128
Ý nghĩa và nội dung chủ yếu của Luật Di Sản Văn Hóa Ts Trương quốc Bình Phó Cục trưởng Cục Bảo tồn Bảo tàng - Bộ Văn hoá-Thông tin LTS (trong nước) - Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa X đã thảo luận và thông qua Luật di sản văn hóa. Đây là một công cụ pháp lý nhằm điều chỉnh các hoạt động của con người trong lĩnh vực di sản văn hoá. Luật Di sản văn hoá gồm 7 chương, 79 điều. Chương I qui định các điều khoản chung, chương VI qui định về khen thưởng và xử lý vi phạm, chương VII qui định về các điều khoản thi hành, còn lại 4 chương của Luật là những quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể đối với tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực di sản văn hoá. Để giúp bạn đọc tìm hiểu ý nghĩa và những nội dung của đạo luật quan trọng này, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của TS Trương Quốc Bình, Thư ký Ban soạn thảo Dự án Luật Di sản văn hoá. Di sản văn hoá là tài sản vô cùng quý giá của đất nước, là chất liệu gắn kết cộng đồng dân tộc, là cơ sở để sáng tạo những giá trị tinh thần mới và giao lưu văn hoá. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có nhiều hoạt động nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá của cha ông, góp phần to lớn vào việc bảo vệ và xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Những năm qua, chúng ta đã có một số hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá. Tính đến nay, cả nước đã có hơn 2.500 di tích lịch sử-văn hoá và danh lam thắng cảnh các loại được công nhận là di tích cấp quốc gia, trong đó có 4 di tích và thắng cảnh tiêu biểu đã được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới ( Khu di tích cố đô Huế, Vịnh Hạ Long, Phố cổ Hội An và Khu di tích Mỹ Sơn) ; đã có l 17 bảo tàng các loại (trong đó 5 l bảo tàng đã có kho bảo quản và nhà trưng bày cố định). Những năm qua, mặc dù còn phải đương đầu với những khó khăn gay gắt về kinh tế- xã hội, Đảng và Nhà nước ta vẫn dành cho công tác bảo vệ và phát huy di sản văn hoá những sự quan tâm không nhỏ. Thực hiện Chương trình quốc gia về văn hoá- trong đó có các mục tiêu liên quan tới việc tu bổ, chống xuống cấp di tích và nghiên cứu, tư liệu hoá các di sản văn hoá phi vật thể tiêu biểu, từ năm 1994 đến nay, 178 tỷ đồng đã được Nhà nước đầu tư cho việc tu bổ chống xuống cấp l. 197 di tích trong cả nước. Trong số hơn 80 di tích dự kiến trình Chính phủ quyết định công nhận là di tích quốc gia đặc biệt, có tới 21 di tích đã được đầu tư và hoàn thành cơ bản việc chống xuống cấp đưa vào khai thác phục vụ phát triển du lịch. Không ít dự án tổng thể liên ngành kinh tế - xã hội và văn hoá, mà hạt nhân là các khu di tích lịch sử - văn hoá quan trọng như Pắc Bó, Tân Trào, Đền Hùng, Cổ Loa, AT K Việt Bắc ... đã được xây dựng và triển khai, phối hợp giải quyết các nhu cầu về giáo dục truyền thống, y tế, giao thông nông thôn, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc - những người đã từng bảo vệ, nuôi dưỡng cán bộ cách mạng và hiện cũng là lực lượng chính bảo vệ di tích tại địa phương. Một trong những thành tựu nổi bật của các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá trong những năm qua là việc thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục và thực hiện chủ trương xã hội hoá các hoạt động bảo vệ và phát huy di sản văn hoá trong cả nước. Việc phối hợp với cơ quan báo chí phát thanh, truyền hình ở Trung ương và địa phương nhằm tuyên truyền, quảng bá các giá trị của di tích lịch sử và văn hoá được đẩy mạnh. Việc giáo dục truyền thống cách mạng trên cơ sở các tài liệu, di vật lịch sử được đổi mới, đã và đang có những đóng góp không thể phủ nhận vào công tác tư tưởng của các Đảng bộ cơ sở. Mười năm qua, chỉ riêng 11di tích và chi nhánh của Bảo tàng Hồ Chí Minh đã đón và phục vụ được 35 triệu lượt khách tham quan trong và ngoài nước. Thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", các hoạt động bảo vệ và phát huy di sản văn hoá đã và đang thu hút được sự ủng hộ và tham gia tự nguyện của các tổ chức xã hội và đông đảo các tầng lớp nhân dân. Cho đến nay, nhân dân ở các địa phương đã đóng góp hàng trăm tỷ đồng cho việc tu bổ các di tích. Khu di tích Đền thờ Lý Bát Đế thuộc tỉnh Bắc Ninh được phục hồi chủ yếu dựa vào nguồn đóng góp lên tới hàng chục tỷ đồng của nhân dân. Riêng

Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Ý nghĩa và nội dung chủ yếu của Luật Di Sản Văn Hóa Ts Trương quốc Bình

Phó Cục trưởng Cục Bảo tồn Bảo tàng - Bộ Văn hoá-Thông tin

LTS (trong nước) - Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa X đã thảo luận và thông qua Luật di sản văn hóa. Đây là một công cụ pháp lý nhằm điều chỉnh các hoạt động của con người trong lĩnh vực di sản văn hoá. Luật Di sản văn hoá gồm 7 chương, 79 điều. Chương I qui định các điều khoản chung, chương VI qui định về khen thưởng và xử lý vi phạm, chương VII qui định về các điều khoản thi hành, còn lại 4 chương của Luật là những quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể đối với tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực di sản văn hoá. Để giúp bạn đọc tìm hiểu ý nghĩa và những nội dung của đạo luật quan trọng này, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của TS Trương Quốc Bình, Thư ký Ban soạn thảo Dự án Luật Di sản văn hoá.

Di sản văn hoá là tài sản vô cùng quý giá của đất nước, là chất liệu gắn kết cộng đồng dân tộc, là cơ sở để sáng tạo những giá trị tinh thần mới và giao lưu văn hoá. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có nhiều hoạt động nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá của cha ông, góp phần to lớn vào việc bảo vệ và xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Những năm qua, chúng ta đã có một số hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá. Tính đến nay, cả nước đã có hơn 2.500 di tích lịch sử-văn hoá và danh lam thắng cảnh các loại được công nhận là di tích cấp quốc gia, trong đó có 4 di tích và thắng cảnh tiêu biểu đã được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới ( Khu di tích cố đô Huế, Vịnh Hạ Long, Phố cổ Hội An và Khu di tích Mỹ Sơn) ; đã có l 17 bảo tàng các loại (trong đó 5 l bảo tàng đã có kho bảo quản và nhà trưng bày cố định).

Những năm qua, mặc dù còn phải đương đầu với những khó khăn gay gắt về kinh tế- xã hội, Đảng và Nhà nước ta vẫn dành cho công tác bảo vệ và phát huy di sản văn hoá những sự quan tâm không nhỏ. Thực hiện Chương trình quốc gia về văn hoá- trong đó có các mục tiêu liên quan tới việc tu bổ, chống xuống cấp di tích và nghiên cứu, tư liệu hoá các di sản văn hoá phi vật thể tiêu biểu, từ năm 1994 đến nay, 178 tỷ đồng đã được Nhà nước đầu tư cho việc tu bổ chống xuống cấp l. 197 di tích trong cả nước. Trong số hơn 80 di tích dự kiến trình Chính phủ quyết định công nhận là di tích quốc gia đặc biệt, có tới 21 di tích đã được đầu tư và hoàn thành cơ bản việc chống xuống cấp đưa vào khai thác phục vụ phát triển du lịch.

Không ít dự án tổng thể liên ngành kinh tế - xã hội và văn hoá, mà hạt nhân là các khu di tích lịch sử - văn hoá quan trọng như Pắc Bó, Tân Trào, Đền Hùng, Cổ Loa, AT K Việt Bắc ... đã được xây dựng và triển khai, phối hợp giải quyết các nhu cầu về giáo dục truyền thống, y tế, giao thông nông thôn, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc - những người đã từng bảo vệ, nuôi dưỡng cán bộ cách mạng và hiện cũng là lực lượng chính bảo vệ di tích tại địa phương.

Một trong những thành tựu nổi bật của các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá trong những năm qua là việc thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục và thực hiện chủ trương xã hội hoá các hoạt động bảo vệ và phát huy di sản văn hoá trong cả nước. Việc phối hợp với cơ quan báo chí phát thanh, truyền hình ở Trung ương và địa phương nhằm tuyên truyền, quảng bá các giá trị của di tích lịch sử và văn hoá được đẩy mạnh. Việc giáo dục truyền thống cách mạng trên cơ sở các tài liệu, di vật lịch sử được đổi mới, đã và đang có những đóng góp không thể phủ nhận vào công tác tư tưởng của các Đảng bộ cơ sở. Mười năm qua, chỉ riêng 11di tích và chi nhánh của Bảo tàng Hồ Chí Minh đã đón và phục vụ được 35 triệu lượt khách tham quan trong và ngoài nước.

Thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", các hoạt động bảo vệ và phát huy di sản văn hoá đã và đang thu hút được sự ủng hộ và tham gia tự nguyện của các tổ chức xã hội và đông đảo các tầng lớp nhân dân. Cho đến nay, nhân dân ở các địa phương đã đóng góp hàng trăm tỷ đồng cho việc tu bổ các di tích. Khu di tích Đền thờ Lý Bát Đế thuộc tỉnh Bắc Ninh được phục hồi chủ yếu dựa vào nguồn đóng góp lên tới hàng chục tỷ đồng của nhân dân. Riêng việc xây dựng công trình tôn vinh các danh nhân văn hoá Việt Nam tại khu di tích Văn Miếu, Quốc Tử Giám nhân kỷ niệm 990 năm Thăng Long đã nhận được hơn l triệu USD do Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam ủng hộ. Mặt khác, thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế dưới mọi hình thức, cùng với việc tranh thủ kinh nghiệm quốc tế về khoa học- công nghệ tiên tiến, chúng ta còn nhận được sự ủng hộ về tài chính và thiết bị kỹ thuật. Tính chung trong mười năm trở lại đây, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ và chính phủ các nước đã tài trợ 3.758.000 USD trong các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá ở Việt Nam.

Bên cạnh những thành tựu rất đáng khích lệ nói trên, hoạt động bảo vệ và phát huy các di sản văn hoá ở nước ta cũng còn nhiều hạn chế và tồn tại. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này, ngoài những hạn chế về điều kiện tài chính, về tổ chức quản lý, về năng lực, trình độ cán bộ... là sự bất cập và sự không đồng bộ của hệ thống pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hoá. Pháp lệnh "Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh" năm 1984 và những quy định pháp luật khác cũng đã bộc lộ những tồn tại và hạn chế rất rõ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường .

Những quy định của Pháp lệnh năm 1984 chưa đề cập đến những vấn đề bức xúc của công tác quản lý di sản văn hoá hiện nay như : công nhận các hình thức sở hữu khác nhau về di sản văn hoá; sự tồn tại và nhu cầu quản lý thị trường cổ vật; xuất nhập khẩu cổ vật phục vụ giao lưu văn hoá quốc tế, những vấn đề tổ chức và hoạt động của hệ thống bảo tàng Việt Nam - trong đó có việc xây dựng các sưu tập và bảo tàng tư nhân.

Công tác thanh tra các hoạt động bảo vệ và phát huy di sản văn hoá không được tiến hành thường xuyên và xử lý nghiêm minh làm cho hiệu lực thực tế của Pháp lệnh bị hạn chế. Các quy định về khen thưởng kịp thời cho các cá nhân, tổ chức có thành tích cụ thể chưa được thực hiện nên không động viên được phong trào chung. Đặc biệt hiện tượng vi phạm di tích do các hoạt động kinh tế, xây dựng còn khá nặng nề, trường hợp xâm lấn đất đai di tích vẫn chưa được giải toả và xử lý dứt điểm.

Page 2: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Việc phân cấp về thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền về di sản văn hoá và chính quyền các cấp chưa cụ thể, nên còn hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm, ỷ lại Nhà nước; các địa phương không chủ động dành ngân sách cho việc tu bổ di tích hoặc khoán trắng cho dân. Chính vì vậy, tình trạng đào bới trái phép các khu di tích khảo cổ, tìm kiếm và buôn bán trái phép cổ vật, xây dựng hoặc tu bổ di tích tuỳ tiện, thương mại hoá các hoạt động lễ hội đã và đang trở thành những vấn đề bức xúc, thành nỗi lo của nhiều cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể và sự quan tâm không nhỏ của toàn xã hội. Pháp lệnh "Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh" năm 1984 mới chỉ điều chỉnh đối tượng di sản văn hoá ở dạng vật thể, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra hiện nay theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) là xác định việc bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống, văn hoá cách mạng, bao gồm cả văn hoá vật thể và phi vật thể; đồng thời đưa ra những giải pháp lớn để xây dựng và phát triển văn hoá, trong đó khẳng định sự cần thiết phải nghiên cứu xây dựng Luật Di sản văn hoá.

Mặt khác, trong những năm qua, nhiều bộ luật mới đã được xây dựng và ban hành. Trong thực tiễn, những quy định cụ thể về quan hệ dân sự của Luật Dân sự, về sử dụng đất của Luật Đất đai, về bảo vệ cảnh quan môi trường của Luật Môi trường, Luật Biển, Luật Bảo vệ rừng,..có liên quan đến các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá cùng trách nhiệm tổ chức thực hiện những quy định của các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia trong quá trình hội nhập quốc tế những năm gần đây, khiến cho nhu cầu xây dựng mới một bộ luật về bảo vệ và phát huy các di sản văn hoá ở Việt Nam đã trở nên vô cùng cấp bách.

Trong quá trình đổi mới đất nước, để hoà nhập vào xu thế phát triển chung của toàn nhân loại mà không bị hoà tan, để văn hoá thực sự trở thành "nền tảng tinh thần của toàn xã hội", "vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội " cần phải có cơ sở pháp lý vững chắc và hoàn chỉnh hơn cho các hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hoá. Việc xây dựng và ban hành Luật di sản văn hoá chính là xuất phát từ ý nghĩa và nhu cầu thực tế nói trên. Những căn cứ pháp lý để xây dựng luật và các quan điểm chỉ đạo của Đảng về việc soạn thảo Dự án Luật là: Hiến pháp 1992, các Nghị quyết của Đảng về xây dựng và phát triển văn hoá, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII).

Dự án Luật Di sản văn hoá được xây dựng trên cơ sở kế thừa những ưu điểm của Pháp lệnh năm 1984 và mở rộng phạm vi, đối tượng điều chỉnh là di sản văn hoá phi vật thể để phục vụ và đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển văn hoá trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Bảo vệ di sản văn hoá trên cơ sở thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy di sản văn hoá dân tộc hướng cả vào di sản văn hoá vật thể và phi vật thể; kiểm kê, sưu tầm vốn văn hoá truyền thống (bao gồm văn hoá bác học và văn hoá dân gian) của người Việt và các đân tộc thiểu số; bảo tồn các di tích lịch sử, văn hoá và các danh lam thắng cảnh, các làng nghề, các nghề truyền thống, trọng đãi những nghệ nhân bậc thầy trong các ngành, nghề truyền thống...

Bảo vệ di sản văn hoá là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được thể chế hoá và cụ thể hoá trong Luật sẽ góp phần thúc đẩy quá trình xã hội hoá các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá. Chính sách này được tiến hành đồng thời với việc nâng cao vai trò và trách nhiệm của Nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về bảo vệ di sản văn hoá.

Đồng thời, Luật Di sản văn hoá còn góp phần tạo ra môi trường thuận lợi cho việc đầu tư phát triển kinh tế của đất nước, đồng thời thúc đẩy việc mở rộng giao lưu văn hoá với các nước trên thế giới.

Trước đây, phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh chỉ bao gồm các di tích lịch sử, văn hoá và thắng cảnh. Xuất phát từ nội dung của khái niệm văn hoá và di sản văn hoá theo nghĩa rộng, phạm vi điều chỉnh của dự thảo luật lần này bao gồm các di sản văn hoá vật thể và các di sản văn hoá phi vật thể. Nội dung của Luật đưa thêm những quy định về quản lý bảo vệ và phát huy giá trị của các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia cùng việc xây dựng các bộ sưu tập và tổ chức quản lý các bảo tàng ở Việt Nam.

Theo ý kiến chỉ đạo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, và đây cũng là một trong những vấn đề mà Bộ Chính trị ( khoá VIII) đã đề nghị cần xác định rõ trong Luật, về quyền sở hữu đối với di sản văn hoá, xuất phát từ nhận thức cho rằng di sản văn hoá là một trong những tài sản đặc biệt, đồng thời, căn cứ vào những đặc thù của loại tài sản này, những quy định của Luật Dân sự về 7 hình thức sở hữu phổ biến đã được vận dụng để xác định những hình thức sở hữu cơ bản về di sản văn hoá là: sở hữu toàn dân, sở hữu chung của cộng đồng, sở hữu tư nhân và các hình thức sở hữu khác.Chính vì vậy,vấn đề về sở hữu đối với di sản văn hoá của Luật này có nội dung như sau: "Nhà nước thống nhất quản lý di sản văn hoá thuộc sở hữu toàn dân; công nhận và bảo vệ các hình thức sở hữu tập thể, sở hữu chung của cộng đồng, sở hữu tư nhân và các hình thức sở hữu khác về di sản văn hoá theo quy định của pháp luật. ( Điều 5 Luật Di sản văn hoá)

Bên cạnh những quy định cụ thể nhằm đề cao trách nhiệm của nhà nước, Luật còn xác định cụ thể sự phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương; quyền và nghĩa vụ của công dân được xác định theo hướng tôn trọng sở hữu tư nhân, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi công dân tham gia vào sự nghiệp bảo vệ, phát huy giá trị các di sản văn hoá.

Pháp lệnh chưa thừa nhận sở hữu tư nhân về di sản văn hoá, chưa công nhận tính chất hàng hoá của di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, và vì vậy, chưa có những quy định cụ thể về thị trường cổ vật và mua bán cổ vật để Nhà nước chủ động quản lý, thậm chí còn nghiêm cấm mọi hành vi mua bán những loại hàng hoá đặc biệt này, mặc dù từ hàng chục năm nay, trên thực tế vẫn tồn tại thị trường cổ vật chưa được kiểm soát. Dự án luật quy định việc mở hệ thống các cửa hàng mua bán cổ vật, lập các bảo tàng và sưu tập tư nhân.

Ngoài những quy định cụ thể về việc xếp hạng di tích, sưu tầm các di sản văn hoá phi vật thể, thăm dò khai quật khảo cổ học, Luật cũng đồng thời quy định cụ thể về công tác thanh tra, kiểm tra cùng mức độ khen thưởng , xử phạt trong lĩnh vực bảo tồn các di sản văn hoá.

Page 3: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Quán triệt đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, Luật Di sản văn hoá cũng đồng thời có những quy định cụ thể , tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hoá, như việc cho phép tổ chức trưng bày cổ vật ở nước ngoài, việc nghiên cứu, sưu tầm các di sản văn hoá của người nước ngoài ở Việt Nam và đặc biệt là việc hợp tác quốc tế để bảo hộ những di sản văn hoá Việt Nam ở nước ngoài.

Về cơ bản, Luật Di sản văn hoá được thông qua ngày 14/6/2001 tại kỳ họp thứ 9, Quốc Hội khoá X vừa qua là cơ sở pháp lý quan trọng để đẩy mạnh việc đổi mới các hoạt động nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá ở Việt Nam, thiết thực góp phần triển khai thắng lợi những đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới đất nước nói chung, cùng xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói riêng.

,,,,

PHÁP LỆNH

BẢO VỆ VÀ SỬ DỤNG DI TÍCH LỊCH SỬ,

VĂN HOÁ VÀ DANH LAM, THẮNG CẢNH

Di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh là tài sản vô giá trong kho tàng di sản lâu đời của dân tộc Việt Nam.

Để bảo vệ và sử dụng có hiệu quả di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh trong việc giáo dục truyền thống dựng nước và giữ

nước của nhân dân Việt Nam, góp phần giáo dục tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và lòng tự hào dân tộc, nâng cao kiến thức,

phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, đáp ứng nhu cầu về thẩm mỹ và văn hoá của nhân dân, xây dựng nền văn hoá mới và con

người mới xã hội chủ nghĩa, làm giàu đẹp kho tàng di sản văn hoá dân tộc và góp phần làm phong phú văn hoá thế giới;

Để tạo điều kiện đảm bảo vệ cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ tập thể trong việc bảo vệ và sử dụng các di tích lịch sử, văn hoá

và danh lam, thắng cảnh;

Để đề cao trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân trong việc bảo vệ và sử

dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh;

Căn cứ vào Điều 46 và Điều 100 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

Pháp lệnh này quy định việc bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh.

 

CHƯƠNG I

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1

Di tích lịch sử, văn hoá là những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài liệu và tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật

cũng như có giá trị văn hoá khác hoặc có liên quan đến những sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hoá, xã hội.

Page 4: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Danh lam, thắng cảnh là những khu vực thiên nhiên có cảnh đẹp hoặc có công trình xây dựng cổ, đẹp nổi tiếng.

Mọi di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh đều được Nhà nước bảo vệ.

Điều 2

Nhà nước thống nhất quản lý các di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh. Việc quản lý Nhà nước đối với các di tích lịch sử,

văn hoá và danh lam, thắng cảnh gồm:

1- Kiểm kê, đăng ký, công nhận và xác định các loại hình di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh.

2- Quy định chế độ bảo vệ, sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh và tổ chức việc thực hiện các chế độ đó.

3- Thanh tra việc thi hành những quy định của pháp luật về việc bảo vệ, sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh.

Hội đồng bộ trưởng thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với các di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh trong cả nước.

Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với các di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh theo quy định

của Hội đồng bộ trưởng.

Bộ Văn hoá và các cơ quan văn hoá thuộc hệ thống Bộ này tại các địa phương là những cơ quan giúp Hội đồng bộ trưởng và Uỷ ban

nhân dân các cấp thực hiện việc bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh.

Điều 3

Di tích lịch sử, văn hoá thuộc sở hữu tập thể hoặc cá nhân được Nhà nước bảo hộ.

Nhà nước hướng dẫn, giúp đỡ tập thể hoặc cá nhân là chủ sở hữu trong việc bảo quản và sử dụng di tích lịch sử, văn hoá của mình.

Việc ký gửi, tặng di tích lịch sử, văn hoá thuộc sở hữu tập thể hoặc cá nhân cho Nhà nước được khuyến khích.

Khi chuyển quyền sở hữu di tích lịch sử, văn hoá thuộc sở hữu tập thể hoặc cá nhân, người chủ phải báo trước cho Uỷ ban nhân dân

xã, phường, thị trấn biết; Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải báo kịp thời với Sở văn hoá tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

hoặc đơn vị hành chính tương đương.

Trong trường hợp người chủ muốn bán di tích lịch sử, văn hoá thuộc sở hữu của mình thì Nhà nước được quyền mua ưu tiên.

Điều 4

Nghiêm cấm việc làm hư hại, tiêu huỷ, chiếm giữ trái phép di tích lịch sử, văn hoá hoặc danh lam, thắng cảnh.

Nghiêm cấm việc trao đổi, mua bán trái phép di tích lịch sử, văn hoá.

Page 5: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Điều 5

Di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh phải được sử dụng vào việc giáo dục truyền thống dựng nước và giữ nước của nhân

dân Việt Nam, góp phần giáo dục tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và lòng tự hào dân tộc, phục vụ công tác nghiên cứu, phổ

biến khoa học, nghệ thuật và tham quan du lịch.

Điều 6

Các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, mọi công dân có nghĩa vụ bảo vệ các di tích lịch sử, văn hoá và danh

lam, thắng cảnh, chấp hành các chế độ, quy định của Nhà nước về di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh.

 

CHƯƠNG II

VIỆC CÔNG NHẬN DI TÍCH LỊCH SỬ,

VĂN HOÁ VÀ DANH LAM, THẮNG CẢNH

Điều 7

Mọi đối tượng có dấu hiệu như quy định ở Điều 1 của Pháp lệnh này đều phải được đăng ký theo thể thức do Hội đồng bộ trưởng quy

định.

Điều 8

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương chịu trách nhiệm tổ chức việc đăng ký các

đối tượng có dấu hiệu như quy định ở Điều 1 của Pháp lệnh này tại địa phương mình và lập hồ sơ đề nghị công nhận.

Căn cứ vào đề nghị của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương, Bộ trưởng Bộ văn

hoá ra quyết định công nhận di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh.

Việc đăng ký những đối tượng có dấu hiệu như quy định ở Điều 1, khoản 1 của Pháp lệnh này thuộc các bảo tàng, thư viện, cơ quan

lưu trữ tiến hành theo chế độ do Hội đồng bộ trưởng quy định.

Điều 9

Các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân có nhiệm vụ kê khai những đối tượng có dấu hiệu như

quy định ở Điều 1 của Pháp lệnh này thuộc quyền sử dụng hoặc sở hữu của mình với Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương.

Page 6: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Điều 10

Người phát hiện những đối tượng có dấu hiệu như quy định ở Điều 1, khoản 1 của Pháp lệnh này có trách nhiệm bảo vệ nguyên trạng

và báo cáo với cơ quan quản lý di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh.

Điều 11

Việc xoá tên một di tích lịch sử, văn hoá hoặc danh lam, thắng cảnh trong sổ danh mục do Bộ trưởng Bộ Văn hoá quyết định.

 

CHƯƠNG III

VIỆC BẢO VỆ VÀ SỬ DỤNG DI TÍCH LỊCH SỬ,

VĂN HOÁ VÀ DANH LAM, THẮNG CẢNH

Điều 12

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương có trách nhiệm quản lý các di tích lịch sử,

văn hoá và danh lam, thắng cảnh tại địa phương mình.

Điều 13

Những di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh đặc biệt quan trọng được bảo vệ và sử dụng theo chế độ đặc biệt do Hội đồng

bộ trưởng quy định.

Điều 14

Tổ chức và cá nhân được trao quyền sử dụng hoặc trực tiếp bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh, tập thể và cá nhân

là chủ sở hữu di tích lịch sử, văn hoá có nghĩa vụ bảo quản thường xuyên di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh theo những

quy định về bảo tồn của Nhà nước.

Khi di tích lịch sử, văn hoá hoặc danh lam, thắng cảnh có nguy cơ bị hư hại, người chủ sử dụng hoặc sở hữu, tổ chức, cá nhân trực tiếp

bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá hoặc danh lam, thắng cảnh đó có nhiệm vụ tiến hành những biện pháp bảo vệ cấp thiết và phải báo ngay

với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn biết để giúp đỡ và báo cáo kịp thời với cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp.

Điều 15

Mỗi di tích lịch sử, văn hoá là bất động sản và danh lam, thắng cảnh có từ một đến ba khu vực bảo vệ:

Page 7: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

- Khu vực I là khu vực phải được bảo vệ nguyên trạng.

- Khu vực II là khu vực bao quanh khu vực I được phép xây dựng những công trình nhằm mục đích tôn tạo di tích lịch sử, văn hoá và

danh lam, thắng cảnh.

- Khu vực III là khung cảnh thiên nhiên của di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh.

Các khu vực bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh được xác định theo chế độ do Hội đồng bộ trưởng quy định.

Mọi hoạt động xây dựng, khai thác trong những khu vực bảo vệ của di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh phải được phép

của Bộ trưởng Bộ Văn hoá.

Điều 16

Những đối tượng có dấu hiệu như quy định ở Điều 1 của Pháp lệnh này đang trong thời gian nghiên cứu để công nhận đều được bảo

vệ theo Pháp lệnh này.

Điều 17

Các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân, khi lập đề án xây dựng, cải tạo các công trình kinh tế, văn

hoá, quốc phòng, hoặc các công trình khác có liên quan đến di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh phải được sự đồng ý của

Bộ trưởng Bộ văn hoá. Trong trường hợp không được sự đồng ý của Bộ trưởng Bộ Văn hoá, chủ công trình xây dựng có quyền kiến

nghị lên Hội đồng bộ trưởng.

Điều 18

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương quyết định quy hoặc tu bổ, tôn tạo di tích

lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh do mình quản lý.

Đề án tu bổ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh do Bộ trưởng Bộ Văn hoá duyệt.

Hội đồng bộ trưởng quyết định quy hoạch và đề án tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh đặc biệt quan trọng.

Việc tu bổ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh phải bảo đảm nguyên trạng và tăng cường sự bền vững của di tích lịch sử,

văn hoá và danh lam, thắng cảnh.

Nhà nước khuyến khích việc đóng góp tự nguyện của nhân dân vào việc bảo quản, tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử, văn hoá và danh lam,

thắng cảnh.

Điều 19

Page 8: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Việc thăm dò và khai quật khảo cổ học chỉ được tiến hành sau khi có giấy phép. Việc cấp giấy phép do Hội đồng bộ trưởng quy định.

Điều 20

Việc giao các di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh thuộc sở hữu Nhà nước cho các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn

vị vũ trang nhân dân để sử dụng vào các mục đích quy định ở Điều 5 của Pháp lệnh này, do Hội đồng bộ trưởng hoặc Uỷ ban nhân dân

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương quyết định theo quy định của pháp luật.

Những di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh thuộc sở hữu Nhà nước không được sử dụng đúng quy định của pháp luật thì

có thể bị thu hồi.

Điều 21

Việc sử dụng di tích lịch sử, văn hoá thuộc sở hữu tập thể hoặc cá nhân phải bảo đảm quyền lợi hợp pháp của chủ sở hữu và bảo đảm

lợi ích của Nhà nước và xã hội.

Khi cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước có thể trưng dụng trong một thời gian nhất định di tích lịch sử, văn hoá thuộc sở hữu tập thể

hoặc sở hữu cá nhân, theo quy định của pháp luật.

Tập thể, cá nhân không bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá thuộc quyền sở hữu của mình theo quy định của pháp luật thì những di tích lịch

sử, văn hoá đó có thể bị trưng mua theo quy định của pháp luật.

Điều 22

Người sưu tập di tích lịch sử, văn hoá phải có giấy phép của Bộ trưởng Bộ Văn hoá.

Điều 23

Cấm mang di tích lịch sử, văn hoá ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, trừ trường hợp đặc biệt do Hội đồng bộ trưởng quy định.

Điều 24

Những di tích lịch sử, văn hoá là tài liệu lưu trữ quốc gia thì được bảo vệ và quản lý theo Pháp lệnh bảo vệ tài liệu lưu trữ quốc gia.

 

CHƯƠNG IV

VIỆC KHEN THƯỞNG VÀ XỬ PHẠT

Điều 25

Page 9: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Tập thể, cá nhân nào có sáng kiến, phát hiện hoặc có công trình nghiên cứu khoa học làm phong phú kho tàng di tịch lịch sử, văn hoá

và danh lam, thắng cảnh, có thành tích trong việc bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh thì được khen thưởng theo

quy định của Nhà nước.

Người tặng di tích lịch sử, văn hoá cho Nhà nước được khen thưởng theo quy định của Nhà nước.

Điều 26

Người nào vi phạm những điều quy định trong Pháp lệnh này thì tuỳ theo mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý bằng biện pháp hành

chính hoặc bị truy tố trước pháp luật.

Người nào gây thiệt hại đến di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh cũng như các khu vực bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và

danh lam, thắng cảnh thì phải bồi thường theo qui định của pháp luật.

 

CHƯƠNG V

ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG

Điều 27

Những quy định trước đây trái với Pháp lệnh này đều bị bãi bỏ.

Hội đồng bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh này.

Cau 1Hiên chương VeniceHiến chương Quốc tế về Bảo tồn và Trùng tu Di tích và Di chỉ (1964) Đại hội Quốc tế lần thứ hai các Kiến trúc sư và Kỹ thuật gia về Di tích lịch sử, Venice, 1964, được ICOMOS chấp nhận năm 1965. Các di tích lịch sử của các thế hệ con người, thấm đượm một thông điệp từ thời quá khứ, đến ngày nay hãy còn như là những chứng nhân sống của những truyền thống lâu đời cổ xưa. Nhân loại ngày càng ý thức rõ ràng tính thống nhất của các giá trị con người và coi các di tích cổ như là một di sản chung. Con người tự nhận thức có trách nhiệm chung phải giữ gìn bảo vệ các di tích đó. Bổn phận của chúng ta ngày nay là phải chuyển giao cho các thế hệ mai sau muôn ngàn di tích đó với đầy đủ vẻ rực rỡ huy hoàng đích thực của chúng. Bởi vậy điều cốt yếu là các nguyên tắc chỉ đạo việc bảo tồn và trùng tu các công trình xây dựng cổ phải được đồng thuận và quy thức hoá trên một bình diện quốc tế, song vẫn giành lại cho mỗi quốc gia là trách nhiệm tự tìm lấy biện pháp đảm bảo việc áp dụng vào bối cảnh văn hoá và truyền thống riêng của mình. Hiến chương Athens năm 1931, khi lần đầu tiên xác định ra những nguyên tắc cơ bản đó là đã góp phần vào sự phát triển một phong trào quốc tế rộng lớn vốn đã được diễn giải ra cụ thể trong các văn kiện quốc gia, trong hoạt động của ICOM và UNESCO và trong việc UNESCO thiết lập ra Trung tâm Quốc tế Nghiên cứu việc Bảo tồn và Trùng tu tài sản văn hoá (International Center for Study of the Preservation and the Restoration of Cultural Property). Nhận thức và tinh thần phê phán ngày càng phát triển đã nhằm vào các vấn đề không ngừng trở nên phức tạp và đa dạng; nay đã đến lúc cần soát xét lại các nguyên tắc của Hiến chương để đi vào sâu hơn và mở rộng hơn tầm vóc của nó trong một văn kiện mới. Vì vậy, Đại hội Quốc tế lần thứ hai các Kiến trúc sư và các Kỹ thuật gia chuyên về các Di tích lịch sử, họp ở Venice từ 25

Page 10: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

đến 31 tháng 5, 1964, đã thông qua văn bản sau đây:

Định nghĩa Điều 1. Khái niệm di tích lịch sử không chỉ là một công trình kiến trúc đơn chiếc mà cả khung cảnh đô thị hoặc nông thôn có chứng tích của một nền văn minh riêng, một phát triển có ý nghĩa hoặc một sự kiện lịch sử. Khái niệm này không chỉ áp dụng với những công trình nghệ thuật to lớn mà cả với những công trình khiêm tốn hơn vốn đã, cùng với thời gian, thâu nạp được một ý nghĩa văn hoá. Điều 2. Việc bảo tồn và trùng tu di tích cần phải có sự viện cầu đến mọi khoa học và kỹ thuật nào có thể góp phần vào việc nghiên cứu và giữ gìn bảo vệ di sản văn hoá. Điều 3. Việc bảo tồn và trùng tu di tích là nhằm mục đích giữ gìn bảo vệ các di tích là công trình nghệ thuật cũng như là chứng tích lịch sử.

Bảo toàn Điều 4 Điều chủ yếu đối với việc bảo tồn di tích là làm cho di tích đó được duy trì lâu bền. Điều 5.Việc bảo tồn di tích luôn được tạo điều kiện thuận lợi bằng cách sử dụng những di tích đó vào một mục đích hữu ích cho xã hội, cách sử dụng như vậy là đáng làm, song phải không được biến đổi bố cục hoặc trang trí của công trình. Phải có quan niệm là chỉ đúng trong những giới hạn đó thì những sửa sang do thay đổi chức năng mới được phép tiến hành. Điều 6. Việc bảo tồn một di tích bao hàm bảo tồn một khung cảnh nằm trong phạm vi liên quan tới di tích. Khi hãy còn một khung cảnh truyền thống thì khung cảnh đó phải được bảo vệ. Không một công trình xây dựng gì mới, một sự phá huỷ hoặc sửa sang nào mà làm biến đổi mối tương quan giữa khối hình và màu sắc được phép tiến hành. Điều 7. Một di tích là không thể tách rời khỏi lịch sử mà nó là chứng nhân, không thể tách rời khỏi khung cảnh mà nó toạ lạc. Vì vậy, việc di chuyển toàn bộ hoặc bộ phận di tích là không được phép làm, trừ phi do đòi hỏi của việc bảo vệ di tích đó hoặc vì những lý do xác thực vì lợi ích quốc gia hoặc quốc tế hết sức quan trọng. Điều 8.Những bức điêu khắc, tranh hoạ hoặc trang trí vốn hợp thành bộ phận hữu cơ của di tích chỉ được phép bóc gỡ khỏi di tích nếu cách đó là biện pháp duy nhất để đảm bảo được việc bảo tồn những thứ đó.

Trùng tu Điều 9.Tiến trình trùng tu là một thao tác có tính chuyên môn cao. Mục đích của trùng tu là bảo tồn và làm lộ ra giá trị thẩm mỹ và lịch sử của di tích, và phải dựa trên cơ sở tôn trọng vật liệu gốc và các cứ liệu xác thực. Trùng tu phải ngừng lại ngay khi bắt đầu có sự phỏng đoán, hơn nữa trong trường hợp đó, nếu xét thấy nhất thiết phải làm thêm một cái gì đó vì lý do thẩm mỹ hoặc kỹ thuật thì bộ phận làm thêm đó phải phân biệt được với bố cục kiến trúc và phải ghi rõ dấu ấn niên đại lúc thực hiện. Bất kỳ trong trường hợp nào, trước và sau khi trùng tu phải có nghiên cứu di tích về mặt khảo cổ và lịch sử. Điều 10. Ở đâu mà kỹ thuật truyền thống tỏ ra bất cập thì để đảm bảo việc gia cố di tích ở chỗ đó, có thể dùng mọi kỹ thuật hiện đại về bảo tồn và xây dựng. Tính hiệu quả  của thao tác này phải được chứng minh bằng cứ liệu khoa học và được kinh nghiệm bảo đảm. Điều 11. Những phần đóng góp có giá trị ở mọi thời kỳ vào việc xây dựng di tích cần phải được tôn trọng, vì tính thống nhất của phong cách không phải là mục tiêu cần đạt được của trùng tu. Khi một công trình xây dựng bao gồm nhiều khoảnh chồng lên nhau của những thời kỳ khác nhau, thì việc bóc gỡ để làm lộ ra một khoảnh bên dưới phải được biện minh xác đáng, mà chỉ trong tình huống hãn hữu, và trong điều kiện là phần bóc gỡ không mấy quan trọng và phần lộ ra là có giá trị lớn về lịch sử, khảo cổ và thẩm mỹ, và nữa là tình trạng bảo tồn phần đã lộ phải được tính toán đầy đủ để minh xác cho việc bóc gỡ. Việc đánh giá giá trị các phần cần bóc gỡ và quyết định bóc gỡ những phần nào không thể đơn thuần là ý muốn của cá nhân người phụ trách trùng tu. Điều 12. Những bộ phận dùng để thay thế vào những chỗ trống phải hài hoà với tổng thể, đồng thời phải phân biệt được với phần nguyên gốc; có như vậy việc trùng tu mới không làm sai lệch cứ liệu nghệ thuật hoặc lịch sử. Điều 13.Các phần xây đắp thêm chỉ được chấp nhận ở mức độ chúng vẫn tôn trọng các bộ phận độc đáo của toà kiến trúc, khung cảnh truyền thống của kiến trúc, tính cân đối của bố cục kiến trúc và mối quan hệ của kiến trúc với môi trường xung quanh.

Page 11: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Di chỉ Lịch sử Điều 14.Các di chỉ kiến trúc phải là đối tượng quan tâm đặc biệt nhằm để giữ gìn, bảo vệ tính toàn vẹn của chúng và để đảm bảo cho những kiến trúc đó được sửa sang dọn dẹp, nổi bật lên chân giá trị. Việc bảo tồn và trùng tu tiến hành ở những di chỉ này cũng phải được áp dụng theo các nguyên tắc đã đề ra trong các điều khoản trên.

Khai quật Điều 15.Các cuộc khai quật phải được tiến hành phù hợp với các chuẩn mực khoa học và với ''khuyến nghị xác định các nguyên tắc quốc tế cần phải áp dụng trong trường hợp khai quật khảo cổ học" đã được UNESCO chấp nhận năm 1956. Các phế tích phải được duy trì và phải có những biện pháp cần thiết để bảo tồn và bảo vệ được thường xuyên các yếu tố kiến trúc và các di vật được phát hiện. Ngoài ra, phải thực thi mọi biện pháp nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho sự hiểu biết di tích và làm bộc lộ di tích mà không làm sai lệch ý nghĩa của nó. Song, trước tiên là phải loại trừ mọi việc xây dựng lại. Chỉ được phép tiến hành anastylose, nghĩa là lắp ráp lại những bộ phận hiện còn song đã bị vỡ rời. Vật liệu dùng để gắn kết phải luôn luôn nhận ra được, mà chỉ nên dùng ở mức tối thiểu để đảm bảo việc bảo tồn di tích và phục hồi các hình dạng di tích. Xuất bản Điều 16. Mọi việc bảo tồn, trùng tu hoặc khai quật phải luôn được làm theo một bộ hồ sơ chính xác dưới dạng các báo cáo phân tích phê phán có bản vẽ bản ảnh minh hoạ. Mỗi giai đoạn thu dọn, gia cố, xếp đặt lại và gắn kết, cũng như các biện pháp kỹ thuật chính thức được xác định sẽ thực thi trong tiến trình làm việc phải được ghi vào hồ sơ. Hồ sơ này sẽ được đưa vào bộ phận lưu trữ của một tổ chức công khai để cho các nhà nghiên cứu được quyền tham khảo. Hồ sơ cần được xuất bản công khai. Tham gia vào Uỷ ban soạn thảo Hiến chương quốc tế về Bảo tồn, Trùng tu Di tích gồm những người có tên sau: Piero Gazzola (ý), Chủ tịch Raymond Lemaire (Bỉ), Thuyết trình viên Jose' Bassegoda - Nonell (Tây Ban Nha) Lui Benavente (Bồ Đào Nha) Djurdje Boskovic (Nam Tư) Hiroshi Daifuku (UNESCO) P. L de Vrieze (Hà Lan) Harald Langberg (Đan Mạch) Mario Matteucci (Ý) Jean Merlet (Pháp) Carlos Flores Marini (Mêhicô) Roberto Pane (Ý) S. C. J. Pavel (Tiệp Khắc) Paul Philippot (ICCROM. Uỷ ban Quốc tế Bảo tồn Trùng tu Di tích) Victor Pimentel (Pê ru) Harold Plenderleith (ICCROM) Deoclecio Redig de Campos (Vaticăng) Jean Sonnier (Pháp) Francois Sorlin (Pháp) Eustathios Stikas (Hy Lạp) Gertrup Tripp (Áo) Jan Zachwatovicz (Ba Lan) Mustafa S. Zbiss (Tuynidi)

Cau 3Luật di sản văn hóa

   Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.

   Để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, đáp ứng nhu cầu về văn hóa ngày càng cao của nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa thế giới;

   Để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;

   Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;   Luật này quy định về di sản văn hóa.

 CHƯƠNG INHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Page 12: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Điều 1

Di sản văn hóa quy định tại Luật này bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Điều 2

Luật này quy định về các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; xác định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn hóa ở nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Điều 3

Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam; trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.

Điều 4

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác.

2. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.

3. Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.

4. Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử thẩm mỹ, khoa học.

5. Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.

6. Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên.

7. Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học.

8. Bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia là sản phẩm được làm giống như bản gốc về hình dáng, kích thước, chất liệu, mầu sắc, trang trí và những đặc điểm khác.

9. Sưu tập là một tập hợp các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia hoặc di sản văn hóa phi vật thể, được thu thập, gìn giữ, sắp xếp có hệ thống theo những dấu hiệu chung về hình thức, nội dung và chất liệu để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu lịch sử tự nhiên và xã hội.

10. Thăm dò, khai quật khảo cổ là hoạt động khoa học nhằm phát hiện, thu thập, nghiên cứu di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và địa điểm khảo cổ.

11. Bảo quản di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia là hoạt động nhằm phòng ngừa và hạn chế những nguy cơ làm hư hỏng mà không làm thay đổi những yếu tố nguyên gốc vốn có của di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.

Page 13: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

12. Tu bổ di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh là hoạt động nhằm tu sửa, gia cố, tôn tạo di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.

13. Phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh là hoạt động nhằm phục hưng lại di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã bị hủy hoại trên cơ sở các cứ liệu khoa học về di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đó.

Điều 5

Nhà nước thống nhất quản lý di sản văn hóa thuộc sở hữu toàn dân; công nhận và bảo vệ các hình thức sở hữu tập thể, sở hữu chung của cộng đồng, sở hữu tư nhân và các hình thức sở hữu khác về di sản văn hóa theo quy định của pháp luật.

Quyền sở hữu, quyền tác giả đối với di sản văn hóa được xác định theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Điều 6

Mọi di sản văn hóa ở trong lòng đất thuộc đất liền, hải đảo, ở vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều thuộc sở hữu toàn dân.

Điều 7

Di sản văn hóa phát hiện được mà không xác định được chủ sở hữu, thu được trong quá trình thăm dò, khai quật khảo cổ đều thuộc sở hữu toàn dân.

Điều 8

1. Mọi di sản văn hóa trên lãnh thổ Việt Nam, có xuất xứ ở trong nước hoặc từ nước ngoài, thuộc các hình thức sở hữu, đều được bảo vệ và phát huy giá trị.

2. Di sản văn hóa của Việt Nam ở nước ngoài được bảo hộ theo tập quán quốc tế và theo quy định của các điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia.

Điều 9

1. Nhà nước có chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nhằm nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đóng góp, tài trợ cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.

2. Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu di sản văn hóa. Chủ sở hữu di sản văn hóa có trách nhiệm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.

3. Nhà nước đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Điều 10

Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân (sau đây gọi là tổ chức) và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Điều 11

Các cơ quan văn hóa, thông tin đại chúng có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến rộng rãi ở trong nước và nước ngoài các giá trị di sản văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, góp phần nâng cao ý thức bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trong nhân dân.

Page 14: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Điều 12

Di sản văn hóa Việt Nam được sử dụng nhằm mục đích:

1. Phát huy giá trị di sản văn hóa vì lợi ích của toàn xã hội;

2. Phát huy truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam;

3. Góp phần sáng tạo những giá trị văn hóa mới, làm giàu kho tàng di sản văn hóa Việt Nam và mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế.

Điều 13

Nghiêm cấm các hành vi sau đây:

1. Chiếm đoạt, làm sai lệch di sản văn hóa;

2. Hủy hoại hoặc gây nguy cơ hủy hoại di sản văn hóa;

3. Đào bới trái phép địa điểm khảo cổ; xây dựng trái phép; lấn chiếm đất đai thuộc di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh;

4. Mua bán, trao đổi và vận chuyển trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; đưa trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài.

5. Lợi dụng việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa để thực hiện những hành vi trái pháp luật. C H Ư Ơ N G I IQ U Y Ề N V À N G H Ĩ A V Ụ C Ủ A T Ổ C H Ứ C , C Á N H Â N Đ Ố I V Ớ I

D I S Ả N V Ă N H O Á

 

Đ i ề u 1 4

Tổ chức, cá nhân có các quyền và nghĩa vụ sau đây:

1. Sở hữu hợp pháp di sản văn hoá;

2. Tham quan, nghiên cứu di sản văn hoá;

3. Tôn trọng, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;

4. Thông báo kịp thời địa điểm phát hiện di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh; giao nộp di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia do mình tìm được cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi gần nhất;

5. Ngăn chặn hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ngăn chặn, xử lý kịp thời những hành vi phá hoại, chiếm đoạt, sử dụng trái phép di sản văn hoá.

 

Đ i ề u 1 5

Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu di sản văn hoá có các quyền và nghĩa vụ sau đây:

1. Thực hiện các quy định tại Điều 14 của Luật này;

2. Thực hiện các biện pháp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá; thông báo kịp thời cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp di sản văn hoá có nguy cơ bị làm sai lệch giá trị, bị huỷ hoại, bị mất;

3. Gửi sưu tập di sản văn hoá phi vật thể, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia vào bảo tàng nhà nước hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp không đủ điều kiện và khả năng bảo vệ và phát huy giá trị;

4. Tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham quan, du lịch, nghiên cứu di sản văn hoá;

5. Thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

 

Page 15: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Đ i ề u 1 6

Tổ chức, cá nhân quản lý trực tiếp di sản văn hoá có các quyền và nghĩa vụ sau đây:

1. Bảo vệ, giữ gìn di sản văn hoá;

2. Thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm hại di sản văn hoá;

3. Thông báo kịp thời cho chủ sở hữu hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi gần nhất khi di sản văn hoá bị mất hoặc có nguy cơ bị huỷ hoại;

4. Tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham quan, du lịch, nghiên cứu di sản văn hoá;

5. Thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

C H Ư Ơ N G I I IB Ả O V Ệ V À P H Á T H U Y G I Á T R Ị D I S Ả N V Ă N H O Á

P H I V Ậ T T H Ể

 

Đ i ề u 1 7

Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hoá phi vật thể nhằm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và làm giàu kho tàng di sản văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

 

Đ i ề u 1 8

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) chỉ đạo việc tổ chức lập hồ sơ khoa học di sản văn hoá phi vật thể ở địa phương để bảo vệ và phát huy giá trị.

Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin quy định thủ tục lập hồ sơ khoa học về các di sản văn hoá phi vật thể.

 

Đ i ề u 1 9

Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định việc đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận di sản văn hoá phi vật thể tiêu biểu của Việt Nam là Di sản văn hoá thế giới, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin.

Hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản của Hội đồng di sản văn hoá quốc gia.

 

Đ i ề u 2 0

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể, ngăn chặn nguy cơ làm sai lệch, bị mai một hoặc thất truyền.

 

Đ i ề u 2 1

Nhà nước có chính sách và tạo điều kiện để bảo vệ và phát triển tiếng nói, chữ viết của các dân tộc ở Việt Nam. Mọi tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

 

Đ i ề u 2 2

Nhà nước và xã hội bảo vệ, phát huy những thuần phong mỹ tục trong lối sống, nếp sống của dân tộc; bài trừ những hủ tục có hại đến đời sống văn hoá của nhân dân.

 

Đ i ề u 2 3

Nhà nước có chính sách khuyến khích việc sưu tầm, biên soạn, dịch thuật, thống kê, phân loại và lưu giữ các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian của cộng đồng các dân tộc Việt Nam để lưu truyền trong nước và giao lưu văn hoá với nước ngoài.

 

Page 16: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Đ i ề u 2 4

Nhà nước có chính sách khuyến khích việc duy trì, phục hồi và phát triển các nghề thủ công truyền thống có giá trị tiêu biểu; nghiên cứu và ứng dụng những tri thức về y, dược học cổ truyền; duy trì và phát huy giá trị văn hoá ẩm thực, giá trị về trang phục truyền thống dân tộc và các tri thức dân gian khác.

 

Đ i ề u 2 5

Nhà nước tạo điều kiện duy trì và phát huy giá trị văn hoá của các lễ hội truyền thống; bài trừ các hủ tục và chống các biểu hiện tiêu cực, thương mại hoá trong tổ chức và hoạt động lễ hội. Việc tổ chức lễ hội truyền thống phải theo quy định của pháp luật.

 

Đ i ề u 2 6

Nhà nước tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp có giá trị đặc biệt.

 

Đ i ề u 2 7

Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài được tiến hành nghiên cứu, sưu tầm di sản văn hoá phi vật thể ở Việt Nam sau khi có sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

 

C H Ư Ơ N G I VB Ả O V Ệ V À P H Á T H U Y G I Á T R Ị D I S Ả N V Ă N H O Á V Ậ T T H Ể

 

M Ụ C 1D I T Í C H L Ị C H S Ử - V Ă N H O Á , D A N H L A M T H Ắ N G C Ả N H

 

Đ i ề u 2 8

1. Di tích lịch sử - văn hoá phải có một trong các tiêu chí sau đây:

a) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá trình dựng nước và giữ nước;

b) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân của đất nước;

c) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời kỳ cách mạng, kháng chiến;

d) Địa điểm có giá trị tiêu biểu về khảo cổ;

đ) Quần thể các công trình kiến trúc hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử.

2. Danh lam thắng cảnh phải có một trong các tiêu chí sau đây:

a) Cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu;

b) Khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù hoặc khu vực thiên nhiên chứa đựng những dấu tích vật chất về các giai đoạn phát triển của trái đất.

 

Đ i ề u 2 9

Căn cứ vào giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh (sau đây gọi là di tích) được chia thành:

1. Di tích cấp tỉnh là di tích có giá trị tiêu biểu của địa phương;

2. Di tích quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia;

3. Di tích quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia.

 

Đ i ề u 3 0

Page 17: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

1. Thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích được quy định như sau:

a) Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh;

b) Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin quyết định xếp hạng di tích quốc gia;

c) Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt; quyết định việc đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc xem xét đưa di tích tiêu biểu của Việt Nam vào Danh mục di sản thế giới.

2. Trong trường hợp di tích đã được xếp hạng mà sau đó có đủ căn cứ xác định là không đủ tiêu chuẩn hoặc bị huỷ hoại không có khả năng phục hồi thì người có thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích nào có quyền ra quyết định huỷ bỏ xếp hạng đối với di tích đó.

 

Đ i ề u 3 1

Thủ tục xếp hạng di tích được quy định như sau:

1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập hồ sơ di tích trình Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin quyết định xếp hạng di tích quốc gia;

2. Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin lập hồ sơ di tích trình Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt; lập hồ sơ di tích tiêu biểu của Việt Nam trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc xem xét đưa vào Danh mục di sản thế giới.

Hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản của Hội đồng di sản văn hoá quốc gia.

 

Đ i ề u 3 2

1. Các khu vực bảo vệ di tích bao gồm:

a) Khu vực bảo vệ I gồm di tích và vùng được xác định là yếu tố gốc cấu thành di tích, phải được bảo vệ nguyên trạng;

b) Khu vực bảo vệ II là vùng bao quanh khu vực bảo vệ I của di tích, có thể xây dựng những công trình phục vụ cho việc phát huy giá trị di tích nhưng không làm ảnh hưởng tới kiến trúc, cảnh quan thiên nhiên và môi trường - sinh thái của di tích.

Trong trường hợp không xác định được khu vực bảo vệ II thì việc xác định chỉ có khu vực bảo vệ I đối với di tích cấp tỉnh do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định, đối với di tích quốc gia do Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin quyết định, đối với di tích quốc gia đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định.

2. Việc xây dựng các công trình ở khu vực bảo vệ II quy định tại điểm b khoản 1 Điều này đối với di tích quốc gia và di tích quốc gia đặc biệt phải có sự đồng ý bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin, đối với di tích cấp tỉnh phải có sự đồng ý bằng văn bản của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

3. Các khu vực bảo vệ quy định tại khoản 1 Điều này được xác định trên bản đồ địa chính, kèm theo biên bản khoanh vùng bảo vệ và phải được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận trong hồ sơ di tích.

 

Đ i ề u 3 3

1. Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc được giao quản lý, sử dụng di tích có trách nhiệm bảo vệ di tích đó; trong trường hợp phát hiện di tích bị lấn chiếm, huỷ hoại hoặc có nguy cơ bị huỷ hoại phải kịp thời có biện pháp ngăn chặn và thông báo cho cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp, Uỷ ban nhân dân địa phương hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin nơi gần nhất.

2. Uỷ ban nhân dân địa phương hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin khi nhận được thông báo về di tích bị huỷ hoại hoặc có nguy cơ bị huỷ hoại phải kịp thời áp dụng các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ và báo cáo ngay với cơ quan cấp trên trực tiếp.

3. Bộ Văn hoá - Thông tin khi nhận được thông báo về di tích bị huỷ hoại hoặc có nguy cơ bị huỷ hoại phải kịp thời chỉ đạo và hướng dẫn cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở địa phương, chủ sở hữu di tích áp dụng ngay các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ; đối với di tích quốc gia đặc biệt phải báo cáo với Thủ tướng Chính phủ.

 

Đ i ề u 3 4

Việc bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích phải được xây dựng thành dự án trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và phải bảo đảm giữ gìn tối đa những yếu tố nguyên gốc của di tích.

Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin ban hành quy chế về bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích.

 

Page 18: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Đ i ề u 3 5

Thẩm quyền phê duyệt dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích được thực hiện theo Luật này và các quy định của pháp luật về xây dựng.

Khi phê duyệt dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin.

 

Đ i ề u 3 6

1. Khi phê duyệt dự án cải tạo, xây dựng các công trình nằm ngoài các khu vực bảo vệ di tích quy định tại Điều 32 của Luật này mà xét thấy có khả năng ảnh hưởng xấu đến cảnh quan thiên nhiên và môi trường - sinh thái của di tích thì phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin.

2. Trong trường hợp chủ đầu tư dự án cải tạo, xây dựng công trình quy định tại khoản 1 Điều này có đề nghị thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin có trách nhiệm cung cấp tài liệu liên quan và những yêu cầu cụ thể về bảo vệ di tích để chủ đầu tư lựa chọn các giải pháp thích hợp bảo đảm cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích.

 

Đ i ề u 3 7

1. Chủ đầu tư dự án cải tạo, xây dựng công trình ở nơi có ảnh hưởng tới di tích có trách nhiệm phối hợp và tạo điều kiện để cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin giám sát quá trình cải tạo, xây dựng công trình đó.

2. Trong quá trình cải tạo, xây dựng công trình mà thấy có khả năng có di tích hoặc di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thì chủ dự án phải tạm ngừng thi công và thông báo kịp thời cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin.

Khi nhận được thông báo, cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin phải có biện pháp xử lý kịp thời để bảo đảm tiến độ xây dựng. Trường hợp xét thấy cần đình chỉ xây dựng công trình tại địa điểm đó để bảo vệ nguyên trạng di tích thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin phải báo cáo lên cơ quan cấp trên có thẩm quyền quyết định.

3. Trong trường hợp cần tổ chức thăm dò, khai quật khảo cổ thì kinh phí thăm dò, khai quật do Chính phủ quy định.

 

Đ i ề u 3 8

Việc thăm dò, khai quật khảo cổ chỉ được tiến hành sau khi có giấy phép của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin.

Trong trường hợp địa điểm khảo cổ đang bị huỷ hoại hoặc có nguy cơ bị huỷ hoại thì Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin cấp giấy phép khai quật khẩn cấp.

 

Đ i ề u 3 9

1. Tổ chức có chức năng nghiên cứu khảo cổ muốn tiến hành thăm dò, khai quật khảo cổ phải gửi hồ sơ xin phép thăm dò, khai quật khảo cổ đến Bộ Văn hoá - Thông tin.

2. Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin có trách nhiệm cấp giấy phép thăm dò, khai quật khảo cổ trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi nhận được hồ sơ xin phép thăm dò, khai quật khảo cổ; trường hợp không cấp giấy phép phải nêu rõ lý do bằng văn bản.

3. Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin ban hành quy chế về thăm dò, khai quật khảo cổ.

 

Đ i ề u 4 0

1. Người chủ trì cuộc thăm dò, khai quật khảo cổ phải có các điều kiện sau đây:

a) Có bằng cử nhân chuyên ngành khảo cổ học hoặc bằng cử nhân chuyên ngành khác có liên quan đến khảo cổ học;

b) Có ít nhất 5 năm trực tiếp làm công tác khảo cổ;

c) Được tổ chức xin phép thăm dò, khai quật khảo cổ đề nghị bằng văn bản với Bộ Văn hoá - Thông tin.

Trong trường hợp cần thay đổi người chủ trì thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin.

2. Tổ chức có chức năng nghiên cứu khảo cổ của Việt Nam được hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành thăm dò, khai quật khảo cổ tại Việt Nam theo quy định của pháp luật.

 

Page 19: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

M Ụ C 2D I V Ậ T , C Ổ V Ậ T , B Ả O V Ậ T Q U Ố C G I A

 

Đ i ề u 4 1

1. Mọi di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thu được trong quá trình thăm dò, khai quật khảo cổ và do tổ chức, cá nhân phát hiện, giao nộp phải được tạm nhập vào kho bảo quản của bảo tàng cấp tỉnh nơi phát hiện. Bảo tàng cấp tỉnh có trách nhiệm tiếp nhận, quản lý và báo cáo Bộ Văn hoá - Thông tin.

2. Căn cứ vào giá trị và yêu cầu bảo quản di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia quy định tại khoản 1 Điều này, Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin quyết định giao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia đó cho bảo tàng nhà nước có chức năng thích hợp.

3. Tổ chức, cá nhân phát hiện, giao nộp di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia được bồi hoàn chi phí phát hiện, bảo quản và được thưởng một khoản tiền theo quy định của pháp luật.

 

Đ i ề u 4 2

1. Bảo vật quốc gia được bảo vệ và bảo quản theo chế độ đặc biệt. Nhà nước dành ngân sách thích đáng để mua bảo vật quốc gia.

2. Bảo vật quốc gia phải được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân đăng ký di vật, cổ vật thuộc sở hữu của mình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin. Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia đã đăng ký được Nhà nước thẩm định miễn phí, hướng dẫn nghiệp vụ bảo quản và tạo điều kiện để phát huy giá trị.

Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin quy định cụ thể thủ tục đăng ký di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.

3. Khi thay đổi chủ sở hữu bảo vật quốc gia ở trong nước thì chủ sở hữu cũ phải thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin nơi đăng ký bảo vật quốc gia về họ, tên và địa chỉ của chủ sở hữu mới của bảo vật quốc gia đó trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thay đổi chủ sở hữu.

 

Đ i ề u 4 3

1. Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu toàn dân, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội phải được quản lý trong các bảo tàng và không được mua bán, tặng cho; di vật, cổ vật thuộc các hình thức sở hữu khác được mua bán, trao đổi, tặng cho và để thừa kế ở trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật; bảo vật quốc gia thuộc các hình thức sở hữu khác chỉ được mua bán, trao đổi, tặng cho và để thừa kế ở trong nước theo quy định của pháp luật.

Việc mang di vật, cổ vật ra nước ngoài phải có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin.

2. Việc mua bán di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia được thực hiện theo giá thoả thuận hoặc tổ chức đấu giá. Nhà nước được ưu tiên mua di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.

 

Đ i ề u 4 4

Việc đưa di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài để trưng bày, triển lãm, nghiên cứu hoặc bảo quản phải bảo đảm các điều kiện sau đây:

1. Có sự bảo hiểm từ phía tiếp nhận di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia;

2. Có quyết định của Thủ tướng Chính phủ cho phép đưa bảo vật quốc gia ra nước ngoài; quyết định của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin cho phép đưa di vật, cổ vật ra nước ngoài.

 

Đ i ề u 4 5

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải báo cáo Bộ Văn hoá - Thông tin về những di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia tịch thu được do tìm kiếm, mua bán, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu trái phép để Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin quyết định việc giao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia đó cho cơ quan có chức năng thích hợp.

 

Đ i ề u 4 6

Việc làm bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia phải bảo đảm các điều kiện sau:

1. Có mục đích rõ ràng;

Page 20: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

2. Có bản gốc để đối chiếu;

3. Có dấu hiệu riêng để phân biệt với bản gốc;

4. Có sự đồng ý của chủ sở hữu di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia;

5. Có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin.

 

M Ụ C 3B Ả O T À N G

 

Đ i ề u 4 7

Bảo tàng là nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập về lịch sử tự nhiên và xã hội (sau đây gọi là sưu tập) nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, giáo dục, tham quan và hưởng thụ văn hoá của nhân dân.

Bảo tàng Việt Nam bao gồm:

1. Bảo tàng quốc gia là nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập có giá trị tiêu biểu trong phạm vi cả nước;

2. Bảo tàng chuyên ngành là nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập có giá trị tiêu biểu về một chuyên ngành;

3. Bảo tàng cấp tỉnh là nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập có giá trị tiêu biểu ở địa phương;

4. Bảo tàng tư nhân là nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập về một hoặc nhiều chủ đề.

 

Đ i ề u 4 8

Bảo tàng có các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

1. Sưu tầm, kiểm kê, bảo quản và trưng bày các sưu tập;

2. Nghiên cứu khoa học về di sản văn hoá;

3. Tổ chức phát huy giá trị di sản văn hoá phục vụ lợi ích của toàn xã hội;

4. Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ;

5. Quản lý cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật;

6. Thực hiện hợp tác quốc tế theo quy định của pháp luật;

7. Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

 

Đ i ề u 4 9

Điều kiện để thành lập bảo tàng bao gồm:

1. Có sưu tập theo một hoặc nhiều chủ đề;

2. Có nơi trưng bày, kho và phương tiện bảo quản;

3. Có người am hiểu chuyên môn phù hợp với hoạt động bảo tàng.

 

Đ i ề u 5 0

1. Thẩm quyền quyết định thành lập bảo tàng được quy định như sau:

a) Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập bảo tàng quốc gia, bảo tàng chuyên ngành;

b) Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập bảo tàng cấp tỉnh, bảo tàng tư nhân.

2. Thủ tục thành lập bảo tàng được quy định như sau:

a) Tổ chức, cá nhân có nhu cầu thành lập bảo tàng phải gửi hồ sơ đề nghị thành lập đến người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều này. Hồ sơ đề nghị thành lập bảo tàng gồm văn bản đề nghị thành lập, giấy xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các điều kiện được quy định tại Điều 49 của Luật này;

Page 21: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

b) Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, người có thẩm quyền quyết định thành lập bảo tàng có trách nhiệm xem xét, quyết định; trường hợp từ chối phải nêu rõ lý do bằng văn bản.

 

Đ i ề u 5 1

1. Việc xếp hạng bảo tàng căn cứ vào các tiêu chuẩn sau đây:

a) Số lượng và giá trị các sưu tập;

b) Chất lượng bảo quản và trưng bày sưu tập;

c) Cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật;

d) Mức độ chuẩn hoá đội ngũ cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ.

2. Căn cứ vào mức độ đạt được các tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này, Chính phủ quy định cụ thể về việc xếp hạng bảo tàng.

 

Đ i ề u 5 2

Di sản văn hoá có trong nhà truyền thống, nhà lưu niệm phải được bảo vệ và phát huy giá trị theo quy định của Luật này.

 

Đ i ề u 5 3

Nhà nước khuyến khích chủ sở hữu tổ chức trưng bày, giới thiệu rộng rãi sưu tập, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu của mình.

Khi cần thiết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin có thể thoả thuận với chủ sở hữu về việc sử dụng di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia để phục vụ cho công tác nghiên cứu hoặc trưng bày tại các bảo tàng nhà nước.

Điều kiện, nội dung và thời hạn sử dụng di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia do cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chủ sở hữu thoả thuận bằng văn bản.

 

C H Ư Ơ N G VQ U Ả N L Ý N H À N Ư Ớ C V Ề D I S Ả N V Ă N H O Á

 

M Ụ C 1N Ộ I D U N G Q U Ả N L Ý N H À N Ư Ớ C V À C Ơ Q U A N Q U Ả N L Ý N H À N Ư Ớ C

V Ề D I S Ả N V Ă N H O Á

 

Đ i ề u 5 4

Nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hoá bao gồm:

1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;

2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hoá;

3. Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hoá;

4. Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn về di sản văn hoá;

5. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;

6. Tổ chức, chỉ đạo khen thưởng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;

7. Tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;

8. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hoá.

 

Đ i ề u 5 5

Page 22: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn hoá.

2. Bộ Văn hoá - Thông tin chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về di sản văn hoá.

3. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm quản lý nhà nước về di sản văn hoá theo phân công của Chính phủ.

Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc phối hợp với Bộ Văn hoá - Thông tin để thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn hoá.

4. Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình thực hiện việc quản lý nhà nước về di sản văn hoá ở địa phương theo phân cấp của Chính phủ.

 

Đ i ề u 5 6

Hội đồng di sản văn hoá quốc gia là hội đồng tư vấn của Thủ tướng Chính phủ về di sản văn hoá.

Thủ tướng Chính phủ quy định tổ chức và hoạt động của Hội đồng di sản văn hoá quốc gia.

 

M Ụ C 2N G U Ồ N L Ự C C H O C Á C H O Ạ T Đ Ộ N G B Ả O V Ệ V À P H Á T H U Y

G I Á T R Ị D I S Ả N V Ă N H O Á

 

Đ i ề u 5 7

Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các hội về văn học và nghệ thuật, khoa học và công nghệ tham gia các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá.

Nhà nước khuyến khích việc xã hội hoá hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá.

 

Đ i ề u 5 8

Nguồn tài chính để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá bao gồm:

1. Ngân sách nhà nước;

2. Các khoản thu từ hoạt động sử dụng và phát huy giá trị di sản văn hoá;

3. Tài trợ và đóng góp của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.

 

Đ i ề u 5 9

Nhà nước ưu tiên đầu tư ngân sách cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích quốc gia đặc biệt, bảo tàng quốc gia, bảo vật quốc gia, di tích lịch sử cách mạng và di sản văn hoá phi vật thể có giá trị tiêu biểu.

 

Đ i ề u 6 0

Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc được giao quản lý, sử dụng di tích, sưu tập, bảo tàng được thu phí tham quan và lệ phí sử dụng di tích, sưu tập, bảo tàng theo quy định của pháp luật.

 

Đ i ề u 6 1

1. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân đóng góp, tài trợ cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá.

2. Việc đóng góp, tài trợ cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá được xem xét ghi nhận bằng các hình thức thích hợp.

 

Đ i ề u 6 2

Nguồn tài chính dành cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá phải được quản lý, sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.

Page 23: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

 

M Ụ C 3H Ợ P T Á C Q U Ố C T Ế V Ề D I S Ả N V Ă N H O Á

 

Đ i ề u 6 3

Nhà nước có chính sách và biện pháp đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; góp phần phát huy giá trị di sản văn hoá thế giới, tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc.

 

Đ i ề u 6 4

Nhà nước khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá Việt Nam theo quy định của pháp luật.

 

Đ i ề u 6 5

Nội dung hợp tác quốc tế về di sản văn hoá bao gồm:

1. Xây dựng và thực hiện chương trình, dự án hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;

2. Tham gia các tổ chức và điều ước quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;

3. Nghiên cứu khoa học, ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ hiện đại trong lĩnh vực bảo quản, tu bổ di tích, xây dựng bảo tàng, khai quật khảo cổ;

4. Trao đổi các cuộc triển lãm về di sản văn hoá;

5. Hợp tác trong việc bảo hộ di sản văn hoá của Việt Nam ở nước ngoài;

6. Đào tạo, bồi dưỡng, trao đổi thông tin và kinh nghiệm trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá.

 

M Ụ C 4T H A N H T R A V À G I Ả I Q U Y Ế T K H I Ế U N Ạ I , T Ố C Á O V Ề D I S Ả N

V Ă N H O Á

 

Đ i ề u 6 6

Thanh tra nhà nước về văn hoá - thông tin thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về di sản văn hoá, có nhiệm vụ:

1. Thanh tra việc chấp hành pháp luật về di sản văn hoá;

2. Thanh tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;

3. Phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền đối với các hành vi vi phạm pháp luật về di sản văn hoá;

4. Tiếp nhận và kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về di sản văn hoá;

5. Kiến nghị các biện pháp để bảo đảm thi hành pháp luật về di sản văn hoá.

 

Đ i ề u 6 7

Đối tượng thanh tra có các quyền và nghĩa vụ sau đây:

1. Yêu cầu đoàn thanh tra xuất trình quyết định thanh tra, thanh tra viên xuất trình thẻ thanh tra viên và thực hiện đúng pháp luật về thanh tra;

2. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về quyết định thanh tra, hành vi của thanh tra viên và kết luận thanh tra khi thấy có căn cứ cho là không đúng pháp luật;

3. Yêu cầu bồi thường thiệt hại do các biện pháp xử lý không đúng pháp luật của đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên gây ra;

Page 24: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

4. Thực hiện yêu cầu của đoàn thanh tra, thanh tra viên, tạo điều kiện để thanh tra thực hiện nhiệm vụ; chấp hành các quyết định xử lý của đoàn thanh tra, thanh tra viên theo quy định của pháp luật.

 

Đ i ề u 6 8

1. Tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc thi hành pháp luật về di sản văn hoá.

2. Cá nhân có quyền tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật về di sản văn hoá với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.

3. Thẩm quyền, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo và khởi kiện được thực hiện theo quy định của pháp luật.

 

C H Ư Ơ N G V IK H E N T H Ư Ở N G V À X Ử L Ý V I P H Ạ M

 

Đ i ề u 6 9

Tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá được khen thưởng theo quy định của pháp luật.

 

Đ i ề u 7 0

Người nào phát hiện được di sản văn hoá mà không tự giác khai báo, cố tình chiếm đoạt hoặc có hành vi gây hư hại, huỷ hoại thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật; di sản văn hoá đó bị Nhà nước thu hồi.

 

Đ i ề u 7 1

Người nào vi phạm các quy định của pháp luật về di sản văn hoá thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

 

Đ i ề u 7 2

Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định của pháp luật về di sản văn hoá thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

 

C H Ư Ơ N G V I IĐ I Ề U K H O Ả N T H I H À N H

 

Đ i ề u 7 3

Luật này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2002.

Những quy định trước đây trái với Luật này đều bãi bỏ.

 

Đ i ề u 7 4

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này.

 

Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2001.

LUẬT DI SẢN VĂN HOÁ SỐ 28/2001/QH10

Page 25: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

1. Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hoá ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác.

Cau 4

Di tích Việt Nam

Bách khoa toàn thư mở WikipediaBước tới: menu, tìm kiếm

Di tích quốc gia đặc biệt đền Hùng ở Phú Thọ

Di tích văn hóa Miếu Bà Chúa Xứ ở An Giang

Di tích cách mạng Nghĩa trang Trường Sơn ở Quảng Trị

Page 26: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Di tích kiến trúc nghệ thuật nhà thờ đá Phát Diệm ở Ninh Bình

Di tích khảo cổ Hoàng thành Thăng Long ở Hà Nội

Di tích là dấu vết của quá khứ còn lưu lại trong lòng đất hoặc trên mặt đất có ý nghĩa về mặt văn hóa và lịch sử”[1]. Ở Việt Nam, một di tích khi đủ các điều kiện sẽ được công nhận theo thứ tự: di tích cấp tỉnh, di tích cấp quốc gia và di tích quốc gia đặc biệt. Tính đến tháng 8/2010, Việt Nam có hơn 40.000 di tích, thắng cảnh trong đó có hơn 3000 di tích được xếp hạng di tích quốc gia và hơn 5000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh.[2] Mật độ và số lượng di tích nhiều nhất ở 11 tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng với tỷ lệ chiếm khoảng 70% di tích của Việt Nam.[3]

[sửa] Phân loại di tích

Căn cứ Điều 4 Luật di sản văn hoá, Điều 14 Nghị định số 92/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hoá, các di tích được phân loại như sau:[4]

[sửa] Di tích lịch sử - văn hoá

Di tích lịch sử - văn hoá là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học. Di tích lịch sử - văn hoá phải có một trong các tiêu chí sau đây:

Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá trình dựng nước và giữ nước. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như đền Hùng, Cổ Loa, cố đô Hoa Lư, chùa Thiên Mụ, Cột cờ...

Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân của đất nước. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như khu di tích lịch sử Kim Liên, đền Kiếp Bạc, Lam Kinh, đền Đồng Nhân...

Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời kỳ cách mạng, kháng chiến. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như khu di tích chiến thắng Điện Biên Phủ, Địa đạo Củ Chi, khu di tích lịch sử cách mạng Pắc Bó...

Năm 2010, di tích lịch sử chiếm 51.2% số di tích được xếp hạng.[5]

[sửa] Di tích kiên trúc nghệ thuật

Di tích kiến trúc nghệ thuật là công trình kiến trúc nghệ thuật, tổng thể kiến trúc đô thị và đô thị có giá trị tiêu biểu trong các giai đoạn phát triển nghệ thuật kiến trúc của dân tộc. Quần thể các công trình kiến trúc hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử. Các di tích tiêu biểu loại này như phố cổ Hội An, nhà thờ Phát Diệm, chùa Keo,...

Năm 2010, di tích kiến trúc nghệ thuật chiếm 44.2% tổng số di tích được xếp hạng.

[sửa] Di tích khảo cổ

Di tích khảo cổ là những địa điểm khảo cổ có giá trị nổi bật đánh dấu các giai đoạn phát triển của các văn hoá khảo cổ. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như Hoàng thành Thăng Long, hang Con Moong, di chỉ Đông Sơn, động Người Xưa, thánh địa Mỹ Sơn

Năm 2010, di tích khảo cổ chiếm 1.3% các di tích được xếp hạng.

[sửa] Di tích thắng cảnh

Di tích thắng cảnh (danh lam thắng cảnh) là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học. Danh lam thắng cảnh phải có một trong các tiêu chí sau đây:

Page 27: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như vịnh Hạ Long, động Phong Nha, các vườn quốc gia ở Việt Nam.

Khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù hoặc khu vực thiên nhiên chứa đựng những dấu tích vật chất về các giai đoạn phát triển của trái đất. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như vịnh Hạ Long, cao nguyên Đồng Văn, các khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam.

Danh lam thắng cảnh chiếm khoảng 3.3% số di tích được xếp hạng.

[sửa] Phân cấp di tích

Căn cứ vào giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh (gọi chung là di tích) được chia thành:

Di tích cấp tỉnh là di tích có giá trị tiêu biểu của địa phương. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh.

Di tích quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia. Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin quyết định xếp hạng di tích quốc gia.

Di tích quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia. Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt; quyết định việc đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc xem xét đưa di tích tiêu biểu của Việt Nam vào Danh mục di sản thế giới.

Trong trường hợp di tích đã được xếp hạng mà sau đó có đủ căn cứ xác định là không đủ tiêu chuẩn hoặc bị huỷ hoại không có khả năng phục hồi thì người có thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích nào có quyền ra quyết định huỷ bỏ xếp hạng đối với di tích đó.

Cau 5

Khảo cổ học là ngành khoa học nghiên cứu những nền văn hoá của loài người qua tiến trình phục chế, tìm hiểu tài liệu và phân tích những dữ liệu về văn hoá và môi trường, trong đó gồm: kiến trúc, vật tạo tác, di tích tự nhiên, hài cốt cũng như phong cảnh. Mục đích của khảo cổ học là đưa ra lời giải đáp đầy đủ về nguồn gốc và sự phát triển của loài người, của văn hoá loài người và tiến trình tiến hoá, bề dày lịch sử của nó. Đây là môn khoa học duy nhất đã phát triển phương pháp và lý thuyết cụ thể đối với việc thu thập và giải mã những thông tin về thời tiền sử, do đó cũng rất có ích đối với hiểu biết của chúng ta về những xã hội có chữ viết. Những phân ngành của khảo cổ học gồm có: khảo cổ học văn hoá (nghiên cứu chiều sâu vật chất, tượng trưng và hành vi của những nền văn hoá), khảo cổ học ngôn ngữ (để nghiên cứu nguồn gốc những nhóm ngôn ngữ khác nhau), nhân chủng học tự nhiên (nghiên cứu nguồn gốc loài người). Một số ngành độc lập khác cũng giúp ích đáng kể cho khảo cổ học, như cổ sinh vật học - mà nhất là cổ động vật học, cổ dân tộc thực vật học, cổ thực vật học.

Cau 11Ý nghĩa cây, con trong hệ thống di tích

Có nhiều loài vật, hay cây rất gần gũi với cúng ta, nhưng trong tâm linh, nó còn mang thêm nhiều ý nghĩa biểu tượng nữa. Bạn hãy thử xem liệu bạn đã biết hết chưa?

LINH VẬT

1. TỨ LINH, gồm:Li: biểu tượng cơ sở nền tảng vững chắc để phát triển.Lân: sự canh giữ, bảo vệ[SIZE="3"]Phượng:[/SIZE] thần quyền, thế quyền, âm tính,

Page 28: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

[SIZE="3"]Long:[/SIZE] thần quyền, thế quỳên, dương tính, vương quyền.Tương truyền, rồng sống được 81 năm, đẻ trứng 10 quả, 1 trứng nở ra rồng (theo quan niệm của Việt Nam)

Con Rồng có chín đặc điểm quan trọng: -Thân của rắn, -vẩy của cá chép, -đầu của lạc đà, -sừng của hươu, -mắt của thỏ (hoặc của giống quỷ), -bụng của con sò thần, -gan bàn chân của hổ, -móng vuốt của đại bàng, -trên trán có gò nổi lên gọi là Xích Mộc.

Ngoài ra còn có nhiều đặc điểm để con Rồng thành tối linh toàn hảo: -tai của bò, -mũi và bờm sư tử, -hai sợi râu dài hai bên mũi, chòm râu dưới cằm, có 81 vảy dương và 36 vảy âm, mỗi chân có 5 móng. Thiếu những điều ấy, rồng vẫn là rồng, nhưng không phải là loài rồng tối thượng. Và khi con rồng xuất hiện, sẽ cuộn mình chín khúc, trước miệng có hạt châu.

Rồng ở trên trời, dưới biển, trong lòng đất, dưới đáy sông hồ vực thẳm, trong giếng sâu, ngoài đồng rộng. Rồng hóa mây mù sương tuyết, phun mưa vẫy gió, quẫy sóng nổi lửa. Mưa trên trời do rồng phun nước, núi lửa dưới đất do rồng phun lửa, động đất cũng do rồng quẫy đạp.

Rồng đứng đầu trong tất cả các giống linh thú, thần thú, trên trời, dưới biển, mặt đất, sông hồ. Rồng đứng đầu Tứ linh : Long - Lân - Quy - Phượng. Ba giống sau là tượng trưng cho quyền năng của loài thú trên mặt đất (Lân), của loài thủy tộc (Quy), của loài chim trời (Phượng), còn Rồng bao gồm tất thảy.

Rồng đứng đầu trong tứ tượng của bốn phương vũ trụ: Thanh long - Bạch hổ - Chu tước - Huyền vũ, là Thần chủ phương Đông, gồm tám chòm sao: Giác - Cang - Đê - Phòng - Tâm - Vĩ - Cơ. Rồng là biểu tượng của vua, con rồng hoàn hảo chỉ dành cho vua, cho bầu trời, cho Thượng đế. Ngay những vị thần cũng không được mang hình con rồng tối thượng đó.

Tương truyền, rồng sống được 81 năm, đẻ trứng 10 quả, 1 trứng nở ra rồng (theo quan niệm của Việt Nam ) còn chín con với hình dáng và sở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau. Các con n ày đ ều có mình rồng nhưng rất dễ nhận biết, do sự khác nhau về vị trí của chúng.(Nếu xem nhiều phim Trung Quốc cổ trang, mọi người chắc thấy ngay đủ mấy con này)

Bị hí

Page 29: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Bị hí

(tên khác là bá hạ, bát phúc, thạch long qui) là con trưởng của rồng - linh vật có hình dáng thân rùa, đầu rồng. Bị hí ưa đội nặng, lại có sức mạnh vượt bậc, chịu được trọng lượng lớn nên thường được chạm khắc trang trí làm bệ đỡ cho các bệ đá, cột đá, bia đá...

Li vẫn

Page 30: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Li vẫn

(còn gọi là si vẫn) - con thứ hai của rồng, là linh vật có đầu rồng, miệng rộng, thân ngắn, thích coi giữ, thích ngắm cảnh nên được chạm khắc làm vật trang trí trên nóc các cung điện cổ, chùa chiền, đền đài...

Biến thể của li vẫn là con cù, mỗi khi nó vẫy đuôi là có mưa và thường giúp dân diệt hỏa hoạn nên được tạc trên nóc điện, chùa ngụ ý cầu trấn hỏa, bảo vệ bình yên cho công trình.

Nếu bạn nào tới đền Ngọc Sơn , có thể nhìn thấy Li vẫn ở ngay trên nóc đền. (đang ngắm cảnh Hồ Gươm)

Bồ lao

Page 31: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Bồ lao

Con thứ ba của rồng, là linh vật thích âm thanh lớn, là loài vật ở biển. Khi giao chiến với cá kình thì kêu lên rất to. Trong tiếng H án, “ cá Kình’’ đồng âm với “chuông’ nên Bồ lao thường được đúc trên quai chuông với mong muốn chiếc chuông được đúc có âm thanh như ý muốn.

Ngạn bệ

Ngạn bệ

(còn gọi là bệ lao, hiến chương) là con thứ tư của rồng, có hình dáng giống hổ, răng

Page 32: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

nanh dài và sắc, có sức thị uy lớn. Theo truyền thuyết, ngạn bệ rất thích lý lẽ và có tài cãi lý đòi sự công bằng khi có bất công, nhờ vậy bệ ngạn thường được đặt ở cửa nhà ngục hay pháp đường, ngụ ý răn đe người phạm tội và nhắc nhở mọi người nên sống lương thiện.

Hiệu xan

Hiệu xan

con thứ năm của rồng, là linh vật có đôi mắt to, miệng rộng, dáng vẻ kỳ lạ. Hiệu xan tham ăn vô độ, được đúc trên các đồ dùng trong ăn uống, tránh hư hỏng món ăn.

Biến thể là hổ phù mang ý nghĩa cầu lửa và giữ lửa.

Công hạ

Page 33: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Công hạ

con thứ sáu của rồng, là linh vật thích nước nên được khắc làm vật trang trí ở các công trình hay phương tiện giao thông đường thủy như cầu, rãnh dẫn nước, đập nước, bến tàu, thuyền bè... với mong muốn công hạ luôn tiếp xúc, cai quản, trông coi lượng nước phục vụ muôn dân.

Nhai tỳ

Nhai tỳ

Con thứ bảy của rồng - là linh vật có tính khí hung hăng, thường nổi cơn thịnh nộ và ham sát sinh, thường được chạm khắc trên các vũ khí như đao, búa, kiếm, xà... ngụ ý thị uy, làm tăng thêm sức mạnh và lòng can đảm của các chiến binh nơi trận mạc.

Toan nghê

Page 35: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

(còn gọi là kim nghê) - con thứ tám của rồng - linh vật có mình sư tử, đầu rồng, thích sự tĩnh lặng và thường ngồi yên ngắm cảnh khói hương tỏa lên nghi ngút. Toan nghê được đúc làm vật trang trí trên các lò đốt trầm hương, ngụ ý mong muốn hương thơm của trầm hương luôn tỏa ngát.

Tiêu đồ

Tiêu đồ

(còn gọi là phô thủ) - con thứ chín của rồng - là linh vật có tính khí lười biếng, thường cuộn tròn nằm ngủ, không thích có kẻ lạ xâm nhập lãnh địa của mình. Tiêu đồ được khắc trên cánh cửa ra vào, đúng vào vị trí tay cầm khi mở, ngụ ý răn đe kẻ lạ muốn xâm nhập nhằm bảo vệ sự an toàn cho chủ nhà.

Ở Trung Quốc còn quan niệm con thứ mười của Rồng là con Tì hưu, tương truyền nó không có hậu môn, chỉ ăn tiền bạc.

Việt Nam, cũng có tục thờ Tỳ hưu, ngụ ý tiền vào được mà không ra được.

Rồng có nhiều biến thể (kiểu như pokemon). Ngoài các con nói trên, gia đình rồng còn có một số linh vật khác như: tù ngưu - linh vật giỏi về âm nhạc; trào phong - linh

Page 36: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

vật được gắn trên nóc nhà ngụ ý chống cháy và thị uy kẻ xấu (giống li vẫn); phụ hí - linh vật bảo vệ bia mộ.

Tù ngưu

Trào phong

Page 38: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

2. Chó: là con vật trung thành với người; biểu trưng cho sự may mắn tốt lành, giàu sang: sự linh thiêng trong việc bảo vệ bình an cho con người.Những ngôi mộ cổ thường yểm tượng chó đá sđể bảo vệ cho linh hồn người quá cố.

3.Hổ : được gọi là ông ba mươi vì quan niệm rằng hổ sống khoảng 30 tuổi.Hổ được coi là môn thần (thần cửa) của con người, Người ta thường dán tranh hổ ở của ra vào , vào dịp Tết để trừ tà ma.Hình tượng của hổ không thể thiếu trong di tích, thường có mặt ở chính điện; trên bình phong trước cửa ra vào’ hoặc hai bên miếu nhỏ của di tích với much đích bảo vệ và canh giữ.Hổ là mãnh thú bảo vệ thần Phật , không bảo vệ con người-Ban ngũ hổ gồm Thanh hổ canh giữ mùa xuân, phương Đông-Bạch hổ canh giữ mùaThu, phương Tây- Hắc hổ canh giữ mùa, phương Bắc-Xích hổ canh giữ mùa hè, phương Nam- Hoàng hổ canh giữ vị trí trung tâm, 4 phương.

Page 39: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

4.Con gà: Dán tranh gà trống ở cửa ra vào, vào dịp Tết với tưc cách là môn thần để trừ tà ma, bảo vệ cho gia chủ. Con gà xuất hiện trong mâm cúng của người dan, biểu hiện tục thờ lửa thiêng của con người. Gà biểu trưng cho mong muốn đạt được năm cái đức của người quân tử: văn, vũ, dũng, nhân, tín.

5. Con cóc: trên trống đồng Đông Sơn, thể hiện sự điềm tĩnh, nghiêm nghị của bậc quân tử và của nhà nho (với cái bụng to chứa nhiều chữ). Cóc còn biểu trưng cho thế lực siêu nhiên có thể điều khiển được cả trời. Hình tượng cóc là hình tượng để cầu nước cho mùa màng bội thu của cư dân nông nghiệp.

6. Con dơi: con dơi giống hình chữ “Phúc” trong chữ Hán. Dơi biểu trưng cho sự lưỡng tính, sự giao thoa giữa ngày và đêm, sự hoà hợp giữa âm và dương. Thường xuất hiện ở cửa ra vào với mong muốn cầu phúc, hoà hợp âm dương. Dơi thường được tac năm con (ngũ phúc) : phú, quý, thọ, khang, ninh.

7. Voi (voi đứng ở Huế, voi quỳ trong các đền thờ thánh thần ở miền Bắc). Voi là phương tiện để thánh thần và vua chúa tuần du xẽmét nhân thế, Trong Phật giáo, voi biểu trưng cho chân lý tuyệt đối, biểu tượng cho phẩm hạnh của bồ tát, từ bi, cứu độ.

8. Con ngựa: biểu trưng cho lòng trung thành tuyệt đối, sự trung thực thẳng thắn. Thần ngựa hướng vè ánh sáng, nên các đền thờ Mã Thần thường được xây ở cửa ngõ phía Đông ra vào kinh đô (ở Hà Nội có đền Bạch Mã trấn phía Đông).Thờ ngựa thể hiện mong muốn rút ngắn khoảng cách giữa người và thần linh để những lời xin sẽ nhanh chóng đến với thần.

9. Con lợn: cầu giàu sang, no đủ, hiền lành, bình yên, biểu trưng cho mong muốn phát triển thịnh vượng, yên ổn.

10.Chim Hạc: Còn gọi là đại điểu là con chim của vũ trụ, của tầng cao, báo hiệu sự chuyển mùa, , đại diện cho thế lực siêu nhiên từ trời cao mang tới. Trong hình tượng trang trí, hạc có kích thước lớn, cao với ước mong phát triển của con người; mỏ dài, nhọn như mũi tên của sự vận động; đôi khi nó ngậm ngọc minh châu biểu trưng cho sang quý, hoặc khi ngậm hoa sen thì biểu trưng cho giác ngộ.Trên đầu hạc thường đội đèn nến thể hiện sự tôn thờ ánh sáng chân lý, ánh sáng giác ngộ, xua đi bóng đen đêm tối.Thân hạc hình khum, tượng trưng cho bầu trời, chân cao như chột chống trời.

Ý NGHĨA LINH THIÊNG CÁC LOÀI CÂY

Hình tượng cỏ cây trong hệ thống di tích

Trong giới sinh học thuộc về các loài cây cỏ, người Việt nam quan niệm: cây cỏ được chia làm ba nhóm:Nhóm 1: đại cổ thụNhóm 2: gồm những cây khẳng khiu, ngoằn ngoèo, nhiều cànhNhóm 3: Những cây thấp, lùm bụi.

Page 40: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Trong đó mỗi cây mang một ý nghĩa biểu tượng khác nhau.Về nhóm 1: là những cây có tư cách thần linh (vì cổ, già), lại gồm có mộc tinh (linh lực tự kết tinh nảy sinh từ cây) và mộc thần (thần linh đi qua dừng lại trú ngụ). Nên những cây nhóm 1 được coi là “trụ sở” của các vịt hần cai quản một vùng đât, là nơi trú ngụ của hững linh hồn bơ vơ, không nơi nương tựa; trở thành vật nối giữa trời và đất, là chiếc thang để về trời.Trong hệ thống di tích, cây đa trở thành vật chứng của di tích, đôi khi chính nó trở thành di tích.Nhóm 2: những cành lá rậm rạp (như cây đại): được coi là cây “thiên mệnh” có chức năng kết nối, troẻ thành đường dẫn để găns kết giữa trời và đất, đường dẫn chứa sinh khí của trời ban cho đất, là mạch sống.Nhóm 3: Lùm bụi, cây rậm rạp, thấp nhỏ. Trong quan niệm dân gian, trú ngụ ẩn náu của những linh hồn bơ vơ, phiêu dạt

Các cây điển hình.

+Cây BỒ ĐỀ :Được coi là cây Phật vì ó gắn với sự hình thành đạo của đức Thích Ca Mầu Ni (Sakyamuni): biểu tượng cho sự bình yên, che chở nương tựa, bảo vệ cho chúng sinh; thường được trồng hoặc tự mọc ở trong các chùa chiền hoặc ven đường nơi có các sự biến.

+Cây ĐA: Trở thành biểu tượng của một vùng đất, định vị nơi cư trú yên ổn của con người, nó góp phần tạo nên hình tượng văn hoá và truyền thống của làng quê Việt bắc bộ; ngoìa ra còn là nơi ngụ của chính thần. Cây đa còn hay được trồng ở đầu làng, trở thành vật chuẩn để chỉ đường, nơi dừng chân của khách bộ hành.

+Cây GẠO: Tiếng Hán là mộc miên(nghĩa là cây ngủ), ở vùng Tây nguyên gọi là cây Pơlan.Cây gạo hay được trồng ở bãi tha ma, ven triền sông, bến đò, bến phà, góc chợ. Bông hoa gạo có màu đỏ rực như nến đang cháy; khi rơi thì hoa gạo rơi nhanh biêủ tượng cho sao băng và một người đã qua đời. Ở Tây Nguyên, trong lễ đâm trâu, bông gạo sẽ chuyển linh hồn của trâu về trời.

+Cây CAU: mang nhiều ý nghĩa biểu tượng: như đối với hôn nhan biểu tượng cho người đàn ông; biểu tượng cho cuộc đời mới, mối tình mới. Cây cau dáng thẳng biểu trưng cho sự dẻo dai, kiên cường, trung trinh, ngay thẳng. Quả cau xum xuê thể hiện ước mong phồn thực. Khi thờ cúng chỉ dùng cau số lẻ và không được dùng dao để cắt, chỉ được xé.

+Cây SUNG: Vô ưu, không ưu phiền, không suy nghĩ, cây thuộc dạng lành tính. Chùm sung có nhiều quả mang ý nghĩa về sự no đủ, phồn vinh. Sung là món ăn của người tu hành để diệt dục.

+ Cây SỨ và cây ĐẠI (cùng họ đại): tượng trưng cho sự vững chắc, trong sạch. Hoa đại được gọi là hoa Chămpa- cái tên gợi lên sự thiêng liêng. Hoa đại xuất phát gần con sông Hằng ở Ấn Độ, quê gốc các nhà truyền giáo, nên tiếng “hoa chăm pa” là tên gọi sự thiêng liêng, gọi nguồn cội, thành kính.Đại dễ mọc, biểu trưng cho sự thích nghi của đạo Phật: sống lâu, biểu tượng cho trường thọ, trường tồn. Cành, lá hoa đại hướng lên trên được cho là như những bàn tay vươn lên hứng sinh lực của trời , Phật, ban cho chúng sinh. Hoa đại thơm, mùi thơm thoát tục của sự giải thoát.

LƯU Ý: Bên cạnh nhà để xe ở Thanh Xuân đang có một cây đại đang nở hoa.

Page 41: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

+Cây MÍT, tiếng Phạn là balamật (cũng là tiếng gọi cây đa), có nghĩa là “bến bờ của giác ngộ”.Tên “balamật” gắn liền với vị la hán Balamậtda, mang ý nghĩa luôn nhìn lại phía sau xem nền tảng, nguồn gốc.Thân mít có hồn. Quả mít có nhiều gai, chống lại thói hư tật xấu bên ngoài. Gỗ mịt để tạc tượng Phật, làm trống cho tiếng trống vang xa.

+Cây TRE, TRÚC : vừ mềm dẻo, vừa kiên cường như người Việt nam kiên cường bất khuất.Trúc còn tượng trưng cho người quân tử khẳng khái, tiết tháo, cương thưòng. Cành tre trúc thường xuất hiện trong đám tang, mang ý nghĩa trừ tà ma và sự đứt đoạn, ly tán trong đời sống con người.

+Cây TÙNG,BÁCH thuộc họ lá kim, sống ở ôn đới, trên các vùng núi có độ cao lớn. Nó thuộc hệ lá kim nên khi gió thổi qua, thường phát ra tiếng kêu, nghe như bản nhạc của đại ngàn mà dân gian thường gọi đó là “reo”,Tùng và bách tượng trưng cho sự hiên ngang, kiêu hãnh, luôn đứng thẳng, vươn lên trên trời cao, chống chọi với gió mưa và bão táp, do vậy nó tượng trưng cho khí tiết của người quân tử, bậc danh sĩ tượng trưng cho chính nghĩa và sự bất diệt.

Nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộcCác nhà sử học thống nhất ý kiến ở một điểm: Việt Nam có một cộng đồng văn hóa khá rộng lớn được hình thành vào khoảng nửa đầu thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên và phát triển rực rỡ vào giữa thiên niên kỉ này. Đó là cộng đồng văn hóa Đông Sơn.

Cộng đồng văn hóa ấy phát triển cao so với các nền văn hóa khác đương thời trong khu vực, có những nét độc đáo riêng nhưng vẫn mang nhiều điểm đặc trưng của văn hóa vùng Đông Nam Á, vì có chung chủng gốc Nam Á (Mongoloid phương Nam) và nền văn minh lúa nước.

Những con đường phát triển khác nhau của văn hóa bản địa tại các khu vực khác nhau (lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả...) đã hội tụ với nhau, hợp thành văn hóa Đông Sơn. Đây cũng là thời kỳ ra đời nhà nước "phôi thai" đầu tiên của Việt Nam dưới hình thức cộng đồng liên làng và siêu làng (để chống giặc và đắp giữ đê trồng lúa), từ đó các bộ lạc nguyên thuỷ phát triển thành dân tộc.

Giai đoạn văn hóa Văn Lang-Âu Lạc (gần năm 3000 đến cuối thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên) vào thời đại đồ đồng sơ khai, trải 18 đời vua Hùng, được coi là đỉnh cao nhất của lịch sử văn hóa Việt Nam, với sáng tạo tiêu biểu là trống đồng Đông Sơn và kỹ thuật trồng lúa nước ổn định.

Page 42: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Sau giai đoạn chống Bắc thuộc có đặc trưng chủ yếu là song song tồn tại hai xu hướng Hán hóa và chống Hán hóa, giai đoạn Đại Việt (từ thế kỉ 10 đến 15) là đỉnh cao thứ hai của văn hóa Việt Nam. Qua các triều đại nhà nước phong kiến độc lập, nhất là với hai cột mốc các triều Lý-Trần và Lê, văn hóa Việt Nam được gây dựng lại toàn diện và thăng hoa nhanh chóng có sự tiếp thu ảnh hưởng to lớn của Phật giáo và Nho giáo.

Sau thời kì hỗn độn Lê-Mạc và Trịnh-Nguyễn chia cắt đất nước, rồi từ tiền đề Tây Sơn thống nhất đất nước và lãnh thổ, nhà Nguyễn tìm cách phục hưng văn hóa dựa vào Nho giáo, nhưng lúc ấy Nho giáo đã suy tàn và văn hóa phương Tây bắt đầu xâm nhập nước ta. Kéo dài cho tới khi kết thúc chế độ Pháp thuộc là sự xen cài về văn hóa giữa hai xu hướng Âu hóa và chống Âu hóa, là sự đấu tranh giữa văn hóa yêu nước với văn hóa thực dân.

Giai đoạn văn hóa Việt Nam hiện đại được hình thành kể từ những năm 20-30 của thế kỷ này, dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Mác-Lênin. Với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền văn minh thế giới hiện đại, đồng thời giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, văn hóa Việt Nam hứa hẹn một đỉnh cao lịch sử mới.

Có thể nói xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam, đã có ba lớp văn hóa chồng lên nhau là lớp văn hóa bản địa, lớp văn hóa giao lưu với Trung Quốc và khu vực, lớp văn hóa giao lưu với phương Tây. Nhưng đặc điểm chính của Việt Nam là nhờ gốc văn hóa bản địa vững chắc nên đã không bị ảnh hưởng văn hóa ngoại lai đồng hóa, trái lại còn biết sử dụng và Việt hóa các ảnh hưởng đó làm giầu cho nền văn hóa dân tộc.

Văn hóa dân tộc Việt Nam nảy sinh từ một môi trường sống cụ thể: xứ nóng, nhiều sông nước, nơi gặp gỡ của nhiều nền văn minh lớn. Điều kiện tự nhiên (nhiệt, ẩm, gió mùa, sông nước, nông nghiệp trồng lúa nước...) đã tác động không nhỏ đến đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của dân tộc, đến tính cách, tâm lý con người Việt Nam.

Tuy nhiên, điều kiện xã hội và lịch sử lại là những yếu tố chi phối rất lớn đến văn hóa và tâm lý dân tộc. Cho nên cùng là cư dân vùng trồng lúa nước, vẫn có những điểm khác biệt về văn hóa giữa Việt Nam với Thái Lan, Lào, Indonesia, Ấn Độ... Cùng cội nguồn văn hóa Đông Nam Á, nhưng do sự thống trị lâu dài của nhà Hán, cùng với việc áp đặt văn hóa Hán, nền văn hóa Việt Nam đã biến đổi theo hướng mang thêm các đặc điểm văn hóa Đông Á.

Dân tộc Việt Nam hình thành sớm và luôn luôn phải thực hiện các cuộc chiến tranh giữ nước, từ

Page 43: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

đó tạo nên một đặc trưng văn hóa nổi bật: tư tưởng yêu nước thấm sâu và bao trùm mọi lĩnh vực. Các yếu tố cộng đồng có nguồn gốc nguyên thuỷ đã sớm được cố kết lại, trở thành cơ sở phát triển chủ nghĩa yêu nước và ý thức dân tộc.

Chiến tranh liên miên, đó cũng là lý do chủ yếu khiến cho lịch sử phát triển xã hội Việt Nam có tính bất thường, tất cả các kết cấu kinh tế - xã hội thường bị chiến tranh làm gián đoạn, khó đạt đến điểm đỉnh của sự phát triển chín muồi. Cũng vì chiến tranh phá hoại, Việt Nam ít có được những công trình văn hóa-nghệ thuật đồ sộ, hoặc nếu có cũng không bảo tồn được nguyên vẹn.

Việt Nam gồm 54 dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ, mỗi dân tộc một sắc thái riêng, cho nên văn hóa Việt Nam là một sự thống nhất trong đa dạng. Ngoài văn hóa Việt-Mường mang tính tiêu biểu, còn có các nhóm văn hóa đặc sắc khác như Tà-Nùng, Thái, Chàm, Hoa-Ngái, Môn-Khmer, H’Mông-Dao, nhất là văn hóa các dân tộc Tây Nguyên giữ được những truyền thống khá phong phú và toàn diện cuả một xã hội thuần nông nghiệp gắn bó với rừng núi tự nhiên.

Khái quát về các lĩnh vực văn hóa chủ yếu:

Triết học và tư tưởng

Lúc đầu chỉ là những yếu tố tự nhiên nguyên thuỷ thô sơ về duy vật và biện chứng, tư tưởng người Việt trộn lẫn với tín ngưỡng. Tuy nhiên, xuất phát từ gốc văn hóa nông nghiệp, khác với gốc văn hóa du mục ở chỗ trọng tĩnh hơn động, lại có liên quan nhiều với các hiện tượng tự nhiên, tư tưởng triết học Việt Nam đặc biệt chú tâm đến các mối quan hệ mà sản phẩm điển hình là thuyết âm dương ngũ hành (không hoàn toàn giống Trung Quốc) và biểu hiện cụ thể rõ nhất là lối sống quân bình hướng tới sự hài hoà.

Sau đó, chịu nhiều ảnh hưởng tư tưởng của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo được dung hợp và Việt hóa đã góp phần vào sự phát triển của xã hội và văn hóa Việt Nam. Đặc biệt các nhà Thiền học đời Trần đã suy nghĩ và kiến giải hầu hết các vấn đề triết học mà Phật giáo đặt ra (Tâm-Phật, Không-Có, Sống-Chết...) một cách độc đáo, riêng biệt.

Tuy Nho học về sau thịnh vượng, nhiều danh nho Việt Nam cũng không nghiên cứu Khổng-Mạnh một cách câu nệ, mù quáng mà họ tiếp nhận cả tinh thần Phật giáo, Lão-Trang nên tư tưởng họ có phần thanh thóat, phóng khoáng, gần gũi nhân dân và hòa với thiên nhiên hơn.

Page 44: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Ở các triều đại chuyên chế quan liêu, tư tưởng phong kiến nặng nề đè nén nông dân và trói buộc phụ nữ, nhưng nếp dân chủ làng mạc, tính cộng đồng nguyên thuỷ vẫn tồn tại trên cơ sở kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc.

Cắm rễ sâu trong xã hội nông nghiệp Việt Nam là tư tưởng nông dân có nhiều nét tích cực và tiêu biểu cho con người Việt Nam truyền thống. Họ là nòng cốt chống ngoại xâm qua các cuộc kháng chiến và nổi dậy. Họ sản sinh ra nhiều tướng lĩnh có tài, lãnh tụ nghĩa quân, mà đỉnh cao là người anh hùng áo vải Quang Trung-Nguyễn Huệ cuối thế kỷ 18.

Chính sách trọng nông ức thương, chủ yếu dưới triều Nguyễn, khiến cho ý thức thị dân chậm phát triển. Việt Nam xưa kia coi trọng nhất nông nhì sĩ, hoặc nhất sĩ nhì nông, thương nhân bị khinh rẻ, các nghề khác thường bị coi là nghề phụ, kể cả hoạt động văn hóa.

Thế kỷ 19, phong kiến trong nước suy tàn, văn minh Trung Hoa suy thoái, thì văn hóa phương Tây bắt đầu xâm nhập Việt Nam theo nòng súng thực dân. Giai cấp công nhân hình thành vào đầu thế kỉ 20 theo chương trình khai thác thuộc địa.

Tư tưởng Mác-Lênin được du nhập vào Việt Nam những năm 20-30 kết hợp với chủ nghĩa yêu nước trở thành động lực biến đổi lịch sử đưa đất nước tiến lên độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Tiêu biểu cho thời đại này là Hồ Chí Minh, anh hùng dân tộc, nhà tư tưởng và danh nhân văn hóa được quốc tế thừa nhận. Giai cấp tư sản dân tộc yếu ớt chỉ tiến hành được một số cuộc cải cách bộ phận ở nửa đầu thế kỉ 20.

Như vậy, Việt Nam không có một hệ thống lý luận triết học và tư tưởng riêng, thiếu triết gia tầm cỡ quốc tế, nhưng không có nghĩa là không có những triết lý sống và những tư tưởng phù hợp với dân tộc mình.

Xã hội nông nghiệp có đặc trưng là tính cộng đồng làng xã với nhiều tàn dư nguyên thuỷ kéo dài đã tạo ra tính cách đặc thù của con người Việt Nam. Đó là một lối tư duy lưỡng hợp (dualisme), một cách tư duy cụ thể, thiên về kinh nghiệm cảm tính hơn là duy lý, ưa hình tượng hơn khái niệm, nhưng uyển chuyển linh hoạt, dễ dung hợp, dễ thích nghi.

Đó là một lối sống nặng tình nghĩa, đoàn kết gắn bó với họ hàng, làng nước (vì nước mất nhà tan, lụt thì lút cả làng). Đó là một cách hành động theo xu hướng giải quyết dung hoà, quân bình, dựa dẫm các mối quan hệ, đồng thời cũng khôn khéo giỏi ứng biến đã từng nhiều lần biết

Page 45: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

lấy nhu thắng cương, lấy yếu chống mạnh trong lịch sử.

Trong các bậc thang giá trị tinh thần, Việt Nam đề cao chữ Nhân, kết hợp chặt chẽ Nhân với Nghĩa, Nhân với Đức, bất nhân bất nghĩa đồng nghĩa với thất đức. Nguyễn Trãi từng diễn tả quan niệm Nhân Nghĩa của người Việt - đối lập với cường bạo, nâng lên thành cơ sở của đường lối trị nước và cứu nước. Việt Nam hiểu chữ Trung là Trung với nước, cao hơn Trung với vua, trọng chữ Hiếu nhưng không quá bó hẹp trong khuôn khổ gia đình. Chữ Phúc cũng đứng hàng đầu bảng giá trị đời sống, người ta khen nhà có phúc hơn là khen giầu, khen sang.

Trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập thế giới, sẽ phải phấn đấu khắc phục một số nhược điểm trong văn hóa truyền thống; kém tư duy lôgíc và khoa học kỹ thuật; đầu óc gia trưởng, bảo thủ, địa phương, hẹp hòi; tư tưởng bình quân; xu hướng phủ định cá nhân, san bằng cá tính; tệ ưa sùng bái và thần thánh hóa; thói chuộng từ chương hư danh, yếu về tổ chức thực tiễn...

Phong tục tập quán

Người Việt vốn thiết thực, chuộng ăn chắc mặc bền. Đầu tiên là ăn, "có thực mới vực được đạo", "trời đánh còn tránh bữa ăn". Cơ cấu ăn thiên về thực vật, cơm rau là chính cộng thêm thuỷ sản. Luộc là cách nấu ăn đặc sắc của Việt Nam. Nhưng cách thức chế biến món ăn lại giầu tính tổng hợp, kết hợp nhiều chất liệu và gia vị. Ngày nay có nhiều thịt cá, vẫn không quên vị dưa cà.

Người Việt hay dùng các chất liệu vải có nguồn gốc thực vật, mỏng, nhẹ, thóang, phù hợp xứ nóng, với các sắc màu nâu, chàm, đen. Trang phục nam giới phát triển từ đóng khố ở trần đến áo cánh, quần ta (quần Tàu cải biến). Nữ giới xưa phổ biến mặc yếm, váy, áo tứ thân sau này đổi thành chiếc áo dài hiện đại. Nói chung, phụ nữ Việt Nam làm đẹp một cách tế nhị, kín đáo trong một xã hội "cái nết đánh chết cái đẹp". Trang phục cũ cũng chú ý đến khăn, nón, thắt lưng.

Ngôi nhà Việt Nam xưa gắn liền với môi trường sông nước (nhà sàn, mái cong). Sau đó là nhà tranh vách đất, lợp rạ, vật liệu chủ yếu là tre gỗ, không cao quá để chống gió bão, quan trọng nhất là hướng nhà thường quay về phía Nam chống nóng, tránh rét. Nhà cũng không rộng quá để nhường diện tích cho sân, ao, vườn cây. Vả lại, người Việt Nam quan niệm "rộng nhà không bằng rộng bụng". Các kiến trúc cổ bề thế thường ẩn mình và hoà với thiên nhiên.

Page 46: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Phương tiện đi lại cổ truyền chủ yếu là đường thuỷ. Con thuyền các loại là hình ảnh thân quen của cảnh quan địa lý-nhân văn Việt Nam, cùng với dòng sông, bến nước.

Các phong tục hôn nhân, tang ma, lễ tết, lễ hội của Việt Nam đều gắn với tính cộng đồng làng xã. Hôn nhân xưa không chỉ là nhu cầu đôi lứa mà còn phải đáp ứng quyền lợi của gia tộc, gia đình, làng xã, nên kén người rất kỹ, chọn ngày lành tháng tốt, trải qua nhiều lễ từ giạm ngõ, ăn hỏi, đón dâu đến tơ hồng, hợp cẩn, lại mặt, và phải nộp cheo để chính thức được thừa nhận là thành viên của làng xóm. Tục lễ tang cũng rất tỉ mỉ, thể hiện thương xót và tiễn đưa người thân qua bên kia thế giới, không chỉ do gia đình lo mà hàng xóm láng giềng tận tình giúp đỡ.

Việt Nam là đất nước của lễ hội quanh năm, nhất là vào mùa xuân, nông nhàn. Các tết chính là tết Nguyên đán, tết Rằm tháng Giêng, tết Hàn thực, tết Đoan ngọ, tết Rằm tháng Bảy, tết Trung thu, tết Ông táo... Mỗi vùng thường có lễ hội riêng, quan trọng nhất là các lễ hội nông nghiệp (cầu mưa, xuống đồng, cơm mới...), các lễ hội nghề nghiệp (đúc đồng, rèn, pháo, đua ghe...).

Ngoài ra là các lễ hội kỉ niệm các bậc anh hùng có công với nước, các lễ hội tôn giáo và văn hóa (hội chùa). Lễ hội có 2 phần, phần lễ mang ý nghĩa cầu xin và tạ ơn và phần hội là sinh hoạt văn hóa cộng đồng gồm nhiều trò chơi, cuộc thi dân gian.

Tín ngưỡng và tôn giáo

Tín ngưỡng dân gian Việt Nam từ cổ xưa đã bao hàm: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người. Con người cần sinh sôi, mùa màng cần tươi tốt để duy trì và phát triển sự sống, nên đã nảy sinh tín ngưỡng phồn thực.

Ở Việt Nam, tín ngưỡng đó tồn tại lâu dài, dưới hai dạng biểu hiện: thờ sinh thực khí nam và nữ (khác với ấn Độ chỉ thờ sinh thực khí nam) và thờ cả hành vi giao phối (người và thú, ngay ở Đông Nam Á cũng ít có dân tộc thờ việc này). Dấu tích trên còn để lại ở nhiều di vật tượng và chân cột đá, trong trang trí các nhà mồ Tây Nguyên, trong một số phong tục và điệu múa, rõ nhất là ở hình dáng và hoa văn các trống đồng cổ.

Nông nghiệp trồng lúa nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên đã đưa đến tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Ở Việt Nam, đó là tín ngưỡng đa thần và coi trọng nữ thần, lại thờ cả động vật và thực vật. Một cuốn sách nghiên cứu (xuất bản năm 1984) đã liệt kê được 75 nữ thần, chủ yếu là các bà mẹ, các Mẫu (không những có Ông Trời, mà còn có Bà Trời tức Mẫu Cửu Trùng, ngoài

Page 47: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

ra là Mẫu Thượng Ngàn, Bà chúa Sông v.v...).

Về thực vật được tôn sùng nhất là Cây lúa, sau đó tới Cây đa, Cây cau, Cây dâu, quả Bầu. Về động vật, thiên về thờ thú hiền như hươu, nai, cóc, không thờ thú dữ như văn hóa du mục, đặc biệt là thờ các loài vật phổ biến ở vùng sông nước như chim nước, rắn, cá sấu.

Người Việt tự nhận là thuộc về họ Hồng Bàng, giống Tiên Rồng (Hồng Bàng là tên một loài chim nước lớn, Tiên là sự trừu tượng hóa một giống chim đẻ trứng, Rồng sự trừu tượng hóa từ rắn, cá sấu). Rồng sinh ra từ nước bay lên trời là biểu trưng độc đáo đầy ý nghĩa của dân tộc Việt Nam.

Trong tín ngưỡng sùng bái con người, phổ biến nhất là tục thờ cúng tổ tiên, gần như trở thành một thứ tôn giáo của người Việt Nam (trong Nam bộ gọi là Đạo Ông Bà). Việt Nam trọng ngày mất là dịp cúng giỗ hơn ngày sinh. Nhà nào cũng thờ Thổ công là vị thần trông coi gia cư, giữ gìn hoạ phúc cho cả nhà. Làng nào cũng thờ Thành hoàng là vị thần cai quản che chở cho cả làng (thường tôn vinh những ngươì có công khai phá lập nghiệp cho dân làng, hoặc các anh hùng dân tộc đã sinh hay mất ở làng).

Cả nước thờ vua tổ, có ngày giỗ tổ chung (Hội đền Hùng). Đặc biệt việc thờ Tứ Bất Tử là thờ những giá trị rất đẹp của dân tộc: Thánh Tản Viên (chống lụt), Thánh Gióng (chống ngoại xâm), Chử Đồng Tử (nhà nghèo cùng vợ ngoan cường xây dựng cơ nghiệp giầu có), bà Chúa Liễu Hạnh (công chúa con Trời từ bỏ Thiên đình xuống trần làm người phụ nữ khát khao hạnh phúc bình thường).

Mặc dù có trường hợp dẫn tới mê tín dị đoan, tín ngưỡng dân gian sống dẻo dai và hoà trộn cả vào các tôn giáo chính thống.

Phật giáo (Tiểu thừa) có thể đã được du nhập trực tiếp từ ấn Độ qua đường biển vào Việt Nam khoảng thế kỉ 2 sau Công nguyên. Phật giáo Việt Nam không xuất thế mà nhập thế, gắn với phù chú, cầu xin tài lộc, phúc thọ hơn là tu hành thóat tục. Khi Phật giáo (Đại thừa) từ Trung Quốc vào nước ta, tăng lữ Việt Nam mới đi sâu hơn vào Phật học, nhưng dần hình thành những tôn phái riêng như Thiền Tông Trúc Lâm đề cao Phật tại tâm.

Thời Lý-Trần, Phật giáo cực thịnh nhưng vẫn đón nhận cả Nho giáo, Lão giáo, tạo nên bộ mặt văn hóa mang tính chất "Tam giáo đồng nguyên" (cả ba tôn giáo cùng tồn tại). Qua nhiều bước thăng trầm, đạo Phật trở nên thân thiết với người Việt Nam, thống kê năm 1993 cho biết vẫn có tới 3 triệu tín đồ xuất gia và khoảng 10 triệu người thường xuyên vãn chùa lễ Phật.

Page 48: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Thời Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam, đến năm 1070 Lý Thái Tổ lập Văn Miếu thờ Chu Công-Khổng Tử mới có thể xem là được tiếp nhận chính thức. Thế kỉ 15, do nhu cầu xây dựng đất nước thống nhất, chính quyền tập trung, xã hội trật tự, Nho giáo thay chân Phật giáo trở thành quốc giáo dưới triều Lê.

Nho giáo, chủ yếu là Tống Nho, bám chắc vào cơ chế chính trị-xã hội, vào chế độ học hành khoa cử, vào tầng lớp nho sĩ, dần chiếm lĩnh đời sống tinh thần xã hội. Nhưng Nho giáo cũng chỉ được tiếp thụ ở Việt Nam từng yếu tố riêng lẻ - nhất là về chính trị-đạo đức, chứ không bê nguyên xi cả hệ thống.

Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam khoảng cuối thế kỉ 2. Do thuyết vô vi mang tư tưởng phản kháng bọn thống trị, nó được người dân dùng làm vũ khí chống phong kiến phương Bắc. Nó lại có nhiều yếu tố thần tiên, huyền bí, nên hợp với tiềm thức con người và tín ngưỡng nguyên thuỷ. Nhiều nhà nho cũ mộ khuynh hướng ưa thanh tĩnh, nhàn lạc của Lão-Trang. Nhưng từ lâu Đạo giáo như một tôn giáo không tồn tại nữa, chỉ còn để lại di sản trong tin ngưỡng dân gian.

Kitô giáo đến Việt Nam vào thế kỉ 17 như một khâu môi giới trung gian của văn hóa phương Tây và của chủ nghĩa thực dân. Nó tranh thủ được cơ hội thuận lợi: chế độ phong kiến khủng hoảng, Phật giáo suy đồi, Nho giáo bế tắc, để trở thành chỗ an ủi tinh thần cho một bộ phận dân chúng nhưng trong một thời gian dài không hoà đồng được với văn hóa Việt Nam. Trái lại, nó buộc phải để giáo dân lập bàn thờ trong nhà. Chỉ khi hoà Phúc âm trong dân tộc, nó mới đứng được ở Việt Nam. Năm 1993 có khoảng 5 triệu tín đồ công giáo và gần nửa triệu tín đố Tin Lành.

Các tôn giáo bên ngoài du nhập vào Việt Nam không làm mất đi tín ngưỡng dân gian bản địa mà hoà quyện vào nhau làm cho cả hai phía đều có những biến thái nhất định. Ví dụ Nho giáo không hạ thấp được vai trò người phụ nữ, việc thờ Mẫu ở Việt Nam rất thịnh hành. Tính đa thần, dân chủ, cộng đồng được thể hiện ở việc thờ tập thể gia tiên, thờ nhiều cặp thần thánh, vào một ngôi chùa thấy không chỉ thờ Phật mà thờ cả nhiều vị khác, thấn linh có mà người thật cũng có. Và có lẽ chỉ ở Việt Nam mới có chuyện con cóc kiện cả ông Trời, cũng như môtíp người lấy tiên trong các chuyện cổ tích. Đây chính là những nét riêng của tín ngưỡng Việt Nam.

Ngôn ngữ

Về nguồn gốc tiếng Việt, có nhiều giả thuyết. Giả thuyết giầu sức thuyết phục hơn cả: tiếng

Page 49: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Việt thuộc dòng Môn-Khmer của ngữ hệ Đông Nam Á, sau chuyển biến thành tiếng Việt-Mường (hay tiếng Việt cổ) rồi tách ra. Trong tiếng Việt hiện đại, có nhiều từ được chứng minh có gốc Môn-Khmer và tương ứng về ngữ âm, ngữ nghĩa khi so sánh với tiếng Mường.

Trải qua nghìn năm Bắc thuộc, và dưới các triều đại phong kiến, ngôn ngữ chính thống là chữ Hán, nhưng cũng là thời gian tiếng Việt tỏ rõ sức sống đấu tranh tự bảo tồn và phát triển. Chữ Hán được đọc theo cách của người Việt, gọi là cách đọc Hán-Việt và được Việt hóa bằng nhiều cách tạo ra nhiều từ Việt thông dụng. Tiếng Việt phát triển phong phú đi đến ra đời hệ thống chữ viết ghi lại tiếng Việt trên cơ sở văn tự Hán vào thế kỉ 13 là chữ Nôm.

Thời kỳ thuộc Pháp, chữ Hán dần bị loại bỏ, thay thế bằng tiếng Pháp dùng trong ngôn ngữ hành chính, giáo dục, ngoại giao. Nhưng nhờ chữ Quốc ngữ, có lợi thế đơn giản về hình thể kết cấu, cách viết, cách đọc, văn xuôi tiếng Việt hiện đại thực sự hình thành, tiếp nhận thuận lợi các ảnh hưởng tích cực của ngôn ngữ văn hóa phương Tây.

Chữ quốc ngữ là sản phẩm của một số giáo sĩ phương Tây trong đó có Alexandre de Rhodes hợp tác với một số người Việt Nam dựa vào bộ chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt dùng trong việc truyền giáo vào thế kỉ 17. Chữ quốc ngữ dần được hoàn thiện, phổ cập, trở thành công cụ văn hóa quan trọng. Cuối thế kỉ 19, đã có sách báo xuất bản bằng chữ quốc ngữ.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tiếng Việt và chữ quốc ngữ giành được địa vị độc tôn, phát triển dồi dào, là ngôn ngữ đa năng dùng trong mọi lĩnh vực, ở mọi cấp học, phản ánh mọi hiện thực cuộc sống. Ngày nay, nhờ cách mạng, một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có chữ viết riêng.

Đặc điểm của tiếng Việt: đơn âm nhưng vốn từ cụ thể, phong phú, giầu âm sắc hình ảnh, lối diễn đạt cân xứng, nhịp nhàng, sống động, dễ chuyển đổi, thiên về biểu trưng, biểu cảm, rất thuận lợi cho sáng tạo văn học nghệ thuật. Tự điển tiếng Việt xuất bản năm 1997 gồm 38410 mục từ.

Văn học

Phát triển song song, tác động qua lại sâu sắc: Văn học Việt Nam xuất hiện khá sớm, có hai thành phần là văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian chiếm vị trí quan trọng ở Việt Nam, có công lớn gìn giữ phát triển ngôn ngữ dân tộc, nuôi dưỡng tâm hồn nhân dân. Sáng tác dân gian gồm thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, câu đố, tục ngữ,

Page 50: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

ca dao... với nhiều màu sắc các dân tộc ở Việt Nam.

Văn học viết ra đời từ khoảng thế kỉ 10. Cho đến đầu thế kỉ 20 cũng có hai bộ phận song song tồn tại: chữ Hán (có thơ, văn xuôi, thể hiện tâm hồn, hiện thực Việt Nam nên vẫn là văn chương Việt Nam) và chữ Nôm (hầu như chỉ có thơ, lưu truyền lại nhiều tác phẩm lớn).

Từ những năm 20 của thế kỉ 20, văn học viết chủ yếu sáng tác bằng tiếng Việt qua chữ quốc ngữ, có sự cách tân sâu sắc về các hình thức thể loại như tiểu thuyết, thơ mới, truyện ngắn, kịch... và sự đa dạng về xu hướng nghệ thuật, đồng thời phát triển với tốc độ nhanh, nhất là sau Cách mạng tháng Tám đi theo đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng về cuộc sống chiến đấu và lao động của nhân dân.

Có thể nói ở Việt Nam, hầu như cả dân tộc sính thơ, yêu thơ, làm thơ - từ vua quan, tướng lĩnh, sư sãi, sĩ phu đến sau này nhiều cán bộ cách mạng - và một cô thợ cấy, một cụ lái đò, một anh lính chiến đều thuộc dăm câu lục bát, thử một bài vè.

Về nội dung, chủ lưu là dòng văn chương yêu nước bất khuất chống ngoại xâm ở mọi thời kỳ và dòng văn chương phản phong kiến thường thông qua thân phận người phụ nữ. Phê phán các thói hư tật xấu của xã hội cũng là mảng đề tài quan trọng. Các thi hào dân tộc lớn đều là những nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.

Văn học Việt Nam hiện đại phát triển từ lãng mạn đến hiện thực, từ âm hưởng chủ nghĩa anh hùng trong chiến tranh đang chuyển sang mở rộng ra toàn diện cuộc sống, đi vào đời thường, tìm kiếm các giá trị đích thực của con người.

Văn học cổ điển đã tạo nên những kiệt tác như Truyện Kiều (Nguyễn Du), Cung óan ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn), Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi)... Việt Nam từ mấy thế kỉ trước đã có những cây bút nữ độc đáo: Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà huyện Thanh Quan.

Văn xuôi hiện đại có những tác giả không thể nói là thua kém thế giới: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nam Cao... Bên cạnh đó là những nhà thơ đặc sắc như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Tố Hữu... Tiếc rằng hiện nay chưa có những tác phẩm lớn phản ánh đầy đủ, trung thực và xứng đáng đất nước và thời đại.

Page 51: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Nghệ thuật

Việt Nam có khoảng 50 nhạc cụ dân tộc, trong đó bộ gõ là phổ biến nhất, đa dạng nhất và có nguồn gốc lâu đời nhất (trống đồng, cồng chiêng, đàn đá, đàn tơ rưng...). Bộ hơi phổ biến là sáo, khèn, còn bộ dây độc đáo nhất có đàn bầu và đàn đáy.

Thể loại và làn điệu dân ca Việt Nam rất phong phú khắp Trung, Nam, Bắc: từ ngâm thơ, hát ru, hò đến hát quan họ, trống quân, xoan, đúm, ví giặm, ca Huế, bài chòi, lý, ngoài ra còn có hát xẩm, chầu văn, ca trù.

Nghệ thuật sân khấu cổ truyền có chèo, tuồng. Rối nước cũng là một loại hình sân khấu truyền thống đặc sắc có từ thời Lý. Đầu thế kỉ 20, xuất hiện cải lương ở Nam bộ với các điệu vọng cổ.

Nghệ thuật thanh sắc Việt Nam nói chung đều mang tính biểu trưng, biểu cảm, dùng thủ pháp ước lệ, giầu chất trữ tình. Sân khấu truyền thống giao lưu mật thiết với người xem và tổng hợp các loại hình ca múa nhạc. Múa Việt Nam ít động tác mạnh mẽ mà đường nét uốn lượn mềm mại, chân khép kín, múa tay là chính.

Ở Việt Nam, nghệ thuật chạm khắc đá, đồng, gốm đất nung ra đời rất sớm có niên đại 10000 năm trước Công nguyên. Sau này gốm tráng men, tượng gỗ, khảm trai, sơn mài, tranh lụa, tranh giấy phát triển đến trình độ nghệ thuật cao. Nghệ thuật tạo hình Việt Nam chú trọng diễn tả nội tâm mà giản lược về hình thức, dùng nhiều thủ pháp cách điệu, nhấn mạnh.

Đã có 2014 di tích văn hóa, lịch sử được Nhà nước công nhận và 2 di tích là cố đô Huế, Vịnh Hạ Long được quốc tế công nhận. Kiến trúc cổ còn lại chủ yếu là một số chùa-tháp đời Lý-Trần; cung điện-bia đời Lê, đình làng thế kỉ 18, thành quách-lăng tẩm đời Nguyễn và những ngọn tháp Chàm.

Thế kỉ 20, tiếp xúc với văn hóa phương Tây, nhất là sau khi nước nhà độc lập, các loại hình nghệ thuật mới như kịch nói, nhiếp ảnh, điện ảnh, ca múa nhạc và mỹ thuật hiện đại ra đời và phát triển mạnh, thu được những thành tựu to lớn với nội dung phản ánh hiện thực đời sống và cách mạng.

Cho nên đến giữa năm 1997, đã có 44 người hoạt động văn hóa-nghệ thuật được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh, 130 người được phong danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, 1011 người được tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú, đặc biệt có hai người được nhận giải thưởng quốc tế về âm nhạc là

Page 52: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Đặng Thái Sơn (Giải âm nhạc Chopin) và Tôn Nữ Nguyệt Minh (Giải âm nhạc Tchaikovski).

Tính đến đầu năm 1997, cả nước có 191 đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp và 26 xưởng phim, hãng phim, kể cả trung ương và địa phương. Đã có 28 phim truyện, 49 phim thời sự-tài liệu và khoa học được nhận giải thưởng quốc tế ở nhiều nước.

Văn hóa dân tộc cổ truyền hiện đứng trước sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa, đứng trước những thách thức gay gắt của kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hóa. Nhiều ngành văn hóa nghệ thuật đang có phần chững lại, tìm đường và tự cách tân.

Hơn bao giờ hết đặt ra vấn đề bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc, vấn đề lựa chọn các giá trị cũ, xây dựng các giá trị mới. Bảo tồn nhưng vẫn phải là một nền văn hóa mở. Hiện đại nhưng không xa rời dân tộc. Công cuộc đổi mới văn hóa đang tiếp tục.../.

Rồng Việt Nam

Bách khoa toàn thư mở WikipediaBước tới: menu, tìm kiếm

Đôi rồng chầu dài nhất Việt Nam tại đến thờ vua Trần Nhân Tông.

Rồng tại Công viên Đầm Sen.

Con rồng Việt Nam là trang trí kiến trúc, điêu khắc và hội họa hình rồng mang bản sắc riêng, theo trí tưởng tượng của người Việt. Nó khác với rồng trong trang trí kiến trúc và hội họa Trung Hoa và ở quốc gia khác. Các di tích về con rồng Việt Nam còn lại khá ít

Page 53: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

do các biến động thời gian và sự Hán hóa của triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, nhà Nguyễn.

[sửa] Lịch sử

Giao Long trang trí thạp Đào Thịnh 2000-200 TCN.

Người Việt sống tại vùng sông nước nên từ thời xa xưa họ đã tôn sùng cá sấu như một con vật linh thiêng, vì chúng đại diện cho sự trù phú và sức mạnh, thời kỳ này vùng đất người Việt sống còn rất nhiều cá sấu. Họ đã thần thánh hóa loài cá sấu lên thành con "Giao Long" mà người Trung Hoa gọi sau này, một cách thức tô điểm cho hình hài con cá sấu nhiều chi tiết tưởng tượng và cũng nhiều ý nghĩa hơn. Con rồng này tồn tại cùng tâm thức của người Việt trong suốt thời Văn Lang - Âu Lạc. Rất có thể từ con Giao Long này mà người Trung Hoa đã tạo ra con rồng Trung Hoa của họ.

Trong cả thiên niên kỉ bị đô hộ bởi Trung Hoa, trong hoàn cảnh chung của chính sách Hán hóa, hình ảnh con rồng Việt Nam phát triển theo các xu hướng giống với con rồng của người Hán. Đến khi giành được độc lập, thời kỳ nhà Lý lên nắm quyền, đặt tên nước là Đại Việt (để sánh ngang với Đại Tống của Trung Hoa), Việt Nam đã có con rồng cho riêng mình và khác với con rồng Trung Quốc. Văn hóa [Đại Việt] nói chung, trong đó có mỹ thuật đã khẳng định được đẳng cấp và sự độc lập trong nghệ thuật biểu hiện của mình. Xuất hiện từ việc trang trí kinh thành lộng lẫy, chùa chiền đồ sộ..., con rồng Việt Nam được tạo nặn từ chất liệu văn hóa dân tộc, kết hợp với yếu tố văn hóa Chăm Đông Nam Á và văn hóa Trung Hoa.[cần dẫn nguồn]

Page 54: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Rồng Trung Hoa tại Tử Cấm Thành.

[sửa] Đặc điểm rồng Việt Nam

Rồng Việt Nam.

Rồng Việt Nam luôn có những mô-típ rõ ràng đặc trưng:

Thân rồng uốn hình sin 12 khúc, đại diện 12 tháng trong năm, biểu trưng cho sự thay đổi thời tiết năm tháng, sự trù phú và phồn vinh của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước. Thân mềm mại uốn lượn thể hiện sự biến hóa và khả năng thay đổi, dịch chuyển thiên nhiên của con rồng cai quản thời tiết, mùa màng. Trên lưng có vây nhỏ liền mạch và đều đặn.

Đầu rồng là phần rất đặc biệt, hoàn toàn khác rồng Trung Hoa. Nó có bờm dài, râu cằm, không sừng (như rồng Trung Hoa). Mắt lồi to, hàm mở rộng có răng nanh ngắt lên, đây là điểm hoàn toàn khác với các con rồng khác của các nước. Đặc biệt là cái mào ở mũi, sun sóng đều đặn (có người goi là mào lửa) chứ không phải là cái mũi thú như rồng Trung Hoa. Lưỡi mảnh rất dài.

Page 55: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Miệng rồng luôn ngậm viên châu, ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc rồng hay cầm ngọc bằng chân trước. Viên châu tượng trưng cho tính nhân văn, tri thức và lòng cao thượng. Đầu rồng luôn hướng lên đớp lấy viên ngọc thể hiện tinh thần tôn trọng các giá trị nhân văn cao quý, theo đuổi sự uyên bác và tinh thần cao thượng.

Những điều ấy được đặt lên trên tất cả các giá trị khác kể cả sức mạnh và sự thống trị thường thấy của một con rồng phương Đông. Toàn thân rồng toát lên uyển chuyển và một sức căng rất lớn từ cái vươn chân dài, đầu ngẩng cao, dáng đầu rực lửa thể hiện cho khí thế hừng hực muốn tiến chinh phục các giá trị văn minh nhất của phương Đông cổ đại.

Đây là một hình tượng rồng hoàn hảo về mỹ thuật, có cá tính rõ ràng và đặc trưng cho dân tộc Việt, tiếc rằng nó đã bị vùi lấp bởi sự sùng bái văn hóa Hán của các triều đại phong kiến cuối cùng và sự hủy diệt văn hóa đã xảy ra khi nhà Minh xâm lược Việt Nam.

Đẩu rồng đất nung thời Trần

Lá đề hình rồng trang trí diềm mái cung điện

Đầu ngói ống hình rồng

Page 57: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Hình tượng con rồng Việt Nam

Con rồng là một hình tượng có vị trí đặc biệt trong văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam và đã từng là biểu tượng linh thiêng liên quan đến truyền thuyết con rồng cháu tiên của người Việt. Rồng là hình ảnh mà các vua Việt Nam phải xăm lên đùi mình để giữ truyền thống của cư dân ven biển. Đến đời vua Trần Anh Tông (1293-1314) mới chấm dứt tục xăm rồng trên đùi của các vua. Rồng là tượng trưng cho quyền uy tuyệt đối của các đấng thiên tử (bệ rồng, mình rồng). Rồng là hình tượng của mưa thuận gió hòa, là vật linh đứng vào hàng bậc nhất trong tứ linh "long, lân, quy, phụng". Vì thế, hình tượng con rồng Việt Nam tương phản với hình tượng con rồng độc ác, tượng trưng cho cái xấu của các nước phương Tây.

Hình tượng rồng đã được hình dung lên từ thời đại Hùng Vương qua con vật thân dài có vẩy như cá sấu được chạm trên các đồ đồng thời ấy.

Qua thời kỳ Bắc thuộc dài đằng đẵng, con rồng Việt Nam xuất hiện rõ nét dưới thời Lý. Hình ảnh "rồng bay lên" Thăng Long tượng trưng cho khí thế vươn lên của dân tộc, được đem đặt cho đất đế đô. Rồng thời Lý tượng trưng cho mơ ước của cư dân trồng lúa nước nên luôn luôn được tạo trong khung cảnh của nước, của mây cuộn. Rồng thời Lý là con vật mình dài như rắn, thân trơn nếu là con nhỏ, còn con lớn thì thân có vẩy và lưng có vây. Thân rồng uống cong nhiều vòng uyển chuyển theo hình "Omega", mềm mại và thoải nhỏ dần về phía đuôi. Rồng có bốn chân, mỗi chân có ba móng cong nhọn. Đầu rồng ngẩng cao, há miệng rộng với hai hàm răng nhỏ đang vờn đớp viên ngọc quý. Từ mũi thoát ra mào rồng có dạng ngọn lửa, vì thế được gọi là mào lửa. Trên trán rồng có một hoa văn giống hình chữ "S", cổ tự của chữ "lôi", tượng trưng cho sấm sét, mây mưa.

Hình tượng con rồng thời Trần có nhiều biến đổi so với thời Lý. Rồng thời Trần không còn mang nặng ý nghĩa mơ ước nguồn nước nữa. Dạng tự chữ "S" dần dần mất đi hoặc biến dạng thành hình con, đồng thời xuất hiện thêm hai chi tiết là cặp sừng và đôi tay. Đầu rồng uy nghi và đường bệ với chiếc mào lửa ngắn hơn. Thân rồng tròn lẳn, mập mạp, nhỏ dần về phía đuôi, uốn khúc nhẹ, lưng võng hình yên ngựa. Đuôi rồng có nhiều dạng, khi thì đuôi thẳng và nhọn, khi thì xoắn ốc. Các vảy cũng đa dạng. Có vẩy như những nửa hình hoa tròn nhiều cánh đều đặn, có vẩy chỉ là những nét cong nhẹ nhàng.

Rồng thời Lê (thế kỷ XV) thay đổi hẳn. Rồng không nhất thiết là một con vật mình dài rắn uốn lượn đều đặn nữa mà ở trong nhiều tư thế khác nhau. Đầu rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là một chiếc mũi to. Thân rồng lượn hai khúc lớn. Chân có năm móng sắc nhọn quắp lại dữ tợn. Rồng thời Lê tượng trưng cho quyền uy phong kiến. Cũng chính bắt đầu từ thời đại này xuất hiện quan niệm tứ linh (bốn con vật thiêng) tượng trưng cho uy quyền của vương triều Rồng đứng đầu trong tứ linh. Ba vật thiêng kia là lân (tượng trưng cho sự thái bình và minh chúa), qui (con rùa - tượng trưng sự bền vững của xã tắc) và phụng (tượng trưng cho sự thịnh vượng của triều đại).

Rồng thời Trịnh Nguyễn vẫn còn đứng đầu trong bộ tứ linh nhưng đã được nhân cách hóa, được đưa vào đời thường như hình rồng mẹ có bầy rồng con quây quần, rồng đuổi bắt mồi, rồng trong cảnh lứa đôi.

Con rồng thời Nguyễn trở lại vẻ uy nghi tượng trưng cho sức mạnh thiêng liêng. Rồng được thể hiện ở nhiều tư thế, ẩn mình trong đám mây, hoặc ngậm chữ thọ, hai rồng chầu mặt trời, chầu hoa cúc, chầu chữ thọ... Phần lớn mình rồng không dài ngoằn mà uốn lượn vài lần với độ cong lớn. Đầu rồng to, sừng giống sừng hươu chĩa ngược ra sau. Mắt rồng lộ to, mũi sư tử, miệng há lộ răng nanh. Vậy trên lưng rồng có tia, phân bố dài ngắn đều đặn. Râu rồng uốn sóng từ dưới mắt chìa ra cân xứng hai bên. Hình tượng rồng dùng cho vua có năm móng, còn lại là bốn móng.

Hiện nay hình tượng con rồng tuy không còn tính chất thiêng liêng, tối thượng nhưng vẫn được đưa vào trang trí cho các công trình kiến trúc, hội họa, chạm, khắc nghệ thuật... Trong mọi thời điểm nào, con rồng vẫn là một phần trong cuộc sống văn hóa của người Việt.

Đồ thờ trong di tích của người Việt

Page 58: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Sau nhiều năm đi điền dã tại các đình, đền, chùa, quán nổi tiêng ở vùng châu thổ sông Hồng, GS-TS Trần Lâm Biền biên soạn xong tập sách Đồ thờ trong di tích của người Việt. Sách 190 trang khổ 14,5 x 20,5cm có 2 phần: “Một số vấn đề có liên quan đên đồ thờ”, và “Đồ thờ trong kiên trúc tôn giáo tín ngưỡng của người Việt”. Sách in 58 ảnh chụp các đồ thờ có niên đại từ thê kỷ X đên thê kỷ XX ở một số di tích nổi tiêng, ở cuối in sơ đồ ban thờ của chùa, đình.Qua sơ đồ ban thờ của chùa, bạn dễ dàng nhận biết vị trí các pho tượng Phật: Tượng Tam thế Phật, tượng Di Đà tam tôn... ở vị trí 12 trong sơ đồ ta thấy có tượng Kim Cương. Miêu tả bộ tượng này trang 60, tác giả viết: “Tượng Kim Cương mang hình thức võ tướng, đầu đội mũ kim khôi, đỉnh mũ các vị Khuyến Thiện thường có lá sen úp bình nước cam lồ, còn vị Trừng ác đội một chiếc giản có một hoặc ba mũi. Tượng Kim Cương với chức năng bảo hộ Phật pháp nên cũng gọi là tượng Hộ pháp. Trong tạo hình các vị Khuyến Thiện thường có mặt hiền từ và sơn màu hồng phấn, còn vị Trừng ác có mặt đỏ dữ tợn, tay cầm pháp giới đao. ở chùa Việt thường có hai hệ thống tượng Kim Cương. Hệ thống thứ nhất là Bát bộ Kim Cương. Hệ thống thứ hai phổ biến ở các ngôi chùa thông thường chỉ gồm hai vị Khuyến Thiện và Trừng ác, được làm khá to lớn, nhiều khi bằng đất đắp. Các vị thường ngồi trên con lân như mang tư cách dựa vào trí tuệ để hành đạo”.Đến các ngôi đình, thi thoảng ta cũng thấy tượng thờ. GS Trần Lâm Biền lý giải: “Đình làng của người Việt chủ yếu thờ ngai và bài vị. Những đình có tượng phần nhiều gắn với nhân thần và mặt nào đó đình đã chuyển hóa mang thêm yếu tố đền thông thường.Ở chương 2- phần II, tác giả miêu tả kích thước, nghệ thuật chạm khắc, nghệ thuật trang trí và vị trí các đồ thờ trong di tích như nhang án, bát hương, ngai thờ, khám thờ, đồ bát bửu, đồ chấp kích, đồ lỗ bộ, lọng, các loại kiệu. ở các di tích còn có những linh vật, phổ biến là phượng và hạc. Nếu như ở đời Lý, phượng thờ chỉ gắn với thành bậc cửa dưới dạng phù điêu hay những đồ gốm ở mái, thì từ thế kỷ XVII chúng được tạc tròn với kích cỡ khá lớn, cao trên dưới 2m. Một điển hình là đôi phượng gỗ ở đình Phú Thượng (quận Tây Hồ) có niên đại khoảng giữa thế kỷ XVII. ở vị trí hai bên bàn thờ tại các ngôi đền đình nhiều khi là những con hạc đứng trên rùa. Con hạc gỗ ở đình Dục Tú (Đông Anh) được coi là con hạc có niên đại sớm nhất của nước ta. Lý giải câu ca: “Thương thay thân phận con rùa. Bên đình đội hạc bên chùa đội bia”, tác giả cho biết: “Trong tư cách là đồ thờ, hạc thường biểu hiện cho tầng trên, còn rùa cho tầng dưới để hợp thành một thể âm dương đối đãi”. ở một số di tích gắn với Nho giáo (hay có sự tham gia của nhà Nho) thì linh vật thường được thờ là rồng (bên trái) và hổ (bên phải) để biểu hiện sự hội tụ của các trí thức và đề cao thần.Đồ thờ trong di tích của người Việt thật phong phú và đa dạng, tìm hiểu cho thấu đáo thật không đơn giản chút nào. Đến nay, GS-TS Trần Lâm Biền là người đầu tiên “thâm canh” trên mảnh đất chưa từng được khai phá. ở mỗi trang viết, ông đều có những phát hiện lý thú. Và cũng bằng những phát hiện này, tập sách đã phác họa, đánh giá và phần nào giải mã một số yếu tố văn hóa nghệ thuật trong các đồ thờ tại các di tích.Tập sách thật bổ ích và thiết thực cho tất cả những ai muốn tìm hiểu “cái hồn” của các di tích lịch sử văn hóa.

ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO GIÁO ĐỐI VỚI TIỂU THUYẾT CHỮ HÁN VIỆT NAM

TRẦN NGHĨA

Trước khi đi vào vấn đề chính của bài viết, xin nói qua một chút về tình hình Đạo giáo ở Trung Quốc, kể cả ở Việt Nam được hiểu như là ngọn nguồn từng mang lại nhiều cảm hứng cho giới cầm bút nước ta trong quá khứ.

Ở Trung Quốc, theo chỗ được biết, Đạo giáo bắt đầu định hình dưới cái tên gọi đầy thô mộc - đạo "năm đấu gạo" - vào đầu thế kỷ 2, trên cơ sở tín ngưỡng thần tiên(1)

 

Page 59: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

và phương thuật(2) dã xuất hiện từ lâu trước đó. Dần về sau, tôn giáo này đã tách thành hai phái: một phái nghiêng về bùa chú (phù lục 符 錄) mà ta có thể gọi là "Đạo giáo phù thủy" do Trương Đạo Lăng(3) khởi xướng, và một phái nghiêng về tu tiên luyện đan (đan đỉnh 丹 鼎) mà ta có thể gọi là "Đạo giáo thần tiên" do Cát Hồng(4) đại diện. Phái "Phù thủy" còn có cái tên là "Chính nhất 正 一", chủ trương dùng phép thuật để trừ tà trị bệnh; phái này phát triển mạnh ở phương Nam (Nam Thiên đạo sư), đặc biệt là trong dân gian, với những Đạo sĩ không cần xuất gia. Phái "thần tiên" còn có tên là "Toàn chân 全 真, chủ trương tu tiên, luyện đan để kéo dài tuổi thọ tới mức "trường sinh bất tử"; phái này phát triển mạnh ở phương Bắc (Bắc Thiên đạo sư), chủ yếu trong giới thượng lưu, với những Đạo sĩ, Đạo cô sẵn sàng rời gia đình để rong du ngoài cõi...

Ở Việt Nam, những hiện tượng liên quan tới Đạo giáo được ghi lại không ít trong Lý hoặc luận(5) của Mâu Tử hoặc An Nam chí lược(6) của Lê Trắc. Nhiều Đạo sĩ tên tuổi còn truyền mãi tận ngày nay: Thông Huyền(7), Hoàn Nguyên(8), Huyền Vân(9) v.v. Đặc biệt sách Kê song xuyết thập 雞窗綴拾 mà hậu thân của nó là Hội chân biên 會 真 編 (10) đã lên một danh mục gồm 27 vị "tiên Việt Nam" qua 25 truyền thuyết Đạo giáo, trong đó có 13 tiên ông và 14 tiên nữ, với các Đạo tổ, Chân nhân, Thánh mẫu, Tiên nương, Tiên tử...(11). Có thể thấy Đạo giáo đã du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, được người nước ta tiếp thu theo cách thức riêng của mình và dần dần trở thành một bộ phận khăng khít trong truyền thống văn hóa dân tộc.

Đối với tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Đạo giáo đã có những ảnh hưởng không phải không sâu sắc. Dễ dàng nhận thấy dấu ấn của nó ở các sách như Việt điện u linh (với các truyện: Thái úy trung tuệ Vũ Lượng công; ứng thiên hóa dục nguyên trung hậu thổ địa kỳ nguyên quân; Quảng Lợi thánh hựu uy tế phu ứng đại vương; Tản Viên hựu thánh khuông quốc hiển ứng đại vương; Thiện hộ linh ứng chương vũ quốc công; Lợi tế linh thông huệ tín đại vương...); Nam ông mộng lục (với các truyện: Tăng đạo thần thông; Tấu chương minh nghiệm; áp lãng Chân nhân); Lĩnh Nam chích quái (với: Hồng Bàng thị truyện; Ngư Tinh truyện; Hồ Tinh truyện; Mộc Tinh truyện; Tân Lang truyện; Nhất Dạ Trạch truyện; Đổng Thiên Vương truyện; Việt Tỉnh truyện); Truyền kỳ mạn lục (với: Trà Đồng giáng đản lục; Long Đình đối tụng; Từ Thức tiên hôn lục; Phạm Tử Hư du Thiên Tào lục; Na Sơn tiều đối lục...); Truyền kỳ tân phả (với: Vân Cát thần nữ lục; Bích Câu kỳ ngộ); Thánh Tông di thảo (với: Mai Châu yêu nữ truyện; Thiềm thừ miêu duệ ký; Nhị nữ thần truyện; Hoa Quốc kỳ duyên; Ngư gia chí dị; Dương phu truyện; Trần nhân cư Thủy Phủ; Lãng Bạc phùng tiên; Mộng ký; Thử Tinh truyện; Nhất thư thủ thần nữ...); Đào hoa mộng ký, v.v.(12).

Ảnh hưởng của Đạo giáo đối với số tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam kể trên, nhất là loại tiểu thuyết truyền kỳ, chí quái chủ yếu thể hiển trên ba mặt: cấu trúc tác phẩm, xây dựng nhân vật, thiết kế môi trường.

1. Cấu trúc tác phẩm:

Page 60: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Hãy lấy truyện Từ Thức tiên hôn lục trong Truyền kỳ mạn lục làm một thí dụ. Có thể bóc tách truyện này ra thành mấy yếu tố như sau:

- Từ Thức trẩy hội xem hoa mẫu đơn.

- Giúp một thiếu nữ thoát nạn.

- Đến cõi tiên, lấy vợ tiên.

- Nhớ nhà, rời tiên cảnh và không bao giờ còn trở lại được nữa.

Các yếu tố vừa nêu cùng trật tự sắp xếp của chúng tương ứng với một hệ thống ý nghĩa nằm ở tầng sâu tác phẩm:

- Người sống trong nghịch cảnh cảm thấy thiếu thốn một cái gì đó hoặc về vật chất, hoặc về tình cảm, hoặc về tinh thần.

- Nhờ vào ngoại lực để đạt nguyện vọng.

- Sau một lịch trình gian khổ, nguyện vọng được thỏa mãn tối đa.

- Hạnh phúc bị tuột mất.

Kiểu cấu trúc này rất gần gũi với kiểu cấu trúc của truyền thuyết Đạo giáo Hoàng Sơn Chân nhân trong Kê song xuyết thập, sau được chép lại ở Hội chân biên:

"Hoàng Sơn Chân nhân người Hóa Châu, họ Từ tên Thức, làm Tri huyện Tiên Du vào khoảng năm Quang Thái đời Trần Thuận Tông. Bấy giờ tại một ngôi chùa nổi tiếng thuộc huyện bên đang mở hội xem hoa, ngựa xe chen chúc. Dưới khóm mẫu đơn có một thiếu nữ tinh nghịch, với tay kéo mấy cành hoa, không may làm rụng vài đóa, bị người trông coi bắt giữ. Vừa lúc ấy Từ Thức đến, ông bèn cởi chiếc áo cừu của mình ra để chuộc lỗi cho cô gái. Họ Từ vốn thích cảnh núi sông. Làm quan chưa bao lâu, ông xin từ chức để rong chơi miền Tống Sơn, Nga Sơn... Rồi một hôm không hẹn mà tới động Bích Đào, vách núi sừng sững. Họ Từ làm một bài thơ định đề lên vách động. Bỗng cửa động mở, một tiểu đồng bước ra mời ông vào. Họ Từ hỏi duyên do. Qua lời tiểu đồng, ông mới hay cô gái gặp ở hội hoa dạo trước chính là Giáng Hương, vị tiên nữ ở động này. Lưu lại đây một thời gian, họ Từ đắc đạo (...). Ông rời động tiên đến Hoàng Sơn thuộc huyện Nông Cống, rồi không rõ đi đâu..."

Nếu gọi cấu trúc câu chuyện nằm trên bề nổi của truyền thuyết Đạo giáo là mô típ bản sự (tức bản thân sự việc, câu chuyện nguyên mẫu) và cấu trúc ý nghĩa nằm dưới tầng sâu của truyền thuyết Đạo giáo là mô típ bản ý (tức tư tưởng Đạo giáo, chủ đề nguyên mẫu), thì Từ Thức tiên hôn lục chỉ khác Hoàng Sơn Chân nhân về mô típ bản sự, còn mô típ bản ý thì vẫn giữ nguyên. Hay nói rộng ra, khi một truyền thuyết Đạo giáo được chuyển hóa thành tiểu thuyết, mô típ bản sự thường khả biến, còn mô típ bản ý thì lại tương đối ổn định.

Page 61: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Để làm sáng tỏ điều này, ta thử phân tích thêm một tác phẩm tiểu thuyết chữ Hán nữa: truyện Bích Câu kỳ ngộ trong Truyền kỳ tân phả.

Khi còn ở dạng truyền thuyết Đạo giáo, câu chuyện được ghi lại như sau:

"An Quốc Chân nhân họ Trần tên Uyên, người thôn Thịnh Quang. Sau khi cha mất, nhà nghèo, ông tìm tới gò đất Kim Quy thuộc phường Bích Câu làm một thư phòng để ở. Sau khi đến chơi chùa Ngọc Hồ, gặp một thiếu nữ áo hồng đi qua rồi bỗng dưng biến mất. Ông biết là thần tiên có ý trêu mình đây, bèn phất tay áo trở về. Từ đó, những khi học hành rỗi rãi, ông thường ao ước được gặp lại người đẹp thuở xưa. Chợt một hôm người thiếu nữ kia giáng xuống trước sân nhà, hình dáng vẫn y như ngày nọ. Ông vồn vã đón chào. Thiếu nữ nói: "Em là Hà Giáng Kiều, tiên ở Nam Nhạc. Vì chàng có duyên với đạo, đáng truyền cho bí quyết luyện đan, nên em vâng lệnh đến đây để giúp chàng". Ông vui mừng theo học, được ba năm thì đắc đạo. Bấy giờ có hai con hạc trắng ngậm thư bay tới đón ông cùng vợ và con trai là Trân cưỡi hạc bay lên trời giữa ban ngày..." (xem Hội chân biên, Q. Càn, An Quốc Chân nhân và Q. Khôn, Giáng Kiều tiên tử. Truyền thuyết Đạo giáo này nguyên được chép ở Bích Câu đạo quán lục).

Sang tiểu thuyết truyền kỳ Bích Câu kỳ ngộ, mô típ bản sự của truyền thuyết Đạo giáo trên đã từ 2 đơn nguyên phát triển thành 3 đơn nguyên:

Đơn nguyên 1:

- Tú Uyên trẩy hội Vô Già.

- Gặp một thiếu nữ xinh đẹp.

- Hai bên trò chuyện rất ý hợp tâm đầu.

- Người đẹp bỗng dưng biến mất.

Đơn nguyên 2:

- Tú Uyên nhớ nhung.

- Thần đền Bạch Mã giúp kế.

- Tú Uyên kết duyên cùng Giáng Kiều.

- Giáng Kiều bỏ chàng về trời.

Đơn nguyên 3:

- Tú Uyên nhớ vợ, sầu đau.

Page 62: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

- Thần Bạch Mã lại giúp kế.

- Giáng Kiều trở lại chốn nhân gian với chồng.

- Hai vợ chồng và con cùng về cõi tiên.

Trong khi đó thì mô típ bản ý, qua 3 lần khát khao, 3 lần thỏa mãn... đều vẫn vậy, không ra ngoài chủ đề tư tưởng Đạo giáo, một phái sinh của Đạo Lão, coi cảnh đời như mây nổi, có đấy rồi không đấy, hết hợp lại tan, hết tan lại hợp, chỉ có cõi tiên mới đạt tới hạnh phúc vĩnh hằng...

Ở không ít tiểu thuyết chữ Hán khác, phần mô típ bản sự ở truyền thuyết Đạo giáo còn được nhào nặn lại, làm cho cấu trúc tác phẩm trở nên rối rắm hơn, nhiều tầng bậc hơn, trật tự các yếu tố Đạo giáo thậm chí còn được dàn dựng lại hoặc xử lý theo kiểu khác, cốt giảm nhẹ màu sắc tôn giáo, tăng thêm ý vị văn học.

2. Xây dựng nhân vật:

Ảnh hưởng của Đạo giáo đối với tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam còn thể hiện trong việc xây dựng hình tượng nhân vật. Sách Đạo giáo chép: "Kìa như người tiên, lấy thuốc để dưỡng sinh, lấy thuật số để kéo dài tuổi thọ, khiến cho bên trong bệnh tật không phát sinh, bên ngoài tai nạn không xâm nhập, tuy sống lâu không chết mà thân hình vẫn trẻ mãi như xưa, nếu biết đạo thuật thì chẳng có gì là khó" (Bão Phác Tử nội thiên. Luận tiên)(13) . Hoặc chép: "Người tiên có kẻ thót lên mây, không cánh vẫn bay được; có kẻ cưỡi rồng mây đến cõi trời; có kẻ bay lượn trên danh sơn; có kẻ ăn nguyên khí; có kẻ nhá cỏ chi; có kẻ tới lui cõi nhân gian mà không người biết; có kẻ tàng ẩn thân hình nên chẳng ai hay" (Thần tiên truyện. Bành Tổ truyện)(14). Đây là phát triển những ý cơ bản vốn có trong thiên Tiêu dao du ở sách Trang Tử khi nói về đặc điểm của Chân nhân: "Không ăn ngũ cốc, chỉ hít gió uống sương, cưỡi rồng mây mà rong chơi ngoài bốn biển" (Bất thực ngũ cốc, hấp phong ẩm lộ, thừa vân khí, ngự phi long nhi du hồ tứ hải chi ngoại). Nói rút lại, thần tiên có hai đặc trưng, một là trường sinh bất tử, và hai là thần thông quảng đại, phép thuật cao cường. Hai đặc trưng đó của Đạo giáo khi vào tiểu thuyết, được thể hiện qua hai loại hình tượng nhân vật: thần tiên trần tục hóa và người tục thần tiên hóa.

a. Thần tiên trần tục hóa như Giáng Hương (Truyền kỳ mạn lục. Từ Thức tiên hôn lục), Nữ thần (Thánh Tông di thảo. Nhất thư thủ thần nữ), Quỳnh Nương (Truyền kỳ tân phả. Vân Cát thần nữ), Giáng Kiều (Truyền kỳ tân phả. Bích Câu kỳ ngộ) v.v. Họ đều thuộc dòng giống thần tiên, người nào cũng phép thuật cao siêu, thần thông biến hóa. Quỳnh Nương thì: "nói xong, vụt lên trên không đi mất. Từ đó tung tích như mây nổi lưng trời, không cố định ở đâu cả. Có khi giả làm gái đẹp thổi ống tiêu ở dưới trăng; có khi hóa thành bà già tựa gậy trúc ở bên đường". Giáng Kiều thì "vẩy cái cành hoa vẽ ở trong bức tranh, biến ra thành hai thị nữ, sai sửa soạn cơm nước"... Vì nhiều duyên cớ khác nhau, họ đến cõi trần làm người thế tục, cũng xây dựng gia đình, cũng sinh con đẻ cái, cũng có đủ cả bảy thứ tình cảm như những người sống trên hành tinh của chúng ta vậy.

Page 63: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

b. Người tục thần tiên hóa như Đạo sĩ họ La (Nam Ông mộng lục. áp lãng Chân nhân), Chử Đồng Tử (Lĩnh Nam chích quái. Nhất Dạ Trạch), Từ Thức (Truyền kỳ mạn lục. Từ Thức tiên hôn lục), Chu Sinh (Thánh Tông di thảo. Hoa Quốc kỳ duyên), cô gái làng Thanh Khê (Thánh Tông di thảo. Dương Phu truyện), v.v. Mỗi một nhân vật như thế, đều có một địa chỉ "xác thực": Đạo sĩ họ La sống trên một ngọn núi gần cửa biển Thần Đầu; Chử Đồng Tử người hương Chử Xá, con trai của Chử Vi Vân; từ Thức người Hòa Châu, được bổ làm Tri huyện Tiên Du, v.v. Nhờ gia công tu luyện, họ đều có phép màu và trở thành tiên cả. Chử Đồng Tử dựng cây gậy rồi úp chiếc nón lá lên, biến thành lâu đài. Cô gái làng Thanh Khê sau khi chết, đã trút xác lại và biến thành con ngỗng vàng mỏ ngậm cành hoa bay lên trời, v.v.

c. Một số nhân vật trong tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam đã thể hiện quan niệm sống chết của Đạo giáo.

Hoặc thể xác và linh hồn đều sống mãi, như vị tiên thổi địch mà vua Lê Thánh Tông từng gặp ở hồ Lãng Bạc (Thánh Tông di thảo. Lãng Bạc phùng tiên), hay Đạo Cô ở đình Vọng Nguyệt, núi Tam Đảo (Đào hoa mộng ký). Họ đã "sống thọ không biết mấy nghìn tuổi, thường cưỡi mây đạp khói biến hiện vô chừng" (Đào hoa mộng ký).

Hoặc chết đi rồi sống lại theo nguyên hình, hay chuyển sang một dạng sống khác. Sách Đạo giáo nói: "Uống thuốc kim đan, làm cho thân thể phân giải là cách tốt nhất, có thể thay đổi tên họ, trở về quê hương". Hoàng Văn Bào trong Tái sinh sự tích là một nhân vật gần như vậy. Sau khi chết đi, chàng đầu thai ở một địa phương khác, theo nguyên hình. Nhưng thường gặp hơn trong tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam là sau khi chết, hóa thành vật khác. Sách Bão Phác Tử chép: "Thời cổ, người thành tiên có kẻ mọc cánh trên mình, biến hóa, phi hành, mất hẳn gốc người, đổi ra hình khác, giống như chim sẻ biến thành con hến vậy". Sách này còn nói: "Người là giống tối linh, nhưng nam nữ hình dạng khác nhau, hóa thành hạc, thành đá, thành hổ, thành vượn, thành cát, thành ba ba lại không phải ít. Đến như núi cao biến thành chằm, hang sâu biến thành gò, đấy đều là sự biến hóa của các vật lớn". Trong truyện trầu cau ở Lĩnh Nam chích quái, ba nhân vật Tân, Lang và cô gái họ Lưu sau khi chết, biến thành cau, vôi và trầu, cũng là để cho mối tình anh em, chồng vợ keo sơn của họ trở nên vĩnh cửu hóa, theo quan niệm Đạo giáo. Đến đây ta nhớ hai câu thơ của Bạch Cư Dị trong Trường hận ca: "Thiên trường địa cửu hữu thời tận; Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ". Nhiều truyện trong Truyền kỳ mạn lục, người sau khi chết biến thành hồn ma để trăng gió với người đời, hoặc để gặp người yêu, hoặc hóa thành quỷ dữ để báo thù... đều là viết dưới ảnh hưởng quan niệm sống chết của Đạo giáo. Đến như các truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh... trong Lĩnh Nam chích quái cũng vậy thôi, khác chăng là ở chỗ chúng thuộc phía nhân vật phản diện. Cho nên Sơn Nam Thúc khi bình luận về chuyện Chồng dê trong Thánh Tông di thảo đã viết: "Trong khoảng trời đất, hết thảy giống bay, giống lặn, giống chạy, giống náu tuy là vật mà không phải là vật. Những giống ấy hoặc là duyên xưa chưa hết, hoặc vì oán cũ chưa tan, có khi đội lốt để tìm nhau, có khi thoát hình biến hóa (...) Ta nên lựa tâm xét kỹ, không nên coi giống vật là vật". Đấy cũng là cách nhìn của Đạo giáo về mặt sống chết, hóa thân.

Page 64: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

3. Thiết kế môi trường:

a. Đạo giáo chia không gian hoạt động của con người ra làm 3 thế giới: "Kìa như sự việc trong trời đất không thể nào hạn định được. Cứ theo lòng dạ mà suy, trong cõi u hiển có ba bộ phận liên quan với nhau. Trên là tiên, giữa là người, dưới là quỷ. Người thiện được hóa thành tiên, tiên bị biếm trích lại trở thành người, người ác bị hóa thành quỷ, quỷ làm điều phúc lại trở thành người. Quỷ bắt chước người, người bắt chước tiên, xoay vòng qua lại, cứ vậy mà suy. Đấy là sự cách biệt nho nhỏ giữa cõi u và cõi hiển" (Đào Hoằng Cảnh: Chân cáo)(15). Tác giả tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam cũng có người quan niệm như vậy: "Nay ta bảo cho anh biết: trong khoảng trời đất báo ứng luân hồi, chỉ có hai loại thiện và ác. Người chăm làm thiện, tuy hãy còn sống, tên đã ghi ở Đế Đình; người hay làm ác, không đợi đến chết, án đã thành ở Địa Phủ" (Truyền kỳ mạn lục. Phạm Tử Hư du Thiên Tào lục).

Cõi tiên gồm 36 tầng trời, 10 châu, 3 đảo, trong đó có 10 động thiên lớn, 36 động thiên nhỏ và 72 phúc địa. Trên đất thì là động tiên (hang động trong núi); trên biển thì là đảo tiên (Bồng Lai, Phương Trượng). Đây cố nhiên là không gian hư ảo do các tín đồ Đạo giáo tự ý nặn ra, nhưng nó đã cung cấp đất dụng võ cho tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết truyền kỳ, chí quái. Nhiều cây bút đã cố sức làm nổi bật vẻ đẹp của cảnh tiên và hạnh phúc toàn vẹn của cuộc sống thần tiên. Ví dụ cảnh tiên ở cửa bể Thần Phù trong truyện Từ Thức: "Bám bíu trèo lên thì mỗi bước mỗi thấy rộng rãi. Lên đến ngọn núi thì bầu trời sáng sủa. Chung quanh toàn là những lâu đài nguy nga, mây xanh ráng đỏ bám ở lan can, cỏ lạ hoa kỳ nở đầy trước cửa. Sinh nghĩ nếu không phải là chỗ đền đài thờ phụng, tất là cái xóm của những bậc lánh đời, như những nơi suối Sậu nguồn Đào chẳng hạn. Rồi chợt thấy có hai người con gái áo xanh bảo nhau rằng: "Lang quân nhà ta đã đến!" Đoạn họ chạy vào nhà báo tin, một lúc đi ra nói: "Phu nhân chúng tôi sai mời chàng vào chơi". Sinh đi theo họ vào, vòng quanh một bức tường gấm, vào trong một khung cửa son, thấy những tòa cung điện bằng bạc đứng sừng sững, có những tấm biển đề "Điện Quỳnh Hư", "Gác Dao Quang". Trên gác có bà tiên áo trắng ngồi trên một cái giường thất bảo đặt bên một cái giường nhỏ bằng gỗ đàn hương, mời Sinh lên ngồi"... "Rồi đó, mặt trời gác núi, các khách khứa ra về hết"... Mọi vật như đều tan biến, chỉ còn lại sự cực lạc của hạnh phúc lứa đôi giữa Từ Thức với Giáng Hương.

b. Thời gian trong tiểu thuyết chữ Hán chịu ảnh hưởng của Đạo giáo đôi lúc là thời gian tâm lý. Chẳng hạn Từ Thức sống ở cõi tiên được một năm, khi trở về nhà, thấy "vật đổi sao dời, thành quách nhân gian, hết thảy đều không như trước nữa, duy có những cảnh núi khe là vẫn không thay đổi sắc biếc màu xanh thuở nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm những người già cả thì thấy có người nói: "Thuở bé tôi nghe ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi đến nay đã hơn 80 năm rồi, nay đã là năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh đời vua thứ ba triều Lê". Vậy là một năm ở cõi tiên dài bằng 80 năm nơi trần thế !

Cũng có lúc ranh giới thời gian bị xóa nhòa hoàn toàn, như ở truyện Bích Câu kỳ ngộ: "Buổi chiều hôm ấy bày tiệc rượu đủ các hoa quả, trải chiếu giữa sân, Giáng Kiều ăn vận tề chỉnh, cùng Tú Uyên ngồi xem trăng. Chợt trông vào chỗ vách,

Page 65: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

chàng thấy lâu đài nhà cửa đều như gấm, như ngọc, hạnh đào đỏ tươi, cảnh giới khác nơi trần thế; mai vàng mận tía, phong quang như ở cõi trời. Một lát sau thấy Tiên Dung Công chúa và Ngụy Giáng Hương từ trên mây xuống, các tiên khác lục tục đến sau, có đến hơn trăm vị". Như ta biết, Công chúa Tiên Dung người thời Hùng Vương; Giáng Hương vợ Từ Thức người thời nhà Trần; còn Giáng Kiều và Tú Uyên sống vào thời Hồng Đức, vậy mà họ có thể vượt qua mọi cách bức của thời gian để hội ngộ với nhau trên cùng một chiếu!

** *

Một số tư tưởng Đạo giáo đã bị người ta phê phán từ lâu. Như Mâu Tử trong Lý hoặc luận chẳng hạn. Khi có người hỏi về chuyện các tiên Vương Kiều, Xích Tùng cũng như bùa chú của Bát tiên, ông trả lời: "Sách thần tiên nghe thì đầy rẫy cả tai, nhưng tìm sự hiệu nghiệm thì tựa hồ nắm gió bắt bóng". Khi hỏi về chuyện Đạo giáo chủ trương tịch cốc để sống lâu, ông đáp: "Lúc tôi chưa hiểu đạo Phật, thì cũng từng học tịch cốc. Pháp thuật này có tới hàng trăm nghìn kiểu, nhưng thực hiện không thấy có hiệu quả, không thấy tin tưởng nên mới thôi. Cứ xem như ba người thầy mà tôi theo học, ông nào cũng nói mình đã sống 700 tuổi, hoặc 500 tuổi, hoặc 300 tuổi, thế mà tôi học họ chưa đầy 3 năm thì tất cả đều chết ráo. Sở dĩ như vậy, là do không chịu ăn cơm, mà đi xài hàng trăm thức quả, ăn thịt thì tới cả mâm đầy, nốc rượu thì đến nghiêng vò rót, tinh thần hỗn loạn. Vì thiếu hơi cơm nên ù tai, mờ mắt, lại không kiêng món tà dâm. Tôi hỏi cớ sao như vậy, họ trả lời rằng: "Lão Tử nói giảm bớt đi, giảm thêm nữa, cho đến vô vi (...)". Nhưng tôi quan sát thì thấy mỗi ngày một tăng lên chứ không giảm. Cho nên ông nào cũng chưa tới tuổi tri mệnh đã chết" (Lý hoặc luận, chương 31)(16).

Có phê phán nhiều hơn nữa, thì cũng đúng thôi. Nhưng Đạo Lão và phái sinh của nó là Đạo giáo không phải không có những điểm khả thủ mà ngày nay, với tinh thần gạn đục khơi trong, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu. Riêng đối với tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Đạo giáo đã kích thích óc tưởng tượng của người cầm bút trên con đường đi tìm cái đẹp trong cuộc sống con người, làm cho con người trở nên ngày một hoàn thiện hơn, hưởng thụ được nhiều mỹ cảm văn học hơn. Đối với sự phát triển của thể loại văn học nước ta, chính Đạo giáo cũng đã góp phần dẫn dắt tiểu thuyết đi từ bút ký, đến chí quái, truyền kỳ và một vài thể loại khác nữa như diễm tình, công án...

CHÚ THÍCH

(1) Thần tiên: chỉ những người tu luyện thành công, có thể vượt ra khỏi vòng sinh tử, với khả năng biến hóa khôn lường. Sách Thiên ẩn tử. Thần giải chép: "ở người gọi là nhân tiên, ở trời gọi là thiên tiên, ở đất gọi là địa tiên, dưới nước gọi là thủy tiên, có khả năng biến hóa gọi là thần tiên".

(2) Phương thuật: tức "phương tiên chi thuật", gồm thiên văn(chiêm hậu, chiêm tinh), y học (vu y), thuật thần tiên, chiêm bốc, tướng số, độn giáp, kham dư... Các

Page 66: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

môn "luyện đơn thái dược", "phục thực dưỡng sinh", "tế tự quỷ thần", "kỳ nhương cấm chú"... về sau đều được Đạo giáo tiếp thu, trở thành những phương pháp tu luyện, tế độ quan trọng.

(3) Trương Đạo Lăng (34-156): nguyên tên là Trương Lăng, người Phong Huyện, Giang Tô, từng làm quan Lệnh ở Giang Châu. Vào đời Hán Thuận Đế (125-144), ông vào núi Hạc Minh ở Đại ấp Huyện, Tứ Xuyên để tu đạo và dùng bùa chú chữa bệnh cho dân, sáng lập ra phái Đạo giáo ở Trung Quốc. Ai muốn gia nhập đạo hồi bấy giờ đều phải đóng 5 đấu gạo, nên người đời gọi đạo ông là đạo "năm đấu gạo".

(4) Cát Hồng (281- 341 ?): tự Trĩ Xuyên, lấy hiệu là Bão Phác Tử, người Đan Dương, Giang Tô. Từ nhỏ ông đã thích tu tiên luyện đan. Lớn lên, nghe ở Câu Lậu, Giao Chỉ (một tên nước ta thời cổ) có đan sa, ông xin qua đó làm quan Lệnh Câu Lậu. Ông là nhà lý luận của Đạo giáo thời Đông Tấn, đồng thời là nhà y học, nhà luyện thuốc trường sinh.

(5) Lý hoặc luận: tác phẩm của Mâu Bác, còn gọi là Mâu Tử, người Thương Ngô, Quảng Tây, sống vào khoảng cuối thế kỷ 2 đầu thế kỷ 3 sau Công nguyên. Ông từng dắt mẹ rời Thương Ngô chạy sang miền Bắc nước ta để tránh loạn. Tại đây, ông để tâm nghiên cứu Phật giáo Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh, Trung tâm chính trị văn hóa Việt Nam hồi này), có nhiều khám phá và phát hiện quan trọng. Ông viết Lý hoặc luận để trình bày những mới mẻ mà ông tìm thấy nơi Phật giáo, đồng thời bảo vệ đạo Phật trước sự tấn công từ nhiều phía của đạo Nho, thuyết Hoàng Lão và thuật tu tiên, luyện thuốc trường sinh đang thịnh hành ở Giao Châu (một tên nước ta thời cổ) hồi bấy giờ.

(6) An Nam chí lược: tác phẩm của Lê Trắc, tự Cảnh Cao, người Đông Sơn, Thanh Hóa, không rõ sinh và mất năm nào. Theo khảo cứu của Trần Kinh Hòa, sách An Nam chí lược đại khái được soạn xong trong khoảng năm 1285-1307, sau đó lại tiếp tục bổ sung, mãi đến năm 1339 mới thực sự kết thúc (x. Bd. An Nam chí lược của ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện đại học Huế, 1961, tr.XIII). Sách An Nam chí lược có không ít những ghi chép liên quan tới Đạo giáo Việt Nam. Như ở Q.1, khi viết về núi Tiên Du: "Có hòn đá bàn thạch, dợn có đường gạch như bàn cờ, tương truyền rằng: xưa có tiên đánh cờ ở đó" (Sđd, tr.33); khi viết về núi Yên Tử: "... Đại sư là Lý Tư Thông có dâng lên vua Hải nhạc danh sơn đồ và vịnh thơ tán: Phúc địa thứ tư tại Giao Châu là Yên Tử: "... Tiên cưỡi loan qua ngồi cảnh tịnh, Người xem rồng xuống giỡn đầm xanh" (Sđd, tr.34). Khi viết về núi Đà Kỹ: "Có một khoảng đất vườn, ở sát bờ biển, sinh ra thứ đá đen như hình con cờ, hình sắc thật đẹp, đáng yêu. Ta (chỉ Lê Trắc - TN) thường ra chơi, gặp ông già nói rằng: "Cách đây hơn một trăm dặm, lại có sản xuất con cờ đá trắng". Tục truyền rằng: người tiên thường đánh cờ vây ở đó" (Sđd, tr.36); khi viết về Sùng Sơn: "Thẩm Thuyên Kỳ, đời nhà Đường bị đày qua đất Hoan Châu (tức Nghệ An ngày nay - TN), có làm bài Sùng Sơn hướng Việt Thường thi: "... Tạo hóa công thiên hậu, Chân tiên tích lũy lâm..." (... Tạo hóa riêng hậu đãi, Thiên nhân thường giáng lâm - TN) (Sđd, tr.37). Hay khi viết về phong tục, có đoạn: "Ngày Nguyên Đán... Các thợ khéo làm một cái đài "Chúng tiên" hai tầng trước điện, một lúc thì cái đài ấy làm xong,

Page 67: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

vàng ngọc sáng chói. Vua [nhà Trần] ngồi ăn trên đài ấy, các quan làm lễ, trước sau chín lạy, và chín tuần rượu rồi giải tán..." (Sđd, tr.46). ở Q.15, có chép về Đạo sĩ Hoàn Nguyên: "Nhà nho, học Phật, lại hoàn tục, lấy cô của vua là bà Thụy Tư, Trần Thái Vương (chỉ Trần Thái Tông - TN) phong làm liệt hầu. Nguyên thường bắt buộc Thụy Tư theo đúng lễ chính, do đó, vợ chồng bất hòa, rồi Nguyên đi làm Đạo sĩ. Nguyên làm thơ hay, tính ưa ngao du rừng suối, vua cho làm chức Đạo lục, tục gọi là Đạo lục hầu" (Sđd, tr.240).

(7) Thông Huyền: một Đạo sĩ nước ta đời Lý. Sự tích về ông được chép chung với danh tăng Giác Hải trong bài Tăng đạo thần thông ở sách Nam Ông mộng lục.

(8) Hoàn Nguyên: xem lại chú thích 6.

(9) Huyền Vân: Đạo sĩ, người Chí Linh, sống ẩn ở chùa Lệ Kỳ, Ngao Sơn để luyện đan. Trần Dụ Tông từng mời ông tới để hỏi cách tu luyện và đặt tên chỗ ở của ông là "Huyền Thiên Động" (x. Hội chân biên, Q.Càn).

(10) Hội chân biên: soạn. Quế Hiên Tửdo Thanh Hòa Tử duyệt. Bài Trùng san tự đề năm Tân Hợi, bài Dẫn đề năm Thiệu Trị 7. Sách được in tại đền Ngọc Sơn, Hà Nội, năm Canh Tuất. Qua bài tựa và bài dẫn, ta có thể hình dung quá trình soạn và in sách như sau: không rõ tự bao giờ, đã có một cuốn Kê song xuyết thập. Đến năm Thiệu Trị 7 (1847), một người hiệu Thanh Hòa Tử thấy Kê song xuyết thập có nhiều mặt chưa đầy đủ, nên nhân lúc "Thánh triều khải vận, chí đạo phương minh = triều thánh mở vận, đạo lớn sáng soi", đã biên tập lại và đặt tên mới cho sách là "Hội chân biên", có vẽ tranh và làm thơ minh họa (Dẫn). Nhưng rồi phải đợi đến tháng 4 năm Canh Tuất (1910), bản thảo mới được đền Ngọc Sơn tổ chức khắc ván in, những mong "vãn phong hội ư tương lai, chấn đồi ba ư ký đảo" = vãn hồi phong hội cho tương lai, chấn hưng con sóng đã sụp đổ" (Trùng san tự), nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước chống Pháp trong nhân dân ta. Tháng 9 năm Tân Hợi (1911) sách in xong, bèn thiết đàn cầu cơ tại Đa Ngưu (Văn Giang, Hải Dương), lấy giáng bút của "tiên Liễu Hạnh" làm tựa đề cho lần xuất bản (Hội chân biên hiện được in trong Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Tập II, gồm 5 quyển, 20 truyện, do Chan Hing - ho, Trịnh A Tài và Trần Nghĩa đồng Chủ biên, Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp xuất bản, Học sinh thư cục Đài Loan ấn hành năm 1992. Hội chân biên in ở cuối Q.5).

Tranh thờ Đạo giáo 08:27, 02/01/2011

Page 68: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Tranh phục vụ cho mục đích tôn giáo vốn rất phổ biến, tranh thờ Đạo giáo, như tên gọi của nó, được sử dụng trong các nghi lễ Đạo Giáo và là một phần trong hệ thống các đồ thờ cúng khác như mũ áo, thày Tào, ấn, kiếm, mặt nạ...dùng trong những dịp lễ cúng.  Đặc điểm Tranh thờ mang sắc thái và giá trị thẩm mỹ rất riêng. Tranh có lối bố cục lạ: hẹp, dài với dày đặc các nhân vật thần linh. Các nhân vật thần chủ này lại tuân theo một qui tắc xã hội: nhân vật nào có quyền năng lớn được vẽ to, chiếm vị trí trung tâm, và các thần ít quyền năng hơn thì được vẽ đơn giản, nhỏ. Màu sắc tranh thờ là màu tự nhiên, ít pha trộn như đỏ, vàng, trắng, đen, xanh lá cây... đây đó họa công còn dùng cả vàng lá, bạc lá thếp thêm vào tranh tạo nên sự quyện ấm tươi tắn - có thể dễ dàng đoán được những màu ấy trong tranh mang tính ước lệ, biểu trưng nhiều hơn là tả thực. Phong cách nghệ thuật Một trong những điều đáng chú ý nhất là phong cách nghệ thuật Đồng Hiện và Liên Hoàn được sử dụng triệt để, tạo nên hiệu quả rất cao. Nghĩa là trong cùng một khuôn tranh, người ta bắt gặp đủ các lớp không gian, thời gian, thực và

ảo khác nhau; các thần chính, thần phụ, ma quỷ và con người trên cùng một mặt tranh. Lại có những bức tranh thờ vẽ đủ cả các cảnh từ mặt đất lên bầu trời, từ núi sông tới biển cả, từ địa ngục tới tiên cảnh tùy theo trí tưởng tượng của người vẽ tranh. Điều ấy khiến không gian tranh mênh mang, thời gian trong tranh vô tận chứ không ghim chặt vào một thời điểm sáng hay chiều nào. Xét về mặt nào đó, đây là một sự giải phóng về mặt tư tưởng, là một thành công trong tư duy sáng tác của các họa công tranh thờ. Các nhân vật chính Tranh vẽ một loạt các hình tượng nhân vật đáng chú ý khác nữa. Đó chính là những vị thần chủ như Thập điện diêm vương, Tứ đại nguyên súy, Tả Sư Hữu Thánh... và các thần phụ đi kèm. Những vị thần chủ chính thường được khắc họa nổi bật, các chi tiết tạo hình chọn lựa kỹ càng, mang tính biểu trưng cao, ví như hình ảnh những lưỡi lửa bừng bừng cháy trên thanh gươm của vị Tả Sư và con rắn xanh quấn quanh gươm của vị Hữu Thánh - trong bộ tranh đôi Tả Sư Hữu Thánh. Những hình ảnh nói trên là ví dụ về sự khái quát, cô đọng bằng đường nét: diễn tả sức mạnh bừng bừng không gì cản nổi (như ngọn lửa), thâm sâu lạnh lẽo (như nọc độc của con rắn xanh), thứ quyền lực bao trùm, mạnh mẽ khủng khiếp của hai vị quan chấp pháp. Các nhân vật phụ Trong khi đó, các nhân vật phụ thường được vẽ không mấy cụ thể, mang những tư thế giống hệt nhau, thậm chí đôi khi là những bản sao hoàn chỉnh về sắc độ. Chính những hình tượng phụ này cũng là một điểm rất đáng lưu ý: hàng chục hình tượng vẽ lặp lại, na ná nhau, lại xếp liền tù tì thành một hàng hay nhiều hàng chồng chéo, giống như một loại họa tiết trang trí độc đáo. Đời sống tâm linh Với các dân tộc thiểu số, người thầy cúng và các lễ thờ cúng luôn là chỗ dựa cho đời sống tâm linh của họ. Người thầy cúng được kính trọng, có uy tín trong cộng đồng và phải được cấp sắc, được học hành. Các lễ cúng không chỉ là phong tục tập quán đối với người dân tộc thiểu số mà còn là hoạt động sinh hoạt văn hóa. Gắn liền với các lễ cúng ấy, tranh thờ đóng một vai trò quan trọng (xem thêm Vai trò của Tranh thờ Đạo Giáo trong tín ngưỡng) thể hiện và diễn tả các tín ngưỡng, lối tư duy và cách hành xử trong cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số. 

« Sửa lầ

Tranh Tả Sư Hữu Thánh.

Page 69: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

n cuối: 22 Tháng Sáu, 2007, 00:21:41 AM gửi bởi td

Page 71: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

ơi nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra

Page 72: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

cửa,Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ ta

Page 73: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

y bồng ông Phúc vào nhà"« vào lúc: 22 Tháng Sáu

Page 74: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

, 2007, 00:19:28 AM »

http://nhipcaugiaoly.org/article/detail.php?article_id=148

Nói đến Lão giáo, người ta nghĩ ngay đến đường lối tu hành theo Tiên Đạo, là cách tu ẩn dật, trở về với thiên nhiên được hình dung qua cuộc sống thơ túi rượu bầu, luyện đan nấu thuốc của những đạo sĩ. Đấng Giáo tổ khai sáng Lão giáo theo truyền thuyết là Đức Lão Tử. Nói là truyền thuyết bởi vì không giống như Đức Khổng Tử và Đức Thích Ca, những gì hậu thế biết về Đức Lão Tử rất mơ hồ. Ngài không có môn sanh, không truyền Đạo, chỉ để lại tác phẩm nổi tiếng là Đạo Đức Kinh

TIỂU SỬ ĐỨC LÃO TỬ:

Theo Sử Ký Tư Mã Thiên ( 145-86 trước CN), phần Liệt truyện, thiên 63Lão Tử là người nước Sở,huyện Khổ, làng Lệ, xóm Khúc Nhân, tỉnh Hồ Nam bây giờ. Ngài họ Lý tên Nhĩ (tai) tự Bá Dương, thụy (tên sau khi chết) là Đam ( tai dài) làm quan giữ chức Thủ tàng thất, tức coi kho sách dưới thời nhà Châu tức vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước Tây Lịch.

Truyền thống cho rằng Ngài sinh ra vào khoảng năm 604 trước CN, người cùng thời nhưng cao niên hơn Đức Khổng Tử (551-479 trước CN). Đức Lão Tử không phải là một nhà tu khổ hạnh, cũng không phải là một kẻ sĩ ẩn dật, mà đích thực là một nhà thông thái chọn lựa một cuộc sống trầm tư mặc tưởng quay về nội tâm, chuyên tâm vào việc tu dưỡng tinh thần. Do vậy, đời tư của Ngài là một bí ẩn, ngay cả đối với người cùng thời.

Page 75: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Những gì người đời sau được biết về Ngài chỉ qua một vài câu chuyện ghi lại trong quyển Sử Ký Tư Mã Thiên, như nói là Ngài sống cùng thời với Đức Khổng Tử vì có câu chuyện thuật lại cuộc gặp gỡ giữa và Đức Khổng Tử. Đức Khổng Tử hỏi Đức Lão Tử về “Lễ”, Đức Lão Tử trả lời: “Những người ông nói đó, thịt xương đều nát cả rồi, chỉ còn lại lời của họ thôi. Vả lại người quân tử nếu gặp thời thì ngồi xe ngựa, không gắp thời thì đội nón lá đi chân. Tôi nghe nói người buôn giỏi thì giấu kỷ vật quý, coi ngoài như không co gì; người quân tử đức cao thì dung mạo như ngu độn. Ong nên bỏ cái khí kiêu căng, cái lòng đa dục, cái vẻ hăm hở, cùng cái chí quá hăng của ông đi, những cái đó không có ích gì cho ông đâu. Tôi chỉ khuyên ông có bấy nhiêu thôi.”

Cũng theo sách Tư Mã Thiên, sau đó Đức Khổng Tử về, bảo học trò: “ Loài chim ta biết nó bay được, loài thú ta biết nó chạy được. Chạy thì ta dùng lưới để bẫy, lội thì ta dùng câu để bắt, bay thì ta dùng tên để bắn. Đến loài rồng cưỡi gió mây mà lên trời thì ta không sao biết được. Hôm nay ta gặp ông Lão Tử, ông là con rồng chăng?”

Bộ Sử Ký còn ghi một đoạn khác lời của Lão Tử khuyên Khổng Tử: “Tôi nghe nói người giàu sang tiễn nhau bằng tiền bạc, người nhân tiễn nhau bằng lời nói. Tôi không phải là người giàu sang, nạn phép tự coi là người nhân mà tiễn ông bằng lời này: Kẻ thông minh và sâu sắc thì khó sống vì ham phê bình người; kẻ giỏi biện luận, biết nhiều thì nguy tới thân vì hay nêu cái xấu của người. Kẻ làm con và kẻ làm tôi đều không có cách gì để giữ mình cả.”Khi nhà Châu suy vi, vua U Vương thất chánh, Đức Lão Tử cáo lão từ quan rồi đi về hướng Tây. Đến ải Hàm Cốc, quan giữ ải là Doãn Hỉ ra đón Ngài một cách long trọng rồi khẩn khoản xin Ngài truyền Đạo. Tương truyền, do trước đó Doãn Hĩ thấy một vầng mây màu tía bay ngang thì biết điềm Thánh nhân qua ải, nên khi gặp Lão Tử có dị tướng (lỗ tai dài) nên đoan chắc là Thánh nhân. Lúc đầu Ngài từ chối, sau Ngài mới nhận lời ở lại ải một tháng và truyền Đạo bằng cách viết ra quyển Đạo Đức Kinh gồm 5000 lời để lại, rồi tiếp tục ra đi về phương Tây và kể từ đó biệt dạng.

Thân thế Đức Lão Tử tìm thấy trong sử sách chỉ vỏn vẹn có chừng ấy thông tin cùng với tác phẩm Đạo Đức Kinh còn lưu truyền đến ngày nay

NỘI DUNG QUYỂN ĐẠO ĐỨC KINH:

Quyển ĐĐ Kinh gồm 2 thiên thượng và hạ, với 81 chương, nội dung dạy về “Đạo kinh ” và “Đức kinh”.

Page 76: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Ngài dạy: Đạo là mẹ của muôn loài (ch.1, 52) có trước cả trời đất (ch.25),là nơi vạn vật ẩn náu (ch.62) Bản chất của Đạo không có hình dạng, âm thanh (14,15) nên không thể tả được (14,41), nhưng hình dung nó đơn thuần như gỗ chưa đẽo gọt,chưa bị phủ sơn giả tạo bên ngoài (28,32), nó vĩnh viễn, bất biến (16,25) đi khắp mọi nơi và không nguy hiểm (25), khi dùng đến thì không bao giờ hết (6).

Nó thật là lớn(35), không có tên( 1,32,37,41) và nếu bị buộc phải có tên, thì chỉ có thể gọi là Lớn, có nghĩa là không có biên giới trong không gian và thời gian (1,25), bởi vì nó không phải là một vật hữu hình, cho nên không thể tả được và không có gì giống nó cả.

Đạo không làm gì (37) nhưng không việc gì mà nó khộng làm. Đạo giúp vạn vật phát triển theo tự nhiên (64) để vạn vật tự biến hóa, sinh ra và lớn lên (37). Đạo không bỏ vật nào (2), sinh ra muôn loài nhưng không kể công (2,10,14,51), nuôi dưỡng muôn loài mà không tranh giành với chúng (8 ) .Nhờ Đạo mà trời trong, đất yên ổn, mọi vật được sinh ra và lớn lên. Nếu không có Đạo, muôn loài sẽ kiệt, sẽ tan (39). Đạo vận hành tuần hoàn theo chu kỳ, theo đó vạn vật luôn trở về gốc (16,40). Đạo bắt chước tự nhiên (25). Công dụng của Đạo là ở chỗ yếu mềm (25). Đạo là con đường vạn vật phải theo vì Đạo đã sinh ra vạn vật và điều hòa mọi hoạt động của vạn vật một cách tự nhiên. Vạn vật trong vũ trụ thể hiện những trạng thái khác nhau của Đạo.

Tóm lại, theo Đức Lão Tử, vũ trụ là một khoảng không gian hư vô, trong đó có Đạo. Đạo sinh ra vạn vật. Vạn vật cùng tác động qua lại với nhau, tăng trưởng và phồn thịnh với nhau rồi lại trở về gốc cũ. Đó là một luật chung của vũ trụ và là định mệnh của vạn vật.

Về Đức kinh, Đức Lão Tử dạy: Đức không phải là một vật, không có thực thể, không có hình tượng, mà nó chính là tinh tuý của mọi vật. Đức do Đạo sinh ra, dùng để nuôi dưỡng vạn vật. Sinh ra vạn vật là Đạo nhưng làm cho vạn vật tồn tại là Đức. Như vậy, Đạo là bản chất và Đức là thể năng. Ngài giải nghĩa chữ Đức: sinh ra mà không nhận là sinh, làm ra mà không cậy công, nuôi lớn mà không làm chủ, đó là cái Đức mầu nhiệm ( Sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trưởng nhi bất tể, thị vi huyền Đức).

Ngài phân biệt Đạo với Đức: Đạo sinh ra vạn vật, Đức chứa đựng chúng, vật chất biến chúng thành hình, hoàn cảnh khiến chúng thành vật. Vì thế muôn vật , không vật nào mà không tôn Đạo và quý Đức. Đạo được tôn, Đức được quý, không phải do cái gì sai khiến mà tự nhiên như vậy. Cho nên, Đạo sinh ra

Page 77: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

chúng, Đức nuôi chúng , làm cho chúng sống và lớn lên, làm cho chúng hiện ra hình, làm cho chúng thành ra chất và che chở chúng ( Đạo sinh chi, Đức súc chi. Vật thành chi, thế thành chi. Thĩ dĩ vạn vật mạc bất tôn Đạo nhi quý Đức. Đạo chi tôn, Đức chi quý, phù mạc chi mệnh nhi thường tự nhiên. Cố, Đạo sinh chi, Đức súc chi, trưởng chi, dục chi, đình chi, độc chi, dưỡng chi, phúc chi)

Như vậy, Đức là năng lực của Đạo, là công dụng của Đạo. Đức là biểu hiện cụ thể của Đạo trong từng sự vật. Nếu Đạo là cái vô hình tĩnh tại thì Đức là cái động hữu hình của Đạo. Đạo là bản chất của vũ trụ, Đức là sự cấu tạo và tồn tại của vũ trụ. Đây chính là nguyên lý Âm- Dương bất biến của vũ trụ với tính chất quân bình hằng hữu : “Vạn vật phụ âm nhi bảo dương, xung khí dĩ vi hòa” có nghĩa “muôn vật đều cõng âm mà bồng dương, nhân chỗ xung nhau mà hòa với nhau” Do đó, mọi sự trong trời đất mà bất cập hay thái quá đều trái lẽ tự nhiên và sẽ tự điều chỉnh theo nguyên tắc phản phục tức theo luật âm sinh dương, dương sinh âm “Vật hễ bớt thì nó thêm, thêm thì nó bớt “ (Ch.42)

Do vậy, theo Đức Lão Tử, vạn vật được sinh ra, lớn lên, phồn thịnh một thời gian rồi lại trở về gốc ban đầu theo một qui luật tự nhiên không sai chạy. Đạo Trời rất công bình và vô tư, không thân ai mà cũng không bỏ ai. Đối với con người, thân mình không phải là đáng quý nhất, vi nó thường là đầu mối của mọi sự lo âu. Cho nên con người nên sống hồn nhiên, đừng quá tham cầu, không nên tranh giành, không dùng lễ văn trói buộc nhau, không dùng mưu mô trí xảo lừa nhau, nên sống giản dị, hòa hợp, tự nhiên để hợp với Đạo. Sống ở đời phải xem là một nghĩa vụ và cái chết không phải là điều đáng sợ vì đó là sự phục tùng lẽ tự nhiên của Trời Đất.

Đạo Đức Kinh là bộ sách được phiên dịch sang nhiều thứ tiếng trên thế giới nhất trên thế giới, chỉ đứng sau Thánh Kinh Ky tô giáo. Bản dịch đầu tiên do Hòa thượng Huyền Trang dịch vào thế kỷ thứ 7. Hơn 1000 năm sau, năm 1788, bản dịch bằng tiếng La tinh xuất hiện tại London và năm 1828, được dịch sang tiếng Nga. Năm 1831 được ông G.Pauthier người Pháp dịch sang tiếng Pháp, vàđến nay tại Pháp đã có hơn 60 bản dịch sang Pháp văn xuất bản tại Pháp. Năm 1868, được dịch sang tiếng Anh do bởi 1 giáo sĩ người Anh tên John Chalmers, hiện nay có hơn 80 bản dịch tiếng Anh được xuất bản và mấy mươi bản khác dịch sang tiếng Đức, Ý, Hòa Lan…Năm 1898, ông Paul Carus, một người Mỹ dịch ĐĐK.

Không những dịch, mà còn rất nhiều tác giả chú giải ĐĐK. 2 bản cổ nổi tiếng nhất là bản của Vương Bật và Hà Thượng Công, một nhân vật ẩn danh, sáng tác vào khoảng thế kỷ thứ 2 trước tây lịch. Tổng cộng đến nay, được biết, trên

Page 78: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

thế giới có gần 1000 tác phẩm bình luận chú giải ĐĐK, gồm hơn 700 bản bằng Hán văn, hơn 200 bản bằng tiếng Nhật và Đại Hàn, một số khác bằng các ngôn ngữ Tây phương.

Người ta cho rằng những tư tưởng về đạo đức của Đức Lão Tử khi đem so với lời Chúa Jésus trong Kinh Thánh có nhiều chỗ giống nhau, cho thấy 2 vị giáo chủ là hai nhà cách mạng cấp tiến, đều chủ trương hướng đến sự thay đổi của xã hội mà căn bản là sự thay đổi từ lòng người. Chúa Jésus muốn tạo lập một thiên đàng tại thế gian, Đức Lão Tử muốn thấy Đạo được thịnh hành trong thiên hạ.

tdvt Thành viên

Offline

Giới tính: Bài viết: 89

Re: Tiến trình lịch sử Đạo giáo « Trả lời #1 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2007, 00:22:07 AM »

TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ CỦA LÃO GIÁO

Qua thân thế sự nghiệp của Đức Lão Tử, mặc dù đối với hậu thế, Ngài là Giáo Tổ của đạo Lão, nhưng rõ ràng chính Ngài không lập thành một nền tôn giáo như Đức Phật, cũng không tập hợp học trò để truyền dạy giáo lý của Ngài như Đức Khổng Tử. Nhưng từ tác phẩm Đạo Đức Kinh của Ngài, về sau đã có những người học theo, để tạo nên một ảnh hưởng sâu rộng hình thành nên một nền tôn giáo gọi là Lão giáo hay Đạo giáo.

Sau Đức Lão Tử, vào khoảng năm 369-286 trước tây lịch, xuất hiện một nhân vật đi theo con đường của Đức Lão Tử, để về sau tên tuổi ông gắn liền với Đức Lão Tử hình thành nên một học thuyết vô vi “Lão-Trang”

TRANG TỬ ( 369-286 B.C) VÀ NAM HOA KINH

Trang Tử tên thật là Chu, cùng thời với Mạnh Tử, tức sống giữa thời Chiến Quốc, cuối đời sống ẩn dật tại núi Nam Hoa. Sự tích truyền lại về đời sống của Trang Tử cũng thật mơ hồ.

Page 79: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Theo Sử Ký Tư Mã Thiên, ông là người đất Mông, đồng thời với Lương Huệ Vương (370-319), Tề Tuyên Vương (319-301), và có lần làm một chức lại trong một xưởng chế tạo sơn ở đất Mông, nhưng không nói rõ đất Mông thuộc nước nào, cũng không ghi năm ông sống, chết. Theo một số học giả, đất Mông thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay; khi ông ra đời, đất đó vốn của nước Tống, sau khi ông mất, nước Tống bị diệt, ba nước Sở, Ngụy, Tề chia nhau đất đai của Tống và đất Mông từ đó thuộc về Ngụy.

Tư tưởng ông chịu ảnh hưởng của Đức Lão Tử, được thể hiện qua tác phẩm của ông là “Trang Tử” hay còn có tên là Nam Hoa Kinh gồm 52 thiên mà Tư Mã Thiên đã luận: “ Sách ông viết có hơn 10 vạn chữ, đại để đều là ngụ ngôn… văn ông khéo viết, lời lẽ thứ lớp, chỉ việc tả tình để bài bác bọn Nho Nặc.Tuy đương thời, những bậc túc học, cũng không sao cãi để tự gỡ lấy mình cho nổi. Lời văn của ông thì phóng túng mênh mông, cầu lấy sự thích ý mình mà thôi. Cho nên từ các bậc Vương, Công đều không ai biết nổi ông là người thế nào”

Trong thời kỳ tiền Hán (206 B.C) tư tưởng của Lão Tử được truyền bá, chỉ có tư tưởng của Trang Tử thì mãi đến đời hậu Hán (từ 25 đến 220 sau T,L) mới đươc nói đến và phổ biến. Đạo Đức Kinh là quyển sách gối đầu giường của những nhà chính trị mong dùng cái đạo Vô Vi mà trị nước, chống lại cái đạo trị nước bằng hữu vi, nghĩa là ham can thiệp đến việc người. Sách Trang Tử nặng về phần giải thoát cá nhân. Tư Mã Thiên bình luận: triết lý của Trang Tử khác với Lão Tử, lại muốn siêu thoát khỏi vấn đề nhân gian thế sự. Khi ông nói đến các vị vua đầu tiên của nhà Hán, cho rằng các bậc ấy lấy “vô vi” mà trị nước là có ý

Page 80: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

muốn nói rằng các bậc trị nước ấy đã áp dụng triết lý chính trị của Lão Tử. Chỉ đến cuối đời nhà Hán (220 sau tây lịch) thì người ta mới bắt đầu để ý đến Huyền học, bấy giờ sách của Lão Tử cũng được người ta dùng cái học của Trang Tử mà giải thích. Như vậy, ta thấy rằng, tuy khởi thủy hầu như lập trường triết lý của hai nhà đứng riêng nhau, nhưng vẫn có sự liên hệ với nhau luôn.”

Tóm lại, theo Sử Ký Tư Mã Thiên thì cái học của Trang Tử không đâu là không bàn đến, nhưng gốc ở những lời dạy của Lão Tử. Lão Tử thì chủ trương “cứng rắn, dễ bị nát; nhọn bén, dễ bị mòn lụt; “đầy, dễ đổ”… cho nên Ngài chỉ cho con người con đường để tránh khỏi sự đổ nát, mòn gãy… Trái lại, Trang Tử thì chủ trương “ngoại tử sinh, vô chung thủy” (ngòai sống chết, không khởi thủy và không cuối cùng) cho nên chỗ mà Lão Tử còn thắc mắc chăm chú thì Trang Tử lại nhìn với cặp mắt thản nhiên lạnh lùng như không đáng kể.” Nhưng 2 Ngài có chỗ tương đồng là đều cùng có một quan niệm về “Đạo”và “Đức”, và đều chống đối tư tưởng truyền thống và chế độ đương thời. Và vì thế Tư Mã Thiên đặt tên cho học phái này là Đạo Đức Gia, mà về sau người đời gọi là học thuyết hay tư tưởng Lão Trang.

Từ Lão Tử đến Trang Tử, sự hình thành của Đạo Gia đã hoàn tất. Chất duy tâm mà Trang Tử đưa vào hệ thống tư tưởng do Lão Tử đề xuất đã trở thành cơ sở cho việc thần bí hóa Đạo gia thành Đạo giáo khi xã hội Trung Quốc rơi vào cảnh loạn ly cuối thời Đông Hán (thế kỷ thứ 2sau CN) . Như vậy có thể nói, sau Trang Tử, Lão giáo đã bắt đầu bị canh cải, thất chân truyền.

Nhìn chung, Lão giáo có 3 trường phái:

Page 81: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

1-Đạo học :-Tu tánh: thiên về vấn đề giác ngộ, quay về với nội tâm tìm sự thanh tĩnh để đạt Đạo, tương đương phương pháp Đốn ngộ của Phật giáo. Đại diện cho trường phái này là Đức Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử (khoảng thế kỷ thứ IV trước CN) viết Xung Hư chân kinh, Quan Doãn Tử viết Văn Thủy Chân Kinh, Trần Hi Di tức Trần Đoàn Lão Tổ ( khoảng 900, đầu thời Tống) là người đã sáng lập khoa Tử vi.

2-Tiên học (còn gọi là Đơn Đạo) khác với Đạo học, là phương pháp tiệm tu, đi từ thấp đến cao, từ thô tới tinh, từ hữu vi đến vô vi; có mục tiêu tu hành phản lão hoàn đồng, trường sinh bất lão tức là chủ trương tu tạo nên một xác thân tráng kiện, dần dần tiến đến thân tâm an lạc và cuối cùng mở được tuệ giác và chung cuộc vẫn đi đến chỗ Thiên Nhân hiệp nhất, huyền đồng cùng Trời Đất. Phái Tiên Học cũng thờ Đức Lão Tử nhưng có 3 vị đứng đầu là Đông Hoa Đế Quân Lý Thiết Quải ( sống vào thời Hán) tu ở núi Côn Lôn; Chung Ly Quyền ( cuối thời Đông Hán), đứng đầu Bát Tiên; Lữ Đồng Tân là đồ đệ của Hán Chung Ly.

Tiên Học có các tông phái:-Nam Tông: gồm có Lưu Thao được Chung Ly Quyền truyền Đạo năm 911;Trương Bá Đoan( đời Tống) sáng lập ra Nam Tông.-Bắc Tông: còn gọi là Toàn Chân Phái, giáo chủ là Vương Trùng Dương, người Hàm Dương, có 7 đệ tử: Khưu Xử Cơ, Lưu Xử Huyền, Đàm Xử Đoan, Mã Ngọc, Hách Đại Thông, Vương Xử Nhất, Tôn Bất Nhị.-Đông phái: do Lục Tiềm Hư sáng lập năm 1567 đời Minh Mục Tông-Tây phái: do Lý Hàm Hư đời Thanh Hàm Phong sáng lập (1851)

Page 82: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

-Trung phái: do Lý Đạo Thuần sáng lập đời Nguyên, đề cao chữ Trung, có sư đệ là Doãn Chân Nhân, tác giả của quyển Tính Mệnh Khuê Chỉ.-Trương Tam Phong phái: (cuối Nguyên, đầu triều Minh)

Ngòai ra, dưới thời Tấn, có Kim Đan Đạo do một ông quan là Cát Hồng khởi xướng chủ trương tu Tiên bằng hai cách : nội tu và ngọai dưỡng. Ngọai dưỡng là dùng kim đan gọi là thuốc trường sinh luyện bằng các khóang chất như thần sa, vàng…. Nội tu là rèn luyện thân thể bằng phép dưỡng sinh, tịnh luyện tinh –khí –thần để “hườn Hư”

3-Đạo giáo nhân gian hay Đạo giáo phù thủy do Trương Đạo Lăng, người nước Bái đến núi Tứ Xuyên tu luyện, là cháu 8 đời của Trương Lương thời Tam Quốc (đời Hán – 206 trước CN và 220 sau CN) sáng lập “Đạo 5 đấu gạo” (Ngũ đấu mễ đạo: ai muốn vào Đạo thì phải nộp 5 đấu gạo), thờ Đức Lão Tử tôn xưng là Thái Thượng Lão Quân dùng kinh kệ, bùa chú, phương thuật, tế lễ… để thu hút tín đồ, được hậu thế phong là Trương Thiên Sư.

Như vậy, Đạo giáo cũng giống như Nho giáo và Phật giáo, ngày càng đi xa chân truyền của vị Giáo Tổ khai sáng. Ngày nay tại Trung Quốc , Đài Loan và Hồng Kong, Lão giáo vẫn còn rất thịnh hành. Riêng Đài Loan, có tất cả 86 giáo phái hoặc tổ chức Lão giáo được chính quyền hỗ trợ, nhưng có 6 môn phái nổi bật:-Phái Chính Nhất hay phái Thiên Sư thuộc Long Hổ Sơn-Phái Mao Sơn với 2 loại pháp môn: nội luyện theo kinh Hùynh Đình và võ công theo Kỳ Môn Độn Giáp.

Page 83: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

-Phái Thái Cực với pháp môn tu luyện theo truyền thống Trương Tam Phong và pháp môn võ thuật trừ tà ma.-Phái Toàn Chân theo đường lối của Vương Trùng Dương-Phái Thần Tiên: chuyên về biểu diễn bán thuốc hoặc kiếm tiền.-Phái Lư Sơn thiên về bí thuật.

Không chỉ là một tôn giáo, dạy con người trở về với gốc Đạo, huyền đồng cùng vũ trụ, Lão giáo còn đóng góp rất nhiều cho nền văn minh Trung Quốc. Rất nhiều sinh hoạt độc đáo của người Trung Quốc đã lan truyền khắp thế giới có nguồn gốc xuất phát từ Lão giáo như :-Khuynh hướng hội họa của dòng tranh “Thủy mặc” hay “tranh sơn thủy” thể hiện sự cân bằng tuyệt hảo giữa Am- Dương.- Thuật Phong Thủy chỉ rõ cách chọn hướng, cách thiết kế môi trường xây dựng theo một hệ thống phối hợp các yếu tố quan trọng của không gian và thời gian nhằm mang lại sự hài hòa tối đa trong mọi tương tác giữa con người và thiên nhiên.-Võ thuật với nguyên tắc “mềm như nước” nhưng hết sức hiệu quả, giúp cho con người giải tỏa những tắt nghẽn sinh lực, đưa thân thể trở về trạng thái cân bằng, vừa hài hòa thể lý lẫn tinh thần mà ngày nay rất phổ biến. Đó là môn Thái Cực Quyền-Về y học, phương pháp châm cứu và bấm huyệt được xem là cách trị bệnh rất hiệu quả.-Về tư tưởng, Lão giáo đã chủ trương bất tử, tức là quan niệm lúc chết, sự sống con người được thay đổi chứ không bị mất đi, cho nên con người có một thái độ tích cực đối với thân phận chính mình.

Page 84: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

LÃO GIÁO Ở VIỆT NAM:

Lão giáo thâm nhập vào Việt Nam từ khỏang thế kỷ thứ 2 sau CN. Cuối đời Đông Hán, nước Trung Hoa có loạn Vương Mãng, nhiều bậc sĩ phu và tu sĩ chạy sang nước ta lánh nạn. Trong số này có Sĩ Nhiếp, người đầu tiên chính thức truyền bá Tứ Thư Ngũ Kinh và cũng là người khởi xướng tinh thần Tam Giáo đồng nguyên trên đất Giao Châu. Ngay khi vào VN, Lão giáo “đã tìm thấy ngay những tín ngưỡng tương đồng đã có sẵn từ lâu”. Bởi vì từ xa xưa người Việt Nam đã rất sùng bái ma thuật, phù phép, và tin rằng có thể chữa bệnh, đuổi tà ma hoặc để làm tăng sức lực, tránh điều rủi ro trong cuộc sống, cho nên Lão giáo thuộc phái Đạo giáo nhân gian đã hòa quyện dễ dàng với tín ngưỡng ma thuật người Việt tới mức không còn phân biệt, cho nên nhiều nhà nghiên cứu lầm tưởng Lão giáo sớm phát triển ở VN, trong khi đó rất nhiều người VN qua nhiều thời đại không hề có ý thức gì về đạo Lão.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng học thuyết của Lão Tử mang tư tưởng triết lý của truyền thống văn hoá nông nghiệp phương Nam: Đạo chẳng phải cái gì khác ngoài sự phạm trù hóa triết lý tôn trọng tự nhiên; còn Đức chính là sự phạm trù hóa việc tự nhiên tồn tại theo luật âm dương biến đổi Cho nên đã có sự so sánh:Khổng Tử được hình dung như một ông quan phương Bắc mũ cao áo dài, còn Lão Tử- như một ông già phương Nam chất phác chân đất cuỡi trâu. Trong khi Khổng Tử ôm mộng “bình thiên hạ” thì Lão Tử hài lòng với những nước nhỏ dân ít như những làng quê mang tính cộng đồng ở bên trong và tính tự trị ở bên ngoài, nhỏ tới mức “nước láng giềng trông thấy nhau, tiếng gà gáy chó sủa cùng nghe”, và tự trị tới mức “dân đến già chết mà không đi lại với

Page 85: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

nhau” (ch.80) . Phải chăng đó cũng là lý do đạo Lão gần gũi với truyền thống văn hóa tín ngưỡng VN.

Từ Trung quốc vào VN, đạo Lão cũng vẫn giữ hai phái là Đạo giáo nhân gian thờ Đức Ngọc Hòang Thượng Đế, Thái Thượng Lão Quân, thần Trấn Vũ (Huyền Vũ), Quan Thánh Đế Quân. Bên cạnh đó, có sự kết hợp với tín ngưỡng dân gian, Lão giáo còn thờ nhiều vị thần thánh khác của người Việt như Đức Thánh Trần, Thánh Mẫu Liễu Hạnh, cùng với Tam Phủ, Tứ Phủ, cho thấy sự hòa quyện giữa Lão giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.

Ngòai ra, các pháp sư VN từ Bắc chí Nam còn thường hay thờ các thần Ngũ Hổ bằng bức tranh con hổ hay Quan Lớn Tuần Tranh là 2 con rắn Thanh Xà và Bạch Xà quấn trên xà nhà trước bàn thờ. Dưới các triều Đinh, Lê, Lý, Trần đều có chọn các đạo sĩ làm cố vấn bên cạnh các nhà sư: nên có chức đạo quan và tăng quan.Tương truyền vua Đinh Tiên Hòang từng lấy lễ thầy trò để tiếp đãi pháp sư Văn Du Tường, nhờ ông chém chết yêu quái vốn là Mộc tinh ở cây chiên đàn lâu năm. Đời nhà Lý các đạo sĩ Trần Tuệ Long và Trịnh Trí Không giữ địa vị quan trọng trong triều.

Dưới thời vua Lê Thần Tông, thế kỷ XVII, xuất hiện một trường phái Đạo giáo VN có quy mô rất lớn gọi là Nội đạo, do Trần Tòan là một vị quan triều Lê, không theo nhà Mạc, từ quan về tu Tiên, mở Đạo trường ở Hoằng Hóa (Thanh Hóa ), có 10 vạn tín đồ, được tôn là Thượng Sư . Tương truyền vua Lê Thần Tông bị bệnh mọc lông cọp được Trần Tòan dùng bùa phép và thần chú chữa khỏi. Ông còn cứu sống cho con Chúa chết đã 2 ngày, nên được Vua và Chúa cho người cất nhà cho và tự tay vua ghi 3 chữ “Nội Đạo Tràng”. Ba người

Page 86: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

con trai của ông được tôn là “Tam Thánh”. Phái Đạo này phát triển vào Nghệ An và ra Bắc, đến tận thế kỷ XX hãy còn tồn tại nhiều trung tâm của đạo này ở Thanh Hóa, Nghệ An, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội.

Phái Đạo Giáo Thần Tiên ở VN thì thờ Chử Đồng Tử làm ông Tổ và nhiều Tiên Thánh khác như thần Tản Viên tức Sơn Tinh, và có những câu chuyện về sự tích các đạo sĩ hoặc người thường tu thành tiên, có nhiều phép lạ.

Đặc biệt, Lão giáo đã đem sang Việt Nam phương pháp cầu Tiên. Giới sĩ phu xưa thường cùng nhau tổ chức cầu Tiên để hỏi về vận nước, chuyện kiết hung đại sự… Nhiều đàn cầu Tiên nổi danh một thời như đền Ngọc Sơn (Hà Nội), đền Tản Viên (Sơn Tây), đền Đào Xá (Hưng Yên)…Đầu thế kỷ XX, các đàn cầu Tiên (gọi là thiện đàn)mọc lên khắp nơi, phải chăng là do Ơn Trên chuẩn bị cho sự ra đời của đạo Cao Đài?

Kinh sách của đạo Lão được truyền sang Việt Nam hiện vẫn còn truyền tụng, ngoài 2 quyển đầu tiên là Đạo Đức Kinh của Đức Lão Tử và Nam Hoa Kinh của Đức Trang Chu, còn có quyển Huỳnh Đình Kinh dạy cách luyện Đạo, Thanh Tịnh Kinh và Cảm Ứng Kinh dạy về lẽ lành dữ trả vay cho người tu giải thoát. Tất cả tương truyền là do Đức Thái Thượng Đạo Tổ giáng cơ dạy từ xưa bên Trung quốc.

Đặc biệt, Lão giáo khi vào Việt Nam, hòa quyện với văn hóa tín ngưỡng dân gian đã hình thành một khuynh hướng của những người thật sự không phải là tín đồ đạo Lão nhưng có tư tưởng gần với phái Tiên Đạo hay Đạo Giáo Thần Tiên, tức ưa thích đời sống thanh tĩnh nhàn lạc. Đó là

Page 87: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

những bậc trí thức Nho giáo, sinh không gặp thời, gặp chuyện bất bình nơi chốn quan trường hay các bậc anh hùng đã làm xong phận sự nam nhi đến lúc công thành thân thối lui về ẩn dật, vui thú điền viên cùng với thiên nhiên thi phú, cuộc cờ chén rượu mà theo giòng lịch sử, chúng ta đã thấy rất nhiều như: Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ…. với cuộc sống “tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc; tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn” của học thuyết Lão Trang

NHÂN VẬT HOÀNG MƯỜI NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HÓA DÂN GIAN

Thứ ba, 22 Tháng 3 2011 15:21

Ninh Viết Giao

Hoàng Mười là ai? Nhân vật lịch sử có thật, hay chỉ là một nhân vật huyền thoại. Đó là câu hỏi đã được đặt ra từ lâu và đối với nhiều người, nhất là những người có quân tâm đến “Đạo Mẫu” ở Việt Nam.

Page 88: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

I. Muốn biết Hoàng Mười là ai, trước hết phải biết Đạo Mẫu

Đạo Mẫu ở Việt Nam có nguồn gốc từ “Đạo giáo” bên Trung Quốc. Các vị thánh đứng đầu trong đạo thờ Mẫu ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ gồm: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải (Thuỷ), Mẫu Địa. Đó là các vị Thánh Mẫu mà người ta thường gọi là Tam Toà (hoặc Tam phủ) Tứ phủ. Trong đó, Mẫu Thượng Thiên sáng tạo bầu trời và làm chủ quyền năng đối với mây, mưa, sấm, chớp. Mẫu Thượng Thiên cai quản Thiên Phủ. Mẫu Địa thường gọi là Địa Tiên Thánh Mẫu, cai quản miền Địa Phủ. Mẫu Thoải cai quản Thoại Phủ (thuỷ cung). Đó là vị thần trị vì vùng sông nước, xuất thân từ dòng dõi Long Vương. Mẫu Thượng Ngàn cai quản Nhạc phủ tức vùng rừng núi.

Hiện nay trong điện thần thờ Mẫu đều tồn tại quan niệm Tam phủ và Tứ phủ. Tứ phủ gồm ba phủ trong Tam phủ (Thiên, Địa, Thoải) và có thêm phủ Thượng Ngàn (Nhạc phủ). Chưa ai có thể trả lời chắc chắn là Tam phủ và Tứ phủ có từ bao giờ. Nhiều người cho rằng Tam phủ có trước Tứ phủ và việc tồn tại phủ thứ tư (Nhạc phủ) là một nét đặc thù của Đạo giáo Việt Nam.

Quan niệm Tam phủ và Tứ phủ đều bắt nguồn từ quan niệm vũ trụ luận nguyên sơ là Âm và Dương, dần dần yếu tố âm trong lưỡng cực Âm Dương phân hoá thành Địa phủ, Thoải phủ và Nhạc phủ.

Tứ phủ ứng với 4 phương, 4 miền của vũ trụ. Trong Đạo Mẫu, nó biểu hiện thành 4 màu cơ bản: Thiên phủ ứng với màu đỏ, Thoải phủ ứng với màu trắng, Địa phủ ứng với màu vàng và Nhạc phủ ứng với màu xanh.

Trong điện thần Tứ phủ, Mẫu Liễu Hạnh là vị Thánh xuất hiện khá muộn vào thế kỷ XVI, thời Hậu Lê) nhưng nhanh chóng trở thành vị thần chủ của Đạo Mẫu và được tôn vinh hơn tất cả các Thánh Mẫu khác.

Thánh Mẫu Liễu Hạnh vừa là thiên thần (Tiên) vừa là Nhân thần, với đời sống trần gian, với cha mẹ, chồng con, có chữ nghĩa, có võ thuật, thông minh, thần thông, chu du khắp nơi trừ ác, ban lộc, khiến người đời vừa sợ vừa trọng, vừa xa vừa gần gũi. Đó là biểu tượng của sự kết hợp giữa thần linh và đời thường, giữa nhu cầu hướng về tâm linh, hướng về cái cao cả với việc âm phù chữa bệnh, trừ tà ma, cứu giúp con người trong những lúc khó khăn của đời sống hàng ngày.

Page 89: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Vào các phủ, các đền thời Mẫu, chúng ta thấy trong hệ thống điện thần, bà con sắp đặt như sau:

- Ngọc Hoàng.

- Tam Toà thánh Mẫu (Tứ phủ với 4 mẫu đã nói trên).

- Ngũ vị vương quan (từ Đệ Nhất đến Đệ Ngũ)

- Tứ vị Chầu Bà (hay Tứ Vị Thánh Bà là hoá thân trực tiếp của Tam Toà Thánh Mẫu).

- Ngũ Vị Hoàng Tử (từ Đệ Nhất đến Đệ Ngũ).

- Thập nhị Vương Cô (gọi theo thứ tự từ 1 đến 12).

- Thập nhị Vương Cậu (gọi theo thứ tự từ 1 đến 12).

Cần thấy rằng, con số các vị Thánh trong từng hàng Quan, hàng Chầu, hàng Ông Hoàng,... không hoàn toàn cố định mà thường có sự thay đổi. Thí dụ: Ngũ vị vương quan là quan niệm khá thống nhất trong Đạo Mẫu, nhưng không phải không có quan niệm 10 vị quan (bội số 2 của 5 vị kể trên) với trách nhiệm khác nhau. Hàng ông Hoàng cũng không dừng lại ở 5 vị mà cố thể tăng lên đến 10 vị, trong đó có ông Hoàn Mười.

II. Vậy ông Hoàng Mười là ai?

Hàng ông Hoàng có 5 vị, 10 là bội số 2 của 5, Hoàng Mười là ông Hoàng thứ 10, được kể theo thứ tự từ ông Hoàng Đệ Nhất đến ông Hoàng Mười. Nguồn gốc các ông Hoàng này ra sao? Theo một bài hát chầu văn thì 10 vị Hoàng tử này đều có gốc tích là con trai Long Thần Bát Hải đại vương ở hồ Động Đình:

Vua cha Bát Hải Động Đình,

Sinh ông Hoàng Cả anh linh ra đầu.

Page 90: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Hoàng Đôi, vua sinh ra sau,

Thiên hạ đảo cầu, ông ngự đền vương.

Hoàng Ba giữ việc đến vương,

Tiếng ông lừng lẫy bốn phương đùng đùng.

Hoàng Tư làm chúa Thuỷ cung,

Hoàng Năm giữ sổ đền Rồng vua cha.

Hoàng sáu hoá phép càng gia,

Vua sai ông trấn hải hà Nam minh.

Quan Hoàng Đệ Nhất đào tiên,

Vua sai ông trấn ở miền phía Tây.

Hoàng Tám chính thực lòng ngay,

Lính vua một đấu, để ràng cứu dân.

Hoàng Chín yểu điệu thanh tân,

Vua sai ông trấn ở trong đền Cờn.

Hoàng Mười trấn thủ Nghệ An,

Ở huyện Thiên Bản, làm quan Phủ Giầy.

(Thập vị Hoàng tử văn)

Tuy nhiên theo khuynh hướng dân tộc hoá, địa phương hoá thì các ông Hoàng đều gắn với một nhân vật nào đó ở cõi nhân gian, những danh tướng ở các triều đại có công dẹp giặc cứu nước; những người khai sáng, mở mang cho non sông, hoặc làm trấn thủ một vùng, dân yên nước thịnh.

Tương truyền ông Hoàng cả (hoàng Đệ Nhất) là danh tướng của Lê Lợi, ông Hoàng Đôi (Hoàng Hai) với hai nơi thờ mang những gốc tích khác nhau: ông Hoàng Đôi ở Cầm Phả là người Mán, có công chống giặc, bảo vệ dân lành; còn Hoàng Đôi ở xứ Thanh thì lại đồng nhất với Quan Triệu Tường, người có công khai phá đất đai giúp dân làm ăn sinh sống. Ông Hoàng Bơ (Hoàng Ba) thì ở đền Lảnh (Nam Hà) phù hộ an dân và cũng có công phò vua đánh giặc. Ông Hoàng Lục có nơi cho đó là Trần Nhật Duật, lại có nơi cho đó là Trần Lựu, anh hùng có công chống giặc Minh. Ông Hoàng Bảy có đền thờ ở Bảo Hà (Yên Bái) thường gọi là ông Bảy Bảo Hà, là viên quan triều đình trấn giữ cả vùng Lào Cai, Yên Bái:

Bao phen chiến lước tung hoành,

Định an xã tắc, đề binh cõi ngoài.

Đất Lào Cai là nơi dụng võ,

Quyết ra tài đội ngũ tấn công.

Biên cương súng nổ đùng đùng,

Sa trường xương núi, máu sông chẳng nề.

(Văn ông Hoàng Bảy Bảo Hà)

Page 91: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Ông Hoàng Bát là người Nùng, cũng là người đã từng:

Ra uy chí chính, chí nhân,

Soi gương khúc trực, cầm cân công bình.

Tấm lòng thành tuỳ tâm sở nguyện,

Giáng phúc lành ứng hiện hà sa.

(Đệ bát Hoàng tử Văn)

Ông Hoàng Chính trấn giữ không xa, có đền thờ ở Cửa Cờn (Quỳnh Lưu). Ông đã từng làm quan coi 12 cửa biển:

Gặp cơn sóng giá ba đào,

Mười hai cửa biển sớm chiều xông pha.

Cửa Cơn Môn dựng cờ soái lĩnh,

Lệnh quan truyền nghiêm chỉnh ba quân.

Quyết lòng vì nước vì dân,

Trấn an cửa biển, dẹp yên bạo cường.

(Văn ông Hoàng Chín Cơn Môn)

Như vậy là chúng ta đã lượt quan 7 ông Hoàng (trừ 2 ông ở Thuỷ cung). Gốc là Nhiên thần, nhưng các ông đã được nhân hoá, thế sự hoá, mang một lý lịch nhân quần và có công với nước, với dân biết đến và tôn vinh.

III. Về ông Hoàng Mười.

Nghệ Tĩnh, nhiều làng có đền, điện hoặc phủ hay miếu thờ Tam Toà Tứ phủ mà chủ yếu là Liễu Hạnh công chúa. Tại huyện, Hưng Nguyên có đền Nhà Bà ở làng Ước Lệ thuộc xã Hưng Đạo, đền Bà Chúa ở làng Hạ Khê thuộc xã Hưng Tây, đền giáp Mỹ Trung ở xã Hưng Lam, điện đức Thánh Mẫu ở làng Phú Điền thuộc xã Hưng Phú và đền Xuân Am ở xã Hưng Thịnh. Tại huyện Nghi Lộc có đền đức Thánh Mẹ ở làng Cổ Bãi thuộc xã Phúc Thọ, đền Bồi Sơn ở Hải Thanh, này là xã Nghi Tiến phủ thờ chúa Liễu ở thôn La Vân thuộc xã Nghi Yến miếu Thánh Mẫu ở làng Xuân Đình thuộc xã Nghi Thạch miếu Cô ở làng Kim Ngọc thuộc xã Nghi Long, đền Hà Thanh ở xã Nghi Phương,... tại thành phố Vinh có đền Nhà Bà (phường Hồng Sơn), tĩnh Bảo An (phường Cửa Nam), v.v...

Nhưng nổi tiếng hơn cả là đền Xuân Am ở xã Hưng Thịnh (Hưng Nguyên) và đền Chợ Củi ở xã Xuân Hồng (Nghi Xuân). Hai nơi đó trong đền có đầy đủ hệ thống điện thần song bà con ở hai tỉnh Nghệ An và nhân dân các nơi đều gọi là đền thờ ông Hoàng Mười. Hình như không ai nói đó là đền thờ Liễu Hạnh công chúa. Đến ngày giỗ ông Hoàng Mười (10/11/âm lịch), đệ tử khắp nơi đến cúng ông Hoàng Mười. Và hành hương, họ thắp hương ở điện thờ ông Hoàng Mười nhiều hơn, lên giá đồng, họ cũng lên giá đồng ông Hoàng Mười là chủ yếu. Trong khi đó Đền Cờn thờ ông Hoàng Chín và các nơi khác (nơi có đền thờ Mẫu) cũng có điện thờ thần thờ ông Hoàng Mười, thì không mấy ai nhắc tới. Cái tên Hoàng Mười đã trùm lên hai ngôi đền này.

Vậy Hoàng Mười, ngoài nhân vật huyền thoại, ông còn được nhân dân thể hoá, gán cho một lý lịch cụ thể với công tích như thế nào?

Tiêu dao di dưỡng, tang tình,

Thơ tiên một túi, phật kinh trăm tờ.

Khi phong nguyệt, lúc bi từ,

Khi xem hoa nở, khi chờ trăng trong.

Page 92: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Khi Thiếu Lĩnh, lúc non Bồng,

Cành cây mắc võng, lòng sông thả thuyền.

Ngoài ra, ông còn là người phóng khoáng, khá đa tình:

Xiết bao bể ái nguồn ân,

Ban tài, phát lộc, thi nhân thi từ.

Gác dằng mượn gió xuân đưa,

Xui lòng quân tử đề thơ hảo cầu.

Năm ba tiên nữ theo hầu,

Trăm hoa cài tóc, nhiều tàu vắt vai.

Phong hoa tuyết nguyệt đượm mùi,

Dâng câu thiên bảo, chúc lời tăng long.

Biết bao cô đã say đắm, nhớ nhung, ngóng trông ông Hoàng Mười:

Trúc xinh, cô quế cũng giòn,

Phù dung yểu điệu, mẫu đơn não nùng.

Ngày ngày lên núi ngóng trông,

Đỏ hai khoé hạnh, chờ mong Hoàng Mười.

Khi vắng mặt ông Hoàng Mười, người ta thấy một cái gì trống rỗng, hờ hững với cảnh vật tươi đẹp của thiên nhiên:

Vắng người vắng cả mùa xuân,

Nhớ người vì nước, vì dân, vì đời.

Thế gian nhớ miệng Hoàng cười,

Nhớ khăn Hoàng chít, nhớ lời Hoàng ban.

Đó là hình ảnh ông Hoàng Mười được miêu tả trong bài văn chầu ông Hoàng Mười.

Rõ ràng về tài năng, về đức độ, về công tích, về tính cách của ông Hoàng Mười, bài văn đã nói khá đầy đủ. Nhưng để có một lý lịch nhân thế thì bài văn nói chưa đầy đủ. “Thập vị Hoàng tử văn” ghi:

Hoàng Mười trấn thủ Nghệ An,

Ở huyện Thiên Bản, làm quan Phủ Giầy.

Đó là nói ông được vua cha là Long thần Bát Hải đại vương cho về trấn giữ về mặt tâm linh ở Nghệ An, chứ không phải làm một chức quan đầu tỉnh Nghệ An. Thiên Bản tức huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, nơi có làng An Thái, xã Vân Cát. Đệ Nhất Tiên chúa Quỳnh Nương giáng sinh tại nhà ông Lê Thái Công, lên 18 tuổi là Liễu Hạnh công chúa mà thần tích nhiều người đã biết. Phủ Giầy cũng ở huyện Vụ Bản, nơi có quần thể di tích thờ Mẫu năm trong ba thôn: Tiên Hương, Vân Cát, Báng Già (tức Xuân Bảng). Phủ Giầy ở đây không phải là một đơn vị hành chính mà là một kiến trúc tôn giáo, thường để thờ Thánh Mẫu. Phủ Giầy được xây dựng vào đời Cảnh Trì (1663 - 1671) và được trùng tu nhiều lần qua các triều đại. Có lẽ Hoàng Mười trước khi được vua cha cho vào trấn giữ (về mặt tâm linh) ở Nghệ An đã làm một chức quan ở Phủ Giầy. Quan đây,

Page 93: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

không phải là Tri phủ, Tri huyện mà là quan coi giữ, phụ trách một số việc gì đó trong đền, dưới quyền của Tam Tào Thánh Mẫu, Tứ Phủ Công đồng.

Như vậy, Hoàng Mười là một nhân vật huyền thoại, gốc của nó là Nhiên thần, con Thần Nước ở mãi Động Đình hồ bên Trung Quốc, nằm trong Bách Việt trước kia.

Như đã nói trên, theo khuynh hướng nhân thế hoá, nhân dân ta với tín ngưỡng tâm linh mang màu sắc dân gian của mình, đã gắn Hoàng Mười với một nhân vật có tiếng tăm nào đó ở cõi nhân gian để có một lý lịch thế tục. ở Nghệ An, ông Hoàng Mười được thờ tại hai nơi: đền Chợ Củi ở xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân và đền Xuân Am ở xã Hưng Thịnh, Hưng Nguyên. Theo đường chim bay, hai đền cách nhau không xa và đều ngoảnh ra sông Lam. Đền Chợ Củi ở gần làng Sóc, nơi Liễu Hạnh kết hôn với một thư sinh (hậu sinh của chồng cũ) có một đứa con trai, nhưng chỉ ít lâu, nàng trở về trời.

Qua tìm hiểu của chúng tôi, nhân dân Nghệ An cũng theo xu hướng địa phương hoá, gắn ông Hoàng Mười với các nhân vật sau:

1) Thái sư Cương quốc công Nguyễn Xí.

2) Chiêu Trưng vương Lê Khôi.

3) Thượng tướng quân Nguyễn Duy Lạc.

Gắn với Thái sư Cương quốc công Nguyễn Xí thì khôg mấy người và cũng không lâu. Nhân dân gắn với Nguyễn Xí, vì Nguyễn Xí là một nhân vật lịch sử, người Nghệ An, đã có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, là bậc khai quốc công thần của nhà Lê, lại có công bảo vệ nhà Lê, đưa Lê Tư Thành lên ngôi vua.

Khuynh hướng gắn với Chiêu Trưng Vương Lê Khôi nhiều hơn, vì Lê Khôi không những là cháu Lê Lợi, gọi Lê Lợi bằng chú, cũng là một trong những anh hùng của nghĩa quân Lam Sơn, hơn nữa năm Quí Hợi, Lê Lợi Khôi được triều đình nhà Lê cho vào làm trấn thủ Nghệ An. Thư tích cũ chép: “Thấy người đến, sĩ thứ đứng hai bên đường chào đón niềm nở, nói với nhau: dân ta chờ đón đã lâu, phúc lành này đã đến. Vài năm sau, chính sự Nghệ An tốt hẳn. Nhân dân làm ăn yên ổn. Tiếng khen lan khắp đó đây”. Sau đó ông đi đánh giặc Chiêm. Chiến thắng trở về, ông mất ở núi Long Ngân (Cửa Sót). Đền thờ ông ở Cửa Sót, sau đưa lên Triều Khẩu, dưới chân núi Lam Thành hiện tại. Nhân dân gắn Hoàng Mười với Lê Khôi có cơ sở hơn, vì ông đã từng làn trấn thủ Nghệ An. Đền thờ ông được liệt là một trong 4 đền thiêng nhất của xứ Nghệ, sau đền Cờn, đền Quả và Bạch Mã. Ấy là chưa kể chức tước của ông, qua các sắc phong có nhiều điểm tương tự với các sắc phong ở đền nói là thờ ông Hoàng Mười.

Còn Nguyễn Duy Nhân, chúng tôi chỉ thấy một số nhân dân xã Hưng Thịnh nói đến, chúng ta sẽ xét sau.

Khảo sát hai đền: đền Chợ Củi và đền Xuân Am.

Đi vào đền Chợ Củi, chúng ta thấy ngay 4 chữ: “Thánh Mẫu chi từ”, nghĩa là đền thờ đức Thánh Mẫu, tức Liễu Hạnh công chúa. Ông Hoàng Mười được thờ ở cung Ngũ Vị Hoàng tử. Nhưng ông được vua cha là Long Thần Bát Hải Đại Vương và Đệ Nhất Thánh Mẫu Thiên Tiên công chúa giao cho trấn giữ Nghệ An về mặt tâm linh, nên theo quan niệm của những người theo Đạo giáo, ông là người được đặc trách gần như toàn quyền kiểu khâm sai ở Nghệ An.

Còn tại đền Xuân Am, chúng tôi cũng thấy có các cung thờ như cung thờ Ngọc Hoàng, cung thờ Tam Toà Thánh Mẫu, cung thờ ngũ Vị vương quan, cung thờ Tứ vị chầu Bà, cung thờ Ngũ Vị Hoàng Tử,... Nhưng đền này:

- Thờ đức thánh Cả tức ông Hoàng Mười, mà những người coi đền nói là ông Nguyễn Duy Nhân.

- Thờ đức Thánh Ba (chưa rõ tên)

- Thờ Đức thánh Tư tức ông Nguyễn Duy Lạc

- Thờ bà chúa bản đền là Song đồng Ngọc Nữ.

Những người coi đền chỉ cho chúng tôi xem cả mộ ông Hoàng Mười và nói rằng tại đền này còn hơn hai chục đạo sắc, trong đó có 7 đạo sắc nói về ông Hoàng Mười.

Vậy đền Xuâm Am chính thức thờ ai? Trong tay chúng tôi có bản thần tích do hương chức làng Xuân Am khai vào đời Minh Mệnh. Bản thần tích này hiện lưu giữ tại Thư viện nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội) mang ký hiệu AE     . Qua bản thần tích, chúng ta biết đền Xuâm Am thờ “Tuấn Sảng siêu loại hiển đức đại vương”. Toàn văn bản thần tích như sau:

Page 94: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

“Đại vương họ Nguyễn, tự là Duy Lạc. Ngài thích lược thao, giỏi võ nghệ, giúp vua Lê chúa Trịnh, giữ chức Đô chỉ huy sứ, được lệnh đi dẹp loạn ở vùng Thuận Quảng, ngài lập được chiến công, được thăng Đô chỉ huy sứ Phiêu kỵ tướng quân.

“Ngài còn đánh dẹp ở xã Tuần Lễ, huyện Hương sơn, phá vỡ thế trận của địch, được thăng Đô chỉ huy sứ kiêm Minh nghị tướng quân. Với các trận đánh thắng ở Nghi Xuân, Thiên Lộc, Hoa Viên, Khải Mông, Phù Lưu, ngài được ban khen: Võ huân tướng quân.

“Trong suốt thời gian dài, công chinh phạt rất là to lớn. Triều đình thăng chức Vệ thư phụ quốc thượng tướng quân. Nhờ đức trung kiên và cần mẫn, ngài được phong chức: Phụ quốc thần võ tứ vệ quân vụ. Lại được phong tiếp: Tuấn Sảng siêu loại hiển đức đại vương. (Có lẽ chức này ông được phong khi ông đã trở thành thành hoàng của làng - NVG).

“Ngài sinh năm Mậu Ngọ, mất ngày 12 tháng 2 năm Kỷ Mão. Trước khi mất, ngài cúng thôn làng 100 quan tiền và hai mẫu ruộng. Nhân dân mến đức, sợ uy ngài, tôn làm hậu thần và thờ phụng hương khói hàng năm. Thần chủ ngài trong đền ghi: “Tiền tả thắng quân dinh chính tiền hiệu đặc tiến phụ  quốc thượng tướng quân cẩm y vệ thần vũ, gia phong dực bảo trung hưng linh phù tôn thần”.

Như vậy, đền Xuân Am (Hưng Thịnh) thờ nhân thần. Thần là người bản thôn có tên là Nguyễn Duy Lạc. Lý lịch của ngài khá rõ sinh năm Mậu Ngọ có lẽ là năm 1618, Kỷ Mão có lẽ là năm 1699 vì ngài có công pò vua Lê chúa Trịnh, đánh nhau với quân Nguyễn, trong những năm quân của chúa Nguyễn tràn qua sông Gianh đánh chiếm 7 huyện Nam Hà tức toàn bộ phần phía nam sông Lam, bao gồm toàn Hà Tĩnh hiện tại và một phần Thanh Chương, Nam Đàn.

Từ một nhân vật cụ thể ấy ao lại gắn với Nguyễn Duy Nhân là anh ruột của ngài thì chúng tôi chưa tìm hiểu kỹ. Phải chăng là để cho nó mơ hồ, mang tính huyền thoại với những âm phù, để dễ gây sự trắc ẩn về mặt tâm linh trong lòng những người tôn thờ đạo giáo, tôn thờ các vị Tam Toà Thánh Mẫu.

Tóm lại Hoàng Mười là một nhân vật huyền thoại, con Long vương, Thần Nước, tức là Nhiên thần. Hoàng Mười được nằm trong hệ thống điện thần thờ Mẫu ở Việt Nam và theo sự phân công của Tam Toà Thánh Mâũ, Hoàng Mười được vào trấn giữ Nghệ An. Theo xu hướng nhân thế hoá, dân tộc hoá, địa phương hoá, người ta đã gắn Hoàng Mười với một nhân vật nào đó trong lịch sử, hoặc có công đánh giặc cứu nước, hoặc có công giúp vào sự thịnh trị, yên vững của một triều đại, đã từng làm trấn thủ một vùng, có công khai sáng, mở mang kinh dinh cho cả một vùng. Chính vì thế mà chúng ta được biết, Hoàng Mười khi là Nguyễn Xí, khi là Lê Khôi, khi là Nguyễn Duy Nhân.

Khuynh hướng này, chúng ta thấy không phải chỉ đối với Hoàng Mười mà còn đối với Tứ Vị Thánh Nương, Cao Sơn Cao Các,... và ngay cả với Mẫu Thượng Thiên là Liễu Hạnh công chúa

ĐẠO MẪU (phần 1)

Thứ sáu, 15 Tháng 4 2011 21:31

GS-TS Ngô Đức Thịnh (Trung tâm Nghiên cứu & Bảo tồn Văn hóa Tín ngưỡng Việt Nam)

Trong tín ngưỡng dân dã của người Việt và một số tộc người khác tục thờ Nữ Thần, thờ Mẫu và Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ (Đạo Mẫu) có vai trò và vị trí khá quan trọng, nó đáp ứng những nhu cầu và khát vọng của đời sống thường nhật của con người, do vậy, nó phổ biến khá rộng khắp, từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi tới miền núi.

Từ Đạo Mẫu, ngoài những nghi lễ thờ cúng, nó còn sản sinh và tích hợp nhiều giá trị văn hóa - nghệ thuật, tạo nên một thứ ''văn hoá Đạo Mẫu'', chứa đựng nhiều sắc thái văn hóa độc đáo của dân tộc.

Sau đây, chúng tôi trình bày những nét rất cơ bản của thứ tôn giáo tín ngưỡng này với tên gọi chung là Đạo Mẫu.

Page 95: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

I. ĐẠO MẪU, ĐIỆN THẦN VÀ THẦN TÍCH

Nếu như gạt bỏ những sai biệt có tính địa phương, chắt lọc lấy những cái chung thì chúng ta có thể đưa ra một hệ thống điện thần đạo Mẫu như sau:

- NGỌC HOÀNG

- TAM TOÀ THÁNH MẪU (Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Địa Tiên Thánh Mẫu)

- NGŨ VỊ VƯƠNG QUAN (Từ Đệ Nhất đến Đệ Ngũ), thường thì người ta xếp Đức Thánh Trần vào hàng các Quan.

- TỨ VỊ CHẦU BÀ hay tứ vị Thánh Bà là hóa thân trực tiếp của Tam Toà Thánh Mẫu.

- NGŨ VỊ HOÀNG TỬ (gọi theo thứ tự từ Đệ Nhất tới Đệ Ngũ)

- THẬP NHỊ VƯƠNG CÔ (gọi theo thứ tự từ l đến 12)

- THẬP NHỊ VƯƠNG CẬU (gọi theo thứ tự từ l đến 12)

-  NGŨ HỔ ( năm con hổ)

- ÔNG LỐT (rắn)

Các vị Thánh trong đạo Mẫu không chỉ phân thành các hàng mà còn phân thành các Phủ. Phủ trong đạo Mẫu mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Trước nhất, Phủ trong Tam Phủ, Tứ Phủ mang nghĩa rộng và bao quát, tương ứng với các miền khác nhau trong vũ trụ: Thiên phủ (miền Trời), Địa phủ (miền đất), Thoải phủ (thuỷ phủ, miền sông biển), và Nhạc phủ (miền rừng núi). Đứng đầu mỗi Phủ như vậy là một vị Thánh Mẫu: Mẫu Thượng Thiên cai quản Thiên phủ, Mẫu Địa (Địa Tiên Thánh Mẫu) cai quản Địa phủ, Mẫu Thoải cai quản Thoải phủ và Mẫu Thượng Ngàn cai quản Nhạc phủ. Giúp việc cho bốn vị Thánh Mẫu còn có nhiều vị Thánh thuộc các hàng Quan, Chầu, Ông Hoàng, Cô, Cậu cũng phân theo 4 phủ như các vị thánh Mẫu kể trên.

Page 96: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Hiện nay trong điện thần Thờ Mẫu đều tồn tại quan niệm Tam Phủ và Tứ Phủ. Tứ Phủ là gồm ba phủ trong Tam Phủ (Thiên, Địa, Thoải) và có thêm phủ Thượng Ngàn (Nhạc Phủ). Hiện nay chưa ai có thể trả lời chắc chắn Tam Phủ và Tứ Phủ của đạo Mẫu có từ bao giờ. Tuy nhiên, có thể tin rằng Tam Phủ có trước Tứ Phủ và việc tồn tại phủ thứ tư là Nhạc Phủ là một nét đặc thù của đạo giáo Việt Nam.

Có thể quan niệm Tam Phủ và Tứ Phủ đều bắt nguồn từ quan niệm vũ trụ luận nguyên sơ là ÂM và Dương, dần dần yếu tố ÂM trong lưỡng cực ÂM Dương phân hóa thành Địa Phủ, Thoải Phủ và Nhạc Phủ.

             DƯƠNG                        THIÊN                                               THIÊN

                                                                                             NHẠC             THOẢI

ÂM                    ĐỊA             THOẢI                                     ĐỊA

Tứ Phủ ứng với bốn phương, bốn miền của vũ trụ, trong đạo Mẫu biểu hiện thành bốn màu cơ bản: Thiên Phủ ứng với màu đỏ, Thoải Phủ ứng với mầu trắng, Địa Phủ ứng với màu vàng và Nhạc Phủ ứng với mầu xanh. Đó cũng là màu sắc của trang phục các vị Thánh khi giáng đồng, là màu sắc của các đồ cúng lễ. Từ các màu sắc này chúng ta có thể dễ dàng phân biệt mỗi vị thánh thuộc vào phủ nào trong hệ thống Tam Phủ, Tứ Phủ.

Trong đạo Mẫu, nơi thờ phụng chính Thánh Mẫu Liễu Hạnh, hóa thân của Mẫu Thượng Thiên, cũng được gọi là Phủ, như Phủ Giầy (Nam Hà) và Phủ Tây Hồ (Hà Nội). Cách định danh này có thể xuất phát từ quan niệm vũ trụ luận về các Phủ trong Tứ Phủ và cách định danh đương thời - cung Vua, Phủ Chúa thời Trịnh Nguyễn.

*

*        *

NGỌC HOÀNG là vị Thánh Cao nhất trong đạo Mẫu, có ban thờ riêng trong các đền và phủ, tuy nhiên vai trò của Ngọc Hoàng trong nghi lễ và thờ cúng, trong tâm thức dân gian thì lại rất mờ nhạt. Như mọi người đều biết, Ngọc Hoàng là thần linh cao nhất trong đạo thờ Tiên của đạo giáo Trung Hoa, đã được gá lắp khá muộn mằn vào đạo thờ Mẫu cũng như nhiều tôn giáo tín ngưỡng khác của người Việt.

TAM TOÀ THÁNH MẪU

Mẫu là quyền năng sáng tạo vũ trụ duy nhất, nhưng lại hóa thân thành Tam vị, Tứ vị Thánh Mẫu cai quản các miền khác nhau của vũ trụ: Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn.

MẪU THƯỢNG THIÊN sáng tạo bầu trời và làm chủ quyền năng mây, mưa, sấm, chớp. Về phương diện vũ trụ quan, ta có thể thấy quan niệm về Mẫu nói chung và Mẫu Thiên nói riêng, trong quan niệm của dân gian về Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Lôi, đó là bốn vị Nữ thần tạo ra mây, mưa, sấm, chớp, vốn liên quan tới Thần mưa của tín ngưỡng nông nghiệp. Thực ra những huyền thoại và thần tích của Mẫu Thượng Thiên đều trực tiếp liên quan tới Thánh Mẫu, Liễu Hạnh, là hoá thân của Mẫu Thượng Thiên, vị thần chủ cao nhất và được thờ cúng nhiều nhất trong Đạo Mẫu ở nước ta.

Trong điện thần Tứ Phủ, Mẫu Liễu Hạnh là vị Thánh xuất hiện khá muộn, mà theo hiểu biết hiện nay sớm nhất cũng chỉ vào khoảng thế kỷ XVI, thời Hậu Lê, nhưng nhanh chóng trở thành vị Thần chủ của đạo Mẫu và được tôn vinh hơn tất cả các Thánh Mẫu khác.

Cũng theo quan niệm dân gian, Mẫu Liễu còn có thể hóa thân vào Mẫu Thượng Ngàn trông coi miền rừng núi, hay thành Địa Tiên Thánh Mẫu - Mẹ Đất, cai quản mọi đất đai và đời sống sinh vật. Vào tới Huế, Thánh Mẫu Vân Cát (tức Mẫu Liễu) hoặc là đặt ngang hàng hoặc là đồng nhất với thánh Mẫu Thiên Ya Na nguyên gốc Chăm.

MẪU THƯỢNG NGÀN là hóa thân của Thánh Mẫu toàn năng trông coi miền rừng núi, địa bàn chinh sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số. Các đền thờ Mẫu Thượng Ngàn có ở hầu khắp mọi nơi, nhưng có hai nơi thờ phụng chính gắn bó với hai truyền thuyết ít nhiều có khác biệt, đó là Suối Mỡ (Hà Bắc) và Bắc Lệ (Lạng Sơn). 1

Khác với Mẫu Thượng Thiên (mà Liễu Hạnh công chúa là hiện thân) là người Trời, người Tiên, Mẫu Thượng Ngàn xuất xứ là người trần, tuy có là con gái hay cháu Vua Hùng. Đó là những người gắn bó với núi rừng, yêu thiên nhiên, cây cỏ, muông thú, người có phép tiên có thể mang lại yên vui, ấm no cho dân lành. Họ hiển Thánh và trờ thành vị thần bảo hộ cho rừng núi, bản làng.

Ở Tây Nguyên, tục thờ Mẫu do người Việt mang vào lại đồng nhất Mẫu Thượng Ngàn với ÂU Cơ - Mẹ Tiên, sau khi từ biệt với Bố Rồng - Lạc Long, đã mang theo 50 người con lên núi, sinh sống, phát triển thành các dân tộc thiểu số ngày nay và Mẹ Âu Cơ trở thành vị Thánh Mẫu cai quản vùng rừng núi. Bởi thế, các động Sơn Trang ở các đền Tây Nguyên thường tái hiện sự tích Lạc long Quân và Âu Cơ. 2

MẪU THOẢI

Page 97: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Huyền thoại và thần tích của Mẫu Thoải tuỳ theo từng nơi có khá nhiều khác biệt, tuy nhiên, cũng có những nét chung cơ bản. Đó là vị thần trị vì vùng sông nước, xuất thân từ dòng dõi Long Vương, liên quan trực tiếp với thủy tổ dân tộc Việt buổi đầu dựng nước. 3

Như vậy, trong Tam toà Thánh Mẫu, Mẫu Thượng Thiên mà hoá thân là Thánh Mẫu Liễu Hạnh, vốn là con gái Ngọc Hoàng đã nhiều lần giáng sinh nơi trần thế. Còn lại Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải đều có nguồn gốc Sơn thần và Thuỷ thần, ít nhiều gắn bó với các nhân vật nửa lịch sử nửa huyền thoại của buổi đầu huyền sử dân tộc, như Tản Viên, Hùng Vương, ÂU Cơ (Mẫu Thượng Ngàn) hay Lạc Long Vương, Kinh Dương Vương, Kinh Xuyên (Mẫu Thoải). Trong Tam toà Thánh Mẫu ta còn thấy có sự kết hợp, đan quyện giữa tư duy mang tính vũ trụ luận (Trời, Đất, Nước), tư duy huyền thoại (Thiên Thần, Sơn Thần và Thuỷ Thần) và tư duy lịch sử (Lạc Long Quân - Âu Cơ Hùng Vương). Đây cũng là một khía cạnh tâm lý mang đặc thù Việt Nam.

NGŨ VỊ QUAN LỚN

Sau hàng Mẫu là Ngũ Vị Quan Lớn (hàng Quan), gọi tên từ Quan Đệ Nhất đến Quan Đệ Ngũ, tuy nhiên không phải là không có quan niệm về sự hiện diện của lO vị Quan Lớn thuộc hàng Quan. Thường thì 5 vị đầu hay giáng đồng hơn, có lai lịch hoặc là Thiên thần hoặc là Nhân thần, 5 vị còn lại thì ít giáng đồng, bởi vậy thần tích cũng không được rõ ràng. Ở đây một lần nữa ta lại gặp hiện tượng con số 5 và bội số 2 của con số này.

Trong Ngũ Vị Quan Lớn thì Quan Đệ Nhất và Quan Đệ Nhị có nguồn gốc Thiên thần. Quan Đệ Nhất vâng mệnh Ngọc Hoàng xuống trần cứu giúp dân lành khỏi sự quấy phá của tà quan. Quan Đệ Nhị cũng là Thiên thần xuống trần gian trấn giữ Thượng Ngàn.

Nổi bật nhất trong hàng Quan là Quan Đệ Tam và Quan Đệ Ngũ. Hai vị này có đền thờ riêng, có thần tích và huyền thoại, đặc biệt là hay giáng đồng, nên được các tín đồ thờ cúng và tôn kính. Theo các huyền thoại lưu truyền trong dân gian cũng như lai lịch các bản văn chầu thì Quan Tam phủ là con Vua Bát Hải Đại Vương, hóa thân thành một võ tướng của Hùng Vương. Đền thờ chính của ông ở Ninh Giang, tức Đền Lảnh, ngoài ra còn có nhiều nơi thờ vọng, từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi ngược lên vùng núi.

Quan Đệ Ngũ còn gọi là Quan Tuần, Quan Lớn Tuần Tranh. Tuỳ theo từng địa phương mà lưu truyền các huyền thoại khác nhau về quan Đệ Ngũ. Quan Tuần gốc tích là con rắn thần ở sông Đò Tranh (Hải Hưng). Cũng có những nơi gắn Quan Đệ Ngũ với Cao Lỗ, một võ tướng của An Dương Vương hay chính là con trai của Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Tảng, hiện được thờ ở Cửa Ông (Quảng Ninh) và ở Lạng Sơn. 4

Các quan lớn trong văn chầu hay khi giáng đồng thường có tính cách quý phái, hùng dũng, nhân từ, hay làm những việc phúc đức nhưng cũng đáng sợ với người trần.

Các vị đều mặc võ quan, mang kiếm hay kích, mặc võ phục nhưng mầu sắc thì tuỳ thuộc các vị thần thuộc Thoải phủ (trắng), Thiên phủ (đỏ), Nhạc phủ (xanh) hay Địa phủ (vàng). Quan Đệ Tam và Quan Đệ Ngũ đều thuộc Thoải phủ, dòng Long Vương Bát Hải.

TỨ VỊ THÁNH BÀ hay TỨ VỊ CHẦU BÀ

Tứ vị Thánh Bà hay Tứ vị Chầu Bà được coi như là hóa thân, phục vụ trực tiếp của Tứ vị Thánh Mẫu. Tuy gọi là vị Chầu Bà đại diện cho Tứ Phủ, nhưng số lượng các vị Thánh Mẫu có thể tăng lên tới 12 (3x4), tuy nhiên trong số đó, các Chầu Bà từ Đệ Nhất tới Chầu Lục cùng Chầu Bé thường giáng đồng, được mọi người biết rõ thần tích, có nơi thờ phụng riêng, còn các vị khác thì ít giáng đồng và không mấy người biết tới.

Chầu Đệ Nhất là hóa thân của Mẫu Thượng Thiên, Chầu Đệ Nhị là hóa thân của Mẫu Thượng Ngàn, vị Thánh thống soái trong các hàng Chầu, cai quản vùng núi non, sơn cước. Khi giáng Bà mặc sắc phục Mán, màu xanh, đặc trưng cho Nhạc phủ.

Thuộc Nhạc phủ với Chầu Đệ Nhị còn có Chầu Lục và Chầu Bé. Chầu Lục gốc người Nùng ở Hữu Lũng (Lạng Sơn), Chầu Bé được thờ thành đền riêng ở Bắc Lệ (Lạng sơn). Còn Chầu Mười gốc người Thổ, tương truyền đã có công giúp Lê Lợi đánh tan quân Liễu Thăng, trấn ải vùng Đông Bắc nước ta.

Đền thờ chính của Chầu Mười tại Đồng Mỏ (Lạng Sơn), nhưng đền thờ vọng Bà thì có ở khắp nơi, từ Đồng Đăng, Kỳ Cùng, Thăng Long, Núi Ngự, Sài Gòn, Vũng Tàu... tới vùng thượng như Đà Lạt, Buôn Mê Thuộc, Plâycu ...

Chầu Đệ Tam là hóa thân của Mẫu Thoải. Đó là vị Thánh có dáng vẻ u buồn, y phục và khăn trùm màu trắng. Chầu Đệ Tứ là vị Thánh giữ vai trò khâm sai Tứ Phủ. Tuy đứng đầu Đại phủ, cũng có khi Bà hóa thân dưới dạng Chầu Thoải phủ, mặc màu trắng, múa mái chèo; khi lại hóa thành Thánh Mẫu Thiên phủ, mặc áo đỏ, múa quạt (Chầu Đệ Tứ khâm Sai Thượng Thiên).

Chầu Đệ Ngũ ít khi giáng đồng, trần gian ít ngươi biết tới. Tương truyền Bà là công chúa đời nhà Lý, đi tu ở miền thượng, đền thờ Bà ở Suối Lân, Lạng Sơn. Ngoài ra người ta còn biết tới các vị Chầu khác, như Chầu Thất - Tiên La thờ ở Hưng Hà, Thái Bình, Chầu Bát Nàn ở Đồng Mỏ, Chầu Cửu ở Bỉm Sơn, Thanh Hóa (Cửu Thiên Huyền Nữ) ...

Nói chung các vị Thánh hàng Chầu phần lớn có nguồn gốc người dân tộc ở vùng núi, thuộc Nhạc phủ, dòng Tiên nữ, đối lập với các Quan thuộc dòng Long Vương Thuỷ phủ. Khi giáng đồng, các Chầu đều ăn mặc theo trang phục dân tộc Tày, Nùng, Dao, Mường, nhạc chầu văn theo điệu Xá Thượng mang đặc trưng miền núi.

Page 98: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Dưới hàng Chầu là hàng các ông Hoàng, được gọi tên theo thứ tự từ Ông Hoàng Đệ Nhất tới Ông Hoàng Mười, có hẳn một bản văn chầu 10 Ông Hoàng. Tương truyền, cũng như các Quan, các Ông  Hoàng đều có gốc tích là con trai Long Thần Bát Hải Đại Vương ở hồ Động Đình, tuy nhiên, theo khuynh hướng địa phương hóa thì các ông  Hoàng đều gắn với một nhân vật nào đó ở cõi nhân gian, những danh tướng (có công dẹp giặc, những người khai sáng, mở mang cho đất nước.5

Trong số mười Ông Hoàng thì thường có sáu Ông giáng đồng, trong đó có ba Ông giáng rất thường xuyên, đó là Ông Hoàng Bơ, Ông Hoàng Bẩy, và Ông Hoàng Mười. Khi giáng đồng, các Ông Hoàng có phong cách gần giống các Quan Lớn, tuy nhiên có phần hào hoa phong nhã, vui tươi và quan hệ với người trần vui vẻ hơn so với các Quan.

Hàng Cô được gọi tên từ Cô Đệ Nhất (Cô Cả) đến cô thứ 12 (Cô Bé), đều là các thị nữ của Thánh Mẫu và các Chầu. Tuy nhiên, khi giáng đồng các Cô có thể hóa thân vào các vai trò khác nhau của Tứ Phủ. Có hẳn một bài văn chầu kể về 12 cô. Cô Đệ Nhất là thị nữ của Mẫu Thượng Thiên, ăn mặc rất đẹp, Cô Đôi là thị nữ của Mẫu Thượng Ngàn, giáng đồng với hai bông hoa cài trên mái tóc. Cô Bơ (Ba) thuộc Thuỷ phủ rất nổi tiếng, giáng đồng mặc y phục màu trắng, thắt lưng hồng, múa điệu chèo đò. Cô chữa bệnh cứu người bằng cách ban nước uống, nhưng cũng có thể gieo bệnh nếu kẻ nào dám làm trái những sở thích của Cô. Cô thứ tư là thị nữ của Chầu Đệ Tứ, cô thứ năm thuộc Chầu Đệ Ngũ, nhưng cũng có khi hóa thân với vai trò thị nữ của Mẫu Thượng Ngàn hay Thượng Thiên, cô thường xuất hiện trong các bữa tiệc,Cô thứ sáu thuộc phủ Thượng Ngàn, ăn mặc quần áo chàm, đeo túi hoa, tóc cài hoa rừng, lưng dắt con dao nhỏ, cô hay đi hái cây thuốc chữa bệnh cứu người. Cô thứ Chín là thị nữ của Mẫu Thượng Ngàn, khi giáng đồng Cô nói tiếng Mán, tiếng Mường, múa với bó hương cháy rừng rực trên tay, thêu hoa trên tấm vải. Người ta gắn cho cô trông coi Đền Sòng Sơn, một nơi rất linh thiêng . Cô Bé (Cô thứ mười hai) còn gọi là Cô Bé Bắc Lệ, Cô Bé Thượng Ngàn, có đền thờ riêng ở Bắc Lệ.

Các Cô được gọi tên theo thứ tự như vậy, nhưng tuỳ theo địa phương, các Cô còn được gọi với các tên gắn với từng vùng, như Cô Bé Bắc Lệ, Cô Cam Đường, Cô Chín Giếng, Cô Đồng Mỏ ...

Các Cậu Quận là những người chết trẻ, từ l -9 tuổi, hiển linh  thành các bé Thánh. Người ta không biết rõ đầy đủ về 10 hay 12 vị thuộc hàng Cậu, họ là các phụ tá của các Ông Hoàng. Thường thì lần  lên đồng nào cũng có giá Cậu Bơ (Ba) và Cậu Bé. Đó là những giá đồng với tính cách phóng túng, tinh nghịch , quần áo kỳ cục, lời nói  ngọng ngịu của trẻ con, kèm theo các điệu múa lân hay múa hèo khá sôi nổi.

Trong điện thần của đạo Mẫu còn có sự hiện diện của Hổ (Ngũ  Hổ) và Rắn (Ông Lốt). Nơi thờ thần Ngũ Hổ ở hạ ban, phía dưới điện thờ Công Đồng, có hình tượng đôi Bạch xà nằm vắt ngang phía trên điện thờ chính. Trong quan niệm dân gian, Hổ là vị chúa cai quản rừng núi, còn Rắn thần là ở nơi sông nước. Trong hầu đồng, tuy không thường xuyên, nhưng cũng có trường hợp các vị Quan Ngũ Hổ hay Ông Lốt (rắn) giáng đồng.

Ngũ Hổ cai quản bốn phương và trung tâm, là con vật quyền   uy, là thần chiến trận, cứu giúp các chiến tướng trong trận mạc. Trong tín ngưỡng dân gian, Hổ là kẻ thù của ác thần, tà thần, chuyên hãm hại người sống cũng như người đã chết, là vị thần linh canh cửa các ngôi đền. Trong số các ông đồng và bà đồng, một số ít người có căn Quan Lớn Hổ, khi hầu đồng họ thường được các vị thần Hổ giáng. Mọi người có thể cầu xin vị thần Hổ này giúp trừ tà gây dịch bệnh, phòng ngừa trộm cắp ... Khi hầu đồng thần Ngũ Hổ, các ông đồng, bà đồng thường làm các động tác như phun lửa, nhai bó hương cháy, làm các động tác Hổ ngồi, Hổ vồ mồi ...

Trong đạo Mẫu Tứ Phủ, đây đó người ta còn nhắc tới Phủ Trần Triều, một phủ thuần tuý mang tính chất Nhân Thần. Bởi thế cần xem xét Đức Thánh Trần cùng với các thuộc hạ của Ông trong hệ thống điện thần Tứ Phủ cũng như trong thực hành tín ngưỡng.

Về phương diện điện thần, Đức Thánh Trần được coi là một vị Thánh Tứ Phủ. Trong khá nhiều đền, điện của đạo này đều có ban thờ riêng Ông cùng với các thuộc hạ. Tuy nhiên về hàng bậc cũng như phủ của Ông trong Tứ Phủ lại không dễ xác định. Ông là một nam thần. Ông thường được quy về dòng Long Vương, Bát Hải Đại Vương, thậm chí còn được đặt riêng ra thành một phủ Nhân thần, phủ Trần Triều. Về hàng bậc, có lúc Ông được đổng nhất với Vua Cha trong đối sánh với Thần Mẹ, ngày giỗ và lễ hội kèm theo của Ông cũng đồng nhất với    ngày giỗ Cha ''tháng Tám giỗ Cha'' cùng với Bát Hải Đại Vương. Nơi thờ Ông ở Kiếp Bạc, có ngọn núi xèo rộng ra ôm lấy thung lũng trước mặt ngôi đền là núi Nam Tào và Bắc Đẩu. Như vậy trong tâm thức dân gian, nghiễm nhiên Ông được coi như là Ngọc Hoàng, một loại Vua Cha cao hơn, bên trên cả Thánh Mẫu. Tuy nhiên, không giống như Vua Cha Ngọc Hoàng hay Vua Cha Bát Hải, các vị chỉ ngự trên điện thần chứ không giáng đồng, các Thánh hàng Mẫu cũng chỉ giáng chứ không nhập đồng (hầu tráng mạn), còn Đức Thánh Trần và một số thuộc hạ của Ông thì lại giáng đồng chuyên để trừ tà, cứu chữa con bệnh, tạo nên hẳn một dòng Thanh đồng phân khác với hình thức hầu đồng của dòng đồng cốt thờ Mẫu. Trong thứ tự giáng đồng của những người có căn Trần Triều thì thường là sau khi Mẫu giáng, và trước các vị Thánh hàng Quan. Đấy là chưa kể hình thức lên đồng để trừ tà thường diễn ra trong dịp lễ tiết của Đức Thánh Trần ở những nơi thờ tự chính của Ông.

Một vấn đề đặt ra là trong môi trường và điều kiện nào một quý tộc và danh tướng như Trần Quốc Tuấn đã từng lập nên những danh tích của triều đại nhà Trần sau đó lại trở thành Ông Thánh của Đạo giáo, với quyền pháp của một đạo sĩ và thày phù thủy chuyên trừ đuổi ma tà chữa bệnh cho phụ nữ và cũng dần hội nhập vào dòng tôn thờ Thánh Mẫu Tứ Phủ. Theo ý kiến của Giáo sư Trần Quốc Vượng, thời nhà Trần, bên cạnh đạo Phật, Đạo giáo khá thịnh hành, nhiều người thuộc giới quý tộc, hoàng thân cũng là những đạo sĩ, tín đồ đạo giáo, trong đó có Trần Hưng Đạo. Từ sau khi chiến thắng giặc Nguyên - Mông, được phong vương, Ông quay trở về sống ở Kiếp Bạc, vui thú với cảnh sắc thiên thiên, làm thuốc chữa bệnh cứu người. Huyền thoại về việc Ông dùng ma thuật để trừ tà Phạm Nhan chỉ là sự lịch sử hóa, huyền thoại hóa một thực tế Ông là một thầy thuốc có tài chữa bệnh hậu sản, bệnh của phụ nữ. Với lại, trong dân gian, việc chữa bệnh bằng thuốc luôn đi liền với các hành động có tính ma thuật. Bởi vậy, sau khi Trần Hưng Đạo qua đời, danh tiếng và uy tín của Ông đã được huyền thoại hóa, khoác ra ngoài cái vỏ tín ngưỡng và lưu truyền mãi về sau, cho tận tới ngày nay.

Còn việc Ông trở thành một vị Thánh trong điện thần Tứ Phủ, thậm chí còn đồng nhất Ông với Vua Cha kề cận với Vua Cha trong đối sánh với Thánh Mẫu, thì cũng không có gì khó hiểu. Với tư cách là một vị tướng, một đạo sĩ của Đạo giáo, vốn gốc dòng họ gắn liền với miền sông nước

Page 99: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

vùng hạ lưu, lại lập những chiến công thuỷ chiến vang dội, Ông đễ được dân gian khoác thêm chiếc áo thần linh, quy về dòng thuỷ thần Long Vương, được thờ phụng cùng với Bát Hải đại vương, vị thần chuyên coi vùng sông nước và biển cả.

Cũng cần phải phân biệt giữa thờ phụng Đức Thánh Trần với tư cách là một anh hùng dân tộc, một đạo sĩ của dòng Đạo giáo với một Đức Thánh Trần được coi như một Vua Cha trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ. Trong nhiều điện, đền thờ Mẫu Tứ Phủ có ban thờ Đức Thánh Trần, nhưng ngược lại, trong các đền thờ chính của ông ở Kiếp Bạc, Bảo Lộc, Cổ Trạch ... thì hầu như không có Mẫu và điện thần thờ Mẫu. Như vậy rõ ràng việc tôn thờ Đức Thánh Trần với những đặc tính tiềm tàng, của nó như đã trình bày trên, một phần đã được thu hút và hội nhập vào tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ, nhất là ở những giai đoạn muộn của nó. Điều đó cũng góp phần giải thích vì sao sự hội nhập này không diễn ra đều khắp mọi nơi. Chỉ xin đơn cử ở Phủ Giầy, nơi trung tâm của đạo Mẫu, thì trong điện thần phối tự, vai trò của Đức Thánh Trần và kể cả Vua Cha Bát Hải đại vương đều khá mờ nhạt. Trong khi đó thì Lý Bôn với vai trò là Vua Cha, vị thuỷ thần, thì có tới hai đền, một ở Tiên Hương, một ở Vân Cát, đều gọi là Đền Vua nằm kề sát phủ trong quần thể các đền của Phủ Giầy. Tháng 8 hàng năm là kỳ giỗ kỵ ở Đền Vua, giống như vua Cha ở Đền Đồng Bằng (Thái Bình) và Kiếp Bạc (Hải Dương), nơi thờ Vua Cha Bát Hải và Đức Thánh Trần.

Cùng với Đức Thánh Trần, con trai, hai vương cô và các vị tướng của Ông cũng có thể giáng đồng, tuy những trường hợp như vậy rất hãn hữu. Con trai của Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Tảng thờ ở đền Cửa Ông (Quảng Ninh), tướng Phạm Ngũ Lão thờ ở đền Phù Ủng (Bắc Ninh), đặc biệt là người con gái là Vương Cô Đệ Nhất và Vương Cô Đệ Nhị được nhập vào hàng Cô của đạo Tứ Phủ, luôn luôn hầu cận hai bên Thánh Cha.

*

*        *

Ở phần trên, chúng tôi cố gắng hệ thống lại điện thần của Đạo Mẫu Tứ Phủ mang tính chung và ước lệ nhất. Tuy nhiên, với các địa phương thì trên cái khung chung đó, sự sai biệt mang sắc thái địa phương là một thực tế hiển nhiên. Nói chung, điện thần và phối tự trong các đền Mẫu ở Nam Bộ không có mấy sai biệt (ở đây chỉ nói đền thờ Mẫu Tứ Phủ, còn các đền thờ khác Mẫu khác như Bà Đen, Bà Chúa Xứ thì không thuộc hệ thống này) so với các đền thờ Mẫu ở Bắc Bộ. Có chăng trong điện thần ta thấy có thêm một số các vị Thánh địa phương, như lê Văn Duyệt, được coi như là một vị Thánh hàng Quan, có vai trò trừ ma tà như Quan Tuần, Đức Thánh Trần ở ngoài Bắc. Bà Chúa Xứ cũng có lúc giáng đồng trong các đền thờ Mẫu Tứ Phủ, được coi như vị Thánh Mẫu hàng Chúa (Chầu) ...

Điện thần ở Điện Hòn Chén, trung tâm thờ Mẫu ở Huế cũng như một số ngôi đền khác, về cơ bản vẫn là Thờ Mẫu Tứ Phủ, tuy nhiên sắc thái địa phương thì thể hiện rõ rệt hơn. Trước nhất, nếu như trong điện thờ Tam vị Thánh Mẫu, Mẫu Thượng Thiên hay Mẫu Liễu ngồi chính giữa, thì trong tất cả các đền ở Huế thay bằng Thánh Mẫu Ya Na, một nữ thần nguồn gốc Chăm (Mẹ Xứ Sở) đã bị Việt hóa. Hai bên tả và hữu của Mẫu Thiên Ya Na là Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn. Có một số ít ngôi đền, trong đó có Hòn Chén thì có ban thờ Thánh Mẫu Liễu cùng với Quế Hoa và Quỳnh Hoa được thờ thấp hơn phía trước Tam vị Thánh Mẫu đã kể trên. Hàng các vị Thánh Bà (hàng Chầu) được gọi theo tên : Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ: Đệ Nhất Kim Tinh thần nữ, Đệ Nhị Mộc Tinh thần nữ và Đệ Tam Thuỷ Tinh thần nữ, Đệ Tứ Hoả Tinh thần nữ và Đệ Ngũ Thổ Tinh thần nữ. Trong hàng thất thánh (7 vị Thánh) tương đương như hàng quan thì ở Huế có thờ Vua Đồng Khánh, nguyên là tín đồ Đạo Mẫu, là vị vua đầu tiên thừa nhận tính chính thống của Đạo Mẫu, người bỏ tiền của ra để xây dựng và tôn tạo các điện Mẫu ở Huế. Trong khá nhiều ngôi đền, điện, bên cạnh tượng Ngọc hoàng như các đền ngoài Bắc, thì thường có thêm tượng Quan Thế Âm, ban thờ Quan Thánh, thậm chí có nơi còn thờ Bản Thổ Thành Hoàng ...

Như vậy là điện thần thờ Mẫu cao nhất ở Huế về cơ bản vẫn là Mẫu Tứ Phủ, nhưng vị Thánh Mẫu cao nhất, Thánh Mẫu Thiên Ya Na thì lại là kết quả của sự giao thoa văn hóa Việt - Chăm. Thực ra, ở người Việt người Chăm, Khmer và nhiều dân tộc khác ở Việt Nam và Đông Á đều có nét văn hóa chung là tôn thờ nữ thần, tôn vinh vị thần cội nguồn của đất nước và dân tộc là Nữ thần, gọi là Thánh mẫu - Thần Mẹ. Nếu người Việt có Tam Toà Thánh Mẫu, Mẫu Liễu được tôn vinh là Mẫu Nghi Thiên Hạ, thì người Chăm có vị thần xứ sở Pon Nagar, Thiên Ya Na. Khi vượt sông Gianh vào đất Trung và Nam Trung Bộ, người Việt đã tiếp thu và Việt hóa nhiều yếu tố văn hóa Chăm, trong đó có vị Nữ thần Xứ sở, Bà Mẹ xứ sở của Chăm thành Mẫu của người Việt. Tục thờ Mẫu ở Hòn Chén và Tháp Bà (Nha Trang) chính là thể hiện quá trình hỗn hợp dung và giao lưu văn hóa đó.

*

*        *

Ở miền Bắc cũng như trong Nam, bên cạnh các đền thờ Mẫu thuộc hệ thống Tam toà Thánh Mẫu mà điện thần của nó chúng tôi đã giới thiệu ở trên, thì còn tồn tại một hình thức tín ngưỡng thờ Mẫu nằm ngoài hệ thống Mẫu Tứ Phủ (Tam Toà Thánh Mẫu), được gọi với những tên, như Bà Chúa (Bà chúa Xứ), Bà Đen hay Linh Sơn Thánh Mẫu, thờ Bà (Tháp Bà ờ Nha Trang) Bà Chúa Tiên, Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Động, Bà Thủy, Bà Hoả, Bà Thiên Hậu, Tống Hậu, các đền thờ Vương Mẫu (Mẹ Thánh Gióng), Quốc Mẫu (đền thờ Mẹ Âu Cơ) và Thánh Mẫu khác (Ỷ Lan Thánh Mẫu, Thiên Hậu Thánh Mẫu ...). Tuy là với những tên gọi khác nhau nhưng đều có nguồn cỗi từ tục thờ các nữ thần. Tuy nhiên, không phải nữ thần nào cũng thành Bà, thành Chúa và đặc biệt là thành Mẫu. Chúng tôi cũng đã tiến hành khảo sát một số đền thờ Mẫu cũng thuộc loại trên ở miền Bắc, như Đền thờ Vương Mẫu (Mẹ Thánh Gióng) ở Phù Đổng, đền thờ Ỷ Lan Thánh Mẫu ờ Dương Xá, Gia Lâm, đền thờ Tống Hậu Quốc Mẫu ở Nam Hà (Hải Hậu)... Trên cơ sờ những khảo sát như vậy, bước đầu có nhận xét sau:

- Việc thờ Mẫu kể trên nẩy sinh và phát triển trên cơ sở thờ Nữ thần, nó thuộc loại hình tín ngưỡng thờ thần mà có người gọi là Thần Đạo, một đạo mang bản sắc Việt Nam rõ rệt nhất. 6

- Tuy không hoàn toàn thuộc lĩnh vực của Đạo Mẫu, Tam Phủ, Tứ Phủ, một biến thể của đạo giáo Việt Nam, nhưng giữa tục thờ Mẫu này và đạo Mẫu Tứ Phủ có những nền tảng chung (đều tôn thờ Nữ thần và thờ Mẫu), có sự thâm nhập và ảnh hưởng qua lại, trong đó nổi bật là tục thờ

Page 100: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Mẫu - Nữ thần tiếp thu ảnh hưởng Mẫu Tứ Phủ, thể hiện qua điện thờ, nghi lễ thờ cúng, lên đổng và lễ hội. Sự giao lưu và hội nhập khá rõ nét giữa thờ mẫu - Nữ thần với Phật giáo dân gian, với Đạo giáo, các hình thức tín ngưỡng dân gian, kể cả một số tôn giáo khác.

*

*          *

Từ việc xem xét hệ thống điện thần đạo Mẫu và các thần tích của nó có thể rút ra một số nhận xét sau:

l. Hệ thống thần linh Tứ Phủ gồm các Thiên thần và nhân thần, là các vị thần linh đã từng là người trần thế hay có nguồn gốc Tiên, Thánh. Tuy nhiên, xu hướng ''trần gian hoá'' và ''lịch sử hoá'' là xu hướng chính trong quá trình ''thêu dệt'' nên thần tích các vị Thánh này. Vị Thánh Mẫu Liễu Hạnh ra đời chậm trễ nhất trong' số các Thánh Mẫu, nhưng thần tích của Bà cũng được người đời ''trần thế hóa'', ''địa phương hóa'' và ''lịch sử hóa'' một cách khá trọn vẹn, để từ đó Bà bước lên ngôi thứ cao nhất trong điện thần Tứ Phủ. Còn biết bao vị thần khác đều có nguồn gốc xuất thân, lý lịch ''nhập thể' với bao công lao, kỳ tích, gắn liền với lịch sử giữ nước và dựng nước của dân tộc, tạo cho nó trờ thành một biểu tượng của lòng yêu nước mang đầy tính tâm linh. Cũng chính vì thế họ đều là các phúc thần, có thể xua đuổi các tà mà, mang lại tài, lộc, sức khoẻ cho con người.

2. Các thần linh Tứ Phủ còn được phân thành một bên là các nữ thần và bên kia là nam thần, tuy thứ bậc chính của mỗi vị Thánh trong điện thần phụ thuộc vào việc họ thuộc hàng nào từ trên xuống dưới, như Thánh Mẫu - Vua Cha, các Quan, các Chầu, Ông Hoàng, các Cô Cậu hay thuộc phủ nào mà họ cai quản: Thiên phủ, Thuỷ phủ, Nhạc phủ hay Địa phủ. Về phương diện hữu thức là như vậy, nhưng nếu chúng ta đi sâu vào tầng vô thức thì việc phân chia trên lại bao hàm một ý nghĩa sâu xa nào đó.

Tuy là đạo thờ Mẫu, và Mẫu là vị thần có quyền năng sáng tạo tối thượng, nhưng trong điện thần, các vị thần vẫn chia thành dòng Cha và dòng Mẹ. Thánh Mẫu với các hoá thân trực tiếp là các Chầu và những người giúp việc là các Cô. Còn bên kia là Vua Cha và thuộc dòng Vua Cha là các quan, các Ông Hoàng và Cậu. Tất nhiên, sau này trong quan niệm dân gian, tuy Mẫu là một, là ''nhất thể'' nhưng lại hoá thân thành "tam vị'' Thiên, Địa, Thuỷ, hay Vua Cha cũng chỉ có một, sau lại chia thành Vua Cha Thuỷ phủ, Vua Cha Nhạc phủ, Vua Cha Thiên phủ, Vua Cha Địa phủ. Nhưng cuối cùng, thuỷ tổ của Thánh Mẫu vẫn là dòng Tiên, còn thuỷ tổ của Vua Cha vẫn là dòng Long Vương - dòng Rồng, mà cái đó người việt đã khái quát trong huyền thoại suy nguyên: Lạc Long Quân và Âu Cơ. Cũng bởi lẽ đó, hội thờ Đức Thánh Tiên Mẫu tức Giỗ Mẹ vào tháng ba, còn ngày hội Vua Cha tức giỗ Cha vào tháng Tám.

Một khía cạnh khác của giới tính các thần linh trong điện thờ Tứ Phủ là số lượng các vị Thánh trong mỗi hàng. Thuộc dòng Mẫu - Mẹ, ta thường thấy Tứ vị Thánh Mẫu, Tứ vị Chầu Bà, rồi cũng có thể tăng lên Bát vị Chầu Bà, thậm chí 12 vị Chầu. Đối với hàng Cô, ta cũng thường gặp các con số 4,6,8,12. Như vậy, thuộc dòng Thánh Mẫu, ta thấy số lượng các vị thần trong mỗi hàng là chẵn: 4,6,8,12. Còn với dòng Vua Cha, Nam thần, thì có Ngũ vị tôn Ông, rồi Thập vị Tôn Ông, Ngũ vị Ông Hoàng hay Thập vị Ông hoàng, tức là con số lẻ và bội số của nó, tức 5 và 10 ...

Có thể giải thích hiện tượng các con số này từ quan niệm dân gian về con số thiêng, trong đó con số lẻ là con số ''cơ'' (cố định) gắn với dương, đực, đàn ông, nam tính, còn con số chẵn là con số ''ngẫu'' (không cố định), gắn với âm, cái, nữ tính. Đây là những con số mang tính biểu tượng, thiêng liêng , thể hiện tính lưỡng phân lưỡng hợp giữa dòng vua Cha và các Nam thần, Thánh Mẫu và các Nữ thần đã đề cập ở trên.

3. Từ việc xem xét hệ thống điện thần, tên gọi mỗi vị thần linh, cách thức bài trí thờ cúng trong các đền, điện, ta thấy toát lên những biểu tượng mang ý nghĩa vũ trụ quan, nhân sinh quan sâu sắc. Trước nhất, điện thần Tứ Phủ là một mô thức vũ trụ thu nhỏ với hai cặp Thiên - Địa, Rừng Núi - Sông Nước (Sơn - Thủy), trong đó cặp Thiên - Địa (dương - âm, đực - cái) là cặp trụ cột của hệ thống Tứ Phủ. Cũng từ đây gắn với các quan niệm về tứ phương, ngũ phương, ngũ hành (Bà Mộc, Bà Thủy, Bà Hoả, Bà Kim, Bà Thổ). Trong một vũ trụ được quan niệm như vậy Mẫu - Mẹ, nữ tính thâu tóm quyền năng sáng tạo, sinh sôi và bảo trữ. Đó là một vũ trụ mang tính ''nhất nguyên'' (nguyên lý Mẫu) nhưng ''lưỡng cực" (âm - dương, nữ tính - nam tính).

Ở tầm vĩ mô, Tứ Phủ đồng nhất với vũ trụ, trời đất, còn ở tầm vi mô, Tứ Phủ lại mô phỏng như một gia tộc, theo quan niệm truyền thống ''nhân thân tiểu thiên địa''. Hơn thế nữa, đó còn là một gia tộc đã dược cung đình hóa. Cao nhất có Cha - Mẹ, Vua Cha - Thánh Mẫu, có các quan, các Chúa, các Ông Hoàng, có các Cô, các Cậu ... Lễ tiết thì có tháng giỗ Cha , tháng giỗ Mẹ. Cô, Cậu đều là các vị thánh hiển linh từ những chàng trai, cô gái chết trẻ, mà không phải khó khăn lắm để có thể nhận ra một hình thức thờ Bà Cô, Ông Mãnh của bất cứ gia tộc, dòng họ nào.

Cung đình hóa một điện thần là điều dễ nhận biết nhất, thông qua cách thức bài trí, hệ thống xưng hô, trang phục của các linh tượng và của các vị Thánh khi giáng đồng. Đấy là chưa kể, các thần tích của khá nhiều vị Thánh đều được gắn cho các chức vị, nào là công chúa, hoàng tử của các triều đình kể từ thời Hùng Vương đến sau này, nào là các quan văn, quan võ lừng danh một thời. Cách bài trí nào "tam toà'', "lục viện'', y hệt triều đình phong kiến nhà Nguyễn. Tất cả những cái đó đều nói lên một điều khi con người tạo ra thần thánh cho mình thì chính mô thức xã hội con người lại trờ thành hệ quy chiếu cho ''xã hội'' thần thánh.

ĐẠO MẪU (phần 2)

Chủ nhật, 17 Tháng 4 2011 00:46

GS-TS Ngô Đức Thịnh (Trung tâm nghiên cứu và bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt Nam)

Page 101: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

II. ĐẠO MẪU: LỄ HỘI VÀ NGHI LỄ

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, hệ thống nghi lễ và lễ hội rất phong phú và đa dạng, mang nhiều sắc thái độc đáo có thể phân biệt với các tín ngưỡng và tôn giáo khác. Tuy nhiên, tập trung và điển hình nhất vẫn là nghi lễ Hầu bóng (Hầu đồng) và hệ thống lễ hội ''Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ''.

 

I. Hầu bóng

Hầu bóng là nghi lễ chính của thờ Mẫu Tứ Phủ như một số dạng thờ Mẫu khác. Đó là nghi lễ nhập hồn của các vị Thánh Tứ Phủ vào thân xác các ông Đồng, bà Đồng, là sự tái hiện lại hình ảnh các vị Thánh, nhằm phán truyền, chữa bệnh, ban phúc lộc cho các tín đồ đạo Mẫu. Nghi lễ hầu bóng (hầu đồng) mang những sắc thái địa phương, trong đó có thể kể đến Hà Nội, Huế và Sài gòn.

Hầu đồng hay Hầu bóng là hiện tượng nhập hồn nhiều lần của nhiều vị thần linh. Trong đó, mỗi lần một vị thần linh nhập hồn (ốp đồng, giáng đồng), rồi làm việc quan (tức thời gian thức hiện các nghi lễ, nhảy múa, ban lộc, phán truyền) và xuất hồn (thăng đồng), được gọi là một giá đồng (tức thời gian thần linh ngự trị trên cái giá của mình là các ông Đồng bà Đồng).

Hầu đồng thường diễn ra vào nhiều dịp trong một năm. Với những thầy Đồng đền, trong một năm có lễ hầu xông đền (sau lễ giao thừa năm mới), lễ hầu Thượng Nguyên (tháng giêng), lễ hầu Nhập hạ (tháng tư), lễ Tán hạ (tháng bảy), lễ Tất niên (tháng chạp), lễ Chạp ấn (25 tháng Chạp) ... Trong các dịp trên hai lần được coi là quan trọng hơn cả là vào tháng Ba giỗ Thánh Mẫu và tháng Tám là dịp giỗ Vua Cha Bát Hải, Đức Thánh Trần. Đối với mỗi đền hay mỗi Ông Đồng và Bà Đồng thì các dịp hầu đồng còn nhiều hơn nữa, như đầu tiên là lễ trình đồng, lễ lên đồng, lễ hầu bản mệnh, lễ hầu ngày tiệc của các vị thánh, như tiệc Cô Bơ (12-6), tiệc quan Tam phủ (24-6), tiệc Ông Hoàng Bảy (1707), tiệc Trần Triều (20-8), tiệc Đức Vua Cha (22-8), tiệc Chầu Bắc Lệ (tháng 9), tiệc Ông Hoàng Mười (10-10), tiệc Quan Đệ Nhị (11-11).

Trước khi hầu, ông Đồng hay bà Đồng thông qua người chủ đền phải làm lế Chúng sinh và lễ Thánh. Đồ lễ chúng sinh được đặt trên một cái mâm, trên đó có các đồ vàng mã cắt thành hình quần áo, tiền, lá vàng, thỏi bạc, những bát cháo, bánh trái và những thức ăn khác. Có khi trên mâm còn có mấy đồng tiền bỏ vào chậu nước dành cho những vong hồn chết đuối. Lễ chúng sinh có mặt trong tất cả các nghi lễ của tín ngưỡng Tứ Phủ và các tín ngưỡng dân gian khác, dành cho những vong hồn chết dữ hay không có người thừa nhận, không có người hương khói cúng giỗ ...

Giúp trực tiếp cho ông Đồng và bà Đồng trong buổi hầu, thì phải kể tới Hầu dâng và Cung văn. Người hầu dâng thường cũng là những người đã từng hầu đổng. Họ giúp ông Đồng và bà Đồng trong việc hầu Thánh, như thắp hương, dâng các loại vũ khí, dâng thuốc lá, rượu, trầu ..., đặc

Page 102: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

biệt giúp người hầu trong việc thay lễ phục khi chuyển từ giá này sang giá khác. Hai người Hầu dâng ngồi hai bên Ông đồng hay Bà đồng trước bàn thờ Thánh, họ mặc áo dài đen, quần trắng, đội khăn xếp (nếu là nam), áo dài màu (nếu là nữ).

Cung văn giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong hầu đồng. Họ xướng nhạc và hát cho việc trình diễn của con Đồng khi Thánh nhập. Nhạc cụ chủ đạo của cung văn là đàn nguyệt, ngoài ra còn có trống ban, cảnh đồng, phách, thanh la... Trong cung văn, có người gảy đàn, gõ trống, phách... nhưng cũng có thể họ vừa chơi nhạc vừa hát, chỉ dừng lại những lúc Thánh nhập, Thánh xuất, lúc dâng hương. Đặc biệt trong khi múa đồng, ban phát lộc, thưởng thơ phú... thì cung văn phải vừa chơi nhạc vừa hát. Cung văn hát hay, đàn giỏi, mở đầu và dừng ngắt đúng lúc đều được người hầu đồng thưởng tiền và ban lộc.

Theo trật tự thời gian, có thể phân một buổi hầu đồng thành các bước: Thánh giáng và Thánh thăng, thay lễ phục, thắp hương làm phép, múa đồng, ban lộc và nghe văn chầu, Thánh thăng.

Sau khi đứng lên làm lễ và xin phép mọi người được nhập đồng, ông Đồng hay bà Đồng trùm khăn đỏ phủ diện lên đầu để thực hiện nghi thức Thánh giáng, một nghi thức quan trọng bậc nhất trong hầu đồng. Bà Đồng hay ông Đồng trùm khăn phủ diện, hai tay chắp dâng nén hương, đầu và thân lắc lư cho tới khi nào Thánh giáng (nhập) thì buông các nén hương, rùng mình, tay ra hiệu Thánh thuộc hàng thứ bậc nào. Lúc đó cung văn tấu nhạc và xướng văn chầu phù hợp với vị Thánh vừa giáng.

Có hai hình thức Thánh giáng, giáng trùm khăn (gọi là hầu tráng mạn) và giáng mở khăn. Các giá Thánh Mẫu đều hầu theo hình thức trùm khăn (tráng mạn). Khi Mẫu Đệ Nhất giáng, thì người hầu giơ ngón tay lên báo hiệu Mẫu đã giáng, cung văn chỉ tụng kinh theo tiếng chuông và mõ. Khi người hầu khẽ rùng mình, bắt chéo tay trước trán báo hiệu Mẫu đã thăng (xa giá), cung văn chuyển sang hát điệu xa giá hồi cung.

Hình thức hầu mở khăn, tức Thánh nhập thực sự và xuất hiện trước mặt mọi người, là hình thức hầu đồng dành cho hầu hết các Thánh từ hàng Quan trở xuống. Tuy nhiên, trong một buổi hầu đồng, không phải ai cũng hầu tất cả các giá của các vị Thánh, mà chỉ một số các vị Thánh nào đó mà Ông đồng hay Bà đồng muốn thỉnh nhập để được phù trợ. Ngay trong số các vị Thánh mà nhiều người thường hầu, tuỳ theo căn đồng của mỗi ông Đồng hay bà Đồng (căn Quan, căn Cô, căn Cậu, căn Ông Hoàng ...), họ thường xuyên hầu một số vị Thánh nào đó.

Ngoài ba vị Thánh Mẫu bao giờ cũng giáng, tuy dưới hình thức không mở khăn, thì các vị Thánh giáng nhiều hơn cả và thường là giáng lâu, như các Quan Lớn Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Ngũ; Chầu Đệ Nhị và Chầu Lục; ông Hoàng Bơ, ông Hoàng Bảy và Hoàng Mười; Cô Bơ Thoải, cô Bé Thượng Ngàn, Cậu Bơ... Trong quan niệm của các con công đệ tử, các vị thánh trên khi giáng thường ban lộc cho những người cầu xin.

Trong một buổi hầu đồng, thường là có nhiều vị thánh giáng, ít nhất cũng khoảng trên 10 lần giáng của các vị Thánh, bình thường cũng 15 vị giáng, còn nhiều thì trên 20. Việc giáng của các vị Thánh phải theo thứ tự, từ Thánh Mẫu tới các hàng Quan, hàng Chầu, hàng ông Hoàng, rồi hàng Cô và Cậu. Thánh Ngũ Hổ, ông Lốt, vong linh tổ tiên giáng sau cùng, tuy cũng ít thấy xẩy ra.

Trùm khăn phủ diện có ý nghĩa quan trọng nhất trong nghi lễ Thánh giáng. Từ quan niệm cho rằng người hầu đồng chỉ là cái xác, cái giá, cái ghế để Thánh nhập vào, nên khi ông Đồng và bà Đồng trùm khăn lên đầu, thì họ được coi như người đã chết. Có lẽ vì thế mà khi người đã tắt thở, người ta bao giờ cũng phủ khăn  lên mặt, còn với người đang sống mà lấy khăn che mặt là điều cấm kỵ.

Người ta thường phân biệt hai trường hợp trong nghi lễ nhập hồn này, là Thánh giáng và Thánh nhập. Thánh nhập tức là bước thứ hai sau khi giáng, bởi vậy, cũng có trường hợp thánh chỉ giáng chứ không nhập. Trong trường hợp như vậy, bằng dấu hiệu tay, ông Đồng hay bà Đồng ra hiệu cho người hầu dâng và những người ngồi quanh biết vị Thánh nào vừa giáng đã thăng ngay, không chịu nhập hồn và họ lại làm nghi thức cầu khẩn vị Thánh tiếp theo.

Khi thánh đã giáng và nhập đồng, lúc đó ông Đồng, bà Đồng không còn là mình nữa, mà là hiện thân của thần linh, những người ngồi quanh thưa gửi bằng những cung cách tôn kính nhất, như người trần gian xưng hô với vua quan thời phong kiến.

Khi thánh đã nhập, ông Đồng hay bà Đồng dùng tay ra hiệu (Thánh nam nhập thì ra hiệu tay trái, thánh nữ nhập thì ra hiệu tay phải) và tung khăn phủ diện. Lúc này, hai người hầu dâng giúp người hầu đồng thay lễ phục phù hợp với vị Thánh đã nhập ấy. Việc thay lễ phục khá mất thời gian. Mỗi vị Thánh đều có lễ phục riêng phù hợp với vị trí và tính cách từng người. Nói chung, các Thánh ờ cùng một hàng, như hàng Quan, Chầu, ông Hoàng, hàng Cô ... đều mặc theo một kiểu, sự khác biệt chính là mầu sắc lễ phục sao cho phù hợp với Phủ của từng vị, phù hợp với gốc tích dân tộc là Mán, Thổ, Mường..., phù hợp với vị thế là bên văn hay   bên võ... Sau khi thay đổi lễ phục, ông Đồng hay bà Đồng làm lễ dâng hương. Đó là nghi thức không thể thiếu được của bất cứ sự hiện diện nào của các vị Thánh. Các ông Đồng hay bà Đồng nhận một số nén hương hay một bó hương từ tay người hầu dâng (còn gọi là Tay hương), rút một nén hương cầm trong tay phải, huơ lên phía các nén hương khác làm động tác phù phép, mà những người hầu đồng gọi là ''khai quang'' (nói chệch đi là khai cuông), tức là xua đuổi đi cái trần tức, ma quỷ làm trong sạch hương để dâng cho các vị Thánh. Sau khi làm phép "khai quang'', ông Đồng hay bà Đồng ném hương xuống đất hay đưa cho người hầu dâng, rồi cầm bó hương tiến đến tới trước bàn thờ Thánh làm lễ dâng hương.

Nghi thức dâng hương có sự khác biệt giữa Thánh nam và Thánh nữ. Thánh nữ quỳ dâng dâng hương, rập trán xuống đất ba lần. Các Thánh nam thì quỳ lạy, giơ cao bó hương trước trán. Mỗi lần vái lạy của Thánh như vậy thì người ta lại đánh một tiếng chuông. Việc dâng hương là một hành vi tôn kính, một lời cầu nguyện thầm lặng biểu hiện bằng làn khói hương bốc lên trời. Hương cũng như các màu sắc chói lọi, mùi hương thơm của nước hoa, mùi trái cây... không những làm cho các vị thần linh thích, mà còn có tác dụng xua duỗi ma tà, chống lại những cái gì chết chóc, không có sự sống.

Page 103: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Sự nhập hồn và tái sinh của Thánh vào cơ thể các ông Đồng, bà Đồng còn được biểu hiện sống động bằng các động tác múa. Động tác múa của người hầu đồng kết hợp nhịp nhàng theo âm nhạc và lời hát, tạo nên không khí nhộng nhịp, lúc hào hùng khi duyên dáng. Tuỳ theo vị trí và tính cách của mỗi vị Thánh mà động tác múa cũng khác nhau. Múa xong, Thánh lại ngồi xuống. Lúc này, cung văn hát những bài chầu văn kể lại sự tích, lai lịch và ca ngợi tài năng, sắc đẹp, công đức của vị Thánh đang giáng. Với các giá ông Hoàng, cung văn ngâm các bài thơ cổ theo điệu Phú, những đoạn hay các vị Thánh hài lòng, biểu lộ bằng cách vỗ gối đang tựa và thưởng tiền cho cung văn. Lúc này, hai người hầu dâng cũng dâng lên Thánh rượu, thuốc lá, trầu, nước... Trước khi Thánh dùng các đồ dâng đó, đều phải làm nghi thức ''khai quang'', tức làm thanh sạch hóa các đồ dâng cúng cho thần linh. Những chất kích thích như rượu, thuốc, trầu có tác dụng trực tiếp tới trạng thái ngây ngất của các ông Đồng và bà Đồng, một trạng thái cần thiết cho Thánh giáng. Mặt khác, theo các quan niệm rất cổ xưa, nước uống vào cơ thể coi như máu tiếp thêm sức sống làm các vị thần linh sống lại trong cơ thể các ông Đồng và bà Đồng.

Đây cũng là lúc những người ngồi dự xung quanh xán lại bên các ông Đồng hay bà Đồng nghe Thánh phán truyền về tương lai hay dâng lễ vật cầu xin bảo hộ, cầu tài lộc, xin chữa bệnh... Cũng có những ông Đồng, bà Đồng đáp lại những lời cầu xin, phán truyền bằng lời, hay chỉ bằng ánh mắt, điệu bộ bởi vì họ nhập đồng theo kiểu ''cấm khẩu''.

Trong lúc Thánh ngồi nghe hát chầu văn, truyền phán thì cũng là lúc Thánh phát lộc. Người hầu đồng cũng như các con nhang, đệ tử đi dự hầu đổng đều với ước muốn được Thánh thần ban lộc cho bản thân và gia đình mình, khác với đi tu niệm Phật là để cầu phúc cho đời sau. Trong hầu đồng, lộc thánh gồm nhiều thứ, từ nén nhang cháy dở, đoạn mồi khi Thánh múa đến điếu thuốc, lá trầu, quả cau, các thứ bánh trái, hoa quả, một vài thứ vật dụng (như gương, lược, khăn tay, cặp tóc) tiền bạc... Đó là những thứ quà thiêng liêng của Thánh ban cho những ông Đồng, bà Đồng, cho những con nhang đệ tử tới dự cuộc hầu Thánh .Tùy theo từng vị Thánh hay sở thích của từng ông Đồng, bà Đồng mà việc truyền phán, phát lộc nhanh hay lâu, rồi sau đó Thánh thăng, tức Thánh xe giá hồi cung. Dấu hiệu Thánh thăng thường là lúc ông Đồng, bà Đồng ngồi yên, khẽ rùng mình, hai tay bắt chéo trước trán, hay che quạt lên đỉnh đầu... thì lúc đó hai người hầu dâng phải nhanh chóng phủ khăn đỏ lên hầu ông Đồng, bà Đồng, những người cung văn tấu nhạc và hát điệu Thánh xe giá hồi cung. Cũng từ đó ông Đồng và bà Đồng lại chuẩn bị nhập đồng vị Thánh khác. Khi vị thánh cuối cùng ra đi, thường là Thánh cậu hay Quan Hổ, Ông Lốt, thì ông Đồng hay bà Đồng cởi bỏ trang phục Thánh, tạ ơn các Thánh Tứ phủ, rồi cảm ơn những người cùng tới dự. Các ông Đồng hay bà Đồng sau buổi hầu thường cảm thấy khoẻ mạnh, vui tươi và mãn nguyện. Ông Đồng, bà Đồng đi mời các quan khách tới dự ăn bữa cơm lộc Thánh, mà tuỳ theo tính chất buổi lễ mà món ăn có sự thay đổi chút ít. Trên các mâm cơm bao giờ cũng có những phần lộc để người ngồi ăn mang về nhà, như oản, bánh, hoa quả...

Một cách khái quát nhất, chúng ta có thể nêu các đặc trưng cơ bản của lễ nhập hồn của các ông Đồng và bà Đồng:

Trước nhất, đó là nghi lễ nhập hồn nhiều lần. Một ông Đồng hay bà Đồng thôi nhưng trong một buổi lễ, tuỳ theo tính chất của buổi lễ trong năm hay tính cách đồng (căn đồng), theo nhu cầu của từng ông Đồng và bà Đồng mà họ làm giá (ghế) để cho các vị Thánh nào nhập. Đánh dấu mỗi lần vị thánh nào nhập và thăng là căn cứ vào nghi thức trùm khăn phủ diện lên đầu và ông Đồng, bà Đổng thay lễ phục cho phù hợp với danh tính của mỗi vị thần. Trong điện thần đạo Tứ phủ, có một số vị Thánh thường hay nhập hồn vào ông Đồng, bà Đồng, còn có loại ít thấy nhập hơn, thậm chí có vị Thánh người ta không rõ lai lịch và hầu như không bao giờ nhập đồng cả.

Trong nghi thức Hầu đồng, các vị thánh nhập hồn bao giờ cũng là các vị Thánh làm những điều tốt lành, phù hộ cho ông Đồng, bà Đồng và các con nhang đệ tử làm ăn may mắn, chữa khỏi các bệnh tật trừ đuổi rủi ro, ma quỷ quấy ám... Hơn thế nữa, các vị Thánh đó lúc sinh thời đều là những con người tài giỏi, có đức độ, có vị trí cao trong xã hội và đã từng mang lại danh tiếng, công ơn đối với dân, với nước. Điều này phân biệt với các hình thức nhập hồn khác, như nhập hồn không tự nguyện của người bị nhập hồn, nhập hổn của những ma quỷ dữ, mang lại tai hoạ cho người bị nhập và những người khác. Bởi vậy, trong nghi lễ hầu đồng, bao giờ cũng có nghi thức xin thánh nhập vào bản thân mình và như chúng ta thấy, không phải bao giờ những lời cầu xin ấy cũng được các Thánh chấp nhận, khác với nghi thức đuổi ma tà, do các ma quỷ dữ ám vào người nào đó để gây bệnh tật và những rủi ro...

Trong nghi thức hầu đồng, để cho Thánh nhập, người hầu phải "thoát khỏi'' trạng thái tâm sinh lý bình thường, họ không còn là họ nữa, mà chỉ là cái xác để Thánh nhập vào. Do vậy, tuỳ theo từng vị thánh mà con đồng có những hành động, tư thế, nét mặt khác nhau sao cho phù hợp với các vị Thánh đó. Để tạo nên trạng thái tâm lý như vậy, ông Đồng và bà Đồng phải tự thôi miên bản thân tạo ra trạng thái ngây ngất. Hỗ trợ cho trạng thái ngây ngất này, ngoài bàn thờ với hương  khói các màu sắc ''mạnh'' của đồ thờ, quần áo; còn có vai trò của các chất kích thích như rượu, trà, thuốc lá, trầu; rồi tiếng trống, âm nhạc và và lời hát... bởi thế, hầu đồng, đứng về phương diện tâm sinh lý, là việc tự đưa cơ thể vào trạng thái ngây ngất, giống như kiểu tôn giáo ngây ngất rất phổ biến ở thế giới Đa Đảo, mà trong tác phẩm của M.Durand, ông đã có lần nhắc tới.

Một chức năng cơ bản của nghi thức nhập hồn của các Thánh vào các ông Đồng và bà Đồng là để chữa bệnh, đoán số và ban phúc lộc Có không ít trường hợp những người phải chịu đội bát nhang với tư cách là con nhang của các Thánh hay mức cao hơn phải làm lễ trình đồng là do họ bị bệnh tật lâu ngày mà chạy chữa không khỏi. Những người này tin rằng, với việc các Thánh có chức năng chữa bệnh cứu người, nhập hồn vào người hầu đồng thì bệnh tật người đó ắt là mau khỏi Trên thực tế do chúng tôi quan sát hoặc những lời truyền tụng thì hiện tượng khỏi bệnh đã từng biết tới ở một số người. Điều này cũng không có gì là một khi chúng ta quan niệm rằng yếu tố tâm lý và tâm thần có tác dụng không nhỏ trong chữa lành bệnh cho con người. Do vậy, việc trở thành Ông đồng, Bà đồng không phải là hành động mang tính tự nguyện, mà là bắt buộc, nếu không sẽ bị Thánh hành, tức bị cơ đày.

Trong Hầu đồng, khi thánh nhập, tuỳ theo từng vị Thánh và căn đồng của từng ông Đồng hay bà Đồng, mà Thánh có thể truyền phán về tương lai của những người thỉnh ngài. Cũng có những người hầu đồng nhưng không hề hé răng truyền phán gì cả, gọi là hầu cấm khẩu .Việc hầu đồng để mưu cầu tài lộc cho bản thân mình, nhất là trước lúc làm ăn có tính chất được thua. Chẳng thế mà những người buôn bán hàng năm bỏ ra hàng cây vàng chi cho các buổi hầu thánh như thế. Ngày nay, việc lên đồng để mưu cầu tài lộc thường là mục tiêu hàng đầu.

2. Tháng Tám giỗ Cha tháng Ba giỗ Mẹ

Page 104: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Khuôn theo truyền thống ''Xuân thu nhị kỳ'' của lịch lễ hội dân tộc, nhưng với đạo Mẫu đó là ''tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ''. Đạo Mẫu lấy Mẹ làm linh tượng, nhưng bên cạnh Mẹ lại còn có Cha. Nếu tháng ba, người người muôn nơi đổ về Phủ Giầy và các đền thờ Mẫu khác để giỗ Mẹ, ngày hóa của vị thần chủ đạo Mẫu - Thánh Mẫu Liễu Hạnh, thì tháng tám là ngày kỵ Cha, Vua Cha Bát Hải Đại Vương, Đức Thánh Trần được thờ phụng chính ở đền Đồng Bằng (Thái Bình), đền Kiếp Bạc (Hải Hưng) và Bảo Lộc (Nam Định). Cũng chính vì vậy hội Phủ Giầy, hội Đồng Bằng và Kiếp Bạc không còn là những hội làng, hội vùng như nhiều ngày hội khác được tổ chức vào mùa xuân và mùa thu, mà từ lâu đã trở thành những Quốc lễ, tiêu biểu nhất của Lễ hội Việt Nam cổ truyền.

a. Tháng Tám giỗ Cha

Tháng tám là tháng giỗ Cha, nhưng thời gian lại tập trung vào các ngày từ 20 đến 28 tháng tám, thời điểm ''âm thịnh dương sung''. Về lai lịch tương truyền ngày 20 tháng 8 là ngày mất của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và ngày 28 là ngày hóa của Bát Hải Đại Vương. Bời thế, từ ngày 15 đến 20 tháng 8 là ngày hội chính tại đền Kiếp Bạc, nơi thờ Đức Thánh Trần và tiếp đó, từ ngày 20 đến 28 tháng 8 là ngày hội chính ở đền Đồng Bằng, nơi thờ Bát Hải Đại Vương và Đức Thánh Trần (Bát Hải - Trần Triều). Đây là nói tới những nơi thờ tự chính, chứ trong đền Mẫu nào mà không có điện thờ Vua Cha Bát Hải, thờ Đức Thánh Trần, nên cứ tới tháng tám là kỵ Cha - mở hội. Đền Đồng Bằng thờ vua Cha Bát Hải Đại Vương nam sát bờ sông Đồng Bằng, xưa thuộc thôn Đào Động, tổng Vọng Lỗ, huyện Phụ Phương, nay là xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Nơi đây là vùng sông nước, thời xưa ăn thông với biển.

Khi đất nước có giặc, vua Hùng ra chiếu kêu gọi người tài ra giúp nước, con rắn lớn nhất hóa thành người, đem đoàn quan gồm cả thuồng luồng, rồng, rắn, cá sấu... đi đánh giặc. Sau chiến thắng trở về, ông được nhà vua phong là Trấn Tây A Nam Vĩnh Cống Bát Hải Đại Vương và dân Đào Động lập đền thờ, tôn là vị Thành Hoàng làng. Nơi đây, vào thế kỷ XIII, là mảnh đất quê hương của dòng họ nhà Trần, là địa bàn hoạt động quân sự của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chống quân Nguyên, nay còn để lại nhiều di tích, Tương truyền, Trần Hưng Đạo cùng tướng lĩnh của mình như Phạm Ngũ Lão đã từng đến ngôi đền thờ vị thuỷ thần này để cầu xin phù trợ diệt giặc. Sau khi Trần Hưng Đạo mất, ngôi đền này cùng thờ Đức Thánh Trần và hàng năm mở hội giỗ Cha vào ngày 20 tháng 8 âm lịch.

Ở đây, theo quan niệm dân gian người ta có phần nào đồng nhất giữa Vua Cha Bát Hải Đại Vương thuộc dòng Long thần (Lạc Long Quân) với Đức Thánh Trần (Bát Hải - Trần Triều), ngày giỗ Vua Cha đồng thời cũng là ngày giỗ Đức Thánh Trần. Có nơi người ta còn coi Đức thánh Trần như Vua Cha, còn bên kia là Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Điều này không phải là sự ''nhầm lẫn'' của dân gian, mà đứng ở góc độ nào đó thể hiện quy luật, hệ quy chiếu riêng của tâm thức dân gian. Trần Hưng Đạo không chỉ là vị anh hùng dân tộc, tiếng tăm lẫy lừng mà từ lâu đã trở thành vị Thánh - Đức Thánh Trần. Dòng dõi nhà Trần vốn là cư dân vùng sông nước vạn chài, đã từng lập chiến công "thuỷ chiến" với giặc Nguyên ở vùng sông nước. Trở thành vị thần, Ông cũng được quy về dòng thuỷ thần mà nguồn cội xa xưa là Long Vương.

Ở đền Đồng Bằng, trong hậu cung thờ vua cha Bát Hải Đại Vương, còn hai bên tả hữu là điện thờ Tam Toà Thánh Mẫu (phải) và Đức Thánh Trần cùng lO vị hoàng tử (con Long Vương). Trong những ngày hội ''giỗ Cha'' ở Kiếp Bạc và Đồng Bằng, ngoài nghi thức cúng tế tôn vinh Vua Cha Bát Hải Đại Vương và Đức Thánh Trần, còn có các nghi lễ liên quan tới sông nước và ma thuật trừ diệt tà ma.

Để tái hiện lại chiến công xưa của Bát Hải Đại Vương giúp vua Hùng diệt giặc và sau này Trần Hưng Đạo chống quân xâm lược Nguyên - Mông, trong ngày hội người ta tổ chức lễ rước các ở sông và hội đua thuyền. Các đoàn rước từ các địa phương, các đền miếu xuôi theo các dòng sông đều đổ dồn về bến sông Đồng Bằng trước đền Đồng Bằng hay sông Lục Đầu trước đền Kiếp Bạc. Đoàn rước gồm hàng trăm thuyền, trên đặt ngai, kiệu của Vua Cha Bát Hải và Đức Thánh Trần diễu hành trên sông. Trước khi đoàn rước trở về đền, người ta tổ chức đua thuyền giữa các làng, làng nào đoạt giải thì coi như sẽ gặp mọi sự may mắn, dân làng khoẻ mạnh, làm ăn tiến tới trong cả năm. Do vậy, đây không chỉ là trò vui thuần tuý, mà còn mang tính nghi lễ và phong tục.

Tóm lại, có thể nói việc tiến hành nghi lễ rước trên sông, mở hội đua thuyền, hát văn chầu và tiến hành các nghi thức lên đồng để trừ ma tà của dòng Thanh đồng là những nét tiêu biểu của ngày hội giỗ Cha tháng tám tại đền Đồng Bằng và Kiếp Bạc.

b. Tháng BA giỗ Mẹ

Giỗ Mẹ tháng ba diễn ra ở tất cả mọi ngôi đền thờ Mẫu, nhưng trung tâm vẫn là Phủ Giầy, nơi giáng sinh và cũng là nơi hóa của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, vào chính ngày mồng ba tháng ba.

Nếu lễ hội giỗ Cha tháng tám tiến hành nghi thức rước trên sông, gắn liền với các vị thuỷ thần, thì tháng ba giỗ Mẹ là đám rước trên bộ, rước từ đền Mẫu đến chùa, gắn với sự tích Thánh Mẫu quy y, nhận sự bảo trì của Phật Bà Quan Âm. Tương truyền trong cuộc Sòng Sơn Đại chiến giữa công chúa Liễu Hạnh và đạo sĩ của phái Đạo Nội được Triều đình phái tới, công chúa Liễu Hạnh đã bị mắc mưu của bọn đạo sĩ, các phép màu bị mất hiệu nghiệm, tình thế nguy kịch, nhưng đã được Phật Bà Quan ÂM ra tay giải cứu. Từ đó Mẫu Liễu chịu nghe kinh, tuân pháp, nhận áo cà sa, mũ hoa sen, chuyển hoá từ bi, chuyên làm việc thiện. Truyền thuyết này đã phản ánh sự thâm nhập giữa tín ngưỡng thờ Mẫu và đạo Phật dân giã, mở đường cho sự thâm nhập các điện Mẫu vào các chùa và nghi thức rước Mẫu về chùa trong ngày ''giỗ Mẹ" trở thành nghi thức quan trọng nhất. Ngày 5 và 6 tháng ba ở Phủ Giầy đã diễn ra lễ rước từ phủ Tiên Hương và Vân Cát lên chùa Gôi và chùa Dần.

Hội Kéo chữ, Kéo gậy hay Hoa trượng cũng là một tục lệ diễn ra trong hội Mẫu Phủ Giầy. Truyền thuyết vùng này gắn hội Kéo chữ (Kéo gậy) với sự tích Bà Phùng (Trần) Thị Ngọc Đài, Thái Phi của chúa Trịnh Tráng. Việc kéo chữ được coi như một nghi thức tôn vinh tạ ơn của Bà Thái Phi đối với Mẫu Liễu Hạnh, người đã phù hộ cho Bà từ một con hát trở thành Thái Phi của chúa Trịnh. Thực ra, tục kéo chữ hay kéo gậy ở đây gắn với một hình thức nghi lễ cầu xin sự phán bảo của thần linh mà sau này dần dần đã được ''bác học hóa'' thành nghi thức giáng bút mang tính thưởng thức văn chương.

Page 105: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Hầu bóng là nghi lễ không thể thiếu trong ngày hội giỗ Mẹ tháng Ba. Hình thức hầu bóng này chúng tôi đã có dịp trình bày ở phần trên . Ở đây chỉ xin nhắc lại rằng, nghi thức hầu đồng thuộc dòng Đồng cốt này khác biệt nhiều với hình thức lên đồng của dòng Thanh đồng mang tính ma thuật trừ tà ma, thường diễn ra trong dịp giỗ Cha, đặc biệt là Kiếp Bạc.

Như vậy, tục lệ ''Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ'' như là điểm qui tụ nét đắc sắc nhất của nghi lễ hội hè của đạo Mẫu người Việt. Ở đây nó thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa quan niệm vũ trụ luận nguyên sơ - âm dương tương khắc tương đồng, nguồn gốc tạo ra mọi hiện tượng vũ trụ, với hệ qui chiếu gia tộc trong ứng xử xã hội: Gia đình, cha mẹ và con cái - ''có âm dương, có vợ chồng, dẫu là thiên địa cũng vòng phu thê'' (Nguyễn Gia Thiều) được phóng đại và trở thành khung ứng xử xã hội, để từ giỗ cha mẹ, tổ tiên gia tộc trở thành giỗ tổ Hùng Vương, giỗ Cha - Mẹ của Đạo Mẫu.

 

III. TỪ THỜ NỮ THẦN ĐẾN THỜ MẪU VÀ TAM TOÀ THÁNH MẪU (Đạo mẫu)

1. Từ thờ Nữ Thần đến thờ Mẫu

Ở Việt Nam, chưa ai thống kê một cách hệ thống và đầy đủ các Nữ thần được nhân dân tôn vinh và thờ phụng, tuy nhiên, không ngần ngại khi cho rằng việc thờ phụng này đã có từ rất lâu đời và phổ biến ở nhiều dân tộc, ở đồng bằng cũng như miền núi, hiện còn quan sát thấy ở cả nông thôn lẫn đô thị.

Hãy lấy cuốn sách cổ ''Hội chân biên'', in năm 1847 đời Triệu Trị, do Thanh Hoà Tử tập hợp, thì trong 27 vị thần tiên có nguồn gốc thuần Việt, thì đã có 17 là Tiên nữ. Còn trong cuốn sách ''Các Nữ thần Việt Nam'' viết đời nay, thì đã có công tập hợp và giới thiệu bước đầu 75 vị Nữ thần tiêu biểu của nước ta.7 Trong sách: ''Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam'', trong số 1000 di tích được giới thiệu thì đã có 250 di tích thờ cúng các nữ thần và danh nhân là nữ 8. Riêng xung quanh quần thể di tích Phủ Giầy thờ Mẫu Liễu, người ta cũng tìm thấy hơn 20 đền miếu thờ các nữ thần.

Trong vốn huyền thoại và truyền thuyết của Việt Nam, các vị nữ thần gần với việc tạo lập bản thể của vũ trụ, như Nữ thần Mặt Trời - Nữ thần Mặt Trăng, Bà Nữ Oa cùng ông Tứ Tượng đội đá vá trời, đắp núi, khơi sông. Các hiện tượng: Mây, mưa, sấm, chớp (Tứ Pháp) cũng được thần thánh hóa và mang tính nữ. Các yếu tố mang tính bản thể vũ trụ, như Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ được gắn với các Bà: Bà Kim, Bà Mộc, Bà Thủy, Bà Hoả...

Đến biểu tượng đất nước - Quê hương - dân tộc cũng gắn với các Mẹ (Mẫu): Mẹ ÂU Cơ của Lạc Việt, Mẹ Quê Hương - xứ sở Pon Nagar của người Chăm. Các Mẹ sản sinh ra các giá trị văn hóa: Mẹ Lúa, Mẹ Mía, Mẹ Lửa, các Mẹ là tổ sư các nghề: dệt, tằm tang, làm muối, nghề mộc, làm bánh, ca công... Rồi phụ nữ ra trận "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh'' đứng ra chấp chính quốc gia cũng trở thành các Nữ tướng - Nữ thần: Hai Bà Trưng, Triệu Ẩu, Dương Vân Nga, Ỷ Lan, Bùi Thị Xuân, vợ ba Đê Thám...

Các vị nữ thần kể trên từ bao đời nay đã được nhân dân ta tôn làm Thần, Thánh, được Triều đình ban sắc phong là ''Thượng đẳng thần'', là Thành hoàng của nhiều làng, trong đó Liễu Hạnh công chúa được dân gian tôn vinh là một trong ''Tứ bất tử'' của đất nước.

Trong các huyền thoại và truyền thuyết kể trên, có những cái xuất phát từ những thực tế lịch sử, tuy nhiên, không ít trường hợp là kết quả của sự thêu dệt hoang đường, phi thực. Nhưng một thực tế hiển nhiên, đó là vai trò và vi trí hết sức to lớn của người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Thực tế này hoàn toàn có thể lý giải được trên có sở xem xét môi trường tự nhiên, đời sống sản xuất, chiến đấu, xã hội cổ truyền của người Việt và các dân tộc khác sinh sống trên đất nước Việt Nam.

Trong hàng các nữ thần, một số vị được tôn vinh là mẫu - Thánh Mẫu - Vương Mẫu - Quốc Mẫu... Như vậy, Mẫu là Nữ thần, nhưng không phải tất cả Nữ thần đều là Mẫu. Về mặt danh xưng ''Mẫu'' là từ gốc Hán - Việt, còn thuần Việt là ''Mẹ - Mụ". Mẹ, Mụ là danh xưng chỉ người phụ nữ đã sinh thành ra một người nào đó, là tiếng xưng hô thân thiết của con cái với người đã sinh hạ ra mình. Tuy nhiên, Mẹ, Mẫu còn bao hàm nghĩa rộng hơn mang tính tôn xưng, tôn vinh: Mẹ Âu Cơ, Mẫu Liễu,''Mẫu Nghi thiên hạ''...

Tuy chưa thống kê đầy đủ, nhưng cách tôn xưng là Mẫu, Quốc Mẫu, Thánh Mẫu, Vương Mẫu thường có liên quan tới các trường hợp sau:

- Các vị Thánh trong tín ngưỡng thờ Mẫu nhất là Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng thiên (có lúc đồng nhất với Mẫu Liễu), Mẫu Thượng Ngạn, Mẫu Thoải, Mẫu Đại (Địa Tiên Thánh Mẫu),Mẫu Thiên Ya Na...

- Các Thái hậu (Mẹ vua), Hoàng hậu (vợ vua), Công chúa (con gái vua) có tài năng, công đức, khi mất hiển linh và được tôn xưng là Mẫu: Quốc Mẫu, Vương Mẫu, như Tống Hậu, Thái Hậu họ Đỗ tượng truyền là mẹ Lý Thần Tông, Ỷ Lan, con gái Vua Hùng Nghị Vương thờ ở đền Cao Mại (Vinh Phú), Ỷ Lan - Mẫu nghi thiên hạ.

- Các trường hợp khác cũng tôn xưng là Mẫu, Quốc Mẫu: Diệp Phu nhân - Quốc Mẫu - Thánh Ân thờ ờ đền Trần Yên - Yên Bái. Thân núi Tam Đảo - Quốc Mẫu Sơn Thượng đẳng thân, Mẹ Thánh Gióng - Vương Mẫu...

Page 106: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

Cùng hệ thống này ở miền Trung và nhất là Nam Bộ, một số nữ thần cũng được tôn vinh là Mẫu: Linh Sơn Thánh Mẫu (Bà Đen), ''chúa'' Bà Chúc Xứ (Núi San), Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Sắt...

Như vậy các Mẫu - Thánh Mẫu vừa có nguồn gốc thiên thần, vừa có nguồn gốc nhân thần, là hình thức tín ngưỡng ''nâng cao'', ''lên khuôn'' từ cái nền thờ Nữ thần vốn rất phổ biến và cổ xưa của dân tộc ta.

2. Từ thờ mẫu đến Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ (Tam Toà Thánh Mẫu)

a. Không nên đồng nhất hoàn toàn giữa thờ Mẫu với Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ (Tam Toà Thánh Mẫu) mà từ thờ Nữ thần, thờ Mẫu đến Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ là bước phát triển về nhiều mặt. Tác nhân của sự phát triển ấy vừa có nhân tố nội sinh vừa có nhân tố ngoại sinh.

Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ so với tín ngưỡng thờ Mẫu thần nói riêng và thờ thần nói chung đã có bước đầu phát triển đáng kể về tính hệ thống. Trước nhất, vốn là một tín ngưỡng dân gian  mang tính tản mạn, rời rạc, nay bước đầu quy về một hệ thống tương đối nhất quán về điện thần với các phủ (Thiên Phủ, Địa Phủ, Thoải Phủ, Nhạc Phủ), các hàng thần (Ngọc Hoàng - Mẫu - Quan - Chầu - Ông Hoàng, Cô, Cậu...) tương đối rõ rệt. Một điện thần với hàng trăm vị thần lớn nhỏ đều quy về vị Thần chủ cao nhất là Thánh Mẫu, mặc dù trên Thánh Mẫu còn có Ngọc Hoàng, nhưng đó là lớp ảnh hưởng Đạo giáo sau này và nặng về hình thức.

Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ bước đầu đã chứa đựng những nhân tố về vũ trụ luận nguyên sơ, một vũ trụ thống nhất chia thành bốn miền do bốn vị Thánh Mẫu cai quản: Mẫu Thượng Thiên - Miền trời, Mẫu Địa (Địa Tiên Thánh Mẫu) - miền đất, Mẫu Thượng Ngàn - Miền đồi núi, Mẫu Thoải - Miền nước. Mẫu chỉ là một lực lượng sáng tạo và cai quản vũ trụ, đã hóa thân thành bốn, cai quản 4 miền của vũ trụ.

Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ bước đầu đã thể hiện một ý thức nhân sinh, - ý thức về cội nguồn dân tộc, đất nước, chứa đựng lòng yêu nước - một thứ chủ nghĩa yêu nước đã được linh thiêng hóa và Mẫu là biểu tượng cao nhất.

Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ đã bước đầu hình thành một hệ thống thờ cúng trong các Đền, Phủ, những nghi lễ thờ cúng đã được chuẩn hóa, trong đó nghi lễ Hầu bóng và lễ hội ''Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ'' là một điển hình.

Trong quá trình biến đổi, phát triển từ thờ Mẫu đến Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ, chúng ta đắc biệt chú ý tới giai đoạn từ thế kỷ XVI trở đi - giai đoạn xuất hiện Mẫu Liễu - quan niệm dân gian thường coi Bà là hoá thân, thậm chí đồng nhất với Mẫu Thượng Thiên, trở thành một vị thần chủ của Đạo Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ.

Tất nhiên, sự xuất hiện của vị Thánh Mẫu này ở vào khoảng thế kỷ XVI vừa xuất phát từ nhu cầu phát triển nội tại của thứ tín ngưỡng thờ Mẫu đã có từ trước, vừa phản ảnh khát vọng của quần chúng nhân dân thời Lê mạt, xã hội rối loạn, nhân tâm ly tán, mà một trong biểu hiện của nó là các cuộc khởi nghĩa nông dân triền miên. Với vị Thần chủ này, Đạo Mẫu vốn là một tín ngưỡng gần với thiên nhiên, trời đất, nay được ''đời thường hóa'', gắn liền và đáp ứng những khát vọng của con người, thân phận của con người nhất là người phụ nữ trong đời sống hàng ngày: tài lộc, chữa bệnh, ban phúc, giáng họa và chính từ đây, Đạo Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ có được bộ mặt mới, vừa rất dân tộc, rất truyền thống lại vừa rất cập thời, làm cho nó nhanh chóng phát triển, lan toả khắp mọi miền đất nước, theo gót người Việt Nam tiến để ''Mẫu hóa'' các tín ngưỡng bản địa khác, vừa có cơ hội tập trung thành trung tâm thờ Mẫu lớn, như Phủ Giầy (Nam Hà), Hòn Chén (Huê), Phủ Tây Hồ (Hà Nội).

Và cùng với sự xuất hiện vị thần chủ này, thì hệ thống điện Thần, quan niệm nhân sinh và vũ trụ, đặc biệt là các nghi lễ - lễ hội càng thể hiện tính hệ thống hơn.

Tất nhiên, bên cạnh sự "lên khuôn", hệ thống hóa nói trên, trong Đạo Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ vẫn còn ẩn chứa nhiều yếu tố tín ngưỡng, ma thuật, những sắc thái và biến dạng địa phương... khiến nhiều người mới bước vào tìm hiểu có cảm giác như lạc vào thế giới thần linh hỗn độn, phi hệ thống, tuỳ tiện.

b. Để từ tục thờ Nữ Thần, Mẫu thần phát triển lên thành Đạo Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ thì ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc có vai trò quan trọng. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Đạo giáo Trung Quốc du nhập vào nước ta khá sớm, ít nhất là từ thời bắc thuộc. Thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần thì  Lão giáo là một trong ''Tam giáo đồng nguyên''. Nhà vua đã từng đứng ra phong cho các đạo sĩ, trong các trường thi cũng có các đề nói về Đạo giáo, nhiều người trong Hoàng tộc cũng là Đạo sĩ. Lý thuyết Lão gia đã ăn sâu vào ý thức của nhiều trí thức đương thời, nhiều phương thuật, ma thuật của Đạo Lão lan truyền trong nhân dân. Đến đời Lê Nho giáo thịnh hành, Lão giáo không được coi trọng, nhưng triết lý cũng như pháp thuật của nó không phải không lưu hành rộng rãi. Điển hình là việc Vua Lê Thần Tông cho phép Trần Lộc lập ra Đạo Nội Tràng.

Đạo Mẫu và các tín ngưỡng dân gian khác tiếp thu ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc về nhiều phương diện. Đó là các quan niệm về tự nhiên, đồng nhất con người với tự nhiên, về quan niệm Tứ Phủ - Tam Phủ, một số vị Thánh của Đạo giáo thâm nhập vào điện thần Tứ Phủ, như Ngọc Hoàng, Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu. Đó còn là các truyện thần tiên huyền ảo, các phép thuật mang tính phủ thuỷ để trừ ma tà... Ngày lễ Hầu Bóng của Đạo Mẫu Việt Nam cũng không phải không chịu ảnh hưởng các hình thức lên đồng của đạo giáo Trung Quốc. Chính những ảnh hưởng này, một mặt giúp Đạo Mẫu ''lên khuôn'', hệ thống hóa và bước đầu mang tính phổ quát nguyên lý Mẫu- Mẹ, nhưng mặt khác cũng làm tăng thêm tính ma thuật, phù thuỷ mà vốn trong dân gian đã từng tiền ẩn.

Như vậy trên cơ sở tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian, với những ảnh hưởng đạo giáo Trung Quốc đã hình thành và định hình Đạo Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ (Tam toà Thánh Mẫu), một thứ Đạo giáo đặc thù của Việt Nam, và có thể gọi một cách ngắn gọn hơn và thực chất hơn - ĐẠO MẪU.

Page 107: Cau 2 - Hoa Hồng Tràthienthu.weebly.com/uploads/4/8/6/9/4869850/y_nghia_cua... · Web viewKhu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa

 

IV. ĐẠO MẪU TRONG HỆ THỐNG TÔN GIÁO TÍN NGƯỠNG CỦA VIỆT NAM

Trong đời sống tâm linh của con người Việt Nam đã từng tồn tại rất nhiều hình thức tín ngưỡng tôn giáo khác nhau. Trước nhất là các tín ngưỡng, các tục thờ cúng mang tính bản địa hay mang đậm màu sắc bản đại, như thờ cúng tổ tiên, thờ thành Hoàng ở các làng xã thờ các vị Thần (tổ sư các nghề, các vị thần linh bảo trợ, các anh hùng có công với dân với nước...); các tôn giáo du nhập từ bên ngoài như Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Thiên chúa giáo, Ấn giáo, Hồi giáo; một số tôn giáo mang tính đại phương, như đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo ... Người Việt Nam chấp nhận mọi thứ tín ngưỡng tôn giáo, dù bản địa hay ngoại lai, miễn là nó phù hợp với nền tảng đạo đức Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Các tôn giáo tín ngưỡng này không rạch ròi phân biệt, mà chúng thường thâm nhập và lồng vào nhau. Người theo Đạo Phật vẫn thờ cúng tổ tiên, Thành Hoàng, Thờ Thần Mẫu... Các tôn giáo từ ngoài du nhập vào thường bị biến dạng để thích ứng với đời sống tâm linh con người Việt Nam, nên xu hướng dân gian hóa các tôn giáo là hiện tượng dễ thấy, như với Đạo Phật, Đạo Khổng, Đạo Lão và mức độ nào đó cả Đạo Thiên Chúa nữa, Người Việt Nam theo nhiều đạo, nhưng không hướng về các giáo lý cao xa hay cuồng tín si mê, mà chủ yếu là khai thác các mặt đạo lý, cách thức ứng xử giữa con người với con người.

Thoát thai từ đạo Thờ Thần và chịu những ảnh hưởng sâu sắc của Đạo giáo Trung Quốc, Đạo Mẫu với tư cách là một biến thể của Đạo Giáo Việt Nam đã và đang thâm nhập và ảnh hưởng tới các tín ngưỡng tôn giáo khác.

Cùng một loại hình Đạo Giáo, Đạo Mẫu rất gần gũi với Đạo Thiên trong cả quan niệm, thần điện và nghi thức thờ cúng. Hơn thế nữa, vị thần chủ của Đạo Mẫu là Liễu Hạnh đồng thời cũng là một vị Tiên tiêu biểu của Việt Nam. Đấy chưa kể các hình thức nghi lễ cầu Tiên, luyện đồng, giáng bút của hai loại đạo này cũng có rất nhiều nét vay mượn của nhau. Tương tự như vậy ta có thể nói tới mối quan hệ giữa đạo Mẫu và tín ngưỡng Tứ Bất Tử của nước ta, trong đó vị thần chủ đạo Mẫu đồng thời lại là một trong bốn vị Thánh Bất Tử. 9

Cùng xuất phát từ đạo thờ Thần, nhưng giữa đạo Mẫu và thờ Thành Hoàng các làng xã ít có quan hệ gắn bó, mặc dù nhiều vị Thánh của đạo Mẫu đồng thời cũng là Thành hoàng của khá nhiều làng xã. Phải chăng cùng gốc thờ Thần, nhưng tục thờ Thành hoàng đi theo con đường tiếp thu Nho giáo và chịu sự kiểm soát'' của triều đình thông qua việc phong sắc cho các Thành Hoàng, còn đạo Mẫu lại tiếp thu Đạo giáo và nằm ngoài vòng ''kiểm soát'' của triều đình, có lúc còn trở thành đối địch, các triều đại phong kiến không thừa nhận thứ đạo này.

Đạo Mẫu cũng tiếp thu những ảnh hưởng của tục thờ cúng tổ tiên, một tín ngưỡng có vai trò quan trọng hàng đầu trong tín ngưỡng Việt Nam. Điện thần của đạo Mẫu mang tính gia tộc có Vua Cha, Thánh Mẫu, có ''thánh Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ'', chẳng qua cũng là một dạng phóng đại của mô thức gia đình và thờ cúng tổ tiên. Chúng tôi ngờ rằng việc thờ Cô và thờ Cậu của đạo Mẫu có cỗi nguồn sâu xa từ việc thờ cúng những người chết trẻ, Bà Cô, Ông Mãnh, một yếu tố rất quan trọng trong thờ cúng tổ tiên ở các gia tộc và dòng họ.

Trong quá trình đạo Phật du nhập vào nước ta và một bộ phận quan trọng của nó đã phát triển theo khuynh hướng dân gian hóa, giữa đạo Phật và đạo Mẫu có sự thâm nhập và tiếp thu ảnh hưởng lẫn nhau khá sâu sắc. Điều dễ nhận biết nhất là ở hầu hết các ngôi chùa hiện nay ở nông thôn đều có điện thờ Mẫu, trong đó phổ biến nhất là dạng ''tiền Phật hậu Mẫu''. Phải chăng, theo nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền thì việc xuất hiện điện Mẫu và tượng Mẫu trong của mới chỉ thấy ở giai đoạn muộn? 10. Người ta đi chùa vừa để lễ Phật vừa để cúng Mẫu. Nhiều khi điện Mẫu đã tạo nên không khí ''ấm cúng'', nhộn nhịp hơn cho các ngôi chùa làng. Có nhiều ngôi chùa ở Nam bộ lại thờ Mẫu là chính, như chùa Hang ở Linh Sơn (Núi Bà Đen) hay chùa Bà ờ thành phố Hồ Chí Minh. 11

Không chỉ có con đường các điện Mẫu đi vào chùa, mà còn có con đường ngược lại - Phật đi vào các đền phủ thờ Mẫu. Trong điện thần cũng như cách thức phối tự các ngôi đền, phủ, ta đều thấy sự hiện diện của Phật, mà đại diện cao nhất là Phật Bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, Quan Âm trong Phật giáo Ấn Độ vốn là một nam thần nhưng khi qua Trung Quốc và nước ta đã bị "nữ thần hóa'', thậm chí ''Mẫu hóa'' để trở thành Quan Âm thánh Mẫu của đạo Mẫu Việt Nam. Trong các ngày giỗ Mẫu - giỗ Mẹ, đều có nghi thức rước Mẫu lên chùa để đón Phật về đền phủ cùng tham dự ngày hội. Trong hệ thống các bài chầu văn thì có văn chầu Nhị vị Bồ Tát...

Truyền thuyết về Liễu Hạnh công chúa còn ghi rõ sự tích Sòng Sơn đại chiến. Theo đó, trong lúc Mẫu Liễu đang bị các đạo sĩ của phái Đạo Nội dồn vào tình thế nguy kịch thì Thích Ca Mầu Ni đã ra tay cứu độ, giải thoát cho Liễu Hạnh công chúa. Từ đó, Thánh Mẫu Liễu Hạnh quy y, nghe kinh tuân pháp, chuyển hóa từ bi theo gương Phật.

Tất nhiên, trong khung cảnh nông thôn Việt nam, sự thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai thứ tôn giáo tín ngưỡng dân dã là điều dễ hiểu. Cũng là tín ngưỡng dân dã của người dân, cùng hướng về cái từ bi bác ái, tinh thần cộng đồng, khuyến thiện trừ ác, nền tảng của những nguyên tắc ứng xử xã hội cổ truyền. Với lại, dường như hai thứ tín ngưỡng này có cái gì đó bổ xung cho nhan, đáp ứng nhu cầu tâm linh của người nông dân: Theo Phật để tư nhân tích đức cho đời kiếp sau được lên cõi Niết Bàn cực lạc; còn theo đạo Mẫu là mong được phù hộ độ trì mang lại sức khoẻ, tài lộc, may mắn cho đời sống hiện hữu thường ngày.

Còn với Ấn Độ giáo và Thiên Chúa giáo thì đạo Mẫu cũng không tạo ra bức tường ngăn cách. Hơn thế nữa truyền thống tôn thờ Mẫu của người Việt Nam cũng có cái gì đó gần gũi với biểu tượng Đức Mẹ Maria của đạo Thiên Chúa. Do vậy, khi du nhập nó vào nước ta, những người truyền đạo không phải không nhận ra nét tương đồng giữa đạo Mẫu bản địa và Thiên Chúa giáo, lợi dụng nó trong việc truyền đạo. Với đạo Hinđu (Ấn Độ Giáo) xa xôi về nhiều phương diện, nhưng người Việt không phải là không ''Việt hoá'' các vị thần của đạo này, biến nó thành một dạng của Thánh Mẫu người Việt. Việc tôn thờ Bà Đen ở Linh Sơn và Bà chúa Xứ ở Núi Sam là những thí dụ điển hình cho xu hướng bản địa hoá ấy.