Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN VĂN PHƯƠNG
C¸C TØNH, THμNH ñY ë VïNG DUY£N H¶I MIÒN TRUNG
L·NH §¹O PH¸T TRIÓN NH¢N LùC KHOA HäC - C¤NG NGHÖ
GIAI §O¹N HIÖN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MNH
TRẦN VĂN PHƯƠNG
C¸C TØNH, THμNH ñY ë VïNG DUY£N H¶I MIÒN TRUNG
L·NH §¹O PH¸T TRIÓN NH¢N LùC KHOA HäC - C¤NG NGHÖ
GIAI §O¹N HIÖN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Chuyên ngành : Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước
Mã số : 60 31 02 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS Lâm Quốc Tuấn
2. PGS.TS Nguyễn Thế Tư
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng và được trích dẫn đầy đủ theo đúng quy định.
Tác giả
Trần Văn Phương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ........................................................... 6
1.1. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài ..................................................... 6
1.2. Những công trình nghiên cứu ở trong nước .................................................. 10
1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan và những vấn đề
luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu ............................................................................. 17 Chương 2: CÁC TỈNH, THÀNH ỦY Ở VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG LÃNH
ĐẠO PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................. 19
2.1. Các tỉnh, thành phố, tỉnh, thành uỷ ở vùng duyên hải miền Trung và nhân lực
khoa học - công nghệ của các tỉnh, thành phố .................................................... 19
2.2. Các tỉnh thành ủy ở vùng duyên hải miền Trung lãnh đạo phát triển nhân
lực khoa học - công nghệ - khái niệm, nội dung, phương thức và vai trò ....... 44 Chương 3: PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ VÀ CÁC
TỈNH, THÀNH ỦY Ở VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG LÃNH ĐẠO PHÁT
TRIỂN NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ - THỰC TRẠNG, NGUYÊN
NHÂN VÀ KINH NGHIỆM ...................................................................................... 58
3.1. Thực trạng phát triển nhân lực khoa học - công nghệ của các tỉnh, thành
phố ở vùng duyên hải miền Trung ................................................................... 58
3.2. Các tỉnh, thành ủy ở vùng duyên hải miền Trung lãnh đạo phát triển nhân
lực khoa học - công nghệ - thực trạng, nguyên nhân, kinh nghiệm ................. 65 Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG
CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CÁC TỈNH, THÀNH ỦY Ở VÙNG DUYÊN HẢI
MIỀN TRUNG ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
ĐẾN NĂM 2025 ......................................................................................................... 97
4.1. Dự báo thuận lợi, khó khăn, thách thức và phương hướng tăng cường sự
lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy ở vùng duyên hải miền trung đối với phát triển
nhân lực khoa học - công nghệ đến năm 2025 ................................................. 97
4.2. Những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy ở
vùng duyên hải miền trung đối với phát triển nhân lực khoa học - công
nghệ đến năm 2025 ......................................................................................... 108
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 154
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ................................................................................................ 156
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 157
PHỤ LỤC.....................................................................................................................................169
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCH
BTV
CNH, HĐH
Ban chấp hành
Ban thường vụ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DHMT Duyên hải miền Trung
KH&CN
KH-CN
Khoa học và công nghệ
Khoa học - công nghệ
KT - XH Kinh tế - xã hội
HTCT
NC&PT
NNL
PTLĐ
XHCN
Hệ thống chính trị
Nghiên cứu và phát triển
Nguồn nhân lực
Phương thức lãnh đạo
Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, vị trí, vai trò của các nguồn lực đối với sự phát triển được nhìn
nhận, đánh giá đúng với sự đóng góp của nó, trong đó nguồn nhân lực (NNL) được
coi là nguồn lực cơ bản quyết định sự phát triển của mọi quốc gia. Các lý thuyết
tăng trưởng kinh tế gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và
bền vững phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản đó là áp dụng công nghệ tiên tiến,
phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại và NNL chất lượng cao. Trong đó yếu tố hàng đầu
và cũng là động lực quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế bền vững chính là
NNL, đặc biệt là NNL chất lượng cao.
Việt Nam là một nước nông nghiệp đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (CNH, HĐH) gắn với phát triển kinh tế tri thức và để thực hiện có kết quả cuộc
Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, từ đó rút ngắn khoảng cách tụt hậu với các nước phát triển. Tuy nhiên
trong quá trình thực hiện mục tiêu trên, Việt Nam đang đối mặt với khó khăn, thách
thức về NNL chất lượng thấp, khoa học và công nghệ (KH&CN) chậm phát triển,
chưa đáp ứng được yêu cầu trong nước và hội nhập quốc tế. Vì thế, đẩy mạnh phát
triển NNL, nhất là NNL chất lượng cao và phát triển KH&CN là nhiệm vụ cấp bách
hiện nay. Nhận thức rõ vai trò tầm quan trọng và tính cấp bách của phát triển NNL,
Đại hội XI của Đảng đã xác định đây là nhiệm vụ đột phá để gỡ nút thắt cho phát
triển, trong đó nhấn mạnh “Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và
cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn” [24, tr.130].
Vùng duyên hải miền Trung (DHMT) bao gồm chín tỉnh, thành phố từ Quảng
Bình vào đến Khánh Hòa. Trước yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH)
những năm qua cùng với đẩy mạnh thu hút, khai thác các nguồn lực khác, các tỉnh,
thành ủy đã quan tâm lãnh đạo phát triển NNL (trong đó có nhân lực KH-CN). Nhiều
nghị quyết, chủ trương, chương trình, đề án phát triển NNL đã và đang được triển khai
thực hiện. Với những nỗ lực của các cấp ủy, chính quyền, của các tổ chức KH&CN và
chính nhân lực KH-CN, nhờ đó nhân lực KH-CN của các tỉnh, thành phố trong vùng
từng bước tăng về số lượng, chất lượng được nâng lên và đã có những đóng góp quan
trọng cho sự phát triển của KH&CN và phát triển KT-XH của các địa phương.
2
Tuy nhiên, sự lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT đối với phát triển
nhân lực KH-CN vẫn còn nhiều hạn chế, bấp cập. Thể hiện ở tầm nhìn còn hạn hẹp,
tư duy nhiệm kỳ nên thiếu những chủ trương, chính sách có tính chiến lược trong
phát triển nhân lực KH-CN và KH&CN. Việc lãnh đạo quán triệt, tổ chức thực hiện
nghị quyết của Đảng và của tỉnh, thành ủy về phát triển NNL, nhân lực KH-CN và
phát triển KH&CN còn chậm, chưa nghiêm túc và chưa đạt yêu cầu đề ra. Việc thể
chế hóa, cụ thể hóa nghị quyết còn chậm, có nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập nên
có những nghị quyết chưa thực sự đi vào cuộc sống. Công tác xây dựng quy hoạch,
kế hoạch phát triển nhân lực KH-CN còn nhiều hạn chế; một số cơ chế, chính sách
cho phát triển nhân lực KH-CN và phát triển KH&CN chậm được đổi mới để phù
hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) và hội nhập quốc tế.
Chưa đánh giá đúng vị trí, vai trò của nhân lực KH-CN nên ứng xử chưa đúng và
thực sự trọng dụng nhân lực KH-CN. Do còn nhiều hạn chế, khuyết điểm trong lãnh
đạo, quản lý nên sự phát triển nhân lực KH-CN chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số
lượng, cơ cấu, chất lượng. Mặc dù số lượng nhân lực KH-CN có tăng nhưng tỉ lệ bình
quân trên dân số vẫn còn thấp. Thiếu nhân lực KH-CN có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao, cán bộ khoa học đầu ngành, chuyên gia giỏi, nhân lực KH-CN ở các lĩnh
vực công nghệ cao, cơ cấu và phân bố nhân lực KH-CN chưa hợp lý.
Sau hơn 30 năm đổi mới, các tỉnh, thành phố vùng DHMT đã có nhiều đổi thay,
trên một số lĩnh vực có sự phát triển đáng ghi nhận. Tuy nhiên, do điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan, đến nay nhiều tỉnh ở vùng DHMT vẫn còn nghèo, quy mô
nền kinh tế còn nhỏ, KH&CN chậm phát triển chưa thực sự trở thành nền tảng và
động lực quan trọng nhất để phát triển KT-XH. Thực hiện đường lối đổi mới toàn
diện của Đảng, các tỉnh, thành phố vùng DHMT đang thể hiện quyết tâm đổi mới,
đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế để đi tắt, đón đầu đưa địa phương phát
triển nhanh, bền vững. Tuy nhiên, bài toàn về NNL, nhất là nhân lực KH-CN là vấn
đề cấp thiết đang đặt ra đòi hỏi các tỉnh, thành phố phải tập trung giải quyết. Bởi đó là
nguồn lực có ý nghĩa quyết định để hiện thực hóa được mục tiêu trên. Trách nhiệm đó
thuộc về hệ thống chính trị (HTCT) các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế và
toàn dân, trong đó các tỉnh, thành ủy giữ vai trò lãnh đạo. Với tư cách là cơ quan lãnh
đạo giữa hai kỳ đại hội đảng bộ tỉnh, thành phố, các tỉnh, thành ủy có nhiệm vụ lãnh
3
đạo phát triển NNL (trong đó có nhân lực KH-CN) đáp ứng yều cầu về nhân lực cho
phát triển KT-XH nhằm thực hiện các mục tiêu nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh, thành
phố đề ra. Tiếp tục phát huy những kết quả, kinh nghiệm và khắc phục những hạn chế
trong thời gian qua, lãnh đạo đẩy mạnh phát triển nhân lực KH-CN là nhiệm vụ trọng
tâm của các tỉnh, thành ủy trong giai đoạn hiện nay. Kết quả thực hiện nhiệm vụ đột
phá này là một tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành trách nhiệm chính
trị trước Đảng, trước đảng bộ và nhân dân các địa phương, cũng là thước đo cơ bản
phản ánh trình độ, năng lực và sự trưởng thành của đội ngũ ban chấp hành (BCH) các
đảng bộ tỉnh, thành phố trong vùng.
Từ những vấn đề đặt ra đó, việc nghiên cứu tìm giải pháp khả thi tăng cường sự
lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT đối với phát triển nhân lực KH-CN
hiện nay thực sự là vấn đề rất cấp thiết. Để góp phần thực hiện vấn đề cấp thiết nêu
trên, nghiên cứu sinh chọn và thực hiện đề tài luận án tiến sĩ: “Các tỉnh, thành ủy ở
vùng duyên hải miền Trung lãnh đạo phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
giai đoạn hiện nay”.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tỉnh, thành ủy ở
vùng DHMT lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN giai đoạn hiện nay, luận án đề
xuất những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy ở vùng
DHMT đối với phát triển nhân lực KH-CN đến năm 2025.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
- Luận giải làm rõ một số vấn đề cơ bản lý luận và thực tiễn về các tỉnh, thành
ủy ở vùng DHMT lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN giai đoạn hiện nay.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển nhân lực KH-CN và thực trạng lãnh
đạo phát triển nhân lực KH-CN của các tỉnh, thành ủy vùng DHMT từ năm 2001
đến nay, chỉ ra ưu, khuyết điểm, nguyên nhân và những kinh nghiệm.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của
các tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT đối với phát triển nhân lực KH-CN đến năm 2025.
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT lãnh
đạo phát triển nhân lực KH-CN giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu sự lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN của các tỉnh, thành
ủy ở các tỉnh, thành phố vùng DHMT gồm: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế,
thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa.
Thời gian nghiên cứu, khảo sát thực tế từ năm 2001 đến nay. Phương hướng
và giải pháp được đề xuất có giá trị đến năm 2025.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, quan điểm của Đảng ta về KH&CN, NNL, nhân lực KH-CN, công tác cán bộ.
Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng phát triển nhân lực KH-CN và thực
trạng lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN của các tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT từ
năm 2001 đến nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênnin và các
phương pháp: phương pháp logic kết hợp lịch sử, phân tích kết hợp tổng hợp, tổng
kết thực tiễn, phương pháp thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Khái niệm: tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN
là toàn bộ các hoạt động đề ra nghị quyết, chủ trương về phát triển nhân lực KH-CN;
tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương đã đề ra và kiểm tra, giám sát bảo đảm cho
nghị quyết, chủ trương được thực hiện thắng lợi nhằm xây dựng đội ngũ nhân lực KH-
CN có số lượng và cơ cấu hợp lý, có chất lượng cao theo yêu cầu của chiến lược phát
triển KH&CN, đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển KT - XH và hội nhập quốc tế.
- Kinh nghiệm lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN của các tỉnh, thành ủy ở
vùng DHMT từ 2001 đến nay: Một là, xây dựng, nâng cao chất lượng tổ chức đảng
trong các tổ chức KH&CN thực sự là hạt nhân chính trị lãnh đạo cơ quan, đơn vị thực
5
hiện chủ trương, nghị quyết về phát triển nhân lực KH-CN. Hai là, trọng dụng nhân
tài, đầu tư có trọng điểm cho đào tạo nhân lực KH-CN chất lượng cao.
- Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT đối
với phát triển nhân lực KH - CN đến năm 2025: Một là, đổi mới việc xây dựng,
ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết của tỉnh ủy, thành ủy về phát triển
nhân lực KH-CN; nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu, giúp việc cho tỉnh
ủy, thành ủy đáp ứng yêu cầu lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN. Hai là, xây
dựng các cấp chính quyền trong sạch, vững mạnh, phát huy mạnh mẽ vai trò, trách
nhiệm của các cấp chính quyền; của cấp ủy, thủ trưởng tổ chức khoa học và công
nghệ; đề cao tự học, tự nghiên cứu của nhân lực KH-CN.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về các tỉnh, thành ủy ở vùng
DHMT lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN giai đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham
khảo cho các cấp ủy đảng ở các tỉnh, thành phố vùng DHMT trong lãnh đạo phát
triển nhân lực KH-CN những năm tới.
Kết quả nghiên cứu của luận án cũng có thể làm tư liệu tham khảo phục vụ
giảng dạy, học tập môn Xây dựng Đảng ở Học viện chính trị khu vực, các trường
chính trị tỉnh, thành phố vùng DHMT.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được
kết cấu gồm 4 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Những nghiên cứu về sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
1.1.1.1. Sách
- Kiên trì và hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng của tác giả Tô Tu Nghệ và Lý Luyện
Chung [64]. Trong cuốn sách này, các tác giả đã nghiên cứu những vấn đề nhằm hoàn
thiện sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc gồm: tăng cường xây dựng tư tưởng,
chính trị, kiện toàn chế độ tập trung dân chủ; kiện toàn tổ chức cơ sở đảng; xây dựng đội
ngũ cán bộ và quản lý chỉnh đốn tác phong Đảng.
- Bàn về công tác xây dựng năng lực cầm quyền của Đảng của Lưu Chấn Hoa [40].
Tác giả đã nghiên cứu về nội dung cầm quyền, thể chế cầm quyền và chủ thể cầm quyền.
Tác giả khẳng định nâng cao ý thức lãnh đạo của Đảng gắn với củng cố vững chắc nền
tảng cầm quyền trên các vấn đề: quần chúng, chính trị, tổ chức, vật chất, lý luận, giai cấp.
Khi bàn về phương thức cầm quyền của Đảng, tác giả đề cập đến việc chuẩn hóa quan hệ
giữa Đảng với hệ thống chính quyền; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy đảng
với đại hội đại biểu nhân dân, ủy ban nhân dân (UBND), chính hiệp và các tổ chức quần
chúng; các cấp ủy đảng phải thông qua tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà
nước và đoàn thể quần chúng để thực hiện vai trò hạt nhân lãnh đạo; tiếp tục chuẩn hóa về
mặt chế độ, cơ chế đối với mối quan hệ giữa cấp ủy đảng với đại hội đại biểu nhân dân,
UBND, chính hiệp và các đoàn thể quần chúng. Tác giả nêu lên yêu cầu Đảng phải nâng
cao nhận thức về quy luật cầm quyền của Đảng Cộng sản, đồng thời nhấn mạnh Đảng phải
cầm quyền một cách khoa học, dân chủ và theo hiến pháp, pháp luật.
- Cầm quyền khoa học của Hoàng Văn Hổ [41]. Trong cuốn sách tác giả đã bàn đến
quan điểm cầm quyền, phân tích làm rõ ý nghĩa, bản chất của cầm quyền khoa học, mối
quan hệ tương hỗ cầm quyền khoa học, cầm quyền dân chủ, cầm quyền theo pháp luật,
kinh nghiệm vận dụng cầm quyền khoa học... Tác giả chỉ ra các yếu tố cơ bản tạo nên
năng lực cầm quyền khoa học gồm: năng lực học tập đổi mới, năng lực điều tiết lợi ích,
năng lực tích hợp tài nguyên, năng lực cầm quyền theo pháp luật, năng lực tự thanh lọc.
Phương pháp nâng cao năng lực cầm quyền khoa học là tăng cường trang bị lý luận, hoàn
thiện cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ, tăng cường đào tạo cán bộ.
7
1.1.1.2. Luận án tiến sĩ
- Đổi mới phương thức lãnh đạo nhà nước ở nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào
trong giai đoạn hiện nay của Xổm Nức Xổm Vi Chít [165]. Luận án trình bày cơ sở lý
luận về đổi mới PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước, phân tích thực trạng đổi mới phương
thức Đảng lãnh đạo Nhà nước ở Lào. Tác giả đề xuất một số giải pháp đổi mới PTLĐ đối
với Nhà nước góp phần đổi mới chính trị nói chung và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
Nhân dân cách mạng Lào nói riêng.
- Đổi mới hệ thống chính trị cấp tỉnh ở nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào
trong giai đoạn hiện nay của Sổm Lít Pước Kẹo [72]. Luận án nghiên cứu làm rõ vị trí
của HTCT, trên cơ sở đó đi sâu phân tích thực trạng HTCT và đề xuất quan điểm,
phương hướng và giải pháp đổi mới HTCT cấp tỉnh ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào trong giai đoạn hiện nay.
1.1.1.2. Hội thảo khoa học
- Tăng cường xây dựng đảng ủy địa phương, phát huy đầy đủ vai trò hạt nhân
lãnh đạo của Triệu Gia Kỳ [61]. Tác giả nghiên cứu làm rõ vị trí, vai trò hạt nhân lãnh
đạo toàn diện của đảng ủy địa phương và khẳng định sự vững mạnh của ban lãnh đạo
đảng ủy địa phương trực tiếp liên quan đến việc quán triệt thực hiện đường lối,
phương châm và chính sách của Đảng, liên quan đến đại cục cải cách, phát triển và ổn
định của địa phương, liên quan đến hạnh phúc của quần chúng địa phương. Tác giả tập
trung phân tích làm rõ những thành quả đạt được của thành ủy Bắc Kinh trong quá
trình thực hiện vai trò hạt nhân lãnh đạo ở địa phương.
- Không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và trình độ cầm quyền, tăng cường
năng lực chống tha hóa, phòng biến chất và chống rủi ro của Hạ Quốc Cường [61].
Tác giả bàn về PTLĐ, phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Để
tăng cường năng lực chống tha hóa, phòng chống biến chất, chống rủi ro, tác giả
khẳng định phải tăng cường và cải tiến toàn diện việc xây dựng tác phong của Đảng,
nhất là xây dựng sự liêm chính và đấu tranh chống tham nhũng. Tác giả chỉ ra và phân
tích làm rõ nội dung tăng cường xây dựng chế độ, kiên trì đẩy mạnh cải cách chế độ
trong Đảng nhằm thúc đẩy và bảo đảm cho công tác xây dựng Đảng.
- Cầm quyền mang tính khoa học và dân chủ, cầm quyền theo pháp luật - yêu
cầu thời đại về tính hợp pháp của đảng cầm quyền của Dương Tiểu Cường và Tào
Tuyết Phong [61]. Bài viết đã đề cập đến nội dung, tính chất của phương thức cầm
quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong điều kiện mới. Các tác giả cũng lý giải
8
về vấn đề không ngừng đổi mới PTLĐ, phương thức cầm quyền theo hướng phù hợp
với những yêu cầu của thời đại, cầm quyền vừa mang tính khoa học, vừa bảo đảm dân
chủ và tuân theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Những nghiên cứu về nguồn nhân lực
1.1.2.1. Sách
- Nhân sự - chìa khoá của thành công của Matsushita Konouke [57]. Tác giả
nghiên cứu làm rõ vai trò của yếu tố con người, cách chọn người, sử dụng người trong
công tác quản lý.
- Human resource planing: Aproach needs assessments and priorities in
manpower planing (Lập kế hoạch nhân sự: tiếp cận đánh giá nhu cầu và ưu tiên
trong kế hoạch nhân lực) của Stivastava M.P [168]. Trong công trình này tác giả nêu
lên quan niệm về NNL: là toàn bộ vốn nhân lực; vốn nhân lực là con người được nhìn
nhận dưới dạng là một nguồn vốn đặc biệt của quá trình sản xuất, là một dạng của cải
có thể làm gia tăng sự giàu có của kinh tế. Nguồn vốn nhân lực gồm: kỹ năng, kiến
thức, kinh nghiệm mà người đó tích lũy được nhờ vào quá trình lao động sản xuất.
Tác giả chỉ ra các lợi ích thiết thực của NNL: 1. Vốn nhân lực là loại vốn đặc biệt, có
khả năng sản sinh ra các nguồn thu nhập trong tương lai, cho nên đầu tư vào NNL sẽ
có tỷ lệ thu hồi vốn cao, hơn nữa khi nguồn vốn này càng được sử dụng nhiều thì giá
trị gia tăng càng lớn, càng tạo ra nhiều của cải, mang đến sự phồn thịnh cho xã hội. 2.
Vốn nhân lực không mang đặc điểm có tính quy luật như các nguồn vốn khác: khấu
hao vốn đã đầu tư vào các tài sản và loại hình vật chất khác; vốn nhân lực sau khi đã
đầu tư thì nó sẽ tự duy trì và phát triển mà không tạo ra áp lực về khối lượng vốn cần
huy động trong khoảng thời gian ngắn; là loại vốn có kỹ năng, kiến thức, kinh
nghiệm và khả năng sáng tạo cao. Do đó, nếu đầu tư vào vốn nhân lực thì hiệu ứng
lan tỏa sẽ rất lớn mà không có nguồn vốn nào có thể sánh kịp.
- Lao động, việc làm và NNL ở Việt Nam 15 năm đổi mới của Nolwen Henaff,
Jeen- Yves biên tập khoa học [59]. Cuốn sách tập hợp nhiều bài viết xung quanh những
vấn đề: chính sách giáo dục, việc làm, phát triển NNL… của các tác giả: TS.Nolwen
Henaff, TS.Jeen-Yves Martin, GS.Geoffrey B.Hainsworth, TS.Fiona Howell,
TS.Nguyễn Hữu Dũng, TS.Trần Khánh Đức, PGS. Võ Đại Lược, …. Trong các nghiên
cứu của các tác giả trên, đáng chú ý là bài viết của GS.Geoffrey B.Hainsworth “Phát
triển NNL đáp ứng với những thách thức của quá trình toàn cầu hóa mạnh mẽ và một
nền kinh tế dựa trên những hiểu biết mới”. Trong nghiên cứu của mình tác giả có cách
9
tiếp cận độc đáo khi đặt các câu hỏi: Làm thế nào để mở rộng sự lựa chọn nghề nghiệp
và viễn cảnh cuộc sống dân cư nông thôn- những người đang nắm giữ những nguồn lực
to lớn nhất và chưa được phát huy của quốc gia ? Làm cách nào để họ hiển nhiên nhận
được sự quan tâm đặc biệt của những nhà hoạch định chính sách và nhà tài trợ ? Từ đó
tác giả phân tích 3 vấn đề để tìm câu trả lời: 1. Về phạm vi giáo dục, đào tạo nghề. Tác
giả khẳng định, nền văn hóa Việt Nam luôn có truyền thống tôn trọng học vấn, trước
thời kỳ đổi mới mặc dù gặp nhiều khó khăn Việt Nam vẫn đạt được mức độ biết chữ và
bình đẳng về giới rất đặc biệt, nhưng khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì tỷ lệ bỏ
học cao ở cấp trung học. Từ đó tác giả đưa ra lập luận: mức học phí, sự thiếu hụt kinh
niên số giáo viên mới vào nghề ở mỗi cấp học, tiền lương thấp so với các ngành nghề
khác… làm hạn chế phạm vi giáo dục - đào tạo nghề. 2. Về tăng cường sử dụng lực
lượng lao động và mở rộng sự lựa chọn nghề nghiệp. Tác giả nhận định, mặc dù tỷ
trọng GDP tương đối của ngành nông nghiệp giảm so với công nghiệp và dịch vụ
nhưng sự thay đổi cơ cấu trong sử dụng lao động hầu như không biến động về mặt
việc làm. Vì vậy, theo tác giả cần thực hiện cải cách chương trình đào tạo và các cải
cách giáo dục khác bao gồm tăng số lượng phòng học, tăng số lượng giáo viên, nâng
cao trang thiết bị phục vụ giảng dạy, tăng tiền lương. 3. Về cơ cấu ngành nghề, lựa
chọn công nghệ và sở hữu doanh nghiệp. Tác giả cho rằng, đối với một nước mới thực
hiện CNH như Việt Nam nên phát triển ngành chế tạo, chế biến và các dịch vụ đi kèm,
đồng thời không thể lựa chọn công nghệ cao mà cần lựa chọn công nghệ phù hợp như
công nghệ phần mềm, nghiên cứu cơ bản.
Ngoài ra còn có bài viết “Kinh nghiệm Nhật Bản về Phát triển NNL”(HRD)
của Yasuhiko Inoue [167]. Nghiên cứu của tác giả tập trung làm rõ ba vấn đề: thứ
nhất, khẳng định vai trò quyết định của yếu tố con người trong việc cải tiến năng
suất xã hội; thứ hai, tác giả đưa ra một cách nhìn về chất lượng NNL, cùng với kỹ
năng công việc, người lao động được khuyến khích làm việc và sự thích nghi với
những thay đổi liên tục trong môi trường sản xuất; thứ ba, tác giả đưa ra các cách
thức quản lý NNL để phát triển NNL đó là: đối xử với mỗi cá nhân người lao động
như đối xử với một con người có trí óc, chứ không được coi họ như là một phần của
máy móc và hãy để cho người công nhân tự do trình bày những nhận định và những
ý tưởng cải tiến tại nơi làm việc. Để người lao động có thể thể hiện được khả năng
của mình, công ty phải ủng hộ, hỗ trợ người lao động theo những cách khác nhau.
10
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC
1.2.1. Những nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng nói chung và cấp ủy
đảng các cấp lãnh đạo đối với lĩnh vực, đối tượng
1.2.1.1. Sách
- Sự lãnh đạo của Đảng trong một số lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội
nước ta do PGS. Lê Văn Lý chủ biên [51]. Trong cuốn sách những vấn đề đã được
tác giả nghiên cứu và trình bày: cơ sở lý luận, thực tiễn xác định nội dung, PTLĐ của
Đảng trên một số lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội; đặc điểm, nội dung, PTLĐ
của Đảng trên các lĩnh vực như: tư tưởng; lý luận; kinh tế; quốc phòng; an ninh - trật
tự và lĩnh vực văn học - nghệ thuật.
- Đổi mới, hoàn thiện PTLĐ của Đảng Cộng sản Việt Nam do GS,TS Phạm
Ngọc Quang chủ biên [68]. Tác giả làm rõ khái niệm PTLĐ của Đảng; nghiên cứu
về PTLĐ của Đảng đối với Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện Kiểm sát nhân dân
và PTLĐ của Đảng đối với một số tổ chức chính trị- xã hội; PTLĐ của cấp ủy đảng
đối với chính quyền, mặt trận, đoàn thể cấp tỉnh. Tác giả đề xuất những giải pháp vĩ
mô tiếp tục đổi mới PTLĐ của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Những vấn đề mà tác
giả bàn đến trong cuốn sách chủ yếu là những vấn đề lớn, những vấn đề chung chứ
chưa đi vào một địa phương, hay một vùng cụ thể. Tuy nhiên, nhiều vấn đề lý luận
chung về PTLĐ của Đảng đã được tác giả nghiên cứu nghiên cứu sinh có thể kế
thừa để xây dựng khung lý thuyết của luận án.
- Đổi mới PTLĐ của Đảng đối với trí thức nước ta hiện nay do TS.Ngô Huy Tiếp
chủ biên [91]. Tác giả làm rõ quan niệm, phân tích vai trò, đặc điểm của đội ngũ trí thức;
quan niệm về PTLĐ, đổi mới PTLĐ của Đảng đối với đội ngũ trí thức. Tác giả đề xuất
một số giải pháp đổi mới PTLĐ của Đảng đối với đội ngũ trí thức như: đổi mới nhận
thức, công tác tư tưởng; xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong lĩnh vực KH-
CN; đổi mới chính sách giáo dục và đào tạo; xây dựng chính sách thu hút và sử dụng, đãi
ngộ và tôn vinh. Ở đây tác giả nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí
thức ở phạm vi vĩ mô. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của tác giả về những vấn đề lý
thuyết về PTLĐ gợi mở hướng tiếp cận để làm rõ PTLĐ của các tỉnh, thành ủy đối với
phát triển nhân lực KH-CN.
- Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền - Nội dung và phương thức cầm quyền
của Đảng do GS,TS Nguyễn Văn Huyên chủ biên [44]. Trong công trình này, tác
11
giả đã đề cập đến một số vấn đề về nội dung và PTLĐ của cấp ủy đảng đối với
chính quyền địa phương.
- Đảng lãnh đạo Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam hiện nay do Nguyễn Văn Vĩnh chủ biên [164]. Các tác giả đã nghiên cứu những vấn
đề về nội dung lãnh đạo và PTLĐ, phân tích làm rõ mối quan hệ giữa nội dung lãnh đạo
và PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước. Nêu lên những định hướng lớn có tính nguyên tắc
về Đảng lãnh đạo Nhà nước hiện nay và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa (XHCN) hiện nay. Nghiên cứu của các tác giả đã luận giải sâu sắc về phân định
chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý xã hội của Nhà nước.
1.2.1.2. Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
- Các tỉnh ủy vùng Đồng bằng Sông Hồng lãnh đạo đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn giai đoạn hiện nay của Nguyễn Thị Tố Uyên
[161]. Luận án đã nghiên cứu làm rõ những vấn đề: chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm
của tỉnh ủy vùng Đồng bằng Sông Hồng; khái niệm, nội dung, phương thức tỉnh ủy
Đồng bằng Sông Hồng lãnh đạo đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Từ
thực trạng, luận án đề xuất các giải pháp tăng cường sự lãnh đạo đẩy nhanh CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn của tỉnh ủy vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2020.
- Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo cải cách hành chính nhà nước
trong giai đoạn hiện nay của Nguyễn Hữu Nhân [62]. Luận án đã nghiên cứu làm rõ
những vấn đề: chức năng, nhiệm vụ của thành ủy thành phố Hồ Chí Minh; khái niệm,
nội dung, PTLĐ cải cách hành chính nhà nước của thành ủy. Trên cơ sở phân tích
thực trạng, tác giả đề xuất các giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo cải cách
hành chính nhà nước của thành ủy đến năm 2020.
- Tỉnh ủy Cà Mau lãnh đạo khoa học và công nghệ trong giai đoạn hiện nay của
Đoàn Duy Trình [133]. Những vấn đề đã được tác giả nghiên cứu làm rõ trong luận văn:
đặc điểm, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tỉnh ủy Cà Mau; quan niệm, nội dung,
phương thức và quy trình lãnh đạo của tỉnh ủy Cà Mau đối với lĩnh vực KH&CN.
Những kinh nghiệm trong lãnh đạo KH&CN và những giải pháp chủ yếu tăng cường sự
lãnh đạo của tỉnh ủy Cà Mau đối với KH&CN đến năm 2020. Tuy nhiên, khi bàn về nội
dung tỉnh ủy lãnh đạo lĩnh vực KH&CN, một nội dung hết sức trọng tâm là lãnh đạo xây
dựng và hành cơ chế, chính sách để phát triển KH&CN chưa được tác giả bàn đến.
12
- Tỉnh ủy Bắc Giang lãnh đạo báo chí địa phương giai đoạn hiện nay của Nguyễn
Thế Dũng [21]. Luận văn đã nghiên cứu làm rõ một số vấn đề: vai trò, nội dung, PTLĐ
báo chí của tỉnh ủy Bắc Giang, kinh nghiệm trong lãnh đạo báo chí của tỉnh ủy Bắc
Giang. Tác giả đề xuất một số giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của tỉnh ủy Bắc
Giang đối với báo chí địa phương. Tuy nhiên, một số vấn đề chưa được tác giả nghiên
cứu, giải quyết trong luận văn như: đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của tỉnh ủy Bắc
Giang; quan niệm về sự lãnh đạo của tỉnh ủy Bắc Giang đối với báo chí địa phương.
- Tỉnh ủy Bến Tre lãnh đạo công tác phụ nữ trong giai đoạn hiện nay của
Nguyễn Thị Nga [60]. Luận văn đã nghiên cứu làm rõ những vấn đề: vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của tỉnh ủy Bến Tre; quan niệm, nội dung, phương thức và quy trình
lãnh đạo công tác phụ nữ của tỉnh ủy Bến Tre; những kinh nghiệm và những giải pháp
chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của tỉnh ủy Bến Tre đối với công tác phụ nữ. Khi trình
bày về quan niệm tỉnh ủy Bến Tre lãnh đạo công tác phụ nữ tác giả cho rằng: tỉnh ủy
Bến Tre lãnh đạo công tác phụ nữ là tất cả các hoạt động lãnh đạo của tỉnh ủy tác
động đến các tầng lớp phụ nữ trong tỉnh nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của
đảng bộ, xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Quan niệm như vậy là chưa đầy đủ, bởi sự lãnh đạo của tỉnh ủy không chỉ tác động đến
tầng lớp phụ nữ mà còn tác động đến các tổ chức trong HTCT, các tổ chức xã hội, các
tầng lớp nhân dân, các gia đình nhằm thực hiện tốt công tác phụ nữ. Tác giả xây dựng 7
giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của tỉnh ủy Bến Tre đối với công tác phụ nữ,
trong đó giải pháp trọng tâm là đổi mới nội dung và PTLĐ của tỉnh ủy đối với công tác
phụ nữ, tuy nhiên tác giả chưa làm rõ đổi mới nội dung và phương thức như thế nào.
- Tỉnh ủy Bình Dương lãnh đạo phát triển NNL các cơ quan đảng, đoàn thể cấp
tỉnh trong giai đoạn hiện của Võ Châu Loan [50]. Những vấn đề được tác giả nghiên
cứu làm rõ trong luận văn: chức năng, nhiệm vụ của tỉnh ủy Bình Dương; quan niệm
về NNL; phát triển NNL; quan niệm, nội dung lãnh đạo của tỉnh ủy Bình Dương về
phát triển NNL các cơ quan đảng, đoàn thể cấp tỉnh; một số kinh nghiệm lãnh đạo
phát triển NNL cơ quan đảng, đoàn thể cấp tỉnh của tỉnh ủy Bình Dương. Tác giả đề
xuất một số giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của tỉnh ủy Bình Dương đối
với phát triển NNL các cơ quan đảng, đoàn thể cấp tỉnh. Tuy nhiên, khi bàn về PTLĐ
của tỉnh ủy đối với phát triển NNL, một phương thức cơ bản thông qua chính quyền
13
để thể chế hóa chủ trương, nghị quyết thành cơ chế, chính sách, cụ thể hóa bằng các
chương trình, kế hoạch, đề án chưa được tác giả đề cập.
- Tỉnh ủy Quảng Ngãi lãnh đạo phát triển NNL trong giai đoạn hiện nay của
Đỗ Tiến Cẩn [15]. Luận văn đã nghiên cứu làm rõ những vấn đề: quan niệm NNL,
phát triển NNL; nội dung và PTLĐ của tỉnh ủy Quảng Ngãi đối với phát triển NNL;
thực trạng lãnh đạo phát triển NNL của tỉnh ủy Quảng Ngãi và những kinh nghiệm.
Tác giả đề xuất các giải pháp để phát triển NNL đến năm 2020. Tuy nhiên, khi
nghiên cứu về nội dung và PTLĐ của tỉnh ủy Quảng Ngãi đối với phát triển NNL
tác giả chưa phân định được nội dung lãnh đạo và PTLĐ.
1.2.2. Những nghiên cứu về nguồn nhân lực, nhân lực khoa học - công nghệ
1.2.2.1. Sách
- Phát triển nhân lực công nghệ ưu tiên ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa-
hiện đại hóa của Đặng Bá Lãm và Trần Khánh Đức [47]. Những vấn đề được các tác giả
nghiên cứu: khái niệm về nhân lực KH-CN, nhân lực trong lĩnh vực công nghệ ưu tiên;
kinh nghiệm của quốc tế về phát triển nhân lực KH-CN trong các lĩnh vực công nghệ ưu
tiên. Tiếp đó các tác giả nêu lên thực trạng nhân lực KH-CN trong các lĩnh vực công nghệ
ưu tiên ở một số bộ ngành; thực trạng công tác đào tạo nhân lực KH-CN theo các lĩnh vực
công nghệ ưu tiên ở các trường đại học và viện nghiên cứu trong hai năm 1999-2000. Từ
phân tích các căn cứ KT-XH của việc xây dựng quy hoạch nhân lực KH-CN, dự báo nhu
cầu nhân lực KH-CN theo các hướng ưu tiên ở các vùng và các ngành kinh tế trọng điểm,
các tác giả đưa ra những định hướng quy hoạch nhân lực KH-CN trong các lĩnh vực công
nghệ ưu tiên. Nghiên cứu của tác giả chủ yếu trong giai đoạn những năm 2000. Vì vậy,
nhiều số liệu, nhận định đánh giá và định hướng đã bị thực tiễn vượt qua.
- Phát triển NNL phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của
TS.Nguyễn Thanh [125]. Dưới góc độ của Triết học, tác giả đã làm rõ các khái niệm
con người, nguồn lực con người, phát triển con người và phát triển NNL theo quan
điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta. Tác giả đưa
ra các định hướng chủ yếu trong phát triển NNL có chất lượng cao gồm: gắn phát
triển NNL với việc đẩy mạnh tốc độ phát triển KT-XH; gắn phát triển NNL với quá
trình dân chủ hóa, nhân văn hóa đời sống xã hội, khai thác có hiệu quả các giá trị văn
hóa truyền thống và hiện đại; nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán
bộ KH&CN; xây dựng chiến lực phát triển con người. Tác giả đề xuất các giải pháp
đổi mới công tác giáo dục và đào tạo để phát triển NNL: tăng đầu tư cho giáo dục và
14
đào tạo; xã hội hóa giáo dục và đào tạo; đào tạo lại và đào tạo thường xuyên; mở rộng
quy mô tăng nhanh tốc độ đào tạo; đào tạo có địa chỉ và theo yêu cầu của xã hội; tiếp
tục cải cách nội dung và phương pháp đào tạo; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và
vai trò quản lý của Nhà nước đối với giáo dục và đào tạo.
- Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng NNL tài năng của Trần Văn Tùng [124]. Tác giả
nghiên cứu những kinh nghiệm của Mỹ và một số quốc gia Châu Âu, Châu Á trong phát
hiện, đào tạo và sử dụng tài năng KHCN, sản xuất kinh doanh, quản lý. Từ đó, so sánh
đối chứng với Việt Nam và đề xuất các chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng và sử dụng có hiệu quả các tài năng khoa học. Nghiên cứu của tác giả gợi mở
những kinh nghiệm trong phát hiện, đào tạo, sử dụng tài năng khoa học.
- Quản lý và phát triển NNL xã hội của GS,TS Bùi Văn Nhơn [63]. Những vấn
đề được tác giả nghiên cứu làm rõ: khái niệm NNL, các hình thức phát triển NNL,
chính sách và quản lý sự phát triển NNL. Tác giả quan niệm “Phát triển NNL là
tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và
nâng cao chất lượng cho NNL (trí tuệ, thể chất và phẩm chất tâm lý xã hội) nhằm
đáp ứng đòi hỏi về NNL cho sự phát triển KT-XH trong từng giai đoạn phát triển”.
Như vậy, khái niệm phát triển NNL nói trên mới chỉ đề cập đến nâng cao chất lượng
NNL mà chưa nói đến sự phát triển về số lượng NNL. Ngoài ra, tác giả còn nghiên
cứu những vấn đề: phân bố dân cư và NNL; phân bổ NNL theo lãnh thổ; chuyển
dịch cơ cấu lao động trong quá trình CNH, HĐH. Nghiên cứu của tác giả về phát
triển NNL xã hội nói chung, các giải pháp tác giả đưa ra để giải quyết ở tầm vĩ mô.
- Đào tạo và quản lý NNL - kinh nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc và những gợi ý cho
Việt Nam do PGS,TS Nguyễn Duy Dũng chủ biên [20]. Tác giả nghiên cứu bài học kinh
nghiệm của Nhật Bản trong phát huy và sử dụng NNL đó là: luôn luôn coi trọng nguồn
lực con người; kết hợp khéo léo những yếu tố truyền thống và hiện đại trong việc phát
huy, sử dụng nhân tố con người; luôn nhất quán triết lý đào tạo, sử dụng, quản lý NNL
phù hợp với hoàn cảnh và thực tế phát triển của đất nước; đề cao tính nhân văn trong sử
dụng và phát huy nhân tố con người; phát huy và sử dụng con người gắn chặt với chiến
lược phát triển kinh tế quốc gia; phát huy vai trò của nhà nước như là người khởi xướng,
vạch kế hoạch và tổ chức việc phát huy và sử dụng nhân tố con người. Kinh nghiệm của
Hàn Quốc là: sớm có chính sách đào tạo, phát triển NNL; cách thức quản lý nhân lực là
hợp đồng dài hạn, trả lương theo thâm niên trong ngành và tuổi tác kết hợp với các phần
15
thưởng về vật chất và tinh thần; chính sách giáo dục, đào tạo, quản lý và sử dụng NNL
luôn luôn đi liền với chiến lược và chính sách phát triển kinh tế. Trên cơ sở những
nghiên cứu đó, tác giả đưa ra những gợi ý cho Việt Nam về đào tạo, sử dụng, quản lý
nhân lực gồm: cải cách hệ thống giáo dục - đào tạo, nhất là đào tạo nghề nghiệp, kỹ năng
cho người lao động; nâng cao thể lực, đạo đức cho người lao động; phát huy tiềm năng
hiện có và tăng cường năng lực cho đội ngũ lao động chất xám; khuyến khích các mô
hình đào tạo, sử dụng, quản lý nhân lực có hiệu quả, tiến tới xây dựng kiểu quản lý phù
hợp với Việt Nam. Nghiên cứu của tác giả gợi mở những chính sách, biện pháp về đào
tạo, quản lý, sử dụng nhân lực.
- Phát triển NNL phục vụ CNH, HĐH ở thành phố Đà Nẵng của TS.Dương Anh
Hoàng [42]. Những vấn đề được tác giả nghiên cứu làm rõ: khái niệm NNL, khái niệm
phát triển NNL, thực trạng NNL của thành phố Đà Nẵng, giải pháp để phát triển NNL
cho CNH, HĐH ở Đà Nẵng trong thời gian tới. Kết quả nghiên cứu của tác giả về
NNL giúp cho nghiên cứu sinh tham khảo để xây dựng khung lý thuyết.
- NNL cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh
Thừa Thiên Huế hiện nay của TS.Hà Thị Hằng [39]. Những vấn đề được tác giả nghiên
cứu giải quyết: quan niệm về NNL, NNL cho CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri
thức. Tác giả làm rõ nội hàm của khái niệm NNL gồm khía cạnh: các tiêu thức về
lượng của NNL (những người đang và sẽ tham gia hoạt động trong các ngành của nền
kinh tế quốc dân); các tiêu thức về chất của NNL (thể lực, trí lực, tâm lực); các yếu tố
quyết định đến hoạt động của NNL (toàn bộ năng lực thể chất và năng lực tinh thần của
người lao động). Tác giả đánh giá thực trạng phát triển và dịch chuyển cơ cấu NNL gắn
với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế và đề xuất các giải pháp phát triển
NNL. Nghiên cứu của tác giả về NNL nói chung, nhân lực KH-CN chưa được tác giả
nghiên cứu. Tuy nhiên, những vấn đề lý luận về NNL được tác giả nghiên cứu, giải
quyết khá rõ, nghiên cứu sinh có thể kế thừa để xây dựng, hoàn thiện khung lý thuyết
của luận án. Đặc biệt nghiên cứu của tác giả về NNL của tỉnh Thừa Thiên Huế, một địa
phương thuộc vùng khảo sát của đề tài luận án. Vì thế, những nghiên cứu đánh giá về
NNL ở phần thực trạng, luận án có thể tham khảo để đánh giá, phân tích thực trạng sự
lãnh đạo của tỉnh ủy Thừa Thiên Huế đối với phát triển NNL nói chung.
1.2.2.2. Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
- Giải pháp phát triển nhân lực khoa học và công nghệ ở Hải Phòng phục vụ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của TS.Phạm Văn Mợi [58]. Luận án đã nghiên cứu
16
làm rõ: NNL, nhân lực KH&CN, phát triển nhân lực KH&CN; những kinh nghiệm
phát triển nhân lực KH&CN của một số nước ở Đông Nam Á và của một số tỉnh,
thành phố ở Việt Nam. Tác giả đánh giá thực trạng nhân lực KH&CN, thực trạng
phát triển nhân lực KH&CN ở thành phố Hải Phòng, đề xuất các giải pháp chủ yếu
phát triển nhân lực KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH của thành phố Hải
phòng đến năm 2020. Nghiên cứu của tác giả tiếp cận ở góc độ khoa học quản lý
kinh tế. Tuy nhiên, những nghiên cứu của tác giả về lý luận nhân lực KH&CN, phát
triển nhân lực KH&CN đã được trình bày khá rõ, luận án có thể kế thừa để làm rõ
những khái niệm có liên quan.
- Đánh giá chính sách phát triển NNL ở thành phố Đà Nẵng hiện nay của
Nguyễn Duy Trình [134]. Luận văn đã đánh giá, phân tích quá trình thực hiện chính
sách phát triển NNL ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua. Đề xuất một số giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng NNL ở thành phố Đà Nẵng.
- Phát triển NNL chất lượng cao trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
thành phố Đà Nẵng hiện nay của Lê Văn Phục [67]. Những vấn đề được tác giả nghiên
cứu làm rõ trong luận văn: khái niệm, tiêu chí, vai trò của NNL chất lượng cao; thực trạng
phát triển NNL chất lượng cao ở thành phố Đà Nẵng; đề xuất những giải pháp chủ yếu để
phát triển NNL chất lượng cao đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở thành phố Đà Nẵng.
- Phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ ở Đà Nẵng hiện nay của
Nguyễn Thị Cẩm Anh [1]. Trong luận văn (theo phạm vi nghiên cứu), tác giả quan
niệm NNL khoa học công nghệ là những người có trình độ cao đẳng trở lên hoạt động
trong cơ quan hành chính, sự nghiệp và trường đại học, cao đẳng thuộc quản lý của
UBND thành phố Đà Nẵng. Tác giả phân tích làm rõ đặc điểm chung của NNL khoa
học công nghệ, vai trò của NNL khoa học công nghệ đối với phát triển KT-XH nói
chung; nội dung của phát triển NNL khoa học công nghệ. Tác giả đề xuất các giải
pháp phát triển NNL khoa học công nghệ ở thành phố Đà Nẵng đến năm 2020.
1.2.2.3. Các bài báo khoa học trên tạp chí, bài viết trong sách
- Phát triển NNL khoa học - công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước của TS.Nguyễn Thanh Long [49]. Bài viết làm rõ vai trò của NNL
KH-CN trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; nêu lên thực trạng NNL KH-CN của
nước ta và giải pháp phát triển NNL KH-CN đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH; Chính sách
sử dụng NNL khoa học - công nghệ ở miền Trung - hiệu quả và những vấn đề đặt ra
trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa của PGS, TS Trương Minh Dục [19]. Bài
17
viết phản ánh thực trạng chính sách sử dụng NNL KH-CN ở miền Trung và đề xuất giải
pháp đổi mới chính sách sử dụng NNL KH-CN ở các tỉnh miền Trung; Một số vấn đề
về sử dụng NNL khoa học - công nghệ ở vùng trọng điểm kinh tế Trung bộ hiện nay của
Ths.Trần Đình Chín [17]. Tác giả đã khái quát về tình hình NNL KH-CN của vùng kinh
tế trọng điểm miền Trung, đề xuất một số giải pháp để phát huy tối đa năng lực nghiên
cứu của NNL KH-CN đóng góp cho sự phát triển KT-XH của vùng. Các tác giả nghiên
cứu về NNL KH-CN, tuy nhiên nhiều vấn đề chưa được làm rõ như: thế nào là NNL
KH-CN, phát triển NNL KH-CN, nội dung phát triển NNL KH-CN.
1.3. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN
QUAN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN SẼ TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan
Các công trình khoa học nêu trên đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn về vấn đề nghiên cứu, có thể khái quát trên các hướng sau:
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ nội dung, phương thức cầm quyền, quy luật cầm
quyền của đảng và đề xuất các giải pháp để nâng cao năng lực cầm quyền của đảng.
Thứ hai, nghiên cứu làm rõ khái niệm, nội dung, PTLĐ của Đảng; quan niệm,
nội dung, phương thức, quy trình lãnh đạo của tỉnh, thành ủy đối với các lĩnh vực:
KH&CN, NNL, công tác phụ nữ, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, cải
cách hành chính nhà nước và lĩnh vực báo chí.
Thứ ba, những nghiên cứu ở cấp độ vĩ mô đã tập trung đánh giá thực trạng sự
lãnh đạo của Đảng đối với HTCT, lĩnh vực, chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế, nguyên
nhân và đề xuất giải pháp tiếp tục đổi mới, hoàn thiện PTLĐ của Đảng. Những
nghiên cứu về cấp ủy địa phương đã đi sâu đánh giá thực trạng sự lãnh đạo của tỉnh
ủy, thành ủy đối với một số lĩnh vực và đề xuất giải pháp tăng cường sự lãnh đạo
của tỉnh, thành ủy đối với lĩnh vực nghiên cứu.
Thứ tư, những nghiên cứu về NNL, NNL KH-CN, nhân lực KH-CN đã góp phần
làm rõ hơn: quan niệm về NNL, phát triển NNL chất lượng cao, vai trò của NNL đối
với sự nghiệp CNH, HĐH và phát triển KT-XH. Quan niệm về NNL KH-CN, nhân lực
KH-CN, phát triển NNL KH-CN, nhân lực KH-CN; vai trò của NNL KH-CN đối với
phát triển KT-XH nói chung; nội dung phát triển NNL KH-CN, nhân lực KH-CN. Đề
xuất những giải pháp chủ yếu phát triển NNL KH-CN, nhân lực KH-CN. Tuy nhiên,
các nghiên cứu hiện đang có nhiều quan niệm khác nhau về NNL và NNL KH-CN.
18
Thứ năm, ở những mức độ và phạm vi khác nhau, các nghiên cứu đã đánh giá,
phân tích thực trạng NNL của Việt Nam nói chung, địa phương nói riêng; nêu lên
những vấn đề đặt ra và đề xuất các giải pháp phát triển NNL đáp ứng yêu cầu CNH,
HĐH. Một số công trình đi sâu nghiên cứu những kinh nghiệm của nước ngoài về phát
triển NNL từ đó gợi mở những kinh nghiệm cho Việt Nam cần tham khảo, học tập.
Kết quả nghiên cứu của những công trình trên có giá trị tham khảo tốt để thực
hiện nhiệm vụ, mục đích của luận án.
1.3.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
Bên cạnh những giá trị to lớn về mặt khoa học mà các công trình nghiên cứu nêu
trên đã đạt được vẫn còn một số vấn đề chưa được các tác giả nghiên cứu làm rõ, hoặc
chưa được nghiên cứu. Hơn nữa vấn đề phát triển nhân lực KH-CN còn là vấn đề lớn và
có tính cấp thiết hiện nay cần được tiếp tục nghiên cứu. Một là, nghiên cứu của các tác
giả về nhân lực KH-CN và phát triển nhân lực KH-CN vẫn còn một số vấn đề chưa
được giải quyết thấu đáo (về khái niệm, vai trò của nhân lực KH-CN, sự lãnh đạo, quản
lý đối với phát triển nhân lực KH-CN gắn với một vùng). Vì vậy, cần được nghiên cứu
để làm rõ thêm gắn với một vùng cụ thể. Hai là, các công trình nghiên cứu chủ yếu tiếp
cận ở góc độ khoa học kinh tế, còn góc độ xây dựng Đảng thì còn khá mới mẻ, chưa có
những nghiên cứu về sự lãnh đạo của cấp ủy đảng ở một vùng đối với phát triển nhân
lực KH-CN. Ba là, trong thời gian qua đã có một vài tác giả nghiên cứu về nhân lực
KH-CN ở một số tỉnh vùng DHMT. Tuy nhiên, đó chỉ là những bài báo hoặc luận văn
và phần nhiều cũng tiếp cận ở góc độ quản lý kinh tế, chủ yếu phản ánh thực trạng và đề
xuất một số giải pháp để phát triển, sử dụng nhân lực KH-CN. Từ những vấn đề đặt ra
đó luận án sẽ tập trung nghiên cứu giải quyết những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về sự lãnh đạo
của các tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT đối với phát triển nhân lực KH-CN của các
tỉnh, thành phố trong vùng.
Thứ hai, nghiên cứu làm rõ thực trạng phát triển nhân lực KH-CN của các tỉnh,
thành phố ở vùng DHMT và nhất là tập trung đi sâu nghiên cứu thực trạng sự lãnh
đạo của các tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT đối với phát triển nhân lực KH-CN, chỉ ra
những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân, rút ra những kinh nghiệm thực tiễn.
Thứ ba, nghiên cứu đề xuất phương hướng và giải pháp tăng cường sự lãnh
đạo của các tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT đối với phát triển nhân lực KH-CN.
19
Chương 2
CÁC TỈNH, THÀNH ỦY Ở VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG LÃNH
ĐẠO PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ, TỈNH, THÀNH UỶ Ở VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN
TRUNG VÀ NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ CỦA CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ
2.1.1. Các tỉnh, thành phố và tỉnh, thành uỷ ở vùng duyên hải miền Trung
2.1.1.1. Khái quát về các tỉnh, thành phố ở vùng duyên hải miền Trung
* Đặc điểm địa lý tự nhiên
Các tỉnh, thành phố ở vùng DHMT gồm có: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và thành
phố Đà Nẵng. Toàn vùng có diện tích: 51.067,2 km2, dân số năm 2015 là 1.143.572
(nghìn người) chiếm 11,36% dân số cả nước, mật độ bình quân là 214,23
người/km2. Vùng DHMT nằm ở vị trí trung độ của đất nước, phía Bắc giáp tỉnh Hà
Tĩnh, phía Nam giáp tỉnh Ninh Thuận, phía Đông giáp Biển Đông, phía Tây giáp
các tỉnh Tây Nguyên và nước Lào. Điểm đặc biệt của vùng DHMT là các tỉnh,
thành phố đều tiếp giáp với Biển Đông, với chiều dài bờ biển gần 1.000 km, trong
vùng biển có hệ thống các đảo, quần đảo, trong đó có những đảo thuộc đơn vị hành
chính của địa phương như huyện đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị), huyện đảo Hoàng Sa (Đà
Nẵng), huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), huyện đảo Trường Sa (Khánh Hòa). Hệ
thống các đảo, quần đảo vừa có vai trò quan trọng về phát triển kinh tế, bảo đảm
quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia. Ngoài các đảo, trong
vùng biển DHMT còn có những vùng rạn đá với diện tích hàng chục km2, nhiều
đầm, phá, vũng, vịnh có vai trò quan trọng trong phát triển nghề nuôi trồng thủy hải
sản, đặc sản xuất khẩu với tổng diện tích trên 160.000 ha.
Hệ thống giao thông vùng DHMT đa dạng, phong phú, đang được đầu phát triển
theo hướng hiện đại, gồm đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không,
thuận lợi cho giao thương phát triển KT-XH của các tỉnh, thành phố trong vùng và là
cửa ngõ chính ra Biển Đông của các tỉnh Tây Nguyên. Vùng DHMT có tài nguyên
thiên nhiên phong phú, có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển kinh tế đa dạng,
gồm công nghiệp, nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, nghề rừng, nghề biển), du lịch
và dịch vụ, đặc biệt là nghề cá và dịch vụ nghề cá phát triển mạnh.
20
Vùng DHMT trải dài theo chiều dọc của đất nước, chiều ngang hẹp (có nơi
chưa đầy 50 km), phân chia thành hai khu vực rõ rệt, phía Đông và phía Tây. Phía
Đông là đồng bằng ven biển, KT-XH phát triển, cư dân tập trung chủ yếu ở vùng
này và ở dọc các quốc lộ, nhất là Quốc lộ 1A và các đô thị, các tổ chức KH&CN,
nhân lực trình độ cao chủ yếu cũng tập trung ở vùng này. Phía Tây, phần lớn là đồi
núi gặp nhiều khó khăn trong phát triển KT-XH, dân cư thưa thớt, chủ yếu là các
dân tộc thiểu số, thiếu vắng các cơ quan khoa học và nhân lực trình độ cao.
Khí hậu vùng này rất khắc nghiệt: nhiệt độ cao, nóng ẩm mưa nhiều, bão, lũ,
hạn hạn thường xuyên xảy ra, điều kiện sống và làm việc gặp nhiều khó khăn, ảnh
hưởng nhiều đến phát triển KT-XH, phát triển KH&CN và thu hút đầu tư.
* Đặc điểm về kinh tế
Vùng DHMT được quy hoạch là một trong ba vùng kinh tế trọng điểm của cả
nước. Tuy nhiên, so với vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam, vùng kinh
tế trọng điểm miền Trung có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn, quy mô nhỏ hơn.
Mặc dù vậy, trong hai thập niên qua, đảng bộ, chính quyền các địa phương trong
vùng đã khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu, chủ động khai thác tiềm năng lợi thế,
cải thiện môi trường thu hút đầu tư, tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương, nhờ đó KT-
XH trong vùng phát triển khá mạnh, trên nhiều lĩnh vực có sự phát triển vượt bậc,
nhiều đô thị phát triển mạnh theo hướng hiện đại.
Tiềm năng, thế mạnh của các tỉnh, thành phố vùng DHMT là kinh tế biển và
du lịch. Với bờ biển kéo dài có nhiều vịnh nước sâu, trữ lượng hải sản lớn và phong
phú cho phép phát triển kinh tế với các ngành chủ lực như: công nghiệp đóng tàu và
dịch vụ hàng hải, khai thác và chế biến thủy sản, dịch vụ hậu cần nghề cá... Đặc
biệt, trên địa bàn của vùng có đến 4 di sản văn hóa thế giới bao gồm: Quần thể di
tích cố đô Huế và Nhã nhạc cung đình Huế, Phố cổ Hội An và Khu di tích Mỹ Sơn.
Ngoài ra còn có nhiều vũng, vịnh, bãi tắm đẹp tầm cỡ quốc tế (bãi biển Đà Nẵng và
Nha Trang tỉnh Khánh Hòa), có các khu bảo tồn thiên nhiên là điều kiện thuận lợi
để phát triển ngành du lịch.
Trong vùng đã và đang hình thành một chuỗi đô thị ven biển như: Chân Mây-
Lăng Cô, Đà Nẵng, Hội An, Vạn Tường, Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang và 7 khu
kinh tế, 34 khu công nghiệp, nổi bật là các khu kinh tế Chân Mây, Chu Lai, Dung Quất,
Nhơn Hội, Nam Phú Yên và Vân Phong. Các khu kinh tế và khu công nghiệp đang
21
phát triển các ngành công nghiệp chủ lực như: lọc hóa dầu, năng lượng, lắp ráp ô tô,
sửa chữa và đóng mới tàu biển, chế biến nông lâm, thủy sản, hóa chất, vật liệu xây
dựng, khai khoáng, cơ khí, điện, điện tử, điện lạnh, công nghiệp, dệt may, da giày.
Giai đoạn 2011-2015, kinh tế của các tỉnh, thành phố vùng DHMT duy trì ổn
định và có sự tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng định hướng
của các địa phương. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) giai đoạn 2011-2015 bình
quân đạt 8,4%/năm (cả nước đạt trên 5,9%/năm). Cơ cấu kinh tế của vùng: nông,
lâm, thủy sản chiếm 16,52%; công nghiệp và xây dựng chiếm 38,41%; dịch vụ
chiếm 44,8%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 42,168 triệu đồng. Tổng thu ngân
sách nhà nước trong 5 năm (2011-2015) của các tỉnh, thành phố trong vùng đạt
365,1 tỷ đồng; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 757.953 tỷ đồng. Công
nghiệp, dịch vụ, thương mại tiếp tục phát triển, có những địa phương đã có sự đột
phá như Quảng Nam, Quảng Ngãi. Nông nghiệp đang từng bước chuyển sang sản
xuất hàng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm gắn với thị trường [Phụ lục 1].
Với những thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế đây là điều kiện thuận
lợi để các địa phương trong vùng tăng đầu tư ngân sách cho phát triển KH&CN và
phát triển nhân lực KH-CN.
Tuy nhiên, quy mô nền kinh tế của các tỉnh, thành phố còn nhỏ, tốc độ tăng
trưởng còn thấp, năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh chưa cao. Nền
kinh tế vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc
nhiều vào các yếu tố về vốn, khai thác tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa
nhiều vào tri thức, KH&CN và lao động có kỹ năng. Thu ngân sách Nhà nước của
các địa phương còn thấp, phần lớn các tỉnh chưa tự cân đối được thu - chi mà phải
nhờ vào sự hỗ trợ ngân sách từ Trung ương; tích lũy để tái đầu tư còn hạn chế.
Quy mô sản xuất công nghiệp nhỏ, thiếu các sản phẩm có hàm lượng công nghệ
và giá trị gia tăng cao. Nông nghiệp phát triển thiếu bền vững, chưa phát huy được
thế mạnh của kinh tế biển. Số lượng các doanh nghiệp phát triển nhanh nhưng chủ
yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn ít, năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc
tế còn yếu, chưa thu hút được những doanh nghiệp lớn đặt trụ sở chính hoạt động.
Hạ tầng KT-XH còn yếu kém, thiếu đồng bộ, kể cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng
xã hội. Sự chênh lệch khá lớn đời sống giữa đô thị và nông thôn, nhất là vùng phía
Tây nơi chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Hạ tầng giao thông còn
22
nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Môi trường kinh doanh
chưa thuận lợi, sức mua thị trường nội vùng không lớn, chưa có các sản phẩm chủ
lực có thương hiệu tầm cỡ quốc gia và quốc tế, trừ lĩnh vực du lịch, chưa có sản
phẩm cạnh tranh đặc thù trên thương trường.
Vùng DHMT là địa bàn chiến lược trong chiến lược kinh tế biển của nước ta,
một địa bàn giàu tiềm năng, nhưng cũng chịu nhiều thiên tai và thách thức trong quá
trình phát triển, nên đến nay nhìn chung vẫn là vùng có đời sống kinh tế và xã hội
khó khăn. Trong 10 năm trở lại đây, các tỉnh, thành phố trong vùng đã có nhiều nỗ
lực phát triển làm thay đổi đáng kể đời sống kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, do sự thiếu
liên kết trong phát triển và còn nặng tư duy kinh tế tỉnh nên nguồn lực bị phân tán,
chưa phát huy hết thế mạnh về tiềm năng và đứng trước những bất cập về cơ sở hạ
tầng, NNL và mô hình phát triển.
* Đặc điểm về văn hóa, xã hội
Với đặc điểm cấu tạo địa hình nhiều dòng chảy và sơn hệ chằng chịt trên cùng
một dải địa hình, có cả đảo nhỏ, có cả thung lũng, nên không gian văn hóa vùng
DHMT bao hợp cả không gian văn hóa biển đảo, văn hóa duyên hải, văn hóa nông
thôn đồng bằng và văn hóa miền núi - trung du. Đây là vùng có nhiều dấu ấn của
văn hóa Chăm được lưu giữ qua các di tích kiến trúc và trong đời sống tâm linh.
Vùng DHMT có nhiều cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, nhiều bãi biển đẹp, đặc
biệt nơi đây tập trung nhiều di sản văn hóa thế giới. Đây cũng là nơi hội tụ những anh
tài trong lịch sử cách mạng: Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Võ Chí
Công, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Chánh và nhiều anh hùng lịch sử lưu danh:
Nguyễn Văn Trỗi, Trần Thị Lý, mẹ Suốt… Những giá trị văn hóa vật thể và phi vật
thể ấy đã tạo cho vùng DHMT một nền tảng tinh thần vững chắc, phong phú và sâu
sắc và cũng chính cái nền tảng tinh thần ấy đã tạo cho con người vùng DHMT những
đức tính tốt đẹp: kiên cường mưu lược trong chiến đấu, nhẫn nại cần cù trong lao
động, kiên quyết trong đấu tranh, thật lòng trong ứng xử, khôn khéo trong giao tiếp,
không khoan nhượng với kẻ thù, yêu thương đồng bào đồng chí, yêu quê hương, đất
nước… Tất cả những tố chất ấy đã tạo nên sức mạnh nội sinh trong hai cuộc kháng
chiến, trong hòa bình xây dựng và nhất là trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Về giáo dục - đào tạo, toàn vùng có hệ thống cơ sở đào tạo tương đối hoàn
chỉnh, đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực. Trên địa bàn có 28 trường đại học và tương
đương, 36 trường cao đẳng, 21 trường trung cấp chuyên nghiệp và nhiều cơ sở dạy
23
nghề, trong đó Đại học Đà Nẵng và Đại học Huế là đại học trọng điểm vùng. Các cơ
sở đào tạo, dạy nghề từng bước nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại hình
đào tạo để cung cấp lao động cho các doanh nghiệp, làng nghề, các khu, cụm công
nghiệp ở vùng DHMT và Tây Nguyên.
Về y tế, 9 tỉnh, thành phố có 132 bệnh viện và 68 phòng khám đa khoa khu
vực do địa phương quản lý, với 6.750 bác sĩ và 32.258 giường bệnh; tỷ lệ giường
bệnh trên 1 vạn dân là 31,94 cao hơn so với bình quân cả nước (30,99/vạn dân).
Vùng DHMT có NNL dồi dào, cần cù, sáng tạo trong lao động, biết vượt khó
để vươn lên. Tuy nhiên, trình độ dân trí, trình độ học vấn, tỷ lệ lao động qua đào tạo
vẫn còn thấp. Tỷ lệ hộ nghèo của một số tỉnh, thành phố vẫn còn cao so với mức
bình quân chung cả nước. Cuối 2015, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước giảm xuống dưới
5%, trong khi tỷ lệ hộ nghèo của một số tỉnh, thành phố như: Quảng Nam 8,9%,
Quảng Bình 7,93%, Phú Yên 7,7%, Quảng Trị 6,92%. Vùng DHMT là vùng đất giàu
truyền thống yêu nước và cách mạng, kiên cường, dũng cảm trong kháng chiến chống
ngoại xâm, cần cù, sáng tạo trong xây dựng phát triển và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
2.1.1.2. Các tỉnh, thành uỷ ở vùng duyên hải miền Trung - chức năng,
nhiệm vụ và đặc điểm
* Khái quát về các đảng bộ tỉnh, thành phố ở vùng duyên hải miền Trung
Đến cuối năm 2015, các đảng bộ tỉnh, thành phố ở vùng DHMT có 155 đảng
bộ trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy, có 6.275 tổ chức cơ sở đảng (giảm 473 TCCSĐ so
với năm 2010). Tổng số đảng viên của 9 đảng bộ tỉnh, thành phố là 447.327 đảng
viên (tăng 94.412 đảng viên so với năm 2010) [Phụ lục 2].
Qua đánh giá, phân loại chất lượng TCCSĐ và đảng viên năm 2015, kết quả cụ
thể như sau: có 59% TCCSĐ đạt trong sạch, vững mạnh, trong đó số TCCSĐ đạt trong
sạch, vững mạnh tiêu biểu chiếm 23%; 34,3% TCCSĐ hoàn thành tốt nhiệm vụ; 6%
TCCSĐ hoàn thành nhiệm vụ; 0,3% TCCSĐ yếu kém. Có gần 13% đảng viên hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ; 76,2% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ; gần 11% đảng
viên hoàn thành nhiệm vụ; 0,4% đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ [Phụ lục 4].
Đại hội đảng bộ tỉnh, thành phố nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã bầu 481 đồng chí vào
BCH [Phụ lục 7]. Chất lượng và cơ cấu của BCH đảng bộ tỉnh, thành phố ở vùng
DHMT nhiệm kỳ 2015 - 2020 như sau:
24
Về trình độ chuyên môn:
Đại học: 256 đồng chí (chiếm 53,3%), giảm 97 đồng chí so với nhiệm kỳ 2010 -
2015; thạc sĩ: 172 đồng chí (chiếm 35,8%), tăng 81 đồng chí so với nhiệm kỳ 2010 -
2015; tiến sĩ: 52 đồng chí (chiếm 10,9%), tăng 8 đồng chí so với nhiệm kỳ 2010 - 2015.
Về trình độ lý luận chính trị:
Cao cấp, cử nhân: 479 đồng chí (chiếm 99,6%); trung cấp: 2 đồng chí (chiếm
0,4%), giảm 02 đồng chí so với nhiệm kỳ 2010 - 2015.
Về độ tuổi:
Dưới 40 tuổi: 42 đồng chí (chiếm 8,8%), tăng 17 đồng chí so với nhiệm kỳ
2010 - 2015; từ 40 - 50 tuổi: 149 đồng chí (chiếm 31%), giảm 47 đồng chí so với
nhiệm kỳ 2010 - 2015; trên 50 tuổi: 290 đồng chí (chiếm 60,3%), tăng 16 đồng chí
so với nhiệm kỳ 2010 - 2015.
Cấp ủy viên nữ: có 49 đồng chí (chiếm 10%), tăng 10 đồng chí so với nhiệm
kỳ 2010 - 2015.
Cấp ủy viên là người dân tộc thiểu số: có 18 đồng chí (chiếm 3,8%), tăng 4
đồng chí so với nhiệm kỳ 2010 - 2015 [Phụ lục 7].
* Chức năng của tỉnh, thành ủy ở vùng duyên hải miền Trung
Điểm 2, Điều 9, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI) quy định: “Cơ
quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại
hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là BCH Trung ương, ở mỗi cấp là BCH đảng bộ,
chi bộ (gọi tắt là cấp ủy)” [25, tr.17].
Như vậy, theo quy định của Điều lệ Đảng, tỉnh, thành ủy là cơ quan lãnh đạo của
đảng bộ tỉnh, thành phố giữa hai kỳ đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh, thành phố. Tỉnh,
thành ủy có Bí thư, các Phó bí thư, ban thường vụ (BTV), Thường trực, các ủy viên
BCH và các cơ quan tham mưu giúp việc như: Ban Tổ chức, Ban Tuyên giáo, Ban Nội
chính, Ban Dân vận, (một số nơi có Ban Kinh tế), Cơ quan ủy ban kiểm tra, Văn phòng
tỉnh, thành ủy.
Từ quy định của Điều lệ Đảng cho thấy, tỉnh, thành ủy có chức năng lãnh đạo. Sự
lãnh đạo của tỉnh, thành ủy được thể hiện trên các mặt: lãnh đạo các tổ chức đảng, đội
ngũ đảng viên của đảng bộ tỉnh, thành phố; lãnh đạo các tổ chức trong HTCT, các tổ
chức kinh tế, xã hội và lãnh đạo các lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn tỉnh, thành
phố. Tỉnh, thành ủy lãnh đạo thông qua việc ban hành các chủ trương, nghị quyết; lãnh
25
đạo chính quyền cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch, các quyết định và tổ chức
thực hiện; lãnh đạo bằng công tác tổ chức, cán bộ, công tác tư tưởng, kiểm tra, giám sát
và định kỳ nghe báo cáo, cho ý kiến chỉ đạo, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm. Sự lãnh
đạo của tỉnh, thành ủy nhằm bảo đảm cho mọi hoạt động của các tổ chức và các lĩnh
vực đời sống xã hội trên địa bàn theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của tỉnh, thành ủy.
* Nhiệm vụ của tỉnh, thành ủy ở vùng duyên hải miền Trung
Tỉnh, thành ủy là cơ quan lãnh đạo của đảng bộ tỉnh, thành phố giữa hai kỳ đại
hội đại biểu của đảng bộ, có những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, nghị quyết
của BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và nghị quyết của Đại hội đảng bộ
tỉnh, thành phố trên địa bàn. Quyết định những vấn đề chiến lược, các chương trình,
kế hoạch, đề án quan trọng trên các lĩnh vực công tác của địa phương.
Thông qua các phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu về phát triển KT-XH, bảo
đảm quốc phòng, an ninh 6 tháng, hàng năm và kế hoạch 5 năm của tỉnh, thành phố.
Quyết định điều chỉnh các chỉ tiêu phát triển KT-XH của tỉnh, thành phố; cho chủ
trương đối với việc điều chỉnh quy hoạch tổng thể, triển khai các dự án đầu tư lớn
trên địa bàn và các cơ chế, chính sách quan trọng có ảnh hưởng lớn đến phát triển
KT-XH, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của tỉnh, thành phố.
Thảo luận và quyết định các báo cáo định kỳ hàng năm và báo cáo bất thường của
ủy ban kiểm tra trong các hội nghị tỉnh, thành ủy; nghe BTV tỉnh, thành ủy báo cáo
những quyết định quan trọng của BTV giữa hai kỳ hội nghị. Lãnh đạo tổng kết đánh giá
việc thực hiện nghị quyết đại hội đảng bộ giữa nhiệm kỳ, đồng thời quyết định các chủ
trương, nhiệm vụ, biện pháp thực hiện nghị quyết trong nửa cuối nhiệm kỳ còn lại.
Lãnh đạo chính quyền, mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh, thành phố;
các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc thực hiện chủ trương, nghị quyết của tỉnh, thành ủy
đề ra. Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của tỉnh, thành ủy. Kiểm tra, giám sát hoạt
động của các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong đảng bộ, trước hết là các tổ chức
đảng trực thuộc và những đảng viên là cán bộ thuộc diện BTV tỉnh, thành ủy quản lý.
26
Lãnh đạo công tác chuẩn bị và quyết định triệu tập đại hội đảng bộ theo nhiệm
kỳ hoặc đại hội bất thường (nếu có). Chuẩn bị nội dung văn kiện và nhân sự cho đại
hội đại biểu đảng bộ tỉnh, thành phố nhiệm kỳ tới.
Lãnh đạo xây dựng quy chế làm việc của BCH, BTV và thường trực tỉnh,
thành ủy; thảo luận và quyết định chương trình công tác của tỉnh, thành ủy cho cả
nhiệm kỳ, hằng năm, hằng quý.
* Đặc điểm của các tỉnh, thành ủy ở vùng duyên hải miền Trung
Một là, trong tỉnh, thành ủy các tỉnh, thành phố vùng DHMT có một số tỉnh
ủy, thành ủy viên đã tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Vùng DHMT là cái nôi của chiến tranh cách mạng. Trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, các tỉnh DHMT là vùng đất của khói lửa chiến tranh, địa bàn mà Mỹ, Ngụy
trực tiếp đóng quân, giữa ta và địch giành nhau từng tấc đất. Sinh ra và lớn lên trong
hoàn cảnh quê hương, đất nước có chiến tranh, theo tiếng gọi của Tổ quốc thế hệ thanh
niên các tỉnh, thành phố vùng DHMT đã tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, người
làm giao liên, người trực tiếp cầm súng ra chiến trường. Sau ngày đất nước được giải
phóng, nhiều người tiếp tục con đường học tập để xây dựng lại quê hương, đất nước.
Trải qua thực tiễn công tác ở địa phương, kinh qua nhiều cương vị khác nhau, một số
đồng chí đã được bầu vào BCH đảng bộ tỉnh, thành phố. Đã trực tiếp tham gia cuộc
kháng chiến ác liệt, trải qua nhiều thử thách, gian nan đã rèn luyện cho các đồng chí
tỉnh ủy, thành ủy viên bản lĩnh chính trị vững vàng, nhiệt tình cách mạng, ý chí quyết
tâm và gắn bó mật thiết với nhân dân; những phẩm chất của anh bộ đội cụ Hồ tiếp tục
được phát huy trong quá trình thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý.
Tuy nhiên, sinh ra trong điều kiện đất nước có chiến tranh, lại phải trực tiếp tham
gia kháng chiến nên các đồng chí không được đào tạo bài bản, các đồng chí đã trải qua
trường học thực tiễn nhưng đó là thực tiễn của thời kỳ chiến tranh. Vì thế trong quá trình
giữ cương vị lãnh đạo, quản lý trong bối cảnh đất nước và thế giới đang diễn biến nhanh
chóng, đất nước đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc
tế. Các lĩnh vực của đời sống xã hội phải lãnh đạo, quản lý rất phong phú, phức tạp,
những cán bộ này có nhiệt tình cách mạng cao nhưng lại thiếu tri thức lý luận, khoa học
lãnh đạo quản lý, vẫn chịu ảnh hưởng của cơ chế quản lý hành chính, tập trung bao cấp
trước đây. Trong lãnh đạo những cán bộ này thường nặng về kinh nghiệm, có khi còn
27
chủ quan, phiến diện, thiếu tư duy đồng bộ, hệ thống. Điều này ảnh hưởng nhất định
đến tầm nhìn trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ, nhất là trong lãnh đạo phát
triển KT-XH nói chung và lãnh đạo phát triển KH&CN, nhân lực KH-CN nói riêng.
Hai là, trình độ học vấn của các tỉnh ủy viên, thành ủy viên ở vùng DHMT
tương đối cao hơn so với các vùng trong cả nước.
Kết quả thống kê trình độ học vấn của ủy viên BCH các đảng bộ tỉnh, thành
phố trong cả nước cho thấy, ở vùng DHMT số ủy viên BCH và ủy viên BTV tỉnh,
thành ủy có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ chiếm tỷ lệ cao hơn so với các vùng khác.
Nhiệm kỳ 2010 - 2015, ủy viên BCH đảng bộ tỉnh, thành phố vùng DHMT trình
độ thạc sĩ có 91 đồng chí (chiếm 18%); có 44 tiến sĩ (chiếm 8,9%). Các tỉnh ở Tây
Nguyên, có 27 ủy viên BCH trình độ thạc sĩ (chiếm 12%) và 7 tiến sĩ (chiếm 3%).
Ủy viên BTV tỉnh ủy, thành ủy vùng DHMT trình độ thạc sĩ có 26 đồng chí
(chiếm 20%); có 17 tiến sĩ (chiếm 13%). Các tỉnh ở Tây Nguyên, có 9 ủy viên BTV
trình độ thạc sĩ (chiếm 16%) và 2 tiến sĩ (chiếm 3,6%).
Nhiệm kỳ 2015 - 2020, ủy viên BCH đảng bộ tỉnh, thành phố vùng DHMT trình
độ thạc sĩ có 172 đồng chí (chiếm 36%); có 52 tiến sĩ chiếm (11%). Các tỉnh Tây
Nguyên, có 58 ủy viên BCH trình độ thạc sĩ (chiếm 27%) và 12 tiến sĩ (chiếm 5,6%); 28
tỉnh, thành phố khu vực miền Bắc có 120 ủy viên BCH trình độ tiến sĩ (chiếm 7,8%); 21
tỉnh, thành phố khu vực miền Nam có 51 ủy viên BCH trình độ tiến sĩ (chiếm 4,6%).
Ủy viên BTV tỉnh ủy, thành ủy vùng DHMT trình độ thạc sĩ có 49 đồng chí
(chiếm 36%); có 21 tiến sĩ (chiếm 16%). Các tỉnh ở Tây Nguyên, có 15 ủy viên BTV
trình độ thạc sĩ (chiếm 26%) và 2 tiến sĩ (chiếm 3,6%); 28 tỉnh, thành phố khu vực
miền Bắc có 47 ủy viên BTV trình độ tiến sĩ (chiếm 11%); 21 tỉnh, thành phố khu
vực miền Nam có 21 ủy viên BTV trình độ tiến sĩ (chiếm 6,7%) [Phụ lục 9].
Như vậy, với một tỷ lệ tương đối khá cao ủy viên BCH, ủy viên BTV tỉnh ủy,
thành ủy có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ đây là điều kiện, tiền đề quan trọng để các tỉnh,
thành ủy vùng DHMT lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN.
Ba là, phần lớn tỉnh ủy viên, thành ủy viên và ủy viên BTV tỉnh, thành ủy tuổi
cao, tỷ lệ cán bộ nữ, người dân tộc thiểu số thấp.
Kết quả thống kê cho thấy, nhiệm kỳ 2010 - 2015 ủy viên BCH đảng bộ tỉnh,
thành phố vùng DHMT độ tuổi trên 50 có 274 đồng chí, (chiếm 55,3%), ủy viên BTV
trên 50 tuổi có 93 đồng chí (chiếm 70%) [Phụ lục 5, 6]. Nhiệm kỳ 2015 - 2020, ủy viên
28
BCH trên 50 tuổi có 290 đồng chí (chiếm 60,2%); ủy viên BTV trên 50 tuổi có 96 đồng
chí (chiếm 71%) [Phụ lục 7, 8]. Trong khi đó, nhiệm kỳ 2010 - 2015, ủy viên BCH
dưới 40 tuổi chỉ có 25 đồng chí (chiếm 5%), ủy viên BTV có 3 đồng chí (chiếm 2,3%);
nhiệm kỳ 2015 - 2020, ủy viên BCH dưới 40 tuổi có 42 đồng chí (chiếm 8,8%), ủy
viên BTV dưới 40 tuổi có 4 đồng chí (chiếm 2,3%).
Ủy viên BCH đảng bộ tỉnh, thành phố vùng DHMT là nữ: nhiệm kỳ 2010 -
2015 có 39 đồng chí (chiếm 7,9%), ủy viên BTV có 7 đồng chí (chiếm 5,2%) [Phụ
lục 5, 6]; nhiệm kỳ 2015 - 2020, có 49 đồng chí (chiếm 10%), ủy viên BTV có 11
đồng chí (chiếm 8,1%) [Phụ lục 7, 8]. Nếu so sánh với khu vực miền Bắc cho thấy
có sự chênh lệch khá lớn, cụ thể: 28 tỉnh, thành phố ở khu vực miền Bắc, ủy viên
BCH đảng bộ tỉnh, thành phố là nữ chiếm 14%. [Phụ lục 10].
Ủy viên BCH đảng bộ tỉnh, thành phố vùng DHMT là người dân tộc thiểu số:
nhiệm kỳ 2010 - 2015: ủy viên BCH có 14 đồng chí (chiếm 2,9%), ủy viên BTV có 3
đồng chí (chiếm 2,3%). Nhiệm kỳ 2015 - 2020, ủy viên BCH có 18 đồng chí (chiếm
3,8%), ủy viên BTV có 4 đồng chí (chiếm 2,3%). Trong khi đó, 28 tỉnh, thành phố khu
vực miền Bắc, ủy viên BCH là người dân tộc thiểu số chiếm đến 20,4% và 21 tỉnh,
thành phố khu vực miền Nam, ủy viên BCH là dân tộc thiểu số chiếm 13% [Phụ lục
10]. Với đặc điểm trên ít nhiều có ảnh hưởng đến tiếng nói của cán bộ nữ và cán bộ
người dân tộc thiểu số trong BCH trong các quyết định lãnh đạo.
Bốn là, đa số tỉnh ủy viên, thành ủy viên và ủy viên BTV tỉnh, thành ủy là
người địa phương.
Đặc điểm này vừa mang lại những thuận lợi, vừa có những khó khăn, trở ngại
trong quá trình lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy. Mặt thuận lợi, là người địa phương
nên các đồng chí ủy viên BCH có điều kiện am hiểu sâu tình hình, đặc điểm về văn
hóa, con người, truyền thống, phong tục tập quán, điều kiện tự nhiên, những tiềm
năng lợi thế.v.v.. của địa phương, từ đó có cơ sở để đề ra các chủ trương, chính
sách, các giải pháp sát với thực tiễn. Mặt khác, đặc điểm này cũng là điều kiện
thuận lợi trong quá trình tiến hành công tác tư tưởng, công tác dân vận. Tuy nhiên,
là người địa phương thường có các mối quan hệ làng xã, dòng họ, thân quen.v.v..
nên không tránh khỏi có những lúc, những nơi đã chi phối đến hoạt động lãnh đạo,
quản lý làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công việc.
Năm là, các tỉnh ủy viên, thành ủy viên có phong cách giản dị, gần gủi với quần
chúng nhân dân.
29
Trong công tác quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới, giữa cán bộ với nhân dân,
người cán bộ lãnh đạo, quản lý rất gần gũi, dân dã, thật lòng, tính cách bộc trực,
thẳng thắn. Tuy nhiên, trong lãnh đạo, quản lý nhiều khi quá cứng nhắc, thiếu sự
mềm dẻo, linh hoạt. Tư duy lãnh đạo thích ổn định, giữ nguyên trạng, có khi bảo
thủ vì thế thiếu sự đột phá, sáng tạo.
Sáu là, các tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT đang lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
phát triển KT-XH, quốc phòng, an ninh gắn liền với vùng Biển Đông rộng lớn.
Đặc điểm của vùng DHMT là tất cả các tỉnh, thành phố đều tiếp giáp với Biển
Đông, hơn nữa một số đảo, quần đảo còn thuộc đơn vị hành chính của địa phương. Với
gần 1.000 km bờ biển, là cửa ngõ chính ra Biển Đông đây là điều kiện thuận lợi để các
tỉnh, thành ủy lãnh đạo khai thác tiềm năng, thế mạnh phát triển KT-XH, KH&CN và
phát triển nhân lực KH-CN. Tuy nhiên, tiếp giáp với vùng Biển Đông rộng lớn, trong
quá trình lãnh đạo các tỉnh, thành ủy gặp phải không ít những khó khăn, thách thức như:
ảnh hưởng của bão, nước biển dâng, sạt lở ven biển, ô nhiễm môi trường, nhất là vấn đề
tranh chấp về chủ quyền biển, đảo trên Biển Đông đe dọa đến hòa bình, ổn định, an
ninh, an toàn hàng hải. Tất cả những khó khăn, thách thức đó tác động đến quá trình
lãnh đạo phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ chủ quyền biển,
đảo. Làm thế nào để khai thác tiềm năng, thế mạnh kinh tế biển, nhất là để phát triển
một nền kinh tế biển vững chắc, lâu dài mang tầm chiến lược; làm thế nào để bảo vệ,
giữ vững an ninh, quốc phòng vùng biển, đảo trong tình hình Biển Đông hết sức phức
tạp. Tất cả những vấn đề đó cần được các tỉnh, thành ủy đặt trong tổng thể chiến lược
phát triển NNL, trong đó có phát triển nhân lực KH-CN của các tỉnh, thành phố.
2.1.2. Nhân lực khoa học - công nghệ ở các tỉnh, thành phố vùng duyên
hải miền Trung - khái niệm, vai trò và đặc điểm
2.1.2.1. Khái niệm khoa học - công nghệ và nhân lực khoa học - công nghệ
* Khái niệm khoa học - công nghệ
Khoa học - công nghệ là hai khái niệm khác nhau, nhưng chúng có mối quan hệ
chặt chẽ, tương tác, hỗ trợ lẫn nhau trong mối quan hệ cộng sinh, nương tựa lẫn nhau.
Chính vì vậy người ta thường sử dụng trong một khái niệm kép “khoa học và công
nghệ” hay “khoa học-công nghệ” và thường gọi tắt bằng từ khoa học. Thuật ngữ “khoa
học-công nghệ” hay “khoa học và công nghệ” có nội hàm giống nhau, liên từ “và” và
30
dấu gạch nối (-) thể hiện mối quan hệ hữu cơ giữa KH&CN. Trong các nghị quyết của
Đảng và nhiều công trình khoa học hai khai niệm này được sử dụng thay thế lẫn nhau.
Khái niệm khoa học: có thể được định nghĩa theo nhiều cách tiếp cận tùy
thuộc mục đích sử dụng. Ở đây “khoa học” được hiểu là hệ thống tri thức được khái
quát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm, phản ánh bản chất, quy luật tồn tại
và phát triển của sự vật, hiện tượng, xã hội và tư duy.
Khái niệm công nghệ: hiện còn có nhiều quan niệm khác nhau. Tác giả thống nhất
với cách hiểu: Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc
không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm [69].
Nói đến công nghệ các nhà khoa học cho rằng gồm có 4 thành phần cơ bản tác
động qua lại với nhau: (1) Phần thiết bị bao gồm các thiết bị máy móc, khí cụ, nhà
xưởng; (2) Phần con người là yếu tố then chốt của công nghệ, bao gồm kiến thức nghề
nghiệp, kỹ năng, kinh nghiệm, khả năng tiếp thu và vận dụng, ý thức tổ chức kỷ luật…;
(3) Phần thông tin gồm các bí quyết, các quy trình, các phương pháp, các dữ liệu,
các bản thiết kế…; (4) Phần tổ chức gồm bố trí, sắp xếp điều phối, quản lý, tiếp thị…
Bốn thành phần của công nghệ liên quan chặt chẽ và tương tác với nhau, trong
đó con người đóng vai trò trung tâm.
Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ
Một thời kỳ dài trong lịch sử giữa KH&CN có sự tách biệt, khá độc lập với nhau.
Bằng chứng là ở thời Hy Lạp và La Mã cổ đại có rất nhiều công nghệ trong nông nghiệp,
luyện kim, kiến trúc, hàng hải… nhưng các nhà khoa học cho rằng thì sự ra đời của các
công nghệ đó có rất ít sự đóng góp của khoa học. Trong khi đó, cũng có nhiều lý
luận độc lập về thế giới tự nhiên được hình thành từ các nguyên tắc lý tưởng hơn là
dựa trên các trải nghiệm thực tế. Các sáng chế vĩ đại của người Trung Hoa như La
Bàn, thuốc súng, giấy viết, nghề in hoặc đồng hồ cát ra đời dường như độc lập với
các khoa học và triết học.
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại, sự phát triển của KH&CN đã có
sự tương tác, bổ sung cho nhau. Chính công nghệ đã cung cấp các phương tiện, công cụ
cho nghiên cứu khoa học và trong quá trình sáng tạo ra các phương pháp mới trong công
nghệ lại thúc đẩy nhu cầu nghiên cứu khoa học để tìm ra các lý thuyết khoa học mới.
Ngược lại, tri thức khoa học là nguồn cung cấp để hình thành các tri thức công nghệ.
31
Ngày nay, khoảng cách giữa KH&CN ngày càng được rút ngắn, thời gian để đi từ
lý thuyết khoa học đến nghiên cứu ứng dụng tạo ra các sản phẩm công nghệ có thể tính
bằng năm thay vì phải mất vài thập kỷ, thậm chí là vài thế kỷ như trong lịch sử trước đây.
Như vậy, KH&CN có mối quan hệ tương tác, hỗ trợ lẫn nhau và nhờ đó chúng
ngày càng phát triển. Khoa học phải dựa vào công nghệ để khám phá những chân trời
mới của tự nhiên, xã hội và tư duy. Ngược lại công nghệ phải được sản sinh từ khoa
học. Nếu khoa học không có công nghệ thì chỉ là “khoa học tháp ngà” và công nghệ
không có khoa học thì chỉ là “công nghệ hạ tầng”.
* Khái niệm nhân lực khoa học - công nghệ
Đại từ điển Tiếng Việt định nghĩa “nhân lực: sức người dùng trong sản xuất:
huy động nhân lực, sử dụng nhân lực hợp lý” [166, tr.1239].
Như vậy, nhân lực chính là sức người được huy động vào trong lao động sản
xuất để tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội.
Hiện nay, khái niệm nhân lực KH-CN đang có nhiều cách hiểu khác nhau.
Trên thế giới có 2 cách tiếp cận phổ biến về nhân lực KH-CN.
Nhân lực KH-CN được mô tả trong cuốn “Cẩm nang về đo lường nguồn nhân
lực khoa học và công nghệ”, của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD),
xuất bản năm 1995 tại Paris cho rằng, nhân lực KH-CN gồm những người đáp ứng
được một trong những điều kiện như: đã tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng về một
lĩnh vực KH&CN; tuy chưa đạt được điều kiện trên, nhưng làm việc trong một lĩnh
vực KH&CN đòi hỏi phải có trình độ tương đương.
Đây là khái niệm nhân lực KH-CN theo nghĩa rộng, có thể hiểu nhân lực KH
- CN bao gồm những người:
Một là, đã tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng và làm việc trong một ngành KH&CN;
Hai là, đã tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng nhưng không làm việc trong một ngành
KH&CN nào; Ba là, chưa tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng, nhưng làm một công
việc trong một lĩnh vực KH&CN đòi hỏi trình độ tương đương.
Ngoài khái niệm trên, các nước thường sử dụng khái niệm hẹp hơn là nhân lực
nghiên cứu và phát triển (NC&PT) để thể hiện lực lượng lao động KH&CN. Nhân
lực NC&PT gồm những người trực tiếp tham gia vào hoạt động NC&PT hoặc trực
tiếp hỗ trợ hoạt động NC&PT. Nhân lực NC&PT được chia thành 3 nhóm:
Nhóm thứ nhất, gồm cán bộ nghiên cứu (nhà nghiên cứu, nhà khoa học, kỹ
sư nghiên cứu): là những cán bộ chuyên nghiệp có trình độ cao đẳng, đại học, thạc
32
sĩ, tiến sĩ hoặc không có văn bằng chính thức, song làm các công việc tương đương
như nhà nghiên cứu, nhà khoa học tham gia vào quá trình sáng tạo ra tri thức, sản
phẩm và quy trình mới, tạo ra phương pháp và hệ thống mới.
Nhóm thứ hai, gồm nhân viên kỹ thuật và tương đương: nhóm này bao gồm
những người thực hiện những công việc đòi hỏi phải có kinh nghiệm và hiểu biết kỹ
thuật trong những lĩnh vực KH&CN. Họ tham gia vào NC&PT bằng việc thực hiện
những nhiệm vụ khoa học và kỹ thuật có áp dụng những khái niệm và phương pháp
vận hành dưới sự giám sát của các nhà nghiên cứu.
Nhóm thứ ba, gồm nhân viên phụ trợ trực tiếp NC&PT: bao gồm nhân viên
hành chính, văn phòng tham gia vào các dự án NC&PT. Trong nhóm này gồm có cả
những người làm việc liên quan đến nhân sự, tài chính và hành chính trực tiếp phục
vụ công việc NC&PT của tổ chức NC&PT.
Như vậy, nhân lực KH-CN và nhân lực NC&PT sẽ khác nhau về mặt số
lượng. Nhân lực NC&PT bị giới hạn hơn so với nhân lực KH-CN, bởi vì nó loại trừ
những người ở thời điểm hiện tại không tham gia vào các hoạt động NC&PT.
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) cũng
đưa ra khái niệm liên quan đến nhân lực trong lĩnh vực KH&CN là: “tổng số nhân lực
có trình độ” và “số nhân lực có trình độ hiện đang công tác”. Theo UNESCO “tổng số
nhân lực có trình độ” được xem xét như một đại lượng đo lường nhân lực KH-CN, bởi
vì qua đó có thể biết được tổng số những người được đào tạo để có năng lực trở thành
nhà khoa học và kỹ sư, bất kể hiện tại họ có làm việc theo năng lực này hay không.
Nói cách khác, đại lượng này thể hiện cho tiềm năng về nhân lực KH-CN của một
quốc gia. Còn thống kê “số nhân lực có trình độ hiện đang công tác” phản ánh số
lượng cán bộ thực sự đang làm việc theo năng lực của họ (có hoặc không làm trong
lĩnh vực KH&CN) và đang đóng góp cho các hoạt động kinh tế của một đất nước.
Trên cơ sở này, UNESCO đã đưa ra sự phân biệt tương đối giữa các khái niệm
nhân lực trong lĩnh vực KH&CN đó là: nhân lực trong lĩnh vực KH&CN không đơn
giản là phép tính cộng tổng đầu người, mà bên cạnh việc đếm đầu người cần phải tính
đến yếu tố khác như: quy đổi thời gian làm việc và các đặc trưng lao động của họ.
Khuyến nghị của OECD và UNESCO được nhiều quốc gia áp dụng để chỉ lực lượng
lao động KH-CN của nước mình và thực hiện các chính sách đối với lực lượng này.
33
Các nghiên cứu ở Việt Nam đang có nhiều quan niệm khác nhau về nhân lực
KH-CN. Tựu trung lại có thể phân thành hai loại ý kiến. Một số quan niệm cho
rằng, nhân lực KH-CN là toàn bộ những người được đào tạo để có năng lực tiến
hành các hoạt động KH&CN bất kể hiện tại họ có thực hiện hoạt động này hay
không. Một số quan niệm khác lại cho rằng, nhân lực KH-CN là những người trực
tiếp tham gia vào các hoạt động KH&CN. Có thể đơn cử một số quan niệm sau đây:
Theo cuốn Sách Khoa học và Công nghệ Việt Nam 1999-2000, nhân lực KH-
CN được hiểu là toàn bộ lực lượng lao động xã hội trực tiếp góp phần tạo ra sự tiến
bộ của KH&CN, nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất, đời sống và tiến bộ xã hội. Đội
ngũ nhân lực KH-CN gồm các loại nhân lực tham gia vào các hoạt động KH&CN
như: nghiên cứu sáng tạo; giảng dạy khoa học công nghệ; quản lý; khai thác và sử
dụng công nghệ; trực tiếp tác nghiệp, vận hành thiết bị, máy móc [9, tr.49]
TS. Phạm Văn Mợi cho rằng: nhân lực KH&CN là toàn bộ người lao động
tham gia hoặc có khả năng tham gia vào các hoạt động KH&CN mà trực tiếp nhất là
những người tham gia nghiên cứu khoa học, sáng tạo, ứng dụng, chuyển giao công
nghệ phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước [58, tr.36].
Đồng quan điểm với quan niệm trên, Phạm Văn Quý và TS.Trần Xuân Định
cho rằng: nhân lực KH&CN là tập hợp những nhóm người tham gia (hoặc có khả
năng tham gia) vào các hoạt động KH&CN với các chức năng nghiên cứu, sáng tạo,
giảng dạy, quản lý, khai thác, sử dụng và tác nghiệp [70, tr.35].
Đặng Bá Lãm và Trần Khánh Đức cho rằng:
Theo cách hiểu chung nhất, nhân lực KH-CN là bộ phận của lực lượng lao
động xã hội được đào tạo ở những trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất định
và tham gia trực tiếp (hay gián tiếp) vào các hoạt động KH-CN từ nghiên cứu,
triển khai đến đào tạo, quản lý và vận hành các hệ thống công nghệ. Đội ngũ
nhân lực KH-CN có nhiều mức trình độ đào tạo khác nhau từ công nhân kỹ
thuật, nhân viên nghiệp vụ đến đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật viên, chuyên gia có
trình độ đại học và sau đại học [47, tr.9].
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, các lực lượng tham gia hoạt động KH&CN
nước ta gồm 5 thành phần chủ yếu: cán bộ nghiên cứu trong các viện, trường đại học;
cán bộ kỹ thuật, công nghệ (kỹ thuật viên, kỹ sư, kỹ sư trưởng, tổng công trình sư) làm
việc trong các doanh nghiệp; các cá nhân thuộc mọi tầng lớp xã hội yêu thích khoa học
34
kỹ thuật, có sáng kiến cải tiến, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào đời sống; cán bộ quản lý
các cấp (kể cả quản lý doanh nghiệp) tham gia hoặc chỉ đạo công việc nghiên cứu phục
vụ hoạch định các quyết sách, quyết định quan trọng trong thẩm quyền của mình; trí thức
người Việt Nam ở nước ngoài và các chuyên gia nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy về mặt khái niệm nhân lực KH-CN chưa có sự thống nhất
cao. Song, qua quá trình nghiên cứu tác giả luận án đưa ra quan niệm: nhân lực khoa
học-công nghệ của một địa phương, vùng lãnh thổ hay của một quốc gia là toàn bộ
những người tham gia (hoặc có khả năng tham gia) vào các hoạt động khoa học và
công nghệ với các chức năng nghiên cứu, sáng tạo, giảng dạy, quản lý, khai thác, sử
dụng và tác nghiệp…tạo ra những thành tựu khoa học và công nghệ.
Nhân lực KH-CN là một bộ phận của NNL của một quốc gia hay địa phương.
Đây là lực lượng lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ thuật tay nghề
cao; có khả năng nghiên cứu, sáng tạo ra những sản phẩm KH&CN; cải tiến, ứng
dụng công nghệ; khai thác, sử dụng các máy móc, thiết bị, phương tiện kỹ thuật để
thực hiện những nhiệm vụ được giao đảm nhận.
Hoạt động KH&CN là hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và triển
khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ KH&CN,
phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác nhằm phát triển KH&CN.
Nghiên cứu khoa học là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy
luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải pháp nhằm ứng
dụng vào thực tiễn.
Phát triển công nghệ là hoạt động sử dụng kết quả nghiên cứu cơ bản, nghiên
cứu ứng dụng, thông qua việc triển khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm để
hoàn thiện công nghệ hiện có, tạo ra công nghệ mới.
Dịch vụ KH&CN là hoạt động phục vụ, hỗ trợ kỹ thuật cho việc nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ; hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công
nghệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, an
toàn bức xạ, hạt nhân và năng lượng nguyên tử; dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo,
bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng thành tựu KH&CN trong các lĩnh vực KT-XH [69].
* Phân loại nhân lực khoa học - công nghệ
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động KH&CN, có thể thấy nhân lực KH-CN gồm 5 nhóm
chính: nhân lực khoa học tự nhiên, nhân lực khoa học kỹ thuật và công nghệ, nhân lực
khoa học xã hội và nhân văn, nhân lực khoa học y - dược, nhân lực khoa học nông nghiệp.
35
Nhân lực khoa học tự nhiên: gồm những người được đào tạo chuyên môn đang
hoạt động hoặc những cá nhân có năng lực tham gia làm việc trong lĩnh vực toán học,
lý học, hóa học, sinh học… như giảng viên đào tạo các môn khoa học tự nhiên, các
nhà nghiên cứu về các lĩnh vực khoa học tự nhiên, các kỹ sư hóa học, vật lý học…
Nhân lực khoa học kỹ thuật và công nghệ: gồm những người được đào tạo
chuyên môn hoặc có năng lực tương đương trong lĩnh vực cơ khí, kỹ thuật chế tạo,
điện tử, xây dựng, kiến trúc… Như các kỹ sư chế tạo máy, kiến trúc sư. Đây là lực
lượng chính nghiên cứu, sáng tạo, vận hành các loại máy móc, trang thiết bị kỹ
thuật, cải tiến máy móc công nghiệp.
Nhân lực khoa học xã hội và nhân văn: gồm những cá nhân được đào tạo chuyên
môn hoặc năng lực tương đương đang tham gia làm việc hoặc có khả năng làm việc
trong lĩnh vực nghiên cứu như: tâm lý học, báo chí, ngôn ngữ, triết học, lịch sử, địa lý…
Nhân lực khoa học y - dược: gồm những cá nhân được đào tạo chuyên môn
đang tham gia làm việc và có khả năng làm việc trong lĩnh vực y học, dược học
như: các bác sĩ, y tá, các chuyên viên bào chế thuốc, dược sĩ, những cá nhân được
đào tạo chuyên môn tại các trường học về y, dược…
Nhân lực khoa học nông nghiệp: gồm những người đã qua đào tạo chuyên
môn hoặc có năng lực tương đương tham gia các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo,
triển khai trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm tạo ra những giống cây trồng, vật nuôi,
phát minh và đưa những cải tiến về máy móc nông nghiệp mới vào hoạt động, nâng
cao năng suất và chất lượng cho nông sản.
Bên cạnh năm lĩnh vực KH&CN chính, hiện nay còn xuất hiện một số lĩnh vực
KH&CN mới: khoa học năng lượng, khoa học vật liệu mới, công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học… các lĩnh vực KH&CN này là sự giao thoa của các lĩnh vực
KH&CN cơ bản nói trên.
Nhân lực KH-CN bao gồm nhiều lực lượng, trong đó bộ phận đầu tàu, có vai
trò rất quan trọng đối với nền KH&CN của nước nhà cũng như từng tổ chức
KH&CN là các chuyên gia KH-CN, nhà khoa học đầu ngành.
Chuyên gia khoa học - công nghệ: là người có hiểu biết sâu rộng và kinh
nghiệm nghiên cứu trong một hoặc nhiều lĩnh vực KH&CN, đáp ứng các tiêu chí
theo quy định tại Quyết định số 588/QĐ-BKHCN, ngày 31/3/2014 của Bộ Khoa
học và Công nghệ về việc xây dựng, quản lý và sử dụng cơ sở dữ liệu chuyên gia.
36
Nhà khoa học đầu ngành: là những người đáp ứng đồng thời các tiêu chuẩn
được quy định tại Nghị định số 40/2014/NĐ-CP ngày 12/5/2014 của Chính phủ Quy
định việc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động KH&CN.
2.1.2.2. Vai trò của nhân lực khoa học - công nghệ đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội của các tỉnh, thành phố vùng duyên hải miền Trung
Nhân lực KH-CN có vai trò hết sức quan trọng đối với sự nghiệp đẩy mạnh CNH,
HĐH, phát triển KT-XH và hội nhập quốc tế của các tỉnh, thành phố vùng DHMT.
Nhân lực KH-CN và tri thức khoa học không chỉ thiết yếu đối với phát triển của
KH&CN mà còn là vốn trí tuệ quý báu, sức mạnh của một quốc gia, địa phương trong
hội nhập quốc tế. Bởi suy đến cùng tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội đều cần đến
KH&CN mà chủ thể chính nghiên cứu sáng tạo là nhân lực KH-CN. Thực tế thế giới
cho thấy, nước nào có đội ngũ nhân lực KH-CN mạnh thì sẽ có nền KH&CN phát triển
và nước đó sẽ phát triển. Vai trò của nhân lực KH-CN đối với sự phát triển KT-XH của
các tỉnh, thành phố vùng DHMT được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
Một là, nhân lực KH-CN là lực lượng chủ yếu, trực tiếp tạo nên sự phát triển
của KH&CN của các địa phương trong vùng.
Những thành tựu về KH&CN mà các tỉnh, thành phố có được là nhờ vào nhân lực
KH-CN trên địa bàn. Đây là lực lượng tiên phong và chủ yếu NC&PT tạo ra những sản
phẩm KH&CN trên các lĩnh vực (khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa
học nông nghiệp, khoa học y - dược, khoa học kỹ thuật và công nghệ); đồng thời họ
cũng là những người khảo nghiệm và ứng dụng những thành tựu KH&CN vào sản xuất,
kinh doanh và đời sống, thúc đẩy KT-XH phát triển và phục vụ cuộc sống con người.
Hai là, nhân lực KH-CN là nhân tố rất quan trọng nâng cao hiệu quả chuyển
giao công nghệ từ các nước tiên tiến vào các tỉnh, thành phố vùng DHMT.
Trong điều kiện nền KH&CN của nước ta nói chung còn chưa phát triển, chúng ta
phải dựa vào những thành tựu KH&CN thế giới bằng phương thức chuyển giao công
nghệ từ các nước phát triển thông qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên,
hiệu quả của hoạt động chuyển giao công nghệ phụ thuộc rất lớn vào trình độ của đội ngũ
lao động, đặc biệt là nhân lực KH-CN. Chính nhân lực KH-CN trên địa bàn các tỉnh,
thành phố là lực lượng đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp nhận chuyển giao công
nghệ tiên tiến, thẩm định và ứng dụng vào thực tiễn, phục vụ cho quá trình CNH, HĐH và
phát triển KT-XH của địa phương. Hoạt động chuyển giao công nghệ từ các nước phát
triển thường đem đến cho các địa phương những công nghệ mới. Vì vậy, nếu người lao
37
động không hiểu biết về công nghệ đó thì sẽ không vận hành được máy móc, thậm chí có
thể làm hỏng máy móc. Chính nhân lực KH-CN làm tăng khả năng ứng dụng những công
nghệ mới của thế giới vào thực tiễn các địa phương thông qua việc học tập tiếp thu những
tri thức, kỹ thuật từ các nước chuyển giao công nghệ, họ sẽ tiếp tục làm nhiệm vụ đào tạo,
tập huấn cho đội ngũ lao động của địa phương để vận hành máy móc, thiết bị đó. Mặt
khác, nhân lực KH-CN còn góp phần vào việc cải tiến công nghệ nước ngoài cho phù hợp
với điều kiện cụ thể của địa phương, nhờ đó nâng cao hiệu quả của công nghệ.
Ba là, nhân lực KH-CN là lực lượng quan trọng đóng góp ý kiến xây dựng các
luận cứ khoa học về sự phát triển mọi mặt của địa phương; tư vấn, phản biện, giám
định xã hội các chủ trương, chương trình, dự án về phát triển KT, KH&CN, giáo dục
và đào tạo… của địa phương.
Nhân lực KH-CN là lực lượng quan trọng đóng góp ý kiến xây dựng các luận cứ
khoa học giúp đảng bộ, chính quyền địa phương có cơ sở khoa học và thực tiễn để ban
hành các chủ trương, chiến lược, chương trình, kế hoạch, chính sách phát triển KT-XH.
Đồng thời, đây cũng là lực lượng có vai trò tham gia tư vấn, phản biện và giám định xã
hội đối với chương trình, dự án về phát triển KT, KH&CN, giáo dục và đào tạo, bảo vệ
môi trường, chính sách xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức.
Bốn là, nhân lực KH-CN là lực lượng nòng cốt trong thực hiện đường lối, chính
sách, nhất là trên lĩnh vực phát triển KH&CN, đào tạo, bồi dưỡng phát triển NNL cho
các địa phương và cả nước, đưa KH&CN đến với các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp...
Đây là lực lượng nòng cốt thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước,
nhất là trên lĩnh vực phát triển KH&CN, phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, phát
triển KT-XH. Đội ngũ này còn là một trong những lực lượng quyết định chất lượng,
hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng phát triển NNL cho các địa phương và cả nước. Thực tế
cho thấy, phần lớn nhân lực KH-CN ở các tỉnh, thành phố vùng DHMT đều công tác,
làm việc tại các trường đại học, cao đẳng và các viện nghiên cứu, là những cơ sở có
chức năng, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng NNL cung cấp cho các địa phương và cả nước.
Nhân lực KH-CN là những người có vai trò rất lớn trong việc phổ biến rộng rãi tri
thức KH&CN, đưa KH&CN vào đời sống, đến với các tầng lớp nhân dân, doanh
nghiệp, qua đó góp phần nâng cao trình độ hiểu biết về KH&CN và kỹ thuật sản
xuất giúp nhân dân, doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều sản
phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Năm là, nhân lực KH-CN là một trong những nhân tố quyết định sự thành công
của CNH, HĐH, phát triển nhanh, bền vững của các tỉnh, thành phố trong vùng.
38
Các tỉnh, thành phố vùng DHMT đang đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển
kinh tế tri thức để có thể đi tắt, đón đầu sớm trở thành tỉnh, thành phố công nghiệp theo
hướng hiện đại. CNH, HĐH ở nước ta nói chung cũng như ở các tỉnh, thành phố vùng
DHMT nói riêng là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ
biến sức lao động được đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương
pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. CNH, HĐH cũng là
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành sản xuất có hàm
lượng KH&CN cao, giá trị gia tăng cao. Tất cả các quá trình đó đều phải dựa vào NNL
chất lượng cao và ứng dụng những thành tựu của KH&CN vào các ngành, các lĩnh vực.
Sự phát triển của các tỉnh, thành phố vùng DHMT phụ thuộc rất lớn vào việc khai
thác và sử dụng các nguồn lực như nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực về cơ
sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực xã hội (dân trí, nền văn hóa, phong tục tập quán, sự đồng
thuận xã hội,..), nguồn lực tài chính và NNL, nhất là NNL chất lượng cao. Trong tất cả
các nguồn lực trên thì NNL, nhất là nhân lực KH-CN là quan trọng, quyết định nhất để
tạo nên sự phát triển. Nguồn lực tài nguyên sẽ cạn kiệt dần theo quá trình khai thác và
sử dụng. Duy chỉ có nguồn vốn nhân lực là có xu hướng phát triển. Và chỉ thông qua
nguồn lực con người thì các nguồn lực khác mới phát huy được tác dụng và ý nghĩa của
nó. Nếu thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con người thì mọi nguồn lực khác
đều vô nghĩa. Với ý nghĩa đó, NNL, nhất là nhân lực KH-CN là yếu tố quyết định đối
với sự phát triển nhanh, bền vững của các tỉnh, thành phố vùng DHMT.
2.1.2.3. Đặc điểm của nhân lực khoa học - công nghệ ở các tỉnh, thành phố
vùng duyên hải miền Trung
Thứ nhất, nhân lực KH-CN ở các tỉnh, thành phố vùng DHMT có đức tính
hiếu học, cần cù lao động.
Con người là sản phẩm của hoàn cảnh. Mỗi một dân tộc, mỗi một cộng đồng
người sinh ra đều chịu sự chi phối của điều kiện về địa lý, môi trường, lịch sử, kinh tế,
văn hóa, xã hội… nghĩa là tất cả những điều kiện, hoàn cảnh mà cộng động người đang
sinh sống, thực hiện các hoạt động sống, tham gia vào các mối quan hệ xã hội. Vùng
DHMT có điều kiện tự nhiên rất khắc nghiệt, dự dặn, thiên nhiên luôn thách đố khả
năng, tài sức chinh phục của con người nơi đây. Nói đến các tỉnh DHMT là nói đến
vùng đất nghèo khó, đất cằn, sỏi đá và cát trắng, KT-XH chậm phát triển, một bộ phận
39
lớn dân cư làm nông nghiệp và đi biển. Sống trong điều kiện hoàn cảnh đó buộc con
người phải vươn lên để tồn tại và đã tôi luyện cho con người vùng DHMT nói chung,
và nhân lực KH-CN nói riêng đức tính cần cù lao động, chịu đựng gian khổ, nỗ lực
vượt khó vươn lên. Văn hóa hiếu học của con người vùng DHMT, đặc biêt được thể
hiện rõ nét ở nhân lực KH-CN từ bao đời nay cũng bắt nguồn từ môi trường, điều kiện
của vùng. Chính sống trong môi trường điều kiện khó khăn, người dân vùng DHMT,
nhất là nhân lực KH-CN đã lấy sự học làm đầu, chỉ bằng con đường học tập để thoát
nghèo, vươn lên lập thân, lập nghiệp. Sự hiếu học đã trở thành giá trị văn hóa và cội
nguồn sức mạnh của vùng DHMT, nó được tiếp nối từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Thứ hai, nhân lực KH-CN ở các tỉnh, thành phố vùng DHMT giàu lòng yêu
nước, yêu quê hương, có tinh thần dân tộc cao.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vùng DHMT phải gánh
chịu nhiều hậu quả nặng nề nhất, vì đây là nơi chiến tranh diễn ra ác liệt nhất. Cuộc vật
lộn qua bao thử thách của chiến tranh đã rèn đúc cho nhân lực KH-CN tinh thần yêu
nước, yêu quê hương, tinh thần bất khuất, kiên cường. Nơi đây đã sản sinh ra nhiều
trí thức lớn mà tên tuổi của họ còn vang danh hậu thế như cụ Phan Châu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Thái Phiên, Đào Duy Từ, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, Đại tướng Đoàn Khuê.v.v… những con người rất yêu nước, thương
dân, luôn trăn trở trước vận mệnh của đất nước, của dân tộc. Cả cuộc đời họ đã vì
nước, vì dân. Tinh thần yêu nước, yêu quê hương của các thế hệ trước tiếp tục được
giáo dục, trao truyền cho thế hệ trí thức mai sau. Được sinh ra và lớn lên trên mảnh
đất quê hương giàu truyền thống cách mạng, tiếp nối truyền thống lịch sử, ngày nay
nhân lực KH-CN vùng DHMT vẫn thể hiện được những phẩm chất đáng quý của
các thế hệ cha anh đi trước. Yêu nước, yêu quê hương họ luôn nỗ lực phấn đấu học
tập, lao động, sáng tạo, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát triển quê hương,
đất nước. Họ biết kế thừa những giá trị tốt đẹp của cha ông và tiếp thu tinh hoa của
thế giới, biết phê phán những gì cản trở sự phát triển của dân tộc.
Thứ ba, nhân lực KH-CN ở các tỉnh, thành phố vùng DHMT còn phân tán,
manh mún, vừa thiếu tính liên kết hợp tác, vừa thiếu sự cạnh tranh trong hoạt động
nghiên cứu khoa học.
Nhìn chung hoạt động KH&CN của nhân lực KH-CN và các tổ chức KH&CN
trên địa bàn vùng DHMT thiếu sự gắn kết, hợp tác chặt chẽ với nhau, còn có biểu hiện
40
“mạnh ai nấy làm”. Nguyên nhân là do các tỉnh, thành phố còn thiếu các chính sách
liên kết, hợp tác với nhau; bản thân các tổ chức KH&CN cũng chưa chú trọng đến công
tác liên kết, hợp tác trong hoạt động KH&CN. Mặt khác, so với khu vực miền Bắc và
miền Nam, sự cạnh tranh mang tính lành mạnh trong hoạt động KH&CN của nhân lực
KH-CN ở vùng này còn yếu. Phần lớn nhân lực KH-CN còn khép kín trong từng cơ
quan, đơn vị, chỉ biết mình mà không biết người. So với khu vực miền Bắc và khu vực
miền Nam, hoạt động KH&CN ở vùng này còn trầm lắng. Nguyên nhân của tình trạng
trên là do điều kiện địa lý của vùng DHMT kéo dài nên sự kết nối giữa các tỉnh, thành
phố và giữa các tổ chức KH&CN trong vùng có những khó khăn nhất định. Nguyên
nhân chủ yếu vẫn là do trong chiến lược phát triển các địa phương còn cục bộ, thiếu
liên kết; các tổ chức KH&CN còn cát cứ, chưa coi trọng xây dựng quan hệ hợp tác với
nhau, nếu có thì trong tổ chức thực hiện vẫn còn hình thức, thiếu hiệu quả.
Thứ tư, nhân lực KH-CN ở các tỉnh, thành phố vùng DHMT còn thiếu chuyên
gia đầu ngành trên các lĩnh vực, chưa hình thành được những tập thể khoa học
mạnh có uy tín cao trong nước, khu vực và quốc tế.
Do trong một thời gian dài trước đây các cấp lãnh đạo của các địa phương, các tổ
chức KH&CN chưa quan tâm đúng mức đến công tác quy hoạch, đào tạo nhân lực KH-
CN trình độ cao. Bản thân các hoạt động KT-XH, các doanh nghiệp, các cơ quan, đơn
vị chưa hình thành nhu cầu tự thân sử dụng chất xám trình độ cao. Mặt khác, môi
trường, điều kiện của vùng DHMT có nhiều khó khăn (cả về môi trường chuyên môn
nghề nghiệp và môi trường điều kiện sống) nên khó thu hút nhân lực KH-CN trình độ
cao, nhất là các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành về đây công tác, bởi họ không có
điều kiện để phát triển về chuyên môn nghề nghiệp; các dịch vụ như y tế, giáo dục, vui
chơi giải trí còn nhiều hạn chế, không đáp ứng nhu cầu cuộc sống của bản thân và gia
đình. Vì thế, so với hai vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc và miền Nam, vùng này nhân
lực KH-CN trình độ cao, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia ít hơn.
Thứ năm, nhân lực KH-CN của nhiều tổ chức KH&CN do địa phương quản
lý còn mỏng, năng lực NC&PT còn nhiều hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp, cơ sở
vật chất, kỹ thuật phục vụ cho hoạt động KH&CN còn thiếu và lạc hậu, chưa đủ
điều kiện và khả năng để giải quyết những nhiệm vụ khoa học lớn, chuyên sâu.
Một đặc điểm dễ nhận thấy ở vùng DHMT đa số nhân lực KH-CN có học vị, học
hàm là của các cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn hoặc ở các trường đại học. Còn
41
ở nhiều tổ chức KH&CN của địa phương quản lý có quy mô nhỏ, số lượng nhân lực ít.
Trình độ đào tạo của nhân lực trong các đơn vị này chủ yếu thạc sĩ trở xuống, chỉ một
số người có trình độ tiến sĩ. Lực lượng mỏng, chất lượng nhân lực yếu, điều kiện cơ sở
vật chất, máy móc, trang thiết bị vừa thiếu, vừa yếu nên nhiều tổ chức KH&CN của
địa phương không đủ năng lực để thực hiện các nhiệm vụ khoa học lớn, chuyên sâu.
Vì thế, khi cần các địa phương thường phải mời các cơ quan khoa học của Trung ương
đóng trên địa bàn hoặc từ các trung tâm lớn ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.
2.1.3. Phát triển nhân lực khoa học - công nghệ ở các tỉnh, thành phố
vùng duyên hải miền Trung - khái niệm, nội dung
2.1.3.1. Khái niệm phát triển nhân lực khoa học - công nghệ ở các tỉnh,
thành phố vùng duyên hải miền Trung
Theo Đại từ điển tiếng Việt, “Phát triển” được hiểu “là vận động, tiến triển
theo chiều hướng tăng lên” [166, tr.1321]. Từ điển của Nguyễn Lân giải nghĩa: phát
triển là mở mang rộng rãi, làm cho tốt hơn lên (gốc Hán, triển là mở rộng ra, phát là
làm bật ra, nổi lên, khá lên).
Về mặt triết học, phát triển là quá trình tiến lên trình độ cao hơn về chất, phong
phú hơn và không đảo ngược, xuất phát từ giải quyết mâu thuẫn nội tại của sự vật, hiện
tượng. Về các khoa học cụ thể, thì phát triển là thế nào, ý kiến của các nhà chuyên môn
cũng rất khác nhau. Thực trạng phát triển đang diễn ra hết sức phức tạp. Cho nên người
thì xuất phát từ sự “kém phát triển” như nghèo đói, lạc hậu, hoặc phi thị trường, hoặc
dân số tăng quá cao để nhìn nhận sự phát triển; một số người lại cho rằng phát triển chỉ
là tăng trưởng kinh tế. Đối với từng lĩnh vực cụ thể thì khái niệm phát triển có nội dung
và cách tiếp cận của từng nhà khoa học cũng khác nhau. Từ đó xuất hiện các khái
niệm: kém phát triển, đang phát triển, phát triển cao hoặc phát triển lệch pha - không
đồng bộ, phát triển phiến diện; hoặc phản phát triển; phát triển hài hòa, phát triển
không bền vững, phát triển bền vững. Hoặc khái niệm phát triển kinh tế, phát triển văn
hóa, phát triển xã hội, phát triển môi trường, phát triển con người… Ủy ban Môi trường
và Phát triển của Liên Hiệp Quốc đưa ra quan niệm đầy đủ hơn: phát triển là thúc đẩy
biến đổi không ngừng và toàn diện cả kinh tế, xã hội, môi trường, không đảo ngược.
Mặc dù đang có nhiều quan niệm khác nhau về phát triển tùy theo cách tiếp
cận, song điểm chung của các quan niệm đều xem phát triển là quá trình theo chiều
hướng tăng lên, mang tính tích cực, đáng mong muốn đối với một xã hội, một khu
42
vực, hoặc một nhóm người và thậm chí cả đối với cá nhân con người; đó là quá
trình biến đổi về số lượng và chất lượng của sự vật, hiện tượng, quá trình KT-XH.
Về khái niệm phát triển NNL nói chung và phát triển nhân lực trên từng lĩnh vực
cụ thể hiện cũng có nhiều quan niệm khác nhau.
Theo UNESCO: Phát triển NNL được đặc trưng bởi toàn bộ sự lành nghề của
dân cư, trong mối quan hệ phát triển của đất nước.
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho rằng: Phát triển NNL, bao hàm một phạm
vi rộng lớn hơn chứ không chỉ có sự chiếm lĩnh lành nghề, hoặc ngay cả việc đào tạo
nói chung. Quan niệm này dựa trên cơ sở nhận thức rằng, con người có nhu cầu sử
dụng năng lực của mình để tiến tới có được việc làm có hiệu quả cũng như thỏa mãn
về nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Sự lành nghề được hoàn thiện nhờ bổ sung nâng
cao kiến thức trong quá trình sống, làm việc, nhằm đáp ứng kỳ vọng của con người.
Tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên Hiệp Quốc (UNIDO) cho rằng: Phát
triển con người một cách hệ thống vừa là mục tiêu, vừa là đối tượng của sự phát triển
của một quốc gia. Nó bao gồm mọi khía cạnh kinh tế và khía cạnh xã hội. Như nâng
cao khả năng cá nhân, tăng năng lực sản xuất và khả năng sáng tạo thông qua giáo
dục, đào tạo và hoạt động thực tiễn.
Quan niệm của GS. Phạm Minh Hạc về phát triển NNL được nhiều công trình
trích dẫn cho rằng:
Phát triển NNL được hiểu về cơ bản là tăng giá trị cho con người, trên các mặt
như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực…, làm cho con người trở thành
những người lao động có những năng lực và phẩm chất mới và cao, đáp ứng
được những yêu cầu to lớn của sự phát triển KT-XH, của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [36, tr.285].
GS,TS Bùi Văn Nhơn quan niệm:
Phát triển NNL là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách và biện
pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng cho NNL (trí tuệ, thể chất và
phẩm chất tâm lý xã hội) nhằm đáp ứng đòi hỏi về NNL cho sự phát triển KT-
XH trong từng giai đoạn phát triển [63, tr.98].
Về khái niệm phát triển nhân lực KH&CN. Theo TS.Trần Xuân Định cho rằng:
Phát triển nhân lực KH&CN là sự huy động tối đa toàn bộ kỹ năng tri thức và tiềm
năng của nhân lực KH&CN vào các hoạt động vật chất, phi vật chất vì mục tiêu phát
triển kinh tế, xã hội của mỗi cộng đồng.
43
TS.Phạm Văn Mợi quan niệm:
Phát triển nhân lực KH&CN phục vụ CNH, HĐH là tổng thể các hoạt động
nhằm xây dựng lực lượng lao động KH&CN đủ về số lượng, đảm bảo về chất
lượng, có cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của mỗi địa phương
nói riêng và của đất nước nói chung, thông qua các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về CNH, HĐH và phát triển KT-XH [58, tr.50].
Từ phân tích các quan niệm về phát triển, phát triển NNL, phát triển nhân lực
KH&CN, tác giả luận án cho rằng: phát triển nhân lực KH-CN ở các tỉnh, thành
phố vùng DHMT là tổng thể các hoạt động nhằm tạo ra sự biến đổi về số lượng,
nâng cao về chất lượng trên các mặt trí lực, năng lực, đạo đức, kỹ năng…và xây
dựng cơ cấu nhân lực hợp lý nhằm đáp ứng yêu cầu về nhân lực KH-CN cho phát
triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển.
2.1.3.2. Nội dung phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
Một là, quy hoạch phát triển nhân lực khoa học - công nghệ.
Đây là việc các chủ thể xây dựng phương án tổng thể phát triển và phân bố
nhân lực cho thời kỳ dài hạn của địa phương, ngành, tổ chức KH&CN. Đó còn là
quá trình tổ chức, bố trí, sắp xếp lại nhân lực KH-CN hiện có, dự kiến những giải
pháp phát triển nhân lực KH-CN trong những thời kỳ nhất định về số lượng, cơ cấu
ngành nghề và trình độ cần đào tạo ở các ngành, lĩnh vực, khu vực. Quy hoạch phát
triển nhân lực KH-CN phải chú ý đến các khâu từ đào tạo đến sử dụng, đãi ngộ
nhân lực KH-CN. Quy hoạch phát triển nhân lực KH-CN phải xác định mục tiêu
phát triển nhân lực KH-CN trong từng giai đoạn.
Hai là, tuyển chọn nhân lực khoa học - công nghệ.
Trên cơ sở nhu cầu về nhân lực, điều kiện, tiêu chuẩn, địa phương, các tổ chức
KH&CN sẽ tuyển dụng nhân lực bằng nhiều hình thức để lựa chọn những ứng viên
đáp ứng được yêu cầu nhằm bổ sung nhân lực cho tổ chức.
Ba là, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực khoa học - công nghệ.
Từ quy hoạch phát triển KT-XH, chiến lược phát triển KH&CN, quy hoạch
phát triển nhân lực KH-CN, mục tiêu, nhiệm vụ của tổ chức KH&CN và trên cơ sở
thực trạng nhân lực KH-CN, các địa phương, các tổ chức KH&CN tiến hành xây
dựng kế hoạch, đề án đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghề
nghiệp, kỹ năng lao động, đạo đức, văn hóa lao động, kỹ năng mềm (ngoại ngữ, tin
44
học, khả năng thích ứng với môi trường), cập nhật kiến thức mới nhằm đáp ứng yêu
cầu về chất lượng nhân lực cho hiện tại và tương lai.
Bốn là, quản lý, sử dụng nhân lực khoa học - công nghệ.
Đây là việc các chủ thể quản lý thực hiện các chính sách, biện pháp để phân bố,
khai thác và phát huy phẩm chất, năng lực của nhân lực KH-CN vào hoạt động
KH&CN, như: bố trí sử dụng nhân lực KH-CN giữ các cương vị lãnh đạo, quản lý của
tổ chức KH&CN, phân công nhiệm vụ chuyên môn cho nhân lực KH-CN..v.v…
Năm là, tạo dựng môi trường, điều kiện làm việc và đãi ngộ đối với nhân lực
khoa học - công nghệ.
Để phát triển nhân lực KH-CN, UBND các tỉnh, thành phố và tổ chức
KH&CN phải quan tâm xây dựng về tổ chức; xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật như
trụ sở, phòng làm việc, máy móc, thiết bị, thông tin, tài liệu… phục vụ cho công tác
chuyên môn của nhân lực KH-CN. Xây dựng các cơ chế, chính sách quản lý hoạt
động KH&CN; các quy chế, quy định tạo môi trường làm việc thuận lợi cho nhân
lực KH-CN. Cùng với đó phải tạo điều kiện về thời gian, không gian làm việc nhằm
phát huy hết khả năng và năng lực của nhân lực KH-CN. Thực hiện các chính sách
đãi ngộ vật chất và tinh thần đảm bảo cuộc sống, kích thích tinh thần hăng say lao
động cống hiến của nhân lực KH-CN đối với hoạt động KH&CN, xây dựng và phát
triển địa phương, cơ quan, đơn vị. Chính sách đãi ngộ bao gồm tiền lương, thưởng,
phụ cấp, phúc lợi (chế độ chăm sóc sức khỏe, tham quan nghỉ dưỡng…).
* Mục tiêu phát triển nhân lực KH-CN: phát triển nhân lực KH-CN đủ số
lượng, chất lượng cao, cơ cấu hợp lý, hiệu quả sử dụng cao.
* Chủ thể phát triển nhân lực KH-CN ở các tỉnh, thành phố vùng DHMT gồm:
Chủ thể lãnh đạo: Các tỉnh, thành ủy;
Chủ thể quản lý: Chính quyền, trực tiếp là các Sở;
Chủ thể thực hiện: Các tổ chức KH&CN (viện, trung tâm, phòng thí nghiệm,
các trường đại học, cao đẳng, các tổ chức dịch vụ KH&CN, doanh nghiệp
KH&CN), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật.
* Đối tượng của phát triển nhân lực KH-CN: là những người đang và sẽ tham
gia các hoạt động KH&CN.
2.2. CÁC TỈNH, THÀNH ỦY Ở VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG LÃNH
ĐẠO PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ - KHÁI NIỆM, NỘI
DUNG, PHƯƠNG THỨC VÀ VAI TRÒ
45
2.2.1. Khái niệm về các tỉnh, thành ủy ở vùng duyên hải miền Trung lãnh
đạo phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
Theo Đại từ điển tiếng Việt “lãnh đạo” có hai nghĩa chính. Với tư cách là động
từ, “lãnh đạo” là dẫn dắt, tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể. Ví dụ: lãnh đạo
cuộc đấu tranh. Với tư cách là danh từ, “lãnh đạo” chỉ các cơ quan lãnh đạo, bao
gồm những người có khả năng tổ chức, dẫn dắt phong trào. Ví dụ: chờ lãnh đạo cho
ý kiến, ban lãnh đạo đi vắng …” [166, tr.979].
Như vậy, định nghĩa trên khái niệm “lãnh đạo” mới nói đến khâu tổ chức thực
hiện đường lối mà chưa đề cập đến việc đề ra đường lối và các khâu khác như kiểm
tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện đường lối.
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt (Nguyễn Hoàng Phê chủ biên), khái niệm “lãnh
đạo” được hiểu: “Là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức động viên thực hiện”
[65, tr.524]. Ở đây khái niệm “lãnh đạo” được nói rõ hơn ở cả khâu đề ra đường lối
và tổ chức động viên thực hiện đường lối.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong nhiều tác phẩm, bài viết đã bàn về sự lãnh đạo
của Đảng. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người đã viết: “Cách mệnh trước
hết phải có cái gì ?. Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền
mới chạy” [52, tr.267-268].
Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện là
người vận động, tổ chức dân chúng, tập hợp dân chúng vào các tổ chức quần chúng do
Đảng tổ chức để cùng nhau thực hiện những nhiệm vụ cách mạng và Đảng là người
liên lạc, đoàn kết quốc tế với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản mọi nơi. Những
vấn đề chủ yếu về sự lãnh đạo của Đảng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập như:
Chủ thể lãnh đạo (Đảng Cộng sản Việt Nam); đối tượng lãnh đạo (dân chúng) và
cách thức lãnh đạo (vận động, tổ chức, liên lạc).
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một
chương bàn sâu về cách lãnh đạo của Đảng. Người đã lý giải về sự “lãnh đạo đúng”
của Đảng gồm các khâu gắn bó chặt chẽ với nhau đó là:
(1) Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải
so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những người chịu đựng
46
cái kết quả của sự lãnh đạo của ta. (2) Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn
vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong. (3) Phải tổ chức sự kiểm soát,
mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được [53, tr.285].
Muốn có quyết định hay chính sách đúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng
“Đảng và Chính phủ điều tra, nghiên cứu, cân nhắc cẩn thận nhằm vào lợi ích chung
của nhân dân, đặt chính sách” [55, tr.346], không được “ngồi trong phòng giấy mà
viết kế hoạch, ra mệnh lệnh” [54, tr.285].
Về việc tổ chức thi hành quyết định hay tổ chức thi hành chính sách thì khi đã có
chính sách đúng, Đảng phải lãnh đạo các cơ quan nhà nước và toàn xã hội kiên quyết
thực hiện cho kỳ được. Muốn vậy, Đảng phải có “đội ngũ cán bộ nắm vững chính
sách”, theo chính sách ấy mà vận dụng vào hoàn cảnh thiết thực của đơn vị, địa phương
mình; rồi giải thích, tuyên truyền, cổ động quần chúng, làm cho mọi người hiểu thấu và
ủng hộ chính sách của Đảng và Chính phủ như là của họ, rồi thi đua thực hiện đầy đủ
chính sách ấy. Để thực hiện chính sách, làm tròn nhiệm vụ, cán bộ chẳng những phải
chịu khó giải thích, tuyên truyền, cổ động mà còn phải bàn bạc với quần chúng, hỏi han
ý kiến quần chúng. Lãnh đạo quần chúng và hoan nghênh quần chúng phê bình.
Việc tổ chức kiểm soát, kiểm tra được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Bởi
kiểm tra, kiểm soát nó sẽ chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, sẽ biết được các nghị
quyết có được thi hành hay không, thi hành có đúng không, ai ra sức làm, ai làm qua
chuyện. Hơn nữa “Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết… kiểm tra khéo
về sau khuyết điểm nhất định bới đi” [54, tr.287]. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ dẫn
về cách thức kiểm soát “Muốn kiểm soát có kết quả tốt, phải có hai điều: một là việc
kiểm soát phải có hệ thống, phải thường làm. Hai là, người đi kiểm soát phải là
những người rất có uy tín” [54, tr.287]; “phải đi tận nơi, xem tận chỗ” [54, tr.287],
không phải cứ ngồi trong phòng giấy mà chờ người ta báo cáo. Và theo Người, có hai
cách kiểm soát: “một cách là từ trên xuống. Một cách nữa là từ dưới lên” [54, tr.288].
Về cách lãnh đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn bất kỳ công việc gì cũng phải
dùng hai cách lãnh đạo “một là liên hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng. Hai là liên
hợp người lãnh đạo với quần chúng” [54, tr.288]. Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết
thực của Đảng “phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng. Nghĩa là gom góp
mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó
thành những ý kiến có hệ thống. Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng,
47
và làm cho nó trở thành ý kiến của quần chúng, làm cho quần chúng giữ vững và thực
hành những ý kiến đó [54, tr.290]. Theo Người, lãnh đạo vừa phải toàn diện, vừa phải
cụ thể, sâu sát thực tế, cán bộ lãnh đạo các cấp phải khắc phục hiện tượng đại khái,
chung chung, tùy tiện, phiến diện, vô nguyên tắc, thiếu dân chủ, tác phong quan liêu
mệnh lệnh, chủ quan, thỏa mãn. Trong lãnh đạo, cán bộ lãnh đạo phải biết nghe ngóng
ý kiến của cấp dưới và nhân dân. Các cấp ủy đảng cần khuyến khích, thu góp, bổ sung
và phổ biến rộng rãi những sáng kiến hay, những kinh nghiệm tốt của quần chúng.
Trong quá trình quần chúng thực hiện thì tổ chức đảng phải “xem xét lại, rút kinh
nghiệm, phát huy ưu điểm, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, yếu kém”.
Trong lãnh đạo “việc chọn cán bộ” được Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng,
bởi muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Theo Người,
những người mắc bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy thì Đảng phải thải đi. Còn những
hạng người cậy mình là “công thần cách mạng”, ngang tàng, không giữ gìn kỷ luật,
không thi hành nghị quyết thì mời họ xuống công tác hạ tầng, khép họ vào kỷ luật
và hạng người nói suông “Chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này
qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được” [54, tr.287]
cũng không thể dùng họ vào công việc thực tế.
Có thể nói những tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự lãnh
đạo của Đảng hiện vẫn còn nguyên giá trị, nó vẫn là chiếc cẩm nang cho toàn Đảng
và các cấp ủy đảng trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới ngày nay.
Từ những dẫn liệu và phân tích trên có thể hiểu nội hàm của khái niệm lãnh đạo
trên các mặt: Một là, lãnh đạo trước hết là đề ra chủ trương, đường lối xác định nội
dung, nhiệm vụ, giải pháp cần phải thực hiện, những yêu cầu, mục tiêu cần đạt được
trong một thời kỳ hay một giai đoạn; nêu lên quan điểm, nguyên tắc, phương thức tiến
hành để đạt mục tiêu. Hai là, lãnh đạo còn là quá trình tổ chức thực hiện chủ trương,
đường lối đề ra. Đó là quá trình chủ thể lãnh đạo tổ chức, vận động, thuyết phục, động
viên, dẫn dắt hướng đối tượng lãnh đạo vào việc thực hiện chủ trương, đường lối nhằm
hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu đã xác định. Ba là, lãnh đạo là phải kiểm tra, giám sát
để thấy được đối tượng lãnh đạo chấp hành quyết định lãnh đạo đến đâu, hiệu quả như
thế nào; việc thực hiện chủ trương, đường lối đã đề ra, kết quả, hạn chế, nguyên nhân.
Mặt khác, kiểm tra, giám sát buộc đối tượng lãnh đạo phải tuân thủ quyết định lãnh
đạo, thực hiện chủ trương, đường lối đề ra, tránh sự lơ là hoặc không thực hiện.
48
Từ sự phân tích trên, có thể định nghĩa: tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT lãnh đạo
phát triển nhân lực KH-CN là toàn bộ các hoạt động đề ra nghị quyết, chủ trương về
phát triển nhân lực KH-CN; tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương đã đề ra và
kiểm tra, giám sát bảo đảm cho nghị quyết, chủ trương được thực hiện thắng lợi
nhằm xây dựng đội ngũ nhân lực KH-CN có số lượng và cơ cấu hợp lý, có chất lượng
cao theo yêu cầu của chiến lược phát triển KH&CN, đẩy mạnh CNH, HĐH, phát
triển KT-XH và hội nhập quốc tế.
* Đối tượng lãnh đạo: các tổ chức đảng, đảng viên, các tổ chức trong HTCT,
cơ quan chuyên trách phát triển NNL, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, các
tổ chức KH&CN và nhân lực KH-CN.
* Mục tiêu lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN: phát triển nhân lực KH-CN đủ về
số lượng, có cơ cấu hợp lý, chất lượng ngày càng được nâng lên theo yêu cầu của chiến
lược phát triển KH&CN, đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển KT-XH và hội nhập quốc tế.
2.2.2. Nội dung lãnh đạo phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
Để phát triển nhân lực KH-CN của các tỉnh, thành phố, các tỉnh, thành ủy ở
vùng DHMT tập trung lãnh đạo ở những nội dung chủ yếu sau:
Một là, lãnh đạo xác định mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp lớn để
phát triển nhân lực KH-CN.
Các tỉnh, thành ủy lãnh đạo định hướng phát triển về số lượng, cơ cấu (lĩnh
vực KH&CN, trình độ, ngành, khu vực…) đảm bảo sự đồng bộ, hợp lý, nâng cao về
chất lượng theo quy hoạch phát triển KT-XH, ngành, lĩnh vực nhằm đáp ứng yêu
cầu về nhân lực KH-CN cho CNH, HĐH, phát triển KT-XH và hội nhập quốc tế
của địa phương. Để đạt được mục tiêu, các tỉnh, thành ủy đề ra các nhiệm vụ và giải
pháp lớn và lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận, tổ
chức chính trị - xã hội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, các tổ chức
KH&CN và nhân lực KH-CN quán triệt thực hiện để phát triển nhân lực KH-CN.
Hai là, lãnh đạo xây dựng chiến lược phát triển KH&CN và quy hoạch phát
triển nhân lực KH-CN.
Trên cơ sở Quy hoạch tổng thể của vùng và Quy hoạch phát triển KT-XH của
tỉnh, thành phố, tỉnh, thành ủy lãnh đạo chính quyền xây dựng Chiến lược phát triển
KH&CN và quy hoạch phát triển nhân lực KH-CN của địa phương. Tiến hành đánh
giá các điều kiện, yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nhân lực KH-CN như quy mô, tốc
49
độ gia tăng dân số, cung - cầu nhân lực trên thị trường lao động, hệ thống giáo dục và
đào tạo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đánh giá hiện trạng nhân lực KH-CN về số
lượng, cơ cấu, chất lượng, sự phân bố nhân lực KH-CN để thấy rõ mức độ hợp lý của
phân bố theo lĩnh vực KH&CN, ngành, khu vực; phân bố nhân lực đã phù hợp với
mục tiêu khai thác các nguồn lực của địa phương; hiệu quả của phân bố nhân lực KH-
CN. Đánh giá, dự báo về cung - cầu (số lượng, cơ cấu, chất lượng). Dựa trên thực
trạng nhân lực KH-CN và yêu cầu về nhân lực cho phát triển KT-XH trong từng giai
đoạn, chính quyền tiến hành quy hoạch phát triển nhân lực KH-CN.
Trên cơ sở Chiến lược phát triển KH&CN và Quy hoạch phát triển nhân lực
KH-CN, chính quyền xây dựng các chương trình, kế hoạch, chính sách, đề án để
phát triển nhân lực KH-CN.
Ba là, lãnh đạo thể chế hóa, cụ thể hóa nghị quyết của tỉnh, thành ủy về phát
triển nhân lực KH-CN thành các chương trình, kế hoạch, chính sách, đề án và tổ chức
thực hiện trong thực tiễn.
Để đưa nghị quyết vào cuộc sống, sau khi ban hành nghị quyết, các tỉnh, thành
ủy, BTV sẽ lãnh đạo, chỉ đạo UBND tỉnh, thành phố xây dựng chương trình, kế
hoạch, đề án phát triển nhân lực KH-CN và tổ chức thực hiện nhằm đạt được các mục
tiêu nghị quyết đề ra. Lãnh đạo HĐND, UBND tỉnh, thành phố thể chế hóa nghị
quyết ban hành các chính sách có liên quan để phát triển nhân lực KH-CN. Lãnh đạo
HĐND ban hành nghị quyết của HĐND (nếu cần), giám sát UBND thực hiện nhiệm
vụ phát triển nhân lực KH-CN.
Các tỉnh, thành ủy lãnh đạo các huyện ủy, thị ủy, quận ủy, đảng ủy khối các cơ
quan tỉnh, đảng ủy các trường đại học, cao đẳng, Đảng đoàn Liên hiệp các Hội Khoa
học và Kỹ thuật quán triệt, cụ thể hóa xây dựng chương trình hành động thực hiện
nghị quyết phát triển nhân lực KH-CN.
Bốn là, các tỉnh, thành ủy lãnh đạo công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và
thu hút nhân lực KH-CN.
Các tỉnh, thành ủy lãnh đạo chính quyền xây dựng và ban hành các chính sách,
quy chế, quy định về tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH-CN. Trên cơ sở
nhu cầu nhân lực KH-CN cho phát triển KT-XH nói chung và cho từng ngành, lĩnh
vực, tỉnh, thành ủy cho chủ trương định hướng và chỉ đạo UBND tỉnh, thành phố, các
tổ chức KH&CN xây dựng các kế hoạch tuyển dụng nhân lực theo quy định của pháp
50
luật và quy định của chính quyền địa phương; xây dựng các chương trình, đề án, kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH-CN. Các tỉnh, thành ủy lãnh đạo các cơ sở đào
tạo đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học đáp ứng
yêu cầu về đào tạo NNL chất lượng cao. Lãnh đạo, chỉ đạo UBND tỉnh, thành phố xây
dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách thu hút nhân lực KH-CN.
Năm là, các tỉnh, thành ủy lãnh đạo tạo lập môi trường, điều kiện để phát triển
KH&CN và phát triển nhân lực KH-CN; phát huy vai trò, trách nhiệm của nhân lực
KH-CN tích cực đóng góp cho sự phát triển KH&CN, KT-XH của địa phương.
Các tỉnh, thành ủy lãnh đạo xây dựng, củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng
hoạt động, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các tổ chức KH&CN, Liên
hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật. Lãnh đạo chính quyền xây dựng, ban hành cơ
chế, chính sách (sử dụng, đãi ngộ, khen thưởng, tôn vinh; các cơ chế, chính sách cho
hoạt động KH&CN như cơ chế tổ chức và hoạt động của các tổ chức KH&CN, quản
lý KH&CN, chính sách tạo lập phát triển thị trường KH&CN, chính sách bảo hộ sở
hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ v.v…) nhằm tạo môi trường, điều kiện thuận lợi
cho hoạt động của các tổ chức KH&CN và nhân lực KH-CN. Các tỉnh, thành ủy lãnh
đạo các tổ chức KH&CN và nhân lực KH-CN phát huy vai trò, trách nhiệm trong
hoạt động KH&CN tuân thủ đúng đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, của địa phương, nghiên cứu sáng tạo ra các sản phẩm
KH&CN có giá trị đóng góp cho sự phát triển KH&CN, KT-XH của địa phương;
cống hiến cho sự nghiệp trồng người, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài và thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát, phản biện và giám định xã hội.
Sáu là, các tỉnh, thành ủy lãnh đạo liên kết, hợp tác trong nước và quốc tế, tranh
thủ sự giúp đỡ của Trung ương để phát triển KH&CN và phát triển nhân lực KH-CN.
Từ nghị quyết của đại hội đảng bộ tỉnh, thành phố, tỉnh, thành ủy cho chủ trương
định hướng và chỉ đạo chính quyền liên kết, hợp tác với các địa phương trong vùng để
thúc đẩy phát triển KH&CN và phát triển nhân lực KH-CN; thiết lập và ký kết hợp tác
về KH&CN, đào tạo nhân lực KH-CN với các đối tác trong và ngoài nước. Các tỉnh,
thành ủy lãnh đạo chính quyền ban hành cơ chế, chính sách thu hút các tổ chức, cá
nhân, nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng về
KH&CN cho địa phương. Khuyến khích các tổ chức KH&CN trên địa bàn chủ động
thiết lập quan hệ hợp tác với các trường đại học, các viện nghiên cứu trong và ngoài
51
nước, với các tổ chức quốc tế để tranh thủ nguồn lực (tài chính, nhân lực, KH&CN)
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và phát triển tiềm lực KH&CN
của đơn vị mình. Trong mọi điều kiện có thể phải tranh thủ sự hỗ trợ từ Trung ương về
cơ chế, chính sách, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, hỗ trợ về ngân sách cho địa phương.
2.2.3. Phương thức lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy ở vùng duyên hải
miền Trung đối với phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
PTLĐ có vai trò rất quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi các nghị quyết,
chủ trương. Thực tế cho thấy, đề ra được nghị quyết, chủ trương đúng, nhưng cấp
ủy, tổ chức đảng không tạo lập được các PTLĐ đúng đắn, phù hợp thì hiệu quả lãnh
đạo cũng không cao, thậm chí có khi nghị quyết, chủ trương đúng lại không đi vào
cuộc sống. Để làm rõ PTLĐ của các tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT đối với phát triển
nhân lực KH-CN, trước hết cần làm rõ khái niệm PTLĐ của Đảng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm
1991) đã nêu lên những PTLĐ cơ bản của Đảng: Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh,
chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác
tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương
mẫu của đảng viên. Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng
ta bổ sung thêm phương thức Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) Đảng ta tiếp tục khẳng định lại những PTLĐ cơ bản của
Đảng được nêu trong Cương lĩnh năm 1991, đồng thời có sự bổ sung thêm:
Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và
chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức,
kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống
nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những
đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan
lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và
đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường trách
nhiệm chế độ cá nhân, nhất là người đứng đầu [24, tr.88-89].
Báo cáo chính trị Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ những PTLĐ của Đảng đối
với Nhà nước như sau:
52
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hóa
các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, lãnh đạo
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực, lãnh đạo tổ chức
thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật [26, tr.214].
Về khái niệm PTLĐ của Đảng hiện đang có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng
tác giả luận án thống nhất với quan niệm của GS,TS Phạm Ngọc Quang khi cho rằng:
PTLĐ của Đảng là hệ thống các phương pháp, hình thức, biện pháp, lối làm
việc mà thông qua đó, Đảng tập hợp, quy tụ, phát huy mọi lực lượng của các
tổ chức trong hệ thống chính trị và đông đảo nhân dân nhằm thực hiện thắng
lợi đường lối, nhiệm vụ chính trị đề ra; là cách thức (tổng hợp các hình thức,
phương pháp, biện pháp) Đảng sử dụng để tác động vào các tổ chức trong hệ
thống chính trị và cả xã hội để hướng hoạt động của tất cả đối tượng đó vào
mục đích chung của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa
xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản [68, tr.57-58].
Theo "Đại từ điển tiếng Việt", "phương thức" là phương pháp và hình thức tiến
hành. “Phương pháp” là cách thức tiến hành để có hiệu quả cao [166, tr.1352-1353].
Từ những điều trình bày ở trên có thể hiểu, Phương thức lãnh đạo của Đảng
là tổng thể các hình thức, phương pháp, cách thức, quy chế, quy trình, phong cách,
lề lối làm việc… mà Đảng sử dụng để tác động vào đối tượng lãnh đạo nhằm thực
hiện tốt nội dung lãnh đạo.
Trên cơ sở khái niệm chung về PTLĐ của Đảng và từ sự phân tích nội dung lãnh
đạo phát triển nhân lực KH-CN như đã trình bày ở trên, có thể hiểu: Phương thức lãnh
đạo của các tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT đối với phát triển nhân lực KH-CN là tổng
thể các hình thức, phương pháp, cách thức, quy chế, quy trình… mà tỉnh, thành ủy sử
dụng để tác động vào đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện thắng lợi nội dung lãnh đạo
phát triển nhân lực KH-CN.
Để lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN, các tỉnh, thành ủy sử dụng những
phương thức sau:
Thứ nhất, các tỉnh, thành ủy lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN bằng các
nghị quyết, quyết định của tỉnh ủy, thành ủy, BTV tỉnh ủy, thành ủy.
Đây là PTLĐ cơ bản, phổ biến nhất. Trên cơ sở nghị quyết của Đảng, chiến lược,
quy hoạch của Chính phủ, nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh, thành phố, quy hoạch phát
53
triển KT-XH, chiến lược phát triển KH&CN của địa phương, tỉnh, thành ủy sẽ cụ thể hóa
và ban hành nghị quyết, chủ trương định hướng quan điểm, mục tiêu và các nhiệm vụ,
giải pháp để lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN của địa phương trong từng giai đoạn.
Thứ hai, các tỉnh, thành ủy lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN thông qua các
cơ quan nhà nước cấp tỉnh.
Các tỉnh, thành ủy lãnh đạo cơ quan nhà nước cấp tỉnh thể chế hóa nghị quyết
của tỉnh, thành ủy, của BTV tỉnh ủy, thành ủy và ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật, cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực
KH-CN và tổ chức thực hiện trong thực tiễn. Đồng thời lãnh đạo các cơ quan nhà
nước thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực KH&CN bảo
đảm mọi tổ chức KH&CN và nhân lực KH-CN tham gia hoạt động KH&CN tuân
thủ đúng nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những quy
định của chính quyền địa phương. Cùng với đó, tỉnh, thành ủy chỉ đạo HĐND tỉnh,
thành phố giám sát UBND tỉnh, thành phố thực hiện nghị quyết, quyết định của
HĐND về phát triển nhân lực KH-CN.
Thứ ba, các tỉnh, thành ủy lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN bằng công tác tư tưởng.
Sau khi ban hành nghị quyết, các tỉnh, thành ủy tổ chức quán triệt nghị quyết trong
đội ngũ cán bộ chủ chốt, sau đó quán triệt phổ biến sâu rộng trong toàn đảng bộ tỉnh,
thành phố, các tổ chức trong HTCT từ tỉnh đến cơ sở, tập trung hơn vào việc quán triệt
nghị quyết trong đảng bộ khối các cơ quan tỉnh, đảng bộ các trường đại học, cao đẳng,
Đảng đoàn Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật nhằm làm cho các cấp ủy, tổ chức
đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nắm vững và thực hiện nghị
quyết, chủ trương về phát triển nhân lực KH-CN do tỉnh, thành ủy đề ra. Các tỉnh, thành
ủy lãnh đạo các cơ quan truyền thông tuyên truyền, phổ biến nghị quyết, xây dựng các
chương trình, chuyên trang, chuyên mục về KH&CN, về khởi nghiệp, đổi mới sáng
tạo.v.v.. nhằm giúp cho các tầng lớp nhân dân, nhất là cán bộ, đảng viên, công chức và
chính nhân lực KH-CN hiểu sâu sắc về chủ trương, chính sách của địa phương, về vai
trò tầm quan trọng của KH&CN và phát triển nhân lực KH-CN từ đó tích cực hưởng
ứng thực hiện nghị quyết, chủ trương của tỉnh, thành ủy và chương trình, kế hoạch, đề
án của chính quyền đề ra. Mặt khác, các tỉnh, thành ủy chỉ đạo đảng ủy khối các cơ quan
tỉnh, thành phố, đảng ủy các trường đại học, cao đẳng, Đảng đoàn Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho nhân lực
54
KH-CN nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ vững tư tưởng lập trường, đạo đức nghề
nghiệp. Các tỉnh, thành ủy lãnh đạo các ngành, các cấp và toàn xã hội trọng dụng và tôn
vinh nhân lực KH-CN, nhất là nhân tài. Định kỳ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt làm
việc với Đảng đoàn Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, BCH các Liên hiệp hội; tổ
chức hội nghị gặp gỡ, đối thoại với các nhà khoa học, trí thức tiêu biểu qua đó nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị, đề xuất của nhân lực KH-CN.
Thứ tư, các tỉnh, thành ủy lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN thông qua công
tác tổ chức, cán bộ.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển nhân lực KH-CN, các tỉnh, thành ủy
phải chăm lo xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng hoạt động
của HTCT, đặc biệt là HĐND, UBND các cấp; cơ quan chuyên trách, tham mưu về
phát triển NNL, các tổ chức KH&CN công lập, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ
thuật và các cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN. Các tỉnh, thành ủy chăm lo tuyển
chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng
lực công tác và lý luận chính trị, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ trong HTCT các cấp,
của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, cơ quan chuyên trách, tham mưu về
phát triển NNL, cán bộ chủ chốt trong các cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN và
các cơ quan, đơn vị khoa học công lập. Thông qua hệ thống tổ chức và đội ngũ cán
bộ để tỉnh, thành ủy lãnh đạo triển khai thực hiện nghị quyết, chủ trương, chương
trình, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực KH-CN.
Thứ năm, các tỉnh, thành ủy lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN thông qua tổ
chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của HTCT, Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật, các tổ chức KH-CN.
Thông qua các tổ chức đảng và đảng viên, nhất là đảng viên giữ cương vị lãnh
đạo, quản lý trong các cơ quan, tổ chức này để tỉnh, thành ủy thực hiện sự lãnh đạo của
mình. Các tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo, quản lý sẽ lãnh đạo, tổ chức thực hiện và
kiểm tra, giám sát các tổ chức trong HTCT, đảng viên, công chức, viên chức thực hiện
nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của tỉnh, thành
ủy, các chính sách, đề án của chính quyền về phát triển nhân lực KH-CN.
Thứ sáu, các tỉnh, thành ủy lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN thông qua Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
55
Các tỉnh, thành ủy lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội xây
dựng chương trình, kế hoạch tuyên truyền, phổ biến nghị quyết của tỉnh, thành ủy,
chương trình, kế hoạch, đề án, chính sách của chính quyền trong các tổ chức, đến với
cán bộ, công chức, viên chức nắm vững và tích cực thực hiện. Lãnh đạo Mặt trận và
các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát và phản biện các
nghị quyết của cấp ủy, đề án, chính sách phát triển nhân lực KH-CN của chính quyền
đề ra; đồng thời phối hợp với các ngành tham gia giám sát việc thực hiện chính sách,
pháp luật của nhà nước về KH&CN; tham gia xây dựng đảng và chính quyền.
Thứ bảy, các tỉnh, thành ủy lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN bằng công tác
kiểm tra, giám sát và sơ kết, tổng kết thực tiễn.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát luôn được xem là một công cụ hữu hiệu
để các tỉnh, thành ủy lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN. Thông qua kiểm tra, giám
sát tổ chức đảng, đảng viên thực hiện nghị quyết nhằm phát huy những ưu điểm, phòng
ngừa sai khạm, uốn nắn kịp thời những lệch lạc trong quá trình tổ chức thực hiện nghị
quyết. Đồng thời, công tác kiểm tra, giám sát góp phần phát hiện những mô hình, điển
hình, cách làm hay để phổ biến nhân rộng; những vi phạm để xử lý kịp thời.
Định kỳ sơ kết, tổng kết nghị quyết, đề án phát triển nhân lực KH-CN là phương
thức nhằm đánh giá một cách toàn diện quá trình thực hiện để thấy rõ những ưu điểm,
khuyết điểm, hạn chế, chỉ ra nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm thực tiễn, trên
cơ sở đó kịp thời bổ sung, hoàn thiện nghị quyết, chủ trương, đề án, chính sách và có
các giải pháp mới để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghị quyết, đề án tốt hơn.
2.2.4. Vai trò của sự lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy ở vùng duyên hải miền
Trung đối với phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
Một là, sự lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy nhằm đảm bảo cho phát triển nhân lực
KH-CN theo đúng đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước và theo định hướng XHCN.
Các tỉnh, thành ủy là cấp dưới trực tiếp của BCH Trung ương Đảng, là cơ quan
lãnh đạo của đảng bộ tỉnh, thành phố giữa hai kỳ đại hội, thực hiện các nhiệm vụ được
quy định trong Điều lệ Đảng. Các tỉnh, thành ủy có nhiệm vụ tiếp nhận chủ trương, nghị
quyết của Đảng, chính sách, chương trình, đề án của Nhà nước về phát triển nhân lực KH-
CN, cụ thể hóa và lãnh đạo tổ chức thực hiện trên địa bàn tỉnh, thành phố. Sự lãnh đạo của
56
các tỉnh, thành ủy là nhân tố quyết định trên thực tế đường lối, chủ trương, chính sách ấy
thành hiện thực, bảo đảm cho sự phát triển nhân lực KH-CN theo đúng định hướng
XHCN phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Bởi vậy, phát triển
nhân lực KH-CN của đất nước hiện nay không thể xa rời sự lãnh đạo của Đảng, cũng như
phát triển nhân lực KH-CN ở các tỉnh, thành phố nói chung, ở các tỉnh, thành phố DHMT
nói riêng không thể xa rời và thoát ly sự lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy trong vùng.
Hai là, sự lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy ở các tỉnh, thành phố DHMT đối với
phát triển nhân lực KH-CN đảm bảo huy động cả HTCT, đông đảo nhân dân, mọi
nguồn lực trong xã hội phục vụ sự nghiệp phát triển nhân lực KH-CN.
Phát triển KH&CN nói chung và phát triển nhân lực KH-CN nói riêng trong
cả nước, cũng như ở từng địa phương không ngoài mục đích xây dựng, phát triển
đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và cuộc sống ấm no, hạnh phúc và bình yên
của nhân dân. Điều này, phù hợp với nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân,
nên được các tổ chức của HTCT, các tổ chức xã hội, các lực lượng và nhân dân
tham gia. Song, sự tham gia của các tổ chức, các lực lượng và nhân dân vào sự
nghiệp phát triển nhân lực KH-CN phải có lãnh đạo, chỉ huy thì mới đem lại hiệu
quả. Đảng phải lãnh đạo mới có thể tập hợp, huy động được các tổ chức, các lực
lượng và mọi nguồn lực để phục vụ sự nghiệp phát triển nhân lực KH-CN. Ở các
địa phương cũng như thế, vai trò ấy, thuộc về các tỉnh, thành ủy.
Ba là, sự lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy ở các tỉnh, thành phố vùng DHMT đối
với phát triển nhân lực KH-CN bảo đảm cho các hoạt động hợp tác quốc tế và thu hút
nguồn lực của các nước phục vụ phát triển nhân lực KH-CN theo đúng đường lối đối
ngoại của Đảng.
Để phát triển nhân lực KH-CN, cùng với việc phát huy nội lực, các tỉnh, thành
phố phải tranh thủ ngoại lực thông qua con đường hợp tác quốc tế với các nước, các tổ
chức quốc tế và các nhà khoa học để huy động nguồn lực cho phát triển nhân lực KH-
CN và phát triển KH&CN. Trong quá trình hợp tác quốc tế của địa phương và các tổ
chức KH&CN trên địa bàn với các đối tác nước ngoài đòi hỏi cần phải có sự lãnh đạo
của các tỉnh, thành ủy, sự quản lý của chính quyền đảm bảo cho các hoạt động đầu tư,
thương mại, hoạt động KH&CN, giáo dục - đào tạo… của mọi tổ chức và cá nhân phải
tuân thủ đúng đường lối đối ngoại của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
57
Tiểu kết chương 2
Để phát triển nhanh và bền vững, sớm trở thành tỉnh, thành phố công nghiệp theo
hướng hiện đại đòi hỏi các tỉnh, thành phố vùng DHMT phải có NNL chất lượng cao,
nhất là nhân lực KH-CN. Vì thế, lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN là nhiệm vụ
trọng tâm của các tỉnh, thành ủy giai đoạn hiện nay.
Tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN là toàn bộ các
hoạt động đề ra nghị quyết, chủ trương về phát triển nhân lực KH-CN; tổ chức thực
hiện nghị quyết, chủ trương đã đề ra và kiểm tra, giám sát bảo đảm cho nghị quyết, chủ
trương được thực hiện thắng lợi nhằm xây dựng đội ngũ nhân lực KH-CN có số lượng
và cơ cấu hợp lý, có chất lượng cao theo yêu cầu của chiến lược phát triển KH&CN,
đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển KT-XH và hội nhập quốc tế.
Nội dung lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN gồm: tỉnh, thành ủy lãnh đạo xác
định mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp lớn để phát triển nhân lực KH-CN;
lãnh đạo xây dựng chiến lược phát triển KH&CN và quy hoạch phát triển nhân lực
KH-CN; lãnh đạo thể chế hóa, cụ thể hóa nghị quyết của tỉnh, thành ủy về phát triển
nhân lực KH-CN và tổ chức thực hiện; lãnh đạo công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi
dưỡng và thu hút nhân lực KH-CN; lãnh đạo tạo lập môi trường, điều kiện và phát huy
vai trò của nhân lực KH-CN tích cực đóng góp cho quá trình phát triển KT-XH của địa
phương; lãnh đạo liên kết, hợp tác trong nước và quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của
Trung ương để phát triển KH&CN và nhân lực KH-CN.
PTLĐ của các tỉnh, thành ủy đối với phát triển nhân lực KH-CN gồm: lãnh đạo
bằng các nghị quyết, chủ trương định hướng quan điểm, mục tiêu và giải pháp phát
triển nhân lực KH-CN; lãnh đạo thông qua các cơ quan nhà nước cấp tỉnh thể chế hóa,
cụ thể hóa nghị quyết, chủ trương phát triển nhân lực KH-CN; lãnh đạo bằng công tác
tư tưởng; lãnh đạo thông qua công tác tổ chức, cán bộ; lãnh đạo thông qua tổ chức đảng
và đảng viên; lãnh đạo thông qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội;
lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát và sơ kết, tổng kết thực tiễn.
Sự lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy đối với phát triển nhân lực KH-CN nhằm đảm
bảo cho mọi hoạt động phát triển nhân lực KH-CN theo đúng đường lối, chủ trương,
quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và theo định hướng XHCN;
huy động các tổ chức, các lực lượng và nhân dân tham gia, mọi nguồn lực trong xã hội
phục vụ sự nghiệp phát triển nhân lực KH-CN.
58
Chương 3
PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ VÀ CÁC
TỈNH, THÀNH ỦY Ở VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG LÃNH ĐẠO
PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ -
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
3.1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
CỦA CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG
3.1.1. Ưu điểm
3.1.1.1. Số lượng và cơ cấu
Trước nhu cầu về nhân lực cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển KT-
XH và hội nhập quốc tế, các tỉnh, thành ủy và chính quyền các địa phương vùng
DHMT đã tập trung lãnh đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng (nghị quyết
xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức; nghị quyết về phát triển KH&CN); ban hành
các nghị quyết, chương trình, đề án phát triển NNL (trong đó có nhân lực KH-CN);
đồng thời có chính sách thu hút NNL chất lượng cao về làm việc cho địa phương, nhờ
đó nhân lực KH-CN của các tỉnh, thành phố đã có sự tăng lên về số lượng.
Năm 2002, tổng số nhân lực có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên của toàn
vùng có 154.212 người, chiếm 10,4% nhân lực có trình độ của cả nước. Đến năm
2015, số lượng nhân lực này tăng lên 390.871 người, chiếm 9,7% nhân lực có trình
độ của cả nước. Như vậy, trong 13 năm (2002 - 2015), trung bình nhân lực có trình
độ từ cao đẳng, đại học trở lên của vùng DHMT tăng 3.0%/năm [Phụ lục 11].
Nếu xem xét nhân lực KH-CN trực tiếp tham gia hoạt động KH&CN, qua
khảo sát 4 tỉnh, thành phố: Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hòa cho
thấy, hàng năm số lượng nhân lực đều có sự tăng lên. Năm 2012, nhân lực KH-CN
trực tiếp tham gia hoạt động KH&CN của bốn địa phương trên có 7.250 người, đến
năm 2015, số lượng nhân lực tăng lên 21.610 người [Phụ lục 12].
Cơ cấu nhân lực KH-CN ở các tỉnh, thành phố vùng DHMT có sự đa dạng về
ngành nghề đào tạo, giới tính, lĩnh vực hoạt động, vùng miền, loại hình tổ chức và
độ tuổi đang từng bước được trẻ hóa, có nhiều tiềm năng phát triển [Phụ lục 13].
Hơn nữa, cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa ngành, lĩnh vực cơ cấu
về ngành nghề đào tạo và sự phân bố nhân lực KH-CN cũng có sự thay đổi đáng kể.
Nhân lực KH-CN trong các ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, tự động
59
hóa, điện tử, kiến trúc, y - dược, tài chính ngân hàng,… ngày càng gia tăng, trong
khi nhân lực trong các ngành nông - lâm - ngư nghiệp ngày càng giảm.
3.1.1.2. Chất lượng
Cùng với sự phát triển về số lượng, chất lượng nhân lực KH-CN của các tỉnh, thành
phố ở vùng DHMT cũng được nâng lên. Điều đó được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Phần lớn nhân lực KH-CN có phẩm chất chính trị vững vàng, tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng, kiên định con đường đi lên CNXH mà Đảng và nhân dân ta đã lựa
chọn. Nhân lực KH-CN của các tỉnh, thành phố rất cần cù, thông minh, sáng tạo, nhạy
bén với cái mới, có khả năng tiếp cận nhanh với sự phát triển của KH&CN hiện đại và
văn hóa thế giới. Đa số nhân lực KH-CN luôn giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, đạo
đức nghề nghiệp, có ý thức trách nhiệm với nghề nghiệp, với nền KH&CN của nước
nhà và công cuộc xây dựng và phát triển địa phương, luôn nỗ lực rèn luyện, học tập,
nghiên cứu sáng tạo để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao và sự đòi hỏi của xã hội.
Đa số nhân lực KH-CN có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn chấp hành nghiêm
chỉnh các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
sự quản lý của chính quyền địa phương, tuân thủ sự phân công, điều động của cơ
quan, đơn vị. Nhân lực KH-CN có tinh thần đoàn kết, có ý thức trách nhiệm xây
dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh.
Trình độ học vấn của nhân lực KH-CN ngày càng được nâng lên. Năm 2002, nhân
lực có trình độ cao đẳng, đại học trở lên ở các tỉnh, thành phố vùng DHMT có 154.212
người (trong đó 49.026 người trình độ cao đẳng và 105.186 người trình độ đại học trở
lên). Đến năm 2015, nhân lực có trình độ cao đẳng, đại học trở lên tăng lên 390.871
người (trong đó 109.742 người trình độ cao đẳng và 281.129 người trình độ đại học trở
lên). Như vậy, trong 13 năm, nhân lực có trình độ cao đẳng, đại học trở lên ở vùng
DHMT tăng 236.659 người, bình quân mỗi năm tăng hơn 18.000 người [Phụ lục 15].
Nếu xem xét nhân lực KH-CN trực tiếp tham gia hoạt động KH&CN có trình độ
từ thạc sĩ trở lên, qua khảo sát một số tỉnh, thành phố vùng DHMT cho thấy, số nhân
lực này có sự tăng lên, cụ thể: Tỉnh Quảng Trị năm 2002 có 61 thạc sỹ và 6 tiến sĩ, đến
năm 2015 tăng lên 235 thạc sỹ, 43 tiến sĩ. Thừa Thiên Huế, năm 2002 có 586 thạc sỹ
và 219 tiến sĩ, đến năm 2015 tăng lên 1.253 thạc sĩ, 516 tiến sĩ, gần 200 GS, PGS.
Thành phố Đà Nẵng, năm 2002 có 588 thạc sỹ và 167 tiến sĩ, đến năm 2015 tăng lên
1.541 thạc sỹ, 352 tiến sĩ và 70 GS, PGS. Tỉnh Quảng Ngãi năm 2002 có 105 thạc sỹ
và 02 tiến sĩ, đến năm 2015 tăng lên 516 thạc sỹ và 25 tiến sĩ.
60
Mặc dù điều kiện kinh tế và môi trường làm việc ở vùng DHMT còn nhiều khó
khăn. Song nhân lực KH-CN của các tỉnh, thành phố đã nỗ lực, khắc phục, nêu cao ý chí
tự lực, tự cường, lao động sáng tạo và đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của
KH&CN và phát triển KT-XH của địa phương. Nhân lực KH-CN đã tham gia tư vấn,
phản biện giúp cho các đảng bộ và chính quyền địa phương hoàn thiện các chủ trương,
chính sách, chương trình, dự án, đề án, kế hoạch phát triển kinh tế, giáo dục-đào tạo,
KH&CN và môi trường. Nhân lực KH-CN đã nghiên cứu, phát triển tạo ra nhiều sản
phẩm KH&CN trên các lĩnh vực và được ứng dụng vào thực tiễn góp phần thúc đẩy KT-
XH phát triển. Trên lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn nhiều đề tài, dự án nghiên cứu
đã cung cấp luận cứ khoa học cho các đảng bộ, chính quyền địa phương hoạch định các
chủ trương, chính sách; giữ gìn, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, bản sắc văn hóa
dân tộc; lưu giữ lịch sử và truyền thống cách mạng của địa phương, về chính sách tôn
giáo, về xây dựng Đảng... Trên lĩnh vực nông nghiệp, các nghiên cứu của nhân lực KH-
CN đã góp phần tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi có giá trị, cải thiện môi trường
nước, chất đất góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của sản xuất nông
nghiệp, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng bền
vững, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân. Trên lĩnh vực khoa học tự
nhiên và điều tra cơ bản, các nghiên cứu khoa học đã đưa ra nhiều giải pháp ứng phó với
biến đổi khí hậu; xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên, môi trường, hệ sinh thái. Trong
lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ các đề tài nghiên cứu khoa học tạo ra những sản
phẩm mới như gạch, muối…; các đề tài nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin phục
vụ dạy và học như thư viện điện tử, các phần mềm… Trong công tác bảo vệ môi trường
nhiều đề tài nghiên cứu ứng dụng chế phẩm vi sinh vào việc xử lý ô nhiễm rác thải sinh
hoạt và chăn nuôi. Trên lĩnh vực y học, nhiều kết quả nghiên cứu khoa học đã phục vụ
tốt cho việc khám, điều trị bệnh, phòng chống dịch bệnh. Ở một số chuyên khoa trong
lĩnh vực y học, trình độ chuyên môn của đội ngũ bác sĩ có thể so sánh với các bệnh viện
lớn ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thậm chí đạt trình độ tiên tiến của thế giới.
Tỉnh Quảng Bình từ 2005 - 2015 đã có 105 đề tài, dự án KH&CN được triển khai.
Trên 74% nhân lực có trình độ trên đại học và gần 26% nhân lực có trình độ đại học làm
chủ đề tài, dự án. Trong vong 5 năm (2005 - 2010) có trên 1.180 sáng kiến, cải tiến kỹ
thuật cấp ngành, cấp cơ sở, trong đó có 454 sáng kiến, đề tài tiêu biểu làm lợi hàng trăm
tỉ đồng cho các cơ sở sản xuất; trong 3 hội thi sáng tạo kỹ thuật (2004-2009) đã huy động
61
125 lượt cán bộ KH&CN tham gia và có 42 giải pháp kỹ thuật đoạt giải cấp tỉnh và cấp
Trung ương [132, tr.21]. Tỉnh Quảng Trị, từ năm 2010 đến 2014 đã có 149 đề tài, dự án
từ cấp nhà nước, cấp bộ, cấp viện, trường, đến cấp địa phương đã triển khai thực hiện.
Tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2004 đến 2014 có 167 đề tài, dự án khoa học đã được
nghiên cứu. Kết quả điều tra tại tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết “có 88,33% nhân lực KH-
CN tham gia thực hiện đề tài KH&CN cấp Bộ; 84,85% nhân lực KH-CN có bài báo
đăng tạp chí trong nước; 36,36% nhân lực KH-CN đã có tham gia các công trình quốc tế
như bài đăng tải tạp chí quốc tế hoặc hội thảo quốc tế” [33, tr.150]. Tỉnh Bình Định,
trong 5 năm 2006-2010 đã có 86 đề tài, dự án đã được triển khai nghiên cứu và ứng
dụng, trong đó có 06 đề tài cấp nhà nước, 76 đề tài cấp tỉnh. Tỉnh Quảng Ngãi, trong
vòng 10 năm 2001-2011 đã có 109 đề tài nghiên cứu khoa học được thực hiện.
3.1.2. Hạn chế
3.1.2.1. Số lượng và cơ cấu
Số lượng nhân lực KH-CN của các tỉnh, thành phố vùng DHMT còn ít, chưa
đáp ứng được yêu cầu về NNL cho đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập quốc tế và phát
triển nhanh, bền vững. Bình quân nhân lực có trình độ từ cao đẳng trở lên/1 vạn dân
của vùng năm 2002 mới đạt 171 người/1 vạn dân. Đến năm 2015, bình quân nhân
lực có trình độ từ cao đẳng trở lên/1 vạn dân đạt 390 người [Phụ lục 16].
Bình quân nhân lực KH-CN trực tiếp tham gia hoạt động KH&CN/1 vạn dân của
bốn tỉnh, thành phố (Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hòa) năm 2015
mới đạt 44 người/1 vạn dân [Phụ lục 12]. Trong khi đó, năm 2008, bình quân nhân lực
KH-CN/1 vạn dân của thành phố Hải Phòng là 364 người/1 vạn dân [58, tr.91].
Cơ cấu và sự phân bố nhân lực KH-CN giữa các loại hình tổ chức, ngành nghề
đào tạo, giới, dân tộc, vùng miền, khu vực còn bất hợp lý, thể hiện:
Về loại hình tổ chức, nhân lực KH-CN tập trung chủ yếu ở các cơ sở giáo dục đại
học, cao đẳng (chiếm 40,3%) và các cơ quan quản lý nhà nước (chiếm 44%); ở các loại
hình tổ chức khác nhân lực KH-CN chiếm tỷ lệ nhỏ, cụ thể: trong các tổ chức NC&PT
(chiếm 8%), ở các doanh nghiệp (chiếm 6%), các tổ chức dịch vụ KH&CN (chiếm
1,2%) [Phụ lục 14].
Về ngành nghề đào tạo, nhân lực KH-CN được đào tạo ở các chuyên ngành khoa
học xã hội và nhân văn chiếm tỷ lệ khá lớn (chiếm 33%); tiếp đến là khoa học y - dược
(28%) và khoa học kỹ thuật và công nghệ (18%); trong khi đó nhân lực KH-CN được
62
đào tạo ở khoa học nông nghiệp chỉ có (7,7%), mặc dù các tỉnh, thành phố vùng
DHMT nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ khá lớn trong cơ cấu kinh tế [Phụ lục 13].
Cơ cấu về giới mất cân đối. Nhân lực KH-CN nam chiếm đến 64%, trong khi
nhân lực KH-CN nữ chỉ có 36%. Về cơ cấu dân tộc, đại đa số nhân lực KH-CN là
người kinh (chiếm 99,5%); chỉ có 0,5% là người dân tộc thiểu số [Phụ lục 13].
Phần lớn nhân lực KH-CN, nhất là những người có học vị, học hàm tập trung ở
trung tâm thành phố, ở các đô thị còn ở vùng nông thôn, vùng xa trung tâm tỷ lệ nhân
lực KH-CN rất ít: tại tỉnh Thừa Thiên Huế 93,36% thạc sĩ và 98% tiến sĩ làm việc ở
thành phố Huế. Chính sự bất cập về sự phân bố nhân lực đã dẫn tới hệ quả ở các địa
bàn xa xôi, miền núi thiếu nhân lực KH-CN. Nhân lực KH-CN có học vị, học hàm chủ
yếu làm việc ở các cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn các tỉnh, thành phố, còn ở
các tổ chức KHCN do địa phương quản lý rất ít. Một bất cập nữa về phân bố nhân lực
là phần lớn nhân lực KH-CN hiện đang làm việc ở khu vực nhà nước, còn trong khu
vực tư nhân số lượng nhân lực KH-CN còn ít.
3.1.2.2. Về chất lượng
Trước những tác động của mặt trái kinh tế thị trường, sự yếu kém trong quản lý,
cộng với sự bất cập của cơ chế, chính sách và bản thân một bộ phận nhân lực KH-CN
thiếu tu dưỡng rèn luyện, thiếu bản lĩnh nên có biểu hiện giảm sút niềm tin vào sự lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, hoài nghi về con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Một bộ phận nhân lực KH-CN, kể cả những người có trình độ học vấn cao còn thiếu tự
tin, e ngại, sợ bị quy kết về quan điểm, né tránh những vấn đề có liên quan đến chính
trị. Đạo đức, lối sống và đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận nhân lực KH-CN có
mặt giảm sút, thiếu ý thức trách nhiệm và lòng tự trọng, chạy theo bằng cấp, danh lợi,
vật chất, thiếu trung thực trong nghiên cứu khoa học. Một số nhân lực KH-CN không
thường xuyên học hỏi, tìm tòi, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, thiếu chí khí và hoài
bão tụt hậu trước sự phát triển mạnh mẽ của KH&CN. Trong bộ phận nhân lực KH-
CN trẻ, một số có tâm trạng thiếu phấn khởi, chạy theo lợi ích trước mắt, thiếu đam
mê nghiên cứu khoa học.
Trình độ, năng lực NC&PT của nhân lực KH-CN ở vùng DHMT còn nhiều hạn
chế, bấp cập so với yêu cầu của thực tiễn và so với hai vùng trọng điểm phía Bắc và
phía Nam thì vẫn còn một khoảng cách khá xa. Hiện nay trong tổng số nhân lực KH-
CN của các địa phương, một tỷ lệ khá lớn nhân lực KH-CN có trình độ trung cấp
(chiếm 17,2%) và lao động khác (dưới trung cấp) còn chiếm đến 14%. Trong khi đó,
63
nhân lực KH-CN có trình độ tiến sĩ mới chiếm tỷ lệ 5% và nhân lực KH-CN có học
hàm phó giáo sư và giáo sư rất khiêm tốn (chiếm 0,01%) [Phụ lục 14]. Thực tế ở một
số địa phương trong vùng chưa có các cơ quan khoa học đủ năng lực tự tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng có tính phức tạp liên ngành và lĩnh vực công
nghệ cao. Nhiều kết quả nghiên cứu khoa học còn mang nặng tính lý thuyết, hàn lâm,
xa rời thực tiễn, hiệu quả ứng dụng thực tiễn chưa cao. Nhiều vấn đề thực tiễn phát
triển KT-XH, bảo vệ môi trường của vùng đặt ra cho các nhà khoa học nhưng không
đủ khả năng nghiên cứu giải quyết mà địa phương phải tìm đến các nhà khoa học ở
các trung tâm lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Chất lượng của nhân lực KH-
CN được thể hiện cuối cùng là ở sản phẩm hàng hóa KH&CN. Tuy nhiên trên thực
tế, sản phẩm hàng hóa KH&CN trên địa bàn các tỉnh còn hạn chế về số lượng, nghèo
nàn về chủng loại, chất lượng thấp. Tốc độ đổi mới sản phẩm thấp, ít phát minh sáng
chế, những sản phẩm mang tính chất tiên tiến, chất lượng thế giới hầu như không có.
Đơn cử Thừa Thiên Huế là một trung tâm khoa học lớn của vùng nhưng theo kết quả
điều tra năm 2011, chỉ có 2,94% nhân lực KH-CN giành được giải thưởng khoa học
quốc tế, 2,86% giành giải thưởng Nhà nước về KH&CN và không có người nào
giành được giải thưởng Hồ Chí Minh về KH&CN [Phụ lục 17].
Thiếu nhân lực KH-CN ở các lĩnh vực công nghệ cao, nhà khoa học đầu ngành,
những chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực là tình trạng chung của các tỉnh, thành phố
vùng DHMT. Đơn cử tại Quảng Ngãi, “trong tổng số 887 nhân lực KH-CN làm việc
tại các tổ chức KH&CN nhưng chỉ có 10 tiến sĩ (chiếm 1,12%), 239 thạc sĩ và tương
đương (chiếm 26,94%)” [162, tr.29]. Trong khi đó, các nhà khoa học có trình độ chuyên
môn cao và có nhiều kinh nghiệm nghề nghiệp, có uy tín trong giới khoa học ngày càng
giảm do đến tuổi nghỉ hưu. Tình trạng chảy máu chất xám lại đang diễn ra, một bộ phận
nhân lực KH-CN có trình độ chuyên môn cao chuyển đến các thành phố lớn như thành
phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh để công tác. Một số người sau khi hoàn thành xong
chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài nhưng không trở về địa phương.
Tính hợp tác trong nghiên cứu và kỹ năng làm việc nhóm của nhân lực KH-
CN còn yếu, chưa hình thành được các nhóm nghiên cứu liên ngành mạnh hoạt
động theo định hướng lâu dài và bền vững. Sự liên kết giữa nhà khoa học với doanh
nghiệp, nhà sản xuất, với người nông dân còn yếu. Một bộ phận nhân lực KH-CN ở
các trường đại học ít quan tâm đến nghiên cứu khoa học và đi nghiên cứu thực tế,
nghiên cứu đổi mới công nghệ do đó kết quả nghiên cứu khoa học còn hạn chế. Khả
64
năng sử dụng ngoại ngữ để giao tiếp và nhất là phục vụ cho công tác chuyên môn
của phần lớn nhân lực KH-CN rất hạn chế. Nhiều nhân lực KH-CN, kể cả những
người có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, học hàm nhưng không sử dụng được ngoại ngữ để
tham khảo, nghiên cứu tài liệu nước ngoài, tham dự các sinh hoạt khoa học quốc tế
hoặc theo học các chương trình đào tạo, bồi dưỡng bằng tiếng nước ngoài. Phần
đông nhân lực KH-CN còn thiếu mạnh dạn phản biện, hiến kế, đề xuất các kế sách
phát triển đến các cấp lãnh đạo địa phương trong vùng.
Môi trường, điều kiện làm việc chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân lực KH-
CN trong hoạt động chuyên môn. Chế độ đãi ngộ đối với nhân lực KH-CN còn
nhiều hạn chế, bất cập.
Báo cáo số 40-CTr/TU của tỉnh ủy Quảng Ngãi về thực hiện Chương trình
hành động thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TU về phát triển KH&CN đánh giá:
Tiềm lực KH&CN còn yếu và thiếu cả về con người và cơ sở vật chất, không
có các cơ sở nghiên cứu khoa học, ứng dụng và phát triển công nghệ có tính
phức tạp liên ngành và lĩnh vực công nghệ cao. Năng lực đội ngũ cán bộ khoa
học của tỉnh còn nhiều hạn chế, thiếu những cán bộ khoa học có trình độ
chuyên môn cao, các chuyên gia đầu ngành [110].
Báo cáo của tỉnh ủy Thừa Thiên Huế về tình hình thực hiện nhiệm vụ KH&CN
giai đoạn 2001-2011 và phương hướng, nhiệm vụ đến 2020 khẳng định “Đội ngũ trí
thức trên địa bàn chưa đồng bộ về cơ cấu ngành nghề và phân bố vùng miền. Cơ sở
vật chất, trang thiết bị phục vụ các nhiệm vụ KH&CN của tỉnh còn nghèo nàn” [122].
Tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, tỉnh ủy Bình Định đánh giá
“Đội ngũ cán bộ nghiên cứu, ứng dụng chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ chưa đủ mạnh, còn thiếu nhiều chuyên gia đầu ngành, kỹ sư công nghệ. Cơ cấu cán
bộ KH&CN còn mất cân đối, phân bổ không đều giữa các ngành, địa phương” [95].
Báo cáo tổng kết nhiệm vụ phát triển KH&CN của thành ủy Đà Nẵng cũng chỉ rõ:
Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ tuy có tăng về số lượng, nhưng thiếu lực
lượng chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực quản lý, kỹ thuật chuyên ngành, đặc biệt
là công nghệ cao. Số cán bộ có học vị cao còn khiêm tốn, chủ yếu tập trung ở
khối các cơ quan Trung ương. Thiếu cán bộ đầu đàn có khả năng tổ chức thực
hiện những chương trình, dự án nghiên cứu lớn. Trình độ cán bộ quản lý còn hạn
chế, sự yếu kém thể hiện rõ nhất ở năng lực thẩm định, đánh giá công nghệ, xây
dựng dự án hay xem xét những vấn đề có tính khoa học chuyên sâu [126].
65
3.2. CÁC TỈNH, THÀNH ỦY Ở VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG LÃNH
ĐẠO PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN, KINH NGHIỆM
3.2.1. Thực trạng sự lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy ở vùng duyên hải
miền Trung đối với phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
3.2.1.1. Ưu điểm
* Về nội dung lãnh đạo phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
Về lãnh đạo định hướng quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát
triển nhân lực KH -CN.
Cụ thể hóa nghị quyết, chủ trương của đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và của
đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh, thành phố về phát triển NNL, các tỉnh, thành ủy đã ban
hành các nghị quyết về phát triển NNL (trong đó có phát triển nhân lực KH-CN) để lãnh
đạo các tổ chức trong HTCT, các tổ chức KH&CN, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ
thuật, nhân lực KH-CN thực hiện và các lực lượng khác cùng tham gia. Các nghị quyết
của tỉnh, thành ủy đã định hướng phát triển NNL trên các vấn đề chủ yếu sau:
Đẩy mạnh phát triển NNL (trong đó có nhân lực KH-CN) về số lượng, nâng cao
chất lượng và xây dựng cơ cấu hợp lý; tập trung ưu tiên phát triển nhân lực ở những
ngành, lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của địa phương, các trường đại học, cao đẳng, các
trung tâm NC&PT, các bệnh viện; phát triển đội ngũ công nhân, lao động có trình độ
kỹ thuật, có tay nghề cao và cơ cấu hợp lý đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Mặt khác,
trong những năm gần trước sự phát triển của các lĩnh vực công nghệ cao, các tỉnh,
thành ủy đã có định hướng phát triển nhân lực KH-CN ở những lĩnh vực này.
Nghị quyết định hướng phát triển NNL mang tính toàn diện về thể lực, trí lực,
trình độ học vấn, kỹ năng lao động, đạo đức, lối sống và ý thức chính trị. Đồng thời,
xác định rõ các quan điểm: phát triển NNL phải gắn với Chiến lược phát triển kinh tế,
xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã
hội, quốc phòng an ninh của địa phương; có trọng tâm, trọng điểm; phát triển NNL là
trách nhiệm của cả HTCT, của toàn dân và cộng đồng doanh nghiệp; thực hiện xã hội
hóa mạnh mẽ, nâng cao vai trò tự chủ các đơn vị sự nghiệp và các thành phần kinh tế
trong phát triển NNL. Nghị quyết đề ra các nhiệm vụ, giải pháp để phát triển NNL
bao gồm: dự báo chính xác nhu cầu NNL; tổ chức thực hiện tốt công tác quy hoạch
66
NNL; đổi mới nâng cao chất lượng tuyển dụng, thu hút NNL; thực hiện tốt công tác
đào tạo, bồi dưỡng NNL; bố trí, sử dụng hợp lý, hiệu quả NNL và tiếp tục đổi mới
cơ chế, chính sách phục vụ phát triển NNL.
Về lãnh đạo xây dựng chiến lược phát triển KH&CN và quy hoạch phát triển
nhân lực KH-CN làm cơ sở cho công tác phát triển nhân lực KH-CN.
Các tỉnh, thành ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền tiến hành xây dựng Chiến
lược/ Chương trình phát triển KH&CN nhằm định hướng và làm cơ sở để xây dựng các
chương trình, kế hoạch phát triển KH&CN và phát triển nhân lực KH-CN. Đến nay,
UBND tỉnh, thành phố (Quảng Bình, thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam) đã ban hành
chiến lược phát triển KH&CN, UBND Thừa Thiên Huế, UBND tỉnh Khánh Hòa có
Chương trình phát triển KH&CN, UBND tỉnh Quảng Trị, UBND Quảng Ngãi có
chương trình phát triển tiềm lực KH&CN. Chiến lược, chương trình phát triển
KH&CN của các tỉnh, thành phố đã nêu lên phương hướng, mục tiêu phát triển
KH&CN và nhân lực KH-CN. Chiến lược phát triển KH&CN của tỉnh Quảng Bình
đến năm 2020 đưa ra định hướng phát triển nhân lực KH-CN: “Tập trung đầu tư phát
triển đội ngũ cán bộ KH&CN đủ về số lượng, có chất lượng cao, đạt tương đương trình
độ các nước trong khu vực” [136, tr.3]; Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ
của thành phố Đà Nẵng đến năm 2010 và 2015 xác định mục tiêu: “Xây dựng và phát
triển nguồn lực khoa học và công nghệ đủ mạnh, đảm bảo đủ khả năng tiếp thu, ứng
dụng, làm chủ và phát triển công nghệ hiện đại” [144, tr.2]. Quy hoạch phát triển
KH&CN của tỉnh Khánh Hòa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đưa ra mục tiêu:
“Tạo bước đột phá trong chính sách nhân lực khoa học và công nghệ, bảo đảm gia tăng
số cán bộ nghiên cứu và phát triển trên một vạn dân đạt mức 10-12 người năm 2015 và
12-14 người vào năm 2020. Xây dựng một đội ngũ nhân lực công nghệ cao, các
chuyên gia khoa học và công nghệ đầu ngành” [160, tr.4].
Về lãnh đạo thể chế hóa, cụ thể hóa nghị quyết, chủ trương của tỉnh, thành ủy
về phát triển nhân lực KH-CN thành các chương trình, kế hoạch, chính sách, đề án
và tổ chức thực hiện trong thực tiễn.
Sau khi ban hành các nghị quyết, các tỉnh, thành ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo chính
quyền cụ thể hóa nghị quyết bằng các chương trình, kế hoạch, đề án và ban hành các
67
chính sách để phát triển NNL (trong đó có phát triển nhân lực KH-CN). Từ 2007 - 2011,
UBND tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành 3 đề án phát triển NNL, trong đó có đề án đào tạo
trình độ thạc sĩ, tiến sĩ giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020; UBND tỉnh
Quảng Ngãi còn có chương trình phát triển tiềm lực KH&CN giai đoạn 2006 - 2010.
UBND thành phố Đà Nẵng đã và đang triển khai thực hiện nhiều đề án về phát triển
NNL chất lượng cao và đã đạt được nhiều kết quả như: Dự án 151, Dự án 32, Đề án 47
và đáng chú ý là Đề án 393 “Đào tạo 100 thạc sĩ, tiến sĩ tại các cơ sở nước ngoài”, Đề án
922 “Đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”. Ngoài ra, UBND thành phố Đà
Nẵng còn ban hành kế hoạch số 8825/QĐ-UBND ngày 5/11/2007 về đào tạo nhân lực
ngành công nghệ sinh học của thành phố; Kế hoạch tổng thể phát triển NNL công nghệ
thông tin - truyền thông đến năm 2020. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban hành các
chương trình, kế hoạch như: Chương trình phát triển KH&CN Thừa Thiên Huế đến năm
2010 và tầm nhìn đến năm 2020; Chương trình phát triển KH&CN và đào tạo NNL chất
lượng cao; Kế hoạch phát triển NNL ngành KHCN đến năm 2015 và định hướng đến
năm 2020. HĐND các tỉnh, thành phố đã thể chế hóa nghị quyết ban hành nhiều chính
sách để phát triển NNL (trong đó có nhân lực KH-CN) và phát triển KH&CN.
Các tỉnh, thành ủy đã lãnh đạo các huyện ủy, thị ủy, quận ủy, ban cán sự đảng,
đảng ủy khối các cơ quan tỉnh, Đảng đoàn Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, đảng
ủy các trường đại học, các ban của tỉnh, thành ủy, các sở, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội quán triệt nghị quyết đến cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức và nhân dân; xây dựng chương trình hành động, một số nơi ban hành nghị quyết để
lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN của cơ quan đơn vị mình, trong đó tập trung vào
lãnh đạo công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng; công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ
lãnh đạo, quản lý trong các tổ chức KH&CN; thực hiện các chế độ, chính sách đối với
nhân lực KH-CN và xây dựng môi trường, điều kiện làm việc cho nhân lực KH-CN.
Về lãnh đạo công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và thu hút nhân lực KH-CN.
Các tỉnh, thành ủy đã lãnh đạo công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, thu hút
nhân lực KH-CN gắn với chiến lược phát triển KH&CN và quy hoạch phát triển KT-
XH của địa phương. Trên cơ sở nhu cầu về nhân lực KH-CN, các tỉnh, thành ủy lãnh
đạo UBND tỉnh ban hành các quy định tuyển dụng và xây dựng kế hoạch tuyển dụng
nhân lực. Việc tuyển dụng nhân lực KH-CN tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
68
Các tỉnh, thành ủy lãnh đạo định hướng về mục tiêu, đối tượng, ngành, lĩnh vực cần
tập trung đào tạo và thu hút, trên cơ sở đó chỉ đạo UBND tỉnh, thành phố xây dựng
các đề án, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, qua đó lồng
ghép đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH-CN. UBND các tỉnh, thành phố trong vùng đã
xây dựng các đề án công phu, đầu tư nguồn lực tài chính và tổ chức thực hiện chặt
chẽ, nhờ đó công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH-CN đã đạt được nhiều kết quả.
Ngoài ra, công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH-CN còn được triển khai thông
qua các chương trình, nhiệm vụ KH&CN, các đề án do Trung ương triển khai thực
hiện như đề án 165, đề án 322, đề án 911 [Phụ lục 19]. Đặc biệt trong những năm gần
đây, chính sách đào tạo nhân lực của một số tỉnh, thành phố như Đà Nẵng, Quang
Nam, Khánh Hòa đã có sự đột phá. Các địa phương trên đã thực hiện chính sách cấp
học bổng từ nguồn ngân sách của địa phương để đào tạo nhân lực ở các nước có nền
giáo dục tiên tiến. Chính nhờ chính sách này, các địa phương đã đào tạo được NNL
chất lượng cao và tạo nguồn cán bộ cho HTCT, các tổ chức KH&CN.
Để tổ chức thực hiện và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng các tỉnh, thành ủy đã
lãnh đạo, chỉ đạo HĐND và UBND tỉnh, thành phố thể chế hóa nghị quyết ban hành
các cơ chế, chính sách quy định về đối tượng, điều kiện, tiêu chuẩn, chuyên ngành đào
tạo, cơ sở đào tạo, các chính sách hỗ trợ và chế tài ràng buộc đối tượng được cử đi đào
tạo. Tùy theo tình hình thực tiễn và điều kiện của địa phương, UBND các tỉnh, thành
phố đã có sự điều chỉnh, bổ sung hoặc thay thế chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng.
Các tỉnh, thành ủy đã chỉ đạo từng ngành, từng địa phương, các trường đại học,
cao đẳng, tổ chức NC&PT trên cơ sở định hướng của tỉnh, thành ủy chủ động xây dựng
kế hoạch tuyển dụng, đào tạo nhân lực KH-CN của ngành, địa phương, đơn vị theo nhu
cầu của địa phương, đơn vị; khuyến khích nhân lực KH-CN tự đào tạo nâng cao trình độ
kiến thức, kỹ năng.
UBND các tỉnh, thành phố trong vùng đều ban hành chính sách thu hút NNL, chú
trọng thu hút nhân lực KH-CN chất lượng cao như: giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ,
bác sỹ chuyên khoa I và II, dược sỹ chuyên khoa I và II, bác sĩ nội trú, người tốt nghiệp
đại học hệ chính quy đạt loại giỏi, xuất sắc đối với chuyên ngành mà các tỉnh, thành phố
có nhu cầu. Chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao thể hiện sự trọng dụng người tài
69
của các địa phương. Bằng chính sách này, các địa phương đã thu hút được nhân lực có
chất lượng, qua đó góp phần cải thiện cơ cấu nhân lực KH-CN, đáp ứng nhu cầu NNL
chất lượng cao cho phát triển KH&CN và KT-XH của địa phương [Phụ lục 20].
Về lãnh đạo tạo lập môi trường, điều kiện để phát triển KH&CN và phát triển
nhân lực KH-CN và phát huy vai trò, trách nhiệm của nhân lực KH-CN đóng góp
cho sự phát triển KT-XH của địa phương.
Các tỉnh, thành ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo UBND các tỉnh, thành phố xây dựng quy
hoạch, bố trí quỹ đất để thành lập, di dời hoặc mở rộng quy mô trường đại học; củng cố,
nâng cao chất lượng hoặc thành lập mới các cơ sở nghiên cứu và triển khai, ứng dụng
công nghệ, các tổ chức dịch vụ thông tin KH&CN, dịch vụ sở hữu trí tuệ, tư vấn hỗ trợ
chuyển giao công nghệ.v.v... Hiện nay, toàn vùng có 28 trường đại học và tương đương,
36 trường cao đẳng và nhiều tổ chức nghiên cứu, triển khai. Điển hình như tại tỉnh Thừa
Thiên Huế hiện có 7 trường đại học, 6 trường cao đẳng, khoảng 30 tổ chức nghiên cứu
và triển khai, có 150 phòng thí nghiệm lớn nhỏ, có 16 thư viện lớn và hàng chục thư
viện nhỏ. Nhiều đơn vị được trang bị các thiết bị, công nghệ hiện đại mang tầm khu vực
và quốc tế. Thành phố Đà Nẵng có 8 trường đại học, có 31 tổ chức KH&CN, 01 Khu
Công nghệ cao quốc gia, 01 trung tâm công nghệ phần mềm. Tỉnh Bình Định là địa
phương đầu tiên trong cả nước xây dựng được Tổ hợp không gian khoa học nhằm thúc
đẩy quá trình sáng tạo, mang lại lòng yêu thích khoa học, nhất là đối với giới trẻ.
Các tỉnh, thành ủy đã lãnh đạo các cơ quan chính quyền theo chức năng, nhiệm
vụ được giao ban hành các cơ chế, chính sách tạo hành lang pháp lý và điều kiện thuận
lợi cho nhân lực KH-CN và các tổ chức KH&CN hoạt động như: quy định về hoạt
động tư vấn, phản biện và giám định xã hội; quy chế, quy định quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ; cơ chế, chính sách khuyến khích doanh
nghiệp, nhà đầu tư đầu tư, hỗ trợ cho KH&CN; đổi mới cơ chế quản lý nhiệm vụ
KH&CN, cơ chế tài chính… Đặc biệt một số tỉnh, thành phố đã thành lập Quỹ phát
triển KH&CN nhằm hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, ứng dụng KH&CN phục
vụ phát triển KT-XH. Hàng năm các tỉnh, thành phố trong vùng đều tổ chức Hội thi
sáng tạo kỹ thuật nhằm phát huy và khuyến khích hoạt động sáng tạo trong việc áp
70
dụng có hiệu quả các giải pháp kỹ thuật vào sản xuất và đời sống. Các tỉnh, thành phố
trong vùng đều có các giải thưởng KH&CN nhằm tôn vinh những cá nhân và tập thể có
những thành tích tiêu biểu trong hoạt động KH&CN. Ngoài ra, hàng năm UBND các
tỉnh, thành phố còn phối hợp với các đơn vị trong tỉnh, với Bộ Khoa học và Công nghệ
tổ chức nhiều cuộc hội thảo khoa học, hội nghị. Một sự kiện tiêu biểu năm 2016,
UBND tỉnh Bình Định đã phối hợp với Hội gặp gỡ Việt Nam tổ chức cuộc gặp gỡ có
sự tham gia của nhiều nhà khoa học trong nước và thế giới. Thông qua hoạt động này
nhân lực KH-CN của các tỉnh, thành phố trong vùng có điều kiện giao lưu, học hỏi và
thiết lập quan hệ hợp tác với các nhà khoa học trên thế giới. Các tỉnh, thành ủy chỉ đạo
các cơ quan chính quyền theo chức năng, nhiệm vụ tăng cường thanh tra bảo đảm cho
các tổ chức KH&CN và nhân lực KH-CN tham gia hoạt động KH&CN tuân thủ đúng
pháp luật Nhà nước, quy định của chính quyền địa phương.
Nhìn chung, các cấp uỷ đảng, chính quyền, các tổ chức KH&CN đã quan tâm, tạo
mọi điều kiện ngày càng thuận lợi hơn để nhân lực KH-CN phát huy năng lực, cống
hiến tài năng, trí tuệ cho hoạt động KH&CN và sự phát triển của địa phương, cơ quan,
đơn vị. Các cơ chế, chính sách từng bước được đổi mới theo hướng trọng dụng người
tài, tạo môi trường làm việc thuận lợi, tạo cơ hội được đào tạo, thăng tiến cho nhân lực
KH-CN. Phần lớn nhân lực KH-CN được bố trí công tác phù hợp với chuyên ngành
được đào tạo, được tạo điều kiện về thời gian và hỗ trợ kinh phí tham gia các khóa đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị và cập nhật
kiến thức mới; được quan tâm quy hoạch, bổ nhiệm vào các chức danh lãnh đạo, quản
lý; được tạo điều kiện tham gia đóng góp ý kiến xây dựng các văn kiện, nghị quyết, tư
vấn, phản biện và giám định xã hội đối với các chính sách, chương trình, dự án, đề án
của địa phương. Những người có thành tích xuất sắc trong giảng dạy, nghiên cứu khoa
học được xét khen thưởng với nhiều hình thức khác nhau. Những người có học hàm,
học vị ở các trường đại học, học viện được kéo dài tuổi nghỉ hưu. Đối với nhân lực KH-
CN được thu hút theo chính sách của các địa phương còn được hưởng các chính sách ưu
đãi như: hỗ trợ một khoản tiền ban đầu, trợ cấp hằng tháng, hỗ trợ tiền thuê nhà, ưu tiên
mua đất, được giao đất ở; đối với những người có học vị, học hàm, những sinh viên tốt
nghiệp loại giỏi, xuất sắc được tuyển dụng trực tiếp vào biên chế không qua thi tuyển.
71
Ngân sách đầu tư cho KH&CN và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức của các tỉnh, thành phố hàng năm đều tăng. Từ 2006 - 2014, tỉnh
Thừa Thiên Huế đã đầu tư 261,292000.000 đồng cho hoạt động KH&CN. Trong 8
năm 2002-2010, tỉnh Phú Yên đã đầu tư 103 tỷ đồng cho KH&CN. Tỉnh Quảng
Ngãi đầu tư ngân sách nhà nước cho KH&CN tăng từ 9.808 triệu đồng năm 2006,
tăng lên 26.730,2 triệu đồng năm 2010. Các tỉnh, thành phố đều thực hiện xã hội
hóa để huy động nguồn lực của các thành phần kinh tế và phát huy nội lực từ trong
nhân dân để phát triển KH&CN, đào tạo nhân lực.
Về lãnh đạo liên kết, hợp tác trong nước và quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của
Trung ương để phát triển nhân lực KH-CN và phát triển KH&CN.
Các tỉnh, thành ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo UBND tỉnh, thành phố xây dựng, thiết lập
và ký kết hợp tác với một số tỉnh, thành phố trong nước, với các bộ, ngành trung ương,
các viện nghiên cứu, trường đại học lớn. Mặt khác, để khai thác và phát huy tiềm năng,
thế mạnh của từng địa phương và của toàn vùng, góp phần tăng trưởng kinh tế nhanh
và phát triển bền vững, các tỉnh, thành phố trong vùng đã thực hiện liên kết phát triển
với nhiều nội dung, trong đó có liên kết đào tạo NNL chất lượng cao. Các tỉnh, thành
ủy lãnh đạo UBND tỉnh, thành phố ban hành cơ chế, chính sách và đẩy mạnh cải cách
hành chính để thu hút các doanh nghiệp, các nhà đầu tư đầu tư cho KH&CN và phát
triển nhân lực KH-CN. Trong mọi điều kiện có thể, các tỉnh, thành ủy và chính quyền
tỉnh, thành phố luôn biết tranh thủ sự tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, hỗ trợ về
ngân sách và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, hạ tầng về KH&CN từ Trung
ương. Các tỉnh, thành phố và nhiều trường đại học có tiềm lực mạnh trong vùng đã
thiết lập quan hệ hợp tác với các nước, các địa phương, các trường đại học, các tổ chức
quốc tế để tranh thủ các nguồn lực, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH-CN, thu hút chất
xám, chuyển giao công nghệ. Đơn cử một tỉnh tiềm lực KH&CN còn chưa phát triển
như Quảng Trị cũng đã thiết lập quan hệ hợp tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao
công nghệ với hơn 30 viện, trung tâm KH&CN, các trường đại học trong nước và khu
vực. Trường Đại học Bách Khoa Đà Nẵng đã thiết lập quan hệ và ký kết biên bản hợp
tác với khoảng 60 công ty và trường đại học của 20 quốc gia trên thế giới. Đơn vị thực
hiện khá thành công trong hợp tác quốc tế là Đại học Huế và Bệnh viên Trung ương
72
Huế. Hiện nay, hai đơn vị này đã thiết lập quan hệ hợp tác với gần một trăm trường đại
học, viện nghiên cứu, các tổ chức khoa học của trên 30 nước ở hầu hết các châu lục.
* Về phương thức lãnh đạo phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
Các tỉnh, thành ủy lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN bằng các nghị quyết
phát triển nhân lực KH-CN.
Trên cơ sở nghị quyết của đại hội đảng bộ tỉnh, thành phố xác định những nhiệm
vụ trọng tâm của nhiệm kỳ, tỉnh, thành ủy đã xây dựng chương trình công tác của toàn
khóa, lựa chọn những nhiệm vụ theo thứ tự ưu tiên để ban hành nghị quyết. Tỉnh, thành
ủy đã chỉ đạo các ban tham mưu chuẩn bị nội dung, phân công đồng chí trong BTV
phụ trách lĩnh vực chuẩn bị cho việc xây dựng và ban hành nghị quyết của tỉnh ủy,
thành ủy về phát triển NNL. Từ năm 2001 đến nay, các tỉnh, thành ủy trong vùng đều
đã ban hành các nghị quyết về phát triển NNL (trong đó có nhân lực KH-CN). Trong
10 năm, từ 2001-2011, tỉnh ủy Bình Định đã ban hành ba chương trình hành động phát
triển NNL (Chương trình hành động số 10-Ctr/TU; Chương trình hành động số 11-
Ctr/TU và Chương trình hành động số 08-Ctr/TU); tỉnh ủy Quảng Ngãi ban hành hai
nghị quyết về phát triển NNL (Nghị quyết số 06-NQ/TU và Nghị quyết số 05-NQ/TU);
từ 2006-2011, tỉnh ủy Phú Yên đã ban hành 02 chương trình hành động (Chương trình
hành động số 08-CTr/TU và Chương trình hành động số 07-Ctr/TU)...
Lãnh đạo thông qua các cơ quan nhà nước để cụ thể hóa và tổ chức thực hiện
nghị quyết của tỉnh, thành ủy về phát triển nhân lực KH-CN.
UBND tỉnh, thành phố đã cụ thể hóa nghị quyết của tỉnh, thành ủy thành các
chương trình, kế hoạch, các đề án phát triển NNL và ban hành các cơ chế, chính sách
tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, hoạt động nghề nghiệp và đãi ngộ đối với nhân
lực KH-CN; HĐND tỉnh, thành phố đã ban hành nghị quyết của HĐND như: nghị quyết
phê duyệt đề án phát triển NNL; nghị quyết quy định về chính sách đào tạo phát triển
NNL, nghị quyết quy định về chính sách thu hút nhân lực trình độ cao..v.v.v... Các Sở
đã thực hiện tương đối tốt việc tham mưu cho UBND và các tỉnh, thành ủy trên lĩnh vực
được phân công. Đồng thời, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh,
thành phố, bảo đảm các tổ chức KH&CN và nhân lực KH-CN tham gia hoạt động
KH&CN tuân thủ đúng luật pháp, chính sách.
73
Các tỉnh, thành ủy lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN bằng công tác tư tưởng
Các tỉnh, thành ủy và các cấp ủy đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quán triệt,
học tập các nghị quyết phát triển NNL của tỉnh, thành ủy và các nghị quyết của Đảng
về xây dựng đội ngũ trí thức, phát triển KH&CN. Qua quán triệt học tập nghị quyết
giúp cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nâng cao nhận thức, nắm được
những nội dung cơ bản, thống nhất ý chí và hành động thực hiện các nghị quyết. Cùng
với việc tổ chức quán triệt các nghị quyết nói trên, các tỉnh, thành ủy và các đảng ủy
trực thuộc đã tiến hành quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XII, Chỉ thị 06, 03, 05-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, tấm
gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong các tổ chức của HTCT, Liên hiệp các
Hội Khoa học và Kỹ thuật, các tổ chức KH&CN đã góp phần giáo dục, rèn luyện cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, nghiêm khắc
với mình hơn, giữ gìn đạo đức, lối sống. Các tỉnh, thành ủy, Ban Tuyên giáo tỉnh, thành
ủy cũng đã chỉ đạo Báo chí, Đài Phát thanh - Truyền hình địa phương thông tin tuyên
truyền về chủ trương, chính sách, những kết quả đạt được và những định hướng của địa
phương trong phát triển NNL. Đồng thời, tuyên truyền những mô hình, điển hình trong
phát triển NNL, những tấm gương sáng trong học tập, nghiên cứu khoa học của nhân
lực KH-CN nhằm khuyến khích học tập kinh nghiệm.
Nhiều tổ chức KH&CN định kỳ đã thực hiện việc thông tin khoa học, thông tin
tình hình thế giới và trong nước, qua đó phần nào đáp ứng được nhu cầu thông tin, ổn
định tình hình tư tưởng của nhân lực KH-CN. Tổ chức các hội thảo, tọa đàm khoa học
tạo diễn đàn cho nhân lực KH-CN sinh hoạt khoa học. Hàng năm nhân các ngày kỷ
niệm, địa phương đã chỉ đạo, tổ chức ngành giáo dục, ngành KH&CN, y tế tổ chức lễ
kỷ niệm của ngành nhằm tri ân những đóng góp của nhà giáo, thầy thuốc đối với sự
nghiệp trồng người, nghiên cứu khoa học, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Khi cần thiết,
địa phương đã tổ chức hội nghị để cán bộ chủ chốt gặp gỡ, lắng nghe ý kiến, những đề
xuất, kiến nghị của trí thức, nhà khoa học đối với chủ trương, chính sách phát triển địa
phương và chính sách đối với nhân lực KH-CN. Đồng thời, lãnh đạo địa phương cũng
thông tin về tình hình KT-XH, những chủ trương, định hướng trong thời gian tới, khơi
dậy nhân lực KH-CN tiếp tục đóng góp vào sự nghiệp xây dựng quê hương, đất nước.
Các tỉnh, thành ủy lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN thông qua công tác tổ
chức, cán bộ.
74
Các tỉnh, thành ủy đã tập trung lãnh đạo xây dựng, củng cố, kiện toàn và nâng cao
chất lượng các tổ chức trong HTCT, xác định chức năng, nhiệm vụ và sự phối hợp giữa
các cơ quan này trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển NNL. Các tỉnh, thành
ủy đều thành lập Ban chỉ đạo phát triển NNL để giúp tỉnh, thành ủy chỉ đạo, hướng dẫn,
đôn đốc kiểm tra việc thực hiện nghị quyết về phát triển NNL; đồng thời tham mưu, đề
xuất những chủ trương, chính sách và giải pháp cụ thể để phát triển NNL. Mặt khác, Ban
chỉ đạo tham mưu cho BTV tỉnh, thành ủy về tuyển chọn nhân lực đưa đi đào tạo, theo
dõi quá trình đào tạo của các đối tượng được cử đi đào tạo; và đề xuất, tiếp nhận, bố trí
công tác, chính sách đãi ngộ phù hợp cho nhân lực KH-CN trình độ cao sau khi tốt
nghiệp; quản lý điều hành nguồn kinh phí để phát triển NNL. Đặc biệt để chuyên nghiệp
hóa công tác phát triển NNL, thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam đã thành lập Trung
tâm phát triển NNL. Trung tâm này có nhiệm vụ tham mưu cho tỉnh, thành ủy và UBND
tỉnh về công tác phát triển NNL và triển khai các hoạt động để phát triển NNL.
Các tỉnh, thành ủy chú trọng lãnh đạo xây dựng hệ thống tổ chức quản lý nhà nước
về KH&CN từ cấp tỉnh đến cấp huyện nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà
nước trên lĩnh vực KH&CN. Các sở, ngành của tỉnh, thành phố đều thành lập Hội đồng
KH&CN để tham gia tư vấn cho lãnh đạo trong quản lý hoạt động KH&CN của ngành.
Đa số các huyện, quận, thành phố đã thành lập và ban hành quy chế hoạt động của Hội
đồng KH&CN, đồng thời bố trí cán bộ kiêm nhiệm giúp lãnh đạo huyện, quận, thành
phố quản lý nhà nước về KH&CN ở địa phương.
Các tỉnh, thành ủy và các cấp ủy đảng luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ
trong các tổ chức của HTCT, nhất là các cơ quan chính quyền; xây dựng đội ngũ cán bộ
của các tổ chức KH&CN, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật. Trên cơ sở Chiến
lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và nghị quyết của Đảng, các tỉnh,
thành ủy đã ban hành nghị quyết về cán bộ và chỉ đạo các cấp ủy tổ chức thực hiện, trong
đó đặc biệt nhất mạnh quán triệt nghiêm túc các quan điểm, nguyên tắc, quy chế, quy
trình, tiêu chuẩn cán bộ. Các tỉnh, thành ủy đã triển khai công tác quy hoạch cán bộ, xây
dựng các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển để đào tạo, rèn luyện, thử thách
cán bộ qua các môi trường, cương vị khác nhau. Các tỉnh, thành ủy và các đảng ủy trực
75
thuộc rất coi trọng việc bố trí cán bộ có phẩm chất và trình độ, năng lực giữ cương vị
lãnh đạo, quản lý của cơ quan, tổ chức này. Cùng với việc quan tâm xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chính trị, các tỉnh, thành ủy cũng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ tham
mưu, cán bộ quản lý của các Sở thuộc UBND và đội ngũ cán bộ khoa học trong các tổ
chức KH&CN bằng nhiều chủ trương và giải pháp như: cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng
về chuyên môn, về lý luận chính trị, đào tạo theo chức danh, bồi dưỡng nghiệp vụ
chuyên môn, quản lý nhà nước, cập nhật kiến thức mới; cử cán bộ đi nghiên cứu, học tập
kinh nghiệm của các nước phát triển. Đối với cán bộ trong các tổ chức KH&CN, các
tỉnh, thành ủy ưu tiên cử đi đào tạo theo các đề án đào tạo NNL chất lượng cao và ưu tiên
đào tạo ở nước ngoài; có chính sách thu hút nhân lực KH-CN có học vị, học hàm về giữ
cương vị lãnh đạo, quản lý tại các tổ chức KH&CN. Thông qua hệ thống tổ chức và đội
ngũ cán bộ ngày càng được củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng, các tỉnh, thành ủy
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương của tỉnh, thành ủy, các
chương trình, kế hoạch, đề án phát triển NNL của chính quyền.
Các tỉnh, thành ủy lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN thông qua tổ chức
đảng và đảng viên trong các tổ chức của HTCT, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ
thuật, các tổ chức KH&CN.
Đảng đoàn HĐND tỉnh, thành phố đã lãnh đạo HĐND cụ thể hóa nghị quyết
phát triển NNL của tỉnh, thành ủy và ban hành các nghị quyết của HĐND trên cơ sở đó
giám sát UBND thực hiện nghị quyết, chính sách về phát triển NNL. Ban Cán sự đảng
UBND tỉnh, thành phố đã lãnh đạo UBND cụ thể hóa nghị quyết của tỉnh, thành ủy
thành chương trình, kế hoạch, đề án, chính sách phát triển NNL và tổ chức thực hiện
trong thực tiễn. Đảng đoàn Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật đã tham mưu cho
tỉnh, thành ủy, BTV và UBND tỉnh những chủ trương, chính sách có liên quan đến
phát triển nhân lực KH-CN; từng bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt động để
tập hợp, đoàn kết nhân lực KH-CN vào tổ chức của Hội. Đảng đoàn đã lãnh đạo các
Hội thành viên phát huy vai trò của nhân lực KH-CN tham gia nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ, tham gia tư vấn, phản biện và giám định xã hội đối với nghị
quyết, chương trình, dự án, đề án của địa phương; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
76
pháp của các hội viên và làm tốt vai trò cầu nối giữa nhân lực KH-CN với đảng bộ, chính
quyền địa phương. Đội ngũ đảng viên, nhất là đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, quản lý
đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện thẩm quyền, trách nhiệm được giao, lãnh đạo
cấp ủy, cơ quan, đơn vị triển khai, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết phát triển
NNL của tỉnh, thành ủy đề ra. Cấp ủy và thủ trưởng các tổ chức KH&CN đã lãnh đạo
các cơ quan, đơn vị khoa học quán triệt triển khai thực hiện nghị quyết của tỉnh,
thành ủy tại cơ quan, đơn vị mình.
Các tỉnh, thành ủy lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN thông qua phát huy
vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Các tỉnh, thành ủy đã lãnh đạo Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức
lấy ý kiến góp ý của nhân dân, nhất là của đội ngũ trí thức vào việc xây dựng các nghị
quyết của tỉnh, thành ủy và các chính sách, đề án của chính quyền về phát triển NNL
(trong đó có nhân lực KH-CN) và phát triển KH&CN. Theo đó, các nghị quyết, chủ
trưởng, chính sách có liên quan đến nhân lực KH-CN đã được Mặt trận và các đoàn
thể tổ chức lấy ý kiến góp ý. Sau khi ban hành nghị quyết, các tỉnh, thành ủy tiếp tục
lãnh đạo Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội xây dựng kế hoạch triển khai thực
hiện nghị quyết của tỉnh, thành ủy và tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên, nhân
lực KH-CN tích cực thực hiện nghị quyết, chủ trương đề ra. Đồng thời, thực hiện
nhiệm vụ giám sát tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức chấp hành các nghị quyết, chủ trương, chính sách, pháp luật có liên quan.
Các tỉnh, thành ủy lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN bằng công tác kiểm
tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực tiễn.
Trên cơ sở các nghị quyết, chương trình về phát triển NNL và chương trình công
tác kiểm tra của toàn khóa, hàng năm tỉnh, thành ủy đã xây dựng chương trình kiểm tra,
giám sát các cấp ủy trực thuộc thực hiện nghị quyết về phát triển NNL đề ra; chỉ đạo
HĐND tiến hành giám sát UBND thực hiện nghị quyết, chính sách về phát triển NNL.
Cùng với đó, các tỉnh, thành ủy chỉ đạo các đảng ủy trực thuộc, UBKT các cấp, các ban
xây dựng đảng, Mặt trận, đoàn thể xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thực hiện
nghị quyết, chương trình đề ra, trong đó chú trọng kiểm tra, giám sát tổ chức đảng,
đảng viên trong các tổ chức KH&CN thực hiện nghị quyết của tỉnh, thành ủy và các
77
nghị quyết của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức, nghị quyết về phát triển KH&CN.
Các tỉnh, thành ủy chỉ đạo Sở Khoa học và Công nghệ tăng cường công tác thanh tra
việc chấp hành pháp luật, chính sách của nhà nước, của chính quyền địa phương trong
hoạt động KH&CN. Công tác kiểm tra, giám sát của tỉnh ủy, UBKT các cấp, của các tổ
chức đảng và công tác thanh tra nhà nước đã góp phần phát hiện những sai phạm, thiếu
sót để uốn nắn, chấn chỉnh, phòng ngừa, ngăn chặn những vi phạm, đồng thời cũng
phát hiện những nhân tố mới, những nhân lực KH-CN tiêu biểu để biểu dương, khuyến
khích và nêu tấm gương sáng trong xã hội. Hơn nữa qua kiểm tra, giám sát, thanh tra
nhiều vướng mắc, bất cập của cơ chế, chính sách về phát triển nhân lực KH-CN, phát
triển KH&CN đã được chỉ ra và các tỉnh, thành ủy và chính quyền địa phương đã có
những sửa đổi, bổ sung hoàn thiện. Qua quá trình thực hiện các nghị quyết, chương
trình, đề án phát triển NNL, định kỳ các tỉnh, thành ủy đều tiến hành sơ kết, tổng kết
và chỉ đạo Ban Cán sự đảng UBND, các đảng ủy trực thuộc, các sở, ban, ngành sơ
kết, tổng kết nhằm đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, khuyết điểm,
làm rõ nguyên nhân và đưa ra các phương hướng, giải pháp để thực hiện có hiệu
quả các nghị quyết, chương trình, đề án phát triển NNL trong thời gian tới. 3.2.1.2. Khuyết điểm, hạn chế
* Về nội dung lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN
Về lãnh đạo định hướng quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển
nhân lực KH -CN. Một số tỉnh, thành ủy chưa tập trung lãnh đạo định hướng phát triển nhân lực
KH-CN trực tiếp hoạt động KH&CN, chủ yếu chú trọng đào tạo nghề cho lao động
và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong HTCT.
Về lãnh đạo xây dựng Chiến lược phát triển KH&CN và quy hoạch phát triển
nhân lực KH-CN.
Một số tỉnh ủy chưa tập trung lãnh đạo chính quyền xây dựng Chiến lược phát
triển KH&CN (các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên, Khánh Hòa chưa có Chiến lược phát triển KH&CN); hầu hết các tỉnh, thành phố
trong vùng chưa xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực KH-CN. Vì thế, công tác
phát triển nhân lực KH-CN gặp nhiều khó khăn, thiếu cơ sở để xây dựng các kế
78
hoạch, chính sách sát với thực tiễn, từ đào tạo, tuyển dụng, thu hút nhân lực KH-CN
cũng như xây dựng các chính sách liên quan để phát triển nhân lực KH-CN. Từ đó đã
dẫn đến hệ quả cơ cấu và sự phân bố nhân lực KH-CN mất cân đối, bất hợp lý giữa các
lĩnh vực KH&CN, các loại hình tổ chức, giữa các ngành, khu vực, đặc biệt là thiếu
trầm trọng các chuyên gia đầu ngành, các nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao,
thiếu nhân lực KH-CN trên các lĩnh vực công nghệ cao.
Về lãnh đạo việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương về
phát triển nhân lực KH-CN.
Chính quyền các tỉnh, thành phố còn chậm cụ thể hóa (có phần lúng lúng) một số
nghị quyết, chủ trương của tỉnh, thành ủy về phát triển NNL (trong đó có nhân lực KH-
CN) thành các chính sách, giải pháp cụ thể để thực hiện. Vì thế nhiều quan điểm, chủ
trương, định hướng đề ra trong nghị quyết đã không được thực hiện dẫn đến mục tiêu
không đạt được. Việc quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng về xây dựng
đội ngũ trí thức ở một số địa phương còn chậm, chưa nghiêm túc và chưa đạt yêu cầu
đề ra. Một số đảng ủy trực thuộc, cấp ủy trong các tổ chức KH&CN chưa tập trung
lãnh đạo đơn vị xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện nghị quyết của tỉnh, thành
ủy về phát triển NNL và nghị quyết của Trung ương phù hợp với tình hình thực tiễn
của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Về lãnh đạo công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và thu hút nhân lực KH-CN.
Công tác tuyển dụng nhân lực còn nặng về bằng cấp, chưa có cách thức, biện pháp
hữu hiệu để tuyển dụng được những người thực tài vào các tổ chức KH&CN. Mặt khác,
công tác tuyển dụng chưa thật sự được minh bạch, có những trường hợp thiếu công tâm,
khách quan làm ảnh hưởng đến kết quả tuyển dụng. Có những trường hợp tuyển dụng
không gắn với sử dụng gây lãng phí. Công tác đào tạo nhân lực KH-CN còn chắp vá, tự
phát, thiếu quy hoạch, thiếu sự gắn kết giữa đào tạo và sử dụng. Mặt khác, đào tạo, bồi
dưỡng nhân lực KH-CN chủ yếu được lồng ghép với các chương trình, đề án đào tạo, bồi
dưỡng NNL nói chung, chưa có địa phương nào xây dựng chương trình đào tạo, bồi
dưỡng giành riêng cho nhân lực KH-CN. Hình thức đào tạo chưa đa dạng, chủ yếu đào
tạo theo bằng cấp (trình độ đại học, thạc sỹ, tiến sỹ), chưa mở rộng đào tạo nhân lực bằng
các hình thức khác. Đào tạo nhân lực KH-CN ở các lĩnh vực công nghệ cao chưa được
79
quan tâm đúng mức, đào tạo chuyên gia ở các lĩnh vực chưa được triển khai thực hiện.
Chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng còn nhiều bất cập so với tình hình thực tế vì thế
không động viên, khuyến khích nhân lực KH-CN học tập.
Mặc dù đã có mạng lưới các trường đại học, cao đẳng đào tạo đa ngành, đa
lĩnh vực nhưng chất lượng đào tạo và năng lực nghiên cứu khoa học của nhiều cơ sở
đào tạo trong vùng còn nhiều hạn chế, bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo
nhân lực chất lượng cao, nhất là các lĩnh vực công nghệ cao. Còn thiếu các chính
sách khuyến khích để huy động các nguồn lực của xã hội, của doanh nghiệp tham
gia vào việc đào tạo phát triển nhân lực KH-CN.
Chính sách thu hút nhân lực KH-CN còn nặng về thu hút, tạo sự đãi ngộ ban đầu,
chưa thật sự đề cập rõ việc bố trí, sử dụng và tạo các điều kiện cần thiết để nhân lực phát
huy tài năng, trí tuệ cho NC&PT. Việc xây dựng chỉ tiêu về số lượng, vị trí công tác cần
thu hút chưa thật sự bám sát vào nhu cầu nhân lực trước mắt cũng như quy hoạch nhân
lực dài hạn cho phát triển KT-XH của địa phương. Chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với
nhân lực thu hút của nhiều địa phương còn thấp, chưa thật sự hấp dẫn, vì thế đến nay các
địa phương chưa thu hút được các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành.
Về lãnh đạo tạo lập môi trường, điều kiện làm việc và phát huy vai trò, trách
nhiệm của nhân lực KH-CN đóng góp cho sự phát triển KT-XH của địa phương.
Tiềm lực của nhiều tổ chức KH&CN còn mỏng, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị,
phương tiện phục vụ nghiên cứu, thí nghiệm, kiểm nghiệm, triển khai ứng dụng còn
thiếu đồng bộ, lạc hậu. Ở một số tỉnh, thành phố, nhiều tổ chức KH&CN hoạt động
trong hệ thống trụ sở được xây dựng từ lâu, qua nhiều lần sửa chữa, nâng cấp nay đã
xuống cấp. Nhìn chung quy mô và chất lượng cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị
của nhiều tổ chức KH&CN chưa đáp ứng được yêu cầu NC&PT và dịch vụ KH&CN.
Cơ chế quản lý các tổ chức KH&CN vẫn còn theo kiểu quản lý hành chính, tổ
chức KH&CN chưa thực sự tự chủ và linh hoạt về kế hoạch, tài chính, nhân lực và hợp
tác quốc tế. Các chính sách KH&CN chưa thực sự kích thích tạo ra sản phẩm KH&CN,
chưa tạo môi trường cạnh tranh trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ. Cơ chế quản
lý hoạt động KH&CN nhiều điểm không còn phù hợp, nhất là cơ chế tài chính, thủ tục
80
rườm rà, gây khó khăn cho nhà khoa học, dẫn đến hiện tượng đối phó, hình thức, nhiều
khi làm triệt tiêu động lực nghiên cứu khoa học của nhân lực KH-CN. Thị trường
KH&CN đã được hình thành, song quy mô còn nhỏ, chưa đa dạng về hình thức. Thiếu
chính sách và cách thức để tạo sự gắn kết giữa nhà khoa học với các doanh nghiệp, nhà
sản xuất và thực tiễn; gắn kết kết quả nghiên cứu, ứng dụng với nhu cầu sản xuất, kinh
doanh và quản lý. Việc thực thi pháp chế về sở hữu trí tuệ chưa nghiêm.
Đầu tư ngân sách cho KH&CN còn thấp (chi ngân sách nhà nước cho KH&CN
của các địa phương trong vùng chưa vượt quá 1% tổng chi ngân sách nhà nước). Phần
lớn lại dành cho đầu tư phát triển và chi thường xuyên, chi cho hoạt động NC&PT và
ứng dụng KH&CN rất ít. Kinh phí eo hẹp, việc giao kinh phí theo kiểu bình quân dàn
trải, quản lý kém hiệu quả dẫn đến không đủ nguồn lực cho nghiên cứu và triển khai.
Đầu tư ngân sách cho KH&CN của tỉnh Thừa Thiên Huế trong ba năm 2012, 2013 và
2014 bình quân chỉ đạt 0,6% chi ngân sách địa phương. Nếu tính đầu tư cho KH&CN
từ ngân sách của tỉnh tính trên đầu người mới đạt khoảng 20025 VND, tương đương
1USD, nếu tính cả Đại học Huế và Bệnh viện Trung ương Huế đạt khoảng 45.512
VND, tương đương 2,2 USD, trong khi mức trung bình quân của cả nước là 6,9 USD
(2011) [33, tr.177]. Bình quân trong 5 năm (2006-2010) đầu tư ngân sách nhà nước cho
KH&CN của tỉnh Quảng Ngãi chỉ đạt 0,44%. Trong 8 năm (2002-2010), bình quân
đầu tư ngân sách nhà nước cho KH&CN của tỉnh Phú Yên chỉ đạt 0,58%.
Công tác quản lý, sử dụng, đãi ngộ đối với nhân lực KH-CN còn nhiều hạn chế,
bất cập. Công tác tuyển dụng nhân lực KH-CN ở các địa phương vẫn còn đồng nhất
cách thi tuyển làm công tác hành chính. Cơ chế quản lý nhân lực KH-CN còn nặng tính
hành chính, nhiều điểm không phù hợp với đặc trưng lao động khoa học. Trong sử dụng
nhân lực KH-CN, chưa khai thác, phát huy tốt tiềm năng, trí tuệ của nhân lực KH-CN
đương chức do địa phương quản lý; chưa tranh thủ tiềm lực khoa học của các cơ quan
trung ương đóng trên địa bàn; chưa tận dụng tiềm lực khoa học của nhân lực KH-CN đã
nghỉ hưu; chưa tạo được sự liên thông, liên kết giữa các lực lượng KH-CN trên địa bàn.
Chưa có chính sách đãi ngộ thỏa đáng và trọng dụng nhân lực KH-CN, nhất là những
người có học hàm, học vị, các chuyên gia, nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao và
thu hút giới trẻ vào ngành khoa học. Chính sách về tiền lương quá nhiều bất cập.
81
Môi trường tinh thần cho hoạt động nghiên cứu sáng tạo, nhất là khoa học xã hội
và nhân văn của nhân lực KH-CN chưa được đáp ứng tốt (hiện vẫn chưa có quy chế
dân chủ cho hoạt động nghiên cứu sáng tạo). Nhà khoa học chưa thật sự được chủ
động, tự do sáng tạo. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý còn ít nhiều chịu ảnh hưởng của
tư duy cũ, của tư tưởng tiểu nông, phong kiến, đem tư tưởng đó để áp dụng vào lãnh
đạo, quản lý nhân lực KH-CN đã cản trở sự phát triển sáng tạo của nhân lực KH-CN.
Một số cán bộ đảng, chính quyền chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò của nhân lực KH-
CN, vẫn còn hiện tượng ngại tiếp xúc, đối thoại, không thực sự lắng nghe, thậm chí quy
chụp, nhất là khi nhân lực KH-CN phản biện những chủ trương, chính sách, những đề
án, dự án do các cơ quan lãnh đạo, quản lý đưa ra.
Về lãnh đạo liên kết, hợp tác trong nước và quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của
Trung ương để phát triển nhân lực KH-CN và phát triển KH&CN.
Công tác hợp tác trong nước và quốc tế chưa được mở rộng, đa dạng hóa
đối tác và hình thức hợp tác, nhất là với các nước, các tổ chức có tiềm lực mạnh
về KH&CN. Hợp tác quốc tế về KH&CN chưa đi vào chiều sâu và mang lại
nhiều hiệu quả như mong muốn, chưa thu hút được các chuyên gia giỏi đến làm
việc, tổ chức hội thảo, hội nghị, giảng dạy, chuyển giao công nghệ. Sự quan tâm
chỉ đạo và đầu tư của Trung ương còn hạn chế.
* Phương thức lãnh đạo phát triển nhân lực khoa học - công nghệ còn nhiều
khuyết điểm, hạn chế, thể hiện:
Việc xây dựng, ban hành các nghị quyết về phát triển nhân lực KH-CN.
Các tỉnh, thành ủy trong vùng chưa xây dựng và ban hành nghị quyết chuyên đề
về phát triển nhân lực KH-CN, mới dừng lại ở việc ban hành nghị quyết về phát triển
NNL nói chung, dẫn đến thiếu trọng tâm, trọng điểm. Một số tỉnh ủy lại ban hành quá
nhiều nghị quyết phát triển NNL, chất lượng của một số nghị quyết còn hạn chế, do
việc xây dựng nghị quyết chưa được chuẩn bị chu đáo, từ khâu chuẩn bị, nhất là khâu
điều tra, khảo sát thực tiễn, đến tổ chức hội nghị thảo luận ra nghị quyết. Việc tổ chức
lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức, các cơ quan khoa học, của đội ngũ trí thức vào dự
thảo nghị quyết có liên quan còn có biểu hiện hình thức. Một số nghị quyết của tỉnh,
82
thành ủy ban hành chưa sát với thực tiễn, không tính đến điều kiện nguồn lực thực hiện
nên không có tính khả thi, nghị quyết không đi vào cuộc sống.
Về lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN bằng công tác tư tưởng
Việc tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của tỉnh, thành ủy và các nghị
quyết của Đảng có liên quan nhìn chung chất lượng, hiệu quả chưa cao, nhất là ở tổ
chức đảng cấp cơ sở. Việc chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng tuyên truyền,
phổ biến nghị quyết của tỉnh, thành ủy, xây dựng các chương trình, chuyên trang,
chuyện mục còn nghèo nàn, đơn điệu, hiệu quả thấp. Các cấp ủy, tổ chức đảng, cán
bộ lãnh đạo, quản lý trong HTCT, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, các tổ
chức KH&CN chưa thật sự đi sâu, đi sát các nhóm đối tượng, cho nên việc nắm bắt
tình hình tư tưởng, tâm trạng của nhân lực KH-CN chưa cụ thể và kịp thời. Vì thế,
có những lúc, nhưng nơi, cấp ủy, cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa có biệp pháp sát
thực để giải quyết có hiệu quả những vấn đề tư tưởng nảy sinh, cũng như nắm bắt
diễn biến tư tưởng của nhân lực KH-CN.
Về các tỉnh, thành ủy lãnh đạo thông qua công tác tổ chức, cán bộ.
Tình trạng chống chéo về chức năng, nhiệm vụ ở một số ban của tỉnh ủy,
thành ủy với các sở thuộc UBND; chồng chéo giữa Ban Tổ chức tỉnh ủy, Sở Nội vụ
với Ban Chỉ đạo phát triển NNL, Trung tâm phát triển NNL trong việc triển khai
một số nhiệm vụ phát triển NNL nhưng chưa được khắc phục triệt để. Các cơ quan
tham mưu nói trên chưa chủ động nghiên cứu, đề xuất những giải pháp căn cơ để
giải quyết những hạn chế, khuyết điểm kéo dài và có những giải pháp đột phá để
phát triển nhân lực KH-CN. Từ thực tiễn của Đà Nẵng và Quảng Nam cho thấy,
lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN thông qua cơ quan chuyên trách phát triển
NNL là một hướng đi đúng, nhằm chuyên nghiệp hóa công tác phát triển NNL. Tuy
nhiên, đến nay trong 9 tỉnh, thành phố vùng DHMT, chỉ có hai địa phương thực
hiện được. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về
KH&CN từ cấp huyện xuống cơ sở còn nhiều bất cập, hoạt động yếu do cán bộ
kiêm nhiệm. Bộ máy hoạt động và chức danh Thường trực Liên hiệp các Hội Khoa
học và Kỹ thuật tỉnh, thành phố luôn có sự biến động và chậm được kiện toàn. Hoạt
động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật chưa năng động, còn nặng tính
83
hành chính; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, thiếu tính chuyên
nghiệp. Sự liên kết, phối hợp giữa các hội thành viên, giữa các sở, ban, ngành, địa
phương với Liên hiệp hội chưa thường xuyên, thiếu chặt chẽ.
Nhiều hạn chế trong công tác cán bộ chậm được khắc phục. Công tác quy
hoạch cán bộ quản lý ngành KH&CN, quy hoạch cán bộ trong các tổ chức KH&CN
chưa được chú trọng, làm còn hình thức, thiếu tính chiến lược và đồng bộ. Công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chưa được quan tâm đúng mức. Công tác luân
chuyển cán bộ còn bất cập và gặp không ít khó khăn, nhất là việc luân chuyển cán
bộ từ nơi khác đến. Chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của HTCT, các tổ
chức KH&CN chưa đáp ứng tốt với yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo phát triển nhân lực
KH-CN và phát triển KH&CN trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế. Từ nhận thức,
tầm nhìn, khả năng dự báo để đề ra các chủ trương, chính sách, quyết định lãnh đạo,
tổ chức thực hiện, bản lĩnh hội nhập và năng lực quản trị NNL.
Về các tỉnh, thành ủy lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN thông qua tổ chức
đảng và đảng viên.
Một số tổ chức đảng trong các tổ chức KH&CN chưa thực hiện tốt vai trò hạt
nhân lãnh đạo. Nhìn chung, tình trạng khá phổ biến trong cơ quan, đơn vị khoa học là
coi nhẹ công tác đảng, công tác chính trị tư tưởng (có chăng làm chỉ mang tính hình
thức, đối phó), chủ yếu tập trung vào công tác chuyên môn. Chất lượng sinh hoạt đảng
thấp, thường trùng lắp với sinh hoạt chuyên môn; việc thực hiện quy định của Điều lệ
Đảng về sinh hoạt đảng của cấp ủy, chi bộ và sinh hoạt chi bộ theo chuyên đề chưa
được thực hiện nghiêm túc và lúng túng trong tổ chức. Một bộ phận đảng viên, kể cả
những đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, quản lý, những nhà khoa học, nhân lực KH-CN
có trình độ học vấn cao chưa tiền phong, gương mẫu trong thực hiện chủ trương, nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của địa phương, nói chưa đi đôi
với làm, có biểu hiện thực dụng, chạy theo bằng cấp, sa sút về đạo đức nghề nghiệp.
Về các tỉnh, thành ủy lãnh đạo thông qua phát huy vai trò của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tham gia vào quá trình lãnh đạo phát triển
nhân lực KH-CN.
84
Việc tổ chức lấy ý kiến góp ý của nhân lực KH-CN đối với nghị quyết, chủ
trương, chính sách có liên quan vẫn còn hình thức, có những ý kiến đóng góp nhiều
lần đối với Trung ương và địa phương chưa được tiếp thu. Mặt khác, sau khi lấy ý
kiến góp ý, các cơ quan, tổ chức và những người có trách nhiệm chưa giải trình rõ
việc tiếp thu ý kiến góp ý đến đâu, những vấn đề gì không tiếp thu, vì sao. Hoạt động
của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội vẫn còn nặng tính hành chính, giám sát
vẫn còn hình thức, chưa làm tốt chức năng phản biện đối với các chủ trương, nghị
quyết, chương trình, dự án, đề án của địa phương. Đội ngũ cán bộ của Mặt trận và các
tổ chức chính trị - xã hội chưa được quan tâm xây dựng nên trình độ, năng lực còn
nhiều hạn chế. Thiếu cơ chế và cũng chưa thật sự tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận,
các tổ chức chính trị- xã hội thực hiện phản biện xã hội.
Về các tỉnh, thành ủy lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát và định kỳ sơ
kết, tổng kết thực tiễn.
Công tác kiểm tra, giám sát của tỉnh, thành ủy và ủy ban kiểm tra đối với cấp
ủy, tổ chức đảng trực thuộc trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện nghị quyết phát triển
NNL chưa được tiến hành thường xuyên, kịp thời, còn có biểu hiện hình thức, chưa
coi trọng kiểm tra phòng ngừa. Vì thế, có những lúc, những nơi chưa phát hiện,
ngăn chặn kịp thời những khuyết điểm, sai phạm của tổ chức đảng, cán bộ, đảng
viên. Nhiều cấp ủy khoán trắng nhiệm vụ kiểm tra, giám sát cho ủy ban kiểm tra.
Công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp ủy trong các tổ chức
KH&CN đối với cán bộ, đảng viên, viên chức trong các cơ quan này còn yếu, xem
nhẹ công tác kiểm tra. Cán bộ làm công tác kiểm tra trong các đơn vị này đều kiêm
nhiệm, năng lực, nghiệp vụ kiểm tra, giám sát rất hạn chế, hơn nữa họ chủ yếu tập
trung vào công tác chuyên môn.
Công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn còn nặng báo cáo thành tích, ưu điểm. Hơn
nữa, việc sơ kết, tổng kết chủ yếu tổng hợp các báo cáo của cơ quan, đơn vị, địa
phương chứ chưa được tiến hành một cách bài bản, khoa học, có sự nghiên cứu, điều
tra thực tiễn, có sự tham gia của các cơ quan khoa học để rút ra những vấn đề có tính
quy luật, nguyên nhân sâu xa của vấn đề, từ đó có giải pháp để giải quyết tận gốc
khuyết điểm kéo dài và có những giải pháp đột phá để phát triển nhân lực KH-CN.
85
3.2.2. Nguyên nhân và kinh nghiệm
3.2.2.1. Nguyên nhân
* Nguyên nhân của ưu điểm
Nguyên nhân chủ quan:
Một là, sự đoàn kết nhất trí cao trong toàn đảng bộ, trước hết là trong BCH, BTV.
Trong quá trình lãnh đạo phát triển NNL (trong đó có nhân lực KH-CN) các
tỉnh, thành ủy rất coi trọng xây dựng khối đoàn kết thống nhất, trước hết là trong
BCH, BTV. Chính nhờ có sự đoàn kết nên tỉnh, thành ủy đã ban hành được các nghị
quyết, quyết định đúng, tạo được sức mạnh trong toàn đảng bộ, sự đồng thuận trong
nhân dân và nhân lực KH-CN. Tỉnh, thành ủy đã phân công rõ trách nhiệm cho ban
chỉ đạo phát triển NNL, trung tâm phát triển NNL, cho các sở, ban, ngành và sự phối
hợp với nhau trong thực hiện nhiệm vụ phát triển NNL. Trong quá trình thực hiện các
nghị quyết, đề án, chính sách về phát triển NNL, BTV tỉnh ủy, thành ủy đã chỉ đạo các
cấp ủy đảng, sở, ban, ngành tiến hành sơ kết, tổng kết việc thực hiện để rút kinh
nghiệm, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và đề ra những phương hướng, giải pháp cho
thời gian tới nhằm thực hiện có hiệu quả hơn nhiệm vụ phát triển NNL.
Hai là, sự nỗ lực, tích cực của cả hệ thống chính trị.
Có được những kết quả tích cực trên là nhờ có được sự đồng tâm, nhất trí cao
của các tổ chức trong HTCT trong quá trình thực hiện nghị quyết, chương trình, đề
án phát triển NNL. Trên cơ sở nghị quyết, chương trình hành động của tỉnh, thành
ủy, chính quyền, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội quán triệt sâu sắc và triển
khai thực hiện. Trong điều kiện có thể, chính quyền đã nỗ lực kịp thời thể chế hóa
và cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch, chính sách, đề án để tổ chức thực
hiện. Các đảng ủy trực thuộc đều xây dựng chương trình hành động, hoặc ban hành
nghị quyết lãnh đạo phát triển NNL (trong đó có nhân lực KH-CN) ở địa phương,
cơ quan, đơn vị mình. Các sở, ban, ngành theo chức năng, nhiệm vụ được giao đã
thực hiện tương đối tốt vai trò tham mưu cho UBND các tỉnh, thành phố ban hành
các cơ chế, chính sách, các quyết định, các đề án, chủ trì hoặc cùng nhau phối hợp
xây dựng và triển khai thực hiện các đề án, dự án có liên quan đến phát triển
KH&CN, phát triển NNL. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trên cơ
sở chức năng, nhiệm vụ của mình đã tích cực tuyên truyền về chủ trương, nghị
86
quyết của tỉnh, thành ủy; vận động, tổ chức đoàn viên, hội viên, nhân lực KH-CN
thực hiện nghị quyết, chương trình hành động, đề án phát triển NNL.
Ba là, sự chủ động, tích cực của các tổ chức KH&CN và sự nỗ lực, tâm huyết
của nhân lực KH-CN.
Dưới sự lãnh đạo của tỉnh, thành ủy và chính quyền địa phương, nhiều tổ chức
KH&CN đã chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo phát triển nhân lực KH-CN của đơn
vị mình; tạo điều kiện thuận lợi về thời gian và hỗ trợ kinh phí để nhân lực KH-CN
được tham gia đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; từng
bước đối mới chế độ, chính sách và tạo lập môi trường thuận lợi cho nhân lực KH-
CN hoạt động. Đặc biệt kể từ khi Chính phủ ban hành nghị định về tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập, một số tổ chức KH&CN đã tiến hành sắp
xếp củng cố, kiện toàn tổ chức, đổi mới hoạt động, nâng cao chất lượng NC&PT, qua
đó tạo động lực cho nhân lực KH-CN yên tâm công tác, tích cực nghiên cứu khoa
học. Trong điều kiện còn nhiều khó khăn về môi trường, kinh phí hoạt động, chế độ
chính sách đãi ngộ nhưng nhân lực KH-CN đã nỗ lực phấn đấu vươn lên, học tập,
nghiên cứu để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng với yêu
cầu nhiệm vụ chuyên môn và sự đòi hỏi của xã hội.
Bốn là, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và các bộ, ban,
ngành Trung ương.
Trong quá trình lãnh đạo phát triển KT-XH, KH&CN và phát triển nhân lực
KH-CN, các tỉnh, thành ủy, chính quyền các địa phương trong vùng đã nhận được sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của Chính phủ và các bộ,
ban, ngành Trung ương. Bộ Chính trị đã ban hành các nghị quyết, kết luận định
hướng sự phát triển các tỉnh, thành phố thời kỳ CNH, HĐH. Qua quá trình thực hiện,
Bộ Chính trị, Đảng đoàn Quốc Hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ, các ban, bộ, ngành
Trung ương và BTV tỉnh, thành ủy đã tiến hành tổng kết đánh giá, từ đó tiếp tục đề ra
phương hướng, mục tiêu, giải pháp cho thời gian tiếp theo. Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành quyết định phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH vùng Kinh tế
trọng điểm miền Trung đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Đây là cơ sở quan
trọng để các tỉnh, thành phố xây dựng quy hoạch, ban hành kế hoạch, chính sách phát
triển. Cùng với đó, các địa phương trong vùng đã nhận được sự hỗ trợ về cơ chế,
chính sách, về nguồn lực. Sự lãnh đạo, chỉ đạo và đầu tư nguồn lực của Trung ương
87
là một nhân tố hết sức quan trọng góp phần mang lại những kết quả tích cực trong
lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN của các tỉnh, thành ủy trong những năm qua.
Nguyên nhân khách quan:
Một là, đòi hỏi bức bách của công cuộc đổi mới, CNH, HĐH, hội nhập quốc tế
và ứng dụng KH&CN hiện đại vào phát triển KT-XH, nâng cao đời sống nhân dân,
phát triển địa phương.
Đây là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các tỉnh, thành ủy lãnh đạo phát triển nhân
lực KH-CN đạt kết quả. Công cuộc đổi mới, CNH, HĐH và hội nhập quốc tế của
các tỉnh, thành phố vùng DHMT ngày càng phát triển mạnh mẽ và đi vào chiều sâu,
đòi hỏi bức thiết cho các địa phương là phải có NNL chất lượng cao, nhất là nhân
lực KH-CN và sử dụng những thành tựu của KH&CN hiện đại để phục vụ cho quá
trình đó nhằm tạo ra năng suất, chất lượng cao hơn của nền kinh tế, nâng cao đời
sống nhân dân và phát triển địa phương sớm trở thành tỉnh, thành phố công nghiệp
theo hướng hiện đại. Điều đó đặt ra yêu cầu cho các tỉnh, thành ủy và chính quyền
các địa phương phải đẩy mạnh phát triển, ứng dụng KH&CN và phát triển nhân lực
KH-CN. Những nhân tố nêu trên tạo thành động lực to lớn để các tỉnh, thành ủy
lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN đạt kết quả.
Hai là, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về KH&CN, về phát
triển NNL ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, tạo cơ sở chính trị, pháp lý cho các
tỉnh, thành ủy và chính quyền địa phương lãnh đạo phát triển KH&CN và phát triển
nhân lực KH-CN.
Cùng với giáo dục và đào tạo, KH&CN được Đảng và Nhà nước ta xem là quốc
sách hàng đầu; phát triển con người nói chung và phát triển NNL nói riêng vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Hơn nữa, phát triển NNL, nhất là NNL
chất lượng cao là yếu tố quyết định để Việt Nam thực hiện thành công chiến lược phát
triển KT-XH, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Xuất phát từ vai trò hết sức
quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta luôn giành sự quan tâm cho những lĩnh vực này.
Điều đó được thể hiện ở việc Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận để lãnh
đạo phát triển KH&CN, phát triển NNL, xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức; Nhà
nước đã thể chế hóa nghị quyết của Đảng bằng các chiến lược, quy hoạch, các cơ chế,
chính sách. Đó là những định hướng chính trị và hành lang pháp lý quan trọng để các
tỉnh, thành ủy vùng DHMT xây dựng và ban hành các nghị quyết, quyết định lãnh đạo
88
phát triển nhân lực KH-CN; chính quyền các tỉnh, thành phố ban hành các cơ chế,
chính sách, các quyết định nhằm thực hiện thắng lợi nghị quyết của tỉnh, thành ủy.
Ba là, truyền thống hiếu học, cần cù, sáng tạo, khắc phục khó khăn để vươn
lên, tiếp thu cái mới của nhân dân, trong đó có nhân lực KH-CN ở các tỉnh DHMT.
Các tỉnh, thành phố vùng DHMT không được thiên nhiên ưu đãi về điều kiện tự
nhiên và khí hậu, đây là vùng có khí hậu khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, thường xuyên
phải hứng chịu bão, lũ, hạn hán. Sống trong môi trường tự nhiên khắc nghiệt đã rèn
luyện, hun đúc, tạo nên con người vùng DHMT cần cù, hiếu học, nỗ lực khắc phục
khó khăn để vươn lên, vượt lên trên hoàn cảnh. Nơi đây đã sản sinh ra những thế hệ
người quyết chí học thành tài. Trong lịch sử, vùng đất này đã sản sinh, nuôi dưỡng và
đóng góp cho đất nước nhiều nhân tài trên nhiều lĩnh vực. Ngày nay, nhiều học sinh,
sinh viên của các tỉnh, thành phố vùng DHMT đã giành được thành tích cao trong các
cuộc thi quốc gia, quốc tế; nhiều nhà khoa học, trí thức đã có những đóp góp cho nền
khoa học của nước nhà. Truyền thống hiếu học, cần cù lao động của người dân vùng
DHMT, nhất là ở nhân lực KH-CN là nhân tố quan trọng để tỉnh, thành ủy lãnh đạo
thực hiện thắng lợi các nghị quyết, chủ trương của tỉnh, thành ủy và các chương trình,
chính sách, đề án phát triển NNL của chính quyền đề ra.
* Nguyên nhân của khuyết điểm, hạn chế
Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, một số cấp ủy, cán bộ chủ chốt nhận thức chưa đầy đủ và sâu sắc
về vai trò của KH&CN và nhân lực KH-CN đối với phát triển KT-XH, chưa giành
nhiều thời gian, công sức, trí tuệ cho lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN.
Một số cấp ủy, cán bộ chủ chốt chưa thật sự coi phát triển KH&CN là quốc sách
hàng đầu, không thấy hết vai trò quyết định của NNL (nhất là nhân lực KH-CN) đối
với sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển KT-XH và hội nhập quốc tế. Thậm chí, một số
cán bộ lãnh đạo chủ chốt của địa phương chỉ quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng,
máy móc, trang thiết bị để phát triển kinh tế mà coi nhẹ đầu tư phát triển con người
nói chung và phát triển nhân lực KH-CN nói riêng. Trong một bộ phận cán bộ vẫn
còn những định kiến và chủ nghĩa kinh nghiệm nên có thái độ thiếu tin tưởng, thiếu
dân chủ trong quan hệ ứng xử với nhân lực KH-CN, thậm chí xem thường trí thức.
Do nhận thức chưa đầy đủ nên chưa coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, chưa tập trung trí
tuệ, công sức thỏa đáng để lãnh đạo, chỉ đạo phát triển nhân lực KH-CN.
89
Thứ hai, tổ chức bộ máy, cán bộ và chất lượng hoạt động của các cơ quan tham
mưu giúp việc cho tỉnh, thành ủy, chính quyền địa phương trong phát triển nhân lực
KH-CN chưa đáp ứng yêu cầu lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN.
Các cơ quan tham mưu cho tỉnh, thành ủy, chính quyền về công tác phát triển NNL
chưa làm tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, cụ thể là: chưa tham mưu tốt cho tỉnh,
thành ủy, chính quyền ban hành các chương trình, kế hoạch đào tạo nhân lực KH-CN;
tham mưu cho chính quyền ban hành các cơ chế, chính sách mang tính đột phá để quản
lý, sử dụng, đãi ngộ nhân lực KH-CN; những cơ chế đối mới mạnh mẽ quản lý, tổ chức,
hoạt động KH&CN. Vì thế, nhiều chính sách bất cập nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung,
đổi mới; nhiều cơ chế, chính sách đang thiếu nhưng chưa được ban hành. Trong quá
trình thực hiện các chương trình, đề án phát triển NNL, giữa các cơ quan tham mưu có
những lúc chưa có sự phối hợp chặt chẽ nên còn chồng chéo hoặc bỏ trống nhiệm vụ
làm ảnh hướng đến kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển nhân lực KH-CN.
Thứ ba, năng lực lãnh đạo của một số cấp ủy, tổ chức đảng trong các tổ chức
KH&CN còn hạn chế, chưa thể hiện được vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị.
Cấp ủy, tổ chức đảng trong các tổ chức KH&CN có chức năng, nhiệm vụ lãnh
đạo các tổ chức KH&CN thực hiện nghị quyết, quyết định của tỉnh, thành ủy về phát
triển nhân lực KH-CN; lãnh đạo đội ngũ cán bộ, đảng viên, viên chức thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, một
số cơ quan, đơn vị khoa học coi nhẹ công tác xây dựng Đảng, chủ yếu tập trung vào
công tác chuyên môn. Các cấp ủy viên đều kiêm nhiệm, phải đảm nhận nhiều nhiệm
vụ chuyên môn; hơn nữa chế độ phụ cấp cho cấp ủy viên chưa thỏa đáng, nên họ
chưa thực sự đầu tư thời gian, trí tuệ cho hoạt động của cấp ủy. Nhìn chung, năng lực
lãnh đạo của một số cấp ủy, tổ chức đảng trong các tổ chức KH&CN còn hạn chế,
chưa thể hiện rõ vai trò lãnh đạo đối với các cơ quan, đơn vị này.
Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng, các tỉnh
DHMT còn nghèo nên đầu tư cho phát triển nhân lực KH-CN rất hạn chế.
Vùng DHMT là vùng đất có điều kiện tự nhiên rất khắc nghiệt, nóng lắm, mưa
nhiều, thiên tai thường xuyên xẩy ra ảnh hưởng rất nhiều đến mọi hoạt động của xã
hội và cuộc sống sinh hoạt của con người. Cơ sở hạ tầng cho phát triển KT-XH nói
chung và cơ sở hạ tầng về KH&CN, giáo dục và đào tạo ở vùng này còn nhiều yếu
kém, lạc hậu. Trên địa bàn của vùng không có nhiều trung tâm khoa học có tiềm lực
90
lớn mạnh. Do môi trường điều kiện có nhiều khó khăn nên ảnh hưởng rất nhiều đến
quá trình lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN. Nhất là, đây không phải là vùng hấp
dẫn đối với nhân lực KH-CN trình độ cao, nhà khoa học đầu ngành, những chuyên
gia, những tài năng đến đây lập nghiệp; việc giữ chân người tài ở lại cũng gặp khó
khăn. Bởi đây không phải là nơi “đất lành chim đậu”, điều kiện để phát triển về
chuyên môn nghề nghiệp, nâng cao thu nhập, chất lượng các dịch vụ y tế, giáo dục,
văn hóa tinh thần không đáp ứng được.
Do điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, đến nay phần nhiều các tỉnh vùng
DHMT trình độ phát triển kinh tế còn thấp. Vì thế, nguồn lực còn có hạn nên đầu từ
cho KH&CN còn hạn chế. Trong khi ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, thì việc huy
động nguồn lực của xã hội gặp nhiều khó khăn. Một phần do tiềm lực của doanh
nghiệp và của người dân hạn chế; mặt khác, tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào ngân sách
nhà nước còn nặng và khá phổ biến.
Thứ hai, chính sách cho phát triển nhân lực KH-CN còn thiếu, chưa đồng bộ
và còn bất cập.
Thiếu chính sách và cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho nhân lực KH-CN
chuyên tâm cống hiến, phát triển và được xã hội tôn vinh bằng chính kết quả hoạt
động chuyên môn, nghề nghiệp. Thiếu những cơ chế thích hợp để phát hiện, tuyển
chọn, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài KH-CN. Cơ chế tổ chức, quản lý, hoạt động
KH&CN còn nhiều bất cập nhưng chậm được đổi mới. Quy chế dân chủ trong
nghiên cứu khoa học chưa được ban hành để tạo môi trường cho hoạt động nghiên
cứu sáng tạo. Chính sách đào tạo nhân lực KH-CN thiếu trọng tâm, trọng điểm.
Thứ ba, công tác thống kê, dự báo về NNL của các địa phương còn nhiều hạn
chế, bất cập.
Công tác thống kê, dự báo về NNL nói chung và nhân lực KH-CN nói riêng có vai
trò rất quan trọng, làm cơ sở để tỉnh, thành ủy ban hành các nghị quyết, chủ trương,
quyết định lãnh đạo; chính quyền xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển nhân lực
KH-CN và ban hành các chính sách để thực hiện. Tuy nhiên, các số liệu thống kê của
các cơ quan chức năng ở địa phương còn thiếu độ tin cậy, do quá trình thu thập, phân
tích, xử lý thiếu khoa học, thiếu khách quan. Chính vì công tác thống kê, dự báo kém đã
gây nhiều khó khăn cho quá trình lãnh đạo của tỉnh, thành ủy, quản lý của chính quyền
trong phát triển nhân lực KH-CN, tình trạng thừa và thiếu nhân lực là khó tránh khỏi.
91
3.2.2.2. Những kinh nghiệm
Một là, xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong tỉnh, thành ủy, ban thường vụ;
phát huy trí tuệ tập thể, đồng thời, đề cao trách nhiệm, tính năng động của từng tỉnh
ủy viên, thành ủy viên là nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm lãnh đạo thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ phát triển nhân lực KH-CN.
Đoàn kết thống nhất là nguồn gốc của sức mạnh, là then chốt của thành công.
Có sự đoàn kết thì mới có thể thống nhất ý chí và hành động để thực hiện mục tiêu
chung. Vì thế, trong bất cứ lúc nào cũng phải giữ vững khối đoàn kết thống nhất
trong BCH, BTV. Bởi đây là nhân tố quan trọng hàng đầu để có được những nghị
quyết, quyết định đúng và tạo được sự thống nhất ý chí và hành động trong quá
trình lãnh đạo tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết phát triển nhân lực KH-CN.
Để có được sự đoàn kết thống nhất, trong quá trình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
phát triển nhân lực KH-CN, các tỉnh, thành ủy luôn luôn quán triệt thực hiện
nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung
dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, đoàn kết thống nhất, tự phê bình và phê
bình; tuân thủ quy chế làm việc; không ngừng mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ tập
thể BCH, BTV trong quá trình xây dựng các nghị quyết, quyết định. Mọi chủ
trương, nghị quyết đều được dân chủ thảo luận, bàn bạc để đi đến thống nhất.
Nhưng dân chủ phải đi liền với tập trung. Nghị quyết, quyết định đã được thống
nhất, phải phân công, phân nhiệm rõ ràng, cụ thể trách nhiệm đối với cá nhân, tổ
chức trong việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện. Do đó, buộc từng thành viên cấp ủy,
BTV phải nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn được
phân công. Đó cũng là cơ sở để dễ dàng quy trách nhiệm cho cá nhân, tổ chức một
khi không hoàn thành nhiệm vụ được giao. Giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong
BCH, BTV đã làm cơ cở, nền tảng để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong các
cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc.
Hai là, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền kịp thời thể chế hóa quan điểm, chủ
trương, nghị quyết của tỉnh, thành ủy về phát triển nhân lực KH-CN bằng các cơ chế,
chính sách; cụ thể hóa bằng chiến lược, chương trình, kế hoạch, đề án để tổ chức thực hiện.
Các quan điểm, chủ trương, nghị quyết về phát triển nhân lực KH-CN của các
tỉnh, thành ủy đề ra đúng, thiết thực nhưng nếu không được kịp thời thể chế hóa, cụ thể
hóa về mặt nhà nước để toàn xã hội thực hiện thì khó có thể đi vào cuộc sống. Do vậy,
mọi quyết tâm chính trị, các mục tiêu đề ra không thể đạt được. Kinh nghiệm từ sự lãnh
92
đạo phát triển nhân lực KH-CN của các tỉnh, thành ủy vùng DHMT cho thấy, muốn
chủ trương, nghị quyết đi vào cuộc sống, giải quyết được những vấn đề thực tiễn đang
đặt ra, đòi hỏi phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền kịp thời thể chế hóa, cụ thể
hóa các quan điểm, chủ trương, nghị quyết của tỉnh, thành ủy bằng cơ chế, chính sách,
chiến lược, kế hoạch, đề án và tổ chức chỉ đạo các cấp, các ngành triển khai thực hiện
một cách quyết liệt trong thực tiễn thì mới mang lại kết quả.
Ba là, xây dựng, nâng cao chất lượng tổ chức đảng trong các tổ chức KH&CN
thực sự là hạt nhân chính trị lãnh đạo cơ quan, đơn vị thực hiện chủ trương, nghị
quyết về phát triển nhân lực KH-CN.
Các tổ chức KH&CN là chủ thể trực tiếp tiến hành các hoạt động phát triển
nhân lực KH-CN tại các cơ quan, đơn vị mình. Vì thế, thành công hay hạn chế trong
thực hiện các chủ trương, nghị quyết phát triển nhân lực KH-CN của các tỉnh, thành
ủy là tùy thuộc một phần rất lớn ở vai trò, trách nhiệm và năng lực lãnh đạo của cấp
ủy, tổ chức đảng trong các cơ quan này. Từ thực tiễn các tỉnh, thành phố vùng DHMT
cho thấy, ở đâu tổ chức đảng vững mạnh, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, cán
bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu tiền phong, gương mẫu, kiên trì, quyết tâm và
sáng tạo xây dựng chương trình hành động, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực KH-
CN thì ở đó công tác phát triển nhân lực KH-CN sẽ đạt được nhiều kết quả tích cực.
Do vậy, cùng với việc ban hành các chủ trương, nghị quyết, đề án phát triển nhân lực
KH-CN, các tỉnh, thành ủy, đảng ủy khối các cơ quan tỉnh, thành phố tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo xây dựng, nâng cao chất lượng cấp ủy, tổ chức đảng trong các tổ chức
KH&CN thực sự là hạt nhân lãnh đạo. Trước hết tập trung xây dựng đội ngũ cấp ủy
viên thực sự là “linh hồn” tiêu biểu về phẩm chất và trí tuệ của đảng bộ, chi bộ.
Bốn là, trọng dụng nhân tài, đầu tư có trọng điểm cho đào tạo nhân lực KH-
CN chất lượng cao.
Nhân tài là vốn quý của xã hội. Xã hội nào cũng cần đến nhân tài để xây dựng và
phát triển đất nước. Càng nhiều nhân tài thì xã hội càng có nhiều cơ hội để phát triển.
Tuy nhiên, nhân tài không tự nhiên mà có mà phải quan tâm tạo lập môi trường, điều
kiện để nhân tài phát sinh, phát triển. Kinh nghiệm từ thực tế lãnh đạo của các tỉnh,
thành ủy ở vùng DHMT cho thấy, muốn phát triển nhân lực KH-CN thì phải trọng dụng
nhân tài. Muốn vậy, phải có cơ chế, chính sách để phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng với nhân tài. Chính sách phát hiện, tuyển chọn,
đào tạo nhân tài phải bằng nhiều phương thức khác nhau. Phát hiện và nuôi dưỡng nhân
93
tài từ bậc học phổ thông là một cách làm mang lại hiệu quả cho nhiều tỉnh ở vùng
DHMT. Phương thức này được tiến hành thông qua theo dõi, nắm bắt quá trình học tập,
rèn luyện phấn đấu liên tục của những học sinh giỏi, học sinh xuất sắc qua các bậc học,
qua các cuộc thi thố tài năng quốc gia, quốc tế để phát hiện nhân tài. Những hạt giống
này được các địa phương tiếp tục đào tạo ở những trường có chất lượng, nhất là đào tạo
ở các nước có nền giáo dục tiên tiến. Phát hiện, sàng lọc người tài giỏi bằng phân công
giao nhiệm vụ và lấy hiệu quả công việc làm thước đo của các cơ quan, đơn vị khoa
học. Một cách thức khác, là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của địa phương qua thực
tiễn quản lý cán bộ ở ngành, đơn vị mình mà tiến cử những cán bộ có phẩm chất, năng
lực vượt trội để tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng định hướng phát triển. Ngoài ra, tuyển chọn
nhân tài bằng chính sách thu hút những người tài từ nơi khác về làm việc, đây cũng là
một cách thức mang lại kết quả cho các địa phương trong vùng.
Một điều hết sức quan trọng để phát triển nhân tài và người tài trở thành hữu
dụng đối với xã hội là phải trọng dụng nhân tài. Nếu được trọng dụng thì nhân tài sẽ
nảy nở và tự bộc lộ. Ngược lại, nếu không được trọng dụng thì nhân tài chỉ là tiềm
năng và ngày càng mai một đi. Trọng dụng nhân tài phải có chính sách cụ thể về sử
dụng, quản lý, đãi ngộ. Về chính sách sử dụng, đối với nhân tài khoa học trẻ phải tin
tưởng, mạnh dạn giao nhiệm vụ; tạo cơ hội cho họ tham gia đấu thầu, tuyển chọn các
đề tài KH&CN lớn để thử thách, rèn luyện, qua đó để họ thể hiện phẩm chất, năng lực,
bản lĩnh, tích lũy kinh nghiệm. Đối với những cán bộ KH-CN có tài phải thật sự tin cậy
và giao cho họ những công việc, chức vụ quan trọng tương xứng với tài năng của họ.
Môi trường để cho nhân tài làm việc, phát huy năng lực là rất quan trọng. Do đó, phải
xây dựng môi trường làm việc minh bạch, công bằng, tạo sự cạnh tranh lành mạnh,
khuyến khích phát triển sáng tạo. Ở đó không có chỗ cho sự đố kỵ, quan hệ thân quen,
tuổi tác, dùng chức quyền để áp đặt, lợi ích nhóm, mà chỉ có người giỏi hơn, có năng
lực hơn phải được phân công giao nhiệm vụ, được thể hiện phẩm chất, năng lực và
được tôn trọng. Cuối cùng, trọng dụng nhân tài là phải có các chính sách đãi ngộ, vinh
danh xứng đáng với những cống hiến của nhân tài.
Đào tạo nhân lực KH-CN là một nội dung, một khâu rất quan trọng trong quy
trình phát triển nhân lực KH-CN. Thực tiễn các tỉnh, thành phố vùng DHMT cho thấy,
địa phương nào, cơ quan, đơn vị khoa học nào coi trọng và có chương trình, kế hoạch
chu đáo để đào tạo nhân lực KH-CN thì ở đó sẽ tạo ra được đội ngũ nhân lực KH-CN
94
mạnh. Muốn vậy, phải trên cơ sở quy hoạch phát triển KT-XH, chiến lược phát triển
KH&CN của địa phương, quy hoạch ngành, lĩnh vực, nhiệm vụ chính trị và mục tiêu
phát triển của tổ chức KH&CN, xu thế phát triển KH&CN của thế giới để xây dựng
chương trình, đề án, kế hoạch đào tạo nhân lực KH-CN, đào tạo phải gắn với sử dụng.
Xây dựng các đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao một cách khoa học, tập trung đầu
tư mạnh mẽ nguồn lực tài chính, tuyển chọn chặt chẽ đối tượng và lựa chọn các cơ sở
đào tạo có uy tín, nhất là đẩy mạnh đào tạo nhân lực ở các nước phát triển (Các trường
đại học hàng đầu trên thế giới do tổ chức Time Higher Education Supplement (Vương
quốc Anh) xếp hạng. Mặt khác, phải tổ chức thực hiện nghiêm túc các đề án đào tạo
nhân lực, phân công rõ trách nhiệm cho các đơn vị trong tổ chức thực hiện đề án.
Ngoài các đề án của địa phương, các tỉnh, thành phố còn tận dụng cơ hội các đề án của
Trung ương để đào tạo nhân lực chất lượng cao cho các tổ chức KH&CN.
Năm là, đẩy mạnh xã hội hóa, tranh thủ sự hỗ trợ của cấp trên và tăng cường mở
rộng hợp tác quốc tế.
Trong điều kiện nguồn lực còn có hạn, lại phải thực hiện nhiều mục tiêu phát
triển, bài toán về nguồn lực luôn là vấn đề được các địa phương quan tâm hàng đầu. Vì
thế, để có nguồn lực cho phát triển KH&CN và phát triển nhân lực KH-CN, kinh
nghiệm từ thực tế các tỉnh, thành phố vùng DHMT là phải đẩy mạnh thực hiện chủ
trương xã hội hóa bằng việc thực hiện các chính sách về thuế, tín dụng, chính sách về
đất đai, thành lập các loại quỹ… để huy động sự đóng góp, hỗ trợ của cộng đồng doanh
nghiệp, của người dân về nguồn lực tài chính, vật chất để đầu tư cho phát triển
KH&CN và phát triển nhân lực KH-CN. Mặt khác, phải luôn khuyến khích, kêu gọi
nhân lực KH-CN chủ động tìm kiếm các nguồn học bổng hoặc tự bỏ kinh phí để đào
tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng.
Trong mọi điều kiện có thể, phải luôn biết tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương
về chủ trương, cơ chế, chính sách cũng như đầu tư nguồn lực tài chính, cơ sở vật
chất cho các địa phương. Trong điều kiện đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng, vừa có nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít thách thức cho các địa phương
trong quá trình lãnh đạo phát triển KT-XH nói chung và phát triển nhân lực KH-CN
nói riêng. Kinh nghiệm từ thực tế lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy vùng DHMT chỉ
rõ: phải biết tranh thủ mọi cơ hội của hội nhập quốc tế để thu hút nguồn vốn đầu tư
của nước ngoài, chuyển giao công nghệ; học tập kinh nghiệm của các nước về cách
thức quản lý, đào tạo phát triển nhân lực KH-CN. Mặt khác, trong điều kiện
95
KH&CN và nền giáo dục của nước ta còn nhiều hạn chế, phải mở rộng hợp tác với
các nước có nền giáo dục tiên tiến, các trường đại học, các viện nghiên cứu có uy
tín trên thể giới để đào tạo nhân lực KH-CN và hợp tác về KH&CN.
Sáu là, coi trọng công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm.
Kiểm tra, giám sát là một trong những phương thức không thể thiếu trong quy
trình lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy. Đảng ta khẳng định, lãnh đạo mà không kiểm tra
coi như không lãnh đạo. Từ những ưu điểm và hạn chế của các tỉnh, thành ủy vùng
DHMT trong lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN cho thấy, tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát và định kỳ sơ kết, tổng kết thực tiễn sẽ nâng cao hiệu quả lãnh đạo của các
tỉnh, thành ủy, giúp cho các tỉnh, thành ủy lãnh đạo sát với thực tế hơn, phát huy được
nhân tố tích cực, hạn chế được những thiếu sót. Bởi thông qua công tác kiểm tra, giám
sát và định kỳ sơ kết, tổng kết, các tỉnh, thành ủy có điều kiện tổng kết, đánh giá để
thấy được tính đúng đắn, hợp lý của chủ trương, nghị quyết, chính sách đề ra; kịp thời
chấn chỉnh những sai lệch trong tổ chức thực hiện; có cơ sở bổ sung hoàn thiện cơ chế,
chính sách, biện pháp sát đúng với tình hình thực tiễn. Đồng thời, qua kiểm tra, sơ kết,
tổng kết để thấy được những nơi làm tốt, những cách làm hay, những gương điển hình
để phổ biến nhân rộng; những cơ quan, đơn vị làm chưa tốt để nhắc nhở, phê bình,
khắc phục; tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc. Qua kiểm tra, giám sát các tỉnh, thành
ủy cũng nêu cao được trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên
trong việc thực hiện nghị quyết, kế hoạch, đề án về phát triển nhân lực KH-CN. Mặt
khác, mỗi lần sơ kết, tổng kết, các tỉnh, thành ủy và các cấp ủy đảng cũng đúc rút được
những kinh nghiệm có giá trị để vận dụng vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn.
Tiểu kết chương 3
Sự lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT đối với phát triển nhân lực
KH-CN trong thời gian qua đã có những ưu điểm, thể hiện trên các mặt: Các tỉnh,
thành ủy định hướng quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cơ bản và lãnh
đạo các tổ chức trong HTCT, các cấp, các ngành, các lực lượng thực hiện nhiệm vụ
phát triển NNL (trong đó có nhân lực KH-CN). Lãnh đạo chính quyền xây dựng
Chiến lược, chương trình phát triển KH&CN để làm cơ sở cho công tác phát triển
nhân lực KH-CN. Các tổ chức trong HTCT, nhất là chính quyền đã cơ bản cụ thể
hóa, thể chế hóa những chủ trương, nghị quyết của tỉnh, thành ủy đề ra và tổ chức
96
thực hiện. Công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và thu hút nhân lực KH-CN đã
đạt được nhiều kết quả tích cực. Hệ thống tổ chức và cơ chế chính sách cho phát
triển nhân lực KH-CN và phát triển KH&CN từng bước được đổi mới và ngày càng
hoàn thiện hơn. Dưới sự lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy, sự hợp tác giữa các địa
phương trong vùng, hợp tác quốc tế ngày càng được mở rộng và nhờ đó đã tranh thủ
được nhiều nguồn lực cho phát triển nhân lực KH-CN và phát triển KH&CN. Tuy
nhiên, bên cạnh những ưu điểm, trong lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN các tỉnh,
thành ủy vùng DHMT còn có những khuyết điểm, hạn chế. Việc lãnh đạo định
hướng mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp phát triển nhân lực KH-CN của
một số tỉnh ủy thiếu trọng tâm, chưa được thể hiện rõ. Một số tỉnh ủy chưa lãnh đạo
chính quyền xây dựng chiến lược phát triển KH&CN, công tác quy hoạch phát triển
nhân lực KH-CN chưa được thực hiện. Chính quyền còn chậm và chưa quyết liệt cụ
thể hóa, thể chế hóa nhiều chủ trương, nghị quyết để đưa vào tổ chức thực hiện.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa xây dựng được chương trình giành riêng cho
nhân lực KH-CN, chưa đa dạng về hình thức đào tạo, bồi dưỡng. Hệ thống cơ sở vật
chất, hạ tầng về KH&CN, cơ chế, chính sách quản lý, sử dụng, đãi ngộ, trọng dụng,
tôn vinh nhân lực KH-CN còn thiếu và nhiều bất cập.
Kinh nghiệm rút ra từ quá trình lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy vùng DHMT
đối với phát triển nhân lực KH-CN thời gian qua là: Một là, xây dựng sự đoàn kết
thống nhất trong BCH, BTV; phát huy trí tuệ tập thể, đồng thời, đề cao trách nhiệm,
tính năng động của từng tỉnh ủy viên, thành ủy viên là nhân tố quan trọng hàng đầu
bảo đảm lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển nhân lực KH-CN. Hai là,
tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền kịp thời thể chế hóa quan điểm, chủ trương,
nghị quyết của tỉnh, thành ủy về phát triển nhân lực KH-CN bằng các cơ chế, chính
sách; cụ thể hóa bằng chiến lược, chương trình, kế hoạch, đề án và tổ chức thực
hiện. Ba là, xây dựng, nâng cao chất lượng tổ chức đảng trong các tổ chức KH&CN
thực sự là hạt nhân chính trị lãnh đạo cơ quan, đơn vị thực hiện chủ trương, nghị
quyết về phát triển nhân lực KH-CN. Bốn là, trọng dụng nhân tài, đầu tư có trọng
điểm cho đào tạo nhân lực KH-CN chất lượng cao. Năm là, đẩy mạnh xã hội hóa,
tranh thủ sự hỗ trợ của cấp trên và tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế. Sáu là, coi
trọng công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm.
97
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CÁC TỈNH, THÀNH ỦY
Ở VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ ĐẾN NĂM 2025
4.1. DỰ BÁO THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CÁC TỈNH, THÀNH ỦY Ở VÙNG
DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC KHOA HỌC -
CÔNG NGHỆ ĐẾN NĂM 2025
4.1.1. Dự báo thuận lợi, khó khăn, thách thức tác động đến sự lãnh đạo
của các tỉnh, thành ủy ở vùng duyên hải miền Trung đối với phát triển nhân
lực khoa học - công nghệ đến năm 2025
4.1.1.1. Thuận lợi
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; cuộc cách mạng KH&CN
tiếp tục phát triển mạnh mẽ, nhất là cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (4.0).
Thực hiện đường lối chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, trong những năm
tới, cùng với cả nước, các tỉnh, thành phố vùng DHMT sẽ tiếp tục đẩy mạnh hội
nhập sâu rộng với thế giới. Đây vừa là quá trình hợp tác để phát triển, vừa là quá
trình cạnh tranh gay gắt với các nước trong khu vực và thế giới. Hội nhập quốc tế
sâu rộng sẽ mang lại nhiều cơ hội to lớn cho các tỉnh, thành phố trong vùng. Trước
hết, đây là thời cơ để các tỉnh, thành phố vùng DHMT thu hút đầu tư từ các nước,
các doanh nghiệp và các tổ chức, nhờ đó có thêm nhiều nguồn lực để phát triển KT-
XH, KH&CN và phát triển nhân lực KH-CN. Hội nhập với thế giới, đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý, công chức và chính nhân lực KH-CN có điều kiện mở rộng tầm
hiểu biết, tiếp thu tinh hoa, học tập kinh nghiệm, nhất là kinh nghiệm về phát triển
nhân lực KH-CN, cách thức tổ chức quản lý của các nước phát triển, từ đó vận dụng
vào thực tiễn công tác của địa phương, ngành. Mặt khác, thông qua hợp tác với các
nước, các tổ chức quốc tế, các trường đại học, viện nghiên cứu trên thế giới, các
tỉnh, thành phố, các trường đại học, viện nghiên cứu trong vùng có điều kiện chuyển
giao KH&CN, đào tạo nhân lực KH-CN và sử dụng chất xám của các chuyên gia
nước ngoài phục vụ cho quá trình phát triển KT-XH của các địa phương.
Cộng đồng ASEAN được hình thành, lực lượng lao động, trong đó có nhân
lực KH-CN được tự do di chuyển trong thị trường chung. Đây là cơ hội để nhân lực
98
KH-CN được thử thách, rèn luyện, đào tạo ở nhiều môi trường khác nhau, nhất là ở
những nước có trình độ phát triển cao hơn. Nhờ đó sẽ nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, kiến thức, kỹ năng. Mặt khác, hội nhập với thế giới, tham gia vào
các định chế quốc tế sẽ thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình cải cách trong nước, hệ thống
pháp luật, cơ chế, chính sách ngày càng được hoàn thiện, đồng bộ tạo hành lang
pháp lý thuận lợi cho lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN.
Cuộc cách mạng KH&CN trên thế giới tiếp tục phát triển mạnh mẽ với nhịp độ
ngày càng nhanh và đi vào chiều sâu, gần đây thế giới lại bước vào cuộc Cách mạng
Công nghiệp lần thứ tư (4.0). KH&CN phát triển tác động mạnh mẽ đòi hỏi Đảng và
Nhà nước cũng như các tỉnh, thành ủy trong cả nước nói chung và các tỉnh, thành ủy
ở vùng DHMT nói riêng phải đổi mới mạnh mẽ và tăng cường lãnh đạo phát triển
KH&CN và nhân lực KH-CN ngày càng có chất lượng cao để nước ta và các địa
phương không bị tụt hậu xa hơn, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả.
Cuộc Cách mạng Công nghiệp thứ nhất (năm 1784) sử dụng năng lượng
nước và hơi nước để cơ giới hoá sản xuất. Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần 2
(năm 1870) sử dụng năng lượng điện để tạo nên nền sản xuất quy mô lớn. Cuộc
Cách mạng công nghiệp thứ 3 (năm 1969) sử dụng điện tử và công nghệ thông tin
để tự động hoá sản xuất. Ngày nay, một cuộc Cách mạng Công nghiệp thứ 4 đang
được hình thành trên nền tảng của cuộc Cách mạng thứ 3, đó là cuộc Cách mạng số,
đã bắt đầu xuất hiện từ giữa thế kỷ trước, đó là một loạt công nghệ giúp xóa nhòa
ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học. Với các xu hướng lớn: khoa
học robot cao cấp; vật liệu mới; kỹ thuật số; sinh học... Cuộc cách mạng này tác
động làm thay đổi rất lớn và sâu sắc đời sống kinh tế, xã hội, lề lối làm việc, phong
cách lãnh đạo, quản lý của các tập thể, cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta nói chung
và ở vùng DHMT nói riêng, trước hết là các tỉnh, thành ủy vùng này. Đây là đòi
hỏi, động lực và là thuận lợi lớn để các tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT tăng cường
lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN, góp phần quyết định đẩy nhanh quá trình CNH,
HĐH thúc đẩy KT-XH phát triển nhanh và bền vững.
Đất nước ta đang chuyển đổi mạnh sang cơ chế thị trường.
Nước ta đang chuyển đổi mạnh sang thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Cơ chế đó
cũng bao hàm cả cơ chế quản lý các hoạt động KH&CN và nhân lực KH-CN. Cơ chế
quản lý được đổi mới có tác dụng mở đường cho hoạt động KH&CN, tạo ra điều kiện
99
và môi trường cho KH&CN và nhân lực KH-CN phát huy vai trò là động lực thúc
đẩy phát triển KT-XH. Đồng thời, cơ chế quản lý tiến bộ sẽ tạo ra nhu cầu xã hội kích
thích đổi mới kỹ thuật, đổi mới công nghệ, áp dụng các tiến bộ KH&CN vào sản
xuất, kinh doanh và đời sống. Từ đó thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ, KH&CN không ngừng phát triển. Hơn nữa, thực hiện cơ chế thị
trường thì sự giao lưu, cạnh tranh sẽ diễn ra mạnh mẽ tạo cơ hội cho mỗi cá nhân
nhân lực KH-CN tự khẳng định mình, vươn lên phát triển.
Thành tựu KT-XH của hơn 30 năm đổi mới tạo tiền đề quan trọng để các tỉnh, thành ủy
tiếp tục lãnh đạo phát triển KH&CN và phát triển nhân lực KH-CN trong giai đoạn tiếp theo.
Hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, các tỉnh, thành phố vùng DHMT đã đạt
được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực, tạo tiền đề quan trọng cho phát triển kinh
tế, KH&CN và phát triển nhân lực KH-CN trong thời gian tới. Kinh tế của các tỉnh,
thành phố liên tục có mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng
hướng, quy mô nền kinh tế tăng lên đáng kể. Các ngành, các thành phần kinh tế đều
phát triển, lực lượng doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh, đã và đang là động lực to lớn,
trực tiếp thúc đẩy KT-XH phát triển. Nhờ kinh tế phát triển các tỉnh, thành phố mới có
nguồn thu để tăng chi ngân sách cho KH&CN và phát triển nhân lực KH-CN. Mặt khác,
kinh tế phát triển, các thành phần kinh tế, doanh nghiệp phát triển sẽ thúc đẩy đổi mới
công nghệ và ứng dụng KH&CN vào quản lý, sản xuất, kinh doanh. Từ đó, các doanh
nghiệp và xã hội mới có nhu cầu sử dụng sản phẩm KH&CN. Và như vậy, sản phẩm lao
động của nhân lực KH-CN được tiêu thụ sẽ thúc đẩy đội ngũ này tích cực nghiên cứu
sáng tạo. KT-XH phát triển còn tạo môi trường, điều kiện hấp dẫn để các địa phương
thực hiện chính sách thu hút nhân lực KH-CN chất lượng cao.
Thời kỳ cơ cấu dân số vàng đưa lại nhiều cơ hội cho các tỉnh, thành phố
trong phát triển nhân lực KH-CN.
Giai đoạn 2013 - 2025 là thời kỳ cơ cấu dân số vàng của Việt Nam. Với cơ cấu
dân số vàng đây là “cơ hội vàng” để các tỉnh, thành ủy vùng DHMT lãnh đạo phát
triển nhân lực KH-CN. Thời kỳ cơ cấu dân số vàng đồng nghĩa với việc các tỉnh,
thành phố vùng DHMT có một lực lượng lao động trẻ, dồi dào, tỉ lệ lao động được đào
tạo cao đẳng, đại học và sau đại học tăng lên. Vận hội do cơ cấu dân số vàng mang lại
là lao động nhiều, tỷ số người phụ thuộc thấp nên có điều kiện để tiết kiệm, tích lũy tài
sản cho từng gia đình và cho toàn bộ nền kinh tế. Nhờ đó, tăng nguồn lực để đầu tư
100
cho y tế, giáo dục, phòng chống suy dinh dưỡng, phát triển giáo dục - đào tạo, nâng
cao chất lượng NNL. Nếu các tỉnh, thành ủy và chính quyền địa phương đề ra được
những chủ trương, chính sách, giải pháp đúng để tận dụng tối đa thời cơ do cơ cấu dân
số vàng đưa lại sẽ tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong phát triển nhân lực KH-CN.
Các cơ chế, chính sách phát triển NNL và KH&CN được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận
lợi cho các tỉnh, thành ủy và chính quyền các địa phương lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN.
Nước ta đang thể hiện quyết tâm phấn đấu sớm trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu đó, đòi hỏi nước ta phải đổi mới mô hình tăng
trưởng, phát triển NNL chất lượng cao và KH&CN. Một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm
của nhiệm kỳ đại hội XII được Đảng ta xác định là phải thực hiện có hiệu quả đột phá
chiến lược về phát triển NNL, nhất là NNL chất lượng cao. Vì vậy, trong thời gian
tới, Đảng và Nhà nước sẽ tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ trọng tâm này. Mà
muốn phát triển, trước hết hệ thống cơ chế, chính sách cho phát triển NNL và phát
triển KH&CN sẽ phải tiếp tục được đổi mới, bổ sung, hoàn thiện. Chính phủ, các bộ,
ban ngành Trung ương sẽ đẩy mạnh thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng về
phát triển KH&CN và Luật Khoa học và Công nghệ. Đây là hành lang pháp lý để các
tỉnh, thành ủy và chính quyền ở vùng DHMT lãnh đạo phát triển KH&CN và phát
triển nhân lực KH-CN đạt kết quả tốt hơn trong những năm tới.
Việc tiếp tục thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về xây dựng Đảng, nhất
là Nghị quyết Trung ương sáu khóa XII về tiếp tục đổi mới PTLĐ của Đảng thông
qua tổ chức đảng và đảng viên sắp được ban hành, sẽ được các tỉnh, thành ủy ở
vùng DHMT triển khai thực hiện mạnh mẽ sẽ đạt kết quả khích lệ.
Để tiếp tục xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo công cuộc đổi mới
giành thắng lợi lớn hơn, Đảng đã xác định chủ trương duy trì thành nền nếp thường
xuyên việc thực hiện Nghị quyết Trung ương bốn khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay". Gần đây, Đảng đã ban hành Nghị quyết Trung ương bốn
khóa XII "Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển
hoá" trong nội bộ"; Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 05- CT/TW về đẩy mạnh học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đặc biệt, hiện nay các Ban
Tham mưu, giúp việc của Đảng, các cơ quan lý luận Trung ương và nhiều cấp ủy địa
phương đang tích cực chuẩn bị Dự thảo Nghị quyết của Đảng về tiếp tục đổi mới
101
PTLĐ của Đảng thông qua tổ chức đảng và đảng viên sẽ được bàn và quyết định tại
Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ sáu (dự kiến vào Quý III năm 2017). Các
Nghị quyết, Chỉ thị này sẽ được các tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT triển khai thực hiện
mạnh mẽ với quyết tâm chính trị cao, các biện pháp cụ thể phù hợp. Các tỉnh, thành ủy
sẽ có chuyển biến quan trọng về chất lượng lãnh đạo, trong đó có nội dung, PTLĐ,
phong cách, lề lối làm việc trong lãnh đạo nói chung và lãnh đạo phát triển nhân lực
KH-CN nói riêng, đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới ở địa phương.
Những kinh nghiệm về lãnh đạo phát triển NNL chất lượng cao được tích lũy
trong thời gian qua, đây là nhân tố quan trọng để các tỉnh, thành ủy và chính quyền
các địa phương phát huy trong lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN những năm tới.
Thực hiện nhiệm vụ đột phá chiến lược về phát triển NNL chất lượng cao do
Đại hội XI của Đảng đề ra. Trong nhiệm kỳ qua, các tỉnh, thành phố vùng DHMT
tập trung thực hiện. Nhiều đề án đã được ban hành và tổ chức thực hiện, các chính
sách được xây dựng, bổ sung hoàn thiện, công tác tổ chức phát triển NNL chất
lượng cao ngày càng chặt chẽ. Các tỉnh, thành ủy, các cấp ủy đảng và đội ngũ cán
bộ, đảng viên tích lũy được nhiều kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo phát triển NNL
chất lượng cao. Đây là tiền đề quan trọng để các tỉnh, thành ủy và chính quyền các
địa phương tiếp tục phát huy trong những năm tới. Đồng thời, những hạn chế, bất
cập, yếu kém trong công tác phát triển NNL chất lượng cao cũng đã được chỉ ra để
khắc phục, hoàn thiện và phòng tránh trong thời gian tới.
4.1.1.2. Khó khăn, thách thức
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhất là yêu
cầu về chất lượng nhân lực KH-CN để có thể từng bước triển khai có kết quả cuộc
Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (4.0) trên đất nước ta.
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng cũng đặt ra không ít khó
khăn, thách thức. Các tỉnh, thành phố vùng DHMT sẽ phải cạnh tranh quyết liệt với
các nước để tồn tại và phát triển. Đặc biệt, trong thời gian tới là thời kỳ mà Việt
Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn
nhiều so với giai đoạn trước đây. Điều đó đòi hỏi các đảng bộ và chính quyền, cộng
đồng doanh nghiệp và nhân lực KH-CN phải nỗ lực rất cao để tận dụng thời cơ,
vượt qua những thách thức trong quá trình hội nhập. Một thách thức rất lớn đối với
102
các tỉnh, thành phố là điều kiện và nguồn lực còn hạn chế, nền kinh tế quy mô nhỏ,
trình độ phát triển thấp, chất lượng NNL chưa đáp ứng yêu cầu, KH&CN chưa phát
triển, năng lực cạnh trạnh rất thấp.
Cộng đồng ASEAN (AEC) được thành lập, với hơn 600 triệu dân trong một
cộng đồng quốc tế thống nhất, trong đó lực lượng lao động có thể di chuyển tự do
qua biên giới. Điều đó đồng nghĩa với việc nhân lực của các tỉnh, thành phố vùng
DHMT sẽ phải cạnh tranh với lực lượng lao động có trình độ, kỹ năng cao hơn từ
các nước khác trong khu vực và thế giới. Một vấn đề đáng lo ngại là trình độ ngoại
ngữ, kỹ năng nghề nghiệp của nhân lực KH-CN ở các tỉnh, thành phố vùng DHMT
chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập; không chỉ thiếu cán bộ đầu đàn giỏi mà còn thiếu
cả nhân lực trẻ có trình độ, kỹ năng cao. Đặc biệt, việc lãnh đạo tạo ra nhân lực KH-
CN chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu từng bước triển khai có kết quả cuộc Cách
mạng Công nghiệp lần thứ tư (4.0) khó có thể đạt được trong thời gian ngắn. Đây là
một thách thức rất lớn đối với sự lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy vùng DHMT và
chính nhân lực KH-CN. Nếu các tỉnh, thành ủy không nỗ lực vượt bậc trong lãnh
đạo phát triển nhân lực KH-CN thì khó tránh khỏi sự tụt hậu so với các nước trong
khu vực và không thể hội nhập quốc tế sâu rộng, có kết quả.
Trong thế giới hội nhập, sự giao lưu văn hóa là không có biên giới cứng, nhất
là bộ phận được đào tạo ở nước ngoài họ được tiếp cận trực tiếp với văn hóa, lối
sống phương Tây và có những người đề cao quá mức các giá trị của Tư Bản. Làm
thế nào để định hướng tư tưởng chính trị cho nhân lực KH-CN, đây là những khó
khăn, thách thức cho tỉnh, thành ủy và các cấp ủy đảng trong quá trình lãnh đạo phát
triển nhân lực KH-CN.
Cuộc cách mạng KH&CN, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển
mạnh mẽ làm cho thế giới thay đổi nhanh chóng. Điều đó, đòi hỏi đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý, nhất là cán bộ chủ chốt của các địa phương trong vùng phải mở
rộng tầm nhìn ra thế giới, luôn đổi mới tư duy, sáng tạo để có những dự báo chuẩn
xác xu hướng phát triển của thời đại, nhất là của KH&CN để đưa ra những quyết sách
lãnh đạo đúng, bắt nhịp cùng với xu thế phát triển của thế giới. Nếu không chịu đổi
mới, cứ tư duy trong cái “ao làng” chật hẹp, bảo thủ, trì trệ thì sẽ lạc hậu và mãi tụt
hậu đi sau. Chính vì thế trong thời đại ngày nay, muốn cho địa phương phát triển cần
phải có một đội ngũ lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng, có tư duy sáng tạo, biết dựa
vào khoa học để đưa ra những quyết định lãnh đạo đúng đắn, phù hợp với thực tiễn.
103
Đối với nhân lực KH-CN, KH&CN phát triển nhanh, tri thức khoa học được sản
sinh ra nhiều, công nghệ luôn luôn đổi mới, chu kỳ vòng đời của sản phẩm rút ngắn
lại, các sản phẩm mới ra đời với những tính năng mới, hiện đại hơn. Đòi hỏi nhân lực
KH-CN phải thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng và tự đào tạo để nâng cao trình
độ kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, khả năng sử dụng nếu không sẽ không thích ứng
kịp với sự phát triển của KH&CN và sự phân công lao động tất yếu sẽ bị đào thải.
Tình hình kinh tế vẫn còn khó khăn; tình trạng chảy máu chất xám tiếp tục gia
tăng; tranh chấp chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn
ra gay gắt, phức tạp.
Mặc dù kinh tế của các tỉnh, thành phố trong vùng từng bước ra khỏi suy giảm,
lấy lại đà tăng trưởng nhưng chưa thật sự bền vững, hiệu quả trên một số lĩnh vực còn
thấp. Trong những năm tới, kinh tế vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của
cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu; ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường biển DHMT, biến
đổi khí hậu, tình hình dịch bệnh, thiên tai đang diễn biến khó lường; các doanh nghiệp
làm ăn kém hiệu quả, năng lực cạnh tranh thấp. Do điểm xuất phát của nền kinh tế
thấp, cộng với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên không thuận lợi, xa trung tâm nên quy
mô nền kinh tế của các tỉnh, thành phố trong vùng còn nhỏ, tích lũy để tái đầu tư rất ít,
phần lớn các tỉnh vẫn phải dựa vào cấp ngân sách từ Trung ương. Mô hình tăng trưởng
chưa có thay đổi lớn, tái cơ cấu kinh tế gặp nhiều khó khăn. Tình hình trên làm cho
việc huy động các nguồn lực để đầu tư phát triển, trong đó có đầu tư cho KH&CN và
phát triển nhân lực KH-CN trong thời gian tới gặp nhiều khó khăn.
Do môi trường tự nhiên của vùng DHMT rất khắc nghiệt, điều kiện làm việc
không đáp ứng với nhu cầu phát triển về chuyên môn và nâng cao thu nhập. Mặt
khác, chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng nên một số người có trình độ, năng lực sẽ rời
bỏ địa phương để tìm đến các thành phố lớn để làm việc. Một bộ phận nhân lực tốt
nghiệp đại học, thạc sĩ, tiến sĩ nhất là số học ở nước ngoài sẽ tìm kiếm việc làm ở
những nơi có điều kiện tốt hơn. Tình trạng chảy máu chất xám còn diễn ra ở khu vực
công. Một số nhân lực sẽ rời bỏ khu vực công để ra ngoài làm việc cho khu vực tư,
nhất là cho các doanh nghiệp, bệnh viên tư, cơ quan của nước ngoài, bởi nơi đó có
thu nhập cao hơn, môi trường năng động hơn. Làm thế nào để giữ chân và thu hút
người tài giỏi vào làm việc trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức KH&CN công
lập đang là bài toán khó giải cho các cấp lãnh đạo của địa phương, các trường đại học
104
trong vùng khi cơ chế, chính sách, môi trường làm việc chưa đáp ứng, chế độ đại ngộ
chưa có nhiều đổi mới, tư duy, thói quen và lợi ích nhóm chi phối.
Trong những năm tới, tình hình tranh chấp về chủ quyền biển, đảo giữa các nước
trong khu vực trên Biển Đông sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp và căng thẳng, vì tham
vọng của Trung Quốc không đổi. Việc Trung Quốc bất chấp luật pháp quốc tế đang
gia tăng các hoạt động trái phép xây đắp các đảo đá nhân tạo, xây dựng các công trình
phục vụ cho mục đích quân sự khiến cho vùng này lại càng nóng lên. Vùng DHMT sẽ
chịu tác động trực tiếp, bởi đây là khu vực nằm trong vùng Biển Đông, trong đó Đà
Nẵng và Khánh Hòa có hai huyện đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam nhưng các nước
khác lại tranh chấp. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách
thức lớn. Tình hình trên ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định để phát triển, đến việc thu
hút đầu tư của các địa phương, tác động đến tư tưởng của nhân lực KH-CN, cán bộ,
đảng viên, nhân dân và cả sinh kế của cộng đồng dân cư ven biển.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, giảm sút niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo
của đảng bộ và quản lý điều hành của chính quyền.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng của các đảng bộ ở vùng DHMT đã đạt được
những kết quả quan trọng, song vẫn còn nhiều khuyết điểm, hạn chế, có mặt còn diễn
biến phức tạp hơn. Những yếu kém đang nôi lên là tình trạng suy thoái tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những biểu hiện “Tự diễn
biến” “Tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
diễn biến phức tạp. Một số cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất
phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp;
chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, cục bộ địa phương, mất đoàn kết diễn ra ở một số tổ
chức đảng. Tình hình trên làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của đảng bộ
và quản lý, điều hành của chính quyền và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của HTCT.
Văn hóa, tâm lý tiểu nông vẫn còn tồn tại và ảnh hưởng mặt trái của kinh tế
thị trường đối với đội ngũ cán bộ và nhân lực KH-CN.
Nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu, chuyển sang kinh tế thị trường, vì
thế, đội ngũ cán bộ và nhân lực KH-CN của nước ta nói chung và ở vùng DHMT nói
riêng phần lớn xuất thân từ nông dân và hoạt động trong môi trường ấy, nên chịu tác
105
động về văn hóa, tâm lý, lối sống của tiểu nông và của kinh tế thị trường. Tâm lý tiểu
nông nên tư duy manh mún, thiếu tầm nhìn chiến lược, cục bộ, tùy tiện, thiếu ý thức
tổ chức kỷ luật, coi thường pháp luật, phong cách lề lối làm việc thiếu kế hoạch, khoa
học. Tâm lý tiểu nông thường đố kỵ với người hiểu biết, giỏi hơn mình. Khi được
trao nắm chức quyền, tâm lý đó có thể chuyển thành thái độ ngại sử dụng người giỏi,
người tài. Tâm lý tiểu nông còn tồn tại trong đội ngũ cán bộ và nhân lực KH-CN
cộng thêm vào đó là tác động của cơ chế, chính sách không còn phù hợp đã thúc đẩy
mặt hạn chế của đội ngũ cán bộ và nhân lực KH-CN: một số sa vào con đường hám
danh lợi; một số chỉ biết lợi ích riêng, không có thái độ hợp tác chân thành với người
khác; một số chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa giáo điều sách vở nên không có
năng lực tư duy biện chứng trước thực tiễn đang biến đổi nhanh chóng, ngại phản
biện, tranh luận, đối thoại; một số sống kiểu “duy tình” mà không gắn với “duy
lý”.v.v… Đây là những trở lực đối với quá trình lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN.
Kinh tế thị trường vốn quan tâm rất nhiều đến lợi nhuận và lợi ích cá nhân, đề
cao sức mạnh của đồng tiền, của lợi ích vật chất. Thực hiện kinh tế thị trường, trong
khi hệ thống cơ chế, chính sách chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ; công tác giáo dục
chính trị tư tưởng, đạo đức; công tác quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức của các đảng bộ, chính quyền, các cơ quan, đơn vị đang còn
nhiều hạn chế, bất cập, quản lý xã hội còn nhiều mặt yếu kém và có phần lúng lúng
khiến cho tình hình vi phạm, suy thoái của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
ngày càng gia tăng và chưa có cách thức, biện pháp để ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả.
4.1.2. Mục tiêu và phương hướng
4.1.2.1. Mục tiêu
Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XI) về phát triển KH&CN phục vụ CNH,
HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhâp quốc tế đề
ra mục tiêu tổng quát là:
Phát triển mạnh mẽ KH&CN, làm cho KH&CN thực sự là động lực quan
trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất, kinh tế tri thức, nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi
trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và là nước công nghiệp hiện đại
theo định hướng XHCN vào giữa thế kỷ XXI. Đến năm 2020, KH&CN Việt
106
Nam đạt trình độ phát triển của các nhóm nước dẫn đầu ASEAN; đến năm
2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới [4].
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát, Nghị quyết xác định mục tiêu cụ thể về phát
triển nhân lực KH-CN như sau:
“Hình thành đồng bộ đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao,
tâm huyết, trung thực, tận tụy. Đến năm 2020, số cán bộ khoa học và công nghệ
nghiên cứu và phát triển đạt mức 11 người trên một vạn dân”[4].
Quy hoạch phát triển nhân lực ngành khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-
2020 xác định mục tiêu:
Xây dựng được đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ đủ về số lượng, đạt
trình độ tiên tiến trong khu vực và dần tiếp cận với trình độ các nước tiên tiến;
có cơ cấu trình độ, ngành nghề và vùng miền hợp lý; vừa đảm bảo quy hoạch
chung về nhân lực chung cho toàn ngành khoa học và công nghệ, vừa tập
trung cho các lĩnh vực công nghệ ưu tiên. Đảm bảo nguồn lực thực hiện định
hướng phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020, góp phần thực
hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 [11].
Trên cơ sở mục tiêu chung, xuất phát từ tình hình thực tiễn của các tỉnh, thành phố
vùng DHMT, mục tiêu lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN đến năm 2025 là: Tăng
cường lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN đủ về số lượng, có chất lượng cao đủ năng
lực giải quyết những nhiệm vụ KH-CN trọng điểm của địa phương, một số lĩnh vực đạt
trình độ tương đương với các nước dẫn đầu ASEAN, có cơ cấu hợp lý nhằm thực hiện
thắng lợi chiến lược phát triển KH&CN và kế hoạch phát triển KT-XH của địa phương.
4.1.2.2. Phương hướng tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy ở vùng
duyên hải miền Trung đối với phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định nhiệm vụ tổng quát và phương
hướng, nhiệm vụ của phát triển giáo dục, đào tạo và KH&CN:
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực; đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ;
phát huy vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục, đào tạo và khoa học, công
nghệ đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước [26, tr.77].
Đồng thời, Văn kiện xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển và ứng dụng
khoa học, công nghệ:
107
Phát triển mạnh mẽ KH&CN, làm cho KH&CN thực sự là quốc sách hàng
đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh
tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh [26, tr.120].
Về phát triển nhân lực KH-CN, Văn kiện nhấn mạnh:
Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn
vinh đội ngũ cán bộ KH&CN, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp.
Tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để cán bộ KH&CN phát triển bằng
tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình. Thực
hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu,
sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học [26, tr.122].
Từ những vấn đề nêu trên và từ phương hướng trong Chiến lược phát triển
KH&CN của các tỉnh, thành phố vùng DHMT, có thể xác định phương hướng tăng
cường lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN của các tỉnh, thành ủy gồm:
Một là, các tỉnh, thành ủy tập trung lãnh đạo tạo chuyển biến căn bản, sâu sắc về
nhận thức về những vấn đề nêu trên trong tỉnh, thành ủy, các cấp ủy, cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt, đội ngũ đảng viên, nhất là trong BTV tỉnh, thành ủy, cấp ủy, cán bộ
trong các tổ chức KH&CN của địa phương.
Hai là, các tỉnh, thành ủy tập trung lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN đáp
ứng yêu cầu công cuộc đổi mới ở từng địa phương; đồng thời lãnh đạo phát triển dần
nhân lực KH-CN chất lượng cao đáp ứng yêu cầu từng bước triển khai thực hiện có
hiệu quả cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (4.0) ở địa phương trong tổng thể
thực hiện cuộc cách mạng này trong cả nước.
Ba là, các tỉnh, thành ủy coi trọng lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN đáp ứng
yêu cầu khai thác và phát huy có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của các tỉnh, thành
phố vùng DHMT phục vụ sự phát triển nhanh, bền vững KT-XH, bảo vệ môi trường
sinh thái, bảo đảm an ninh, quốc phòng.
Bốn là, các tỉnh, thành ủy tăng cường lãnh đạo xây dựng, hoàn thiện hệ thống
cơ chế, chính sách phát triển nhân lực KH-CN trên cơ sở đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về KH&CN; tăng cường dân chủ trong hoạt động
KH&CN, tạo môi trường pháp lý lành mạnh phát triển nhân lực KH-CN.
108
Năm là, các tỉnh, thành ủy tăng cường lãnh đạo nâng cao chất lượng các tổ
chức đảng và đội ngũ đảng viên trong các tổ chức, cơ quan KH&CN; đổi mới
PTLĐ của tỉnh, thành ủy đối với phát triển nhân lực KH-CN thông qua tổ chức
đảng và đảng viên trong các tổ chức, cơ quan KH&CN.
Sáu là, các tỉnh, thành ủy tăng cường lãnh đạo phát huy vai trò của HTCT, các
tổ chức kinh tế, KH&CN và các lực lượng ở địa phương, tranh thủ sự hỗ trợ của các
lực lượng trong nước, mở rộng hợp tác quốc tế để phát triển nhân lực KH-CN từng
tỉnh, thành phố.
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
CÁC TỈNH, THÀNH ỦY Ở VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG ĐỐI VỚI PHÁT
TRIỂN NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ ĐẾN NĂM 2025
4.2.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tỉnh, thành ủy, ban thường
vụ, các cấp ủy, cán bộ chủ chốt và nhân lực KH-CN về sự cần thiết phải tăng
cường lãnh đạo phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
Nhận thức đúng là khởi đầu cho hành động đúng. Nhưng, nhận thức là một
quá trình từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Trong quá trình
nhận thức, các chủ thể luôn chịu sự chi phối của những điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan. Trên thực tế, thời gian qua do nhiều nguyên nhân khác nhau mà
một số cấp ủy, cán bộ chủ chốt của các địa phương trong vùng nhận thức chưa thật
sự đầy đủ, sâu sắc về vai trò quốc sách hàng đầu, động lực quan trọng nhất của
KH&CN, vai trò quyết định của NNL chất lượng cao đối với sự phát triển, chưa coi
đây là một nhiệm vụ trọng tâm, chưa bố trí cán bộ lãnh đạo có đủ thẩm quyền, năng
lực trực tiếp chỉ đạo công tác phát triển nhân lực KH-CN.
Trong nhiều nghị quyết, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định KH&CN có vai trò là
nền tảng và động lực quan trọng nhất để phát triển KT-XH và bảo vệ Tổ quốc; “phát
triển NNL, nhất là NNL chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định
đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển
đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững” [24, tr.130]. Chính vì thế “việc phát huy và phát
triển KH&CN” trong đó có phát triển nhân lực KH-CN là một nhiệm vụ trọng tâm của
các cấp ủy đảng và chính quyền; là một trong những nội dung lãnh đạo quan trọng của
người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương.
109
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tỉnh, thành ủy, BTV tỉnh, thành ủy, các cấp
ủy, cán bộ chủ chốt và nhân lực KH-CN về các vấn đề: vai trò quốc sách hàng đầu,
động lực then chốt của KH&CN, vai trò của nhân lực KH-CN trong sự nghiệp CNH,
HĐH, phát triển KT-XH và hội nhập quốc tế để từ đó thấy được tầm quan trọng của
phát triển nhân lực KH-CN, xem đó vừa là nhiệm vụ chiến lược lâu dài, vừa là biện
pháp cấp bách; quán triệt và nhận thức sâu sắc những định hướng phát triển KH&CN
đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 được Đảng ta chỉ rõ trong nghị quyết Trung
ương sáu (khóa XI); quan điểm, mục tiêu, định hướng nhiệm vụ phát triển KH&CN
được xác định rõ trong Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020. Nâng cao
nhận thức về nội dung chủ yếu của phát triển nhân lực KH-CN; nội dung và PTLĐ
phát triển nhân lực KH-CN; thấy rõ những mặt mạnh, mặt hạn chế, yếu kém của nhân
lực KH-CN trên địa bàn, những ưu điểm và khuyết điểm, hạn chế của quá trình lãnh
đạo phát triển nhân lực KH-CN của tỉnh, thành ủy và các cấp ủy trong những năm qua.
Nâng cao nhận thức về vai trò của tỉnh, thành ủy, BTV, các cấp ủy và đội ngũ cán bộ
chủ chốt trong lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN, từ đó xác định rõ trách nhiệm của
từng ủy viên BCH, BTV, cán bộ, đảng viên đối với nhiệm vụ này. Nhận thức sâu sắc
về những thuận lợi và những khó khăn, thách thức tác động đến sự lãnh đạo phát triển
nhân lực KH-CN trong thời gian tới để có những chủ trương, giải pháp phù hợp.
Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tỉnh, thành ủy, BTV tỉnh, thành ủy, các cấp
ủy, cán bộ chủ chốt và nhân lực KH-CN cần thực hiện tốt những biện pháp cụ thể sau:
Một là, tiếp tục tuyên truyền, phổ biến quán triệt các nghị quyết của Đảng,
Chiến lược, chương trình hành động của Chính phủ và các nghị quyết, chương trình
hành động của tỉnh, thành ủy, chương trình, kế hoạch, đề án của chính quyền tỉnh,
thành phố về phát triển KH&CN, nhân lực KH-CN và xây dựng đội ngũ trí thức.
Tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và
giải pháp của Nghị quyết Trung ương sáu (khóa XI) về phát triển KH&CN; quán triệt
mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; những định hướng, nhiệm vụ, giải pháp về phát triển
nhân lực KH-CN, xây dựng đội ngũ trí thức trong văn kiện XII của Đảng; Chiến lược
của Chính phủ về phát triển KH&CN, phát triển NNL và phát triển nhân lực KH-CN.
Quán triệt và thực hiện chủ trương, chính sách của Nghị quyết số 05-NQ/TW Hội nghị
Trung ương 4 khóa XII về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô
110
hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh
của nền kinh tế; các nghị quyết, chương trình hành động của tỉnh, thành ủy, chương
trình, kế hoạch, đề án của chính quyền tỉnh, thành phố về phát triển KH&CN, nhân lực
KH-CN và xây dựng đội ngũ trí thức.
Đổi mới mạnh mẽ việc tổ chức học tập, quán triệt các nghị quyết của Đảng và
nghị quyết, chương trình hành động của tỉnh, thành ủy về phát triển KH&CN và phát
triển nhân lực KH-CN, xây dựng đội ngũ trí thức làm sao cho thiết thực, hiệu quả, khắc
phục triệt để bệnh hình thức; phù hợp với từng cấp, từng đối tượng. Trong quá trình
học tập, quán triệt các nghị quyết trên cần kết hợp tự nghiên cứu với nghe phổ biến, kết
hợp giữa học tập, quán triệt với thảo luận, thông qua chương trình hành động của cấp
ủy, tổ chức đảng; kết hợp chặt chẽ giữa thuyết trình với thảo luận, đối thoại giữa báo
cáo viên và người nghe, với thu hoạch, kiểm tra, đánh giá việc học tập, quán triệt nghị
quyết, bảo đảm cho mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ
chủ chốt các cấp đều quán triệt, nắm vững và vận dụng thực hiện đúng đắn các nghị
quyết, phù hợp với tình hình và điều kiện thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là Ban Cán sự đảng UBND, Đảng đoàn
HĐND, quận ủy, huyện ủy, đảng ủy các trường đại học, Đảng ủy Khối các cơ quan,
Đảng đoàn Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật xây dựng chương trình hành
động thực hiện nghị quyết của Đảng, nghị quyết của tỉnh, thành ủy. Các cấp ủy, tổ
chức đảng, trực tiếp là người đứng đầu của các tổ chức nói trên có trách nhiệm chỉ
đạo, chủ trì việc tổ chức học tập, quán triệt, xây dựng chương trình hành động của
cấp ủy, tổ chức đảng ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình.
Hai là, nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, BTV, chi bộ về nhiệm vụ phát
triển nhân lực KH-CN.
Đưa nhiệm vụ lãnh đạo phát nhân lực KH-CN vào nội dung sinh hoạt đảng.
Các tỉnh, thành ủy, BTV cần chỉ đạo chặt chẽ các cấp ủy đảng, nhất là đảng ủy khối
các cơ quan tỉnh, thành phố, đảng ủy trong các trường đại học, cấp ủy trong các tổ
chức KH&CN, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, Sở Khoa học và Công
nghệ đưa nhiệm vụ phát triển nhân lực KH-CN vào nội dung sinh hoạt chuyên đề
của cấp ủy, chi bộ. Để nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, BTV và sinh hoạt chi
bộ trước hết cần phải chuẩn bị kỹ về nội dung. Tiếp nữa là phải đổi mới cách thức
111
tổ chức sinh hoạt cấp ủy, BTV và sinh hoạt chi bộ cần đi vào thực chất, thiết thực,
hiệu quả, tránh hình thức. Trong sinh hoạt đảng, cần kết hợp chặt chẽ giữa hai mặt
xây và chống, biểu dương khuyến khích những tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên
gương mẫu, những tấm gương tiêu biểu trong nhân lực KH-CN thực hiện nghị
quyết của Đảng, nghị quyết của tỉnh, thành ủy về phát triển nhân lực KH-CN; đồng
thời phê bình những tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, nhân lực KH-CN chưa
nghiêm túc thực hiện nghị quyết, vi phạm khuyết điểm hoặc có biểu hiện giảm sút
đạo đức nghề nghiệp. Sinh hoạt cấp ủy, BTV cũng như sinh hoạt chi bộ cần tập
trung thảo luận tìm kiếm các giải pháp khả thi để thực hiện thắng lợi nghị quyết của
tỉnh, thành ủy đã đề ra. Các cấp ủy và đội ngũ cán bộ chủ chốt phải xác định đây là
một trong những nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung lãnh đạo quyết liệt, có hiệu quả.
Ba là, lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan truyền thông đại chúng của tỉnh, thành
phố đa dạng hóa hình thức, phương pháp để tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao
nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân lực
KH-CN về phát triển nhân lực KH-CN.
Các tỉnh, thành ủy cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan báo chí, truyền hình,
phát thanh, cổng thông tin điện tử của tỉnh, thành phố cần xây dựng các chương trình,
tăng lượng tin, bài, mở các chuyên trang, chuyên mục như hỏi-đáp, trao đổi, tọa đàm, đối
thoại để tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước và của tỉnh, thành ủy, chính quyền về phát triển nhân lực KH-CN, xây dựng đội ngũ
trí thức, phát triển KH&CN, chương trình khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; tuyên truyền nêu
gương những tập thể, cá nhân tiêu biểu có nhiều thành tích tiêu biểu trong hoạt động
KH&CN nhằm cổ vũ động viên tạo sức lan tỏa trong nhân dân và trong các tổ chức
KH&CN. Chỉ đạo Ban Tuyên giáo tỉnh ủy, thành ủy biên soạn các tài liệu phổ biến rộng
rãi các nghị quyết của Đảng, nghị quyết của tỉnh, thành ủy, các chính sách của chính
quyền về phát triển KH&CN, phát triển nhân lực KH-CN; những điển hình trong thực
hiện nghị quyết của Đảng, của tỉnh thành ủy, những tấm gương sáng của các nhà khoa
học trong học tập, nghiên cứu sáng tạo trên Thông tin nội bộ hàng tháng của Ban Tuyên
giáo và phổ biến rộng rãi đến tận các chi bộ. Chỉ đạo các nhà xuất bản tăng các đầu sách
về các đề tài phát triển nhân lực KH-CN, xây dựng đội ngũ trí thức, nghiên cứu, phát triển
và ứng dụng KH&CN; những nghiên cứu về thực tiễn ở các tỉnh vùng DHMT hay những
112
kinh nghiệm của các địa phương khác, của thế giới về các đề tài nêu trên nhằm phổ biến
rộng rãi đến cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân và nhân lực KH-CN.
Bốn là, đề cao trách nhiệm của từng tỉnh ủy viên, thành ủy viên, các cấp ủy, cán bộ
chủ chốt trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển nhân lực KH-CN.
Trước hết các tỉnh, thành ủy, các đảng ủy trực thuộc cần phải đưa nhiệm vụ phát
triển nhân lực KH-CN vào trong chương trình làm việc toàn khóa và cụ thể hóa bằng
các kế hoạch cụ thể. Tập trung xây dựng và ban hành nghị quyết chuyên đề để lãnh đạo
các tổ chức trong HTCT, các Sở thuộc UBND, các tổ chức KH&CN, Liên hiệp các
Hội Khoa học và kỹ thuật trên địa bàn thực hiện nhiệm vụ phát triển nhân lực KH-CN.
Phân công rõ trách nhiệm cho tập thể và cá nhân trong tỉnh ủy, thành ủy, BTV và các
cấp ủy trực thuộc, ban lãnh đạo các tổ chức KH&CN chịu trách nhiệm chính trong thực
hiện nhiệm vụ phát triển nhân lực KH-CN.
BTV tỉnh, thành ủy cần chăm lo đến công tác cán bộ, bố trí cán bộ có đủ năng
lực, am hiểu sâu lĩnh vực này đảm đương nhiệm vụ. Đồng thời giao nhiệm vụ cho Bí
thư đảng ủy trực thuộc phải là người chỉ đạo trực tiếp và chịu trách nhiệm trước tỉnh,
thành ủy về kết quả phát triển nhân lực KH-CN ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình.
Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Ban Cán sự đảng UBND, Đảng đoàn HĐND, Đảng đoàn
của các tổ chức chính trị - xã hội, Đảng đoàn Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật
lãnh đạo cụ thể hóa nghị quyết của tỉnh, thành ủy về phát triển nhân lực KH-CN bằng
các chương trình, kế hoạch, đề án, chính sách và tổ chức thực hiện.
4.2.2. Đổi mới việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết
của tỉnh ủy, thành ủy về phát triển nhân lực khoa học - công nghệ; nâng cao chất
lượng các cơ quan tham mưu, giúp việc cho tỉnh ủy, thành ủy đáp ứng yêu cầu
lãnh đạo phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
4.2.2.1. Đổi mới việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết
của tỉnh ủy, thành ủy về phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu để các tỉnh, thành ủy lãnh đạo phát triển
nhân lực KH-CN đạt kết quả. Thực tế cho thấy, để các tỉnh, thành ủy lãnh đạo phát
triển nhân lực KH-CN đạt kết quả, trước hết phải có nghị quyết đúng đắn về phát
triển nhân lực KH-CN. Điều này lại phụ thuộc rất lớn vào việc đổi mới xây dựng,
ban hành các nghị quyết của tỉnh ủy, thành ủy, BTV tỉnh, thành ủy về phát triển
nhân lực KH-CN. Tiếp theo là đổi mới việc tổ chức thực hiện các nghị quyết có vai
trò không kém phần quan trọng và là nhân tố bảo đảm cho các nghị quyết của tỉnh,
113
thành ủy, BTV tỉnh ủy, thành ủy về phát triển nhân lực KH-CN được thực hiện
thắng lợi. Thực tế công cuộc đổi mới cho thấy, nhiều nghị quyết đúng đắn của Đảng
khi đưa vào thực hiện, ở nhiều nơi đạt kết quả thấp, thậm chí nghị quyết không
được thực hiện chủ yếu do việc tổ chức thực hiện nghị quyết không được đổi mới.
Để đổi mới việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết của tỉnh
ủy, thành ủy, BTV tỉnh ủy, thành ủy về phát triển nhân lực KH-CN cần:
Một là, kế hoạch hóa việc ban hành các nghị quyết của tỉnh ủy, thành ủy,
BTV tỉnh ủy, thành ủy về phát triển nhân lực KH-CN.
Đây là yêu cầu không thể thiếu được trong hoạt động lãnh đạo của tỉnh ủy, thành
ủy và BTV, nó vừa bảo đảm cho sự lãnh đạo mang tính khoa học, vừa thể hiện năng lực,
tầm nhìn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong việc xác định và lựa chọn thứ tự các
nhiệm vụ ưu tiên để ban hành nghị quyết, từ đó chủ động trong việc chuẩn bị các điều
kiện, tiền đề cho việc xây dựng nghị quyết. Do đó, trong chương trình làm việc toàn khóa
của nhiệm kỳ 2015 - 2020, các tỉnh, thành ủy phải căn cứ vào nghị quyết của đại hội
đảng bộ tỉnh, thành phố định hướng các nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ này và xuất
phát từ tình hình thực tiễn của địa phương xác định đúng các nhiệm vụ theo thứ tự ưu
tiên để ban hành nghị quyết lãnh đạo, số lượng các nghị quyết chuyên đề của tỉnh ủy,
thành ủy, thời gian ban hành; chủ đề của nghị quyết; cơ quan chủ trì và phối hợp xây
dựng dự thảo nghị quyết; cán bộ phụ trách trực tiếp xây dựng dự thảo nghị quyết…
Hai là, đổi mới, nâng cao chất lượng các hoạt động chuẩn bị dự thảo nghị quyết
của tỉnh ủy, thành ủy, BTV tỉnh, thành ủy về phát triển nhân lực KH-CN.
Để nghị quyết có chất lượng là tổng hợp các khâu trong quy trình xây dựng nghị
quyết. Trước hết là khâu chuẩn bị dự thảo nghị quyết, ngay từ công đoạn đầu này, các
tỉnh, thành ủy phải tập trung lãnh đạo để chuẩn bị các điều kiện, tiền đề cho việc xây
dựng dự thảo nghị quyết đảm bảo chất lượng, tập trung vào các công việc: thành lập
tiểu ban xây dựng dự thảo nghị quyết về phát triển nhân lực KH-CN, tỉnh ủy, thành ủy
cần lựa chọn những cán bộ có năng lực, am hiểu sâu về lĩnh vực này trực tiếp phụ
trách; phân công cụ thể cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp và lực lượng chính trực tiếp
“chắp bút” dự thảo nghị quyết. Tỉnh ủy, thành ủy phải thường xuyên kiểm tra hoạt
động của tiểu ban này để nắm tình và khi cần có những chỉ đạo định hướng.
Ba là, nâng cao chất lượng hội nghị thảo luận đóng góp ý kiến vào dự thảo nghị
quyết của tỉnh ủy, thành ủy, BTV tỉnh, thành ủy về phát triển nhân lực KH-CN.
114
Các dự thảo nghị quyết của tỉnh ủy, thành ủy về phát triển nhân lực KH-CN
cuối cùng đều được thông qua và quyết định tại các hội nghị của tỉnh ủy, thành ủy,
bởi đây là cơ quan có thẩm quyền tổ chức xây dựng và ban hành các nghị quyết,
quyết định về phát triển nhân lực KH-CN. Để xây dựng được nghị quyết có chất
lượng thì nghị quyết phải là sản phẩm trí tuệ của tập thể BCH. Do đó, trước hết cần
đề cao trách nhiệm của từng tỉnh ủy viên, thành ủy viên tích cực tham gia đóng góp ý
kiến có chất lượng vào việc xây dựng nghị quyết. Bản thân từng đồng chí tỉnh ủy
viên, thành ủy viên phải nghiên cứu kỹ lưỡng dự thảo nghị quyết đã được văn phòng
gửi trước, chuẩn bị các ý kiến phát biểu. Tại hội nghị thảo luận ra nghị quyết, từng
đồng chí phải thắng thắn nêu lên ý kiến đóng góp, kể cả những ý kiến ngược chiều,
thực hiện đúng quyền của đảng viên, kể cả quyền bảo lưu ý kiến; đồng thời phải chấp
hành đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Những đồng chí chủ trì hội nghị phải thật sự
dân chủ, tôn trọng, lắng nghe các ý kiến khác nhau, kể cả những ý kiến ngược chiều,
những ý tưởng mới chưa được đề cập trong dự thảo nghị quyết, theo nguyên tắc
“trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình”, bảo đảm
quyền bảo lưu ý kiến của đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số và có trách nhiệm tiếp
tục nghiên cứu, xem xét nhưng không được phân biệt đối xử với đảng viên đó.
Tăng cường dân chủ phải đi liền với bảo đảm tập trung thống nhất trong quá
trình chỉ đạo, điều hành hội nghị. Ở đây đòi hỏi ban chủ trì hội nghị phải vận dụng
đúng đắn, linh hoạt nguyên tắc tập trung dân chủ vào quá trình thảo luận ra nghị
quyết, quyết định về phát triển nhân lực KH-CN. Một mặt, chủ trì hội nghị phải
công khai, minh bạch thông tin về nội dung nghị quyết để tất cả các tỉnh ủy viên,
thành ủy viên nắm rõ, thảo luận rộng rãi, dân chủ đi đến thống nhất và biểu quyết.
Mặt khác, trong quá trình thảo luận phải luôn có sự chỉ đạo, điều hành tập trung,
chủ trì hội nghị phải định hướng những vấn đề trọng tâm, những vấn đề còn có
nhiều ý kiến khác nhau để hội nghị tập trung thảo luận để thống nhất.
Bốn là, đổi mới nội dung, hình thức nghị quyết về phát triển nhân lực KH-CN.
Tỉnh ủy, thành ủy cần đổi mới việc ban hành nghị quyết theo hướng nghị
quyết phải ngắn gọn, rõ ràng, thiết thực, cụ thể, rõ việc, rõ trách nhiệm. Đặc biệt,
trong thời gian tới các tỉnh, thành ủy trong vùng cần tập trung xây dựng các nghị
quyết chuyên đề về phát triển nhân lực KH-CN để lãnh đạo các tổ chức trong
HTCT, nhất là các cấp ủy, tổ chức đảng trong các tổ chức KH&CN, Liên hiệp các
Hội Khoa học và Kỹ thuật quán triệt thực hiện được thuận lợi, hiệu quả.
115
Năm là, tập trung lãnh đạo cụ thể hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết của tỉnh,
thành ủy về phát triển nhân lực KH-CN.
Để đưa nghị quyết vào cuộc sống, hiện thực hóa ý chí, mục tiêu của nghị quyết
thành những biến đổi trong hiện thực, tỉnh, thành ủy cần tập trung lãnh đạo các cơ
quan chính quyền kịp thời cụ thể hóa nghị quyết về phát triển nhân lực KH-CN thành
chương trình, kế hoạch, chính sách, đề án phát triển nhân lực KH-CN. Trong tổ chức
thực hiện nghị quyết cần phải kiên trì, bền bỉ bám sát những quan điểm định hướng,
những mục tiêu đề ra, đồng thời các cơ quan chính quyền phải năng động, sáng tạo và
nhạy bén trong việc sử dụng những biện pháp, hình thức tổ chức thích hợp để động
viên tối đa mọi lực lượng vào việc thực hiện thắng lợi nghị quyết.
Các tỉnh, thành ủy cần tăng cường lãnh đạo các cấp ủy, đảng bộ trực thuộc,
Đảng đoàn Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, cấp ủy, tổ chức đảng trong các
tổ chức KH&CN xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện nghị quyết của tỉnh,
thành ủy về phát triển nhân lực KH-CN. Trong quá trình đó, những đồng chí ủy
viên BTV tỉnh, thành ủy được phân công phụ trách địa bàn, các sở, ban ngành phải
luôn bám sát để kịp thời có sự chỉ đạo, giúp đỡ cấp ủy, tổ chức đảng nói trên thực
hiện tốt nghị quyết của tỉnh, thành ủy đề ra.
4.2.2.2. Nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu, giúp việc cho tỉnh ủy, thành
ủy đáp ứng tốt yêu cầu lãnh đạo phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
Các cơ quan tham mưu có vai trò hết sức quan trọng trong việc nghiên cứu, đề
xuất và giúp việc cho tỉnh ủy, thành ủy trong quá trình lãnh đạo phát triển nhân lực
KH-CN. Vì thế, các cơ quan này được coi là “bộ óc thứ hai” của tỉnh ủy, thành ủy. Tuy
nhiên, để cho các cơ quan tham mưu, giúp việc hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ đòi
hỏi các cơ quan này phải được quan tâm, chăm lo xây dựng tổ chức, bộ máy tinh gọn,
chức năng, nhiệm vụ rõ ràng; đội ngũ cán bộ của các cơ quan này phải có phẩm chất
chính trị vững vàng, có trình độ trí tuệ, năng lực, trách nhiệm cao với công việc. Ngoài
kiến thức, kinh nghiệm về công tác xây dựng Đảng, những cán bộ tham mưu phải có
trình độ lý luận chính trị, nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về lĩnh vực tham mưu; đặc biệt phải nắm chắc những kiến thức về
quản trị NNL, kiến thức về KH&CN để từ đó có thể nghiên cứu, phân tích, dự báo tình
hình, tham mưu đề xuất những chủ trương, chính sách, biện pháp đúng đắn cho tỉnh ủy,
thành ủy lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN đem lại hiệu quả.
116
Kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, nâng cao chất lượng các cơ quan tham
mưu, giúp việc cho tỉnh ủy, thành ủy trong phát triển nhân lực KH-CN bao gồm các
Ban của tỉnh ủy, thành ủy, Ủy ban kiểm tra, Văn phòng, Ban chỉ đạo phát triển
NNL, Trung tâm phát triển NNL, tập trung vào những vấn đề sau:
Một là, tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của
từng cơ quan tham mưu, giúp việc, tránh chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ với
các sở thuộc UBND tỉnh, thành phố.
Cần tập trung nghiên cứu, xem xét khắc phục sự trùng lắp hoặc chồng chéo về
chức năng, nhiệm vụ giữa một số cơ quan tham mưu của tỉnh ủy, thành ủy với Ban
chỉ đạo phát triển NNL, Trung tâm phát triển NNL.Từ những thành công của thành
phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam cho thấy việc thành lập Trung tâm phát triển NNL
chất lượng cao nhằm chuyên nghiệp hóa công tác phát triển NNL là một hướng đi
đúng. Vì thế, các tỉnh, thành phố khác trong vùng cần nghiên cứu kinh nghiệm của
Đà Nẵng và Quảng Nam để nhanh chóng thành lập Trung tâm phát triển NNL.
Hai là, tiến hành tổng kết đánh giá hoạt động tham mưu về lĩnh vực phát triển nhân
lực KH-CN, phát triển KH&CN, xây dựng đội ngũ trí thức của các cơ quan tham mưu.
Các tỉnh, thành ủy cần tiến hành tổng kết đánh giá hoạt động tham mưu về lĩnh
vực nêu trên trong thời gian qua để có cơ sở hoàn thiện các quy định, quy chế và có
những định hướng hoạt động cho các cơ quan này trong thời gian tới về tham mưu,
đề xuất các chủ trương, giải pháp phát triển nhân lực KH-CN.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan tham mưu, các tỉnh ủy, thành
ủy cần quy định cụ thể, rõ ràng nhiệm vụ, phạm vi tham mưu của từng cơ quan.
Ba là, kiện toàn tổ chức, bộ máy của các cơ quan tham mưu, giúp việc tỉnh,
thành ủy, rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy chế làm việc của các cơ quan này.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, phạm vi tham mưu của từng cơ quan đã được
xác định, tiến hành kiện toàn tổ chức bộ máy bao gồm: số lượng người, cơ cấu,
chức năng, nhiệm vụ của từng chức danh cán bộ. Từ đó xác định tiêu chuẩn của
từng chức danh cán bộ làm căn cứ để quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí cán bộ
theo từng chức danh. Đồng thời có thể tiến hành thi tuyển cán bộ, công chức vào
làm việc tại các cơ quan tham mưu, giúp việc tỉnh, thành ủy.
Tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy chế làm việc và quy chế
phối hợp giữa các cơ quan tham mưu trong thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho tỉnh
117
ủy, thành ủy về lĩnh vực phát triển nhân lực KH-CN. Thường xuyên kiểm tra, giám
sát các quan này thực hiện quy chế đã được ban hành.
Bốn là, đổi mới mạnh mẽ chính sách cán bộ tham mưu và tăng cường đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của cơ quan, cán bộ tham mưu.
Cùng với các các biện pháp trên, cần đổi mới mạnh mẽ chính sách cán bộ để
thu hút những người thực sự có tài, có đức vào các cơ quan tham mưu, giúp việc
của tỉnh ủy, thành ủy, trong đó chú trọng đổi mới phương thức tuyển chọn, bổ
nhiệm cán bộ tham mưu, nhất là những người đứng đầu; đổi mới chế độ chính sách
đảm bảo đời sống để cán bộ tham mưu toàn tâm, toàn ý đối với công việc được
giao. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện và đảm bảo các
điều kiện làm việc cần thiết để cơ quan tham mưu hoạt động có hiệu quả.
4.2.3. Đổi mới phương thức lãnh đạo của tỉnh, thành ủy ở vùng duyên hải
miền Trung đối với phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
PTLĐ có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi các nội dung lãnh
đạo. Thực tế cho thấy, có đường lối đúng, có tổ chức hợp lý mà không có PTLĐ
phù hợp thì hiệu quả lãnh đạo thấp, thậm chí nhiều khi còn làm vô hiệu hóa cả
đường lối, chủ trương. Vì thế, cùng với việc xác định đúng nội dung lãnh đạo, các
tỉnh, thành ủy phải tạo lập được các PTLĐ phù hợp thì mới mang lại hiệu quả. Từ
thực tiễn V.I.Lênin đã khái quát chỉ dẫn rằng “Khi tình hình đã thay đổi và chúng ta
phải giải quyết nhiệm vụ thuộc loại khác thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng
những phương pháp của ngày hôm qua” [48, tr.398].
Đổi mới PTLĐ nhằm thực hiện có hiệu quả sự lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy
đối với phát triển nhân lực KH-CN, cần tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau:
4.2.3.1. Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng đối với nhân lực khoa học -
công nghệ
Công tác tư tưởng có vai trò rất quan trọng tạo sự thống nhất về tư tưởng, tổ
chức và hành động của nhân lực KH-CN để thực hiện thắng lợi các nghị quyết của
Đảng và nghị quyết của tỉnh, thành ủy về phát triển nhân lực KH-CN và nhiệm vụ
chính trị của các tổ chức KH&CN. Công tác tư tưởng còn định hướng tư tưởng chính
trị, xây dựng, củng cố niềm tin của nhân lực KH-CN vào đường lối, chủ trương, nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
khẳng định rằng “Tư tưởng thông suốt thì mọi việc làm đều tốt” [56, tr.277]; “Tư
tưởng không đúng đắn thì công tác ắt sai lầm” [55, tr.242]. Để tăng cường và nâng
118
cao chất lượng công tác tư tưởng đối với nhân lực KH-CN cần thực hiện tốt các
biện pháp cụ thể sau:
Một là, các tỉnh, thành ủy lãnh đạo nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các
cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các tổ chức KH&CN, Liên hiệp các hội Khoa
học và Kỹ thuật về công tác tư tưởng đối với nhân lực KH-CN.
Cần làm cho cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu nhận thức sâu sắc về vai
trò tầm quan trọng của công tác tư tưởng đối với nhân lực KH-CN; nếu coi nhẹ
công tác tư tưởng sẽ tự đánh mất phương thức để tập hợp, đoàn kết nhân lực KH-
CN, sẽ không khai thác và phát huy tốt trí tuệ của nhân lực KH-CN vào việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị; buông lỏng công tác tư tưởng tức là
cấp ủy, tổ chức đảng đã tự mình đánh mất vai trò lãnh đạo đối với nhân lực KH-CN
khi đó “Có thể gây tác động xấu, ảnh hưởng đến uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với đội ngũ trí thức, thậm chí có thể Đảng sẽ mất vai trò lãnh đạo đối với những
nhóm và tập thể trí thức nhất định” [91, tr.80].
Lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng trong các tổ chức KH&CN phải
thường xuyên quan tâm và làm tốt công tác tư tưởng. Trước hết, cấp ủy, người đứng
đầu phải nhận thức sâu sắc công tác tư tưởng trước hết là nhiệm vụ cấp uỷ và đồng
chí bí thư cấp uỷ. Cấp ủy phải xây dựng nghị quyết chuyên đề về công tác tư tưởng,
trong đó xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để tăng cường và nâng cao chất
lượng công tác tư tưởng của đảng bộ, chi bộ; đồng thời tập trung lãnh đạo Ban Tuyên
giáo đảng ủy xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ
thông tin, tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, viên chức.
Bí thư cấp uỷ, thủ trưởng các tổ chức KH&CN hàng năm phải lập kế hoạch chỉ đạo
công tác tư tưởng, mở rộng dân chủ, sâu sát, gần gũi với cán bộ dưới quyền, đảng
viên, viên chức trong đơn vị để nắm bắt, đánh giá, dự báo diễn biến tư tưởng, có biện
pháp giải quyết kịp thời những vấn đề tư tưởng nảy sinh. Xây dựng cơ chế cấp uỷ,
người đứng đầu định kỳ làm việc với các tổ chức đoàn thể, tiếp xúc, đối thoại lắng
nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của viên chức trong các tổ chức KH&CN. Cấp ủy,
thủ trưởng các tổ chức KH&CN chỉ đạo các chi bộ trực thuộc nâng cao chất lượng
sinh hoạt đảng thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình,
khắc phục tình trạng mơ hồ về tư tưởng trong cán bộ, đảng viên, viên chức.
Hai là, kiện toàn tổ chức, bộ máy, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật
cho công tác tư tưởng.
119
Các tỉnh, thành ủy và cấp ủy cấp trên trực tiếp cần kiện toàn Ban Tuyên giáo
đảng ủy trong các tổ chức KH&CN, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật theo
hướng tinh gọn. Muốn vậy phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ; quan tâm chăm lo
xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo có đủ phẩm chất và năng lực, có
kỹ năng nói và viết tốt; phải thường xuyên bồi dưỡng các kỹ năng, cập nhất thông
tin cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo. Chỉ đạo Ban Tuyên giáo xây dựng và thực hiện
tốt quy chế hoạt động và quy chế phối hợp với các ban tham mưu của đảng ủy, các
đoàn thể trong cơ quan, đơn vị. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật theo
hướng hiện đại đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác tư tưởng trong thời đại bùng nổ
thông tin và hoạt động tư tưởng ngày càng phong phú, đa dạng, phức tạp.
Ba là, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp công tác tư tưởng.
Đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp công tác tưởng để công tác tư tưởng
không trở nên lạc hậu, thiếu tính hấp dẫn. Cần lựa chọn những nội dung thiết thực,
những nội dung mà nhân lực KH-CN đang quan tâm, mong đợi. Các tỉnh, thành ủy lãnh
đạo, chỉ đạo cấp ủy, cán bộ trực tiếp làm công tác tư tưởng trong các tổ chức KH&CN,
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật phải bám sát các định hướng chỉ đạo của Đảng,
của Ban Tuyên giáo Trung ương, của tỉnh ủy, thành ủy về công tác tư tưởng; xin ý kiến
chỉ đạo của cấp ủy cấp trên trực tiếp và cung cấp các tài liệu, thông tin. Mặt khác, cấp
ủy, Ban Tuyên giáo đảng ủy trong các tổ chức KH&CN phải bám sát thực tiễn, nắm bắt
tình hình của từng nhóm nhân lực KH-CN để chủ động nghiên cứu, biên soạn, sưu tầm
tài liệu, thu thập thông tin đáp ứng nhu cầu của từng nhóm đối tượng.
Hiện nay, công tác tư tưởng đối với nhân lực KH-CN phải tăng cường phổ biến,
quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về các
vấn đề: phát triển KH&CN, xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong sự
nghiệp CNH, HĐH và phát triển KT-XH, về hội nhập quốc tế, cuộc Cách mạng Công
nghiệp lần thứ tư- những nội dung và những thời cơ, thách thức của nước ta, của địa
phương cũng như đối với nhân lực KH-CN, về phát triển thị trường KH&CN, về đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, về khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo…
Đồng thời, công tác tư tưởng phải đi sâu vào từng nhóm đối tượng trong nhân lực KH-
CN để nắm bắt tình hình diễn biến về tư tưởng, tâm trạng và có giải pháp phù hợp, kịp
thời. Công tác tư tưởng phải cổ vũ, động viên tinh thần say mê nghiên cứu khoa học,
phát triển công nghệ, kịp thời tuyên truyền nhân rộng các nhân tố mới, điển hình tiên
120
tiến trong học tập, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Công tác tư tưởng còn
phải đấu tranh phê phán mạnh mẽ những biểu hiện giảm sút đạo đức nghề nghiệp, thiếu
ý thức trách nhiệm và lòng tự trọng, chạy theo bằng cấp, thiếu trung thực và tinh thần
hợp tác trong hoạt động động KH&CN, những biểu hiện chạy theo lợi ích trước mắt,
thiếu ý chí phấn đấu vươn lên về chuyên môn trong một bộ phận nhân lực KH-CN.
Mặt khác, công tác tư tưởng phải tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán
bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thấy được vai trò của nhân lực KH-CN và
KH&CN trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, từ đó hình thành ý thức và tâm lý xã
hội tôn trọng, tôn vinh nhân lực KH-CN, trọng dụng người tài; ngược lại cũng phải
khuyến khích, đề cao trách nhiệm của toàn xã hội, của nhân dân trong việc đấu tranh
mạnh mẽ với hiện tượng sa sút về đạo đức nghề nghiệp trong một bộ phận nhân lực
KH-CN để góp phần xây dựng đội ngũ nhân lực KH-CN vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Đa dạng hóa hình thức, phương pháp công tác tư tưởng. Tùy thuộc vào nội dung
và từng nhóm đối tượng mà sử dụng hình thức, phương pháp cho phù hợp làm sao để
chuyển tải nội dung công tác tư tưởng đến với đối tượng một cách hiệu quả. Tựu
trung lại có thể sử dụng các hình thức, phương pháp sau: Thông qua các đợt sinh hoạt
chính trị như học tập quán triệt nghị quyết, các cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn
Đảng; thông qua sinh hoạt và hoạt động của cấp ủy, chi bộ, các tổ chức chính trị- xã
hội, câu lạc bộ, các hội khoa học và kỹ thuật; thông qua sinh hoạt khoa học như tổ
chức hội thảo, tọa đàm khoa học, thông tin khoa học, báo cáo chuyên đề; định kỳ đội
ngũ cán bộ chủ chốt của địa phương tổ chức các cuộc gặp mặt những trí thức tiêu
biểu, tăng cường đối thoại với trí thức. Sử dụng các phương tiện truyền thông đại
chúng như: sách, báo, tạp chí, phát thanh truyền hình, bản tin nội bộ, mạng internet…
Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, các binh chủng tham
gia vào công tác tư tưởng.
Tư tưởng là mặt trận vô cùng khó khăn, phức tạp, diến biến đa dạng, nhanh
chóng vì thế đòi hỏi công tác tư tưởng phải được tiến hành thường xuyên. Hơn nữa
trong nhân lực KH-CN, họ bao gồm nhiều thành phần, giới tính, nghề nghiệp, trình
độ, dân tộc, tôn giáo, có những người chưa phải là đảng viên của Đảng…, họ tham
gia nhiều tổ chức khác nhau. Do vậy, muốn thực hiện công tác tư tưởng đối với các
tập thể, các nhóm nhân lực KH-CN có hiệu quả thì cần phải sử dụng sức mạnh tổng
hợp của các lực lượng, các binh chủng tham gia vào làm công tác tư tưởng. Các
121
tỉnh, thành ủy cần lãnh đạo sự phối hợp chặt chẽ của cấp ủy đảng, phát huy vai trò
của chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ
thuật, các phương tiện truyền thông đại chúng như phát thanh, truyền hình, báo chí,
mạng internet; đồng thời phải phát huy vai trò, tính tiền phong gương mẫu của mỗi
cán bộ, đảng viên trong các tập thể khoa học.
4.2.3.2. Tiếp tục đổi mới phong cách, lề lối làm việc của tỉnh, thành ủy và các cấp
ủy đảng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực tiễn nhằm rút ra
những kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
* Tiếp tục đổi mới phong cách, lề lối làm việc của tỉnh ủy, thành ủy và các cấp ủy đảng.
Một là, tỉnh ủy, thành ủy và các cấp ủy đảng cần tiếp tục đổi mới phong cách, lề lối
làm việc theo hướng xây dựng phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, sâu sát
cơ sở, gắn với thực tiễn, nói đi đôi với làm, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Các tỉnh, thành ủy, các cấp ủy đảng cần dành nhiều thời gian hơn cho công tác
đôn đốc, kiểm tra tình hình thực hiện nghị quyết về phát triển nhân lực KH-CN để
nắm bắt và giải quyết kịp thời những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn.
Người đứng đầu các cấp ủy đảng cần sâu sát cơ sở, lăn lộn với thực tiễn, không
được quan liêu, hình thức; định kỳ có trách nhiệm tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe
những tâm tư, nguyện vọng, những kiến nghị, đề xuất của nhân lực KH-CN.
Hai là, cấp ủy cơ sở trong các tổ chức KH&CN phải chủ động, sáng tạo trong
việc thực hiện nghị quyết phát triển nhân lực KH-CN của tỉnh ủy, thành ủy.
Cấp ủy cơ sở trong các tổ chức KH&CN căn cứ vào tình hình thực tiễn, nhiệm vụ
chính trị và thực trạng nhân lực KH-CN của cơ quan, đơn vị luôn chủ động, sáng tạo
trong việc thực hiện nghị quyết phát triển nhân lực KH-CN của tỉnh ủy, thành ủy. Cần
khắc phục có hiệu quả tình trạng thu động, trông chờ ỷ lại vào sự chỉ đạo của cấp trên.
* Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và định kỳ sơ kết, tổng kết rút kinh
nghiệm về lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN.
Để công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, quyết định về
phát triển nhân lực KH-CN có hiệu quả cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, quy định thành chế độ, có chương trình, kế hoạch cụ thể về công tác
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết của tỉnh, thành ủy về phát triển
nhân lực KH-CN.
Công tác kiểm tra, giám sát của tỉnh ủy, thành ủy và các cấp ủy đảng, ủy ban
kiểm tra các cấp đối với các cấp ủy, tổ chức đảng dưới quyền về thực hiện các nghị
122
quyết, quyết định phát triển nhân lực KH-CN của tỉnh, thành ủy cần được quy định
cụ thể rõ ràng, có chương trình, kế hoạch cụ thể, sát thực. Coi trọng kiểm tra, giám
sát các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan chính quyền, Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị - xã hội và trong các tổ chức KH&CN, Liên hiệp các Hội Khoa
học và Kỹ thuật thực hiện các nghị quyết, quyết định của tỉnh, thành ủy về phát
triển nhân lực KH-CN.
Thứ hai, trong quá trình kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết phát triển
nhân lực KH-CN của tỉnh, thành ủy, cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp cần sử dụng linh
hoạt các hình thức và phối hợp chặt chẽ giữa các hình thức, biện pháp kiểm tra.
Các hình thức kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết phát triển nhân lực
KH-CN của tỉnh, thành ủy cần lựa chọn và thực hiện gồm: kiểm tra toàn diện và kiểm
tra chuyên đề đối với từng nghị quyết, địa bàn trọng điểm, đơn vị, tổ chức; kiểm tra đột
xuất để nắm tình hình kịp thời và kiểm tra định kỳ để nắm một cách có hệ thống. Đặc
biệt, cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp cần tăng cường kiểm tra trực tiếp, “đi
đến tận nơi, xem tận chỗ”, kiểm tra phòng ngừa để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra.
Thứ ba, kết hợp chặt chẽ công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác
kiểm tra của các tổ chức chính trị - xã hội và công tác thanh tra của Nhà nước về
thực hiện các nghị quyết của tỉnh, thành ủy và các quyết định của chính quyền tỉnh,
thành phố về phát triển nhân lực KH-CN.
Trong quá trình phối hợp không được để công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
với công tác thanh tra, kiểm tra của Nhà nước chồng chéo làm mất đi tính hiệu quả
và gây phiền toái cho đối tượng kiểm tra.
Thứ tư, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra.
Muốn kiểm tra có hiệu quả việc thực hiện các nghị quyết của tỉnh, thành ủy về
phát triển nhân lực KH-CN phải có đội ngũ cán bộ kiểm tra có chất lượng. Bởi vậy,
các tỉnh, thành ủy và các cấp ủy đảng cần coi trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm
tra. Tiến hành công việc này cần có chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng định
kỳ, nâng cao trình độ mọi mặt cả về KH&CN, cả về chuyên môn, nghiệp vụ theo
hướng mỗi cán bộ kiểm tra phải là những chuyên gia về công việc này. Đặc biệt coi
trọng giáo dục, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, sự trung thực, công tâm khách
quan, thực sự vì lợi ích chung, dám phụ trách và dám chịu trách nhiệm.
123
Thứ năm, các tỉnh ủy, thành ủy và các cấp ủy đảng cần nâng cao chất lượng
việc sơ kết, tổng kết các nghị quyết của tỉnh, thành ủy, chương trình, chính sách, đề
án phát triển nhân lực KH-CN của chính quyền.
Để cho việc sơ kết, tổng kết không rời vào hình thức, bệnh thành tích chi phối,
khắc phục tình trạng “làm láo, báo cáo hay” thì ngoài các báo cáo đánh giá của Ban Cán
sự đảng UBND, các cấp ủy, các Ban, Sở có liên quan, tỉnh, thành ủy cần chỉ đạo cơ
quan chuyên môn tiến hành nghiên cứu, điều tra khoa học, kết hợp với những nghiên
cứu của các cơ quan quan khoa học để có những đánh giá khách quan, chính xác.
4.2.4. Xây dựng các cấp chính quyền trong sạch, vững mạnh, phát huy mạnh mẽ
vai trò, trách nhiệm của các cấp chính quyền; của cấp ủy, thủ trưởng tổ chức khoa
học và công nghệ; đề cao tự học, tự nghiên cứu của nhân lực khoa học - công nghệ
4.2.4.1. Xây dựng các cấp chính quyền trong sạch, vững mạnh làm nòng cốt trong
thực hiện nghị quyết của tỉnh, thành ủy về phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
Các cấp chính quyền có vai trò rất quan trọng trong thực hiện các nghị quyết của
tỉnh, thành ủy về phát triển nhân lực KH-CN và có chức năng quản lý nhà nước về mọi
mặt có liên quan đến phát triển nhân lực KH-CN, quản lý lĩnh vực KH&CN. Vì vậy,
cần xây dựng các cấp chính quyền trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả xứng đáng với vai trò và chức năng nêu trên. Cần tập trung vào những vấn đề sau:
Thứ nhất, tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan chính quyền địa phương theo đúng quy định của Hiến pháp, pháp luật.
Để tiến hành công việc này phải căn cứ vào quy định của Hiến pháp hiện hành
và Luật tổ chức chính quyền địa phương về chức năng, nhiệm vụ của chính quyền
cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã; tỉnh, thành ủy tập trung chỉ đạo rà soát để bổ sung,
hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chính quyền phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ quản lý nhà nước ở địa phương, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của
tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao
trách nhiệm của người đứng đầu. Khắc phục tình trạng chồng chéo hoặc trùng lắp
về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, phòng, ban.
Thứ hai, kiện toàn tổ chức, bộ máy của chính quyền địa phương theo hướng
tinh gọn, khoa học, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, từng cấp chính quyền địa
phương để kiện toàn tổ chức, bộ máy trong đó tập trung vào các vấn đề: xác định số
lượng, cơ cấu, tiêu chuẩn cán bộ, công chức, nhất là phải xây dựng cụ thể tiêu chuẩn của
124
từng chức danh cán bộ làm cơ sở để tiến hành các khâu trong công tác cán bộ. Kiện toàn
tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương cần chú ý sắp xếp, tổ chức lại các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố làm sao chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm
phải rõ ràng, bộ máy tinh gọn, nâng cao tính chuyên nghiệp trong thực thi công cụ.
Một vấn đề các tỉnh, thành ủy cần quan tâm nghiên cứu để đề xuất với Trung
ương cho làm thí điểm hợp nhất một số cơ quan tham mưu của cấp ủy và của chính
quyền tương đồng về chức năng, nhiệm vụ theo chủ trương Đại hội XII của Đảng.
Thứ ba, nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND các cấp.
Trên cơ sở quy định của pháp luật và định hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN, các tỉnh, thành ủy cần tập trung lãnh đạo nâng cao chất lượng hoạt
động của HĐND, trong đó đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng thể chế hóa, cụ thể
hóa nghị quyết, quyết định của tỉnh, thành ủy thành cơ chế, chính sách và phê duyệt
chương trình, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực KH-CN của UBND tỉnh, thành phố;
nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của HDND đối với UBND trong thực hiện
nhiệm vụ phát triển KH&CN và nhân lực KH-CN. Cùng với đó, các tỉnh, thành ủy
cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các huyện ủy, quận ủy và cấp ủy cơ sở lãnh đạo
HDND, UBND cùng cấp thực hiện tốt nghị quyết, quyết định của cấp ủy về phát triển
nhân lực KH-CN.
Thứ tư, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
Để xây dựng chính quyền vững mạnh, các tỉnh, thành ủy phải hết sức coi trọng
lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, có phẩm
chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao trong
thực thi công vụ, tận tụy phục vụ nhân dân.
Trước hết, cần cụ thể hóa tiêu chuẩn cán bộ, công chức cho từng chức danh
cán bộ, từng vị trí việc làm.
Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chính quyền
các cấp. Trong công tác quy hoạch cán bộ, phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy
định về nguyên tắc, phương châm, quy trình quy hoạch cán bộ, đảm bảo đúng tiêu
chuẩn, cơ cấu độ tuổi, quy hoạch “động” và “mở”, tính liên thông trong công tác
quy hoạch cán bộ giữa chính quyền các cấp. Khắc phục tình trạng quy hoạch cán bộ
lãnh đạo, quản lý chính quyền chỉ khép kín trong nội bộ cơ quan, đơn vị và tình
trạng “quy hoạch treo”. Hàng năm, cần rà soát lại quy hoạch cán bộ, đưa ra khỏi
125
danh sách quy hoạch những người không còn đáp ứng tiêu chuẩn và bổ sung những
nhân tố mới đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn.
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhằm đáp ứng về tiêu
chuẩn, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực công tác. Thực hiện đào
tạo, bồi dưỡng theo các hình thức: Hướng dẫn tập sự trong thời gian tập sự; bồi
dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức; đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu
chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng bắt buộc về kiến thức, kỹ năng tối thiểu
trước khi bổ nhiệm và bồi dưỡng hàng năm nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức tinh thông về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, nắm vững đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, am hiểu luật pháp quốc tế,
thông thạo ngoại ngữ, tin học, thực sự là những công bộc của dân.
Nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng công chức. Công tác tuyển dụng công
chức cần phải đảm bảo tính công khai, minh bạch, dân chủ, công bằng. Cần tổ chức
thi tuyển một cách khách quan, công bằng giữa các ứng viên và thực hiện chế độ hợp
đồng có thời hạn đối với người trúng tuyển, nếu công chức không hoàn thành nhiệm
vụ buộc phải chấm dứt hợp đồng. Tiến hành xây dựng vị trí việc làm và khung năng
lực của từng vị trí việc làm, xác định ngạch công chức tương ứng với vị trí việc làm.
Thực hiện nghiêm các quy chế, quy định, quy trình của Đảng và Nhà nước về đề
bạt, bổ nhiệm cán bộ, kiên quyết đấu tranh chống tình trạng chạy chức, chạy tuổi, chạy
bằng cấp. Trong lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý chính quyền cần có sự cạnh
tranh giữa các ứng viên. Thực hiện thi tuyển chức danh cấp sở, cấp phòng sau khi Bộ
Chính trị thống nhất ban hành chủ trương; cần chuẩn bị kế hoạch thực hiện quy trình giới
thiệu nhân sự theo hướng những người được dự kiến đề bạt, bổ nhiệm cán bộ phải trình
bày đề án hoặc chương trình hành động trước khi cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Nâng cao đạo đức công vụ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật công tác; thực hiện
khoán quỹ lương và cải cách chế độ tiền lương đảm bảo cán bộ, công chức đủ sống
bằng lương và từng bước có tích lũy.
4.2.4.2. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cấp chính quyền trong phát
triển nhân lực khoa học - công nghệ
Chính quyền là cơ quan có chức năng, nhiệm vụ cụ thể hóa, thể chế hóa các chủ
trương, nghị quyết của tỉnh, thành ủy thành các chương trình, kế hoạch, chính sách,
quyết định của chính quyền; thực hiện chức năng quản lý nhà nước để huy động, sử
dụng, quản lý các nguồn lực; tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra các lực lượng thực hiện các
126
chương trình, kế hoạch, đề án, chính sách phát triển nhân lực KH-CN và chấp hành
chính sách, pháp luật của nhà nước về lĩnh vực KH&CN. Bởi vậy, muốn đẩy mạnh phát
triển nhân lực KH-CN, phải phát huy vai trò, trách nhiệm của các cấp chính quyền.
Thứ nhất, chính quyền cần kịp thời cụ thể hóa chủ trương, nghị quyết của tỉnh,
thành ủy về phát triển nhân lực KH-CN, phát triển KH&CN bằng các chương trình,
kế hoạch, đề án phát triển nhân lực KH-CN và phải tổ chức, chỉ đạo thực hiện một
cách quyết liệt hơn, sáng tạo bảo đảm hoàn thành các mục tiêu đề ra.
Tập trung xây dựng chiến lược phát triển KH&CN và quy hoạch phát triển nhân
lực KH-CN một cách khoa học, khả thi. Cần phải đặt chiến lược phát triển KH&CN,
nhân lực KH-CN trong tổng thể quy hoạch phát triển KT-XH, quy hoạch ngành, lĩnh
vực đảm bảo sự đồng bộ, làm cơ sở cho công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng, phân bố, xây dựng các cơ chế, chính sách phát triển nhân lực KH-CN.
Thứ hai, tăng cường đầu tư nguồn lực cho phát triển KH&CN và phát triển
nhân lực KH-CN.
Chính quyền cần tập trung ưu tiên đầu tư ngân sách cho phát triển KH&CN
và nhân lực KH-CN:
Về cơ bản, ngân sách nhà nước vẫn là nguồn lực chủ yếu để phát triển KH&CN
và phát triển nhân lực KH-CN. Do đó trên cơ sở nghị quyết của tỉnh, thành ủy, chính
quyền cân đối ngân sách và tăng đầu tư cho KH&CN phải đạt mức 2% tổng chi ngân
sách hàng năm của địa phương. Song song với đó, UBND các tỉnh, thành phố trong
vùng cần lập các quỹ để hỗ trợ cho phát triển KH&CN, phát triển nhân lực KH-CN.
Mặt khác, chính quyền phải đa dạng hóa việc huy động các nguồn lực bằng
nhiều phương thức khác nhau: kêu gọi sự hỗ trợ ngân sách của Trung ương, phối
hợp với các bộ, ngành Trung ương để tranh thủ các nguồn đầu tư. Huy động nguồn
vốn của các doanh nghiệp. Mở rộng huy động các nguồn vốn của dân (kể cả các tổ
chức cộng đồng, tổ chức xã hội không phải của nhà nước) thông qua việc tổ chức
Quỹ khuyến học, khuyến tài. Đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư của nước ngoài
(gồm vốn đầu tư trực tiếp, vốn viện trợ chính thức và tài trợ của các tổ chức, cá nhân
người nước ngoài, vốn của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài gửi về). Chính
quyền tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ thủ tục pháp lý cho các cơ sở đào tạo, các tổ
chức KH&CN để thu hút các nguồn vốn đầu tư: nguồn vốn Nhà nước, vay hoặc
nhận viện trợ, hợp tác với nước ngoài, vốn từ các doanh nghiệp… để đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất, đổi mới phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật.
127
Đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật:
Chính quyền các tỉnh, thành phố trong vùng cần đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất, phương tiện trang thiết bị đồng bộ, hiện đại và hệ thống thông tin, thư viện
phong phú đa dạng cho các tổ chức KH&CN, Sở Khoa học và Công nghệ, Khu
công nghệ cao.v.v.. Xúc tiến triển khai và sớm đưa vào hoạt động Khu công nghệ
thông tin tập trung, các trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ như Trung
tâm công nghệ sinh học, Trung tâm tiết kiệm năng lượng và chuyển giao KH&CN,
Viện ứng dụng công nghệ bức xạ, Trung tâm chẩn đoán bệnh sớm, Trung tâm nông
nghiệp công nghệ cao như kế hoạch đã đề ra.
Đầu tư thích đáng để mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất, kĩ thuật cho các cơ sở
đào tạo trong vùng đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học.
Chính quyền các địa phương có chính sách ưu tiên bố trí đất để xây dựng các cơ sở
đào tạo ở những vị trí thuận lợi. Có chính sách ưu đãi về đất đai (miễn giảm tiền
thuế đất, tiền sử dụng đất, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng các công trình kết
cấu hạ tầng phía ngoài, thực hiện chủ trương giao đất sạch…) đối với các cơ sở giáo
dục, đào tạo ngoài công lập phù hợp với chủ trương, chính sách xã hội hóa các lĩnh
vực này. Tạo điều kiện về địa điểm và hỗ trợ về thủ tục để các trường đại học, viện
nghiên cứu có uy tín ở nước ngoài thành lập các cơ sở đào tạo, Viện NC&PT trên
địa bàn các tỉnh, thành phố.
Khuyến khích và hướng dẫn các tổ chức, cá nhân, tập thể cán bộ KH&CN có
đủ điều kiện đứng ra thành lập các tổ chức KH&CN tư nhân trong một số lĩnh vực
theo pháp luật quy định; các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các công
ty thành lập tổ chức KH&CN trực thuộc để đầu tư cho nghiên cứu và triển khai
nhằm đổi mới công nghệ phục vụ cho sự phát triển của doanh nghiệp, công ty.
Cùng với đó, các tỉnh, thành phố trong vùng cần tạo lập cơ chế, chính sách để
thiết lập sự liên kết giữa các cơ quan nghiên cứu và triển khai, cơ sở đào tạo với các
cơ sở sản xuất trên địa bàn nhằm khai thác nguồn lực cơ sở vật chất quan trọng từ
những cơ sở này cho công tác đào tạo nhân lực KH-CN.
Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, hạ tầng về KH&CN,
phát triển KT - XH vùng nông thôn
Một trong những nguyên nhân dẫn đến bất cập trong phân bố nhân lực KH-
CN là do điều kiện ở vùng nông thôn chưa phát triển, không thu hút nhân lực KH-
CN về vùng này. Vì thế, để thu hút nhân lực KH-CN về vùng nông thôn, các tỉnh,
128
thành phố phải có nhiều chính sách, nhưng trước hết chính quyền phải tập trung đầu
tư phát triển về cơ sở hạ tầng giao thông, phát triển KT-XH, tiềm lực về KH&CN
cho vùng nông thôn.
Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách tạo lập môi trường, điều kiện
thuận lợi cho phát triển nhân lực KH-CN, phát triển KH&CN.
Đổi mới chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH-CN:
Đổi mới chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH-CN theo hướng chính
sách đào tạo, bồi dưỡng phải đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, đào
tạo theo quy hoạch, kế hoạch, gắn với nhu cầu thực tiễn, đào tạo với sử dụng.
Đổi mới chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp với thực tế theo từng
giai đoạn. Chính quyền cần nghiên cứu cải tiến các chính sách: Thực hiện chi trả đầy
đủ tiền lương và các khoản phụ cấp chức vụ (nếu có), phụ cấp nghề nghiệp đối với
nhân lực KH-CN trong thời gian được cử đi đào tạo, bồi dưỡng trong nước và nước
ngoài. Tiếp tục nâng định mức các khoản hỗ trợ như: hỗ trợ hàng tháng, tăng mức hỗ
trợ chi phí đi lại vào năm thứ 3 đối với những người đi học nghiên cứu sinh ở trong
nước. Đối với nhân lực KH-CN được cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài cần nâng
mức hỗ trợ kinh phí học ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu của cơ sở đạo tạo; chi trả học
phí và các khoản chi phí đào tạo theo quy định của các cơ sở đào tạo ở nước ngoài; hỗ
trợ chi phí ăn, ở, chi phí đi lại, chi phí bảo hiểm y tế trong thời gian đào tạo, chi phí
làm thủ tục xuất, nhập cảnh. Có chính sách hỗ trợ kinh phí cho nhân lực KH-CN trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu luận văn, luận án như: tham dự các hội thảo
khoa học; thực hiện các hoạt động thử nghiệm, thực nghiệm; khảo sát thực tế; chi phí
tài liệu, thiết bị, công cụ cần thiết phục vụ trực tiếp nhu cầu học tập và nghiên cứu.
Tiếp tục nâng mức hỗ trợ tốt nghiệp thạc sĩ, tiến sĩ.
Đổi mới chính sách sử dụng, đãi ngộ nhân lực KH-CN:
Đổi mới chính sách sử dụng, đãi ngộ nhân lực KH-CN theo hướng chính sách
sử dụng, đãi ngộ nhân lực KH-CN phải dựa vào năng lực thực và kết quả, hiệu quả
công việc. Khắc phục tình trạng quá coi trọng và đề cao bằng cấp một cách hình
thức trong đánh giá, sử dụng và đãi ngộ nhân lực. Theo đó, đổi mới chính sách sử
dụng nhân lực KH-CN cần tập trung vào những vấn đề sau:
UBND các tỉnh, thành phố cần tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho thủ
trưởng các tổ chức KH&CN, đơn vị sự nghiệp công lập (đã thực hiện cơ chế tự chủ,
129
tự chịu trách nhiệm) trong quản lý, sử dụng nhân lực trên các vấn đề: quyền được
tuyển dụng, đào tạo, bố trí sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, thôi việc, xếp lương, đãi
ngộ đối với nhân lực KH-CN trong đơn vị mình; được quyền trực tiếp mời chuyên
gia, nhà khoa học nước ngoài đến làm việc, trao đổi khoa học, thực hiện các nhiệm
vụ KH&CN của đơn vị. Thủ trưởng tổ chức KH&CN, đơn vị sự nghiệp công lập
được quyền ký quyết định cử cán bộ, viên chức thuộc quyền quản lý đi công tác
chuyên môn, học tập nâng cao trình độ. Quyền được sắp xếp, điều chỉnh tổ chức, bộ
máy của các đơn vị thuộc phạm vi quản lý; thành lập, sáp nhập, giải thể và quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, quy chế hoạt động của các bộ phận, các tổ chức trực
thuộc trên cơ sở tự cân đối nguồn lực để bảo đảm hoạt động của đơn vị. UBND tỉnh,
thành phố cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền và trách nhiệm của
người đứng đầu trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền được giao.
Thực hiện chế độ hợp đồng có thời hạn đối với nhân lực KH-CN được tuyển
dụng theo đúng quy định của Luật Viên chức.
Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ trong các tổ chức KH&CN và cơ quan quản lý
nhà nước về KH&CN theo hướng trọng dụng nhân tài, người tài phải được đề bạt, bổ
nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý không phân biệt giới tính, thâm niên công tác, đảng
viên hay chưa đảng viên, người địa phương hay từ nơi khác đến, tạo sự công bằng, khách
quan trong việc tuyển chọn cán bộ. Thực hiện chế độ kiêm nhiệm, kiêm chức đối với nhân
lực KH-CN ở một số vị trí trong các cơ quan NC&PT với các cơ sở giáo dục - đào tạo.
Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân lực KH-CN theo tài năng, trí tuệ
và cống hiến của nhân lực KH-CN bao gồm tiền lương, thưởng, phục lợi (bảo hiểm,
chăm sóc sức khỏe) và hỗ trợ đối với hoạt động chuyên môn của nhân lực KH-CN
như: hỗ trợ kinh phí sử dụng phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và phòng thí
nghiệm trọng điểm khác để triển khai nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà
nước; hỗ trợ kinh phí để công bố kết quả nghiên cứu trên tạp chí khoa học quốc tế,
đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế và giống cây trồng, xuất bản
công trình có giá trị cao về khoa học và thực tiễn; hỗ trợ kinh phí tham dự hội thảo
khoa học chuyên ngành ở trong nước và ngoài nước.v.v..
UBND các tỉnh, thành phố cần tiếp tục hoàn thiện quy định về các tiêu chí đánh
giá thành tích hoạt động KH&CN để xét khen thưởng, bảo đảm công bằng, khách
quan, công khai, minh bạch. Đồng thời, tổ chức thực hiện nghiêm túc chính sách khen
130
thưởng trong hoạt động KH&CN đảm bảo sự chính xác, công khai, dân chủ, công
bằng, kịp thời nhằm động viên, khích lệ, tôn vinh nhân lực KH-CN. Ban hành quy định
cụ thể về quyền hạn, điều kiện làm việc đối với nhân lực KH-CN đầu ngành, các
chuyên gia, các nhà khoa học có chức danh khoa học giáo sư, phó giáo sư để phát huy
năng lực và trách nhiệm của những đối tượng trên trong hoạt động KH&CN.
Đổi mới đồng bộ cơ chế, chính sách quản lý hoạt động KH&CN:
Chính quyền các tỉnh, thành phố trong vùng cần đổi mới cơ chế phân bổ ngân
sách nhà nước cho hoạt động KH&CN theo hướng căn cứ vào kết quả, hiệu quả sử
dụng kinh phí KH&CN của các địa phương, cơ quan, đơn vị, khắc phục tình trạng
đầu tư dàn trải, kém hiệu quả.
Đổi mới công tác quản lý nghiên cứu khoa học theo hướng đẩy mạnh thực hiện
cơ chế đặt hàng, đấu thầu thực hiện nhiệm vụ KH&CN và cơ chế khoán kinh phí đến
sản phẩm KH&CN cuối cùng theo kết quả đầu ra; giao quyền tự chủ cho các tổ chức
KH&CN trong xây dựng và thực hiện kế hoạch nhiệm vụ KH&CN, xóa bỏ cơ chế xin -
cho và bao cấp trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Áp dụng rộng rãi phương thức
tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ KH&CN theo cơ chế cạnh tranh, công
khai, dân chủ và mở rộng đối tượng tham gia. Đối với một số nhiệm vụ giao trực tiếp
cho tổ chức, cá nhân thực hiện cần được thực hiện công khai dựa trên các tiêu chí lựa
chọn rõ ràng. Đổi mới căn bản công tác đánh giá hoạt động KH&CN dựa trên những
tiêu chuẩn rõ ràng, cụ thể, phù hợp với từng loại hình nghiên cứu: đối với nghiên cứu
cơ bản phải đánh giá bằng chất lượng khoa học phù hợp với chuẩn mực quốc tế; đối
với nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ phải lấy hiệu quả KT-XH của việc
ứng dụng trong thực tiễn làm tiêu chuẩn chủ yếu. Đổi mới công tác thẩm định kết quả
đề tài nghiên cứu chủ yếu căn cứ vào chất lượng và khả năng sau khi nghiệm thu được
chuyển giao, ứng dụng trong thực tiễn. Thực hiện cơ chế liên kết giữa cơ quan quản lý,
tổ chức KH&CN và doanh nghiệp trong xác định nhiệm vụ, triển khai thực hiện, đánh
giá và đưa kết quả nghiên cứu vào ứng dụng trong sản xuất và đời sống.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa trình tự và thủ tục phê duyệt, thẩm
định đề tài nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho nhân lực KH-CN trong nghiên cứu
khoa học. Áp dụng cơ chế khoán trong nghiên cứu khoa học, tạo điều kiện cho chủ
nhiệm đề tài, dự án được quyền chủ động sử dụng kinh phí. Đổi mới chính sách về
thuế, tín dụng trong hoạt động KH&CN để khuyến khích mạnh mẽ các hoạt động
nghiên cứu và triển khai, sáng tạo công nghệ của các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp.
131
Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý và tổ chức thúc đẩy phát triển thị trường
KH&CN bảo đảm gắn kết giữa KH&CN với KT-XH, giữa KH&CN với doanh
nghiệp; giữa KH&CN với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững bao gồm: hoàn
thiện các quy định pháp lý về mua, bán, góp vốn tạo ra sản phẩm KH&CN; xây dựng,
bổ sung hoàn thiện các chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm về sở hữu trí tuệ;
đẩy mạnh phát triển mạng lưới các tổ chức dịch vụ kỹ thuật KH&CN, môi giới,
chuyển giao, tư vấn, đánh giá và định giá công nghệ; đầu tư xây dựng các sàn giao
dịch công nghệ liên thông với các trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ.
Thứ tư, đổi mới hệ thống tổ chức và cơ chế hoạt động của các tổ chức khoa
học và công nghệ.
Đổi mới hệ thống tổ chức KH&CN, cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Trên cơ sở quy hoạch phát triển KT-XH của địa phương, chiến lược phát triển
KH&CN, quy hoạch ngành, lĩnh vực, UBND các tỉnh, thành phố cần tiến hành quy
hoạch, sắp xếp lại hệ thống tổ chức KH&CN bảo đảm hoạt động có hiệu quả, phù hợp
với mục tiêu, định hướng phát triển KH&CN, ngành, lĩnh vực, vùng miền.
Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi tổ chức và hoạt động của các tổ chức
KH&CN công lập sang loại hình tổ chức KH&CN tự trang trải kinh phí hoặc doanh
nghiệp KH&CN.
Từng bước hình thành và phát triển viện hoặc trung tâm nghiên cứu vùng để
phát huy tiềm năng lợi thế của vùng DHMT. Xây dựng các trung tâm nghiên cứu
hiện đại gắn với các phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng thí nghiệm chuyên ngành
làm hạt nhân cho việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng KH&CN ở các lĩnh vực
ưu tiên. Phát triển, nâng cao năng lực hệ thống tổ chức dịch vụ KH&CN, đáp ứng
yêu cầu phát triển thị trường KH&CN.
Đổi mới cơ chế hoạt động của tổ chức KH&CN, thực hiện theo hướng sau:
Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức KH&CN
công lập theo quy định của Chính phủ.
Chuyển dần các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang
hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp và tổ chức KH&CN tự trang trải kinh phí theo
quy định của pháp luật.
Thứ năm, đổi mới chính sách thu hút nhân lực KH-CN
Chính quyền các tỉnh, thành phố cần đẩy mạnh việc giới thiệu rộng rãi chính
sách thu hút bằng nhiều phương thức như: thông qua các phương tiện thông tin đại
132
chúng; thông qua thông báo của Sở Nội vụ; lãnh đạo địa phương thông báo qua các
cuộc gặp gỡ, tiếp xúc; thông qua các hội nghị, hội thảo; gửi thông báo đến các trường
đại học lớn trong nước; tiếp cận trực tiếp đến đối tượng tiềm năng và những đối
tượng có nhu cầu về làm việc cho địa phương.
Thay đổi phương thức thu hút nhân lực từ chờ đợi đối tượng tự đến với địa
phương sang sử dụng các phương thức khác như: địa phương chủ động tiếp cận và mời
gọi đối tượng thu hút thông qua trực tiếp gặp gỡ, vận động hoặc bằng gửi thư mời; các
địa phương chủ động liên kết với các cơ sở đào tạo có chất lượng để đặt hàng những
sinh viên có kết quả học tập xuất sắc những chuyên ngành mà địa phương đang cần.
Đa dạng hóa hình thức thu hút nhân lực. Tuy theo điều kiện cụ thể của mỗi địa
phương và tùy từng trường hợp cụ thể mà sử dụng bằng các hình thức như: thu hút
về làm việc lâu dài; thu hút theo hình thức hợp đồng tư vấn; làm việc ngắn hạn; hỗ
trợ chuyên môn đối với các ngành, lĩnh vực mà địa phương đang thiếu cán bộ giỏi,
chuyên gia đầu ngành; tư vấn, phản biện; huy động chất xám của chuyên gia qua
việc chuyển giao công nghệ.v.v..
Chính quyền các tỉnh, thành phố cần nghiên cứu cải tiến chính sách ưu đãi đối
với đối tượng thu hút: nâng mức hỗ trợ ban đầu, trợ cấp hàng tháng (nhất là đối với
những địa phương có mức hỗ trợ còn thấp) và các chế độ đãi ngộ (lương, thưởng, phụ
cấp, nhà ở, phúc lợi). Có chế độ ưu đãi đặc biệt cho các chuyên gia, nhà khoa học đầu
ngành, những tài năng xuất sắc (nhà ở, phương tiện, trang thiết bị, phòng làm việc,
phòng thí nghiệm…); có chính sách ưu đãi về thuế thu nhập (hỗ trợ miễn, giảm thuế
thu nhập) đối với những đối tượng thu hút có thu nhập cao. Đối với đối tượng thu hút
là nhà khoa học, chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài, cần tạo điều kiện thuận lợi trong
việc cấp thị thực xuất nhập cảnh cho họ và các thành viên gia đình; những người có
nguyện vọng định cư và làm việc lâu dài tại địa phương cần phải bố trí nhà ở, sắp xếp
việc làm cho vợ (hoặc chồng), ưu tiên cho con của họ được vào học các trường có chất
lượng; giảm thiểu các thủ tục hành chính trong thực hiện chính sách thu hút.
Thực hiện nghiêm chế tài “chia tay” với những người mà năng lực, hiệu quả
công việc không tương xứng với bằng cấp. Để làm được việc này, đòi hỏi UBND các
tỉnh, thành phố nghiên cứu bổ sung các chế tài cụ thể, xây dựng vị trí việc làm và các
tiêu chí đánh giá hiệu quả công việc của đối tượng thu hút. Hàng năm tổ chức đánh
giá nghiêm túc, khách quan, công bằng. Trên cơ sở nhiệm vụ được giao, chất lượng
133
hiệu quả công việc đạt được, nếu đối tượng thu hút không đáp ứng được yêu cầu, các
địa phương cần mạnh dạn loại bỏ những người này ra khỏi bộ máy.
Cần đảm bảo sự đồng bộ giữa chính sách chiêu hiền với chính sách đãi sĩ để
tạo sự công bằng giữa đối tượng thu hút với nhân lực tại chỗ.
4.2.4.3. Phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, thủ trưởng tổ chức khoa
học và công nghệ trong phát triển nhân lực khoa học - công nghệ; đề cao tự học,
nghiên cứu của nhân lực khoa học - công nghệ
Cấp ủy đảng, nhất là thủ trưởng các tổ chức KH&CN là các chủ thể trực tiếp
tiến hành tổ chức các hoạt động để phát triển nhân lực KH-CN tại cơ quan, đơn vị
mình. Vì thế, để công tác phát triển nhân lực KH-CN tại các tỉnh, thành phố vùng
DHMT đạt được kết quả lớn hơn đòi hỏi các tỉnh, thành ủy phải nhận thức đúng và
phát huy vai trò, trách nhiệm của các chủ thể này trong quá trình thực hiện các nghị
quyết, chủ trương, chính sách phát triển nhân lực KH-CN của địa phương.
* Đối với cấp ủy, thủ trưởng tổ chức khoa học và công nghệ
Một là, cấp ủy và thủ trưởng các tổ chức KH&CN quán triệt và thực hiện
nghiêm túc các nghị quyết của tỉnh, thành ủy, chương trình, kế hoạch, đề án của
chính quyền về phát triển nhân lực KH-CN và phát triển KH&CN.
Yêu cầu đặt ra là cấp ủy, thủ trưởng các tổ chức KH&CN phải căn cứ vào tình
hình thực tiễn, chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển của đơn vị, thực trạng nhân
lực KH-CN của đơn vị để cụ thể hóa nghị quyết thành chương trình, kế hoạch cho
phù hợp và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư nguồn lực để thực hiện.
Hai là, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức của đơn vị có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ cao, có kiến thức, kỹ năng, tâm huyết với nghề nghiệp.
Để làm được việc này, trước hết phải bắt đầu từ việc xây dựng vị trí việc làm,
mô tả công việc của từng đơn vị, cá nhân, bố trí sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ, viên
chức. Trên cơ sở nhu cầu về nhân lực, thủ trưởng các tổ chức KH&CN xây dựng kế
hoạch tuyển dụng tuyển chọn những người thực sự có trình độ, năng lực, có đủ trình
độ về ngoại ngữ để đào tạo ở bậc cao hơn và phục vụ cho công tác chuyên môn.
Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH-CN bằng nhiều hình thức.
Ba là, tạo điều kiện, môi trường làm việc thuận lợi và có chế độ đãi ngộ thỏa
đáng đối với nhân lực KH-CN.
Thủ trưởng tổ chức KH&CN phải phân công, bố trí sử dụng nhân lực KH-CN
đúng với ngành nghề được đào tạo, phù hợp với năng lực, sở trường bảo đảm đúng
134
người, đúng việc; tạo điều kiện để mỗi người có thể phát huy hết năng lực cá nhân trong
hiện tại và khơi dậy những tiềm năng của họ trong tương lai. Xây dựng cơ quan, đơn vị,
đoàn kết, đồng thuận tạo sự gắn kết giữa các thành viên để có thể hợp tác trong hoạt
động KH&CN. Cần xây dựng các nhóm nghiên cứu chuyên sâu theo từng lĩnh vực để
hình thành các tập thể khoa học mạnh. Xây dựng các quy định cụ thể trong hoạt động
chuyên môn để tạo môi trường dân chủ, khoa học, minh bạch thúc đẩy sự phát triển sáng
tạo. Thủ trưởng các tổ chức KH&CN cần phải thực hiện dân chủ trong quản lý và điều
hành hoạt động; trong quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chế độ, chính sách
đối với cán bộ, viên chức theo đúng quy định của pháp luật. Tạo điều kiện để nhân lực
KH-CN được tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, kiến thức, kỹ năng. Đối mới cách thức quản lý, không sử dụng quản lý hành
chính để quản lý nhân lực, bởi đặc điểm của lao động khoa học là độc lập và sáng tạo, họ
cần có không gian, thời gian phù hợp để nghiên cứu sáng tạo. Do đó, đối với đối tượng
này cần quản lý hiệu quả công việc là chính, được đánh giá bằng các sản phẩm KH&CN
đạt được. Tạo cơ hội thăng tiến cho tất cả mọi người trong đơn vị bằng chính phẩm chất,
năng lực và kết quả cống hiến không phân biệt tuổi tác, giới tính. Ngoài chính sách của
nhà nước, của địa phương, tổ chức KH&CN cần có chính sách hỗ trợ thỏa đáng đối với
nhân lực KH-CN khi tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng, xuất bản sách, đăng bài báo
quốc tế, dịch thuật sang tiếng nước ngoài, tham gia các hội thảo quốc tế.v.v… nhằm
khuyến khích, động viên nhân lực KH-CN.
Bốn là, mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức KH&CN và doanh nghiệp trong
và ngoài vùng.
Việc làm này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
KH&CN, tạo môi trường, cơ hội cho nhân lực KH-CN rèn luyện, trau dồi về chuyên
môn, kỹ năng, học tập kinh nghiệm và được thể hiện năng lực chuyên môn của mình.
Các doanh nghiệp vừa là bạn đồng hành trong đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH-CN,
vừa là bạn hàng, đối tác tiêu thụ các sản phẩm công nghệ của các tổ chức NC&PT. Để
mở rộng quan hệ hợp tác, các tổ chức KH&CN cần chủ động tìm kiếm và thiết lập
quan hệ hợp tác với các đối tác, cần lựa chọn những tổ chức KH&CN có tiềm lực
KH&CN mạnh, có nhiều uy tín. Tiến hành khảo sát nhu cầu của doanh nghiệp về đổi
mới công nghệ, dự báo xu hướng phát triển của KH&CN để có chiến lược phát triển
135
đúng. Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng
đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường.
Năm là, chủ động, tích cực sắp xếp chuyển đổi tổ chức KH&CN công lập sang
hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm nhằm tăng cường trách nhiệm, nâng
cao hiệu quả hoạt động của tổ chức KH&CN.
Căn cứ vào điều kiện thực tế của đơn vị, Thủ trưởng tổ chức KH&CN cần chủ
động xây dựng lộ trình thực hiện tự chủ theo quy định của Chính phủ.
* Đối với nhân lực khoa học - công nghệ
Trước hết cần đổi mới mạnh mẽ tư duy, nhìn thẳng vào sự thật về những hạn chế,
yếu kém của bản thân và của KH&CN nước nhà nói chung và các tỉnh, thành phố nói
riêng, từ đó mỗi người đều phải có trách nhiệm và lòng tự trọng, phấn đấu học tập, rèn
luyện, nghiên cứu sáng tạo để đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của KH&CN.
Tích cực, tận dụng mọi cơ hội để học tập nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, kiến thức theo phương châm học tập thường xuyên, học ở mọi nơi, mọi
lúc, học tập suốt đời.
Xây dựng cho mình một hướng nghiên cứu chuyên sâu. Để có thể khẳng định được
vị thế và uy tín trong giới khoa học, nhà khoa học phải chuyên sâu về một lĩnh vực thuộc
chuyên môn của mình. Muốn vậy mỗi người phải theo đuổi một hướng nghiên cứu riêng
thuộc thế mạnh của mình, tập trung công sức, trí tuệ cho hướng nghiên cứu đó.
Tăng cường nghiên cứu thực tế, bám sát thực tiễn, nắm bắt nhu cầu của xã
hội, của doanh nghiệp để nghiên cứu, sáng tạo ra các sản phẩm KH&CN có giá trị
ứng dụng vào thực tiễn.
Tích cực hội nhập quốc tế. Để có thể hội nhập quốc tế, nhân lực KH-CN phải
tăng cường khả năng sử dụng ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh, bởi đây là công cụ,
phương tiện đầu tiên nếu thiếu nó thì không thể hội nhập. Nâng cao chất lượng nghiên
cứu khoa học theo tiêu chuẩn quốc tế, nếu không sẽ trở nên lạc lõng và mãi tụt hậu với
thế giới. Nhân lực KH-CN cần chủ động tìm kiếm cơ hội hợp tác trong và ngoài nước,
xây dựng mạng lưới hợp tác nghiên cứu với các nhà khoa học trong nước và quốc tế.
4.2.5. Lãnh đạo đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực khoa
học - công nghệ
Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH-CN là một giải pháp rất quan trọng để phát triển
số lượng và nâng cao chất lượng nhân lực. Nhất là trước thực trạng nhân lực KH-CN của
vùng vừa thiếu về số lượng, vừa chưa đáp ứng yêu cầu về chất lượng, thiếu nhân lực
136
KH-CN trình độ cao, các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành. Để khắc phục những hạn
chế, bất cập đó, các tỉnh, thành ủy cần tập trung lãnh đạo các cơ sở đào tạo và chính
quyền, các tổ chức KH&CN đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH-CN theo định
hướng kết hợp phát triển về quy mô gắn với nâng cao chất lượng đào tạo theo hướng đa
dang hóa các hình thức, cấp độ đào tạo; kết hợp giữa đào tạo theo diện rộng với đào tạo
nhân lực KH-CN trình độ cao, những lĩnh vực công nghệ cao mà vùng đang có nhu cầu.
4.2.5.1. Đối với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở vùng duyên hải miền Trung
Một là, mở rộng quy mô đào tạo nhân lực khoa học - công nghệ
Cần rà soát, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề; sắp xếp lại ngành nghề đào tạo và mở những ngành mới có
nhu cầu cao gắn với quy hoạch phát triển KT-XH, Chiến lược phát triển KH&CN và
cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. Trên cơ sở đó cần có sự phân công giữa các cơ
sở đào tạo đại học, cao đẳng, dạy nghề của vùng để công tác đào tạo, dạy nghề có hiệu
quả hơn. Theo đó: tỉnh Thừa Thiên Huế tiếp tục phát triển trở thành một trong những
trung tâm đào tạo chất lượng cao của khu vực miền Trung-Tây Nguyên và cả nước, xây
dựng Đại học Huế ngang tầm đại học quốc gia, ưu tiên các chuyên ngành đào tạo thuộc
các lĩnh vực khoa học cơ bản, y-dược, xã hội và nhân văn, nông nghiệp … Thành phố
Đà Nẵng, tiếp tục phát triển trở thành một trong những trung tâm đào tạo chất lượng cao
của khu vực miền Trung-Tây Nguyên và cả nước, xây dựng Đại học Đà Nẵng ngang tầm
đại học quốc gia, ưu tiên các chuyên ngành đào tạo thuộc các lĩnh vực công nghệ - kĩ
thuật, nhất là công nghệ cao, kinh tế, ngoại ngữ, kiến trúc, kết hợp với dạy nghề chất
lượng cao đối với các lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao. Tỉnh Quảng Nam, tập trung
dạy nghề chất lượng cao gắn với các ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh như công
nghiệp cơ khí chế tạo, lắp ráp ô tô, điện, điện tử, hóa chất. Tỉnh Quảng Ngãi, phát triển
trường Đại học Tài chính - Kế toán kết hợp với tập trung dạy nghề chất lượng cao gắn
với các ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh như công nghiệp lọc dầu và hóa dầu, công
nghiệp tàu thủy, điện tử…Tỉnh Bình Định, phát triển trường Đại học Quy Nhơn ngang
tầm đại học trọng điểm vùng, kết hợp với tập trung dạy nghề gắn với các ngành kinh tế
chủ lực của tỉnh như kinh tế biển, điện, điện tử,…Tỉnh Phú Yên, phát triển trường Đại
học Xây dựng miền Trung, kết hợp với với tập trung dạy nghề chất lượng cao gắn với
các ngành kinh tế chủ lực của tỉnh như kinh tế biển, thủy sản, công nghiệp lọc dầu và hóa
dầu, công nghệ cao trong nông nghiệp... Tỉnh Khánh Hòa, phát triển trường Đại học Nha
137
Trang ngang tầm đại học trọng điểm vùng, ưu tiên các chuyên ngành đào tạo thuộc các
ngành kinh tế biển như: khai thác vật liệu hóa phẩm trong nước biển, công nghệ hóa lý
trong khai thác nước ngọt từ biển, công nghệ khai thác năng lượng biển (sóng biển, thủy
triều, thủy nhiệt), thủy sản, cơ khí tàu biển, hàng hải… kết hợp với dạy nghề chất lượng
cao đối với các ngành kinh tế chủ lực của tỉnh như công nghiệp dệt may…
Triển khai nhanh các dự án đại học quốc tế trên địa bàn nhằm đào tạo nhân
lực trình độ cao giảng dạy ở các cơ sở đào tạo, làm việc tại các viện nghiên cứu và
tham gia vào các dự án quốc tế có quy mô lớn trong vùng.
Hai là, tăng cường hoạt động liên kết đào tạo nhân lực KH-CN giữa các cơ sở đào
tạo trong và ngoài vùng, giữa các cơ sở đào tạo trong vùng với các đơn vị sử dụng nhân
lực KH-CN, liên kết hợp tác quốc tế nhằm nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo.
Để đáp ứng nhân lực KH-CN chất lượng cao phục vụ phát triển KT-XH của
vùng, bản thân mỗi cơ sở đào tạo của một địa phương không đủ khả năng làm được mà
cần có sự liên kết, phối hợp dựa trên thế mạnh của mỗi cơ sở. Nếu không có sự phối
hợp này, sự chồng chéo về các ngành nghề đào tạo ở các trường sẽ diễn ra, dẫn đến kết
quả số lượng đào tạo nhiều nhưng chất lượng đào tạo không cao. Vì vậy, các cơ sở đào
tạo cần có nhiều hình thức liên kết phù hợp để mang lại hiệu quả cao.
Liên kết đa dạng hóa ngành nghề đào tạo và liên thông cấp đào tạo:
Tập trung phát triển các ngành nghề và đào tạo đa cấp, liên thông đối với các ngành
mà vùng đang có nhu cầu cao. Đồng thời, phát triển các chương trình đào tạo tiên tiến trên
cơ sở các chuyên ngành mũi nhọn thuộc thế mạnh đặc trưng của từng cơ sở đào tạo.
Liên kết giữa các trường đại học, cao đẳng với các trường đại học trọng điểm
vùng (Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng) về những nội dung: Trao đổi kinh nghiệm đào tạo,
quản lý giữa các trường thông qua các hội nghị, hội thảo, qua các cuộc trao đổi giữa lãnh
đạo các trường; trao đổi giảng viên có nhiều uy tín, kinh nghiệm về chuyên môn giữa các
trường thông qua mời thỉnh giảng, hướng dẫn luận văn, luận án và tham gia Hội đồng
đánh giá luận văn, luận án tiến sĩ; liên kết trong biên soạn giáo trình, xây dựng chương
trình khung đào tạo đại học, cao học và nghiên cứu sinh; liên kết, hợp tác đào tạo nâng
cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên của các trường; trao đổi,
cung cấp thông tin về năng lực đào tạo của các trường để tìm kiếm cơ hội hợp tác.
Liên kết giữa các cơ sở đào tạo và các đơn vị sử dụng nhân lực KH-CN:
Thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo trong vùng với các tổ
chức KH&CN, các doanh nghiệp để đào tạo nhân lực sát với nhu cầu của các đơn vị
138
sử dụng. Các đơn vị sử dụng nhân lực KH-CN đóng vai trò là người cung cấp thông
tin cho các cơ sở đào tạo để biết được nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của nhân lực và
đơn vị sử dụng. Định hướng liên kết giữa các cơ sở đào tạo với các tổ chức
KH&CN, doanh nghiệp trong vùng thời gian tới như sau:
Mở rộng các loại hình liên kết giữa cơ sở đào tạo với các đơn vị sử dụng nhân
lực thông qua những cam kết, hợp đồng cụ thể. Các đơn vị sử dụng nhân lực nêu rõ
nhu cầu về số lượng, chất lượng, cơ cấu, chuyên ngành, trình độ, các kỹ năng cần
thiết cả ngắn hạn và dài hạn. Đồng thời, cam kết nguồn tài chính cung cấp cho đào
tạo, bồi dưỡng và đơn vị sử dụng nhân lực tham gia vào công tác quản lý đào tạo,
bồi dưỡng nhân lực.
Đẩy mạnh việc các đơn vị sử dụng nhân lực tham gia trực tiếp đào tạo nhân
lực thông qua các chương trình huấn luyện kỹ năng, báo cáo kinh nghiệm thực tế.
Tạo cơ chế để các các đơn vị sử dụng nhân lực tham gia nhiều hơn vào quá
trình đào tạo. Chẳng hạn như cơ chế các đơn vị sử dụng nhân lực KH-CN tiếp nhận
sinh viên đến thực tập và làm việc ngay từ những năm đầu, tham gia hoạt động thực
tiễn một cách phù hợp theo tiến độ học tập giúp sinh viên có điều kiện cọ xát thực
tiễn, học đi đôi với hành; hay như cơ chế cấp học bổng cho sinh viên thì phải qua
đánh giá của chính các đơn vị sử dụng nhân lực và cùng với nhà trường, sinh viên
được cấp học bổng sau này sẽ được các đơn vị sử dụng nhân lực tuyển dụng.
Các đơn vị sử dụng nhân lực KH-CN phối hợp với các cơ sở đào tạo tài trợ
cho hoạt động nghiên cứu ứng dụng và triển khai thí điểm tại các đơn vị sử dụng
nhân lực để từ đó rút ra kinh nghiệm và nhân rộng.
Liên kết, hợp tác quốc tế trong đào tạo nhân lực KH-CN của vùng dưới nhiều
hình thức: Liên kết đào tạo với các trường có uy tín trên thế giới; mời chuyên gia nước
ngoài tham gia giảng dạy; chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức thông qua các chương trình
Hội thảo khoa học quốc tế tổ chức tại các tỉnh, thành phố trong vùng; hợp tác với các
viện, trường, trung tâm nghiên cứu của các nước trong khu vực và quốc tế để nghiên
cứu, nâng cao chất lượng đào tạo, ứng dụng, chuyển giao công nghệ.v.v...
Ba là, đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức đào tạo, bồi
dưỡng nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực KH-CN
Đổi mới mạnh mẽ nội dung giáo dục đại học và sau đại học theo hướng hiện
đại, phù hợp với từng ngành, nhóm ngành đào tạo. Chú trọng phát triển năng lực
139
sáng tạo, kỹ năng thực hành, đạo đức nghề nghiệp, hiểu biết xã hội và khả năng
thích nghi với những yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, từng
bước tiếp cận trình độ KH&CN tiên tiến của thế giới.
Từng bước nâng tầm các chương trình đào tạo ngang với các tiêu chuẩn quốc
tế. Trước hết, các trường đại học trong vùng thực hiện chương trình liên thông với
các trường đại học ở nước ngoài để đào tạo bậc đại học; chương trình đào tạo thạc sĩ
liên kết với các nước phát triển; chương trình đào tạo tiến sĩ theo mô hình đồng
hướng dẫn giữa các nhà khoa học của các trường đại học trong vùng với các nhà
khoa học của các trường đại học, viện nghiên cứu của nước ngoài. Cuối cùng các
trường đại học phải thực hiện chương trình quốc tế.
Xây dựng nhiều chương trình đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi
dưỡng nhân lực KH-CN. Cùng với các chương trình đào tạo dài hạn, các trường cần
có các chương trình ngắn hạn, các khóa, các lớp bồi dưỡng ngắn hạn đáp ứng nhu
cầu bổ sung kiến thức, kỹ năng, cập nhật thông tin cho nhân lực KH-CN.
Đối mới phương pháp đào tạo nhân lực KH-CN, kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo và
nghiên cứu khoa học, giữa trang bị lý thuyết gắn với thực hành. Ngay từ năm đầu tiên
vào đại học, cao đẳng, các trường phải tập cho sinh viên thói quen làm nghiên cứu khoa
học, trang bị phương pháp nghiên cứu khoa học cho sinh viên kết hợp với hướng dẫn của
đội ngũ giảng viên, những nhà nghiên cứu có kinh nghiệm. Nhà trường phải tổ chức các
hoạt động khoa học như tọa đàm, hội nghị, hội thảo có sự tham gia của sinh viên. Giảng
viên, nhà nghiên cứu cùng với sinh viên thực hiện nghiên cứu đề tài, viết bài báo khoa
học. Khắc phục triệt để tình trạng dạy chay, học chay, giảng dạy phải luôn gắn trang bị lý
thuyết với thực hành, thí nghiệm, nghiên cứu thực tế, đưa người học thực tập tại các
doanh nghiệp, các trung tâm nghiên cứu, ứng dụng. Muốn vậy, các trường đại học, cao
đẳng phải có sự liên kết với các cơ sở NC&PT và các doanh nghiệp. Thành lập các trung
tâm nghiên cứu và ứng dụng trong các trường đại học; thực hiện mô hình Bệnh viện
trường đại học y - dược để kết hợp giữa giảng dạy, nghiên cứu, học tập với thực hành ở
những cơ sở có đủ điều kiện.
Đa dạng hóa phương thức đào tạo. Kết hợp đào tạo giữa các bậc học cao đẳng,
cử nhân/kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ với bồi dưỡng bổ sung thông qua các chương trình
ngắn hạn. Đẩy mạnh việc đào tạo theo đơn đặt hàng của đơn vị sử dụng nhân lực.
Thực hiện mô hình đào tạo, bồi dưỡng theo kiểu vườn ươm.
140
Bốn là, đổi mới việc đánh giá kết quả đào tạo bảo đảm trung thực, khách quan.
Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí
tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp
sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học;
đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường với
đánh giá của gia đình và của xã hội. Đánh giá kết quả đào tạo theo hướng chú trọng
năng lực phân tích, sáng tạo, tự cập nhật, đổi mới kiến thức; đạo đức nghề nghiệp;
năng lực nghiên cứu và ứng dụng KH&CN; năng lực thực hành, năng lực tổ chức
và thích nghi với môi trường làm việc.
Năm là, xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ giỏi, yêu nghề.
Các cơ sở đào tạo cần xây dựng kế hoạch tuyển dụng, đào tạo đội ngũ giảng
viên, cán bộ quản lý giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, tận tụy yêu nghề, có năng lực
sự phạm. Trong tuyển dụng giảng viên, ngoài khả năng về chuyên môn, nghiệp vụ
sự phạm, cần phải đáp ứng tiêu chuẩn về ngoại ngữ để đào tạo ở nước ngoài và sử
dụng trong hoạt động chuyên môn sau này. Tăng cường đào tạo giảng viên ở các
nước có nền giáo dục phát triển.
Tạo điều kiện cho các giảng viên được tự chủ trong giảng dạy, tạo nhiều cơ
hội cho họ được tiếp xúc và kết nối với các chuyên gia, nhà nghiên cứu và các cơ sở
giáo dục trong và ngoài nước để trao đổi học thuật, học tập kinh nghiệm nâng cao
năng lực nghiên cứu, giảng dạy.
Có chính sách hỗ trợ tích cực cho đội ngũ giảng viên tham gia các hoạt động
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Cải tiến các chế độ chi trả đối với giảng
viên và cán bộ quản lý như mức thù lao giảng dạy, hướng dẫn khoa học, biên soạn giáo
trình, thù lao tham gia nghiên cứu, nhuận bút viết sách, tạp chí… Có chính sách đãi
ngộ, khen thưởng hợp lý, công bằng, minh bạch, giải quyết hài hòa về lợi ích giữa cán
bộ quản lý và viên chức dựa trên thành tích và khả năng đóng góp của mỗi người.
Sáu là, không ngừng đổi mới, cải tiến cơ sở vật chất để phục vụ công tác đào
tạo và nghiên cứu.
Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất: phòng học, phòng thí nghiệm, thư
viện, các trung tâm nghiên cứu và triển khai, phương tiện, trang thiết bị theo hướng
đồng bộ, hiện đại đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu, thực hành.
141
4.2.5.2. Đối với chính quyền các địa phương
Thứ nhất, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo nhân lực KH-CN theo yêu
cầu về nhân lực cho phát triển KT-XH, KH&CN và để đòn đầu cuộc Cách mạng
Công nghiệp lần thứ tư.
Các tỉnh, thành phố trong vùng cần xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo nhân
lực KH-CN theo Quy hoạch tổng thể của vùng và quy hoạch phát triển KT-XH,
ngành, lĩnh vực của mỗi địa phương, theo định hướng của Chiến lược phát triển
KH&CN. Trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch đào tạo dài hạn, UBND các tỉnh, thành phố
trong vùng chỉ đạo các sở, ban, ngành, quận, huyện, tổ chức KH&CN đăng ký nhu
cầu về số lượng, trình độ cần đào tạo, cơ cấu nhân lực KH-CN để xây dựng kế hoạch
cụ thể hàng năm phù hợp với kế hoạch tài chính bảo đảm tính khả thi.
Thứ hai, xây dựng chương trình, đề án đào tạo, bồi dưỡng giành riêng cho nhân
lực KH-CN của vùng DHMT.
Đây là giải pháp có tính cấp bách hiện nay để cho công tác đào tạo, bồi dưỡng
nhân lực KH-CN được tập trung, mang lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, để thực hiện
được cần phải có sự liên kết, phối hợp của các các tỉnh, thành phố trong vùng. Theo
đó, UBND các tỉnh, thành phố trong vùng phải cùng nhau phối hợp xây dựng
chương trình, đề án đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH-CN bằng các hình thức như:
Đào tạo trình độ tiến sỹ đáp ứng yêu cầu về nhân lực trình độ cao của vùng,
ưu tiên cho các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu và triển khai.
Đào tạo theo nhóm nghiên cứu làm việc trong các tổ chức KH&CN, doanh nghiệp
KH&CN nhằm nâng cao khả năng phối hợp để triển khai hiệu quả nhiệm vụ KH&CN
quan trọng; hình thành các nhóm nghiên cứu đơn ngành hoặc đa ngành, đủ năng lực giải
quyết các nhiệm vụ KH&CN quan trọng, có quy mô lớn của ngành, lĩnh vực của vùng;
Đào tạo chuyên gia trong các lĩnh vực KH&CN ưu tiên như: công nghệ thông
tin và truyền thông; công nghệ sinh học; công nghệ vật liệu mới; công nghệ chế tạo
máy, tự động hóa và công nghệ môi trường thông qua hình thức làm việc có thời
hạn hoặc triển khai nhiệm vụ KH&CN tại các cơ sở nghiên cứu và doanh nghiệp
công nghệ ở trong nước và nước ngoài để hình thành đội ngũ chuyên gia KH&CN
có trình độ chuyên môn sâu, có kỹ năng nghiên cứu và triển khai những vấn đề
KH&CN của ngành, lĩnh vực ở vùng DHMT;
142
Bồi dưỡng sau tiến sĩ thông qua việc cử tiến sĩ tham gia các chương trình, dự án
nghiên cứu sau tiến sĩ ở trong nước và nước ngoài để phát triển và hoàn thiện kỹ năng
nghiên cứu và triển khai;
Bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức, kỹ năng quản lý
KH&CN, quản lý đổi mới và sáng tạo cho đội ngũ cán bộ quản lý KH&CN nhằm đáp
ứng yêu cầu đổi mới KH&CN và quản lý KH&CN.
Thứ ba, triển khai thực hiện các chương trình đào tạo ngắn hạn và các lớp bồi
dưỡng thường xuyên để đào tạo lại nhân lực KH-CN
Các tỉnh, thành phố cần tổ chức khảo sát, đánh giá thực trạng nhân lực KH-CN
trên địa bàn và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của các đơn vị, trên cơ sở đó xây dựng kế
hoạch đào tạo lại nhân lực KH-CN và đặt hàng cho các cơ sở đào tạo.
Nội dung đào tạo lại và bồi dưỡng bổ sung kiến thức, kỹ năng cho nhân lực KH-
CN bao gồm: Kiến thức mới về chuyên môn, nghiệp vụ; nâng cao trình độ ngoại ngữ;
kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin; kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý; về hội
nhập quốc tế; về những lý thuyết khoa học mới và những công nghệ mới; về xu thế
phát triển của KH&CN thế giới trong những năm tới, những kiến thức về Cách mạng
công nghiệp lần thứ 4.
Thứ tư, có chính sách và kế hoạch cụ thể để phát hiện, đào tạo nhân lực KH-CN kế cận.
Các tỉnh, thành phố phải có chính sách và kế hoạch dài hạn từ phát hiện, đào tạo
và sử dụng. Phân công giao nhiệm vụ cho cơ quan chuyên trách phát triển NNL phối
hợp với nhà trường và Sở Giáo dục và đào tạo khảo sát nắm bắt, theo dõi quá trình
rèn luyện và học tập của học sinh phổ thông, trên cơ sở đó phát hiện những tài năng,
những học sinh xuất sắc. Tiếp tục có chính sách đào tạo những học sinh này ở những
trường có chất lượng, nhất là ở các nước phát triển. Sau khi hoàn thành chương trình
đào tạo ở bậc đại học, căn cứ vào kết quả học tập và nguyện vọng của người học, nhu
cầu về nhân lực KH-CN của địa phương để tiếp tục đào tạo ở bậc cao hơn. Có chính
sách sử dụng những đối tượng này phù hợp với chuyên ngành đào tạo theo hợp đồng
đã cam kết giữa chính quyền địa phương với đối tượng được cử đi đào tạo.
Thứ năm, nâng cao chất lượng thống kê, dự báo chính xác về nhu cầu nhân lực KH-CN.
Để có một chiến lược phát triển nhân lực KH-CN đúng đắn, một vấn đề rất
quan trọng là phải dự báo đúng nhu cầu về nhân lực. Công tác dự báo phải dựa trên
143
các số liệu tin cậy, có phương pháp phân tích đánh giá số liệu tốt để từ đó đưa ra
những dự báo chính xác nhằm định hướng cho hoạt động đào tạo nhân lực KH-CN.
Trong dự báo, cần phải chỉ ra nhu cầu nhân lực KH-CN của từng ngành, lĩnh vực cụ
thể, yêu cầu bằng cấp, trình độ tương ứng để từ đó có một kế hoạch đào tạo rõ ràng.
4.2.6. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội các
cấp, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, các thành phần kinh tế tham gia vào
quá trình lãnh đạo phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
4.2.6.1. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
các cấp tham gia vào quá trình lãnh đạo phát triển nhân lực khoa học - công
Ở địa phương, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội là một bộ phận của
HTCT được tổ chức từ cấp tỉnh cho xuống đến cơ sở, có vai trò rất quan trọng trong
việc đoàn kết, tập hợp và tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ; đại diện và bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên,
hội viên. Đồng thời, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội còn tham gia xây dựng
Đảng và xây dựng chính quyền. Chính vì thế, tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh,
thành ủy đối với phát triển nhân lực KH-CN cần phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt
trận và các tổ chức chính trị - xã hội tham gia vào quá trình lãnh đạo thực hiện nhiệm
vụ này ở địa phương. Tập trung trên những vấn đề chủ yếu sau:
Một là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
tham gia xây dựng các nghị quyết, chương trình, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực
KH-CN và phát triển KH&CN.
Do đó, các nghị quyết, quyết định, chương trình, đề án phát triển nhân lực KH-
CN là những vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền lợi và trách nhiệm của nhân lực
KH-CN thì trước khi ban hành phải được thông qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội để tổ chức lấy ý kiến góp ý của nhân lực KH-CN. Các tỉnh, thành
ủy, chính quyền địa phương phải thật sự dân chủ lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt
trận, đoàn thể, của nhân lực KH-CN, những ý kiến đóng góp đúng, hợp lý phải được
tiếp thu đưa vào nghị quyết, chính sách, những ý kiến đóng góp không được tiếp thu
phải có sự giải trình của cơ quan có thẩm quyền.
Hai là, phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
(nhất là các tổ chức chính trị - xã hội trong các tổ chức KH&CN) tuyên truyền, phổ
biến nghị quyết của tỉnh, thành ủy, các chương trình, kế hoạch, chính sách, đề án của
144
chính quyền về phát triển nhân lực KH-CN; tổ chức các phong trào thi đua góp phần
thực hiện nghị quyết của tỉnh, thành ủy và cấp ủy cùng cấp. Các tổ chức chính trị - xã
hội trong các tổ chức KH&CN phải làm tốt chức năng tập hợp, đoàn kết và phải là
một tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của đoàn viên, viên chức.
Ba là, phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tham
gia xây dựng Đảng và xây dựng chính quyền; giám sát và phản biện xã hội đối với các
nghị quyết, quyết định, chương trình, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực KH-CN.
Các tỉnh, thành ủy cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội trên cơ sở Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết định số
218-QĐ/TW của Bộ Chính trị và các văn bản hướng dẫn thực hiện, hằng năm chủ động
xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để giám sát việc thực hiện các nghị quyết,
chương trình, đề án phát triển nhân lực KH-CN; giám sát việc thực hiện các luật, nghị
quyết có liên quan như: Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ.v.v..; nâng
cao chất lượng phản biện xã hội đối với các chủ trương, nghị quyết, chương trình, đề án
phát triển nhân lực KH-CN.
Để phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
tham gia vào quá trình lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN, các tỉnh, thành ủy, các
cấp ủy đảng và chính quyền các cấp cần:
Nhận thức đúng, đầy đủ về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội trong tham gia lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN.
Tăng cường lãnh đạo kiện toàn tổ chức bộ máy và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh. Tập trung vào việc bổ
sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ; xây dựng cơ chế cụ thể để Mặt trận và đoàn thể
thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt
trận và đoàn thể có bản lĩnh, có năng lực, am hiểu sâu về các lĩnh vực, nắm vững luật pháp.
Tỉnh, thành ủy và chính quyền thực sự tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm đúng chức năng, nhiệm vụ của mình trong
quá trình tham gia lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN. Tăng cường định hướng chính
trị cho hoạt động của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội nhưng phải tuân thủ
đúng pháp luật, Điều lệ của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội đã được quy định.
4.2.6.2. Phát huy vai trò của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh,
thành phố và các thành phần kinh tế tham gia vào quá trình lãnh đạo phát triển
nhân lực khoa học - công nghệ
145
* Phát huy vai trò của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh, thành phố
tham gia vào quá trình lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh, thành phố cần làm tốt hơn nhiệm
vụ tập hợp, đoàn kết và phát huy vai trò của nhân lực KH-CN đóng góp tích cực cho
sự phát triển của KH&CN, xây dựng quê hương, đất nước; tham gia tư vấn, phản biện
và giám định xã hội đối với các chủ trương, nghị quyết, chính sách, chương trình, quy
hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH, an ninh quốc phòng của tỉnh, thành phố. Thực
hiện tốt vai trò cầu nối với đảng bộ, chính quyền để tăng cường mối quan hệ giữa đảng
bộ, chính quyền với nhân lực KH-CN; tham mưu có chất lượng cho BTV tỉnh, thành
ủy và UBND tỉnh, thành phố ban hành các chủ trương, chính sách tạo môi trường,
điều kiện thuận lợi cho nhân lực KH-CN hoạt động; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của hội thành viên và hội viên. Đẩy mạnh công tác truyền bá, phổ biến kiến thức
KH&CN và tổ chức các hội thi sáng tạo kỹ thuật, các phong trào lao động sáng tạo, áp
dụng có hiệu quả những tiến bộ KH&CN vào phục vụ sản xuất, đời sống. Làm tốt vai
trò phối hợp nhằm tạo sự liên kết giữa các hội thành viên và hội viên, mở rộng và đa
dạng hóa các hình thức tập hợp nhân lực KH-CN.
Để Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh, thành phố thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của mình, các tỉnh, thành ủy, chính quyền địa phương cần tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo Đảng đoàn Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật củng
cố, kiện toàn và phát triển tổ chức Liên hiệp hội; tập trung đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động, khắc phục những hạn chế và bệnh hành chính hóa, có nhiều
hình thức tổ chức hoạt động để tập hợp, thu hút ngày càng đông đảo nhân lực KH-
CN tham gia hoạt động của Hội.
Các tỉnh ủy, thành ủy cần phải có chương trình, kế hoạch cụ thể nhằm tăng
cường sự lãnh đạo Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật; chỉ đạo chính quyền bảo
đảm và tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, về tài chính để Liên hiệp các Hội Khoa học
và Kỹ thuật tỉnh, thành phố thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ. Tiếp tục hoàn thiện cơ
cấu tổ chức, nội dung hoạt động và quy chế hoạt động của Đảng đoàn Liên hiệp các
Hội Khoa học và Kỹ thuật. Đẩy mạnh xây dựng tổ chức đảng, bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng đối với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật.
* Phát huy vai trò của các thành phần kinh tế tham gia vào quá trình lãnh đạo
phát triển nhân lực KH-CN
146
Một là, đẩy mạnh đầu tư nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ theo
hướng hiện đại, nhất là hạ tầng phục vụ trực tiếp cho phát triển KH&CN.
Hai là, chủ động và tích cực tham gia vào công tác đào tạo nhân lực KH-CN,
các doanh nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho nhân lực KH-CN đến thực tập, làm việc
tại doanh nghiệp.
Ba là, khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng sản phẩm công nghệ của
nhân lực KH-CN trên địa bàn nghiên cứu sáng tạo ra, hoặc các doanh nghiệp đặt
hàng và hỗ trợ kinh phí cho nhân lực KH-CN nghiên cứu phát triển công nghệ
theo yêu cầu của doanh nghiệp.
Bốn là, khuyến khích các doanh nghiệp thành lập quỹ phát triển KH&CN, đầu
tư mạnh mẽ cho nghiên cứu và đổi mới công nghệ. Kêu gọi các doanh nghiệp hỗ trợ
và động viên các nhà khoa học có những kết quả nghiên cứu xuất sắc góp phần phát
triển tri thức khoa học cũng như mang lại vinh quang tự hào cho nền khoa học Việt
Nam trên trường quốc tế.
Để phát huy vai trò của các thành phần kinh tế tham gia vào phát triển nhân
lực KH-CN, các tỉnh, thành ủy, chính quyền địa phương trong vùng cần:
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên tuyền về các chủ trương, nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của địa phương về đầu tư,
về phát triển KH&CN và đào tạo nhân lực KH-CN, về đổi mới mô hình tăng
trưởng, về hội nhập quốc tế, về khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào
phát triển KH&CN, phát triển nhân lực KH-CN.
Thứ hai, có các chính sách hỗ trợ để khuyến khích các thành phần kinh tế đầu
tư phát triển kết cấu hạ tầng, đào tạo nhân lực KH-CN, phát triển các doanh nghiệp
KH&CN, sử dụng sản phẩm KH&CN của nhân lực KH-CN. Các chính sách đó là:
chính sách ưu đãi tín dụng, chính sách về đất đai, chính sách về miễn giảm thuế thu
nhập.v.v.. Có chính sách thúc đẩy phát triển mối liên kết giữa doanh nghiệp với các
tổ chức KH&CN trên địa bàn để thực hiện các nhiệm vụ KH&CN.
Thứ ba, đẩy mạnh xã hội hóa về KH&CN, giáo dục-đào tạo để huy động nguồn
lực của các doanh nghiệp đầu tư phát triển KH&CN và phát triển nhân lực KH-CN.
Thứ tư, đổi mới phương thức quản lý nhà nước của các cấp chính quyền theo
hướng xây dựng chính quyền kiến tạo, hành động và phục vụ. Đồng thời, tăng cường
khả năng điều tiết, giám sát, kiểm tra, thanh tra đảm bảo sự tuân thủ đúng pháp luật của
đối tượng quản lý; xử lý nghiêm minh những tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật.
147
Thứ năm, đẩy mạnh cải cách hành chính, xóa bỏ cơ chế xin - cho tạo môi
trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch nhằm giảm thiểu
chi phí về thời gian và kinh phí cho các doanh nghiệp và góp phần vào việc phòng,
chống tham nhũng, lãng phí. Triệt trể xóa bỏ mọi bao cấp đối với doanh nghiệp nhà
nước, thực hiện chính sách đối xử bình đẳng với các thành phần kinh tế. Có chính
sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ ở địa phương
đẩy nhanh tốc độ đổi mới công nghệ, tiếp cận các nguồn vốn vay.
4.2.7. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ của Trung ương Đảng, Chính
phủ và các bộ, ban, ngành Trung ương; liên kết, phối hợp các tỉnh, thành phố trong
vùng và mở rộng hợp tác quốc tế để phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
4.2.7.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ của Trung ương Đảng, Chính phủ và
các bộ, ban, ngành Trung ương đối với quá trình lãnh đạo phát triển nhân lực khoa học -
công nghệ của các tỉnh, thành uỷ ở vùng duyên hải miền Trung
Trong HTCT các cấp ở nước ta cấp tỉnh là cấp thi hành, có nhiệm vụ quán triệt
triển khai thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước tại
địa phương. Vì thế, cấp trên có vai trò rất quan trọng, trong những trường hợp nhất
định lại giữ vai trò quyết định. Bởi vậy, trong quá trình lãnh đạo phát triển nhân lực
KH-CN, các tỉnh, thành ủy vùng DHMT luôn cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ của
Trung ương Đảng, Nhà nước và các bộ, ban, ngành Trung ương.
Một là, Trung ương cần tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận làm sáng
tỏ hơn những vấn đề: sự lãnh đạo của Đảng đối với phát triển KH&CN, phát triển nhân
lực KH-CN, xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức; về PTLĐ của Đảng và đổi mới
PTLĐ của Đảng trong điều kiện mới; về xây dựng tổ chức bộ máy của HTCT tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả phù hợp với tình hình mới, trong đó tập trung làm
rõ tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội ở địa phương về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối
quan hệ công tác; các quy định cụ thể để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -
xã hội giám sát và phản biện xã hội. Về phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa
phương để các địa phương phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tăng tính tự chủ gắn
với quy định rõ trách nhiệm trong phạm vi, thẩm quyền được giao.
Hai là, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các Ban, Bộ, ngành Trung ương tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo các tỉnh, thành ủy, UBND các tỉnh, thành phố thực hiện nghiêm
148
túc các Nghị quyết, Kết luận của Bộ Chính trị về định hướng phát triển của tỉnh,
thành phố đã được ban hành trong thời qua; đồng thời định kỳ trực tiếp làm việc với
BTV các tỉnh, thành phố để nghe báo cáo đánh giá những kết quả đạt được, những
hạn chế, những kiến nghị, đề xuất của địa phương, từ đó có những định hướng cho
địa phương trong thời gian tới.
Ba là, Trung ương Đảng, Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự Đảng Chính phủ cần tiếp
tục quan tâm ban hành các chủ trương, nghị quyết, các cơ chế định hướng phát triển cho các
tỉnh, thành phố trong vùng trên các vấn đề: các cơ chế, chính sách đặc thù theo hướng ưu
đãi hơn, tạo thêm nguồn lực và động lực mới để vùng DHMT phát triển nhanh, hiệu quả
hơn; cơ chế hỗ trợ đặc thù về huy động vốn, thu hút đầu tư cho Khu công nghệ cao Đà
Nẵng; triển khai thực hiện các dự án, công trình đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định
như: các viện nghiên cứu khoa học chuyên ngành, trung tâm công nghệ sinh học, trung tâm
thông tin KH&CN, dự án Trường Đại học quốc tế Việt-Anh tại Đà Nẵng; Làng Đại học Đà
Nẵng; chấp thuận đề xuất của tỉnh Thừa Thiên Huế về xây dựng Khu Công nghệ cao tại
tỉnh Thừa Thiên Huế. Chính phủ nghiên cứu quy hoạch và định hướng đầu tư hệ thống đào
tạo đại học và cao đẳng trong vùng có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên về chất lượng đào tạo,
tránh mở rộng và dàn trải về số lượng. Tập trung đầu tư Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng
ngang tầm đại học quốc gia, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, với các ngành khoa học
cơ bản, làm đầu tàu trong vai trò liên kết với các trường đại học và cao đẳng trong vùng.
Bốn là, Quốc hội và Chính phủ cần đổi mới căn bản chế độ tiền lương, tiếp tục
hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về KH&CN, về đào tạo, bồi dưỡng, về quản
lý, sử dụng, đãi ngộ, khen thưởng, tôn vinh, phong học hàm giáo sư, phó giáo sư tạo
hành lang pháp lý đồng bộ để làm cơ sở cho các tỉnh, thành ủy, chính quyền lãnh
đạo, quản lý và bản thân nhân lực KH-CN hoạt động nghề nghiệp.
Năm là, Bộ Khoa học và Công nghệ cần đẩy mạnh nghiên cứu, chủ động tham
mưu cho Chính phủ tiếp tục ban hành hoặc bổ sung hoàn thiện các cơ chế, chính sách
có liên quan và kịp thời ban hành các hướng dẫn để các các địa phương triển khai thực
hiện, nhanh chóng đưa chủ trương, nghị quyết, chính sách vào thực tiễn. Đặc biệt, Bộ
Khoa học và Công nghệ cần quan tâm sâu sát hơn nữa, hỗ trợ cho tỉnh, thành phố
trong vùng trên về các vấn đề: Quy hoạch, thành lập tổ chức KH&CN, doanh nghiệp
KH&CN, chuyển đổi các tổ chức KH&CN công lập sang hình thức tổ chức KH&CN
tự trang trải kinh phí hoặc trở thành doanh nghiệp KH&CN; quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng nhân lực KH-CN, đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về KH&CN;
149
hợp tác với Sở KH&CN, các tổ chức KH&CN ở địa phương tiến hành các dự án, đề
tài nghiên cứu và phát triển KH&CN; làm cầu nối để thiết lập quan hệ hợp tác về
KH&CN, đào tạo nhân lực KH-CN giữa các tỉnh, thành phố trong vùng với các nước,
các trường đại học, viện nghiên cứu, các tổ chức quốc tế. Bộ Khoa học và Công nghệ
cần kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho tỉnh, thành phố trong quá trình
triển khai thực hiện các chính sách, pháp luật về KH&CN.
Sáu là, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần quan tâm hỗ trợ tích cực cho các địa phương
về các vấn đề: lập quy hoạch, thành lập các trường đại học; nâng cao chất lượng giáo dục
- đào tạo, nhất là đào tạo đại học và sau đại học; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ quản
lý chủ chốt các trường Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng, Đại học Quy Nhơn, Đại học Nhà
Trang có đủ đức, đủ tài, đủ tầm. Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho
đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý của các trường Cao đẳng, đại học trong vùng; tăng
cường công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động giáo dục-đào tạo của các cơ sở đào tạo; đẩy
mạnh giao quyền tự chủ cho các trường đại học trong vùng có đủ điều kiện.
Bảy là, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao hướng dẫn, hỗ trợ tích cực cho các địa
phương trong vấn đề cấp thị thực xuất nhập cảnh, tạm trú và thường trú cho nhà khoa
học Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia các hoạt động
KH&CN tại Việt Nam.
Tám là, Trung ương Đảng và Nhà nước, các bộ, ban, ngành Trung ương cần
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện các nghị quyết, luật
pháp, chính sách, các chương trình, dự án đầu tư của Trung ương đối với các tỉnh,
thành phố ở vùng DHMT để kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc, những
sai phạm (nếu có) để chấn chỉnh không để kéo dài.
4.2.7.2. Liên kết, phối hợp giữa các địa phương trong vùng để phát triển nhân lực
khoa học - công nghệ
Ở góc độ vùng, để phát triển nhân lực KH-CN cần có sự liên kết, phối hợp của
nhiều chủ thể (các tỉnh, thành ủy, chính quyền các địa phương, các cơ sở đào tạo, các
tổ chức KH&CN, các doanh nghiệp) trên nhiều vấn đề để tạo sự thống nhất chung
cùng nhau giải quyết bài toán nhân lực KH-CN cho phát triển KT-XH của vùng, khắc
phục tình trạng cát cứ địa phương như hiện nay. Theo đó, các tỉnh, thành phố cần liên
kết, phối hợp trên những vấn đề sau đây:
Một là, liên kết, phối hợp giữa các địa phương trong quy hoạch phát triển tạo
không gian kinh tế chung của vùng nhưng vừa phát huy thế mạnh của từng địa phương.
150
Tiến hành rà soát điều chỉnh quy hoạch phát triển KT-XH, quy hoạch ngành, lĩnh
vực, quy hoạch các khu kinh tế, khu công nghiệp của từng địa phương để phân bố lại lực
lượng sản xuất theo hướng ưu tiên khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương.
Hợp tác, phân công giữa các địa phương trong việc quy hoạch, đầu tư xây dựng các cơ
sở đào tạo, các tổ chức KH&CN.
Hai là, xây dựng đồng bộ hạ tầng giao thông liên tỉnh và quốc tế, nhất là hạ
tầng giao thông đường bộ nhằm tạo sự kết nối giữa các địa phương trong vùng.
Hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của từng địa phương,
khớp nối với hệ thống giao thông đường bộ liên tỉnh và quốc tế. Tìm kiếm cơ chế đầu tư
phát triển và tạo bước đột phá trong xúc tiến triển khai những công trình có tầm ảnh
hưởng lớn, tạo ra liên kết vùng gồm: trục dọc đường cao tốc nối Đồng Hới - Đông Hà -
Huế - Đà Nẵng - Quảng Ngãi - Quy Nhơn - Tuy Hòa - Nha Trang; phối hợp với Hãng
Hàng không quốc gia Việt Nam xúc tiến mở các tuyến đường bay quốc tế trực tiếp đến
các cảng hàng không quốc tế trong vùng (Đà Nẵng, Phú Bài, Chu Lai, Cam Ranh); mở
thêm các đường bay trong nước nối các đô thị trong vùng. Xây dựng mới hiện đại một số
trung tâm hội nghị, hội thảo, triển lãm quốc tế ở Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn,
Nha Trang đủ tiêu chuẩn để tổ chức các sự kiện văn hóa, giáo dục, KH&CN quốc tế.
Ba là, liên kết, phối hợp đào tạo phát triển nhân lực KH-CN.
Tăng cường liên kết, phối hợp giữa các địa phương, cơ sở đào tạo, viện nghiên
cứu chuyên ngành, cơ sở dạy nghề, các doanh nghiệp để mở rộng quy mô và nâng
cao chất lượng đào tạo nhân lực KH-CN. Tập trung đầu tư để Đại học Huế, Đại học
Đà Nẵng trở thành đại học quốc gia, cùng với các đại học Quy Nhơn, Nha Trang, Tài
chính - Kế toán Quảng Ngãi, các trường cao đẳng nghề, trung cấp chuyên nghiệp và
các cơ sở đào tạo khác hình thành một hệ thống đào tạo NNL chất lượng cao cho
vùng và cả nước. Tăng cường trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm giữa các địa phương
trong vấn đề xây dựng và tổ chức thực hiện các đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao
và thực hiện chính sách thu hút NNL chất lượng cao.
Bốn là, liên kết, hợp tác về KH&CN.
Đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu các dự án KH&CN phục vụ trực tiếp cho chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của vùng. Phối hợp xây dựng cơ chế, chính sách và mạng lưới tổ chức
nhằm phát triển thị trường KH&CN chung cho cả vùng. Xây dựng hệ thống thông tin thị
trường KH&CN của vùng, kết nối với hệ thống thông tin thị trường KH&CN quốc gia.
151
Năm là, hợp tác trong việc huy động vốn đầu tư và xây dựng cơ chế chính
sách để đầu tư phát triển chung của vùng.
Thống nhất kiến nghị với Chính phủ về các cơ chế ưu đãi, khuyến khích phát
triển các tỉnh, thành phố vùng DHMT. Xây dựng cơ chế triển khai các công trình hạ
tầng giao thông đường bộ liên tỉnh về loại hình dự án, phương án huy động vốn, giải
phóng mặt bằng, tiến độ thi công, giải ngân và thanh quyết toán. Thu hút đầu tư nước
ngoài có định hướng và có chọn lọc vào các lĩnh vực quan trọng. Kiểm soát chặt chẽ
việc cấp giấy phép và quản lý các dự án đầu tư trong vùng. Phối hợp xúc tiến đầu tư,
thương mại thông qua việc thường xuyên tổ chức các diễn đàn xúc tiến đầu tư, thương
mại toàn vùng nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài.
Sáu là, xây dựng trung tâm giới thiệu việc làm vùng DHMT.
Tổ chức này sẽ làm đầu mối kết nối cung - cầu lao động, thực hiện tư vấn, giới
thiệu việc làm, đào tạo bổ sung kỹ năng nghề nghiệp, thu thập, phân tích thông tin thị
trường lao động, dự báo nhu cầu lao động.
Tổ chức lại các trung tâm giới thiệu việc làm ở các địa phương thành mạng lưới
liên thông; hình thành “chợ việc làm” trên mạng nhằm kết nối các cơ sở đào tạo với các
tổ chức KH&CN, doanh nghiệp nhằm giải quyết việc làm cho nhân lực KH-CN.
Bảy là, xây dựng hệ thống thông tin và trao đổi thông tin KT-XH, đầu tư trên địa bàn.
Thành lập cổng thông tin điện tử, hình thành tờ báo chuyên ngành (song ngữ Anh
- Việt) dùng chung cho toàn vùng. Xây dựng và cập nhật thường xuyên cơ sở dữ liệu
của vùng về GDP (quy mô, tốc độ tăng trưởng); cơ cấu kinh tế (ngành kinh tế, đầu tư,
lao động); dân số, NNL, nhân lực KH-CN (số lượng, trình độ đào tạo, lao động có việc
làm...); đầu tư cho KH&CN; các sản phẩm KH&CN; tình hình đầu tư trong các khu
kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao; kết cấu hạ tầng giao thông liên tỉnh và
quốc tế (sân bay, cảng biển, quốc lộ); hạ tầng viễn thông - công nghệ thông tin; đào tạo
(cơ sở đào tạo, giảng viên, cơ sở vật chất, ngành học, sinh viên) có so sánh với các
vùng kinh tế khác và cả nước.
Để thực hiện có hiệu quả các nội dung liên kết, phối hợp trên, các tỉnh, thành phố
cần thành lập Ban chỉ đạo của vùng gồm các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của các địa
phương (Bí thư, Chủ tịch tỉnh, thành phố); thành lập cơ quan thường trực để tham
mưu nghiên cứu, đề xuất với Ban chỉ đạo các chủ trương, kế hoạch và tổ chức thực
hiện. Đồng thời mỗi tỉnh cần tổ chức một bộ phận chuyên trách làm đầu mối phối hợp
152
với bộ phận thường trực của vùng. Thành lập Quỹ của vùng để phục vụ kinh phí hoạt
động của Ban chỉ đạo, công tác nghiên cứu của cơ quan Thường trực và hoạt động
chung của vùng. Quỹ được hình thành từ nguồn đóng góp của các địa phương trong
vùng; sự tài trợ của ngân hàng và sự ủng hộ từ các tổ chức, doanh nghiệp trong và
ngoài nước. Định kỳ họp giao ban tại các địa phương để đánh giá tình hình thực hiện
các nội dung cam kết liên kết, phối hợp, thống nhất kế hoạch cụ thể cho thời gian tiếp
theo, đưa ra những kiến nghị chung với Trung ương và các Ban, bộ, ngành.
4.2.7.3. Mở rộng hợp tác quốc tế để phát triển nhân lực khoa học - công nghệ
Mở rộng hợp tác quốc tế nhằm để tranh thủ nguồn lực đầu tư, học tập kinh nghiệm
của các nước, đào tạo nhân lực, tiếp nhận thành tựu KH&CN của thế giới và thu hút các
chuyên gia, nhà khoa học thế giới. Mặt khác, thông qua hợp tác quốc tế, các địa phương
có thể nhận sự tư vấn của các nước, các tổ quốc tế về các vấn đề xây dựng chiến lược,
quy hoạch, các giải pháp phát triển KT-XH, KH&CN và phát triển nhân lực KH-CN.
Các tỉnh, phố trong vùng cần tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế với các nước,
các địa phương, các tổ chức quốc tế, các trường đại học, viện nghiên cứu trên các vấn
đề đầu tư, thương mại, về KH&CN, về giáo dục - đào tạo, trong đó chú trọng hợp tác
với các nước, các tổ chức có tiềm lực mạnh về KH&CN, giáo dục - đào tạo.
Tăng cường hợp tác giữa tổ chức KH&CN, các trường đại học của vùng với các tổ
chức NC&PT, các trường đại học lớn, có nhiều uy tín ở nước ngoài để trao đổi giảng
viên/sinh viên, tổ chức và tham gia các hội thảo quốc tế, mời giáo sư nước ngoài tham
gia giảng dạy hoặc thực hiện các buổi seminar khoa học; liên kết đào tạo nhân lực.
Để cho công tác hợp tác quốc tế mang lại hiệu quả, các tỉnh, thành ủy cần chỉ đạo
UBND tỉnh, thành phố trong vùng tiến hành rà soát các chương trình hợp tác quốc tế đã
và đang được triển khai thực hiện, đánh giá hiệu quả của từng chương trình, các quan hệ
hợp tác trên cơ sở đó tiến hành làm việc với đối tác để tìm kiếm biện pháp và tiếng nói
chung nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác. Tiếp tục mở rộng thiết lập các quan hệ hợp tác
với các nước khác, các đối tác mới. Khuyến khích các trường đại học, cao đẳng, viện
nghiên cứu trên địa bàn chủ động tìm kiếm và thiết lập quan hệ hợp tác với các đối tác
bằng nhiều hình thức để nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của đơn vị.
Các tỉnh, thành phố cần thành lập các văn phòng đại diện tại các nước làm cầu
nối giữa địa phương với các nước, các địa phương nước ngoài, các tổ chức quốc tế.
153
Phát huy vai trò của các nhà khoa học, kiều bào ở nước ngoài để thiết lập quan hệ hợp
tác với các nước, trường đại học, viện nghiên cứu, các tổ chức quốc tế.
Có chính sách ưu đãi về đầu tư, đất đai, cơ sở hạ tầng, cải cách thủ tục hành
chính để thu hút các chuyên gia, nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài, các chuyên
gia, nhà khoa học nước ngoài tham gia hoạt động KH&CN tại địa phương.
Tiểu kết chương 4
Bên cạnh những ưu điểm và kết quả đạt được, trong lãnh đạo phát triển nhân
lực của các tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Để
phát huy những ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm và có những bước chuyển
biến, đột phá trong phát triển nhân lực KH-CN, từ phân tích những nguyên nhân
của ưu điểm, khuyết điểm, dự báo những thuận lợi, khó khăn tác động đến sự lãnh
đạo của các tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT đối với phát triển nhân lực KH-CN đến
năm 2025; trên cơ sở quán triệt quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước, của
nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh, thành phố về phát triển KH&CN, phát triển NNL
và nhân lực KH-CN, để tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy ở vùng
DHMT đối với phát triển nhân lực KH-CN cần thực hiện đồng bộ các nhóm giải
pháp gồm: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tỉnh, thành ủy, BTV, các cấp ủy, cán
bộ chủ chốt và nhân lực KH-CN về sự cần thiết phải tăng cường lãnh đạo phát triển
nhân lực KH-CN; Đổi mới việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết
của tỉnh ủy, thành ủy về phát triển nhân lực KH-CN, nâng cao chất lượng các cơ quan
tham mưu, giúp việc cho tỉnh ủy, thành ủy đáp ứng yêu cầu lãnh đạo phát triển nhân lực
KH-CN; Đổi mới PTLĐ của tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT đối với phát triển nhân lực
KH-CN; Xây dựng các cấp chính quyền trong sạch, vững mạnh, phát huy mạnh mẽ vai
trò, trách nhiệm của các cấp chính quyền, của cấp ủy và thủ trưởng tổ chức KH&CN, đề
cao tự học, tự nghiên cứu của nhân lực KH-CN; Lãnh đạo đẩy mạnh công tác đào tạo,
bồi dưỡng nhân lực KH-CN; Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị - xã hội các cấp, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, các thành phần kinh tế
tham gia vào quá trình lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN; Tăng cường sự lãnh đạo,
chỉ đạo, hỗ trợ của Trung ương Đảng, Chính phủ và các bộ, ban, ngành Trung ương,
liên kết, phối hợp các tỉnh, thành phố trong vùng và mở rộng hợp tác quốc tế để phát
triển nhân KH-CN.
154
KẾT LUẬN
Sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập quốc tế và phát triển KT-XH nhanh,
bền vững đòi hỏi các tỉnh, thành phố vùng DHMT phải có NNL chất lượng cao, nhất
là nhân lực KH-CN. Từ đó đặt ra nhiệm vụ cấp bách cho các tỉnh, thành ủy phải tập
trung lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN.
Tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN là toàn bộ
các hoạt động đề ra nghị quyết, chủ trương về phát triển nhân lực KH-CN; tổ chức
thực hiện nghị quyết, chủ trương đã đề ra và kiểm tra, giám sát bảo đảm cho nghị
quyết, chủ trương được thực hiện thắng lợi nhằm xây dựng đội ngũ nhân lực KH-CN
có số lượng và cơ cấu hợp lý, có chất lượng cao theo yêu cầu của chiến lược phát
triển KH&CN, đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển KT-XH và hội nhập quốc tế.
Các tỉnh, thành ủy đã tập trung lãnh đạo và đã mang lại nhiều kết quả tích cực,
có thể khái quát ở những ưu điểm chính đó là: Các tỉnh thành ủy đã lãnh đạo định
hướng quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cơ bản để phát triển nhân lực
KH-CN. Lãnh đạo xây chiến lược phát triển KH&CN và quy hoạch phát triển nhân
lực KH-CN làm cơ sở cho tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, phân bổ và thực hiện
chính sách phát triển nhân lực KH-CN. Các tỉnh, thành ủy đã tập trung lãnh đạo
chính quyền cụ thể hóa nghị quyết của tỉnh, thành ủy về phát triển nhân lực KH-CN
thành các chương trình, kế hoạch, đề án để thực hiện. Lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy,
tổ chức đảng trực thuộc quán triệt nghị quyết của tỉnh, thành ủy ban hành nghị
quyết để lãnh đạo địa phương, cơ quan, đơn vị phát triển nhân lực KH-CN. Lãnh
đạo công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và thu hút nhân lực, nhờ đó chất lượng
và cơ cấu nhân lực KH-CN đã có bước cải thiện. Lãnh đạo tạo lập môi trường, điều
kiện ngày càng tốt hơn để phát triển KH&CN và phát triển nhân lực KH-CN và phát
huy vai trò của nhân lực KH-CN đóng góp vào phát triển KT-XH của địa phương.
Việc liên kết, hợp tác trong nước và quốc tế, tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương để
phát triển nhân lực KH-CN và phát triển KH&CN đã đạt được nhiều kết quả, các
địa phương đã có sự liên kết trên nhiều vấn đề; trung ương đã có sự hỗ trợ về nguồn
lực, cơ chế, chính sách. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, so với yêu cầu
thực tiễn của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển nhanh và bền vững, các tỉnh,
thành ủy ở vùng này lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN còn những khuyết điểm,
hạn chế về nội dung và phương thức.
155
Từ thực tiễn các tỉnh, thành ủy vùng DHMT lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN
đã rút ra những kinh nghiệm: Một là, xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong tỉnh, thành
ủy, trước hết là BTV; phát huy trí tuệ tập thể, đồng thời đề cao trách nhiệm, tính năng
động của từng tỉnh, thành ủy viên. Hai là, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền kịp
thời thể chế hóa quan điểm, chủ trương, nghị quyết của tỉnh, thành ủy về phát triển
nhân lực KH-CN bằng các cơ chế, chính sách; cụ thể hóa bằng chiến lược, chương
trình, kế hoạch, đề án để tổ chức thực hiện. Ba là, xây dựng, nâng cao chất lượng tổ
chức đảng trong các tổ chức KH&CN thực sự là hạt nhân chính trị lãnh đạo cơ quan,
đơn vị thực hiện chủ trương, nghị quyết về phát triển nhân lực KH-CN. Bốn là, trọng
dụng nhân tài, đầu tư có trọng điểm cho đào tạo nhân lực KH-CN chất lượng cao. Năm
là, coi trọng công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm. Sáu là, đẩy mạnh xã
hội hóa, tranh thủ sự hỗ trợ của cấp trên và tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế.
Tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh, thành ủy vùng DHMT đối với phát triển
nhân lực KH-CN cần phải thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp sau: (1) Nâng cao
nhận thức, trách nhiệm của tỉnh, thành ủy, BTV, các cấp ủy, cán bộ chủ chốt và nhân
lực KH-CN về sự cần thiết phải tăng cường lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN; (2)
Đổi mới việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết của tỉnh ủy, thành
ủy về phát triển nhân lực KH-CN; nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu, giúp
việc cho tỉnh ủy, thành ủy đáp ứng yêu cầu lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN; (3)
Đổi mới PTLĐ của tỉnh, thành ủy ở vùng DHMT đối với phát triển nhân lực KH-CN;
(4) Xây dựng các cấp chính quyền trong sạch, vững mạnh, phát huy mạnh mẽ vai trò,
trách nhiệm của các cấp chính quyền; của cấp ủy và thủ trưởng tổ chức KH&CN; đề
cao tự học, tự nghiên cứu của nhân lực KH-CN; (5) Lãnh đạo đẩy mạnh công tác đào
tạo, bồi dưỡng nhân lực KH-CN; (6) Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội các cấp, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, các thành
phần kinh tế tham gia vào quá trình lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN; (7) Tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ của Trung ương Đảng, Chính phủ và các bộ, ban,
ngành Trung ương; liên kết, phối hợp các tỉnh, thành phố trong vùng và mở rộng hợp
tác quốc tế để phát triển nhân KH-CN.
Các tỉnh, thành ủy vùng DHMT lãnh đạo phát triển nhân lực KH-CN giai đoạn
hiện nay là vấn đề khó, cần được nghiên cứu trong thời gian dài, quy mô lớn. Kết quả
nghiên cứu của luận án là một phần rất nhỏ.
156
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Trần Văn Phương, “Quảng Ngãi đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Sinh hoạt
Lý luận (5) 2015.
2. Trần Văn Phương, “Tỉnh, thành ủy vùng duyên hải miền Trung lãnh đạo
phát triển nhân lực khoa học - công nghệ”, Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, ngày
24/12/2015.
3. Trần Văn Phương, “Chính sách thu hút nguồn nhân lực của các tỉnh, thành
phố vùng duyên hải miền Trung - Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Sinh hoạt Lý
luận (2) 2016.
157
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Cẩm Anh (2010), Phát triển nguồn nhân lực Khoa học và Công nghệ ở
Đà Nẵng hiện nay, luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
2. Ban chấp hành Trung ương, Nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VIII) Về định hướng chiến lược phát triển khoa học
và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa.
3. Ban chấp hành Trung ương, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa X) Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4. Ban chấp hành Trung ương, Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu, Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XI) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
5. Ban nghiên cứu dự báo, chiến lược và quản lý khoa học (1999), Hỏi và đáp
những vấn đề then chốt của Khoa học và Công nghệ, Nxb Thanh niên.
6. Ban Cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Báo cáo số 201-BC/BCS ngày
31/10/ 2013 về Sơ kết 2 năm thực hiện Đề án đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực
tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020.
7. Ban Tổ chức tỉnh ủy Bình Định, Báo cáo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trình độ cao
tỉnh Bình Định giai đoạn 2008 - 2012.
8. Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền (2012), Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (2001), Khoa học và Công nghệ Việt
Nam 1999-2000, Hà Nội.
10. Bộ Khoa học và Công nghệ (2005), Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2004, Hà Nội.
11. Bộ Khoa học và Công nghệ, Quyết định số 4009/QĐ-BKHCN phê duyệt quy hoạch
phát triển nhân lực ngành khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020.
12. Bộ Khoa học và Công nghệ (2012), Khoa học và Công nghệ phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển bền vững, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
158
13. Bộ Khoa học và Công nghệ, Quyết định số 588/QĐ-BKHCN, ngày 31/3/2014 về
việc xây dựng, quản lý và sử dụng cơ sở dữ liệu chuyên gia.
14. Bộ Khoa học và Công nghệ (2015), Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm
2014, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
15. Đỗ Tiến Cẩn (2011), Tỉnh ủy Quảng Ngãi lãnh đạo phát triển nguồn nhân lực
trong giai đoạn hiện nay, luận văn Khoa học chính trị, Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
16. Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia (2012), Khoa học và Công nghệ phục vụ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
17. Ths. Trần Đình Chín (2011), “Một số vấn đề về sử dụng nguồn nhân lực khoa
học - công nghệ ở vùng trọng điểm kinh tế Trung bộ hiện nay”, Tạp chí Sinh
hoạt lý luận, (2), tr.28 - tr.32.
18. Chính phủ, Nghị định số 40/2014/NĐ-CP ngày 12/5/2014 Quy định việc sử
dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ.
19. Trương Minh Dục (2004), “Chính sách sử dụng nguồn nhân lực khoa học - công
nghệ ở miền Trung - hiệu quả và những vấn đề đặt ra trong điều kiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”, trong Toàn cầu hóa kinh tế những cơ hội và thách
thức đối với miền Trung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Nguyễn Duy Dũng (Chủ biên) (2008), Đào tạo và quản lý nguồn nhân lực - kinh
nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc và những gợi ý cho Việt Nam, Nxb Từ điển bách
khoa, Hà Nội.
21. Nguyễn Thế Dũng (2010), Tỉnh ủy Bắc Giang lãnh đạo báo chí địa phương giai
đoạn hiện nay, luận văn Khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ Đảng khóa XI.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
159
27. Đảng bộ tỉnh Quảng Trị, Văn kiện đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, XV, XVI.
28. Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, Văn kiện đại hội lần thứ XVIII,XIX, XX, XXI.
29. Đảng bộ tỉnh Bình Định, Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ XVI, XVII, XVIII, XIX
30. Đảng bộ tỉnh Phú Yên, Văn kiện đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, XV, XVI.
31. Đảng bộ tỉnh Quảng Bình, Văn kiện đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, XV, XVI.
32. Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi, Văn kiện đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, XVIII, XIX.
33. Đặng Đình Đào, Nguyễn Đình Hiền (2013), Xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành một
trong những trung tâm khoa học và công nghệ của cả nước, Nxb Lao động - xã hội.
34. Vũ Cao Đàm (2011), Một số vấn đề quản lý Khoa học và Công nghệ ở nước ta,
Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
35. Lê Đăng Doanh (2003), Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ ở Việt
Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
36. Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
37. Phạm Hảo (2007), Kinh tế - xã hội các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên những năm
đầu thế kỷ XXI Thực trạng và xu hướng phát triển, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
38. Phạm Hảo, PGS,TS. Võ Xuân Tiến (2004), Toàn cầu hóa kinh tế những cơ hội
và thách thức đối với miền Trung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Hà Thị Hằng (2014), Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
40. Lưu Chấn Hoa (2010), Bàn về công tác xây dựng năng lực cầm quyền của Đảng,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Hoàng Văn Hổ (2014), Cầm quyền khoa học, do Hải Anh, Như Châu, Thúy Hằng,
Thanh Hương dịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Dương Anh Hoàng (2012), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở thành phố Đà Nẵng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Ngô Văn Hùng, (2005), Phát huy tiềm lực khoa học và công nghệ phục vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, luận án tiến sĩ
kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2011), Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền - Nội
dung và phương thức cầm quyền của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
160
45. Nguyễn Thị Giáng Hương (2013), Vấn đề phát triển nguồn nhân lực nữ chất
lượng cao ở Việt Nam hiện nay, luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
46. Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Nghị quyết số 65/2008/NQ-HĐND ngày
16/12/2008 Về cơ chế, chính sách phục vụ phát triển nguồn nhân lực tỉnh
Quảng Ngãi giai đoạn 2007 – 2010 và định hướng đến năm 2015.
47. Đặng Bá Lãm, Trần Khánh Đức (2002), Phát triển nhân lực công nghệ ưu tiên ở
nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Nxb Giáo dục.
48. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
49. Nguyễn Thanh Long (2003), “Phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Lý luận
chính trị (5), tr.16 - tr.22.
50. Võ Châu Loan (2011), Tỉnh ủy Bình Dương lãnh đạo phát triển nguồn nhân lực
các cơ quan đảng, đoàn thể cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay, luận văn Khoa
học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
51. Lê Văn Lý (Chủ biên) (1999), Sự lãnh đạo của Đảng trong một số lĩnh vực trọng
yếu của đời sống xã hội nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Matsushita Konouke (1999), Nhân sự - chìa khoá của thành công, Nxb Giao
thông vận tải, Hà Nội.
58. Phạm Văn Mợi (2010), Giải pháp phát triển nhân lực khoa học và công nghệ ở
Hải Phòng phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ kinh tế,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
59. Nolwen Henaff, Jeen- Yves biên tập khoa học (2001), Lao động, việc làm và NNL
ở Việt Nam 15 năm đổi mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.
60. Nguyễn Thị Nga (2010), Tỉnh ủy Bến Tre lãnh đạo công tác phụ nữ trong giai
đoạn hiện nay, luận văn Khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
161
61. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2004), Xây dựng đảng cầm quyền - kinh nghiệm
của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc, Hà Nội.
62. Nguyễn Hữu Nhân (2012), Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo cải cách hành
chính nhà nước trong giai đoạn hiện nay, luận án tiến sĩ Khoa học chính trị, Hà Nội.
63. Bùi Văn Nhơn (2006) Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
64. Tô Tu Nghệ, Lý Luận Chung (1999), Kiên trì và hoàn thiện sự lãnh đạo của
Đảng do Nguyễn Quốc Quốc Trường dịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Nguyễn Hoàng Phê, (Chủ biên), (1995), Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học.
66. Vũ Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng (2012), Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Lê Văn Phục, (2010) Phát triển NNL chất lượng cao trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở thành phố Đà Nẵng hiện nay, luận văn thạc sĩ Triết học, Học
viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
68. Phạm Ngọc Quang (chủ biên) (2008), Đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Quốc Hội, Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013.
70. Phạm Văn Quý, Trần Xuân Định (1998), “Nhân lực khoa học và công nghệ”,
Tạp chí Hoạt động khoa học, (3), tr.35- 40.
71. Phạm Ngọc Quang, (Chủ biên) (2008), Đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Sổm Lít Pước Kẹo (2001), Đổi mới hệ thống chính trị cấp tỉnh ở nước Cộng hòa
Dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay, luận án tiến sĩ chuyên ngành
Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
73. Sở Khoa học và Công Nghệ tỉnh Quảng Bình, Thống kế về nhân lực khoa học - công nghệ
74. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Trị, Thống kế về nhân lực khoa học - công nghệ
75. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế, Thống kế về nhân lực khoa học - công nghệ
76. Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Đà Nẵng, Thống kế về nhân lực khoa học - công nghệ
77. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Nam, Thống kế về nhân lực khoa học - công nghệ
78. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Ngãi, Thống kế về nhân lực khoa học - công nghệ
79. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bình Định, Thống kế về nhân lực khoa học - công nghệ
80. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Phú Yên, Thống kế về nhân lực khoa học - công nghệ
162
81. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Khánh Hòa, Thống kế về nhân lực khoa học - công nghệ
82. Sở Nội Vụ tỉnh Quảng Bình, Báo cáo về thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực.
83. Sở Nội Vụ tỉnh Quảng Trị, Báo cáo về thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực.
84. Sở Nội Vụ tỉnh Thừa Thiên Huế, Báo cáo về thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực.
85. Sở Nội Vụ Đà Nẵng, Báo cáo về thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực.
86. Sở Nội Vụ Quảng Nam, Báo cáo về thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực.
87. Sở Nội Vụ tỉnh Quảng Ngãi, Báo cáo về thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực.
88. Sở Nội Vụ tỉnh Bình Định, Báo cáo về thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực.
89. Sở Nội Vụ tỉnh Phú Yên, Báo cáo về thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực.
90. Sở Nội Vụ tỉnh Khánh Hòa, Báo cáo về thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực.
91. Ngô Huy Tiếp, (Chủ biên) (2008), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với trí thực nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Tỉnh ủy Quảng Bình, Nghị quyết số 11-NQ/TU Nghị quyết của Thường vụ tỉnh
ủy về phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH.
93. Tỉnh ủy Quảng Nam, Báo cáo số 110-BC/TU ngày 7/5/2012, Tổng kết phát triển khoa
học và công nghệ từ khi Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) ban hành đến nay.
94. Tỉnh ủy Bình Định, Báo cáo số 41-BC/TU ngày 20/4/2012, Tổng kết về phát
triển khoa học và công nghệ.
95. Tỉnh ủy Bình Định, Báo cáo số 89-BC/TU ngày 1/9/2008 Tổng kết mười năm thực
hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về khoa học và công nghệ.
96. Tỉnh ủy Bình Định, Báo cáo số 83-BC/TU ngày 15/12/2004 Kiểm điểm 3 năm thực
hiện Chương trình hành động của tỉnh ủy thực hiện nghị quyết Đại hội đảng bộ
tỉnh lần thứ XVII về phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2001-2005.
97. Tỉnh ủy Bình Định, Chương trình hành động số 11-Ctr/TU thực hiện nghị quyết
Đại hội X của Đảng và nghị quyết Đại hội XVII đảng bộ tỉnh về đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực giai đoạn 2006-2010.
98. Tỉnh ủy Bình Định, Chương trình hành động số 08-Ctr/TU ngày 30/8/2011 thực
hiện nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Đại hội XVIII đảng bộ tỉnh về
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2015.
99. Tỉnh ủy Bình Định, Báo cáo số 80-BC/TU ngày 13/11/2012 đánh giá thực hiện chính
sách thu hút, tạo nguồn từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, các nhà khoa học trẻ.
163
100. Tỉnh ủy Bình Định, Báo cáo số 125-BC/TU ngày 7/10/2013 sơ kết giữa nhiệm kỳ
Chương trình hành động của tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh
về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2015.
101. Tỉnh ủy Quảng Nam, Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 20-
NQ/TW ngày 1/11/2012 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương
Đảng (khóa XI) về phát triển khoa học và công nghệ.
102. Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 7/5/2007 của tỉnh ủy về
phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2007-2010 và định hướng đến năm 2015.
103. Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Báo cáo số 313-BC/TU ngày 24/9/2010 Báo cáo công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; thu hút, đào tạo, sử dụng nhân tài của tỉnh
Quảng Ngãi giai đoạn 2006 - 2010.
104. Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Báo cáo số 68-BC/TU ngày 13/10/2011 về Tổng kết thực
hiện Nghị quyết 06-NQ/TU ngày 7/5/2007 của tỉnh ủy khóa XVII về phát triển
nguồn nhân lực giai đoạn 2007-2010 và định hướng đến năm 2015.
105. Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 13/10/2011 nghị quyết hội
nghị lần thứ sáu ban chấp hành đảng bộ tỉnh (khóa XVIII) về đẩy mạnh phát
triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020.
106. Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Báo cáo số 180-BC/TU ngày 3/12/2012 Báo cáo tình
hình thực hiện chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp
xuất sắc, các nhà khoa học trẻ.
107. Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Báo cáo số 160-BC/TU ngày 16/10/2012 về tình hình
triển khai thực hiện Nghị quyết 27-NQ/TW ngày 6/8/2008 Ban chấp hành
Trung ương (khóa X) về xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
108. Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Báo cáo số 107-BC/TU ngày 30/3/2012, Tổng kết tình hình
thực hiện nhiệm vụ phát triển khoa học, công nghệ theo nghị quyết Trung ương 2
(khóa VIII), Kết luận Hội nghị Trung ương 6 (Khóa IX và các chỉ thị, kết luận
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa về phát triển Khoa học và công nghệ).
109. Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Chương trình hành động số 40-Ctr/TU của Tỉnh ủy thực
hiện nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 của Hội nghị lần thứ sáu Ban
chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về phát triển khoa học và công nghệ.
164
110. Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Báo cáo số 40-CTr/TU tháng 4 năm 2013 của Tỉnh ủy Quảng
Ngãi về Chương trình hành động của tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TU của
Ban chấp hành Trung ương (khóa XI) về phát triển khoa học và công nghệ.
111. Tỉnh ủy Bình Định, Chương trình hành động số 11-CTr/TU thực hiện nghị
quyết Đại hội X của Đảng và Nghị quyết đại hội XVII đảng bộ tỉnh về đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2006-2010.
112. Tỉnh ủy Bình Định, Chương trình hành động số 08-Ctr/TU thực hiện nghị
quyết đại hội XI của Đảng và nghị quyết đại hội XVIII của đảng bộ tỉnh về
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011- 2015.
113. Tỉnh ủy Bình Định, Báo cáo số 125-BC/TU ngày 7/10/2013 về Sơ kết giữa nhiệm
kỳ Chương trình hành động của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Đại hội XVIII đảng
bộ tỉnh về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2015.
114. Tỉnh ủy Phú Yên, Chương trình hành động số 14-CTr/TU thực hiện Nghị quyết
Trung ương 6 (khóa XI) về phát triển khoa học và công nghệ
115. Tỉnh ủy Phú Yên, Báo cáo số 123-BC/TU ngày 18/8/2008, Tổng kết 10 năm
thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về khoa học và công nghệ.
116. Tỉnh ủy Phú Yên, Báo cáo số 250-BC/TU ngày 16/7/2014, Báo cáo sơ kết 3 năm
thực hiện chương trình hành động số 07-Ctr/TU của Tỉnh ủy về phát triển nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh Phú Yên giai
đoạn 2011-2015.
117. Tỉnh ủy Khánh Hòa, Báo cáo số 50-BC/TU ngày 20/4/2012 Báo cáo tổng kết 15
năm thực hiện nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của tỉnh (1996 - 2011).
118. Tỉnh ủy Khánh Hòa, Chương trình hành động số 13-CTr/TU thực hiện Nghị
quyết số 20-NQ/TW về phát triển khoa học và công nghệ.
119. Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế, Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 15/11/2011 Nghị
quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIV về xây
dựng Thừa Thiên Huế trở thành một trong những trung tâm KH-CN của cả
nước giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
120. Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế, Báo cáo số 76-BC-TU ngày 01/12/2011 Tổng kết thực
hiện Nghị quyết Chương trình hành độ số 24-NQ/TU về phương hướng phát triển
KH-CN đến năm 2005 và năm 2010; phương hướng nhiệm vụ đến năm 2020.
165
121. Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế, Báo cáo số 136-BC/TU ngày 7/11/2012 về tình hình
thực hiện Nghị quyết 27-NQ/TW (khóa X) về xây dựng đội ngũ trí thực thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
122. Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế, Báo cáo số 94-BC/TU ngày 17/4/2012 của Tỉnh Ủy
Thừa Thiên Huế về tình hình thực hiện nhiệm vụ khoa học - công nghệ giai
đoạn 2001-2011 và phương hướng, nhiệm vụ đến 2020.
123. Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế, Báo cáo số 276-BC/TU ngày 15/8/2014 Báo cáo hai
năm thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW về phát triển khoa học và công nghệ.
124. Trần Văn Tùng, (2005) Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài
năng, Nxb Thế giới, Hà Nội.
125. Nguyễn Thanh (2005), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
126. Thành ủy Đà Nẵng, Báo cáo số 69-BC/TU ngày 24/4/2012 tổng kết nhiệm vụ
phát triển khoa học và công nghệ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
127. Thành ủy Đà Nẵng, Báo cáo số 133-BC/TU ngày 5/9/2005 Báo cáo thực trạng
và giải pháp chính sách đối với đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ thành
phố Đà Nẵng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
128. Thành ủy Đà Nẵng, Quyết định số 393-QĐ/TU, ngày 22/3/2006 về việc ban
hành đề án và thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Đề án “Đào tạo 100 thạc sĩ,
tiến sĩ tại các cơ sở nước ngoài”.
129. Thành ủy Đà Nẵng, Quyết định số 922-QĐ/QU ngày 11/2/2011 Về việc ban
hành Đề án Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
130. Thành ủy Đà Nẵng, Báo cáo tổng kết công tác phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao thành phố Đà Nẵng từ năm 1998 đến nay.
131. Thủ tướng chính phủ, Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn
2011-2020, ban hành theo Quyết định số 418/QĐ-TTg, ngày 11/4/2012.
132. Nguyễn Văn Thắng (2011), “Lạm bàn về nguồn nhân lực khoa học và công
nghệ tỉnh Quảng Bình”, Thông tin khoa học - công nghệ tỉnh Quảng Bình.
133. Đoàn Duy Trình (2010), Tỉnh ủy Cà Mau lãnh đạo khoa học và công nghệ trong
giai đoạn hiện nay, luận văn Khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
166
134. Nguyễn Duy Trình, (2009) Đánh giá chính sách phát triển nguồn nhân lực ở
thành phố Đà Nẵng hiện nay, luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
135. Phạm Chí Trung (2013), Đổi mới cơ chế hoạt động của các tổ chức nghiên cứu
và phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học và Xã hội, Hà Nội.
136. UBND tỉnh Quảng Bình, Quyết định số 35/2009/QĐ-UBND, ngày 22/12/2009
Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Bình đến năm 2020.
137. UBND tỉnh Quảng Bình, Quyết định số 17/2011/QĐ-UBND ngày 10/11/2011
Quyết định về việc ban hành chính sách thu hút, đào tạo nhân tài tỉnh Quảng
Bình giai đoạn 2011-2015.
138. UBND tỉnh Quảng Bình, Quyết định số 1665/QĐ-UBND ngày 15/7/2011 ban
hành chương trình hành động phát triển nguồn nhân lực tỉnh Quảng Bình giai
đoạn 2011-2015.
139. UBND tỉnh Quảng Bình, Báo cáo số 135/BC-UBND ngày 22/8/2013 Báo cáo
sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình hành động phát triển nguồn nhân lực
giai đoạn 2011-2015.
140. UBND tỉnh Quảng Trị, Đề án phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Quảng
Trị giai đoạn 2015-2020.
141. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, Quyết định số 1104/QĐ-UBND ngày 20/6/2012
Quyết định về việc ban hành kế hoạch thực hiện Nghị quyết Hội nghị tỉnh ủy
lần thứ V về xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành một trong những trung tâm
khoa học - công nghệ của cả nước (giai đoạn từ nay đến 2020).
142. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, Quyết định số 898/QĐ-UBND ngày 13/5/2013
Quyết định phê duyệt đề án “Xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành một trong
những trung tâm khoa học - công nghệ của cả nước.
143. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, Quyết định số 2711/ QĐ-UBND ngày
28/12/2011 Quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Thừa
Thiên Huế giai đoạn 2011-2020.
144. UBND thành phố Đà Nẵng, Chiến lược phát triển Khoa học và Công nghệ thành
phố Đà Nẵng đến năm 2010 và 2015, ban hành theo Quyết định số 29/2005/QĐ-
UB ngày 3/3/2005.
167
145. UBND thành phố Đà Nẵng, Quyết định số 8825/QĐ-UBND ngày 5/11/2007
Ban hành kế hoạch đào tạo nhân lực công nghệ sinh học của thành phố.
146. UBND thành phố Đà Nẵng, Quyết định số 6211/QĐ-UBND ngày 18/8/2010
Quyết định phê duyệt quy hoạch tổng thể ngành khoa học và công nghệ thành
phố Đà Nẵng đến năm 2020.
147. UBND Thành phố Đà Nẵng, Đề án Quy hoạch phát triển nhân lực thành phố
Đà Nẵng giai đoạn 2011-2020, ban hành theo Quyết định số 5882/QĐ-
UBND, ngày 23/7/2012.
148. UBND tỉnh Quảng Ngãi, Quyết định số 41/2007/QĐ-UBND gày 31/12/2007
Phê duyệt Đề án phát triển nguồn nhân lực tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2007-
2010 và định hướng đến năm 2015.
149. UBND tỉnh Quảng Ngãi, Đề án phát triển nguồn nhân lực tỉnh Quảng Ngãi
giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020.
150. UBND tỉnh Quảng Ngãi, Quyết định số 89/QĐ-UBND ngày 29/5/2012 Quyết
định ban hành Đề án đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ và thu hút nhân lực có trình độ
cao giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020.
151. UBND tỉnh Quảng Ngãi, Quyết định số 2037/QĐ-UBND ngày 20/12/2011 Về việc
phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2020.
152. UBDN tỉnh Quảng Ngãi, Quyết định số 739/QĐ-UBND ngày 11/4/2007 Quyết
định phê duyệt kế hoạch khoa học và công nghệ giai đoạn 2006-2010.
153. UBND tỉnh Bình Định, Quyết định số 154/2002/QĐ-UB ngày 30/10/2002 ban
hành quy định về một số biện pháp khuyến khích phát triển khoa học, công
nghệ và nhân lực có trình độ cao.
154. UBND tỉnh Bình Định, Quyết định số 45/2007/QĐ-UBND ngày 17/12/2007 về
việc ban hành quy định một số chính sách đào tạo cán bộ KH-CN trình độ cao
tỉnh Bình Định.
155. UBND tỉnh Bình Định, Quyết định số 27/2007/QĐ-UBND ngày 24/8/2007 về
việc ban hành Quy định một số chính sách phát triển khoa học, công nghệ và
nhân lực có trình độ.
156. UBND tỉnh Phú Yên, Kế hoạch số 28/KH-UBND ngày 11/7/2007 Kế hoạch
thực hiện Chương trình hành động số 08 của tỉnh ủy về phát triển nguồn nhân
lực tỉnh Phú Yên giai đoạn 2006-2010.
168
157. UBND tỉnh Phú Yên, Kế hoạch số 51/KH-UBND ngày 8/10/2009 Kế hoạch
thực hiện Chương trình hành động số 38-Ctr/TU của Ban Thường vụ tỉnh ủy
về phát triển KH&CN từ nay tới năm 2020.
158. UBND tỉnh Phú Yên, Kế hoạch số 52/KH-UBND ngày 22/7/2011 Kế hoạch
thực hiện Chương trình hành động của Tỉnh ủy về phát triển nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH tỉnh Phú Yên giai đoạn 2011-2015.
159. UBND tỉnh Khánh Hòa, Báo cáo số 103/BC-UBND ngày 13/7/2012 Báo cáo
về Hiện trạng, nhu cầu và đề xuất kiến nghị cơ chế, chính sách đào tạo, thu
hút, sử dụng nhân lực khoa học và công nghệ trình độ cao tỉnh Khánh Hòa
160. UBND tỉnh Khánh Hòa, Quyết định Phê duyệt Quy hoạch phát triển khoa học
và công nghệ tỉnh Khánh Hòa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, ban
hành theo quyết định số 743/QĐ-UBND, ngày 28/3/2014
161. Nguyễn Thị Tố Uyên (2012), Các tỉnh ủy vùng đồng bằng Sông Hồng lãnh
đạo đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn giai
đoạn hiện nay, luận án tiến sĩ Khoa học chính trị, Hà Nội.
162. Viện Nghiên cứu và Phát triển vùng (2011), Điều tra, đánh giá thực trạng,
nghiên cứu xây dựng đề án phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ tỉnh
Quảng Ngãi đến năm 2020.
163. Hồ Đức Việt (2010), Xây dựng, phát triển thị trường Khoa học và Công nghệ trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
164. Nguyễn Văn Vĩnh (2007), Đảng lãnh đạo nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
165. Xôm Nức Xổm Vi Chít (2008), Đổi mới phương thức lãnh đạo nhà nước ở nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay, luận án tiến sĩ Chính
trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
166. Nguyễn Như Ý, (Chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa-
Thông tin, Hà Nội.
167. Yasuhiko Inoue (2012), Kinh nghiệm Nhật Bản về phát triển nguồn nhân lực
(HRD). http://www.vysajp.org, ngày 22/12/2013.
168. Stivastava M.P (1997), Human resource planing: Aproach needs assessments
and priorities in manpower planing, Manak New Delhi.
PHỤ LỤC 1
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ VÙNG DHMT GIAI ĐOẠN 2011-2015
Địa phương Tổng sản phẩm bình quân 2011-2015
Cơ cấu kinh tế đến 2015
Thu nhập bình quân đầu người đến 2015
Thu ngân sách nhà nước 2011-2015
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 2011-2015
Quảng Bình 6,5% Nông, lâm & thủy sản: 24,6%; CN-XD: 24,9%; DV:50,5
28 triệu đồng 11.180 tỷ đồng 31.759 tỷ đồng
Quảng Trị 7,4% Nông, lâm & thủy sản: 22,5%; CN-XD: 37,9%; DV: 39,6%
34 triệu đồng 9.149 tỷ đồng 41.258 tỷ đồng
T.T. Huế 9% Nông, lâm & thủy sản: 9,6%; CN-XD: 34,7%; DV: 55,7%
44 triệu đồng 23.645 tỷ đồng 68.220 tỷ đồng
Đà Nẵng 9,7% Nông nghiệp: 2,1%; CN-XD: 35,3%; DV:62,6%
62,65 triệu đồng 58.233 tỷ đồng 159.170 tỷ đồng
Quảng Nam 9,92% Nông nghiệp: 16%; CN-XD: 42%; DV: 42%
24,8 triệu đồng 41.069 tỷ đồng 76.700 tỷ đồng
Quảng Ngãi 7,2% Nông nghiệp: 14%; CN-XD: 62%; DV: 24%
54,670 triệu đồng 128.189 tỷ đồng 66.893 tỷ đồng
Bình Định 9,2% Nông, lâm & thủy sản: 27,7%; CN-XD: 30,4%; DV: 41,9%
40,1 triệu đồng 24.178 tỷ đồng 100.386 tỷ đồng
Phú Yên 11,5% Nông, lâm &thủy sản: 20,9%; CN-XD: 37,1%; DV: 40,2%
33 triệu đồng 9.640 tỷ đồng 103,567 tỷ đồng
Khánh Hòa 6,06% Nông, lâm & Thủy sản: 11,28%; CN-XD: 41,42%
58,3 triệu đồng 59.817 tỷ đồng 110.000 tỷ đồng
Toàn Vùng 8,4% Nông, lâm & thủy sản:16,52%; CN-XD: 38,41%; DV: 44,8%
42,168 triệu đồng 365,1 tỷ đồng 757.953 tỷ đồng.
Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo chính trị đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh, thành phố nhiệm kỳ 2015 - 2020 và Báo cáo kinh
tế - xã hội của UBND tỉnh, thành phố vùng DHMT
PHỤ LỤC 2
SỐ LƯỢNG TỔ CHỨC ĐẢNG VÀ ĐẢNG VIÊN CỦA CÁC ĐẢNG BỘ
TỈNH, THÀNH PHỐ VÙNG DHMT CUỐI NĂM 2015
TT Địa phương
Tổ chức
đảng trực
thuộc
tỉnh,
thành ủy
Tổ chức cơ sở đảng
Số lượng
đảng viênTổng số
Trong đó
Đảng bộ
cơ sở
Chi bộ cơ
sở
1 Quảng Bình 13 609 315 294 67.847
2 Quảng Trị 16 578 256 322 40.338
3 TT Huế 18 692 344 348 47.194
4 Đà Nẵng 20 619 264 355 51.845
5 Quảng Nam 23 1.189 404 785 61.007
6 Quảng Ngãi 20 904 300 604 47.388
7 Bình Định 17 652 333 319 60.417
8 Phú Yên 14 473 240 233 35.074
9 Khánh Hòa 14 599 273 286 36.217
Tổng cộng 155 6.275 2.729 3.546 447.327
Nguồn: Vụ địa phương II - Ban Tổ chức Trung ương
PHU LỤC 3
KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ, PHÂN LOẠI CHẤT LƯỢNG TCCSĐ VÀ ĐẢNG VIÊN
CỦA CÁC ĐẢNG BỘ TỈNH, THÀNH PHỐ VÙNG DHMT (NĂM 2010)
TT Địa phương
Đánh giá chất lượng TCCSĐ Đánh giá chất lượng đảng viên
Tổng
số
Được
đánh giá
Trong đó
Tổng số Được
đánh giá
Trong đó
TSVM TSVM
tiêu biểu
Hoàn thành
tốt
Hoàn
thành
Yếu
kém
Hoàn
thành
xuất sắc
Hoàn
thành
tốt
Hoàn
thành
Không
hoàn
thành
1 Quảng Bình 603 598 452 60 101 41 4 58.484 52.531 6.715 38.653 6.940 223
2 Quảng Trị 642 641 501 108 110 26 4 31.988 29.634 4.152 21.851 3.419 212
3 T.T. Huế 696 688 550 134 113 24 1 36.369 33.905 4.681 26.170 2.932 122
4 Đà Nẵng 669 659 562 116 69 27 1 40.444 37.600 4.693 29.073 3.692 142
5 Quảng Nam 1.108 1.102 844 172 196 60 2 47.532 44.113 6.466 30.505 6906 233
6 Q.Ngãi 837 830 587 144 168 67 8 38.599 35.343 4.151 25.829 5.223 140
7 Bình Định 886 885 646 134 166 67 6 47.769 42.948 5.318 31.659 5.762 209
8 Phú Yên 601 599 437 91 137 25 0 25.161 23.679 3.569 17.771 2.196 143
9 Khánh Hòa 706 702 595 176 78 26 3 26.566 24.542 3.809 18.118 2.515 100
Tổng cộng 6.748 6.704 5.174 1.135 1.138 363 29 352.192 324.295 43.554 239.629 39.585 1.524
Tỉ lệ % 99,4% 77,1% 22% 17% 6% 0,4% 92% 13,4% 74% 12,2% 0,5%
Nguồn: Vụ địa phương II - Ban Tổ chức Trung ương
PHỤ LỤC 4
KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ, PHÂN LOẠI TCCSĐ VÀ ĐẢNG VIÊN
CỦA CÁC ĐẢNG BỘ TỈNH, THÀNH PHỐ VÙNG DHMT (NĂM 2015)
TT Địa phương
Đánh giá chất lượng TCCSĐ Đánh giá chất lượng đảng viên
Tổng
số
Được
đánh giá
Trong đó
Tổng số Được
đánh giá
Trong đó
TSVM TSVM
tiêu biểu
Hoàn thành
tốt
Hoàn
thành
Yếu
kém
Hoàn
thành
xuất sắc
Hoàn
thành
tốt
Hoàn
thành
Không
hoàn
thành
1 Quảng Bình 609 609 309 89 265 32 3 67.847 60.007 10.708 42.436 6.516 347
2 Quảng Trị 578 578 446 96 102 29 1 40.338 36.651 4.593 28.287 3.591 180
3 T.T. Huế 692 676 349 75 284 38 2 47.194 43.616 5.232 33.819 4.402 164
4 Đà Nẵng 619 612 321 63 262 29 0 51.845 47.249 6.193 36.744 4.179 133
5 Quảng Nam 1.189 1.185 858 167 269 55 3 61.007 55.053 6.601 42.051 6.108 293
6 Q.Ngãi 904 892 449 108 370 69 4 47.388 42.947 4.360 33.305 5.087 195
7 Bình Định 652 638 381 89 220 36 1 60.417 53.362 5.937 41.393 5.853 179
8 Phú Yên 473 472 244 54 179 45 4 35.074 31.760 2.990 24.338 4.253 179
9 Khánh Hòa 559 547 291 88 179 34 0 36.217 32.716 4.112 25.238 3.300 66
Tổng cộng 6.275 6.209 3.648 829 2.130 367 8 447.327 403.362 50.726 307.611 43.289 1.736
Tỉ lệ % 99% 59% 23% 34,3% 6% 0,3% 90,1% 13% 76,2% 11% 0,4%
Nguồn: Vụ địa phương II - Ban Tổ chức Trung ương
PHỤ LỤC 5
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH, THÀNH PHỐ VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG (Nhiệm kỳ 2010 - 2015)
T Địa phương
Tổng
số
Cơ cấu nữ, dân tộc thiểu số Độ tuổi Lý luận chính trị Chuyên môn nghiệp vụ
Nữ DTTS Dưới 40 Từ 40 - 50 Trên 50 Cử nhân, cao
cấp Trung cấp
Trung cấp
Cao đẳng Đại học Trên đại học
Số
lượng
Tỷ lệ
%
Số
lượng Tỷ lệ
%
Số
lượng
Tỷ lệ
%
Số
lượn
g
Tỷ lệ
%
Số
lượn
g
Tỷ lệ
%
Số
lượn
g
Tỷ lệ
%
Số
lượng
Tỷ lệ
%
Số
lượng
Tỷ lệ
%
Số
lượn
g
Tỷ lệ
%
Số
lượn
g
Tỷ lệ %
1 Q.Bình 55 3 5.45 0 0.00 4 7.27 26 47.27 25 45.45 55 100 0 0.00 0 0.00 29 52.73 26 47.27
2 Quảng Trị 55 4 7.27 0 0.00 3 5.45 22 40.00 30 54.55 54 98.18 1 1.82 1 1.82 51 92.73 3 5.45
3 T.T. Huế 55 4 7.27 0 0.00 3 5.45 14 25.45 38 69.09 54 98.18 1 1.82 0 0.00 34 61.82 21 38.18
4 Đà Nẵng 55 4 7.27 0 0.00 3 5.45 20 36.36 32 58.18 53 96.36 2 3.64 0 0.00 26 47.27 29 52.73
5 Q.Nam 55 3 5.45 5 9.09 4 7.27 20 36.36 31 56.36 55 100 0 0.00 0 0.00 41 74.55 14 25.45
6 Q.Ngãi 55 7 12.73 4 7.27 1 1.82 23 41.82 31 56.36 55 100 0 0.00 3 5.45 46 83.64 6 10.91
7 BìnhĐịnh 55 4 7.27 2 3.64 2 3.64 22 40.00 31 56.36 55 100 0 0.00 2 3.64 39 70.91 14 25.45
8 Phú Yên 55 4 7.27 1 1.82 4 7.27 22 40.00 29 52.73 55 100 0 0.00 0 0.00 46 83.64 9 16.36
9 K. Hòa 55 6 10.91 2 3.64 1.82 27 49.09 27 49.09 55 100 0 0.00 1.82 41 74.55 13 23.64
Tổng cộng 495 39 14 24 196 274 491 4 6 353 135
Tỷ lệ % 7,9% 2,9% 5% 40% 55,3
%
99,2
% 0,8% 1,2%
71,3
%
27,2
%
Nguồn: Vụ địa phương II - Ban Tổ chức Trung ương
PHỤ LỤC 6
BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY, THÀNH ỦY Ở VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG (NHIỆM KỲ 2010 - 2015)
T
T Địa phương
Tổng
số
Cơ cấu nữ, dân tộc
thiểu số Độ tuổi Lý luận chính trị Chuyên môn nghiệp vụ
Nữ DTTS Dưới 40 Từ 40 đến 50 Trên 50 Cử nhân,
cao cấp Trung cấp
Trung cấp
Cao đẳng Đại học Trên đại học
Số
lượng
Tỷ lệ
%
Số
lượn
g
Tỷ lệ
%
Số
lượn
g
Tỷ lệ
%
Số
lượn
g
Tỷ lệ %
Số
lượn
g
Tỷ lệ
%
Số
lượng
Tỷ lệ
%
Số
lượng
Tỷ lệ
%
Số
lượn
g
Tỷ lệ
%
Số
lượn
g
Tỷ lệ
%
Số
lượng Tỷ lệ %
1 Quảng Bình 15 1 6.67 0 0.00 0 0.00 7 46.67 8 53.33 15 100 0 0.00 0 0.00 7 46.67 8 53.33
2 Quảng Trị 14 0 0.00 0 0.00 0 0.00 1 7.14 13 92.86 14 100 0 0.00 1 7.14 10 71.43 3 21.43
3 TT Huế 15 1 6.67 0 0.00 0 0.00 3 20.00 12 80.00 15 100 0 0.00 0 0.00 7 46.67 8 53.33
4 Đà Nẵng 15 0 0.00 0 0.00 1 6.67 2 13.33 12 80.00 15 100 0 0.00 0 0.00 7 46.67 8 53.33
5 Q.Nam 15 1 6.67 0 0.00 0 0.00 3 20.00 12 80.00 15 100 0 0.00 0 0.00 10 66.67 5 33.33
6 Q.Ngãi 15 1 6.67 1 6.67 0 0.00 4 26.67 11 73.33 15 100 0 0.00 2 13.33 11 73.33 2 13.33
7 Bình Định 15 1 6.67 1 6.67 0 0.00 6 40.00 9 60.00 15 100 0 0.00 0 0.00 12 80.00 3 20.00
8 Phú Yên 15 1 6.67 1 6.67 2 13.33 5 33.33 8 53.33 15 100 0 0.00 0 0.00 13 86.67 2 13.33
9 K.Hòa 14 1 7.14 0 0.00 0 0.00 6 42.86 8 57.14 14 100 0 0.00 0 0.00 10 71.43 4 28.57
Tổng cộng 133 7 3 3 37 93 133 3 87 43
Tỷ lệ % 5,2% 2,3
%
2,3
%
28
%
70
% 100
2,3
%
66
%
32,3
%
Nguồn: Vụ địa phương II – Ban Tổ chức Trung ương
PHỤ LỤC 7
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH, THÀNH PHỐ VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG (NHIỆM KỲ 2015 - 2020)
T
T
Địa
phương
Tổ
ng
số
Cơ cấu nữ, dân
tộc thiểu số Độ tuổi Lý luận chính trị Chuyên môn nghiệp vụ
Nữ DTTS Dưới 40 Từ 40 - 50 Trên 50 Cử nhân,
cao cấp Trung cấp Đại học Thạc sĩ Tiến sĩ
Số
lượn
g
Tỷ lệ
%
Số
lượ
ng
Tỷ lệ
%
Số
lượ
ng
Tỷ lệ
%
Số
lượ
ng
Tỷ lệ
%
Số
lượ
ng
Tỷ lệ
%
Số
lượ
ng
Tỷ lệ
%
Số
lượn
g
Tỷ lệ
%
Số
lượ
ng
Tỷ lệ
%
Số
lượ
ng
Tỷ lệ
%
Số
lượn
g
Tỷ lệ
%
1 Quảng Bình 52 4 7.69 0 0.00 4 7.69 18 34.62 30 57.69 51 98.00 1 2.00 14 26.92 30 57.69 8 15.38
2 Quảng Trị 53 6 11.32 2 3.77 3 5.66 20 37.74 30 56.60 53 100 0 0.00 31 58.49 18 33.96 4 7.55
3 TT Huế 53 8 15.09 2 3.77 5 9.43 16 30.19 32 60.38 53 100 0 0.00 26 49.06 18 33.96 9 16.98
4 Đà Nẵng 52 7 13.46 0 0.00 7 13.46 12 23.08 33 63.46 52 100 0 0.00 14 26.92 28 53.85 10 19.23
5 Q. Nam 56 4 7.14 5 8.93 6 10.71 19 33.93 31 55.36 56 100 0 0.00 33 58.93 19 33.93 4 7.14
6 Q.Ngãi 56 6 10.71 3 5.36 4 7.14 22 39.29 30 53.57 56 100 0 0.00 37 66.07 16 28.57 3 5.36
7 Bình Định 55 3 5.45 2 3.64 4 7.27 18 32.73 33 60.00 54 98.1 1 1.9 28 50.91 19 34.55 7 12.73
8 Phú Yên 52 9 17.31 2 3.85 6 11.54 14 26.92 32 61.54 52 100 0 0.00 38 73.08 12 23.08 2 3.85
9 K.Hòa 52 2 3.85 2 3.85 3 5.77 10 19.23 39 75.00 52 100 0 0.00 35 67.31 12 23.08 5 9.62
Tổng cộng 481 49 18 42 149 290 479 2 256 172 52
Tỷ lệ % 10% 3,8
%
8,8
%
31
%
60,2
%
99,6
% 0,4%
53,3
%
35,8
%
10,9
%
Nguồn: Vụ địa phương II - Ban Tổ chức Trung ương
PHỤ LỤC 8
BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY, THÀNH ỦY Ở VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG (NHIỆM KỲ 2015 - 2020)
TT Địa phương
Tổng số
Cơ cấu nữ, dân tộc thiểu số
Độ tuổi Lý luận chính trị Chuyên môn nghiệp vụ
Nữ DTTS Dưới 40 Từ 40 - 50 Trên 50 Cử nhân, cao cấp
Trung cấp Đại học Thạc sĩ Tiến sĩ
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng Tỷ lệ
% Số
lượng Tỷ lệ
%
1 Quảng Bình 15 1 6.67 0 0.00 0 0.00 5 33.33 10 66.67 15 100 0 0.00 4 26.67 6 40.00 5 33.33
2 Quảng Trị 15 2 13.33 0 3.77 0 0.00 4 26.67 11 73.33 15 100 0 0.00 7 46.67 6 40.00 2 13.33
3 TT Huế 14 1 7.14 0 3.77 0 0.00 2 14.29 12 85.71 14 100 0 0.00 7 50.00 6 42.86 1 7.14
4 Đà Nẵng 15 2 13.33 0 0.00 1 6.67 2 13.33 12 80.00 15 100 0 0.00 4 26.67 7 46.67 4 26.67
5 Q.Nam 15 1 6.67 1 6.67 1 6.67 3 20.00 11 73.33 15 100 0 0.00 6 40.00 7 46.67 2 13.33
6 Quảng Ngãi 16 2 12.50 1 6.25 0 0.00 6 37.50 10 62.50 16 100 0 0.00 11 68.75 4 25.00 1 6.25
7 Bình Định 15 0 0.00 1 6.67 0 0.00 5 33.33 10 66.67 15 100 0 0.00 8 53.33 4 26.67 3 20.00
8 Phú Yên 16 2 12.50 1 6.25 1 6.25 4 25.00 11 68.75 16 00 0 0.00 9 56.25 7 43.75 0 0.00
9 Khánh Hòa 14 0 0.00 0 0.00 1 7.14 4 28.57 9 64.29 14 100 0 0.00 9 64.29 2 14.29 3 21.43
Tổng cộng 135 11 4 4 32 96 135 0 65 49 21
Tỷ lệ % 8,1%
2,3%
2,3% 24%
71%
100%
48,1%
36,3% 16%
Nguồn: Vụ địa phương II - Ban Tổ chức Trung ương
PHỤ LỤC 9
TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC CỦA BAN CHẤP HÀNH, BAN
THƯỜNG VỤ CÁC ĐẢNG BỘ, TỈNH THÀNH PHỐ
TT
Địa phương
Ban chấp
hành
Trình độ đào
tạo
Ban Thường
vụ
Trình độ đào
tạo
Ths TS Ths TS
NHIỆM KỲ 2010 - 2015
9 tỉnh, thành phố vùng duyên hải miền Trung
1 Quảng Bình 55 19 7 15 4 4
2 Quảng Trị 55 2 1 14 2 1
3 Thừa Thiên Huế 55 14 7 15 7 1
4 Đà Nẵng 55 19 10 15 4 4
5 Quảng Nam 55 9 5 15 2 3
6 Quảng Ngãi 55 3 3 15 1 1
7 Bình Định 55 10 4 15 2 1
8 Phú Yên 55 7 2 15 2 0
9 Khánh Hòa 55 8 5 14 2 2
Tổng cộng 495 91 44 133 26 17
Tỷ lệ % 18% 8,9% 20% 13%
4 tỉnh Tây Nguyên
1 Kon Tum 55 7 4 15 3 2
2 Gia Lai 55 6 1 14 2 0
3 Đắk Lắk 55 5 2 15 2 0
4 Đắk Nông 55 9 0 12 2 0
Tổng cộng 220 27 7 56 9 2
Tỷ lệ % 12% 3% 16% 3,6%
NHIỆM KỲ 2015 - 2020
9 tỉnh, thành phố vùng duyên hải miền Trung
1 Quảng Bình 52 30 8 15 6 5
2 Quảng Trị 53 18 4 15 6 2
3 Thừa Thiên Huế 53 18 9 14 6 1
4 Đà Nẵng 52 28 10 15 7 4
5 Quảng Nam 56 19 4 15 7 2
6 Quảng Ngãi 56 16 3 16 4 1
7 Bình Định 55 19 7 15 4 3
8 Phú Yên 52 12 2 16 7 0
9 Khánh Hòa 52 12 5 14 2 3
Tổng cộng 481 172 52 135 49 21
Tỷ lệ % 36% 11% 36% 16%
4 tỉnh Tây Nguyên
1 Kon Tum 54 13 4 15 4 1
2 Gia Lai 55 15 2 14 2 0
3 Đắk Lắk 56 18 5 14 4 1
4 Đắk Nông 51 12 1 14 5 0
Tổng cộng 216 58 12 57 15 2
Tỷ lệ % 27% 5,6% 26% 3,6%
28 tỉnh, thành phố khu vực miền Bắc
1 Hòa Bình 54 1 15 1
2 Ninh Bình 51 3 15 2
3 Hà Nam 51 7 14 3
4 Lào Cao 51 4 15 2
5 Nam Định 55 2 15 0
6 Thái Bình 51 6 15 3
7 Thanh Hóa 71 11 18 5
8 Sơn La 55 3 14 1
9 Bắc Ninh 51 10 15 5
10 Phú Thọ 55 1 15 0
11 Hà Giang 54 3 15 2
12 Yên Bái 51 0 15 0
13 Bắc Giang 53 5 15 2
14 Hưng Yên 53 1 14 0
15 Nghệ An 71 5 15 4
16 Lai Châu 50 0 16 0
17 Điện Biên 52 0 16 0
18 Quảng Ninh 56 9 15 3
19 Vĩnh Phúc 52 6 11 3
20 Cao Bằng 55 0 15 0
21 Hà Tĩnh 55 3 15 2
22 Bắc Kạn 50 2 15 0
23 Lạng Sơn 54 2 14 1
24 Tuyên Quang 51 1 14 0
25 TP Hải Phòng 56 10 11 2
26 TP Hà Nội 74 17 16 5
27 Hải Dương 55 4 15 0
28 Thái Nguyên 53 4 16 1
Tổng cộng 1.543 120 414 47
Tỷ lệ % 7,8% 11%
21 tỉnh, thành phố khu vực miền Nam
1 Cà Mau 52 0 15 0
2 Ninh Thuận 50 5 15 1
3 TP Cần Thơ 53 6 16 1
4 Đồng Nai 52 3 14 2
5 Bình Thuận 50 0 15 0
6 Long An 54 1 14 0
7 Bến Tre 52 0 16 0
8 Trà Vinh 51 3 15 1
9 Tây Ninh 51 0 15 0
10 Hậu Giang 52 1 16 0
11 TP Hồ Chí Minh 69 7 15 2
12 Kiên Giang 56 2 16 2
13 Tiền Giang 50 2 15 1
14 Vĩnh Long 51 4 15 4
15 An Giang 53 3 15 2
16 Đồng Tháp 54 3 15 0
17 Bà Rịa Vũng Tàu 52 2 15 0
18 Bình Phước 55 1 16 0
19 Bình Dương 52 3 14 2
20 Sóc Trăng 54 3 16 3
21 Bạc Liêu 46 2 14 0
Tổng cộng 1.109 51 317 21
Tỷ lệ % 4,6% 6,7%
Nguồn: Vụ địa phương II - Ban Tổ chức Trung ương
PHỤ LỤC 10
ỦY VIÊN BAN CHẤP HÀNH LÀ NỮ VÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ CỦA CÁC
ĐẢNG BỘ TỈNH, THÀNH PHỐ TRONG CẢ NƯỚC (Nhiệm kỳ 2015 - 2020)
TT Đảng bộ
Tổng số cấp
ủy viên được
bầu
Cấp ủy viên là nữ Dân tộc thiểu số
Số lượng Tỷ lệ % Số
lượng Tỷ lệ %
28 tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc
1 Hòa Bình 54 5 9.26 38 70.37
2 Ninh Bình 51 8 15.69 0 0.00
3 Hà Nam 51 7 13.73 0 0.00
4 Lào Cai 52 8 15.69 17 33.33
5 Nam Định 55 8 14.55 0 0.00
6 Thái Bình 54 3 5.56 0 0.00
7 Thanh Hóa 71 7 9.86 9 12.68
8 Sơn La 55 12 21.82 24 43.64
9 Bắc Ninh 51 8 15.69 0 0.00
10 Phú Thọ 55 8 14.55 5 9.09
11 Hà Giang 54 7 12.96 23 42.59
12 Yên Bái 51 9 17.65 14 27.45
13 Bắc Giang 53 8 15.09 4 7.55
14 Hưng Yên 54 9 16.98 0 0.00
15 Nghệ An 71 8 11.27 7 9.86
16 Lai Châu 51 7 14.00 16 32.00
17 Điện Biên 54 6 11.54 19 36.54
18 Quảng Ninh 56 10 17.86 1 1.79
19 Vĩnh Phúc 52 5 9.62 0 0.00
20 Cao Bằng 55 12 21.82 42 76.36
21 Hà Tĩnh 55 5 9.09 0 0.00
22 Bắc Kạn 51 7 14.00 36 72.00
23 Lạng Sơn 54 9 16.67 29 53.70
24 Tuyên Quang 51 14 27.45 22 43.14
25 TP Hải Phòng 56 5 8.93 0 0.00
26 TP Hà Nội 76 9 12.16 0 0.00
27 Hải Dương 55 8 14.55 0 0.00
28 Thái Nguyên 53 6 11.32 8 15.09
Tổng cộng 1.543 216 14 314 20,4%
9 tỉnh, thành phố khu vực duyên hải miền Trung
1 Quảng Bình 52 4 7.69 0 0.00
2 Quảng Trị 53 6 11.32 2 3.77
3 Thừa Thiên Huế 53 8 15.09 2 3.77
4 TP Đà Nẵng 52 7 13.46 0 0.00
Quảng Nam 56 4 7.14 5 8.93
6 Quảng Ngãi 56 6 10.71 3 5.36
7 Bình Định 55 3 5.45 2 0.00
8 Phú Yên 52 9 17.31 2 3.85
9 Khánh Hòa 52 2 3.85 2 3.85
Tổng cộng 481 49 10 18 3,8%
21 tỉnh, thành phố khu vực phía Nam
1 Cà Mau 52 4 7.79
2 Ninh Thuận 51 5 10.00
3 Tp Cần Thơ 53 8 15.09
4 Đồng Nai 55 9 17.31
5 Bình Thuận 54 6 12.00
6 Long An 56 2 3.70
7 Bến Tre 52 8 15.38
8 Trà Vinh 51 7 13.73
9 Tây Ninh 51 8 15.69
10 Hậu Giang 52 7 13.46
11 TP HCM 70 15 21.74
12 Kiên Giang 56 14 25.00
13 Tiền Giang 54 7 14.00
14 Vĩnh Long 51 6 11.76
11 An Giang 53 4 7.55
16 Đồng Tháp 54 5 9.26
11 Bà Rịa Vũng
Tàu 52 5 9.62
18 Bình Phước 56 12 21.82
21 Bình Dương 52 7 13.46
20 Sóc Trăng 54 7 12.96
21 Bạc Liêu 51 4 8.70
Tổng cộng 1.109 138 13%
Nguồn: Vụ địa phương II - Ban Tổ chức Trung ương
PHỤ LỤC 11
NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ CỦA CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ
VÙNG DHMT NĂM 2002 VÀ 2015
TT Địa phương Số lượng
Năm 2002 Năm 2015
1 Quảng Bình 11.685 31.235
2 Quảng Trị 8.219 23.224
3 T.T.Huế 21.929 48.864
4 Đà Nẵng 32.394 78.036
5 Quảng Nam 15.185 43.704
6 Quảng Ngãi 14.862 36.836
7 Bình Định 17.746 51.547
8 Phú Yên 9.446 28.109
9 Khánh Hòa 22.746 49.316
Toàn vùng 154.212 390.871
Toàn quốc 1.477,770 4.012,000
Nguồn: Sở Khoa học và công nghệ các tỉnh, thành phố vùng DHMT
PHỤ LỤC 12
NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ TRỰC TIẾP THAM GIA
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA MỘT SỐ TỈNH,
THÀNH PHỐ VÙNG DHMT
TT Địa phương Nhân lực KH – CN Dân số
năm 2015
Nhân
lực KH-
CN / 1
vạn dân
năm
2015
Năm
2012
Năm
2013
Năm
2014
Năm
2015
1 T. T. Huế 1.554 2.133 2.619 5.293 1.143.572 46
2 Đà Nẵng 1.686 3.437 4.195 8.560 1.029.110 83
3 Bình Định 1.246 1.406 2.849 4.444 1.519.600 29
4 Khánh Hòa 2.764 3.039 3.153 3.313 1.205.700 27
Tổng cộng 7.250 10.015 12.816 21.610 4.897.982 44
Nguồn: Sở Khoa học và Công nghệ các tỉnh, thành phố vùng DHMT
PHỤ LỤC 13
CƠ CẤU NHÂN LỰC KH - CN TRỰC TIẾP THAM GIA HOẠT ĐỘNG KH&CN
CỦA MỘT SỐ TỈNH, THÀNH PHỐ VÙNG DHMT (Năm 2015)
TT Địa phương Tổng
số
Giới tính Dân tộc Độ tuổi Lĩnh vực đào tạo
Nam Nữ Kinh
Dân
tộc
thiểu
số
Đến
35
tuổi
Từ 35
– 55
tuổi
Từ
56–
60
tuổi
Từ
61 –
65
tuổi
Trên
65
tuổi
Khoa
học
tự
nhiên
Khoa
học
kỹ
thuật
và
công
nghệ
Khoa
học y,
dược
Khoa
học
nông
nghiệp
Khoa học
xã hội &
nhân văn
1 Quảng Trị 1.060 663 397 1.057 3 320 510 230 0 0 228 160 134 216 322
2 T.T Huế 5.293 3.679 1.614 5.246 47 1.867 2.653 739 30 4 532 682 1.520 431 2.128
3 Đà Nẵng 8.560 5.228 3.332 8.545 15 3.886 3.771 873 29 1 975 1.638 2.730 359 2.858
4 Bình Định 4.444 2.884 1.560 4.416 28 1.242 2.698 504 0 0 870 968 727 450 1.429
5 Khánh Hòa 3.313 1.978 1.335 3.291 22 1.586 1.436 285 5 1 323 668 1.261 274 787
Tổng cộng 22.670 14.432 8.238 22.555 115 8.901 11.068 2.631 64 6 2.928 4.116 6.372 1.730 7.524
Tỷ lệ % 64% 36% 99,5% 0,5% 39% 49% 12% 0,2% 0,02% 13% 18% 28% 7,7% 33%
PHỤ LỤC 14
CƠ CẤU NHÂN LỰC KH - CN TRỰC TIẾP THAM GIA HOẠT ĐỘNG KH&CN
CỦA MỘT SỐ TỈNH, THÀNH PHỐ VÙNG DHMT (Năm 2015)
TT Địa
Phương
Tổng
số Trình độ chuyên môn Loại hình tổ chức
Tiến
sĩ
Thạc
sĩ
Đại
học
Cao
đẳng
Trung
cấp Khác
Giáo
sư
Phó
giáo sư
Trường
đại học,
cao
đẳng,
học viện
Tổ chức
nghiên
cứu và
phát
triển
Tổ chức
dịch vụ
KH&CN
Doanh
nghiệp
Cơ
quan
quản lý
nhà
nước
1 Quảng Trị 1.060 43 235 671 22 48 41 0 0 224 44 547
2 T.T Huế 5.293 516 1.253 2.084 246 225 766 13 190 2.225 402 40 607 2.019
3 Đà Nẵng 8.560 352 1.541 3.131 329 1.778 1.359 3 67 3.977 385 55 352 3.791
4 Bình Định 4.444 135 729 1.537 306 1.233 483 0 21 1.896 652 70 202 1.624
5 Khánh Hòa 3.313 81 536 1.353 269 623 437 3 11 820 408 99 108 1.878
Tổng cộng 22.670 1.127 4.294 8.776 1.172 3.907 3.086 19 289 9.142 1.891 264 1.269 9.859
Tỉ lệ % 5% 19% 39% 5,1% 17,2% 14% 0,09% 1,3% 40,3% 8% 1,2% 6% 44%
Nguồn: Sở Khoa học và Công nghệ các tỉnh, thành phố vùng DHMT
PHỤ LỤC 15
TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO CỦA NHÂN LỰC KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ
CỦA CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ VÙNG DHMT NĂM 2002 VÀ 2015
TT Địa phương Năm 2002 Năm 2015
Cao đẳng Đại học trở lên Cao đẳng Đại học trở lên
1 Quảng Bình 5.109 6.576 10.898 20.337
2 Quảng Trị 2.532 5.687 7.198 16.026
3 Thừa Thiên Huế 5.430 16.499 10.868 37.996
4 Đà Nẵng 6.226 26.168 15.297 62.739
5 Quảng Nam 7.549 7.636 17.830 25.874
6 Quảng Ngãi 6.624 8.238 13.518 23.318
7 Bình Định 5.042 12.704 9.420 42.127
8 Phú Yên 3.393 6.053 10.909 17.200
9 Khánh Hòa 7.121 15.625 13.804 35.512
Tổng cộng 49.026 105.186 109.742 281.129
Nguồn: Sở Khoa học và công nghệ của các tỉnh, thành phố vùng DHMT
PHỤ LỤC 16
BÌNH QUÂN NHÂN LỰC KH-CN/1 VẠN DÂN CỦA CÁC TỈNH,
THÀNH PHỐ VÙNG DHMT NĂM 2002 VÀ 2015
Địa
phương Năm 2002 Năm 2015
Dân số Nhân lực
KH-CN
Nhân lực
KH-CN/
1 vạn
dân
Dân số Nhân lực
KH-CN
Nhân lực
KH-CN/1
vạn dân
Quảng Trị 583.866 8.219 140 616.400 23.224 376
Quảng Bình 814.777 11.685 143 872.925 31.235 357
T.T. Huế 1.044.875 21.929 209 1.143.572 48.864 427
Đà Nẵng 700.000 32.394 462 1.029.110 78.036 758
Quảng Nam 1.373.687 15.185 110 1.480.790 43.704 295
Quảng Ngãi 1.200.600 14.862 123 1.246.165 36.836 295
Bình Định 1.470.700 17.746 120 1.519.600 51.547 339
Phú yên 787.282 9.446 119 883.200 28.109 318
Khánh Hòa 1.031.390 22.746 220 1.205.700 49.316 409
Toàn Vùng 9.007.177 154.212 171 9.997.462 390.871 390
PHỤ LỤC 17
GIẢI THƯỞNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA TỈNH THỪA
THIÊN HUẾ (Năm 2011)
Đơn vị tính: %
Loại giải thưởng Có Không
Giải thưởng khoa học quốc tế 2.94 97.06
Giải thưởng Nhà nước về KH&CN 2.86 97.14
Giải thưởng Hồ Chí Minh về
KH&CN 0.00 100.00
Nguồn: Điều tra, khảo sát về phát triển KH&CN ở Thừa Thiên Huế của Viện
nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, trường Đại học kinh tế quốc dân, năm 2011
PHỤ LỤC 18
GIẢI THƯỞNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ (Năm 2014 và 2015)
Nguồn: Sở Khoa học và công nghệ của các tỉnh, thành phố
Địa phương Tổng
số
Năm 2014
Tổng
số
Năm 2015
Giải
thưởng
Hồ Chí
Minh
Giải
thưởng
Nhà
nước
Giải
thưởng
Bộ/Ngành
Giải
thưởng
cấp
tỉnh
Giải
thưởng
khác
Giải
thưởng
quốc tế
Giải
thưởng
Hồ Chí
Minh
Giải
thưởng
Nhà
nước
Giải
thưởng
Bộ/Ngành
Giải
thưởng
tỉnh/TP
Giải
thưởng
khác
Giải
thưởng
quốc tế
Quảng Trị 2 0 0 0 2 0 0 7 0 1 1 4 1 0
T.T.Huế 9 0 0 0 8 1 0 9 0 0 9 0 0 0
Đà Nẵng 7 0 0 3 2 0 2 57 0 0 21 3
6
0 0
Khánh Hòa 7 0 0 4 3 0 0
Tổng cộng 18 70
PHỤ LỤC 19
KẾT QUẢ ĐÀO TẠO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC TRÌNH ĐỘ
SAU ĐẠI HỌC CỦA CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ VÙNG DHMT
TT Địa phương Thời gian Trình độ đào tạo
(Ths,TS, chuyên khoa I và II)
1 Quảng Trị 2003-2012 416
2 Thừa Thiên Huế 2008-2011 444
3 Đà Nẵng 2006-2014 776
4 Quảng Nam 2007-2014 408
5 Quảng Ngãi 2007-2014 773
6 Bình Định 2006-2014 775
7 Phú Yên 2006-2014 468
8 Khánh Hòa 2006-2014 734
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của các tỉnh, thành phố vùng DHMT
PHỤ LỤC 20
KẾT QUẢ THU HÚT NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
CỦA CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ VÙNG DHMT ĐẾN NĂM 2015
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của Sở Nội vụ các địa phương vùng DHMT
TT Địa phương Số lượng nhân lực
thu hút được Tiến sĩ Thạc sĩ
Đại học loại
giỏi, xuất sắc
Bác sĩ,
bác sĩ nội trú
1 Quảng Bình 34 1 27 6
2 Quảng Trị 176 49 95 32
3 Đà Nẵng 1.043 13 224 806
4 Quảng Nam 154 1 53 100
5 Quảng Ngãi 139 2 30 6 101
6 Bình Định 106 1 18 87
7 Phú Yên 131 55 49 27
8 Khánh Hòa 40 4 22 14
Toàn vùng 1.823 22 478 1.063 260