105
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH VƯƠNG THỊ THANH HIỀN Chuyên ngành : Lí luận văn học Mã số : 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐOÀN TRỌNG THIỀU Thành phố Hồ Chí Minh - 2010

Chuyên ngành : Lí luận văn học Mã số : 60 22 32vannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/12/Ảnh-hưởng-của-văn-hóa...Văn hóa tồn tại song song với con người

  • Upload
    others

  • View
    18

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH

VƯƠNG THỊ THANH HIỀN

Chuyên ngành : Lí luận văn học

Mã số : 60 22 32

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. ĐOÀN TRỌNG THIỀU

Thành phố Hồ Chí Minh - 2010

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới TS. Đoàn Trọng Thiều, người đã

tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành luận

văn này.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong tổ Lí luận văn

học, ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, phòng Quản lí sau đại học, ban quản lí Thư viện –

trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi

học tập và nghiên cứu.

Tôi cũng xin được gửi lời cám ơn sâu sắc tới Ban giám hiệu Trường Trung học phổ

thông Dĩ An – Bình Dương, tới gia đình và những người bạn thân thiết đã khuyến

khích, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt khoá học cũng như

trong quá trình thực hiện luận văn.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 12 năm 2010.

Học viên

Vương Thị Thanh Hiền

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Văn hóa tồn tại song song với con người. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và

tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Là một bộ phận không thể tách rời

của văn hóa, văn học là một hình thái đặc biệt, thuộc về văn hóa tinh thần. Vì vậy, việc vận

dụng các quan điểm và thành tựu của văn hóa để nghiên cứu, lí giải văn học là một hướng tiếp

cận được vận dụng khá phổ biến hiện nay.

Nguyễn Huy Thiệp là một trong những tác giả xuất sắc, tiêu biểu của cao trào đổi mới văn

học Việt Nam từ sau năm 1986. Ông viết ở nhiều lĩnh vực như kịch, tiểu thuyết, phê bình văn

học, tiểu luận,... nhưng nhắc đến Nguyễn Huy Thiệp, trước hết phải với tư cách là một cây bút

viết truyện ngắn rất thành công. Ngay từ khi vừa xuất hiện trên văn đàn, Nguyễn Huy Thiệp đã

trở thành một “hiện tượng” văn học, có khả năng khuấy động đời sống văn học vốn đang khá

yên ắng ở nước ta sau năm 1975. Không những thế, văn của Nguyễn Huy Thiệp như có “ma

lực” thu hút rất nhiều độc giả với những ý kiến đánh giá, phê bình rất khác nhau, có ý kiến ca

ngợi nức lời nhưng cũng có không ít ý kiến bài bác thẳng thừng. Tuy nhiên, sau hơn hai mươi

năm kể từ ngày ra mắt độc giả, Nguyễn Huy Thiệp đã dần khẳng định được vị trí của mình trên

văn đàn. Những ý kiến đánh giá về truyện ngắn của ông đã phần nào ổn định. Quả thật, Nguyễn

Huy Thiệp đang có một vị trí vinh dự trong dòng chảy cuồn cuộn không ngừng của biển cả văn

học Việt Nam.

Đến nay đã có khá nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Huy

Thiệp. Trong quá trình thu thập và tìm hiểu một số tài liệu ấy, chúng tôi nhận thấy đa phần các

ý kiến tập trung đánh giá, khẳng định những đóng góp mới mẻ của ông trên phương diện nội

dung tư tưởng và hình thức biểu hiện trong tác phẩm. Tuy nhiên theo chúng tôi, một trong

những đặc điểm tạo nên sức hấp dẫn thẩm mĩ cho văn Nguyễn Huy Thiệp chính là yếu tố văn

hóa dân gian trong truyện ngắn của ông. Qua tìm hiểu bước đầu, chúng tôi thấy đặc điểm này

cũng đã có những bài viết đề cập đến song mới chỉ trong những hiện tượng đơn lẻ, chưa thành

một hệ thống trọn vẹn.

Đó cũng là lí do thôi thúc chúng tôi chọn đề tài: Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với

truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này.

2. Lịch sử vấn đề

Đầu năm 1987, tập truyện ngắn đầu tay Những truyện kể bất tận của thung lũng Hua

Tát của Nguyễn Huy Thiệp được khởi đăng trên báo Văn nghệ, nhưng chưa tạo được tiếng

vang. Phải đến tháng 6 năm ấy, với sự xuất hiện của truyện ngắn Tướng về hưu, dư luận mới

bắt đầu có những đánh giá luận bàn sôi nổi. Đặc biệt không lâu sau đó, bộ ba truyện ngắn “lịch

sử giả” (chữ dùng của Đặng Anh Đào): Kiếm sắc – Vàng lửa – Phẩm tiết ra mắt độc giả đã

thực sự tạo nên bầu không khí phê bình tranh luận văn học với nhiều ý kiến đối lập gay gắt, cực

đoan hơn cả so các cuộc tranh luận văn học từ sau năm 1975. Nhà phê bình Phạm Xuân

Nguyên quả quyết: “Tôi dám chắc chưa có nhà văn nào vừa xuất hiện đã gây được dư luận,

càng viết dư luận càng mạnh” khiến cho “văn đàn đổi mới đã khởi sắc, bỗng khởi sắc hẳn”

[59, tr.6] như Nguyễn Huy Thiệp. Trong những cuộc tranh luận văn học ấy, người khen nhiều

mà người chê cũng không ít. Nhìn chung các ý kiến tạo nên hai xu hướng chính: khẳng định và

phủ định, trong đó xu hướng khẳng định giữ vai trò chủ đạo. Các bài viết này được giới thiệu

trên các tạp chí nghiên cứu văn học khoảng những năm cuối thập niên 80 của thế kỉ trước, hiện

nay đã được nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên sưu tầm khá đầy đủ trong cuốn Đi tìm

Nguyễn Huy Thiệp, và một số bài viết được đăng tải trên các trang mạng Internet khoảng mười

năm trở lại đây.

Xoay quanh vấn đề về Nguyễn Huy Thiệp và các sáng tác của ông, chủ yếu tập trung ở

mảng truyện ngắn, đến nay đã có nhiều bài nghiên cứu phê bình của các tác giả như: Hoàng

Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân, Đặng Anh Đào, Lê Đình Kỵ, Philimonova, Phạm Xuân Nguyên,

Nguyễn Đăng Điệp,…Mỗi bài viết là một cách nhìn, một quan điểm, một suy nghĩ và một cảm

nhận riêng. Trong giới hạn nhất định, người viết tập trung vào các ý kiến nổi bật trong bài viết có

liên quan đến mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài đã chọn.

Trước hết, tiêu biểu cho những nhận xét cho rằng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có sự

ảnh hưởng sâu sắc, đậm đà các yếu tố văn hóa dân gian, đặc biệt là từ cảm hứng huyền thoại,

truyền thuyết là ý kiến đánh giá của nhà nghiên cứu văn học Philimonova. Nhà nghiên cứu

người Nga này rất hứng thú khi nghiên cứu chất dân gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy

Thiệp. Trong bài viết “Những ngọn gió Hua Tát” của Nguyễn Huy Thiệp như hình mẫu của

các truyền thuyết văn học, Philimonova đã có những nhận xét mang ý nghĩa khái quát: “Yếu tố

dân gian chiếm một vị trí to lớn trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp […]. Ngay lần đọc đầu

tiên các tác phẩm của anh, đó thường là truyện ngắn, có một điểm khiến chúng ta chú ý ngay là

việc anh rất hay sử dụng các tư liệu dân gian. Hầu như trong mỗi truyện ngắn của anh đều

hiện diện vết tích của các huyền thoại, truyền thuyết, dân ca, tục ngữ” [59, tr.59]. Do đó có thể

nói rằng: “Yếu tố dân gian trong các tác phẩm của anh là một đề tài độc lập rộng lớn” [59,

tr.59-60]. Tuy nhiên trong bài viết này, Philimonova chỉ mới tập trung nghiên cứu sự ảnh

hưởng của truyền thuyết trong chùm truyện Những ngọn gió Hua Tát. Tác giả cho rằng những

câu chuyện nhỏ trong Những ngọn gió Hua Tát là những “truyền thuyết văn học; một mặt,

chúng lưu giữ được những đặc điểm thể loại của các truyền thuyết dân gian, mặt khác, chúng

có sự xử lí văn học rõ ràng của tác giả” [59, tr.61].

Trong bài viết Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp, nhà phê bình Nguyễn Đăng

Điệp nhận xét: Nguyễn Huy Thiệp đã “vận dụng rất khéo các yếu tố folklore vào văn học”. Tác

giả bài viết nhận thấy rằng để phản ánh chiều sâu của hiện thực, Nguyễn Huy Thiệp “luôn luôn

lật ngược vấn đề, thoát ra ngoài những chuẩn mực thông thường và xác định giá trị nhân thế

bằng những tưởng tượng phong phú ken dày các huyền thoại, các biểu tượng, các yếu tố dân

gian” [20].

Cùng với các ý kiến trên, Văn Tâm cũng đưa ra nhận định rằng một trong những nét

phong cách đặc thù nhất của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là cảm hứng huyền thoại mạnh:

“sương mù huyền thoại bao phủ hầu hết những trang sách Nguyễn Huy Thiệp, không những

bao phủ dày đặc trong hai loại truyện huyền thoại (Con gái thủy thần) và cổ tích (Những

ngọn gió Hua Tát) mà còn bập bềnh mờ mịt giữa khá nhiều dòng truyện lịch sử (Kiếm sắc,

Phẩm tiết) và thế sự (Chảy đi sông ơi)” [59, tr.288].

Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào cũng khẳng định cảm hứng huyền thoại thể hiện rõ trong

truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đặc biệt là khi nhà văn này xây dựng các nhân vật ngốc

nghếch, mồ côi,…rất gần với nhân vật trong cổ tích và “đó là điểm gần gụi của truyện Nguyễn

Huy Thiệp với cổ tích và một số truyện phổ cập ở dân gian” [59, tr.389]. Cảm hứng ấy một

phần “nằm trong dòng chảy ngầm của tinh thần phạm thượng bắt nguồn từ dân gian. Những kẻ

dị dạng này nhiều khi làm nên điểm sáng nhân hậu, trí tuệ anh minh của câu chuyện” [59,

tr.391]. Song bên cạnh đó, tác giả bài viết Biển không có thủy thần lại thừa nhận ở các nhân

vật kể trên luôn ẩn chứa một “nghịch lí phản cổ tích” [59, tr.390], đó là điểm sáng tạo mới mẻ

trong nhiều thiên truyện của Nguyễn Huy Thiệp.

Cùng với quan điểm của Đặng Anh Đào, trong bài viết Ảnh hưởng thần thoại và cổ tích

trong cách xây dựng nhân vật văn xuôi hôm nay, Bùi Thanh Truyền nêu vấn đề: “Xây dựng

nhân vật thần thoại, cổ tích, hầu hết các cây bút văn xuôi hôm nay đều lồng vào đó thế giới

quan mới mẻ, cái nhìn ‘lạ hóa” của người hiện đai. Vì thế có thể xem đây là những truyện cổ

tích, thần thoại đời mới” [104, tr.45]. Để làm rõ nhận định, tác giả bài viết đã đi sâu tìm hiểu

nhân vật Trương Chi trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp. Từ đó, Bùi Thanh

Truyền khẳng định: lấy cảm hứng từ nhân vật trong cổ tích dân gian nhưng Nguyễn Huy Thiệp

không có cái nhìn nhất phiến về giai thoại cổ. Cho nên “nếu bi kịch của Trương Chi “bốn ngàn

năm trước” là bi kịch tình yêu xuất phát từ sự mâu thuẫn giữa tài năng thiên phú và nhân diện

xấu xí thì bi kịch của chàng Trương bốn ngàn năm sau chủ yếu là xung đột giữa hoàn cảnh xã

hội và thân phận con sâu cái kiến của kiếp người” [104, tr.46].

Bài viết Đối thoại với văn học dân gian và bản lĩnh của người viết của Lê Đình Kỵ

cũng đi sâu vào nghiên cứu sự sáng tạo trên cơ sở kế thừa tiếp nối truyện cổ dân gian trong

sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhất là về phương diện xây dựng nhân vật. Trong truyện

Trương Chi, Lê Đình Kỵ đánh giá Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp “không còn là một

Trương Chi cam chịu, âm thầm nhận lấy số phận của mình” [44, tr.30]. Mặc dầu vậy: “Dù là

Trương Chi truyền thống hay Trương Chi “hiện đại” thì đó cũng đều là lời nhắn gởi, là tiếng

kêu khắc khoải sao cho nghệ thuật, cho tiếng hát và tình yêu không bị cách lìa, mà được hòa

giải, hòa diệu vào nhau” [44, tr.31].

Bàn về thế giới nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhiều nhà nghiên

cứu nhận thấy những nhân vật này thường toát lên vẻ đẹp trong trẻo, hồn hậu, mang vẻ đẹp mẫu

tính vốn có của người phụ nữ Việt Nam. Nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến tỏ ra là người có

những phát hiện trước nhất và mới mẻ hơn cả. Trong bài viết Tôi không chúc bạn thuận buồm

xuôi gió, Hoàng Ngọc Hiến nhận xét: “Những người đàn ông trong tập truyện của Nguyễn Huy

Thiệp hầu hết là đốn mạt, chí ít là những kẻ bất đắc chí, vô tích sự, nói chung là không ra gì.

Ngược lại, trong các nhân vật nữ có những con người ưu tú, nhiều người đáng gọi là liệt nữ.

Nó là sự hiện thân của nguyên tắc tư tưởng tạo ra cảm hứng chủ đạo của tác giả, có thể gọi đó

là nguyên tắc tính nữ hay thiên tính nữ” [59, tr.15-16]. Theo nhà nghiên cứu này thì “thiên tính

nữ” trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “trước hết là tinh thần của cái đẹp và tất

cả những nhân vật này đều đẹp, mỗi người một vẻ” [59, tr.16], không chỉ thế nó còn là “tinh

thần vị tha và đức tính hi sinh” [59, tr.17]. Vẻ đẹp ấy tỏa ra ánh sáng dịu dàng, huyền diệu,

lung linh trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Thiên tính nữ là điểm tựa quan trọng của tác

giả. Thiếu nó, văn ông sẽ mất đi chiều sâu và chất trữ tình.

Cũng cùng với quan điểm trên là ý kiến đánh giá sắc sảo của nhà nghiên cứu Văn Tâm:

Nguyễn Huy Thiệp viết nhiều về cái xấu xa, cái ác nhưng “cảm hứng tích cực, tinh thần nhân

bản… cũng bất giác được mã hóa qua một hiện tượng nổi bật: tuyệt đại đa số những nhân vật

nữ đều có phẩm chất ưu mĩ tuyệt vời” [59, tr.301–302). Qủa thực, trong truyện của Nguyễn

Huy Thiệp, nhà văn luôn dành giọng điệu ngợi ca vẻ đẹp nữ tính của những nhân vật nữ.

Những nhận xét, đánh giá trên phần nào đã cho ta thấy các nhà nghiên cứu có những phát

hiện, khẳng định yếu tố trọng âm, trọng nữ trong tín ngưỡng của người Việt trong nghệ thuật

xây dựng nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Tuy nhiên, các đánh giá này chỉ

nêu vấn đề có tính chất gợi mở chứ chưa minh định cụ thể trên cả bề rộng lẫn bề sâu.

Bàn về chất thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp, trong bài viết có nhan đề Thơ trong văn

Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu Philimonova cho rằng một trong những đặc điểm nổi bật

của văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp là việc thường xuyên sử dụng thơ. Đặc biệt hơn hết là trong

truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thường xuất hiện các đoạn kể bằng văn vần là các bài ca

dao, đồng dao xen kẽ lời kể bằng văn xuôi. Philimonova lí giải sở dĩ có hiện tượng này là do

Nguyễn Huy Thiệp “chịu ảnh hưởng văn xuôi cổ điển vùng Viễn Đông” và việc vận dụng thủ

pháp cũ này khiến văn ông trở nên “rất đặc biệt, rất dễ nhận ra” [59, tr.168]. Nguyễn Vy

Khanh cũng có cùng ý kiến trên khi cho rằng: “Nhờ thể huyền thoại, Nguyễn Huy Thiệp có

những đoạn truyện như là thơ, một thứ thơ dân gian, xa chốn văn minh giả tạo và dối trá” [59,

tr. 380].

Bùi Việt Thắng nhận xét: “Nguyễn Huy Thiệp đã đưa vào truyện ngắn các hình thức

khác như đồng dao (Huyền thoại phố phường), hát dỗ em (Những người thợ xẻ), thơ dịch

(Nguyễn Thị Lộ), thơ trữ tình (Những bài học nông thôn), chuyện thơ (Thương nhớ đồng quê)”.

Từ đó, nhà nghiên cứu cho rằng: “việc đưa thơ vào truyện ngắn làm cho “sự kể chuyện” thêm

linh hoạt, phong phú” [75, tr.386] này vốn đã có truyền thống trong văn học. Thành công của

nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là sự vận dụng, kế thừa văn học truyền thống, từ đó có những cách

tân, sáng tạo nhưng vẫn không xa rời với truyền thống.

Về nét mới trong cách dựng truyện, nhà thơ Diệp Minh Tuyền đánh giá: Nguyễn Huy

Thiệp đã “kết hợp giữa hiện thực và huyền thoại” […]. Rõ ràng ở đây ta thấy dấu ấn của văn

học hiện đại châu Mỹ la – tinh. Nhưng sự tiếp thu này ở Nguyễn Huy Thiệp không sống sượng

bởi nhờ trước đó anh đã vốn có lối tư duy huyền thoại thuần thục biểu hiện trong chùm truyện

Những ngọn gió Hua Tát”, [59, tr.399]. Chính sự kết hợp này đã khiến cho văn ông vừa mới

mẻ, hiện đại lại vừa gần gũi bởi chúng được bắt nguồn từ bề sâu truyền thống thẩm mĩ của

người đọc Việt Nam.

Về cách kể chuyện của Nguyễn Huy Thiệp, Đoàn Hương ví von ông là “Người kể

chuyện cổ tích hiện đại”. Đoàn Hương nhận định truyện của Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn độc

giả chính là ở “cái cách kể chuyện đơn giản bằng chính ngôn ngữ của nhân dân là một thi pháp

đã có từ trong truyền thống như đã từng có trong truyện cổ tích Việt Nam” [33, tr.621].

Cũng theo nhà nghiên cứu Đoàn Hương, dấu ấn của truyện cổ dân gian trong sáng tác

của Nguyễn Huy Thiệp còn biểu hiện rõ qua cách thức mở đầu và kết thúc truyện. Đoàn Hương

nhận thấy rằng nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “vốn ưa cấu trúc một cốt truyện đơn giản như

chẳng có gì”. Bởi thế mà truyện của ông có những “cái kết thúc đẹp đẽ mang tính biểu tượng

của một kết thúc có hậu của truyện cổ tích” [33, tr.622].

Còn theo Nguyễn Vy Khanh thì chính bởi một số truyện của Nguyễn Huy Thiệp sáng tạo

từ thể huyền thoại dân gian nên nhà văn hay “úp mở, gợi tưởng tượng. Hay không thật sự kết

thúc, vì không có kết; hay kết cũng huyền hoặc như dẫn đưa của đầu và thân truyện” [59,

tr.386]. Từ đó, tác giả đi đến nhận xét truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thường có những đoạn

kết rất đặc biệt, tạo được sự hấp dẫn riêng.

Bằng nhãn quan tinh tế và tấm lòng trân trọng, thấu hiểu tài năng của Nguyễn Huy

Thiệp, Hoàng Ngọc Hiến đã có nhận xét rất sâu sắc: “Dẫu kể chuyện cổ tích, Nguyễn Huy

Thiệp trước sau viết về cuộc sống ngày hôm nay. Và tác giả đã nhìn thẳng vào sự thật của đời

sống thực tại. Tác giả đã không ngần ngại nêu lên những sự bê tha, nhếch nhác trong cuộc

sống, kể cả những sự thật rùng rợn, khủng khiếp” [59, tr.9-10].

Đoàn Hương cũng cho rằng một số truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có thể gọi truyện cổ

tích hiện đại vì cái chất “hiện đại” của nó. Nhưng, nhà nghiên cứu này khẳng định: “nó vẫn là

cổ tích vì cái đẹp nhân bản của nó” [33, tr.626].

Nhà nghiên cứu văn học người Úc, Greg Lockhart, lí giải lí do vì sao ông đã chọn dịch

tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp sang tiếng Anh. Ông ca ngợi: tác phẩm của Nguyễn Huy

Thiệp là “một đóng góp quan trọng cho văn học Việt Nam” và cũng là “đóng góp cho văn học

thế giới hiện đại” vì tính chất nhân bản mà nhà văn nêu lên trong truyện là vấn đề lớn mang tầm

nhân loại [59, tr.110-111].

Mở rộng hơn, một số nhà nghiên cứu còn nhận thấy dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại

trong những tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả La Khắc Hòa khẳng định rằng

có thể tìm thấy trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp những câu chuyện thể hiện tâm trạng và

cảm quan hậu hiện đại. Xuyên suốt toàn bộ sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là “câu chuyện về

một thế giới vô nghĩa, vô hồn”. Đọc truyện ngắn của ông, ta thấy “có những dấu hiệu về một

cuộc chia tay với nguyên tắc dụ ngôn cùng với những vị ngữ bất biến, quen thuộc của nó […].

Khi sự hồ nghi tồn tại đã thấm sâu vào cảm quan nghệ thuật, chắc chắn nhà văn sẽ tìm đến

nguyên tắc lạ hoá làm nền tảng cấu trúc hình tượng”. Tuy nhiên, dù đổi mới sáng tạo đến đâu

đi nữa thì “loại hình tư duy ấy gắn với những nguyên tắc kiến tạo hình tượng, tổ chức văn bản

của đồng dao, câu đố có nguồn cội từ thời tiền văn học, trong sáng tác dân gian” [29]. Thêm

vào đó, La Khắc Hòa còn nhận xét rất xác đáng rằng sự xuất hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại

trong văn học Việt Nam nói chung, trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp nói riêng “chắc chắn

không phải là hiện tượng vay mượn, ngoại nhập”, mà do những điều kiện lịch sử, xã hội trong

vòng 30 năm nay đã làm nảy sinh tâm trạng, cảm quan và loại hình văn hoá hậu hiện đại trong

văn học Việt Nam.

Như vậy, theo các nhà nghiên cứu, mặc dù là nhà văn luôn có những cách tân táo bạo

trong nghệ thuật xây dựng truyện ngắn trong giai đoạn văn học thời Đổi mới, nhưng sáng tác

của Nguyễn Huy Thiệp vẫn bắt nguồn từ truyền thống văn hóa - văn học dân gian đa dạng và

phong phú của dân tộc.

Tóm lại, từ trước đến nay, vấn đề về: Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và yếu tố văn hóa

dân gian trong truyện ngắn của nhà văn vẫn luôn là vấn đề lý thú, không ngừng thu hút được

sự quan tâm, tìm hiểu của đông đảo học giả, các nhà nghiên cứu, các giới phê bình văn học, độc

giả trong và ngoài nước. Các bài nghiên cứu, phê bình mà chúng tôi có điều kiện tìm hiểu ở trên

phần nào đã phân tích, đánh giá, khẳng định sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong truyện

ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và có tính chất gợi mở cho người viết tìm hiểu sâu hơn về

vấn đề này. Tuy nhiên, do tính chất về đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu khác nhau

nên sự quan tâm ở những bài viết trên mới chỉ dừng lại ở đôi lời nhận xét, nhận định khái quát;

hoặc thu hẹp khi khảo sát trong một vài tác phẩm cụ thể hoặc khái quát khi tiến hành khảo sát

trên toàn bộ sáng tác của nhà văn dưới góc nhìn phong cách học. Vì thế như một lẽ tất yếu, các

bài viết chưa có điều kiện tập trung một cách sâu sắc và toàn diện về sự ảnh hưởng của văn hóa

dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Qua luận văn này, người viết sẽ cố gắng đưa

đến một cách hiểu, một cách nhìn nhận, đánh giá mang tính hệ thống và đầy đủ hơn về sự ảnh

hưởng này trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.

3. Phạm vi nghiên cứu

Giới hạn ở đề tài nghiên cứu, luận văn sẽ tiến hành khảo sát, nghiên cứu toàn bộ truyện

ngắn Nguyễn Huy Thiệp, bao gồm 42 truyện. Người viết sử dụng văn bản sau để tiến hành

nghiên cứu:

Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Đỗ Hồng Hạnh tuyển chọn và hiệu

đính, Nxb Văn hoá Sài Gòn.

Về ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có nhiều vấn

đề cần nghiên cứu. Tuy nhiên trong phạm vi điều kiện cho phép, luận văn chỉ đi vào khảo sát,

phân tích, nhận định một số yếu tố của văn hóa dân gian như văn học dân gian, tín ngưỡng dân

gian, ngôn ngữ dân gian ảnh hưởng đến việc xây dựng cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ, giọng

điệu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

Người viết rất hi vọng kết quả mà luận văn gặt hái được có thể là những đóng góp hữu ích

như sau:

- Góp phần khảo sát và lí giải một cách có hệ thống, khách quan, mới mẻ về sự ảnh hưởng

của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Qua đó góp phần khẳng định

cách tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa dân gian là một trong những hướng nghiên cứu cần

thiết trong nghiên cứu văn học hiện nay.

- Luận văn này cũng có thể dùng làm tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về

tác giả Nguyễn Huy Thiệp nói riêng, và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để triển khai đề tài Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy

Thiệp, chúng tôi đã vận dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:

5.1. Phương pháp văn hóa học:

Người viết sử dụng phương pháp này khi nghiên cứu luận văn nhằm vận dụng các quan

điểm và thành tựu văn hóa nói chung, đặc biệt là văn hóa dân gian để tìm hiểu, lí giải truyện

ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên một số phương diện như cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng

điệu.

5.2. Phương pháp hệ thống:

Người viết sử dụng phương pháp này nhằm xem xét các yếu tố văn hóa dân gian biểu

hiện qua nội dung và nghệ thuật làm nên diện mạo chung cho truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

trên tinh thần hệ thống. Từ đó phân tích sự kế thừa, sáng tạo các yếu tố ấy tạo nên sức hấp dẫn

thẩm mĩ trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.

5.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp:

Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết tiếp cận và khảo sát trực tiếp văn bản, từ

đó phân tích để đưa ra những luận điểm tổng hợp, khái quát của luận văn về sự ảnh hưởng của

văn hóa dân gian trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp trên các phương diện như cốt

truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu.

Những phương pháp nghiên cứu này sẽ được người viết vận dụng một cách linh hoạt

trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra, để có cái nhìn toàn diện, khách quan khi đánh giá vấn đề,

người viết còn sử dụng phối hợp các phương pháp khác như: phương pháp so sánh, đối chiếu,

phương pháp thống kê,…với chừng mực nhất định mà mục đích cuối cùng là làm rõ sự ảnh

hưởng của văn hóa dân gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.

6. Cấu trúc luận văn

Luận văn bao gồm 138 trang. Ngoài phần Mở đầu (12 trang), phần Kết luận (4 trang),

phần Nội dung của luận văn (122 trang) được tổ chức thành ba chương:

Chương 1: Những tiền đề lí luận và thực tiễn

Chương 2: Cốt truyện và nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.

Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.

Chương 1

NHỮNG TIỀN ĐỀ LÍ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết

Trước khi đi sâu tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết làm tiền

đề lí luận cho việc nghiên cứu đề tài của luận văn, chúng ta cần tìm hiểu hai khái niệm văn hóa

và văn hóa dân gian .

1.1.1. Khái niệm văn hóa

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sự kết tinh những quan hệ tốt đẹp nhất giữa

người với người, với xã hội và với tự nhiên. Văn hóa là cái phân biệt con người với động vật, là

đặc trưng của xã hội loài người nhưng không phải do sự kế thừa về mặt sinh học mà có được

nhờ học tập, tích lũy. Nói một cách dễ hiểu nhất: văn hóa là tất cả những gì do con người sáng

tạo ra (khu biệt với cái tự nhiên) trong quá trình ứng xử với tự nhiên và xã hội.

Thuật ngữ văn hóa xuất hiện từ rất sớm. Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, theo nhà

nghiên cứu Trần Quốc Vượng: ở phương Đông, từ văn hóa đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất

sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và hóa: Xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa

thiên hạ (Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ). Người sử dụng từ văn hóa sớm nhất có lẽ là

Lưu Hướng (năm 77-6 TCN) với nghĩa như một phương thức giáo hóa con người “văn trị giáo

hóa” [107, tr.17-18]. 6

Ở phương Tây, vào thế kỉ thứ III – TCN, người La Mã được ghi nhận là người đầu tiên

nói đến thuật ngữ văn hóa. Họ dùng từ “cultura” đồng nghĩa với “văn chương” hay “nhân văn”.

Người La Mã sử dụng từ cultura và cultus để chỉ việc gieo trồng, animi cultura hoặc cultus

nghĩa là gieo trồng tinh thần. Trên cơ sở đó, nhà hùng biện lỗi lạc người La Mã, Siserô Markơt

Tuliut (106-43 TCN) đã định nghĩa “Triết học là sự gieo trồng tinh thần”. Vậy theo người La

Mã, cultus là văn hóa với hai khía cạnh: trồng trọt, thích ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và

giáo dục, đào tạo một cá thể hay cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên, có phẩm chất

tốt đẹp.

Ở Việt Nam, từ văn hóa được hiểu: văn là tốt đẹp, hóa là biến cải. Văn hóa là biến cải để

trở thành tốt đẹp. Văn hóa thường được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức, lối sống;

theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn; còn theo nghĩa rộng thì văn

hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập

quán,…

Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo ra, có từ thuở bình minh của xã hội loài

người nhưng phải đến những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, việc nghiên cứu về văn hóa

mới được tiến hành một cách nghiêm túc và nhanh chóng thu hút sự quan tâm của các nhà

nghiên cứu. Từ năm 1952, hai nhà văn hóa học Hoa Kì là A. Kroeber và C. Kluckholn đã thống

kê được 150 định nghĩa, khái niệm khác nhau về văn hóa. Con số đó hiện nay đã tăng lên

khoảng trên 300 định nghĩa [105, tr.11]. Qua đó, ta thấy quan niệm thế nào là văn hóa không

phải là một vấn đề đơn giản và có thể giải quyết một cách rốt ráo.

Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm văn hóa, do đó có nhiều định nghĩa khác

nhau về văn hóa. Liên quan đến phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi chỉ có điều kiện

nêu ra một số định nghĩa sau:

- Nhà nhân học văn hóa người Anh E. B. Taylor (1832-1917) là người đầu tiên đưa ra

một quan niệm khá hoàn chỉnh về văn hóa. Trong công trình Primitive culture (Văn hóa

nguyên thủy), ông viết: văn hóa là “một tổng thể phức hợp bao gồm kiến thức, tín ngưỡng,

nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục, và tất cả những khả năng và thói quen mà con người

đạt được với tư cách là một thành viên trong xã hội” [9, tr.251].

- Trần Quốc Vượng quan niệm: “Văn hóa…là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người

[…] để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con người đối

với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là cái vai trò của con người trong vũ trụ đó, với hệ thống

những chuẩn mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm…tạo nên phong cách

diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người” [107, tr.35-36]

- Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và

tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương

tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [85, tr. 25].

- Cũng cùng với ý kiến trên của Trần Ngọc Thêm, nhưng Phùng Qúi Nhâm chú ý nhấn

mạnh thêm tính dân tộc của văn hóa: “Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần

do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử và mang đậm bản sắc dân tộc” [65, tr. 249].

Trong quá trình tìm hiểu các khái niệm về văn hóa, chúng tôi nhận thấy quan niệm chính

thức về văn hóa của Liên hợp quốc (Unesco) đưa ra từ năm 1982, trong Hội nghị quốc tế do

Unesco chủ trì diễn ra tại Mexico, là khá bao quát: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể

những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã

hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những

lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và

những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét bản thân. Chính văn hóa

làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn

thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự

biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân,

tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên

bản thân” [107, tr.23-24). Từ quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu văn hóa không phải là lĩnh

vực riêng biệt. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo

ra. Văn hóa chính là nền tảng cho sự phát triển của xã hội loài người.

Văn hóa là hiện tượng bao trùm mọi phương diện của đời sống con người, vì thế bất kì

khái niệm nào cũng không thể bao quát đầy đủ nội dung của nó. Cũng bởi vậy mà số lượng các

khái niệm về văn hóa mỗi ngày một nhiều song vẫn chưa phải là đáp án cuối cùng. Mỗi khái

niệm chỉ có thể thâu tóm một vài phương diện nào đó của văn hóa. Sự phong phú của các khái

niệm về văn hóa phản ánh những hướng quan tâm khác nhau. Vì vậy, theo nhà nghiên cứu Chu

Xuân Diên, từ nhiều khái niệm khác nhau có thể nêu lên bốn nét nghĩa chủ yếu, cơ bản sau:

“* Văn hóa là một hoạt động sáng tạo chỉ riêng con người mới có.

* Hoạt động sáng tạo đó bao trùm lên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống con người:

đời sống vật chất, đời sống xã hội, đời sống tinh thần.

* Thành tựu của những hoạt động sáng tạo ấy là các giá trị văn hóa; các giá trị văn hóa

được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng con đường giáo dục.

* Văn hóa mỗi cộng đồng người có những đặc tính riêng hình thành trong lịch sử, phân

biệt cộng đồng người này với cộng đồng người khác” [9, tr.252].

Trong phạm vi của đề tài nghiên cứu, chúng tôi chỉ giới hạn vấn đề ở phạm vi những giá

trị văn hóa tinh thần, biểu hiện cụ thể trong bộ phận văn hóa dân gian với những thành tố đặc

trưng.

1.1.2. Khái niệm văn hóa dân gian

Văn hóa dân gian là cội nguồn của mọi nền văn hóa trên thế giới. Ở Việt Nam, văn hóa

dân gian là cơ sở rất quan trọng của văn hóa dân tộc, chi phối đời sống trên mọi phương diện.

Do vậy không thể hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, tri thức và tình cảm con người Việt Nam nếu

như không hiểu văn hóa dân gian.

Thuật ngữ dân gian hiểu theo nghĩa chiết tự Hán Việt: gian nghĩa là khoảng, khu vực

rộng lớn, vùng; dân gian là trong khu vực, trong vùng của dân. Vậy, văn hóa dân gian là sáng

tạo của dân, từ dân mà ra và phục vụ cho cuộc sống của dân. Văn hóa dân gian được thể hiện ở

mọi lĩnh vực, mọi không gian, mọi thời điểm.

Để chỉ hiện tượng mà tiếng Việt gọi là văn hóa dân gian thì hiện nay trên thế giới và cả

Việt Nam, thuật ngữ folklore (gốc tiếng Anh : folk là nhân dân, lore là trí tuệ, tri thức) được sử

dụng rất phổ biến. Thuật ngữ này do William J.Thoms nêu ra trong tạp chí The Athemneum,

London năm 1846. Dần dần được các nhà văn hóa chấp nhận và sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay.

Ở nhiều nước phương Tây, khái niệm folklore được hiểu rất rộng. Từ điển bách khoa của

Anh xác định: “Folklore là tên gọi chung, thống nhất của những tín ngưỡng, truyền thống,

thiên kiến, đạo lí, nghi lễ, mê tín của dân gian. Những câu truyện cổ, những bản tình ca, dân ca

và những câu tục ngữ đều nằm trong khái niệm này…, nó bao gồm cả những yếu tố văn hóa vật

chất mà ban đầu nó không tính đến” [88, tr.20].

Ở Liên Xô, nội dung của folklore được hiểu theo hai xu hướng. Xu hướng thứ nhất hiểu

folklore với nội dung rộng theo cách hiểu của đa số học giả phương Tây, xu hướng còn lại có

xu hướng “ngữ văn hóa folklore” khi cho rằng về cơ bản folklore là “nghệ thuật ngôn từ”, là

sáng tác thơ ca truyền miệng của đông đảo quần chúng. Theo họ, có thể đồng nhất folklore với

văn học truyền miệng. Tiêu biểu là những ý kiến của các nhà folklore sau:

- Xocolov Iu.M.: “Folklore trước hết là sáng tác nghệ thuật thi ca truyền miệng của

quần chúng”, hay “Folklore – phần lớn là thơ ca truyền miệng” [88, tr.85]

- Andreev N.P. : “Dưới tên gọi folklore, chúng ta có thể gọi phần lớn các tác phẩm nghệ

thuật ngôn ngữ đã được phổ biến bằng truyền miệng” [88, tr.85].

- Kravtxov N.I. : “Khoa học Xô Viết hiểu thuật ngữ “folklore” không phải là biểu thị

toàn bộ nền nghệ thuật dân gian mà chỉ là văn học dân gian truyền miệng” [88, tr.93]

Trong những thập niên gần đây ngày càng có nhiều người vượt qua được quan niệm bó

hẹp folklore trong nghệ thuật ngôn từ. Họ thấy rằng folklore bao gồm những yếu tố ngôn từ,

diễn xướng, tạo hình, tín ngưỡng, phong tục,…và các yếu tố ấy gắn kết với nhau trong một

chỉnh thể nguyên hợp. Tổng bách khoa toàn thư Xô Viết xuất bản năm 1974 quan niệm rằng:

“Folklore là sáng tác dân gian, hoạt động nghệ thuật của nhân dân lao động. Đó là thơ ca, âm

nhạc, sân khấu, múa dân tộc, kiến trúc, nghệ thuật trang trí thực hành, hội họa được nhân dân

sáng tạo ra và sống trong nhân dân.” [88, tr.95].

Ở Việt Nam, thuật ngữ folklore được dùng tương đối muộn và thường được hiểu với

những nội dung rộng hẹp khác nhau. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thống nhất về nội

dung khái niệm văn hóa dân gian. Nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị đã nêu nhận xét khái quát:

“Trong ba quan niệm chính thống về folklore hiện lưu hành trong folklore học thế giới thì định

nghĩa folklore là văn học dân gian, từ lâu đã đi vào sách giáo khoa ở Liên Xô và nhiều nước

khác, trong khi đó ở một số nước khác (có cả các nước xã hội chủ nghĩa) người ta vẫn thừa

nhận một cách phổ biến folklore là văn nghệ dân gian. Còn một số nước khác nữa, thuật ngữ

folklore được gắn với một ý nghĩa rất rộng – folklore là văn hóa dân gian bao gồm không chỉ

riêng nghệ thuật dân gian mà cả truyền thống dân gian” [88, tr.113-114]. Cả ba cách hiểu ấy

đều tồn tại ở folklore Việt Nam.

Đinh Gia Khánh, chuyên gia hàng đầu của folklore Việt Nam thì nêu quan niệm: văn hóa

dân gian “bao gồm văn nghệ dân gian (ngữ văn, âm nhạc, vũ đạo, hội họa, điêu khắc, nghệ

thuật trang trí,.v…v) và những hiện tượng cũng như vật phẩm mang tính chất thẩm mĩ nảy sinh

từ sản xuất và chiến đấu”. Quan niệm trên đã được tóm gọn trong công thức : “folklore là folk

culture được tiếp cận từ giác độ thẩm mĩ” [9, tr.220].

Tiếp đó, nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh đề xuất cách tiếp cận văn hóa dân gian như sau:

văn hóa dân gian “là một loại “văn hóa nghệ thuật” biểu hiện chủ yếu thông qua các các hình

tượng và các biểu tượng, thể hiện trình độ thẩm mĩ của con người ở mỗi thời kì lịch sử nhất

định. Do vậy, góc độ tiếp cận loại hình văn hóa này là góc độ tiếp cận thẩm mĩ” [88, tr.35].

Như vậy, các ý kiến này mặc dù có nới rộng hơn về đối tượng khi cho rằng văn hóa dân

gian bao gồm cả “hiện tượng”, “vật phẩm” nhưng vẫn bó hẹp ở cách tiếp cận dưới góc độ thẩm

mĩ.

Mở rộng cách hiểu về văn hóa dân gian hơn, Phạm Huy Thông cho rằng: “không phải

chỉ làn ca, những điệu múa, mà cả những lễ nghi tôn giáo, những hội hè truyền thống cũng là

những biểu hiện của văn hóa dân gian” [88, tr.119]. Đồng tình với quan niệm trên, Trần Quốc

Vượng phát biểu: folklore Việt Nam là “tổng thể mọi sáng tạo, mọi thành tựu văn hóa dân gian

ở mọi nơi, trong mọi thời và mọi thành phần dân tộc đang hiện tồn trên lãnh thổ Việt Nam”.

Ông cũng có xu hướng mở rộng thành tố của văn hóa dân gian khi cho rằng: “Sáng tạo dân

gian bao trùm mọi lĩnh vực đời sống từ đời sống làm ăn thường ngày (ăn, mặc, ở, đi lại) đến

đời sống vui chơi buông xả (thể thao dân gian, võ vật, đánh cầu, đánh phết), hát hò (hát đò

đưa, hát giã gạo, đúm, ví, xoan, ghẹo) đến đời sống tâm linh (giỗ, lễ tế, hội)” [88, tr.124].

Còn Chu Xuân Diên thì cho rằng để có thể đánh giá đầy đủ giá trị, đặc trưng của văn hóa

dân gian, chúng ta cần xác định, phân loại những thành tố cơ bản nhất của nó. Cụ thể, folklore

bao gồm những thành tố là những sáng tạo nghệ thuật có ý thức (các tác phẩm văn học dân

gian), âm nhạc và múa dân gian, hội họa dân gian,.v.v…cả những thành tố là những sản phẩm

vừa mang tính ích dụng vừa mang tính thẩm mĩ (kiếm trúc, đồ thủ công mĩ nghệ,…), và cả

những thành tố là những giá trị văn hóa không bao hàm ý nghĩa thẩm mĩ hiểu theo nghĩa đích

thực của nó (văn hóa ẩm thực, những tri thức về môi trường tự nhiên,…) [9, tr.231].

Như vậy, văn hóa dân gian theo phần đông các nhà nghiên cứu hiện nay bao gồm rất

nhiều thành tố đặc trưng, biểu hiện trong nhiều lĩnh vực và là đối tượng nghiên cứu của nhiều

ngành khoa học liên ngành, trong đó đặc biệt là ngành thi pháp folklore. Chúng tôi tán thành

cách hiểu mở rộng của các nhà nghiên cứu này. Trong các thành tố cơ bản của văn hóa dân gian

đã nêu ở trên, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu: ảnh hưởng của các thành tố như văn học dân

gian, tín ngưỡng dân gian, ngôn ngữ dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Cách

thức trình bày của luận văn là sẽ vận dụng một số tri thức lí luận của các thành tố văn hóa dân

gian này vào phân tích, nhận định, đánh giá truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.

1.1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết

Trước khi đi vào tìm hiểu mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học viết, chúng tôi

xin trình bày vài nét cơ bản về mối quan hệ có tính chất khái quát hơn, đó là mối quan hệ giữa

văn hóa và văn học nói chung. Bàn về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học không phải là một

vấn đề mới, nhưng trong khoa học nói chung và khoa học văn học nói riêng, thiết nghĩ làm mới

một vấn đề cũ cũng là một đóng góp mang tính lí luận và thực tiễn.

Ở nước ta, trong quá trình vận động và phát triển, văn học luôn được đặt trong mối quan

hệ mật thiết với các hình thái xã hội khác. Văn học lúc thì được so sánh với đạo đức, khi thì

được đối chiếu với triết học, tôn giáo, chính trị,…Gần đây, các nhà nghiên cứu đã tập trung chú

ý đến mối quan hệ giữa văn hóa và văn học. Mối quan hệ này ngày càng được quan tâm hơn và

văn học thường được nghiên cứu dưới góc độ văn hóa.

Trước đây, mối quan hệ giữa văn hóa và văn học được coi là quan hệ tương hỗ, là mối

quan hệ của hai hình thái ý thức xã hội cùng thuộc thượng tầng kiến trúc, cùng phản ánh một cơ

sở hạ tầng. Vì vậy, nghiên cứu văn hóa, người ta có thể lấy tư liệu từ văn học và ngược lại.

Quan hệ này tuy nhiên chỉ là quan hệ bề ngoài, không bộc lộ bản chất của nhau. Trong những

thập niên gần đây, Unesco đã phát động những thập kỉ phát triển văn hóa. Và cùng với sự thay

đổi nhận thức của nhân loại khi cho rằng văn hóa là động lực của phát triển, quan hệ văn hóa và

văn học đã được nhìn nhận ở góc độ khác hơn. Hiện nay, các nhà nghiên cứu thiên về xu hướng

nhìn nhận văn hóa là nhân tố chi phối văn học bởi lẽ văn hóa là một tổng thể, bao gồm nhiều hệ

thống, trong đó có văn học. Văn hóa chi phối văn học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố,

toàn thể chi phối bộ phận. Như chúng ta đã biết, văn hóa là sản phẩm vật chất và tinh thần do

con người sáng tạo ra. Những yếu tố nào gắn với giá trị văn hóa đều liên quan đến con người.

Sự sáng tạo của nhà văn chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố trong đó có văn hóa. Cho nên có thể

nói văn hóa chi phối quá trình sáng tạo của nhà văn là một đặc điểm có tính quy luật.

Một trong những người khởi xướng cho xu hướng tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa là

giáo sư văn học người Nga, Mikhail M Bakhtin. M. Bakhtin cho rằng khoa nghiên cứu văn học

phải đặc biệt chú ý đến tầm quan trọng của “lịch sử văn hóa”, đặc biệt là nghiên cứu thời đại

văn hóa mà tác phẩm ra đời, vì văn học là một bộ phận không thể tách rời văn hóa: “Khoa

nghiên cứu văn học phải gắn bó chặt chẽ với lịch sử văn hóa. Văn học là một bộ phận không

thể tách rời của văn hóa. Không thể hiểu nó ngoài cái mạch (kontest) nguyên vẹn của toàn bộ

văn hóa một thời đại trong đó nó tồn tại” [2, tr.139]. Không chỉ thế, “Tác phẩm văn học không

thể sống trong những thế kỉ tiếp, nếu nó không biết bằng cách nào đó thu hút vào mình những

gì của các thế kỉ đã qua. Nếu nó chỉ nảy sinh bằng tất cả những yếu tố của ngày nay (tức của

xã hội đương thời với nó) mà không tiếp tục quá khứ và không gắn bó với quá khứ một cách

đáng kể, nó không thể tiếp tục sống trong tương lai” [2, tr.141]. “Quá khứ” trong cách nói của

Bakhtin có thể hiểu một phần là nền văn hóa dân gian. Quả thực, từ lâu các nhà văn đã tự giác

hoặc không tự giác, trực tiếp hoặc gián tiếp tiếp thu, ảnh hưởng, lí giải vấn đề này hoặc vấn đề

khác của văn hóa dân gian, đặc biệt là văn học dân gian.

Thật vậy, từ bao đời nay văn hóa dân gian đã ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực của cuộc

sống, đặc biệt là đối với văn học. Hòa mình với quy luật bất biến ấy của nhân loại, trong tiến

trình phát triển của văn học Việt Nam, quan hệ tác động, ảnh hưởng qua lại giữa văn hóa dân

gian và văn học viết diễn ra hết sức độc đáo. Đó là mối quan hệ sáng tạo, có tính quy luật và

cũng là cơ sở lí luận cốt yếu cho sự cắt nghĩa một số quá trình, hiện tượng văn học cụ thể.

Văn học Việt Nam luôn tồn tại một bộ phận văn học chịu ảnh hưởng đậm nét từ nền văn

hóa dân gian. Và như một sự ngẫu nhiên song lại rất hợp lí, trong tiến trình lịch sử văn học dân

tộc, nhà văn, nhà thơ nào chịu ảnh hưởng, tiếp thu, vận dụng chất liệu dân gian một cách nhuần

nhuyễn đều gặt hái được những thành công nhất định. Những tác phẩm của họ thường có tiếng

vang và được lưu truyền theo thời gian. Có thể kể ra đây một số tác giả tiêu biểu mà những tác

phẩm của họ đã được thời gian thẩm định. Nguyễn Trãi là người mở đầu cho những sáng văn

học bằng chữ Nôm. Là người có bút lực tinh tế, nhà thơ Nguyễn Trãi như con ong cần mẫn bay

đi khắp bốn phương để hút những nhụy hoa về làm mật. Những giọt mật vàng óng, ngọt lịm ấy

được tạo ra từ những bông hoa cội nguồn văn hóa dân gian dân tộc Việt vốn rất giàu truyền

thống thi ca, nghệ thuật. Trong Quốc âm thi tập, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những lời ăn

tiếng nói hàng ngày, những thành ngữ, tục ngữ, ca dao được tác giả vận dụng một cách nhuần

nhuyễn, tự nhiên. Đại thi hào Nguyễn Du cũng ảnh hưởng rất nhiều từ thi liệu văn học dân gian

khi sáng tác Truyện Kiều. “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương, Tú Xương,…sáng tác những

bài thơ ken dày thi liệu dân gian.

Sự ảnh hưởng, tác động ấy vẫn diễn ra sâu sắc kể cả khi văn học Việt Nam chịu ảnh

hưởng của văn hóa, văn học phương Tây, đặc biệt là văn hóa, văn học Pháp. Bên cạnh những

nhà văn, nhà thơ có những cách tân táo bạo vẫn có những tác giả chịu ảnh hưởng sâu đậm từ

nền văn hóa, văn học dân gian như Nguyễn Bính, Tố Hữu. Rõ ràng, tùy theo từng thời điểm,

mặc dù phải trải qua nhiều biến cố, nhiều sự tiếp biến văn hóa ngoại lai do những nguyên nhân

khách quan và chủ quan khác nhau thì bộ phận văn học ảnh hưởng sâu đậm từ nguồn mạch văn

hóa dân gian cho đến nay vẫn còn cuồn cuộn chảy với một sức sống mãnh liệt. Và Nguyễn Huy

Thiệp là một trong những nhà văn đã kế thừa, tiếp nối xuất sắc truyền thống văn học đó.

Như trên đã trình bày thì mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học viết là mối quan

hệ mang tính chất quy luật, rộng khắp. Tuy nhiên đó không phải chỉ là mối quan hệ một chiều.

Văn học là một thành tố quan trọng của văn hoá , vừa chịu sự tác động của văn hóa, vừa tác

động đến sự phát triển của văn hoá dân tộc. Với tư cách chủ thể tiếp nhận văn hoá đồng thời là

chủ thể sáng tạo, nhà văn chính là người lưu giữ qua văn chương mình những đặc trưng của văn

hoá dân tộc.

Trong bài viết Văn hóa – ngọn nguồn của văn học, nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Sĩ Vịnh

đã nhận định rằng: văn hóa dân gian là ngọn nguồn của tiến trình lịch sử văn học,“là bầu sữa

nuôi dưỡng nhiều tài năng văn học”[29, tr.220]. Song mối quan hệ ấy không diễn ra một chiều

mà văn học luôn có “sự tác động trở lại của văn học đối với văn hóa” [29, tr.224].

Như chúng ta đã biết, văn hóa là một tổng thể, chi phối văn học với tư cách là hệ thống

chi phối yếu tố. Đây là quan hệ bất khả kháng, tự thân nó, là chuyện hiển nhiên. Tuy nhiên, văn

học so với các yếu tố khác trong văn hóa là một yếu tố mạnh và năng động. Văn học là sản

phẩm sáng tạo của chủ quan của nhà văn. Văn học sử dụng ngôn từ, một phương tiện giao tiếp

có tính phổ quát nên có sự ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng nhân dân.

Văn học không chỉ sáng tạo những giá trị mới cho bản thân nó mà còn cho cả hệ thống.

Hơn thế, văn học có vai trò sáng tạo văn hóa. Trong một bài viết có nhan đề Văn học góp phần

tạo nên những giá trị văn hóa hàng đầu của dân tộc, nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh đã nói

rằng: “một trong những đóng góp quan trọng nhất của văn học đối với đời sống xã hội là góp

phần tạo nên những giá trị văn hóa của dân tộc” [39]. Đồng thời qua văn học, những phạm trù

có giá trị của văn hóa được bảo lưu và phát triển.

Còn trong bài Vai trò sáng tạo văn hóa của văn học, theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử,

vai trò sáng tạo ấy thể hiện rõ nhất trên bốn phương diện: 1/ Lấy việc sáng tạo, biểu hiện con

người làm đối tượng trung tâm, văn học trước hết phát huy vai trò sáng tạo những mô hình nhân

cách; 2/ Văn học có vai trò “phê phán văn hóa”. Văn học có vẻ thích “nói ngược” nhưng chính

nó giữ vai trò điều chỉnh văn hóa, có thể nhận ra cái cũ, cái thái quá, cái bất cập; 3/ Văn học có

vai trò lựa chọn văn hóa. Văn học cung cấp một sự lựa chọn văn hóa từ phía đời sống từ nhu

cầu làm giàu đời sống tâm hồn và trí tuệ, chứ không phải từ lập trường chính trị cho nên rất gần

gũi và thiết thực đối với con người; 4/ Văn học có vai trò sáng tạo văn hóa. Văn học là bộ phận

quan trọng của văn hóa, sự giàu có của nó về nội dung và hình thức trực tiếp làm giàu cho văn

hóa. [76, tr.891-892-893-894].

Quả vậy, thực tế đời sống văn hóa, văn học đã minh chứng rằng nhiều sáng tác của các

nhà văn đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ văn hóa dân gian. Các tác phẩm này đều hướng tới xây

dựng những mô hình nhân cách văn hóa trọn vẹn, từ đó tác động tích cực đến đời sống văn hóa

của xã hội. Trong văn học quá khứ, một số sáng tác là sản phẩm của văn học thành văn thuộc

bộ phận văn hóa bác học, nhưng sự lưu truyền lại không chỉ trong tầng lớp quí tộc, những

người có học thức mà có một số tác phẩm xuất chúng đã len lỏi đến tận thửa ruộng, luống cày,

ăn sâu vào từng tâm hồn những người nông dân. Để rồi không biết từ bao giờ nó trở thành món

ăn tinh thần không thể thiếu của quần chúng nhân dân. Tiêu biểu cho hiện tượng “dân gian hóa”

vừa nêu không thể không kể đến Truyện Kiều. Nguyễn Du khi sáng tác Truyện Kiều, ngoài

những tri thức bác học, ông còn chịu ảnh hưởng rất sâu đậm tri thức văn hóa dân gian. Đóng

góp lớn nhất của Nguyễn Du qua Truyện Kiều là đã góp phần đưa thể thơ lục bát của dân tộc

đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Truyện Kiều còn được “dân gian hóa” thành những hiện tượng văn

hóa phổ biến như tập Kiều, bói Kiều. Đó là chưa kể đến những truyện Nôm khuyết danh như

Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa,…những tác phẩm do các nhà nho viết ra, nhưng vì

được lưu truyền quá rộng rãi trong nhân dân, nên không còn có thể phân biệt được đâu là văn

chương bình dân, đâu là văn chương bác học. Hiện tượng “dân gian hóa” ấy còn diễn ra ở nhiều

tác phẩm văn học bác học khác như tác phẩm Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu), thơ lục bát

của Tố Hữu, thơ Tú Mỡ, thơ Bút Tre.

Tóm lại, mối quan hệ ảnh hưởng giữa văn hóa với văn học nói chung, văn hóa dân gian

với văn học viết nói riêng là mối quan hệ mang tính quy luật tất yếu. Văn học chẳng những là

một bộ phận quan trọng của văn hóa, chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ văn hóa mà còn là một

trong những phương tiện tồn tại và bảo lưu văn hóa hữu hiệu nhất. Văn học vốn chịu sự chi

phối ảnh hưởng từ truyền thống văn hóa và môi trường văn hóa của dân tộc. Là thành viên của

cộng đồng văn hóa, như một hệ quả tất yếu, nhà văn tiếp nhận những giá trị văn hóa truyền

thống, những lối tư duy, những mô thức ứng xử trong cộng đồng. Vì thế, dù nhà văn viết về vấn

đề gì, dù sáng tạo đến đâu thì trong tác phẩm vẫn thể hiện tâm thái văn hóa của dân tộc mình.

Bằng không những gì nhà văn viết ra sẽ hoàn toàn xa lạ với độc giả, với chính mình. Bởi như

nhà văn Nga M. Gorki đã từng nói: “Nhà văn không bao giờ là ngẫu nhiên mà thường là tất yếu

lịch sử, anh ta là một hiện tượng nảy sinh từ sản phẩm tinh thần của dân tộc, biện giải từ yêu

cầu dân tộc để nhìn nhận cuộc sống thể hiện trong nghệ thuật…Anh ta nhiệt thành với những

khát vọng, những lí tưởng và những hình thức mới. Những khát vọng đó được hình thành và

thâm nhập vào thế giới. Bằng cách đó, mỗi tác phẩm nghệ thuật nảy sinh từ tinh thần và hi

vọng của dân tộc, của xã hội. Nhà văn sáng tạo từ tài liệu vốn có, do lịch sử đưa lại cho anh ta,

vì thế những tác phẩm sáng tạo của nhà văn là chứa đựng bản sắc dân tộc.” [65, tr.253]. Tất cả

những gì thật sự mới mẻ trong văn học nghệ thuật nếu được nảy nở trên miếng đất tốt lành của

truyền thống văn hóa thì sẽ trường tồn theo thời gian. Để từ đó, qua sự thẩm định của thời gian,

những tác phẩm ưu tú lại trở thành những biểu tượng cho văn hóa dân tộc, có tác động mạnh

mẽ đến đời sống văn hóa của dân tộc mình.

Nghiên cứu sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong sáng tác của một nhà văn cụ thể có

thể thông qua việc “đo lường” (chữ dùng của nhà nghiên cứu Hà Công Tài) ảnh hưởng cụ thể

của các thành tố văn hóa dân gian trong sáng tác của nhà văn như: những yếu tố có nguồn gốc

từ văn học dân gian như cốt truyện, nhân vật,…hiện hữu trong tác phẩm. Tuy nhiên vấn đề ở

đây không đơn thuần là việc chúng ta “đo lường” máy móc, đôi khi có phần gán ghép xem tác

phẩm của một nhà văn nào đó đã ảnh hưởng bao nhiêu phần trăm từ văn hóa dân gian, mà quan

trọng hơn là đánh giá đầy đủ tính dân gian của nó. Có như thế chúng ta mới tránh được tình

trạng nghiên cứu so sánh một cách áp đặt máy móc một số hiện tượng văn học nghệ thuật. Đó

cũng là quan điểm của chúng tôi khi tiến hành nghiên cứu đề tài luận văn này.

1.2. Quá trình tích lũy vốn sống của Nguyễn Huy Thiệp

Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950 tại Thanh Trì, Hà Nội. Thuở nhỏ vì mưu sinh, ông

phải theo gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ,

Vĩnh Yên. Năm 1960, gia đình ông chuyển về quê, định cư ở xóm Cò, làng Khương Hạ, Hà

Nội. Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa Sử, Trường Đại học sư phạm Hà Nội và lên dạy học tại

Sơn La, một tỉnh thuộc vùng cao Tây Bắc. Mười năm sau, năm 1980, ông về lại Hà Nội,

chuyển công tác về làm việc tại công ty Sách giáo khoa thuộc Sở giáo dục Hà Nội. Hiện nay,

ông đã nghỉ hưu và sống cùng gia đình tại Hà Nội. Ngoài sáng tác văn chương, viết tiểu luận

phê bình, Nguyễn Huy Thiệp còn vẽ tranh.

Nguyễn Huy Thiệp luôn bày tỏ sự cần thiết về việc tích lũy vốn sống của một nhà văn

trước khi anh ta cầm bút và muốn có một sáng tác thực sự có giá trị. Nhà văn vẫn hằng tâm

niệm phải “có một chút muối rắc đâu đó trên từng trang viết” [89, tr.17]. Chất muối ấy là sự

kết tinh của tài năng, tâm huyết, vốn sống, sự trải nghiệm của người cầm bút trước những trang

sách cuộc đời. Ông đã dành hết tâm lực dấn thân vào sự nghiệp cầm bút, với khao khát đi tìm

điều thiện tốt đẹp nhất cho con người. Hành trình của Nguyễn Huy Thiệp vì thế đã tạo được sự

quan tâm đặc biệt của giới phê bình, độc giả trong và ngoài nước.

Gần đây, trong một lần phỏng vấn, nhà báo Lê Thị Thái Hòa đã hỏi Nguyễn Huy Thiệp:

“Từ khi nào ông bỗng nhiên muốn viết?”, Nguyễn Huy Thiệp trả lời rất thành thực: “Tôi muốn

viết từ rất sớm. Khoảng 7 đến 10 tuổi tôi đã viết những đoạn văn ngắn rồi “chôn” xuống đất

sau khi đọc những truyện của người khác viết” [92]. Thế nhưng phải đến tháng 1 năm 1987,

bạn đọc cả nước mới được biết đến một Nguyễn Huy Thiệp với tư cách là “nhà văn trẻ” qua tập

truyện ngắn đầu tay Những chuyện kể bất tận của thung lũng Hua Tát được khởi đăng trên

báo Văn nghệ. Song, tác phẩm này chưa gây được tiếng vang trong dư luận. Phải đến khi

Tướng về hưu trình làng cũng trên báo Văn nghệ số 24 ra ngày 20 tháng 6 năm 1987, Nguyễn

Huy Thiệp mới được dư luận tiếp nhận, tranh luận sôi nổi với nhiều xu hướng khác nhau. “Nhà

văn trẻ” của chúng ta năm đó đã bước sang tuổi 37, nói như ông thì “khi đã sống được nửa đời

người”. Đối với một nhà văn, từ năm lên 7 tuổi đã bắt đầu cầm bút, viết rồi lại “chôn xuống

đất” khi đọc những truyện của người khác, điều này chứng tỏ với Nguyễn Huy Thiệp, viết văn

chẳng phải là một việc dễ dàng gì. Phải chăng vì ông sớm ý thức rằng “Cái khó không phải là

viết, cái khó là sống như thế nào để có cái gì mà viết” [92].

Nguyễn Huy Thiệp sinh ra và lớn lên ở đồng bằng Bắc Bộ, nằm giữa lưu vực hai con

sông Hồng, sông Mã. “Trong các sắc thái phong phú và đa dạng của văn hóa Việt Nam, đồng

bằng Bắc Bộ như là một vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc” [107, tr.235]. Bắc Bộ là cái nôi

hình thành dân tộc Việt, cũng là nơi sinh ra các nền văn hóa lớn. Đặc trưng của vùng văn hóa

này phải kể đến thái độ ứng xử với tự nhiên trên cơ sở chinh phục và sống hài hòa với tự nhiên.

Đáng kể nhất là những sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân Việt Bắc Bộ. Mọi tín ngưỡng

của cư dân trồng lúa nước như thờ Thành hoàng, thờ Mẫu, sùng bái tự nhiên,…có mặt trên hầu

hết các làng quê Bắc Bộ. Không chỉ thế, kho tàng văn học dân gian Bắc Bộ có thể coi như một

loại mỏ với nhiều khoáng sản qúi hiếm. Từ thần thoại đến truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, ca

dao, tục ngữ, thể loại nào cũng phong phú. Có thể nói, đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi văn hóa dân

gian lúa nước của cư dân Việt.

Được bao bọc từ cái nôi văn hóa Bắc Bộ, Nguyễn Huy Thiệp lớn lên trên những cánh

đồng lúa bạt ngàn, những dòng sông chở nặng phù sa…Thế giới tự nhiên trở thành người mẹ

nuôi dưỡng, chở che, là người bạn thủy chung của con người. Có lẽ đấy là nguồn cảm hứng bất

tận cho những sáng tác của ông, đặc biệt trong những tác phẩm nhà văn viết về thiên nhiên và

con người nông thôn Bắc Bộ. Khi viết về đề tài nông thôn, Nguyễn Huy Thiệp thường dành cho

nó những trang văn thấm đẫm chất thơ với nguồn cảm hứng trữ tình dạt dào, tha thiết. Ông đã

có lần tự hào: “Tôi có may mắn là thời thơ ấu tôi gắn với nông thôn. Mẹ tôi là nông dân, còn

tôi sinh ở nông thôn” [89, tr.10]. Thời thơ ấu, cậu bé Thiệp từng cùng gia đình lưu lạc khắp

nhiều vùng nông thôn giàu truyền thống văn hóa dân gian của đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Từ

đó, Nguyễn Huy Thiệp đã tích luỹ được rất nhiều hành trang quý báu để có thể viết nhiều, viết

hay về những miền đất dung dị mà chân chất tình người này. Đọc truyện của Nguyễn Huy

Thiệp, người đọc thấy gần như là một “nhà văn của đất đai” (nhận xét của Sean Tamis Rose)

[59, tr.499]. Nếu trong những truyện viết về thành thị và lịch sử, Nguyễn Huy Thiệp gieo vào

lòng độc giả cảm giác khá nặng nề, ngột ngạt thì đến với những truyện ngắn như: Chảy đi sông

ơi, Con gái thuỷ thần, Những bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê, Chăn trâu cắt cỏ,

Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt,… người đọc lại như được đắm mình trong suối nguồn yêu

thương, với cảm giác êm đềm, da diết, được thấy lòng mình bồi hồi với những dư vị thật ngọt

ngào, sâu lắng.

Bên cạnh đó, Nguyễn Huy Thiệp lại có thời gian sống và gắn bó đến mười năm cùng với

mảnh đất Tây Bắc thân thương. Đây cũng vùng văn hóa miền núi miền Bắc với những đặc điểm

hết sức riêng biệt. Mỗi dân tộc Tây Bắc tuy có khác nhau về cách ăn mặc, thói quen sinh hoạt,

nhưng đa phần giống nhau ở bản chất hiền lành, thuần phác, luôn sống lạc quan và giàu tình

yêu thiên nhiên, quê hương đất nước. Các dân tộc ở Tây Bắc đều có tín ngưỡng “mọi vật có

linh hồn”, có đủ các loại “hồn” và các loại thần như thần sông núi, suối khe, các lực lượng siêu

nhiên như sấm, chớp,...Cũng như nhiều dân tộc khác, các dân tộc Tây Bắc có một kho tàng văn

hóa, văn học nghệ thuật dân gian đa dạng, phong phú.

Có thể nói, vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ, vùng cao Tây Bắc là những môi trường văn

hóa dân gian màu mỡ, là nguồn cung cấp tư liệu đáng quí và cũng là nguồn cảm hứng mãnh liệt

chi phối quá trình sáng tạo của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.

Để sáng tạo nên những tác phẩm độc đáo khi viết về thiên nhiên và cuộc sống con người

miền núi, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã có quãng thời gian mười năm thâm nhập thực tế ở Tây

Bắc. Đó là những tháng ngày thầy giáo Thiệp dạy học tại một bản heo hút ở Sơn La, nơi cách

tỉnh lỵ một ngày đi bộ, với bao thiếu thốn vất vả mà sau này chính nhà văn thú nhận chỉ có sức

mạnh của nhiệt huyết tuổi trẻ mới giúp ông vượt qua những năm tháng ấy. Có lẽ quãng thời

gian sống và làm việc ở Tây Bắc, Nguyễn Huy Thiệp đã đọc những “trang sách đời” được viết

ra từ chính cuộc sống hiện thực của người dân nơi đây. Đọc nhiều truyện của Nguyễn Huy

Thiệp, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của thầy giáo Thiệp năm nào. Kí ức về những tháng ngày

sống và làm việc ở Tây Băc sâu đậm đến nỗi không cần gợi nhắc, nó luôn thường trực, âm ỉ và

nếu có dịp, nhà văn lại thổ lộ: “Ngày xưa, khi còn dạy học ở vùng núi Tây Bắc…”. Và rồi ông

cứ để cho hoài niệm tràn về…

Mở đầu truyện ngắn Những người muôn năm cũ, Nguyễn Huy Thiệp hồi tưởng: “Cách

đây hơn ba mươi năm, tôi dạy học ở Bâm là một xóm núi khỉ ho cò gáy ở tỉnh N, cách thủ đô

vài trăm cây số. Hồi ấy tôi 20 tuổi, vừa mới tốt nghiệp ra trường, tâm hồn còn rất ngây thơ”

[94, tr.510].

Hay một đoạn trong Chuyện tình kể trong đêm mưa, tác giả kể: “Trường học miền núi

nơi tôi ở nằm trên một quả đồi trọc gọi là đồi Thông […]. Khu nhà giáo viên kề ngay đó lợp

ngói, vách trát “toocsi” nhưng khi mưa xuống dột còn nhiều hơn cả mái nhà lợp gianh” [94,

tr.458]. Đọc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ta còn có thể bắt gặp khá nhiều những dòng tự sự

chân thực như thế.

Sau này khi đã trở về Hà Nội, nếm trải qua bao nhiêu thăng trầm, ngay cả khi đã khẳng

định được tên tuổi trên văn đàn và đã có chỗ đứng khá vững chắc trong lòng độc giả, với

Nguyễn Huy Thiệp, tháng ngày ở Tây Bắc vẫn là quãng thời gian đẹp đẽ và đáng nhớ nhất. Với

ông, Tây Bắc mãi là “Mảnh đất tình yêu! Mảnh đất giữ người!” [94, tr.576]. Gần đây, trong

truyện ngắn có nhan đề Quan âm chỉ lộ, Nguyễn Huy Thiệp bồi hồi nhớ lại: “ Những ngày dạy

học gian khó ở trên miền núi Tây Bắc xa xôi, tôi chỉ là một thầy giáo tiểu học vô danh, tôi như

viên sỏi vô danh ở trong lòng suối vô danh nhưng chẳng bao giờ tôi thấy cô đơn, trong lòng tôi

lúc nào cũng như có một con chim chiền chiện líu la líu lo ca hát những lời vô nghĩa bất tận”

[94, tr.587].

Điều đó còn là cơ sở để lí giải tại sao mảng truyện viết về miền núi chiếm số lượng đáng

kể trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Nguyễn Huy Thiệp không phải là người đầu tiên khai

thác và thành công khi viết về mảng đề tài này. Trước ông đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ gặt

hái được thành công khi tìm đến với con người và cuộc sống nơi đây. Tiêu biểu như Tố Hữu

với tập thơ Việt Bắc; Nguyễn Huy Tưởng với Kí sự Cao Lạng; Tô Hoài với Truyện Tây Bắc,

Miền Tây; Nguyễn Tuân với Nhật kí lên Mèo, Sông Đà; Rừng động của Mạc Phi; Kan Lịch

của Hồ Phương; Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Vệ sĩ của quan Châu của Ma Văn

Kháng,v.v…Tuy nhiên, mặc dù thuộc thế hệ đi sau và viết sau nhưng Nguyễn Huy Thiệp không

bị chìm khuất trong số những tên tuổi tiêu biểu vừa kể trên, trái lại ông đã tìm cho mình một lối

đi riêng để triển khai và chiếm lĩnh đề tài này tạo nên phong cách nghệ thuật độc đáo. Sử dụng

yếu tố văn hóa dân gian một cách sáng tạo đã góp phần tạo ra cái riêng đó của Nguyễn Huy

Thiệp. Tiêu biểu cho mảng đề tài viết về miền núi của ông có thể kể đến như Những ngọn gió

Hua Tát, Muối của rừng, Sống dễ lắm, Những người thợ xẻ, Thổ cẩm, Những người muôn

năm cũ, Chuyện tình kể trong đêm mưa.

1.3. Quan niệm văn chương của Nguyễn Huy Thiệp

Trước khi đi sâu vào nghiên cứu những đặc trưng của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

trên cơ sở ảnh hưởng từ nền văn hóa dân gian của dân tộc, chúng tôi bước đầu tìm hiểu quan

niệm văn chương của ông, trong đó lưu ý đến quan niệm của ông về mối quan hệ giữa văn hóa

dân gian và văn học. Chúng như một sợi chỉ đỏ chi phối toàn bộ quá trình sáng tác của nhà văn.

Những quan niệm này được Nguyễn Huy Thiệp gửi gắm trong một số truyện ngắn, qua các bài

tiểu luận phê bình, hoặc bày tỏ qua một số lần trả lời phỏng vấn.

Khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp có thể thấy hầu hết tác phẩm của ông đều

chứa đựng một vài triết lí về văn chương. Quan niệm về văn chương của Nguyễn Huy Thiệp rất

đa dạng. Phải luôn trăn trở về ý nghĩa của nó, ông mới có thể viết nên những trang văn chất đầy

suy tư như thế. Điều này khiến ta liên tưởng đến sự tương đồng giữa Nguyễn Huy Thiệp và

Nam Cao, một nhà văn nổi tiếng với những quan niệm văn chương đã trở thành những tuyên

ngôn nghệ thuật bất hủ. Tuy nhiên, nếu Nam Cao thường thể hiện trực tiếp, rành mạch quan

niệm nghệ thuật của mình thì Nguyễn Huy Thiệp thường kí thác qua cách nhìn, cách nghĩ của

các nhân vật. Với Nguyễn Huy Thiệp, văn chương dưới cái nhìn trực tiếp hay gián tiếp, của các

nhân vật ở các giai tầng khác nhau, thời điểm khác nhau đều có sức mạnh đáng sợ và sáng tác

văn chương không phải là công việc dễ dàng gì. Vì quan niệm văn chương của Nguyễn Huy

Thiệp thường được nhìn từ nhiều điểm nhìn khác nhau nên chúng rất đa dạng và phức tạp.

Nếu Nam Cao thường đưa ra những chân lí rốt ráo về văn chương kiểu như: “Một tác

phẩm thật giá trị phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là tác phẩm chung

cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì vừa lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại

vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình…Nó làm cho người gần

người hơn.” [5, tr.245]. Thì Nguyễn Huy Thiệp vẫn cứ bình tĩnh và lặng lẽ, ông để cho nhân vật

của mình bàn luận về văn chương, về nghề văn hơn là việc đưa ra những kết luận. Ông không

đưa ra các chân lí mà buộc người đọc phải cùng suy ngẫm, rút ra chân lí cho bản thân mình,

nhất là đối với những ai chọn nghiệp cầm bút làm lẽ sống. Sức hấp dẫn của những triết lí này là

Nguyễn Huy Thiệp không khẳng định và cũng không coi đó là kết luận cuối cùng của một chân

lí duy nhất, tuyệt đối đúng. Chẳng hạn quan niệm về văn chương với ông thầy đồ thì “Văn

chương có nhiều thứ lắm. Có thứ văn chương hành nghề kiếm sống, có thứ văn chương sửa

mình, có thứ văn chương trốn đời, trốn việc, lại có thứ văn chương làm loạn” [94, tr.268]. Có

thứ “văn chương học để làm quan” [94, tr.269], nhưng đôi lúc nó không rạch ròi như vậy mà

“có cái gì từa tựa lẽ phải” [94, tr.268] như lời của người bán thịt lợn trong Giọt máu. Với một

ông thầy giáo cấp một trường làng thì văn chương có cái ảo diệu riêng, “văn chương là thứ khó

nhất trần đời”, là “đệ nhất ở trong các môn nghệ thuật” [94, tr.543]. Văn chương đem lại vinh

quang nhưng cũng có khi là hiểm họa, bị mọi người khinh rẻ, phỉ báng như lời nhân vật thầy

giáo Triệu khuyên nhân vật Hiếu trong truyện Những bài học nông thôn: “Lớn lên chú đừng

sa vào con đường văn chương chữ nghĩa. Thế nào chú cũng ăn đòn. Người ta sẽ nguyền rủa

đấy” [94, tr.142].

Trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, quan niệm về văn chương thường được gửi gắm

qua phát ngôn của các nhân vật. Văn chương là “miếng đất nghịch”, có sức mạnh như một thứ

khí giới. Trong truyện Chút thoáng Xuân Hương, nhân vật tri huyện Thặng là kẻ coi quan

trường là nơi để kiếm sống, nổi tiếng ngạo mạn, hách dịch, coi dân như cỏ rác. Tuy nhiên chỉ

qua câu nói và cử chỉ này của Thặng, ta thấy có rất nhiều điều đáng nói: “Hách chứ! - Thặng

giơ ngón tay như quả chuối mắn ra trước Ấm Huy. - Không hách để văn chương các chú làm

loạn à? Văn chương là miếng đất nghịch!” [94, tr.305]. Hai chữ “hách chứ” cùng với thái độ

giơ ngón tay chứng tỏ Thặng muốn chứng minh quyền lực của kẻ làm quan, thế nhưng khi ông

ta nói văn chương có thể làm loạn, bởi đó là “miếng đất nghịch” thì quả thật ông ta đang sợ.

Nghĩa là văn chương ẩn chứa một sức mạnh ghê gớm khiến kẻ làm quan đầy uy lực như Thặng

cũng phải nhún mình.

Với sứ mệnh cao cả của mình, văn chương tác động lớn đến con người. Văn chương làm

người ta phải dằn vặt lòng mình. Văn chương giữ cho con người không rơi xuống vực thẳm của

cái ác, có khả năng đánh thức lương tri như lời của nhân vật Lai nói với một nhân vật là nhà

văn trong truyện ngắn Quan âm chỉ lộ: “Chú là ai? Tại sao chú lại viết ra những thứ làm cho

người ta dằn vặt lòng mình? Chú có quyền gì? Ai cho chú cái quyền năng ấy? Tư cách chú tôi

gạt sang một bên. Tôi không hiểu vì sao mọi người lại vị nể một người như chú? Ở chú có

phẩm chất gì? Cao thượng ư? Không phải! Nghiêm cẩn ư? Cũng không phải nốt… Tôi chỉ

nhận ra ở chú dục vọng hão huyền và khả năng đánh thức cái dục vọng hão huyền, ghê gớm ấy

ở mỗi một người. Điều ấy là tốt ư? Không phải? Xấu ư? Không phải! Từ bản chất, tôi vừa căm

ghét vừa sợ hãi, cảm phục những người như chú.” [94, tr.592]. Anh Lai nói “không hiểu” điều

gì khiến văn chương làm ta dằn vặt, có “khả năng đánh thức dục vọng hão huyền, ghê gớm ấy ở

mỗi một người” nhưng thật ra lại thấu hiểu rất rõ. Hỏi nhưng thực chất là đã trả lời.

“Nghề viết văn là một nghề rất khó”, Nguyễn Huy Thiệp từng tâm sự như vậy. Những

suy tư, chiêm nghiệm ấy thường được nhà văn phát biểu trực tiếp trong truyện, thông qua phát

ngôn của những nhân vật là văn sĩ hoặc trong vai người kể chuyện. Cùng với quan niệm của

nhà văn Nam Cao: “Văn chương không cần những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu

mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những

nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có” [5, tr.236], Nguyễn Huy Thiệp cũng cho rằng:

“Công việc viết văn vốn rất nhọc nhằn phức tạp, lại buồn tẻ nữa” [94, 162]. “Nhọc nhằn phức

tạp” vì thứ văn mà Nguyễn Huy Thiệp hướng đến không phải là thứ văn dễ dãi, tầm thường,

“buồn tẻ” bởi không phải ai cũng hiểu những gì nhà văn hướng tới. Nhưng không vì thế mà nhà

văn của chúng ta ngừng tự vấn, ngừng sáng tạo…

Trong truyện Quan âm chỉ lộ, nhân vật là một văn sĩ đã bộc bạch rằng mình từng “thuyết

giảng về sự vô minh của con người và thế giới, lòng khao khát của cá nhân tôi với cuộc sống

mà Thượng đế ban cho” [94, tr.585]. Nhưng khi đối diện với cuộc sống thực tế, ông bỗng nhớ

lại những điều mình đã nói đến “thật xa xỉ và phù phiếm, thậm chí dối trá” [94, tr.585]. Có

nghĩa là để sáng tạo, nhà văn phải không ngừng dấn thân vào cuộc đời, dũng cảm nói lên sự

thật, dù sự thật thường cay đắng, thường làm người ta đau đớn. Nhưng không vì thế mà nhà văn

cho phép mình cẩu thả, lừa bịp độc giả bằng những tác phẩm ngòn ngọt, được tô vẽ bằng một

lớp son hồng giả tạo.

Hơn hết, theo Nguyễn Huy Thiệp, văn chương cần phải bám chắc vào hiện thực, biểu

hiện chân thực tất cả mọi phương diện của đời sống, bởi mục đích sau cùng của văn chương là

hướng con người đến sự hoàn thiện trong nhân cách, lẽ sống. Để làm được điều đó, “Văn

chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa. Đó là chí

thánh” [94, tr.279-280]. Đây là một trong những quan niệm khá rạch ròi của nhà văn về văn

chương. Quan niệm này có lúc bị phê phán vì cái cách Nguyễn Huy Thiệp nói về văn chương

nghệ thuật quá cao ngạo “văn chương phải bất chấp hết”, vì rằng ông dám ngang nhiên đem

văn chương vốn cao quí dìm xuống bùn. Có người còn gay gắt bảo ông đã đánh mất cái tâm của

người cầm bút. Nhưng với những gì Nguyễn Huy Thiệp đã đem đến cho văn học, quả thực

quan niệm ấy chất chứa ý vị sâu xa hơn lớp nghĩa mà nhiều người đã vì lí do gì đó vội vàng

nhầm tưởng rồi quy kết, cũng vì thế mà đầy tính chủ quan. Bởi với Nguyễn Huy Thiệp, văn

chương có giá trị thật sự phải bất chấp hết, phải “ngập trong bùn”, hơn nữa phải “sục tung lên ”

trong thứ bùn đen nhơ nhớp ấy để tìm ra căn nguyên của cái ác, của những điều xấu xa, bỉ ổi,

và quan trọng nhất là phải tìm đến chân lí của điều thiện, của những giá trị vĩnh hằng trong

cuộc sống. Vươn tới những giá trị cao cả ấy cũng chính là lúc văn chương đã “thoát thành

bướm và hoa” đem đến mật ngọt cho cuộc đời này. Điều ấy hơn bao giờ hết luôn luôn cần, luôn

luôn thiếu và luôn luôn phải đi tìm. Sứ mệnh thiêng liêng đó, nhà văn phải là người đảm nhận.

Và Nguyễn Huy Thiệp đã thành công trên hành trình cao cả đó. Quan niệm của Nguyễn Huy

Thiệp về văn chương và sứ mệnh của nhà văn thật cao quí và đáng để chúng ta suy ngẫm.

Không chỉ thế, Nguyễn Huy Thiệp còn có ý thức rất cao về tầm quan trọng của ảnh

hưởng văn hóa dân gian đối với quá trình sáng tác của nhà văn. Trong bài tiểu luận Con đường

văn học, Nguyễn Huy Thiệp cho rằng văn hóa, văn học dân gian chính là kho tàng tri thức về

kinh nghiệm đời sống và kinh nghiệm tu từ vô cùng phong phú cho nhà văn. Các nhà văn lớn là

tấm gương về sự kế thừa, học hỏi đáng quí ấy. “Sự hiểu biết thấu các lẽ đời là yêu cầu số một

của các nhà văn. […]. Không phải tự dưng mà các nhà văn lớn đều khuyên chúng ta biết học

tục ngữ, ca dao, dân ca bởi đây thực sự là một kho tàng kinh nghiệm đời sống và kinh nghiệm

tu từ” [89, tr.47–48]. Điều đó cũng góp phần lí giải vì sao chất dân gian lại có dấu ấn khá đậm

nét trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Sự ảnh hưởng ấy không phải là ngẫu nhiên mà xuất

phát từ quan điểm văn chương của ông.

Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp chịu sự ảnh hưởng khá sâu sắc từ nền văn hóa dân gian.

Ảnh hưởng ấy không phải từ ngẫu hứng nhất thời mà đã trở thành nguồn cảm hứng, dựa trên

những quan niệm lí luận cụ thể, sáng rõ của nhà văn. Hơn một lần, Nguyễn Huy Thiệp đã lí giải

cho quá trình sáng tạo của mình: “Khi viết văn tôi luôn luôn tìm lại những giá trị truyền

thống.[…]. Tôi nghĩ một nhà văn phải bắt đầu từ những kinh nghiệm nguyên thủy nhất của dân

tộc mình. Tóm lại phải đi từ con người Việt Nam từ nguồn gốc, từ đó lần về sau” [59, tr.383].

“Những giá trị truyền thống”, “những kinh nghiệm nguyên thủy nhất” là những điều ông luôn

nhắc mình mỗi khi cầm bút.

Trong một bài tiểu luận văn học nổi tiếng có nhan đề Một góc sơ xuất trong thế giới nội

tâm nhà văn, Nguyễn Huy Thiệp khẳng định: “Thế giới cổ tích có lẽ giống như thứ sữa ở bầu

vú mẹ, nó có khả năng miễn dịch trong một khoảng thời gian nào đó đối với nhiều người” [89,

tr.13]. Ông nhận thấy tầm quan trọng của sự kế thừa, tiếp thu nguồn văn hóa dân gian trong quá

trình sáng tạo, cụ thể là từ kho tàng văn học dân gian dân tộc. Theo ông, dòng sữa mẹ ngọt ngào

ấy đã nuôi dưỡng con người. Không chỉ vậy, nó còn là sợi dây gắn kết tình mẫu tử thiêng liêng,

là cầu nối từ quá khứ đến hiện tại và cả tương lai. Với trẻ nhỏ, nếu được nuôi dưỡng bằng

truyện cổ tích khi lớn lên thường có tâm hồn mơ mộng và chúng đều rất biết điều. Đặc biệt hơn,

với nhà văn “ảnh hưởng của thế giới cổ tích sâu sắc đến nỗi thiếu nó trang viết sẽ mất đi cái

chất tuyết để dính từng con chữ vào mặt giấy”[89, tr.13].

Phải chăng vì vậy mà Nguyễn Huy Thiệp quan niệm rằng thế giới văn chương mà nhà

văn tạo ra vô cùng phong phú: “văn học là thế giới hoang tưởng của người viết…Trong văn

học thế giới hoang tưởng nhà văn dựng nên có thể như thực, giống thực, khác thực, siêu thực”

[89, tr.43-45]. Thế giới “khác thực, siêu thực” ấy một phần thể hiện qua những tác phẩm được

bao trùm bởi không khí của huyền thoại, cổ tích. Phải yêu thích những câu chuyện cổ trong kho

tàng văn học dân gian đến mức nào, Nguyễn Huy Thiệp mới có cái nhìn đầy ngưỡng vọng như

vậy. Trong bài Phỏng vấn nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, nhà báo Mary Thiên Yên Lê nhận xét

rất sâu sắc rằng hầu hết những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thường được bao bọc bởi

không khí huyền thoại, cổ tích đều có thể được cắt nghĩa từ nền văn hóa truyền thống của dân

tộc Việt, về ý niệm quốc gia hay con người trên mảnh đất văn hiến này [59, tr.383].

Nguyễn Huy Thiệp luôn cho rằng mình chịu ảnh hưởng khá nhiều từ môi trường văn hóa

dân gian ở nông thôn. Cũng trong bài viết Một góc sơ xuất trong thế giới nội tâm nhà văn,

nhà văn đã chân thành bày tỏ: “Tôi may mắn là thời thơ ấu gắn bó với nông thôn. “Mẹ tôi là

nông dân. Còn tôi sinh ở nông thôn…”. Những người nông dân Việt Nam cách đây ba mươi

năm rất thực thà. Tôi được họ dạy bằng thứ ngôn từ thiết thực kiểu như sau: - Cu ai nấy đái –

Trâu thì lấy dây mà dắt, người thì lấy c. mà lôi – Mặt nào ngao ấy – Sướng con cu mù con

mắt.” [89, tr.10]. Nông thôn là cái nôi văn hóa nuôi dưỡng tâm hồn nhà văn. Ở đấy đã dạy ông

những bài học tiếng Việt bình dị, mộc mạc nguyên sơ đầu tiên, từ đó làm hành trang cho ông

trên bước đường sự nghiệp sau này. Chính vì sự ảnh hưởng ấy mà khi cầm bút, ông luôn băn

khoăn “giữa cách diễn đạt nông dân kia với cách diễn đạt bác học thì nên lựa chọn cách diễn

đạt nào?” [89, tr.11]. Tuy nhiên, câu hỏi ấy đã được nhà văn của chúng ta trả lời bằng ngôn từ

nghệ thuật mà ông đã thể hiện trong tác phẩm. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã có sự kết

hợp nhuần nhuyễn hai cách diễn đạt trên, tùy theo từng đề tài mà mức độ đậm nhạt khác nhau.

Đó là một trong những biểu hiện quan trọng của sắc thái dân gian trong ngôn ngữ truyện ngắn

của nhà văn. Điều này cũng góp phần tạo nên văn phong đặc trưng cho truyện ngắn Nguyễn

Huy Thiệp.

Theo Nguyễn Huy Thiệp, thế giới tự nhiên là môi trường văn hóa cũng là môi trường

sống tốt nhất cho con người. Nhà văn nhận thấy tầm quan trọng có tính quyết định của thiên

nhiên đối với cuộc sống của nhân loại. Trong cuộc sống đời thường, với ông, “chọn lối sống

của người bình thường là điều tốt nhất. […]. Tôi chọn lối sống như cỏ cây, cố gắng trở về với

tự nhiên” [93]. Quan niệm ấy xuất phát từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên lâu đời của người Việt

Nam. Trong sáng tác, Nguyễn Huy Thiệp đã xây dựng những cốt truyện, nhân vật nhằm gửi

gắm thông điệp về sự chung sống hài hòa, tôn trọng của con người đối với thế giới tự nhiên

chung quanh. Khi phân tích, chúng tôi sẽ làm rõ sự độc đáo này.

Quan niệm này còn bộc lộ rõ qua các phát biểu của ông trong một số lần trả lời phỏng

vấn. Khi được hỏi vì sao ông thường dành những tình cảm ưu ái cho thiên nhiên, có lần Nguyễn

Huy Thiệp đã trả lời: “Tôi chỉ hướng tới thiên nhiên. Thiên nhiên là điều tuyệt vời nhất. Hãy tôn

trọng tự nhiên, môi trường sống của mình. Tự nhiên dã man vì nó là…tự nhiên. Thiên nhiên

bao gồm cả cuộc sống và con người. Mọi cái đẹp và sáng tạo thực ra đều ẩn giấu trong tự

nhiên; nhà văn chỉ việc tìm và nhìn thấy chúng” [91]. Theo nhà văn, “tâm hồn người Việt Nam

nằm ở nông thôn, nó trú ngụ trong những góc khuất, những căn lều nhỏ nhoi nhất.”[59, tr.499].

Như một thông điệp, Nguyễn Huy Thiệp gửi gắm: “Hãy trở lại tự nhiên. Nông thôn là mẹ của

tất cả chúng ta. Chúng ta đánh mất nông thôn là chúng ta mất mẹ... “Mồ côi mẹ liếm lá đầu

đường...” [92].

Tiểu kết:

Tóm lại, ở chương 1 của luận văn, trong sự hiểu biết nhất định của mình, người viết đã cố

gắng làm rõ ba vấn có tính chất lí luận và thực tiễn sau:

Mối quan hệ giữa văn hóa với văn học nói chung và giữa văn hóa dân gian với văn học

viết nói riêng là mối quan hệ có tính qui luật khách quan, tất yếu của sự tồn tại, phát triển của

văn hóa và văn học. Tuy nhiên đó không phải chỉ là mối quan hệ một chiều mà luôn có sự ảnh

hưởng, tác động qua lại. Văn học vừa là một thành tố quan trọng của văn hoá vừa tác động đến

sự phát triển của văn hoá dân tộc. Với tư cách chủ thể tiếp nhận văn hoá đồng thời là chủ thể

sáng tạo, nhà văn chính là người lưu giữ qua văn chương mình những đặc trưng của văn hoá

dân tộc. Do đó, dù nhà văn viết về vấn đề gì, có sáng tạo đến đâu thì trong tác phẩm vẫn phải

thể hiện được cái tâm thái văn hóa của dân tộc mình.

Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn có vốn sống phong phú. Ông sinh ra và lớn lên ở vùng văn

hóa Bắc Bộ vốn rất giàu bản sắc văn hóa. Bên cạnh đó lại có thời gian khá dài thâm nhập thực

tế nơi văn hóa vùng cao Tây Bắc. Đây là cơ hội để nhà văn có những hiểu biết sâu rộng về

phong tục, tập quán, tín ngưỡng, văn học dân gian các vùng miền. Nguyễn Huy Thiệp còn là

người luôn có ý thức rằng sự trải nghiệm cuộc sống luôn phải đi đôi với quá trình tích lũy kinh

nghiệm sống để nâng cao “chất hiện thực” trong tác phẩm văn chương. Vì thế, có thể lí giải vì

sao truyện ngắn của ông có sự ảnh hưởng đậm của văn hóa dân gian.

Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn có những quan niệm về văn chương đúng đắn. Ông luôn

trăn trở về ý nghĩa của văn chương, về trách nhiệm của người cầm bút. Những quan niệm ấy

thường được nhà văn kí thác qua nhiều điểm nhìn khác nhau nên rất phong phú và phức tạp.

Theo ông, văn chương là một thứ khí giới chứa đựng sức mạnh ghê gớm, tác động đến trật tự

xã hội và sự hình thành nhân cách con người. Nhà văn cần phải có trách nhiệm phản ánh chân

thực cuộc sống, phải dám nói lên tất cả sự thật của đời sống. Đặc biệt, ông luôn đề cao tầm

quan trọng của sự kế thừa từ nguồn văn hóa dân gian đối với quá trình sáng tạo của nhà văn.

Những giá trị văn hóa truyền thống, môi trường văn hóa dân gian ở nông thôn, kho tàng văn

học dân gian là nguồn cảm hứng vô tận trong những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp.

Ba tiền đề có tính chất lí luận và thực tiễn trên là cơ sở để người viết đi sâu vào việc phân

tích, đánh giá sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp qua

các phương diện: cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu. Từ đó nhằm đi đến khẳng định

dấu ấn văn hóa dân gian là một trong những nét chính làm nên sức hấp dẫn thẩm mĩ của truyện

ngắn Nguyễn Huy Thiệp.

Chương 2

CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT

TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP

2.1. Cốt truyện

Là yếu tố hết sức quan trọng của loại hình tự sự nói chung và truyện ngắn nói riêng, cốt

truyện là “hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất

định” [74, tr.99]. Cốt truyện là một hiện tượng phức tạp. Trong thực tế văn học, cốt truyện của

tác phẩm hết sức đa dạng, kết tinh truyền thống dân tộc, phản ánh những thành tựu văn học của

mỗi thời kì văn học, thể hiện phong cách, tài năng nghệ thuật của nhà văn.

Truyện cổ dân gian thuộc loại hình tự sự. Khi xem xét thể loại này, cốt truyện là một

trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá. Đặc trưng của cốt truyện tự sự dân gian thường

cấu tạo theo đường thẳng nhằm để dễ lưu truyền qua hình thức truyền khẩu. Cốt truyện xây

dựng theo trật tự tuyến tính với trình tự thông thường, việc gì xảy ra trước kể trước, việc gì xảy

ra sau thì kể sau, trình tự không gian cũng tuân thủ theo trình tự thời gian. Cốt truyện phát triển

theo một mạch tình tiết: nhân vật chính dẫn dắt từ giai đoạn này sang giai đoạn khác của truyện.

Cốt truyện tự sự dân gian còn được tạo nên bởi nhiều yếu tố kì ảo, siêu nhiên; nhân vật thường

được miêu tả rất đơn giản, chú ý vào hành động hơn là chỉ rõ nội tâm, tính cách; sử dụng nhiều

môtíp sẵn có,…

Để phân tích cốt truyện của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp chịu ảnh hưởng thi pháp cốt

truyện tự sự dân gian và đã có những sáng tạo như thế nào, chúng tôi sẽ tiến hành làm rõ một số

vần đề cơ bản sau: cốt truyện sử dụng yếu tố kì ảo; cốt truyện sử dụng môtip cổ tích; cách

thức mở đầu và kết thúc của cốt truyện mang dấu ấn của truyện cổ dân gian.

2.1.1. Cốt truyện sử dụng yếu tố kì ảo

Bất cứ thể loại văn học nào ra đời đều có nguồn gốc của nó. Nhà nghiên cứu Bùi Việt

Thắng nhận định: “Nhìn tổng thể ở phương Đông, văn xuôi hình thành dưới ảnh hưởng của

thần thoại, truyền thuyết và cổ tích” [80, tr.10). Tuy nhiên ở mỗi giai đoạn văn học, mức độ

ảnh hưởng ấy có sự đậm nhạt khác nhau. Biểu hiện cụ thể của sự ảnh hưởng này là cốt truyện

mang dáng dấp của những câu chuyện huyền hoặc, kì ảo…

Hầu như trong nền văn học của bất kì một dân tộc nào cũng đều có dòng truyện có yếu

tố kì ảo xuất hiện khá sớm, phản ánh nhận thức còn “ngây thơ”, niềm tin lý tưởng của người cổ

đại về thế giới. Cái kỳ ảo chính là sản phẩm của trí tưởng tượng, là phương thức tư duy nghệ

thuật được biểu hiện bằng những năng lực, yếu tố có tính siêu nhiên, nằm ngoài tư duy lý tính

của con người. Kì ảo là yếu tố nghệ thuật giàu sắc thái thẩm mĩ, là thủ pháp nghệ thuật quan

trọng nhất giúp các tác giả dân gian sáng tạo nên những truyện cổ. Nó gắn với nội dung lãng

mạn của truyện. Dân gian muốn thông qua những chi tiết kì diệu, siêu phàm ấy để bày tỏ khát

vọng giải quyết những vấn đề mà thực tế cuộc sống trong xã hội cũ chưa cho phép giải quyết

hoàn toàn như ý muốn. Nó tham gia vào sự phát triển của cốt truyện và tạo nên những phản ứng

nhận thức, thẩm mĩ mạnh mẽ ở người tiếp nhận.

Ở Việt Nam, văn xuôi bác học sử dụng yếu tố kì ảo từ lâu đã tạo thành một hiện tượng

văn học khá đặc biệt bắt nguồn từ những ảnh hưởng của truyền thống folklore dân tộc. Sự có

mặt sớm nhất của yếu tố này là trong các tác phẩm văn học dân gian. Từ đó, nó luôn luôn hiện

hữu trong các tác phẩm qua các giai đoạn văn học. Tuy vậy tùy vào từng giai đoạn, tần suất

xuất hiện của yếu tố này có phần khác nhau. Thời kì văn học trung đại có khá nhiều tác phẩm

mang màu sắc kì ảo như Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Thánh tông di thảo, Truyền

kì mạn lục. Trong giai đoạn 1930 – 1945, những truyện dân gian kì lạ, những câu chuyện

truyền kì của các nhà nho trước đây lại được các nhà văn hiện đại tiếp nối. Tiêu biểu là Trại Bồ

Tùng Linh, Vàng và máu của Thế Lữ, Lan rừng, Bóng người trong sương mù của Nhất Linh.

Đến thời kì văn học đổi mới, yếu tố này được đưa vào văn học dày đặc hơn. Có thể kể tên một

số tác phẩm, tác giả tiêu biểu như Sự tích những ngày đẹp trời (Hòa Vang), Nàng tiên cá

(Nguyễn Thị Ấm), Mắt ma (Y Ban), Máu của thủy thần (Huy Nam). Trong đó tiêu biểu phải

kể đến một loạt truyện của Nguyễn Huy Thiệp như Những ngọn gió Hua Tát, Con gái thủy

thần, Chảy đi sông ơi. Trong văn học đương đại, Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn có nhiều thành

công trong sự sáng tạo cái kì ảo qua nhiều thiên truyện ngắn xuất sắc của ông.

Yếu tố nghệ thuật kì ảo, những môtíp cổ tích chiếm một vị trí lớn trong cốt truyện truyện

ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Chúng không phải chỉ là những trích đoạn riêng rẽ, hay là sự vay

mượn rập khuôn tư liệu văn hóa dân gian của người viết mà là sự ảnh hưởng, cách điệu hóa

chúng với ý đồ nghệ thuật rất cụ thể tạo nên những tác phẩm nghệ thuật thực sự. Lấy ánh sáng

từ khát vọng nhân bản vĩnh hằng chiếu rọi vào tiến bộ và văn minh, Nguyễn Huy Thiệp tìm

được chiếc đũa thần có phép màu biến tất cả những gì vốn dĩ quen thuộc với chúng ta thành

một thế giới rất đỗi lạ lùng, vô cùng kỳ ảo. Những tác phẩm ấy mặc dù mang những đặc điểm

của thể loại truyền thuyết, cổ tích, song đã có sự xử lí rất sáng tạo của tác giả. Sử dụng nhiều

yếu tố kì ảo khi viết truyện, nhưng Nguyễn Huy Thiệp không mong muốn người đọc tin vào

những điều không có thực mà ngược lại muốn nhấn mạnh rằng điều kì diệu chỉ xảy ra trong cổ

tích, thế giới thực phong phú, phức tạp hơn nhiều. Vì thế, truyện của Nguyễn Huy Thiệp “vừa

quen”, vì chúng mang màu sắc kì ảo của truyện cổ, “vừa lạ” vì có sự sáng tạo độc đáo của tác

giả. Điều đó sẽ được minh chứng trong quá trình phân tích cốt truyện của ông.

Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp biểu hiện qua những phương diện cụ

thể như sự xuất hiện các sự kiện, chi tiết kì lạ, hoang đường; những tình huống truyện hư ảo;

những con người có khả năng kì lạ; những giấc mơ bí ẩn,…

Sự kiện, chi tiết là những yếu tố quan trọng cấu thành cốt truyện. Hầu như trang sách nào

của Nguyễn Huy Thiệp cũng có các sự kiện, chi tiết kì ảo. Đặc biệt các sự kiện, chi tiết huyễn

hoặc ken dày trong một số truyện khiến người đọc như đang lạc vào thế giới của huyền thoại,

cổ tích. Những sự kiện không bình thường ấy làm thành cái nền, cái phông cho diễn biến của

câu chuyện, thúc đẩy hành động của nhân vật, có vai trò tạo nên bước ngoặt trong truyện.

Trong một số truyện, những sự việc xảy ra tiếp theo đều xuất phát từ các sự kiện kì lạ. Trong

rừng Hua Tát bỗng xuất hiện một con hổ dữ, người ta đồn rằng trái tim của nó chữa được mọi

thứ bệnh hiểm nghèo, chàng Khó quyết định giết hổ dữ để cứu nàng Pùa vào một mùa đông thật

khắc nghiệt (Trái tim hổ). Rồi một năm khác, gã thợ săn khao khát hơn bao giờ hết săn được

một con thú lớn ba bốn tạ thịt khi ở Hua Tát xảy ra động rừng, cây cối xác xơ, trong rừng

không còn thấy dấu chân một con thú nào (Con thú lớn nhất). Nàng Bua đào được hũ đầy tiền

vàng, tiền bạc vào một năm không hiểu sao củ mài nhiều vô kể trong rừng (Nàng Bua). Nàng E

tìm được người chồng xứng đáng trong lúc trời đang tĩnh lặng bỗng một cơn gió mơ hồ xa xôi

thổi về tạo thành cơn lốc nhỏ (Tiệc xòe vui nhất). Ông già Lò Văn Pành hơn tám mươi tuổi đã

tìm thấy được tình yêu mà ông hằng khao khát mong chờ trong một trận mưa đá kinh hoàng

chưa từng có (Đất quên). Người ta phát hiện ra sự màu nhiệm của chiếc tù và bị bỏ quên trên

gác xép trong một năm bỗng dưng rừng Hua Tát xuất hiện một loại sâu đen kì lạ (Chiếc tù và bị

bỏ quên). Sau những tháng ngày phiêu lưu, người chồng mới nhận ra mình bạc bẽo, vô tình với

vợ khi nạn dịch hoành hành khắp núi rừng (Nạn dịch). Mẹ Cả được đồn là do thủy thần để lại

trong trận bão mùa hè năm 1956 ở bãi Nổi trên sông Cái. Lời đồn nửa thực nửa hư ấy đã ám

ảnh, thôi thúc Chương ra đi (Con gái thủy thần). Cậu bé trốn mẹ, xin lên thuyền theo những

người đánh cá mòi đêm bất chấp nguy hiểm đang chực chờ để mong tận mắt chứng kiến con

trâu đen có đôi sừng cao vút, có thể phi trên mặt nước như phi trên cạn, sẽ đem lại may mắn

cho ai gặp được nó như truyền thuyết còn lưu lại. Biết bao nhiêu chuyện bẽ bàng đã xảy ra từ

những lần lên thuyền ấy (Chảy đi sông ơi).

Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, yếu tố kì ảo đóng vai trò như một tình huống

quan trọng đối với sự chuyển biến của cốt truyện. Nó gắn kết các nhân vật cùng tham gia vào

một sự kiện, biến cố có ý nghĩa nào đó góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề của câu chuyện. Sức

hấp dẫn của cốt truyện còn ở cái cách nhà văn xây dựng được những tình huống truyện tiêu

biểu. Tình huống là điểm giao cắt của nhiều yếu tố cùng một lúc, qua đó tính cách của nhân vật

tức thì hiện ra và vấn đề đột nhiên được phơi mở. Tình huống là những thời khắc tiêu biểu

trong cuộc sống con người. Tại thời khắc đó, nó bộc lộ cái bản chất trong mối quan hệ giữa các

tính cách, giữa các nhân vật và thể hiện sâu sắc chủ đề của tác phẩm.

Nguyễn Huy Thiệp xây dựng cốt truyện bằng những tình huống giả tưởng, mộng ảo để

phản ánh cuộc sống nhân gian, đem lại những cuốn hút kì lạ, bất ngờ cho độc giả. Điển hình là

truyện Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt. Truyện kể về nhân vật là một thi sĩ không rõ lai lịch

tìm đường đến bến đò Vân để thực hiện lời ước hẹn với người con gái năm xưa. Chờ đợi, hi

vọng…song người xưa không còn nữa, chàng thi sĩ cảm thấy cô đơn, lạc lõng trong không gian

trần thế vô định. Chàng biến thành cánh hạc lẻ loi nghiêng lệch góc trời, vừa bay vừa kêu thảng

thốt. Truyện kết thúc bằng một tình huống kì lạ là sự hóa thân của nhân vật chàng thi sĩ nọ góp

phần nêu bật chủ đề tư tưởng của thiên truyện, đồng thời cũng tạo nên sức hấp dẫn lôi cuốn

mạnh mẽ với người đọc. Chàng thi sĩ ấy bay về trời phải chăng vì sứ mệnh với trần gian đã hết?

Hay vì chàng nhận ra rằng cái đẹp, cái tình mà chàng là người đại diện không thể chung sống

với cuộc đời phàm tục đầy khổ đau và những hệ lụy khôn cùng đã hóa thành cánh hạc mãi bay

đi mà vẫn không nguôi xót xa, thảng thốt, tiếc nuối?

Trong truyện Sang sông, tác giả cũng xây dựng một tình huống truyện mang tính chất

tượng trưng, đậm chất kì ảo có ý nghĩa rất lớn đối với sự hấp dẫn của cốt truyện:

“Chú bé đút tay vào trong miệng bình. Thiếu phụ hốt hoảng:

-Này con! Khéo không rút ta được ra thì khốn!

Có lẽ lời nhắc nhủ của thiếu phụ chính là lời rủa của tạo hóa, ở đấy chứa cả nỗi căm uất

quá khứ.

[…]

Chú bé loay hoay. Hình như miệng của chiếc bình bé lại. Chú bé mếu máo […]. Mọi

người trong đò rối rít cả lên. Chú bé không sao rút tay ra được miệng bình” [94, tr.336-337]

Tình huống bất ngờ này dẫn đến hành động bộc lộ bản chất của từng nhân vật trên

chuyến đò ngày hôm ấy. Nhà sư, nhà thơ, nhà giáo…đành bất lực trước tình huống quá đột

ngột, gay cấn trên. Cuối cùng sứ mệnh cứu người lại do tên cướp dáng vẻ hung dữ đảm trách.

Đến bờ, mọi người bước lên, chỉ có một người không sang sông, đó là nhà sư. Nhưng theo ông

thì “Không sao! Muốn đi là được. Ngày xưa đức Bồ Đề Lạt Ma còn sang sông bằng một cọng

cỏ cơ mà…” [94, tr.370]. Có lẽ ông nhận ra rằng chiếc đò vẫn đơn thuần là chiếc đò nơi bến bờ

phàm tục, ở đấy cái xấu vẫn còn lẫn lộn với cái tốt, cái đẹp. Việc nhà sư quay trở lại cho thấy lí

tưởng Bồ Tát nơi ông sụp đổ, chỉ có điều ông vẫn không ngừng hi vọng. “Sang sông” chính là

cuộc hành trình đến bến bờ của Chân – Thiện – Mĩ, cái đích cao nhất mà con người khao khát

hướng đến.

Trong truyện Quân âm chỉ lộ có tình huống Pho tượng Quan âm bị đánh cắp, sau đó tìm

lại được. Khi nhân vật “tôi” đặt bức tượng Phật lên bàn thờ thì thật kì lạ: “Trên khuôn mặt

Quan Thế Âm Bồ tát hình như có một giọt nước mắt trong veo lăn xuống khóc cho số phận trớ

trêu của mỗi con người” [94, tr.593]. Giọt nước mắt của Phật hay chính là nước mắt của tác giả

trước số phận nghiệt ngã của thân phận con người trong cõi nhân sinh này? Cuộc đời vốn

không đẹp như trong cổ tích, tình huống hình như có giọt nước mắt trên khuôn mặt Phật ở cuối

truyện khiến cho cốt truyện thêm hấp dẫn, tư tưởng của truyện được nêu bật, tạo nên những dư ba

day dứt trong lòng người đọc.

Không chỉ hấp dẫn bởi những sự kiện kì ảo và những tình huống bất ngờ, cốt truyện của

Nguyễn Huy Thiệp còn lôi cuốn người đọc thông qua hệ thống những nhân vật được xây dựng

bằng thủ pháp huyền thoại hóa với nhiều chi tiết kì lạ. Trong truyện cổ dân gian, nhân vật được

nhân dân trao cho nhiều phép lạ, khả năng thần kì để cứu nhân độ thế với mong ước họ có thể

xoay chuyển vũ trụ, chế ngự được thiên tai, diệt trừ cái ác. Họ thường có nguồn gốc xuất thân

cao quí như con của trời ban xuống, ông bụt, cô tiên,…Còn nhân vật trong những thiên truyện

của Nguyễn Huy Thiệp lại là những con người rất bình thường, có thực trong cuộc đời, thậm

chí là những nhân vật lịch sử. Song điểm gần gũi giữa nhân vật truyện cổ với nhân vật trong

truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là họ đều có những năng lực lạ kì. Tạo một làn sương huyền ảo

quanh nhân vật là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Chân dung, tính cách nhân vật hiện lên

rõ nét, vừa hiện thực lại vừa huyền ảo, câu chuyện vì thế mà như được bao trùm bởi một thứ

không khí huyền thoại.

Cụ thể như Nguyễn Phúc Ánh (Kiếm sắc) là một nhân vật có thật trong lịch sử nhưng qua

hư cấu của nhà văn, nhân vật lại hiện lên với độ nhòe lớn: “Thỉnh thoảng, Ánh vào sâu trong

đất Thuận Quảng, xuất quỷ nhập thần. Người Đàng Trong sợ Ánh hơn là thích Ánh. Ánh đi đến

đâu nghe nói cũng có mây đen cuồn cuộn bay đằng trước, dân hễ cứ thấy có mưa là biết Ánh

vừa đi qua” [94, tr.155].

Nhân vật Đặng Phú Lân cũng là một người kì lạ. Khi cha qua đời: “Lân khóc, nước mắt

chảy có máu”, hay khi nghe con gái người chủ quán hát bài ca về tài mệnh trong cuộc đời:

“Lân nghe xong, thở dài, máu trào ra từ ngũ khiếu” [94, tr.161]. Không tìm được danh sĩ Bắc

Hà theo lệnh của Nguyễn Phúc Ánh, Lân gặp chúa công xin chịu tội. Song cái chết của Lân

cũng thật lạ lùng. Nguyễn Phúc Ánh sai đao phủ dùng thanh kiếm gia truyền của họ Đặng để

chém đầu Lân, “khi chém mạnh, máu phun ra không đỏ mà trắng như nhựa cây, một lúc sau thì

bết lại” [94, tr.162].

Cái làm nên giá trị cho cốt truyện của Nguyễn Huy Thiệp được thể hiện trên nhiều

phương diện nghệ thuật đặc sắc và phong phú khác nhau mà yếu tố giấc mơ kì ảo là một đóng

góp không nhỏ. Những sự kiện kì ảo không chỉ xảy ra trong tự nhiên mà còn biểu hiện trong

con người qua những giấc mơ bí ẩn.

Trong truyện cổ tích, tác giả dân gian thường có những “giấc mơ” – những ước mơ về

hạnh phúc, về tự do và công lí, điều mà cuộc sống hiện thực của họ không thể có được. Mà thực

chất đấy là những “giấc mơ” có giá trị hiện thực với khát vọng có thực là được đổi đời. Đó là

kết quả của hoạt động lí trí và tình cảm của người xưa trong lúc tỉnh chứ không phải là biểu

hiện của những ẩn ức.

Truyện Những người thợ xẻ kể về nhân vật Ngọc, sau khi thất bại trên con đường học

vấn phải lên vùng rừng thiêng nước độc làm thợ xẻ. Cuộc sống hàng ngày với bao điều xấu xa

khiến Ngọc trở nên cộc cằn, thô lỗ. Tuy nhiên thông qua giấc mơ của anh, ta thấy dường như

Ngọc không thôi khát vọng tìm kiếm một cuộc sống thanh cao trong những xô bồ, bon chen của

cuộc sống đời thường: “Trong giấc mơ, tôi thấy năm anh em thợ xẻ chúng tôi đi đến một cái

cầu vồng bảy sắc. Những thiên sứ chạy ra đón chúng tôi, áo xanh, áo đỏ tung bay phấp

phới.[…]. Chúng tôi cứ đi, đi mãi…Tôi biết chắc chắn ở trước mặt tôi đấy là cổng Trời, là cổng

Thiên Đường” [94, tr.131-132]. “Cổng trời, Thiên Đường” là những không gian chỉ xuất hiện

trong mơ ước tâm linh của người xưa. Nhân vật trong truyện Nguyễn Huy Thiệp cũng không

thôi mơ về những nơi xa xăm, lạ kì ấy. Họ hi vọng nơi đó có thể giúp họ thoát khỏi cuộc đời vất

vả, tù đọng của hiện thực để vươn tới cuộc sống thanh cao, thoát tục hơn. Những giấc mộng

mang đậm chất cổ tích ấy là điểm giúp nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp gần gũi hơn với những

con người trong truyện cổ xa xưa.

Những giấc mơ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là những yếu tố nghệ thuật độc

đáo mang vẻ đẹp của đời sống tâm linh trong văn hóa dân gian nói chung, văn học dân gian nói

riêng gắn với tư duy nghệ thuật và hệ thống thi pháp của nhà văn. Sự sáng tạo độc đáo của nhà

văn ở đây chính là người kể chuyện mô tả giấc mơ của các nhân vật luôn bị chi phối bởi những

yếu tố kì ảo. Và chúng là hệ quả tất yếu của những ham muốn đời thường mà con người chưa

có được.

Tuy nhiên nếu trong cổ tích, tác giả dân gian hoàn toàn tin vào khát vọng đổi đời trong

những giấc mộng đẹp thì người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp lại dường như

không tin vào điều đó. Vì thế khi tỉnh giấc, nhân vật thường bị vỡ mộng vì sự thật phũ phàng

hiện hữu trong đời thường khác hẳn với điều họ gặp trong chiêm bao.

Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật thường có những giấc mơ tái hiện lại

cuộc sống cơ cực thường nhật. Đó là những giấc mơ “toàn những việc làm hàng ngày” nhưng

lại có phần ma quái của Chương (Con gái thủy thần). Anh mơ thấy mình “đào đá ong, xắn

phải ngón chân cái, một lúc sau ngón chân lại tự mọc ra, lại xắn phải lần nữa, cứ thế vài chục

lần, lần nào cũng đau lắm”. Chương thấy mình lột giang,”dao cứa đứt cả năm ngón tay, khi ăn

cơm phải vục mặt xuống như chó” [94, tr.77-78]. Lại có lần trong mơ Chương “đi lạc vào một

lòng suối khô cạn. Tôi đi ngược lên mãi. Hai bên đường đi là vách đá dựng đứng như đường

lên trời” [94, tr.101]. Cứ thế, những giấc mơ kéo đến nặng nề, chúng như động lực thôi thúc

Chương phải ra đi, phải kiếm tìm cuộc sống mới. Cần lưu ý là nhân vật Chương ra đi để mong

làm được điều gì đấy tốt đẹp hơn cuộc sống vất vả thực tại chứ không phải anh mơ thấy mình

trở thành vua, hay được thần tiên ban cho sự giàu sang phú quý. Đó là điểm khác biệt giữa nhân

vật của Nguyễn Huy Thiệp với nhân vật trong truyện cổ.

Khảm (Không có vua) mơ thấy mình “đi giết lợn, giết mãi không chết, thế là bị đuổi đi

dọn cả một bể cứt […]. Mưa bão đến, bể cứt trôi phăng phăng, em ngập trong ấy, cứt vào cả

mồm, cả lỗ tai” [94, tr.59]. Hình ảnh trong giấc mơ quái đản mà Khảm thấy mình vào bể cứt

hay chính là sự uế tạp đời sống của Khảm trong hiện tại? Nó phản ánh đúng cái thực trạng môi

trường sống mà anh ta đang ngập ngụa trong đấy, nơi mà hầu như mọi nền tảng đạo lí, mọi giá

trị đích thực của cuộc sống đều đã bị huỷ hoại thảm hại.

Có lúc những giấc mơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn là điềm dự báo cho

những việc có thực sắp xảy ra trong tương lai. Trong Giọt máu, Thiều Hoa mơ thấy “Lão Tân

Dân về gọi thằng Hạnh. Lúc ấy nửa đêm, thấy lão Tân Dân đưa cho thằng Hạnh một thùng sắt

tây qua phía hàng rào” [94, tr.291]. Và quả vậy, ngay đêm ấy thằng Hạnh đổ xăng thiêu trụi

căn nhà. Một lần, Phong mơ thấy “mình lạc vào địa ngục. Một cái vạc lửa to cháy bùng bùng,

những con quỷ dạ xoa, mặt đen, tóc dài đang chụm củi đun. Trong vạc, những người bị xiềng

xích đang rên la thảm thiết” [94, tr.294]. Thì chẳng bao lâu sau, Phong qua đời.

Dostoievski từng nhận xét: “Cái có tính huyễn hoặc là cần thiết để tiếp cận hiện thực”.

Nhà văn Nga vĩ đại đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc dùng huyền thoại, các yếu tố kì ảo

như một phương thức nghệ thuật trong xây dựng tác phẩm văn học. Bức tranh hiện thực đời

sống đa diện, hình thức đơn điệu của phản ánh không đủ để biểu hiện. Kì ảo là một trong những

yếu tố góp phần làm phong phú thêm cách tiếp cận hiện thực. Qua bức màn huyền bí, cuộc

sống và thế giới nội tâm, tâm linh của con người được hiển hiện rõ nét, sinh động và chân thực

hơn. Nhà văn sử dụng các yếu tố kỳ ảo như một phương thức nghệ thuật để chiếm lĩnh và khám

phá hiện thực. Trong phương thức kỳ ảo, các nhà văn thường sử dụng các dạng thức khác nhau

tạo nên các sắc màu phong phú đa dạng, hấp dẫn cho tác phẩm, góp phần cùng với các yếu tố

nghệ thuật khác để xây dựng cốt truyện hướng đến việc bộc lộ chủ đề tư tưởng tác phẩm. Chính

cái kỳ ảo cũng là một trong những yếu tố tạo nên phong cách nghệ thuật của tác phẩm văn học.

Trong một số tác phẩm, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã sử dụng yếu tố kỳ ảo như một thủ pháp

nghệ thuật để cấu thành nên cốt truyện. Một phần được tạo nên từ sắc thái thẩm mỹ của cái kỳ

ảo, song cốt truyện của ông không vì thế mà giảm đi giá trị hiện thực, trái lại nó còn cung cấp

cho chúng ta cách nhận diện về cuộc sống, làm gia tăng điểm nhìn nghệ thuật và các chiều tiếp

cận hiện thực. Sử dụng yếu tố kì ảo khi xây dựng cốt truyện là cách đưa truyện của ông về gần

với truyện cổ dân gian và gần hơn với thẩm mĩ tiếp nhận truyền thống quen thuộc của độc giả.

2.1.2. Cốt truyện sử dụng môtíp cổ tích

Không chỉ xây dựng cốt truyện bằng những sự kiện lạ lùng, những giấc mơ bí ẩn,

Nguyễn Huy Thiệp còn sử dụng môtíp cổ tích điển hình để xây dựng cốt truyện cho nhiều thiên

truyện, tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn về mặt nội dung lẫn hình thức nghệ thuật biểu hiện. Các

môtíp ấy có thể là môtíp ra đời kì lạ (Con gái thủy thần, Phẩm tiết ); môtíp thi tài kén rể (Tiệc

xòe vui nhất); môtíp “gieo gió gặt bão, ác giả ác báo, tích ác gặp ác” (Sói trả thù, Con thú

lớn nhất, Tội ác và trừng phạt); môtíp cô gái mồ côi xấu xí thoắt cái trở nên xinh đẹp, sung

sướng (Nàng Sinh); môtíp người đàn bà nghèo, nhân hậu bỗng được của và trở nên giàu có

(Nàng Bua); môtíp chàng trai mồ côi nghèo khó, dị dạng diệt hổ dữ để cứu người đẹp tật

nguyền (Trái tim hổ); môtíp nhân vật ra đi tìm những giấc mơ, những truyền thuyết huyễn hoặc

(Chảy đi sông ơi, Con gái thủy thần, Trái tim hổ, Đất quên);…

Tiêu biểu cho cốt truyện có sử dụng môtíp nhân vật xuất hiện hay ra đời một cách kì lạ là

các truyện Con gái thủy thần, Phẩm tiết.

Truyện Con gái thủy thần được bắt đầu bằng một môtíp nhân vật xuất hiện kì lạ. Truyện

kể về hành trình đi tìm Mẹ Cả của Chương. Ngay từ thời niên thiếu, huyền thoại về Mẹ Cả đã

ám ảnh Chương và đấy cũng là lí do thôi thúc anh rời quê hương ra đi. Mẹ Cả xuất hiện trên

trần gian một cách kì lạ. Mẹ Cả là hình tượng vốn chỉ có trong trí tưởng tượng phong phú của

nhân dân cho nên sự ra đời của bà chắc hẳn phải gắn với những sự việc lạ kì. Người kể chuyện

kể vào trận bão mùa hè năm 1956: “Ở bãi Nổi trên sông Cái, sét đánh cụt ngọn cây muỗm đại

thụ. Không biết ai nói trông thấy có đôi giao long quấn chặt lấy nhau vẫy vùng làm đục cả một

khúc sông. Tạnh mưa, dưới gốc cây muỗm, có một đứa bé mới sinh đang nằm. Đứa bé ấy là con

của thủy thần để lại” [94, tr.75].

Không chỉ là những nhân vật trong tâm thức của đời sống tâm linh dân gian mới xuất

hiện kì lạ, trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp những nhân vật do nhà văn hư cấu cũng có

hoàn cảnh ra đời rất khác thường. Như trong Phẩm tiết: “Khi đẻ ra Vinh Hoa, trên nóc nhà

bỗng có đám mây ngũ sắc bay đến, tỏa ra ánh sáng rực rỡ, khắp nơi hương thơm ngào ngạt.

Trên cổ Vinh Hoa có tràng hoa quấn cổ, xòe lòng bàn tay ra thấy có viên ngọc ở trong, trên

khắc hai chữ “thiên mệnh” [94, tr.173]. Vinh Hoa là con gái của một nhà buôn giàu có bậc nhất

Kẻ Chợ. Nhan sắc, tài trí cũng như phẩm hạnh của Vinh Hoa khiến vua Quang Trung, vua Gia

Long đều hết mực yêu mến và mong được có nàng bên cạnh. Mở đầu câu chuyện bằng những

chi tiết ra đời khá lạ lùng của Vinh Hoa, phải chăng Nguyễn Huy Thiệp phần nào đó muốn

ngầm cảnh báo cho chúng ta nhân vật này cũng như các nhân vật liên quan như Quang Trung,

Gia Long đều chỉ là những nhân vật mang tính chất hư cấu của hình tượng văn học và độc giả

chớ nên nhầm lẫn điều này. Và quả thực nhiều người đã bị nhà văn “đánh lừa” nên đã có ý kiến

phê phán kịch liệt với những suy diễn ra ngoài văn học về truyện ngắn Phẩm tiết.

Trong truyện Tiệc xòe vui nhất, Nguyễn Huy Thiệp sử dụng môtíp rất phổ biến trong

truyện cổ tích là môtíp thi tài kén rể. Trưởng bản Hà Văn Nó quyết định tổ chức một cuộc thi

tài để chọn người có đức tính quý nhất mà khó kiếm nhất làm chồng cho con gái Hà Thị E. Để

đạt được mục đích, mỗi nhân vật đều phải trải qua thử thách. Các đoạn nói về sự thử thách

nhiều chỗ lặp lại gần như hoàn toàn và đã trở thành công thức trong truyện cổ tích. Để mô tả,

nhà văn sử dụng một cấu trúc ba tầng (theo số lượng người đến cầu hôn).

Lần thứ nhất, chàng trai dáng vẻ hùng dũng đến cầu hôn, chàng nói:

“- Dũng cảm là đức tính quí nhất và khó kiếm nhất. Tôi là người có đức tính ấy!”

- Cứ chứng minh xem! – Trưởng bản trả lời.” [94, tr.223]

Lần thứ hai, chàng trai trông thông minh, sáng sủa đến mong làm chồng nàng E, chàng

bảo:

“- Khôn ngoan là đức tính đáng quí và khó kiếm! Tôi là người có đức tính ấy!

- Cứ chứng minh xem! Các bô lão nói với chàng trai.” [94, tr.224]

Lần thứ ba, chàng trai béo phị cưỡi ngựa đến xin được làm con rể trưởng bản, chàng béo

nói:

“- Giàu có là đức tính đáng quí và khó kiếm nhất. Tôi là người giàu có” [94, tr.225]

Cuối cùng, chàng trai mồ côi tên là Hặc đến nói với mọi người:

“- Trung thực là đức tính đáng quí và khó kiếm nhất!

- Cứ chứng minh xem! Mọi người bảo chàng.” [94, tr.226]

Lòng trung thực đáng trọng của Hặc đã được Then chứng minh bằng một trận mưa như

trút xuống bản mường. Then đã giúp Hặc trở thành chồng nàng E xinh đẹp, thông minh hết mực

cũng nhờ đức tính đáng trọng ấy của chàng. Như vậy trong truyện này, tác giả còn sử dụng

môtíp chàng trai mồ côi lấy được vợ đẹp nhờ có phẩm chất đạo đức cao quí nên được lực lượng

siêu nhiên phù trợ mà ta vẫn thường gặp trong truyện cổ dân gian.

Một trong những môtíp khá tiêu biểu trong cốt truyện Nguyễn Huy Thiệp là môtíp “gieo

gió gặt bão; tích ác gặp ác; ác giả ác báo”. Về vấn đề tội ác và sự trừng phạt, trước Nguyễn

Huy Thiệp đã có nhiều người khai thác thành công. Tuy nhiên môtíp này thực chất là một dạng

của môtíp nhân quả đã phổ biến trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam. Nếu con người gây

ra cái ác, tích ác sẽ phải lãnh nhận hậu quả, điều đó là không thể tránh khỏi.

Truyện Huyền thoại phố phường kể về cuộc sống rất nghèo khổ của nhân vật Hạnh. Hắn

ta luôn nung nấu tham vọng là trở nên giàu có. Bất chấp mọi thủ đoạn đê hèn, Hạnh quyết tâm

chiếm đoạt tờ vé số của bà Thiều mà hắn nghĩ là sẽ trúng độc đắc và sau đó ném trả lại cho bà

ta tờ vé số của mình. Nào ngờ bà Thiều lại trúng độc đắc. Hạnh trở nên điên loạn phải đưa vào

viện tâm thần. Hạnh đã phải trả giá cho hành vi đê tiện mà hắn gây ra.

Tiêu biểu cho môtíp vừa kể trên là thiên truyện Tội ác và trừng phạt. Truyện kể về nhân

vật cô gái mười sáu tuổi sống ở vùng cao Tây Bắc. Trong một lần đi rừng, không kìm được thú

tính, ông bố đã hãm hiếp cô. Quá đau khổ và nhục nhã, trong cơn hoảng loạn, cô gái đã dùng

rìu bổ vào giữa trán ông ta và phóng hỏa ngôi nhà thiêu chết cả ba đứa em vô tội đáng thương.

Hành động của cô quá nông nổi và chắc chắn luật pháp sẽ trừng trị nghiêm minh. Nhưng cái

chết của người bố như là minh chứng sống động cho triết lí dân gian “gieo gió gặt bão”. Triết

lí ấy có giá trị nhân sinh cho mọi thời đại. Nhà văn muốn mượn môtíp dân gian để phản ánh

vấn đề cái ác hiện nay đang hoành hành, đang là ung nhọt nhức nhối của xã hội. Nói như tác giả

thì sự mông muội tinh thần có ở thành thị đến những vùng đất xa xôi hẻo lánh, và tội ác sẽ trở

nên hết sức man rợ bởi sự mông muội tinh thần đó.

Theo quan niệm dân gian, tất cả những tội ác mà con người gây ra cho người khác hay

những sinh linh bé mọn trong thế giới tự nhiên sẽ phải trả những cái giá rất đắt. Con người phải

lãnh chịu hậu quả do tội ác mình đã gây ra, thậm chí người thân của họ cũng phải gánh chịu tội

lỗi thay. Môtíp này khá phổ biến trong cốt truyện của Nguyễn Huy Thiệp. Người cha bị chính

đứa con gái của mình giết vì tội lỗi mà ông ta đã gây ra là không thể tha thứ, nhưng ba đứa em

lại bị vạ lây từ người cha đốn mạt (Tội ác và trừng phạt). Người vợ đáng thương bị chính viên

đạn từ khẩu súng săn của người chồng hạ sát trong một lần ông ta đang say máu săn đuổi “con

thú lớn nhất”, sau đó ông ta cũng chết bởi chính họng súng của mình (Con thú lớn nhất).

Người con trai duy nhất của ông Nhân cũng bị con sói nuôi trong nhà cắn chết thê thảm (Sói trả

thù). Cậu bé Tâm bị sét đánh chết do những tội lỗi của bố mình gây ra (Giọt máu). Hoặc con

người nhận ra được bài học nhân sinh sâu sắc sau khi vừa gây ra cái ác như ông Diểu trong

Muối của rừng. Gia đình khỉ hoang dã đã giúp ông “ngộ” ra điều đó trước khi mắc phải tội sát

sinh.

2.1.3. Cách thức mở đầu và kết thúc của cốt truyện mang dấu ấn của truyện cổ dân gian

2.1.3.1. Cách thức mở đầu

Xét về cách mở đầu trong các truyện kể dân gian, ta thấy chúng thường kết cấu theo trình

tự thời gian và điều này được tuân thủ một cách rất chặt chẽ. Trong truyện kể dân gian, phần

mở đầu bao giờ cũng là phần giới thiệu thời gian, địa điểm (dù rất mơ hồ) diễn ra câu chuyện,

hoàn cảnh sống, lai lịch của nhân vật thường hết sức ngắn gọn. Phần này thường có tác dụng

như là nguyên nhân trực tiếp cho các sự kiện diễn ra tiếp theo trong truyện.

Nguyễn Huy Thiệp là một trong những nhà văn đã kế thừa một cách rất hợp lí cách thức

mở đầu của văn chương truyền thống để tạo ra những nét riêng khó hòa lẫn trong nghệ thuật tự

sự của mình. Trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, có khá nhiều tác phẩm có cách mở

đầu theo kiểu truyền thống. Tiêu biểu có thể kể đến những truyện như Những ngọn gió Hua

Tát, Con gái thuỷ thần, Giọt máu, Muối của rừng, Những người thợ xẻ,…

Công thức mở đầu theo kiểu truyền thống thể hiện rõ nét nhất ở chùm truyện Những

ngọn gió Hua Tát. Trong các câu chuyện nhỏ, Nguyễn Huy Thiệp đều chọn cách mở đầu quen

thuộc trong truyện cổ tích. Hầu như mở đầu tác phẩm nào, tác giả giới thiệu một cách rất ngắn

gọn về lai lịch, hoàn cảnh xuất thân của nhân vật, sự kiện. Có thể kể ra đây một số tác phẩm có

cách mở đầu như thế.

Đây là đoạn mở đầu của truyện Trái tim hổ: “Ngày ấy, ở Hua Tát có một cô gái tên là

Pùa. Sắc đẹp của nàng khắp các mường không ai bì kịp, da trắng như trứng gà bóc, tóc mượt

và dài, môi đỏ như son. Chỉ khổ một nỗi là Pùa bị liệt hai chân, suốt năm suốt tháng nằm một

chỗ” [94, tr.214-215]. Vẻ đẹp tuyệt trần của Pùa đã khiến bao chàng trai liều mình lấy cho

được trái tim hổ làm phương thuốc thần diệu chữa khỏi đôi chân tật nguyền cho nàng.

Hay bản chất tính cách nhân vật phần nào bộc lộ qua những lời giới thiệu sơ lược của

người kể chuyện trong Con thú lớn nhất: “Ngày ấy, ở Hua Tát có một gia đình ngụ cư không

biết ở mường nào chuyển đến. Họ dựng nhà ở ngoài rìa bản, chỗ gần rừng ma. Nhà ấy chỉ có

hai vợ chồng đều luống tuổi. Người vợ lúc nào cũng âm thầm, im lặng suốt ngày không hề thấy

nói một tiếng. Người chồng cao lớn, gầy guộc, mặt sắt lại, mũi như mỏ chim. Đôi mắt của lão

đục và sâu hoắm, phảng phất những tia lân tinh lạnh lẽo” [94, tr.218].

Mở đầu truyện Sói trả thù là lời giới thiệu ngắn gọn về nhân vật: “Ở Hua Tát có gia đình

thợ săn họ Hoàng. Đến đời Hoàng Văn Nhân thì tiếng tăm gia đình này đã vang dội khắp bản

mường. Nhân bắn rất giỏi, ông luôn là người cầm chịch trong các mùa săn. Ông không biết sợ

là gì. Điều này giống như cha ông, ông nội ông và cụ nội ông” [94, tr.227]. Chính truyền thống

gia đình và tài săn thú lão luyện của bản thân đã khiến ông Nhân chủ quan khi tưởng mình có

thể thuần hóa được sói dữ để rồi phải gánh chịu hậu quả nặng nề là mất đi đứa con trai duy

nhất.

Truyện Sạ được bắt đầu bằng chi tiết khái quát: “Kẻ điên rồ nhất ở bản Hua Tát là Sạ.

Sạ là con trai út ông Pành, người từng lập nên cả một gia đình đông đúc có tám người con và

gần ba chục người cháu; ông già nổi tiếng khắp các bản mường” [94, tr.236]. Sự “điên rồ” của

Sạ sẽ được minh chứng tuần tự theo từng giai đoạn của cuộc đời. Cuối cùng chính nhờ sự “điên

rồ” ấy mà Sạ và những người khác đã nhận ra những bài học nhân sinh sâu sắc.

Mở đầu truyện ngắn Con gái thủy thần, tác giả giới thiệu nguồn gốc, lai lịch sự xuất hiện

kì lạ của Mẹ Cả: ““Chắc nhiều người còn nhớ trận bão mùa hè năm 1956. Trận bão ấy, ở bãi

Nổi trên sông Cái, sét đánh cụt ngọn cây muỗm đại thụ. Không biết ai nói trông thấy có đôi

giao long quấn chặt lấy nhau vẫy vùng làm đục cả một khúc sông. Tạnh mưa, dưới gốc cây

muỗm, có một đứa bé mới sinh đang nằm. Đứa bé ấy là con thuỷ thần để lại” [94, tr.75]. Và

chính nhân vật con gái thủy thần đã trở thành nỗi ám ảnh thôi thúc Chương ra đi kiếm tìm suốt

một thời trai trẻ.

Nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp có cách mở đầu khá đơn giản. “Năm mười

bảy tuổi, sau khi học xong trung học, tôi về nghỉ hè ở nhà một người bạn học cùng lớp tên là

Lâm ở xóm Nhài, thôn Thạch Đào, tỉnh N” (Những bài học nông thôn), [94, tr.133] . “Bà

Móng tên thật là Dương Thị Hợp, hồi nhỏ ở với bố mẹ ở xóm núi Bò, sau đường Đội Cấn Hà

Nội bây giờ” (Chuyện bà Móng), [94, tr.530].

Cách vào đầu truyện như thế khá hấp dẫn vì nó chỉ nêu những nét khái quát nhất tạo

được sự lôi cuốn độc giả. Tuy nhiên một số thiên truyện lại được nhà văn mở đầu với khá nhiều

chi tiết rậm rà. Trong truyện Giọt máu, Nguyễn Huy Thiệp có cách mở đầu khá cụ thể về lai

lịch của dòng họ Phạm, lai lịch của các nhân vật cùng những ước vọng được “ít chữ nghĩa” để

có đức để lại đời sau: “Nửa đầu thế kỉ trước, ở Kẻ Noi, huyện Từ Liêm, có ông Phạm Ngọc Liên

là bậc đại phú. Ông Liên xây nhà trên miếng đất đầu làng. Miếng đất này bằng phẳng, rộng ba

sào hai thước. Có người đi qua bảo rằng. “Đất này đẹp, hình bút, phát về văn học. Đã phát về

văn học thì nước cạn, tàu ráo, hiếm con trai”. Ông Liên nghe xong, níu áo người đó bảo: “Tôi

bình sinh là dân cày cuốc mong con cháu sau này có ít chữ nghĩa mở mặt với đời. Hiếm con

cháu cũng được, miễn là có đức, thiên hạ nể trọng…” [94, tr.265]. Đây cũng là cách mở đầu

cho những lí giải vì sao con cháu dòng họ Phạm lại cố gắng hoàn thành tâm nguyện của tiên tổ

bằng mọi giá đến như vậy.

Truyện ngắn Những người thợ xẻ kể về nhóm thợ xẻ dưới xuôi lên Tây Bắc làm nghề xẻ

gỗ thuê. Mở đầu câu chuyện là lời kể rất chi tiết của nhân vật “tôi”. “Ít năm trước đây, tôi theo

chân một toán thợ xẻ lên miền ngược kiếm ăn. Chúng tôi có năm người, do ông anh họ tôi tên

là Bường đứng ra làm cai. Bường là một tay anh chị khét tiếng. Trước kia Bường đi bộ đội, ở

một đơn vị đặc công thuỷ. Năm 1975, anh dây dưa vào một vụ trộm phân đạm ở huyện, bị tù ba

năm. Ra tù, Bường chẳng chịu làm ăn gì, mở một quán rượu thịt chó nhưng được hơn một năm

thì phá sản. Thời gian Bường mở quán, trong làng tôi nhiều nhà bị mất trộm chó hết sức thần

tình […]. Sau này, vì thua bạc, chán đời, Bường phóng hoả đốt quán. Ít lâu sau Bường chuyển

sang nghề buôn cây […] Được hai năm, anh bỏ đi buôn bè trên mạn ngược. Lần này, Bường về

lập một toán thợ xẻ theo anh lên rừng kiếm ăn…” [94, tr.107-108]. Những thông tin trên vừa đủ

để cho chúng ta nhận diện bản chất khái quát về nhân vật Đặng Xuân Bường. Ấn tượng đầu tiên

về nhân vật này là “một tay anh chị khét tiếng”. Còn vì sao lại gọi anh ta như thế thì những sự

kiện tiếp theo của câu chuyện sẽ góp phần làm rõ hơn hành vi của nhân vật này. Tính hấp dẫn

của truyện có được một phần nhờ đoạn kể mở đầu khái quát ấy.

Cách thức mở đầu trong một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp gần với cách mở đầu

theo công thức truyền thống như tuân theo trình tự tuyến tính, kết hợp với những đoạn giới

thiệu khái quát về nhân vật, sự kiện. Kết cấu ấy đã góp phần đưa độc giả trở về với thẩm mĩ tiếp

nhận quen thuộc. Thêm vào đó, một trong những nét ấn tượng của nghệ thuật kết cấu trong

truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp chính là ở các kết thúc vừa truyền thống vừa hiện đại, đây là

một nét sáng tạo độc đáo của nhà văn.

2.1.3.2. Cách thức kết thúc

Cách kết thúc tác phẩm cũng có một vai trò rất lớn trong việc tạo nên sự hấp dẫn của

truyện. Trong truyện dân gian, kết thúc câu chuyện là khi các mâu thuẫn đã được giải quyết một

cách triệt để, người ở hiền sẽ gặp lành, kẻ gieo gió phải gặt bão, đó là một kết thúc trọn vẹn,

khép kín, thường gọi là kết thúc có hậu. Kết thúc kiểu này dựa trên ước mơ về công lý và lẽ

công bằng, về hạnh phúc của người lao động nghèo khổ trong một xã hội có quá nhiều bất

công, đồng thời chứng minh cho triết lý nhân sinh “ở hiền gặp lành” của họ. Sự đổi đời trong

loại truyện cổ tích thường là nhân vật được hạnh phúc tuyệt đỉnh: có nhiều vàng bạc châu báu,

được làm vua, làm hoàng hậu, làm phò mã, được hạnh phúc. Đó là phần thưởng xứng đáng với

công sức lao động mà nhân vật đã thực hiện từ đầu truyện. Chính vì lý do này mà nhân vật đổi

đời bao giờ cũng mang nét lí tưởng tức là rất tốt để xứng đáng với phần thưởng to lớn mà mình

được hưởng. Còn theo thi pháp hiện đại, những phần kết thúc của các tác phẩm hết sức đa dạng.

Có kết thúc đánh dấu sự giải quyết trọn vẹn xung đột được miêu tả trong tác phẩm, lại có kết

thúc tuy đánh dấu sự xóa bỏ tính cách và số phận nhân vật nhưng mâu thuẫn vẫn chưa được giải

quyết,…

Một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mang dáng dấp của truyện cổ tích qua dấu

ấn của những kiểu kết thúc có hậu. Tiêu biểu là ở các truyện: Tiệc xòe vui nhất, Chiếc tù và bị

bỏ quên, Nàng Sinh. Các truyện này thường bắt đầu bằng một sự bất an hay một tai họa nào

đấy (nạn hạn hán, dịch sâu đen phá hoại mùa màng, cuộc đời mồ côi xấu xí) và kết thúc bằng

sự may mắn, mọi người đều được hưởng cuộc sống an bình, hạnh phúc.

Đoạn kết truyện Chiếc tù và bị bỏ quên là một ví dụ điển hình. Năm ấy rừng Hua Tát

bỗng dưng xuất hiện loại sâu đen kì lạ. Chúng tàn phá tất cả cây cối trong rừng. Bản làng tiêu

điều như có dịch hạch. Cuối cùng nhờ sự nỗ lực của dân làng và sự thần kì của chiếc tù và bị bỏ

quên, cuộc sống no ấm đã trở lại trên bản làng: “Từ đấy, ở bản Hua Tát, sáng sáng lại có một

hồi tù và vang dội cất lên. Tiếng tù và cổ xưa nhắc nhở mọi người nhớ đến tổ tiên, báo hiệu

cuộc sống bình yên không có sâu hại…” [94, tr.236].

Kết thúc Tiệc xòe vui nhất thật có hậu. Chàng trai mô côi Hặc sau khi trải qua thử thách

cam go đã chứng minh được đức tính trung thực, nhờ đó lấy được người con gái rất xinh đẹp và

thông minh: “Lần ấy, người ta đã xòe suốt một tuần trăng để mừng đám cưới của Hặc với con

gái trưởng bản. Đây là tiệc xòe vui nhất ở bản Hua Tát. Cả bản đều say khướt. Từng cái cột

nhà, thậm chí đến từng cái cây trong vườn cũng được mời uống một sừng rượu đại” [94,

tr.227].

Truyện Nàng Sinh cũng có một kết thúc đẹp như thế. Sinh là một thiếu nữ mồ côi đáng

thương ở bản làng Hua Tát. Những tưởng cuộc đời nàng sẽ mãi là những tháng ngày buồn bã,

thui thủi một mình trong sự cô quạnh thì bỗng một hôm có một vị khách phương xa xuất hiện,

Sinh đã may mắn được đổi đời, hạnh phúc viên mãn: “Ông khách lặng người, những giọt nước

mắt lăn trên gò ám. Ông xin dân bản được đón Sinh đi. Ông sắm váy mới, áo mới cho nàng.

Sinh bỗng trở nên xinh đẹp lạ thường […]. Người ta đồn rằng về sau Sinh rất sung sướng. Ông

khách là một Hoàng Đế cải trang vi hành…” [94, tr.243].

Đọc đoạn kết của những câu chuyện này, người đọc cứ ngỡ như mình đang lạc vào thế

giới cổ tích. Vật thần kì hay thần linh vẫn còn hiện hữu đâu đó trong cuộc đời để phù trợ cho

cuộc sống con người. Ở đấy con người vẫn không thôi mơ ước và hãy còn tin tưởng vào những

điều kì diệu, huyền ảo.

Một số tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp kết thúc bằng hình thức lấy ý kiến dân gian, một

kiểu môtíp lời đồn tạo nên đoạn kết truyện khiến cho câu chuyện vừa chân thực lại vừa huyền

ảo, rất ấn tượng. Cách kết thúc như thế tiêu biểu cho kiểu kết thúc khá phổ biến trong truyện cổ

và một số truyện ngắn sau đổi mới cũng tiếp nối hình thức này. Nguyễn Huy Thiệp thường sử

dụng dư luận, tiếng nói của dân gian thông qua lời kể, lời đồn để mở ra nhiều chiều về số phận

con người. Tiêu biểu cho cách kết thúc này là đoạn kết của các truyện Thiên văn, Giọt máu.

Đây là đoạn kết của tác phẩm Thiên văn: “Ngày ấy, năm ấy, đồn rằng có khách qua

sông trên đò một mình, chẳng có chèo, chẳng có sào gì cả, mưa bão rất lớn mà đò vẫn cập bến.

Người ta bảo rằng đấy là một thiên thần qua sông. Dấu chân để lại trên sạp đò rất lớn, cô lái

đò ướm chân mình vào đấy về nhà mang thai” [94, tr.377]. Người khách ấy là ai? Là người trần

thế hay thiên thần? Câu hỏi ấy cho đến nay có lẽ vẫn còn bỏ ngỏ. Song không chấp nhận với lời

đồn hư ảo của dân gian, tác giả còn xen vào “đoán tướng” nhân vật lạ kì kia. “Cũng có thể qua

sông hôm ấy là một thi sĩ. Thi sĩ bao giờ cũng làm những việc lạ thường, đuổi theo những vẻ

đẹp kì ảo, những vẻ đẹp huyền bí. Chỉ có điều vết chân thi sĩ để lại thường rất nhỏ” [94,

tr.377]. Kết truyện có sự kết hợp lời đồn dân gian khách quan với sự suy đoán chủ quan của tác

giả. Nhân vật “khách” trong truyện vừa mang dáng dấp của một thiên thần, vừa mang chân

dung của một con người hiện đại với những khát vọng lớn lao “làm những việc lạ thường, đuổi

theo những vẻ đẹp kì ảo, những vẻ đẹp huyền bí” nhưng cuộc đời anh ta cũng thật nghiệt ngã

bởi “vết chân thi sĩ để lại thường rất nhỏ”.

Đoạn kết của Giọt máu cũng có cùng kiểu kết thúc như thế. “Bà Chiêm mất năm Bính

Dần (1986), thọ chín mươi tuổi. Mộ bà Chiêm để ở cánh đồng Cổ Cò, mộ hướng về phía sông

Hồng, nơi có một cây gạo cổ thụ đơn độc. […]. Ở đấy, vào mùa nước, người ta đồn Hà Bá với

các quân tướng ba ba, thuồng luồng vẫn lên tụ họp đánh chén, đom đóm thắp đèn sáng rực

thâu đêm, ếch kêu ồm ộp lẫn trong tiếng nhạc nghe như tiếng người nức nở” [94, tr.295].

Khảo sát các kết thúc trong chùm truyện Những ngọn gió Hua Tát, tập hợp những

truyện mang đậm dấu ấn của cổ tích của Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy thật khó xác định chính

xác nhà văn đã dựa vào những truyền thuyết dân gian và các tư liệu dân gian đến mức nào. Tuy

nhiên nếu có sự tiếp nhận thì các tư liệu ấy cũng đã được nhà văn xử lí bằng những thủ pháp

nghệ thuật nên chúng mang dấu ấn tác giả rất cao.

Cụ thể là chỉ có ba trong tổng số mười truyện của chùm truyện này có kết thúc có hậu

(như đã trình bày ở trên), bảy truyện còn lại đều có những kết thúc hoàn toàn không có hậu như

trong cổ tích.

Ví như ở truyện Trái tim hổ. Sau bao nhiêu vất vả và hiểm nguy, chàng Khó giết được

con hổ, tương truyền rằng trái tim của nó có thể là bùa hộ mệnh, cũng là vị thuốc thần. Nhưng

oái ăm thay, cuối cùng người ta tìm thấy chàng trên mình đầy thương tích cùng con hổ đã bị kẻ

nào đó đánh cắp mất trái tim. Ước vọng lấy trái tim hổ chữa bệnh cho Pùa tan vỡ. Rồi chàng và

Pùa cũng chết dần sau câu chuyện kì lạ đó.

Khát vọng to lớn của người thợ săn trong Con thú lớn nhất là săn được “con thú lớn

nhất” của cuộc đời. Nhưng trong một lần đi săn lão đã vô tình giết chết vợ mình, sau đó tự sát.

Nàng Bua có tất thảy chín đứa con nhưng không ai biết bố của chúng là ai. Nhặt được hũ

vàng, Bua trở nên giàu có. Nàng lấy được chồng nhưng lại chết khi sinh đứa con thứ mười

trong đống mền chăn ấm áp (Nàng Bua).

Con sói con lớn lên đã cắn chết đứa con trai duy nhất của ông Nhân, người thợ săn cự

phách nhất vùng (Sói trả thù).

Trong truyện Đất quên, cuộc đời của ông Pành cũng kết thúc bằng cái chết khi ông ta

đang cố gắng vượt qua thử thách để cưới được cô gái mà ông yêu: chặt cây gỗ lim trên đỉnh núi

đá vôi.

Sạ bỏ bản làng Hua Tát ra đi với mong muốn lập nên những sự tích phi thường ở vùng

đất khác nhưng cuối cùng trở về trong bộ dạng thảm hại. Ông nhận ra quãng đời bình thường ở

Hua Tát mới là quãng thời gian đáng quí và đáng sống nhất (Sạ).

Truyện Nạn dịch cũng có một kết thúc buồn. Mặc dù thắng bạc nhưng Lù lại mất người

vợ yêu và chính ông ta cũng chết vì dịch tả.

Như vậy, các truyện trên mang dáng dấp của những câu chuyện cổ với những huyền

thoại lung linh xen lẫn các yếu tố hoang đường nhưng các kết thúc lại hoàn toàn trái ngược cổ

tích. Chúng khiến cho độc giả bừng tỉnh để nhận ra rằng những đoạn kết có hậu, trọn vẹn chỉ có

trong trí tưởng tượng của người xưa, còn thực tại cuộc sống thì đa diện và phức tạp hơn nhiều.

Vì thế mà con người vẫn còn phải luôn nỗ lực trên con đường kiếm tìm chân lí, hạnh phúc,…

Nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến từng nhận xét: “Dẫu là kể chuyện cổ tích, Nguyễn Huy

Thiệp trước sau viết về cuộc sống ngày hôm nay” [59, tr.9]. Quả vậy, “truyện cổ tích” của

Nguyễn Huy Thiệp là cổ tích hiện đại, cổ tích chỉ là cái cớ để nhà văn phản ánh, nghiền ngẫm

thực tại ngổn ngang. Điều đó cũng lí giải vì sao nhiều truyện của Nguyễn Huy Thiệp có kết cấu

không khép kín, đặc biệt là ở phần kết truyện. Khảo sát truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng

tôi nhận thấy tác giả đã sáng tạo ra nhiều kiểu kết thúc không khép kín khá độc đáo: kiểu kết

thúc trái ngược với cổ tích, kết thúc với mô típ nhân vật tiếp tục ra đi, kết thúc bằng cách “rủ

rê” độc giả đồng sáng tạo với mình,..

Tiêu biểu cho kiểu kết thúc trái ngược với kết thúc trong truyện cổ tích, kiểu kết thúc

khác với tư duy quen thuộc của độc giả văn học dân gian là truyện Trương Chi. Truyện có cốt

truyện vay mượn từ truyện cổ tích nhưng lại có kết thúc hoàn toàn trái ngược. Lấy cảm hứng từ

nhân vật chàng Trương Chi của dân gian “Ngày xưa có anh Trương Chi / Người thì thậm xấu

hát thì thậm hay”, nhưng nhà văn lại viết :“Tôi – người viết truyện này - căm ghét sâu sắc cái

kết thúc truyền thống ấy” [94, tr.346]. Cũng bởi vì “Tôi đã có cách kết thúc khác. Đấy là bí mật

của riêng tôi” [94, tr.346-347]. Cái kết thúc chưa cụ thể nhưng chắc chắn sẽ có ý nghĩa “giải

thiêng”. Cách kết thúc ấy bộc lộ bản lĩnh của người viết và qua đó ý đồ nghệ thuật nhà văn

cũng được bộc lộ rõ: sử dụng môtíp của truyện cổ dân gian để chuyển tải những vấn đề của

cuộc sống hiện tại. Đây là cách trần thuật khôn ngoan của Nguyễn Huy Thiệp, bởi cuộc đi tìm

cái đẹp đích thực thì sẽ luôn luôn ở phía trước, bất kì một kết luận rốt ráo nào đưa ra sẽ đều phi

lí như cái kết mà dân gian đã từng đưa ra. Thành công của tác giả khi đưa ra một kết thúc khác

với kết thúc vốn “tuyệt diệu và cảm động” của dân gian là đã tạo ra giá trị thẩm mĩ mới cho tác

phẩm truyền thống. Vì lẽ đó mà nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ cho rằng với cách kết thúc này tác

giả truyện Trương Chi không chống lại, không phản kháng mà muốn qua đó “đối thoại với

truyền thống dân gian” [44, tr.31]. Kết thúc truyện Trương Chi của dân gian là kết thúc có hậu

theo môtíp tái sinh. Còn trong thiên truyện của Nguyễn Huy Thiệp, với cách kết thúc bằng lời

khẳng định như trên, tác giả đang muốn đi đến tận cùng của mâu thuẫn, của bi kịch con người.

“Tôi biết giây phút cuối đời Trương Chi cũng sẽ văng tục. Nhưng đấy không phải lỗi ở chàng.

Mị Nương sống suốt đời sung sướng và hạnh phúc

Điều ấy vừa tàn nhẫn vừa phi lí” [94, tr.347].

Dù muốn hay không, qua kết thúc khác này, dường như Nguyễn Huy Thiệp để cho độc

giả nghiệm ra rằng những kết thúc viên mãn chỉ có trong thế giới cổ tích, còn cuộc đời thực

không bao giờ có chỗ cho nó.

Đoạn kết truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thường lặp lại môtíp nhân vật tiếp tục ra đi.

Khi kể chuyện, Nguyễn Huy Thiệp thường tạo ra những khoảng trống, đặc biệt ở phần kết thúc

tác phẩm tác giả có khuynh hướng không khép kín mạch chuyện, ngược lại còn chủ ý mở ra

những miền không gian bát ngát, mơ hồ. Chùm truyện Con gái thủy thần gồm ba câu chuyện

kể về những quãng thời gian khác nhau trong cuộc đời nhân vật “tôi”. Truyện thứ nhất kết thúc

ở chi tiết: “Tôi đứng lên và đi về nhà. Ngày mai tôi đi ra biển. Ngoài biển không có thủy thần”

[94, tr.87]. Ý muốn ra đi mới chỉ nhen nhóm trong suy nghĩ của Chương. Hai câu chuyện còn

lại đều kết thúc với hình ảnh nhân vật chính này tiếp tục cuộc hành trình “đi ra biển” tìm kiếm

huyền thoại. Thời gian trôi chảy, tương lai réo gọi Chương với cuộc hành trình ra biển hòa lẫn

vào không gian xa xăm, bao la: “Tôi cứ đi…Phía trước mặt tôi còn bao điều bất ngờ chờ đợi.

Nàng là ai? Con gái thủy thần? Nàng ở đâu? Con gái thủy thần? Để tôi mượn màu son phấn ra

đi” [94, tr.96]. Và, “Tôi cứ đi, đi mãi…Trước mặt tôi là dòng sông thao thiết. Sông chảy ra

biển. Biển rộng vô cùng. […]. Con gái thủy thần! Nàng ở đâu? Nàng ở chỗ nào? Vì lẽ gì? Bởi

lẽ gì? Để tôi mượn màu son phấn ra đi” [94, tr.106]. Kết thúc truyện là những câu hỏi liên tiếp,

dồn dập. Vấn đề vẫn cứ lửng lơ, mang màu sắc huyền ảo.

Qua cách kết thúc kiểu như trên, ta thấy nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp thường hướng

về cái vĩnh cửu, xa xăm xen lẫn cả sự mơ hồ. “Tôi cứ đi, đi mãi. Tôi băng qua cánh đồng, qua

dòng sông. Mặt trời bao giờ cũng ở phía trước mặt tôi” (Những bài học nông thôn), [94, 153].

“Chúng tôi cứ đi, đi mãi…Tôi biết chắc chắn ở trước mặt tôi đấy là cổng Trời, là cổng Thiên

đường…” (Những người thợ xẻ). [94, tr.132]. “Họ thoáng thấy có bóng người vừa phất tay áo

chấm một nét lẻ loi nghiêng lệch góc trời. Vừa chớp mắt đã chẳng thấy bóng người ấy ở đâu

nữa” (Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt), [94, tr.438].

Thời gian của các câu chuyện không có điểm dừng như trong kiểu kết thúc truyền thống,

và điều đó mở ra không gian không giới hạn trong hành trình kiếm tìm của nhân vật và sự

tưởng tượng vô hạn trong lòng độc giả về những cuộc hành trình tiếp theo của nhân vật. Nhân

vật vẫn cứ ra đi, niềm tin vẫn ở phía trước, vì thế trong cách thể hiện loại nhân vật này cốt

truyện của Nguyễn Huy Thiệp không bao giờ là kết thúc trọn vẹn, khép kín.

Có truyện Nguyễn Huy Thiệp còn “rủ rê” người đọc đồng sáng tạo với mình qua cách

thức kết thúc mở ra nhiều chiều hướng khác nhau. Thực ra đây không phải là kiểu kết thúc

truyện mới mẻ vì khá nhiều tác giả đã sử dụng kiểu kết thúc này để tạo độ mở cho câu chuyện,

xóa bỏ tiếng nói chủ quan của tác giả và lôi kéo độc giả vào câu chuyện như một nhân tố tích

cực. Tuy nhiên với nguyễn Huy Thiệp, kiểu kết thúc này được sử dụng với nhiều tầng lớp nghĩa

độc đáo. Ông thường đưa ra những kết thúc để “bạn đọc tùy ý lựa chọn”. Nhà văn không đưa

ra lời giải đáp rõ ràng nhằm áp đặt người đọc luận giải theo cách của mình, vì thế mạch truyện

của ông thường không khép mà ở phần cuối truyện luôn tạo ra những khoảng trống rất lớn. Đó

là cách kết thúc tác giả đưa ra nhiều khả năng lí giải về số phận nhân vật cũng như giải quyết

các xung đột.

Điển hình cho kiểu kết thúc này là Vàng lửa. Người viết truyện này đã tìm kiếm nhiều

thư tịch cổ và hỏi han nhiều bậc bô lão những mong có đoạn kết trọn vẹn nhất cho câu chuyện

nhưng đều thất bại. Vì vậy, ông đành “hiến bạn đọc ba đoạn kết cho câu chuyện này để bạn

đọc tùy ý lựa chọn”:

Đoạn kết thứ nhất: Đoàn tìm vàng còn sót lại ba người gồm hai người châu Âu và

Phăng. Hai người kia được nhà vua mời tham gia khai thác mỏ vàng nhưng họ từ chối, còn

Phăng trông coi việc khai thác trong hai năm. Một hôm, y bị nhà vua đầu độc chết. Sau đó,

người ta tìm thấy quyển sổ ghi chép của y. Phăng viết: “Tất cả những cố gắng của con người

hướng về điều thiện đều là những cố gắng đau đớn, nhọc lòng” [94, tr.169] phản ánh sự khao

khát cái Thiện của con người. Và tất cả những gì mà Phăng đã trải nghiệm trong cuộc đời,

những tháng ngày ở An Nam này chỉ là “những lí thuyết chắp vá đầy ngụy biện; những mối bất

hòa kì thị dân tộc và đẳng cấp; những kinh nghiệm sống của chúng ta mong manh và vụn vặt

xiết bao” [94, tr.169].

Đoạn kết thứ hai: Đoàn tìm vàng sót lại một mình Phăng. Phăng được vua Gia Long ban

thưởng hậu hĩnh. Sau đó, ông ta về Pháp sống giàu có, hạnh phúc bên người vợ An Nam. Theo

Phăng, thời kì ông ở An Nam mới là thời kì bắt đầu lịch sử quốc gia của người Việt và có

những mối giao lưu chung với cộng đồng nhân loại. Kết thúc này đáng chú ý ở chi tiết nhân vật

Phăng đánh giá và “viết lại” lịch sử Việt Nam bắt đầu từ những ngày ông ta đến.

Đoạn kết thứ ba: Tất cả đoàn tìm vàng đều bị lính triều đình bao vây, giết chết. Vua Gia

Long cho xung công tất cả số vàng thu được, giao cho một người trong hoàng tộc lo việc khai

thác mỏ vàng. Cuối đời nhà vua sống trong cung, “tìm cách tránh mọi tiếp xúc với bên ngoài”

và không bao giờ “nhắc lại mối quan hệ với người này, người nọ khi nhà vua còn hàn vi, dù

đấy là người Việt, người Trung Hoa hay người châu Âu nào khác” [94, tr.171]. Chi tiết cuối

cùng này chứa nhiều ẩn ý nói lên sự cô lập văn hóa xã hội của một triều đại phong kiến trong

lịch sử.

Với ba đoạn kết này, người đọc có thể đưa ra nhiều đánh giá, lí giải khác nhau tùy thuộc

vào điểm nhìn của mỗi người. Cách kết truyện như vậy thực ra là những kết thúc mà không có

kết thúc, cho nên nó để lại những “khoảng trống” cho người đọc tự suy ngẫm. Vì thế, mặc dù

đến từ truyền thống nhưng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp mang màu sắc dân chủ và hiện đại

rất rõ bởi chúng là những “tác phẩm mở” (chữ dùng của Roman Ingarden). Ở đó, cả người viết

và người đọc đều được đẩy vào một cuộc đối thoại lớn và nhà văn đã “để ngỏ cuộc đối thoại đó

mà không đánh dấu chấm hết” (M.Bakhtin).

Mở đầu theo công thức có từ văn học dân gian truyền thống, dẫn đắt người đọc đi từ lai

lịch, xuất xứ nhân vật, sự kiện theo trình tự tuyến tính, kết hợp với những đoạn kết có hậu khiến

nhiều truyện của Nguyễn Huy Thiệp đẹp như truyện cổ tích, mang đậm dấu ấn của truyện vổ

dân gian. Nhưng trong một số truyện, bằng cảm quan và tư duy thẩm mĩ hiện đại, Nguyễn Huy

Thiệp đã phá bỏ những phán đoán tuân theo quy luật lô gíc thông thường để tạo ra những cách

kết thúc mới, buộc người đọc phải chiêm nghiệm, trăn trở.

2.3. Nhân vật

Một tác phẩm văn học được sáng tạo đồng nghĩa với việc sẽ có một hay một số nhân vật

được xây dựng. Nhân vật là phương tiện cơ bản nhất để nhà văn khái quát hiện thực một cách

hình tượng. Khái niệm nhân vật trong khoa học văn học được quan niệm trong phạm vi rộng.

Đó có thể là con người, có tên hoặc không có tên, cũng có thể là loài vật, cây cỏ,…Bất cứ loại

hình nghệ thuật nào cũng có nhân vật, nhưng trong văn học nhân vật thường có những đặc điểm

riêng biệt. Thông qua nhân vật, nhà văn bộc lộ nhân sinh quan, thế giới quan của mình, đồng

thời từ đó người đọc có thể cùng được trải nghiệm và sống trong nhiều cung bậc cảm xúc khác

nhau. Cách nhà văn xây dựng, tiếp cận nhân vật thể hiện rõ nhất tài năng, phong cách nghệ

thuật tác giả. Thông thường mỗi nhà văn bằng tài năng nghệ thuật độc đáo, thông qua cách nhìn

nhận và đánh giá hiện thực cuộc sống đều sáng tạo hệ thống nhân vật riêng. Vì thế, mặc dù tác

phẩm nào cũng có nhân vật nhưng người đọc không bao giờ cảm thấy nhàm chán vì sự trùng

lắp, khuôn mẫu.

Đọc truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, đa phần người đọc đều có cùng một cảm nhận

là hệ thống nhân vật trong truyện của ông khá phong phú, thường là những người chung quanh

ta, bao gồm nhiều tầng lớp, thành phần khác nhau. Phần lớn nhân vật đều là những con người

hiền lành, chất phác, sống gần gũi và chan hòa với môi trường sống tự nhiên với triết lí sống hài

hòa, bình ổn. Họ cũng là những con người có đời sống tâm linh phong phú. Bên cạnh đó, hệ

thống nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hiện lên như những điểm sáng làm cho

những câu chuyện thêm đẹp lung linh, giàu ý nghĩa. Có thể thấy rằng khi xây dựng nhân vật,

nhà văn Nguyễn Huy Thiệp chịu ảnh hưởng khá sâu sắc đời sống văn hóa dân gian mà đậm

nhất là triết lí sống hài hòa, bình ổn, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, truyền thống trọng nữ, tục

thờ Mẫu của cư dân văn hóa nông nghiệp lúa nước lâu đời truyền lại.

Trong quá trình đi sâu phân tích hệ thống nhân vật trong các truyện ngắn của Nguyễn

Huy Thiệp, chúng tôi nhận thấy có ba dạng nhân vật tiêu biểu sau: nhân vật là những con

người sống hòa hợp với tự nhiên, mang trong mình triết lí sống hài hòa, bình ổn; nhân vật

là những người có đời sống tâm linh sâu sắc; nhân vật là những người phụ nữ mang vẻ đẹp

của “thiên tính nữ”.

2.3.1. Nhân vật là những con người sống hòa hợp với tự nhiên, mang trong mình triết lí

sống hài hòa, bình ổn

Văn hóa Việt Nam có nguồn gốc sâu xa từ loại hình văn hóa gốc nông nghiệp phương

Đông. Việt Nam do ở tận cùng phía đông – nam nên thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp

rất điển hình. Một trong những đặc trưng của nền văn hóa này là trong cách ứng xử hòa hợp với

môi trường tự nhiên. Nghề trồng trọt buộc người dân phải sống định canh, định cư. Cuộc sống

của họ phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên cư dân nông nghiệp rất có ý thức tôn trọng và mong

muốn sống hòa hợp với thiên nhiên. Sống hòa hợp, gắn bó gốc rễ với tự nhiên, người Việt

hướng đến quan niệm nhân sinh hết sức đáng quí là triết lí sống hài hòa, bình ổn. “Trọng sinh,

hướng thực” là “đạo sống” của người dân Việt từ ngàn xưa. Triết lí sống quan trọng nhất của

họ không chỉ thể hiện ở tâm lí phụ thuộc, ý thức tôn sùng và thái độ hòa hợp với tự nhiên, mà

rộng hơn còn thể hiện ở lẽ sống thuận theo tự nhiên, vô sự với tạo hóa.

Viết nhiều về nông thôn nên không khó để nhận thấy nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn

Huy Thiệp phần nhiều là những người nông dân chất phác, sống hòa hợp, gắn bó mật thiết và

có thái độ trân trọng với thiên nhiên xung quanh họ. Dưới ngòi bút của ông, con người sống

gần gũi với cái bản sắc tự nhiên, những bụi bặm cuộc đời chưa làm vẩn đục tâm hồn họ. Đó

cũng là những nhân vật đẹp nhất, thánh thiện nhất. Trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp, phàm

là người tốt đều là những người sống với quan niệm “vô sự với tạo hóa”, sống giữa tạo hóa,

hiện thân của tạo hóa. Điều đó thể hiện khá rõ qua câu nói của nhân vật cô giáo Thục trong

truyện Những người thợ xẻ: “Nghĩa tình lại chuộc nghĩa tình. Vô sự với Tạo hóa, trung thực

đến đáy, dù có sống với bùn, chẳng sợ không xứng là người” [94, tr.131]. Câu nói ấy tuy ngắn

gọn nhưng lại bao hàm triết lí nhân sinh sâu sắc và đó cũng là một trong những mạch nguồn

cảm hứng sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khi ông xây dựng thế giới nhân vật trong

truyện ngắn của mình.

Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, những con người có quan niệm sống “vô sự với tạo hóa”

ấy luôn tự hào rằng: “Mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ra ở nông thôn” (Những bài học nông

thôn), [94, tr.147] ; “Tôi sinh ở làng quê, lớn lên ở làng quê” [94, tr.182]. Phương châm sống

của họ luôn là “đừng nghĩ đến lợi, nghĩ đến lợi nhọc mình”(Thương nhớ đồng quê), [94,

tr.194]. “Tất cả là do tự nhiên điều chỉnh hết” [94, tr.490], vì thế “tốt nhất hãy cứ để tự nhiên

điều chỉnh là hơn” (Sống dễ lắm), [94, tr.492]. Còn những người ở chốn phồn hoa đô hội, khi

phải đối diện cuộc sống bộn bề, phức tạp với quá nhiều cay đắng, người ta vẫn bảo nhau “về

nông thôn mà nghỉ” (Chút thoáng Xuân Hương), [94, tr.309]. Bởi nông thôn là cái nôi yên

bình chở che, gột rửa tâm hồn cho con người kể cả những ai đang lầm đường lạc lối.

Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã có một

nhận xét rất sâu sắc rằng thế giới nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp là những “con người sống

hòa hợp với tạo hóa, với thiên nhiên, giữ được bản chất tạo hóa, bản chất thiên nhiên của

mình”. Phần đông họ là “những người tốt đẹp, thiện căn chắc chắn, nhân tính vững bền, có thể

thoát khỏi tình trạng bị tha hóa” [59, tr.461]. Quả vậy, dẫu cuộc sống có bề bộn, vất vả, song

như lời của nhân vật bố Lâm trong Những bài học nông thôn thì họ vẫn “không buồn tý nào”,

vẫn “bình thản vô sự” [94, tr.134]. Thầy giáo Triệu cũng là một nhân vật khá đặc biệt. Bố mẹ

anh là người Hà Nội. Bố anh là bộ trưởng, mẹ anh sinh ra trong một gia đình trí thức tiếng tăm.

Thế nhưng anh lại trở thành thầy giáo cấp một ở một vùng quê hẻo lánh. Không những thế, anh

Triệu còn tự hào: “Mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ra ở nông thôn” [94, tr.147]. Cũng chính

anh nhận ra một lẽ sống đáng quí: con người “cần sự bình ổn để sống tự nhiên hài hòa” [94,

tr.142]. Phải chăng, cuộc sống gần gũi với tự nhiên, với những người nông dân hiền lành, chân

chất mới là cuộc sống đích thực với anh Triệu? Nó gắn bó máu thịt với anh đến nỗi anh sẵn

sàng hi sinh sự sống để dành lại cuộc sống cho thằng Tiến, con trai út của một gia đình nông

dân không hề có mối quan hệ huyết thống với mình.

Khi nói đến hệ giá trị trong văn hóa truyền thống của người Việt, nhà nghiên cứu văn hóa

dân gian Chu Xuân Diên đã lưu ý: “Trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, người Việt

phụ thuộc vào tự nhiên, nương nhờ tự nhiên hơn là chiếm lĩnh, làm chủ tự nhiên. Khuynh

hướng đó trong ý thức thể hiện thành sự tôn trọng, sự sùng bái tự nhiên, trong hành động thể

hiện thành những lựa chọn có tính chất thích nghi với tự nhiên, tận dụng sức tự nhiên hơn là

chinh phục tự nhiên, dùng sức người thay thế tự nhiên, trong sinh hoạt thể hiện thành lối sống

hòa hợp, hòa mình với tự nhiên, gắn bó với môi trường tự nhiên” [10, tr.256-257]. Được nuôi

dưỡng từ cái nôi văn hóa ấy, nhiều nhà văn Việt Nam đã xây dựng khá nhiều tác phẩm đề cập

đến mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên. Sơn Nam là một trong những cây bút tiêu

biểu ấy. Sinh ra và lớn lên nơi vùng quê sông nước Nam Bộ, nhà văn Sơn Nam không chỉ khai

thác văn hóa sông nước làm đề tài, bối cảnh dựng truyện mà còn thể hiện rất đặc thù ngôn ngữ,

nhận thức, cách ứng xử của người miền Nam với môi trường thiên nhiên. Đọc Hương rừng Cà

Mau, Tháng chạp chim về, Bắt sấu rừng U Minh Hạ, Con Bảy đưa đò, Mùa len trâu,…của

Sơn Nam, người đọc sẽ nhận ra cá tính người miền Nam trọng nghĩa, có tâm lí “làm chơi ăn

thiệt” thể hiện rõ nét trong sự gắn kết với thế giới tự nhiên, đặc biệt là với sông nước bởi cuộc

sống của họ gắn bó máu thịt với nó. Họ đi lại bằng ghe xuồng, làm nhà, họp chợ, hẹn hò, coi

hát,…tất cả đều diễn ra trên kênh rạch, sông ngòi. Kiếm sống cũng từ môi trường dồi dào sản

vật ấy. Người dân miền Tây sông nước đánh bắt cá nhiều đến nỗi có thể hiểu đặc tính của

chúng, con nước nào thì có cá nhiều, có những loại cá nào, ở đâu đổ về…“Ở Rộc Lá này, cá

tôm quá nhiều so với mấy nơi khác trong ấp. Từ tháng mười đến tháng giêng, cá lội từng bầy

trở về sông cái, suốt ngày suốt đêm không ngừng. Ban ngày cá đi đớp bọt, trắng bờ rạch. Ban

đêm thức giấc vào bất cứ lúc nào ta cũng nghe cá lóc táp mồi, cá trê chép miệng kế bên nhà.

Nguồn lợi to tát vô cùng” [52, tr.174-175].

Cùng trong mạch cảm hứng về “nguồn lợi to tát vô cùng” của thiên nhiên Nam Bộ trong

truyện của Sơn Nam, thiên nhiên Bắc Bộ hiện lên trên trang văn Nguyễn Huy Thiệp cũng thật

trù phú. Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, cuộc sống con người phụ thuộc rất nhiều vào

thiên nhiên. Thiên nhiên là môi trường để con người sinh sống, là nơi cung cấp nguồn sống dồi

dào cho con người. Những bữa cơm của họ thường là các món ăn dân dã “cua nấu rau dút, cà

pháo, tôm rang” [94, tr.134], mâm cơm của đàn ông thì được “ưu tiên” thêm “vài củ lạc và hai

quả ổi xanh” [94, tr.134]. Họ trông chờ trời đổ mưa để ra sông chài cá. Dòng sông quê “ưu đãi”

cho họ bao nhiêu là sản vật: “Rất nhiều tép. Có những con cá to bằng bàn tay […], có cả những

con cá nheo to bằng bắp chân người” (Những bài học nông thôn), [94, tr.143]. Đi làm đồng

về, họ “ra bể nước mưa múc đầy cả gáo dừa uống ừng ực” [94, tr.183], cũng có khi chan nước

mưa vào cơm ăn cùng với cà pháo. Bữa cơm chỉ có “rau khoai lang luộc, cà muối, cá tép kho

khế” [94, tr.184] mà ăn bao nhiêu cơm vẫn không thấy no (Thương nhớ đồng quê). Muốn có

thức ăn, người ta chỉ cần “nhấc cái đó lên là có cái ăn. Đấy là cá, là cua, là ếch nhái” (Trương

Chi), [94, tr.340].

Từ bao đời nay, rừng có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống con người. Nhờ có

rừng, cuộc sống tồn tại và tái sinh. Rừng đem lại cho họ biết bao sản vật, nuôi sống và chở che

họ. Rừng trở thành thần linh phù trợ cho mỗi sinh linh đang chung sống bên cạnh nó. Mọi

người rủ nhau vào rừng để săn thú, để đào củ mài làm thức ăn và đôi khi may mắn còn tìm

được cả hũ sành với bao nhiêu là bạc vàng. Người ta vào rừng “đào những củ mài to tướng dễ

như bỡn. Những củ mài xốp, thơm hanh hanh và ngậy, ninh lên bở tơi, ăn hơi tê rát vòm miệng

rất thú”, bởi rừng luôn “hào phóng và bao dung với tất cả mọi người” (Nàng Bua), [94, tr.221-

222].

Thiên nhiên là môi trường sống lí tưởng nhất đối với con người. Chẳng thế mà khi gặp

lại cô giáo sinh trẻ sau ba mươi năm xa cách, ông giáo Chi trong truyện Sống dễ lắm vẫn tin

rằng: “Ở vùng cao ấy, con ạ, không khí rất sạch, rất tốt cho trẻ con đấy!” [94, tr.497], cho nên

tốt nhất là hãy cứ để cho tự nhiên điều chỉnh là hơn. Nơi ấy có những dãy núi xanh xa xôi tít

tắp, lẩn khuất trong mây trắng lẫn sương mù, không khí rất sạch và khoáng đạt, nơi mà hoa cúc

dại nở vàng như mê như man trong thung lũng hoang vắng không có một bóng người nào.Và

rồi đến tận những tháng ngày cuối đời, ông giáo Chi vẫn thường tự nhủ lòng: “Nhất định rồi

ông sẽ về đấy mà! Ông sẽ về đấy. Ông nghĩ như thế? Cho ngày mai…Mai…” [94, tr.498].

Để minh chứng thêm cho điều này, chúng ta hãy cùng dừng lại ở truyện Thổ cẩm.

Truyện kể về nhân vật “tôi” là một bác sĩ vừa mới ra trường. Anh được phân công lên các bản

của người Mường vùng tả ngạn sông Đà khảo sát tình hình sức khỏe dân chúng và vệ sinh dịch

bệnh. Anh kể rằng chuyến đi này khiến anh có cảm giác như được “sổ lồng” từ những “chuồng

chim”, “chuồng cọp” ở thành phố. “Ngờ ngợ nhận ra vẻ đẹp của tự nhiên hoang dã” và “vừa

thích thú vừa sợ hãi trước vẻ đẹp ấy” [94, tr.500] là ấn tượng đầu tiên của vị bác sĩ trẻ khi lên

vùng cao Tây Bắc. Anh thật sự ngạc nhiên khi thấy hầu hết những người dân ở đây đều rất khỏe

mạnh, khác hẳn với sự yếu ớt của người thành thị. Có lẽ, anh nghĩ: “ở những người “dân tộc”,

lao động và sự điều chỉnh tự nhiên khiến họ có tình trạng sức khỏe tương đối thăng bằng” [94,

tr.500]. Có được điều đó bởi “họ không nghĩ ngợi, họ chẳng cần đến triết học và lo-gic làm gì”

[94, tr.501]. Nếu không đến với đại ngàn Tây Bắc, không đến với đồng bào Mường ở nơi địa

đầu Tổ quốc xa xôi và quan trọng hơn là được hòa mình với cuộc sống con người nơi đây làm

sao người trí thức trẻ ấy nghiệm ra rằng dường như môi trường tự nhiên trong lành mới là môi

trường sống lí tưởng cho con người. Từ đó, anh thấy mình thêm yêu vùng rừng núi và con

người nơi đây hơn, tâm hồn anh như vừa được “thanh lọc”. Thiên nhiên đã dạy cho anh bài học

về cuộc sống đích thực, cuộc sống ấy lấy thiên nhiên làm trọng và con người phải luôn giữ

được trạng thái tinh thần cân bằng, lành mạnh.

Thiên nhiên là cái nôi chở che cũng là bạn thủy chung của con người. Hơn nữa, thiên

nhiên còn là chỗ dựa, nâng đỡ tinh thần cho con người bởi một lẽ: “Thiên nhiên vừa trang

trọng, vừa tình cảm” (Muối của rừng), [94, tr.65]; “Thiên nhiên không hề dối trá” (Chút

thoáng Xuân Hương), [94, tr.306]. Ngay cả với một đấng quân vương quyền cao chức trọng

như Gia Long, khi vào rừng đi săn, được ở giữa thiên nhiên “trông ông rạng rỡ, mất đi vẻ đăm

chiêu cau có hàng ngày” (Vàng lửa), [94, tr.164].

Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là những con người mang trong

mình triết lí sống hài hòa, bình ổn. Họ không cố gồng mình chạy theo những luật lệ cộng đồng.

Nhân vật của ông thường được đặt vào thế đối diện với tự nhiên bao la, vĩnh hằng để tìm về với

“bản lai diện mục” của chính mình, để được bảo tồn phần nhân tính thuần phác trước những tác

động mạnh mẽ từ bên ngoài. Họ tìm về thiên nhiên, chốn đồng quê yên ả, thanh bình để di

dưỡng tinh thần, chiêm nghiệm triết lí nhân sinh và để đạt tới trạng thái cân bằng trong tâm

hồn. Chính khi sống chan hòa với thiên nhiên, con người đã nghiệm ra những bài học làm

người, về sự nhẹ dạ của lòng người, về tình người, cả về đạo đức, triết học lẫn tri thức, tìm lại

thiên lương,…(như nhân vật ông Diểu trong Muối của rừng, nhân vật bác sĩ trẻ trong Thổ

cẩm, nhân vật sư Tịnh, Năng trong Chăn trâu cắt cỏ; nhân vật sư Thiều, Nhâm trong Thương

nhớ đồng quê; nhân vật Hiếu, thầy giáo Triệu trong Những bài học nông thôn,...).

Nhân vật ông Diểu trong truyện ngắn Muối của rừng là một trong những con người như

thế. Trời vào xuân, tiết trời ấm áp, ông Diểu vào rừng để săn thú. Với khẩu súng săn hai nòng

của thằng con trai vừa gửi từ nước ngoài về biếu, ông quyết chí phải săn cho bằng được con khỉ

đầu đàn. Nhưng khi bắn bị thương được nó rồi, chứng kiến tình cảm của gia đình khỉ ông đã vỡ

lẽ ra nhiều điều. Cuối cùng ông quyết định trả con khỉ đáng thương về rừng, còn ông thì bước

ra khỏi rừng, trên người không một mảnh vải che thân. Trước những điều đã xảy ra trong rừng,

với gia đình nhà khỉ, ý thức sống hòa hợp với thiên nhiên trỗi dậy, ông Diểu “phóng sinh” cho

con khỉ bố rồi trở về nhà với tâm trạng nhẹ nhàng, thảnh thơi, như được hòa mình vào vạn vật:

“Ra khỏi thung lũng, ông Diểu đi xuống cánh đồng. Mưa xuân dịu dàng nhưng rất mau hạt. Chỉ

một lát sau, bóng ông nhòa vào màn mưa” [94, tr.74]. Cuộc đi săn đã “tẩy rửa” ông, thiên

nhiên muông thú đã giúp ông rũ bỏ được tất cả, thiên lương trong ông đã tìm về.

Khi thiên nhiên bình đẳng với con người thì con người trở thành một thực thể của tự

nhiên và cùng giao hòa với chúng. Được sống gần gũi với thiên nhiên, nhân vật trong truyện

ngắn Nguyễn Huy Thiệp thường là những người nông dân sống rất hồn nhiên. Hồn nhiên trong

bản tính người, trong các mối quan hệ ứng xử, trong cách sống, suy nghĩ, nói năng và hành

động. Họ phần lớn sống theo bản năng, thường tìm về với tự nhiên để được trở về với cội

nguồn sự sống. Họ dám “lặn sâu xuống đáy cuộc đời”, “trần lực để sống với chính mình”.

Nhân vật Đặng Xuân Bường trong Những người thợ xẻ là một nhân vật điển hình cho

lối sống ấy. Để kiếm miếng ăn, anh ta sẵn sàng bất chấp thủ đoạn, nhưng Bường lại căm ghét

sự giả dối. Với anh, phẩm chất quan trọng nhất của con người là làm sao “giữ trọn chữ hiếu,

chữ tình, còn mọi thứ ở đời đều phù vân cả” [94, tr.117]. Còn nếu họ có nuôi dưỡng cho mình

cách sống táo bạo, ồn ào hơn một chút thì thường bị người đời gọi là “Thằng Điên”… “Thằng

Rồ”… “Kẻ Khùng” [94, tr.237] như nhân vật Sạ trong truyện ngắn cùng tên. Hoặc lí tưởng,

hoài bão mà họ suốt một thời gian của tuổi trẻ nuôi dưỡng, đeo đuổi cũng chỉ là những điều phù

du, vô nghĩa (Con gái thủy thần, Chảy đi sông ơi).

Trong truyện Nguyễn Huy Thiệp, những người tốt thường là những người sống gắn bó,

gần gũi với tự nhiên. Phần nhiều họ sống ở nông thôn, nơi có những cánh đồng rợp cánh cò

bay, dòng sông quanh năm thao thiết chảy hay những cánh rừng bạt ngàn núi xanh mây trắng.

Nếu ở thành thị, họ cũng chỉ quẩn quanh trong nhà, làm những việc lặt vặt như tướng Thuấn,

ông Cơ, cô Lài,…Và hình như chỉ khi nào gắn bó với môi trường ấy, họ mới giữ vững được

phần nhân tính cao của mình, bằng không sẽ đánh mất tất cả.

Nhân vật “tôi” trong truyện Chảy đi sông ơi trải qua thời thơ trẻ với đầy ắp những truyền

thuyết huyễn hoặc, phi phàm về con trâu đen. Những người đi đánh cá đêm khẳng định đã nhìn

thấy nó. “Toàn thân nó bóng nhẫy, đôi sừng vút cao, mõm thở phì phì, con trâu phi trên mặt

nước như phi trên cạn. Con trâu phì bọt, nước dãi nó tựa như trứng cá. Nếu ai may mắn hớp

được bọt ấy sẽ có sức lực phi thường, bơi lặn dưới nước giỏi như tôm cá” [94, tr.8]. Tất cả

những điều như thế có sức lôi cuốn cậu bé một cách lạ kì. Từ bỏ sách vở giáo điều, vượt lên nỗi

sợ hãi để tự kiếm tìm sự thật, cậu tìm mọi cách xin những người đi đánh cá mòi đêm cho cậu

lên thuyền những mong tận mắt chứng kiến truyền thuyết hiện hữu. Song cậu bé nhiều mơ

mộng ấy nhận được chỉ toàn là những sự bịp bợm. Niềm tin trẻ thơ bị lừa phỉnh. Rồi trong một

lần gặp nạn, cậu được chị Thắm cứu sống. Người phụ nữ làm nghề chèo đò ấy không chỉ đem

lại sự sống thể xác mà còn cứu sống phần linh hồn đang u ám của cậu. Bị bọn người đánh cá

đêm đối xử tàn ác, “tôi” buồn rầu nói: “Bọn đánh cá đêm ác lắm chị ạ […]. Họ nghe thấy em

kêu cứu mà cứ lờ đi…” [94, tr.13], nhưng chính tấm lòng bao dung, nhân hậu của chị Thắm đã

khiến “lòng tôi trào dâng cảm giác dễ chịu lạ lùng, như vừa tắm xong, như vừa gột rửa được

điều u ám.” [94, tr.14]. Thế mà khi xa bến Cốc, xa dòng sông ăm ắp kỉ niệm, “tôi” đã “lớn dần

lên, hăm hở đuổi theo bao điều phù du” [94, tr.15] nơi thành thị. Cuộc sống nhộn nhịp chốn

phồn hoa đã khiến anh quên bến Cốc, quên chị Thắm nhân hậu năm nào đã cứu mình. Cho đến

một ngày anh có dịp về qua bến đò xưa thì chị Thắm đã không còn nữa. Khi đó, nhân vật “tôi”

mới thấy “cuộc sống của tôi giờ đây vô nghĩa xiết bao” [94, tr.16], mới nhận ra sự mất mát

khôn cùng nhưng tất cả đã muộn…

Ngược lại, nếu vì lí do nào đó phải rời xa môi trường tự nhiên quen thuộc, nhân vật của

Nguyễn Huy Thiệp dễ bị tha hóa khiến cho méo mó về cả hình hài lẫn nhân cách. Như lời kể

của nhân vật Nhâm trong Thương nhớ đồng quê thì “Đàn ông quê tôi phiêu lưu, lại nhiều ảo

tưởng, họ ôm ấp ước mơ làm giầu nên hay bỏ ra ngoài thành phố tìm việc, đi buôn bán. Cũng

có người lăn lộn vào tận miền trong đào vàng, đào hồng ngọc. Khi về, tính tình họ đổi khác, họ

trở nên những con thú dữ độc” [94, tr.195]. Câu chuyện ấy như một luận đề khiến chúng ta

phải suy ngẫm: phải chăng khi sống trong môi trường sống trong lành, gần với thiên nhiên tạo

hóa thì bản tính người được lưu giữ trọn vẹn, bằng không thì mọi thứ sẽ thay đổi?

Tiêu biểu cho trường hợp này là nhân vật Chương trong truyện ngắn Con gái thủy thần.

Sinh ra và lớn lên ở nông thôn, cuộc sống hàng ngày của Chương gắn với những công việc

quen thuộc “làm ruộng, đào đá ong và làm thêm nghề lột giang đan mũ” [94, tr.76]. Khác với

những đứa trẻ khác cùng lớn lên trong không gian sống cơ cực ấy, tuổi thơ của cậu bé Chương

luôn ngập tràn bởi những ám ảnh truyền thuyết về Mẹ Cả “lung tung lắm, nửa hư nửa thực”

[94, tr.76]. Tuổi thơ Chương “u buồn và bề bộn việc, mà việc nào cũng vất vả cả” [94, tr.76].

Thế mà có bao giờ Chương thôi nghĩ về nàng, người con gái côi cút của thủy thần. Rồi sợ phải

sống cuộc đời nhàm chán, “quay lại công việc của mười năm trước; tôi sẽ cứ thế cho đến rốt

đời: sáng đi cày, chiều đào đá ong, tối lột giang đan mũ” [94, tr.87], sợ sẽ kéo mòn kiếp sống

như thế, như thể bố anh, ông Nhiêu, ông Hai Thìn, những người dân hiền lành lam lũ, Chương

quyết định sẽ “đi ra biển”. Ra đi không phải chỉ để đổi đời mà quan trọng nhất là để tìm nàng,

tìm thấy những điều hạnh phúc lớn lao và vĩnh cửu. Thế nhưng, đau đớn và xót xa thay, càng đi

biển càng xa ngái, Chương lại phải đối diện với nguy cơ đánh mất mình. Từ một chàng trai

chân chất, Chương đã làm nhiều nghề để kiếm miếng ăn, thậm chí anh phải chấp nhận bán

mình. Anh cay đắng nhận ra “cuộc sống của tôi và những người dân quê tôi đơn giản bình

thường, không phải đặt ra quá nhiều câu hỏi” [94, tr.103], còn ở đây, nơi thành thị phồn hoa xa

lạ, sau những trải nghiệm, “tất cả là đổ vỡ và tan nát” [94, tr.106]...

Sự giận dữ của tự nhiên đối với con người phần lớn là do con người không tôn trọng nó.

Điều này được thể hiện khá ấn tượng trong một số truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc như Bà

Mọi hú, Câu dầm,…Trong truyện Bà Mọi hú, nhà văn lí giải vùng ruộng rừng phía tây Hố Nai

– Biên Hòa luôn cạn khô là do Bà Mọi linh thiêng trừng phạt đồng bào Kinh phá rừng nên đã

bịt tắt dòng nước. Tiếng hú tuyệt vọng của người đàn bà rừng rú mà thần thánh ấy vang vọng

khắp núi rừng như lời nhắc nhở con người về ý thức bảo vệ nguồn nước, về cách ứng xử với tự

nhiên. Thông qua chuyện báo ứng hoang đường của ông Ba (Câu dầm), tác giả cho ta thấy hệ

quả tất yếu của chuyện vét sạch cá ở sông suối, ao hồ thật khủng khiếp và con người phải hứng

chịu lấy. Truyện là lời nhắc nhở nghiêm khắc đến những ai chọn câu cá là để kiếm sống hay là

thú vui thì hãy nhớ rằng nếu câu triệt để thì vô hình trung chúng ta sẽ làm mất cân bằng sinh

thái, môi trường sông nước sẽ bị hủy diệt. Hay trong truyện Sống mãi với cây xanh, nhà văn

Nguyễn Minh Châu đã thẳng thắn đặt ra vấn đề mang tính triết lí nhân sinh sâu sắc: “Chinh

phục tự nhiên? Đúng, đời sống loài người là một chuỗi dài quá trình chinh phục thiên nhiên,

nhưng cũng thật là thiếu thỏa đáng và thậm chí nguy hiểm, nếu không nghĩ đến công việc hòa

hợp với thiên nhiên…” [6, tr.197].

Cùng trong mạch tư tưởng ấy, Nguyễn Huy Thiệp cũng đã sáng tạo nhiều tác phẩm khá

ấn tượng. Con người vốn là một phần của thế giới tự nhiên. Nếu con người quay lưng lại với tự

nhiên, tìm cách tàn phá thiên nhiên, họ sẽ phải lãnh nhận hậu quả đôi khi hết sức nặng nề. Tư

tưởng này được thể hiện khá đậm nét qua hệ thống nhân vật trong một số truyện ngắn Nguyễn

Huy Thiệp như Con thú lớn nhất, Sói trả thù, Muối của rừng,…

Truyện Con thú lớn nhất kể về một tay thợ săn cự phách, lão luyện trong nghề nhưng

“Suốt đời lão già chỉ săn được những con chim, con thú bình thường. Lão già chưa bao giờ săn

được con thú lớn ba bốn tạ thịt. Khẩu súng của lão chỉ bắn được những con vật ngu ngốc. Đấy

chính là điều làm lão khổ tâm, dằn vặt.”[94, tr.218]. Lão luôn ấp ủ mong ước một ngày nào đó

sẽ săn được một con thú lớn nhất đời mình. Lão lùng sục khắp khu rừng tàn sát chim muông.

Nhưng cuối cùng, chính khẩu súng của lão lại giết chết mụ vợ và cả lão nữa. Người kể chuyện

nói rằng “Then đã trừng phạt lão. Không có con thú nào đến với lão, chỉ có cái chết đến với

lão” [94, tr.220].

Còn Sói trả thù thì kể lại câu chuyện: trong một lần đi săn, ông Nhân đã bắt một con sói

con mang về làm quà cho cậu con trai. Con sói nhỏ lớn lên giữa lũ chó nhà, tưởng như đã quen

với cuộc sống của bầy gia súc. Song thật bất ngờ chính nó đã cắn chết cậu bé trong lần sinh

nhật thứ mười ba. Trong tột cùng của sự đau đớn, ông Nhân đã nhận ra rằng con người không

thể chung sống với sói dữ, phải trả nó về với cuộc sống đích thực của nó. “Ông Nhân vung rìu

lên và cứ liên hồi chém vào sợi dây xích […]. Con sói tru lên một tiếng rồi phóng chạy về phía

rừng…” [94, tr.230].

Qua những truyện trên, tác giả như muốn gửi đến chúng ta một thông điệp: con người và

muôn loài, kể cả loài sói hung dữ đều cần được sống bình đẳng trong tự nhiên. Con người cần

thấy được quy luật cân bằng sinh thái, chấp nhận mặt đối lập để có quan niệm sống hài hòa với

tự nhiên. Săn đuổi, tàn sát muông thú, con người sẽ tự biến mình thành “cái ác”. Vì vậy, chúng

ta cần phải có văn hóa khi ứng xử với tự nhiên, vô sự với tạo hóa, biết tôn trọng và sống hài hòa

với thiên nhiên là cách ứng xử khôn ngoan, đúng đắn nhất. Bằng không, con người sẽ phải lãnh

nhận hậu quả nặng nề.

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp phần lớn có thái độ tôn trọng,

sống hài hòa với tự nhiên, và có thể nói tự nhiên là nguyên tắc, là thước đo cao nhất cho nhân

cách của họ. Đó chính là dấu ấn của triết lí sống quân bình, hài hòa với tự nhiên trong văn hóa

dân gian cổ truyền của người Việt biểu hiện một cách sâu đậm, tinh tế trong truyện ngắn

Nguyễn Huy Thiệp. Không chỉ thế, nhân vật của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn có đời

sống tâm linh sâu sắc.

2.3.2. Nhân vật là những người có đời sống tâm linh sâu sắc

Như chúng ta đã biết, nét đặc sắc trong văn hóa của người phương Đông và cụ thể là

người Việt Nam là luôn chú trọng nhiều đến tinh thần, đến đời sống tâm linh. Con người không

chỉ tồn tại trên ba chiều của thời gian là quá khứ, hiện tại và tương lai mà còn sống với chiều

thứ tư, là chiều của đời sống tâm linh.

Vậy, tâm linh và đời sống tâm linh là gì? Nó bắt nguồn từ đâu?

Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường bắt gặp hiện tượng người đang sống nghĩ về

kiếp sau, về thế giới bên kia của mình, hay nói chuyện, giao cảm được với người đã khuất, hoặc

gần gũi hơn là việc chúng ta thờ cúng ông bà tổ tiên cũng là biểu hiện của phần tâm linh trong

đời sống tinh thần. Niềm tin vào sự linh thiêng là một phần không thể thiếu trong đời sống của

mỗi con người, đặc biệt dân tộc Việt Nam ta vốn có truyền thống văn hóa tâm linh từ rất lâu

đời.

Có rất nhiều cách hiểu về tâm linh. Người viết xin mượn khái niệm về tâm linh khá toàn

diện của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy làm cơ sở cho hướng tiếp cận: “Tâm linh là cái

thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín

ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu

tượng, hình ảnh, ý niệm.” [11, tr.14]. Niềm tin thiêng liêng ấy bắt nguồn từ nền văn hóa tâm

linh giàu bản sắc của người Việt.

Từ cách hiểu hai chữ tâm linh như trên, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy cũng đã nêu

khái niệm văn hóa tâm linh: “Văn hóa tâm linh là văn hóa biểu hiện những giá trị linh thiêng

trong cuộc sống đời thường và biểu hiện niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn

giáo” [11, tr.29]. Như vậy, trong lĩnh vực nào của đời sống con người cũng có sự hiện diện của

yếu tố tâm linh. Đời sống tâm linh là một phần của đời sống tinh thần. Ở đó con người chủ yếu

sống với phần tâm linh, luôn có niềm tin vào “cái thiêng”.

Văn hóa tâm linh bao gồm cả văn hóa hữu hình và văn hóa vô hình, biểu hiện những giá

trị linh thiêng trong cuộc sống đời thường và trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo. Với nhận

thức trên và để minh định cho luận điểm nhân vật có đời sống tâm linh phong phú, luận văn chỉ

bàn đến đời sống tâm linh của nhân vật ở phương diện văn hóa vô hình, biểu hiện qua niềm tin

vào những giá trị linh thiêng trong cuộc sống đời thường. Trong đó có khía cạnh niềm tin vào

những điều thiêng liêng có giá trị tinh thần lớn lao và khả năng phán đoán, biết trước sự việc,

hay còn gọi là linh cảm, linh ứng, theo cách hiểu rộng nhất của hai chữ tâm linh.

Văn học Việt Nam thường miêu tả đời sống tâm linh của con người trên cơ sở kế thừa

yếu tố tâm linh vốn luôn tồn tại trong nền văn hóa dân gian. Từ các truyện cổ dân gian cho đến

những tác phẩm văn xuôi trung đại tiêu biểu như Việt điện u linh của Lí Tế Xuyên, Lĩnh Nam

chích quái của Vũ Quỳnh và Kiều Phú, Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Hiện nay, ở không

ít tác phẩm văn xuôi, đời sống tâm linh của con người đã được chú ý miêu tả. Đời sống tâm hồn

từ lâu vốn là một kho báu bí ẩn đối với nhà văn. Bao nhiêu đam mê, ẩn ức, bột phát, bao nhiêu

điều bí ẩn trong đời sống nội tâm được các nhà văn tìm đến thể hiện. Tiểu thuyết Thân phận

tình yêu (Bảo Ninh) là cuốn sách viết về đời sống tâm linh của nhân vật Kiên. Cuộc sống của

Kiên thời hậu chiến chưa bao giờ được yên ổn, lúc nào trong anh cũng tràn ngập những hồi ức,

những cơn ác mộng, mộng du. Hay nhân vật người đàn bà tên Qùy trong truyện Người đàn bà

trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu luôn sống với những cơn mộng du triền

miên không dứt. Hoặc các nhân vật trong sáng tác của Phạm Thị Hoài cũng luôn chìm đắm

trong những hoài niệm, phân tâm mang màu sắc tôn giáo,…Và Nguyễn Huy Thiệp cũng là một

trong những nhà văn rất chú trọng miêu tả đời sống tâm linh của con người.

Những con người chân chất, thật thà, tâm hồn tinh khiết trong truyện ngắn của Nguyễn

Huy Thiệp vốn trọng lối sống cân bằng, tĩnh tại. Họ gần như không bị chi phối bởi những toan

tính nhỏ nhen tầm thường của cuộc sống hiện đại. Lối sống hướng nội của họ thể hiện trong

mối quan hệ với thiên nhiên, với người khác và với chính bản thể của mình. Một trong những

phương diện của lối sống đó là họ nuôi dưỡng trong mình niềm tin vào sự linh thiêng, vào

những lực lượng siêu nhiên thần bí, bên cạnh đó họ còn có khả năng tiên đoán kì lạ. Cho nên

có thể khẳng định rằng thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có đời sống tâm

linh vô cùng phong phú.

Khảo sát phương diện đời sống tâm linh của nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy

Thiệp, chúng tôi nhận thấy nhân vật của ông mang dáng dấp của các nhân vật trong truyện cổ

dân gian chính là ở những bản tính sống hiền lành, coi trọng tình cảm, phần nhiều chấp nhận

cuộc sống yên ả, bình lặng và luôn đặt niềm tin vào thế giới của sự linh thiêng. Dù họ là những

kẻ dị dạng hay bị xem là thằng ngốc đi chăng nữa thì dẫu muốn hay không người đọc vẫn nhận

thấy niềm tin, cũng như khát vọng đi tìm cái chân, cái thiện mãnh liệt nơi họ. Đó chính là niềm

tin vào những điều đẹp đẽ mang tính nguyên sơ, hồn hậu của dân gian. Khá nhiều nhân vật

trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp là người của cuộc sống hôm nay nhưng lại rất tin vào truyền

thuyết, huyền thoại. Nhiều nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp bị một sức mạnh siêu nhiên bí ẩn

nào đấy dẫn dắt khiến họ luôn luôn bị ám ảnh bởi những câu chuyện kì bí. Thậm chí họ sẵn

sàng lìa bỏ gia đình, làng quê, bất chấp cả hiểm nguy đang đe dọa bản thân để đi tìm cho được

sự thật. Đọc những truyện có môtíp nhân vật với niềm tin như thế, người đọc có cảm giác mình

được gặp lại trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp dáng dấp của người xưa, những con người

đang sống trong không khí đa tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đây là dấu ấn của

tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, sùng bái con người, dấu ấn của quan niệm “vạn vật hữu linh” của

người xưa trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Khi con người chưa chế ngự được tự nhiên,

chưa giải thích được bản chất, quy luật của tự nhiên một cách khoa học, họ đặt niềm tin vào

những lực lượng siêu nhiên, họ tin có thiên thần, Sơn thần, Thủy thần,…

Khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, thông qua hệ thống thế giới nhân vật có

đời sống tâm linh vô cùng đa dạng và phong phú, ta thấy hầu hết họ đều được nuôi dưỡng bằng

niềm tin vào những điều thiêng liêng có giá trị tinh thần lớn lao. Hiểu theo nghĩa chiết tự thì

tâm linh được lấy ra trong hai từ tâm niệm và linh thiêng. Vậy tâm linh chính là niềm tin của

con người vào sự linh thiêng. Niềm tin ấy có sức mạnh thúc đẩy con người phải hành động. Đó

là niềm tin vào truyền thuyết về Mẹ Cả của Chương (Con gái thủy thần); của nhân vật “tôi” về

truyền thuyết con trâu đen có sức mạnh lạ kì (Chảy đi sông ơi); niềm tin của ông Diểu (Muối

của rừng) về loài hoa tử huyền ba mươi năm mới nở hoa một lần, “người nào gặp hoa tử

huyền sẽ gặp may mắn” [94, tr,74], hay niềm tin của Hiếu (Những bài học nông thôn) về sự

hiện hữu của đấng siêu nhiên khi anh đứng dưới bầu trời sáng lòa một màu mỡ gà, màu sắc

huyền ảo rực rỡ. Tự nhiên, Hiếu “thót tim vì sợ hãi”, vì dường như đang có “một thế giới khác,

cụ thể khủng khiếp, chi tiết đến kinh dị hiện ra ở trước mắt tôi” [94, tr.146].

Để làm rõ hơn luận điểm này, người viết xin dừng lại phân tích niềm tin tâm linh về sự

tồn tại thế giới siêu nhiên bên trên con người của nhân vật Nhâm trong truyện Thương nhớ

đồng quê. Làng của Nhâm ở gần biển, mùa hè vẫn có gió biển thổi về. Cuộc sống Nhâm vất vả,

quanh năm chân lấm tay bùn, làm bạn với ruộng đồng và lũ ếch nhái nhiều vô kể sau mỗi cơn

mưa. Như mọi lần, trời đổ mưa rào, Nhâm lại ra đồng bắt ếch vì mưa xuống thường có rất nhiều

ếch. Một mình trên cánh đồng, sấm sét nổ vang trời, chớp lóe sáng soi rõ những chân rạ ẩm ướt,

Nhâm bỗng cảm thấy “một cảm giác kinh dị xâm chiếm toàn thân khiến tôi bủn rủn. Tôi rõ

ràng thấy có một bóng hình vĩ đại đang lướt nhanh qua, đang chuyển vận mãnh liệt trên đầu.

Tôi nằm áp xuống bờ rạ, tâm trạng bàng hoàng, thổn thức. Tôi tin chắc ở lực lượng siêu việt

bên trên tôi kia, đang chuyển vận rầm rộ kia, thấu hiểu tất cả, phân minh lắm, rạch ròi, chắc

chắn bảo dưỡng tính thiện trong tâm linh con người, có khả năng an ủi, âu yếm đến từng số

phận. Điều đó khiến tôi an lòng” [94, tr.190-191]. Những câu văn đặc tả tâm trạng của một

chàng trai mười bảy tuổi thật ấn tượng. Không hiểu sao Nhâm tin rằng đang cùng đồng hành

với anh trên cánh đồng, khi anh cất lời ca về “bài hát phụ đồng bắt ếch” có một thế lực siêu

việt bí ẩn nhưng vô cùng mãnh liệt nào đấy mặc dù không hiện hình cụ thể nhưng lại ở rất gần,

đang “bảo dưỡng tính thiện” cho anh, bảo vệ anh trước những cám dỗ của cuộc đời bề bộn.

Con người thường hướng về thần linh, cầu mong thần linh phù trợ cho mùa màng tốt

tươi, cuộc sống no đủ. Truyện Chăn trâu cắt cỏ kể rằng hằng năm, dân làng Hiền Lương đều tổ

chức lễ tế Thành hoàng rất trang trọng. “Việc này đã được chuẩn bị từ hơn tháng trước. Các cụ

ông, cụ bà ở trong đội tế đã thay quần áo, tề tựu cả. Đám thanh niên gồm mười tám trai tân với

mười tám gái tân cũng chuẩn bị nhập hội tế” [94, tr.427]. “Người đông nghìn nghịt sân đình.

Cờ, hoa, các mâm lễ vật bày la liệt” [94, tr.427] để bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của người dân

đến người có công cứu cho làng thoát khỏi nạn hạn hán như chuyện xưa còn lưu lại. Những

ngày làng mở hội, họ như quên hết những nhọc nhằn của cuộc sống thực tại, hòa mình vào

không khí lễ hội đông vui với những trò diễn tích, rước kiệu thật náo nhiệt. Nơi ấy, cuộc sống

dường như vẫn còn sự hiện hữu của sự linh thiêng: “Diễn tích xong thì rước kiệu […]. Kiệu đi

vùn vụt như trong mơ. Đám đông la hét điên cuồng. Ai đó kêu to: - Kiệu bay!” [94, tr.428].

Niềm tin đó là sức mạnh diệu kì, là động lực giúp con người vượt qua khó khăn, trở ngại trong

cuộc sống thường ngày.

Ngoài ý nghĩa là niềm tin vào những điều thiêng liêng có giá trị tinh thần lớn lao, tâm

linh còn được hiểu là khả năng phán đoán, biết trước sự việc, hay còn gọi là linh cảm, linh ứng.

Từ Điển Tiếng Việt định nghĩa: tâm linh là “khả năng biết trước một biến cố nào sẽ xảy ra đối

với mình, theo quan niệm duy tâm” [68, tr.897]. Con người tâm linh cũng được bộc lộ qua sự

linh cảm, linh ứng, không thể giải thích được. Cũng trong truyện Thương nhớ đồng quê, nhân

vật bà mẹ đang rỡ lạc trên đồng “bỗng dưng ngã chúi xuống ruộng, thất thanh gọi tôi: “Nhâm

ơi Nhâm”. Tôi và chị Ngữ sợ hãi, tưởng mẹ tôi trúng gió. Mẹ tôi mặt tái đi, tay giơ trước mặt

như sờ nắn ai. Mẹ tôi gọi: “Nhâm ơi Nhâm. Sao em Minh con máu me đầy người thế này?”.

Chị Ngữ lay mẹ tôi: “U ơi u, sao u nói gở thế?” [94, tr,197]. Đúng lúc ấy thì “có mấy người từ

đám đông đường Năm bỗng chạy tách ra, băng qua đồng. Có ai gào to thảm thiết: “Bà Hùng ơi

(Hùng là tên bố tôi), mau ra mà nhận xác con đây này” [94, tr,197]. Rõ ràng chỉ bằng linh tính

của tình mẫu tử mách bảo, chỉ qua khả năng biết trước biến cố mà khoa học đến tận ngày nay

vẫn không sao giải thích nổi, người mẹ ấy dường như thấy trước cái chết của con gái nên mới

có những hành động lạ lùng như vậy.

Kì lạ hơn, nhân vật Ngô Thị Vinh Hoa (Phẩm tiết) còn có khả năng tiên đoán trước sự

việc như thần. Trời đang nắng chang chang, nàng buột miệng bảo “ngày kia trời mưa”, quả

nhiên ngày kia trời mưa thật. Hay như có người vừa đi qua, Hoa bảo “mai ông này chết” thì

quả không sai. Lời tiên đoán của nàng linh thiêng đến nỗi trai gái trước khi lấy nhau thường dắt

đến nhờ nàng xem vận mạng. Nếu nàng gật đầu thì lấy được nhau bằng không “ba đầu sáu tay

gì lễ cưới cũng không thành” [94, tr.174].

Hay nhân vật bà Phương (Giọt máu) xem tướng Thiều Hoa báo rằng “trên trán có vệt u

tối, nhân trung méo xệch, tháng này đại hạn, sợ rằng khó bảo toàn tính mạng” [94, tr.290] thì

quả thật ít lâu sau bà ta bị chồng cũ trả thù đến chết thiêu.

Tìm hiểu đời sống tâm linh của nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ta có thể

nhận thấy cuộc sống với bao sự ngổn ngang, bao điều bất ngờ có thể xảy ra mà lí trí khó nắm

bắt được cũng như khó có thể giải thích cho rõ ngọn nguồn. Khai thác vào chiều sâu tâm linh là

một cách thức để đi đến tận cùng đời sống ý thức tinh thần của con người. Tìm hiểu sâu vào thế

giới đời sống tâm linh, ta mới có thể thấu hiểu, cảm thông cho số phận con người ở chiều sâu

nhân bản nhất. Nhờ có tâm linh, thế giới tinh thần của đời sống con người trở nên thiêng liêng,

huyền bí và diệu kì hơn. Xây dựng nhân vật trên phương diện tâm linh, Nguyễn Huy Thiệp đã

đưa nhân vật của ông gần với những người lao động thời xưa, những con người bị chi phối bởi

tín ngưỡng đa thần, những con người sống trong niềm tin duy tâm, chưa được khai sáng bởi lí

trí và khoa học. Đi vào đời sống tâm linh, Nguyễn Huy Thiệp đã cùng nhân vật của mình trở về

với cội nguồn văn hóa tâm linh của dân gian. Và đó cũng là một trong những phương diện góp

phần tạo nên sự hấp dẫn của truyện ngắn nguyễn Huy Thiệp.

2.3.3. Nhân vật là những người phụ nữ mang vẻ đẹp của “thiên tính nữ”

“Gắn liền với cuộc sống nông nghiệp và nguyên lí âm dương là khuynh hướng đề cao

phụ nữ với việc thờ cúng hàng loạt nữ thần: Bà Trời, Mẹ Đất, Bà Thủy, Bà Hỏa, các nữ thần

Mây – Mưa – Sấm – Chớp; đạo thờ Tam phủ, Tứ Phủ, 12 bà mụ…[…]. Việc thờ các loại mẫu ở

Việt Nam mạnh đến nỗi có thể xem nó như một thứ tôn giáo dân tộc đặc biệt – ĐẠO MẪU” [85,

tr.254]. Quả vậy, truyền thống văn hóa dân gian Việt Nam là truyền thống văn hóa trọng âm,

trọng nữ, mà tục thờ Mẫu là một trong những biểu hiện cụ thể. Truyền thống ấy từ lâu đã in vào

bề sâu tâm thức của người Việt. Bắt nguồn từ nền văn minh lúa nước, tục thờ Mẫu đã trở thành

tín ngưỡng trong đời sống tâm linh của người Việt. Nó gắn liền với nhận thức về tính phồn

thực, phồn sinh cũng như vai trò “giữ lửa” của người phụ nữ trong gia đình, xã hội. Nhà nghiên

cứu Trần Quốc Vượng đã khẳng định: “nền văn hóa truyền thống Việt Nam đã từng có nguyên

lí mẹ” [100, tr.78]. Còn Lê Ngọc Trà thì có đánh giá rất bao quát: “Văn hóa Việt Nam cũng là

một nền văn hóa đầy nữ tính. Nó giàu tình thương, lòng nhân hậu, đức hi sinh, ít thiên về lí tính

mà thiên về tình cảm. Nó đậm đà chất trữ tình, thiên về âm nhạc và thơ ca. […]. Văn hóa nữ

tính có một sức mạnh đặc biệt – sức mạnh của cái mềm, của nước” [99, tr.293].

Ở mọi thời đại, người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng sáng tác bất tận cho văn chương

nghệ thuật. Trong văn học dân gian, nhân vật nữ thường đại diện cho phẩm chất cao quí của

nhân dân. Họ là mẹ Âu Cơ (Con Rồng cháu Tiên), công chúa Tiên Dung (Chử Đồng Tử), cô

Tấm (Tấm Cám), cô em út (Sọ Dừa),…Trong văn học trung đại, mặc dù ảnh hưởng nặng nề tư

tưởng trọng nam khinh nữ, người phụ nữ vẫn là nhân vật chính của những tác phẩm xuất sắc

như Vũ Thị Thiết (Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ), Thúy Kiều (Truyện

Kiều, Nguyễn Du), người cung nữ tài hoa bạc mệnh (Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia

Thiều),…Đến thời kì văn học hiện đại, đặc biệt là giai đoạn văn học đổi mới đến nay, các tác

giả đã phác họa tương đối hoàn thiện chân dung người phụ nữ Việt Nam. Có thể tìm thấy các

nhân vật nữ trong một số tác phẩm của Ma Văn Kháng với hai kiểu dáng: dấu ấn truyền thống

trong văn học dân gian và người phụ nữ của hiện đại. Đó là những người phụ nữ truyền thống

với những phẩm chất đẹp, song cũng hiện đại và đầy cá tính trong truyện của Lê Minh Khuê,

Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ,…

Nhà văn bao giờ cũng sáng tác từ một truyền thống văn học. Có thể tìm thấy trong sáng

tác của nhà văn những nhân vật được thể hiện như sự tiếp nối, kế thừa, phát triển những nhân

vật trong văn học truyền thống. Tìm hiểu thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn của Nguyễn

Huy Thiệp, chúng tôi nhận thấy đa phần họ đều mang vẻ đẹp của biểu tượng “mẫu tính” vốn có

trong truyền thống văn hóa, văn học dân tộc. Tuyệt đại đa số những nhân vật nữ đều có phẩm

chất ưu mĩ tuyệt vời. Từ góc độ văn hóa dân gian vốn có truyền thống trọng nữ thể hiện ở tục

thờ Mẫu, có lúc đã trở thành một thứ tôn giáo đầy linh thiêng: đạo Mẫu, chúng ta có thể lí giải

vì sao trong tác phẩm của mình, Nguyễn Huy Thiệp thường dành rất nhiều trang văn cho những

người phụ nữ với những tình cảm trân trọng, ngợi ca đầy ngưỡng vọng, trong khi viết về những

đối tượng khác, giọng văn ông thường rất gay gắt, có phần cay cú. Bởi thế, khi nghiên cứu

truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến đã đưa ra một nhận

xét khá tinh tế là trừ một số ít nhân vật đàn ông là người tốt, còn lại “hầu hết là đốn mạt, chí ít

là những kẻ bất đắc chí, vô tích sự, nói chung là không ra gì. Ngược lại, trong các nhân vật nữ

có những con người ưu tú, nhiều người đáng gọi là liệt nữ. Nó là sự hiện thân của nguyên tắc

tư tưởng tạo ra cảm hứng chủ đạo của tác giả, có thể gọi đó là nguyên tắc tính nữ hay thiên

tính nữ” [59, tr.15-16].

Hình tượng người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng mãnh liệt trong những sáng tác của

Nguyễn Huy Thiệp. Khi viết về phụ nữ, Nguyễn Huy Thiệp thẳng thắn cho rằng: “phần lớn đàn

ông chúng ta chẳng hiểu gì về phụ nữ”, nếu có hiểu thì cũng chỉ “mang máng hiểu rằng đấy là

một lực lượng tự nhiên kì lạ” [89, tr.16] mà thôi. Phụ nữ vẫn luôn là điều bí ẩn đối với những

người đàn ông trên trái đất này. Chứng kiến nhiều số phận phụ nữ không hạnh phúc, ông cảm

thông chân thành sâu sắc đối với thân phận kém may mắn của họ. Trong truyện Quan âm chỉ

lộ, tác giả thổ lộ: “Tôi đã nhìn thấy nhiều ánh mắt của những người phụ nữ, rất nhiều ánh mắt

tê dại vô hồn, vô ảnh, ta soi vào mà chẳng thấy gì […]. Không biết những người chồng, người

con, những người thân của họ đã làm những gì để làm cho nó khô kiệt, đã làm mất hết vẻ tinh

anh trong ánh mắt kia?” [94, tr.582].

Là một nhà văn hiện đại khá thành công, Ma Văn Kháng viết nhiều về phụ nữ. Ông có

biệt tài khi miêu tả nhan sắc của người phụ nữ. Nhà văn thường quan tâm đặc biệt hơn đến vẻ

đẹp của những người phụ nữ ở vào tuổi bốn mươi, cái tuổi đẹp mặn mà nhất của người đàn bà.

Họ có thể là những người đẹp sắc sảo như Uyển trong Vòng quay cổ điển. Đến vẻ đẹp thánh

thiện của Nhiên trong truyện Nhiên, nghệ sĩ múa,…Mặc dù mỗi người mang một vẻ đẹp riêng

nhưng điểm giống nhau giữa những người phụ nữ trong truyện Ma Văn Kháng là tất cả họ đều

có chung một vẻ đẹp phồn thực, tràn đầy nhựa sống. Có lẽ đó là điểm gặp nhau giữa nhà văn

này với tác giả Nguyễn Huy Thiệp khi hai ông xây dựng nhân vật là phụ nữ.

Nguyễn Huy Thiệp không phải là nhà văn thành công với bút pháp miêu tả ngoại hình,

bởi phần lớn nhân vật trong sáng tác của ông chỉ bộc lộ tính cách qua hành động, lời nói. Người

đọc sẽ khó có thể tìm những chân dung điển hình trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.

Tuy nhiên trong một số trường hợp, vẻ đẹp chân dung nhân vật nữ của Nguyễn Huy Thiệp lại

được ông miêu tả rất ấn tượng. Ngòi bút của nhà văn thực sự thăng hoa khi ngợi ca vẻ đẹp đầy

nữ tính của họ. Đó là nét đẹp trong trẻo, tinh khôi của Pùa, một cô gái không may bị liệt hai

chân từ nhỏ nhưng “sắc đẹp của nàng khắp các mường không ai bì kịp, da trắng như trứng gà

bóc, tóc mượt và dài, môi đỏ như son”(Trái tim hổ), [94, tr.214-215]. Đó là nhan sắc khó ai

sánh bằng của Hà Thị E: “Hiếm có người xinh đẹp như E. Lưng nàng như lưng kiến vàng, mắt

long lanh như sao Khun Lú – Nàng Ủa” (Tiệc xòe vui nhất), [94, tr.223]. Đó là vẻ đẹp thánh

thiện của cô sơn nữ Thái khiến người đối diện “gần như nghẹt thở vì vẻ đẹp trong trẻo huyền

ảo”, “khuôn mặt cô thật xinh đẹp, tươi tắn” (Thổ cẩm), [94, tr.502]. Đó còn là vẻ đẹp mặn mà,

duyên dáng, mạnh khỏe của người phụ nữ mặc dù đã có chín đứa con song vẫn còn căng tràn

sức sống: “người nàng cao lớn, đôi hông to khỏe, thân hình lẳn chắc, bộ ngực nở nang mềm

mại”, và đáng yêu hơn “nàng lúc nào cũng tươi cười, tràn trề thứ ánh sáng cuốn hút lòng

người” (Nàng Bua), [94, tr.220]. Nếu không tả trực diện vẻ đẹp của khuôn mặt, dáng hình thì

tác giả lại chú trọng ngợi ca giọng nói của họ. Thanh âm ấy bao giờ cũng “dịu dàng, ngân nga

như hát” (Chảy đi sông ơi), [94, tr.13], “tiếng nói của nàng dịu dàng. Khi nàng cười, tiếng

cười trong vắt và vô tư lự” (Tiệc xòe vui nhất), [94, tr. 223].

Khi miêu tả vẻ bề ngoài của các nhân vật nữ, Nam Cao thường tả rất chi tiết khuôn mặt

với các chi tiết rậm rạp, theo mức độ ngày càng tăng tiến kết hợp với những so sánh táo bạo,

nặng nề thiên về bản năng: những khuôn mặt hiện lên hoặc đầy thịt, hoặc thiếu bề ngang, hao

hao như mặt lợn. Trong truyện ngắn Chí Phèo, nhà văn miêu tả khuôn mặt của Thị Nở: “Cái

mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề

ngang lớn hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh

phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn, là thứ mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng,

trên cổ người. Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh

muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho

nên chúng nứt nở như rạn ra. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm

một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế những cái

răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu” [5,

tr.30]. Còn Nguyễn Huy Thiệp thì lại miêu tả theo cách cảm nhận riêng. Cũng là miêu tả khuôn

mặt của người phụ nữ, nhưng nhà văn luôn chú ý các đường nét khá truyền thống: đôi mắt, đôi

môi, làn da, chiếc cổ ...với tất cả sự gợi cảm. Đó là vẻ đẹp của làn môi căng mọng và đôi mắt

xanh biếc của người con gái tên M: “môi cô ta lúc nào cũng thắm đỏ. Đáy mắt cô ta xanh như

vỏ trứng chim sáo” (Mưa), [94, tr.320]. “Đôi mắt thật đẹp” và“đôi môi thật đẹp…Cái cổ cũng

đẹp” [94, tr.310] của người thiếu phụ tên Hương (Chút thoáng Xuân Hương). Vẻ đẹp thanh tú

của người con gái thủy thần (Con gái thủy thần) hiện lên ấn tượng: “Nàng hiện ra rực rỡ.

Những đường nét trên khuôn mặt nàng rõ ràng, đôi lông mày thanh tú, quả cảm” [94, tr.89].

Vẻ đẹp trẻ trung xinh xắn của cô gái Thái (Chuyện tình kể trong đêm mưa) có được là do “đôi

mắt nông, hoang vắng và tinh khôn có phần dạn dĩ” [94, tr.457] Đó còn là “khuôn mặt trông

rất dễ ưa” [94, tr.113] của Quy (Những người thợ xẻ) với nước da“trắng hồng” gợi cảm.

Dường như ở độ tuổi nào, người phụ nữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp đều đẹp mặn

mà, quyến rũ, tràn trề nhựa sống.

Không chỉ miêu tả trực tiếp, tác giả còn khéo léo để nhân vật khác trong truyện nhận xét

hay bộc lộ cảm xúc trước vẻ đẹp của các nhân vật nữ. Anh chàng thi sĩ trong Chút thoáng

Xuân Hương được chọn vào vai Chiêu Hổ tình cờ gặp người thiếu phụ tên Hương trong một

lần đi nhờ đò của chị. Vừa mới chạm mặt, anh “bỗng sững sờ vì vẻ đẹp lôi cuốn của chị. Vẻ đẹp

tự nhiên, không ra ngây thơ, không ra từng trải” [94, tr.309], nhưng đã để lại trong anh bao cảm

xúc khó quên. Đó cũng có thể là vẻ “đẹp mơn mởn như lộc mùa xuân” [94, tr.179] của nàng

Vinh Hoa trong truyện Phẩm tiết, một tiểu thư dòng dõi trâm anh thế phiệt. Vẻ đẹp lộng lẫy, lạ

lùng kia khiến tướng của Tây Sơn là Đặng Tiến Đông “đánh rơi cả kiếm” [94, tr.176]. Đến cả

vua Quang Trung vừa trông thấy nàng cũng phải “thốt nhiên rùng mình, hoa mắt, đánh rơi cốc

rượu quý cầm tay” [94, tr.176], còn vua Gia Long “thấy Vinh Hoa đẹp quá, bỗng nhiên xây

xẩm mặt mày” [94, tr.179].

Không chỉ có ngoại hình sắc sảo, đáng trọng hơn, những người phụ nữ trong sáng tác

Nguyễn Huy Thiệp còn mang trong mình vẻ đẹp chiều sâu tâm hồn, có phẩm chất cao quí.

Những người phụ nữ đáng yêu nhất của Nguyễn Huy Thiệp đều ít nhiều mang “chút thoáng

Xuân Hương”, nghĩa là những con người đầy sức sống, có vẻ đẹp phồn thực, khao khát hạnh

phúc nhưng tâm hồn hết sức trong trẻo, trái tim giàu yêu thương. Họ là hiện thân của sự sống,

là đấng tạo hóa đã sinh ra con người. Như nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét:

nhân vật nữ trong truyện Nguyễn Huy Thiệp có nhiều người tốt. Ông đặt ra vấn đề “có lẽ bản

chất đàn bà gần với tạo hóa hơn chăng? Sức mạnh và vẻ đẹp của họ xét ra, chính là sức mạnh

và vẻ đẹp của tạo hóa. Và bản thân họ cũng có thể coi là những đấng tạo hóa đã sinh ra con

người để sáng tạo nên sự sống” [59, tr.462]. Nhân vật huyền thoại Mẹ Cả (Con gái thủy thần)

tồn tại trong tâm thức dân làng ở bãi Nổi trên sông Cái như một vị thần bảo trợ, luôn giúp

những ai gặp khó khăn, hoạn nạn. Hình ảnh Mẹ Cả hiện lên thật vĩ đại, thiêng liêng với những

phép màu nhiệm, song cũng thật gần gũi vì Mẹ sống giữa lòng dân gian, giữa cuộc đời thế tục,

bên cạnh những con người trần gian. Hình ảnh này có lẽ xuất phát từ tín ngưỡng thờ Mẫu tồn

tại từ rất lâu trong đời sống người Việt. Những người phụ nữ như chị Thắm (Chảy đi sông ơi),

Bua (Nàng Bua), Sinh (Không có vua), cô bé Thu (Tâm hồn mẹ), Xuân Hương (Chút thoáng

Xuân Hương), Nguyễn Thị Lộ (Nguyễn Thị Lộ),…đều toát lên vẻ đẹp tâm hồn có khả năng

đánh thức nhân tính, tái tạo tâm hồn con người, đặc biệt là những con người ít nhiều đã bị tha

hóa. Trong bất kì hoàn cảnh nào, những người phụ nữ ấy cũng đều có vai trò và tầm ảnh hưởng

lớn đến xung quanh.

Trong gia đình, những người phụ nữ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là những

người đặc biệt quan trọng. Họ có vai trò giữ hòa khí, tạo mối quan hệ mới mẻ tốt đẹp cho

những thành viên trong gia đình (Sinh – Không có vua); suốt đời hết lòng hi sinh cho chồng

con (bà Hinh – Những người muôn năm cũ), tình mẫu tử thiêng liêng, cao cả (bà Xoan – Lòng

mẹ, bà Hân – Cánh buồm nâu thuở ấy); đảm đang, tháo vát việc nhà (Thủy – Tướng về

hưu),...

Sinh (Không có vua) về làm dâu trong một gia đình mà gần như mối quan hệ giữa các

thành viên đã vỡ vụn. Gia đình chồng có cả thảy sáu người toàn đàn ông. Hàng ngày, sáu người

đàn ông nói năng, hành động lỗ mãng, chẳng ai coi trọng ai. Tới bữa cơm không ai mời ai, ai

cũng “cởi trần, mặc quần đùi, cười nói thản nhiên, chan chan húp húp như rồng cuốn” [94,

tr.46], không khí gia đình vô cùng căng thẳng, ngột ngạt. Sự xuất hiện của Sinh như dòng nước

mát xoa dịu cái nóng oi bức của sa mạc, “tựa như cơn mưa rơi xuống đất nẻ” [94, tr.47] làm

không khí dịu lại. “Vài tháng đầu, lão Kiền không gây sự gì với con cái. Cấn là người hạnh

phúc nhất. Đoài thấy mức chi tiêu tăng lên, ban đầu hoảng sợ nhưng không thấy ai hỏi han gì

về khoản đóng góp thường lệ của mình nên bình tâm hơn…” [94, tr.48]. Biết bao tủi cực Sinh

đã phải trải qua trong cái gia đình phức tạp ấy thế mà Sinh vẫn nói: “Khổ chứ. Nhục lắm. Vừa

đau đớn, vừa chua xót. Nhưng thương lắm” [94, tr.64], vẫn không một lời oán trách. Cô như

“thiên sứ”, hiện thân của hạnh phúc, của tình yêu thương thánh thiện đã cứu vớt những tâm hồn

đang khô héo, đang trở nên cằn cỗi. Chính Sinh là sợi dây yêu thương nối kết họ lại với nhau.

Nhân vật Xuân Hương trong chùm truyện Chút thoáng Xuân Hương của Nguyễn Huy

Thiệp cũng là người phụ nữ có tầm ảnh hưởng lớn đối với những người đàn ông trong gia tộc.

Xây dựng nhân vật này, nhà văn không biết vô tình hay cố ý đã tạo nên một màn sương nửa hư

nửa thực bao quanh lấy nàng, vì thế nhân vật của ông càng đẹp, càng quyến rũ hơn. Tiêu biểu là

truyện thứ nhất, Xuân Hương không hề xuất hiện với tư cách là một nhân vật hiện hữu. Nàng

chỉ hiện lên trong suy nghĩ, đánh giá của Tổng Cóc, song có vai rất quan trọng, chi phối cuộc

đời của chồng nàng. Đối mặt với cuộc đời mưu mô, lắm kẻ tàn ác, nhiều khi thấy ghê sợ chuyện

thế thái nhân tình, chao đảo khi vấp ngã, thế mà Tổng Cóc vẫn luôn “chịu Xuân Hương ở chỗ

bà luôn thất bại ở trong cuộc đời mà vẫn thăng bằng, mà vẫn không có cảm giác thua cuộc”

[94, tr.299-300]. Bởi thế mà ông “ngờ ngợ bà to lớn hơn ông, mạnh mẽ hơn, sống có dũng

hơn” [94, tr.300]. Ở truyện thứ hai, trí tuệ của nàng Xuân Hương khiến Ấm Huy “trọng Xuân

Hương vì bà sáng suốt hơn chồng. Bà gieo ở lòng chàng một nỗi kính phục và sợ hãi” [94,

tr.302]. Trước người phụ nữ bản lĩnh như Xuân Hương, không phải chỉ Tổng Cóc mà có lẽ bất

cứ người đàn ông nào cũng cảm thấy nể phục, cảm thấy mình còn thua kém, cảm thấy mình cần

một chỗ dựa tinh thần như thế.

Không chỉ có tầm ảnh hưởng quyết định trong gia đình, ngoài xã hội, những người phụ

nữ đáng quí ấy còn sẵn sàng giành lại sự sống cho người khác trong lúc hiểm nguy, dạy cho

người ta bài học nhân sinh sâu sắc, giúp con người sống tốt hơn lên với niềm tin vào điều thiện.

Vẻ đẹp tinh thần của họ là hiện thân lí tưởng của một thứ thiên tính nữ, mang vẻ đẹp của giá trị

tinh thần, cái đẹp hoàn thiện mà hết thảy những người đàn ông có mặt trên cuộc đời này đều

khao khát.

Trước khi gặp Nguyễn Thị Lộ (Nguyễn Thị Lộ), Nguyễn Trãi giấu mình trong vỏ ốc,

đang hoang mang tột độ trước đường hướng chính trị, cuộc đời. Vậy mà từ khi gặp nàng, chỉ

qua những buổi trò chuyện với nàng, Nguyễn đã nhận ra ở nàng “rạng lên một thứ ánh sáng

linh diệu từ phía bên ngoài” [94, tr.328]. Bởi nàng là một người phụ nữ có “trí lự phi thường”

[94, tr.330], “trong vắt như nước suối”, “hoàn toàn giản dị” [94, tr.332]. Nàng là hiện thân của

sự tốt đẹp thật sự trong thế giới này và chính nàng đã giúp ông nhận ra bao nhiêu điều ở trong

cõi đời, cõi người. Từ đấy, “Nguyễn sống ráo riết và nghiêm nhặt hơn. Ông rà xét lại mình và

nhận ra một loạt yếu kém trong phương diện tinh thần cũng như cách tổ chức cuộc đời. Cho

đến lúc này, Nguyễn mới có thể cắt nghĩa được bản chất các sự kiện đã từng diễn ra với ông và

cả triều đại” [94, tr.332-333].

Ngô Thị Vinh Hoa (Phẩm tiết) được vua Quang Trung giữ lại trong cung lúc đầu chỉ vì

nhan sắc. Sau thấy nàng quá thông minh, ăn nói khoan hòa, cư xử thông minh, lịch lãm, “nhiều

việc triều chính nàng tham dự, mọi ý kiến luận bàn của nàng vua Quang Trung hết sức thán

phục, làm gì cũng thành” [94, tr.177]. Nhà vua cứ tấm tắc rằng: “ta được Vinh Hoa như được

báu vật, một Vinh Hoa bằng ba vạn người” [94, tr. 178].

Trong truyện Chảy đi sông ơi, nhân vật chị Thắm hiện lên như một “tín sứ”. Chị dám

làm cả cái điều trái với “cái lệ” là làm nghề chèo đò nhưng dám cứu người chết đuối. Đáng quí

hơn, chị Thắm không chỉ cứu vớt mạng sống thể xác cho cậu bé say mê câu chuyện về truyền

thuyết con trâu đen, mà còn cứu vớt tâm hồn non nớt đang hoang mang trước sự thật cay đắng

của cuộc đời thực tàn ác. Nhờ có người phụ nữ thánh thiện ấy, tâm hồn của nhân vật “tôi” đã

hai lần tìm ra bản chất của điều thiện (một lần còn nhỏ và một lần khi đã trưởng thành). Câu

chuyện cho ta thấy cái đẹp thực ra không chỉ là thứ tồn tại trong huyền thoại. Nó có thật trong

cuộc đời này, và chỉ có ở lòng bao dung của con người, của một số rất ít người như chị Thắm,

cái đẹp ấy mới được lộ diện, thăng hoa.

Hay trong truyện Quan âm chỉ lộ có một đoạn kể về câu chuyện của người đàn ông tên

Công. Trong lúc tuyệt vọng vì làm ăn thất bại, gia đình đổ vỡ, Công lên Sa Pa định trèo lên

đỉnh Phan – Xi – Phăng tự vẫn. Nhưng thật may mắn, anh đã gặp Kiểm, một cô giáo dưới xuôi

lên đây dạy học. Kiểm đã mang tình yêu cuộc sống đến cho anh. Công thú nhận: “Từ khi biết

Kiểm, tôi sống tốt hơn lên. Tôi yêu mến tất cả mọi người, làm nhiều việc có ích cho đời” [94,

tr.584]. Kiểm là hiện thân của “thiên tính nữ” có mặt ở cuộc đời để“làm cho thế giới này tốt

đẹp lên nhiều” [94, 584].

Truyện Tâm hồn mẹ mang vẻ đẹp trong trẻo như một câu chuyện dành cho thiếu nhi,

nhưng lại có giá trị nhân sinh sâu sắc. Thu, tuy chỉ mới bảy tuổi, nhưng đã sớm bộc lộ bản năng

“mẫu tính”. Thu “hồn nhiên và khá tự do” [94, tr.245], song lại là niềm an ủi, chỗ dựa tinh thần

vững chắc cho cậu bạn cùng lớp tên Đăng không may mồ côi mẹ từ năm lên hai tuổi. Kí ức về

mẹ trong Đăng còn lại rất mơ hồ. Nó luôn ao ước giá như nó còn có mẹ bởi “mẹ là hình ảnh

tuyệt diệu” [94, tr.245]. Chính Thu đã lấp đầy khoảng trống trong tâm hồn côi cút của Đăng.

Thu là hình ảnh ngọt ngào của mẹ hiện hữu trong cuộc sống của cậu bé. Thậm chí “người mẹ”

ấy đã sẵn sàng bất chấp hiểm nguy để cứu mạng Đăng khi cậu bé dại dột đi tìm cái chết trong

uất ức, tủi cực. Hình ảnh cô bé Thu hiện lên trong truyện thật đẹp và thánh thiện xiết bao!

Tuy nhiên, thế giới nhân vật nữ ấy có những nhân vật hiện lên không đơn thuần chỉ

mang biểu tượng của vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Dưới ngòi bút sáng tạo

của Nguyễn Huy Thiệp, hình tượng nhân vật nữ còn được xây dựng từ cảm quan thẩm mĩ hiện

đại nên cũng có tính cách riêng biệt, chỉ có ở lối nghĩ, cách sống, hành động của người phụ nữ

hiện đại. Đó là ở lối sống khá phóng túng, tự do của Bua (Nàng Bua); sự sắc sảo, khôn ngoan,

nhạy bén với đời sống kinh tế của Thủy (Tướng về hưu); hay quan niệm khá cởi mở về vấn đề

tình dục, nữ quyền của cô chủ tên Phượng (Con gái thủy thần); thông minh, sắc sảo như Hà

Thị E (Tiệc xòe vui nhất),…

Nàng Bua trong truyện ngắn cùng tên cũng là một trong những nhân vật nữ đặc biệt,

mang dáng dấp của người phụ nữ hiện đại. Bua sống ở bản làng Hua Tát với bao luật lệ hà khắc

vẫn còn đang đeo đẳng. Ở đấy, “Mọi người đều có gia đình nền nếp của mình. Ai cũng phải

sống theo phong tục cổ truyền, vợ có chồng, con có bố” [94, tr.221]. Vậy mà Bua thì sao? Nàng

có đến chín đứa con nhưng “nàng cũng không biết đích xác bố của từng đứa một” [94, tr.220].

Có rất nhiều người đàn ông đến với nàng, với ai nàng cũng nồng nàn, nhưng lại chẳng phụ

thuộc ai. Tự nàng lo liệu chu tất cho những đứa con. Mặc lời thị phi, mặc lời nguyền rủa và

những cái nhìn xa lánh, những cử chỉ xua đuổi, Bua vẫn sống hòa thuận trong gia đình nhỏ của

nàng, dù có nghèo túng nhưng không bao giờ ngớt tiếng cười. Ở nàng toát lên vẻ đẹp của tình

mẫu tử thiêng liêng. Phải chăng bản năng của một người mẹ, thiên chức thiêng liêng ấy đã tạo

nên sức mạnh cho Bua? Quan trọng hơn, Bua đã dám vượt qua dư luận để sống chứ không để

dư luận điều khiển hay đè bẹp sức sống mãnh liệt đang thôi thúc, đang réo gọi trong trái tim

nàng. Vì, “nàng sống trơ trơ trước mắt mọi người. Nàng có chú ý đến dư luận không, nào ai

biết được?” [94, tr.221].

Khi truyện ngắn Tướng về hưu ra mắt công chúng, độc giả bên cạnh việc chê trách sự

nhu nhược của nhân vật người con trai vị tướng thì cũng có không ít những lời phê phán đối với

nhân vật cô con dâu tên Thủy. Song chúng ta cũng không phủ nhận những điểm tốt của nhân

vật này. Sống bên cạnh người chồng nhu nhược, Thủy tỏ ra là người rất biết làm kinh tế gia

đình (qua cách làm ăn, tính toán và chi tiêu trong gia đình), đảm đương chính việc dạy dỗ con cái,

tôn trọng và lo lắng cho bố chồng, cưu mang bố con ông Cơ,…

Nhân vật Phượng (Con gái thủy thần, truyện thứ ba) cũng được nhà văn xây dựng rất ấn

tượng. Phượng có quan niệm sống cởi mở, đặc biệt là trong vấn đề tình dục. Cô nói năng triết lí,

đôi lúc ăn nói thẳng thắn đến mức trần trụi khiến người khác phải đỏ mặt. Phượng nói với

Chương: “Tất cả bí mật của vũ trụ, xã hội, công danh, tiền bạc, nghệ thuật […] là ở chuyện

này. Ám ảnh cao nhất, rộng nhất – trên cao và rộng lớn hơn là các ám ảnh khác, kể cả tôn

giáo, chính trị - là tình dục” [94, tr.101]. Theo Phượng, “Trật tự phụ quyền được đặt ra là một

thứ trật tự tục tĩu” [94, tr.101]. Cô tự nhận mình là “nhà cách mạng nữ quyền”[94, tr.102], đấu

tranh vì lẽ sống tự do, công bằng cho phụ nữ, cho bản thân mình.

Vẻ đẹp “thiên tính nữ” của nhân vật nữ là một trong những yếu tố làm nên chất dân gian

trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Đọc truyện của ông, ta thấy hiện lên những người phụ

nữ với nhiều phẩm chất cao quí, cũng như vai trò và tầm ảnh hưởng của họ đối với cuộc sống.

Tiểu kết:

Cốt truyện sử dụng yếu tố kì ảo, môtíp cổ tích là một trong những phương diện thành

công trong nghệ thuật xây dựng truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Đó một phần là nhờ nhà

văn sử dụng thành công yếu tố kì ảo, môtíp cổ tích quen thuộc vốn có từ truyện cổ dân gian khi

xây dựng cốt truyện. Những yếu tố này khiến truyện của ông mang dáng dấp của truyền thuyết,

cổ tích dân gian. Tuy nhiên, bằng cảm quan thẩm mĩ hiện đại, Nguyễn Huy Thiệp không lặp lại

truyền thống. Tiếp nối, kế thừa những gì là tinh hoa của văn học dân gian, nhà văn luôn có ý

thức sáng tạo, đổi mới tạo nên những thiên truyện khá đặc sắc. Bởi vậy, cốt truyện của ông có

những đoạn kết “hiện đại” như kết thúc ngược cổ tích, không có hậu, không khép kín mạch

truyện,..

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp vô cùng đa dạng, phong phú.

Khi xây dựng nhân vật, nhà văn đã chịu ảnh hưởng khá sâu sắc những yếu tố văn hóa dân gian

như triết lí sống hài hòa bình ổn, hòa hợp với tự nhiên, đời sống tâm linh phong phú và khuynh

hướng trọng âm, trọng nữ của người Việt truyền thống. Vì thế khi tiếp xúc với nhân vật trong

truyện của Nguyễn Huy Thiệp, phần lớn người đọc đều cảm nhận được vẻ đẹp nguyên sơ, hồn

hậu trong đời sống tâm hồn của người Việt Nam, đặc biệt là vẻ đẹp của “thiên tính nữ”.

Chương 3

NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU

TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP

3.1. Ngôn ngữ

Tác phẩm văn học là bức tranh hiện thực đa dạng và phong phú về cuộc sống do các nhà

văn vẽ nên thông qua chất liệu ngôn từ. Ngôn từ là chất liệu, là vỏ bọc vật chất của tác phẩm

văn học qua đó chứa đựng nội dung mà nó muốn thể hiện.

Qua quá trình sáng tạo của mỗi nhà văn, chất liệu ngôn ngữ chung ấy lại trở thành hệ

thống ngôn từ riêng, độc đáo của mỗi người. Khi tìm hiểu, đánh giá một hiện tượng văn học

nào đó, chúng ta không thể không phân tích yếu tố ngôn từ nghệ thuật. Mỗi nhà văn đều có sở

trường sử dụng ngôn từ khác nhau. Vì vậy ngôn từ là một trong những yếu tố quan trọng thể

hiện cá tính sáng tạo, tài năng và phong cách của nhà văn.

Để phản ánh hiện thực muôn màu muôn vẻ của đời sống, nhà văn phải có vốn từ vựng

phong phú, khả năng biến hóa từ vựng sẵn có thành những hiện tượng đa nghĩa, mới mẻ, đầy

sáng tạo. Muốn được như thế, nhà văn phải không ngừng học hỏi, trau dồi ngôn ngữ của nhân

dân. Mỗi nhà văn lớn là tấm gương sáng về sự hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ nhân dân, và luôn có

ý thức trau dồi ngôn ngữ trong quá trình sáng tác. Không chỉ tiếp thu vốn từ ngữ phổ thông sẵn

có, nhà văn còn phải luôn sáng tạo thêm những lớp từ, lớp nghĩa, hay cách diễn đạt riêng, góp

phần làm giàu có thêm kho tàng ngôn ngữ của dân tộc.

Chịu ảnh hưởng khá sâu sắc từ ngôn ngữ, cách diễn đạt của dân gian, ngôn ngữ truyện

ngắn Nguyễn Huy Thiệp mang những đặc điểm sau: sử dụng nhuần nhị ngôn ngữ đời

thường, tục ngữ, thành ngữ; lời kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần.

3.1.1. Sử dụng nhuần nhị ngôn ngữ đời thường, tục ngữ, thành ngữ

Trong truyện ngắn có nhan đề Mưa Nhã Nam, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp viết rằng:

“Tôi biết một thứ ngôn ngữ giản dị như đất

Thứ ngôn ngữ mộc mạc thẳng băng

Tựa như tiếng tù và

Như tiếng kèn đồng

Như tiếng chuông vọng”

Và cũng có:

“Có một thứ ngôn ngữ thức tỉnh con người

Buộc họ soi vào lòng mình

như soi mặt xuống lòng hồ

Có thứ ngôn ngữ của người anh hùng,

của người chính trực”

Từ đó, ông bày tỏ quan niệm về thứ ngôn ngữ mà nhà văn sử dụng phải là:

“Thứ ngôn ngữ không hề phù phiếm

cũng chẳng tân kì

Thứ ngôn ngữ của giống nòi truyền lại

Thứ ngôn ngữ của lương tri không bao giờ mất…”

Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ta nhận thấy ngôn từ nghệ thuật trong sáng tác

của ông phảng phất sắc thái của ngôn ngữ dân gian bình dị, mộc mạc, “thư ngôn ngữ của giống

nòi truyền lại”, song không kém phần sâu sắc của sự suy nghiệm. Nhờ đó góp phần tạo nên

phong cách ngôn ngữ khá độc đáo của nhà văn.

“Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc” (W. Humboldt). Nhìn vào tiếng Việt, ta thấy nhận

định trên chính xác hơn bao giờ hết với tính cách, tâm hồn người Việt và những đặc trưng cơ

bản của nền văn hóa dân tộc. Người Việt Nam ta trong giao tiếp hàng ngày vốn chuộng cách

nói ví von, bình dân, nôm na, dễ hiểu. Lối tư duy của người Việt thiên về “các thủ pháp ước

lệ” [9, tr.288] như nhà nghiên cứu văn hóa, văn học Chu Xuân Diên từng nhận định. Trần Ngọc

Thêm cũng xuất phát từ “tính biểu trưng, tính biểu cảm và tính linh hoạt” [85, tr.287] trong

nghệ thuật ngôn từ của người Việt để chứng minh lối biểu đạt nhịp nhàng cân đối trong tục ngữ,

thành ngữ, và cả những “bài chửi” trong tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan.

Tìm hiểu ngôn ngữ trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy ông đã chịu ảnh

hưởng, và vận dụng sáng tạo ngôn ngữ đời sống hàng ngày vào văn chương nghệ thuật. Văn

phong Nguyễn Huy Thiệp giản dị, mộc mạc như chính lời ăn tiếng nói hàng ngày. Để tăng thêm

tính tự nhiên, nhà văn đã sử dụng nhiều lớp từ khẩu ngữ, tục ngữ, thành ngữ rất phù hợp với

ngữ cảnh.

Nhằm đi đến tận cùng tính cách của từng nhân vật, Nguyễn Huy Thiệp có khi không

ngần ngại để cho họ nói năng trơ trẽn, bộc lộ những toan tính dơ dáng, qua đó thấy rõ sự suy

đồi đạo đức, tha hóa nhân cách của một bộ phận trong xã hội. Ông Bổng trong truyện Tướng về

hưu là một trong những nhân vật như vậy. Ông vốn là kẻ ghê gớm, chỉ biết có tiền. Tính cách

ấy không chỉ thể hiện qua hành động mà còn qua lời nói. Khi chuẩn bị đóng quan tài cho chị,

ông Bổng hỏi: “Ván mấy phân? Tôi bảo: “Bốn phân”. Ông Bổng bảo: “Mất mẹ bộ xa lông. Ai

lại đi đóng quan tài bằng gỗ dổi bao giờ? Bao giờ bốc mộ, cho chú bộ ván” [94, tr.26]. Chỉ cần

qua một chi tiết đối thoại nhỏ này, thiết nghĩ không cần phải bình luận thêm bởi tính cách nhân

vật đã hiện lên một cách rõ nét nhất.

Ngôn ngữ mà Nguyễn Huy Thiệp sử dụng là thứ ngôn ngữ chân thực của cuộc sống đa

diện, thứ ngôn ngữ “không hề phù phiếm cũng chẳng tân kì”. Đó là thứ ngôn từ ngọt nhạt của

một bà triệu phú buôn vàng vốn xuất thân từ bà bán bún ốc nói với cậu em trong bữa tiệc mừng

sinh nhật con gái khi cậu này dẫn đến nhà một vị khách lạ trong truyện Huyền thoại phố

phường: “Sao lại thế? – Bà Thiều gắt yêu. – Cậu quen cái thói rẻ người từ bao giờ thế? Bạn bè

của cậu cũng là bạn bè của chị. Nhà ta xưa nay gia phong giản dị…” [94, tr.253]. Nhưng chỉ

một lát sau, ngay trước mặt khách khứa, bà ta sẵn sàng tát cô con gái cưng nảy đom đóm, kèm

theo đó là những lời chì chiết: “Cha bố cô! Chỉ toàn ăn tàn phá hại! Có đi tìm ngay không bà

lại cho một trận bây giờ!” [94, tr.257] vì cái tội lơ đễnh làm mất cái nhẫn một chỉ vàng.

Hay lối nói trần trụi đến kinh người của bà quận chúa cành vàng lá ngọc với quan Tổng

Cóc (Chút thoáng Xuân Hương) sau khi việc mua hương bán sắc đã xong xuôi: “Ta ngủ với

ông mà cứ kinh hoàng tưởng như ông hiếp dâm ta!”, còn Tổng Cóc thì lạnh lùng đáp lời: “Tâu

lạy quận chúa, việc mua bán đã xong rồi!” [94, tr.299].

Cũng có khi là thứ ngôn ngữ thể hiện sự mặc cả trắng trợn của một con buôn sẵn sàng

bán thân với thằng ăn mày dị dạng để có được ba chiếc nhẫn vàng trong truyện Cún: “Thế nào?

Tao mặc cả nhé! – Cô Diệu vừa nói vừa cười, ý nghĩ của cô rạch nhanh như tia chớp trong

đầu. – Mày hãy cho tao ba cái nhẫn này, mày không có nó cũng không sao…Mày vẫn là đứa ăn

mày…Thế nào? Có đồng ý không? Mày muốn gì tao cũng nghe mày” [94, tr.41].

Bên cạnh những câu văn trần trụi, thô ráp, hiện lên trang văn của Nguyễn Huy Thiệp còn

là thứ ngôn ngữ “giản dị như đất” vì đó là của “giống nòi truyền lại”, vì thế mang đậm sắc

thái ngôn ngữ dân gian. Truyện ngắn của ông sử dụng lời ăn tiếng nói trong đời sống sinh hoạt

hàng ngày với số lượng khá lớn. Chúng được nhà văn góp nhặt từ ngôn ngữ giao tiếp của

những người dân quê chịu thương chịu khó nên gần gũi, giản dị hơn bao giờ hết. Đây là cuộc

“cãi vã” của hai ông bà lão nhà quê “rất hợp tính nhau” nhưng phải cái hay khắc khẩu trong

Cánh buồm nâu thuở ấy:

“- Dào ôi…già rồi còn dại, bói với toán gì!

- Thì mặc u con chúng tôi! Bà Hân ra vẻ giận – ông thì biết cái gì, cái đồ gàn dở kia!

- Ừ thì tôi gàn! Tiền mất tật mang. Không khéo lại mua lo vào mình.

- Thì ai lấy tiền của ông! Đồ keo kiệt…Mà cái ngữ ấy làm gì có nổi được đồng cắc nào

trong người.

- Thì có đồng nào bà đều lột sạch lại còn già mồm nữa.” [94, tr.562].

Ngôn ngữ bình dị, gần gũi trong văn của Nguyễn Huy Thiệp còn thể hiện qua cái cách

nói ỡm ờ, đầy ngụ ý kiểu như:

“Đêm tân hôn, Móng và cô Hợp gác chân lên nhau trò chuyện. Cô Hợp bảo:

- Hôm đầu, em cũng tưởng mình là ông khách đến để mua chim.

Ông Móng cười:

- Rốt cuộc tớ lại là thằng bán chim cho mình!

Cô Hợp mắng yêu:

- Đồ phải gió!

Rồi cô mỉm cười ở trong bóng tối:

- Mình là con chim lớn nhất mà em bẫy được!” (Chuyện bà Móng), [94, tr.534].

Ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp dường như không bị chi phối

bởi địa vị, nghề nghiệp xã hội. Từ vua quan cho đến thường dân, từ nhà thơ cho đến những

người nông dân đều có cách nói đi đến tận cùng của sự thật, của bản chất người. Vì thế khuôn

mặt cuộc sống, con người đích thực hiện ra một cách rõ nét nhất. Ngôn ngữ của nhân vật lịch

sử, văn hóa cũng dân dã, mộc mạc như người bình thường. Khi tức giận, Quang Trung (Phẩm

tiết) cũng có thể quát lớn rằng: “Thằng Khải kia, tài bằng cái đấu, khinh ta quá chừng! Trời

cho mày sống, cướp không biết bao nhiêu lộc thiên hạ, ăn miếng ăn ngon không biết đậy mồm,

còn chê là lợm. Mày nhờ phúc tổ, có ít của chìm, như cái đuôi khô, tháng ba ngày tám mang ra

gặm, tưởng xênh xang ư?” [94, tr.175]. Nhưng khi biết Khải bị hại uất ức phải treo cổ tự vẫn,

vua thương tiếc mà bảo: “Ta nóng nảy đã đành, ta có lý của ta. Cái lũ nhà giàu khốn nạn, chỉ

biết mỗi thân mình, Khải bị hạn, sao không đứa nào đứng ra kêu hộ một tiếng?” [94, tr.177].

Sắc thái dân gian trong ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thể hiện qua việc

truyện ngắn của ông sử dụng khá nhiều ngôn ngữ có yếu tố tục. Nói đến cái tục, đề cập đến yếu

tố tục cũng là cách nói tiếu lâm thường ngày của người bình dân. Đó còn có thể bắt nguồn từ tín

ngưỡng phồn thực, coi trọng sự sinh sổi nảy nở của cư dân nông nghiệp. Tục ở đây cần phải

hiểu không phải là tục tĩu, ngược lại cái tục cũng là một phần của tự nhiên. Bởi nói như nhà

nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thì đó là thứ “triết lí dân gian không khô héo xám xịt. Vì nó là

ngôn ngữ của sự sống, tuy lấm láp bùn đất nhưng cứ tươi rói và giãy nảy lên trên trang sách”

[59, tr.463–464].

Trong Những bài học nông thôn có những đoạn đoạn truyện nhà văn sử dụng ngôn ngữ

có yếu tố tục khá “đắt”, gần gũi như lời ăn tiếng nói hàng ngày của những người dân quê chân

lấm tay bùn. “Chị Hiên mời “Các cụ xơi tự nhiên”. Thằng Tiến đòi: “Cho em làm các cụ với!”

Mẹ Lâm gạt đi: ‘Hỗn nào! Chim bằng quả ớt thế thì làm các cụ ra sao?” Cái Khanh bụm

miệng cười. Tôi đỏ mặt. Bà Lâm thở dài: “Các cụ toàn chim to…”. Mọi người cười lăn” [94,

tr.134]. Hay cũng trong truyện ngắn này, bà Lâm kể chuyện nghe “rờn rợn”: “Ngày xưa có

ông Hai Chép lái đò ham đánh tam cúc ăn tiền, đầu tiên mất tiền, rồi mất ruộng, mất đến nhà,

vợ nó cũng bỏ đi nốt. Thế là đến đêm ra thuyền ngồi khóc. Giận đời, lại muốn chuộc tội, ông

Hai Chép lấy dao cắt phăng hai hòn dái của mình vứt xuống sông. Vợ nó cũng chẳng quay

lại”. Nghe thế mẹ Lâm bảo: “Đàn bà thế là bạc”. Bà Lâm nói ngay: “Bạc gì? Có hai hòn dái

là cái quý nhất thì mất rồi còn đâu?” [94, tr.134]. Và “Còn tôi, cả đời chỉ biết mỗi một con b…,

mang tiếng thủy chung, đức hạnh, chẳng biết báu cho ai, chỉ biết về già sống lâu khổ con khổ

cháu” [94, tr.141]. Tưởng bà cụ tám mươi tuổi thích nói tục nên toàn kể chuyện về “cái ấy”

nhưng nhờ thế mà chân dung cuộc sống hiện lên một cách rõ nét, sống động và chân thực hơn.

Tiếng cười thoải mái từ những câu chuyện tiếu lâm vang lên làm xua đi những nhọc nhằn trong

cuộc sống một nắng hai sương nơi ruộng đồng của những người nông dân. Qua đó cũng ẩn

chứa những triết lí nhân sinh sâu sắc.

Ngôn ngữ tục góp phần tạo nên màu sắc hài hước thâm thúy trong văn Nguyễn Huy

Thiệp. “Có mấy tay thanh niên ở bên Duệ Đông đứng sau chúng tôi. Một tay dí chim vào đít

cái Lược. Cái Lược bảo: “Làm gì thế?”. Tay này cũng dơ, nói thản nhiên: “Làm chủ nhiệm

hợp tác xã”. Cái Lược mắng: “Thôi đi chứ”. Tay này lại bảo: “Nhân dân còn tín nhiệm thì tôi

còn làm” (Những bài học nông thôn), [94, tr.139]. Cái tài của Nguyễn Huy Thiệp là sử dụng

lối nói ỡm ờ, những câu đối thoại cố ý không ăn nhập tạo nên tiếng cười đầy ẩn ý. Chuyện nhố

nhăng kệch cỡm của tay thanh niên kia thật không phải là hiếm thấy trong cuộc sống đời

thường.

Người đọc nhiều người có thể rất khó chịu với các cách “văng tục” từ đầu đến cuối của

nhân vật Trương Chi trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp. Có người chỉ trích

ông làm xấu đi hình ảnh Trương Chi vốn rất hiền lành, tội nghiệp trong truyện cổ tích. Trương

Chi là một nghệ sĩ tài hoa nhưng có vẻ bề ngoài xấu xí, si mê nàng Mị Nương đài các. Cùng

trong mạch cảm hứng ấy nhưng Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp mạnh mẽ, cá tính và dám

sống thật hơn. Cái khác thể hiện qua hành động ngay ở đoạn mở đầu truyện: “Trương Chi đứng

ở đầu mũi thuyền. Chàng trật quần đái vọt xuống lòng sông” [94, tr.337], còn câu văng tục

“cứt” thì cứ trở đi trở lại như một điệp khúc đầy ám ảnh và thách thức. Những câu văng tục ấy

không hoàn toàn vô nghĩa. Nó giúp tô đậm thêm bi kịch của Trương Chi. Trương Chi càng

văng tục, người ta thấy chàng càng cay đắng, nỗi đau về thân phận, tình yêu của chàng không

chỉ còn là nỗi đau của riêng chàng nữa mà đã thành bi kịch chung cho kiếp người, vượt qua giới

hạn thời gian và sự chia cắt của không gian.

Sắc thái dân gian trong ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn thể hiện qua việc

nhà văn sử dụng đắc địa hệ thống thành ngữ, tục ngữ. Đặc biệt là các thành ngữ, tục ngữ ấy

thường hiện lên qua phát ngôn của nhân vật. Nhân vật nói năng mộc mạc bằng chính ngôn ngữ

nơi ruộng đồng, thôn xóm, thường ví von bằng những câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao quen

thuộc. Có thể tìm thấy rất nhiều ví dụ điển hình minh chứng cho luận điểm này.

Trong truyện Những người thợ xẻ, nhà văn đã vận dụng khá đắc địa các yếu tố ngôn ngữ

dân gian nêu trên. Nhà văn mượn bài hát dỗ em phổ biến trong dân gian làm đề từ cho truyện:

Kéo cưa lừa xẻ / Ông thợ nào khỏe / Thì về cơm vua / Ông thợ nào thua / Thì về bú tí….Nhân

vật Bường vốn là “tay anh chị khét tiếng”. Hãy xem cách nói của anh ta với vợ con khi mình

chuẩn bị đi làm ăn xa, ta sẽ phần nào hiểu rõ bản chất của nhân vật này. “Anh Bường bảo:

“Thôi mẹ đĩ về đi, bảo vệ an toàn cái hĩm, chờ tớ một năm sau tớ về. […]. Thôi về đi! Thương

anh giấu ở trong lòng. Xin em chớ có lòng thòng với ai” [94, tr.109]. Rồi quay sang bảo các

con: “Vâng! Chào các ông các bà! Các ông các bà ăn no ngủ khỏe. Bố phải xa mẹ lăn lóc trên

đường” [94, tr.109]. Hay khi nói chuyện với vợ chồng chị Thục: khi thì “Bí kế phải nhận thôi,

tôi cũng chẳng nhũn gì đâu. Kéo cưa lừa xẻ mà...” [94, tr.111], lúc lại “Các bác yên tâm.

Chúng em có cách. Tay Thuyết nó trả công rẻ như thế, chúng em không lừa xẻ mà chỉ kéo cưa

thì sống làm sao?” [94, tr.122], với Quy: “Sống dầu đèn, chết kèn trống” [94, tr.113]... Không

chỉ là một tay võ biền, qua cách nói năng của Bường, ta thấy ở nhân vật này còn là người khá

hài hước và dễ mến.

Không chỉ những truyện viết về đề tài nông thôn, miền núi, yếu tố ngôn ngữ dân gian

mới được nhà văn sử dụng, mà ở cả những truyện viết về đề tài thành thị, yếu tố trên cũng xuất

hiện có ý nghĩa nghệ thuật sâu sắc. Có thể kể đến là ở truyện ngắn Tướng về hưu. Hàng loạt

các tục ngữ được nhà văn vận dụng như: Hoa nhài cắm bãi cứt trâu; Một giọt máu đào hơn ao

nước lã; Nghĩa tử là nghĩa tận; Cáo chết ba năm quay đầu về núi; Ngậm miệng ăn tiền,…Có

thể phân tích một ví dụ điển hình cho cách vận dụng này của nhà văn trong tác phẩm. Ông Cơ

là người giúp việc cho gia đình Thuần (con trai tướng Thuấn). Gần tết, ông muốn xin phép về

quê bốc mộ cho vợ. “Đại để ông muốn về thăm quê. Ở với chúng tôi sáu năm, cũng có dành

dụm, ông Cơ muốn về bốc mộ vợ. Để lâu ngày chắc ván đã sụp. “Nghĩa tử là nghĩa tận”. Ở

thành phố, cũng muốn về thăm họ hàng làng xóm cho nó mát mặt. Bây giờ đã vậy, sau này

“cáo chết ba năm quay đầu về núi” [94, tr.24]. Chỉ trong đoạn kể ngắn trên, tác giả đã vận

dụng hai câu tục ngữ rất quen thuộc. Lời kể đâu cần dài dòng bởi chỉ qua hai câu tục ngữ trên,

ta đã thấu hiểu tình cảm của ông Cơ dành cho vợ và ý định sẽ sống những ngày cuối đời nơi

quê cha đất tổ. Cách nói này ngắn gọn, súc tích nhưng lại rất giàu tính hình tượng, biểu cảm.

Ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp toát lên vẻ đẹp của thứ ngôn ngữ mộc mạc,

mang đậm sắc thái dân gian. Đặc điểm ấy biểu hiện qua cách nhà văn sử dụng ngôn ngữ chắt

lọc từ cuộc sống, vận dụng nhuần nhị một số thi liệu dân gian khi sáng tác. Và cũng chính việc

sử dụng phối hợp khéo léo các dạng ngôn ngữ này mà truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã

để lại ấn tượng sâu sắc hơn trong cảm nhận của độc giả.

3.1.2. Lời kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần

Bên cạnh việc sử dụng ngôn ngữ giản dị, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp còn được

kể qua lời kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần. Hình thức lời kể chuyện này là đặc

điểm nghệ thuật khá phổ biến trong truyện kể dân gian, đặc biệt là trong truyện cổ tích. Trong

truyện kể dân gian, xen kẽ lời kể văn xuôi thường có những phiến đoạn lời kể bằng văn vần.

Phiến đoạn này có thể là một câu thơ, một đoạn ca dao, một bài hát đồng dao, có khi chỉ là câu

nói có vần điệu. Chúng góp phần làm tăng giá trị thẩm mĩ, nhạc tính cho lời kể, bộ lộ tâm trạng,

khắc họa tính cách nhân vật,...Có hai kiểu xen kẽ lời kể chuyện văn xuôi với lời kể chuyện bằng

văn vần. Kiểu thứ nhất: câu chuyện được kể bằng văn xuôi, đầu truyện là một đoạn văn vần để

dẫn chuyện, hoặc cuối truyện kết thúc bằng một số câu văn vần tóm lại nội dung truyện. Kiểu

thứ hai: câu văn vần xen ngay vào giữa lời văn xuôi như một yếu tố quan trọng của ngôn ngữ

truyện.

Trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc, thơ ca xuất hiện sớm và trong một thời gian dài

chiếm ưu thế hơn văn xuôi. Trong lĩnh vực văn nghệ dân gian, truyền thống ca hát, yêu thích

thơ ca lại càng thể hiện rõ, khiến thơ ca tràn cả vào hình thức kể chuyện. Nhằm để thỏa mãn

nhu cầu thẩm mĩ ngày càng đa dạng của con người, hình thức truyện kể xen lẫn thơ ca ngày

càng phổ biến trong dân gian. Nó đã tạo nên nét tâm lí truyền thống trong sáng tác và thưởng

thức văn nghệ. Truyền thống ấy lại được những nghệ sĩ bác học tiếp nối, phát triển. Bởi vậy,

trên một bình diện khái quát, có thể nói hình thức kể chuyện trên xuất hiện ở cả hai dòng văn

học dân gian và văn học bác học là một hiện tượng tất yếu, hợp quy luật. Hiện tượng xuất hiện

song song cả hai dòng văn học đều có một ngọn nguồn chung là truyền thống tâm lí ưa chuộng

thơ ca của cộng đồng dân tộc trong sáng tác và thưởng thức văn học. Nguyễn Huy Thiệp là một

trong những nhà văn đã chịu ảnh hưởng, tiếp thu truyền thống ấy khá thành công.

Khảo sát 42 truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi ghi nhận có đến 33 tác phẩm

có hình thức lời kể chuyện xen kẽ văn xuôi với văn vần (chiếm 78,6%). Trong đó có 6/33 số

truyện sử dụng lối kể thuộc kiểu thứ nhất (chiếm 18,2%), 19/33 số truyện sử dụng lối kể thuộc

kiểu thứ hai (chiếm 57,6%), và 8/33 số truyện sử dụng cả hai kiểu (chiếm 24,2%). So sánh

những số liệu thống kê, chúng tôi nhận thấy cũng giống như truyện cổ tích dân gian, Nguyễn

Huy Thiệp phần lớn sử dụng kiểu xen kẽ thứ hai, tức lời kể chuyện bằng văn vần xen kẽ ngay

vào giữa lời kể chuyện bằng văn xuôi. Từ nhận định này, chúng tôi tiến hành tìm hiểu giá trị

nghệ thuật của hình thức lời kể chuyện dân gian nêu trên mà Nguyễn Huy Thiệp đã tiếp thu từ

truyền thống thi ca dân tộc và song song đó chỉ ra sự đóng góp riêng của nhà văn.

Yếu tố văn vần trong truyện được Nguyễn Huy Thiệp sử dụng rất phong phú: có thể là

một bài thơ, bài ca dao, bài hát cổ, đồng dao, bài kệ,…Với nhiều cách kết hợp độc đáo: có

những đoạn văn vần được lấy ra từ những bài đồng dao của trẻ em (Những bài học nông thôn),

ca dao (Những bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê, Đời thế mà vui), những bài dân ca

của dân tộc Thái (Chuyện tình kể trong đêm mưa), hay những bài thơ do nhà văn tự sáng tác

hoặc vay mượn thơ của Tú Xương, Nguyễn Bính, Đồng Đức Bồn (Những bài học nông thôn,

Thương cả cho đời bạc, Sang sông),...

Những đoạn đề từ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có vai trò như những lời dẫn

chuyện, đồng thời thâu tóm nội dung tư tưởng của tác phẩm. Mở đầu thiên truyện Giọt máu là

câu thơ đề từ tác giả mượn từ thơ của Tú Xương: “Đem chuyện trăm năm giở lại bàn...” [94,

tr.265] .“Chuyện trăm năm” ở đây tương ứng với câu chuyện về dòng họ Phạm đầy biến thiên,

trải suốt một trăm năm từ đời ông kị Phạm Ngọc Liên đến các chắt Phạm Ngọc Phúc, Phạm

Ngọc Tâm. Truyện Cánh buồm nâu thuở ấy cũng bắt đầu bằng một đoạn thơ lục bát của thi sĩ

Nguyễn Bính:

“Hôm qua dưới bến xuôi đò

Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau

Anh đi đấy, anh về đâu?

Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…” [94, tr.560]

Câu chuyện kể về gia đình ông bà Hân có cô con gái tên Nhi ở làng Cổ Am. Ngôi làng ở

ven sông. Hàng ngày, qua cửa tò vò, Nhi vẫn dõi theo bóng con thuyền có cánh buồm nâu. Nơi

ấy có chàng trai cô thầm thương trộm nhớ. Và hàng loạt các sự kiện, chi tiết tiếp theo trong

truyện đều xoay quanh cuộc đời nhân vật Nhi.

Những đoạn văn vần được đan cài, xen kẽ với lời kể văn xuôi rất uyển chuyển, mạch lạc

tạo nên mạch trữ tình, chất thơ, nhạc điệu cho tác phẩm. Trong nhiều truyện, các bài hát ngân

lên, vang xa như những tiếng lòng dâng trào cảm xúc:

“Ta là Trương Chi

Bài hát ta cất lên từ trái tim bị thương tổn

Này người tình ơi

Xin đừng vì sự tổn thương trái tim mà

tổn thương trái tim nàng…” [94, tr.345].

Trương Chi cất lên khúc ca ai oán, bởi tình yêu của chàng, Mỵ Nương không thể hiểu và

không thể chia sẻ. Sự vô tâm của nàng làm chàng Trương tổn thương hay chính yêu tuyệt đối,

cao thượng mà chàng hướng tới làm cho mỏi mệt? Song với tất cả sự chân thành, Trương Chi

vẫn mong sao điều ấy không làm người chàng yêu bị tổn thương. Lời bài hát chính là tiếng lòng

sâu thẳm nhất mà chàng muốn gửi đến Mỵ Nương.

Tiếng hát của chàng Trương chỉ vang lên những thanh âm trong trẻo mỗi khi chàng hát

để ca ngợi tình yêu bất diệt. Tiếng hát ấy cao vút chứ không phải tiếng “khò khè”,“bắt chước

tiếng chó sủa, tiếng gà cục tác, tiếng dê kêu” khi buộc phải hát về sự nhẫn nhục, ca ngợi tiền

bạc, công danh:

“Hãy ca hát tình yêu

Hỡi những trái tim lãnh cảm

Những trái tim sắt đá

Bạo lực chỉ gây oán thù

Nòi giống phải trả giá

Ta là Trương Chi

Ta hát cho tình yêu

Vẻ đẹp tự nhiên

Sự chân thành lạnh buốt…” [94, tr.344]

Tiếng sáo diều vi vút, ngân nga trên vòm trời xanh vòi vọi trong truyện Nguyễn Huy

Thiệp làm say đắm lòng người. Cả bầu trời ngập trong tiếng sáo. Đó là âm thanh của đồng quê,

của ruộng đồng nơi thôn dã, mộc mạc như cuộc sống của chính những người dân chân phác nơi

đây. Lời thơ giúp họ nói lên tâm trạng phơi phới, tự do bay bổng:

Này là tiếng sáo, tiếng sáo

Có ai biết thế nào là hát ca không?

Chỉ một sợi dây mảnh ràng buộc với đất

Đứt lúc nào chẳng hay

Mà dám lượn chao tự do

Bởi chỉ có diều thôi, diều ơi

Cảm nhận được sự nhẹ tênh của cuộc đời

Cứ hát đi

Cho thỏa lòng…” (Những bài học nông thôn) [94, tr.136]

Nhiều đoạn thơ xuất hiện trong tác phẩm như những đoạn trữ tình ngoại đề nhằm bộc lộ

tâm trạng của nhân vật. Thiên văn là một truyện khá đặc sắc của Nguyễn Huy Thiệp, tiêu biểu

cho lối kể ấy. Truyện kể về nhân vật khách không rõ lai lịch, hành tung bí ẩn. Đến bến sông

vắng lặng như tờ, khách miên man trong dòng suy tưởng về lẽ được mất ở đời như dòng sông

kia vẫn khi bồi khi lở:

“Này nhé: này là dòng sông

Định mệnh cứ cuồn cuộn chảy

Bồi và lở

Được và mất…” [94, tr.371]

Ngắm nhìn đàn chim sẻ bay trên bầu trời xanh, khách chợt nghĩ đến kiếp người dạt trôi,

rã rời trên con đường đời gian truân phía trước:

Này nhé: này là cánh chim

Có cánh chim nào mỏi mệt không?

Có cành chim nào rã rời không?

Mà gió đấy, mà bão đấy

Gió bão xua đuổi thời vận

Mặt đất đầy những cạm bẫy…” [94, tr.372]

Lời kể bằng văn vần xen kẽ với văn xuôi không chỉ giúp tăng thêm thi vị cho truyện kể,

mà quan trọng và ý nghĩa hơn, yếu tố này tham gia vào lời kể nhằm nhấn mạnh những mắt xích

quan trọng trong diễn biến của các sự kiện, tình tiết, góp phần khắc họa tính cách nhân vật, thể

hiện tư tưởng, chủ đề truyện. Điển hình là truyện Không có vua. Bài hát ngây ngô được cất lên

từ miệng của đứa em út tàn tật:

“A ha…Không có vua

Sớm đến chiều say sưa

Tháng với ngày thoi đưa

Tớ với mình dây dưa

Tình với tính hay chưa?” [94, tr.46]

Lời bài hát tưởng chừng vô nghĩa khi cất lên bởi một kẻ tàn tật học lỏm từ bọn bợm rượu

nhưng thực ra lại có ý nghĩa rất lớn. Nó góp phần thể hiện tư tưởng, chủ đề của truyện. Không

có vua tức là xã hội không còn kỉ cương trật tự cũng giống như lề lối gia phong trong gia đình

lão Kiền đã hoàn toàn bị đảo lộn, nền móng của gia đình truyền thống bị xới tung, đổ vỡ.

Bài hát “rất lạ”, tiếng hát “thật buồn” ngân lên hai lần trong truyện Chảy đi sông ơi cũng

ẩn chứa nhiều ý nghĩa:

Chảy đi sông ơi

Băn khoăn làm gì?

Rồi sông đãi hết

Anh hùng còn chi?... [94, tr.14,16]

Lần thứ nhất, bài hát cất lên khi nhân vật “tôi” vừa được chị Thắm cứu sống. Tiếng hát lơ

lửng bay trên mặt sông như tâm hồn cậu bé đang lâng lâng một cảm giác nhẹ nhõm vì vừa gột

rửa được những điều u ám đang ám ảnh cậu. Cậu nhận ra cuộc sống này vẫn còn nhiều điều tốt

đẹp, vẫn còn đó những tấm lòng nhân hậu bao la như chị Thắm. Phải đến mấy mươi năm sau,

bài hát về sự tuôn chảy của dòng sông ấy lại ngân lên, nhưng tiếng hát thuở nào sao giờ đây

buồn tê tái. Hay chính là bởi nhân vật “tôi” chợt cay đắng nhận ra rằng cuộc sống này vô nghĩa

xiết bao khi con người ta vội quên đi quá khứ, bỏ rơi những điều tốt đẹp để mải mê chạy theo

những điều phu du, ảo ảnh. Mỗi lần tiếng hát vang lên là một lần trong tâm trạng nhân vật có sự

biến động dữ dội, rơi vào trạng thái hoàn toàn đối nghịch.

Các bài ca cũng đóng vai trò quan trọng trong những truyện viết về đề tài lịch sử. Trong

truyện Phẩm tiết, Vinh Hoa hát cho Quang Trung nghe, bài ca nói về vận mệnh của một bậc đế

vương, của triều đại Tây Sơn:

“…

Ngồi trên ngai vàng còn biết sợ ai?

Ngọc tỉ cầm trên tay lo việc nước

Biết lo là được còn thành bại ở trời

ở nơi người

…” [94, tr.176]

Bài hát góp phần tạo nên bước ngoặt, ngầm báo diễn biến của các sự kiện về sau của

truyện. Như ta biết, Vinh Hoa là người có tài đoán số mệnh. Lời hát của nàng như lời tiên tri,

bởi không lâu sau đó vua Quang Trung qua đời đột ngột, nội bộ Tây Sơn rối ren, sụp đổ. Quả

thực sự hưng thịnh của triều đại Tây Sơn là rất ngắn ngủi.

Khi Gia Long than thở rằng bậc đế vương chỉ có quyền cao cả, không được quyền đê

tiện. Liền đó, tác giả chen vào lời hát của nhân vật Vinh Hoa. Bài hát của nàng như lời nhắn

nhủ của quần thần với người đang nắm trong tay quyền hành tối cao về vận mệnh của dân tộc

cần nhận thức về vai trò trách nhiệm của một bậc đế vương:

“Nước có còn không

Nước có mạnh không

Thiên tử là cái gốc lớn thiên hạ

Cây cao, bóng cả

Trùm lên muôn dân

Gió mây có biến hóa

Ghi nhớ trong tâm trường

Nhắc ai tự chủ trương

Giữ chữ “thường”

Chính đạo thuần vương” [94, tr.180]

Bài hát của Vinh Hoa nêu bật những tư tưởng sâu sắc của truyện về quan niệm thiên tử là

cái gốc lớn của thiên hạ, quyết định sự tồn vong của quốc gia, về đạo thuần vương.

Lời kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần vốn rất quen thuộc với độc giả qua

những truyện cổ tích dân gian. Với hình thức lời kể chuyện này, Nguyễn Huy Thiệp đã kết hợp

được chất thơ và chất tự sự trong văn xuôi, góp phần tạo nên sự rậm rạp trên bề mặt và cả ở

chiều sâu trong việc khám phá đời sống tinh thần của con người. Ông đã xử lí một cách hiệu

quả hai cực đối lập là sự sắc lạnh tỉnh táo trong cái nhìn về hiện thực và chiều sâu trữ tình trong

tác phẩm. Qua những câu văn vần chảy tràn chất thơ, tuôn trào cảm xúc, ông như đưa người

đọc trở về với những gì là gốc gác, cội nguồn sâu thẳm của tư duy thơ vốn thấm đẫm trong

nguồn mạch văn chương dân tộc.

3.2. Giọng điệu

Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, phương diện cơ bản cấu

thành hình thức nghệ thuật. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: giọng điệu là “thái độ, tình

cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong

lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân

sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…” [74, tr.134]. Một nhà văn muốn viết

được những trang văn đầy ám ảnh, anh ta không phải chỉ trông chờ vào phút chốc thăng hoa

của cảm xúc, ngẫu hứng mà còn phải biết tổ chức một cách công phu sao cho thế giới nghệ

thuật ấy hiện lên chính xác và thuyết phục nhất tư tưởng về đời sống hiện thực muôn mặt. Để có

thể hoàn thành sứ mệnh đó, việc lựa chọn giọng điệu cho tác phẩm có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Giọng điệu, cũng xuất phát từ ngôn ngữ, song nó có ý nghĩa rộng hơn nhiều. Nó bao hàm

cả ngữ cảnh, quan niệm,…Do đó, “thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra

được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật” [74, tr.135]. Nhà

nghiên cứu Trần Đình Sử xem giọng điệu văn học là hiện tượng “siêu ngôn ngữ”, là “yếu tố

hàng đầu của phong cách nhà văn”. Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và

thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò to lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác

dụng truyền cảm cho người đọc. Mỗi tác phẩm văn chương đều có sắc thái giọng điệu riêng.

Trong mỗi tác phẩm, bên cạnh giọng điệu chủ đạo, bao giờ cũng tồn tại nhiều sắc thái giọng

điệu khác nhau. Giọng điệu chủ đạo không những không loại trừ mà còn cho phép tồn tại trong

tác phẩm văn học những giọng điệu khác nhau. Các sắc thái giọng điệu đã trở thành phương

tiện tham gia chuyển tải bức tranh hiện thực vào tác phẩm và thể hiện thái độ của nhà văn trước

cuộc sống. Chính vì thế khi nghiên cứu sáng tác của một nhà văn không thể không nghiên cứu

giọng điệu nghệ thuật của họ.

Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi nhận thấy có hai giọng điệu tiêu

biểu: giọng điệu trữ tình, thấm đẫm chất thơ; giọng điệu mỉa mai, giễu cợt.

3.2.1. Giọng điệu trữ tình, thấm đẫm chất thơ

Khi tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh nhận

thấy có một cái tôi lưỡng phân: một cái tôi của văn xuôi và song song đó là một cái tôi của thơ,

cái tôi này luôn giàu suy tư và mênh mang buồn. Từ những trang văn bề bộn ngổn ngang nhiều

khi “vút lên những tứ thơ thật trong trẻo, những âm điệu thật thiết tha” [59, tr.460]. Đọc truyện

ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, người đọc không khó để nhận ra rằng dù khi viết về cái xấu, cái

ác bằng giọng văn tàn nhẫn, hằn học nhất nhưng không có nghĩa là ông đang phỉ báng con

người. Ngược lại, nó thể hiện chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn cao cả trong sáng tác của ông.

Những nỗi đau đời, sự cô đơn của kiếp người thường âm thầm lặng lẽ nhưng không kém phần

da diết. Với trách nhiệm của nhà văn chỉ có quyền nói lên sự thật, Nguyễn Huy Thiệp không

thể không viết về cái xấu, phơi bày những điều xấu xa và bỉ ổi nhất. Nhưng ông không bao giờ

tuyệt vọng với cái xấu vì ông luôn tin vào lòng nhân ái, nhân tính của con người.

Những cảm xúc ấy tuôn trào trên ngòi bút, cuồn cuộn thành thác lũ, vút cao lên những

thanh âm trong trẻo, ngân vang, ngân xa…tạo thành giọng điệu trữ tình ngọt ngào, thấm đẫm

chất thơ trong những trang văn của ông. Hoàng Ngọc Hiến nhận xét: mạch trữ tình trong văn

Nguyễn Huy Thiệp bắt nguồn từ chữ thương, cho nên khi “nói về những sự đốn mạt, hèn kém

của con người, câu văn của Nguyễn Huy Thiệp thường man mác cảm giác tê tái. Đằng sau cảm

giác này là nỗi đau nhân tình” [59, tr.14]. Tiêu biểu như đoạn đối thoại sau trong truyện

Tướng về hưu: “Ông Bổng sang thăm. Ông nói: “Bà ấy cứ xoay ngang xoay dọc trên giường

thế này là gay go đấy!” Lại hỏi: “Chị ơi, chị có nhận ra em không?” Mẹ tôi bảo: “Là người”.

Ông Bổng khóc òa lên: “Thế là chị thương em nhất. Cả làng cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi

em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người” [94, tr.25]. Đây

là một trong những đoạn văn hay và cảm động nhất trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Phải

có cái nhìn đầy nhân ái và thấu suốt, nhà văn mới viết được những câu văn dồn nén cảm xúc

đến thế. Độc giả khi đọc những đoạn văn như vậy cũng phải thoáng rùng mình về lẽ sống, về

thế thái nhân tình, về cách nhìn nhận đánh giá bản chất của một con người.

Giọng điệu trữ tình trong văn Nguyễn Huy Thiệp thể hiện rõ nét qua những trang văn

ông viết về thiên nhiên. Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, những bức tranh thiên nhiên

thường rất đẹp và cũng rất thơ. Dường như với ông, cái nhân tạo thường hàm chứa nguy cơ giả

dối còn cái đẹp của tự nhiên thật rộng lớn và vĩnh hằng. Đến với thiên nhiên là cách để con

người được trở về với những nét đẹp truyền thống lưu giữ từ thuở xa xưa. Trong khung cảnh

ấy, tâm hồn con người trở nên trong sáng, thuần khiết và đẹp đẽ hơn. Lời văn Nguyễn Huy

Thiệp trở nên mượt mà, sâu lắng, chất chứa những tình cảm dạt dào, đắm say khi viết về thiên

nhiên. Thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không còn đơn thuần là thiên nhiên

khách quan mà đã trở thành hình tượng nghệ thuật. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm của

ông phần nhiều là không gian được bao bọc bởi thiên nhiên, những con người sống ở đó đều là

những người lao động hiền lành, chất phác. Chúng hiện lên như những bức tranh phong cảnh

sinh động, giàu hình ảnh, âm thanh, đường nét được vẽ nên bởi ngôn từ tài hoa, tinh tế, cảm xúc

bay bổng của người nghệ sĩ. Những đoạn văn có kết cấu cân đối, nhịp nhàng góp phần không

nhỏ vào việc tái hiện không gian trữ tình, thơ mộng, phảng phất không khí của huyền thoại xa

xưa trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp:

- “Bản Hua Tát ở trong thung lũng hẹp và dài, ba bề bốn bên là núi cao bao bọc, cuối

thung lũng có hồ nước nhỏ, nước gần như không bao giờ cạn. Xung quanh hồ, khi thu đến, hoa

cúc dại nở vàng đến nhức mắt.

[…]

Thung lũng Hua Tát ít nắng. Ở đây quanh năm cứ lung bung một thứ sương mù bàng bạc

nên nhìn người và vật thì chỉ nhìn thấy những nét nhòa nhòa đại thể mà thôi. Đây là thứ không

khí huyền thoại” (Những ngọn gió Hua Tát), [94, tr.213].

- “Sau Tết Nguyên đán một tháng là thời gian thích nhất ở rừng. Cây cối đều nhú lộc

non. Rừng xanh ngắt và ẩm ướt. Thiên nhiên vừa trang trọng vừa tình cảm. Điều ấy một phần

là do mưa xuân.

Khoảng thời gian này mà đi trong rừng, chân dẫm lên lớp lá ải mục, hít thở không khí

trong lọc, thỉnh thoảng lại thót mình bởi một giọt nước từ trên lá cây rỏ xuống vai trần thật

tuyệt thú” (Muối của rừng), [94, tr.65].

- “Đây là thiên nhiên: cành cây xòa trước mặt, tiếng chim hót, những giọt nước mưa

đọng lại trên cây, mùi lá mục ẩm ướt, những con chim xanh, con chim đỏ, con chim vàng,

những cánh mối ướt rụi, những con bọ nhảy, tiếng vượn kêu não nùng, bông hoa bé xíu…tất cả

hương vị, màu sắc của thiên nhiên đều chân thực, thanh khiết, đều khiến ta cảm động đến tận

đáy sâu tâm hồn” (Mưa Nhã Nam), [94, tr.203].

- “Ngôi nhà nhỏ ở trên đồi. Ngôi nhà đơn độc, lẻ loi. Mưa xuân giăng giăng bao trùm

lên ngôi nhà. Mưa xuân giăng giăng bao trùm lên hai cây nhội gai đỏ. Mưa xuân giăng giăng

trùm lên quả đồi” (Đời thế mà vui), [94, tr.348].

Những đoạn văn như thế chiếm số lượng khá nhiều trong những trang văn của Nguyễn

Huy Thiệp. Những dòng văn xuôi tuôn dài êm dịu như những áng thơ, nhịp nhàng như tiếng

nhạc du dương trầm bổng, dìu dặt chảy tràn âm điệu trữ tình. Đó chỉ có thể là chất thơ riết nóng

được phát ra từ “những tiếng lòng líu la líu lo”, từ “lòng mẹ”.

Hiện lên trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là không gian yên ả, thanh bình đặc trưng

cho phong cảnh làng quê Việt Nam với hình ảnh đàn cò, ngõ nhỏ, dòng sông, cánh buồm, bờ

đê,…và tiếng chửi láng giềng của ai đó khi bị mất gà: “Trên trời cao, có mấy con cò bay qua,

tiếng kêu khàn khàn nghe rất hãi hùng. Những giọt nước mưa đọng trên lá cây bỗng rơi rào

rào xuống người tôi. Tôi đi dọc theo cái ngõ nhỏ rụng đầy lá tre, loanh quanh một lúc trong

làng vì lạc đường. Mấy đứa trẻ con chạy táo tác. Có nhà ai mất gà đang lớn tiếng chửi láng

giềng, tiếng chửi nghe rất tục tằn, ngoa ngoắt. Tôi vòng lên ra chỗ bờ đê. Phía xa xa, một cánh

buồm nâu chậm rãi đi ngược dòng sông hoàn toàn vô sự” (Những bài học nông thôn), [94,

tr.146].

Dòng sông, bến đò quê hương hiện lên trên trang văn Nguyễn Huy Thiệp đẹp như một

bức tranh: “Đoạn sông chảy qua bến Cốc lia một vòng cung đẩy những doi cát bên bồi về mãi

phía Tây. Bến đò ở ngay gốc gạo đơn độc đầu xóm. Con sông bến nước mơ màng và buồn cô

liêu, nửa như chờ đợi, nửa như hờn dỗi. Mùa hoa, trên ngọn cây gạo màu đỏ xao xuyến đến lạ

lùng” [94, tr.7]. Mùa đông không rét buốt tái tê mà đẹp nao lòng. Những buổi sáng mùa đông

thường có nắng ấm lan tỏa trong không gian: “Mặt trời hào phóng trải trên mặt đất tất cả hào

quang rực rỡ của mình. Trời xanh ngăn ngắt, một làn gió thổi làm những hạt cát trên thuyền

xoáy thành lốc nhỏ” (Chảy đi sông ơi), [94, tr.13-14].

Đọc những câu văn như thế, người đọc có cảm tưởng như đang được hòa mình vào thiên

nhiên, rồi thấy mình càng thêm yêu đời, yêu người hơn.

Giọng điệu trữ tình còn bộc lộ qua những trang sách nhà văn viết về nhân vật nữ. Khác

với giọng hằn học, bỡn cợt, chua chát khi viết về hầu hết các nhân vật đàn ông, Nguyễn Huy

Thiệp lại dành những tình cảm nồng hậu nhất cho phụ nữ. Những câu văn ông dành tặng cho họ

là những câu văn tha thiết, giọng điệu ngợi ca nồng nàn nhất, vì thế chúng cũng là những trang

văn xuất sắc nhất của ông:

- “Trên tấm sàn gỗ đầu nhà, dưới ánh trăng, một cô gái Mường đang chăm chú dệt tấm

thổ cẩm với những màu sắc vô cùng đẹp mắt. Tôi lặng người, gần như nghẹt thở vì vẻ đẹp trong

trẻo huyền ảo của hình ảnh ấy […]. Dưới ánh trăng, khuôn mặt cô thật xinh đẹp, tươi tắn […].

Ánh mắt và nụ cười của cô đầy sự cảm thông, nó vui vẻ ân cần như muốn chia sẻ tình cảm với

tôi” (Thổ cẩm), [94, tr.502].

- “Cho đến lúc ấy, có lẽ chẳng có chuyện gì xảy ra nếu Nguyễn Thị Lộ tầm thường như

những phụ nữ khác [...]. Nàng trinh bạch, điềm tĩnh và cương nghị” (Nguyễn Thị Lộ), [94,

tr.329].

- Tôi bắt đầu hình dung thấy nàng. Nàng hiện lên rực rỡ. Những đường nét trên khuôn

mặt nàng rõ ràng, đôi lông mày thanh tú quả cảm” (Con gái thủy thần), [94, tr.89].

- “Nhi đội khăn vuông, mặc áo bông, khoác tay nải, rực rỡ như một đóa quỳnh trong

đêm” (Cánh buồm nâu thuở ấy), [94, tr.569].

Qủa thật, nói như nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến thì “thiên tính nữ là một điểm tựa

quan trọng của tác giả” [59, tr.19]. Điểm tựa tinh thần ấy khiến văn Nguyễn Huy Thiệp tuôn

dài như những áng thơ trữ tình, đằm thắm da diết, vì thế mà có chiều sâu hơn.

Giọng điệu trữ tình trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thật sâu lắng thiết tha khi ông

kể những câu chuyện tình yêu nam nữ. Đỗ Đức Hiểu ví von rằng Nguyễn Huy Thiệp là “ca sĩ

của Tình yêu” [59, tr.482]. Nhịp mạnh trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là những trang

văn viết về tình yêu. Tình yêu con người, tình yêu loài người là tinh thần bao trùm các tác phẩm

của ông. Đấy là thứ tình cảm tuyệt diệu, thiêng liêng nhất mà thượng đế đã ban tặng cho con

người. Nhà văn đã nhiều lần từng viết: “Trong muôn thứ diệu kỳ thì tình yêu chính là điều diệu

kỳ nhất” (Quan âm chỉ lộ), [94, tr.585], “Mà tình yêu, bạn biết không – cái món quà tuyệt vời

mà Thượng đế hào phóng ban tặng cho người đời ấy, bao giờ cũng phải trả giá bằng những

giọt nước mắt nghẹn ngào…” (Cánh buồm nâu thuở ấy), [94, tr.575].

Những trang viết về tình yêu của Nguyễn Huy Thiệp bao giờ cũng đẹp, lãng mạn, say

đắm. Giọng hát của Trương Chi chỉ cao vút khi chàng hát về tình yêu dành cho Mị Nương

(Trương Chi). Chỉ có tình yêu mãnh liệt, cháy bỏng, chàng Khó mới có thể bất chấp hiểm nguy

vào rừng tìm giết hổ dữ để lấy trái tim về chữa bệnh cho nàng Pùa (Trái tim hổ). Và cũng chỉ

xuất phát từ tình yêu nồng đượm với Mây, người đàn ông phong trần, dày dạn gió sương như

Bạc Kỳ Sinh mới cất lên được những giai điệu tình yêu đẹp, da diết đến thế:

“Pò mệ ơi! Bố mẹ ơi…

Pò mệ sinh con từ hang núi

Nơi ấy có nhiều gió lạnh lắm

Tiếng hổ gầm, tiếng chó sói hú

Những con rắn, con trăn tìm mồi

Bọn cáo chồn hôi hám rình mò…

Con sờ soạng trong bóng đêm

Và nhặt được một vật mềm, ướt át

Con sợ hãi, không biết vật gì

Nó phập phồng trong tay con

Ôi đau quá, đau nhói ở đây

Cái vật mềm, ướt át ấy

Là trái tim con rơi trên đất

Mặt đất nhiều gió, lạnh lắm…»

(Chuyện tình kể trong đêm mưa), [94, tr.461-462]

Tiếng hát của chàng trai người Thái ấy đơn giản như lời nói mà “dịu dàng không sao kể

xiết; ngậm ngùi tê tái mà không mủi lòng; tâm trạng cô đơn lạnh buốt lẫn lộn với những khao

khát nồng nàn. Tiếng hát sóng sánh, đặc như những giọt mật ong. Mỗi từ là một giọt mật” [94,

tr.462]. Bài hát tình yêu vì thế cũng mang hương vị ngọt ngào của loại mật ong rừng chỉ có nơi

núi rừng Tây Bắc xa xôi.

Giọng điệu trữ tình trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn biểu hiện ở âm hưởng của

thơ ca. Chất thơ là một trong những nhân tố góp phần tạo nên giọng điệu trữ tình trong truyện

ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Nhà phê bình văn học Đỗ Đức Hiểu nhận xét: “Thơ ca và triết lí là

những đặc trưng cơ bản của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”, đặc trưng đó xuất phát từ “tinh

thần dân tộc” hay “tính phương Đông” của phong cách nhà văn [59, tr.479]. Nhà văn Lê Minh

Hà gọi truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là những truyện “dữ dội và hết sức thơ” [59,

tr.488].

Cảm quan thơ thể hiện ngay ở hệ thống nhan đề truyện ngắn của ông, nhan đề giàu nhạc

điệu, mênh mang như những câu hát: Chảy đi sông ơi, Thương nhớ đồng quê, Chăn trâu cắt cỏ,

Đưa sáo sang sông, Sang sông, Cánh buồm nâu thủa ấy, Những tiếng lòng líu la líu lo.

Âm hưởng trữ tình trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp được bộc lộ qua những bài

thơ. Những bài thơ phần nhiều là những câu thơ tự do, không vần điệu do tác giả tự đặt ra.

Chúng dàn trải mênh mông như những ý nghĩ, những lời nhắn nhủ và dường như tác giả của

những bài hát, bài thơ ấy cũng không màng đến sự trau chuốt của ngôn từ nên lời ca càng chân chất,

mộc mạc:

“Tôi đi đưa đám ma em gái trên đồng

Cái chết trắng, cái chết trắng xóa

Những con bướm trắng, những bông hoa trắng

Những tâm hồn trong trắng, những cuộc đời trắng.

Tôi đi đưa đám ma em gái trên đồng

Trong ngày như thế, trong một ngày dưng

Trong ngày như thế, trong một ngày thường

Ơi hời, tôi đi lẫn trong đám đông, trong số đông,

trong lòng người, trong nỗi đau thương, trong thê lương,

trên quê hương…” (Thương nhớ đồng quê), [94, tr.198-199].

Âm hưởng trữ tình còn toát lên từ những câu văn giàu vần điệu, có cấu trúc như một bài

thơ. Trong truyện Nguyễn Thị Lộ có những đoạn văn vần không chỉ làm tăng thêm chất nhạc,

chất thơ, mà còn có ý nghĩa khá sâu sắc:

“Bởi nàng là Nguyễn Thị Lộ.

Vì nàng là Nguyễn Thị Lộ.

Chỉ có một Nguyễn Thị Lộ” [94, tr.334]

Cấu trúc ngữ pháp, nhịp điệu của ba câu trên lặp lại gần như hoàn toàn (Bởi nàng là -

Nguyễn Thị Lộ; Vì nàng là - Nguyễn Thị Lộ; Chỉ có một - Nguyễn Thị Lộ) như lời khẳng định,

nhấn mạnh về vai trò cũng như tầm ảnh hưởng vô cùng to lớn của Nguyễn Thị Lộ trong cuộc

đời Nguyễn. Bởi thực tế chính nàng đã thay đổi cuộc đời ông.

Cũng trong truyện ngắn này, nếu đọc những câu văn xuôi có cấu trúc cân đối, nhịp nhàng

như những câu thơ giàu nhạc tính, tuôn trào cảm xúc dưới đây, ta sẽ cảm nhận thấm thía hơn

những trăn trở nội tâm trong trái tim Nguyễn. Đó là dự cảm về nỗi cô đơn, lạc lõng trong cuộc

đời ông ngay cả khi đã chết. Chỉ có cỏ xanh bao phủ trên nấm mộ và lũ kiến hát những bài ca

mà loài người không bao giờ có thể hiểu. Những ý nghĩ ấy cứ miên man không dứt, song lại

khiến Nguyễn cảm thấy nhẹ nhàng và thanh thản hơn:

“Còn Nguyễn, Nguyễn đâu có hai cuộc đời? Rồi ngày nào đấy Nguyễn chết đi, trên nấm

mộ chỉ có cỏ xanh. Như bao người khác.

Chỉ có cỏ xanh: cỏ ấu, cỏ gà, cỏ chân chim, cỏ gianh, cúc, thầu dầu, xương rồng.

Những con kiến ca hát.

Và chúng ca hát theo kiểu kiến.” [94, tr.334]

Trong nhiều truyện ngắn, Nguyễn Huy Thiệp đã mượn lời thơ của các nhà thơ khác để

làm phát ngôn cho một số nhân vật. Tiêu biểu là những tác phẩm: Lòng mẹ (mượn lời thơ của

Nguyễn Bính), Thương cho cả đời bạc (mượn lời thơ của Tú Xương), Đưa sáo sang sông

(mượn lời thơ của Đồng Đức Bốn),…Đọc nhiều đoạn văn trong sáng tác của ông, người đọc

dường như không thể phân biệt lời nói của nhân vật với lời thơ nghệ thuật. Bởi lời nói hàng

ngày cũng trở nên giàu tính nhạc. Tiêu biểu như đoạn bà mẹ chuẩn bị tư trang chu đáo, đầy đủ

cho con gái khi về nhà chồng trong truyện Lòng mẹ:

“- Này áo đồng lầm, quần lĩnh tía…Này gương, này lược, này hoa tai…Muốn gì tôi

sắm cho cô đủ…Nào đã thua ai, đã kém ai?”

Nhưng thấy cô con gái nghẹn ngào:

“- U ơi! Con đi về nhà người! Ai ra đồng cấy giúp u? Ai nuôi dạy các em con? Ai

trông nhà trông cửa! Lại còn món nợ ở nhà…”

Bà liền cười hồn hậu, an ủi với giọng nói như hát, nỗi đau như kìm nén vào trong:

“- Ruộng tôi cày cấy…Dâu tôi hái! Nuôi daỵ em cô, tôi đảm đương! Nhà cửa tôi coi!

Nợ tôi trả! Tôi còn mạnh chán! Khiến cô thương!” [94, tr.441].

Những câu văn ngắt nhịp 2/2/3 hoặc 4/3 và các dấu chấm cảm được nhà văn sử dụng khá

đắt đã góp phần tạo nên giai điệu nhịp nhàng cho lời thoại. Đọc những câu văn dào dạt cảm xúc

như thế, chắc hẳn không ai không khỏi bồi hồi xúc động. Việc tác giả vận dụng khéo léo, sáng

tạo những câu thơ của thi sĩ Nguyễn Bính trong bài thơ có tên là Lòng mẹ vào lời nói của nhân vật

trong truyện ngắn cùng tên đã tạo được hiệu quả thẩm mĩ cao cho tác phẩm.

Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào đã nhận xét đằng sau những câu văn của Nguyễn Huy

Thiệp ta vẫn thấy “một cấu trúc nhịp nhàng, một giai điệu ẩn náu như bè trầm của văn bản”

[75, tr.179]. Đó có thể là do chịu ảnh hưởng của lối văn giàu thanh nhạc, nhịp điệu của văn

chương truyền miệng của dân tộc. Đọc truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, tuy đôi chỗ còn gai

góc, xù xì khi viết về những chuyện thế thái nhân tình nhưng cái đọng lại sâu nhất nơi trái tim

người đọc chính là tình người, tình đời được biểu hiện tinh tế qua giọng điệu trữ tình sâu lắng với

những câu văn chảy tràn chất thơ, chất nhạc.

3.2.2. Giọng điệu mỉa mai, giễu cợt

Bên cạnh giọng điệu trữ tình, thấm đẫm chất thơ, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp

còn hấp dẫn người đọc qua giọng điệu mỉa mai, giễu cợt. Mỉa mai là “phương thức biểu cảm

mà ý nghĩa đánh giá đích thực ngược hẳn với ý nghĩa bề mặt của phát ngôn, là sự phản đối,

phủ định dưới hình thức tán dương, khẳng định” [74, tr.195]. Còn giễu cợt là “nêu thành trò

cười nhằm chế nhạo, đả kích” những thói hư tật xấu trong xã hội [68, tr.401]. Mỉa mai, giễu cợt

là những phương thức biểu cảm được Nguyễn Huy Thiệp sử dụng có hiệu quả trong nhiều thiên

truyện.

Dân gian có thói quen mỉa mai, giễu cợt nhằm phê phán những thói hư tật xấu của con

người. Cách nói ấy thường biểu hiện qua những câu truyện trạng, truyện cười, ca dao trào

phúng,…Mỉa mai, giễu cợt trong văn chương nghệ thuật không phải đến từ một "cõi lạ", không

dính dáng đến hiện tại mà luôn gắn chặt với thực trạng muôn mặt của cuộc đời. Bởi tác phẩm

dẫu nói về cái xấu, cái ác nhưng người viết vẫn hướng con người về phía cái đẹp, khơi gợi

những tình cảm cao đẹp bởi “khi cười cái xấu, người ta đứng cao hơn nó” (Tsecnưsepxki).

Đọc truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy phảng phất giọng điệu giễu cợt của dân

gian. Giọng điệu này cũng là một cách để nhà văn tiếp cận và phản ánh hiện thực cuộc sống.

Nhờ đó mà những phương diện đa dạng và phong phú trong dòng chảy của cuộc sống hôm nay

được nhà văn soi chiếu một cách chân thực nhưng không kém phần tinh tế. Đối tượng mỉa mai,

giễu cợt của nhà văn rất đa dạng.

Giọng mỉa mai, giễu cợt thể hiện rõ khi Nguyễn Huy Thiệp phê phán sự suy đồi truyền

thống đạo lí gia đình trong một bộ phận xã hội buổi giao thời. Điều đặc biệt là giọng văn này

trong truyện của ông ít khi gắn với tiếng cười. Nếu có thì thường không phải là tiếng cười hả

hê, vui vẻ. Ngược lại, nó ẩn chứa những nỗi đau, nỗi buồn về thế thái nhân tình của kiếp người.

Tiếng cười đôi khi thực sự bi đát, nặng nề, đầy mai mỉa. Một ông tướng (Tướng về hưu) một

thời từng xông pha anh dũng nơi chiến trường trận mạc, trớ trêu thay, ông lại trở nên thụ động

giữa đời thường, thậm chí lạc lõng ngay trong gia đình mình. Làm chủ hôn cho đám cưới của

đứa cháu họ, chứng kiến không khí “ô hợp láo nháo thản nhiên rất đời, thô thiển, thậm chí ô

trọc nữa” ở đấy khiến ông “luống cuống, khổ sở” đến “kinh hãi, đau đớn” [94, tr.22]. Thấy cô

con dâu làm bác sĩ sản khoa lấy xác thai nhi về nấu cho chó béc giê ăn, ông chỉ biết khóc. Đến

khi đứa cháu gái “giễu”: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm phải không ông?”, ông cũng chỉ

biết mắng: “Mẹ mày! Láo!” [94, tr.31].

Trong một gia đình khác, hãy xem bố con ông Kiền (Không có vua) nói chuyện với

nhau, ta thấy rõ hơn về sự “bát nháo” đó. Lão Kiền thường nói với con những lời mỉa mai rất

độc địa. Với Đoài: “Mày ấy à? Công chức gì mặt mày? Lười như hủi, chữ tác, chữ tộ không

biết, chỉ giỏi đục khoét!”, với Cấn thì: “Hay thật, cái nghề cạo đầu ngoáy tai của mày, nhục thì

nhục nhưng hái ra tiền!” [94, tr.47]. Cho nên người đọc cũng không quá bất ngờ và sẽ còn ám

ảnh rất lâu bởi câu nói của Đoài. Bố bệnh nặng, Đoài bảo: “Tôi nghĩ bố già rồi, mổ cũng thế,

cứ để chết là hơn”. Rồi không để ai kịp nói, Đoài thản nhiên đến tàn nhẫn, vô nhân tính: “Ai

đồng ý bố chết giơ tay, tôi biểu quyết nhé” [94, tr.62]. Có cái gì đắng chát sau câu nói trơn tuột

ấy của Đoài. Người ta những tưởng anh ta đang nói đến chuyện bầu bán gì đấy chứ không phải

chuyện bệnh tình của bố mình. Đạo lí cha con trở nên vô nghĩa, bị con người ta đem ra làm trò

đùa. Đời sống kinh tế thị trường đem đến sự thõa mãn nhu cầu vật chất cho con người, nhưng

theo đó là sự tha hóa nhân tính trong một bộ phận xã hội lúc giao thời. Đồng tiền có sức mạnh

phá hủy nhân tính thật ghê gớm. Cái hiện thực cay đắng ấy đã được nhà văn miêu tả một cách

riết róng, qua giọng văn đầy mỉa mai.

Khi viết về những hành động động ngớ ngẩn, vô nghĩa của con người, nhà văn thường

viết bằng giọng mỉa mai, giễu cợt. Trong Những người thợ xẻ chi tiết nhân vật Ngọc ngăn

không cho Bường hãm hiếp Quy, Bường giận dữ, thách đánh nhau với Ngọc: “Thế nào? Tiến

lên đi chứ, công tử bột! Hãy mang chiến thắng về nộp dưới chân nàng Đuynxinê ở làng

Tôbôdô” [94, tr.126] thật lố bịch. Hai người lao vào đánh nhau ác liệt mà chẳng vì cái gì cụ thể.

Lời thách thức của tay “du thủ du thực” kia, mỉa mai thay, đã biến chàng cử nhân tương lai

thành một anh chàng ngốc đi “đánh nhau với cối xay gió”.

Giọng mỉa mai, giễu cợt còn được nhà văn dùng khi viết về những tình huống “dở khóc

dở cười” khi con người phát hiện ra một điều gì đó. Người ta đắc chí với sự phát giác ấy mà

không biết rằng mình đang trở thành một kẻ lố bịch hơn bao giờ hết. Ẩn sau câu chữ là những

nỗi buồn tưởng bâng quơ nhưng rất thâm thúy. Để săn được con khỉ đầu đàn, ông Diểu (Muối

của rừng) đã phải mất khẩu súng săn và cả bộ quần áo. Trên đường trở về, ông bực mình nghĩ:

“chẳng lẽ lại nồng nỗng thế này về nhà thì thật là khả ố! Mình sẽ thành trò cười cho thiên hạ

mất…”. Rồi ông bỗng bật cười: “Thì đã sao nào! Hỏi ai bắn được một con khỉ thế này? Phải

yến rưỡi thịt…Lông vàng như nhuộm…Bắn được con vật như thế này thì dẫu mảnh giáp không

còn cũng đáng!” [94, tr.73] Thực ra ông Diểu đã nhận ra sự lố lăng trong hành động của mình.

Ông ta chỉ đang cố biện minh cho hành động ấy mà thôi.

Cuộc sống đời thường với bao toan tính, mưu mô xảo quyệt. Truyền thuyết, huyền thoại

vốn đẹp, thơ mộng lại trở thành trò cười trong thiên hạ. Huyền thoại Mẹ Cả đầy ắp trong kí ức

tuổi thơ Chương (Con gái thủy thần). Trong trí tưởng tượng của anh, Mẹ Cả hiện lên thật đẹp

và lộng lẫy. Cho đến một hôm có người chỉ cho Chương nấm đất gần kề gốc cây muỗm và bảo

đấy là mộ của Mẹ Cả. Anh đào lên. Thì ra trong nấm đất ấy chỉ là “một khúc gỗ mục chẳng

hình thù gì” [94, tr.86]. Chuyện Mẹ Cả rốt cùng chỉ là câu chuyện bịa đặt. Sự thật mà anh vừa

trông thấy tận mắt quá phũ phàng so với huyền thoại mà người đời bấy lâu nay vẫn thêu dệt.

Thật đau đớn và chua chát, Chương thấy mình bơ vơ, lạc lõng chính tại nơi mình đang sống.

Anh quyết định đi ra biển, dẫu biết rằng “ngoài biển không có thủy thần” [94, tr.87], nhưng có

thể nơi ấy sẽ không còn những trò lừa bịp ác tâm của con người.

Cậu bé làng chài (Chảy đi sông ơi) cố nài nỉ những người đánh cá mòi đêm cho lên

thuyền để có thể nhìn thấy sự thật về truyền thuyết con trâu đen. Nhưng truyền thuyết ấy chỉ là

tin đồn thất thiệt của một kẻ rỗi hơi nào đấy. “Chuyện giết người cướp của có thực, ngoại tình

có thực, cờ bạc có thực”, còn đau lòng thay: “chuyện trâu đen là giả”, vì đó chỉ là “chuyện

đồn nhảm nhí” [94, tr.12].

Giọng mỉa mai, giễu cợt thể hiện qua những phát ngôn kiểu hô hào rỗng tuếch. Đây

chính là điểm gặp gỡ giữa Nguyễn Huy Thiệp với Vũ Trọng Phụng. Trong Số đỏ, nhà văn Vũ

Trọng Phụng đã để cho nhân vật Xuân Tóc Đỏ nhiều lần nói những câu trịch thượng song lại vô

nghĩa và buồn cười. “Hỡi quần chúng! Mi không hiểu gì, mi oán ta! Ta vẫn yêu quí mi mặc

lòng mi chẳng rõ lòng ta!...Thôi giải tán đi, và cứ an cư lạc nghiệp trong hòa bình và trật tự!

Ta không dám tự phụ là bậc anh hùng cứu quốc, nhưng ta đã tránh được cho mi họa chiến

tranh rồi! Hòa bình vạn tuế! Hội Quốc liên vạn tuế!” [70, tr.234]. Mấy nghìn người bị một kẻ

lưu manh, bụi đời gọi là “mi” không những chẳng tức giận, ngược lại còn rất xúc động, sốt sắng

hoan hô: “Xuân Tóc Đỏ vạn tuế! Sư đại bại vạn tuế!” [tr. 235]. Tiếng cười châm biếm, mỉa mai

từ đó vang lên thật sâu cay!

Trong một số thiên truyện của Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật cũng có cách nói kiểu hô hào

“thùng rỗng kêu to” như thế. Tiêu biểu là truyện Sang sông. Chuyện kể rằng trên chuyến đò

sang bờ bên kia hôm ấy có rất nhiều hạng người và nhiều biến cố xảy ra. Một cậu bé vì nghịch

ngợm đã kẹt tay vào cái bình của hai gã buôn đồ cổ. Trong lúc mọi người trên đò đang lúng

túng chưa biết xử trí thế nào thì tên cướp có vẻ mặt hung tợn đã liều mình đập vỡ chiếc bình

quý để cứu đứa bé thoát chết trong gang tấc. Chứng kiến hành động ấy, nhà giáo (trước đó run

lẩy bẩy, đánh rơi cả kính) bỗng hoảng hốt thốt lên: “Trời! Anh dám đập vỡ bình! Thật đúng là

một anh hùng! Một nhà cải cách! Một nhà cải cách!” [94, tr.369]. Thật nực cười! Nhà giáo cao

đạo nói những lời sáo rỗng, ngây ngô, còn kẻ cướp giờ lại trở thành “anh hùng”, thành “nhà cải

cách” vĩ đại. Khi để cho nhân vật thầy giáo nói những câu “khen ngợi” ấy, tác giả không hướng

người đọc đến sự đánh giá về nhân vật tên cướp, mà chủ yếu nhằm phê phán sự hèn nhát, thói

mọt sách của ông thầy giáo nọ nói riêng, và những kẻ sống theo kiểu “lí thuyết suông” không

hiếm gặp trong đời thường nói chung. Câu chuyện vì thế toát lên thái độ mỉa mai, giễu cợt thâm

thúy.

Nhà văn còn mỉa mai, giễu cợt cái cách người ta đặt tên địa danh vùng miền bằng những

cái tên nghe “rất kêu” nhưng thật kệch cỡm. Ví dụ như trong truyện Những người thợ xẻ, ông

để nhân vật Bường nói mỉa: “Vùng ma thiêng nước độc thì tên là Tương Lai, Bình Minh, Tân

Lập, Đoàn Kết, Tự Cường! Kêu cứ như chuông! Mấy thằng bán quán, khách vào thì chém cổ

lại đặt tên là Bình Dân với Thanh Lịch! Còn mấy thằng bán thuốc nạo thai con gái lại đặt tên

là Hồi Xuân với Cứu Thế!” [94, tr.110].

Giọng giễu cợt của Vũ Trọng Phụng là thái độ phủ định sâu sắc hết thảy cái xã hội thảm

hại, lố lăng trước cách mạng. Giọng điệu ấy bộc lộ chủ yếu qua bút pháp trào lộng, châm biếm

sâu cay. Vũ Trọng Phụng có những tác phẩm thuần túy với giọng giễu cợt. Còn giọng mỉa mai,

giễu cợt trong văn Nguyễn Huy Thiệp chỉ nhằm vào một vài đối tượng cụ thể đan cài vào tác

phẩm. Đôi khi cái nhìn giễu cợt xuất phát từ những tình huống tưởng chừng rất vụn vặt đời

thường song lại ngầm chứa những giá trị nhân sinh sâu sắc. Ngay ở những thiên truyện “phản

cổ tích” (được cho là có biểu hiện của giọng mỉa mai, giễu cợt) thì giọng khẳng định vẫn là

giọng chính. Song không thể phủ nhận rằng thông qua giọng điệu mỉa mai, giễu cợt, Nguyễn

Huy Thiệp đã cho chúng ta thấy được phần nào những mặt tiêu cực trong tư tưởng, nếp sống,

đạo đức,…còn tồn tại trong xã hội để từ đó có ý thức sống tốt hơn.

Tiểu kết:

Có thể nói, ngôn ngữ và giọng điệu là những đặc điểm tạo nên sức hấp dẫn thẩm mĩ cho

truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và góp phần khẳng định tài năng cũng như phong cách của tác

giả.

Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp được viết bởi thứ ngôn ngữ rất đời thường, vận

dụng khá nhuần nhuyễn thành ngữ, tục ngữ nên gần gũi với ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày,

mang đậm sắc thái ngôn ngữ của dân gian. Bên cạnh đó, nhà văn còn kể chuyện bằng lối kể rất

quen thuộc trong cổ tích, trong thói quen giao tiếp của người Việt Nam, đó là lối kể chuyện

bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần. Truyện của ông hấp dẫn, lôi cuốn độc giả chính là nhờ đã kết

hợp được chất thơ và chất tự sự trong văn xuôi, góp phần tạo nên sự rậm rạp trên bề mặt và cả ở

chiều sâu trong việc khám phá đời sống con người.

Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn luôn có ý thức và cố gắng tạo nên giọng điệu văn chương

riêng cho mình. Với sự nỗ lực tìm tòi không ngừng, ông đã khẳng định được văn phong riêng

độc đáo không thể nhầm lẫn. Một trong những yếu tố góp phần tạo nên sự hấp dẫn của truyện

ngắn Nguyễn Huy Thiệp là sắc thái dân gian trong giọng điệu trữ tình, thấm đẫm chất thơ và

giọng điệu mỉa mai, giễu cợt. Chúng là những “dải băng ngôn từ” được nhà văn khéo léo chọn

lựa, chắt lọc, đan cài tạo nên nhiều chất giọng trong tác phẩm. Văn của ông vừa có sự kế thừa

cách diễn đạt truyền thống vừa có lối diễn đạt sắc lạnh, đầy suy tư của văn chương hiện đại.

KẾT LUẬN

1. Nguyễn Huy Thiệp là một trong những nhà văn tiên phong của giai đoạn văn học thời

kì Đổi mới, góp phần tạo nên diện mạo mới cho nền văn học đương đại Việt Nam. Với những

tìm tòi, sáng tạo đầy nỗ lực, Nguyễn Huy Thiệp đã khẳng định tài năng, vị trí và tầm ảnh hưởng

của mình trên văn đàn cũng như trong lòng độc giả.

Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn của sự đổi mới, cách tân. Điều đó đã được nhiều nhà

nghiên cứu, phê bình, nhiều công trình khoa học phát hiện và minh chứng. Với mong muốn

khám phá thêm chiều sâu trong những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, luận văn tiến hành tìm

hiểu truyện ngắn của ông từ hướng tiếp cận văn hóa dân gian. Khảo sát riêng ở mảng truyện

ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đặc biệt soi rọi từ một số lí thuyết cơ bản của văn hóa dân gian dân

tộc, luận văn nhằm đi đến kết luận: truyện ngắn của ông có sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian

cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức thể hiện.

2. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sự kết tinh những quan hệ tốt đẹp nhất

giữa người với người, với xã hội và với tự nhiên. Trong đó, văn hóa dân gian là một bộ phận

quan trọng của văn hóa. Mối quan hệ ảnh hưởng giữa văn hóa với văn học nói chung, văn hóa

dân gian với văn học viết nói riêng là mối quan hệ mang tính quy luật tất yếu. Việc vận dụng

các lí thuyết văn hóa dân gian vào nghiên cứu tác phẩm văn học cụ thể giúp chúng ta hiểu sâu

hơn bản chất sáng tạo của nhà văn.

Trước hết, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã chuyển tải thành công các quan niệm văn

chương của nhà văn. Trong đó, Nguyễn Huy Thiệp đặc biệt chú ý đến mối quan hệ giữa văn

hóa, văn học dân gian và nhà văn. Khi đi vào tìm hiểu ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với

truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, luận văn đã phân tích, chứng minh sự ảnh hưởng của một số

thành tố văn hóa dân gian như văn học dân gian, tín ngưỡng dân gian, ngôn ngữ dân gian trên

các phương diện cụ thể như cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu.

3. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đa phần không có cốt truyện phức tạp, chứa đựng

quá nhiều mâu thuẫn kịch tính. Để thể hiện cuộc sống với tất cả sự đa diện, đa chiều, Nguyễn

Huy Thiệp thường xây dựng những cốt truyện mang màu sắc huyền ảo và môtíp cổ tích. Chúng

tôi cũng đã chỉ ra sự ảnh hưởng của truyện dân gian đối với cách thức mở đầu và kết thúc trong

cốt truyện truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.

Ở những kiểu cốt truyện này, để làm rõ sự kế thừa và sáng tạo độc đáo của Nguyễn Huy

Thiệp, người viết đã tập trung đi sâu phân tích các yếu tố như sự kiện, chi tiết kì lạ, hoang

đường; những tình huống truyện hư ảo; những nhân vật kì lạ; những giấc mơ bí ẩn, những

môtíp cổ tích quen thuộc. Từ đó, người viết khẳng định việc sử dụng các yếu tố huyễn hoặc,

các môtíp cũ không có nghĩa là Nguyễn Huy Thiệp lặp lại truyền thống mà đó là cách để nhà

văn có thể đi sâu chiếm lĩnh, khám phá hiện thực đa chiều của cuộc sống thực tại.

4. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp khá đa dạng và phong phú.

Có ba kiểu nhân vật hiện lên khá toàn diện trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là: nhân

vật là những con người sống hòa hợp với tự nhiên, mang trong mình triết lí sống hài hòa, bình

ổn; nhân vật là những người có đời sống tâm linh sâu sắc; nhân vật là những người phụ nữ

mang vẻ đẹp của “thiên tính nữ”. Trong quá trình đi sâu phân tích hệ thống nhân vật trong

truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, luận văn đã cố gắng chỉ ra rằng: khi xây dựng nhân vật, nhà

văn chịu ảnh hưởng khá sâu sắc truyền thống văn hóa dân gian Việt Nam với triết lí sống hài

hòa, bình ổn xuất phát từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, truyền thống trọng nữ, tục thờ Mẫu của

cư dân nông nghiệp lúa nước lâu đời truyền lại. Cho nên nhân vật trong truyện ngắn của

Nguyễn Huy Thiệp tuy là những con người của cuộc sống hiện đại nhưng vẫn mang trong mình

những phẩm chất truyền thống cao đẹp.

5. Chịu ảnh hưởng khá sâu sắc cách diễn đạt từ dân gian, ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn

Huy Thiệp mang những đặc điểm sau: sử dụng nhuần nhị ngôn ngữ đời thường, tục ngữ, thành

ngữ; lời kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần. Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn

của Nguyễn Huy Thiệp là thứ ngôn ngữ được chắt lọc từ đời sống, từ thói quen vận dụng tục

ngữ, thành ngữ từ lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân. Lời kể chuyện trong truyện ngắn

của Nguyễn Huy Thiệp cũng khá độc đáo. Đó là lối kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn

vần vốn đã quen thuộc từ truyện cổ dân gian. Chính việc vận dụng phối hợp khéo léo các dạng

ngôn ngữ này mà truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã để lại ấn tượng sâu sắc hơn trong cảm

nhận của độc giả.

Nói đến truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, người ta cũng thường nói đến giọng điệu độc

đáo trong văn ông. Tùy thuộc vào đối tượng thể hiện mà nhà văn thường chọn một chất giọng

chủ đạo, qua đó bộc lộ thái độ, quan điểm của tác giả về con người và cuộc sống. Truyện ngắn

Nguyễn Huy Thiệp là một thế giới đa giọng điệu, ở đó có sự kết hợp, đan cài giữa chất giọng

trữ tình, thấm đẫm chất thơ với chất giọng mỉa mai, giễu cợt.

Truyện của Nguyễn Huy Thiệp gây ấn tượng đặc biệt cho độc giả bằng chất giọng trữ

tình, thấm đẫm chất thơ. Giọng điệu ấy như “một cấu trúc nhịp nhàng, một giai điệu ẩn náu

như bè trầm của văn bản” [75, tr.179]. Theo chúng tôi giọng điệu này có đươc một phần là do

Nguyễn Huy Thiệp đã chịu ảnh hưởng từ lối văn giàu nhạc điệu của văn chương truyền miệng của

dân tộc.

Giọng mỉa mai, giễu cợt cũng là một trong những giọng chủ đạo trong truyện ngắn

Nguyễn Huy Thiệp. Thông qua phương thức biểu cảm mỉa mai, giễu cợt, với lối nói ngược hẳn

với ý nghĩa bề mặt phát ngôn cùng với thái độ phê phán những mặt trái của xã hội qua cách

nhìn giễu cợt, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã phản ánh hiện thực đa diện của cuộc sống

hôm nay một cách thẳng thắn nhưng khá tinh tế. Khi tìm hiểu giọng điệu này, chúng tôi cũng cố

gắng làm rõ sự tiếp thu của nhà văn từ lối nói mỉa, trào phúng quen thuộc trong đời sống dân

gian. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng này theo chúng tôi cũng chưa được rõ nét lắm so với các phương

diện khác mà luận văn đã nghiên cứu.

6. Bằng sự lao động miệt mài, khổ luyện trên “cánh đồng chữ nghĩa”, Nguyễn Huy Thiệp

đã gặt hái được những thành công đáng kể trong sự nghiệp cầm bút, đặc biệt là ở mảng truyện

ngắn. Quan trọng hơn, ông đã nhận được sự “đồng điệu” sâu sắc từ đông đảo độc giả trong và

ngoài nước. Đến với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, người đọc không chỉ có thêm những

khám phá thú vị từ cuộc sống muôn màu muôn vẻ, mà đáng quí hơn, họ còn được nhà văn khéo

léo đưa trở về với cội nguồn của truyền thống văn hóa dân gian dân tộc. Những đóng góp ấy to

lớn và có ý nghĩa biết nhường nào. Trong nhịp chảy hối hả của cuộc sống hiện đại hôm nay,

chúng ta càng thấy trân trọng hơn những đóng góp của nhà văn. Cuộc sống dù phát triển đến

đâu, con người đều rất cần có sự kế thừa, tiếp nối giữa quá khứ với hiện tại làm nền tảng vững

chắc cho tương lai. Văn học cũng vậy. Và vì thế, những câu chuyện của Nguyễn Huy Thiệp sẽ

vẫn có sức hấp dẫn, lôi cuốn riêng của nó.

Nghiên cứu ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp,

luận văn không cho rằng đã có thể giải quyết đầy đủ, trọn vẹn mọi vấn đề. Nhưng tác giả luận

văn hi vọng rằng đề tài nghiên cứu của mình đã mở ra một hướng tiếp cận mới đối với “hiện

tượng” Nguyễn Huy Thiệp. Và cũng mong kết quả nghiên cứu của luận văn, về mặt khoa học, ít

nhiều cũng góp một tiếng vào nỗ lực chung trong việc nghiên cứu về một tác giả tiêu biểu của

văn học đương đại Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. M. Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch từ nguyên bản

tiếng Nga, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

2. M. Bakhtin (1980), “Một số khía cạnh phương pháp luận cần lưu ý khi nghiên cứu văn học quá

khứ”, Vương Trí Nhàn dịch, Tạp chí văn học (số 4).

3. Trần Lê Bảo (2009), “Giải mã văn hóa trong tác phẩm văn học”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc

(số 2).

4. Thụy Bình, Thiên lương trong “ Muối của rừng” www.evan.com.vn.

5. Nam Cao (1996), Truyện ngắn (chọn lọc), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

6. Nguyễn Minh Châu (1985), Tuyển tập truyện ngắn Bến Quê, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn

Việt Nam, Hà Nội.

7. Đoàn Văn Chức (2004), Văn hóa học, Nxb Lao động.

8. Nguyễn Văn Dân (2004), “Tiếp cận văn học bằng văn hóa học”, Tạp chí văn học (số 11).

9. Chu Xuân Diên (2004), Mấy vấn đề văn hóa và văn học dân gian Việt Nam, Nxb Văn nghệ, Tp Hồ

Chí Minh.

10. Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Tp Hồ Chí Minh.

11. Nguyễn Đăng Duy (1996), Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội.

12. Phạm Đức Dương (2007), Việt Nam – Đông Nam Á – Ngôn ngữ và Văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

13. Nguyễn Đình Đăng, Nhà văn Việt Nam của tôi, www.evan.com.vn.

14. Đặng Anh Đào (1991), “Một hiện tượng mới trong hình thức kể chuyện hiện nay”, Tạp chí văn học

(số 6).

15. Đặng Anh Đào, Vai trò của cái kì ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt Nam, www.nhavan.com.vn.

16. Phan Cư Đệ (chủ biên), (2007), Truyện ngắn Việt Nam – Lịch sử - Thi pháp – Chân dung, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

17. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc

học, Tp Hồ Chí Minh.

18. Phong Điệp, Đánh giá thành tựu văn học Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới,

www.vietnamnet.com.vn.

19. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội.

20. Nguyễn Đăng Điệp, Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp, www.phongdiep.net.

21. Hà Minh Đức (2008), Một nền văn hóa văn nghệ đậm bản sắc dân tộc với nhiều loại hình nghệ

thuật phong phú, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

22. V. E. Guxev (1999), Mỹ học Folklor, Hoàng Ngọc Hiến dịch, Nxb Đà Nẵng.

23. Phùng Hữu Hải, Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại từ sau 1975,

www.vienvanhoc.org.vn.

24. Nguyễn Văn Hạnh, Về khái niệm văn hóa – vài khía cạnh lý luận và thực tiễn, www.vienvanhoc.org.vn.

25. Nguyễn Văn Hạnh (2007), “Văn hóa như là nguồn mạch sáng tạo và khám phá văn chương”, Tạp

chí Nghiên cứu văn học (số 1).

26. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lí luận văn học, vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

27. Võ Thị Thu Hằng, Triết lí văn chương trên trang viết Nguyễn Huy Thiệp, www.evan.com.vn.

28. Lê Huy Hòa, Hoàng Đức Nhuận (tuyển chọn và giới thiệu), (2000), Văn hóa Việt Nam, truyền

thống và hiện đại, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

29. La Khắc Hòa, Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác

của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, www.vienvanhoc.org.vn.

30. Châu Minh Hùng, Tiếng nói của cái tục trong văn Nguyễn Huy Thiệp www.evan.com.vn.

33. Đoàn Hương (2004), Văn luận, Nxb Văn học, Hà Nội.

34. Đoàn Thị Đặng Hương (1996), “Thử giải mã văn học Việt Nam theo tinh thần văn hóa Việt Nam

và văn hóa phương Đông”, Tạp chí văn học (số 3).

35. Lê Thị Hường (1995), “Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay”, Tạp chí văn học (số 4).

36. Nguyễn Văn Kha (2007), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện ngắn 1975 – 2000, Nxb

Đại học quốc gia Tp Hồ Chí Minh.

37. Đinh Gia Khánh (chủ biên), (1998), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

38. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

39. Đinh Gia Khánh (1998), “Văn học góp phần tạo nên những giá trị văn hóa hàng đầu của dân tộc”,

Tạp chí văn học (số 6).

40. Đinh Gia Khánh (1992), “Tục thờ Mẫu và truyền thống văn hóa dân gian ở Việt Nam”, Tạp chí

văn học (số 5).

41. Vũ Ngọc Khánh (2007), Nghiên cứu văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

42. Ma Văn Kháng (2003), Tuyển tập truyện ngắn (4 tập), Nxb Công an Nhân dân.

43. Kim Khuyên, Đi săn hay là tìm lại thiên lương?, www.evan.com.vn.

44. Lê Đình Kỵ (1991), “Đối thoại với văn học dân gian và bản lĩnh của người viết”, Tạp chí văn học

(số 5).

45. Cao Kim Lan, Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết của hậu hình thi pháp hậu

hiện đại, www.vienvanhoc.org.vn.

46. Cao Kim Lan (2005), “Mấy vấn đề thi pháp cốt truyện”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 6).

47. Nguyễn Trường Lịch (1997), “Huyền thoại và sức sống của huyền thoại trong văn chương xưa và

nay”, Tạp chí văn học (số 5).

48. Nguyễn Văn Long (2006), Nguyễn Văn Thìn (đồng chủ biên), Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn

đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

49. Trần Long, Góp phần làm rõ nguyên lí mẹ trong văn hóa Việt, www.vanhoahoc.com.vn.

50. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

51. Trần Nhật Lý, Đọc lại “Sang sông” của Nguyễn Huy Thiệp, www.evan.com.vn.

52. Sơn Nam (1999), Hương rừng Cà Mau, Nxb Trẻ.

53. Nguyên Ngọc, Văn xuôi Việt Nam hiện nay, lôgic quanh co của các thể loại, những vấn đề đang

đặt ra và triển vọng, www.vietnamnet.com.vn.

54. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa.

55. Phan Ngọc, Quan hệ giữa văn chương và văn hóa ở Việt Nam, www.vienvanhoc.org.vn.

56. Nguyễn Thị Ngọc (1996), Hồ Xuân Hương và nền văn hóa dân gian Việt Nam, Luận án P.TS, Thư

viện Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh.

57. Mạc Ngôn (2004), “Ngọn nguồn văn hóa dân gian của sáng tác văn học”, Tạp chí Nghiên cứu văn

học (số 6).

58. Lã Nguyên, Nhìn lại các bước đi, lắng nghe những tiếng nói www.vietnamnet.com.vn.

59. Phạm Xuân Nguyên (sưu tầm và biên soạn), (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn hoá thông

tin, Hà Nội.

60. Phùng Qúi Nhâm (2002), Văn học và văn hóa từ một góc nhìn, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên

cứu Quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh.

61. Vương Trí Nhàn (2006), “Giăng lưới bắt…lí luận”, Báo Thể thao và văn hoá, ra ngày 10 tháng 3.

62. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh.

63. Nhiều tác giả (2000), Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

64. Nhiều tác giả (1989), Nguyễn Huy Thiệp, Tác Phẩm và dư luận, Tạp chí Sông Hương + Nxb Trẻ.

65. Nhiều tác giả (2002), Bản sắc dân tộc trong văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên

cứu Quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh.

66. Hoàng Thị Oanh (2008), Đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ, Thư viện

Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh.

67. Lê Trường Phát (1987), “Về hiện tượng xen kẽ giữa văn vần và văn xuôi trong truyện kể dân

gian”, Tạp chí văn học (số 4).

68. Hoàng Phê (chủ biên), (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội,

Đà Nẵng.

69. Phạm Phú Phong (2002), “Giọng điệu văn chương Nguyễn Huy Thiệp”, Tạp chí Sông Hương (số

155).

70. Vũ Trọng Phụng (2002), Số đỏ, Nxb Văn học, Hà Nội.

71. Huỳnh Như Phương (1991), “Văn xuôi Việt Nam những năm 80 và những vấn đề dân chủ mới của

nền văn học”, Tạp chí văn học (số 4).

72. G.N Pospelov (chủ biên), (1993), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

73. Đặng Văn Sinh, Đọc lại “ Tướng về hưu” www.vietnamnet.com.vn.

74. Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), (2007), Từ điển thuật ngữ văn học,

Nxb Giáo dục.

75. Trần Đình Sử (chủ biên) (2000), Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Đại học sư phạm

Hà Nội.

76. Trần Đình Sử (2005), Trần Đình Sử tuyển tập, Nguyễn Đăng Điệp (tuyển chọn), Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

77. Hà Công Tài (1989), “Để nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết”, Tạp chí

văn học (số 5).

78. Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi”, Tạp chí văn học

(số 2).

79. Nguyễn Thị Minh Thái (2007), “Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: “Tôi sống ảo”, An ninh Thủ đô,

ngày 9 tháng 9.

80. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.

81. Bùi Việt Thắng (2000), “Một bước đi của truyện ngắn”, Tạp chí Nhà văn (số1).

82. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

83. Bùi Việt Thắng (2004), “Truyện ngắn hôm nay”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 1).

84. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

85. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí

Minh.

86. Nguyễn Thành Thi (2010), “Ám ảnh hiện sinh trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”, Tạp chí

Nghiên cứu văn học (số 5).

87. Trần Viết Thiện (2007), “Thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp – Chiều tương tác độc đáo”, Tạp chí

Sông Hương (số 216).

88. Ngô Đức Thịnh (chủ biên), (1991), Quan niệm về Folklore, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

89. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Giăng lưới bắt chim (Tạp văn, tiểu luận, phê bình, giới thiệu), Nxb Hội

nhà văn, Hà Nội.

90. Nguyễn Huy Thiệp (2006), “Giăng lưới bắt chim” là những đối thoại nội tâm”, Tiền phong chủ

nhật, ngày 24 tháng 9.

91. Nguyễn Huy Thiệp (2002), “Tôi chỉ hướng tới tự nhiên”, Báo Tiền Phong (số 40).

92. Nguyễn Huy Thiệp (2008), “Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: “Thế giới đã an bài!”, Báo Thanh niên,

ngày 10 tháng 3.

93. Nguyễn Huy Thiệp (2008), “Tổng nhuận bút của tôi khoảng 8000 USD”, Báo Người đương thời

(số Xuân Mậu Tý).

94. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Đỗ Hồng Hạnh tuyển chọn và hiệu đính, Nxb

Văn hoá Sài Gòn.

95. Đỗ Lai Thúy (1999), Hồ Xuân Hương – hoài niệm phồn thực, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

96. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội.

97. Đỗ Lai Thúy, Mối quan hệ văn hóa – văn học nhìn từ hệ thống lí thuyết, www.vienvanhoc.org.vn.

98. Phạm Thị Thùy Trang (2009), Người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn

Thạc sĩ, Thư viện Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh.

99. Lê Ngọc Trà (2002), Thách thức của sáng tạo, thách thức của văn hóa, Nxb Thanh niên.

100. Lê Ngọc Trà (tập hợp và giới thiệu), (2001), Văn hóa Việt Nam – đặc trưng và cách tiếp cận,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

101. Lê Ngọc Trà, Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới, www.vienvanhoc.org.vn.

102. Đỗ Bình Trị (1989), “Mấy ý kiến về vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học với văn học dân

gian”, Tạp chí văn học (số 1).

103. Bùi Thanh Truyền (2008), “Song đề truyền thống - hiện đại trong điểm nhìn nghệ thuật của

truyện giả cổ tích và truyện cũ viết lại thời đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 2).

104. Bùi Thanh Truyền (2001), “Ảnh hưởng thần thoại và cổ tích trong cách xây dựng nhân vật văn

xuôi hôm nay”, Tạp chí Văn hóa dân gian (số 5).

105. Phạm Thái Việt (chủ biên), (2004), Đại cương về văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà

Nội.

106. Trần Ngọc Vương, Tục hoá quay về để tiến tới, www.vienvanhoc.org.vn.

107. Trần Quốc Vượng (chủ biên), (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

108. Nguyễn Thị Thanh Xuân, Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt Nam, www.vienvanhoc.org.vn.