100
2013

dacsanTHDXuanQuyty final - trinhhoaiduc.netfirms.comtrinhhoaiduc.netfirms.com/sangtac/xuan13/dacsanTHDXuanQuyty_final.pdf · Quý thầy cô và các anh chị CHS thân mến, Sau

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

2013

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 2

 

Ban Điều Hành Hội Ái Hữu CGS và HS Trung Học Trịnh Hoài Đức - Bình Dương: Cố Vấn: GS Nguyễn Thanh Liêm, GS Nguyễn Trí Lục, CHS Nguyễn Văn Tiếp (khoá 9) Hội Trưởng: CHS Nguyễn Văn Diệp (khoá 5), Email: [email protected] Hội Phó đặc trách xã hội và văn nghệ: CHS Nguyễn Kim Nên (khoá 9) Email: [email protected] Hội Phó đặc trách thông tin, liên lạc kiêm thủ quỹ: CHS Từ Minh Tâm (khoá 11) Email: [email protected] Đại diện tại các địa phương: Sydney: CHS Đỗ Thị Anh (khoá 2), Email: [email protected] Melbourne: CHS Trần Văn Khanh (khoá 3), Email: [email protected] Canada: CHS Nguyễn Thị Kim Oanh & Nguyễn Thị Minh Lan (khoá 9), Email: [email protected] Texas: CHS Nguyễn Kim Nên (khoá 9), Email: [email protected] San Jose: CHS Nguyễn Thị Bì (khoá 9), Email: [email protected] Sacramento: CHS Nguyễn Văn Đông (khoá 9), Email: [email protected] San Diego: CHS Nguyễn Thị Khoẻ (khoá 3), Email: [email protected] Orange County và vùng phụ cận: CHS Nguyễn Văn Diệp (khoá 5), Email: [email protected]  

Trước thềm năm mới Quý Tỵ 2013 Kính chúc quý thầy cô nhiều được nhiều sức khoẻ, an khang, tráng kiện, vạn sự như ý. Suốt đời cựu học sinh Trịnh Hoài Đức luôn luôn ghi nhớ công ơn khai sáng của thầy cô. Hội trưởng, Hội phó, và toàn thể CHS Trung Học Trịnh Hoài Đức Bình Dương 

 

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 3

 

Quý thầy cô và các anh chị CHS thân mến, Sau nhiều ngày tháng thực hiện, Đặc San

Xuân Quý Tỵ của Hội CGS & HS Trịnh Hoài Đức đã hoàn thành và tới tay bạn đọc trong và ngoài nước. Có được đặc san là do sự đóng góp bài vở của nhiều thầy cô và anh chị CHS khắp nơi để chúng ta có một món ăn tinh thần trong mùa xuân mới. Ban Phụ Trách xin chân thành cám ơn các cộng tác viên đã giúp cho đặc san được ra mắt.

Năm nay ngoài các tác giả quen thuộc, xin giới thiệu những ngòi bút mới đó là CHS Lý Thành Phước, Huỳnh Hữu Thế, Trần Thị Ngọc Sương, Trương Thị Huê Mỹ, bacsinhaque…. Các bạn ấy đã gởi đến chúng ta những bài viết rất tình cảm về thời học sinh đầy thơ mộng.

Một đặc điểm khác của đặc san năm nay là có rất nhiều bài thơ hay. Tác giả Đồ Ngông có 100 bài thơ về Bình Dương rất đặc sắc. Thầy Phạm Đức Liên gởi ba bài thơ đầy tình cảm: một bài về trường Trịnh Hoài Đức, hai bài về Quê Hương Việt Nam. Thầy còn dịch thơ ra tiếng Anh để nếu chúng ta có bạn người Mỹ thì có thể giới thiệu với họ về quê hương mình. Thêm vào đó CHS Đỗ Mỹ Loan cũng gởi hai bài thơ về mùa xuân với đầy cảm xúc. Đó là chưa kể các tác phẩm của Nguyễn Kim Nên, Thuý Đinh …

Ngoài thơ văn, đặc san năm nay có thêm những hình ảnh thật quý giá ghi lại nhiều kỷ niệm của thầy trò chúng ta ở mái trường thân yêu 40-50 năm trước. Xin cám ơn thầy Phạm Đức Liên, cô Nguyễn Thị Tâm, CHS Lâm Ngọc Tuyết, Nguyễn Thị Hai và các bạn khác đã gởi những hình ảnh rất quý nầy.

Đặc san năm nay có những bài viết về các CHS Trịnh Hoài Đức đã có những thành tích đáng khen ngợi về báo chí, văn nghệ, thời trang. Đó là CHS Nguyễn Đình Dũng - giải nhứt cuộc thi viết văn toàn quốc của báo Thằng Bờm năm 1972. Đó là CHS Ngô Kim Khôi – nhà tạo mẫu thời trang nổi tiếng ở Pháp. Đó là Võ Đông Điền - một nhạc sĩ tài hoa có nhiều sáng tác được nhiều người ưa thích. Các CHS nói trên đã

có những thành tích đáng để chúng ta trân trọng và tự hào. Đặc san Trịnh Hoài Đức nhắc lại ở đây để chúng ta cùng biết thêm về những thành quả của các bạn để cùng vui trong mùa xuân mới.

Do hội chúng ta không có nhiều người và khả năng tài chánh hạn hẹp nên đặc san năm nay cũng chỉ được phát hành dưới dạng báo mạng (.pdf) để đọc trên máy vi tính. Tuy nhiên nếu bạn có khả năng thì cũng có thể tự in ra để đọc trên giấy và chuyển cho các bạn khác không có điều kiện. Nếu được như vậy thì khả năng lan truyền của tờ báo sẽ được rộng rãi hơn.

Một lần nữa xin cám ơn quý thầy cô và anh chị CHS đã tham gia viết bài cho đặc san. Kính chúc quý thầy cô và anh chị một năm mới an khang và nhiều hạnh phúc. Thân mến, Thay mặt BPT Đặc San Xuân Quý Tỵ Hội Ái Hữu CGS & HS Trịnh Hoài Đức Bình Dương Từ Minh Tâm

Rồng đi, rắn đến khắp nơi rồi Quý Tỵ mùa xuân thật sáng tươi Chúc chị gia đình luôn hạnh phúc, Mừng anh công việc tiến không lùi Chúc bạn xuân sang nhiều sức khoẻ, Mừng thầy năm mới được an vui Mọi người sung túc, nhiều may mắn Xuân mới thành công, vạn tiếng cười. Minh Tâm

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 4

 

Nguyễn Văn Diệp

Kính thưa quý Thầy Cô và Anh Chị Em Cựu Học Sinh Trường Trịnh Hoài Đức,

Nhân dịp Xuân Quý Tỵ sắp về, thay mặt Ban Điều Hành Hội Ái Hữu Cựu Giáo Sư & Học Sinh Trường Trịnh Hoài Đức, chúng tôi rất hân hoan chào đón tất cả quý vị cùng bước vào Khu Vườn Xuân Trịnh Hoài Đức 2013. Khu vườn văn thơ nho nhỏ, xinh xinh, đong đầy nỗi nhớ dịu dàng về bạn học cũ, về Thầy Cô xưa, về quê hương Bình Dương yêu dấu, về mái trường Trịnh Hoài Đức thân thương, nơi mà chúng ta đã từ đó ra đi để rồi mãi mãi quyến luyến, thiết tha mỗi khi có dịp nhớ về. Khu vườn với tràn đầy hình ảnh sinh hoạt học đường ngày xưa, nhẹ đưa người thưởng ngoạn về miền dĩ vãng xa xưa của một thời học sinh “ngây ngô, ngơ ngác, và nghịch ngợm” ngày nào. Kính thưa quý Thầy Cô và Anh Chị Em,

Ngược dòng thời gian, hơn ba năm trước, vào dịp Lễ Độc Lập Hoa Kỳ tháng 07 năm 2009, nhờ tình cờ lướt qua trang web trinhhoaiduc.netfirms.com của cựu học sinh Từ Minh Tâm mà một nhóm gần 20 cựu học sinh trường Trịnh Hoài Đức (CHS/THĐ) và gia đình, với sự hưởng ứng của hai Thầy Nguyễn Thanh Liêm và Nguyễn Trí Lục, đã có cơ hội gặp gỡ nhau lần đầu tiên. Buổi họp mặt được “Ban Tam Ca” Diệp-Tâm-Nên tổ chức tuy đơn sơ nhưng rất thân mật tại một nhà hàng thuộc thành phố Westminster, miền Nam California, Hoa Kỳ. Hội Ái Hữu Cựu Giáo Sư và Học Sinh Trường Trịnh Hoài Đức (Hội AH/Cựu GS & HS/THĐ) được manh nha thành hình từ đó.

Đến tháng 07 năm 2010 thì Hội AH/Cựu GS & HS/THĐ được chính thức thành lập nhân Đại Hội Toàn Cầu Cựu GS & HS Trường Trịnh Hoài Đức Lần I được tổ chức tại vùng Little Saigon, Nam California. “Ban Tam Ca” nói trên trở thành Ban Điều Hành Hội. Sau đó không bao lâu, với sự phát triển nhanh chóng của Hội

và những nỗ lực không ngừng của CHS/Hội Phó Từ Minh Tâm, Đặc San Trịnh Hoài Đức Xuân Tân Mão được phát hành lần đầu tiên dưới hình thức on-line vào dịp Tết Âm Lịch năm 2011. Hình thức trang nhã, nội dung phong phú, hoàn toàn phù hợp với chủ trương thuần túy ái hữu của Hội nên đặc san đã nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt của nhiều thầy cô và CHS/THĐ khắp nơi. Phát huy thành quả tốt đẹp đó, gần Tết Âm Lịch năm 2012, Đặc San Trịnh Hoài Đức Xuân Nhâm Thìn ra mắt. Hình thức vẫn thanh tao, trang nhã. Nội dung phong phú, vui tươi hơn năm trước, khiến đặc san nầy hầu như hoàn toàn thuyết phục được mọi người.

Năm sau cao hơn năm trước! Mỗi năm số bài vở đóng góp cho đặc san càng lúc càng nhiều. Số tác giả hợp tác ngày một đông hơn. Năm nay, còn đến hai tháng nữa mới đến ngày phát hành Đặc San Xuân Quý Tỵ 2013 mà tổng số trang dành cho các bài viết nhận được đã dầy đến 100 trang phác thảo rồi. Đó cũng là số trang mà Ban Biên Tập nghĩ là vừa đủ để quý vị có thể thưởng thức trọn vẹn trong tuần lễ nghỉ Tết.

Bàn về nội dung đặc san năm nay, không thể không nhắc đến một vài sinh hoạt quan trọng của Hội từ đầu mùa hè 2012 đến nay.

Mở đầu là hai cuộc họp mặt CHS/THĐ tại Houston, Texas. Trước hết là Buổi Họp Mặt “Bỏ Túi” của CHS/K1 tại Lee’s Sandwiches ngày 08/06/2012 với sự hiện diện của Thầy Trần Văn Thuần và 6 anh chị khóa 1. Kế đó, là Buổi Họp Mặt Thân Hữu THĐ do CHS/Hội Phó Nguyễn Kim Nên tổ chức tại tư gia vào ngày 10/06/2012 với 19 người tham dự gồm quý Thầy Trần Quang Tuấn, Huỳnh Văn Thế, Nguyễn Khánh Do, Cô Bùi Thị Tuyến và CHS các khóa 6, 8, 9 và 12. Vài hôm trước ngày khai mạc đại hội II THĐ, Hội Phó Kim Nên cùng các bạn K8 & K9 tổ chức một cuộc thăm viếng

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 5

 

Thầy Đinh Đức Vượng tại tư gia của thầy ở Little Saigon. Đông vui hơn cả, là một ngày trước đại hội, gần 40 người gồm các CHS tình nguyện và gia đình, với sự hiện diện của Thầy Nguyễn Trí Lục, Cô Hà Thị Liên, Thầy Nguyễn Trí thành và phu nhân, cùng tham dự Ngày Tiền Đại Hội II THĐ tại tư gia của chúng tôi ở thành phố Garden Grove, Nam Cali để tổng dợt văn nghệ và chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho chương trình đại hội hôm sau.

Ngày 01/07/2012 tại thành phố Santa Ana, miền Nam California, Đại Hội Toàn Cầu Cựu Giáo Sư & Học Sinh Trường Trịnh Hoài Đức Lần II được long trọng tổ chức. Do số hội viên ngày càng đông nên đại hội lần nầy đã được tổ chức qui mô và trang trọng hơn đại hội lần trước. Số người tham dự gia tăng gấp bội. Khoảng 180 hội viên và gia đình đã tham gia họp mặt, trong đó, lần đầu tiên số thầy cô tham dự trên 20 vị! Có Thầy Cô bảo là nhờ các em trong Ban Điều Hành làm việc đúng đắn, nhiệt tình và rõ ràng là bất vụ lợi nên đã thuyết phục được nhiều Thầy Cô đến tham dự như thế nầy.

Thêm vào đó, thể theo yêu cầu của nhiều hội viên, nhất là các hội viên ở ngoài nước Mỹ, ngay sau ngày đại hội, Ban Điều Hành đã tổ chức một chuyến du ngoạn ba ngày hai đêm. Khởi hành từ khu Little Saigon, Nam Cali xuyên qua hai miền Trung và Bắc Cali rồi trở về lại nơi xuất phát. Mục đích của chuyến đi nhằm tạo sự gần gũi, thân mật hơn nữa trong anh chị em cựu học sinh với nhau để tình đồng môn càng thêm khắng khít. Hai địa điểm chính của chuyến đi tour là thăm viếng công viên quốc gia Yosemite, một thắng cảnh thiên nhiên rất nổi tiếng của nước Mỹ

ở miền Trung Cali, và chiếc cầu treo huyền thoại Golden Gate, một trong những kỳ quan thế giới ở San Francisco, Bắc Cali. Số cựu học sinh tham dự là 40 người, đến từ Việt Nam, Canada và nhiều tiểu bang khác nhau của Hoa Kỳ. Lần đầu tiên sau mấy mươi năm xa cách, anh chị em CHS/THĐ mới có cơ hội cùng nhau đi du ngoạn vui vẻ và thân mật như thế nầy. Ngoài ra, để rút ngắn thời gian di chuyển từ điểm nầy qua điểm khác, một chương trình sinh hoạt đặc biệt do phe ta tự biên tự diễn ngay trên xe bus, rất sôi động, kéo dài suốt cuộc hành trình, làm hưng phấn lòng người, đã được cả đoàn đi tour tán thưởng nồng nhiệt. Ai cũng mong muốn được tham gia một chuyến du ngoạn tương tự khi đại hội THĐ lần III được tổ chức vào năm 2014.

Những tháng hè sau đó, tại Toronto, Canada có vài cuộc họp mặt thân tình giữa CHS/THĐ/K9 và quý Thầy Đoàn Phế & Phùng Quang Tuấn (địa phương), Phạm Đức Liên (từ Mỹ qua) và Nguyễn Văn Phúc (từ VN qua) vào các ngày 8/7/2012, 25/08/2012 và 14/9/2012. Tại Việt Nam, một buổi họp mặt thật vui và thật cảm động được tổ chức tại tư gia

CHS Khoá 1 & 2 THĐ chụp hình kỷ niệm cùng Thầy Cẩm, Cô Đức và Cô Điển trong ĐH THĐ lần 2

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 6

 

CHS/THĐ/K12 Dương Thế Phương vào ngày 02/09/2012 với hơn 50 CHS tham dự.

Trở lại Nam Cali, Đại Hội II Cựu GS & HS/THĐ kết thúc với kết quả bầu cử không thay đổi nhân sự trong cả hai: Tân Ban Điều Hành và Tân Ban Cố Vấn. Tôi đã chính thức xin phép được rút lui vì sức khỏe suy kém, nhưng không được đại hội chấp thuận. Dù vậy, ngay sau đại hội tôi cũng đã hợp lực cùng quý anh chị em CHS địa phương tham gia vào một số việc như sau:

- Ngày 05/07/2012: Phối hợp với CHS các khóa 1, 3 & 5 đến thăm Thầy Cẩm và Cô Đức tại tư gia của thầy cô ở thành phố Anaheim.

- Ngày 08/07/2012: Phối hợp cùng CHS các khóa 8 & 11 đón chào Thầy Lê Đức Cửu đến từ VN.

- Ngày 21/09/2012: Phối hợp cùng CHS các khóa 2, 5, 11 tổ chức tiếp đón Thầy Nguyễn Vũ Hải và phu nhân từ San José về thăm vùng Little Saigon.

- Ngày 11/11/2012: Phối hợp với các bạn K5 tham dự “Tiệc Mừng Bát Tuần Thượng Thọ” của Thầy Cựu Hiệu Trưởng Nguyễn Thanh Liêm.

- Ngày 02/12/2012: Phối hợp cùng GS Nguyễn Thanh Liêm, GS Nguyễn Trí Lục, GS Hà Thị Liên và CHS các khóa 1, 2, 3, 4, 5, 8 và 12 tham dự Ngày Tôn Sư Trọng Đạo tổ chức ở thành phố Fountain Valley, Nam California.

Hiện tại Ban Điều Hành Hội đang cố gắng hoàn tất Đặc San Xuân 2013 để kịp thời phát hành vài tuần trước Tết. Song song là việc thực hiện chương trình Tết Thầy như đã làm từ hai năm qua. Rất may mắn là năm nay có một vài Thầy Cô và CHS tự nguyện đóng góp thêm vào Quỹ Tết Thầy. Quỹ nầy đã được CHS/K3 Nguyễn Thị Khỏe tự nguyện phát động và lạc quyên cấp tốc ngay tại Đaị Hội Toàn Cầu Lần II tổ chức ngày 01/07/2012. Số hiện kim có được tuy không nhiều nhưng lòng biết ơn của CHS/THĐ đối với quý Thầy Cô thì vô hạn. Nhân đây, tôi xin kính gửi đến Chị Khỏe và Anh Tâm, người phụ trách trang web và Đặc San Xuân THĐ hàng năm, lời cảm tạ chân thành nhất.

Sắp tới, ngoài việc gửi chút quà Tết về VN kính biếu quý Thầy Cô bên đó, chúng tôi cũng sẽ kết hợp cùng quý Anh Chị Em đồng môn Nam Cali tổ chức thăm viếng và kính tặng chút quà Tết đến quý Thầy Cô trong khu Little Saigon và các vùng phụ cận.

Kính thưa quý Thầy Cô và Anh Chị Em đồng môn,

Mặc dầu Ban Biên Tập đã dành rất nhiều thời giờ và tâm huyết để hoàn chỉnh đặc san nầy, nhưng không sao tránh khỏi một vài thiếu sót. Chúng tôi ước mong nhận được sự thông cảm của tất cả quý vị. Xin chân thành cảm ơn. Sau hết, tôi xin phép được đại diện Ban Điều Hành Hội và tất cả CHS/THĐ khắp nơi trên thế giới, xin kính gửi đến quý Thầy Cô và gia quyến lời chúc sức khỏe thật dồi dào, một năm mới thật bình yên và hưởng được nhiều ơn phước của Thượng Đế. Xin kính gửi đến quý Anh Chị Em CHS/THĐ và gia đình những lời chúc tốt đẹp nhất trong năm Quý Tỵ nầy.

Trân trọng kính chào.

******

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 7

 

Táo THĐ Muôn tâu Ngọc Hoàng,

Thấm thoát mà một năm đã trôi qua. Hôm nay ngày 23 tháng chạp, thần xin khấu kiến Ngọc Hoàng để xin tường trình về sinh hoạt của CGS & HS Trịnh Hoài Đức năm qua.

Đầu tiên xin nói về chuyện hội họp. Tháng 7 vừa qua, Hội CGS & HS Trịnh Hoài Đức đã tổ chức đại hội toàn cầu lần 2 tại Nam Cali. Khoảng 150 CGS & HS từ nhiều nơi trên thế giới đã gặp gỡ và hàn huyên tâm sự. Ngoài các CGS và HS ở địa phương, nhiều người đã từ Canada và các tiểu bang xa về tham dự. Đặc biệt từ Việt Nam có GS Lê Đức Cửu và hai CHS là Nguyễn Ngọc Điệp và Trương Thị Huê Mỹ đã đến chung vui. Dịp nầy, đại hội đã tiếp tục tín nhiệm anh Nguyễn Văn Diệp đảm nhiệm chức vụ Hội Trưởng trong hai năm nữa.

Vui chơi không quên thầy cô và bạn hữu ở quê nhà, do sự đề nghị của CHS Nguyễn Thị Khoẻ, quý vị GS và CHS đã đóng góp được một số tiền trên 700 USD để góp vào quỹ Cây Mùa Xuân năm nay. Đặc biệt, do bận rộn, thầy Phạm Đức Liên ở N. Carolina tuy không đến dự được nhưng cũng đóng góp cho quỹ Cây Mùa Xuân nhiều lần.

Ngoài đại hội chính, các CHS cũng đến tư gia để thăm viếng thầy Nguyễn Mạnh Cẩm, cô Đức, và thầy Đinh Đức Vượng .

Sau đại hội 2, một chuyến du lịch miền Trung và Bắc Cali đã được Ban Tổ Chức thực hiện với hơn 40 CHS và gia đình. Trong ba ngày du ngoạn, các CHS đã có dịp chuyện trò vui vẻ thoải mái với nhau trong tình thân thương như anh em trong gia đình. Những chuyến đi như vậy đã nâng cao tình đoàn kết giữa các anh chị em CHS. Hy vọng trong tương lai, hội sẽ tổ chức được những chuyến du lịch chung đầy lý thú như vậy.

Ngoài Đại Hội Toàn Cầu lần thứ 2, các GS & CHS tại các địa phương cũng tổ chức các cuộc họp mặt thân hữu như:

CHS Khoá 1 họp mặt thường niên ngày 29/1/2012 tại CLB Hưu Trí Bình Dương có sự tham dự của 40 CHS nam nữ.

CHS THĐ họp mặt thường niên tại trường THĐ ngày 1/5/2012 với sự tham dự của trên 100 CHS và GS. Cuộc họp có sự hiện diện của quý vị GS Võ Kim Lân, Trần Văn Quí, Trần Khắc Cung, Phan Thanh Đào, Nguyễn Văn Phúc, Từ Văn Nhung…

Cùng ngày 1/5/2012, CHS khoá 9 cũng tổ chức gặp gỡ các bạn cùng khoá tại Việt Nam.

Họp mặt mini GS & CHS khoá 1 THĐ tại Houston vào tháng 6/2012 do thầy Trần văn Thuần sắp xếp.

Họp mặt GS & CHS định cư quanh vùng tại Houston ngày 10/6/2012 do CHS Nguyễn Kim Nên tổ chức tại tư gia. Cuộc họp mặt nầy có sự hiện diện của 4 GS , 14 CHS và gia đình.

Tiếp đón GS Lê Đức Cửu tại Nam California ngày 8/7/2012.

Họp mặt CHS khoá 12 ngày 2/9/2012 tại tư gia CHS Dương Thế Phương – Bình Dương - Việt Nam với hơn 50 bạn hữu và gia đình.

Tiếp đón GS Nguyễn Vũ Hải tại Nam California ngày 21/9/2012.

Tiếp đón GS Nguyễn Văn Phúc và Phạm Đức Liên đến thăm Toronto ngày 14/9/2012. (Do thầy Nguyễn Văn Phúc đến Toronto du lịch trong thời gian dài là 6 tháng nên bên đó họp mặt liên miên, thần cũng không biết hết để báo cáo với Ngọc Hoàng. Điều nầy nói lên lòng hiếu khách và thân thiết của quý GS và CHS Toronto).

Tham gia lễ sinh nhựt và mừng Thượng Thọ Bát Tuần của GS Nguyễn Thanh Liêm ngày11/11/2012 tại Nam Cali.

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 8

 

Tham gia Ngày Tôn Sư Trọng Đạo do GS Nguyễn Thanh Liêm tổ chức. Nhân dịp nầy anh Diệp đại diện Hội trao tặng thầy Nguyễn Thanh Liêm, Nguyễn Trí Lục và cô Hà Thị Liên những tấm plaques để ghi nhớ công ơn của thầy cô.

Một trong những mục tiêu của Hội CGS & HS Trịnh Hoài Đức là liên lạc và tìm kiếm quý GS và CHS khắp nơi sau hơn 40 năm rời trường. Năm qua, hội đã nối được vòng tay với quý GS: Trần Văn Quí (Việt Nam), Trần Văn Thuần, Trần Quang Tuấn, Huỳnh Văn Thế, Nguyễn Khánh Do, Bùi Thị Tuyến ở Houston; Trần Trác Lập, Lưu Đức Trung (San Jose), Nguyễn Thị Điển, Đặng Ngọc Liên, Trần Thị Thịnh, Đỗ Anh Tài (Nam Cali)… Về phần cựu học sinh thì năm nay chúng ta liên lạc được CHS Trương Viễn Anh (K1 - nhờ xem TV mà biết có hội), Huỳnh Hữu Thế (K13- nhờ search Google.com), Võ Thành Long (K5 - nhờ anh Trần Văn Ngôi giới thiệu) … Ngoài ra, còn có anh Lê Đức Hổ (K5), chị Đỗ Thị My (K8), Nguyễn Thị Xuân Diệu (K8), Nguyễn Thị Ngọc Dung (K8), Nguyễn Văn Xây (K5), Võ Thị Thoại (K8), Hà Như Nga (K4), Trần Thị Ngọc Sương (K12), Lý Thành Phước (K10), Tống Anh Dũng (K9), Phùng Thị Lan (K14), Lý Thường (K12), Phạm Văn Tiền (K2)… Đặc biệt qua trung gian của trang nhà THĐ mà thầy Trần Trác Lập có dịp gặp lại thầy Lưu Đức Trung sau gần 40 năm. Hai thầy ở cùng thành phố San Jose mà không biết. Sau đại hội 2, hai thầy mới có dịp liên lạc và hội ngộ rất vui vẻ. Tương tự, qua trung gian của trang nhà THĐ mà một người bạn của thầy Lê Vĩnh Thọ hồi học đại học sư phạm là nhà thơ Luân Hoán đã liên lạc được với thầy. Hy vọng mỗi năm, hội sẽ liên lạc được thêm nhiều thầy cô và bạn hữu khác để vòng tay thân mật của chúng ta ngày càng rộng lớn hơn.. Tuy nhiên, hội cũng vẫn chưa tìm được thầy Nguyễn Thiện Thuật, người được rât nhiều thầy cô và CHS nhờ tìm dùm. Bạn đọc có tin tức về thầy Thuật xin vui lòng nhắn tin cho BPT biết, rất cám ơn.

Năm qua, hội nhận được một số

tin vui buồn như sau: Về tin vui, GS Nguyễn Văn Hộ và gia đình

của các bạn Huỳnh Xuân Khai, Phạm Việt Hùng, Nguyễn Hữu Hiệp, Phạm Văn Bê có làm lễ thành hôn/vu quy cho các con mình, xin chúc mừng hai họ và các cô dâu, chú rể được trăm năm hạnh phúc. Ngoài ra, tại Toronto, ngày 8/7/2012, GS Đoàn Phế có tổ chức lễ kỷ niệm 45 năm ngày thành hôn. Xin chúc thầy Phế và phu nhân lúc nào cũng vui vẻ hạnh phúc như ngày mới cưới. Ở Nam Cali, ngày 11/11/12 có lễ mừng Bát Tuần Thượng Thọ của GS Nguyễn Thanh Liêm, xin chúc mừng thầy và chúc thầy có nhiều sức khoẻ, an khang.

Về tin buồn, năm nay, hội đã vĩnh viễn mất đi các bạn Ngô Văn Thì (K1), Trần Thị Điệp (K1), Lưu Minh Đức (K7), Đinh Quốc Trị (K10), Lê Thanh Sơn (K11), Bùi Công Tân (K12). Xin thắp một nén hương lòng để tưởng niệm các bạn đã quá cố, chúc các bạn sớm tiêu diêu miền lạc cảnh. Ngoài ra, cuối tháng 12 , thần có nghe tin thầy hiệu trưởng Lê Tấn Lộc và phu nhân phải vào bịnh viện để được cấp cứu nên rất lo lắng, may thay cơn bịnh của thầy cô đã bớt và thầy đã về nhà. Mong rằng năm mới, sức khỏe của thầy cô sẽ khá hơn để còn có dịp gặp gỡ các GS và CHS trong cuộc hội ngộ năm 2014.

Tiếp theo, thần xin trình bày về công tác

CHS Trịnh Hoài Đức trong chuyến du ngoạn Bắc

California 7/2012

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 9

 

tương thân tương trợ của hội. Trong kỳ Đại Hội Toàn Cầu lần thứ hai tổ chức vào tháng 7/2012, do sự vận động của chị Nguyễn thị Khoẻ, hội đã nhận được hơn 700 USD, cộng thêm vào đó là một số mạnh thường quân đóng góp ngân quỹ cho Cây Mùa Xuân được tổng cộng là hơn 1.000 USD. Số tiền nầy sẽ được gởi đến quý thầy cô ở quê nhà trước Tết Quý Tỵ 2013.

Về mặt văn nghệ, báo chí, năm nay hoạt động của hội chỉ ở mức trung bình. Website của hội thỉnh thoảng mới có bài mới. Riêng CHS Vĩnh Xuyên dự định thực hiện tập thơ tựa đề là Đuốc Sáng. Hy vọng anh có đủ ngân sách và được sự ủng hộ của các nhà thơ trong và ngoài nước để tác phẩm có thể đến tay người đọc và thưởng lãm. Bên cạnh đó, CHS Hoàng Anh cũng hoàn thành được tác phẩm Chiếc Lá. Ngoài sở thích nghiên cứu, tìm tòi về lịch sử Bình Dương, Hoàng Anh là người rất đa tài. Anh còn là một nhà thơ, nhà văn, dịch giả … Chiếc Lá là một quyển sách tổng hợp các bài thơ, văn của anh về đề tài cái chết, sự sống và con người. Tác phẩm nầy có nhiều ý tưởng mới lạ nhưng rất tiếc không in ra để phát hành mà chỉ trình bày dưới dạng sách điện tử để bạn bè đọc cho vui mà thôi. Nếu Ngọc Hoàng muốn biết trong “Chiếc Lá” có gì thì xin email cho tác giả để nhận sách dưới dạng .pdf.

Tổng kết cuối năm cũng là dịp để hội bàn về chương trình sắp tới. Theo thần biết, ngoài các công tác thường lệ như tiếp đón thầy cô hay tương tế, vào tháng 7 sắp tới, Chi Hội Nam Cali sẽ tổ chức họp mặt thầy cô và CHS tại địa phương. Qua năm 2014, Đại Hội Toàn Cầu CGS và HS Trịnh Hoài Đức lần thứ 3 sẽ được tiến hành. Sau đó sẽ có một chuyến du lịch khác để anh chị em CHS từ phương xa về tham dự có thể vui chơi và thắt chặt thêm tình thân giữa các bạn đồng môn. Hy vọng quý thầy cô và CHS có nhiều sức khoẻ để cùng tham gia các sinh hoạt đầy hấp dẫn đó. Riêng CHS khoá 12 ở quê nhà lại sắp có cuộc họp mặt để tri ân thầy cô vào ngày 27 Tết sắp tới, chúc các bạn có một cuộc hội ngộ đầy vui vẻ.

Bản tường trình đã dài, thần xin chấm dứt ở đây. Kính chúc Ngọc Hoàng năm mới được sức khoẻ dồi dào, sống lâu … muôn tuổi ./.

Thơ

Nôn nao xuống phố ngắm xuân Hoa cười khoe sắc bâng khuâng đất trời Còn đây một nụ xuân ngời Rơi vào cánh áo lả lơi trốn tìm Chợ xuân bát ngát hương đêm Nghe trong hơi gió ướt mềm giọt sương Đầy trang thơ cũ vấn vương Thả hồn vào chữ sầu tuôn nẻo về. Đỗ Mỹ Loan (K10 – Lớp 12A1   niên khoá 1970-1971)

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 10

 

Từ thị Cảnh

Lại một mùa xuân nữa sắp về trên quê

hương Bình Dương thân yêu của tôi. Xuân đến, lòng tôi lại rộn ràng nhớ lại những kỷ niệm của những mùa xuân đã qua trong đời tôi, nhưng nhớ nhứt chính là mùa xuân mà tôi có dịp về thăm quê khi má tôi còn sống.

Năm đó, má tôi cũng đã rất già. Hơn 90 mùa xuân đã đi qua trong cuộc đời của má. Bà không còn đi đứng vững vàng như ngày xưa nữa, nhưng khi nghe tin các con về ăn Tết cùng gia đình, thì tinh thần của má tôi hưng phấn hẳn lên. Tôi chưa được về quê ăn Tết cùng gia đình vì xa quê đã lâu. Má tôi rất mừng khi gặp vợ chồng tôi từ Nam Cali và em gái của tôi từ San Jose cùng về thăm bà trong dịp Tết năm đó. Dịp nầy gia đình tôi ăn Tết vui vẻ lắm, nhất là má tôi lúc nào cũng vui và nói chuyện huyên thuyên .

Tết ở Bình Dương bây giờ cũng ồn ào náo nhiệt như thuở nào. Mọi người sửa sang nhà cửa từ sau ngày rằm tháng chạp. Những cây mai vàng cũng được lặt lá vào ngày rằm tháng chạp để kịp trổ bông vào ngày mồng 1 Tết. Tôi không còn thấy những cây mai vàng lớn như cây mai ở trước sân của nhà tôi trước đây nữa. Bây giờ người ta thường trồng mai trong những chậu kiểng tùy theo lớn nhỏ mà bán hoặc cho thuê để chưng trong ba ngày Tết. Những chậu mai nầy được chăm sóc rất kỹ để năm sau còn tiếp tục chưng nữa. Nhà tôi cũng có một chậu mai vàng để trước cửa do học trò mang đến tặng. Theo thời gian, vật đổi, sao dời, bây giờ những cây mai già dường như không còn nữa.

Tôi nhớ, má tôi thường gói bánh tét, bánh ít vào ngày mồng một Tết. Tôi có nhiệm vụ cắt lá chuối, phơi cho héo sau đó rọc lá, lau lá cho sạch để má tôi gói bánh, vì thời gian nầy má tôi còn bận rộn với gian hàng bán quần áo ở chợ Thủ. Bánh tét, bánh ít của má tôi gói thì ngon khỏi chê nhưng giờ nầy, má tôi còn đó, mà việc gói bánh không có nữa vì má tôi tuổi cao và các

con bận rộn việc khác, không thể tiếp tục “nghề” gói bánh của má nữa. Đành chịu, đi ra chợ mua bánh về chưng trên bàn thờ cũng tốt rồi !.

Nhớ lại năm xưa, từ rằm tháng chạp, cả nhà đã xúm xít chùi mấy bộ lư đồng, sơn phết lại nhà cửa, sắm thêm những vật dụng cần thiết trong nhà. Gần Tết lại mua bông để chưng trong nhà và ngoài sân. Tôi nhớ ngày trước, khoảng 27, 28 Tết có những người trồng bông ở phía Mỹ Hảo, Tương Bình Hiệp, Suối Giữa … gánh những gánh bông mồng gà, vạn thọ đi ngang qua trước cửa nhà tôi để bán. Chúng tôi không cần ra chợ cũng mua được bông đẹp mà giá cũng vừa túi tiền. Tết nầy, tôi mua cả chục chậu bông cúc vạn thọ để trước cửa nhà trông cũng đẹp mắt.

Trước đây, má tôi buôn bán quần áo và giày dép trẻ em. Gần đến Tết bán rất đắt vì ở quê, sau vụ mùa, người ta mới có tiền mua quần áo mới cho con. Ngày nay, những tiệm quần áo thời trang và siêu thị được mở ra rất nhiều, nhưng có lẽ người ta đi xem nhiều hơn đi mua vì giá cả không rẻ lắm. Đến ngày 30 Tết, bàn thờ và nhà cửa phải được chùi rửa sạch sẽ để chuẩn bị đón rước ông bà về ăn Tết và chuẩn bị đón giao thừa chuyển qua một năm mới. Năm nay, tôi chỉ có bình bông lay ơn trên bàn ở phòng khách và bình bông huệ trắng là bông ông ngoại tôi rất thích được trang trọng để lên bàn thờ . Không khí những ngày trước Tết ở quê tôi rất tưng bừng, náo nhiệt, chợ búa ban đêm được mở ra khắp nơi bán đủ mọi thứ hàng hóa từ trái cây, bông hoa, đồ gia dụng. Chợ hoa của chợ Thủ trước đây ở trước Nhà Làng, bây giờ đã được dời về bờ sông Bạch Đằng. Ở đây bán đủ mọi thứ bông hoa, cây kiểng từ miền Tây mang lên không thiếu một món nào. Tết năm đó, má tôi còn ngồi trên võng, ăn trầu bỏm bẻm và kể cho tôi nghe đủ thứ chuyện.

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 11

 

Chúng tôi cùng má ôn lại những kỷ niệm về ngày Tết năm xưa. Nhớ lại năm xưa, ngày 28 Tết, má tôi mua cả thùng cá lóc và cả thúng thịt để nấu ăn cho 3 ngày Tết. Những con cá lóc to được má tôi nướng hoặc kho với thịt heo ăn rất ngon. Ngày nay không còn cá được bắt ở sông rạch nữa mà chỉ toàn cá nuôi trong hồ ao nên thịt của nó ăn không được ngon như ngày xưa nữa. Tết ở quê tôi bây giờ cũng nhộn nhịp, rộn ràng như ngày xưa, nhưng xe cộ đi lại quá nhiều. Trên đường phố, bụi bặm khắp nơi, không khí bị ô nhiễm rất nhiều. Thời gian trôi qua, cuộc sống của mỗi người đều thay đổi. Bây giờ, ba ngày Tết bà con ít thăm viếng nhau. Ngày mồng 1 Tết, đường phố cũng vắng vẻ đi nhiều. Chúng tôi không còn có những bữa cơm gia đình chung với nhau nữa vì mỗi người mỗi nơi. Những người già đã vĩnh viễn ra đi, lớp trẻ thì ở nước ngoài hay làm ăn ở xa nên ngày Tết không còn vui vẻ như ngày xưa nữa . Tết ở Việt Nam bây giờ, đa số người ta thường ở trong nhà, ít ra ngoài đường. Đêm giao thừa không được đốt pháo nên cũng buồn. Một số người đi nhà thờ, đi chùa hái lộc hoặc đi coi bắn pháo bông . Chợ búa ba ngày xuân thấy vẫn bán bình thường, không còn nghỉ Tết như ngày trước … Mùa xuân sắp về trên miền đất khách. Nhắc lại những kỷ niệm cũ, lúc về ăn Tết ở quê nhà khi má tôi còn sống để nhớ lại những kỷ niệm không quên trong cuộc đời. Má tôi đã ra đi cách đây vài năm và tôi không nghĩ rằng mình sẽ về quê ăn Tết nữa, vì niềm vui của tôi cũng đã cạn rồi, trừ khi có một điều gì đó thật kích thích, thật hứng khởi. Viết bài nầy mong rằng các bạn và tôi, chúng ta cùng nhớ lại vài kỷ niệm của những ngày Tết năm xưa với hy vọng một ngày nào đó, khi bình minh ló dạng, chúng ta sẽ về ăn Tết một lần nữa trong niềm hân hoan trên quê hương Việt Nam yêu dấu ./.

(Tháng 12 năm 2012)

Thơ

Hoàng Anh MỘNG SƯƠNG VÀNG Người nằm ngủ mái hiên nhà Vầng trăng lén thức hôn hoa ngoài vườn Tình yêu ngan ngát tỏa hương Chìm trong giấc mộng thấy sương rực vàng TRĂNG GIÀ Trăng ơi trăng đã già rồi Sao trăng cứ mãi la đà rong chơi? Trăng rằng vì quá yêu người Trải vàng lên giấy soi lời thi nhân TRĂNG KHUYA Vầng trăng ai vắt trên cành Nửa đêm gió lạnh hóa thành sương rơi Hạt vàng vương khắp núi đồi Chùa xa vẳng lại mấy hồi chuông ngân.

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 12

 

Nguyễn Kim Nên

Người bạn học thật dễ thương từ quê nhà thăm hỏi tôi đã viết bài cho báo Xuân THĐ chưa… Đang viết dở dang bạn ạ!. Nguồn cảm hứng chợt đến rồi lặng lẽ ra đi trả lại cho tôi những trống vắng không tên khó viết thành lời… Nhưng dù sao đi nữa cũng phải cố gắng viết cho trọn vẹn một bài tản mạn về những khoảnh khắc mùa xuân trong cuộc đời, để từ đó xin gởi đến trường xưa bạn cũ chút tình nồng giữa độ Xuân về. San Antoinio, Texas năm 1976. Thánh lễ Tết Nguyên Đán dành cho những người Việt tỵ nạn được tổ chức trong một căn nhà nhỏ chật hẹp với hơn mười gia đình giáo dân. Sau thánh lễ mọi người tề tựu ăn mừng với vài thức ăn đơn sơ của ngày Tết. Tôi và người bạn mới quen chợt bùi ngùi, xúc động không ngăn được giọt nước mắt chảy dài… nhớ nhà.

Lúc đó, tôi thường cố níu kéo những ngày tháng cũ để vơi đi nỗi buồn xa quê hương, để tự an ủi mình ngày tháng này tôi còn ở trên quê hương tôi… Rồi thời gian vô tình trôi qua, tôi không còn ngày tháng nào để nhớ, để níu kéo nữa vì tuổi tôi ở đây đã hơn gấp đôi tuổi tôi ở quê nhà … Để rồi từ đó, nỗi buồn xa nhà cũng vơi nhòa theo tuổi đời, riêng niềm nhớ vẫn vương vấn hồn tôi. Ước gì Tết đến với tôi tràn đầy hoa mai vàng đua nở, gió Xuân ấm ấp tình người để ba mươi bảy cái Tết tha hương giữa mùa Đông lạnh giá phai mờ vào lãng quên.

Bến Súc(1) bình dị với tuổi ấu thơ hồn nhiên, vô tư. Tôi thích nhất là được mặc quần áo mới trong ba ngày Tết. Nhà tôi ở làng quê không có gian hàng bán quần áo con nít nên chị Mai của tôi phải may áo mới cho tôi. Tết năm ấy chị đang vào lứa tuổi trăng tròn, cái tuổi có nhiều bạn bè rong chơi. Chiều ba mươi, chị Mai vẫn còn đi chơi chưa về. Xấp vải má tôi mua đã cắt xong chỉ chờ chị may vẫn còn nằm im lìm như nét buồn ủ rủ của tôi chờ áo mới. Mấy đứa nhỏ

hàng xóm chạy qua lại trước sân nhà khoe áo mới càng làm tôi tủi thân. Trời tối dần, chị Mai mới hí hửng trở về nhà …

Bình Dương với tôi thật nhiều kỷ niệm... Bạn Lan và tôi thích đi dạo phố Tết đêm Xuân. Chợ hoa được bày bán dọc theo bờ sông Bình Dương. Hoa Xuân đủ màu sắc, hương hoa ngào ngạt như nét đẹp dậy thì của tuổi học trò đầy mộng mơ. Tuy nhiên cũng có những nỗi buồn không tên chợt đến với hình ảnh ông già bán hoa cũng dễ làm hai đứa xao xuyến vấn vương.

Tôi yêu cái hình ảnh chiều 30 Tết ở chợ Bình Dương thưa vắng người. Hình như ai ai cũng vội vã trở về nhà để chuẩn bị rước cúng ông bà và đón giao thừa. Má tôi cũng thu xếp đóng cửa hàng sớm. Hai anh em tôi lộc cộc chở nhau trên chiếc xe đạp chạy lên hướng Miễu Tử Trận để mua dưa cải chua về ăn Tết. Hình ảnh sinh hoạt chợ Bình Dương là một phần cuộc đời niên thiếu của tôi. Ngoài giờ đến trường học tôi thường lân la quanh quẩn ngoài chợ vì má tôi buôn bán nơi ấy. Có những buổi sáng thật sớm, bầu trời còn tối mịt, khí trời mát lạnh sương mai, tôi đạp xe vòng quanh chợ ngắm nhìn người người xôn xao mua bán đủ loại hoa quả xanh tươi, những bó hoa bí vàng thắm … Chúng sẽ được chở đi đến những chợ xa như Hớn Quản, Lộc Ninh. Những phụ nữ buôn bán là những người vợ, người mẹ, dầm sương dãi nắng phụ giúp chồng nuôi đàn con dại. Ôi những bà mẹ ngàn đời tôi tôn kính thương yêu … Thương làm sao trên đôi vai bé nhỏ một đầu mẹ gánh con thơ, một đầu mẹ gánh bí bầu lặn lội ra chợ buôn bán nuôi con đến trường. Có lần tôi xin được gánh nước sông với chị tôi… Sức con gái 16 mà sao cái đòn gánh làm tôi đau vai quá. Tôi gồng mình cố gắng đi cho lẹ mà mặt mày nhăn nhó chứ không nhẹ nhàng như nhịp bước của những bà mẹ Việt Nam nặng trĩu đôi gánh mà trên môi vẫn nở nụ cười tươi.

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 13

 

Mấy ngày Tết, các anh tôi tha hồ đi chơi

chiều tối mới về nhà … Con trai mà lỵ … Riêng tôi là con gái út nên phải quanh quẩn trong nhà để phụ giúp ba tôi nấu cơm cúng ông bà. Cũng may, gần nhà tôi có cô bạn học chạy qua chạy lại nên cũng đỡ buồn. Đôi khi ba tôi bắt gặp nét mặt không vui của tôi thì ông cho tôi niềm hy vọng: “Con gái phải ở nhà. Khi nào có chồng thì “ tự do” đi đâu thì đi”. Thế là mùa Xuân đó tôi có một mơ ước … để rồi bốn mươi bốn mùa Xuân chờ đợi ngày “ tự do” mà ba tôi dạy bảo vẫn mịt mù xa.

Tết Sài Gòn với tôi thường là những tiếc nuối, trầm tư thiếu vắng không khí của những ngày Tết bên cha mẹ. Làm con gái út miền Nam lấy chồng trai trưởng miền Bắc sao khó khăn quá đi thôi… Nhớ nhà. Nhớ cái dễ dãi mộc mạc. Nhớ món dưa giá thịt kho Tàu của má. Nhớ những sợi chỉ cắt đòn bánh tét. Ba thích ăn bánh tét chấm với đường. Ngày con được phép về thăm ba má thì đã mùng ba Tết rồi. Bốn mẹ con tôi ngồi trên chiếc xe thổ mộ từ bến xe đò ở gẩn trường học Bồ Đề về đến căn nhà yêu dấu nhưng thật vắng lặng. Các anh đã trở lại đơn vị xa. Mấy đứa con chị Hai còn đang mải mê chạy chơi ngoài ngõ. Má đi thăm bạn bè hàng xóm nhưng không quên luộc một con gà để tiễn đưa ông bà sau ba ngày về ăn Tết với con cháu. Đó cũng là phần ăn cho mấy mẹ con tôi.

Quảng Đức(2) với tôi, Tết đong đầy tình người của những gia đình lính chiến tạm cư ngụ trong một tỉnh lỵ bé nhỏ được xây dựng trên những ngọn đồi bằng phẳng. Phố xá mênh mông buồn. Đường không tên, phố không đèn. Mùa Xuân về trên thành phố địa đầu chiến tranh với những đêm văn nghệ bỏ túi ban nhạc là những người lính trẻ. Ca sĩ là những người vợ lính… Những bữa ăn thanh đạm với dĩa rau “tàu bay” luộc chấm nước mắm cay mặn hương vị miền Trung vẫn còn vương vấn trong tôi.

Xuân về trong căn nhà nhỏ ở Katy, Texas. Cũng bánh chưng xanh, hoa trái, nhang thơm

trà nóng cúng ông bà, màu vàng rực rỡ hoa mai Mỹ. Nhớ Tết năm nào, nhớ cha, nhớ mẹ nhớ cả bầu trời quê hương….

(12/2012) Ghi chú: (1) Bến Súc nằm giữa Bến Cát và Dầu Tiếng. (2) Thị xã Quảng Đức nằm giữa 3 tỉnh Phước Long, Lâm Đồng và Ban Mê Thuột.

***** Thơ

Một chiều Xuân về thăm quê mẹ Sỏi đá miền Trung dải đất sầu “Kinh hoàng đại lộ” buồn hiu hắt Bơ vơ trăm mộ dọc bên đường Nghe đâu đây bình an chợt mất Xót xa nhiều số kiếp không may Dương liễu trần mình trong bão cát Nghe mặn lòng ruộng muối xa xa Nước biển xanh tình người gánh muối Áo cứng tà , muối mặn bao năm Xa lạ quá cô nàng gái Việt Gò má cao khắc khổ muôn bề Gió cát điểm tô đôi mắt nhỏ Gánh muối về sưởi ấm con thơ Quê hương nghèo gánh gồng chuyên chở Gánh dùm tôi đôi gánh chợ quê mình Lý Thường Kiệt gánh xôi đầu ngõ. Chè dì Năm dạo phố Cây Dừa Cơm rượu nồng say dì Tư gánh Bánh đúc chấm đường gánh má Lan. Gánh rau gánh cải gánh con thơ Gánh nặng đôi vai những mẹ hiền Đầu Xuân đổ gánh sầu không tiếc Xin nàng một gánh, gánh quê hương.

Nguyễn Kim Nên

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 14

 

Lý Thành Phước (CHS Khóa 10 &11)

Thời học sinh của tôi, muốn học chuyển cấp

từ bậc tiểu học sang bậc trung học tôi phải trải qua kỳ thi để lấy bằng tiểu học. Kỳ thi không khó lắm nhưng cũng có nhiều người thi rớt. Có những người lớn tuổi lấy bằng tiểu học xong, xin đi làm sẽ tìm được những việc làm tương đối nhẹ nhàng, đỡ phải lao động chân tay vất vả.

Sau khi đậu tiểu học, tôi phải thi tiếp vào lớp đệ thất trường trung học Trịnh Hoài Đức Bình Dương, thời đó là trường trung học công lập duy nhất của tỉnh. Đây là một cuộc thi tuyển rất khó, muốn đậu, một người phải loại khoảng mười người. Trải qua những kỳ thi căng thẳng như thế, tôi may mắn thi đậu vào lớp đệ thất của trường trung học Trịnh Hoài Đức niên khóa 1964 – 1965, do thầy Đặng Trần Thường làm hiệu trưởng. Được vào học Trịnh Hoài Đức, tôi cảm thấy mình vô cùng hạnh phúc vì qua hai kỳ thi gian khổ. Số học sinh năm lớp nhất bậc tiểu học cùng lớp với tôi bị loại rất nhiều, trong đó có nhiều người học rất giỏi.

Tôi được xếp vào học lớp đệ thất P3. Những ngày đầu tiên vào lớp, tôi có một cảm giác rất lạ. Ngôi trường nằm kế bên những cánh đồng lúa rộng thênh thang. Những ngọn gió từ cánh đồng thổi vào thật trong lành, mát mẻ. Khung cảnh ngôi trường thật thơ mộng. Nhà trường phân ra: từ lớp đệ thất đến lớp đệ ngũ học buổi chiều, từ lớp đệ tứ đến lớp đệ nhất học buồi sáng.

Những ngày học buổi chiều đã đem lại cho tôi những ký ức đẹp nhất. Khi vào học lớp đệ thất, tôi còn nhớ như in những ngày được nghỉ học hai giờ đầu, tôi cùng các bạn lén chun rào ra những miếng ruộng xung quanh trường mót củ sắn, bắt dế ... Bắt được dế chỉ chơi một lúc

rồi thả, vì nếu đem vào lớp lỡ nó gáy lên thì bị thầy la. Thỉnh thoảng đi nhằm vào những ruộng củ sắn người ta còn chừa lại để nhổ sau, bị chủ ruộng la và dí cả đám chạy băng đồng chun rào trở lại lớp thật là vui. Có lần bạn Hiển học cùng lớp bị đám chăn bò dùng giàn thun bắn trúng đầu chảy máu. Thầy Bé Tám dẫn cả lớp ra dí đám chăn bò đó chạy thục mạng. Từ đó về sau họ không còn bắt nạt bọn học sinh chúng tôi nữa.

Nhà tôi cách xa trường khoảng 5 cây số nên phương tiện di chuyển lúc đó của chúng tôi là đi xe đò hoặc xe lam. Bọn tôi thích đi xe đò hơn vì rẻ và hợp với túi tiền của học sinh. Còn nếu sắp đến giờ học thì bắt buộc phải đi xe lam. Bọn con trai chúng tôi thường ngồi trước cạnh tài xế nhường băng ghế phía sau cho các bạn nữ. Khi tan học, cả trường đi bộ xuống chợ Búng cách trường hơn 1 km để đón xe đò về nhà. Có những ngày gặp trời mưa lớn chúng tôi phải dầm mưa tiếp tục đi. Đến chợ Búng mới vào nhà lồng chợ đụt mưa chờ xe đò đến. Khi về đến nhà vì lạnh nên môi bị thâm tím hết. Đoạn đường từ trường xuống Búng tuy ngắn ngủi nhưng đầy ắp những kỷ niệm khó quên.

Tuy phải học hành trong bối cảnh chiến tranh ác liệt nhưng đến ngày 23 tháng chạp hàng năm trường Trịnh Hoài Đức vẫn có tổ chức trại Tết. Bọn học sinh nam chúng tôi được tham dự trại Tết là một điều thật sung sướng vì được ở cùng chung trại và được giao lưu với các bạn bên trường nữ. Ngày thường nếu nam sinh nào léng phéng sang trường nữ cua đào nếu bị bắt gặp sẽ bị đuổi học từ 3 đến 5 ngày. Cùng chung sinh hoạt với các bạn nữ trong hội trại thật là vui. Tôi còn nhớ có lần đi đến nhà bạn Hoàng gần Ngã Ba An Sơn để chặt tàu dừa

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 15

 

về trang trí cho trại, bọn tôi mải mê xuống rạch học bơi lặn đến nỗi quên cả xin tàu dừa. Khi về đến nơi dựng trại, các bạn chờ không được bỏ về gần hết. Năm đó lớp tôi không có trại để sinh hoạt, phải nhờ thầy Đỗ Anh Tài xin các bạn nữ cho sinh hoạt ké.

Trong lớp còn có các bạn nhà ở vườn trái cây Bình Nhâm nên tôi có dịp cắm trại ở vườn trái cây với những cảm giác thật tuyệt vời. Năm học lớp đệ ngũ, lúc gần hè, lớp đệ ngũ P3 có gần 20 học sinh đến vườn trái cây của gia đình bạn Lê Tấn Thạnh ở gần vườn cây Âu Cơ để cắm trại. Chúng tôi cắm trại bắt đầu từ 8 giờ sáng rồi cùng nhau sinh hoạt tập thể thật là vui.

Riêng bạn Thạnh, có tật ở chân, hôm đó được đón các bạn cùng lớp đến nhà mình vui chơi nên rất cảm động, nhiều nó lúc ngồi nói chuyện với bạn bè mà hai tay cứ dụi mắt. Bữa ăn trưa chúng tôi được má bạn Thạnh giúp đỡ lo cho tươm tất. Nơi đây, lần đầu tiên tôi mới biết được con ve măng, tuy nhỏ nhưng kêu cũng rất vui tai. Đến khoảng 4 giờ chiều, chúng tôi ra con rạch gần bên tập bơi, lặn. Tôi còn nhớ bạn Nguyễn Thế Sang ôm trái banh thả trôi theo dòng nước từ đầu mương chảy ra rạch. Bạn Sang cứ làm đi làm lại nhiều lần đến lúc cặp mắt đỏ kè lên. Các bạn ở trên bờ thấy vậy sợ quá kêu lên bờ, nhưng vì quá khoái chí nên bạn vẫn tiếp tục bơi. Riêng tôi thì cố gắng tập bơi nhưng không được đành phải quay sang tập nín thở lặn. Đến hơn 5 giờ chiều, buổi cắm trại kết thúc. Giờ chia tay thật cảm động, má bạn Thạnh vừa lau nước mắt vừa cám ơn chúng tôi vì đến nhà bà cắm trại giúp cho bạn Thạnh đỡ được mặc cảm vì bị tật, lúc nào cũng sợ bị bạn bè bỏ quên. Thay mặt cho cả nhóm, trưởng lớp An cám ơn gia đình bạn Thạnh đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều trong suốt ngày cắm trại. Chúng tôi chia tay nhau ra về mà trong lòng đứa nào cũng có một niềm vui lâng lâng khó tả.

Sau nầy khi học đệ tứ, tôi có dịp đến nhà bạn Điền chơi. Gần nhà bạn Điền cũng có một con rạch nhỏ. Chúng tôi cũng tiếp tục tập lội. Tôi cố gắng tập bơi rất nhiều nhưng cũng không bơi được đành phải tập nín thở lặn như trước.

Năm tôi học lớp đệ lục, phong trào thể thao lên rất mạnh. Lớp tôi có bạn Nam mập nằm trong đội tuyển bóng tròn của nhà trường được

đi thi đấu cấp tỉnh. Có những lần đội tuyển trường đấu với đội tuyển Nông Lâm Súc trên sân cỏ trước phòng thí nghiệm. Tất cả học sinh được nghỉ học ra sân cổ vũ cho đội nhà thật vui vẻ.

Năm đệ ngũ, có sự kiện một trái mìn gài trong sân trường đã phát nổ làm tử thương hai sĩ quan Đại Hàn. Họ tổ chức dạy Thái Cực Đạo cho học sinh Trịnh Hoài Đức. Hai ông nầy đến dạy từ sáng sớm và bị nạn.

Cũng năm nầy, một buổi chiều khi ra chơi, chúng tôi ùa ra sân cỏ trước phòng thí nghiệm chơi đá banh. Bỗng nhiên nghe tiếng la: "Có lựu đạn". Nhiều người chạy lại xem, trong đó có tôi, thì thấy một quả lựu đạn do hai bạn Phú và Nguyện đá bật lên nằm lăn lóc trên sân cỏ. May mắn là sợi dây gài kíp nổ còn dính lại. Khi lính ở An Thạnh lên phá nổ thì mọi người đếm được cả thảy khoảng 9 quả lưu đạn. Thật là may vì nếu các quả lựu đạn trên phát nổ thì số thương vong rất lớn vì lúc đó học sinh chúng tôi trên sân rất nhiều.

Có lẽ do sự cố đá banh nói trên và cửa kiếng phòng thí nghiệm thường xuyên bị bể nên học sinh bị cấm ra sân cỏ dợt banh. Sau nầy phong trào bóng chuyền, bóng bàn phát triển mạnh hơn bóng tròn. Tôi cũng thường xuyên tập dợt chơi bóng chuyền và bóng bàn với các bạn cùng lớp. Có lẽ lớp tôi chơi quá dở nên không có ai vào được đội tuyển của trường cả. Về văn nghệ cũng vậy, tôi nhớ chỉ có một lần duy nhất lớp tôi có thành lập đội kịch đi tranh giải với các lớp khác và bị loại ngay từ đầu.

Sang năm đệ tứ, lớp tôi được học buổi sáng. Tôi cảm thấy như mình được làm người lớn. Những lần chun rào mót củ sắn không còn nữa. Chúng tôi có vẻ chững chạc hơn. Trong năm nầy có nhiều sự kiện đáng nhớ. Thầy Bé Tám bắt đầu dạy cho chúng tôi những bài nhạc của Trịnh Công Sơn như bài Gia Tài Của Mẹ, Ngày Dài Trên Quê Hương... Nhà trường còn mời anh Trịnh Công Sơn, chị Khánh Ly, anh Miên Đức Thắng đến trình diễn. Tôi còn nhớ buổi sáng hôm ấy, nhà trường cho tất cả học sinh được nghỉ học xem văn nghệ. Sân khấu chỉ là vài cái bàn học sinh ghép lại. Phần âm thanh chỉ có một ampli phóng đại và một chiếc loa thông tin. Về nhạc chỉ có một cây đàn ghi ta. Đầu tiên

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 16

 

 Miên Đức Thắng, Trịnh Công Sơn, và Khánh Ly, chụp ảnh kỷ niệm với thầy Nguyễn Trí Lục, Phạm Đức Liên trong chuyến biểu diễn tại trường

Trịnh Hoài Đức năm 1967 (ảnh của GS Nguyễn Trí Lục)  

chị Khánh Ly hát do anh Trinh Công Sơn đệm đàn. Kế tiếp anh Trịnh Công Sơn vừa hát vừa đệm đàn. Sau cùng là phần trình diễn của anh Miên Đức Thắng. Mỗi người hát mười mấy bài. Trước mỗi bài hát họ giới thiệu hoàn cảnh nào đã khiến họ có cảm hứng để sáng tác ra bài hát đó. Tuy sân khấu mộc mạc, phần âm thanh đơn sơ, nhưng họ hát rất say sưa và rất hay. Sau nầy, khi họ trở thành những ca sĩ tài danh, nghe họ hát tôi có cảm nhận là không hay bằng lúc họ hát trước sân trường Trịnh Hoài Đức. Đến khi Anh Trịnh Công Sơn hát bài Gia Tài Của Mẹ thì thầy Đỗ Anh Tài kêu gọi cả trường cùng cất giọng hát theo thật khí thế. Đến phần anh Miên Đức Thắng, có một bài hát anh giới thiệu là khi anh sáng tác xong đem ra trình diễn thì bị chính quyền thời bấy giờ kêu án ba hay sáu tháng tù (lâu quá tôi không nhớ rõ). Trong bài hát có câu : "Mẹ ơi nuôi con lớn đi làm tù binh". Bài hát trên đã ảnh hưởng đến tôi sau nầy rất nhiều. Ở Sài Gòn, mỗi khi trình diễn xong thì anh phải trốn ngay, nếu chậm chân thì bị cảnh sát ập đến bắt bỏ tù. Khi anh Miên Đức Thắng đang say sưa hát bỗng trong đám học sinh có tiếng la: “Cảnh sát dã chiến tới”. Tôi nhìn ra ngoài đường thì thấy một xe nhà binh chở đầy cảnh sát dã chiến chạy ngang qua trước trường. May quá, nó chạy luôn chứ không vào sân trường đề giải tán. Sợ quá, nhiều học sinh bỏ về, chỉ còn một số ít trong đó có tôi ở lại cho đến hết. Cuối chương trình, họ bán tập nhạc Ca Khúc Da Vàng của anh Trịnh Công Sơn có chữ ký của chị Khánh Ly. Bữa đó vì xài hết tiền nên tôi không mua được. Sau nầy cứ nuối tiếc mãi.

Năm l967, có lần SV Huỳnh Tấn Mẫm và HS Lê Văn Nuôi đến tại phòng thí nghiệm gặp mặt ban đại diện học sinh của trường và sau đó thì Thầy Bé Tám và cô T. dẫn một số học sinh

của trường, xuống Sài Gòn tham gia biểu tình cùng với sinh viên học sinh Sài Gòn. Lớp tôi có bạn Lộc do có đi sinh hoạt hiệu đoàn nên theo. Đoàn biểu tình bị cảnh sát dã chiến đàn áp.

Trong lúc lộn xộn, thầy Bé Tám và cô T. lạc mất. Đám học sinh chúng tôi bị bơ vơ. Riêng bạn Lộc vì khói cay làm mờ mắt suýt đâm phải xe bồn chở xăng. Cũng may, tất cả đều trở về bình yên.

Đến đầu năm 1968 xảy ra biến cố Tết Mậu Thân. Lò gốm của gia đình tôi bị máy bay thả bom làm sập đổ và hư hại hoàn toàn. Sau khi đi tản cư về, nhìn cảnh nhà tan hoang, má tôi xỉu luôn. Khốn khổ cho gia đình tôi, vì lò Thanh Lễ kế bên và các lò gốm xóm trên chỉ bị hư hại nhẹ, trong khi lò của nhà tôi thì bị bom miểng phá tan nát. Nhà lò bị bom na pan đốt cháy hoàn toàn. Cũng may là số vàng ba má tôi chắt chiu dành dụm, mà khi đi chạy loạn, má tôi dấu vào đống khuôn chén bể thì vẫn còn nguyên. Nhờ số vàng trên và kêu hụi mượn vốn nên lò gốm nhà tôi xây dựng lại được và tiếp tục sản xuất gốm trong hoàn cảnh thật khó khăn vì thiếu vốn.

Sau một thời gian nghỉ Tết hơi dài vì chiến tranh, chúng tôi tiếp tục học tiếp đệ nhị lục cá nguyệt của năm đệ tứ. Chấp hành lệnh tổng động viên, lớp tôi có vài người phải nghỉ học đi lính vì lớn tuổi như tôi đã nói phần đầu. Có

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 17

 

người bắt đầu đi học trễ. Có người thi rớt vào lớp đệ thất đến ba lần nên khi học đến lớp đệ tứ là đã đủ 18 tuổi, đúng tuổi bị động viên. Tuy hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn nhưng tôi cũng hoàn tất xong năm học với điểm trên trung bình.

Trong năm học lớp đệ tứ, người thầy làm tôi nhớ đến nhất là thầy Nguyễn Đông Ngạc dạy môn Việt Văn. Thầy thường đi qua lại trong lớp và ngâm hai câu thơ của Xuân Diệu: “Hôm nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm, Anh nhớ em, em hỡi anh nhớ em”. Trước khi nghỉ hè, chúng tôi phải làm đơn chọn ban cho năm học lớp đệ tam. Sự việc trên cũng khiến cả lớp bàn bạc và suy nghĩ rất nhiều. Sau nhiều lần đắn đo suy nghĩ, tôi xin vào ban B vì tôi mê làm kỹ sư mặc dù môn Toán tôi không được khá lắm, còn các môn phụ khác tôi rất khá.

Tôi được xếp vào học lớp đệ tam B4. Một số bạn cùng lớp đệ tứ P3 chuyển sang học lớp đệ tam A3 và một số bạn lớp đệ tứ P4 chuyển sang học lớp đệ tam B4 . Vì thế, khi chuyển sang bậc trung học đệ nhị cấp, chúng tôi mất đi một số bạn cũ và có thêm một số bạn mới. Nói vậy chứ trong thời gian ở bậc trung học đệ nhất cấp phòng học lớp P3 và P4 lúc nào cũng ở sát bên nhau nên cũng quá quen thuộc. Sau khi làm xong thành tích biểu thì chúng tôi được thầy giám thị thông báo lớp được chuyển thành lớp 10 B4 thuộc hệ 12 năm. Vài ngày sau thì tấm bảng đề tên lớp đệ tam B4 được gỡ bỏ và đổi thành lớp 10 B4. Riêng về thành tích biểu đã lỡ ghi lớp đệ tam B4 đươc giữ nguyên, vì nếu đổi lại sẽ tốn rất nhiều chi phí. Vài ngày sau đó, lại thêm một số bạn lớn tuổi phải giã từ đời học sinh vì lệnh tổng động viên. Lớp học trở nên vắng vẻ vì chỉ còn 28 học sinh gây nên một cú sốc cho chúng tôi. Tuy rất buồn, nhưng tôi vẫn cố gắng học vì thấy mình may mắn chưa bị cuốn vào dòng xoáy chiến tranh.

Trong năm lớp 10 có một chuyện làm tôi rất buồn chán suýt phải nghỉ học. Tôi bị thầy dạy Anh Văn phê xấu trong học bạ mặc dầu tôi hoàn toàn không có lỗi trong vụ nầy. Các bạn cùng lớp đều biết tôi bị hàm oan. Nhiều thầy dạy môn khác khi thấy lời phê, và nghe trưởng lớp tôi trình bày câu chuyện đều cho là thầy dạy Anh Văn đã ra tay với học trò một cách quá đáng. Riêng tôi đến tận bây giờ, khi nhìn vào học bạ, tôi cảm thấy thật chua xót. Tôi thầm cảm ơn thầy Nguyễn Trí Lục đã có tấm lòng nhân hậu. Nhờ thầy mà tôi vẫn tiếp tục đến trường, mặc dù khi bị phạt một cách oan ức, tôi có ý định nghỉ học chuyển sang trường khác.

Sự việc trên ám ảnh tôi suốt nhiều năm liền. Lúc nào tôi cũng thầm cầu mong được học với những thầy cô có tấm lòng nhân hậu biết thương yêu học trò. Đến nỗi sau nầy khi con tôi đi học, tôi thường van vái cho con tôi không gặp phải một ông thầy khó khăn như người thầy đã dạy Anh Văn cho tôi năm lớp 10.

Trong năm đệ Tam, tôi còn nhớ đến thầy Nguyễn Nhật Duật dạy môn Công Dân Giáo Dục. Cũng như thầy Ngạc, thầy thường đi đi lại lại trước mặt học sinh và luôn miệng nói câu ngạn ngữ của Hy Lạp: “Từ cái không có gì đến cái không có gì”. Tôi cũng phải nhắc đến thầy Nguyễn Minh Châu. Thầy dạy toán rất dễ hiểu, nhờ thầy tôi gần như lấy lại được căn bản của môn Toán. Nếu như không phải phụ việc nhà (do hoàn cảnh khó khăn của gia đình sau biến

 Trường Trịnh Hoài Đức nam

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 18

 

cố Mậu Thân),có thời gian nghiền ngẫm, có lẽ tôi sẽ học giỏi môn Toán hơn nhiều.

Sang năm lớp 11, lớp có thêm vài người bạn mới ở các trường khác chuyển đến. Lớp học có thêm nhiều sinh khí. Thầy Lê Tấn Lộc thay thế thầy Nguyễn Trí Lục làm hiệu trưởng. Trong số những giáo sư dạy lớp chúng tôi trong năm nầy tôi nhớ nhất là thầy Nguyễn Tường Thụy dạy môn Toán. Thầy yêu cầu học sinh vứt hết sách vở đi, đừng dồn nén quá nhiều vào đầu óc, đến ngày thi sẽ không còn nhớ gì cả và kết quả là thi rớt. Đó là kinh nghiệm của thầy và thầy cũng từng thi rớt kỳ thi Tú Tài 1 như thế.

Thầy Võ Tấn Phước dạy môn Việt Văn. Vào lớp, thầy thường hay xem tướng của học trò và thầy cũng giới thiệu với học sinh những quyển sách ngoài chương trình. Trong số nầy tôi thích nhất là khi thầy nói về quyển Dòng Sông Định Mệnh. Thầy nói nhiều về cuộc đời người như một dòng sông. Mỗi dòng sông đều có những khúc quanh và cuộc đời người cũng có những khúc quanh định mệnh như thế.

Trong năm nầy, gia đình tôi gặp rất nhiều khó khăn. Sự hư hại của lò gốm nhà tôi năm Mậu Thân kéo theo nhiều nợ nần chưa trả hết, do thiếu nợ chành chén hơi nhiều nên họ giao cho nguyên liệu xấu, làm hư nước men cả năm. Sản phẩm làm ra bán giá thấp hơn lò gốm khác, nhiều lúc hàng loại 1 phải bán cùng giá với hàng loại 2 của lò gốm khác, gây ra lỗ vốn nặng.

Còn một việc khác cũng làm khó khăn thêm cho gia đình tôi. Số là ba tôi có một người cháu kêu bằng chú, tên Hổ. Do cha mất sớm, mẹ đi lấy chồng khác, bị dượng ghẻ hắt hủi, ba tôi mới rước anh về cho cô tôi nuôi. Năm Mậu Thân 1968, do lệnh tổng động viên, anh phải đi lính. Ba tôi thấy vậy mới nhờ người quen giúp đỡ lo giấy tờ lớn tuổi và xin cho anh làm nhân viên gác lò đường. Việc nầy làm ba tôi phải tốn một số tiền. Nhưng không ngờ anh ta quá ham đi lính và anh ta quá làm biếng vì tối đi gác lò đường, ngày phải về làm lò gốm phụ giúp cô tôi. Vì thế anh ta bỏ việc ở lò đường và lấy lại giấy tờ nhỏ tuổi cũ đi đăng lính nghĩa quân. Từ khi đi lính, anh ta lập được nhiều chiến công, nhờ thế anh ta có thêm vợ nhỏ nữa . Anh ta không còn phụ lò gốm của cô tôi, lại còn giao

vợ con cho cô tôi nuôi vì tiền lương lính ít ỏi chỉ đủ nuôi vợ nhỏ. Cô tôi bị tật ở chân không làm được việc nặng nên hoàn cảnh gia đình của cô tôi trở nên khốn đốn.

Cô tôi than thở quá nhiều khiến ba tôi động lòng phải ra tay giúp đỡ, mặc dù má tôi phản đối kịch liệt. Bà yêu cầu ba tôi phải ưu tiên lo cho con, nhưng ba tôi vẫn cương quyết không nghe. Việc làm của ba tôi làm cho gia đình tôi đã gặp nhiều khó khăn do làm ăn lỗ lã, nay khó khăn lại càng chồng chất thêm làm má tôi nhiều khi phải khóc.

Ba tôi quyết định không thuê mướn người làm công việc nặng nhọc nhất của lò vì công việc trên phải chi trả rất nhiều tiền và ông giao cho anh em tôi làm phần việc đó. Đi học về đến nhà là phải nhào lên lò làm việc ngay. Có bữa thầy cho bài về nhà, tôi phải lấy tập ra làm liền vì sợ để lâu sẽ quên không làm được. Khi lên lò không thấy anh em tôi , ông xuống nhà thấy tôi đang làm bài ông bèn la cho một trận, khiến tôi phải bỏ ôn tập tức tốc lên lò làm việc ngay. Nhiều lần như vậy, có lúc tôi nghĩ quẩn, muốn tự tử chết cho xong.

Những trận la rầy thường xuyên của ba tôi làm cho đầu óc của tôi bị mệt mỏi. Việc học hành của tôi vì thế càng ngày càng đi xuống. Tuy thế, tôi cũng cố gắng đạt được trên trung bình.

Không biết ai bày vẽ mà ba tôi đã cho tôi nghỉ làm trước ngày thi khoảng một tháng. Trong một tháng trời mà tôi phải ôn tập một khối lượng bài thi khổng lồ của một năm. Sức người có hạn, đầu óc tôi làm sao chất chứa nổi. Kết quả là tôi thi rớt kỳ thi tú tài 1 năm 1970. Khi xem bảng điểm, tôi càng buồn hơn vì tôi được 108/115 điểm, thiếu chỉ có 7 điểm, tương đương 1,75 điểm toán hay 2, 3 điểm Lý Hóa. Chỉ cần làm trúng thêm một câu hỏi giáo khoa, hoặc chỉ cần làm trúng thêm vài câu môn phụ (nếu tôi có được thời gian ôn bài) là tôi đã thi đậu.

Sau khi thi rớt, đến ngày tựu trường tôi phải làm đơn xin học lại lớp 11. Ngoài những bạn đủ tuổi không còn được hoãn dịch phải đi lính, tôi và 3 bạn tên là Phong, Nguyện, Xuân được nhà trường xếp vào học lớp 11B4 khóa 11. Tôi được học chung các bạn mới như Hoàng, Thạnh,

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 19

 

Nam, Khương, Mến, Bình v.v.... Trong đó, một số bạn trước đây đã cùng thi với tôi vào lớp đệ thất khóa 10 nhưng không đậu phải vào học lớp đệ thất khóa 11 như bạn Hoàng, Thạnh .....

Trong năm học nầy, tinh thần học hành của tôi bị giảm sút rất nhiều. Vì sợ phải đi lính, tôi và bạn Phong cùng nộp đơn vào học lớp trắc lượng viên của Bộ Công Chánh, nhưng vì không có tiền để lo lót nên hồ sơ bị trả lại. Rút kinh nghiệm kỳ thi rớt năm rồi, tôi năn nỉ ba tôi: “Ba cho con nghỉ làm phụ gia đình để con có thời gian ôn tập bài vở, nếu không, con sẽ tiếp tục thi rớt và bị đi lính”". Ba tôi suy nghĩ hồi lâu rồi nói: “Được rồi, để tao tìm người làm thay thế cho mày học”. Lúc nầy anh tôi đã đi lính nên công việc nặng nề trên tôi phải làm một mình không ai phụ giúp, khiến thời gian học hành và ôn tập bị thu hẹp thêm.

Ba tôi đi tham khảo ý kiến của cô tôi xong, ông về nhà kêu tôi lại và bảo: “Nếu trước đây tao đẻ ra cái hột gà, hột vịt tao luộc ăn còn tốt hơn tao đẻ ra mầy”. Sau nầy tìm hiểu tôi mới biết, vì vợ lớn và vợ nhỏ của anh Hổ cùng đẻ con trong năm. Nhiều lần bà vợ lớn của cháu ông gặp ông đòi tự tử nên ông phải tăng cường phụ giúp tiền bạc cho cô tôi, vì thế ông mới bắt buộc tôi phải tiếp tục làm công việc nặng nhọc kia. Có như vậy ông mới có tiền để lo cho cháu ông.

Việc học lại lớp 11 dễ dàng hơn trước rất nhiều, nhưng vì phải phụ làm việc lò gốm nhà nhiều hơn, hầu như không còn thời giờ nhìn vào sách vở, trừ những lúc ngồi học trên lớp, vì vậy việc học của tôi không tiến bộ mấy. Tuy thế tôi vẫn cố gắng học không nản chí. Một phần lo sợ phải đi lính, một phần vì mắc cỡ với bạn bè.

Tôi nhớ có lần thầy Võ Tấn Phước ngồi coi tướng cho đám học sinh, khi coi đến tôi, thầy chỉ mỉm cười rồi lắc đầu không nói gì. Có lẽ thầy đã nhìn thấy số phận của tôi không tốt, gặp nhiều rủi ro hơn là may mắn. Gần hết niên học, một bữa ra chơi tôi lang thang đi đến gần gốc điệp tây có người còn gọi là cây đa già sau văn phòng trường, bỗng tôi nghe có tiếng la của thầy Ba Viên tổng giám thị. Tưởng ổng la mình, tôi ngoái đầu nhìn lại thấy ông đưa tay chỉ vào một cặp trai gái đang khắc những chữ lưu niệm vào gốc đa già. Nghe la hai người liền bỏ chạy.

Tò mò tôi đến xem thì thấy tên của hai người kia và ngày tháng năm ghi lưu niệm được khắc trên cây. Những dòng nhựa cây còn ứa ra hai bên. Bỗng nhiên một cảm giác buồn khó tả xuất hiện làm tôi ứa nước mắt. Tâm trạng tôi lúc đó như người phải từ biệt mái trường mãi mãi.

Sau đó, anh của tôi may mắn trúng được hai tờ vé số được tám trăm ngàn đồng. Đây là một số tiền khá lớn thời bấy giờ. Nhờ số tiền nầy, ba tôi trả hết nợ và mua thêm một số nguyên liệu mới. Do mua được nguyên liệu tốt nên không còn hư nước men nữa và ba tôi cũng có tiền để hỗ trợ cho cô tôi lo cho đứa cháu báo đời của ông, vì thế ông mướn người làm thay thế tôi, cho tôi nghỉ làm để ôn bài.

Cũng như năm trước, tôi chỉ còn vỏn vẹn có một tháng ôn tập bài vở để thi Tú Tài 1. Tôi cũng cố gắng nhồi nhét kiến thức vào đầu. Nhưng kết quả như thầy Thụy đã nói: “ Việc học như trên đã làm cho đầu óc tôi quá tải”. Thêm vào đó là áp lực thi rớt sẽ phải đi lính nên đến giờ thi Tú Tài môn Toán (là môn thi chính hệ số 4) đột nhiên đầu óc tôi trống rỗng, cầm đề thi trên tay mà mồ hôi tuôn ướt đẫm. Giờ làm bài là 3 tiếng đồng hồ thế mà gần hai tiếng đầu óc tôi như một đứa trẻ lên tám tuổi chỉ biết cộng trừ nhân chia chứ không còn biết gì hết. Sau khi qua cơn sốc đầu óc trở lại bình thường thì chỉ còn hơn một tiếng đồng hồ để làm bài. Tôi vội vã làm bài không kịp xem lại nên khí giám thị thu bài, tôi vẫn còn làm dang dở.

Đến môn Lý Hóa hệ số 3 tuy áp lực có giảm, thời gian bị sốc cũng ít đi, nhưng vì sợ và không tin tưởng vào bài làm của mình, tôi hỏi người ngồi bên cạnh đáp số và tôi đã sửa lại một câu giáo khoa. Sau khi thi xong, tôi mua bài giải về phòng trọ xem lại. Tôi tá hỏa vì tôi đã làm đúng mà vì không tin tưởng sức mình tôi đã sửa lại sai, làm mất đi 2,5 điểm nhân hệ số tôi mất đi 7,5 điểm, một số điểm quý giá, nếu trong năm trước tôi có được số điểm trên thì tôi đã thi đậu rồi.

Thêm một sai lầm nữa của tôi là trong giờ thi môn Vạn Vật, do lo sợ như năm trước, tôi có lật sách chép khoảng hai câu. Tôi bị cô giám thị trong lớp nhìn thấy, và bị thầy giám thị hành lang bắt gặp. Nhưng cả hai chỉ nhìn tôi mỉm

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 20

 

cười không thu bài và không lập biên bản vi phạm (không biết họ có lập biên bản ngầm không). Thi xong về nhà xem kết quả giải đáp so với bài làm của tôi, tôi thấy mình chắc chắn thi đậu, nếu tôi tính đúng tôi có thể đậu hạng Bình Thứ. Đến ngày xem kết quả, khi chạy xe đi ngang trường đến chỗ bán cây giống Nguyễn Thị Chín tôi gặp bạn Trần Thiện Nguyện. Anh ta kêu tôi lại và nói: “Mầy thi rớt rồi!”. Nghe xong, tôi cảm thấy trời đất đảo lộn. Tuy thế, tôi vẫn tiếp tục đi đến trường thi xem kết quả. Tôi càng đau lòng hơn khi thấy người bạn ngồi cạnh tôi, người mà tôi đã chỉ anh ta làm đúng hai câu vật lý và bạn ấy làm bài thi ít hơn tôi lại thi đậu. Đến giờ tôi cũng không hiểu vì lý do gì tôi thi rớt. Tôi đã bị thầy cô giám thị lập biên bản ngầm để đánh rớt hay trong lời giải bài toán, vì làm vội vã tôi đã làm sai trong phần chứng minh mặc dù khi so với kết quả bài giải tôi đã ra kết quả đúng.

Mặc dù vậy, không nản lòng, tôi và người bạn tên Phong cố gắng tiếp tục tìm kiếm nộp đơn xin vào học trường Quốc Gia Thương Mại. Do không biết trường toa lạc tại đâu, sau nhiều lần tìm kiếm không được và thời hạn hoãn dịch đã hết, tôi và bạn Phong phải nộp hồ sơ xin đi lính ngành với cấp bậc binh nhì mong được yên thân khỏi phải ra chiến trường.

Sau sáu tháng quân trường gian khổ tôi được đổi ra một đơn vị ở Pleiku. Trong thời gian nầy, tiểu đoàn của tôi có vài tù binh người miền Bắc làm tạp dịch. Do lòng thương hại và do nhớ tới lời hát của nhạc sĩ Miên Đức Thắng mà tôi đối xử tử tế với họ. Cấp trên thấy vậy không bằng lòng và còn nghi tôi có cảm tình với phía bên kia, nên giao cho an ninh quân đội điều tra. Tôi không bị kỷ luật nhưng phải chuyển qua đơn vị khác.

Sau đó vài tháng tôi được đơn vị cho đi phép về thăm nhà. Khi ngang qua trường Trịnh Hoài Đức, xe đò ngừng lại để rước học sinh. Số học sinh nầy thuộc lớp sau vì các bạn cùng lớp khóa 10 và khóa 11 đã ra trường hết rồi. Đột nhiên, những kỷ niệm lúc còn đi hoc ùa về và những ẩn ức vì phải rời trường sớm khiến tôi

bật khóc như một đứa trẻ nít. Trên xe có hai bà già nhìn tôi ái ngại và nói với nhau, chắc nó mới đi lính nhớ nhà nên khóc như vậy. Sự thật là tôi không nhớ nhà, chỉ nhớ trường thôi. Khi về đến nhà tôi càng bị sốc hơn khi hay tin một người bạn ở kế bên nhà tôi (người bạn cùng học chung với tôi năm lớp nhất khi tôi thi đậu vào trường Trịnh Hoài Đức bạn ấy thi rớt phải học Nông Lâm Súc) cùng với một bạn học khác ở trường được đi du học bên Nhật Bản. Suốt đêm đó tôi thức trắng, tuy mắt tôi khô ráo nhưng hình như nước mắt cứ tuôn chảy trong lòng tôi. Một sự tuyệt vọng ghê gớm ập vào người tôi, có lúc tôi như mê sảng ước ao ba tôi có được cách nghĩ như ba của người bạn tôi, không lo cho gia đình đứa cháu ác ôn mà chăm lo cho con cái, thì tôi đâu có khổ sở như thế nầy. Tôi lại mơ thấy ba tôi không có gia đình của người chị và những đứa cháu ác ôn đeo bám nên ông chăm lo đầy đủ cho con cái. Cuộc sống của chúng tôi thật hạnh phúc và tôi được học hành đến nơi đến chốn và được đi du học như các bạn của tôi.

Lúc nầy Bộ Giáo Dục đã bỏ kỳ thi tú tài 1 và thay vào đó là tú tài phổ thông nên học sinh không còn phải dang dở rời xa mái trường mà được học hết trọn vẹn bậc trung học. Tuy đi lính nhưng tôi vẫn cố gắng học thêm lớp 12 vào ban đêm. Do đời lính rày đây mai đó nên tôi ghi danh học thêm lớp 12 của trường hàm thụ Hạnh Nghĩa. Đến kỳ nộp hồ sơ thi tú tài, ông đại đội trưởng vì có ác cảm với tôi nên ông không chịu ký hồ sơ tại ngũ của tôi để tôi làm hồ sơ dự thi. Nhưng vì tôi có học thật sự với bằng chứng rõ ràng là toàn bộ sách lớp 12, tài liệu ôn tập được trường Hạnh Nghĩa gởi đến cho tôi và nhờ sự can thiệp của các đồng đội làm việc ở ban tham mưu đại đội, nên ông miễn cưỡng ký hồ sơ cho tôi đi thi.

Không từ bỏ ý định hại tôi, ông bèn cấp phép cho một đồng đội tôi tên Phú cầm hồ sơ của những người dự thi trong đại đội (thực chất chỉ có 2 hồ sơ dự thi mà thôi, vì khi vào lính rồi ít có người còn theo đuổi việc học hành nữa) đem nộp cho hội đồng thi Sài Gòn. Khi hết phép trở lại đơn vị, Phú thông báo là chỉ nộp một hồ sơ còn hồ sơ của tôi thì không nộp được. Lúc đó thời hạn nộp hồ sơ chỉ còn 1 ngày và hồ

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 21

 

sơ của tôi bị anh ta xé bỏ nên không thế nào làm lại kịp.

Nhận thấy anh ta có âm mưu hại tôi nên tôi giận quá, cầm cây súng M16 lên đạn chĩa thẳng vào đầu anh ta bóp cò. Vì quá uất ức nên tôi bật chốt an toàn sang chế độ tự động bắn hàng loạt, với hy vọng càng nhiều viên đạn găm vào đầu anh ta càng tốt. Cũng may cho nó, và cũng may cho tôi khỏi bị tội tử hình, vì từ ngày ra đơn vị đến lúc đó, tôi chỉ làm việc văn phòng nên không quen sử dụng súng. Thay vì bật chế độ tự động tôi bật sang chế độ khóa an toàn, vì thế tôi bóp cò mấy lần mà súng không nổ. Thấy vậy nhiều người xông đến ôm tôi giật lấy khẩu súng. Còn anh ta hoảng hốt đứng như trời trồng, mặt xanh như tàu lá không còn chút máu.

Hai ngày sau các anh trong ban tham mưu đại đội mới kêu tôi và Phú ra quán cà phê giải thích rõ câu chuyện. Số là ông đại úy đại đội trưởng thấy tôi cố gắng học hành thật tốt nên ông tiên đoán tôi sẽ thi đậu kỳ thi tú tài và ông ghét nên mới sai Phú làm như vậy. Còn Phú chỉ là người thừa hành lệnh của ông ta mà thôi. Sau sự cố trên tôi phải giảm bớt việc học để tránh sự căm thù của ông ta.

Trong đời binh nghiệp ngắn ngủi, có một lần tôi và bạn tôi đã ra tay cứu giúp một người tù binh miền Bắc bị thương nặng tay còn đang chuyền nước biển, vậy mà vẫn bị viên sĩ quan an ninh của trung đoàn liên tiếp hỏi cung. Chúng tôi đã giúp anh ta thoát chết và thả anh trở về đơn vị cũ khi sư đoàn của tôi di tản khỏi tỉnh Bình Định. Đó là nhờ tôi đã được thầy cô trường Trịnh Hoài Đức dạy cho tôi hiểu được chữ nhân, và nhờ bản nhạc của anh Miên Đức Thắng giúp tôi có được tình người.

Ngày di tản khỏi tỉnh Bình Định, trên bờ biển Qui Nhơn, tôi phải lội ra tàu (vì tàu đổ bộ khi vào đến gần bờ bị xe thiết giáp cản trở nên không ủi bãi được phải đậu cách bờ gần 30 mét). Đi được một khoảng khá xa, bỗng dưng tôi bị hụt chân rơi vào một xoáy nước. Khi nhìn lên, tôi thấy nước ngập khỏi đầu tôi hơn một mét. Dưới chân thì bị nước rút kéo ra ngoài khơi. Trong lúc thập tử nhất sinh, tự nhiên những ký ức khi còn học ở trường Trịnh Hoài Đức hiện rõ mồn một trong đầu tôi và những kỹ năng khi tập bơi lặn mà các bạn đã dạy cho tôi

khi đi cắm trại ở nhà bạn Thạnh hay những lần tập bơi lặn ở nhà bạn Hoàng, bạn Điền đã giúp cho tôi thoát chết một cách kỳ diệu.

Khi sư đoàn di tản về Vũng Tàu, trong lúc dưỡng quân, tôi có dù về thăm nhà. Khi ra trình diện, tôi bị ông đại đội trưởng đánh cho một trận thật kinh hoàng còn hăm dọa sẽ bắn tôi nữa.

Trưa ngày 30/4/1975, tôi có mặt tại thương cảng Sài Gòn. Lúc đó còn vài chuyến tàu rời bến đi ra nước ngoài. Nhà bạn tôi ở gần đó, gia đình bạn tôi có nhờ người liên lạc với các tàu trên. Họ nhận lời giúp đưa chúng tôi ra nước ngoài. Người liên lạc đến kêu đi ba, bốn lần mà tôi chần chừ hồi lâu. Chợt nhớ đến trận đòn và lời hăm dọa bắn tôi của ông đại đội trưởng nên tôi đổi ý định, nhờ ba của bạn tôi đưa tôi về nhà người bà con ở đường Yên Đỗ tạm lánh. Ngày hôm sau, tôi quá giang xe về Bình Dương đoàn tụ với gia đình.

Trưa ngày l/5/75 tôi mới về đến nhà, gặp mặt người thân trong gia đình. Mọi người đều mừng rỡ tưởng tôi bị mất tích rồi. Sáng hôm sau như mọi người khác, tôi phải đi trình diện học tập cải tạo tại ủy ban quân quản tỉnh Thủ Dầu Một (Bình Dương được thay thành Thủ Dầu Một). Trình diện xong, tôi được cấp một giấy chứng nhận và trở về nhà.

Đến lần trình diện thứ 3, tôi gặp người trông coi lính Sài Gòn rã ngũ đến trình diện tên là Đ.. Anh là người đã học chung với tôi từ lớp đệ thất đến lớp đệ tứ. Đến năm lớp đệ tam thì tôi học lớp 10 B4 còn Đ. học lớp 10 A3. Mừng rỡ vì gặp được bạn học ngày nào, tôi định tới chào và hỏi thăm (lúc đó Đ. đứng trên bàn như thầy giáo, còn tôi tay cầm tờ khai lý lịch đem nộp như học trò nộp bài ) thì tôi nhận được một thái độ lạnh nhạt của Đ.. Anh ta nhìn tôi mà tảng lờ như không quen biết. Sự việc trên làm tôi bị sốc nặng nề, vì lúc ở Pleiku, do quá thân thiện và giúp đỡ những người tù binh mà tôi bị đày ra làm việc ở sư đoàn bộ binh khổ sở rất nhiều. Mới đây chỉ hơn một tháng, tôi đã cứu mạng một đồng đội của Đ. ở Qui Nhơn và tôi cũng phải chịu một trận đòn chí tử suýt chết từ người chỉ huy.

Trình diện xong, tôi thất thểu ra về như người mất hồn và cảm thấy thật buồn.

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 22

 

Trên đường về nhà, khi đi ngang chợ, qua khỏi nhà thầy Võ Tấn Phước vài căn phố, tôi bỗng gặp bạn Tư Hà mặc quân phục quân giải phóng miền Nam đang đứng nhìn tôi. Bạn Hà học lớp đệ thất P4, khi lên lớp đệ tam thì học lớp đệ tam B4 chung lớp với tôi. Học hết năm lớp 11 B4 thì bạn Hà bỗng nhiên biến mất.

Bị cơn sốc vừa rồi nên tôi giả bộ như không biết và đi thẳng. Bạn Tư Hà bèn đi theo, đến trước tiệm chụp hình Đại Đồng, bạn Hà tiến lên trước mặt tôi và hỏi : “Xin lỗi, có phải anh tên Phước không?”. Tôi gật đầu nói phải. Nghe xong bạn Hà reo lên: “Mầy không nhớ tao hả Phước? Tao học chung với mầy ở trường Trịnh Hoài Đức đây. Lúc còn đi học tao tên Tư Hà, vô bộ đội tao đổi tên là Nguyễn Thanh Tùng”. Nghe xong tôi đáp lại: “Tao thấy mầy tao nhớ liền, nhưng tao mới vừa bị một cú sốc nên tao không dám nhìn”. Bạn Hà liền nói: “Nếu tao không vào vùng giải phóng thì tao cũng phải trình diện đi lính như mầy”.

Sau đó tôi và bạn Tư Hà vẫn thường xuyên gặp nhau. Bạn Hà đã chuyển công tác sang làm ở Bưu Điện. Chúng tôi hay đi uống cà phê, cùng nhau ôn lại những kỷ niệm lúc còn đi học ở trường Trịnh Hoài Đức, về những thầy cô đã truyền đạt kiến thức cho chúng tôi, kể cho nhau nghe về những tháng ngày gian khổ. Tôi kể cho bạn Tư Hà nghe về những tháng ngày bị đày ải lúc còn mặc áo lính, còn bạn Hà kể cho tôi nghe về những lần đi công tác ngang qua rừng Cò Mi bị lính nghĩa quân phục kích suýt chết.

Thời gian sau, bạn Tư Hà được nhà nước cho đi học đại học. Bạn chuyển ngành theo học ngành kinh tế kế hoạch. Trong thời gian học, bạn lập gia đình với một cô bạn học chung trường. Ra trường về làm ở một đơn vị vật tư của tỉnh. Những tưởng cuộc đời của bạn Hà sẽ hanh thông, tương lai sẽ làm một quan chức cao cấp. Ai dè bạn lại bị tai nạn mà chết. Sau nầy nghe kể lại: trong lúc đứng chờ băng qua đường trước cửa cơ quan nơi làm việc thì bạn Hà bị một quái xế chạy xe gắn máy tốc độ cao tông phải. Số phận con người thật lạ, trong chiến tranh bạn Tư Hà bị bao nhiêu tay súng nhắm bắn nhưng không chết. Hòa bình rồi lại bị chết một cách oan uổng.

*****

Lúc còn mài đũng quần ở mái trường Trịnh

Hoài Đức, mỗi dịp xuân về, tôi thường ước ao được một lần viết bài đăng trên báo xuân của trường, nhưng khi cầm bút ngồi thừ ra cả buổi mà tôi không viết được câu nào. Nay đọc trên trang web CHS Trịnh Hoài Đức thấy có ra báo xuân, ước mơ thời xa xưa trỗi dậy. Tôi cố gắng viết một bài cho báo xuân Trịnh Hoài Đức 2012 nhưng cũng trễ hẹn. Không phải là văn sĩ nên tôi chỉ viết lại những kỷ niệm, những hồi ức rất chân thật của tôi với trường Trịnh Hoài Đức. Không phóng đại, không tô hồng, chỉ viết ra sự thật tôi đã trải qua mà thôi vì thế nên lời văn giản dị, cục mịch, khô khan đôi khi có lỗi chính tả. Mong các bạn thông cảm và tôi hy vọng nó sẽ được đăng trên trang web của CHS Trịnh Hoài Đức hoặc trong số báo Xuân gần nhất để thỏa niềm ước mơ đã nhiều năm qua không thực hiện được./.

Thiệp xuân Trịnh Hoài Đức – năm Nhâm Tý (ảnh của CHS Nguyễn thị Hai)

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 23

 

Nguyễn Thị Hai

Thời gian lặng lẽ trôi qua theo từng tờ lịch. Cứ vào khoảng cuối tháng 12, sáng sớm trời se se lạnh, ngoài vườn lá vàng cũng thôi rơi, những vệt nắng lùa qua cửa sổ ấm áp vô cùng, mùa xuân sắp đến rồi đó!

Thành phố hay làng quê như bừng lên sức sống mới để chào đón một mùa xuân nữa lại về.

Lịch năm mới được bày bán đầy trên đường Lê Lợi và nhà sách, có rất nhiều mẫu mã, màu sắc rực rỡ vô cùng, nhưng nhìn vào quầy thiệp xuân thì ôi những tấm thiệp này lại càng dễ thương và xinh xắn hơn nhiều.

Đối với học sinh thì việc tặng nhau những tấm thiệp chúc Tết hay còn gọi nôm na là cánh thiệp đầu xuân là điều ai cũng thích nhất.

Ngày xưa cứ hễ đến tháng 12 có thiệp xuân lại rủ nhau lang thang tới những quầy bán thiệp mà lựa chọn xem tấm nào đẹp, tấm nào ưng ý mới mua, có khi đi xuống tận nhà sách Khai Trí ở Sài Gòn. Khi mua về lại phải suy nghĩ xem tặng cho thầy, cô tấm nào, tấm nào cho người bạn thân nhất, và lời chúc phải viết ra sao nữa! Ôi thật vui quá đỗi!!!

Tôi nhớ mãi tấm thiệp xuân đầu tiên tôi đã tặng cho cô giáo Kim Anh năm học lớp 5 trường Bình Nhâm. Tôi mua được tấm thiệp khi đi mua lịch với bà ngoại. Về nhà tôi đã phải viết đi viết lại câu chúc đến 10 lần. Cuối cùng câu chúc mà tôi ưng ý nhất là: “Con chúc cô mạnh khỏe và ăn nhiều cho mau mập. Con thương cô lắm”. Đó là vì tôi thấy cô ốm quá nên chúc như vậy. Khi vào lớp học, phải đợi lúc tan trường, sau khi các bạn đã lục đục ra khỏi lớp, tôi mới dám lên đưa cho cô và ù té chạy. Ngày hôm sau trong giờ học, cô đã đến xoa đầu tôi và nói: “Cô cám ơn con nhe”. Các bạn trong lớp chẳng hiểu điều gì. Chỉ có tôi, trong lòng dâng lên một niềm vui khó tả!!!

Ngày xưa tấm thiệp xuân đơn giản với những câu chúc quen thuộc như: “Chúc mừng năm mới”, “Cung chúc tân xuân” hay “Năm

mới an khang, thịnh vượng”. Bên cạnh là hình ảnh của cành mai vàng, cành đào, cành trúc, hoa lan, hay ba ông Phước, Lộc, Thọ. Ngoài ra, còn có hình của quả dưa hấu và dây pháo chuột v.v…

Ngày nay thiệp xuân làm đẹp hơn ngày xưa, giấy tốt, kỹ thuật in tân tiến. Thêm vào đó, còn có các loại thiệp do sinh viên làm bằng tay mà vật liệu là những loại hoa khô, cỏ khô ép rất khéo léo nhìn đẹp và độc đáo vô cùng.

Trường Trịnh Hoài Đức hồi xưa, mỗi khi Tết đến cũng có làm thiệp xuân và đặc san của trường. Báo do học sinh trong trường viết và bán giao lưu với các trường khác trong tỉnh như Nghĩa Phương, Bồ Đề, cũng như những trường ở xa như Ngô Quyền (Biên Hòa), Hóc Môn (Gia Định)…

Tôi còn giữ được tấm thiệp xuân của trường Trịnh Hoài Đức năm 1972(1). Tấm thiệp in hàng chữ “Cung Chúc Tân Xuân” “Năm Nhâm Tý 1972”. Hình ảnh mà họa sĩ vẽ có lẽ là nữ sinh Trịnh Hoài Đức với mái tóc dài, rải rác là những cánh hoa mai. Bên dưới là hàng chữ Trịnh Hoài Đức, Bình Dương. Nay giấy đã ngả màu nhưng hình ảnh họa tiết vẫn còn rõ nét.

Thầy cô người đã có công dạy dỗ thì qua những lời chúc sức khỏe của học sinh trong những tấm thiệp là một món quà tinh thần luôn được thầy cô trân trọng.

Những lời chúc đơn sơ, mộc mạc mà chân thành trong những cánh thiệp đầu xuân đã mang đến nhiều niềm vui và ý nghĩa cho cuộc sống.

Tấm thiệp đầu xuân 1972 đối với tôi là một kỷ niệm đẹp thuở còn đi học. Tôi sẽ giữ mãi vì đó là một trong những niềm vui nhất của tuổi học trò…

Ghi chú: (1) Xem hình thiệp xuân năm 1972 ở cuối

trang 22

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 24

 

Ngọc Sương - K12

Một: Thi đậu vào lớp đệ thất trường Trịnh Hoài Đức: Nhà nghèo, mồ côi cha lại đông anh chị em cho nên việc tôi thi đậu vào lớp đệ thất trường THĐ là một niềm vui lớn của mẹ tôi vì ít nhiều nó đã hé mở cánh cửa tương lai của tôi. Năm ngoái, tôi thi rớt đệ thất, mẹ tôi không có tiền cho tôi học trường tư như các bạn khác cùng lứa: đứa vào trường Bồ Đề, đứa vào trường Nghĩa Phương hoặc Nguyễn Trãi... Còn tôi, tựu trường năm ấy, bà dẫn tôi trở lại trường Nữ Châu Thành để xin bà đốc Phạn cho tôi học lại lớp nhất thêm một năm nữa. Năm ấy tôi học lại lớp nhất A với cô giáo Thái Thị Liên. Cuối năm, cô có hỏi thăm một số học trò trong đó có tôi rằng: - "Các em có đi học thêm luyện thi vào đệ thất không?" - "Dạ, má em không có tiền cho em học thêm cô à!" Và cô mở một lớp kèm luyện thi đệ thất miễn phí tại nhà với khoảng 5-6 bạn trong đó có tôi và bạn Trần Thiện Tứ (vì nhà tôi và nhà của bạn Tứ cùng ở trên đường Phạm Ngũ Lão cho nên tôi chỉ còn nhớ lại tôi và bạn Tứ). Cả hai chúng tôi đều đậu vào đệ thất THĐ năm đó - niên khóa 1966-1967 - ngày nay gọi là khóa 12. Cô còn gợi ý giúp đỡ bạn Minh - nhà ở đường ga (vì hồi đó khi học sinh trường Nữ Châu Thành khi ra về thường xếp thành 4 hàng chia ra đường ga, đường chợ và bến xe, đường nhà thương, đường piscine). Cô hỏi: - "Sao em không nạp hồ sơ thi đệ thất ?" - "Dạ, má em nói không có tiền may áo dài. Hơn nữa em phải ở nhà phụ má giữ em vì em đông."

- "Em cứ thi, nếu đậu thì mỗi năm cô cho 2 chiếc áo dài, loại vải thường thường thôi vì cô thấy em có khả năng thi đậu". Cô nói như vậy... Nhưng vì má của Minh tính như vậy rồi nên cô đành phải chịu thôi. Gần nửa thế kỷ rồi cô Liên ạ, sau lần ghé lại báo tin thi đậu, tụi em đã ra đi biền biệt mà quên trở lại thăm cô. Tụi em vô tình quá phải không cô? Bây giờ trong ký ức em còn nhớ rằng cô rất thích ca hát. Cô đã tập cho học sinh đóng kịch "Nàng Tro" tức "Cô Bé Lọ Lem"... Còn bài hát "Dấu Chân Kỷ Niệm" mà cô đã trình diễn thì rất tình cảm và chẳng thua gì ca sĩ chuyên nghiệp. Hôm nay, em viết ra những lời này để tưởng nhớ và tri ân tấm lòng của cô dù chỉ trong tâm tưởng. Vì năm 1976 có một đôi lần trở về trường Nữ công tác, em có hỏi thăm về cô, thì được biết cô đã chuyển nhiệm sở theo chồng. Hai: Chiếc áo dài đầu tiên của tôi. Vui mừng và vội vã là hai tính cách thường đi chung với nhau. Vài hôm sau khi hay tin tôi thi đậu vào THĐ, mẹ tôi mua hai xấp vải "ba tít phin" một xanh, một trắng cho tôi may áo dài mà quên đi hỏi thăm các chị hàng xóm đang học THĐ. Bà đi nhờ cô Ba Rãi - là một thợ may hàng xóm đo và cắt dùm chiếc áo dài đầu tiên. - "Đậu THĐ giỏi quá há. Bây giờ muốn may áo màu gì trước?". Cô Ba hỏi tôi. - "Dạ, con thích màu xanh ạ". Tôi trả lời. Thế là cô Ba đo và cắt dùm chiếc áo màu xanh và chị tôi dùng ni mẫu này cắt chiếc áo màu trắng. Không biết vì lý do kỹ thuật nào mà sau khi chị tôi may xong, chiếc áo màu trắng cài nút ngược về phía trái; còn chiếc áo xanh thì không được mặc vì nhà trường đã bãi bỏ việc

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 25

 

mặc áo xanh lâu rồi mà mẹ tôi không biết. Thế là tôi chỉ có mỗi một chiếc áo dài trắng cài nút ngược để mặc đi học. Vì vậy mỗi chiều thứ tư sau khi đi học về tôi phải giặt, treo lên cho nó ráo rồi sáng hôm sau - khoảng hơn 10 giờ sáng, tôi ké một tí than lửa của nồi cơm, ủi sơ một tí để đi học cho đến cuối tuần. Ba: Trại tất niên năm 1966. ... Năm ấy (1966), trường tổ chức cắm trại. Đây là trại tất niên đầu tiên trong đời học sinh nên tôi còn nhớ rõ là mỗi khối lớp là một tiểu trại. Riêng lớp đệ thất của tụi tôi lại chia làm 2 tiểu trại nam và nữ kế nhau và địa điểm là ở sau phía dãy lầu. Nhóm nữ của tụi tôi thì quá hiền như các bé gà con mới nở. Ai có anh chị hoặc chị kết nghĩa học trên lớp thì đáo qua, đáo lại các trại của đàn chị để xem sinh hoạt như kể chuyện cười, trò chơi, ca hát… và cũng để tránh những viên pháo của các bạn nam cùng khối ở trại kế bên liệng qua. Lúc đó, thầy Thuật và cô Thảo hướng dẫn trại tất niên khối đệ thất có cảnh cáo một số bạn nam đã chơi trò chơi ấy. (Xin mời các bạn nam khối đệ thất k.12 ra nhận tội). Sau đó là tiết mục phát "bánh chưng":

- Thầy Thuật: ''Nhà trường có cho mỗi tiểu trại một số bánh chưng 1, 2, 3, 4, 5.... nhưng không đủ cho mỗi em 1 cái, thầy đề nghị các em mở ra ăn chung với nhau".

- "Tụi em không ăn thầy à!".

- "Hay là bắt thăm". Thầy Thuật nói.

Một bạn nói: "Thầy quăng ra ai lượm được thì nhờ thầy ạ"

Thầy Thuật hỏi ý kiến học sinh và mọi người đều đồng ý. Thế là một màn giống như rằm tháng bảy diễn ra. Thầy quăng bánh ra (loại bánh chưng nhỏ cỡ bàn tay) và đám học trò nhỏ xô đẩy lẫn nhau giành bánh rất vui. Thầy Thuật ơi ! Sao thầy chìu học sinh quá dzậy?

Đến buổi chiều là chương trình văn nghệ và thể thao toàn trường ... Tôi vẫn nhớ rõ màn kịch do nhóm kịch của các chị Đỗ My, Mỹ Châu, Huê Mỹ và Lý Ngọc Loan của lớp đệ tam A1 (k.8) trình diễn. Mấy chị đã diễn vở hài kịch Lý Toét và Xã Xệ Ra Tỉnh, một người đòi ăn cơm Tàu, một người đòi ăn cơm Tây... Cho đến nay đã hơn 40 năm rồi, chị Mỹ Châu à, em vẫn không quên cặp mắt trợn dọc, trợn ngang vì ngạc nhiên của chị... Một thiên tài diễn kịch đó các anh chị... (xem hình ở trang 91).

Tháng 7/2012 nhân đoàn du ngoạn của CHS Trịnh Hoài Đức đến San Francisco, em có dịp gặp lại chị Huê Mỹ và chị Mỹ Châu. Trông chị Mỹ Châu lúc này phát tướng hơn xưa. Cả ba đều vui vẻ nhận ra nhau vì thuở ấy (lớp đệ thất) em thường đến lớp các chị chơi vào ngày mà các chị phải học thêm vào buổi chiều. Ngày ấy, em có nhân duyên gặp các chị đệ tam A1 nên có tấm hình chụp chung (do chị Huê Mỹ đăng trên mạng THĐ) với các chị - cô bé ngồi giữa chị Lý Ngọc Loan (là chị kết nghĩa) và chị Huê Mỹ chính là Ngọc Sương k. 12. Gần nửa thế kỷ rồi các chị hỉ, em hy vọng nhờ trang mạng THĐ có

Trại Tất Niên năm 1966

Hàng đứng: chị Xuân Diệu và một số chị khác thuộc K8 (không biết tên), thầy Lê Đức Cửu, thầy Nguyễn Trí Lục, cô Đàm Thị

Thanh Quí Hàng ngồi: chị Đỗ Thị My, Lê Thị Xuân Mai, Lý Ngọc Loan, Trần

Thị Ngọc Sương, Trương Thị Huê Mỹ

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 26

 

ngày em sẽ tìm và gặp lại chị Lý Ngọc Loan. Bốn: Một lần cuốc bộ từ trường về nhà. (Thân tặng bạn Nguyễn Thị Kim Oanh - một bạn đồng hành trong chuyến đi bộ này.) Một hôm không biết tại sao tôi và bạn Kim Oanh hứng chí rủ nhau đi bộ từ trường THĐ nữ về nhà với ý định để tiết kiệm tiền xe. Hai đứa tính với nhau thử mỗi ngày hai đứa mình đi bộ được (lượt về thôi, vì nếu lượt đi thì khi đến trường mình không còn sức để tiếp thu bài giảng của thầy cô) thì mỗi ngày mình tiết kiệm được một chuyến tiền xe là ...$, mỗi tuần được....$, ... Tính toán nghe qua cũng có lý. Thế là chúng tôi lên đường. Lúc mới ra đi còn nhiều nhiệt quyết, phấn khởi, hào hứng... vừa đi vừa nói chuyện... Tới trường Nam THĐ rồi kìa ... Nhanh quá ... Đi tiếp... Tới ngã ba An Sơn ... Gắng lên ... Tới Cầu Lớn... Tới Cầu Nhỏ, nhà thầy Võ Kim Lân ... Cả hai đều không có chuẩn bị nước uống. Tôi bắt đầu cảm thấy khát nước, mỏi chân nhưng đã “quyết chí ra đi” cùng Kim Oanh nên không dám hó hé... Mà có lẽ Kim Oanh cũng cảm thấy khát nước chăng... nên bớt trò chuyện. Tôi làm bộ hỏi: - "Ê! Oanh mày có khát nước không?" - "Một chút xíu...". Nhỏ Oanh trả lời. - "Mày có cảm thấy mỏi chân không?". Tôi hỏi nó. - "Có. Thôi mày đừng hỏi nữa... Cứ nhắm mắt mà đi thế nào rồi cũng tới". Oanh nói với tôi. Tới ngã tư Phú Văn, tôi mở miệng nói với Kim Oanh: - "Tao với mày đứng lại đón xe đò về". - "Mày tính lại đi. Lên xe ở Phú Văn cũng bằng giá tiền lên xe ở Búng. Lãng phí công tao với mày đi bộ từ nãy giờ... Thôi tiếp tục đi tiếp... Mày đừng có nhìn thẳng sẽ thấy đường dài thăm thẳm... Cứ cúi mặt nhìn đất mà đi". Oanh nói. Thế là tôi riu ríu đi theo nó nhưng thỉnh thoảng buông một vài câu: ..."Trời ơi! Mới tới Gò Đậu" ... "Tới Lò Chén"... "Tới Ty Cảnh Sát" ..."Tới rạp hát Bình Minh... rồi đó" ... "Tới nhà mày rồi đó Oanh" (nhà Oanh ở cạnh trường tiểu học Nam Châu Thành). Tôi vào nhà Oanh uống

miếng nước rồi đi tiếp liền về nhà ở Giếng Máy. Nếu tôi ngồi nghỉ mệt một chút, tôi không biết một chút này sẽ kéo dài bao lâu? Một chuyến đi bộ không bao giờ có lần thứ hai, phải không bạn Kim Oanh? Tại hồi đó tụi mình quá ngốc, không biết chuẩn bị đem theo nước uống. Năm: Đội bóng đá Nữ THĐ (Thân tặng các bạn 7P1 và 7A2 khóa 12 và xin mời những bạn đã từng tham gia trận bóng đá Nữ THĐ năm xưa bổ sung chi tiết hoặc sửa chữa những chi tiết nào không chính xác. Cám ơn! Ghi chú: kể từ năm học 1967 trở về sau, hệ thống giáo dục đổi tên gọi từ lớp 1 đến lớp 12 cho nên NS cũng cập nhật theo tên gọi mới). Trong giờ nhạc của lớp 7A2, một hôm thầy Bé Tám gợi ý về một số hoạt động ngoại khóa như hợp ca, múa, kịch, bóng bàn, vũ cầu.... Một bạn ngồi gần cuối lớp thuộc dãy ngay cửa bước vào nói : - "Đá banh thầy". Thầy Bé Tám: - ''Ờ ! ý kiến hay đó em. Chúng ta thành lập đội bóng đá nữ các em nhé !". Thầy đem ý kiến này bàn với học sinh lớp 7P1. Thế là đội bóng đá nữ đã được thành lập nhưng chỉ trong tư tưởng của học sinh 7P1 và 7A2 chứ chưa có danh sách học sinh ghi tên tham gia đội banh nữ nầy. Thầy hứa là sẽ hướng dẫn cho chúng tôi tập đá banh cũng như một vài luật lệ trong thi đấu... Thế nhưng kế hoạch chưa được tiến hành thì một hôm đột xuất có lệnh triệu tập tất cả học sinh trường nữ chiều hôm ấy phải qua trường nam... Hình như là dự lễ cầu siêu các võ sư Đại Hàn - người đã dạy Thái Cực Đạo cho nam sinh THĐ ... hay là ngày... ca sĩ Khánh Ly, nhạc sĩ Trịnh công Sơn.. đến trường... hay là Đại Hội Thể Thao Học Sinh... Sau chương trình chính của trường là phần sinh hoạt thể thao... Đội bóng chuyền, vũ cầu, bóng bàn... lần lượt thi đấu và thầy Bé Tám xuất hiện hỏi tụi tôi: - "Sao? Các em có muốn ra đá banh không?" - ''Tụi em không có chuẩn bị gì hết thầy ơi!''. Đám học sinh trả lời, bởi vì lúc đó tụi này

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 27

 

đang mặc đồng phục áo dài trắng, chân mang guốc, giày, dép... Nói chung là không có một sự trang bị tối thiểu về vật chất cũng như kỹ thuật đá banh, luật lệ...

-Thầy Bé Tám “Mặc áo dài mà đá bóng thì mới gọi là ‘bóng đá nữ’ chứ”.

Cuối cùng đám học trò đồng ý ra làm nữ cầu thủ đá banh. Tụi này liệng cặp táp, quăng nón lá qua một bên. "Đội tuyển" gồm có Ngọc Sương, Hòa Nam, Ngọc Điệp, Kim Chi (ái nữ của thầy giám học Phạm Ngọc Em), Kim Oanh, Kim, Ngọc, Bạch, Mười, và mấy bạn ở Lái Thiêu (xin lỗi NS quên tên các bạn rồi)... Nhiều lắm... Đây là đội 7A2. (Xin các bạn bổ sung thêm danh sách cầu thủ 7A2 và 7P1 ). Lúc đó nếu lấy cột cờ làm trung tâm thì sân banh là 1/4 của sân trường nằm sát bờ ruộng và tiếp giáp với bốn phòng học và dãy nhà vệ sinh của học sinh (chắc có lẽ các bạn hình dung ra được địa điểm này chứ !). Thầy Bé Tám ra sân tuyên bố đội bóng đá nữ 7P1 sẽ đấu với 7A2. Thầy vừa là hướng dẫn viên vừa là trọng tài của trận đấu này. Thầy hướng dẫn dàn đội hình, giải thích sơ lược về luật lệ... Nhiều quá, trong một thời gian ngắn làm sao tụi em hiểu hết được. Tụi em chỉ nhớ có một điều duy nhất là nếu đội nào đá trái banh lọt vào vùng cấm địa mà gôn của đối phương không chụp được thì đội đó thắng, và trong khoảnh khắc đội A2 chọn bạn Ngọc Điệp làm cầu thủ ‘Gôn’ đầu tiên. Bên ngoài vòng đai rất là đông đúc các bạn nam, nữ học sinh và ngay cả một số thầy cô, quan khách... đã ủng hộ tinh thần thể thao của tụi em.. Sau hồi còi tu huýt, hai đội ra "chân”. Thay vì các nữ cầu thủ phải biết đá nhẹ, chuyền banh trong đội rồi thừa cơ đá vào vùng cấm địa của đối phương; trái lại mọi người đều chạy theo và nhắm vào trái banh mà đá không cần biết phạm luật... Tôi nghe loáng thoáng bên tai các bạn ngoài vòng đai nói: ''Thầy, việt vị... me...''. Các nữ cầu thủ tiếp tục chạy theo banh, xô đẩy lẫn nhau, đá loạn xà ngầu... Nhiều lần, thầy Bé Tám thổi tu huýt để ''stop'' đội đá banh, phân bố lại đội hình và giải thích thêm luật lệ… Còn các nữ cầu thủ thì cột hai vạt áo dài qua một bên, nhanh chóng thay đổi ‘gôn’ và tiếp tục đá tự do, bất chấp hướng dẫn viên cũng như trọng tài và mặc cho thầy Bé

Tám nhăn nhó… Lúc đó bạn Mười đang giữ chân ‘gôn’ cảm thấy ngứa chân nên nói nhỏ với Hòa Nam

-“Ê! Hòa Nam, mày nhanh nhẹn nên thay tao mà giữ ‘gôn’ đi, cho tao ra chân một chút”. Hòa Nam đồng ý và hai bạn tự hoán chuyển vị trí (bóng đá ‘tự do’ mà!).

Hai đội tiếp tục gườm banh… Nhanh như gió thổi đội 7P1 do bạn Trương Thị Bạch Mai (ái nữ của thầy đốc Trương Văn Di ) đá lọt vào lưới của đội 7A2 mà ‘gôn’ Hòa Nam không trở tay kịp. Một tràng vỗ tay như pháo nổ, tiếng huýt sáo của các bạn khán giả nam và thầy Bé Tám cười toe toét tuyên bố kết quả: 7P1 thắng 7A2 :1-0

Giải thưởng là một số các nữ cầu thủ phải cột hai vạt áo dài với nhau, đi chân đất, tay cầm guốc, tay xách dép, giày ... về nhà. Ôi ! vui quá xá là vui phải không các bạn nữ cầu thủ? Một bạn nói: - ''Mình đặt tên đội banh này là đội ''Bất Hiếu'' nhé! - ''Tại sao?''. Bạn khác hỏi lại. - ''Ủa! mày không biết ''đá banh'' là gì hả? Là ''đánh ba'' đó, là ngày mai tụi mình phải xin tiền mua giày, dép mới đó. Ngọc Sương nói: - ''Như vậy là tao không thuộc diện này tại vì ba tao mất sớm''. Bạn khác nói: - ''Xí ! mày thuộc loại ''đá mánh''. Tao thấy mày lừa banh mánh thấy mồ. Thử coi ngày mai mày có xin tiền má mày đóng đôi guốc dông mới không?''. Kết luận: Tường thuật trận bóng đá nữ năm xưa để ôn lại những kỷ niệm của một thuở học trò sôi nổi, hăng say thi đấu với tinh thần thể thao và quậy cũng nhiều… Dĩ nhiên bài viết còn nhiều thiếu sót, NS mong đón nhận những ý kiến bổ sung của các bạn và nhân dịp này NS xin đại diện các nữ cầu thủ năm xưa kính chúc thầy Bé Tám - “ linh hồn của đội bóng nữ” một năm mới được nhiều sức khỏe và vui vẻ. San-Francisco, ngày 30 tháng 12 năm 2012. Ngọc Sương k12 CHS THĐ

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 28

 

Vĩnh Xuyên (Viết theo lời học trò Nguyễn Hoàng Thanh)

Cám ơn quê hương tôi - Việt Nam, với hai mùa mưa nắng, với những nguời dân cần cù chịu khó. Quê hương tôi - nơi đã đón nhận tôi từ lúc sinh ra, để lại trong tim tôi biết bao nhiêu là kỷ niệm cả một thời thơ ấu. Quê hương tôi, là nỗi nhớ, niềm thương... Cám ơn Mẹ, đã sinh ra con và nuôi dưỡng con cho đến ngày truởng thành. Cám on Mẹ, về những tháng ngày nhọc nhằn đã làm lưng Mẹ còng xuống, vai Mẹ oằn đi, về những nỗi buồn lo mà Mẹ đã từng âm thầm chịu đựng trong đời của mẹ. Cám ơn Ba, đã nuôi nấng, dạy dỗ con nên nguời. Cám ơn Ba, về những năm tháng cực nhọc, những chuỗi ngày dài đằng đẵng chạy lo cho con từng miếng cơm manh áo, về những giọt mồ hôi nhễ nhại trên lưng áo Ba, để kiếm từng đồng tiền nuôi con ăn học.... Cám ơn các Thầy Cô ở ngôi trường xưa ấy, đã dạy dỗ con nên nguời, đã truyền cho con biết bao kiến thức để con trở thành một nguời hữu dụng cho đất nuớc, cho xã hội... Cám ơn các chị, các em tôi, đã sẻ chia với tôi những tháng ngày cơ cực nhất, đã chia vui, động viên những lúc tôi thành công, đã nâng đỡ, vực tôi dậy những khi tôi vấp ngã, thất bại trên đường đời ... Cám ơn tất cả bạn bè, bạn học tôi, đã tặng cho tôi biết bao nhiêu kỷ niệm - buồn vui những món quà vô giá mà không biết làm sao tôi có thể mua đuợc.

Nếu không có các bạn, thì có lẽ cả một thời niên thiếu, quần xanh, áo trắng của tuổi học trò, tôi không có chút gì để mà lưu luyến ...

Cám ơn các ông chủ, bà chủ của tôi, đã cho tôi biết giá trị của đồng tiền, để tôi hiểu mình không nên phung phí, vì đồng tiền lương thiện bao giờ cũng phải đánh đổi bằng công lao khó nhọc...

Cám ơn những người tình, cả những nguời từng bỏ tôi ra đi, đã giúp tôi biết được thế nào là Tình yêu, là Hạnh phúc, và cả thế nào là đau khổ, chia ly.

Cám ơn những dòng thơ, dòng nhạc, đã giúp tôi tìm vui trong những phút giây thơ thẩn nhất, để quên đi chút sầu muộn âu lo, để thấy cuộc đời này vẫn còn có chút gì đó để nhớ, để thương... Cám ơn những thăng trầm của cuộc sống, đã cho tôi nếm đủ mọi mùi vị ngọt bùi, cay đắng của cuộc đời, để nhận ra cuộc sống này là

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 29

 

vô thuờng... để từ đó bớt dần "cái tôi" - cái tự cao, tự đại, hiểu biết thế nào là khiêm tốn...

Xin cám ơn tất cả... những ai đã đến trong cuộc đời tôi, và cả những ai tôi chưa từng quen biết. Bởi vì:

"Trăm năm trước thì ta chưa gặp, Trăm năm sau biết gặp lại không? Cuộc đời sắc sắc không không, Thôi thì hãy sống hết lòng với nhau..." (Không rõ tác giả)

Và cứ thế mỗi năm, khi Tết đến, xuân về, tôi lại đi mua những tấm thiệp, hay một chút quà để tặng Mẹ, tặng Cha, tặng Chị, tặng những nguời thân yêu, những nguời bạn thân thương đã từng giúp đỡ tôi. Cuộc sống này, đôi lúc chúng ta cũng cần nên biểu lộ tình thuong yêu của mình, bằng một hành động gì đó cụ thể, dù chỉ là một lời nói "Con thương Mẹ","Con thương Cha" hay một tấm thiệp, một cành hồng. Tình thương, là phải được cho đi, và phải đuợc đón nhận, bởi lỡ mai sau này, những nguời thương của chúng ta không còn nữa, thì còn ý nghĩa gì không?

Và cuối cùng Xin cho tôi nói lời: Cám ơn lắm, Cám ơn cuộc đời này...

Tết Quý Tỵ 2013 (26/12/2012)

Thơ Vĩnh Xuyên Mừng xuân Quý Tỵ Đặc san Quý tỵ mừng xuân sang Khai bút đầu năm kính mấy hàng Kính chúc Thầy Cô cùng bạn hữu Trang nhà trường Trịnh mãi ngân vang Trái tim đời Vào nghề từ thuở tuổi đôi mươi Nghĩ lại giờ đây miệng mỉm cười Sự nghiệp trồng người tâm vẫn nguyện Lương tâm chức nghiệp ý không lơi Dựng xây thế hệ công khai sáng Cống hiến hoa đời hương ngát tươi Dẫu lắm gian lao nhiều khó nhọc Trong tôi vẫn nặng trái tim đời Ơn nghĩa thầy cô Cần mẫn đưa đò ở bến sông Thầy Cô ơn nghĩa tạc ghi lòng Nắn tay rèn chữ thêm tròn trịa Uốn lưỡi luyện lời được sáng trong Truyền đạt văn chương nhiều kết quả Vun bồi kiến thức lắm thành công Học trò cho dẫu cao danh phận Trân trọng kính dâng một đóa hồng Nhớ trường cũ Về tỉnh Bình Dương khoảng dặm trường Trịnh Hoài Đức cũ đầy yêu thương Thầy Cô ngày ấy đà xa vắng Lời dạy bây giờ vẫn vấn vương Trí huệ luyện rèn so tựa biển Nghĩa ân khai sáng sánh như gương Vun bồi thế hệ bao danh phận Đọng mãi trong tâm vạn nẻo đường  Vĩnh Xuyên

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 30

 

Nguyễn thị Cẩm A3- Khoá 14

Tết với lũ trẻ quê tôi bắt đầu từ rất sớm, từ

dạo má dặn bác Hai ở xóm trên để dành cho má mấy ký gừng, nhắn bà Chín xóm bưng lựa dùm mấy trái bí đao già… Má dặn cả nhà đừng ai hái dừa, để dành quày dừa vừa cứng cạy cho má làm mứt Tết. Lũ nhỏ thì cứ ngóng mỗi buổi má đi chợ về, thế nào trong đôi quang gánh kia cũng có, khi thì đôi dép cho đứa lớn, bộ quần áo cho đứa nhỏ bởi má không đủ tiền sắm Tết gộp một lần. Đứa nào cũng nôn nao đếm từng tờ lịch, và than thở sao mà lâu Tết vậy?!

Càng gần Tết không khí càng rộn ràng, hối hả. Nào mứt, nào kiệu, nếp… Má chuẩn bị với tất cả tấm lòng thành kính thiêng liêng dành cho ngày Tết. Mang nia củ kiệu đi phơi, má dặn phải đi vòng, đừng làm biếng đi tắt chui dưới sào phơi đồ, mang tội. Lá gói bánh không được để dưới bộ ván ngồi, mang tội. Chị tôi xăm gừng lâu nhăn nhó than mỏi tay má cũng rầy: “Làm để cúng ông bà, không được cằn nhằn”, mang tội! Lũ nhỏ chúng tôi không có việc gì cứ chạy ra, chạy vô lăng xăng chỉ thêm vướng chân người lớn.

Nôn nao là vậy nhưng chẳng khi nào tôi thức nổi đợi đến giao thừa. Khi tôi thức dậy thì trời đã sáng trưng. Xâu bánh tét dài treo nơi góc bếp vẫn còn chưa ráo nước. Ăn vội khoanh bánh tét hãy còn vương chút tàn nhang, chúng tôi thay quần áo mới rồi ra ngõ ngóng chờ gia đình chú Ba tôi về chúc Tết, bởi tiền lì xì của chú bao giờ cũng rất nhiều so với các cô chú khác. Năm nào cũng vậy, cứ sáng mùng một là chú thím bao nguyên cỗ xe ngựa đến thăm viếng và chúc Tết nhà tôi. Nhà chú ở ngoài chợ Búng cách nhà tôi gần ba cây số. Nhà chú là dân chợ nên có bề ngoài tươm tất lắm. Tôi nhìn con Điệp trạc tuổi tôi lộng lẫy với chiếc áo đầm màu hồng, đôi giày săng đan trắng tinh mà thèm

thuồng, ao ước. Thường thường gia đình chú ở lại chờ cúng ông bà, ăn cơm, chuyện vãn đến quá trưa. Xế chiều, sẵn xe chú thường cho tôi và đứa em trai kế đi theo ra Búng để chơi Tết. Nhà lồng chợ Búng thường ngày bán thịt cá rau dưa, mấy ngày Tết thành nơi đánh bài, lô tô, bầu cua cá cọp… Vui là vậy nhưng cứ đến chạng vạng tối là tôi lại chui vào góc nhà khóc thầm vì nhớ nhà, nhớ má.

Làm dâu trong gia đình gốc Bắc với món Tết như bánh chưng, giò chả, thịt đông, nhưng tôi vẫn nhớ biết bao nồi khổ qua hầm, trã thịt kho tàu mềm rục. Nhớ món bánh tráng cuốn thịt ram dưa giá giòn tan, chén nước mắm thơm lừng mùi giấm chua củ kiệu. Đường Sài Gòn –Bình Dương chỉ ba mươi cây số nào có đâu xa, vậy mà tôi chỉ được về khi những ngày Tết đã qua đi. Ngày mùng một, sau khi nấu nướng tươm tất bữa ăn cho đại gia đình, tôi mới về phòng riêng gọi điện thoại về nhà. Tiếng anh hai ấm áp: “Cả nhà về đủ hết, chỉ thiếu gia đình em thôi”. Tiếng nhỏ em hờn dỗi: “Người ta ở nước ngoài còn được về quê ăn Tết, còn bà…!”. Tiếng đám cháu ồn ào: “Tại cô Mười sợ tốn tiền lì xì đó mà!!!”.

Cả nhà ơi, mùng bốn Tết, Mười sẽ về nhà. Với Mười, mùa Tết hãy còn dài. Tết muộn, nhưng khi được trở về với mái nhà thân yêu thuở nhỏ, thực sự lúc đó mùa Tết mới bắt đầu!

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 31

 

Hồ Thị Kim Ngân

KN rất thích mai vàng của miền nam VN. Mùa gần Tết. Đi đâu đó, bất chợt thấy một

bông mai nở sớm, là KN phải nhìn - nhìn, chớ không ngắm - rồi mới đi tiếp.

Nếu bắt gặp một chùm, hoặc một cành nhánh, hoặc cả một cây mai nở tòe loe thì cũng phải dừng lại nhìn. Lòng thầm xót cho hoa nở không đúng thì - như một cô bé vừa bước đến tuổi mười ba đã bị “từ giã thơ ngây, em đi lấy chồng” (Từ Giã Thơ Ngây – Nguyễn Hiền). Ai cũng nhìn qua, không ngắm lâu. Và luôn hững hờ, tiếc rẻ. Sao lại trái mùa, nghịch thời. Đánh mất cả một mùa xuân.

May mắn biết bao khi vào đúng mùa, thời tiết thuận lợi. Mọi người canh đúng ngày rằm tháng chạp để tất bật, xúm xít lặt trụi các lá mai. Mệt. Mỏi. Nhưng háo hức đợi chờ.

Mỗi ngày dần qua. Hăm mấy, rồi hăm mấy. Thầm

mong cho từng mầm nụ từ từ nhú khỏi lớp vỏ mỏng trên thân cành. - như cô gái nhỏ vừa độ tuổi tròn trăng của bậc trung học. Tóc cô vừa thêm dài, vừa thêm mượt. Làn da như mịn hơn, hồng hơn. Môi đã ướt, mắt đã tròn. Xinh xắn, thơ ngây. Như những bông mai vàng đang dần tròn nụ. (Các bạn hãy ngắm lại hình chụp các nữ sinh Khóa 9 trong phần hình ảnh “Những Kỷ Niệm Xưa” – trang 89, do chị Nguyễn Kim Nên giữ được. KN đang tỏ ý ngưỡng mộ các chị đó mà.)

Người ta chăm chút, ngóng trông. Rồi loay hoay suy tính để tìm cho mai một vị trí đẹp nhứt, trang trọng nhứt trong ba ngày Tết. Nhánh mai cứng cáp, vươn cao trên bàn thờ tổ tiên. Nhánh mai duyên dáng trên bàn tiếp khách. Chậu mai liền kề vững chãi bên bộ sa lông. Hay chậu mai đặt trên thềm nhà, trước cửa lớn để đón Xuân.

Tất cả mọi người miền Nam đều dành cho mai vàng một tình cảm thân thương nhứt. Tất cả đều mong một mùa Xuân tươi sẽ đến.

Giờ phút giao thừa đã điểm. Sự hồi hộp càng tăng.

Sáng mùng một Tết, các nụ hoa giờ đã xòe cánh, bung nở trong gió xuân, trong nắng ấm. Đất trời phương Nam bỗng sáng trưng, rực rỡ. Những bông mai vàng dần nở rộ mang đến một mùa xuân tươi sáng, đầm ấm và hạnh phúc cho mọi nhà.

Thật hãnh diện vô ngần khi ta là chủ nhân của một ngôi nhà có một cây mai cổ thụ vàng rực, hiên ngang đứng giữa khoảng sân rộng. Hay ta có một hàng mai lâu năm nở vàng, sáng rực cả dãy hàng rào trước nhà. Hoặc dàn chào

hai bên lối đi, vàng tươi, đón chào khách quý. Còn ngợp trời hạnh phúc là khi ta có cả một vườn mai khoe sắc bên hông nhà, vàng hực như một rừng mai.

Sẽ không rời mắt ngắm nhìn. Rồi chọn lúc nắng tươi trong buổi sáng đầu năm, ta gọi các thiếu nữ diện bộ áo đẹp nhứt, đứng bên hoa. Ta chụp vài pô ảnh. Để biết hoa và em đều đẹp “chi nhường cho ai”.

Đôi lúc mơ màng, KN như thấy một hình ảnh “ Cứ mỗi lần hoa mai

vàng trước ngõ, là thôi em mong nhớ xuân này…” (Đan Áo Mùa Xuân – Phạm Thế Mỹ).

Cô thiếu nữ của ngày nào. Giờ đây. Đơn độc. Như cây mai vàng đứng đầu ngõ dẫn vào căn nhà nhỏ đơn sơ, nơi đường quê xa ngái.

Cô lặng lẽ mong chờ, người thân yêu nhứt rồi sẽ trở về.

Ngày nào đó. Để thắm lại một mùa xuân. 01-01-2013

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 32

 

Sông Chợ Lái Thiêu hồi đầu thế kỷ 20 (Ảnh www.sugia.vn) 

Lưu Thanh Bình

1. Người ta thường nói: “kẻ đi xa hay nhớ về

quê cũ, người già hay sống với những hồi ức”. Như tôi đây, tuổi tác thì chưa thể gọi là già vì mới có 58 cái xuân xanh; lại cũng chưa hề xa xứ lâu, cuộc sống từ nhỏ đến lớn chưa ra khỏi lưu vực sông Sài Gòn, từ học hành đến làm việc hay vui chơi giải trí đều quanh quẩn hai bờ tả hữu. Nên viết về quê hương Lái Thiêu cũng giống như người mù sờ voi, nhưng trộm nghĩ đời người là hữu hạn, những gì ta thấy, cảm nhận hôm nay thì ngày mai đã trở thành ký ức, huống chi Lái Thiêu của ngày hôm nay đã khác Lái Thiêu xưa khá nhiều; nếu không ghi chép lại thì những ký ức ấy sẽ bị bụi thời gian phủ mờ nhanh chóng, vài mươi năm sau có còn ai biết đến, ấy là một thiệt thòi đáng tiếc cho lớp hậu sinh , hay là một lỗi lầm đáng trách của người biết đọc biết viết đối với quê hương đất nước chăng? Nên mạn phép ghi chép ra đây những gì còn nhớ được về Lái Thiêu của tôi thời thơ ấu; trước để ôn cố tri tân, sau gọi là “mua vui cũng được một vài trống canh”. Đầu năm đầu tháng, nói chuyện vui lấy hên, nên nếu kể chuyện xưa lan man không đầu không đuôi hay có hơi cường điệu mong các bạn bỏ quá cho, xin cám ơn trước. Thật hân hạnh nếu được quý đồng hương xa gần đóng góp, nối dài thêm những kỷ niệm hoài hương như chút tình uống nước nhớ nguồn.

Đầu tiên, xin nói về con sông chợ, con sông có hình

dạng cong cong chạy từ đầu vàm vô tuốt trong Phú Hội rồi trổ ra cầu Vĩnh Bình, con sông gắn liền với bao kỷ niệm thời thơ ấu của nhiều thế hệ người Lái Thiêu. Thật tức cười khi những mái đầu bạc ngồi uống cà phê kho trong tiệm nước Hưởng Ký, Vạn Lâm nhắc lại chuyện xưa, thuở ở truồng leo lên lan can cầu Đúc quơ tay múa chưn rồi nhảy tùm xuống sông, càng văng lên nhiều nước càng tốt. Khi chán tắm lên bờ tìm quần áo, dép guốc thì … không còn. Con sông này một thời nổi tiếng lắm tôm nhiều cá, nhiều ghe chài thả lưới ngay khúc sông chợ rồi lên bờ cân cá tươi rói cho bạn hàng tại chỗ khỏi đi đâu xa. Thuở nhỏ, cái nhà sàn chợ cá bằng xi măng đúc là nơi tôi thường xuyên thả cần câu khi con nước chớm lớn. Ví thử nếu tôi nói là hồi xưa, con cá lòng tong ở bến tắm ngựa hoặc chợ cá Lái Thiêu dài cả gang tay thì nhiều người sẽ cho là tôi nói xạo, hay cống chợ có trăn, rái cá…thì lại càng không tin. Cây dầu cổ

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 33

 

Bến sông chợ, nơi ghe thuyền Lục Tỉnh chở gạo thóc cá mắm lên

và chở lu hũ khạp về xuôi. Xa xa là chùa Bà Thiên Hậu của người Hoa.

(Ảnh sưu tầm của Hoàng Anh)

thụ cạnh nhà làng Tân Thới có thể minh oan cho tôi thì nay cũng không còn.

Trước kia, khi chọn đất lập chợ, người xưa thường chọn vùng bến bãi ven sông cho thuận tiện vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy, như Lái Thiêu là hàng gốm sứ, lu hủ khạp xuất về Lục Tỉnh và gạo thóc, cá mắm chở ngược lên. Đến lúc cần phát triển thì con sông vô tình lại trở thành vật cản trở khiến thị trấn khó mở rộng. Nếu nói về quy mô thì chợ Lái Thiêu bây giờ không lớn hơn các chợ vệ tinh như Bình Hòa, Thuận Giao, Bình Chuẩn hay An Phú là những chợ tân lập sau này rất nhộn nhịp sung túc, do lượng công nhân từ các nơi đổ dồn về tạo ra nhu cầu, nhiều ngành nghề ăn theo (nhà trọ, hàng quán), dân địa phương cũng hưởng lợi là giá đất tăng cao. Thời trước đất gò miệt An Phú, Thuận Giao chỉ sống được nhờ sáu tháng mùa mưa, đến kỳ nắng hạn cuốc đất tưng tay, giếng sâu thả không nhìn thấy gàu, khoai mì muốn nhổ phải tưới đẩm nước; bò gầy ốm giơ xương đếm đủ mấy cọng xương sườn, phải lùa ra Bình Nhâm, An Sơn gặm cỏ. Lần hồi kinh tế phát triển, mạng lưới giao thông mở rộng khiến ngã tư An Phú giờ trở thành khu đất vàng, nhà xưởng phố xá liền kề kéo dài hàng chục cây số. Khi trước, đất Bình Nhâm là đất thuộc loại thượng đẳng điền, một thước đất Bình Nhâm đổi ba thước đất An Phú, giờ ngược lại. Cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ trước, thị trấn Lái Thiêu với vài ngàn dân hãy còn là một chợ quận êm đềm như những ngôi phố chợ khác ở miền Nam: nhỏ nhắn, sạch sẽ, ngăn nắp. Hàng hóa được chia ra từng khu vực: ở giữa là nhà lồng dành cho bán vải vóc, giày dép, tạp hóa, phía cuối là dãy sạp bán thịt với những móc sắt và mấy tấm thớt bự lõm sâu ở giữa, hai bên hông là hai dãy phố bán đủ thứ mặt hàng, đa số do người Hoa làm chủ, còn dọc dài theo con đường Châu Văn Tiếp ven sông là

khu bán cá, rau cải, hàng bông. Mặt tiền chợ Lái Thiêu hướng lên phía bắc, đối diện với nhà làng Tân Thới, ở giữa là quảng trường rộng lớn một phần làm bến xe ngựa xe lam; về sau có thêm mấy kiến trúc như nhà đèn, phòng thông tin, chợ thiếc Tân Tây Lan, nhà thương Đại Hàn - do bác sĩ quân y Hàn Quốc khám bịnh phát thuốc miễn phí cho dân chúng mà ế ẩm quá phải phát kem, kẹo cho con nít bu lại; nhiều nhứt là nhổ răng, xức cồn , thuốc tím trị ghẻ chốc lở đầu và chân tay. Đầu chợ có cái giếng nước công cộng, nước trong vắt không hề bị nhiễm phèn, nhiều người sống nhờ cái giếng này : nghề gánh nước mướn; trong khi bên kia sông chỉ cách vài chục thước, dù giếng đóng sâu bốn năm chục thước vẫn bị hôi phèn. Một phần có lẽ do cấu tạo địa lý của vùng đất nơi

đây: bên kia sông chợ là vùng đất thấp sình lầy, phù sa bồi tụ của sông Sài Gòn qua hàng bao thế kỷ; còn từ bờ hữu cao dần lên phía bắc là những gò đồi thoai thoải về hướng truông Nhà Đỏ. Đất ở đây là đất đỏ nham thạch chứ không phải đất phù sa cổ cát pha sét như thường thấy ở Đông Nam Bộ. Biết đâu triệu năm trước, biển tiếp giáp đất liền nơi đây chăng ? Chợ Lái Thiêu còn một khu vực buôn bán nữa gọi là Chợ Mới, cách chợ cũ vài dãy phố về hướng đông. Chợ Mới là chợ kiến thiết lại sau khi bị Việt Minh đốt (chính sách vườn không

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 34

 

nhà trống, chống Pháp tái chiếm năm 1945) không có nhà lồng nhưng có những dãy kiosque khang trang hướng ra bốn phía. Chợ này chuyên bán trái cây và đồ ăn đồ uống, có những món ngon nổi tiếng như bánh ướt & bánh tôm khô, cháo lòng & giò chá quảy, bánh canh giò heo, bì bún, bún chả giò, miến vịt, bánh canh ngọt, chí mà phù (chè mè đen), nhứt là tiệm phở Bắc lâu đời mà Hoàng Anh cho là một trong những tiệm xưa nhứt Lái Thiêu, nay không biết chủ nhân dời về đâu. Thuở nhỏ tôi có nhiều kỷ niệm không vui với cái chợ này: má dặn mua tương hột thì tôi mua tương ngọt, dặn mua tương ngọt thì tôi mua tương … hột. Nếu ai có hỏi đi làm ăn xa quê, nhớ Lái Thiêu nhứt là về cái gì thì tôi sẵn sàng trả lời ngay: tôi nhớ tô mì chỉ ba vắt của Chị Ui (Xem bài “Người Hoa ở Lái Thiêu” của Lưu Thanh Bình trên trang nhà THĐ) và nhớ ly đậu đỏ bánh lọt của chú Chín đầu chợ. Sau này nhớ thêm ly chè bà ba nổi tiếng. Quán chè bài trí đơn sơ chỉ là những chiếc bàn thấp lè tè và mớ ghế đẩu ngắn ngủn nhưng không bao giờ vắng, khách ăn đa số là những tà áo dài trắng đeo phù hiệu Phan Văn Hùm, Trịnh Hoài Đức, ngồi e ấp với chiếc cặp xếp gọn trong lòng và chiếc nón lá bên cạnh, thỉnh thoảng có thêm mấy vạt áo nâu Nông Lâm Súc duyên dáng. Lái Thiêu còn hai món ăn độc đáo nữa là bánh đúc chiên hột vịt và đậu phọng rang muối có vị mẳn mẳn và thơm mùi tỏi khét (bớp bớp xôi ?) của ông Tàu già với cái thùng thiếc đeo trước ngực, không có chỗ bán cố định mà đi bán dạo, khi có khách mua thì ông múc từng chung nhỏ cho vào gói giấy xếp hình cái phễu. Ngon đến nỗi muốn nhai luôn giấy. Ông chết rồi là tuyệt nghệ, không có truyền nhân. Lái Thiêu có nhiều món ngon, một phần nhờ đa số cư dân người Tàu sinh sống ở chợ. Một nhận xét chung là dân Lái Thiêu kén ăn, nếu nấu dở đừng hòng bán được ở xứ này. Có lẽ đây là ưu điểm mà cũng là nhược điểm của dân Lái Thiêu nói riêng, dân Nam Bộ nói chung. Chuyện xưa, trong một lần đàm đạo cùng vua Minh Mạng, Tổng Trấn Gia Định Thành là Nguyễn Văn Nhân có chê dân xứ ấy (Gia Định) “ngày thường không biết tích trữ” (Đại Nam Liệt Truyện). Món ngon truyền thống ở Lái Thiêu ngoài nem Ngã Năm nổi tiếng còn có kẹo hột điều, lò kẹo ở gần trường

cô Tám Diệp - cô giáo lớp đồng ấu của chị em tôi và nhiều bạn đồng trang lứa, trong số có Huỳnh Hữu Thế, CHS khóa 13 - và bánh tráng Đông Nhì. Hàng năm gần Tết, má tôi lo đặt trước ba món này để kịp đóng gói gởi về làm quà Tết cho bà con thân tộc ở Sài Gòn. 2. Mùa mưa chấm dứt khi buổi sáng có gió hanh se lạnh thổi về, lá khô rơi xào xạc trước sân, bầu trời xanh cao hơn và ngày ngắn dần đi. Trung Thu đã qua và mùa Noel sắp đến. Cũng là lúc trẻ con được may sắm thêm quần áo mới, vì chúng hay ăn chóng lớn, hay nói theo giọng Lái Thiêu là “ nhổ giò” mau quá. Tuổi trẻ vô tư, chỉ mong cho Tết mau tới, có tấm áo mới mặc đem khoe chúng bạn, nào biết đến nổi cực khổ lo toan mưu sinh của các đấng sinh thành, đôi khi còn giận hờn áo xấu áo tốt. Giờ lớn lên mới biết áo mới, dù vải ba tít hay vải ú in bông nhúng nước lấm lem, nhưng là tấm lòng cha mẹ thương con, áo ấy đọng lại biết bao mồ hôi nước mắt trong lò lu, lò khạp miệt Đông Tư, Đông Nhì hay gánh hàng bông Sở Cải, Bạch Đằng. Ngày Tết, hãnh diện nhìn con xúng xính trong bộ đồ mới, gọi lại vuốt phẳng phiu vạt áo, dúi cho đồng bạc cắc 50 xu trước khi cho theo chúng bạn ra rạp hát, ra đình hoặc theo đoàn lân; tấm lòng người làm cha làm mẹ lấy làm mãn nguyện lắm rồi.

Chợ Tết nhóm chánh vào các ngày 28 hoặc 29 âm lịch, đó là chợ tết của nhà giàu. Thịt cá, rau trái tươi ngon đầy ắp. Còn chợ 30 là chợ của nhà nghèo, công nhân lao động và dân nhập cư xa quê. Giá giảm nhiều, có khi chỉ còn phân nửa hay một phần ba giá hôm trước, người ta xả hàng bán xổ bán lỗ để thu vốn về. Thê thảm nhứt là chợ hoa. Mới buổi sáng Lan, Huệ, Hồng, Cúc còn đua nhau khoe sắc khoe hương, vài tiếng sau nằm lăn lóc hoặc vùi trong đống rác thải đủ loại. Chợ Lái Thiêu xưa, ngày cuối năm chỉ bán một buổi. Trưa 30, tiếng trống cù và tiếng pháo nổ ì đùng làm bọn con nít nôn nao muốn bỏ cơm; nhiều nhà đã sắp sẵn mâm cỗ, hương thơm nhang khói lan tỏa ra ngoài đường càng khiến khách bộ hành thêm rảo bước, người buôn bán cũng thu dọn sạp hàng về

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 35

 

cúng lễ rước ông bà về ăn Tết với con cháu. Tục lệ này cùng với lễ giỗ kỵ và tảo mộ ngày 25 tháng chạp là ba lễ chánh của đạo thờ cúng ông bà của đa số người Việt. Cuộc tranh cãi của giám mục Bá Đa Lộc với chúa Nguyễn Ánh về ý nghĩa của mâm cỗ ngày cuối năm cho ta thấy bề dày truyền thống của tục lệ này : “ … ngày Cảnh không lạy ông bà, Nguyễn Ánh đã tìm gặp Pigneau để phàn nàn sao Thiên Chúa giáo dạy tín đồ quên ông bà… Pigneau cãi rằng vì lối thờ cúng đó ngược với sự thực nên không được đạo ông công nhận là lẽ đương nhiên… Pigneau gọi lễ rước ông bà cuối năm là dị đoan … Nguyễn Ánh cho rằng không thể bỏ được vì sợ gây loạn. Ông nói: “Tôi đã cấm phù thủy, thiên văn; tôi đã coi đạo Thần tượng (đạo Phật- LTB) là xấu và sai, nhưng tôi phải giữ đạo thờ ông bà như tôi đã trình bày, vì theo tôi đó là một trong những căn bản giáo dục của xứ tôi”. (Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử nội chiến ở Việt Nam 1771-1802,NXB Tri Thức 2012, Tr. 268, 269). Chiều 30, sau khi xe rác hốt dọn xong có xe tẹc kéo vòi phun nước rửa sạch lòng đường, chợ Lái Thiêu vắng như cái … chợ chiều. Rước ông bà xong rồi, mọi nhà lo chuẩn bị hoa trái cúng giao thừa, thời khắc đất trời giao hội. Đa số mâm quả người miền Nam đều là mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài. Cầu vừa đủ xài ! Có nơi thêm sung và thơm. Kỵ chuối vì sợ sang năm chúi nhủi. Còn hoa thì hầu hết là những đóa vạn thọ vàng rực và những nhánh phát tài xanh biếc. Quả thật giây phút giao thừa thiêng liêng ấy mà không có tiếng pháo nổ nghe sao … vô duyên quá, dù tôi thuộc phe ủng hộ cấm đốt pháo. Thực ra bản thân viên pháo không có tội, tai nạn là do ý thức con người gây ra mà thôi. Mong một ngày dân trí cao, nâng ý thức lên cao theo và tiếng pháo lại trở về với ngày vui dân tộc. Nghe nói ngày trước có tập tục không đòi nợ ngày 30 để con nợ trở về nhà cúng ông bà, tôi nghĩ đó là một mỹ tục, nhưng bây giờ tục lệ này không còn nữa, mùng 1 cũng đòi sút quần không tha. Ngày xưa Lái Thiêu ít có tụ điểm vui chơi như bây giờ. Sân rạp hát thường là nơi tụ tập của bọn trẻ. Ở đó có bán mía ghim, đậu phọng, nước đá bào xi rô, me cóc ổi ngâm đường và

mấy chiếc xe đẩy bán bánh kẹo ... Ngày Tết có thêm mấy sòng Bầu Cua Cá Cọp (nhưng không có cọp, mà có nai ?). Rạp Tân Lạc bên chợ Mới chuyên chiếu phim Ấn Độ, anh hùng cưỡi ngựa rượt đuổi kẻ cướp cứu mỹ nhân hoặc phim cao bồi Zoro đeo mặt nạ đánh kiếm chẻng chẻng trên nóc xe lửa. Rạp Phương Lạc bên chợ Cũ lớn hơn, ngoài chiếu phim còn có hát cải lương, cũng là nơi phát thưởng cuối năm của trường tiểu học Tân Thới và biểu diễn văn nghệ học đường. Bây giờ rạp Tân Lạc biến thành nhà thờ công giáo, còn rạp Phương Lạc là nhà sách Fahasa kiêm siêu thị mini. Hồ bơi, sân banh và rạp hát là ba công trình phúc lợi công cộng đã biến mất ở Lái Thiêu ngày nay. Ngày đầu năm, nhà tôi thường tiếp đón một đoàn khách rất đặc biệt: những người bạn của ba tôi. Họ tập trung tại nhà người anh cả trong nhóm là ông Năm Trầm, một thân hào nhân sĩ có tiếng tăm nhờ nhân cách tốt và quảng giao chứ không phải là người dư dả có của ăn của để. Bạn bè của ba tôi gồm nhiều vị mà tôi vừa kính vừa sợ, chỉ dám khoanh tay cúi đầu chớ không dám nhìn, như ông Hai Kỳ (thân phụ của hai chị Lâm Thúy Nga và Lâm Thúy Vân) , ông Tám Mầy (cha kế của anh Lê Việt Dũng), ông Đức Khánh (cha bạn Khánh Hòa), ông Năm Xướng (cha bạn Nhiều), ông Sáu Sơn, ông Ba Đực (cha chị Lê Thị Bạch), ông Bảy Huê, ông Cả Kiết, ông Tư Trai, ông Hai Tôn… và nhiều vị nữa mà mình không nhớ hết. Người viết xin lỗi vì đã mạo muội nhắc trực tiếp tên các bậc trưởng thượng đáng kính nay đa số đã ra người thiên cổ, chỉ vì muốn minh họa người thật việc thật cho bài viết. Phái đoàn lần lượt đi chúc Tết từng nhà theo lộ trình từ xa tới gần, mỗi nơi nhấp chút rượu, thưởng thức chút hương vị món ăn ba ngày Tết, rồi tất cả cùng đứng lên chúc Tết gia chủ trong không khí đầm ấm và niềm hân hoan chung. Mỗi nhà chỉ xẹt qua khoảng 15, 20 phút vậy mà khởi hành từ xế chiều cho đến tối mịt mới xong. Nhà tôi nằm ở cuối lộ trình, gần đến lượt thì ba tôi thường tách đoàn về sớm để chuẩn bị đón tiếp. Má tôi là tổng chỉ huy nên cũng là người cực nhứt, từ nấu nướng tới sắp dọn nhưng khi thấy mọi việc đã tươm tất ổn định, khách đã an vị là bà lại biến mất, chỉ khi ba tôi gọi vói vào

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 36

 

 

Nhà thờ Lái Thiêu, một trong những ngôi giáo đường sớm nhứt miền Nam, do cha sở Henry Azéma xây dựng năm 1894, cũng là người đã thành lập Viện Câm Điếc còn tồn tại đến ngày nay. (ảnh www.sugia.vn)

trong thì bà mới ra, cùng đứng cạnh ba tôi để nghe lời chúc Tết của quý thân hữu và đáp lời cảm tạ. Đúng là tề gia nội trợ (Xin mấy chị B5 đừng giận, ý tôi không phải nói giờ mấy chị chảnh đâu nha ! – LTB ). Tôi còn nhớ lời của Bác Hai Kỳ, khen món canh khổ qua của má tôi nấu ngon hết sẩy, làm năm nào má tôi cũng chăm chút món này. Ngẫm lại thật đáng ngưỡng mộ tục lệ ăn Tết của người xưa: giản dị, đầm ấm mà thân mật; không ồn ào, say sưa quá trớn, dễ sinh hiềm khích vì lỡ lời, làm mất đi tình bạn thâm giao. 3. Lái Thiêu là xứ sở thuộc Hai Huyện. Năm 1698, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vâng lịnh chúa Nguyễn vào nam kinh lược, thiết lập nền hành chánh buổi đầu trên vùng đất mới để xác định chủ quyền, Lái Thiêu thuộc tổng Bình An, huyện Phước Long, dinh Trấn Biên; đa số là lưu dân có gốc gác từ miệt Ngũ Quảng, như làng Tuy An (sau gọi An Phú Xã) là lấy theo tên gọi quê gốc ở miệt ngoải. Người Lái Thiêu chính gốc nói Lái Thiêu thành “Lái Khiêu”, thiệt tình thành “khiệt tình”; con lân gọi con cù, đi Sài Gòn gọi là “đi xuống” chứ không gọi “đi lên”; gọi “sông Cái” chứ không gọi sông Sài Gòn, gọi “Ba Thôn” chứ không gọi Thạnh Lộc. Những năm chiến tranh, Lái Thiêu lại trở thành nơi tạm cư cho dân nạn nhân chiến cuộc ở Nhị Bình, Phú Hội, Tuy An hay xa hơn như Bến Súc về lánh nạn (bài vị thành hoàng đình Phú Hội phối thờ chung trong đình làng Tân Thới). Người mới người cũ ở lẫn lộn đông đúc chen vui không hề có nạn kỳ thị phân biệt. Trong chiến tranh mà kinh tế - xã hội lại phát triển nhanh chóng; mười năm 65-75 là mười năm Lái Thiêu thay da đổi thịt, đường rộng hơn, phố cao hơn, hàng hóa dồi dào hơn; các công trình phúc lợi như nhà thương, trường học mọc nhiều hơn; các phương tiện giao thông cá nhân và

công cộng cũng thay đổi nhiều hơn. Đất nước sản sinh ra con người, đất ấy nước ấy sinh ra con người ấy … Lái Thiêu không phải vùng đất địa linh nhân kiệt nhưng là nơi đất lành chim đậu, đất cũ bao dung đãi ngộ người mới; dân tình hiền hòa chơn thật với tấm lòng tôn sư trọng đạo. Ngoài phố, học sinh thấy thầy cô từ xa là đã lo chạy lại khoanh tay cúi đầu; thanh niên chỉ mặc áo phạch ngực không cài cúc là đã bị cho là lưu manh cao bồi rồi, rất hiếm kẻ xâm mình; hướng đạo sinh ngả nón khi có đám tang ngang qua, trong rạp hát không có cảnh bật ngửa người gác chân lên thành ghế trước, mọi người tự động tắt thuốc đứng lên khi chào quốc kỳ; sân banh ít có tiếng chửi thề; trẻ con vô lớp một đã được dạy cách băng qua đường … Đất ấy đã từng lưu dấu những danh nhân văn võ nổi tiếng một thời như Phan Văn Hùm, Nguyễn Bình; sau này là Phú Đức, Bình Nguyên Lộc … ; gần hơn nữa là Ngụy Văn Thà, Lý Lan … Một minh chứng nữa cho sự chung sống hòa hợp giữa các thành phần tầng lớp cư dân Lái Thiêu là khu phố Bình Đức, nơi có hai cộng đồng người Hoa làm nghề gốm sứ và người Việt theo đạo Công Giáo sống chung đụng đan xen mà không hề có xô xát, kỳ thị mặc dù có khác biệt về phong tục tập quán, văn hóa cũng như tôn giáo. Lái Thiêu nay phát triển mở rộng về hướng

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 37

 

Đông, nơi có cuộc đất địa lý quá tốt, với đủ tả Thanh Long (Đông Nhì) hữu Bạch Hổ (Gò Cát), thêm Minh đường thoáng đãng là cánh đồng Gò Chai rộng rãi tràn đầy ánh sáng, phía trước có long mạch là con suối chảy xuôi từ trái sang phải (không chảy nghịch như sông Hương) đổ vào Minh đường rồi thoát ra ở thủy khẩu tiêu thủy là cầu Ông Bố. Chỉ tiếc con suối nay đã tắc mạch (giống như Piscine mạch Chà của ông Lâm Lễ Trinh cũng đã bị san lấp để làm bệnh viện), giờ nó chỉ còn chức năng tiêu thoát nước thải cho khu công nghiệp gần đó chứ không còn làm nhiệm vụ cung cấp nước cho cây trồng nữa. Gò Chai là nơi quần ngựa đua của ông nội tôi (thầy cai Tổng), nay là địa điểm xây dựng một khu dân cư mới, còn miếu Thần Nông với cây đa cổ thụ trên trăm tuổi thuộc ấp Đông Ba nay nằm lọt thỏm giữa những khu phố dân sinh đông đúc, đa số là công nhân ngụ cư từ miền Bắc vào. Hoành tráng nhứt là Bệnh Viện Đa Khoa Quốc Tế Miền Đông, tọa lạc ngay vị trí xưa là nghĩa địa Gò Cát cạnh cầu Ông Bố và một phần của trường trung học Phan Văn Hùm. Nhiều người cứ tiếc cái sân banh Ấp Trưởng không còn, nhưng riêng tôi lại mừng vì nay nó trở thành khuôn viên rộng lớn của một trường tiểu học nội trú đẹp đẽ, còn hơn để nó biến thành vũ trường, sờ-nách-ba hay chịu cảnh hoang tàn như cái đồi hoa sim của Piscine Bạch Đằng. Sự phồn vinh của Lái Thiêu do công nghiệp hóa đem lại là điều không phải bàn cãi, vì một nghề phát triển thường lôi kéo theo hàng chục nghề ăn theo tạo ra công ăn việc làm cho hàng ngàn người. Tuy nhiên, kinh tế Lái Thiêu đi lên không phải tất cả bằng sự phát triển nội lực: nhà xưởng mọc lên do vốn đầu tư nước ngoài bị hấp dẫn bởi giá nhân công rẻ mạt, còn người lao động đa số từ miền ngoài chuyển vào sinh sống với hy vọng đổi đời, thoát khỏi cuộc sống bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Doanh nghiệp nước ngoài chủ lực , đem lại nguồn thu thuế lớn cho địa phương là Đài Loan, Đại Hàn, Hồng Kông, Trung Quốc … là những doanh nghiệp có hàm lượng chất xám trong sản phẩm không cao; phần lớn những mặt hàng gia công cho nước thứ ba như giày da, đồ gỗ, hàng may mặc chỉ là hoàn tất các công đoạn xử lý thô bằng lao

động cơ bắp con người, nhưng có ưu điểm là thu hút một lượng lớn lao động phổ thông, điều mà các doanh nghiệp phương Tây như hãng sữa Foremost - Hà Lan không cần. Khủng hoảng kinh tế thế giới lan sang, các khu công nghiệp bộc lộ ngay tính không bền vững của nó: nhà máy đóng cửa tạm ngưng sản xuất, công nhân thất nghiệp hàng loạt trong lúc Tết Quý Tỵ đang lảng vảng trước mắt. Người đi xa trở về, nhìn con sông Chợ nước chảy êm đềm gợi nhớ trò vui thả vịt phóng sinh ngày rằm tháng bảy, nhớ bè chuối tống ôn lễ Kỳ Yên trên có cái thủ vĩ lợn (chưa ra khỏi đầu vàm đã bị lính quận kéo vô ních hết trong khi đúng ra là của trẻ chăn trâu con cháu Thần Nông), nhớ những đêm vui cộ Trung Thu, cộ Bà mặt nước lung linh sắc màu nhờ con nước lớn ngày rằm. Dãy phố lầu bờ sông nay không còn nữa, nơi bar Mỹ Lan xưa giờ là công viên thoáng mát rộng rãi, vỉa hè ven sông dành cho người tập thể dục đi bộ sáng sớm và chiều tối. Thời cuộc thay đổi, giờ nhắc Nhà Ga, Đầu Truông, Mạch Chà, Bến Tắm Ngựa, Chợ Cá, Nhà Làng, tiệm mì Chú Hớ … còn có mấy ai biết; hay như Xóm Xe Bò giờ chẳng thấy có con bò nào hoặc Vườn Nhãn không còn một gốc nhãn làm thuốc. Người tại chỗ còn quên, huống gì kẻ đi xa vạn dặm tìm về hình bóng cũ với những hoài niệm êm đềm một thời đã qua. Con chim Việt chọn đậu cành Nam vì nhớ nắng ấm, con ngựa Hồ hí vang khi gió Bấc thổi về … Như có lúc đi làm ăn xa tận miệt Tây Ninh, nhìn hình ảnh chiếc Cầu Quan giữa lòng thị xã, tôi chạnh nhớ đến cầu Ông Bố, cầu Bà Hai, cầu Cây Trâm với kiến trúc y hệt; hay những năm đi làm gỗ ở Đường 10 (sóc Bom Bo), gặp dân Lái Thiêu là sán lại hỏi thăm nhà cửa, người quen tới nơi tới chốn. Mới hay quê hương nằm trong máu thịt, chỉ một chút nhắc nhớ là kỷ niệm ùa về, nhất là với những người lớn tuổi xa quê … (12- 2012)

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 38

 

Lá Thư Caribbean

Huỳnh Hữu Thế (CHS khoá 13 THĐ)

Quê hương giống như bà mẹ già, dầu xa

cách bao lâu, mình vẫn yêu, vẫn thương trọn một đời. Tình tự quê hương chợt thổn thức trong tôi chiều nay, khi một cơn mưa rào chợt đến thật nhanh trên vòm trời biển đảo nhỏ nhoi của vùng Caribbean nầy. Tôi được hãng cử đến làm việc ở một nơi xa ơi là xa. Đây là đảo St. Thomas nằm cách Việt Nam nửa vòng trái đất. Chiều nay, tự nhiên tôi lại nhớ về quê tôi là một xóm nhỏ nằm giữa hai dòng sông. Đó là sông Sài Gòn và sông chợ Lái Thiêu. Tuổi thơ của tôi trôi qua với xóm làng trù phú nằm giữa cây số 17 và cây số 18 của quốc lộ 13 ở phía bắc Sài Gòn. Nơi đây, tôi có một vùng trời dĩ vãng tuy đơn sơ nhưng đầy kỷ niệm của một thưở thanh bình. Ngồi đây, nhìn những hạt mưa rơi trên vùng đất lạ, tôi bùi ngùi nhớ về những cơn mưa sớm đầu mùa ở quê nhà với mùi hơi đất nồng nàn. Mùi hương nầy tôi đã quên mất hơn 30 năm qua, nhưng bất chợt chiều nay nó lại chiếm trọn hồn tôi.

Mưa tạnh. Nắng lên. Ngang tầm mắt của tôi, một vòm phượng đỏ rực dưới ráng chiều của miền nhiệt đới. Tôi quên hẳn mình đang đứng trên ban công gỗ của một căn nhà cheo leo trên triền núi. Phía dưới là vùng biển xanh. Xa xa vài chiếc buồm trắng

đang lờ lững trôi giống như cuộc đời tha hương đưa đẩy tôi đến vùng đất tự do nhưng cô lập trên vùng biển phía đông nam nước Mỹ nầy.

Hồi tháng trước, ngày đầu tiên tới đây, tôi vác vali quần áo từ bên dưới triền núi theo từng bậc thang gỗ leo lên căn nhà gỗ xinh xắn. Có thể nói đây là một “túp lều lý tưởng” mà tôi đã mơ ước từ thuở nào. Tối hôm đó, tôi hơi ngẩn ngơ đôi chút khi nhìn kỹ căn nhà nầy. Không bởi vì nó sang trọng hay đồ sộ mà chính vì mái nhà nhỏ nầy có hơi hướng của quê hương. Khung cảnh ở đây với những cành cây, chiếc lá, tiếng côn trùng rỉ rã, tiếng sóng rì rào như thì

St. Thomas, hải đảo thơ mộng vùng Caribbean

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 39

 

thầm với riêng tôi. Giây phút đó, tôi mong có được một người bạn tri kỷ tri âm để cùng nhau nói chuyện cuộc đời, chuyện quê hương.

Mùi hương chiều nay nơi xứ lạ quê người làm sống lại trong tôi những kỷ niệm về quê hương, bạn bè, thầy cô. Tôi cũng không hiểu tại sao tôi lại có cảm giác đó. Tôi cũng không hiểu tại sao tôi chợt nhớ về hình ảnh của thầy Hồ Văn Giàu, dạy Pháp Văn cho lớp của tôi ở trường Trịnh Hoài Đức. Tôi còn nhớ thầy chạy chiếc xe Suzuki màu đỏ, cũ kỹ, đầy bụi. Chắc là do bận bịu mà chẳng khi nào thầy rửa xe!. Thầy dựng xe trước bậc thềm của lớp, thong thả máng sợi dây quay nón - một chiếc nón ni lông đã ngả màu vàng - lên tay lái xe, rồi vuốt lại mái tóc đẫm nước mưa. Chậm thật là chậm. Hầu như đối với thầy Giàu, chẳng có gì là quan trọng, là cấp bách. Tôi vẫn còn nhớ cách đi đứng hơi nghiêng nghiêng của thầy. Tôi không giỏi Pháp Văn lắm nên rất sợ môn nầy. Vào giờ đó, tôi buồn ngủ ơi là buồn ngủ, một phần vì phải đi học xa, một phần vì giọng giảng bài đều đều của thầy Giàu. Trong lớp chỉ có bạn Hạnh “phù thuỷ” là giỏi. Bạn ấy có thể đối thoại bằng tiếng Pháp với thầy một cách lưu loát. Sau nầy, khi đổi về Sài Gòn, tôi học Pháp Văn với thầy Thuận ở trường Nguyễn An Ninh, tôi mới khá hơn về môn Pháp Văn. Tuy vậy tôi vẫn nhớ và vẫn thương thầy Giàu, người thầy tận tuỵ với nghề nghiệp.

Có lẽ để cho lớp bớt buồn ngủ và thay đổi không khí, một hôm thầy hỏi một câu mà cả lớp không ai trả lời được. Đó không phải là câu hỏi về Pháp Văn mà chỉ là một câu hỏi về đời thường. Thầy hỏi: - “ Nếu bất chợt, các em đi dự một buổi tiệc sang trọng. Sau khi rửa tay xong mới biết mình bỏ quên khăn tay ở nhà, thì các em phải làm sao để tay được khô?”.

Thầy chờ khá lâu, không ai trả lời được. Thầy mới chậm rãi tự trả lời:

- “ Dễ lắm. Ngộ biến phải tùng quyền. Các em cứ lấy tay mình vuốt lên tóc. Tóc sẽ vừa đẹp mà tay mình cũng mau khô”.

Cả lớp bật cười thật lớn vì câu chuyện cũng khôi hài và không dính líu gì đến việc học hành! Lúc đó, tôi không biết thầy ra câu đố chỉ để cho vui hay còn có ý nghĩa gì khác.

Bây giờ, vài chục năm đã qua, tôi chợt nhận thấy rằng, có lẽ thầy muốn dạy cho đám học trò một cách ứng phó nhanh nhạy trong cuộc sống. Sau nầy, khi gặp hoàn cảnh ngặt nghèo, chết sống trong đường tơ kẽ tóc, tôi lại nhớ tới thầy Giàu và thực hiện giống như thầy. Đó là làm việc gì cũng chậm rãi, từ từ. Trên đời nầy không có việc gì quá quan trọng. Thời gian sẽ trôi qua. Mọi việc rồi cũng sẽ tốt đẹp, các khó khăn rồi cũng sẽ trôi qua…

Một chiều mưa, ở xứ xa nhớ về quê hương, thầy cũ, tôi xin ghi lại những kỷ niệm nho nhỏ, để các bạn cùng nhớ về một người thầy đáng kính nay đã vĩnh viễn ra đi. Trong cuộc đời chúng ta có rất nhiều thầy cô. Có người dạy hay, có người dạy không hay nhưng tất cả đều đã truyền đạt cho chúng ta những kiến thức cần thiết cho cuộc sống. Công ơn thầy cô chính là điều mà ai ai trong chúng ta cũng cần phải ghi nhớ phải không các bạn.

Tản mạn vài dòng tâm sự. Xin hẹn bạn thư sau từ hải đảo xa xôi mang tên St. Thomas. Huỳnh Hữu Thế

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 40

 

Hồ Thị Kim Ngân

Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết ( CHỢ TẾT- Đoàn Văn Cừ…) Không tất bật mua sắm gì nhiều cho năm

mới ( Nhâm Thìn 2012). KN về thăm nhà ở Lái Thiêu vào một sáng của ngày cuối năm. Và thong thả dạo một vòng chợ Tết.

Cây cầu đúc dẫn vào khu vực trung tâm thị xã đã được trang hoàng tương tự các nơi khác. Dây treo đèn lồng đỏ cao cao giăng mắc dọc ngang hoặc xiên chéo. Con Rồng năm Thìn uốn cong vàng rực. Dòng chữ in hoa Chúc Mừng Năm Mới 2012 duyên dáng phô mình chạy dài trên cao nhất. Có lẽ ban đêm, dây đèn chớp nháy sáng rực sẽ làm nổi bật các hình ảnh nầy hơn.

Bảng tên chợ to và đỏ,được đặt trên nóc tòa Siêu thị Vinatex. Chắc không ai để ý. Khách lạ lần đầu ghé thăm cũng khó thấy. Vì tầm nhìn từ dưới lên sẽ bị các tấm dù to che khuất.

“Người các ấp” ngày nay đã ra chợ Tết bằng xe gắn máy.Với áo khoác chống nắng, khẩu trang che bụi, nồi cơm điện che đầu. Treo lủng lẳng vài bao túi ni lông hàng họ. Có vẻ không “tưng bừng” mà chỉ là mua bán nhiều hơn ngày bình thường một chút, cho có Tết với người ta.

Dọc theo bờ sông, từ cầu đúc nầy đến cầu đúc bên kia chợ là một dãy sạp được phân lô, có che bạt và tổ chức khá gọn gàng, rộng thoáng, ngăn nắp.

Khu vực nầy dành cho các bạn

bông hoa. Nhiều nhất là các loại bông dân dã, quen thuộc, giá vừa túi tiền, dễ trồng, dễ chưng. Đây là đám bông sống đời- trường sanh, chưng trong ngày đầu năm với mong cầu được sống trường thọ như cách chưng bông vạn thọ thường thấy. Kia, là dãy cúc vàng rực rỡ dưới cái nắng miền Nam. Xen giữa là đám bông mồng gà đỏ chóe với dáng vẻ như chú gà đang vươn cổ gáy chào bình minh.

Điểm xuyết là một loại bông mới xuất hiện mấy năm gần đây, cát tường. Tên bông như hứa hẹn đem tới cho mọi người, mọi sự việc đều được hanh thông, tốt đẹp.

Vòng đi của KN thiếu hẳn bông mai vàng. Đây là loại hoa luôn luôn có mặt ấm áp, thân thương như một người thân của gia đình, trong tất cả ngôi nhà ở miền Nam VN ba ngày Tết. Năm sau, vào dịp Tết Quý Tỵ, KN sẽ tới thăm

 

Bánh tét – món không thể thiếu trong ngày Tết được bày bán ở chợ Lái Thiêu

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 41

 

khu vực của các bạn mai thôi. Có mặt cùng với bình bông trên bàn thờ tổ

tiên là cặp dưa hấu. Phải là loại dưa thật xanh, thật tròn. KN thấy người ta bày bán thêm loại dưa hấu xanh nhạt, có sọc xanh đậm. Chắc loại dưa nầy chỉ để ăn chơi giải khát, tráng miệng. KN ít thấy ai chưng cúng. Đầu năm mà chưng dưa sọc thì suốt năm làm chuyện gì cũng bị “sọc dưa” hết, thì thật là thua luôn.

Cũng có thể bày cúng thêm cặp bưởi. Dùng chưng cho đẹp, nên nhà vườn giữ luôn cành nhánh phía trên cuống lá của trái bưởi vàng, vừa tăng vẻ thẩm mỹ, vừa phô bày sức sống tràn trề.

Còn ngũ quả để chưng cúng theo tục lệ nữa chớ. Nầy là đu đủ vỏ vàng tươi, không phải vỏ xanh như mọi ngày. Nầy là những trái thơm màu đỏ hửng, không phải màu vàng như mọi khi. Cả quày dừa cũng vỏ vàng, không xanh. Trái dừa nhỏ, vừa với mâm cúng, đều dáng với các loại quả khác. Thiệt đúng là Tết, đỏ đỏ vàng vàng, vừa đẹp vừa hên.

Không thể thiếu bánh mứt đi cùng với bông trái. Thèo lèo, cứt chuột chắc không có. May là vẫn còn đủ bánh tét, bánh tổ, bánh pía. Và kia là các “cây quà” của những năm đầu thế kỷ 21 nầy. Có lẽ để đỡ mất công suy nghĩ kiếm món gì làm quà tặng sui gia, đối tác trong quan hệ làm ăn mua bán, hoặc để tặng bạn bè, người ta đã mua các cây quà bày bán sẵn.

Đó là một mớ rượu, trà, cà phê, bánh mứt đủ loại. Các món chọn đóng gói là những chai, hộp với nhãn hàng khác nhau, lớn nhỏ khác nhau, có nhiều giá, để người mua lựa chọn cho vừa với túi tiền.Các món nầy được bọc gói bằng giấy bóng kiếng nhiều hoa văn, thắt miệng bằng một túm nơ đủ màu sắc. Và mời gọi người mua bằng dòng chữ in đậm trên băng dán bên ngoài- Chúc Mừng Năm Mới- Happy New Year.

Một lời khuyên KN nghe được từ đâu đó, là nên tự mình chọn lựa từng món thích hợp, rồi nhờ người bán hàng đóng gói. Không vì thiếu

thời gian mà mua vội các cây quà đóng sẵn. Nếu không, bạn mình có thể nhận được các chai, hộp đã quá hạn dùng đó nha.

Bây giờ mọi người giảm ăn ngọt nên KN thấy mứt cũng không nhiều. May mắn là chợ Lái Thiêu còn bày bán mứt gừng. Loại mứt gừng nguyên cả củ, cả nhánh chứ không xắt lát, xắt chỉ. Tiếc là khi mua dùng thử, KN thấy người bán đã xả muối kỹ quá nên không còn cay, chỉ thấy ngọt như đường. Chà, nếu muốn mứt gừng khô và cay đúng ý chắc phải tự làm thôi.

Ngoài các món dùng trong ba ngày Tết, KN rất thích khi gặp lại ở chợ Lái Thiêu các loại thức ăn của ngày xưa. Món mít hầm đỏ lựng ăn kèm với bánh hỏi thịt quay. Mít non mua về hầm xương, thêm đậu phộng, rắc chút rau răm. Kìa, một mâm cá muối sương, hay muối sư, hay muối sả ớt. Cá đem chiên giòn, măn mẳn ,cay cay, tốn cơm hơi bị nhiều. KN cũng nghe nói đâu đó rằng, cá làm món nầy phải là cá ngộp. Làm bằng cá tươi sống ăn không ngon bằng. Các bạn làm và ăn thử, coi có đúng vậy không.

Đã hết một vòng chợ Lái Thiêu. KN nhớ lại những nao nức khi đi chợ Tết của những năm đã xa. Bây giờ, lễ hội được tổ chức liên miên. Không biết bọn trẻ có “ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc” ( Đoàn Văn Cừ) ra chợ Tết, hòa mình vào những ngày đặc biệt thiêng liêng của dân tộc VN, như chúng mình, ngày xưa, hay không nữa?! (31-12-2012)  

 

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 42

 

 Hoàng Anh

Trên khắp đất nước ta có vô vàn những ngôi đền thờ Bà, cách gọi tôn kính các vị nữ Thần, dù là có gốc gác người Việt, Chăm, hay Hoa… Riêng ở Bình Dương, chùa Bà, là cách gọi nơi thờ Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu, vị nữ thần của người Trung Hoa. Dù có sự nhầm lẫn khi gọi “miếu” hay “cung” là “chùa”, nhưng cách nói này đã thành thói quen trong dân chúng địa phương từ ngày xửa ngày xưa. Trong bài viết này, chúng tôi cũng gọi là “chùa Bà”, đơn giản theo như số đông mà không ngại người đọc ở Bình Dương có ai đó hiểu lầm. Có một đặc điểm đáng chú ý nữa là, ở những nơi thờ Bà có nguồn gốc từ các vị nữ thần của người Việt hay Chăm, dân chúng đều gọi là miễu hay miếu, mà không gọi là chùa, như trường hợp trên. Khắp thế giới có khoảng 5000 ngôi đền thờ Bà Thiên Hậu ở trên 20 quốc gia, nhiều nhất là vùng châu Á. Tại Việt Nam, từ Bắc tới Nam ở nơi nào hễ có người Hoa sinh sống thì cũng có nhiều đền miếu như vậy. Tập trung nhiều nhất là vùng Sài Gòn, Chợ Lớn và Bình Dương. Điều đáng nói là dù những người viết sinh sống tại Bình Dương nhưng trong một số bài đăng báo hoặc các công trình chuyên khảo đồ sộ, số lượng đền thờ Bà mà các tác giả đưa ra lại không thống nhất với nhau như:

“Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu ở Bình Dương được thờ trong bốn ngôi chùa ở Bưng Cầu, Lái Thiêu, Búng và ở Thủ Dầu Một là lớn nhất” (Địa Chí Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2010, tr.107) Trong một tài liệu khác: “Tại BD, ngoài ngôi chùa Bà tại TX. TDM nói trên, còn có không dưới 5 nơi thờ Bà như: 1/ Chùa Bưng Cầu, xây dựng năm 1887 ở cạnh đình Bưng Cầu, năm 1967 dời về ấp 3, xã Tương Bình Hiệp, 2/ Thiên Hậu Cung ở khu phố Thạnh Hòa, thị trấn An Thạnh, huyện Thuận An xây dựng năm 1879, 3/ Thiên Hậu

Mẫu ở đường Châu Văn Tiếp, thị trấn Lái Thiêu, 4/ Thiên Hậu Miếu ở khu phố 3, Dầu Tiếng xây dựng năm 1937”. (Nguyễn Hiếu Học, Dấu Xưa Đất Thủ, 2009, tr.127-128) Trong 5 ngôi mà tác giả kể ra, chỉ có 4, liệt kê vẫn còn thiếu 1. Một quyển sách được biên soạn khá công phu khác, nhưng về số lượng chùa Bà, lại ghi rất bất nhất (Huỳnh Ngọc Đáng chủ biên, Người Hoa ở Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia-Sự Thật, 2012): -Trang 180, ghi ở Bình Dương có 6 ngôi chùa thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. -Trang 311, lại ghi có 7 ngôi, ở Thuận An có 2 ngôi (1 ở Lái Thiêu, 1 ở gần chợ Búng), có nêu ra thêm ngôi chùa mới lập ở Tân Phước Khánh. -Tại trang 490, ghi có 7 ngôi, liệt kê ở huyện Thuận An có 3 ngôi, (2 ở chợ Lái Thiêu và 1 ở gần chợ Búng, An Thạnh) như vậy là ở Lái Thiêu có thêm 1 ngôi nhưng bỏ sót không kể đến ngôi chùa ở Tân Phước Khánh, Tân Uyên. Như vậy nếu đầy đủ thì phải là 8 ngôi. Theo sự tìm hiểu riêng của chúng tôi, có thể liệt kê các ngôi chùa Bà ở BD như sau: -Tại thị xã TDM có 3 ngôi: một, nằm ở phường Chánh Nghĩa là ngôi xưa nhất; hai, nằm ở phường Phú Cường, đường Nguyễn Du; ba, nằm ở gần chợ Bưng Cầu, nay thuộc phường Hiệp An, nơi đây cũng có tổ chức lễ rước Cộ Bà vào buổi sáng ngày rằm tháng giêng. -Huyện Thuận An có 2 ngôi: một, ở chợ Búng, xã An Thạnh; hai, ở chợ Lái Thiêu, trên đường Châu Văn Tiếp. Tại Lái Thiêu còn một ngôi miếu thờ bà Thiên Hậu, được cho là ngôi miếu xây dựng đầu tiên ở vùng đất này, nay nằm trong đất tư nhân, thuộc khu phố Long Thới, người ngoài không vào nhang khói được, do đó chúng tôi không tính đến.

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 43

 

-Huyện Dầu Tiếng có một ngôi, tổ chức lễ rước cộ vào ngày 11 tháng giêng. -Tại Tân Phước Khánh, huyện Tân Uyên, vào năm 2006, người Hoa Phước Kiến và Sùng Chính có xây dựng thêm một ngôi Thiên Hậu Cung bên cạnh chùa Ông.

Như vậy, tính cho đến nay, trên toàn tỉnh có tổng cộng 7 ngôi miếu thờ Bà. Ngoài ra, một ngôi chùa nữa đã làm lễ động thổ vào ngày mùng 8 năm Tân Mão (2011) tại thành phố mới Bình Dương. Hiện đang trong tiến trình xây dựng và dự kiến hoàn thành vào đầu năm 2013. Chùa nằm trên một diện tích khoảng 4.000 mét vuông, dự trù kinh phí lên đến 30 tỉ đồng. Khi hoàn thành, với cả ngàn mét vuông xây dựng, đây có lẽ là ngôi chùa Bà rộng lớn nhất trong tỉnh. Đến đây, xin nói kỹ hơn về hai ngôi chùa Bà ở trung tâm thị xã. Đã có vài tác giả nói về chuyện này, và lại cũng vẫn có nhiều điểm sai biệt với nhau, cần viết lại cho rõ hơn. 1. Chùa Bà Chánh Nghĩa: “Miếu Thiên Hậu ở thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, được thành lập vào giữa thế kỷ XIX, nằm trên bờ rạch Hương Chủ Miếu. Năm 1880, người Hoa xin phép xây thêm nhà túc. Đầu thế kỷ XX (1923), miếu được di dời về vị trí hiện nay (nằm cạnh trường Phú Cường 2, đường Nguyễn Du). Dân gian vẫn quen gọi là

chùa Bà Thủ Dầu Một.” (Nguyễn Thị Lan, Miếu Thiên Hậu (chùa Bà), Một tín ngưỡng dân gian của cộng đồng người Hoa ở Bình Dương, tập san Khoa Học Lịch Sử Bình Dương số 4, 2005, tr. 26 ) Tài liệu khác:

“Theo truyền thuyết, chùa Bà Bình Dương còn có tên gọi là dân gian là Miễu A Phó, được xây dựng từ thế kỷ XIX nay thuộc xã Chánh Nghĩa, thị xã Thủ Dầu Một. Đến năm 1923, chùa được xây dựng với quy mô lớn trên vị trí hiện nay (đường Nguyễn Du, trung tâm thị xã) (Địa Chí Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia 2010, tr.248) Một tác giả nữa: “Chùa Bà đầu tiên nằm ở vị trí bên bờ rạch Hương Chủ Hiếu. Có lẽ xây dựng vào giữa thế kỷ XIX. Năm 1880, những người Hoa có xin phép chính quyền huyện Bình An xây dựng thêm phần nhà túc, tức chùa hậu ở phía sau. Đến năm 1925, thì chùa được dời về vị trí hiện nay.”

(Huỳnh Ngọc Đáng, Phú Cường, Lịch sử -Văn Hóa và truyền thống cách mạng, 1990, tr. 46) Một tài liệu khác cung cấp thông tin như sau: “Miếu Bà Thiên Hậu được người Hoa Phúc Kiến xây dựng vào năm 1867 bên bờ rạch Hương chủ Hiếu ở Phú Cường, gần chợ Thủ Dầu Một. Năm 1871, miếu được tôn tạo, cất thêm 3 gian nhà bếp ở bên phải. Đến năm 1880, chính quyền địa phương cho phép cất thêm dãy nhà bếp bên trái. Năm 1945, cơ sở này bị phá hủy trong chiến tranh, sau đó người Hoa di đời tượng Bà và đồ thờ tự về Thiên Hậu cung tại Phú Cường.” (Huỳnh Ngọc Đáng chủ biên, Người Hoa ở Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia-Sự Thật, 2012, tr. 57) Phần chú thích cho biết thêm chi tiết chính xác hơn: “Trong một văn bản ghi ngày 10 tháng 03 năm Canh Thìn (1880), bang trưởng Triều Châu - Khách Gia là Văn Dịch cùng với các bang chức là Phương Phát, Quách Xương Nguyên, Tăng Phúc xin chính quyền thuộc địa Thủ Dầu

 Chùa Bà Bưng Cầu

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 44

 

Một làm thêm 3 gian bếp, ghi rõ “Trước đây chúng tôi đã lập một miếu thờ tại địa phận thôn Phú Cường, sau đó dân bang Triều Châu được làm thêm 3 gian nhà bếp phía bên phải miếu. Nay dân bang Khách Gia cũng được Bà bảo hộ muốn xin làm thêm ba gian bếp nữa ở phía bên trái” Cũng trong sách này, ở một trang khác, lại viết: “Năm 1945 cơ sở này bị phá hủy trong chiến tranh, sau đó người Hoa di dời tượng bà và đồ thờ tự về Thiên Hậu Cung tại Phú Cường hiện nay. Đến năm 1996, Thiên Hậu Cung được xây dựng mới lại trên nền cơ sở xưa” (Huỳnh Ngọc Đáng chủ biên, Người Hoa ở Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia-Sự Thật, 2012, tr.311) Về vị trí ngôi chùa, dọc con đường Nguyễn Tri Phương có rạch “Hương Chủ Hiếu” mà không có rạch “Hương Chủ Miếu” như tác giả Nguyễn Thị Lan nói. Theo các cụ già ở địa phương, rạch Hương Chủ Hiếu nằm trên cùng một con đường, gần phía chợ Thủ hơn, và cách cầu Thủ Ngữ độ trăm thước, nếu như vậy, chùa không nằm cạnh rạch Hương Chủ Hiếu như hầu hết tài liệu xưa nay đã ghi. Trong thực tế, ngôi chùa bà Chánh Nghĩa hiện nay nằm cạnh cầu Thủ Ngữ. Về khoảng thời gian xây dựng chùa, đối chiếu các đoạn vừa trích dẫn, tuy có ít nhiều sai khác, có thể thấy rằng vậy là ngôi chùa được xây trong khoảng những thập niên giữa của thế kỷ 19. Riêng con số có tính khẳng định chính xác là năm 1867 (Người Hoa ở Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia-Sự Thật, 2012, tr. 57), có đôi điều cần bàn thêm. Đáng lưu ý là, trong các đoạn trích dẫn trên, thì Huỳnh Ngọc Đáng đều có liên quan hoặc là tác giả hoặc đồng tác giả hay có nhiệm vụ chủ biên, thế nên sự sai khác về niên đại của các tài liệu này khiến chúng ta không khỏi hoài nghi về mốc 1867 đã

nêu, thời gian mà các vị trong bang người Hoa hiện nay chúng tôi đã tiếp xúc thì không ai xác định được. Phần chúng tôi, do chưa tìm ra tài liệu nào khác để đối chiếu, nên vẫn xin ghi lại để độc giả cùng tham khảo thêm. Thời gian vì chùa bị hư hại phải dời đến cơ sở mới, những trích dẫn trên đưa ra các con số như 1923, 1925, và 1945, nay vẫn không có cơ sở để xác định con số nào là đúng nhất. Tuy

vậy, nếu đối chiếu với thời gian trong một vài tài liệu và ký ức của nhiều vị bô lão tại địa phương về lúc ngôi chùa Bà Phú Cường có mặt ở Thủ Dầu Một, thì khoảng thời gian thập niên hai hay ba mươi của thế kỷ trước là hợp lý. Theo trí nhớ dân gian, thì ngôi miếu thờ Bà ở Chánh Nghiã lúc đầu tiên do các bô lão người Phước Kiến và Triều Châu cùng hợp sức dựng nên. Từ chợ Thủ đi vào, qua khu Lò Heo một đoạn, sẽ đến con rạch Hương Chủ Hiếu, đi tiếp sẽ tới cầu Thủ Ngữ, chùa nằm phía tay trái, trên một mũi đất có hai con rạch chảy hai bên. Qua khỏi cầu, là khu vực người Phước Kiến cư ngụ đông đúc và xây dựng rất nhiều lò chén, hình thành nên khu lò chén nổi tiếng của tỉnh. Miếu nằm ở bên cầu, từ đó có thể nhìn thấy dòng sông Sài Gòn chảy lững lờ ngang phía trước. Phong cảnh nơi đây rất đẹp, hiền hòa, thơ mộng, có thể nói là một vị trí đắc địa để xây cất

Chùa Bà Chánh Nghĩa

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 45

 

những nơi thờ tự. Tiếc rằng vì thời trước đây là vùng nông thôn vắng vẻ, đường xá khó đi, lại mất an ninh vì chiến tranh nên một năm kia miếu bị đốt cháy, sụp đổ, chỉ còn lại phần nhỏ. Người ta cứ để phần ngôi miếu còn lại này nằm quạnh quẽ trải qua nhiều năm, những người tin tưởng thỉnh thoảng vẫn đến thắp nhang van vái, hàng ngày trẻ con thường kéo đến chơi đùa. Bên cạnh miếu, phía tay trái, có một vị tên là Nguyễn Văn Mơ, người gốc Tương Bình Hiệp, sinh năm 1930, về cất nhà ở đây từ 1962, nay tuy đã là một vị bô lão nhưng vẫn còn khá minh mẫn. Ông kể lại rằng trước năm 1975, một đêm kia ông nằm mộng thấy có một bà già từ dưới con rạch bên phía tay trái của chùa đi lên gặp ông nói rằng ngôi miếu sắp sập. Hôm sau, ông thông báo với người gác miếu điều ấy để ngăn không cho trẻ con vào khu vực miếu chơi đùa như mọi khi sợ nguy hiểm. Quả nhiên, chỉ hai ba ngày sau,trong một buổi tối, ngôi miếu đã sập đổ. Người ta dọn dẹp hết tàn tích rồi dựng tạm một cái miếu nhỏ để tiếp tục thờ cúng. Mãi đến đầu năm 1998, các vị trong hai bang Phước Kiến và Triều Châu mới xây dựng lại ngôi miếu khang trang, đẹp đẽ như hôm nay. Lại có những người nhiệt tâm đã làm cuộc hành trình gian nan vất vả sang tận Trung Quốc thỉnh một bức tượng Bà từ bên ấy về đây để thờ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hiếu Học thuật lại việc ấy như sau: “Đầu những năm 90 các vị chức sắc trong bang Phước Kiến đã trùng tu lại ngôi cũ và đề nghị xin thỉnh tượng Bà về lại chùa này, nhưng các bang trong hội đồng quản lý chùa hiện nay không tán thành. Thực hiện tâm nguyện của mình, vào năm 1998 đoàn đại diện bang Phước Kiến tại Bình Dương gồm các ông Trưởng Bang Trần Liễu, và các ông Dương Nam, Trần Quốc Lương … đã tìm cách về tỉnh Phước Kiến, Trung Quốc, tìm đến tận ngôi chùa thờ Bà Thiên Hậu ở làng quê My Châu của Bà (nơi đã sinh ra Bà cách đây khoảng 900 năm) để chiêm bái và xin cung thỉnh một pho tượng Bà (cao chừng 60cm) tại đây đem về thờ tại chùa được xây dựng lần đầu tại Thủ Dầu Một” (Nguyễn Hiếu Học, Dấu Xưa Đất Thủ, tr.133) Trong chùa, nếu từ ngoài nhìn vào, bàn thờ Bà đặt ở chính giữa, bàn thờ Ngũ Hành Nương

Nương bên trái; phía bên phải là bàn thờ Ông. Bố trí thờ cũng có phần giống như ở chùa Bà phường Phú Cường. Vào ngày vía Bà 23 tháng 3 âm lịch hàng năm, tại đây đều có lễ cúng với sự tham dự của đông đảo người dân địa phương. 2. Chùa Bà Phú Cường:

Ngôi chùa này nằm trên đường Nguyễn Du, phường Phú Cường, nơi tổ chức lễ Cộ Bà hàng năm lớn nhất trong tỉnh, và có lẽ lớn nhất Việt Nam nữa. Đây là ngôi chùa nổi tiếng nhất, thu hút lượng người hành hương, chiêm bái hàng năm đông đảo nhất. Về thời điểm thành lập chùa, các tác giả đưa ra nhiều niên đại khác nhau: 1. Đầu thế kỷ XX (1923), miếu được di dời về vị trí hiện nay (Nguyễn Thị Lan) 2. Đến năm 1925, thì chùa được dời về vị trí hiện nay.” (Huỳnh Ngọc Đáng, Phú Cường, Lịch sử -Văn Hóa và truyền thống cách mạng, 1990, tr. 46) 3. Đến năm 1923, chùa được xây dựng với quy mô lớn trên vị trí hiện nay (đường Nguyễn Du, trung tâm thị xã) (Địa Chí Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia 2010, tr.248) 4. “Chưa có cứ liệu xác định năm thành lập, nhưng theo một số người lớn tuổi cho biết khoảng năm 1934-1935 cơ sở thờ Bà đã có. Vậy, có thể Thiên Hậu cung ở Phú Cường được lập khoảng từ sau năm 1920, khi ở khu vực chợ Thủ Dầu Một đã thành lập bốn bang người Hoa riêng theo từng nhóm phương ngữ” (Huỳnh Ngọc Đáng chủ biên, Người Hoa ở Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia-Sự Thật, 2012, tr. 311) 5. “Năm 1945 cơ sở này bị phá hủy trong chiến tranh, sau đó người Hoa di dời tượng bà và đồ thờ tự về Thiên Hậu cung tại Phú Cường hiện nay. (Người Hoa ở Bình Dương, nxb. Chính Trị Quốc Gia-Sự Thật, 2012, tr. 311). Các con số chỉ thời gian tuy không hoàn toàn giống nhau, nhưng đều nằm ở khoảng thập niên hai mươi hay ba mươi của thế kỷ trước. Qua tìm hiểu thêm các cụ già lứa tuổi trên tám mươi đến nay hãy còn minh mẫn, chúng tôi nhận thấy rằng thời gian đó là tương đối hợp lý.

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 46

 

Về việc thờ tự trong ngôi chùa này, có tài liệu viết: “Thiên Hậu Thánh Mẫu tại Bình Dương thường được thờ cùng với Chúa Xứ Thánh Mẫu, Chúa Tiên Nương Nương và được dân làng tổ chức cúng vào ngày 22-3 hàng năm” (Địa Chí Bình Dương, 2010, tr.73) Khác với tài liệu ghi trong Địa Chí, người ta cúng vía bà vào ngày 23 tháng 03, và trong chùa, Bà được thờ chung với Ngũ Hành Nương Nương chứ không phải thờ với Chúa Xứ Thánh Mẫu và Chúa Tiên Nương Nương là hai vị nữ Thần của người Chăm và người Việt. Nơi khác, trong cùng quyển sách này lại viết, đúng với thực tế hơn: “Ngoài pho tượng chính Thiên Hậu Thánh Mẫu thờ ở chính điện được chạm khắc công phu tạo nên nét đẹp trang nhã, dung dị nhưng thiêng liêng siêu phàm theo phong cách hiện thực, chùa còn có các tượng thờ kích thước nhỏ hơn như tượng ông hổ, tượng Ngũ Hành Nương Nương, tượng Bổn Đầu Công.” (Địa Chí Bình Dương, 2010, tr.248) Theo lời kể dân gian, thời xưa, sau khi ngôi miếu ở phường Chánh Nghĩa bị hư hại, một số vị trong hai bang Quảng Đông và Sùng Chính đứng ra lo việc xây dựng lại một ngôi chùa mới. Các đại gia người Hoa ở Chợ Lớn lên chung tay góp sức phụ việc xây dựng. Họ rước cả thầy phong thủy từ bên Tàu qua để chọn cuộc đất tốt nhất để làm nơi cất chùa. Lúc đầu họ chọn khu đất nằm trên đồi cao bên dốc ông Cò, gần Tòa Bố nhưng không được chính quyền chấp thuận. Theo họ, đây là cuộc đất “Giao Long đắc địa”, Tòa Bố là đầu rồng, con đường Yersin là thân rồng nằm uốn lượn, khu đất nhà thờ là chân bên phải của rồng, do vậy họ chọn vị trí tốt còn lại là chân bên trái của rồng tức vị trí hiện nay. Mặt trước của chùa hướng về phía sông Sài Gòn. Có người giải thích rằng hầu hết các ngôi chùa Bà đều được xây dựng hướng về phía sông nước vì

Bà nguyên là vị nữ thần phù hộ cho những người đi biển.

Trước khi làm một việc quan trọng, hoặc đi xa, nhất là đi trên biển, người Hoa ở địa phương thường phải vào chùa xin keo, nếu được keo tốt thì họ mới đi, bằng không thì ở lại. Mỗi năm, các bang người Hoa họp lại để chọn một bang

lo việc coi sóc chùa. Sau rằm thì bang mới chính thức nhận bàn giao công việc từ bang cũ, từ đó trong năm có trách nhiệm phải lo toan mọi việc trong chùa như cúng vía Bà, tổ chức rước Bà du xuân... Hồi trước, trừ dịp rằm tháng giêng, còn lại quanh năm chùa vắng vẻ. Bọn trẻ con, nhất là lũ trẻ học trường tiểu học Nam Châu Thành ở sát vách, coi sân chùa như là sân chơi của chúng. Khi rảnh, chúng kéo tới nô đùa, đá banh, cười giỡn huyên náo mà chẳng ai la rầy. Ngày nay đã khác nhiều, suốt năm đều có người đi lễ, chùa trở thành chốn cho nhiều người đến buôn bán, sân chùa và ngoài cổng có nhiều sạp hàng bán nhang đèn, vé số, chim chóc cho ai muốn phóng sanh. Con đường nhỏ chạy ngang trước chùa với hai hàng cây cao tỏa bóng mát ríu rít tiếng chim và mấy đứa học trò nhỏ qua lại giờ cũng không còn. Cái hình ảnh tôn nghiêm và thơ mộng của chùa ngỡ mới còn như hôm qua mà giờ đã quá đỗi xa xăm./.

Chùa Bà Phú Cường

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 47

 

Thúy Đinh (tặng bằng hữu khóa 9)

Thế là một năm nữa trôi qua, một mùa mới lại đến, bình thường, không có gì thay đổi. Chỉ có những người ngồi kể cho nhau nghe chuyện buồn vui sau mười hai tháng là đổi thay. Tóc bạc màu đêm chơi vơi, tiếng đàn ai ngân vang không ngơi … Áo trắng sờn vai người ở lại … Giữa tháng Chạp, tôi về ngang, sân cỏ úa vàng hong hanh nắng khô. Cánh cổng im lìm khép hờ sau giờ vào học. Ngôi trường một thời dấu yêu của tôi và bạn bè bỗng dưng mà xa lạ. Những dãy phòng mới, văn phòng mới, những thầy trò mới. Một cành soan tây già cỗi cũng không còn. Trong tôi là nỗi nhớ đến sắt se lòng, khung trời kỷ niệm chìm khuất bên kia đời rồi. Gọi không ai đáp, muốn thưa không ai gọi. Tìm hoài cũng không thấy, một bóng dáng nào thân quen. Chờ mãi cũng không nghe, tiếng bước chân nào ngập ngừng ngoài cửa lớp. Mỗi năm, nhạt nhòa thêm một chút trong mắt nhìn mỗi người. Thật buồn. Có phải khi đi lại con đường cũ lòng cũng ngổn ngang trăm mối không nhỉ! Con đường mang tên mùa Xuân của thời tuổi trẻ xa lắc xa lơ. Con đường mùa Xuân của rộn ràng báo Tết mang đi khắp quê nhà. Con đường đầy thơ và nhạc giờ ra chơi bay trắng sân trường. Con đường dẫn lối vào Trịnh Hoài Đức Nữ, con đường đưa bước sang Trịnh Hoài Đức Nam. Con đường xuyên Lái Thiêu, qua Bình Nhâm, ngang chợ Búng, xuôi về Phú Văn, Bình Dương… Nhưng còn một con đường nhỏ đi vào trái tim một người thì dường như vừa đứt đoạn. Đôi khi tôi cũng tự hỏi thầm rằng, sao mà khó quá vậy. Khó như ngày còn bé tập những vòng xe đạp đầu tiên. Khó như bạn tôi muốn nắm bắt mây trên đỉnh núi Bà Rá mỗi chiều. Khó như những ngày dây liên lạc bị rơi xuống biển và sóng nước cuốn trôi mất biệt. Rồi những trái

tim ấy sẽ làm khó lại người khi máu không thông, mấy miền thất thất đó mệt mỏi ùa theo mà hành hạ. Như thế thì bình yên sẽ không còn nữa. Như thế thì mây trắng sẽ bay về trời bằng con đường ngắn nhất. Gần hơn đường từ nhà tôi đến trường ngày đó nữa, có phải thế không, cách tính ngu ngơ của học trò dở toán? Cuối tháng Chạp, tôi về nhìn thấy bóng mình lung linh trên bờ tường vôi mới. Nhìn thấy như trong sương mờ, dáng những thầy cô cũ ẩn hiện, đi qua khoảng sân nhỏ vào lớp. Như chiêm bao được ngồi lại chiếc bàn cạnh cửa sổ, hát một bài ca Xuân cuối năm với bạn. Có người bước ngang, vô tình nghe rồi cười… "Cứ mỗi lần hoa mai vàng trước ngõ là thôi em mong nhớ. Xuân này chàng có về? Hỏi hoa, hoa chẳng nói. Hỏi mây, mây lặng đứng. Hỏi gió, gió ngập ngừng…". Nhớ không, “Đan áo mùa Xuân” cũ… Nhớ giấc mơ tháng sáu được bay ngàn dặm qua trời xa hội ngộ với bạn bè. Hẹn hò đi dưới tán lá xanh vườn nhà Kim Nên. Dặn dò nhau lên Plano thăm thầy cô. Phải gom nắng Định Hòa cho ùa vào thềm nhà anh Diệp. Phải bất ngờ khám phá tư gia quan hai đốc. Phải nhẹ nhàng đày đọa người tình nguyện đón đưa cần cù nữa. Rồi cả bọn sẽ phá tan sự yên tĩnh nhà Bì….Cơn mê dài quá, nặng oằn nên chiếc cầu Ô Thước gãy nhịp. Tỉnh ra còn tiếc ngẩn ngơ. Nửa năm còn hụt hẫng, chân bước thấp bước cao quay về. Vậy là thêm một con đường dở dang chưa thênh thang rộng mở. Tôi xòe bàn tay không tìm thấy hướng đi nào tới đó. Thời gian bào mòn những nhánh ngang nhánh dọc, không còn chỗ để vẽ một ký ức tuyệt vời với đủ đầy gương mặt thân thương. Nên cứ miên man nghĩ và chậm chạp viết không thành văn những dấu ấn trong đầu. Cũng không biết từ lúc nào, tôi bỗng sợ cái thời khắc

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 48

 

cuối năm quá đỗi. Lạc lõng trên những chuyến xe đông người, mắt nhìn bị che khuất không thể thấy dòng sông nước lớn nước ròng. Không thấy ngã rẽ vào nhà thờ để tưởng tượng bóng một con chiên ngoan trên cung thánh. Có phải đó là con đường vô hình gắn kết hai nửa vô tình ở hai bờ đại dương ngút ngàn không nhỉ! Ngày tháng trôi khi chậm khi nhanh, lòng người lúc trầm lúc bổng, nỗi nhớ hết vơi lại đầy. Mỗi lần đặt tay gõ lên hai chữ mùa Xuân là mỗi lần tôi nghe như có tiếng ai nói cười lao xao, mơ hồ như từ cõi hư vô vọng về. Âm thanh đó bây giờ đang kéo ngược thời gian cho tôi đi lùi vào con đường quá khứ. Năm mươi năm và khóa 9. Năm-mươi-năm cho bạn bè nhìn nhau lớn lên, trẻ trung và cằn cỗi, thành đạt và thất bại…Nhưng mọi thứ không làm bận tâm bằng tần suất họp mặt. Cứ nhớ, cứ nhắc và có dịp trở về. Là tháng Mười Một gặp lại Bì ở nhà Nga, bạn tôi gầy thêm một chút, nhìn thương mà không nói nên lời. Đường trên mây bây giờ đã nối gần những miền đất lạ, nên tôi dặn mình, đừng nghêu ngao hoài…Ôi đường xa vạn dặm biết bao giờ gặp lại em… Rồi một ngày tháng Mười Hai đã đi lại con đường nối từ quốc lộ 13 cũ vào trường Nữ. Trong trái tim nhóm bạn A2 đã ngập tràn hạnh phúc. Ngỡ đang chân sáo bên cánh đồng lúa vàng, ngỡ đang giờ tan học tìm lá ép đề thơ. Ngỡ cô Hạnh đang cười trò nghịch ngợm, ngỡ thầy Liên đang cao hứng ngâm nga “ Màu Tím Hoa Sim”, ngỡ đang tranh nhau nghe thầy Cao đọc vận mạng của con người trên bàn tay nhỏ bé … Ngỡ ngàng với con đường thân thương mà xa lạ. Ôi con đường nhiều năm đón đưa biết bao nhiêu bước chân đi về … Ôi con đường học trò nằm ôm đầy kỷ niệm … Cuối cùng tôi ngồi lại chỗ của mình, trong ngôi nhà nhỏ, thu xếp lại những lối quanh co vừa theo mây gió vượt qua. Có chút sỏi đá tái tê, có chút rong rêu ngờ nghệch, có chút bụi tủi

hờn vướng víu. Tất cả gom cho đủ một mùa mới để dỗ dành mình, thôi cũng bình an. Thôi cũng nguôi ngoai những phiền muộn. Thôi cũng vững vàng bước xuống thêm một đoạn dốc nữa. Khoảng cách người dài ra, khoảng cách đời ngắn lại, cho nước mắt cạn dần, chỉ tiếng cười còn lại, với nhau, năm-mươi-năm. Đám bạn thân bây giờ gần gũi hơn, thương quý hơn nên mỗi năm đi về con đường cũ nhiều lần hơn. Muốn níu giữ nửa thế kỷ thân tình trong những bàn tay siết chặt. Muốn mỗi ngày là cuộc hội ngộ kéo dài không dứt. Chỉ chừng ấy thôi cũng đủ để thấy một chút nắng Xuân ấm áp ngày xưa tràn về.

Rồi sẽ hẹn nhau ở một nơi có hoa vàng tháng Giêng, trời xanh mây trắng. Nhìn gió vô hình lướt ngang, nghe nước róc rách chảy vào tận tâm hồn. Bình yên quá, con đường dịu dàng nhìn mỗi đứa chào nhau bằng nụ cười rất Tết. Tôi sẽ về Bình Dương, khoác áo mới cho mùa cũ để gọi tên trường xưa trong vô vàn thương nhớ. Sẽ đi chân trần trên cỏ tìm nghe lại tiếng dế bên bờ rào một ngày đông rất xa … Có phải tiếng dế gọi tên miền ký ức lạc mất tận cõi nào, quay lại, rồi

chia tay, thêm một lần nữa không? Hình như chú dế tái sinh mấy kiếp còn hiểu thấu lòng học trò, nữa là … Những con đường tạm khép lại, nỗi nhớ tạm ngủ yên trong ngăn kéo trái tim, mở ra, trên trang báo này là lời chúc an lành gửi đến tất cả bằng hữu Trịnh Hoài Đức. Hãy vui như những mùa Xuân xưa, hãy nhìn hiên thực bằng ánh mắt mộng mơ ngày đó, để quên đường trần gian truân chuyên hôm qua hôm nay… Thúy Đinh Tháng Giêng 2013

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 49

 

Lá Thư Quê Nhà

Nguyễn thị Tư

Xuân sắp về rồi các bạn mình ơi. Tờ báo xuân của trường mình lại bắt đầu cho những trang mới ghi đầy những tâm tư, tình cảm của mỗi người bạn cũ năm nào giờ còn đang phiêu bạt bốn phương trời. Bạn ở xa xôi chân trời, khi xuân về chắc sẽ nhớ nhiều về kỷ niệm ngày còn cắp sách, nhớ ngôi trường xưa quá đỗi thân yêu, nhớ từng khóm hoa, góc lớp ngày nào, nhớ từng bước chân của người bạn thương yêu hàng ngày cùng nhau đếm bước đến trường. Kỷ niệm về với bạn chắc êm đềm, đẹp đẽ, chất đầy mộng mơ của ngày tháng học trò. Ôi, biết bao là nhớ! Phần tôi, không phải cách trở xa xôi, không mịt mờ dịu vợi. Nơi nầy tôi kề cận với ngôi trường thân yêu ngày nào, xuân về lại đem cho tôi chút ưu tư, lặng nhìn ngôi trường với đôi mắt buồn và nhớ về những ngày xưa bên nhau mà luyến lưu bao kỷ niệm . Trường xưa vẫn còn đây, tuy đã đổi khác nhiều nhưng trong tôi, kỷ niệm vẫn còn in trong ký ức, trong khi bạn cũ thì mãi xa rời. Lòng mình cũng nghe chút gì nhớ nhung, ngậm ngùi… Xa xôi nhiều lắm, tình có phôi pha, kỷ niệm có nhạt nhòa… Xuân về, chút niềm nhớ nhung xin gởi trọn vào từng trang giấy, đôi hàng cho nhau để chốn xa xăm bạn sẽ chợt nhớ về người bạn năm nào nhiều thương mến của một thời áo trắng. Xuân đến, xuân đi rồi xuân lại về, nhưng cứ mỗi mùa xuân sẽ hằn lên đời ta biết bao đổi dời, nhiều trăn trở. Sáu mươi mùa xuân đi qua, nhìn lại, ta đã già mất rồi. Tâm hồn ta cằn cỗi như bụi tre già, nhưng trong cốt lõi của tâm hồn vẫn còn nguyên hình bóng một thời áo trắng thơ ngây của tuổi ngọc học trò. Nó vẫn lung linh huyền ảo, nhưng cũng lạc lõng giữa tuổi già của ta đang dìm sâu nó. Tết đến. Một năm mới về. Có gì đổi thay. Có gì còn lại, và có gì mất mát nữa không?.

Mùa xuân hoa nở. Khi hoa mai vàng và hoa đào chớm nở thì đã báo hiệu ngày Tết cận kề trên quê hương mình. Đó như là cái đặc biệt của quê ta. Nơi quê mình, dù ai bôn ba xứ người, giàu sang hay nghèo hèn cũng đều lo toan để đón Tết. Người xa quê thì sẽ lo quay về với gia đình trong mấy ngày áp Tết. Ai giàu có thì sắm sửa đủ đầy. Ai nghèo thì mua vài thứ đơn giản để cúng ông bà. Cái Tết luôn hiện hữu đậm nét trong tâm hồn mỗi người, chỉ có buồn hay vui là khác nhau thôi Bạn mình ơi, ở nơi xa đó, mãi bôn ba với cuộc sống hàng ngày, Tết đã về bạn có hay chăng? Hoa mai, hoa đào chớm nụ trên cành bạn đã biết chưa? Nồi bánh tét đêm giao thừa đang rực lửa chờ bánh chín để cúng ông bà bạn có hay không?. Ngày mai, mùng một Tết. Ngày sum họp gia đình. Con cháu sẽ mừng tuổi ông bà, bạn có nhớ không? Chúng sẽ có bao lì xì đỏ chót mà ngày nào tụi mình còn bé tí khoe với nhau ai được nhiều, ai ít. Chúng sẽ được mặc quần áo mới như chúng ta ngày xửa ngày xưa để hớn hở vui chơi với bạn bè trong ngày đầu năm. Giờ, tôi ngồi đây, nhìn đám trẻ con đang náo nức, nhìn mùa xuân về rực rỡ trên từng cánh hoa, nhìn thời gian trôi qua trên tuổi đời mình mà cảm giác sao héo úa, xác xơ, cằn cỗi ... Thôi không nuối tiếc, vì tre già cho măng mọc. Ngày mai tôi sẽ là đấng ông bà, ngồi chễm chệ trên ghế cao để cho đám trẻ sum họp về mừng tuổi thọ. Bọn trẻ bây giờ rộn rã làm sao!. Chúng mừng Tết tưng bừng hơn cái thuở của bọn mình. Bạn ơi, hãy hình dung lại những ngày xưa. Bạn sẽ nghe lòng ấm áp biết bao!. Hôm nay, Tết của quê hương đã về. Bạn có vui không?. Có muốn thăm nhau thì quá xa xôi cách trở, có muốn tìm nhau tay bắt mặt mừng chúc nhau ngày xuân mới cũng không thể. Chắc còn lâu lắm hoặc chẳng có bao giờ!. Bạn có nhớ mua cho mình một cành hoa mai hay hoa đào đem về sự may mắn đầu năm cho mình chưa?. Bạn có rước ông Táo hay rước ông bà ngày ba mươi Tết không? Bạn có đón giao thừa và hái lộc đầu năm khi đồng hồ báo hiệu đã sang năm mới?.

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 50

 

Bạn mình ơi. Tôi muốn nhắc cho bạn thật nhiều những tập tục ngày xuân quê nhà. Không phải là tôi sợ bạn quên, mà là tôi muốn cho kỷ niệm chúng mình thêm đẹp. Khi mùa xuân về nhớ bạn, nhớ ngày xưa, nhớ những tháng ngày bên nhau bên mái trường, nhớ một thuở học trò ngây ngô bên thầy cô ngày tất niên cùng đùa vui ca hát. Những giây phút đó còn đậm mãi trong tôi, làm cho lòng mình mênh mang xao xuyến. Tết. Từ ngữ bình dị có ý nghĩa là tiết trời. Nhưng với quê hương mình thì “Tết” chứa đựng bao nhiêu là hình ảnh rực rỡ của ngày xuân, lồng trong nó hình ảnh những ngày sum họp gia đình sau bao ngày xa xứ. Nó chứa bao câu chúc nhau đẹp nhất. Niềm vui, hạnh phúc, vui sướng, nổi buồn ... tất cả gói trọn vào đấy. Đã bao lâu rồi bạn chưa đón Tết trọn vẹn như thuở ấu thơ?. Bao lần bạn quên đêm nầy là đêm giao thừa?. Mùa xuân lại về, bạn có vui không? Ngày mai mùng một Tết đó bạn. Ngày mà từ xa lắc xa lơ bọn mình cùng rũng rỉnh trong bộ quần áo mới, chạy tung tăng trên con đường làng rợp bóng dừa với những tiếng cười giòn tan vô tư lự. "Ba ngày xuân", lời dạo đầu của ông bà ta khi muốn chúc nhau. Lời bình dị đáng yêu làm sao!. Vậy thì ba ngày xuân ta hãy chúc nhau nhiều hạnh phúc, luôn bình an, và niềm vui mãi đong đầy trong cuộc sống, để ngày tháng còn lại luôn mãi có mùa xuân. Bạn ở nơi xa hay cận kề trên quê hương mình, xin hãy nhớ dành cho nhau chút tình bạn thân thương, và luôn mãi nhớ bọn mình một thuở nào bên nhau dưới mái trường nhỏ bé, tuy nghèo nàn nhưng đậm tình thân thiết, để qua bốn mùa xuân hạ thu đông, ta vẫn dành cho nhau chút tình thân ái và nhớ nhung êm đềm. Xuân về trên xứ lạ, trong cái lạnh lẽo của tuyết trời nhiều băng giá, xin bạn hãy để vài phút hướng về quê hương yêu dấu và hồi tưởng lại những ngày xưa thân ái, khi còn ở quê nhà với những tình thương mến mà bạn bè xưa dành cho bạn. Bạn sẽ nghe lòng mình ấm áp biết bao!. Bạn mình ơi. Hãy chúc nhau cho tình bạn luôn mãi là mùa xuân bất tận, đầy hoa thơm, cỏ lạ, để cuộc đời còn lại đầy thi vị bạn nhé…

Vui cười

Trong chuyến du ngoạn Bắc Cali tháng 7/12, anh chị em cựu học sinh đã có dịp kể cho nhau nghe nhiều câu chuyện vui rất dí dỏm. Xin ghi lại vài câu chuyện đã nghe được trên đường:

Chuyện thứ nhứt do Từ Minh Tâm kể: Tại văn phòng một bác sĩ nhi đồng, có ba bà mẹ dẫn ba đứa con đi khám bịnh. Cô y tá hỏi đứa trẻ thứ nhứt:

- Cháu tên gì? - Dạ cháu tên Hồng. - Tên đẹp quá. Chắc mẹ cháu rất thích

hoa hồng. Quay sang đứa bé thứ hai, cô y tá hỏi:

- Cháu tên gì? - Dạ cháu tên Lan. - Tên đẹp quá. Chắc mẹ cháu rất thích

hoa lan. Đột nhiên bà mẹ thứ ba kêu con mình đứng lên và nói:

- Thôi mình đi về, Cu? Chuyện thứ hai do anh Luân Hữu Đức kể:

Tại cổng thiên đàng có một vị linh mục và một ông tài xế taxi đang chờ. Thánh Phêrô cho vị linh mục vào, chỉ cho ông ta một căn nhà nhỏ và nói:

- Đây là nhà của ông. Sau đó, thánh Phêrô dẫn ông tài xế taxi vào một căn nhà đẹp và nguy nga hơn căn nhà của vị linh mục nhiều và nói.

- Đây là nhà của ông. Ông tài xế mới ngạc nhiên hỏi:

- Thế tại sao tôi có căn nhà đẹp như vậy trong khi vị linh mục lại có căn nhà nhỏ xíu? Thánh Phêrô trả lời:

- Tại vì ông linh mục tuy tu hành rất tốt mà mỗi lần ổng giảng đạo thì con chiên ngủ gà ngủ gật. Còn nhà ngươi, lái xe ẩu lắm. Hành khách đi taxi của ngươi lúc nào cũng nhớ tới Thượng Đế và la lên: “Oh my God!!” liên tục…

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 51

 

T. Thúy (với áo trắng và tím xưa)

Cô ngồi thật im, đọc lại nhiều lần lá thư “Xin Giúp” do MT chuyển đến. Nỗi bàng hoàng cứ vây quanh cô, đốm lửa nhỏ trong tay bùng lên, thắp sáng một ngày tháng Mười kỳ diệu. Giống như chiêm bao, những ngày rất xa xưa bỗng dưng quay về cùng với những nhắc nhớ của người trăm năm cũ. Ký ức ngủ yên bỗng trở dậy. Những thước phim kỷ niệm hiện dần trong mắt cô, kéo cô đi ngược chiều gió, ngược đường đời, ngược thời gian… Để bắt gặp ở đó là áo trắng và khăn tím, một thời dịu dàng trong chiến tranh. Là câu chuyện có khởi đầu mà không kết thúc, sáng long lanh như hạt sương trên ngọn cỏ sân trường THĐ mỗi sớm mai đến lớp. Là áo xanh rong ruổi cả một thời tuổi trẻ đầy nhiệt huyết để mang bình yên làm quà cho cô, chở che cô, đưa cô đi qua những ngày khói lửa đau thương. Có lẽ THĐ không biết, mọi người không ai biết ngoài cô, tím đã từng ở đó, ngược xuôi những ngày trường học đóng cửa. Mùa xuân loạn lạc năm ấy đã cuốn chân tím miệt mài khắp nơi. Tầm nhìn bị che khuất dù cô vẫn đỏ mắt dõi theo màu khăn tơi bời lộng gió đường xa. Quan lộ thênh thang đã được đổi bằng máu và nước mắt, đã không cầu được phép lạ để nối lại một dây tơ sắp đứt. Ngày đó áo trắng cô đã lạc lõng đi về, bỏ mất cơ duyên đang chờ đợi. Ngu ngơ nên buông tay, rơi tình thơ xuống bờ cỏ dại ven sông. Và cô trở thành hạt bụi nhỏ nép mình bên con đường mòn, vụng về giấu giữa hai tay những lời nguyện nghẹn ngào và cay đắng. Cũng đôi ba lần gặp lại khi tím về ngang lộ mười ba. Vội vã chào thăm, vội vã bay đi, để lại khoảng trống mênh mông đầy nước mắt. Không ai ngăn được nỗi buồn giùm cô. Không ai thông hiểu được cõi sầu riêng cô. Bạn bè mỗi đứa ôm một mùa thi nặng trĩu, không còn sức để san vai với cô nâng giúp cây tình xanh nghiêng ngả vì

giông bão. Giữa tím và cô dưng không có một bức tường quyền lực ngăn cách. Tuy vô hình mà hiện thực, tuy âm thầm mà mạnh mẽ. Bởi thế nên tự nhiên mà xa, tựa như chiếc lá rơi trên thềm nhà chiều cuối năm lặng lẽ. Lâu lắm rồi, mỗi người như những mảnh vỡ, nói theo kiểu bạn tím, trôi khắp năm châu bốn bể. Còn cô, mảnh vỡ vướng vào đám lục bình ở lại dòng sông cũ. Dòng sông như đứng yên không có chỗ cho nước chảy qua nên cô cũng mục rữa không hay. Bao nhiêu lần về ngang, một chỗ ngồi lẻ loi, tìm hoài không thấy bên ngoài cổng trường. Những dấu chân ngày xưa không còn in trên cỏ nữa. Những bóng khăn tím mờ ảo không còn bay trên đồi Thiên Tôn nữa. Thật xưa, như chuyện cổ tích nghe bà kể hồi còn bé xíu. Cô vẫn nâng niu để giữ làm vốn mang theo đến cuối đời này. Vậy mà cô bỗng được nhận ra từ nơi rất xa. Như giấc mơ nào ở thế kỷ trước thường đến với cô, nhẹ nhàng, hư ảo lắm. Như đứa bạn thân mở to mắt nhìn, ngạc nhiên tưởng đùa. Hãy nói giùm tôi, hãy thở giùm tôi… Hãy là mưa mù đường lá cỏ cho gót chân êm ái quay về. Hãy ru cô bằng nỗi thinh lặng vời vợi bao năm qua. Hãy để dòng lệ chảy ngược vào tim trào dâng một lần, nhiều lần, gọi tên mùa Xuân cũ. Nghẹn ngào những dòng thư tìm thấy, có phải giấc mơ được kéo lên từ đáy sông xưa không. Rũ bỏ bùn đất rong rêu hiện nguyên hình áo trắng và màu tím rất riêng, dành cho cô đó thôi. Vẫn chân tình, vẫn nhẹ nhàng, vẫn không thể lẩn vào đâu lời tím êm như khúc tình buồn. Chiếc cầu nối hai bờ vui, mỗi người đứng ở hai đầu ngút ngàn, chôn chân không bước qua được nữa. Nên cô đặt tên là chiếc cầu định mệnh, cứ như Thượng Đế đã sắp sẵn từ muôn đời muôn kiếp trước. Dù không hàn gắn được

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 52

 

hai mảnh vỡ nghiệt ngã đó, nhưng vết thương lòng cũng được xoa dịu. Có những chuyện hôm nay mới biết, mới hiểu ra nên trong nước mắt đã bỡ ngỡ môi cười trân quý. Bây giờ là mùa Xuân trên quê hương nhỏ bé nghèo nàn. Những ngày có nắng vàng, màu của hoa mai, hoa cúc nở khắp các nẻo đường đi về. Trên bảng tên trường cũ cô nhìn thấy mấy chú chim sẻ nhảy nhót vô tư mừng vắng lũ học trò tinh nghịch. Nhớ quá, một thời có tím đứng đâu đó chiều chiều đăm chiêu gánh trọng trách nặng vai. Xa rồi, một thời bạn bè tung tăng sách vở hiền ngoan với áo trắng tóc dài. Thương lắm, bàn ghế bảng đen phấn trắng và thầy cô. Làm sao bơi ngược hoài dòng thời gian để sống lại năm tháng tuổi trẻ đó. Rồi cô sẽ hụt hơi, ngoi lên hay chìm xuống giữa muôn trùng sóng nước. Cô biết và nơi ấy tím cũng biết, không còn bao lâu nữa tất cả sẽ trở thành hư vô như bốn câu thư pháp vừa mới nhận: Trăm năm trước thì ta chưa gặp Trăm năm sau biết có gặp lại không Cuộc đời sắc sắc không không Thôi thì ta hãy hết lòng với nhau… Hai bàn tay đan kín, giữ không cho rơi một tấm lòng còn lại cùng cô. Ngày tháng giờ trôi nhanh đến không ngờ, cô bỗng sợ một mai thức dậy, thảng thốt thấy không còn nhận tin về và gởi tin đi. Chừng đó thôi cũng đủ làm cô không muốn đón thêm mùa Xuân này nữa. Cô không thích cộng tuổi mình và tím ra ba con số. Phải đứng yên như xưa, hai số cách nhau thật dễ thương để cô mãi được gọi là cô bé áo trắng mà thôi. Nếu tình cờ tím đọc được đoản văn này, sẽ hiểu vì sao cô không thể thoát ra khỏi lối mòn, không thể bước đúng đoạn đường mới được. Quả thật khó khăn với cô ngay từ lúc phải im lặng một mình cùng nỗi đau vời vợi thuở đó. Những câu hỏi vọng về làm lung linh trời cũ đất cũ, như trở về đứng trên thềm nhà ngày giáp Tết năm nào chờ bước chân của tím quay lại. Cũng đành gọi tên mùa mới như mọi người xung quanh, cô nhủ thầm, có một mùa thế đó, vừa đến. Buồn vui hòa vào nhau thành những khúc tình ca vang mãi trong tim. Ở một nơi có tím, sắc màu lộng lẫy. Ở chỗ cô là thinh lặng thở dài. Nhưng không sao đâu, còn phải cảm ơn

cuộc đời đã cho mỗi người, chút khói hương hoài niệm, chút tâm tư dàn trải, đủ mừng mà sống. Một thời xuân xanh tím và trường học, Trịnh Hoài Đức ơi! Đừng quên nhé! Áo trắng -Mùa Xuân - Tím không phai … không phai.

Thơ

Ôi năm tháng giờ như tờ giấy mỏng gió vô tình cuốn mất giữa hư không nhìn lại nửa đời, chìm trong ảo mộng nắng vật vờ soi một kiếp long đong người qua đó sao mờ sương khói quá chắc không nghe vỡ vụn tiếng xuân cười chưa thấy chút vàng son ngày đã lạ áo mới chưa thay đã hết một thời còn đây dáng mây chiều giăng phố cũ có con đò lạc bến đứng trên sông soi đáy nước tìm hình nhân xứ Thủ chợt ngỡ ngàng năm mới đến như không trường xưa đợi ai về ngang gõ cửa gọi tên nhau bóng xế rủ ngang đầu sân cỏ trước thềm chờ muôn niên nữa áo trắng chao nghiêng dấu ấn nhiệm mầu ngày không thấy đêm ơ hờ đón Tết nắm trong tay một chữ lộc chiêm bao câu chúc phúc dành cho đời mỏi mệt trọn kiếp mơ hồ thọ cũng hanh hao. T. Thúy

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 53

 

Nguyễn Kim Nên

Những ngày đầu mùa Thu mưa rơi tầm tã. Dưới gốc cây tường vy trước sân nhà nàng rơi đầy những chiếc lá màu vàng nâu, mình sũng nước nằm chết ướt lạnh cô đơn. Trên con đường dẫn đến sở làm sáng thứ bảy cuối tuần thưa vắng xe cộ, mưa vẫn rơi những làn nước sáng loáng dưới ánh đèn xe đang chảy vội bên đường … Bất chợt nàng nhớ về ngày tháng cũ với những dòng sông của một quê hương quá xa vời.

Nhớ con sông nhỏ chảy ngang làng quê hẻo lánh Bến Súc chỉ còn lại một chút nhung nhớ hình ảnh hai cha con nàng trên chiếc thuyền con qua sông năm nào. Đây sông Sa Đéc, Lấp Vò nhiều kỷ niệm. Chiếc cầu khỉ bắc qua con kinh nhỏ trước nhà bà cố, đối diện bên kia đường là trường trung học Thoại Ngọc Hầu(1). Nhớ những trưa hè được nằm ngủ trưa trên căn nhà sàn đưa mắt nhìn qua kẽ hở thấy được cả ruộng lúa xanh bao la bát ngát. Dòng An Giang chạy quanh khúc cù lao ông Hổ xanh tươi cây trái, nơi yên nghỉ ngàn đời của ông bà bên họ ngoại. Nhớ Bà Cố, người sống gần trăm tuổi để đặt tên cho nàng. Nhớ mắm Châu Đốc. Nhớ chuột đồng ướp muối xả ớt chiên dòn. Nhớ bánh tằm bì… Nhớ ơi là nhớ.

Bên kia bờ sông Bình Dương trong thời

chiến luôn luôn là vùng đất bí ẩn với nàng. Chưa bao giờ nàng được đặt chân đến. Nó có một cái gì đó không yên ổn và xa xôi quá. Nàng có thể nhìn được vài mái nhà ngói lá đơn sơ

nằm an phận bên bờ sông. Những đêm về dưới ánh đèn dầu leo lét, ai đó nghĩ gì khi nhìn qua sông chợ Bình Dương tràn ngập ánh đèn màu. Nhớ người bạn học có mái tóc dài đen mượt với chiếc kẹp ba lá đơn sơ. Nhớ làn da mặn mà dễ thương làm sao ấy.

Nhớ đêm chợ Tết, hai đứa bạn gái quấn quýt bên nhau dạo phố cuối năm chợt thấy lòng vẩn vơ buồn … Sang năm biết có còn ông già bán hoa Tết bên bờ sông?… Cũng bờ sông này với cây cao bóng mát đã từng ôm ấp những hình bóng áo trắng học trò vui tươi hồn nhiên, chở nhau trên những chiếc xe đạp chạy tới nhà Thanh Diệu theo đường Ngô Quyền hay chạy qua ngã tư “Piscine” rẽ vào xóm Giếng Máy đến nhà Phúc Hậu họp nhau làm bích báo Hoa Nắng.

Con sông Bình Dương chảy vào nhánh sông nhỏ… Qua chiếc cầu đi về xóm Lò Heo, hướng về Cầu Ngang cạnh trường trung học Nghĩa Phương. Dòng nước đau buồn chảy qua khu phố Tàu để rồi hấp hối chảy đến cầu Võ văn Vân nơi xóm nhỏ nhà nàng. Nhớ con nước ròng trốn nhà rủ nhau vớt cá lìm kìm chơi. Nhớ những ngày nước lớn ôm bè chuối bì bõm tập lội cho đến một chiều thứ bảy cái miểng chai bể dưới đáy sông cắt đầu gối nàng máu chảy lênh láng làm cả xóm làng xôn xao… Từ đó ba nàng cấm không được tắm sông nữa.

Nhớ hàng dừa xanh nằm đưa mình trên dòng sông nhỏ gần chợ Búng. Tàng cây che bóng nắng hè tạo thành những hoa nắng đong đưa trên chiếc thuyền con nằm an bình hòa nhịp đàn giọng hát trầm ấm của anh Mạnh, nam sinh Trịnh Hoài Đức năm xưa. Dư âm như vẫn vương vấn đâu đây, còn người ở phương nào? Trên chiếc cầu Bà Hai vài cô học trò áo trắng ngây thơ đang đứng chờ chuyến xe về.

Nhớ chiều nào trên sóng nước bao la Vĩnh Long, chiếc thuyền ba lá chở đám nữ sinh xứ Thủ về thăm quê Ngoại. Căn nhà “hương hỏa” của Ngoại nằm cạnh bờ sông, phía sau là nhà

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 54

 

sàn. Bên kia bờ sông là khu vườn xanh tươi trù phú. Ngoại bảo bên ấy đất bồi bên mình đất lở … Bên hông nhà Ngoại có cây mận trắng. Nhớ dòng sông Cần Thơ với bến Ninh Kiều một lần ghé thăm nơi nàng mở mắt chào đời.

Nhớ tuổi ấu thơ bao lần nắm tay mẹ qua đò Thủ Thiêm. Nhớ sông Sài Gòn đẩy đưa con tàu mang nàng đi xa thật xa rời quê hương một buổi sáng mưa rơi, ... Một mất mát đau thương trong cuộc đời.

Đêm trên sông Hương gió đưa nhè nhẹ, người con gái Huế đôi tay mềm mại nhịp đểu khua tách hát ca. Sông Hồng nhưng tình không nồng thắm, nhớ quê chồng nàng bỡ ngỡ bước chân đi.

Nhớ dòng sông Seine(2) đôi lần gặp gỡ những ước vọng bay xa còn lại và những hoài niệm khó quên bên dòng sông Thames(3) phủ sương mù. Chúa vẫn bao dung giơ tay đứng chờ bên bờ sông Tagus(4), Lisbon … Nàng vẫn suy tư cho một kiếp con người.

Những dòng sông nàng đã đi qua trong cuộc đời tạm bợ. Sông nhớ sông quên, bên lở bên bồi như tình người phiêu bạt trở về tìm chốn cũ dãy nhà bên bờ sông đất lở của bà Ngoại đã biến mất theo thời gian chỉ còn trơ trọi cây mận già cô độc đứng bơ vơ giữa độ Xuân về. Ghi chú: (1) Trường Thoại Ngọc Hầu ở tỉnh Long Xuyên (2) Sông Seine ở Paris nước Pháp (3) Sông Thames ở Luân Đôn nước Anh (4) Sông Tagus ở Lisbon nước Bồ Đào Nha.

Thơ

ngày xuân xênh xang áo mới em đi hái lộc - lễ chùa

ngày xuân có ta ngóng , đợi rộn ràng một nhịp guốc khua

vàng xuân rắc nắng lưa thưa thẫn thờ rêu xanh mái ngói vườn xuân lá hát đung đưa

cỏ hoa dâng lời mời gọi

ngỡ như trong gió khẽ lùa tóc bay và hồn bối rối

ngỡ như trong phút giao mùa có mắt nhìn nhau không nói

ngày xuân rồi qua rất vội em đi quên tuổi trăng rằm

còn ta mãi hoài ngóng , đợi vô tình nhịp guốc mười lăm

Vũ Ngọc Giao

( học trò “rể” lớp A2, khóa 11) 

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 55

 

Trương Thị Huê Mỹ

Tuổi học trò thì biết bao nhiêu là kỷ niệm mà lúc bóng ngả xế chiều rồi mới thấy quí báu và trân trọng ... vô cùng. Hình như khi gặp lại bạn bè đồng trang lứa thì mình quên phéng đi mất tuổi tác, cứ mày mày tao tao nghe sao thân thương quá! Tất cả những gì tồn đọng chất chứa trong mấy chục năm qua như chực chờ bùng phát. Thôi thì mạnh ai nấy nói, ai nghe được thì nghe, cứ như một đám trẻ con mẫu giáo. Như có được một ngày quên đi lo toan việc gia đình, quên đi gương mặt "hình sự" với chồng con và được dịp thổ lộ nỗi lòng bị dâu con ăn hiếp. Ôi thôi đủ thứ chuyện trên đời ... để trở về tuổi thơ học trò, dù giờ tóc đã hai màu rồi. Một đứa bạn từ phương xa về, để huy động được khoảng 15 tên cùng lớp P1 (Pháp văn) ngày xưa cũng vất vả lắm. Nhưng khi gặp được nhau rồi thì lại nuối tiếc sao thời gian đi nhanh quá! Có đứa từ khi rời ghế trường Trịnh Hoài Đức giờ mới gặp lại nhau, trừ những tên cá biệt (lưu danh sử sách) thì những em còn lại phải tự khai báo và phải kể một kỷ niệm hồi đi học để chứng tỏ hàng thứ thiệt không phải mạo nhận made in THĐ ... Vì bạn D. ở xa về nên có cớ vừa thân mời vừa cưỡng bách kể cả chửi rủa mới quy tụ được một số mỹ nhân của nửa thế kỷ trước. Các nàng giờ thì tuy có hơi móm mém chút đỉnh nhưng cũng còn duyên lão lắm... Mà 40 năm về trước cũng biết bao anh hùng bên trường nam cũng đã từng "phơi thây" nơi quán đậu đỏ bánh lọt của bà Ba đầu chợ Búng. Nơi ấy đã phát sinh biết bao mối tình đẫm "nước đá si rô". Đó là bí mật của giai nhân & tài tử THĐ. Thấy các bà mẹ "Việt Nam anh hùng" tề tựu đông quá nên má bạn D. bèn phải lên chùa tá túc một ngày nhường nhà lại cho con gái tiếp bạn hiền ... Thế là tha hồ quậy ... Vừa làm bếp vừa nhắc lại kỷ niệm thời son trẻ. Trong khi các "ngoại" giao lưu, mình tranh thủ chụp vài cái

hình làm kỷ niệm cho cháu con khi khuất núi. Thấy chụp hình, ngoại nào cũng nhao nhao lên: "Ê!, mầy chụp cho tao đẹp đẹp nha". Lúc đó mình bảo: "Giờ phút nầy còn sống để mà gặp nhau là hạnh phúc lắm rồi, chứ biểu làm cho đẹp thì chắc không được đâu". Thế là bị tụi nó chửi rùm lên. Thôi thì khỏi nói, giống như cái chợ chồm hổm ... Đến giờ ăn thì điểm danh theo ABC như hồi đi học, tới đứa nào thì phải la lên. Những đứa cùng lớp mà đã qua đời cũng kêu về nhậu luôn. Điểm danh thấy cũng đã rơi rụng mất 4-5 tên. Khi đọc đến tên đó, cũng có vài giây lặng đi. Ai cũng cùng một ý nghĩ buồn thương cho bạn và cũng thầm sợ cho chính mình nhưng chẳng ai dám nói ra điều đó ... Cuộc vui nào cũng thoáng có nỗi buồn ẩn trong đó ... Ngày xưa gặp nhau thì hớn hở khoe quần áo, thời trang nầy nọ. Còn giờ nầy thì chỉ để thở than về bệnh tình... Vậy mới biết già trẻ khác nhau ở điểm đấy phải không các bạn ? Rồi cũng đến lúc phải chia tay. Thời gian qua nhanh quá không kịp vơi hết nỗi lòng... Ai cũng nuối tiếc những giây phút hiếm hoi. Ra về mà trong lòng mỗi người đều đọng lại một chút gì đó ấm áp mà thân thương. Đó chính là TÌNH BẠN tuổi học trò không gì thay thế được... Đừng bỏ qua một cơ hội nào để gặp lại bạn bè khi có thể các bạn nhé, để khi mất nhau rồi đỡ phải hối tiếc... Noel 2012

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 56

 

Từ Minh Tâm

Năm 1959 tôi học mẫu giáo tại ngôi trường nằm trước Nhà Thờ Phú Cường. Trường có hai lớp, một lớp nam và một lớp nữ (sau nầy trường đổi thành trụ sở Ty Thanh Niên). Năm sau, tôi được chuyển lên học lớp năm trường tiểu học Nam Châu Thành – Bình Dương. Chương trình tiểu học lúc đó có năm lớp. Mới vô học lớp năm, sau đó lên lớp tư, ba, nhì, nhứt thì thi tiểu học và chuyển qua trung học.

Trường Nam Châu Thành nằm trên đường Bác Sĩ Yersin, gần Ngã Sáu. Phía trước trường, trên đồi cao là Nhà Thờ Phú Cường. Phía sau là Chùa Bà Thiên Hậu. Bên hông trái của trường là một đường nhỏ tên là đường Nguyễn Du. Đường nầy dẫn vào trường Nữ Châu Thành và nếu đi tiếp thì sẽ tới Quốc Lộ 13 hướng về phía Nhà Ga Xe Lửa.

Trường nằm trong một khu đất rộng. Giữa trường là một sân tráng xi măng sạch sẽ. Hai bên là hai dãy lớp học cách nhau khoảng 40 mét. Trước các lớp học có trồng cây tạo bóng mát nhưng cây không lớn lắm. Những cây nầy có hoa màu vàng, vào mùa hè sẽ nở hoa rất đẹp.Mỗi dãy có 6 lớp được xây bằng gạch lợp ngói. Nền lớp được xây khá cao so với sân trường. Vách tường quét vôi màu vàng kẻ chỉ màu nâu. Trần lớp học được sơn màu trắng. Phía trước nối liền hai dãy lớp là một hành lang có mái che. Giữa hành lang là lối vào. Bên tay phải hành lang là văn phòng. Trước văn phòng có treo một cái trống. Phía ngoài, gần đường là hàng rào xi măng và cổng sắt. Phía sau gần tường rào với Chùa Bà là dãy nhà vệ sinh. Bên trái, trong cùng, là nhà của ông lao công, một

hồ nước, và một cái miễu nhỏ, không biết thờ ai.

Đây có thể là trường tiểu học lâu đời nhứt của tỉnh nhà. Tôi không biết trường xây khi nào nhưng khi tôi vào học năm 1960 thì có thể trường đã được xây khoảng 50-60 năm trước rồi. Trường cũ lắm. Trần nhà có khi bị tróc vữa. Gạch lót nền thì mòn nhẵn có khi bị tróc mất. Nhà vệ sinh thì hư và nghẹt hoài nên không được sạch sẽ cho lắm. Phía ngoài, quanh trường, ở phía sau chùa Bà hay trên đồi nhỏ của Nhà Thờ Phú Cường lúc đó cây cối còn rậm rạp, um tùm. Ngoài ra, do trường ở sát vách Chùa Bà nên tới rằm tháng giêng thì bên chùa ồn ào, chiêng trống khiên cho việc học hành bên đây cũng khó. Thử hỏi bạn làm sao học cho vô khi tiếng trống cù tùng xèng đầy hấp dẫn ở bên kia?

Về Ban Giảng Huấn, theo tôi biết, trước khi tôi vào học thì hiệu trưởng của trường là ông Đốc Lưỡng (Nguyễn văn Lưỡng). Còn lúc tôi vào học khoảng thập niên 1960 thì hiệu trưởng trường Nam những năm 1960 là thầy Nguyễn văn Mãn. Tôi học lớp năm với thầy Thủ. Lúc đó học trò chỉ biết tên thầy chớ ít khi biết họ. Những thầy khác đã dạy ở trường Nam và có nhiều người biết là thầy Răng, thầy Hạc, thầy Que, thầy Phúc, thầy An, thầy Sử, thầy Thơ, thầy Nhơn, thầy Xuân, thầy Thu … Trong số các thầy nầy thì thầy Hạc, thầy Răng, thầy Nhơn ... tương đối nổi tiếng hơn vì quý thầy rất khó và phạt học trò rất nặng. Thầy Nguyễn Trung Thu cũng có nhiều người biết vì thầy rất đẹp trai, đàn hát giỏi và là con của ông đốc An

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 57

 

(Nguyễn văn An - Hiệu Trưởng Trường Tư Thục Văn An ở Ngã Sáu). Sau nầy thầy Thu lên làm Thanh Tra Tiểu Học.

Giờ học ở trường chia làm hai ca. Những lớp lớn học buổi sáng từ 8-12 giờ. Lớp nhỏ học buổi chiều từ 1-5 giờ. Học hai tiếng thì ra chơi 10 phút. Học trò đi học mặc đồng phục quần cụt màu xanh, áo trắng bỏ vào trong quần, mang phù hiệu trên túi áo. Khi nào đi lễ hay đi tuần hành ngoài đường phố thì trường phát cho một cái mũ beret màu xanh dương và một khăn quàng màu vàng viền xanh. Tôi học buổi chiều. Tuy học lúc 1 giờ mà hơn 12 giờ đã tới trường nhưng tôi không vô học liền đâu mà còn la cà mua quà bánh lặt vặt do những người bán dạo ở trước cổng như cà rem, me ngào đường, kẹo kéo ... Mấy ông bán cà rem, kẹo kéo hay có bàn quay số. Nếu quay trúng số lớn thì sẽ được 2-3 cây ... Ngoài ra còn có những người bán đồ chơi, hình, sách truyện cũ ... Tiền lúc nầy rất có giá, tôi nhớ lúc đó còn xài tiền năm cắc và một đồng.

Đúng 1 giờ, tiếng trống thùng thùng báo hiệu giờ vào học. Lớp của tôi nằm tuốt bên trong, gần nhà của ông lao công. Trong lớp, trên vách tường cao trước mặt học sinh có treo hình của tổng thống. Phía dưới là bảng đen dài. Trên góc trái của bảng có ghi sỉ số và số học sinh nghỉ học. Giữa bảng là hàng chữ: Thứ Hai ngày , tháng , năm 1960. Bên trái là bàn làm việc của thầy. Trên bàn có sổ điểm danh và sách vở. Hai bên vách tường thường có những lọ trầu bà làm bằng những bóng đèn cũ đổ nước vào và treo trên tường. Tường phía sau có một số câu khẩu hiệu như: Tiên học lễ, hậu học văn hay Công cha như núi Thái Sơn - Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra ... Đôi khi lớp học còn trang trí bản đồ Việt Nam nữa. Bàn học sinh là những bàn dài. Ghế cũng vậy. Đó là những băng ghế. Mỗi bàn có thể ngồi được 5 đứa. Lớp có hai dãy bàn, mỗi dãy có 5 bàn dài như vậy mỗi lớp học lúc đó có khoảng 50 học

sinh. Mỗi ngày, thầy phân công một tổ làm vệ sinh. Lúc đó chúng tôi phải vô sớm để quét lớp cho sạch.

Năm lớp năm chúng tôi học tập đọc, tập viết, toán. Sách tập đọc có hai cuốn: Nửa năm đầu thì học vần và nửa năm sau thì học đọc. Trang bìa sách học vần có hình cây đèn dầu và có hai câu: “Sách quốc ngữ - Chữ nước ta” hai bên. Tôi nhớ hình như học trò lớp năm bắt đầu học hai chữ i và t chớ không phải a, b như bây giờ. Học viết thì có tập kẻ hàng đôi và viết bằng viết chì. Chữ tập viết đầu tiên là chữ i. Học toán thì có bảng đen nhỏ. Làm toán xong thì giơ lên cho thầy coi có làm đúng không. Học hết lớp năm thì đã có thể đọc báo được rồi.

Năm lớp tư chúng tôi tiếp tục học Toán, Tập Làm Văn, Học Thuộc Lòng, Thủ Công, Hát. Lúc nầy học trò bắt đầu dùng tập kẻ hàng chiếc, bao bằng giấy và có dán nhãn. Chúng tôi cũng viết bài bằng viết mực. Em nào cũng phải có một cây viết và một bình mực (loại không đổ). Khi viết thì chấm mực vào bình để viết. Mực viết thường có màu tím hay xanh dương. Khi nào mực hơi nhiều thì chậm bằng tờ giấy chậm (hay dùng phấn trắng để lăn qua, phấn sẽ hút mực dư). Do đồ dùng nghèo nàn như vậy nên bình mực có khi bị bể, nứt ... làm dơ tập. Lúc đó chúng tôi sẽ bị ăn đòn. Tôi đã bắt đầu biết đọc truyện tranh và các truyện ngắn hay tạp chí xuất bản hàng tuần như Măng Non và Tuổi Trẻ mua ở nhà sách Phát Anh. Giá bán mỗi cuốn là 1 đồng (Măng Non) hay 2 đồng (Tuổi Trẻ). Báo Tuổi Trẻ lúc đó có chuyện Tây Du Ký bằng tranh rất hấp dẫn. Sách truyện khác thường chỉ có 8 trang trích dịch từ truyện Một Ngàn Lẽ Một Đêm, Lucky, Tin Tin ... Sau nầy có chuyện xứ lùn Xì Trum, Tí Hon Thần Lực ...

Năm lớp ba học nhiều môn hơn: Đức Dục, Công Dân, Cách Trí (Vạn Vật), Sử Ký, Địa Lý, Chánh Tả, Tập Làm Văn, Toán, Thủ Công, Hát ... Do học nhiều môn nên một cuốn tập 100 trang thường được chia ra hai phần để chép bài

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 58

 

cho hai môn. Cuối giờ học, cả lớp chúng tôi thường phải đọc cửu chương: “Hai lần một là hai, hai lần hai là bốn ...”. Lúc này chúng tôi đã biết viết khá rành rồi. Tới mùa Noel và Tết thì chúng tôi đã biết mua thiệp và viết vài chữ để gởi chúc nhau với bạn bè.

Một bài học thuộc lòng hồi học lớp ba là bài Luật Đi Đường, chắc bạn còn nhớ tới nay là:

“Ngoài đường xe chạy dập dìu Em nên cẩn thận sợ nhiều rủi ro Đi tay mặt mới khỏi lo Muốn băng qua lộ mắt nheo ngó chừng Ngắm xem sau trước ân cần Thấy xe sắp đến thì đừng chạy qua Đôi khi xe trước vừa qua Xe sau chạy tới mà ta không ngờ Ngã tư xem xét bốn bề Xe to xe nhỏ sắp kề cận ta…”

Năm nầy, trường thiếu lớp học nên phải học

thành ba ca. Ca một từ 6-10 giờ sáng. Ca hai 10-2 giờ trưa. Ca ba từ 2-6 giờ chiều. Học ba ca rất cực. Nhóm sáng thì phải dậy sớm. Nhóm trưa thì đói bụng. Nhóm chiều thì về nhà quá tối.

Kỷ niệm mà tôi nhớ nhứt là vào năm lớp ba, các trường trong tỉnh cùng nhau tổ chức Tết Trung Thu. Chúng tôi thi nhau làm lồng đèn và tới chiều ngày Rằm Tháng Tám thì cùng nhau hội ở trường Nam Châu Thành. Sau đó đoàn học sinh các trường đi diễn hành vòng quanh thị xã. Đó là một đêm thật thanh bình và thật vui. Không biết ngày nay, ở Việt Nam các em nhỏ có được ăn Tết Trung Thu như vậy không?.

Năm lớp ba tôi học cô nhưng tôi quên mất cô tôi tên gì. Cô không khó lắm nhưng cũng có một cây thước để gõ trên bàn khi nào lớp mất trật tự. Em nào quậy quá thì cô bắt quỳ gối trước lớp, hay có khi quỳ ngoài hành lang. Có lần cô phạt khẻ tay một bạn kia. Về nhà bạn ấy mét ba má. Hôm sau, má của nó vào trường gây

sự khiến cho cô tôi cũng hơi vất vã để giải quyết.

Qua năm lớp nhì thì do thiếu lớp, chúng tôi bị chuyển vào trường Nam Chi Nhánh (kế bên một biệt thự làm văn phòng Ty Giáo Dục, gần ngã ba Cây Sao Quỳ - sau nầy biệt thự nầy là văn phòng Quận Châu Thành). Ngoài học sinh từ Nam Châu Thành đến học, tôi còn thấy có những lớp cao hơn của một số anh chị học trung học vì trường nầy hình như là Trường Bán Công lúc đó. Học lớp nhì chúng tôi đã viết bằng viết máy. Những hiệu viết nổi tiếng là Parker và Pilot. Loại nầy xài rất tốt và lâu hư nhưng rất mắc tiền nên tôi không có tiền mua mà chỉ mua loại viết máy của Đài Loan hiệu Tatung. Loại viết nầy xài rất mau hư vì làm bằng chất dẽo cứng và dễ nứt. Hàng nội hoá của Việt Nam lúc đó cũng chưa sản xuất được cây viết máy.

Năm lớp Nhì, tôi học thầy Bình. Các môn học gồm Cách Trí, Sử Ký, Địa Lý, Toán, Luận Văn ... Lúc nầy mỗi tuần phải làm một bài luận. Khi thì tả đồ vật, khi thì kể chuyện ...

Tôi học lớp Nhì B. Có một lần thầy Bình bận việc gì đó trên văn phòng. Lớp không có ai quản lý nên chạy nhảy lung tung, ồn ào như cái chợ. Thầy Nhơn dạy lớp Nhì A kế bên qua bắt mỗi đứa xoè tay ra khẻ một khẻ đau điếng. Có chạy nhảy hay không đều bị phạt như nhau. Bị phạt một lần thì tởn tới già ...

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 59

 

Năm lớp Nhứt, tôi học thầy Vân. Chúng tôi chú tâm học ba môn chánh là Câu Hỏi Thường Thức, Toán và Luận văn. Tôi nhớ rõ trong phần Câu Hỏi Thường Thức có môn Sử Ký mà bài đầu tiên có tựa là: “Lê Chiêu Thống cõng rắn cắn gà nhà”. Tựa bài rất bình dân nhưng làm mình nhớ hoài về một việc làm nhục nhã của một ông vua thời Lê mạt. Về Luận Văn chúng tôi học cách bình luận những câu ca dao tục ngữ như Uống Nước Nhớ Nguồn, Ăn Trái Nhớ Kẻ Trồng Cây... Ngoài ra, chúng tôi còn học cách viết một lá thư thăm hỏi nữa. Về Toán, học tới lớp năm thì phải biết giải những bài toán đố rất khó như chia tiền lời khi buôn bán theo tỉ lệ phần hùn, hoặc biết cách chia đất đai trong những bài toán hình học. Năm nầy là năm thi chuyển cấp nên phải học hai buổi. Sáng học từ 8-12 giờ. Trưa học từ 2-4 giờ. Từ nhà tôi ở Chánh Hiệp vô tới trường đi bộ khá xa chừng hơn 3 km. Trưa về ăn cơm xong, đi ngược lại, vô tới trường là mệt lắm rồi, nên thật ra học cũng không được bao nhiêu.

Trường ở xa tận Ngã Ba Cây Sao Quỳ, khi đi học chúng tôi hay đi theo đường Bác Sĩ Yersin. Đường xa, trưa nắng nên khá mệt. Đôi khi chúng tôi được một bác đánh xe bò tốt bụng cho có giang thì thích lắm. Đi học về có khi cả bọn rủ nhau về bằng đường rừng. Đó là con đường đi từ phía sau trường, theo các đường mòn trong các thôn xóm nằm hai bên một con rạch, sau đó vòng xuống xóm Giếng Máy rồi xuyên qua quốc lộ 13 về nhà. Đường rừng nầy có một đoạn có rất nhiều trái cây hoang như trái sim, nhãn lồng ... Chúng tôi hay hái mấy trái nầy ăn chơi. Nhãn lồng trái nhỏ, nhiều hột ăn ngọt. Trái sim màu tím, ăn xong bị tím cả miệng thấy rất tức cười.

Năm nầy lúc rảnh thì thầy dạy những bài hát rất hay giúp nâng cao lòng yêu nước như: Quyết Tiến, Khỏe Vì Nước, Bạch Đằng Giang, Nhà Việt Nam, Những Nẻo Đường Việt Nam ... Những câu hát như:

Quyết tiến ta giống dân Lạc Hồng Liều thân sống tranh đấu giữ gìn non sông Quyết tiến khi nước non nguy biến Máu anh hùng ngàn đời nhuộm thắm núi sông Quyết tiến khi nước non reo hò Lòng cương quyết tranh đấu giữ gìn tự do Quyết tiến khi nước non nguy biến Máu anh hùng rạng danh nòi giống Tiên Rồng Vết oai hùng ngàn xưa nay còn lưu dấu Gương sử xanh nước Việt ngàn đời hùng anh Chí quật cường toàn dân hy sinh tranh đấu Khắp núi sông rạng danh nòi giống Tiên Rồng... đã nung nấu trong tôi lòng yêu quê hương đất nước, sẵn sàng liều thân tranh đấu cho dân tộc. Ngày nay trong hoàn cảnh đất nước tuy thanh bình nhưng lảng vảng bóng ngoại xâm, không biết trong chương trình học có dạy những điều như vậy hay không?.

Tôi còn nhớ những bạn học của tôi năm lớp nhứt là: Lê Thuận Cảnh, Lê Quang Phước, Huỳnh Francoise, Trần Công Hảo, Vương Phát Đạt, Sơn, Hà, Nhựt, Tài, Lôi Phong, Việt Cường ... Nhiều bạn là người Hoa. Đa số đều ở ngoài khu chợ Phú Cường. Lê Thuận Cảnh lớn hơn tôi một tuổi, học rất giỏi. Năm lớp nhì nó đứng nhứt lớp, nhưng tới năm nay thì học hơi yếu nên bị tôi qua mặt.

Cuối năm học luôn luôn có lễ phát thưởng. Học hạng nhứt tới hạng năm thì có phần thưởng. Trong lễ có phần văn nghệ phụ diễn. Lúc nầy chúng tôi tập ca hát, đóng kịch để chuẩn bị đóng góp cho buổi lễ. Trường Nam và Nữ Châu Thành tổ chức chung. Bên trường Nam thường có các màn kịch vui. Bên trường Nữ thường có các màn vũ. Buổi lễ có sự hiện diện của ông Tỉnh Trưởng và các vị phụ huynh. Năm lớp nhứt tôi học giỏi, đứng nhứt lớp nên được lãnh phần thưởng cũng nhiều. Ba má tôi

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 60

 

cũng rất vinh dự nên gặp ai ông bà cũng khoe có thằng con học giỏi.

Về mùa hè, trường Nam Châu Thành thường được dùng làm nơi tổ chức thi Tiểu Học. Tuy nhiên, tới năm 1965 thì chúng tôi không cần thi nữa vì chỉ cần đậu các cuộc thi lục cá nguyệt trong lớp là coi như tốt nghiệp. Kỳ thi Tiểu Học chỉ dành cho người lớn. Họ thi lấy bằng để có thể tăng ngạch trong công chức, lên lương và đỡ phải lao động cực khổ.

Nhân nói về trường Nam Châu Thành tưởng cũng nên nhắc sơ qua về trường Nữ Châu Thành. Trường Nữ nằm hơi khuất trên đường Đồ Chiểu. Kiến trúc trường Nữ cũng tương tự trường Nam Châu Thành, nhưng sân chơi trồng cỏ chớ không tráng xi măng. Trường do các cô giảng dạy. Ban giảng huấn nổi tiếng nhứt là bà Hiệu Trưởng Đinh Thị Phạn, cô Phú, cô Loan, cô Năm Bèo ... Sau 1975, trường nầy trở thành trường Mẫu Giáo Măng Non.

Năm 1965, tôi đậu vào Trịnh Hoài Đức nên không biết thêm về sinh hoạt của trường Nam Châu Thành từ đó. Khoảng năm 1973, trong khuôn viên trường Nam Châu Thành được xây thêm một Hội Trường lớn của Ty Tiểu Học. Ở đó có một bàn bóng bàn nên vào mùa hè, tôi hay đến đánh bóng bàn ở đó. Sân trường cũng được tráng xi măng và giăng lưới thành sân quần vợt. Sau 1975, trường đổi tên là Phú Cường I, sau đó thành Nguyễn Du. Trường cũ hư hỏng nhiều bị phá bỏ xây mới. Mặt tiền trường quay qua đường Nguyễn Du. Trường Nam Chi Nhánh hiện giờ đổi tên là Trung học cơ sở Chu văn An.

Bây giờ về Bình Dương, tới ngay Ngã Sáu, hỏi người đi đường chắc không ai biết Trường Nam Châu Thành là trường nào, ở đâu, vì rất nhiều dân Bình Dương ngày nay là từ nơi khác đến. Bài viết chỉ mong nhắc lại một ngôi trường từng đào tạo cho tỉnh nhà nhiều nhân lực giỏi mà bây giờ đã ở tuổi 60-70 ... Còn những thầy cô quý mến có tên trong bài viết chắc đã già

lắm hay đã ra người thiên cổ. Xin thắp một nén hương lòng tưởng nhớ về công ơn khai sáng của quý thầy cô với tất cả sự kính trọng và quý mến. Ngoài ra, đây chỉ là một bài thuộc loại nhớ gì viết nấy trong thời gian đầu thập niên 1960. Nếu độc giả còn nhớ điều gì khác về một ngôi trường có lịch sử lâu đời thì xin bổ túc thêm về một ngôi trường có nhiều kỷ niệm./.

Thơ

(Búng)

Lạ sao cho một cái trường Ngôi trường danh giá nhất vùng Bình Dương Thế mà lại đóng giữa đường Lái Thiêu - Tỉnh lỵ, cánh đồng bao quanh Bao nhiêu thế hệ sản sanh Phải là thuộc giỏi mới “anh (chị) học trò” Đồn rằng tiếng nói nhỏ to “Học sinh trường Trịnh có “chì” (học chì, học giỏi) phải không? Đồ Ngông

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 61

 

Bacsinhaque

Tôi đang cắm cúi ăn cho xong tô phở vì sắp tới giờ đi làm thì một giọng nữ cất lên: "Cậu ơi, mua dùm mấy tờ vé số đi cậu". Không ngẩng đầu lên, tôi dùng bàn tay trái ra hiệu không mua. Người bán vé số bước ngay qua bàn khác, bốn năm bàn không ai mua. Người đàn bà lớn tuổi, gầy gò bước nhanh ra đường. Sững sờ vì còn kịp nhận ra cặp kính cận trên mắt của cô, tôi gọi với theo: "Cô ơi, cô ơi" . Người phục vụ trong quán cũng gọi với theo :"Cô B. ơi, có người mua kìa".

Cô quay lại nhìn rồi quay ngoắc người, quày quả bước đi.

Tôi hỏi thăm chủ tiệm thì đúng trước đây cô là cô giáo, không biết tên là gì, chỉ thấy người ta kêu cô bằng cô B.. Nhà ở đâu không biết, chỉ biết cô không có chồng con, mướn nhà ở xóm trên và bán vé số ở đây 2-3 năm rồi. Đặc biệt, cô chỉ mời một tiếng, không có "nhây", làm phiền khách như những người bán vé số khác. Cho nên các chủ tiệm ăn ở khu này đều thương tình, không xua đuổi cô...

Tôi biết trước đây cô dạy trong trường cấp một mà tôi học, nhờ cặp mắt kiếng to của cô, tuy đã hơn 30 năm rồi, tôi vẫn không lầm được.

Định bụng sẽ quay lại khu này tìm cô, nhưng 2 -3 tuần rồi chưa làm được.

Trưa nay, tôi lại đi ngang khu vực đó, đúng ngọ nắng chang chang. Tôi nhìn thấy cô đi trên vỉa hè, ngược lại hướng tôi đi. Tôi dừng xe và đuổi theo cô, gọi: "Cô ơi" .

Cô sững người nhìn tôi. Tôi nói: “Cô cho em mấy tờ vé số”. Tôi không dám đưa dư tiền, vì sợ làm tổn thương cô. Tôi hỏi: “Cô ơi, hồi trước cô dạy trường Nam phải không cô?”.

Cô trả lời: "Đúng rồi. Em là học trò cô Xuân phải không? ".

Hóa ra cô cũng biết tôi. Tôi nghẹn ngào không nói nên lời. Tôi ráng hỏi: “Nhà cô ở đâu vậy cô ?”

- " Nhà cô ở xóm Bưng Cải". Cô cũng tỏ vẻ xúc động ....

Lên xe đi rồi, tôi không làm sao cầm được nước mắt và buồn suốt buổi chiều nay.

Chiều, tôi ghé nhà một người cậu bà con cũng làm thầy giáo để hỏi về cô. ..

Cậu tôi nói: “Cứ khóc đi con, khi đau lòng thì cứ khóc cho vơi...”. Rồi hai cậu cháu không nói được gì thêm.. .

Cô mới hơn 60 mà trông cứ như bà lão 70. Buồn quá.

Chiều nay tôi đi lang thang và mua vé số nhiều. Nếu trời cho tôi trúng số, tôi sẽ dành hết cho người nghèo khổ, như cô.

Bạn nào ở Bình Dương, khi đi ăn ở khu đường Ngô Chí Quốc và Nguyễn Văn Tiết... xin mua vé số dùm cô giáo tôi, một bà lão gầy gò, có đôi kiếng cận cũ kỹ, thật to.

*****

Một lần khác, tôi đi ăn cơm sườn trong môt

quán trung lưu với vợ con thì gặp một ông lão bán vé số ở bàn bên kia, áo quần tươm tất, giày da cũ....

Hồi xưa ông là thầy dạy tiếng Pháp trong trường của tôi, mà hồi đó tôi học tiếng Anh nên ông không biết tôi. Trước năm 1975, người ta gọi ông là giáo sư (chức danh của người thầy dạy trung học hồi đó) . Tôi cố nén xúc động, nếu ông mà sang mời tôi thì.....

Về tới nhà thì tôi không thể nào kềm nén được nữa, òa ra khóc nức nở, làm vợ con tôi hốt hoảng, không biết chuyện gì. Tôi chỉ nói được:

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 62

 

“Ông bán vé số trong tiệm cơm ... là thầy của ba...”, rồi khóc tiếp.

Rồi một tuần sau, tôi tìm gặp ông. Thì ra ông biết tôi và cả ông bà, ba má tôi nữa, cho nên bữa đó ông không qua bàn của tôi.

Và người được an ủi là tôi chứ không phải ông. Ông nói : “Thầy cám ơn em. Thầy không cảm thấy buồn khổ gì đâu, bán vé số cũng là một cách kiếm tiền chân chính và được đi ra ngoài cho vui, hòa nhập với đời, chứ ở nhà tù túng lắm. Thầy còn có nhà. Mấy đứa con thầy tuy không khá nhưng cũng sống được. Nhiều người khổ hơn mình rất nhiều...”.

Tuy thầy nói vậy chứ tôi biết thầy cô cũng khó khăn, nhưng rất tự trọng, không muốn làm phiền con cái....

Thầy nói: “Thầy đi bán niềm hy vọng cho người khác, nhưng người nghèo, làm phu, phụ hồ thì thầy khuyên không nên mua vé số nhiều, chỉ bán cho họ một tờ hy vọng cho vui tới chiều”. Thầy còn đọc cho tôi nghe bài thơ vịnh tờ vé số :

Sáng sáng nâng niu mộng ngàn vàng, Chiều về sọt rác mộng vỡ tan. Cuộc đời thay đổi nhanh như chớp. Thế sự nhân gian thiệt bẽ bàng. Nghe thật xót xa. Sống thanh thản trước những biến cố của đời mình. Biết thương cảm trước nỗi đau của đồng bào, sẵn sàng giúp đỡ, an ủi trong khả năng mình có. Đó là tấm lòng của Bồ Tát . Con xin được tặng thầy 4 câu thơ: Xem tựa lông hồng nghiệp của ta Lòng thương nhân chủng rộng bao la Gió bụi dọc đường làm cay mắt Nhân chứng thời nào cũng xót xa./.

Thơ

Thành Nguyện Thất Phu Nhất nhật thanh thần, nhất chú hương Tạ thiên tạ địa, tạ tông đường Đản nguyện xứ xứ điền hòa thục Hựu nguyện nhân nhân thọ mạnh trường. Quốc hữu hiền hiền an xã tắc. Gia vô nghịch tử lão già nương. Vạn phương bình tĩnh can qua tức Ngã túng bần cùng dã bất phương

Bản dịch của Bacsinhaque: Ngày ngày thắp nén tâm hương Kính lạy Trời đất, tông đường, mẹ cha. Cầu cho chốn chốn thái hòa Trẻ già thọ mạnh, tề gia trong ngoài. Cầu cho nước có hiền tài Nhà không con nghịch, đặng hoài an vui Thiên tai, địch họa cùng lui Dẫu nghèo con cũng an vui thanh bần.

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 63

 

Hoàng Anh

Luật sư tiến sĩ Trần Văn Trai là một nhân sĩ nổi tiếng ở Bình Dương, được nhiều người ngưỡng mộ, luôn nhắc đến với lòng tri ân chân thành. Sinh năm 1911 tại làng An Mỹ, tỉnh Thủ Dầu Một, ông là con thứ chín trong một gia đình nông dân đông con, hàng ngày phải đi bộ hàng chục cây số để đến trường.

Ông học hành xuất sắc từ hồi còn bé, nhờ đậu bằng sơ cấp tiểu học loại giỏi nên được tuyển vào trường Lycée ở Mỹ Tho, sau lại học tiếp Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội. Ông sang Pháp du học tại đại học Sorbone lừng danh và về sau đỗ hai bằng tiến sĩ về văn chương và luật trên đất Pháp.

Năm 1954 ông về nước, bỏ tiền của ra xây dựng trường tiểu học bán công An Mỹ, về sau nâng lên thành trường trung học An Mỹ. Đã nhắc đến trường trung học công lập Trịnh Hoài Đức thì không thể không nhắc đến ngôi trường công thứ hai này, nơi đã giúp cho không biết bao nhiêu học sinh, nhất là học sinh con nhà nghèo ở nông thôn có điều kiện đi học. Ngoài ra, ông còn đóng góp cho rất nhiều công trình phúc lợi khác trong tỉnh. Đến nay, dân địa phương vẫn còn nhớ đến tên ông Trai với lòng biết ơn và ngưỡng mộ vì những cống hiến quí giá của ông đối với quê hương. Tại khu vực trung tâm của thành phố mới hiện đại Bình Dương đang trong quá trình xây dựng, trước khu hành chính tỉnh là hai hồ nước xanh rất đẹp, được ngăn cách bởi một con đập có tên gọi là đập ông Trai. Khi thành phố mới thành hình, rất mong rằng cái tên gọi dân gian này sẽ được gìn giữ mãi.

Một vài tác phẩm tiêu biểu của ông như: The Annamese patriarchal

family: La famille patriarcale annamite (1950, 638 tr.), La famille patriarcale annamite (1942, 360 tr.), L’enseignement traditionnel en An-Nam (1942-144 tr.), Les noms et l’âge des Annamites (1942-10tr.)…

Gia đình ông trước đây cũng từng thành lập hai hãng phim là Mỹ Phương phim và Mỹ Vân phim, nơi phát hiện Thẩm Thúy Hằng và thực hiện bộ phim “Người Đẹp Bình Dương” tạo nên một “thương hiệu” đáng tự hào cho phụ nữ xứ này. Ông mất vào lúc 18 giờ ngày 13 tháng 10 năm 2011 tại Paris. Lễ hỏa táng được tổ chức tại nghĩa trang Père Lachaise vào ngày thứ tư 19-10-2011. Di cốt ông sau đó được con cháu đưa về an táng ở nghĩa trang dòng họ ở ngôi làng An Mỹ, Bình Dương, nơi ông đã sinh ra và sống những ngày ấu thơ trong khung cảnh của một làng quê nghèo heo hút ngày xưa. Theo lời kể của người thân trong gia đình, vào buổi sáng cuối cùng của đời ông, khi người cháu như thường lệ định đưa ông đi dạo trên chiếc xe

Di ảnh luật sư Trần Văn Trai 

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 64

 

đẩy, ông từ chối và nói rằng hôm nay ông về An Mỹ. Dù xa cách bao lâu, nhưng hình ảnh quê hương vẫn là những ân tình sâu đậm không hề phai nhạt trong lòng ông, và có lẽ cũng trong lòng của rất nhiều người Việt Nam ly hương khác nữa.

Như nguyện ước của ông, di cốt của ông được con cháu đưa về làng An Mỹ, Bình Dương và nhập quan vào lúc 20 giờ ngày 30 tháng 11 năm 2001. Người đến dự đám khá đông, Ngoài con cháu, bà con xóm giềng, có mặt rất nhiều cựu học sinh của hai trường trung học An Mỹ và Trịnh Hoài Đức.

Linh cửu của ông đặt trong một ngôi nhà tuy có sửa sang làm mới lại nhưng bên trong nhà vẫn giữ được nét kiến trúc xưa với nhiều cột gỗ, liễn đối, và nhiều họa tiết khắc xà cừ, nét đặc trưng của nghệ thuật xứ Thủ. Không gian ngôi nhà tạo một cảm giác cổ xưa, thoáng nhẹ nỗi niềm u hoài xao xuyến trước bước đi cuả năm tháng và sự mong manh ngà ngọc của bao kiếp người. Quanh ngôi nhà là một khu vườn rộng rãi, xanh mát, tĩnh mịch. Nhìn những cây cổ thụ già cỗi, nhìn những lối đi nhỏ, con đường làng, nơi ngày xưa ông đã đi về, chưa gặp ông lần nào, nhưng tôi vẫn hình dung được khá rõ nét, bóng dáng một con người…

Đến dự đám tang của ông, có nhiều điều để chiêm nghiệm. Chết, thì rồi ai cũng phải chết, thế nên chết không phải là chuyện đáng buồn. Vấn đề là mỗi người đã sống cuộc đời của mình như thế nào. Nhìn những người đến viếng lễ tang ông, thăm ông một lần cuối cùng với tấm lòng thương nhớ, quý trọng, mới thấy đám tang thì lúc nào cũng buồn, nhưng cũng có những đám tang tuy buồn mà đẹp, rất đẹp, như đám tang của ông.

Người ta sống như thế nào, thì chết như thế ấy, lời này đúng chăng?

Xin nói thêm đôi điều về ông, ở Bình Dương từ sau 1975, người ta không nhắc đến ông nữa, tên tuổi ông chìm dần vào quên lãng. Lý do, có lẽ vì ông là người của chế độ cũ, ông đang sống ở nước ngoài, từng là luật sư, dân biểu, Bộ Trưởng Giáo Dục (theo lời cháu con của ông, ông làm được vài tháng trước khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ)… Tôi cố gắng muốn nhắc mọi người ở đây phải nhớ đến ông nhưng chưa

biết phải làm sao. Dịp may đến, cách đây vài năm, anh bạn nhà văn Phan Đức Nam từ Sài Gòn về gặp tôi ngỏ ý muốn viết về một vài nhân vật người Bình Dương nhưng chưa biết phải viết ai. Tôi giới thiệu ngay hai người, một là ông Trần Văn Trai, nhân sĩ hàng đầu; hai là Huỳnh Văn Cù, liệt sĩ chống Pháp. Tôi hướng dẫn anh cách đi tìm tài liệu, gặp gỡ nhân chứng sống, cùng với sự trợ giúp nhiệt tình của thầy Nguyễn Hiếu Học. Không lâu sau đó, cả hai bài viết này được đăng trên tạp chí Tài Hoa Trẻ. Tiếp theo, từ bài viết này, thầy Nguyễn Hiếu Học viết một bài nữa về ông Trai đăng trên một tuyển tập của tỉnh. Bài viết này sau đó có người chuyển qua bên Pháp cho ông Trai, ông có viết đôi lá thơ gởi về cho thầy Học và tặng quà cho thầy vào dịp Tết.

Làm được mấy việc như thế, tôi cảm thấy vẫn chưa đủ, chưa xứng với tầm mức của ông Trai nên tiếp tục tìm cách giới thiệu về ông. Tôi đã viết về ông trong một bài viết ca ngợi các nhà giáo tiền phong của Bình Dương như Trương Văn Di, như Nguyễn Văn An, như Đặng Quan Điện, Nguyễn Văn Phúc… Bài viết này, gởi đã mấy năm nay, nhưng không được tạp chí Văn Nghệ Bình Dương chọn đăng, với lý do, có lẽ vì viết về “người lạ” nhiều quá. Không nản, tôi lại tiếp tục đưa bài viết này vào một tác phẩm khác, tựa đề “Bình Dương, đất và người quê tôi” để dự thi giải văn học nghệ thuật Huỳnh Văn Nghệ. Tác phẩm trúng giải, hy vọng một lúc nào đó có thể xuất bản, và tên tuổi của ông Trần Văn Trai sẽ được khắc ghi đậm nét hơn.

Đến thắp nén nhang cho ông, nhìn di ảnh của ông, tôi muốn thầm nói với ông rằng, bao năm qua, tôi đã âm thầm làm một công việc gì đó cho ông, nay đã làm được phần nào. Xin ông hãy vui và ra đi thanh thản. Tôi tin rằng tên tuổi và những điều tốt đẹp ông đã làm cho quê hương, sẽ còn sống mãi với thời gian.

Ai chọn tấm ảnh của ông để trên bàn thờ thiệt hay quá đi. Sống bên Tây nửa thế kỷ, mà nét mặt ông vẫn là nét mặt của một ông già Nam bộ, trông hiền lành, giản dị, và ông lại hơi mỉm cười, trông thanh thản, an lạc làm sao./. 

*****

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 65

 

Đầu xuân Quý Tỵ, suy nghĩ về

Vĩnh Xuyên - Trần văn Sùng

Học giả Pétrus Ký qua đời cách nay 114 năm nhưng sự nghiệp, cuộc đời của ông đối với đất nước với dân tộc theo nhiều nhà nghiên cứu, phê bình vẫn còn là một ẩn số. Nhưng từ khi đất nước ta mở cửa, hội nhập và đổi mới, cái nhìn thiên kiến lệch lạc có phần đã khác. Nhân đầu xuân Quý Tỵ, ta thử bàn về nỗi lòng và những nghĩ suy của nhà bác học lừng danh này. Thiên tài Pétrus là một nhà giáo, nhà báo, nhà văn và là nhà ngôn ngữ học Việt Nam. Thông thạo 26 ngoại ngữ trong đó 15 tiếng Phương Tây và 11 tiếng Phương Đông, ông được ghi tên trong từ điển Bách khoa Larousse và là một trong 18 văn hào thế giới thế kỷ thứ 19. Học thức gắn liền công danh, lên xe xuống ngựa, xênh xang mũ áo nhưng trái lại ông lại là mẫu người có một không hai trong xã hội ta thời bấy giờ. Thật vậy, mồ côi cha lúc 8 tuổi nhưng ông đã vượt lên chính mình bằng một cơ duyên. Đó là học trường dòng nên ông hấp thu được nền văn hoá tiên tiến phương Tây, trong lúc nước nhà còn đóng khung trong nền văn hoá Tàu. Nhờ thông minh mẫn tuệ, ông lân la học các thứ tiếng của các người bản xứ nơi trường dòng để rồi hiểu biết phong tục tập quán, nền văn minh nước đó. Trên cơ sở này ông hiểu rất rõ và hơn ai hết dã tâm của giặc Pháp với chủ nghĩa thực dân, xâm chiếm nước

ta làm thuộc địa. Thế giặc mạnh trong khi triều đình nhà Nguyễn bo bo thủ cựu, đóng kín, khó lòng đương nỗi kẻ thù. Khi hay tin mẹ hiền qua đời, lập tức ông phải về thụ tang mẹ và lý do thứ hai là không nhận chức linh mục dù chỉ còn nửa năm. Năm 21 tuổi ông đã trở thành nhà thông thái và "phải có danh gì với núi sông". Trăn trở và dày vò, ông phải chọn con đường "túng thế phải tùng quyền" nhưng làm thế nào đừng để hậu thế chê cười. Phải chăng đó chính là nỗi lòng vì đất nước vì dân tộc của ông? Sau đây ta thử đi sâu tìm hiểu:

1- Giữ tròn phẩm chất, khí tiết người Việt Nam: Lúc thiếu thời, cậu bé Pétrus Ký được cho học chữ Hán với thầy đồ tên Học ở quê nhà từ lúc 5 tuổi cho mãi khi cha qua đời là 8 tuổi. Ông học đâu nhớ đó, làu thông các sách Tứ thư, Ngũ Kinh của Khổng Mạnh, hiểu rõ luân thường đạo lý của người Á Đông. Lòng hiếu thảo, đạo làm người... và nhất là đạo làm "tôi" là trung thần bất sự nhị quân ("tôi" ngay không thờ hai chúa). Do vậy trong suốt quá trình cộng tác với Pháp, ông đem cái sở trường là thông thạo Pháp, Anh, La Tinh là ngôn ngữ quốc tế lúc bấy giờ để làm thông ngôn

(tức là làm phiên dịch) mà thôi. Cụ thể làm thông ngôn cho sứ thần Pháp trong hoà ước

Pétrus Trương Vĩnh Ký - người được vinh danh là một trong 18

nhà bác học danh tiếng thế kỷ thứ 19

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 66

 

1862. Thông ngôn cho sứ thần Phan Thanh Giản chuộc ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Thông ngôn cho sứ thần Tây Ban Nha ký thương ước với triều đình Huế v.v... Rồi thay linh mục Croc làm ông Hiệu Trưởng trường thông ngôn v.v... Ông được Pháp thăng tri huyện hạng nhất (nhưng là chức hàm) không có thực trị. Ta còn thấy rõ khí tiết của Pétrus Ký bằng việc ông mượn câu cách ngôn bằng tiếng La tinh "Sic vos non vobic" (ở với họ mà không theo họ) và mặc dù làm việc cho thực dân Pháp, nhưng khi sưu tầm và chú thích bản "Gia Định Thất Thủ Vịnh", Trương Vĩnh Ký vẫn gọi họ là “giặc”. Với triều đình nhà Nguyễn, vua Đồng Khánh thăng cho ông chức Cơ Mật Viện Tham Tá, sung Hàn Lâm Viện Thị Giảng Học Sĩ. Vua Bảo Đại sau cùng cũng thăng cho ông chức Lễ Bộ Thượng Thư... để rồi cáo quan về hưu và cuối cùng Pétrus Ký sống trong cảnh bần hàn, nghèo khó. Như vậy đã cho thấy phẩm chất con người ông.

2- Khai hoá nhưng không bị đồng hoá, mở mang dân trí: Cộng tác với Pháp, nhưng chắc chắn Trương Vĩnh Ký không thích con đường chính trị. Ông lại thiết tha với nền văn học chữ quốc ngữ, quay về sự nghiệp văn chương của mình, ông không ngần ngại từ bỏ sân khấu chánh trị, trở lại nghề dạy học, viết sách dạy các thứ tiếng Đông phương. Viết sách dạy người Pháp học tiếng Việt và ngược lại, dịch bộ Tứ Thư (Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử), cũng như dịch một số sách chữ Hán ra chữ quốc ngữ, cốt để phổ biến ngôn ngữ và tư tưởng Đông phương. Đặc biệt vào năm 1875 : Ông cho xuất bản "Kim Vân Kiều truyện" của Nguyễn Du và "Sử Ký An Nam". Từ sự việc nầy cho ta liên tưởng đến tư tưởng hoài Lê của Tố Như tiên sinh qua truyện Kiều và lòng yêu nước thương dân của Sĩ Tãi tiên sinh. Ở Tố Như tiên sinh :

Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.

Có tác giả dịch là : ( ... Hận xưa khôn hỏi trời già,

Nỗi oan phong vận mình ta buộc ràng, Ba trăm năm lẻ mơ màng...

Biết ai hậu thế khóc chàng Tố Như ?) Ở Sĩ Tãi tiên sinh thì : Câu ghi trên cửa nhà mồ bằng tiếng Latinh :

"Miseremini Mei Satem Vos Amici Mei" (Xin hãy thương hại tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi). Phải chăng ngụ ý câu trên muốn bộc bạch một điều rằng: "Hậu thế còn ai hiểu được nỗi lòng yêu nước, thương dân của Sĩ Tãi tiên sinh".

Ngày xuân, lần giở trang văn học sử nước nhà vào thế kỷ thứ 18 và nửa bán thế kỷ thứ 19, chúng ta rất sung sướng và tự hào biết bao! Chí lớn của của hai bậc hiền giả Nguyễn Du (hoài Lê) và Pétrus Ký (khai hoá dân tộc) phải chăng đã gặp nhau, đồng nhất nhau ở điểm này. Trở lại với Pétrus Ký, chúng ta thấy rằng Pétrus Trương Vĩnh Ký là nhà văn hoá lớn. Ở sân khấu chánh trị ông mong tạo sự thông cảm giữa người Việt và người Pháp, giữa những xung đột lớn lao về chánh trị, kinh tế, văn hoá giữa hai nước. Hơn hai mươi năm dính vào “hoạn lộ”, làm việc với chính quyền thực dân Pháp, làm việc với triều đình Huế, Trương Vĩnh Ký chưa bao giờ là một “ông quan cai trị” chính cống, cũng chưa bao giờ là một nhà chính trị chuyên nghiệp. Tuy theo đạo Thiên chúa nhưng phải nhận ông vẫn giữ được phong hoá Đông phương, thấm nhuần tư tưởng Khổng Mạnh và khai hoá nền văn minh Tây Âu:

"Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt, Tây Âu học thuật yếu minh tâm" Có nghĩa là: “ Hãy khắc vào xương đạo đức Khổng

Mạnh Nên ghi vào lòng văn minh khoa học Tây

âu” Với học thức sẵn có, trong chuyến công du châu Âu, tìm hiểu chỗ sai biệt giữa hai nền văn minh, hai xã hội, nhận định đâu là những ưu điểm của người mà ta phải công nhận và học hỏi. Ông lại tự coi mình như có bổn phận làm trung gian giữa hai phe xô xát hầu lấy lại tình hoà hiếu, lập lại sự an ninh, mưu sự thịnh vượng cho đất nước. Tóm lại, ở ông ta thấy thái

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 67

 

độ thích đáng, công minh của một bậc trí thức trung thực và tự trọng, không thấy cái xu phụ, mù quáng. Con người ấy thực ra ở trí sáng suốt, óc chừng mực, tác phong tao nhã, vẫn cốt yếu là một đồ đệ Nho giáo. Và trái tim ông vẫn đập về phía đất nước, đồng bào.” (Phạm Thế Ngũ – Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, tập III, trang 70-73 .NXB Quốc Học Tùng Thư) Đó là một chọn lựa có cơ sở, mà theo ông, không thể làm khác được; một chọn lựa làm nổi bật lên cái TRÍ và nhất là cái TÂM của Trương Vĩnh Ký. Điểm nầy chúng ta xem lại bài di huấn của ông viết vào ngày 8-11-1870. " Người đời sanh ký tử quy, đàng đi nước bước vắn vỏi lắm. Nhưng ai cũng có phận nấy, hể nhập thế cuộc bất khả vô danh vị, cũng phải làm vai tuồng mình cho xong đã, mới chun vô phòng được. Sự sống ở đời tạm nầy, đỏ như hoa nở một hồi sương sa; vạn sự đều chóng qua hết, tan đi như mây như khói. Nên phải liệu sức, tuỳ phận mà làm vai tuồng mình cho xong..." Và sau đây là bài thơ ông sáng tác lúc gần ngày lâm chung :

Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai, Xô đẩy người vô giữa cuộc đời. Học thức gửi tên con mọt sách, Công danh rốt cuộc cái quan tài. Dạo hòn, lũ kiến men chân bước, Bò xối, con sùng chắt lưỡi hoài ! Cuốn sổ bình sanh công với tội, Tìm nơi thẩm phán để thừa khai.

Tóm lại, đầu xuân Quý Tỵ, qua phân tích thân thế sự nghiệp và nhất là nỗi lòng của học giả lừng danh Pétrus Ký, ta thấy toát lên một tấm lòng yêu nước thương dân vô bờ bến của ông. Ông là sứ giả đi khai hoá nhưng không bị đồng hoá. Việc tôn vinh, đề cao Pétrus Trương Vĩnh Ký là việc làm tất yếu của các nhà nghiên cứu, phê bình của ta hiện nay. Bình Dương, ngày 15/12/2012 Người viết: Thầy Trần Văn Sùng Cựu giáo chức  

Sách tham khảo:  

a. Nguyễn Huệ Chi, mục từ: "Trương Vĩnh Ký" trong Từ điển Văn học (bộ mới), Nxb. Thế giới, 2004.

b. Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, Nxb. TP. HCM, 1991.

c. Sơn Nam, Cá tính miền Nam, Nxb Trẻ, 1997.

d. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Tập 3), Quốc học tùng thư, Sài Gòn, 1965.

e. Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam (quyển hạ), Nxb. trình bày, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản.

f. Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 1992.

g. Huỳnh Minh, Kiến Hoà xưa, Nxb Thanh Niên, 2001.

h. Phan Thứ Lang, "'Ở với họ mà không theo họ' châm ngôn và bi kịch cuộc đời Trương Vĩnh Ký", tạp chí Xưa và Nay tháng 12 năm 1997, in lại trong sách Nam Bộ xưa và nay, Nxb. TP. HCM, 2005, tr. 241-249.

i. Tiểu dẫn về cuộc đời Trương Vĩnh Ký in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 3). Nxb. Thanh Niên, 2012. Trong bài viết tắt là “Lời dẫn”.

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 68

 

(Theo TTVH) Lời giới thiệu:

Một trong những nhà tạo mẫu thời trang nổi tiếng ở Pháp là Ngô Kim Khôi. Anh làm việc cho các nhà Christian Dior, Yves Saint-Laurent, Jean-Louis Scherrer, Hermès, Givenchy… Anh cũng thực hiện trang phục cho nhiều ngôi sao, như Catherine Deneuve, Nicole Kidmann, Madonna, Charlotte Gainsbourg… Ít ai biết rằng Ngô Kim Khôi là cựu học sinh khóa 17 trung học Trịnh Hoài Đức Bình Dương. Sinh năm 1960, Khôi định cư ở Pháp từ năm 1985. Thời gian sau đó, anh tự học vẽ, học đàn, học hát, và học may. Chỉ có một môn anh phải học từ thầy đó là Thái Cực Quyền. Hiện nay anh còn là giáo sư Thái Cực Quyền có võ đường tại Paris. Hàng năm có trên 200 học viên theo học với anh, phần lớn là người Pháp. Ngô Kim Khôi còn nghiên cứu về lịch sử hội họa Việt Nam với những bài biên khảo giá trị về Trường Cao Đẵng Mỹ Thuật Đông Dương. Mới đây, tạp chí thể thao văn hóa có một bài phỏng vấn Ngô Kim Khôi tựa đề “Ngô Kim Khôi – với tôi áo là người” đăng trong số tất niên năm 2012. Đặc san xuân Trịnh Hoài Đức xin đăng lại bài nói trên để giới thiệu thêm với cựu học sinh chúng ta trong sự tự hào và trân trọng một nhân tài trong lãnh vực thời trang quốc tế.

Ngô Kim Khôi: Với tôi - áo là người! - Paris được biết đến với cụm từ “kinh đô thời trang”, để “chen chân” vào thế giới này, với những người làm nghề như anh, có khó lắm không? - Thú thật, nói về mình là một điều tôi rất ngại, vì “cái tôi” bao giờ cũng đáng ghét, chính vì vậy, tôi chỉ xin được kể ra đây vài kỷ niệm... Tôi nghĩ mọi việc trên đời thường do duyên đưa đẩy. Kinh đô thời trang Paris là một thế giới “có rất nhiều người được triệu đến song rất ít người được chọn”, nhiều người đã gõ bao nhiêu cánh cửa song phải ngậm ngùi vì chúng chưa bao giờ mở. Đối với riêng trường hợp của tôi, do duyên đưa đẩy, vì trước đó chẳng bao giờ tôi nghĩ mình theo nghiệp thời trang, vậy mà tôi bước chân vào nghề đến nay đã hơn 25 năm. Bắt đầu là ngày nọ nhà Hermès cần một chỗ cho nhà thực hành mẫu, có 5 người nộp đơn. Họ cho cả 5 người cùng thử một kiểu áo giống hệt nhau, tôi còn nhớ đó là một bộ váy áo phụ nữ bằng hàng kẻ ô prince de Galle đen và đỏ, cổ áo bằng nhung và lót áo bằng carrée Hermès, là chiếc khăn vuông lừng danh đặc biệt của nhà Hermès. Kết quả của 5 người có thể nói không hơn kém bao nhiêu, nhưng họ chọn tôi. Suy nghĩ lại, có lẽ tôi là người biết hát, biết vẽ, tâm tình của mình gửi gắm vào tấm áo khác với những người học từ trường chuyên môn ra. Đó là ngày tôi mở được cánh cửa bước chân vào thế giới thời trang Paris.

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 69

 

 

Ngô Kim Khôi, thành công nhờ tự học và cầu tiến 

- Để trở thành một nhà tạo mẫu, thực hành mẫu đủ năng lực, những người mới bắt đầu như anh lúc đó thường phải đi theo những lộ trình ra sao? - Tôi định cư tại Paris vào tuổi 25, đó là tuổi… “lỡ làng”, muốn được tiếp tục đi học, nhưng cuộc sống tha hương khó khăn, buổi đầu rất nhiều hoang mang lo lắng, thêm mẹ còn ở lại Việt Nam, tôi quyết định bỏ học đi tìm việc làm. Tôi chưa từng học qua một trường may nào ở Paris, chỉ có hồi ở quê nhà được một người em chỉ vẽ đôi chút. Bước chân vào nghề tại Paris, tôi không biết sử dụng máy may công nghiệp vì ở nhà chỉ dùng máy bàn đạp. Nghề dạy nghề, tôi xoay xở một mình với vốn liếng tự có, nói theo tiếng Pháp “j'apprends sur le tas”, có nghĩa là tôi học bằng cách thực hành, không học ở trường chuyên môn, mà học ở “trường đời”. May quá, ông trời cho tôi mười ngón tay hoa… - Sau khi khởi nghiệp, anh mất bao lâu để đến được với các thương hiệu lớn như Christian Dior, Givenchy, Scherrer…? Thông thường họ làm việc với những nhà thực hành mẫu theo hướng nào? - Tôi bước chân vào nghề, rụt rè bỡ ngỡ…, tôi đã từng bị người đồng hương “bóc lột”, trả lương rẻ như bèo, nhưng ngược lại, tôi được “học” nghề và hiểu rất nhanh. Sau hai năm ngỡ ngàng, tôi chính thức vào nghề với nhà Hermès như đã nói ở trên, và sau đó đã lăn lộn với nhiều nhãn hiệu như Christian Dior, Yves Saint-Laurent, Jean-Louis Scherrer… Người Pháp họ

không đặt nặng vấn đề bằng cấp, nhất là với ngành nghề mà họ có thể đánh giá qua sản phẩm mình tạo ra. Thông thường tôi làm cho các buổi trình diễn thời trang, các mẫu tạo ra được gọi là prototype, nghĩa là “nguyên mẫu”, hay “mẫu chính”. Những mẫu này dùng để bước lên sàn trình diễn, sau đó, mẫu có thể thay đổi tùy theo yêu cầu, hoặc đôi khi chỉ là mẫu duy nhất, nôm na là “độc nhất vô nhị”, không phát triển hay thay đổi gì nữa. - Anh “thuận tay” về thực hành mẫu trong lĩnh vực nào, khi thế giới thời trang vốn rộng lớn, đa dạng? - Trong mênh mông thời trang haute couture, người “biết nghề” là người chú trọng về “chi tiết”. John Galliano của nhà Dior cho rằng đó là vấn đề của từng milimét. Chuyên môn của tôi là hàng phụ nữ. Có người bạn đùa rằng “mày cả ngày vục mặt trong váy phụ nữ”. Rủi hay may? Tôi thuận tay về các mẫu classique (cổ điển) vì tính ưa chuộng những gì mẫu mực, không thích cực đoan. Tôi cho rằng điều gì “quá đáng” đều không tốt, nhưng tất cả đều do mình đặt giới hạn ở chỗ nào mà thôi. Thời nay, có nhiều bạn trẻ đặt ra những kiểu

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 70

 

Madonna trong trang phục biểu diễn năm 2008 do Ngô Kim Khôi thực hiện 

quần áo… khác thường, để được thiên hạ chú ý, thành ra “quái dị”. Tôi thuộc lớp… già! - 25 năm nhìn lại cái nghề này, những kỷ niệm đầy thử thách của anh là gì? - Trong hơn 25 năm hành nghề, có hai kỷ niệm đáng nhớ. Năm 2006, khi làm cho nhà Balenciaga, tôi phải thực hiện một áo cưới với mấy chục loại đăng-ten khác nhau, do Nicolas Ghesquiere vẽ kiểu. Chiếc áo tỉ mỉ, công phu đến nỗi tôi phải mất hơn một tuần mới xong. Đó là chiếc áo cưới của minh tinh Nicole Kidman! Xin nói cho rõ, tôi chỉ thực hiện chiếc

áo, còn khăn voan và găng giày do bộ phận khác làm.

Kỷ niệm thứ hai diễn ra trong năm 2008, tôi thực hiện kiểu vẽ do Riccardo Tisci của nhà Givenchy, một chiếc áo choàng (redingote) bằng satin, trang trí với những nếp gấp cầu kỳ, trên tay áo điểm trang đá quý… Đó là áo của nữ hoàng nhạc pop Madonna mặc trong dịp lưu diễn tại Âu châu.

Thực hiện một mẫu áo, tôi trao cả tâm tình như khi vẽ một bức tranh, đó là niềm vui và là niềm đam mê của người yêu thích nghệ thuật. Tôi nghĩ nghề nào cũng vậy, mình phải gửi trọn tấm lòng, con tim, những gì mình tạo ra sẽ đẹp hơn. Đối với văn sĩ, văn là người, đối với tôi, “áo là người”, vì nó phản ảnh được chính mình. - Được biết anh tự học đàn hát và là võ sư Thái Cực Quyền. Mấy bộ môn này đã bổ túc cho anh những gì trong công việc thực hành mẫu thời trang?

- Theo tôi, đây là chính là những yếu tố quan trọng để giúp mình tiến bước trên đường đời, nên xin nói chi tiết một chút. Ông ngoại tôi là một danh họa tại Việt Nam (họa sĩ Nam Sơn, đồng sáng lập trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương-TT&VH), tôi rất yêu chuộng những gì liên quan đến văn hóa mỹ thuật. Do

hoàn cảnh, tôi không được theo học tại các trường chuyên môn, nên tôi tự học, học hát, học đàn, học vẽ, học chữ, học may…

Trên đường nghiên cứu mỹ thuật Việt Nam, tôi đã gặp bao nhiêu người đóng góp cho nền mỹ thuật nước nhà. Khi viết về Trường CĐ Mỹ thuật Đông Dương, tôi đã phỏng vấn họa sĩ Lê Phổ, Vũ Cao Đàm khi họ còn sống, tôi đã viết về họ khi họ qua đời. Tôi nhớ rõ họa sĩ Lê Phổ đã nói một câu: “Tôi không phải là học trò của

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 71

 

Đố vui:

Theo bạn hình dưới đây có bao nhiêu tứ giác? (xem giải đáp trên trang nhà THĐ ngày mùng 3 Tết Quý Tỵ).

họa sĩ Nam Sơn, nhưng nếu không có Nam Sơn thì không có Trường CĐ Mỹ thuật Đông Dương”.

Tôi cũng từng ghé qua Bắc Kinh và hội kiến Từ Bi Hồng phu nhân (bà Liêu Tĩnh Văn), để hỏi thêm về hội họa Trung Quốc, Việt Nam và Nhật Bản vào thập niên 1920, khi mà 3 danh họa Á châu là Từ Bi Hồng của Trung Quốc, Nam Sơn của Việt Nam và Foujita của Nhật Bản đã có duyên may gặp nhau trên mảnh đất nghệ thuật Paris. Tôi đã học hỏi được rất nhiều ở họ, và khám phá rất nhiều điều thú vị khi viết những bài biên khảo về mỹ thuật Việt Nam. Còn về Thái Cực Quyền, tôi không tự học, mà có thầy dạy. Thầy tôi theo Dương gia, chân truyền từ Vương Duyên Niên (1914-2008). Thầy tôi từng đoạt huy chương ở Đài Loan. Tôi đã dạy Thái Cực Quyền tại Paris từ 12 năm nay, mỗi năm có khoảng 200 học trò, phần lớn là người Pháp. Ngoài ra, niềm vui của tôi là đọc sách, nghe nhạc cổ điển (tôi rất thích Schubert và Bach) và sưu tầm cổ vật. Tôi nghĩ rằng những kiến thức về mỹ thuật nói riêng và nghệ thuật nói chung đã giúp tôi thực hiện những kiểu áo “khác” với những người không biết đàn hát hoặc không biết vẽ, hay là không biết… Thái Cực Quyền!

***********

Thơ

Mùa Xuân ấy anh về thăm xứ Thủ Lính cao nguyên sao vương vấn quê người Ghé nhà em một buổi chiều tắt nắng. Tóc mây dài xao xuyến bước chân ai Mắt nhung đen - anh đắm nhìn ngơ ngẩn Miệng cười duyên, đôi má lúm đồng tiền Quá ngây thơ - anh chẳng dám mở lời Sợ đánh mất tuổi thiên thần trong trắng. Em tung tăng chân sáo đến sân trường Khoe cùng bạn tập thơ tình anh chép Giấy pelure xanh xanh màu lưu luyến Chữ viết đều mài miệt suốt canh thâu Em nào biết tình anh hoa khô ép. Để tô hồng đôi má thắm mộng mơ. Em nào biết tình yêu anh dấu kín Mai đi rồi tặng em mấy bài ca Rất lặng lẽ anh bỏ vào trong cặp Cho em thơ lưu luyến bước chân xa Để vào lớp em ngỡ ngàng mới biết Mấy bài ca nằm trong cặp bao giờ Những tình khúc Vũ Thành An anh tặng Trong một lần về phép lính cao nguyên. Nguyễn Kim Nên

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 72

 

Thơ

Ấm áp mùa xuân đã trở về Hoa vàng nở rộ khắp đường quê Con lo dọn dẹp xong nhà cửa Chờ đợi giao thừa thấy tái tê Con nhớ làm sao dáng mẹ hiền Mẹ cười phúc hậu giống cô Tiên Bàn tay ngòi viết trông xinh quá Mẹ rất bao dung chẳng não phiền Ngày mẹ ra đi bỏ cả nhà Một đàn con dại sống bên ba Cút côi từ thuở còn thơ ấu Cảnh khổ đau lòng thật xót xa Đưa mẹ về miền đất nghĩa trang Thẫn thờ con bước cạnh xe tang Bàn chân con kéo lê buồn bã Nhớ mẹ mà lòng thật ngổn ngang Nhà vắng buồn hiu con khóc hoài Ngước nhìn di ảnh mẹ không phai Nén nhang con thắp dâng lên mẹ Thấp thoáng mẹ cười sợi khói bay

Thương mẹ con lo mọi chuyện nhà Đỡ đần hôm sớm phụ cho ba Chiều hôm thanh vắng thường ra mộ Mang tặng mẹ hiền mấy đoá hoa Con gắng học hành để mẹ yên Tháng nào con cũng được cô khen Con mong ước sẽ làm cô giáo Nuôi dưỡng cha già lẫn các em Chữ hiếu cho ba đã vội tàn Mười năm sau nữa chớm đông sang Ba đi theo mẹ về bên ấy Con sống bơ vơ lệ ngập tràn Đón Tết mà lòng nhớ xiết bao Ngôi nhà vắng vẻ lạnh làm sao Bốn năm ngày Tết cùng nhang khói Ba mẹ về thăm, nỗi nghẹn ngào! Đỗ Mỹ Loan (Khoá 10 Lớp 12A1 năm học 1970-1971)

Bạn có biết: Kỷ lục trường Trịnh Hoài Đức: Gia đình có nhiều anh em học Trịnh Hoài Đức nhứt - học giỏi - ai cũng đậu vào trường công. Đó là gia đình chị Nguyễn Kim Thái (K4) gồm có: Nguyễn Kim Thái ( K4 ) Nguyễn Trung Yên ( K6 ) Nguyễn Tấn Việt ( K10 ) Nguyễn Thị Hòa Nam ( K12) Nguyễn Việt Cường ( K14 ) Nguyễn Việt Quốc ( K16 ) Nguyễn Quốc Vinh ( K18 ) Tổng cộng 7 người.

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 73

 

 

Học sinh Trịnh Hoài Đức chiếm giải nhứt cuộc thi luận văn toàn quốc

Bài viết: Minh Tâm

Hình ảnh: Nguyễn Đình Dũng

Dẫn nhập:

Trung Học Trịnh Hoài Đức Bình Dương tuy nhỏ nhưng có rất nhiều thành tích về học tập của học sinh rất đáng khích lệ. Một trong những thành tích đó là chiếm giải nhứt cuộc thi luận văn do tuần báo Thằng Bờm tổ chức.

Thằng Bờm là tuần báo do nhà văn Nguyễn Vỹ làm chủ bút với độc giả tập trung vào lứa tuổi thanh thiếu niên. Năm 1970, ông tổ chức một cuộc thi luận văn với đề tài phân tích và phê bình bài ca dao Thằng Bờm. Cuộc thi nầy dành cho học sinh các trường trung học trên toàn quốc. Ban giám khảo gồm các nhà văn nổi tiếng đương thời là Minh Quân, Võ Phiến, Tam Ích và Bình Nguyên Lộc.

Có rất nhiều học sinh từ khắp nơi tham gia. Sau khi chấm bài, người trúng giải đồng hạng nhứt là Nguyễn Đình Dũng, học sinh lớp Đệ Nhị trường trung học Trịnh Hoài Đức – Bình Dương. Đồng hạng nhứt là một học sinh trường trung học Hùng Vương – Quảng Ngãi. Nguyễn Đình Dũng đã theo

học trung học Trịnh Hoài Đức – Bình Dương từ lớp Đệ Thất tới lớp Đệ Tam. Cuối năm 1970, theo gia đình về Sài Gòn học trung học Chu Văn An. Bài luận văn của anh đăng trên báo Thằng Bờm số 29. Bài tường thuật về buổi Lễ phát giải có cả hình ảnh ông Mai Thọ Truyền – Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa trao giải thưởng cho Nguyễn Đình Dũng, được đăng vào tuần san Thằng Bờm số 30.

Tôi có đọc bài viết và hiểu tại sao Dũng đoạt giải thưởng nầy. Đó là nhờ anh nhớ những

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 74

 

lời giảng của GS Nguyễn Tư Sán dạy Việt Văn. Thầy đã dạy bài nầy khi chúng tôi học lớp Đệ Tam ở Trịnh Hoài Đức. Thầy giảng rất kỹ nên chúng tôi làm bài luận rất dễ và nhanh. Nguyễn Đình Dũng có công diễn tả lại những lời thầy dạy cụ thể qua bài luận đồng thời có thêm thắt một số ý kiến cá nhân rất đặc sắc, do đó anh xứng đáng chiếm giải nhứt trong cuộc thi.

Tuần báo Thằng Bờm chỉ phát hành được vài chục số thì đình bản vì chủ bút Nguyễn Vỹ mất đột ngột vì tai nạn giao thông. Sau 40 năm, bài viết nầy đã thất lạc. Tôi có đọc bài luận của Nguyễn Đình Dũng nên ráng nhớ viết lại như dưới đây. Hy vọng ghi lại được những nét chính của bài luận để bạn đọc biết thêm và cùng vui với Nguyễn Đình Dũng cũng như tự hào về Trường Trung Học Trịnh Hoài Đức, nơi đã đào tạo được những học sinh ngoan, xuất sắc của một thời ...

Thằng Bờm- Bài ca dao thâm thuý của người Việt

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, bài ca dao Thằng Bờm được rất nhiều người biết. Bài thơ theo thể lục bát như sau: Thằng Bờm

Thằng Bờm có cái quạt mo Phú ông xin đổi ba bò chín trâu

Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu Phú ông xin đổi ao sâu cá mè Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè Phú ông xin đổi một bè gỗ lim Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim Phú ông xin đổi con chim đồi mồi Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.

Với từ ngữ phổ thông, dễ nhớ, bài thơ đã

được truyền khẩu từ đời nọ qua đời kia. Thằng Bờm trở thành một nhân vật nổi tiếng tiêu biểu cho sự hiền lành nhưng không ngu dốt. Dưới đây ta hãy thử phân tích bài thơ và tìm hiểu những ý nghĩa sâu sắc của nó.

Bài thơ có tựa đề Thằng Bờm. Qua đó ta có thể hiểu không gian của nó là vùng đồng quê Việt Nam. Ở đó tên của người dân thường được đặt một cách bình dân, không hoa mỹ. Tác giả dùng chữ “thằng” để gọi nên ta có thể hình dung Bờm là một chú bé chừng trên dưới mười tuổi mà thôi.

Câu chuyện bắt đầu với hai câu thơ: Thằng Bờm có cái quạt mo

Phú ông xin đổi ba bò chín trâu Quạt mo làm bằng mo cau. Đây là loại quạt

thông dụng ở nhà quê. Người ta dùng dao cắt tàu cau khô thành hình cái quạt và dùng để quạt cho mát vào những buổi trưa hè. Quạt mo là một vật không có giá trị gì cho lắm, vì ai cũng làm được và thường không mất tiền để mua. Không biết vì sao mà chú bé Thằng Bờm lại có một cái quạt mo và rất thích cái quạt nầy.

Phú ông là một người giàu có ở trong vùng. Ông muốn gì được nấy. Thấy Bờm có cái quạt mo thì ông hơi ganh tị và sau đó ông mới dụ nó đổi quạt bằng ba con bò và chín con trâu. Đây là cả một tài sản rất lớn ở vùng nông thôn. Sở hữu ba con bò, chín con trâu, Bờm có thể trở

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 75

 

 

Bằng Danh Dự do tuần báo Thằng Bờm trao tặng cho Nguyễn Đình Dũng học sinh Trịnh Hoài Đức Bình Dương

giải nhất cuộc thi luận văn Toàn Quốc

nên giàu có và được nhiều người nể trọng. Bờm có chịu đổi không? Ta hãy đọc tiếp:

Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu Phú ông xin đổi ao sâu cá mè

Bờm không chịu đổi. Lạ thật!. Một sự trao đổi rất có lợi cho Bờm tại sao em không chịu?. Ta có thể giải thích như sau: Có thể Bờm không hiểu giá trị của ba con bò và chín con trâu lớn như thế nào. Một chú bé mới 10 tuổi nếu sở hữu ba bò chín trâu thì chắc cũng không biết làm gì.

Có thể Bờm rất khôn. Nó biết giá trị của ba bò chín trâu là lớn chớ. Nhưng nó không chịu đổi quạt với phú ông. Bởi vì nó hiểu rằng: đây là một cuộc trao đổi không cân xứng. Phú ông có thể gạt nó để lấy quạt mà không đổi ba bò chín trâu cho nó. Nếu nó có khiếu nại, thưa kiện với quan thì không ai tin rằng một cái quạt mo tầm thường lại đổi được với ba bò chín trâu là một tài sản lớn.

Tóm lại không đổi là tốt nhứt. Quạt của mình vẫn còn của mình. Tài sản to lớn nhưng chỉ là lời hứa, không chắc chắn sẽ có! Ta có thể thấy được đây là một Thằng Bờm rất khôn chớ không phải là một đứa trẻ khờ khạo như mọi người thường lầm tưởng.

Thấy Bờm không chịu đổi, phú ông dụ tiếp: “Nếu cháu không chịu đổi ba bò chín trâu vậy hãy đổi cái quạt với một ao sâu đầy cá mè nhé?”. Ôi, cả một ao cá rất to lớn và có rất nhiều cá mè. Tha hồ mà bắt lên đem bán lấy tiền xài thoải mái. Ông dụ tiếp như vậy. Bờm có chịu đổi hay không? Ta hãy đọc tiếp:

Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè Phú ông xin đổi một bè gỗ lim

Ủa, Lạ kìa, Bờm lại không chịu đổi nữa. Phú ông lẩm bẩm như vậy. Cả một ao cá mà chỉ đổi một cái quạt mo. Thằng nầy ngu quá. Phú ông bực tức nghĩ trong bụng như vậy. Ông không hiểu rằng, Bờm nhà ta, vì còn nhỏ nên: Có thể em không biết giá trị của ao cá. Mới chín, mười tuổi mà có cả một ao cá thì em cũng chẳng thích và chẳng biết làm gì.

Có thể em rất khôn. Em biết rằng phú ông chỉ gạt em, nói là đổi quạt lấy ao cá, nhưng không bao giờ ông giao ao cá cho em vì không ai tin rằng ông có thể đổi một cái ao cá giá trị lấy một vật tầm thường như một cái quạt mo. Thấy Bờm không chịu đổi quạt, phú ông dụ tiếp: “Thôi nếu vậy cháu hãy đổi quạt lấy một bè gỗ lim đi?” Gỗ lim đem về xây nhà tốt lắm. Ông nói tiếp như vậy. Bờm có chịu đổi không. Ta hãy đọc tiếp:

Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim

Phú ông xin đổi con chim đồi mồi

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 76

 

Bờm lại lắc đầu. Bờm lấy gỗ lim về làm gì. Xây nhà thì cần nhiều công. Rồi đất đâu mà xây. Đúng là phú ông dụ Bờm một vật tuy quý giá đối với ông mà lại vô ích đối với Bờm. Kỳ nầy phú ông khôn hơn. Ông nghĩ rằng: “À, chắc thằng bé nầy ham chơi. Nó không thích tài sản, vậy ta hãy dụ nó bằng đồ chơi. Ông nói: “ Nầy cháu, nếu cháu không thích gỗ lim thôi hãy đổi cái quạt lấy con chim làm bằng đồi mồi đi”. Con chim nầy đẹp lắm. Cầm chơi rất thích. Đem khoe với bạn cũng hay lắm. Bạn cháu sẽ trầm trồ vì cháu có món đồ chơi rất đẹp. Dụ dỗ như vậy mà Bờm có chịu đổi không? Ta hãy đọc tiếp hai câu cuối:

Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi

Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.

Bờm lại lắc đầu. Chim đồi mồi tuy đẹp nhưng chỉ là một món đồ chơi. Chơi hoài sẽ chán. Còn giữa trưa hè có quạt mo quạt rất mát, thật thú vị hơn nhiều.

Thấy Bờm cứ lắc đầu hoài, phú ông đã phát tức lên rồi. Cái mà ông muốn thì phải được. Thằng bé nầy thật khó dạy. Dụ cái gì cũng không được. Lúc nầy giữa trưa hè, trời đang nóng bức. Có được cái quạt nầy để quạt thì thích thú biết bao!. Có thể lúc nầy phú ông đang đi ăn giỗ ở đâu về. Đường xa, đi nhiều, nên ông đang ra mồ hôi và rất cần cây quạt mo để quạt. Sẵn nắm xôi trên tay ông hỏi Bờm: “Vậy có nắm xôi nầy, Bờm có chịu đổi lấy cây quạt không?”. Lúc nầy thì Bờm cười. Chữ cười nầy có nghĩa là gì?. Không phải dễ hiểu đâu.

Trong cách cư xử của người Việt chúng ta, đôi khi cái cười rất khó hiểu. Trong trường hợp nầy chữ cười ở đây có thể có 2 nghĩa: Cười mỉa mai, khinh dể và cười vui chấp thuận.

Có thể Bờm cười mỉa mai. Trong bụng em nghĩ rằng: “Lão phú ông keo kiệt nầy thật tức cười. Bao nhiêu tài sản, bao nhiêu đồ chơi quý

đẹp đem đổi với cây quạt của ta mà ta còn chưa đổi, huống chi đem quạt chỉ đổi lấy nắm xôi”. Có thể Bờm cười vui và chấp thuận đổi chiếc quạt của em lấy nắm xôi. Đó chỉ vì em nghĩ rằng đây là một cuộc trao đổi: thuận mua vừa bán. Hai vật có giá trị tương đương. Nắm xôi thì có ngay và có thể ăn no lòng. Đổi mấy thứ kia chưa chắc đã có còn lấy nắm xôi thì chắc chắn sẽ có ngay. Ăn xong ta sẽ đi kiếm mo cau làm quạt mới. Dễ quá.

Tác giả kết thúc bài thơ bằng chữ cười rất khó hiểu như vậy và để cho người đọc tự suy nghĩ...

Trên đây là những phân tích về nội dung. Về hình thức, ta thấy người sáng tác đã sử dụng những câu chữ hết sức bình dân. Câu thơ hơi lặp đi lặp lại nhưng nhờ đó mà dễ nhớ dễ truyền khẩu từ đời nọ sang đời kia. Bờm là một chữ thuần Việt, nếu sử dụng chữ Hán hay Nôm để viết thì không biết sẽ viết như thế nào?. Thế nhưng bài ca dao đã truyền khẩu từ bao đời nay cho thấy nó rất được dân ta yêu thích.

Qua phân tích bài thơ Thằng Bờm, ta thấy rằng người sáng tác đã gởi gắm tâm tình của mình rất nhiều trong đó. Bài thơ thể hiện sự đấu tranh giữa người giàu và kẻ nghèo. Giàu thì muốn giàu thêm, muốn chiếm đoạt của kẻ khác. Kẻ nghèo nhưng không ngu, cụ thể như chú Bờm không vì những lời hứa hão huyền của phú ông mà chịu trao đổi cái quạt mo, một vật tuy nhỏ, ít giá trị nhưng do công sức của mình làm ra. Đọc bài thơ Thằng Bờm ta thấy văn chương bình dân của dân tộc ta rất thâm thuý và rất đáng tìm hiểu./.

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 77

 

Thơ

Chu Ngạn Thư đi dọc kênh xáng Chắc - Băng bằng tắc-ráng * thấy đồng thấy nước thấy mây thấy ta mắc lưới bủa vây hồng trần thấy lòng tan tác phù vân còn chăng ngơ ngác rễ bần, bờ xa ** “ nhứt cận giang .., gian nan cận lộ ” Tắc-ráng còn một chỗ Chắc- Băng dạo khúc, - mệt hay bổ ? *** nhớ nhau, cởi nước Chắc-Băng ghe bầu chở khẳm sao bằng tình em ! **** vừng buông ngả ngớn ven kênh đâu hay kho báu đã quên khóa rồi ! mất điệp ngữ nghĩa hoa trôi xanh trên bóng nước ai ngồi niệm kinh vừng ơi, câu sấm giật mình ! ngó theo báu vật u minh cạn nguồn ***** còn dăm bộ rễ đước trang trí mé nước trào nhắm miếng khô cá lóc Thới Bình nước lợ, chao

còn mấy chòm dừa nước cọc tràm cừ bờ bao vách nhà em trống hoác lá chằm bán nơi nao ? còn lại ly rượu thuốc nghe đắng tự phương nào lát nữa xuồng rời bến mắt nào gởi chóp phao ? ****** luồng nào ra Ông Đốc lạch nào ngược U Minh bãi bùn chêm rể đước thòi lòi chồm-chân-nghinh ! ******* khi về thăm chế (*), Đầm Dơi con kênh xáng múc, tôi bơi giữa dòng lên cao, lòng nhớ đất giồng ra biển, lại tưởng về dòng sông quê Gành Hào, Ông Đốc gọi về bến nước vẫn cứ bộn bề xuồng, ghe khi về lòng lặng lắng nghe trong vòng tay chế - âm bè nỗi xưa ******** xin thồi (*) một tiếng mùa xa nghe như mưa rớt trên phà ngày đi (*) : các phương ngữ đặc thù miền Tây Nam Việt

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 78

 

Cựu học sinh

Cựu học sinh Trịnh Hoài Đức khi ra đời làm việc và nổi tiếng trong lãnh vực âm nhạc có ba người. Người thứ nhứt là anh Trung Nghĩa (CHS khóa 9) rất giỏi về đàn ghita và được khen ngợi là người có “Mười Ngón Tay Vàng”. Tiếp theo là anh Lê Quang Phước (tức Lê Đức Cường – CHS khóa 11) là Giám Đốc Trung Tâm Băng Nhạc Người Đẹp Bình Dương đã sản xuất được nhiều sản phẩm rất hay hồi thập niên 1980-1990. Người thứ ba mới nổi tiếng sau nầy nhưng lại là người có nhiều người biết nhứt. Đó là nhạc sĩ Võ Đông Điền (CHS khóa 10).

Một điều ngạc nhiên là thời học sinh, anh Điền hầu như không tham gia vào các sinh hoạt văn nghệ của trường nên ít người biết đến anh. Sau nầy khi anh đã thành danh rồi thì bạn bè mới khám phá ra rằng anh ấy là CHS của Trịnh Hoài Đức.

Bài hát làm cho nhạc sĩ Võ Đông Điền trở thành quen thuộc với quần chúng là bài Tiếng Hát Chim Đa Đa. Xin ghi lại lời bài hát như sau:

Tiếng Hát Chim Đa Đa Nhạc và lời: Võ Đông Điền

Ngày nào em tuổi mười lăm Em hay nghe tôi ngồi đánh đàn Tiếng đàn làm nỗi nhớ mênh mang Rồi thời gian dần trôi mau Em không nghe tôi dạo phím đàn Mà chỉ nhìn lén lén bên sông Sao em không như ngày nào sang đây nghe tôi ngồi đàn Để điệu đàn buồn mênh mang Em như mây trôi dịu dàng trôi lang thang

trên bầu trời Và mây đã xa tôi Ấu ơ, ầu ơ ... Có con chim đa đa nó đậu cành đa Sao không lấy chồng gần mà đi lấy chồng xa Có con chim đa đa hót lời nỉ non Sao em nỡ lấy chồng từ khi tuổi còn son Để con chim đa đa ngậm ngùi đành bay xa Tình cờ tôi gặp lại em Ta đi chung trên một chuyến đò Con đò chiều đưa khách sang sông Tình cờ ta nhận ra nhau Nghe mênh mong nhớ chuyện hôm nào Để đò chiều sóng vỗ lao xao Hôm cô dâu sang nhà chồng qua sông trên con đò hồng Mà giọt buồn nhỏ bên sông Hôm cô dâu sang nhà chồng ai ru con nghe buồn lòng Lời ru nghe nhớ mong Ấu ơ, ầu ơ ... Có con chim đa đa nó đậu cành đa Sao không lấy chồng gần mà đi lấy chồng xa Có con chim đa đa hót lời nỉ non Sao em nỡ lấy chồng từ khi tuổi còn son Để con chim đa đa ngậm ngùi đành bay xa..

Nội dung ca khúc không có gì mới lạ. Bài

hát kể chuyện một người con trai thầm để ý cô bạn hàng xóm nhưng không nói ra, đến khi cô đi lấy chồng xa thì tiếc và mượn hình ảnh con

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 79

 

 

chim đa đa để nói lên tâm sự của mình. Điều đã làm cho bài hát trở nên nổi tiếng là nhờ lời hát bình dị, giai điệu dễ ca, dễ nhớ và có hơi hướng dân ca. Nhưng con đường để bài hát được quần chúng biết đến cũng không phải dễ dàng. Theo tác giả cho biết, anh đã sáng tác bài nầy từ năm 1993 và có nhiều ca sĩ trình bày trên các đài phát thanh tại Bình Dương nhưng chưa được

nhiều người biết đến. Đến năm 1999, anh đưa bài hát cho nhạc sĩ Vy Nhật Tảo để tập cho các em ở câu lạc bộ sáng tác ở Saigon. Tình cờ ca sĩ Quang Linh nghe bài hát và thấy hay nên hợp tác và thu vào đĩa Saigon Audio. Từ đó, bài hát mới được phổ biến rộng rãi, đi vào lòng người, và được công chúng hoan nghinh.

Một điều đặc biệt khác của bài hát chính là tác giả đã dùng hình ảnh của con chim đa đa. Nhạc về chim sáo, chim họa mi, chim bìm bịp ... thì đã có nhiều người viết nhưng về con chim đa đa thì hầu như Võ Đông Điền là người đầu tiên. Tác giả cho biết anh đã lấy ý từ những câu hát ru:

Chim đa đa đậu nhánh đa đa Chồng gần sao em không lấy, lại đi lấy chồng xa? Mai sau cha yếu mẹ già Chén cơm đôi đũa bộ kỷ trà ai dưng. Nhưng chim đa đa là con chim như thế nào?

Nếu hỏi mười người thì có hết chín người không biết (kể cả người viết bài nầy). Đại khái

người ta chỉ biết chim đa đa là một con chim rừng mà thôi, còn nó lớn hay nhỏ, biết hót hay không thì ít người biết. Có người hỏi Võ Đông Điền chim đa đa có phải là con gà gô hay không thì anh cũng ừ hử mà không trả lời dứt khoát. Nhà văn chuyên viết về chuyện đồng quê là Nguyễn Viết Tân có bài “Chim Đa Đa” trong tác phẩm Chuyện Miền Thôn Dã của mình. Ông đã viết về giống chim nầy như sau: ...“Con đa đa lớn gần bằng con gà, lông nâu, thỉnh thoảng có vài lông màu trắng. Nó thường được nhìn thấy đậu đơn lẻ chứ không ở thành bầy.”... ...“Con chim này không hót, không thể nói là nó gáy nữa, mà phải dùng từ "kêu". Giọng nó ồ ề như tiếng quạ già, chỉ có mấy chữ đầu đa đa đa.. là nó cất cao giọng, chứ một tràng tiếng về sau thì nó xuống

giọng rất trầm như giọng thuốc lào của một ông già đang cằn nhằn con cháu: -Đà, đa đa đa.. đá đá đa đà.. đà đa đá đa.”... Ông còn cho biết ở Bình Dương chỉ có vùng Dầu Tiếng mới có chim đa đa mà thôi.

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 80

 

Tìm hiểu trên internet, tôi thì tìm được hình con chim đa đa như trên đây. Nó có lông màu xám và lốm đốm đen trắng. Thành ra, đa đa không phải là một con chim có lông đẹp hoặc có giọng hót hay. Nên hát rằng “có con chim đa đa hót lời nỉ non” thì không đúng sự thật cho lắm. Nhưng nghệ sĩ lúc nào cũng có quyền sáng tạo. Ngày xưa, “lá diêu bông” còn được các nhà thơ đặt ra, thì chuyện cho chim đa đa “hót lời nỉ non” có gì là lạ!. Khi bài hát đã trở nên phổ biến, có nhiều người hát thì công chúng cũng chấp nhận và con chim đa đa nhờ đó cũng trở nên một giống chim nhiều người biết và nó đã “tượng trưng cho mối tình bí ẩn và huyền hoặc mà người nhạc sĩ đa tình đã chôn sâu vào tận đáy lòng.” (Mây Ngàn Phương)

Sau ca khúc trên, tác giả sáng tác thêm một bài nữa đó là:

Xin đừng trách đa đa Nhạc và lời: Võ Đông Điền Rồi con chim đa đa ngẩn ngơ đứng trông về trốn xa Còn âm vang câu ca ngày em bước chân đi theo chồng Lời ru nghe mênh mông ngày đưa tiễn em rời bến sông Nhìn mây trôi mênh mông nơi quê chồng em còn buồn không? Thời gian trôi qua mau nhiều khi ngỡ như là giấc mơ Đời không như trong mơ tình yêu có mấy ai đâu ngờ Thà như mây lang thang nhờ cơn giớ đưa về trốn xa Đừng như chim đa đa sao vô tình cho buồn người ta Ai làm, ai làm cho giọt mưa tuôn Ước con bướm vàng khi đậu nhánh mù u Chim chuyền nhành ớt nhành dâu Lấy chồng xa xứ biết đâu mà tìm Tìm em như thể tìm chim, Chim bay biển bắc anh tìm biển nam Chiều chiều, chiều chiều ra đứng bờ sông Giây phút chạnh lòng em có trách đa đa

Xin em đừng trách đa đa Xin em đừng trách đa đa ...

Khác với bài trước, bài thứ hai nầy mới vừa ra đời là thành công và được công chúng ủng hộ ngay. Từ đó Võ Đông Điền trở nên một nhạc sĩ được nhiều người mến mộ, thậm chí ở hải ngoại, nhiều bạn trẻ cũng thích và tìm hiểu xem con chim đa đa là con gì và câu chuyện chim đa đa mà tác giả đã kể trong bài hát bắt nguồn từ đâu. Trong một blog của một bạn trẻ yêu nhạc, tôi tìm thấy lời phát biểu sau đây: “I do not know the song’s author, just the singer name which is Quang Linh. In my younger day, I might just have overlooked the song because it was not my type. But now when Vietnam is many thousand miles away and when everything about Vietnam becomes nostalgic, I find the song particularly interesting”. Tạm dịch: “Tôi không biết tác giả bài hát mà chỉ biết người ca sĩ hát bài nầy là Quang Linh. Khi còn nhỏ tôi không để ý đến bài hát vì nó không thuộc thể loại mà tôi thích. Nhưng bây giờ khi mà Việt Nam đã ở xa hàng ngàn dặm và khi mà mọi điều về Việt Nam đã trở nên nhung nhớ, tôi lại cảm thấy thích thú đặc biệt về bài hát nầy”.

Trong khi đó, nhà văn Mây Ngàn Phương lại viết rằng: “Bản nhạc gợi hồn người xa xứ, như một bài ca dao, dân ca mang âm điệu buồn quyến rũ, êm ả ru ta vào cõi bềnh bồng của những mối tình câm lặng, tan vỡ, đầy hoài niệm và nhân bản”.

Nhạc sĩ Võ Đông Điền còn sáng tác trên dưới 100 bài hát khác trong số đó có nhiều nhạc phẩm rất hay như: Bất Chợt Ta Nhìn Nhau, Đêm Giao Thừa Nghe Một Khúc Dân Ca, Người Đẹp Bình Dương, Cánh Diều Quê Hương, Em Tôi ... Trong số đó tôi thích nhứt là ca khúc:

Màu Hoa Bí Nhạc và lời: Võ Đông Điền Đâu có thể phai mờ Kỷ niệm tuổi thơ đâu có thể phai mờ Cho ta còn đó chút ngây thơ Đến mãi bây giờ nhớ hoài Hoa bí vàng của tuổi thơ

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 81

 

Nhớ hoài con bướm vàng thời mộng mơ. Ôi cái thuở ban đầu dệt mộng ngày xanh Ôi cái thuở ban đầu Bâng khuâng một mái tóc bay bay Tóc xõa vai gầy tóc dài hoa bí cài vào làn mây Bóng chiều đang xuống dần mà nào hay. ĐK: Nhớ lúc tan trường anh cùng em bắt bướm Bướm bay vô vườn mà nước mắt rưng rưng Anh đền em màu hoa bí Hoa bí vàng thay con bướm vàng Nghe thương nhớ mênh mang. Nay bí trổ hoa vàng về lại trường xưa Nay bí trổ hoa vàng Bâng khuâng chợt nhớ sắc hoa xưa Hoa vẫn tươi màu Mái trường xưa có là Hoàng Hạc Lâu Biết tìm con bướm vàng giờ ở đâu.

Đối với một nhạc sĩ có tài thì bất cứ một hình ảnh tầm thường nào cũng có thể thành điều làm cho ông ta cảm hứng mà viết thành ca khúc. Như bài hát nầy: hoa bí là một hình ảnh quá đơn sơ, quá bình dị, nhưng với năng khiếu và tài nghệ tuyệt vời, tác giả đã kết hợp màu hoa bí với một mối tình học sinh trong trắng ngây thơ rồi viết thành một ca khúc rất đậm đà tình cảm. Mỗi khi nghe ca khúc nầy tôi lại bâng khuâng nhớ về một thời áo trắng nhiều mộng mơ, nhiều kỷ niệm.

*****

Từ ngày thành lập đến nay, trường Trịnh Hoài Đức đã góp phần đào tạo rất nhiều người tài giỏi cho tỉnh nhà. Nếu chịu khó học tập, một học sinh có thể trở nên một bác sĩ, kỹ sư, nhà giáo... dễ dàng. Nhưng để trở nên một nhạc sĩ có tài thì ngoài việc cần cù và chịu khó học hỏi, người nghệ sĩ cần có tài năng, niềm đam mê âm nhạc, một chút thiên khiếu và một phần may mắn. Cựu học sinh chúng ta đã có hàng trăm bác sĩ, kỹ sư nhưng chỉ có một Võ Đông Điền làm rạng danh tỉnh nhà qua những sáng tác của anh.

Tôi không quen nhạc sĩ Võ Đông Điền dù anh chỉ học Trịnh Hoài Đức trên tôi có một lớp. Nhưng anh làm tôi rất tự hào khi có môt người nào đó nói chuyện với tôi về ca khúc Tiếng Hát Chim Đa Đa. Lúc đó tôi “dựa hơi” anh và nói với họ là: “Nhạc Sĩ Võ Đông Điền là đàn anh của tôi ở trường Trịnh Hoài Đức – Bình Dương đó”.

Tôi nghĩ không phải chỉ riêng tôi mà các bạn CHS khác của trường cũng có cùng một niềm tự hào như vậy. /. Tham khảo: 1. Nhạc sĩ Võ Đông Điền: Còn nghe Tiếng Hát Chim Đa Đa (Tuy Hòa). 2. Võ Đông Điền và Tiếng Hát Chim Đa Đa (Nguyễn Quốc Đông) 3. Tiếng chim, hoa bí và những tà áo trắng (Hoàng Anh) 4. Xin đừng trách đa đa (Mây Ngàn Phương) 5. Chim đa đa (Nguyễn Viết Tân)

 

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 82

 

Thơ

Tôi yêu Trịnh Hoài Đức Thiên Thai Phạm Đức Liên Tôi yêu Trịnh Hoài Đức, Thuộc tỉnh lỵ Phú Cường, Nơi miền Đông đất nước, Chốn "Người Đẹp Bình Dương".

Tôi yêu Trịnh Hoài Đức, Không biết tự bao giờ, Nguỵ Văn Thà cứu quốc, Nam nữ đẹp tuổi thơ. Tôi yêu Trịnh Hoài Đức, Những ngày mới ra trường, Hăng say qua nhịp bước, Ban mai mờ tinh sương. Tôi yêu Trịnh Hoài Đức, Học trò giỏi lại ngoan, (1) Thầy cô vàn nô nức, Hoài Đức rực trời Nam. Tôi yêu Trịnh Hoài Đức, Những sanh hoạt học đường, Thầy trò cùng chung sức, Hoài Đức nhiều vấn vương. Tôi mê Trịnh Hoài Đức, Trường nữ lẫn trường nam, Thầy cô thật xuất sắc, (2) Vạn tuế cho Việt Nam. Tôi yêu Trịnh Hoài Đức, Cô giáo Hà Thị Liên, Đốc Học Nguyễn Trí Lục, Mặn nồng- mối tơ duyên.

8/2012 (1): Trong các kỳ thi trung học đệ nhứt cấp và Tú Tài, học sinh THĐ đậu 50% trở lên - trong khi tỉ lệ toàn quốc chỉ 15 đến 20%. Học trò

THĐ còn trúng tuyển nhiều vào các đại học chuyên nghiệp như ĐHSP Saigon (Nguyễn thị Phương, Từ Minh Thạnh), Kỹ Thuật Phú Thọ (Từ Minh Tâm, Nguyễn Hoàng ...) Sĩ Quan Không Quân (Đinh Quang Hạnh, Hoàng Ngọc Định ... )

(2): Là những sinh viên tốt nghiệp từ ĐHSP Saigon (Professeur Licencie = Giáo Sư Cử Nhân) hạng nhất, nhì, ba ... và quí vị GS có thâm niên giảng dạy - từ các tỉnh xa đổi về - trước khi chuyển về nhiệm sở sau cùng là Saigon . Thật may mắn.

GS Phạm Đức Liên

Bài dịch qua Anh Ngữ của cùng tác giả

I Love Lycée Trịnh Hoài Đức I love the school of Trinh Hoai Duc, Belongs to Phu Cuong City, Eastern province of the nation, Famously called "The Beautiful Lady of Binh Duong".

I love the school of Trinh Hoai Duc, Unknown of the time of love, Famed Nguy van Tha saved the nation, For the young generation. I love the school of Trinh Hoai Duc, From the days I began teaching, Passionately walking toward the classrooms, In the early dawn of each day.

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 83

 

I love the school of Trinh Hoai Duc With smart and well-behaved students, Success brought proud to educators, Hoai Duc brightened in the South. I love the scholl of Trinh Hoai Duc, Along with its extra-curricular activities, Joined by faculty members and students, Much love for my Trinh Hoai Duc Lycée.

I deeply in love with Trinh Hoai Duc, Of its both femaile and male students' sections, of its excellet background professors, Working altogether for our beloved Vietnam. I love Lycée Trịnh Hoài Đức Teacher Hà Thị Liên Principal Nguyễn Trí Lục Deeply in eternal life.

Việt Nam : Giang sơn cẩm tú,

dòng giống khôi ngô

Yêu lắm - Việt Nam ơi! Thiên Thai Tôi yêu nước Việt Nam, Dãi giang sơn cẩm tú, Dọc Trường Sơn miên man (1), Mây trắng- rừng núi thu Yêu đất nước Việt Nam, Với biết bao cửa biển, Bao lơn ra biển Đông, Nô nức những tàu thuyền. Tôi yêu nước Việt Nam, Dòng Cửu Long bao la, Mầu mỡ - bốn bờ Vàm (2), Tươi thắm lớp phù sa. Yêu quê hương Việt Nam, Vùng châu thổ sông Hồng, Nơi ấp ủ dòng Nam, Chốn văn vật - Thăng Long (3). Nam Quan đến Cà Mau Mạn ngược xuống miền xuôi, Đồng bằng lên rừng sâu, Trung Nguyên - những núi đồi (4). Tôi yêu dân tộc Việt, Chăm chỉ lại thông minh, Đôi mắt to – “đen biếc” (5), Ngời sáng- thuở sơ sanh. Yêu dòng giống Tiên Rồng, Đoàn kết- xiết tay nhau, Là con Lạc cháu Hồng, Ngoại xâm- chống - từ lâu. Yêu quá - Việt Nam ơi! Cho Lạc Long ngạo nghễ, Cho Âu Cơ mĩm cười, Cùng năm châu bốn bễ. Việt Nam - Việt Nam ơi! Bầu trời Nam rực sáng, Tháng ngày đẹp tuyệt vời, “Điện tử” – khúc ca vang (6).

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 84

 

***** 1. Dãi Trường Sơn lừng lững – che chở miền Trung. Trường Sơn chạy ngang xuống tận bình nguyên miền Trung (đồng bằng Quảng Trị chỉ còn rộng trên dưới 30 km). Đỉnh Trường Sơn thì ngàn năm mây bay. 2. Sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, mỗi sông có 2 bờ là ruộng đồng phì nhiêu. 3. Thăng Long: cái nôi của dân tộc Lạc Hồng, chốn ngàn năm văn hiến. 4. Trung Nguyên Trung Phần là nhiều bình nguyên hẹp với đồi núi thấp (Núi Ngự Bình , Huế) 5. Thường là xanh biếc, thế nhưng con cháu Rồng Tiên thông minh lắm - cặp mắt đen láy – văn chương gọi là “đen biếc” Người khôn con mắt đen sì (very black, coal black), Kẻ dại con mắt - nửa chì nửa thau! (Ca dao). Người Pháp có câu “L’oeil est la porte de l’âme” = "Mắt là cửa ngõ của tâm hồn" mà mắt con cháu Rồng Tiên “đen biếc” thật khôi ngô tuấn tú lắm - nhất là cháu con Trịnh Hoài Đức.

6. Để khỏi bị tụt hậu, Việt Nam Lục Địa chỉ có một con đường là “High Tech” (Products: Made In Vietnam, by Vietnamese Engineering, of Vietnamese Technology, for Vietnam Pride).

Bài dịch qua Anh Ngữ của cùng tác giả

Much love of Vietnam I adore you, Vietnam, Loving the picturesque nation, Covered by the longest mountain range, Fall colored forests mixed in white clouds. Loving, loving Vietnam, With numerous harbors, Looking to the Pacific Ocean, Anchoring multiple cruise ships. Vietnam, I adore you, Large flow of Mekong river,

And the Vam rivers, Enriched life with fertile soil. My beloved country Vietnam, The Red river delta, Where the Lac Long blood originated, Where the Thang Long intellectual developed. From Nam Quan to Ca Mau, Mountains to valleys, Plains to forests, Plateaux with mound of hills. Loving, loving the Vietnam people, Intelligent an hard-working, “Exquisite black” – two big eyes, Shining through since birth Loving Tien Rong, the utmost race, Holding hands – together we fought, We – the children of Lac Hong, Against the foreigners – since long time Loving you so much Vietnam! Making you proud, Father Lac Long, Making you smile, Mother Au Co, Spreading five continents plus four seas. Vietnam – oh Vietnam! The brilliant Vietnam sky, Future days are coming, “Hi-tech” is the victorious song. “Research Triangle”, Trọng Thu 2012

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 85

 

Tôi yêu nước Việt lạ lùng Thiên Thai 1. Tôi yêu nước Việt lạ lùng, Yêu từ ngọn núi - đến từng con sông. 2. Ngân Sơn (1) - châu thổ sông Hồng, Là nôi ấp ủ- con Rồng cháu Tiên. 3. Trường Sơn (2) - trùng điệp - triền miên, Hải Vân, Ngoạn Mục - đi tìm biển Đông. 4. Linh Giang, Bến Hải, Thu Bồn, ... Hễ ai nhắc nhở - bồn chồn nhớ mong! 5. Phù sa thắm - dòng Cửu Long, Cò bay thẳng cánh - ruộng đồng phì nhiêu. 6. Bà Đen, Châu Thới - mỹ miều, Ninh Kiều nô nức - xế chiều Tây Đô (3) 7. Việt Nam trong giấc mộng mơ, Tràng An (4) văn hiến - nên thơ quanh hồ. 8. Hương Giang - ảo ảnh trăng mờ, Ngàn hoa - Đà Lạt - bài thơ trữ tình. 9. Sài Gòn - chiều nắng thủy tinh, Dáng xuân tươi mát - cho xinh xinh đời. 10. Nam Trung Bắc - sắc hương trời, Bao thôn nữ đẹp - ca lời thiên thai. 11. Việt Nam - hai tiếng ngọt ngào, Quyện nơi đầu lưỡi - ngấm vào tim gan. 12. Việt Nam ơi!. Gió mây ngàn, Cho dòng Âu Lạc - lang thang khắp trời !!!

Ghi chú: (1) Ngoạn núi cao nhất Việt Nam là Hoàng Liên Sơn (Fansipan 3.142 mét, ở Lào Cai với trung tâm du lịch là Chapa ở cao độ 1.600 mét. Ngân Sơn là rặng núi vòng cung, tả ngạn sông Hồng, độ cao trung bình là 1.000 mét. (2) Dãy núi Trường Sơn - trùng trùng điệp điệp - chạy dọc theo Trung Phần (xương sống của Việt Nam, cao độ trung bình 1.000 mét) . Nhiều dãy chạy ngang ra tận biển như Hoành Sơn (giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình, độ cao 800 mét, Đèo Ngang cao 320 mét), Hải Vân (giữa Thừa Thiên và Đà Nẵng, cao độ 1.800 mét, đèo Hải Vân cao 470 mét), Núi Vọng Phu (giữa Phú Yên và Khánh Hòa độ cao 2000 mét có Đèo Cả), Đèo Ngoạn Mục (Belle Vue) ... (3) Cần Thơ (4) Hà Nội.

Bài dịch tiếng Anh

Vietnam, Our Beloved Country 1. Miraculously, my soul is for loving Vietnam, Love every each mountain - every each river. 2. Ngan Son range - Red River delta, Cradle of nurture- children of Dragon, grand children of Mother Angel. 3. Truong Son range - splendid vista of evergreen, Passes of Hai Van and Ngoan Muc - to the Pacific Ocean. 4. Linh Giang, Ben Hai, Thu Bon rivers, ... Memories filled with sounds of love. 5. Fertile soil, flowing from Mekong River, Immense land - oh!. Its magnificent scene. 6. Elegant Ba Den - Chau Thoi mountains, Busy Ninh Kieu port - peaceful Tay Do sunset. 7. Vietnam sunk in my sweet dreams, Cultural Trang An capital - poetic view at the lake Hoan Kiem. 8. Perfume River - illusion under the moon, Floral Dalat city - created poems of passion. 9. Saigon - an afternoon of luminous sun, Fresh, young girls - bring happiness to life. 10. North, Center, and South regions filled of pretty faces, Sing the song to honor its beauty. 11. Vietnam - two sweet sounds of spoken, From the tip of the tounge - to the softness of the heart. 12. Oh! My Vietnam - Its wind, Its cloud, Makes the Au Lac race - wandering to every corner of the world !!! Indy, December 2012

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 86

 

Bưởi Học Trò

Xin tự giới thiệu với các bạn tui tên là “Bà Bầu”. Cái tên đặc biệt nầy là do anh hội trưởng của gánh hát THĐ ở Hiệp Chủng Quốc đặt cho tui. Ngày mà tui nhận được điện thư của anh, tui thật ngỡ ngàng … Ai là bà bầu vậy? Té ra là mình. Thật tình mà nói lúc đầu tui không thích cái tên này đâu nha, vì nói đến bà bầu là tui nghĩ đến cái bà béo phì, xồ xề… Phái nữ mà lỵ, ai cũng thích đẹp phải không các bà Nội, Ngoại? Bây giờ thì vui vẻ quen rồi vì mấy đứa bạn cùng lớp theo phe anh hội trưởng cũng gọi tui với cái tên mới ấy.

Mang tiếng là bà bầu nên tui cũng phải chạy đôn chạy đáo (nói cho ngon mà) lo cổ động cho tờ đặc san Xuân năm nay, để giúp chút gì cho Ban Phụ Trách chứ để một mình em út Minh Tâm gánh vác thấy tội nghiệp quá. Mà cậu em út này thật đa tài à nghen (chứ không phải đa tình đâu nha). Một mình chàng ta đã làm từ A đến Z. Câu “nhất nghệ tinh nhất thân vinh” là không đúng rồi, vì em này là vua đi du lịch vòng quanh thế giới đó mà. Trong khoá 9 lớp A 2 của tui có nhiều bạn viết văn thơ hay lắm như Thuý Đinh, Kim Dung, Thanh Diệu … Ấy vậy mà khi nghe tui năn nỉ viết bài thì quý vị ấy nói : “Già rồi không thích viết lách nữa …Nói nhỏ đừng la nha … Để thì giờ coi phim bộ Đại Hàn thích hơn…”. Cũng may là còn có Thuý Đinh chịu khó “thả thơ” vì sợ lớp khác lấn sân trường.

- Em đang viết bài dang dở đây. Nó bị bí với chủ đề Xuân thật, nhưng em cũng cố gắng góp mặt cho A2 tụi mình. Hồi lễ Tạ Ơn anh Diệp có “i meo”, cũng dặn dò em viết cho báo Xuân, làm em cảm động lắm. Thôi thì cứ như thế đi, đến một ngày nào đó đầu óc trống rỗng, chữ nghĩa biến mất thì mình dừng.

-Thuý ơi! Cái cầu gần nhà chị Phương vào nhà thờ ở Búng tên gì? Mình viết bài cho báo Xuân ….

- Nếu gần nhà chị Phương có lối rẽ vào nhà thờ là cầu Bà Hai… Bài này hứa hẹn hay đây nha. Chị có nhớ bút hiệu Thương Trần Hoài quê mùa của em không?

- Ừ cái bút hiệu Thương Hoài của mình sao mà cũng cải lương quá. Đúng là con nít mới tập làm thơ … Quê quá chừng.

Hồi còn đi học thì tui không có chơi thân với mấy chị ở khoá 8, dù tuổi đời thì suýt soát nhau. Bây giờ già rồi thì thân thương hơn vì các sư tỷ rất dễ thương mà lại vui tánh. Nhất là sư tỷ Huê Mỹ lúc nào cũng tiếu lâm kể cả lúc nằm trong bệnh viện. Mỹ ơi! Viết bài cho báo Xuân chưa?. Báo Xuân cần có những bài viết vui tươi. Hôm rồi mình đọc thư Mỹ gởi cho cháu Phượng nghe mà hai dì cháu mình cười ra nước mắt …cười quá trời. Chỉ còn có một tuần nữa là hết hạn gởi bài. Bồ mà không chịu viết thì tui lấy mấy cái điện thư của bồ gởi cho Minh Tâm đó nha.

- Gởi Tâm, nghe bà bầu K Nên nói sắp “Fermer Boutique” tờ báo Xuân 2013 và hối tỷ viết bài quá. Thôi thì có gì chơi nấy hén ?

Năm nay báo Xuân có vài khuôn mặt mới như “bác sĩ nhà quê”. Cái tên thật dễ mến cũng như bài Bà Cố tôi. Một vài sư huynh mới gặp nên không kịp viết bài, xin hẹn năm tới.

Chuyện bên lề xin chấm dứt nơi đây, xin kính chúc quý thầy cô và ban biên tập thật nhiều sức khoẻ, tâm tư an lạc để tiếp tục viết lách cho đến khi nào chữ nghĩa biến mất thì mình dừng.

Ghi chú: Bưởi Học Trò là Bút hiệu mới của tui đó, sau khi được đọc điện thư “Bưởi và Bòng “ của Cao sư phụ./.

                    

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 87

 

Thời gian trôi qua không bao giờ trở lại. Tuổi học trò hoa mộng đã rời xa chúng ta. May mắn thay, tuy gần nửa thế kỷ rời xa mái trường thân yêu, một số anh chị còn giữ lại nhiều kỷ niệm ngày xanh. Đó là những hình ảnh rất quý báu được chụp trong các lễ phát thưởng, các chương trình văn nghệ, các giải thể thao ... Báo xuân Trịnh Hoài Đức xuân Quý Tỵ xin mạn phép đăng lại một vài hình ảnh thân thương thuở nào để chúng ta cùng ôn lại vài kỷ niệm xưa để xem ai còn ai mất. Bạn có thể xem thêm những hình ảnh khác trên trang nhà GS và CHS Trịnh Hoài Đức theo địa chỉ: http://trinhhoaiduc.netfirms.com. Xin cám ơn quý anh chị đã gởi hình ảnh cho trang nhà và mong nhận được nhiều hình ảnh khác. Do hình gởi cũng khá lâu nên một vài tấm không nhớ rõ người gởi là ai, xin vui lòng email cho Minh Tâm theo địa chỉ: [email protected] để bổ túc.

Thầy Trần Trác Lập và nữ sinh lớp 12A3 (khoá 14)

Ngồi:*Hứa Mai, Huỳnh Nga, Thu Hồng, Sáu( Trần), Thuận, Cẩm, Mỹ Ly, Đào, Hòa * Huệ, Bê, Sáu (Đỗ), YếnTuyết, Hương ( Trần), Hồng Loan, Mộng Thu, Hương ( Nguyễn)

Đứng: ...,..., Đông (Lê) , Xuân Mai, Lý Lai Phong, Ngọc Trai, B Tuyết..., Tuyết Mai,...,... Mỹ Dung, Kim Phụng, Hậu, Nga, Nguyễn Quyền, Đông (Trần)

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 88

 

Thầy Đoàn Phế đứng sau với “đám học trò ngây thơ vô số tội của khoá 9” : Minh Lan, Phụng, Kim Nên, Cúc Hương, Thanh Diệu, K Hồng, Vương Gái, K Mai, Thúy Đinh (hình do CHS Kim Nên gởi)

GS Lê Tấn Lộc, Phạm Ngọc Em, Lê Xuân Viên (hình do Trương Thị Huê Mỹ gởi)

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 89

 

Hình chụp tại Little Saigon trước khu Phước Lộc Thọ nhân dịp thầy Liên qua Cali

từ trái sang phải: Thầy Phạm Đức Liên, phu nhân thầy Đoàn Văn Vượng, phu nhân thầy Liên, cô Hà Thị Liên, phu nhân thầy Nhượng, Thầy Nguyễn Trọng Nhượng, thầy Vượng, hai em bé là con thầy

Nhượng. (Hình do thầy Phạm Đức Liên gởi)

 Trong sân trường THĐ năm 1971: Các GS : Đoàn Phế, Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Đông Ngạc, Lê

Tấn Lộc, Đặng Thanh Châu, Đặng Văn Danh, Bùi Thế San, Trần Thị Hương, Nguyễn Thị Tâm (hình do cô Nguyễn thị Tâm gởi)

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 90

 

Khóa 11, Lớp A2 Hàng 1 : Ngọc Hạnh, NgọcYến Hàng 2 : Bích Vân, Thanh Xuân, Út, Ngọc Kim

Hàng 3 : Ái Liên, Cúc A, Hận, Nhanh, Ngọc Tuyết, Lài, Kim Lang Hàng 4 : Luật, …, Tứ, Quyền, Lựu, Trần Nhung, Ngọc Kiêm, Quý

( hình do CHS Lâm Ngọc Tuyết gởi ngày 05-12-2012)

Quý vị GS : Nguyễn Văn Cung, Trần Thị Muôn, Trần Thị Hương, Trần Thị Thịnh, Nguyễn Thị Tâm

(hình do GS Nguyễn Thị Tâm gởi)

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 91

 

Nữ sinh THĐ – khoá 6 (hình do CHS Đỗ văn Hồ gởi - quý chị có nhớ tên các bạn trong hình không?)

Lý Toét và Xã Xệ sắp trình diễn

(Một Thuở Học Trò - ảnh chụp lại từ album của CHS Trương Thị Huê Mỹ)

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 92

 

Đồ Ngông

Lời toà soạn: Đồ Ngông bút danh của một Giáo sư và cũng là CHS Trịnh Hoài Đức hiện định cư ở Úc. Anh có làm 100 bài thơ về Bình Dương. Do khuôn khổ trang báo có hạn, đặc san THĐ xin tríchđăng một số bài. Phần còn lại bạn đọc có thể tìm trên trang nhà CHS Trịnh Hoài Đức: http://trinhhoaiduc.netfirms.com Lên Thủ Có ai về chợ Thủ Đi ra phía bờ sông Dọc theo đường Bạch Đằng Đi lên Miễu Tử Trận. Bên kia Thành Săn Đá Bên đó lại Thành Quan Quan, lính ở hai đàng Gò Cầy theo ông lớn! Tòa Tỉnh ở đồi cao Cây dầu kêu lao xao Nhìn ra sông lờ lửng Cảnh đẹp, đẹp thế nào! Ngày xưa ở chỗ nầy Đò đưa chuyến mỗi ngày Chợ cá qua Bình Mỹ Giờ khách ít sang sông!

Sông ven sau đít chợ Chợ xưa đẹp nên thơ Hai bên hai dãy phố Tấp nập bán buôn vào. Nhà làng* ngó lên chợ Đâu mặt lại đứng nhìn Đồng hồ chợ trên cao Xuyên hàng cây bồ-kết! Bến xe của ngày xưa Nhường cho Khu Thương Mại Ồn ào thay cảnh cũ Người chỉ nhớ năm nào…! Cái gì cũng đã qua Sự thay đổi mỗi ngày Bình Dương giờ khác quá Thủ Dầu Một đổi thay! * Trụ sở hành chánh xã Phú Cường Búng! Quê hương xứ Búng an lành (An) Được ra giàu có (Thạnh), lại thêm có phần Đã xây trường Trịnh (Hoài Đức) nổi danh Thêm trường Bá Nghệ (tên cũ cơ sở trường Nữ THĐ), lại giành Nông Lâm Ngày xưa Dẫn Đạo Cộng Đồng

Tỏ ra có tiếng cả vùng miền Nam Thế mà lại chẳng chịu kham Lại thêm danh giá: Có Phan Văn Hùm! Bánh Bèo, Bì! (Búng) Bánh bèo xếp tròn trên cái dĩa Xoay xoay thật khéo, khéo làm sao Mỡ hành, nhân đậu trông bong bóng Dưa, giá, bì thơm, nước mắm vào! Mặn mặn, cay cay, hơi ngọt ngọt Thêm rau ăn thử, thử xem sao? Thơm thơm, mát mát qua cổ họng Nước mắm mà ngon, tuyệt… thế nào! Cầu Ngang. (Bình Nhâm) Cầu nào mà chẳng bắt ngang Lạ chưa! Con rạch sao mà bắt xuôi Bắt xuôi, sao tới được bờ? Để ngang, người mới đi về, đi qua Thế mà tên chẳng đặt ra

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 93

 

Cầu ngang lại đặt, lấy tên giành phần! Trường Cộng Đồng Dẫn Đạo. (Búng) Nhớ rằng: Lại một thuở xưa Có trường Tiểu học Cộng Đồng gọi tên Dẫn đường, Dẫn Đạo mà nên Dạy vừa văn hóa, lại nghề “ngỗng” luôn Nuôi gà, nuôi vịt, nuôi tôm Nuôi heo, nuôi cá, lại thêm dệt hàng Gọi là tơ lụa tầm tang Cho nên trường mới ở nơi ruộng vườn Kéo theo trường Trịnh (Hoài Đức) chơi luôn Bởi vì một Đốc, hai trường nhỏ to Mở hông qua lại quản trò Công lao hạn mã, kéo dài nhiều năm Thế mà sao lại nở quên Đốc Di (Trương Văn) có tiếng nhất nhì Bình Dương! Dập Dồn Xứ Búng. (Búng) Ngày tôi còn bé nhỏ Xứ Búng đã ồn ào Người buôn bán xôn xao Thêm tiếng ồn xe lửa! Tiếng lách cách máy dệt Xen lẫn chuông nhà thờ Những ghe bụi lên tro (đưa tro lên bờ) Người gọi nhau ơi ới!

Rền rền xe hơi chạy Xe ngựa tới liên miên Thợ tiện làm liền liền Lạch cạch nghề (đóng) móng ngựa! Lanh canh cho tiếng gỗ Guốc được đếm sang tay Đưa đi xa mỗi ngày Như loại hàng cây trái! Những chuyện trò rôm rả Hàng quán bún bì, bèo Chuyện bàn tính đi theo Cho chuyện đời mỗi bữa! Ánh chiều dần buông xuống Những vạt nắng lên cao Phố chợ chiều lao xao Cho mọi ngưòi ăn uống! Khói chiều vừa giăng mắc Tiếng chuông chùa công phu Ếch nhái cùng trỗi dậy Trong đèn sáng mù mù!

Quê Tôi. (Tân Khánh) Ai về Tân Khánh quê tôi Mà nghe tiếng vọng Bà Trà năm xưa

Bây giờ như gió thoảng đưa Ông Ất, ông Giá như chưa có gì Đã qua cái thuở xuân thì Chạy theo cuộc sống, đua thi với đời Có chăng là mệt cầm hơi Cái vùng đất võ, lắm thời bỏ quên! Con Suối Ngày Xưa! (Tân Khánh) Con suối ngày xưa nước rất trong Chảy vào hàng dứa, chảy cong cong Qua bao lùm chuối, rong xanh mướt Chảy suốt quanh quanh dọc cánh đồng! Ngày nao cũng tại chốn nơi nầy Từng đám trẻ thơ chơi ở đây Tập lặn, tập bơi, cùng tát nước Tuổi thơ rón rén, bỏ nơi nầy! Mạch chợ, mạch to hay mạch nhỏ Bàn chân in dấu bước chân đi Xóm trên xóm dưới “cày” (đi tới, đi lui) hằng bữa Mà thuở ngày xưa… lại mất rồi! Lò Chén. (Tân Khánh) Từ xóm đầu trên, tới xóm cùng Đâu đâu lò chén cũng lung tung Dọc theo bờ suối lò ngang dọc Chạy suốt bãi dài củi tứ tung Khói bốc lên cao lò đang chụm Nước xáo lao xao thợ quậy hồ

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 94

 

Đất sét làm nên hình dáng cả Chậu, bình, chén, dĩa, tộ cùng tô! Bến…! (Bình Dương) Lên miền Dầu Tiếng mà xuôi Xuôi dòng sông nhỏ có tên Sài Gòn Đi qua nhiều bến bôn chôn Ghé bên Bến Củi mà rinh củi về. Đi ngang nhìn thấy Bến Chùa Có người đứng đợi bên chùa cứ mong Có chừng suy nghĩ lại trông Xuôi về Bến Cỏ tìm cô người tình! Bước lên Bến Súc cảnh xinh Hằng cây gỗ lớn đợi về miền xuôi Xuôi qua Bến Thế nằm chờ Mua chôm chôm chín cùng về chuyến luôn. Nhưng bên Bến Cát trộn hồ Chưa xây dinh được, phải chờ năm sau. Thôi rồi đành phải về mau Xuôi qua tỉnh Thủ, An Sơn, Nhị Bình Lái Thiêu cầu Sắt xinh xinh Đừng vương Bình Triệu cầu Gành bắt ngang Đừng vương vào đất Thanh Đa Mà dang tay với Nhà Bè phân đôi: “Nhà Bè nước chảy chia hai Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về” (ca dao).

Rừng Cò Mi. (An Phú) Cái tên nghe lạ, hơi kỳ Rừng đâu có của ông Cò (cảnh sát) tên Mi Rừng từ khu vực nhà Thơ Bao trùm An Phú (Xã) chạy về Dĩ An Trong thời ác liệt chiến tranh Rừng đành tiêu hết cũng vì khai quang Lại thêm xa lộ Đại Hàn Dĩ An – Bình Chuẩn xuôi lên Chợ Đình Phá tan đi những chiến khu Để giành phần thắng, chỉ thương dân lành! Bến Đò Trạm. (Tân Ba) Bến đò nầy là trạm Mà trạm của gì đây? Hỏi ai mà có biết Xin cho biết nghĩa nầy! Chắc là nơi nghỉ ngơi Đợi đò ta phải ngồi Đợi lâu đò mới tới Rồi ta mới sang sông! Bên bờ đó Bửu Long Bên nây ta nóng lòng Đi qua rồi đi lại Ta mỏi mắt chờ trông! Cúng Công-Xi! Lái Thiêu, Hưng Định công xi Cũng cùng Tân Khánh chia nhau ra làm

Mỗi năm mỗi chỗ một lần Đem theo con “hẩu” lắc đầu múa may Cùng nhau lại cố tranh tài Có khi tức khí, bày trò “chơi” nhau! Trường Câm Điếc! (Lái Thiêu) Lái Thiêu có trường câm điếc Dạy người bất hạnh chẳng may Học hành dấu hiệu đặc biệt Tỏ ra để hiểu ý người! Cuộc đời có lắm trái ngang Ông trời lại ở bất công Đem người ra thân đày đọa Thế Ông mới thích, vừa lòng! Ai bảo: Trời yêu thế gian? Ai bảo: Tình yêu ngập tràn? Cứ nhìn tai họa mà biết Những gì trời cho thế gian! Miệt Vườn! “Miệt” nghĩa là gì? Đó hỡi anh? Người ta hay nói, tôi chưa rành! Chắc hay có lẽ…là khu ấy Khắp cả mấy khu lại có vườn! Ừ thế! Cứ hay là thế đó Bình Nhâm, Hưng Định qua An Sơn Phú Văn, An Thạnh lên Bà Lụa Khắp cả đâu đâu cũng có vườn! Vườn cây ăn trái vườn râm mát Không khí trong lành ta thở chơi Nhởn nhơ ta hái vài cây trái

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 95

 

Ổi, mít, mận, đào ta cứ xơi! Muốn nghe tiếng dế đêm mang đến Rộn rã âm vang ve gọi hè Có cả rắn lục đêm hút gió Lặng: Nàng tiên thoáng…thoáng đi qua! Ừ đó bóng hồng con chủ vườn Dáng thơ yểu điệu lắm yêu thương Bòn bon, tố nữ, dâu thua dáng Măng cụt, chôm chôm lại phải nhường! Miệt vườn có cách riêng mà sống Sinh hoạt đan xen cùng uống ăn Bởi thế cho nên văn với hóa Riêng riêng cái nét của nơi vườn! Cô Hàng Năm Xưa! (Bình Nhâm) Cô hàng cây trái của năm xưa Ngày đó thơ ngây, chửa có chồng Nhỏ nhẹ lời ru như tố nữ Dáng thơ ngọt lịm kể bòn bon! Năm nay ta gặp lại cô nàng Thoáng chốc cùng nhau thật ngỡ ngàng Nhìn thấy nhau rồi mà chẳng biết Biết bao cách biệt lần thu sang! Cù Lao Sáu Xã. Cái cù lao lớn thế sao?

Bao gồm sáu xã làm nên một nhà Bình Hưng, Mỹ Quới, Mỹ Hòa… Còn ba xã nữa thì không biết rồi Nói ra chỉ để mà chơi Bây giờ thiên hạ lấy hơi “Bạch Đằng”! Đường Ra! Đường ra Thị Xã lắm Bình Đi qua Bình Quới, Bình Hòa quanh quanh Xong rồi Bình Thoại thoáng nhanh Bình Điềm lại có sở xoài ngày xưa Đừng vào Hòa Thạnh mà mua Heo nái với lại rượu ngon, bả hèm Đi qua Phú Lợi mà xem Có hàng khối xóm, cơ quan dập dồn Đi qua cái gọi chợ Đình Qua luôn cả cái Ngã Tư Sao Quỳ Đi về cái dốc Nhà Thương Đi qua Ngã Sáu, Phú Cường là đây! Lò Đường Bà Lụa. (Thị Xã) Một thời nổi tiếng của Bình Dương Nhà máy chuyên môn sản xuất đường Tiêu thụ mía trồng khu vực lớn Chuyên cung sản phẩm khắp thương trường!

Bình Chuẩn. Bình Chuẩn lại có cái hay Luôn ba ấp cả nằm ngay trục đường Con đường huyết mạch giao thương Cho nên không khá, đợi thời nào đây! Thuận Giao. Đã “Thuận” rồi lại “Giao”nhau Bán buôn đất sét đưa về lò nhen! Xe bò, xe tải liên miên Giao cho đủ số mới nên hợp đồng Xứ này lại được số đông Đào lên đất sét, bây giờ “Cao lanh” Lại thêm Hòa Thạnh bên ranh Một phần Bình Chuẩn tranh giành chút chơi Cả ba hợp lại: Ba nơi Chuyên cung đất sét cho lò chén thôi! Ngã Tư Hòa Lân. (Thuận Giao) Hòa Lân trục lộ dập dìu Tiếng còi inh ỏi, tiếng người xôn xao Bán buôn lắm cái ồn ào Ừ thôi! Thì cũng lăn vào ngủ trưa! Đi Lên. Phú Lợi nằm giữa Phú Văn

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 96

 

Đi lên Phú Thuận mà băng qua đường Đi vô Phú Hữu chơi luôn Lại qua An Mỹ thăm trường Ông Trai (Trần Văn Trai) Ông Trai mới chết năm này Thọ vào trăm tuổi, có tài, phước sâu Nhờ Ông An Mỹ dẫn đầu Đình to cao lớn; trường này trường kia Trường tư có cả trường công Có Trung, Tiểu học góp phần giúp dân! Xóm Mương. (Thị xã) Xóm nầy chắc có nhiều mương Trồng cây ăn trái, lập vườn trồng cao Gần ga xe lửa ngày nào Đã chen cái cảnh ồn ào điếc tai Chiều về nghe tiếng công phu Bên chùa Tây Tạng, ru ru gọi lòng! Chợ Cây Dừa. (Thị xã) Cây dừa ở khoảng góc đường Người qua người lại khu nầy khá đông Lần lần nhóm họp bán buôn Chợ nầy chết tiếng thành tên “Cây Dừa”! Bưng Cải. (Thị xã) Đường sao xuống dốc thấy mà ghê

Cố ráng đi lên bước nặng nề Đã vậy mà còn “bưng” mớ “cải” Đem rao thiên hạ thấy mà mê! Nói thế mà chơi chứ xuống “Bưng” Trồng ba mớ “Cải” lên tưng bừng Đem ra chợ bán thêm tiền bạc Mua sắm chút đồ, thế được hưng!

Nhà Thương! (Thị xã) Nhà thương nầy ngày xửa ngày xưa Tiếng gọi dân gian chẳng phải thừa “Thương thí” vô nằm không phải trả Dân nghèo, kém đói thật là ưa! Bao năm nó vẫn nhà thương công Cứu giúp dân đen kẻ khốn cùng Những lúc đau thương và bệnh hoạn Có nơi nương tựa lúc đau lòng! Chùa Hội Khánh. (Thị xã) Chùa ở vào khu yên tĩnh thay

Cảnh quang khoáng đảng, thoáng nơi này Cánh đồng phía trước đầy mầm sống Chánh điện trong nầy hướng kiếp sau Có Kệ, có Kinh lòng hướng thiện Có Tu, có Hạnh giữ tương lai Cuộc đời đạo đức cho nhân quả Thế giới, nhân sinh, cuộc sống này! Lễ Hội Chùa Bà. (Thị xã) Chùa Bà Thiên Hậu tới hằng năm Cứ đến tháng Giêng lệ đúng rằm Lễ hội tưng bừng người náo nhiệt Đám đình vui vẻ khách vào thăm Nào lân, nào trống vang inh ỏi Rước cộ, rước Bà có tiếng tăm. Chiêm bái người người lòng kính ngưỡng Vay vay, nợ trả, khấn âm thầm! Ngã Tư Piscine. (Thị xã) Cái ngã tư nầy dính tuổi thơ Của nhiều đứa trẻ giống như mơ Ngày xưa còn nhỏ thường hay đến Tới tắm Piscine với bạn chờ! Lớn rồi chẳng để ý gì đâu Thỉnh thoảng gặp nhau nhắc chuyện lâu

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 97

 

Kỷ niệm ngày nao đầy luyến nhớ Ngã tư, hồ tắm, sóng dâng trào! Cầu Ông Đành! (Thị xã) Có phải ông Đành xưa ở đây? Mà nay lưu dấu mãi tên nầy Tên cầu, tên dốc, luôn tên xóm Ông hỡi! Ông Đành ông có hay? Xưởng Sơn Mài. Sơn mài có tiếng ở Bình Dương Một thuở xa xưa chiếm đoạn đường Thành Lễ, Trần Hà đua đối mặt Sông Gianh chen lấn ở thương trường! Trường Mỹ Nghệ Thực Hành. (Bình Dương) Xưa trường Mỹ Nghệ Thực Hành Ngó ra sông Thủ mà vào thế gian Họa viên, Điêu khắc, Sơn mài… Là nơi đã tạo nhân tài mai sau Mấy người được thỏa ước ao Có danh, có tiếng đời sau nhắc hoài! Trường Trung Học Tư Thục. Ngày xưa Trí Đức ai đi Tôi vô An Mỹ vào khi đầu đời Sau nầy những hè chơi vơi

Chui qua Nguyễn Trải mà nghe giảng bài Có khi theo bạn lai rai Bên rào săn đón cô nàng Văn An (sau là Đăng Khoa) Đi qua, đi lại lang thang Giu-Se chẳng ghé, lại ngang Bồ Đề Bán Công lạ chỗ lạ quê Thì thôi, cứ lại quay về Nghĩa Phương! Cầu Phú Cường. Chiếc cầu đã bắt qua sông Khiến người chẳng phải ngóng trông đợi đò Nhưng mà lại chạy vòng vo Khiến người cũng phải gọi đò, đợi mong! Ngã Ba Lò Chén. (Thị xã Phú Cường) Ngã Ba ở chỗ lưng đồi Vừa khi đổ dốc chạy về Nghĩa Phương Chạy qua những phố những phường Đầy đầy chén bát, ồn ào dĩa khua Vui vầy kẻ bán người mua Đúng khu lò chén, tiếng “khua” có thừa! Quốc Lộ 13. Bình Dương có lộ mười ba Đi qua Thị xã, đi về Lộc Ninh Trong thời tàn khốc chiến tranh Nhiều nơi chiến tích, nhiều nơi xác người!

Bưng Cầu! Tay “bưng” lấy rỗ mãng “cầu” Lên Tương Bình Hiệp mà rao bán hàng Nếu nào ai chẳng chịu sang Thì xin trao đổi sơn mài được không? Lên. Bưng Cầu, Cầu Định lại lên Đi lên Bến Cát, Bàu Bàng xa xôi Lai Khê thì đã qua rồi Đợi chờ xe “cát” (bến cát) chở lên Chơn Thành Đường đi khó bởi chiến tranh Thôi thì quay lại, về xây nhà mình! Ăn! Qua sông Thị Tính tới An Điền Ta về Rạch Bắp sẽ ăn thêm Tha hồ nướng bắp nghe dòn dã Đánh giấc trưa hè, sướng như tiên! Bánh tráng Tây Nam dẻo lại thơm Cứ cuốn đi rồi khỏi ăn cơm Rau rác đây nầy cần đâu kiếm Đầy đủ cả rồi, quả thật xôm (xôm tụ)! Bến Thế. Đã là cái “Bến” ở ven sông Chẳng biết ra sao lại “Thế” không

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 98

 

Làm chứng cho đời “Đình” đứng đó Để “Tân An Xã” lại bằng lòng! Bến Súc. Bến Súc nghe qua tưởng gỗ rừng Cây to cưa khúc nửa lưng chừng Đem đưa ra bến thuyền chuyên chở Thuyền tới, thuyền lui chẳng lúc ngưng. Bến Súc ngày nao, lúc chiến tranh Điểm “Tam Giác Sắt” hai bên giành Đưa dân di tản về Gò Đậu Luôn cả bò heo…Ôi! Chiến tranh! Bến Súc đi rồi bỏ áo xưa Thanh Tuyền xanh mướt đẹp duyên ưa Dập dìu người đến, đi lưu luyến “Bến” vẫn hãy còn, “Súc” đã xưa! Bến Chùa. Rằng sao lại gọi Bến Chùa Ngày xưa ở “Bến” có “Chùa” đó chăng? Chùa nay có có còn không Qua thời chinh chiến có mong chi còn! Bến Tranh. Thuở nào rừng có lắm tranh

Cắt tranh để đánh lợp lên mái nhà Hay là “Bến” chỗ đem ra Gom tranh lại bán cho người đến mua? Cỏ Trách. “Trách” chi loài “Cỏ” vô tình Thế mà “Cỏ” lại “Trách” đường nhân gian “Cổ” hay là “Cỏ” nội ngàn Người ưa gọi “Cỏ”, trách than làm gì! Cổ Cò. (Dầu Tiếng) Cong cong như cái cổ cò Người ta cứ gọi cổ cò cho sông Vào mùa mưa lớn không thông Nước sông dâng lớn mênh mông cánh đồng Nước qua Bến Củi, sát đường Thế mà mang lại có nhiều cá tôm! Dầu Tiếng Ngày Nao! Dầu Tiếng ngày nao có cổng Bo (Port?) “Tiếng” cây “Dầu” nổi rất là to Hàng ngày nghe tiếng còi ốc hụ Giờ giấc công nhân đến hoặc về! Dầu Tiếng trong thời buổi chiến tranh Nằm trong cái thế hai bên giành Giằng co kéo mãi làm dân khổ Chỉ thấy là riêng mệt dân lành!

Dầu Tiếng ngày nao có bấy nhiêu Có đâu dân số gọi là nhiều Bao nhiêu dân chúng đều đi cả Đi hết, dân còn có bấy nhiêu! Cao Su Mùa Thay Lá! (Dầu Tiếng) Cao su thay lá sao mà nhớ Nhớ nhớ vì sao lại nhớ hoài Mùa thu! Có phải? Ta không biết Có biết gì đâu mùa thu sang! Cao su thay lá nhớ Tết thôi! Nhớ đến hàng cây rụng lá đầy Nhớ khu vườn đó khua xào xạc Nhớ gió hiu hiu thổi lá bay! Cao su thay lá đợi mầm non Nhìn lá xanh xanh, tán lá tròn Qua lá nhìn trời thoang thoáng đẹp Cao su thay lá, chẳng thu sang! 26/04/12

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 99

 

Vĩnh Phú Qua cầu Vĩnh Phú đây rồi Bình Dương chưa đã.., mà nghe mùi đường Bây giờ nhường lại nhà thương Bên lề chen chút nhà lên chật rồi Đâu là đất của Phương Nam Làm khu du lịch, người vào người ra!

Lái Thiêu Lái Thiêu coi thế mà sung Có dòng sông lớn ghe vào ghe ra Ghe ra chở đặc sản nhà Toàn lu, hủ, khạp đưa về miền Tây Lại thêm chén dĩa chất đầy Phen nầy cho đã.., miền Tây cứ xài!

Phú Long Phú Long bắt (đầu) ở mũi dùi Một bên xa lộ, cũ: Đường mười ba Mười ba len lỏi gần xa Đi qua các xóm, các nhà ngày xưa Cong cong, quèo quẹo có thừa Cho nên xa lộ kịp thời thế thay!

Nhóm thực hiện

Đặc San Xuân Quý Tỵ – 2013 - Trung Học Trịnh Hoài Đức Bình Dương

Phụ trách tổng quát: Từ Minh Tâm

Với sự cộng tác của GS Phạm Đức Liên và các CHS: Nguyễn Văn Diệp, Nguyễn Kim Nên,

Vĩnh Xuyên - Trần văn Sùng, Hoàng Anh, Lưu Thanh Bình, Nguyễn Ngọc Thạch - Đồ Ngông, Chu Ngạn Thư, Đinh Thị Thuý, Từ Thị Cảnh, Đỗ Mỹ Loan, Lý Thành Phước, Trương Thị Huê Mỹ, Hồ Thị Kim Ngân, Nguyễn Thị Cẩm, Huỳnh Hữu Thế

Nguyễn Thị Tư, Nguyễn Thị Hai, Trần Thị Ngọc Sương, Bacsinhaque, Vũ Ngọc Giao ...

Trình bày: Minh Tâm

Liên lạc: Email: [email protected], Điện thoại: (310)523-1857

Hoàn tất: 20/1/2013

Có thể đọc Đặc san Xuân Quý Tỵ 2013 trên trang nhà GS & CHS Trịnh Hoài Đức – Bình Dương

http://trinhhoaiduc.netfirms.com (không có www.)

Đặc san CGS & HS Trịnh Hoài Đức – Xuân Quý Tỵ 2013 TRANG 100

 

Mục lục: Chúc Tết thầy cô 2 Lời ngỏ 3 Tâm thư Hội Trưởng 4 Một năm nhìn lại 7 Thơ: Chợ xuân 9 Xuân trên quê hương Bình Dương 10 Thơ: Đêm trăng cuối năm 11 Tết và tôi 12 Thơ: Đôi gánh 13 Những dấu ấn của trường Trịnh Hoài Đức trong cuộc đời tôi 14 Cánh thiệp đầu xuân 23 Một thuở học trò 24 Cám ơn cuộc đời nầy … 28 Thơ Vĩnh Xuyên 29 Mùa Tết 30 Mia vàng phương Nam 31 Lái Thiêu, nhớ nhớ quên quên 32 Xa quê hương nhớ thầy cũ 38 Ra chợ Tết 40 Chùa Bà ở Bình Dương 42 Con đường nhớ … 47 Xuân về 49 Mùa Xuân Tím 51 Thơ: Ảo Mộng 52

Nhớ những dòng sông 53 Thơ: Nhịp guốc ngày xuân 54 Tình bạn thuở học trò 55 Trường Nam Châu Thành và những năm tiểu học 56 Thơ: Trường Trịnh Hoài Đức 60 Tôi đã khóc thêm một lần nữa 61 Thơ: Thành Nguyện 62 Luật sư Trần văn Trai, một nhân sĩ đất Bình Dương 63 Nỗi lòng của học giả lừng danh Petrus Ký 65 Rất đáng tự hào 68 Thơ: Tình khúc mùa xuân 71 Thơ: Giao thừa nhớ mẹ 72 Danh dự ít người biết 73 Thơ: Một thoáng Cà Mau 77 Một nhạc sĩ tài hoa 78 Thơ: Tôi yêu Trịnh Hoài Đức 82 Thơ: Yêu lắm Việt Nam ơi 83 Thơ: Tôi yêu nước Việt lạ lùng 85 Chuyện viết báo xuân 86 Những kỷ niệm xưa 87 Thơ về Bình Dương 92

Hình bìa: Ban hợp ca CHS Trịnh Hoài Đức trong Đại Hội CGS &HS Toàn Cầu lần thứ 2 (tháng 7/2012)