sự diệt vong của cái cũ, cái lạc hậu, lỗi thời. Thụt lùi là khuynh hướng không chủ đạo, chẳng những không ngăn cản sự phát triển mà là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển.

Lý luận về các cặp phạm trù và quy luật của phép biện chứng duy vật là sự cụ thể hoá nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển. Nguyên

16

Page 17: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

lý của PBCDV là quan niệm bao quát những tính chất biện chứng chung nhất của thế giới còn các phạm trù và quy luật là lý luận nghiên cứu các mối liên hệ và khuynh hướng phát triển trong thế giới của các SVHT, quá trình cụ thể.

(*) Các cặp phạm trù cái chung và cái riêng, tất nhiên và ngẫu nhiên, bản chất và hiện tượng giải thích toàn bộ các mối liên hệ theo một hệ thống nhất định; các cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, khả năng và hiện thực chỉ rõ trình tự kế tiếp nhau của các mối liên hệ và sự phát triển là một quá trình tự nhiên; cặp phạm trù nội dung và hình thức phản ánh tính đa dạng của các phương pháp, nhận thức và hoạt động thực tiễn.

(*) Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận chỉ đạo mọi hoạt động của con người để thực hiện quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử. Qui luật được hiểu là mlh bản chất, lặp lại giữa các mặt trong sự vật hay giữa các sự vật với nhau. Qui luật có tính khách quan, tính tất yếu và phổ biến. Căn cứ vào đặc trưng và tính chất, có thể phân thành quy luật tự nhiên, quy luật XH, quy luật tư duy; căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng có thể phân thành quy luật riêng, quy luật chung, quy luật phổ biến; căn cứ vào phép biện chứng, có thể phân thành quy luật cơ bản (quy luật mâu thuẩn, quy luật lượng chất, quy luật phủ định cái phủ định) và quy luật không cơ bản (cặp phạm trù riêng chung, nhân quả, nội dung-hình thức, tất nhiên- ngẫu nhiên, bản chất - hiện tượng, khả năng - hiện thực) trong đó:

! Quy luật chuyển hoá từ sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất và ngược lại (Quy luật lượng - chất).

Chất là tính quy định bên trong sự vật, nói lên sự vật đó là cái gì, phân biệt nó với sự vật khác. VD: Sắt khác với Đồng

Chất là một phạm trù triết học bao quát tất cả những khái niệm về chất của các nhà khoa học.

Lượng là tính quy định về quy mô, cường độ, trình độ, tốc độ.

Người ta nhận thức chất của sự vật thông qua thuộc tính của nó. Xuất phát từ cấu trúc bên trong dẫn đến thuộc tính khác nhau. Lượng có thể đo bằng con số.

Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng: Chất và lượng gắn bó không tách rời nhau (Bằng tư duy trừu tượng có thể tách lượng và chất), phù hợp

với nhau trong một giới hạn gọi là “độ”. Lượng đổi dẫn đến chất đổi (chiều thuận), chất đổi dẫn đến lượng đổi (chiều ngược)

Ý nghĩa: Từ quy luật này giúp chúng ta hiểu được cách thức, cơ chế của quá trình phát triển là đi từ những biến đổi nhỏ nhặt, dần dần về lượng đến giới hạn của “độ” thì gây ra biến đổi cơ bản về chất thông qua bước nhảy vọt và ngược lại, chống lại quan điểm duy tâm siêu hình. Muốn có sự thay đổi về chất thì phải có quá trình tích luỹ về lượng, chống bảo thủ, trì trệ, chủ quan, nóng vội.

! Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập hay còn gọi là quy luật mâu thuẫn. Lênin gọi quy luật này là “hạt nhân của phép biện chứng”:

Mâu thuẫn là sự liên hệ, tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập.

Mặt đối lập là những mặt có thuộc tính, khuynh hướng vận động biến đổi ngược chiều nhau nhưng tồn tại gắn bó với nhau tạo nên mâu thuẫn.

Khác với mâu thuẫn logic là lời nói trái ngược nhau thì Mâu thuẫn biện chứng là hai mặt trái ngược nhau nhưng tồn tại gắn bó với nhau. VD: điện tích (-) và (+); giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan phổ biến.

Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập: hai mặt đối lập trong mâu thuẫn vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau. Chính đấu tranh là mặt cơ bản của mâu thuẫn. Mâu thuẫn là nguồn gốc, là động lực của sự vận động, phát triển.

Nhìn chung, Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển; phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật. Bởi mâu thuẫn là sự tác động giữa các mặt đối lập, luôn loại trừ lẫn nhau nhưng tạo tiền đề cho nhau, không thể thiếu nhau trong sự vật. Cũng vậy đối lập có xu hướng ngược nhau nhưng nương tựa và tạo tiền đề cho nhau.

! Quy luật phủ định của phủ định khái quát khuynh hướng phát triển tiến lên theo hình thức xoáy ốc, thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển.

Ý nghĩa của phép biện chứng duy vật: mỗi nguyên lý, phạm trù và quy luật của phép BCDV cung cấp cho ta phương pháp và phương pháp luận để nhận thức và cải tạo hiện thực, nhận thức đánh giá sự vật hiện tượng trong trạng thái vận động, thay thế, chuyển hoá giữa các mặt trong sự vật hiện

17

Page 18: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

tượng, hoặc giữa các SVHT có MLH với nhau, tức nhìn SVHT trong một quá trình phát triển của nó.

Các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép BCDV:

- Nguyên tắc toàn diện: nguyên lý về MLH phổ biến là cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta phải xem xét SVHT với tất cả các mặt, các MLH đồng thời phải đánh giá đúng vai trò, vị trí của từng mặt, từng MLH, nắm được mối liên hệ chủ yếu có vai trò quyết định.

- Nguyên tắc lịch sử cụ thể: nguyên tắc lịch sử cụ thể đòi hỏi chúng ta khi xem xét SVHT phải gắn nó với quá trình vận động, phát triển từ lúc ra đời đến hiện tại. Ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, nó có tính tất yếu và đặc điểm riêng của nó.

- Nguyên tắc phát triển: đòi hỏi chúng ta khi xem xét SVHT phải nhìn thấy xu thế biến đổi, phát triển trong tương lai của nó. Cái lỗi thời sẽ mất đi, cái mới cái tiến bộ sẽ chiến thắng cái cũ cái lạc hậu. Vd: Xem xét nhà nước: Ở XH PK Trung Hoa lạc hậu, không thể thống nhất đất nước đuợc. Sau này Tần Thuỷ Hoàng phải dùng bạo lực để thống nhất đất nước và đòi hỏi phải có chế độ chuyên chế, độc đoán để quản lý nhà nước. Nhà nước TBCN cho phép nhiều Đảng phái cùng tồn tại, đối lập nhau do đại diện cho nhiều giai cấp khác nhau. Nhà nước XHCN: trong XH không còn giai cấp, ko còn đối kháng nhau. Đảng cộng sản là đại diện cho người vô sản nên ko tất yếu phải có đa Đảng. Đảng có tính chất tham mưu để quản lý nhà nước.

Câu 11: Nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn. Quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, ý nghĩa phương pháp luận của nó:

* Khái niệm:

Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót của các nhà triết học trước, Mác và Ăngghen đã đem đến một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.

- Thực tiễn là phạm trù triết học, là những hoạt động vật chất "cảm tính" có mục đích, có tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.

Bản chất của hoật động thực tiễn đó là sự tác động qua lại của chủ thể và khách thể.

Hoạt động thực tiễn đa dạng, song có thể chia thanh ba hình thức cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động biến đổi chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học, rong đó hoạt động sản xuất vật chất là hoạt dộng có í nghĩa quyết định các hình thức khác, hoạt động biến đổi chính trị xã hội hình thức cao nhất và hoạt động thưch nghiệm khoa học là hình thức đặt biệt nhằm thu nhận những tri thức về thực nghiệm khách quan.

- Lý luận là kết quả của hoạt động nhận thức, là hệ thống của tri thức con người về mối quan hệ bản chất, những quy luật của tự nhiên và xã hội đã được thực tiễn kiểm nghiệm.

* Mối quan hệ biện chứng giữa lí luận và thực tiễn.

Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một trong những vẫn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - lênin nói chung và lý luận nhận thức mácxít nói riêng. Quán triệt mối quan hệ đó có ý nghĩa quan trọng đối với nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn cách mạng.

1. Trong quan hệ với lí luận, thực tiễn có vai trò quyết định, vì thực tiễn là hoạt động vật chất, còn lí luận là sản phẩm của hoạt động thực tiển. vai trò quyết định của thực tiễn đối với lí luận thể hiện ở chỗ.

Giữa lý lu?n và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại nhau, trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định. Vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết thực tiễn là cơ sở, mục đích và động lực chủ yếu và trức tiếp của nhận thức nói chung trong đó có lý luận. Con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong

18

Page 19: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

qúa trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới mà nhận thức, lý luận ở con người mới được hình thành và phát triển. Thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Không có thực tiễn sẽ không có nhận thức, không có lý luận.

Thực tiễn còn đề ra yêu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức, lý luận. Nhu cầu, thực tiễn đòi hởi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, thúc đay sự ra đời phát triển của các ngành khoa học.

Thực tiễn là mục đích của nhận thức và lý luận. Nhận thức và lý luận sau khi ra đời phải quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, phải biến thành hành động thực tiễn của quần chúng. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn phục vụ mục tiêu phát triển nói chung.

Vai trò thực tiễn đối với nhận thức, lý luận còn thể hiện ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận tri thực đạt được là đúng hay sai, là chân lý hay sai lầm.

2. Thực tiễn có vai trò quyết định đối với lí luận, song theo chủ nghĩa duy vật biện chứng lí luận có sự tác động trở lại đối với thực tiễn.

- Lí luận có vai trò trong việc xác định mục tiêu, khuynh hướng cho hoạt động thực tiễn, vì thế có thể nói lí luận là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn.

- Lí luận có vai trò điều chỉnh hoạt động thực tiễn, làm cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn.

- Lí luận cách mạng có vai trò to lớn trong thực tiễn cách mạng. lênin viết “không có lí luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”.

3. Giưã lí luận và thực tiễn có sự liên hệ, tác động qua lại tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. bởi vậy sự thống nhất giua lí luận và thực tiển là nguyên lí cao nhất và căn bản nhất của triết học Mác lênin.

* í nghĩa phương pháp luận

Nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu, đi sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứa lý luận phải liên hệ với thực tiễn. Nếu xa rời sẽ dẫn đến các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu, chủ nghĩa xét lại. Chủ nghĩa Mác - lênnin là tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình

hình thành và phát triển của nó. Lý luận Mác - lênnin là khái quát thực tiễn cách mạng, lịch sử xã hội, là sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực cụ thể để xây dựng nên hệ thống lý luận khoa học hoàn chỉnh. Sức mạnh của nó là ở chỗ nó gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội. Đáng tiếc sau Lênnin, do những nguyên nhân khách quan và sai lầm chủ quan, ở nhiều nước XHCN đã có sự vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, từ đó làm cho lý luận bị lạc hậu, giáo điều, dẫn đến sự khủng hoảng về lý luận của chúng ta hiện nay. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới xã hội theo định hướng XHCN ở nước ta đặt ra nhiều vấn đề mới mẽ và phức tạp đòi hỏi lý luận phải đi sâu nghiên cứu để đáp ứng được những yêu cầu đó. Đó là những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên ở nước ta, về kinh tế thị trường, về hoàn chỉnh hệ thống quan điểm đổi mới... Qua việc làm sáng tỏ những vấn đề trên, chắc chắn lý luận sẽ góp phần đắc lực vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta.

19

Page 20: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

Câu 12: Khái niệm, cấu trúc của hình thái kinh tế xã hội. Phép biện chứng của sự vận động, phát triển các hình thái KT-XH. Con đường đi lên CNXH ở VN:

Hình thái kinh tế xã hội là phạm trù chỉ một kiểu hệ thống xã hội ở 1 giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, có tính xác định về chất, là sự thống nhất của các yếu tố, một cơ cấu hoàn chỉnh luôn vận động thông qua sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.

CN duy vật lịch sử xem xét xã hội với tính cách là một hệ thống bao gồm 04 lĩnh vực cơ bản:

-Lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội, tức quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế giữ vai trò là quan hệ ban đầu, cơ bản và quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác.

-Lĩnh vực xã hội tức là các quan hệ gia đình, tầng lớp xã hội, giai cấp, dân tộc trong đó quan hệ giai cấp đóng vai trò chi phối.

-Lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội tức các tổ chức và thiết chế quyền lực, hệ thống luật pháp và tư tưởng chính trị.

-Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội.

Theo Mác: “Toàn bộ quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội tức là cơ sở hiện thực mà trên đó xây dựng một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị & tương ứng với cơ sở thực tại đó thì có hình thái ý thức xã hội nhất định. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung.” Sd d, tr637.

Quan niệm tổng quát đó được triển khai, phân tích bằng hệ thống phạm trù, quy luật của CNDV lịch sử.

-Lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội có các phạm trù phươngthức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và quy luật quan hệ sx phù hợp với tính chất vảtình độ phát triển của llsx.

-Mối quan hệ giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị được khái quát trong phạm trù cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng và quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng.

-Lĩnh vực xã hội có các phạm trù giai cấp, đấu tranh giai cấp và kết cấu giai cấp. Sự phân chia giai cấp do vị trí các tập đoàn người trong hệ thống sx

xhội quy định và đến lượt nó giai cấp giữ vị trí thống trị lại quy định lĩnh vực chính trị. Đấu tranh giai cấp trong XH có đối kháng là một trong những động lực phát triển của XH.

-Lĩnh vực tinh thần của đời sông XH được nghiên cứu trong mối quan hệ giữa tồn tại XH và ý thức XH, tính độc lập tương đối của ý thức XH, các cấp độ các hình thái của ý thức XH và vai trò ngày càng to lớn của ý thức XH trong qúa trình phát triển XH.

Trong quá trình tiến triển của các hình thái kinh tế XH, hình thái mới không xoá bỏ mọi yếu tố của hình thái cũ mà lại bảo tồn, kế thừa và đổi mới những yếu tố của nó vừa bảo đảm tính liên tục vừa tạo ra bước phát triển.

Ý nghĩa: Hình thái kinh tế xã hội đặt cơ sở nguyên tắc phương pháp luận khoa học để nghiên cứu xã hội, loại bỏ đi cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên nhiên, không đi vào các chi tiết, vượt ra khỏi tri thức kinh nghiệm hoặc xã hội học mô tả, đi sâu vạch ra cái bản chất ổn định từ cái phong phú của hiện tượng, vạch ra cái logic bên trong của tính nhiều vẻ của lịch sử.

-Là công cụ lý luận giúp ta nhận thức quy luật phổ biến đang tác động và chi phối vận động của xã hội.

-Là cơ sở lý luận của việc hoạch định các đường lối CM của các đảng cộng sản.

Sự vận dụng của Đảng ta:

-Nhận thức lại về chủ nghĩa xhội và thời kỳ quá độ

Lịch sử đã chứng minh không phải bất kỳ nước nào cũng phải tuần tự trải qua các hình thái kinh tế xã hội đã từng có trong lịch sử. Việc bỏ qua một hình thái kinh tế xã hội nào đó do những yếu tố bên trong quyết định song đồng thời còn tuỳ thuộc ở sự tác động của các nhân tố bên ngoài. Ở nước ta đã có những tiền và điều kiện cho phép chúng ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, làm cho đất nước ngày càng phồn vinh.

Nhưng cần đặc biệt chú ý là có thể bỏ qua chế độ tư bản nhưng không thể bỏ qua việc chuẩn bị những tiền đề cần thiết nấht là tiền đề về kinh tế cho sự quá độ ấy. Do đó cần có sự phát triển nhất định nhân tố tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ là một yêu cầu khách quan.

-Quan điểm phương pháp luận xuất phát để xây dựng CNXH ở nước ta:

20

Page 21: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

Coi trọng vai trò và bản chất của nhà nước, thể hiện đầy đủ quyền lực và nguyện vọng của nhân dân. Thiết lập nền dân chủ XHCN, quyền lực của nhân dân được khẳng định và thực hiện bằng pháp luật mang tính công khai, bình đẳng dân chủ và tiến bộ.

Thực hiện biến đổi mang tính CM trên cả 3 lĩnh vực: llsx, quan hệ sx và kiến trúc thượng tầng. Trong đó phải ra sức phát triển llsx, tạo tiền đề kinh tế vững chắc cho sự ra đời của phương thức sx XHCN. Phải lựa chọn những ngành công nghệ thích hợp, xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thông thông tin, tạo tiềm năng nhanh chóng ứng dụng công nghệ mới. Giải phóng và khai thác nhanh mọi khả năng của llsx, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tao ra nguồn sản phẩm và nguồn tích luỹ. Đó là nhiệm vụ hàng đầu hiện nay.

Phù hợp với sự phát triển của llsx, thiết lập từng bước quan hệ sx XHCN từ thấp đến cao với đa dạng về hình thức sở hữu. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.

Tiến hành cuộc CM XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá. Phát huy nhân tố con người, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực để xây dựng một xã hội văn minh.

Đảng ta coi trọng vai trò và bản chất Nhà nước, thể hiện quyền lực và nguyện vọng của nhân dân. Đảng thực hiện những biến đổi mang tính cách mạng trên cả ba lĩnh vực: LLSX, QHSX và kiến trúc thượng tầng. Trong đó phải ra sức phát triển llsx, coi phát triển llsx là nhiệm vụ trung tâm hàng đầu, tạo tiền đề kinh tế vững chắc cho sự r a đời của phương thức sản xuất XHCN. Bên cạnh đó, Đảng ta thiết lập từng bước quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đang dạng về hình thưc sở hữu phù hợp với sự phát triển của llsx. Đồng thời, Đảng lãnh đạo tiến hành cuộc cách màng xã hội trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá, phát huy nhân tố con người, con người là mục tiêu, vừa là động lực để xây dựng một xã hội văn minh.

Những nguyên tắc, phương pháp luận trên là tổng hợp các quan điểm cơ bản nhằm xây dựng mô hình CNXH ở nước ta. Trong đó, cần chú trọng cả ba mặt: llsx, qhsx và kiến trúc thượng tầng, những bộ phận cấu thành của hình thái kinh tế xã hội mới.

Câu 13: Quan điểm mác xít về giai cấp, đấu tranh giai cấp và quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại. Sự vận dụng trong đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay:

Trước Mác đã có nhiều cách giải thích khác nhau về sự phân chia giai cấp trong xã hội nhưng các quan điểm đó vẫn chưa giải thích được sự khác nhau về bản chất giữa các tập đoàn người trong xã hội tức là thực chất của sự phân biệt giai cấp.

Chủ nghĩa Mác - lênnin tìm ra nguyên nhân của sự khác nhau về giai cấp từ trong kinh tế, gắn với chế độ kinh tế, quan niệm mácxít về giai cấp được thể hiện tập trung ở định nghĩa giai cấp của lênnin. Định nghĩa về giai cấp của lênnin là một định nghĩa hoàn chỉnh và khoa học: "Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn người to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ, đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải ít nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này chỉ có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định".

Như vậy, theo lênnin, giai cấp là những tập đoàn to lớn khác nhau về địa vị trong hệ thống sản xuất nhất định. Địa vị này bao gồm hàng loạt các mối quan hệ xã hội giữa người và người trong sản xuất, cụ thể là quan hệ giữa người và người trong sử hữu tư liệu sản xuất, quan hệ giữa người và người trong tổ chức lao động xã hội, quan hệ giữa người và người khác nhau về phương thức và quy mô thu nhập, trong đó quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan trọng nhất, quyết định các quan hệ khác, quyết định địa vị các giai cấp trong một hệ thống sản xuất nhất định. Định nghĩa này cho đến nay vẫn là một định nghĩa khoa học có giá trị cả về lý luận lẫn thực tiễn. Tuy nhiên, giai cấp không phải là một phạm trù kinh tế thuần tuý. Giai cấp là một phạm trù xã hội học, cho nên ngoài những sự hiểu biết về những yếu tố vật chất như đã nêu trên các giai cấp còn khác nhau về lối sống, tâm lý và tư tưởng... Đây là những yếu tố thứ hai phụ thuộc vào yếu tố kinh tế xã hội

Lênnin cũng giải thích về đấu tranh giai cấp. Theo lênnin, đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp được cấu tạo theo một quan hệ nhất định của nền kinh tế hay chế độ kinh tế. Thực tế đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích căn bản đối lập nhau, không thể

21

Page 22: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

điều hoà được. Trong xã hội có các giai cấp đối kháng, đấu tranh của cá nhân thuộc giai cấp này chống cá nhân thuộc giai cấp khác mới chỉ là mầm mống của đấu tranh giai cấp. Nó chỉ thực sự trở thành đấu tranh giai cấp khi cá nhân đó nhận thấy một cách tự giác hoạt động của mình góp phần lật đổ giai cấp thống trị, bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Quan điểm mác xít cho rằng đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của lịch sử, bởi vì những cuộc đấu tranh đó đã tạo nên sự vận động của lịch sử từ thấp đến cao. Những cuộc đấu tranh giai cấp là những cuộc đấu tranh có ý nghĩa cách mạng nhằm xoá bỏ những chế độ xã hội, những giai cấp đã lỗi thời, thay đổi quan hệ sản xuất để tạo điều kiện cho lực lượng xản xuất phát triển. Tuy nhiên, theo quan điểm mác xít thì gia cấp không tồn tại mãi mãi bởi vì nếu do nguyên nhân kinh tế mà nảy sinh giai cấp thì đến một lúc nào đó sự phát triển hết sức cao của sản xuất sẽ thủ tiêu giai cấp.

Trên quan điểm mác xít về giai cấp và đấu tranh giai cấp, Lênnin cho rằng lợi ích dân tộc là lợi ích của mọi giai cấp và tầng lớp xã hội trong một dân tộc. Một dân tộc bao giờ cũng gồm các giai cấp khác nhau. Giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất thống trị và do đó thống trị các giai cấp khác trong cộng đồng dân tộc thì đó là giai cấp đại biểu của dân tộc. Giai cấp ấy cũng tạo nên đặc trưng cơ bản của dân tộc, tạo nên tính chất của dân tộc, xu hướng phát triển của dân tộc và mối quan hệ cơ bản giữa các dân tộc.

Tuy nhiên, lợi ích dân tộc và lợi ích của các giai cấp thống trị không bao giời thống nhất tuyệt đối. Mỗi dân tộc đều có bản sắc riêng của mình do lịch sử tạo lập nên. Các giai cấp và các tầng lớp xã hội không đi theo giai cấp thống trị một cách mù quáng. Vì vậy khi giai cấp thống trị đã trở thành phản động, nó thường đi ngược lại với lợi ích dân tộc, phản lại lợi ích dân tộc.

CN mác cũng không quna niệm giản đơn là giai cấp bị xoá bỏ dân tộc cũng mất đi. Ngược lại chủ nghĩa Mác cho rằng vấn đề dân tộc sẽ còn tồn tại lâu dài nhưng chừng nào còn các giai cấp đối kháng trong xã hội thì vấn đề dân tộc đều được giải quyết thông qua lăng kính giai cấp.

Nhiều quan niệm cho rằng trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì không nên đặt vấn đề đấu tranh giai cấp vì nó sẽ dẫn đến sự phân tán lực lượng, chia rẽ lực lượng. Quan điểm này không đúng vì sự tồn

ở nước ta hiện nay vẫn còn đấu trang giai cấp. tại các thành phần kinh tế không loại bỏ đấu tranh giai cấp, thậm chí chính nó tạo nên tiền đề đấu tranh giai cấp. đấu tranh giai cấp là tất yếu khách quan bởi vì giai cấp

bóc lột đã bị đánh đổ nhưng vẫn còn sức mạnh về nhiều mặt và vẫn luôn luôn muốn phục hồi lại địa vị đã mất; các thế lực trong và ngoài nước đang tìm mọi cách cấu kết với nhau nhằm thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình"; trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa hiện nay vẫn tồn tại các thành phần kinh tế bóc lột, vẫn có hình thưc thuê mướn lao động dưới các hình thức khác nhau; hiện nay tư tưởng lạc hậu vẫn còn tồn tại. Vì vậy, trong đấu tranh giai cấp ở Việt Nam, chúng ta cần chú ý những điểm sau: Cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra trong tình hình phức tạp là sự biến động của thế giới cùng với khủng hoảng ở các nước xã hội chủ nghĩa và Liên xô tan rã; nhiều nước TBCN đang phục hồi một số mặt kinh tế; chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù địch chống phá CNXH với quy mô toàn diện, tinh vi, đặc biệt là diễn biến hoà bình ở Mỹ; ở trong nước chưa thoát khỏi kinh tế xã hội, tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần; những phần tử cực đoan của chính quyền cũ vẫn ngấm ngầm hoạt động. Vì vậy, chúng ta phải chủ động và tự giác kế thừa và sử dụng CNTB như là một khâu trung gian để xây dựng CNXH, chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, đấu tranh dưới hình thức cạnh tranh thi đua trong kinh tế, giải quyết lợi ích kinh tế. Chúng ta phải quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, đấu tranh trên ba lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá tư tưởng. Cuối cùng chúng ta phải kiên định tinh thần cách mạng, nắm vững định hướng chiến lược, mềm dẻo linh hoạt trong sách lược đấu tranh.

22

Page 23: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

Câu 14: Quan điểm Maxit về bản chất, nguồn gốc, chức năng của nhà nước. Vấn đề XD nhà nước pháp quyền XHCN ở VN.

+ Bản chất Nhà nước:

Nhà nước là công cụ bạo lực của giai cấp thống trị trong kinh tế nhằm bảo vệ địa vị và lợi ích (trước hết là lợi ích kinh tế) của giai cấp đó.

Nhà nước là bộ phận quan trọng nhất trong KTTT có chức năng bảo vệ, duy trì quan hệ sản xuất thống trị.

Nhà nước là một tổ chức cai trị thông qua đó giai cấp thống trị thực hiện quyền thống trị của mình trên tất cả các lĩnh vực của đời sống XH.

Tóm lại: Nhà nước là công cụ chuyên chính của giai cấp thống trị.

+ Nguồn gốc của nhà nước:

Nhà nước ra đời là 1 phạm trù lịch sử. Nhà nước ra đời và tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định. Thời kỳ cộng đồng nguyên thuỷ chưa có giai cấp nên chưa có nhà nước, đến thời kỳ chủ nghĩa cộng sản nhà nước sẽ tiêu vong.

Nhà nước ra đời do 2 nguyên nhân:

* Nguyên nhân kinh tế: Sự phát triển của llsx dẫn đến sự thay thế chế độ công hữu thành chế độ tư hữu.

* Nguyên nhân giai cấp: Sự phân chia XH thành các giai cấp đối kháng.

Vì vậy XH cần phải có 1 tổ chức bạo lực để giữ cho cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có quyền lực kinh tế đối lập nhau nằm “trong vòng trật tự”. Nhà nước do giai cấp có thế mạnh nhất trong xã hội, tức giai cấp thống trị về kinh tế lập ra, trước hết là để bảo vệ lợi ích và địa vị thống trị của giai cấp đó.

+ Chức năng cơ bản của Nhà nước:

Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội:

* Chức năng thống trị chính trị của giai cấp: Nhà nước là bộ máy cai trị của 1 giai cấp, nó sẵn sàng sử dụng bạo lực để bảo vệ lợi ích và sự thống trị của giai cấp đó. Vd như Nhà nước Mỹ và các Nhà nước phương Tây tuyên bố là nhà nước dân chủ nhất, tuy nhiên đấy không phải là Nhà nước của nhân dân mà chỉ là bộ máy cai trị của giai cấp tư sản mà thôi.

* Chức năng xã hội: Nhà nước thực hiện một số nghĩa vụ vì nhu cầu và lợi ích chung của cộng đồng dân cư trong sự quản lý của Nhà nước. Chức năng thống trị giai cấp là chức năng chính quy quy định nội dung, phương hướng, mức độ thực hiện chức năng XH của Nhà nước. Chức năng XH nhằm phục vụ chức năng thống trị của giai cấp. Thực vậy, Nhà nước muốn thống trị XH phải thực hiện một số lợi ích chung của cộng đồng để cộng đồng dân cư thừa nhận đó là Nhà nước của họ, hạn chế nổi dậy, chống đối, bạo loạn.

Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại:

* Chức năng đối nội: Thực hiện những nhiệm vụ trong phạm vị lãnh thổ quốc gia nhằm bảo vệ sự thống trị của giai cấp thống trị, quản lý XH

* Chức năng đối ngoại: Thực hiện những nhiệm vụ trong quan hệ với các Nhà nước khác nhằm bảo vệ độc lập quốc gia hoặc mở rộng sự thống trị đến các dân tộc khác.

Chức năng đối nội giữ vai trò quyết định chức năng đối ngoại. Chức năng đối ngoại nhằm mục đích phục vụ chức năng đối nội.

Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam:

Bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam:

+Là Nhà nước của dân, do dân và vì dân;

+Là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân (đại bộ phận là nhân dân lao động nên Nhà nước vẫn mang tính giai cấp)

+Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp.

+ Nhà nước quản lý XH bằng pháp luật.

Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam:

+ Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý Nhà nước.

+ Nâng cao chất lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức Quốc hội

+ Tiếp tục cải cách nền hành hành chính Nhà nước (xây dựng Chính phủ điện tử: e-government)

+ Cải cách tư pháp (cải cách toà án)

23

Page 24: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước (Đảng chỉ tham mưu, không làm thay cho Nhà nước). Trong XH tư bản, Đảng là đại diện cho 1 bộ phận của XH. Tuy nhiên Đảng Cộng Sản là đại diện lợi ích cho đại bộ phận nhân dân lao động, lợi ích của toàn XH, không đứng về 1 bè phái nào vì vậy cần thiết phải có sự lãnh đạo của Đảng.

Câu 15: Quan điểm macxit và tư tưởng HCM về bản chất của con người và ý nghĩa của nó.

Con người là điểm xuất phát và sự giảp phóng con người là mục đích cao nhất của triết học Mác. Triết học Mác xuất phát từ con người, vượt qua quan niệm trừu tượng về con người để nhận thức con người hiện thực và vạch ra vai trò quan hệ xã hội trong những yêu tố cấu thành bản chất con người. Đây là sự tiếp thu có phê phán và phát triển những giá trị trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Mac đã loại bỏ những yếu tố sai lầm. vượt qua những hạn chế lịch sử, khắc phục thiết sót của các quan niẹm trước kia về bản chất con người.

Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, triết học Mác đã chỉ ra bản chất con người với những biểu hiện thực sinh động của nó. Mác đã tìm thấy bản chất con người ở lao động và cắt nghĩa sự tha hóa bản chất con người từ lao động bị tha hóa. Chỉ có xem xét con người trong đời sống xã hội hiện thực mới hiểu đúng bản chất của nó không phải là cái trừu tượng cố hũu của cá thể người. Mác đã đưa ra luận đề: “Trong tính hiện thựuc của nó bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”

Mác không hề phủ nhận mặt tự nhiên gạt bỏ cái sinh vật khi xem xét con người. Tuy nhiên không nên hiểu mặt tự nhiên của con người trong hoạt động thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn con người làm biến đổi đời sống xã hội đồng thời cũng biến đổi chính bản thân mình. Đây là phát hiện có giá trị to lớn của Mác về bản chất con người.

Theo quan niệm duy vật lịch sử, quan hệ sản xuất là cơ sở của các mối quan hệ xã hội khác, nhưng các quan hệ xã hội khác lại có tính độc lập tương đối. Bản thân quan hệ sản xuất là quan hệ xã hội của con người trong sản xuất cũng hình thành và biến đổi quan hệ giữa con người với tự nhiên. Điều đó có nghĩa là các quan hệ xã hội quy định bản chất con người được triết học Mác xem xét không tách rời cô lập với quan hệ giữa con người với tự nhiên. Mặt khác quan hệ xã hội cấu thành bản chất con người trong sự liên hệ tổng hòa của chúng. Đây không chỉ là sự tổng hòa các quan hệ kinh tế với với chính trị, văn hóa, đạo đức và pháp quyền mà còn của mặt vật chất tinh thần, mặt không gian và thời gian của các quan hệ xã hội...Trong sự tổng hòa đó đặc biệt cần thấy sự thống nhất cái chung tòan nhân loại với cái đặc thù giai cấp, dân tộc trong cái riêng của mỗi cá nhân con người.

24

Page 25: Cao hoc Danang_on_thi_triet_da_chuan_font[1]

Tha hóa là thuạt ngữ được nhiều triết gia cổ điển Đức sử dụng. Mác cũng bắt đầu xây dựng lý luận của mình bằng cách sử dụng khái niệm tha hóa, cắt nghĩa tình trạng tha hóa của con nguời và vạch ra con đường khắc phục sự tha hóa. Lao động bị tha hóa làm cho con người tha hóa khỏi con người, mỗi cá thể trở thành xa lạ với với cá thể khác trong tộc loại của mình, đời sống có tính loài và đời sống cá nhân xa lạ với nhau. Thực tế xã hội ngày nay đã xác nhận tính đúng đắn luận điểm của Mác về sự tha hóa con nguời trong chủ nghĩa tư bản. Sự tha hóa của con người là một thực tế xã hội càn được lý giải bằng lý luận chứu không phải là một công cụ, một phương pháp xây dựng hệ thống lý luận. Do đó, lý luận của Mác về sựt ha hóa của lao động vẫn có giá trị đối với chúng ta ngày nay.

Sự giải phóng con người của chủ nghĩa xã hội là một thành quả vĩ đại khôgn thể phủ nhận được. Đó không chỉ là những thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội trogn nhiều nước mà còn là ảnh hưởng tích cực của nó đối với sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội trên phạm vi tòan thế giới

Tuy nhiên trong chủ nghĩa xã hội đang được xay dựng, tình trạng tha hóa chưa phải đã được khắc phục, thậm chí những sai lầm chúng ta đã mắc phải còn là nguyên nhân làm tha hóa con người. Vì vậy, trước hết phải thấm nhuần sâu sắc quan niệm duy vật lịch sử, xem sự phát triển lực lượng sản xuất là nguyên nhân sâu xa của sự phát triển toàn bộ đời sống xã hội, do đó sự phát triển rất cao của lực lượng sản xuất là tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết để khắc phục sựt ha hóa con người. Hai là phải nhận thức đầy đủ quan hệ giữa vấn đề xóa bỏ chế độ tư hữu với việc khắc phục sự tha hóa.

Mặt khác, có những vấn đề mà chỉ có thực tiễn xây dựng CNXH mới có thể giải quyết được. Vì vậy muốn chủ nghĩa xã hội được thiết lập thật sự phải giải quyết tốt những vấn đề chính trị-xã hội cực kỳ phức tạp. Khắc phục sự tha hóa của con nguời cũng có nghĩa là thực hiện mục tiêu lý tưởsng của CNXH.

Ý nghĩa thực tiễn lớn nhất của nghiên cứu những vấn đề triết học về con người là quán triệt mục tiêu xây dựng con người mới, một trong những mục tiêu chiến lược của sự nghiệp cách mạng XHCN và xây dựng CNXH. Mọi biện pháp về kinh tế, chính trị chỉ nhằm xây dựng một xã hội trong đó sự phát triển tự do và tòan diện của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do và tòan diện của mọi người

Sự nghiệp giải phóng con nguời và loài người là sự nghiệp tự giải phóng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Chính vì thế chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Muốn có chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có con người xã hội chủ nghĩa”

25