Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
- Bản đồ giáo khoa ………………………………BĐGK
- Sách giáo khoa………………………………….SGK
- Giảng viên………………………………………GV
- Sinh viên………………………………………...SV
- Học sinh………………………………………….HS
- Trung học phổ thông…………………………….THPT
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
- Hiện nay dạy học được coi là quá trình phát triển của bản thân học sinh (sinh
viên), việc học tập không chỉ là quá trình lĩnh hội các kiến thức có sẵn, mà còn là quá
trình người học tự khám phá, tự phát hiện, tự tìm đến với kiến thức mới nhờ sự hướng
dẫn, giúp đỡ, tổ chức các hoạt động học tập của giảng viên (GV). Vì vậy, dạy học
ngày nay không còn đơn thuần chỉ là việc truyền đạt kiến thức của GV cho sinh viên
(SV), mà phải tạo ra những cơ hội để phát triển ở người học khả năng tự tìm kiếm, xử
lí và thu thập thông tin, nói cách khác là phải rèn luyện cho học sinh (HS) khả năng tự
học để họ có thể tự bổ sung kiến thức của mình và khả năng học tập suốt đời.
Trong mối quan hệ giữa ba thành tố của quá trình dạy học: mục tiêu, nội dung
và phương pháp thì phương pháp dạy học phải nhằm thực hiện mục tiêu và phụ thuộc
vào nội dung dạy học.
- Môn Địa lí ở trong các nhà trường không những chỉ trang bị cho HS những
kiến thức về khoa học xã hội nhân văn mà còn cùng với một số môn học khác trang
bị cho HS những kiến thức về tự nhiên và tư duy khoa học. Chính vì vậy nội dung
kiến thức của bộ môn được trình bày trong sách giáo khoa, giáo trình cũng hàm chứa
nhiều loại hình thông tin vừa mang tính xã hội nhân văn vừa mang đặc điểm như các
môn khoa học tự nhiên khác. Các thông tin cũng được truyền đi qua nhiều kênh khác
nhau, trong đó bản đồ là phương tiện đặc trưng và phổ biến nhất trong mọi hoạt động
có liên quan đến địa lí học.
- Thực tế cho thấy hiện nay phần lớn giáo viên dạy học địa lí ở các nhà trường
đều thiết kế bài dạy theo cấu trúc một bài dạy thuần tuý về kiến thức xã hội, đồng
thời phương pháp truyền thụ vẫn chưa thoát khỏi tính truyền thống, ít có sự kết hợp
một cách linh hoạt giữa các phương pháp truyền thống và hiện đại, vì vậy chất lượng
bài dạy đạt kết quả chưa cao.
- Kiến thức địa lí nói chung và ở các nhà trường nói riêng hiện nay đã và đang
được các nhà biên soạn thiết kế dưới nhiều kênh thông tin đan xen vào nhau như:
kênh chữ, kênh hình, các bảng biểu số liệu, biểu đồ, bản đồ…chính từ chỗ thiết kế
3
như vậy đòi hỏi người dạy, người học còn phải biết cách tổ chức khai thác hết lượng
kiến thức thông qua các kênh thông tin đó.
- Hiện nay, cuộc vận động của ngành giáo dục đối với giáo viên là phải tích
cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và
phương tiện dạy học trực quan vào trong dạy học đã trở thành một tiêu chí đánh giá
chuyên môn trong các nhà trường. Từ thực tiễn nêu trên của hoạt động dạy học địa lí
ở trường đại học cũng như ở trường phổ thông, việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và có
hiệu quả các phương pháp dạy học địa lí đang được xem như là một vấn đề quan trọng
và cấp bách nhất mà các nhà quản lí giáo dục và giáo viên dạy học bộ môn Địa lí phải
được quan tâm giải quyết.
Trên cơ sở đó, chúng tôi tham gia đề xuất một số vấn đề liên quan đến việc: “Rèn
luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho sinh viên khoa Địa lí Trường đại học Đồng Tháp”
nhằm tạo điều kiện cho SV tích lũy được những kĩ năng cơ bản, cần thiết về sử dụng,
khai thác tri thức trong bản đồ để phục vụ cho học tập, nghiên cứu và phục vụ hoạt
động giảng dạy bộ môn địa lí sau này ở các trường phổ thông.
2. Mục tiêu của đề tài:
Trên cơ sở xác lập hệ thống cơ sở lí luận của vấn đề cần nghiên cứu để từ đó vừa
đánh giá thực trạng, xác lập một số giải pháp nhằm rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ
trong học tập, nghiên cứu để phục vụ cho việc giảng dạy địa lí tại các trường phổ
thông sau này của SV ngành sư phạm địa lí tại trường Đại học Đồng Tháp.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của phương pháp hình thành kĩ
năng sử dụng bản đồ cho SV trong quá trình học tập, nghiên cứu
- Tìm hiểu những biện pháp cụ thể để hình thành kĩ năng bản đồ cho SV phù
hợp với chương trình học ở trường đại học và chương trình sách giáo khoa (SGK) địa
lí THPT.
- Ứng dụng vào dạy, soạn bài SGK Địa lí ở để thử nghiệm chứng minh tính
hiệu quả cần thiết trong quá trình hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ cho SV một cách
hợp lý.
4
4. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng việc sử dụng bản đồ trong học tập và nghiên cứu của sinh viên khoa
Địa lí trường Đại học Đồng Tháp
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tiến hành nghiên cứu việc sử dụng bản đồ của SV khoa Địa lí trường
Đại học Đồng Tháp để làm cơ sở xác lập các kĩ năng cần rèn luyện cho SV khi sử
dụng bản đồ
6. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trong nhiều năm “Bản đồ với tư cách là ngôn ngữ thứ hai của địa lí” đã
được các nhà địa lí đánh giá cao vai trò của nó đối với công tác nghiên cứu và
giảng dạy địa lí.
Nhiều công trình khoa học cũng đã nghiên cứu việc dùng bản đồ trong giảng
dạy và học tập địa lí ở nhà trường phổ thông.
Giáo sư V.P.Buđanốp tác giả cuốn “Bản đồ trong việc giảng dạy địa lí” –
M.1948 đã nhấn mạnh đến ý nghĩa của bản đồ trong việc giảng dạy địa lí và nhu cầu
phải hướng dẫn học sinh hiểu biết bản đồ để học tập địa lí. [ 3, tr 24 ]
Giáo sư A.A.Booczôp tác giả cuốn “Các hoạt động địa lí” – M.1949, cũng đã đề
cập đến vai trò của bản đồ trong việc giảng dạy địa lí. Ông cho rằng cơ sở của việc học
tập địa lí phải là thiên nhiên và bản đồ, cho nên một trong những mục đích cơ bản của
việc học tập địa lí phải là kĩ năng đọc bản đồ và kĩ năng dựa vào bản đồ để tìm ra
những kiến thức địa lí. [ 2, tr 31 ]
Giáo sư N.N.Baranxki tác giả cuốn “Phương pháp giảng dạy địa lí kinh tế” –
M.1972. Ông đề cao vai trò của bản đồ trong nghiên cứu và giảng dạy địa lí: “Bản đồ
là anfa và ômêga của địa lí”; “Bản đồ là ngôn ngữ thứ hai của địa lí”. [ 1, tr 17 ]
Ngoài ra, một loạt các công trình nghiên cứu của các tác giả khác có liên quan
đến vấn đề này cũng đã được nói đến trong các giáo trình phương pháp giảng dạy địa
lí đã xuất bản ở Liên Xô trước đây. Mỗi tác giả đều có cách nhìn nhận và giải quyết
vấn đề sử dụng bản đồ ở các mức độ khác nhau. Có tác giả đi sâu vào cách dùng bản
đồ trong giảng dạy địa lí, có tác giả lại thiên về việc hướng dẫn học sinh hiểu và đọc
5
bản đồ để học địa lí; nhưng nhìn chung, các tác giả đều đề cập đến một số vấn đề chủ
yếu sau:
- Vai trò của bản đồ trong giảng dạy và học tập địa lí.
- Mục đích của việc dùng bản đồ trong giảng dạy địa lí là phải giúp học sinh
hiểu, đọc và biết vận dụng bản đồ.
- Các tác giả đã ít nhiều đề cập đến việc dạy học sinh hiểu và đọc bản đồ ở mức
độ khái quát nhất.
Nhìn chung, các tác giả mới đề cập đến một vài khía cạnh của việc dùng bản đồ
trong dạy học địa lí và hướng dẫn học sinh giải quyết một vài bài tập cụ thể có liên
quan đến bản đồ.
Ở nước ta, việc dạy học sinh nắm vững các kiến thức và kĩ năng bản đồ cũng
chưa được một tác giả nào nghiên cứu một cách cụ thể. Phần lớn mới chỉ đề cập đến
một vài khía cạnh có liên quan tới vấn đề này trong các giáo trình phương pháp giảng
dạy địa lí và bản đồ học ở các trường đại học và cao đẳng sư phạm hoặc trong các sách
hướng dẫn giảng dạy địa lí như:
- Giáo trình “Phương pháp giảng dạy Địa lí” - Nguyễn Dược – Mai Xuân San –
NXBGD – 1983.
- Giáo trình “Lý luận dạy học Địa lí” - Nguyễn Dược – Nguyễn Trọng Phúc
- Giáo trình “Lý luận dạy học địa lí theo hướng tích cực” - Đặng Văn Đức -
Nguyễn Thu Hằng – NXBĐHSP – 2004.
- Cuốn “Bản đồ học” – Ngô Đạt Tam – Lê Ngọc Nam - Nguyễn Trần Cầu -
Phạm Ngọc Đĩnh – 1986.
Trong một số luận văn thạc sĩ và luận án phó tiến sĩ, cũng có đề cập đến
“Phương pháp sử dụng bản đồ trong dạy học địa lí” như luận án phó tiến sĩ: “Các biện
pháp hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh các lớp 6, 7, 8 phổ thông cơ sở”
của PGS.TS.Đặng Văn Đức. Gần đây trong quá trình nghiên cứu nhằm đổi mới
phương pháp dạy học địa lí ở trường THPT cũng có một số bài viết về vấn đề sử dụng
bản đồ trong dạy học địa lí, như tài liệu “Chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học Địa
lí bậc trung học” (Hà Nội 1999).
6
- Lâm Quang Dốc, Giáo trình bản đồ học đại cương, Nxb Đại học sư phạm Hà
Nội. 2003.
Giáo trình đã bổ sung, nâng cao nhiều cơ sở lí luận và kiến thức hiện đại của
Bản đồ học như lí luận về Phương pháp bản đồ - Phương pháp nghiên cứu cơ bản của
Bản đồ học, về ngôn ngữ bản đồ, khái quát hóa những đặc trưng cơ bản của Bản đồ địa
lí. Đặc biệt hai chương Thành lập bản đồ và Sử dụng bản đồ mang tính ứng dụng,
không chỉ nâng cao các kiến thức lí luận mà được trình bày rất sâu sắc, cụ thể các
phương pháp.
- Mai Xuân San, Rèn luyện kĩ năng Địa lí cho học sinh trường phổ thông, Nxb
GD 1997
Nhìn chung, những vấn đề thuộc lĩnh vực nghiên cứu nhằm rèn luyện kĩ năng
sử dụng bản đồ trong học tập, nghiên cứu và giảng dạy Địa lí ít được nghiên cứu
chuyên sâu; những công trình nghiên cứu được đề cập ở trên cũng chỉ dừng lại ở việc
hướng dẫn sử dụng bản đồ ở các mức độ khác nhau trong những tình huống khác nhau
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các công trình có liên quan, đề tài này sẽ
nghiên cứu cụ thể hơn về “Rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho sinh viên Trường
Đại học Đồng Tháp” nói riêng đồng thời góp phần vào việc nâng cao phương pháp sử
dụng bản đồ trong học tập, nghiên cứu và dạy học Địa lí nói chung.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
7.1.1. Phương pháp hệ thống cấu trúc: thực chất của phương pháp này là đem
đối tượng được nghiên cứu ra xem xét nó trong một hệ thống hoàn chỉnh, gồm những
yếu tố có liên quan đến nhau thành một cấu trúc chặt chẽ, và các mối quan hệ qua lại
cần được quan tâm.
7.1.2. Phương pháp phân loại: nhằm phân loại những bản đồ hiện đang sử dụng
trong hoạt động dạy - học địa lí nhằm làm cơ sở cho việc xây dựng và sử dụng các loại
bản đồ trong dạy- học Địa lí ở Khoa Địa lí cũng như ở các trường phổ thông đạt hiệu
quả cao.
7
7.1.3. Các tài liệu về địa lí và bản đồ học
7.2. Phương pháp bản đồ: là phương pháp đặc trưng của khoa học bản đồ. Sử
dụng bản đồ là sử dụng kiến thức bản đồ trong việc hình thành kiến thức địa lí cho SV.
7.3. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Song song với việc nghiên cứu lý thuyết trong quá trình thực hiện đề tài, chúng
tôi rất coi trọng việc tìm hiểu thực tế ở hoạt động dạy – học tại Khoa Địa lí Trường
Đại học Đồng Tháp (ĐHĐT) cũng như ở một số trường phổ thông, phát hiện các vấn
đề có liên quan tới việc giảng dạy và học tập địa lí, đặc biệt là những vấn đề rèn luyện
kĩ năng bản đồ cho SV, HS.
7.3.1. Phương pháp chuyên gia
Tiến hành phỏng vấn lấy ý kiến một số gảng viên trực tiếp giảng dạy địa lí ở
Trường ĐHĐT về tình hình sử dụng bản đồ trong dạy học, trong quá trình đổi mới
phương pháp hiện nay việc sử dụng bản đồ phục vụ học tập, nghiên cứu của SV Khoa
Địa lí
7.3.2. Phương pháp khảo sát: nhằm tìm hiểu thực tế của việc sử dụng bản đồ của SV
khoa Địa lí Trường ĐHĐT. Chúng tôi sử dụng nhiều biện pháp như phỏng vấn, trao đổi,
…để tìm hiểu vấn đề này.
8
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Bản đồ học và bản đồ địa lí
1.1.1. Định nghĩa bản đồ học
Theo Lâm Quang Dốc – Phạm Ngọc Đĩnh:
Định nghĩa chặt chẽ và hoàn chỉnh về bản đồ học do giáo sư K.A. Salishev đưa
ra, được nhiều người thừa nhận: “Bản đồ học là khoa học về sự nghiên cứu và phản
ánh sự phân bố không gian, sự phối hợp và sự liên kết lẫn nhau của các hiện tượng tự
nhiên và xã hội (cả những biến đổi của chúng theo thời gian) bằng các mô hình kí hiệu
hình tượng đặc biệt – sự biểu hiện bản đồ”. [ 7 tr 16]
Năm 1995, tại Bacxêlôna – Tây Ban Nha, Đại hội lần thứ 10 Hội Bản đồ thế
giới đã đưa ra định nghĩa: “Bản đồ học là ngành khoa học giải quyết những vấn đề lí
luận, sản xuất, phổ biến và nghiên cứu về bản đồ”.
1.1.2. Định nghĩa, đặc điểm, nội dung, ý nghĩa bản đồ địa lí
Đinh nghĩa
Khái niệm về bản đồ địa lí là kiến thức học sinh tiếp nhận được ngay từ bài học
Địa lí đầu tiên ở nhà trường phổ thông, với định nghĩa: “Bản đồ là hình vẽ thu nhỏ trên
giấy, tương đối chính xác về một khu vực hay toàn bộ bề mặt Trái Đất”.
“Bản đồ địa lí là mô hình ký hiệu hình tượng không gian của các đối tượng và
các hiện tượng tự nhiên, xã hội, được thu nhỏ được tổng hợp hoá theo một cơ sở toán
học nhất định nhằm phản ánh vị trí, sự phân bố và mối tương quan của các đối tượng,
hiện tượng, cả những biến đổi của chúng theo thời gian để thoả mãn mục đích yêu cầu
đã định trước” [ 3, tr6 ]
“Bản đồ là hình ảnh thực tế của địa lí, được kí hiệu hoá, phản ánh các yếu tố
hoặc các đặc điểm địa lí một cách có chọn lọc, kết quả từ sự nỗ lực, sáng tạo trong lựa
9
chọn của tác giả bản đồ và được thiết kế để sử dụng chủ yếu liên quan đến các mối
quan hệ không gian” (Hội bản đồ thế giới)
Các định nghĩa trên hoàn toàn xác thực với bản đồ địa lí, phản ánh đầy đủ
những thuộc tính của một bản đồ địa lí.
Đặc điểm
Nếu nghiên cứu, phân tích một cách sâu sắc ta thấy sự biểu hiện bản đồ nổi bật
những đặc trưng sau:
- Bản đồ thành lập trên cơ sở toán học
Xuất phát từ việc biểu hiện sự phân bố và quan hệ không gian của các đối
tượng, bản đồ được xem là sự biểu hiện thu nhỏ bề mặt Trái Đất, cùng một lúc có thể
bao quát được tất cả một không gian rộng lớn, thậm chí cả thế giới, không gian vũ trụ.
Như vậy, sự biểu hiện bản đồ gắn liền với tính chất của tỉ lệ xích. Bản đồ được thể
hiện trên mặt phẳng, để chuyển được bề mặt tự nhiên của Trái Đất vốn có địa hình
phức tạp và những đối tượng cần họa đồ rất đa dạng trên bề mặt elipxoit Trái Đất. Thứ
hai, thu nhỏ kích thước elipxoit Trái Đất và biểu hiện bề mặt elipxoit Trái Đất trên mặt
phẳng. Để làm được điều này phải sử dụng phương pháp toán học, gọi là phép “chiếu
hình bản đồ”. Phép chiếu hình bản đồ quy định sự phụ thuộc hàm số nhất định giữa tọa
độ của những điểm trên bề mặt elipxoit Trái Đất và tọa độ của những điểm tương ứng
trên mặt phẳng bản đồ. Nhờ đó bản đồ đảm bảo được tính đồng dạng và sự tương ứng
không gian của các đối tượng được biểu hiện
- Bản đồ sử dụng ngôn ngữ hình ảnh - kí hiệu
Trong quá trình phát triển, xã hội loài người đã xuất hiện hàng loạt các phương
tiện để ghi chép và truyền đạt các biểu tượng như ngôn ngữ cử chỉ, ngôn ngữ âm
thanh, ngôn ngữ hình ảnh, ngôn ngữ văn tự… Sự biểu hiện bản đồ sử dụng ngôn ngữ
hình ảnh – hệ thống kí hiệu. Các kí hiệu bản đồ đã ghi được các đối tượng, hiện tượng
khác nhau biểu hiện trên bản đồ. Sự biểu hiện bằng hệ thống kí hiệu đã làm cho bản đồ
không giống với những sự biểu hiện khác về Trái Đất như những bức ảnh hàng không
và tranh phong cảnh cùng một địa phương.
Bản đồ với các kí hiệu, ấn tượng ban đầu có thể cho cảm giác xa lạ, không trực
quan như những bức ảnh, bức tranh, nhưng thực tế, sự biểu hiện bằng kí hiệu đã tạo
10
cho bản đồ có những ưu thế mà không một bức ảnh, bức tranh địa phương nào có
được.
- Bản đồ có sự tổng quát hóa
Bản đồ không thể hiện tất cả các đối tượng, hiện tượng Địa lí có ở địa phương, vì
bản đồ là sự biểu hiện thu nhỏ. Tỉ lệ càng nhỏ, mức độ thu nhỏ càng lớn. Mặt khác,
mỗi bản đồ được thành lập đều nhằm phục vụ một mục đích và chủ đề nhất định nào
đó. Vì thế những đối tượng, hiện tượng đưa lên bản đồ phải được chọn lọc có ý thức,
phải loại bỏ những đối tượng và khía cạnh không cần thiết, chỉ giữ lại và nêu bật
những đối tượng, hiện tượng với những nét đặc trưng chủ yếu, điển hình, quan trọng
nhất trên cơ sở mục đích, chủ đề, tỉ lệ bản đồ và đặc điểm địa phương. Quá trình chọn
lọc đó là sự “tổng quát hóa bản đồ”.
Nội dung
Nội dung của bản đồ là yếu tố chủ đạo cấu thành nên bản đồ (gồm: nội dung bản
đồ, cơ sở toán học của bản đồ, yếu tố hỗ trợ và những bản đồ phụ). Nội dung này bao
gồm tổng thể những thông tin về các đối tượng, hiện tượng địa lí (tự nhiên, kinh tế - xã
hội) được biểu hiện trong phạm vi lãnh thổ họa đồ với sự phân bố, tình trạng, những sự
kết hợp, các mối liên hệ và sự phát triển. Những nội dung này tùy thuộc vào mục đích,
chủ đề và tỉ lệ của mỗi bản đồ.
Trên bản đồ địa lí đại cương, sự biểu hiện là các đối tượng, hiện tượng địa lí tự
nhiên, kinh tế - xã hội như: địa hình, nước trên mặt, lớp phủ thực vật, các điểm quần
cư, mạng lưới giao thông, và một số đối tượng nông nghiệp, công nghiệp, văn hóa, sự
phân chia chính trị - hành chính… Còn trên bản đồ chuyên đề, nội dung biểu hiện
chính chỉ gồm một vài đối tượng, hiện tượng địa lí, nhưng được phản ánh một cách chi
tiết, sâu sắc; ví dụ: bản đồ dân cư biểu hiện sự phân bố quần cư, mật độ dân số, số dân
và các đặc điểm khác của dân cư.
Ý nghĩa bản đồ địa lí
Nói về vai trò, ý nghĩa của bản đồ địa lí, nhà địa lí học của Liên Xô trước đây
đã khái quát: “Nếu như các nhà sinh vật học để nghiên cứu những vật thể nhỏ bé, trước
hết phải quan tâm thu nhận sự biểu hiện phóng đại chúng qua kính hiển vi. Ngược lại,
11
các nhà địa lí phải nghĩ có được sự biểu hiện thu nhỏ bề mặt Trái Đất - cái đó chính là
bản đồ”.
Bản đồ địa lí có vai trò và ý nghĩa hết sức to lớn trong thực tiễn, trong nghiên
cứu khoa học và giảng dạy, học tập địa lí.
Trong thực tiễn, bản đồ địa lí được sử dụng một cách rộng rãi để giải quyết
nhiều nhiệm vụ khác nhau, những nhiệm vụ gắn liền với sự khai thác và sử dụng hợp lí
lãnh thổ.
Bản đồ địa lí không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học, nó là phương tiện
nghiên cứu của các nhà khoa học về Trái Đất. Bản đồ giúp các nhà khoa học tìm hiểu
những quy luật phân bố các đối tượng, sự lan truyền của các hiện tượng và những mối
tương quan của chúng trong không gian, cho phép phát hiện các quy luật tồn tại và dự
đoán con đường phát triển của chúng trong tương lai. Bất cứ một sự nghiên cứu nào
cũng phải bắt đầu từ bản đồ và kết thúc bằng bản đồ. Bản đồ được xem là một tiêu
chuẩn của sự phát triển địa lí. D. N. Anusin đã viết: “Mức độ nhận thức về mặt địa lí
một nước được xác định bởi độ hoàn hảo của bản đồ hiện có của nước đó”.
Trong giảng dạy và học tập địa lí, bản đồ giữ vai trò rất quan trọng. Bản đồ là
kho tàng trữ các tri thức địa lí tích lũy được, là kênh hình của sách giáo khoa địa lí.
Bản đồ vừa là nội dung vừa là phương tiện đặc thù không thể thiếu trong giảng dạy và
học tập địa lí.
Ngày nay bản đồ còn được coi là một phương tiện có hiệu quả để phổ biến các
tri thức, nâng cao trình độ văn hóa chung cho mọi người, cung cấp những hiểu biết về
quê hương đất nước về các quốc gia trên thế giới, giáo dục lòng yêu nước, yêu quý
thiên nhiên, bảo vệ môi trường…
Không phải cường điệu khi nói rằng, các bản đồ ở mức độ nào đó đã trở thành
một phương tiện cần thiết trong sản xuất và đời sống con người.
1.2. Kĩ năng và kĩ năng địa lí
1.2.1. Kĩ năng
Theo Lưu Xuân Mới: kĩ năng là sự biểu hiện kết quả hành động trên cơ sở kiến
thức đã có. Kĩ năng là tri thức trong hành động
12
Từ điển tiếng Việt: Kĩ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu được
vào thực tế
1.2.2. Kĩ năng địa lí
Hiện nay trong bộ môn địa lí người ta thường nói tới bốn loại kĩ năng sau đây:
- Kĩ năng làm việc với bản đồ trong đó có các kĩ năng, định hướng trên bản đồ,
đo đạc trên bản đồ, đọc bản đồ, sử dụng bản đồ, lược đồ, …
- Kĩ năng làm việc ngoài trời trong đó kĩ năng quan sát, đo đạc với các công cụ
quan trắc về các hiện tượng thời tiết, địa hình, thổ nhưỡng, thực động vật, …
- Kĩ năng làm việc với các tài liệu địa lí trong đó có các kĩ năng lập lát cắt, vẽ
biểu đồ, bản đồ phân tích các số liệu, …
- Kĩ năng học tập địa lí trong đó có kĩ năng làm việc với SGK, tài liệu tham
khảo, kĩ năng mô tả, viết và trình bày các vấn đề địa lí.
Trong bốn loại kĩ năng trên thì kĩ năng làm việc với bản đồ (kĩ năng đầu tiên) là
quan trọng nhất.
13
Chương 2
VIỆC SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TRONG HỌC TẬP NGHIÊN CỨU
CỦA SINH VIÊN KHOA ĐỊA LÍ TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
2.1. Việc sử dụng bản đồ trong học tập và nghiên cứu ở trường đại học
2.1.1. Phương pháp nghiên cứu bản đồ trong địa lí
Sơ đồ: Các thành phần của nội dung học vấn địa lí dạy trong nhà trường
Trong quá trình học tập và nghiên cứu hệ thống tri thức địa lí, một vấn đề được
đặt lên hàng đầu và chiếm giữ phần quan trọng là phải có bản đồ. Vì trong thực tế,
Nội dung học thuật môn Địa lí
Kiến thức Kĩ năng – kĩ xảo
Kiến thức thực tiễn
Kiến thức lý thuyết
Kĩ năng học tập và nghiên cứu địa lí
Kĩ năng làm việc với các tài liệu địa lí
Kĩ năng làm việc với các dụng cụ nghiên cứu địa lí
Kĩ năng bản đồ
- Các số liệu, sự kiện địa lí - Các biểu tượng địa lí - Các mô hình sáng tạo địa lí
- Các khái niệm, quy luật, mối quan hệ nhân quả - Các thuyết trong địa lí - Những tư tưởng, quan điểm trong địa lí học - Những kiến thức về phương pháp học tập và nghiên cứu địa lí
14
“việc tìm kiếm các tiêu chuẩn và nguyên tắc suy giải các kết quả nghiên cứu luôn buộc
ta quay về với thực tiễn. Nghiên cứu theo bản đồ đòi hỏi kiểm tra bằng thực tế. Tiếp
theo, trong kết quả cải biên bản đồ ban đầu có thể có những bản đồ mới được xây
dựng. Thí dụ, bản đồ đẳng cao được cải biên thành bản đồ độ dốc; bản đồ độ lớn các
điểm quần cư, thành bản đồ trường thế năng cư trú…Các bản đồ này hoàn toàn thích
hợp cho những biến thể mới trong tiến trình nghiên cứu tiếp theo”. [4 tr27]
Theo Ngô Đạt Tam: “Bản đồ địa lí, là mô hình thực tế khách quan được dùng
rộng rãi và ở nhiều mức độ khác nhau:
- Đọc bản đồ để tìm hiểu chung về lãnh thổ, để tìm hiểu một vài hiện tượng, vấn
đề nào đó (đặc điểm, vị trí, qui luật phân bố của hiện tượng, v.v…), hoặc để phân biệt
đối tượng sâu hơn. Đọc bản đồ ở trong phòng, và cũng có thể dùng bản đồ để nhận biết
đối tượng ở thực địa, làm người dẫn đường.
- Dùng bản đồ để đo, tính, lấy số liệu, khảo sát sơ bộ, lập dự án qui hoạch công
trình, thiết kế, vạch kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa hay để nghiên cứu, phân tích
sâu sắc hơn, toàn diện hơn nhằm phát hiện những qui luật mới của tự nhiên hoặc kinh
tế- xã hội.” [ 8, tr31 ]
“Sự áp dụng phương pháp nghiên cứu bằng bản đồ vào khoa học và thực tiễn rất
khác nhau. Nó đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của phần lớn các khảo cứu
lí thuyết và thực tiễn, đã là một trong những phương pháp cơ bản của các khoa học về
Trái Đất và xã hội. Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong địa lí tự nhiên, trong
địa chất và địa vật lí, trong các khoa học kinh tế- xã hội và lịch sử. Sử dụng bản đồ
như một công cụ nhận thức đã tạo điều kiện hình thành nhiều ngành khoa học, địa lí y
học, hành tinh học so sánh…Phương pháp nghiên cứu bằng bản đồ là phương tiện để
đề xuất những quyết định quan trọng trong kinh tế quốc dân liên quan đến qui hoạch,
khai thác lãnh thổ, phát triển các tổng thể sản xuất- lãnh thổ, bảo vệ thiên nhiên…”[ 4,tr 10 ]
Bản đồ giáo khoa địa lí hiện nay, tuy vẫn có chức năng là một phương tiện dạy
học trực quan, nhưng chức năng chủ yếu và vô cùng quan trọng của nó, lại là một
nguồn tri thức địa lí phong phú để học sinh khai thác khi học tập. Mỗi đối tượng được
ghi trên bản đồ đều bắt nguồn từ các cuộc thám hiểm, đôi khi gian lao và đầy hiểm
15
nguy của các nhà Địa lí trên thực địa. Chính vì thế, bản đồ xứng đáng được coi là
“Cuốn sách giao khoa Địa lí thứ hai” [6 tr 117]
Sử dụng bản đồ trong bất cứ nghiên cứu cụ thể nào cũng cần có sự hiểu biết của
chính đối tượng nghiên cứu. Ngoài ra, cần có khái niệm rõ về vị trí của phương pháp
bản đồ trong tổ hợp với các phương pháp khác, vì sự phân tích bản đồ không thay thế
mà là bổ sung một cách hữu cơ cho các nghiên cứu chuyên môn khác.
2.1.2. Các giai đoạn nghiên cứu bằng bản đồ
Trong các hoạt động nghiên cứu bao giờ cũng được tiến hành qua các giai đọan
khác nhau. Việc xác định nội dung các giai đọan nghiên cứu nhằm đạt được sự qui
hoạch hoạt động nghiên cứu để có thể đạt được kết quả tối ưu. Đối với các hoạt động
nghiên cứu tiến hành trên bản đồ, có thể chia thành 4 giai đoạn: Đặt vấn đề nghiên cứu,
chuẩn bị cho nghiên cứu, xác định nội dung nghiên cứu, suy giải các kết quả đạt được.
- Đặt vấn đề: Công tác nghiên cứu bằng bản đồ được bắt đầu từ việc hình thành
nội dung của nhiệm vụ, xác định mục đích, phương hướng nghiên cứu. Có thể được
thực hiện xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, chẳng hạn như việc nghiên cứu địa hình để
mở một tuyến đường,..
Cách đặt vấn đề thực chất là xác định công việc nghiên cứu nhằm đạt được một
kết quả mong đợi nào đó. Trong các nghiên cứu dựa trên bản đồ, có thể có cách đặt
vấn đề bao gồm một số mục đích với một cơ cấu theo thứ bậc của các mục đích ấy.
Khi đó cần phân biệt các mục đích trung gian và mục đích cuối cùng, xác định rõ trình
tự giải quyết các vấn đề. Tuy nhiên, cách đặt vấn đề thế nào thì cũng phải trên quan
điểm cách đặt vấn đề có tính chất bản đồ học là lựa chọn con đường và nguyên tắc sử
dụng thông tin bản đồ. Chẳng hạn khi nghiên cứu không gian để xây dựng một con
đường thì phải kết hợp nghiên cứu bản đồ địa hình, địa chất, địa mạo,…mới có thể cho
ra một kết luận có tính khoa học và triển vọng.
- Chuẩn bị nghiên cứu: Là việc lựa chọn các tài liệu bản đồ và các phương tiện kĩ
thuật. Khi lựa chọn các bản đồ, cần đánh giá mức độ đầy đủ, chính xác, tính cập nhật,
mức độ khái quát hóa,…của nó.
Các nhiệm vụ nghiên cứu, yêu cầu về độ chính xác và các tài liệu bản đồ qui định
việc lựa chọn các phương tiện cũng như các phương pháp kĩ thuật để nghiên cứu.
16
Không phải bao giờ một phương pháp chọn sẵn cũng hoàn toàn thích hợp cho một
trường hợp cụ thể.
Kết quả của giai đọan này là phải định ra được cách thức, thủ tục nghiên cứu.
Cần xác định sẽ lấy dữ liệu từ bản đồ như thế nào và còn tiên lượng trong quá trình
diễn biến nghiên cứu có thể phải bổ sung thêm các nội dung bản đồ gì cho hoàn chỉnh.
- Giai đoạn nghiên cứu: Là giai đoạn thực hiện nghiên cứu trên bản đồ để cho ra
những kết quả sơ bộ ban đầu của vấn đề nghiên cứu. Các kết quả này tiếp tục được
hiệu chỉnh để hoàn thiện dần đến khi đạt kết quả tối ưu.
- Giai đọan suy giải các kết quả: Là giai đoạn kết thúc và quan trọng nhất của
nghiên cứu. Nó bắt đầu từ việc đánh giá mức độ chính xác các bản đồ đã thành lập, các
đồ thị, các bảng kê, các công trình,…Thực chất của giai đoạn này là xác định sự phù
hợp giữa các số liệu đã được lập hoặc nhận được của phép phân tích bằng bản đồ với
một hệ thống nào đó về các dữ kiện, các qui luật. Việc suy giải phải luôn dựa trên tri
thức và sự hiểu biết trước về đối tượng đang nghiên cứu.
2.2. Tình hình sử dụng bản đồ trong học tập và nghiên cứu của sinh viên
khoa Địa lí- Trường ĐH Đồng Tháp
Nhìn chung, hiện nay việc sử dụng bản đồ trong giảng dạy và học tập địa lí còn
nhiều hạn chế do bản thân người dạy và người học chưa thực sự nhận thức đầy đủ về ý
nghĩa, vai trò của bản đồ địa lí trong dạy học địa lí, coi bản đồ như một đồ dùng minh
hoạ trực quan đơn giản.
Dạy và học địa lí cần phải kết hợp giữa kênh chữ (lời giảng, giáo trình, tài
liệu,..) với tri thức trên bản đồ để làm sáng tỏ nội dung về khoa học địa lí cần tiếp cận
một cách hiện thực và chính xác. Nhưng phần lớn người dạy và người học chỉ dừng lại
ở mức độ trực quan chưa khai thác hết nội dung cần thiết về tri thức có liên quan được
thể hiện trên bản đồ. Một thực tế dễ nhận thấy nữa hiện nay là việc sử dụng công nghệ
thông tin trong dạy học thì hầu như toàn bộ bản đồ (hoặc hệ thống kênh hình) đều đã
được người dạy scan vào các slide trình chiếu, vì vậy việc tiếp xúc trực tiếp với bản đồ
của SV lại có tần suất ít hơn. Việc hướng dẫn SV học bằng bản đồ còn hạn chế SV
chưa biết làm bài tập dựa trên bản đồ do kĩ năng bản đồ của họ còn thấp (do chưa được
17
trang bị hoặc rèn luyện kĩ năng ngay từ đầu), điều đó dẫn đến việc lĩnh hội tri thức địa
lí rất hạn chế.
Khảo sát nội dung này chúng tôi thu được có đến 35 % SV sử dụng bản đồ
không thường xuyên và 62 % SV sử dụng hệ thống bản đồ có sẵn trong giáo trình,
trong khi trên phiếu khảo sát có đến 100 % SV cho rằng hệ thống bản đồ được trang bị
ở khoa đủ khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng của họ, điều này chứng tỏ rằng trong quá
trình tổ chức hoạt động dạy học GV và SV chưa quan tâm đến việc sử dụng bản đồ.
Cũng qua tiến hành khảo sát một số nội dung liên quan đến kĩ năng sử dụng các
loại bản đồ vào quá trình học tập và nghiên cứu chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:
- Về kĩ năng đọc bản đồ: Hầu hết SV mới chỉ dừng lại ở mức độ thứ nhất (kĩ
năng nhận biết bản đồ), đó cũng là mức độ thấp nhất trong các kĩ năng về đọc bản đồ.
Ở mức độ này, khi xây dựng bản đồ, các nhà khoa học chỉ cần đặt tên bản đồ thì đã
định hướng được nội dung và đối tượng địa lí cần biểu hiện trong đó.
Có hai kĩ năng thật sự quan trọng và cần thiết trong quá trình sử dụng bản đồ để
phục vụ học tập, nghiên cứu sau đây thì khả năng vận dụng của SV lại thấp:
- Kĩ năng mô tả tổng hợp một khu vực, tức là mô tả tất cả các mặt về các yếu
tố tự nhiên, các yếu tố của địa lí kinh tế - xã hội có ở một khu vực.
Ví dụ, khi phân mưa tập trung nhiều nhất ở vùng xích đạo, mưa tương đối ít ở
hai vùng chí tuyến Bắc và Nam, thì ngoài việc quan sát bản đồ, cần phải có kiến thức
về mối quan hệ giữa lượng mưa và áp thấp, áp cao, sự bốc hơi nước nhiều từ các đại
dương và rừng xích đạo trong điều kiện nhiệt lượng lớn, sự bốc hơi nước kém hơn ở
vùng lục địa có diện tích lớn ở khu vực chí tuyến, sự phân bố mưa như vậy sẽ tác động
thế nào đến sự hình thành hệ sinh thái, sự phân bố sản xuất ….
Tỉ lệ SV quan tâm đến mức độ quan trọng (điểm số cao) chỉ 13% ở mức 4 và
9% ở mức 5, điều này cho thấy rằng khả năng tư duy tổng hợp về tri thức bản đồ của
SV chưa cao
- Kĩ năng phát hiện và xác lập các mối quan hệ giữa các đối tượng địa lí
được biểu hiện trên bản đồ.
18
Các đối tượng địa lí phân bố trong một phạm vi không gian lãnh thổ bất kì nào
cũng có mối quan hệ tác động tương hỗ với nhau, lệ thuộc vào nhau trên cơ sở quan hệ
nhân - quả, tạo thành một thể thống nhất. Các mối liên hệ nhân quả là loại kiến thức
phổ biến trong địa lí. Việc giải thích các hiện tượng địa lí phần lớn phải dựa vào các
mối liên hệ này. Các mối liên hệ nhân- quả có nhiều loại khác nhau. Có những mối
liên hệ đơn giản (chỉ có một nguyên nhân và một kết quả), ví dụ: mối liên hệ giữa độ
cao địa hình và nhiệt độ không khí, nhiệt độ và khí áp, độ ẩm và khí áp, cấu tạo của đá
và nước ngầm, chế độ mưa và nhiệt với chế độ nước sông, dòng biển với lượng mưa
ven bờ đại dương, đá mẹ và thổ nhưỡng, khí hậu cà sự phân bố sinh vật, … Có những
mối liên hệ nhân quả phức tạp (một nguyên nhân gây ra nhiều kết quả, hay nhiều
nguyên nhân gây ra một kết quả), ví dụ: vận động tự quay quanh trục của Trái Đất đã
gây ra các hệ quả như sự luân phiên ngày đêm, chuyển động biểu kiến hằng ngày của
các thiên thể, giờ trên Trái Đất sự lệch hướng chuyển động của các vật thể; sự phân bố
nhiệt độ trên Trái Đất, sự lệch hướng chuyển động của các vật thể; sự phân bố nhiệt độ
trên Trái Đất chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, như: hình dạng và vị trí của Trái Đất
so với Mặt Trời, sự phân bố lục địa và biển, các dòng biển nóng và lạnh … Các
nguyên nhân và kết quả liên tục kế tiếp nhau tạo ra mỗt chuỗi mối liên hệ nhân -quả, ví
dụ: ở thảo nguyên với khí hậu lục địa nửa khô hạn có thực vật chủ yếu là cỏ, tạo nên
đất đen có tầng mùn dày; ở sườn núi, khi lên cao, nhiệt độ, lượng mưa và áp suất
không khí thay đổi, do đó sinh vật phân bố theo từng vành đai thẳng đứng cũng khác
nhau; địa hình có tác động đến sự phân bố lại lượng nhiệt và ẩm trong đá mẹ, nhiệt và
ẩm đó có tác động đến chiều hướng và cường độ của quá trình hình thành đất, …
Tỉ lệ SV quan tâm đến mức độ quan trọng (điểm số cao) chỉ 14% mức 4 và 9%
ở mức 5
Như vậy, thực tế kĩ năng sử dụng bản đồ của SV trong quá trình học tập đang
có một lỗ hổng khá lớn, tầm bao quát hoặc hệ thống hóa tri thức địa lí thông qua bản
đồ, hoặc nói cách khác là xem bản đồ như là nguồn tri thức địa lí thứ hai sau giáo trình
thì SV chưa thực hiện được.
19
Các kĩ năng khác thể hiện qua bảng sau:
SL phiếu qua các mức
độ đánh giá
Các kĩ năng sử dụng bản đồ
1 2 3 4 5
KN nhận biết bản đồ, đọc BĐ 3 1 9 16 18
KN xác định phương hướng trên BĐ 4 3 12 12 16
KN xác định tọa độ địa lí và vị trí địa lí trên BĐ 1 4 18 16 8
KN đo khoảng cách trên BĐ 2 8 19 13 5
KN xác định độ cao và độ sâu trên BĐ 5 7 13 15 7
KN mô tả từng yếu tố thành phần trên BĐ 2 7 18 12 8
KN mô tả tổng hợp địa lí một khu vực trên BĐ 1 3 21 13 9
KN phát hiện và xác định các mối quan hệ địa lí trên BĐ 1 6 17 14 9
KN sử dụng bản đồ trên máy vi tính 5 11 18 6 7
Qua khảo sát tình hình thực tế sử dụng bản đồ trong học tập, nghiên cứu của các
lớp SV tại khoa trong thời gian qua chúng tôi thấy rằng việc sử dụng bản đồ nói chung
của SV thực sự chưa hình thành được kĩ năng chuyên biệt, phần lớn SV chỉ tương đối
thành thạo ở những kĩ năng thấp, các bước thứ nhất về kĩ năng sử dụng bản đồ, đồng
thời qua bảng tổng hợp trên chúng tôi cũng đủ cơ sở để khẳng định rằng phần lớn SV
chưa hình dung được khi sử dụng bản đồ thì loại kĩ năng nào giữ vai trò quan trọng.
Chính vì vậy, việc rèn luyện để không ngừng nâng cao kĩ năng sử dụng bản đồ trong
quá trình học tập, đặc biệt là hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ để dạy học trong
tương lai đối với sinh viên ngành sư phạm địa lí là vấn đề không những có tầm quan
trọng rất lớn mà còn là tính cấp thiết hiện nay.
20
Chương 3
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SỬ DỤNG BẢN ĐỒ
CHO SINH VIÊN ĐỊA LÍ TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
3.1. Cơ sở thực tiễn của phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ
cho sinh viên ngành Địa lí
Khi SV có được những kĩ năng làm việc với bản đồ, họ có thể tái tạo lại được
hình ảnh các lãnh thổ nghiên cứu, với các đối tượng địa lí và những đặc điểm cơ bản
của chúng, mà không nhất thiết phải nghiên cứu trực tiếp ngoài thực địa.
Khi sử dụng bản đồ, quá trình phân tích nội dung của các bản đồ, SV phải luôn
quan sát, tưởng tượng rồi đối chiếu so sánh chúng với nhau, tổng hợp và khái quát hóa,
xác lập các mối quan hệ địa lí, nhờ thế mà họ sẽ phát triển được tư duy lôgic, các thao
tác tư duy luôn được hoạt động và phát triển.
Qua học tập, nghiên cứu địa lí và làm việc với bản đồ, SV sẽ rèn luyện được kĩ
năng sử dụng bản đồ, không những chỉ giúp ích cho họ trong học tập và nghiên cứu,
giảng dạy địa lí sau này mà còn giúp họ hiểu biết được hệ thống tri thức địa lí được
xây dựng trong các khoa học khác trong cuộc sống, như đối với lĩnh vực quân sự và
hoạt động của một số ngành kinh tế,v.v…
3.2. Sự cần thiết phải hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ cho sinh viên
ngành Địa lí
Bản đồ địa lí không thể thiếu trong công tác nghiên cứu khoa học ở nhiều lĩnh
vực, nhiều chuyên ngành khác nhau; nó là phương tiện nghiên cứu của các ngành khoa
học về Trái Đất, lịch sử, văn hoá xã hội. Bản đồ giúp các nhà khoa học tìm hiểu những
quy luật phân bố, sự lan truyền của các đối tượng, hiện tượng và những mối tương
quan của chúng trong không gian, cho phép phát hiện những quy luật tồn tại và dự
đoán con đường phát triển của chúng trong tương lai. Bất cứ sự nghiên cứu địa lí nào
cũng bắt đầu bằng bản đồ và kết thúc cũng bằng bản đồ (bản đồ là Alfa và Ômêga của
Địa lí). Trước, trong khi nghiên cứu, các nhà nghiên cứu phải tìm hiểu địa phương,
phân tích các đối tượng nghiên cứu trên bản đồ và sau khi nghiên cứu, những kết quả
21
mới được thể hiện trên bản đồ. Như vậy, bản đồ địa lí luôn được xem là một tiêu
chuẩn của phát triển Địa lí.
Với đặc điểm ưu việt của hệ thống địa lí trong nhà trường chúng đã trở thành
những phương tiện không thể thiếu được trong việc học tập nghiên cứu địa lí của sinh
viên ngành sư phạm Địa lí nói chung cũng như giáo viên giảng dạy Địa lí và học sinh
học địa lí ở các trường phổ thông. Tuy nhiên, muốn sử dụng bản đồ một cách có hiệu
quả, ngay từ trong nhà trường đại học, SV ngành sư phạm Địa lí phải được rèn luyện
thành thạo các kĩ năng sử dụng bản đồ.
Khi học SV có kĩ năng sử dụng bản đồ, họ có thể tái tạo lại được hình ảnh các
lãnh thổ nghiên cứu với những đặc điểm cơ bản của chúng, mà không cần phải nghiên
cứu trực tiếp ngoài thực địa. Đặc biệt đối với môn địa lí, không phải lúc nào người học
cũng có điều kiện tiếp xúc với các lãnh thổ của đất nước mình hoặc các lãnh thổ khác
trên bề mặt trái đất.
Đây cũng là một tính chất hết sức độc đáo của môn địa lí, bởi vì bất cứ một lãnh
thổ nào cũng có phạm vi không gian cố định và được phân bố chung ở những nơi nhất
định trên bề mặt trái đất. Nếu không có bản đồ, thì người học hoặc nghiên cứu dù có
trí tưởng tượng phát triển đến đâu đi nữa cũng không thể hình dung ra được vị trí
không gian cũng như đặc điểm của các lãnh thổ đó.
Làm việc với bản đồ, người học sẽ rèn luyện được kĩ năng sử dụng bản đồ
không chỉ trong học tập, nghiên cứu mà còn trong cuộc sống, đặc biệt là đối với lĩnh
vực quân sự, trong các ngành sản xuất kinh tế khác nhau.
Khi phân tích nội dung các bản đồ và so sánh chúng với nhau, người học sẽ
phát triển được tư duy lôgic; biết thiết lập các mối liên hệ giữa các đối tượng địa lí;
thực hiện việc so sánh và phát hiện ra các mối liên hệ nhân quả giữa chúng…
Trong chương trình đào tạo, ngoài môn học chuyên ngành là Đại cương về bản
đồ học thì hầu hết các môn chuyên ngành khác đều đòi hỏi SV ngành Địa lí phải sử
dụng hệ thống bản đồ trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Khác với học sinh phổ thông, SV ở các trường đại học quá trình học tập có tính
chất nghiên cứu, trong quá trình học tập SV phải tự mình chiếm lĩnh hệ thống tri thức,
kĩ năng, nắm vững cơ sở nghề nghiệp của mình trong tương lai ở trình độ đại học. SV
22
không chỉ hoạt động nhận thức thông thường mà phải phát huy khả năng độc lập tư
duy sáng tạo phát triển ở mức độ cao.
Do vậy, giảng dạy, học tập, nghiên cứu trên lớp, bản đồ không những sử dụng
làm phương tiện trực quan mà còn làm nguồn tri thức nhằm phát huy tính tích cực
trong lĩnh hội tri thức mới.
Đối với SV đại học, ngoài kĩ năng đọc, hiểu và vận dụng bản đồ thì SV còn
phải có kĩ năng làm việc độc lập với bản đồ dưới sự hướng dẫn của GV. Sau khi ra
trường trở thành một giáo viên địa lí thực thụ thì kiến thức về bản đồ sẽ có ý nghĩa rất
quan trọng trong suốt quá trình dạy học địa lí. SV cần phải biết được cấu trúc chương
trình địa lí ở trường phổ thông và các loại bản đồ được sử dụng trong dạy học.
- Ở trường phổ thông đang sử dụng rất nhiều đồ dùng dạy học Địa lí khác nhau
như tranh ảnh, bảng biểu, băng hình, bản đồ, biểu đồ… nhưng quan trọng nhất trong
số đó là BĐGK (trong đó đặc biệt là BĐGK treo tường).
BĐGK là bộ phận khăng khít không thể tách rời môn học Địa lí trong nhà
trường phổ thông. Bởi vì môn Địa lí trong nhà trường chọn lọc và trình bày những tri
thức Địa lí bằng ngôn ngữ tự nhiên, còn BĐGK phản ánh chúng bằng ngôn ngữ bản
đồ. Sự phối hợp giữa ngôn ngữ tự nhiên và ngôn ngữ bản đồ làm cho việc phản ánh
thực tế Địa lí sinh động hơn, đầy đủ hơn, giúp cho việc nhận thức thực tế địa lí dễ
dàng hơn. Chính vì vậy, môn địa lí trong nhà trường luôn luôn gắn bó chặt chẽ với
BĐGK.
- BĐGK là công cụ duy nhất giúp thầy và trò có khả năng nhìn bao quát được
các hiện tượng diễn ra trên một khoảng không gian rộng lớn không thể tri giác trực
tiếp được.
BĐGK mở rộng khái niệm không gian cho học sinh, cho phép các em thiết lập
mối quan hệ tương hỗ và nhân quả của các hiện tượng và các quá trình trong tự nhiên
và trong xã hội, phát triển óc tư duy logic và óc quan sát, hình thành cho học sinh thế
giới quan duy vật biện chứng, xây dựng tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc với
Tổ quốc mình. BĐGK có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hình thành trong học
sinh quy luật phân bố các đối tượng Địa lí, quy luật phân bố lực lượng sản xuất của
một đơn vị lãnh thổ (một vùng, một quốc gia…) nghĩa là BĐGK giúp cho học sinh
23
hiểu được trên lãnh thổ có cái gì, ở đâu và tại sao? BĐGK phản ánh đầy đủ về sự khai
thác tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, việc phát triển tổng hợp và chuyên
môn hóa các ngành sản xuất, việc hoàn thiện sự phân công lao động xã hội giữa các
vùng kinh tế… BĐGK giúp cho giáo viên trình bày các mối liên hệ kinh tế nội, ngoại
vùng phát triển mối liên kết kinh tế giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên
thế giới.
BĐGK là mô hình – hình ảnh kí hiệu tổng hợp đặc biệt, nó trình bày những đặc
điểm không gian dưới dạng tổng quát, trực quan và dễ hiểu, nó được sử dụng không
chỉ như những thành tựu nghiên cứu phân bố không gian, tuyên truyền những thành
tựu kinh tế trong công cuộc xậy dựng xã hội ở nước ta mà còn là công cụ quan trọng
để dự báo và kế hoạch hóa trong tương lai.
Trong dạy học Địa lí, bản đồ giữ vai trò rất quan trọng. Bản đồ là kho tàng trữ
các tri thức Địa lí đã tích luỹ được, là kênh hình của sách giáo khoa địa lí. Bản đồ vừa
là nội dung vừa là phương tiện đặc thù không thể thiếu trong dạy học địa lí. Nếu như
trong nghiên cứu địa lí một lãnh thổ phải bắt đầu bằng bản đồ thì trong dạy - học địa lí,
khi trình bày về một lãnh thổ, ngay từ những kiến thức đầu tiên như vị trí địa lí, hình
dạng lãnh thổ đến những đặc điểm địa lí khái quát nhất đều phải được chỉ ra trên bản
đồ. Trên cơ sở cái “nền” đó, giáo viên đưa vào và khắc sâu những kiến thức cho học
sinh. Vì thế, việc dạy - học địa lí, thiếu bản đồ là điều không thể chấp nhận.
Ngày nay, bản đồ còn là một phương tiện có hiệu quả để phổ biến các tri thức,
nâng cao dân trí, cung cấp nhưng hiểu biết về khoa học Trái Đất, về các nước trên thế
giới, về quê hương đất nước, từ đó giáo dục lòng yêu nước, yêu quý thiên nhiên, bảo
vệ môi trường.
“Nói một cách ngắn gọn bản đồ và các phần tử đồ hoạ khác tập hợp thành một
trong ba mô hình truyền tin chủ yếu cùng với từ ngữ và những con số. Vì chủ thể khác
biệt của địa lí học, ngôn ngữ bản đồ là ngôn ngữ khác biệt của địa lí. Vì vậy sự tinh tế
khi đọc bản đồ và tổ hợp chúng cùng với khả năng phiên dịch giữa những ngôn ngữ
bản đồ, từ ngữ và những con số là cơ sở để nghiên cứu và thực hành địa lí học” (John
Berchert)
24
3.3. Các loại kĩ năng sử dụng bản đồ
Trong các loại kĩ năng địa lí thì kĩ năng làm việc với bản đồ là cần thiết và quan
trọng nhất nhờ kĩ năng sử dụng bản đồ mà SV có thể khai thác được các kiến thức địa
lí trên bản đồ làm cho nó trở thành nguồn tri thức địa lí quan trọng, kĩ năng sử dụng
bản đồ là sự sử dụng có hiệu quả hệ thống các hoạt động có liên quan đến bản đồ trong
quá trình học tập địa lí của SV.
Kĩ năng bản đồ có nhiều loại. Rèn luyện kĩ năng bản đồ phải trải qua nhiều
bước từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao. Trong chương trình chuyên ngành địa
lí sư phạm ở trường đại học cũng như ở trường trung học phổ thông, các kĩ năng bản
đồ cần hình thành và rèn luyện cho người học bao gồm:
- Kĩ năng chỉ và đọc tên các đối tượng địa lí trên bản đồ dựa vào các ước hiệu
ghi trong bản chú giải của bản đồ.
- Kĩ năng xác định phương hướng, đo đạc, tính toán trên bản đồ (đo đạc, tính
toán về khoảng cách, về chiều cao, độ sâu...).
- Kĩ năng xác định vị trí địa lí, mô tả từng yếu tố thành phần về địa lí tự nhiên,
địa lí kinh tế và dân cư được biểu hiện trên bản đồ.
- Kĩ năng mô tả tổng hợp một khu vực, tức là mô tả tất cả các mặt về các yếu tố
tự nhiên, các yếu tố của địa lí kinh tế - xã hội có ở một khu vực.
- Kĩ năng phát hiện và xác lập các mối quan hệ giữa các đối tượng địa lí được
biểu hiện trên bản đồ.
- Kĩ năng nhận diện các phương pháp chiếu đồ
Những kĩ năng trên đây là những bước từ thấp đến cao trong quá trình rèn luyện
kĩ năng bản đồ cho HS-SV. Vì không phải là một môn học riêng trong kế hoạch dạy
học, nên phương thức dạy các kiến thức và kĩ năng bản đồ cho SV cũng có nhiều điểm
khác biệt so với việc dạy kiến thức và kĩ năng của các môn học khác. Chỉ có những
kiến thức tối thiểu ban đầu để hiểu bản đồ và những khái niệm quan trọng nhất liên
quan đến cơ sở toán học của bản đồ và ngôn ngữ bản đồ (như hệ thống kinh- vĩ tuyến,
lưới tọa độ, phép chiếu...) là đuợc bố trí trong môn học bản đồ học đại cương và một
số tiết nguyên vẹn ngay từ đầu chương trình môn Địa lí trung học phổ thông (4 tiết ở
25
lớp 10). Phần lớn những kiến thức và kĩ năng bản đồ còn lại chủ yếu đều được dạy và
rèn luyện thông qua việc giáo viên sử dụng bản đồ - lược đồ trong sách giáo khoa, sử
dụng atlat hay quả cầu địa lí... như sẽ đề cập ở phần phương thức hình thành kĩ năng.
Như vậy, rèn luyện kĩ năng bản đồ cho HS-SV là một quá trình lâu dài, phức
tạp, liên tục trong chương trình địa lí, đòi hỏi nhiều công sức và sự phối hợp chặt chẽ
giữa các lớp, giữa các cấp học, nhằm đạt mục tiêu cuối cùng là biết sử dụng bản đồ,
biết khai thác tri thức tàng trữ trong bản đồ, để bản đồ thực sự trở thành nguồn cung
cấp tri thức cho HS-SV.
Bản đồ vừa được coi là phương tiện trực quan, vừa là nguồn tri thức địa lí quan
trọng đối với SV.
Trong quá trình dạy học địa lí, GV phải biết khai thác nguồn tri thức để dạy cho
SV, đồng thời rèn luyện cho SV kĩ năng khai thác nguồn tri thức đó trong học tập địa
lí.
Để khai thác được những tri thức trên bản đồ, cần phải hình thành cho SV
những kĩ năng sử dụng bản đồ. Muốn hình thành được kĩ năng sử dụng bản đồ trước
hết SV phải hiểu bản đồ, nghĩa là phải nắm được những kiến thức lý thuyết về bản đồ,
trên cơ sở đó có được những kĩ năng làm việc với bản đồ; bao gồm các đối tượng nào?
Tính chất của chúng ra sao? Nội dung của nó có những gì? Các cách biểu hiện các đối
tượng và ý nghĩa của nó trên bản đồ. Trong quá trình dạy học, giảng viên bộ môn phải
Bản đồ
Đối tượng học tập Kiến thức bản đồ
Kĩ năng bản đồ
Bản đồ
Nguồn tri thức Tri thức địa lí mới
SINH VIÊN
SINH VIÊN
Hướng dẫn của GV
GV hướng dẫn
SV vận dụng kiến thức điạ lý và kiến thức, kĩ năng bản đồ
26
giúp SV làm quen với ngôn ngữ bản đồ từ đơn giản đến phức tạp nhằm mục đích trang
bị cho SV có khả năng đọc bản đồ như ta đọc hiểu nội dung khác trong giáo trình và từ
đó nâng lên hiểu nội dung của bản đồ như là một thông tin bắt buộc của chuyên ngành.
Nghĩa là SV không chỉ dừng lại ở mức độ nhận biết các hiện tượng địa lí trên bản đồ
mà phải nắm được nội dung, bản chất của sự vật hiện tượng ấy… Dựa trên bản đồ ta
có thể mô tả một lãnh thổ, một khu vực nào đó trên Trái Đất về các đặc trưng, về điều
kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội. Những tri thức tổng hợp đó rất cần thiết khi
tiến hành học tập, nghiên cứu một khu vực, một bài, một ngành địa lí nào đó bất kì.
Đọc bản đồ là công việc ở mức độ cao hơn, ở đây đòi hỏi SV phải biết kết hợp
những hiểu biết về bản đồ với những kiến thức địa lí để rút ra những nhận xét về đặc
điểm, bản chất của sự vật, hiện tượng địa lí. Nghĩa là khi nhìn vào các ước hiệu khái
quát và cách thể hiện trên bản đồ SV không những phải có biểu tượng khái niệm chính
xác rõ ràng mà còn phải hiểu được cả ý nghĩa của cách biểu hiện chúng trên bản đồ.
Từ đó rút ra đặc điểm, nhận xét các hiện tượng địa lí đó trên bản đồ. Lúc này bản đồ
không như một tư liệu đơn thuần mà nó tồn tại một cách sinh động như Buđanôp, nhà
địa lí học Liên Xô (cũ) đã nói: “đọc bản đồ tức là liên hợp các loại ký hiệu thường
dùng các màu sắc trên bản đồ thành những câu nói, hình như các sự vật địa lí bày ra
trước mắt chúng ta”.
Đọc bản đồ có ba mức độ khác nhau:
- Mức thứ nhất chỉ mới thể hiện ở chỗ đọc được vị trí các đối tượng địa lí, có được
biểu tượng về các đối tượng đó thông qua hệ thống các ước hiệu ghi trên bản chú giải.
Tuy đơn giản nhưng muốn thực hiện được kĩ năng này SV cũng phải nắm được
quy trình sau:
+ Đọc bản chú giải để biết được ký hiệu quy ước chỉ các đối tượng cần tìm trên
bản đồ.
+ Tái hiện các hiện tượng địa lí dựa vào các ký hiệu.
+ Căn cứ vào các ký hiệu, tìm vị trí của chúng trên bản đồ.
- Mức thứ hai cao hơn: Đòi hỏi SV phải biết dựa vào những hiểu biết về bản đồ,
kết hợp với các kiến thức địa lí để tìm ra được những đặc điểm tương đối rõ ràng của
27
những đối tượng địa lí biểu hiện trên bản đồ. Nói chung ở mức độ này SV đã có thể
mô tả được các đối tượng địa lí trên bản đồ với các đặc điểm của chúng.
- Mức thứ ba: Đòi hỏi khi đọc bản đồ, SV còn phải biết kết hợp những kiến
thức bản đồ với những kiến thức địa lí sâu hơn để so sánh, phân tích, tìm ra các mối
liên hệ giữa các đối tượng trên bản đồ.
Như vậy, SV không những phải kết hợp những kiến thức bản đồ với những kiến
thức địa lí mà còn phải nắm được những mối liên hệ giữa các đối tượng địa lí trên bản
đồ, rồi vận dụng tư duy, so sánh, đối chiếu để rút ra kết luận, từ đó có được kiến thức
địa lí mới.
Khi đọc bản đồ cần lưu ý những nội dung chủ yếu sau:
- Các ký hiệu của bản đồ
Ký hiệu của bản đồ được sử dụng để đưa ra những thông tin chi tiết cho người đọc
bản đồ. Vì không gian bị giới hạn nên không thể viết nhãn cho tất cả mọi thứ trên bản đồ,
do đó các ký hiệu được sử dụng để làm mọi thứ trở nên dễ dàng hơn cho người đọc.
Dưới đây là một số ký hiệu quan trọng tìm thấy trên bản đồ, qua các kí hiệu đó
nó giúp ta hiểu được bản đồ:
+ Điểm cực Bắc (Thường có kí hiệu đặt ở phía trên bản đồ): Hầu hết bản đồ đều
có điểm cực Bắc để cho phép ta định hướng bản đồ theo đúng hướng
+ Các đặc điểm phổ biến: Các đặc điểm như: sông, đường, hồ, đập, tòa nhà và
làng bản, tất cả được thể hiện trên bản đồ thông qua các biểu tượng.
+ Đường đồng mức: Một trong những vấn đề mà ta hay gặp phải đó là giấy
phẳng trong khi ta cố gắng thể hiện một phần của trái đất lên bản đồ, do đó bản đồ
không chỉ ra được các đồi núi hay thung lũng. Để vượt qua trở ngại này người ta sử
dụng các đường đồng mức. Đường đồng mức thể hiện mặt đất ở các mức khác nhau.
Đường đồng mức là đường nối liền tất cả các điểm có cùng độ cao.
28
B
Bản đồ địa hình Việt Nam
- Tỉ lệ bản đồ: Tỉ lệ bản đồ cho ta biết khoảng cách giữa các điểm được đo đạc
và thể hiện như thế nào trên bản đồ. Nếu ta lấy thước kẻ đo 10cm trên bản đồ, tỉ lệ cho
chúng ta biết khoảng cách trên thực tế là bao nhiêu. Nhiều bản đồ có tỉ lệ 1/50.000
hoặc 1/10.000. Điều này có nghĩa là 1 đơn vị đo được trên bản đồ tương ứng với
50.000 (hoặc 10.000) cùng đơn vị chiều dài trên thực tế.
Ví dụ: 1cm trên bản đồ tỷ lệ 1:50.000 là 50.000 cm trên thực tế hay 0.5 km hoặc
500 m.
29
- Hiểu biết địa hình: Sau khi đã có kiến thức về các ký hiệu bản đồ, đường
đồng mức và tỉ lệ, SV cần phải hiểu biết về địa hình được thể hiện trên bản đồ như thế
nào. Địa hình có thể được mô tả là những đặc điểm vật lý đất đai hoặc bất cứ cái gì có
đặc điểm giống đất đai.
- Hệ thống lưới bản đồ: Để cho vị trí cần tìm trên bản đồ dễ dàng hơn, bản đồ
được chia thành các ô vuông có các đường ngang và dọc. Các đường này được coi như
là lưới của bản đồ và các ô vuông hình thành lên các đường này gọi là lưới ô vuông.
Lưới bản đồ được cấu tạo từ các đường kinh tuyến và vĩ tuyến, và tương ứng với nó là
các kinh độ và vĩ độ.
Vĩ độ:
Giả sử nếu bạn đứng ở tâm của Trái Đất và bạn nhìn lên trên bề mặt của Trái Đất
xung quanh bạn. Điểm cực Bắc sẽ nằm ở trên đầu bạn nếu bạn nhìn thẳng bất kỳ hướng
nào từ phía đường xích đạo. Tương tự như thế, nếu bạn đứng ở tâm Trái Đất và nhìn
xuống dưới đường xích đạo về phía Nam, ta cũng sẽ gặp điểm cực Nam là 900
Đường vĩ độ gọi là Vĩ tuyến.
Chú ý: 900 Bắc và 900 Nam thực tế chỉ là các điểm chứ không phải là quỹ đạo
hình tròn. Khoảng cách giữa các độ là giống nhau và tất cả các độ đều nằm song song
với nhau. Càng đi về phía điểm cực Bắc hoặc cực Nam, số độ càng tăng dần và tối đa
là 900
Vĩ độ phi (φ) và Kinh độ lambda (λ)
30
Kinh độ:
Kinh độ là các góc nằm ở phía Đông hoặc Tây của Trái đất, nó giống như vĩ độ
có các góc nằm ở phía Nam hoặc Bắc của quả đất. Đường kinh độ gọi là kinh tuyến
Đối với vĩ độ ta có 2 điểm giới hạn là cực Bắc và cực Nam, nhưng quay xung
quanh Trái Đất, ta không có điểm đầu và điểm cuối. Vì thế người ta phải chọn một
điểm cho kinh độ để làm điểm đầu cũng như điểm kết thúc và điểm này đặt tại Đài
quan sát thiên văn Greenwich ở Anh. Điểm này có giá trị là 00 và đường kinh tuyến
chạy qua điểm này gọi là đường Kinh tuyến gốc.
Chú ý: Các đường kinh tuyến không song song với nhau, càng gần cực khoảng
cách giữa các đường kinh tuyến càng gần nhau và hội tụ tại 2 điểm cực Bắc và Nam.
Định hướng bản đồ
Để làm quen với địa hình, trước tiên cần phải định hướng bản đồ.
Bản đồ được định hướng khi nó được đặt ở vị trí mà các đặc điểm trên bản đồ
tương xứng với các đặc điểm trên thực địa và điều đó có nghĩa là bản đồ được đặt
đúng vào vị trí phía Bắc.
Dưới đây là 3 bước cơ bản để định hướng cho bản đồ:
B1. Đặt bản đồ lên trên bề mặt khá bằng phẳng
Xoay vòng số của địa bàn (nếu là địa bàn dùng cho bản đồ) để điều chỉnh độ
lệch từ sao cho hướng Bắc là điểm chỉ dẫn của địa bàn. Nếu là địa bàn quân sự thì
không phải làm bước phụ này mà sẽ làm ở bước 3.
B2. Đặt địa bàn lên bản đồ sao cho mép của địa bàn song song với đường kinh
tuyến bắc nam trên bản đồ.
B3. Xoay bản đồ và địa bàn cùng nhau cho đến khi kim địa bàn nằm trong hộp
mũi tên định hướng (nếu là địa bàn dùng cho bản đồ) hoặc mũi tên chỉ 00 (đối với địa
bàn quân sự). Tiếp tục xoay cả địa bàn và bản đồ để điều chỉnh độ lệch từ đối với địa
bàn quân sự.
Điểm cực Bắc
Có 3 điểm cực Bắc đó là:
31
- Bắc thật – là hướng Bắc địa lí
- Bắc từ - hướng chỉ của kim địa bàn
- Bắc bản đồ - hướng chỉ đường kinh tuyến trên bản đồ. Trên đầu bản đồ là cực Bắc
Trên cơ sở hiểu và đọc bản đồ SV còn phải biết vận dụng các kiến thức đó
trong học tập, nghiên cứu và đặc biệt quan trọng là phải vận dụng kiến thức ấy vào
thiết kế bài soạn giảng và dạy học địa lí sau này. Đó là kĩ năng vận dụng, kĩ năng
hoàn thiện, nó có trình độ cao hơn tất cả các loại kĩ năng có liên quan đến bản đồ.
Nghĩa là từ những hiểu biết trên bản đồ SV có thể dễ dàng rút ra được những kiến thức
mới thông qua một loạt các thao tác tư duy: phân tích, tổng hợp, so sánh,… tìm ra các
đặc trưng của lãnh thổ tự nhiên, kinh tế, xã hội cũng như các mối liên hệ tổng hợp của
mỗi lãnh thổ đó.
3.4. Qui trình, phương thức hình thành và rèn luyện kĩ năng bản đồ cho
sinh viên
3.4.1. Qui trình rèn luyện các loại kĩ năng bản đồ cho SV:
* Qui trình rèn luyện kĩ năng nhận biết bản đồ, đọc bản đồ:
- GV cần đọc rõ ràng, rành mạch và chính xác, kết hợp chỉ đối tượng trên bản
đồ treo tường (ví dụ: khi nói đến địa danh một thành phố nào đó, GV phải vừa đọc
nhiều lần một cách rõ ràng vừa chỉ trên bản đồ).
- Cho SV tìm và đối chiếu với lược đồ trong giáo trình, hoặc trong tập atlat.
- Viết thật rõ ràng tên địa danh lên bảng và yêu cầu một SV đọc lại cho cả
lớp cùng nghe. Sau đó yêu cầu SV ghi nhớ chính xác địa danh.
- Hướng dẫn SV nhận xét đặc điểm của đối tượng địa lí (kích thước, màu
sắc,...) được thể hiện trên bản đồ, hoặc mối quan hệ về vị trí địa lí với các đối tượng
khác xung quanh, để sau này dễ nhận ra và tìm được đối tượng đó trên bản đồ. Thí dụ:
GV có thể cho SV nhận xét và so sánh bán đảo Scandinavi có hình dạng giống như
một con hỗ, hoặc để SV dễ nhớ vị trí của thành phố Việt Trì - GV có thể nói: Việt Trì
là thành phố ở ngã ba sông...
- Trong một số trường hợp, khi giảng GV kết hợp với bản đồ treo tường đã vẽ
lên bảng hình vẽ biểu tượng riêng về hình dáng và vị trí của đối tượng để SV dễ dàng
32
nhận ra và nhớ kĩ hơn. Hoặc GV giải thích rõ nguồn gốc của địa danh, của đối tượng
để gây ấn tượng dễ nhớ cho SV (thí dụ: tên của con sông Hồng bắt nguồn từ màu nước
đỏ nặng phù sa, Hồng Hải do phản chiếu từ màu của các rạn san hô...).
- Hướng dẫn SV cách chỉ các đối tượng địa lí trên bản đồ (theo điểm, theo
đường, khu vực lãnh thổ...).
Trước hết, phải đọc bảng chú giải: Đây có thể coi là chìa khoá để hiểu nội
dung được thể hiện trong bản đồ, mặt khác còn rút ra được các kiến thức nhất định có
tính chất tổng quát.
Ví dụ: Khi đọc bản đồ Địa chất – khoáng sản: Đầu tiên phải đọc phần chú
giải, các kí hiệu về các hệ đá cho ta thấy nước ta có lịch sử hình thành lãnh thổ lâu dài,
vì có các tuổi Nguyên sinh cách đây hơn 2600 triệu năm đến các trầm tích Đệ Tứ cách
đây 1,5 – 2,0 triệu năm… Đọc chú giải các loại khoáng sản sẽ cho thấy rõ đặc điểm
của khoáng sản nước ta phong phú về chủng loại, đa dạng về loại hình… có đủ các
loại khoáng sản từ khoáng sản năng lượng, kim loại đen, kim loại màu, đến các loại
khoáng sản làm vật liệu xây dựng và phi kim loại, trong đó lại chia ra nhiều loại
khoáng sản chủ yếu. Quan sát các kí hiệu về khoáng sản trên bản đồ sẽ cho thấy mức
độ tập trung của nguồn tài nguyên này rất khác nhau giữa các vùng lãnh thổ.
Đối với các bản đồ về khí hậu – khí tượng…, cũng tương tự vậy, đầu tiên
phải đọc phần chú giải để phân biệt các kí hiệu thể hiện trên bản đồ về nhiệt độ, lượng
mưa, chế độ gió, hướng gió, tần suất gió. Từ đó sẽ cho ta thấy ngay đặc điểm về sự
phân hoá đa dạng về các vùng, miền khí hậu. Ví dụ, ở nước ta chia làm 4 vùng khí
hậu: (1) vùng khí hậu nhiệt đới có mùa đông lạnh, (2) Vùng khí hậu nhiệt đới có mùa
đông lạnh vừa, (3) Vùng khí hậu nhiệt đới có mùa đông ấm, (4) Vùng khí hậu nhiệt
đới nóng quanh năm…
Đọc chú giải bản đồ Đất, thực vật cũng cho thấy rõ đặc điểm của tài nguyên
đất ở nước ta là phong phú với hai nhóm đất chính là đất phù sa và đất feralit, ngoài ra
còn có các loại đất khác. Trong các nhóm đất lại chia ra thành các loại đất khác nhau
(đất feralít, đất xám bạc màu, đất phù sa, đất phèn, đất mặn…)
Khi đọc bản đồ phân bố dân cư: Trên bản đồ thường dùng kí hiệu nền chất
lượng với mức độ đậm nhạt khác nhau; các kí hiệu thể hiện qui mô dân số giữa các
33
khu vực trong cả nước. Nếu không đọc phần chú giải trước, ta sẽ không hiểu được
mức độ đậm nhạt trên bản đồ thể hiện cái gì, tại sao lại trình bày các kí hiệu lớn nhỏ
khác nhau. Đọc kĩ phần chú giải và quan sát trên bản đồ ta sẽ thấy mật độ dân cư
thường thưa dần từ đồng bằng ven biển lên trung du và miền núi. Các kí hiệu trên bản
đồ thể hiện qui mô dân số trung bình tại địa phương đó. Từ đó cho ta thấy toàn cảnh
bức tranh phân bố dân cư của cả nước.
Đọc bản đồ phải tuân thủ theo một qui tắc nhất định, đi từ nhận định khái
quát đến chi tiết.
Ví dụ: Đọc bản đồ khí hậu, sau khi đã phát hiện ra các vùng khí hậu, ta sẽ đọc
các đặc trưng về nhiệt, về chế độ mưa tại các trạm khí tượng, từ đó có thể rút ra kết
luận chung về chế độ nhiệt, ẩm và lượng mưa của từng vùng khí hậu, sự phân hoá theo
mùa tại vùng đó. Hay khi đọc bản đồ Công nghiệp chung, cần phát hiện được qui luật
phân bố công nghiệp của nước ta: Các trung tâm công nghiệp lớn và trung bình phân
bố tập trung ở ĐB sông Hồng và vùng phụ cận, Đông Nam Bộ và rải rác ở các tỉnh
thuộc vùng DH miền Trung. Các trung tâm công nghiệp lớn thường có cơ cấu ngành
đa dạng, các trung tâm công nghiệp nhỏ thì cơ cấu ngành đơn giản hơn, thậm chí chỉ
có một, hoặc hai ngành chủ yếu. Các điểm công nghiệp có khi chỉ có một hoặc hai
ngành công nghiệp. Sau đó, đi sâu vào phân tích một số trung tâm công nghiệp, cơ cấu
ngành của các trung tâm công nghiệp này… Lí giải tại sao các trung tâm công nghiệp
có cơ cấu ngành công nghiệp khác nhau.
Đọc một số bản đồ về kinh tế - xã hội. Thông thường, khi phân tích vấn đề về
kinh tế - xã hội của một lãnh thổ (vùng) hay một ngành nào đó trên cơ sở đọc và phân
tích bản đồ hoặc átlát. Trước hết, SV phải căn cứ vào kiến thức đã học về những vấn
đề có liên quan để định hướng phân tích bản đồ hoặc átlát, phải chọn ra được những
bản đồ chính và bản đồ bổ sung.
Trước tiên, là phân tích vị trí địa lí. Vị trí địa lí trên bản đồ được thể hiện ở
toạ độ địa lí, đối với một quốc gia (hay vùng) vị trí này được xác định bằng các điểm
cực Bắc, cực Nam, cực Đông và cực Tây; còn đối với một số đối tượng theo điểm
(như thành phố, trạm khí tượng…), thì ngoài hệ thống kinh vĩ độ, cần xem xét thêm độ
cao (ví dụ: Trạm khí tượng Hà Nội ở vĩ độ 21001’B, kinh độ 105048’Đ và ở độ cao 5
mét so với mực nước biển). Vị trí địa lí tự nhiên thể hiện ở quan hệ không gian giữa
34
các đối tượng địa lí tự nhiên. Từ vị trí địa lí này, SV phân tích ảnh hưởng của địa hình
đối với sự phân hoá khí hậu. Sau khi đã phân tích vị trí địa lí về tự nhiên, SV sẽ phân
tích vị trí địa lí kinh tế, ở góc độ kinh tế thì vị trí địa lí thường thể hiện ở mức độ thuận
lợi hay hạn chế trong việc trao đổi giao lưu nội vùng, ngoài vùng và với khu vực hay
quốc tế; ảnh hưởng của các điều kiện địa hình, điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông vận tải.
Sau đó, đi vào phân tích các nguồn lực phát triển. Các nguồn lực phát triển
kinh tế - xã hội bao gồm tài nguyên thiên nhiên, dân cư – lao động, cơ sở vật chất – kĩ
thuật và đường lối chính sách. Cần biết lựa chọn các bản đồ tương ứng (bản đồ địa
hình, địa chất – khoáng sản, bản đồ thổ nhưỡng, thực - động vật, bản đồ dân cư – dân
tộc và bản đồ về các ngành (công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải,…). Dựa
vào các bản đồ tương ứng ta phân tích các nguồn lực để phát triển, khi phân tích cần
chú ý quan hệ không gian giữa các yếu tố đọc được từ các bản đồ riêng lẻ (ta thường
gọi là chồng xếp bản đồ). Các bản đồ kinh tế tương ứng sẽ cho ta thấy hiện trạng phân
bố của các ngành kinh tế (ngành hay vùng). Trong các bản đồ kinh tế thường có các
biểu đồ đi kèm, chính các biểu đồ này cho ta thấy cơ cấu và động thái phát triển của
toàn ngành hay vùng nào đó.
Như vậy, với một dạng bài tập thực hành đọc bản đồ theo một chủ đề cho
trước, thì khi đọc ta nên tuân thủ theo một qui tắc nhất định, như vậy bài viết sẽ thể
hiện một cách cô đọng nhất, ngắn gọn, đầy đủ các ý mà không sợ bị bỏ sót hoặc quá
rườm rà.
* Qui trình rèn luyện kĩ năng xác định phương hướng trên bản đồ:
- Trước hết hướng dẫn SV tìm điểm cực Bắc và điểm cực Nam trên quả cầu
địa lí, rồi sau đó chứng minh tất cả các đường kinh tuyến đều chạy vào và nối hai điểm
cực Bắc và cực Nam.
- Hướng dẫn học SV nhận rõ các đường vĩ tuyến trên quả cầu là những đường
khép kín luôn song song với đường xích đạo và quả cầu không có điểm cực Tây và
cực Đông.
- Sau đó hướng dẫn SV nhận xét các đường kinh - vĩ tuyến trên một loại bản
đồ (bản đồ nửa cầu, bản đồ châu lục, bản đồ các nước và khu vực), rồi đối chiếu, so
35
sánh với các đường kinh tuyến trên quả địa cầu để thấy rõ những khác biệt và sai lệch
trên bản đồ.
- Cho SV tập xác định phương hướng (bắc, nam, đông, tây) trên bản đồ có đối
chiếu với quả cầu địa lí.
* Qui trình rèn luyện kĩ năng xác định tọa độ địa lí và vị trí địa lí trên bản đồ:
- Hướng dẫn SV hiểu cách phân chia hệ thống kinh - vĩ tuyến trên khung bản đồ.
- Cho SV tập xác định tọa độ của điểm gặp nhau giữa hai đường kinh - vĩ
tuyến được biểu hiện trên bản đồ.
- Sau đó chuyển sang tập xác định tọa độ địa lí của một điểm được thể hiện
trên bản đồ nhưng nằm ngoài các đường kinh - vĩ tuyến (nằm ở bao nhiêu độ kinh và
bao nhiêu độ vĩ).
- Cuối cùng là tập xác định tọa độ địa lí của một lãnh thổ: một tỉnh, một vùng,
một quốc gia, một châu lục...(cực Bắc và cực Nam ở bao nhiêu độ vĩ tuyến, cực Đông
và cực Tây ở bao nhiêu độ kinh tuyến).
- Còn rèn luyện kĩ năng xác định vị trí địa lí trên bản đồ: trước hết SV phải
nắm chắc các khái niệm vị trí địa lí, phân biệt sự khác nhau giữa vị trí địa lí tự nhiên
và vị trí địa lí kinh tế - xã hội, cũng như thấy được mối quan hệ giữa chúng với nhau.
Sau đó cho các họ tập xác định vị trí địa lí tự nhiên, vị trí địa lí kinh tế - xã hội của một
địa phương, một quốc gia hay một khu vực...
* Qui trình rèn luyện kĩ năng đo khoảng cách trên bản đồ:
- Trước tiên phải cho SV nắm vững khái niệm tỷ lệ bản đồ và ý nghĩa của nó,
cách tính tỷ lệ (đổi từ cm thành km).
- Sau đó cho họ tập đo khoảng cách trên bản đồ và dựa vào tỉ lệ bản đồ tính ra
khoảng cách bằng km ngoài thực tế.
- Hướng dẫn họ đo tính khoảng cách dựa vào lưới kinh - vĩ tuyến trên bản đồ
và cách đổi số vĩ độ hoặc kinh độ đo được thành km.
36
* Qui trình rèn luyện kĩ năng xác định độ cao và độ sâu trên bản đồ:
- Trước tiên cho SV biết các cách biểu hiện độ cao hay độ sâu trên bản đồ
(biểu hiện độ cao bằng thang màu sắc hay đường đồng mức, biểu hiện độ sâu bằng
màu sắc hay đường đẳng sâu).
- Tiếp đó hướng dẫn họ tập xác định độ cao dựa vào thang màu sắc hay đường
đồng mức, tập xác định độ sâu dựa vào thang màu sắc hoặc đường đẳng sâu.
- Tập cho SV tính độ cao hay độ sâu của những điểm nằm bên ngoài đường
đồng mức hoặc bên ngoài đường đẳng sâu.
- Cuối cùng là hướng dẫn SV tập xác định độ dốc và hướng dốc của địa hình
bề mặt.
* Qui trình rèn luyện kĩ năng mô tả từng yếu tố thành phần trên bản đồ
(mô tả địa hình, mô tả thủy văn...):
- Để rèn luyện kĩ năng này, đầu tiên phải giới thiệu cho SV cách biểu hiện các
yếu tố thành phần của đối tượng địa lí trên bản đồ (cách biểu hiện một dãy núi, một hệ
thống sông, một vùng đồng bằng...).
- GV mô tả mẫu một khu vực có đối tượng địa lí và yếu tố thành phần được biểu
hiện trên bản đồ, vừa mô tả, vừa hướng dẫn cách thức, trình tự mô tả (có thể làm ngược
lại là đưa ra trình tự trước rồi sau đó sử dụng trình tự đó để mô tả mẫu theo bản đồ).
- Cho SV ghi lại dàn ý và trình tự mô tả vào vở hoặc sổ tay địa lí (nếu có). Thí
dụ để mô tả một ngọn núi, có thể cho họ ghi vào vở qui trình các bước mô tả như sau:
+ Dựa vào kí hiệu và cách biểu hiện, tìm vị trí núi trên bản đồ.
+ Xác định vị trí của nó trên lãnh thổ (ở phần nào của châu lục, ở khu vực và
quốc gia nào).
+ Xác định hình dạng và hướng của núi dựa vào lưới tọa độ địa lí.
+ Nếu ngọn núi nằm trong một dải núi, thì chiều dài của dải núi trên bản đồ là
bao nhiêu? Dựa vào thước đo tỷ lệ của bản đồ để tính.
37
+ Dựa vào đường đồng mức (hay còn gọi là đường bình độ) hoặc thang phân
tầng màu về độ cao để xác định độ cao trung bình của núi hoặc của cả dải núi, xác
định hướng núi hoặc độ dốc của núi.
+ Tìm số ghi độ cao lớn nhất của núi (đỉnh núi).
- Hướng dẫn SV tập mô tả yếu tố thành phần được biểu hiện trên bản đồ từ
đơn giản đến phức tạp trong một khu vực theo dàn ý đã ghi.
* Qui trình rèn luyện kĩ năng mô tả tổng hợp địa lí một khu vực trên bản đồ:
- Trước tiên GV hệ thống lại việc rèn luyện tất cả những kĩ năng đã trình bày
ở trên.
- Sau khi SV nắm được những kĩ năng đó, cho họ mô tả về địa lí tự nhiên
hoặc về địa lí kinh tế - xã hội, hoặc là mô tả kết hợp vừa địa lí tự nhiên vừa địa lí kinh
tế - xã hội (trường hợp này ít xảy ra) ở một khu vực, một quốc gia trên bản đồ.
- Mô tả tổng hợp địa lí trên bản đồ là một cách đọc bản đồ khá hấp dẫn đối
với HS-SV, còn gọi là hình thức “du lịch trên bản đồ”. Ở đây họ phải dựa vào những
hiểu biết về bản đồ để làm một cuộc “du lịch tưởng tượng” trên bản đồ, mô tả các
miền đất, các thành phố và làng mạc sẽ đi qua theo từng tuyến vạch sẵn trên bản đồ.
* Qui trình rèn luyện kĩ năng phát hiện và xác định các mối quan hệ địa lí
trên bản đồ:
- Củng cố và có thể phát triển thêm một số vốn kiến thức bản đồ cần thiết cho SV.
- Cung cấp một số mối liên hệ địa lí làm cơ sở cho việc rèn luyện kĩ năng: mối
liên hệ giữa các đối tượng địa lí về vị trí không gian, mối liên hệ giữa các hiện tượng
địa lí tự nhiên, hoặc giữa các hiện tượng địa lí kinh tế- xã hội với nhau, mối liên hệ
giữa các hiện tượng địa lí tự nhiên với các hiện tượng địa lí kinh tế - xã hội...
- Trên cơ sở vốn hiểu biết mà họ đã tích lũy được, giúp họ dựa vào bản đồ có
thể tự phát hiện ra và xác định được các mối liên hệ địa lí thông thường, các mối liên
hệ nhân quả, hoặc các mối liên hệ mang tính qui luật.
38
* Kĩ năng sử dụng bản đồ trên máy vi tính
Đây là một kĩ năng hoàn toàn phù hợp với đặc thù tự nghiên cứu của SV vì sử
dụng máy vi tính đã trở nên quá quen thuộc trong hoạt động dạy và học hiện nay. Để
phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu kể cả GV và SV đều trang bị trong máy vi tính
của mình nhiều phần mềm liên quan đến kiến thức địa lí như các loại bản đồ về tự
nhiên, kinh tế,... với nội dung và chức năng của nó rất phong phú.
GV cần hướng dẫn cho SV biết sử dụng máy vi tính để sử dụng được các bản
đồ ở các phần liên quan đến chương trình GV giới hạn.
- Hướng dẫn cho SV biết cách tô màu, xác định diện tích, chu vi các đối tượng địa lí.
- Biết sử dụng các phần mềm để vẽ bản đồ.
- Biết điền và bổ sung các đối tượng địa lí trên bản đồ
- Biết cách đo đạc, tính toán trên bản đồ,…
GV có cũng có thể ứng dụng các phần mềm làm bản đồ, đặc biệt là phần mềm
Mapinfo để thành lập một số bản đồ chuyên đề hỗ trợ cho các nội dung dạy học, phù
hợp với yêu cầu của mỗi bài để khai thác kiến thức địa lí trong bài dễ dàng hơn.
3.4.2. Phương thức hình thành và rèn luyện kĩ năng bản đồ
Trong môn học Địa lí ở trường Đại học hay nhà trường phổ thông đều có rất
nhiều loại kĩ năng khác nhau. Mỗi loại kĩ năng có con đường hình thành và phương
pháp rèn luyện riêng. Nhưng đã là kĩ năng, theo tâm lý học thì chúng vẫn có những
điểm chung trong phương pháp hình thành, cụ thể: muốn hình thành cho SV kĩ năng
bản đồ, trước hết phải làm cho họ nắm được những kiến thức lý thuyết về bản đồ để
làm cơ sở, rồi sau đó mới đến những kiến thức thực hành về cách thực hiện nó (đọc
bản đồ, mô tả trên lược đồ, đo tính...).
Nhìn chung, trong học tập và nghiên cứu bản đồ hiện nay có 3 phương thức hình
thành kĩ năng bản đồ cho HS-SV:
- Phương thức cơ bản và thuận lợi nhất là dạy có qui củ trong các bài lý thuyết và
thực hành trên lớp. Ở phương thức này GV có thời gian dạy các kiến thức lý thuyết và
kiến thức thực hành về bản đồ một cách chủ động. Người học được hướng dẫn và nắm
kĩ năng về bản đồ tương đối thuận tiện và có hệ thống. Tuy nhiên trong chương trình
39
các môn học chuyên ngành sư phạm địa lí bản đồ học chỉ được thiết kế một môn Bản
đồ học đại cương, còn ở trường phổ thông, bản đồ chỉ là một phần rất nhỏ chứ không
được coi là môn học riêng, nên các bài lý thuyết và thực hành về bản đồ còn ít. Vì thế
dẫn đến học sinh ít có điều kiện được hướng dẫn và rèn luyện kĩ năng bản đồ địa lí
một cách đầy đủ.
- Phương thức thứ hai hình thành kĩ năng bản đồ cho SV bằng con đường thực
tiễn. Nghĩa là những kiến thức bản đồ còn lại chủ yếu đều phải dạy trong quá trình GV
sử dụng bản đồ địa lí giáo khoa treo tường, hoặc hướng dẫn SV sử dụng bản đồ trong
gia1o tri2nh, sách giáo khoa và trong atlat địa lí, và thông qua khai thác bản đồ trong
tất cả các học phần khác có liên quan đến bản đồ.
Với phương thức này SV không nắm được đầy đủ những tri thức cần thiết về kĩ
năng bản đồ, nhất là những kiến thức về lý thuyết. Những kiến thức về hành động thì
chỉ nắm được từng phần, từng công việc cụ thể của một loại kĩ năng bản đồ nào đó.
Nếu GV chú ý quan tâm đầy đủ đến việc hình thành kĩ năng bản đồ cho SV, qua nhiều
lần vận dụng kĩ năng của mình ở trên lớp, có bổ sung và hệ thống hóa, thì cũng có thể
làm cho họ nắm được đầy đủ cách thực hiện chúng. Rõ ràng ở phương thức này đòi
hỏi người dạy phải có kế hoạch cụ thể trong việc bồi dưỡng cho người học từng loại kĩ
năng bản đồ trong suốt cả quá trình học.
- Phương thức thứ ba là hình thành và rèn luyện kĩ năng bản đồ cho HS-SV thông
qua việc thường xuyên ra các câu hỏi - bài tập thực hành gắn với bản đồ để họ em làm
ở trên lớp hoặc tự học. Phương thức này có tác dụng rất nhiều về việc rèn luyện kĩ
năng bản đồ, nhưng về việc hình thành kĩ năng thì không đáng kể, học sinh chỉ rèn
luyện được những kĩ năng bản đồ mà các em đã biết.
3.5. Một số quy tắc và cách thức làm việc có hiệu quả để hoàn thiện kĩ năng
sử dụng bản đồ
3.5.1. Một số quy tắc:
“Để phục vụ cho mục đích giảng dạy địa lí, mỗi bản đồ giáo khoa đều có nội
dung mang tính địa lí rõ rệt. Người ta có thể dễ dàng nhận ra nội dung đó bằng cách
đọc tên và bảng chú giải của nó. Tên bản đồ chứa đựng hai nội dung chính: hiện tượng
địa lí biểu hiện trên bản đồ và không gian bao quát trên bản đồ. Ví dụ: “Bản đồ khí hậu
40
Việt Nam”, bản đồ “Khí hậu thế giới”. Hiện tượng địa lí ở đây là khí hậu còn phạm vi
không gian là Việt Nam hoặc thế giới” [6 tr 118]
Trong quá trình hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ cho SV, GV trước tiên phải
trình bày cho SV biết được một số quy tắc làm việc với bản đồ.
- Khi làm với bản đồ trước hết cần:
+ Chú ý đến tên bản đồ
+ Tỉ lệ
+ Đọc bản chú giải để nắm được các ký hiệu quy ước.
- Để thực hiện được điều này, GV có thể tiến hành bằng cách cho SV làm quen
với các bản đồ trong tập atlats HS và các bản đồ treo tường, rồi tả lời các câu hỏi:
+ Trong atlats có những bản đồ nào (gọi tên các bản đồ)?
+ Tỉ lệ bao nhiêu?
+ Trong bản chú giải các bản đồ có những chỉ dẫn gì? Các dấu hiệu quy ước
biểu hiện những đối tượng nào trên bản đồ?
- Để giúp SV hoàn thiện cách đọc các dấu hiệu quy ước trên bản đồ, GV có thể
yêu cầu SV thực hiện các công việc sau:
+ Dựa vào các ký hiệu trong một số bản đồ, tái hiện lại các biểu tượng và nhận
xét cách biểu hiện chúng trên bản đồ.
+ Dựa vào các ký hiệu trên bản đồ, lần lượt kể lại những gì nhận thấy khi đi từ
Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây hoặc đi dọc theo một tuyến đường từ A đến B.
+ Dựa vào các ký hiệu mô tả quang cảnh của một vùng, một lãnh thổ trên bản đồ.
Những công việc này giúp SV củng cố sự hiểu biết về các bản đồ và phương
pháp sử dụng chúng trong thực tiễn.
3.5.2. Một số cách làm việc có hiệu quả với bản đồ
* Phân tích và đánh giá bản đồ :
41
Đối với bản đồ giáo khoa, ngoài nội dung khoa học địa lý thì nội dung khoa học
bản đồ cũng giữ vai trò quan trọng. Vì vậy, việc chuẩn bị bản đồ cần phải phân tích
đánh giá bản đồ theo 2 hướng
- Về khoa học địa lý: bản đồ giáo khoa được đánh giá tốt là những bản đồ phù
hợp với nội dung bài học. Tránh dùng bản đồ có quá nhiều nội dung không cần thiết sẽ
làm rối rắm, lu mờ nội dung chính
- Về khoa học bản đồ: SV cần thông hiểu những kiến thức về bản đồ, về
phương pháp biểu thị bản đồ. Về cơ sở toán học bản đồ, dù khái quát đến đâu cũng
không thể thiếu hệ thống lưới kinh vĩ và tỉ lệ bản đồ. Thiếu 2 yếu tố này, không thể các
định được kích thước và mối quan hệ không gian của các hiện tượng địa lý trên bản
đồ. Hệ thống lưới kinh vĩ làm cơ sở đề xác định vị trí của các đối tượng hiện tượng địa
lí. Tỉ lệ bản đồ ngoài việc chỉ ra mức độ thu nhỏ của các hiện tượng ngoài thực tế mà còn
nêu được giới hạn của nội dung bản đồ. Trên bản đồ, nội dung và phương pháp biểu hiện
phù hợp với tỉ lệ. Thay đổi tỉ lệ sẽ thay đổi về nội dung và phương pháp biểu hiện
VD: - Sẽ bị sai nếu phóng to bản đồ trong sách giáo khoa, giáo trình thành bản
đồ giáo khoa treo tường mà nội dung không có gì thay đổi, bổ sung thêm, như vậy bản
đồ sẽ rất trống trải, nội dung sơ sài, không cân đối giữa lượng thông tin biểu hiện và
diện tích tờ bản đồ.
- Tính khoảng cách thực tế bằng cách sử dụng bản đồ tỉ lệ nhỏ là bị sai vì còn
phải tính đến độ cong của quả đất và còn ảnh hưởng bởi sai số chiếu hình.
* Chọn lọc nội dung bản đồ
Khi chọn lọc nội dung cần phải tính đến ảnh hưởng của các tính chất:
- Tính hiện đại: Nếu là bản đồ tự nhiên thì nội dung ít thay đổi. Nếu là bản đồ
kinh tế xã hội thì nội dung thay đổi nhiều hơn.
- Tính chi tiết: Mức độ chi tiết của các bản đồ có sự khác nhau. Bản đồ atlas có
mức độ chi tiết cao nhất, dùng làm tài liệu tham khảo, tra cứu rồi đến bản đồ giáo khoa
treo tường và sau cùng là bản đồ trong sách giáo khoa
- Tính thống nhất: nội dung bài giảng, bản đồ trong sách giáo khoa, giáo trình
và bản đồ giáo khoa treo tường phải có sự thống nhất về một số vấn đề sau:
42
- Các bản đồ dùng phải có sự thống nhất về phạm vi các lãnh thổ biểu hiện.
Ví dụ: Để nghiên cứu về tự nhiên Việt Nam nên dùng bản đồ Việt Nam và bản
đồ Đông Nam Á
* Cách ghi nhớ các đối tượng địa lí trên bản đồ
Trong việc sử dụng bản đồ, một nhiệm vụ hết sức quan trọng là SV phải xác
định nhanh chóng đối tượng địa lí trên bản đồ. Để thực hiện được nhiệm vụ đó trong
quá trình dạy học, GV phải chú ý tạo điều kiện để cho SV ghi nhớ được tên cũng như
vị trí của các đối tượng địa lí trên bản đồ thông qua các hoạt động khác nhau như:
nhìn, nghe, chỉ và nói.
Để giúp SV ghi nhớ được vị trí của các đối tượng địa lí trên bản đồ, GV khi dạy
có thể đánh dấu các đối tượng trên bản đồ, đồng thời so sánh các đối tượng trên bản đồ
với các sự vật cụ thể mà SV thường thấy, để tạo ra biểu tượng không gian hoặc vạch ra
những mối tương quan giữa vị trí của đối tượng này với các đối tượng khác.
Cũng có trường hợp GV kết hợp với bản đồ treo tường vẽ lên bảng sơ đồ phân
tích biểu hiện riêng hình dạng, vị trí của các đối tượng để cho HS dễ nhận và nhớ kĩ hơn.
Ví dụ: Khi phân tích đặc điểm địa hình của lãnh thổ Hoa Kì, sách giáo khoa địa
lí lớp 11 [9 tr 37].
GV vừa kết hợp với bản đồ treo tường (bản đồ tự nhiên Hoa Kì) và bản đồ hình
6.1 trang 37, vừa vẽ lên bảng một sơ đồ hình “lòng máng” – nhấn mạnh đặc trưng của
địa hình lãnh thổ.
Hình 6.1. Địa hình và khoáng sản Hoa Kì
43
Sơ đồ: Địa hình Hoa Kì
- Đối với một số địa danh, GV có thể giải thích hoặc nói rõ nguồn gốc của
chúng để gây một ấn tượng dễ nhớ cho SV.
Ví dụ: Đỉnh Everest cao 8.848m – cao nhất thế giới còn có tên gọi là
Chomolumma, theo tiếng Phạn có nghĩa là “Xứ sở của bà Chúa Tuyết”
Tuy nhiên, có một điều quan trọng là muốn cho SV nhớ kĩ các đối tượng địa lí
trên bản đồ, GV phải cho SV thực hành nhiều trên bản đồ trong quá trình học tập ở
trên lớp cũng như trong khi tự học.
* Cách mô tả một đối tượng địa lí trên bản đồ
Kinh nghiệm cho thấy khi tách riêng một đối tượng địa lí và vẽ lên bảng hoặc
lên giấy, chẳng hạn một con sông, đảo, hồ, thì SV sẽ khó nhận ra. Sở dĩ như vậy là vì
khi tri giác một đối tượng địa lí trên bản đồ người ta luôn gắn nó với các đối tượng địa
lí xung quanh.
Từ đó đi đến kết luận là để tìm ra đối tượng địa lí trên bản đồ, SV không phải
chỉ dựa vào đặc điểm hình thù, kích thước của nó mà phải dựa vào toàn bộ khung cảnh
xung quanh.
Nhận biết và ghi nhớ các đối tượng địa lí trên bản đồ là rất quan trọng vì SV càng
ghi nhớ nhiều đối tượng càng nhanh chóng tìm ra những khác liên quan. Nói cách khác
càng có nhiều điểm tựa SV càng dễ tìm ra những đối tượng cần tìm, tức là càng đọc
bản đồ nhanh chóng hơn. Việc rèn luyện cách nhận biết, tìm ra và ghi nhớ các đối
Dãy Coocdie
Đồng bằng Trung tâm
Dãy Apalat
44
tượng địa lý trên bản đồ giúp SV luôn củng cố tri thức cũ, nắm vững tri thức mới và
không ngừng mở rộng vốn hiểu biết bản đồ của mình.
45
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Hệ thống bản đồ địa lí nói chung và bản đồ giáo khoa nói riêng là một phương
tiện dạy học, nghiên cứu không thể thiếu được của bộ môn Địa lí trong các nhà trường.
Trong xu thế dạy học lấy người học làm trung tâm, việc sử dụng có hiệu quả hệ thống
các phương tiện trực quan nói chung là vấn đề được các nhà giáo dục dành nhiều sự
quan tâm. Hệ thống tri thức địa lí, ngoài việc được thiết kế theo kênh chữ thông
thường thì nó còn được thiết kế mang tính đặc thù qua hệ thống kênh hình khá phong
phú mà trong đó tri thức địa lí được biểu hiện qua bản đồ là phổ biến nhất. “Để có thể
đọc được bản đồ, học sinh phải hiểu được ngôn ngữ bản đồ. Khi đã có những hiểu biết
về kí hiệu bản đồ người học có thể tiếp nhận các thông tin khoa học trên bản đồ, người
đọc phải biết phân biệt, chọn lọc những khía cạnh, những nội dung tiêu biểu để nhận
thức các hiện tượng riêng lẻ, sau đó mới xác lập các mối liên hệ qua lại giữa chúng để
thấy được tổng thể môi trường địa lí trên bản đồ” [ 6 tr 119]
Việc tổ chức dạy - học địa lí trong thời gian qua ở khoa Địa lí mới chỉ chú ý đến
việc trang bị cho SV những tri thức địa lí đơn thuần cùng với việc kết hợp trang bị
những kĩ năng dạy học cần thiết để giúp SV tác nghiệp sau này. Tuy nhiên một trong
những kĩ năng đặc biệt quan trong như đã trình bày đối với học tập, nghiên cứu địa lí
là phải thông thạo về việc sử dụng bản đồ, muốn sử dụng thành thạo bản đồ thì trước
hết người sử dụng phải có kĩ năng bản đồ. Vì vậy, rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ
cho SV ngành sư phạm Địa lí là công việc phải được tiến hành thường xuyên, liên tục.
Qua quá trình khảo sát thực tế tình hình sử dụng bản đồ trong quá trình học tập
và nghiên cứu của SV Khoa Địa lí- ĐH Đồng Tháp chúng tôi có đủ cơ sở để khẳng
định rằng kĩ năng Địa lí nói chung, trong đó có kĩ năng sử dụng bản đồ của SV chưa
thực sự đáp ứng được mục tiêu đào tạo chuyên ngành sư phạm Địa lí mà Khoa đã xây
dựng. Và nếu không được chú ý khắc phục vấn đề này thì sau khi ra trường về tham
gia công tác giảng dạy Địa lí ở các nhà trường phổ thông sẽ lại tạo nên những hệ lụy
không tốt về chất lượng hoạt động dạy học của bộ môn.
46
Kết quả nghiên cứu của đề tài đã hệ thống một số kĩ năng cần rèn luyện cho SV
khi sử dụng bản đồ để phục vụ cho học tập và nghiên cứu, đó là các kĩ năng: đọc bản
đồ, xác định phương hướng trên bản đồ, xác định tọa độ địa lí, kĩ năng đo khoảng
cách, xác định độ cao, kĩ năng mô tả từng yếu tố, kĩ năng mô tả tổng hợp, kĩ năng phát
hiện và xác định mối quan hệ địa lí trên bản đồ,...
Với những kết quả nghiên cứu đó, tác giả hy vọng sẽ giúp các GV và SV của
khoa đạt hiệu quả cao hơn trong việc sử dụng, khai thác bản đồ cho quá trình giảng
dạy và học tập Địa lí của mình trong thời gian tới.
2. Khuyến nghị
Là một cơ sở đào tạo đội ngũ giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy địa lí cho
các trường phổ thông, việc cần thiết và có thể nói là vô cùng quan trọng là bên cạnh
trang bị cho SV hệ thống tri thức về địa lí, thì giảng viên còn phải luôn hướng dẫn cho
SV hình thành được kĩ năng sử dụng bản đồ một cách thành thạo nhất, và xem đó trách
nhiệm của mình trong việc góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục kể cả tại
cơ sở đào tạo và ở nhà trường phổ thông.
Trong thời gian qua, việc tổ chức rèn luyện kĩ năng địa lí nói chung và kĩ năng
sử dụng bản đồ nói riêng tại Khoa Địa lí chưa thực sự được coi trọng, vì vậy vẫn có
một số SV khi ra trường tham gia giảng dạy địa lí ở các trường phổ thông chưa thực sự
thành công khi sử dụng bản đồ trong dạy học. Vì vậy, nên chăng các bộ môn, và đặc
biệt là Câu lạc bộ Địa lí phải thường xuyên cân nhắc vấn đề này, việc rèn luyện kĩ
năng sử dụng bản đồ có thể còn tích hợp vào nội dung rèn luyện nghiệm vụ sư phạm
trong chương trình chính khóa.
Đối với SV, ngoài việc sử dụng đầy đủ các loại giáo trình phục vụ học tập và
nghiên cứu địa lí còn phải tự trang bị cho mình tập bản đồ địa lí các loại, biết sử dụng các
phần mềm xây dựng bản đồ (Mapinfo), thường xuyên đọc các thông tin địa lí trên bản đồ
địa lí các loại để tự hình thành cho mình kĩ năng sử dụng bản đồ, làm được như vậy mới
có thể nói rằng việc khai thác tri thức địa lí thông qua bản đồ trong quá trình học tập-
Nghiên cứu và ứng dụng nó vào quá trình giảng dạy địa lí sau này sẽ đạt hiệu quả.
47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo sư N.N.Baranxki, Phương pháp giảng dạy địa lí kinh tế – M.1972
2. Giáo sư A.A.Booczôp, Các hoạt động địa lí – M.1949
3. Giáo sư V.P.Buđanốp, Bản đồ trong việc giảng dạy địa lí – M.1948
4. A.M.Berliant, Phương pháp nghiên cứu bằng bản đồ, nxb ĐHQG HN, 2004
5. K. A. Xalishev, Bản đồ học, nxb ĐHQG HN 2006
6. Nguyễn Dược – Nguyễn Trọng Phúc, Giáo trình Lý luận dạy học Địa lí
7. Lâm Quang Dốc, Giáo trình bản đồ học đại cương, Nxb Đại học sư phạm
Hà Nội. 2003.
9. Ngô Đạt Tam – Lê Ngọc Nam - Nguyễn Trần Cầu - Phạm Ngọc Đĩnh, Bản
đồ học – 1986
9. Lê Thông (tổng chủ biên- Nguyễn Thị Minh Phương (chủ biên), Địa lí 11,
nxb GD 2007