Upload
bui-nhu-lac
View
34
Download
0
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Những thay đổi trong chính sách đầu tư thế giới những năm gần đây
Citation preview
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ 2 TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
------------------
ĐỀ TÀI
XU HƯỚNG THAY ĐỔI TRONG CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ CỦA THẾ GIỚI
NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Giảng viên hướng dẫn: Trương Hoàng Anh ThơNhóm thực hiện: Nhóm sinh viên – K51C1
Nhóm trưởng: Lý Huỳnh Văn
Tháng 8/2014
LỜI MỞ ĐẦUNgày nay, cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, đầu tư quốc
tế luôn là lĩnh vực quan trọng hàng đầu và đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng
kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời, khẳng định vị trí của các quốc gia
trên trường thế giới. Chính vì thế, tự do hóa đầu tư đang ngày một phát triển mạnh
mẽ giữa các nước, khu vực và thế giới.
Tuy vậy, trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau, đầu tư quốc tế có
những xu hướng thay đổi khác nhau để phục vụ mục tiêu phát triển của các nước
và bối cảnh thế giới. Chính vì vậy, việc nghiên cứu xu hướng thay đổi trong chính
sách đầu tư quốc tế sẽ cho chúng ta cái nhìn tổng quan và đúng đắn hơn về đầu tư
trên quan điểm quốc gia cũng như toàn cầu.
Đó cũng là lý do nhóm em thực hiện đề tài nghiên cứu: “Xu hướng thay đổi
trong chính sách đầu tư quốc tế những năm gần đây”
Kết cấu bài viết gồm 4 chương:
Chương 1: Xu hướng tự do hóa đầu tư
Chương 2: Những thay đổi trong chính sách FDI những năm gần đây
Chương 3: Các khu vực đầu tư tự do
Chương 4: Các xu hướng khác
Trong quá trình thực hiện bài viết, nhóm đã cố gắng thu thập và tổng hợp từ
những nguồn tài liệu mới nhất để bài viết có chất lượng tốt nhất, tuy vậy, do thời
gian làm bài và kiến thức chuyên môn còn hạn chế, nhóm cũng không tránh khỏi
những thiếu sót. Nhóm rất mong cô và các bạn đóng góp để bài làm được hoàn
thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I: XU HƯỚNG TỰ DO HÓA ĐẦU TƯ
I. Khái niệm và nội dung tự do hóa đầu tư
1. Khái niệm
Tự do hóa đầu tư là quá trình trong đó các rào cản đối với hoạt động đầu tư,
các phân biệt đối xử trong đầu tư được từng bước dỡ bỏ, các tiêu chuẩn đối xử
tiên bộ dần dần được thiết lập và các yếu tố để đảm bảo sự hoạt động đúng đắn
của thị trường được hình thành.
2. Nội dung
Tiến trình tự do hóa đầu tư diễn ra ở các nước, các khu vực và các tổ chức
trên thế giới theo 3 nội dung chính sau đây:
2.1 Loại bỏ dần các rào cản cà những ưu đãi mang tính phân biệt
đối xử trong hoạt động đầu tư
Các chế độ đầu tư sẽ từng bước được điều chỉnh theo hướng loại bỏ dần các
yếu tố “bóp méo” thị trường. Cụ thể, các rào cản sau đây cần được loại bỏ:
-Hạn chế liên quan đến việc tiếp nhận và thành lập: Quyền tiếp nhận là quyền
được tiếp cận hoặc hiện diện, còn quyền thành lập doanh nghiệp đề cập đến các
hình thức hiện diện được phép. Cụ thể là không cho phép hoặc hạn chế đầu tư
trong một số ngành, lĩnh vực; hạn chế số ngành, lĩnh vực đặc biệt; yêu cầu liên
doanh; yêu cầu xin phép, đăng ký đầu tư; không cho phép đầu tư vào một số địa
bàn; hạn chế nhập khẩu các tài sản cố định. Các cách tiếp nhận và thành lập được
tổng kết trong 5 mô hình sau:
-Hạn chế về vốn và quyền kiểm soát của nước ngoài: bao gồm các quy định
về:
+ Tỷ lệ phần trăm vốn góp tối đa hoặc tối thiểu của các nhà đầu tư nước ngoài
+ Kiểm soát quyền sở hữu để đại diện nước sở tại tham gia và quá trình quản lý
doanh nghiệp (Số lượng thành viên mỗi bên tham gia hội đồng quản trị, nguyên
tắc nhất trí trong việc thông qua các quyết định của hội đồng quản trị)
+ Rút vốn, dùng lợi nhuận để tái đầu tư
-Những hạn chế về hoạt động: áp dụng sau khi doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đã được thành lập nhằm giảm tác động tiêu cực và tăng lợi ích kinh tế
thu được từ hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm:
+ Hạn chế liên quan đến tuyển dụng và sử dụng lao động
+ Hạn chế về thương mại. Ví dụ: hạn chế nhập khẩu máy móc, hạn chế bán sản
phẩm ở thị trường trong nước,…
MÔ HÌNH TIẾP NHẬN VÀ
THÀNH LẬP
KIỂM SOÁT
ĐẦU TƯ
Bảo lưu toàn bộ quyền kiểm
soát của quốc gia
TỰ DO HÓA CO
CHỌN LỌC
Đưa ra các
quyền hạn chế, như chỉ áp dụng cho các ngành thuộc “danh
mục lựa chọn”
CHƯƠNG TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA
KHU VỰC
Dành những đãi ngộ quốc gia (NT) cho các
nhà đầu tư nước
thành viên của tổ
chức khu vực.
ĐỐI XỬ QUỐC GIA CÓ ĐI CÓ
LẠI
Đưa ra các quyền NT với tất cả
pháp nhân, thể nhân
nước thành viên thuộc tổ chức hội nhập kinh tế khu vực
KẾT HỢP NT/
MFN
Đưa ra đầy đủ quyền tiếp
cân trên cơ sở đối xử nào tốt hơn giữa MFN và NT tùy thuộc
“danh mục loại trừ”
+ Kiểm soát ngoại hối.
+ Yêu cầu chuyển giao công nghệ, quy trình sản xuất hoặc các tri thức đặc biệt
khác
+ Các hạn chế khác. Ví dụ: thuê đất dài hạn sở hữu nhà ở, đất đai; địa điểm đầu tư
trong phạm vi nước nhận đầu tư; hạn chế mang tính văn hóa như giáo dục hoặc
truyền thông; các yêu cầu đặc biệt về tiêu chuẩn kỹ thuật; hạn chế liên quan đến an
ninh quốc gia;…
-Các rào cản mang tính hành chính: thiếu rõ ràng trong quy định của luật
pháp liên quan đến đầu tư hoặc thiếu rõ ràng trong việc thực hiện luật và các quy
định về đầu tư.
-Các ưu đãi về thuế, gồm 4 nhóm ưu đãi chính:
+ Trực tiếp miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp
+ Ưu đãi cho việc đầu tư cơ bản: khấu hao nhanh, khấu trừ thuế, cho nợ thuế,…
+ Giảm các rào cản đối với các hoạt động xuyên quốc gia như giảm thuế nhập
khẩu, phí hải quan,..
+ Các ưu đãi khác: miễn, giảm các loại thuế khác hay cho phép đóng thuế theo
tình hình thực tế,…
-Các ưu đãi khác về tài chính như: tài trợ, cho vay ưu đãi, bảo lãnh vốn vay,
hỗ trợ đào tạo lao động, cung cấp thông tin, cơ sở hạ tầng,…
-Ưu đãi miễn thực hiện một số quy định pháp luật: tức là cho phép các nhà
đầu tư nước ngoài không phải thực hiện một số yêu cầu của luật pháp hoặc các
quy định của các cơ quan quản lý nhà nước các cấp. Tuy những ưu đãi giúp chủ
đầu tư giảm chi phí, tăng lợi nhuận nhưng xu hướng tự do hóa đầu tư đòi hỏi phải
loại bỏ các ưu đãi này vì thực chất chúng cũng gây ra những sai lệch và bóp méo
thị trường.
2.2 Thiết lập các tiêu chuẩn đối xử tiến bộ đối với hoạt động đầu tư
Việc thiết lập nên các tiêu chuẩn đối xử tiến bộ đối với hoạt động đầu tư là
rất cần thiết trong xu hướng tự do hóa đầu tư hiện nay, bao gồm có 6 tiêu chuẩn
sau:
-Không phân biệt đối xử: theo tiêu chuẩn này, việc một quốc gia quy định
những điều kiện đặc biệt nhằm đặt một quốc gia khác hay các pháp nhân, tự nhiên
nhân của một quốc gia khác vào một vị trí kém thuận lợi hơn so với quốc gia, pháp
nhân, tự nhiên nhân của một nước thứ 3 sẽ bị coi là một hành động phi pháp và
không phù hợp với những tiêu chuẩn của luật Kinh tế quốc tế. Tiêu chuẩn không
phân biệt đối xử gồm 2 mức độ là NT và MFN:
+ NT là không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư nước ngoài và công dân nước sở
tại, tức là trong những trường hợp tương tự nhau, nhà đầu tư nước ngoài và nhà
đầu tư trong nước cần được hưởng chế độ đối xử giống nhau về những vấn đề như
thành lập, quyền sở hữu, quản lý doanh nghiệp, quyền tham gia vào thủ tục tố
tụng, được bảo hộ thuế, lao động,…
+ MFN là không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài có quốc tịch
khác nhau. MFN được quy định trong hầu hết các điều ước quốc tế liên quan đến
đầu tư và được thực hiện trên cơ sở có đi có lại.
-Đối xử công bằng và bình đẳng: được đề cập trong Điều 11 khoản 2 Hiến
chương Havana 1948, theo đó đối xử công bằng và bình đẳng nghĩa là nước tiếp
nhận đầu tư dành cho các nhà đầu tư nướ ngoài sự đối xử công bằng, thỏa đáng,
không kém thuận lợi hơn sự đối xử theo yêu cầu của tập quán quốc tế, đồng thời
không được áp dụng các biện pháp bất hợp lý, phân biệt đối xử để gây phương hại
đến việc thành lập và hoạt động đầu tư.
-Sử dụng các công cụ quốc tế để giải quyết các tranh chấp trong đầu tư.
-Chuyển tiền: các nước phải cho phép việc thanh toán, chuyển đổi hoặc
chuyển về nước các khoản tiền liên quan đến hoạt động đầu tư ở nước ngoài.
-Tính minh bạch: chính phủ các nước phải công bố rõ ràng và thường xuyên
cập nhật các thông tin về môi trường pháp lý, cơ chế chính sách, thủ tục,… liên
quan đến đầu tư nhằm đảm bảo mỗi bên tham gia vào quá trình đầu tư có thể nhận
đầy đủ thông tin từ các bên tham gia khác để phục vụ cho quá trình ra quyết định
và thực hiện các nghĩa vụ, cam kết.
-Bảo hộ khỏi việc tước đoạt quyền sở hữu: theo thông lệ quốc tế, để bảo hộ
quyền sở hữu, luật pháp các nước phải cam kết không quốc hữu hóa, trưng thu,
trưng dụng tài sản của nhà đầu tư nước ngoài khi họ đầu tư vào nước mình.
3. Tăng cường các biện pháp giám sát thị trường để đảm bảo sự vận hành
đúng đắn của thị trường
Hai nội dung đã nêu trên là trọng tâm trong xu hướng tự do hóa đầu tư , tuy
nhiên, toàn bộ tác động có lợi của chúng phụ thuộc nhiều vào việc thị trường có
được kiểm soát một cách có hiệu quả hay không. Nội dung này được thực hiện
thông qua thiết lập các quy định về cạnh tranh, chống độc quyền; công khai hóa
thông tin; giám sát, kiểm soát một cách chặt chẽ đối với thị trường; trong đó chính
sách cạnh tranh là trung tâm.
II. Tự do hóa đầu tư là xu thế tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa
Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan, bởi toàn cầu hoá là động lực phát
triển của lực lượng sản xuất; lực lượng sản xuất thì không ngừng lớn mạnh đó là
quy luật chung nhất cho mọi thời đại, mọi chế độ xã hội.
1. Toàn cầu hoá
Hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất nào về toàn cầu hoá.
Theo Mc Gren, “Toàn cầu hoá là việc hình thành một chuỗi vô số các liên
kết ràng buộc giữa các chính phủ và các xã hội tạo lập nên một hệ thống thế giới
hiện đại. Toàn cầu hoá cũng là quá trình mà ở đó các sự kiện, các quyết định và
các hoạt động của một phần thế giới có thể tác động nghiêm trọng đến các cá nhân
và cộng đồng ở các phần khác xa của Trái Đất (Nguyễn Đức Bình và cộng sự,
2001)”. Đây là định nghĩa mang tính khái quát cao, nó nhấn mạnh đến các mối
liên kết giữa các nước, các xã hội trên toàn thế giới trong một thể thống nhất. Mc
Gren cũng chỉ ra toàn cầu hoá là một quá trình chứ không phải một trạng thái.
Theo Ủy ban Châu Âu “Toàn cầu hoá có thể được định nghĩa như là một quá
trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang trở nên
ngày càng phụ thuộc lẫn nhau do tính năng động của việc buôn bán hàng hoá và
dịch vụ cũng như tính năng động của sự lưu thông vốn tư bản và công nghệ.”
Cũng giống như toàn cầu hoá nói chung, toàn cầu hoá kinh tế cũng chưa có
định nghĩa đầy đủ và thống nhất. Một cách chung nhất, có thể hiểu toàn cầu hoá
kinh tế là quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới vượt khỏi biên giới
quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu trên cơ sở lực lượng sản xuất cũng như trình
độ khoa học kĩ thuật phát triển mạnh mẽ, và sự phân công hợp tác quốc tế ngày
càng sâu rộng, tính chất xã hội hoá của sản xuất ngày cáng tăng (Nguyễn Đức
Bình và cộng sự, 2001).
2. Tự do hoá đầu tư – xu thế tất yếu trong điều kiện toàn cầu hoá
Toàn cầu hoá kinh tế và tự do hoá đầu tư có mối quan hệ rất khăng khít với
nhau.
Tự do hoá đầu tư vừa là điều kiện, vừa là biểu hiện, vừa là động lực thúc đẩy
quá trình toàn cầu hoá kinh tế phát triển. Ngược lại, toàn cầu hoá kinh tế phát triển
góp phần thúc đẩy tự do hoá kinh tế trong đó có tự do hoá đầu tư diễn ra nhanh và
mạnh trên toàn thế giới
2.1 Tự do hoá đầu tư vừa là nội dung, vừa là biểu hiện, vừa là động
lực thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế phát triển
Toàn cầu hoá kinh tế có 3 nội dung chính:
-Sự gia tăng của các luồng giao lưu quốc tế về thương mại, đầu tư, vốn, công
nghệ, dịch vụ, nhân công,…
-Tự do hoá các hoạt động kinh tế bao gồm tự do hoá thương mại, tự do hoá
đầu tư, tự do hoá lưu chuyển dịch vụ, công nghệ, sức lao động,…
-Sự gia tăng số lượng và hoạt động của các TNC, sự hình thành ngày cáng
nhiều các MNC khổng lồ.
Theo D.Ricardo trong Lý thuyết lợi thế so sánh đã ửng hộ việc phát triển lợi
ích thương mại tự do giữa các quốc gia. Điều này sẽ thúc đẩy liên kết giữa các nền
kinh tế quốc gia trên cơ sở phân công lao động và chuyên môn hoá. Ngày nay,
thuyết này được áp dụng rộng rãi trên thế giới và không dừng ở phạm vi riêng lẻ
của từng quốc gia mà được triển khai trong quan hệ song phương, khu vực và đa
phương. Số lượng hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương được kí
kết ngày càng nhiều. Các liên kết kinh tế khu vực cũng thường bắt đầu bằng các kế
hoạch tự do hoá thương mại. Trên phạm vi toàn cầu GATT và WTO đã được
thành lập nhằm mục đích trước tiên là thúc đẩy tự do hoá thương mại. Tự do hoá
thương mại đã và đang diễn ra mạnh mẽ ở tất cả các cấp độ quốc gia, song
phương, đa phương. Tự do hoá thương mại không chỉ góp phần thúc đẩy quan hệ
quốc tế gia tăng mạnh mẽ mà còn góp phần thúc đẩy đầu tư nước ngoài phát triển,
tạo thuận lợi cho sự phát triển của các TNC và MNC.
2.2 Tự do hoá thương mại giúp các nước tăng cường thu hút đầu tư
nước ngoài
Trước tiên, tự do hoá thương mại sẽ góp phần tăng đầu tư nước ngoài liên kết
theo chiều dọc, trong đó hoạt động của các chi nhánh khác nhau thuộc một MNC
được chuyên môn hoá theo lợi thế về vị trí của quốc gia tiếp nhận FDI và tự do
hoá thương mại sẽ giúp việc trao đổi linh kiện, bán thành phẩm giữa các chi nhánh
diễn ra dễ dàng với chi phí thấp.
Tự do hoá thương mại cũng góp phần tăng đầu tư nước ngoài liên kết theo
chiều ngang. Nguyên nhân là do tự do hoá thương mại sẽ giúp giảm giá hàng hoá
và khiến các doanh nghiệp không có khả năng trang trải được mức chi phí bình
quân, nếu không muốn phá sản, phải sáp nhập hoặc bán lại cho các doanh nghiệp
vốn là đối thủ cạnh tranh mạnh hơn và đang muốn tăng thị phần càng nhanh càng
tốt. Như vậy, đầu tư nước ngoài dưới hình thức M&A tăng nhanh. Như vậy, đầu tư
nước ngoài toàn cầu tăng trưởng mạnh một phần nhờ tự do hoá thương mại.
2.3 Tự do hoá đầu tư phát triển góp phần thúc đẩy sự phát triển của
toàn cầu hoá
Khi các rào cản đối với đầu tư được dở bỏ, các tiêu chuẩn đối xử được thiết
lập, chắc chắn dòng vốn đầu tư sẽ có cơ hội tăng trưởng và tăng trưởng mạnh.
Cùng với dòng vốn đầu tư, dòng hàng hoá, công nghệ, sức lao động lưu chuyển
giữa các nước có chế độ FDI tự do cũng sẽ tăng lên. Chính những điều này sẽ tạo
sức ép để các nước phải đẩy nhanh quá trình tự do hoá kinh tế trên mọi lĩnh vực
chứ không phải dừng lại ở thương mại và đầu tư.
Các định chế và tổ chức trên phạm vi toàn cầu đang từng bước được hình
thành để điểu tiết các dòng lưu chuyển hàng hoá và các nguồn lực giữa các nước,
đảm bảo phối hợp các chính sách thương mại theo “luật chơi” chung. Các định
chế, tổ chức toàn cầu này giúp giảm bớt sự bóp méo giá cả của các hàng hoá, dịch
vụ tham gia vào thương mại quốc tế, tiết kiệm được sự lãng phí nguồn lực của các
quốc gia và tránh xung đột giữa các nước.
Tự do hoá đầu tư cũng tạo thuận lợi cho các MNC và TNC thực hiện chiến
lược chinh phục thị trường toàn cầu của mình nhờ dễ dàng mở thêm các chi nhánh,
công ty con ở các nước có chế độ đầu tư tự do.
Tóm lại, tự do hóa đầu tư là một nội dung không thể thiếu của toàn cầu kinh
tế. Toàn cầu kinh tế ngày càng phát triển mạnh thì tự do hoá đầu tư ngày càng
được đẩy nhanh và ngược lại tự do hoá đầu tư cũng góp phần làm cho toàn cầu
hoá kinh tế phát triển nhanh hơn. Ngày nay, các nước không thể đứng ngoài xu
hướng tự do hoá đầu tư, phải tham gia vào xu hướng này. Vấn đề là phải tham gia
như thế nào để tận dụng được các tác động tích cực và hạn chế các tác động tiêu
cực của xu hướng này.
III. Tình hình thực tế xu hướng tự do hóa đầu tư của các nước và trên thế
giới trong những năm gần đây
1. Xu hướng tự do hóa đầu tư ở các nước
Trong những năm trở lại đây, nhìn chung xu hướng thay đổi chính sách đầu
tư ở các nước và trên thế giới là tự do hóa, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích
đầu tư, song song với đó là ban hành các chính sách để kiểm soát và quy định về
vốn FDI. Riêng trong năm 2013 có 59 quốc gia và nền kinh tế đã thông qua 87
công cụ chính sách tác động trực tiếp đến đầu tư nước ngoài. Trong đó, 61 chính
sách đề cập đến việc tự do hóa đầu tư, khuyến khích và tạo điều kiện để thu hút
vốn, trong khi 23 chính sách khác nhằm ban hành các quy định và rào cản mới.
Trong khi con số này năm 2012 là 61 chính sách khuyến khích và tự do hóa đầu tư
và 20 chính sách quy định và hạn chế đầu tư
Sự thay đổi trong chính sách đầu tư quốc gia 2000-2013, UNCTAD WIR 2014
Như vậy có thể thấy trong các năm trở lại đây kể từ sau khủng hoảng kinh tế
2008-2009 số lượng chính sách khuyến khích cũng như hạn chế đầu tư có xu
hướng tăng nhẹ. Riêng từ năm 2010 có sự thay đổi mạnh mẽ trong các chính sách
ban hành do cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu. Xét về tỉ trọng thì xu hướng
chung là tỉ trọng các chính sách khuyến khích đầu tư trong tổng số chính sách có
xu hướng giảm từ 94% năm 2000 còn 73% năm 2013
Biểu đồ sự thay đổi trong tỉ lên phần trăm các chính sách đầu tư, UNCTAD WIR
2014
Các chính sách kiểm soát và hạn chế đầu tư chủ yếu tập trung vào các ngành
công nghiệp chiến lược hoặc có liên quan đến an ninh quốc gia như: công nghiệp
khai khoáng, điện, ga, nước… Ví dụ như năm 2012 Philippines ban hành một sắc
lệnh yêu cầu các hợp đồng khai thác mỏ mới ngừng lại cho đến khi quy định mới,
về sửa đổi hệ thống chia lợi nhuận và cơ cấu, có hiệu lực nhằm đảm bảo tuân thủ
các tiêu chuẩn môi trường, trật tự và đánh giá việc thực hiện các hoạt động khai
thác khoáng sản hiện có.
Việc tăng cường các chính sách hạn chế này thể hiện vai trò chính phủ ngày
càng lớn với nỗ lực hạn chế thất thoát tài nguyên hay đảm bảo an ninh quốc gia.
Tỉ lệ các ngành chịu ảnh hưởng bởi các quy định và chính sách 2000-2012, WIR
2013
Các hình thức chủ yếu của các chính sách kiểm soát riêng ngành khai khoáng
đó là quốc hữu hóa, trưng thu hoặc yêu cầu thoái vốn. Ngoài ra một số quốc gia sử
dụng tăng thuế hoặc tiền thuê mỏ để hạn chế việc kinh doanh của khu vực tư nhân
trong ngành khai khoáng
Trong khi đó các ngành được khuyến khích đầu tư là nông nghiệp, truyền
thông, dịch vụ và tài chính... Các chính sách khuyến khích đầu tư này được ban
hành chủ yếu là bởi các nước châu Á. Các chính sách này hướng về nhiều lĩnh vực
nhưng tập trung nhất vẫn là dịch vụ, vận tải hàng không và năng lượng… Ví dụ
như năm 2011 Trung Quốc công bố hướng dẫn mới về khuyến khích FDI vào các
ngành công nghiệp chiến lược đang nổi lên liên quan đến hiệu quả năng lượng,
bảo vệ môi trường và công nghệ cao, cũng như một số ngành công nghiệp khác
trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ
Về vấn đề tự do hóa đầu tư: Các quốc gia thực hiện việc tự do hóa đầu tư
bằng cách xóa bỏ những trở ngại và rào cản hiện có đối với đầu tư nước ngoài, qua
đó tiếp tục xu hướng cởi mở hơn đối với FDI. Các biện pháp trong lĩnh vực này
bao gồm nâng trần FDI ,mở cửa các lĩnh vực đóng trước đây, tự do hóa việc thu
hồi đất hay mở rộng các đặc khu kinh tế, giảm thiểu các thủ tục hành chính … Một
số ví dụ như:
- Năm 2010 Ấn Độ đã ban hành một chính sách FDI hợp nhất mới, tạo điều
kiện cho việc mở rộng của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thành lập, cho
phép chuyển đổi lượng tiền mặt không sử dụng vào vốn chủ sở hữu (với sự chấp
thuận của chính phủ) và cho phép FDI vào các hoạt động nông nghiệp nhất định
- Canada tăng ngưỡng để xem xét cho các nhà đầu tư từ các nước thành viên
của WTO từ 312 triệu USD năm 2011 lên 330 triệu USD trong năm 2012
- Brazil tăng giới hạn vốn tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài tại Banco
do Brasil, một ngân hàng nhà nước, từ 12,5 phần trăm đến 20 phần trăm
- Năm 2013, Indonesia sửa đổi danh sách các lĩnh vực kinh doanh mở cửa
cho các nhà đầu tư nước ngoài và tăng trần đầu tư nước ngoài trong một số ngành
công nghiệp, bao gồm dược phẩm, các hoạt động đầu tư mạo hiểm trong dịch vụ
tài chính và các dự án nhà máy điện trong sản xuất năng lượng
- Năm 2010, Canada loại bỏ các hạn chế về quyền sở hữu nước ngoài đối với
cáp quang biển quốc tế, các trạm mặt đất cung cấp dịch vụ viễn thông bằng vệ
tinh, và các vệ tinh
Song song với việc tháo gỡ các rào cản đối với đầu tư nước ngoài, các nước
hiện nay thực hiện các biện pháp chính sách nhằm xây dựng một thị trường cạnh
tranh công bằng và hiệu quả bằng cách ban hành các chính sách về chống độc
quyền, tư nhân hóa các công ty nhà nước hay các quy định về cạnh tranh… Các
chính sách này ban hành một phần nào là do các hiệp định và tổ chức quốc tế yêu
cầu nhằm bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư. Ví dụ như:
- Trong năm 2013 đã có ít nhất 10 nước thực hiện các chính sách tư nhân hóa
toàn bộ hoặc một phần. Ví dụ như: Tại Slovenia, Quốc hội đã hỗ trợ cho kế hoạch
của Chính phủ để bán 15 công ty nhà nước, bao gồm các nhà điều hành viễn thông
lớn nhất, Telekom Slovenia hay Bồ Đào Nha bán 100% cổ phần của ANA-
Aeroportos de Portugal - công ty nhà nước về quản lý sân bay Bồ Đào Nha – cho
tập đoàn Vinci Concession SAS của Pháp
Bên cạnh nỗ lực tự do hóa liên tục, nhiều nước cũng đã có những bước để
tiếp tục thúc đẩy và tạo thuận lợi cho đầu tư nước ngoài. Ví dụ điển hình là các
chính sách và các quy định cụ thể của từng ngành, chẳng hạn như ưu đãi tài chính
và tài khóa (miễn thuế hoặc giảm thuế) để khuyến khích đầu tư nước ngoài trong
các khu vực hoặc ngành công nghiệp cụ thể, bao gồm cả khu kinh tế đặc biệt. Ví
dụ năm 2012 Pakistan ban hành một Luật về khu kinh tế đặc biệt (SEZ), nó cho
phép thành lập các đặc khu kinh tế bất cứ nơi nào trong nước trên một diện tích tối
thiểu là 50 mẫu Anh và cung cấp một số ưu đãi thuế cho nhà đầu tư trong và ngoài
nước trong khu vực đó.
Các biện pháp tạo thuận lợi cho đầu tư này còn liên quan đến giảm bớt yêu
cầu sàng lọc, đơn giản hóa thủ tục phê duyệt, tăng cường hợp tác giữa các cơ quan
đầu tư quốc gia về thủ tục phê duyệt hoặc đẩy nhanh quá trình cấp phép cho các
dự án đầu tư, ví dụ như vào năm 2009 Ấn Độ ban hành thông tư "Hợp nhất chính
sách FDI", kết hợp tất cả các chính sách trước / quy định về FDI trong một văn
bản nhằm thực hiện các chính sách FDI minh bạch hơn, có thể dự đoán, đơn giản
và rõ ràng hơn; hay vào năm 2012, Costa Rica thực hiện một chương trình tạo
thuận lợi cho doanh nghiệp mà đơn giản hoá việc đăng ký công ty. Mọi thủ tục đã
được tập trung tại một địa điểm và thời gian cần thiết để đăng ký một công ty đã
giảm từ gần 90 ngày đến 20 ngày hoặc ít hơn
Một số biện pháp cũng tìm cách để thúc đẩy FDI ra bên ngoài bằng cách đơn
giản hóa thủ tục hành chính áp dụng đối với các khoản đầu tư, hay cho phép
những ưu đãi về thuế. Ngoài ra, để cải thiện môi trường kinh doanh và thu hút đầu
tư, nhiều nước cũng giảm thuế suất doanh nghiệp. Các biện pháp này đã được thực
hiện ở tất cả các vùng, đặc biệt ở các nước phát triển và các nền kinh tế đang phát
triển ở châu Phi và châu Á.
IV. Xu hướng tự do hóa đầu tư thế giới
Năm 2013,có 44 hiệp định đầu tư quốc tế được ký kết (IIAs) (30 hiệp định
đầu tư song phương, BIT, và 14 hiệp định IIAs khác), nâng tổng số các thỏa thuận
lên 3236 (2902 BIT và 334 hiệp định IIAs khác). Trong khi đó con số này vào
năm 2012 là 30 hiệp định và 2011 là 47 hiệp định. Các quốc gia đã đặc biệt tích
cực trong việc ký kết các BIT vào năm 2013 bao gồm Kuwait; Thổ Nhĩ Kỳ và các
Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất; và Nhật Bản, Mauritius và Cộng hòa Thống
nhất Tanzania.
Xu hướng IIA được ký kết 1983-2013, UNCTAD WIR 2014
So với các thời kỳ trước các năm trở lại đây, đặc biệt là sau khủng hoảng
2008-2009, số lượng IIA được kí kết mỗi năm không cao, đặc biệt từ năm 2009
đến 2012 có xu hướng giảm. Nguyên nhân của sự suy giảm này là do 2 cuộc
khủng hoảng liên tiếp là khủng hoáng tài chính toàn cầu 2008-2009 làm kinh tế thế
giới phát triển chậm lại và khủng hoảng nợ công châu Âu 2010. Các IIA này chủ
yếu được ký kết dưới hình thức BIT (Hiệp định đầu tư song phương).
Trong những năm trở lại đây ngày các nhiều các IIA đề cập đến vấn đề phát
triển bền vững. Trong năm 2012, có 12 IIA (trong đó có 8 BIT) đề cập đến các vấn
đề về bảo vệ sức khỏe, quyền lao động, môi trường hay phát triển bền vững; 10
IIA (bao gồm 6 BIT) có các ngoại lệ chung - ví dụ: để bảo vệ con người, động vật
hoặc thực vật sống hay sức khỏe hoặc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt.
Con số này năm 2013 là 18 IIA (gồm 11 BIT và 7 FTA) có liên quan đến vấn đề
về phát triển bền vững.
CHƯƠNG 2: NHỮNG THAY ĐỔI TRONG CHÍNH SÁCH FDI NHỮNG
NĂM GẦN ĐÂY
I. Những thay đổi trong chính sách FDI cấp quốc gia
Từ năm 2000 đến nay đã có nhiều các quy định phát luật cũng như chính
sách liên quan đến FDI và phần lớn trong số đó tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
dòng vốn FDI. Trong các năm trở lại đây, từ năm 2011-2013, trung bình có
khoảng 84 chính sách mỗi năm được ban hành trong đó có trung bình 60 chính
sách về khuyến khích, tự do hóa hoặc các ưu đãi về đầu tư, mà tập trung chủ yếu
vào dòng vốn FDI, chiếm hơn 70% số lượng chính sách ban hành. Bên cạnh đó có
trung bình 21 chính sách mỗi năm về hạn chế hoặc các quy định về đầu tư
Biểu đồ sự thay đổi trong tỉ lên phần trăm các chính sách đầu tư, UNCTAD WIR
2014
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Số nước đã thực
hiện các thay đổi về
chế độ đối với FDI
46 52 44 60 80 78 71
Số lượng thay đổi
Trong đó:81 97 94 25 164 144 126
Tự do hóa/ Ưu đãi 75 85 79 113 142 118 104
Hạn chế / Tăng quy
định5 2 12 12 20 25 22
Trung lập / Không
xác
địnha
1 10 3 - 2 1 -
Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Số nước đã thực
hiện các thay đổi về
chế độ đối với FDI
50 41 47 55 49 54 59
Số lượng thay đổi
Trong đó:79 68 88 121 80 86 87
Tự do hóa/ Ưu đãi 58 51 61 80 59 61 61
Hạn chế / Tăng quy
định19 15 23 37 20 20 23
Trung lập / Không
xác
địnha
2 2 4 4 1 5 3
Báo cáo đầu tư thế giới, WIR 2014
Rất nhiều các rào cản đối với FDI đã được dỡ bỏ dần dần:
-Đối với việc tiếp nhận và thành lập: Ngày nay trước xu thế toàn cầu hóa,
khu vực hóa, buộc các nước phải thay đổi cách nhìn nhận đối với việc tiếp nhận và
thành lập đầu tư nước ngoài trên lãnh thổ mình. Một số nước đơn phương tự do
hóa hoạt động tiếp nhận và thành lập bằng cách sửa đổi luật quốc gia hoặc tham
gia vào các hiệp định quốc tế. Số lượng các hoạt động và ngành đóng cửa với FDI
giảm xuống; danh mục các hoạt động và ngành được mở cửa thường xuyên được
rà soát; các hạn chế trong quản lý hoặc quyền sở hữu được giảm dần… Tuy nhiên
các nước vẫn tiếp tục duy trì ở một mức độ nào đó quyền quyết định và kiểm soát
của mình. Ví dụ như việc Bhutan ban hành "chính sách FDI năm 2010", theo đó
tất cả các hoạt động không được bao gồm trong danh sách loại trừ sẽ được mở cửa
cho FDI. Được cho phép 100 phần trăm sở hữu nước ngoài trong một số hoạt động
như giáo dục, dịch vụ y tế chuyên sâu, khách sạn sang trọng và khu nghỉ mát, và
cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực dịch vụ. Từ tháng 6 đến tháng 10 năm 2013, đã có 11
quốc gia - Canada, Trung Quốc, Ghana, Hy Lạp, Ấn Độ, Hàn Quốc, Kuwait,
Mexico, Panama, Philippines và Sweden- thông qua các biện pháp chính sách mới
liên quan đến việc tiếp nhận và thành lập đầu tư nước ngoài (bảng 1). Phần lớn
chúng nới lỏng hạn chế về sở hữu nước ngoài hoặc mở ra cơ hội kinh doanh mới.
Từ đó chúng ta có thể thấy tháo bỏ các rào cản đối với FDI trong việc tiếp nhận và
thành lập đang là xu hướng chung trên toàn thế giới.
Các nước đã ban hành các chính sách đầu tư quốc gia từ tháng 6 đến tháng 10
năm 2013, UNCTAD Investment Poiliy Monitor 11
- Các quy định về hoạt động của các công ty nước ngoài được tư do hóa
mạnh mẽ hơn các quy định về tiếp nhận và thành lập: Các hạn chế về chuyển lợi
nhuận và vốn về nước, chuyển các khoản tiền khác nói chung được xóa bỏ hoặc
nới lỏng. Các yêu cầu hoạt động cũng ít được sử dụng. Cũng từ tháng 6 đến tháng
10 năm 2013 đã có năm quốc gia - Nhà nước Plurinational của Bolivia, Ecuador,
Pháp, Hy Lạp và Ấn Độ - tháo gỡ biện pháp liên quan đến hoạt động các nhà đầu
tư sau khi thành lập ở nước sở tại. Ví dụ như: Ấn Độ mở rộng thời gian để đạt
được 30% nguồn cung ứng địa phương của các nhà bán lẻ nước ngoài đến 5 năm
sau khi thành lập.
- Một số biện pháp khuyến khích, ưu đãi được áp dụng chung trong mọi hoạt
động đầu tư: một số ưu đãi trước kia chỉ áp dụng cho FDI, nay đã được áp dụng
cho tất cả các doanh nghiệp trong nước. Các khu kinh tế tập trung như khu công
nghiệp, khu chế xuất, đặc khu kinh tế… được mở ngày càng nhiều để thu hút vốn
đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau.
- Các chuẩn mực đối xử như NT, MFN, đối xử công bằng ,bình đẳng… được
áp dụng đối với các dự án FDI trong quá trình hoạt động: Các công ty nước ngoài
hiện nay không còn lo ngại quốc hữu hóa như thời kì trước. Các quốc gia sẽ đưa ra
các quy định về quyền sở hữu trí tuệ và cạnh tranh nhằm đảm bảo cho công bằng
cho các nhà đầu tư nước ngoài.
- Các quy tắc nhằm giám sát thị trường đảm bảo hoạt động đúng đắn của thị
trường cũng đã được đề cập. Các nước nỗ lực hoàn thiện toàn bộ hệ thống pháp
luật nhằm tạo môi trường pháp lý đồng bộ và minh bạch. Các luật về cạnh tranh,
môi trường, bảo vệ người tiêu dùng… cũng được nhiều nước ban hành
Tuy tự do hóa và khuyến khích FDI là xu hướng chung trên thế giới trong
những năm gần đây nhưng vẫn có nhiều chính sách nhằm hạn chế hoặc kiểm soát
FDI nhằm mục đích bảo vệ nền kinh tế trong nước hay tài nguyên thiên nhiên, an
ninh quốc gia (đã được đề cập ở chương trước). Năm 2013 có 13 nước đã ban
hành các chính sách này bao gồm có Sri Lanca, Ấn Độ, Canada, Pháp, Nga… Các
chính sách này thường là sửa đổi các quy định về đầu tư. Mặt khác, một xu hướng
phổ biến hiện nay là một số nước dành nhiều ưu đãi cho FDI hơn cả đầu tư trong
nước và điều này dẫn đến sự phân biệt đối xử giữa FDI và các nguồn đầu tư khác
II. Những thay đổi trong chính sách FDI cấp quốc tế
1. Các hiệp định song phương (BIT)
Hiệp định đầu tư song phương (BIT) là một thỏa thuận thiết lập các điều
khoản và điều kiện cho đầu tư tư nhân của các công dân và công ty của một nước
này vào nước khác. Loại hình đầu tư này được gọi là đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI). BIT được thành lập thông qua các hiệp định thương mại. BIT đầu tiên trên
thế giới được ký kết vào ngày 25 tháng 11 năm 1959 giữa Pakistan và Đức. Hiện
nay tổng cộng có khoảng 2902 BIT
Từ năm 1960-1980, chỉ có tổng cộng 386 BIT được ký kết. Nhưng chỉ riêng
năm 1990 số BIT được ký kết đã gấp 4 lần co số này 1471 BIT. Trung bình mỗi
năm từ 1990-1999 có 147 BIT được ký kết mỗi năm.
Trong những năm 2000-2006 số lượng BIT được ký kết có xu hướng suy
giảm tuy nhiên vẫn còn ở mức khá cao khoảng 90 BIT/ năm. Nhưng sau khủng
hoảng kinh tế 2007-2008 số lượng BIT sụt giảm hăn còn khoảng 46 BIT/năm. Đặc
biệt các năm gần đây số lượng BIT giảm, năm 2012 chỉ còn 20 BIT, riêng năm
2013 có xu hướng tăng trở lại
Xu hướng IIA được ký kết 1983-2013, UNCTAD WIR 2014
Năm 1960-
1969
1970-
1979
1980-
1989
1990-
1999
2000 2001 2002 2003 2004
Số lượng
BIT được
ký kết
75 92 219 1471 84 158 82 86 73
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Số lượng
BIT được
ký kết
70 73 44 59 82 54 33 20 30
Tổng hợp từ Báo cáo đầu tư thế giới 1997,2004-2014
Thành phần tham gia ký kết các BIT cũng đã có nhiều sự thay đổi so với
trước kia. Các nước xuất khẩu vốn nhỏ hơn, các nước có nền kinh tế chuyển đổi
hay các nước đang phát triển cũng tích cực tham gia vào việc ký kết các BIT.
Phân bổ BIT giữa các nước cũng có sự khác nhau. Điển hình của các nước có
nền kinh tế chuyển đổi là Trung Quốc với 130 BIT (UNCTAD 2014) và Ấn Độ 84
BIT (UNCTAD 2014). Các nước đang phát triển như Việt Nam với 60 BIT;; Chile
50 BIT…Tuy nhiên vẫn có nhiều nước chưa ký kết bất kìa BIT nào hay ký kết rất
ít ví dụ như Nam Sudan, Samoa chưa có bất kì BIT nào;hay Liberia với 4 BIT;
Iraq với 7 BIT (UNCTAD 2014); không có bất kì BIT nào được ký kết giữa 3
trung tâm kinh tế lớn của thế giới Mỹ, EU và Nhật Bản. Nói cách khác BiT chỉ
được ký kết giữa một nước thuộc OECD với một nước đang phát triển hoặc giữa
các nước đang phát triển với nhau. Điều này được lý giải bởi động cơ khác nhau
của các nước này ví dụ như động cơ của một bên là thu hút đầu tư trong khi bên
còn lại là bảo hộ đầu tư.
Trong những năm gần đây, bên cạnh việc ký kết các hiệp định BIT mới cũng
có một số BIT đã được hủy bỏ. Chẳng hạn chư Nam Phi hủy bỏ BIT với Đức, Hà
Lan, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ năm 2013, Indonesia hủy bỏ BIT với Hà Lan năm
2013.
Trọng tâm chính của các hiệp định BIT là bảo hộ, tạo thuận lợi và thúc đẩy
đầu tư. Các BIT thường được soạn theo các mẫu của Mỹ và Châu Âu trong đó Mỹ
thường có các yêu cầu cao hơn. Điểm quan trọng của các BIT gần đây là đã thống
nhất được các nguyên tắc chung trong đó có tự do hóa FDI, cụ thể là:
-Việc tiếp nhận và thành lập: Hầu hết các BIT theo mô hình “kiểm soát đầu
tư”. Riêng các BIT có Mỹ tham gia thì theo mô hình “kết hợp đối xử MFN và
NT”;
-Áp dụng chế độ công bằng và thỏa đáng thường dưới hình thức các chuẩn
mực cụ thể như chống áp dụng các biện pháp tùy tiện hay phân biệt đối xử;
-Quy định dành NT cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia hoạt động đầu tư
trên lãnh thổ nước tham gia ký kết;
-Đảm bảo MFN cũng một số ngoại lệ nhất định;
-Quy định quyền của nước chủ nhà được phép trưng thu nhưng phải có điều
kiện nhất định;
-Đảm bảo tự do lưu chuyển các khoản tiền liên quan đến đầu tư ra nước
ngoài;
-Có điều khoản giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước.
Nhìn chung, các BIT hiện nay có phạm vi điều chỉnh rộng hơn các quy định
của luật pháp quốc gia. Mặc dù BIT được thiêu chuẩn hóa tương đối cao nhưng
chúng vẫn thế hiện các quan điểm và các cách tiếp cận khác nhau của nước ký kết.
2. Tự do hóa đầu tư trực tiếp nước ngoài trên phạm vi toàn cầu
Các văn bản điều chỉnh FDI trên thế giới hiện nay thường khác nhau về
phạm vi và mức độ tuy nhiên đều hướng đến mục tiêu chung là tự do hóa FDI trên
cơ sở thực hiện chế độ NT và mở cửa các lĩnh vực kinh tế. Các nội dung chính như
sau:
- Khuyến khích FDI: Các bên tham gia kí kết văn bản sẽ tiến hành trao đổi
thông tin, hợp tác xây dựng pháp luật, hỗ trợ kí thuật và vật chất cho việc khuyến
khích FDI;
- Bảo hộ FDI: Tự do hóa các giao dịch thanh toán vãng lai và các giao dịch
thanh toán khác cũng như việc di chuyển vốn, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài
được bán,chuyển nhượng các tài sản của họ ra nước ngoài; bảo hộ quyền sở hữu
các chủ đầu tư nước ngoài;
- Quy định về quyền của nhà đầu tư nước ngoài trong việc xâm nhập và
thành lập trong một số khu vực kinh tế cụ thể ở nước nhận đầu tư;
- Các quy định sau giấy phép: tiêu chuẩn đối xử với các nhà đầu tư nước
ngoài khi học đã được phép tiến hành đầu tư. Tiêu chuẩn quan trọng nhất mục này
là NT;
- Các quy tắc và cơ chế nhằm giám sát thị trường, đảm bảo sự vận hành đúng
đắn của thị trường: cách ứng xử của TNC và các công ty con, cạnh tranh, bảo vệ
môi trường, tệ hối lộ và các khoản thanh toán bất hợp pháp…
CHƯƠNG 3: CÁC KHU VỰC ĐẦU TƯ TỰ DO
Một trong những xu hướng chính sách đầu tư thế giới hiện nay đó chính là
thành lập nên các khu vực đầu tư tự do.
I. Khu vực đầu tư ASEAN
Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) được hiểu là khu vực đầu tư giữa các nước
ASEAN, mà tại đó các quốc gia thành viên tiến hành các hoạt động tự do hóa, bảo
hộ, xúc tiến và thuận lợi hóa đầu tư nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài khối, tăng
cường khả năng cạnh tranh và phát triển năng động của ASEAN.
Năm 1987, các nước ASEAN đã đạt được Thỏa thuận về Khuyến khích và
Bảo hộ đầu tư-tiền đề để tiến tới những hợp tác sâu hơn trong lĩnh vực đầu tư và
đối phó với tình trạng luồng vốn đầu tư nước ngoài ồ ạt vào khu vực ASEAN.
Trước bối cảnh khu vực và thế giới, đồng thời các nước ASEAN ngày càng
phải chịu sức cạnh tranh mạnh mẽ về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các
nước đang phát triển khác trên thế giới cũng như trong khu vực, ngày 15/12/1995
tại Thái Lan, Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 5 của ASEAN đã quyết định thành lập
Khu vực đầu tư ASEAN (ASEAN Investment Area - gọi tắt là AIA), nhằm tăng
cường thu hút vốn và khả năng cạnh tranh để khuyến khích đầu tư trực tiếp nước
ngoài, làm cơ sở cho việc đàm phán và thỏa thuận những điều khoản chung và
điều kiện chung cho việc kí kết một thỏa thuận chung về Khu vực đầu tư ASEAN.
Qua nhiều vòng đàm phán, Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN đã
được kí kết vào ngày 7/10/1998 tại Manila, Philippines.
Mục tiêu chủ yếu của AIA là:
- Thứ nhất, xây dựng AIA có môi trường đầu tư thông thoáng và minh bạch
hơn giữa các quốc gia thành viên nhằm: (i) Đẩy mạnh đầu tư vào ASEAN từ các
nguồn cả trong và ngoài ASEAN; (ii) Cùng thúc đẩy ASEAN thành khu vực đầu
tư hấp dẫn nhất; (iii) Củng cốvà tăng cường tính cạnh tranh của các lĩnh vực kinh
tế của ASEAN; (iv) Giảm dần hoặc loại bỏ những quy định và điều kiện đầu tư có
thể cản trở các dòng đầu tư và sự hoạt động của các dự án đầu tư trong ASEAN.
- Thứ hai, đảm bảo rằng việc thực hiện những mục tiêu trên sẽ góp phần
hướng tới tự do lưu chuyển đầu tư vào năm 2020.
Nội dung hiệp định đề cập tới các nghĩa vụ chung của các quốc gia thành
viên trong lĩnh vực đầu tư; Các chương trình và kế hoạch hành động; Mở cửa các
ngành nghề và đối xử quốc gia; quy tắc đối xử tối huệ quốc và quyền từ chối đối
xử tối huệ quốc; các biện pháp tự vệ khẩn cấp và biện pháp bảo vệ cán cân thanh
toán; giải quyết tranh chấp…
Các nguyên tắc: Nguyên tắc quan trọng nhất của Hiệp định này là thực hiện
chế độ NT và mở cửa các ngành nghề cho các nhà đầu tư theo một lộ trình và với
những ngoại lệ trong một số lĩnh vực và vấn đề nhất định. Theo đó, ngoài các biện
pháp và lĩnh vực được chủ động liệt kê trong các TEL và SL của nước mình, các
nước thành viên sẽ dành chế độ đối xử không kém thuận lợi hơn so với các nhà
đầu tư của nước mình và mở cửa tất cả các ngành nghề cho các nhà đầu tư
ASEAN ngay sau khi Hiệp định khung về AIA có hiệu lực.
TEL gồm các lĩnh vực chưa mở cửa hoặc chưa dành NT cho các nhà đầu tư
ASEAN. Danh mục này sẽ được xem xét lại 2 năm một lần và sẽ được tất cả các
quốc gia thành viên, trừ Việt Nam, Lào và Myanma, loại bỏ dần cho đến năm
2010. Việt Nam sẽ loại bỏ dần TEL cho đến năm 2013 và Lào và Myanmar sẽ loại
bỏ dần TEL của mình cho đến năm 2018.
SL gồm các biện pháp hoặc lĩnh vực chưa thể xác định thời hạn dành NT
hoặc mở cửa cho nhà đầu tư ASEAN, nhưng sẽ được các nước thành viên xem xét
lại để sau đó rút ngắn hoặc chuyển dần sang TEL. Tuy nhiên, nếu một quốc gia
thành viên chưa sẵn sàng dành NT đối với một số biện pháp nào đó, hoặc chưa sẵn
sàng mở cửa một số ngành nghề nào đó cho các quốc gia thành viên khác thì nước
đó cũng không được hưởng các ưu đãi liên quan đến các biện pháp hoặc ngành
nghề đó trên lãnh thổ các nước kia.
Việc áp dụng NT và mở cửa tất cả các ngành nghề cho tất cả các nhà đầu tư
sẽ được tiến hành vào năm 2020, trừ các ngoại lệ được quy định trong Hiệp định
này. Trong Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung về AIA năm 2001, các nước
thành viên thống nhất đẩy nhanh lộ trình mở cửa và dành NT. Cụ thể là các nước
thành viên sẽ không áp dụng TEL đối với lĩnh vực chế tạo từ ngày 1 tháng 1 năm
2003 trừ Campuchia, Lào và Việt Nam. Ba nước này sẽ loại bỏ TEL đối với lĩnh
vực chế tạo không muộn hơn ngày 1 tháng 1 năm 2010. Thời hạn xóa bỏ các ngoại
lệ cho vốn tựdo lưu chuyển và áp dụng NT cho các nhà đầu tư ngoài khối ASEAN
rút ngắn vào năm 2010 đối với Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan
và Singapore và năm 2015 đối với các nước thành viên còn lại.
Nguyên tắc dành MFN: Mỗi quốc gia thành viên ASEAN sẽ dành ngay lập
tức và vô điều kiện cho các nhà đầu tư ASEAN khác sự đối xử không kém thuận
lợi hơn sự đối xử dành cho các nhà đầu tư của bất kỳ nước thứ ba nào. Hiệp định
cho phép nước thành viên không áp dụng MFN đối với một số ưu đãi trong khuôn
khổ các hiệp định mà nước đó đã ký kết trước ngày ký Hiệp định, nhưng phải
thông báo danh sách các Hiệp định này cho Hội đồng AIA trong vòng 6 tháng kể
từ ngày Hiệp định được ký kết.
Phạm vi áp dụng: Các quy định trong Hiệp định khung về AIA chỉ có hiệu
lực đối với đầu tư trực tiếp. Hiệp định khung về AIA không có hiệu lực đối với các
khoản đầu tư theo danh mục chứng khoán và đối với tất cảcác khoản đầu tư thuộc
phạm vi điều chỉnh của các thoả thuận ASEAN khác.
Các chương trình và kế hoạch hành động: Để tiến tới thành lập AIA, các
quốc gia thành viên có nghĩa vụ thực hiện 3 chương trình: Hợp tác và tạo thuận
lợi, Xúc tiến đầu tư và tăng cường hiểu biết và Tự do hoá đầu tư. Mỗi nước
ASEAN sẽ tự vạch ra các kế hoạch hành động để cụ thể hoá các chương trình nói
trên. Cứ 2 năm một lần, các kế hoạch hành động này lại được rà soát lại để đảm
bảo tiến độ thực hiện Hiệp định AIA.
II. Khu vực đầu tư EU (EIA)
Đầu tư là một nội dung của các hiệp ước của EU. Điều 3(c) của Hiệp ước
EEC nêu rõ một trong các mục tiêu của Cộng đồng là “bãi bỏ, giữa các Nhà nước
thành viên, những rào cản tự do hoá việc di chuyển con người, dịch vụ và vốn”.
Cách tiếp cận FDI của EEC khác với các hiệp định đầu tư quốc tế khác ở chỗ
nó đề cập cả đến việc tự do di chuyển sức lao động. Song song với việc sửa đổi
các Hiệp ước dựa vào Đạo luật Châu Âu thống nhất, Hiệp ước Maastrich và Hiệp
ước Amsterdam, các qui định bảo vệ hoạt động FDI không chỉ giới hạn giữa các
nước EU mà giữa các nước EU với các nước ngoài khối. Các Hiệp ước qui định
các nước thành viên có nghĩa vụ cho phép tự do di chuyển con người, dịch vụ và
vốn, không cần bất cứ một hành động có tính pháp lý nào thêm từ phía EU. Hạn
chế đối với việc thành lập doanh nghiệp hoặc cung cấp dịch vụ được xóa bỏ đối
với các thể nhân và pháp nhân mang quốc tịch của một nước thành viên.
Tuy nhiên, các nước thành viên được phép đối xử khác nhau với các công
dân nước ngoài vì mục đích chính sách công, an ninh công cộng, sức khỏe cộng
đồng. Vì việc xây dựng luật pháp trong các lĩnh vực khác nhau của các nước EU
phụ thuộc lẫn nhau, nên đối với các vấn đề đa phương về đầu tư, EU và các Nhà
nước thành viên phải cùng nhau tham gia. Tuy nhiên, các nước thành viên EU có
thể và đã có những hành động đơn phương trong việc giải quyết các vấn đề song
phương có liên quan đến đầu tư. Các hiệp định ký giữa EU và các nước Trung và
Đông Âu cũng theo phương pháp tiếp cận này. Còn các hiệp định giữa EU và các
đối tác khác hạn chế các quyền thành lập doanh nghiệp.
Tóm lại, việc tự do hóa mạnh mẽ sự lưu chuyển vốn, xóa bỏ một cách có
hiệu quả các biện pháp phân biệt đối xử và việc áp dụng các qui tắc chung giữa
các thành viên EU về đối xử với FDI đã có nhiều tác động đến FDI trong nội bộ
khối và với các nước ngoài khối.
III. Khu vực đầu tư Bắc Mỹ (NAFTA)
Trong khu vực Bắc Mỹ, tự do hoá đầu tư được đề cập đến trong NAFTA.
NAFTA là Hiệp định thương mại tự do được ký kết giữa Canada, Mexico và Mỹ
năm 1992.
Hiệp định này đánh dấu một xu hướng mới đối với các hiệp định thương mại
tự do, đó là đưa FDI vào phạm vi điều chỉnh. NAFTA yêu cầu các bên phải tôn
trọng 5 nguyên tắc: NT; MFN; tiêu chuẩn đối xử tối thiểu; cấm một số yêu cầu về
hoạt động đối với các nhà đầu tư; và các qui định quản lý việc tịch thu, trưng thu.
NT và MFN yêu cầu đối xử của một nước đối với các nhà đầu tư thuộc các nước
thành viên NAFTA “trong những điều kiện như nhau không được kém ưu đãi hơn
những gì mà nước đó dành cho các nhà đầu tư trong nước, hoặc cho các nhà đầu tư
của bất kỳ nước nào khác’’.
NAFTA tiến xa hơn nhiều Hiệp định thương mại tự do khác trước đó trong 4
vấn đề: Phạm vi áp dụng, mức độ tự do hóa, mức độ bảo hộ và cơ chế giải quyết
tranh chấp.
NAFTA qui định dành NT hoặc MFN (tùy theo sự đối xử nào tốt hơn) cho
các nhà đầu tư và các khoản đầu tư của một bên ký kết liên quan đến "thành lập
doanh nghiệp, mua lại, mở rộng, quản lý, điều hành, vận hành và bán lại hoặc định
đoạt bằng hình thức khác các khoản đầu tư". Các nước thành viên NAFTA bắt
buộc phải dành NT và MFN cho không chỉcác nhà đầu tư nước ngoài đã có mặt ở
nước mình mà còn cả các nhà đầu tưnước ngoài tiềm năng. Cấm việc áp đặt các
điều kiện hoạt động liên quan đến việc thành lập hoặc mua lại một khoản đầu tư
tại một nước ký kết. Danh mục các yêu cầu hoạt động bị cấm trong NAFTA dài và
có phạm vi áp dụng rộng hơn các hiệp định thương mại tự do của EU. Cho phép
bảo lưu các ngoại lệ về các biện pháp không phù hợp đối với các qui định trên.
Các biện pháp bảo lưu này phải được đưa vào lịch trình của mỗi bên trong Hiệp
định. Các qui định về bảo hộ đầu tư trong NAFTA rất chi tiết. Không thành viên
nào trong NAFTA được phép trực tiếp hoặc gián tiếp tiến hành hoặc có các biện
pháp tương tự nhằm quốc hữu hóa hoặc trưng thu các khoản đầu tư của nhà đầu tư
của một thành viên khác trên lãnh thổ nước mình, trừ một số trường hợp ngoại lệ
(vì mục đích công cộng; trên cơ sở không phân biệt đối xử; theo qui định của việc
thực thi luật, ...). Trong trường hợp ngoại lệ, nếu các tài sản của các nhà đầu tư
nước ngoài bị trưng thu thì các nhà đầu tư này sẽ được bồi thường theo giá thị
trường tại thời điểm trưng thu.
Tranh chấp giữa một bên và một nhà đầu tư của một bên khác được giải
quyết dựa trên cơ sở Hiệp định ICSID và các qui tắc trọng tài của UNCITRAL.
Thêm vào đó, quá trình giải quyết tranh chấp trong NAFTA được mở rộng giữa
nhà nước và nhà đầu tư, nó đem lại cho các nhà đầu tưnước ngoài quyền khiếu
kiện trực tiếp với các chính phủ nước nhận đầu tư về việc tuân thủ hiệp định. Các
qui định của NAFTA có liên quan đến đầu tư đã được sử dụng trong nhiều văn bản
đa phương và song phương về đầu tư. Chúng cũng được sử dụng như một mô hình
mẫu trong các vòng đàm phán về MAI của OECD.
IV. Xu hướng liên kết Đông Á và ý tưởng về Khu vực đầu tư Đông Á
Ngoài việc phát triển liên kết trong ASEAN, các nước thành viên tổ chức này
cũng đã quan tâm đến việc phát triển các cuộc đối thoại nhiều bên hơn vềhợp tác
Đông Á. Đầu những năm 1990, Thủ tướng Malaysia đề xuất thành lập Nhóm Kinh
tế Đông Á, khởi động cho ý tưởng tăng cường hợp tác kinh tế trong khối. Đến
giữa những năm 1990 xuất hiện nhiều yếu tố cho thấy cần tăng cường hợp tác kinh
tế Đông Á. Cụ thể là:
-Việc thành lập ASEM năm 1996, đây là diễn đàn đối thoại giữa Châu Âu và
một bên là Châu Á;
-Ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng tài chính Châu Á 1997-1998 đến
nhiều nền kinh tế trong khu vực khiến các nước thấy cần đẩy mạnh hợp tác trong
khối để ngăn chặn khủng hoảng và để Châu Á có tiếng nói có trọng lượng hơn
trong quan hệ với các tổchức quốc tế như Quĩ tiền tệ thế giới (IMF);
-APEC không còn duy trì được vai trò trong việc đẩy mạnh tự do hoá thương
mại như đã làm được vào đầu những năm 1990;
-Liên kết một số khu vực khác phát triển mạnh (Hiệp định thương mại tự do
Bắc Mỹ và Liên minh Châu Âu) khiến các nước Đông Á thấy cần đẩy mạnh hợp
tác kinh tế trong khu vực.
Bước đi chính thức đầu tiên của ASEAN hướng đến việc mở rộng hợp tác
trong khu vực Đông Á là lễ khởi động quá trình hình thành ASEAN+3 diễn ra tại
cuộc họp của các thành viên các nước ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn
Quốc năm 1998. Các thành viên ASEAN+3 tiến hành đối thoại ở nhiều cấp độ
khác nhau: giữa 13 nước thành viên, giữa ASEAN 10 và một nước thành viên
trong số 3 nước trên, và giữa 3 nước thành viên Nam Á (Trung Quốc, Nhật Bản và
Hàn Quốc).
Hàng năm ASEAN+3 tổ chức các cuộc họp của lãnh đạo các nước thành
viên, của các bộ trưởng để bàn về các vấn đề như chính trị và an ninh, thương mại,
việc làm, nông và lâm nghiệp, du lịch, năng lượng và môi trường. Một hoạt động
đáng chú ý của ASEAN+3 là đẩy mạnh hợp tác tài chính khu vực, với việc thành
lập Quĩ Trái phiếu Châu Á (để huy động vốn đầu tư cho khu vực) và một loạt các
hiệp định “hoán đổi tiền tệ” (currency swap) để tránh lặp lại khủng hoảng tài chính
năm 1998. Các nước đã đề xuất tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS). Các
nước cũng đề xuất sự tham gia của 3 thành viên mới và Ấn Độ, Úc và Niu Di Lân
(ASEAN+6).
Cuộc gặp đầu tiên của EAS diễn ra vào tháng 12 năm 2005 với sự tham gia
của 16 nước. Trong cuộc gặp, lãnh đạo các nước đều nhất trí sẽ nỗ lực đẩy mạnh
hợp tác giữa các nước thành viên. Nhiều vấn đề đã được đưa ra bàn bạc như giải
trừ vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều Tiên, dịch cúm, phát triển bền vững, sự cần thiết
phải đạt được những tiến bộ trong vòng đàm phán Doha của WTO... Các nước
thành viên thống nhất đưa EAS thành một diễn đàn đối thoại về các vấn đề kinh tế,
chính trị và chiến lược vì lợi ích và những mối quan tâm chung và với mục tiêu
thúc đẩy hoà bình, ổn định và thịnh vượng kinh tế ở Đông Á.
CHƯƠNG 4: CÁC XU HƯỚNG KHÁC
I. Thay đổi trong chính sách đối với M&A qua biên giới
Trong vòng 10 năm qua, đã có hơn 2000 vụ mua lại và sáp nhập (M&A) qua
biên giới bị hủy bỏ. Tổng trị giá của các thương vụ này lên đến 1800 tỉ USD, hay
trung bình chiếm 15% tổng giá trị M&A mỗi năm. Tỉ trọng của số lượng và giá trị
lên đến đỉnh điểm vào lúc cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra.
Tổng giá M&A được ký kết thành công và hủy bỏ và tỉ lệ phần trăm giá trị
M&A bị hủy bỏ 2003-2012, UNCTAD WIR 2013
Từ năm 2008-2012, có khoảng 211 vụ M&A lớn bị thất bại, giá trị giao dịch
của mỗi thương vụ là hơn 500 triệu USD. Nguyên nhân của sự thất bại này đến từ
nhiều lý do. Hầu hết là do lợi ích kinh doanh, có thể là do một bên thứ ba trả giá
cao hơn hoặc không đồng ý về các điều kiện tài chính khiến cho các doanh nghiệp
phải cân nhắc và hủy bỏ. Các nguyên nhân này chiếm 81% sự thất bại của các
thương vụ M&A.
Tỷ lệ phần trăm các nguyên nhân khiến các thương vụ M&A bị hủy bỏ 2008-
2012, UNCTAD WIR 2013
Tuy nhiên, việc hủy bỏ các thương vụ M&A còn do một nguyên nhân khác
nữa đó là do các vấn đề pháp lý hoặc nguyên nhân chính trị. Trong một số trường
hợp, công ty đã không chờ quyết định chính thức của chính phủ mà rút vốn khi
nhận được dấu hiệu cho thấy nó sẽ không được sự chấp thuận, hoặc vì lý do kỹ
thuật hoặc do nhận thức đối lập chính trị nói chung. Từ năm 2008 đến năm 2012,
giá trị các vụ M&A bị rút lui khoảng 265 tỉ USD. Tỉ trọng của chúng so với tổng
giá trị M&A qua biên giới bị hủy bỏ là khoảng 22% trong năm 2012, với đỉnh
điểm là hơn 30% trong năm 2010, cho thấy tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính trên quan điểm pháp lý và chính trị của các chính phủ về tiếp quản qua biên
giới. Mặc dù giá trị của các giao dịch rút lui giảm trong năm 2012, nhưng tỉ trọng
vẫn còn tương đối cao.
Tổng giá trị các thương vụ M&A bị hủy bỏ do các quy định hoặc đối lập về chính
trị và tỉ lệ phần trăm của chúng trong tổng giá trị M&A 2008-2012, UNCTAD WIR 2013
Các ngành chính mà các M&A rút lui trong giai đoạn này đó là các ngành
công nghiệp khai khoáng chiếm 35%. Tiếp theo đó là các ngành công nghiệp sản
xuất, dịch vụ tài chính và viễn thông
Tỉ trọng các ngành có M&A bị hủy bỏ 2008-2012, UNCTAD WIR 2013
Nếu xếp theo quốc gia có các công ty bị mua lại hay sáp nhập, thì Úc, Mỹ và
Canada là 3 nước đứng đầu cả về số lượng lẫn giá trị các dự án M&A bị hủy bỏ. 3
nước này cũng đứng đầu về số lượng các thương vụ bị hủy bỏ với tư cách là chủ
đầu tư.
10 nước chủ đầu tư và nhận đầu tư có các thương vụ M&A bị hủy bỏ nhiều nhất
2008-2012, UNCTAD WIR 2013
Công cụ chính sách để xem xét và từ chối M & A rất đa dạng. Hai loại cơ
bản có thể phân biệt – loại thứ nhất áp dụng cho M & A không phụ thuộc vào quốc
tịch của công ty mua lại và loại thứ hai chỉ áp dụng cho các nhà đầu tư nước ngoài
(bảng III.4). Ví dụ quan trọng nhất của loại đầu tiên là luật cạnh tranh. Luật cạnh
tranh có thể không chỉ áp dụng cho kế hoạch M & A ở nước sở tại, mà còn mở
rộng đến M & A ở các nước thứ ba có ảnh hưởng đến thị trường trong nước (ví dụ
như việc tiếp quản Gavilon bởi Marubeni). Các ví dụ khác là quy tắc chi phối việc
chuyển nhượng cổ phiếu hoặc phát hành "cổ phiếu vàng", đem lại cho chủ sở hữu
(thường là chính phủ) có quyền biểu quyết, quyền hạn tương xứng với giá trị của
các cổ phiếu, mà có thể được sử dụng để ngăn chặn việc tiếp quản trong nước hoặc
nước ngoài.
Công cụ chính sách có ảnh hưởng đến hoạt động M&A qua biến giới, UNCTAD
WIR 2013
Ví dụ về công cụ chính sách thứ hai bao gồm, trần sở hữu nước ngoài và thủ
tục kiểm tra trong nước liên quan đến vấn đề an ninh quốc gia, mục tiêu của chính
sách công nghiệp hoặc lợi ích quốc gia. Các quốc gia cũng có thể có những quy
định đặc biệt cho những cá nhân đầu tư nước ngoài, chẳng hạn như doanh nghiệp
nhà nước, hoặc cho các hoạt động đầu tư cá nhân (ví dụ như cơ sở hạ tầng quan
trọng). Thủ tục sàng lọc này có thể yêu cầu các nhà đầu tư đóng góp tích cực cho
nền kinh tế sở tại để được thỏa thuận này phê duyệt, hoặc họ có thể yêu cầu chỉ
đơn thuần là các đề xuất M & A không có một tác động tiêu cực ở nước sở tại.
Cuối cùng, có những ví dụ gần đây của "hậu M & A". Đó là chính sách của
chính phủ nhằm đảo ngược việc mua lại của nước ngoài. Trong một số trường
hợp, các chính phủ quốc hữu hóa các công ty sau khi các công ty này bị mua lại
bởi nhà đầu tư nước ngoài; trong trường hợp khác, các chính phủ mua cổ phiếu
của người nước ngoài hoặc đưa ra các chính sách ảnh hưởng tiêu cực đến các điều
kiện hoạt động của các công ty nước ngoài.
II. Chính sách đối với từng khu vực kinh tế
Hầu hết các chính sách của các nước được đưa ra trong những năm gần đây
đều liên quan đến một hoặc một số khu vực kinh tế hoặc ngành cụ thể. Trong đó
có 2 khu vực nổi bật nhất đó là dịch vụ và công nghiệp chiến lược.
2.1 Dịch vụ
Trong những năm trở lại đây các chính sách bắt đầu tập trung vào khu vực
dịch vụ. Nội dung của chúng đa phần là tự do hóa và khuyến khích FDI. Các chính
sách này hướng tới các ngành chính đó là bán lẻ, thương mại và dịch vụ tài chính.
Từ năm 2003 đến 2012, số lượng chính sách có liên quan đến khu vực dịch vụ
chiếm 68% trong tổng số chính sách. Trong năm 2012, sự phát triển này là rõ ràng
nhất ở Ấn Độ.
2.2 Công nghiệp chiến lược
Trái ngược với khu vực dịch vụ, các chính sách được áp dụng đối với các
ngành công nghiệp chiến lược là nhắm bảo vệ và hạn chế các hoạt động đầu tư. Từ
năm 2000 đến 2012, có gần 40% trong tổng số các quy định và chính sách hạn chế
cho các ngành công nghiệp cụ thể nhắm vào ngành khai khoáng. Các ngành công
nghiệp khác thường xuyên xuất hiện các quy định hoặc hạn chế liên quan đến đầu
tư vì sự nhạy cảm chính trị hay kinh tế của chúng bao gồm, ví dụ, điện, khí, nước,
và các dịch vụ tài chính. Ngoài ra, tất cả các ngành công nghiệp có thể bị áp dụng
các biện pháp phi công nghiệp cụ thể, chẳng hạn như hạn chế về quyền sở hữu đất
đai. Tỷ trọng của các biện pháp quản lý hoặc hạn chế ảnh hưởng đến ngành công
nghiệp chiến lược do đó có thể cao hơn
Thay đổi trong chính sách đầu tư quốc gia UNCTAD WIR 2013
Tỉ trọng các ngành bị ảnh hưởng bởi các quy định và chính sách đầu tư 2000-
2012, UNCTAD WIR 2013
Nguyên nhân của các quy định về FDI trong các ngành công nghiệp chiến
lược này rất đa dạng.
-Thứ nhất, vai trò của các chính sách FDI trong các chính sách công nghiệp
đã thay đổi. Trong quá khứ, chính sách hạn chế FDI đã được áp dụng với mục đích
thúc đẩy các ngành công nghiệp non trẻ hoặc vì các lý do văn hóa xã hội. Phạm vi
tương đối hẹp này đã được thay thế bằng một cách tiếp cận rộng hơn: hiện nay,
các chính sách này còn để bảo vệ các nhà tập đoàn lớn của quốc gia, các doanh
nghiệp chiến lược và cơ sở hạ tầng quan trọng;
-Thứ hai, một số nước đã thắt chặt các thủ tục an ninh quốc gia hoặc lợi ích
kinh tế sàng lọc đối với FDI, một phần như là một phản ứng để tăng cường đầu tư
từ doanh nghiệp nhà nước và các quỹ tài sản có chủ quyền và tăng FDI vào tài
nguyên thiên nhiên (cả trong ngành công nghiệp khai khoáng và nông nghiệp);
-Thứ ba, cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính gần đây có thể đã làm cho
các chính phủ phản ứng nhanh hơn để vận động hành lang từ các ngành công
nghiệp và xã hội để bảo vệ nền kinh tế quốc gia từ cạnh tranh nước ngoài.
II. Xu hướng thay đổi chính sách đầu tư thế giới năm 2013
1. Các xu hướng chung
Trong năm 2013, theo báo cáo từ UNCTAD, có khoảng 59 nước và nền kinh
tế bán hành 87 biện pháp chính sách liên quan đến đầu tư nước ngoài. Trong số
các chính sách này có 61 chính sách liên quan đến tự do hóa, xúc tiến và tạo điều
kiện thuận lợi cho đầu tư, 23 chính sách liên quan đến các quy định và hạn chế đầu
tư.
Tỉ trọng của các quy định và hạn chế đầu tư có xu hướng tăng nhẹ, từ 25%
năm 2012 lên 27% năm 2013. Gần một nửa các biện pháp chính sách này áp dụng
trên mọi lĩnh vực. Trong khi đó gần như toàn bộ các biện pháp áp dụng cho ngành
cụ thể đều hướng về khu vực dịch vụ.
1.1 Tự do hóa và thúc đẩy FDI
Các chính sách tự do hóa FDI mới trong năm 2013 chủ yếu được ban hành
bởi các quốc gia ở châu Á. Và một phần trong đó tập trung vào lĩnh vực viễn
thông, ví dụ như Ấn Độ loại bỏ các giới hạn về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
ngành viễn thông, hay Hàn Quốc thông qua sửa đổi Luật kinh doanh viễn thông,
cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đã kí kết với chính phủ Hàn Quốc các hiệp
đinh FTA có thể giành được lên đến 100% các cơ sở vật chất của các doanh
nghiệp viễn thông Hàn Quốc trừ SK và TK Telecom.
Thay đổi trong chính sách đầu tư quốc gia theo ngành 2013, UNCTAD WIR 2014
1.2 Tự do hóa và khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài
Chính sách tự do hóa đầu tư nói chung trong năm 2013 được đặc trưng bởi
sự tư nhân hóa. Tư nhân hóa một phần hoặc toàn bộ mang lại lợi ích cho cả nhà
đầu tư trong nước lẫn nước ngoài đã diễn ra tại ít nhất 10 quốc gia. Ví dụ, ở Peru,
Quốc hội đã thông qua tư nhân hóa lên đến 49 phần trăm các công ty năng lượng
nhà nước Petroperú - lần đầu tiên chính phủ cho phép đầu tư vốn tư nhân vào
Petroperú. Tại Serbia, Etihad Airways (UAE) mua 49 phần trăm cổ phần của Jat
Airways, hãng hàng không quốc gia Serbia . Tại Mexico cũng đã tiến hành cuộc
cải cách tư nhân hóa quan trọng trong ngành năng lượng. Vào tháng 12 năm 2013,
Quốc hội Mexico thông qua sửa đổi Hiến pháp, bao gồm cả việc dỡ bỏ hạn chế về
nguồn vốn tư nhân trong ngành dầu khí. Những cải cách cho phép Chính phủ ban
hành giấy phép và ký kết hợp đồng chia sẻ sản xuất, chia sẻ lợi nhuận và dịch vụ.
Ưu đãi đầu tư và các biện pháp tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho nhà đầu
tư không phân biệt quốc tịch đã được ban hành phổ biến nhất ở châu Phi và châu
Á. Các biện pháp khuyến khích đầu tư, trong đó chủ yếu tập trung vào các chương
trình khuyến khích tài chính, bao gồm một số chương trình cụ thể cho từng ngành.
Một số chính sách đã được thông qua vào đầu năm 2014 Ví dụ, các ưu đãi về thuế
ở nước Cộng hòa Dominican mở rộng cho các nhà đầu tư theo luật phát triển du
lịch. Malaysia công bố Chính sách Quốc gia về ô tô của mình năm 2014, dành các
ưu đãi tài chính với mục tiêu thúc đẩy ngành công nghiệp ô tô trong nước cạnh
tranh và bền vững.
Các biện pháp tạo thuận lợi cho đầu tư tập trung vào đơn giản hóa đăng ký
kinh doanh. Ví dụ, Mông Cổ đã thông qua Luật Đầu tư mới giảm yêu cầu phê
duyệt, sắp xếp hợp lý quá trình đăng ký và cung cấp sự bảo đảm pháp lý và ưu đãi
nhất định. Mozambique thông qua một nghị định tạo điều kiện cho việc thành lập
các công ty mới thông qua một hình thức đăng ký kinh doanh duy nhất. Dubai, ở
các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, đã ban hàng một loạt các cải cách trong
việc kinh doanh khách sạn.
2. Các quy định và chính sách hạn chế mới đối với FDI
Các quy định và chính sách hạn chế đối với FDI trong năm 2013 bao gồm
sửa đổi các quy định về tiếp nhận và thành lập, loại bỏ các dự án đầu tư sau khi
xem xét và quốc hữu hóa. Đã có ít nhất 13 nước ban hành các biện pháp mới này
trong năm 2013.
3. Các quy định và chính sách hạn chế mới đối với các nhà đầu tư trong
và ngoài nước
Một số quốc gia ban hành các chính sách hạn chế hoặc quy định ảnh hưởng
đến các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Ví dụ, Nhà nước Plurinational của
Bolivia giới thiệu một đạo luật ngân hàng mới cho phép quyền kiểm soát của Nhà
nước đối với việc thiết lập các mức lãi suất của các ngân hàng thương mại. Nó
cũng cho phép Chính phủ thiết lập hạn ngạch cho vay đối với các lĩnh vực hoặc
hoạt động cụ thể. Cộng hòa Venezuela cũng đã thông qua một nghị định quy định
về lĩnh vực ô tô liên quan đến việc sản xuất và bán xe ô tô.
4. Ngăn ngừa thoái đầu tư và khuyến khích chuyển các dự án đầu tư về
lại quốc gia chủ đầu tư
Một hiện tượng gần đây đòi hỏi những nỗ lực của chính phủ để ngăn chặn
thoái đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong thời kì khủng hoảng kinh tế và
thất nghiệp trong nước liên tục cao, một số nước đã áp dụng các yêu cầu mới đối
với các nhà đầu tư về di dời và sa thải nhân viên. Ngoài ra, một số nước nhà đã bắt
đầu để thúc đẩy hoạt động đưa các dự án đầu tư nước ngoài về lại quê hương đối
với các TNC nước họ.
-Tại Pháp, Quốc hội đã thông qua một dự luật áp đặt các hình phạt đối với
các công ty đóng cửa hoạt động được coi là có hiệu quả kinh doanh. Luật pháp đòi
hỏi các công ty có hơn 1.000 nhân viên để chứng minh rằng họ có thể bán một nhà
máy trước khi đóng cửa chúng.
-Hy Lạp đã thông qua một đạo luật làm cho các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Hy Lạp khó khăn hơn trong việc di dời trụ sở chính ra nước
ngoài. Pháp luật về thị trường vốn của Hy Lạp hiện nay đòi hỏi sự chấp thuận di
dời của 90 phần trăm cổ đông, chứ không phải là ngưỡng trước kia là 67 phần
trăm.
-Từ năm 2011, Chính phủ Hoa Kỳ đã và đang hoạt động chương trình
"Select USA", trong đó, có mục tiêu thu hút và duy trì đầu tư trong nền kinh tế
Hoa Kỳ.
4.1 Chương trình khuyến khích đầu tư
Ngoài ra, trong năm 2013 các nước còn tiến hành các chương trình khuyến
khích đầu từ (Investment Incentive) nhằm mục đích thu hút vốn đầu tư, chủ yếu là
FDI. Điểm khác biệt so với trước đây là các chương trình này hiện nay kết hợp với
mục tiêu phát triển bền vững (Sustainable development) của quốc gia nhằm nâng
cao hiệu quả của nó. Nếu dựa theo tiêu chí lợi ích đem lại cho nhà đầu tư thì có 3
loại: lợi ích về tài chính, lợi ích về tài khóa (giảm thuế hoặc miễn thuế) và lợi ích
về các quy định. Theo nghiên cứu của UNCTAD thì các lợi ích về tài khóa có ảnh
hưởng quan trọng nhất đối với nhà đầu tư.
Mức độ ảnh hưởng của các biện pháp khuyến khích đầu tư đến khả năng thu hút
vốn FDI 2013, UNCTAD WIR 2014
Thành phần áp dụng các chính sách về khuến khích đầu tư này cũng rất đa
dạng, phần lớn trong số đó là các nước châu Á (30%) các nước châu Phi (23%) và
các nước phát triển (21%).
Tỉ lể phần trăm các nước ban hành các chương trình khuyến khích đầu tư 2004-
2013, UNCTAD WIR 2014
Về mục đích thì các chương trình khuyến khích đầu tư này hướng đến nhiều
mục tiêu khác nhau bao gồm có phát triển kinh tế, tạo việc làm, chuyển giao kĩ
năng, nghiên cứu và phát triển, tăng xuất khẩu…
Mục tiêu của các chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài, UNCTAD WIR 2014
Dữ liệu từ UNCTAD cho thấy khuyến khích đầu tư tạo thành một phần quan
trọng của các biện pháp chính sách đầu tư mới nhằm tìm cách tạo ra một môi
trường đầu tư hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư. Từ năm 2004 đến năm 2013, tỷ lệ
này dao động trong khoảng 26 phần trăm và 55 phần trăm, với tầm quan trọng
tổng thể của chúng ngày càng tăng (hình III.6). Trong năm 2013, hơn một nửa
chính sách tự do hóa và xúc tiến đầu tư liên quan đến việc cung cấp các ưu đãi cho
nhà đầu tư. Hơn một nửa trong số này là những biện pháp khuyến khích ưu đãi tài
khóa.
Tỉ trọng ác chính sách khuyến khích đầu tư trong tổng số các chính sách tự do hóa
và thúc đẩy đầu tư 2004 -2013, UNCTAD WIR 204
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. UNCTAD, Báo cáo đầu tư quốc tế WIR 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013
2. UNCTAD, Investment Policy Monitor 9, 10, 11, 123. Vũ Chí Lộc, “Giáo trình Đầu tư quốc tế”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội4. “Mergermarket M&A Trend Report 2013”
KẾT LUẬNXu hướng tự do hóa đầu tư ngày càng phát triển mạnh mẽ giữa các nước, khu
vực và trên thế giới. Các quy chế về FDI của các nước thay đổi nhanh trong thập
kỷ qua từ bảo hộ đến hạn chế, kiểm soát và chuyển sang tự do hóa FDI trong phạm
vi từng nhóm nước và khu vực.
Tự do hóa đầu tư đã được các nước phát triển đề cập đến từ những năm 1960
và mục tiêu là xây dựng một khung pháp lý đa phương hoàn chỉnh, điều tiết đầu tư
quốc tế. Tuy nhiên, ý tưởng trên chưa trở thành hiện thực vì gặp phải sự phản đối
của các nước đang phát triển. Các nước này cho rằng khung pháp lý đa phương
hoàn chỉnh điều tiết FDI chỉ phục vụ cho lợi ích của các nước giàu. Trong bối cảnh
đó, các nổ lực tự do hóa FDI tập trung vào việc cải thiện luật pháp và chính sách
FDI của từng nước, việc ký kết các BIT. Bên cạnh đó, một số hiệp định khu vực
và đa phương cũng đã được ký kết nhằm tự do hóa FDI. Các hiệp định này thường
sử dụng một số chuẩn mực đối xử chung đối với FDI. Tuy nhiên, cách giải thích
các chuẩn mực này rất khác nhau dẫn đến sự đa dạng của các hiệp định và khó
thống nhất trong một khuôn khổ pháp lý đa phương chung.
Từ giữa những năm 1980, đặc biệt là từ đầu những năm 1990, trong bối cảnh
toàn cầu hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ, FDI có vai trò ngày càng quan trọng đối với
các nước và vùng lãnh thổ, tự do hóa FDI đã diễn ra mạnh mẽ chưa từng thấy ở
hầu hết các nước, ở tất cả các cấp độ và trong nhiều lĩnh vực. Tuy mức độ có khác
nhau, nhưng hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới đều tiến hành cải cách
luật pháp và chính sách FDI theo hướng tăng cường mở cửa các ngành nghề, lĩnh
vực cho FDI, dỡ bỏ dần các rào cản, tạo thuận lợi thậm chí dành ưu đãi cho FDI.
Nếu trước đây, các nước còn dè dặt và e ngại không muốn cho FDI vào hoạt động
trong nhiều ngành dịch vụ thì ngày nay các ngành này dần dần được mở cửa cho
FDI vào hoạt động. Các công cụ để đảm bảo sự vận hành đúng đắn của thị trường
ở các nước đang phát triển đang trong quá trình xây dựng. Các nước đều nhận thức
được vai trò quan trọng của nguồn vốn FDI đối với sự phát triển của đất nước và
đều hiểu rằng trong thời đại ngày nay muốn tăng cường thu hút FDI thì phải tiến
hành tự do hóa FDI. Nhìn chung, các chế độc FDI của các nước đang trong quá
trình tiến tới tự do hóa.
Trong quý 1/2010, có 62 nền kinh tế trên thế giới đã triển khai các biện pháp
mới tác động đến khuôn khổ chính sách đầu tư của nước ngoài và 73 nền kinh tế
thực hiện những biện pháp đầu tư quốc tế, tiếp tục xu hướng ký kết nhanh các hiệp
định mới về đầu tư. Theo báo cáo giám sát đầu tư của UNCTAD cho biết khoảng
28 nền kinh tế đã thông qua những biện pháp chuyên về đầu tư nhằm tự do hóa,
thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu vực kinh tế từ lâu vẫn đóng kín. Cụ thể là
Australia và Canada đã tự do hóa dịch vụ vận tải hàng không; Ấn Độ tự do hóa
dịch vụ truyền hình trên mạng điện thoại di động; Malaysia, Syria, Cameroon tự
do hóa dịch vụ ngân hàng hoặc sở hữu nhà ở; 9 nền kinh tế, trong đó có Nga,
Mexico, Libya, Peru, đã triển khai các chính sách đầu tư nhằm thúc đẩy và tạo
điều kiện thuận lợi cho đầu tư nước ngoài như thiết lập các khu kinh tế tự do,
khuyến khích những dự án năng lượng tái sinh.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng chưa có nước nào có chế độ FDI tự do hóa
hoàn toàn, các nước vẫn còn duy trì những ngoại lệ nhất định đối với FDI, nhất là
trong vấn đề tiếp nhận và thành lập. Lý do là vì bên cạnh những cơ hội để tăng
cường thu hút FDI và nâng cao hiệu quả của nguồn vốn này thì tự do hóa FDI
cũng đem lại cho các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển rất nhiều thách
thức không dễ vượt qua. Chính vì vậy, để có thể tận dụng được các cơ hội và đảm
bảo tự do hóa FDI không gây nên những tác động tiêu cực cho nền kinh tế và xã
hội, các nước nhận đầu tư cần chuẩn bị kỹ lưỡng các yếu tố bên trong (hoàn thiện
hành lang pháp lý và cơ chế chính sách, nâng cao năng lực cạnh tranh của khu
vực kinh tế trong nước, điều chỉnh và ổn định các quy hoạch thu hút vốn nước
ngoài theo hướng phát triển bền vững, tránh chạy theo lợi ích trước mắt, địa
phương và cá nhân, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và đội
ngũ lao động,…). Để làm được điều này, các nước cần có thời gian và phải có kế
hoạch hành động cụ thể được xây dựng một cách khoa học. Thêm vào đó, có
những lĩnh vực liên quan đến an ninh, quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo vệ
môi trường,… buộc các nước không thể cho phép FDI hoạt động tự do được.
Ở cấp độ song phương và đa phương, các BIT và các hiệp định hợp tác
thương mại hoặc kinh tế, các văn bản không mang tính ràng buộc của nhiều tổ
chức, diễn đàn cũng đề cập nhiều đến tự do hóa FDI. Tuy nhiên, các hiệp định này
chỉ đề cập đến một số nội dung của tự do hóa chứ chưa tiến đến một chế độ FDI tự
do hóa hoàn toàn. Cũng giống như luật pháp và chính sách FDI của từng quốc gia,
các văn bản pháp lý song phương và đa phương có liên quan đến FDI đều thừa
nhận quyền bảo lưu của các nước thành viên đối với một số lĩnh vực, một số vấn
đề trong đầu tư. Để đảm bảo công bằng cho các nước tham gia khi số lượng và nội
dung các lĩnh vực, vấn đề được bảo lưu của các nước khác nhau, nguyên tắc có đi
có lại thường được áp dụng. Các nước đang và kém phát triển khi tham gia các
hiệp định thường được hưởng một số ưu đãi hơn các nước phát triển như thời gian
thực hiện các cam kết được kéo dài hơn, mức độ cam kết có thể thấp hơn (ví dụ
như mở cửa ít ngành nghề, lĩnh vực hơn, được duy trì một số hạn chế hoặc ưu đãi
đầu tư trong một khoảng thời gian nhất định,…). Nội dung đảm bảo sự vận hành
đúng đắn của thị trường không được đề cập đến trong các văn bản này. Điểm đặc
biệt là nhiều văn bản đa phương về FDI bắt đầu chú trọng đưa vào các quy định
nhằm đảm bảo mối liên hệ giữa FDI và phát triển bền vững, kêu gọi các nước khi
xây dựng hành lang pháp lý, chính sách về FDI phải cân nhắc đến vấn đề này.
Cho đến nay vẫn chưa có một văn bản pháp lý duy nhất nào điều chỉnh tất cả
các khía cạnh của FDI trên toàn cầu. Một khuôn khổ pháp lý quốc tế rộng lớn đang
được hình thành bao gồm các quy tắc của luật quốc tế, các BIT, các hiệp định khu
vực và đa biên, các văn bản của các định chế quốc tế, các văn bản chính thức
không có tính ràng buộc, các quy tắc và thủ tục pháp lý quốc gia. Tất cả các văn
bản này đều theo xu hướng tự do hóa FDI.
Như vậy, qua quá trình nghiên cứu, xu hướng chung của các quốc gia trên
thế giới trong giai đoạn hiện nay chính là tự do hóa đầu tư, từng bước cắt giảm hay
loại bỏ các rào cản có tính cản trở hoạt động đầu tư từ quốc gia này sang quốc gia
khác để tạo nên một môi trường đầu tư có tính cạnh tranh và bình đẵng hơn, tạo
thuận lợi và thông thoáng cho quá trình di chuyển các nguồn vốn đầu tư giữa các
quốc gia.