30
LUẬN VĂN: Đổi mới kinh tế việt nam với phép phủ định biện chứng

Đổi mới kinh tế việt nam với phép phủ định biện chứngs1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/214/1355214.pdf · Nhận thức tầm quan trọng của chủ

  • Upload
    vuminh

  • View
    220

  • Download
    1

Embed Size (px)

Citation preview

LUẬN VĂN:

Đổi mới kinh tế việt nam với

phép phủ định biện chứng

Lời nói đầu

Việc đổi mới nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu

bao cấp sang nền thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ

nghĩa mà Đảng cộng sản Việt Nam đã lựa chọn từ đại hội Đảng VI (1996) đang từng

bước thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở Việt Nam. Thực tiễn tình hình kinh tế của nước

ta trong những năm qua cho thấy công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam đang đi trên

con đường đúng đắn. Công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đang dần

dần thu được những thành quả đáng chú ý. Từ một nước phải nhập khẩu gạo trong

những năm đầu giải phóng đất nước, đến nay, Việt Nam đã trở thành một trong ba

nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, sánh vai cùng với Mỹ và Thái Lan. Quan hệ

thương mại của nước ta cũng ngày càng được mở rộng với chủ trường “ Việt Nan

muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Nước ta nhập WTO tổ chức thương

mại thế giới – và đến khi đó thì nền kinh tế của Việt Nam sẽ có những bước tiến mới,

hứa hẹn một sự tăng trưởng cao. Không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà trong những

ngành khoa học cơ bản cũng dần dần được đầu tư thích đáng hơn và có sự chú ý hơn

của Nhà nước, bằng chứng là ngân sách Nhà nước cho những ngành này đã tăng lên

đáng kể so với những năm đầu thập kỷ 90. Để đạt được những thành tích đáng kể như

vậy ngoài sự nỗ lực gồng mình trong xu thế hội nhập với thế giới để không trở thành

“kể bị đào thải” thì một trong những điều kiện quan trọng để đưa nước ta có được vị

thế dần dần được khẳng định trong khu vực là do Đảng và Nhà nước cộng hoà xã hội

chủ nghĩa Việt Nam đã kiên trì đường lối lãnh đạo, quán triệt tư tưởng của chủ nghĩa

Mác – Lênin, coi đó là nền tảng tư tưởng và làm kim chỉ nam cho mọi lý luận khoa

học và xã hội mặc dầu đã có không ít những sự nghi ngờ, dèm pha về chủ nghĩa Mác –

Lênin, đặc biệt khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Trong quá trình lãnh đạo đất

nước để thực hiện mục tiêu “ dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”, tiến

lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã kiên định đường lỗi lãnh đạo, kế thừa và phát huy chủ

nghĩa Mác – Lênin và biết áp dụng thực tiễn phép biện chứng của Mác – xít một cách

linh hoạt trong những đường lối, định hướng, chính sách hoạch định phát triển kinh tế

xã hội khẳng định việc đổi mới nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường có sự

quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn - trong

đó chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin luôn là nền tảng vững chắc là kim chỉ

nam dẫn đường.

Nhận thức tầm quan trọng của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác Lênin, đặc

biệt là phép phù định biện chứng đối với công cuộc đổi mới của Việt Nam, và đây

cũng là những lý luận cơ bản mà mỗi học sinh khi bước chân vào giảng đường đại học

cần phải nắm được, Bộ môn Triết học Mác Lênin – trong Đại học Kinh tế Quốc dân đã

có chủ trương cho sinh viên nghiên cứu và ngoài những giời giảng dậy trên lớp, bộ

môn đã nâng lên thành một đề tài nghiên cứu khoa học cho sinh viên. Trong quá trình

nghiên cứu đề tài, em rất vui khi được tiếp xúc với những lý luận cơ bản và cần thiết

và rất vui mừng khi được nâng cao kiến thức với một đề tài “Đổi mới kinh tế việt nam

với phép phủ định biện chứng”.

A.Cơ sở lý luận

Phần I: quy luật phủ định và phủ định

I. Khái niệm phủ định biện chứng và những đặc điểm của nó

1. Khái niệm

Triết học Mác thấy rõ sự chuyển hoá từ những thay đổi thành những thay đổi về

vật chất, sự đấu tranh của các mặt đối lập dẫn tới mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ

mất đi và sự vật mới ra đời. Mỗi sự thay thế ấy làm thành một mắt khâu trong sợi dây

xích phát của hiện thực và của sự tư duy. Sự ra đời của cái mới là kết quả của sự phủ

định cái cũ, cái lỗi thời. Sự phủ định trong tự nhiên lẫn trong xã hội là sự phủ định làm

mất đi cái cũ và xuất hiện cái mơí, tiến bộ hơn.Sự phủ định như vậy là hình thức giải

quyết các mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật bị phủ định. Từ những sự nhận đinh

trên chủ nghĩa duy vật đã đưa ra khái niệm: Phủ định biện chứng là quá trình tự thân

vận động phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của

cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định.

2. Đặc điểm

Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản

+ Thứ nhất, nó mang tính khách quan, là điều kiện của sự phát triển.

Phủ định biện chứng là quá trình mang tính khách quan do mâu thuẫn của bản

thân sự vật tự quy định. Hơn nữa, phương thức phủ định sự vật cũng không tuỳ thuộc

ý muốn của con người. Khi đề cập tới vấn đề này, chúng ta lưu ý rằng, mỗi sự vật có

phương thức phủ định riêng, do đó mà có sự phát triển. Sự phủ định là kết quả hoạt

động của quy luật mâu thuẫn và quy luật lượng chất cũ và xuất phát từ xu hướng vận

động của sự vật, hiện tượng, từ chính trong nội lực của sự vật.

Nguyên nhân của sự chuyển hoá đó là do sự phát triển của mâu thuẫn bên trong

của sự vật do sự biến hoá của một số điều kiện bên trong nào đó làm cho một số đặc

trưng, đặc tính hoặc hình thức vốn có mất ý nghĩa tích cực đáng được khẳng định

trong quá trình phát triển mà trở thành những cái tiêu cực ngăn cản sự phát triển nhất

định, mọi sự vật mới có ý nghĩa tích cực mới là cái ngăn cản sự phát triển nhất định,

mọi sự vật mới có ý nghĩa tích cực mới là cái nên khẳng định vượt qua khỏi điều kiện

phát triển đó thì ý nghĩa tích cực của nó sẽ mất đi và chuyển thành cái tiêu cực, cái cần

phải phủ định. Vì vậy cần phải chuyển hoá sang mặt đối lập của nó, cần phải có đặc

trưng, đặc tính khác đối lập với bản thân nó, hoặc hình thức khác mới có thể phát triển

lên được nếu không thì sự phát triển sẽ gặp trở ngại, sẽ thành ra sai lầm hay lệch lạc.

+ Thứ hai, nó mang tính kế thừa là nhân tố liên hệ giữa cái cũ và cái mới.

Kế thừa là việc cái mới ra đời từ cái cũ đã giữa lại trong đó những yếu tố tích

cực tiến bộ từ cái cũ tạo đi phù hợp với hoàn cảnh mới.

Phủ định biện chứng không phải là thủ tiêu, sự phá hoại hoàn toàn của cái bị

phủ định. Trái lại, để dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định biện chứng bao

hàm trong đó nhân tố giữ lại những nội dung tích cực của cái bị phủ định. Phủ định

biện chứng, do vậy, là sự phủ định mang tính kế thừa. Với ý nghĩa như vậy, phủ định

đồng thời là khẳng định. Diễn đạt tư tưởng đó, Lênin có viết “ không phải sự phủ định

sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự nghi ngờ là cái đặc

trưng và cái bản chất trong phép biện chứng... mà là sự phủ định coi như là vòng khâu

của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định”.

Giá trị của sự kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò của nó trong sự ra

đời của cái mới. Thật ra, nó đã tham gia vào việc tạo ra cái hiện tại, nó tạo thành mối

liên hệ sống động trong thời gian. Một trong những hình thức quan trọng của cái được

kế thừa trong đời sống xã hội là truyền thống. Truyền thống là cái chứa đựng trong bản

thân mình những năng lực to lớn để tạo ra cái mới.

Trong qúa trình đổi mới hiện nay, chúng ta phải biết kế thừa những di sản tích

cực của dân tộc cũng như của thế giới. Nhưng có lúc, có nơi đã coi nhẹ việc khai thác

vốn quý báu của dân tộc, có quan điểm phủ định sạch trơn. Ngược lại, có lúc có nơi lại

phục hồi cả những phong tục tập quán đã lỗi thời, không biết đứng trên yêu cầu mới

của cách mạng mà cải biến và sử dụng những vốn cũ đó cho thích hợp.

II. Quy luật phủ định của phủ định và hình thức “xoáy ốc” của sự phát

triển.

1. Nội dung

Phủ định biện chứng nói lên một giai đoạn, một nấc thang trong quá trình phát

triển. Với tư cách là kết quả của “ phủ định lần thứ nhất”, cái mới cũng chứa đựng

trong bản thân mình xu hướng dẫn tới những lần phủ định tiếp theo – phủ định của phủ

định. Chỉ có thông qua phủ định của phủ định mới dẫn tới việc ra đời một sự vật, trong

đó có sự lặp lại một số đặc trưng cơ bản của cái xuất phát ban đầu nhưng trên cơ sở

cao hơn. Đến đây mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Khuynh hướn chung như vậy

của sự phát triển được khái quát thành nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ

định.

Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng, như trên đã

nói, là sự thống nhất giữa loại bỏ, kế thừa và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng

được thực hiện sẽ mang lại những nhân tố tích cực mới. Do đó, sự phát triển thông qua

những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng.

Đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định

chính là sự phát triển dường như quay lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn. Nói một

cách khái quát, qua một số lần phủ định, sự vật hoàn thành một chu kỳ phát triển. Phủ

định lần thứ nhất tạo ra sự đối lập với cái ban đầu, đó là một bước trung gian trong sự

phát triển.

Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát triển. Sự

phát triển đi lên không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo đường “xoáy ốc”. Đề

cập đến con đường đó của sự phát triển biện chứng, Lênin viết. “ Sự phát triển hình

như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, một trình độ cao

hơn; sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng”.

Diễn tả quy luật phủ định bằng đường xoáy ốc chính là hình thức cho phép biểu

đạt được rõ ràng nhất các đặc trưng của qúa trình phát triển biện chứng: tính kế thừa,

tính lặp lại nhưng không quay trở lại và tính chất tiến lên của sự phát triển. Mỗi vòng

mới của đường xoáy ốc thể hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời

dường như quay lại cái đã qua, dường như lặp lại vòng trước. Sự tiếp nối nhau của các

vòng thể hiện tính vô tận của sự phát triển, tính vô tận của sự tiến lên từ thấp đến cao.

Quy luật phủ định của phủ định diễn tả sự phát triển theo đường xoáy ốc thông

qua phủ định của phủ định nhưng cần tránh khuynh hướng hiểu sự phát triển một cách

máy móc. Số lượng cần phủ định trong một chu kỳ phát triển một cách máy móc. Số

lượng các lần phủ định trong một chu kỳ phát triển cụ thể trong thực tế có thể nhiều

hơn hai, điều đó tuỳ theo tính chất của một quá trình phát triển cụ thể, nhưng ít nhất

cũng phải hai lần.

Từ những lập luận trên đây, chúng ta có thể hiểu nội dung cơ bản của quy luật

phủ định của phủ định như sau: quy luật này nói lên mối liên hệ sự kế thừa giữa cái bị

phủ định, do sự kế thừa đó sự phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch

trơn bác bỏ tất cả sự phát triển trước đó, mà là điều kiện cho sự phát triển, nó duy trì

và giữ gìn nội dung tích cực của các giai đoạn trước, lắp lại một số đặc điểm cơ bản

của cái xuất phát nhưng trên cơ sở mới cao hơn; do vậy, sự phát có tính chất tiến lên

không phải theo đường thẳng mà là đường xoáy ốc.

2. ý nghĩa của quy luật phủ định của phủ định

Trong hoạt động lý luận cũng như trong thực tiễn, chúng ta cần lưu ý rằng cái

mới nhất định sẽ thay thế cái cũ, cái tiến bộ nhất sẽ chiến thắng cái lạc hậu, cái mới ra

đời từ cái cũ, nó kế thừa tất cả những gì tích cực của cái cũ. Do đó, cần chống lại thái

độ phủ định sạch trơn cái cũ.

Trong khi đấu tranh với cái cũ, chúng ta vừa phải biết sàng lọc, biết giữ lấy

những gì tích cực là có giá trị của cái cũ, cải tạo cái cũ cho phù hợp với những điều

kiện mới; chống thái độ “ hư vô chủ nghĩa” trong khi nhìn nhận lịch sự, đánh giá quá

khứ. Chẳng hạn trước tình trạng tam thời khủng hoangả thoái trào hiện nay của chế độ

XHCN ở Liên Xô cũ và Đông Âu không chỉ những kẻ chống cộng có cả một số người

vốn là Macxít cũng ra sức phủ nhận những thành quả to lớn của CNXH đã tạo dượng

được ở những nước đó. Họ không thấy rằng trong hơn 70 năm tồn tại, CNXH ở Liên

Xô đã để lại những giá trị tích cực có giá trị lâu dài đối với lịch sử toàn thế giới.

Phần II. Những lý luận về thị trường

I. Nền kinh tế kém phát triển mang tính tự cấp, tự túc

ền kinh tế tự nhiên là hình thái kinh tế đầu tiên trong tiến trình phát triển kinh tế

– xã hội của loài người. Nền kinh tế tự nhiên là loại hình kinh tế tiến hành sản xuất sản

phẩm để thoả mãn nhu cầu của bản thân người sản xuất. Các mối quan hệ sản xuất

kinh tế đều mang hình thái quan hệ hiện vật. Đây là nền kinh tế thị trường có thị

trường là kiểu hệ thống kinh tế đặc thù mà ở đó nhà nước chính thức có quyền lực kinh

tế vô cùng to lớn, nhưng trong thực tế quyền lực đó là sự bác bỏ về việc tưởng một cái

gì đó là việc thực hiện tích cực một sự lựa chọn. Mọi hoạt động của kinh tế đều được

điều chỉnh bởi nhà nước, từ giá cả tất nhiên gồm cả giá ngoại hối và việc phân phối

hàng tiêu dùng.

II. Nền kinh tế hàng hoá.

Nền kinh tế hàng hoá là một bước ngoặt phát triển cao hơn của kinh tế tự nhiên.

Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội mà trong đó hình thái phổ biến

của sản xuất ra sản phẩm để bán để trao đổi trên thị trường. Trong nền kinh tế hàng

hoá gần như toàn bộ sản phẩm lao động xã hội và dịch vụ đều mang hình thaí hàng

hoá, tức là hầu như tất cả các mỗi quan hệ kinh tế đều được thực hiện dưới hình thái

quan hệ hàng hoá, tiền tệ trên thị trường.

III. Nền kinh tế thị trường tự do

Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình tự cao được

điều tiết bởi cơ chế thị trường ở đó sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất

cho ai được quyết định thông qua thị trường cơ sở quan hệ cung cầu, giá cả.

Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ cơ bản vận động dưới sự chi

phối của quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận.

Nhân tố cơ bản của cơ chế thị trường là cung cầu và giá cả thị trường. Trong nền kinh

tế thị trường là hàng loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó như: quy luật giá trị,

quy luật kinh tế cung cầu, quy luật cạnh tranh... cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị

trường tuân theo những quy luật trên.

IV. Nền kinh tế thị trường hỗn hợp.

Đây là nền kinh tế thị trường thị trường phát triển ở trình độ cao mà ở đó chú

trọng tới vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh tế bên cạnh những quy luật vốn có

của thị trường.Thị trường lúc này chịu sự điều tiết của cả “bàn tay vô hình” và “ bàn

tay hữu hình”mà tuy theo mục đích phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia mà trong

từng thời kỳ, tương quan giữa việc sử dụng “ bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình”

được điều chỉnh. Nền kinh tế này còn gọi là nền kinh tế hỗn hợp.

B. phép phủ định biện chứng đối với công

cuộc đổi mới kinh tế ở Việt nam

I. Sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá là tất yếu khách quan, phủ định lại

nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã không còn phù hợp trong thời kỳ quá

độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp ở

Việt Nam

Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN, đất nước

ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hưũ

công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của nhân dân ta có thêm sự giúp đỡ tận

tình của các nước XHCN khác mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được tính ưu việt

của nó, từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế hoạch hoá nhà nước

đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản và tiền

bạc để ổn định và phát triển nền kinh tế.

Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra phù

hợp, nó đã tạo ra một bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng thời

nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo

ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và nhà nước huy động ở mức

độ cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến.

Nhưng sau ngày giải phóng Việt Nam bức tranh mới về hiện trạng kinh tế XH

đã thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả 3 loại hình kinh tế tự cấp, tự

túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế hàng hoá. Đó là thực tế khách

quan tồn tại sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng nền kinh

tế chỉ huy như ở Miền Bắc trước đây. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều,

việc áp dụng cơ chế quản lý cũ vào điều kiện kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện hàng

loạt các hiện tượng tiêu cực.

Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp có sự phân phối một cách mạnh

mẽ mọi sản phẩm lao động, giá cả thì bị ấn định trước theo những chỉ tiêu của Nhà

nước, điều này dẫn đến việc những quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá cả,

quy luật cung cầu, quy luật giá trị vi phạm nghiêm trọng, làm cho tình hình lưu thông

tiền tệ, giá cả không kiểm soát được, đặc biệt là trong những năm 80, lạm phát của

nước ta đã lên đến 3 con số làm cho đời sống nhân dân vô cùng khó khăn và tình hình

kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng. Nền sản xuất kém phát triển được sự

bảo hộ của nhà nước lại càng trở nên trì trệ. Bộ máy quản lý doanh nghiệp không hiệu

quả, cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và không năng động, phong cách thì cửa

quyền dưới chính sách bù lỗ của nhà nước ngày càng không đem lại bất cứ một hiệu

quả kinh tế nào.

Đồng thời do chủ quan cúng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế

quản lý kinh tế, chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất

của đất nước, trái lại đã dẫn tới việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các

nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản

xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những việc đó gây ra rất xấu

cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan

hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích

luỹ hàng năm hầu như không có vốn đầu tư chủ yếu vào vay và viện trợ của nước

ngoài. Để cuối những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm

phát cao đã làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số địa phương nạn

đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa về sự xuy thái nền kinh tế là do áp dụng dập

khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả.

Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng như trên, thêm vào đó viện trợ nước

ngoài bị giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta với sự bức bách đòi hỏi phải đổi mới.

2. sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của

Nhà nước là một xu hướng phát triển yếu khách quan.

Trước những tồn tại và bất cập trên của nền kinh tế chỉ huy, tại Đại hội Đảng

VI (1996) đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển

đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh doanh

XHCN. Đến đại hội đảng VII Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước

ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đã diễn ra ở đó, tức là chuyển nền kinhtế

kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo

định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng

trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Xét

dưới góc độ triết học, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn và phù hợp

với quy luật phủ định của phủ định và xu thế của thời đại.

Thứ nhất, nếu không thay đổi cơ chế kinh tế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không

thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng

sản xuất.

Thứ hai, do đặc trưng của nền kinh tế tập trung còn rất cứng nhắc nên nó chỉ có

tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong gia đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển

nền kinh tế theo chiều rộng.

Thứ ba, xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta, những nhân tố của kinh tế thị

trường. Về vấn đề này có rất nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng

thị trường nước ta là thị trường mới hình thành còn non yếu và là thị trường sơ khai.

Thứ tư, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang

hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và đầu

tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn

với nền kinh tế thị trường thế giới.

Thứ năm, xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của

mỗi nước không thể tách rời với sự phát triển hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các

quốc gia đã làm thay đổi hẳn về chất, không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội

mạnh mà là tiềm lực kinh tế.

Thứ sáu, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể

nào giải quyết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống kinh tế –

xã hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp lạm phát khủng hoảng, ô nhiễm môi trường,

sự bùng nổ dân số cũng như hiện tượng XH khác. Những tình trạng và hiện tượng trên

ở mức độ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp đều có tác dụng ngược trở lại làm cản trở

sự phát triển bình thường của xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng,

vì vậy, sự tác động của nhà nước một chủ đề có khả năng nhận thức và vận dụng các

quy luật khách quan vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế XH. Thiếu

sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế chẳng khác nào khi vỗ tay mà chỉ dùng một tay.

Như vậy, nhìn lại ta thấy, Việt Nam trong thời kỳ dài tiến hành xây dựng nền

kinh tế cơ chế kế hoạch hoá tập trung, phủ định “bàn tay vô hình” của thị trường, cơ

chế này đã có một vai trò lịch sử trong những năm 1950 – 1979 và đã có tác dụng đáng

kể trong việc tập trung các nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất

kỹ thuật của CNXH và đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc,

thống nhất đất nước. Song cơ cấu này đã được duy trì quá lâu, làm cho từ tập trung ở

mức cần thiết chuyển sang tập trung cao độ, phát sinh quan liêu bao cấp kìm hãm và

cản trở sự phát triển kinh tế trong thời bình. Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, khi

cách mạng đã chuyển giai đoạn và trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều thay đổi,

đồng thời nhận thức sâu sắc phép phủ định biện chứng là cái mới sẽ tất yếu khách

quan ra đời thay thế cho cái cũ không còn phù hợp nữa, vì vậy, trong Đại hội lần thứ

VI của Đảng (1986), Đảng và Nhà nước ta đã mạnh dạn đưa ra đường lối đổi mới, điều

chỉnh cơ cấu kinh tế để chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh

tế hàng hoá nhiều thành phần, công nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tư nhân và

có những chính sách mở rộng hợp tác quốc tế nhằm đưa nền kinh tế nước ta dần dần

hội nhập với nền kinh tế thế giới. Theo hướng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản lý

đã được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được Đại hội VII của Đảng khẳng

định: “ tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận

hành có hiệu qủa cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”. Những thay đổi chính

sách quan trọng đã được đề ra trong đường lối mới là.

Khẳng định sự phát triển lâu dài nền kinh tế nhiều thành phần. Điều này có ý

nghĩa là xoá bỏ sự kỳ thị trước đây đối với kinh tế tư nhân, đồng thời đặt kinh tế nhà

nước vào môi trường cạnh tranh bình đẳng.

Khẳng định các quan hệ thị trường có vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển

của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Đổi mới chính sách cơ cấu theo hướng tập trung các

nguồn lực gia và ba mục tiêu lớn: phát triển nông nghiệp phát triển sản xuất hàng tiêu

dùng, đẩy mạng xuất khẩu và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, ổn định môi trường

kinh tế và xã hội thông qua việc cố gắng đạt các mục tiêu: cắt giảm lạm phát, giảm

thiếu hụt ngân sách, giảm mức bộ chi tiền mặt và ngân cao mức sống của nhân dân.

Những thay đổi có tính chất chiến lược về chính sách theo tinh thần các kết luận

của đại hội VI diễn ra kể từ năm 1998, và sau đó tiếp tục thúc đẩy của các nghị quyết

đại hội lần VII của Đảng cộng sản Việt Nam. Định hướng lớn trong chính sách kinh tế

mà đại hội VII đề ra.

Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN.

Xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng và quyền quản lý của nhà nước trong lĩnh vực

kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có chủ, mọi đơn vị kinh tế đều có chủ.

Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng

bước công nghiệp hoá, thoát khỏi tình trạng nông nghiệp lạc hậu.

Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi đôi với việc tăng cường vai trò

quản lý của nhà nước về kinh tế – xã hội.

Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã khái quát đường lối đổi mới kinh

tế sau đại hội VII, tiếp tục đổi mới kinh tế với điểm trung tâm là hình thành nền kinh tế

hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà

nước theo định hướng XHCN. Thực hiện quan điểm chiến lược đó, Đảng và nhà nước

Việt Nam đã có những chủ trương cần thiết để từng bước chuyển nền kinh tế tự nhiên,

lực lượng sản xuất bị vô chủ ở nhiều cấp độ khác nhau sang nền kinh tế thị trường qua

ba bước cơ bản.

- Cải cách cơ cấu sở hữu, biến nền kinh tế về cơ bản dựa trên chế độ sở hữu

toàn dân và tập thể đối với tư liệu sản xuất thành nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên

đa dạng hoá hình thức sở hữu tư liệu sản xuất.

- Đổi mới kinh tế chuyển từ trạng thái nhà nước, chỉ huy nền kinh tế chủ yếu

bằng mệnh lệnh hành chính, bằng kế hoạch hoá tuyệt đối và tập trung cao sang cơ chế

thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.

- Từng bước chuyển sang nền kinh tế tự cấp, tự túc, ưu tiên công nghiệp nặng

sang nền kinh tế hàng hoá và hình thành một hệ thống kinh tế mở.

Tóm lại, kể từ khi đại hội VI đến đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam,

hướng phát triển kinh tế ở Việt Nam cơ bản là chuyển từ nền kinh tế hiện vật, tự túc

với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.

II. Tính kế thừa trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam

1. Đặc trưng của nền kinhtế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của

Nhà nước ở Việt Nam

a. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinhtế kém phát

triển, mang tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá, vận động theo cơ chế thị

trường.

Thật vậy, đi lên CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN nên nước ta

thiếu cái “ cốt vật chất” của một nền kinh tế phát triển, cơ cấu hạ tầng vật chất và xã

hội thấp kém, phân công lao đọng xã hội chưa sâu sắc, các mối quan hệ kinh tế kém

phát triển, thị trường còn đơn điệu. Đồng thời chúng ta còn mắc phải những sai lầm,

chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, mà đặc biệt là quy luật quan hệ sản

xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không

tuân thủ theo “ quá trình lịch sử tự nhiên” trong sự phát triển xã hội nói chung và trong

nền kinh tế nói riêng. Điều này đòi hỏi phải có một sự đổi mới sâu sắc và toàn diện

cho phù hợp với yêu cầu của quy luật khách quan, phù hợp với xu thế thời đại ngày

nay.

b. Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần.

Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần là do nhiều hình thức sở hữu

khác nhau về tư liêụ sản xuất. Đại hội đảng VII đã khẳng định các thành phần kinh tế

đang tồn tại khách quan tương ứng với tình chất và trình độ phát triển của lực lượng

sản xuất trong giai đoạn lịch sử hiện nay có là: quốc doanh, tập thể, cá thể, tư nhân,

TBCN và tư bản nhà nước.

Nền kinh tế nhiều thành phần đang trong sự vận động của cơ chế thị trường ở

nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém,

đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp.

Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú

trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý

theo định hướng XHCN. Do đó, việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải

đi đôi với tăng cường quản lý nhà nước về kinh tế xã hội. Để hạn chế và khắc phục

những hậu quả của mặt trái kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế

thị trường mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng phương hứng và phát huy bản

chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, đại hội đảng VII nhấn mạnh: nhà nước phải thực

hiện tốt vai trò quản lý kinh tế – xã hội bằng pháp luật, kế hoạch chính sách, thông tin,

tuyên truyền, giáo dục và các công cụ khác.

c. Nền kinh tế phát triển theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài

bằng nhiều hình thức.

Biệt lập trong trong sự phát triển kinh tế là cha đẻ của đói nghèo. Do đó, việc

mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài dưới nhiều dạng khác nhau đối với nước ta

như là một tất yếu trong sự phát triển. Tất yếu là vì sản xuất và trao đổi hàng hoá tất

yếu vượt khỏi phạm vi quốc gia, mang tính chất quốc tế, đông thời đó cũng là tất yếu

của sự phát triển nhu cầu nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập với nhịp điệu

của nền kinh tế thế giới.

d. Nền kinh tế hàng hoá phát triển theo định hướng XHCN thông qua bản chất

và vai trò quản lý của nhà nước.

Sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể nào giải

quyết hết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống KT –XH đặt ra.

Đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, ô nhiễm môi trường.... cũng như

hiện tượng xã hội khác. Những tình trạng và hiện tượng trên ở những mức độ khác

nhau, trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động ngược trở lại, làm cản trở sự phát triển

bình thường của một xã hội chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng. Vì vậy, sự

tác động của nhà nước vào nền kinh tế là một tất yếu để làm cho nền kinh tế lành

mạng hơn, giảm bớt những thăng trầm, đột biến xấu trên con đường phát triển của nó.

2. Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang

nền kinh tế thị trường có sự quản lý nhà nước ở Việt Nam.

Trước đây do chủ quan nóng vội muốn xây dựng một nền kinh tế thuần khiết

XHCN, nhà nước ta đã xây dựng một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hạch hoá

tập trung cao độ với thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu mà không

chú ý tới yếu tố thị trường, hàng hoá sản xuất ra được định giá sẵn và không tuân theo

những quy luật của thị trường. Trên thực tế, cơ chế kinh tế đó đã là vật cản đối với sự

phát triển kinh tế. Do đó, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ra đời mang tính

khách quan nó là kết quả của giải quyết mâu thuẫn tự có của nền kinh tế tự cung tự

cấp. Tuy nhiên, khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không có

nghĩa là phủ định sạch trơn tất cả những gì của nền kinh tế cũ mà một sự chuyển đổi

có tính chất kế thừa, trên cơ sở khắc phục, sử đổi những tồn tại, sai lầm vốn có và phát

huy những mặt tốt, mặt tích cực của nó, điều này được thể hiện như sau.

Trước hết đó là việc công nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế khác bên cạnh

hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.

Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay ở Việt Nam gồm các thành

phần kinh tế: thành phần kinh tế tư bản tư nhân... Như vậy mặc dù đã phủ định loại bỏ

những mặt yếu kém của nền kinh tế trước và phát triển nó một cách toàn diện tốt hơn.

Hai thành phần kinh tế quốc doanh và thành phần kinh tế tập thể vẫn giữa vai trò chủ

đạo trong đường lối phát triển kinh tế. Nhưng bước đổi mới quan trọng của Đảng và

Nhà nước là việc thừa nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế khác như kinh tế tư bản

tư nhân. Với sự chuyển đổi đó, phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế

của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi, trái lại ngày càng phát triển cả về

chiều rộng và chiều sâu. ở nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề mới ra đời và phát

triển. Bên cạnh những ngành nghề mới ra đời và phát triển đó, những ngành nghề cổ

truyền có tiếng không chỉ trong nước mà cả thế giới, có tiềm năng lớn mà trước đây bị

cơ chế kinh tế cũ làm mai một nay được phục hồi và phát triển. Trong nội bộ từng khu

vực, từng ngành, địa phương, phân công lao độngngày càng chi tiết hơn. Điều đó được

phản ánh ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng cao hơn của sản phẩm lao động đưa

ra trên thị trường. Sự chuyên môn hoá và hợp hoá lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc

gia trở thành quốc tế.

Cùng với việc công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau là sự

đa dnạg hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động như sở hữu

toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể của những người sản xuất hàng hoá nhỏ, sở hữu

tư nhân tư bản chủ nghĩa, sở hữu hỗn hợp khác: tư bản nhà nước, công ty cổ phần.

Đây cũng là một bước ngoặt quan trọng để giải phóng sức lao động, tạo điều

kiện cho quan hệ sản xuất phát triển phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và

phù hợp với yêu cầu phát triển của thời đại.

Ngoài việc chuyển đổi tư tưởng mạnh mẽ về việc đa dạng hóa các hình thức sở

hữu, các thành phần kinh tế, tính kế thừa trong công cuộc đổi mới ở nước ta còn được

thể hiện trong việc tiếp tục duy trì và phát huy công cụ kế hoạch một cách linh hoạt

bằng việc kết hợp “bàn tay vô hình” với “ bàn tay hữu hình”. Nền kinh tế nước ta, từ

nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung phụ thuộc hoàn toàn vào sự quản lý của nhà nước

đã chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tôn trọng những quy luật

khách quan của thị trường như quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh...

nhưng không phải để cho những quy luật này tự do chi phối điều tiết thị trường mà ở

đây có sự can thiệp của nhà nước. Nhà nước xuất hiện vừa với tư cách là một chủ thể

kinh tế hoạt động kinh doanh trên thị trường, vừa với tư cách là một chủ thể qủan lý,

bằng những chính sách linh hoạt của mình để điều tiết hoạt động thị trường. Nhà nước

không còn đưa ra kế hoạch sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiều mà vấn đề này sẽ được

thực hiện bởi thị trường. Nhà nước can thiệp với tư cách định hướng, điều tiết triên cơ

sở đưa ra các kế hoạch dài hạn.

Như vậy, nền kinh tế mới không thổi phồng, tuyệt đối hoá vai trò kinh tế của

nhà nước tới mức phủ nhận thủ tiêu vai trò chủ thể kinh tế của các công ty, xí nghiệp,

các tổ chức sản xuất kinh doanh độc lập. Thực hiện quản lý kinh tế của nhà nước trong

cơ chế quản lý tập chung quan liêu bao cấp là sai lầm. Trái lại vịn vào việc xây dựng

và phát triển vận động của các quy luật khách quan mà lại bỏ vai trò quản lý kinh tế

của nhà nước cũng không đúng. ở Việt Nam hiện nay để xây dựng và phát triển nền

kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với sự quản lý của nhà nước theo định hướng

XHCN tức là một mặt phải tiếp tục củng cố lại nền kinh tế thị trường với sự quản lý

của nhà nước, mặt khác phải không ngừng phát huy vai trò của nhà nước, của đảng,

luôn bảo đảm niềm tin của người dân lao động.

Hơn nữa, cơ chế thị trường với sự quản lý của nhà nước theo định hướng

XHCN đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế nước ta. Việc bổ sung pháp

luật tiếp tục đổi mới cơ chế và ngân sách về kế hoạch hoá, về giá, tỉ giá, tài chính,

ngân hàng, lao động, tiền công, đất đai... đang tạo môi trường thuận lợi cho các doanh

nghiệp phát huy tính năng động tự chủ tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh.

3. Những thành tựucủa công cuộc đổi mới.

Với sự chuyển đổi sâu sắc trong đường lối phát triển kinh tế, chúng ta đã d đạt

giả quyết được hàng loạt các vấn đề kinh tế cơ bản như:

- Thúc đầy quá trình XH hoá sản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân công lao

động, chuyên môn hoá sản xuất cũng sâu sắc, hình thành các mối liên hệ kinh tế và sự

phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền đề và sự phụ

thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền đề cho sự hợp tác

ngày càng chặt chẽ.

- Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế hàng hoá sự

tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu buộc người sản

xuất phải năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất lao động, cái

tiến chất lượng và hình thức mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu xã hội, tìm

mọi cách đưa ra thị trường những loại hàng hoá mới thích hợp với thị hiếu người tiêu

dùng... kết quả là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển sản xuất với thị trường.

- Thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế trong

nước và hoà nhập nền kinh tế thế giới.

- Giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền sản xuất khép

kín với kìm hãm sự phát triển cho việc tổ chức và quản lý một nền kinh tế ở trình độ

cao thực hiện với hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ.

Thực tế cho thấy, nền kinh tế nước ta sau công cuộc đổi mới không những

đứng vững mà còn đạt được những thành tựu nổi bật, khắc phục nhiều mặt đình đốn,

suy thoái, tốc độ tăng trưởng khá và liên tục, điển hình là: Lạm phát được đẩy lùi từ

67% năm 1991 xuống 17,5% năm 1992 và còn 5,2% năm 1993. Đến nay lạm phát của

nước ta chỉ còn 0,1% .Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm 7,2% sản

xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, vấn đề lương thực được giải quyết tốt,

sản lượng lương thực năm 1993 xấp xỉ 25 triệu tấn, vượt mức đề ra trong năm 1995.

Cơ cấu kinh tế đang biến đổi, một số ngành sản xuất kinh doanh mới xuất hiện.

Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá.

Để khắc phục được hầu hết hậu quả do thị trường truyền thống bị giảm sút đột ngột;

mở rộng giao lưu với nhiều bạn hàn mới, tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm xấp xỉ

20%. Tính đến năm 1993 đã cấp 836 giấy phép đầu tư nước ngoài với tổng số vốn

đầu tư đăng ký là 7,5 tỉ USD nhưng tới năm 1996 đã cấp 16454 giấy phép đầu tư nước

ngoài với tổng số vốn đăng ký đã là 21,8 tỉ USD, bước đầu thu hút thêm viện trợ phát

triển và vốn vay ưu đãi từ các chính phủ; lập lại quan hệ bình thường với các tổ chức

tài chính tiền tệ quốc tế.

Tuy vậy theo nhận định của Đảng ta thì cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đang

trong giai đoạn hình thành, các doanh nghiệp nhà nước đều được xắp xếp và đăng ký

lại. Đã giảm bớt một số lượng lớn nhưng doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài. Số đơn

vị kinh doanh có hiệu quả tăng lên. Khu vực kinh tế nhà nước nhìn chung vẫn phát

triển, nắm những lĩnh vực then chốt và giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc doanh,

tỷ trọng GDP tăng từ 34% năm 1990 lên 39,9% năm 1992.

V. Xu hướng phát triển trong quy luật phủ định của phủ định

Với xu hướng phát triển lên nền kinh tế thị trường làm con người trở nên năng

động hơn thái độ dựa dẫm, ngồi chờ ỷ lại vào cấp trên và nhà nước đã mất đi đáng kể.

Các chính sách kinh tế mới với cơ chế thị trường thực sự đã khơi dậy và nâng cao vai

trò chủ động, kích thích sự sáng tạo của người quản lý, người điều hành lẫn người trực

tiếp sản xuất. Tính hiệu quả của sản xuất kinh doanh được quan tâm đặc biệt, được coi

là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá một ngành sản xuất hoặc kinh doanh nào đó.

Nền kinh tế được cởi trói đã làm sống dậy biết bao tiềm năng vật chất và trí tuệ, giải

phóng được lực lượng sản xuất đã khơi dậy được các động lực cho chính nó. Nhờ vậy

mà đời sống của nhân dân ở nhiều vùng được cải thiện rõ rệt, điều quan trọng nhất là

đất nước đã ra khỏi khủng hoảng, đã tích lỹ từ nội bộ nền kinhtế cái thời mà nhiệm vụ

thường trực số một của chính phủ là lo điều hoà lương thực giữa các vùng, các miền

để cho dân có gạo ăn ở mức quy định, còn người dân muốn mua từ cái kim, sợi chỉ,

lạng đường cũng phải chen chúc xếp hàng và theo tem phiếu đã qua rồi để nhường chỗ

cho những lo toan mới là làm sao tiêu thụ các sản phẩm đã làm ra có đủ sức cạnh tranh

với hàng ngoại, chen chân vào được và hơn nữa trụ lại được ở thị trường các nước

khác.

Từ khi bắt đầu đổi mới, lĩnh vực đạt được những thành tựu lớn nhất, nổi bật

nhất là vững chắc nhất là nông nghiệp. Trước đây sau khi giành được thắng lợi vĩ đại

trong chiến tranh chống pháp chúng ta đã thực hiện chính sách công hữu hoá, xoá bỏ

sở hữu tư nhân phân phối sản phẩm bình quân, xây dựng các hợp tác xã quy mô lớn

chính sách trên đã đi đến thất bại từ khi thực hiện khoán 10 (tháng 4/1988) đã có sự

thay đổi đáng kể trong nền nông nghiệp với việc xác định hộ gia đình là đơn vị kinh tế

tự chủ đã từng bước khôi phục lại và tạo nên sức bật bất ngờ.

Cũng nhờ đổi mới chính sách kinh tế mà nhiều ngành nghề và nhiều vùng nghề

thủ công truyền thống có một thời bị thu hẹp, lại bị teo đi, thậm chí có nguy cơ mai

một này đã sống lại và phát triển mạnh hơn. Kinh tế hộ tư nhân đã phục hồi và phát

triển đã làm xuất hiện nhiều hàng hoá phát triển mà đã xuất hiện nhiều triệu phú và số

này đã chiếm từ 10 – 15% tổng số hộ nông dân.

Đối với kinh tế trong lĩnh vực công nghiệp đặc biệt là công nghiệp quốc doanh

do nhiều nguyên nhân khó khăn hơn, mặc dầu vậy, kết quả thu nhập được là tốc độ

tăng trưởng cũng đạt trên dưới 15% năm và hiện nay đang có xu hướng tăng cao hơn.

Bên cạnh đó luật đầu tư nước ngoài mà các chuyên gia phương Tây đánh giá là

tự do nhất so với các nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường, là luật cởi mở

nhất ở châu á.Chính vì vậy ngày nay thị trường nước ta thu hút thêm nhiều vốn đầu tư

nước ngoài. Kể từ khi luật đầu tư nước ngoài trực tiếp được ban hành ngày 29/12/1987

đến tháng 5/1996 những kết quả đạt được là khả quan. Tính từ năm 1988 đến

22/5/1996 đã có gần 1.644 dự án đầu tư được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký là

gần 21,8 tỷ USD. Chắc chắn rằng với chính sách đổi mới kinh tế như hiện nay đã có

thể khẳng định được rằng những thành tựu thu được đã đem lại niền tin cho mọi người

trong việc thực hiện mục tiêu dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, chấm

dứt được sự khủng hoảng của một nền kinh tế thiếu hụt đã tồn tại nhiều năm.

Các chính sách kinh tế mới với cơ chế thị trường thực sự đã khơi dậy và nâng

cao vai trò chủ động, kích thích sự sáng tạo của người quản lý, người điều hành lẫn

người trực tiếp sản xuất. Tính hiệu quả của sản xuất và kinh doanh được quan tâm đặc

biệt, được coi là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá một ngành sản xuất hoặc kinh

doanh nào đó. Nền kinh tế được cởi trói đã làm sống dậy biết bao tiềm năng vật chất

và trí tuệ, giải phóng được lực lượng sản xuất đã khơi dậy được các động lực cho

chính nó. Nhờ vậy mà đời sống của nhân dân ở nhiều vùng được cải thiện rõ rệt, điều

quan trọgn nhất là đất nước đã ra khỏi khủng hoảng, đã tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế

cái thời mà nhiệm vụ thường trực số 1 của chính phủ là lo điều hoà lương thực giữa

các vùng, các miền để cho dân có gạo ăn ở mức quy định, còn người dân muốn mua từ

cái kim sợi chỉ, lạng đường cũng phải chen chúc xếp hàng vào theo tem phiếu đã qua

rồi để nhường chỗ cho những lo toan mới là làm sao tiêu thụ các sản phẩm đã làm ra

có đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại, chem chân vào được và hơn nữa trụ lại được ở

thị trường các nước khác.

Cũng nhờ đổi mới chính sách kinh tế mà nhiều ngành nghề và nhiều vùng nghề

thủ công truyền thống có một thời bị thu hẹp, lại bị teo đi, thậm chí có nguy cơ mai

một này đã sống lại và phát triển mạnh hơn. Kinh tế hộ tư nhân đã phục hồi và phát

triển đã làm xuất hiện nhiều triệu phú, tỷ phú. Ngay cả trong lĩnh vực nông nghiệp,

nhờ nền sản xuất hàng hoá phát triển mà đã xuất hiện nhiều triệu phú và số này đã

chiếm từ 10 – 15% tổng số hộ nông dân.

Đối với kinh tế trong lĩnh vực công nghiệp đặc biệt là công nghiệp quốc doanh

do nhiều nguyên nhân có khó khăn hơn, mặc dầu vậy, kết quả thu nhập được là tốc độ

tăng trưởng cũng đạt trên dưới 15% năm và hiện nay đang có xu hướng tăng cao hơn.

Bên cạnh đó luật đầu tư nước ngoài mà các chuyên gia phương tây đánh giá là

tự do nhất so với các nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường, là luật cởi mở

nhất ở châu á.Chính vì vậy ngày nay thị trường nước ta thu hút thêm nhiều vốn đầu tư

nước ngoài. Kể từ khi luật đầu tư nước ngoài trực tiếp được ban hành ngày 29/12/1987

đến tháng 5/1996 những kết quả đạt được là khả quan. Tính từ năm 1998 đến

22/5/1996 đã có gần 1.644 dự án đầu tư trực tiếp cấp giấy phép với tổng số vốn đăng

ký là gần 21,8 tỷ USD. Chắc chắn rằng với chính sách đổi mới kinh tế như hiện nay đã

có thể khẳng định được rằng những thành tựu thu được đã đem lại niềm tin cho mọi

người trong việc thực hiện mục tiêu dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh,

chấm dứt được sự khủng hoảng của một nền kinh tế thiếu hụt đã tồn tại trong nhiều

năm.

c. Xu hướng phát triển của nền kinh tế Việt nam và một số giải pháp

I. Xu hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.

Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định

hướng XHCN là vấn đề hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử và không có

mô hình vạch sẵn. Do vậy không thể ngay từ đầu hình dung toàn bộ các chi tiết của mô

hình thị trường; cũng không thể vạch ngay được lịch trình cứng nhắc của bước chuyển

mà phải vừa thực hiện cơ chế thị trường vừa tổng kết để tiếp tục hoàn thiện. Việc

chuyển từng bước sang cơ chế thị trường cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và các

điều kiện chính trị, kinh tế xã hội nước ta, không áp dụng các biện pháp sốc vừa là đặc

điểm, vừa là quan điểm quan trọng của quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế xuất phát

từ đặc điểm kinh tế trong nước và quan hệ với bên ngoài, chúng ta đã áp dụng cơ chế

thị trường từng bước không dùng liệu pháp sốc. Có thể nói cho đến nay đã có những

cơ bản của cơ chế thị trường, dù chưa đầy đủ hoàn thiện. Điều quan trọng là cơ chế

này được nhân dân đồng tình và phát huy được tác dụng trong mọi mặt của đời sống

kinh tế.

Thực tiễn quá trình chuyển đổi cũng xuất hiện hàng loạt vấn đề mới những yếu

tố cản trở đồng thời cũng phát triển thêm nhận thức, khẳng định các quan điểm về

CNXH, quan điểm sở hữu quan điểm về vai trò nhà nước trong cơ chế thị trường... mà

thiéu chúng không thể nào có cơ sở hình thành một cơ chế vận hành nền kinh tế một

cách đúng đắn phù hợp với thực tiễn nước ta. Mặc khác, chúng ta không phủ định sạch

trơn những kết quả đạt được của mô hình kinh tế cũ.

Chúng ta chủ trương chuyển cơ chế thị trường cơ sở ổn định chính trị, lấy ổn

định chính trị làm tiêu đề và điều kiện cho phát triển kinh tế, mặt khác cũng nhận rõ

phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính, trên cơ sở đổi mới quản lý của nhà

nước nâng cao chất lượng, hiệu lực hiệu quả của quản lý của nó phù hợp với điều kiện

nền kinh tế thị trường, mà tiếp tục ổn định chính trị đưa cải cách tiến lên những bước

phát triển.

Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh

tế, thực hiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng

XHCN. Điều này không tránh khỏi những khuyết tật vốn có của nền kinh tế thị trường

như các vấn đề về lạm phát, thất nghiệp, vấn đề công bằng xã hội, sự ô nhiễm môi

trường và những tệ nạn xã hội phát sinh do mở cửa nền kinh tế. Đứng trước thực trạng

trên, trong giai đoạn quá độ hiện nay để có một bước phát triển cao hơn, hoàn thiện

hơn thì tất yếu chúng ta phải tìm ra những biện pháp nhằm khắc phục những khuyết tật

của nền kinh tế thị trường trên cơ sở phát huy những mặt tích cực của nó, đồng thời

kiên định đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước mà kim chỉ nam chính là chủ

nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin.

II. Một số vấn đề cần nghiên cứu và các giải pháp thực hiện.

Theo phương diện triết học chuyển đổi sang nền kinh tế cơ chế thị trường với

sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, để đạt được một nền kinh tế vững

mạnh thì trước hết ta phải tìm ra con đường nhanh nhất để thực hiện đồng bộ cơ chế

thị trường theo định hướng XHCN.

Để thực hiện được mục tiêu cuối cùng là vững bước đi lên XHCN thì quá trình

phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN cần được tiến hành theo 3

giai đoạn.

Giai đoạn thứ nhất là phát triển các vùng, tỉnh, thành phố, bộ phận nhân nhân

dân có điều kiện thuận lợi, đạt trình độ khá, giàu có nhanh. Muốn vậy, cần khuyến

khích mạnh mẽ để phát huy nội lực, thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài có hiệu

quả để tăng trưởng kinh tế nhanh, cho phép để cho một số vùng, một số tỉnh, một số

bộ phận dân có điều kiện thuận lợi, có lợi thế so sánh giàu nhanh hơn, sớm hơn các

vùng, tỉnh và một bộ phận nhân dân ở vùng khó khăn, vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Sự

giầu có nhanh hơn, sớm hơn của một số vùng, một số tỉnh và một bộ phận nhân dân

phải theo nguyên tắc bảo đảm cho nước mạnh. Xem xét một cách đồng bộ, chúng ta

thấy một mặt đây là xu hướng phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường, so quan hệ

cung cầu và giá cả thị trường quyết định mà chúng ta đang chấp nhận; nhưng mặt khác

chúng ta thấy nền kinh tế thị trường có những khuyết tật, mặt trái như “ con dao hai

lưỡi” cho nền kinh tế thị trường của chúng ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường có sự

quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Theo quan điểm đó, trong khi quan

điểm đó, trong khi thực hiện chính sách ưu tiên, thực hiện tập trung đầu tư của nhà

nước, khuyến khích đầu tư của nước ngoài, nhân dân để phát triển kinh tế nhằm cho

phép một số vùng, tỉnh, một bộ phận dân giầu lên nhanh hơn, sớm hơn, chúng ta cần

coi trọng đúng mức đến nhu cầu cần thiết tối thiểu về đầu tư trong việc phát triển ở các

vùng khó khăn, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, trước hết là các xã, các hộ đặc biệt khó

khăn ở đồng bằng trung du, miền núi, vùng sâu, vùng cao, vùng xa. Làm như vậy

chính là từng bước thực hiệm mục tiêu định hướng XHCN ngay trong quá trình phát

triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.

Nhà nước phải xâydựng đúng đắn, đồng bộ quy hoạch phát triển chung của cả

nước, từng vùng, từng tỉnh, từng huyện, quận, từng xã phường, từng bản làng, phải coi

đây là cơ sở pháp lý thống nhất để xác định cơ cấu kinh tế.

Muốn vậy, cần thực hiện những chủ trương, biện pháp quan trọng sau đây:

- Nhà nước cần chỉ đạo xây dựng đúng đắn quy hoạch phát triển kinh tế – xã

hội của các vùng, các tỉnh trở thành vùng, tỉnh khá, giàu có. Ưu tiên tập trung đầu tư

ngân sách nhà nước để phát triển nhanh kinh tế xã hội của các tỉnh khó khăn theo quy

hoạch phát triển đã được duyệt.

- Nhà nước cần quy định rõ nghĩa vụ cho các vùng, tỉnh đã đạt được trình độ

khá và giầu có hơn đối với sự phát triển của các vùng tỉnh khó khăn như đưa vốn vào

đầu tư liên doanh, đào tạo cán bộ, công nhân, chuyển giao công nghệ..

- Có chính sách khuyến khích ưu đãi mạnh để thu hút các nhà đầu tư nước

ngoài, đầu tư trong nước, đưa vốn vào, đưa công nghệ vào đầu tư phát triển các vùng

khó khăn, các vùng miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, các vùng trung du và đồng

bằng có nhiều khó khăn là các vùng khó khăn để phát triển các vùng này cần ưu đãi

khuyến khích về thủ tục đầu tư các quyền sử dụng đất, thuế xuất nhập khẩu, vay vốn

đầu tư.

- Các vùng, các tỉnh khó khăn cần chủ động có quy hoạch và kế hoạch đầu tư

phát triển kinh tế xã hội, khai thác tối đa các nguồn lực hiện có. Các vùng các tỉnh khó

khăn cần tạo những điều kiện thuận lợi cho các tổ chức đầu tư bằng ngân sách của Nhà

nước, đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước, các vùng và tỉnh giầu có hơn tiến hành

các hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh, bằng cách đó các vùng, tỉnh khó khăn sẽ

đạt được trình độ khá và giàu có về kinh tế để có cơ sở đảm bảo sự công bằng.

Giai đoạn ba là phát triển các vùng, các tỉnh thành phố cả nước đạt trình độ khá,

giàu có về kinh tế và đảm bảo được sự công bằng và công minh, vững bước đi lên

CNXH. Để thực hiện thành công giai đoạn này – giai đoạn công bằng xã hội, văn

minh, vững bước đi lên CNXH, chúng ta cần giải quyết tốt những vấn đề như là:

- Đánh giá tổng hợp kết quả, tồn tại trong việc phát triển ở giai đoạn một và giai

đoạn hai để có kế hoạch điều chỉnh cần thiết các vùng, các tỉnh, tiếp tục phát triển để

đảm bảo cho nhân dân các vùng, các tỉnh trong cả nước khá hơn, giàu hơn về kinh tế,

bảo đảm thực sự công bằng có cuộc sống vật chất, tinh thần văn minh: con người phát

triển toàn diện và mang đủ bản sắc dân tộc.

- Nhà nước cần tiếp tục đầu tư bằng ngân sách nhà nước, phát huy nguồn nhân

lực có của giai đoạn một và hai để thực hiện kế hoạch điều chỉnh trong phát triên ở các

tỉnh, vùng chưa đạt trình độ khá và giầu có so với mức trung bình chung của cả nước

sau khi kết thúc giai đoạn một và giai đoạn hai.

- Phát huy nội lực các vùng, các tỉnh giàu có đạt được trên mức trung bình

chung của cả nước để trực tiếp đầu tư, liên doanh, hỗ trợ, giúp đỡ các vùng, các tỉnh

chưa đạt trình độ trung bình chung của cả nước phát triển để đạt được mức trung bình

chung hoặc cao hơn trong giai đoạn ba.

- Thực hiện đầy đủ chính sách để bảo đảm sự công bằng trên các mặt: tuyệt đại

đa số người lao động, công dân Việt Nam có đủ việc làm, được học hành, vui chơi,

giải trí; đảm bảo đầy đủ các quyền dân chủ cho người lao động và công dân Việt

Nam; đảm bảo ăn ngon mặc đẹp, có cuộc sống tự do hạnh phúc và sốn văn minh về vật

chất.

- Bảo đảm thực hiện các chính sách văn minh về tinh thần và phát triển toàn

diện của người lao động và nhân dân Việt Nam, phát huy đầy đủ bản sắc văn hoá dân

tộc Việt Nam, đảm bảo cho mục tiêu của CNXH được thực hiện đầy đủ.

Tóm lại, cả ba giai đoạn nêu trên có trọng tâm, trọng điểm phát triển khác nhau

trong một quá trình thống nhất nên có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện và tiền

đề cho nhau phát triển và có những mặt đan xen nhau trong quá trình phát triển. Để

thực hiện được các giai đoạn phát triển cho thế hệ mai sau thì một bộ phận không nhỏ

thế hệ hiện tại của thế kỷ 20 và phần của thế kỷ 21 phải chấp nhận một sự bất công

bằng tạm thời trong một giới hạn nhất định, phải chấp nhận một sự phân hoá giàu

nghèo nhất định.... Sự thiệt thòi, hy sinh, mất công bằng, phân hoá giàu nghèo chỉ

được dao động trong giới hạn cho phép. Giới hạn cho phép đó được quy định hợp lý

bởi mục tiêu tăng trưởng, phát triển bền vững và ổn định chính trị xã hội. Điều đó đòi

hỏi trong tổ chức thực hiện điều hành phải phát hiện và kiên quyết điều chỉnh kịp thời

hàng năm, điều chỉnh trong từng giai đoạn để giữ vững giới hạn an toàn nhất cho sự

phát triển. Có thể khẳng định rằng mục tiêu ổn định chính trị xã hội là mục tiêu số

một, thường xuyên và lâu dài để điều chỉnh các giai đoạn phát triển và toàn bộ quá

trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam.

Kết luận

Khi xem xét sự phát triển có một vấn đề được đặt ra là sự phát triển diễn ra theo

chiều hướng nào? Quan điểm duy vật biện chứng, triết học Mác đã mang lại câu trả lời

cho vấn đề ở chỗ: từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, sự đấu

tranh của các mặt đối lập dẫn tới mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật

mới ra đời. Sự ra đời đó là một mắt xích trong sợi dây xích phát triển và kết quả của sự

phủ định cái cũ, cái lỗi thời trên cơ sở kế thừa, lấp lại nhưng không quay trở lại và tính

chất tiến lên của sự phát triển.

Nhìm vào quá trình phát triển nền kinh tế nước ta, chúng ta thấy việc chuyển

đổi nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung quan liêu báo cấp sang nền kinh tế thị trường

có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN là một tất yếu khách quan, phù

hợp với quy luật phát triển. Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế, chúng ta cần xoá bỏ

và khắc phục được những khuyết tật, hạn chế của nền kinh tế chỉ huy, kế thừa những

mặt tích cực và phát huy chúng để xây dựng một nền kinh tế thế giới. Đây là bước

phát triển cao hơn so với nền kinh tế cũ nhưng chúng ta đã cần phải nhận thức sâu sắc

rằng đây không phải là sự phát triển cao nhất bởi mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại

trong lòng nó những mâu thuẫn, và cái mới sẽ ra đời thay thế cái cũ. Chính vì vậy mà

trên con đường phát triển kinh tế của mình, chúng ta luôn phải nghiên cứu tìm tòi ra

những giải pháp nhằm đạt được những bước phát triển cao hơn.

Mục lục

Lời nói đầu .......................................................................................................

A. Cơ sở lý luận ...............................................................................................

Phần I. Quy luật phủ định của phủ định.....................................................

I. Khái niệm phủ định biện chứng và những đặc điểm của nó .......................

1. Khái niệm ......................................................................................................

2. Đặc điểm........................................................................................................

II. Quy luật phủ định của phủ định và hình thức “xoáy ốc” của sự

Phát triển ..........................................................................................................

1. Nội dung ........................................................................................................

2. ý nghĩa của quy luật phủ định của phủ định................................................

Phần II. Những lý luận về thị trường ..........................................................

I. Nền kinh tế kém phát triển mang tính tự cấp, tự túc ............................

II. Nền kinh tế hàng hoá ................................................................................

III. Nền kinh tế thị trường tự do ..................................................................

IV. Nền kinh tế thị trường hỗn hợp .............................................................

B. Phép phủ định biện chứng đối với

công cuộc đổi mới ở việt nam ........................................................................

I. Sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá là tất yếu khách quan, phủ

định lại nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã khôngcòn phù

hợp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ..................

1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu

bao cấp ở Việt Nam ....................................................................................

2. Sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản

lý của nhà nước là một xu hướng phát triển tất yếu khách quan ..................

II. Tính kế thừa trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam .................

1. Đặc trưng của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự

quản lý của nhà nước ở Việt Nam ...................................................................

2. Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp

Sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý nhà nước ở Việt Nam ..................

3. Những thành tựu và thành công đổi mới .....................................................

III. Xu hướng phát triển trong quy luật phủ định của phủ định ............

C. Xu hướng phát triển của nền kinh tế

Việt Nam và một số giải pháp .......................................................................

I. Xu hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong

giai đoạn thiếp theo .....................................................................................

II. Một số vấn đề cần nghiên cứu và các giải pháp thực hiện ..................

Kết luận .....................................................................................................