Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
MỞ ĐẦU
Công nghê vật liệu nano ngày nay đã khẳng định những ứng dụng rộng lớn
của nó trong rất nhiều lĩnh vực. Trong các cấu trúc nano, cấu trúc hạt nano kim loại
thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học trên thế giới do tính chất ưu việt
của nó mà khi ở dạng khối kim loại không thể có. Các đặc tính của hạt nano kim
loại có thể cho ra những sản phẩm đa năng hoàn toàn mới lạ ứng dụng trong y,
dược, bảo vệ môi trường, công nghệ điện tử... [1].
Các hạt nano đã được nghiên cứu chế tạo bằng nhiều phương pháp khác
nhau. Những phương pháp này được phân nhóm theo kích thước của vật liệu ban
đầu (gồm 2 nhóm: các phương pháp từ trên xuống và các phương pháp từ dưới lên)
hoặc theo trạng thái của vật liệu chế tạo (gồm 4 nhóm: các phương pháp đối với vật
liệu ở trạng thái rắn, trạng thái hơi, các phương pháp tổng hợp hóa học/đối với các
chất ở trạng thái dung dịch và các phương pháp với tổng hợp ở pha khí ). Mỗi
phương pháp đều có những ưu điểm riêng, tuỳ theo mục đích chế tạo mà có sự chọn
lựa phương pháp phù hợp [2].
Trong số các phương pháp chế tạo, phương pháp ăn mòn laser đang giành
được sự quan tâm và đầu tư lớn ở nhiều nước trên thế giới . Đây là một trong những
phương pháp đơn giản song mang lại hiệu quả, có thể chế tạo được các hạt có kích
thước vài nano với độ tinh khiết cao. Ở Việt Nam, đây vẫn còn là một phương pháp
hoàn toàn mới. Dựa trên các tài liệu tham khảo, đánh giá khả năng thực hiện nghiên
cứu, cũng như xu hướng pháp triển nghiên cứu chúng tôi quyết định thực hiện đề
tài: ‘‘Nghiên cứu phương pháp ăn mòn laser để chế tạo các hạt nano kim loại ’’.
Mục đích của đề tài:
Nghiên cứu cơ sở lý thuyết và thực nghiệm của phương pháp chế tạo hạt
nano kim loại quý bằng ăn mòn laser. Thiết kế, xây dựng một hệ thiết bị chế tạo hạt
nano kim loại quý trên cơ sở sử dụng laser Nd:YAG tại phòng thí nghiệm. Khảo sát
ảnh hưởng của thông lượng laser, thời gian ăn mòn laser và nồng độ dung dịch chất
hoạt hoá bề mặt lên kích thước trung bình của hạt nano kim loại. Từ đó xác lập một
1
quy trình chế tạo hạt nano kim loại. Đồng thời có sự so sánh phương pháp ăn mòn
laser với các phương pháp khác.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về phương pháp ăn mòn laser
Chương 2: Thực nghiệm chế tạo và các phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG PHÁP ĂN MÒN LASER
1.1. Khái niệm phương pháp ăn mòn laser
Phương pháp ăn mòn laser là một quá trình loại bỏ các vật liệu từ một vật
liệu rắn (hoặc đôi khi ở dạng lỏng) khi chiếu lên bề mặt của nó một tia laser. Một
điểm đặc biệt của ánh sáng laser là nó có thể tập trung năng lượng với cường độ rất
cao trên một vùng giới hạn của vật liệu. Khi ánh sáng laser chiếu tới vật liệu, do
cường độ laser lớn sẽ gây bùng nổ và dẫn đến sự phát tán hỗn hợp của nguyên tử,
các phân tử và ion (plasma) hoặc các đám hơi vật chất từ bề mặt của vật liệu.
Hình 1.1: Nguyên lý ăn mòn laser
Một xung laser năng lượng cao tập trung chiếu vào vật liệu. Khi dòng năng
lượng của laser vượt giá trị ngưỡng ăn mòn của vật liệu, các liên kết hóa học của nó
bị phá vỡ và vật liệu bị “vỡ” thành các mảnh nhỏ, thường các mảnh này là hỗn hợp
của nguyên tử, các phân tử và ion. Hỗn hợp các mảnh nhỏ ở trạng thái rắn, khí và
plasma thoát khỏi vùng tương tác, quá trình ăn mòn tương tự với sự bay hơi nhanh
chóng của lớp bề mặt vật liệu.
Khi xung lượng laser thấp, mẫu bị nung nóng bởi hấp thụ năng lượng laser
và bốc bay hoặc thăng hoa. Khi xung lượng laser cao, mẫu thường được chuyển đổi
sang dạng plasma.
Thông thường, phương pháp ăn mòn laser thường dùng laser xung, nhưng
với một số vật liệu có thể dùng laser liên tục nếu laser có cường độ đủ lớn.
Xung LASER
Đám hơi vật chất
Miếng kim loại
3
1.2. Cơ chế phương pháp ăn mòn laser
Có hai quá trình chi phối gây ra quá trình ăn mòn [7]:
- Quá trình ăn mòn nhiệt: Đó là quá trình đốt nóng vật liệu do sự hấp thụ
photon.
- Quá trình ăn mòn quang hoá: Đó là quá trình hấp thụ photon để phá vỡ liên
kết hoá học trong phân tử.
Đối với laser hoạt động ở vùng hồng ngoại hoặc khả kiến, quá trình quang
nhiệt chiếm ưu thế hơn.Với bức xạ laser vùng tử ngoại xa, khi năng lượng photon
lớn hơn năng lượng liên kết hóa học trong phân tử thì quá trình quang hoá chiếm ưu
thế hơn. Hai quá trình này đều là nguyên nhân gây ra quá trình ăn mòn. Trên thực tế
hai quá trình này không tách riêng rẽ mà có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
1.2.1 Ăn mòn nhiệt
Quá trình ăn mòn nhiệt là quá trình xung laser được hấp thụ trong một thể
tích của mẫu rắn, quá trình nung nóng sau đó xảy ra theo thời gian, dẫn đến phần
mẫu được định xứ nóng chảy, sôi, và cuối cùng là hóa hơi. Nhiệt lượng ăn mòn là
không cố định vì liên quan đến các quy trình biến đổi hiệu suất và tỷ lệ theo các
biến đổi của vùng dẫn nhiệt, điểm nóng chảy, điểm sôi, và nhiệt độ hóa hơi cho các
loại mẫu khác nhau, và thậm chí liên quan tới các thành phần và hợp chất khác nhau
trong cùng một mẫu. Một phần nóng chảy và một phần hóa hơi tạo thành các hố
hiệu ứng, trong đó sẽ có sự ngưng tụ đáng kể các hạt trong các khí vận chuyển lạnh
được thổi qua bề mặt. Nên kích thước các hạt là khá đa dạng [8].
1.2.2 Ăn mòn quang hóa
Ăn mòn quang hóa là quá trình có tính ưu tiên vì trên lý thuyết độc lập nó
với tính chất nhiệt, chẳng hạn như điểm nóng chảy và sôi của các yếu tố khác nhau
và các hợp chất trong các mẫu. Trong ăn mòn quang hóa, xung laser được hấp thụ
vào một thể tích nhỏ của các mẫu rắn, với tốc độ nhanh và mật độ năng lượng lớn
có thể làm mất ổn định trong một vùng xác định, gây ra sự bùng nổ trên bề mặt vật
liệu. Như vậy ăn mòn quang hóa xảy ra trước khi hiệu ứng nhiệt có thời gian để thể
hiện một cách mạnh mẽ. Dưới điều kiện thuận lợi, việc kiểm soát sự phát các hạt
4
nhỏ như là sự phun hạt từ một hố ăn mòn. Ăn mòn quang hóa trong thời gian ngắn
đòi hỏi một bước sóng ngắn, độ rộng xung laser nhỏ với năng lượng phải đủ lớn cho
một loại vật liệu. Trong thực tế, nó không phải là hoàn toàn có thể loại bỏ ăn mòn
nhiệt, do đó một sự kết hợp của ăn mòn nhiệt và ăn mòn quang hóa sẽ thường xảy
ra. Chìa khóa để kiểm soát hai quá trình trên là điều kiện để ăn mòn quang hóa là
cao hơn.
Đồng thời để kích thước hạt nhỏ và đồng đều thì có một quá trình kiểm soát
sự bùng nổ trên bề mặt vật liệu. Sự bùng nổ không cần bắt nguồn từ sâu bên trong
khối mẫu lớn. Một sự bùng nổ quang hóa xuất hiện sâu quá mức ở dưới bề mặt mẫu
sẽ là sự bùng nổ “ Thô ”. Đó là hiệu ứng gãy vỡ cảm ứng, và nổ ra các “sỏi lớn” rải
từ miệng hố, thay vì phun những hạt nhỏ. Để giữ sự bùng nổ quang hóa gần bề mặt
mẫu, thì các xung laser phải là độc lập, riêng lẻ. Một xung laser độc lập sẽ không
cho phép xung đi sâu vào trong bề mặt mẫu trước khi nó được hấp thụ để gây ra
hiện tượng ăn mòn quang hóa [8].
1.3. Mô hình hoá cơ chế phương pháp ăn mòn laser
Việc khảo sát mô hình của cơ chế phương pháp ăn mòn laser đóng một vai
trò quan trọng trong sự hoàn thiện nhận thức về cơ chế vi mô gây ra sự phát tán
mạnh vật chất ( material ejection) và mối liên hệ giữa các thông số của quá trình ăn
mòn. Hiện nay trên thế giới đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về vấn đề
này, với nhiều mô hình khác nhau về cơ chế phương pháp ăn mòn laser như: mô
hình động lực học phân tử, mô hình Monte Carlo…
Trong khoá luận, chúng tôi xin giới thiệu về mô hình hoá cơ chế phương
pháp ăn mòn laser theo mô hình động lực học phân tử.
Phương pháp mô hình động lực học phân tử (MD) cho phép thực hiện phân
tích chi tiết quá trình phương pháp ăn mòn laser trong đó các thông số nhiệt động
lực học của hệ có thể được xác định theo động lực học vi mô ở mức độ phân tử.
Khả năng này của mô hình động lực học phân tử sẽ cung cấp cái nhìn toàn diện về
cơ chế phát tán mạnh vật chất trong quá trình phương pháp ăn mòn laser. Leonid V.
Zhigilei và Barbara J. Garrison cùng các cộng sự đã xây dựng thành công mô hình
động lực học phân tử để mô tả cơ chế phương pháp ăn mòn laser [9].
5
Hình 1.2 mô phỏng đám vật chất trên bề mặt vật liệu bị ăn mòn theo mô hình
động lực học phân tử do nhóm các nhà khoa học này nghiên cứu. Theo các nhà
khoa học, đám vật chất được phát tán là tập hợp của các hạt lơ lửng có dạng hình
cầu.
Hình 1.2: Khối hình trụ ban đầu của đám vật chất trên bề mặt bị ăn mòn được lấp
đầy bởi các hạt được mô hình hoá.
Các quá trình chi tiết xảy ra trong quá trình phương pháp ăn mòn laser được
mô phỏng bởi chuỗi liên tiếp các hình trong hình 1.3:
Hình 1.3: Ảnh chụp nhanh từ mô hình MD của phương pháp ăn mòn laser
vật liệu rắn minh họa cho các quá trình khác nhau của sự phát tán mạnh vật liệu.
6
Hình 1.3 thể hiện sự phụ thuộc mạnh của cơ chế phát ra vật chất vào các điều
kiện bức xạ. Các mức độ khác nhau của quá trình được quan sát bao gồm:
- Sự phân huỷ từng phân tử (hình thứ nhất), xảy ra quá trình bốc bay nhẹ của
các phân tử hay được gọi là sự phún xạ trong khoảng thời gian 100 ps. Quá trình
này ứng với thông lượng laser thấp.
- Bùng nổ sự phân ly của một vùng bề mặt bị đốt quá nóng (hình thứ hai).
Quá trình này xảy ra trong thời gian khoảng 200 ps.
- Sự hình thành một lượng lớn các giọt vật chất do sự nóng chảy tức thời
(hình thứ ba, thứ tư).
- Sự phân tán mạnh của các mảnh nhỏ chất rắn bị vỡ ra do hiệu ứng quang
hóa cơ học khi mật độ năng lượng laser lớn hơn (hình thứ 5,6,7)
Khi mật độ năng lượng laser thấp. Hầu hết các đơn thức phân tử (monomer)
được phát ra từ bề mặt bị nung nóng do bức xạ laser. Mô hình có thể cung cấp sự
mô tả đầy đủ quá trình phát ra các phân tử.
Thật vậy, trong chế độ năng lượng laser ở mức thấp, sự phụ thuộc của số
phân tử bị phát ra N vào thông lượng ( fluence) F bởi biểu thức:
với F < Fth (1.1)
Trong đó :
N: Số phân tử được phát trong thời gian khảo sát
E*S : Năng lượng kích hoạt
A: Hệ số tỉ lệ
B: Hệ số mô tả sự biến đổi năng lượng tích tụ làm tăng nhiệt độ bề mặt.
T0: Nhiệt độ ban đầu của hệ phân tử
KB: Hằng số Boltzman
Fth: Thông lượng ngưỡng đó là thông lượng để bắt đầu xảy ra quá trình
phương pháp ăn mòn laser.
7
Lượng vật chất được phát ra trong cơ chế phương pháp ăn mòn laser có thể
được mô tả bởi mô hình đơn giản trong đó mức độ ăn mòn phụ thuộc vào sự tích tụ
của năng lượng laser. Hầu hết các vật liệu hấp thụ năng lượng cao hơn mật độ năng
lượng tới hạn E*v được ăn mòn. Với sự phân tán theo quy luật hàm mũ của cường
độ laser được xác định bởi định luật Beer thì tổng số phân tử toàn phần được phát
tán trên một đơn vị diện tích bề mặt là:
(1.2)
Trong đó: LP: Độ xuyên sâu của laser vào bề mặt vật liệu.
nm: Mật độ phân tử của vật liệu
C: Nhiệt dung đặc trưng cho vật liệu
CT0: Mật độ năng lượng nhiệt trước khi chiếu laser
Công thức này cũng mô tả mật độ năng lượng ngưỡng Fth= LP(E*v – CT0)
Xét trường hợp ăn mòn laser vật liệu rắn xảy ra gần bề mặt, độ rộng xung
laser nhỏ hơn nhiều so với kích thước của chùm laser tại bề mặt (điển hình cho laser
xung là xung ăn mòn laser 10 ns, và kích cỡ của chùm laser tại chỗ trên bề mặt
thường là 2 mm. Vì vậy mà các chùm có thể được coi là mặt phẳng song song với
mẫu trên bề mặt. Vì vậy, tất cả các mô hình sẽ được xem xét theo xấp xỉ một chiều.
Đối với việc nghiên cứu động học chùm cách xa các mẫu trên bề mặt, thì
các mô hình hai và ba chiều là cần thiết. Việc mở rộng quy trình của các chùm ở xa
đã được coi như là một quá trình thuận nghịch có mở rộng của một chất lỏng lý
tưởng, và tự xấp xỉ được áp dụng tương tự. Trong xấp xỉ thuận nghịch đoạn nhiệt
một chiều, chỉ có một trong ba biến tọa độ (x) và thời gian (t) vẫn còn, và di chuyển
chất lỏng có thể được mô tả hoàn toàn của một trong những thành phần vận tốc (v x),
và bất kỳ một trong những đại lượng nhiệt động học nào nhưng entropy S là không
đổi. Nếu chất lỏng được coi là tự đối xứng, các vận tốc và đại lượng nhiệt động học
sẽ phụ thuộc các tỷ lệ tọa độ x / t.
8
Chúng tôi đã phát triển một lý thuyết tương tự và một số mô phỏng động lực
học chất lỏng cho các nghiên cứu gia tốc mở rộng do sự ảnh hưởng của các nguồn
động học và một phần ion hóa. Các mô hình nguồn động học dự báo rằng mở rộng
mặt không ổn định theo hướng vuông góc vào mẫu trên bề mặt rất nhanh hơn thu
được từ các mô hình quy ước. Một phần ion hóa động học sẽ tăng cường mở rộng
trong tất cả các hướng. Một sự khác biệt từ mô hình mở rộng tự do là mô hình động
học trong không gian đầu tiên là chân không hoặc chứa đầy những khí nền.
Sau khi t = 0 một hạt nguồn và năng lượng xuất hiện tại x = 0. Tương tự như
lý thuyết, chúng tôi giả sử rằng vận tốc mặt chùm được cho là
u = v / v m = + (1 -
với v m là vận tốc mở rộng tối đa, là hằng số, và = x / v m t.
Sau đó các mặt chùm của mật độ, áp suất và nhiệt độ có thể được tính toán
với phương trình Euler . Từ định luật bảo toàn khối lượng, momen và năng lượng,
tương ứng, chúng ta nhận được v m như là hàm của Trong những tính toán mẫu
nhiệt động lực học chúng ta sử dụng chương trình Rusanov để mô phỏng các quá
trình mở rộng.
Đối với mẫu hiệu ứng động học ion hóa riêng lẻ bởi phương trình Saha,
chúng ta sử dụng phương pháp Newton-Raphson. Các kết quả này có thể giúp đỡ để
giải thích sự mở rộng mặt vận tốc quan sát được trong thí nghiệm ăn mòn
laser.Thông lượng laser trên bề mặt vật liệu là một trong những thông số ăn mòn
quan trọng nhất. Khi thông lượng đủ lớn, sự bay hơi của lớp bề mặt vật liệu xảy ra
nhanh chóng.
Một tính chất độc đáo của quá trình ăn mòn là hầu hết năng lượng của xung
laser đều được hấp thụ bởi lớp vật liệu bề mặt bị bắn ra. Vì vậy, có rất ít sự phá hủy
nhiệt đối với các lớp vật liệu xung quanh.
9
1.4. Hệ quang học trong ăn mòn laser
Trong phương pháp ăn mòn laser, hệ quang học bao giờ cũng đóng một vai
trò quan trọng. Để điều chỉnh một hệ quang học phù hợp cho ăn mòn laser:
- Đầu tiên: chùm tia laser được định hướng sao cho đi tới hội tụ tại một điểm
trong một hình phẳng trên mẫu.
- Thứ hai: vị trí, góc chùm tia bị điều chỉnh bởi quay thấu kính kết hợp với
gương, sử dụng tốt hơn là khi dùng kính hiển vi và laser. Các thấu kính và gương có
giá sao cho chúng ổn định và có thể điều chỉnh liên tục. Cần có những bước điều
chỉnh cần thiết để tạo hệ laser hoạt động chính xác, điều chỉnh dễ dàng, ổn định là
điều rất quan trọng.
Trong thực tế, thiết kế của hệ quang liên kết là một nhân tố quan trọng nhất
xác định hệ laser thích hợp nào sẽ được sử dụng[10]. Thêm vào đó, khi hệ liên kết
quang là rẻ hơn hệ kính hiển vi và laser.
Hình 1.4: Mô hình hệ quang liên kết cho ăn mòn laser
Hình 1.4 chỉ ra rằng thấu kính được sử dụng để định hướng và hội tụ chùm
tia laser. Điều quan trọng nhất của các thấu kính này được coi là vật kính của kính
hiển vi. Thực sự vài năm trước đây tất cả vật kính kính hiển vi được thiết kế sao cho
hình ảnh của mẫu nằm sau 160nm vật kính. Hình 1.4 chỉ ra hệ quang liên kết ăn
mòn laser dựa trên loại kính hiển vi này.
Tia laser tới
Điều chỉnh bán kính chùm tia
ảnh Điều chỉnh mặt tiêu cự
Mẫu
Bản chia tia
Thanh lọc sắc
10
Thấu kính y hội tụ tại 1 điểm bên trong ảnh, sao cho nó sẽ có hội tụ tại điểm
tương ứng bên trong mẫu. Thấu kính y có thể di chuyển dọc theo trục tia để điều
chỉnh sự hội tụ của laser sao cho nó tương ứng với ảnh bạn nhìn thấy. Nếu nó được
di chuyển về phía laser, sự hội tụ sẽ di chuyển đi lên hướng mẫu.
Ngày nay rất nhiều kính hiển vi sử dụng vật kính điều chỉnh tại vô cực. Điều
này có nghĩa là tất cả tia của ánh sáng từ một điểm duy nhất trong mẫu tới ngoài của
vật kính song song (hình 1.5). Ánh sáng laser không thể hội tụ tại điểm trong ảnh,
bởi vì không ảnh nào được tạo thành. Trong trường hợp này người ta sử dụng thấu
kính phụ vào (thấu kính z trong hình vẽ) để tạo ảnh.
Hình 1.5: Mô hình hệ quang liên kết cho ăn mòn laser điều chỉnh tại vô cực
Điều quan trọng là ánh sáng laze vào mẫu từ phạm vi có thể đến từ những
góc rộng nhất, có nghĩa rằng đường kính chùm tia phải ít nhất đủ lớn để soi sáng
toàn bộ mẫu. Nếu thấu kính x được di chuyển về phía laze, chùm tia sẽ bị chia nhỏ
như khi di chuyển kính thiên văn, để đường kính của nó sẽ lớn hơn tại thấu kính y
và mẫu. Nếu chùm tia lớn hơn mẫu, thì chỉ phần trung tâm sẽ vào mẫu. Như vậy
thấu kính x được di chuyển về phía laze, phần của ánh sáng để soi sáng trở vào
những mẫu nên yếu hơn. Đây là một cách điều chỉnh cường độ hữu ích. Nó cũng cải
thiện sự đồng nhất của chùm tia, khi đó trung tâm của chùm tia là đồng dạng nhất.
Cường độ có thể cũng được điều chỉnh bởi việc xen vào một mật độ trung
lập được lọc trong chùm tia, hoặc do chính thay đổi nhỏ trong cường độ bằng kính
Tia laser tới
Điều chỉnh bán kính chùm tia
ảnh Điều chỉnh mặt tiêu cự
Mẫu
Chia tia
Thanh lọc
11
hiển vi trượt. Tất nhiên, những sự biến đổi trên các hệ liên quang là rất đa dạng. Ví
dụ, bạn có thể rút ngắn đường dẫn trong hình 1.6 bởi việc sử dụng một thấu kính
lõm thay vì một thấu kính lồi.
Hình 1.6: Mô hình hệ quang liên kết ăn mòn laser rút ngắn đường đi
1.5. Các phương pháp phương pháp ăn mòn laser
Phương pháp ăn mòn laser được sử dụng để chế tạo màng mỏng khi nó được
thực hiện trong chân không đôi khi trong môi trường khí trơ như Ar hay trong
những chất khí đóng vai trò tác nhân hoá học như Amoniac hoặc Nitơ. Phương pháp
ăn mòn laser cũng có thể thực hiện trong môi trường chất lỏng để tạo ra các hạt kích
thước cỡ nano. Kỹ thuật phương pháp ăn mòn laser khá hữu hiệu để tạo ra các hạt
nano của vật liệu bán dẫn và kim loại. So với các phương pháp khác, phương pháp
ăn mòn laser là một phương pháp khá đơn giản, các hạt nano được chế tạo không bị
nhiễm bẩn bởi chất khử, đặc biệt có thể điều khiển được kích thước hạt.
1.5.1 Ăn mòn laser tạo vật liệu nano dạng màng mỏng
Phương pháp ăn mòn laser cung cấp một phương tiện để tạo màng mỏng,
trong một loạt các mẫu vật liệu, trên một loạt các chất, ở nhiệt độ phòng.
Các ứng dụng của phương pháp ăn mòn laser rất linh hoạt và rộng, tuy nhiên,
nhiều khía cạnh của các chi tiết hóa chất vật lý của các quá trình ăn mòn vẫn còn
chưa hoàn toàn được hiểu rõ. Quá trình thường được coi như là một chuỗi các
bước : bắt đầu bằng bức xạ laser tương tác với các mẫu rắn, hấp thụ năng lượng và
Tia laser tới
Điều chỉnh bán kính chùm tia
ảnh ảo Điều
chỉnh mặt tiêu cự
Chia tia
Thanh lọc
Mẫu maMẫu
12
nâng nhiệt tại vị trí trên bề mặt, và các vật liệu bay hơi. Kết quả các tính chất và các
thành phần của các chùm ăn mòn có thể là một kết quả của va chạm hạt trong chùm
thông qua chùm bức xạ laser tương tác. Cuối cùng các chùm va chạm trên chất nền
được bao phủ; vật liệu tới có thể được thu nhận, bật ngược lại vào pha khí, hoặc bổ
sung vào bề mặt tới (thông qua phun, nén …).
Các mẫu tương tác laser sẽ có độ nhạy phụ thuộc vào bản chất và điều kiện
của vật mẫu và các thông số xung laser (bước sóng, cường độ, thông lượng, thời
gian xung …). Các chùm laser tương tác cũng phụ thuộc vào các tính chất của các
bức xạ laser. Trong quá trình ăn mòn, các chùm sẽ rất nhạy với các va chạm vì vậy
chất lượng của chân không là rất quan trọng. Rõ ràng, cuối cùng, thành phần và sự
phân bố vận tốc (hoặc phân bố các thành phần chùm phương pháp ăn mòn laser,
trong trường hợp một thành phần đa chùm ăn mòn) của vật liệu phun có thể được
phản ánh trong các đặc điểm chi tiết của bất màng lắng nào.
Sử dụng bức xạ laser excimer để ăn mòn một loạt các mẫu là vật liệu nguyên
mẫu ví dụ như vật liệu cơ bản như than chì, CVD kim cương, Cu và Al, chất có hai
thành phần như ZnO và LiF, và các loại nguyên vật liệu polyme,trong chân không
và trong các chất khí nền có áp suất thấp hơn áp suất không khí (He, Ar, H 2, N 2,)
[11].
Hình 1.7. Sơ đồ ăn mòn laser tạo màng mỏng
13
1.5.2 Ăn mòn laser chế tạo vật liệu nano dạng rắn
Chế tạo hạt nano Cu bằng ăn mòn laser trong dầu polysiloxane ( keo
silicone). Có rất nhiều loại silicone mà các thuộc tính vật lý như mật độ , độ dẻo, ý
nhiệt,điểm sôi…biến thiên phụ thuộc vào khối lượng phân tử của chúng. Do
đó,người ta có thể chọn một loại dầu thích hợp để điều khiển điều kiện ăn mòn.Độ
bền hóa học và sự trong suốt trong quang học của polysiloxane cũng là một thuộc
tính thuận lợi khi kiểm soát ăn mòn laesr và thuộc tính quang của hạt nano.Thêm
vào, polysiloxane dễ đông lại ở nhiệt độ phòng bằng cách pha lẫn chất thích
hợp.Quá trình làm đông đặc này có thể sử dụng để chế tạo chất rắn,tức là hạt/hợp
chất tổng hợp.
Hình 1.8: Mô hình ăn mòn laser tạo vật liệu nano rắn
Ăn mòn laser được tiến hành nhờ sử dụng một hệ thống quang học ở hình
1.8. Nguồn sáng là một họa ba bậc hai (SHG) của laser Nd:YAG,nghĩa là, bước
sóng 532nm, năng lượng xung 0,2J ,khoảng thời gian xung:5ns, tốc độ lặp :10Hz.
Chùm laze được chiếu tới bề mặt của cốc thủy tinh dưới góc Brewster khoảng 600
để làm giảm sự hao phí do phản xạ. Hệ ăn mòn bao gồm một thanh đồng ( độ dày:
0.5 mm, kích thước 19x30 mm2) và chất lỏng (nước hoặc dầu) với thể tích 8 ml
được đặt trong cốc thủy tinh. Thanh Cu được đặt nghiêng tỳ vào thành cốc sao cho
chùm laze chiếu thẳng góc với thanh. Mật độ năng lượng là 1.4 MW/ mm 2 tại bề
mặt thanh, khi đường kính chùm laze là 6 mm. Sự ăn mòn laze còn tiếp tục trong 10
phút. Sau đó thanh Cu được mang ra khỏi chất lỏng, và mẫu (chất lỏng cùng với hạt
đồng) được cho vào một tế bào acrylic để cho các phép đo quang học.
Tia laser
Tấm kim loại
Dầu polysiloxane
14
Ăn mòn laser trong dầu polysiloxane rất có hiệu quả trong việc ngăn chặn sự
oxi hoá và kết tụ của các hạt nano Cu, là vấn đề hay gặp khi chế tạo hạt trong nước.
Việc quan sát TEM đã chỉ ra rằng các hạt Cu cỡ 2-20 nm đã được chế tạo trong dầu.
Cả kích thước hạt và hiệu suất quá trình thay đổi đáng kể đều phụ thuộc vào loại
dầu. Polysiloxane có thể hóa rắn tại nhiệt độ phòng bằng cách trộn với một chất
curing, và hợp chất polymer bao gồm các hạt nano Cu được chế tạo một cách dễ
dàng. Các thí nghiệm này đã chứng minh rằng polysiloxane là một dung môi có ích
cho chế tạo và bảo quản hạt nano kim loại.
1.5.3 Ăn mòn laser tạo vật liệu nano dạng khí
Ăn mòn laser là một phương pháp phân tích nhanh chóng mà thường sử dụng
vật kính để tập trung xung cực tím UV, chùm laser lên trên bề mặt mẫu rắn với
cường độ đủ để ăn mòn một lượng nhỏ vật liệu.
Một đám hơi vật chất bốc bay trênbề mặt mẫu. Điều này có thể có được là kết
quả được chế tạo từ một xung laser, hoặc từ một số xung laser. Ngoài ra, các laser
có thể được lặp lại ở tỷ lệ 1-20 Hz (hoặc nhiều hơn) cho một khoảng thời gian lâu
dài ở bất kỳ nơi nào từ vài giây đến một phút (hay nhiều hơn), tạo ra một đám hơi
vật chất ổn định bốc lên từ bề mặt mẫu.
Các khói ăn mòn liên tục trộn với dòng khí vận chuyển di chuyển qua các tế
bào ăn mòn. Các khí vận chuyển thông thường là argon hay kết hợp của argon và
Heli. Khí vận chuyển quét khói ăn mòn hút ra khỏi tế bào vào một chiều dài ốngdẫn
đến thiết bị bên ngoài, mà thường là một phổ kế phát plasma cảm ứng kép ICP
(Inductively Coupled Plasma emission spectrometer) hoặc phổ kế ICP-MS (mass
spectrometer) là dụng cụ nhận biết thành phần phân tử và nồng độ các hoá chất
khác nhau trong các mẫu nước và đất. Các nguyên tố ICP và ICP-MS thực hiện các
công cụ phân tích về ngồn gốc của chất rắn bằng cách phân tích của phổ phát quang
hoặc phổ khối lượng của khói ăn mòn mà bị nguyên tử hóa và / hoặc ion hóa của
nhiệt plasma argon.So sánh hai máy phân tích, ICP-MS có nhạy hơn, tuy nhiên nó
cũng đắt hơn và đòi hỏi phải bổ sung và bảo trì nhiều hơn. Ăn mòn laser loại bỏ các
bước thông thường cần thiết cho phân tích chất rắn của ICP và ICP-MS (được thiết
15
kế khác như máy phân tích chất lỏng). Hầu hết các sản phẩm thương mại có sẵn sự
kết hợp các hệ thống ăn mòn laser một kính hiển vi để lựa chọn hình ảnh của video
camera với laser chùm "nhắm mục tiêu" trên các mẫu trên bề mặt[8].
Hình 1.9 : Sơ đồ của một hệ thống ăn mòn laser
Như được hiển thị trong hình 1.9, kết hợp hai đường dẫn quang (laser máy
ảnh và video) có thể đạt được bằng cách sử dụng một gương phản xạ ánh sáng laser
vào mẫu, nhưng nhìn thấy màu trắng ánh sáng truyền từ mẫu tới video camera.
1.5.4 Ăn mòn laser chế tạo vật liệu nano dạng dung dịch
Một phương pháp mới được nghiên cứu gần đây là phương pháp ăn mòn
laser trong chất lỏng [12]. Hạt nano bạc được sản xuất bằng ăn mòn laser trực tiếp
của bản kim loại trong dung dịch chứa chất hoạt động bề mặt với xung laser nano
giây bắn ra xung năng lượng cao. Phương pháp cho phép tạo ra các hạt kích thước
hạn chế cỡ nano với độ phân tán khá cao trong dung dịch. Vật liệu ban đầu là một
tấm bạc được đặt trong một dung dịch có chứa một chất hoạt hóa bề mặt.Sơ đồ thí
nghiệm được bố trí như hình 1.10. Một chùm Laser xung có bước sóng 532 nm, độ
rộng xung là 10 ns, tần số 10 Hz, năng lượng mỗi xung là 90 mJ, đường kính vùng
16
Máy tính điều chỉnh hệ quan sát
Phần mềm điều khiển laser
‘Phần dư’ 1064nm
Hấp thụ tia
Bánh xe khẩu độ
Mẫu tới ICP Kính phân cực Vật kính
Khí vận chuyển từ ICP
Điều khiển X-Y
Đèn chiếu cường độ cao
Đèn chiếu phân cực thấp
Laser Nd:YAG 1064nmHòa ba bậc bốn 266nm hoặc hòa ba bậc năm 213
kim loại bị tác dụng từ 1-3 mm. Dưới tác dụng của chùm laser xung, các hạt nano
có kích thước khoảng 10 nm được hình thành và được bao phủ bởi chất hoạt hóa bề
mặt CnH2n+1SO4Na với n = 8, 10, 12, 14 với nồng độ từ 0,001 đến 0,1M.
Hình 1.10: Thí nghiệm chế tạo hạt nano bạc bằng phương pháp ăn mòn laser
6. Ứng dụng của phương pháp phương pháp ăn mòn laser
1.6.1 Ứng dụng trong công nghiệp may mặc
Trong kiểm soát thời trang, ăn mòn laser được áp dụng để loại bỏ các vật liệu
từ một bề mặt vật rắn. Nó cũng có thể được dùng để khoan các lỗ nhỏ và khoan các
lỗ sâu trong các vật liệu khó có thể khoan bằng mũi khoan thường. Xung laser rất
ngắn để loại bỏ các tài liệu một cách nhanh chóng . Trong khi đó các vật liệu xung
quanh hấp thụ nhiệt rất ít, do đó, khoan laser có thể được thực hiện trên tinh vi hoặc
nhiệt-vật liệu nhạy cảm, bao gồm men răng (laser nha khoa).
Ngoài ra, laser năng lượng có thể được hấp thu chọn lọc bởi màng phủ, đặc biệt
là về kim loại, do đó, xung lasers CO2 hoặc Nd: YAG có thể được sử dụng để làm
sạch bề mặt, loại bỏ sơn hoặc mạ, hoặc chuẩn bị cho bề mặt sơn mà không gây tổn
hại cho các bề mặt. Laser năng lượng cao có thể làm sạch tại chỗ chỉ với một xung
laser. Xung laser năng lượng thấp sử dụng nhiều xung nhỏ mà có thể quét qua một
vùng không gian.
17
Dung dich chất hoạt hoá bề mặt
g diòch châìt hoaòt hoìa bêÌ măòt
Thấu kính
Xung Laser
miếng bạc
25cm cm
Những lợi thế là:
Không có dung môi được sử dụng, do đó, nó thân thiện với môi trường và
vận hành không tiếp xúc với hóa chất.
Nó tương đối dễ dàng tự động hoá, ví dụ như, bằng cách sử dụng robot.
Các chi phí hoạt động thấp hơn là phương tiện truyền thông khô hoặc CO2
băng nổ, mặc dù nguồn vốn đầu tư chi phí cao hơn nhiều.
Quy trình thoải mái hơn kỹ thuật mài mòn vật liệu, ví dụ như sợi carbon hợp
trong một vật liệu sẽ không bị phá hỏng.
Nhiệt của các mẫu là tối thiểu.
1.6.2 Ứng dụng trong sản xuất sợi các bon
Một hướng mới là sử dụng các ứng dụng của phương pháp ăn mòn laser để
xử lý những vật liệu với các hình thức mới, hoặc tạo các loại mà không thể hoặc rất
khó khăn sản xuất bằng cách khác. Một ví dụ gần đây là sản xuất ống các bon.
Trong tháng ba 1995 Guo et al đã là người đầu tiên báo cáo việc sử dụng
một laser để ăn mòn một khối than chì nguyên chất và sau đó than chì trộn với các
xúc tác kim loại. Các xúc tác kim loại có thể bao gồm các yếu tố như: Cơ, nb, Pt,
Ni, Cư, hay một sự kết hợp hai nguyên tố đó. Các hợp khối được hình thành bằng
cách dán bột than chì, keo các bon, và kim loại, tiếp theo là đặt trong một khuôn
hình trụ và nung trong nhiều giờ. Sau khi đông đặc, các khối than chì được đặt bên
trong một lò nướng với một số laser tại đó, và khí Ar được bơm dọc theo hướng của
laser điểm. Các lò nướng nhiệt độ khoảng 1200 ° C. Khi laser ăn mòn mẫu, ống các
bon được tạo và được làm dài ra dưới dạng của các luồng khí trên chỉnh lưu lạnh
bằng kim loại. Khí sẽ phân giải ra các phân tử carbon. Những phân tử này sẽ tụ trên
một bề mặt phủ những hạt kim loại như Fe, Co, Ni có kích cỡ nanomét. Hạt kim
loại là những chủng tử xúc tác từ đó phân tử carbon sẽ chồng chập lên nhau tạo
thành ống nano. Đường kính của hạt kim loại cũng là đường kính của ống. Sự thành
18
hình ống nano không phức tạp, nhưng tạo ra những ống nano giống nhau có cùng
đặc tính, cấu trúc, kích thước trong những đợt tổng hợp và sau đó tinh chế để gạn
lọc tạp chất, đòi hỏi những điều kiện vận hành một cách cực kỳ chính xác.
1.6.3 Ứng dụng trong sinh học
Phương pháp ăn mòn laser ứng dụng trong sinh học và có thể được sử dụng
để tiêu diệt và các mô thần kinh. Nó được thực hiện nhờ tăng nhiệt độ nhanh của
mẫu hấp thụ mạnh trong suốt thời gian của xung laser ngắn khi ảnh hưởng của nhiệt
độ khuyếch tán là tối thiểu. Kết quả là dựa trên cân bằng năng lượng đơn giản,
ngưỡng công suất laser cho vụ nổ nhiệt của hạt nano vàng khác nhau vào cỡ khoảng
25-40 mJ/cm2 . Vụ nổ của hạt nano có thể xảy ra bởi plasma quang , sự phát sóng
xung kích với vụ nổ siêu âm và sự phân mảnh hạt với các mảnh có động năng cao ,
tất cả chúng có thể góp phần giết chết tế bào ung thư. Quang nhiệt phân của xung
laser và hạt nano hấp thụ (ví dụ nano vàng , nano cacbon) đã chứng minh được điện
thế lớn cho sự phá huỷ có lựa chọn các tế bào ung thư , vi khuẩn , vi rut và DNA.
Khi hạt nano bị chiếu bởi laser xung ngắn, nhiệt độ tăng rất nhanh có thể tới
ngưỡng của hiện tượng phi tuyến (ví dụ phát hoạ ba và sóng xung kích) dẫn tới
chữa lành được các mẫu hư hỏng (ví dụ các tế bào dị thường). Bằng năng lượng của
bước sóng laser, thời gian xung, kích thứơc và hình dạng hạt , công nghệ này có thể
cung cấp phá huỷ định xứ cao, thế rất đa dạng từ vài nano met (ví dụ trong DNA
với laser femto ) tới 10 micro (cỡ của một tế bào ung thư ) không phá huỷ các mô
khoẻ mạnh xung quanh .Giữa các nano có cấu trúc khác nhau , hạt nano vàng trong
các biến thể khác nhau (ví dụ cầu, que và vỏ) chúng đều có triển vọng làm đối
tượng cho nhạy bén nhiệt quang khi chúng hấp thụ mạnh, ổn quang, không độc, dễ
dàng kết hợp với các kháng thể hoặc các protein và điều chỉnh được các tính chất
quang. Đây là những khám phá được tích tụ của hạt nano vàng trên màng của tế bào
và đặc biệt sự tạo chùm hạt nano vàng dẫn đến tăng ấn tượng trong hiệu suất tạo
bọt , kết quả trong nhiều tế bào ung thư lựa chọn phá huỷ với công suất laser tương
đối thấp là 60-80 mJ/cm2 mà vẫn giữ được các mô bình thường .
19
1.6.4 Phẫu thuật cho tế bào bằng phương pháp ăn mòn laser
Với chùm tia laser cực mạnh, kéo dài trong một phần triệu của một phần tỷ
giây, các nhà nghiên cứu Anh đã cho bốc hơi các cấu trúc nhỏ bé bên trong tế bào
mà không làm phương hại đến chính tế bào đó. Tương lai, kỹ thuật này có thể được
dùng để thực hiện các cuộc vi phẫu thuật siêu chính xác.
Nhà vật lý Eric Mazur của Đại học Harvard và cộng sự đã phá huỷ một ty thể
đơn (nhà máy năng lượng) của tế bào, trong khi vẫn giữ cho hàng trăm cấu trúc
khác ở cạnh đó còn nguyên vẹn, và cắt một mối liên kết thần kinh của tế bào mà
không làm chết nó. Kỹ thuật này được nhóm nghiên cứu đặt tên là phẫu thuật nano
laser.
“Loại dao mổ laser này sản sinh ra năng lượng tương đương với nhiệt lượng
trong lòng mặt trời, nhưng chỉ kéo dài trong một phần mười luỹ thừa ba mươi của
một giây, và phân bố trên một diện tích rất hẹp, có đường kính chỉ vài phần trăm
triệu của một milimét”, Donald Ingber, một nhà sinh học tế bào tại Harvard, nói. Do
sự tập trung năng lượng cao độ như vậy, ánh sáng sẽ chỉ đốt cháy điểm mà nó chiếu
tới chứ không hề đụng chạm đến các mô xung quanh và tế bào dễ dàng chịu đựng
được ca vi phẫu.
Các phương pháp thao tác bên trong tế bào hiện tại, như sử dụng ánh sáng
hoặc từ trường, thường làm hư hại những mô xung quanh và có độ chính xác cũng
kém hơn.Nhóm nghiên cứu của Đại học Harvard đang xem xét ứng dụng phẫu thuật
bằng laser trên tế bào động vật. Vài tháng trước, họ đã bắt đầu công trình này trên
loài sâu nhỏ có tên khoa học là Caenorhabditis elegans. Bằng việc thiêu đốt một tế
bào thần kinh đơn lẻ, nhóm đã loại bỏ được khả năng khứu giác của con vật này.
Mazur cho biết, trong tương lai, các dao mổ laser có thể cắt sâu vào bên trong các
mô mà không mở rộng vết thương của bệnh nhân, hoặc có thể dùng tiêu diệt các
khối u ngay khi chúng còn ở giai đoạn trứng nước - tức chỉ có vài tế bào. Ngoài ra,
kỹ thuật này có thể có ích trong việc nghiên cứu các quá trình bên trong tế bào, như
sự phân chia của nó.
20
CHƯƠNG 2:THIẾT BỊ VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thiết bị sử dụng trong phương pháp ăn mòn laser
Thực nghiệm phương pháp ăn mòn laser để chế tạo hạt nano kim loại được
thực hiện tại Bộ môn Quang Lượng Tử - Khoa Vật Lý - Trường Đại học Khoa Học
Tự Nhiên.
2.1.1. Thiết bị : Laser Nd: YAG Quanta Ray Pro 230 [13]
Laser Nd:YAG Quanta Ray Pro 230 được chế tạo bởi hãng Spectra – Physics,
theo đúng tiêu chuẩn của Hoa Kỳ, là một trong những laser rắn hiện đại và có công
suất lớn nhất hiện nay.
a)Cấu tạo laser Nd:YAG Quanta Ray PRO-230
Laser gồm có 3 phần chính: đầu laser, power supply và bộ điều khiển
* Đầu laser
Đầu laser bao gồm buồng cộng hưởng quang học, thanh hoạt chất Nd:YAG,
đèn bơm flash tạo dao động, khuyếch đại và bộ hoà ba.
Hình 2.1: Đầu laser
* Power supply
21
Power supply là một thiết bị bao gồm các hệ thống mạch điện AC/DC cung
cấp điện cho toàn bộ đầu laser. Ngoài ra nó còn chứa máy bơm và hệ thống làm mát
bằng nước. Hệ thống làm mát bằng nước của laser có nguyên lý bao gồm hai vòng
tách biệt nhau. Có một vòng khép kín nước sạch từ power supply đến đầu laser và
nước nóng khi quay về power supply sẽ được làm mát bằng một nguồn nước khác
nối với máy bơm bên ngoài tạo thành một vòng khép kín thứ hai. Các thông số của
power supply: sử dụng nguồn điện một pha, 190-260V, 53/60Hz, < 25A.
Hình 2.2: Power supply
* Bộ điều khiển
Bộ điều khiển giúp ta điều khiển hoạt động của laser một cách linh hoạt phù
hợp trong phòng thí nghiệm. Bao gồm điều khiển chế độ đóng ngắt laser, năng
lượng xung, chế độ phát xung...
Hình 2.3: Bộ điều khiển
22
b)Đặc điểm của laser Nd: YAG Quanta Ray Pro 230:
- Phát được ở chế độ xung và liên tục. Khi hoạt động ở chế độ Q - Switching,
năng lượng xung tối đa là 1200 mJ, độ rộng xung từ 7 – 10 ns.
- Hiệu suất khá cao, cỡ vài phần trăm.
- Hoạt động theo sơ đồ 4 mức năng lượng.
- Ngưỡng kích thích thấp.
- Độ dẫn nhiệt cao.
- Nguồn bơm cho laser Nd:YAG là đèn Kripton. Năng lượng của đèn khá phù
hợp với phổ bức xạ của ion Nd.
- Hoạt chất của laser này là tinh thể Ytrium Aluminium Garnet Y2Al5O12 có
pha tạp ion Nd+3 làm tâm hoạt chất.
2.1.2. Hóa chất
Vật liệu ban đầu là một miếng kim loại bạc, vàng (độ tinh khiết 99,99%) có
đường kính khoảng 2-3 mm, được dát mỏng có độ dày khoảng 1 mm.
Trong phạm vi luận văn, chúng tôi sử dụng các dung môi khác nhau như:
Trisodium Citrate Đihydrat (SCD), Sodium Dodecyl Sulfate (SDS) và chất hoạt hóa
bề mặt Polyvinyl Alcohol (PVA) để chế tạo các hạt nano kim loại.
Tên hóa chất Công thức Tính chất
Trisodium
Citrate Đihydrat
(SCD)
C6H7Na3O7.2H2O
CH2 - COONa
HO - C - COONa
CH2 – COONa
Tồn tại ở dạng tinh thể màu
trắng. Hoà tan trong nước và
không hoà tan trong cồn. Khi
xông hơi có biểu hiện rõ rệt với
không khí.
Sodium Dodecyl
Sulfate (SDS)
Chất ở dạng tinh thể màu trắng,
có thể hòa tan trong nước
23
Polyvinyl
Alcohol (PVA)
Chất không mùi, không độc, có
thể hòa tan dung làm dung môi.
PVA có sức căng và độ đàn hồi
cao phụ thuộc vào độ ẩm của nó.
Bảng 2.1: Các loại hóa chất
2.2. Các phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Phương pháp nhiễu xạ tia X
a) Nguyên tắc hoạt động
Phương pháp nhiễu xạ tia X được dùng để xác định vật liệu được tạo thành,
cấu trúc tinh thể, kích thước trung bình của tinh thể [3]. Dựa trên ảnh hưởng khác
nhau của kích thước tinh thể lên phổ nhiễu xạ tia X. Phương pháp nhiễu xạ tia X
cho phép xác định kích thước tinh thể dựa trên phân tích hình dáng và đặc điểm của
đường cong phân bố cường độ của đường nhiễu xạ tia X dọc theo trục đo góc 2θ.
Cơ sở của phổ nhiễu xạ tia X là: Khi chiếu một chùm tia X có bước sóng từ
10-9- 10-12 m vào một tinh thể thì tia X sẽ bị tán xạ theo các phương khác nhau trên
mặt phẳng khác nhau của tinh thể. Sau khi tán xạ chúng sẽ giao thoa với nhau, tạo
nên các cực đại, cực tiểu giao thoa tuỳ thuộc vào hiệu quang trình của chúng. Chùm
nhiễu xạ từ vật liệu phụ thuộc vào bước sóng của chùm điện tử tới và khoảng cách
mặt mạng trong tinh thể, tuân theo định luật Bragg:
nλ = 2dsinθ (2.1)
Bằng cách sử dụng mẫu chuẩn, nhiễu xạ với cùng điều kiệnvới mẫu nghiên
cứu, sự nhoè rộng bởi điều kiện thực nghiệm được loại bỏ. Sự nhoè rộng của phổ
nhiễu xạ tia X thu được là do bản thân của mẫu nghiên cứu được gọi là sự nhòe
rộng vật lý và độ rộng gọi là độ rộng vật lý β.
Độ rộng vật lý liên quan đến kích thước tinh thể theo phương trình Scherer:
D = k (2.2)
24
Với D là kích thước tinh thể, k = 0.94 là hệ số tỉ lệ. Do kích thước tinh thể D
theo chiều vuông góc với mặt nhiễu xạ tỷ lệ nghịch với cosθ, nên để xác định kích
thước tinh thể với độ chính xác cao thì phải dùng đường nhiễu xạ đầu tiên với góc θ
nhỏ nhất.
b) Quy trình đo phổ nhiễu xạ tia X
Mẫu được dùng đo nhiễu xạ tia X dùng để xác định chính xác trong dung
dịch tạo ra là hạt nano kim loại trùng với vật liệu khối đã sử dụng chứ không phải
một chất nào khác. Đồng thời qua phổ tia X để xác định kích thước hạt nano tạo
thành là kích thước nano thông qua tính toán dựa trên phổ nhiễu xạ tia X và phương
trình Scherer.
Mẫu được đo là dạng dung dịch sẽ được lọc để tăng nồng độ hạt. Sau đó sẽ
được đưa vào quay ki tâm để thu được hạt dạng tinh thể.
Mẫu thu được sẽ được sấy khô và đưa vào máy Bruker D5005 để đo phổ
nhiễu xạ tia X. Số liệu ra dưới dạng file exel.
c) Xử lý số liệu
Phổ nhiễu xạ tia X sẽ được vẽ trên phần mềm origin7.5 từ đó xác định vị trí
các đỉnh và góc nhiễu xạ tại vị trí các đỉnh. Xác định độ bán rộng của đỉnh và thay
vào phương trình Scherer ta sẽ tính được bán kính của hạt.
2.2.2 Phương pháp kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM)
Kính hiển vi điện tử truyền qua được phát triển từ năm 1930 là công cụ kỹ
thuật không thể thiếu cho nghiên cứu vật liệu và y học. Dựa trên nguyên tắc hoạt
động cơ bản của kính hiển vi quang học, kính hiển vi điện tử truyền qua có ưu điểm
nổi bật nhờ bước sóng của chùm điện tử ngắn hơn rất nhiều so với ánh sáng nhìn
thấy nên kính hiển vi truyền qua có thể quan sát tới kích cỡ 0,2 nm. Kính hiển vi
điện tử truyền qua được sử dụng để nghiên cứu cấu trúc bên trong của các cấu trúc
nano và micro.
25
a) Nguyên tắc hoạt động của kính hiển vi truyền qua:
Kính hiển vi truyền qua hoạt động bằng cách làm cho các electron di chuyển
xuyên qua mẫu vật và sử dụng các thấu kính từ tính phóng đại hình ảnh của cấu
trúc, phần nào giống như ánh sáng chiếu xuyên qua vật liệu ở các kính hiển vi ánh
sáng thông thường [14]. Các điện tử từ catot bằng dây tungsten đốt nóng đi tới anot
và được hội tụ bằng “thấu kính từ” lên mẫu đặt trong buồng chân không. Tác dụng
của tia điện tử tới mẫu có thể tạo ra chùm điện tử thứ cấp, điện tử phản xạ, điện tử
Auger, tia X thứ cấp, phát quang catot và tán xạ không đàn hồi với các đám mây
điện tử trong mẫu cùng với tán xạ đàn hồi với hạt nhân nguyên tử. Các điện tử
truyền qua mẫu được khuyếch đại và ghi lại dưới dạng ảnh huỳnh quang hoặc kỹ
thuật số.
Do bước sóng của các electron ngắn hơn bước sóng của ánh sáng, nên các
hình ảnh của TEM có độ phân giải cao hơn so với các hình ảnh của một kính hiển vi
ánh sáng. TEM có thể cho thấy rõ những chi tiết nhỏ nhất của cấu trúc bên trong,
trong một số trường hợp lên tới từng nguyên tử.
Nhiễu xạ điện tử có thể cung cấp những thông tin rất cơ bản về cấu trúc tinh
thể và đặc trưng vật liệu. Chùm điện tử nhiễu xạ từ vật liệu phụ thuộc vào bước
sóng của chùm điện tử tới và khoảng cách mặt mạng trong tinh thể, tuân theo định
luật Bragg.
Do bước sóng của chùm điện tử rất nhỏ nên ứng với các khoảng cách mạng
trong tinh thể thì góc nhiễu xạ phải rất bé (θ ≈ 0,010).
Tuỳ thuộc vào bản chất của vật liệu, ảnh nhiễu xạ điện tử thường là những
vúng sáng tối gọi là trường sáng - trường tối. Trường sáng là ảnh của vật liệu vô
định hình còn trường tối là ảnh của vật liệu có dạng tinh thể.
b) Quy trình tiến hành đo TEM
Để khảo sát các thông số có thể ảnh hưởng tới kích thước hạt như loại kim
loại, loại dung môi, nồng độ dung môi, thời gian chiếu laser, công suất laser, bước
sóng laser ,chúng tôi chọn hai mẫu có cùng một điều kiện về các thông số và khác
nhau về một thông số cần nghiên cứu. Các mẫu sau khi được chế tạo được cho vào
26
lọ thuỷ tinh màu để tránh ánh sáng, đậy kín để tránh tiếp xúc không khí. Sau đó
được gửi đi đo TEM tại Trung tâm dịch tễ Hà Nội.
Khi mẫu được gửi đến dạng dung dịch, để có thể lấy hạt nano kim loại để
tiến hành đo TEM. Người ta lấy một lưới đồng nhúng vào dung dịch chứa hạt nano
kim loại. Sau khi lấy ra các hạt nano kim loại sẽ bám vào bề mặt lưới và đo bằng
kính hiển vi điện tử truyền qua JEM1010-JEOL. Sau khi tinh chỉnh máy để đạt
được ảnh TEM của hạt nano kim loại rõ nét nhất, các ảnh TEM sẽ được chụp và gửi
dữ liệu đến máy tính dưới dạng file ảnh.
c) Xử lý số liệu
Trong khoá luận, chúng tôi xác định kích thước hạt dựa trên phần mềm
ImagieJ 1.37v của Wayne Rasband (Nationnal institues of Heath, USA) [15]. Phần
mềm ImagieJ 1.37v cho phép định nghĩa một khoảng có độ dài có giá trị chuẩn trên
hình. Sau đó, tiến hành đo đường kính các hạt nano bạc trên hình. Phần mềm còn
cho phép ta có thể phóng to ảnh để xác định chính xác bán kính hạt. Tiến hành xác
định bán kính của khoảng 500 hạt. Sau đó đưa số liệu vào phần mềm Origin 7.5
phân tích tần xuất xuất hiện các kích thước hạt. Kích thước hạt trung bình có thể
tính dựa vào phần mềm Microsoft Excel 2003 bằng hàm Average. Sử dụng phần
mềm ImagieJ 1.37v có thể xác định khá chính xác kích thước từng hạt nhưng rất tốn
thời gian.
2.2.3 Phương pháp quang phổ hấp thụ (UV-VIS)
Phương pháp quang phổ hấp thụ là một trong các phương pháp cơ bản để
nghiên cứu phản ứng các chất trong dung dịch, để xác định thành phần và cấu trúc
của hợp chất, để nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố đến cân bằng giữa các chất.
Bằng phương pháp này có thể định lượng nhanh chóng với độ nhạy và độ chính xác
cao. Phương pháp này dựa trên cơ sở đo cường độ dòng sáng còn lại sau khi đi qua
dung dịch bị chất phân tích hấp thụ một phần. Phương pháp đo màu là phương pháp
đo dung dịch trong suốt có màu.
27
a) Cơ sở lý thuyết
* Phổ hấp thụ điện tử của phân tử
Mỗi phân tử của một chất có số trạng thái điện tử ứng với các giá trị năng
lượng xác định và gián đoạn. Trạng thái điện tử ứng với các mức năng lượng thấp
nhất là trạng thái điện tử cơ bản. Khi hấp thụ năng lượng, phân tử chuyển sang trạng
thái năng lượng cao hơn là trạng thái kích thích. Quang phổ UV- VIS của phân tử
xuất hiện là do các electron trong phân tử chuyển dời từ mức năng lượng này sang
mức năng lượng khác khi chúng hấp thụ năng lượng trong vùng nhìn thấy hay tử
ngoại [4]. Mỗi một giá trị năng lượng chuyển mức có tần số hay bước sóng xác
định: ∆ E = h ν = h (2.3)
Sự dịch chuyển giữa các mức năng lượng tuân theo quy tắc chọn lọc. Vì vậy
có những dịch chuyển có xác xuất cao, cũng có những dịch chuyển với xác xuất
thấp dẫn đến những bức xạ được hấp thụ mạnh, những bức xạ hấp thụ yếu và những
bức xạ không được hấp thụ. Chính vì vậy dựa trên phổ hấp thụ, người ta có thể xác
định định tính, định lượng thành phần các chất trong dung dịch.
* Định luật hấp thụ ánh sáng - Định luật LAMBERT-BEER
Ánh sáng truyền qua một môi trường chịu ảnh hưởng của ba hiện tượng:
phản xạ, truyền qua và hấp thụ. Giữa năng lượng bức xạ đơn sắc bị hấp thụ và nồng
độ chất hấp thụ có sự phụ thuộc tuân theo định luật Lambert-beer [5].
Xét trường hợp, chiếu một ánh sáng đơn sắc có bước sóng λ và cường độ I 0
đi qua một lớp dung dịch chất tan đồng nhất có nồng độ C, bề dày lớp dung dịch là
l. Khi đi qua lớp dung dịch một phần ánh sáng bị hấp thụ, một phần bị phản xạ,
phần còn lại đi qua lớp dung dịch có cường độ I.
Mối liên hệ giữa I và I 0 được biểu diễn qua định luật Lambert-beer:
I = I0 .10-k.l.c (2.4)
Mật độ quang D được tính:
D = lg = k (λ).l.C (2.5)
28
Với k(λ) là hệ số hấp thụ phân tử. Hệ số này thay đổi theo λ và có giá trị đặc
trưng cho từng chất.
Đường cong hấp thụ là sự phụ thuộc của k theo bước sóng: k = f(λ).
Đường cong hấp thụ của những chất khác nhau là khác nhau.
Khi k và l không đổi thì D sẽ phụ thuộc tuyến tính vào C. Từ mật độ quang
D ta có thể biết được sự biến đổi nồng độ chất trong quá trình phản ứng.
Đây chính là cơ sở của phép phân tích định tính, định lượng các chất.
* Thuyết Mie
Vào đầu thế kỉ 20, Gustav Mie đã bắt đầu nghiên cứu các tính chất của các hạt
chất keo trong dung dịch dạng lỏng để mô tả các tính chất quang học và tính chất
điện của chúng. Trong khoảng thời gian này, ông đã phát triển một lý thuyết có khả
năng mô tả một cách toán học sự tán xạ của ánh sáng tới bởi các hạt dạng cầu. Lý
thuyết của Mie không giống như lý thuyết của bậc tiền bối Lord Rayleigh ở chỗ nó
áp dụng được với mọi hạt dạng cầu bất kể kích thước hạt [16].
Mie sử dụng hệ tọa độ cầu cùng với các điều kiện biên và hệ số thích hợp như
kích thước hạt, tính chất quang của vật liệu cấu tạo hạt và môi trường xung quanh
để giải các phương trình Maxwell. Với các hệ số chính xác, lời giải ông tìm được có
khả năng mô tả các dao động đa cực cho tiết diện tắt dần của hạt nano. Sử dụng sự
mở rộng chuỗi của điện trường và từ trường, lời giải của Mie chỉ ra rằng hệ số tắt
dần và hệ số phản xạ có thể được định nghĩa thông qua các phương trình :
29
(2.6)
Trong đó với là chiết suất phức của hạt còn là phần thực của
chiết suất của môi trường xung quanh. là vector sóng, còn với là bán
kính hạt nano. và là các hàm cầu Ricatti-Bessel, còn chỉ bậc của các sóng
thành phần (ví dụ: =1 là trường lưỡng cực hay dao động, =2 ứng với trường tứ
cực, v.v..).
Hai phương trình cuối trong chuỗi phương trình (2.6) chỉ ra rằng cộng hưởng
plasmon phụ thuộc vào kích thước hạt ( ). Hạt có kích thước càng lớn thì các mode
bậc cao càng đóng vai trò quan trọng. Các mode bậc cao có đỉnh plasmon bề mặt ở
năng lượng thấp (bước sóng dài). Vì vậy, vùng hấp thụ plasmon dịch về phía ánh
sáng đỏ khi kích thước của hạt tăng. Sự thay đổi bước sóng và độ rộng đỉnh hấp thụ
này đã được minh họa qua thực nghiệm (hình 2.4.a). Sự phụ thuộc trực tiếp vào
kích thước hạt này được gọi là hiệu ứng kích thước trong (intrinsic size effect).
Coi hạt nano có kích thước rất nhỏ so với bước sóng ánh sáng tới (
), theo tính toán của Mie, chỉ có dao động lưỡng cực là ảnh hưởng đáng kể đến tiết
diện tắt dần . Tiết diện này có thể được tính theo công thức (trong gần đúng
lưỡng cực điện):
(2.7)
Với là thể tích hình cầu , là tần số góc của ánh sáng tới, là vận
tốc ánh sáng, còn và là hằng số điện môi của môi trường
xung quanh và của vật liệu. Hiện tượng cộng hưởng chỉ thu được khi thỏa mãn điều
kiện với là rất nhỏ và ảnh hưởng không đáng kể đến tần số góc .
30
Phương trình (2.7) được sử dụng xác định phổ hấp thụ của các hạt nano kim
loại nhỏ (hạt nano vàng với bán kính nhỏ hơn 20nm). Nếu bán kính các hạt nano lớn
hơn giá trị này, hoặc vượt quá bước sóng ánh sáng, ta không thể áp dụng phương
trình (2.7) mà trở về với các phương trình ban đầu (2.6). Kết quả là, sự cộng hưởng
phụ thuộc vào kích thước hạt với là một hàm của bán kính hạt . Khi kích
thước hạt vượt quá kích thước của bước sóng, các mode bậc L cao hơn được dùng
để định nghĩa hệ. Những mode này đạt tới bậc cao nhất khi năng lượng thấp hơn và
31
Hình 2.4:a) Phổ hấp thụ UV- Vis của các hạt nano vàng có kích thước 9, 22, 48 và 99 nm
trong nước với các đỉnh hấp thụ tương ứng ở 517, 521, 533 và 575 nm[S. Link and M. A. El-Sayed, J. Phys. Chem. B103,4212 (1999).]b) Đồ thị mối liên hệ giữa độ rộng đỉnh plasmon và đường kính hạt.[S. Link and M. A. El-Sayed, J. Phys. Chem. B103,4212 (1999).]
vì vậy, chúng gây ra một dịch chuyển đỏ trong vùng plasmon (dịch chuyển Stokes)
khi bán kính hạt tăng lên. Những quan sát này tuân theo lý thuyết của Mie về sự tán
xạ và giải thích màu đỏ của dung dịch có chứa hạt nano vàng .
Theo phương trình (2.7), hệ số tắt dần không phụ thuộc vào kích thước hạt. Tuy
nhiên, thực nghiệm là chỉ ra hiện tượng ngược lại. Sự trái ngược này xuất phát từ
giả thiết của Mie rằng cấu trúc điện tử và hằng số điện môi của hạt nano cũng tương
tự như cấu trúc điện tử và hằng số điện môi của dạng vật liệu khối.Giả thiết này
hoàn toàn không chính xác khi kích thước hạt là rất nhỏ. Vì vậy, thuyết Mie cần
được sửa đổi bằng cách thêm vào hiệu ứng kích thước lượng tử trong các hạt nhỏ.
Đối với các hạt có kích thước nhỏ, sự tán xạ bề mặt electron trở nên đáng kể
trong khi quãng đường tự do trung bình của electron dẫn nhỏ hơn kích thước vật lý
của hạt nano. Ví dụ như, electron dẫn trong vàng và bạc có quãng đường tự do trung
bình là 40-50 nm và sẽ bị giới hạn bởi bề mặt của hạt trong hạt có kích thước 20
nm. Nếu electron tán xạ đàn hồi ngẫu nhiên tại bề mặt, liên kết giữa các dao động
plasmon bị phá vỡ. Va chạm không đàn hồi giữa electron-bề mặt cũng thay đổi pha
dao động. Hạt càng nhỏ thì electron càng nhanh va chạm và tán xạ tại bề mặt, do đó
liên kết bị phá vỡ càng nhanh. Vì vậy, độ rộng đỉnh plasmon tăng lên khi kích thước
hạt giảm. Hiện tượng quãng đường tự do trung bình của electron giảm đáng kể còn
tán xạ electron bề mặt được tăng cường cũng có thể giải thích cho sự phụ thuộc của
hấp thụ plasmon bề mặt vào kích thước hạt như sau. là hằng số tắt dần của hiện
tượng và là hàm của kích thước hạt :
(2.8)
là hằng số tắt dần của vật liệu khối và phụ thuộc vào tần số tán xạ electron,
A là hằng số phụ thuộc vào quá trình tán xạ, là vận tốc của electron ở năng
lượng Fermi còn là bán kính hạt. Hiệu ứng kích thước là hiệu ứng kích thước nội
tại (intrinsic size effect) khi hàm điện môi của kim loại phụ thuộc vào kích thước
hạt. Trong khu vực này, bước sóng hấp thụ tăng nhưng độ rộng đỉnh giảm khi tăng
kích thước hạt.
32
Lý thuyết Mie giới hạn cho các hệ có nồng độ hạt nhỏ và giả thuyết các hạt là
tách biệt, không tương tác với nhau. Giả thuyết này cũng cho rằng điện trường được
sinh ra do kích thích plasmon bề mặt cộng hưởng khi một hạt đơn lẻ không tương
tác với phần còn lại trong môi trường xung quanh. Khi khoảng cách giữa hai hạt
giảm đi, sẽ có một dịch chuyển đỏ xảy ra trong cộng hưởng plasmon và ta sẽ quan
sát được thêm một đỉnh hấp thụ ở bước sóng dài hơn.
b) Hệ thu phổ hấp thụ UV-VIS – Máy quang phổ UV- 2450
Phổ điện tử nằm trong vùng tử ngoại khả kiến có thể dùng máy quang phổ
hấp thụ với cuvet bằng thạch anh để quan sát. Thiết bị UV-VIS cho phép ta ghi phổ
và đọc được các giá trị hấp thụ tại bước sóng bất kỳ. Sử dụng phổ điện tử để phân
tích các chất đơn giản, nhanh chóng, có độ nhạy cao, mẫu không bị phá huỷ. Các
mẫu tạo được đã được đo bằng máy UV-2450 tại Trung tâm khoa học vật liệu - Đại
học Khoa Học Tự Nhiên. Đây là một thiết bị rất hiện đại và chính xác được sử dụng
trong phân tích sản xuất vật liệu mới cũng như phân tích tính chất của các chất
trong nghiên cứu hoá sinh, môi trường [17].
*Sơ đồ khối
33
Hình 2.5: Sơ đồ khối máy quang phổ UV 2450
Trong đó :
1: Nguồn sáng
1 - A: Đèn Halogen
1 - B: Đèn Đơtơri
2: Bộ đơn sắc
3: Cuvet
3 - A: Cuvet đựng chất so sánh
3 - B: Cuvet đựng mẫu
4: Bộ khuyếch đại
5: Bộ ghi tín hiệu
5 – A: tín hiệu so sánh
5 – B: tín hiệu mẫu
6: Bộ chuyển tín hiệu
7: Bộ điều khiển
7.1 khe điều khiển
7.2 công tắc lọc
7.3 bước sóng quét
7.5 bố trí đèn
7.6 công tắc đèn
* Sơ đồ quang:
34
Hình 2.6: Sơ đồ quang học của máy quang phổ UV 2450
Trong đó: D2: Đèn đơtơri
. G: Cách tử nhiễu xạ F: Kính lọc
WI: Đèn halogen S1, S2: Khe hẹp
CH: Gương bán mạ MP: Nhân quang điện
C1, C2: Cuvet M1~M10: Gương
* Nguyên tắc hoạt động [18]
Chùm sáng từ hai đèn (đèn Đơtơri hoặc đèn Halogen) được phản xạ bởi
gương M1, M2 sau đó được chiếu vào máy đơn sắc. Nguồn sáng được tự động bật
phụ thuộc vào bước sóng:
- đèn Đơtơri: từ 190 nm đến bước sóng ánh sáng nguồn tự động
- đèn Halogen: từ bước sóng ánh sáng nguồn tự động đến 900 nm
(Bước sóng ánh sáng nguồn tự động khoảng 282 đến 393 nm)
Trong máy UV- 2450, vị trí của nguốn sáng được điều chỉnh tự động, đảm
bảo rằng cường độ tới detector mọi thời điểm là mạnh nhất sau khi nguồn được bật.
Tất cả yếu tố quang ngoài nguồn sáng được giảm xuống bằng cửa sổ W.
Chiều rộng khe có 6 nấc: 0.1, 0.2, 0.5, 1, 2, 5. Trong phép đo thông thường, độ rộng
khe là 2nm.
35
Máy đơn sắc bao gồm S1 (khe vào), M2 (gương), G (cách tử) và S2 (khe ra).
Ánh sáng được chiếu vào cách tử G sau khi đi qua khe hẹp S1, cách tử G tách chùm
sáng thành các tia đơn sắc. Khi tinh chỉnh G thì các tia sáng lần lượt qua khe S2 và
kính lọc F. Tia sáng đến gương phản xạ M3 là đơn sắc và ít bị nhiễu nhất, tia sáng
đến gương bán mạ CH. Gương này phản xạ 50% và truyền qua 50%, cường độ tia
sáng tới hai gương phản xạ M3 và M4 là như nhau.
Sau đó, tia sáng đi qua cuvet (mẫu chuẩn và mẫu cần đo). Sau khi qua phản
xạ tại gương M5, M6 sẽ hội tụ tại nhân quang điện để khuyếch đại tín hiệu. Các
thông tin về phổ hấp thụ thu trên máy quang phổ được chuyển thành tín hiệu số qua
bộ biến đổi tín hiệu quang thành tín hiệu điện) chuyển vào máy tính để xử lý qua
phần mềm. Tinh chỉnh G để lần lượt các tia sáng qua cuvet khi đó sẽ thu được toàn
bộ phổ của mẫu cần đo.
c) Quy trình tiến hành
Các mẫu được đo ở dạng dung dịch màu. Mẫu sẽ được cho vào một cuvet
còn cuvet thứ hai đựng chất so sánh ở đây là nước cất hai lần được sử dụng trong
quá trình chế tạo mẫu.
Sau khi cuvet được đặt vào gá mẫu sẽ được đưa vào buồng đo mẫu. Đậy kính
nắp buồng đo mẫu để đảm bảo buồng đo mẫu là hoàn toàn tối không có ánh sáng
bên ngoài lọt vào.
Sau mỗi phép đo, cuvet được tráng dụng cụ bằng nước cất. Số liệu sẽ được
lưu trữ dạng file text.
d) Xử lý số liệu
Trong khoá luận này chúng tôi sử dụng phần mềm origin 7.5.
36
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Sử dụng phương pháp ăn mòn laser chúng tôi đã chế tạo được các hạt nano
kim loại là bạc, vàng. Xuất phát ban đầu là chế tạo hạt nano bạc bằng phương pháp
ăn mòn laser vì hạt nano bạc đã được chúng tôi chế tạo thành công và nghiên cứu
tính chất của nó trong quá trình làm khóa luận đại học bằng phương pháp hóa.
Sau khi chế tạo được hạt nano bạc, chúng tôi tiếp tục chuyển hướng nghiên
cứu và chế tạo hạt nano có nhiều tính chất đặc trưng riêng, được ứng dụng rất nhiều
trong thực tế là hạt nano vàng. Sử dụng phương pháp ăn mòn laser đã chế tạo được
hạt nano vàng. Qua đó có những so sánh với các phương pháp chế tạo hạt nano
khác.
Sử dụng những hạt nano kim loại đã được chế tạo, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu sự ảnh hưởng của các thông số như công suất laser, thời gian ăn mòn
laser và nồng độ dung dịch chất hoạt hoá bề mặt lên kích thước trung bình của hạt
nano kim loại. Từ đó xác lập một quy trình chế tạo hạt nano kim loại.
Bước đầu hướng tới những ứng dụng của phương pháp ăn mòn laser với các
hạt nano kim loại thu được. Đó chính là sử dụng phương pháp ăn mòn laser để điều
khiển kích thước hạt nano.
3.1 Thực nghiệm phương pháp ăn mòn laser để chế tạo hạt nano kim loại
3.1.1. Hệ ăn mòn laser
Sau khi nghiên cứu các tài liệu về ăn mòn laser về các yêu cầu của xung laser
(năng lượng, thời gian, độ rộng xung, bước sóng) cũng như các yêu cầu về điều
kiện thực nghiệm để chế tạo các hạt nano kim loại. Cũng như xu hướng nghiên cứu
về hạt nano kim loại trong nước và quốc tế.
Đồng thời, tìm hiểu laser và các thiết bị quang học trong bộ môn cũng như
các điều kiện về hóa chất, vật liệu khối kim loại ban đầu.
Chúng tôi tiến hành xây dựng hệ ăn mòn laser. Hệ ăn mòn laser được bố trí
như hình vẽ sau:
37
Chùm laser được hội tụ bằng một bộ các linh kiện quang học và được chiếu tới
vuông góc với bề mặt tấm kim loại. Hệ được lắp đặt sao cho khoảng cách từ thấu
kính đến bề mặt tấm kim loại đúng bằng tiêu cự của thấu kính nhằm tăng cường sự
hội tụ của chùm laser. Để hệ cố định, gắn thấu kính và gương bán mạ trên giá cố
định.
Để tạo ra sự ăn mòn kim loại đều và để ngăn chặn hiệu ứng kết hợp, tấm kim
loại được quay trong quá trình ăn mòn laser.
Thấu kính
Hệ xoay
Lăng kính
Khối kim loại
Dung dịch
Nd:YAG laser
38
Hình 3.1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm ăn mòn laser
3.1.2 Quy trình thí nghiệm
Hình 3.2: Mô hình quy trình thí nghiệm
a) Tạo dung môi
Trong suốt quá trình làm thực nghiệm chủ yếu chúng tôi chế tạo hạt nano kim
loại trong 2 dung môi chính là dung dịch chất hoạt hóa bề mặt như PVA,SDC….và
dung dịch không có chất hoạt hóa bề mặt như nước cất, cồn.
Dung dịch chất hoạt hoá bề mặt được tạo ra bằng cách hoà tan chất hoạt hoá
bề mặt ở dạng kết tinh với nước cất. Khối lượng các chất hoạt hoá được đo bằng cân
điện tử tại Trung tâm Khoa học Vật liệu với độ chính xác tới 0.01 mg.
b) Ăn mòn tấm kim loại kim loại bằng bức xạ laser.
Các hạt nano kim loại được chế tạo trong dung dịch bằng cách chiếu trực tiếp
laser lên bề mặt tấm kim loại được đặt trước trong cuvet thuỷ tinh có chứa 10 ml
dung môi không chứa chất hoạt hóa bề mặt hoặc dung dịch chất hoạt hoá bề mặt.
Laser được đặt ở chế độ Q-switching với bước sóng 1064 nm là chủ yếu, tần số 10
39
Chất hoạt hóa bề mặt
Nước cất
Dung dịch hoạt hóa bề mặt (V=10ml)
Miếng kim loại (d=1cm, h=1mm)
Hệ ăn mòn laser
Dung dịch chứa hạt nano kim loại
Khối kim loại
Tán mỏng
Xung laser Nd:YAG (=1064;532nm, f=10Hz, =8 ns) chế độ Q-
switching
)
Quay
Hz. Lần lượt tiến hành thí nghiệm đối với các dung môi khác nhau và với nồng độ
khác nhau của dung dịch chất hoạt hoá bề mặt. Thời gian chiếu laser đối với mỗi
mẫu là khác nhau từ 15 đến 25 phút.
3.2 Kết quả chế tạo các hạt nano kim loại
3.2.1 Chế tạo hạt nano bạc trong dung dịch SCD
a) Phổ nhiễu xạ tia X của hạt nano bạc
Trong phần thực nghiệm, chúng tôi đã tiến hành đo phổ nhiễu xạ tia X của
mẫu bạc chế tạo với các thông số: bước sóng 532 nm, tần số 10 Hz, công suất 420
mW, trong dung dịch hoạt hóa bề mặt SCD nồng độ 0.003 M, thời gian chiếu laser
là 40 phút. Kết quả phổ nhiễu xạ tia X thu được như hình 3.3.
Hình 3.3: Phổ nhiễu xạ tia X của hạt nano bạc
Phổ nhiễu xạ tia X của hạt nano bạc do chúng tôi tạo ra có vị trí các đỉnh
trùng với vị trí các đỉnh của phổ nhiễu xạ tia X của hạt nano bạc trong các nghiên
40
cứu đã được công bố trên thế giới [19, 20]. Điều này chứng tỏ vật liệu chúng tôi
chế tạo được trong luận văn chính xác là hạt nano bạc. Trong hình 3.1, bốn đỉnh của
phổ nhiễu xạ tia X tại vị trí góc 2θ là 38.2◦, 44.3◦, 64.5◦ và 77.4◦ tương ứng với các
mặt tinh thể (111), (200), (220) và (311) của mạng lập phương tâm khối của tinh thể
bạc.
Hạt nano bạc được tạo ra bằng phương pháp ăn mòn laser trong khoá luận có
cấu trúc lập phương tâm mặt và đỉnh phản xạ ứng với góc 2θ = 38.20 và chỉ số mặt
là (111) có cường độ mạnh nhất. Dựa vào phổ nhiễu xạ tia X, ta cũng có thể tính
được kích thước trung bình tinh thể hạt nano bạc theo phương trình Scherrer (2.2)
D = 56, 75 nm
Như vậy, qua phổ nhiễu xạ tia X chúng tôi đã chứng minh vật liệu chế tạo
được là hạt bạc có kích thước nano.
b) Phổ hấp thụ UV – VIS của hạt nano bạc
Hình 3.4 trình bày phổ hấp thụ plasmon của hạt nano bạc trong dung dịch
SCD ở các nồng độ 0.003 M, 0.01M, 0.1 M
S C D solution
(a) (b) (c)
(c)
(b)
(a)
(a) (b) (c)
SCD solution
Hình 3.4: Phổ hấp thụ của hạt nano bạc trong dung dịch SCD
ở các nồng độ 0.003 M, 0.01M, 0.1 M
41
Từ hình 3.4, ta thấy sự xuất hiện của đỉnh phổ hấp thụ đặc trưng xung quanh
400 nm có thể khẳng định rằng đã chế tạo thành công hạt nano bạc [19, 20]. Điều
này phù hợp với lý thuyết về đỉnh hấp thụ cộng hưởng plasmo bề mặt của các hạt
nano bạc. Đặc trưng đỉnh hấp thụ xung quanh 400 nm phụ thuộc mạnh vào nồng độ
dung dịch SCD. Khi kích thước tăng thì đỉnh của phổ hấp thụ dịch chuyển về phía
bước sóng dài. Từ đó thấy rằng trong 3 mẫu chế tạo, mẫu SCD 0.003M có kích
thước hạt nhỏ nhất.Để xác định chính xác kích thước hạt cũng như sự phân bố kích
thước hạt,chúng tôi tiến hành đi đo kích thước hạt bạc trong mẫu SCD 0.003M bằng
kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM).
Ảnh TEM của mẫu SCD 0.003M thu được như hình 3.5:
Hình 3.5: Ảnh TEM (a)và sự phân bố kích thước hạt (b) của hạt nano bạc được tạo
ra bằng ăn mòn laser trong dung dịch SCD 0.003 M
Quan sát trên hình 3.5(a) , ta thấy các hạt nano bạc có kích thước nano. Hình
dạng các hạt chủ yếu là hình cầu, có sự cô lập tương đối giữa các hạt.
Từ hình 3.5(b), ta thấy rằng các hạt nano bạc phân bố không đồng đều, tập
trung nhiều trong khoảng từ 8 – 10 nm. Kích thước trung bình của các hạt nano bạc
được tạo ra trong dung dịch SCD là 8 nm với tỉ lệ tạo thành là 20 %. Các hạt được
tạo ra có đường kích phân bố trong khoảng từ 4 nm đến 12 nm.
Ab
unda
nce
(a.u
)
Size (nm)
SCD solution (0.003M)
a) aa
b)
42
a)a)
c)So sánh với phương pháp khử hoá học
Trong phương pháp hoá khử, các hạt nano bạc được tạo ra từ dung dịch bạc
nitrate có chứa Trisodium citrate dihydrat C6H7Na3O7 (SCD). Hình 3.6 là phổ hấp
thụ của hạt nano bạc trong hai phương pháp hoá khử và ăn mòn laser.
Hình 3.6: Sự so sánh phổ hấp thụ của các hạt nano bạc
được tạo ra bởi phương pháp ăn mòn laser và phương pháp khử hoá học
Ta thấy, đỉnh hấp thụ của các hạt nano bạc được tạo ra bởi phương pháp khử
hoá học dịch chuyển đến 440 nm trong khi đối với phương pháp ăn mòn laser là 400
nm. Độ bán rộng đỉnh phổ hấp thụ trong ăn mòn laser nhỏ hơn so với phương pháp
hoá khử. Kết quả này phù hợp với kích thước hạt trung bình và sự phân bố kích
thước hạt đo được. Trong trường hợp ăn mòn laser, kích thước trung bình của các
hạt nano bạc là 8 nm với tỉ lệ tạo thành là 20 % và đường kính hạt phân bố trong
khoảng từ 4 nm đến 12 nm. Trong khi đó, đối với phương pháp hoá khử kích thước
trung bình của hạt là 26 nm với tỉ lệ tạo thành là 8 % và đường kính hạt phân bố
trong phạm vi từ 5 nm đến 45 nm với tỉ lệ ít hơn [6].
Điều này đã khẳng định phương pháp ăn mòn laser chế tạo được hạt nano có
kích thước nhỏ hơn rất nhiều so với phương pháp hoá khử. Các hạt nano bạc được
sinh ra có độ phân tán cao và đặc biệt rất tinh khiết, không bị nhiễm bẩn bởi chất
khử.
43
3.2.2. Chế tạo hạt nano vàng trong trong dung dịch SDS
a) Phổ nhiễu xạ tia X của hạt nano vàng
Hình 3.7 trình bày phổ nhiễu xại tia X của hạt nano vàng chế tạo trong dung
dịch SDS 0.05M , thời gian chiếu laser là 30 phút với cường độ laser là 570mW.
VNU-HN-SIEMENS D5005 - Mau Au - PVA
04-0784 (*) - Gold, syn - Au - Y: 41.82 % - d x by: 1.000 - WL: 1.54056File: Binh-QP-Au-PVP.raw - Type: 2Th alone - Start: 10.000 ° - End: 64.990 ° - Step: 0.030 ° - Step time: 1.0 s - Temp.: 25.0 °C (Room) - Anode: Cu - Creation: 09/25/09 14:13:31
Lin
(Cps
)
0
100
200
300
400
500
600
700
800
2-Theta - Scale
20 30 40 50 60
Hình 3.7: Phổ nhiễu xạ tia X của hạt nano vàng
Từ hình 3.7, ta thấy rằng hai đỉnh của phổ nhiễu xạ tia X tại vị trí góc 2θ là
38.2◦, 44.3◦ tương ứng với các mặt tinh thể (111), (200) của mạng lập phương tâm
mặt của tinh thể vàng. Phổ nhiễu xạ tia X đã chứng tỏ các hạt nano vàng có dạng
tinh thể lập phương tâm mặt (fcc).
Hạt nano vàng được tạo ra bằng phương pháp ăn mòn laser có đỉnh phản xạ
ứng với góc 2θ = 38.20 và chỉ số mặt là (111) có cường độ mạnh nhất.
44
b) Phổ hấp thụ UV – VIS
Chúng tôi tiến hành đo phổ hấp thụ UV – VIS của 3 mẫu có cùng cường độ
chiếu laser và thời gian chiếu sáng t=30 phút nhưng có nồng độ khác nhau là
C= 0.005 M , 0.01 M và 0.05 M .
Hình 3.8: Phổ hấp thụ của các hạt nano vàng trong dung dịch SDS
nồng độ 0.05 M, 0.01 M và 0.005 M
Từ hình 3.8, ta thấy rằng đỉnh hấp thụ của các hạt nano vàng trong khoảng từ
520 -530 nm, nằm trong dải hấp thụ plasmo của các hạt nano vàng. Cường độ của dải
phổ hấp thụ cũng tăng phụ thuộc mạnh vào nồng độ dung dịch chất hoạt hoá bề mặt.
Ứng với nồng độ SDS 0.05 M có cường độ phổ hấp thụ lớn nhất. Điều đó có nghĩa là
với nồng độ này sẽ thu được nhiều hạt nhất trong số 3 mẫu đo.
Để xác định chính xác kích thước hạt cũng như sự phân bố kích thước
hạt,chúng tôi tiến hành đi đo kích thước hạt vàng trong mẫu SDS 0.05M bằng kính
hiển vi điện tử truyền qua (TEM).
45
Ảnh TEM của mẫu SDS 0.05M thu được như hình 3.9:
Hình 3.9: Ảnh TEM và phân bố kích thước hạt nano vàng trong dung dịch SDS
nồng độ C=0.05 M , thời gian t=30 phút
Từ hình 3.9, ta thấy kích hạt tập trung trong khoảng từ 2 – 5.5 nm. Kích
thước trung bình của các hạt nano trong dung dịch SDS 0.05 M là 3.80 nm, với tỉ lệ
tạo thành là 16 %. Tỉ lệ tạo thành các hạt có kích thước phân bố từ 2 - 4 nm là 48 %.
3.3 Khảo sát các thông số ảnh hưởng tới quy trình ăn mòn laser
3.3.1. Khảo sát ảnh hưởng của công suất laser
Để tránh sự ảnh hưởng của các chất hoạt hóa có trong dung môi, chúng tôi tiến
hành thay đổi công suất đối với hạt nano vàng trong nước cất. Chọn thời gian ăn
mòn không đổi 15 phút, chúng tôi khảo sát ảnh hưởng của công suất laser đối với
hạt nano vàng trong nước.
Hình 3.10 trình bày phổ hấp thụ của hạt nano vàng trong nước, t=15 phút khi
công suất thay đổi (từ 470 mW đến 700mW)
46
Hình 3.10: Phổ hấp thụ của hạt nano vàng trong nước, t=15 phút khi công
suất thay đổi (từ 470 mW đến 700mW)
Ta thấy rằng khi tăng công suất laser trung bình lên 570 mW, đỉnh hấp thụ
cộng hưởng dịch về phía sóng ngắn ở 520nm tương ứng với hạt nano có kích thước
nhỏ hơn. Tiếp tục tăng công suất nữa thì số lượng các hạt nhỏ được tạo thành tăng
lên nhiều làm cho khả năng kết tụ của các hạt tăng lên, kết quả là các hạt sẽ có kích
thước lớn hơn và đỉnh hấp thụ lại dịch về phía sóng dài hơn ứng với công suất
700mW.
Chúng ta có thể thấy mối liên hệ của các hạt nanô vàng tạo bởi sự ăn mòn laser
như một hàm công suất laser. Mối liên hệ giữa các hạt hầu như tăng tuyến tính với
các tia laser trong giai đoạn đầu, số các hạt nanô tăng lên và sau đó nhảy bậc khi số
xung laser tăng lên. Sự nhảy bậc được xem xét cho sự xuất hiện từ sự hấp thụ tia
laser tới bởi các hạt nanô vàng trên bản kim loại. Do đó, tốc độ hình thành bề ngoài
bởi sự ăn mòn laser giảm với sự tăng của nồng độ hạt trong dung dịch.
Tiến hành khảo sát sự ảnh hưởng của công suất laser đối với sự tạo thành các
hạt nano trong dung dịch hoạt hóa bề mặt, chúng tôi cũng thu được các kết quả
tương tự. Chúng tôi chọn dung dịch chất hoạt hóa bề mặt là SDS, với nồng độ
C=0.05 M, và thời gian chiếu laser là 15 phút. Tiến hành chiếu laser với các mức
47
năng lượng khác nhau là 470 mW, 570 mW và 700 mW. Phổ hấp thụ của mẫu thu
được như hình 3.9:
Hình 3.11: Phổ hấp thụ theo năng lượng của laser
Ta thấy rằng cường độ phổ hấp thụ tăng tỉ lệ với năng lượng xung laser khi
năng lượng laser tăng từ 470mW lên 570mW. Khi năng lượng laser càng lớn thì
đỉnh hấp thụ càng cao, có nghĩa là mật độ hạt sẽ càng lớn. Mặt khác độ rộng đỉnh
hấp thụ càng hẹp thì kích thước hạt càng nhỏ. Khi tăng cường độ lên 700mW, thì
đỉnh cũng dịch về phía trước sóng dài.
3.3.2. Khảo sát ảnh hưởng của thời gian chiếu laser
Phổ hấp thụ của các hạt nano vàng được chế tạo trong nước với cùng công
suất trung bình của nguồn laser là 570 mW, thời gian ăn mòn là 10 phút, 15 phút và
20 phút thu được như hình 3.12:
48
470 mW570 mW700 mW
Hình 3.12: Phổ hấp thụ của các hạt nano vàng trong nước với công suất là
570mW, thời gian thay đổi (10 phút, 15 phút, 20 phút)
Theo lý thuyết Mie, khi kích thước hạt tăng thì đỉnh của phổ hấp thụ dịch
chuyển về phía bước sóng dài. Từ đó thấy rằng trong 3 mẫu chế tạo, thời gian chiếu
15 phút có kích thước hạt nhỏ nhất. Khi thời gian ăn mòn tăng lên (từ 10 phút lên
15 phút) đỉnh hấp thụ dịch về phía sóng ngắn tức là hạt nano chế tạo được có kích
thước nhỏ hơn. Tuy nhiên, tiếp tục tăng thời gian lên thì hiện đỉnh hấp thụ lại bị
dịch về phía sóng dài.
Điều này được giải thích như sau: sự hình thành hạt nano được coi như một
hàm của khoảng thời gian ăn mòn khi sử dụng quang phổ học UV-VIS. Từ hình
3.10 thấy rằng đỉnh cường độ của dải hấp thụ plasmon bề mặt tăng nhanh theo thời
gian cho đến khi sau 15 phút chiếu sáng và sau đó tiến lên dần dần, cho thấy một sự
bão hòa. Sự suy giảm dần của nguồn 532 nm do sự tự hấp thụ là nguyên nhân gây ra
sự giảm dần trong tốc độ ăn mòn sau một khoảng thời gian nào đó. Nhưng đối với
các mẫu được chiếu sáng khoảng 20 phút hoặc lâu hơn, dải cộng hưởng plasmon trở
thành rộng và đoạn cuối dịch về phía vùng sóng dài gần đấy. Điều này có thể là do
sự kết tụ của các hạt nano và sự hình thành một lớp mỏng kim loại kết tụ trên bề
mặt của các hạt nano. Sự hấp thụ yếu này làm suy giảm dần nguồn sáng IR tới và
làm giảm tốc độ ăn mòn như một hàm của thời gian. Cùng với điều này, sự suy
49
giảm tán xạ rất lớn của nguồn sáng laser bởi dung dịch hoạt hóa bề mặt cũng là
nguyên nhân gây ra sự giảm hiệu suất ăn mòn ở các thời gian chiếu sáng dài.
*Nhận xét
Khi chiếu laser lên bề mặt miếng vàng, xuất hiện hiệu ứng nhiệt do sự hấp
thụ năng lượng photon dẫn đến sự hình thành các hạt nano. Sự hấp thụ đa photon
làm nhiệt độ tăng rất nhanh gây ra sự phá vỡ các hạt nano, làm cho kích thước của
hạt trở nên nhỏ hơn. Khi năng lượng và thời gian chiếu laser thay đổi tới mộ điều
kiện tối ưu thì kích thước của các hạt nano vàng được tạo ra rất nhỏ. Chính vì vậy,
với phương pháp ăn mòn laser chúng ta có thể điều khiển được kích thước của hạt
nano tạo thành.
3.3.3. Khảo sát ảnh hưởng của dung môi và nồng độ dung môi
Kết quả của các mẫu hạt nano vàng trong các môi trường cồn 60 0, cồn 400 và
nước được so sánh bởi các đồ thị dưới đây:
Hình 3.13: Phổ hấp thụ của hạt nano vàng trong cồn 600(1), cồn 400 (2)và
nước(3) với cùng thời gian ăn mòn là 10 phút
50
Hình 3.14: Phổ hấp thụ của hạt nano vàng trong cồn 600(1), cồn 400 (2)và
nước(3) với cùng thời gian ăn mòn là 20 phút
Từ hình 3.13 và hình 3.14 ta thấy phổ hấp thụ phụ thuộc vào nồng độ của cồn
và phổ hấp thụ của các hạt nano vàng thu được trong cồn 600 có đỉnh ở phía bước
sóng ngắn nhất hay các hạt có kích thước nhỏ nhất. Khi thời gian ăn mòn tăng lên,
đỉnh hấp thụ của các hạt nano trong nước có sự dịch chuyển về sóng ngắn nhiều
nhất (từ 534 nm đến 524 nm), còn phổ hấp thụ của các hạt nano trong cồn 600 bị
dịch không đáng kể (từ 524 nm đến 522 nm). Khi thời gian ăn mòn tăng lên ta thấy
cường độ đỉnh hấp thụ của các mẫu tăng lên nhưng ở trong nước cường độ đỉnh
tăng lên vượt trội, hay có nghĩa là số hạt nano được tạo thành tăng lên nhiều hơn.
Điều này cũng có nghĩa là các hạt nano chế tạo trong cồn có phổ ổn định hơn và
nồng độ của cồn càng cao thì sự ổn định của chúng càng lớn (kích thước hạt nano
thay đổi không đáng kể). Còn ở trong nước, do phổ hấp thụ của các hạt nano có sự
thay đổi nhiều khi thay đổi các thông số như thời gian ăn mòn, công suất trung bình
của nguồn laser nên ta có thể dễ dàng thay đổi được kích thước hạt theo ý muốn.
* giải thích:
Sự phụ thuộc của kích thước vào nồng độ dung dịch được chỉ ra bởi phổ hấp
UV-VIS: đỉnh của phổ hấp thụ có xu hướng mở rộng ra khi tăng nồng độ của dung
dịch Sự phụ thuộc của kích thước trng bình hạt nano vàng vào nồng độ được giải
51
thích thông qua cơ cấu hình thành động năng: sự hình thành nhanh chóng của một
mầm hạt và một hạt lân cận cũng phát triển cạnh tranh cùng nó và kết thúc quá trình
phát triển kích thước hạt là sự che phủ bề mặt hạt. Sau khi ăn mòn laser, một đám
dày đặc các nguyên tử vàng được tạo lên trên những vết ăn mòn laser của bản kim
loại. Các nguyên tử này bị kết tụ lại với nhau một cách nhanh chóng. Sự kết tụ
nhanh chóng ban đầu này tiếp tục cho tới khi các nguyên tử lân cận hầu như là hoàn
toàn rỗng.
Tuy nhiên trong môi trường chứa chất hoạt hóa bề mặt như hạt nano vàng
trong dung dịch PVA thì lại có sự khác biệt.
Chúng tôi tiến hành đo phổ hấp thụ UV – VIS của 3 mẫu hạt nano vàng có
cùng cường độ chiếu laser và thời gian chiếu sáng t= 15 phút nhưng có nồng độ
PVA khác nhau C=0.0015M, 0.003M và 0.01M. Các mẫu có nồng độ khác nhau rõ
rệt để thấy rõ được sự thay đổi kích thước hạt theo nồng độ.
Hình 3.15: Phổ hấp thụ của các hạt nano vàng trong dung dịch PVA nồng độ 0.01 M,
0.003 M và 0.0015 M
Khi nồng độ dung dịch tăng thì cường độ của dải phổ hấp thụ cũng tăng. Một
điểm lưu ý trong trường hợp này đó là phổ hấp thụ ứng với nồng độ 0.003M nằm ở
dưới phổ hấp thụ ứng với nồng độ 0.0015 M. Điều này chứng tỏ tại đây có một nồng
độ ngưỡng.
52
Để làm sáng tỏ điều này chúng tôi tiếp tục tiến hành khảo sát sự tạo ra các
hạt nano vàng trong dung dịch PVA ở các nồng độ khác nhau C=0.001M, 0.002M ,
0.033M và 0.01M với cùng cường độ laser và cùng thời gian chiếu sáng là 15 phút.
Hình 3.16: Phổ hấp thụ của các hạt nano vàng trong dung dịch PVA nồng độ
0.01M, 0.003 M, 0.002 M và 0.001 M
Từ sự so sánh phổ hấp thụ giữa hình 3.15 và 3.16 ta có thể xác định được
nồng độ ngưỡng của dung dịch PVA là 0.0015 M.
Trong số các mẫu chế tạo, chúng tôi chọn mẫu PVA 0.01M ứng với đỉnh hấp
thụ cao nhất để đi đo TEM. Ảnh đo TEM thu được như hình 3.17:
Hình 3.17: Ảnh TEM hạt nano vàng trong PVA 0.01M, t=15 phút
a) b)
53
Quan sát ảnh đo TEM, ta thấy các hạt vàng có kích thước nano. Hình dạng
các hạt xác định, chủ yếu là hình cầu, có sự phân biệt rõ rệt giữa các hạt.
Kích thước trung bình của các hạt nano vàng chế tạo trong dung dịch PVA
0.01M là 2.61 nm với tỉ lệ tạo thành là 26%, tỉ lệ tạo thành các hạt có kích thước
phân bố từ 1,2 - 4 nm là 62%.
Sự phụ thuộc của nồng độ vào số lượng các hạt nanô vàng có thể được phân ra
thành 3 vùng tùy theo đặc trưng của chúng: vùng nồng độ thấp, vùng nồng độ trung
bình, và vùng nồng độ cao.
Trong vùng nống độ thấp, nống độ PVA là rất nhỏ so với các hạt nanô vàng
được sinh ra được che phủ vừa vặn với các phân tử PVA. Tuy nhiên, một lượng lớn
các hạt nanô vàng được tìm thấy là lơ lửng ngay trong nước tinh khiết, độc lập với
nồng độ PVA. Đó là các hạt nanô vàng được coi là các điện tích dương, do đó các
hạt ngăn cản sự kết tụ lại bởi lực đẩy Cu-lông giữa các hạt. Các hạt nano vàng trong
trường hợp này có thể bị kết tụ khi sử dụng máy li tâm, có nghĩa là khi lực ti tâm
mạnh hơn lực tương tác Cu-lông sử dụng giữa các hạt nanô.
Trong vùng nồng độ trung bình, mối liên hệ số hạt trước khi li tâm là nhỏ yếu
hơn. Hiện tượng này được giải thích như một phương pháp mà các hạt nano vàng
tồn tại trong dung dịch có xu hướng giảm các điện tích bởi sự che phủ bề mặt của
chúng với các phân tử PVA và có xu hướng bị kết tủa.
Trong vùng nồng độ cao, mối quan hệ của các hạt nanô trong dung dịch trước
khi li tâm tăng lên với sự tăng của nồng độ PVA. Mối liên hệ của các hạt nanô sau
khi bị li tâm tăng tương tự như vậy. Các hạt nanô là tăng ổn định với sự tăng của
nồng độ dẫn tới sự che phủ lại bề mặt của chúng với dạng một lớp kép của PVA.
3.3.4. Khảo sát ảnh hưởng của thời gian lưu mẫu sau khi chế tạo
Chúng tôi đã khảo sát sự kết tụ của các hạt nano vàng trong nước và cồn theo
thời gian. Kết quả cho thấy các hạt nano vàng trong cồn bền vững hơn trong nước
và tính bền vững tăng theo nồng độ cồn. Trên hình 3.18 minh họa sự so sánh phổ
hấp thụ của các mẫu hạt nano vàng sau khi chế tạo 1 ngày và 35 ngày.
54
(a) (b)
Hình 3.18: Phổ hấp thụ của các hạt nano Au chế tạo trong cồn 600(a ) và
trong cồn 400(b) sau khi ăn mòn 1 ngày và 35 ngày.
Theo thời gian các hạt sẽ bị kết tụ, kích thước tăng, dẫn đến đỉnh phổ hấp thụ
dịch dần về bước sóng dài. Các hạt nano vàng tạo ra trong nước ban đầu có kích
thước trung bình nhỏ hơn nhưng nhanh chóng bị kết tụ hơn trong cồn. Điều này có
thể giải thích dựa vào cơ chế hình thành kích thước hạt. Các hạt nano kim loại trong
chất lỏng có tích điện bền mặt. Các phân tử môi trường có mô men lưỡng cực điện
sẽ liên kết với hạt nano tạo ra lớp điện tích kép bao quanh hạt nano ngăn chặn quá
trình kết tụ. Tốc độ lớn lên của các hạt nano phụ thuộc vào số hạt nano được tạo
thành trong giai đoạn đầu tiên và độ lớn của momen lưỡng cực phân tử môi trường
dung môi. Phân tử nước có mô men lưỡng cực điện (1.85) lớn hơn ethanol (1.69) sẽ
ngăn chặn kết tụ tốt hơn nên kích thước hạt tạo thành trong nước nhỏ hơn trong
ethanol. Tuy nhiên số lượng liên kết O-H (nguồn gốc lưỡng cực điện) trong dung
dịch ethanol lớn hơn nhiều so với nước tinh khiết nên các hạt nano vàng trong dung
dịch ethanol được giữ bền hơn trong môi trường nước.
3.4. Ứng dụng cộng hưởng plasmon để điều khiển kích thước hạt nano vàng
Một đặc điểm của phương pháp ăn mòn laser là phân bố kích thước hạt phân
tán. Để có thể thu được hạt kích thước đều hơn và kích thước trung bình nhỏ hơn
chúng tôi dùng bước sóng hoà ba bậc hai của laser Nd:YAG 532nm chiếu lại mẫu
sau khi được chiếu bằng bước sóng cơ bản 1064nm. Lý do là bước sóng 532 nm gần
với miền cộng hưởng plasmon bề mặt của hạt nano vàng có thể gây nên hiệu ứng
giảm kích thước do cảm ứng laser. Hiệu ứng cộng hưởng plasmon thể hiện rất rõ rệt
55
và hữu ích cho việc điều khiển kích thước hạt. Kết quả trình bày trên hình 3.18 là
một ví dụ minh họa
(a) (b)
Hình 3.18: Ảnh TEM và phân bố kích thước của hạt nano Au trong dung dịch cồn
600 khi chiếu bằng bước sóng 1064 nm (a) và sau (b) khi chiếu bước sóng 532 nm.
Mẫu hạt nano Au chế tạo trong cồn 60o sau chế tạo 30 ngày được chiếu bước
sóng 532nm cho ảnh TEM và phân bố kích thước hạt thay đổi rõ rệt. Các hạt Au sau
khi được chiếu sáng có kích thước trung bình giảm xuống chỉ còn 3,5nm so với cỡ
9nm trước khi chiếu sáng và được phân tán lại đều hơn trong dung dịch.
Điều này có thể được giải thích dựa trên hiện tượng cộng hưởng plasmon bề
mặt của hạt nano vàng. Ban đầu các hạt nano vàng sinh ra do ăn mòn bởi bước
sóng 532nm. Do tương tác photon - electron mạnh ở miền cộng hưởng plasmon
(gần 532nm), năng lượng photon tới được chuyển hoá hiệu quả thành nội năng hạt
nano vàng dưới dạng nhiệt. Kết quả là hạt nano vàng tạo thành bị phá vỡ thành các
hạt nhỏ hơn. Khi năng lượng và thời gian chiếu laser càng lớn thì kích thước của
các hạt nano vàng được tạo ra càng bé. Sự dịch chuyển của đỉnh phổ hấp thụ về phía
sóng ngắn cũng là một dấu hiệu cho thấy kích thước hạt nano vàng đã giảm đi theo
lý thuyết Mie. Như vậy, sử dụng bước sóng 532nm để ăn mòn vàng sẽ cho hạt nano
vàng với kích thước trung bình nhỏ hơn khoảng 4 lần so với dùng bước sóng
1064nm, đồng thời phân bố kích thước hạt ít phân tán hơn.
Nhận xét: Các điện tử tự do trong kim loại (electron nhóm d trong vàng và
bạc) chuyển động tự do bên trong kim loại đó. Quãng đường tự do trung bình là
56
~50nm. Trong các hạt có kích thước nhỏ hơn ~50nm, không có hiện tượng tán xạ
như trong vật liệu khối. Điều đó có nghĩa là tương tác với bề mặt chiếm ưu thế. Khi
bước sóng ánh sáng tới rất lớn so với kích thước hạt, các điều kiện cộng hưởng
được hình thành. Ánh sáng cộng hưởng với dao động của các plasmon bề mặt khiến
các electron tự do trong kim loại dao động. Khi sóng ánh sáng chạy qua, nó gây ra
sự phân cực mật độ electron tới một bề mặt và các electron đó dao động cộng
hưởng với tần số ánh sáng gây ra một dao động dừng. Điều kiện cộng hưởng được
xác định từ phổ hấp thụ, tán xạ và được phát hiện là phụ thuộc vào hình dạng, kích
thước và hằng số điện môi của cả kim loại lẫn môi trường xung quanh (thuyết
Gans). Hiện tượng này được gọi là cộng hưởng plasmon bề mặt (Surface Plasmon
Resonance - SPR).
Khi hình dạng hoặc kích thước của hạt thay đổi, dạng hình học bề mặt của nó
thay đổi, dẫn đến biến đổi mật độ điện trường trên bề mặt. Điều này dẫn đến tần số
dao động của electron thay đổi, tạo ra các tiết diện khác cho các tính chất quang học
bao gồm cả sự hấp thụ và tán xạ.
Tương tác giữa các hạt nano được mô tả thông qua các phương trình
Maxwell. Mie đã giải các phương trình này trong trường hợp các hạt nano dạng cầu
và công bố các kết quả ông tìm được 100 năm trước, năm 1908. Trong đó, các hệ số
tắt dần và hệ số tán xạ đối với hạt dạng cầu đồng nhất được xác định qua chuỗi
phương trình. Trong gần đúng lưỡng cực điện, đối với những hạt nano dạng cầu có
kích thước rất nhỏ so với bước sóng ánh sáng (<20nm), hệ số hấp thụ được tính theo
phương trình:
(3.2)
Với là thể tích hạt nano hình cầu , là bước sóng của ánh sáng
tới, còn và là hằng số điện môi của môi trường xung quanh
và của vật liệu. Phương trình này cho phép tính toán và vẽ được đồ thị phổ hấp thụ
và tán xạ của các hạt nano nhỏ hình cầu (r<10nm).
57
So sánh các kết quả giữa lý thuyết và thực nghiệm chúng tôi nhận thấy kích
thước các hạt nano vàng và bạc được chế tạo bằng phương pháp ăn mòn laser trong
dung dịch PVA khá phù hợp. Vẫn có sự sai lệch giữa lý thuyết và thực nghiệm là do
các hạt nano bạc và vàng tôi chế tạo được có dạng cầu hoặc phỏng cầu, còn thuyết
Mie lại áp dụng cho các hạt nano kim loại cầu.
Phương pháp ăn mòn laser có khả năng chế tạo hạt nano dễ dàng, không bị
nhiễm bẩn bởi chất khử, tuy nhiên các hạt chế tạo được có xu hướng phân bố kích
thước trong khoảng rộng vì rất khó để kiểm soát quá trình kết tụ của phân tử. Trong
luận văn này tôi đã ứng dụng cộng hưởng plasmon bề mặt để điều khiển kích thước
hạt nano vàng.
58
KẾT LUẬN
Sau thời gian thực hiện luận văn cao học tại bộ môn Quang lượng tử - Khoa
Vật lý - Trường đại học Khoa học Tự nhiên với đề tài: “Nghiên cứu phương pháp
ăn mòn lasser để chế tạo các hạt nano kim loại”, chúng tôi đã thu được một số kết
quả sau:
1. Tìm hiểu tổng quan về phương pháp chế tạo hạt nano kim loại bằng
phương pháp ăn mòn laser.
2. Nghiên cứu sử dụng laser Nd: YAG Quanta Ray 230, thiết kế thành công
hệ ăn mòn laser chế tạo các hạt nano kim loại quý. Đây là một phương pháp chế tạo
hạt nano kim loại hoàn toàn mới ở Việt Nam.
3. Đã tiến hành khảo sát được ảnh hưởng của nồng độ dung dịch chất hoạt
hoá bề mặt, công suất và thời gian chiếu laser lên sự hình thành các hạt nano kim
loại. Từ đó xác định được quy trình thích hợp để chế tạo hạt nano kim loại.
* Đối với hạt nano bạc: Khi chiếu thời gian là 40 phút và tăng nồng độ dung
dịch SCD từ 0.003M đến 0.1M, đỉnh hấp thụ plasmon của bạc dịch chuyển về phía
bước sóng dài từ 404 nm đến 425nm, tức là kích thước hạt tăng dần theo nồng độ
dung dịch (kích thước hạt trung bình khoảng 4-12nm).
* Đối với hạt nano vàng:
+ Khi thời gian chiếu laser là 30 phút và tăng công suất laser từ 350 mW đến
570 mW, đỉnh hấp thụ plasmon dịch về phía bước sóng ngắn tức là kích thước hạt
giảm. Sau đó tăng công suất laser đến 700 mW thì đỉnh hấp thụ plasmon lại dịch về
phía bước sóng dài tức là kích thước hạt tăng (kích thước hạt trung bình khoảng 2-
5.5nm)
+ Khi tăng thời gian chiếu laser từ 10 phút lên 15 phút thì đỉnh hấp thụ
plasmon dịch về phía bước sóng ngắn tức là kích thước hạt giảm. Sau đó, đỉnh hấp
thụ plasmon lại dịch về phía bước sóng dài khi tăng thời gian đến 20 phút.
59
5. Giải thích định tính hiện tượng kích thước hạt phụ thuộc vào thời gian và
năng lượng laser chiếu tới. Từ đó mở ra khả năng điều khiển kích thước hạt nano
kim loại.
Các kết quả trên đây là thành công bước đầu tạo cơ sở để tiếp tục nghiên cứu
chế tạo hạt nano kim loại trong phòng thí nghiệm. Do thời gian có hạn nên không
tránh khỏi thiếu sót, rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn.
Trong thời gian tới nếu điều kiện cho phép chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát
thiết kệ hệ quang học có độ tinh chỉnh cao để hoàn thiện hơn hệ ăn mòn laser.
Chúng tôi sẽ tiến tới tìm ra các điều kiện thích hợp nhằm điều khiển kích thước hạt
nano kim loại theo yêu cầu.
Đồng thời hướng tới nghiên cứu các ứng dụng của hạt nano kim loại đã chế
tạo được. Sử dụng phương pháp ăn mòn laser để điều khiển kích thước các hạt nano
chế tạo bằng các phương pháp khác.
60
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. http://thegioinano.com/nanoviet/content/view/1/21/
2. www.datrach.blogspot.com
3. TS Phạm Văn Bền, Bài giảng vật lý bán dẫn, bài giảng cao học chuyên
ngành quang lượng tử, ĐHKHTN-ĐHQGHN, 2006.
4. TS Phạm Văn Bền, Bài giảng quang phổ phân tử, bài giảng chuyên ngành
quang lượng tử, ĐHKHTN-ĐHQGHN, 2002.
5. Trần Tứ Hiếu, Phân tích trắc quang phổ hấp thụ UV-VIS, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội, 2003.
6. Nguyễn Hoàng Hải1, Lê Văn Vũ1, Đỗ Thị Lý2…,Chế tạo hạt nano bạc bằng
phương pháp hóa ướt và điện hóa siêu âm, Hội nghị vật lý chất rắn toàn
quốc lần thứ 5 - Vũng Tàu 12-14/11/2007.
Tiếng Anh
7. Dongjo Kim, Sunho Jeong and Jooho Moon, “Synthesis of silver
nanoparticles using the polyol process and the influence of precursor
injection”, Nanotechnology 17 (2006) 4019.
8. Steven K. Hughes, Robert C. Fry, Joseph Brady ,Laser Ablation for Direct
ICP and ICP-MS Analysis, July/August 2008.
9. S. Shin et. al., J. Colloid. Interface Sci. 274 (2004) 89.
10. http://elegans.swmed.edu/Worm_labs/Avery/Laser/optics.html
11. http://www.chm.bris.ac.uk/pt/diamond/pld.htm
12. Fumitaka Mafune, Jun-ya Kohno, Yoshihiro Takeda, Tamotsu Kondow,
Structure and Stability of Silver Nanoparticles in Aqueous Solution
Produced by Laser Ablation, J. Phys. Chem. B 35 (2000) 8333-8338.
61
13. Catalog - Laser Nd:YAG Quanta - Ray PRO - 230 - Nhà sản xuất Spectra-
Physics (USA)
14. http://en.wikipedia.org/wiki/Transmission_electron_microscopy
15. http://rbs.infor.inh.gov/ij/java1.5.0_09
16. Daniel L. Feldheim, Colby A. Foss, Jr, Metal nanoparticles, NXB The
United States Of America, 2002.
17. Istruction manual UV-2450 Series User’s System Guide Shimadzu
Corporation.
18. Istruction manual UV-2450 Series User’s Operation Guide Shimadzu
Corporation.
19. J. P. Abid, A. W. Wark, P. F. Brevetb and H. H. Giraulta, Preparation of
silver nanoparticles in solution from a silver salt by laser irradiation, J.
Phys. Chem. B 33 (2002) 792–793.
20. Meenal Kowshik, Shriwas Ashtaputre, Sharmin Kharrazi, WVogel, J
Urban,SKKulkarni, K M Paknikar, Extracellular synthesis of silver
nanoparticles by a silver-tolerant yeaststrain MKY3, Nanotechnology 14
(2003) 95–100.
21. P.K. Khanna, Trupti S. Kale, Mushtaq Shaikh, N. Koteswar Rao, C.V.V.
Satyanarayan, Synthesis of oleic acid capped copper nano-particles via
reduction of copper salt by SFS, Nanoscience Group, Centre for Materials
for Electronics Technology, 2 January 2008.
22. Manabendra Chandra, Puspendu K. Das, First hyperpolarizabilities of
unprotected and polymer protected copper nanoparticles prepared by laser
ablation, 2006.
23. P.K. Khanna, S. Gaikwad, P.V. Adhyapak, N. Singh, R. Marimuthu,
Synthesis and characterization of copper nanoparticles, 6 March 2007
62