196
ĐẠI HC HUTRƯỜNG ĐẠI HC KHOA HC ------ PHAN THANH THƯ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VI CÁC NƯỚC ĐÔNG BẮC Á (1989 - 2010) LUẬN ÁN TIẾN SĨ LCH SHU, NĂM 2016

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

------

PHAN THỊ ANH THƯ

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC

ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐÔNG BẮC Á (1989 - 2010)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HUẾ, NĂM 2016

Page 2: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

------

PHAN THỊ ANH THƯ

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC

ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐÔNG BẮC Á (1989 - 2010)

Chuyên ngành: Lịch sử thế giới

Mã số: 62 22 03 11

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. HOÀNG VĂN HIỂN

PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH HOA

HUẾ, NĂM 2016

Page 3: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách quan và

chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.

Tác giả luận án

Phan Thị Anh Thư

Page 4: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

Lời cảm ơn

TTrroonngg qquuáá ttrrììnnhh tthhựựcc hhiiệệnn lluuậậnn áánn,, ttôôii đđãã nnhhậậnn đđưượợcc ssựự hhỗỗ ttrrợợ qquuýý

bbááuu vvàà hhiiệệuu qquuảả ttừừ nnhhiiềềuu ccáá nnhhâânn,, ccơơ qquuaann vvàà đđơơnn vvịị.. TTrrưướớcc hhếếtt,, ttôôii xxiinn

bbààyy ttỏỏ llòònngg bbiiếếtt ơơnn ssââuu ssắắcc đđếếnn PPGGSS.. TTSS.. HHooàànngg VVăănn HHiiểểnn vvàà PPGGSS.. TTSS..

HHooàànngg TThhịị MMiinnhh HHooaa -- hhaaii nnggưườờii hhưướớnngg ddẫẫnn kkhhooaa hhọọcc đđãã lluuôônn đđồồnngg

hhàànnhh,, ttậậnn ttââmm ggiiúúpp đđỡỡ ttôôii ssuuốốtt tthhờờii ggiiaann hhọọcc ttậậpp vvàà tthhựựcc hhiiệệnn đđềề ttààii..

CChhâânn tthhàànnhh ccảảmm ơơnn BBaann GGiiáámm đđốốcc,, BBaann ĐĐààoo ttạạoo SSaauu đđạạii hhọọcc –– ĐĐạạii

hhọọcc HHuuếế,, BBaann GGiiáámm HHiiệệuu TTrrưườờnngg ĐĐạạii hhọọcc KKhhooaa hhọọcc,, PPhhòònngg ĐĐààoo ttạạoo SSaauu

đđạạii hhọọcc,, BBaann CChhủủ NNhhiiệệmm KKhhooaa LLịịcchh ssửử -- TTrrưườờnngg ĐĐạạii hhọọcc KKhhooaa hhọọcc đđãã

ttạạoo đđiiềềuu kkiiệệnn tthhuuậậnn llợợii đđểể ttôôii hhooàànn tthhàànnhh LLuuậậnn áánn.. XXiinn ggửửii llờờii ttrrii âânn ssââuu

ssắắcc đđếếnn qquuýý tthhầầyy ccôô ggiiááoo tthhuuộộcc KKhhooaa LLịịcchh ssửử,, BBộộ mmôônn LLịịcchh ssửử tthhếế ggiiớớii

ccủủaa ttrrưườờnngg ĐĐạạii hhọọcc KKhhooaa hhọọcc vvàà ĐĐạạii hhọọcc SSưư pphhạạmm,, ĐĐạạii hhọọcc HHuuếế đđãã nnhhiiệệtt

ttììnnhh ggiiúúpp đđỡỡ ttôôii ttrroonngg qquuáá ttrrììnnhh nngghhiiêênn ccứứuu vvàà hhooàànn tthhiiệệnn đđềề ttààii..

TTôôii ccũũnngg xxiinn ttrrâânn ttrrọọnngg ccảảmm ơơnn LLããnnhh đđạạoo vvàà ccáánn bbộộ VViiệệnn NNgghhiiêênn

ccứứuu ĐĐôônngg BBắắcc ÁÁ,, TThhôônngg ttấấnn xxãã VViiệệtt NNaamm,, PPhhòònngg TThhôônngg ttiinn ĐĐạạii ssứứ qquuáánn

HHàànn QQuuốốcc ttạạii VViiệệtt NNaamm,, TThhưư vviiệệnn QQuuốốcc ggiiaa,, TThhưư vviiệệnn TTổổnngg hhợợpp TThhừừaa

TThhiiêênn HHuuếế đđãã hhỗỗ ttrrợợ ttôôii ttrroonngg qquuáá ttrrììnnhh ttììmm kkiiếếmm vvàà ssưưuu ttầầmm ttưư lliiệệuu..

CCuuốốii ccùùnngg,, ttôôii xxiinn ggửửii llờờii ttrrii âânn đđếếnn bbạạnn bbèè,, đđồồnngg nngghhiiệệpp,, đđặặcc bbiiệệtt

llàà ggiiaa đđììnnhh tthhâânn yyêêuu đđãã lluuôônn qquuaann ttââmm,, đđộộnngg vviiêênn vvàà ssáátt ccáánnhh bbêênn ttôôii

ttrroonngg nnhhữữnngg tthhờờii đđiiểểmm kkhhóó kkhhăănn nnhhấấtt.. ĐĐââyy cchhíínnhh llàà nngguuồồnn ssứứcc mmạạnnhh ttiinnhh

tthhầầnn ttoo llớớnn ggiiúúpp ttôôii vvưượợtt qquuaa mmọọii ttrrởở llựựcc đđểể kkhhôônngg nnggừừnngg vvưươơnn llêênn ttrroonngg

hhọọcc ttậậpp vvàà ccuuộộcc ssốốnngg..

HHuuếế,, tthháánngg 0022 nnăămm 22001166

TTáácc ggiiảả

PPhhaann TThhịị AAnnhh TThhưư

Page 5: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục bảng

Danh mục biểu đồ

Danh mục chữ viết tắt

MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................................... 3

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 11

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 12

5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ....................................................... 12

6. Đóng góp của đề tài............................................................................................. 13

7. Bố cục của luận án .............................................................................................. 14

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC

ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐÔNG BẮC Á (1989 - 2010) ....................................................... 15

1.1. Yếu tố lịch sử: Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á

(1948 – 1989) ...................................................................................................................... 15

1.1.1. Đối với Nhật Bản ....................................................................................... 15

1.1.2. Đối với Trung Quốc ................................................................................... 21

1.1.3. Đối với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ....................................... 24

1.2. Bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước từ sau Chiến tranh lạnh .................... 31

1.2.1. Bối cảnh quốc tế, khu vực và sự thay đổi chiến lược của các nước lớn ....... 31

1.2.2. Tình hình kinh tế - xã hội và nhu cầu cố kết quan hệ khu vực của Hàn Quốc .. 35

1.2.3. Định hướng điều chỉnh chính sách của Hàn Quốc ................................... 39

CHƯƠNG 2. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI

CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐÔNG BẮC Á (1989 - 2010) ......................... 41

2.1. Trên lĩnh vực an ninh - chính trị ....................................................................... 41

2.1.1. Đối với Nhật Bản ...................................................................................... 41

2.1.2. Đối với Trung Quốc ................................................................................. 50

2.1.3. Đối với CHDCND Triều Tiên .................................................................. 57

Page 6: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

2.2. Trên lĩnh vực kinh tế ....................................................................................... 68

2.2.1. Đối với Nhật Bản ...................................................................................... 68

2.2.2. Đối với Trung Quốc ................................................................................. 77

2.3. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội ........................................................................ 94

2.3.1. Đối với Nhật Bản ...................................................................................... 94

2.3.2. Đối với Trung Quốc ............................................................................... 101

2.3.3. Đối với CHDCND Triều Tiên ................................................................ 107

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC

ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐÔNG BẮC Á (1989 - 2010) ....................................................... 119

3.1. Những điểm chung và riêng trong chính sách của Hàn Quốc đối với Nhật Bản,

Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên (1989 – 2010) ............................................ 119

3.1.1. Những điểm chung ................................................................................... 119

3.1.2. Những điểm riêng .................................................................................... 122

3.2. Những thành công và hạn chế trong chính sách của Hàn Quốc đối với các nước

Đông Bắc Á (1989 – 2010) .................................................................................... 124

3.2.1. Những thành công đạt được ..................................................................... 124

3.2.2. Những hạn chế cơ bản ............................................................................ 131

3.3. Những bài học kinh nghiệm ........................................................................... 136

3.3.1. Một số vấn đề đặt ra đối với Hàn Quốc ................................................. 136

3.3.2. Hàm ý đối với Việt Nam .......................................................................... 143

KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 148

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN TRỰC TIẾP

ĐẾN LUẬN ÁN .............................................................................................................. 153

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 154

PHỤ LỤC

Page 7: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Thị phần xuất - nhập khẩu của Hàn Quốc với Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc

(các năm được chọn) .......................................................................................................... 79

Bảng 2.2. Kim ngạch thương mại liên Triều (2001 - 2010) ............................................ 87

Bảng 2.3. Lộ trình thực hiện chính sách “mở cửa” của Chính phủ Hàn Quốc đối với

Nhật Bản trên lĩnh vực văn hóa – xã hội (1988 - 2004) ................................................... 97

Bảng 2.4. Các giai đoạn phát triển “Hallyu” ở Trung Quốc .......................................... 104

Bảng 2.5. Đoàn tụ các gia đình ly tán ở nước thứ ba (12-6-1989 đến 31-12-2000) .... 113

Bảng 2.6. Trao đổi và đoàn tụ các gia đình ly tán qua các thời kỳ tổng thống ............. 114

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Trao đổi thương mại liên Triều (1989 - 2000) ............................................ 86

Biểu đồ 2.2. Viện trợ nhân đạo của Hàn Quốc cho CHDCND Triều Tiên .................... 109

Page 8: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Tiếng Anh

APEC : Asia-Pacific Economic Cooperation : Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái

Bình Dương

APT : ASEAN Plus Three : ASEAN+3

ARF : ASEAN Regional Forum : Diễn đàn Khu vực ASEAN

ASEAN : Association of Southeast Asian Nations : Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á

ASEM : Asia-Europe Meeting : Diễn đàn hợp tác Á - Âu

CIA : Central Intelligence Agency : Cục Tình báo Trung ương Mỹ

EAC : East Asian Community : Cộng đồng Đông Á

EAEC : East Asian Economic Community : Diễn đàn Kinh tế Đông Á

EAEG : East Asian Economic Group : Nhóm Kinh tế Đông Á

EAFTA : East Asia Free Trade Area : Khu vực Thương mại tự do Đông Á

EAS : East Asian Summit : Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á

EASG : East Asian Studying Group : Nhóm Nghiên cứu Đông Á

EAVG : East Asia Vision Group : Nhóm Tầm nhìn Đông Á

EDCF : Economic Development Cooperation

Fund

: Qũy Hợp tác phát triển kinh tế đối ngoại

EFTA : European Free Trade Association : Hiệp hội Thương mại tự do châu Âu

EPA : Economic Partnership Agreement : Hiệp định đối tác kinh tế

EU

FDI

: European Union

: Foreign Direct Investment

: Liên minh châu Âu

: Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FITA : Foreign Investment Promotion Act : Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài

(Hàn Quốc)

FTA : Free Trade Agreement : Hiệp định Thương mại tự do

FTACJK : FTA (China, Japan, Korea) : Hiệp định Thương mại tự do Trung

Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc

GDP : Gross Domestic Product : Tổng sản phẩm quốc nội

IBRD : International Bank for Reconstruction

and Development

: Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế

Page 9: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

IAEA :International Atomic Energy Agency : Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế

IMF : International Monetary Fund : Qũy Tiền tệ Quốc tế

KCFTA : (Republic of) Korea – Chile Free

Trade Agreement

: Hiệp định Thương mại tự do Hàn Quốc

– Chi lê

KIC : Kaesong Industrial Complex : Tổ hợp Công nghiệp Kaesong

KISC : Korea Investment Service Center : Trung tâm Dịch vụ đầu tư Hàn Quốc

KOTRA : Korea Trade – Investment Promotion

Agency

: Cơ quan Xúc tiến Thương mại - Đầu tư

Hàn Quốc

MOFAT : Ministry of Foreign Affairs and Trade : Bộ Ngoại giao và Thương mại Hàn Quốc

MOTIE : Ministry of Trade, Industry and

Energy

: Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng

lượng Hàn Quốc

NEACI : Northeast Asian Cooperation

Initiative

: Sáng kiến Hợp tác Đông Bắc Á

NGOs : Non-Government Organizations : Các Tổ chức phi chính phủ

NICS : Newly Industrialized Countries : Các nước công nghiệp mới

NPT : Nuclear Non-Proliferation Treaty : Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân

NSC : National Security Council : Hội đồng An ninh Quốc gia (Hàn Quốc)

ODA : Official Development Assistance : Viện trợ Phát triển chính thức

OECD : Organization for Economic

Cooperation and Development

: Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế

UNICEF : United Nations Childern’s Fund : Qũy Nhi đồng Liên Hợp Quốc

WB : World Bank : Ngân hàng Thế giới

WFP : World Food Programme : Chương trình Lương thực Thế giới

WHO : World Health Organization : Tổ chức Y tế Thế giới

Page 10: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

Tiếng Việt

CNCS : Chủ nghĩa cộng sản

CNXH : Chủ nghĩa xã hội

CHDCND : Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

CTTG : Chiến tranh thế giới

TBCN : Tư bản chủ nghĩa

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

Page 11: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự hai cực Yalta bị phá vỡ, hệ thống xã hội

chủ nghĩa (XHCN) thế giới sụp đổ, bàn cờ chính trị quốc tế được tái sắp xếp với những

thay đổi hết sức căn bản. Một trật tự thế giới mới từng bước hình thành theo xu hướng

“đa cực” cho thấy ý thức cân bằng quyền lực của các nước lớn trong sự đối trọng với

Mỹ - siêu cường duy nhất của thế giới sau khi Liên Xô tan rã (1991). Trong bối cảnh

mới, các nước đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại, cùng tồn tại hòa bình, vừa hợp tác,

vừa cạnh tranh và phát triển. Ở góc độ song phương, nhiều mối quan hệ đối tác toàn

diện, đối tác chiến lược đã được thiết lập. Cùng với những diễn biến đa chiều của đời

sống an ninh, chính trị thế giới, sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa

học và công nghệ cũng tác động rất lớn đến hệ thống quan hệ quốc tế toàn cầu. Những

thành tựu từ cuộc cách mạng này đã góp phần khai sinh nền kinh tế tri thức và mở

đường cho quá trình toàn cầu hóa, trước hết là toàn cầu hóa kinh tế khu vực và thế giới.

Những đặc điểm nói trên đòi hỏi mỗi nước phải nhanh chóng điều chỉnh chính sách đối

ngoại một cách phù hợp để chủ động hội nhập sâu rộng và hiệu quả vào đời sống quốc

tế, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng, phát triển quốc gia - dân tộc. Từ trong bối cảnh ấy,

hoạt động liên minh, liên kết khu vực và quốc tế đã ra đời, nhanh chóng đáp ứng được

nhu cầu hợp tác cùng phát triển giữa các quốc gia. Trường hợp liên kết khu vực Đông

Bắc Á cũng xuất phát từ yêu cầu cấp thiết nói trên.

Ngày nay, Đông Bắc Á đã và đang trở thành một trong những khu vực phát triển

nhất của thế giới và được coi là đầu tàu tăng trưởng của châu Á - Thái Bình Dương. Ba

nền kinh tế lớn trong khu vực là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc luôn có tầm ảnh

hưởng và sức chi phối nhất định đến quá trình phát triển cũng như xu thế hợp tác ở

Đông Bắc Á. Nhật Bản luôn tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với Hàn Quốc, nỗ

lực bình thường hóa quan hệ với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Triều Tiên,

phối hợp với Mỹ và Hàn Quốc giải quyết cuộc khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo

Triều Tiên. Dù vậy, Nhật Bản vẫn chưa thể thoát khỏi hố sâu của suy thoái kinh tế đầu

thế kỷ XXI, vai trò dẫn dắt nền kinh tế khu vực càng trở nên khó khăn. Đối với Trung

Quốc, quốc gia này chủ trương tạo lập môi trường hòa bình và ổn định trong khu vực

Đông Bắc Á nhằm xây dựng một “không gian sinh tồn” và phát triển bền vững. Thế

nhưng, sự trỗi dậy gần đây của Trung Quốc với những toan tính chính trị phức tạp đã

gây quan ngại trong quan hệ hợp tác khu vực. Vị trí trụ cột trong hợp tác Đông Bắc Á

Page 12: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

2

của Trung Quốc, vì thế, cũng chưa thực sự vững chắc. Trong khi đó, Hàn Quốc đang

từng bước vươn lên trở thành một đối tác chiến lược, góp phần quan trọng trong việc

thúc đẩy quan hệ hợp tác của cả khu vực Đông Bắc Á. Với tiềm lực kinh tế mạnh mẽ,

Hàn Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 13 thế giới và là thành viên của Tổ chức

Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) của các nước phát triển ngay từ năm 1996. Sau

Chiến tranh lạnh, Hàn Quốc đã tích cực điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng ưu

tiên hợp tác với các nước Đông Bắc Á và thu được nhiều thành tựu quan trọng trong

quan hệ khu vực cùng với sự gia tăng uy tín trên trường quốc tế. Nỗ lực và những kết

quả bước đầu của Hàn Quốc đã cho thấy vị trí và vai trò của quốc gia này trong tiến

trình hợp tác khu vực. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế so sánh và thành công, Hàn

Quốc vẫn phải đối mặt với không ít trở ngại và thách thức.

Cho đến tận thế kỷ XXI, Đông Bắc Á vẫn là “vùng trũng an ninh” số một của

Hàn Quốc. Để sinh tồn, phát triển và trở thành lực lượng lãnh đạo khu vực, Hàn Quốc

buộc phải duy trì lợi ích quốc gia với Nhật Bản, Trung Quốc và đảm bảo lợi ích dân tộc

với CHDCND Triều Tiên. Trong quá trình này, việc vượt qua hàng loạt rào cản (ý thức

hệ, bất đồng lịch sử, ký ức chiến tranh) sẽ là bước khởi đầu trên con đường tạo dựng

quan hệ song phương và đa phương ở khu vực. Tuy nhiên, trong thực tế, bước đi đầu

tiên này của ngoại giao Hàn Quốc lại chưa thể vượt qua cánh cửa của “chủ nghĩa dân

tộc”. Sự chi phối của ký ức thời chiến và vai trò liên minh quân sự với Mỹ vẫn còn khá

đậm nét trong chính sách đối ngoại của Hàn Quốc. Điều này đặt ra thách thức không

nhỏ đối với nhiệm vụ thống nhất đất nước và thống nhất khu vực của quốc gia. Nghiên

cứu về chính sách của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á, vì lẽ đó, sẽ là điều

cần thiết cho việc nhận diện các mối quan hệ quốc tế trong bối cảnh hội nhập. Đối với

Việt Nam, Hàn Quốc từ chỗ là đối tác toàn diện (2001) đã trở thành đối tác chiến

lược (2009), do đó, nghiên cứu về Hàn Quốc lại càng có ý nghĩa to lớn cả về mặt

khoa học và thực tiễn.

Với những lý do nói trên, chúng tôi quyết định lựa chọn vấn đề “Chính sách đối

ngoại của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á (1989 - 2010)” làm đề tài luận án

tiến sĩ thuộc chuyên ngành: Lịch sử thế giới, mã số 62.22.03.11 nhằm góp phần vào

quá trình nghiên cứu quan hệ quốc tế ở Đông Bắc Á nói chung và chính sách của Hàn

Quốc đối với các nước trong khu vực này nói riêng.

Page 13: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

3

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc nói chung và chính sách của Hàn Quốc đối

với các nước Đông Bắc Á nói riêng là một đề tài mới dù lịch sử nghiên cứu của nó đã

gần hai thập niên. Từ sau khi Hàn Quốc giành được “kỳ tích sông Hàn” về phát triển

kinh tế và gia nhập vào hàng ngũ các nước công nghiệp mới (NICs) đầu những năm 80

của thế kỷ XX, chính sách của nước này đối với các siêu cường, các tiểu khu vực mới

bắt đầu được dư luận chú ý, các học giả ở trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu.

2.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam

Được đánh giá như mẫu hình thành công trong nỗ lực kết giao với các nước

thuộc Thế giới thứ nhất nhờ đường lối đối ngoại tích cực, cởi mở và thực dụng, Hàn

Quốc ngày nay đã có tầm ảnh hưởng và sức chi phối lớn hơn đối với những đổi thay

của tình hình khu vực và quốc tế. Các công trình nghiên cứu về chính sách đối ngoại

của quốc gia này, vì lẽ đó, cũng được đi sâu khai thác trên nhiều bình diện nhưng tựu

trung có thể chia thành ba nhóm cơ bản sau đây:

Nhóm thứ nhất: Nghiên cứu về vai trò, vị trí của Hàn Quốc trong tiến trình hợp

tác khu vực Đông Bắc Á. Đối với nội dung này, đa phần các bài viết đều tập trung làm

rõ quá trình hợp tác giữa Hàn Quốc và khu vực trên một số khía cạnh riêng lẻ (kinh tế,

an ninh - chính trị, khoa học và công nghệ…), chẳng hạn: Tôn Khánh Linh với“Một

số khía cạnh chính trị và an ninh của cộng đồng Đông Á” (Nghiên cứu Quốc tế,

2001); Lưu Thanh Mai: “Tìm hiểu hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ Hàn

Quốc” (Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, 2002); Trần Bá Khoa: “Hiện trạng và

triển vọng hợp tác kinh tế Đông Á” (Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, 2003); Võ

Hải Thanh: “Quan hệ hợp tác kinh tế của Hàn Quốc với các nước trong khu vực Đông

Bắc Á” (Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, 2005). Đi sâu phân tích và luận giải về

vai trò, vị trí của Hàn Quốc thông qua tiến trình hợp tác khu vực là hai ấn phẩm:

“Những xu hướng phát triển kinh tế chủ yếu ở khu vực Đông Bắc Á” do Ngô Xuân

Bình chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội, 2007 và “Một số vấn đề cơ bản về hợp tác

ASEAN+3” do Nguyễn Thu Mỹ chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội, 2008. Dù cùng bàn

luận về tiến trình và kết quả hợp tác Đông Á trong mối liên hệ mật thiết giữa Hàn

Quốc với các nước nhưng điểm nổi bật của công trình khoa học thứ nhất là đề cập đến

nhân tố Hàn Quốc trong quan hệ hợp tác song phương Nhật Bản – Hàn Quốc và hợp

tác đa phương Trung Quốc – Nhật Bản – Hàn Quốc nhằm hướng tới Hiệp định mậu

dịch tự do (FTA) và hình thành hệ thống liên kết kinh tế ở Đông Bắc Á. Trong khi đó,

Page 14: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

4

tác giả Nguyễn Thu Mỹ và cộng sự lại tập trung nêu bật vai trò của Hàn Quốc trong

quá trình hoạch định đường lối và thực hiện các biện pháp hợp tác do Nhóm nghiên

cứu Đông Á (EASG) đề xuất.

Nhóm thứ hai: Nghiên cứu chung và riêng về chính sách của Hàn Quốc đối với

các nước Đông Bắc Á từ sau Chiến tranh lạnh. Trước hết, tiêu biểu nhất trong mảng

nghiên cứu chung về chính sách đối ngoại của Hàn Quốc trong mối liên hệ với các

quốc gia đồng minh và các chủ thể chính trị ở Đông Bắc Á là cuốn: “Hàn Quốc với

khu vực Đông Á sau Chiến tranh lạnh và quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc” do Nguyễn

Hoàng Giáp chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành vào năm 2009. Với công trình

này, các tác giả đã khái quát sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Hàn Quốc với

Trung Quốc, Nhật Bản, CHDCND Triều Tiên và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

(ASEAN). Đặc biệt, chính sách và quan hệ của Hàn Quốc đối với các nước Đông Á đã

được tập thể tác giả nhìn nhận kỹ lưỡng và đánh giá khách quan dựa trên ba yếu tố:

Một là, sự chuyển dịch nhạy cảm về cán cân so sánh lực lượng ở Đông Á từ sau Chiến

tranh lạnh; hai là, yêu cầu định hình lại cơ cấu đối tác kinh tế; ba là, những toan tính

mới trong ý đồ chiến lược của các nước lớn đối với bán đảo Triều Tiên. Qua đó, công

trình này khẳng định chính sách đối ngoại của Hàn Quốc hướng tới mục tiêu tạo lập

môi trường khu vực thuận lợi cho phát triển kinh tế ở trong nước; đồng thời, tìm kiếm

giải pháp hòa bình cho vấn đề an ninh – chính trị trên bán đảo Triều Tiên. Một nghiên

cứu khác do Ngô Xuân Bình chủ biên, Nxb Từ điển Bách khoa ấn hành (2012) có tên:

“Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc trong bối cảnh quốc tế mới” cũng dành một dung

lượng đáng kể (35 trang) để phân tích và nêu bật những chuyển biến trong chính sách

của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á, lấy bối cảnh quốc tế làm trung tâm.

Theo đó, từ chỗ duy trì “quan hệ băng giá” với các nước XHCN (Trung Quốc,

CHDCND Triều Tiên) trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, Hàn Quốc đã chủ động đa dạng

hóa quan hệ khi tình hình quốc tế trở nên hòa dịu. Các tác giả cũng khẳng định, với

chính sách đối ngoại linh hoạt, Hàn Quốc đang giữ thế chủ động trong việc đưa Đông

Bắc Á tiến vào kỷ nguyên hòa bình và thịnh vượng thông qua 3 bước: (1) Theo đuổi

giao lưu và hợp tác liên Triều, (2) thiết lập hệ thống hợp tác kinh tế khu vực và (3) xây

dựng cơ sở hạ tầng cho một trung tâm giao vận và kinh tế.

Ngoài các công trình nghiên cứu chung về chính sách của Hàn Quốc trong mối liên

hệ với các cường quốc và khu vực còn có một số bài nghiên cứu riêng về chính sách của

Hàn Quốc trong từng lĩnh vực hợp tác cụ thể. Nghiên cứu chuyên sâu về quan điểm lấy

Page 15: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

5

kinh tế làm “bàn xoay” cho chính sách ngoại giao là các tin bài của Thông tấn xã Việt

Nam (TTXVN), điển hình là:“Chính sách ngoại giao cân bằng của Hàn Quốc” (Tin

tham khảo thế giới, 25-6-2005); “Hàn Quốc thực thi chính sách ngoại giao thực dụng và

có sáng tạo (Tin thế giới, 14-3-2008); “Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc – thực dụng

và có trọng điểm” (Tin thế giới, 21-01-2008); “Hàn Quốc sẽ có nhiều thay đổi về chính

sách và ngoại giao trong năm 2008” – Đài KBS (Tin tham khảo thế giới 04-01-2008) và

“Tổng thống đắc cử Hàn Quốc nhấn mạnh chính sách đối ngoại tăng cường hợp tác”

(Tin thế giới 18-01-2008). Các tài liệu nói trên phân tích và làm rõ hai đặc điểm trọng

yếu của ngoại giao Hàn Quốc, đó là: “ngoại giao vì sự ổn định kinh tế” và “ngoại giao

tranh thủ sự ủng hộ của thế giới”. Nỗ lực tăng cường quan hệ với các đối tác do áp lực về

năng lượng, tài nguyên và xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế quốc tế cũng là nội dung mấu

chốt trong chính sách đối ngoại của Hàn Quốc. Đề tài này có các bài viết điển hình như:

“Hàn Quốc - An ninh năng lượng và sự điều chỉnh chính sách ngoại giao năng lượng”

của Thu Hường (Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 9, 2009); “Toàn cầu hóa và chính

sách ngoại giao kinh tế của Hàn Quốc trong thập niên cuối thế kỷ XX” của Trần Thị

Duyên (Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5, 2008).

Nhóm thứ ba: Các công trình nghiên cứu về tác động, ảnh hưởng và nhận định,

đánh giá về chính sách của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á sau Chiến tranh

lạnh. Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc không chỉ có tác dụng duy trì an ninh, hòa

bình và ổn định của khu vực mà còn góp phần tăng cường vai trò và vị thế của chủ thể

chính trị này trên trường quốc tế. Dù vậy, không phải chiến lược ngoại giao nào cũng

mang lại “hiệu ứng thuận” cho nền chính trị Hàn Quốc. Thực tế này được các nhà bình

luận chính trị - xã hội phản ánh qua hàng loạt tin bài của TTXVN và cũng được học giả

trong nước thừa nhận: “Chiến dịch ngoại giao của Hàn Quốc – Thách thức với cả Bình

Nhưỡng và Washington” (Tin tham khảo thế giới, 17-01-2002); “Hàn Quốc – Những

hệ quả của chiến lược ngoại giao “xa ấm, gần lạnh” (Tin tham khảo thế giới, 17-12-

2008); “Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc dưới thời Lee Myung Bak” (Tin tham

khảo thế giới, 19-01-2008); Trần Thị Nhung: “Sóng gió trong quan hệ liên Triều kể từ

khi Lee Myung Bak lên cầm quyền” (Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 12, 2008)…

Các tài liệu này tập trung phân tích sự chuyển hướng ngoại giao sang chiến lược “toàn

cầu” của Tổng thống Lee Myung Bak cùng với những ảnh hưởng và tác động của nó

trong quan hệ giữa Hàn Quốc với khu vực. Bên cạnh đó, chính sách “hướng tới tương

lai” với Nhật Bản, “thành thật và cởi mở” với CHDCND Triều Tiên, tăng cường quan

Page 16: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

6

hệ với Trung Quốc và “cải tổ có tính sáng tạo” trong quan hệ với Mỹ cũng là những

nội dung quan trọng được phân tích thấu đáo trong các tài liệu nói trên.

Đặc biệt, đi sâu phân tích về nguyên nhân, nội dung điều chỉnh chính sách của

Hàn Quốc đối với CHDCND Triều Tiên và những tác động tới quan hệ liên Triều cũng

như môi trường an ninh khu vực là mảng đề tài được tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân

nghiên cứu khá thành công trong luận văn thạc sĩ: “Sự điều chỉnh chính sách của Hàn

Quốc đối với CHDCND Triều Tiên trong thập kỷ 90” (Học viện Quan hệ Quốc tế, Bộ

Ngoại giao, 2002). Cùng với việc chỉ rõ những nhân tố tác động, phương hướng, mục

tiêu và biện pháp thực hiện chính sách trong thời kỳ cầm quyền của hai tổng thống Kim

Young Sam và Kim Dae Jung (chương 2 và chương 3), tác giả còn dự báo về xu hướng

vận động của chính sách và đưa ra một số kịch bản thống nhất dân tộc thông qua con

đường đấu tranh vũ lực hoặc đàm phán hòa bình. Trên cơ sở trình bày mối quan hệ

giữa Hàn Quốc với lực lượng đồng minh, kết quả hợp tác giữa hai miền Triều Tiên từ

sau Chiến tranh lạnh và quan điểm đối ngoại của các nước lớn trên bán đảo Triều Tiên,

chính sách của Hàn Quốc đối với CHDCND Triều Tiên nói riêng và khu vực Đông

Bắc Á nói chung cũng được đề cập gián tiếp trong luận án tiến sĩ của Bùi Thị Kim

Huệ: “Quan hệ Hàn – Mỹ (1961-1993)” (Đại học Huế, 2009) và luận văn thạc sĩ của

các tác giả: Lê Anh Sơn với“Quan hệ giữa CHDCND Triều Tiên và Đại Hàn Dân

Quốc từ 1991 đến 2007” (Đại học Vinh, 2008); Nguyễn Văn Cương: “Quan hệ Hàn

Quốc – CHDCND Triều Tiên (1991-2010)” (Đại học Huế, 2011); Nguyễn Thị Bích

Ngọc:“Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên trong chính sách đối ngoại của Mỹ (1991-

2001)” (Đại học Huế, 2010) và Nguyễn Thị Thu Thảo: “Chính sách của các nước lớn

(Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc) đối với bán đảo Triều Tiên từ khi kết thúc Chiến

tranh lạnh đến nay” (Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012)… Dù có mục tiêu và phạm vi

nghiên cứu khác nhau nhưng các công trình khoa học nói trên đều đã bước đầu khẳng

định vai trò, vị trí của chính sách đối ngoại Hàn Quốc trong việc duy trì hòa bình, ổn

định tại khu vực Đông Á.

Ở Việt Nam, nhận định và đánh giá về chính sách của Hàn Quốc đối với các

nước Đông Bắc Á vẫn là mảng đề tài bị “bỏ ngỏ”. Chưa có nhiều công trình khoa học

phân tích nội dung này một cách toàn diện và hệ thống, nhất là về bối cảnh ra đời, đặc

điểm, nội dung và tác động của các chính sách đối với quan hệ quốc tế của Hàn Quốc.

Nguồn thông tin chính thống mà chúng tôi tiếp cận được vẫn là các tin bài của TTXVN

và trung tâm nghiên cứu chuyên ngành: “Hàn Quốc đàm phán với Bắc Triều Tiên, cải

Page 17: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

7

biến chính sách Ánh dương” (Tin tham khảo thế giới, ngày 27-3-2002); “Hàn Quốc sẽ

tiếp tục chính sách Ánh dương” (Tin tham khảo thế giới, ngày 03-7-2002); “Bán đảo

Triều Tiên: Phần tối của chính sách Ánh dương” (Tin tham khảo thế giới, ngày 21-3-

2002); “Liệu Hàn Quốc có thay đổi chính sách Ánh dương đối với Bắc Triều Tiên”

(Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 08-01-2007); “Kiên trì theo đuổi “chính sách Hòa

bình và thịnh vượng” của Hàn Quốc” (Trung tâm Nghiên cứu Hàn Quốc, Viện Nghiên

cứu Đông Bắc Á). Đáng chú ý, tài liệu tham khảo số 12-2007 của TTXVN đã dành

riêng một chuyên khảo về: “Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc” nhằm phân tích

chính sách đối ngoại và an ninh của quốc gia này trong tương quan địa – chính trị Đông

Bắc Á theo chuỗi quan hệ móc xích: Hàn Quốc và Mỹ - liên minh không bình đẳng;

Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên – liên minh hoài nghi; Hàn Quốc và Trung Quốc –

liên minh cân bằng. Qua đó, nghiên cứu này đã đưa ra giả định về “chính sách nước

đôi” của Hàn Quốc nhằm “mở nút” cho mối quan hệ “tay ba” trên bán đảo Triều Tiên.

2.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề ở nước ngoài

Ở nước ngoài, công tác nghiên cứu chuyên sâu về chính sách của Hàn Quốc đối

với các nước Đông Bắc Á đã được các nhà khoa học Hàn Quốc và phương Tây triển

khai từ khá sớm. Đây chính là nguồn tư liệu đa dạng, phong phú cả về lượng và chất

được phản ánh thông qua ba nhóm nội dung lớn:

Nhóm thứ nhất: Nghiên cứu tổng quan về chính sách đối ngoại của Hàn Quốc.

Trước hết, các công trình nghiên cứu tổng hợp dưới dạng thông sử: “Korea Old

and New: A History” của tập thể tác giả: Carter Eckert, Ki Baik Lee, Michael

Robinson, Edward W. Wagner (Ilchokak Publisher, 1991); “Korea’s Place in the Sun:

A Modern History” của Cumings, Bruces (New York: Norton, 2005); “Everlasting

Flower: A History of Korea” của Keith Pratt (Reaktion Book, 2007) và “A History of

Korea: From Antiquity to the Present” của Michael J. Seth (Rowman and Little Field,

2010). Do phạm vi nghiên cứu rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau (chính trị, kinh tế,

quân sự, xã hội) trong suốt tiến trình lịch sử nên ở các công trình nêu trên nội dung về

chính sách đối ngoại của Hàn Quốc chỉ được đề cập một cách sơ lược. Công trình tiêu

biểu nhất viết về mảng đề tài này vẫn là cuốn “Understanding Korean Politics – An

Introduction” (2001) của đồng tác giả Soong Hoom Kil và Chung In Moon (New York

University, Albany) với việc tái hiện tương đối đầy đủ cơ sở lịch sử, chính trị, chính

sách đối ngoại và chính sách thống nhất dân tộc của Hàn Quốc từ sau Chiến tranh lạnh.

Page 18: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

8

Các công trình nghiên cứu khác đề cập trực tiếp đến chính sách đối ngoại của

Hàn Quốc như Claude A.Buss: “The United States and the Republic of Korea:

Background for Policy” (1982); Koen De Ceuste: “Pride and Prejudice in South

Korea’s Foreign Policy” (2005); Choo Yong-Shik: “South Korea’s Foreign Policy:

National Division and Its Implications for US – ROK Alliance” (2006); Weston S.

Konishi, Mark E. Manyin: “South Korea - Its Domestic Politics and Foreign Policy

Outlook” (CRS Report for Congress, 2009)… Những công trình nói trên tập trung

phân tích, lý giải mối quan hệ đồng minh về an ninh - chính trị giữa Mỹ và Hàn Quốc

với tư cách là một trụ cột, bảo đảm và duy trì hòa bình trên bán đảo Triều Tiên. Bên

cạnh đó, Hàn Quốc cũng thể hiện thái độ và quan điểm tự chủ, giảm dần sự chi phối, lệ

thuộc vào các siêu cường trong hoạch định chính sách đối ngoại.

Nhóm thứ hai: Nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với các

nước Đông Bắc Á. Đây là nội dung được các học giả Hàn Quốc tập trung nghiên cứu

khá sâu sắc, cung cấp cho tác giả luận án nhiều tư liệu quý giá, trong đó bao gồm cả

các phân tích và nhận định khoa học.

Đầu tiên, phải kể đến các công trình viết về những nhân tố tác động, đặc điểm và

hoàn cảnh ra đời của chính sách đối ngoại Hàn Quốc, chẳng hạn: Kim Kyung Woong,

Park Gun Young với “Kim Dae Jung Government’s North Korean Policy Direction”

(The Korean Political Science Association, 2000); Lee Jay Cho, Chung Si Ahn,

Choong Nam Kim: “Changing Korea in Relational and Global Contexts” (Seoul

National University Press, 2004); Choong Nam Kim: “The Roh Moon Hyun

Government’s Policy toward North Korea” (East-West Center Working Papers, 2005);

Kim, S.H: “North Korean Policy of Lee Myung Bak Government” (Korean Institute

for National Unification, Seoul, 2008); Kim KS: “Concept, Assessment and Future

Task of the Perspective of The Evolution of the Policy” (Korea and World Polictics,

2008); Gilbert Rozman, In Taek Hyun, Shin Wha Lee: “South Korean Strategic

Thought toward Asia” (2008)… Các công trình nghiên cứu thuộc nhóm này còn tập

trung đánh giá, phân tích sự điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Hàn Quốc,

những chuyển biến trong các vấn đề khủng hoảng hạt nhân, liên kết Đông Bắc Á –

Đông Á và kết quả thiết lập trật tự quốc tế ở khu vực sau mỗi bước điều chỉnh đó.

Các nghiên cứu của học giả Hàn Quốc cũng tập trung phân tích hai mặt thành

công và hạn chế của chính sách Hàn Quốc đối với các nước trong khu vực, điển hình

như: Choi WK với “The Sad Fate of Icarus: The Kim Young Sam’s Government Policy

Page 19: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

9

toward North Korea” (Korea and World Politics, 1997); Norman D. Levin, Yong Sup

Han: “Sunshine in Korea: The South Korean Debate Over Policies toward North

Korea” (Published by RAND - Center for Asia Pacific Policy, 2002); Kim Hosup:

“Evaluation of President Roh Moo Hyun’s Policy toward Japan” (Korea Focus,

2005); Sukhee Han: “From Engagement to Hedging: South Korea’s New China

Policy” (The Korean Journal of Defense Analysis, 2008). Nổi bật nhất về đề tài này là

nghiên cứu của Kim Young Sung với tiêu đề: “Success and Failure in Dealing with

North Korea: Has Issue-Linkage Worked?” (The University of Warwick, 2009). Bài

viết không chỉ nêu rõ hai điểm mạnh và yếu của chính sách Hàn Quốc đối với

CHDCND Triều Tiên mà còn bày tỏ khá rõ ràng quan điểm, thái độ của các nước lớn

như: Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản… đối với đường lối đối ngoại của Hàn Quốc và

giải mã lợi ích chiến lược của từng quốc gia khi cùng với Hàn Quốc tham gia vào tiến

trình hợp tác khu vực.

Các công trình khoa học còn nghiên cứu đối sánh chính sách giữa các tổng thống

cầm quyền trong từng giai đoạn lịch sử nhằm làm rõ tính kế thừa, sáng tạo của mỗi

chính sách; qua đó, rút ra nhiều bài học kinh nghiệm cho ngoại giao Hàn Quốc. Đây là

đề tài được tác giả Young Whan Kihl khai thác qua hai bài viết: “The Past as

Prologue: President Kim Dae Jung’s Legacy and President Roh Moo Hyun’s Policy

Issues and Future Challenges” (2003) và “Transforming Korean Polititics:

Democracy, Reform, Culture” (Armonk, New York: M. E. Sharpe, 2005). Điển hình

về nội dung luận giải bài học lịch sử cho chính sách của Hàn Quốc với các nước

Đông Bắc Á là công trình của Choi Jinwook (2012) với tiêu đề: “Korean Unification

and a New East Asian Orded” (Korea Institute for National Unification). Công trình

này đã rút ra những kinh nghiệm trong hoạch định chính sách dựa trên hai nhân tố:

Truyền thống hợp tác và nhu cầu hợp tác giữa Hàn Quốc với các quốc gia trong khu

vực từ sau Chiến tranh lạnh. Đặc biệt, các tác giả còn rất thành công trong việc phát

hiện và lý giải ý đồ chính trị của các nước ở trong và ngoài khu vực khi đẩy mạnh

chính sách can dự trên bán đảo Triều Tiên.

Cho đến nay, theo tìm hiểu của chúng tôi, ngoài các bài viết khá phong phú của

các tác giả Hàn Quốc, chính sách của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á còn

được nhiều học giả phương Tây quan tâm nghiên cứu. Một số công trình đáng chú ý

như: Dlynn Faith Armstrong: “South Korea’s Foreign Policy in the Post - Cold War

Era: A Middle Power Perspective” (1997); Paul Chamberlain: “Korea 2010: The

Page 20: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

10

Challenges of the New Millennium” (2001); Scott Snyder: “Lee Myung Bak and the

Future of Sino-South Korean Relations” (2008); Weston S. Konishi, Mark E. Manyin:

“South Korea: Its Domestic Politics and Foreign Policy Outlook” (2009)... Đây là

những công trình viết riêng về Hàn Quốc hoặc viết chung về quá trình hợp tác khu vực,

trong đó đề cập đến khả năng và triển vọng liên kết giữa Hàn Quốc với các quốc gia ở

Đông Bắc Á. Bên cạnh đó, các tác giả còn xác định những thách thức trong quan hệ giữa

Hàn Quốc với các nước trong khu vực. Dù phản ánh nhiều nội dung và khía cạnh khác

nhau nhưng các công trình nghiên cứu trên vẫn cung cấp cho chúng tôi một cái nhìn đầy

đủ và trung thực về các giai đoạn thăng trầm trong lịch sử ngoại giao Hàn Quốc.

Nhóm thứ ba, nghiên cứu về hệ quả chung và riêng của chính sách Hàn Quốc đối

với các nước Đông Bắc Á. Tập trung phân tích hệ quả chung của chính sách (nâng cao

vai trò, vị thế của Hàn Quốc và gia tăng liên kết khu vực) là bài viết của Kim Choong

Nam với tiêu đề: “The Sunshine Policy and Its Impact on South Korea’s Relations with

Major Powers” (Korean Observer, 2004); Zhao Lin: “Strategic Cooperation between

China and South Korea, Strategic Structure of Northeast Asia” (2006); Lytton L.

Guimaras: “South Korea’s Foreign and Security Policies and the Process of East Asia

Integration” (2010)… Bàn về hệ quả riêng của chính sách Hàn Quốc đối với các nước

(tăng cường hợp tác, phát triển quan hệ với Nhật Bản, Trung Quốc và CHDCND Triều

Tiên) trên các lĩnh vực an ninh – chính trị, kinh tế… từ sau Chiến tranh lạnh có các

công trình tiêu biểu như: Seongho Sheen với hai bài viết “Japan-South Korea Relations:

Slowly Lifting the Burden of History” (Asia-Pacific Center for Security Studies, 2003) và

“Tilting towards the Dragon: South Korea’s China Debate” (APCSS Special

Assessment – Honolulu, 2003); Dick K. Nanto, Mark E. Manyin: “The Kaesong North –

South Korean Industrial Complex” (CRS Report for Congress, 2008); Francoise Nicolas

với: “The Changing Economic Relations between China and Korea: Patterns, Trends

and Policy Implications” (The Journal of the Korean Economy, 2009)… Các nghiên cứu

trên đã tập trung làm rõ những “điểm sáng” và “góc tối” trong chính sách của Hàn Quốc

với nỗ lực hợp tác khu vực, nhất là trên lĩnh vực an ninh – chính trị do đề cao quá mức

chủ nghĩa quốc gia và lợi ích dân tộc. Điều này phần nào thu hẹp nhận thức về một chủ

nghĩa khu vực mới đang dần hình thành ở Đông Bắc Á.

Tựu trung lại, thông qua việc trình bày tình hình nghiên cứu về chính sách của

Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á, chúng tôi rút ra ba nhận xét chính yếu sau:

Page 21: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

11

Thứ nhất, tuy có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về quan hệ giữa Hàn

Quốc với các nước trong khu vực nhưng do mục đích nghiên cứu khác nhau nên hầu

hết các bài viết, công trình vẫn chỉ dừng lại ở một số lĩnh vực riêng lẻ (kinh tế, giáo

dục, năng lượng, khoa học và công nghệ…) hoặc một số giai đoạn cụ thể. Hầu như

chưa có một công trình nào nghiên cứuhệ thống và toàn diện về chính sách đối ngoại

của Hàn Quốc, đặc biệt dưới góc độ sử học (vì đa phần các tác giả là những nhà nghiên

cứu về quan hệ quốc tế, kinh tế học, Địa - Chính trị…).

Thứ hai, một số công trình nghiên cứu đã bước đầu tìm hiểu về chính sách của

Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á nhưng chủ yếu vẫn dừng lại ở thời điểm trong

hoặc sau thời kỳ Chiến tranh lạnh. Chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về đề

tài này xuyên suốt từ khi Hàn Quốc lập quốc (1948) đến hết thập niên đầu thế kỷ XXI.

Thứ ba, còn khá nhiều nội dung liên quan đến đề tài chưa được nghiên cứu một

cách thấu đáo, cần tiếp tục tìm hiểu, trao đổi như: Cơ sở hình thành chính sách; những

nội dung, đặc điểm cơ bản của chính sách và thành công, hạn chế của các chính sách

đó đối với các nước trong khu vực.

Mặc dù các công trình và bài viết ở trong và ngoài nước chủ yếu chỉ tập trung

nghiên cứu vấn đề của đề tài từ một khía cạnh đơn lẻ hoặc một thời kỳ lịch sử cụ thể

nhưng đây là nguồn tài liệu tham khảo qúy báu giúp tác giả luận án bước đầu định hình

ý tưởng, xác lập nội dung và lựa chọn phương pháp nghiên cứu một cách hiệu quả.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài khôi phục và phân tích một cách hệ thống, toàn diện chính sách của Hàn

Quốc đối với các nước Đông Bắc Á (1989 - 2010).

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu trên, người nghiên cứu sẽ thực hiện những nhiệm vụ cơ bản

như sau:

- Trình bày cơ sở hình thành chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với các nước

Đông Bắc Á (1989 – 2010); trong đó, phân tích khái quát về chính sách của Hàn Quốc

(1948 - 1989) (kể từ khi Hàn Quốc lập quốc cho đến khi Chiến tranh lạnh đi vào hồi kết).

Đồng thời, nêu bật những chuyển biến mới của tình hình quốc tế, khu vực và trong nước

từ sau Chiến tranh lạnh.

- Nhận diện và phân tích những nội dung chủ yếu trong chính sách của Hàn Quốc

đối với khu vực Đông Bắc Á từ năm 1989 đến năm 2010; qua đó, nêu lên những điều

chỉnh chiến lược trong chính sách của nước này trên các lĩnh vực hợp tác song phương.

Page 22: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

12

- Xác định những điểm chung và riêng trong chính sách của Hàn Quốc đối với

Nhật Bản, Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên. Rút ra nhận xét, đánh giá về chính sách

của Hàn Quốc trên cả hai mặt thành công và hạn chế. Trên cơ sở đó, đúc kết những bài

học kinh nghiệm trong việc điều chỉnh chính sách đối ngoại cho Hàn Quốc và Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Chính sách của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á trên 3 lĩnh vực quan hệ

cơ bản: An ninh – chính trị, kinh tế và văn hóa – xã hội (1989 – 2010).

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về mặt không gian, đề tài tập trung nghiên cứu chính sách của Hàn Quốc đối với

ba quốc gia ở khu vực Đông Bắc Á là: Nhật Bản, Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên.

Ngoài ra, một số chủ thể khác liên quan, đề tài cũng sẽ đề cập đến trong chừng mực nhất

định (đối chiếu, so sánh) nhằm đảm bảo tính toàn diện của vấn đề nghiên cứu.

Về mặt thời gian, đề tài dành trọng tâm nghiên cứu chính sách của Hàn Quốc đối

với khu vực Đông Bắc Á trong những năm 1989 - 2010. Dù Chiến tranh lạnh được

tuyên bố chấm dứt vào 1989 và chỉ thực sự kết thúc sau khi Liên Xô tan rã (1991)

nhưng chúng tôi vẫn chú ý phân tích kỹ các sự kiện có liên quan từ trước đó cũng như

cả hai mốc 1989 và 1991 nhằm đảm bảo tính logic của vấn đề.

5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

5.1. Nguồn tư liệu

Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả luận án đã tập hợp và khai

thác bốn nhóm tư liệu chủ yếu sau đây:

- Nhóm 1: Các tài liệu của Chính phủ, Cơ quan ở Hàn Quốc và nhóm Nghiên cứu

Đông Á. Các thông cáo, tổng kết và dự báo của Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc Phòng, Bộ

Tài chính và Kinh tế Hàn Quốc. Các số liệu, thống kê và bảng, biểu của Bộ Thống nhất

Hàn Quốc, sách Xanh ngoại giao, sách Trắng Jetro.

- Nhóm 2: Các giáo trình, sách chuyên khảo, sách tham khảo của học giả Việt

Nam và quốc tế có liên quan trực tiếp đến nội dung của đề tài luận án. Nguồn tài liệu

của Thông tấn xã Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam tại Seoul và phòng Thông tin Đại

sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam.

- Nhóm 3: Các bài viết khoa học liên quan đến đề tài được đăng tải trên các tạp

chí chuyên ngành trong nước. Công trình nghiên cứu của các tác giả Hàn Quốc và tác

giả nước ngoài được công bố tại các trung tâm nghiên cứu, các tạp chí và trường Đại

học quốc tế. Tin tức, nhận định từ các trang báo uy tín của Mỹ; các cơ quan truyền

thông của Hàn Quốc, cơ quan báo chí của Nhật Bản và CHDCND Triều Tiên.

Page 23: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

13

- Nhóm 4: Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ ở trong nước. Các tài liệu từ những

địa chỉ website: Qũy Hàn Quốc – Korea Foundation (http://en.kr.or.kr); Bộ Thương

mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc (http://www.motie.go.kr); Bộ Thống nhất

Hàn Quốc (http://eng.unikorea.go.kr).

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Về phương pháp luận: Luận án quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác

- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về các vấn đề

quan hệ quốc tế để xem xét, đánh giá chính sách của Hàn Quốc đối với khu vực Đông

Bắc Á. Những quan điểm này được coi là kim chỉ nam trong quá trình xử lý thông tin

và hình thành luận án.

- Về phương pháp nghiên cứu: Đây là đề tài nghiên cứu lịch sử nên phương

pháp lịch sử, phương pháp logic và sự kết hợp giữa chúng được sử dụng như dòng

mạch chủ yếu. Bên cạnh đó, đề tài còn vận dụng linh hoạt một số phương pháp khoa

học liên ngành của các ngành Quan hệ quốc tế, Quan hệ kinh tế quốc tế, Địa - Chính

trị... như các phương pháp: Phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê, dự báo

khoa học khi đi sâu nghiên cứu từng nội dung cụ thể nhằm nhìn nhận và đánh giá vấn

đề một cách xác thực.

6. Đóng góp của đề tài

6.1. Về mặt khoa học

- Luận án là công trình khoa học đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách

chi tiết, toàn diện và hệ thống về chính sách của Hàn Quốc đối với các nước Đông

Bắc Á (1989 - 2010), góp phần khỏa lấp khoảng trống trong các nghiên cứu về

chính sách đối ngoại của Hàn Quốc thời hiện đại.

- Từ việc phân tích cơ sở, mục tiêu, biện pháp thực hiện, luận án đã rút ra một

số nhận xét về chính sách đối ngoại của Hàn Quốc trong giai đoạn này (đặc biệt

là những thành công đạt được và hạn chế cơ bản của các chính sách).

- Nhận biết sự chuyển hướng đường lối đối ngoại của Hàn Quốc từ cuối thế kỷ

XX, đầu thế kỷ XXI. Trên cơ sở đó, xác định một số vấn đề đặt ra cho Hàn Quốc và

liên hệ đối với Việt Nam trong lĩnh vực quan hệ quốc tế.

6.2. Về mặt thực tiễn

- Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu và giảng dạy cho

sinh viên và học viên cao học các chuyên ngành: Lịch sử thế giới, Quan hệ quốc tế,

Quốc tế học, Đông phương học và những ai quan tâm đến vấn đề này.

Page 24: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

14

- Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án (ở một mức độ nhất định) có thể cung cấp

thêm những thông tin hữu ích cho các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách

của Việt Nam trong lĩnh vực đối ngoại. Từ đó, tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ

giữa Việt Nam với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

7. Bố cục của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, bố cục của luận án

gồm ba chương:

Chương 1. Cơ sở hình thành chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với các

nước Đông Bắc Á (1989 – 2010)

Chương 2. Những nội dung chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Hàn

Quốc đối với các nước Đông Bắc Á (1989 - 2010)

Chương 3. Một số nhận xét về chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với

các nước Đông Bắc Á (1989 - 2010)

Page 25: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

15

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA

HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐÔNG BẮC Á (1989 - 2010)

1.1. Yếu tố lịch sử: Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với các nước Đông

Bắc Á (1948 – 1989)

Từ sau khi nước Đại Hàn Dân Quốc ra đời (15-8-1948), những thế hệ lãnh đạo

đầu tiên đã tích cực theo đuổi chính sách đối ngoại ngả theo phương Tây do sự chi phối

của trật tự thế giới hai cực. Bị cuốn vào vòng xoáy “ý thức hệ” từ nửa sau thập niên 40

của thế kỷ XX, Hàn Quốc chỉ chú trọng thiết lập quan hệ trước hết với Mỹ và các đồng

minh Tây Âu để tìm chỗ dựa vững chắc về quân sự và kinh tế. Từ sau khi ký kết “Hiệp

ước an ninh chung Mỹ - Hàn” (1953), Seoul đã chính thức công nhận sự hiện diện của

Mỹ về quân sự, đồng thời chấp nhận luôn sự “bảo trợ” của siêu cường này về ngoại

giao. Chịu bó buộc bởi liên minh phòng thủ quốc tế và tình trạng đối đầu Đông - Tây,

Hàn Quốc đã duy trì mối quan hệ đối đầu, thù địch với CHDCND Triều Tiên và Trung

Quốc suốt gần ba thập niên. Ngay cả quan hệ Hàn Quốc – Nhật Bản cũng chỉ là đồng

minh “trá hình”. Bắt đầu từ những năm 1970, sau khi giành được “kỳ tích sông Hàn”

về khôi phục kinh tế, quốc gia này mới từng bước thoát khỏi sự lệ thuộc một chiều với

Mỹ để chủ động phát triển chiến lược đối ngoại theo xu hướng độc lập và tự chủ. Sự ra

đời của “Thuyết chủ thể, thuyết tự cường” với việc mở rộng quan hệ trong khu vực

Đông Bắc Á và các nước thuộc Thế giới thứ ba được coi là bằng chứng về những biến

chuyển trong tư duy đối ngoại của Hàn Quốc. Dù chưa thực sự mang lại một kết quả

viên mãn trong quan hệ với khu vực Đông Bắc Á thời kỳ Chiến tranh lạnh, các chính

sách đối ngoại mang tính kế thừa của Hàn Quốc vẫn có tác dụng định hướng cho nền

chính trị nước này lần bước theo con đường hòa bình và dân chủ trong thập niên cuối

cùng của thế kỷ XX.

1.1.1. Đối với Nhật Bản

Nhật Bản và Hàn Quốc là hai quốc gia láng giềng ở châu Á, chỉ cách nhau bởi eo

biển Triều Tiên. Chính sự gần gũi về mặt địa lý đã định hình đặc điểm cùng liên kết và

chia sẻ yếu tố văn hóa giữa hai nước ngay từ thời cổ đại. Dù vậy, nền tảng tốt đẹp nói

trên đã không mấy phát huy tác dụng đối với mối quan hệ luôn bị đè nặng bởi vấn đề

lịch sử. Ngay từ đầu thế kỷ XVIII, Nhật Bản đã coi bán đảo Triều Tiên là mối đe dọa

Page 26: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

16

quân sự tiềm tàng và ví đó như “con dao găm nhằm vào nước Nhật” [33; tr. 4]. Ý thức

này thôi thúc đội quân thực dân sớm “hất cẳng” triều đại Yi – vương triều cuối cùng

của người Triều Tiên sau khi đánh bại Trung Quốc (1895) rồi Nga (1905). Sự xâm lăng

và thôn tính mặc nhiên vùng đất Cao Ly bằng thủ đoạn đầu độc hoàng gia Triều Tiên

đã nhen nhóm ngọn lửa hận thù và chống đối Nhật Bản tại nhiều nước châu Á. Với dân

tộc Triều Tiên, họ rất khó có thể gạt bỏ ký ức đau thương và bất hạnh khi phải làm “sân

sau” cho Nhật Bản suốt 35 năm (1910 - 1945). Nỗi đau của 200.000 phụ nữ châu Á bị

lạm dụng, 700.000 thanh niên Hàn Quốc bị sung quân cùng với sự bóc lột nặng nề về

kinh tế, đàn áp về chính trị và hạ nhục về văn hóa là “di sản” khó chối bỏ của quân đội

Nhật Hoàng [91; tr. 14]. Thực tế này làm cho Hàn Quốc vẫn phần nào ác cảm trong

quan hệ với nước láng giềng Nhật Bản.

Những năm đầu sau Chiến tranh thế giới (CTTG) thứ hai, phong trào chống

Nhật tiếp tục dâng cao trong các tầng lớp nhân dân Hàn Quốc. Quan hệ giữa hai nước,

do đó, luôn luôn bị chi phối bởi tình trạng đối đầu và thù hận. Cùng với kết cục bại trận

của quân đội Nhật Bản vào năm 1945 và sự ra đời của hai thực thể chính trị nhà nước

đối lập trên bán đảo Triều Tiên sau năm 1948, Mỹ và Liên Xô đã chính thức giành

quyền kiểm soát khu vực này. Kể từ đây, sự hiện diện của Nhật Bản về mặt pháp lý đã

không còn nhưng sự ám ảnh và những thương tổn về tâm lý mà người Nhật để lại cho

dân tộc Triều Tiên vẫn vô cùng sâu đậm. Điều này lý giải cho thái độ căm ghét và oán

hận nước Nhật của nhân dân Hàn Quốc. Tuy nhiên, như một sản phẩm của Chiến tranh

Triều Tiên và là kết quả cạnh tranh của hai siêu cường Xô - Mỹ, trong Chiến tranh

lạnh, cả Nhật Bản và Hàn Quốc đều ký kết liên minh an ninh - quân sự với

Washington. Điểm chung này đã đặt Hàn Quốc đứng trước một thử thách đầy khó

khăn, ấy là “làm bạn” với nước Nhật. Từ sau khi kết thúc CTTG thứ hai đến trước cuộc

Chiến tranh Triều Tiên, Hàn Quốc đã bước đầu có quan hệ hợp tác với Nhật Bản

nhưng vẫn còn hết sức hạn chế. Những cuộc tiếp xúc đầu tiên dù “gượng ép” nhưng đã

cho thấy sự cố gắng rất lớn của cả hai nước nhằm trấn an người môi giới - Mỹ.

Sau khi Hiệp ước phòng thủ chung được ký kết (1953), Mỹ tiếp tục “định

hướng” cho Hàn Quốc cải thiện và củng cố quan hệ với Nhật Bản. Động thái này của

Mỹ xuất phát từ thực tế lúc bấy giờ tình hình Đông Dương ngày càng xấu đi và mối đe

dọa của Chủ nghĩa cộng sản (CNCS) từ Trung Quốc ngày càng lớn. Đông Bắc Á có

nguy cơ trở thành điểm nóng nhất của cuộc Chiến tranh lạnh trong khi Mỹ đang mất

dần khả năng kiểm soát ở khu vực này. Không còn chọn lựa nào khác, Mỹ buộc phải

Page 27: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

17

thiết lập và duy trì mối quan hệ “hòa thuận” giữa hai nước đồng minh. Để thực hiện ý

đồ đó, trong suốt giai đoạn 1961 - 1963, Ngoại trưởng Mỹ - Dean Rusk đã không ít lần

thân chinh đến Tokyo và Seoul để thuyết phục hai nước xóa bỏ hiềm khích và cải thiện

quan hệ [144; tr. 39]. Hành động này của Mỹ đã bị Liên Xô và các nước XHCN (Trung

Quốc, CHDCND Triều Tiên) kịch liệt lên án, họ coi đó là âm mưu khôi phục chủ nghĩa

quân phiệt Nhật Bản và phá hoại sự nghiệp thống nhất bán đảo Triều Tiên. Về phía

mình, Hàn Quốc biết rõ Mỹ chủ động ký kết Hiệp ước an ninh chung (1953) để gián

tiếp buộc nước này vào “thế chân vạc” trong mối quan hệ Mỹ - Nhật - Hàn. Vì thế, dù

liên minh Mỹ - Hàn có giá trị chiến lược thấp hơn hẳn so với liên minh Mỹ - Nhật

nhưng Nhà Trắng vẫn chấp nhận bỏ ra một khoản chi phí cao hơn để đầu tư và xây

dựng các cơ sở của liên minh này. Đó là lý do khiến Hàn Quốc không thể đơn phương

khước từ lời đề nghị của Mỹ về việc cải thiện quan hệ với nước láng giềng. Do vậy,

một chính sách ngoại giao “nước đôi” – vừa quan hệ, vừa đề phòng Nhật Bản đã trở

thành lựa chọn số một của Hàn Quốc vào những năm 1950. Trong khoảng thời gian

1951 - 1960, các nhà lãnh đạo của Seoul và Tokyo vẫn duy trì những ấn tượng không

tốt đẹp về nhau. Trong khi Thủ tướng Shigeru Yoshida ra sức phê phán “chủ nghĩa cá

nhân” trong nội bộ Nhà Xanh (phủ tổng thống Hàn Quốc) thì Syng Man Rhee lại lấy

làm tự hào vì trước khi trở thành tổng thống, sự nghiệp chính trị của ông là nhằm giải

phóng Hàn Quốc thoát khỏi ách thống trị Nhật Bản.

Hai nước tiếp tục “thăm dò” lẫn nhau cho đến khi Tổng thống Park Chung Hee

khai sinh nền Cộng hòa thứ ba (1961). Lên nắm quyền trong bối cảnh kinh tế Hàn

Quốc đang suy thoái, thủ lĩnh của Đảng Dân chủ Cộng hòa nhận thấy sự cần thiết phải

thực hiện công nghiệp hóa hướng ngoại, tập trung đẩy mạnh xuất khẩu thay cho chiến

lược kinh tế hướng nội và nhập khẩu thời kỳ trước đó. Với tuyên bố mạnh mẽ “mỗi xu

ngoại tệ là một giọt máu”, Park Chung Hee đã quyết tâm biến Hàn Quốc thành nước

xuất khẩu hàng đầu châu Á. Khi viện trợ kinh tế của Mỹ đang giảm mạnh, Hàn Quốc

buộc phải “hướng ngoại” và tiếp cận Nhật Bản để khắc phục tình trạng khát vốn. Bên

cạnh đó, về phương diện quân sự, việc kết giao với nước láng giềng này còn giúp Hàn

Quốc tạo dựng một vành đai an ninh đối trọng với liên minh Bắc Triều Tiên - Liên Xô

- Trung Quốc. Những lợi ích thiết thực nói trên là nhân tố trọng yếu thôi thúc Park

Chung Hee chuyển dịch trọng tâm đối ngoại từ CHDCND Triều Tiên sang Nhật Bản.

Theo định hướng đó, từ tháng 10-1961, các cuộc đàm phán giữa hai bên đã được nối lại

và tạo cơ sở cho việc ký kết “Hiệp ước quan hệ cơ bản” (22-6-1965). Với Hiệp ước này,

hai quốc gia chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao sau 20 năm Hàn Quốc thoát khỏi

Page 28: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

18

khỏi ách thống trị của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản (1945).

“Hiệp ước quan hệ cơ bản” (1965) nhắc lại các quy định liên quan đến “Hiệp

ước Hòa bình” với Nhật Bản tại San Francisco (08-9-1951) và Nghị quyết 195 (III)

được thông qua tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (12-12-1948) với tuyên bố: “Chính

phủ Hàn Quốc là Chính phủ hợp pháp duy nhất trên bán đảo Triều Tiên” (Điều III)

[159]. Bản Hiệp ước còn kèm theo năm thỏa thuận bổ sung về: Vấn đề người Hàn

Quốc cư trú tại Nhật Bản; tuyên bố tài sản và hợp tác kinh tế; vấn đề văn hóa; vấn đề

thủy sản và các cơ chế giải quyết tranh chấp giữa hai nước. Trong các nội dung nêu

trên, “Hiệp định tuyên bố về tài sản và hợp tác kinh tế Hàn Quốc - Nhật Bản” (gọi tắt

là: “Hiệp định bồi thường”) là quan trọng nhất. Theo thỏa thuận của Hiệp định này,

Nhật Bản sẽ cung cấp 300 triệu USD cho Hàn Quốc dưới các hình thức cho vay, đầu tư

và viện trợ (Khoản 1, Điều 1) [63; tr. 111-117] thay vì bồi thường 800 triệu USD như

dự tính ban đầu. Đồng thời, “Hiệp ước quan hệ cơ bản” cũng ngăn chặn các hành vi

khiếu nại hoặc chống đối Chính phủ Nhật Bản của các nạn nhân thời chiến ở Hàn Quốc

với tư cách cá nhân (Khoản 1, Điều 2) [63; tr. 111-117]. Như vậy, khi ký vào bản Hiệp

ước này, Hàn Quốc đã tự tước đi quyền đòi bồi thường chiến tranh như một giải pháp

chính trị đối với người Nhật để đổi lấy gói “bảo hiểm” về đầu tư và viện trợ kinh tế.

Với việc hợp thức hóa khoản bồi thường của Chính phủ Nhật Bản dưới danh

nghĩa “Qũy kỷ niệm ngày độc lập Hàn Quốc”, “Hiệp ước quan hệ cơ bản” (1965) đã

vấp phải sự chống đối quyết liệt của nhân dân Hàn Quốc ngay thời điểm nó được ký

kết. Sau sự kiện này, Tổng thống Park trở thành tâm điểm của nền chính trị Hàn Quốc

với hai “phẩm chất” độc tài và thực dụng. Park Chung Hee từng tham gia vào quân đội

Nhật Bản tại Mãn Châu – Trung Quốc nhờ cam kết trung thành với Nhật Hoàng được

viết bằng máu. Vì vậy, ông có quan điểm chính trị đối lập người tiền nhiệm về quan hệ

với nước láng giềng cũng là điều dễ hiểu. Ông không chủ trương bài xích người Nhật

cũng không tố cáo hành vi xâm lược Triều Tiên của quân đội Nhật Hoàng trong quá

khứ, ông coi Nhật Bản là nhà tài trợ kinh tế tiềm năng và cũng là đồng minh quân sự

đáng tin cậy vào thời điểm hiện tại. Với nhận thức ấy, Park Chung Hee đã trở thành

“cha đẻ” của chính sách “thân Nhật” ngay từ đầu thập niên 60. Đường lối đối ngoại này

bị áp đặt và chi phối bởi ý chí chính trị của cá nhân nhiều hơn là nguyện vọng và mong

muốn của người dân Hàn Quốc. Vì lẽ đó, có khi Park bị lên án là “tay sai” của chủ

nghĩa quân phiệt khi quyết tâm kế tục và dẫn dắt tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa

hai nước ròng rã 13 năm (1952 - 1965). Thực chất, chính sách đối ngoại này gắn liền với

xuất thân chính trị của Park, được nuôi dưỡng bởi “chủ nghĩa cơ hội thực dụng” và được

Page 29: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

19

phát triển theo nhu cầu đổi mới kinh tế của Hàn Quốc.

Với tham vọng “tạo ra một nền kinh tế đứng đầu Đông Á trong vòng 10 năm và

vươn lên cường quốc thế giới sau 20 năm” [123; tr. 72], Park Chung Hee đã ra sức đẩy

nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Khi mục tiêu kinh tế chuyển hóa

thành ý thức chính trị, Park Chung Hee sẵn sàng gạt bỏ ký ức thực dân về nước láng giềng

để nhận lấy “tình bang giao” và “tiền vốn”. Ông còn bị gắn mác “chủ nghĩa cơ hội tàn

nhẫn” khi chỉ chi 300.000 Won (khoảng 289 USD) cho một vụ tử nạn lao động từ thời

thuộc địa (thay vì 1.650 USD như đã hứa trước đó) [45] và cắt giảm khoản tiền bồi thường

cho 1,03 triệu nạn nhân chiến tranh để đầu tư trọn gói vào phát triển kinh tế [44].

Mặc dù phải gánh chịu không ít tai tiếng và lời chỉ trích, chính sách đối ngoại

của Park Chung Hee vẫn cho thấy hàng loạt lợi ích thiết thực cho đất nước. Sau khi

chính thức bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản (1965), Hàn Quốc dựa vào Mỹ chỉ

duy nhất về thị trường, còn lại toàn bộ các yếu tố khác: Nguồn vốn, công nghệ hiếm,

máy móc, phụ tùng đều do Nhật Bản hỗ trợ. Trong giai đoạn từ năm 1965 đến 1977,

nước láng giềng này đã cung cấp cho Hàn Quốc đến 80% linh phụ kiện và nguyên vật

liệu sản xuất công nghiệp. Tổng số vốn hợp tác giữa hai nền kinh tế lên đến 3,68 tỷ

USD [8; tr. 72]. Với một đất nước phát triển cực muộn và nghèo nàn tài nguyên, vai trò

“hậu thuẫn” của Nhật Bản dù không phải nhân tố quyết định bên trong nhưng cũng là

yếu tố quan trọng bên ngoài góp phần vào thành quả phát triển kinh tế của Hàn Quốc.

Khi chính sách “thân Nhật” của Park Chung Hee đang tích cực phát huy tác

dụng và mang lại cho Hàn Quốc một “nền tảng” kinh tế vững chắc thì sóng gió lại nổi

lên trong quan hệ hai nước. Vụ bắt cóc Kim Tae Chung ở Tokyo (8-1973) và ám sát

hụt Park Chung Hee (8-1974) do một người Nhật có lập trường ủng hộ CHDCND

Triều Tiên thực hiện đã đặt Nhật Bản và Hàn Quốc, một lần nữa, vào tình thế đối đầu.

Nền tảng ngoại giao của hai nước thực sự bị lung lay khi các Chính phủ triệu hồi Đại

sứ của mình. Dù đã nỗ lực gắn kết quan hệ song phương nhưng Park Chung Hee vẫn

không thể nào “điều hòa” và làm chủ được mọi tình huống khi mà tình bang giao Hàn

– Nhật vốn đã được gây dựng trên một nền móng quá yếu. Đặc biệt, trong thời kỳ

Chiến tranh lạnh, sự xích lại gần nhau của hai đối tác kinh tế - chính trị ở Đông Bắc Á

vẫn chưa chứng tỏ được lòng tin và sự thiện chí. Mặc dù đều tích cực tham gia vào mắt

xích chống cộng của Mỹ ở Viễn Đông với tư cách là đồng minh chiến lược nhưng bản

thân Hàn Quốc và Nhật Bản lại không có bất cứ một Hiệp ước an ninh song phương

nào. Chưa kể việc, đến tận năm 1978, cơ quan quân sự của hai nước hầu như không

Page 30: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

20

liên hệ với nhau [144; tr. 41]. Sự chậm trễ này kéo theo không ít hệ lụy, điển hình là

việc lãnh đạo hai bên vẫn chưa có chuyến viếng thăm lẫn nhau nào trước năm 1983 dù

quan hệ Hàn Quốc – Nhật Bản đã được thiết lập gần hai thập niên [8; tr. 73]. Thái độ

nghi kị và dè chừng khiến cho bầu không khí lạnh nhạt trong quan hệ song phương tiếp

tục bao trùm đến khi Park Chung Hee bị ám sát (1979).

Bước vào thập niên 80 của thế kỷ XX, Hàn Quốc thực hiện đa nguyên hóa

chính sách đối ngoại. Chủ trương mới của nhà cầm quyền Chun Doo Hwan đã giúp đất

nước tăng cường giao lưu với các đối tác phi truyền thống nhưng vẫn coi quan hệ với

Nhật Bản là trụ cột. Nhờ đường lối chính trị ôn hòa, Tổng thống Chun đã tạo dựng một

hệ thống kinh tế, chính trị cởi mở hơn. Thái độ hợp tác đầy thiện chí của Seoul đã được

Thủ tướng Nhật Bản Yasuhiro Nakasone ghi nhận bằng chuyến viếng thăm đầu tiên

đến Hàn Quốc (1983). Trong lần gặp gỡ này, hai bên đã đạt được thỏa thuận về gói

viện trợ kinh tế trị giá 4 tỷ USD do Nhật Bản cung cấp [141]; đáp lại, Tổng thống Hàn

Quốc cam kết siết chặt hơn nữa mối quan hệ đồng minh Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc.

Năm 1984, chính quyền Chun Doo Hwan tiếp tục tiến thêm một bước nữa trên mặt trận

ngoại giao khi lần đầu tiên trong lịch sử, Nhật Hoàng Hirohito bày tỏ sự “hối tiếc” của

cá nhân ông về quá khứ bất hạnh của cả hai nước. Với kết quả ấy, chiến lược “ngoại

giao con thoi” của Nakasone và Chun Doo Hwan đã làm hài lòng người đứng đầu Nhà

Trắng Ronald Reagan về khả năng tăng cường vành đai an ninh tại khu vực châu Á.

Việc cải thiện quan hệ Hàn Quốc – Nhật Bản dưới thời Chun Doo Hwan đã

khẳng định tính đúng đắn của đường lối “dân tộc chủ nghĩa” trong đấu tranh ngoại

giao. Lần đầu tiên từ khi thiết lập quan hệ (1965), các nhà lãnh đạo của hai nước chính

thức gặp gỡ, hội đàm với tinh thần hợp tác và đầy thân thiện. Tuy nhiên, bầu không khí

“hòa dịu” này chẳng thể duy trì đến đầu thập niên 90. Những phát ngôn khơi dậy quá

khứ đau buồn của giới chính trị cánh tả Nhật Bản cùng với sự xuất hiện của những

cuốn sách giáo khoa lịch sử có nội dung xem nhẹ trách nhiệm của quân đội Nhật

Hoàng trong thời kỳ chiếm đóng Triều Tiên khiến người Hàn Quốc bức xúc và nổi

giận. Không khí “chống Nhật” càng dâng cao khi Chính phủ Nhật Bản tuyên bố chủ

quyền với quần đảo Liancourt. Vấn đề tranh giành chủ quyền trên biển bùng phát trong

những năm 1990 bắt nguồn từ một “kẽ hở” trong “Hiệp ước quan hệ cơ bản” (1965).

Hiệp ước này chính thức thiết lập quan hệ giữa hai nước nhưng hoàn toàn “bỏ ngỏ” vấn

đề của Liancourt. Ngay cả Hiệp ước hòa bình San Francisco (1951) cũng chỉ tuyên bố

chủ quyền cho các đảo: Quelpart, Port Hamilton và Dagelet chứ không hề nhắc tới

Page 31: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

21

Liancourt hay quốc gia sở hữu nó. Trong quá khứ, sự kiện Syng Man Rhee gửi quân

đến Liancourt (1952) để tuyên bố chủ quyền với quần đảo này dưới cái tên “Dokdo” và

việc Nhật Bản đăng ký hải phận Liancourt với danh xưng “Takeshima” theo hệ thống

luật pháp quốc tế càng làm cho quan hệ giữa hai nước rạn nứt nghiêm trọng vào thời

điểm hiện tại. Không tìm được tiếng nói chung để hóa giải xung đột, Hàn Quốc và

Nhật Bản lại tiếp tục duy trì mối quan hệ “gần mặt, cách lòng” cho đến sát thời điểm

kết thúc Chiến tranh lạnh.

Có thể thấy, so với liên minh Hàn Quốc – Mỹ, mối bang giao Hàn Quốc – Nhật

Bản còn tồn đọng quá nhiều vướng mắc do lịch sử bất hạnh của bán đảo Triều Tiên

trong thời kỳ thuộc địa. Tuy nhiên, do cùng thực hiện liên minh quân sự với Mỹ và

cùng chia sẻ các giá trị tự do phương Tây trong nền kinh tế thị trường, Hàn Quốc và

Nhật Bản vẫn có cơ sở để gắn kết quan hệ. Hai nước đã đạt được những tiến bộ đầu

tiên trong lĩnh vực ngoại giao khi John F. Kennedy trở thành tổng thống thứ 35 của

nước Mỹ và Thiếu tướng Park Chung Hee lên nắm quyền sau cuộc đảo chính quân sự

(1961) ở Hàn Quốc. Năm 1969, Mỹ thực hiện “học thuyết Guam”, gián tiếp đẩy Hàn

Quốc về phía Nhật Bản sau khi thu hồi các sư đoàn bộ binh trên bán đảo Triều Tiên.

Trước đó, siêu cường này thậm chí còn cắt giảm viện trợ của Seoul (1959 - 1965), buộc

chính quyền Park phải mở cửa nền kinh tế cho đầu tư nước ngoài, thực chất là để Hàn

Quốc nối lại quan hệ với Nhật Bản. Luôn chịu tác động và bị “giật dây” bởi nhân tố thứ

ba, chính sách của Hàn Quốc đối với Nhật Bản trong thời kỳ Chiến tranh lạnh đã giúp

hai nước cải thiện quan hệ nhưng chỉ ở “bề mặt”. Mối kết giao Hàn – Nhật thiếu tính

chiến lược bền vững bởi nó chỉ phản ánh mục tiêu và tham vọng của Mỹ chứ không bắt

rễ từ lợi ích chính trị của hai thực thể tham gia. Vậy nên, dù đã nỗ lực xóa bỏ những

“rào cản” do bất đồng quá khứ và tranh chấp chủ quyền nhưng chính sách đối ngoại

của cả Park Chung Hee và Chun Doo Hwan chưa thể tạo dựng mối quan hệ đồng minh

vững chắc với Nhật Bản. Điều này cho thấy, Hàn Quốc vẫn còn nhiều việc phải làm

trên con đường tìm kiếm và xác lập một chính sách ngoại giao mới cho nền tảng quan

hệ chính trị giữa hai nước.

1.1.2. Đối với Trung Quốc

Hàn Quốc và Trung Quốc là hai quốc gia ở khu vực Đông Bắc Á có sự gắn bó

mật thiết trên nhiều phương diện. Ngay buổi đầu công nguyên, nền văn hóa của Trung

Quốc đã ảnh hưởng sâu sắc đến Hàn Quốc bởi hệ tư tưởng triết học, Nho giáo, Phật

giáo và Đạo giáo. Cả hai quốc gia, thậm chí còn cùng gánh chịu ách nô dịch của quân

Page 32: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

22

phiệt Nhật Bản (thế kỷ XVIII) và cùng đối mặt với âm mưu thôn tính của thực dân

phương Tây (thế kỷ XIX). Tuy nhiên, sự ra đời của mô hình Nhà nước TBCN ở Hàn

Quốc (1948) và XHCN ở Trung Quốc (1949) đã đẩy hai nước rơi vào cuộc đối đầu về

ý thức hệ của các siêu cường. Định mệnh lịch sử ấy làm cho mối quan hệ giữa hai bên

bị phân tuyến triệt để và sâu sắc, đặc biệt là sau khi bùng nổ Chiến tranh Triều Tiên

(1950). Trong cuộc chiến này, Trung Quốc liên tục ở vào thế “đối trọng” với Hàn

Quốc, nhất là khi đội quân chí nguyện của Mao Trạch Đông hỗ trợ cho CHDCND

Triều Tiên chống lại liên quân Liên Hợp Quốc và Hàn Quốc do Mỹ đứng đầu. Việc

Trung Quốc tham gia vào Hiệp định đình chiến (1953) và can dự vào các cuộc đàm

phán “tay ba” giữa hai miền Triều Tiên với Mỹ cũng làm tan vỡ không ít kế hoạch

chiến lược của Hàn Quốc và lực lượng đồng minh. Mối bất hòa giữa hai nước ngày

càng lên cao khi Trung Quốc ủng hộ CHDCND Triều Tiên, không công nhận chính

phủ Hàn Quốc và sử dụng cách mạng XHCN để “cộng sản hóa” miền Nam. Những

quan điểm trái ngược và cứng nhắc về phương diện chính trị đã triệt tiêu mọi cơ sở

gắn kết quan hệ giữa hai nước trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Hơn thế nữa, những

mâu thuẫn đối kháng vì lợi ích dân tộc còn khiến các bên nhìn nhận nhau bằng con

mắt chủ quan, thiên lệch và đầy định kiến. Syng Man Rhee – người đứng đầu Chính

phủ Hàn Quốc từ thập niên 60 thậm chí còn khẳng định: “Một trong những sai lầm to

lớn nhất, sự ngu ngốc khủng khiếp nhất của lịch sử dân tộc là đã tôn kính và sùng bái

Trung Quốc trong quá khứ” [72; tr. 35]. Lối lập luận sắt đá và cục bộ cho thấy sự chi

phối ghê gớm của ý thức hệ đến tư duy đối ngoại của người cầm quyền. Thực tế này

khiến cho Hàn Quốc và Trung Quốc ngày càng lún sâu vào hố phân cách bởi thế hệ

lãnh đạo đầu tiên của hai nước đều xem việc “kết bạn” trong bối cảnh Chiến tranh lạnh

là vô ích và phí hoài.

Đến thập niên 70 của thế kỷ XX, khi Hàn Quốc còn đang mải mê theo đuổi

chính sách “Đệ nhất kinh tế” thì Trung Quốc đã nhanh chóng bình thường hóa và thiết

lập quan hệ ngoại giao với các quốc gia có đường lối chính trị đối lập như Nhật Bản

(1972) và Mỹ (1979). Trên lý thuyết, việc Bắc Kinh cải thiện quan hệ với hai đồng

minh chiến lược của Hàn Quốc ở khu vực Đông Bắc Á sẽ gián tiếp thúc đẩy quan hệ

Hàn Quốc – Trung Quốc bước sang một chương mới. Tuy nhiên, sự xích lại gần nhau

của ngoại giao hai nước, trên thực tế, lại không suôn sẻ. Trung Quốc đã sớm tuyên bố

không thực hiện chính sách “hai Triều Tiên” và cũng không có bất cứ sự tiếp xúc nào

với Hàn Quốc [42; tr. 107&113]. Lý giải về điều này, Mao Trạch Đông cho rằng, quan

Page 33: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

23

hệ Hàn Quốc – Trung Quốc chẳng khác gì quan hệ Mỹ - CHDCND Triều Tiên bởi các

cặp liên kết này chỉ có tác dụng “chôn sống lợi ích” của thực thể nước lớn. Trung

Quốc đã cự tuyệt mọi quan hệ với Hàn Quốc, thậm chí ngăn cấm những tiếp xúc xã

hội thông thường giữa quan chức hai nước ở nước thứ ba vì toan tính thiệt hơn về lợi

ích chính trị. Thực tế, Trung Quốc đã vun đắp mối quan hệ hữu nghị và truyền thống

với chính quyền Kim Il Sung bằng cả máu của mình trong cuộc Chiến tranh Triều

Tiên (1953). Vì vậy, chẳng có lý do gì để họ quay lưng với quá khứ, “bắt tay” cùng

Seoul để trở thành “kẻ phản bội” CHDCND Triều Tiên. Thêm vào đó, Trung Quốc

tuyệt đối không để mất một chiến hữu thân cận trong cuộc chạy đua giành quyền lãnh

đạo phe XHCN với Liên Xô, đặc biệt là khi Bắc Triều Tiên đang áp dụng chiêu bài

“nước đôi” với cả hai đồng minh Trung - Xô. Rõ ràng, thiết lập quan hệ với Hàn Quốc

chẳng những không bảo toàn được lợi ích chiến lược của Trung Quốc trong hiện tại

mà còn có thể phá hủy tiền đồ chính trị của quốc gia này trong tương lai. Nhận thức

được những suy tính chính trị sâu sắc của Mao Trạch Đông, Hàn Quốc đã không đề

xuất một chính sách nào nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong quan hệ với nước láng

giềng. Park Chung Hee cũng hiểu rõ chính sách đối ngoại của Hàn Quốc có cởi mở và

hoàn thiện bao nhiêu chăng nữa cũng không thể nào lôi kéo Trung Quốc từ bỏ mối

quan hệ liên minh “môi hở răng lạnh” với Bình Nhưỡng.

Hàn Quốc bắt đầu mong muốn kết nối với Trung Quốc kể từ sau khi nước này

tiến hành công cuộc cải cách, mở cửa và có tầm ảnh hưởng lớn hơn tại khu vực châu

Á – Thái Bình Dương. Đến đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, Bắc Kinh ngày càng chi

phối và điều tiết mạnh mẽ đến tương lai của bán đảo Triều Tiên. Lúc bấy giờ, Hàn

Quốc buộc phải điều chỉnh tư duy Chiến tranh lạnh để vun đắp cho mối quan hệ với

đối tác mới. Nhiệm vụ chính trị này đã được Tổng thống Chun Doo Hwan ráo riết

thực hiện thông qua chính sách cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Thái độ hợp tác của

giới chức Hàn Quốc đã giúp hai nước thực sự có quan hệ kinh doanh từ giữa những

năm 80. Cũng vào thời điểm này, các học giả, nhà báo và thân nhân ly tán đã được hai

chính quyền cho phép gặp gỡ, thăm viếng lẫn nhau.

Nhờ đường lối ngoại giao tích cực, Chun Doo Hwan đã từng bước “hâm nóng”

mối quan hệ láng giềng sau hơn ba thập niên lạnh nhạt. Tuy nhiên, giới chức của hai

nước chỉ thực sự có liên hệ chính thức từ năm 1983. Kết quả này được củng cố sau sự

kiện Hàn Quốc hỗ trợ một máy bay dân sự của Trung Quốc bị bắt cóc, buộc phải hạ

cánh xuống phi trường Seoul. Từ biến cố lịch sử ấy, Đặng Tiểu Bình bắt đầu nhận

Page 34: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

24

thức về vai trò “láng giềng gần” của Hàn Quốc và có niềm tin vào mối quan hệ giữa

hai nước. Đáp lại sự hỗ trợ kịp thời của Tổng thống Chun Doo Hwan đối với ngành

hàng không Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã ủng hộ các hoạt động giao lưu văn hóa

giữa hai nước. Tháng 4-1984, đoàn vận động viên Bắc Kinh đã đến Seoul tham dự giải

vô địch bóng rổ châu Á lần thứ VIII. Kể từ đây, quan chức hai bên cũng bắt đầu gặp

gỡ, tiếp xúc trong các hội nghị và diễn đàn quốc tế với tinh thần thân thiện và cởi mở

hơn.

Nhìn lại quá khứ, suốt trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, quan hệ Hàn Quốc –

Trung Quốc gần như bị “đóng khung” do chịu sự chi phối của ba yếu tố: Mô hình

“lưỡng cực” của cơ cấu quyền lực thế giới, sự can thiệp của Trung Quốc trong cuộc

Chiến tranh Triều Tiên và sự cạnh tranh Trung - Xô nhằm duy trì ảnh hưởng đối với

chính quyền Kim Il Sung. Những giới hạn này làm cho cả hai nước luôn phủ định lẫn

nhau cả về lập trường chính trị lẫn quan điểm ngoại giao. Việc Trung Quốc theo đuổi

chính sách “một Triều Tiên”, còn Hàn Quốc chỉ duy trì quan hệ với Đài Loan đã cho

thấy sự phân cực sâu sắc giữa hai tuyến đối đầu này. Vì thế nên, đến cuối thập niên 70

của thế kỷ XX, quan hệ giữa hai nước vẫn hoàn toàn đóng băng. Đến khi Chun Doo

Hwan thực hiện chính sách ngoại giao cân bằng với Trung Quốc thì sự đối đầu này

mới được tiết chế. Hướng đi tiếp theo của nền chính trị Hàn Quốc sẽ là thúc đẩy hợp

tác kinh tế với Bắc Kinh nhưng vẫn duy trì an ninh, hòa bình và ổn định trên bán đảo

Triều Tiên trên cơ sở nhận thức đúng đắn về mối quan hệ song phương giữa hai nước.

Đây là nội dung có tính chất “định hướng” mà các chính sách đối ngoại về sau của

Hàn Quốc sẽ tiếp tục kế thừa và thực hiện.

1.1.3. Đối với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên

Ngay từ khi mới ra đời, nhờ hậu thuẫn của Mỹ, Hàn Quốc được Liên Hợp Quốc

công nhận là Nhà nước duy nhất trên bán đảo Triều Tiên. Chính điều này đã định hình

tâm lý chống đối và đường lối ngoại giao cứng rắn, cực đoan của miền Nam Triều Tiên

do tâm lý nôn nóng muốn giành lại “phần lãnh thổ đã mất”. Quyết tâm chính trịấy được

phản ánh trong chính sách “Bắc tiến” do Ngoại trưởng Hàn Quốc - Chang Taek Sang

công bố vào ngày 08-10-1948. Mục tiêu trọng tâm của chính sách là “xóa bỏ sự đe dọa

trực tiếp của lực lượng cộng sản miền Bắc” [122; tr. 445]. Điều này cho thấy tâm lý

thù địch, đối đầu cùng với đó là tính chất ngăn chặn triệt để và đấu tranh quyết liệt với

chế độ “bất hợp pháp” của CHDCND Triều Tiên.

Không thể phủ nhận một thực tế, từ sau khi xung đột giữa hai miền kết thúc với

Hiệp định đình chiến (1953), kinh tế Bắc Triều Tiên phát triển hết sức mạnh mẽ. Nhờ

Page 35: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

25

ký kết thành công Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hóa với Liên Xô (3-1949), CHDCND

Triều Tiên đã hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kinh tế trong giai đoạn 1949 –1950

[38; tr. 13]. Cùng thời điểm đó, ở miền Nam, Hàn Quốc lại lâm vào tình cảnh khó khăn

do chế độ độc tài cầm quyền. Tình cảnh xã hội rối ren, kinh tế suy sụp và đất nước

đứng bên miệng hố “suy vong” vào đầu thập niên 50 đã trở thành cái cớ để Syng Man

Rhee thúc đẩy mạnh mẽ và quyết liệt hơn chính sách “Bắc tiến” với lý do: Nếu không

thống nhất công nghiệp của miền Bắc với nông nghiệp của miền Nam thì đất nước khó

lòng mà tồn tại [24]. Hàng loạt thách thức trong thời điểm đó buộc tổng thống Hàn

Quốc phải điều chỉnh chính sách “Bắc tiến” (1948 - 1953) thành chính sách “Bắc tiến

và thống nhất” với đường lối chính trị cứng rắn và cực đoan gấp bội. Chính sách mới

được Thủ tướng Hàn Quốc công bố trước Quốc hội vào ngày 14-7-1954 với quyết tâm:

“Càng sớm càng tốt xây dựng một quốc gia thống nhất, tự do, dân chủ và độc lập bằng

việc đánh đuổi Trung Quốc ra khỏi đất nước và đập tan bè lũ miền Bắc” [108]. Quan

điểm chính trị này đã được Tổng thống Syng Man Rhee nhắc lại trong chuyến thăm

Mỹ vào tháng 7-1954. Chính sách “Bắc tiến và thống nhất” của Syng Man Rhee, rõ

ràng, là kết quả kế thừa và phát triển từ chính sách đối ngoại trước đó. Nỗ lực giành lại

miền Bắc, tiến tới Tổng tuyển cử tự do trên toàn bán đảo dưới sự giám sát của Liên

Hợp Quốc là mục tiêu không đổi; bên cạnh đó, chính sách mới còn nâng cao quan điểm

và lập trường cứng rắn hơn: “không công nhận, không đàm phán, không đối thoại” với

CHDCND Triều Tiên và từ chối mọi đề nghị hòa bình từ Bình Nhưỡng.

Chính sách “Bắc tiến và thống nhất” ra đời cho thấy lực lượng dân tộc cánh hữu

do Tổng thống Syng Man Rhee đứng đầu luôn muốn “mượn tay” Mỹ để đẩy nhanh

tiến trình thống nhất hai miền. Tuy nhiên, quân đội miền Nam không thể vượt vĩ tuyến

38 dựa vào sức mạnh quân sự vì vấp phải ba trở lực lớn: Một là, sự cạnh tranh khốc liệt

của các siêu cường; hai là, tương quan lực lượng bất lợi cho miền Nam; ba là, chủ

trương dùng vũ lực để thống nhất đất nước của CHDCND Triều Tiên. Để không phải

“dọn dẹp” một chiến trường đổ máu do tham vọng thống nhất Triều Tiên của Syng

Man Rhee, Mỹ luôn tìm cách duy trì sự hiện diện của mình nhằm chặn đứng âm mưu

“xâm lược” của miền Bắc, đồng thời “răn đe” kế hoạch phản công Nhà nước Triều

Tiên ở miền Nam. Không được Mỹ ủng hộ, lại phải chịu sự khống chế của “Hiệp ước

an ninh chung” (1953) với cam kết không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực

trong quan hệ quốc tế, kế hoạch thống nhất Triều Tiên của chính quyền Syng Man

Rhee trở nên vô vọng. Chính sách “Bắc tiến và thống nhất”, vì thế, chỉ được duy trì đến

Page 36: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

26

năm 1960 khi sinh viên và trí thức miền Nam tiến hành cuộc cách mạng ngày 19-4, lật

đổ nền Cộng hòa thứ nhất (27-4-1960).

Sự thất bại liên tiếp của hai chính sách: “Bắc tiến” rồi “Bắc tiến và thống nhất”

tác động không nhỏ đến tư duy đối ngoại của Hàn Quốc. Thực tế cho thấy, quan điểm

ngoại giao cứng rắn với một đường lối bảo thủ và bạo lực chỉ có thể đẩy tiến trình

thống nhất hai miền đi vào ngõ cụt. Rõ ràng, chính sách đối ngoại của Hàn Quốc dưới

thời Syng Man Rhee đã bộc lộ nhiều bất ổn ngay từ trong “trứng nước” do tâm lý dựa

dẫm vào nước ngoài và thái độ cứng rắn trong quan hệ với miền Bắc Triều Tiên. Sự đổ

bể của hàng loạt chính sách ngoại giao lệch hướng đã khiến Hàn Quốc thức tỉnh và

nhanh chóng điều chỉnh chiến lược mới của mình. Ngay sau khi chính quyền của Syng

Man Rhee sụp đổ, Chính phủ lâm thời do Ngoại trưởng Ho Chong làm quyền tổng

thống đã xóa bỏ khẩu hiệu “Bắc tiến và thống nhất”, thay vào đó là chủ trương hòa

bình theo tinh thần nghị quyết của Liên Hợp Quốc.

Thấy rõ sự bế tắc trong nỗ lực “đoàn tụ” hai miền, thế hệ kế nhiệm của Syng

Man Rhee – hai tổng thống Yun Posun (1960) và Park Chung Hee (1963) đã cương

quyết đưa nhiệm vụ phát triển kinh tế lên hàng đầu, vấn đề thống nhất đất nước được

chuyển xuống vị trí thứ hai. Trải qua tình cảnh khốn cùng và lạc hậu, Tổng thống Park

thấm nhuần một thực tế: Đối với những người nghèo, bên bờ vực của sự chết đói như

nhân dân Hàn Quốc thì kinh tế phải được đặt lên trên chính trị [5; tr. 154]. Với nhận

thức ấy, Park Chung Hee đã quán triệt chủ trương “xây dựng trước, thống nhất sau” mà

đặt trọng tâm là chính sách “Đệ nhất kinh tế”. Theo ông, mục tiêu hiện đại hóa đất

nước chính là tiền đề cơ bản, là cầu nối để gắn kết hai miền. Trong diễn văn thành lập

“Hội đồng cách mạng quân sự” (16-5-1961), Park Chung Hee nhấn mạnh: “Việc thống

nhất đất nước sẽ hoàn thành bằng quyết tâm tăng cường sức mạnh quốc gia để đủ sức

lật đổ chế độ miền Bắc” [124; tr. 21]. Lập trường cứng rắn này tiếp tục được ông nhắc

lại trong lần gặp gỡ kiều dân Hàn Quốc tại Bonn (CHLB Đức) vào ngày 09-12-1964

với thông điệp: “Cách duy nhất để thống nhất là xây dựng kinh tế và thịnh vượng như

Tây Đức” [124; tr. 21]. Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc dưới thời Tổng thống Park

Chung Hee đã phản ánh một nhận thức mới rằng, kết quả thống nhất đất nước không

thể đạt được bằng vũ lực mà phải thông qua sức mạnh kinh tế và tăng cường đối thoại.

Chính định hướng này đã thôi thúc Hàn Quốc bắt tay vào xây dựng và phát triển kinh

tế đất nước trong suốt thập niên 60 của thế kỷ XX.

Page 37: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

27

Dù không xem sự nghiệp thống nhất đất nước là ưu tiên số một như Syng Man

Rhee nhưng Park Chung Hee vẫn trung thành với đường lối đối ngoại cứng rắn dành

cho CHDCND Triều Tiên. Đối với vấn đề “đoàn tụ” hai miền, tướng Park đã có cái

nhìn thực tế và cách xử lý khôn ngoan hơn nhiều so với chính quyền tiền nhiệm. Để

giải quyết vấn đề Bắc Triều Tiên, tháng 6-1966, Park Chung Hee đưa ra công thức:

Liên Hợp Quốc giám sát và tiến hành tổng tuyển cử trên toàn toàn bán đảo theo tỷ lệ

dân số. Với cách làm này, tổng thống Hàn Quốc muốn dựa vào uy tín của một tổ chức

quốc tế để thúc đẩy tiến trình thống nhất hai miền. Giải pháp nói trên, về cơ bản, hoàn

toàn có lợi cho miền Nam bởi họ đã được Liên Hợp Quốc công nhận là Nhà nước hợp

pháp duy nhất trên bán đảo Triều Tiên từ lúc mới khai sinh. Hơn nữa, với số dân đông

gấp đôi, miền Nam gần như nắm chắc phần thắng trong cuộc bầu cử tự do. Nhận ra ý

đồ chính trị của Park Chung Hee, hàng loạt quốc gia Á, Phi và các nước XHCN trong

Liên Hợp Quốc đã đồng loạt lên tiếng phản đối. Để xoa dịu tình hình, chính phủ Hàn

Quốc buộc phải điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình, từ chỗ “nhất biên đảo” với

Mỹ và phương Tây sang tăng cường quan hệ đa phương với các nước thuộc phong trào

Không liên kết [39; tr. 21]. Đồng thời, Hàn Quốc còn xuất bản Sách Trắng về vấn đề

thống nhất (06-12-1966) và lập ra Bộ Thống nhất đất nước (01-3-1969). Nỗ lực đa

phương hóa quan hệ quốc tế của Park Chung Hee chỉ khiến miền Bắc thêm bất bình và

phẫn nộ. Thái độ chống đối của CHDCND Triều Tiên đã lên đến đỉnh điểm khi quân

đội nước này bắt giữ tàu hải quân Mỹ - Pueblo và lập kế hoạch ám sát Park Chung Hee

nhưng bất thành. Từ sau hai biến cố ấy, Hàn Quốc lập tức điều chỉnh chính sách “Đệ

nhất kinh tế” thành “Xây dựng kinh tế cùng quốc phòng” với tinh thần “vừa xây dựng,

vừa chiến đấu” [125]. Để thực hiện đường lối mới, Park Chung Hee vừa tăng cường

lực lượng dân phòng ở trong nước để ngăn chặn sự đột nhập từphía Bắc, vừa tích cực

góp mặt trong các hoạt động bảo vệ an ninh của khu vực. Tổng thống Park còn chủ

động viếng thăm Australia, New Zealand (1968) và Mỹ (1969) để củng cố “lá chắn

quân sự” từ phía lực lượng đồng minh.

Bước vào đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, bối cảnh khu vực và quốc tế có

nhiều chuyển biến quan trọng với sự thay đổi của cán cân lực lượng Xô - Mỹ. Trong

khi Liên Xô không ngừng lớn mạnh và tiến tới thế cân bằng chiến lược hạt nhân với

Mỹ thì siêu cường duy nhất của thế giới từ sau CTTG thứ hai lại chìm đắm trong trì trệ,

khủng hoảng và sa lầy chiến tranh ở Việt Nam. Tình thế này buộc Mỹ phải bắt đầu đối

thoại với Liên Xô và ra Tuyên bố chung Thượng Hải (1972), khai thông quan hệ với

Trung Quốc. Bên cạnh đó, dấu hiệu rạn nứt trong quan hệ của cả hai hệ thống TBCN

Page 38: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

28

và XHCN, đỉnh cao là chiến tranh biên giới giữa Liên Xô và Trung Quốc (1969) đã

khiến không ít quốc gia lo ngại và phải đưa phương châm hòa hoãn, đối thoại vào

chính sách đối ngoại của mình. Không nằm ngoài dòng chảy của xu thế mới, Hàn Quốc

bấy giờ đã bắt đầu điều chỉnh nhãn quan chính trị theo chiều hướng “tích cực can dự

vào CHDCND Triều Tiên và bước đầu thừa nhận hai thực thể chính trị độc lập, cùng

song song tồn tại trên bán đảo Triều Tiên” theo “Tuyên bố ngoại giao đặc biệt về

chính sách đối ngoại hòa bình và thống nhất đất nước” của Park Chung Hee (23-6-

1973) [126]. Trong Diễn văn kỷ niệm 25 năm giải phóng Triều Tiên khỏi ách thống trị

Nhật Bản (15-8-1970), Tổng thống Park lần đầu tiên tuyên bố: “Hàn Quốc sẵn sàng

cùng tồn tại hòa bình và chuẩn bị các biện pháp thực tế nhằm từng bước tháo bỏ

những rào chắn giả tạo giữa hai miền” [122; tr. 445]; đồng thời kêu gọi CHDCND

Triều Tiên từ bỏ đối đầu quân sự, tiến đến cạnh tranh công bằng trên mặt trận kinh tế.

Quan điểm “thống nhất thông qua đối thoại” đã thực sự phát huy tác dụng khi chính

quyền Park Chung Hee có lối ứng xử thức thời và mềm dẻo, từ chỗ không công nhận,

không nhượng bộ với miền Bắc Triều Tiên đến chỗ tiếp xúc và đàm phán với Bình

Nhưỡng. Hàng loạt cuộc gặp gỡ thiện chí giữa hai miền đã đưa đến việc ký kết “Tuyên

bố chung” (04-7-1972). Theo đó, hai bên đồng ý thống nhất đất nước dựa trên ba

nguyên tắc: “Một là, việc thống nhất đất nước phải thực hiện một cách độc lập, không

có sự phụ thuộc hoặc can thiệp từ bên ngoài. Hai là, thống nhất đất nước bằng giải

pháp hòa bình, không sử dụng vũ khí để chống đối lực lượng bên kia. Ba là, đẩy mạnh

đoàn kết dân tộc, vượt qua những khác biệt về hệ tư tưởng, lý tưởng và tính hệ thống”

[107; tr. 183-185]. Sự kiện này đánh dấu thành công bước đầu trong chính sách đối

ngoại “lựa chiều” của Hàn Quốc. Tuy nhiên, tiến trình đàm phán chưa đạt đến kết quả

cuối cùng thì bản tuyên bố chung của hai miền mới phôi thai đã phải dừng lại khi Park

Chung Hee bị ám sát năm 1979. Không có người chèo chống đất nước giữa lúc quá

nhiều bất đồng đang nảy sinh trong quá trình thương thuyết đã kéo lùi nỗ lực tái thống

nhất của Hàn Quốc về điểm xuất phát.

Chính sách đối ngoại do Park Chung Hee đề xướng dù không đạt đến mục đích

cuối cùng là hòa giải và tái thống nhất hai miền nhưng nó đã góp phần “khai thông” một

hướng đi mới trong quá trình kết nối quan hệ Nam – Bắc. Kế thừa lối tư duy ngoại giao

nhạy bén, thực dụng của người tiền nhiệm, tổng thống đắc cử năm 1980 – Chun Doo

Hwan vẫn một mực trung thành với chủ trương thống nhất đất nước phải thông qua đối

thoại. Sự “mềm dẻo” trong chính sách ngoại giao của Chun Doo Hwan dù không phải là

sáng tạo mới nhưng vẫn là một bước đi đầy cân nhắc và có tính toán. Cùng một khuôn

Page 39: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

29

mẫu với Park Chung Hee, nhờ đối thoại bắc cầu cho quan hệ nhưng Chun Doo Hwan lại

lấy lĩnh vực văn hóa - xã hội làm bước đệm và mục tiêu an ninh - chính trị làm đích đến.

Với phương châm này, chính quyền của ông quyết tâm đặt vấn đề “dân tộc” và “dân

chủ” lên hàng đầu, thay vì chỉ tập trung phát triển kinh tế. Về cơ bản, chính sách ngoại

giao của Chun Doo Hwan là sự tiếp nối đường lối đối ngoại của Chang Myon từ thập

niên 60 của thế kỷ XX nhưng trên nền tảng “di sản” kinh tế của Park Chung Hee. Đây là

một lựa chọn thực tế và khôn ngoan trong bối cảnh vấn đề bán đảo Triều Tiên đã bị

“quốc tế hóa” và các nước lớn chỉ muốn duy trì tình trạng chia cắt hai miền để bảo toàn

lợi ích chính trị của riêng mình. Với việc công bố “Công thức thống nhất hòa bình”, hay

còn gọi là “Công thức hòa giải dân tộc và thống nhất dân chủ” (1982), Chun Doo Hwan

kêu gọi chấm dứt “quan hệ không bình thường” giữa hai bên trên cơ sở tăng cường các

cuộc tiếp xúc bình thường và mở rộng phạm vi trao đổi, hợp tác Nam – Bắc đối với

thương mại, giao thông, viễn thông và các lĩnh vực khác [109]. Hàn Quốc đã chủ động tổ

chức các cuộc tiếp xúc giữa hai miền và đưa ra hàng loạt đề nghị nối liền quan hệ: Đề

nghị nối lại phiên họp trù bị và tiến hành gặp gỡ giữa Thủ tướng hai nước (10-1980); đề

nghị gặp gỡ lãnh đạo cấp cao nhất của hai miền (11-4-1981). Hàn Quốc còn công bố dự

thảo về kế hoạch thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Thống nhất Cao Ly (22-01-1982).

Bên cạnh đó, những lời đề nghị giao lưu, hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa,

giáo dục và khoa học - kỹ thuật cũng được đưa ra xem xét. Hội Chữ thập đỏ Hàn Quốc

còn kỳ vọng về một cuộc gặp gỡ giữa Hội Chữ thập đỏ hai miền để thảo luận về vấn đề

đoàn tụ các gia đình ly tán. Quan hệ liên Triều đã thực sự “hạ nhiệt” khi Hàn Quốc đồng

ý nối lại đàm phán kinh tế và tích cực hỗ trợ cho các nạn nhân lũ lụt của miền Bắc

(1984). Đầu năm 1986, hai bên cùng tham gia đàm phán cấp cao với mục đích xoa dịu

căng thẳng giữa hai miền, ngăn chặn chiến tranh, xem xét đề án thống nhất của cả hai

bên và không đối đầu trực tiếp trên trường quốc tế.

Nhờ chính sách ngoại giao tích cực và cởi mở, chính quyền Chun Doo Hwan đã

từng bước tháo gỡ những khúc mắc và hiểm lầm giữa hai nước. Tuy nhiên, việc hàn

gắn một mối quan hệ vốn rạn nứt từ lâu và là “di sản” của Chiến tranh lạnh quả là trọng

trách quá lớn đối với Tổng thống Chun. Khó khăn chủ yếu mà Hàn Quốc phải đối mặt

lúc bấy giờ lại là việc miền Bắc yêu cầu miền Nam phải chấm dứt một số hành động

liên minh quân sự với Mỹ và hủy bỏ luật an ninh quốc gia. Chính động thái này của

CHDCND Triều Tiên đã đẩy quan hệ hai miền rơi vào bế tắc. Tỏ rõ lập trường cứng

rắn của mình, miền Bắc liên tục né tránh các hoạt động tiếp xúc trực tiếp và bày tỏ thái

Page 40: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

30

độ bất hợp tác với chính phủ Hàn Quốc. Cũng vì lẽ đó, việc lựa chọn giải pháp đối đầu

hay đối thoại giữa hai miền kéo dài mãi cho đến cuối thập kỷ 80.

Đánh giá một cách khách quan, ngay từ đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, Hàn

Quốc đã có một sự “tiết chế” đáng kể trong chính sách đối với CHDCND Triều Tiên.

Hàn Quốc cũng đang tìm cách thoát khỏi sự bao bọc tuyệt đối của Mỹ do định chế của

“Hiệp ước an ninh chung” (1953) để nhìn nhận vấn đề đối ngoại bằng “con ngươi” của

chính mình. Nhờ nỗ lực “hóa rồng” bằng con đường công nghiệp hóa, Hàn Quốc đã

làm thay đổi về cơ bản tính chất mối quan hệ với Mỹ, từ chỗ là đồng minh lệ thuộc một

chiều đến chỗ là đối tác kinh tế bình đẳng. Kể từ đây, sự gia tăng về khối lượng đầu tư

và thương mại giữa hai nước tương ứng với việc giảm dần nguồn viện trợ từ phía Mỹ.

Thực tế này đã thức tỉnh suy nghĩ của người Hàn Quốc. Họ cho rằng:“Trong hơn 30

năm qua, chúng ta đã sống tương đối yên tâm dưới sự bảo hộ của Mỹ. Nhưng khi thế

giới ngày càng phân chia thành nhiều cực và sức mạnh của chúng ta ngày càng tăng

lên thì kiểu quan hệ Hàn Quốc - Mỹ như trước đây không còn thích hợp nữa” [15; tr.

6]. Có thể thấy, đi đôi với một nền kinh tế phát triển là sự nâng cao về ý thức tự cường

và tinh thần tự chủ của quốc gia. Nhận thức này thôi thúc Hàn Quốc phải từng bước xây

dựng cho mình một đường lối ngoại giao độc lập. Với việc đưa ra “thuyết chủ thể, thuyết

tự cường”, Tổng thống Park Chung Hee được coi là thế hệ lãnh đạo đầu tiên yêu cầu Hàn

Quốc phải tự chủ trong xây dựng sách lược phòng vệ và hoạch định chiến lược ngoại

giao. Quan điểm này của ông được thể hiện trong tuyên bố đặc biệt về chính sách “thống

nhất hòa bình” (23-6-1976); theo đó, Hàn Quốc thực hiện mở cửa đối với tất cả các nước

(không phân biệt ý thức hệ và thể chế chính trị). Đây được xem là cơ sở tồn tại cho

“Công thức thống nhất hòa bình mới” của Chun Doo Hwan vào thập niên 80.

Nhìn lại chặng đường đã qua, trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh, các nhà lãnh

đạo Hàn Quốc đã dành ra không ít tâm sức và cả sự kiên nhẫn để thực hiện mục tiêu

thống nhất đất nước - một nội dung chủ đạo trong chính sách với CHDCND Triều

Tiên. Nội dung nhất quán, xuyên suốt này không ngừng được kế tục và phát triển suốt

hơn bốn thập niên với cả hai mặt thành công và hạn chế. Nhà độc tài Syng Man Rhee

đã mở đầu nền Cộng hòa thứ nhất với chính sách ngoại giao “Bắc tiến”, sau đó là “Bắc

tiến và thống nhất”. Tính chất cứng rắn và cực đoan trong đường lối đối ngoại của vị

tổng thống đầu tiên đã khoét sâu vết nứt trong quan hệ giữa hai miền. Chủ trương

thống nhất đất nước bằng “sắt và máu” của Syng Man Rhee vừa làm suy nhược nền

kinh tế trong nước (do quá dồn sức vào phát triển quân sự), vừa “đổ thêm dầu” vào

ngọn lửa chống đối của lực lượng quân sự miền Bắc. Điều tất yếu mà hai chính sách

Page 41: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

31

nói trên mang lại chỉ là kết cục lật đổ chính quyền Syng Man Rhee và cáo chung nền

Cộng hòa đầu tiên (1960). Kế thừa một di sản đổ nát và đói nghèo từ tay Syng Man

Rhee, Park Chung Hee buộc phải “sắm vai” người xoay chuyển vận mệnh quốc gia với

một đường lối chính trị đối lập (đặt kinh tế lên trên quân sự). Chính sách “Đệ nhất kinh

tế” ra đời cho thấy Hàn Quốc muốn tạo dựng sự thăng bằng trong cán cân quan hệ với

Mỹ và tích cực củng cố nội lực cho vấn đề thống nhất Triều Tiên. Park Chung Hee đã

đưa ra “thuyết chủ thể, thuyết tự cường”, bước đầu tỏ rõ quan điểm “độc lập” trong

chính sách đối ngoại dù đang triệt để khai thác sự bảo trợ quân sự từ phía Mỹ. Rõ ràng,

vai trò chính trị của Washington đã sớm được Tổng thống Park nhận thức và điều tiết,

thế nhưng Hàn Quốc vẫn phải nương nhờ “cái bóng” của “Hiệp ước an ninh chung”

(1953) do năng lực quân sự hạn chế và chương trình hòa giải hai miền chỉ vừa mới bắt

đầu. Thực tế này cho thấy Hàn Quốc khó lòng rũ bỏ vai trò đồng minh chiến lược với

Mỹ và xóa nhòa mọi ảnh hưởng của cường quốc này trên bán đảo Triều Tiên. Sự hiện

diện của 37.000 binh lính Mỹ trên lãnh thổ Hàn Quốc cho đến cuối thập niên 80 của

thế kỷ XX vẫn là bằng chứng cho thấy miền Nam luôn trong “vòng tay” của Mỹ. Đó là

còn chưa kể đến “kỳ tích sông Hàn” – thành tựu lớn lao về phát triển kinh tế của Hàn

Quốc cũng được xây đắp trên cơ sở viện trợ kinh tế chủ yếu từ Washington.

Với sự chi phối và tầm ảnh hưởng như thế, Mỹ thực sự là “sợi dây cương” để

kiểm soát và điều chỉnh Hàn Quốc. Một đường lối ngoại giao tích cực, đa chiều và cởi

mở, rõ ràng, đã được Hàn Quốc khởi xướng và bước đầu thực hiện với những bước

phát triển mới. Tuy nhiên, mục tiêu cải thiện quan hệ với miền Bắc Triều Tiên và tiến

tới thống nhất đất nước vẫn chưa thể cán đích. Nhìn lại “di sản” Chiến tranh lạnh với

những diễn biến đa chiều và phức tạp trên bán đảo Triều Tiên, người dân Hàn Quốc

vẫn không nguôi kỳ vọng về viễn cảnh thống nhất hai miền - điều mà nền chính trị

nước này vẫn phải tiếp tục theo đuổi trong các chính sách ngoại giao đầu thế kỷ XXI.

1.2. Bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước từ sau Chiến tranh lạnh

Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự hai cực Xô – Mỹ bị phá vỡ, hệ thống XHCN

sụp đổ đã mở ra một thời kỳ lịch sử mới trong quan hệ quốc tế – thời kỳ mà sự phân

chia ảnh hưởng khu vực và thế giới được xác lập chủ yếu từ kết quả cạnh tranh kinh tế

chứ không phải chạy đua vũ trang. Trong bối cảnh đó, nhiều quốc gia, kể cả Hàn Quốc

đã điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng tăng cường đối thoại, hợp tác, giảm bớt

đối đầu, thù địch để phù hợp với cục diện thế giới đa cực.

1.2.1. Bối cảnh quốc tế, khu vực và sự thay đổi chiến lược của các nước lớn

1.2.1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực

Page 42: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

32

Từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, cục diện Chiến tranh lạnh bắt đầu rạn vỡ sau

gần nửa thế kỷ tồn tại. Đây là hệ quả tất yếu của cuộc chạy đua vũ trang giữa Mỹ và

Liên Xô ròng rã hơn 20 năm. Trật tự hai cực Yalta – hình thái biểu hiện của cuộc đối

đầu Đông – Tây có nguy cơ sụp đổ khi các siêu cường đã nhận thức kết cục “tự diệt” của

quan hệ thù địch. Trước đó, quá trình “xói mòn” từng bước của trật tự thế giới cũ đã

được thúc đẩy do sự ra đời của Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1949), sự xuất

hiện của khối Thị trường chung châu Âu (EEC), thắng lợi của phong trào đấu tranh giải

phóng dân tộc ở Á – Phi – Mỹ Latinh và kết quả xuất hiện lực lượng “Thế giới thứ ba”.

Tuy vậy, cơ sở tồn tại của trật tự thế giới cũ chỉ thực sự bị triệt tiêu khi chế độ XHCH ở

Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, CNXH hiện thực lâm vào thoái trào (1991). Với sự kết thúc

của Chiến tranh lạnh, một trật tự thế giới mới bắt đầu manh nha trong lòng các cặp liên

minh cũ. Đó là thế giới “nhất siêu đa cường” mang đặc điểm “một hệ thống toàn cầu đơn

nhất về thương mại và quan hệ tiền tệ” [37; tr. 313] như dự báo của Ngoại trưởng Mỹ

Henry Kissinger từ đầu năm 1975. Cùng với sự đảo lộn về cơ cấu địa – chính trị tại nhiều

khu vực, tình hình quốc tế từ sau Chiến tranh lạnh còn chứng kiến sự thay đổi đáng kể về

nội dung và tính chất của quá trình giao lưu toàn cầu, trong đó xu thế phụ thuộc, hợp tác

và thẩm thấu lẫn nhau về kinh tế trở thành nội dung chủ đạo. Đặc điểm này đã lôi kéo

hàng loạt quốc gia bước vào cuộc đua “bất khả kháng” về tài chính và công nghệ. Khi

những cân nhắc về địa – kinh tếvượt qua những toan tính về địa – chính trị, các nước

mong muốn quy tụ trong một thị trường chung và tham gia vào xu thế toàn cầu hóa. Sự

đan xen, chồng lấn giữa hai mặt hợp tác và cạnh tranh, cơ hội và thách thức đã bước đầu

dự báo về một cục diện thế giới mới - an toàn hơn nhưng lại bất ổn và khó tiên đoán hơn

[40; tr. 45]. Chính những diễn biến đa chiều của tình hình thế giới cộng với sự xuất hiện

nền kinh tế tri thức trong lòng cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tác động mạnh

mẽ, toàn diện đến đời sống quan hệ quốc tế đương đại. Bối cảnh này đòi hỏi các nước

phải tích cực điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân

tộc trước xu thế phát triển và hội nhập tất yếu của lịch sử.

Khi thời đại đối đầu đã nhường chỗ cho kỷ nguyên hòa hợp, tại châu Á – Thái

Bình Dương lại xuất hiệnnhững “khoảng trống quyền lực” không dễ lấp đầy. Về cơ

bản, khu vực này vẫn là “tâm điểm” tranh giành bá quyền của các thế lực nước lớn dù

cho quá trình này diễn ra âm thầm chứ không gay gắt và trực diện như trước. Nguy cơ

xung đột mâu thuẫn và bùng nổ chiến tranh, vì lẽ đó, vẫn có thể đe dọa đến an ninh khu

vực. Với trường hợp Đông Bắc Á, tàn dư của Chiến tranh lạnh còn khá đậm nét ngay

Page 43: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

33

cả khi cuộc chiến này chỉ còn là “di sản”. Đây là khu vực có nội tình phức tạp bậc nhất

bởi sự chồng chéo giữa mô hình chính trị cũ với xu thế phát triển mới; trong đó, nổi bật

nhất vẫn là đặc điểm cùng tồn tại, vận hành, cùng cải cách, đấu tranh, cùng kiềm chế,

phát triển giữa các thể chế chính trị - xã hội TBCN và XHCN [12; tr. 22]. Tuy vậy, vào

thời kỳ “tan băng” của đối đầu Đông – Tây trong quan hệ quốc tế, các nước ở trong và

ngoài khu vực đã từng bước điều tiết, cân bằng sự đối đầu về ý thức hệ với những biểu

hiện hết sức tích cực. Từ sau Hội nghị Thượng đỉnh tại Moskva (5-1991), Liên Xô và

Trung Quốc cam kết duy trì một không gian hòa bình, ổn định trong khu vực thông qua

việc từ bỏ chính sách “một Triều Tiên”, từng bước cân bằng quan hệ với Hàn Quốc.

Mỹ cũng chủ động nới lỏng chính sách cô lập, kiềm chế CHDCND Triều Tiên và cắt

giảm nguồn cung cho chiến lược “ngăn chặn” CNCS. Thậm chí, Washington còn tăng

cường tiếp xúc và viện trợ lương thực có giới hạn cho Bình Nhưỡng vì mục đích nhân

đạo ngay từ đầu năm 1989. Sự thay đổi đáng kể về lập trường chính trị của các nước

cũng thúc giục Nhật Bản tính đến khả năng tạo dựng quan hệ với CHDCND Triều

Tiên, từ đó, đặt cơ sở cho mối quan hệ láng giềng thân thiện. Với những diễn biến ấy,

các quốc gia ở Đông Bắc Á bắt đầu ý thức và mong muốn về một sự tồn tại độc lập,

từng bước tự chủ trong quan hệ quốc tế. Theo đó, tư tưởng dựa dẫm và ỷ lại vào thế lực

nước lớn dần được loại bỏ, nhường chỗ cho nỗ lực phát triển tự thân của mỗi quốc gia.

Định hướng này yêu cầu các nước trong khu vực từng bước gạt bỏ những vướng mắc

còn tồn đọng về chính trị, tích cực tham gia hợp tác và liên kết khu vực để trở thành

điểm sáng trong nền kinh tế toàn cầu.

1.2.1.2. Sự thay đổi chiến lược của các nước lớn

Bán đảo Triều Tiên là một trong những khu vực địa - chiến lược ở châu Á – Thái

Bình Dương với sự đan xen lợi ích của nhiều cường quốc: Mỹ, Nhật Bản, Trung

Quốc… Trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh, bán đảo này chịu sự chi phối đậm nét của

cục diện thế giới “lưỡng cực”. Ngay cả khi quan hệ quốc tế chính thức bước vào thời

kỳ hòa dịu, vị trí then chốt của khu vực này trên bàn cờ chính trị của các nước lớn vẫn

không hề suy giảm.

Cùng với Iraq, bán đảo Triều Tiên trở thành địa bàn trọng điểm trong chiến lược

toàn cầu của Mỹ tại châu Á. Trong bối cảnh Nhật Bản đang phát triển cực nhanh về

kinh tế; Trung Quốc ngày càng gia tăng ảnh hưởng về quân sự - chính trị thì sứ mệnh

dẫn dắt và lãnh đạo thế giới của Mỹ lại bị đe dọa hơn bao giờ hết. Nhận thức rõ điều

này, Mỹ coi việc kiểm soát hai miền Triều Tiên và chi phối hai cường quốc (Nhật Bản,

Page 44: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

34

Trung Quốc) là nhiệm vụ sống còn của mình ở Đông Bắc Á. Ý đồ chiến lược nói trên

định hướng Mỹ cần phải: (1) Duy trì sự chia cắt lâu dài bán đảo Triều Tiên, tạo dựng

một môi trường bất ổn vừa đủ để hợp lý hóa sự can thiệp của mình tại khu vực; (2)

ngăn chặn CHDCND Triều Tiên phát triển vũ khí hạt nhân, tạo cớ cho hợp tác quân sự

Mỹ - Nhật Bản nhằm kiềm chế các thế lực cạnh tranh ở Đông Á; (3) củng cố liên minh

truyền thống với Hàn Quốc thông qua Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ - Hàn (1953) và

duy trì 37.000 lính Mỹ ở miền Nam; (4) sử dụng chiêu bài “hợp tác kinh tế” để đưa bán

đảo Triều Tiên hòa nhập vào nền kinh tế thị trường, đưa Trung Quốc hội nhập vào các

thể chế khu vực và toàn cầu nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng, tự do theo chuẩn mực của

Mỹ. Nỗ lực chuyển hóa tình hình khu vực theo hướng vừa “thúc đẩy”, vừa “kiềm chế”

đã tạo ra “cái neo” an toàn cho sự dừng chân của Mỹ ở Đông Bắc Á. Bên cạnh đó, do

chịu tác động của xu thế đối thoại và hội nhập từ sau Chiến tranh lạnh, Mỹ đã bắt đầu

tăng cường tiếp xúc, cải thiện quan hệ với CHDCND Triều Tiên; đồng thời đứng ra

dàn xếp những thỏa thuận có lợi cho tiến trình hòa giải của Hàn Quốc. Hơn thế nữa,

siêu cường này còn xúc tiến các hoạt động giao lưu văn hóa – xã hội, viện trợ nhân đạo

nhằm thuyết phục Bình Nhưỡng quay trở lại tiến trình phi hạt nhân hóa. Những thay

đổi trên là điều kiện thuận lợi để Hàn Quốc từng bước điều chỉnh chính sách đối với

CHDCND Triều Tiên, khởi đầu bằng việc khuyến khích nước này mở cửa, tiến tới cải

thiện quan hệ với Mỹ và các nước phương Tây.

Đối với Nhật Bản, sự gần gũi về mặt địa lý đã gắn chặt vấn đề an ninhquốc gia với

bán đảo Triều Tiên. Do vậy, ngay từ năm 1992, Chính phủ nước này đã tuyên bố: “Duy

trì hòa bình và ổn định ở bán đảo Triều Tiên là điều tối quan trọng đối với hòa bình và

ổn định của Nhật Bản ở Đông Á” [16]. Tuy nhiên, do sự đối đầu ý thức hệ trong thời kỳ

Chiến tranh lạnh, Nhật Bản đã trung thành với chính sách “một Triều Tiên”, chủ động

loại bỏ Bình Nhưỡng ra khỏi mối quan hệ khu vực và ngăn cấm các quan chức hai bên

tiếp xúc với nhau ở trong nước và ở nước thứ ba. Với mong muốn gia tăng vai trò chính

trị của mình cho tương xứng với vị thế cường quốc kinh tế từ sau sự sụp đổ của Liên Xô

và sự tan rã trật tự hai cực, Nhật Bản xác định bán đảo Triều Tiên là địa bàn trọng điểm

giúp nước này nhanh chóng trở thành “người khổng lồ hai chân”. Để thực hiện được

mục tiêu đó, nỗ lực tăng cường ảnh hưởng lên bán đảo Triều Tiên thông qua con đường

hòa giải và hợp tác là sự lựa chọn tất yếu của ngoại giao Nhật Bản. Một yếu tố khác cũng

cần nhắc đến trong sự thay đổi tư duy đối ngoại của Nhật Bản là sức ép từ sự điều chỉnh

quan hệ của các nước lớn đối với Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên từ sau Chiến tranh

Page 45: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

35

lạnh. Bị thúc ép phải bắt kịp Mỹ và Trung Quốc trong tiến trình bình thường hóa quan hệ

ở Đông Bắc Á, Nhật Bản đã bắt đầu tăng cường đối thoại với CHDCND Triều Tiên

nhằm đảm bảo “lợi ích kép”: An ninh quốc gia và hòa bình khu vực. Theo định hướng

này, nước Nhật không chỉ phối hợp với Mỹ trong khâu hoạch định chính sách với Bình

Nhưỡng mà còn chủ động thúc đẩy quan hệ toàn diện với cả hai miền Triều Tiên trên các

lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa – xã hội.

Là bên can dự trực tiếp trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên và tham gia ký kết

Hiệp định đình chiến (1953), Trung Quốc ngay từ đầu đã là một nhân tố không thể

thiếu trong vấn đề hòa bình khu vực. Để giữ vững “vùng đệm” cho riêng mình ở Đông

Bắc Á, quốc gia này đã cùng lúc đóng cả hai vai trò: Một là, vai trò trung gian hòa giải

giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên để mặc cả với các bên trong vấn đề an ninh khu vực;

hai là, vai trò “kiềm hãm” tiến độ thống nhất bán đảo Triều Tiên nhằm cạnh tranh ảnh

hưởng với Mỹ và tìm kiếm vai trò chính trị lớn hơn ở Đông Á. Xuất phát từ lợi ích

quốc gia – dân tộc, từ sau Chiến tranh lạnh, Trung Quốc đã tích cực cải thiện quan hệ

với Mỹ, Nhật Bản nhằm giải quyết vấn đề toàn vẹn lãnh thổ với Đài Loan; đồng thời

chủ động tiếp cận Hàn Quốc do nhu cầu bức bách về vốn và công nghệ trong phát triển

kinh tế. Từ nửa cuối những năm 90 của thế kỷ XX, nước này đã duy trì việc đối xử

bình đẳng với cả hai miền Triều Tiên; đồng thời có quan điểm cởi mở hơn về thời kỳ

thuộc địa Nhật Bản. Ở một phương diện khác, để phát triển thành siêu cường thế giới,

Trung Quốc cũng rất cần một “sân sau” hòa bình và ổn định, do đó, nước này không

muốn CHDCND Triều Tiên sở hữu vũ khí hạt nhân hoặc gây ra một hiệu ứng “dây

chuyền” trong vấn đề hạt nhân đối với các nước láng giềng trong đó có Nhật Bản.

Nhận thức này đã góp phần đưa Trung Quốc trở thành nhân tố tích cực trong việc giải

quyết vấn đề của bán đảo Triều Tiên và thúc đẩy xu thế hòa dịu trong khu vực.

Như vậy, bắt nguồn từ những ý đồ chiến lược khác nhau cả Mỹ, Trung Quốc và

Nhật Bản đều chủ trương ủng hộ cho một quá trình liên kết lãnh thổ hòa bình, từ từ và

từng bước trên bán đảo Triều Tiên. Trong bối cảnh đó, nỗ lực công nhận chéo và bình

thường hóa quan hệ giữa các quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau trong khu

vực cũng tác động mạnh mẽ đến quan hệ liên Triều theo chiều hướng giảm đối đầu,

tăng cường đối thoại. Đây sẽ là điều kiện khách quan thuận lợi giúp Hàn Quốc đẩy

mạnh chính sách hòa giải dân tộc với CHDCND Triều Tiên; đồng thời tăng cường hợp

tác với Trung Quốc, Nhật Bản ở chính trường Đông Bắc Á.

1.2.2. Tình hình kinh tế - xã hội và nhu cầu cố kết quan hệ khu vực của Hàn Quốc

1.2.2.1. Tình hình kinh tế - xã hội của Hàn Quốc

Chiến tranh lạnh kết thúc nhưng di sản của nó - bán đảo Triều Tiên thì vẫn tiềm

Page 46: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

36

ẩn nguy cơ mâu thuẫn và xung đột. Tuy nhiên, dấu hiệu khả quan là liên minh ý thức

hệ từ thời kỳ Chiến tranh Triều Tiên đã bị phá vỡ khi các quan hệ đối tác dựa trên lợi

ích kinh tế đang dần hình thành. Xu thế phát triển mới thôi thúc hai miền Triều Tiên

nới lỏng quan hệ đối địch, đẩy mạnh quan hệ hợp tác bởi mô hình “tự cô lập” của miền

Bắc và nương nhờ nước lớn của miền Nam đã không còn phù hợp với bối cảnh “thế

giới phẳng”. Về cơ bản, quá trình hội nhập từ sau Chiến tranh lạnh có tác động ngược

chiều đến hai chủ thể chính trị trên bán đảo Triều Tiên, trong đó phần bất lợi có xu

hướng nghiêng hẳn về phía miền Bắc do Liên Xô (từ năm 1991 là Nga) rồi Trung

Quốc lần lượt thiết lập quan hệ với Hàn Quốc vào năm 1990 và 1992. Khi mối liên hệ

giữa Bắc Kinh – Bình Nhưỡng thay đổi, liên minh quân sự Nga – Bắc Triều Tiên cũng

chấm dứt vì Hiệp ước quân sự (1961) đã bị Moskva thẳng thừng xóa bỏ. Từ chỗ “tự

niêm phong” trước các thế lực phương Tây, đến nay, CHDCND Triều Tiên lại rơi vào

tình cảnh “bị cô lập” với thế giới bên ngoài.

Vào thời điểm nhà nước CHDCND Triều Tiên đang khủng hoảng, đơn độc và bế

tắc thì bên kia vĩ tuyến 38, Hàn Quốc lại phát triển cực nhanh nhờ trung thành với định

hướng xuất khẩu và tích cực tham gia vào chuỗi thương mại toàn cầu. Sau khi hoàn

thành sự nghiệp công nghiệp hóa, Hàn Quốc từng bước khẳng định vị thế của mình trong

nền kinh tế thế giới nhờ thế mạnh về chế tạo và xuất khẩu các sản phẩm kỹ thuật cao. Từ

đầu năm 1996, Hàn Quốc đã là nền kinh tế phát triển với vai trò của nhà cung cấp bộ nhớ

máy tính và đóng tàu lớn thứ hai thế giới; nhà sản xuất chất bán dẫn lớn thứ ba; nhà sản

xuất thiết bị điện tử lớn thứ tư; nhà sản xuất xe hơi lớn thứ năm; đồng thời là nhà sản

xuất thép số một toàn cầu [60; tr. 96]. Với kết quả này, Hàn Quốc nghiễm nhiên rũ bỏ

hình ảnh “quốc gia rỗng ruột” từ đầu thập niên 50 của thế kỷ XX để tự tin sánh bước

cùng các nước công nghiệp mới (NICs) với tư cách là một trong bốn “con rồng châu Á”.

Hàn Quốc cũng đã nhanh chóng gia nhập Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)

của các nước phát triển (1996). Sự kiện này đánh dấu một bước khởi đầu hoàn toàn mới -

thời kỳ xây dựng đất nước bằng chiến lược toàn cầu hóa (Segyehwa).

Dựa vào nền tảng kinh tế vững chắc, Hàn Quốc đã giành được những bước tiến

mới trên mặt trận chính trị - ngoại giao nhờ tiếp cận các đồng minh chiến lược của

Bình Nhưỡng bằng những khoản vay lãi suất thấp từ giữa thập niên 90 của thế kỷ XX.

Sức mạnh kinh tế của một quốc gia công nghiệp trẻ đã lôi cuốn, thuyết phục được Nga

và Trung Quốc “kết giao” với đối thủ của họ từ thời Chiến tranh Triều Tiên. Trên cơ sở

cải thiện quan hệ với các quốc gia lớn, Hàn Quốc đã nỗ lực tiếp cận với các nước thuộc

“Thế giới thứ ba” thông qua hình thức viện trợ vốn và hỗ trợ kỹ thuật (đặc biệt là

chuyển giao công nghệ). Nhiều tổ chức quốc tế đa phương như: Qũy Hợp tác và Phát

Page 47: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

37

triển Kinh tế (EDCF), Ngân hàng Thế giới về Tái thiết và Phát triển (IBRD), Qũy tiền

tệ quốc tế (IMF)… cũng nhận được sự ủng hộ tài chính từ nước này vào đầu thập niên

90. Rõ ràng, hình ảnh về một “Hàn Quốc mới” – dân chủ, cởi mở và thân thiện đã được

Chính phủ nước này dày công tạo dựng nhằm nâng cao tình hữu nghị song phương với

các quốc gia vốn tồn tại sự khác biệt về thể chế chính trị.

1.2.2.2. Nhu cầu cố kết quan hệ khu vực của Hàn Quốc

Đặc điểm xung đột và tích tụ mâu thuẫn giữa hai bên vĩ tuyến 38 trong hơn 55

năm qua đã thúc đẩy mong muốn đối thoại của Hàn Quốc với CHDCND Triều Tiên.

Vốn là một dân tộc thống nhất, cùng chung cội nguồn lịch sử và văn hóa, người Triều

Tiên nhận thấy rõ nỗi bất hạnh và thống khổ của tình cảnh “khúc ruột phân đôi” trong

mỗi đợt đoàn tụ gia đình ly tán. Dù cho thống nhất đất nước còn là viễn cảnh với quá

nhiều chướng ngại (nhất là khi vấn đề bán đảo Triều Tiên đã bị quốc tế hóa), thế nhưng

sự kỳ vọng của nhân dân hai miền về kết cục “sum họp” dân tộc thì chưa bao giờ

nguôi. Theo kết quả điều tra của kênh truyền hình KBS (1990), cứ 10 người Hàn Quốc

thì có đến 9 người tin tưởng vào khả năng thống nhất và hơn một nửa trong số này cho

rằng dân tộc của họ sẽ tái hợp trong vòng 20 năm tới [99; tr. 65]. Nguyện vọng gắn kết

dân tộc của người dân, trong tương lai, vẫn là nền tảng cơ bản để Hàn Quốc thúc đẩy

hơn nữa các hoạt động giao lưu kinh tế và văn hóa – xã hội trong chính sách với Bắc

Triều Tiên. Khi xu hướng hòa hoãn của thế giới lên đến đỉnh cao, việc cải thiện quan

hệ liên Triều vẫn là ưu tiên số một của Hàn Quốc để xoa dịu tư tưởng đối địch, tăng

cường sự hiểu biết lẫn nhau và “mở đường” cho tiến trình hòa giải dân tộc.

Đối với Nhật Bản, mối quan hệ hợp tác mang tính xây dựng giữa hai quốc gia

láng giềng là cơ sở duy trì lợi ích của Hàn Quốc ở Đông Bắc Á. Từ đầu thập niên 90

của thế kỷ XX, “kỳ tích sông Hàn” về phát triển kinh tế của miền Nam Triều Tiên có

đóng góp khách quan của Nhật Bản trong việc định hướng mô hình công nghiệp hóa

và thành lập các tập đoàn kinh doanh. Với tư cách là nền kinh tế đi sau, nhìn chung

Hàn Quốc thua kém Nhật Bản về vốn và công nghệ; ngoài ra, nền kinh tế nước này

còn liên tục chịu thâm hụt thương mại với Nhật Bản. Trong hơn hai thập niên, mức

độ phụ thuộc của Hàn Quốc vào nước láng giềng vẫn còn rất lớn. Để duy trì sự phát

triển của mình, Hàn Quốc tiên quyết phải dựa vào Nhật Bản để bổ khuyết những

thiếu hụt về kỹ thuật, phương thức sản xuất và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Trong

vấn đề an ninh khu vực, Hàn Quốc cũng rất cần sự ủng hộ của chính quyền Tokyo

nhằm dàn xếp mối bất hòa trong quan hệ liên Triều. Ngay cả những thời điểm khi vấn

đề lịch sử và tranh chấp lãnh thổ đang trở thành “rào cản” trong quan hệ song

phương, Hàn Quốc vẫn phải thúc đẩy trao đổi thương mại và củng cố liên minh quân

Page 48: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

38

sự với Nhật Bản vì không muốn đối mặt với nguy cơ suy yếu nguồn lực quốc gia và

suy giảm vị thế chính trị trong khu vực.

Về phía Trung Quốc, mong muốn hợp tác của Hàn Quốc đối với nước này chủ yếu

bắt nguồn từ sự gia tăng vị thế kinh tế và chính trị của Bắc Kinh ngay từ đầu thế kỷ XX.

Trên bình diện kinh tế, Trung Quốc là “công xưởng của thế giới” – nơi cung cấp đến 1/3

sản lượng ti-vi và máy điều hòa, 1/4 máy giặt và 1/5 tủ lạnh cho toàn cầu… [11; tr. 9].

Sức nóng từ nền kinh tế tiêu thụ đến 1/10 nguồn năng lượng của cả thế giới đã lôi cuốn

Hàn Quốc vào guồng phát triển của Trung Quốc. Bên cạnh đó, với đặc điểm thị trường

rộng lớn, sở hữu nguồn nhiên liệu dồi dào và nhân công giá rẻ, Trung Quốc sẽ là sự “tiếp

sức” đắc lực cho Hàn Quốc trong nỗ lực chuyển giao công nghệ và phát triển kinh tế

hướng ra xuất khẩu trong cuộc cạnh tranh với nước láng giềng Nhật Bản. Trên bình diện

an ninh – chính trị, tầm quan trọng của Trung Quốc đối với Hàn Quốc cũng được biểu

hiện khá rõ nét: (1) Sự gần gũi về mặt địa lý giữa Trung Quốc với bán đảo Triều Tiên;

(2) ảnh hưởng lâu dài của Trung Quốc đối với CHDCND Triều Tiên; (3) nhu cầu phát

triển quan hệ song phương giữa Hàn Quốc và Trung Quốc; (4) sự kiềm chế lẫn nhau

trong quan hệ Mỹ - Trung Quốc. Trong các yếu tố kể trên, tính chất bền chặt của mối

quan hệ Trung – Triều vẫn là đặc điểm chi phối lớn nhất đến nỗ lực thống nhất dân tộc

của Hàn Quốc. Với tư cách là đồng minh quân sự song phương từ năm 1950 và là “trung

tâm” viện trợ kinh tế cho CHDCND Triều Tiên từ năm 1994, Trung Quốc không khác gì

“nguồn sống” cho sự tồn tại chế độ ở Bình Nhưỡng cả trong và sau thời kỳ Chiến tranh

lạnh. Nhận thức được điều này, ngay từ cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, Hàn Quốc đã

đẩy mạnh chính sách hướng về phương Bắc, tỏ rõ mong muốn độc lập với Mỹ trong các

vấn đề quốc tế và xích lại gần Trung Quốc để “tăng thêm công nhận về sự tồn tại của

Seoul như là một chính thể hợp pháp của Triều Tiên” [9; tr. 73]. Dù có quan điểm khác

biệt về lập trường thống nhất hai miền nhưng cả Hàn Quốc và Trung Quốc đều tìm được

tiếng nói chung trong việc không tấn công quân sự, không trừng phạt Bình Nhưỡng và

không chấp nhận một bán đảo Triều Tiên có vũ khí hạt nhân. Hơn thế nữa, do sự chi

phối ký ức từ thời thuộc địa, sự bất đồng về vấn đề lãnh thổ và sự trỗi dậy của Nhật Bản

trong giai đoạn hiện nay, Hàn Quốc tiên quyết phải xây dựng mối quan hệ chiến lược với

Trung Quốc nhằm duy trì lợi ích quốc gia (nâng cao vị thế đất nước) và lợi ích dân tộc

(thống nhất bán đảo Triều Tiên).

Page 49: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

39

1.2.3. Định hướng điều chỉnh chính sách của Hàn Quốc

Trên cơ sở các điều kiện khách quan và chủ quan, ngay từ thập niên cuối của thế

kỷ XX, các nhà lãnh đạo Hàn Quốc đã quyết tâm thay đổi nền ngoại giao nước nhà

trong bối cảnh các siêu cường đang tích cực điều chỉnh quan hệ với nhau, thậm chí là

điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình nhằm dàn xếp những “di sản” mà chính họ

đã tạo ra trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Đối với Hàn Quốc, vấn đề đổi mới toàn diện

và sâu sắc lĩnh vực ngoại giao đã được Park Chung Hee khởi xướng từ trước dựa vào

sự “trưởng thành” nhanh chóng của kinh tế đất nước. Trên cơ sở “thuyết chủ thể -

thuyết tự cường”, nhiều chính sách đối ngoại mới của Hàn Quốc đã ra đời từ thập niên

90 của thế kỷ XX đều thể hiện lập trường dân tộc tự chủ.

Ngay từ đầu, yếu tố hạt nhân của ngoại giao nước nhà đã được Hàn Quốc xác

định là tinh thần “tự lực cánh sinh”. Tuy nhiên, để tồn tại và phát triển trong bối cảnh

hội nhập, nền chính trị nước này đặc biệt nhấn mạnh thêm một yếu tố khác, đó là tính

thực dụng. Do khu vực Đông Bắc Á có sự song song tồn tại giữa “cán cân quyền lực”

và cơ chế “chuyển giao quyền lực” nên Hàn Quốc buộc phải có những chính sách đối

ngoại mới thức thời, mềm dẻo và linh hoạt để nhanh chóng cân bằng và đa dạng hóa

các mối quan hệ quốc tế. Với việc giảm bớt sựe ngại và phụ thuộc vào phản ứng của

Mỹ trong vấn đề CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc đã trở thành nhân tố hàng đầu đối

với tình hình an ninh và ổn định trong khu vực. Do đó, tính chất “cực đoan” một chiều

của đường lối đối ngoại cũ theo kiểu hoàn toàn dựa dẫm vào Mỹ và Nhật Bản, triệt để

phủ nhận CHDCND Triều Tiên đã dần bị loại bỏ, thay thế vào đó là chiến lược mở

rộng quan hệ với các quốc gia đồng minh của Bình Nhưỡng, trong đó có Trung Quốc.

Chủ trương “đi đường vòng” của ngoại giao Hàn Quốc nhằm hướng đến mục tiêu củng

cố an ninh, phát triển kinh tế và vun đắp nền tảng chính trị cho sự nghiệp thống nhất

liên Triều. Đây được coi là bước đột phá lớn nhất trong chính sách đối ngoại của Hàn

Quốc kể từ sau Chiến tranh lạnh bởi vì nó phản ánh đầy đủ và chân xác tính chất “toàn

cầu” trong chiến lược ngoại giao mới.

Sự đa dạng và phức tạp trên chính trường Đông Bắc Á buộc Hàn Quốc phải lựa

chọn khu vực này là hướng ưu tiên trong chiến lược đối ngoại của mình. Giữa lúc mâu

thuẫn kép về cạnh tranh quốc tế và hòa giải dân tộc vẫn chưa được giải quyết thì khu

vực này lại nảy sinh hàng loạt vấn đề nổi cộm do bất đồng quá khứ, tranh chấp lãnh

thổ, đặc biệt là nguy cơ hồi sinh chủ nghĩa dân tộc nước lớn. Thực tế này đặt ra những

thách thức cho Hàn Quốc trong việc điều chỉnh chính sách đối ngoại trên cơ sở vừa

khắc phục khiếm khuyết của nền tảng chính trị cũ, vừa tháo gỡ những vướng mắc của

các cuộc xung đột ngoại giao mới. Về cơ bản, chiến lược ngoại giao của Hàn Quốc sẽ

Page 50: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

40

tập trung vào ba nhóm vấn đề lớn: Một là, tích cực giải quyết vấn đề hạt nhân trên bán

đảo Triều Tiên, thúc đẩy hòa giải dân tộc, chấm dứt tình trạng chia cắt hai miền; hai là,

tăng cường hợp tác kinh tế, văn hóa – xã hội nhưng vẫn cảnh giác vấn đề an ninh –

chính trị với Nhật Bản; ba là, củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị chiến lược với

Trung Quốc. Định hướng chính sách đối ngoại mới cho thấy Hàn Quốc đã xác định

ngoài vai trò của các cường quốc bên ngoài (Mỹ và Nga) thì Nhật Bản, Trung Quốc,

CHDCND Triều Tiên chính là những chủ thể có khả năng quyết định trực tiếp đến vận

mệnh chính trị của bán đảo Triều Tiên. Trong bối cảnh quốc tế mới, các nước đang

chuyển mình theo xu thế hòa bình - hợp tác, vượt qua những rào cản về thể chế và ý

thức hệ. Do vậy, bản thân Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc, tất yếu, cũng trở thành những

đối tác chiến lược của nhau. Ngay cả việc thực hiện chính sách đối với hai miền Triều

Tiên, các quốc gia nói trên cũng đồng quan điểm duy trì hòa bình, ổn định trên bán đảo

để bảo toàn lợi ích của chính mình [3; tr. 38-39]. Đây là cơ sở thực tiễn để Hàn Quốc

tạo lập một môi trường an ninh - ổn định trên bán đảo Triều Tiên; đồng thời, dẫn dắt

khu vực bước vào thời kỳ hợp tác chiến lược từ sau Chiến tranh lạnh.

Tiểu kết chương 1.

Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á (1989 –

2010) đã chịu sự “định dạng” của yếu tố lịch sử từ sau khi Hàn Quốc lập quốc và cả

những biến thiên của tình hình quốc tế, khu vực và trong nước từ sau Lãnh chiến. Theo

đó, trong thời kỳ đối đầu Đông – Tây, do sự khống chế và ràng buộc của Mỹ, ký ức

đau thương về thời kỳ thuộc địa Nhật Bản (1910 – 1945) và Chiến tranh Triều Tiên

(1950 – 1953) nên Hàn Quốc đã một mực duy trì quan điểm đối ngoại cực đoan, cứng

rắn với các nước láng giềng và lựa chọn chính sách khiêu khích, kích động, tạo sức ép.

Từ thập niên 70 đến cuối thập niên 80 của thế kỷ XX mở ra một giai đoạn mới trong

chính sách đối ngoại của Hàn Quốc. Nhờ sự lớn mạnh về thực lực kinh tế, Hàn Quốc

bước đầu có quan hệ bình đẳng với Mỹ và mong muốn theo đuổi chính sách đối ngoại

độc lập, tự chủ hơn với các nước Đông Bắc Á. Đường lối đa nguyên hóa đối ngoại do

Tổng thống Park Chung Hee khởi xướng và Chun Doo Hwan kế thừa đã định hướng

Seoul gạt bỏ ký ức chiến tranh để mở cửa tiếp xúc với các nước XHCN. Cùng với đó,

những điều kiện thuận lợi ở bên trong và bên ngoài khu vực từ sau khi quan hệ quốc tế

bước vào thời kỳ hòa dịu cũng thôi thúc Hàn Quốc tạo dựng một môi trường hòa bình,

thịnh vượng ở Đông Bắc Á, khởi đầu bằng việc điều chỉnh chính sách đối ngoại nhằm

cải thiện và tăng cường quan hệ với Nhật Bản, Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên

trên các lĩnh vực hợp tác cơ bản của đời sống xã hội.

Page 51: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

41

CHƯƠNG 2

NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG CHÍNH SÁCH

ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

ĐÔNG BẮCÁ (1989 - 2010)

2.1. Trên lĩnh vực an ninh - chính trị

Lịch sử dân tộc Triều Tiên đã để lại cho Hàn Quốc một bài học xương máu về

việc tự nắm giữ vận mệnh, tự quyết định số phận để không trở thành “quân bài” chiến

lược trong bàn cờ chính trị của các siêu cường. Ý thức này thúc giục Hàn Quốc nỗ lực

gia tăng ảnh hưởng của mình ngay tại khu vực thay vì dựa dẫm vào “cái bóng” của các

thế lực bên ngoài. Đây là cơ sở thực tiễn luận giải cho bước chuyển hướng chiến lược

của Hàn Quốc sang đa nguyên hóa đường lối ngoại giao, tích cực theo đuổi chính sách

độc lập, tự chủ đối với các nước Đông Bắc Á.

2.1.1. Đối với Nhật Bản

Kể từ sau Chiến tranh lạnh, Hàn Quốc xác định quan hệ với Nhật Bản là nhiệm

vụ chính trị then chốt nhằm duy trì khuôn khổ hợp tác song phương và đảm bảo hòa

bình, ổn định trong khu vực. Nhận thức này xuất phát từ thực tế cả hai nước đều là

đồng minh thân cận của Mỹ ở Đông Bắc Á và đều chia sẻ những lợi ích chung về

phương diện chính trị, kinh tế trên bán đảo Triều Tiên. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất của

mối quan hệ song phương này vẫn là ký ức thù hận của Hàn Quốc về quá khứ cai trị

của thực dân Nhật Bản và những hệ lụy xã hội của nó (phụ nữ làm nô lệ tình dục, vấn

đề sách giáo khoa lịch sử, tranh chấp nhóm đảo Dokdo/Takeshima).

Từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, làn sóng chống Nhật ở Hàn Quốc vẫn

chưa hề lắng dịu. Thực tế này bắt nguồn từ sự can thiệp có chủ ý của Nhật Bản vào

việc giải quyết vấn đề thống nhất bán đảo Triều Tiên trong bối cảnh những bất đồng

lịch sử giữa hai bên vẫn chưa được giải quyết. Chính vì tâm lý cảnh giác và đề

phòng, chính sách “Ngoại giao phương Bắc” của chính quyền Roh Tae Woo vẫn

chú trọng cải thiện quan hệ liên Triều hơn là đẩy mạnh liên kết với Nhật Bản. Dù

không mấy mặn mà với vai trò “đồng minh láng giềng” nhưng sự thay đổi của tình

hình khu vực và thế giới từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX bắt buộc Hàn Quốc phải

thắt chặt “liên minh rời rạc” với Nhật Bản nếu không muốn tiến trình phi hạt nhân

hóa Bắc Triều Tiên và tương lai chính trị của Mỹ ở khu vực bị ảnh hưởng. Với sự

tính toán này, Tổng thống Roh Tae Woo đã định hướng Hàn Quốc cải thiện quan hệ

với Nhật Bản ngay thời điểm kết thúc Chiến tranh lạnh.

Page 52: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

42

Kế hoạch “hâm nóng” mối quan hệ với nước láng giềng đã được Tổng thống Kim

Young Sam kế thừa ngay sau khi lên nắm quyền (1993). Tuy nhiên, không giống như

người tiền nhiệm, Chính phủ dân sự của Kim Young Sam lại có cách ứng xử đầy mâu

thuẫn với chính quyền Hosokawa. Nhà lãnh đạo này đã bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống

với quyết tâm cải thiện quan hệ với Nhật Bản bằng việc tách hợp tác kinh tế ra khỏi

vấn đề lịch sử và xây dựng mối quan hệ đối tác hữu nghị hướng tới tương lai trên cơ sở

coi Tokyo là “tâm trục” trong chính sách đối ngoại của mình. Từ đầu năm 1994, Kim

Young Sam đề ra chính sách “ngoại giao bốn bên” (hay còn gọi là chính sách “ngoại

giao tứ cường”) trong đó nhấn mạnh việc duy trì quan hệ đồng minh với Mỹ, Nhật Bản

và phát triển quan hệ hữu nghị với Nga, Trung Quốc [53; tr. 188]. Cách tiếp cận gần

gũi này của Kim Young Sam đã thuyết phục Nhật Bản “xin lỗi và bày tỏ sự hối hận

sâu sắc về hành vi xâm lược, về chế độ thực dân và nỗi thống khổ của các dân tộc láng

giềng ở châu Á” [171]. Thế nhưng, khi Trung Quốc bước vào giai đoạn phát triển đỉnh

cao và quan hệ Trung Quốc – Nhật Bản bắt đầu rạn nứt từ giữa thập niên 90 của thế kỷ

XX, Kim Young Sam lại có xu hướng quay trở lại với tình cảm chống Nhật khi nhìn

thấy sự sa sút của tình hình kinh tế nước này. Do sự “đổi chiều” về quan điểm ngoại

giao, ngay trong vấn đề giải quyết tranh chấp Dokdo/Takeshima, chính quyền Kim

Young Sam cũng lựa chọn giải pháp đối đầu trực diện khi tổ chức hàng loạt cuộc diễn

tập chung giữa hải quân và không quân Hàn Quốc trong khu vực gần nhóm đảo nói

trên nhằm chống lại “bất cứ kẻ xâm lược nào” [152]. Năm 1995, Tổng thống Kim

Young Sam tổ chức họp báo chung với Chủ tịch Giang Trạch Dân nhân chuyến thăm

Trung Quốc nhằm tuyên bố chính sách “kháng Nhật” với nội dung: “Chúng ta phải

cảnh giác chống lại chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. Mặc dù nửa thế kỷ đã trôi qua từ

khi kết thúc cuộc chiến tranh giữa Nhật Bản với Trung Quốc và Hàn Quốc nhưng các

chính trị gia người Nhật vẫn cố tình nhìn nhận sai lệch về vấn đề lịch sử giữa các bên.

Chúng tôi (Hàn Quốc) sẽ sửa thói xấu này của Nhật Bản” [78; tr. 86]. Về bản chất,

mối quan hệ giữa hai nước luôn có sự phân cực về mặt quan điểm và tư tưởng “chống

Nhật” của Kim Young Sam đã củng cố thêm sự phân cực này. Thái độ chống đối của

Hàn Quốc không chỉ xuất phát từ mối quan hệ “nạn nhân” với “kẻ xâm lược” trong quá

khứ mà còn là định kiến về hành vi “hai mặt” (vừa xin lỗi, vừa tô vẽ lịch sử) của Chính

phủ Nhật Bản. Thực tế này khiến cho mối quan hệ láng giềng tưởng như “gần gũi thân

thuộc” trở nên “gần gũi mà xa lạ” do sự đan xen giữa mong muốn hợp tác - phát triển

với tình cảm căm ghét - oán hận nước Nhật của nhân dân Hàn Quốc. Dù hai nước đã

Page 53: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

43

chính thức bình thường hóa quan hệ từ năm 1965 nhưng cho đến khi Kim Young Sam

kết thúc nhiệm kỳ (1997), tinh thần “hữu nghị” hay “khép lại quá khứ, hướng tới tương

lai” với Nhật Bản thực chất cũng chỉ là vỏ bọc.

Đến đầu năm 1998, dư luận Hàn Quốc gần như chấn động khi Chính phủ mới

kêu gọi người dân không nên chỉ nghĩ về nước Nhật trước chiến tranh mà nên nghĩ về

nước Nhật sau chiến tranh với nỗ lực thực hiện quá trình dân chủ hơn 50 năm qua.

Định hướng gác lại quá khứ, xây dựng tương lai với Nhật Bản là lý do khiến Tổng

thống Kim Dae Jung không yêu cầu nước này phải xin lỗi vì lịch sử thực dân mà chỉ

tập trung ca ngợi những nỗ lực sau chiến tranh nhằm thúc đẩy hòa bình, thịnh vượng

trong cộng đồng quốc tế thông qua Hiến pháp hòa bình và hỗ trợ phát triển ở nước

ngoài của Nhật Bản. Xuất phát từ mong muốn khép lại quá khứ đau buồn của hai dân

tộc và chấm dứt cuộc khủng hoảng chính sách với Nhật Bản trong suốt 33 năm (1965 -

1998), Kim Dae Jung đã thân chinh sang Nhật và tổ chức cuộc họp Thượng đỉnh với

Thủ tướng Keizo Obuchi nhằm đưa ra “Tuyên bố chung về quan hệ đối tác mới Hàn

Quốc - Nhật Bản trong thế kỷ XXI”. Trong tuyên bố này, “Nhật Bản bày tỏ sự hối hận

sâu sắc và chân thành xin lỗi vì đã gây ra đau khổ cho nhân dân Hàn Quốc trong suốt

thời kỳ thuộc địa” [172].Với việc đánh giá cao nhận thức lịch sử của Thủ tướng

Obuchi, Hàn Quốc mong muốn chủ đề cơ bản trong chính sách đối với Nhật Bản là

xây dựng mối quan hệ tương lai theo định hướng hòa giải và hợp tác láng giềng thân

thiện, cùng nhau vượt qua rào cản lịch sử và xóa bỏ hận thù giữa hai dân tộc. Chính

sách ngoại giao sáng tạo và hướng tới tương lai của Tổng thống Kim Dae Jung đã làm

thay đổi đáng kể mối quan hệ Hàn Quốc – Nhật Bản. Trên cơ sở Tuyên bố chung

(1998), hợp tác trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao giữa hai nước ngày càng được thắt

chặt thông qua việc triển khai hệ thống liên lạc, trao đổi thông tin khẩn cấp giữa hai

quân đội và đẩy mạnh cơ chế hợp tác ba bên Mỹ - Nhật Bản - Hàn Quốc. Định hướng

tăng cường quan hệ với Nhật Bản theo quan điểm thực tế của Kim Dae Jung bắt nguồn

từ nhu cầu hợp tác chung nhằm giải quyết hòa bình vấn đề của CHDCND Triều Tiên

thông qua tiến trình đàm phán sáu bên. Kết quả hợp tác trên mặt trận chính trị - ngoại

giao giữa Hàn Quốc và Nhật Bản là “đầu mối” quan trọng để duy trì cuộc đối thoại đa

phương với Mỹ, Nga, Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên hướng tới giải trừ hạt

nhân; đồng thời làm mềm hóa thái độ của Mỹ trong cách giải quyết vấn đề của Bình

Nhưỡng. Trong thực tế, hai nước đã thành công khi “lôi kéo” Mỹ cùng tham gia Diễn

đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) tại Los Cabos - Mehico (26-

Page 54: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

44

10-2002) nhằm đưa ra Tuyên bố chung về việc hối thúc Bình Nhưỡng đình chỉ các

chương trình hạt nhân và khẳng định lập trường duy trì giải pháp hòa bình thay vì đe

dọa vũ lực với mục đích tiêu diệt Nhà nước Cộng sản [163].

Nhờ chính sách ngoại giao tích cực, Kim Dae Jung đã nhận được sự ủng hộ của

Thủ tướng Koizumi trong việc tiếp cận CHDCND Triều Tiên từ đầu năm 1998. Đây là

cơ sở quan trọng để Hàn Quốc đẩy mạnh tiến trình hòa giải dân tộc và cân bằng trạng

thái “chông chênh” của chính mình ở khu vực do mối quan hệ “tay ba” giữa CHDCND

Triều Tiên, Trung Quốc và Nga. Ý tưởng về việc xây dựng quan hệ với Nhật Bản như

một “trụ đỡ” trong quan hệ quốc tế xuất phát từ chính sách “ngoại giao bốn bên” của

Kim Young Sam vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Đến tháng 9-2002, khi Kim Dae

Jung sang thăm Nhật Bản lần thứ hai, chính sách nói trên của người tiền nhiệm đã được

ông phát triển thành chiến lược “ngoại giao hài hòa bốn bên” với trọng tâm là duy trì

quan hệ đồng minh với Mỹ, cải thiện quan hệ với Nga, Trung Quốc và củng cố quan hệ

với Nhật Bản. Từ đây, liên minh Hàn Quốc – Nhật Bản trở thành mắt xích quan trọng

giúp Hàn Quốc duy trì cơ chế điều tiết quan hệ ở khu vực, cụ thể là củng cố tam giác

chiến lược “Mỹ - Nhật Bản - Hàn Quốc” với mục đích tăng cường an ninh quốc gia và

khống chế sự trưởng thành quân sự của Nhật Bản.

Có thể thấy, trong suốt thời kỳ cầm quyền của Kim Dae Jung, quan hệ Hàn Quốc

– Nhật Bản đã có được những bước tiến dài nhờ việc thực hiện chính sách ngoại giao

linh hoạt, tích cực, gần gũi trên cơ sở phù hợp lợi ích dân tộc và chiến lược phát triển

của quốc gia. Mặc dù vậy, những vấn đề lịch sử còn tồn đọng vẫn là mối đe dọa thường

trực, tác động đến nỗ lực “bình thường hóa” quan hệ của cả hai bên. Trong hai năm đầu

của thế kỷ XXI, chính quyền Kim Dae Jung cũng phải đối mặt với không ít sóng gió do

sự bùng phát làn sóng chống Nhật sau khi Thủ tướng Junichiro Koizumi liên tục đến

thăm đền Yasukuni (nơi thờ những binh sĩ Nhật Bản thiệt mạng trong CTTG thứ hai,

trong đó có 14 tội phạm chiến tranh) vào năm 2001 và năm 2002. Cùng thời gian đó,

những nghị sỹ Quốc hội thuộc đảng cầm quyền và đảng đối lập ở Hàn Quốc đồng loạt

công bố danh sách 798 nhân vật “thân Nhật”, trong đó có cả cựu Thủ tướng Lee Wan

Yong – người từng hậu thuẫn cho quân đội Nhật Bản chiếm đóng bán đảo Triều Tiên

từ năm 1910. Sự kiện này không chỉ gây xáo trộn mối quan hệ song phương mà còn

ảnh hưởng tiêu cực đến thành quả ngoại giao mà Tổng thống Kim Dae Jung đã dày

công vun đắp từ cuối thế kỷ XX. Định hướng cùng nhau vượt qua quá khứ và xây dựng

tương lai là sự chọn lựa tất yếu, là con đường không thể không bước qua của ngoại

Page 55: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

45

giao hai nước. Vì lẽ đó, mối quan hệ này không chỉ cần duy trì, phát triển mà phải được

bảo vệ trước những sóng gió của vấn đề lịch sử từ thời thuộc địa. Đây được xác định

như nội dung chủ chốt trong chính sách với Nhật Bản vào thời kỳ cầm quyền của Tổng

thống Roh Moo Hyun.

Là thế hệ lãnh đạo đầu tiên ở Hàn Quốc sinh ra từ sau thời kỳ Nhật Bản chiếm

đóng bán đảo Triều Tiên, Roh Moo Hyun mong muốn càng sớm càng tốt xóa nhòa ký

ức đau thương giữa hai nước và dồn sức cho một mục tiêu lớn hơn, đó là xây dựng “kỷ

nguyên Đông Bắc Á trong thế kỷ XXI” với vai trò kiến tạo nòng cốt của Hàn Quốc và

Nhật Bản. Cùng với tuyên bố “sẽ tốt hơn cho Hàn Quốc khi chấm dứt đối đầu lịch sử

và không khiêu khích Nhật Bản bằng cách chỉ trích hay lên án quá khứ” [128; tr. 86],

tháng 6-2003, Roh Moo Hyun bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống với việc tham gia Hội nghị

Thượng đỉnh tại Tokyo nhằm thuyết phục Thủ tướng Nhật Bản Koizumi chấm dứt các

cuộc thăm viếng tại đền Yasukuni. Đây là hành động thiện chí đầu tiên của tổng thống

Hàn Quốc chứng tỏ nỗ lực gắn kết quan hệ hai nước trên cơ sở tìm kiếm giải pháp cho

những bất đồng song phương về vấn đề lịch sử bởi theo đánh giá của Thủ tướng

Koizumi: “Với Tổng thống Roh Moo Hyun, hai nước hoàn toàn có thể xây dựng mối

quan hệ hợp tác cùng nhau hướng tới tương lai” [97; tr. 32].Thái độ gần gũi trong cách

tiếp cận với Nhật Bản đã giúp Hàn Quốc phát triển mối quan hệ song phương tốt đẹp

trong năm 2004 và hứa hẹn đạt nhiều bước tiến quan trọng nhân kỷ niệm 40 năm thiết

lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước vào năm 2005. Tuy nhiên, trái với dự đoán, việc

thực hiện chính sách “Hòa bình và thịnh vượng” theo nguyên tắc nhân nhượng

CHDCND Triều Tiên của Tổng thống Roh Moo Hyun vào cùng thời điểm đã gián tiếp

làm rạn nứt mối quan hệ giữa Hàn Quốc với Mỹ và Nhật Bản. Tình hình tiếp tục xấu đi

khi Thứ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Shotaro Yachi tuyên bố với các nghị sỹ Hàn

Quốc: “Nhật Bản không muốn chia sẻ cho Hàn Quốc nguồn tin tình báo của Mỹ về

Bắc Triều Tiên bởi Mỹ không tin Hàn Quốc bằng Nhật Bản” [28]. Sự nghi kỵ của

Chính phủ Nhật Bản trong các phát ngôn gây chia rẽ đã làm cho chính sách hâm nóng

quan hệ của người tiền nhiệm Kim Dae Jung về cơ bản bị phá sản. Từ sau khi quận

Shimane (miền Tây Nhật Bản) thông qua sắc lệnh coi ngày 22-02 là ngày “Takeshima”

nhằm khẳng định chủ quyền với nhóm đảo này, Tổng thống Roh Moo Hyun đã chính

thức thay đổi chính sách với Nhật Bản theo đường lối đối ngoại cứng rắn và không

khoan nhượng. Bước điều chỉnh này được công bố đồng thời cùng với sự ra đời của

“chủ nghĩa Roh Moo Hyun”, theo đó: “từ chỗ không đề cập đến vấn đề lịch sử, Hàn

Quốc sẽ truy tìm tận gốc rễ những vấn đề xảy ra trong thời kỳ thực dân và sử dụng các

Page 56: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

46

biện pháp rắn để thay đổi thái độ cố chấp của chính quyền Nhật Bản” [97; tr. 28]. Có

thể hiểu, sự thay đổi chính sách đối với Nhật Bản trong thời kỳ cầm quyền của Roh

Moo Hyun gắn liền với bước chuyển dịch tư tưởng của nhà lãnh đạo Hàn Quốc, đi từ

chỗ kế thừa chủ nghĩa thực dụng (thân Nhật) của cựu Tổng thống Kim Dae Jung đến

chỗ bảo vệ chủ nghĩa dân tộc (chống Nhật) của dư luận trong nước và bài xích chủ

nghĩa dân túy ở Nhật Bản. Đặc điểm này thể hiện khá rõ thông qua hai cột mốc phát

triển quan hệ vào năm 2003 và cuộc khủng hoảng song phương bắt đầu từ năm 2005.

Sự ra đời của “chủ nghĩa Roh Moo Hyun” dự báo một góc nhìn hoàn toàn mới

của Hàn Quốc về vấn đề lịch sử đối với Nhật Bản bằng việc vận dụng các giải pháp

“chiến tranh ngoại giao”. Với tuyên bố: “Chính phủ sẽ phản ứng cứng rắn trước hành

động tranh chấp nhóm đảo Dokdo và âm mưu biện bạch cho cuộc xâm lược thuộc địa

trong quá khứ” [27], Hội đồng An ninh Quốc gia Hàn Quốc (NSC) đã thông qua “học

thuyết mới về quan hệ Nhật Bản – Hàn Quốc” (17-3-2005) bao gồm những quan điểm

cơ bản và phương hướng đối phó với hành vi bôi nhọ lịch sử và chiếm đoạt bán đảo

Triều Tiên lần thứ hai của Nhật Bản [97; tr. 29]. Đây là lần đầu tiên Chính phủ Hàn

Quốc đưa ra “kim chỉ nam” trong chính sách đối với nước láng giềng nhằm khẳng định

lập trường cứng rắn trong cả ba vấn đề lịch sử liên quan. Thứ nhất, về tranh chấp nhóm

đảo Dokdo/Takeshima, Hàn Quốc đáp trả việc luật hóa “ngày Takeshima” bằng tuyên

bố công nhận ngày 19-6 là “ngày Daemodo” để kỷ niệm sự kiện Hàn Quốc phái quân

đội đến đảo này năm 1419. Ngày 09-6-2005, chính quyền tỉnh Bắc Kyongsang (Hàn

Quốc) thông qua sắc lệnh coi tháng 10 hằng năm là “tháng Dokdo” và phản đối “ngày

Takeshima” của Nhật Bản bằng cách tuyệt giao quan hệ với chính quyền và Hội đồng

dân biểu tỉnh Shimane (gần khu vực tranh chấp giữa hai nước). Thứ hai, về vấn đề sách

giáo khoa lịch sử, Hàn Quốc kịch liệt phản đối sự thanh minh cho quá khứ thời chiến

của Nhật Bản khi cho rằng quá trình hợp nhất giữa hai nước trước đây hoàn toàn xuất

phát từ nhu cầu của Hàn Quốc và nhờ vào những di sản thuộc địa mà Hàn Quốc tiến bộ

và phát triển như hiện nay. Từ việc chỉ trích sự thất bại của các chính quyền tiền nhiệm

trong việc đối phó với sự lật lọng của Nhật Bản, Tổng thống Roh Moo Hyun đã chủ

động khơi mào “cuộc chiến ngoại giao” nhằm lên án tính chất phi nghĩa của cuộc chiến

tranh xâm lược Triều Tiên từ năm 1910. Thứ ba, về vấn đề nô lệ tình dục ở Hàn Quốc

và nhiều quốc gia khác tại châu Á, NSC công bố các nguyên tắc mới trong chính sách

của Hàn Quốc đối với Nhật Bản (17-9-2005) nhằm yêu cầu Chính phủ Nhật Bản xin

lỗi và bồi thường cho các nữ nạn nhân Hàn Quốc cũng như các nước châu Á khác

trong CTTG thứ hai.

Page 57: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

47

Việc thực hiện một chính sách lưỡng cực: Vừa tôn trọng tinh thần quan hệ đồng

minh chiến lược Mỹ - Nhật Bản, vừa duy trì quan điểm gây bất đồng lịch sử với Nhật

Bản của Tổng thống Roh Moo Hyun đã hoàn toàn chấm dứt khi quyền lực chuyển giao

cho nhà lãnh đạo mới – doanh nhân Lee Myung Bak. Ngày 25-02-2008, ngay trong

diễn văn nhậm chức, Tổng thống Lee khẳng định: “Sẽ thực hiện chính sách ngoại giao

thực dụng, tăng cường quan hệ đồng minh với Mỹ, phát triển quan hệ với Nhật Bản,

Trung Quốc, Nga và giữ vững lập trường cứng rắn hơn trong vấn đề của Bắc Triều

Tiên” [161].Rõ ràng trong chiến lược hướng về châu Á, Chính phủ mới đã không né

tránh việc phát triển chính sách “ngoại giao thực dụng” nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia.

Do đó, để đảm bảo thành công cho nỗ lực phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên, Lee

Myung Bak cam kết thắt chặt quan hệ với Nhật Bản. Theo định hướng này, Hàn Quốc

đã nỗ lực khắc phục tình trạng căng thẳng với nước láng giềng theo quan điểm tách rời

quan hệ ngoại giao khỏi vỏ bọc của chủ nghĩa dân tộc và nền tảng chính trị quốc nội từ

thời Roh Moo Hyun.

Trong những ngày đầu sau bầu cử, Lee Myung Bak đã mong muốn tạo dựng

“mối quan hệ hướng tới tương lai” với Nhật Bản trên cơ sở chia sẻ các giá trị chung

của nền dân chủ. Ông là tổng thống Hàn Quốc thứ ba liên tiếp có ý thức xoa dịu quá

khứ bằng cách xây dựng tương lai với Nhật Bản thông qua hợp tác chính trị song

phương. Một cách uyển chuyển và khéo léo, Chính phủ Lee Myung Bak đã hóa giải

bất đồng quá khứ giữa hai nước với tuyên bố:“Hàn Quốc và Nhật Bản cần... cố gắng

nuôi dưỡng mối quan hệ hướng tới tương lai với một thái độ tích cực. Sự thật lịch sử là

không thể chối bỏ, nhưng chúng ta cũng không nên cản trở mối quan hệ tốt đẹp này vì

những tranh chấp trong quá khứ” [147]. Tính toán, so sánh thiệt hơn trong quan hệ với

Nhật Bản, Lee Myung Bak nhận thấy có quá nhiều lợi ích mà Hàn Quốc sẽ nhận được

nếu chủ động “khép lại” quá khứ giữa hai bên, trong đó bao gồm khả năng tạo ra cặp

quan hệ chiến lược Hàn Quốc - Nhật Bản trong việc giải trừ vũ khí hạt nhân và lập thế

quân bình tại khu vực.

Với quan điểm coi hợp tác với Nhật Bản là “giải pháp kép” giúp Hàn Quốc vừa

tự vệ, vừa phát triển ở Đông Bắc Á, Lee Myung Bak đã xác định chính sách tiếp cận

của mình là bước đi đúng đắn được kế thừa từ những người tiền nhiệm tiến bộ chứ

không phải sự phủ nhận chính sách ban đầu của Hàn Quốc. Xuất phát từ nhận thức

này, Lee đã chủ động viếng thăm Thủ tướng Nhật Bản Yasuo Fukuda vào tháng 4-

2008 và cam kết tái khởi động kế hoạch “ngoại giao con thoi” trên cơ sở tăng cường

Page 58: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

48

hiểu biết, tin cậy lẫn nhau nhằm cung cấp kênh đối thoại thường xuyên cho các nhà

hoạch định chính sách của hai nước. Các cuộc đàm phán giữa Tổng thống Hàn Quốc

Lee Myung Bak và Thủ tướng Nhật Bản Yasuo Fukuda tại Tokyo (21-4-2008) đánh

dấu bước khởi đầu quan trọng trong tiến trình cải thiện quan hệ hai bên. Nhờ việc thực

hiện chính sách ngoại giao thực dụng, Hàn Quốc đã không yêu cầu bất cứ lời xin lỗi

nào từ Nhật Bản mà chỉ tập trung thảo luận về mối quan hệ “hướng tới tương lai” trên

cơ sở đồng minh an ninh, hợp tác kinh tế và trao đổi văn hóa – xã hội thông qua các

cuộc họp thường xuyên giữa những người đứng đầu hai Chính phủ.

Vào tháng 9-2009, Hàn Quốc và Nhật Bản đứng trước cơ hội nâng cấp quan hệ

song phương nhờ chính sách ngoại giao cởi mở của Lee Myung Bak và kết quả chuyển

giao quyền lực theo hướng có lợi cho quan hệ hai nước của Chính phủ Nhật Bản. Tân

Thủ tướng Yukio Hatoyama – thuộc Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) là người chủ

trương xác định lại mối quan hệ với Hàn Quốc theo hướng “gần gũi và thân thuộc”.

Trong tuyên bố ngày 10-8-2009, ông khẳng định: “muốn đối mặt với lịch sử bằng thái

độ chân thành và muốn học cách chấp nhận quá khứ vì tất cả phản ánh trung thực

những sai lầm của chính chúng ta (người Nhật)” [98; tr. 14]. Thủ tướng Yukio

Hatoyama mong muốn xóa bỏ những bất đồng lịch sử với Hàn Quốc và cùng Lee

Myung Bak xây dựng mối quan hệ “hướng tới tương lai”. Để thực hiện điều này, ông

cam kết không đến thăm đền Yasukuni để tránh gây tranh cãi giữa hai nước và có kế

hoạch đến Seoul vào đầu tháng 10-2009 nhằm thảo luận về các vấn đề song phương,

trong đó bày tỏ thiện chí viếng thăm Hàn Quốc của Nhật Hoàng Akihito.

Đến cuối năm 2010, những nỗ lực của Lee Myung Bak đã mang lại thành công

nhất định trong kết quả cải thiện mối quan hệ Hàn Quốc - Nhật Bản. Với việc chủ động

thực hiện chính sách ngoại giao thực dụng, chính quyền Lee Myung Bak đã dũng cảm

vượt qua rào cản lịch sử để duy trì quan hệ “đồng minh” với kẻ thù cũ. Từ chỗ gây ra

“cuộc chiến ngoại giao” song phương do bất đồng quan điểm về quyền sở hữu nhóm

đảo Dokdo/Takeshima (từ năm 1952), về vấn đề sách giáo khoa lịch sử và vấn nạn nô

lệ lao động, nô lệ tình dục (từ sau CTTG thứ hai), hai bên đã chủ động gạt bỏ thù hận

quá khứ, cùng phối hợp trên một mặt trận chung nhằm chống lại chương trình làm giàu

uranium và hành vi khiêu khích quân sự của CHDCND Triều Tiên. Trên cơ sở đó, hai

nước tiếp tục đạt được thỏa thuận về tăng cường hợp tác an ninh thông qua trao đổi

quốc phòng và các hoạt động tìm kiếm, cứu hộ. Dù trong thực tế, Hàn Quốc vẫn còn

cảnh giác về ý đồ chiến lược của Nhật Bản trong khu vực và nhiều người dự đoán vấn

Page 59: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

49

đề bất đồng lịch sử có thể xuất hiện trở lại vào năm 2010 (kỷ niệm 100 năm Nhật Bản

xâm lược Hàn Quốc) thế nhưng quan hệ hai bên vẫn khá êm đẹp khi chính sách thực

dụng của Lee Myung Bak đã thuyết phục được Thủ tướng Naoto Kan nhắc lại lời xin

lỗi Hàn Quốc vài ngày trước khi lễ kỷ niệm được diễn ra. Nhờ trung thành với giải

pháp nhân nhượng và hợp tác, Hàn Quốc và Nhật Bản đã tự tin bước qua thập niên đầu

tiên của thế kỷ XXI với những tiến bộ vượt bậc trong nỗ lực cải thiện, nâng cấp và phát

triển quan hệ song phương. Những động thái trên hứa hẹn sẽ là tiền đề quan trọng giúp

Hàn Quốc tiếp tục vun đắp mối quan hệ hướng tới tương lai với Nhật Bản theo những

định hướng cơ bản sau:

Thứ nhất, Chính phủ Hàn Quốc cam kết cùng với Nhật Bản thúc đẩy hợp tác

của “bộ tứ” quan hệ: Mỹ - Nga - Nhật Bản - Hàn Quốc và Trung Quốc - Nhật Bản -

Hàn Quốc - CHDCND Triều Tiên trong việc giải quyết vấn đề hạt nhân; đồng thời duy

trì lợi ích giữa các bên tại khu vực Đông Bắc Á. Các quốc gia nói trên đã thống nhất tổ

chức Hội nghị Thượng đỉnh thường niên từ năm 2008; đồng thời thiết lập cơ chế đàm

phán đa phương lần thứ ba tại Hội nghị Thượng đỉnh vào năm 2010, thông qua “tầm

nhìn chiến lược đến năm 2020” nhằm kêu gọi sự hợp tác và trao đổi trong 10 năm tiếp

theo giữa các nước lớn trong khu vực. Từ những kênh đối thoại này, Hàn Quốc công

khai ủng hộ lập trường của Nhật Bản trong việc giải quyết vấn đề con tin giữa nước

này với CHDCND Triều Tiên, mặt khác, bày tỏ nhu cầu hợp tác cùng Nhật Bản trong

tiến trình hòa giải dân tộc, tiến tới thống nhất hai miền Triều Tiên.

Thứ hai, Hàn Quốc mong muốn tiếp tục hợp tác với Nhật Bản để mở rộng và

làm sâu sắc thêm tình hữu nghị với các quốc gia trong khu vực chứ không phải đối mặt

với sự bất hòa chính trị do nhận thức khác nhau về quan điểm lịch sử. Từ nhận thức

này, năm 2008, Thủ tướng Yasuo Fukuda và Tổng thống Lee Myung Bak đã nhất trí

tạo ra “một kỷ nguyên mới” giữa hai nước với chủ trương đưa quan hệ song phương

trở lại quỹ đạo. Định hướng đối ngoại nói trên đã phát huy tác dụng trong việc đưa

chính sách an ninh – chính trị Hàn Quốc ra khỏi sự lệ thuộc của quá khứ và gắn nó với

lợi ích chiến lược của quốc gia. Dù quan hệ hai nước vẫn phải đối mặt với sự thù hận

kéo dài do sự chiếm đóng của Nhật Bản (1910 - 1945) và những di sản của nó (sự thật

lịch sử của sách giáo khoa, sách Trắng Bộ Quốc phòng Nhật Bản, tranh chấp chủ

quyền nhóm đảo Dokdo/Takeshima…), thế nhưng nỗ lực hợp tác giữa hai nước vẫn

phải được duy trì vì sự ổn định của mối quan hệ này không còn giới hạn ở vấn đề song

phương mà liên quan trực tiếp đến an ninh, hòa bình trong khu vực Đông Bắc Á.

Page 60: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

50

Thứ ba, thông qua việc xây dựng mối quan hệ đối tác ba bên Hàn Quốc - Nhật

Bản - Trung Quốc, Chính phủ Hàn Quốc dự định tăng mức đóng góp quốc tế của mình

bằng cách gia tăng hợp tác với nước láng giềng Nhật Bản. Mong muốn này của Hàn

Quốc dựa trên cơ sở cả hai nước đều có sự lựa chọn chính sách tương tự nhau, ví như

cùng tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình, hỗ trợ phát triển chính thức và điều hành

các cơ quan hợp tác quốc tế, trong đó có Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA)

tại Hàn Quốc và Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) tại Nhật Bản. Đây là nỗ

lực chung của cả hai bên nhằm kiến tạo mối quan hệ hợp tác vững chắc vì một chiến

lược cùng có lợi và đóng góp nhiều hơn cho cộng đồng quốc tế.

Có thể thấy, trong suốt hơn hai thập niên kể từ sau Chiến tranh lạnh, chính sách

của Hàn Quốc đối với Nhật Bản đã góp phần định hình tính chất “hai mặt”: vừa hợp

tác – vừa đấu tranh trong quan hệ đối ngoại song phương. Suốt một thời gian dài, vấn

đề nổi cộm về sự thật lịch sử, tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước cho thấy chủ nghĩa

dân tộc và sự bất hòa nhận thức vẫn là một trở ngại không nhỏ đối với việc duy trì hòa

bình, ổn định ở khu vực. Cũng vì lý do này, chính sách của Hàn Quốc đối với Nhật Bản

trên lĩnh vực an ninh - chính trị càng phải kiên định với lập trường cùng chia sẻ, cảm

thông và tin tưởng để giải quyết những vấn đề gai góc trong quan hệ hai nước. Với quan

điểm ấy, việc thể hiện một thái độ gần gũi, cách tiếp cận mềm mỏng nhưng linh hoạt,

uyển chuyển vẫn là sự lựa chọn thiết thực của Hàn Quốc nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia

tại “vùng trũng an ninh” Đông Bắc Á. Ngay cả khi bị đánh giá là một “chân yếu” trong

tam giác quan hệ Mỹ - Nhật Bản - Hàn Quốc do thiếu vắng một nền tảng hợp tác mang

tính chiến lược [8; tr. 85], chính sách đối ngoại của các thế hệ lãnh đạo ở Hàn Quốc vẫn

hướng đến mục tiêu xây dựng quốc gia này trở thành đối tác “gần gũi và thân thuộc” với

Nhật Bản bằng cách vượt qua các tranh chấp về vấn đề lịch sử và tận dụng lợi thế của

nhau trong quá trình hình thành trật tự quyền lực mới ở Đông Á.

2.1.2. Đối với Trung Quốc

Kế thừa nền tảng đối ngoại khá tốt đẹp từ thời Chun Doo Hwan, cuối thập niên

80 của thế kỷ XX, Tổng thống kế nhiệm Roh Tae Woo đã xác lập chính sách “Ngoại

giao phương Bắc” với nội dung trọng tâm là cải thiện quan hệ với các nước XHCN,

trong đó có Trung Quốc, Liên Xô và khu vực Đông Âu [130; tr. 627-630]. Theo

đường lối chính trị này, từ sau Olympic Seoul (1988), Hàn Quốc đã tăng cường tiếp

cận và cải thiện quan hệ với các đồng minh truyền thống của Bắc Triều Tiên. Seoul

thậm chí còn vượt qua rào cản ý thức hệ để xây dựng “tình bằng hữu” với Hungary

Page 61: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

51

(1989) và Liên Xô (1990). Chính sách đối ngoại thực dụng của Roh Tae Woo không

chỉ thuyết phục tuyệt đại đa số các nước XHCN bình thường hóa quan hệ với Hàn

Quốc mà quan trọng hơn còn thu hút Trung Quốc ra khỏi đường lối đối ngoại khép kín

và cứng nhắc của Bắc Triều Tiên [79; tr. 68]. Dấu hiệu ấm dần lên trong quan hệ Hàn

Quốc – Trung Quốc trước thời điểm kết thúc Chiến tranh lạnh phản ánh toan tính

chính trị của giới cầm quyền bởi Đặng Tiểu Bình muốn tách Seoul khỏi mối quan hệ

với Đài Loan còn Roh Tae Woo thì tranh thủ vai trò trung gian của Trung Quốc để

tiếp cận và hòa giải với CHDCND Triều Tiên. Về phần mình, từ đầu thập niên 90 của

thế kỷ XX, khi ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc ở khu vực ngày càng lớn, vai trò

của nước này trong việc duy trì hòa bình, ổn định trên bán đảo Triều Tiên ngày càng

tăng, Hàn Quốc buộc phải tính đến việc tạo dựng quan hệ hữu nghị với Trung Quốc để

duy trì lợi ích quốc gia ở khu vực. Đặc điểm này tác động trực tiếp đến mong muốn

“hòa giải” và cải thiện quan hệ láng giềng của Tổng thống Roh Tae Woo từ thập niên

cuối cùng của thế kỷ XX.

Có thể thấy, đối tượng chủ yếu mà chính sách “Ngoại giao phương Bắc” hướng

đến là các nước XHCN, trong đó khả năng cải thiện quan hệ với Trung Quốc là rõ nét

hơn cả. Không chịu áp lực thống nhất như Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên, không

bị gán ghép vào liên minh quân sự như Hàn Quốc và Nhật Bản, mối quan hệ Hàn Quốc

và Trung Quốc dù là toan tính chính trị của giới cầm quyền nhưng lại là sự “kết duyên”

tự nguyện từ cả hai phía. Điều kiện thuận lợi này đã thôi thúc chính quyền Roh Tae

Woo đẩy nhanh tiến độ bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (24-8-1992). Trong

Tuyên bố chung thiết lập ngoại giao chính thức, Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Lee

Sang Ock khẳng định: “Thiết lập quan hệ giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Hàn

Quốc có lợi cho việc nới lỏng căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên và cũng có lợi cho

công cuộc kiến tạo hòa bình ở khu vực châu Á” [55; tr. 321]. Sự kiện này được coi như

cuộc chuyển hướng đường lối trong chính sách ngoại giao của Chính phủ Hàn Quốc vì

nó khép lại bốn thập kỷ quan hệ thù địch giữa hai nước do đối đầu ý thức hệ và xung

đột trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên. Với ý nghĩa to lớn ấy, Tổng thống Roh Tae

Woo đã tuyên bố trên hãng tin Reuters: “Mối quan hệ Hàn Quốc – Trung Quốc đánh

dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử thế giới vì nó báo hiệu sự kết thúc của

Chiến tranh lạnh ở khu vực Đông Á” [139].

Từ sau khi Roh Tae Woo nỗ lực dịch chuyển quan hệ hai bên từ trạng thái đối

đầu sang hợp tác hữu nghị, Tổng thống kế nhiệm Kim Young Sam cũng mong muốn

Page 62: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

52

“tiếp cận” Trung Quốc nhằm tranh thủ sự ủng hộ của Chủ tịch Giang Trạch Dân trong

việc cải thiện quan hệ với CHDCND Triều Tiên và thúc đẩy hai miền sớm gia nhập

Liên hợp quốc. Nhờ động lực này, Kim Young Sam đã thân chinh sang Bắc Kinh (3-

1994) nhằm tìm hướng giải quyết cho hai vấn đề: Phi hạt nhân hóa và thống nhất bán

đảo Triều Tiên. Từ kết quả cải thiện quan hệ Hàn – Trung vào thời kỳ cầm quyền của

Roh Tae Woo và Kim Young Sam, tổng thống kế nhiệm Kim Dae Jung đã được kế

thừa mối quan hệ khá vững chắc để tiếp tục củng cố chính sách với Trung Quốc trên

lĩnh vực chính trị. Bước tiến quan trọng nhất mà Hàn Quốc đạt được trong thời gian

Kim Dae Jung nắm quyền là thành tựu nâng cấp quan hệ song phương sau sáu năm

duy trì tình cảm láng giềng hữu nghị (1992 - 1998).

Chuyến thăm Trung Quốc (11-1998) của Tổng thống Kim Dae Jung đã đánh

dấu một chặng đường phát triển mới trong quan hệ hai nước với “Tuyên bố chung Hàn

Quốc – Trung Quốc”. Bản Tuyên bố nêu rõ: (1) Xây dựng “mối quan hệ hợp tác

Trung – Hàn hướng tới thế kỷ XXI” nhằm mục đích thiết lập quan hệ cho tương lai

dựa trên nguyên tắc của “Hiến chương Liên hợp quốc”, tinh thần “Thông cáo chung

về thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Đại Hàn Dân Quốc và Cộng hòa Nhân dân

Trung Hoa” và quan hệ láng giềng thân thiện, hữu nghị, hợp tác được tăng cường

giữa hai nước kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao; (2) tiếp tục theo đuổi đàm phán

bốn bên, từng bước thiết lập một cơ chế hòa bình lâu dài trên bán đảo Triều Tiên; (3)

mở rộng và tăng cường trao đổi, thăm viếng giữa các nhà lãnh đạo, cơ quan Chính

phủ, Quốc hội và đảng phái chính trị của hai nước [18]. Điều cơ bản nhất là ngay

trong Tuyên bố chung (1998), Tổng thống Kim Dae Jung đã ủng hộ chính sách “một

nước Trung Hoa” và quan điểm coi Đài Loan là bộ phận lãnh thổ không tách rời của

Trung Quốc [18]. Những khẳng định quan trọng trên cho thấy văn kiện ngoại giao

giữa hai nước không đơn thuần chỉ là “nút thắt” quan hệ theo chủ ý của Kim Dae Jung

và Giang Trạch Dân mà còn là bằng chứng sinh động về sự chuyển hướng chính sách

của Hàn Quốc đối với khu vực theo xu hướng ngày càng thực dụng hơn. Rõ ràng,

ngay từ khi lập quốc, ngoại giao Hàn Quốc chủ yếu dựa vào Mỹ và mối liên minh

chiến lược Mỹ - Nhật Bản. Tuy nhiên, sau khi chứng kiến sự tranh giành ảnh hưởng

giữa Mỹ và Trung Quốc tại khu vực từ sau Chiến tranh lạnh, Hàn Quốc - quốc gia tầm

trung đã nhanh chóng điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng cân bằng quan hệ

với tất cả các nước và giành thế chủ động trong việc hoạch định chiến lược ngoại giao.

Việc cắt đứt mối liên hệ lâu đời với Đài Loan, lựa chọn hình mẫu quan hệ với Trung

Page 63: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

53

Quốc theo chiều hướng đi lên: “hợp tác thân thiện” (1992) và “đối tác hợp tác” (1998)

của Hàn Quốc cho thấy mong muốn thoát khỏi những áp đặt trong chính sách ngoại

giao lấy Mỹ làm trung tâm từ những năm 1950 và giữ một khoảng cách tương đối an

toàn với Nhật Bản. Định hướng này cũng là nội dung cốt lõi trong chính sách của

Tổng thống Roh Moo Hyun đối với Trung Quốc.

Tuy vậy, không giống người tiền nhiệm Kim Dae Jung luôn hướng chính sách

của Hàn Quốc về phía Thái Bình Dương và lục địa châu Á, Roh Moo Hyun chủ

trương đưa đất nước đi lên bằng việc giảm phụ thuộc vào các quốc gia đồng minh và

duy trì vai trò cân bằng của Hàn Quốc ngay tại khu vực. Vì vậy, ngay khi mới lên nắm

quyền, Roh Moo Hyun đã bày tỏ lập trường hết sức rõ ràng về việc duy trì chính sách

độc lập với Mỹ, bắt đầu từ khâu xây dựng lực lượng vũ trang tự lực cánh sinh. Tuy

nhiên, đối với Trung Quốc, ông lại lựa chọn chính sách mang tính thực tiễn, trong đó

tập trung chủ yếu vào tiến trình hòa giải liên Triều và củng cố quan hệ đối tác hợp tác

với Bắc Kinh. Theo quan điểm của chính quyền Roh Moo Hyun, Trung Quốc chính là

sự thay thế tiềm năng cho Mỹ với tư cách là một đối tác chiến lược trong tương lai của

Hàn Quốc. Kết quả thăm dò của tờ nhật báo hàng đầu Hàn Quốc Dong-a Ilbo (4-2004)

cũng cho thấy lập trường tương tự khi phần lớn các thành viên Quốc hội thuộc đảng

cầm quyền đều mong muốn “chính sách đối ngoại tương lai của Hàn Quốc tập trung

vào Trung Quốc thay vì chú trọng vào Mỹ” [50]. Nhận thức trên đây bắt nguồn từ sự

khác biệt trong lựa chọn chính sách Bắc Triều Tiên của Mỹ, Hàn Quốc và Trung

Quốc. Khi Tổng thống Roh Moo Hyun công bố chính sách “Hòa bình và thịnh vượng”

(chính sách khuyến khích hòa giải và hợp tác) với CHDCND Triều Tiên thì Phó Tổng

thống Mỹ Dick Cheney và Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld lại tuyên bố ý

định muốn phá bỏ chế độ ở Bình Nhưỡng [29]. Đối với vấn đề hạt nhân của Bắc Triều

Tiên, trong khi người Mỹ lo ngại về nguy cơ phổ biến loại vũ khí này thì Hàn Quốc lại

“thấp thỏm” với nguy cơ xung đột quân sự. Những khác biệt nói trên giữa hai nước

khiến Hàn Quốc dần muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Mỹ để tìm kiếm sự “đồng điệu”

trong chính sách Bắc Triều Tiên với Trung Quốc. Hơn thế nữa, lợi ích chính trị của

Trung Quốc trong vai trò “trung gian hòa giải” liên Triều hoàn toàn phù hợp với nhu

cầu tiếp cận Bình Nhưỡng của các nhà lãnh đạo Hàn Quốc. Do đó, tất nhiên, Tổng

thống Roh Moo Hyun không những lựa chọn chính sách “một Trung Quốc” của

những người tiền nhiệm mà còn nỗ lực nâng cấp quan hệ song phương với Trung

Quốc thành “đối tác hợp tác toàn diện” ngay từ năm 2003. Như vậy, cùng với các nhà

Page 64: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

54

lãnh đạo Roh Tae Woo và Kim Dae Jung, Roh Moo Hyun là vị tổng thống thứ ba của

Hàn Quốc thể hiện thái độ “gần gũi” với Trung Quốc mặc dù ông hiểu rằng chính sách

hòa giải liên Triều, hợp tác với khu vực và độc lập hơn với Mỹ về ngoại giao có thể sẽ

làm suy yếu tam giác chiến lược của lực lượng đồng minh.

Quan hệ Hàn – Trung mặc dù được thiết lập khá muộn (1992) nhưng trong suốt

hai thập niên, các thế hệ lãnh đạo của Hàn Quốc từ Roh Tae Woo đến Roh Moo Hyun

ngay từ đầu đều nhất trí theo quan điểm thắt chặt tình hữu nghị và hợp tác với Trung

Quốc. Tuy nhiên, sau khi Lee Myung Bak trở thành tổng thống, ông lại tuyên bố trong

Diễn văn nhậm chức (25-02-2008): “Hàn Quốc sẽ phát triển quan hệ hữu nghị truyền

thống với Mỹ và tăng cường hơn nữa liên minh chiến lược giữa hai nước” [161]. Lời

hứa nâng tầm quan hệ Hàn – Mỹ của Lee Myung Bak ít nhiều làm lung lay niềm tin

của Trung Quốc về khả năng vun đắp mối quan hệ “đối tác hợp tác toàn diện” do Tổng

thống Roh Moo Hyun và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào kiến tạo từ năm 2003. Do sự chi phối

đậm nét của hệ tư tưởng và sự cạnh tranh vị thế lãnh đạo khu vực châu Á – Thái Bình

Dương, Trung Quốc đương nhiên không muốn “gắn bó” với bất cứ nước nào có mối

liên hệ chặt chẽ với Mỹ. Theo logic này, việc Hàn Quốc công khai củng cố liên minh

với Mỹ chẳng khác gì lời cam kết đoạn tuyệt quan hệ với Trung Quốc. Sự lo lắng của

Bắc Kinh về khả năng rạn nứt tình hữu nghị Hàn – Trung ngày càng có cơ sở khi Lee

Myung Bak từ chối duy trì chính sách “Ánh dương”, “Hòa bình và thịnh vượng” nhằm

cự tuyệt giải pháp hòa giải – hòa bình với CHDCND Triều Tiên. Những động thái này

của Hàn Quốc đã làm cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc tin rằng Chính phủ mới sẽ xóa

bỏ chính sách tích cực mà hai tổng thống tiền nhiệm Kim Dae Jung và Roh Moo Hyun

đã dành cho Trung Quốc. Tuy nhiên, trái ngược với mọi dự đoán, sau lễ nhậm chức,

Lee Myung Bak lại nỗ lực thúc đẩy mối liên kết Hàn – Trung. Trong năm đầu tiên nắm

quyền, Lee Myung Bak đã đến thăm Bắc Kinh ba lần (cả bốn vị tổng thống trước đó:

Roh Tae Woo, Kim Young Sam, Kim Dae Jung và Roh Moo Hyun đều chỉ đến Trung

Quốc duy nhất một lần trong suốt nhiệm kỳ), trong đó bao gồm chuyến thăm cấp Nhà

nước (5-2008), tham dự lễ khai mạc Olympic Bắc Kinh (8-2008) và tham dự Hội nghị

Thượng đỉnh ASEM (10-2008).

Ngay trong chuyến thăm Bắc Kinh lần đầu tiên, Lee Myung Bak đã cam kết với

Chủ tịch Hồ Cẩm Đào: (1) Nâng cấp “quan hệ đối tác hợp tác toàn diện” thành “quan

hệ đối tác hợp tác chiến lược” nhằm đẩy mạnh trao đổi giữa hai nước trên các lĩnh

vực ngoại giao, an ninh – chính trị, kinh tế và văn hóa – xã hội; (2) thành lập một cơ

Page 65: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

55

chế đối thoại chiến lược cấp cao giữa hai Bộ Ngoại giao và phát triển đối thoại an

ninh ngoại giao; (3) tăng cường trao đổi giữa các nhà lãnh đạo, các cơ quan Chính

phủ, Quốc hội và đảng phái chính trị. Đặc biệt, trong Tuyên bố chung (2008), Tổng

thống Lee Myung Bak đã khẳng định quan điểm: Chính phủ Cộng hòa Nhân dân

Trung Hoa là Chính phủ hợp pháp duy nhất và Hàn Quốc cam kết kiên trì chính sách

“một Trung Quốc” [175]. Trên cơ sở xây dựng “quan hệ hợp tác đối tác chiến lược” từ

năm 2008, Lee Myung Bak đã thúc đẩy các hoạt động trao đổi cấp cao bằng việc duy

trì 13 cuộc họp trong các Hội nghị Thượng đỉnh song phương và 15 cuộc họp cấp Bộ

trưởng Ngoại giao với Trung Quốc [102]. Trên cơ sở những thành tựu đạt được trong

chính sách đối ngoại, Hàn Quốc đã tiếp tục thúc đẩy các chương trình nghị sự nhằm phát

triển quan hệ song phương trong các vấn đề khu vực, quốc tế; đẩy mạnh hợp tác cùng có

lợi về đầu tư, tài chính, truyền thông, năng lượng, bảo vệ môi trường, khoa học và công

nghệ; mở rộng phạm vi giao lưu của giới trẻ hai nước. Liên quan đến các cuộc đàm phán

sáu bên, Tổng thống Lee Myung Bak cũng chủ động hợp tác với Trung Quốc nhằm phi

hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên và duy trì an ninh, ổn định ở Đông Bắc Á.

Cách tiếp cận với Trung Quốc của Tổng thống Lee Myung Bak đã thể hiện rõ ý

thức cân bằng quan hệ của Hàn Quốc với các nước trong khu vực. Vì thế, ngay cả khi

đã tuyên bố ưu tiên liên minh Mỹ - Hàn trong chính sách đối ngoại, ông vẫn xác định

Hàn Quốc – Trung Quốc là một trong những mối quan hệ đối ngoại quan trọng nhất

cần tiếp tục được củng cố. Nhờ việc duy trì lập trường ngoại giao “nước đôi”, Lee

Myung Bak đã giúp Hàn Quốc thoát khỏi tình thế “mắc kẹt” giữa mối quan hệ “liên

minh chiến lược” với Mỹ và “đối tác hợp tác chiến lược” với Trung Quốc; đồng thời

lợi dụng áp lực đồng minh Mỹ - Hàn để vun đắp “tình bằng hữu” với Trung Quốc. Có

thể thấy, sự khác biệt lớn nhất của Lee Myung Bak so với những người tiền nhiệm là

coi quan hệ Hàn – Mỹ như chất xúc tác đối với quan hệ Hàn – Trung. Cũng vì đặc

trưng này, chính sách đối với Trung Quốc của Tổng thống Lee thể hiện rõ sự “cộng

hưởng” của hai yếu tố: Một là, sự kế thừa quan điểm hợp tác với Trung Quốc của cựu

Tổng thống Roh Moo Hyun; hai là, sự tái xác lập vai trò đồng minh chiến lược của Mỹ

ở Đông bán cầu từ thập niên 50 của thế kỷ trước.

Quan điểm ngoại giao thực dụng cùng với thành tựu nâng cấp quan hệ ngoại giao

hai nước vào năm 2008 đã giải tỏa phần nào những lo ngại của Trung Quốc về việc Lee

Myung Bak có thể “làm ngơ” với chính sách “một Trung Quốc” của các tổng thống tiền

nhiệm. Để duy trì kết quả cải thiện quan hệ song phương từ thời Tổng thống Roh Tae

Page 66: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

56

Woo và Chủ tịch Dương Thượng Côn, Trung Quốc không thụ động “ngồi chờ” chính

sách của Hàn Quốc mà đã cử Đại sứ đến Seoul ngay sau ngày Lee Myung Bak nhậm

chức hai tuần. Sự kiện Chủ tịch Hồ Cẩm Đào gửi đặc phái viên đến gặp tổng thống mới

đắc cử là sự “hồi đáp” cho chính sách đề cao quan hệ Hàn – Mỹ của Lee Myung Bak.

Hành động trên còn nhằm mục đích ngăn chặn sự phân biệt đối xử “bên trọng” – “bên

khinh” của Hàn Quốc đối với Mỹ và Trung Quốc. Từ việc chủ động bày tỏ quan điểm

“các nước láng giềng không chỉ cần trở thành đối tác quan trọng của nhau về kinh tế mà

còn phải phối hợp chặt chẽ với nhau trong các vấn đề chính trị, ngoại giao và an ninh”

[43; tr. 125], đặc phái viên Trung Quốc đã gửi đi thông điệp hết sức rõ ràng và tích cực

về mong muốn thắt chặt tình hữu nghị với Hàn Quốc. Theo đó, từ sau khi thiết lập cơ chế

đối thoại giữa Giám đốc An ninh Quốc gia Hàn Quốc và các Ủy viên Hội đồng Nhà

nước Trung Quốc, cả hai bên đã công nhận nhau là đối tác quan trọng trong các cuộc

đàm phán chính trị và ngoại giao. Cùng với kết quả nâng cấp quan hệ “đối tác hợp tác

chiến lược” (2008), Chính phủ Hàn Quốc đã dành vị trí ưu tiên ngày càng cao cho Trung

Quốc trong chính sách của mình. Ngay trong cuộc gặp Chủ tịch nước Trung Quốc Hồ

Cẩm Đào tại Hội nghị Thượng đỉnh G20 lần thứ IV (Toronto – Canada) vào ngày 27-6-

2010, Tổng thống Lee Myung Bak đã khẳng định: “Hàn Quốc đặc biệt coi trọng mối

quan hệ đối tác hợp tác chiến lược với Trung Quốc và sẵn sàng tăng cường hợp tác hữu

nghị với Trung Quốc trên cơ sở quan hệ đối tác chiến lược đó” [176].

Xuất phát từ nhu cầu củng cố, hợp tác chính trị và tăng cường quan hệ ngoại

giao (đặc biệt là tận dụng ảnh hưởng của nước thứ ba trong việc giải quyết bất đồng

trên bán đảo Triều Tiên), các thế hệ lãnh đạo Hàn Quốc đã nỗ lực xây dựng mối quan

hệ đối tác hợp tác ngày càng khăng khít với Trung Quốc một cách tích cực và đầy “chủ

động”. Trong hơn hai thập niên định hướng cải thiện quan hệ với Trung Quốc khởi đầu

từ chính sách “Ngoại giao phương Bắc” của Tổng thống Roh Tae Woo, hai nước đã đạt

được những bước tiến vượt bậc trên lĩnh vực chính trị. Cụ thể là, quan hệ Hàn – Trung

liên tục được nâng cấp theo lộ trình 5 năm, từ “tình hữu nghị và quan hệ hợp tác” song

phương vào năm 1992 đến “quan hệ đối tác hợp tác trong thế kỷ XXI” dưới thời Tổng

thống Kim Dae Jung (1998), “quan hệ đối tác hợp tác toàn diện” trong thời kỳ cầm

quyền của Roh Moo Hyun (2003) và “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược” được công

bố ngay trong lần đầu tiên Lee Myung Bak đến Bắc Kinh (2008). Nhờ nắm giữ vai trò

then chốt trong giải quyết vấn đề hạt nhân của Bình Nhưỡng và duy trì hòa bình, ổn

định trên bán đảo Triều Tiên, Trung Quốc vẫn luôn là một trong những đối tác chính trị

quan trọng của Hàn Quốc ở Đông Bắc Á.

Page 67: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

57

2.1.3. Đối với CHDCND Triều Tiên

Trong bối cảnh Chiến tranh lạnh dần đi vào hồi kết, dấu hiệu ấm dần lên của

các mối quan hệ quốc tế đã định hướng rõ tính chất cân bằng và hòa dịu trong chính

sách đối ngoại của các nước. Đây được coi là “thời điểm vàng” để Hàn Quốc đẩy

mạnh hơn nữa chính sách hòa giải dân tộc và cải thiện quan hệ với các nước XHCN.

Với nhận thức này, ngay trong diễn văn nhậm chức (1988), Tổng thống Roh Tae Woo

đã tuyên bố: “Hàn Quốc sẽ mở rộng các kênh hợp tác quốc tế với những quốc gia mà

trước đây chúng tôi chưa từng trao đổi hoặc tiếp xúc nhằm thúc đẩy mạnh mẽ chính

sách ngoại giao hướng về phương Bắc” [129; tr. 175-180]. Quan điểm này cũng được

ông tái khẳng định trong bài phát biểu kỷ niệm ngày Độc lập Hàn Quốc (01-3-1988):

“Dù khó khăn và gian khổ, tôi vẫn cam kết mở đường cho tiến trình thống nhất dân

tộc. Tôi sẽ nỗ lực cải thiện quan hệ với các quốc gia ở phía Bắc vì chính họ mới có thể

giúp chúng ta (Hàn Quốc) đạt được tiến bộ cho mục đích cuối cùng” [140; tr. 39]. Với

quyết tâm trên, ngày 07-7-1988, đêm trước Thế vận hội Olympic lần thứ 24 tổ chức tại

Seoul, Tổng thống Roh Tae Woo chính thức kêu gọi các nước XHCN cổ vũ tiến trình

thống nhất hai miền và ủng hộ chính sách ngoại giao đa phương của Hàn Quốc. Chính

sách này một mặt thực hiện cơ chế hỗ trợ miền Bắc nhằm tạo nền tảng hợp nhất từ bên

trong; mặt khác tăng cường cải thiện quan hệ với Trung Quốc, Liên Xô và Đông Âu

để tạo môi trường hàn gắn từ bên ngoài. Tác động kép từ hai phía (khu vực và quốc tế)

được kỳ vọng sẽ làm nên “cú hích” lịch sử, có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh

của cả hai miền Triều Tiên.

Trên nền tảng tư tưởng của đường lối đối ngoại mới, Roh Tae Woo đưa ra năm

nguyên tắc cơ bản để thực hiện chính sách của mình, theo đó Hàn Quốc: (1) Kiềm chế

mọi hành vi cô lập Bắc Triều Tiên; (2) thực hiện tái thống nhất trên cơ sở liên kết với

các chính sách của miền Bắc; (3) thảo luận đồng thời các vấn đề chính trị và phi

chính trị; (4) theo đuổi chính sách “hướng Bắc” trên cơ sở sự đồng thuận của quốc

gia; (5) theo đuổi chính sách “hướng Bắc” nhưng vẫn duy trì hợp tác với các đồng

minh truyền thống, đặc biệt là Mỹ” [64; tr. 258-259]. Có thể thấy, với chính sách

“Ngoại giao phương Bắc”, Roh Tae Woo đã nỗ lực thay đổi định kiến thù địch trong

tư duy đối ngoại của Bình Nhưỡng bằng lòng thiện chí và sự nhân nhượng. Ngay

trong “Tuyên bố đặc biệt về quốc gia tự chủ, thống nhất và thịnh vượng” (07-7-1988),

chính quyền Roh Tae Woo đã chỉ rõ: “Vấn đề chia cắt bán đảo Triều Tiên không phải

gắn với bản chất hệ thống chính trị của CHDCND Triều Tiên hay chính sách hiếu chiến

Page 68: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

58

của CHDCND Triều Tiên, mà là gắn liền với thực tế cả miền Nam và miền Bắc đều coi

nhau như kẻ thù” [130; tr. 627-630]. Từ việc xác định Bình Nhưỡng là thành viên trong

cộng đồng dân tộc Triều Tiên, không phải là kẻ thù “duyên nợ” của Hàn Quốc, Roh Tae

Woo đã đề xuất sáu nội dung trọng điểm trong chính sách mới đối với Bình Nhưỡng

như sau: (1) Xúc tiến giao lưu Bắc - Nam; (2) Mở cửa tự do đi lại cho người Triều Tiên,

đoàn tụ các gia đình ly tán; (3) Mở cửa mậu dịch Bắc - Nam; (4) Không phản đối

CHDCND Triều Tiên hợp tác phi quân sự với nước ngoài; (5) Bình thường hóa quan hệ

hai miền; (6) Giúp đỡ CHDCND Triều Tiên tiếp xúc với Mỹ và Nhật Bản [121; tr. 11-

15]. Ngày 11-9-1989, “Công thức thống nhất cộng đồng dân tộc Triều Tiên” cũng được

Hàn Quốc chính thức công bố, trong đó xác định ba giai đoạn tiến tới thống nhất: Đầu

tiên, thực hiện “Liên bang” tạm thời giữa hai miền; sau đó, thúc đẩy quan hệ kinh tế, văn

hóa – xã hội và cuối cùng thực hiện hợp nhất về chính trị, ngoại giao.

Tinh thần hợp tác của miền Bắc đã thúc đẩy các cuộc gặp gỡ cấp Thủ tướng

giữa hai bên tại Seoul (9-1990) và Bình Nhưỡng (10-1990). Thành công trên góp phần

đưa Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên cùng tham gia vào Liên Hợp Quốc (1991);

đồng thời thúc đẩy hai Nhà nước chính thức thừa nhận lẫn nhau trên cơ sở ký kết “Hiệp

định cơ bản Bắc – Nam” hay “Hiệp định về hòa giải, không xâm lược, trao đổi và hợp

tác” (13-12-1991) nhằm cam kết không sử dụng vũ lực và giải quyết mọi bất đồng

trong quan hệ hai bên thông qua đối thoại [107; tr. 200-207]. Tuy nhiên, ngay cả khi

“Hiệp định cơ bản Bắc - Nam” (1991) đã được ký kết, ngay cả khi Kim Il Sung tuyên

bố thay thế quan hệ đối đầu, thù địch bằng sự hòa hợp cùng tồn tại thì kết quả hàn gắn

giữa hai miền vẫn dễ dàng “bốc hơi” khi có sự can dự của Mỹ. Thực tế, chỉ với việc lôi

kéo Hàn Quốc cùng tố cáo chương trình phát triển hạt nhân bí mật của Bắc Triều Tiên

(đầu thập niên 90), Mỹ đã có thể phá vỡ thành quả của chính sách “Ngoại giao phương

Bắc”. Một lần nữa, tình hình khu vực trở nên nóng bỏng khi Bình Nhưỡng quay lưng

với Hàn Quốc để đáp trả tinh thần đồng đội của liên minh Hàn - Mỹ trong các vấn đề

chính trị trên bán đảo Triều Tiên.

Dựa trên nền tảng chính sách “Ngoại giao phương Bắc” của Roh Tae Woo,

Tổng thống kế nhiệm Kim Young Sam chủ trương thúc đẩy vấn đề dân chủ và hòa

hợp dân tộc trên cơ sở ngoại giao “hòa đàm”. Quan điểm này được chính Ngoại

trưởng Han Song Chu đưa ra tại Hội nghị Ngoại giao Hàn Quốc (31-5-1993) với tuyên

bố: “Cho đến nay, đường lối ngoại giao của chúng ta vẫn bắt nguồn từ tình trạng chia

cắt nên chỉ tập trung vào việc phong tỏa và cạnh tranh với Bắc Triều Tiên; nhưng nay

Page 69: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

59

thì sự cạnh tranh đó cần được chấm dứt. Chúng ta phải lôi kéo CHDCND Triều Tiên

để tái thống nhất thay vì tìm cách kiềm chế và phong tỏa họ” [100; tr. 142]. Định

hướng chiến lược nói trên được Kim Young Sam cụ thể hóa bằng chính sách “Ngoại

giao mới” với năm đặc thù cơ bản của hoạt động đối ngoại: Toàn cầu hóa; đa dạng

hóa; đa nguyên hóa; hợp tác khu vực và định hướng tương lai [46; tr. 361-365]. Mong

muốn chủ yếu của Hàn Quốc khi đề ra chính sách này là dung hòa mối quan hệ “bốc

đồng” của miền Bắc thông qua đối thoại, giải quyết vấn đề hạt nhân và giải quyết vấn

đề nhân đạo. Mặc dù có cùng mục tiêu và với quyết tâm cao như các tổng thống tiền

nhiệm nhưng bản thân Kim Young Sam lại có quan điểm chính trị riêng về vấn đề

thống nhất và về chính sách đối với Bắc Triều Tiên. Từ việc đưa ra “Công thức thống

nhất ba giai đoạn trong xây dựng một cộng đồng dân tộc Triều Tiên” (1994), nhà lãnh

đạo Hàn Quốc đã cho thấy sự vận dụng và tiếp thu tư tưởng chính trị của Roh Tae

Woo trong phiên bản công thức thống nhất mới của mình với việc giữ lại ba giai đoạn

hợp nhất và bổ sung thêm các giá trị: Tự do, dân chủ và hạnh phúc [107; tr. 50].

So với các thế hệ lãnh đạo trước, Kim Young Sam đã thiết kế một chiến lược

ngoại giao tỉ mỉ và chặt chẽ đối với CHDCND Triều Tiên. Thậm chí, trong ngày kỷ

niệm 50 năm giải phóng Triều Tiên (1945 - 1995), ông còn chủ động trấn an tư tưởng

của chính quyền miền Bắc với việc công bố ba nguyên tắc cơ bản nhằm thiết lập hòa

bình giữa hai miền: (1) Trung thành với bản Hiệp định đã ký kết giữa hai Chính phủ

từ sau Chiến tranh Triều Tiên (1953); (2) cùng giữ vai trò chủ chốt trong các cuộc

đàm phán đa phương; (3) cùng giải quyết mâu thuẫn liên Triều trong khuôn khổ thể

chế hòa bình trên bán đảo Triều Tiên [107; tr. 56]. Tuy nhiên, khi CHDCND Triều

Tiên công khai ý định phản bội Tuyên bố chung về phi hạt nhân hóa bán đảo Triều

Tiên đã ký với Hàn Quốc (1992) và đơn phương rút khỏi Hiệp ước Không phổ biến vũ

khí hạt nhân – NPT (1993), Kim Young Sam đã không còn kiên nhẫn để duy trì một

chính sách ngoại giao mềm dẻo, nhân nhượng mà chuyển sang chính trị hóa đường lối

đối ngoại bằng việc củng cố chính sách can dự và liên tục đưa ra những cảnh báo về

nguy cơ chiến tranh, nguy cơ tuyệt giao quan hệ thương mại, du lịch giữa hai nước.

Điều này đã dẫn đến cuộc khủng hoảng chính trị liên Triều kéo dài đến tận năm 1997-

sau khi Kim Young Sam rời khỏi nghị trường.

Quyết tâm khắc phục những hạn chế trong chính sách của người tiền nhiệm, từ

tháng 2-1998, Tổng thống mới Kim Dae Jung đã mạnh dạn điều chỉnh đường lối đối

ngoại với ba trọng tâm: Một là, tăng cường ngoại giao kinh tế nhằm khắc phục hậu quả

Page 70: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

60

khủng hoảng; hai là, thiết lập quan hệ hữu nghị với Mỹ, Nga, Nhật Bản và Trung

Quốc; ba là, tích cực cải thiện quan hệ với CHDCND Triều Tiên [111; tr. 24]. Mục tiêu

cơ bản và lâu dài trong chính sách của Kim Dae Jung là phát triển kinh tế và thống nhất

dân tộc. Trong đó, việc xây dựng một nền tảng hòa bình trên bán đảo Triều Tiên sẽ là

điều kiện then chốt giúp Hàn Quốc thoát khỏi cuộc khủng hoảng toàn diện trước mắt.

Đặc điểm này khiến cho Chính phủ mới không muốn đẩy nhanh tiến trình thống nhất

như trước mà tập trung chuyển đổi cơ cấu chính trị trên bán đảo Triều Tiên từ đối đầu

sang hòa giải và hợp tác. Quan điểm nói trên được Kim Dae Jung khẳng định trong

tuyên bố về “Tác động của Hiệp định khung Mỹ - Triều Tiên đến tái thống nhất Triều

Tiên” (1994), theo đó Hàn Quốc đề nghị tiến trình thống nhất dân tộc phải được thực

hiện dựa trên ba nguyên tắc: Độc lập, hòa bình và dân chủ. Ông còn đưa ra công thức

thống nhất ba giai đoạn, trong đó bao gồm việc thành lập một liên minh ở giai đoạn

đầu, một liên bang ở giai đoạn hai và thống nhất ở giai đoạn ba.

Từ việc hoạch định chiến lược ngoại giao mới trên cơ sở ba nguyên tắc và công

thức tái thống nhất, Kim Dae Jung cho rằng Bắc Triều Tiên là một chế độ biệt lập,

chuyên quyền nhưng dễ bị thay đổi. Tuy nhiên, sự thay đổi này không phải do các nhà

lãnh đạo mà do cơ sở nội tại và bối cảnh bên ngoài không còn thuận lợi cho chế độ

hiện hành [23; tr. 2]. Những nhận định trên đã gợi mở một hướng đi hoàn toàn mới cho

chính sách của Hàn Quốc. Theo đó, miền Nam sẽ không áp đặt hay khống chế mà chủ

động thuyết phục từng bước, qua đó giúp miền Bắc nhận thức rõ sự cần thiết phải “tự

thay đổi” để thích nghi với môi trường bên ngoài. Hàm ý sâu xa này của Kim Dae Jung

được đúc rút từ truyện ngụ ngôn “Gió Bắc và Mặt trời” của Aesop0F

1 [153; tr. 12]. Trong

đó, “Mặt trời” là biểu trưng cho chính sách ngoại giao “Ánh dương” với mục tiêu vận

động, lôi kéo miền Bắc mở cửa và cải cách xã hội. Còn “gió Bắc” đại diện cho những

chính sách đối ngoại truyền thống của Hàn Quốc với chủ trương bao vây, cô lập và

cấm vận CHDCND Triều Tiên.

Chính sách “Ánh dương” được công bố trong diễn văn nhậm chức của Tổng

thống Kim Dae Jung (25-02-1998) với ba nguyên tắc: (1) Không tha thứ bất cứ hành vi

khiêu khích vũ trang nào từ phía Bắc Triều Tiên; (2) không có ý định thống nhất bằng

cách gây tổn hại hoặc thôn tính miền Bắc; (3) tích cực thúc đẩy hòa giải và hợp tác

giữa hai miền [145]. Chính sách mới không thực hiện lồng ghép cả hai mục tiêu thống

1Trong câu chuyện, Mặt trời thắng gió Bắc trong cuộc thách đấu ai cởi được áo khoác của lữ khách. Trong

khi gió thổi mạnh chỉ khiến kẻ bộ hành ôm khư khư chiếc áo thì sức nóng của Mặt trời khiến người đó tự cởi bỏ chiếc áo của mình.

Page 71: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

61

nhất và hòa giải như Kim Young Sam mà tập trung vào các hoạt động trao đổi kinh tế,

viện trợ xã hội nhằm thực hiện trước hết mục tiêu hòa giải dân tộc. Quan điểm chính trị

này được nêu bật trong sáu nhiệm vụ trọng điểm của “Ánh dương”, theo đó Hàn Quốc

cam kết: (1) Cải thiện quan hệ liên Triều trên cơ sở Hiệp định cơ bản (12-1991); (2)

thúc đẩy hợp tác kinh tế theo nguyên tắc tách kinh tế ra khỏi chính trị; (3) tăng cường

giao lưu văn hóa – xã hội; (4) thực hiện đoàn tụ các gia đình ly tán; (5) hỗ trợ dự án

Lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ cho CHDCND Triều Tiên; (6) xây dựng nền tảng hòa

bình trên bán đảo Triều Tiên [145]. Thực hiện các nhiệm vụ nói trên có tác dụng khắc

phục hai hạn chế cố hữu trong chính sách can dự dưới thời Kim Young Sam nhằm

không để cho vấn đề an ninh dẫn dắt quan hệ liên Triều và không chuyển hướng chính

sách so với những nguyên tắc đối ngoại đã đề ra.

Sau nhiều thập kỷ đối đầu, ước nguyện của nhân dân hai miền về việc xây dựng

một quốc gia ổn định, thống nhất trên tinh thần dân tộc tự quyết đã thúc đẩy cuộc gặp

gỡ lịch sử giữa Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae Jung và Tổng Bí thư Đảng Lao động

Triều Tiên Kim Jong Il tại Bình Nhưỡng (13-6-2000). Hội nghị Thượng đỉnh tháng 6-

2000 được đánh giá là thành tựu cơ bản nhất của chính sách “Ánh dương” bởi “nếu

không có cuộc gặp gỡ liên Triều này, việc hàn gắn quan hệ hai miền sẽ phải mất ít

nhất vài năm hoặc thậm chí là vài thập kỷ” (Suh Choo Suk - Học viện phân tích quốc

phòng Hàn Quốc) [20; tr. 11]. Hội nghị còn được đánh giá cao nhờ đưa ra Tuyên bố

chung Bắc – Nam (6-2000)1F

2 làm nguyên tắc hướng dẫn cho nỗ lực chung sống hòa

bình trên bán đảo Triều Tiên và tháo gỡ cơ cấu đối đầu của Chiến tranh lạnh giữa hai

bên từ năm 1948.

Đến đầu năm 2003, chính sách Bắc Triều Tiên của nhà cầm quyền Roh

Moo Hyun được công bố trong diễn văn nhậm chức là lời cam kết duy trì khuôn

khổ của chính sách “Ánh dương” với mong muốn“biến bán đảo Triều Tiên trở

thành nơi phát ra thông điệp hòa bình kết nối vùng đất Á - Âu rộng lớn với Thái

Bình Dương” [173]. Phạm vi chính sách của Roh Moo Hyun rộng hơn nhiều so

với chính sách “Ánh dương” của Kim Dae Jung nhưng nhiệm vụ hòa giải liên

Triều vẫn là ưu tiên số một. Chính sách hòa dịu trước đây được Roh Moo Hyun kế

2Tuyên bố chung Bắc – Nam gồm 5 điểm:

1. Vấn đề thống nhất Triều Tiên do chính người Triều Tiên quyết định

2. Thống nhất quan điểm về lời đề nghị Liên bang của miền Bắc và Liên hiệp của miền Nam

3. Tích cực giải quyết các vấn đề nhân đạo

4. Củng cố lòng tin bằng việc thúc đẩy giao lưu và hợp tác văn hóa – xã hội

5. Tổ chức đối thoại giữa các cơ quan chức năng của hai miền. Chủ tịch Kim Jong II sẽ thăm Seoul vào thời

điểm thích hợp.

Page 72: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

62

thừa và phát triển dưới một tên gọi mới: Chính sách “Hòa bình và thịnh vượng”.

Giải pháp hòa bình được Hàn Quốc xác định là “chìa khóa” cho cả ba vấn đề: Giải

quyết cuộc khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, duy trì sự ổn định của

mối quan hệ liên Triều và thiết lập một trật tự hòa bình ở khu vực Đông Bắc Á.

Chính sách “Hòa bình và thịnh vượng” hướng đến việc giải quyết hai mục tiêu

cơ bản: Một là, thúc đẩy hòa bình trên bán đảo Triều Tiên; hai là, thúc đẩy sự thịnh

vượng chung cho cả hai miền, tích cực góp phần vào sự thịnh vượng ở khu vực Đông

Bắc Á. Để thực hiện những mục tiêu đó, chính quyền Roh Moo Hyun đưa ra bốn

nguyên tắc: (1) Giải quyết tranh chấp thông qua đối thoại; (2) hợp tác liên Triều trên

cơ sở hiểu biết và có đi có lại; (3) hợp tác quốc tế trên cơ sở hai miền Triều Tiên đóng

vai trò chủ đạo; (4) mở rộng sự tham dự của nhân dân, nâng cao tính minh bạch và

tranh thủ sự ủng hộ của các Đảng phái [113; tr. 17]. Những mục tiêu và nguyên tắc nói

trên góp phần duy trì một cơ chế hợp tác bình đẳng giữa các quốc gia trong khu vực,

hạn chế sự can dự của các thực thể bên ngoài, kiểm soát mặt trái của viện trợ kinh tế và

đưa vấn đề hòa giải liên Triều trở thành nội dung chủ đạo trong chính sách đối ngoại

của Hàn Quốc. Trong suốt chiến dịch tranh cử của mình, Roh Moo Hyun luôn nhấn

mạnh: “Chính sách Ánh dương là cần thiết và phải được tiếp tục vì sự sống còn và

thịnh vượng của quốc gia” [112; tr. 32]. Việc duy trì “chính sách ràng buộc” với

CHDCND Triều Tiên từ thời Kim Dae Jung xuất phát từ nhận thức hòa giải và hợp tác

là con đường ngắn nhất để tiếp cận và thay đổi Nhà nước ở miền Bắc. Chính sách này

dựa trên quan điểm sự đảm bảo đời sống về kinh tế và chính trị sẽ làm gia tăng tính phụ

thuộc của CHDCND Triều Tiên vào thế giới bên ngoài, từ đó, buộc quốc gia này phải

thay đổi thái độ và hành vi của mình.

Mặc dù được đánh giá là một trong những chính quyền có tính hòa giải nhất với

miền Bắc, thậm chí còn hơn cả đồng minh chiến lược của Bình Nhưỡng là Trung Quốc

nhưng Roh Moo Hyun vẫn không khỏi lo ngại về khả năng nhượng bộ chính trị của

CHDCND Triều Tiên. Do không thể thuyết phục và thay đổi lập trường cứng rắn của

CHDCND Triều Tiên về việc phát triển vũ khí hạt nhân, chính quyền Roh Moo Hyun

liên tiếp chứng kiến sự leo thang của miền Bắc đối với hoạt động làm giàu uranium từ

cuối năm 2002, tái khởi động lò phản ứng và tuyên bố rút khỏi NPT đầu năm 2003.

Nhằm tránh kết cục đổ vỡ cho chính sách “Hòa bình và thịnh vượng”, chính quyền

Roh Moo Hyun đã chủ trương giải quyết vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên một cách

hòa bình. Tuy nhiên, để ngăn chặn sự lấn lướt của miền Bắc đối với mục tiêu phát triển

Page 73: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

63

quân sự, Hàn Quốc đã đề ra ba nguyên tắc: (1) Không thừa nhận chương trình hạt

nhân của CHDCND Triều Tiên, (2) thực hiện giải pháp hòa bình thông qua đối thoại,

(3) phát huy vai trò tích cực của Hàn Quốc trong việc giải quyết các vấn đề liên quan

[113; tr. 18]. Không muốn rơi vào tình thế bị động mỗi khi miền Bắc gia tăng đối đầu

quân sự, Roh Moo Hyun đề nghị thực hiện “lồng ghép” hai mục tiêu: Giải quyết vấn đề

hạt nhân và phát triển quan hệ liên Triều, trong đó lĩnh vực hợp tác song phương sẽ bao

gồm cả Hiệp ước quân sự giữa Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên. Giải pháp này

được đưa ra trên cơ sở nhận định: “Bắc Triều Tiên không thể sở hữu vũ khí hạt nhân và

mở cửa kinh tế cùng một lúc. Miền Bắc nên từ bỏ vũ khí hủy diệt để duy trì an ninh khu

vực và đổi lấy sự viện trợ về kinh tế” [142]. Đầu năm 2007, Roh Moo Hyun đưa ra ý

tưởng tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ hai với cam kết “hòa bình, ổn định trên

bán đảo Triều Tiên là mục tiêu hành động trong chính sách đối với CHDCND Triều

Tiên” [128; tr. 120]. Phương châm hòa giải, tiếp xúc nhẹ nhàng và xây dựng lòng tin

của Hàn Quốc đã thúc đẩy việc ký kết “Tuyên bố về phát triển quan hệ liên Triều, hòa

bình và thịnh vượng” giữa Tổng thống Hàn Quốc Roh Moo Hyun và Tổng Bí thư Ban

Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên Kim Jong Il tại Bình Nhưỡng vào

tháng 10-2007. Bản tuyên bố tám điểm tái khẳng định tinh thần của Tuyên bố chung

(15-6-2000) trong việc duy trì những tiến bộ của quan hệ hai miền, đảm bảo hòa bình

và thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho toàn khu vực2F

3 [114]. Nhờ vậy, ngay cả khi

những khúc mắc về vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên chưa được tháo gỡ, số

lượng các cuộc đối thoại song phương vẫn không ngừng tăng. Tính từ tháng 3 đến

tháng 9-2007 đã có 113 cuộc đàm phán Bắc – Nam được tổ chức, 74 thỏa thuận được

ký kết cùng với 10 cuộc đàm phán liên Triều cấp Bộ trưởng được triệu tập [86; tr. 35].

3Nội dung 8 điểm của “Tuyên bố về phát triển quan hệ liên Triều, hòa bình và thịnh vượng” (10-2007):

1. Miền Nam và miền Bắc tích cực duy trì và nỗ lực thực hiện Tuyên bố ngày 15-6 2. Miền Nam và miền Bắc đồng ý xây dựng vững chắc mối quan hệ liên Triều Tiên trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, tin tưởng, vượt qua sự khác biệt về ý thức hệ và tính hệ thống 3. Miền Nam và miền Bắc đồng ý hợp tác chặt chẽ nhằm chấm dứt tình trạng xung đột quân sự, giảm thiểu căng thẳng và đảm bảo hòa bình trên bán đảo Triều Tiên 4. Miền Nam và miền Bắc đều nhận ra sự cần thiết phải chấm dứt Hiệp ước đình chiến hiện tại và xây dựng một cơ chế hòa bình vĩnh viễn. Miền Nam và miền Bắc cam kết cùng nhau thúc đẩy các cuộc đàm phán giữa ba hoặc bốn bên liên quan trực tiếp đến vấn đề bán đảo Triều Tiên và tuyên bố chấm dứt chiến tranh 5. Miền Nam và miền Bắc đồng ý để tạo điều kiện, mở rộng và phát triển hơn nữa các dự án hợp tác kinh tế liên Triều trên cơ sở thúc đẩy sự phát triển kinh tế cân bằng và thịnh vượng ở bán đảo Triều Tiên phù hợp với các nguyên tắc của lợi ích chung, cùng thịnh vượng và hỗ trợ lẫn nhau 6. Miền Nam và miền Bắc nhất trí tăng cường trao đổi và hợp tác trong các lĩnh vực xã hội bao gồm lịch sử, ngôn ngữ, giáo dục, khoa học và công nghệ, văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao để làm nổi bật lịch sử lâu đời và văn hóa đặc sắc của dân tộc Triều Tiên 7. Miền Nam và miền Bắc tích cực thúc đẩy các dự án về hợp tác nhân đạo 8. Miền Nam và miền Bắc nhất trí tăng cường hợp tác nhằm đảm bảo lợi ích của người dân Triều Tiên và các quyền và lợi ích của người Triều Tiên ở nước ngoài.

Page 74: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

64

Kết quả này phản ánh sự tiến bộ trong quan hệ liên Triều và nỗ lực của Chính phủ Hàn

Quốc trong việc thiết lập một cơ chế hòa bình giữa hai miền bán đảo.

Tuy nhiên, đến tháng 02-2008, sau khi nhậm chức tổng thống, Lee Myung Bak

đã mong muốn chấm dứt chính sách “ngoại giao cho không” của hai nhà lãnh đạo tiền

bối Kim Dae Jung và Roh Moo Hyun. Ý định này xuất phát từ thực tế Hàn Quốc đã

phải chi gần 1,9 tỷ USD để viện trợ cho CHDCND Triều Tiên trong suốt bảy năm

(2000 - 2007) [181] nhưng vấn đề phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên vẫn còn bỏ ngỏ.

Chính quyền Lee Myung Bak đã cam kết theo đuổi đường lối đối ngoại hòa bình và

hòa giải, khuyến khích CHDCND Triều Tiên từ bỏ chương trình phát triển hạt nhân

dựa vào ba nguyên tắc: (1) Bài trừ vũ khí hạt nhân; (2) tăng cường giải pháp đối thoại;

(3) Hàn Quốc đóng vai trò nòng cốt trong việc giải quyết xung đột giữa các bên [117;

tr. 5]. Tuy nhiên, trong thực tế, tổng thống Lee lại là người trung thành với chủ nghĩa

thực dụng, do đó, tinh thần hòa giải và hợp tác với miền Bắc thực chất cũng chỉ là “lớp

vỏ bọc” bên ngoài của chính sách đối ngoại. Với việc chỉ trích “Ánh dương”, “Hòa

bình và thịnh vượng” là hai chính sách sai nguyên tắc và “đơn phương xoa dịu”, Lee

Myung Bak đã quyết tâm thay thế các chiến lược ngoại giao cũ bằng chính sách “ngoại

giao thực dụng” trên cơ sở tăng cường quan hệ với các nước láng giềng trong khu vực,

thúc đẩy hợp tác có điều kiện với CHDCND Triều Tiên và nâng cao vai trò của Hàn

Quốc trên trường quốc tế. Chính sách “Tầm nhìn 3000, phi hạt nhân hóa và mở cửa”

được ông công bố trong diễn văn nhậm chức (25-02-2003) thực hiện lồng ghép các

nhiệm vụ: “Phi hạt nhân hóa” (giải quyết vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên);

“mở cửa” (giúp miền Bắc xây dựng quan hệ ngoại giao với Mỹ, Nhật Bản và tái hòa

nhập vào cộng đồng quốc tế). Quan trọng nhất, Lee Myung Bak cam kết nâng cao thu

nhập bình quân đầu người cho CHDCND Triều Tiên từ 500 USD lên 3000 USD trong

vòng 10 năm với điều kiện tiên quyết là nước này phải từ bỏ vũ khí hạt nhân và mở cửa

nền kinh tế [161]. Chính sách nói trên còn bao gồm một chương trình chi tiết nhằm hỗ

trợ miền Bắc ở cả năm lĩnh vực kinh tế - xã hội kèm theo các giải pháp cụ thể tương ứng:

Tài chính (thúc đẩy xuất khẩu), công nghiệp (đào tạo 300.000 công nhân), cơ sở hạ tầng

(xây dựng đường cao tốc), chất lượng cuộc sống (đảm bảo an sinh xã hội) và giáo dục

(đầu tư 40 tỷ USD thông qua quỹ hợp tác quốc tế) [117; tr. 11].

Chính sách “Tầm nhìn 3000, phi hạt nhân hóa và mở cửa” vốn được khởi nguồn

từ kế hoạch ngoại giao “cùng có lợi, cùng thịnh vượng” giữa Hàn Quốc và CHDCND

Triều Tiên do Lee Myung Bak đề xướng. Cam kết “cùng có lợi và cùng thịnh vượng”

Page 75: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

65

trong quan hệ liên Triều được Bộ trưởng Bộ Thống nhất tuyên bố lần đầu vào ngày 26-

3-2008 và Tổng thống Lee Myung Bak tái khẳng định trước Quốc hội (11-7-2008) với

nội dung: “Ưu tiên số một của Hàn Quốc trong chính sách với CHDCND Triều Tiên là

phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên trên cơ sở tìm kiếm một giải pháp cùng có lợi cho

cả hai bên” [135; tr. 9]. Về hình thức, chính sách của Lee Myung Bak vẫn tuyệt đối

trung thành với giải pháp vận động, thuyết phục Bình Nhưỡng cùng phát triển và hội

nhập vào cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, về bản chất thì đây lại là một chính sách nhằm

“ưu tiên Hàn Quốc” và “hạn chế CHDCND Triều Tiên”. Kế hoạch “phi hạt nhân hóa,

mở cửa” được phác thảo dựa trên cơ sở tận dụng nguồn tài nguyên phong phú và lao

động dồi dào của miền Bắc để thành lập 5 khu kinh tế tự do và duy trì hơn 100 công ty

xuất khẩu của hai miền với khả năng thu về ít nhất 3 triệu USD giá trị hàng hóa mỗi

năm. Hơn thế nữa, từ kết quả cải thiện quan hệ liên Triều của chính sách “Tầm nhìn

3000”, các tuyến giao thông huyết mạch giữa hai miền có thể được nối lại, tạo điều

kiện thuận lợi cho Hàn Quốc nhập khẩu khí đốt và tài nguyên từ vùng Viễn Đông nước

Nga (thậm chí từ cả châu Âu) thông qua đường bộ và xuất khẩu hàng hóa trên tuyến

đường sắt xuyên Siberia. Như vậy, cùng với quá trình phục hồi kinh tế của CHDCND

Triều Tiên, Hàn Quốc cũng sẽ tìm được một điểm tựa vững chắc để mở rộng sản xuất

và chinh phục địa vị nền kinh tế lớn của thế giới.

Chính sách khôn ngoan và có tính toán của Lee Myung Bak đã dành cho Hàn

Quốc không ít lợi thế. Nó cũng mang lại lợi ích kinh tế cho CHDCND Triều Tiên

nhưng với điều kiện nước này phải từ bỏ một mục tiêu chính trị lớn hơn là ngừng phát

triển vũ khí hạt nhân. Việc yêu cầu CHDCND Triều Tiên chủ động từ bỏ vũ khí hạt

nhân để đổi lấy cơ hội hợp tác kinh tế với Hàn Quốc theo “học thuyết Myung Bak”

(MB Doctrine) gợi nhớ đến giải pháp chính trị “có đi có lại” của Kim Young Sam vào

đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Tuy nhiên so với thời điểm đó, chính sách Bắc Triều

Tiên lúc này của Hàn Quốc còn cứng rắn hơn nhiều. Để củng cố chính sách “Tầm nhìn

3000”, chính quyền Lee Myung Bak đã kiên quyết khép lại “thập kỷ mất mát” (10 năm

viện trợ vô điều kiện cho CHDCND Triều Tiên) bằng việc xét lại tất cả những cam kết

đã ký giữa hai bên từ sau Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ nhất (6-2000) và Hội nghị

Thượng đỉnh lần thứ hai (10-2007), bao gồm cả lời hứa viện trợ hàng tỷ USD của Roh

Moo Hyun vào năm 2007 cho CHDCND Triều Tiên. Bên cạnh đó, Hàn Quốc còn tính

đến việc sửa đổi chính sách cơ bản 5 năm (2008 - 2012) về phát triển quan hệ liên

Triều từ thời Roh Moo Hyun để phù hợp với mục tiêu phi hạt nhân hóa bán đảo Triều

Tiên của chính sách “Tầm nhìn 3000”.

Page 76: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

66

Sự điều chỉnh chính sách của Lee Myung Bak có khả năng kích động “chủ

nghĩa phiêu lưu” ở miền Bắc và đẩy quan hệ hai miền rơi vào cục diện đối đầu. Tuy

nhiên, khác với thái độ “nóng vội” trước đây, CHDCND Triều Tiên đã không thể hiện

bất cứ một phản ứng cực đoan nào đối với chương trình hành động của tổng thống Hàn

Quốc tính từ thời điểm Lee Myung Bak tranh cử đến giai đoạn đầu khi ông lên nắm

quyền. Quan hệ liên Triều chỉ bắt đầu dậy sóng khi Hàn Quốc liên tiếp đưa ra những

quan điểm cứng rắn và đơn phương gây áp lực với CHDCND Triều Tiên. Trước tuyên

bố của Bộ trưởng Bộ Thống nhất Kim Ha Joong:“Tốc độ phát triển quan hệ liên Triều

từ nay được quyết định bởi những tiến bộ trong chương trình giải giáp hạt nhân của

Bình Nhưỡng”(26-3-2008) [148], Bắc Triều Tiên đã có hành động đáp trả đầu tiên với

việc ngăn cấm các quan chức Hàn Quốc đặt chân đến khu công nghiệp chung Kaesong.

Hơn thế nữa, trong cuộc điều trần trước Quốc hội về vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều Tiên

của Tham mưu Trưởng Quân đội Kim Tae Young (27-3-2008), Hàn Quốc còn khẳng

định: “Chúng tôi biết đích xác vị trí cất giữ vũ khí hạt nhân của CHDCND Triều Tiên

và sẽ chủ động tấn công nếu cần thiết” [73]. Dưới áp lực răn đe và ngăn chặn của Lee

Myung Bak, CHDCND Triều Tiên càng có thêm “động lực” để thúc đẩy quyết liệt

hơn, đồng bộ hơn chương trình hạt nhân của mình. Ngày 28-3-2008, CHDCND Triều

Tiên đã “hồi đáp” chính sách “Tầm nhìn 3000, phi hạt nhân hóa và mở cửa” của Lee

Myung Bak bằng tuyên bố cắt đứt quan hệ liên Triều, ngừng tháo dỡ các lò phản ứng

hạt nhân theo cam kết sáu bên của Hội nghị Thượng đỉnh năm 2007 và tiến hành vụ

thử tên lửa ở bờ biển phía Đông thủ đô Bình Nhưỡng. Đến đầu năm 2009, CHDCND

Triều Tiên đơn phương hủy bỏ tất cả các thỏa thuận về quân sự, chính trị với Hàn

Quốc, trong đó bao gồm Hiệp định về phòng chống tai nạn đụng độ trên biển đã ký kết

với cựu Tổng thống Roh Moo Hyun vào năm 2004. Với những bước lùi trong quan hệ

liên Triều, chính quyền Kim Jong Il đã kết tội Lee Myung Bak vì đã ưu tiên quan hệ

Hàn - Mỹ, thanh lọc các thế lực theo đường lối thống nhất, diễn tập chiến tranh và gia

tăng nguy cơ bất ổn chính trị trên bán đảo Triều Tiên.

Không khó để nhận ra quan hệ liên Triều Tiên gần như không có bước tiến nào

đáng kể tính từ tháng 02-2008. Thực tế này không chỉ phản ánh kết quả chính sách Bắc

Triều Tiên dưới thời Lee Myung Bak mà còn cho thấy tác động của các yếu tố bên

trong, đặc biệt là thái độ của CHDCND Triều Tiên đối với việc giải giáp vũ khí hạt

nhân – điều kiện tiên quyết để đi đến thống nhất dân tộc. Như vậy, có thể hiểu, những

hạn chế trong kết quả cải thiện quan hệ liên Triều có phần trách nhiệm từ cả hai phía:

Page 77: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

67

Về phía CHDCND Triều Tiên, nỗ lực của Bình Nhưỡng nhằm phát triển và tăng

cường chương trình vũ khí hạt nhân đã liên tục đẩy quan hệ liên Triều đứng trước

miệng hố chiến tranh. Thái độ thách thức của chính quyền Kim Jong Il đe dọa trực tiếp

đến tình hình an ninh trên bán đảo Triều Tiên và khu vực Đông Bắc Á, làm đảo lộn

chính sách “phi hạt nhân hóa và mở cửa” của Lee Myung Bak. Quan hệ liên Triều ngày

càng xấu đi còn do hành vi gây rối của CHDCND Triều Tiên trong vụ đắm tàu hải

quân Cheonan và các cuộc tấn công pháo binh trên biên giới Yeonpyeong của Hàn

Quốc vào năm 2010. Về phía Hàn Quốc, ngay từ đầu, chính quyền Lee Myung Bak đã

tuyên bố phi hạt nhân hóa Bắc Triều Tiên là ưu tiên hàng đầu trong chính sách của

mình và lồng ghép vấn đề kinh tế với những tiến bộ về chính trị. So với hai tổng thống

tiền nhiệm, thay đổi lớn nhất trong chính sách Bắc Triều Tiên của ông là lồng ghép

quan hệ liên Triều vào vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên và “xét lại” các

chương trình hợp tác giữa hai bên nhằm giảm bớt gánh nặng tài chính cho Hàn Quốc.

Kết quả là, nỗ lực “chế ngự” Bắc Triều Tiên của Lee Myung Bak đã được nhà lãnh đạo

Triều Tiên Kim Jong Il đáp trả bằng việc vô hiệu hóa các thỏa thuận đã ký kết giữa hai

miền tại Hội nghị Thượng đỉnh vào các năm 2000 và 2007.

Có thể thấy, việc thiết lập và duy trì một cơ chế hòa bình giữa hai miền Triều

Tiên (1989 - 2010) đã trải qua nhiều biến động phức tạp. Dù có những bước tiến (trong

thời kỳ của Roh Tae Woo, Kim Dae Jung, Roh Moo Hyun) hay những bước lùi (trong

thời kỳ của Kim Young Sam, Lee Myung Bak) thì chính sách Bắc Triều Tiên của Hàn

Quốc, về cơ bản, vẫn có tác dụng kích thích và tạo động lực để cả hai miền tăng cường

đối thoại vì hòa bình, hòa giải và hợp tác. Nhờ có cơ sở này, ngay cả khi vấn đề hạt

nhân của Bình Nhưỡng chưa được giải quyết và giấc mơ thống nhất liên Triều chưa

thành hiện thực thì sự xích lại gần nhau giữa hai chủ thể chính trị từng đối đầu gay gắt

trong quá khứ vẫn là xu hướng chủ đạo và không thể đảo ngược.

Đối với khu vực Đông Bắc Á, hơn hai thập niên kể từ sau Chiến tranh lạnh là

cột mốc đánh dấu sự chuyển biến vượt bậc của Hàn Quốc về tư duy và nhận thức đối

ngoại trong việc kiến tạo “quan hệ dân tộc” với CHDCND Triều Tiên, thắt chặt “quan

hệ đối tác hợp tác chiến lược” với Trung Quốc và củng cố “quan hệ đồng minh” với

Nhật Bản. Dù mâu thuẫn dân tộc, bất đồng lịch sử vẫn tồn đọng và ít nhiều đã có ảnh

hưởng đến hiệu quả chính sách của Hàn Quốc trên lĩnh vực an ninh - chính trị nhưng

về tổng thể, biểu đồ hợp tác vì hòa bình và phát triển của khu vực đã từng bước được

dịch chuyển theo chiều hướng đi lên (thậm chí có những lúc đạt đến đỉnh điểm). Điều

Page 78: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

68

quan trọng là, để hạn chế xung đột khu vực và giải quyết vấn đề hạt nhân của

CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc đã định hướng đổi mới chính sách trên các lĩnh vực

hợp tác khác (đi đầu là kinh tế) nhằm gia tăng sự ràng buộc lợi ích giữa các quốc gia

trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế.

2.2. Trên lĩnh vực kinh tế

Ngay từ đầu, Hàn Quốc đã xác định trung tâm ngoại giao của thế kỷ XXI sẽ

chuyển từ lĩnh vực an ninh - chính trị sang lĩnh vực kinh tế. Vì lẽ đó, chính sách của

nước này đối với khu vực cũng hướng vào mục tiêu “đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút mọi

nguồn vốn đầu tư nước ngoài và khẳng định vị thế quốc tế của Hàn Quốc” [138; tr. 8].

Bên cạnh đó, với đặc thù mối quan hệ phức tạp và chồng chéo giữa CHDCND Triều

Tiên, Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản nên hợp tác trên lĩnh vực này còn phải

gánh vác một nhiệm vụ quan trọng khác là xoa dịu bất đồng lịch sử và điều hòa đối

đầu quân sự giữa Hàn Quốc với các quốc gia trong khu vực.

2.2.1. Đối với Nhật Bản

Về thương mại

Kể từ sau khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1965, Hàn Quốc đã tích cực

điều chỉnh chính sách với Nhật Bản nhằm gia tăng hiệu quả hợp tác và thúc đẩy kết quả

phát triển kinh tế - xã hội ở hai nước. Theo định hướng đó, thương mại hai chiều bắt

đầu tăng trưởng từ 220 triệu USD (1965) lên khoảng 3.000 triệu USD (1973), đưa Hàn

Quốc trở thành đối tác thương mại lớn thứ năm của Nhật Bản [103; tr. 45]. Bước sang

thập niên 90 của thế kỷ XX, trao đổi thương mại song phương tiếp tục có dấu hiệu khởi

sắc với khối lượng hàng hóa và dịch vụ trao đổi ngày càng tăng. Tuy nhiên, nghịch lý

đặt ra là kim ngạch thương mại giữa hai nước lớn bao nhiêu thì thâm hụt thương mại

của Hàn Quốc lại nhiều bấy nhiêu. Do đó, để duy trì mối quan hệ kinh tế cân bằng,

bình đẳng với Nhật Bản, Chính phủ Hàn Quốc xác định thúc đẩy mậu dịch và hạn chế

nhập siêu là hai nhiệm vụ “cốt lõi” trong chính sách của mình trên lĩnh vực kinh tế.

Xuất phát từ đặc điểm yếu kém hơn về công nghệ so với Nhật Bản, Hàn Quốc

phải gia tăng nhập khẩu nguyên liệu thô để tái xuất trong khi sức cạnh tranh giá bán

yếu do đồng Won liên tục lên giá. Tình trạng này kéo dài đã gây nên căn bệnh “kinh

niên” - thâm hụt thương mại cho nền kinh tế. Ngay từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX,

thâm hụt thương mại của Hàn Quốc với Nhật Bản đã bắt đầu tăng nhanh, đạt mức 3,8

tỷ USD (1988), 4 tỷ USD (1989) và chạm ngưỡng 5,9 tỷ USD (1990). Năm 1991,

thương mại hai nước ghi nhận mức thâm hụt lớn nhất trong lịch sử lên đến 7,7 tỷ USD

Page 79: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

69

[65; tr. 133]. Để khắc phục tình trạng nói trên, tại Hội nghị Thượng đỉnh Hàn Quốc –

Nhật Bản (6-1992), các nhà lãnh đạo hai nước nhất trí đề xuất một “kế hoạch cụ thể

nhằm điều chỉnh mức thâm hụt thương mại” trong quan hệ kinh tế song phương, khởi

đầu là việc thành lập quỹ hợp tác kỹ thuật công nghiệp ở mỗi nước. Từ đầu thập niên

90 của thế kỷ XX, Tổng thống Hàn Quốc Roh Tae Woo đưa ra chính sách “Phát triển

kinh tế mới” nhằm tận dụng môi trường quốc tế thuận lợi từ sau Chiến tranh lạnh để

mở rộng quan hệ hợp tác với những nền kinh tế phi truyền thống, trong đó có Nga và

Trung Quốc. Định hướng này được Chính phủ Hàn Quốc xác định là giải pháp trọng

tâm giúp tăng cường khả năng điều tiết, tiến tới giảm dần sự lệ thuộc kinh tế vào lực

lượng đồng minh và tạo ra “bộ ba” thương mại Hàn Quốc – Trung Quốc – Nga cân

bằng với tam giác kinh tế Hàn Quốc - Mỹ - Nhật Bản [1; tr. 10]. Về bản chất, chính

sách “kinh tế mới” không đơn giản chỉ là nỗ lực gia tăng hợp tác kinh tế nội vùng mà

còn là sự chuyển hướng chiến lược của Hàn Quốc khi chấp nhận lấy kết quả thặng dư

thương mại của các trung tâm kinh tế (Nga và Trung Quốc) để “khỏa lấp” khoản thâm

hụt thương mại với Nhật Bản. Dù chỉ được đánh giá là giải pháp tình thế vì chưa thể

giải quyết tận gốc tình trạng mất cân đối trong hợp tác kinh tế giữa hai nước nhưng

Hàn Quốc vẫn cho thấy bước đột phá về mặt tư duy khi loại bỏ yếu tố đồng minh an

ninh ra khỏi chính sách phát triển kinh tế cả về trung và dài hạn. Nhờ vào kết quả tăng

cường buôn bán với các đối tác mới của khu vực, trong chín tháng đầu năm 1992, mức

thâm hụt thương mại của Hàn Quốc đã được thu hẹp, còn lại 4,8 tỷ USD, thấp hơn mức

5,8 tỷ USD so với chín tháng cùng kỳ năm trước [66; tr. 135].

Thời điểm quyền lực được chuyển giao cho chính quyền Kim Young Sam

(1993), Hàn Quốc cũng đã thực hiện một giải pháp đồng bộ khác nhằm khắc phục tình

trạng thâm hụt thương mại bằng việc đẩy mạnh chính sách “hạn chế nhập khẩu hàng

hóa”. Chính sách nói trên được kế thừa từ chương trình “Đa dạng hóa nhập khẩu” do

Tổng thống Park Chung Hee phát động vào năm 1978 nhằm giới hạn nhập khẩu hàng

hóa từ các quốc gia có thâm hụt thương mại lớn với Hàn Quốc, trong đó thực hiện áp

đặt nhập khẩu cho các sản phẩm: Xe có động cơ, ti-vi màu, đầu máy video và các công

cụ sản xuất công nghiệp chủ yếu có xuất xứ từ Nhật Bản. Chính sách này được Kim

Young Sam đưa ra vào thời điểm trao đổi thương mại của Hàn Quốc với Nhật Bản liên

tục chịu mức tăng trưởng âm. Tuy nhiên, giải pháp này đã không thể duy trì đến đầu

năm 1996 do Hàn Quốc phải tự cắt giảm các mặt hàng trong chương trình đa dạng hóa

nhập khẩu để chuẩn bị gia nhập OECD.

Page 80: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

70

Năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á diễn ra buộc Hàn

Quốc phải đánh giá lại hiệu quả chính sách kinh tế đối với Nhật Bản mà nước này

từng theo đuổi. Xuất phát từ thực trạng yếu kém của nền kinh tế trong bối cảnh xu thế

phát triển chung của thế giới ngày càng gắn chặt với tiến trình toàn cầu hóa, Kim Dae

Jung đã từng bước điều chỉnh chính sách kinh tế đối ngoại theo hướng chủ động tham

gia vào quá trình tự do hóa thương mại, xúc tiến thương mại và đẩy mạnh hợp tác

khu vực, trong đó, Nhật Bản được xác định là bạn hàng chủ yếu của Hàn Quốc. Về

phương diện thương mại, trong thời kỳ cầm quyền của Kim Dae Jung, Nhật Bản vẫn

là đối tác lớn thứ hai và là nước xuất khẩu lớn nhất vào Hàn Quốc. Với vị trí quan

trọng như vậy, trong chuyến thăm Tokyo vào tháng 10-1998, Tổng thống Kim Dae

Jung đã đưa ra cam kết về “Kế hoạch hành động cho mối quan hệ đối tác mới Nhật

Bản – Hàn Quốc trong thế kỷ XXI”. Theo đó, Chính phủ hai nước nhất trí: “Nhật Bản

– Hàn Quốc tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác song phương trong lĩnh vực kinh tế

một cách cân bằng và bình đẳng. Hai bên cam kết tăng cường tham vấn chính sách

kinh tế cho nhau cũng như tiếp tục thúc đẩy sự phối hợp chính sách giữa hai nước tại

các Diễn đàn đa phương như: Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Tổ chức hợp tác

và phát triển kinh tế của các nước phát triển (OECD) và Diễn đàn hợp tác kinh tế

châu Á – Thái Bình Dương (APEC)” [172].

Tuyên bố chung giữa Tổng thống Kim Dae Jung và Thủ tướng Keizo Obuchi có

tính chất định hướng cho chính sách của Hàn Quốc đối với Nhật Bản trên lĩnh vực kinh

tế từ cuối thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI. Điều này được thể hiện khá rõ thông qua ba

kết quả: Thứ nhất, tháng 3-1999, Hàn Quốc đã chủ động cùng với Nhật Bản nghiên

cứu tính khả thi của Hiệp định mậu dịch tự do song phương (FTA). Sự thay đổi chính

sách đối với các FTA dưới thời Tổng thống Kim Dae Jung đánh dấu bước khởi đầu ấn

tượng cho chính sách thương mại truyền thống của Hàn Quốc khi nước này xóa bỏ các

hàng rào thuế quan và phi thuế quan để giảm giá bán trong nước đối với những hàng

hóa nhập khẩu mà Nhật Bản và Hàn Quốc có lợi thế so sánh [2; tr. 7-8]. Từ việc xác

lập khuôn khổ trao đổi mậu dịch, chính sách cắt giảm hàng hóa nhập khẩu từ các nước

thứ ba cũng được Hàn Quốc cam kết thực hiện nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh

quốc tế của cả hai quốc gia. Thứ hai, tháng 7-1999, Hàn Quốc bãi bỏ hoàn toàn chính

sách “đa phương hóa nhập khẩu” (công cụ cắt giảm thâm hụt thương mại chủ yếu dưới

thời Tổng thống Kim Young Sam) nhằm loại bớt những rào cản trong thương mại tự

do với tư cách là một thành viên có trách nhiệm của hệ thống kinh tế toàn cầu. Thứ ba,

Page 81: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

71

từ sau khi tham gia vào quá trình đàm phán với các nước để gia nhập WTO và ký kết

thành công Hiệp định Thương mại tự do lần đầu tiên với Chile (KCFTA), Chính phủ

Hàn Quốc tiếp tục tiến thêm một bước khi thúc đẩy sự ra đời của Diễn đàn mậu dịch tự

do Nhật Bản – Hàn Quốc và đạt được thỏa thuận đàm phán Hiệp định thương mại tự

do giữa hai nước vào năm 2003.

Vào thời kỳ cầm quyền của Roh Moo Hyun, chính sách của Hàn Quốc đối với

Nhật Bản trên lĩnh vực kinh tế được phản ánh thông qua cam kết thúc đẩy trao đổi

thương mại và thiết lập mối quan hệ kinh tế ngày càng chặt chẽ của “Hiệp định đối tác

kinh tế Nhật Bản - Hàn Quốc” (EPA) và “Tuyên bố chung Nhật - Hàn” tại Hội nghị

Thượng đỉnh (2003), các Hội nghị Thượng đỉnh Nhật - Hàn vào tháng 7 và tháng 12-

2004. Về vấn đề EPA, năm cuộc họp song phương đã được tổ chức vào năm 2004 trên

cơ sở các cuộc đàm phán được khởi động từ tháng 12-2003 với mục đích: (1) Đưa ra

quy tắc chung và nghị quyết hóa các vấn đề tranh chấp kinh tế; (2) phát triển thương

mại hàng hoá; (3) thực hiện miễn thuế, các biện pháp kiểm dịch thực vật và các rào

cản kỹ thuật đối với hoạt động thương mại; (4) xúc tiến thương mại qua biên giới,

tăng cường lĩnh vực dịch vụ và cư trú cho người nước ngoài vì mục đích kinh doanh;

(5) đề xuất các vấn đề thương mại quan trọng (Chính phủ thu mua bằng sở hữu trí

tuệ); (6) đẩy mạnh hợp tác và (7) cùng công nhận các dự thảo văn bản về vấn đề

thương mại giữa hai nước [96; tr. 30]. Với việc xác định Hàn Quốc, Nhật Bản là đối

tác kinh tế chiến lược của nhau, hai bên đã chủ động tạo ra một cơ chế hợp tác chặt

chẽ thông qua việc phá dỡ rào cản thương mại, cắt giảm thuế và tăng cường trao đổi

hàng hóa. Cùng với sự quay trở lại của các vòng đàm phán cấp cao vào năm 2008 và

cam kết mở lại vòng đàm phán EPA vào năm 2009, kim ngạch thương mại hai chiều

từ khoảng 53 tỷ USD (2003) đã tăng lên 89,2 tỷ USD (2008) và vượt ngưỡng 74 tỷ

USD chỉ trong sáu tháng đầu năm 2010 [67; tr. 137].

Nhờ kết quả hợp tác kinh tế ngày càng tốt đẹp, vấn đề thương mại tự do cũng

được đưa ra thảo luận. Trong Tuyên bố chung của Hội nghị Thượng đỉnh Nhật Bản –

Hàn Quốc (07-6-2003) với chủ đề “Xây dựng nền tảng hợp tác Nhật Bản – Hàn Quốc

hướng tới một kỷ nguyên hòa bình và thịnh vượng ở Đông Bắc Á”, Tổng thống Roh

Moo Hyun đã chia sẻ quan điểm về sự cần thiết phải ký kết một FTA toàn diện giữa

Hàn Quốc và Nhật Bản nhằm thúc đẩy thương mại song phương và tăng cường năng

lực cạnh tranh của cả hai nước, trong quá trình đó, hai bên cùng nỗ lực tạo ra một môi

trường thuận lợi nhằm thúc đẩy sự ra đời càng sớm càng tốt của FTA [174]. Lộ trình

Page 82: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

72

thực hiện FTA và kế hoạch hành động chi tiết cho chiến lược FTA đã được chuẩn bị

từ thời Kim Dae Jung. Tổng thống Roh Moo Hyun là người củng cố lại chương trình

nghị sự của người tiền nhiệm bằng cách xác định một lộ trình cụ thể với việc xếp Nhật

Bản vào nhóm đối tác ưu tiên cùng với Chile, Singapore và Hiệp hội Thương mại tự

do châu Âu (EFTA). Xuất phát từ chính sách thúc đẩy quan hệ kinh tế đối với khu

vực, chính quyền Roh Moo Hyun đã chứng tỏ Hàn Quốc là đối tác tin cậy của Nhật

Bản khi coi FTA giữa hai nước không chỉ là mục tiêu quan trọng để đưa Hàn Quốc trở

thành một “Nhà nước thương mại mới” mà còn là bước khởi đầu cho một FTA Đông

Bắc Á trong tương lai.

Mặc dù đã ra sức thúc đẩy sự ra đời của FTA Nhật Bản – Hàn Quốc nhưng

Chính phủ Roh Moo Hyun vẫn phải đối mặt với không ít khó khăn trong việc đẩy

nhanh tiến độ ký kết Hiệp định do sự chênh lệch quá lớn giữa cán cân thương mại hai

chiều. Theo Hiệp hội Thương mại Hàn Quốc, nước này đã thâm hụt thương mại với

Nhật Bản gần 200 tỷ USD kể từ khi thiết lập ngoại giao chính thức vào năm 1965. Mức

thâm hụt này liên tục mở rộng qua từng năm và ước tính tăng hơn 6 tỷ USD nếu FTA

giữa hai nước có hiệu lực [154]. Do chưa có giải pháp khắc phục triệt để, vấn đề thâm

hụt thương mại tiếp tục lặp lại và mở rộng hơn trong những năm 2000. Theo báo cáo

của Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc (MOTIE), thâm hụt

thương mại với Nhật Bản từ 14,7 tỷ USD (2002) đã tăng lên 24,4 tỷ USD (2004) và đạt

mức 25,39 tỷ USD (2006). Chỉ riêng trong trong sáu tháng đầu năm 2010, mức thâm

hụt này đã đạt mức cao kỷ lục 18,07 tỷ USD cùng với số hàng hóa đăng ký nhập khẩu

trị giá 30,9 tỷ USD. Con số này đánh dấu mức thâm hụt lớn nhất với Nhật Bản trong

lịch sử trao đổi thương mại hai chiều, thậm chí còn lớn hơn mức thâm hụt cao nhất

trước đó 17,13 tỷ USD trong sáu tháng đầu năm 2008 [177].

Để giải quyết bài toán thâm hụt thương mại với Nhật Bản, Tổng thống kế nhiệm

Lee Myung Bak không chỉ thúc đẩy trao đổi thương mại song phương mà còn nỗ lực

duy trì chính sách “phát triển kinh tế mới” của Roh Tae Woo, tiếp tục tăng cường xuất

khẩu sang các quốc gia mới nổi, trong đó có Trung Quốc nhằm giảm bớt mức độ phụ

thuộc của Hàn Quốc vào xuất khẩu của Nhật Bản từ 11,9% (2000) xuống còn 6,0%

(2010) [57; tr. 7]. Cam kết tái khởi động đàm phán FTA song phương cũng được Tổng

thống Lee Myung Bak và Thủ tướng Nhật Bản Taro Aso đưa ra trong Hội nghị

Thượng đỉnh tại Tokyo (28-6-2009). Có thể thấy, so với chính quyền tiền nhiệm Roh

Moo Hyun, Tổng thống Lee Myung Bak từ đầu đã công khai mục tiêu chính sách chiến

Page 83: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

73

lược “ngoại giao toàn cầu” và “quan hệ thực dụng” nhằm cộng hưởng tốt hơn với Nhật

Bản trên cơ sở lợi ích kinh tế. Nỗ lực của Chính phủ đối với việc xây dựng một cơ chế

hợp tác chung, lấy kết quả hợp tác thương mại làm “hạt nhân” cho thấy quyết tâm của

Hàn Quốc trong việc nâng tầm quan hệ đối tác giữa hai nước trong thế kỷ XXI.

Như vậy, trong thời kỳ 1989 - 2010, chính sách của Hàn Quốc đối với Nhật Bản

trên lĩnh vực kinh tế tập trung chủ yếu vào hai nội dung: Một là, Hàn Quốc tăng cường

trao đổi thương mại hai chiều và coi Nhật Bản là đối tác chiến lược chủ chốt ở Đông

Bắc Á. Hai là, Hàn Quốc định hướng thu hẹp thâm hụt buôn bán với Nhật Bản thông

qua ba giải pháp: Hợp tác kinh tế với Trung Quốc; hạn chế nhập khẩu hàng hóa từ Nhật

Bản và thay đổi cơ cấu các ngành sản xuất. Tuy nhiên, do trình độ kinh tế thấp hơn, lại

thực hiện “lồng ghép” cơ chế bảo trợ với mô hình phát triển kinh tế gần giống Nhật

Bản nên Hàn Quốc vẫn chưa khắc phục được những hạn chế sau đây:

Thứ nhất, cơ cấu thương mại hai nước vẫn đặc trưng bởi tình trạng thâm hụt

kinh niên của Hàn Quốc. Theo Viện Nghiên cứu Kinh tế của tập đoàn Samsung, từ

năm 1980 trở đi, xuất khẩu của Hàn Quốc cứ tăng 1% thì hàng hóa nhập khẩu từ Nhật

Bản lại tăng 0,96%. Trong năm 2010, dù kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc sang

Nhật Bản đã cao hơn 2,2 lần so với năm 1990 nhưng nhập khẩu từ Nhật Bản lại cao

hơn đến 3,5 lần.

Thứ hai, dù Hàn Quốc và Nhật Bản đã tiến tới đàm phán và thỏa thuận một cơ

chế hợp tác chung nhưng ý tưởng về FTA song phương vẫn chưa được chấp nhận

rộng rãi và một FTA chính thức vẫn chưa ra đời. Thực tế là, nếu thực hiện cơ chế

thương mại tự do, Hàn Quốc phải xóa bỏ hàng rào thuế quan, mở cửa cho hàng hóa

Nhật Bản. Như vậy, thâm hụt thương mại sẽ càng lớn hơn. Ngoài ra, do cơ cấu ngành

giữa hai nước hoàn toàn tương tự nhau nên các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Hàn

Quốc (điện, ô tô, hóa chất) cũng cạnh tranh với Nhật Bản trên thị trường quốc tế. Ở

khía cạnh này, FTA trở thành tác nhân kìm hãm thương mại song phương.

Thứ ba, kết quả trao đổi mậu dịch đã và đang gánh chịu những tác động bất lợi

do vấn đề lịch sử và tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước. Do vậy, quy mô thương mại và

nỗ lực phát triển kinh tế của cả hai bên cũng bị hạn chế.

Dù còn tồn tại một số điểm yếu trong hợp tác kinh tế với Nhật Bản nhưng nỗ

lực xúc tiến thương mại của Hàn Quốc vẫn có ý nghĩa thắt chặt hơn nữa mối quan hệ

đối tác chiến lược trong khu vực. Nhờ có quá trình này, Nhật Bản đã tìm ra thị trường

xuất khẩu tiềm năng, còn Hàn Quốc thì tích lũy được kinh nghiệm trong việc định ra

Page 84: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

74

các chính sách phù hợp về phát triển nguồn vốn, công nghệ, đa dạng hóa ngành nghề

nhằm khắc phục tình trạng nhập siêu của chính mình.

Về đầu tư

Do sự chi phối của yếu tố dân tộc chủ nghĩa và ký ức thuộc địa với Nhật Bản nên

hợp tác đầu tư giữa hai nước vẫn còn chậm phát triển. Từ sau khi xác định lĩnh vực này là

một trong những động lực thúc đẩy sự ra đời của FTA, Hàn Quốc đã tích cực điều chỉnh

chính sách nhằm cải thiện môi trường đầu tư cho tương xứng với vị thế kinh tế của hai

nước. Theo đó, nhiệm vụ cơ bản trong chính sách kinh tế mới của Hàn Quốc là thu hút đầu

tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ Nhật Bản; đồng thời tái đầu tư trở lại thị trường này.

Sau thập niên 70 của thế kỷ XX, khởi nguồn từ nhu cầu liên doanh sản xuất và

chuyển giao công nghệ, “cơn lốc đầu tư” của Nhật Bản đã đổ bộ vào khu vực Đông Á

và đạt được kết quả khá tích cực ở Hàn Quốc. Trong 5 năm đầu của thập niên 1990,

lượng đầu tư của Nhật Bản luôn chiếm đến 1/3 tổng số vốn mà nước này dành cho các

nước Đông Á [168]. Dựa vào kết quả nói trên, Hàn Quốc đã không chủ động đề ra

chính sách nào đáng kể nhằm thu hút các nhà đầu tư láng giềng, nhất là khi quá khứ với

Nhật Bản về thời kỳ thuộc địa vẫn chưa hề phai nhạt. Sau khi Kim Young Sam trở

thành tổng thống, Hàn Quốc bắt đầu xóa bỏ định kiến về vốn nước ngoài; đồng thời

nới lỏng các quy định “hà khắc” về đầu tư gián tiếp và trực tiếp ở Hàn Quốc. Quá trình

đầu tư trực tiếp cũng đã được đơn giản hóa khá nhiều trong thời kỳ cầm quyền của ông.

Từ trước khi cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á diễn ra, thái độ của

Hàn Quốc đối với việc thu hút FDI còn khá thụ động. Lúc này, Chính phủ đã không

quan tâm nhiều đến việc loại bỏ những rào cản để thúc đẩy lĩnh vực hợp tác đầu tư với

Nhật Bản. Từ sau khi Kim Dae Jung chính thức nắm quyền, Hàn Quốc mới bắt đầu đạt

được những bước tiến thực sự trong việc thu hút FDI của Nhật Bản và phát triển FDI

của chính mình. Xuất hiện trên chính trường ngay giữa “tâm bão” khủng hoảng tài

chính năm 1998, nhà lãnh đạo Kim DaeJung đã xác định thúc đẩy đầu tư nước ngoài là

“trục chính” trong chiến lược cải thiện cơ cấu công nghiệp, gia tăng dự trữ ngoại tệ và

tạo điều kiện phục hồi kinh tế đất nước. Với nhận thức này, từ tháng 4-1998, chính

quyền của ông đã thành lập Trung tâm Dịch vụ Đầu tư Hàn Quốc (KISC) – hoạt động

như một “cánh tay đắc lực” cho Cơ quan Xúc tiến Đầu tư Thương mại (KOTRA). Vào

tháng 11-1998, Chính phủ Hàn Quốc ban hành Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài

(FIPA) với nội dung đơn giản hóa các thủ tục và loại bỏ tệ quan liêu trong hợp tác kinh

tế. Hàn Quốc cũng cho phép thành lập các doanh nghiệp thuộc sở hữu nước ngoài, cho

Page 85: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

75

phép người nước ngoài sở hữu đất đai, vay vốn bằng ngoại tệ, chuyển thặng dư đầu tư

ra bên ngoài và cắt giảm thuế quan. Chính quyền Kim Dae Jung còn tích cực giải quyết

tình trạng thất nghiệp, mở rộng mạng lưới quản lý lao động nhằm hỗ trợ đầu tư nước

ngoài và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Ông cũng khá thành

công trong việc thay đổi định kiến của người dân đối với hoạt động đầu tư nhờ tạo ra

cơ hội việc làm, phát triển kinh tế địa phương và thu hút ngoại hối. Riêng đối với Nhật

Bản, thay vì thực hiện chính sách “hạn chế nhập khẩu” của nhà lãnh đạo tiền bối Kim

Young Sam, Kim Dae Jung lại chủ trương cân bằng kim ngạch thương mại thông qua

chính sách phát triển đầu tư với nội dung: (1) Hỗ trợ phát triển công nghệ cho các

ngành cung cấp nguyên vật liệu và linh kiện cho công nghiệp Hàn Quốc; (2) kêu gọi

các công ty trong nước tăng cường xuất khẩu sang Nhật Bản; (3) khuyến khích và thu

hút các công ty Nhật Bản đầu tư vào Hàn Quốc trong các lĩnh vực sản xuất linh kiện

và sản phẩm lắp ráp [81]. Tuy nhiên, nỗ lực điều chỉnh chính sách nhằm thu hút FDI

của Hàn Quốc vẫn chưa thu được kết quả đáng kể do suy thoái kinh tế và tình trạng

“đóng băng” đầu tư vào khu vực Đông Á từ sau giai đoạn đầu trong chiến lược toàn

cầu của Nhật Bản. Bên cạnh đó, các công ty của Nhật cũng ít quan tâm đến thị trường

Hàn Quốc do những yếu tố thu hút đầu tư như dân số đông, nhân công rẻ, nguyên liệu

thô phong phú, rủi ro thấp… Hàn Quốc hầu như không thể đáp ứng được. Thực tế này

làm cho chính sách thu hút đầu tư của Hàn Quốc chỉ nhận được kết quả giảm sút FDI

từ mức 20% (đầu thập niên 1990) xuống còn 8% (cuối thập niên 1990). Kết quả trên

khá tương phản với nỗ lực tái đầu tư vào Nhật Bản của các công ty Hàn Quốc (từ đầu

năm 1980 đến tháng 9-1999) với số vốn 540 triệu USD, trong đó khoản đầu tư hằng

năm trị giá 100 triệu USD vẫn được Hàn Quốc duy trì đến trước thềm cuộc khủng

hoảng tài chính châu Á [76; tr. 133]. Để giảm bớt sự chênh lệch này, Kim Dae Jung đã

lựa chọn giải pháp gia tăng số lượng các công ty Hàn Quốc trở thành đối tác kinh tế với

Nhật Bản; đồng thời kêu gọi các công ty Nhật Bản thành lập khu công nghiệp chuyên

biệt về linh kiện và nguyên liệu thô nhằm nâng cao trình độ sản xuất công nghiệp trong

nước và thu hẹp thâm hụt thương mại kinh niên của Hàn Quốc. Với sự chuyển hướng

này, ngay từ năm 2000, Hàn Quốc đã thu hút nguồn FDI trị giá 1.074 triệu USD từ Nhật

Bản trong tổng số 15,7 tỷ USD FDI của Nhật Bản ra nước ngoài [166].

Năm 2003, trong Tuyên bố chung của Hội nghị Thượng đỉnh hai nước với chủ

đề: “Xây dựng nền tảng hợp tác Nhật Bản - Hàn Quốc hướng tới một kỷ nguyên hòa

bình và thịnh vượng ở Đông Bắc Á”, Tổng thống Roh Moo Hyun đã cam kết mở rộng

Page 86: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

76

hoạt động đầu tư với Nhật Bản bằng việc tìm kiếm cơ hội hợp tác thông qua quá trình

ký kết Hiệp định Đầu tư song phương; đồng thời đẩy nhanh hơn nữa sự ra đời của Hiệp

định này [174]. Theo định hướng đó, ngay sau khi Hiệp định đầu tư giữa hai nước

chính thức có hiệu lực, nguồn vốn của Nhật Bản đổ vào Hàn Quốc liên tục tăng mạnh,

đạt 333 triệu USD (2003), 771 triệu USD (2004) và chạm ngưỡng 1.736 triệu USD

(2005) [166].Vượt qua sự sụt giảm FDI trong hai năm 2006, 2007 và cuộc khủng

hoảng toàn cầu 2008, Nhật Bản vẫn là nhà đầu tư lớn thứ ba ở Hàn Quốc (sau Mỹ và

EU) với nguồn vốn tích lũy đạt 13,3 tỷ USD từ cuối năm 2003. Trong thời kỳ Roh

Moo Hyun nắm quyền, 26 công ty Nhật Bản trong tổng số 56 công ty nước ngoài đã

đầu tư 456 triệu USD vào ba tỉnh: Gyeonggi, Chungcheong và Paju của Hàn Quốc

nhằm phát triển ngành công nghiệp điện tử của Samsung Electronics và LG

Electronics. Chính phủ Hàn Quốc cũng cam kết hợp tác với JAFCO châu Á (công ty có

vốn đầu tư của Nhật Bản) để lập quỹ hợp tác đầu tư 50 triệu USD dành riêng cho các

doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hàn Quốc.

Từ sau khi Lee Myung Bak kế nhiệm Roh Moo Hyun, lĩnh vực đầu tư giữa hai

nước ngày càng phát triển ở cả hai chiều. Với việc đưa “chủ nghĩa thực dụng” vào

trong chính sách kinh tế, cụ thể là xúc tiến đầu tư với Nhật Bản để điều tiết cán cân

thương mại, các công ty Hàn Quốc đã mạnh dạn đưa vốn ra bên ngoài để mở rộng

mạng lưới sản xuất. Quá trình này đã thúc đẩy FDI của Hàn Quốc lên mức 279 triệu

USD (2008), 255 triệu USD (2009) và 274 triệu USD (2010) [166]. Mặc dù nguồn vốn

này còn khá khiêm tốn so với mức đầu tư trung bình hơn 1.500 triệu USD của Nhật

Bản (2008 - 2010) nhưng nó cũng cho thấy sự biến chuyển to lớn trong tư duy kinh tế

của Hàn Quốc, từ chỗ mở rộng đầu tư sang Mỹ, các nước châu Âu và Trung Quốc sang

đầu tư vào thị trường Nhật Bản.

Rõ ràng, so với lĩnh vực thương mại, hợp tác đầu tư giữa hai nước vẫn đang

trong giai đoạn đầu phát triển (đối với Nhật Bản) và giai đoạn thăm dò (đối với Hàn

Quốc). Do sự chi phối của đặc điểm này, FDI của Nhật Bản dành cho Hàn Quốc vẫn

chưa thể bù đắp được khoản thâm hụt thương mại còn quá lớn giữa hai nước. Trong

tương lai, mức độ ổn định và tốc độ tăng trưởng FDI của Nhật Bản vẫn phụ thuộc rất

lớn vào Hàn Quốc, đặc biệt là chính sách của nước này trong lĩnh vực kinh tế đối

ngoại. Do vậy, để có được bước đột phá trong thu hút FDI từ Nhật Bản, Hàn Quốc cần

vượt qua tâm lý thù hận về quá khứ cai trị thực dân với quốc gia láng giềng để tiến tới

xây dựng một môi trường đầu tư cởi mở, công bằng và thân thiện. Những rào cản từ

Page 87: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

77

các vấn đề nổi cộm như: Tranh chấp lao động trong các công ty Nhật Bản ở Hàn Quốc,

áp đặt mức thuế 8% đối với linh kiện nhập khẩu từ Nhật Bản… cũng cần sớm được

khắc phục nhằm tạo tính “ổn định” trong chính sách thu hút đầu tư và gây dựng lòng

tin cho nỗ lực tái đầu tư của Hàn Quốc. Đây là việc làm cần thiết nhằm “định hướng”

Nhật Bản tập trung hợp tác đầu tư với Hàn Quốc thay vì chuyển hướng sang Trung

Quốc – thị trường tiềm năng của Nhật Bản ngay từ đầu thế kỷ XX.

2.2.2. Đối với Trung Quốc

Hợp tác kinh tế được coi như “sợi dây” ràng buộc và gắn kết quan hệ Hàn Quốc

– Trung Quốc trên mọi lĩnh vực, trong đó có cả chính trị và văn hóa. Ý thức rõ điều đó,

từ sau Chiến tranh lạnh, dưới tác động của bối cảnh hội nhập khu vực sâu rộng và kết

quả đổi mới – mở cửa ở Trung Quốc, Hàn Quốc đã điều chỉnh chính sách trên lĩnh vực

hợp tác này và tạo ra sự bùng nổ chưa từng có trong kết quả trao đổi thương mại và xúc

tiến đầu tư giữa hai nước.

Về thương mại

Trên cơ sở những tiến bộ trong quan hệ Hàn Quốc – Trung Quốc từ thời Tổng

thống Chun Doo Hwan, người kế nhiệm Roh Tae Woo đã tiến thêm một bước trong

việc thúc đẩy giao lưu buôn bán thông qua chính sách “Ngoại giao phương Bắc”. Với

chủ trương lấy lợi ích kinh tế “mở đường” cho ngoại giao, Roh Tae Woo đã thuyết

phục Đặng Tiểu Bình thiết lập quan hệ buôn bán với Hàn Quốc. Đây là cơ sở quan

trọng để hai nước xóa bỏ giao dịch song phương gián tiếp (thông qua Hồng Kông) kể

từ năm 1975, tiến đến đạt kim ngạch thương mại trực tiếp 3,5 tỷ USD vào năm 1990 -

vượt qua cả lợi nhuận kinh doanh giữa Trung Quốc với Bắc Triều Tiên là 480 triệu

USD [127; tr. 68]. Kết quả này đạt được chủ yếu nhờ vào thành quả chính trị của chính

sách “Ngoại giao phương Bắc” (về tiếp cận các nước XHCN) của Tổng thống Hàn

Quốc Roh Tae Woo kết hợp với kinh nghiệm lịch sử (về quan điểm cải cách, đổi mới

kinh tế và mở cửa đất nước) của nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình.

Xác định đa dạng hóa quan hệ thương mại với Trung Quốc là con đường ngắn

nhất giúp Hàn Quốc giảm bớt sự phụ thuộc vào hai đối tác kinh tế Mỹ và Nhật Bản,

Tổng thống Roh Tae Woo ngay từ đầu đã nỗ lực tạo ra những điều kiện thuận lợi trong

trao đổi buôn bán hai chiều. Từ sau khi văn phòng đại diện của Cơ quan Xúc tiến

Thương mại - Đầu tư Hàn Quốc (KOTRA) và Phòng Thương mại quốc tế Trung Quốc

(CCOIC) được khai trương tại Bắc Kinh và Seoul (1991), Roh Tae Woo tiếp tục đạt

được bước tiến mới về thỏa thuận ký kết Hiệp định thương mại; Hiệp định thành lập

Page 88: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

78

Ủy ban Hỗn hợp kinh tế, thương mại và kỹ thuật với Trung Quốc (1992), đồng thời chủ

động tuyên bố sẵn sàngtrao đổi và hợp tác song phương trên mọi lĩnh vực, trước hết là

kinh tế [64; tr. 343-344]. Trong Thông cáo chung với Chủ tịch Trung Quốc Dương

Thượng Côn (30-9-1992), Tổng thống Roh Tae Woo khẳng định: “Hàn Quốc sẽ cùng

với Trung Quốc thúc đẩy trao đổi thương mại song phương và duy trì hợp tác trong

các tổ chức khu vực, điển hình là APEC vì tăng cường hợp tác kinh tế ở Đông Bắc Á và

Châu Á - Thái Bình Dương hoàn toàn có lợi cho sự phát triển và thịnh vượng chung

giữa các quốc gia” [64; tr. 343-344]. Mong muốn thúc đẩy toàn diện và sâu sắc hơn

các kết quả hợp tác kinh tế Hàn - Trung của Tổng thống Roh Tae Woo đã được chính

quyền Dương Thượng Côn hưởng ứng bằng việc“đưa ra quy chế tối huệ quốc dành

cho Hàn Quốc và quy định giảm thuế đối với hàng hóa xuất khẩu của nước này từ 5%

đến 30%” ngay trong Hiệp định Thương mại (1992) [132]. Nhờ có thể chế thuận lợi và

cơ sở pháp lý rõ ràng, kim ngạch thương mại hai chiều đã đạt mức tăng trưởng chưa

từng có trong lịch sử từ 6,4 tỷ USD (1992) lên 10 tỷ USD (1994) và 20 tỷ USD (1996)

[51; tr. 2]. Cho đến tận thời điểm diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á,

mậu dịch song phương giữa hai nước vẫn tăng bình quân 20% mỗi năm và đạt 23,7 tỷ

USD vào năm 1997 [17].

Trong giai đoạn Tổng thống Kim Dae Jung nắm quyền (1998 - 2003), Hàn

Quốc định hướng đẩy mạnh hơn nữa hợp tác kinh tế, thương mại với Trung Quốc để

bước vào thế kỷ XXI vì sự thịnh vượng chung của hai dân tộc, vì sự ổn định và phát

triển ở Đông Bắc Á [18]. Do đó, so với các đối tác truyền thống (Mỹ và Nhật Bản),

hợp tác trên lĩnh vực kinh tế giữa Hàn Quốc và Trung Quốc đã đạt được nhiều kết quả

hơn. Từ sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1992, kim ngạch thương mại

song phương đã tăng hơn 20% mỗi năm và vượt quá 40 tỷ USD vào năm 2002. Nhờ

kim ngạch xuất khẩu gia tăng liên tục, kinh tế Hàn Quốc đã sớm phục hồi và bước vào

giai đoạn phát triển ổn định từ sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Với việc chiếm

thị phần ngày càng lớn trong trao đổi xuất – nhập khẩu hai chiều, Trung Quốc thậm chí

còn làm lu mờ vai trò của Mỹ đối với nền kinh tế Hàn Quốc khi trở thành đối tác

thương mại và thị trường xuất khẩu lớn nhất của nước này vào năm 2003 (chiếm

18,1% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài của Hàn Quốc). Về phần mình,

cũng trong năm này, Hàn Quốc là đối tác thương mại và thị trường xuất khẩu lớn thứ

sáu của Trung Quốc (xếp sau Mỹ, EU, Hồng Kông, Nhật Bản và ASEAN).

Page 89: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

79

Bảng 2.1. Thị phần xuất - nhập khẩu của Hàn Quốc với Mỹ, Nhật Bản

và Trung Quốc (các năm được chọn)

Đơn vị: %

Năm Xuất khẩu Nhập khẩu

Mỹ Nhật Bản Trung Quốc Mỹ Nhật Bản Trung Quốc

1991 25,8 17,2 1,4 23,2 25,9 4,2

1996 16,7 12,2 8,8 22,2 20,9 5,7

2000 21,8 11,9 10,7 18,2 19,8 8,0

2001 20.7 11 12,1 15,9 18,9 9,4

2002 20,2 9,3 14,6 15,1 19,6 11,4

2003 17,7 8,9 18,1 13,9 20,3 12,3

2004 16,9 8,5 19,6 12,8 20,6 13,2

2005 14,5 8,4 21,8 11,7 18,5 14,8

2006 13,3 8,2 21,3 10,9 16,8 15,7

2007 12,3 7,1 22,1 10,4 15,8 17,7

2008 11,0 6,7 21,7 8,8 14 17,7

2009 10,4 6 23,9 9,0 15,3 16,8

2010 10,7 6 25,1 9,5 15,1 16,8

Nguồn: Bank of Korea, Economic Statistics System (2010)

Từ năm 2004 đến năm 2005, tổng khối lượng trao đổi thương mại song phương

đã tăng thêm 26,6% từ 79,4 tỷ USD lên 100,5 tỷ USD với thặng dư thương mại thuộc

về Hàn Quốc lần lượt là 20 tỷ USD và 24 tỷ USD [105; tr. 56]. Chính vì điều này,

Trung Quốc đã liên tục phát sinh thâm hụt thương mại và trở thành thị trường xuất

khẩu lớn nhất của Hàn Quốc từ năm 2003 (xem bảng 2.1). Thực chất, vấn đề thâm hụt

thương mại của Trung Quốc đã xuất hiện từ năm 1993 (ở mức 1,22 tỷ USD) và liên tục

mở rộng do quy mô giao dịch giữa hai nước ngày càng lớn. Tuy nhiên, phải đến thời

hai tổng thống Kim Dae Jung và Roh Moo Hyun, vấn đề này mới trở thành nội dung

chính trong hợp tác kinh tế Hàn – Trung và được đưa vào Tuyên bố chung (1998) với

quan điểm: “Hàn Quốc ghi nhận sự mất cân đối trong cán cân thương mại hai chiều

và nỗ lực hạn chế sự chênh lệch này thông qua việc mở rộng toàn diện buôn bán song

phương với Trung Quốc” [18]. Với cam kết áp dụng các biện pháp tích cực nhằm thúc

đẩy buôn bán song phương và cân bằng kim ngạch thương mại, chính quyền Kim Dae

Jung đã đề xuất ý tưởng thành lập “Cơ quan tư vấn thường trực về các vấn đề kinh tế”

nhằm giải quyết tình trạng thâm hụt “kinh niên” của Trung Quốc. Ngày 10-4-2007,

Page 90: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

80

trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo tại Phủ Chủ tịch Cheong

Wa Dae (Seoul), Tổng thống Roh Moo Hyun cũng nêu rõ ba định hướng quan trọng

trong hợp tác kinh tế chung, theo đó Hàn Quốc: “Một là, sẵn sàng hợp tác để khắc

phục tình trạng thâm hụt thương mại của Trung Quốc và cam kết giảm bớt các rào cản

đối với hàng hóa nhập khẩu từ nước này; hai là, tái khẳng định mong muốn cùng

Trung Quốc đạt kim ngạch thương mại song phương 200 tỷ USD vào năm 2012; ba là,

tích cực nghiên cứu tính khả thi của Hiệp định thương mại tự do giữa hai nước” [106;

tr. 68]. Đây đồng thời cũng là ba nội dung chủ yếu trong chính sách đối với Trung

Quốc của Tổng thống Roh Moo Hyun và Lee Myung Bak trên lĩnh vực kinh tế. Với nỗ

lực gia tăng khối lượng mậu dịch hai chiều để điều tiết cán cân thương mại và tiến tới

đàm phán ký kết FTA, kim ngạch thương mại song phương đã được thúc đẩy lên mức

159,89 tỷ USD vào năm 2007 (gấp 30 lần so với năm 1992) và đạt 186 tỷ USD vào

năm 2008 (tăng bình quân hằng năm 28% kể từ năm 1992). Thâm hụt thương mại của

Trung Quốc cũng giảm từ 47,7 tỷ USD (2007) còn 38,2 tỷ USD (2008) [59; tr. 661].

So với Tổng thống Roh Moo Hyun, Lee Myung Bak ngay từ đầu đã coi việc cải

thiện quan hệ với Trung Quốc và nâng cấp kết quả hợp tác kinh tế giữa hai nước là một

trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách của mình. Ý thức tầm quan trọng của

Trung Quốc từ sau cuộc khủng hoảng khu vực và kết cục suy giảm của nền kinh tế Mỹ

từ đầu năm 2008, ngay sau khi trúng cử tổng thống, Lee Myung Bak đã khẳng định với

đặc phái viên của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào về việc“nâng cấp quan hệ kinh tế Hàn –

Trung vì Trung Quốc là một đối tác thương mại quan trọng của Hàn Quốc” [131].

Mong muốn nói trên của Lee Myung Bak hoàn toàn xuất phát từ thực tế Hàn Quốc

đang phụ thuộc ngày càng chặt chẽ vào thị trường tiêu thụ hơn 1,3 tỷ dân của Trung

Quốc - đối tác thương mại lớn số một, chiếm đến 22% tổng kim ngạch ngoại thương trị

giá gần 700 tỷ USD. Trung Quốc còn là đối tác mang lại nguồn thặng dư thương mại

hằng năm khoảng 20 tỷ USD cho Hàn Quốc trong bối cảnh nước này vẫn nhập siêu với

hầu hết các bạn hàng, điển hình như Nhật Bản. Lợi ích thiết thực từ việc củng cố quan

hệ kinh tế với Trung Quốc đã định hướng Lee Myung Bak tập trung vào hai vấn đề:

Một là, thúc đẩy kim ngạch thương mại song phương; hai là, xúc tiến đàm phán và ký

kết FTA với Trung Quốc.

Về vấn đề gia tăng mậu dịch hai chiều, ngay tại Hội nghị Thượng đỉnh Hàn –

Trung (12-2008), Chính phủ Hàn Quốc đã cam kết tăng cường sản xuất và trao đổi

thương mại song phương nhằm duy trì sự thịnh vượng chung ở Đông Bắc Á, trong đó

Page 91: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

81

nội dung cơ bản nhất là hai nước nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảng toàn cầu và

đưa ra sáng kiến hợp tác kinh tế khu vực [149]. Nỗ lực gắn kết quan hệ với Trung

Quốc không chỉ mang lại sự phục hồi nhanh chóng cho Hàn Quốc mà còn thúc đẩy

hợp tác kinh tế giữa hai nước phát triển đến đỉnh cao sau khi Trung Quốc trở thành đối

tác thương mại hàng đầu của Hàn Quốc (chiếm khoảng 22% xuất khẩu và 18% nhập

khẩu vào năm 2008 - bảng 2.1). Ngược lại, Hàn Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ tư

và là nước nhận nhập khẩu lớn thứ hai của Trung Quốc với thặng dư thương mại gần

32,5 tỷ USD (2009). Từ thành công này, trong cuộc gặp Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia

Bảo (28-5-2010), Tổng thống Lee Myung Bak đã chủ động đề nghị: “Hai nước tăng

cường phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô, cụ thể hóa các nguyên tắc hợp tác thương mại

trung và dài hạn, thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác trọng điểm và các lĩnh vực hợp tác

thương mại mới để tương xứng với vị thế quan hệ đối tác hợp tác chiến lược” [157]. Kết

quả gia tăng mậu dịch hai chiều không chỉ phản ánh qua con số kim ngạch thương mại

đột phá ở mức 180 tỷ USD (2010) [102] mà còn biểu hiện qua nỗ lực chung của cả hai

nước trong việc đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu (2008), việc điều tiết cán

cân xuất – nhập khẩu và phản đối chủ nghĩa bảo hộ thương mại.

Về vấn đề xúc tiến đàm phán và ký kết FTA với Trung Quốc, từ tháng 11-2004,

hai nước đã công bố khả năng nghiên cứu FTA song phương trên cơ sở thỏa thuận giữa

Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Tổng thống Roh Moo Hyun trong các cuộc họp cấp cao tại

Hội nghị APEC (Santiago – Chile). Việc nghiên cứu (không chính thức) về FTA Hàn -

Trung cũng được bắt đầu từ năm 2005. Sau khi Hiệp định thương mại tự do Hàn – Mỹ

(KORUS FTA) được ký kết vào ngày 30-6-2007, Chính phủ Trung Quốc đã nhanh

chóng thúc đẩy tiến trình đàm phán FTA với Hàn Quốc. Về phần mình, trong Tuyên bố

chung Trung - Hàn (28-5-2008), Tổng thống Lee Myung Bak đã nêu rõ quan điểm: (1)

Hoan nghênh tiến độ mau lẹ của các nghiên cứu chung về FTA Hàn Quốc - Trung

Quốc do các cơ quan của hai Chính phủ thống nhất xây dựng và tiếp tục nghiên cứu

các FTA song phương cùng có lợi; (2) điều chỉnh và bổ sung vào báo cáo nghiên cứu

chung về kế hoạch phát triển trung và dài hạn hợp tác thương mại Hàn Quốc - Trung

Quốc do các nhà lãnh đạo hai nước đề ra từ năm 2005 nhằm tạo ra những bước phát

triển mới về hợp tác kinh tế; (3) tích cực hợp tác với Trung Quốc để từng bước đạt

được sự cân bằng trong kim ngạch thương mại song phương. Đối với Hiệp định lần

này, Lee Myung Bak khẳng định: “Hàn Quốc sẵn sàng làm việc với Trung Quốc để

duy trì trao đổi cấp cao và đối thoại chính trị nhằm nâng cao hơn nữa thương mại song

Page 92: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

82

phương, đẩy nhanh tiến độ xây dựng FTA” [160]. Thông điệp này đã được Tổng thống

Lee nhắc lại lần thứ ba trong cuộc gặp với Chủ tịch Hồ Cẩm Đào (27-6-2010) tại Hội

nghị Thượng đỉnh G20 lần thứ IV (Toronto – Canada) với tuyên bố: “Càng sớm càng

tốt, Hàn Quốc mong muốn đạt được một thỏa thuận thương mại tự do với Trung Quốc

nhằm thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược và hội nhập kinh tế ở Đông Á” [176].

Vốn là nền kinh tế theo định hướng thương mại, từ sau Chiến tranh lạnh đến

thập niên đầu thế kỷ XXI, Hàn Quốc đã điều chỉnh chính sách với Trung Quốc trên

lĩnh vực kinh tế nhằm tận dụng triệt để ba điều kiện thuận lợi: (1) Sự gần gũi về địa lý;

(2) nỗ lực xây dựng Cộng đồng kinh tế Đông Bắc Á bằng Hiệp định Thương mại tự do

Trung Quốc – Hàn Quốc – Nhật Bản, trong đó Hàn Quốc đóng vai trò trụ cột; (3) khả

năng bổ sung giữa hai nền kinh tế năng động bậc nhất thế giới nhờ kết hợp tài nguyên

và lực lượng lao động giá rẻ của Trung Quốc với công nghệ, trình độ quản lý của Hàn

Quốc. Nhờ thực hiện nhất quán ba nội dung cơ bản trong chính sách kinh tế với Trung

Quốc (thúc đẩy kim ngạch thương mại; cân đối cán cân xuất – nhập khẩu và xúc tiến

ký kết AFTA) trong hơn hai thập niên, Hàn Quốc đã tìm được đối tác thương mại lớn

nhất, thị trường xuất khẩu lớn nhất, nước nhập khẩu nhiều nhất với nguồn thặng dư

thương mại cao nhất cho mình. Đây là tiền đề quan trọng để Hàn Quốc tiếp tục củng cố

mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược với Trung Quốc trong thế kỷ XXI.

Về đầu tư

Từ năm 1985 đến năm 1987, đầu tư của Hàn Quốc vào Trung Quốc chủ yếu

được thực hiện gián tiếp thông qua các công ty có trụ sở ở các nước thứ ba. Hai trường

hợp đầu tư trực tiếp đầu tiên được thực hiện vào năm 1988, nhanh chóng gia tăng từ

12 dự án trị giá 9,8 tỷ USD (1989) lên 112 dự án trị giá 85 triệu USD (1990). Cuối

năm 1991, đầu tư của Hàn Quốc ở Trung Quốc đã chiếm 11,4% tổng số dự án và

3,2% tổng vốn đầu tư nước ngoài của Hàn Quốc với 181 dự án trị giá 165 triệu USD.

Bên cạnh đó, các dự án liên doanh cũng được các tập đoàn kinh tế của Hàn Quốc xúc

tiến, trong đó có ba dự án của Daewoo đầu tư xây dựng một nhà máy xe hơi ở Phúc

Châu, một liên doanh khai thác mỏ than ở Sơn Tây và một dự án xây dựng nhà máy

điện ở Nam Kinh. Tập đoàn LG cũng gửi một phái đoàn đến Trung Quốc để thảo luận

về chương trình đầu tư sản xuất thiết bị điện tử và hóa chất.

Sau khi hai nước ký kết Hiệp định bảo hộ đầu tư (30-9-1992), ngày càng

nhiều các công ty Hàn Quốc coi Trung Quốc là điểm đến ưa thích về đầu tư nước

ngoài. Cho đến năm 1996, Hàn Quốc đầu tư 1.568 triệu USD với 874 dự án chủ

Page 93: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

83

yếu tập trung ở các tỉnh Thiên Tân, Sơn Đông, Liêu Ninh và Thượng Hải. Cuối

tháng 6-1998, Trung Quốc trở thành thị trường đầu tư trực tiếp lớn thứ hai khi nhận

được 4.800 dự án trị giá 5,9 tỷ USD từ Hàn Quốc. Cuối tháng 9-1998, các nhà thầu

Hàn Quốc đã ký kết 80 hợp đồng xây dựng với Trung Quốc có tổng trị giá 4,1 tỷ

USD. Về phần mình, Hàn Quốc cũng nỗ lực thu hút FDI từ nước bạn và trở thành

đối tượng đầu tư lớn thứ 7 của Trung Quốc [17].

Trong thời gian Kim Dae Jung nắm quyền (1998 - 2003), Hàn Quốc đã thực

hiện chính sách khuyến khích các ngành công nghiệp thâm dụng lao động đầu tư ra

bên ngoài để kích thích sự phát triển của các ngành công nghiệp mới và đẩy nhanh quá

trình nâng cấp cơ cấu lao động. Nhờ sự gần gũi về địa lý, tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn

định cộng với lực lượng lao động đông đảo giá rẻ và nguồn tài nguyên dồi dào, Trung

Quốc đã thay thế Mỹ trở thành điểm đầu tư số một của Hàn Quốc trong những năm

2000 [156]. Hàng nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc đã đầu tư trực tiếp

vào Trung Quốc chủ yếu ở khu vực Đông Bắc, bao gồm Sơn Đông, Cát Lâm và Liêu

Ninh nhằm phát triển các sản phẩm dệt may, thiết bị điện tử, ô tô, máy móc viễn

thông. Đầu tư vào Trung Quốc đạt mức 27,2 tỷ USD (2002) và chiếm gần 50% FDI

của Hàn Quốc (2003). Trong năm 2004, Hàn Quốc đã vượt qua nhiều nước trên thế

giới (trong đó có Nhật Bản) về kết quả đầu tư vào Trung Quốc với số vốn 6,25 tỷ

USD, hơn 22.000 công ty Hàn Quốc có cơ sở sản xuất ở nước này với trung bình 12

khoản đầu tư mới mỗi ngày. Trong chiến lược xuất khẩu tư bản sang châu Á, các tập

đoàn kinh doanh lớn của Hàn Quốc (Chaebol) cũng xác định Trung Quốc là địa bàn

trọng điểm của mình. Trong năm 2005, Hàn Quốc đã tập trung đầu tư hơn 30.000

công ty chi nhánh của Chaebol [36; tr. 97]. Tại Trung Quốc, Chaebol Hyundai chủ yếu

phát triển công nghiệp chế tạo phụ tùng ô tô và container. Daewoo liên doanh với

Trung Quốc trong lĩnh vực điện tử và kính xây dựng; tập đoàn năng lượng SK phát

triển sản xuất các thiết bị viễn thông; Samsung và LG đầu tư vào công nghiệp điện dân

dụng. Cuối năm 2006, Hàn Quốc đã thành lập hơn 30.000 doanh nghiệp ở Trung Quốc

với vốn 35 tỷ USD, riêng tập đoàn điện tử Samsung đã chi hơn 5 tỷ USD để phát triển

hoạt động kinh doanh chiếm tới gần 50% dịch vụ trên toàn cầu của hãng [14].

Trong Tuyên bố chung Hàn Quốc – Trung Quốc (28-5-2008), Tổng thống Lee

Myung Bak đã“hoan nghênh việc sửa đổi và ban hành Hiệp định bảo hộ đầu tư giữa

Trung Quốc với Hàn Quốc; đồng thời thống nhất quan điểm Hiệp định nhằm bảo vệ

và mở rộng đầu tư hai chiều, phù hợp với sự phát triển của quan hệ kinh doanh đôi

Page 94: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

84

bên cùng có lợi” [175]. Trong bản Tuyên bố này, Lee Myung Bak vận động các

doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào Trung Quốc thông qua các hoạt động kinh tế

thường niên giữa hai nước như: Triển lãm và xúc tiến thương mại, hội chợ thương

mại, hội chợ quốc tế Trung Quốc. Các tập đoàn lớn như LG và Samsung cũng đã nhận

thấy cơ hội kinh doanh từ các sự kiện Olympic Bắc Kinh (2008) và World Expo

(2010) ở Thượng Hải. Tại Hội nghị Ủy ban Hợp tác đầu tư Hàn Quốc – Trung Quốc

lần thứ VI ở Bắc Kinh (23-11-2009), Bộ trưởng Kinh tế Hàn Quốc (kiêm Chủ tịch Ủy

ban Hợp tác đầu tư hai nước) Choi Kyung Hwan đã“kêu gọi các doanh nghiệp Trung

Quốc mở rộng đầu tư tại Hàn Quốc, trong đó tập trung phát triển các lĩnh vực:

Thương mại điện tử, năng lượng hạt nhân và năng lượng tái tạo. Đặc biệt, tận dụng

lợi thế so sánh của Trung Quốc trong các lĩnh vực hàng không, hàng không vũ trụ và

khoa học đời sống nhằm tăng cường kết quả hợp tác giữa hai nước” [92]. Theo định

hướng này, tích lũy đầu tư của Hàn Quốc đã lên tới 37,6 tỷ USD với 30.000 doanh

nghiệp Hàn Quốc đang kinh doanh tại Trung Quốc (2008). Nhờ số vốn 28,8 tỷ USD

FDI của Hàn Quốc ở Trung Quốc (2003 - 2010), mạng lưới thương mại và sản xuất

của hai nền kinh tế đã không ngừng được mở rộng, quan hệ song phương cũng vì thế

trở nên sâu sắc hơn. Kết quả này cho thấy hiệu quả chính sách của Hàn Quốc trên lĩnh

vực kinh tế nhằm tối ưu hóa vai trò đối tác chiến lược của Trung Quốc trong khu vực.

2.2.2.3. Đối với CHDCND Triều Tiên

Khác với Nhật Bản và Trung Quốc, hoạt động trao đổi - hợp tác kinh tế liên

Triều không chỉ tạo ra lợi ích cho cả hai bên mà còn tác động đến tư duy mở cửa, đổi

mới của miền Bắc, xoa dịu căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên và tích cực góp phần

vào sự nghiệp thống nhất liên Triều. Với sự điều chỉnh nội dung hợp tác trong chính

sách của Hàn Quốc đối với CHDCND Triều Tiên trên lĩnh vực kinh tế, quan hệ hai

nước đã có những bước phát triển đầy đột phá.

Về thương mại

Sau khi bán đảo Triều Tiên hình thành hai quốc gia độc lập, CHDCND Triều

Tiên chủ trương xây dựng nền kinh tế định hướng XHCN trong khi đó Hàn Quốc lại

phát triển nền kinh tế thị trường TBCN. Do sự khác biệt này, trao đổi thương mại giữa

hai bên hầu như bị gián đoạn trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh. Ý tưởng hợp tác

kinh tế liên Triều chỉ được đề xuất lần đầu tiên trong biên bản “Hiệp định về thực hiện

hợp tác thương mại và kinh tế của Ủy ban kinh tế chung Nam – Bắc” (20-6-1985) do

Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên ký kết tại Bàn Môn Điếm [61; tr. 16]. Tuy nhiên,

Page 95: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

85

quá trình hợp tác kinh tế chung giữa hai miền gắn liền với những lĩnh vực quan trọng

như: Chính trị, quân sự, văn hóa – xã hội đã không được thực hiện đúng như cam kết.

Khi Tổng thống Hàn Quốc Roh Tae Woo đơn phương đưa ra “Tuyên bố đặc biệt về

quốc gia tự chủ, thống nhất và thịnh vượng” (07-7-1988) với chính sách “mở cửa

buôn bán liên Triều, coi đây là buôn bán trong nước, trong phạm vi cộng đồng dân

tộc” [130; tr. 627-630] thì thương mại gián tiếp (thông qua nước thứ ba) giữa hai bên

mới bắt đầu hình thành. Theo định hướng của chính sách “Ngoại giao phương Bắc”,

các giải pháp xúc tiến thương mại đã được ban hành, trong đó bao gồm “Luật hải quan

hợp tác liên Triều” và “Luật về quỹ hợp tác liên Triều” (01-8-1990).

Nhờ có nền tảng pháp lý rõ ràng, hai bên từng bước mở rộng hoạt động trao đổi

kinh tế trong lĩnh vực dân sự, tuy nhiên kết quả hợp tác ban đầu còn khá khiêm tốn,

chỉ dưới 20 triệu USD trong cả hai năm 1989 và 1990 [111; tr. 108]. Từ sau khi Hiệp

định cơ bản Nam – Bắc (“Hiệp định về hòa giải, không xâm lược, trao đổi và hợp

tác”) được ký kết giữa Thủ tướng Hàn Quốc Chung Won Shik và Chủ tịch Hội đồng

Nhà nước CHDCND Triều Tiên Yon Hyong Muk (1991), thương mại hai chiều mới

thực sự có bước đột phá. Những nội dung cơ bản liên quan đến thương mại liên Triều

được quy định trong Chương III của Hiệp định (Hợp tác và Trao đổiNam – Bắc)3F

4

[107; tr. 204] tạo điều kiện cho hai nước cùng tăng cường, thúc đẩy giao lưu buôn bán.

Các sản phẩm trao đổi lúc bấy giờ chủ yếu là nguyên liệu thô, nông sản (xuất khẩu

4Chương III (Hợp tác và Trao đổi hai miền Nam – Bắc): Bao gồm 9 Điều khoản (Điều 15-Điều 23)

Điều 15. Để thúc đẩy sự phát triển hội nhập, bình đẳng của kinh tế quốc gia và sự thịnh vượng của dân tộc,

hai bên cam kết trao đổi - hợp tác kinh tế, bao gồm việc phát triển chung các nguồn lực, thương mại hàng

hóa cũng như thương mại nội địa và liên doanh.

Điều 16. Hai bên thực hiện giao lưu và hợp tác trên nhiều lĩnh vực: Khoa học và công nghệ, giáo dục, văn

học và nghệ thuật, y tế, thể thao, môi trường, xuất bản và báo chí bao gồm các ấn phẩm báo in, phát thanh

và phát sóng truyền hình.

Điều 17.Hai bên thúc đẩy hoạt động du lịch và tiếp xúc liên Triều dành cho công dân hai nước.

Điều 18.Hai bên cho phép trao đổi thư từ, gặp mặt và thăm viếng thành viên của những gia đình ly tán;

khuyến khích việc đoàn tụ tự nguyện của các gia đình ly tán và có biện pháp giải quyết các vấn đề nhân

quyền khác.

Điều 19. Hai bên nối lại các tuyến đường sắt, đường bộ bị phá hủy; mở lại tuyến vận tải đường biển và

đường hàng không Nam – Bắc.

Điều 20. Hai bên thiết lập và kết nối các phương tiện cần thiết cho dịch vụ bưu chính và viễn thông Nam –

Bắc; đảm bảo bảo mật thư điện tử và điện báo.

Điều 21. Hai bên hợp tác kinh tế, văn hóa và các lĩnh vực khác trên trường quốc tế; gắn kết quan hệ với

nước ngoài

Điều 22. Để thực hiện Hiệp định về Trao đổi và Hợp tác kinh tế, văn hóa và các lĩnh vực khác, hai bên cần

sớm thành lập Ủy ban hỗn hợp đối với từng lĩnh vực cụ thể, bao gồm: Ủy ban chung về Trao đổi và Hợp tác

kinh tế liên Triều (trong vòng 3 tháng kể từ ngày ký kết thỏa thuận này).

Điều 23. Thành lập Ủy ban Trao đổi và Hợp tác liên Triều trong khuôn khổ đối thoại cấp cao Nam – Bắc

trong vòng 1 tháng kể từ khi Hiệp định chính thức có hiệu lực nhằm thảo luận về các biện pháp cụ thể, đảm

bảo việc thực hiện và tuân thủ Hiệp định về trao đổi và hợp tác Nam-Bắc.

Page 96: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

86

sang Hàn Quốc) và dệt may, hóa chất (xuất khẩu sang CHDCND Triều Tiên). Quá

trình hợp tác nói trên đã đưa kim ngạch thương mại hai chiều vượt ngưỡng 100 triệu

USD vào năm 1991, tăng gần gấp 6 lần so với thời điểm năm 1989 (xem biểu đồ 2.1).

Biểu đồ 2.1. Trao đổi thương mại liên Triều (1989 - 2000)

Nguồn: Ministry of Unification, Republic of Korea (2001), White Paper on Korean

Unification, p. 109.

Tháng 3-1993, CHDCND Triều Tiên tuyên bố rút khỏi NPT và đe dọa làm gián

đoạn hợp tác thương mại giữa hai nước. Tuy vậy, khi các cuộc hội đàm cấp cao giữa Mỹ

và CHDCND Triều Tiên đạt được thỏa thuận về việc chấm dứt chương trình phát triển hạt

nhân vào ngày 21-10-1994 thì Hàn Quốc lại nhanh chóng mở rộng mậu dịch hai chiều.

Chính phủ nước này đã công bố “các biện pháp xúc tiến hợp tác kinh tế liên Triều” (09-

11-1994) nhằm mục đích mở cửa kinh tế với CHDCND Triều Tiên. Đáng tiếc là, do sự

chuyển hướng của chính sách “Ngoại giao mới” với việc coi Bắc Triều Tiên là kẻ thù

quân sự, nhà cầm quyền Kim Young Sam liên tục đưa ra cảnh báo cắt đứt quan hệ thương

mại, kiểm soát gắt gao các chuyến viếng thăm của doanh nghiệp hai nước và hạn chế

thành lập văn phòng chi nhánh của các công ty Hàn Quốc trênlãnh thổ phía Bắc. Vì lý do

này, kim ngạch song phương thường xuyên biến động và có xu hướng tăng giảm thất

thường. Trong giai đoạn 1993 - 1997, thương mại liên Triều có mức suy giảm đột ngột:

252 triệu USD (1996) và mức tăng phục hồi: 308 triệu USD (1997).

Hợp tác buôn bán liên Triều bắt đầu gia tăng liên tục và ổn định kể từ khi Kim

Dae Jung lên nắm quyền và thực hiện chính sách “Ánh dương” với phương châm gần

gũi, hòa giải và hợp tác với CHDCND Triều Tiên trên tất cả các lĩnh vực, trong đó

kinh tế đóng vai trò “trụ cột”. Logic của chính sách này là thông qua quá trình hợp tác

19 13

111

173 187

195

287

252

308

222

333

425

0

50

100

150

200

250

300

350

400

450

1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000

ĐƠN VỊ: TRIỆU USD

Page 97: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

87

thương mại, hai miền Nam – Bắc có thể tạo dựng lòng tin, giảm đối đầu quân sự trên

chiến tuyến cuối cùng của Chiến tranh lạnh. Cùng với việc bãi bỏ lệnh cấm trao đổi

thương mại, du lịch tại khu vực phi quân sự, ngay sau khi nhậm chức vào tháng 02-

1998, Kim Dae Jung đã điều chỉnh chính sách kinh tế với CHDCND Triều Tiên theo

ba nguyên tắc: (1) Tách biệt kinh tế với chính trị, (2) hợp tác trên cơ sở nhu cầu thị

trường, (3) hợp tác trên cơ sở quyền lợi của các bên tham gia [61; tr. 16]. Định hướng

đưa kinh tế thoát khỏi sự chi phối của chính trị vốn xuất phát từ thực tế quan hệ

thương mại liên Triều liên tục bị kìm hãm hoặc gián đoạn do vấn đề hạt nhân của

CHDCND Triều Tiên. Rút kinh nghiệm từ hạn chế này, Kim Dae Jung chủ trương sẽ

nâng cao kết quả và tính ổn định của hợp tác liên Triều bất chấp căng thẳng quân sự ở

trong và ngoài khu vực.

Để chứng tỏ thiện chí “cùng hợp tác, cùng phát triển”, Kim Dae Jung đưa ra bốn

phương châm trong chính sách kinh tế đối với miền Bắc, bao gồm: (1) Vấn đề dễ làm

trước, vấn đề khó làm sau; (2) Kinh tế trước, chính trị sau; (3) các tổ chức phi chính

phủ trước, chính phủ sau; (4) cho trước, nhận sau [47; tr. 519]. Với đường lối hợp tác

ôn hòa và đầy nhân nhượng, Kim Dae Jung đã chứng tỏ quyết tâm cùng thúc đẩy và

phát triển nền kinh tế quốc dân với CHDCND Triều Tiên theo “Tuyên bố chung Nam –

Bắc” (2000) bằng việc ký kết các Hiệp định về bảo hộ đầu tư và tránh đánh thuế hai lần

[111; tr. 205-206]. Hai bên còn dành cho nhau Quy chế tối huệ quốc (MFN) nhằm giúp

cho các doanh nghiệp hoạt động ở cả hai miền với điều kiện thanh khoản thuận tiện tại

các ngân hàng. Kết quả này phản ánh bước tiến đáng kể của hoạt động thương mại liên

Triều dưới tác động chính sách hòa giải và hợp tác của Kim Dae Jung.

Bảng 2.2. Kim ngạch thương mại liên Triều (2001 - 2010)

Đơn vị: triệu USD

Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

Nhập

khẩu 176 272 289 258 340 520 765 932 934 1.044

Xuất

khẩu 227 370 435 439 715 830 1.032 888 745 868

Tổng 403 642 724 697 1.055 1.350 1.797 1.820 1.679 1.912

Nguồn: Ministry of Unification, Republic of Korea, White Paper on Korean

Unification (2010; 2013)

Page 98: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

88

Theo số liệu thống kê của bảng 2.2, tổng kim ngạch buôn bán hai chiều đã tăng

thêm 239 triệu USD (2001 - 2002) cùng với mức tăng tương ứng của nhập khẩu và

xuất khẩu lần lượt là 96 triệu USD và 143 triệu USD. Đầu năm 2003, Chính phủ kế

nhiệm Roh Moo Hyun tuyên bố thực hiện chính sách “Hòa bình và thịnh vượng” trên

cơ sở kế thừa thành tựu của “Ánh dương” với mục tiêu trọng tâm là tăng cường giao

lưu kinh tế liên Triều. Theo đó, Hàn Quốc đã vận động CHDCND Triều Tiên thực hiện

Thông cáo 9 điểm về xúc tiến hợp tác liên Triều với nội dung“nhanh chóng chuyển đổi

hình thức giao dịch và gia công hàng hóa giữa hai miền từ gián tiếp sang trực tiếp”

[26]. Hai bên còn tiến tới thiết lập đường dây liên lạc xuyên biên giới lần đầu tiên về

các vấn đề thương mại kể từ sau khi hai miền chia cắt (1953). Hàng loạt giải pháp mới

đã thúc đẩy kết quả buôn bán tăng trưởng theo cấp số nhân. Nếu năm 2003, kim ngạch

thương mại liên Triều ở mức 720 triệu USD thì đến thời điểm 2007, con số này là gần

1,8 tỷ USD, tăng khoảng 2,5 lần trong vòng bốn năm (bảng 2.2). Hàn Quốc đã vươn

lên trở thành đối tác thương mại lớn thứ hai của CHDCND Triều Tiên (chỉ xếp sau

Trung Quốc) với khối lượng hàng hóa trao đổi song phương chiếm tới một phần tư

tổng kim ngạch thương mại của miền Bắc. Bước tiến vượt bậc trong buôn bán hai

chiều không chỉ góp phần xoa dịu những bất đồng về an ninh – chính trị song phương

mà còn làm hồi sinh nền kinh tế suy nhược của CHDCND Triều Tiên. Liên tục trong 5

năm (2000 - 2005), GDP của miền Bắc luôn đạt mức tăng trưởng dương, trung bình

2,2% mỗi năm, chỉ số GNP cũng tăng trưởng từ 2% đến 3% kể từ năm 2001 [137].

Sau khi Ủy ban Xúc tiến hợp tác kinh tế liên Triều đưa ra Tuyên bố chung (12

điểm) với nội dung thúc đẩy giao lưu buôn bán vào năm 2005và hai bên tổ chức thành

công Hội nghị Thượng đỉnh vào năm 2007, trao đổi thương mại đã vượt qua những ảnh

hưởng do vụ thử hạt nhân của Bắc Triều Tiên (10-2006) để đạt đến mốc phát triển

thăng hoa. Theo đó, thương mại liên Triều bắt đầu mang tính chất hàng hóa từ năm

2008 với tỷ trọng buôn bán hai chiều tăng 94% chỉ trong sáu tháng đầu năm (so với

78% cùng kỳ năm trước), riêng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đã tăng 47% so nửa đầu

năm 2007. Tổng kim ngạch thương mại trong năm này cũng đạt ngưỡng 1,8 tỷ USD.

Đối với CHDCND Triều Tiên, Tổng thống Roh Moo Hyun trước sau vẫn cố gắng

không để cho vấn đề hạt nhân ảnh hưởng xấu đến quan hệ thương mại liên Triều nhờ

chủ trương giải quyết cả hai vấn đề kinh tế và chính trị thông qua các kênh đối thoại.

Vậy nên, nếu làm một phép so sánh nhằm đánh giá hiệu quả chính sách kinh tế với Bắc

Triều Tiên thì rõ ràng Roh Moo Hyun là nhà lãnh đạo thành công hơn cả với 5,6 tỷ

USD kim ngạch thương mại liên Triều so với Kim Dae Jung (2 tỷ USD) và Kim

Page 99: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

89

Young Sam (1,23 tỷ USD). Số lượng hàng hóa trao đổi liên Triều cũng có mức biến

thiên tương ứng, theo đó có 3.606 mặt hàng giao dịch thành công dưới thời Roh Moo

Hyun. Đây là kết quả cao nhất đạt được so với mức của hai con số 2.636 và 1.188 [119;

tr. 259] lần lượt thuộc về Kim Dae Jung và Kim Young Sam.

Sau một thời gian dài thương mại liên Triều có mức tăng trưởng ổn định nhờ

vào chính sách hòa giải dân tộc của Kim Dae Jung và Roh Moo Hyun, đến đầu năm

2008, sau khi đắc cử tổng thống, Lee Myung Bak đã tuyên bố thực hiện chính sách

“Tầm nhìn 3000, phi hạt nhân hóa và mở cửa”. Không khó để nhận ra, đặc điểm mấu

chốt trong chính sách này là lồng ghép chính trị vào với kinh tế và “chính trị đi trước,

kinh tế theo sau”. Học thuyết “Myung Bak” đòi hỏi Bắc Triều Tiên phải tháo dỡ vũ khí

hạt nhân trước khi nhận được sự hợp tác kinh tế từ Hàn Quốc. Do đó, thứ tự ưu tiên

trong chính sách của Tổng thống Lee là: (1) Phi hạt nhân hóa Bắc Triều Tiên; (2) mở

cửa Bắc Triều Tiên; (3) thúc đẩy các dự án hợp tác kinh tế chung [116; tr. 32]. Chiến

lược này hoàn toàn trái ngược với chính sách của hai vị tổng thống tiền nhiệm – những

người luôn coi kinh tế là “chìa khóa” để mở cánh cửa chính trị. Không chỉ kiểm soát

gắt gao vấn đề hợp tác kinh tế hai chiều, Lee Myung Bak còn phớt lờ “Luật Xúc tiến

phát triển quan hệ Bắc – Nam” của Chính phủ tiền nhiệm Roh Moo Hyun nhằm thúc

đẩy trao đổi liên Triều từ năm 2008 đến cuối năm 2012. Do sự điều chỉnh chính sách

của Lee Myung Bak cộng với tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và kết quả sút

giảm nhu cầu trong nước nên kim ngạch thương mại liên Triều chỉ đạt mức 1,68 tỷ

USD (2009), giảm 7,8% so với 1,82 tỷ USD (2008) và giảm 6,5% so với 1,8 tỷ USD

(2007). Sự giảm sút này làm hạn chế xuất khẩu hàng hóa liên Triều (giảm 143 triệu

USD) so với thời điểm 2008. Cùng với đó, các mặt hàng trao đổi trong cơ cấu thương

mại cũng bắt đầu dịch chuyển theo chiều hướng đi xuống từ 859 sản phẩm (2008) còn

lại 822 sản phẩm (2009) và 795 sản phẩm (2010) [119; tr. 259]. Tuy vậy, kim ngạch

thương mại liên Triều vẫn đạt 153,5 triệu USD vào tháng 2 và 994 triệu USD chỉ trong

tháng 6 (2010), tăng gần 55% so với cùng kỳ năm 2009 [117; tr. 154]. Nhờ vào kết quả

này nên ngay cả khi mậu dịch liên Triều giảm 30% trong những tháng cuối năm 2010

do Chính phủ đình chỉ các hoạt động thương mại từ sau sự cố chìm tàu Cheonan và bắn

pháo vào đảo Yeonpyeong thì tổng kim ngạch thương mại vẫn đạt 1.912 triệu USD.

Như vậy, tiến trình hợp tác thương mại liên Triều (1989 - 2010) đã trải qua

không ít thăng trầm và biến động do sự chi phối của các vấn đề chính trị trên bán đảo

Triều Tiên mà trực tiếp nhất vẫn là chính sách của các nhà lãnh đạo Hàn Quốc. Dù

không phải thời điểm nào kết quả trao đổi, buôn bán hai chiều cũng thuận lợi với mức

Page 100: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

90

tăng cao và ổn định nhưng thành tựu tăng trưởng bốn con số (1.912 triệu USD) so với

mốc khởi điểm 19 triệu USD (1989) vẫn là một thắng lợi ngoạn mục trong lĩnh vực

kinh tế. Bước tiến này không chỉ thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở hai

nước mà còn góp phần hóa giải những mâu thuẫn, xung đột và từng bước hàn gắn quan

hệ dân tộc trên bán đảo Triều Tiên.

Về đầu tư

So với hợp tác thương mại liên Triều, hợp tác đầu tư có bước phát triển chậm

hơn do thiếu vắng một cơ chế chính sách rõ ràng. Từ giữa thập niên 90 của thế kỷ XX,

các doanh nghiệp Hàn Quốc mới bắt đầu thâm nhập vào thị trường miền Bắc. Lực

lượng này chủ yếu là các tập đoàn kinh doanh gia đình (Chaebol) – những doanh

nghiệp “đầu tàu” ra đời từ kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất (1962 - 1966)

dưới tác động chính sách “Đệ nhất kinh tế” của Park Chung Hee. Hai tập đoàn

Hyundai và Daewoo là những nhà đầu tư đầu tiên vào CHDCND Triều Tiên lần lượt

vào các năm: 1989 và 1992. Kế đó, các tập đoàn kinh doanh khác cũng mạnh dạn đưa

vốn của mình qua bên kia biên giới. Quá trình này có sự tham gia của Samsung, Lucky

– Goldstar (LG), Ssangyong, Sunkyong, Kolon, Dongyang, Hanwha, Hyosung, Kohap,

Lotte, Jinro và Hanil [48; tr. 37]. Từ sau các dự án kinh tế của Daewoo, Chaebol LG đã

lên kế hoạch đầu tư vào cụm công nghiệp Sonbong với việc phát triển hạ tầng giao

thông đường bộ và đấu nối đường dây liên lạc cáp quang giữa hai miền. Đây được coi

là sự hưởng ứng của LG đối với chính sách “mở rộng đầu tư liên Triều trong khu vực

phi thương mại Najin – Sonbong”được Tổng thống Hàn Quốc Kim Young Sam công

bố nhân kỷ niệm lần thứ 51 ngày giải phóng dân tộc (15-8-1996) [107; tr. 242-249].

Tập đoàn điện tử Samsung thì đầu tư xây dựng nhà máy lắp ráp ti-vi gần khu vực sông

Đại Đồng (Taedong) ở miền Bắc để xuất khẩu thành phẩm về Hàn Quốc. Năm 1998,

Samsung tiếp tục công bố dự án kinh tế mới trị giá 1 tỷ USD một năm. Dự án này kéo

dài trong vòng 10 năm với mục tiêu sản xuất các sản phẩm điện tử (điện thoại di động,

con chíp điện tử, máy phát thanh…), mỗi năm thu về lợi nhuận 3 tỷ USD.

Sau khi Kim Dae Jung lên nắm quyền, Chính phủ của ông đã tạo ra bước đột

phá mới cho hoạt động đầu tư với định hướng cải thiện quan hệ liên Triều bằng cách

tập trung trước hết vào lĩnh vực kinh tế thông qua chính sách khuyến khích doanh

nghiệp tư nhân Hàn Quốc liên doanh với CHDCND Triều Tiên. Với việc thực hiện

chính sách “Ánh dương” theo phương châm lôi kéo, hòa giải, kiên quyết đưa chính trị

Page 101: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

91

ra khỏi nội dung hợp tác kinh tế, Tổng thống Kim Dae Jung đã khuyến khích các

Chaebol đầu tư mạnh vào một số dự án kinh tế trọng điểm ở miền Bắc. Về phía mình,

CHDCND Triều Tiên cũng bắt đầu thực hiện cải cách, mở cửa, thu hút đầu tư nước

ngoài phù hợp với đường lối ngoại giao hòa bình của Hàn Quốc. Nhờ đó, hai bên đã

đạt được thỏa thuận trong việc ký kết Hiệp định bảo hộ đầu tư (11-2000) nhằm bảo vệ

quyền lợi cho các doanh nghiệp trong hợp tác kinh tế, tránh những rủi ro phi thương

mại giữa hai nước [69; tr. 26]. Trong hoạt động hợp tác đầu tư, Tổ hợp công nghiệp

Kaesong, dự án khu du lịch núi Kumkang và dự án khôi phục các tuyến đường giao

thông liên Triều được coi là tiêu biểu nhất. Những dự án kinh tế này thể hiện rõ chính

sách đầu tư chiến lược của Hàn Quốc đối với CHDCND Triều Tiên.

Tổ hợp công nghiệp Kaesong

Nhờ sự hậu thuẫn của Chính phủ hai bên, mô hình đầu tư thành công nhất trên

bán đảo Triều Tiên đã ra đời. Đó là dự án xây dựng tổ hợp công nghiệp Kaesong (KIC)

hay Gaeseong - kết quả hợp tác giữa Hyundai Asan và Tổng công ty Bất động sản Hàn

Quốc (KOLAND). Dự án này được tập đoàn kinh tế Hyundai khởi xướng từ năm 1998

nhằm hưởng ứng chính sách “Ánh dương” với mục tiêu cải thiện quan hệ liên Triều

của Tổng thống Kim Dae Jung. Đây cũng là mô hình kinh tế thành công nhất trong

chính sách cam kết hỗ trợ CHDCND Triều Tiên của chính quyền Roh Moo Hyun.

Ngày 22-8-2000, đặc khu kinh tế ở phía Tây vùng phi quân sự, cách biên giới

liên Triều khoảng 10 km về hướng Bắc được chính thức khởi công. Tổ hợp công

nghiệp được xây dựng trên diện tích 66 triệu km2 với toàn bộ chi phí đầu tư trong giai

đoạn khởi điểm trị giá hơn 370 triệu USD do Hàn Quốc bỏ ra đến hơn 70%. Năm

2010, tổ hợp này có tới 71 công ty dệt may, 9 công ty hóa chất, 23 công ty sản xuất kim

loại – máy móc, 13 công ty điện tử và 5 công ty hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất

khác [158; tr. 7]. Trong vòng 5 năm (2005 - 2010), KIC đã thu về 16.148 USD giá trị

hàng hóa xuất khẩu từ 4 thị trường chủ yếu: Australia, EU, Nga và Trung Quốc. Kết

quả này vượt xa dự tính của các nhà lãnh đạo hai nước, nó cho thấy KIC đã thoát khỏi

những ảnh hưởng về xung đột chính trị liên Triều từ năm 2008 và đối đầu an ninh từ

năm 2010 để vươn lên giành được thành tựu phát triển kinh tế đầy ngoạn mục.

Page 102: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

92

Dự án khu du lịch núi Kumgang

Dự án hợp tác du lịch giữa Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên tập trung chủ

yếu ở vùng giới tuyến quân sự của hai nước, trong đó tiêu biểu nhất là đặc khu du lịch

núi Kumgang (Geumgang) hay còn gọi là “Kim Cương”4F

5. Dự án được khởi xướng vào

năm 1998 do Hyundai Asan của Hàn Quốc và Tổng cục Du lịch CHDCND Triều Tiên

hợp tác điều hành. Đây là kết quả chính sách Bắc Triều Tiên của Kim Dae Jung dựa

trên nguyên tắc “tách kinh tế ra khỏi chính trị” và đẩy mạnh các giải pháp hợp tác song

phương, mở cửa cho các nhà lãnh đạo của doanh nghiệp Hàn Quốc đến thăm Bắc Triều

Tiên. Khu du lịch Kumgang còn là kết quả của Tuyên bố chung giữa Tổng thống Hàn

Quốc Kim Dae Jung và nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong Il vào năm 2000, cho

phép Hyundai Asan đầu tư và khai thác độc quyền trong vòng 50 năm các tour du lịch

qua biên giới đến núi Kumgang. Dự án được ví như con “át chủ bài” trong chính sách

“Ánh dương” của Kim Dae Jung nhằm duy trì hòa bình trên bán đảo Triều Tiên bằng

giải pháp nhân nhượng, tập trung giúp đỡ kinh tế nhưng vẫn tác động mạnh mẽ đến tư

duy mở cửa và đổi mới kinh tế của miền Bắc.

Dự án khôi phục các tuyến đường giao thông

Ngày 19-02-1992, hai miền Triều Tiên nhất trí thông qua Hiệp định Cơ bản Bắc –

Nam, trong đó đề cập đến việc “nối liền các tuyến đường sắt và đường bộ bị chia cắt

trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên” (Điều 19, Chương III) [107; tr. 200-207]. Trong

chính sách Bắc Triều Tiên của mình, Chính phủ Kim Dae Jung cũng tuyên bố “nối lại

các tuyến đường sắt và đường bộ liên Triều là giải pháp chiến lược nhằm nới lỏng căng

thẳng và đối đầu quân sự trên bán đảo Triều Tiên” [173]. Theo chiến lược này, Hàn

Quốc đã chính thức phát lệnh khôi phục các tuyến đường sắt và đường bộ nối liền hai

bên vĩ tuyến 38 vào ngày 18-9-2000. Kế hoạch tu bổ hệ thống giao thông liên Triều được

áp dụng đối với hai tuyến đường sắt: Gyeongui, Kyongwon và tuyến đường bộ Donghae.

Tuyến đường sắt Gyeongui dài 500 km, chạy dọc theo bờ biển phía Tây bán đảo

Triều Tiên, nối liền Seoul (Hàn Quốc) với thị trấn giáp ranh biên giới Trung Quốc

Shinuiju (CHDCND Triều Tiên) được xây dựng từ đầu thế kỷ XX. Chính sách khôi

phục tuyến đường này được Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae Jung công bố tại Diễn

5 Kumgang cao 1.638 mét, thuộc dãy núi Taebaek (Thái Bạch) chạy dọc theo phía Đông bán đảo Triều Tiên,

nay thuộc tỉnh Kang Won, CHDCND Triều Tiên.

Page 103: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

93

đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) ở Copenhagen (2002) từ ý tưởng “du lịch bằng xe lửa

đến Paris, London và mở ra một con đường tơ lụa bằng sắt nối liền vùng Viễn Đông

với châu Âu. Những chuyến xe lửa khởi hành từ châu Âu có thể vượt qua lục địa Á - Âu

để đến Seoul và Pusan (Hàn Quốc) hay cảng container lớn nhất thế giới là cửa ngõ

đến Thái Bình Dương. Tương tự như vậy, xe lửa khởi hành từ Hàn Quốc có thể tiếp

cận khu vực Tây Âu và Đại Tây Dương” [170]. Sau khi hoàn thành, đường sắt

Gyeongui sẽ rút ngắn đáng kể khoảng thời gian đi bằng đường biển từ Inchon đến

Nampo (từ 13-14 ngày còn lại 1-3 ngày), qua đó giảm giá thành vận chuyển hàng hóa

từ Hàn Quốc sang Âu châu.

Dự án đường sắt thứ hai là tuyến giao thông Kyongwon ở ven biển đông bán

đảo Triều Tiên. Đây là điểm nút nối liền Seoul (Hàn Quốc), Wonsan (CHDCND

Triều Tiên) với Vladivostok (CHLB Nga). Sau một thập kỷ kể từ khi Hiệp định cơ

bản được ký kết (1992), tuyến đường trên bờ biển phía Tây (đường sắt Gyeongui)

và hai trục giao thông chạy đồng thời trên bờ biển phía Đông (đường sắt Kyongwon

và đường bộ Donghae) cũng chính thức kết nối trở lại vào ngày 18-9-2002. Thành

tựu tốt đẹp này chứng tỏ sự nhất quán trong chính sách kinh tế của Roh Moo Hyun

từng được ông công bố trong diễn văn nhậm chức (25-02-2003): “Chúng ta phải

sớm mang lại những ngày tháng màhành khách có thể mua vé tàu tại Busan, đi du

lịch đến Paris và tất cả các địa điểm trung tâm của châu Âu thông quaBình

Nhưỡng, Shinuiju và nhiều thành phố khác ở Trung Quốc, Mông Cổ và Nga” [146].

Bên cạnh các trục giao thông chủ chốt như: Donghae và Gyeongui, tuyến đường sắt

dài 25km giữa Munsan (Hàn Quốc) và trạm Bongdong của tổ hợp công nghiệp

Kaesong (CHDCND Triều Tiên) cũng được kết nối vào tháng 12-2007. Tuyến

đường bộ giữa Bình Nhưỡng và thành phố biên giới Kaesong dài 170km cũng được

Hàn Quốc tu sửa cho CHDCND Triều Tiên vào năm 2008. Đây đều là những

“huyết mạch” chiến lược có ý nghĩa gia tăng tốc độ phát triển của khu liên hợp công

nghiệp Kaesong và xúc tiến du lịch đường bộ đến khu nghỉ dưỡng núi Kumgang.

Về cơ bản, từ sau năm 1989, chính sách của Hàn Quốc đối với khu vực trên lĩnh

vực kinh tế có cùng một mục đích là tăng cường giao lưu hợp tác, trong đó chú trọng trao

đổi mậu dịch, giảm thiểu chênh lệch cán cân thương mại, thúc đẩy đàm phán ký kết FTA

(đối với Nhật Bản, Trung Quốc), cải thiện thương mại hai chiều, hỗ trợ kinh tế và đầu tư

Page 104: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

94

vào các dự án trọng điểm có ý nghĩa trong tiến trình hòa giải dân tộc (đối với CHDCND

Triều Tiên). So với lĩnh vực an ninh - chính trị, chính sách trên lĩnh vực kinh tế của Hàn

Quốc đã thu được nhiều tiến bộ hơn cả, nhất là khi cả Nhật Bản, Trung Quốc và

CHDCND Triều tiên đều trở thành những đối tác kinh tế quan trọng ngay từ đầu thế kỷ

XXI. Có thể thấy, đây vừa là cơ sở ràng buộc mối liên kết giữa Hàn Quốc với khu vực,

vừa là cơ hội thúc đẩy nhu cầu giao lưu và tăng cường hiểu biết ở Đông Bắc Á.

2.3. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội

Khi Chiến tranh lạnh đi vào hồi kết, nhu cầu cùng hợp tác và phát triển trên các

lĩnh vực an ninh - chính trị và kinh tế đã đưa các nước trong khu vực xích lại gần nhau.

Đây là thời điểm quan trọng để Hàn Quốc điều chỉnh chính sách đối với Nhật Bản,

Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên trên lĩnh vực văn hóa – xã hội nhằm xoa dịu ký

ức chiến tranh, phổ biến “làn sóng Hàn Quốc” và thúc đẩy hòa hợp dân tộc.

2.3.1. Đối với Nhật Bản

Dù có sự liên kết khá chặt chẽ về mặt văn hóa nhưng Hàn Quốc và Nhật Bản lại

không thể duy trì mối quan hệ láng giềng gần gũi do quá khứ thực dân tàn bạo của người

Nhật ngay trên bán đảo Triều Tiên. Ký ức hai lần xâm lược Hàn Quốc (thế kỷ XVI),

thống trị trở lại (1910 - 1945) cùng với hành động “triệt hạ” văn hóa bản địa đã tích tụ

không ít hận thù cho dân tộc Triều Tiên. Do sự chi phối của yếu tố tâm lý, trong suốt thời

kỳ Chiến tranh lạnh, Chính phủ Hàn Quốc đã nghiêm cấm mọi hoạt động giao lưu văn

hóa và tiếp xúc xã hội với Nhật Bản. Chính sách “đóng cửa” của Hàn Quốc trên lĩnh vực

này vừa xuất phát từ lòng thù hận vừa gắn liền với nguy cơ Nhật Bản chiếm lĩnh thị phần

công nghiệp văn hóa trong nước và sự lan tràn nguồn văn hóa phẩm bất hợp pháp có tính

chất bạo lực hoặc khiêu dâm, làm vẩn đục văn hóa Hàn Quốc.

Cho đến đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, do nhu cầu thúc đẩy toàn diện quan hệ

giữa các nước trong khu vực, Hàn Quốc bắt đầu tiếp cận với những sản phẩm văn hóa

của Nhật Bản như truyền hình, âm nhạc và phim ảnh. Các chương trình trao đổi văn

hóa (biểu diễn âm nhạc, triển lãm nghệ thuật, gặp gỡ thanh niên) được tiến hành luân

phiên ở cả hai nước. Tuy nhiên, quá trình này diễn ra hết sức dè dặt và hạn chế. Mãi

đến cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, sự “phong tỏa” của Hàn Quốc đối với văn hóa

Nhật Bản mới thực sự được nới lỏng nhờ nhận thức tích cực của Tổng thống Kim Dae

Jung trong việc chống đối quan điểm văn hóa “bài ngoại” của các thế hệ lãnh đạo tiền

Page 105: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

95

bối. Ngay trong diễn văn nhậm chức (25-02-1998), Kim Dae Jung đã tuyên bố chính

sách “mở cửa” đối với văn hóa Nhật Bản khi khẳng định “thúc đẩy giao lưu văn hóa

với các quốc gia khác, bao gồm cả Nhật Bản là việc làm cần thiết nhằm phát triển văn

hóa dân tộc và toàn cầu hóa văn hóa dân tộc” [145]. Trên cơ sở đó, hội nhập văn hóa

giữa hai nước từng bước được thúc đẩy và đi vào chiều sâu, “làn sóng Nhật Bản” ở

Hàn Quốc cũng được biết đến nhiều hơn trong thời kỳ cầm quyền của Kim Dae Jung.

Sau Hội nghị Thượng đỉnh giữa hai nước (1998), các cuộc họp chính thức ở cấp Nhà

nước cũng được tổ chức nhằm tìm kiếm giải pháp thúc đẩy trao đổi văn hóa và tăng

cường hiểu biết lẫn nhau. Với việc đạt được Tuyên bố chung Hàn Quốc - Nhật Bản

(1998), chính sách “mở cửa” đối với văn hóa Nhật Bản một lần nữa được chính quyền

Kim Dae Jung nhắc lại và cam kết thực hiện bằng việc xóa bỏ lệnh cấm đối với ba lĩnh

vực: Âm nhạc, điện ảnh và truyện tranh [70; tr. 602].

Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử, những quy định hà khắc và phân biệt của

Hàn Quốc đối với văn hóa Nhật Bản thực sự được nới lỏng. Kết quả này đã cho phép

các bộ phim nổi tiếng, các buổi hòa nhạc với quy mô vừa và nhỏ tại những hội trường

dưới 2.000 chỗ được công khai trình chiếu và biểu diễn ở Hàn Quốc. Ngành công

nghiệp biểu diễn Nhật Bản được cấp phép hoạt động vào năm 1999 và đến thời điểm

năm 2000 thì phim hoạt hình, nhạc pop, băng đĩa, trò chơi và các chương trình truyền

hình của nước này đều đã hiện diện trong đời sống văn hóa của Hàn Quốc. Từ sau năm

1998, lệnh cấm đối với văn hóa Nhật Bản tiếp tục được Kim Dae Jung nới lỏng lần thứ

hai vào tháng 6-2000. Nhờ có bước tiến này, những bộ phim về chủ đề truyền thống

gia đình và các buổi biểu diễn âm nhạc quy mô lớn của Nhật Bản đã được công chúng

Hàn Quốc đón nhận rộng rãi. Những đổi thay nói trên cho thấy sự vận động tích cực

của Chính phủ trong việc điều chỉnh chính sách đối với Nhật Bản trên lĩnh vực văn hóa

- xã hội ngay từ cuối thế kỷ XX.

Mặc dù đã chủ động tiếp nhận văn hóa và xóa bỏ ký ức đau thương giữa hai nước

nhưng chính sách “mở cửa” đối với văn hóa Nhật Bản cũng có lúc bị gián đoạn trong

thời kỳ cầm quyền của Kim Dae Jung. Sự ngắt quãng này bắt nguồn từ hai lý do: Một là,

Nhật Bản phát hành sách giáo khoa lịch sử có nội dung phủ nhận trách nhiệm trong thời

kỳ chiếm đóng bán đảo Triều Tiên; đồng thời tuyên bố chủ quyền đối với nhóm đảo

tranh chấp Dokdo/Takeshima; hai là, các quan chức Nhật Bản, đặc biệt là Thủ tướng

Junichiro Koizumi thường xuyên viếng thăm đền Yasukuni – nơi thờ những binh sỹ

Page 106: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

96

Nhật Bản mà Hàn Quốc coi là “tội phạm chiến tranh”. Do những vướng mắc về vấn đề

chính trị giữa hai nước chưa được giải quyết nên tiến trình hợp tác trên lĩnh vực văn hóa

– xã hội cũng phải đối diện với nguy cơ “bế tắc” ngay trong năm đầu thế kỷ XXI. Sau

thời điểm khủng hoảng quan hệ vào năm 2001, sự kiện đồng tổ chức Cúp bóng đá thế

giới (2002) đã tạo cơ hội cho hai nước xích lại gần nhau và thúc đẩy các hoạt động trao

đổi văn hóa – xã hội trong năm Quốc gia Nhật Bản – Hàn Quốc. Đây là cơ sở quan trọng

để Tổng thống Kim Dae Jung lần thứ ba nới lỏng lệnh cấm đối với văn hóa Nhật Bản

nhằm củng cố quan hệ song phương sau những tranh cãi về vấn đề lịch sử và chủ quyền.

Bước điều chỉnh này của chính quyền Kim Dae Jung chủ yếu bắt nguồn từ mong muốn

giao lưu, hội nhập văn hóa của nhân dân hai nước vào thời điểm mà giới trẻ Hàn Quốc

đang khao khát tiếp cận với văn hóa bên ngoài còn Nhật Bản thì gần như bị khuynh đảo

bởi “cơn sốt” văn hóa Hàn từ ẩm thực, phim ảnh, âm nhạc cho đến thời trang.

Sau sự kiện Hàn Quốc thúc đẩy giao lưu văn hóa – xã hội với Nhật Bản từ năm

1998, hai nước đã đạt được những bước tiến đầu tiên trên con đường tạo dựng lòng tin

và tăng cường hiểu biết lẫn nhau. Đây là nền tảng quan trọng để người kế nhiệm Roh

Moo Hyun (2003 - 2008) tiếp tục vun đắp mối quan hệ láng giềng gần gũi trên mặt trận

văn hóa tư tưởng. Với mong muốn thúc đẩy toàn diện và sâu sắc kết quả giao lưu giữa

nhân dân hai nước, khi đến thăm Nhật Bản (6-2003), Tổng thống Roh Moo Hyun đã

tuyên bố “Hàn Quốc sẽ mở rộng việc tiếp nhận văn hóa Nhật Bản để kích hoạt nỗ lực

giao lưu văn hóa giữa hai quốc gia” [128; tr. 93]. Phát biểu khai mạc tại cuộc họp báo

chung bên lề Hội nghị Thượng đỉnh Nhật Bản - Hàn Quốc vào năm 2003, một lần nữa,

Roh Moo Hyun khẳng định: “Tiếp tục thực hiện chính sách mở cửa đối với văn hóa

Nhật Bản bằng việc duy trì các hoạt động giao lưu thể dục - thể thao, trao đổi thanh

niên, gặp gỡ lãnh đạo các cấp, miễn thị thực cho công dân Hàn Quốc sang Nhật Bản,

mở đường bay giữa phi trường Kimpo với Haneda, duy trì trao đổi du lịch và sớm kết

thúc việc ký kết Hiệp định An sinh Xã hội giữa hai nước” [101; tr. 205]. Với tuyên bố

trên, việc dỡ bỏ lệnh cấm đối với văn hóa Nhật Bản được Roh Moo Hyun công bố vào

tháng 9 và tháng 12-2003 đã chính thức có hiệu lực vào tháng 01 và tháng 9-2004. Nhờ

quyết tâm duy trì chính sách “mở cửa” đối với văn hóa Nhật Bản từ thời Kim Dae

Jung, Tổng thống Roh Moo Hyun đã đạt được một bước tiến dài trong việc loại bỏ gần

như hoàn toàn những hạn chế đối với âm nhạc, video giải trí, phim ảnh và các chương

trình truyền hình có xuất xứ từ Nhật Bản ngay trong năm 2004 (xem bảng 2.3).

Page 107: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

97

Bảng 2.3. Lộ trình thực hiện chính sách “mở cửa” của Chính phủ Hàn Quốc đối

với Nhật Bản trên lĩnh vực văn hóa – xã hội (1988 - 2004)

Các giai đoạn Thời điểm

bắt đầu Nội dung thực hiện

Giai đoạn 1 10-10-1988 1. Tiếp nhận phim ảnh và video của Nhật Bản; hai nước

hợp tác sản xuất phim truyện

2. Cho phép xuất bản truyện tranh Nhật Bản (Manga) và

trình chiếu phim hoạt hình Nhật Bản (Anime)

Giai đoạn 2 10-9-1999 1. Tiếp nhận phim ảnh và video của Nhật Bản

2. Cho phép biểu diễn âm nhạc ở các sân khấu dưới

2.000 chỗ ngồi

Giai đoạn 3 27-6-2000 1. Tiếp nhận phim ảnh và video của Nhật Bản

2. Cho phép phát hành các Album ca nhạc của Nhật Bản

(hạn chế phổ biến lời bài hát)

3. Chấp nhận tất cả các trò chơi giải trí của Nhật Bản,

bao gồm: trò chơi trên máy tính cá nhân và trò chơi trực

tuyến (cấm sử dụng các trò chơi từ băng đĩa Nhật Bản)

4. Cho phép phát sóng các chương trình truyền hình ở

các thể loại: Thể thao, phim tài liệu. Cho phép truyền dẫn

các chương trình truyền hình của Nhật Bản qua ti-vi,

truyền hình cáp và các thiết bị vệ tinh truyền dẫn.

Giai đoạn 4 16-9-2004 1. Tiếp nhận phim ảnh và video của Nhật Bản

2. Cho phép phát hành đĩa CD, băng thu âm và phổ biến

lời bài hát Nhật Bản

3. Không hạn chế với mọi trò chơi giải trí của Nhật Bản

01-01-2004 4. Cho phép phát sóng các chương trình truyền hình của

Nhật Bản qua cáp và vệ tinh truyền dẫn: Cập nhật thông

tin về đời sống, giáo dục, điện ảnh và giới thiệu phim

hoạt hình Nhật Bản.

5. Cho phép phổ biến lời bài hát và kịch truyền hình Nhật

Bản (dành cho người xem từ 12 tuổi trở lên)

6. Hợp tác sản xuất kịch truyền hình.

Nguồn: Korean Cultural Tourist Bureau and Chosen Nippo (2004)

Page 108: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

98

Nhờ đón nhận các sản phẩm văn hóa Nhật Bản theo quan điểm ngày càng tích

cực và cởi mở, Chính phủ Hàn Quốc đã “mở đường” cho các hoạt động giao lưu xã hội

giữa hai nước diễn ra rộng khắp với nhiều nội dung, trong đó, tiêu biểu nhất là trao đổi

học thuật và hợp tác giáo dục. Cụ thể, Hàn Quốc đã chủ động phối hợp với Nhật Bản tổ

chức các dự án nghiên cứu chung về văn hóa, lịch sử và chính trị giữa hai nước nhằm

tăng cường hiểu biết và tháo gỡ những khúc mắc trong quá khứ. Các dự án này không

chỉ nhận được sự quan tâm của Chính phủ mà còn được đông đảo các cá nhân (nhà khoa

học, nhân chứng lịch sử, nhân dân hai nước) đồng tình ủng hộ bằng việc hỗ trợ thu thập,

xử lý tư liệu và kiểm chứng kết quả nghiên cứu. Từ năm 2002, hai bên nhất trí thành lập

Ủy ban Nghiên cứu lịch sử chung Hàn Quốc - Nhật Bản nhằm thống nhất nội dung lịch

sử giảng dạy trong các trường phổ thông ở cả hai quốc gia. Bên cạnh đó, một số cơ quan

lớn ở Hàn Quốc (Thư viện Quốc hội, Học viện Ngoại giao) và các trung tâm lưu trữ của

Nhật Bản (Thư viện Quốc gia, Trung tâm Tài nguyên Lịch sử châu Á, Cục Lưu trữ Bộ

Ngoại giao) chịu trách nhiệm xây dựng cơ sở dữ liệu, phổ biến các tài liệu nghiên cứu

chung của hai nước với cộng đồng quốc tế bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau.

Thiện chí hợp tác của cả Chính phủ và nhân dân hai nước trong các dự án chung

không chỉ góp phần củng cố lòng tin chính trị mà còn thúc đẩy nhu cầu tìm hiểu về văn

hóa và đời sống của nhau. Đây chính là cơ sở để duy trì chương trình trao đổi học sinh,

sinh viên giữa hai Bộ Giáo dục từ đầu những năm 90 và phong trào biên soạn, phổ biến

tài liệu học tập tiếng Hàn và tiếng Nhật sau khi Kim Dae Jung xóa bỏ lệnh cấm đối với

văn hóa Nhật Bản (1998). Việc Hàn Quốc đón nhận các hoạt động giao lưu văn hóa –

xã hội giữa hai nước đã thúc đẩy Nhật Bản tăng cường trao đổi văn hóa của mình; đồng

thời chủ động giới thiệu đất nước và con người Hàn Quốc với nhân dân trong nước.

Chính vì lý do này, số lượng các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu Hàn Quốc

tại Nhật Bản gia tăng nhanh chóng từ 143 cơ sở (1995) lên 285 cơ sở (2001) và 335 cơ

sở (2004) [58]. Đặc biệt, từ ngày 19-12-2004, đài truyền hình NHK (Nhật Bản) còn

phát sóng chương trình đầu tiên giới thiệu về “làn sóng văn hóa Hàn Quốc” ở châu Á

trên kênh truyền hình vệ tinh của mình.

Nhờ kiên trì thực hiện chính sách “mở cửa” với Nhật Bản trên lĩnh vực văn hóa

- xã hội từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX đến những năm đầu thế kỷ XXI, các thế hệ

lãnh đạo Hàn Quốc đã có thêm cơ sở và động lực để quảng bá hình ảnh của quốc gia;

đồng thời thúc đẩy quan hệ hai nước tiến xa hơn trong năm hữu nghị Hàn Quốc – Nhật

Bản (2005). Ngay trong Tuyên bố chung tại Hội nghị Thượng đỉnh giữa hai nước

(2005) với chủ đề “Xây dựng nền tảng hợp tác Nhật Bản – Hàn Quốc hướng tới một kỷ

Page 109: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

99

nguyên hòa bình và thịnh vượng ở Đông Bắc Á”, Tổng thống Roh Moo Hyun đã xác

định nền tảng tăng cường hợp tác giữa hai nước là sự hiểu biết lẫn nhau, là tình hữu

nghị bền chặt và nỗ lực giao lưu - tiếp xúc trên nhiều lĩnh vực, giữa nhiều thế hệ, đặc

biệt là giữa những người trẻ - lực lượng lãnh đạo kế cận ở Hàn Quốc và Nhật Bản.

Xuất phát từ nhận thức đó, trong suốt nhiệm kỳ tổng thống của mình, Roh Moo Hyun

đã cam kết duy trì, phát triển quan hệ hợp tác với Chính phủ và nhân dân Nhật Bản,

trong đó tập trung vào ba nội dung chủ yếu: Thứ nhất, hai nước tăng cường tình hữu

nghị và sự hiểu biết lẫn nhau thông qua các hoạt động: (1) Trao đổi văn hóa và học

thuật nhân kỷ niệm 40 năm bình thường hóa quan hệ; (2) thực hiện dự án “Vì tương lai

Hàn Quốc – Nhật Bản” nhằm trao đổi khoảng 10.000 thanh niên hai nước trong các sự

kiện văn hóa và thể thao chung; (3) tăng cường trao đổi và nâng cao hiểu biết tại các

Diễn đàn đối thoại Nhật Bản - Hàn Quốc; (4) duy trì tiếp xúc giữa các nhà lãnh đạo trẻ

của hai nước trên lĩnh vực khoa học và văn hóa. Thứ hai, thúc đẩy hợp tác du lịch, xem

xét cấp giấy miễn thị thực cho học sinh, sinh viên tham gia chương trình trao đổi giáo

dục giữa hai nước. Thứ ba, mở rộng các hoạt động giao lưu văn hóa: (1) Tăng cường

hiểu biết lẫn nhau thông qua sự kiện “tuần văn hóa Nhật Bản” tại Hàn Quốc và “tuần

văn hóa Hàn Quốc” tại Nhật Bản; (2) thúc đẩy giao lưu văn hóa - thể thao, tìm hiểu

ngôn ngữ Nhật Bản và Hàn Quốc trong các dự án trao đổi song phương của thế kỷ

XXI; (3) hợp tác, trao đổi giữa nhân dân hai nước trong lĩnh vực văn hóa, thúc đẩy giao

lưu, tìm hiểu các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể ở mỗi nước [174].

Định hướng thúc đẩy sâu sắc và toàn diện chính sách “mở cửa” trên lĩnh vực

văn hóa – xã hội với Nhật Bản từ sau Hội nghị Thượng đỉnh (2005) đã mang lại khá

nhiều thành tựu cho nỗ lực tăng cường hiểu biết giữa hai quốc gia vào năm 2006, điển

hình là sự kiện Nhật Bản trao trả hài cốt của 101 binh sỹ tử trận trong CTTG thứ hai

được thờ tại đền Yutenji (Tokyo) cho Chính phủ Hàn Quốc (01-2006) và hai nước

đồng tổ chức lễ hội đường phố tại Daehakro (Seoul) với chủ đề “Festival Hàn Quốc –

Nhật Bản” (9-2006) [106; tr. 282]. Cũng trong năm này, phim hoạt hình, truyện tranh,

trò chơi video và tiểu thuyết Nhật Bản đã xuất hiện cực kỳ rộng rãi, khoảng 70% bản

dịch truyện tranh nước ngoài ở thị trường Hàn Quốc là của Nhật Bản, hơn 50 cuốn tiểu

thuyết trong số 100 tiểu thuyết bán chạy nhất tại Trung tâm Sách Kyobo (lớn nhất

Seoul) cũng đều là ấn phẩm Nhật Bản [94; tr. 132].

Những tiến bộ trong việc Hàn Quốc thúc đẩy hợp tác văn hóa - xã hội với Nhật

Bản đã giúp hai nước có mối quan hệ ngày càng gần gũi. Tuy nhiên, trong thực tế, sự

khác biệt về nhận thức của Chính phủ hai bên về các vấn đề chung như sự thật lịch sử

Page 110: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

100

hoặc tranh chấp lãnh thổ vẫn tồn tại do sự chi phối sâu sắc của lập trường dân tộc chủ

nghĩa. Chính vì đặc điểm này, ngay cả khi hai nước đã đạt được những bước tiến chưa

từng có về tăng cường hiểu biết lẫn nhau, Hàn Quốc vẫn tỏ thái độ lạnh nhạt trong việc

tiếp nhận văn hóa Nhật Bản mỗi khi bất đồng chính trị giữa hai nước xuất hiện. Điển

hình, từ sau khi quận Shimane (Nhật Bản) công bố ngày “Takeshima” nhằm khẳng

định chủ quyền với nhóm đảo hai nước đang tranh chấp, Bộ trưởng Văn hóa và Du lịch

Hàn Quốc Kim Myung Gon tuyên bố với báo giới Seoul: “Hiện còn quá sớm để mở

cửa hoàn toàn thị trường giải trí Hàn Quốc cho Nhật Bản. Một bộ phận người dân vẫn

có cảm giác thù địch và không sẵn lòng đón nhận văn hóa của nước này. Chúng tôi

đang chờ đợi sự chấp thuận và tình cảm cởi mở hơn từ phía công chúng” [31]. Sau sự

kiện nói trên, Tổng thống Roh Moo Hyun đã mở rộng phạm vi trao đổi, giao lưu giữa

hai nước với nước thứ ba thông qua việc tổ chức các cuộc họp ba bên giữa Bộ trưởng

Văn hóa Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc định kỳ hai năm một lần bắt đầu từ năm

2007. Sáng kiến này có tác dụng “trung hòa” các tác động tiêu cực của vấn đề chính trị

song phương đến kết quả hợp tác văn hóa - xã hội giữa Hàn Quốc và Nhật Bản. Đây

cũng là giải pháp thiết thực nhằm nâng cao vai trò của ba quốc gia “trụ cột” trong tiến

trình bảo tồn và phát huy văn hóa Đông Á.

Nhận thức được tầm quan trọng của hợp tác văn hóa – xã hội trong phát triển

quan hệ hai nước, các thế hệ lãnh đạo Hàn Quốc đã nỗ lực duy trì các chương trình trao

đổi song phương nhằm “xoa dịu” mâu thuẫn trong các vấn đề an ninh chung. Theo

chiều hướng đó, sau khi chính thức nắm giữ cương vị tổng thống, Lee Myung Bak

cũng mong muốn khép lại quá khứ và ưu tiên hợp tác toàn diện với Nhật Bản trên mọi

lĩnh vực, trong đó có văn hóa – xã hội. Với cam kết phát triển quan hệ song phương dựa

trên chính sách “ngoại giao thực dụng”, Lee định hướng Hàn Quốc không đối đầu trực

diện với Nhật Bản về vấn đề sách giáo khoa lịch sử và tranh chấp chủ quyền (xảy ra vào

tháng 5-2008) mà nỗ lực cùng với Trung Quốc thắt chặt giao lưu trên lĩnh vực văn hóa –

xã hội nhằm tăng cường hiểu biết đa phương. Cùng với sự ra đời của “Tuyên bố Jeju”

(25-12-2008) và “Tuyên bố Busan” (09-9-2009), Bộ trưởng Văn hóa Hàn Quốc, Trung

Quốc và Nhật Bản đã thiết lập một nền tảng hợp tác liên Chính phủ thảo luận về các biện

pháp thúc đẩy giao lưu văn hóa – xã hội và trao đổi giữa nhân dân ba nước.

Không chỉ duy trì cơ chế hợp tác đa phương với các quốc gia trong khu vực,

Lee Myung Bak còn ý thức về việc tạo dựng mối quan hệ “hướng tới tương lai” với

Nhật Bản. Phát biểu khai mạc tại cuộc họp báo chung với Thủ tướng Nhật Bản Yukio

Hatoyama (09-10-2009), Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung Bak cam kết: “Sẽ tiếp tục

Page 111: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

101

đẩy mạnh các hoạt động giao lưu văn hóa giữa hai nước và bắt đầu thúc đẩy công tác

này ngay từ vòng đàm phán thứ ba của Ủy ban Trao đổi Văn hóa Hàn Quốc – Nhật

Bản” [180]. Trên cơ sở đó, các hoạt động giao lưu văn hóa giữa hai nước như: Triển

lãm, biểu diễn nghệ thuật, xuất bản báo chí, giới thiệu âm nhạc, phim ảnh, tìm hiểu di

sản văn hóa vật thể và phi vật thể của nhau đã được duy trì và đẩy mạnh. Hàn Quốc

tiếp tục đạt được kết quả về việc ký kết thỏa thuận với Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản

(14-10-2010) về việc trao trả các tài liệu và hiện vật lịch sử có liên quan đến triều đại

Joseon cho Chính phủ Hàn Quốc [70; tr. 602].

Có thể thấy, kể từ khi Kim Dae Jung thực hiện chính sách “mở cửa” đối với

văn hóa Nhật Bản và tích cực thúc đẩy các hoạt động giao lưu xã hội giữa hai nước

vào năm 1998, quan hệ ngoại giao Hàn – Nhật đã đạt được những bước tiến chưa từng

có ngay từ đầu thế kỷ XX. Từ chỗ hoàn toàn “cự tuyệt” các sản phẩm văn hóa, các

chương trình trao đổi dân sự với Nhật Bản, Hàn Quốc đã chủ động nới lỏng lệnh cấm

và nỗ lực duy trì hoạt động giao lưu văn hóa – xã hội giữa hai nước trong suốt hơn một

thập niên. Nhờ vào kết quả đó, con số khoảng 10.000 người thăm viếng hai nước mỗi

năm kể từ sau khi bình thường hóa quan hệ (1965) đã tăng lên 10.000 người mỗi ngày

vào đầu thế kỷ XXI [68; tr. 57]. Dù còn tồn tại không ít vướng mắc do rào cản tâm lý

và ý thức dân tộc chủ nghĩa trong các vấn đề lịch sử nhưng Chính phủ Hàn Quốc vẫn

định hướng duy trì chính sách cởi mở với Nhật Bản trên lĩnh vực văn hóa – xã hội

nhằm nâng cao các tiêu chuẩn văn hóa, tăng cường hiểu biết và “xoa dịu” bất đồng

chính trị tồn tại dai dẳng ở hai nước. Điều quan trọng là, chính sách của Hàn Quốc

trong lĩnh vực này không chỉ tập trung vào các hoạt động trao đổi song phương mà

còn mở rộng phạm vi hợp tác với các nước trong khu vực trên các nội dung trao đổi

học thuật, tổ chức triển lãm, giới thiệu văn hóa… nhằm hạn chế sự lấn át của chủ

nghĩa dân tộc đối với mục tiêu hợp tác và phát triển toàn diện mối quan hệ song

phương Hàn – Nhật.

2.3.2. Đối với Trung Quốc

Củng cố quan hệ đối tác hợp tác chiến lược trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn

hóa – xã hội là cơ hội để Hàn Quốc, Trung Quốc tăng cường hiểu biết, chia sẻ nền tảng

văn hóa Nho giáo và các giá trị truyền thống châu Á. Sau khi quan hệ giữa hai nước bị

gián đoạn suốt hơn bốn thập kỷ của Chiến tranh lạnh, từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX,

Chính phủ Hàn Quốc đã có chiến lược đẩy mạnh trao đổi song phương trên lĩnh vực then

chốt này và coi đây là nội dung trọng tâm trong chính sách đối với Trung Quốc.

Page 112: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

102

Kể từ khi Trung Quốc thực hiện công cuộc cải cách - mở cửa (1978) và quan hệ

ngoại giao chính thức được thiết lập giữa Hàn Quốc và Trung Quốc (1992), trao đổi

song phương trên lĩnh vực văn hóa – xã hội đã liên tục phát triển. Trong chuyến thăm

Trung Quốc của Tổng thống Kim Young Sam, hai nước đã ký kết “Hiệp định hợp tác

văn hóa Hàn Quốc - Trung Quốc” vào ngày 28-3-1994. Đây là văn kiện ngoại giao đầu

tiên giữa hai bên từ sau Chiến tranh lạnh có nội dung định hướng chính sách và khuyến

khích giao lưu, hợp tác trên các lĩnh vực phi chính trị với 18 điều khoản, tập trung vào

năm nhóm vấn đề cơ bản: Một là, thúc đẩy hợp tác giáo dục (trao đổi chuyên gia và tài

liệu học tập, giao lưu học thuật, công nhận trình độ và chứng chỉ giáo dục của nhau);

hai là, thúc đẩy hợp tác văn hóa – nghệ thuật (giao lưu giữa văn nghệ sỹ hai nước, trao

đổi thanh niên, xúc tiến du lịch, thành lập các tổ chức văn hóa chung, tổ chức các sự

kiện văn hóa chung, xuất bản các ấn phẩm văn hóa của nhau); ba là, tăng cường kiểm

soát, ngăn chặn các sản phẩm văn hóa bất hợp pháp; bốn là, thúc đẩy trao đổi trong lĩnh

vực truyền thông (phim ảnh, truyền hình, phát thanh); năm là, thúc đẩy trao đổi trong

lĩnh vực thể thao (tổ chức, tham gia các sự kiện thể thao của nhau, của khu vực và quốc

tế) [104; tr. 265]. Hiệp định hợp tác (1994) không chỉ góp phần gia tăng hiệu suất trao

đổi văn hóa – xã hội giữa hai nước trong suốt nửa thập niên mà còn tạo dựng cơ sở

vững chắc cho mối quan hệ “đối tác hợp tác trong thế kỷ XXI”.

Kế thừa kết quả hợp tác song phương của Tổng thống Kim Young Sam, ngay

trước chuyến thăm Bắc Kinh (1998), Tổng thống kế nhiệm Kim Dae Jung đã khẳng

định: “Hàn Quốc bây giờ không chỉ cần tăng cường hợp tác an ninh, kinh tế mà còn

phải tích cực cải thiện quan hệ với Trung Quốc trên lĩnh vực văn hóa - xã hội” [93; tr.

231]. Quan điểm này được thể hiện trong Tuyên bố chung Hàn Quốc – Trung Quốc

(1998), theo đó, Tổng thống Kim Dae Jung đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mở

rộng các chương trình giao lưu, tiếp xúc song phương vì mục đích phát triển mối quan

hệ hướng tới tương lai với Trung Quốc bằng cam kết: (1) Triệu tập thường xuyên cuộc

họp “Ủy ban văn hóa hỗn hợp Trung – Hàn” nhằm tăng cường trao đổi và hợp tác

văn hóa ở nhiều nội dung, phù hợp với “Hiệp định về hợp tác văn hóa giữa hai nước”;

(2) đồng ý tổ chức và ủng hộ tích cực các hoạt động kỷ niệm lần thứ 50 ngày thành lập

nước Cộng hòa Hàn Quốc (vào năm 1998) và thành lập nước Cộng hòa Nhân dân

Trung Hoa (vào năm 1999); (3) đẩy mạnh quan hệ tiếp xúc về giáo dục và đào tạo trên

cơ sở “Thỏa thuận trao đổi hợp tác giáo dục” giữa hai nước (1998); (4) khuyến khích

hợp tác trao đổi song phương và cùng nỗ lực phát triển ngành du lịch; (5) vun đắp

Page 113: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

103

quan hệ kết nghĩa giữa lãnh đạo địa phương ở các cấp nhằm tăng cường quan hệ văn

hóa giữa hai nước; (6) hoan nghênh ký kết “Hiệp ước pháp lý về các vấn đề tội

phạm”, “Hiệp định về đơn giản hóa thủ tục thị thực và cấp thị thực nhiều lần”, “Bị

vong lục về trao đổi hợp tác thanh niên” [18]. Nội dung trao đổi, giao lưu văn hóa – xã

hội của Tuyên bố chung (1998) đã được kế thừa và phát triển từ “Hiệp định hợp tác

văn hóa Hàn Quốc - Trung Quốc” (1994) nhưng chủ yếu tập trung vào ba vấn đề lớn:

Du lịch, giáo dục và tăng cường quan hệ ở cấp địa phương. Theo đường hướng trọng

tâm này, từ cuối năm 2000 đã có 56 thành phố của Hàn Quốc kết nghĩa với các địa

phương của Trung Quốc, số lượng du học sinh Hàn Quốc ở Trung Quốc tăng lên

15.000. Các chuyến bay thẳng từ Bắc Kinh, Thượng Hải, Thẩm Dương, Đại Liên,

Thanh Đảo (Trung Quốc) đến Seoul hoặc Pusan (Hàn Quốc) đã được khai thông nhằm

đáp ứng nhu cầu đi lại và du lịch của nhân dân hai nước [106; tr. 282].

Năm 2003, trong Hội nghị Thượng đỉnh giữa Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Tổng

thống Roh Moo Hyun tại Bắc Kinh, Hàn Quốc đồng ý thúc đẩy quan hệ hữu nghị láng

giềng trên cơ sở coi Trung Quốc là đối tác quan trọng trong hợp tác chính trị, kinh tế,

văn hóa; đồng thời là “điểm khởi đầu” của “làn sóng Hàn Quốc” (Hallyu) tại Đông Á 5F

6.

Trong thời kỳ cầm quyền của Tổng thống Roh Moo Hyun, việc duy trì và mở rộng

phạm vi ảnh hưởng của “Hallyu” ở Trung Quốc được xác định là nội dung cơ bản

trong chính sách văn hóa – xã hội của Hàn Quốc. Với cam kết trong diễn văn nhậm

chức (25-02-2003): “Sẽ tích cực quảng bá hình ảnh Hàn Quốc và thúc đẩy sự tiến bộ

của ngành công nghiệp văn hóa” [145], Tổng thống Roh Moo Hyun là người đặt nền

móng cho sự phát triển công nghiệp văn hóa gắn liền với “làn sóng Hàn Quốc” để làm

động lực tăng trưởng của quốc gia. Với việc coi âm nhạc là nhân tố cốt lõi của ngành

công nghiệp này, Roh Moo Hyun đã đầu tư 40 tỷ won (2007) để tạo ra “làn sóng Hàn

Quốc” tại Trung Quốc và nỗ lực biến nước nhà trở thành cường quốc văn hóa toàn cầu

[169; tr. 5]. Phát triển “Hallyu” ở Đông Á (mà Trung Quốc là tâm điểm) nằm trong

chiến lược kích cầu giao thông, du lịch và xuất khẩu các sản phẩm văn hóa mang

thương hiệu Hàn Quốc. Quá trình đưa “Hallyu” vào thị trường Trung Quốc đi từ quảng

bá văn hóa, xuất khẩu văn hóa, thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường văn hóa bản địa

(bảng 2.4).

6 “Hallyu” mô tả sự bùng nổ của ngành giải trí Hàn Quốc ở Trung Quốc từ cuối thập niên 90 của thế kỷ XX;

trong đó, các bộ phim truyền hình, nhạc pop và những ngôi sao giải trí Hàn Quốc đóng vai trò trung tâm của

làn sóng này. Tên gọi “Hallyu” do nhật báo trẻ Bắc Kinh đặt ra vào năm 1999.

Page 114: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

104

Bảng 2.4. Các giai đoạn phát triển “Hallyu” ở Trung Quốc

Các giai đoạn Đặc điểm Nội dung

Giai đoạn 1 Quảng bá văn hóa

Hàn Quốc

- Giới thiệu phim ảnh

- Triển lãm âm nhạc (K-pop)

Giai đoạn 2 Xuất khẩu các sản phẩm

văn hóa chủ lực

- Xuất khẩu chương trình phát thanh,

truyền hình

- Xuất khẩu điện ảnh, K-pop, các trò

chơi điện tử trực tuyến

- Tổ chức hòa nhạc và bán vé xem

phim ở nước ngoài

Giai đoạn 3

Thâm nhập thị trường

văn hóa bản địa

(Hallyu 2.0: Làn sóng Hàn

Quốc trong kỷ nguyên truyền

thông xã hội)

- Phát triển trào lưu du lịch Hàn

Quốc, du lịch kết hợp phẫu thuật

thẩm mỹ trong giới trẻ Trung Quốc.

- Phổ biến ngôn ngữ, ẩm thực, thời

trang Hàn Quốc thông qua: Facebook,

Twitter, YouTube, Cyworld và các

trang mạng xã hội.

Nguồn:M. Kim (2011), Stages of Hallyu, “The Role of the Government in Cultural

Industry, Some Observations, from Korea's Experience”, Keio Communication

Review, no. 33, p. 167.

Từ cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, xuất khẩu văn hóa của Hàn Quốc đã phát

triển cực kỳ mau lẹ do sự bùng nổ “Hallyu” trước hết là ở Trung Quốc. Năm 2000, 24

bộ phim Hàn Quốc đã được nhập khẩu và phát sóng trên các kênh truyền hình của

Trung Quốc. Các trò chơi trực tuyến cũng phát triển nhanh chóng đạt 102 triệu USD

(2000) với doanh thu toàn cầu sánh ngang những bộ phim truyền hình [62]. Ngành

công nghiệp trò chơi trực tuyến và âm nhạc hiện đại Hàn Quốc (K-pop) được xác định

là những sản phẩm xuất khẩu quan trọng nhất của văn hóa Hàn Quốc. Theo công bố

của tờ Korea Times (22-12-2005), các sản phẩm âm nhạc, điện ảnh và phát thanh

truyền hình có kim ngạch xuất khẩu đạt 1 tỷ USD. Với sức phát triển như vũ bão của

“Hallyu”, số lượng khách du lịch nước ngoài đến Hàn Quốc đã liên tục gia tăng; trong

đó, khách Trung Quốc có số lượng đông đảo nhất từ 28.909 người (1995); 32.761

người (1996) - trước thời điểm bùng nổ “Hallyu” đã tăng lên 137.816 người (1999);

314.433 người (2002) và 392.142 người (2006, chiếm 14,6% tổng số khách du lịch nước

Page 115: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

105

ngoài đến Hàn Quốc) [85]. Chỉ tính riêng năm 2005, số khách du lịch của cả hai nước đã

đạt gần 4.250.000 người [105; tr. 56]. “Làn sóng Hàn Quốc” ở Trung Quốc cho thấy

triển vọng mới trong mối quan hệ hợp tác đối tác chiến lược và nỗ lực phát triển kinh tế

tri thức thời hậu công nghiệp dựa trên chính sách văn hóa – xã hội của Hàn Quốc.

Kế tục các tổng thống Kim Young Sam, Kim Dae Jung và Roh Moo Hyun, Lee

Myung Bak là thế hệ lãnh đạo thứ tư ở Hàn Quốc mong muốn sử dụng “Hallyu” như là

một công cụ quyền lực mềm của chính sách đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa – xã hội với

tuyên bố: “Làn sóng Hàn Quốc bây giờ đã lan rộng khắp thế giới… và văn hóa đã trở

thành một ngành công nghiệp. Chúng ta (Hàn Quốc) phải phát triển khả năng cạnh tranh

trong chính ngành công nghiệp này, từ đó đặt nền tảng để trở thành một quốc gia phát

triển mạnh mẽ về các hoạt động văn hóa” (Diễn văn nhậm chức ngày 25-02-2008) [161].

Từ chiến lược đưa Hàn Quốc đứng vào top 5 trong ngành công nghiệp văn hóa thế giới

của Tổng thống Roh Moo Hyun, Lee Myung Bak đã nỗ lực xây dựng Hàn Quốc trở thành

“Hollywood của phương Đông” và bước đầu phát triển thương hiệu “Hallyu-wood” trước

hết ở Trung Quốc vì đây là quốc gia đông dân và dân số trẻ. Trong suốt nhiệm kỳ của

mình, Lee Myung Bak chủ yếu dựa vào sức mạnh truyền thông để đưa “làn sóng Hàn

Quốc” vào thị trường Trung Quốc thông qua phim ảnh. Nhờ phản ánh các giá trị truyền

thống Nho giáo nhưng vẫn tổng hợp đầy đủ yếu tố âm nhạc, ẩm thực, thời trang… điện

ảnh Hàn Quốc đã tạo ra sức hút thực sự, lôi cuốn lớp trẻ Trung Quốc vào “cơn sốt” trang

phục, ngôn ngữ, và trào lưu đi du lịch đến các địa điểm nổi tiếng trong phim ảnh Hàn

Quốc. Sức lan tỏa mãnh liệt của điện ảnh trong nước đã tác động tích cực đến nhiều lĩnh

vực khác nhau của ngành công nghiệp văn hóa, trong đó có du lịch, K-pop và các trò chơi

trực tuyến (Giai đoạn Hallyu 2.0). Theo số liệu của Tổ chức Du lịch Quốc gia Hàn Quốc,

sự phát triển của ngành điện ảnh đã thu hút 1,2 triệu du khách Trung Quốc (2008); 1,34

triệu khách (2009) và 1,88 triệu khách (2010) [151]. Đây là số lượng lớn nhất trong tổng số

khách du lịch nước ngoài đến Hàn Quốc. Lĩnh vực âm nhạc (K-pop) và ngành công

nghiệp trò chơi trực tuyến của Hàn Quốc cũng tìm được chỗ đứng ở thị trường Trung

Quốc nhờ mức độ phổ biến của nhạc phim và các kịch bản phim nổi tiếng. Chỉ tính riêng

năm 2008, xuất khẩu văn hóa của Hàn Quốc đã đạt 362,8 triệu USD so với 306,8 triệu

USD (2007) và 233,2 triệu USD (2006) [95; tr. 81]; trong đó, Trung Quốc vẫn là một trong

những thị trường tiêu thụ chủ yếu. Hơn 80% sản phẩm văn hóa Trung Quốc nhập khẩu từ

Hàn Quốc trong năm này là các trò chơi trực tuyến; các nhân vật trong tiểu thuyết, phim

truyện và kịch (10,6%); ấn phẩm xuất bản (5,4%) và các chương trình phát thanh truyền

hình (2,2%) [71; tr. 123].

Page 116: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

106

Cùng với nỗ lực phát triển “Hallyu” ở Trung Quốc, từ năm 2008 chính quyền

Lee Myung Bak bắt đầu đẩy mạnh các chương trình trao đổi thanh niên giữa hai nước

sau khi Tuyên bố chung Hàn Quốc – Trung Quốc ra đời (28-5-2008) với ba nội dung

chính: (1) Mở rộng chương trình trao đổi thanh thiếu niên giữa hai nước và thúc đẩy

chương trình trao đổi học bổng giữa hai Chính phủ; (2) nhất trí hợp lý hóa các thủ tục

xin thị thực nhằm tăng cường giao lưu nhân dân; (3) tăng cường hiểu biết lẫn nhau,

tích cực hỗ trợ trao đổi lịch sử và văn hóa với các trường đại học của Trung Quốc

[175]. Theo cam kết của Tuyên bố trên, năm 2009, Chính phủ Hàn Quốc đã mời 400

sinh viên Trung Quốc sang Hàn Quốc trong chương trình trao đổi học thuật, nghiên

cứu chung về môi trường và đi thực tế tại các khu công nghiệp. Từ năm 2010, hằng

năm Hàn Quốc đều cử đoàn đại biểu khoảng 100 người tham gia vào các sự kiện giao

lưu, trao đổi văn hóa chung tổ chức ở Trung Quốc. Trong cuộc gặp Chủ tịch Hồ Cẩm

Đào (27-6-2010) tại Hội nghị Thượng đỉnh G20 lần thứ IV (Toronto – Canada), Tổng

thống Lee Myung Bak đã tái khẳng định “chính sách mở rộng các hoạt động giao lưu

thanh niên nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau; đồng thời củng cố tình hữu nghị với

Chính phủ và nhân dân Trung Quốc” [176]. Nhờ vào chủ trương này của Chính phủ,

cuối năm 2010, có 65.000 du học sinh Hàn Quốc và 75.000 du học sinh Trung Quốc

tham gia học tập ở cả hai nước. Ngoài ra, khoảng từ 600.000 người đến 800.000 người

Hàn Quốc cư trú dài hạn hoặc ngắn hạn ở Trung Quốc - con số này dự kiến đạt 1 triệu

người vào năm 2015 [90].

Có thể thấy, trong hơn hai thập niên từ sau Chiến tranh lạnh, nhờ duy trì quan

hệ hợp tác với Trung Quốc về chính trị, ngoại giao và kinh tế, Hàn Quốc đã có điều

kiện thuận lợi thúc đẩy trao đổi thường xuyên giữa hai nước trên lĩnh vực văn hóa – xã

hội. Với việc điều chỉnh chính sách theo hướng tiếp cận gần gũi, coi Trung Quốc là

“tâm điểm” của các trào lưu văn hóa mới và các chương trình giao lưu thanh niên, Hàn

Quốc đã ra sức củng cố tình hữu nghị giữa hai bên và qua đó, từng bước thay đổi vị thế

quốc tế của chính mình ở khu vực. Từ chỗ chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc,

Hàn Quốc về cơ bản đã hoàn toàn chinh phục và lôi cuốn các nước Đông Bắc Á (trước

hết là Trung Quốc) vào “cơn bão Hallyu” bằng sức mạnh của điện ảnh, âm nhạc và các

chương trình phát thanh truyền hình. Đây là tiền đề quan trọng để hai bên xóa bỏ hận

thù từ thời Chiến tranh Triều Tiên và cùng nhau xây dựng mối quan hệ đối tác hợp tác

chiến lược trong thế kỷ XXI.

Page 117: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

107

2.3.3. Đối với CHDCND Triều Tiên

Văn hóa – xã hội được xem là lĩnh vực then chốt có tác dụng kết nối tinh thần

dân tộc và xóa bỏ nghi kị trong quan hệ liên Triều, tạo cơ sở thuận lợi cho chiến lược

thống nhất bán đảo Triều Tiên. Với ý nghĩa đó, kể từ sau Chiến tranh lạnh, các thế hệ

lãnh đạo Hàn Quốc đã từng bước điều chỉnh chính sách với CHDCND Triều Tiên trên

lĩnh vực văn hóa – xã hội bằng việc thực hiện song song ba nội dung cơ bản: Viện trợ

nhân đạo, đoàn tụ gia đình ly tán và giao lưu văn hóa theo hướng tiếp cận ngày càng

gần gũi và trên lập trường dân tộc chủ nghĩa.

Viện trợ nhân đạo

Lũ lụt tàn phá ở miền Bắc từ giữa những năm 1990 đã làm cho nạn đói lan rộng

ở Bắc Triều Tiên. Năm 1994, CHDCND Triều Tiên thừa nhận thiếu hụt lương thực

nghiêm trọng và phải tiếp nhận hỗ trợ nhân đạo do Tổ chức Tầm nhìn quốc tế, Hội Cứu

trợ Thiên Chúa giáo tại California và Chính phủ Hàn Quốc phối hợp gây quỹ. Khi

CHDCND Triều Tiên đang ở trên miệng hố khủng hoảng, phải cầu cứu nguồn dự trữ

ngũ cốc của Nhật Bản, Tổng thống Kim Young Sam vẫn một mực duy trì nguồn viện

trợ vô cùng “nhỏ giọt” cho miền Bắc và chủ động cản trở mọi hỗ trợ từ bên ngoài.

Phó Thủ tướng Hàn Quốc Woong Bae Rha thậm chí còn không ít lần cảnh báo Nhật

Bản về “nguy cơ căng thẳng quan hệ nếu nước này đơn phương cung cấp viện trợ

cho CHDCND Triều Tiên mà không có sự tham gia của Hàn Quốc” [56; tr. 231].

Chính vì coi lương thực là “đòn bẩy ngoại giao” để buộc Bình Nhưỡng từ bỏ vũ khí

hạt nhân nên Kim Young Sam kiên quyết không gửi gạo cứu đói cho đến khi miền

Bắc chấp nhận tham gia vào đàm phán bốn bên. Quan điểm này được chính tổng

thống Hàn Quốc đưa ra trong Thông điệp kỷ niệm ngày giải phóng dân tộc (15-8-

1993) với tuyên bố: “Chỉ khi nào CHDCND Triều Tiên đảm bảo sự minh bạch về

các hoạt động hạt nhân và chịu ngồi vào bàn đàm phán, Hàn Quốc mới đồng ý hỗ trợ

nhân đạo” [78; tr. 241]. Từ năm 1995, chính quyền Kim Young Sam bắt đầu thực hiện

chính sách “đổi viện trợ lương thực, lấy đàm phán ngoại giao” (hay còn gọi là giải pháp

“thực phẩm vì hòa bình”). Theo đó, Hàn Quốc đưa sang miền Bắc 150.000 tấn gạo để

mở đường cho việc tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh liên Triều lần đầu tiên trong lịch sử.

Tuy nhiên, dự định chính trị này chẳng những không thành công mà còn kéo theo kết

quả hạn chế trong công tác viện trợ nhân đạo của Hàn Quốc trong những năm tiếp theo.

Từ chỗ đóng góp đến 80,5% tổng giá trị viện trợ của cộng đồng quốc tế cho Bắc Triều

Tiên với 232,3 triệu USD (1995), viện trợ nhân đạo của Hàn Quốc đột ngột sút giảm và

chỉ chiếm 4,5% tổng giá trị viện trợ của thế giới với 4,6 triệu USD (1996) [111; tr.

147].

Page 118: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

108

Mô hình viện trợ theo kiểu “có đi có lại” của Kim Young Sam đã hoàn toàn chấm

dứt sau khi chính quyền Kim Dae Jung lên nắm quyền và liên tục cung cấp 400.000 tấn

lương thực và 300.000 tấn phân bón mỗi năm cho CHDCND Triều Tiên [34]. Đây là hệ

quả của chính sách viện trợ nhân đạo được Kim Dae Jung công bố trong diễn văn nhậm

chức (25-02-1998): “Quan hệ liên Triều cần được phát triển trên cơ sở hòa bình, hòa

giải và hợp tác. Chúng tôi (Hàn Quốc) sẽ không keo kiệt trong vấn đề viện trợ lương

thực cho miền Bắc thông qua Chính phủ và các tổ chức tư nhân” [145]. Cam kết nói trên

của Tổng thống Kim Dae Jung không chỉ thúc đẩy hoạt động nhân đạo bằng việc vận

chuyển thực phẩm và nông sản cho CHDCND Triều Tiên mà còn phản ánh mong muốn

theo đuổi tiến trình hòa giải liên Triều ở đa cấp thông qua “chính sách nhiều kênh” - cho

phép các nhóm công dân và doanh nghiệp Hàn Quốc liên lạc, hỗ trợ các tổ chức xã hội

của Bắc Triều Tiên vì mục đích nhân đạo. Trên cơ sở đó, từ đầu năm 1999, Hàn Quốc

bắt đầu mở rộng các kênh viện trợ trực tiếp cho miền Bắc nhằm nâng cao năng lực và

hiệu quả trợ giúp nhân đạo của khu vực tư nhân. Từ chỗ có 10 tổ chức tư nhân tham gia

viện trợ (1999); đến năm 2000, 13 tổ chức đã cùng góp sức vào hoạt động nhân đạo của

Chính phủ [111; tr. 152]. Giữa năm 2000, 8 tổ chức tư nhân khác tiếp tục tham gia vào

hoạt động này với số tiền 2,7 tỷ Won dành cho 5 chương trình phát triển nông nghiệp;

1,65 tỷ Won cho 2 dự án về sức khỏe - y tế và 1,06 tỷ Won cho 2 chương trình cứu trợ

nhân đạo khẩn cấp khác [111; tr. 153]. Kết quả này làm gia tăng trở lại tỷ lệ đóng góp

hằng năm của Hàn Quốc trong tổng số giá trị hàng hóa viện trợ của cộng đồng quốc tế,

lần lượt chiếm 38,5% (2000); 27,5% (2001) và 34,5% (2002). Việc chú trọng vào công

tác viện trợ nhân đạo của Chính phủ Hàn Quốc (1998 - 2003) cho thấy sự khác biệt căn

bản giữa giải pháp “cho trước, nhận sau” của Kim Dae Jung với logic tiếp cận theo kiểu

không tháo dỡ vũ khí hạt nhân, không có viện trợ nhân đạo ở tất cả các cấp của chính

quyền Kim Young Sam. Lập trường này được chính ông khẳng định trong “Thông điệp

đầu năm” (03-01-2000) và tại cuộc họp báo thường kỳ của Chính Phủ (26-01-2000):

“Hàn Quốc sẽ tiếp tục mở rộng chương trình viện trợ nhân đạo cho Bắc Triều Tiên bằng

lòng thiện chí, trong đó đặc biệt coi trọng công tác viện trợ phân bón” [111; tr. 148].

Quan điểm ôn hòa, mềm mỏng của chính quyền Kim Dae Jung đã giúp Hàn

Quốc cùng một lúc đạt được hai mục tiêu: Vừa kiểm soát tình trạng đối đầu trong lĩnh

vực chính trị - ngoại giao, vừa gia tăng sự phụ thuộc ngày càng lớn của Bắc Triều Tiên

về phương diện kinh tế. Bài học quan trọng này tiếp tục được Tổng thống kế nhiệm

Roh Moo Hyun vận dụng triệt để trong việc thực hiện các chương trình nhân đạo. Vào

thời kỳ cầm quyền của ông, Hàn Quốc luôn duy trì vai trò trụ cột trong công tác cứu trợ

Page 119: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

109

thông qua 3 tổ chức nòng cốt của Liên Hợp Quốc: Chương trình Lương thực Thế giới

(WFP), Qũy Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).

Trong giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2005, nguồn lương thực và phân bón cung cấp

cho miền Bắc có giá trị lên đến 860 tỷ Won, chiếm gần 53% tổng số viện trợ của Hàn

Quốc dành cho CHDCND Triều Tiên. Chỉ tính riêng năm 2005, Hàn Quốc đã cung cấp

500.000 tấn gạo (chiếm 25% tổng sản phẩm lương thực của miền Bắc).

Vượt qua những sóng gió trong vấn đề chính trị, các chương trình nhân đạo của

Hàn Quốc lại được tái khởi động từ tháng 02-2007 sau khi Tổng thống Roh Moo Hyun

và Hội Chữ thập đỏ Hàn Quốc đưa ra “Tuyên bố 10 điểm” khẳng định: “Xuất phát từ

tình cảm dân tộc và tinh thần nhân đạo, Hàn Quốc cam kết cung cấp 400.000 tấn gạo

và 500.000 tấn phân bón cho CHDCND Triều Tiên” [32]. Sự nhất quán của Tổng

thống Roh Moo Hyun trong việc duy trì thường xuyên và liên tục hoạt động cứu trợ

nhân đạo có tác dụng hàn gắn mối quan hệ liên Triều từng bị “đứt gãy” vào thời kỳ

cầm quyền của Kim Young Sam. Trong suốt 10 năm (1998 - 2008), hai Chính phủ

Kim Dae Jung và Roh Moo Hyun đã viện trợ vô điều kiện cho miền Bắc lần lượt là

449 triệu USD và 1.402 triệu USD (xem biểu đồ 2.2). Chỉ tính riêng vào thời kỳ Roh

Moo Hyun nắm quyền, khoảng 450.000 tấn lương thực đã được cung cấp miễn phí

hằng năm cho Bắc Triều Tiên (2003 - 2007). Những khoản viện trợ này tương đương

với số hàng hóa cứu trợ của Trung Quốc dành cho Bình Nhưỡng.

Biểu đồ 2.2. Viện trợ nhân đạo của Hàn Quốc cho CHDCND Triều Tiên

(1993 - 2008)

Đơn vị: triệu USD

Nguồn: Korea Overseas Information Services (2010)

0 200 400 600 800 1000 1200 1400 1600 1800 2000

KIM YOUNG SAM

KIM DAE JUNG

ROH MOO HYUN

KIM YOUNG SAM KIM DAE JUNG ROH MOO HYUN

Chính phủ 261,72 449,77 1402,53000

Khu vực tư nhân 22,36 191,25 432,46

Page 120: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

110

Không thể phủ nhận, bên cạnh vai trò nòng cốt của Chính phủ, khu vực tư nhân

cũng đã tham gia tích cực vào công tác cứu trợ nhân đạo với mức đóng góp ngày càng

đáng kể. Theo biểu đồ 2.2, vào thời kỳ cầm quyền của Kim Young Sam, tư nhân chỉ

chiếm 8% tổng số cứu trợ của Hàn Quốc vì các tổ chức xã hội hoạt động từ đầu năm

1993 đều bị Chính phủ giám sát chặt chẽ nhằm hạn chế nỗ lực cứu đói miền Bắc. Tuy

nhiên, tình hình này đã bắt đầu thay đổi khi Kim Dae Jung và Roh Moo Hyun thực

hiện chính sách viện trợ nhiều kênh, qua đó trực tiếp thúc đẩy mức đóng góp của khu

vực tư nhân lên 191 triệu USD (chiếm 28%) và 432 triệu USD (chiếm 12% giá trị hàng

hóa cứu trợ của Hàn Quốc trong cả hai thời kỳ), tăng 27,7% và 44% so với thời chính

quyền Kim Young Sam.

Bước sang năm 2009, quá trình chuyển giao quyền lực ở Hàn Quốc đã làm đảo

lộn đáng kể hoạt động viện trợ nhân đạo ở trong nước. Với quan điểm chính trị thực

dụng, Tổng thống Lee Myung Bak quyết tâm theo đuổi nguyên tắc “ABR” (Anything

but Roh) (Bất cứ điều gì ngoại trừ chính sách của Roh Moo Hyun) [54; tr. 11-12]. Nỗ

lực liên kết giữa giải giáp hạt nhân với hỗ trợ cứu đói của Lee Myung Bak được coi là

“phiên bản” chính sách “Ngoại giao mới” của Kim Young Sam. Thế nhưng, về mức độ

cương quyết và thái độ cứng rắn thì Lee Myung Bak thậm chí còn vượt xa nhà lãnh đạo

tiền bối. Cách tiếp cận thực dụng của chính quyền mới đòi hỏi Bắc Triều Tiên không

chỉ tuân thủ nguyên tắc có điều kiện “có đi có lại” mà còn phải “cho trước nhận sau”.

Sự lựa chọn chính sách thực dụng như vậy đã làm gián đoạn các cuộc đàm phán sáu

bên, các thỏa thuận phi hạt nhân hóa vào năm 2008 và còn làm ngưng trệ mọi hoạt

động viện trợ nhân đạo. Các chương trình hỗ trợ cho CHDCND Triều Tiên, lúc bấy

giờ, chủ yếu chỉ được duy trì bởi các Tổ chức phi chính phủ (NGOs) với mức đóng góp

30,3 triệu USD tiền mặt và 4.000 tấn ngũ cốc [35].

Đoàn tụ các gia đình ly tán

Thời điểm Chiến tranh lạnh vừa kết thúc, vấn đề đoàn tụ các gia đình ly tán luôn

bị gán ghép và chịu ảnh hưởng sâu sắc do sự đối lập quan điểm chính trị của cả hai Nhà

Nước. CHDCND Triều Tiên cho rằng nhiệm vụ xã hội này chỉ có thể được giải quyết

sau khi bán đảo đã hoàn toàn thống nhất, còn Hàn Quốc thì coi đây là bước thử nghiệm

đầu tiên trong quá trình tái hợp dân tộc. Do cách tiếp cận vấn đề bằng “nhãn quan”

chính trị chứ không phải theo quan điểm nhân đạo nên ngay từ đầu, Bình Nhưỡng đã

không mặn mà với hoạt động này.

Năm 1984, hai bên lần đầu tiên đạt được thỏa thuận về việc tiếp xúc giữa 35 hộ

gia đình Hàn Quốc với 30 gia đình người Bắc Triều Tiên sau khi miền Nam giúp đỡ

Page 121: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

111

miền Bắc khắc phục hậu quả lũ lụt. Lo sợ việc đoàn tụ các gia đình ly tán có thể bị gián

đoạn nếu Hàn Quốc đình chỉ viện trợ, chính quyền Roh Tae Woo đã đưa ra “Tuyên bố

Đặc biệt về Quốc gia tự chủ, thống nhất và thịnh vượng” (hay còn gọi là “Tuyên bố

ngày 07-7-1988”), “Hướng dẫn về hợp tác, trao đổi liên Triều” (12-6-1989) và “Luật

Hợp tác – trao đổi liên Triều” (1990) nhằm mở đường cho việc thực hiện chính sách

đoàn tụ ở nước thứ ba. Ba văn kiện nói trên là nền tảng pháp lý vững chắc với nội dung

nhất quán là: “Tích cực duy trì và đẩy mạnh việc trao đổi, tiếp xúc giữa thân nhân hai

miền thông qua kiều bào người Hàn Quốc và người Triều Tiên ở nước ngoài để tái hợp

các gia đình ly tán” [130; tr. 627-630]. Kể từ năm 1990, Chính phủ Hàn Quốc đã bắt

đầu đưa vấn đề này vào các cuộc đàm phán cấp cao liên Triều và từ năm 1992, nó

chính thức trở thành một điều khoản trong Hiệp định Cơ bản với nội dung: “Hai bên

cho phép trao đổi thư từ, gặp gỡ và viếng thăm giữa thành viên hoặc họ hàng của

những gia đình ly tán, thúc đẩy đoàn tụ tự nguyện và có biện pháp giải quyết các vấn

đề nhân quyền” [111; tr. 244-247]. Tuy nhiên, văn bản nói trên đã nhanh chóng bị Bắc

Triều Tiên “phớt lờ” từ sau sự kiện thống nhất nước Đức và sự sụp đổ CNXH ở các

nước Đông Âu, Liên Xô (1989 - 1991). Với mong muốn CHDCND Triều Tiên thể

hiện vai trò nhiều hơn trong nỗ lực tái hợp thân nhân hai miền, trong phát biểu kỷ niệm

ngày Giải phóng dân tộc (15-8-1994), Tổng thống Kim Young Sam thẳng thắn đề nghị:

“Bình Nhưỡng không những phải thừa nhận tình cảnh đau khổ của các gia đình ly tán

là một vấn đề nhân quyền cơ bản mà cần sớm hợp tác với Seoul để khắc phục hậu quả

của nó” [107; tr. 234-241]. Nhờ vào sự vận động tích cực của Chính phủ, năm 1996,

2.485 gia đình Hàn Quốc đã được tiếp xúc với người dân Bắc Triều Tiên, 33% trong số

họ trực tiếp hoặc gián tiếp xác minh về nơi ở của các thành viên trong gia đình thông

qua thân nhân hoặc dịch vụ tìm kiếm ở nước thứ ba [107; tr. 162].

Sau khi Tổng thống Kim Dae Jung lên nắm quyền, vấn đề đoàn tụ gia đình ly tán

trở thành ưu tiên số một trong chính sách Bắc Triều Tiên của Hàn Quốc. Xuất phát từ

nhận thức: “Kiểu quan hệ “Chiến tranh lạnh” kéo dài giữa hai miền suốt hơn nửa thế kỷ

làm cho các thành viên của những gia đình ly tán không thể biết cha mẹ và anh chị em

của mình còn sống hay đã chết… cần sớm được chấm dứt” (Diễn văn nhậm chức ngày

25-02-1998) [145], Kim Dae Jung đưa ra “chính sách 4 điểm” về công tác này với nội

dung: Thứ nhất, đoàn tụ gia đình ly tán là vấn đề nhân quyền, không thực hiện bằng đàm

phán chính trị; thứ hai, đoàn tụ gia đình ly tán là vấn đề cấp bách, không được trì hoãn;

thứ ba, đây là vấn đề nhân đạo, phải thực hiện trước các nhiệm vụ chính trị; thứ tư, giải

quyết vấn đề gia đình ly tán nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh và tái hòa hợp dân tộc

Page 122: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

112

[82; tr. 35]. Bắt nguồn từ thực tế nhiều thành viên trong các gia đình ly tán đang qua đời

vì tuổi già và không có cơ hội gặp mặt người thân, Tổng thống Kim Dae Jung đã ra sức

thúc đẩy công tác đoàn tụ thân nhân bằng những giải pháp đồng bộ chưa từng có: (1)

Thực hiện đoàn tụ khẩn cấp cho các thành viên thuộc thế hệ đầu tiên của các gia đình ly

tán ở nước thứ ba với thủ tục pháp lý đơn giản và mức hỗ trợ tài chính lớn (800.000 Won

để xác minh địa chỉ và 1.800.000 Won để đoàn tụ thân nhân); (2) xây dựng Trung tâm

thông tin phục vụ đoàn tụ gia đình; (3) thiết lập cơ sở dữ liệu và khởi động trang web

điện tử nhằm giải đáp thắc mắc về tìm kiếm người thân [111; tr. 142].

Đi đôi với việc thực hiện quyết liệt hàng loạt giải pháp mới, chính quyền Kim

Dae Jung còn đưa ra một quyết sách lịch sử (07-7-1998) khẳng định: “Theo khái niệm

chung, gia đình ly tán bao gồm những người thân bị chia cắt trong cuộc chiến tranh

Triều Tiên, bên cạnh đó những thành phần bị bắt cóc, tù binh, dân tị nạn hoặc bỏ chạy

khỏi miền Bắc cũng có thể được coi là một dạng khác của gia đình ly tán” [110; tr. 51].

Chính sách đổi mới nói trên của Kim Dae Jung đã đưa các hoạt động nhân đạo ở Hàn

Quốc thoát khỏi những khuôn khổ ràng buộc của ý thức hệ. Tuy nhiên, chính sự thay

đổi này cũng tạo ra thách thức không nhỏ trong việc vận động, thuyết phục CHDCND

Triều Tiên hợp tác giải quyết vấn đề nhân đạo với Hàn Quốc. Để tháo gỡ khó khăn,

Tổng thống Kim Dae Jung đã thực hiện lồng ghép hai nhiệm vụ cơ bản, đó là: Vừa

cam kết“tạo điều kiện trao đổi thư từ và bày tỏ thiện chí đoàn tụ các gia đình ly tán mà

không gây hiềm khích chính trị đối với CHDCND Triều Tiên” [19; tr. 15], vừa kêu gọi

miền Bắc tích cực tìm kiếm giải pháp khả thi cho vấn đề gia đình ly tán. Quá trình

thuyết phục Bắc Triều Tiên hưởng ứng chính sách của Hàn Quốc bắt đầu có bước phát

triển đột phá khi Kim Dae Jung thực hiện phương châm “lợi ích kinh tế đi trước, hợp

tác nhân đạo theo sau”. Trên cơ sở đó, trong “Tuyên bố Berlin” vào năm 2000, chính

quyền của ông đưa ra bốn gợi ý: Duy trì viện trợ kinh tế cho CHDCND Triều Tiên;

thúc đẩy hòa giải - hợp tác liên Triều; tìm kiếm giải pháp đoàn tụ gia đình ly tán; trung

thành với Hiệp định Cơ bản Bắc – Nam [111; tr. 29]. Đối với việc thực hiện đoàn tụ

thông qua các tổ chức tư nhân, Hàn Quốc còn tạo điều kiện cho Chính phủ miền Bắc

được hưởng mức phí dịch vụ cao từ 500 đến 1.000 USD để xác định danh tín và trao

đổi thư từ, từ 5.000 đến 10.000 USD để thực hiện đoàn tụ ở nước thứ ba [83; tr. 72-74].

Nhờ cơ chế ưu đãi đặc biệt về kinh tế cho CHDCND Triều Tiên, chính quyền Kim Dae

Jung đã gặt hái thành công ngoài mong đợi với trường hợp đoàn tụ thành công đầu tiên

ở miền Bắc (1998) và ngày càng gia tăng đáng kể về mặt số lượng của các gia đình

đoàn tụ ở hải ngoại (xem bảng 2.5).

Page 123: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

113

Bảng 2.5. Đoàn tụ các gia đình ly tán ở nước thứ ba (12-6-1989 đến 31-12-2000)

Đơn vị: số trường hợp, %

Năm Trung

Quốc Mỹ

Nhật

Bản Canada

Các

nước

khác

Chưa

xác

định

Tổng

Xác minh địa

chỉ

2000 315 45 22 17 11 37 447

1989-2000 1.561 369 117 57 58 157 2.319

(%) 2000 70,5 10 4,9 3,8 2,5 8,3 100

1989-2000 67,3 15,9 5 2,5 2.5 6,8 100

Đoàn tụ 2000 143 0 2 0 3 0 148

1989-2000 582 0 18 0 6 0 606

(%) 2000 96,6 0 1,4 0 2 0 100

1989-2000 96 0 3,0 0 1 1,2 100

Nguồn: Ministry of Unification, Republic of Korea, White Paper on Korean

Unification (2001), p. 142.

Theo thống kê ở trên, từ tháng 6-1989 đến hết tháng 12-2000, có 2.319 trường

hợp xác minh được địa chỉ của người thân và 606 trường hợp thực hiện đoàn tụ thành

công thông qua nước thứ ba. Nếu chỉ tính riêng năm 2000, đã có tới 447 trường hợp

tìm được nơi ở của thân nhân và 148 trường hợp đoàn tụ. Việc tái hợp gia đình ly tán ở

nước ngoài chủ yếu được các tổ chức tư nhân thực hiện ở Mỹ, Canada và Nhật Bản

nhưng nhiều nhất là ở Trung Quốc, chiếm 96% tỷ lệ đoàn tụ thành công ở nước thứ ba

trong hơn một thập niên.

Kể từ năm 2000, 18 vòng đoàn tụ trực tiếp và 7 vòng đoàn tụ qua video đã được

tổ chức, tạo điều kiện cho 21.000 người gặp lại người thân [164]. Kết quả nói trên tiếp

tục được tổng thống kế nhiệm Roh Moo Hyun duy trì với việc phát huy tối đa vai trò

của Hội Chữ thập đỏ hai nước trong vòng đàm phán hồi tháng 10-2007 nhằm thực hiện

thỏa thuận của hai Chính phủ: Kêu gọi 400 người tái hợp trực tiếp mỗi năm, 100 người

tham gia hội ngộ đặc biệt, 160 gia đình tái hợp thông qua truyền hình và 120 gia đình

trao đổi thông tin qua thư từ, hình ảnh [162]. Xuất phát từ việc coi đoàn tụ gia đình ly tán

là vấn đề hệ trọng và cấp bách của quốc gia, Roh Moo Hyun đã nỗ lực vun đắp những

thành tựu được kế thừa từ người tiền nhiệm; đồng thời khẳng định chính sách của riêng

mình thông qua “Tuyên bố về sự tiến bộ quan hệ liên Triều vì hòa bình và thịnh vượng”

(10-2007) với hai nội dung trọng tâm: “Tăng cường đoàn tụ giữa các thành viên gia

Page 124: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

114

đình ly tán thông qua hệ thống kết nối video và… cho phép gặp gỡ, tiếp xúc thân nhân

tại trung tâm đoàn tụ ở khu nghỉ mát núi Kumgang sau khi công trình này chính thức

hoàn thành” [115]. Quan trọng hơn, chính quyền Roh Moo Hyun còn tăng cường hỗ trợ

kinh tế cho miền Bắc và phối hợp với Chủ tịch Kim Jong Il để tổ chức các cuộc đoàn tụ

ngay trên bán đảo Triều Tiên.

Bảng 2.6. Trao đổi và đoàn tụ các gia đình ly tán qua các thời kỳ tổng thống

Đơn vị: số trường hợp

Tình trạng Kim Young

Sam

Kim Dae

Jung

Roh Moo

Hyun

Xác minh tình trạng sống/chết 720 1.711 1.016

Trao đổi qua thư 3.348 3.604 3.442

Đoàn tụ ở nước thứ 3 119 451 -

Đoàn tụ ở bán đảo Triều Tiên - 378 675

Nguồn: Ministry of Unification, White Paper on Korean Unification (2013), p. 263

Căn cứ vào số liệu ở bảng 2.6, Kim Dae Jung được đánh giá là tổng thống thực

hiện tốt nhất chính sách đoàn tụ gia đình ly tán với 1.711 trường hợp xác minh nhân

thân, 3.604 trường hợp trao đổi qua thư và 451 trường hợp đoàn tụ thành công ở nước

thứ ba. Nhà lãnh đạo Roh Moo Hyun cũng có thành tích không kém trong việc tổ chức

đoàn tụ ngay trên bán đảo Triều Tiên với tổng cộng 675 trường hợp thành công trong

nhiệm kỳ của mình.

Từ tháng 02-2008, tiến trình đoàn tụ các gia đình ly tán bắt đầu bị gián đoạn sau

khi Lee Myung Bak lên nắm quyền. Ngay từ đầu, Tổng thống Lee đã muốn đưa vấn đề

tù nhân chiến tranh và người Hàn Quốc bị bắt cóc vào nội dung đàm phán của Hội Chữ

thập đỏ liên Triều với tuyên bố: “Giải quyết vấn đề tù nhân chiến tranh và người Hàn

Quốc bị bắt cóc là một ưu tiên lớn trong chính sách Bắc Triều Tiên, đây đồng thời là

nhiệm vụ cơ bản mà nhà nước phải thực hiện để bảo vệ người dân” [117; tr. 15]. Đây

không phải là lần đầu tiên việc đoàn tụ cho nạn nhân chiến tranh được đưa ra (trước đó

nhà lãnh đạo Kim Dae Jung đã nhắc đến vấn đề này trong Tuyên bố ngày 07-7-1998);

tuy nhiên, do Lee Myung Bak thúc đẩy quá mạnh mẽ và quyết liệt vấn đề lịch sử nhạy

cảm này đúng vào thời điểm quan hệ liên Triều đang trượt dốc nên chương trình nhân

đạo của Hàn Quốc đã hoàn toàn bị đảo lộn. Tuy nhiên, đối mặt với thực tế có hơn

80.000 người Hàn Quốc đang chờ đợi để được đoàn tụ, trong đó có khoảng 260 người

chết mỗi tháng vì tuổi già mà chưa gặp người thân, Chính phủ Hàn Quốc buộc phải gửi

Page 125: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

115

5.000 tấn gạo cho Bình Nhưỡng để đổi lấy sự nhượng bộ trong việc tổ chức đoàn tụ

cho các gia đình. Do lựa chọn giải pháp cứng rắn và tạo áp lực ngay từ ban đầu, chính

quyền Lee Myung Bak đã làm chậm lại nỗ lực tái hợp thân nhân của Hội Chữ thập đỏ

hai nước, kéo theo kết quả hạn chế của Hàn Quốc trong công tác này. Đến năm 2009, hai

bên mới nối lại hoạt động đoàn tụ nhân ngày lễ Tạ ơn. Tuy vậy, vòng đàm phán của Hội

Chữ thập đỏ hai miền được dự kiến diễn ra vào tháng 11-2010 nhằm giải quyết vấn đề tái

hợp cho các gia đình bị ly tán đã tiếp tục bị gián đoạn do CHDCND Triều Tiên tấn công

quân sự vào đảo Yeonpyeong. Với những nguyên nhân trên, đến hết năm 2010, mới chỉ

có 16 trường hợp xác minh được danh tín, 15 trường hợp trao đổi qua thư và 7 trường

hợp đoàn tụ thành công [119; tr. 263].

Các hoạt động giao lưu văn hóa

Bối cảnh Chiến tranh lạnh trên bán đảo Triều Tiên đã làm cho các hoạt động

hợp tác và trao đổi văn hóa - xã hội không thể diễn ra trong suốt một thời gian dài. Đến

năm 1980, các cuộc đàm phán của Chính phủ hai nước đã bắt đầu được khởi động thì

hợp tác văn hóa liên Triều mới có bước tiến triển nhờ vào tuyên bố ngày 07-7-1988 của

Tổng thống Roh Tae Woo, trong đó khẳng định: “Hàn Quốc sẵn sàng theo đuổi tiến

trình hợp tác, trao đổi Bắc - Nam trên tất cả các lĩnh vực”. Cụ thể là, “thúc đẩy trao

đổi song phương giữa các chính trị gia, các quan chức kinh tế, các nhà truyền thông,

các tổ chức tôn giáo, các văn nghệ sỹ, vận động viên, học giả và sinh viên… nhằm tăng

cường giao lưu và mở cửa rộng rãi cho kiều bào ở nước ngoài được tự do tìm hiểu về

hai miền Triều Tiên” [130; tr. 627-630]. Cùng với việc thành lập Ủy ban Xúc tiến Hợp

tác - Trao đổi liên Triều (3-1989) và ban hành “Hướng dẫn về Trao đổi và Hợp tác liên

Triều” (6-1989), tháng 2-1990, chính quyền Roh Tae Woo chính thức công bố chính

sách “đối Bắc dung hòa” về giao lưu văn hóa – xã hội giữa hai nước trên cơ sở 5

nguyên tắc: (1) Thực hiện trao đổi văn hóa từng phần; (2) không đối đầu, cạnh tranh

trong thi đấu khu vực; (3) không bóp méo, phỉ báng văn hóa truyền thống của nhau;

(4) bắt đầu hợp tác – trao đổi từ những lĩnh vực đơn giản; (5) chung sức đổi mới văn

hóa dân tộc [52; tr. 98]. Năm 1990, những quy ước nói trên đã trở thành “hạt nhân”

pháp lý của “Luật Hợp tác và Trao đổi liên Triều”. Mong muốn dẹp bỏ những nghi

ngại của CHDCND Triều Tiên trong quan hệ hợp tác với Hàn Quốc, tại cuộc hội đàm

cấp cao liên Triều lần thứ năm (Seoul), chính quyền Roh Tae Woo nhất trí ký vào Hiệp

định Cơ bản Bắc – Nam (1991) với cam kết cải thiện toàn diện quan hệ liên Triều theo

nguyên tắc: “Hai bên thực hiện giao lưu và hợp tác trên nhiều lĩnh vực: Khoa học và

Page 126: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

116

công nghệ, giáo dục, văn học và nghệ thuật, y tế, thể thao, môi trường, xuất bản và báo

chí bao gồm các ấn phẩm báo in, phát thanh và phát sóng truyền hình” [107; tr. 204].

Văn kiện lịch sử này là chiến lược cho toàn bộ quá trình tiếp xúc, trao đổi song phương

trên lĩnh vực văn hóa – xã hội giữa hai nước trong suốt thế kỷ XX.

Dưới tác động của bản Hiệp định, các hoạt động giao lưu văn hóa bắt đầu diễn

ra sôi động từ năm 1991 (sau khi hai nước cử đoàn vận động viên chung tham dự giải

vô địch bóng bàn thế giới, giải vô địch thanh niên thế giới FIFA) và bước vào giai đoạn

phát triển đỉnh cao từ năm 1998 (sau khi Kim Dae Jung chính thức nắm quyền). Ngay

trong Tuyên bố chung của Hội nghị Thượng đỉnh liên Triều lần đầu tiên (15-6-2000),

Tổng thống Kim Dae Jung đã khẳng định: “Hai nước cần mở rộng phạm vi trao đổi và

hợp tác trên tất cả các lĩnh vực, bao gồm: Xã hội, văn hóa, thể dục thể thao, y tế và môi

trường… nhằm xây dựng lòng tin và khôi phục sự thống nhất đất nước” [111; tr. 37].

Từ nhận thức các hoạt động giao lưu, tiếp xúc trên mặt trận văn hóa có tác dụng hóa

giải mâu thuẫn giữa hai bên trong lĩnh vực chính trị, chính quyền Kim Dae Jung đã

thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình hòa hợp dân tộc với việc đưa ra “Quy định giao lưu, hợp

tác văn hóa – xã hội liên Triều” và phê chuẩn hàng loạt dự án hợp tác, tạo điều kiện cho

các hoạt động văn hóa nở rộ trên bán đảo Triều Tiên. Với phương châm “tiếp xúc thật

nhiều”, “đối thoại thật nhiều”, “giao lưu thật nhiều”, kể từ năm 1998 đến trước thềm

Hội nghị Thượng đỉnh liên Triều (6-2000), chính quyền Kim Dae Jung đã tổ chức

thành công 53 cuộc trao đổi trong lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật với 123 người tham

gia; 42 cuộc tiếp xúc trong lĩnh vực giáo dục với 350 người hưởng ứng; 31 cuộc giao

lưu trong lĩnh vực thể dục thể thao và 61 cuộc tiếp xúc trong lĩnh vực tôn giáo [111; tr.

132]. Vào tháng 9-2000, đoàn vận động viên hai miền tham dự Đại hội Olympic mùa

hè ở Sydney (Australia) đã cùng diễu hành dưới lá cờ xanh hòa bình và hát bài dân ca

“Arirang”. Song hành với sự kiện lịch sử này, hai bên còn xúc tiến các hoạt động văn

hóa – thể thao chung nhằm kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động 1-5 tại khu nghỉ mát núi

Kim Cương (2001) và thi đấu giao hữu giữa hai đội tuyển bóng đá nam với khẩu hiệu

“chiến thắng của miền Bắc hay miền Nam – chúng ta là một” [25]. Những hoạt động

nói trên cho thấy sự tích cực của Kim Dae Jung khi điều chỉnh chính sách Bắc Triều

Tiên trên lĩnh vực văn hóa – xã hội trong bối cảnh có quá ít chương trình trao đổi nghệ

thuật giữa hai nước diễn ra trước năm 1998.

Từ mối quan tâm đặc biệt dành cho chính sách trao đổi văn hóa – xã hội liên

Triều, Kim Dae Jung đã thể hiện quan điểm thực tế và đầy táo bạo khi chủ trương thúc

Page 127: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

117

đẩy từng bước tiến trình tái thống nhất bằng các giải pháp “phi chính trị”. Chính phủ

của ông khẳng định: “Sự phát triển của các hoạt động giao lưu văn hoá – xã hội là nền

tảng vững chắc cho tiến trình thống nhất hòa bình giữa Hàn Quốc và CHDCND Triều

Tiên. Đấy cũng là cách để hai bên cùng vượt qua rào cản ý thức hệ và xóa bỏ sự chia

rẽ dân tộc” [75]. Cùng với việc theo đuổi chính sách “Ánh dương” đối với Bắc Triều

Tiên và thông qua Hiệp định ngày 15-6-2000, Kim Dae Jung đã thừa nhận vai trò đặc

biệt của giao lưu liên Triều trên các lĩnh vực văn hóa – xã hội và thúc đẩy mạnh mẽ các

chương trình liên quan. Nhờ định hướng đó, ngay trong nhiệm kỳ tổng thống của ông,

phim ảnh do CHDCND Triều Tiên sản xuất lần đầu tiên được công chiếu rộng rãi trên

sóng truyền hình Hàn Quốc.

Cách tiếp cận gần gũi và thiện chí của Kim Dae Jung tiếp tục được chính quyền

Roh Moo Hyun kế thừa với việc ký kết “Hiệp ước Giao lưu văn hóa hai miền” (2003)

và đưa ra “Tuyên bố về sự tiến bộ của quan hệ liên Triều, hòa bình và thịnh vượng”

(2007), theo đó: “Miền Nam và miền Bắc nhất trí tăng cường trao đổi và hợp tác trong

các lĩnh vực văn hóa - xã hội bao gồm: Lịch sử, ngôn ngữ, giáo dục, văn hóa nghệ

thuật, thể dục thể thao nhằm làm nổi bật lịch sử lâu đời và truyền thống văn hóa giàu

bản sắc của dân tộc” [115]. Với chủ trương này, cuối năm 2007, 12.700 người đã tham

gia vào các sự kiện cộng đồng liên Triều – con số này tăng lên 15 lần so với thời điểm

năm 1999 [87]. Tuy nhiên, các hoạt động văn hóa – xã hội liên Triều của Kim Dae

Jung và Roh Moo Hyun đã không thể duy trì trong thời kỳ nắm quyền của Chính phủ

bảo thủ Lee Myung Bak. Về cơ bản, trong chính sách Bắc Triều Tiên, “học thuyết

MB” vẫn là cơ sở để Hàn Quốc tăng cường hiểu biết và đẩy mạnh ngoại giao văn hóa

với các nước ở khu vực, trong đó có CHDCND Triều Tiên. Thế nhưng, do quan hệ liên

Triều liên tục rạn nứt vì đường lối đối ngoại cứng rắn của Hàn Quốc và hàng loạt hành

động khiêu khích quân sự của Bắc Triều Tiên (thử nghiệm hạt nhân, tấn công tàu

Cheonan và nã pháo vào đảo Yeonpyeong) nên các chương trình trao đổi văn hóa - xã

hội liên Triều đều bị hạn chế hoặc gián đoạn. Thực tế này làm cho kết quả tiếp xúc giữa

hai miền đã bị ảnh hưởng không nhỏ. Vào thời kỳ cầm quyền của Lee Myung Bak, các

hoạt động trao đổi văn hóa – nghệ thuật thậm chí đã bị “xóa sổ” trong cả hai năm 2009

và 2010. Các hoạt động xã hội khác diễn ra hạn chế với số lượng người tham gia ít ỏi,

điển hình: Giao lưu thể thao từ 23 người tham gia (2009) còn lại 3 người (2010); tiếp xúc

tôn giáo từ 103 người (2009) còn lại 77 người (2010). Nếu tính riêng thời điểm Lee

Myung Bak rời khỏi chính trường (2012) thì đã có đến 3 lĩnh vực văn hóa – xã hội không

Page 128: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

118

diễn ra bất cứ hoạt động trao đổi liên Triều nào, bao gồm: Học thuật, thể dục thể thao và

tiếp xúc dân sự [118; tr. 35]. Kết quả này là đáp án cho chính sách cứng rắn của Lee

Myung Bak về cách tiếp cận và ứng xử đối với miền Bắc trong nỗ lực tái thống nhất.

Trong suốt hơn hai thập niên kể từ sau Chiến tranh lạnh, chính sách của Hàn

Quốc trên lĩnh vực văn hóa - xã hội tập trung thực hiện các nhiệm vụ tăng cường giao

lưu nhân dân, thúc đẩy hiểu biết chung, “mở cửa” văn hóa và mở rộng ảnh hưởng của

“làn sóng Hàn Quốc” trong khu vực. Đối với CHDCND Triều Tiên, chính sách của

Hàn Quốc còn hướng đến việc giải quyết các vấn đề nhân đạo (viện trợ lương thực và

đoàn tụ thân nhân) nhằm xoa dịu vết thương dân tộc suốt hơn nửa thế kỷ. Dù chính

sách trao đổi, hợp tác của Hàn Quốc vẫn chịu tác động của yếu tố dân tộc chủ nghĩa

trong vấn đề an ninh – chính trị (đối với Nhật Bản, Trung Quốc) và quan điểm “có đi

có lại, có điều kiện” (đối với CHDCND Triều Tiên) nhưng Hàn Quốc đã cho thấy sự

chuyển biến lớn về nhận thức, về thái độ và thiện chí xích lại gần hơn với các nước

trong khu vực. Đây là một trong những nhân tố tích cực duy trì cơ sở hợp tác hòa bình

ở Đông Bắc Á từ đầu thế kỷ XXI.

Tiểu kết chương 2.

Chính sách đối với các nước Đông Bắc Á trong suốt hơn hai thập niên (1989 -

2010) đã chứng tỏ tinh thần tự chủ, độc lập, sáng tạo và trưởng thành vượt bậc của

ngoại giao Hàn Quốc. Mặc dù có nhiều cách thức tiếp cận khác nhau về nội dung, mục

tiêu và phương châm hành động nhưng đặc điểm bao trùm của chính sách vẫn là tăng

cường quan hệ với các quốc gia trong khu vực, tranh thủ sự ủng hộ của các nước lớn

đối với điểm nóng Bắc Triều Tiên và vấn đề thống nhất dân tộc. Nhờ vậy, Hàn Quốc

đã gặt hái được nhiều thành tựu cơ bản trong việc duy trì hòa bình, ổn định ở Đông Bắc

Á. Mối quan hệ thù địch với Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên đã phát triển thành

quan hệ đối tác hợp tác; liên minh an ninh với Nhật Bản cũng từng bước được củng cố

và đi vào chiều sâu. Với quan điểm xây dựng, tăng cường quan hệ toàn diện với các

nước Đông Bắc Á trên cơ sở lòng tin và sự hiểu biết, chính sách đối ngoại của Hàn

Quốc đã vận động tương đối nhịp nhàng trước những biến thiên của tình hình an ninh –

chính trị, kích thích phát triển kinh tế, hội nhập văn hóa – xã hội và ứng phó với nguy

cơ xung đột quân sự. Dù Đông Bắc Á còn tiềm ẩn yếu tố bất ổn, cạnh tranh nhưng định

hướng hòa giải, hợp tác và phát triển quan hệ toàn diện với Nhật Bản, Trung Quốc,

CHDCND Triều Tiên vẫn là lựa chọn tất yếu của ngoại giao Hàn Quốc trong bối cảnh

hội nhập khu vực.

Page 129: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

119

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA

HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐÔNG BẮC Á

(1989 - 2010)

Do Đông Bắc Á là “địa bàn” nhạy cảm và phức tạp về an ninh (vấn đề hạt nhân

của CHDCND Triều Tiên; tranh chấp chủ quyền với Nhật Bản; bất đồng lịch sử từ thời

cổ đại với Trung Quốc…) cộng với sự cạnh tranh về kinh tế và gia tăng “sức mạnh

mềm” theo quan điểm “dân tộc chủ nghĩa” nên Hàn Quốc buộc phải tính toán và đặt

trọng tâm vào các mối quan hệ và các lĩnh vực hợp tác cụ thể. Chính điều này đã định

hình những đặc điểm chung và riêng trong chính sách của Hàn Quốcđối với từng chủ

thể chính trị ở khu vực. Bên cạnh đó, những thành công, hạn chế và bài học kinh

nghiệm cũng cần được Hàn Quốc nhìn nhận, đánh giá nhằm định hướng chính sách

vận động theo đúng quỹ đạo của tình hình khu vực.

3.1. Những điểm chung và riêng trong chính sách của Hàn Quốc đối với Nhật

Bản, Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên (1989 – 2010)

Để phù hợp với xu thế hòa dịu của thế giới cũng như mục tiêu thống nhất dân

tộc và hướng tới việc trở thành trung tâm của khu vực từ sau Chiến tranh lạnh, chính

sách của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á (1989 - 2010) đã có nhiều thay đổi

đáng kể trên cả ba lĩnh vực: An ninh - chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội. Hơn thế nữa,

do nằm ở “cái rốn” tranh chấp quyền lực của châu Á, Hàn Quốc đã có những định

hướng chiến lược cụ thể nhằm đảm bảo lợi ích sống còn của quốc gia.

3.1.1. Những điểm chung

Thứ nhất, khu vực Đông Bắc Á trong đó cả Nhật Bản, Trung Quốc và CHDCND

Triều Tiên đều là trọng tâm điều chỉnh chính sách của Hàn Quốc sau Chiến tranh lạnh.

Định hướng thay đổi chính sách đối với các nước Đông Bắc Á là chiến lược của

Hàn Quốc từ đầu thập niên 70 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, mong muốn này chỉ thực sự

được thúc đẩy từ sau sự kiện sụp đổ các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô. Hệ quả

của việc thay đổi cán cân quyền lực thế giới và quá độ hình thành trật tự đa cực đã

“định hình” chính sách đối ngoại của Hàn Quốc theo hướng cải thiện quan hệ song

phương, củng cố quan hệ đa phương và thúc đẩy hòa giải – hòa hợp dân tộc. Tuy

nhiên, trước khi bắt tay vào điều chỉnh chính sách, Hàn Quốc vẫn phải đối mặt với

những “di sản” nặng nề của Chiến tranh lạnh. Trên lĩnh vực an ninh – chính trị, sự chia

cắt bán đảo Triều Tiên và xung đột chủ quyền, bất đồng lịch sử với Nhật Bản là những

nhân tố đe dọa đến hòa bình, ổn định ở Đông Bắc Á. Trên lĩnh vực kinh tế, tâm lý e

Page 130: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

120

ngại, cảnh giác trước những đối thủ cũ (Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên) và sự hiện

diện của cường quốc mới (Nhật Bản) là thách thức đối với mục tiêu trở thành trung tâm

kinh tế thế giới của Hàn Quốc. Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội, quá trình giao lưu, tiếp

xúc của Chính phủ và nhân dân trong nước vẫn chịu ảnh hưởng của tâm lý chống Nhật,

tinh thần dân tộc chủ nghĩa và những khác biệt trong quan điểm giải quyết vấn đề nhân

đạo, đặc biệt là đoàn tụ gia đình ly tán giữa hai miền Triều Tiên.

Do Đông Bắc Á là “đầu mối” của những vấn đề phức tạp và gay cấn bậc nhất

trên con đường thống nhất, phát triển của Hàn Quốc nên định hướng điều chỉnh chính

sách đối với Nhật Bản, Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên ngay tại thời điểm kết

thúc Chiến tranh lạnh đã được Hàn Quốc đặc biệt coi trọng. Nội dung chủ yếu trong

chính sách của Hàn Quốc đối với các nước ở khu vực đều là thúc đẩy hòa giải, hợp tác

hòa bình nhằm kiến tạo một Đông Bắc Á hòa bình và thịnh vượng. Từ sau “Tuyên bố

đặc biệt về quốc gia tự chủ, thống nhất và thịnh vượng” chính thức ra đời (07-7-1988),

Hàn Quốc đã kiên định với nguyên tắc “sẵn sàng hợp tác với CHDCND Triều Tiên, nỗ

lực cải thiện quan hệ với Nhật Bản, Trung Quốc và các nước XHCN để duy trì hòa

bình lâu dài giữa hai miền bán đảo” [131; tr. 627-630]. Trong suốt hơn hai thập niên

(1989 - 2010), vấn đề hòa giải dân tộc và hợp tác hòa bình đã trở thành nội dung cốt lõi

trong chính sách đối với các nước Đông Bắc Á của Hàn Quốc. Mặc dù xu thế đa cực

vẫn còn tồn tại nhiều mặt trái (chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh, kiềm chế lẫn

nhau) nhưng sự ràng buộc về lợi ích trong một thế giới hội nhập vẫn là cơ sở chính để

Hàn Quốc đổi mới chính sách đối ngoại từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX.

Thứ hai, chính sách của Hàn Quốc đối với Nhật Bản, Trung Quốc và CHDCND

Triều Tiên đều nằm trong tổng thể chính sách thống nhất dân tộc và liên kết khu vực từ

sau Chiến tranh lạnh.

Là “đấu trường” tranh giành lợi ích của các cường quốc trên thế giới, khu vực

Đông Bắc Á luôn bị đe dọa bởi nguy cơ xung đột và bùng nổ chiến tranh. Với đặc

điểm này, sự nghiệp “thống nhất dân tộc” của Hàn Quốc chỉ tiến triển thuận lợi khi

nước này tạo dựng được mối quan hệ hòa bình, hợp tác với cả liên minh cũ (Nhật Bản)

và đối tác mới (Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên). Đặc điểm lồng ghép “hai trong

một” giữa chính sách dân tộc và chính sách khu vực từ sau Chiến tranh lạnh đã giúp

Hàn Quốc nhận ra “mối liên kết” ẩn giấu bên trong các cặp quan hệ đối kháng này.

Theo đó, từ chỗ là “cái gai” cần phải nhổ bỏ, CHDCND Triều Tiên đã trở thành nhân

tố gắn kết mối quan hệ Hàn Quốc – Trung Quốc và là cơ sở để duy trì mối liên minh

Hàn Quốc – Nhật Bản; từ chỗ bị đẩy vào tình thế “một mất, một còn” với các nước lớn

trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên, Hàn Quốc ngày nay đã có thể tự mình chọn lựa con

đường phát triển và tái thống nhất nhờ theo đuổi chiến lược “đôi bên cùng thắng”.

Page 131: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

121

Dưới áp lực hoàn thành chính sách dân tộc, Hàn Quốc đã có thêm động lực để thúc đẩy

mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn chính sách đối với các nước trong khu vực (gia tăng hợp

tác an ninh – chính trị, kinh tế và văn hóa – xã hội với Trung Quốc, Nhật Bản) để tìm

kiếm sự đồng thuận về một bán đảo Triều Tiên không tiếng súng và không có vũ khí

hạt nhân. Nằm trong tổng thể chính sách thống nhất dân tộc, chính sách Bắc Triều Tiên

của Hàn Quốc từ sau Chiến tranh lạnh dù còn nhiều biến động nhưng vẫn lấy hợp tác

và hòa giải làm xu hướng chủ đạo. Sứ mệnh thống nhất dân tộc đã làm thay đổi nhận

thức của Hàn Quốc về quan hệ đối đầu với Trung Quốc, quan hệ thù địch với

CHDCND Triều Tiên và liên minh trá hình với Nhật Bản. Rõ ràng, với việc xác định:

“Mục tiêu bao trùm của Hàn Quốc không phải là đối đầu quân sự; mục tiêu của Hàn

Quốc là đạt được hòa bình thực sự và ổn định giữa hai miền bán đảo… là mang lại sự

thịnh vượng cho toàn thể dân tộc… là thống nhất hòa bình Triều Tiên” [117; tr. 48],

các thế hệ lãnh đạo Hàn Quốc đã định vị chính sách đối với các nước Đông Bắc Á vận

động theo xu hướng hợp tác, phát triển và liên kết; trong đó, liên kết khu vực là sáng

kiến của Hàn Quốc nhằm nâng cao khả năng hợp tác với Nhật Bản, Trung Quốc và

CHDCND Triều Tiên; qua đó, tạo bước đột phá cho tiến trình thống nhất hòa bình trên

bán đảo Triều Tiên.

Thứ ba, chính sách của Hàn Quốc đối với Nhật Bản, Trung Quốc và CHDCND

Triều Tiên đều thể hiện tính hai mặt: Vừa tương trợ, hợp tác vừa cạnh tranh, kiềm chế

trong quá trình cùng tồn tại và phát triển.

Ngay từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, Hàn Quốc đã bắt nhịp với xu thế hòa

hoãn trong khu vực, coi đối thoại và hợp tác là “kim chỉ nam” của chính sách đối

ngoại. Kết quả xích lại gần nhau giữa Hàn Quốc với các thực thể chính trị có hệ tư

tưởng khác biệt (Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên) xuất phát từ nhu cầu phát triển

kinh tế, trao đổi văn hóa và giải quyết các vấn đề an ninh chung đã thôi thúc sự ra đời

của chủ nghĩa khu vực và cơ chế “kiềm chế mềm” trong giải quyết mâu thuẫn. Đây là

điều kiện thuận lợi để Hàn Quốc chuyển đổi quan hệ “đối thủ” thành “đối tác”. Theo

đó, ngoài việc thiết lập quan hệ chính thức với Nhật Bản từ năm 1965 nhờ sự dàn xếp

của Mỹ, từ sau Chiến tranh lạnh, Hàn Quốc đã công nhận Bắc Triều Tiên là Nhà nước

độc lập (thông qua chính sách “Ánh dương”, “Hòa bình - thịnh vượng”); và chủ động

xây dựng quan hệ với Trung Quốc vào năm 1992 (dưới tác động của chính sách

“Ngoại giao phương Bắc”). Đáng tiếc là, sự kết thúc của Chiến tranh lạnh không tác

động ngay lập tức đến khu vực Đông Bắc Á do cuộc đua giành giật ảnh hưởng và vị

thế giữa các nước chưa có hồi kết. Cả Nhật Bản, Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên

đều có những tính toán và chiến lược riêng không “ăn khớp” với lợi ích quốc gia của

Hàn Quốc. Trước hết, sự trỗi dậy của Trung Quốc với tư cách là cường quốc kinh tế,

Page 132: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

122

quân sự, có ý muốn tranh giành ảnh hưởng và quyền quyết định trong vấn đề Triều

Tiên đang cản trở nỗ lực thống nhất đất nước và trở thành lực lượng lãnh đạo khu vực

của Hàn Quốc. Hai là, toan tính của Nhật Bản muốn coi tiến trình hòa bình thống nhất

và cuộc khủng hoảng hạt nhân của Bình Nhưỡng là địa bàn thể nghiệm vai trò chính trị

từ sau Chiến tranh lạnh đang hạn chế kết quả trao đổi liên Triều. Ba là, chương trình

làm giàu uranium và chính sách “quân sự trước hết” của CHDCND Triều Tiên đang

“thử lửa” lòng kiên nhẫn, tinh thần hợp tác và ý chí thống nhất dân tộc của Hàn Quốc.

Hàng loạt nhân tố nói trên đã tác động đến chính sách khu vực của Hàn Quốc và làm

cho các chính sách này thiếu tính ổn định do sự “định vị” của tư tưởng ngăn chặn và

đối đầu trong “chủ nghĩa Roh Moo Hyun” đối với Nhật Bản; chính sách “Ngoại giao

mới”, “Tầm nhìn 3000, phi hạt nhân hóa và mở cửa” đối với CHDCND Triều Tiên và

“chủ nghĩa khu vực” đối với Trung Quốc. Ngoài ra, còn có cuộc cạnh tranh không

khoan nhượng về phát triển kinh tế và phổ biến văn hóa giữa Hàn Quốc với các nước

trong khu vực. Đặc điểm này từng bước định hình “cấu trúc kép” (vừa hợp tác - vừa

đấu tranh; vừa phát triển - vừa kiềm chế) trong chính sách của Hàn Quốc đối với các

nước Đông Bắc Á.

3.1.2. Những điểm riêng

Do bản chất mối quan hệ song phương giữa hai miền bị chia cắt, chính sách

của Hàn Quốc đối với CHDCND Triều Tiên không phải là “chính sách đối ngoại”

thông thường mà là chính sách dành cho “mối quan hệ đặc biệt” với nửa kia của một

dân tộc thống nhất trước đây.

Tính chất “đặc biệt” của mối quan hệ Hàn Quốc – CHDCND Triều Tiên được

xác lập từ các yếu tố: (1) Bán đảo Triều Tiên đang bị chia cắt; (2) bán đảo Triều Tiên

đang trong tình trạng có chiến tranh; (3) sự khác biệt của hai chế độ chính trị và mô

hình kinh tế; (4) sự tồn tại biệt lập của Nhà nước cộng sản; (5) vấn đề sở hữu và phát

triển hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. So với Nhật Bản và Trung Quốc, chính sách

của Hàn Quốc đối với Bắc Triều Tiên phải tập trung giải quyết nhiều vấn đề gay cấn và

phức tạp hơn có liên quan đến quan hệ hai nước (hỗ trợ phát triển kinh tế, giao lưu văn

hóa – xã hội), liên quan đến vận mệnh dân tộc (hòa giải và thống nhất liên Triều), liên

quan đến tình hình an ninh khu vực (phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên). Với đặc

điểm này, chính sách Bắc Triều Tiên của Hàn Quốc mang màu sắc và đặc trưng riêng,

đó là chính sách “đối ngoại” nhưng cũng đồng thời là chính sách “đối nội”.

Do tính chất “tuy hai mà một, tuy một mà hai” nên chính sách của Hàn Quốc

đối với CHDCND Triều Tiên hoàn toàn khác biệt so với chính sách đối với Trung

Quốc và Nhật Bản. Ngay từ khi lập quốc (1948), Hàn Quốc đã chủ động “hướng Bắc”

và coi thống nhất đất nước (kể cả bằng vũ lực) là nhiệm vụ hàng đầu trong chính sách

Page 133: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

123

khu vực. Việc thiết lập quan hệ với Nhật Bản (1965) cũng không nằm ngoài mục đích

hỗ trợ cho nhiệm vụ chiến lược này của Hàn Quốc. Với Trung Quốc, do ảnh hưởng của

tình trạng phân chia trật tự thế giới hai cực nên quan hệ Hàn – Trung cũng trải qua thời

gian dài “băng giá”. Thời kỳ đầu sau Chiến tranh lạnh, mục tiêu chính sách của Hàn

Quốc dù là phi hạt nhân hóa hay tồn tại hòa bình đều tập trung chủ yếu vào CHDCND

Triều Tiên, trong khi đó, mối quan hệ với cả hai nước láng giềng Nhật Bản và Trung

Quốc có phần bị xem nhẹ. Bắc Triều Tiên được xác định là “địa bàn” trọng điểm trong

chính sách đối với khu vực do làn sóng chống Nhật đang dâng cao còn kế hoạch

“Ngoại giao phương Bắc” thì lại coi kết quả cải thiện quan hệ với Trung Quốc là “bàn

đạp” cho mục tiêu chính trị của quốc gia. Vậy nên, cho đến cuối thập niên 80 của thế

kỷ XX, Hàn Quốc vẫn chưa xác lập chính sách cụ thể nào nhằm cải thiện, phát triển

“quan hệ trực tiếp” với Nhật Bản và Trung Quốc như hai chủ thể chính trị độc lập mà

không thông qua “lăng kính” chính sách của CHDCND Triều Tiên.

Từ cuối thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, ngoài nhiệm vụ hòa giải – hòa hợp

với CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc bắt đầu đạt được bước tiến dài trên con đường

xây dựng tình bằng hữu với Trung Quốc, củng cố liên minh chiến lược với Nhật Bản và

duy trì trạng thái cân bằng với cả hai nước trên các lĩnh vực hợp tác cơ bản: An ninh –

chính trị, kinh tế và văn hóa – xã hội.

Chiến lược của Hàn Quốc đối với Nhật Bản tương đối “đơn giản”. Chính phủ

Hàn Quốc mong muốn tiếp tục củng cố quan hệ kinh tế, chính trị nhưng hạn chế liên

kết về an ninh. So với Trung Quốc, quan hệ Hàn - Nhật đang bị “xói mòn” dưới tác

động của chính sách đối ngoại Hàn Quốc. Do cùng chia sẻ các giá trị dân chủ trên nền

tảng kinh tế thị trường và ngày càng bình đẳng hơn về quyền lực nên hiện nay chính

sách của Hàn Quốc đối với Nhật Bản có xu hướng khôi phục mối quan hệ “cạnh tranh”

giữa hai nước. Những va chạm gần đây do tranh cãi lịch sử, tranh chấp chủ quyền đang

làm biến đổi cấu trúc ngoại giao song phương. Những nhân tố này cản trở không nhỏ

đến các kết quả hợp tác an ninh giữa hai bên trên cơ sở liên minh với Mỹ. Khi ảnh

hưởng của Nhật Bản không còn lớn như trước, tình trạng thâm hụt thương mại của Hàn

Quốc với nước này đang kéo dài và chưa có hướng khắc phục thì Trung Quốc lại vươn

lên trở thành đối tác hợp tác chiến lược trong vai trò bạn hàng kinh tế số một (nước

mang lại nguồn thặng dư thương mại lớn nhất cho Hàn Quốc) và cũng là quốc gia nắm

giữ chìa khóa cho vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Với mong muốn đạt

được một vị trí cân bằng hơn ở Đông Bắc Á, từ thời Tổng thống Roh Moo Hyun, Hàn

Quốc đã bắt đầu quan tâm tới Trung Quốc nhiều hơn Nhật Bản. Trong cuộc thăm dò

dư luận Hàn Quốc (2007), sự thăng tiến về kinh tế và chính trị của Trung Quốc nhận

được nhiều thiện cảm lớn trong khi sự hoài nghi đối với Mỹ và Nhật Bản lại có chiều

Page 134: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

124

hướng gia tăng [33; tr. 34]. Thanh niên Hàn Quốc coi du học Trung Quốc là một xu

hướng thịnh hành và “Hallyu” cực kỳ phổ biến ở nước bạn. Sự phát triển nhanh chóng

của Trung Quốc như một trung tâm đầu tư và sản xuất ở châu Á mang lại nhiều lợi ích

hơn cả cho Nhà nước thương mại của Hàn Quốc nhờ thị trường đầu tư rộng lớn, khả

năng bổ sung kinh tế cho nhau và tác động kích thích của xuất khẩu Trung Quốc đối

với nền kinh tế Hàn Quốc. Trước thực tế này, Hàn Quốc đang tạo ra sự khác biệt giữa

chính sách đối với Trung Quốc và Nhật Bản. Khi vấn đề lịch sử và lãnh thổ trong quan

hệ Hàn - Nhật được đặt ra mà chưa có hướng giải quyết thì quan hệ Hàn - Trung lại

không ngừng tiến triển. Điều này lý giải cho kết quả vào năm 2010 Hàn Quốc đã tổ

chức 24 cuộc họp cấp cao với Trung Quốc, tần suất trung bình hai cuộc họp mỗi tháng

trong khi đó nước này chỉ duy trì 16 cuộc họp trong năm với Nhật Bản (nhiều cuộc họp

trong số đó diễn ra trong khuôn khổ đa phương) [143]. Đối với Hàn Quốc, Trung Quốc

là “đối tác bên ngoài” quan trọng nhất. Việc duy trì sự “nồng ấm” của cặp quan hệ này

hoàn toàn có lợi đối với sự nghiệp thống nhất Triều Tiên và nâng cao vai trò lãnh đạo

của Hàn Quốc ở Đông Bắc Á. Dù ra đời muộn hơn nhiều so với quan hệ Hàn – Nhật

nhưng “đối tác hợp tác chiến lược Hàn – Trung” vẫn là lựa chọn thiết thực của ngoại

giao Hàn Quốc để duy trì lợi ích kinh tế, chính trị và hiện thực hóa mục tiêu thống nhất

dân tộc trong thế kỷ XXI.

3.2. Những thành công và hạn chế trong chính sách của Hàn Quốc đối với các nước

Đông Bắc Á (1989 – 2010)

3.2.1. Những thành công đạt được

3.2.1.1. Góp phần thúc đẩy sự ra đời của các nghị quyết hòa bình về vấn đề hạt nhân

của CHDCND Triều Tiên

Để ngăn chặn sự tấn công từ bên ngoài của Mỹ; răn đe Hàn Quốc, Nhật Bản và

làm điều kiện trao đổi cho các vấn đề về kinh tế hay viện trợ nhân đạo, CHDCND

Triều Tiên đã không ngừng phát triển vũ khí hạt nhân như “công cụ vạn năng” của

chính mình. Ngay từ thời điểm năm 1993, nước này đã gây ra cuộc khủng hoảng hạt

nhân lần thứ nhất sau khi từ chối cho phép IAEA thanh sát các cơ sở làm giàu uranium

và tuyên bố ý định rút khỏi NPT. Đến năm 2002, CHDCND Triều Tiên lần thứ hai dấy

lên làn sóng hạt nhân, đe dọa đến tình hình an ninh và hòa bình khu vực. Nhờ tinh thần

hòa giải của chính sách “Hòa bình và thịnh vượng”, Hàn Quốc đã thuyết phục Bắc

Triều Tiên giải quyết vấn đề hạt nhân thông qua đối thoại liên tục trong bảy vòng đàm

phán liên Triều. Kiên quyết không dừng bước khi chưa đạt được kết quả, từ tháng 5

đến tháng 7-2003, Tổng thống Roh Moo Hyun đã đến Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc để

tổ chức hàng loạt cuộc họp Thượng đỉnh và phát đi thông điệp hòa bình về vấn đề an

ninh – chính trị trên bán đảo Triều Tiên. Năm 2004, thông qua đàm phán sáu bên trong

Page 135: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

125

cuộc họp APEC tại Santiago (Chile) và Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN+3, các bên đã

đạt được sự đồng thuận quốc tế về vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên với bốn

nội dung sau đây: (1) Không khoan nhượng với chương trình phát triển vũ khí hạt nhân

của Bắc Triều Tiên; (2) tìm kiếm giải pháp hòa bình về vấn đề hạt nhân; (3) yêu cầu

thái độ hợp tác và hành động có trách nhiệm của Bắc Triều Tiên đối với an ninh khu

vực; (4) nhanh chóng nối lại các cuộc đàm phán sáu bên [113; tr. 21]. Tại các cuộc họp

này, Tổng thống Roh Moo Hyun đã cam kết coi việc giải quyết vấn đề hạt nhân là ưu

tiên hàng đầu trong chính sách đối với Bắc Triều Tiên; đồng thời cam kết giải quyết

hòa bình mọi vấn đề thông qua đối thoại. Với đường hướng của chính sách đối ngoại

đó, Hàn Quốc đã trải qua một chặng đường dài để tìm kiếm sự tiến bộ trong các cuộc

họp sáu bên; đồng thời cùng với Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc đưa ra những nghị

quyết có tính chất cương lĩnh đối với vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên.

3.2.1.2. Thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác chủ yếu, từng bước cải thiện quan hệ giữa các

nước và gia tăng liên kết khu vực

Thứ nhất, thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác chủ yếu giữa Hàn Quốc và khu vực.

Trên lĩnh vực an ninh – chính trị, chính sách của Hàn Quốc đối với các nước

Đông Bắc Á đã mang lại nhiều kết quả quan trọng. Đối với CHDCND Triều Tiên,

Hàn Quốc đã thay đổi giới hạn truyền thống của mối quan hệ liên Triều và từng bước

phá vỡ cục diện Chiến tranh lạnh ở hai bên vĩ tuyến 38. Từ chỗ không có bất cứ cuộc

tiếp xúc song phương nào (sau Chiến tranh Triều Tiên đến hết năm 1971) thì kể từ

năm 1998 đến Hội nghị Thượng đỉnh liên Triều vào năm 2000, hai bên đã tổ chức

thành công 124 cuộc họp (trung bình 24 cuộc họp mỗi năm) cùng với 49 thỏa thuận

đạt được [80]. Hai bên còn nhất trí tổ chức hai vòng hội đàm quân sự liên Triều vào

tháng 6-2004 nhằm thông qua Hiệp định về phòng chống tai nạn đụng độ trên biển và

chấm dứt tuyên truyền chống đối tại khu vực phi quân sự. Đây là lần đầu tiên kể từ khi

chia cắt, chính sách đối thoại và hòa giải của Hàn Quốc đã giúp các bên đạt được sự

nhất trí về những biện pháp hòa bình nhằm kiểm soát đối đầu và xung đột vũ trang.

Bên cạnh việc cải thiện quan hệ và thúc đẩy hòa giải với CHDCND Triều Tiên,

chính sách “Ngoại giao phương Bắc” của Tổng thống Roh Tae Woo đã định hướng

Hàn Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc (1992). Từ sau sự kiện này,

hàng loạt chuyến thăm Trung Quốc của các Tổng thống Kim Young Sam (1994), Kim

Dae Jung (1998), Roh Moo Hyun (2003) và Lee Myung Bak (2008) đã đưa quan hệ hai

nước bước vào thời kỳ phát triển thăng hoa; ngoài ra còn thúc đẩy sự ra đời của hai

Tuyên bố chung vào các năm 1998 và 2008. Các văn kiện ngoại giao này đều nêu rõ

chính sách “một nước Trung Quốc” của Hàn Quốc và cam kết thúc đẩy toàn diện quan

hệ song phương trên các lĩnh vực an ninh – chính trị, kinh tế và văn hóa – xã hội.

Đối với Nhật Bản, định hướng “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai” là kết quả

Page 136: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

126

tích hợp từ các chiến lược “ngoại giao tứ cường” (Kim Young Sam), “ngoại giao hài

hòa bốn bên” (Kim Dae Jung) và đỉnh cao là chính sách “ngoại giao thực dụng” (Lee

Myung Bak). Nỗ lực củng cố và thắt chặt quan hệ với Nhật Bản (1989 - 2010) đã góp

phần xoa dịu định kiến quá khứ giữa hai dân tộc và hạn chế ảnh hưởng của các vấn đề

lịch sử, tranh chấp lãnh thổ đến quan hệ an ninh – chính trị song phương. Với việc đưa

ra “Tuyên bố chung về quan hệ đối tác mới Hàn Quốc – Nhật Bản trong thế kỷ XXI”

(1998) và cam kết “nuôi dưỡng mối quan hệ hướng tới tương lai” (2008), Kim Dae

Jung và Lee Myung Bak đã thúc đẩy hiệu quả chính sách nhất quán về hợp tác và phát

triển đối với Nhật Bản; mặt khác, duy trì mối quan hệ “gần gũi và thân thuộc” giữa hai

nước trong thập niên đầu thế kỷ XXI.

Trên lĩnh vực kinh tế, chính sách của Hàn Quốc đã tác động tích cực đến tư duy

đổi mới kinh tế của CHDCND Triều Tiên. Từng được xem là quốc gia “cửa đóng then

cài”, nước này đã sống chung với tình trạng “tự cô lập” rồi “bị cô lập” bởi thế giới bên

ngoài suốt trong nhiều thập kỷ. Đến khi Kim Dae Jung bày tỏ thiện chí nối lại quan hệ

liên Triều thông qua chính sách hỗ trợ và đầu tư kinh tế, miền Bắc mới nhận thấy sự

cần thiết của quá trình mở cửa, đổi mới để duy trì sự tồn tại của chế độ. Các dự án đầu

tư ở phía Bắc khu phi quân sự (đặc khu công nghiệp Kaesong, cụm du lịch núi

Kumkang – “con cả” của chính sách “Ánh dương”) cũng trở thành biểu tượng cho tiến

trình hòa giải, thống nhất dân tộc.

Đối với Trung Quốc, kết quả xây dựng mối quan hệ “đối tác hợp tác chiến

lược” đã mang lại cho Hàn Quốc cơ hội chưa từng có về hợp tác kinh tế (bao gồm cả

thương mại và đầu tư). Sau khi chính sách “Ngoại giao phương Bắc” ra đời, hai nước

đã có quan hệ buôn bán trực tiếp từ năm 1990. Hai thập niên sau, nhờ lực đẩy của

chính sách tăng cường kinh tế, kết quả nâng cấp quan hệ song phương theo lộ trình 5

năm và vai trò “đối tác hợp tác chiến lược”, Trung Quốc vươn lên trở thành điểm đầu

tư số một và là đối tác thương mại hàng đầu của Hàn Quốc. Việc nghiên cứu, tiến tới

ký kết FTA giữa hai nước cũng được Hàn Quốc cam kết thúc đẩy trong “Tuyên bố

chung Hàn Quốc – Trung Quốc” (2008).

Về phía Nhật Bản, thông qua việc thực hiện chính sách “phát triển kinh tế mới”

(Roh Tae Woo), chính sách “hạn chế nhập khẩu hàng hóa” (Kim Young Sam) và

chiến lược “ngoại giao toàn cầu” (Lee Myung Bak), Hàn Quốc đã vượt qua những hạn

chế trong quan hệ kinh tế song phương (thâm hụt thương mại, chênh lệch đầu tư) để

tham gia vào quá trình tự do hóa thương mại, cắt giảm hàng rào thuế quan và ký kết

các Hiệp định kinh tế. Quá trình đàm phán ký kết FTA với Nhật Bản đã được Hàn

Quốc chuẩn bị từ thời Tổng thống Kim Dae Jung và củng cố trong nhiệm kỳ của Roh

Moo Hyun sau Hội nghị Thượng đỉnh (2005). Tổng thống Lee Myung Bak cũng bắt

Page 137: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

127

đầu nghiên cứu FTA ba bên Hàn - Trung - Nhật nhằm triển khai “sáng kiến châu Á

mới” của Hàn Quốc từ đầu năm 2008.

Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội, chính sách của Hàn Quốc đối với CHDCND

Triều Tiên đã xoa dịu vết thương chiến tranh và đưa hai miền xích lại gần nhau thông

qua hoạt động viện trợ nhân đạo, đoàn tụ gia đình ly tán và giao lưu văn hóa – xã hội.

Với việc đưa ra “Tuyên bố Đặc biệt về quốc gia tự chủ, thống nhất và thịnh vượng”

(1988), chính sách “đối Bắc dung hòa” (1990) và Hiệp định Cơ bản Bắc – Nam (1991),

Tổng thống Roh Tae Woo đã đặt nền móng cho quá trình trao đổi văn hóa - xã hội giữa

Chính phủ và nhân dân hai nước từ sau thời kỳ Chiến tranh lạnh. Nỗ lực này được kế

thừa bởi Tổng thống Kim Dae Jung với chính sách “Ánh dương” (1998), “Tuyên bố

chung của Hội nghị Thượng đỉnh liên Triều” (2000) và Tổng thống Roh Moo Hyun với

“Hiệp ước Giao lưu văn hóa hai miền” (2003), “Tuyên bố về sự tiến bộ của quan hệ

liên Triều, hòa bình và thịnh vượng” (2007). Những văn kiện nói trên góp phần thúc

đẩy quá trình tiếp xúc liên Triều diễn ra hòa bình trên tinh thần nhân đạo và hợp tác.

Đối với Nhật Bản, chính sách “mở cửa” văn hóa của Hàn Quốc được Tổng thống

Kim Dae Jung đưa ra từ năm 1998 và tiếp tục mở rộng vào các năm 2000 và 2002. Việc

dỡ bỏ “rào cản” đối với âm nhạc, điện ảnh và truyện tranh Nhật Bản từ cuối thập niên 90

của thế kỷ XX được Tổng thống Roh Moo Hyun kế thừa và Lee Myung Bak phát triển

trong gần một thập niên. Theo đó, Hàn Quốc không chỉ xóa bỏ hạn chế đối với video giải

trí và các chương trình phát thanh, truyền hình của Nhật Bản mà còn tăng cường trao đổi

thanh niên, hợp tác giáo dục và nghiên cứu văn hóa, lịch sử giữa hai nước.

Với Trung Quốc, hai tổng thống Kim Young Sam và Kim Dae Jung đã chủ

động thúc đẩy hợp tác trên lĩnh vực văn hóa – xã hội thông qua “Hiệp định Hợp tác văn

hóa Hàn – Trung” (1994) và “Tuyên bố chung Hàn Quốc – Trung Quốc” (1998). Từ

đầu năm 1999, nhờ vào kết quả hợp tác giáo dục, xuất bản, truyền thông, du lịch và thể

dục – thể thao, Trung Quốc đã trở thành điểm khởi đầu của làn sóng văn hóa Hàn Quốc

(Hallyu) ở Đông Á. Với khả năng tiếp nhận và phổ biến âm nhạc, phim ảnh, các

chương trình truyền hình Hàn Quốc, giới trẻ Trung Quốc đã đóng vai “sứ giả” văn hóa

và là “chủ thể” trong các hoạt động trao đổi, giao lưu thanh niên được đẩy mạnh trong

nhiệm kỳ của Tổng thống Lee Myung Bak.

Như vậy, nhờ đổi mới tư duy đối ngoại từ sau Chiến tranh lạnh, Hàn Quốc đã

chủ động đưa ra hàng loạt chính sách hợp tác, phát triển đối với Nhật Bản, Trung Quốc

và CHDCND Triều Tiên nhằm tăng cường sức mạnh quốc gia, tích cực hòa giải và

củng cố tình hữu nghị giữa các nước trong khu vực. Đây là nhiệm vụ chiến lược mà

Hàn Quốc đã liên tục duy trì và thực hiện thành công suốt hơn hai thập niên.

Thứ hai, cải thiện từng bước quan hệ giữa các nước ở trong và ngoài khu vực.

Page 138: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

128

Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đã khắc phục tình trạng bất thường và phá

vỡ thế bế tắc trong mối quan hệ giữa CHDCND Triều Tiên với Mỹ, Nhật Bản. Với lập

luận nếu xảy ra khủng hoảng chính trị hay đối đầu quân sự trên bán đảo Triều Tiên,

Hàn Quốc chứ không phải Mỹ hay Nhật Bản sẽ ở vào tình thế bị đe dọa nhiều nhất,

Tổng thống Kim Dae Jung đã thuyết phục hai quốc gia đồng minh cải thiện quan hệ

với Bình Nhưỡng; đồng thời, yêu cầu Mỹ hủy bỏ lệnh trừng phạt và cho phép các nhà

đầu tư thâm nhập vào thị trường miền Bắc. Dù chưa hết hoài nghi về Nhà nước Triều

Tiên, Tổng thống Mỹ Bill Clinton vẫn chấp nhận phương án “hòa giải” của chính sách

“Ánh dương”. Kết quả này đã mở đường cho chuyến thăm của Phó Chủ tịch thứ nhất

Hội đồng Quốc phòng CHDCND Triều Tiên Jo Kyong Rok đến Mỹ (08-10-2000) và

chuyến trở lại Bình Nhưỡng của cựu Ngoại trưởng Mỹ Madellin Albright (23-10-

2000). Nằm trong kế hoạch của chính sách “Ánh dương”, Tổng thống Hàn Quốc Kim

Dae Jung còn chủ động tiếp xúc với Thủ tướng Nhật Bản Keizo Obuchi (10-1998) và

cam kết cùng nước này giải quyết vấn đề của Bắc Triều Tiên. Đây là cơ sở quan trọng

để từ đầu năm 2000, CHDCND Triều Tiên sớm có cuộc hội đàm chính thức với Bộ

trưởng Ngoại giao Nhật Bản Yohei Kono, Ngoại trưởng Mỹ Madeline Albright bên lề

Hội nghị ARF. Với sự hỗ trợ ngoại giao từ Seoul, Bình Nhưỡng đã bình thường hóa

quan hệ với 16 quốc gia, kể cả EU trong vòng hai năm (2000 - 2002) [136; tr. 232-235].

Về phía Hàn Quốc, chính sách “Ngoại giao phương Bắc” của Tổng thống Roh

Tae Woo cũng đã kích thích sự ra đời chiến lược “toàn cầu hóa” của Kim Young Sam

(1995), chính sách hòa giải “Ánh dương” của Kim Dae Jung (1998), thuyết “nước

trung gian” của Roh Moo Hyun (2003) và kế hoạch củng cố quan hệ với Mỹ, Nhật Bản

của Lee Myung Bak (2008). Hàng loạt chính sách nói trên đã từng bước chứng tỏ vai

trò tích cực, chủ động và mong muốn duy trì mối quan hệ tốt đẹp, hài hòa với tất cả các

chủ thể chính trị ở trong và ngoài khu vực (không phân biệt trình độ kinh tế và ý thức

chính trị). Đây là kết quả quan trọng nhất mà chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đã

đạt được kể từ sau Chiến tranh lạnh.

Thứ ba, gia tăng liên kết khu vực.

Từ thập niên 90 của thế kỷ XX, Hàn Quốc đã manh nha ý tưởng về quá trình

hợp tác và liên kết các quốc gia trong một khu vực hoặc một cộng đồng chung. Trong

thực tế, ý tưởng đó đã trở thành chiến lược “Toàn cầu hóa” (Segyehwa) và “Quốc tế

hóa – tự do hóa” của Kim Young Sam (1993); “Cộng đồng Đông Á” trong công thức

APT (ASEAN+3) của Kim Dae Jung (1998) và “Sáng kiến hợp tác Đông Bắc Á”

(NEACI) của Roh Moo Hyun (2003). Trong những ý tưởng nói trên, sáng kiến của

Roh Moo Hyun được đánh giá là bước phát triển đột phá với việc xây dựng một cộng

đồng khu vực tin cậy, có đi có lại và cộng sinh nhằm giải quyết những thách thức chính

Page 139: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

129

trị, kinh tế và văn hóa – xã hội phát sinh trong lòng Đông Bắc Á. Từ sự lớn mạnh

nhanh chóng của quốc gia, Roh Moo Hyun đã tính đến khả năng liên kết khu vực để

bắt kịp với thực tế: “Trong thời đại mới, tương lai của Hàn Quốc không còn giới hạn ở

bán đảo Triều Tiên… Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của Đông Bắc Á và điều này đang trở

thành hiện thực. Giao dịch thương mại trong khu vực đã bằng một phần năm so với

toàn cầu và tổng dân số của Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản đã lớn hơn Liên minh

châu Âu đến bốn lần” [146]. Những thuận lợi này chính là tiền đề của hợp tác kinh tế

và đối thoại an ninh đa phương nhằm liên kết, phát triển khu vực thành một cộng đồng

ổn định, thịnh vượng từ sau Chiến tranh lạnh.

Vào đầu năm 2008, chính quyền Lee Myung Bak tiếp tục đưa ra sáng kiến

“Hợp tác châu Á mới”. Chính sách ngoại giao này rộng hơn hẳn so với “trung tâm

ngoại giao Đông Bắc Á” của Tổng thống Roh Moo Hyun vì nó phát triển chiến lược

ngoại giao của Hàn Quốc theo hai hướng: Thứ nhất, mở rộng phạm vi của chính sách

đối ngoại truyền thống từ Đông Bắc Á ra toàn bộ châu Á; thứ hai, mở rộng nội dung

hợp tác từ kinh tế sang an ninh – chính trị và văn hóa – xã hội. Hàn Quốc cũng xác

định “sáng kiến châu Á mới” có tác động tích cực đối với CHDCND Triều Tiên nhờ

vào mối quan hệ “bắc cầu” với ASEAN. Bên cạnh đó, ARF cũng có thể trở thành một

kênh đối thoại bổ sung nhằm giải quyết vấn đề hạt nhân của Bình Nhưỡng.

Có thể thấy, sáng kiến liên kết Đông Bắc Á thành một cộng đồng chung (Roh

Moo Hyun) hay mở rộng đối thoại hợp tác châu Á (Lee Myung Bak) dù khác nhau về

phạm vi và quy mô nhưng đối tượng và mục đích thì không đổi. Nội dung xuyên suốt

và nhất quán này trong chính sách đối ngoại chính là động lực để Hàn Quốc cải thiện

quan hệ giữa các nước ở trong và ngoài khu vực; nâng cao vị thế đất nước đồng thời

tạo sức mạnh quốc tế đối với vấn đề thống nhất Triều Tiên.

3.2.1.3. Nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Hàn Quốc

Từ sau khi giành được “kỳ tích sông Hàn” về phát triển kinh tế cuối thập niên

70, đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, Hàn Quốc đã bắt đầu tỏ rõ sự tự tin về vị thế mới

của mình. Đây là cơ sở để các thế hệ lãnh đạo Hàn Quốc khẳng định vai trò quốc gia ở

khu vực và coi đó như một nội dung cốt lõi trong chính sách đối ngoại sau Chiến tranh

lạnh. Ngay từ đầu năm 1988, trong diễn văn nhậm chức, Tổng thống Hàn Quốc Roh

Tae Woo đã dự đoán: “Sức mạnh của quốc gia và lòng tự tôn của dân tộc sẽ tạo ra một

sức bật vô cùng to lớn. Hàn Quốc chắc chắn sẽ được biết đến như một cường quốc trẻ,

hùng mạnh của thế giới và là một nhà lãnh đạo ở châu Á – Thái Bình Dương” [129; tr.

175-180]. Tuyên bố này đã định hướng cho chiến lược mở rộng ảnh hưởng của Hàn

Quốc ở khu vực, nổi bật nhất trong hai thời kỳ cầm quyền của Tổng thống Roh Moo

Hyun và Lee Myung Bak. Trong diễn văn nhậm chức (25-02-2003), Roh Moo Hyun đề

Page 140: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

130

xuất ý tưởng đưa Hàn Quốc trở thành trung tâm kinh doanh và hậu cần quốc tế ở khu

vực dựa vào hai cơ sở: Thứ nhất: “Bán đảo Triều Tiên ở trung tâm Đông Bắc Á là cây

cầu lớn nối liền Trung Quốc, Nhật Bản, các lục địa và đại dương”; thứ hai: “Hàn

Quốc có nguồn nhân lực sáng tạo, trình độ cao và cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc tốt.

Các cơ sở hậu cần quốc tế trên đất liền, trên biển và trên không đang được hoàn thiện

như: Sân bay quốc tế Incheon, Busan, cảng Gwangyang và hệ thống đường sắt siêu

tốc. Đất nước đang được trang bị những tiền đề cơ bản để lãnh đạo Đông Bắc Á trong

thế kỷ XXI” [146]. Nhằm tìm kiếm vai trò mới độc lập hơn và chủ động hơn cho Hàn

Quốc trong khu vực, ngày 22-3-2005, Tổng thống Roh Moo Hyun tiếp tục đưa ra

“thuyết nước trung gian” với mong muốn: “Chúng ta (Hàn Quốc) nên đóng một vai trò

cân bằng không chỉ trên bán đảo Triều Tiên mà còn vì hòa bình và thịnh vượng ở

Đông Bắc Á” [120]. Học thuyết này có ý nghĩa chiến lược sâu xa đòi hỏi ngoại giao

Hàn Quốc phải tự chủ và duy trì lập trường “nước đôi” trong quan hệ giữa Mỹ và

Trung Quốc. Đây là bước khởi đầu cho nỗ lực xây dựng Hàn Quốc trở thành nhà môi

giới và lực lượng cân bằng chính trị của khu vực.

Kể từ khi nhậm chức vào năm 2008, Tổng thống Lee Myung Bak đã theo đuổi

chính sách “đối ngoại thực dụng” trên cơ sở tăng cường quan hệ với các cường quốc và

nâng cao vai trò của Hàn Quốc trong cộng đồng quốc tế. Lee Myung Bak coi Hàn Quốc

như là một lực lượng duy trì hòa bình và ổn định ở Đông Bắc Á nhờ khả năng thúc đẩy

hòa giải liên Triều phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và nắm giữ vai trò “cân bằng” sự cạnh

tranh Trung - Nhật. Trong học thuyết chính trị mang tên ông (“Myung Bak” Doctrine),

Lee Myung Bak đề ra ba nhiệm vụ trọng điểm mà Hàn Quốc phải thực hiện để nâng tầm

vị thế đất nước bao gồm: Mở rộng phạm vi ngoại giao châu Á nhằm duy trì quan hệ đối

tác với các quốc gia; tăng mức hỗ trợ của Hàn Quốc cho toàn cầu để tương xứng với vị thế

của một nước công nghiệp phát triển (nền kinh tế lớn thứ 12 thế giới); đẩy mạnh ngoại

giao văn hóa và làm lan tỏa sức ảnh hưởng của Hàn Quốc thông qua quá trình mở cửa và

tiếp xúc với khu vực và thế giới [84]. Từ mục tiêu xây dựng “Hàn Quốc toàn cầu” trong

Tuyên bố nhậm chức, Tổng thống Lee Myung Bak đưa ra cam kết về việc gìn giữ hòa

bình khu vực; đóng vai trò chủ đạo trong ký kết FTA Đông Bắc Á và mở rộng Viện trợ

Phát triển chính thức (ODA) của Hàn Quốc từ 670 triệu USD năm 2007 (chiếm 0,07%

tổng thu nhập quốc gia) lên hơn 3 tỷ USD vào năm 2015 [165].

Tóm lại, trong giai đoạn 1989 - 2010, sự thay đổi kịp thời và đồng bộ chính sách

đối ngoại đã mang lại nhiều kết quả tích cực trong việc tăng cường lợi ích quốc gia,

duy trì lợi ích dân tộc, gia tăng liên kết khu vực và nâng cao vai trò, vị thế của Hàn

Quốc trong cộng đồng quốc tế. Kết quả này chứng tỏ sự trưởng thành, độc lập và ngày

càng tự chủ của ngoại giao Hàn Quốc. Điều quan trọng nhất là chặng đường hơn hai

Page 141: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

131

thập niên vừa qua không chỉ là thực tiễn sinh động để Hàn Quốc kiểm nghiệm tính

đúng đắn, sự hợp lý và hiệu quả của chính sách mà còn là cơ hội cho quốc gia này phát

hiện những “mặt trái” trong chiến lược đối ngoại để kịp thời điều chỉnh và khắc phục.

3.2.2. Những hạn chế cơ bản

Do thực hiện lồng ghép nhiều nhiệm vụ quan trọng (cải thiện, phát triển quan hệ

với Nhật Bản, Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên trên các lĩnh vực chủ yếu; nâng

cao vị thế của Hàn Quốc và thúc đẩy liên kết khu vực), chính sách đối ngoại của Hàn

Quốc (1989 - 2010) đã bộc lộ một số hạn chế cơ bản.

3.2.2.1. Tính kém ổn định, chưa triệt để, thiếu minh bạch và bộc lộ nhiều tham vọng

trong chính sách đối với CHDCND Triều Tiên

Thứ nhất, đặc điểm kém ổn định được thể hiện trong chính sách của Kim

Young Sam và Lee Myung Bak. Tổng thống Kim Young Sam lên nắm quyền trong bối

cảnh quan hệ liên Triều đang phải đương đầu với nhiều sóng gió, nhất là khi

CHDCND Triều Tiên tuyên bố rút khỏi Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, do

vậy, ông đã đề ra chính sách “Ngoại giao mới” nhằm kêu gọi miền Bắc cải cách, mở

cửa và từ bỏ ý định “cộng sản hóa miền Nam”. Tuy nhiên, khi Bình Nhưỡng tiếp tục

dấn sâu vào cuộc khủng hoảng hạt nhân và từ chối đối thoại song phương, Tổng thống

Kim Young Sam lại tỏ ra nóng vội và mất kiên định với lập trường chính trị ban đầu.

Việc thay đổi nhận thức, coi CHDCND Triều Tiên là kẻ thù nguy hiểm đã làm méo

mó và biến dạng chính sách ngoại giao của Hàn Quốc bằng việc tích cực “can dự” và

khuyến khích thay đổi chế độ ở miền Bắc. Ngay cả khi Kim Young Sam bắt đầu đổi

hướng chính sách bằng khoản viện trợ nhân đạo 150.000 tấn gạo (1995) và kế hoạch

tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh liên Triều lần đầu tiên trong lịch sử thì quan hệ hai bên

vẫn không có dấu hiệu chuyển biến.

Dưới thời Tổng thống Lee Myung Bak, sau khi thực hiện chính sách cứng rắn

với CHDCND Triều Tiên nhưng bất thành, ông đã thay đổi lập trường ban đầu bằng

chủ trương hòa giải, cụ thể là đề nghị thiết lập văn phòng liên lạc thường trực giữa hai

nước và mong muốn tái khởi động các cuộc đàm phán liên Triều. Từ chỗ kịch liệt lên

án các khoản viện trợ “cho không” của Kim Dae Jung và Roh Moo Hyun, Lee Myung

Bak cũng phải phê chuẩn khoản hỗ trợ nhân đạo 50.000 tấn ngô cho Bắc Triều Tiên và

đồng ý nối lại viện trợ lương thực ngay cả khi chưa nhận được lời đề nghị từ nước này.

Tuy nhiên, từ cuối năm 2008, Hàn Quốc một lần nữa quay trở lại đường lối đối ngoại

cứng rắn với hai biểu hiện: Một là, “phớt lờ” các cam kết đã ký với CHDCND Triều

Tiên ngay trong dịp kỷ niệm một năm Hội nghị Thượng đỉnh liên Triều (10-2008); hai

là, đưa ra thông điệp: “Không lợi dụng quan hệ liên Triều vào mục đích chính trị”

nhưng “sẽ tiếp tục chính sách Bắc Triều Tiên của chính quyền hiện thời” – tuyên bố

Page 142: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

132

của Lee Myung Bak với Bộ Thống nhất (06-12-2008) [179]. Quan điểm nói trên của

Hàn Quốc cùng với kết cục khủng hoảng quan hệ liên Triều đã làm dấy lên làn sóng

phản đối chính sách Bắc Triều Tiên của Lee Myung Bak trong giới chính trị gia cấp

tiến. Ngày 30-12-2008, tại cuộc họp khẩn của Quốc hội, cả ba lực lượng đảng phái đối

lập đã thống nhất đưa ra nghị quyết chung yêu cầu Chính phủ lập tức thay đổi chính

sách đối với CHDCND Triều Tiên. Đến thời điểm này, “Tầm nhìn 3000, phi hạt nhân

hóa và mở cửa” đã trở thành áp lực chính trị đối với Lee Myung Bak trong việc tiếp

cận Bắc Triều Tiên và duy trì đối thoại liên Triều.

Thứ hai, đặc điểm chưa triệt để trong chính sách của Kim Dae Jung và Roh

Moo Hyun. Trong thời kỳ Kim Dae Jung nắm quyền, việc tổ chức Hội nghị Thượng

đỉnh liên Triều (2000) là thành công lịch sử có ý nghĩa hàn gắn mối quan hệ hai miền

trên bán đảo Triều Tiên. Tuy nhiên, Tuyên bố chung của Hội nghị lại không liên quan

đến bất cứ giải pháp cụ thể nào nhằm giảm bớt căng thẳng và xây dựng lòng tin giữa

hai bên. Do sự lỏng lẻo này, Tổng thống Kim Dae Jung đã không thể thuyết phục

CHDCND Triều Tiên xóa bỏ chương trình vũ khí hạt nhân dù Hội nghị Thượng đỉnh

từ tháng 6 đã kết thúc. Tương tự như vậy, khi Roh Moo Hyun trở thành tổng thống,

Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên đã ký kết “Tuyên bố về phát triển quan hệ liên

Triều, hòa bình và thịnh vượng” (10-2007), tiến tới xóa bỏ chiến tranh và kiềm chế sự

leo thang của Bình Nhưỡng. Tuy nhiên, văn bản này chỉ có hiệu lực tạm thời và không

hề bị ràng buộc về mặt pháp lý. Do vậy, ngay sau đó, Chính phủ Hàn Quốc đã bắt đầu

bất lực trước việc CHDCND Triều Tiên sở hữu vũ khí hạt nhân, trục xuất thanh sát

viên IAEA, tái khởi động lò phản ứng 5MW và tái chế 8000 thanh nhiên liệu đã qua sử

dụng để sản xuất plutonium. Vì lẽ đó, tuyên bố của Roh Moo Hyun về việc thiết lập sự

“cân bằng” chính trị giữa Hàn Quốc với các quốc gia trong khu vực cũng vấp phải sự

hoài nghi của cộng đồng quốc tế.

Thứ ba, đặc điểm thiếu minh bạch của Kim Dae Jung và tham vọng quá lớn

của Roh Moo Hyun trong chính sách đối với CHDCND Triều Tiên. Năm 2001, chính

sách “Ánh dương” bị vướng vào nghi án tài chính với tiết lộ nhà lãnh đạo Bắc Triều

Tiên Kim Jong Il đã bí mật bỏ ra ít nhất 500 triệu USD để tiếp đón Kim Dae Jung

trước Hội nghị Thượng đỉnh hồi tháng 6 [89]. Các sĩ quan tình báo Hàn Quốc cũng

khẳng định Tổng thống Kim Dae Jung đã chi đến 2.000 tỷ won (tương đương 1,7 tỷ

USD) cho lãnh tụ Kim Jong Il để đền đáp thành công của Hội nghị Thượng đỉnh vào

năm 2000. Đặc biệt, từ năm 1999 đến năm 2003, theo định hướng của Chính phủ, tập

đoàn kinh tế số một của Hàn Quốc – Hyundai còn thanh khoản số tiền khoảng 600

triệu USD cho Dự án du lịch núi Kumgang và hai dự án kinh tế khác của CHDCND

Triều Tiên. Số tiền này giúp miền Bắc linh hoạt hơn trong vấn đề tài chính và có điều

Page 143: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

133

kiện tự trang bị 40 máy bay phản lực MIG của Nga, một tàu ngầm của Kazakhstan

cùng những chế phẩm quan trọng khác để xây dựng một cơ sở sản xuất làm giàu

uranium [178]. Đối với “Hòa bình và thịnh vượng”, mặc dù được đánh giá là một

chính sách thành công, có tính ổn định và tinh thần kiến tạo nhưng Tổng thống Roh

Moo Hyun vẫn thể hiện sự táo bạo quá mức khi đề ra những mục tiêu quá lớn: Vừa

gắn kết quan hệ liên Triều, vừa xây dựng bán đảo Triều Tiên và khu vực Đông Bắc Á

phồn vinh. Tuy nhiên, trên thực tế sự trở mặt của CHDCND Triều Tiên ngay thời

điểm Hàn Quốc đang ra sức củng cố và đẩy mạnh chủ trương hòa giải đã để lộ điểm yếu

của chính sách này. Như vậy, với một kế hoạch đầy tham vọng như sáng kiến “Hòa bình

và thịnh vượng” ở Đông Bắc Á, Tổng thống Roh Moo Hyun vẫn đang ở bước khởi đầu

của lộ trình hòa bình tại khu vực [13].

3.2.2.2. Sự phụ thuộc chủ yếu vào quan điểm chính trị của cá nhân tổng thống cầm

quyền trong chính sách đối ngoại

Đối với trường hợp của CHDCND Triều Tiên, hơn hai thập niên kể từ sau

Chiến tranh lạnh, hàng loạt chính sách của Hàn Quốc đã lần lượt ra đời nhằm thực hiện

sứ mệnh duy nhất là thống nhất dân tộc. Tuy nhiên, quá trình khởi xướng chính sách ở

Hàn Quốc, thực chất lại là quá trình thử nghiệm rồi thay đổi chính sách, chứ không

phải sự kế thừa và điều chỉnh nó một cách liên tục và có hệ thống. Với đặc điểm này,

chính sách của Hàn Quốc đối với CHDCND Triều Tiên trên các lĩnh vực (an ninh –

chính trị, kinh tế và văn hóa – xã hội) đều chưa thể hiện rõ bản chất của một chính sách

đối ngoại mà chỉ cho thấy quan điểm và lập trường của cá nhân người cầm quyền. Từ

một mục tiêu “nhất quán”, các thế hệ lãnh đạo Hàn Quốc đã có quá nhiều cách tiếp cận

khác nhau. Chính quyền Kim Young Sam một mực theo đuổi chính sách cưỡng chế, trả

đũa và có đi có lại trên cả ba lĩnh vực an ninh – chính trị, kinh tế và văn hóa – xã hội.

Trong khi đó, chính sách can dự của hai Tổng thống Kim Dae Jung và Roh Moo Hyun

lại trung thành với quan điểm: “Bằng cách thay đổi các quy tắc ngoại giao và áp dụng

cách tiếp cận tự do dựa trên sự tham gia của Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc sẽ giảm thiểu

khả năng xung đột và tăng cường quan hệ liên Triều” [41; tr. 125-141]. Đầu năm

2008, với quan điểm chính sách can dự không đủ sức công phá “rào chắn hạt nhân” của

CHDCND Triều Tiên, Tổng thống kế nhiệm Lee Myung Bak lại đề ra chính sách

“Tầm nhìn 3000, phi hạt nhân hóa và mở cửa” nhằm thay đổi diện mạo kinh tế và quan

điểm chính trị của miền Bắc với nguyên tắc “có đi có lại sòng phẳng” và ra sức củng cố

liên minh truyền thống với Mỹ. Có thể thấy, trong giai đoạn 1989 - 2010, sự xen kẽ

giữa chủ trương hòa giải, nhân nhượng của các Tổng thống Roh Tae Woo, Kim Dae

Jung và Roh Moo Hyun với giải pháp cứng rắn, thực dụng theo kiểu “Tầm nhìn 3000”

(Lee Myung Bak) và trước đó là “Ngoại giao mới” (Kim Young Sam) đã khiến Hàn

Page 144: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

134

Quốc mất không ít thời gian để khôi phục kết quả hòa giải liên Triều sau mỗi đợt

chuyển giao quyền lực. Đây chính là điểm yếu lớn nhất của Hàn Quốc khi nước này

bước vào giai đoạn độc lập, tự chủ về chính sách đối ngoại từ sau Chiến tranh lạnh.

Ở Đông Bắc Á, nếu chính sách Bắc Triều Tiên của Hàn Quốc có đặc điểm thay

đổi qua các đợt chuyển giao quyền lực thì chính sách đối với Nhật Bản, thậm chí, còn

“xoay chiều” ngay cả trong nhiệm kỳ của một tổng thống. Từ đầu nhiệm kỳ của Kim

Young Sam (1993) và Roh Moo Hyun (2003), Hàn Quốc coi việc cải thiện quan hệ với

Nhật Bản là nội dung cốt lõi trong chính sách đối với khu vực. Tuy nhiên trong nửa sau

nhiệm kỳ, cả hai tổng thống đều nhanh chóng “đảo chiều” chính sách. Trong khi Kim

Young Sam quay lại chống Nhật và lựa chọn giải pháp “đối đầu” cho vấn đề tranh chấp

Dokdo/Takeshima (1995) thì Roh Moo Hyun lại phát động “cuộc chiến ngoại giao” và

bài xích sự biện minh của Nhật Bản về quá khứ chiếm đóng bán đảo Triều Tiên (2005).

So với người tiền nhiệm, Tổng thống Roh Moo Hyun thậm chí còn đổi hướng chính

sách chóng vánh và quyết liệt hơn, chuyển từ quan điểm: “Hàn Quốc không tranh cãi

về vấn đề lịch sử với Nhật Bản trong nhiệm kỳ của tôi” (Hội nghị Thượng đỉnh Hàn –

Nhật tại đảo Jeju năm 2004) [77; tr. 39] sang tuyên bố: “Hàn Quốc sẽ đấu tranh để

vạch trần tội ác của Nhật Bản trong cuộc chiến tranh xâm lược Triều Tiên cũng như

lịch sử 40 năm chiếm đóng, tra tấn, tù đày, cưỡng bức lao động và cả nạn nô lệ tình

dục của quân đội nước này” (Phát biểu trên truyền hình năm 2006) [167]. Do quan

điểm chính trị của cá nhân tổng thống cầm quyền tác động rất lớn đến việc hoạch định,

thực thi và chuyển hướng chính sách nên Hàn Quốc gặp không ít khó khăn trong quá

trình xác lập một mối quan hệ lâu dài và ổn định với các nước trong khu vực (nhất là

sau mỗi đợt chuyển giao quyền lực hoặc xảy ra các sự cố về vấn đề an ninh). Đây là

điểm yếu cố hữu mà ngoại giao Hàn Quốc cần khắc phục vì nhìn về tương lai mọi bất

đồng và xung đột do “di sản” thời chiến đều không thể đảo ngược xu thế hợp tác và

phát triển tất yếu của lịch sử.

3.2.2.3. Chính sách của Hàn Quốc vẫn làm nổi bật đặc điểm “nóng” về kinh tế, văn

hóa – xã hội nhưng “lạnh” về an ninh – chính trị

Đặc điểm “nóng” về kinh tế và văn hóa – xã hội do chính sách đối ngoại của

Hàn Quốc đã biết nắm bắt thời cơ, biến thời điểm kết thúc Chiến tranh lạnh và hội

nhập khu vực thành cơ hội phát triển quan hệ ở Đông Bắc Á. Trên lĩnh vực kinh tế,

Hàn Quốc xác định Nhật Bản, Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên là những đối

tác thương mại, đầu tư hàng đầu. Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội, Đông Bắc Á là

tâm điểm của các hoạt động giao lưu văn hóa – nghệ thuật, trao đổi thanh niên, hợp

tác giáo dục, hỗ trợ nhân đạo và phổ biến làn sóng “Hallyu”. Trong khi đó, đặc

điểm “lạnh” về an ninh – chính trị là do chính sách của Hàn Quốc chưa giải quyết

Page 145: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

135

được những bất đồng nổi cộm trong khu vực. Đối với Nhật Bản, thái độ bất mãn

của Hàn Quốc về các vấn đề lịch sử bắt nguồn từ sự thất bại của nước láng giềng

khi đưa ra lời xin lỗi trong Hiệp ước Cơ bản (1965). Kết quả bình thường hóa quan

hệ hai nước ngay sau đó cũng chỉ là kế hoạch vội vàng của Mỹ nhằm đối phó với

làn sóng cộng sản ở Đông bán cầu. Do quá trình hòa giải thực sự giữa hai bên hoàn

toàn bị bỏ qua nên từ sau Chiến tranh lạnh, Hàn Quốc vẫn bị chi phối và ám ảnh bởi

tình cảm “chống Nhật” trong chính sách đối ngoại của mình.

Vào thời kỳ cầm quyền của Kim Dae Jung, quan hệ hai nước đã có những bước

tiến dài nhờ thúc đẩy trao đổi kinh tế và thực hiện chính sách “mở cửa” về văn hóa – xã

hội. Mặc dù vậy, nỗ lực hợp tác nói trên vẫn bị “gián đoạn” do sự trỗi dậy của ý thức

dân tộc. Đặc điểm này khiến Hàn Quốc trở nên cực đoan và hiếu chiến khi chủ động trả

đũa Nhật Bản bằng giải pháp “cấm vận” ngoại giao. Trong vấn đề sách giáo khoa

xuyên tạc lịch sử, tháng 7-2001, Chính phủ Hàn Quốc đã thông qua một loạt giải pháp

răn đe: Bộ Quốc phòng Hàn Quốc cấm tàu hải quân Lực lượng phòng vệ Nhật Bản ghé

thăm cảng Incheon; Bộ Du lịch và Văn hóa đề xuất sửa đổi toàn diện chính sách “mở

cửa” đối với văn hóa Nhật Bản; Bộ Ngoại giao yêu cầu triệu hồi đại sứ tại Nhật Bản và

sửa đổi “Tuyên bố chung” giữa hai nước (1998) [22]. Kịch bản này tiếp tục lặp lại vào

năm 2005 khi Tổng thống Roh Moo Hyun chủ động khơi mào “cuộc chiến ngoại giao”

và đơn phương cắt đứt liên lạc với chính quyền và Hội đồng dân biểu tỉnh Shimane để

phản đối ngày “Takeshima” của Nhật Bản. Mặc dù không thể chối bỏ vấn đề lịch sử,

nhất là khi Nhật Bản đang tăng cường tuyên bố chủ quyền trên nhóm đảo tranh chấp

nhưng việc đơn phương tuyệt giao quan hệ giữa các tổ chức, đoàn thể và nhân dân hai

nước để thể hiện sự phản đối với Nhật Bản là hành động đầy cảm tính và duy ý chí của

ngoại giao Hàn Quốc. Rõ ràng, tuyên bố “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” đã

được Seoul nhắc đến khá nhiều trong chính sách đối ngoại đầu thế kỷ XXI nhưng trên

thực tế nó chỉ có tác dụng trên hai lĩnh vực kinh tế và văn hóa – xã hội; trên mặt trận an

ninh – chính trị, tinh thần ấy vẫn chưa thể bước qua cánh cửa của “chủ nghĩa dân tộc”.

Ở Đông Bắc Á, ngay cả Trung Quốc là đối tác kinh tế số một và là điểm khởi

đầu làn sóng “Hallyu” của Hàn Quốc nhưng quan hệ hai nước vẫn gặp rắc rối do các

vấn đề an ninh chung: Tranh cãi lịch sử từ thời cổ đại về người thừa kế hợp pháp của

vương triều Koguryo và Balhae; tranh giành chủ quyền đối với “Bạch Đầu sơn” (núi

Trường Bạch nằm sát biên giới Trung Quốc, Bắc Triều Tiên); tranh chấp đảo Tô Nham

mà Hàn Quốc gọi là Ieodo. Với những bất đồng nói trên, vào tháng 9-2006, Thứ trưởng

Ngoại giao Lee Kyu Hyung đã tuyên bố hướng giải quyết của Chính phủ Hàn Quốc là:

“Xử lý mọi trường hợp bóp méo lịch sử hoặc vi phạm chủ quyền lãnh thổ với Trung

Quốc theo cách thức rõ ràng và cứng rắn” [30]. Hàn Quốc đã triển khai chiến dịch đả

Page 146: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

136

kích quy mô lớn nhằm chống lại sự “ngụy biện, cưỡng đoạt lịch sử” của Trung Quốc từ

thời cổ đại” và đầu tư xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học biển, sân bay trực thăng, ra-

đa, bến tàu trên vùng đảo Tô Nham để khẳng định chủ quyền và trấn áp các cuộc biểu

tình chống đối từ phía Trung Quốc.

Với trường hợp CHDCND Triều Tiên, đặc điểm “lạnh” về an ninh – chính trị

thậm chí còn lấn lướt và đe dọa dấu hiệu “nồng ấm” ban đầu về hợp tác kinh tế và văn

hóa – xã hội. Dù đã có quan hệ buôn bán, đầu tư và tiếp xúc dân sự từ năm 1988 nhưng

sự đổi hướng chính sách liên tục của Hàn Quốc để ứng phó với quan điểm “quân sự

trên hết” và trừng phạt chương trình phát triển hạt nhân của CHDCND Triều Tiên đã

làm cho các dự án kinh tế phục vụ cho chính sách thống nhất bị bỏ dở; các kế hoạch

viện trợ, đoàn tụ thân nhân ly tán và giao lưu văn hóa cũng không được thúc đẩy. Từ

tháng 7-1998, toàn bộ dự án khu nghỉ mát núi Kumgang - biểu tượng “hòa bình” của

hai miền Triều Tiên đã bị Tổng thống Lee Myung Bak đình chỉ sau khi quân đội Bắc

Triều Tiên bắn chết công dân Hàn Quốc ở biên giới hai nước. Chính sách cứng rắn trên

được CHDCND Triều Tiên đáp trả bằng việc chiếm dụng hầu hết tài sản thuộc sở hữu

của Chính phủ Hàn Quốc, phong tỏa tài khoản của các tổ chức kinh tế tư nhân và trục

xuất lao động Hàn Quốc đang làm việc tại khu du lịch (4-2010).

3.3. Những bài học kinh nghiệm

Trong những năm gần đây, chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đang đối mặt

với nhiều thách thức: Sự suy giảm vai trò của Mỹ, sự gia tăng sức mạnh của Trung

Quốc, nỗ lực bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản dưới sự bảo trợ của Mỹ và duy trì

mối quan hệ ổn định lâu dài với CHDCND Triều Tiên. Hơn thế nữa, quan hệ Mỹ và

Hàn Quốc cũng đang chuyển dần từ liên minh an ninh sang hợp tác kinh tế. Trong khi

đó, quan hệ Hàn Quốc và Trung Quốc lại đang mở rộng từ lĩnh vực kinh tế sang vấn đề

chính trị - ngoại giao song phương. Do vậy, những kinh nghiệm thực tiễn từ chính sách

của Hàn Quốc đối với Đông Bắc Á (1989 - 2010) là rất cần thiết, không chỉ cho Hàn

Quốc mà còn cho cả Việt Nam trong tiến trình mở cửa và hội nhập khu vực.

3.3.1. Một số vấn đề đặt ra đối với Hàn Quốc

Thứ nhất, thể hiện sự cân bằng trong chính sách đối với CHDCND Triều

Tiên

Một là, Hàn Quốc cần đạt được sự cân bằng giữa chính sách thống nhất đất

nước và chính sách đối với CHDCND Triều Tiên. Trong khi “Ánh dương” đơn giản

chỉ là chính sách dành cho Bắc Triều Tiên, không quá đặt nặng vấn đề thống nhất thì

“Ngoại giao mới” của Kim Young Sam và “Tầm nhìn 3000, phi hạt nhân hóa và mở

cửa” của Lee Myung Bak lại quá coi trọng nỗ lực thống nhất đất nước mà xem nhẹ

chính sách đối với Nhà nước ở miền Bắc. Ưu tiên số một trong chính sách của Hàn

Page 147: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

137

Quốc là tìm kiếm một lộ trình nhằm đạt được những lợi ích và sự thịnh vượng chung

của hai miền cũng như việc giải trừ vũ khí hạt nhân [135; tr. 9]. Chừng nào chưa đạt

được mục tiêu này thì mọi cố gắng nhằm đẩy nhanh tiến trình tái thống nhất đều trở

thành vô nghĩa. Thực tế cho thấy, vì coi trọng chính sách thống nhất đất nước hơn chính

sách đối với CHDCND Triều Tiên nên Kim Young Sam đã vội vàng thực hiện giải

pháp “ngăn chặn”, “kiềm chế” và trông chờ vào sự sụp đổ chế độ ở Bình Nhưỡng. Cũng

vì quá tính toán và thực dụng, Tổng thống Lee Myung Bak đã coi kết quả giải trừ vũ khí

hạt nhân (chính sách thống nhất) là điều kiện then chốt để duy trì viện trợ nhân đạo và

hợp tác kinh tế (chính sách đối với Bắc Triều Tiên). Quan điểm “phi hạt nhân hóa” phải

“dẫn đường” cho hòa giải và hợp tác kinh tế của Hàn Quốc đã khiêu khích tinh thần

hiếu chiến của CHDCND Triều Tiên với chuỗi sự kiện: Nữ du khách Hàn Quốc bị bắn

chết tại núi Kumkang (2008); phóng tên lửa, thử nghiệm hạt nhân lần thứ hai (2009),

đánh chìm tàu Cheonan và nã pháo vào đảo Yeonpyong (2010). Rõ ràng, dù mục tiêu

cuối cùng của Hàn Quốc là thống nhất hoàn toàn bán đảo nhưng việc cân bằng giữa

chính sách Bắc Triều Tiên và chính sách thống nhất đất nước vẫn là giải pháp khả dĩ

nhằm hạn chế vấn đề cạnh tranh, gây sức ép, đe dọa xung đột vũ trang giữa hai miền và

tranh thủ được sự ủng hộ của bạn bè quốc tế.

Hai là, Hàn Quốc cần đạt được sự cân bằng giữa sức mạnh kinh tế và lòng tin

chính trị. Khoảng cách quá lớn về trình độ phát triển kinh tế giữa hai miền là một trong

những lý do được Hàn Quốc đưa ra (ngay từ thời Tổng thống Syng Man Rhee) để lý

giải cho quyết tâm thống nhất dân tộc. Từ sau Chiến tranh lạnh, để tiến gần hơn đến

mục tiêu này, Hàn Quốc chủ yếu dựa vào sức mạnh kinh tế, coi đó là công cụ của

đường lối đối ngoại cứng rắn và chính sách sáp nhập của Chính phủ. Tuy nhiên, sự ỷ

lại quá mức vào ưu thế này lại khiến cho chính sách của Hàn Quốc trở nên kém hiệu

quả. Hàn Quốc không thể dựa vào sự vượt trội về kinh tế để áp đặt và đưa ra điều kiện

chính trị đối với một Nhà nước đã bị “niêm phong từ trong máu”. Để không gây ra

“hiệu ứng ngược”, sức mạnh kinh tế của Hàn Quốc cần phải được sử dụng đúng lúc,

đúng chỗ, cụ thể là thông qua con đường đầu tư, viện trợ, tăng cường giao lưu văn hóa,

tiếp xúc xã hội để từng bước tạo dựng niềm tin với người “anh em”. Thực tế, không

một quốc gia hoặc dân tộc nào trong lịch sử thế giới hiện đại đã hoặc đang được thống

nhất hòa bình mà chỉ dựa vào lợi ích kinh tế. Việc hoạch định chính sách của Hàn

Quốc, theo đó, cũng phải được thực hiện trên cơ sở hiểu biết, tin cậy thông qua quá

trình giao lưu và tiếp xúc tự nguyện.

Ba là, Hàn Quốc cần đạt được sự cân bằng giữa giải pháp răn đe và giải pháp

hòa giải với Bắc Triều Tiên. Trong giai đoạn 1989 - 2010, chính sách của Hàn Quốc

đối với CHDCND Triều Tiên, về cơ bản, có thể chia thành hai nhóm: Thứ nhất, chính

Page 148: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

138

sách “có đi có lại bảo thủ” (hay “chính sách diều hâu”); thứ hai, chính sách “có đi có lại

linh hoạt” (hay “chính sách lan tỏa”). Hai tổng thống Kim Young Sam và Lee Myung

Bak đại diện cho nhóm chính sách thứ nhất với kiểu quan hệ “có đi có lại bảo thủ”, gắn

vấn đề chính trị với hợp tác kinh tế. Tuy nhiên, việc thực hiện đường lối ngoại giao này

của Kim Young Sam và Lee Myung Bak lại đưa kinh tế Bắc Triều Tiên rơi vào khủng

hoảng và tạo tình thế bất lợi cho quan hệ đồng minh Mỹ - Hàn do Bình Nhưỡng đẩy

mạnh phát triển vũ khí hạt nhân để bảo vệ sự tồn tại của chế độ. Hai tổng thống Kim

Dae Jung và Roh Moo Hyun đại diện cho nhóm chính sách thứ hai với nguyên tắc “có

đi có lại linh hoạt”, tách vấn đề chính trị ra khỏi hợp tác kinh tế. Nhóm chính sách này

có ba đặc điểm: (1) Bất bình đẳng (bên này “chuyên cho” và bên kia “chuyên nhận”);

(2) bất liên kết (“cho trước, nhận sau”); (3) bất đối xứng (lấy kết quả viện trợ nhân đạo,

hợp tác kinh tế và văn hóa – xã hội để cải thiện quan hệ chính trị, an ninh). Thực tế cho

thấy, chính sách đối với Bắc Triều Tiên muốn thắng lợi phải đảm bảo nguyên tắc kiên

nhẫn, mềm mỏng và nhất là “cho trước, nhận sau” do miền Bắc luôn mặc định thực

hiện “nhận trước, cho sau” với Hàn Quốc trên tất cả mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, nếu trung

thành quá mức với giải pháp nhân nhượng và viện trợ “vô điều kiện” thì chính sách của

Hàn Quốc lại rất dễ sa vào vấn nạn “ngoại giao chi phiếu” hay “tiền cho Hội nghị

Thượng đỉnh” như trường hợp chính sách “Ánh dương”.

Những phân tích nói trên cho thấy chính sách hợp lý đối với CHDCND Triều

Tiên không thể đơn giản chỉ là “chính sách cưỡng chế” hay “chính sách nhân nhượng”

mà phải là “chính sách liên kết” – đó là sự kết hợp hiệu quả và cân bằng của cả hai

nhóm chính sách nói trên. Giải pháp liên kết được thực hiện trên cơ sở vừa đối thoại,

gây áp lực vừa hợp tác và răn đe; trong đó, nguyên tắc quan trọng nhất là tách phát

triển kinh tế với hợp tác văn hóa – xã hội (bao gồm: Viện trợ nhân đạo, đoàn tụ gia

đình ly tán và trao đổi dân sự) ra khỏi lĩnh vực chính trị, an ninh. Định hướng này là

hoàn toàn khả thi vì trong bối cảnh toàn cầu hóa, Bắc Triều Tiên không thể phát triển

kinh tế mà không tiến hành cải cách và mở cửa. Việc cắt đứt quan hệ với Hàn Quốc,

chắn chắn, sẽ không được nước này lựa chọn vì nó liên quan đến vấn đề cải thiện quan

hệ với Mỹ, Nhật Bản và quan trọng là hợp tác kinh tế với Hàn Quốc còn chưa đến “kỳ

thu hoạch” [21]. Rõ ràng, giải pháp triệt để trừng phạt hoặc triệt để nhân nhượng không

còn là sự lựa chọn duy nhất nhằm thay đổi thái độ và hành động của Bắc Triều Tiên.

Quan hệ liên Triều cần được xây dựng dựa trên cả hai cơ sở “nguyên tắc” và “lòng tin”

mới có thể phát triển mối quan hệ ổn định và bền vững giữa hai thực thể chính trị trên

bán đảo Triều Tiên.

Thứ hai, thực hiện chính sách ngoại giao “trung lập” và “đa phương” đối

với các nước trong khu vực.

Page 149: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

139

Về trung và dài hạn, chính sách đối ngoại của Mỹ vẫn sẽ là yếu tố quan trọng

ảnh hưởng đến Hàn Quốc vì nếu siêu cường này theo đuổi cách tiếp cận đối đầu thì

chắc chắn tình hình chính trị ở Đông Bắc Á sẽ bị “phân cực”. Tuy nhiên, khác với Mỹ

và Trung Quốc, Hàn Quốc chưa đủ thực lực để gây ảnh hưởng tuyệt đối tại khu vực.

Tình huống phức tạp này đòi hỏi chính sách đối ngoại Hàn Quốc phải sáng tạo, khôn

ngoan và nhất là không vội vã đứng về phía nào. Có thể coi các chiến thuật sau đây là

những bước đệm cơ bản:

Một là, ngoại giao Hàn Quốc phải “trung lập” hơn trong những vấn đề đối

ngoại khu vực. Nghiên cứu tình hình chính trị ở Đông Bắc Á có thể giải mã ngoại giao

Hàn Quốc trong những năm gần đây. Dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Lee Myung

Bak, Hàn Quốc đã thực hiện chính sách thân Mỹ và ủng hộ Nhật Bản. Kết quả là mối

quan hệ Hàn Quốc – Trung Quốc, Hàn Quốc – CHDCND Triều Tiên đã bị xem nhẹ và

phải hứng chịu nhiều chướng ngại. Chừng nào Mỹ và Trung Quốc vẫn chưa đạt được

một sự cân bằng quyền lực trong trật tự chính trị ở châu Á – Thái Bình Dương thì một

cuộc đấu tranh âm ỉ vẫn tiếp tục diễn ra. Tình hình này buộc Hàn Quốc phải theo đuổi

một chính sách ngoại giao cân bằng về quyền lực với việc trở thành quốc gia trung lập

trong cuộc đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, “trung lập” ở đây không có

nghĩa là “tự cô lập”. Để đảm bảo lợi ích chiến lược của mình, Hàn Quốc vẫn phải duy

trì liên minh với Mỹ và liên kết với Trung Quốc. Củng cố quan hệ Trung – Mỹ không

chỉ mang lại lợi ích cho hai quốc gia này mà còn mang lại lợi ích cho các nước trong

khu vực, đặc biệt là Hàn Quốc.

Hai là, duy trì mối quan hệ đa phương ở Đông Bắc Á. Để thuyết phục

CHDCND Triều Tiên từ bỏ chương trình phát triển hạt nhân, Hàn Quốc không chỉ hợp

tác với các nước láng giềng mà còn cần phát triển mạng lưới đa cấp với các học giả,

doanh nhân và với Chính phủ Trung Quốc. Bên cạnh đó, Hàn Quốc cũng có thể thu hút

sự hợp tác của Nhật Bản, Nga, Australia, ASEAN và mở rộng hoạt động ngoại giao của

mình nhờ vào sự hỗ trợ của các cường quốc trong khu vực và các tổ chức quốc tế. Chính

sách của Hàn Quốc cần phải tạo dựng cho được một kênh đối thoại trực tiếp về hợp tác

an ninh ở Đông Bắc Á nhằm xây dựng lòng tin giữa các bên liên quan. Để làm được điều

này, trước tiên, Hàn Quốc phải nối lại đàm phán sáu bên hoặc thiết lập một cuộc đối

thoại chiến lược ba bên giữa Mỹ - Hàn Quốc - Trung Quốc để kiểm soát đối đầu trong

khu vực. Hàn Quốc cần tận dụng vai trò “đa diện” của Trung Quốc trong việc kêu gọi

đầu tư chung vào Bắc Triều Tiên gắn với quá trình đàm phán FTA giữa hai nước và

khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Tổ hợp công nghiệp Kaesong để ngăn chặn ý đồ lợi

dụng cơ sở kinh tế vào mục đích chính trị của Bình Nhưỡng.

Ba là, đa dạng hóa các chương trình nghị sự của khu vực. Việc phát triển vũ

khí hạt nhân của CHDCND Triều Tiên; bất đồng lịch sử, tranh chấp lãnh thổ với Nhật

Page 150: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

140

Bản, Trung Quốc là những vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Để ngăn chặn sự đối đầu gay

gắt giữa các nước và tạo ra một khuôn khổ hợp tác về các vấn đề chung, Hàn Quốc cần

chủ động đa dạng hóa các chương trình nghị sự để “trung hòa” và “pha loãng” tác động

tiêu cực của những bất đồng, xung đột. Đặc biệt, Hàn Quốc cần duy trì bền vững

“chính sách đa kênh” trong các cuộc đàm phán, thậm chí khắc phục hậu quả do khiêu

khích quân sự của Bình Nhưỡng. Bên cạnh việc tăng cường hợp tác ba bên Hàn Quốc –

Nhật Bản – Trung Quốc để cùng giải quyết các vấn đề chính trị và trao đổi văn hóa –

xã hội ở Đông Bắc Á, Hàn Quốc cũng nên lồng ghép vấn đề kinh tế vào các cuộc đàm

phán sáu bên nhằm mang lại nguồn sinh khí mới cho các chương trình nghị sự vốn còn

hạn chế về kết quả giải quyết vấn đề hạt nhân.

Thứ ba, tách biệt chính sách phát triển kinh tế với hợp tác an ninh – chính trị.

Cho đến hết thập niên đầu thế kỷ XXI, vấn đề an ninh – chính trị song phương

và đa phương vẫn đang dẫn dắt, chi phối chính sách kinh tế đối ngoại của Hàn Quốc.

Đối với CHDCND Triều Tiên, đây là hệ quả của việc duy trì mối quan hệ “bình đẳng”

theo nguyên tắc “nhận trước – cho sau” và “cho bao nhiêu – nhận bấy nhiêu” của Tổng

thống Lee Myung Bak. Việc lồng ghép hỗ trợ kinh tế với tiến độ giải trừ hạt nhân trong

chính sách “Tầm nhìn 3000, phi hạt nhân hóa và mở cửa” không những phá hỏng quan

hệ liên Triều mà còn gây ra cuộc “khủng hoảng kép” ở cả hai lĩnh vực hợp tác nói trên.

Sai lầm cố hữu của Hàn Quốc trong chính sách Bắc Triều Tiên trong hơn hai thập niên

qua là coi kinh tế như “điều kiện trao đổi” hay “phần thưởng” cho mọi sự tiến bộ về

hợp tác an ninh – chính trị. Kiểu tư duy này cần sớm được loại bỏ vì vấn đề cốt lõi

trong quan hệ liên Triều không phải là lương thực, phân bón hay tiền viện trợ mà là

lòng tin và sự hiểu biết.

Cũng như CHDCND Triều Tiên, kinh tế Trung Quốc và Hàn Quốc có sự bổ

sung tốt cho nhau nên khả năng hợp tác trong tương lai là rất lớn. Hai nước đã tăng

cường thông tin liên lạc, phối hợp thúc đẩy thương mại song phương cấp cao nhằm thắt

chặt quá trình đàm phán FTA và tăng cường hợp tác kinh tế ở Đông Bắc Á. Tuy nhiên,

từ năm 2010, quan hệ song phương ít nhiều bị ảnh hưởng do lập trường khác biệt của

Trung Quốc về vụ đắm tàu Cheonan và vụ kích pháo vào đảo Yeonpyeong của Bắc

Triều Tiên (2010). Bên cạnh đó, những tranh cãi lịch sử từ thời cổ đại, tranh giành

Bạch Đầu sơn và đảo Tô Nham chưa có hướng giải quyết cũng rất dễ tác động đến

thành tựu kinh tế to lớn giữa hai “đối tác hợp tác chiến lược”. Khi mà các bên đều ra

sức bảo vệ quan điểm chính trị của mình và cam kết đấu tranh cho lẽ phải nhờ vào các

cuộc khẩu chiến và các công trình quân sự trái phép thì việc chủ động “bóc tách” vấn

đề an ninh – chính trị ra khỏi hợp tác kinh tế, đối với Hàn Quốc, càng trở nên cấp thiết.

Tương tự trường hợp với Nhật Bản, quan hệ Hàn – Nhật từ sau Chiến tranh lạnh đã bắt

Page 151: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

141

đầu được cải thiện nhờ nhu cầu phát triển kinh tế và duy trì quan hệ đồng minh nhằm

thuyết phục Bắc Triều Tiên từ bỏ vũ khí hạt nhân. Mặc dù vậy, liên tiếp sóng gió nổi

lên do vấn đề lãnh thổ, lịch sử và yêu cầu bồi thường cho hàng nghìn người Triều Tiên

bị cưỡng bức lao động – bị cưỡng ép tình dục trong CTTG thứ hai do Tổng thống Roh

Moo Hyun phát động đã làm rạn nứt quan hệ hai bên. Cùng với việc đơn phương chấm

dứt đàm phán để phản đối chuyến thăm đền Yasukuni của Thủ tướng Koizumi, Roh

Moo Hyun đã tạm hoãn đàm phán kinh tế và đình chỉ thành lập các kênh tham vấn tư

nhân về đầu tư, hợp tác thương mại. Tình trạng này kéo dài có thể “đóng băng” quan

hệ song phương trên mọi lĩnh vực. Khi mà hai Chính phủ vẫn chưa đạt được thỏa thuận

nào đáng kể để giải quyết bất đồng thì Hàn Quốc cần sớm đưa hợp tác kinh tế thoát

khỏi “vũng lầy” của các vấn đề an ninh.

Thứ tư, đẩy mạnh chính sách “ngoại giao nhân dân” trên lĩnh vực văn hóa –

xã hội.

Chính sách của Hàn Quốc đối với khu vực, suốt hơn hai thập niên qua, chỉ

thuần túy thể hiện quan điểm và ý chí chính trị của những người đứng đầu Nhà nước.

Đặc điểm này khiến ngoại giao Hàn Quốc kém ổn định, thậm chí trở nên cực đoan

trong thời kỳ cầm quyền của các tổng thống bảo thủ. Hạn chế nói trên chỉ có thể khắc

phục khi Hàn Quốc coi “người dân” là chủ thể “đồng hoạch định” và “đồng hỗ trợ” cho

chính sách. Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội, “ngoại giao nhân dân” rất quan trọng vì

chính thế hệ trẻ, các chuyên gia, vận động viên, văn nghệ sỹ… mới là những người

trực tiếp trao đổi, giao lưu và đưa văn hóa, khoa học, giáo dục của Hàn Quốc xích lại

gần khu vực mà không chịu sự chi phối quá sâu sắc của quan điểm chính trị hay ý thức

hệ. Lấy trường hợp Nhật Bản làm thí dụ, mặc dù hai nước đang đối mặt với bất đồng,

xung đột do các vấn đề an ninh – chính trị nhưng tình hình hoàn toàn có thể thay đổi

nếu Chính phủ Hàn Quốc đẩy mạnh chính sách “ngoại giao nhân dân” trên lĩnh vực

then chốt này bằng việc tăng cường đối thoại giữa “thế hệ nói tiếng Hàn” của Hàn

Quốc và thế hệ trẻ sinh ra sau chiến tranh ở Nhật Bản. Qua đó, tăng cường tiếp xúc

giữa học sinh, sinh viên, các nhà lãnh đạo trẻ nhằm kiến tạo mối quan hệ tiến bộ nhờ

kiên trì chính sách “mở cửa” văn hóa.

Hàn Quốc và Trung Quốc cũng như các nước láng giềng khác ở Đông Á đều có bề

dày lịch sử về quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hóa. Đây là cơ sở để nước này xây dựng

chính sách thông qua vai trò của các học giả và các phương tiện truyền thông. Hàn Quốc

cũng nên quan tâm giáo dục thế hệ trẻ về vai trò “cầu nối” của họ đối với việc thúc đẩy

ngoại giao với Chính phủ và nhân dân Trung Quốc, đặc biệt là thông qua các trại hè thanh

niên và Diễn đàn văn hóa. Một yếu tố khác, Hàn Quốc cần biết tận dụng là lực lượng “kiều

bào” khoảng 200.000 người trong thập kỷ qua đang sinh sống và học tập ở Trung Quốc,

Page 152: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

142

trong đó có 50.000 sinh viên (số lượng sinh viên nước ngoài đông đảo nhất trong các

trường Đại học ở Trung Quốc) [155]. Lực lượng này cần đóng vai trò truyền thông xã hội

và những “sứ giả văn hóa” tích cực ở hải ngoại.

Với trường hợp CHDCND Triều Tiên, chính sách của Hàn Quốc cần được thực

hiện một cách cân bằng và toàn diện ở các cấp địa phương và nhân dân hai miền. Thực

tế, Chính phủ Hàn Quốc trước đây đã từng phải đối mặt với cả một chính thể Nhà nước

Bắc Triều Tiên cực đoan và hiếu chiến khi họ phớt lờ yếu tố nhân dân, yếu tố con

người Bắc Triều Tiên mà chỉ tập trung ứng phó với chính sách của các nhà lãnh đạo.

Không giống với Nhật Bản và Trung Quốc, việc thực hiện các vấn đề nhân đạo như

viện trợ lương thực và đoàn tụ gia đình ly tán tạo điều kiện nhiều hơn cho nhân dân

Hàn Quốc củng cố, thắt chặt tình cảm với “nửa kia” của dân tộc. Hàn Quốc cần có

những nỗ lực thực sự để triển khai kế hoạch trao đổi nhân sự và các hoạt động phi

chính phủ nhằm cải thiện vấn đề nhân quyền, cải thiện quan hệ với đồng bào miền Bắc

và thúc đẩy tình hữu nghị giữa nhân dân hai miền.

Thứ năm, củng cố và gia tăng sức mạnh mềm trong chính sách đối với các

nước trong khu vực.

Kim Gu (1876 - 1949) - nhà lãnh đạo phong trào độc lập chống thực dân Nhật Bản,

tổng thống cuối cùng của Chính phủ lâm thời Hàn Quốc (1927) là người đầu tiên đề cập

đến việc sử dụng văn hóa như một sức mạnh mềm của quốc gia với mong ước: “Tôi muốn

đất nước của chúng tôi đẹp nhất trên thế giới dù điều này không đồng nghĩa với một đất

nước hùng mạnh nhất… Thấu hiểu nỗi đau của một dân tộc bị xâm chiếm, tôi không muốn

đất nước của tôi gây ra điều tương tự. Điều duy nhất tôi muốn là sức mạnh của một nền

văn hóa cao quý vì nó làm cho chúng ta hạnh phúc và cũng mang đến hạnh phúc cho

những người khác” [74] (Tự truyện “Baekbeomilji”). Định hướng phát triển văn hóa làm

“lực đẩy” cho quốc gia đã thôi thúc sự ra đời của “làn sóng Hàn Quốc” (Hallyu) từ cuối thế

kỷ XX. Cùng với chính sách “mở cửa” văn hóa từ thời Kim Dae Jung, “Hallyu” có điều

kiện thâm nhập sâu rộng vào đời sống của giới trẻ Nhật Bản, làm bùng nổ “cơn sốt Hàn

Quốc” từ ngôn ngữ, ẩm thực, âm nhạc đến thời trang xứ Hàn. Đặc biệt, riêng với điện ảnh,

chỉ trong năm 2004, 29 bộ phim Hàn Quốc đã được trình chiếu ở Nhật Bản và có 63 trong

tổng số 127 đài truyền hình mặt đất phát sóng 70 bộ phim truyền hình Hàn Quốc đầu năm

2005 [88; tr. 234]. Sự thành công của “Hallyu” đã tạo ra hình ảnh tích cực hơn của Hàn

Quốc với thế hệ trẻ Nhật Bản; qua đó, thúc đẩy du lịch, nghiên cứu ngôn ngữ và các

chương trình trao đổi sinh viên giữa hai nước. “Hallyu” cũng nên được Chính phủ Hàn

Quốc sử dụng như một công cụ quyền lực mềm nhằm giảm bớt tâm lý chống đối Bắc

Triều Tiên. Thực tế, để đưa “Hallyu” thâm nhập vào thị trường miền Bắc, tháng 5-2007,

Hàn Quốc đã lần đầu tiên sản xuất bộ phim truyền hình “Hwang Jini” (dựa trên cuốn tiểu

Page 153: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

143

thuyết của một tác giả người Bắc Triều Tiên) và công chiếu rộng rãi cho công chúng Bình

Nhưỡng [150]. Sức mạnh của văn hóa Hàn Quốc được Tổng thống Roh Moo Hyun đánh

giá cao tới mức ông tin tưởng: “Một ngày nào đó, Hallyu sẽ giúp Hàn Quốc thống nhất

bán đảo Triều Tiên” [133; tr. 50].

Đối với Trung Quốc, sau khi thực hiện chính sách mở cửa (từ năm 1978), quốc

gia này đã thất bại trong việc cân bằng văn hóa truyền thống và tư tưởng Tây phương;

trong khi đó, Hàn Quốc lại tìm ra một mô hình phát triển hiện đại có sự dung hòa giữa

tư tưởng Nho giáo với văn hóa công nghiệp. Giới trẻ Trung Quốc sinh sau năm 1978

say mê Internet, yêu thích âm nhạc, phim ảnh, ẩm thực và thời trang nên “Hallyu” được

kỳ vọng là công cụ đắc lực giúp lan tỏa ảnh hưởng của Hàn Quốc sang Trung Quốc

thông qua hoạt động du lịch và xuất khẩu các sản phẩm văn hóa - nghệ thuật. Trước sự

đổ bộ của “Hallyu” ở Đông Á, cựu Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo khẳng định:

“Người dân Trung Quốc, đặc biệt là thanh niên đã hoàn toàn bị thu hút bởi hiện tượng

Hallyu. Chính phủ chúng tôi công nhận những đóng góp quan trọng của làn sóng này

đối với kết quả giao lưu văn hóa – xã hội giữa hai nước” [134; tr. 227]. Khi “Hallyu”

đã là cửa sổ để các nước châu Á nhìn vào Hàn Quốc, Chính phủ cũng nên chuyển dịch

mô hình này từ “con cưng” của ngành công nghiệp văn hóa trở thành một hiện tượng

đặc biệt có sức ảnh hưởng đến đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của cả khu vực.

3.3.2. Hàm ý đối với Việt Nam

Là quốc gia nắm giữ vị trí địa - chính trị, địa - chiến lược quan trọng ở Đông Á,

tương tự như Hàn Quốc, Việt Nam luôn chịu ảnh hưởng và tác động qua lại do quan hệ

đan xen giữa các cường quốc tại khu vực. Khi cán cân quyền lực đang dịch chuyển dần

về phía Đông bán cầu, Việt Nam cần khôn khéo, linh hoạt và uyển chuyển trong chính

sách nhằm phát triển quan hệ quốc tế trên các lĩnh vực hợp tác then chốt (kinh tế, an

ninh – chính trị, văn hóa – xã hội). Trong quá trình đó, việc tiếp cận, học hỏi và đúc rút

kinh nghiệm từ chính sách của Hàn Quốc đối với khu vực Đông Bắc Á sẽ là một trong

những cơ sở đặt nền tảng lý luận và thực tiễn quan trọng cho quá trình hoạch định, điều

chỉnh chính sách của Việt Nam. Một số gợi ý sau đây có thể giúp Việt Nam tận dụng

lợi thế so sánh của các bên trong quá trình phát triển và duy trì một khu vực Đông Á

hòa bình, thịnh vượng.

Thứ nhất, thực hiện chính sách ngoại giao cởi mở và cân bằng với khu vực

Đông Bắc Á trên các lĩnh vực, trong đó kinh tế đóng vai trò trung tâm.

Hàn Quốc luôn phải đối mặt với sự xung đột lợi ích khốc liệt của hầu hết các

quốc gia hùng mạnh cũng như sự đe dọa từ một trong những chính thể XHCN hay thay

đổi nhất thế giới. Do vậy, sứ mệnh lịch sử của quốc gia này là học cách sinh tồn giữa

những người khổng lồ dù với vị thế yếu hơn [4; tr. 304-305]. Đặc điểm nói trên khiến

Page 154: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

144

Hàn Quốc có rất ít lựa chọn trong chính sách của mình và buộc phải co kéo với các đối

tác mạnh hơn trong khu vực [49; tr. 64-90]. Đây là điểm tương đồng lớn nhất giữa Hàn

Quốc và Việt Nam. Do tác động của bối cảnh trật tự thế giới đa cực, Việt Nam và Hàn

Quốc đều thực hiện những bước điều chỉnh quan trọng trong chính sách đối ngoại

nhằm linh hoạt ứng phó với sự thay đổi của cục diện khu vực, thế giới và “tự lực cánh

sinh” trong môi trường “giữa những người khổng lồ”. Đến gần thời điểm kết thúc

Chiến tranh lạnh, cả hai nước đều công bố các chính sách đối ngoại mới: “Chính sách

ngoại giao phương Bắc” của Hàn Quốc (1988) và chính sách “Đổi mới” của Việt Nam

(1986). Nếu chính sách ngoại giao Hàn Quốc thay đổi theo hướng bình thường hóa

quan hệ với Nga, tìm kiếm cơ hội hợp tác kinh tế với Trung Quốc và các nước XHCN

thì Việt Nam đưa ra chủ trương: (1) “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập

tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế” (Văn kiện Đại hội IX)

[6; tr. 119]; (2) “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc

tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” (Văn kiện Đại hội X)

[7; tr. 112]. Từ sau khi thực hiện công cuộc Đổi mới, chính sách đối ngoại của Việt

Nam dần dần trở nên thực tế, linh hoạt và bớt nặng nề về ý thức hệ nhờ lối tư duy chính

trị hiện đại và quan điểm ngoại giao tiến bộ. Đây là tiền đề quan trọng để Việt Nam

thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc (2008), với Nhật Bản và

Hàn Quốc (2009). Trên thực tế, việc thực hiện chính sách ngoại giao rộng mở, đa dạng

đối với Đông Bắc Á đã được Việt Nam xác định từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX;

trong đó, nỗ lực cân bằng quan hệ với các nước vẫn là mục tiêu mà Việt Nam cần phải

theo đuổi trong suốt thế kỷ XXI. Bài học về việc điều tiết và cân đối sức mạnh của Hàn

Quốc khi đứng giữa “địa bàn” tranh giành quyền lực của nước lớn để lại khá nhiều

kinh nghiệm xương máu cho Việt Nam. Là nước nhỏ ở Đông Á, Việt Nam rất dễ bị tác

động, chi phối, thậm chí bị lôi cuốn vào cuộc đua quyền lực của các nước nếu không

trung thành với đường lối ngoại giao tự chủ, độc lập và nhất là thiết lập “quan hệ hài

hòa” với khu vực. Kiểu quan hệ “bên trọng – bên khinh” sẽ khiến cho cả quốc gia nhỏ

(Việt Nam), quốc gia tầm trung (Hàn Quốc) đánh mất thế chủ động và rơi vào tình

trạng mâu thuẫn, xung đột giữa các bên.

Trong khi Đông Á vẫn còn là điểm nóng về các vấn đề an ninh (bất đồng lịch

sử, tranh chấp chủ quyền) thì việc tập trung vào chính sách phát triển kinh tế, xây dựng

một khu vực thịnh vượng chung là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Nỗ lực hợp tác kinh

tế song phương không chỉ giúp bổ sung lợi thế cho nhau mà còn có tác dụng điều hòa

mâu thuẫn trên lĩnh vực chính trị, an ninh và thúc đẩy trao đổi văn hóa – xã hội phát

triển. Rõ ràng, nếu không có nền tảng hợp tác kinh tế, Hàn Quốc khó lòng tiếp cận

CHDCND Triều Tiên, củng cố quan hệ đồng minh với Nhật Bản và trở thành đối tác

Page 155: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

145

chiến lược với Trung Quốc. Bài học về sức mạnh kinh tế và việc thực hiện chính sách

kinh tế đôi bên cùng có lợi là điều Việt Nam cần đúc rút từ thực tiễn đối ngoại của Hàn

Quốc đối với Đông Bắc Á. Trong bối cảnh Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc lần lượt

là đối tác thương mại lớn nhất, lớn thứ ba và thứ tư của Việt Nam (2010) thì việc thúc

đẩy chính sách phát triển kinh tế càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp

công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Điều quan trọng là, Việt

Nam cần chủ động tách vấn đề hợp tác kinh tế ra khỏi các bất đồng an ninh - chính trị

và trao đổi văn hóa - xã hội nhằm duy trì có hiệu quả thành tựu hợp tác song phương.

Thứ hai, tăng cường hợp tác và điều phối chính sách tại các Diễn đàn đa

phương, khu vực và quốc tế như: Hợp tác Đông Á, ARF, APEC, ASEAN+3 và

ASEM nhằm thúc đẩy tinh thần đoàn kết, hợp tác cùng phát triển và giải quyết các

vấn đề thách thức của khu vực.

Dù là siêu cường hay tiểu quốc ở Đông Á, việc tham gia tích cực vào các cơ chế

sinh hoạt của những tổ chức quốc tế và khu vực về kinh tế, an ninh – chính trị như

ASEAN, ARF, APEC, ASEM đều ít nhiều mang lại lợi ích cho các nước thành viên.

Lấy trường hợp Hàn Quốc làm thí dụ. Hàn Quốc tham gia tiến trình hợp tác kinh tế

Đông Á (ASEAN+3) nhằm tạo môi trường thuận lợi cho quá trình cải cách, mở cửa

kinh tế của CHDCND Triều Tiên, thúc đẩy hợp tác liên Triều và tạo lực đẩy cho quá

trình thống nhất đất nước [10; tr. 148]. Về cơ bản, sự lựa chọn này của ngoại giao Hàn

Quốc có tính chất “tương hỗ”: Lấy mục tiêu kinh tế thúc đẩy mục đích chính trị và

ngược lại, tận dụng môi trường chính trị ổn định để tăng cường phát triển kinh tế. Đây

là kinh nghiệm thực tiễn quý giá đối với ngoại giao Việt Nam. Khi các quốc gia ở

Đông Á đều tập trung phát triển kinh tế, cải cách chính trị theo hướng dân chủ và giải

quyết các vấn đề bên trong và bên ngoài khu vực bằng con đường đối thoại thì vai trò

của các tổ chức, diễn đàn quốc tế tất yếu được nâng cao. Như vậy, quá trình tham gia,

tăng cường hợp tác và điều phối chính sách của Việt Nam đối với ASEAN, ARF,

APEC… càng khẳng định trách nhiệm, quyền lợi và địa vị của nước nhà trên trường

quốc tế. Hiện nay, các nước Đông Bắc Á đang ra sức tranh giành ảnh hưởng và gia

tăng vai trò dẫn dắt trong khu vực nên Việt Nam càng phải phối hợp chặt chẽ, tạo sự

đồng thuận với các thành viên ASEAN nhằm thực hiện chính sách cân bằng giữa các

nước lớn. Việc tham gia xây dựng cơ chế đối thoại an ninh khu vực cũng nên được

Việt Nam đặc biệt coi trọng để có tiếng nói lớn hơn, quyết định hơn trong các vấn đề

tranh chấp lãnh thổ. Bên cạnh đó, các diễn đàn và tổ chức quốc tế tại khu vực còn là

kênh thông tin quan trọng để Việt Nam tìm kiếm cơ hội hợp tác, đầu tư và tranh thủ

nguồn vốn ODA với tư cách là thành viên năng động của ASEM, APEC, ASEAN+3

và tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc.

Page 156: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

146

Thứ ba, cần có chính sách ngoại giao khôn khéo trong giải quyết tranh chấp

biển đảo, xây dựng mối quan hệ đối tác tin cậy giữa Việt Nam với các nước trong

khu vực nhằm nâng cao vị thế đất nước.

Tranh chấp biên giới và hải đảo là vấn đề gây xáo trộn nhiều nhất đối với cục

diện an ninh khu vực. Do tính chất nhạy cảm, phức tạp và quan điểm giải quyết khá

cứng rắn của các bên liên quan nên nguy cơ xung đột và đối đầu luôn rình rập Đông

Bắc Á và cả khu vực Đông Á. Việc tranh giành nhóm đảo Dokdo/Takeshima (Hàn

Quốc – Nhật Bản), quần đảo Điếu Ngư/Senkaku (Trung Quốc – Nhật Bản) và tranh

chấp Bạch Đầu sơn, đảo Tô Nham/Ieodo (Trung Quốc - Hàn Quốc) chưa bao giờ nguội

lạnh. Nhìn chung, bất đồng và mâu thuẫn nảy sinh do tranh chấp chủ quyền ở Đông Á

đều liên quan đến Trung Quốc và vấn đề biển Đông của Việt Nam cũng không phải

ngoại lệ. Là quốc gia nhỏ, Việt Nam rất dễ chịu thua thiệt trong tranh chấp đường biên

với nước láng giềng. Do đó, việc thể hiện một thái độ mềm mỏng, ôn hòa nhưng kiên

quyết, chủ động phối hợp với các nước Đông Nam Á để đưa ra quan điểm giải quyết

thống nhất với Trung Quốc là điều cần thiết. Thực tế tranh giành chủ quyền giữa Hàn

Quốc và Trung Quốc đối với đảo Ieodo/Tô Nham là bằng chứng cho thấy cách giải

quyết vấn đề cứng rắn, thiếu thiện chí giữa các bên liên quan đã làm rạn nứt mối quan

hệ song phương. Rút kinh nghiệm từ thực tế này, Việt Nam nên đặt quan hệ Việt –

Trung trong tổng thể các mối quan hệ quốc tế, không để bất đồng giữa hai nước tác

động xấu đến quan hệ đối ngoại ở Đông Á và không vì vấn đề lãnh thổ mà thờ ơ với

chính sách phát triển kinh tế, trao đổi văn hóa - xã hội nhằm tăng cường hiểu biết giữa

Chính phủ và nhân dân hai nước. Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh

thổ còn lâu dài và phức tạp, nó đòi hỏi các nước trong khu vực Đông Á nói chung và

Việt Nam nói riêng cần có thái độ hợp tác, cầu thị, lấy đối thoại hòa bình làm phương

châm giải quyết mọi bất đồng. Để đảm bảo lợi ích quốc gia trong cuộc chiến không cân

sức này, các nước vừa và nhỏ cũng cần tận dụng sức mạnh của các tổ chức khu vực,

tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế và lực lượng tiến bộ thế giới.

Song song với nỗ lực bảo vệ lãnh thổ quốc gia theo nguyên tắc kiên trì đối

thoại, Việt Nam rất cần xây dựng mối quan hệ đối tác tin cậy với khu vực Đông Bắc Á

và nâng cao vị thế quốc tế của chính mình. Để tạo dựng “lòng tin” với các nước, việc

tạo lập một môi trường hợp tác, đầu tư thông thoáng ngay cả trong điều kiện có bất

đồng an ninh với bên ngoài là việc làm vô cùng cấp thiết. Muốn vậy, Việt Nam phải

chủ động đẩy nhanh tốc độ hội nhập, cải thiện cơ cấu và thể chế kinh tế, đưa ra chính

sách kinh tế mới khuyến khích doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh và khả năng tự

chủ khi tham gia vào sân chơi khu vực. Tận dụng triệt để sự hỗ trợ từ bên ngoài nhưng

phát triển bằng sức mạnh nội sinh là bài học mà Việt Nam đã và đang đúc rút từ thực

Page 157: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

147

tiễn xây dựng đất nước của các nước trong khu vực Đông Bắc Á.

Tiểu kết chương 3.

Ngay từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, Hàn Quốc đã thực hiện bước điều

chỉnh chiến lược với khu vực Đông Bắc Á khi theo đuổi chính sách đối ngoại hòa bình,

hợp tác thay vì chiến tranh, đối đầu và xung đột trong thời kỳ trước đó. Chính sách đối

ngoại của Hàn Quốc dù còn bộc lộ những hạn chế cơ bản như: Tham vọng, thiếu minh

bạch, kém ổn định (chính sách với CHDCND Triều Tiên); lệ thuộc vào quan điểm

chính trị cá nhân, mất cân đối giữa phát triển kinh tế, trao đổi văn hóa với hợp tác an

ninh – chính trị (chính sách đối với khu vực) nhưng nỗ lực “phá băng” ở hai bên vĩ

tuyến 38 và tạo dựng một khu vực hòa bình, ổn định nhờ vào việc cải thiện và xây

dựng quan hệ toàn diện với Nhật Bản, Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên là kết quả

không thể phủ nhận của ngoại giao Hàn Quốc. Bài học về việc thực hiện chính sách

ngoại giao cân bằng, trung lập và đa phương đối với Đông Bắc Á của nước này cũng

được rút ra cho Việt Nam. Đứng trước những vấn đề gay cấn của khu vực (phát triển

hạt nhân, bất đồng lịch sử, tranh chấp chủ quyền), Hàn Quốc và Việt Nam đều cần tỉnh

táo, khôn khéo, biết điều hòa sức mạnh giữa các cường quốc nhưng phải đặt lợi ích

quốc gia, dân tộc lên hàng đầu. Đẩy mạnh hợp tác kinh tế, giao lưu văn hóa – xã hội

nhằm xoa dịu căng thẳng, mở rộng hiểu biết và thắt chặt tình hữu nghị với các nước

Đông Bắc Á vì an ninh, ổn định của hai quốc gia và toàn khu vực.

Page 158: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

148

KẾT LUẬN

1. Do nằm ở vị trí trung tâm bán đảo Triều Tiên và Đông Bắc Á, chính sách đối

ngoại của Hàn Quốc hơn hai thập niên qua đã hoàn toàn đặt cược vào kết quả cân bằng

quyền lực, giảm đối đầu giữa các nước; hòa giải – hòa hợp dân tộc và hội nhập khu

vực. Dưới tác động của bối cảnh quốc tế và quá trình xác lập ảnh hưởng của các siêu

cường, ngoại giao Hàn Quốc đã có những bước điều chỉnh quan trọng để đảm bảo lợi

ích dân tộc và kiến tạo một Đông Bắc Á ổn định, phồn vinh. Tuy nhiên, sự chuyển

hướng này cũng trải qua nhiều cột mốc thăng trầm. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, nội

dung xuyên suốt và nhất quán trong chính sách của Hàn Quốc đối với khu vực là thực

hiện liên minh với Nhật Bản; duy trì đối đầu, thù địch với Trung Quốc và sáp nhập với

CHDCND Triều Tiên kể cả bằng vũ lực do ảnh hưởng học thuyết “Hallstein” của Tây

Đức đối với Đông Đức6F

7. Đây là kết quả tích hợp của tình trạng xung đột Đông – Tây,

quan điểm chống cộngcủa Syng Man Rhee và Hiệp ước Phòng thủ chung Mỹ - Hàn từ

đầu thập niên 50 của thế kỷ XX. Chính sách ngăn chặn và cô lập khu vực đã trở thành

lực cản lớn nhất trong quan hệ giữa Hàn Quốc với Nhật Bản, Trung Quốc và

CHDCND Triều Tiên. Từ sau Chiến tranh lạnh, kỷ nguyên mới trong quan hệ quốc tế

bắt đầu mở ra khi cuộc đối đầu giữa hai hệ thống kinh tế, chính trị thế giới chấm dứt và

bán đảo Triều Tiên - chiến trường chính của Chiến tranh lạnh ở châu Á đã dần trở nên

nồng ấm. Dưới tác động của các nhân tố khách quan (xu thế hội nhập khu vực, sự thay

đổi chiến lược của các nước lớn trên bán đảo Triều Tiên) và nhân tố chủ quan (tình

hình phát triển kinh tế - xã hội ở trong nước và nhu cầu cố kết của quốc gia đối với khu

vực), Hàn Quốc đã chủ động điều chỉnh chính sách đối ngoại để kịp thời định hướng

quan hệ với khu vực Đông Bắc Á trên các lĩnh vực hợp tác kinh tế, an ninh – chính trị

và văn hóa – xã hội.

2. Dù chưa thể loại bỏ những bất đồng về vấn đề lịch sử, tranh chấp chủ quyền

với Trung Quốc, Nhật Bản và tìm lời giải cho vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều

Tiên nhưng về cơ bản thành công lớn nhất của ngoại giao Hàn Quốc (1989 - 2010) là

kiềm chế đối đầu giữa hai bên vĩ tuyến 38, củng cố liên kết khu vực và cải thiện quan

hệ song phương với các nước. 7“Hallstein Doctrine” (đặt theo tên của Walter Hallstein): Đây là một học thuyết quan trọng trong chính sách

đối ngoại của CHLB Đức (Tây Đức) sau năm 1955 nhằm tuyệt giao quan hệ với bất kỳ Nhà nước nào thừa

nhận CHDC Đức (Đông Đức).

Page 159: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

149

2.1. Đối với Nhật Bản, chính sách của Hàn Quốc được điều chỉnh theo hai

hướng: Vừa phát triển quan hệ hợp tác về kinh tế, mở cửa văn hóa – xã hội vừa cảnh

giác, đề phòng và đấu tranh trên lĩnh vực an ninh – chính trị nhằm kiềm chế tham vọng

trở thành cường quốc quân sự của Nhật Bản tại khu vực. Dù còn đặt nặng tư tưởng dân

tộc chủ nghĩa trong các vấn đề bất đồng lịch sử và tranh chấp lãnh thổ nhưng quan hệ

chính trị giữa hai nước đã đạt được những tiến bộ cơ bản trong nửa đầu nhiệm kỳ của

Kim Young Sam, Roh Moo Hyun và có thời gian dài phát triển ổn định trong thời kỳ

Kim Dae Jung nắm quyền với chính sách “hòa giải và hợp tác” (Tuyên bố chung về quan

hệ đối tác mới Hàn Quốc - Nhật Bản trong thế kỷ XXI, 1998) và Lee Myung Bak với

chính sách “ngoại giao thực dụng” (Diễn văn nhậm chức, 2008). Trên lĩnh vực kinh tế, từ

những năm 90 của thế kỷ XX, Nhật Bản đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ hai của

Hàn Quốc. Hai bên còn xúc tiến việc đàm phán ký kết FTA nhằm thúc đẩy kinh tế song

phương và xây dựng quan hệ đối tác thương mại mới vào thế kỷ XXI. Trong chính sách

kinh tế mới từ sau Chiến tranh lạnh, Hàn Quốc coi việc thu hút đầu tư và tái đầu tư vào

nước bạn là nhiệm vụ then chốt. Dù FDI của Nhật Bản chưa đủ bù đắp khoản thâm hụt

thương mại giữa hai bên và năng lực tái đầu tư của Hàn Quốc vẫn còn hạn chế nhưng

định hướng hợp tác song phương đã nâng cao khả năng cạnh tranh kinh tế, thu hẹp

khoảng cách về trình độ phát triển và từng bước đưa Hàn Quốc trở thành đối tác kinh tế

bình đẳng với nước láng giềng. Theo định hướng “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”,

từ năm 1998, Hàn Quốc cũng đã thực hiện chính sách “mở cửa” trên lĩnh vực văn hóa –

xã hội đối với Nhật Bản theo đề xuất của Tổng thống Kim Dae Jung. Bước đột phá này

đã đẩy mạnh các chương trình trao đổi thanh niên, giao lưu văn hóa – nghệ thuật – thể

thao và duy trì các dự án nghiên cứu chung về lịch sử hai nước.

2.2. Đối với Trung Quốc, sự thay đổi chính sách đối ngoại của Hàn Quốc từ sau

Chiến tranh lạnh đã thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển ngoạn mục. Từ chỗ là đối thủ

trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên, hai bên đã thiết lập ngoại giao chính thức, qua đó mở

đường cho Trung Quốc trở thành “đối tác hữu nghị và hợp tác” (1992), “đối tác hợp tác

trong thế kỷ XXI” (1998), “đối tác hợp tác toàn diện” (2003) và “đối tác hợp tác chiến

lược (2008). Từ nhiệm kỳ của hai Tổng thống Kim Dae Jung và Lee Myung Bak, Hàn

Quốc tuyên bố trung thành với chính sách “một nước Trung Quốc” (Tuyên bố chung

năm 1998 và năm 2008). Việc lựa chọn hình mẫu “hợp tác thân thiện” với Trung Quốc

cho thấy mong muốn cân bằng quan hệ khu vực của Hàn Quốc nhằm thoát khỏi chính

sách áp đặt của Mỹ và mối ràng buộc an ninh với Nhật Bản. Đây cũng chính là động lực

Page 160: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

150

thúc đẩy Hàn Quốc tăng cường hợp tác kinh tế với nước láng giềng (1989 - 2010). Sau

thời kỳ buôn bán gián tiếp thông qua Hồng Kông, Trung Quốc đã thay thế Mỹ trở thành

đối tác thương mại lớn nhất của Hàn Quốc và là điểm đến số một của đầu tư Hàn Quốc ở

nước ngoài (2008). Khoản thặng dư buôn bán với Trung Quốc còn giúp Hàn Quốc bù

đắp “lỗ hổng” thâm hụt thương mại ngày càng lớn với Nhật Bản. Nhờ hợp tác thành

công trên lĩnh vực chính trị và kinh tế, Hàn Quốc tiếp tục coi Trung Quốc là đối tác tin

cậy trong các hoạt động giao lưu văn hóa và trao đổi dân sự. Từ sau khi ký kết “Hiệp

định hợp tác văn hóa Hàn Quốc - Trung Quốc” (1994) và “Tuyên bố chung Hàn Quốc –

Trung Quốc” (1998), âm nhạc, điện ảnh, trò chơi trực tuyến, chương trình phát thanh -

truyền hình Hàn Quốc đã xuất hiện rộng rãi ở nước bạn và trở thành sản phẩm xuất khẩu

quan trọng của văn hóa xứ Hàn. Trung Quốc cũng đã được chọn làm điểm khởi đầu của

“Hallyu” với các hoạt động trao đổi thanh niên sôi động bậc nhất ở Đông Á.

2.3. Đối với CHDCND Triều Tiên, chính sách của Hàn Quốc phải thực hiện

nhiều nhiệm vụ quan trọng và khó khăn hơn: Phát triển quan hệ đối ngoại (hợp tác

cùng phát triển), giải quyết vấn đề dân tộc (thống nhất liên Triều) và đảm bảo an ninh

khu vực (giải trừ hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên). Tuy cùng theo đuổi những mục

tiêu này, nhưng trên thực tế, tùy theo quan điểm và lập trường chính trị của mỗi tổng

thống mà Hàn Quốc có cách tiếp cận cứng rắn (chính sách “Ngoại giao mới”, “Tầm

nhìn 3000” của Kim Young Sam và Lee Myung Bak) hay nhân nhượng, mềm dẻo

(chính sách “Ánh dương”, “Hòa bình và thịnh vượng” của Kim Dae Jung và Roh Moo

Hyun). Dù còn tồn tại không ít “sóng ngầm” trong quan hệ liên Triều nhưng về cơ bản,

chính sách đối ngoại mới đã giúp Hàn Quốc khắc phục tình trạng mâu thuẫn và xung

đột triệt để ở hai bên vĩ tuyến 38, đưa hai miền bước qua giai đoạn đối thoại sau hơn

nửa thế kỷ đối đầu. Kết quả tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh liên Triều lần đầu tiên trong

lịch sử với việc đưa ra “Tuyên bố chung” (2000) và Hội nghị Thượng đỉnh liên Triều

lần thứ hai với “Tuyên bố về phát triển quan hệ liên Triều, hòa bình và thịnh vượng”

(2007) đã cho thấy nguyện vọng và ý chí hòa giải của toàn dân tộc Triều Tiên theo xu

hướng hợp tác hòa bình của khu vực. Cũng do đặc điểm này, Hàn Quốc đã vượt qua

những giới hạn về bất đồng lịch sử với miền Bắc để tích cực hỗ trợ kinh tế, thiết lập

quan hệ buôn bán trực tiếp và thúc đẩy đầu tư ngay từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX.

Cùng với sự ra đời của các mô hình kinh tế: Khu du lịch núi Kumkang, Tổ hợp công

nghiệp Kaesong, tuyến đường sắt Gyeongui và Kyongwon, đường bộ Donghae… Hàn

Quốc không chỉ thúc đẩy hợp tác buôn bán, đầu tư, dịch vụ giữa hai bên mà còn “bắc

Page 161: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

151

cầu” cho các hoạt động giao lưu và trao đổi văn hóa – xã hội. Với cả ba vấn đề: Viện

trợ nhân đạo, đoàn tụ gia đình ly tán và hợp tác văn hóa, Hàn Quốc đều giành được

những tiến bộ đáng kể nhờ sự định hướng của “Hiệp định Cơ bản Bắc – Nam” (1991),

“Tuyên bố Đặc biệt về Quốc gia tự chủ, thống nhất và thịnh vượng” (1998), “Tuyên bố

chung” (2000) và “Tuyên bố về phát triển quan hệ liên Triều, hòa bình và thịnh vượng”

(2007). Đây là cơ sở để Hàn Quốc tiếp tục thúc đẩy tiến trình hòa giải – hòa hợp dân

tộc và hướng đến mục tiêu thống nhất.

Như vậy, nhờ tích cực điều chỉnh chính sách đối ngoại từ sau Chiến tranh lạnh,

quan hệ Hàn Quốc - Nhật Bản đã dần bước vào giai đoạn ổn định, quan hệ Hàn Quốc –

Trung Quốc chính thức phát triển thăng hoa và hai miền Triều Tiên cũng đã trải qua

giai đoạn tiếp xúc ban đầu để cùng đối thoại, hợp tác và tìm kiếm giải pháp cho các vấn

đề an ninh chung. Từ đây, ngoại giao đa phương, xóa bỏ quan hệ đối ngoại phân cực về

kinh tế, an ninh – chính trị và văn hóa – xã hội đã trở thành nội dung chủ đạo trong

chính sách của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á.

3. Mục tiêu hiện nay của ngoại giao Hàn Quốc là theo đuổi liên minh chiến lược

với Mỹ, tăng cường quan hệ hữu nghị với Nhật Bản mà không phải hy sinh quan hệ

hiện có với Trung Quốc. Có thể thấy, so với hai đồng minh chiến lược ở khu vực, vai

trò “đối tác hợp tác chiến lược” với Trung Quốc ngày càng quan trọng và có ý nghĩa

quyết định đến nỗ lực thống nhất đất nước và trở thành trung tâm kinh tế, chính trị và

văn hóa của Hàn Quốc ở Đông Bắc Á. Tuy nhiên, do tác động đa chiều của các vấn đề

chính trị ở trong và ngoài khu vực, chính sách tăng cường quan hệ Hàn – Trung trong

thời gian tới vừa là định hướng củng cố hợp tác “song phương”, vừa là nỗ lực tổng hợp

của Hàn Quốc nhằm dung hòa các mối quan hệ “đa phương” bao gồm liên minh Hàn -

Mỹ, quan hệ Trung Quốc - CHDCND Triều Tiên, quan hệ Mỹ - Trung Quốc cũng như

quan hệ nội bộ giữa hai miền Triều Tiên. Do đó, để đảm bảo hiệu quả chính sách đối

với khu vực, Hàn Quốc cũng nên phân biệt các mục tiêu dài hạn và ngắn hạn, theo đó

phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên là mục tiêu không thể đạt được ngay nhưng giảm

bớt căng thẳng và đối đầu giữa hai miền thì lại có thể; khả năng thay đổi ảnh hưởng và

hành vi của các nước lớn (Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản) thì chưa thể nhưng khả năng

đóng vai trò “trung gian” hòa giải và điều tiết quan hệ giữa các bên lại ở trong tầm tay.

Đông Bắc Á hôm nay ví như “nồi áp suất đầy hơi” nên Hàn Quốc cần đóng vai trò của

“chiếc van an toàn” để đưa bớt áp lực dư thừa ra ngoài. Với đặc điểm này, chính sách

Page 162: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

152

khu vực của Hàn Quốc trong những thập niên tới vẫn sẽ coi hòa giải, hợp tác, đối thoại

và cùng phát triển là mục tiêu chiến lược và nhất quán.

4. Là một nước trong khu vực Đông Á, Việt Nam cần giữ mối quan hệ cân

bằng, tranh thủ cơ hội hợp tác, khéo léo xử lý mâu thuẫn giữa các bên nhưng phải đặt lợi

ích dân tộc lên hàng đầu. Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, chủ động phát triển

quan hệ song phương và đa phương ở khu vực nhằm thu hút vốn đầu tư, trình độ kỹ thuật

và công nghệ của Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc để tập trung phát triển kinh tế và

giảm bớt sức nóng từ các vấn đề an ninh – chính trị giữa các bên. Việc tăng cường tìm

hiểu, thúc đẩy trao đổi văn hóa - xã hội với Chính phủ và nhân dân các nước nhằm xây

dựng hình ảnh mới của Việt Nam trong thời kỳ mở cửa, hội nhập; qua đó, tranh thủ sự

ủng hộ của dư luận quốc tế về giải quyết vấn đề chủ quyền biển đảo cũng là việc làm vô

cùng cần thiết. Ở khu vực Đông Bắc Á, chính sách hòa giải, hợp tác và phát triển giữa

Hàn Quốc với Nhật Bản, Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên nhằm xây dựng một khu

vực hòa bình, ổn định hoàn toàn có lợi cho Việt Nam. Do đó, Chính phủ cần ủng hộ

nguyện vọng thống nhất của nhân dân Triều Tiên trong khuôn khổ ARF; tranh thủ cơ hội

hợp tác phát triển kinh tế với các nước thông qua ASEM, APEC và cơ chế ASEAN+3.

5. Việc điều chỉnh và xác lập chính sách ngoại giao đối với một khu vực có

nhiều nội tình phức tạp bậc nhất như Đông Bắc Á là điều không hề đơn giản với cả

Hàn Quốc và Việt Nam. Thực tế cũng cho thấy, khi vấn đề tranh chấp lãnh thổ, bất

đồng lịch sử giữa các bên chưa được giải quyết thì quan hệ giữa Hàn Quốc, Việt Nam

với các chủ thể chính trị còn lại trong khu vực vẫn tiềm ẩn không ít rủi ro và thách thức

cần phải vượt qua. Chính vì đặc điểm này, sẽ là vội vàng và chủ quan nếu đưa ra kết

luận chính sách của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á (1989 - 2010) là hoàn

toàn thành công hay thất bại. So với Việt Nam, những vấn đề mà Hàn Quốc vấp phải

với Nhật Bản, Trung Quốc, đặc biệt là CHDCND Triều Tiên còn phức tạp và khó khăn

hơn nhiều. Khi cơ hội phát triển của quốc gia gắn chặt với vận mệnh dân tộc, sự an

nguy của khu vực và uy tín với quốc tế, Hàn Quốc vẫn phải tiếp tục điều chỉnh và hoàn

thiện chính sách của mình để sinh tồn “giữa những người khổng lồ” và hàn gắn “vết

thương chưa liền” từ thời Chiến tranh lạnh. Điều kỳ diệu là đứng trước vô vàn khó

khăn, quốc gia này vẫn một mực tin tưởng về tương lai tươi sáng của khu vực vì

“người Hàn Quốc có chung một giấc mơ – giấc mơ về một cộng đồng Đông Bắc Á

hòa bình và thịnh vượng… Thời đại của Đông Bắc Á rồi sẽ đơm hoa kết quả và

Hàn Quốc quyết nỗ lực để sớm đạt đến ngày đó” [146].

Page 163: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

153

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN

TRỰC TIẾP ĐẾN LUẬN ÁN

1. Hoàng Thị Minh Hoa, Phan Thị Anh Thư (2013), “Quan hệ thương mại Hàn Quốc –

Nhật Bản (1991 - 2011)”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm

– Huế, số 04 (28), tr. 96-105.

2. Phan Thị Anh Thư (2014), “Chính sách “Hòa bình và thịnh vượng” của Roh Moo

Hyun đối với tiến trình hòa giải liên Triều”, Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và châu Á,

số 06 (19), tr. 45-56.

3. Phan Thị Anh Thư (2014), “Chính sách của Hàn Quốc đối với CHDCND Triều

Tiên thời kỳ Chiến tranh lạnh (1948 - 1989)”, Tạp chí Khoa học Đại học Huế,

chuyên san: Khoa học Xã hội và Nhân văn, tập 93, số 05, tr. 293-302.

4. Phan Thị Anh Thư (2014), “Chính sách văn hóa - xã hội của Hàn Quốc đối với

CHDCND Triều Tiên”, Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 08 (21), tr. 30-43.

5. Phan Thị Anh Thư (2014), “Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với Nhật Bản

trong Chiến tranh lạnh”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Viện Hàn lâm Khoa học Xã

hội Việt Nam, số 11 (463), tr. 59-64.

6. Hoàng Thị Minh Hoa, Phan Thị Anh Thư (2015), “Chính sách của Hàn Quốc đối

với Nhật Bản trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao từ 1998 đến 2012”, Tạp chí Nghiên

cứu Đông Bắc Á, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, số 01 (167), tr. 20-28.

7. Phan Thị Anh Thư (2015), “Chính sách của Hàn Quốc đối với Trung Quốc trên lĩnh

vực chính trị, ngoại giao (1989 – 2010)”, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, chuyên

san: Khoa học Xã hội và Nhân văn, tập 102, số 03, tr. 187-199.

8. Phan Thị Anh Thư (2015), “Nhìn lại chính sách “Tầm nhìn 3000, phi hạt nhân hóa

và mở cửa” của Hàn Quốc đối với CHDCND Triều Tiên”, Tạp chí Nghiên cứu

Đông Bắc Á, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, số 04 (170), tr. 3-12.

9. Phan Thị Anh Thư (2015) “Đánh giá chính sách “Ánh dương” của Hàn Quốc đối

với CHDCND Triều Tiên”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, Viện Hàn Lâm Khoa

học Xã hội Việt Nam, số 09 (175), tr. 14-22.

Page 164: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

154

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TIẾNG VIỆT

1. Nguyễn Thanh Bình (2006), “Một số nét trong quan hệ ngoại thương Nhật Bản –

Hàn Quốc”, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 1 (61), tr. 10.

2. Ngô Xuân Bình (2005), “Liên kết kinh tế Đông Á – Khởi đầu bằng một Hiệp

định Mậu dịch Tự do Nhật Bản, Hàn Quốc”, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc

Á, số 3 (57), tr. 7-8.

3. Ngô Xuân Bình, Phạm Qúy Long (chủ biên) (2006), Về một số vấn đề sau thống

nhất của bán đảo Triều Tiên – Góc nhìn từ Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà

Nội, tr. 38-39.

4. Byung Nak Song (2002), Kinh tế Hàn Quốc đang trỗi dậy, bản dịch của Phạm

Qúy Long và đồng sự, Ban Nghiên cứu Hàn Quốc học, Nxb Thống kê, Hà Nội,

tr. 304-305.

5. Nguyễn Hữu Cát (1997), “Châu Á – Thái Bình Dương trong chiến lược của một

số nước lớn ở khu vực”, Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, 2 (15), tr. 154.

6. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 119.

7. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 112.

8. Nguyễn Hoàng Giáp (chủ biên) (2009), Hàn Quốc với khu vực Đông Á sau Chiến

tranh lạnh và quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.

39; tr. 72; tr. 73; tr. 85.

9. Hoàng Minh Hằng (2005), “Quan hệ Trung – Hàn kể từ sau khi bình thường

hóa”, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 5 (59), tr. 73.

10. Nguyễn Thu Mỹ (2008), Một số vấn đề cơ bản về hợp tác ASEAN+3, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội, tr. 148.

11. Oded Shenkar (2008), Thế kỷ 21 – Thế kỷ của Trung Quốc, biên dịch: Tuyết

Tùng, Kiến Văn, Nxb Văn hóa Thông tin, tr. 9.

12. Trần Anh Phương (chủ biên) (2007), Chính trị khu vực Đông Bắc Á từ sau Chiến

tranh lạnh, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 22.

Page 165: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

155

13. Đỗ Trọng Quang (2007), “Tổng thống Roh Moo Hyun trước sáng kiến hợp tác

Đông Bắc Á và nỗ lực cải thiện quan hệ với CHDCND Triều Tiên”, Nghiên cứu

Đông Bắc Á, số 12.

14. Tân Hoa xã (2008), “Những dấu son trong quan hệ thương mại Trung – Hàn”,

bản dịch tiếng Việt, ngày 31-8-2008.

15. Thông tấn xã Việt Nam (1978), “Quan hệ Mỹ, Nam Triều Tiên, Nhật, Iran”, tr. 6.

16. Thông tấn xã Việt Nam (1996), “Nhìn nhận về chiến lược của Mỹ và Nhật Bản

đối với Triều Tiên: Lợi ích, tham vọng và mục tiêu” (Sharifi M. Shuja), Tài liệu

tham khảo đặc biệt, ngày 21-11-1996.

17. Thông tấn xã Việt Nam (1998), “Quan hệ Trung – Hàn”, Tài liệu tham khảo,

ngày 16-11-1998.

18. Thông tấn xã Việt Nam (1998), “Tuyên bố chung Hàn Quốc – Trung Quốc”, Tài

liệu tham khảo đặc biệt, ngày 17-11-1998.

19. Thông tấn xã Việt Nam (2000), Tin tham khảo chủ nhật, ngày 30-01-2000, tr. 15.

20. Thông tấn xã Việt Nam (2001), Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 08-01-2001, tr. 11.

21. Thông tấn xã Việt Nam (2001), “Chìa khóa của vấn đề bán đảo Triều Tiên năm

2001”, trích: Bài viết của K. Suzuki – Giám đốc hãng tin Radio Press, Tuần báo

“Thế giới” (Nhật Bản) ngày 30-01-2001, Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 15-

02-2001.

22. Thông tấn xã Việt Nam (2001), “Hàn Quốc phản đối Nhật Bản về cuốn sách giáo

khoa xuyên tạc lịch sử”, Tin thế giới, ngày 13-7-2001.

23. Thông tấn xã Việt Nam (2002), Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 07-3-2002, tr. 2.

24. Thông tấn xã Việt Nam (2002), Tin tham khảo, ngày 23-7-2002.

25. Thông tấn xã Việt Nam (2002), “Hai nước Triều Tiên muốn thống nhất”, Tin

tham khảo đặc biệt, ngày 30-9-2002.

26. Thông tấn xã Việt Nam (2003), “Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên mở rộng

biện pháp hợp tác kinh tế”, Tin thế giới, ngày 28-8-2003.

27. Thông tấn xã Việt Nam (2005), “Tranh chấp lãnh thổ làm tổn thương nghiêm

trọng quan hệ Nhật Bản – Hàn Quốc”, Tin tham khảo thế giới, ngày 19-3-2005.

28. Thông tấn xã Việt Nam (2005), “Rạn nứt sâu sắc trong quan hệ Hàn Quốc – Nhật

Bản”, Tin tham khảo thế giới, ngày 17-6-2005.

29. Thông tấn xã Việt Nam (2005), “Hàn Quốc bất hòa với Mỹ, thân thiện với Trung

Quốc”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 25-7-2005.

Page 166: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

156

30. Thông tấn xã Việt Nam (2006), “Phản ứng của Hàn Quốc trước tuyên bố của

Trung Quốc về lịch sử cổ đại”, Tin tham khảo thế giới, ngày 08-9-2006.

31. Thông tấn xã Việt Nam (2006), “Hàn Quốc: Còn quá sớm để dỡ bỏ hạn chế đối

với văn hóa Nhật Bản”, Tin tham khảo thế giới, ngày 15-9-2006.

32. Thông tấn xã Việt Nam (2007), “Hàn Quốc đồng ý viện trợ cho Triều Tiên”, Tin

thế giới, ngày 22-4-2007.

33. Thông tấn xã Việt Nam (2007), chuyên khảo: “Chính sách đối ngoại của Hàn

Quốc”, Tài liệu tham khảo, số 12-2007, tr. 4; tr. 34.

34. Thông tấn xã Việt Nam (2008), Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 18-8-2008.

35. Thông tấn xã Việt Nam (2008), Thông tin tham khảo đặc biệt, ngày 20-8-2008.

36. Phan Thị Anh Thư (2011), Vai trò của các tập đoàn kinh doanh (Chaebol) trong

quá trình phát triển kinh tế ở Hàn Quốc và một số kinh nghiệm đối với Việt Nam,

Nxb Chính trị Quốc gia – Hà Nội, tr. 97.

37. Trần Nam Tiến (2008), Lịch sử quan hệ quốc tế hiện đại (1945 - 2000), Nxb Giáo

dục, Hà Nội, tr. 313.

38. Vụ châu Á I, Bộ Ngoại giao (1999), Vấn đề thống nhất bán đảo Triều Tiên, tr. 13.

39. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2002), Sự điều chỉnh chính sách của Hàn Quốc đối với

CHDCND Triều Tiên trong thập kỷ 90, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành: Quan hệ

Quốc tế, Học viện Quan hệ Quốc tế, Bộ Ngoại Giao, Hà Nội, tr. 21.

40. Weber (1993), “Ý tưởng về một trật tự thế giới mới và tư tưởng xã hội chủ

nghĩa”, Tạp chí tư tưởng tự do, số 3, tr. 45.

Page 167: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

157

II. TIẾNG ANH

41. Alon Levkowitz (2008), “The Disparity between South Korea’s Engagement and

Security Policies towards North Korea: The Realist – Liberal Pendulum”. In:

Rudiger Frank, James E. Hoare, Patrick Kollner and Susan Pares (eds), Korea

Yearbook, vol. 2, Brill imprint, pp. 125-141.

42. Chae-Jin Lee (1996), China and Korea: Dynamic Relations, Hoover Press,

Korea, p. 107 & p. 113.

43. China’s Foreign Affairs (1998), White Paper on China’s Diplomacy, Published

by the Information Office of the State Council of the People’s Republic of China,

Beijing, p. 125.

44. Chosun Ilbo (January 17th, 2005), “Declassified Documents Could Trigger

Avalanche of Lawsuits”.

45. Chosun Ilbo (January 17th, 2005), “Seoul Demanded $364 Million for Japan’s

Victims Updated”.

46. Chosun Ilbosa, Seoul (2001), “Kim Young Sam’s Recollection of the Event in

Kim Young Sam, President Kim Young Sam’s Memoirs”, vol. 1, pp. 361-365.

47. Chung in Moon (2001), “The Kim Dae Jung Government and Changes in Inter

Korean Relations - In Defense of the Sunshine Policy”, Korea and World Affairs,

vol. XXV, no. 4, p. 519.

48. David R. Mc Cann (1997), Inter-Korean Economic Cooperation, Published in

Cooperation with the Asia Society, Korea Briefing toward Reunification, p. 37.

49. De Ceuster, Koen (2005), “Pride and Prejudice in South Korea’s Foreign Policy”,

Copenhagen Journal of Asian Studies, pp. 64-90.

50. Dong-a Ilbo (May 4, 2004), “Public Polls about China”.

51. Foreign Affairs and National Defense Division (1997), Korea: Improved South Korea

– Chinese Relations: Motives and Implications, CRS Report for Congress, p. 2.

52. Gabriel Jonson (2006), Towards Korean Reconciliation: Socio – Cutural

Exchanges and Cooperation, Ashgate Publishing, Ltd, p. 98.

53. Gilbert Rozman, In Taek Hyun, Shin Wha Lee (2008), South Korean Strategic

Thought toward Asia, New York: Palgrave Macmillan, p. 188.

54. Gilbert Rozman (2012), “Asia at a Tipping Point: Korea, The Rise of China, and

the Impact of Leadership Transitions”, Joint U.S – Korea Academic Studies, vol.

23, pp. 11-12.

55. Government Information Agency of Republic of Korea (1992), The White Book

for State Affairs (Seoul, GIA), p. 321.

Page 168: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

158

56. Government Information Agency of Republic of Korea (1998), The White Book

for State Affairs (Seoul, GIA), p. 231.

57. Hidehiko Mukoyama (2012), “Japan – South Korea Economic Relations Grow

Stronger in a Globalized Environment”, Pacific Business and Industries, vol. XII,

no. 43, p. 7.

58. Hyundai Research Institute (2004), Analysis of the Hallyu Phenomenon and

Strategy to Develop it as a Culture Industry.

59. Institute of China Studies (2003 - 2013), China: Development Model, State-Civil

Societal Interplay and Foreign Relations, Korean Export-Import-Trade Balance

Against the U.S and China, p. 661.

60. Institute of Economics, Academic Sinica (2002), Productivity and Economic

Performance in the Asia – Pacific Region, Edward Elgar Publishing, p. 96.

61. International Centre for the Study of East Asia Development (ICSEAD) (2010),

“The Agreement on the Implementation of Trade and Economic Cooperation and

the Establishment of the South-North Joint Economic Committee” (20-6-1985),

The Search for a Unified Korea Political and Economic Implications, Publisher:

Springer, p. 16.

62. International Institute Journal (2012), “Hallyu 2.0: The New Korean Wave in the

Creative Industry”, volume 2, issue 1.

63. International Legal Materials (1966), “Agreement on the Settlement of Problem

Concerning Property and Claims and on the Economic Cooperation between the

Republic of Korea and Japan” (Compensation Agreement), vol. 5, no. 1, pp. 111-

117. Translated by Dr. Sung Yoon Cho – Legal Specialist, Far Eastern Law

Division. Published by American Society of International Law.

64. James Cotton (1993), Korean under Roh Tae Woo: Democratisation, Northern

Policy, and Inter-Korean Relations, Korea Foundation, Printed by ANU Printery,

Canberra ACT 2601, Australia, pp. 343-344; pp. 258-259.

65. Japan External Trade Organization (JETRO) (1992), White Paper (Annual

Foreign Trade), p. 133.

66. Japan External Trade Organization (JETRO) (1993), White Paper (Annual

Foreign Trade), p. 135.

67. Japan External Trade Organization (JETRO) (2010), Overseas Research

Department, International Economic Research Division, JETRO Gliobal Trade

and Investment Report, p. 137.

Page 169: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

159

68. Japan Statistical Yearbook (2001), Statistical Handbook of Japan, Tokyo:

Statistics Bureau and Statistics Center, p. 57.

69. Jhe Seong Ho (2004), “Four Major Agreements on Inter-Korean Economic

Cooperation: Legal Measures for Implementation”, East Asian Review, vol. 16,

no. 4, p. 26.

70. Jin Wung Kim (2012), A History of Korea from “Land of the Morning Calm” to

States in Conflict, Indiana University Press, p. 602.

71. Jonghoe Yang (2012), “The Korean Wave (Hallyu) in East Asia: A Comparison

of Chinese, Japan and Taiwanese Audiences Who Watch Korean TV Dramas”,

Development and Society, vol. 41, no. 1, p. 123.

72. Joong Ang Ilbosa (1965) “Speeches of Syngman Rhee from Yihwajang

Collection”, vol. 18, p. 35.

73. Joong Ang Ilbo (March 27, 2008), “North’s Nukes on Attack Radar: New

Military Chief Says Plans Exist for Possible Pre-emptive Strive” (Kim Min Seok

and Jung Ha Won).

74. Journal of Baekbeom (March 1st1948), Excerpt from Autobiography “Baekbeomilji”,

Kim Gu - Former President of the Provisional Government of Korea.

75. Kim Dae Jung (1999), “Investment on the Cultural Sector for Future

Development”, at the Speech for the Day of Culture on October 20, National

Unification Research Institute Press.

76. Kim Hee Kyung (2004), “FDI in Korea: Recent Trends and Policy Issues”,

Korea Focus, vol. 12, no. 6, p. 133.

77. Kim Hosup (2005), “Evaluation of President Roh Moo Hyun’s Policy toward

Japan”, Korea Focus, vol. 13, issue. 6, p. 39.

78. Kim Young Sam (1995), Korea’s Quest for Reform and Globalization: Selected

Speeches of President Kim Young Sam, The Presidental Secretariat, The Republic

of Korea, p. 86 & p. 241.

79. Koen De Ceuster (2005), “Pride and Prejudice in South Korea’s Foreign Policy”,

The Copenhagen Journal of Asian Studies, p. 68.

80. Korea Herald (June 15, 2005), “Five Years Since Historic Summit Bring

Unprecedented Economic Exchanges”.

81. Korea Institute for International Economic Policy (2006), Korea’s FDI Policies

and Future Tasks, Seoul.

82. Korea Institute for National Unification (1998), Measures to Realize Reunion of

Separated Families, p. 35.

Page 170: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

160

83. Korea Institute for National Unification (1999), “Private-level Solutions to

Healing the Sufferings of Separated Families: Solution to Resolving Separated

Family Issue”, Academic Seminar Collection, no. 99-14, pp. 72-74.

84. Korea Times (December 2, 2007), “Lee Myung-bak’s Foreign Policy”.

85. Korea Tourism Organization - Seoul (1995 - 2006), Korea Tourism Statistics.

86. Korean Register (2007), “Inter-Korean Relations”, vol. 12, no.1, p. 35.

87. Korean Register (2009), “Inter-Korean Relations”, vol. 12, no. 1.

88. Kyeong-mi Shin (2006), “Hallyu yeolpungeun Asia gongtong munhwa

changchurui kiwodeu: Ilbonui Hallyu” (“The Hot Korean Wave is the Key Word

to the Creation of Asian Common Culture: Korean Wave in Japan”), p. 234 – in:

Dongasiaui Hallyu (Korean Wave in East Asia), edited by Yoon-Whan Shin and

Han-Woo Lee. Seoul: Jeonyewon.

89. Larry A. Niksch (13-4-2005), Korea: U.S-Korean Relations, Congressional

Research Service.

90. Lee Hee-ok (Winter 2009), “China’s Rise and Its Impact on Korea: Viewpoints

and Realities”, Korea and World Politics, Institute for Far Eastern Studies,

Kyungnam University.

91. Michael H.Armacost and Kenneth B.Pyle (1999), “Japan and the Unification of

Korea: Challenges for U.S Policy Coordination”, NBR – The National Bureau of

Asian Research, vol. 10, no. 1, March, p. 14.

92. Ministry of Commerce, People’s Republic of China (2009), Yearbook of Market

and Economy, The 6th Joint Conference of Sino-Korean Investment and

Cooperation Committee Held in Beijing.

93. Ministry of Culture, Sport and Tourism (MCST) (1998), Policy Source Book, p. 231.

94. Ministry of Culture, Sport and Tourism (MCST) (2000), White Paper on the

Cultural Industry, p. 132.

95. Ministry of Culture, Sport and Tourism (MCST) (2010), White Paper on Culture

Industry, Culture Industry Statistics, p. 81.

96. Ministry of Foreign Affairs, Japan (2005), Chapter 2: “Regional Diplomacy,

Japan – ROK Relations”, Diplomatic Bluebook, p. 30.

97. Ministry of Foreign Affairs, Japan (2006), Chapter 2: “Japan’s Regional

Diplomacy”, Diplomatic Bluebook, p. 28; p. 29; p. 32.

98. Ministry of Foreign Affairs, Japan (2009), Chapter 2: “Regional Diplomatic”,

Diplomatic Bluebook, p. 14.

Page 171: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

161

99. Ministry of Foreign Affairs (MOFA), Republic of Korea (1990), Part 1, Chapter

2: “Koreas Foreign Policy”, Diplomatic White Paper, p. 65.

100. Ministry of Foreign Affairs (MOFA), Republic of Korea (1997), White Paper on

the Foreign Policy of the Civilian Government 1993-1997, p. 142.

101. Ministry of Foreign Affairs of ROK (2003), “Joint Press Conference at the

Conclusion of the Japan-Republic of Korea Summit Meeting”- Opening Address

by President Roh Moo Hyun (Provisional Statement of the Summary),

Documents related to Japan – Korean Peninsula Relations, p. 205.

102. Ministry of Foreign Affairs (MOFA), Republic of Korea (2009), 2009-2012:

Major Diplomatic Achievements.

103. Ministry of Foreign Affairs and Trade of Korea (1980), Key Statistics of External

Trade, p. 45.

104. Ministry of Foreign Affairs and Trade (MOFAT) (1994), “Agreement on

Cultural Cooperation between the Government of the Republic of Korea and

the Government of the People’s Republic of China”, Important Bilateral

Agreements, p. 265.

105. Ministry of Foreign Affairs and Trade (MOFAT), Republic of Korea (2006),

Chapter: “Korea’s Foreign Policy in 2006, Korea - China Relation”, Diplomatic

White Paper, p. 56.

106. Ministry of Foreign Affairs and Trade (MOFAT), Republic of Korea (2007), Part 5:

“Open Diplomacy with the People”, Chapter 3: “Promoting Korea’s National Image

and Status through Cultural Diplomacy”, Diplomatic White Paper, p. 68; p. 282.

107. Ministry of National Unification, Republic of Korea (1996), White Paper on

Korean Unification, p. 50; p. 56; p. 162; pp. 183-185; pp. 200-207; p. 204; pp.

234-241; pp. 242-249.

108. Ministry of Unification (MOU) (1953), Special Prime Minister Declaration for

National Self-Esteem, Unification and Prosperity, Library of Congress, Holiday

Weekend Maintenance.

109. Ministry of Unification (MOU), Republic of Korea (1982), President Chun’s

Declaration of “The Formular for National Reconciliation and Democratic

Unification” (22-01-1982), Library of Congress, Holiday Weekend Maintenance.

110. Ministry of Unification (MOU), Republic of Korea (1998), Guidebook to

Exchanges and Cooperation between Separated Families, p. 51.

111. Ministry of Unification (MOU), Republic of Korea (2001), White Paper on

Page 172: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

162

Korean Unification, p. 24; p. 29; p. 37; p. 108; p. 132; p. 142; p. 147; p. 148; p.

152; p. 153; pp. 205-206; pp. 244-247.

112. Ministry of Unification (MOU), Seoul (3/2003), The Participatory Government’s

Policy of Peace and Prosperity (in Korean), p. 32.

113. Ministry of Unification (MOU), Republic of Korea (2005), Chapter 1:

“Promoting the Policy of Peace and Prosperity”, White Paper on Korean

Unification, p. 17; p. 18; p. 21.

114. Ministry of Unification (MOU), Republic of Korea (2007), “South - North

Declaration Opens a New Era of Peace and Prosperity on the Korean Peninsula”,

South - North Korean Summit, Peace Agreements Digital Collection, USIP Library.

115. Ministry of Unification (MOU), Republic of Korea (10-2007), “Declaration on

the Advancement of South - North Korean Relations, Peace and Prosperity”,

Peace Agreements Collection.

116. Ministry of Unification (MOU), Republic of Korea (2010), The Lee Myung Bak

Admistration’s North Korea Policy, p. 32.

117. Ministry of Unification (MOU), Republic of Korea (2010), White Paper on

Korean Unification (May 24), p. 5; p. 11; p. 15; p. 48; p. 154.

118. Ministry of Unification (MOU), Republic of Korea (2012), Unification Policy in

Preparation for a Unified Korea, p. 35.

119. Ministry of Unification (MOU), Republic of Korea (2013), White Paper on

Korean Unification, p. 259; p. 263.

120. National Security Council (NSC) of ROK (2004), Peace, Prosperity and

National Security: National Security Strategy of the Republic of Korea.

121. National Unification Board, Republic of Korea (1988), A White Paper on South -

North Dialogue in Korea, pp. 11-15.

122. National Unification Board, Republic of Korea (1999), AWhite Paper on South –

North Dialoge in Korea, p. 445.

123. Park Chung Hee (1961), Major Speeches, Seoul, p. 72.

124. Park Chung Hee (1970), Major Speeches of Korea’s Park Chung Hee, Compiled

by Shin Bum Shil, Seoul: Hollym Press, p. 21.

125. Park Chung Hee (1971), To Build a Nation, Washington, Acropolis Books.

126. Park Chung Hee (1973), President Park Chung Hee’s Declaration for Peace and

Prime Minister’s Press Conference, Korean Overseas Information Service.

127. Quansheng Zhao (1996), Interpreting Chinese Foreign Policy, Oxford University

Press, p. 68.

Page 173: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

163

128. Roh Moo Hyun (2007), Speech Collection Part II and Part III, Government

Information Agency, Seoul, p. 86; p. 93; p. 120.

129. Roh Tae Woo (Spring 1988), “The Full Text of the Roh Tae Woo’s Inaugural

Address in English”, Korea and World Affairs, vol. 12, no. 1, pp. 175-180.

130. Roh Tae Woo (Fall 1988), “Special Declaration on National Self-esteem,

Unification and Prosperity” (The July 7th Declaration), Korea and World Affairs,

vol. 12, no. 3, pp. 627-630.

131. Scott Snyder – Asia Foundation (2008), “China-Korea Relations: Lee Myung

Bak Era: Mixed Picture for China Relations”, Comparative Connections – A

Quarterly Journal on East Asian Bilateral Relations.

132. Sheen, Seongho (2003), “Tilting toward the Dragon: South Korea’s China

Debate”, Asia-Pacific Center for Security Studies.

133. Shepherd Iverson (2013), One Korea: A Proposal for Peace, Publisher: Mc

Farland, p. 50.

134. Steven E. Gump (editor), Special Feature: “Korean Wave” (2009), Southeast

Review of Asian Studies, vol. 31, p. 227.

135. Suh Jae Jean (2009), “The Lee Myung-bak Government’s North Korea Policy

- A Study on Its Historical and Theoretical Foundation”, Korea Institute for

National Unification, p. 9.

136. Sung Chull Kim and David C. Kang (2010), Engagement with North Korea: A

Viable Alternative, Albany: State University of New York Press, pp. 232-235.

137. The Bank of Korea, “Trends in North Korea’s Economic Growth”, The Results of

Estimating North Korea’s Economic Growth Rates (each year).

138. The Minister of Foreign Affairs and Trade of South Korea (1998), “Speeches of

Park Chung Soo”, News Review, April 25, p. 8.

139. The New York Times (1992), “Chinese and South Koreans Formally Establish

Relations”.

140. The Presidential Secretariat of the Republic of Korea (1990), Korea: A Nation

Transformed, Donghwa Publishing Company, Seoul, p. 39.

141. Tim Shorrock (1983), “Japan, the U.S and South Korea: A New Alliance Takes

Shape”, Focus on Northeast Asia, vol. 4, no. 2.

142. Times Asia (2003), “I Will Do My Best to Remove the Differences”, vol. 161,

no. 8, March 3.

143. University of Brasilia (2010), “South Korea’s Foreign and Security Policies and

the Process of East Asia Integration”, UCLA-CKS – JOINT RESEARCH

Page 174: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

164

PROJECT II Prospects for Regional Integration in East Asia: The Role of South

Korea and Implications for the Americas.

144. Victor D. Cha (Georgetown University) (1992), “South Korean – Japanese

Relations 1969-1979: Is There More Beyond Emotionalism?”, International

Journal of Korean Studies, vol. XV, no. 11, p. 41; p. 39; p. 43.

145. Yonhap News Agency, Seoul (1998), Inaugural Address by Kim Dae Jung the

15th - term President of the Republic of Korea (25-02-1998): “Let Us Open a

New Era: Overcoming National Crisis and Taking a New Leap Forward”.

146. Yonhap News Agency – Seoul (February 25, 2003), President Roh Moo-hyun’s

Inaugural Address: “An Age of Northeast Asia Begins: A New Takeoff toward

an Age of Peace and Prosperity”.

147. Yonhap News Agency (February 11, 2008), “Lee Vows to Renew Relations with

Japan: Aide”.

148. Yonhap News Agency (March 26, 2008), “Minister Vows to Raise Nuclear Issue

in Inter – Korean Dialogue”.

149. Yonhap News Agency (December 13, 2008), “Unprecedented Tripartite Summit

Excities Korea, China, Japan”.

150. Yonhap News Agency (March 22, 2010), “Latest South Korean Pop Culture

Penetrates North Korea”.

151. Yonhap News Agency (February 08, 2013), “Chinese Tourists Emerge as Big

Spenders in South Korea”.

152. Young Sik Bong (2001), “Flash point at Sea?: The Dokdo/Takeshima Dispute in

the 1990s”, Presented at the American Political Science Association Annual

Conference, August 29 – September 2, San Francisco.

153. Youngho Kim (2003), (Department of Political Science, Sungshin Women's

University), “The Sunshine Policy and its Aftermath”, Korea Observe, The

Institute of Korean Studies, vol. 34, no. 4, p. 12.

Page 175: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

165

III. INTERNET

154. Asahi Shimbun (June 6, 2003), “Tokyo, Seoul at Odds on FTA”,

http://www.asahi.com/english/business/K2003060600254.html

155. China Daily (2002), “Sino - Republic of Korea Relations ever Stronger”,

http://www1.chinadaily.com.cn/news

156. China Daily (February 2, 2002), “China Becomes South Korea's Number One

Investment Target”, http://www1.chinadaily.com.cn/news/2002-02-05/55641.html.

157. Consulate General of the People’s Republic of China in San Francisco (2010),

“Wen Jiabao Holds Talks with ROK President Lee Myung Bak”,

http: //www.chinaconsulatesf.org/eng/xw/t705477.htm

158. CRS Report for Congress (2011), Congressional Research Service, “The

Kaesong North – South Korean Industrial Complex”, p. 7,

http://fas.org/sgp/crs/row/RL34093

159. Database of Japanese Politics and International Relations, “The World and Japan”

Database Project, Institute of Oriental Culture, University of Tokyo,

http://www.ioc.utokyo.ac.jp/~worldjpn/documents/texts/docs/19650622.T1E.htm

160. Embassy of the People’s Republic of China in the Democratic Socialist Republic

of Sri Lanka (28-5-2010), “Wen Jiabao Holds Talks with ROK President Lee

Myung-bak”, http://lk.chineseembassy.org/eng/zgxw/t705477.htm

161. Hankyoreh (25-02-2008), Full Text of Lee's Inaugural Speech,

http://english.hani.co.kr/arti/english_edition/e_national/271850.html

162. Hankyoreh (22-3-2008),

http://english.hani.co.kr/arti/english_edition/e_northkorea/277375.html

163. http://www.cnie.org/NLE/CRSreports/03Jun/RL31038.pdf

164. http://www.korea.net/AboutKorea/Korea-at-a-Glance/Inter-Korean-Relations

165. IISS Korea Forum (2008), “Charting a New Frontier: ‘Global Korea’ in the 21

Century”, Special Address by Dr. Han Seun Minister of the ROK,

http://www.iiss.org/conferences/korea-forum/korea-forum-speeches/special-

address-dr-han-seung-soo/

166. Japan External Trade Organization (JETR0) (2010),

http://www.jetro.go.jp/en/reports/statistics

167. John Chan (2006), “Tensions between Japan and South Korea Heighten over

Island Dispute”, World Socialist Web Site,

http://www.wsws.org/en/articles/2006/05/japa-m03.html

168. Kazuhiko Ishida (1996), “Japan’s Foreign Direct Investment in East Asia: Its

Influence on Recipient Countries and Japan ‘s Trade Structure”,

http://www.rba.gov.au/publications/confs/1994/ishida.pdf

169. Liu Xuezhe (2007), The Rising Korean Wave among Chinese Youth, p. 5,

http://fxqw820.tripod.com/AWS.pdf

Page 176: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

166

170. Ministry of Foreign Affairs and Trade (MOFAT), Republic of Korea, ASEM

Summit, Copenhagen (2002), “Remarks by HE President Kim Dae Jung of the

Republicof Korea”,

http://www.mofat.go.kr/ENG/countries/regional/asem/overview/index

171. Ministry of Foreign Affairs of Japan (MOFA), (August 31, 1994) “Statement by

Prime Minister Tomiichi Murayama on the Peace, Friendship, and Exchange

Initiative”, http://www.mofa.go.jp/announce/press/pm/murayama/state9408.html.

172. Ministry of Foreign Affairs of Japan (MOFA) (1998), “Japan-Republic of Korea

Joint Declaration A New Japan-Republic of Korea Partnership towards the

Twenty-first Century”, Database of Japanese Politics and International Relations,

Provisional Translation by the Japanese Government,

http://www.mofa.go.jp/region/asia-paci/korea/joint9810.html.

173. Ministry of Foreign Affairs of Japan (MOFA) (2002), “ASEM Copenhagen

Political Declaration for Peace on the Korean Peninsula”, Copenhagen,

http://www.mofa.go.jp/policy/economy/asem/asem4/korea.html

174. Ministry of Foreign Affairs of Japan (June 07, 2003), “Japan-Republic of Korea

Summit Joint Statement, Building the Foundations of Japan-ROK Cooperation

toward an Age of Peace and Prosperity in Northeast Asia”, Provisional

translation by the Government of Japan,

http://www.mofa.go.jp/region/asia-paci/korea/pv0306/pdfs/joint.html

175. Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China (2008), “China-

ROK Joint Statement”, http://www.fmprc.gov.cn/eng/wjdt/2649/t469103.htm.

176. Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China (2010), “Hu Jintao

meets with ROK President Lee Myung Bak”,

http://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/topics_665678/hjtfwjnd4thG20_665786/t712382.shtml

177. Ministry of Trade, Industry and Energy (MOTIE), “South Korea's Trade Deficit

with Japan Hits All-Time High in First Half”,

http://www.motie.go.kr/language/eng/

178. “North Korea Bought Nuclear Arms with South Korean Bribes”,

http://www.newsmax.com/archives/articles/2003/2/4/913.

179. “President to Maintain Current N. Korea Policy” (December 6, 2008),

http://english.hani.co.kr/arti/english_edition/e_northkorea/326045.html

180. Prime Minister of Japan and His Cabinet (2009), Joint Press Conference by

Prime Minister Yukio Hatoyama of Japan and President Lee Myung-bak of the

Republic of Korea,

http://japan.kantei.go.jp/hatoyama/statement/200910/09kyoudou_e.html

181. The Korean Ministry of Finance and Economy, Statical Yearbooks;

http://www.unikorea.go.kr

Page 177: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

167

PHỤ LỤC

Page 178: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

i

PHỤ LỤC I

THE ROH TAE WOO’S INAUGURAL ADDRESS: “WE CAN DO IT”

(FEBRUARY 25, 1988)

[…] Fellow citizens,

The Seoul Olympics, which will be a grand event for all Koreans and festival of

peace for all the five billion people on earth, are fast approaching. On this occation,

when Korea will burst on the world scene, there should be no family squabbles. Let us

make joint, concerted efforts to make the Seoul Olympics long remembered by the

inhabitants of the global community as the most successful.

Let me emphasize, moreover, that the greatest historic significance of the Seoul

Olympics is that it will bring the day of unification closer. The sonorous chorus of

reconciliation which will emanate from Seoul when East and West meet together for

the first time in twelve years will be a signal to the entire world that an era of

unification is finally opening on the Korea Peninsula.

In response to that great chorus, the Republic of Korea will intensify its

diplomatic efforts to promote international peace and cooperation with all nations in the

world. While further consolidating ties with Japan, the United States and other Western

countries, we will further cultivate friendships with the Third World. We will broaden

the channel of international cooperation with the continental countries with which we

have hitherto had no exchanges, with the aim of pursuing a vigorous northern

diplomacy. Improved relations with countries with ideologies and social systems

different from ours will contribute to stability, peace and common prosperity in East

Asia. Such a “northward-looking diplomacy” should also lead to the gateway of

unification. Here I appeal to my fellow countrymen who yearn for an early end to the

territorial division. Unification is a goal which we cannot forget, even in our sleep. We

cannot be optimistic about attaining it but we need not be pessimistic, either. We

should simply do our best to reach it. Coincidentally, our national self-esteem has

grown much stronger. It is going to be the major driving force behind our endeavors to

achieve unification as well as eminence in the world. We must thus nurture our

democratic capability on the strength of national self-esteem, so that we can go through

the gateway of unification while strengthening national security […].

Page 179: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

ii

PHỤ LỤC II

THE ROH MOO HYUN’S INAUGURAL ADDRESS:

“AN AGE OF NORTHEAST ASIA BEGINS: A NEW TAKEOFF TOWARD

AN AGE OF PEACE AND PROSPERITY”

(FEBRUARY 25, 2003)

[…] I have several principles that I plan to adhere to in pushing the “Policy for

Peace and Prosperity” on the Korean Peninsula. First, I will try to resolve all pending

issues through dialogue. Second, I will give priority to building mutual trust and

upholding reciprocity. Third, I will seek active international cooperation on the premise

that South and North Korea are the two main actors in inter-Korean relations. And

fourth, I will enhance transparency, expand citizen participation, and secure bipartisan

support. I will implement my policy for peace and prosperity with the support of the

general public.

The suspicion that North Korea is developing nuclear weapons poses a grave

threat to world peace, not to mention the Korean Peninsula and Northeast Asia. North

Korea’s nuclear development can never be condoned. Pyongyang must abandon

nuclear development. If it renounces its nuclear development program, the international

community will offer many things that it wants. It is up to Pyongyang whether to go

ahead and obtain nuclear weapons or to get guarantees for the security of its regime and

international economic support.

I would like to emphasize again that the North Korean nuclear issue should be

resolved peacefully through dialogue. Military tension in any form should not be

heightened. We will strengthen coordination with the United States and Japan to help

resolve the nuclear issue through dialogue. We will also maintain close cooperation

with China, Russia, the European Union and other countries.

This year marks the 50th anniversary of the Korea - US Alliance. It has made a

significant contribution in guaranteeing our security and economic development. The

Korean people are deeply grateful for this. We will foster and develop this cherished

alliance. We will see to it that the alliance matures into a more reciprocal and equitable

relationship. We will also expand relations with other countries, including traditional

friends […].

Page 180: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

iii

PHỤ LỤC III

THE LEE MYUNG BAK’S INAUGURAL ADDRESS

(FEBRUARY 25, 2008)

[…] Fellow Koreans, the Republic of Korea will take a more positive stance

with a greater vision and carry out global diplomacy under which we actively

cooperate with the international community. Transcending the differences in race,

religion, and wealth, Korea will befriend all nations and peoples. Respecting the

universal principles of democracy and market economics, we will take part in the

global movement for peace and development.

We will work to develop and further strengthen traditional friendly relations

with the United States into a future-oriented partnership. Based on the deep mutual

trust that exists between the two peoples, we will also strengthen our strategic alliance

with the United States.

We will attach importance to our policy towards Asia. In particular, we will

seek peace and mutual prosperity with our close neighbors, including Japan, China and

Russia and promote further exchange and cooperation with them. In order to ensure

that our economic engine runs smoothly, we will work to acquire a safe and stable

supply of resources and energy. Moreover, we shall take the lead in environment-

friendly international cooperation. As befitting our economic size and diplomatic

capacity, our diplomacy will contribute to promoting and protecting universal values.

Korea will actively participate in United Nations peacekeeping operations as well as

enlarge its official development assistance (ODA). By emphasizing the importance of

cultural diplomacy, we will work to allow Korea to communicate more openly and

easily with the international community. Our traditional culture, when coupled together

with our technological prowess, will no doubt transmit to the world an image of a more

attractive Korea.

Unification of the two Koreas is the long-cherished desire of the 70 million

Korean people. Inter-Korean relations must become more productive than they are

now. Our attitude will be pragmatic, not ideological. The core task is to help all

Koreans live happily and to prepare the foundation for unification.

As already stipulated in my Initiative for “Denuclearization and Opening up

North Korea” to Achieve US$3,000 in Per Capita Income, once North Korea abandons

its nuclear program and chooses the path to openness, we can expect to see a new

Page 181: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

iv

horizon in inter-Korean cooperation. Along with the international community, we will

provide assistance so that we can raise the per capita income of North Korea to

US$3,000 within 10 years.

That, I believe, will both benefit our brethren in the North as well as be the way

to advance unification. Together, the leaders of the two Koreas, must contemplate what

they can do to make the lives of all 70 million Koreans happy and how each side can

respect each other and open the door to unification. If it is to discuss these issues, then I

believe the two leaders should meet whenever necessary and talk openly, with an open

mind. Indeed, the opportunity is open […].

Page 182: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

v

PHỤ LỤC IV

PEOPLE’S REPUBLIC OF CHINA – REPUBLIC OF KOREA STATEMENT

(BEIJING, 28 MAY 2008)

At the invitation of President Hu Jintao of the People's Republic of China, President

Lee Myung-bak of the Republic of Korea paid a state visit to China from 27 to 30 May

2008 and was accorded a grand and warm reception by the Chinese Government and

people.

During the visit, President Hu Jintao had talks with President Lee Myung-bak.

President Lee Myung-bak also met with Premier Wen Jiabao of the State Council and

Chairman Jia Qinglin of the Chinese People's Political Consultative Conference.

President Lee Myung-bak expressed deep condolences and sympathy to the great loss

of life and property caused by the earthquake in Wenchuan, Sichuan Province and

offered to provide necessary help to China's disaster relief effort. President Hu Jintao

and other Chinese leaders expressed sincere thanks to the ROK Government and

people for their care and timely help such as sending a rescue team. Both sides agreed

to strengthen exchanges and cooperation on handling natural disasters such as

earthquake, tsunami and typhoon.

During the talks and meetings, the two sides had an in-depth exchange of views and

reached extensive agreement on further developing China-ROK friendly relations and

cooperation on regional and international issues of mutual interest.

I. Further Developing Bilateral Relations

The two sides applauded the rapid growth of their relations since the establishment of

diplomatic ties in 1992. They both agreed to raise their comprehensive and cooperative

partnership to the level of strategic cooperative partnership and step up exchanges and

cooperation in the diplomatic, security, economic, social, cultural, people-to-people and

other areas.

Both sides believed that dialogue and cooperation in the diplomatic and security areas

should be further strengthened and agreed to establish a high-level strategic dialogue

mechanism between the two foreign ministries and develop the existing diplomatic

security dialogue into a mechanism.

The two sides decided to increase the exchanges between their leaders, government

agencies, parliaments and political parties.

Page 183: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

vi

The Chinese side reiterated that there is only one China in the world and Taiwan is an

inalienable part of China. The ROK side expressed its full understanding of and respect

for China's position and reaffirmed its position that the Government of the People's

Republic of China is the sole legal government representing the whole of China and

that it upholds the one China principle.

II. Expanding Economic Cooperation and Trade

The two sides agreed to adjust and enrich the Joint Research Report on China-ROK

Mid-to-Long Term Development Plan on Economic Cooperation and Trade issued by

the leaders of the two countries in 2005 to reflect the new progress on bilateral

economic cooperation and trade which will serve as the basis for further practical

cooperation in this field.

The two sides commended the smooth progress of the joint study on China-ROK FTA

by government agencies, industries and academia and agreed to build on past

achievements and continue the research to push forward the bilateral FTA for win-win

result.

The two sides welcomed the amendment and issuance of the Treaty on Investment

Protection between China and the ROK and agreed that the Treaty is conducive to

protecting and expanding two-way investment and is in line with the development of

the mutually beneficial business relations.

The two sides agreed to work together to gradually achieve balance in the bilateral

trade as it develops. The ROK side expressed its readiness to take an active part in

China's various trade and investment fairs such as the China Import and Export Fair,

China International Small and Medium Enterprises Fair and continue to send to China

purchasing and investment groups. China expressed appreciation of this.

The two sides agreed to the need of strengthening concrete cooperation on mobile

communication, actively supporting further capital and technological cooperation

between the two countries' communication enterprises and expanding the cooperation

on electronics and information communication to areas such as software and radio

frequency identification.

The two sides agreed to strengthen extensive and mutually beneficial energy

cooperation such as cooperation on nuclear power, oil reserve, joint development of

resources and renewable energy in an effort to achieve concrete results in cooperation

on energy conservation.

Page 184: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

vii

The two sides agreed to strengthen cooperation on IPR protection, food safety and

quality inspection, logistics and labour service.

The two sides believed that closer financial cooperation is conducive to the

development of the financial industry of both countries. They believed that they should

learn from each other, share experience, improve their financial systems, promote the

reform and opening up of their financial markets and step up coordination and

cooperation in international and regional financial institutions.

The two sides agreed to enhance joint study and survey in areas such as polar science

and technology.

Both sides recognized the importance to strengthen environmental cooperation and

agreed to enhance exchanges and cooperation on environmental industry, sand storm

monitoring and the Yellow Sea environmental protection, etc.

The two sides agreed to actively cooperate in the preparation of the 2010 Shanghai

World Expo and the 2012 Yeosu World Expo.

Page 185: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

viii

III. Enhancing People-to-people and Cultural Exchanges

The two sides decided to enlarge the programs of mutual youth visit and step up

exchange activities such as home stay and home visit and expand the program of

governmental scholarship swapping.

The two sides agreed to explore ways to streamline visa procedures so as to increase

mutual personnel visit.

China welcomed the setting up of a consulate-general in Wuhan, China by the ROK.

The two sides believed that the long history of bilateral exchange is an important asset

of China-ROK friendly relations. To enhance mutual understanding, both sides should

actively support the exchanges on history and culture between their academic

institutions.

IV. Advancing Cooperation on Regional and International Affairs

The Chinese side reiterated its firm support to the improvement of relations and

ultimate peaceful reunification between the north and south of the Korean Peninsular

through dialogue. The ROK side appreciated China's efforts in maintaining peace and

stability on the Korean Peninsular and looked forward to China's continued

constructive role.

The ROK side stated its positions on facilitating the settlement of the Korean nuclear

issue and expanding exchanges and cooperation in the economic, social and other areas

between the north and the south of the Korean Peninsular. China expressed its

understanding of the ROK's positions and hoped to see progress in the reconciliation

and cooperation between the north and the south of the Korean Peninsular.

Both sides believed that the second phase Action Plan of the September 19 Joint

Statement by the Six Party Talks should be fully implemented at an early date under

the principle of “action to action”. The two sides agreed to work with other parties

concerned to look into and formulate the action plan for the next phase in a

constructive effort to fully implement the September 19 Joint Statement.

The two sides recognized the importance of China-ROK cooperation to the Six Party

Talks and the denuclearization on the Korean Peninsular and agreed to continue their

close cooperation for achieving peace and stability on the Korean Peninsular and in

Northeast Asia.

The two sides reaffirmed the important role of the United Nations in solving issues of

global significance and agreed to continue their close cooperation in UN affairs. The

Page 186: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

ix

two sides believed that the UN reform should enhance the authority, effectiveness and

efficiency of the organization so that its system, based on the consensus of the member

states, will be more transparent, democratic and representative. Both sides support the

UN Secretary General's efforts to enhance the efficiency and role of the UN.

The two sides believed that cooperation among China, the ROK and Japan is very

important to peace, stability and prosperity of Asia. The two sides agreed to work

together to maintain the regular meetings among the three countries, such as the talks

of their leaders and foreign ministers that take place alternately in the three countries.

The two sides agreed to work together for the success of the 7th ASEM Summit to be

held in Beijing this year.

The two sides agreed to step up cooperation on issues of mutual interest such as climate

change, non-proliferation of WMD, combating international terrorism, financial and

economic crime, piracy and high-tech crime.

V. The two sides welcomed the signing of the Treaty Between the People's

Republic of China and the Republic of Korea on the Transfer of Sentenced

Persons, the Memorandum of Understanding on Cooperation in the Field of Polar

Science and Technology Between the Ministry of Science and Technology of the

People's Republic of China and the Ministry of Education, Science and

Technology of the Republic of Korea and the Memorandum of Understanding on

Mutual Recognition of Higher Education Degrees and Background between the

Ministry of Education of the People's Republic of China and the Ministry of

Education, Science and Technology of the Republic of Korea.

VI. The two sides expressed satisfaction with the achievements of President Lee

Myung-bak's visit to China and believed that this visit is important to the further

growth of bilateral relations.

President Hu Jintao said he looked forward to welcoming President Lee Myung-bak at

the opening ceremony of the Beijing Olympic Games. President Lee Myung-bak

wished the Beijing Olympic Games a complete success and a grand gathering of

human harmony and solidarity. He said he would attend the opening ceremony.

President Lee Myung-bak expressed thanks to China for the warm hospitality and

invited President Hu Jintao to visit the Republic of Korea at an early date. President Hu

Jintao thanked him for the invitation and accepted the invitation with pleasure.

Page 187: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

x

PHỤ LỤC V

Japan - Republic of Korea Summit Joint Statement (June 07, 2003):

“Building the Foundations of Japan - ROK Cooperation toward an Age of Peace

and Prosperity in Northeast Asia”

President Roh Moo Hyun of the Republic of Korea and Mrs. Roh paid an official visit

to Japan as State Guests from 6 to 9 June 2003. During his stay in Japan, President Roh

held a summit meeting with Prime Minister Junichiro Koizumi of Japan.

In accordance with the spirit of the “Japan-Republic of Korea Joint Declaration - A

New Japan - Republic of Korea Partnership towards the Twenty-first Century”,

announced in October 1998, the leaders shared the recognition that both Japan and the

ROK must keep past history in mind, and based on that, advance together to develop a

future-oriented mutual relationship in the 21st century.

The leaders shared their resolve to continue to deepen the trust and friendship between

the countries and to develop the relationship to a higher level while sustaining the

momentum of goodwill and friendship between Japan and the ROK built up through

the Year of Japan-Republic of Korea National Exchange and the success of the Japan -

Korea World Cup Soccer tournament in 2002.

1. Prime Minister Koizumi expressed his support for the “Peace and Prosperity Policy”

of the Government of the ROK, which seeks to achieve a permanent consolidation of

peace on the Korean Peninsula and common prosperity in Northeast Asia. President

Roh supported the basic policy of the Government of Japan based on the Japan-North

Korea Pyongyang Declaration to achieve the normalization of diplomatic relations

between Japan and North Korea to resolve the concerns of Japan such as nuclear and

missile issues and the abduction issue in a way that contributes to peace and stability in

Northeast Asia.

2. The leaders shared the recognition that the nuclear issue of North Korea is a serious

threat to peace and stability not just on the Korean Peninsula but in Northeast Asia, and

to the international nuclear non-proliferation regime.

(1) In this regard, the leaders agreed that they would not accept the possession of

nuclear weapons or any nuclear development programs of North Korea, and that a

peaceful and diplomatic resolution to the issue was essential.

(2) The leaders strongly called on North Korea to refrain from actions that would

further exacerbate the current situation in order to bring about a peaceful resolution of

Page 188: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

xi

the nuclear issue of North Korea. In this respect, the leaders reaffirmed the principles

agreed upon at the Republic of Korea-United States Summit Meeting on 14 May and

the Japan-United States Summit Meeting on 23 May, and agreed to enhance

cooperation between Japan and the ROK.

(3) Both leaders also stressed that the North Korean nuclear weapons program must be

dismantled in a verifiable and irreversible manner.

(4) The leaders expressed their confidence that a peaceful solution to the North Korean

nuclear issue could be reached, and confirmed that for that purpose Japan, the ROK

and the United States would maintain close consultation and coordination, and continue

cooperation with the international community including countries concerned such as

the People's Republic of China and the Russian Federation. Moreover, the leaders

emphasized that if problems regarding North Korea such as the nuclear issues are

resolved peacefully and comprehensively and North Korea becomes a responsible

member of the international community, extensive assistance from the international

community for North Korea would be possible.

(5) The leaders also shared the recognition that the tripartite talks among the United

States, China and North Korea held in Beijing from 23-25 April were useful as a first

step in the dialogue toward resolution of the North Korean nuclear issue, and

welcomed the role of China in the talks.

(6) The leaders shared the opinion that further meetings should be held promptly for

the resolution of the North Korean nuclear issue and that the momentum of dialogue

needs to be sustained. They also expressed strong expectations regarding a process of

multilateral dialogue with the participation of Japan and the ROK for a comprehensive

resolution of issues related to North Korea.

3. The leaders stated that they would cooperate closely on various issues in order to

hew a path to the age of Northeast Asia filled with peace and prosperity and the

building of a bright and prosperous future based on principles of liberalism, democracy

and market economy shared by Japan and the ROK.

(1) The conclusion of a free trade agreement (FTA) between Japan and the ROK would

have enormous significance in promoting bilateral trade and investment, enhancing the

competitiveness of both countries, contributing to East Asian and, furthermore, world

economic growth, and promoting regional economic partnership. Therefore, the leaders

paid due attention to the formation of the shared recognition regarding the necessity of

Page 189: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

xii

concluding a comprehensive FTA in the Japan-Korea FTA Joint Study Group, and

expected that the Joint Study Group would produce meaningful outcomes. In this light,

Japan and the ROK will make efforts to initiate negotiations to conclude a FTA as soon

as possible. In addition, they will also make further efforts to create an environment

conducive to propelling a Japan-ROK FTA.

(2) In order to develop cooperative economic relations between the two countries as

partners, it is preferable that bilateral trade between the two countries would advance

toward expansion and in this light, both leaders recognized the importance of industrial

cooperation. In addition, the leaders expected that investment between the two

countries would further expand in both directions taking the opportunity of the

conclusion of the Investment Treaty between Japan and the ROK, and both leaders will

mutually make further efforts to accelerate this process.

(3) Under the shared recognition that the maintenance and enhancement of the global

free trade regime contributes to the prosperity of the region and of the world, the

leaders will cooperate in various opportunities such as the WTO Doha Development

Agenda negotiations.

(4) Japan and ROK will continue active cooperation in dealing with various global

issues, including environmental issues, international terrorism, piracy, illegal acts

involving states and international organized crime such as trafficking of narcotics and

stimulants through international frameworks dealing with global issues, the various

frameworks for regional cooperation or at state level.

4. Both leaders reaffirmed that the foundation for strengthening Japan-ROK

cooperation toward the future was deep mutual understanding, warm friendship and

vigorous exchange of people and culture between people from various fields and

generations of both countries, particularly between young people who would be leaders

of the next generation. In order to expand and deepen these elements, they agreed to

sustain and develop the existing cooperative relationship and to work together, on the

following points in particular:

(1) Promotion of mutual understanding and friendship between Japanese and Korean

citizens from various fields and generations

a. To celebrate the fortieth anniversary of the normalization of Japan-ROK diplomatic

relations, the year 2005 will be designated “Japan-Korea Festa 2005”, where various

joint programs between Japan and ROK will be held in fields such as culture and

Page 190: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

xiii

academia. This will create an opportunity to promote mutual understanding and

friendship between Japanese and Korean citizens from various fields and generations,

including young people who will be the main players in Japan-ROK relations in the

next generation.

b. The “Japan-ROK Joint Project for the Future” will be more vigorously promoted,

with further expansion for the youth and sports exchange where exchange of about

10,000 young people per year is the goal.

c. Both countries will make efforts toward further development of intellectual

exchange, including the Japan-ROK Forum.

d. Both countries will promote mutual exchange between leaders of the next generation

in various fields such as politics, economics, academia and culture.

(2) Efforts toward the formation of a one-day life area between Japan and the ROK

a. Japan and the ROK will make further efforts to realize visa exemptions at an early

date for ROK nationals traveling to Japan. As a new step for this purpose, the

Government of Japan will consider the realization of visa exemptions, especially for

ROK students visiting Japan on school trips, and will consider again the granting of

visa exemptions during a limited period.

b. Both countries will promote the early realization of flights between Kimpo Airport

and Haneda Airport.

(3) Expansion of Japan-ROK exchange

a. In order to activate cultural exchange, the ROK will expand the categories of

Japanese popular culture open to ROK citizens.

b. Both countries will build a closer cooperative relationship in the campaign to

increase the number of foreign tourists visiting either country, in the aim of further

expanding mutual tourism exchange.

c. Both countries will strive to conclude at an early date the Agreement on Social

Security and the Agreement regarding Mutual Assistance in Customs Matters that are

currently under negotiation. Regarding mutual recognition, both countries accelerate

the work necessary for the launch of negotiations on mutual recognition, based on what

has been done so far at the experts' working level and what is expected to be done at the

Japan-Korea FTA Joint Study Group.

d. Both countries will promote exchange between their respective regions through

Japan Week held in the ROK and Korea Week held in Japan.

Page 191: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

xiv

e. Both countries will continue to promote teacher invitation programs, sports exchange

programs and Japanese and Korean language mutual learning support programs as part

of the Japan-ROK New Century Exchange Project.

f. Both countries will strengthen exchange and cooperation such as the exchange of

people in the field of cultural property, and will activate the exchange of tangible and

intangible cultural property.

5. The leaders agreed to make regular check-ups on the status of progress of the items

contained in this Joint Statement at various occasions such as Foreign Minister

meetings in the future.

Page 192: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

xv

PHỤ LỤC VI.

ẢNH 1. DIỄN TRÌNH QUAN HỆ LIÊN TRIỀU (1950 – 2007)

Page 193: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

xvi

Nguồn: eng.unikorea.go.kr

Page 194: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

xvii

ẢNH 2. CHÍNH SÁCH “ÁNH DƯƠNG” (KIM DAE JUNG) ĐỐI VỚI

CHDCND TRIỀU TIÊN DỰA TRÊN TRUYỆN NGỤ NGÔN

“GIÓ BẮC VÀ MẶT TRỜI” (AESOP)

Nguồn: bestlatin.blogspot.com

ẢNH 3. TỔNG THỐNG KIM DAE JUNG VÀ CHỦ TỊCH KIM IL SUNG

TẠI HỘI NGHỊ THƯỢNG ĐỈNH LIÊN TRIỀU VÀO THÁNG 6-2000

(TRANG BÌA TẠP CHÍ TIME, NĂM 2000)

Nguồn: content.time.com/time/covers/asia

Page 195: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

xviii

ẢNH 4. KẾT QUẢ NÂNG CẤP QUAN HỆ HÀN QUỐC - TRUNG QUỐC

(THỜI KỲ: ROH TAE WOO, KIM DAE JUNG, ROH MOO HYUN,

LEE MYUNG BAK)

Từ dưới lên:

1992: Tổng thống Roh Tae Woo tuyên bố thiết lập ngoại giao chính thức với

Trung Quốc (Nguồn: www.gettyimages.com)

1998: Tổng thống Kim Dae Jung và Chủ tịch Giang Trạch Dân

(Nguồn: en.people.cn/english)

2003: Tổng thống Roh Tae Woo và Chủ tịch Hồ Cầm Đào

(Nguồn: news.xinhuanet.com/english)

2008: Tổng thống Lee Myung Bak và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào

(Nguồn: www.reuters.com)

2008:

Quan hệ đối tác hợp tác

chiến lược

2003:

Quan hệ đối tác toàn diện

1998:

Quan hệ đối tác hợp tác

1992:

Quan hệ hợp tác

Page 196: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC

xix

ẢNH 5. HÀN QUỐC VÀ NHẬT BẢN

(THỜI KỲ: KIM DAE JUNG, ROH MOO HYUN, LEE MYUNG BAK)

5.2. Tổng thống Roh Moo Hyun và

Thủ tướng Koizumi đưa ra Tuyên bố

chung: “Xây dựng nền tảng hợp tác

Nhật Bản – Hàn Quốc hướng tới một

kỷ nguyên hòa bình và thịnh vượng ở

Đông Bắc Á” (2003).

Nguồn:http://japan.kantei.go.jp/koizum

iphoto/2003/02/25nikkan_e.html

5.1. Tổng thống Kim Dae Jung gặp Thủ

tướng Keizo Obuchi tại Tokyo và đưa ra

Tuyên bố chung: “Quan hệ đối tác mới Hàn

Quốc – Nhật Bản hướng tới thế kỷ XXI”

(1998).

Nguồn:http://japan.kantei.go.jp/profile/car

eer/career03.html

5.3. Tổng thống Lee Myung Bak khởi động kế hoạch

“ngoại giao con thoi” bằng chuyến thăm Thủ tướng Yasuo Fukuda (2008).

Nguồn: www.koreatimes.co.kr