14
14 ĐA DNG SINH HC VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH VIT NAM Hoàng Văn Thng và Hà ThThu Huế Trung tâm Nghiên cu Tài nguyên và Môi trường, Đại hc Quc gia Hà Ni Tóm tt Vit Nam là mt nước giàu có vđa dng sinh hc, bao gm 28 khu vc di sn thế gii vtnhiên và văn hóa, 128 khu bo tn trên cn, 15 khu bo tn bin, 5 khu Ramsar và 8 khu bo tn sinh quyn. Đa dng sinh hc – được coi như là “vn tnhiên” – đóng vai trò rt quan trng trong phát trin kinh tế và cuc sng ca con người trên khp thế gii. Vi khong 25 triu người Vit Nam sng ti các vùng nông thôn hay các vùng sâu vùng xa, 20% thu nhp ca hlà tcác tài nguyên thiên nhiên. Mt trong nhng ni dung ca tăng trưởng xanh là bo tn và sdng khôn khéo tài nguyên thiên nhiên. Báo cáo này trình bày vđa dng sinh hc và tm quan trng ca các hsinh thái, các loài, hgen và dch vca chúng trong tăng trưởng kinh tế xanh ti Vit Nam, cũng như vic sdng khôn khéo đa dng sinh hc như là vn tnhiên cho đầu tư và sáng kiến ca tăng trưởng kinh tế và cơ hi ca chúng. 1. ĐẶT VN ĐỀ Trong nhng năm qua, các quc gia trên thế gii đã phi đối mt vi các cuc khng hong kinh tế, xã hi xy ra liên tiếp. Tình trng này càng trnên nghiêm trng hơn khi mà tài nguyên thiên nhiên nói chung, đa dng sinh hc (ĐDSH) nói riêng ngày càng bsuy thoái và cn kit, biến đổi khí hu (BĐKH) ngày càng din biến phc tp, dân sthế gii ngày càng tăng cao, kéo theo các nhu cu vtài nguyên nước, nơi sinh sng, năng lượng, lương thc... cũng tăng lên mt cách nhanh chóng. Bên cnh đó, vic phát trin kinh tế chưa chú ý mt cách tha đáng đến môi trường, tài nguyên thiên nhiên – vn tnhiên – đang là nhng thách thc ln đối vi nhiu quc gia. Tăng trưởng xanh đã được nhiu quc gia xác định là trng tâm và xây dng thành chính sách phát trin nhm đạt được sphát trin bn vng, trong đó phi kđến Nht Bn, Hàn Quc, Đức, Anh, Pháp, Hà Lan... Tăng trưởng xanh đã to đà cho bước nhy vt trong phát trin kinh tế ca nhiu nước phát trin mà không cn “phát trin nâu” (ô nhim trước, xlý sau). Tăng trưởng xanh là stăng trưởng hiu qutrong sdng tài nguyên thiên nhiên, là stăng trưởng sch, vì nó gim thiu ô nhim và tác động môi trường, là stăng trưởng có sc chng chu (OECD, 2011). Tài nguyên thiên nhiên nói chung, ĐDSH nói riêng được coi như là “vn tnhiên” rt quan trng trong vic phát trin kinh tế xanh hay tăng trưởng xanh. Vit Nam là mt trong nhng nước có tính ĐDSH cao trên thế gii. Đa dng sinh hc, cùng vi các dch vca chúng, có mt vai trò rt quan trng trong quá trình phát trin kinh tế, xã hi Vit Nam. Trên 20% dân sca Vit Nam sng vùng sâu, vùng xa, nơi có tính ĐDSH cao, có đời sng phthuc rt nhiu vào khai thác và sdng tài nguyên sinh hc (BTN&MT, 2011). Tuy nhiên, trong quá trình phát trin, để đáp ng nhu cu ngày càng cao ca mình, nhân loi đã khai thác mt cách kit quvà sdng không hiu quĐDSH và các dch vĐDSH cung cp. Trong nhng năm qua, mc dù đã có nhiu cgng trong vic bo tn và sdng mt cách

ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH Ở …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10020/1/ĐDSH va...16 Việc hủy hoại thảm thực vật do khai thác gỗ, khai

  • Upload
    lequynh

  • View
    218

  • Download
    4

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH Ở …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10020/1/ĐDSH va...16 Việc hủy hoại thảm thực vật do khai thác gỗ, khai

14

ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM

Hoàng Văn Thắng và Hà Thị Thu Huế Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội

Tóm tắt

Việt Nam là một nước giàu có về đa dạng sinh học, bao gồm 28 khu vực di sản thế giới về tự nhiên và văn hóa, 128 khu bảo tồn trên cạn, 15 khu bảo tồn biển, 5 khu Ramsar và 8 khu bảo tồn sinh quyển. Đa dạng sinh học – được coi như là “vốn tự nhiên” – đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế và cuộc sống của con người trên khắp thế giới. Với khoảng 25 triệu người Việt Nam sống tại các vùng nông thôn hay ở các vùng sâu vùng xa, 20% thu nhập của họ là từ các tài nguyên thiên nhiên. Một trong những nội dung của tăng trưởng xanh là bảo tồn và sử dụng khôn khéo tài nguyên thiên nhiên. Báo cáo này trình bày về đa dạng sinh học và tầm quan trọng của các hệ sinh thái, các loài, hệ gen và dịch vụ của chúng trong tăng trưởng kinh tế xanh tại Việt Nam, cũng như việc sử dụng khôn khéo đa dạng sinh học như là vốn tự nhiên cho đầu tư và sáng kiến của tăng trưởng kinh tế và cơ hội của chúng.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong những năm qua, các quốc gia trên thế giới đã phải đối mặt với các cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội xảy ra liên tiếp. Tình trạng này càng trở nên nghiêm trọng hơn khi mà tài nguyên thiên nhiên nói chung, đa dạng sinh học (ĐDSH) nói riêng ngày càng bị suy thoái và cạn kiệt, biến đổi khí hậu (BĐKH) ngày càng diễn biến phức tạp, dân số thế giới ngày càng tăng cao, kéo theo các nhu cầu về tài nguyên nước, nơi sinh sống, năng lượng, lương thực... cũng tăng lên một cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, việc phát triển kinh tế chưa chú ý một cách thỏa đáng đến môi trường, tài nguyên thiên nhiên – vốn tự nhiên – đang là những thách thức lớn đối với nhiều quốc gia. Tăng trưởng xanh đã được nhiều quốc gia xác định là trọng tâm và xây dựng thành chính sách phát triển nhằm đạt được sự phát triển bền vững, trong đó phải kể đến Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Anh, Pháp, Hà Lan... Tăng trưởng xanh đã tạo đà cho bước nhảy vọt trong phát triển kinh tế của nhiều nước phát triển mà không cần “phát triển nâu” (ô nhiễm trước, xử lý sau).

Tăng trưởng xanh là sự tăng trưởng hiệu quả trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên, là sự tăng trưởng sạch, vì nó giảm thiểu ô nhiễm và tác động môi trường, là sự tăng trưởng có sức chống chịu (OECD, 2011). Tài nguyên thiên nhiên nói chung, ĐDSH nói riêng được coi như là “vốn tự nhiên” rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế xanh hay tăng trưởng xanh.

Việt Nam là một trong những nước có tính ĐDSH cao trên thế giới. Đa dạng sinh học, cùng với các dịch vụ của chúng, có một vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Trên 20% dân số của Việt Nam sống ở vùng sâu, vùng xa, nơi có tính ĐDSH cao, có đời sống phụ thuộc rất nhiều vào khai thác và sử dụng tài nguyên sinh học (Bộ TN&MT, 2011).

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình, nhân loại đã khai thác một cách kiệt quệ và sử dụng không hiệu quả ĐDSH và các dịch vụ mà ĐDSH cung cấp. Trong những năm qua, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc bảo tồn và sử dụng một cách

Page 2: ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH Ở …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10020/1/ĐDSH va...16 Việc hủy hoại thảm thực vật do khai thác gỗ, khai

15

khôn khéo, ĐDSH của Việt Nam vẫn ngày càng bị suy thoái, các dịch vụ mà ĐDSH mang lại cho cộng đồng và nền kinh tế ngày càng bị xuống cấp, nhiều nơi, nhiều chỗ khó có khả năng phục hồi và tiếp tục cung cấp các dịch vụ sinh thái thiết yếu cho xã hội, cũng như cho chính bản thân hệ sinh thái (HST) và môi trường.

Trong bối cảnh đó, song song với các chính sách và giải pháp về bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học và định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 năm 2004), Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia của Việt Nam về Tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050 (năm 2012) tại Quyết định số 1393 của Thủ tướng Chính phủ, với 3 mục tiêu là: (i) Khuyến khích các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên với giá trị gia tăng cao, hạn chế, tiến tới xóa bỏ những ngành sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường; (ii) Ứng dụng và phát triển công nghệ hiện đại, nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả với BĐKH; và (iii) Nâng cao đời sống nhân dân thông qua việc tạo thêm việc làm từ các ngành công nghiệp xanh và cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua việc xây dựng lối sống thân thiện với môi trường.

Bài viết này nhằm nhìn nhận một cách tổng quan về ĐDSH, vai trò mà các dịch vụ ĐDSH mang lại cho nền kinh tế xanh của Việt Nam và làm thế nào để sử dụng một cách khôn khéo dạng tài nguyên thiên nhiên này như là động lực “tự nhiên”, nhằm thúc đẩy đầu tư, đổi mới phát triển kinh tế-xã hội, cũng như tận dụng các cơ hội để phát triển.

2. ĐA DẠNG SINH HỌC – SỰ THỊNH VƯỢNG CỦA CON NGƯỜI

2.1. Đa dạng sinh học

Đa dạng sinh học là sự phong phú của mọi cơ thể sống có từ tất cả các nguồn trong các hệ sinh thái trên cạn, ở biển và các hệ sinh thái dưới nước khác và mọi tổ hợp sinh thái mà chúng tạo nên; đa dạng sinh học bao gồm sự đa dạng trong loài (đa dạng di truyền hay còn gọi là đa dạng gen), giữa các loài (đa dạng loài) và các hệ sinh thái (đa dạng hệ sinh thái) (CBD, 1992; Quốc hội, 2008).

2.2. Các giá trị của đa dạng sinh học

2.2.1. Duy trì sự sống trên Trái đất, ổn định khí hậu, giảm nhẹ thiên tai

Các HST là cơ sở sinh tồn của sự sống trên Trái đất, trong đó có loài người. Các HST đảm bảo sự chu chuyển của các chu trình địa hóa: ôxy và các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh như cacbon, nitơ. Chúng duy trì tính ổn định và màu mỡ của đất ở hầu khắp các vùng trên Trái đất, làm giảm nhẹ sự ô nhiễm.

(a) Bảo vệ tài nguyên đất và nước:

Các quần xã sinh vật đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ rừng đầu nguồn, những HST vùng đệm, để phòng chống lũ lụt và hạn hán cũng như việc duy trì chất lượng nước. Tán cây và các lớp lá rụng dưới đất ngăn cản sức rơi của những giọt mưa, làm giảm tác động của mưa lên đất; rễ cây và các vi sinh vật đất làm thông thoáng không khí trong đất và giảm bớt khả năng xảy ra lũ lụt như khi có mưa lớn và chúng cũng làm cho dòng chảy chậm lại đến hàng ngày, hàng tuần sau khi mưa.

Page 3: ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH Ở …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10020/1/ĐDSH va...16 Việc hủy hoại thảm thực vật do khai thác gỗ, khai

16

Việc hủy hoại thảm thực vật do khai thác gỗ, khai hoang làm nông nghiệp và những hoạt động khác của con người làm cho tốc độ xói mòn đất và thậm chí sạt lở đất tăng lên rất nhanh, làm giảm giá trị sử dụng đất đối với con người. Đất bị suy thoái khiến thảm thực vật không thể phục hồi được và rất có thể làm cho đất không thể dùng vào mục đích sản xuất nông nghiệp được nữa. Thêm vào đó, tầng đất màu khi bị rửa trôi theo nước sẽ chảy tràn xuống HST thủy sinh, có thể làm chết các động vật sống trong nước. Phù sa trôi vào sông, suối còn làm đục nước, thậm chí gây ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Việc xói mòn đất cũng gây bồi lấp các hồ chứa nước của các trạm thủy điện, làm suy giảm khả năng phát điện hoặc làm cản trở các tàu bè đi lại trên các sông và các cảng. Những trận mưa lụt chưa từng thấy ở khắp nơi trên toàn cầu trong thời gian gần đây, mà nguyên nhân chủ yếu là do phá rừng, khai thác quá mức trên các khu vực rừng đầu nguồn, đã buộc chính phủ các nước phải ra sắc lệnh hạn chế khai thác gỗ hoặc đóng cửa rừng, nhiều nơi phải phát động phong trào trồng cây gây rừng. Giá trị phòng chống lũ lụt của những vùng đầm lầy nói riêng và các vùng đất ngập nước nói chung là hết sức quan trọng.

(b) Điều hòa khí hậu:

Quần xã thực vật có vai trò rất quan trọng trong việc điều hòa khí hậu địa phương, khí hậu vùng và ngay cả khí hậu toàn cầu. Trong khuôn khổ địa phương, cây cối cung cấp bóng mát và khuếch tán hơi nước, làm giảm nhiệt độ không khí khi thời tiết nóng nực. Cây cối trong vườn, trong công viên còn có tác dụng chắn gió và hạn chế sự mất nhiệt từ các tòa nhà lớn trong điều kiện khí hậu lạnh giá.

(c) Phân hủy các chất thải:

Các quần xã sinh vật có khả năng phân hủy các chất ô nhiễm kim loại nặng, thuốc trừ sâu và các chất thải sinh hoạt khác đang ngày càng tăng do các hoạt động của con người (Odum, 1993, trong Trương Quang Học và Hoàng Văn Thắng, 2012). Các loài nấm và vi khuẩn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong những quá trình phân hủy này. Khi những HST như vậy bị tổn thương hay bị suy thoái, cần phải thay thế bằng một hệ thống nhân tạo để kiểm soát ô nhiễm với giá tiền đắt gấp nhiều lần với chức năng tương tự.

(d) Khả năng sản xuất của hệ sinh thái:

Khả năng quang hợp của các loài thực vật và các loài tảo lam làm cho năng lượng Mặt trời được cố định lại trong những tế bào sống. Năng lượng được tích lũy trong thực vật được con người thu lượm để sử dụng một cách trực tiếp như khi họ thu lượm củi hoặc cắt cỏ làm thức ăn cho gia súc, hay hái lượm các loài rau, thực phẩm trong thiên nhiên. Những vật liệu có nguồn gốc thực vật cũng là điểm khởi đầu của các chuỗi thức ăn. Việc hủy hoại thảm thực vật trên một khu vực mà nguyên nhân là do chăn thả động vật nuôi, do khai thác gỗ một cách quá mức hoặc do nạn cháy rừng xảy ra thường xuyên đã hủy hoại khả năng tận dụng năng lượng Mặt trời để sản xuất của các HST, do vật sẽ dẫn đến việc mất những sản phẩm do thực vật sản sinh nên các quần thể động vật sống trong vùng (kể cả con người) đều phải gánh chịu hậu quả (Odum, 1993, trong Trương Quang Học và Hoàng Văn Thắng, 2012). Tương tự như vậy, ở các khu vực cửa sông, dải ven biển, là nơi thực vật và tảo thường phát triển rất mạnh. Những thực vật và tảo là mắt xích đầu tiên của hàng loạt các chuỗi thức ăn tạo thành các hải sản như trai, sò, tôm, cua... Sự đánh bắt quá mức dẫn đến việc hủy hoại các vùng cửa sông và vùng duyên hải, làm cho Hoa Kỳ mất đi

Page 4: ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH Ở …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10020/1/ĐDSH va...16 Việc hủy hoại thảm thực vật do khai thác gỗ, khai

17

trên 200 triệu USD mỗi năm, trong đó chủ yếu là mất đi các loài cá thương mại và mất đi những khu vui chơi, giải trí cùng các dịch vụ đánh bắt cá thể thao. Dù cho các HST đã bị hủy hoại hoặc suy thoái này đều có thể phục hồi, nhưng phải trả với cái giá rất đắt và thường là không thể phục hồi đầy đủ được các chức năng sinh thái như đã có, còn tính ĐDSH thì không bao giờ có thể khôi phục được.

Những giá trị kinh tế gián tiếp của ĐDSH như các quá trình xảy ra trong môi trường và các chức năng của HST là những lợi ích không đo đếm được và nhiều khi là vô giá. Do những lợi ích này không phải là hàng hóa hay là dịch vụ, nên thường không được tính đến trong quá trình tính toán giá trị GDP của quốc gia. Tuy vậy, chúng đóng vai trò rất quan trọng trong việc duy trì các sản phẩm tự nhiên mà nền kinh tế các nước không bị phụ thuộc.

Đa dạng sinh học trực tiếp phục vụ đời sống của con người, góp phần xóa đói, giảm nghèo… Đây là các giá trị kinh tế trực tiếp được con người trực tiếp thu lượm và sử dụng. Những giá trị này thường được tính toán thông qua việc điều tra, khảo sát những hoạt động của một số nhóm người đại diện tại các điểm khai thác và đối chiếu so sánh với những số liệu được thống kê về xuất nhập khẩu. Những giá trị trực tiếp có thể được tiếp tục chia thành giá trị sử dụng cho tiêu thụ, đối với những sản phẩm hàng hóa được sử dụng ở địa phương và giá trị sử dụng cho sản xuất, cho các sản phẩm bán ra thị trường.

2.2.2. Giá trị sử dụng cho tiêu thụ

Giá trị sử dụng cho tiêu thụ được đánh giá bao gồm các sản phẩm tiêu dùng cho cuộc sống hàng ngày, như củi đốt và những loại sản phẩm khác, cho các mục tiêu sử dụng như tiêu dùng cho gia đình và không xuất hiện ở thị trường trong nước và quốc tế. Những người dân sống gần những nguồn tài nguyên thiên nhiên thường có xu hướng khai thác sử dụng chúng phục vụ cho nhu cầu cuộc sống hàng ngày của họ. Nếu người dân không có điều kiện để khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên này bởi nhiều nguyên nhân như do môi trường bị xuống cấp, do nguồn tài nguyên bị khai thác quá mức hoặc do sự quản lý nghiêm ngặt của các khu bảo tồn các nguồn tài nguyên nhiên nhiên, chất lượng cuộc sống của họ bị xuống cấp, đến mức họ không thể sống được và buộc phải di chuyển đến nơi khác để khai thác.

Các nguồn tài nguyên ĐDSH có thể được sử dụng trong rất nhiều mặt của cuộc sống, như củi đun, rau cỏ, hoa quả, thịt cá, dược phẩm, nguyên vật liệu... 80% dân số thế giới vẫn dựa vào những dược phẩm truyền thống lấy từ các loài động thực vật để sử dụng cho sơ cứu ban đầu khi họ bị nhiễm bệnh.

Hiện nay, đã có 119 chất hóa học tinh chế từ 90 loài thực vật có mạch bậc cao được sử dụng trong dược học hiện đại trên toàn thế giới và ngày càng phát hiện thêm nhiều cây con có khả năng cứu loài người khỏi các bệnh tật hiểm nghèo. Nền y học dân tộc dựa chính vào việc sử dụng các cây cỏ, là cơ sở của việc bảo vệ sức khỏe ban đầu cho 80% dân các nước đang phát triển. Mặc dù cây cỏ hoang dã đã được sử dụng rộng rãi trong việc chữa bệnh trên khắp thế giới, nhưng mới chỉ có 2% của 270.000 loài thực vật có mạch bậc cao được nghiên cứu một cách đầy đủ, trong đó có nhiều loài có triển vọng. Ước tính việc buôn bán các loại thuốc có nguồn gốc từ cây cỏ thiên nhiên và từ vi sinh vật trên toàn thế giới thu lợi khoảng 40 tỷ USD/năm.

Page 5: ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH Ở …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10020/1/ĐDSH va...16 Việc hủy hoại thảm thực vật do khai thác gỗ, khai

18

Một trong những nhu cầu không thể thiếu được trong cuộc sống là nguồn prôtêin, có thể lấy được thông qua việc săn bắt các loài động vật... Trên toàn thế giới, 100 triệu tấn cá, chủ yếu là các loài hoang dã bị đánh bắt mỗi năm. Phần lớn số cá này được sử dụng ngay tại địa phương.

Mặc dù hầu hết các thức ăn của con người được các nguồn từ động vật nuôi, thực vật và cá đáp ứng, tuy nhiên, các loài động thực vật hoang dã cũng là nguồn dinh dưỡng quan trọng của con người. 80% nguồn prôtêin trong thức ăn hàng ngày của những người dân bản địa và những người mới đến định cư ở vùng trung tâm Huallaga tại Pêru có nguồn gốc từ các loài động vật hoang dã. Ở phía Bắc của Alaska năm 1974, chỉ riêng những người dân Anaktuvuk Pass tiêu thụ trung bình 755 kg thịt từ các loài động vật hoang dã, chiếm khoảng 88% nhu cầu dinh dưỡng trong bữa ăn của họ. Ở Nicaragoa, động vật hoang dã cung cấp tới 98% lượng thịt và cá tiêu thụ của người Miskito Indians. Ước tính tổng lượng thịt khoảng 18.000 tấn đã được sử dụng khi nghiên cứu về hoạt động săn bắn và tiêu thụ thịt động vật tại Sarawak. Thậm chí cả ở các nước công nghiệp hóa như Hoa Kỳ, môn thể thao săn bắn các loài động vật móng guốc cỡ lớn ước tính mang lại khoảng 150.000 tấn thịt mỗi năm. Rất nhiều các loài động vật hoang dã được sử dụng làm thức ăn, cung cấp rất nhiều các dưỡng chất cần thiết như prôtêin, chất béo và dầu. Nguồn prôtêin động vật dồi dào nhất là từ các động vật cỡ trung bình cho đến cỡ lớn. Những người đi săn cũng thường săn bắn các loài thú hơn là chim và bò sát.

Điều rất phổ biến ở các nước đang phát triển là cuộc sống bị phụ thuộc nhiều vào nguồn tài nguyên. Ngay cả ở một số vùng ở Bắc Mỹ, hàng trăm nghìn người cũng có cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên như củi để đun nấu, sưởi ấm hay thịt cho bữa ăn hàng ngày.

Một trong những giá trị của ĐDSH được thể hiện rõ ràng là đa dạng di truyền trong nông nghiệp thông qua cung cấp nguồn gen để nâng cao chất lượng vật nuôi cây trồng. Năng suất đạt được trong lĩnh vực nông nghiệp phụ thuộc vào yếu tố kỹ thuật (các hợp chất hóa học và máy móc) và yếu tố di truyền. Thành tựu lai tạo các giống cây nông nghiệp đạt được theo một số yếu tố sau:

2.2.3. Nâng cao chất lượng cây trồng (khả năng chống chịu, chịu hạn...)

Sức chống chịu đối với sâu bệnh:

+ Chống chịu đối với sự thay đổi kỹ thuật trồng trọt (ví dụ như phản ứng đối với thuốc trừ sâu).

+ Các loại gen có năng suất cao hơn (ví dụ, kích thước của hạt thóc lớn hơn…).

+ Các đặc tính về chất lượng (ví dụ như, sự thay đổi về lượng prôtêin hay dầu).

Một số lượng lớn các công trình nghiên cứu đã được thực hiện để ước tính giá trị của các thành tựu về di truyền đối với mùa màng. Các loài cây con mà chúng ta đang nuôi trồng luôn cần được bổ sung những tính trạng di truyền mới lấy từ các cây, con hoang dã, là những bà con gần gũi sống trong thiên nhiên, bằng cách lai giống. Trong điều kiện thiên nhiên, các loài hoang dã đã tiếp tục được biến hóa, thay đổi để thích nghi với những điều kiện sống mới như thay đổi khí hậu và có khả năng chống chịu với những loại bệnh mới. Các loài đó là nguồn cung cấp các gen mới để cải tạo các cây, con nuôi trồng của chúng ta. Tiềm năng của ĐDSH được đánh giá một cách rõ ràng qua ví dụ sau: Vào năm 1970, một sinh viên người Mêhicô khám phá được một giống ngô hoang dã ở miền Trung Jalisco, có tên khoa học là Zea diplopirennis. Giống ngô mới này kháng được nhiều bệnh của ngô và là giống ngô duy nhất trong số các loại ngô được trồng có

Page 6: ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH Ở …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10020/1/ĐDSH va...16 Việc hủy hoại thảm thực vật do khai thác gỗ, khai

19 

khả năng sinh trưởng lâu năm. Gen của giống ngô này được ghép vào giống ngô thuần chủng, có khả năng tăng sản lượng ngô trồng trên thế giới đạt giá trị hàng tỷ USD. Loài ngô này đã được phát hiện kịp thời trước khi bị phá đi làm nương rẫy trong khi chỉ còn sót lại khoảng 10 ha. Chúng ta có thể thấy rất nhiều ví dụ cho thấy rằng, đã và sẽ có các loài sinh vật bị mất đi trước lúc chúng ta biết được giá trị của chúng.

2.2.4. Phục vụ đời sống tinh thần, nghệ thuật, thẩm mỹ và văn hóa

(a) Khía cạnh văn hóa:

Thế giới tự nhiên có ảnh hưởng đến triết học, ngôn ngữ, nghệ thuật, tôn giáo và rất nhiều các khía cạnh khác của xã hội của các cộng đồng. Trong nền văn hóa châu Phi, các loài động vật hoang dã được coi là biểu tượng trong tín ngưỡng, thần thoại, các tác phẩm hội họa và điêu khắc. Sự phụ thuộc của nền kinh tế vào các nguồn tài nguyên hoang dã đã tạo nên mối quan hệ gần gũi giữa các yếu tố sinh thái chi phối các loài động thực vật hoang dã và các tổ chức xã hội trong một số bộ tộc người. Ví dụ, sự thay đổi theo mùa của các kỹ thuật săn bắn (vào mùa mưa hoạt động săn bắn mang tính cá nhân, còn vào mùa khô xu hướng săn bắn là dùng các lưới bắt và đi thành từng nhóm đông người) của bộ tộc người Babinga ở nước Cộng hòa Trung Phi tác động đến các địa điểm cắm trại, thành phần của các nhóm người và quan hệ xã hội. Trong rất nhiều nền văn minh, giá trị xã hội của người đàn ông được thể hiện thông qua lòng dũng cảm của anh ta trong hoạt động săn bắn.

(b) Giải trí, du lịch và thẩm mỹ:

Rất nhiều loài động vật hoang dã được thuần dưỡng với mục đích bầu bạn với con người, như sử dụng làm vật nuôi, do nhu cầu giải trí, của cá nhân hay cho cộng đồng như việc trưng bày trong các vườn thú. Tại Nam Mỹ, khảo sát tại 4 làng Kayapo đã cho kết quả là có ít nhất 31 loài động vật hoang dã được thuần dưỡng thành các loài động vật nuôi, trong đó có 4 loài rùa, 16 loài vẹt và vẹt đuôi dài, một loài thằn lằn và một loài nhện (Redford và Robinson, 1991, trong Trương Quang Học và Hoàng Văn Thắng, 2012). Nuôi dưỡng thú vật đã trở thành thói quen rất phổ biến của con người. Do vậy, hoạt động thương mại xuất khẩu các loài động vật hoang dã làm thú nuôi từ các nước nhiệt đới đến các nước phát triển rất phát đạt và thu được nguồn lợi lớn. Ví dụ, doanh thu chỉ của việc buôn bán vẹt, bao gồm cả các loài hoang dã và các loài đánh bắt được ước tính khoảng 300 triệu USD mỗi năm (Hemley, 1988, trong Trương Quang Học và Hoàng Văn Thắng, 2012). Tổng giá trị của việc xuất khẩu vẹt ở các nước Trung và Nam Mỹ từ năm 1982 đến 1986 ước tính khoảng 1,6 tỷ USD. Vẹt là loài động vật có giá trị hơn các loài chim nhỏ khác, mặc dù chúng chỉ được buôn bán với số lượng rất nhỏ, nhưng chúng lại đóng góp phần lợi nhuận rất lớn trong hoạt động buôn bán này.

Rất nhiều thú vui của con người được tạo nên thông qua các loài động vật hoang dã, như tổ chức các cuộc tham quan, dã ngoại để quan sát đời sống hàng ngày của chúng, xem TV và các cuốn băng về động vật hoang dã hay chỉ đơn giản là biết rằng, chúng vẫn đang tiếp tục tồn tại. Hình thức sử dụng không tiêu thụ này rất khó để xem xét, đánh giá, nhưng đây có thể là giá trị kinh tế lớn nhất mà các loài động vật hoang dã đem lại. Một trong những cách dễ dàng hơn nhằm đánh giá giá trị của hoạt động này là định lượng số tiền mà các khách du lịch sẵn sàng chi trả cho hoạt động vui chơi giải trí của họ với các loài động vật hoang dã. Người ta ước tính rằng, các khách du lịch trả 200 USD/người cho một giờ chiêm ngưỡng loài Gorilla gorilla beringei ở Ruanđa.

Page 7: ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH Ở …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10020/1/ĐDSH va...16 Việc hủy hoại thảm thực vật do khai thác gỗ, khai

20

Những du khách này đã đóng góp gần 1 triệu USD/năm do doanh thu trực tiếp của vườn thú. Tại Kênya, người ta ước tính rằng voi châu Phi đóng góp khoảng 25 triệu USD/năm cho nền công nghiệp du lịch. Thưởng ngoạn các loài động vật và các sinh cảnh hoang dã là một trong những lĩnh vực được phát triển và mở rộng nhanh nhất trong ngành công nghiệp du lịch.

Du lịch sinh thái chỉ là một phần trong ngành công nghiệp du lịch. Một định nghĩa chính xác về du lịch sinh thái rất khó nắm bắt, một phần do bản chất phức tạp của hoạt động, là tổng hợp của sự di chuyển, nơi ăn ở, các hoạt động hỗ trợ và cơ sở hạ tầng.

Ngành du lịch có tầm quan trọng đối với cộng đồng địa phương, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, nơi phổ biến đối với hoạt động du lịch sinh thái. Lindberg năm 1991 đã tính toán rằng, ngành du lịch của Kênia có doanh thu là 400 triệu USD, là khoản thu lớn nhất trong hoạt động trao đổi ngoại thương (World Conservation Monitoring Center, 1992).

2.3. Đa dạng sinh học và sự thịnh vượng

Đa dạng sinh học được coi là nguồn tài nguyên quý, là nguồn lợi có thể khai thác sử dụng đảm bảo cho cuộc sống thịnh vượng và phát triển bền vững của quốc gia và các cộng đồng bản địa trên mọi miền. Tuy nhiên, sự đóng góp của ĐDSH vào sự thịnh vượng và phát triển bền vững phụ thuộc trước hết vào mức độ hiểu biết và các giá trị có thể khai thác trong từng cấp độ của ĐDSH (Bảng 2.1), theo đó ở cấp bậc ĐDSH càng cao (cấp độ đa dạng hệ sinh thái) thì giá trị ĐDSH càng lớn và có khả năng điều chỉnh để duy trì sự phát triển bền vững của một xã hội thịnh vượng càng cao.

Bảng 2.1. Giá trị của đa dạng sinh học tùy thuộc vào cấp độ của sự đa dạng sinh học

Cấp độ ĐDSH Giá trị ĐDSH (các lợi ích mà con người nhận được)

Đa dạng di truyền (đa dạng trong phạm vi quần thể loài)

Các sản phẩm của từng loài với chất lượng và sản lượng khác nhau (một phần của dịch vụ cung cấp)

Đa dạng loài Các sản phẩm đa dạng của nhiều loài khác nhau với chất lượng và sản lượng khác nhau (phần lớn của dịch vụ cung cấp, chủ yếu là lương thực, gỗ, củi, dược liệu…)

Đa dạng hệ sinh thái Các dịch vụ hệ sinh thái (cung cấp, điều tiết, văn hóa và hỗ trợ). Toàn bộ cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của loài người

Sự thịnh vượng lại được tạo thành từ các thành tố cơ sở, gộp trong 5 nhóm:

+ An ninh (an toàn cá nhân, đảm bảo tiếp cận tài nguyên, an toàn trước các thảm họa);

+ Các nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống tốt (một cuộc sống no đủ, lương thực đầy đủ dưỡng chất, nơi ở, sự tiếp cận các lợi ích);

+ Y tế (sức khỏe, cảm giác thoải mái, tiếp cận không khí trong lành và nước sạch);

+ Quan hệ cộng đồng tốt (gắn kết xã hội, sự tôn trọng lẫn nhau, khả năng giúp đỡ lẫn nhau);

+ Quyền tự do lựa chọn và hành động (cơ hội có thể đạt được cái mà mỗi cá nhân mong muốn làm và sự thăng tiến).

Page 8: ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH Ở …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10020/1/ĐDSH va...16 Việc hủy hoại thảm thực vật do khai thác gỗ, khai

21 

Liên hệ giữa ĐDSH thể hiện cụ thể qua các dịch vụ HST và sự thịnh vượng nói chung cũng như giữa các thành tố của hai lĩnh vực này thể hiện trên sơ đồ (Hình 2.1) cho thấy rất rõ vai trò của HST và các dịch vụ HST trong việc kiến tạo nên các điều kiện cho sự thịnh vượng của cộng đồng. Các cấp bậc thấp hơn của ĐDSH (đa dạng trong loài và đa dạng loài) chỉ có vai trò quan trọng trong các dịch vụ cung cấp.

Nguồn: MEA, 2005.

Hình 2.1. Quan hệ giữa đa dạng sinh học và sự thịnh vượng

CÁC DICH VỤ HỖ TRỢ Các dịch vụ cần thiết để sinh ra các dịch vụ hệ

sinh thái khác

• Hình thành đất

• Chu trình dinh dưỡng

• Các sản phẩm sơ cấp

DỊCH VỤ CUNG CẤP Vật chất do HST tạo ra

hoặc cung cấp

• Lương thực, thực phẩm

• Gỗ, củi • Sợi • Nước sạch • Các hoạt chất thiên

nhiên • Tài nguyên di truyền

CÁC DỊCH VỤ ĐIỀU TIẾT

Các lợi ích thu được từ việc điều tiết các quá trình

của HST • Điều tiết khí hậu • Điều tiết dịch bệnh • Điều tiết lũ lụt • Phân hủy các độc tố

VĂN HÓA Các lợi ích phi vật thể

nhận được từ HST

• Tinh thần • Giải trí • Thẩm mỹ • Cảm hứng • Giáo dục • Công cộng • Tượng trưng (biểu

tượng)

AN NINH

• Sợi • An toàn cá nhân • Đảm bảo tiếp cận tài

nguyên • An toàn trước các thảm

họa

NHU CẦU THIẾT YẾU CHO CUỘC SỐNG TỐT

• Sống no đủ • Lương thực đủ dưỡng chất• Nơi ở • Tiếp cận các lợi ích

Y TẾ

• Sức khỏe tốt • Cảm giác thoải mái • Tiếp cận không khí trong

lành • Nước sạch

QUAN HỆ XÃ HỘI TỐT

• Gắn kết xã hội • Sự tôn trọng lẫn nhau • Khả năng giúp đỡ lẫn nhau

TỰ DO LỰA

CHỌN VÀ HOẠT ĐỘNG

Cơ hội có thể đạt được cái mà mỗi cá nhân mong muốn và sự thăng tiến

CÁC THÀNH TỐ CỦA SỰ THỊNH VƯỢNG DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI

Page 9: ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH Ở …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10020/1/ĐDSH va...16 Việc hủy hoại thảm thực vật do khai thác gỗ, khai

22

3. ĐA DẠNG SINH HỌC – NGUỒN VỐN TỰ NHIÊN CHO TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM

3.1. Đa dạng sinh học của Việt Nam

Nằm ở rìa phía Đông bán đảo Ðông Dương, trong vùng nhiệt đới Bắc Bán cầu, Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên trên đất liền là 329.241 km2, trong đó 75% diện tích là đồi núi. Vùng biển có bờ biển dài khoảng 3.260 km, với hàng nghìn đảo lớn nhỏ ven bờ, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và vùng đặc quyền kinh tế khoảng 1 triệu km2.

Việt Nam là một trong những nước có tính ĐDSH cao. Theo báo cáo quốc gia về đa dạng sinh học (Bộ TN&MT, 2011), cho đến nay, Việt Nam đã thống kê được 16.428 loài thực vật, trong đó có 11.373 loài thực vật bậc cao có mạch; 10.300 loài động vật trên cạn, trong đó có 7.700 loài côn trùng, 317 loài bò sát, 167 loài ếch nhái, 840 loài chim và 312 loài và phân loài thú.

Về vi sinh vật: đã thống kê và xác định được 7.500 loài, trong đó có 700 loài vi sinh vật có lợi.

Ở các thủy vực nước ngọt: đã thống kê và xác định được 1.438 loài vi tảo, trên 800 loài động vật không xương sống, 1.028 loài cá nước ngọt, trong đó có 40 loài và phân loài mới cho khoa học; 52 loài tôm, cua; 50 loài trai, ốc...

Về sinh vật biển: đã phát hiện được 11.000 loài, trong đó có 6.300 loài động vật đáy; khoảng 2.500 loài cá với trên 100 loài cá kinh tế; 653 loài rong biển; 657 loài động vật nổi; 537 loài thực vật nổi; 94 loài thực vật ngập mặn; 225 loài tôm biển; 14 loài cỏ biển; 15 loài rắn biển; 25 loài thú biển và 5 loài rùa biển.

Đa dạng sinh học ở Việt Nam có ý nghĩa to lớn trong đời sống của tự nhiên và con người, các HST với những nơi cư trú là môi trường sống của nhiều loài sinh vật hoang dã. Ngoài ra, các HST còn có các chức năng dịch vụ. Có thể phân thành bốn loại dịch vụ của HST như sau:

Dịch vụ cung cấp: Hệ sinh thái mang đến những lợi ích trực tiếp cho con người, thường có giá trị kinh tế rõ ràng, đóng góp lớn cho nền kinh tế quốc gia, đặc biệt là trong các lĩnh vực sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản; là cơ sở đảm bảo an ninh lương thực của đất nước; duy trì nguồn gen tạo giống vật nuôi, cây trồng; cung cấp các vật liệu xây dựng và các nguồn nhiên liệu, dược liệu; cung cấp lượng lớn thủy sản khai thác từ vùng biển ven bờ và đáp ứng lượng lớn prôtêin cho người dân, trong đó, bao gồm các giá trị về thực phẩm, nguyên liệu thô và tài nguyên; các dịch vụ sinh thái như điều hòa khí hậu, điều tiết các hiện tượng thời tiết cực đoan, xử lý chất thải, lọc nước, kiểm soát sinh học; các dịch vụ văn hóa như vui chơi giải trí, du lịch; các giá trị về duy trì tính ĐDSH của nguồn gen.

Dịch vụ văn hóa: Hệ sinh thái không chỉ cung cấp những lợi ích vật chất trực tiếp, mà còn đóng góp vào những nhu cầu lớn hơn của xã hội. Những nhu cầu này khiến con người tự nguyện chi trả cho hoạt động bảo tồn ĐDSH. Các HST có tính ĐDSH cao cung cấp giá trị vô cùng to lớn cho các ngành giải trí ở Việt Nam với các loại hình du lịch sinh thái đang dần dần phát triển, hứa hẹn đem lại nhiều giá trị kinh tế và góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của ĐDSH và công tác bảo tồn thiên nhiên.

Khoảng 70% sự phát triển nhanh chóng của ngành du lịch là dựa vào các vùng ven bờ biển, nơi có rất nhiều các HST tự nhiên với tính ĐDSH cao.

Page 10: ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH Ở …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10020/1/ĐDSH va...16 Việc hủy hoại thảm thực vật do khai thác gỗ, khai

23

Dịch vụ điều tiết: Một loạt những chức năng thiết yếu của HST thường không được định giá trong thị trường truyền thống. Các chức năng, dịch vụ này bao gồm: điều hòa khí hậu qua lưu trữ cacbon và kiểm soát lượng mưa, lọc không khí và nước, phân hủy các chất thải trong môi trường, giảm nhẹ những tác hại của thiên tai như lở đất hay bão biển.

Dịch vụ hỗ trợ: Tuy không làm lợi trực tiếp cho con người, nhưng là yếu tố thiết yếu trong các chức năng của HST, do đó, gián tiếp ảnh hưởng đến tất cả các loại dịch vụ. Ví dụ như, sự hình thành của đất hay quá trình sinh trưởng của thực vật. Các thống kê khoa học cho thấy, các dải rừng ngập mặn ven biển Việt Nam góp phần giảm ít nhất 20-50% thiệt hại do bão, nước biển dâng và sóng thần gây ra. Đặc biệt, hệ thống rừng ngập mặn trồng ven đê còn đóng vai trò là tấm lá chắn xanh, giảm 20-70% năng lượng của sóng biển, đảm bảo an toàn cho các con đê biển, giúp tiết kiệm hàng nghìn tỷ đồng cho việc duy tu, sửa chữa đê biển (Bộ TN&MT, 2011).

3.2. Vai trò của đa dạng sinh học trong tăng trưởng xanh ở Việt Nam

Tăng trưởng xanh là hướng tiếp cận mới của thế giới trong tăng trưởng kinh tế, không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, mà còn hướng tới phục hồi và bảo tồn HST tự nhiên, nuôi dưỡng cuộc sống con người, giảm thiểu tác động của BĐKH. Tăng trưởng xanh làm cho các quá trình tăng trưởng có hiệu quả về mặt tài nguyên, sạch hơn và chóng phục hồi hơn chứ không làm cho các quá trình này chậm lại. Điều này cũng đồng nghĩa với việc đầu tư vào môi trường để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bởi vậy, tăng trưởng xanh được đánh giá là con đường ngắn nhất hướng tới sự phát triển kinh tế bền vững.

Ở Việt Nam, khoảng 25 triệu người sống trong hoặc gần rừng và khoảng 20% thu nhập của họ từ lâm sản ngoài gỗ. Nghề thủy sản đem lại nguồn thu nhập chính cho khoảng 8 triệu người và một phần thu nhập cho khoảng 12 triệu người. Trung bình mỗi hecta san hô cung cấp 130.000 USD giá trị hàng hóa và dịch vụ, đôi khi có thể lên tới 1,2 triệu USD.

Nghiên cứu của (Nguyễn Thị Minh Huyền, 2010) đã ước tính, tổng giá trị kinh tế của HST rừng ngập mặn Tiên Lãng, Hải Phòng khoảng 1,67 tỷ đồng/ha/năm, HST rạn san hô ở Cát Bà khoảng 11,42 tỷ đồng/ha/năm, HST rạn san hô ở Long Châu (huyện Cát Hải) khoảng 1,71 tỷ đồng/ha/năm.

Hiện nay, tại một số địa phương đã biết tận dụng gián tiếp các nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá của mình để phát triển du lịch, đặc biệt du lịch sinh thái, khai thác bền vững các giá trị ĐDSH để phát triển bền vững các hoạt động đem lại nguồn thu đáng kể để duy trì các hoạt động và đóng góp đáng kể vào GDP của địa phương, cụ thể như số lượng khách du lịch đến tham quan Vịnh Hạ Long tăng qua các năm (Bảng 3.1).

Doanh thu từ du lịch tại Vịnh Hạ Long tăng qua các năm, năm 2010, doanh thu là 2.883 tỷ, năm 2011, doanh thu 3.545 tỷ, năm 2012 doanh thu 4.347 tỷ, 10 tháng đầu năm 2013, doanh thu 4.200 tỷ đồng.

Tại Vườn Quốc gia Tam Đảo, từ năm 2010, cũng bắt đầu khai thác nguồn tài nguyên hiện có của Vườn để phát triển hoạt động du lịch sinh thái, mặc dù hiệu quả chưa thực sự tương xứng với nguồn tiềm năng ĐDSH của Vườn, nhưng ngày càng có nhiều người biết đến hoạt động du lịch sinh thái và giáo dục môi trường của Vườn (Bảng 3.2).

Page 11: ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH Ở …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10020/1/ĐDSH va...16 Việc hủy hoại thảm thực vật do khai thác gỗ, khai

24

Bảng 3.1. Thống kê lượt khách tham quan Vịnh Hạ Long từ 1996 đến 9/2013

Số lượt khách tham quan Vịnh Hạ Long Năm

Người Việt Nam Người nước ngoài Cộng

1996 191.248 45.000 236.248

1997 122.294 94.014 216.308

1998 214.423 113.140 327.563

1999 464.768 129.327 594.095

2000 554.870 297.562 852.432

2001 457.514 536.676 994.190

2002 576.970 704.721 1.281.691

2003 611.728 695.192 1.306.920

2004 734.602 817.156 1.551.758

2005 608.775 809.361 1.418.136

2006 662.574 1.157.169 1.819.743

2007 764.521 1.023.808 1.788.329

2008 928.519 1.693.671 2.622.190

2009 1.381.104 1037.307 2.418.431

2010 1.436.393 1.356.215 2.792.608

2011 1.478.032 1.259.015 2.737.047

2012 1.074.737 1.493.467 2.568.204

Đến 9/2013 794.361 1.161.269 1.955.630 Nguồn: Ban Quản lý Vịnh Hạ Long, 2013.

Bảng 3.2. Số lượng khách đến tham quan Vườn Quốc gia Tam Đảo từ 2010 đến tháng 9/2013

2010 2011 2012 Đến tháng 9/2013

Trong nước

Quốc tế Trong nước

Quốc tế Trong nước

Quốc tế Trong nước

Quốc tế Tổng

350 100 320 80 200 50 80 20 1.200 Nguồn: Vườn Quốc gia Tam Đảo, 2013.

Với một hệ thống vườn quốc gia và khu bảo tồn khá phong phú, việc phát triển kinh tế bằng cách tận dụng khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên phục vụ cho phát triển du lịch sinh thái một cách bền vững đang ngày càng phát triển và có hiệu quả, điển hình như tại Cát Bà (Bảng 3.3), Cúc Phương (Bảng 3.4).

Page 12: ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH Ở …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10020/1/ĐDSH va...16 Việc hủy hoại thảm thực vật do khai thác gỗ, khai

25

Bảng 3.3. Biểu tổng hợp doanh thu từ du lịch Vườn Quốc gia Cát Bà Đơn vị tính: đồng

STT Năm Thu phí Tổng doanh thu Tỷ trọng doanh thu từ du lịch/tổng doanh thu (%)

(1) (2) (3) (4) (5) = (3)/(4)

1 2003 331.000.000 2.872.000.000 12

2 2004 409.125.000 3.040.125.000 13

3 2005 505.324.000 3.135.324.000 16

4 2006 605.247.000 4.051.647.000 15

5 2007 681.681.000 4.479.681.000 15

6 2008 622.600.000 5.376.300.000 12

7 2009 686.500.000 5.572.667.000 12

8 2010 847.500.000 6.249.985.000 14

9 2011 878.331.000 7.569.375.000 12

10 2012 1.335.588.000 9.657.343.000 14

11 2013 1.400.000.000 10.162.000.000 14 Nguồn: Vườn Quốc gia Cát Bà, 2013.

Bảng 3.4. Tổng hợp số lượng khách du lịch đến Vườn Quốc gia Cúc Phương

Năm Khách nội địa (lượt người)

Khách quốc tế (lượt người)

Tổng cộng (lượt người)

1994 21.795 1.472 23.267

1995 20.971 1.885 22.856

1996 21.739 1.809 23.548

1997 32.418 1.768 34.186

1998 40.862 1.675 42.537

1999 37.395 1.850 39.245

2000 46.694 2.465 49.159

2001 56.534 3.316 59.850

2002 70.334 3.934 74.268

2003 55.002 4.227 59.229

2004 65.770 5.129 70.899

2005 57.466 5.792 63.258

Page 13: ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH Ở …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10020/1/ĐDSH va...16 Việc hủy hoại thảm thực vật do khai thác gỗ, khai

26

Năm Khách nội địa (lượt người)

Khách quốc tế (lượt người)

Tổng cộng (lượt người)

2006 69.763 6.976 76.739

2007 74.408 9.010 83.418

2008 71.224 10.538 81.762

2009 73.236 9.556 82.792

2010 72.772 10.828 83.600

2011 66.750 11.750 78.500

2012 64.293 11.425 75.718

Đến tháng 9/2013 55.050 8.650 63.700 Nguồn: Vườn Quốc gia Cúc Phương, 2013.

4. KẾT LUẬN

Tăng trưởng xanh là sự tăng trưởng hiệu quả trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên, là sự tăng trưởng sạch, vì nó giảm thiểu ô nhiễm và tác động môi trường, là sự tăng trưởng có sức chống chịu. Tài nguyên thiên nhiên nói chung, đa dạng sinh học nói riêng được coi như là “vốn tự nhiên” rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế xanh hay tăng trưởng xanh.

Việt Nam là một trong những nước có tính đa dạng sinh học cao trên thế giới. Đa dạng sinh học, cùng với các dịch vụ của chúng, có một vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Trên 20% dân số của Việt Nam sống ở các vùng sâu, vùng xa, nơi có tính đa dạng sinh học cao, có đời sống phụ thuộc rất nhiều vào khai thác và sử dụng tài nguyên sinh học.

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình, nhân loại đã khai thác một cách kiệt quệ và sử dụng không hiệu quả đa dạng sinh học và các dịch vụ mà đa dạng sinh học cung cấp. Trong những năm qua, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc bảo tồn và sử dụng một cách khôn khéo, đa dạng sinh học của Việt Nam ngày càng bị suy thoái, các dịch vụ mà đa dạng sinh học mang lại cho cộng đồng và nền kinh tế ngày càng bị xuống cấp, nhiều nơi, nhiều chỗ khó có khả năng phục hồi và tiếp tục cung cấp các dịch vụ sinh thái thiết yếu cho xã hội cũng như cho chính bản thân hệ sinh thái và môi trường.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Quản lý Vịnh Hạ Long, 2013. Thống kê lượt khách tham quan Vịnh Hạ Long từ 1996 đến 9/2013. Tài liệu tổng hợp.

2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN&MT), 2011. Báo cáo quốc gia về đa dạng sinh học.

3. CBD, 1992. Công ước Đa dạng sinh học.

4. Nguyễn Thị Minh Huyền, 2010. Nghiên cứu áp dụng phương pháp lượng giá kinh tế tài nguyên một số hệ sinh thái tiêu biểu ven biển Hải Phòng và đề xuất các giải pháp sử dụng

Page 14: ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH Ở …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10020/1/ĐDSH va...16 Việc hủy hoại thảm thực vật do khai thác gỗ, khai

27

bền vững. Báo cáo tại Hội nghị do Sở Khoa học và Công nghệ Hải Phòng tổ chức ngày 09/11/2010. Viện Tài nguyên và Môi trường Biển, Viện KH&CN Việt Nam, Hà Nội.

5. Millennium Ecosystem Assessement (MEA), 2005. Ecosystems and Human Well-being. MEA, Malaysia and United States.

6. Quốc hội, 2008. Luật số 20/2008/QH12, ngày 13/11/2013 của Chủ tịch Quốc hội về Luật Đa dạng sinh học.

7. OECD, 2011. Towards Green Growth: A Summary for Policy Makers. May 2011. 28 p.

8. Trương Quang Học và Hoàng Văn Thắng, 2012. Bảo tồn đa dạng sinh học. Bài giảng cho Chương trình sau đại học “Môi trường và phát triển bền vững”. Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

9. Vườn Quốc gia Cát Bà, 2013. Tổng hợp doanh thu từ thu phí du lịch. Tài liệu tổng hợp.

10. Vườn Quốc gia Cúc Phương, 2013. Tổng hợp khách du lịch đến Vườn Quốc gia. Tài liệu tổng hợp.

11. Vườn Quốc gia Tam Đảo, 2013. Tổng hợp khách du lịch đến Vườn Quốc gia. Tài liệu tổng hợp.

12. World Conservation Monitoring Centre, 1992. Global Biodiversity: Status of the Earth’s Living Resource. Chapman & Hall, London.

Abstract

BIODIVERSITY AND GREEN GROWTH IN VIET NAM

Hoang Van Thang and Ha Thi Thu Hue Centre for Natural Resources and Environmental Studies, VNU

Viet Nam is a country rich in biodiversity, including 28 world heritage areas of nature and culture, 128 protected areas on land and 15 marine protected areas, 5 Ramsar sites and 8 Biosphere nature reserves. Biodiversity which is considered as "natural capital" plays an important role in economic development and the lives of people around the world. About 20% of the income of 25 million people living in Viet Nam’s rural areas or in the remote areas comes from the natural resources. One of the components of green growth is the conservation and wise use of natural resources. This paper provides some information about biodiversity and the importance of ecosystems, species, gene pool and their services in green economic growth in Viet Nam. The paper also spells out the importance of the wise use of biodiversity, which is considered as natural capital for investment and initiatives of economic growth and our opportunities.