50
Đặc San Trà Vinh 2015 – năm t Mùi trang 101 thuyn câu ca nhà bác Bút. Chưa đến giGiao Tha, không khí trong xóm chng im ng hơn, chthnh thong có tiếng chó sa và tiếng í i gi nhau canh ni bánh Tết, càng vkhuya thì càng im lng hơn. Trong không khí cô đọng gia đêm trtch, bng tngôi chùa vng lên nhng hi chuông trng, âm thanh hòa ln vi mùi trm nhang thoang thong đưa, cxóm lng nghe thì biết là đêm giao tha sp ti. Trong xóm nhiu nhà vn còn đốt đèn sáng choang, ngoài khong sân trước bàn ông Thiên, đã thy my phnln tui khăn áo chnh t, đang vái ly tri đất để đón mng năm mi. Nhìn ra chiếc thuyn ca nhà bác Bút, gia đêm khuya ngn đèn được khêu sáng hơn, đốm la duy nht trong cái khoang thuyn bngang độ chng hơn hai thước, bóng bà cBút động đậy vào ra. Mt mâm trái cây bánh mt và nhang đèn được bày mũi thuyn, cái bóng lưng còng còng ca bà cBút đang lom khom vái ly tphương, vi nhng đốm nhang lp lòe trong bóng đêm. La chài le lói su vương gic hCó nhìn thy hình nh mt gia đình thuyn chài neo ghe vào bđón tết, mi thy được ni bun ht hiu ca nhng gia đình làm nghhbc. Người sng có nhà, người chết có m, ngôi nhà cđịnh mt chnào đó dù nghèo nàn ti đâu, vn là nơi để mt mai có đi Đông đi Tây người ta quay vvn tìm ra chn cũ. Con thuyn nhà bác Bút lênh đênh trên sông nước biết bến bnào là chương? Đã nhiu ln trong nhng đêm gió mưa sùi st, ngi trong căn nhà m sáng ánh đèn, tôi vn có lúc băn khoăn nghĩ đến chiếc thuyn chài ca nhà bác Bút, ri tưởng như nghe được ctiếng mưa rơi lp độp trên mái thuyn, có mt gia đình co ro trên nhng manh chiếu tri trên sp g. Hay nhng đêm trăng vng vc sáng, con thuyn li theo con nước ln neo gia cù lao mênh mông để chnhng mlưới đầy cá tôm, khi mi người đang ngngon hay còn thao thc vi trăng như tôi trong mnh sân nhtrước nhà. Sau này khi bước vào đời ri tri qua nhng lúc bon chen cht vt, khn khvì sinh kế, đời chng cht thêm ni bun, có lúc tôi ao ước mình có mt con thuyn như nhà bác Bút để mun đi đâu thì đi, đến bến bnào cũng được, min là thoát khi sràng buc vi thế gii loài người hp hòi, ích k. Tôi hình dung ra cái tdo ca bác Bút thnh thơi biết chng nào, mà con thuyn y gia đêm khuya vi mt vng trăng sáng, xung quanh sông nước bb, cuc đời không bkm ta y chng phi là thhnh phúc tôi hng mơ ước sao?! Liên tiếp nhiu năm, mi khi Xuân v, chiếc thuyn chài nhà bác Bút vn ghé vào cái bến sông có ngôi chùa nh, chc hn cũng là mun tìm mt nơi cđịnh để đón Xuân sang, thay vì lang thang mi năm mi bến. Đám con cái bác vn không được đi hc, da chúng đen trùi trũi, qun áo vn khét mùi bùn sông rch, con bé ln đã nhnh hơn ra dáng mt thiếu nchưa ny n. Bà cBút chép ming tâm svi mtôi, ao ước vài năm na dành dm thêm smua mt miếng đất cui gio đất ven sông này, chy gn ngôi chùa, ri làm cái nhà lá để cnhà có chchui ra chui vào, my đứa cháu bà cũng sđược ti trường như nhng đứa trkhác. Tđời cha đến đời con, bà cBút đã mơ ước cho con mình đi hc, nay đến đời cháu mà hvn còn chưa thc hin được gic mơ tm thường đó. Năm tiếp theo bà cBút m đau luôn, đến ni có lúc m nng ung thuc mãi không khi, bác Bút phi đưa mđến nhà chú y tá chích do trong xóm để khám bnh. Gy gò, héo qut trong mqun áo chng đụp trên người, bà cBút thu thào mơ ước khi chết được nm nhtrên miếng đất ca ngôi chùa nhgn vi nhánh sông mà nhng năm tháng cui đời, bà cũng tìm được nhng tm lòng. Cđời lênh đênh trên sông nước, đến lúc gn nm xung vn mơ mt chnm thanh tnh cho tm thân èo ut cát bi. Thuy đất rng người thưa, nên trong các khu vườn rng rm rt nhiu bi tre, nếu mun người ta vn có thchôn người thân góc vườn, chkhông nht thiết phi đưa ra ngoài nghĩa địa. Bà cBút đã tính toán mt cách ti nghip, đi li vi sư bà cũng chmong khi nhm mt được mt nm mttế, trong khi sut đời đã phi sng kiếp lênh đênh không nhà. Sư bà là người nhân đức, nên chng nchi tbà cBút mt tho đất tý teo để làm nơi an nghnghìn thu. Hôm y ln đầu tiên tôi được thy đám ma mt nhà thuyn chài, xác bà cBút được

còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

  • Upload
    others

  • View
    7

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 101

thuyền câu của nhà bác Bút. Chưa đến giờ Giao Thừa, không khí trong xóm chừng im ắng hơn, chỉ thỉnh thoảng có tiếng chó sủa và tiếng í ới gọi nhau canh nồi bánh Tết, càng về khuya thì càng im lặng hơn. Trong không khí cô đọng giữa đêm trừ tịch, bỗng từ ngôi chùa vẳng lên những hồi chuông trống, âm thanh hòa lẫn với mùi trầm nhang thoang thoảng đưa, cả xóm lắng nghe thì biết là đêm giao thừa sắp tới. Trong xóm nhiều nhà vẫn còn đốt đèn sáng choang, ngoài khoảng sân trước bàn ông Thiên, đã thấy mấy phụ nữ lớn tuổi khăn áo chỉnh tề, đang vái lạy trời đất để đón mừng năm mới.

Nhìn ra chiếc thuyền của nhà bác Bút, giữa đêm khuya ngọn đèn được khêu sáng hơn, đốm lửa duy nhất trong cái khoang thuyền bề ngang độ chừng hơn hai thước, bóng bà cụ Bút động đậy vào ra. Một mâm trái cây bánh mứt và nhang đèn được bày ở mũi thuyền, cái bóng lưng còng còng của bà cụ Bút đang lom khom vái lạy tứ phương, với những đốm nhang lập lòe trong bóng đêm.

Lửa chài le lói sầu vương giấc hồ

Có nhìn thấy hình ảnh một gia đình thuyền chài neo ghe vào bờ đón tết, mới thấy được nỗi buồn hắt hiu của những gia đình làm nghề hạ bạc. Người sống có nhà, người chết có mồ, ngôi nhà cố định ở một chỗ nào đó dù nghèo nàn tới đâu, vẫn là nơi để một mai có đi Đông đi Tây người ta quay về vẫn tìm ra chốn cũ. Con thuyền nhà bác Bút lênh đênh trên sông nước biết bến bờ nào là cố hương? Đã nhiều lần trong những đêm gió mưa sùi sụt, ngồi trong căn nhà ấm sáng ánh đèn, tôi vẫn có lúc băn khoăn nghĩ đến chiếc thuyền chài của nhà bác Bút, rồi tưởng như nghe được cả tiếng mưa rơi lộp độp trên mái thuyền, có một gia đình co ro trên những manh chiếu trải trên sạp gỗ. Hay những đêm trăng vằng vặc sáng, con thuyền lại theo con nước lớn neo giữa cù lao mênh mông để chờ những mẻ lưới đầy cá tôm, khi mọi người đang ngủ ngon hay

còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ trước nhà. Sau này khi bước vào đời rồi trải qua những lúc bon chen chật vật, khốn khổ vì sinh kế, đời chồng chất thêm nỗi buồn, có lúc tôi ao ước mình có một con thuyền như nhà bác Bút để muốn đi đâu thì đi, đến bến bờ nào cũng được, miễn là thoát khỏi sự ràng buộc với thế giới loài người hẹp hòi, ích kỷ. Tôi hình dung ra cái tự do của bác Bút thảnh thơi biết chừng nào, mà con thuyền ấy giữa đêm khuya với một vầng trăng sáng, xung quanh sông nước bề bề, cuộc đời không bị kềm tỏa ấy chẳng phải là thứ hạnh phúc tôi hằng mơ ước sao?!

Liên tiếp nhiều năm, mỗi khi Xuân về, chiếc thuyền chài nhà bác Bút vẫn ghé vào cái bến sông có ngôi chùa nhỏ, chắc hẳn cũng là muốn tìm một nơi cố định để đón Xuân sang, thay vì lang thang mỗi năm mỗi bến. Đám con cái bác vẫn không được đi học, da chúng đen trùi trũi, quần áo vẫn khét mùi bùn sông rạch, con bé lớn đã nhỉnh hơn ra dáng một thiếu nữ chưa nẩy nở. Bà cụ Bút chép miệng tâm sự với mẹ tôi, ao ước vài năm nữa dành dụm thêm sẽ mua một miếng đất ở cuối giẻo đất ven sông này, chỗ ấy gần ngôi chùa, rồi làm cái nhà lá để cả nhà có chỗ chui ra chui vào, mấy đứa cháu bà cũng sẽ được tới trường như những đứa trẻ khác. Từ đời cha đến đời con, bà cụ Bút đã mơ ước cho con mình đi học, nay đến đời cháu mà họ vẫn còn chưa thực hiện được giấc mơ tầm thường đó.

Năm tiếp theo bà cụ Bút ốm đau luôn, đến nỗi có lúc ốm nặng uống thuốc mãi không khỏi, bác Bút phải đưa mẹ đến nhà chú y tá chích dạo trong xóm để khám bệnh. Gầy gò, héo quắt trong mớ quần áo chằng đụp trên người, bà cụ Bút thều thào mơ ước khi chết được nằm nhờ trên miếng đất của ngôi chùa nhỏ gần với nhánh sông mà những năm tháng cuối đời, bà cũng tìm được những tấm lòng. Cả đời lênh đênh trên sông nước, đến lúc gần nằm xuống vẫn mơ một chỗ nằm thanh tịnh cho tấm thân èo uột cát bụi. Thuở ấy đất rộng người thưa, nên trong các khu vườn rộng rậm rịt nhiều bụi tre, nếu muốn người ta vẫn có thể chôn người thân ở góc vườn, chứ không nhất thiết phải đưa ra ngoài nghĩa địa. Bà cụ Bút đã tính toán một cách tội nghiệp, đi lại với sư bà cũng chỉ mong khi nhắm mắt được một nắm mồ tử tế, trong khi suốt đời đã phải sống kiếp lênh đênh không nhà.

Sư bà là người nhân đức, nên chẳng nỡ chối từ bà cụ Bút một thẻo đất tý teo để làm nơi an nghỉ nghìn thu. Hôm ấy lần đầu tiên tôi được thấy đám ma một nhà thuyền chài, xác bà cụ Bút được

Page 2: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 102

đặt trong chiếc áo quan nhà nghèo quét sơn vàng nhạt thếch, một nắm nhang to cháy đỏ trên mặt hòm có bát cơm quả trứng, đó cũng là lần cuối cùng trong đời bà cụ già con nhà hạ bạc, từ giã cuộc đời trôi nổi trên sông nước để được lên bờ vĩnh viễn.

Ngày tháng thoi đưa, từ ngày mẹ chết bác Bút cho thuyền đi lang thang trên các dòng sông xa, thỉnh thoảng vẫn neo thuyền vào bến chùa để viếng mộ mẹ, rồi đi thăm những nhà quen trong xóm cũ. Bộ mặt của xóm nhà ven sông cũng dần dần thay đổi, chiến tranh đưa đẩy người trong quê chạy ra thành phố tránh bom đạn, người quê vẫn thích cảnh sông nước êm đềm, tìm vào mua đất cất nhà ở cũng đông, mùi hương cau hương bưởi của xóm cũ ngày xưa cũng không còn nguyên vẹn. Sư bà đã khuất bóng, cũng được nằm yên nghỉ ở góc vườn có bụi tre làm bạn với bà cụ Bút, ngôi chùa vẫn còn lại hai ni cô trẻ năm xưa nay đã già hơn, ngày Xuân người đi vãn cảnh chùa đông hơn, nhưng bao nhiêu bóng cũ người xưa mỗi ngày một vắng.

Mỗi lần về xóm thăm mộ mẹ, hai bác Bút vẫn không quên ghé thăm gia đình tôi, mang theo con cá mớ tôm tươi vừa lưới được còn tươi soi sói để biếu mẹ tôi, bác vẫn giữ được cái tình giao hảo với mẹ tôi như ngày bà cụ Bút còn sống. Mẹ tôi chẳng bao giờ để thiệt thòi cho gia đình người thuyền chài nghèo khổ ấy, bà thường dành dụm lại những quần áo cũ ngắn ngủn của chị em tôi không mặc vừa, dúi cho bác Bút gái vài món đồ chơi nhặt nhạnh được của mấy đứa cháu nội, ngoại trong nhà. Chỉ thế thôi mà lúc chia tay bao giờ cũng bịn rịn, miệng tuy cười nhưng mắt bác Bút gái bao giờ cũng rưng rưng lệ, khi gặp lại tôi trong khu chợ đông người, bác Bút gái vẫn chạy theo kêu ơi ới . .

Sau năm chiến tranh chấm dứt, gia đình tôi cũng rời xóm cũ dọn nhà đi nơi khác, trong nhà mỗi người mỗi cảnh chẳng dúm lại được với nhau để xum họp, nên căn nhà ven sông ấy phải bán lại cho người khác, bỏ lại cây mận đỏ lúc lỉu trái mẹ tôi trồng trước sân rợp bóng mát, có những mùa Xuân thuở nào với mùi hương hoa cỏ và nhang trầm ngôi chùa nhỏ. Ngày bỏ xóm cũ ra đi, mẹ tôi sang chùa để đốt nhang và từ biệt bà bạn già đồng hương của mình đã ở lại đây mãi mãi, kể từ đấy không gặp lại gia đình người thuyền chài nghèo khổ nhưng tấm lòng rất chân thật ấy nữa. Không hiểu sau này khi ghé vào xóm ven sông, không còn gặp gia đình tôi ở đó, bác Bút và lũ trẻ có buồn không?

Tôi trưởng thành và xa dần cái xóm nhỏ ven sông ấy nhiều năm rồi, nhưng mỗi năm khi Xuân về, hồi tưởng lại những khuôn mặt người quen đã đến đã đi trong cuộc đời mình, tôi lại nhớ đến gia đình bác Bút và những đứa trẻ bất hạnh không được cắp sách đến trường trong chiếc thuyền chài ấy. Nhớ đến con đường xi măng nằm giữa hai bờ cây im ngủ dưới ánh trăng, nhớ đến mùi hương hoa cau thơm ngát giữa đêm khuya thanh vắng, nhớ tiếng chuông chùa văng vẳng trong đêm sương, và cũng nhớ đến đốm lửa trên sông hắt lên trong khoang chiếc thuyền chài độ xưa. Lòng tôi chơi vơi một nỗi thương cảm. Giá như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa, xem con thuyền mục nát của bác giờ này đã tìm được cái bến nào để an cư lạc nghiệp như bà cụ Bút mong mỏi. Những đứa trẻ giờ này đã khôn lớn, không biết đã có được mái nhà và không còn lênh đênh trên sông nước với nghề hạ bạc cha truyền con nối?

Những hình bóng cũ người xưa mỗi ngày một vắng

Đọc lại bài thơ dịch của ông thầy già, tôi thấu hiểu được nỗi buồn của Thầy với bài thơ bất hủ của người xưa. Để rồi lại nhớ đến cảnh đời vất vả của gia đình người thuyền chài quen biết với gia đình tôi độ ấy, không biết ánh lửa lắt lay trong những chiếc thuyền chài nghèo khổ, có buồn bằng ánh lửa thuyền câu mà người học trò Trung Hoa thi rớt năm xưa cảm nhận được? Nghĩ về cảnh cũ, người xưa, tôi cũng cám cảnh nên bắt chước thầy ghi lại mấy vần thơ sau đây:

“Trăng ẩn, trời khuya, quạ kêu sương Leo lét thuyền câu ánh lửa buồn Lặng lẽ đôi bờ cây thiếp ngủ Đêm tàn thổn thức mấy hồi chuông.”

Nguyên Nhung

Page 3: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 103

* Nhân kỷ niệm 30 năm đến Hoa kỳ ( 10/12/1983 – 10/12/2013 ), tôi mạn phép ghi lại vài ký ức như một kỷ niệm đời người đã hai lần vượt biên 1954 và 1975, để những bạn đến Hoa Kỳ bằng máy bay hiểu được cái lằn ranh giữa cái sống và cái chết của những người bước chân đi là coi như đã nắm được thần chết trong tay. * Bài viết này không có mục đích ghi lại những ngày tháng long đong ở trại tị nạn , cho nên tôi chỉ ghi phớt qua vài nét chấm phá cho có hậu mà thôi. * Bạn hãy tưởng tượng nếu VN may mắn không có 4000 ngàn năm văn hiến như các dân tộc khác trên thế giới, và lại càng không được may mắn lãnh đạo bởi những người tự mặc áo thụng vái nhau là đỉnh cao của trí tuệ loài người, thì dân tộc Việt Nam đã không có hiện tượng bất hủ có một không hai trên thế giới “nếu cái cột đèn đường có chân, nó cũng cố tìm đường vượt biên… để trốn chậy những mỹ từ Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, Xã hội chủ nghiã” Một cách thiển cận tôi nghĩ, nếu được làm dân đen của một nước chưa đầy ngàn tuổi như nước Hoa kỳ trong thời gian xẩy ra nội chiến Nam và Bắc, sau cuộc chiến kẻ thắng đối xử với người thua sao đong đầy tình người đến thế, chẳng có ai phải đi tù trá hình được gọi là tập trung cải tạo như một nước có tới trên 4000 ngàn năm văn hiến ở phương Đông hay thà được làm dân một xứ mà trước 1975 dân miền Nam Việt Nam hay đùa bỡn gọi là dân mọi Phi Châu, đó là dân tộc Nam Phi đã bị người da trắng cai trị cả trăm năm, ông Nelson Mandela bị kết án tù chung thân từ năm 1964 với tội danh “âm muu lật đổ” chính quyền do người da trắng cai trị vậy mà khi người tù da đen sau 27 năm nằm trong xà lim lên làm tổng thống, cả nước chỉ có gần 10 người thuộc loại cực kỳ ác ôn bị uỷ ban công lý đề nghị giam cầm, còn tất cả dù da đen hay da trắng đều nắm tay nhau nhìn về phía trước để xây dựng đất nước, hèn gì văn hoá của ‘mọi’ và của những người có trên 4000 năm văn hiến cũng có chỗ khác nhau, đó là văn hoá tình người hay văn hoá của trả thù đê tiện.

Xế trưa 28 tháng 11 năm 1982, hai bác cháu vừa bắt đầu cầm đũa thì chị H. đạp xe tới nói chiều nay anh Q. mời ăn cơm, anh Q. nguyên là Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia làm việc tại tổng nha CSQG trước 1975, anh mới đi tù về được ít tháng…, mình hỏi chị có việc gì không mà lại mời

ăn cơm, chị trả lời rất nhỏ hình như chỉ đủ để hai người nghe - SẮP CÓ CHUYẾN.

Sau khi cố đợi chị Hồng đi làm về không được, hai chị em đành từ giã bác T., và từ giã nơi đã cưu mang mình suốt thời gian dài trong lúc sống ngoài vòng pháp luật cộng sản, sau khi trốn cái gọi là trại tập trung cải tạo… Sở dĩ trong thời gian dài khi trốn trại cải tạo, tôi có thể thong dong đi lại được chính nhờ những giấy tờ tùy thân giả mà con của một người bạn trước 1975 cung cấp, với đầy đủ triện son đỏ chót được khắc từ củ khoai lang, … ban đêm mình có thể yên giấc vì khu vực tôi trốn toàn tòng dân ‘bắc kỳ’ 1954, nơi đây quanh năm suốt tháng không có bóng ‘bò vàng‘ dù chỉ một tên lai vãng. Những khu vực này cộng sản có ba đầu sáu tay cũng không tổ chức được tổ dân phố, cũng không có kẽ hở để những tên công an khu vực xen vào trú ngụ, bởi vậy ngoài tôi còn có khá nhiều tay nếu không phải là dân trốn cái gọi là đi học tập cải tạo thì cũng là dân vượt trại tù như tôi. Sau khi từ giã tổ yêu thương đó, mình ghé vội vô một trú điểm khác đó là nhà anh D. để lấy ít bộ quần áo. Khi xuống lầu thấy anh đang ngồi chờ ở phòng khách, tuy không nói nhưng anh lộ nét buồn rồi anh chợt hỏi “chú đi hả” – mình không biết nói sao cho anh hiểu, vì anh cũng đang muốn cho một đứa con đi với mình… sau đó ghé nhà thờ ba chuông ở đường Trương Minh Giảng để cầu nguyện, để xin ơn đặc biệt với thánh Martin des Poress, một vị thánh người da đen nghe nói rất thiêng, ai đi vượt biên cũng tới xin ơn và trong đó cũng không thể thiếu mình… Gần 6 giờ chiều ghé vô nhà cô C. để chờ anh L. sang đón đưa đến nhà anh Q. Nhà cô C. chỉ cách nhà mình chừng 15 phút đi bộ vậy mà sao thấy nó xa xôi ngàn dặm …

Lúc này mẹ già đang làm gì nhỉ ? Có lẽ bà cụ đang lo âu cầu nguyện cho người con trốn trại, làm sao mau chóng vượt biên thành công để ít ra mẹ cũng bớt được những ngày lo âu, hồi hộp … Khi tới nhà anh Q. thì anh lại đi Chợ Lớn chưa về, chừng 30 phút sau khi gặp anh nói: có lẽ sắp có chuyến đấy, nhưng tới giờ này anh cũng chưa rõ cụ thể ra sao … Cơm nước vừa xong thì bà Hai tới hỏi mình có đi không và đánh nội trong đêm nay. Thời gian đi thật quá bất ngờ mình không biết tính toán thế nào, tuy nhiên mình nói thôi để em cầu nguyện xem sao, bà Hai nói thêm chỗ này được cái bảo

Page 4: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 104

đảm là không sợ bị lừa còn ra khơi có thành công hay không cái đó tùy số trời.

Vào phòng anh Q. trước tượng ảnh Chúa và Đức mẹ mình để hết tâm trí cầu nguyện các đấng chí tôn, chừng 10 phút khi ra khỏi phòng thấy H. một người bạn tù cùng trại giam Xuyên Mộc nay lại là kẻ dẫn đường cho dân vượt biên đang đứng chờ, anh Q. hỏi chú quyết định thế nào có đi không …? Mình trả lời rất vững tin - em đi anh ạ, nhưng chỉ có một vấn đề là tiền bạc ra sao thôi, anh L. nói “không sao cậu cứ đi, mọi chuyện ở nhà sắp xếp miễn sao cậu đi thành công là được”.

Trước khi đi mình viết tóm tắt một bản lý lịch ma, để nhỡ có bị bắt thì ở nhà biết cách mà đi thăm nuôi… Khoảng 7giờ tối, H. người dẫn đường đón thêm Quang rồi cùng trực chỉ Chợ Lớn, Quang đi xích lô còn mình H. đèo xe đạp, gọi là vô Chợ Lớn nhưng thực ra là tấp vô căn nhà ở đường Hưng Đạo xế sở chữa cháy thành phố. Khi tấp vô đó mới biết sáng mai mới đi, đêm đó chủ nhà đãi một bữa tiệc thật long trọng, rượu thịt ê hề để tiễn chân người con trai ngày mai cùng đi vượt biên với mình, anh ta tên Phước (được Canada nhận), tiệc thì lớn nhưng bụng dạ đâu mà ăn với nhậu…vì vậy sau khi ăn uống sơ sài mình cáo mệt đi nghỉ trước.

Nay coi như ngày thứ hai của chuyến đi vượt biên, ngày 29 tháng 11 năm 1982, hồi hôm mấy tay nhậu xỉn quá nên quên để đồng hồ báo thức, đâu khoảng 1 giờ sáng anh của Phước đã đánh thức cả bọn dậy kêu đi. Tuy nhiên coi vậy mình cũng còn tỉnh trí, sau khi nghe ngóng một hồi thấy không gian còn tĩnh mịch lắm nên nói với họ - khoan đi, tôi nghe còn im vắng lắm chưa sáng đâu hãy ngủ tiếp khi nào nghe tiếng xe chạy nhiều, nghe tiếng mấy người bán hàng rong rao hàng hãy xuất hành, quả tình chất “tình báo cùi” trong người đôi khi cũng còn tốt chưa tới nỗi cùn, khi rời nhà mới gần 5 giờ sáng, anh của Phước dẫn mình và Quang ra đón xe lam trực chỉ bến xe Chợ Lớn, thường gọi là bến xe miền tây. Tại bến xe đón thêm Trần Huệ Cơ, người con gái gốc Tầu trạc 30 tuổi khá xinh cùng nhập bọn. Tới bắc Vàm Cống khoảng xế trưa, mình cùng Quang vào quán ngồi uống nước và từ từ những người vượt biên từng tốp cũng đang tụ hội, nhưng mỗi nhóm một quán và có lẽ mỗi người cũng đóng những vai trò khác nhau trong xã hội thời cộng sản.

Khoảng 14 giờ 30 có bác Hai ra đón đưa vào tỉnh lỵ Long Xuyên, mình lên xe lam với hai người con gái sau này mới biết là hai chị em Nguyễn thị Hà và Nguyễn thị Hiệp, gốc người Bến

Tre, cô chị trạc 23 tuổi, còn cô em chừng 14 tuổi. Vô tới tỉnh lỵ mấy bác cháu xuống bến đò ngay tại phía sau chợ Long Xuyên ngồi chờ Taxi, (xin chú thích taxi là tiếng lóng của dân vượt biên để chỉ những chiếc ghe nhỏ để đưa người ra cá lớn tức tầu lớn), đâu khoảng 16 giờ có tin báo cho biết taxi của tốp mình không đổ được vì nước ngược, tuy nhiên bác Hai vẫn hy vọng vào giờ chót… cho nên bác nói với cả toán chờ thêm chút nữa, sau đó để tránh bị nghi ngờ khoảng 17 giờ bác nói cả tốp kéo về công viên Long xuyên chơi, còn bác thì cố chờ có gì bác sẽ hú sau.

Tại đây mình giả dạng thường dân len lỏi vào đám đông đang tụ nghe kết quả xổ số của tỉnh, cũng nên mở một dấu ngoặc trước 30 tháng 4 năm 1975 cả miền Nam chỉ có một loại xổ số kiến thiết quốc gia cho toàn thể Miền Nam… với bản nhạc bất hủ làm nhạc mở đầu cho các chương trình xổ số của nam danh ca nhạc sĩ Trần văn Trạch… những ngày đầu sau ngày mất nước, những tên điếm đực văn nghệ nịnh hót chế độ mới đã lên án gắt gao xổ số kiến thiết quốc gia của Miền Nam, gọi đó là trò chơi đầu độc dân chúng làm băng hoại cả xã hội, đưa nhân dân cả nước vào trò chơi đỏ đen, nhưng bây giờ không phải là một mà là mỗi tỉnh có xổ số riêng thì những tên điếm thối ấy bây giờ phải bẻ cong ngòi viết để viết lại sao đây?

Trở lại chuyện vượt biên , sau khi có kết quả xổ số mọi người từ từ tan hàng nên mình cũng từ từ xoay lưng thả bộ sang khu nhà hát, làm như dân ghiền cải lương Nam Bộ chính hiệu con nai vàng, vẫn không hết giờ đành thả bộ ra ngồi trên chiếc ghế đá công viên, từ chỗ này mình ngó thấy bến xe, thấy depot nước đá của chị B. nhưng không biết giờ chị còn đó không hay đã cao bay xa chậy, vì mình thấy có bảng hiệu mới hợp tác xã bia nước ngọt, nhớ về chị B làm mình nhớ về những kỷ niệm một thời ,kế sinh nhai của chị chỉ có một tiệm sách thật nhỏ, nhỏ như chưa từng có … chỉ có vài tờ nhật báo, cả tuần báo nguyệt san và sách chưa quá con số 10, quan sát tiệm của chị mình nghĩ nếu một người bình thường kinh doanh như chị liệu có đủ sở hụi cho một tô bún nước lèo buổi sáng không ? khi xuống làm việc tại Trà vinh (Vĩnh bình) rất tình cờ mình đã gặp chị trước khi gặp Đại tá Tôn thất Đông, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng, trong lúc ngồi chờ ở phòng 1 Tiểu khu, Đại uý Hào ( ? ) trưởng phòng 1 nói nhỏ với mình anh nên kiếm chỗ nghỉ đi vì từ đó tới giờ cả quân sự lẫn bên hành chánh Đại tá chỉ cho gặp giữa khoảng từ 2 giờ sáng tới 4 giờ sáng … cho nên ông hẹn vậy

Page 5: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 105

chứ không được gặp đâu, nhưng không ngờ lần này Đại tá phá lệ…

Trở lại chuyện chị B một tí nữa, không hiểu có phải tội nghiệp cái anh chàng trông bạch diện thư sinh mà phải khoác áo chinh y như mình hay không, mà suốt thời gian chị còn mở tiệm sách tùy theo hoàn cảnh chị luôn gởi sách báo, đồ ăn nhờ mấy người làm nghề xe ôm đem đến cho mình, lần nào cũng vậy sau khi nhận đồ mình cũng nhắn ghi sổ, nhưng cho tới giờ mình cũng chưa trả được đồng nào cho chị… bỗng bất ngờ chị đi không một lời giã biệt và cũng lại không ngờ trong một dịp tới Long xuyên thăm một người bạn, đúng vào khoảng thời gian Phật giáo Hòa Hảo đang đấu tranh quyết liệt với chính quyền do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lãnh đạo về vấn đề võ trang chi đó… có người còn chặt ngón tay viết cả huyết lệ thư… khi tới Long xuyên đã gần 19 giờ trời mưa như trút nước, người lái xe ôm đã tạo cho mình một bất ngờ lý thú khi người đầu tiên mình gặp lại cũng chính là chị B., đang lạnh run người được chị đãi một tô phở nóng chính hiệu Bắc kỳ thật đã đời…

Cơm nước vừa xong, chị muốn giữ mình lại một đêm, nhưng người lái xe ôm đã đến để đưa mình đi gặp mấy người bạn đang chờ… sau mấy ngày quần thảo bên bàn nhậu, người bạn của mình nói - chắc ông đã thấm mệt nay cho nghỉ dưỡng quân -thế là mình được đưa tới một khách sạn, sau khi nhỏ to với viên quản lý. Sau một hồi vòng vo lên mấy tầng lầu mình thấy anh ta dừng lại ở cuối hành lang trước một bức tường … sau vài động tác nhanh gọn mình đã ở trong một căn phòng với đầy đủ tiện nghi,với căn phòng này mấy ông lớn có cần đi đêm chắc bà xã cũng không thể khám phá được.

Đang miên man trong những kỷ niệm quá khứ, thì mấy con đĩ nó tưởng mình là dân cán ngố từ nước Bắc vào nước Nam làm việc, nên mấy ả tới gạ chuyện đời… ôi mấy ả này đâu có biết mình đang rầu thúi ruột về chuyện đi đứng , lại tưởng mình đang nhớ nhà xứ Bắc… một ả lên tiếng – anh sợ bò vàng (tức công an) phải không ? anh đừng lo tụi em có bảo kê an toàn lắm…mình cười lên giọng Bắc kỳ chính hiệu con nai vàng, có cút đi không ông là công an chúa đây, lộn xộn ông cho còng tay bây giờ… đang tính đứng lên đi chỗ khác thì lại có hai ông cán ngố thứ thiệt tới ngồi, gạ chuyện hỏi thăm, bởi vậy mình lại phải phì phèo mấy điếu thuốc lá cách mạng khét lẹt và đương nhiên xổ toàn chuyện cao quý của Bác cùng Đảng, và đời sống ấm no với TV. chậy đầy đường…

chuyện nổ đang như pháo tết thì bác Hai tới ra hiệu…thế là đành tạm biệt hai chú cán ngố miền Nam, khi đi mình còn nghe vẳng sau lưng: gớm chính hiệu Bắc kỳ có khác, ông ấy chuyên chính gớm.

Sau đó mình được biết nước ngược nên mấy taxi không lên được, đành phải trở lại bắc Vàm Cống… trời nhá nhem vào quán cà phê uống nước nghe nhạc để chờ giờ khuya mới vô điểm ngủ qua đêm để khỏi bị lộ, ngồi chưa nóng ghế mình lại đụng với một tay mà hồi xế khi từ thành phố xuống tay này đã kéo ghế ngồi chung bàn gạ chuyện… Lúc đó mình nói với hắn–tôi công tác tại Hà nội, nhân chuyến công tác trong Nam nên ghé Long Xuyên thăm mấy đồng chí đang công tác tại đây…và nghe nói chỗ này có nhiều của lạ miền Nam nên muốn ghé qua đêm cho biết hương thơm đồng nội của miền Nam …Hắn cười hì hì trả lời–cái gì chứ cái đó cần bao nhiêu em lo được hết… rồi hắn chỉ cái bàn có hai cô bé xinh xinh… mình nói được để tôi sang bắt chuyện… hai cô bé này cho biết hắn là tên buôn lậu, biết vậy an tâm mình kêu hắn sang ngồi chung bàn và nói úp mở sẽ kiếm cho hắn cái ô dù thật to để hắn che… thích quá hắn cười tít cả mắt… đang vui câu chuyện bá láp thì người đưa đường tới ra hiệu, bởi vậy làm bộ mình nói đồng chí và hai em ngồi đây, tôi đi sông (tức toilet) một lát trở lại cả bọn sẽ kéo nhau vào thị trấn vui suốt đêm luôn ra khỏi quán bằng ngả sau, vọt vội lên xe lôi đang chờ… thật hú hồn chưa tới 24giờ sao mà lắm chuyện muốn đứng tim như vậy.

Khoảng 23 giờ về tới điểm ngủ là nhà bác Hai, tại đây vừa ăn cháo gà khuya vừa nghe bác Hai nói lý do trở ngại taxi không bốc được hồi chiều, rồi bác đưa khoe những tấm hình mấy đứa con cháu đang sống tại Mỹ… nhìn những tấm hình mầu ai cũng thèm… bác hỏi mình sao hồi chiều chú nói quả quyết với tôi hôm nay không “đánh “được, trong khi tôi đang điều taxi lên… mình cười nói thế bác có tin bói toán không ? hồi sáng khi rời Sài gòn tôi đã bấm quẻ Khổng Minh ra trận, nên biết mai mới đi được, sau đó bác lại hỏi–như vậy mai xuất hành giờ nào tốt – mình trả lời sau 5 giờ sáng là tốt nhất.

Nay coi như đã là ngày thứ 3 của chuyến vượt biên, có thể nói hôm nay là ngày quyết định, một đi không trở lại nếu không thành công thì hoặc làm mồi cho cá hoặc vô khám để đếm lịch trở lại… đang ngon giấc thì bị dựng dậy để đi, sau khi lần chuỗi mân côi xong cũng là lúc những người đi vượt biên được bác Hai đãi một bữa ăn sáng thịnh

Page 6: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 106

soạn gồm cháo gà, bánh ú, cơm thịt kho trứng, cá kho tộ, dưa giá… ai thích gì ăn nấy. Sau đó cả bọn chia thành ba tốp nhỏ, rời nhà đi bộ chừng hơn một cây số để ngụy trang, kế đón xe lam vô tỉnh lỵ Long xuyên. Trên đường vào tỉnh mình gặp lại hai tên cán ngố chiều hôm trước ở công viên Long Xuyên, đang làm công tác kiểm soát an ninh các xe vô tỉnh, vừa thấy mình ngồi trong xe một tên lên tiếng hỏi - đồng chí đi chơi khuya về? mình trả lời - ờ đi cho biết cái miền Nam tốt đẹp của các đồng chí có bằng xã hội chủ nghĩa miền Bắc của chúng ông không…Thế là cả ba cùng cười khoái chí, cũng nhờ đó xe không bị xét hỏi chi cả, nhưng cũng từ đó mấy “má” ngồi cùng xe tưởng mình chính hiệu con nai vàng xứ Bắc nên tỏ thái độ ghét ra mặt bằng những câu châm biến xã hội chủ nghĩa. Mình không buồn ngược lại càng vui, vì trong hoàn cảnh hiện tại họ càng ghét ‘đồng chí Bắc kỳ’ này thì càng tốt cho chuyến đi…

Khoảng 5 giờ 30 phút sáng cả bọn tới chợ Long Xuyên các quầy hàng chỗ thì thắp điện chỗ thì treo đèn măng xông rất sáng và trông rất vui mắt làm mình nhớ lại những ngày ở Cầu Ngan, thường thường khi chuông nhà thờ quận giật hồi một thì mình và đại uý Quang thường kéo nhau ra nhà lồng chợ vừa uống cà phê, vừa ăn bánh mì nóng cúa lò bánh mì điện Vĩnh Xương (gia đình chủ nhân hiện định cư tại San Jose), nhưng thực sự uống thì ít mà mình thích ngồi ngắm những người dân chất phác dọn hàng buổi sáng dưới ánh đèn măng xông trông rất vui mắt… Tuy nhiên trong lúc này dù có vui mắt cách mấy cũng không thể phủ trùm được nỗi lo về vấn đề vượt biên.

Sau khi rồng rắn đi một vòng chợ, bác Hai dẫn vô quán uống cà phê còn bác thì đi coi taxi tới chưa, khoảng 6 giờ sáng mình xuống một chiếc ghe tam bản có mui che, từ giờ này mình là trưởng gia đình gồm chị Sơ chèo ghe đang mang bầu khoảng 8 tháng, với một người con gái khoảng một tuổi lẻ cũng tên Hiệp và Hiệp (lớn), khoảng 14 tuổi người Bến Tre… gia đình mình như vậy từ nay gồm 4 người sinh sống bằng nghề buôn bán lẻ trên sông nước… Trước khi từ giã bác Hai, móc trong túi còn 200 đồng tiền “cụ hồ” đưa hết cho bác nhờ bác xin cho mình mấy lễ cầu cho thầy, chị Vinh, các linh hồn mồ côi, và một lễ sống cầu cho chính mình… Tiếp đó trên đường ra điểm hẹn, ghe của mình ghé vô khoảng 5 chợ để mua thêm đồ khô và dầu chậy máy… mỗi nơi mua một ít để khỏi bị lộ… mỗi lần chị Sơ, Hiệp và con chị Sơ lên chợ mua đồ còn mình nằm dưới ghe lấy cái nón lá

đậy mặt làm bộ ngủ… nhờ vậy vào ngày thứ hai sau khi lên taxi mình thoát được một “tai nạn” lớn.

Số là sau khi chị Sơ lên bờ đi chợ cùng hai con gái thì có hai tên có lẽ là cán bộ hay công an chi đó với giọng lè nhè có lẽ do quá chén đi xuống cầu tầu và kêu người lái chiếc tác ráng đưa họ qua sông, mình nằm nghe người chủ tác ráng đối đáp đại ý cán bộ chờ một chút để mấy bà con đi ghe xuống đủ rồi qua sông luôn, nhưng hai tên này không chịu, văng tục tùm lum. Đúng lúc đó chị Sơ cùng hai con đi chợ về thấy vậy họ kêu chị đưa họ qua sông… Trong tình hình này mình mới thấy chị Sơ lanh lẹ, đối đáp rất bình tĩnh và khéo léo, chị trả lời gọn trân – sao mấy cán bộ không đi tác ráng ghe tôi nhỏ mấy cán bộ xuống chìm ghe tội nghiệp tôi, nhất là tôi đang có bầu sắp sanh, một tên sừng sộ nói - “Đ.M.” có chở chúng ông không để ông còn kịp đón xe về Cầu Ngan Trà vinh, nghe tới Cầu Ngan mình giật thót ruột … rồi tên khác lại hỏi còn ai nằm trong ghe đó, chị Sơ bình thản trả lời - chồng tôi đó, ảnh chèo ghe mệt nên nằm ngủ, nghe vậy hai tên này cười rất đểu giả - vợ sắp sanh rồi mà còn “Đ.” cho dữ nên mệt ngủ phải không… có thể người chủ tác ráng nghe đối đáp qua lại nên động lòng thương hại hoàn cảnh bụng mang dạ chửa của chị Sơ và thấy cái ghe nhỏ quá nên người chủ tác ráng lên tiếng … mấy cán bộ xuống ghe tôi chở cho, chứ đi cái ghe đó bị chìm tội nghiệp người ta đang mang bầu…, vài phút sau mình nghe tiếng tác ráng nổ dòn và tách bến …

Lần khác khoảng 9 giờ sáng như thường lệ, chị Sơ cho ghe tấp vô một cái cồn ven sông, chỗ này khá rộng nhưng không có ai sống trên đó cả, chỉ có mấy bụi tre và mấy cây cột để cột trâu… vừa tấp vô mình thấy bên kia sông có mấy người dân ra đứng ngó. Thấy vậy chị Sơ nói tỉnh queo, tổ cha con Hai có mau đưa đồ lên nấu một miếng để ăn không và chị lại chửi đổng – còn cái thằng chồng ôn dịch chỉ lo sai xỉn không giúp gì được cho vợ con, rồi chị ngả cái nón lá móc tiền trong túi ra đếm, vuốt từng tờ giấy bạc cho gọn ghẽ, miệng luôn than buôn bán ế ẩm. Lát sau mấy người bên kia sông có lẽ không thấy có gì lạ nên họ tản hàng, bởi vậy cơm vừa chín mọi người ăn thật lẹ rồi xuống ghe đi tiếp, trên đường đi thỉnh thoảng chị lại lên tiếng rao hàng - có ai mua dừa khô, chuối, đường Thốt nốt không? Nhưng khi có người trên bờ gọi mua thì chị lại tảng lờ như không nghe và mình lại nghe mấy tiếng chửi vói theo – buôn bán cái mững đó có mà sạt nghiệp.

Page 7: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 107

Trên đường ra biển lớn, tuy có những lo âu sợ hãi, nhất là khi thấy mấy chiếc ghe bầu có công an ngồi trên mui với súng ống đầy đủ, tuy sợ nhưng mình vẫn thấy có một chút thú vị… cuộc đời mấy người buôn bán trên sông nước nhàn tản như vậy sao ? Vui thì đi, buồn thì tấp vô mấy cái cồn để buông tay chèo nghỉ xả hơi, lo việc cơm nước. Thích thì trầm mình trong giòng nước mát lạnh… tối tối kiếm chỗ có ánh trăng vàng, có hương hoa đồng nội neo sào. Những lúc này nằm ở mũi ghe thưởng trăng, trong lúc đó cái lành lạnh của gió đồng nội lùa vào tận con tim, tận từng thớ thịt… nhanh thật đã mấy chục năm bây giờ mình mới thực sự được dìm mình vào không gian tĩnh mịch của đồng quê, tuy hoàn cảnh lúc này có hơi éo le… Mình đã nhẹ nhàng trầm mình tắm nước sông khuya, từng gợn sóng lăn tăn phủ ánh trăng vàng tan dần, tan dần… sau đó lại lên ghe nằm nhìn những con cá đớp ánh trăng khuya, thật không ngờ cuộc đời lại có lúc được hưởng cái thú nhàn tản đơn sơ như vậy, nhưng chỉ tiếc ta không phải là thi sĩ Hàn mặc Tử …

Bỗng Hiệp lớn thức giấc nói sao trông chú mơ vậy, mình cười nói đây là lần đầu tiên trong đời chú được hưởng cảnh này… nếu không có chuyến đi bất đắc dĩ này làm sao chú được hưởng trọn vẹn hương thơm đồng nội này…

Một đêm khác ghe vừa tấp vô chỗ đám chà để neo thuyền qua đêm, thì nghe tiếng chèo ghe rất nhẹ khác cũng tấp vô gần chỗ neo ghe của mình mà người chèo ghe đó không biết, cũng cần chú thích thêm ở miệt vườn dân họ có nhiều cách bắt cá, họ dùng đủ loại cành cây gọi là chà rồi cắm xuống sông đường kính có khi lên tới 5, 10 thước, khi nước lớn cá len lỏi vô đám chà, kế chủ chà dùng lưới bao quanh đám chà khi nước ròng cá bị kẹt lại trong đó chờ nước ròng kiệt chủ chỉ việc dỡ chà, ốp lưới vô bắt cá …

Tiếng người con gái trạc ngoài đôi mươi lên tiếng, chị Hai tấp vô đây chi vậy mà không về sớm còn nghỉ, tiếng người chị lên tiếng tổ cha nó tấp vô tắm cái đã, chứ về có bao giờ tắm được với thằng chả đâu, thấy mình xuống sông anh cô cũng theo bén gót … Thì ảnh mê chị nên mới theo chị như vậy, người ta nói gái một con trông mòn con mắt mà… Thì anh cô nên cô ra sức binh là phải đạo rồi… à mà cô có nhớ con Tư kinh tế mới không, con mẹ đó nhỏ tuổi mà sao lanh dữ, nó dậy tao cái vụ đó làm ăn tới lắm… Tiếng người em - tưởng gì, cái xứ mình ngoài cái ruộng nuôi heo nuôi gà ra còn có cái gì gọi là làm ăn khác đâu mà

tới với không… Cô chị cười lớn, hổng phải vậy tao nói làm ăn tới đây là cái chuyện vợ chồng cà… Dưới quê người đàn bà chỉ biết giạng cẳng đẻ con thế là xong chuyện vợ chồng … sau đó tôi nghe tiếng trầm mình dưới làn nước lạnh … làm tan vỡ bao ánh trăng vàng của tôi …

Cá lớn Ba giờ sáng ngày 3 tháng 12 năm 1982 ghe

đến điểm chót, bác Hai đi chiếc ghe tam bản điều động các taxi, đây là trạm chót trước khi ra cửa, nếu qua lọt cửa này coi như hy vọng thoát được lên cá lớn thành công trên 90%, bỗng bác vỗ nhẹ vô thành ghe của mình nói nhỏ tôi xin lễ như ông dặn rồi, chúc đi bằng an và thành công, khi qua trạm kiểm soát mọi người “nín thở qua sông”, mình úp mặt sát xuống sàn ghe chị Sơ còn cẩn thận phủ lên mình một lớp cói… may mắn sau khi soi đèn công an cho ghe qua trạm… từ đây tới cửa lớn chỉ còn khoảng 5 cây số nữa thôi, chị Sơ canh giờ cho ghe thả từ từ theo sóng nước, nhưng khi gần tới cửa bỗng dưng nghe một tràng súng nổ, mọi người xanh máu mặt chị Sơ nói trong lo âu - không lẽ bể rồi sao, rồi chị tiếp nhưng đi được tới đây phó cho số mạng, trời phật, không lùi được nữa , một ăn hai bị bắt …

Trời vừa tảng sáng mình đoán khoảng 5 giờ sáng, từ trong sông cả 3 taxi chèo vội ra cửa, mình và Hiệp lớn phụ chèo với chị, khi cả 3 taxi gặp nhau tất cả toé ra thành hình tam giác vừa xong, thì cá lớn nấp đâu đó nhanh gọn lao vút vào giữa đội hình, anh Hiệp tài công và anh Sơ thợ máy điều động đưa đồ lên cá lớn: lương khô, dầu nhớt, nước uống… sau đó mấy người trên taxi phóng vội lên cá lớn, chưa đầy 5 phút sau trả lại cho biển cả mênh mông mấy chiếc taxi không người, bỗng từ đâu đó có tiếng mấy người đi câu vang lên - vượt biên hả cho đi với, cho tôi xin mấy chiếc ghe này nha, anh Hiệp tài công nói lớn - lấy đi không tôi nhận chìm… cá lớn dài 9.50 mét và đây là chuyến đi có tính cách gia đình nên rất ít người gồm anh Hiệp tài công và vợ, anh Sơ thợ máy, vợ và đứa con nhỏ chừng 2 tuổi tên Hiệp (Hiệp nhỏ), Hoà em trai anh Sơ, anh Nguyễn Đức Việt nguyên tu sĩ dòng Lasan và tác giả bài viết này, (tất cả những người này đều được định cư tại Hoa Kỳ), Hoàng và cô bạn gái (quên tên), Trần Huệ Cơ (3 người này được Úc nhận), Quách Hữu Phước, Kim (nạn nhân của vụ Cộng Sản pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy trước năm 1975), Quang , 2 chị em Nguyễn thị Hà và Hiệp (Hiệp lớn), tất cả được Canada nhận định cư…

Page 8: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 108

Tuy không thực tập trước nhưng trước cái sống và cái chết không ai bảo ai, mọi người đều làm nhanh gọn việc chuyển hàng lên cá lớn, chưa đầy 5 phút sau cá lớn đã tăng ga chậy thục mạng hướng ra hải phận quốc tế, tuy có mệt nhưng nhờ gió biển nên mình cảm thấy đôi chút thoải mái, ngồi dựa thành tầu đang lần chuỗi Mân Côi bỗng dưng mình thấy anh Hiệp từ trên bong tầu phóng vội xuống hớt hãi nói với mình, thầy cầu nguyện cho thoát nạn đi, tầu quốc doanh đang rượt đó, nghe vậy mình ngó lại phía sau chỉ thấy nước và nước , chẳng có một dấu vết gì gọi là tầu quốc doanh rượt đuổi cả, nhưng trong tích tắc mình thấy một chấm đen rất nhỏ, rất nhỏ ở xa … cá lớn đang chậy ngon trớn bỗng dưng tắt máy, lúc đó mình tự hỏi tại sao tài công lại làm như vậy trong khi tầu quốc doanh đã tới đâu, nhưng kìa khi ngó lên mình thấy tầu quốc doanh nó to lớn, sừng sững như một trái núi đã chặn ngang cá lớn của mình, sau khi làm một vòng tròn quanh cá lớn, thuyền trưởng tầu quốc doanh hỏi - vượt biên hả - anh Hiệp tài công nói - dạ , gia đình nghèo khổ quá nên muốn vượt biên thử thời vận - rồi một tiếng nói khác từ trên tầu quốc doanh vang lên – đi vượt biên cho tui đi theo với - rồi như một phép lạ viên thuyền trưởng tầu quốc doanh ra lịnh – cho đi và cầu chúc vượt biên được bằng an, may mắn …

Sau này anh Hiệp và Sơ cho biết, nghe vậy vừa mừng vừa lo không biết cái ông thuyền trưởng này cho đi thật hay giả, vì có những chuyện trong dân gian nói sau khi tầu quốc doanh cướp sạch những người vượt biên, rồi cho ủi bể tầu vượt biên để phi tang … Chờ mãi chưa thấy cá lớn nổ máy, viên thuyền trưởng tầu quốc doanh lên tiếng – không muốn đi hả hay muốn bị kéo về cảng – theo lời anh Hiệp và Sơ kể lại sau này, lúc đó đường cùng rồi vừa mừng vừa sợ nên tay run quá giựt máy mãi không được, cuối cùng hai anh cũng nổ được máy, xa dần xa dần người thuyền trưởng tầu quốc doanh nhân từ, xa dần mảnh đất thân yêu, mang hai tiếng Việt Nam nhưng những người cai trị mới trên mảnh đất đó đã vô cảm ngay với chính đồng bào cúa mình nên đã tạo nên những giòng thác lũ vượt biên… Cá lớn tiếp tục ra khơi vẫy vùng cùng biển cả mênh mông, anh Hiệp xuống ngồi hút thuốc xả hơi và nói chuyện về hành động kỳ lạ của viên thuyền trưởng tầu quốc doanh bao nhiêu câu hỏi được đặt ra nhưng tụu chung – có phải họ thấy mình tắt máy coi như một hành động đầu hàng … hay họ tội nghiệp khi thấy anh Hiệp và Sơ đội cái nón rách tả tơi nên thương tình cho đi

hay tại thấy cái máy tầu Koeler quá nhỏ khi ra khơi, không làm mồi cho cá thì cũng bị bắt trở lại … cuối cùng mọi người kết luận thôi cái gì cũng được miễn là nó cho đi là được … rồi, anh Hiệp nói – thôi cảm tạ trời đất ai tin tôn giáo nào thì cùng cám tạ ơn trên …

Vùng vẫy biển khơi Cảm tạ Thượng đế, đúng 9 giờ sáng ngày 4

tháng 12 năm 1982, hai anh Hiệp và Sơ từ trên boong cúi xuống khoang la lớn tầu đang ở hải phận quốc tế rồi, chúng ta thoát nạn Cộng Sản rồi… Cả tầu mọi người đang ủ rũ thế mà nghe thấy mấy tiếng hải phận quốc tế mọi người đều nhỏm dậy ngó ra ngoài, mình cũng vậy, nhưng toàn thấy nước là nước có cái gì làm cột mốc phân định lằn ranh hải phận đâu… sau này mình mới nhớ lại trước năm 1975 khi đọc tập san sử địa có nói trong cái biển nước mênh mông đó vùng nước nào có mầu xanh đậm quốc tế quy định là hải phận quốc tế… Từ đây mỗi ngày sáng khoảng 8 giờ, chiều khoảng 17 giờ tài công Hiệp cho tắt máy để dưỡng máy, cũng thời gian này các chị trên tầu lo việc cơm nước cho toàn tầu, nhưng đa số vừa mệt vừa lo nên ăn đâu có được…

Biển thời gian này sóng lặng như nước trong ao mùa thu, mút tầm con mắt chỉ thấy một mầu xanh biếc, với những đợt sóng lăn tăn va nhẹ vào mạn tầu, hình như dân đi biển gọi thời gian khoảng 2 tuần không có sóng to gió lớn này là thời gian đồng chung, qua thời gian này sẽ có nhiều gió to bão lớn, bới vậy nhiều tổ chức vượt biên họ hay cho đổ bãi khi có bão lớn trong đất liền, vì lúc này công an ngại mưa gió nên ít theo dõi và tầu quốc doanh cũng rút về ụ để tránh mưa bão, với lối đánh này họ canh vừa đủ thời gian để khi tầu vừa tới hải phận quốc tế thì vô thời gian đồng chung, tuy nhiên đánh kiểu này tầu phải thật tốt, tài công phải là thứ thiệt mới cho tầu lướt sóng lớn ra khơi an toàn được, còn không thì bể tầu mất mạng như chơi, có khi sóng lại cuốn tầu vô bờ lại…

Lợi dụng những lúc tầu neo giữa biển khơi, mình đứng lên làm vài động tác thể thao nhẹ cho giãn gân cốt, ngắm nhìn những đàn cá đang tung tăng bơi lội quanh tầu, thú vị nhất là những đàn cá chim đua nhau bay vụt lên khỏi mặt nước rất cao và rất xa trông thật đẹp mắt, từng đàn cá heo, cá voi nhấp nhô phơi lưng theo sóng nước, nhất là mấy chú cá voi vừa bơi vừa phun những cột nước thật cao … Có được những giây phút thinh lặng giữa biển cả mênh mông, mình mới cảm nghiệm được sự huyền diệu của tạo hóa, cái mênh mông

Page 9: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 109

của trời đất và cái nhỏ bé mong manh của con người. Có lẽ đây là lần đầu và cũng là lần cuối trong đời được đứng giữa biển trời mênh mông trong một con tầu nhỏ bé như một cái lá tre trong ao mùa thu, hay nhỏ bé như một hạt cát trong sa mạc mênh mông…

Khoảng 18giờ ngày 4/12 cơm nước vừa xong tài công Hiệp cho tầu di chuyển về hướng Sigapore nhưng kìa bỗng dưng tầu bị khựng lại và tắt máy, ngó qua cửa sổ mình thấy chiếc tầu đánh cá Thái lan to sừng sững như một trái núi đang buông neo sát tầu của mình, thật căng thẳng… đã mấy phút trôi qua… nhưng sao kỳ lạ vẫn chưa thấy mấy tên hải tặc Thái lan phóng qua…

Bỗng một tiếng nói từ trên tầu Thái nói giọng lơ lớ tiếng Việt vang lên “có ai biết tiếng Anh không ?”, anh Sơ nói vọng xuống kêu mình và anh Việt lên làm thông dịch, không hiểu sao anh Việt lại từ chối và đẩy mình lên. Khi mình và anh Sơ sang tầu Thái, một thủy thủ tầu Thái đưa mình và anh Sơ vô phòng thuyền trưởng, viên thuyền trưởng tướng người vạm vỡ nước da ngăm đen, trạc 50 tuổi, mình để trần chỉ quấn một cái khố, ông ngồi trong tư thế kiết gìa của nhà Phật - chậm rãi ông lên tiếng hỏi có muốn ông ta kéo tầu về Thái không, mình dịch theo ý anh Sơ vừa tiếng Anh pha lẫn tiếng Thái– cám ơn chúng tôi muốn đi Sigapore, viên thuyền trưởng có vẻ ngạc nhiên khi thấy mình nói tiếng Thái chút chút… ông ta cười thân thiện và lại hỏi tiếp “anh có biết tầu anh bây giờ đang ở đâu không?, sau khi ngó qua hải đồ treo trên tường anh Sơ chỉ vô và nói tầu tôi đang ở đây, không tin - viên thuyền trưởng lấy thước, hải bàn ra đo đạc một lúc rồi nói - sao anh giỏi vậy, anh Sơ ( trước là trung sĩ hải quân ) cười nói tôi chỉ có cái la bàn thôi… nghe vậy viên thuyền trưởng gật đầu vô cùng thán phục, kế ông ta kêu thuộc hạ tiếp tế dầu, nước, gạo… đặc biệt trước khi trở lại tầu ông thuyền trưởng lấy hộp bánh bông lan made in Sigapore đưa cho mình và chúc đi bằng an, mình không quên cám ơn ông bằng tiếng Thái làm ông thích chí cười vang… (sự thực trước khi đi vượt biên mình vớ được cuốn sách dậy tiếng Thái ở chợ trời mua về học được ít câu làm vốn phòng khi gặp hải tặc Thái có thể xử dụng …vậy thôi ).

Khi về tầu sau khi định thần lại mấy người trên tầu xúm lại hỏi đại loại–chú nói gì với họ mà tầu không bị cướp vậy, mấy đứa con gái tụi cháu cũng không có đứa nào bị hãm hiếp vậy… mình trả lời có nói gì đâu lúc đó run muốn chết nhưng chỉ biết có cầu nguyện, còn khi trả lời viên thuyền

trưởng chú vừa nói tiếng Anh pha lẫn tiếng Thái lõm bõm… nhưng quan trọng khi lên tầu thấy chỗ nào cũng cắm từng bó nhang to bằng cổ tay (có lẽ là ngày rằm) khói hương nghi ngút nên mình an tâm chắc họ không hại mình có lẽ hôm nay bọn này ăn chay niệm Phật nên kiêng đàn bà con gái vậy mà…

Hơn 9 giờ sáng anh Hiệp xuống nằm nghỉ kế mình và nói chuyện tào lao với nhau cho bớt căng thẳng, anh hỏi mình có hút thuốc không, mình nói – không – anh ta cười nói như vậy là ông đã tự làm mất một lạc thú trên đời rồi…, sau đó anh ta lại hỏi ông có đi tu không mà sao trông giống như nhà tu vậy … mình cười nói có tu chùa một cột với một bà sãi già thôi… thế là mấy anh em cười giòn tan…

Lát sau anh Hiệp lại từ trên cabin tầu xuống nói – mình sắp tới hải phận Mã lai rồi, vì tôi thấy nước đã đổi mầu nhưng bây giờ trời đang đổi gió tôi e có bão, sợ không tới kịp Sigapore để tránh bão, mình góp ý cho tầu tấp vô đâu gần nhất được rồi, còn chọn nước này nước kia làm chi miễn chỗ đó không có bóng cờ đỏ sao vàng là tốt rồi… Khoảng hơn 10 giờ sáng mấy anh em trên boong la lớn tầu vô tới hải phận Mã lai rồi, ngó qua mạn tầu quả tình mình thấy nước từ trong xanh đang đổi qua mầu đục của đất … tuy nhiên niềm vui chưa trọn thì đã nghe anh Hiệp la lớn - cẩn thận tầu cướp Thái lan đang phóng tới mọi người cầu Chúa Phật đi… có cái gì để lộ ra cho chúng lấy, đừng chống cự… nhanh như chớp mấy chị phụ nữ lôi mấy sợi giây chuyền đỏ ối ra khỏi cổ áo (thực sự là đồ rởm làm để giành cho cướp lấy thôi), mình cũng móc cái đồng hồ giả đeo vô tay, đâu khoảng 3 hay 4 tên chi đó phóng qua đứa thì cầm rìu, đứa cầm lưỡi lê đứa lại cầm mã tấu… bằng những động tác nhanh gọn và thành thạo chúng giật giây chuyền của mấy chị phụ nữ, còn bọn đàn ông chúng hỏi giọng lơ lớ tiếng Việt – dollar đâu, dollar đâu – mình lắc đầu giơ tay tuốt cái đồng hồ rổm đưa cho chúng, trong khi ấy mấy đứa trên tầu la hét ầm ĩ mình đoán chúng giục nhau cướp nhanh còn tẩu thoát vì tầu của bọn chúng đang trong hải phận Mã lai chúng sợ mấy tầu đánh cá Mã đang ở gần nên chưa đầy 5 phút sau bọn cướp Thái lan đã phóng vội về tầu với những nụ cười man rợ và khoái trá… nhưng may nhất trên tầu các phụ nữ đều bằng an vô sự … chiếc tầu đánh cá Thái quá to phần khác vì sóng lớn nên trong lúc tháo chậy mũi tầu của chúng đã làm bể mũi tầu của tầu mình… nhưng rất may không biết bằng cách nào hai anh

Page 10: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 110

Hiệp và Sơ đã vớt được miếng ván bể đó lên , trong lúc ấy các anh hô hào mọi người ra sức tát nước trong khoang tầu ra ngoài còn không tầu sẽ bị chìm… như một cái máy hình như mình vớ được cái tô nhôm múc lấy múc để nước từ trong khoang tầu rồi đưa cho Kim đổ ra ngoài… cũng may sau một hồi mò mẩn hai anh Hiệp và Sơ đã vá xong cái mũi tầu bị tầu cướp Thái làm bể (thực sự là vô tình chứ không phải tầu cướp Thái cố tình làm)… rồi càng lúc tầu càng đi sâu vào hải phận Mã lai… ngồi trên mũi tầu tuy mệt nhưng càng nhìn giòng nước càng lúc càng đục mọi người cảm thấy vô cùng phấn chấn vì bến bờ Tự Do đâu đó đã gần kề cuộc đời của từng người…

Nhìn xuống khoang tầu tuy bị cướp thật nhanh không ai bị hãm hiếp hay bị đánh đập chi cả vậy mà trông sao thê lương đến thế, có lẽ vì quá sợ nên trông chẳng còn ai ra hình người nữa, bỗng chốc càng lúc gió càng trở nên to mây đen vần vũ, bầu trời và mặt nước hình như đang giao tiếp với nhau để nuốt chửng con tầu vượt biên nhỏ bé của mình… sóng càng lúc càng trở nên “giận dữ” con tầu lúc này giống như cái lá tre trong biển cả mênh mông trước những cơn sóng dữ nhồi con tầu lên xuống, lắc lư như người điên man dại, sóng dữ vô tình, con tầu nhỏ bé và từng cơn gió giật cả ba cứ quấn quýt với nhau như trong một bản luân vũ, mưa đã bắt đầu rơi nặng hạt những người trong khoang tầu đã bắt đầu ói mửa theo từng cái lắc của con tầu trong lúc này mới thấy hai anh Hiệp và Sơ có bản lĩnh (sau này được biết các anh đã cột mình vào khu vực tay lái để đề phòng bị sóng đánh văng khỏi phòng lái) mình nghĩ các anh đã dùng mọi khả năng và trí thông minh để điều khiển cái “lá tre” trong biển cả mênh mông tránh sóng còn không thì những cơn sóng dữ đập bể con tầu vượt biên như chơi, trong cái mong manh của lằn ranh giữa cái sống và sự chết đang quấn quyện với nhau theo những đợt sóng dữ của biển cả, số phận con người thật mong manh, nhưng sao tự dưng mình thấy bình tĩnh lạ thường, mình nhắc nhở mọi người trong cái tột cùng của tuyệt vọng mọi người ai theo đạo nào thì lậy Chúa và Nam mô đi, sau đó mình nhập thiền để thong dong đợi cái chết đến… thân xác này đã bao năm sống với biển, sống gần biển thì giờ nếu biển khơi có vùi lấp thân xác này mình cũng không có gì buồn phiền, chỉ có một chút vương vấn trần gian không hiểu người mẹ già nua có vượt qua được nỗi đau oan nghiệt này không, thân làm trai lớn trong gia đình mà không một người con để nối dõi tông đường thật đại bất hiếu

với tổ tiên tự dưng một giòng nước mắt lăn dài trên má, mình cúi đầu lậy tạ tổ tiên rồi nhắm mắt nhập thiền bình thản chờ giây phút oan nghiệt đến và tay không quên cầm tràng hạt nhưng thực sự không biết lúc đó mình có đọc được câu kinh nào không…, nhưng bỗng dưng một âm thanh nghe tựa vang vọng từ đáy địa ngục - Đã Thấy Đất Liền – Đã Thấy Đất Liền – hình như đó là tiếng la mừng rỡ của các anh Sơ và Hiệp… như một cái máy mọi người đều bật dậy giống như một cái lò xo để ngó ra ngoài, làm các anh phải la lên - ngồi xuống cho đều hai bên mạn tầu để tầu được cân bằng còn không tầu dễ bị chìm… trong lúc đó các anh cố nương theo sóng và gió lớn để đưa con tầu vô sâu trong đất liền, (sau này các anh kể lại lúc đó chậy thục mạng bất kể trời đất vì các anh nghĩ dân trong đất liền đã thấy nếu tầu có bị bể chắc họ cũng phóng tầu ra vớt …), cuối cùng chỉ trừ chị Sơ và bé Hiệp con chị còn tất cả đã phóng xuống nước cố đẩy con tầu vô sâu trong bờ biển, trong lúc ấy tại bờ biển này chính phủ Mã lai đã bố trí một đơn vị thủy quân lục chiến để tiếp cư thuyền nhân Việt Nam nên các anh cùng với vị chỉ huy (sau khi lên bờ mình biết là đại uý) đã lao xuống nước cố gắng giúp đẩy con tầu vô đất liền tới khi không được nửa mọi người mới lên bờ… Như vậy khoảng 16 giờ ngày 6 tháng 12 Tầu Tới Đất Liền.

*** Sau khi lên bờ kiểm điểm lại tầu có 16

người không mất một ai, vị chỉ huy Mã lai cho mọi người tập trung quanh một gốc cây bàng sau khi mọi người và mọi thứ mang theo được xịt thuốc DDT, kế mấy anh lính mang ra một xô lớn nước trà đường và cà phê còn đang bốc khói để mọi người uống cho tỉnh …, Ở đâu cũng vậy, do óc hiếu kỳ dù trời đang mưa dân chúng quanh đó cũng kéo đến đứng ngoài rào kẽm gai coi rất đông, để ý mình thấy phiá Nam họ mặc áo sơ mi quần ống dài nhưng không rộng đặc biệt quanh thắt lưng cả già lẫn trẻ họ đều quấn sarong ngang thắt lưng, trên đầu người nào cũng đội mũ chỏm không vành mầu trắng hay nhung đen, có cái đặc biệt mấy cậu càng trẻ thì sarong mầu sắc càng sặc sỡ, trong khi ấy các cô gái Mã lai mặc một loại “ váy” dài từ cổ tới chân, cô nào cũng quấn trên đầu một cái khăn tới vai theo tục lệ của Hồi giáo…

Khoảng nửa giờ sau tất cả được dẫn vô doanh trại, cả 16 người được ở chung trong một cái lều nhà binh rất rộng với những cái ghế bố nhà binh kê san sát nhau… mình kiếm một chỗ ngả lưng. Ngoài trời tối đen như mự,c mưa bỗng chốc

Page 11: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 111

trở nên dữ dội, gió sấm chớp hoà với tiếng phi lao tiếng sóng vỗ tạo nên những âm thanh nghe rợn người… mấy anh em nói với nhau nếu giờ này còn đang lênh đênh ngoài khơi với cơn bão dữ này liệu con tầu có bị tan thành nhiều mảnh không… lúc đó không biết ai còn ai mất… thật tạ ơn trời đất… lấy tràng chuỗi ra đọc kinh tạ ơn Chúa và mẹ Maria đã cứu sống mọi người trên tầu…

Áng chừng nửa giờ cho các thuyền nhân ổn định các anh Thuỷ Quân Lục Chiến Mã lai dọn bữa cơm tối cho thuyền nhân, có cơm gạo trắng nóng hổi, đồ ăn thì có món cá hộp nấu cà ri nị theo kiểu Mã lai, hình như còn một món rau, sau đó các anh còn đem cà phê và trà đường nóng hổi để thuyền nhân uống suốt đêm… Mỗi người được phát một cái camen nhà binh để đựng cơm và đồ ăn, nhưng không có muỗng nĩa… mặc dù mình đã giải thích người theo đạo Hồi họ ăn bốc… nhưng mấy chị vẫn õng ẹo không chịu ăn bốc làm mấy anh lính Mã phải chậy đi kiếm muỗng nĩa… nhưng may quá không biết các anh kiếm được ở đâu mà chừng hơn 10 phút sau các anh cũng thoả mãn được đòi hỏi của mấy chị, làm thông dịch vấn đề này mình thấy ngượng miệng quá, nhập gia mà không tuỳ tục – Khi cơm nước vừa xong thì mấy anh lính (thông cảm lính ở đâu cũng vậy thấy gái thì xề lại liền thôi) vác đàn guitar, trống… lại làm văn nghệ bỏ túi…, trong khi ấy mình tính đi ngả lưng thì có một anh lính tới nói xếp của anh ta muốn nói chuyện với mình…

Khi sang lều bên cạnh có một sĩ quan tự giới thiệu là trung uý gì đó muốn mời mình uống cà phê nói chuyện đời… sau khi đợi mình nhấp ly cà phê anh vào đề ngay–khi hỏi mình theo đạo Hồi phải không, tuy đã đoán trước câu hỏi này nhưng làm bộ mình hỏi lại-tại sao anh lại nói tôi theo đạo Hồi… anh cười đáp–tuy tôi không hiện diện khi các anh ăn cơm nhưng tôi biết (à thì ra họ có theo dõi kín) trong 16 người chỉ có anh là không dùng muỗng nĩa, ngược lại anh dùng ba ngón tay của bàn tay phải rất chính xác để ăn cơm, nếu không phải người theo đạo Hồi thì không thể thành thạo như vậy, bởi vì tại trạm này chúng tôi đã đón tiếp nhiều thuyền nhân Việt Nam vì không đủ muỗng nĩa tôi rất buồn khi phải để họ ăn bốc, nhưng những người này họ dùng cả bàn tay để bốc và cả bàn tay trái để ăn nữa…, trước câu nhận xét này mình không trực tiếp trả lời nhưng nói dù theo đạo Hồi, đạo chúa, đạo Do thái tất cả chúng ta đều cùng một tổ phụ Abraham mà ra…tuy nhiên anh ta nói–mình vẫn chưa trả lời câu hỏi của anh ta, lúc

đó mình cười nói tình cờ tôi có quen hai vị sĩ quan Mã lai làm việc tại cơ quan tình báo bộ quốc phòng Mã nên tôi đã học được cách ăn của người Hồi giáo… rồi anh ta đánh trống lảng… bất chợt anh ta lại hỏi mình có muốn anh ta giúp liên lạc với vị sĩ quan đó không, mình hỏi ngược lại để làm gì trong hoàn cảnh này…sau khoảng hơn hai tiếng nói chuyện bù khú trên trời dưới đất, anh ta tặng mình một cây thuốc lá nếu không nhớ lầm là Dun hill của Anh sản xuất, kế anh hỏi lại tên mình và dặn có bất cứ điều gì cần thì làm sao liên lạc được với anh ta… khi trở về lều mình thấy tình quân dân vẫn thắm thiết với chương trình văn nghệ bỏ túi… không biết mấy giờ mới chấm dứt nhưng mình kiếm chỗ kín rồi vùi đầu vào cái lạnh ngủ lúc nào không hay…

Khi tỉnh giấc mình thấy mặt trời hôm nay khi ẩn khi hiện rồi trời lại đổ mưa nhưng nhẹ hạt, ra khỏi lều mấy anh em trên tầu cố giương mắt nhìn ra hướng bờ nước để coi con tầu vượt biên đâu, ai cũng nghĩ chắc nó đã bị bể và trôi theo giòng nước nhưng khi nhìn lại cây bàng hôm qua thì mọi người ồ lên một cách kinh ngạc không có ai đẩy mà con tầu vượt biên đã lên nằm ụ trên bãi cát cách bờ nước chừng 200 mét… hú hồn ai cũng giật mình nếu không tấp vô kịp số phận con tầu với 16 người trên đó không biết ra sao ai còn ai mất với những cơn sóng dữ ngoài biển khơi…

Tạ ơn Chúa, Tạ ơn Phật…có mấy chị nhanh miệng nói Nam Mô con nguyện ăn chay một tháng… Khoảng 8 hay 9 giờ sáng có xe của hội trăng lưỡi liềm đỏ tới (red crescent) họ lại xịt thuốc DDT nhưng bỗng có tin báo xe sẽ đến trễ vì còn phải đi bốc 7 cô gái vượt biên được tầu Mã Lai vớt đưa vô bờ, nên đành chờ vậy, vì không biết mấy giờ đi nên có lịnh tất cả vô lại lều chờ, cũng may khoảng 11 giờ thuyền nhân lại được cho ăn cơm mỗi người vẫn được phát một cái cà men nhưng lần này các anh lính phục vụ không quên dọn kèm muỗng nĩa cho 15 người còn mình các anh vẫn để cho ăn bốc theo lối Hồi giáo, cơm trưa hôm nay ngoài cơm chỉ có một món cari gà nấu theo kiễu Mã lai nên có sữa ăn rất ngon, ngoài ra còn trà đường, cà phê …

Khoảng xế trưa xe bus chở bẩy cô gái tới, sau khi mọi người an vị xe trực chỉ Marang. Theo một nhân viên Mã cho biết đại khái mấy cô này được tầu Thái vớt, rồi nhờ tầu Mã lai đưa vô đất liền, trên xe bus mình bị chạm tự ái dân tộc khi thấy mấy cô này rất bất cần đời, cười nói huyên thuyên, như những ả đào say… tuy nhiên tại sao

Page 12: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 112

chỉ có 7 cô gái mà cần tới 4 hay 5 nhân viên nữ đi kèm… sau này khi tới Marang mình có nói chuyện với một cô trạc 23 tuổi về thái độ của những cô gái này khi ở trên xe, cô ấy nói - tại mọi người không hiểu, tầu tụi cháu khởi hành tại Rạch giá sau tầu của chú có một ngày khi vừa vô tới hải phận quốc tế thì bị cướp Thái, bọn chúng bắt 7 đứa cháu sang tầu bọn chúng ngày đêm không cho mặc quần áo, cháu bự con lại có gia đình nên nói với tên thuyền trưởng tha cho 6 đứa kia nhất là có con bé mới có 13 tuổi, cháu sẵn sàng nằm ngửa phục vụ bọn chúng 24/24 nhưng chỉ được có một ngày cho con bé 13 tuổi, những ngày kế tiếp con bé 13 thì có thằng Thái khoảng 15 ôm ấp ngày đêm, có mấy đứa đau quá chịu không nổi đã mấy lần nhẩy xuống biển tự vẫn nhưng vẫn bị vớt lên để chúng thoả mãn thú tính… nghe câu chuyện về 7 cô gái thật đáng thương, không biết gia đình bên Việt Nam có biết được những truân chuyên này không?

Khoảng 19 giờ xe tới trại tạm chuyển Marang , gọi là trại nhưng rất nhỏ, ở trong thành phố xung quanh có tường rào giống như mấy cái villa ở Sài gòn và đế cho dân chúng khỏi dòm ngó họ đã lấy tôn che chắn quanh hàng rào , sau đó mọi người được cấp phát gạo, cá hộp, và các vật dụng cá nhân khác như giép, khăn tắm… sau đó mọi người được phân phối đến các chỗ ngủ, sau khi tắm rửa ăn uống xong đang tính đi nghỉ thì có một người mặc thường phục tới tìm mình và hỏi có muốn đi phố ngoạn cảnh và mua đồ không , mình trả lời bị cướp Thái lột sạch rồi – anh ta cười nói không lo khi đi mọi thứ anh lo hết … sau khi từ giã mình đi tản bộ quanh trại vài vòng khi trở về phòng mình đã thấy mấy chú lính bu lại tán gẫu với mấy cô gái với những câu tiếng Việt chắc mới học được khi có vụ thuyền nhân… thật lính ở đâu cũng na ná như nhau… mấy đêm ở Marang không đêm nào mình không bị thức giấc bởi những tiếng hét lanh lảnh vang lên giữa đêm khuya ở chỗ 7 cô gái đáng thương, những tiếng hét với âm thanh thật man rợ đến rợn người, kế là những tiếng khóc ai oán, những tiếng nói van lậy trong mê sảng… Phải chăng đó là hậu quả của những người bị hành hạ bởi những con thú hải tặc Thái …

Thông thường những người ở trại này chỉ ngủ qua đêm rồi được đưa sang Paula Bidong, nhưng vì mưa bão lớn nên mình vẫn phải nằm ụ tại đây, ngược lại dù mưa bão nhưng vẫn có tầu vượt biên đến… bỗng một hôm trong tốp thuyền nhân mới tới có một chàng trai trẻ đến chào và hỏi - thầy có nhớ em không, quả tình lâu quá mình

không nhớ… nên đành chịu thua, em nói tiếp điều đặc biệt em không quên được thầy là trông thầy không giống người Việt… hai thầy trò ngồi nói chuyện suốt đêm, ôn lại những kỷ niệm xưa cũ ,

Kiều Trương - (Còn tiếp)

Người lính già tha hương

Người lính già hồn chia hai mảnh Một xé đem về đất phương Nam

Một còn ở lại buồn mếu máo Đất lạ quê người buồn mà than!

Sáng vắng tiếng gà vang trong xóm Tối nhớ ai khêu chiếc đèn dầu Nhớ câu hát âu ơ, tiếng võng

Lẩn buồn buồn vọng cổ sáu câu

Nhớ tuổi học trò xanh mái tóc Có cô bạn nhỏ đến trường vui Nhớ dài tóc kẹp theo lưng áo Cứ lén nhìn sau suốt một thời

Nhớ đồng lúa, mấy thằng bạn nhỏ Chia hai bên trận đánh giàng thung Đánh chí tử cùng cây ống thụt Lớn lên có đứa lại vào bưng

Bây giờ trận đánh là súng thật Tàn sát nhau rồi mấy chục năm

Cái thằng thắng trận làm thủ trưởng Thằng kia bại trận làm hàng binh

Hàng binh bại trận xa tổ quốc Cứ mõi thân già vọng cố hương Xứ người chẵng thiếu điều gì hết

Chỉ thiếu ...y là thiếu chút tình

Tình quê hương xóm riềng thân thuộc Tình gia đình khắng khít cháu con

Tình bạn bè chia nhau ly rượu Chén trà thơm mỗi sáng hừng đông

Thằng đi theo đảng cầm vận nước Làm nát non sông-nó cóc cần

Chỉ lo vơ vét cho đầy túi Bỏ mặc người dân cảnh khốn cùng

Người lính già ngồi than mà khóc Tuổi già làm sao gánh nước non Một trận thua! bao giờ gở được?

Cứ vấn vương lật những trang buồn Huỳnh Văn Luận

Page 13: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 113

NiNi Lê

Tôi là con gái của sông Hướng núi Ngự, được sinh ra, khôn lớn và trưởng thành trên đất Thần kinh, không bao giờ xa Huế một mình dù về thăm quê ngoại cách xa Huế chỉ bốn mươi cây số, đi đâu cũng đi cùng ba mẹ và các chị em. Tôi thuộc loại người năng động, ưa sinh hoạt xã hội nên từ khi theo học cấp Trung học đệ nhất , đệ nhị tại trường Đồng Khánh hay lên đại học Văn Khoa, Sư phạm, mỗi lần nhà trường tổ chức đi thăm thương bệnh binh, ủy lạo chiến sĩ hay giúp đồng bào vùng quê, vùng sâu bị thiên tai bão lụt thì không bao giờ thiếu mặt tôi. Tôi tuy không đẹp "chim sa cá lặn" hay "nghiên nước đổ thùng" nhưng bởi có cái "duyên ngầm" nên chung quanh tôi có nhiều "cây si" lắm và tôi bị ăn đòn nhiều lần cũng vì có nhiều cây "si" trồng trước cổng nhà. Ba mẹ tôi luôn luôn nhắc nhủ "Trâu ta ăn cỏ đồng ta, chớ có ăn cỏ đồng xa quê người", thế mà ông tơ bà nguyệt lại cột "mối chỉ hồng" của tôi tận một vùng đất xa xôi mù tịt, đó là tỉnh Vĩnh Bình, một tĩnh thuộc miền tây nam phần mà khi nghe qua, cả thầy cô, anh chị em và bạn bè của tôi đều "lắc đầu lè lưỡi", làm như tôi là công chúa Huyền Trân ngay xưa:" Nước non ngàn dặm ra đi" vậy đó.

Nữ Sinh Trường Đồng Khánh

Cũng nhờ "làm dâu xứ người " như vậy nên tôi biết được khá nhiều chuyện lạ mà ở Huế không bao giờ có. Nhất là vấn đề ăn tết, hoàn toàn khác với Huế của tôi. Số là năm 1976 tôi tốt nghiệp đại học sư phạm Huế, vì mang cái nhãn hiệu có chồng và cha là "Sĩ quan Ngụy" nên bị trả về lao động tại địa phương, sau đó vì nhu cầu giáo dục cấp III tôi bị đày vào dạy tại một thị trấn xa xôi thuộc tỉnh Sông Bé. Trong khi chồng đang "học tập cải tạo" ở vùng núi Bà Rá cũng thuộc tỉnh Sông Bé.

Sau ba năm bị lưu đày, chồng tôi được ra khỏi trại tập trung nhưng bắt buộc phải trở về sống tại nơi "chôn nhau cắt rún" đề chính quyền địa phương quản lý. Chúng tôi phải chịu cảnh Ngưu Lan Chức Nữ mong chờ tháng bảy hàng năm, đàn quạ bắt cầu Ô Thước để gặp nhau một lần, như vậy thật là bất tiện.Thấy chồng tiếp tục bị đày đọa ở quê nhà lòng tôi càng nôn nóng muốn chuyển công tác về quê để được xum họp cùng chồng con nên bằng mọi cách tôi phải được như ý nguyện.Với tấm thân không thế, không tiền thì làm sao đây? Chỉ có nước ù lì, liều mạng, và cũng nhờ ơn trên phù hộ nên niên học 1980-1981 tôi được chuyển về công tác tại Ty giáo dục Cửu Long. Việc đầu tiên là ra Huế đón đứa con gái đầu lòng đang gởi cho ông bà ngọai vào, thế là vợ chồng con cái chúng tôi được sum hợp một nhà,

Quê chồng nằm trong sâu của một quận ly tên gọi là Càng Long, thiếu thốn mọi tiện nghi nên cuộc sống có phần khó khăn vất vả, nhất là vấn để di chuyển hàng ngày. Lần đầu tiên soạn bài, chấm bài dưới ánh đèn dầu leo lét làm cho tôi dễ bị mỏi mắt, nhưng phải cố gắng thôi !

Năm đó tôi và hai con, một gái đầu lòng và một trai kế tiếp, ăn cái tết đầu tiên tại quê chồng. Vì là lần đầu tiên nên tôi thấy cái gì cũng lạ mà ở quê tôi không có. Ở Huế , hàng năm khoảng hơn một tháng nữa đến Tết đã bắt đầu thấy không khí tết rồi, ngoài phố ngoài chợ người ta bày bán đầy bánh mứt đủ loại, đủ màu đẹp mắt, nhất là chợ hoa bên bến Văn Lâu, bày hàng hàng , lớp lớp những chậu hoa đủ loại, đủ màu để thiên hạ mua đem biếu nhau, những người nhận ơn thì mua biếu những người làm ơn, những người cấp dưới thì mua biếu cho người cấp trên, con cháu thì mua biếu cho ông bà cha mẹ. Những loại hoa người ta đem biếu cho ba tôi thường là hoa hồng, hoa cúc đại đóa hay hoa thược dược, vì những loại này sang, đẹp và đắc tiền hơn.

Trên khắp các nẻo đường, mấy o gánh những thúng gừng non vừa mới nhổ, những thùng trái me xanh vừa mới hái kĩu kà, kĩu kịt, họ không cần rao vẫn bán được hàng vì các bà nội trợ đứng chờ họ ở cổng, sẵn sàng đón lại để mua, để có mà làm mứt cho kịp đem biếu bà con, bạn bè và để dành ăn tết.

Page 14: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 114

Những người bà, người mẹ, người chị xứ Huế rất khéo tay hay làm, mỗi lần đến ngày giỗ chạp, tết nhất, họ đều tự tay làm mứt, làm bánh vừa biếu bà con bạn bè, vừa để trong nhà dùng chứ không chịu mua ngoài chợ, mẫu mã tuy không đẹp nhưng phẩm chất bao giờ cũng ngon hơn. Họ làm bánh, làm mứt đủ thứ để ăn tết như mứt gừng khô, gừng dẻo, mứt bí đao, mứt khoai bí, mứt dừa, mứt hạt sen, còn bánh thì làm bánh thuẫn vừa ăn ngon mà để được lâu: Họ làm trong yên lặng nhà nào chỉ biết nhà đó dù sát vách nhau chứ không ồn ào như ở quê chồng tôi.

Nông dân lo xong mùa màng là gần đến Tết, lúa đã được phơi khô, giê sạch và đổ vào bồ đâu vào đó, vì vậy họ quay sang chuẩn bị ăn Tết trong tâm trạng nhẹ nhàng, vui vẻ. Việc đầu tiên họ đem bán vài giạ lúa để lấy tiền mua sắm Tết, ở thôn quê nói chung và ở quê chồng tôi nói riêng, tất cả mọi chi tiêu lớn nhỏ hầu hết đều từ hột lúa cả: Áo quần, sách vở, học phí cho con cái đi học, bán lúa; Thuốc men, bác sĩ, chi phí bệnh viện khi trong nhà có người bị bệnh! bán lúa. giỗ kỵ, giao tế thăm viếng, sắm sửa đồ dùng, bán lúa, cưới vợ , gả chồng cho con, bán lúa…Vì vậy hột lúa đối với người nông dân rất quan trọng. Suốt vụ mùa một nắng hai sương, ngày ngày ra đồng làm việc, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, tay lấm chân bùn. Từ hạt giống gieo mạ, từ cây mạ thành lúa, khi cây lúa có đồng đồng, hột lúa ngậm sữa, hột già rồi chín, đem được hột lúa đổ vào trong bồ người nông dân phải đổ biết bao giọt mồ hôi! Phải trải qua bao nhiêu vất vả! Năm nào gió thuận mưa hòa, cây lúa cho nhiều hạt, không có sâu rầy hại lúa, không có chim chóc ăn lúa thì trúng mùa, người nông dân vui vẻ, hạnh phúc biết bao! Bởi vì họ thấy trước mặt một cuộc sống đầy đủ:

Nhờ trời mưa thuận gió hòa Nào cày, nào cấy trẻ già khuyên nhau Chim, gà, cá ,lợn, cành câu Mùa nào thức ấy giữ mầu nhà quê Sớm đi thì tối lại về Quần hồng áo tía phủ phê trăm chiều Ai ơi! Của thế còn nhiều. Trái lại năm nào trời hạn hán, hay mưa

dầm mưa dề, sâu bọ, cào cào phá lúa thì chắc chắn người nông dân rất lo âu, buồn bã, bởi vì khi trời nắng hạn, cây lúa thiếu nước thì cây lúa sẽ lớn lên èo uột, mất sức thì làm sao cây lúa cho nhiều hạt được, "Nhất nước nhì phân, tam cần, tứ giống"!. Nước thật cần thiết và quan trọng hàng đầu trong việc trồng trọt, ngược lại trời cứ mưa dầm dề, cây

lúa bị úng rễ, cũng sẽ chết lần mòn; Vậy là bị thất mùa, thì cuộc sống của người dân sẽ sao đây? Lúa ở đâu mà bán lấy tiền chi tiêu trong gia đình và đủ gạo ăn giáp mùa?

Khoảng một tháng nữa đến Tết, chợ quê cũng rộn ràng, sầm uất lắm, mấy bà bán hàng cùng cất nhiều mặt hàng bày đầy sạp để bán Tết nhưng là những đồ gia dụng trong nhà như thau, rỗ, chén, tô v.v... chứ về mứt bánh, hạt dưa thì không nhiều vì dân quê ít ăn những thứ này, ở chợ cũng có bán hoa kiểng nhưng chỉ từng đám nhỏ chứ không có riêng một chợ hoa với hàng ngàn chậu, hàng trăm loại như ở thành phố. Ở chợ huyện này, tôi chỉ thấy họ bày bán một số hoa mộc mạc như ớt kiểng, hoa vạn thọ, hoa mồng gà, hoa cúc vàng mà thôi, chứ không có hoa hồng, hòa lan, hoa thược dược, hoa mai, hoa đào! Chắc mùa này là mùa của dưa hấu và cải làm dưa nên tôi thấy đống nào đống đấy cao ngất. Ba chồng tôi đi chợ mua hai chục "có đầu" cải Tần Xại để về muối dưa ăn Tết. Khi tôi về sống tại quê chồng, tôi mới biết danh từ chục "có đầu" chứ ở Huế đâu có, ban đầu tôi không hiểu "có đầu" là gì, sau được giải thích mới biết ở miền Nam, một chục không phải chỉ đúng 10 trái (chục) mà là nhiều hơn , không nhất thiết nhiều hơn bao nhiêu vì mỗi vùng mỗi khác, có nơi một chục là mười hai, cô nơi một chục là mười bốn, mười sáu và tùy theo loại hàng. (Có loại cũng đếm một chục chỉ là 10). Hai chục "có đầu" cải Tần Xại cả ba mươi hai cây nên ba chồng tôi mang về để một đống.

Chợ Tết Miền Tây

Vào đây tôi mới biết loại cái Tần Xại nầy, cây lớn có bẹ to, dầy, làm dưa ăn rất ngon. Ở Huế muốn ăn dưa chua thì đi chợ mua cải bẹ xanh hay cải củ non có cái củ nhỏ tí bằng ngón tay, chủ vườn nhổ lên, bó từng bó đem bán chứ không có cải Tần Xại nầy, lúc xưa vì chưa biết nên không có sự so sánh, chứ bây giờ thì công nhận cải Tần Xại làm dưa ăn ngon hơn! Ba chồng tôi muối dưa chua

Page 15: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 115

giỏi lắm, tôi nghe các em chồng khoe như vậy. Trước hết đem cải đi rửa sạch, để nguyên cả cây, rồi đem phơi nắng cho cây hơi héo, mang vào sắp vào cái khạp, cứ một lớp cải thì rãi một lớp muối, cuối cùng đổ nước vo gạo vào cho ngập, đậy vỉ tre lên, lấy cái cối đá nặng đè lên trên, vài tuần sau cây cải chín vàng, chua ngon lắm, cách làm này giữ cải được lâu.

Khoảng thời gian nầy mấy ghe bán muối thường chèo dọc theo dòng sông để bán muối; Mỗi lần nghe giọng rao "muối đây" từ sông vọng lại thì bà con trong xóm gọi nhau ơi ới, rủ nhau ra bờ sông mua muối, mọi người cầm một, hai cái thùng lớn theo, bởi vì họ mua bằng giạ và chỉ mua muối hột để dành ăn suốt năm. Hèn gì đến nhà nào, khi vào bếp tôi cũng thấy có một hay hai cái khạp đựng muối đặt bên mé bếp, bên cạnh ông lò. Mấy ghe bán muối này từ phương xa, hàng năm đến gần Tết họ mới chèo ghe đến đây để bán nên nhà nào cũng tích trữ muối ăn quanh năm, chờ sang năm ghe bán muối mới đến bán lại. Ở quê muối chiếm vai trò rất quan trọng, ngoài nêm nếm thức ăn hàng ngày, các bà nội trợ còn dùng muối để muối cá làm mắm, muối cải làm dưa v.v... để dành ăn dần, nhất là trong mùa cấy! Lần đầu tiên về nhà chồng, thấy trong bếp có nguyên một cái lu bự đựng đầy muối hột làm tôi kinh ngạc vô cùng, không biết chứa muối hột nhiều trong nhà như vậy để làm gì? Ở nhà tôi, mẹ tôi chỉ mua vài lon muối hầm để trong củi bếp để nêm nếm thức ăn hoặc làm dưa chua chứ không xài muối hột. Trong bếp người dân ở đây chỉ cần có đầy khạp muối, khạp mắm, vại dưa là đủ lắm rồi; yên tâm lắm rồi.

Một cảnh quết bánh phồng ở miền Tây

Chuyện lạ nữa là khoảng thời gian giáp Tết này, mấy người bán chiếu đạp xe đạp vào tận xóm làng, thường thì đàn ông chứ không thấy đàn bà, phía sau cột đầy chiếu, chiếu màu, chiếu trắng cao ngất ngưởng, họ vừa đạp xe vừa rao "chiếu đây,

chiếu đây", một vài anh có máu văn nghệ, sau khi rao hàng còn ngân nga thêm câu vọng cổ Tình anh bán chiếu: “Ghe chiếu Cà Mau đã cắm sào trên bờ kinh Ngã Bảy, sao cô gái năm xưa chẳng thấy ra a a a chào. Cửa vườn cô đã khóa kín từ hôm na..ao..ao..ào…” nghe cũng vui vui. Họ đạp xe ngang nhà nào thì họ cũng bán được vài ba chiếc chiếu bởi vì dân quê thích mua chiếu mới để thay chiếu củ, nhất là mua chiếu trơn, màu trắng để phơi bánh phồng chứ trong nhà toàn chiếu cũ thì làm sao mà phơi bánh! Mấy bà không gặp mấy anh bán chiếu đạp xe để mua chiếu thì khi đi chợ mua sắm, thế nào lúc về cũng có vát một, hai chiếc chiếu trên vai, bởi vì mua chiếu mới cũng nằm trong danh sách đồ sắm Tết!

Cán bánh phòng ngày Tết

Khi có chiếu rồi thì chuẩn bị quết bánh phồng, có hai loại bánh phồng mà nhà nào cũng làm để ăn Tết, đó là bánh phồng nếp và bánh phồng mì, bánh phồng nếp làm cực hơn bánh phồng mì, bởi vì phải chọn nếp cẩn thận, không được lộn gạo vào; xôi nếp đừng khô, đừng nhão. Muốn sáng mai quết bánh thì đêm nay phải ngâm nếp, gà mới gáy hiệp đầu, trời còn tối, các bà mẹ, bà chị đã thức dậy nấu xôi, nấu củ mì, xôi và củ mì chín thì bắt đầu quết,phải một người có sức dẻo dai, mạnh khỏe đứng quết, họ lấy từ về xôi bỏ vào cối, dùng cái chày gỗ để quết, vừa quết vừa gia giảm nguyên liệu phụ như nước đường, nước cốt dừa, vani vào quết chung,thỉnh thoảng ngưng tay chày để bôi chút dầu dừa lên chày cho khỏi dính. Họ cứ làm như vậy cho đến khi về sôi trở thành bột mịn, dẻo. Trên tấm phản gỗ trong nhà bếp đã có mấy người ngồi chờ cán bánh, trước mặt mọi người đã có sẵn một tấm thớt gỗ, một ống tre khô già trơn tru, ít giấy ni-lon cắt tròn, và chén dầu dừa; dầu dừa này thắng ra từ cơm dừa khô nạo, họ tự làm lấy vì hầu như nhà nào cũng có dừa khô. Mỗi khi xôi đã quết tới rồi, mấy bà ngắt ra từng cục nhỏ để nằm trên tấm thớt gỗ phía dưới lót sẵn miếng ni- long tròn, lấy chút dầu dừa bôi lên ống

Page 16: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 116

tre rồi đè lên cục bột mà lăn, lăn tới lăn lui cho cục bột giằng mỏng ra, tròn theo miếng ni-lon, xong cầm miếng ni-lon úp lên chiếc chiếu trắng mới đặt sẵn một bên, rút miếng ni-lon ra, để lên thớt gỗ lăn tiếp. Khi bánh đầy trên chiếu, hai người mang ra ngoài sân phơi, chỉ cần phơi một nắng là được. Không biết mấy bà nội trợ trong xóm có rũ nhau làm bánh cùng ngày không mà tôi nghe, thấy nhiều nhà quết bánh, tiếng chày nện vào cối của nhà này, nhà kia tạo thành âm thanh "bịch...bịch..."vui tai. Bánh phồng mì có thể ăn vậy không cần nướng, hoặc nướng trên bếp lò than thường; Còn nướng bánh phồng nếp thì lạ mắt lắm; Nếu tôi không thấy tận mắt thì chắc chắn tôi không bao giờ biết cách nướng như vậy đâu. Muốn nướng thì phải làm cái dụng cụ nướng, họ lấy hai khúc tre nhỏ, dài khoảng hơn nữa thước mỗi khúc, một đầu chẻ nhỏ thành nhiều cọng dài khoảng hai gang tay rồi lấy thép bện lại hình nan quạt; Khi nướng, người ta cầm hai tay hai cái, đặt cái bánh phồng nằm trên hình nan quạt, hơ trên lửa, lửa phải lửa rơm, người nướng cứ hất cái bánh chuyển từ tay cầm này sang tay cầm kia, thật nhanh nếu chậm thì khét, bánh phồng lên to gấp nhiều lần, xốp, ăn rất ngon.

Lo bánh xong rồi thì đến việc tát ao, tát mương, tát đìa, tát xẻo bắt cá ăn Tết. Quê chồng tôi ở miền Tây nên chung quanh nhà, vườn có nhiều sông, lạch, ao, hồ; Nhà nào cũng có ao, hồ, xẻo để lấy nước xài. Ao hồ thường nằm sát phía sau hay phía trước nhà; Ngoài ao hồ còn có xẻo, xẻo là con đường nước nhỏ từ vườn đi ra sông; Hai bên trồng toàn dừa nước vừa để giữ đất , vừa để lấy lá lợp nhà. Xẻo ăn thông ra sông lớn nên tôm, cá thường vào ở, vì vậy mỗi khi tát xẻo cũng bắt được nhiều tôm cá. Mỗi lần tát đìa, ao, hồ, mương... thì ngoài người nhà, thế nào cũng có vài người khác đến phụ giúp, rồi còn cả một nhóm người "bắt hôi" nữa. Khi nước vừa cạn, chủ nhà bắt trước, bắt xong mới "xả cảng" cho người "bắt hôi" xuống bắt, hoặc có mương, đìa... dài và rộng thì người chủ bắt phía trước người "bắt hôi" bắt phía sau. Lúc nầy ao, hồ, mương... chỉ còn cá nho nhỏ, nhưng thỉnh thoảng cũng có người bắt được cá lớn nằm sâu dưới bùn, mỗi lần bắt được cá lớn như vậy thì người được cá la lên mừng rỡ làm mọi người vui lây. Ngồi trên bờ ao, bờ hồ,..nhìn thiên hạ lội bì bõm dưới bùn, mặt mày dính bùn lem luốt tôi thấy lòng aí náy vô cùng! Sau khi mấy người phụ bắt cá tắm rửa xong thì thế nào cũng có bữa nhậu do chủ nhà chiêu đãi để cám ơn, bữa nhậu của người dân quê rất đơn giản, chẳng có gì cao lương mĩ vị, chỉ có một nồi

cháo cá, vài con cá nướng trui từ số cá mà họ đã bắt được, một tô nước mắm me, một rổ rau tập tàng vừa hái sau vườn, vài trái ớt hiểm trồng sau nhà, thế là có một buổi nhậu vui vẻ rồi, năm, bảy người cũng "cưa" hết vài ba lít rượu đế, người ở đây uống toàn rượu đế và uống nhiều hơn người ở quê tôi rất nhiều. Người chủ nhà bắt đầu phân loại cá, cá lóc, cá trê, cá rô thì bỏ vào từng khạp riêng, đổ nước vào "rộng" lại để dành ăn dần trong ba ngày Tết. Cũng có thể bắt vài con cá lóc lớn đem làm quà biếu bạn. Tôi thấy người dân quê mỗi lần đi thăm bà con hay bạn bè, họ thường mang những thứ có sẵn để làm quà biếu chứ ít khi mua ngoài chợ, ví dụ như vài ba con cá bắt được, quày dừa, quày chuối chặt sau vườn, con gà, con vịt bắt trong chuồng. ..Ông cha ta thường nói:"Cách cho hơn của đem cho". Người dân quê đem biếu bà con, bạn bè những vật tưởng như rất hèn mọn, thế nhưng lại rất quí, vì họ biếu cả một tấm lòng.Mỗi năm chờ đến Tết, họ tát đìa, tát ao, hồ… để kiếm cá: Ngoài số cá "rộng" lại để ăn Tết, còn rất nhiều loại cá nhỏ, nhiều nhất là cá sặc, đây là dịp cho các bà nội trợ thôn quê " khoe tài" đảm đang của mình; Sau khi làm sạch, họ đem số cá ấy làm mắm; Hơi hơi to thì làm mắm mặn để dành, còn cá nhỏ tí thì họ làm nước mắm, gọi là nước mắm cá đồng, hình như nhà nào cũng làm như vậy, nên mỗi nhà ở thôn quê đều có một lu nước mắm đồng để ăn trong các bữa cơm chứ ít khi mua ngoài chợ, tôi ăn nước mắm cá đồng rồi, có vị chua chua, không ngon bằng nước mắm cá biển mua ngoài chợ.

Tát đìa bắt cá

Gần đến ngày đưa ông Táo, nhà nào cũng chuẩn bị gói bánh tét, bánh ít; Đây là những thứ bánh phải có trong mấy ngày Tết của mỗi nhà. Ngày gói bánh rộn ràng lắm, không phải nhà nào tự gói bánh, nấu bánh âm thầm, im lặng như ở Huế, mà nó rộn rịp cả một khu làng, bởi vì họ không ra chợ để mua thịt heo về làm bánh lẻ tẻ như quê tôi, mà họ "chung thịt" với nhau, tức là một

Page 17: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 117

người nuôi heo cho lớn, thay vì bán cho "lái heo" thì họ chờ đến giáp Tết mới làm thịt, một số bà con, xóm giềng thay vì mua thịt heo ngoài chợ về gói bánh thì họ dặn người có heo là họ sẽ chia thịt, chia thịt không cần trả tiền liền mà đến mùa lúa sau mới trả bằng lúa, họ cứ tính ra giá bao nhiêu thịt thì bao nhiêu lúa, ví dụ như hai kí lô thịt qui thành một giạ lúa giê sạch chẳng hạn, lúa này gọi là "lúa thịt", nhà nào chia thịt được vài chục giạ lúa thịt cũng đỡ lo cho mùa sau bị thất thu.

Năm ấy nhà chồng tôi chia thịt. Trời mới tờ mờ sáng, gà chưa gáy hiệp đầu thì đã có vài người quen đến, trong nhà lớn nhỏ đều thức dậy, ai làm heo thì làm, ai lo cơm sáng thì lo, còn tôi không biết làm gì thì chạy tới chạy lui cho người ta "sai vặt". Con heo nặng hơn một tạ được chủ nhà "cung phụng" thức ăn "hầu hạ" tắm rửa cả năm nay, bây giờ phải "lên đoạn đầu đài" để trả ơn tri ngộ. Mấy người đàn ông cắt cổ, cạo lông, ra thịt rất thiện nghệ, nào kém chi thợ lò heo, chắc nhờ năm nào họ cũng được "mời" như vậy. Làm xong con heo, phân loại thịt xong thì trời cũng đã sáng hẳn; những người "chung thịt" lũ lượt kéo đến; họ cùng nhau cắt cắt, xẻ xẻ mấy rỗ thịt heo, rồi chia nhau theo ý muốn của mỗi người, không mấy chốc mọi việc đã xong xuôi; mấy bà xách thịt heo về nhà gói bánh tét cho kịp nấu; mấy người đàn ông ở lại, chờ nồi cháo lòng hấp dẫn đang được nấu trên lò. Thường khi chia thịt thì chỉ có chia thịt thôi, còn bộ đồ lòng và huyết thì chủ nhà nấu cháo đãi những người phụ giúp và quen biết ăn lấy thảo. Ngày hôm ấy trong xóm làng nhộn nhịp lắm, bởi vì nhà nhà gói bánh tét, người người nấu bánh tét. Dân quê không làm các thứ mứt, thứ bánh công phu như dân ở thành phố, nhất là dân Huế, họ chỉ làm mấy loại bánh đơn giản đượm tình quê hương như bánh phồng, bánh tét, bánh ít nhân dừa; là các loại bánh có thể ăn no thay cơm được.

Chợ Tết Trà Vinh

Chợ Tết thôn quê bán rất nhiều dưa hấu, mỗi gia đình không chỉ mua hai trái đơm quả đầu

năm như mẹ tôi mà họ mua cả chục, ít nhất là nửa chục, mà một chục dưa hấu tới mười sáu trái; Vì vậy mấy bà muốn mua là phải đem thúng gióng mà gánh về; rồi trãi một lớp rơm ở dưới bộ phản gỗ ở nhà trên, đặt từng trái lên; như vậy mới giữ dưa được lâu. Lúc trước, những người trồng dưa, họ bón phân cá mục nên cây dưa cho trái rất ngon, đỏ ruột, cát nhiều và ngọt, lại giữ được lâu chứ không như bây giờ họ bón gốc dưa toàn bằng phân hóa học, nên trái có nhiều nước, dễ bị chảy không thể giữ được lâu. Mấy bà không chỉ ăn dưa hấu để tráng miệng hay giải khát mà họ ăn dưa hấu với cơm, làm thức ăn ghém như là dưa leo vậy đó.

Mấy ông chủ nhà miệt vườn này thì rất thích mua những bộ truyện tranh dân gian có in hình, in lời trên giấy như truyện "Mục Liên Thanh Đề" hay truyện "Phạm Công Cúc Hoa" hoặc chuyện "Thạch Sanh Chém Chằn" v.v... đem về dán trên vách nhà lớn coi như là trang hoàng nhà cửa để ăn Tết! Vì vậy loại này bán rất chạy trong dịp Tết ở chợ quê.

Mấy ngày Tết, bà con, bạn bè cũng qua lại thăm nhau, chúc Tết nhau, đến nhà nào cũng được mời ăn bánh phồng nếp nướng lửa rơm, bánh tét nhân đậu xanh thịt heo, bánh tét nhân chuối, bánh ít, toàn "đụng hàng" nên ăn không thấy ngon ! Ở thành phố, đầu năm, thanh niên thanh nữ thích rủ nhau đến những tụ điểm ca nhạc, vui chơi, còn thanh niên, thanh nữ đồng quê thì thường hội hợp ở nhà nào đó rồi vừa nhậu nhẹt, vừa ăn uống ca hát với nhau. Người em thứ năm của chồng tôi hát cải lương rất hay, là kép chính của đoàn văn nghệ địa phương, giọng hát không thua gì mấy kép chính của mấy đoàn Cải lương nổi tiếng trên Sài Gòn. Các anh chị em họ của chồng cũng hát rất hay không kém như anh Tư Thành, chị Sáu Cúc, chị Bảy A, anh Tám Chanh, con của cậu mợ Hai; Năm Anh, bé Sáu, bé Bảy, bé Tám con của mợ Bảy, người nào đàn hát cũng hay. Thêm cậu Hai là một thầy đờn nổi tiếng, cậu biết xử dụng rất nhiều loại đàn, giọng đàn thật điêu luyện, nghe nói có vài đoàn Cải Lương trên Sài Gòn nghe tiếng, về tận nơi mời cậu và các anh chị em đi theo đoàn nhưng không ai nhận lời vì họ không muốn rời xa đồng ruộng, con sông bến nước thương yêu của mình.

Ông bà cha mẹ chúng ta thường nói :"Đi một đàng , học một sàng khôn". Quả thật như vậy, nhờ lấy chồng xa, được ăn Tết quê chồng nên tôi mới biết những sự khác biệt này, nơi khác ngay trên đất nước của ta. Chúng tôi ăn được hai cái Tết như vậy rồi chuyển lên sống tại Sài Gòn thêm vài

Page 18: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 118

năm nữa, sau đó vượt biển và hai mươi mấy năm nay, sống trên đất khách quê người, mỗi năm Tết đến, thấy lòng bâng khuâng buồn bã, nhớ quê hương và gia đình da diết.

Tôi miêu tả một cái Tết Nguyên Đán mà tôi có mặt lần đầu tiên tại huyện Càng Long, Tỉnh Trà Vinh (Lúc này họ đặt chung với tỉnh Vinh Long thành Tỉnh Cửu Long), là quê chồng vào năm 1980, chỉ mới sau năm năm ngày mất nước vào tay Việt Cộng. Tuy thời gian này Việt Cộng đã ra tay "bóp hầu bóp cổ" người dân miền Nam bằng cuộc đổi tiền, 500 đồng củ lấy một đồng giấy lộn mang bộ mặt gian ác Hồ tặc, và mỗi gia đình chỉ được đổi tối đa 200 đồng vào năm 1978, và đánh "tư Sản mại bản" năm 1979. Mục đích biến dân miền Nam cũng trở thành nghèo đói, khốn khổ như dân miền Bắc, nhưng sự sung túc của dân miền Nam nói chung và nhất là dân miền Lục Tỉnh còn tiềm tàng, cộng thêm phong tục tập quán về sinh hoạt vui chơi trong mấy ngày Tết vẫn còn sâu nặng trong tâm khảm từng cá nhân, từng gia đình , từng khu xóm. Đó là một cái Tết ở làng quê miền Tây sau 5 năm Cộng Sản Việt Nam chiếm miền Nam mà đã vui vẻ, sầm uất như vậy, huống hồ gì là những năm trước 4/1975.

Một điều nên biết là sau tháng Tư đen, với sự "chỉ đạo" của Hà Nội bắt nông dân phải vào Hợp tác Xã- Là mô thức bắt buộc của chế độ XHCN Cộng Sản- nhưng ở quê của chồng tôi và hầu như cả miền tây Nam phần đều chống đối và không phải vào HTX ngày nào cả, đây là chủ trương rất sai lầm của CS Hà Nội nên người làm nông ở đây đỡ khổ hơn các nơi khác. Theo tôi biết vì người nông dân ở đây đã có nhiều ruộng vườn nhờ chính sách "dinh điền' và " người cày có ruộng" của thời VNCH. Nông dân ở tỉnh Thừa Thiên Huế của quê tôi thì cũng nhờ chính sách giúp đỡ người nông dân thời VNCH những vì số đất tư hữu ít nên đã phải vào HTX theo chỉ thị của CS mà nghe đâu sau này họ mới được giải tán.... . Nghe những người lớn tuổi trong gia đình chồng kể lại thì trong 9 năm đầu, thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm nắm chính quyền, cuộc sống của dân làng vui biết bao nhiêu, no ấm biết bao nhiêu; Những năm đầu lực lượng của Việt Cộng nằm vùng chưa mạnh; đến mấy năm sau trở nên mạnh rồi thì có chương trình Ấp Chiến Lược và các " khu Trù Mật"… của thời Đệ I VNCH đã cách ly dân chúng với Việt Cộng rất hữu hiệu, vì vậy Việt Cộng nằm vùng, du kích...chỉ biết trốn trong bưng biền hoặc chui rúc trong các hầm bí mật, không

dám vào làng khủng bố, bắt dân đi đào đường, đắp mô, thu thuế, lương thực, kêu gọi bắt thanh niên theo chúng...Nhờ đó trong 9 năm thời Đệ I VNCH là thời thanh bình, vui vẻ của dân, ba chồng tôi đã lên liếp lập vườn trong thời gian này, một cái vườn rất rộng, trồng nhiều cây ăn trái - ĐếnTết, chỉ cần tát ao, tát đìa của mình cũng bắt rất nhiều tôm cá, tôm càng lớn, cá lóc, cá trê lớn ê hề. Đời sống của dân sao vui vẻ quá - Ông xã tôi nói cũng vì cuộc sống quá no đủ, dễ dàng như vậy nên thanh niên, thanh nữ trong làng ít ai muốn xa nhà, xa làng để lên tỉnh đi học cấp cao; Muốn học bậc Trung học đệ nhất cấp, đệ nhị cấp phải lên tỉnh tức thị xã Trà Vinh mới có trường trung học.

Trường Trung Học Bán Công Trần Trung Tiên

Cả tỉnh lúc đó (Bao gồm cả quận Trà Ô n và Vũng Liêm của tỉnh Vĩnh Long) chỉ có một trường Trung học công lập, một trường Trung học bán công và một, hai trường trung học tư thực với số học sinh rất ít. Thi tú tài 1 phải lên Vĩnh Long và tú tài 2 cũng phải cụ bị tiền tiền bạc để lên tỉnh Cần Thơ mà thi. Chứ không phải như ở Huế thì trường rất nhiều không những bậc Trung học mà cả bậc đại học... thi ngay tại thị xa Huế.

Dưới sự chỉ thị của chính quyền Hoa Kỳ và một số tướng tá người Việt do trung tướng Dương văn Minh lãnh đạo đã tổ chức làm đảo chánh vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 rạng sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963 đã giết chết Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và nhiều người yêu nước tài giỏi khác dưới chế độ Đệ I VNCH đã gây ra hệ lụy bất ổn cho đời sống người dân; Trung tướng Dương văn Minh ngay sau đó còn ra lệnh phá bỏ quốc sách Ấp Chiến Lược - một việc làm quá sai lầm- Là một cơ hội "trời cho" để cho Việt cộng hồi sinh và phát triển vượt bực. Vì lẽ đó nên trong thời Đệ II VNCH, càng ngày cuộc sống ở làng quê càng bất an, có một thời gian làng quê chồng tôi trở thành vùng xôi đậu, ban ngày lính Quốc gia đi hành quân, kiểm soát, ban

Page 19: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 119

đêm thì Việt Cộng xuất hiện, khủng bố, thủ tiêu, bắt người dân đi đào đường, đắp mô, bắt thanh niên làm du kích, thoát ly theo Việt Cộng... Người dân trong làng ra chợ mua bán gì; gặp bạn bè hay bà con là lính, cán bộ Quốc gia, đứng nói chuyện vài câu, thì có khi chỉ tối đó Việt Cộng sẽ lập toà án "nhân dân", giáng tội "Việt gian" và tuyên án tử hình, tức thì người đó bị chặt đầu bằng mã tấu; làm cho người dân sợ xanh mặt , du kích gài mìn, gái chông tùm lum trong vườn làm cho người dân khiếp đảm nên muốn được ở lại làm ăn thì phải để cho con hoặc chồng, cha theo hoạt động cho Việt Cộng hoặc một số đông dân làng phải bỏ nhà, bỏ ruộng, bỏ vườn để ra ngoài chợ, xin cất nhà trên đất người ta mà ở, rồi đi làm thuê làm mướn, buôn thúng, bán bưng mà sống qua ngày. Chỉ còn lại một số nhỏ gia đình có chồng con đi theo Việt Cộng ở lại mới không dời nhà. Đến bây giờ, đã hơn nữa thế kỷ trôi qua, mà ông xã tôi vẫn còn nuối tiếc khoảng thời gian có cuộc sống dễ dàng, no ấm trong thời đệ nhất Cộng Hòa!

Đường về Trà Vinh

Theo thời gian, dưới sự lãnh đạo của đảng cướp Công Sản Việt Nam, qua sự chỉ thị của đảng cướp cộng sản Trung Hoa, thì dân chúng càng ngày càng có cuộc sống khó khăn, chỉ trừ một số cán bộ Công Sản Việt Nam ăn trên ngồi trốc, tham những vô bờ; một số con buôn mánh mung, có ô dù Việt Cộng che chở, một số con buôn làm ăn phi pháp "móc ngoặc", họ có cuộc sống còn hơn vua chúa. Còn lại phần đông dân chúng từ Bắc vào Nam, có cuộc sống rất là khốn khổ; một "Hòn Ngọc Viễn Đông" trước năm 1975, nay thụt lùi còn thua cả Campucbia - là một trong những nước trước kia chậm tiến nhất vùng Đông Nam Á!- Mỗi lần nghĩ lại tôi không khỏi rùng mình, nếu chúng tôi không cương quyết ra đi, dấn thân vào trùng trùng nguy hiểm , phó thác cho Ơn Trên, để tìm cuộc sống tự do, vẫn còn ở lại Việt Nam, vẫn còn bám vào nơi chôn nhau cắt rốn của chồng là huyện

Càng Long , thì các con tôi sẽ ra sao? tương lai các cháu tôi sẽ ra sao? chắc chắn sẽ là một màu xám ngắt. Bởi vì cái lý lịch "Sĩ quan Ngụy" của ông xã tôi sẽ là cái rào cản tương lai của con cháu tôi suốt đời. Mặc dầu đã 40 năm ở miền Nam và 60 năm ở miền Bắc, đến nay đảng Cộng sản Việt Nam vẫn sử dụng "hồng hơn chuyên" đối với cách chọn nhân tài, vì vậy họ đã "bóp nát" và "làm mất" biết bao bộ óc đầy chất xám , tài năng của người Việt Nam, tuổi trẻ Việt Nam. Nội việc làm hèn hạ đầu tiên của Cộng Sản Việt Nam, tập trung tất cả sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, cán bộ công chức cao cấp của chế độ VNCH, là những thành phần ưu tú của đất nước, vào trong nhà tù, lao cải hành hạ, trả thù một cách tàn ác, bỉ ổi cũng là một việc làm đắc tội với quê hương, dân tộc, bởi chính họ đã hủy diệt biết bao sức lực và trí tuệ của người dân, rất cần thiết để xây dựng quê hương, đất nước sau chiến tranh. Bản thân tôi tuy không thích chính quyền Hoa Kỳ về một số sai lầm đối với đất nước Việt Nam chúng tôi như từ việc làm vào năm 1963, để đưa đến hậu quả tai hại làm khổ cho dân tộc tôi: Tháng Tư đen!

Nhưng tôi rất có cảm tình và thán phục với người dân Hoa Kỳ qua những tấm lòng bác ái của họ. Tôi rất cám ơn đất nước Hoa Kỳ đã mở rộng vòng tay đón nhận chúng tôi, những người Việt Nam Ty nạn Cộng Sản vào sinh sống trong đất nước Hoa Kỳ - trong khi những người Cộng Sản lãnh đạo đất nước tôi thì lại đàn áp, kỳ thị, xua đuổi...chúng tôi!!! - Tại quốc gia là quê hương mới này đã tạo mọi điều kiện cho chúng tôi làm việc, sinh hoạt, được hưởng nhiều quyền lợi ... như người dân bản xứ, xây dựng đời sống mới và nuôi dạy con cháu, là thế hệ thứ hai, thứ ba của chúng tôi trở nên những người hữu dụng cho xã hội mới, nhân loại, làm nở mặt nở mày cho dân tộc chúng tôi, dân tộc Lạc Hồng.

NiNi Lê Connecticut

Bờ Sông Trà Vinh

Page 20: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 120

HOÄI AÙI HÖÕU TRAØ VINH USA

Quang cảnh buổi họp Hè hàng năm của Hội ÁHTV tại Mile Squre Park Orange County California

THÔNG BÁO

TỔ-CHỨC HỌP MẶT HÈ 2014

Kính thưa quý đồng hương và thân-hữu, Nhằm tạo cơ-hội cho đồng hương Trà-Vinh gặp gỡ, hàn huyên cũng như các con em có một ngày vui chơi, giải trí ngoài trời trong dịp nghỉ Hè. Hội Ái-Hữu Trà-Vinh sẽ tổ-chức Ngày Họp Mặt Picnic Hè 2014 tại: Địa điểm: MILE SQUARE PARK Góc đường Euclid & Warnner Th ành Phố Fountain Valley Ngày Giờ: 10 giờ sáng Chủ Nhựt 13-7-2014 Chương trình gồm:

Ẩm-thực: Dưới hình thức Pot-Luck (mỗi gia đình cùng góp thức ăn). Món ăn nào đặc-biệt nhất sẽ được chấm giải. Để cuộc thi đua thêm phần hào hứng, Ban Tổ Chức kêu goị đồng hương mang theo thức ăn dự thi càng nhiều tốt. Riêng những đồng hương nào không tiện mang thức ăn tới,(Vui lòng góp $10.00 cho mỗi người ) ban tổ-chức cũng có sẵn một số thức ăn căn bản như bún nước lèo, thịt heo quay, xôi,bánh mặn và pizza, chips (cho các con em).

Các trò vui chơi: Như vũ cầu, bóng chuyền , cờ tướng ,văn nghệ , có tính cách vui chơi. Ngoài ra còn có các cuộc thi đấu có giải thưởng như :Thi nhảy bao, thi đố vui địa danh Trà-Vinh, thi chọn món ăn thích nhứt....

Phát Giải Khuyến Học: Cho con em đạt thành-tích xuất-sắc tại học đường trườmg Mỹ và học giỏi trường Việt ngữ trong niên khoá 2013-2014 có giấy Ban Khen của nhà trường xác nhận. Hồ sơ gởi về cho Hội càng sớm càng tốt.

Hội Ái-Hữu Trà-Vinh thân mời tất cả đồng hương và thân-hữu đưa con em đến chung vui tham-dự. Các đóng góp ý-kiến, tặng vật ủng hộ cũng như ghi danh tham-dự các giải thể-thao, cờ tướng, ghi danh con em đạt thành tích xuất sắc trong học đường, Hội rất hoan-nghênh và gởi về càng sớm càng tốt nhằm giúp cho Ngày Họp Mặt Hè vui tươi, hào hứng và thành công tốt đẹp.

California, ngày 1 tháng 6 năm 2014. TM. Hội Ái-Hữu Đồng-Hương Trà-Vinh

Văn Tường - Hội Trưởng Mọi chi-tiết xin liên-lạc với Ban Tổ-chức: Trưởng ban Nguyễn Văn Thành (714) 934-8583 Huỳnh Trung Thomas (562-253-8068) Phó Trưởng ban Kiều Trương (562) 841- 8300

Phó Trưởng ban Kiên Phi Bằng (562) 569-2083 Khuyến Học Cụ Nguyễn Văn Vui: 310-217-1936 Tổng Thư Ký Ô. Dương Việt Văn (951) 454-6805 Ban Báo Chí: Võ Trung Tín (714) 856-9202

LƯU Ý: Để vui chơi thoải mái, quý đồng hương nhớ mang theo ghế cá nhân cũng như dụng cụ thể thao…

Page 21: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 121

Hội Ái Hữu Trà Vinh 9242 Bolsa # B Westminster CA 92683-PO Box 9072 Fountain Valley CA92728

Điện Thoại: Tường:714-895-7080, Diệu: 714-641-6995, Tín: 714-856-9202 Website: aihuutravinh.com,travinhhaingoai.com - Email: [email protected]

CHƯƠNG-TRÌNH BUỔI PICNIC HÈ 2014 CUẢ HỘI ÁI HỮU TRÀ VINH

(Tại MILE SQUARE PARK, Thành phố FOUNTAIN VALLEY, CA; Ngày 13 tháng 7, 2014)

I./ - 10:00am ---11:00am : TIẾP-TÂN. Đồng-hương tề tựu

II./ - 11:00 am : KHAI-MẠC.

1)- Chào-cờ VIỆT-MỸ. 2)- Thông qua chương-trình buổi picnic. 3)- HỘI-TRƯỠNG chào mừng. - Giới-thiệu đồng-hương từ xa đến - Giới-thiệu nhân-vật nổi bật cuả TV (nếu có) 4) Chụp ảnh chung lưu-niệm (Một ảnh riêng cho những đồng-hương từ xa đến; ảnh cho

những gia-đình đi từ 3 người trở lên. Các ảnh nầy sẽ đăng trên Đặc-san TV số 2015).

III./- PHÁT GIẢI KHUYẾN-HỌC NIÊN-KHOÁ 2013 -- 2014.

IV./- 12:00 pm: ĂN TRƯA. - Cùng thưởng-thức món ăn do đồng-hương đóng góp. - Hàn-huyên tàm-sự. - Văn-nghệ tư-nguyện. ** 12:45 pm : Chấm điểm MÓN ĂN ĐƯỢC ƯA THÍCH NHẤT.

V./- 01:00 PM : CÁC TRÒ CHƠI VÀ THI TÀI. 1)- Đố vui ĐỊA-DANH TRÀ-VINH. 2)- Thi NHẢY BAO. 3)- Trò chơi do đồng-hương đóng góp (nếu có)

VI./- 4:00 PM : BẾ-MẠC.

Ghi-chú : Thời-gian & diển-tiến có thể du-di.

(TAKE ONE, PLEASE !)

Thông Báo với các Đồng Hương “Mê Đá Bóng”

Vì Buổi Họp Hè năm nay đúng vào lúc có giải final của World Cup. Nên Ban Tổ Chức cố gắng đem TV ra tại nơi Picnic, để bà con vừa xem Trận đấu nóng bỏng, vừa thưởng thức món Bún Nước Lèo Trà Vinh, vừa bàn tán với các thân hữu...(Các bạn MÊ bóng đá yên tâm. không mất cơ hội theo dỏi trận chung kết)

Page 22: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 122

Lá Thư Mùa Hè

Kính thưa quý đồng hương, Bản tin Hè thứ 14 được gởi đến quý vị, đối với Hội, thì sinh hoạt nầy như là một truyền thống không thể thiếu được. Phần việc nầy được Ban Báo Chí siêng năng duy trì, coi nó như là sợi dây nhỏ chuẩn bị cho sợi dây nối kết to hơn đó là đặc san Xuân Ất Mùi 2015. Thưa quý vị, Năm nay Hè về trong mùa Worl Cup rộn ràng. Ngày Hè chúng ta 13/7 trùng với ngày của buổi thi đấu chung kết vô địch, chắc rằng đồng hương nặng tình với quê nhà và bè bạn cũ thân thương sẽ sẵn sàng hy sinh worl cup mà đến với Trà Vinh Picnic Hè để sống một ngày sinh hoạt ngoài trời, một ngày dành tất cả cho tình tự quê ta, một ngày bè bạn xa gần cũ mới cùng nhau hội ngộ hàn huyên. Nhiều bà con trước đây đã gọi hỏi thăm ngày giờ địa điểm để sắp xếp… Các thiếu nhi học xuất sắc của Trà Vinh đã bắt đầu gởi giấy chứng nhận về văn phòng Hội. Điều nầy chứng tỏ, đây là một sinh hoạt cần thiết, thiếu vắng chắc là buồn lắm. Các bạn già và bạn trẻ trong ban tổ chức dù chung quanh sự thế xoay vần, dâu bể đổi thay cùng năm tháng, nhưng lòng vẫn kiên trì quyết tâm giữ vững truyền thống của Hội nhà mà chúng ta đã khó nhọc gây dựng nên truyền thống hơn 14 năm qua.

Thay mặt Ban Tổ Chức, chúng tôi xin chúc quý đồng hương một ngày sinh hoạt ngoài trời vui vẻ khoẻ khoắn và sẽ gặp lại một vaì cố nhân hay một vài tân nhân mặc khách vậy.

Văn Tường CA 13/7/2014

Hình Ảnh Trà Vinh Năm Xưa

Chợ Trà Vinh Tháng 2 năm 1971

Đường phố ngang chợ Trà Vinh 1971

Đường Số 1 Trà Vinh năm xưa

Bungalow Trà Vinh

Page 23: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 123

Tú Sinh Giới thiệu về Bingo

Bingo là một trò chơi rất phổ biến ở các nước phương Tây Âu Mỹ. Với luật chơi hết sức đơn giản và chiến thắng hoàn toàn dựa trên sự may rủi, Bingo thật sự xứng đáng là một trò chơi gia đình để chơi cùng bạn bè hoặc người thân trong những dịp lễ.

Bingo chơi như thế nào Trò chơi tối thiểu nên có 2 người chơi, một

người có thể quay số, đầu vòng chơi mỗi người sẽ được phát 3 tấm Bingo, có quyền sắp xếp lại các số trên tấm Bingo. Sau đó, một người chơi sẽ quay hộp số và kêu số, từng người chơi sẽ đánh số vào trong tấm Bingo của mình nếu mình có số được kêu.

Khi người chơi có đủ 5 số liền kề nhau theo hàng dọc, hàng ngang hoặc hàng chéo thì được tính là có 1 dòng, nếu có đủ 5 dòng thì được quyền kêu “BINGO”. Sau đó người quay số sẽ kiểm tra xem có đúng 5 dòng hay không. Nếu đúng thì đó là người thắng, nếu sai thì cuộc chơi vẫn tiếp tục nhưng nếu kêu Bingo quá nhiều lần mà không thật sự có Bingo thì có thể bị phạt thua.

Sự may mắn chính là yếu tố chính quyết định chiến thắng của Bingo vì cách sắp xếp số và cách gọi số hoàn toàn là ngẫu nhiên, trừ khi người chơi gian lận. Ngoài ra, để tăng thêm sự thú vị cho Bingo, người ta còn nghĩ tạo ra các tấm Bingo có chứa mẫu hình (pattern), các mẫu này do người chơi tự sáng tạo ra hoặc có thể do trò chơi Bingo in sẵn. Và nếu một người chơi có đủ các số trên mẫu hình thì sẽ chiến thắng (BINGO)

Luật Chơi (Rules) Bingo về cơ bản là một trò chơi may rủi.

Người chơi sử dụng thẻ mỗi chiều có năm cột hình vuông, với mỗi vuông chứa một số (trừ hình vuông

chính giữa bỏ trống). Người chơi Bingo lắng nghe những con số được từ một người điều khiển. Khi số gọi trùng họp trên thẻ của mình,, người chơi đánh dấu vuông. Người đầu tiên cò 5 con sồ được đánh dấu là thắng cuộc.

Vào phòng Bingo (Bingo Hall) người dự chương trình phải biết luật lệ, phải hết sức giữ yên lặng, làm ơn tắt (cell phone) điện thoại di động hoặc vặn nhỏ lại, đừng cho phone ở ngoài gọi vào (vibration), chấm vào những con số trên trang giấy của mình y như mình vào phòng thi, phải tự mình làm lấy của mình, không được chỉ chỏ người bên cạnh, phải tôn trọng người bên cạnh, đừng quấy rầy người bên cạnh (láng giềng). Chừng nào còn một con số gọi người mình gọi là chờ (đợi), phải hết sức bình tĩnh, không được hô trước vì hô to như vậy là xộ (xệ) rồi bà con ơi, không được lãnh tiền (quà) gì hết, người ta nói là (slippery) trợt vỏ chuối.

Phải chú ý vào người hô (caller) và những người phụ tá ở dưới nhìn lên khán đài, khi kinh (trúng giải) tờ giấy phải trao cho người phụ tá mang lên cho người hô (caller) trên khan đài. Rồi người hô mới tuyên bố người đã “Bingo”.

Mục Đích (Purposes) Những người dự chương trình Bingo

thường xuyên, khi về già không bị lãng quên, họ có một đời sống còn lại vui vẻ hơn người và sống thọ hơn người thường. Tôi đã gặp những ông, bà lão trên 90 còn dự chương trình Bingo hầu như hằng ngày. Ngoài ra người dự Bingo ít bệnh hoạn. Bingo cũng là trò chơi giải trí không hơn không kém. Họ theo dõi từng con số gọi, khi chờ đợi, không hồi hộp vẫn bình tĩnh sáng suốt. Thập niên 40 của thế kỷ 20 tôi đã dự nhiều cuộc Lôtô ở ngoại ô tỉnh TV rồi. Lôtô ở VN là Bingo ở HK. Còn Lôtô ở HK là xổ số kiến thiết quốc gia ở VN mà chú Trần Văn trạch đã hát trong ngày xổ số kiến thiết quốc gia giàu sang mấy hồi.

Hình Thái ( Samples) Ở VN, Lôtô được chơi bởi 90 con số gọi,

những con số được gọi bằng những câu vè 4 chữ hay thơ lục bát vv... Còn ở Hoa kỳ Bingo được đặt vào 25 ô vuông bởi 75 con số vào 5 hàng chữ được dán nhãn B, I, N, G, và O. Và các chữ nầy luôn

Page 24: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 124

chứa những con số nhất định của giải số, như hình dưới đây.

BINGO CARD BASICS

Column Letter Numbers

B 1 to 15

I 16 to 30

N 31 to 45

G 46 to 60

O 61 to 75

Hình thái của Bingo (Bingo Patterns) rất phong phú nhìn hình bên dưới quý vị sẽ thấy mẫu tự tư A tới Z, từ số 1 đến 9; nào chậu, nào bình, con diều, nơ áo, chữ thập, thánh giá, khuôn hình VV… ngay cả mũi tên thấy rất dễ thương, nó chỉ đường mình đi, mình vào hằng ngày, ngây cả chiếc phi cơ trên trời cũng có.

Arrowhead

Diamond

Checkmark

Kite

Cents

Airplane

Dollar

Ladder

Plus Sign

Turtle

Sputnik

Letter Z

Tree

Letter X

Letter I

Letter Y

Những mẫu Bingo IV. Dự Bingo ở đâu?

Bingo lớn hay nhỏ tùy người đên tham dự, phòng chứa, stadium, hội trường, sân vận động. Nhỏ thì vài chục người như gia đình chơi sinh nhựt, lớn chút nữa, phòng hội. Phòng hội chừng vài trăm người dự, lớn hơn nữa là sân vận đông (stadium) chứa được vài ngàn người là thường. Ngày nay ngành điện tử phát đạt, vì vậy Bingo cũng chạy theo, người dự Bingo có thể dùng mày video để theo dõi số gọi, vừa chơi Bingo, vừa chơi games video đủ loại. Ngoài ra, người dự có thể order thức ăn, kem, nước ngọt hay bắp rang đủ loại (Chinese , Mexican foods).

Ngày nay trong phòng Bingo, bốn phương tám hướng đều có bảng số gọi và hình dáng mỗi lần tranh giải và loa rất lớn để cho người dự nghe rõ và nhìn thấy số gọi, mua máy nhỏ, máy video dự Bingo rất đắt tiền lại thêm buồn chán (boring) vì mất bản chất lô tô ngày xưa.

Lối Chơi Lô Tô Việt Nam Lô tô là một trò chơi cộng đồng, cũng

tương tự như Bingo của Mỹ, phổ biến ở miền Nam vào những dịp tết. Cuộc chơi lô tô đơn giản có thể diễn ra trên nền đất tại bất cứ nơi nào, ở một góc chợ hay hàng hiên trước nhà.

Khi tham dự trò chơi này, mỗi người bỏ tiền ra mua bảng lô tô là một tấm bìa cứng trên đó có 81 ô vuông (mỗi cạnh 9 ô) trên đó in 9 hàng ô vuông theo chiều ngang, mỗi hàng có năm số, mỗi con số khác nhau và không theo thứ tự.

Cách chơi lô tô rất đơn giản, số lượng người chơi không giới hạn. Bộ lô tô gồm có các miếng bìa, ai chơi thì chọn miếng bìa minh thích. Trước đó những người tham gia quy định mỗi miếng bìa trị giá bao nhiêu. Ví dụ: $5.00. Ai lấy một miếng bìa sẽ bỏ vào $5.00. Bao nhiêu miếng tùy ý thích, vì bỏ tiền mua nhiều miếng, cơ hội "KINH" sẽ cao.

Kinh có nghĩa là thắng, người kinh là người có tấm bìa mà có từ một hàng ngang đủ 5 số trước tiên. Bắt đầu chơi, sẽ có một người kêu lô tô, người này sẽ bốc trong chiếc túi mỗi lần là một số, rồi đọc to lên cho các người chơi cùng nghe được. Nguoi nào có số vừa kêu thì dùng phấn vạch vào số đó, hoặc dùng đá hay bất cứ thứ gì đặt vào đó để làm dấu. Kêu số cho tới khi có người kinh. Người kêu lô tô sẽ dò lại các số trên miếng bìa của người kinh với các nút số đã bỏ ra ngoài túi lô tô. Nếu đủ thì hợp lệ. người kinh thắng gom hết số tiền mà mọi người đã đặt.

Bộ cờ chơi Lô Tô Việt Nam

Page 25: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 125

Nếu có người kinh trùng, tức là khi kêu con số đó, có tới 2 người kinh, dò xong đều hợp lệ thì tiền thắng chia đều cho các người kinh trùng. lưu ý: túi lô tô phải dài và màu sậm để khỏi ai chơi xấu.

Hò Lô Tô: Người hô lô tô phải là người lanh trí, mẫn

cảm, có kiến thức, có máu tếu tếu và nhất là thuộc nhiều câu vè, câu thơ có vần có điệu, hay cả những bài ca tân, cổ… để lôi cuốn người chơi.

Mở đầu, Người hô lô tô cầm túi vải đựng những con cờ bằng gỗ tròn có khắc số và cất tiếng:

Lô tô - lô tô - quý thầy mà quý cô, quý ông mà quý bà - quý ba quý má, quý chị quý anh - cùng quý em nhỏ...

Đã từng đâu đó - nghe có lô tô Về dự Hội Tết - Ất Mùi Tân Niên Hỏi liền mua vé - Mỗi người một vé kẻo lở cuộc vui - Mở hàng dùm tui mua vài chục tấm …

Nhanh tay thì còn - chậm tay thì hết Nếu mà đã hết - hãy đợi đợt sau Giờ đây tôi rao - các câu xổ số...

Tiếp theo, Anh thọc tay vào túi vải xóc các con cờ rồi rút ra một con và hô với giọng nhịp nhàng:

Lô tổ, lô tô - quý cậu quý cô, muốn chơi lô tô - thời nghe cho kỹ. nghe mà cho kỹ… Kẻo mất con cờ - lỗi tại mình khờ, đừng trách tui lộn - vòng cầu đã trộn, Lẳng lặng mà nghe - tui bốc con cờ ... Tôi bốc con cờ ra - Cờ ra là ra con mấy?

Bài Vè Lô Tô: Bài Vè Lô Tô là một lọai văn chương bình

dân có tính cách truyền khẩu.... Vè Lô Tô có vần điệu như những bài lý (Con Sáo, Ngựa Ô) hay

những bài sớ Táo Quân… Nó cũng có một số quy luật mà người kêu lo tô phải theo.

I Số câu và số chữ trong mỗi câu - Căn bản của vè Lô Tô là liên khúc của cặp câu 4 chữ. Thí dụ:

Con gì ra đây Tui bốc cờ ra. Cờ ra con mấy Con gì ra đây. . .

hoặc: Lác khô đi trước, lác ướt theo sau;

Hai lác gặp nhau tha hồ mà gải… Là con số bảy,

Bỏ chung với nhau sẽ ra bài vè cho số 7: Con gì ra đây Tui bốc cờ ra. Cờ ra con mấy Con gì ra đây. . . Lác khô đi trước, lác ướt theo sau, Hai lác gặp nhau Tha hồ mà gải, Là con số bảy, Cờ ra con mấy, Con mấy gì đây.

II. Biến thể - Số chữ trong câu Rất thường ta thấy câu 4 chữ biến thành

câu 5 chữ, nhưng khi hô vè người ta đọc nhanh hơn để có cùng nhịp điệu với câu căn bản 4 chữ. Sự thêm chữ này làm bài vè nghe thích thú hơn.

Con gì ra đây Tui bốc cờ ra. Cờ ra con mấy Con gì ra đây.

có thể trở thành: Con gì nó ra đây Tui bốc con cờ ra. Rồi cờ ra con mấy Con gì nó ra đây. . .

III. Biến thể - Sự lặp lại Thường khi người hô bốc được con cờ

nhưng chưa nhớ ra câu vè, hoặc chờ xem có ai giơ tay kinh không, anh ta dùng chiến thuật lặp lại để câu giờ.

Con gì ra đây Tui bốc cờ ra. Cờ ra con mấy Con gì ra đây.

Page 26: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 126

Có thể trở thành: Con gì ra đây / Tui bốc cờ ra. Tui bốc cờ ra /Cờ ra con mấy Cờ ra con mấy / Con gì ra đây. . .

hay chung cả hai thêm chữ và lặp lại: Tề Thiên Đại Thánh / ở động thủy liêm, học được phép tiên / càn khôn quấy phá, gặp Phật Như Lai / hoá phép bàn tay, hoá núi Ngũ Hành / đè con khỉ đột. Đè con khỉ đột / là con số M ỘT. Là con số Một / rồi cờ ra con mấy. Cờ ra con mấy / con mấy gì đây, con số gì đây. . .

Sự lặp lại thường với mục đích xác nhận con số: . . Con gì nó ra đây / Con ba mươi hai Con ba mươi hai / Là con ba con hai. . . .

Theo dòng nước chảy / là con bảy mươi bảy Con bảy mươi bảy / là hai con bảy.

IV. Cách gieo vận. Ngôn ngữ Việt có nhiều nhạc tính vì vậy

bài lục bát nào tự nhiên cũng là bài hát rồi. Vè và lý cũng vậy. Vè Lô Tô không có qui luật gì về cách gieo vận nhưng nếu có vận bài vè nghe thích thú hơn. Vì vậy người chơi Lô Tô phần đông chỉ để nghe hô vè chứ mục đích được thua chỉ là chuyện phu. Quan sát những câu vè ta thấy cả hai lối yêu (gieo vần giữa) và cước (gieo ở cuối câu).

Yêu vận "ấy" như: Cờ ra mà con mấy / Chưa thấy con cờ ra Tui bốc con cờ ra / Rồi cờ ra con mấy? . . .

Cước vận như: Lô tổ, lô tô / quý cậu quý cô. Muốn chơi lô tô / thời nghe mà cho kỹ. Nghe mà cho kỹ / kẻo mất con cờ kinh. Lỗi ấy tại mình /đừng trách tui mà hô lộn, Vòng cầu đã quay trộn / tui bốc con cờ kinh. Con số gì đây / con gì nó ra đây. . .

V. Vận bắt buộc Vận bắt buộc là vận gieo vào con số. Hình như đây là luật thơ duy nhất của vè Lô Tô. Vận bắt buộc này tuy không cố ý nhưng cũng có lý do là tăng thêm sự thích thú cho người đánh Lô Tô đoán con số gì sẽ ra dựa trên vần của bài vè:

... Tha hồ mà gải, Là con số bảy. ...

Vừa khóc vừa la, Là con số ba. ... Em vội cuốn mền, em xách chiếu theo ai, Em xách chiếu theo ai, là con ba mươi hai.

Lá số Lô Tô Việt Nam

Bài Vè Lô Tô 10 Con Số Tiêu Biểu:

Con số 01 Cờ ra con mấy Con mấy cờ ra ...

Tề Thiên Đại Thánh ở động Thủy Liêm, học được phép tiên, càn khôn quấy phá, gặp Phật Như Lai hoá phép bàn tay, hoá núi Ngũ Hành, đè con khỉ đột. là con số MỘT ! Con số 02. Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc Em có chồng anh tiếc lắm thay ! Ba đồng một mớ trầu cay Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không ? Bây giờ em đã có chồng Như chim vào lồng, như cá cắn câu. Cá cắn câu biết đâu mà gỡ Chim vào lòng chẳng biết được ai. là con Số HAI Con số 03. Nghe không anh não nề mà thê thảm, Những chiều buồn ngồi ngắm mây trôi, Nổi lòng đày đoạ ai ôi,

Page 27: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 127

Vì ai em phải trọn đời nhớ thương. Sầu canh cánh bên lòng thổn thức, Biết cậy ai gỡ mối tơ lòng, Đêm khuya thổn thức một mình, Phòng loan em xé tan tành mà gió qua ... Con số ba là con số BA ...

Con số 04. Chúc mừng cô chú, Trúc mả thanh mai. Xứng lứa vừa đôi. Đẹp quá đi thôi Xóm làng hâm mộ. Ngọc tàng ẩn lộ Sáng chói rạng ngời Tiếng tốt để đời. Nơi nơi chốn chốn Cờ ra số Bốn Là con số BỐN

Con số 05 Ai ơi đừng lấy học trò Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm Hay nằm thời có võng đào Dài lưng thời có áo bào vua ban Hay ăn thời có gạo kho Việc gì mà chẳng ăn no lại nằm Ấy là con số NĂM Con số 06. Than vắn thở dài, chỉ hoài phí sức Số mình cơ cực, đành chịu vậy thôi Nửa khóc nửa cười, sống qua ngày tháng ở đời thiệt chán, xuống tóc cho mau Ra con số sáu Số sáu, số SÁU

Con số 07. Bá Nha, Tử Kỳ, tình bạn cố tri Tử Kỳ đã chết, đâu còn tri kỹ, Đâu nữa cung Đàn, Nên Ông ngỡ ngàng Ôm Đàn mà bẻ gẩy, Là con số BẢY

Con số 08. Nghĩa mẹ công cha Phía nào cũng nặng Tợ bể tợ non Con giữ lòng son Sớm thăm tối viếng Nắng mưa xoay chuyển Vẫn giữ một lòng Theo thẳng tránh cong Đơn sai chẳng dám

Cờ ra số tám Là con số TÁM

Con số 09. Nắng ở Tây Nguyên nắng xuyên vào Quảng Trị, Nắng vào tỉnh lỵ xứ Huế, Thừa Thiên, Nắng mới đẹp duyên Quảng Nam, Đà Nẵng, Nắng vàng đi thẳng Phú Quý, Nha Trang, Nắng vào Phan Rang , Rồi qua Phan Rí, Nắng đi mải miết Thành phố Tây Ninh, Ra Con số chín Là con số CHÍN ...

Con số 10. Tiếp theo đây là Mời nghe cho kỷ… Cờ ra con mấy Con mấy cờ ra .. Gìn dáng giữ da Quý cô quý bà Công dung ngôn hạnh Người đẹp đừng chảnh Không đẹp chớ lo Tiếng tốt thơm tho Nằm trong tâm khảm Sắc tài chỉ tạm Quý ở đạo người Là con số MƯỜI

Hình ảnh chơi Lô Tô trong gia đình

Tú Sinh

Page 28: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 128

Ðồng Hương Trà Vinh họp mặt mừng Xuân Giáp Ngọ 2014 David Nguyễn

Lúc 11 giờ 30 sáng ngày Chủ Nhật 9 tháng 2 năm 2014, Hội Ái Hữu Trà Vinh họp mặt trong niềm hân hoan đón Xuân Giáp Ngọ tại nhà hàng Emerald Bay thành phố Santa Ana. Đây là buổi họp mặt tân niên lần thứ 14 của đồng hương Trà Vinh.Từ 10 giờ sáng Ban Tổ Chức cùng các đồng hương nôn nóng lo lắng cho ngày Hội đã tề tựu nói cười huyên thuyên. Nhiều vị từ nơi xa, họ đến rất sớm, chúng tôi đến hỏi chuyện thì được biết:

Đến từ Việt Nam :Ông Trần Tiến Quang , Ông Hà Kim Vọng (Cây săng Kim Thành Lợi ở chỗ bến Xe đò Trà Cú, Tiểu cần, trước 1975), Bà Trần Yến Xuân. Đến từ Hoa Thịnh Đốn : Ông Trần Bình Nam và Bà Mary Chi Ray. Đến từ San Jose ; Ông Đàm Hữu Huy, Bà Lâm Thị Hoa. Đến từ San Diego Ông Nguyễn Duật, Bà Hàng Châu Trinh, Ông Trần Trọng Lành, Bà Lê Ngọc Hân, Ông Phạm Sinh,. Đến từ El Monte Los Angeles Ông Bà Trần Hưng Đạo, từ Covina Ông Bà Phạm Ngọc Quang, Tustin Bà Trần Nhục Chinh Hungtinton Beach Ông Bà Phạm Quang Hiển… Đặc biệt hôm nay, một đồng hương Trà Vinh đến từ Atlanta – Georgia là Cựu Đại Tá Huỳnh Văn Chính Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 16 / Sư Đoàn 9 Vùng 4 chiến thuật sau đó làm Tỉnh Trưởng Tỉnh Rạch Giá 1967-1972 và Bà Mary Chi Ray Chủ Tịch Nghị Hội Người Việt vùng Washington Dc. Ngoài ra có Cụ Huỳnh Văn Lang Cựu Giám Đốc Viện Hối Đoái nền đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa và Cụ Cựu Thẩm Phán Trần Gia Tá VNCH đến từ San Diego đã có mặt vào giờ phút đâu tiên trong phần tiếp tân.

Để tưởng nhớ công ơn bậc tiền nhân đã có công dựng và bảo vệ xứ Trà Vinh thân yêu, ban tổ chức và các cụ cao niên cùng đồng hương đã dâng hương trước bàn thờ trang nghiêm. Phần chúc Tết bằng 3 thứ tiếng (Việt, Khmer, Hoa). Sự hiện diện các em trong Gia Đình Phật Tử Kỳ Viên liên tiếp suốt từ 12 năm qua đảm nhận phần múa lân và những điệu vủ quê hương duyên dáng rất công phu làm cho chương trình văn nghệ ngày hội Xuân Trà Vinh thêm phần vui tươi đặc sắc. Tiếp theo, Giáo Sư Văn Tường Hội Trưởng có lời chúc tết quý đồng hương và trình bày sơ lược về hoạt động của hội trong năm qua.

Trước khi dùng bữa ăn trưa, toàn Ban Van Nghệ Trà Vinh hát bài Ly Rượu Mừng (Phạm Đình Chương) như cùng nâng ly rượu chúc mừng năm Mã Đáo Thành Công 2014.

Các tiết mục ca, múa, hát do cây nhà lá vườn với nhiều giọng ca tài tử xen kẻ với giọng ca chuyên nghiệp là ca sĩ Hoài Nhân làm cho chương trình văn nghệ thêm phần hào hứng.

Trong buổi tiệc tân Xuân.năm nầy ngoài phần chúc thọ quý cụ ông cụ bà trên 77 tuổi, lì xì cho các cháu thiếu nhi còn có phần Vinh Danh Cụ Cố Vấn Trưởng cũng là Thành Viên Sáng Lập Hội Trà Vinh nầy đó là Cụ Trần Xiều.

Ông Nguyễn Văn Vui, trưởng ban tổ chức tiệc Xuân, đã trân trọng trao 1 tấm Plaque cho Đại Diện Gia Đình là Ông Huỳnh Kim Tiến nhận thay, vì lẽ Cụ Trần Xiều tuổi thọ đã trên 95 nên không tiện đến dự. Trong khi đó thì Ông Võ Văn Diệu đọc tiểu sử của Cụ. Sau đó là những trang pháo tay nồng nhiệt hân hoan vui mừng.

Tiếp theo, Ông Võ Trung Tín, trưởng ban báo chí giới thiệu và phát hành đặc san thứ 14. . Cũng trong đề mục nầy Ông cũng đã cảm tạ những mạnh thường quân ủng hộ, và đăng quảng cáo, sau đó là bán đấu giá Bộ Đặc san 14 quyển đóng thành tập. Ông Đàm Hữu Huy đã thắng, mua với giá 200$. Được biết, trước đó , Ông Huy đã ủng hộ mua tại San José 38 quyển để tăng bạn bè.

Sau đó là phần xổ số lấy hên đầu năm. Người khai mạc buổi khiêu vũ lại là người may mắn trúng giải nhứt đó là Ông Hà Kim Danh, một trong những thành viên sáng lập. Giải kế tiếp là Ông Trần Trọng Lành, Đại diện của Hội ở vùng San Diego…

Được biết sinh hoạt họp mặt của hội này một cách đều đặn một năm hai lần: đầu năm âm lịch và picnic mùa hè vào trung tuần tháng 7. Trong những lần họp mặt mùa hè mọi người luôn được thưởng thức bún nước lèo vì mỗi khi nói đến:

Trà Vinh có bún nước lèo, Có chùa Ông Mẹk, ao đào Bà Om.

David Nguyễn

Page 29: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 129

Chúc Xuân đồng hương

Đoàn Lân GĐPT Kỳ Viên khai Xuân

Vũ điệu Lầm Thôn không thể thiếu

Chúc Thọ các Cụ Bô Lão

Niệm Hương Quốc Tổ

Tuổi Trẻ Góp Vui

Các Cụ “Già Làng” Trưởng Lão Trà Vinh

Cụ Hội Trưởng lì xì Ông Địa

Page 30: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 130

Tập thơ mới của Huỳnh Tâm Hoài

qua bài giới thiệu của nhà thơ Lưu Trần Nguyễn Lời Giới Thiệu của BBC: Huỳnh Tâm Hoài, là một tác giả quen thuộc của Đặc San Trà Vinh, Anh cũng là một thành viên trong Ban Biên Tập, mời qúi Đồng Hương theo dỏi bài giới thiệu về Tập Thơ của Anh qua ngòi bút của Nhà Thơ LƯU TRẦN NGUYỄN

Con ngựa già trên thảo nguyên khô Con ngựa già lang thang trên cánh đồng

quá khứ, dẫu đã mỏi vó chồn chân vẫn mơ về miền thảo nguyên xưa, hí vang câu "Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi". Con chiến mã hí giọng bi thương đó chính là người lính tuổi xế chiều Huỳnh Tâm Hoài. Anh đã trở về sau cuộc chiến, không luyến tiếc tuổi thanh xuân đã hiến tặng trong thời binh lửa, bởi nếu luyến tiếc thì cái giá trị bảo vệ tổ quốc không còn mang ý nghĩa. Huỳnh Tâm Hoài có tiếc chăng là tiếc đã không có sức thay trời đổi đất để san bằng giặc phương Bắc, nên đành thân phải trở thành người mang 2 quốc tịch, ngậm ngùi nhìn lịch sử được vẽ một trang mới, bởi nhóm cuồng đồ vô tổ quốc, nên nỗi đau cứ nhen nhúm trong lòng anh:

Lịch sử sang trang cuộc đời khánh tận Chia cách đứa về, đứa phơi thây Đất Bắc, Phương Nam, anh hùng tận Thôi hết một thời nợ súng gươm..

(Mùa Xuân Của Người Lính Già Xa Quê) Năm 1967, theo lệnh gọi tất cả thanh niên

cùng tuổi Huỳnh Tâm Hoài, trong đó có tôi, gia nhập khóa 25 Trừ Bị Thủ Đức, 9 tháng quân trường, 7 năm chinh chiến, 7 năm tù đày trên chính quê hương mình, chúng tôi chưa hề biết nhau. Nhưng trái địa cầu tuy lớn, nhưng lại nhỏ nhoi vô cùng. Chúng tôi gặp nhau như một sự tình cờ trên mảnh đất hứa của nhân loại. Sacramento, nơi cư ngụ của bầy chim mỏi cánh. Cùng mang tâm trạng của người lính thất trân, Huỳnh Tâm Hoài suốt đời ngoái nhìn lại những vết chân thanh xuân trên đôi giầy sault lấm bùn, để rồi lúc khóc đau thương, lúc cười uất hận. Ai có thể níu kéo được thời gian, đòi lại những gì đã mất, như kéo lại viên đạn đồng đã rời khỏi nòng súng bay đi và dừng lại trong lồng ngực kẻ thù. Người lính về chiều Huỳnh Tâm Hoài đã bị dằn vặt bởi cái hồn thơ cứ lãng đãng quẩn quanh trong tiềm thức sâu thẳm của người lính không giữ được quê hương .

Nghe hơi đá núi khuất bóng ngày Khuấy trong tĩnh lặng giọt sương rơi Ngàn năm chìm lấp hồn thiên cổ Đá chợt cau mày với cỏ cây Đợi khi trăng ngậm mây đầu núi Đá trở mình nghe tiếng thở dài

(Đá Thở Dài)

Quá khứ vẫn thường là niềm hãnh diện cho tuổi già. Nếu thảo nguyên xanh từng ve vuốt vó ngựa chinh yên một thuở, thì người lính tóc hoa râm Huỳnh Tâm Hoài cũng đôi khi bừng lên cái hào khí một thời chiến chinh, hiên ngang nón sắt áo trận. Hãy nghe Huỳnh Tâm Hoài nói về chiếc nón sắt, để thấy một chút buồn hiu hắt

Chiếc nón sắt ngày nao trên chiến địa Ở trên đầu người lính chiến xông pha Chiếc nón sắt che đạn vèo trước mặt Gió Tháp Mười đồng nóng cháy màu da .......................................................... Chiếc nón theo đoàn quân muôn trận Mồ hôi chảy ròng thơm da thịt chiến binh Một buổi kia khi tan hàng rã trận Chiếc nón đành vứt bỏ lạnh bờ hoang

(Chiếc Nón Sắt Bìa Rừng)

Chiến tranh thường đồng nghĩa với những mất mát đớn đau. Chẳng có một người lính chiến nào lại không một lần khóc bạn. Huỳnh Tâm Hoài cũng mang nỗi niềm khôn nguôi đó suốt chặng đường chinh chiến ngày xưa. Dẫu hiên ngang trong lúc đối diện quân thù, nhưng sao anh có thể dấu được chất thơ trong huyết quản của mình, một con người bình thường, để rồi cũng phải một lần rơi lệ khi nghe tin một người bạn đã đền xong nợ nước:

Hụt thêm một đứa trên trần thế Cứ mỗi lần ...một thằng ra đi Thẫn thờ buồn quá đôi mắt ứa Nghĩ đến bao giờ đến lượt đây? (Khóc Bạn)

Người lính có trái tim đầy thơ Huỳnh Tâm Hoài, đã cưu mang quá nhiều những hình ảnh hắt

Page 31: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 131

hiu vàng vọt của dĩ vãng, tạo cho thơ anh có những niềm riêng mà lại chung. Chẳng hạn như bóng dáng của một cố nhân, mà anh đã tình cờ bắt gặp trong một lần hành quân qua khu xóm tuổi thơ ngày nào. Cố nhân nay đã trở thành một thiếu phụ não nùng, tan tác trong buổi chiến tranh, và người lính Huỳnh Tâm Hoài cũng đành quay lưng để dấu đi tiếng thở dài, thương xót cho thân phận tha nhân và cũng thương xót cho chính thân phận mình

........................... Rồi xa - xa mấy xuân thì Giặc qua xóm nhỏ phân ly mất rồi Một hôm gặp lại em tôi Bế con giữa chợ em ngồi bán buôn Tôi người lính trận gian truân Nhìn em tôi đứng quay lưng buồn rầu

(Ngày xuân mất rồi)

Quá khứ bi hùng không những chỉ có trên quê hương khốn khó, mà ngay chính nơi mảnh đất hứa này, đã trải qua hơn 20 năm lăn lóc áo cơm, nay tuổi xế chiều nhìn lại, cũng trở thành dĩ vãng xót xa. Chàng tuổi trẻ khóa 25 ngày xưa hào hùng tay súng túi thơ hôm nay đã thực sự thả trôi theo giòng về phía mặt trời lặn, buồn tênh.

Tháng sáu tới lại thêm ngày sinh nhật Thoáng đời qua chừng như vội đi nhanh Sợi tóc trắng càng dầy trên mái tóc Ta soi gương xa lạï tưởng như lầm ......................................................... Tháng sáu tới tuổi già còn ứ đọng Những âu lo chật vật kiếp nhân sinh Đời tha hương nhìn mây xa biển rộng Ở đầu kia vời vợi đất quê mình .......................................................

( Lại sinh nhật ) Và hoài vọng nuối tiếc.

Ngày xưa chinh chiến đời trai trẻ Hưng phế một thời cũ đã qua Mươi năm xa xứ nơi đất lạ Cứ mỏi mòn trông ngóng nước nhà

(Mơ ngày thay áo non sông) "Giòng Trôi Về Phía Mặt Trời Lặn" gồm

200 bài thơ, gần như gói trọn toàn bộ những hình ảnh và tâm như của một đời người. Con chiến mã về chiều Huỳnh Tâm Hoài tiếc nuối thời tung vó giữa thảo nguyên xanh, hí lên một trường thiên, bi, hùng ca, đó là những vần thơ mang âm hưởng ngũ cung ngậm ngùi đầy tình nhân bản.

Ở đây trong hạn hẹp của trang giấy, người viết chỉ nhắc đến một phần rất nhỏ nhoi trong tâp

thơ chứa toàn bộ tâm tư tác giả. Đó là những ký ức tuổi 20 và cuộc chiến giữ quê hương không trọn. Huỳnh Tâm Hoài, con chiến mã về chiều nằm nhớ lại khung trời dĩ vãng, nuối tiếc những tháng ngày trên thảo nguyên úa vàng xưa cũ, ngậm ngùi thôi.

Mây không trôi nên chiều như đứng lại Nắng nghiêng sầu chiếc lá nhỏ đong đưa Con chim đứng nhìn trời xa ngơ ngác Như nỗi buồn chợt đến rất xa xưa

(Điệp Khúc) Sacramento tháng 12 năm 2010

Lưu Trần Nguyễn

CÁM ƠN ĐỜI

Cám ơn những hạt mầm Nở cây cỏ màu xanh

Cánh hoa đẹp tuyệt vời Trái ngọt mát đôi môi

Cám ơn cả bầu trời Buổi sáng mây hồng bay

Rực cuộc đời mê say Buổi tối trăng hoàng ngân Hồn phiêu phiêu cõi trần Ngồi bên hương tóc em

Cám ơn nốt nhạc bổng trầm Thăng hoa niềm yêu thương

Hòa cùng nhịp trái tim Biết bao điều nhân gian

Chất chứa trong tâm hồn

Cám ơn những câu thơ Cám ơn những bài văn Mở ra đọc từng trang

Trải muôn điều trong đời Bằng trái tim tình người

Cám ơn mẹ cho con Trái tim đầy nhân ái

Dể rung cãm Biết hòa vào cuộc sống

Với những dòng nhạc dòng thơ Biết câm hờn giả trá

Biết ngộ cãm tình yêu Xin cám ơn đời bất tận…

HUỲNH TÂM HOÀI California 1/2009

Page 32: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 132

Page 33: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 133

DANH SÁCH GIẢI KHUYẾN HỌC TRÀ VINH Văn phòng nhận được tính đến ngày 1/7/2014

Hằng năm, trong buổi sinh họat ngoài trời, Hội thường khen thưởng một số thiếu nhi thuộc gia đình của HỘI VIÊN Hội Ái Hữu Trà Vinh học giỏi ở trường Mỹ bậc Trung Học và bằng khen học Việt Ngữ ở trường Việt. Phần thưởng có tình cách tượng trưng, không đáng là bao, nhưng giá trị tinh thần thì rất quý. Tên tuổi các em được lưu vào Bản Tin Hè, vào Đạc San Xuân. Đặc San Xuân của Hội được lưu truyền ở các tủ sách thuộc gia đình Người Trà Vinh và các thư viện có người Việt Nam sinh sống trên thế giới. Điều nầy cũng rất đáng hãnh diện, tuy nhiên, giá trị thiết thực là Hội quan tâm đến những nhân tài tương lai của xứ sở Trà Vinh. Công việc nầy , chúng tôi cố gắng duy trì, để thấy rằng , hằng năm tên các Cháu vẫn còn trong danh sách và lại có thêm những tên mới nữa...

Sau đây là danh sach THIẾU NHI TRÀ VINH xuất sắc trong niên học 2013-2014 ở trường Mỹ và trường Việt Ngữ.. 1. Henry Phạm , cháu nội đồng hương hội viên

Phạm Văn Thận Anheim CA 2. Kevin Phạm, cháu nội đồng hương hội viên

Phạm Văn Thận Anheim CA 3. Christina Đỗ, cháu ngoại đồng hương hội viên

Phạm Văn Thận Anheim CA Các cháu nầy tốt nghiệp, BTC xin chúc mừng nhé 4. Weston Ngô Dương, con Anh Chị Dương Văn

(phụ trách trang Web TV) Weston lên đại học, Ba nói nhường phần lại cho các em nhỏ. Hoan Nghinh!

5. Katie Vũ, cháu ngoại của Anh Chị Phó TTK Nguyễn Văn Nhựt đã tốt nghiệp, chúc mừng! !

6. Justin Đỗ, Cháu ngoại Anh Chị Phó Hội Trưởng Nguyễn Văn Thành

7. Johnny Đỗ, Cháu ngoại Anh Chị Phó Hội Trưởng Nguyễn Văn Thành, vẫn tiếp tục học hành giỏi gian. Ông Ngoại gởi 20 đô thưởng hai cháu đấy.

8. Nguyễn Phạm Tâm Anh, Cháu nội Anh Chị Hội Phó Nguyễn văn Thành đã tốt nghiệp BTC xin chúc mừng, chúc mừng

9. Lê Phương Hồng Lan, cháu ngoại Bà Bùi Hải Đường (Ban Chấp Hành)

10. Lê Phương Anh Tuấn, cháu ngoại Bà Bùi Hải Đường (Ban Chấp Hành)

11. Nguyễn Quốc Vinh, cháu nội Bà Bùi Hải Đường( Ban Chấp hành)

12. Sarah Ngô Trang, cháu ngoại anh chị thủ quỷ Võ Văn Diệu

13. Kevin Ngô Minh Trí, cháu ngoại anh chị thủ quỷ Võ Văn Diệu Santa Ana.Cali

14. Emily Ngô Trúc, cháu ngoại anh chị thủ quỷ Võ Văn Diệu Santa Ana.California. 3 cháu vẫn học xuất sắc, ông bà ngoại gởi 50 đô tặng mỗi cháu 10 đô. Còn dư tặng các cháu khác. BTC cám ơn và hoan nghinh Ông bà Võ Văn Diệu.

15. Alton Phạm Con của Văn Mỹ Hằng và Phạm Đức (Cháu ngoại Văn Tường)

16. Krista Phạm nt 17. Nathalie Thach, cháu nội anh chị hội phó

Thạch Bông, Anaheim,CA 18. Thúy Vi Thạch cháu nội anh chị hội phó

Thạch Bông, Anaheim,CA 19. Linh Thạch, cháu nội anh chị hội phó Thạch

Bông, Anaheim,CA. Các cháu đã lên Đại học và tốt nghiệp. BTC xin chúc mừng.

20. Leyna Vương, cháu ngoại Nguyễn Phước Thạnh ( La Purta) Hội viên thường trực

21. Mạch Christie , Cháu nội Ông bà Mạch Phước Toàn , Hội viên thường trực.

22. Mạch Janie , nt

DANH SÁCH đồng hương Mạnh Thường Quân ủng hộ khuyến học nhận được tại văn phòng: 1. Ông Nguyễn Văn Thành Cash 20$ 2. Ông Văn Tường Cash 50$ 3. Ông Võ Văn Diệu Check 50$ 4. Ông Phan Trung Nghĩa Check 100$

( NL 20$ Khuyến Học 80$) 5. Ông Kiên Rệm Check 200$ ( NL 20$ Khuyến Học 180$)

Vậy quỷ khuyến học tổng cộng là 380$. Của ít lòng nhiều, bà con nào có lòng ưu ái công việc nầy, xin đến gởi ngay cho Anh trưởng ban tổ chức Picnic Hè BTC rất hoan nghinh và hoan hỉ.

Danh sách còn tiếp theo dấu bưu điện Cali, 1/7/2014

Huỳnh Trung Thomas (Trưởng ban tổ chức)

Page 34: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 134

Tâm Tình Người Trà Vinh…

Trà Vinh, những ngày tháng qua... Nhớ 15 năm trước, nhóm người chúng tôi,

( Trần Xiều, Văn Tường, Võ Văn Diệu, Võ Trung Tín, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Vui, Lâm Vĩnh Hiếu, Huỳnh Kim Tiến, Hà Kim Danh, Nguyễn Tấn Tài, Thạch Tạo ) theo lời đề nghị của Anh Thạch Bông, mỗi người góp 10 đô để vận động thành lập Hội tại nhà sách Văn Bút 9191 Bolsa Ave # 109 Westminster , mới ngày nào, mà nay đã 15 năm. Khi đó chúng tôi hầu hết đầu tóc còn xanh xanh, nay đã ngã màu hay bạc phơ. Trẻ nhứt cũng là trên thất thập. Ngồi tính lại sổ đời thì mừng thay, tuy tuổi đời chồng chất, nhưng tinh thần vẫn trẻ trung linh hoạt và tha thiết với tình quê nhà... Ban hội tề chúng tôi vẫn một lòng duy trì những sinh hoạt mà trước đó đã đề ra và coi đó như là truyền thống của Hội gắng sức mà bảo tồn, ngoài ra, cũng vui mừng hơn nữa những năm gần đây, một số đồng hương Trà Vinh thuộc thế hệ trẻ hơn đã xắn tay áo nhảy vào cuộc như các em Trinh, Duật, Văn, Trung, Bằng, Hiếu...cho nên tình hình Hội nhà thấy phấn khởi và yên tâm... những gì kẻ đi trước tạo dựng ra sẽ ... hy vọng còn mãi mãi.

Gia đình cháu của Từ Văn Thọ cư ngụ tại

Đức Quốc ghé VP và xin gia nhập Hội Thời gian qua, về nhân sự có nhiều mất

mát, nhưng thiệt thòi lớn nhất là sự ra đi của Bác Hai Trần Xiều, cây cổ thụ của Hội. Những lần họp hành, tổ chức nầy nọ, lòng tôi cảm thấy buồn buồn . Những buổi sáng trời ui ui không năng, có mây thấp mờ mờ che phủ, nhìn những cục đá trứng, to to, mà cụ nhặt ở đâu không biết, Cụ đem đến để

dằn lên bàn báo cho gió thổi khỏi bay, nay còn đó. Mỗi sáng đốt nhang bàn thần tài, làm sao tôi quên được, hình ảnh Cụ , quỳ van vái ... “ngũ phương, ngũ thổ, ngũ hành..” gì gì nữa Cụ vái một thôi một hồi...tội nghiệp, tình đời mà , ai thực sự thương người thì người thương lại. Cụ sợ tôi bán ế !

Một gia đình ở Úc ghé thăm Hội

Về sau nầy, những năm 90, tuy chân cẳng yếu, nhưng hể đi về hướng Bolsa là ghé Hội. Rồi lại nhắc tôi nhớ tập luyện . Không phải với tôi là vậy, mà tôi thấy đối với mọi người Cụ thăm hỏi thực rất tình người... những dòng chất phác thực thà nầy là để nhớ Bác Hai. Văn phòng Hội có lẽ vì là trung tâm Sài Gòn Nhỏ, nên thỉnh thoảng có nhiều gia đình đồng hương ghé thăm, gia nhập, đóng niên liễm...Hôm rồi có gia đình Anh Từ Đông Hải từ bên Đức tới, Famille với Ông Từ Hố, Từ Ánh, Từ Thủy có đôi lời mà tôi cần phải ghi lại để diễn tả lại tấm lòng của một người ở phương xa mà lòng lúc nào cũng lo cho sự trường tồn của Hội ( Tâm trạng giống như quý Ông Đỗ Minh Nghĩ ở Canada, Thạch Nhâm Florida, Phan Trung Nghĩa Oklahoma, Kiên Rệm Florida, Uông Bình Chương NY.....)

Anh Hải đưa tôi 50$ nhờ ghi là gia nhập hội đóng niên liễm và còn dư là ủng hộ. Rồi Anh Hải nói tiếp . Mấy năm trước tôi có qua và ghé ở đây, Chị đưa 1 cuốn đặc san, tôi tưởng biếu, khi về Đức, tôi khoe với Ông Trần Bá Kiết. Ông Kiết rầy tôi và nói “Phải đóng niên liễm, ủng hộ, để ban điều hành có tài chánh để duy trì” Tôi nói: Bác Kiết hằng năm chẳng những gởi những đồng Euro về hội mà Bác còn vận động rồi đóng niên liễm luôn cho người mới gia nhập nữa .

Bài viết tạm dừng sẽ tiếp vào đặc san Trà Vinh số 15

Văn Tường

Page 35: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 135

(Hoàng Hậu Ngọc Vạn) Steven Rem Kien

Vào khoảng thế kỷ XVII - Tây Lịch, nước Đại Việt có cuộc nội chiến dai dẳng giữa hai thế lực thù địch: Chúa Trịnh (Đàng Ngoài) và Chúa Nguyễn (Đàng Trong) ! Cùng thời điểm đó, nước láng giềng Chân- Lạp cũng gặp cảnh khó khăn không kém: sự khuấy rối biên thuỳ phía Tây do Xiêm La phát động. Khi gặp gian nguy như vậy, cũng là nghiệp duyên dong rủi cho hai nước kết thân với nhau, "Đông có mầy Tây có tao" ! Vì thế, hai bên Đại-Việt và Chân-Lạp thường gặp nhau để bàn bạc việc nước mỗi khi có biến động xẩy ra.

Công Chúa Ngọc Vạn

Rồi có một lần !...khi hai bên họp bàn xong và tạm ngưng để giải lao, thì đột nhiên Chúa Sãi ra lệnh cho hai Ái Nữ của Ngài đến chào quan khách tại phòng khánh tiết. Đó là hai Công Chúa Ngọc Vạn và Ngọc Khoa. Mọi cặp mắt đều dán vào hai Nàng Tiên đang tha thướt lướt qua hàng ghế trong phòng họp. Một nàng còn bé bổng thôi, nụ cười hồn nhiên, nàng kia, khoảng đôi tám, đôi chín gì đó, chững chạc và dáng kiêu sa, cả hai chắp tay chào hỏi các Quan Khách, đặc biệt, cô Chị (Ngọc Vạn), vừa cười tủm tỉm vừa nói: "Chum reap sua lốk neak, sóc sa bai tê ?"- chào Quí Vị, mạnh giỏi không?- giọng Nàng thanh thót như chim hót, phát âm tiếng Chân- Lạp, dĩ nhiên còn sai chút ít, nhưng ôi thôi, nghe rất có duyên, ai nấy đều bị hốt hồn, quên cả câu đáp lại, chợt một Vị trong phái đoàn, sau khi định thần, kịp trả lời "o kune chreune"-cám ơn nhiều!

Từ ngày Chúa Sãi hứa gã Công Chúa cho Trẫm - Nhà Vua thủ thỉ với một Cận Thần ngồi bên cạnh - ta rất hoan hỉ, tuy ta chưa gặp mặt Nàng bao giờ, nhưng chỉ nghe các Khanh mô tả dung nhan và ngôn từ của Nàng, ta cảm thấy vô cùng ái mộ Nàng ! Nhưng, từ ngày đó đến giờ, cũng chưa nghe động tĩnh gì hết, cũng sốt ruột !, không biết có gì trục trặc hay không? - Tâu Bệ Hạ,- vị Cận Thần đáp - không có " tin ", tức sẽ có " tin tốt "! - Trẫm cũng hy vọng như vậy! - Nhà Vua tự trấn an. - Vả lại, - Nhà Vua nói tiếp - chuyện an ninh Quốc Gia chưa được khả quan, có lẻ Chúa Sãi cũng như Trẫm, cả hai đều dốc lòng lo chuyện Đất Nước trước đã, việc gây dựng gia đình cho con cháu thì thủng thẳng !... Kể từ khi hai nước láng giềng Đại Việt/Chân Lạp thường xuyên tiếp xúc với nhau, khi thì bên Thuận Hoá vào Oudong, lúc thì bên Oudong ra Thuận Hoá để hội họp, ta thấy " huynh đệ chi binh" ngày càng đầm ấm! Ngày trước thì thấy đoạn đường cách hai Kinh Đô xa vời vợi, nay thì " tuy xa mà gần "! Hai bên không ngớt lời khen nhau qua lại, khi hết chuyện khen về ' non nước hữu tình ' của mỗi bên, họ quay sang khen về các món ăn đặc sản của nhau: Thuận Hoá khen "cá" Biển Hồ " thịt mềm "; Oudong khen "cá" Sông Hương "thịt béo" !, v.v...

Hoàng Thái tử Khmer (ảnh minh họa)

Rồi có một ngày nọ, mình không mong đợi mà tin vui chợt đến! " Phủ Chúa Thuận Hoá hân

Page 36: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 136

hạnh báo tin cho Triều Đình Oudong thẩm tường: Chúa Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên thuận gã Công Chúa Nguyễn Phúc Ngọc Vạn cho Samdach Preah Moha K'satt Chey Chetha Ti Pi*, Hoàng Đế Vương Quốc Khmer " ! Thế là Bộ Lể của hai nước Chân Lạp - Đại Việt được giao nhiệm vụ thi hành Chiếu Chỉ nầy. Ngày cữ hành Lể Vu Qui cho Công Chúa là một ngày lành tháng tốt, giáp Tết Nguyên Đán Âm Lịch, nhằm Năm 1620 Dương Lịch. Cuộc Đưa / Rước Dâu được tổ chức trọng thể, đúng phong tục nghi thức của hai Gia Đình Vương Giả Đại Việt- Chân Lạp. Khác với sự lo lắng của mình, ngày đến Oudong, bên Đàng Trai nghênh đón cực kỳ long trọng cùng với tiếng Chúc Lành " Sôpha Mongkol Youlong " - " Hạnh Phúc Bền Lâu " - đến với đôi Tân Lang/Tân Giai Nhân, Nàng rất hảnh diện đến rơi nước mắt khi nghe những lời Chúc lành ấy !...

Các Dinh Thự trong khuôn viên Triều Đình được trang trí nguy nga tráng lệ để nghênh đón Cô Dâu mới !

Về phương diện tình cảm, nhận định đầu tiên của Ngọc Vạn là ai nấy đều niềm nở với mình - không biết mình có chủ quan hay không ?- Tuy nhiên, mình vẫn lo: lo làm sao thích nghi được với hoàn cảnh mới, văn hoá và ngôn ngữ mới - mặc dù mình cũng được gia sư truyền dạy lúc còn ở quê nhà - để khỏi phụ lòng sự ưu ái của gia đình bên chồng ! Thôi, chuyện đó hạ hồi phân giải, mình xưa nay vẫn được tiếng là khôn ngoan, đẹp người đẹp nết mà !

Mà đúng như vậy thật, chẳng bao lâu, Ngọc Vạn, với sự đồng thuận của đa số Triều Thần, Nàng được tấn phong Hoàng Hậu Vương Quốc Khmer với Tước Hiệu là: " Somdach Preah Peach Cayodey, Preah Voreach K'sattrey "**.

Lể cưới được tổ chức trọng thể (ảnh minh hoạ)

MỘT GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC Từ ngày Ngọc Vạn và Chey Chetha Đệ

Nhị nên duyên Vợ Chồng, người ta ít thấy Nhà Vua xuất hiện trước Triều Thần! Cả hai dường như chỉ biết có tổ ấm của mình mà thôi!, họ quấn quít nhau như sam!, hảy thông cảm cho họ !... Nhưng, xét cho cùng, việc Quốc Gia Đại Sự đã có người lo, các Vị Văn Võ Bá Quan, các Thượng Thư của các Bộ dư sức lo rồi cần gì mà phải khuấy rầy Tuần Trăng Mật của đôi Uyên Ương nầy ?!

Năm khi mười họa, nhà Vua mới chủ toạ một buổi chầu Đại Triều một lần để nghe các bản tường trình của các Quan Văn Võ và đồng thời ra Chỉ Thị để các thuộc hạ thi hành, buổi họp thường kéo dài quá khuya, làm cho Ngọc Vạn hơi lo ! Nàng lo cũng phải, vì Phu Quân của mình được tiếng là hào hoa phong nhã, mà xung quanh Chàng toàn là các Phi Tần trẻ đẹp, chưa kể đến Ái Hậu Phà Luông, một Công Chúa Lào, sắc nước hương trời, vừa có một con trai với Chàng, "gái một con trông mòn con mắt ", chết được ! Mong sao cho ' trong ấm ngoài êm ', chứ kẻo mai ' tê ' Chàng có thay lòng đổi dạ, thì nổi sầu nầy, chứ Thiếp biết tỏ cùng ai ?. Mỗi lần về khuya như vậy, Chàng bị người đẹp vạch hỏi đủ điều, véo ngắt bầm mình!-: - Bửa " ni " Preah Aung *** đi " mô " ?, bên " nớ " có chi vui không mà lâu về " rứa " ? Nàng, vừa điều tra, vừa khóc thút thít – - Việc Quốc Gia Đại Sự không được khả quan! - Chetha trả lời - Trẫm bàn bạc với các Quan hơi lâu, Ái Khanh làm " răng " mà buồn " rứa " ? - Thiếp cũng bình thường, cám ơn Bệ Hạ, có điều Thiếp muốn nhắc nhở Preah Aung là nên thường xuyên thăm viếng Nhị Vị Tiên Cung Hoàng Hậu - đáng kính - đừng làm cái chuyện ' được mới nới cũ ' không tốt, Thiếp có tội chết ! - Ái Khanh chứ bận tâm, Trẫm biết người xưa có nói: " lập vườn thì phải khai mương, làm trai nhiều vợ, phải thương cho đồng "!, câu nầy Trẫm thuộc như cháo mà, cưng ! - Nhiều ' vợ ' là bao nhiêu vợ, hở Preah Aung ? - Thì cứ làm đúng như Ông Bà xưa đã nói " trai thì năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng ", như vậy Trẫm phải có 12 Bà mới phải, hỉ ?, chưa đủ túc số mà !? - Mệt mấy Ông quá!, phái nữ của tụi Thiếp luôn luôn bị thiệt thòi là cái chắc! - nói rồi, Nàng liếc xéo Chàng một cái, Chàng muốn té ngữa, con người Chàng bị thôi miên, thân Nàng mềm nhũn nằm gọn trong hai cánh tay chắc nịt của Chàng, Chàng phải bồng Nàng vào tư phòng ?!

Page 37: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 137

Rồi có một ngày kia, từ Chiến Trường xa xăm, Đức Phu Quân trở về với chiến thắng vẽ vang. Trong đám đông nghinh đón đoàn quân, Ngọc Vạn, trong trang phục xiêm y truyền thống, mắt đầm đề lệ châu, Nàng tiến sát bên Chàng thỏ thẻ: "Thiếp tưởng Chàng đi biền biệt, nay Chàng trở về với chiến công hiển hách, Thiếp tưởng như đang lặn ngụp trong giấc mơ!",- nói xong, Nàng tự buông tấm thân ngọc vào vòng tay rắn của Chàng Chinh Phu mà ngất đi ! ... Đám đông thấy vậy cũng lo, ai cũng tưởng Hoàng Hậu bị " trúng gió " !...

Ngọc Vạn nhõng nhẽo với Chetha : " Mình về Biệt Điện nghỉ ngơi, hỉ "? - đúng đấy - ...

Chiếc Long Sàng lộng lẩy toả hương phơi phới, Chàng Chetha đặt nhẹ tấm thân mềm nhũn của Ngọc Vạn xuống và Chàng, trong chiến bào còn lắm bụi sa trường, toan mở một chiến trận sáp lá cà thần tốc với người hậu phương nhưng, Chàng "cụt hứng"! Nàng khoát tay " khoan đã Anh yêu!, Anh hảy lo tắm rửa rồi nghỉ ngơi cho khoẻ, hẳn tính đến chuyện " kia ", có chi mà gắp gáp, của Anh vẫn là của Anh mà, làm bậy sẽ bị "cảm nắng" chết ! - Anh mà cảm cúm cái chi ?, xa Em chưa đầy một tháng mà xem chừng hơn mấy thế kỷ !, nghe Em, cho Anh một tí thôi ?!... - Phần Thiếp cũng rứa! - nàng cự lại - Thiếp cũng phải đi tắm gội và trang điểm một tí để xứng đáng với người hùng của Em chứ ?!... - Em khỏi phải tắm rửa chi cả, Anh thích Em để tự nhiên như rứa!, cần chi cái phấn son nhân tạo ấy chứ ?...

Ngọc Vạn thấy Chồng năn nỉ quá cũng mềm lòng, tội cho Chàng bấy lâu nay ở chiến trường xa xăm, thiếu bóng em gái hậu phương, thèm khát sự gần gủi nhau dường nào? (Thiếp cũng rứa !), đây không hẳng là một sự thèm khát thuần nhục dục, mà là một sự thương mến nhau trong nghĩa Phu Thê, đoạn Nàng buông xuôi tấm thân ngọc ngà, mắt lim nhim, sẳn sàng dâng cho Chàng ' toà thiên nhiên ' nầy để Chàng thỏa lòng khát vọng!...

Phút giây mê mẩn đã xong, Ngọc Vạn, một tay đặt lên ngực Chồng, âu yếm nói trong đê mê :" Preah Aung ơi!, Thiếp nghe người ta nói việc sinh con đẻ cái, mình muốn sinh trai hay gái là tuỳ mình, chứ không phải là do ngẫu nhiên đâu, phải vậy không, Mình ?" - À, chuyện nầy cũng không phải huyền bí gì, nó thuộc về thái độ của mỗi bên, chứ không phải thuộc về sức khoẻ của nhau!

- Thế là thế nào hởi Preah Aung ?, giải thích cho Thiếp nghe đi ! - Theo Trẫm nhớ lờ mờ Ông Bà ta nói - không biết các Cụ nói thật hay nói đùa - là như vầy :" Đêm nào mà Hoàng Hậu đến tìm Hoàng Đế trước, thì Hoàng Hậu sẽ sanh Hoàng Nam, đêm nào mà Hoàng Đế đến tìm Hoàng Hậu trước, thì Hoàng Hậu sẽ sanh Hoàng Nữ, vậy thôi !" - Cám ơn, Preah Aung, Thiếp hiểu rồi !!!...

Quốc Huy của Cambodia

Công bằng mà nói, Vương Quốc Khmer, dưới Triều Đại Hoàng Đế Chey Chetha Đệ Nhị, được mô tả là An Bình Thịnh Vượng nhứt so với thời kỳ sau khi Ngài băng hà. Về hạnh phúc lứa đôi, cặp Uyên Ương Chey Chetha - Ngọc Vạn được nổi tiếng là đẹp nhứt, lãng mạn nhứt trong hàng Vua Chúa thời bấy giờ. Nói về việc " phòng the ", thì, không biết bên nào " chủ động " trước, mà người ta thấy Ngọc Vạn đã hạ sanh hai lần đều là Hoàng Nam cả: lần đầu là Hoàng Tử Chan Ponhea Tô, kế đó là Hoàng Tử Chan Ponhea Nu !

Steven Rem Kien Florida, USA, 5/10/2014

Tham khảo / Chú Thích: - Wikipedia, L' encyclopedie libre. " Royaume du Cambodge ", Jean Moura. * Chey Chetha Ti Pi = Chey Chetha Đệ Nhị = Chey Chetha the 2nd = Chey Chetha 2ème. ** Tác giả xin dịch "thoát" từ tiếng Sanscrit : " Hoàng Hậu Thanh Cao, Ngọc Toả Ánh Hào, Phúc Hậu Vạn Niên ". *** Preah Aung: ( Hoàng ngôn ) = Chàng, Anh, Mình, Bệ Hạ... ( 2nd person singular, 2ème personne du singulier)

Page 38: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 138

BÀI CA VỌNG CỔ

Tác giả: Trương Thái Hòa.

Nói lối: Ai về miền quê ghé lại đây, Vào thăm quán nhỏ ở bên đường, Em vui chào đón người lữ khách, Dùng bánh quán em vị tuyệt vời. Ca VỌNG CỔ: 1- Bánh ống của em xin anh dùng thử, mùi vị thơm ngon đặc sản của quê… nhà, mời anh mua dài cái để làm quà, bánh nầy do chính tay em làm lấy, vừa mới ra lò hương vị thơm ngon; ai nấy đều khen do bàn tay em khéo, chọn bột cho đường thêm chút dừa khô, quạt lửa đun nồi cho nước mau sôi, để bánh ra khuôn trao người khách mới.

2- Chuyến xe đêm nay về thành phố, người khách vừa quen để lại nổi buồn, kẻ ở người đi em biết nói câu gì, nở nụ cười tuyển khách lên xe, ai có biết trong lòng em quặn thắt niềm đau;, người bộ hành khuất dạng ra đi, chiếc bánh cũng âm thầm nhả hương theo gió, khiến xui chi cho mình gặp gở, người không chung đường ngược chuyến tình duyên.

Nói Lối. Buổi chợ đã tan em còn thờ thẩn, Quẩy gánh ra về nặng trũi bước chân,

Nguời đi xa có trở lại nơi nầy ? Sao mình lại yêu người không quen biết.

Ca VỌNG CỔ: 5- Sáng nay cơn mưa đầu mùa rơi trên mái lá, giọt nước vô tình làm thấm ướt vai ...gầy, nhưng buổi chợ hôm nay vẫn đông đầy, trời mưa bông bóng phập phòng, em chưa chồng không biết đợi chờ ai; chắc tại duyên phần hay thiếu bà mai, để cho chiếc bánh nằm trên mâm chờ khách, ai xa xứ Đôn Châu rồi cũng nhớ, bánh ống của em đang đợi khách trở về.

6- Hò hơ buổi chợ đông trong lòng em vẫn nhớ, người khách bộ hành duyên dáng dễ thương, ai về xóm rẩy miệt vườn, cho em nhắn gởi, hò hơ... cho em nhắn gởi người vừa mới quen, buổi chợ chiều người phu đang quét dọn, vắng thưa người em nán đợi chờ ai, ngồi buồn đếm hạt mưa rơi giọt rơi tí tách lòng em u buồn.

Bánh em vừa mới ra lò, Nhớ ngày hôm trước chuyện trò với ai, Người đi em nhớ đêm ngày, Em đây mơ ước đi hài cô dâu.

Page 39: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 139

Hồi Ức của Trương Dưởng

1. Tai Nạn Thảm Khốc! Năm 1965, tôi tốt nghiệp Trường Sĩ Quan Đà Lạt, k20 và được tuyển chọn về Binh Chủng Nhảy Dù. Tôi đã tham dự nhiều trận đánh và bị thương nhiều lần tại mặt trận: Quảng Trị (lỗ tai và đùi phải), Thành Nội Huế năm Mậu Thân 68 (lưng còn hơn 10 mãnh lựu đạn), Tây Ninh (2

mãnh B40 trên đầu), … và bị thương nhẹ ở các trận chiến khác không đáng kể.

Tôi đã được tưởng thưởng nhiều huy chương và thăng cấp đặc cách mặt trận (trung úy, đại úy, thiếu tá). Trải qua nhiều gian nan nguy hiểm mà không sao nhưng năm 1973, tôi ra thăm toán Tác chiến điện tử tại LĐ1ND, ở bờ Nam sông Mỹ Chánh thuộc tỉnh Quảng Trị. Trên đường về xe Jeep bị lật ở khúc cua quẹo ngay chân cầu Phong Điền khiến lưng tôi chạm nhằm viên đá, gây chấn thương cột sống! Thế là cuộc đời gãy gánh giữa đường!

Sau khi tỉnh dậy chờ xe cứu thương di tản, tôi bi quan nằm ngó trời đất mênh mông, nghĩ đến số phận tàn phế của mình, chẳng lẽ phải tiếp tục kéo dài cuộc sống không lạc thú nầy hay sao?

Nghĩ đến người vợ còn trẻ tuổi (chưa đầy ba mươi!), tôi muốn tự giải thoát để không liên lụy cuộc đời son trẻ của nàng.

Nhưng khi nhớ đến ba đứa con còn nhỏ dại rồi đây sẽ ra sao? Chỉ trong mấy phút mà đầu óc suy nghĩ đủ thứ. Cuối cùng tôi quyết định không buông xuôi, phải cố gắng tồn tại, dùng bộ óc và kiến thức sẵn có để dìu dắt các con cho nên người rồi sẽ tính sau.

a). Tại Bệnh Viện Cộng Hòa Khi được chở về tới Trạm xá ở bộ Tư

Lệnh Sư đoàn Nhảy Dù, nhìn thấy Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh SĐND, Đại tá Phước, Tư Lệnh Phó, tới thăm; nhưng tôi cứ nhắm mắt buông xuôi. Lúc đó tôi không muốn gặp ai, chỉ mong được yên lặng để tiếp tục suy nghĩ về số phận tương lai của mình.

Sáng hôm sau, đích thân Bác sĩ Trần Khắc Niệm, Y Sĩ Trưởng, kiểm soát lại bệnh tình rồi gọi

về Hậu cứ nói Bác sĩ Trần Đức Tường cho người đón và đưa tôi thẳng vô Bệnh viện Cộng Hòa để kịp giải phẫu lấy máu bầm sớm, may ra cứu vãn được phần nào hệ thần kinh tủy sống. Bác sĩ Niệm, Bác sĩ Tường, y sĩ trưởng bệnh viện Đỗ Vinh, là những người bạn rất tốt. Lúc bình thường Cò Thu, tôi, và anh Niệm thích chơi bóng chuyền với nhau, tại sân Trạm xá Quân y.

Chúng tôi cũng ưa rủ nhau ra thành phố Huế du ngoạn nơi các Lăng Miếu cổ xưa, vào Hoàng Cung Đại Nội xem các di tích lịch sử và ăn bún bò Huế "Mụ Rớt" nổi tiếng ở Gia Hội,... nhưng từ đây tôi sẽ không còn những ngày huy hoàng đó nữa!

Vô Bệnh Viện Cộng Hòa, họ chụp quang tuyến và đưa đi mổ ngay. Đây là cuộc giải phẫu lớn, gần một buổi sáng mới xong. Khoảng nửa ngày thì tôi tỉnh dậy, thấy miệng khô và khát nước vô cùng! Nhưng họ không cho uống nước, chỉ lấy bông gòn thấm nước thỉnh thoảng để trên môi cho thấm xuống chút xíu, vì mới mổ mà uống nước sẽ nguy hiểm. Lúc ấy tôi bị hành sốt và lạnh run, miệng đánh bò cạp liên tục! Y tá đắp mền và lấy đèn sưởi mà không đỡ chút nào, thân nhân đứng ngoài phòng kiếng nhìn cảnh như vậy mà đau lòng xót ruột.

Vợ tôi sau nầy kể lại là thường ngày tôi rất kỹ lưỡng, trước khi ăn đều rửa tay, vậy mà hôm đó cục bông gòn ướt rớt xuống nệm dơ bẩn, tôi vẫn cứ lượm lên liếm một cách ngon lành, giống như những em bé thèm kẹo cục vậy!

Ở Hậu giải phẫu một thời gian, họ đưa tôi tới phòng điều trị,

Page 40: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 140

Một trong những bịnh bi đát và khổ sở nhất là bịnh chấn thương cột sống; hệ thống bài tiết bị đình trệ, gần như không còn hoạt động tốt và gây rất nhiều biến chứng. Họ để ống “Xông” vào bọng đái thường trực gây ra nhiểm trùng, chuyền lên tới hai quả thận. Riêng tôi còn bị ống xông loại cứng quá làm lủng từ bọng đái xuyên qua ruột già, khiến nước tiểu chảy qua đường hậu môn! Lúc đó họ định mổ tách ra, nhưng thấy tôi còn yếu nên tìm loại ống xông đặc biệt đặt thường trực và bơm nhiều thuốc trụ sinh vào chai nước biển diệt vi trùng để bảo vệ thận. Họ cho trụ sinh nhiều quá đến đổi cơ thể tôi không còn tiếp nhận được Pénicilin, hễ chích vào sẽ bị phản ứng, ngay cả uống Ambicilin cũng vậy. Còn việc đại tiện thật là bế tắc, mỗi ngày tôi nhìn thấy ra ba cục “thuốc tể” thì mừng rỡ, nhưng nếu lớn bằng ba cục “cứt dê” thì trong người thật khó chịu! Cứ ôm cái bụng chình bình; không còn muốn ăn uống gì nữa; lúc đó tôi ốm yếu cân mất hơn 50 lbs (gần 25 kí lô!).

Cháu Thành bấy giờ đã hơn 3 tuổi, ngày nào cũng theo má vào thăm tôi. Nó ưa leo lên giường nằm cạnh bên, khiến mọi cơn đau đớn về thể xác như tiêu tan mất hết. Có lần đi ngang qua hai chân, thấy tôi đang lót báo, nó vội lật đật nhảy xuống cái rột, thật là đáng “ghét” vô cùng. Trước đó, mỗi khi Biệt Đội được ở hậu cứ, sáng nào Thành cũng canh thức sớm, leo lên xe Jeep theo tôi vào văn phòng làm việc. Nó thường trèo lên bàn lấy viết vẽ lung tung; nó thích cho chú tài xế chở đi chơi vòng vòng.

Các sĩ quan và quân nhân trong Biệt Đội đều thương. Mỗi lúc đi hành quân xa, tôi thường lén thức dậy một cách nhẹ nhàng để trốn ra phi trường, nhưng lần nào cũng không gạt được, tôi vừa ngồi dậy là nó liền mở mắt đen thui, làm như đã canh sẵn hồi nào tới giờ.

Khi máy bay bắt đầu lăn bánh ra phi đạo, tôi nhìn nó mà ứa nước mắt, thật sự không muốn rời xa con chút nào; nếu đào ngũ được tôi cũng muốn làm. Có lần Huy lúc ở Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù đã đào ngũ; vậy mà ra Quảng Trị, hắn cũng dám lại thăm tôi như thường (đơn vị Nhảy Dù chỉ cần người tình nguyện. Những ai quá nặng nợ, không kềm giữ được bản thân thì không giúp gì cho đơn vị thiện chiến). Vì vậy khi có con cái đùm đề, nặng nợ gia đình, chần chừ mỗi khi đi hành quân xa, lúc đó tôi cảm thấy không xứng đáng mang danh binh chủng nầy chút nào!

Nhà thương của Việt Nam đâu có máy lạnh nhiều như ở Mỹ, chúng tôi ai cũng bị lở

(mông hoặc xương khu) vì hầm hơi, mặc dù thỉnh thoảng cũng nhờ thân nhân giúp trở mình qua lại. Tôi chỉ bị nhẹ, nhưng vết mổ thì lành thật chậm. Hằng ngày vợ tôi phải rửa bằng nước biển và băng bó kỹ lưỡng nhưng cũng không gom mặt. Sau nầy khi hành quân về, bác sĩ Niệm có tới thăm và cho hộp “Bô Mát Madecasole” làm bằng một loại nấm gì ở Phi châu, do Pháp sản xuất. Khi thoa vài lần, thấy vết thương có tiến triển, tuy đắt tiền nhưng bà xã tôi vẫn kiếm mua, xức trong vài tháng thì lành hẳn. Vết lở của tôi bằng đồng bạc mà cũng nửa năm và tốn rất nhiều típ bô mát mới hết, đây đúng là bịnh nhà giàu! Vì mỗi lần lở lâu lành nên tôi giữ gìn rất kỹ; ngày nào cũng tắm rửa sạch sẽ; tối nào cũng thức giấc nhiều lần để trở mình (thói nầy tập quen từ năm 1973 và đi theo tôi tới giờ đã hơn 30 năm!).

Không khí sinh hoạt ở đây cũng dễ chịu, đồng cảnh thường thương mến giúp đỡ lẫn nhau. Thân nhân được đôi chút an ủi vì những người xung quanh ai cũng nồng nhiệt, lúc rảnh rỗi mấy bà thường tụ họp chuyện trò thăm hỏi nhau, trong đó đề tài chánh thường bàn về vết lở và táo bón của người thân họ.

Một tháng sau, sĩ quan đại diện SĐND vào bệnh viện gắn cho tôi cấp bậc Thiếu tá và chuyển xuống trại sĩ quan cao cấp. Tại đây, cấp trung và thiếu tá thì hai người một phòng, đại tá ở phòng có máy lạnh, cấp tướng thì rộng rãi và tiện nghi hơn. Trưởng trại sĩ quan cao cấp là Trung úy Hai, sau ngày mất nước, nghe nói anh là nội tuyến nằm vùng (chỉ nghe nói chứ chưa xác định rõ). Dãy nhà cấp Tướng, lúc đó có Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I và Phó Tổng Thống Trần Văn Hương,... Cụ Hương chỉ thích nằm võng chứ không chịu nằm giường. Nghe nói tướng Trưởng

Page 41: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 141

đã bất mãn vụ gì đó nên khai bịnh như để phản đối một cách tiêu cực.

Tôi nằm cùng phòng với thiếu tá Anh, là Phi công lái F-5 đầu tiên của ngành không quân. Anh ra ngoài Bắc oanh tạc, máy bay trúng đạn, bị thương ở chân. Mỗi tối có một binh sĩ Biệt đội thay phiên đến trông nom, vì vợ tôi lo ở nhà coi sóc 3 đứa con còn nhỏ dại. Tội nghiệp cháu Thiện lúc đó mới sanh 7, 8 tháng, ở nhà với anh Tâm (mới 6 tuổi) và chị Hảo, người giúp việc cho gia đình mấy năm nay.

Cháu Hảo là con của một Trung sĩ Dù, nhà trong trại Hoàng Hoa Thám, tánh tình cương trực không tham lam. Có lần bà xã tôi mua giấy số, cầu mong có chút đỉnh tiền lo cho chồng, con. Nhưng vì đầu óc bối rối lo lắng đủ điều, tiền lương cố định; mà phải nào là thuốc men, nào là cơm gạo và nhất là phải có tiền mua sữa cho cháu Thiện nữa. Mắt thì dò giấy số mà đầu óc cứ nghĩ đâu đâu, như Tú Xương đã nói về vợ:

“....Nuôi nấng ba con với một chồng Lặn lội thân cò khi quãng vắng....” Hảo lượm giấy số đã quăng bỏ lên coi lại,

bỗng la lớn: ”Trúng cặp 7 một trăm ngàn rồi cô ơi!”. Vợ tôi không tin, nhưng cũng miễn cưỡng coi, bỗng mắt nàng sáng lên vì quả thật là trời đã ngó lại!

Ở trại sĩ quan cao cấp, mỗi ngày tôi mang giày nẹp tập đi trong hai thanh paralel; ngoài ra còn lo vô nước biển, trong đó có thuốc trụ sinh, để chữa bệnh nhiễm trùng đường tiểu gây ra do đặt ống xông lâu ngày. Điều trị hơn một năm thì sức khỏe tôi hồi phục dần, hằng ngày có thể tự lăn xe đi vòng vòng trong khu trại nầy, và mỗi buổi sáng thường ra phơi nắng.

Chiều tới, khoảng năm giờ là bắt đầu thấy buồn, vì hai mẹ con sửa soạn ra về, nhất là cháu Thành cứ quay lại vẫy tay chào làm tôi ứa nước mắt.

Không hiểu tại sao lúc đó tôi dễ nhạy cảm và con người quá yếu đuối? Có lần Thành nghịch ngợm, mẹ nói hoài không nghe, nên giận quăng đôi giày của nó ra sân; chỉ có vậy mà tôi cũng chảy nước mắt.

Có lẽ trước kia tôi còn nghĩ đến quyền quý danh vọng, bây giờ thì mất tất cả. Chỉ còn lại bốn mẹ con yêu thương trong tầm tay, tôi muốn họ lúc nào cũng được yên vui hạnh phúc mãi mãi, không ai được động tới họ.

Những ngày ở bệnh viện buồn chán, may nhờ có mấy đứa con vô chơi nên tôi cảm thấy yêu

đời dần dần và tự nhủ thầm: hãy bỏ mọi ước mơ ảo tưởng qua một bên, không nhìn về quá khứ để ngồi than thở, hối tiếc; mà nên bằng lòng với định mệnh để nắm giữ cái hiện hữu thực tại, và cố ngoi lên trong khả năng hạn chế của mình (Thực sự nếu cứ ngồi một chỗ để cằn nhằn so bì tại sao mình không đi đứng được như người ta, tại sao mình không có nầy không có nọ như người ta? Tại sao và tại sao,....thì thà xuống địa ngục còn sướng hơn)

Thân thể tuy bất toàn nhưng không có nghĩa là cuộc đời đã chấm dứt; đôi chân không đi được nhưng khối óc vẫn còn nguyên vẹn. Nước chảy đá mòn, thời gian dài chịu đựng sự dày vò về thể xác lẫn tâm hồn suốt năm qua; vẫn không bào mòn được ý chí phấn đấu sẵn có trong con người từng xong pha vào làng tên mũi đạn quân thù như tôi. Mấy tháng nay tôi luôn tranh đấu với bản thân, quyết tâm hướng về tương lai, bỏ lại những quá khứ đau buồn từ ngày bị tai ương tàn khốc!

Sau khi nghĩ thông suốt, tôi thường tự an ủi bằng cách so sánh với những người có cảnh ngộ khó khăn hơn mình. Như những người bị liệt tứ chi chẳng hạn, họ còn khổ sở hơn rất nhiều: hai tay cử động yếu ớt, khó thở vì phổi không được bình thường. Hoặc so với những người bị ung thư bất trị, hoặc những người già yếu lụm khụm. Ôi thế gian nầy còn biết bao nhiêu người đau khổ hơn mình; tại sao họ chịu đựng được, còn mình đường đường là một nam nhi, đã từng tôi luyện trong lò luyện thép tại Đà Lạt, đã từng “Nhảy Dù Cố Gắng”, chỉ huy binh sĩ trong các mặt trận thập phần nguy hiểm như Tết Mậu Thân ở Quảng Trị, Huế, và Vùng Ven Đô Sàigòn. Nào là mặt trận Tây Ninh, nào là vùng Phi Quân Sự, Bồng Sơn, Tam Quan, Dakto, Hạ Lào, Campuchia,...

Rồi tôi nghĩ đến những nhà tu hành đạo đức; họ đâu chú trọng về hưởng thụ bản thân, đã một lòng hướng thiện và cứu rỗi chúng sanh đang đau khổ vì cái vòng lẩn quẩn: sinh, lảo, bịnh, tử. Bây giờ đã thấu triệt, nhờ vậy tôi cảm thấy thoải mái và xin xuất viện về nhà để gia đình tránh khỏi một kiểng hai quê, hòng có dư chút đỉnh mua sữa cho cháu Thiện hiện còn quá thơ dại.

b). Xuất Viện Về Nhà. Sau khi về nhà được một tháng thì có Tý,

chồng của cô Tánh, là em họ của bà xã đến thăm. Tý ở Chợ Lớn là tay buôn bán lành nghề, chú chỉ tôi cách sinh lợi là thu mua sắt vụn rồi sẽ đưa người tới chở đi bán cho hãng nấu thép. Lúc đó nhờ mới trúng số nên có tiền mở địa điểm mua sắt vụn tại nhà.

Page 42: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 142

Gia đình binh sĩ nghe tin, vội đem mấy thùng phuy lủng, vỉ sắt mục sét, đồ sắt vụn,... đến cân bán ào ào, chẳng mấy chốc sân bên hông nhà chất cao ngất toàn là sắt phế thải. Tý gọi người đem xe tới chở được vài chuyến thì sắt vụn trong trại gia binh hết sạch, đành phải kiếm nghề khác. Lúc đó Đại Úy Võ Tín, sĩ quan truyền tin, bạn đồng hương, cho tôi một cuộn dây và Thiếu tá Nguyễn Đình Ngọc, k19, Tiểu đoàn trưởng TĐ2ND, cho người kéo dây điện thoại xuyên qua doanh trại tiểu đoàn, nhờ vậy tôi ở nhà mà cũng có thể liên lạc được bạn bè. Có một thương binh đã giải ngũ, chạy xích lô, thay vì đem xe vào nhà ở trong trại Hoàng Hoa Thám, anh đã đem gởi tại nhà tôi, để buổi chiều cậu em vợ, chở đi vòng vòng giải khuây.

Hết nghề thu mua sắt vụn, bà xã tôi xoay qua nghề bán gạo, anh chị BS Hiền có lại ủng hộ dùm một bao gạo thơm. Khi còn ở TĐ9ND, bác sĩ Hiền là người chịu chơi nhứt trong các bác sĩ Dù mà tôi đã gặp. Lúc mới về đơn vị thay thế bác sĩ Thiện, anh đã hòa mình ngay với sĩ quan trong tiểu đoàn; những buổi nhậu của chúng tôi đều có anh tham gia và tửu lượng khá cao, mọi người đều rất mến anh. Khi nghe gia đình tôi mới qua Mỹ, từ California xa xăm anh cũng gởi tiền giúp và chúc tôi sớm ổn định trong những ngày chân ướt chân ráo tại đất khách quê người. Mặc dù bây giờ anh chị đã khá giả, nhưng nghe nói hễ gặp đám TĐ9 cũ như Mễ, Tâm, Thành là cố mời tới nhà nhậu để hồi tưởng lại những ngày cùng ngồi bên nhau uống rượu đế với khô mực, khô cá khoai, và soài sống chấm mắm ruốc!

Bán gạo được vài tháng thì thua lỗ gần hết vốn, vì không có địa thế tốt, tôi lại chuyển qua nghề bán củi bìa. Một hôm đi ngang qua Tổng Tham Mưu, thấy ngôi biệt thự đối diện có những bó ván nẹp chất đầy sân, tôi ghé vào thấy bên trong họ đang đóng thùng để đựng đồ sành, đồ sứ như ghế đôn, chậu, con voi. Tôi hỏi ông quản lý về việc cung cấp ván nẹp, ông Hai ghi địa chỉ và nói khi nào rãnh sẽ tới bàn chi tiết, vì ông nói củi bìa có thể mót cưa thành những miếng nẹp bảng nhỏ mà ông đang dùng và giá thành lại rẻ, như vậy hai bên đều có lợi.

Vài ngày sau ông tìm đến nhà, thấy gia cảnh như vậy, nên khuyến khích tôi làm bàn cưa tròn để xẻ củi bìa thành các miếng nẹp theo thước tấc chỉ định, còn phần vạc bỏ thì để bán củi vụn. Tôi hứa với ông Hai sẽ làm một đợt cho coi thử, nhưng không ai rành nghề thợ mộc!

Tôi điện thoại nói Phạm Thái Hóa, trưởng Khối Bổ Sung, cho mượn thợ mộc tới chỉ những cậu trẻ tay ngang mà tôi thuê như “Thợ vịn”, vì đâu biết có làm được lâu dài không mà kiếm thợ giỏi. Hóa, bạn cùng Khóa 20 Đà Lạt, cho binh nhì Ninh ra giúp vài ngày, chỉ cho Chương và Thanh cưa ván nẹp. Giao hàng đợt đầu tuy không hoàn hảo nhưng bà chủ và ông Hai đều là người phúc hậu, họ nhận hàng và đặt tiếp.

Sau đó tôi đi tới hai chỗ bán đồ sứ ở đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận và đưa hàng mẫu, ở đây chỉ mua thùng chứ không mua ván nẹp. Sau khi thương lượng giá cả xong, tôi về huy động những người lối xóm đang thất nghiệp. Trong đó có anh Bộ, thương binh Dù bị cụt hai chân, và con của Thượng sĩ Lớn, thuộc cấp của tôi, xúm nhau ngồi đóng gia công (làm nhiều ăn nhiều làm ít ăn ít). Rồi từ tay ngang, tôi ngồi trên xe lăn mà vẫn có thể điều động quản lý mọi việc, bà xã tôi lo đếm tiền, phát lương, và nấu ăn.

Bây giờ làm ăn cũng kha khá, từ việc bán củi bìa, nay đã có hai giàn cưa máy chạy ngày đêm; từ việc bán nẹp giờ đây có thể đóng thùng và nhận vô bao bì xuất khẩu. Thợ đóng thùng từ hai người lên mười hai người, ai cũng cố đóng nhanh để chiều nhận nhiều tiền, phụ giúp gia đình được thêm sung túc. Tôi thì lo kiếm cách làm cho sản phẩm ngày càng tốt đẹp, giá thành phải chăng, và nhất là giữ uy tín, giao hàng đúng hẹn. Cái nào vì di chuyển bị hư méo, tôi cho đem về đổi ngay. Nhờ vậy các chủ tiệm đồ sứ đều hài lòng; tiền bạc vô ra, các con có dư đủ; làm tôi quên hẳn mình là người tàn phế, tinh thần vợ chồng tôi lúc đó rất sảng khoái và yêu đời.

Nhưng! Ngày Quốc Hận đến, tôi lại bị Gãy gánh giữa đường!

Page 43: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 143

2. Sau Ngày Quốc Hận a). Tiêu tan sự nghiệp! Những ngày cuối “Tháng tư đen”, máy bay

của tên nội tuyến đã oanh tạc phi trường; vì sợ liên lụy các con, tôi tản cư qua nhà anh Ba ở Tân Định, thế là: “Sự nghiệp đang công đeo đuổi, nay cũng đành gián đoạn giữa đường!”

Toàn dân Miền Nam nói chung, gia đình binh sĩ và quân cán chính đang bị chôn vùi trong biển hận. Con xa cha, vợ xa chồng, loài quỷ đỏ đã gieo rắc bao tang thương, bao khổ hận cho mọi người.

Công lao sự nghiệp đã gầy dựng, mới làm lại cuộc đời, sau những ngày bi quan tưởng mình đã vứt bỏ như đồ phế thải. Nhưng chỉ một phút bị cướp giựt sạch.

Họ cho đổi tiền, mọi người đều trở thành vô sản. Mọi người đều chỉ còn 200 đồng, của cải bị tịch thu vào “Quỹ chung” (Cộng sản) để cho các tên đầu sỏ từ Bộ chóp bu tới những đảng viên thuộc loại “Ba Mươi” từ từ xài thỏa thích.

Dân đen bần cố nông thì “Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi” còn các ngài thì lúc nào cũng nhân sâm bồi bổ, vì thế họ sống thật dai để hưởng mọi lạc thú. Người nào cũng quá tẩm bổ, nên đa số chết vì bị tai biến mạch máu não; nhìn mặt anh nào cũng chành bành bóng loáng to tròn như trái bong bóng sắp nổ, so với những người nông dân, thợ thuyền gầy ốm thì thật khác xa như hai thái cực.

Sau khi đưa một đống tiền để đổi lấy hai trăm đồng Việt Cộng, như vậy từ nay phải làm gì để sống? Những người mạnh mẽ còn chịu không kham, huống chi gia đình tôi, cháu lớn mới 7 tuổi, mỗi ngày cứ đọc sách giáo khoa tuyên truyền toàn chuyện vót chông diệt ngụy, bắn máy bay, và râu bác dài như.... khiến mỗi lần nghe tới là nổi sùng. Còn Thiện mới một tuổi thì làm gì có tiền mua sữa, đành cho uống nước lạnh pha chút đường mà chúng tôi thường gọi đùa là “sữa bộ đội”. Uống riết cháu mặt mày xanh lét, me nó thì phải về quê mua heo con lên Sàigòn bán. Đồ đạc trong nhà tiêu dần, đồng hồ, Honda, ngay cả nhẫn Truyền Thống Võ Bị (của thằng Măng, bạn cùng khóa, tặng cho lúc gặp nhau ở bờ sông Mỹ Chánh) cũng đem ra bán sạch.

Nhà nhà đều sạch, người người đều xẹp, chính sách của họ đã đi “đúng hướng”, dân miền Nam càng lầm than thì họ càng khoái chí!

Hết buôn lợn rồi lại lo quấn thuốc lá để 5 giờ sáng leo xe đò Hốc Môn ra Chợ Lớn dành chỗ trải dưới đất bán chui, hôm nào xui xẻo bị bọn

“Mafia con”(cảnh sát hay đám cách mạng 30) ra tịch thu thì sữa bộ đội của cháu Thiện chỉ còn nước lã, chứ tiền đâu mà mua đường! Ngày nào cũng ráng ăn bo bo độn khoai mì với nước mắm (tiêu chuẩn gần giống như cơm tù, vì họ chỉ có nước muối thay vì được nước mắm như dân ở ngoài), nhà là nhà tù, người là kẻ tội, cả miền Nam đang sống như tù tội!

Bán thuốc lá cũng không xong, tương lai mù mịt, tôi không giúp được gì cho gia đình, lúc nầy tư tưởng đầy bi quan, tinh thần xuống dốc đến cùng cực!!!

Một hôm Dì Sáu từ tỉnh lên thăm, bà là người phúc hậu tử tế, bị đánh tư sản. Chúng ụp vào nhà lấy hết vàng bạc (mấy trăm lượng), vì bà có tiệm bán vàng và cầm đồ và bị kết tội “Tư sản mại bản”,... Dì Sáu thấy tôi ngồi chiếc xe lăn đã mục nát, nệm lót đã rách nên cho tiền mua một chiếc xe khác làm chân (anh bạn Lê Tấn Huỳnh Long, nguyên bác sĩ TQLC, làm ở bệnh viện Quốc Gia Phục Hồi, định cấp cho tôi một chiếc khác, vì trong kho có mấy trăm chiếc; nhưng tên Sáu Châu không chịu, nói để dành chở ra Bắc (cái gì cũng chở về Bắc!). BS Long tức giận từ chức. Anh cũng bị pháo kích trúng xương sống, nhưng phục hồi được chút đỉnh nên đi nạng được. Qua Mỹ anh đã đổ bằng bác sĩ lại, nhưng ngồi lâu sợ lở mông, nên đi làm bất tiện. Khi qua đây anh chị cũng có làm giấy bảo lãnh USCC cho gia đình tôi, không sợ gánh nặng của nợ, thật là tử tế vô cùng).

b) Làm Lại Cuộc Đời . Thay vì sắm xe lăn, tôi đã mua một chiếc

xe lắc bằng tay. Từ ngày mất nước không có ra ngoài, vì xe

xích lô và xe Jeep đâu còn nữa! Hôm nay có xe lắc tay, giống như được tháp đôi chân, như chim sổ lòng. Tôi cùng với cháu Thành (lúc đó được 6 tuổi) quyết định đi dạo một chuyến thật xa. Hai cha con hè nhau lắc xe từ nhà, qua ngang Bà Quẹo, theo lộ đá sỏi tới trường đua Phú Thọ; đoạn đường dài gần năm cây số! Tôi muốn đến thăm thằng bạn già Trịnh Xuân Tiểu, cùng học Trần Trung Tiên ở tỉnh. Hai đứa rất thân từ mấy chục năm trước. Tiểu học sĩ quan Hải Quân khóa 14, vì tánh quật cường không chịu khuất phục nội quy kỷ luật, nên phải trở lại khóa sau mới được ra Thiếu úy thật sự. Tánh nó rất tốt, lúc tôi còn đang ở trọ tại Phú Nhuận, hắn đến rủ cùng đi lựa mua xe gắn máy hiệu Pusch. Sẵn dịp, Tiểu nói mẹ cho tôi mượn tiền mua luôn xe Mobilet loại tự động mới ra đợt đầu; mặc dù lúc đó tôi chỉ là học sinh đâu có tiền để trả nợ (má

Page 44: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 144

Tiểu chuyên cho vay lấy lời, nhưng nó đâu có cho tính phân lãi với tôi xu nào!).

Tiểu biết địa chỉ, nên một hôm đi xích lô tới thăm tôi; nó mượn xe lắc tay để về nhà mẹ ở trước rạp hát Trương Minh Giảng (Tiểu bị phục kích trên giang thuyền và trúng đạn bể xương đầu gối). Nhưng mới lắc tới Ngã Tư Bảy Hiền thì bị xỉu, may nhờ những người đi đường đè xuống cạo gió làm nó hoảng sợ mỗi khi nhìn thấy chiếc xe lắc nầy.

Biết xe lắc không ổn, tôi quyết định bán và tự vẽ kiểu cho anh Học, thợ hàn gió đá, cựu hạ sĩ quan Nhảy Dù, đệ tử tướng Đống, làm một chiếc khác với khung được uốn cong bằng ống nước loại thép tốt. Vì thế xe thật vững chắc, có gắn máy PC-50 và sức chịu đựng cao. Với xe có gắn máy, hằng ngày tôi, cháu Thành, và cháu Vinh ra chợ Tân Bình mua bo bo, đổi mì sợi tại các Hợp Tác Xã, hoặc đến hỏi mua từng nhà. Từ đó có đồng tiền vô ra giúp đỡ phần nào cho gia đình, tôi hết tự ti mặc cảm.

Có lần vô Tân Phú mua bo bo, khi đủ bao thì chở ra Chợ Lớn, qua đường Cầu Tre gập ghềnh khó đi. Hôm đó, vì mua được nhiều, tôi hăng hái chạy tới chạy lui vô Chợ Lớn bán hàng nhiều chuyến. Đến 8 giờ tối về tới nhà, tôi mới phát hiện gót chân phỏng sưng to tới thấu xương (thịt gần như bị chín luôn)! Vì đường gồ ghề nên bao bo bo bị tuột ra sau, đẩy gót chân tôi chạm vào ống bô (ống khói) nóng hực cả buổi, mà cứ tỉnh bơ chạy hoài.

(Sân Bay Trà Vinh có trại tên Châu Ngọc Sanh)

Mặc dù không có cảm giác, nhưng lúc đó trong người tôi cảm thấy rất bức rức, khó chịu. Có lẽ vì ống bô quá nóng, khiến máu trong cơ thể cũng bị ảnh hưởng nóng theo, nhưng vì nghĩ đến hôm nay được đắc lợi, lòng cảm thấy phấn khởi, đâu còn để ý đến bản thân mình, miễn sao làm ra tiền nhiều để gia đình được đầy đủ là cảm thấy vui rồi.

Nhờ ngày nào cũng ngâm nước lá me (đâu có tiền mua “Bô Mát” loại tốt như của BS Niệm đã cho!) để làm tái thịt chỗ vết phỏng, nên một năm (tới một năm lận) mới lành hẳn.

Từ đó tôi lấy miếng ván chận chân cho cách biệt với bô xe. Tuy bị phỏng nặng, nhưng vì sinh kế, nên vợ tôi băng bó gót chân kỹ lưỡng và hằng ngày vẫn tiếp tục đi mua bán bo bo như thường lệ.

Có lần bị nhiễm trùng đường tiểu hơi nặng, phải vào nằm phòng cấp cứu tại bệnh viện Trưng Vương; nhưng suốt đêm đó tôi cứ cảm thấy người bức rức, trằn trọc không ngủ được. Sáng ra mới biết chân mình đã bị kiến lửa bu đen nghẹt tới không nhìn thấy mười ngón, chúng cắn nát bấy hai bàn chân suốt cả đêm mà cũng không hay biết! Tôi phải xin xuất viện gấp; lại phải ngâm chân bằng nước lá me thêm vài tháng!

Lúc ở bệnh viện Trưng Vương, nằm cạnh giường có một bịnh nhân người vùng Cát Lái, Thủ Đức; ông bị vết mổ làm độc vì chỉ khâu bị đứt, nên phải nhập viện xin giải phẫu lại. Để có tiền mua chỉ may vết thương, con ông là em Toàn phải nhịn ăn tới mặt mày xanh xao, tay chân run rẫy, đi đứng không vững! Toàn cứ nằm co ro, cố ngủ để cho qua cơn đói.

Tôi thấy em tới giờ ăn trưa mà sao cứ nằm hoài, nên hỏi thăm thì biết Toàn là đứa con hiếu thảo, vì tiền túi mang theo đóng cho nhà thương hết, mà không thể bỏ cha ở lại một mình; nền đành ráng nhịn ăn đợi bác sĩ giải phẫu may lại vết thương cho cha.

Lúc ấy bà xã tôi có đem theo bánh ú, tôi lấy chia cho Toàn ăn. Em mừng rỡ, cám ơn rối rít, tay run run lột lá bánh ú bỏ vào miệng ăn ngấu nghiến trông thật ngon lành. Hôm sau vì bị kiến cắn bàn chân nên tôi xin xuất viện, vợ tôi lấy một ít tiền cho Toàn để làm lộ phí. Tuy số tiền và bánh ú nhỏ nhoi gọi là chia sẻ miếng khi đói bằng gói khi no, nhưng nửa tháng sau, Toàn đã dò được tới nhà để cám ơn và báo tin ba Toàn đã qua đời vì nhập viện trễ quá (tại nhà nghèo cần phải xoay tiền nhập viện, thuốc men thiếu nên vết thương làm độc!).

Chính vì nghĩ đến trường hợp nầy, nên khi mới qua Mỹ, mặc dù tôi lãnh trợ cấp SSI và bà xã cùng cháu lớn đi làm nhà hàng, mỗi đêm được $20.00; nhưng cứ vài tháng là chúng tôi gởi về cho những người nghèo ở Việt Nam (mỗi lần $300 chia cho 10 nhà, chính anh Quách Vĩnh Trường, anh Triệu k19, và Lâm Sanh Kim đã đem phân phối giùm). Có lần anh Triệu cũng được 1 phần là $30,

Page 45: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 145

vợ anh dùng làm vốn nhỏ và ra chợ Tân Bình mua bán áo quần cũ; nhưng bị bọn Cách mạng 30 tìm cớ tịch thu, còn nhốt 2 mẹ con vào tù (con A. Triệu mới sanh cần sửa mẹ mà cũng nếm mùi ở tù!!)

Ra ngoài tôi mới biết có rất nhiều cách để làm ra tiền, khi mua bo bo ở một nhà nọ, thấy có một cái máy xay bột (hoặc bo bo) đang trùm kỹ. Tôi hỏi mua với giá rẻ, vì họ muốn trống chỗ nên bán đổ bán tháo cho xong. Khi đem máy về nhà, bà xã nói không có thợ làm sao sử dụng được; tôi trùm mền bỏ đó, chờ thời cơ sẽ có dịp dùng. Thấy mấy người Tàu từ Kampuchia tị nạn ở xóm Tân Việt gần nhà, hằng ngày họ chở từng bao bo bo đi xay thành bột, bán cho các lò bánh mì thùng phuy. Tôi liền mướn cháu Đại, khoảng 15 tuổi, đứng máy để xay bo bo gia công. May quá, máy nầy xay ra bột nhiễn nên được người ta thích, từ đó máy chạy suốt ngày đêm, bà xã tôi rất phấn khởi.

Từ việc xay gia công, tôi nghĩ ra ý mua bo bo về xay để bán bột trực tiếp cho các lò thùng phuy như lò Tám Cảnh ở Ngã Tư Bảy Hiền, Chú Thanh ở Bà Quẹo. Cháu Vinh phụ trách lo thu mua bo bo và liên lạc với những người Khmer tị nạn như ông Si, thằng Hòa, A hắc,...

Cháu Vinh là con của Thượng Sĩ Luông, Thường Vụ của tôi khi còn ở Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù. Sau ngày mất nước, thấy không ai săn sóc và gia đình đơn chiếc, cháu Hảo đã đi vùng Kinh Tế Mới, ông cho con gái 15 tuổi là cháu Vinh qua phụ vợ tôi mà không đòi hỏi lương bổng (nhưng chúng tôi vẫn trả tiền và tăng dần mỗi khi làm ăn thăng tiến). Thượng sĩ Luông là người rất trung thành, ông đã bị thương lủng mấy khúc ruột rất tội nghiệp. Các con ông người nào cũng ngoan và giỏi.

Một hôm ba của Tiêu Anh, bạn học Trần Trung Tiên, đến chơi. Ông là chủ lò bánh mì ở Trung Chánh, trước kia chuyên cung cấp bánh mì cho Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Ông thấy có máy xay bột nên đưa ý kiến, mua xác khoai mì về xay nhiễn cung cấp cho các lò bánh mì làm bột áo thoa tay.

Thấy thị trường bo bo hơi hạn chế, người Khmer tị nạn cũng làm máy xay gia công. Do đó tôi đi Hố Nai mua xác mì về xay bán cho các lò thùng phuy, rồi tôi đem mẫu cho các lò bánh mì lớn. Lúc đầu thật khó khăn, vì họ có người bỏ mối sẵn. Nhưng tôi không nản chí, cố gắng tìm xác mì trắng, rồi cứ đi vòng vòng từ các lò Nguyễn Huệ,... ở Phú Nhuận, tới lò Đồng Khánh ở Chợ Lớn. Lúc đầu được một lò, rồi hai, ba, bốn,...dần dần hầu hết các lò ở Sàigòn đều là khách hàng của tôi.

c). Kinh Doanh phát triển. Vì máy ở nhà quá nhỏ, nên tôi phải vô Cầu

Tre bao luôn nhà máy của ông Tám, họ lãnh xay ngày đêm mới kịp giao đúng hẹn cho khách hàng. Nhà máy nầy khá lớn, nhưng vì mới nên chỉ có hai người đặt xay gia công. Anh Hào thì xay xương bò và trấu trộn cám cung cấp cho các tiệm bán thực phẩm gia súc; tôi thì cho chở từng xe vận tải xác mì cung cấp bởi anh Hùng, chủ thầu xác và bột khoai mì ở làng công giáo Hố Nai. Công nhân trong nhà máy ưa nói đùa: “Xay xác ông Dưỡng xay xương ông Hào”!

Ngày nào tôi cũng chạy theo xe Lam của chú Hoàng đi giao hàng khắp nơi. Còn Cháu Vinh thì đi theo xe ba bánh gắn máy của chú Hiền chở bột áo đi giao vùng khác (hai xe nầy bao chở mối thường xuyên cho tôi). Lúc nầy khách hàng nhiều mà bọn nhà máy quốc doanh làm việc không đàng hoàng, đôi khi sai hẹn, và họ còn định xay lén dành mối, đâm sau lưng khách hàng mình (vì chủ trương họ là bất chấp mọi thủ đoạn, miễn mình có lợi là được rồi). Các nhà máy do người Hoa Kiều ở Chợ lớn thì làm ăn rất có uy tín, nhưng họ đã có khách hàng sẵn nên không nhận thêm của tôi được.

Vì thế để tự xay xác mì tại nhà, tôi vô Chợ Lớn đặt cái máy xay to lớn, đường kính khoảng 8 tấc, mua Motor 25 Ngựa, dùng thùng phuy chẻ và tôn cũ làm vách. Nhà tôi có sân rộng, bên cạnh là một lô đất trống (mỗi lô là 8x20 do SĐND cung cấp, trước kia đã mua được 1 lô, chỗ tôi đang ở là xây cất trên lô của Đại úy Vị, đã nói ở Chương Ba). Vợ tôi trồng cây ăn trái như ổi, mít, dừa, mảng cầu, đào lộn hột,..Sau ngày Quốc hận, có lần bên Phường mượn sân trống đặt bàn làm thẻ cử tri; lúc đó Trưởng Ban An ninh, thấy bà Bảy là cô của y, đang ở nhà tôi, nên sau nầy dễ chịu không cho người dòm ngó kiểm tra ngầm nữa.

Bà Bảy là chủ nhà trọ cũ, bà rất thương tụi nầy, sau ngày mất nước bà hay tới thăm và ở chơi vài ngày; chúng tôi thường cho tiền bà tiêu vặt. Lúc nầy hơi khá, con cháu của bà kẹt tiền, chúng tôi sẵn sàng giúp đỡ. Còn bà thượng sĩ Bạc vì mấy đứa con trai đi nghĩa vụ, nên lúc kẹt cũng qua hỏi mượn, chúng tôi không bao giờ do dự; vì họ từng giúp đỡ gia đình tôi nhiều phen. Ở Sàigòn chúng tôi coi gia đình bà Bạc, Bà Bảy, cụ Hoàn, anh Nhàn, Thượng sĩ Luông là những người bà con tốt. Vợ tôi rất nể trọng những người nầy.

Nhà máy xay bột được dựng lên do những tay ngang, bà xã thì lo tráng nền; Tâm, Thành,

Page 46: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 146

Thiện, và cháu Vinh phụ trách khiêng và trộn hồ. Nhằm đúng ngày chú Hùng ở Hố Nai tới thâu tiền xác mì, thấy thợ nhà làm lồi lõm nên ngứa mắt; anh xăn quần áo nhào vô phụ tráng nền.

Thế là nhà máy cũng xong, điện ba dây thì câu nhờ với chị Hai (vợ của cố Trung tá Vinh, cựu Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Nhảy Dù). Vợ tôi may cái mùng chứa hơi bằng vải kaki trắng to giống như khinh khí cầu, rồi đóng thùng chứa bột bằng ván ép, không thua vì thợ mộc.... mới học nghề! Cháu Vinh, Đại, Nhân, Tâm, và bà xã,...là những công nhân thường trực của “Nhà máy xay bột tư doanh” vừa mới dựng bảng hiệu Phát Lợi và khai trương nầy.

Mọi việc đều êm đẹp, vợ tôi vừa làm thợ mộc, thợ máy, thợ điện, và kiêm luôn thợ nấu ăn cùng quản lý tài chánh. Đàn bà mà, thấy tiền vô như nước, đếm hoài không biết chán, nên làm việc rất hăng, còn muốn mọc thêm nhiều cánh tay để “tăng gia sản xuất”. Vì khách hàng tới hối thường xuyên, nhiều khi phải làm suốt đêm để giữ đúng hẹn!

Xay bột dính đầy đầu mà cũng ham. Có lần vì mưa dột ướt áo quần; Nhi, đang xay bột, đứng lên vén tóc, thì tay ướt chạm nhằm dây điện, nàng bị giật té cái rầm, ngã nguyên con trên sàn bột, thật nguy hiểm vô cùng!

Tôi thì lo chạy vòng ngoài, lúc đi xa lộ đón mua bột và xác mì, chẳng may xe bị gãy cốt gần rơi bánh sau. Cháu Thành (lúc đó được 8 tuổi) phải hì hục đẩy xe từ bên kia dốc cầu xa lộ. Cầu nầy dài khoảng 1000 thước và dốc rất cao! Tội nghiệp cháu nhỏ tuổi ốm yếu mà phải đẩy chiếc xe cọc cạch nặng nề, tôi thì không thể xuống để xe nhẹ bớt phần nào! Đã vậy lại còn gặp thêm chuyện xui xẻo nữa chứ.

Số là khi Thành đang lo cặm cụi đẩy xe lên dốc, tới gần giữa cầu có cục đá to; tôi vừa lo lách tránh, chưa kịp kêu thì chân cháu đã vấp vào, làm ngón cái bị trúng chảy máu ròng ròng; mà Thành vẫn phải bậm môi, cắn răng nhịn đau tiếp tục đẩy.

Vì nếu ngừng thì xe tuột dốc càng nguy hiểm thêm. Lòng tôi lúc ấy đau đớn đứt ruột! Cháu cứ để cho máu chảy và tiếp tục đẩy thêm gần 1 cây số tới phía bên nầy dốc cầu mới có chỗ sửa xe, và kiếm thuốc băng tạm vết thương!!!

Thật là tội nghiệp con hết sức, mới từng ấy tuổi đầu mà đã chịu nhiều đắng cay! Ở cái tuổi đó, đáng lẽ chỉ lo đi học và vui đùa, còn cháu thì phải ngày đêm dầm mưa phơi nắng theo phụ giúp người cha tàn phế trôi nổi đó đây!

Lúc tôi ra ngoài, bên lưng lúc nào cũng dấu một cái bóp nhét đầy tiền. Mỗi lần đi đâu đều có Thành theo phụ đẩy cho máy nổ khi xe khởi động.

Có lần ăn bún ở gần nhà Quách Vĩnh Trường trong Cư Xá Lữ Gia, tôi kêu họ bưng 2 tô bún cho anh chị Trường. Hai bố cháu ăn uống ngoài đường ngoài xá, có bữa đi từ sáng tới chiều tối mới về tới nhà; vì ngồi lâu nên một trái thận bị hư, coi như ngưng hoạt động.

Mỗi ngày tôi có mời chú Tuyển tới châm cứu, vì thận hư làm chân sưng và lở loét thật khó chịu, tối nằm ngủ chỉ nghiêng được một bên. Bây giờ bán bột áo và bo bo cũng khá, nhưng thấy các lò thùng phuy tiêu thụ bột mì rất nhiều; nên tôi liên lạc với một vài chủ lò để trao đổi bột bo bo với bột mì.

Giai đoạn mua bán bột mì lúc đầu cũng gặp nhiều khó khăn, sau nhờ giữ uy tín nên các chủ lò giới thiệu cho nhau nên tôi làm ăn càng ngày càng phát đạt.

Nhớ lại lần đầu muốn mua hai bao bột, 5 giờ khuya, tôi và cháu Vinh chạy lên Phú Nhuận canh lò vừa mở cửa để chồng tiền mua 2 bao bột (mỗi bao giá 2 ngàn đồng tương đương một lượng vàng). Lúc đó bà chủ tăng giá bất ngờ nên thiếu 100 đồng, tôi đòi thế chiếc xe đạp của cháu Vinh đang cỡi để về nhà lấy thêm tiền. Bà chủ lò không chịu, chỉ bán cho một bao, tôi vừa chở bột về vừa tiếc rẻ và tủi hổ; nhưng chỉ nửa năm sau, chính bà chủ đó và nhiều chủ khác dám bán chịu cho tôi mỗi lần một tấn (20 bao tương đương 20 cây vàng!).

Dần dần tôi đã tạo được uy tín, lúc đầu có 1 ông chủ vì kẹt bột dư trong lò lâu ngày chưa đem ra được (các lò thường làm bánh nhỏ hơn chút đỉnh hòng có bột dư bán lén cho các lò thùng phuy, để kiếm chút cháo, vì lò nào cũng bị quốc doanh). Sắp tới ngày kiểm kho, ông ta đang lính quýnh, thì vừa đúng lúc tôi đến giao bột áo; ông bảo đút xe Lam vô chở đám bột thặng dư đi bán dùm, giá bao nhiêu cũng được. Tôi làm theo, chở bột đem giao cho vựa ở Chợ Vườn Chuối, và đợi vựa bán ra chút đỉnh mới đủ tiền trả tới 20 chục cây lận! Mãi tới gần 11 giờ đêm tôi mới đi tới nhà, để đem tiền tới giao lại cho chủ lò. Nửa đêm nghe tiếng gõ cửa, ông ta giật mình kinh sợ, chừng thấy hai chú cháu mới an tâm, đếm tiền xong ông ta nói: - Tại sao anh không để sáng đem lại cũng được? - Đây là số hàng lớn, tôi sợ ông lo suốt đêm. Thấy tôi hiểu thấu tâm can, mặt ông vui vẻ và nói:

Page 47: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 147

- Anh làm ăn rất có uy tín, tôi sẽ giới thiệu các chủ lò khác.

Vì thấy tôi không bắt chẹt và trả tiền bột cao giá hơn những người khác, nên lần nào có bột dư ông cũng đích thân lái Honda tới nhà gọi. Rồi các chủ lò khác nghe tiếng cũng lần lượt đến kiếm (trước kia tôi phải đến từng lò bánh mì, bây giờ thì các chủ lò đích thân đến nhà tôi). Thế là việc bán bột còn thu lợi khá nhanh hơn xay xác mì nữa. Tiền vô ào ào, tháng nào tiêu chuẩn cũng phải sắm một cây vàng. Có tiền thì nghĩ tới đi chui, tôi cho cháu Tâm theo cậu Hai Lâm Ál; người lái tàu là Trịnh X Tiểu. Ra khơi được 3 ngày thì gặp bão nên tấp vô và bị tóm ở Hòn Khoai, Cà Mau.

Cháu Tâm trên thuyền cùng với cháu Vũ, con anh Hai Ál, rãnh rỗi ra be thuyền nhìn nước biển và kể lúc ra khơi thì gặp nước màu vàng, màu xanh, màu đen. Rồi đột nhiên thấy ngược lại màu đen, màu xanh, màu vàng, và đụng bờ bị bắt cả đám, tịch thu hết vàng bạc và đồ quí đem theo. Tội nghiệp Tâm lúc đó mới 10 tuổi đầu mà cũng nếm mùi tù, ăn cơm muối hơn một tháng. Tiểu bị tù vài năm và bị tịch thu nhà cửa! Sau nầy anh Hai Ál làm thêm một chuyến nữa, tôi lại bị mất hơn chục cây vàng mà cũng không xong, thôi đành tìm cách khác.

Lúc ấy nhân dịp năm Quốc tế người tàn tật, có diện cho xuất cảnh chữa bịnh, tôi nhờ anh bạn tốt là cựu Thiếu tá Phòng Ba SĐND tên Lâm Sanh Kim, k4 phụ TĐ nộp đơn thử.

Mặt khác vận động bạn bè ngoại quốc nhờ làm giấy bảo lãnh USCC. Tiến hành như vậy giống như là nước lã mà khuấy nên hồ; vì không có ai thân thuộc trong diện tứ thân phụ mẫu đang ở ngoại quốc như những người khác! Nhưng không hiểu sao ý chí tôi tin tưởng và quyết tâm lo vụ nầy một cách tích cực! d). Kinh Doanh Thu Hẹp Lo Thủ Tục Xuất Ngoại

Lúc ấy gia đình Dì Sáu cũng được đi diện đoàn tụ (con lãnh cha mẹ). Vợ tôi có nhờ bà kêu mấy em họ ở Mỹ làm cho giấy USCC, khoảng một năm sau thì tôi được một lượt tới 3 giấy USCC của Tuấn Anh, con bà Dì; Hồng Nhàn, bạn học trước ở Đại đội Tiếp Liệu Dù; và Lê Tấn Huỳnh Long, BS TQLC (đã mòn mỏi trông đợi gần 2 năm, bây giờ lại có một lúc ba người sẵn lòng bảo lãnh, khiến mọi người trong nhà đều mừng rỡ, hy vọng một ngày mai trời sẽ ngó lại). Giống như những lần trước, từ nguồn tuyệt vọng, gia đình tôi cũng đã tìm được những điều mỹ mãn ngoài tầm tưởng tượng.

Bấy giờ có một số sĩ quan ở tù được thả về, Lã quý Trang (3 năm), Nguyễn Thanh Nhàn (5 năm), Bác sĩ Tường, rồi tới Nguyễn văn Khen, Nguyễn Hiền Triết, Phạm Thái Hóa, Nguyễn văn Triệu, Ngô văn Nhị (em rể tôi), và đại tá Nguyễn thu Lương,... Những người sau nầy tù từ 8, 9 năm trở lên; như anh sáu Lương đã bị biệt giam và bị hăm dọa lên án tử hình nhiều lần vì tánh khẳng khái, bất khuất mà các bạn tù chung đều khâm phục, thương mến.

Riêng Nhị vừa về là lo đi chui và bị bắt nhốt tại Bến Giá, Trà Vinh hơn một năm, đến khi bị ung thư ruột già mới được thả về chừng một tháng thì chết, bỏ lại 4 đứa con còn nhỏ dại và vợ là em gái duy nhất của tôi phải chịu cảnh gà mái nuôi con, trong xã hội: “Nước trong leo lẻo cá đớp cá! Trời nắng chan chan người trói người!” Nhị xuất thân K12 Thủ Đức, tánh tình rất hiền, 4 đứa con Nhị đều có cái miệng cười duyên dáng và hiền hòa giống hệt Nhị.

Năm 1975, Nhị đi tù cải tạo thì cháu lớn mới 7, 8 tuổi phải phụ bà ngoại trông coi của tiệm để cho mẹ chạy đôn chạy đáo vừa mua bổ hàng vừa lo thăm nuôi Nhị.

Nhất là chuyến ra miền Bắc, em gái tôi phải mượn 1 lượng vàng mua đồ trên 120 kg kéo lê lết đem tới trại trong rừng sâu thật là cực khổ. Có lần tôi vô Chợ Lớn mua bao đựng bột, thấy em tôi vừa đi vưà chạy để mua sắm mặt mày bơ phờ thật tội nghiệp, vậy mà tối còn phải ngồi cầu thang dấu tiền vô ống chỉ rồi vừa ngồi quấn chỉ vừa ngủ gục! để khuya 4 giờ thức dậy đi thăm nuôi Nhị ở Long Giao.

Nhưng trời cao cũng ngó lại, em tôi được ông Ba ở chợ Kim Biên giúp đỡ trong một hội ngộ bất ngờ: số là 2 đứa con của Nhị được ông Ba cho bán hàng ở trước hiên nhà.

Page 48: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 148

Ông nhiều lần thử nhưng các cháu lượm dây chuyền vàng và đồ quý đều trả lại, do đó ông thương tình giới thiệu nhiều mối bán sĩ và cho chứa đồ hẳn trong nhà. Nhờ địa điểm tốt và uy tín của ông Ba nên các cháu làm ăn mỗi ngày mỗi phát đạt, ông Ba tin và thương các cháu còn hơn con ruột. Bây giờ ông già yếu (trên 80) em tôi cấp dưỡng và các cháu thường xuyên thăm viếng và châm sóc như ông ngoại ruột .

Bán bột mì một thời gian thì các chủ lò xuất ngoại dần, nên việc thu nhập chỉ còn một phần nhỏ, chúng tôi lại có thêm nghề mới: làm bột năng. Tôi mua khoai mì từ Hố Nai, Tây Ninh,... Vợ tôi mướn người lột vỏ, xay nhiễn, bỏ vô bồng bột (bao vải), nhúng vào thau nước nhồi cho bột hòa tan trong nước. Còn bã mì thì đổ ra thùng bán cho heo ăn, hoặc phơi khô xay nhiễn làm bột áo. Sáng ra đổ bỏ nước, lấy muỗng vớt lớp bột vàng (bột mủ) để riêng, còn lại bột trắng tinh thì đổ ra phơi. Lúc trời mưa, tôi sợ bột bị ướt thường la oé lên để mấy đứa bưng các nia bột vô nhà. Nhờ làm nghề nầy tôi có thể nhìn mây đoán được trời sẽ mưa hay không!

Tôi cũng làm đại lý thâu mua bột năng của bạn hàng từ Tây Ninh và Hố Nai. Các bạn hàng thật khôn lanh, lúc bột hiếm phải ra bến xe đón giành mua. Lúc vô mùa bột ối động, họ đổ đại vô nhà mỗi ngày hàng tấn; làm tôi phải lo tìm mối tiêu thụ trong Chợ Lớn, hoặc tới các lò làm bún tàu, bột bán,… ở Cầu Tre. Nếu để lâu bột sẽ bị nổi mốc, coi như lỗ vốn. Tôi cũng cho xay bột năng nhiễn và vô bao từng 10 ký lô, hằng ngày có ông Si, chú Biện đem xe đạp tới chở giao cho các sạp tạp hóa ở chợ, lò làm bánh Da Lợn, hoặc các hãng dệt để họ hồ bột.

Ông Si là người Khmer gốc Hoa Kiều, lúc ở Miên ông đã nghe lời ngọt ngào của tụi du kích, nên có ủng hộ tiền của. Tới khi chiếm được miền Nam, vợ chồng tới gặp, họ làm bộ như xa lạ. Ông và những người Khmer tị nạn chửi rủa họ vô ơn bội nghĩa! Ông Si người ốm yếu nhưng nhờ là người Tàu, làm ăn đàng hoàng nên cũng bỏ bột được nhiều mối. Ông lấy hàng trước chờ thu được tiền mới đưa tôi.

Một hôm, vào năm 1982, ông và gia đình định trở về Miên để tìm đường đi chui qua đường Thái Lan. Họ là dân bản xứ biết tiếng Khmer, nên cứ sống như dân du mục, đi dần tới gần biên giới. Rồi một ngày đẹp trời, cả gia đình bắt đầu thực hiện kế hoạch. Họ ngày đêm băng rừng lội suối chạy vượt biên giới qua Thái Lan. Trước khi ra đi,

bà vợ ngần ngại không muốn cho ông qua từ giả chúng tôi; vì còn kẹt một số bột chưa thâu tiền được để trả cho tôi. Nhưng ông là người khẳng khái, tín nghĩa, chẳng lẽ bỏ đi không từ giả người đã đem công ăn việc làm cho mình bấy lâu nay. Cuối cùng ông Si quyết định nói cho biết (thật ra nếu không nói tôi cũng thông hiểu vì vượt biên quan hệ tới nhiều sinh mạng, cần phải giữ bí mật tối đa).

Vợ tôi làm tiệc tiễn đưa, trước khi đi ông ôm cứng tôi như cảm động không muốn rời, rồi nhét vào túi cho tôi một cọc tiền như để trả nợ; nhưng vợ chồng tôi không lấy, vì biết ông rất cần số tiền nầy.

Ông Si quả thật là một người biết trọng chữ tín, mấy năm trước, đang ở Cali, ông viết thơ về Việt Nam cho những người Khmer còn kẹt lại và hỏi thăm được số điện thoại. Ông mừng quá, vội gọi tôi và nói muốn qua thăm, vài hôm sau ông bà mua ngay vé máy bay. Khi gặp tôi, mừng rỡ như tìm lại được bạn cố tri, bây giờ ông mập mạp giống xì thẩu (ông chủ) như lúc còn bán tạp hóa ở Campuchia.

Sau ngày mất nước khoảng hai năm, anh cận vệ cũ của tôi lúc còn ở Đại đội 91 Nhảy Dù là Nguyễn văn Năm, từ vùng Kinh Tế Mới xa xăm về thăm tôi. Thầy trò lâu ngày gặp nhau mừng mừng tủi tủi, Năm kể lại sinh hoạt của gia đình và anh em Tiểu đoàn 9 ở vùng kinh tế mới trong thời gian qua.

Năm và một vài bạn đã rủ nhau vô rừng cưa cây, cắt ra từng khúc để đun thành than, rồi dùng xe đạp thồ (chở) mỗi người trên trăm ký; vừa đạp trên đường nhựa, vừa dắt bộ trên đường đê để tránh trạm kiểm soát; đoạn đường dài từ Gò Dầu tới Sàigòn (gần 100 cây số!). Đứa con trai đầu của Năm mới 12 tuổi mà cũng theo cha chở than đem lên Sàigòn, trên một khoảng đường thật xa xăm, vất vả và đầy nguy hiểm. Nguy hiểm vì du kích thường chận đường tịch thu bắt bớ hăm dọa đánh đập giống như những tên cướp cạn. Lúc bấy giờ chẳng khác nào chế độ sứ quân thời xưa, du kích mỗi làng xã thường sách súng ra đường đón xe đò cướp bóc, xét chận lấy những đồ bạn hàng dấu (đem về Sàigòn bán chui) như thịt heo, gà, vịt, gạo,... để đưa về cho vợ con chúng và chia nhau nhậu nhẹt hả hê! Mặc cho những người dân vì muốn kiếm tiền nuôi sống gia đình, nên phải độn đồ lậu vào đùi, vào bụng giả đàn bà có thai, nhưng không qua được những tay cướp bóc chuyên nghiệp nầy.

Page 49: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 149

Chỉ vì muốn bảo vệ 2 bao than xương máu, nên khi đi gặp du kích gọi lại bất ngờ, Năm biết tránh không khỏi, cũng ráng chạy trong tuyệt vọng, để mong giữ được gia tài sống chết vô cùng cần thiết cho vợ yếu (bệnh tim nặng) con thơ, đang chờ tiền để mua thuốc men và sữa cho đứa bé sơ sinh nhỏ dại. Lúc đó dù biết không chạy nhanh bằng đạn bay, nhưng anh đã quẩn trí, chỉ nghĩ đến vợ con, nếu không có tiền thì họ sẽ nguy khốn, anh không còn nghĩ tới bản thân mình nữa, chỉ cần họ được bình an thì anh có chết cũng không màng!

Rồi một viên đạn thù xuyên qua vai anh, do tên du kích cướp cạn chỉ vì bao than mà coi sinh mạng người dân như cỏ rác! Sau hơn một tháng trị thương, gia đình bị sạch vốn. Vợ anh là con của Trung sĩ Chu cũng là thuộc cấp cũ của tôi, đã khuyên Năm bỏ nghề nguy hiểm nầy và thử lên Sàigòn kiếm tôi cầu cứu. Nhưng Năm ngần ngại vì ông thầy mình đang bệnh tật, dưới chế độ nầy không biết có tồn tại được hay không. Sẵn dịp còn yếu chưa làm gì được, anh định đi thăm “xếp” cũ một chuyến, còn việc nhờ cậy chắc không có hy vọng gì.

Cha con dùng hai chiếc xe đạp, đem theo mấy củ khoai mì, khoai lang, và cặp gà định đem lên Sài gòn cứu đói thầy mình. Năm không ngờ tôi như vậy mà cũng còn kiếm ăn được, suốt hai ngày ăn uống chuyện trò mà không dám mở miệng, cuối cùng anh bạo dạn nói: - Anh Tư, tôi muốn mượn anh chị 150 ngàn (lúc đó tương đương nửa lượng vàng) để làm vốn buôn bán, nếu anh kẹt vốn thì để tôi xoay sở cách khác.

Gia đình tôi lúc đó cũng mới bắt đầu kiếm ăn được, mặc dù chưa có dư nhiều, nhưng ở chung lâu ngày, biết Năm là người tự trọng, cần cù chịu khó, trước kia lúc đi hành quân, Năm lo cho tôi từng miếng chỗ ngủ, nay chỉ vì hoàn cảnh đặc biệt mới mở miệng nhờ mình, ở thời buổi khó khăn chung của cả dân chúng miền Nam, và của gia đình binh sĩ trong chế độ cũ nói riêng.

Tôi bàn với bà xã nhín chút tiền cho anh mượn, vợ tôi bằng lòng, Năm vô cùng mừng rỡ. Chỉ một năm sau, anh đã hoàn trả đủ số tiền và còn đem cho tôi một quày chuối to lớn, do chính tay anh trồng được. Bây giờ vợ Năm buôn bán gạo lẻ ở chợ trong khu kinh tế mới, Năm lo trồng trọt và thỉnh thoảng ra chợ Gò Dầu Hạ chở gạo và hàng tạp hóa về cho vợ bán. Mỗi khi đi Sàigòn, Năm đều ghé nhà thăm, tôi thường theo dõi và rất hài lòng vì với sự chịu khó cần cù, gia đình anh mỗi ngày mỗi ổn định hơn.

Sau khi nộp đơn xin xuất ngoại chữa bệnh, khoảng hai năm thì được gọi bổ túc hồ sơ, tôi và cháu Thành tới Nguyển Du, vì bục tam cấp cao nên họ cho Thành (mới 10 tuổi) vô đại diện. Họ bảo tôi về làm tờ tường trình bản thân. Họ kêu tới kêu lui nhiều lần ý muốn làm khó dễ đủ điều, nhưng tôi vẫn kiên trì; rồi họ bác đơn, tôi khiếu nại. Họ làm khó dễ, bảo chỉ cho một mình tôi đi chữa bệnh thôi. Tôi ưng chịu.

Quách Vĩnh Trường và tôi qua sở Ngoại Vụ khiếu nại, ở đây gặp cô thơ ký (có lẽ là nhân viên chế độ cũ) rất tử tế và nhân hậu, lúc nào cũng ưu tiên cho người tàn phế. Thấy tôi và Trường đến đưa đơn khiếu nại, cô từ trong phòng bước ra ngoài nhận đơn và vui vẻ trả lời những câu thắc mắc của hai đứa. Một tháng sau chỗ làm thủ tục xuất cảnh thông báo gia đình tôi đã được chấp thuận và đợi ngày gọi đi phỏng vấn. Khi ngồi ở văn phòng đợi phái đoàn Hoa kỳ kêu vào, các cô thơ ký coi hồ sơ nói: - Chú không ở diện tứ thân phụ mẩu trực thuộc (vì người bảo lãnh là em bạn dì bên vợ!), chắc không đi được đâu!

Vợ chồng tôi nghe vậy thì vô cùng chán nản! Lúc vào bên trong, sau khi hỏi lung tung, viên Trưởng Phái Đoàn Phỏng vấn Mỹ lật danh sách hồ sơ lớn bằng cái bàn, tìm luôn hai cuốn cũng không thấy tên trong sổ. Ông ta lắc đầu, nhân dịp cô thông dịch ra ngoài lấy đồ gì đó, nhanh tay tôi đưa cho ông tờ tường trình về thành tích 10 năm ở quân ngũ, trong đó có ghi hai huy chương Mỹ và huy chương Việt Nam như Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, chiến thương bội tinh, nhành dương liễu, sao vàng, sao bạc,...cùng hình ảnh sĩ quan Cố Vấn Hoa Kỳ mà Đại tá Nguyễn Thu Lương đã cho tôi. Đọc xong, ông bảo chúng tôi ra ngoài, chờ gọi về Thái Lan kêu họ dùng “Số quân”, hỏi ban hồ sơ ở Mỹ coi tôi có những huy chương Hoa Kỳ như đã ghi trong tờ giấy mà tôi vừa mới đưa không? Chừng một tiếng đồng hồ sau ông gọi trở vô và hỏi: -Anh bị thương lật xe có được quy trách công

Page 50: còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ dacsanTV.0003.pdf · như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa,

Đặc San Trà Vinh 2015 – năm Ất Mùi trang 150

vụ không? Tôi vừa gật đầu vừa đưa ông ta tờ copy giấy chứng thực (khi hành quân dù bị tai nạn cũng được quy trách công vụ)

Chắc ông ta đã nhận được điện thoại xác nhận cái huy chương With “V” Devive kèm nhành lá liễu mà Cố Vấn Trưởng TĐ9ND đã gắn cho tôi trong trận chiến vùng Ven Đô. Ông đích thân đứng dậy bắt tay và rót trà mời tôi, uống ly nước trà mà lòng tôi cảm thấy mát dạ làm sao, vì từ đây tương lai ba đứa con tôi sẽ sáng sủa, bản thân tôi sẽ không còn nghe những luận điệu điêu ngoa trên đài truyền thanh, truyền hình, và nhất là những cô búi tóc Phường thỉnh thoảng cứ lại nhà dạy đời, nói móc họng: “Hai chân anh không đi được chứ đầu óc còn vướng nhiều tư tưởng Mỹ Ngụy lắm!”. Khi đi khám sức khỏe bác sĩ thấy phim quang tuyến có nhiều mảnh đạn còn trong mình tôi, ông ta hỏi: “Trong nầy có nhiều mảnh đạn, lúc trước anh đã đi quân đội phải không?”

Tôi sợ bị làm khó dễ nên nói dối: - Đây là những mảnh bị pháo kích từ Tết Mậu Thân!

Nhìn tướng tôi một lúc, ông ta hỏi gằn: “Anh cứ nói thiệt tình đi.” - Phải, lúc trước tôi có đi lính. - Lính gì, nhìn tướng anh có vẻ không phải lính trơn? - Tôi là cựu Thiếu tá Nhảy Dù. - Như vậy mới được chứ, anh đừng lo tôi sẽ phê tốt cho. - Cám ơn Bác sĩ!

Sở nhà đất nói sĩ quan Dù nhiều nợ máu không được bán, tôi đành ký giấy hiến nhà và phải đưa cho chúng một ngàn đồng mới có giấy xác thực để không bị khó dễ tại phi trường! Trong khi diện ưu tiên cao như chồng vợ thì đợi tới 4 tháng, còn tôi được xếp vào diện “Nhân đạo đặc biệt”, chỉ một tháng là đã có chuyến bay! Khi đã biết chắc ngày lên đường, tôi bao một chiếc Taxi quen chở cả nhà về quê thăm gia đình hai họ.

Một tuần lễ thăm quê mẹ lần chót ở Vĩnh Bình; bà con, bạn bè thay phiên đãi tiệc tiễn đưa, trong số bạn thân, có anh Nguyễn Thành Chấn “Vừa là tri kỷ vừa là tri âm”. Lúc còn học Đệ Thất trường tỉnh, Trần Trung Tiên, thấy Chấn mồ côi cha mẹ sớm, ngày nào cũng đem cơm theo từ quê đạp xe tới trường, đoạn đường dài 9 cây số dưới trời nắng chan chan.

Lúc đó ảnh hưởng Pháp, các trường đều dạy 2 buổi. Tôi bảo anh mỗi ngày tới nhà nghỉ trưa và cùng nấu cơm nóng ăn với tôi.

Vì má tôi có sạp bán guốc ở chợ, nên hai đứa phụ trách nấu ăn, Chấn lãnh phần làm cá, lột tép, rửa rau; còn tôi nấu cơm và nêm nếm (chơi gác bạn rồi!). Mỗi lần nấu xong tôi nếm tới no bụng luôn! Chấn tánh tình hiền lành và tốt bụng, bạn bè ai cũng thương mến. Sau khi xong Đệ Nhứt Cấp, Chấn vào Sư Phạm còn tôi lên Sàigòn ở nhà trọ để tiếp tục học.

Lúc vừa mới ra trường làm thầy giáo với lương chỉ 4 ngàn đồng một tháng, vậy mà Chấn cũng tự động gởi cho tôi 1 ngàn/tháng. Má tôi cho 1500$/tháng mà tiền trọ chỉ có 800$/tháng, nên tôi lúc ấy cũng không thua kém vì anh Thống, công tử Bạc Liêu, ở trọ chung nhà. Trong đám cùng ở trọ, đứa nào cũng trượt một vài keo mới lấy được mảnh bằng Tú Tài Toàn Phần, còn tôi vì thấy má buôn bán cực khổ và tấm thạnh tình của Chấn, nên ráng học và thi keo nào trúng keo nấy.

Sau nầy Chấn bị Động Viên đi khóa Hạ Sĩ quan ở Quang Trung, tôi có chở bà xã, đang mang bụng bầu to lớn, lên thăm Chấn, nhưng vì đợi chờ lâu quá, vợ tôi xỉu nên phải đi về.

Lúc đó tôi có gởi tiền lại cho Chấn, anh nhận được vài lần rồi Chấn bảo ngưng. Sau ngày mất nước, Chấn làm ăn thất bại, lên nhà tôi mượn một lượng vàng làm vốn buôn bán, bà xã rất sẵn lòng vì nghe tôi thường kể về người bạn tâm giao nầy. Vài năm sau Chấn làm ăn được, vội đem 5 chỉ tới trả nợ trước, phần còn lại sẽ trả sau. Chúng tôi nói phần nầy khỏi đưa nữa, vì lúc trước còn nợ bạn thanh toán chưa hết.

Chấn từng viết trong lưu bút ca ngợi tôi rất tốt với bạn bè, nhưng sự thực so với anh thì tôi còn thua rất xa.

Tôi rất quý bạn bè, trên quảng đường đời, gặp rất nhiều bạn tốt, nếu mình vì mọi người thì mọi người cũng vì mình. Đó là phương châm mà tôi hằng noi theo để cư xử với bè bạn và mọi người xung quanh.