172
HC VIN CHÍNH TRQUC GIA HCHÍ MINH HÀ THTHUDƯƠNG ẢNH HƯỞNG TIÊU CC CA TÂM LÝ TIU NÔNG ĐẾN THC HIN DÂN CHCƠ SỞ VIT NAM HIN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC CHUYÊN NGÀNH CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2019

HÀ THỊ THUỲ DƯƠNG - hcma.vn HA THI... · LỜI CAM ĐOAN. Tôi xin cam đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quảnêu trong luận

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HÀ THỊ THUỲ DƯƠNG

ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÂM LÝ TIỂU NÔNG

ĐẾN THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ VIỆT NAM

HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

CHUYÊN NGÀNH CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2019

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HÀ THỊ THUỲ DƯƠNG

ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÂM LÝ TIỂU NÔNG

ĐẾN THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ VIỆT NAM

HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC CHUYÊN NGÀNH CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

Mã số: 62.22.03.02

Người hướng dẫn khoa học: 1. GS, TS. Lê Hữu Nghĩa

2. TS. Trần Sỹ Dương

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn

gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Hà Thị Thùy Dương

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI ............................................................................................ 6 1.1. Những công trình nghiên cứu về dân chủ ở cơ sở, về tâm lý tiểu nông

trên phương diện lý luận ..................................................................................... 6 1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm

lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở tại Việt Nam hiện nay ................. 16 1.3. Những công trình nghiên cứu về giải pháp để hạn chế những ảnh hưởng

tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở nước ta hiện nay ............................................................................................................ 23

1.4. Những giá trị của các công trình được tổng quan và những vấn đề cần đặt ra cho tác giả luận án cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết .......................... 29

CHƯƠNG 2: TÂM LÝ TIỂU NÔNG VÀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ............................................................. 33

2.1. Một số vấn đề lý luận về tâm lý tiểu nông ......................................................... 33 2.2. Một số vấn đề lý luận về thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay ......... 50 2.3. Phương thức tác động và sự cần thiết phải hạn chế những ảnh hưởng tiêu

cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở .................................. 64 CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÂM LÝ TIỂU NÔNG ĐẾN

THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN ................................................... 79

3.1. Thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay ........................................................................ 79

3.2. Nguyên nhân của thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở ........................................................................ 103

CHƯƠNG 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÂM LÝ TIỂU NÔNG ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ VIỆT NAM HIỆN NAY .............................................. 114

4.1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - cơ sở vật chất để hạn chế, xoá bỏ những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông .................... 114

4.2. Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, tuyên truyền, nâng cao trình độ, nhận thức, văn hóa của nhân dân.................................................................... 122

4.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở, trong đó có pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn .................................. 133

4.4. Hoàn thiện công tác cán bộ nhằm đảm bảo đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất ...................................................... 139

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 150

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ĐÃ CÔNG BỐ .................................................................. 152 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 153

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta, dân chủ đã được xác

định là một trong hệ mục tiêu của công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

nước ta. Đến đại hội lần thứ XI, hệ mục tiêu đổi mới của Việt Nam được Đảng ta

xác định là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, như vậy dân chủ

đã được đặt lên trước mục tiêu công bằng. Điều này thể hiện sự phát triển nhận thức

của Đảng về dân chủ, dân chủ là mục tiêu, là yếu tố thể hiện bản chất của chế độ xã

hội chủ nghĩa ở nước ta. Cùng với đó, dân chủ còn được xác định là động lực của

công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, dân chủ có trở thành động lực thực sự cho sự phát

triển đất nước hay không, bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, là chế độ

của dân, do dân và vì dân có được thể hiện hay không tùy thuộc vào mức độ dân

chủ hóa, mức độ thực hành dân chủ trong đời sống xã hội. Trong đó, việc thực hiện

dân chủ ở cơ sở là một nội dung quan trọng và đòi hỏi cấp bách nhất trong quá trình

dân chủ hóa, xây dựng và hoàn hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nếu

như tại cơ sở, nhân dân chưa được thực sự làm chủ thì khó có thể nói làm chủ ở

những cấp cao hơn, phạm vi rộng hơn.

V.I.Lênin đã từng khẳng định không phải chúng ta tuyên bố dân chủ, ra sắc

lệnh dân chủ là có dân chủ trong thực tế. Việc biến các giá trị dân chủ trở thành hiện

thực cuộc sống là một quá trình lâu dài, phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố như sự hoàn

thiện của cơ chế, pháp luật dân chủ, trình độ, ý thức làm chủ của người dân và năng

lực, thái độ tôn trọng phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức… [210]. Với

đặc điểm của một nước nông nghiệp lạc hậu bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên

chủ nghĩa xã hội như ở nước ta thì việc hiện thực hóa các giá trị dân chủ trong thực

tiễn đời sống là vô cùng khó khăn. Những thách thức ấy không chỉ xuất phát từ chỗ

người dân và cán bộ chưa được đào luyện, trưởng thành trong nền dân chủ tư sản mà

còn bị ảnh hưởng bởi những tàn dư về tư tưởng, tâm lý của xã hội phong kiến, xã hội

tiểu nông trước đây. Để thực hiện dân chủ nói chung, thực hiện dân chủ ở cơ sở nói

riêng, điều quan trọng là phải nhận diện rõ những rào cản đối với việc thực hiện dân

2

chủ, trong đó một trở lực rất đáng quan tâm chính là tâm lý tiểu nông. Như tác giả

Hoàng Chí Bảo từng khẳng định:

...muốn thực hiện được vai trò và tác dụng tích cực của dân chủ đối với

sự phát triển của cá nhân và xã hội thì phải thường xuyên phát hiện và

tháo gỡ những rào cản dân chủ, xoá bỏ những phản dân chủ trong xã hội

cả những biểu hiện hữu hình có thể cảm nhận được trong thể chế, trong

bộ máy và con người lẫn những biểu hiện vô hình trong tâm ý, ý thức, lối

sống phong tục, tập quán lạc hậu có trong đời sống hàng ngày của cá

nhân và cộng đồng [9, tr.13].

Xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt của thực hiện dân chủ ở cơ sở với xây

dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Bộ Chính trị ban hành

chỉ thị 30 năm 1998 về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và đặc biệt

là sự ra đời của pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007, việc

thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã có những chuyển biến tích cực. Người

dân đã có cơ sở pháp lý để thực hiện quyền làm chủ của mình. Tuy nhiên, mức độ

ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với việc thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở nặng nề

hơn so với các cấp cao hơn. Một phần, do trong thực hiện dân chủ ở cơ sở, hình

thức dân chủ trực tiếp được phát huy tối đa với sự tham gia của đông đảo người

dân, vì vậy đối tượng tham gia thực hiện dân chủ ở diện rộng. Một phần khác, do

cán bộ ở cơ sở đều là những người quen biết, họ hàng, không hề xa lạ với người dân

nên họ không chỉ bị tác động bởi những quy định của luật pháp mà còn bị chi phối

bởi các mối quan hệ phi quan phương khác. Người dân và cán bộ ở cơ sở, đa số là ở

các xã (Việt Nam có hơn 11.000 xã, phường, thị trấn thì đến hơn 8000 xã), hoạt

động của nhiều người dân vẫn là sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún, do đó

những tàn dư của tâm lý tiểu nông ở bộ phận này nặng nề hơn so với các tầng lớp

khác. Vì vậy, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện

dân chủ thì trước hết phải quan tâm đến cấp cơ sở, cấp xã.

Thời gian qua, triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị định và pháp lệnh dân

chủ ở xã, phường thị trấn trong thực tế, quyền dân chủ của người dân trên các mặt

kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đã được khẳng định ngày càng tốt hơn. Thông qua

đó, ý thức, năng lực làm chủ của người dân được nâng lên, thái độ, tác phong, tinh

3

thần phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ công chức cấp xã cũng có nhiều chuyển

biến tích cực. Tuy nhiên, quá trình thực hiện dân chủ ở các xã vẫn còn những bất

cập, tình trạng dân chủ hình thức, độc đoán chuyên quyền vẫn còn tồn tại ở không ít

nơi, một bộ phận người dân cũng chưa tích cực, chủ động hưởng quyền dân chủ của

mình, hoặc thực hiện nhưng không hướng đến lợi ích chung của cộng đồng…

Những hạn chế trong chất lượng thực hiện dân chủ ở cơ sở có nhiều nguyên nhân

khác nhau, trong đó một phần xuất phát từ chính tâm lý tiểu nông đã ăn sâu vào

trong suy nghĩ và hành động của cán bộ và người dân ở cơ sở.

Vì vậy, việc nhận diện rõ những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến

việc thực hiện dân chủ ở cơ sở nước ta là rất cần thiết để chúng ta có những biện

pháp chủ động ngăn ngừa, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông,

góp phần thiết thực vào việc đẩy mạnh thực hành dân chủ ở nước ta, đưa dân chủ

thực sự trở thành động lực để phát triển đất nước và hiện thực hóa các mục tiêu của

sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với những lý do đó, tôi lựa chọn đề

tài “Ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt

Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án

2.1. Mục đích Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về tâm lý tiểu nông, về thực hiện

dân chủ ở cơ sở và thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc

thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất một số giải pháp để

ngăn ngừa, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc thực

hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam trong thời gian tới.

2.2. Nhiệm vụ - Tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận án;

Làm rõ những vấn đề lý luận về tâm lý tiểu nông và thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt

Nam hiện nay; phân tích sự cần thiết phải hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của

tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở, phương thức tác động của tâm lý

tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở.

- Phân tích thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc thực

hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay, nguyên nhân của thực trạng đó.

4

- Đề xuất một số giải pháp hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu

nông đến việc thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng của luận án là ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc

thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về phạm vi nội dung nghiên cứu của luận án là việc thực hiện dân chủ của

nhân dân và cán bộ ở các xã. Nội dung của việc thực hiện dân chủ ở các xã cũng

được khảo sát trên cơ sở nội dung của pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,

thị trấn.

Phạm vi không gian: các xã trong phạm vi không gian lãnh thổ Việt Nam.

Phạm vi thời gian: từ năm 2007 (khi có Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn) đến nay.

4. Những đóng góp mới của luận án - Những vấn đề về tâm lý tiểu nông, về thực hiện dân chủ ở cơ sở đã đươc

nhiều công trình bàn tới nhưng những phương thức tác động của tâm lý tiểu nông

đến thực hiện dân chủ ở cơ sở, đó là thông qua phong tục tập quán và giáo dục gia

đình là nội dung mà chưa công trình nào đề cập tới và sẽ được làm rõ trong luận án.

- Nhận diện và chỉ rõ những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong

thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay ở cả người dân và cán bộ cơ sở, đánh

giá mức độ tác động của tâm lý này trong thực hiện 4 nhóm quyền cơ bản của người

dân là quyền được biết, quyền được tham gia ý kiến, quyền biểu quyết, quyết định

và quyền kiểm tra, giám sát.

- Đề xuất được một số giải pháp để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của

tâm lý tiểu nông đến việc thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam trong thời gian tới,

trong đó đặc biệt là giải pháp xoá bỏ dần phương thức tác động của tâm lý tiểu nông

đến thực hiện dân chủ qua đó nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu

nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở. Bên cạnh đó, giải pháp về hoàn thiện hệ thống

pháp luật về dân chủ ở cơ sở đã có một số công trình nói tới, nhưng hoàn thiện hệ

5

thống pháp luật về dân chủ ở cơ sở nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của

tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở là những đóng góp mới, chưa được

đề cập ở các công trình trước.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

5.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận của luận án là các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh; Quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước ta về thực hành dân chủ., về ý thức xã hội, ý thức nông dân…

5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng

và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng các phương pháp phân tích và tổng

hợp, lịch sử và lôgíc, quy nạp và diễn dịch, phương pháp so sánh, phương pháp

chuyên gia…

6. Ý nghĩa của luận án

- Góp phần cung cấp cơ sở lý luận cho Đảng, Nhà nước trong việc hoạch

định chủ trương, chính sách, pháp luật về phát huy dân chủ cơ sở, hạn chế ảnh

hưởng của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.

- Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu

tham khảo cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã cũng như nhân dân trong quá trình

thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, làm tài liệu nghiên cứu và giảng dạy trong

các trường chính trị, trường đại học, cao đẳng.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình khoa học liên quan

đến đề tài luận án của nghiên cứu sinh, Danh mục tài liệu tham khảo, luận án chia

làm 4 chương 13 tiết.

6

Chương 1

TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ, VỀ

TÂM LÝ TIỂU NÔNG TRÊN PHƯƠNG DIỆN LÝ LUẬN

1.1.1. Những công trình nghiên cứu về dân chủ ở cơ sở trên phương diện

lý luận

Về những công trình nghiên cứu ở nước ngoài: vấn đề dân chủ ở cơ sở cũng

là một nội dung quan trọng trong thực hiện dân chủ, được nhiều nước quan tâm.

Đặc biệt, quá trình thực hiện dân chủ cơ sở ở Trung Quốc có nhiều điểm tương

đồng với Việt Nam và cũng được giới khoa học của Trung Quốc nghiên cứu khá

sâu sắc ở nhiều góc độ khác nhau.

Ở Trung Quốc, nội dung của dân chủ cơ sở đã được luật hoá bằng các luật và

có những nội dung gần giống như ở Việt Nam mặc dù tên gọi có khác. Vương Đổng

trong Xây dựng dân chủ cơ sở trong 30 năm cải cách mở cửa [59] cho rằng, từ cải

cách mở cửa đến nay, Trung Quốc từng bước thiết lập nên hệ thống tự trị dân chủ ở

cơ sở với nội dung chủ yếu là Ủy bản thôn dân ở nông thôn, Ủy ban cư dân ở đô thị

và Đại hội đại biểu người lao động ở các doanh nghiệp. Nội dung cơ bản của dân

chủ cơ sở ở Trung Quốc chính là bầu cử dân chủ, quản lý dân chủ, quyết sách dân

chủ, giám sát dân chủ. Bầu cử dân chủ người dân trực tiếp bầu ra uỷ ban dân thôn

đại diện cho họ trong thực hiện quyền tự trị ở thôn. Quản lý dân chủ nghĩa là người

dân được biết và cùng nhau quản lý những vấn đề lớn trong phạm vi thôn. Quyết

sách dân chủ là những chính sách lớn thực hiện ở thôn đều phải có sự bàn bạc, biểu

quyết của nhân dân và giám sát dân chủ là người dân được tham gia vào quá trình

giám sát các hoạt động diễn ra ở thôn. Nội dung những quyền này của người dân

cũng đã được thể chế hoá ở Việt Nam.

Nghiên cứu về vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng được

nhiều học giả Trung Quốc chỉ ra. Các tác giả cũng tiếp cận vai trò, ý nghĩa ở nhiều

góc độ khác nhau, vai trò của dân chủ đối với việc xây dựng chế độ chính trị dân

chủ xã hội chủ nghĩa, với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc cũng như

thực hiện các mục tiêu ở Trung Quốc như xây dựng xã hội hài hoà… Tác giả Lưu

7

Diệp Phong trong bài viết Ý nghĩa của việc tăng cường xây dựng dân chủ cơ sở ở

nông thôn và một số khó khăn hiện thực [145] khẳng định, xây dựng chính trị dân

chủ ở cơ sở lấy tăng cường tự trị thôn dân làm nội dung chủ yếu là một công việc

đặc biệt quan trọng trong tiến trình dân chủ hóa ở Trung Quốc, là thực tiễn quan

trọng của cải cách thể chế chính trị nông thôn Trung Quốc. Đồng thời chỉ ra một số

khó khăn, thách thức trong việc thực hiện tự trị thôn dân ở Trung Quốc hiện nay.

Dương Ái Dân trong cuốn sách Nghiên cứu xây dựng dân chủ chính trị ở cơ sở [31]

đã phân tích giá trị và ý nghĩa của việc xây dựng dân chủ ở cơ sở trên các phương

diện như: xây dựng dân chủ ở cơ sở với việc xây dựng xã hội hài hòa, xây dựng dân

chủ với văn minh chính trị xã hội chủ nghĩa, chế độ chính trị dân chủ xã hội chủ

nghĩa với chính trị dân chủ ở cơ sở; Tác giả cũng khẳng định quần chúng nhân dân

ở cơ sở là chủ thể dân chủ ở cơ sở. Trương Nông An trong Tự trị thôn dân - con

đường tất yếu của xây dựng dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc [1] khẳng định

tự trị thôn dân là một mắt khâu trong tiến trình cải cách thể chế chính trị Trung

Quốc. Thái Đài Hồng trong bài viết Một số suy nghĩ về thúc đẩy xây dựng dân chủ

cơ sở ở nông thôn [79] cho rằng, xây dựng dân chủ ở cơ sở là một bộ phận quan

trọng của xây dựng dân chủ ở Trung Quốc. Thực trạng xây dựng và phát triển dân

chủ ở cơ sở trực tiếp ảnh hưởng đến trình độ phát triển và mức độ thực hiện của dân

chủ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng dân chủ cơ sở ở nông thôn là một bộ phận quan

trọng của xây dựng dân chủ ở cơ sở.

Như vậy, dân chủ cơ sở ở Trung Quốc có những nội dung tương đồng với

quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam, đồng thời cũng có nhiều sự khác

biệt. Ở Trung Quốc, dân chủ ở cơ sở lấy cấp thôn làm điểm xuất phát, trong khi ở

Việt Nam là cấp xã. Một sự khác biệt nữa trong dân chủ cơ sở ở Việt Nam và

Trung Quốc là ở Trung Quốc, nhân dân trực tiếp bầu và bãi nhiệm uỷ ban thôn

dân (từ 5 đến 7 người), trong khi ở Việt Nam nhân dân trực tiếp bầu và bãi nhiệm

trưởng thôn.

Về tình hình nghiên cứu ở trong nước: nghiên cứu về dân chủ ở cơ sở, đặc

biệt là dân chủ ở xã, phường, thị trấn thu hút sự tham gia của rất nhiều nhà khoa học

và những người lành đạo thực tiễn ở nước ta từ năm 1998 đến nay. Các công trình

8

này đã góp phần làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến thực hiện dân chủ ở cơ

sở theo nhiều góc độ khác nhau:

Những công trình đi sâu nghiên cứu nội dung của thực hiện dân chủ ở cơ sở

Tác giả Đỗ Quang Tuấn trong bài “Cơ sở lý luận - thực tiễn của phương

châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và mấy vấn đề về xây dựng quy chế

dân chủ ở cơ sở” [202], đã đề cập những nội dung dân biết, dân bàn, dân làm, dân

kiểm tra trong quy chế dân chủ ở cơ sở. Tác giả Đỗ Mười với bài “Phát huy quyền

làm chủ của nhân dân ở cơ sở” [121] cũng chỉ rõ “Quy chế dân chủ ở xã có nội

dung chủ yếu là xác định quyền làm chủ của nhân dân tham gia quản lý nhà nước,

quản lý xã hội ở cơ sở, xác định mối quan hệ giữa nhân dân và chính quyền cơ sở”.

Tác giả Nguyễn Long Khánh với bài “Thực hiện dân chủ ở cơ sở theo tư tưởng Hồ

Chí Minh” [90] chỉ rõ quan niệm về thực hiện dân chủ ở cơ sở “Thực hiện dân chủ

ở cơ sở là thực hiện các quá trình dân chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội một

cách trực tiếp, rộng rãi và liên tục đối với mọi người, đối với mọi giới và mọi lứa

tuổi”. Bên cạnh những tác giả tiếp cận nội dung của thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn trên các nội dung dân biết, dân bàn, dân quyết định, dân kiểm tra

thì tác giả Lê Thi trong bài “Thực hiện dân chủ ở cơ sở và vấn đề tăng cường ý thức

trách nhiệm của nhà nước” [176] cho rằng, dân chủ ở cơ sở không phải là hình

thức mà là một cấp độ của chế độ dân chủ. Nội dung của dân chủ cơ sở thể hiện

dưới hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Tiếp cận nội dung của quyền

dân chủ ở cơ sở theo phương châm dân biết, dân bàn, dân quyết định, dân kiểm tra,

tác giả Nguyễn Hồng Chuyên trong bài viết “Đổi mới cơ chế dân biết, dân bàn, dân

làm, dân kiểm tra trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã” [27] đã phân tích

cụ thể nội dung các quyền dân biết, dân bàn, dân quyết định dân kiểm tra theo pháp

luật về dân chủ ở cấp xã là gì và đưa ra những yêu cầu trong thực hiện các nhóm

quyền này.

Như vậy, tiếp cận về nội dung của thực hiện dân chủ ở cơ sở, các tác giả có

nhiều góc độ xem xét khác nhau nhưng đều thống nhất ở các nội dung dân biết, dân

bàn, dân quyết định, dân kiểm tra. Có những tác giả làm rõ mối quan hệ giữa các

quyền này, đồng thời một số nhà nghiên cứu cũng đã bước đầu chỉ ra quyền dân chủ

9

trực tiếp và dân chủ gián tiếp trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Những nội dung này

sẽ được tác giả luận án kế thừa và phát triển trong phân tích những vấn đề lý luận về

dân chủ ở cơ sở.

Những công trình nghiên cứu về sự cần thiết, ý nghĩa, vai trò của việc thực

hiện dân chủ ở cơ sở:

Về sự cần thiết của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, nhiều nhà khoa học đã có

những lí giải của mình. Tác giả Bùi Ngọc Trinh với bài “Để thực hiện dân chủ trực

tiếp trên địa bàn làng xã” [196] cho rằng, cần thực hiện quyền dân chủ trực tiếp ở

địa bàn làng xã nơi mà mọi người sống khá ổn định, gắn bó về mặt văn hóa, phong

tục, tình cảm, gia đình, dòng họ. Tác giả Đỗ Mười với bài “Phát huy quyền làm chủ

của nhân dân ở cơ sở” [121] chỉ ra thêm 2 lí do phải thực hiện dân chủ ở cơ sở đó

là xã là địa bàn nhân dân sinh sống, lao động, sản xuất công tác, là địa bàn diễn ra

sự tiếp xúc và các mối liên hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân với đảng bộ và

chính quyền, cán bộ, công chức. Đồng thời đông đảo nhân dân ở cơ sở có những

yêu cầu bức xúc về dân chủ, có những nguyện vọng và lợi ích thiết thân trong đời

sống hàng ngày. Trong bài “Thực hiện dân chủ ở xã, mấy vấn đề đặt ra” [138], tác

giả Trần Quang Nhiếp cũng giải thích rõ lí do tại sao phải quan tâm thực hiện dân

chủ ở xã là do:

Xã là nơi có vị trí quan trọng, là nơi trực tiếp giải quyết mối quan hệ giữa

nhà nước và nhân dân, là địa bàn tổ chức, thực hiện các chủ trương,

đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đối với lực

lượng đông đảo của xã hội. Xã là cộng đồng dân cư mà mọi người gắn

bó với nhau bởi những kết cấu chặt chẽ, làng xóm, họ tộc lâu bền trải qua

nhiều biến cố lịch sử [138, tr.45]

Nói về vai trò của xã đối với việc thực thi, hoàn thiện chính sách của Nhà nước, tác

giả cũng khẳng định:

Nhân dân ở xã cũng như phường, thị trấn là nơi trực tiếp thực hiện các

chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, vừa

là người kiểm nghiệm, đánh giá, thẩm định tính chuẩn xác, hiệu lực, hiệu

quả của những chủ trương, đường lối, chính sách. Vì thế đây là nơi đưa

10

nghị quyết, chính sách vào cuộc sống và ngược lại, thông qua đây thể

hiện năng lực và trình độ làm chủ của nhân dân trong mỗi thời kỳ, trên

từng lĩnh vực của đời sống xã hội [138, tr. 45].

Tác giả Nguyễn Huy Quý trong bài “Về dân chủ ở cơ sở” [153] chỉ rõ sự cần

thiết phải thực hiện dân chủ ở cơ sở, đó là hầu hết các lợi ích chính trị, văn hóa của

công dân hiện nay đều được thực hiện ở cấp xã, phường, xí nghiệp, đơn vị; Nếu các

đơn vị cơ sở không có dân chủ thực sự thì không thể đưa quyền dân chủ về chính trị

và văn hóa trong Hiến pháp và trong đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước

đến với mọi người dân; Dân chủ ở tất cả các cấp đều quan trọng nhưng dân chủ ở

cơ sở là khâu trực tiếp quyết định hiệu quả của cả hệ thống dân chủ. Bằng nhiều

cách phân tích và lập luận khác nhau, các tác giả đều khẳng định thực hiện dân chủ

ở cơ sở là nhu cầu cấp thiết, bức bách và quan trọng nhất trong thực hiện dân chủ ở

Việt Nam hiện nay. Các tác giả đều khẳng định việc thực hiện dân chủ ở cơ sở là

cần thiết do tầm quan trọng của cơ sở, do nhu cầu và điều kiện thuận lợi cho việc

thực hiện dân chủ. Đây là những nội dung quan trọng, cần thiết mà tác giả luận án

sẽ kế thừa.

Về vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, Tác giả Nguyễn Cúc

(chủ biên) trong cuốn sách “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện

nay một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [29] đã làm rõ ý nghĩa của việc thực hiện

dân chủ ở cơ sở đối với việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở

nước ta hiện nay. Về các bài tạp chí, tác giả Phạm Quang Nghị trong bài “Thực

hiện quy chế dân chủ cơ sở ở Hà Nam” [123] đánh giá quy chế dân chủ ở cơ sở là

“giải pháp quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể; là chất

keo gắn kết Đảng, Nhà nước với nhân dân; là liều thuốc chữa căn bệnh quan liêu,

tham nhũng, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, góp phần làm lành mạnh và

trong sạch bộ máy và cán bộ, giữ vững và phát huy bản chất của chế độ xã hội chủ

nghĩa, Nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Tác giả Trần Quang Nhiếp trong bài

“Dân chủ ở cơ sở với phát triển cộng đồng” [140] nêu rõ vai trò của thực hiện dân

chủ với phát triển cộng đồng đó là thực hiện dân chủ ở cơ sở nhằm phát huy quyền

làm chủ của nhân dân, thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, khắc phục tư duy “đèn

11

nhà ai nhà ấy rạng” của lối sống cá nhân vị kỷ; Thực hiện dân chủ ở cơ sở nhằm

nâng cao nhận thức về quyền và nghĩa vụ của công dân; Thực hiện dân chủ ở cơ sở

đã phát huy tiềm năng trí tuệ sức sáng tạo, sức mạnh vật chất và tinh thần của nhân

dân để phát triển kinh tế - xã hội; Thực hiện dân chủ ở cơ sở nhằm giữ vững kỷ

cương, phép nước ngăn chặn tiêu cực, các tệ nạn xã hội, nâng cao năng lực quản lý

của chính quyền; Thực hiện dân chủ ở cơ sở nhằm xây dựng niềm tin và mối quan

hệ chặt chẽ giữa dân với Đảng và chính quyền. Trong bài “Khâu đột phá của quá

trình phát huy dân chủ ở nước ta thời kỳ đổi mới” [146], tác giả Tòng Thị Phóng

cũng nêu ý nghĩa của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở là nhận thức về dân chủ của

các tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn xã hội về dân chủ, nhất là dân chủ trực

tiếp của nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực; Thực hiện dân chủ ở cơ sở góp

phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội;

Thực hiện dân chủ ở cơ sở góp phần vào xây dựng Đảng và chính quyền. Dù có

nhiều cách tiếp cận khác nhau, song các công trình trên đã phân tích ý nghĩa của

thực hiện dân chủ ở cơ sở đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị,

nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế, văn

hoá, xã hội ở địa phương. Đây cũng là những nội dung hữu ích cần tham khảo cho

tác giả luận án. Tuy nhiên, trong luận án này, tác giả tập trung làm rõ hơn vai trò

của dân chủ ở cơ sở với quá trình dân chủ hoá, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ

xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Những công trình nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện

dân chủ ở cơ sở:

Tác giả Đỗ Mười trong bài “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở”

[121] đã phân tích vai trò của đội ngũ cán bộ cơ sở đối với việc thực hiện quy chế

dân chủ ở cơ sở “Điều quan trọng là phải có được số cán bộ chủ chốt ở cơ sở trong

sạch, liêm khiết, công tâm; nếu số này tiêu cực nặng, tham nhũng mất dân chủ, nhân

dân không tin cậy thì phải kiện toàn cán bộ đã rồi mới triển khai chỉ thị 30. Những

cơ sở trung bình, thậm chí có những mặt yếu kém nếu cán bộ chủ chốt tốt thì vẫn có

thể triển khai chỉ thị 30”. Tác giả Trần Quang Nhiếp trong bài “Thực hiện dân chủ

ở xã, mấy vấn đề đặt ra” [138] chỉ ra 2 yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện dân

12

chủ ở xã, đó là sự lãnh đạo chặt chẽ và hoạt động thống nhất, sáng tạo của hệ thống

chính trị ở xã là yếu tố cơ bản, là điều kiện trực tiếp đảm bảo thực hiện dân biết, dân

bàn, dân làm, dân kiểm tra cùng với đó là sự giác ngộ, năng lực và trình độ làm chủ

của mỗi người dân ở nông thôn. Đây là yếu tố quan trọng, quyết định, tác động

nhiều mặt đến quá trình thực hiện dân chủ ở xã. Đồng tình với quan điểm của nhiều

nhà nghiên cứu, tác giả Nhật Tân với bài “Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng để phát

huy dân chủ ở cơ sở” [167] cũng nêu rõ vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên và

trình độ dân trí, dân sinh của người dân là những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực

hiện dân chủ ở cơ sở. Tác giả Lê Thi trong bài “Thực hiện dân chủ ở cơ sở và vấn

đề tăng cường ý thức trách nhiệm của nhà nước” [176] bên cạnh việc chỉ ra 2 yếu

tố cơ bản tác động đến việc thực hiện dân chủ ở xã là người dân và cán bộ, tác giả

còn chỉ ra mối quan hệ tương hỗ giữa hai yếu tố này. Như vậy, các công trình này

đều đánh giá cao vai trò của hai yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến thực hiện dân chủ ở

cơ sở là cán bộ cơ sở và nhân dân - những chủ thể thực hiện dân chủ ở cơ sở. Đây là

gợi ý về mặt phương pháp luận cho tác giả luận án trong khi nghiên cứu về ảnh

hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở. Những biểu

hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong cán bộ cơ sở và nhân dân thông qua hành

động của họ tác động đến việc thực hiện dân chủ ở cơ sở.

1.1.2. Những công trình nghiên cứu về tâm lý tiểu nông

Những công trình chỉ ra những biểu hiện của tâm lý tiểu nông.

Vì tâm lý tiểu nông, tâm lý nông dân, tâm lý sản xuất nhỏ ở Việt Nam có

điểm tương đồng, giao thoa với nhau bởi sản xuất của Việt Nam trước đây chủ yếu

là sản xuất nông nghiệp nhỏ. Cho nên, tác giả sử dụng các tài liệu này khi nghiên

cứu về tâm lý tiểu nông.

Đỗ Thị Thanh Mai trong luận án tiến sĩ Tâm lý nông dân miền Bắc Việt Nam khi

chuyển sang kinh tế thị trường - đặc trưng và xu hướng biến đổi [108] đã chỉ ra những

đặc trưng tâm lý tiêu cực truyền thống của người nông dân miền Bắc là tâm lý sản xuất

nhỏ manh mún, phân tán, tự cung, tự cấp; Bảo thủ thiên về tư duy kinh nghiệm, trực

giác, hạn chế sự phát triển của tư duy lô gic và khoa học; Tâm lý hẹp hòi, vị kỷ,

phường hội, cục bộ địa phương. Như vậy, tác giả công trình này cho rằng tâm lý sản

13

xuất nhỏ là một biểu hiện trong tâm lý truyền thống tiêu cực của người nông dân.

Trong tâm lý sản xuất nhỏ tác giả chỉ ra 2 nét tâm lý là thiển cận, không nhìn xa “gà

nhà ăn quanh quẩn cối xay”, lối sống cá nhân vị kỷ đèn nhà ai nhà ấy rạng.

Lê Hữu Xanh trong cuốn sách Tác động của tâm lý làng xã trong việc xây

dựng đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ nước ta hiện nay

[223] đã chỉ ra biểu hiện của tâm lý làng xã là tâm lý tiểu nông, tâm lý cộng đồng và

tâm lý trọng tình cảm. Trong tác phẩm này, tác giả xếp tâm lý tiểu nông vào là một

trong những biểu hiện của tâm lý làng xã. Đồng thời tác giả nêu 1 số biểu hiện của

tâm lý tiểu nông đó là tư duy kinh nghiệm chiếm ưu thế trong đời sống nhận thức;

tâm lý an phận, thụ động, trông chờ, ít sáng tạo (sản xuất nhỏ, trình độ lạc hậu, khả

năng chế ngự và chinh phục tự nhiên thấp), tâm lý tư hữu (một nắng hai sương lo

vun vén cho mảnh ruộng, ngôi nhà của mình).

Công trình “Tâm lý người Việt Nam đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa

những điều cần khắc phục” [63] do Phạm Minh Hạc chủ biên là tập hợp các bài viết

của nhiều tác giả, trong đó các tác giả bàn nhiều về tâm lý tiểu nông. Ví dụ như

trong công trình này có bài viết “Một số điều cần khắc phục trong nhân cách người

Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của tác giả Thái Duy Tuyên đã chỉ

ra những biểu hiện tâm lý tiêu cực đó là tư tưởng dòng họ, bè phái cục bộ, tâm lý dĩ

hòa vi quý, tâm lý bảo thủ, trì trệ. Tác giả Đỗ Long trong công trình này cũng chỉ ra

những biểu hiện của tâm lý tiểu nông là tư duy manh mún, tình cảm dòng họ và tính

cục bộ, tính thụ động, cầu may, ăn xổi, tác phong tùy tiện, ý thức kỷ luật kém, tư

tưởng bình quân chủ nghĩa.

Tác giả Trần Sỹ Dương trong công trình “Ảnh hưởng của tâm lý sản xuất

nhỏ ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay” [39] đã chỉ ra

những đặc trưng tiêu cực của tâm lý sản xuất nhỏ là cục bộ địa phương và tâm lý

bình quân, cào bằng; Tính thu vén cá nhân, tư lợi; Nếp nghĩ theo kinh nghiệm, ngại

thay đổi, tầm nhìn thiển cận; Thói quen tự do tuỳ tiện, vô kỷ luật, chưa có ý thức tôn

trọng pháp luật.

Tác giả Cao Thị Sính trong luận án tiến sĩ “Ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông

đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”

[159] đã phân tích cả những đặc điểm tích cực và tiêu cực của tâm lý tiểu nông. Các

14

đặc trưng tiêu cực là thói quen sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, bảo thủ, nếp nghĩ theo

kinh nghiệm, ngại đổi mới; Tâm lý hẹp hòi, vị lợi, cục bộ địa phương, tính tuỳ tiện,

kèm kỷ luật, kỷ cương, chưa có thói quen tôn trọng và chấp hành pháp luật.

Tác giả Lê Thị Thanh Hương (chủ biên) trong cuốn sách Một số yếu tố tâm

lý của người nông dân ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nông thôn mới [83] đã

đưa ra định nghĩa về tâm lý tiểu nông đó là “tâm lý của người nông dân sản xuất

nhỏ mang tính tự phát, manh mún, tự cung, tự cấp”. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra

một số điểm hạn chế của tâm lý tiểu nông là “Về mặt nhận thức và tư duy: nhận

thức dựa vào kinh nghiệm, đậm nét cảm tính và chủ quan, chỉ thấy cái ngắn hạn,

trước mắt, không nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ, ngại đổi mới, ít sáng tạo”; Về đời

sống tình cảm, thích sự bình yên, trọng tình cảm hơn lý trí. Về thói quen và nhu

cầu: có tâm lý an phận thủ thủ thường, sống theo kiểu tiết chế nhu cầu. Từ đó, tác

giả đi đến kết luận: “Những người có tâm lý tiểu nông cũng có tính đố kỵ, ghen ăn

tức ở theo kiểu “bằng mặt nhưng không bằng lòng”, không muốn ai hơn mình,

không dám làm gì, níu kéo nhau cùng cực khổ, tùy tiện vô nguyên tắc, coi thường

pháp luật. Cùng với đó là tâm lý đóng kín, bế quan tỏa cảng, không giao lưu, quan

hệ rộng mà sống quẩn quanh trong lũy tre làng nên bị hạn chế nhiều về tầm nhìn.

Họ cũng có tâm lý tư hữu, thờ ơ, vô trách nhiệm trước việc công, chỉ lo vun vén cho

mảnh ruộng, ngôi nhà riêng của mình”.

Lê Thị Lan trong bài viết Tư tưởng làng xã ở Việt Nam [95] đã nêu lên một

số nội dung trong tư tưởng làng xã là tư tưởng cố kết cộng đồng, tư tưởng, yên

phận, trọng kinh nghiệm, tư tưởng cục bộ địa phương. Như vậy, tâm lý làng xã cũng

có nhiều nét tâm lý tương đồng với tâm lý tiểu nông.

Đàm Thị Hồng trong bài viết Ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với quá

trình xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay [77] đưa ra định nghĩa “Tâm lý

tiểu nông là loại hình tâm lý phổ biến ở nông thôn nước ta, được hình thành trên cơ

sở nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, quy mô nhỏ, khép kín, mang nặng tính tự cấp,

tự túc”. Tác giả cũng nêu những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông là Tư duy

manh mún, phân tán, nhỏ lẻ; Tư tưởng bè phái, dòng họ, cục bộ địa phương; Tâm lý

tư hữu cá nhân; Thiếu ý thức kỷ luật lao động, coi thường pháp luật; Tính thụ động,

yên phận, ỷ lại; Người nông dân tuy một nắng hai sương nhưng lại làm việc tuỳ

15

hứng, tự phát, thiếu tổ chức, kỷ luật chặt chẽ, tác phong lề mề, tuỳ tiện đã trở thành

thói quen phổ biến; Thói quen dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể “Nước trôi thì bèo trôi,

nước nổi thì thuyền nổi”.

Tóm lại, về những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông ở những công

trình cụ thể vẫn có sự khác biệt, có công trình nói biểu hiện này, công trình nói biểu

hiện khác và cách sắp xếp tâm lý tiểu nông với tâm lý làng xã, tâm lý nông dân, tâm

lý truyền thống…có sự giao thoa, bao hàm song nếu khái quát chung tất cả các tài

liệu này thì những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông đã được nhắc tới về cơ

bản đầy đủ. Đây là tài liệu tham khảo rất hữu ích cho tác giả luận án khi nghiên cứu

về những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông.

Những công trình phân tích cơ sở hình thành tâm lý tiểu nông ở nước ta.

Trong công trình “Tâm lý người Việt Nam đi vào công nghiệp hóa, hiện đại

hóa những điều cần khắc phục” [63] do Phạm Minh Hạc chủ biên, trong khi làm rõ

những biểu hiện của tâm lý tiểu nông, tác giả cũng phân tích điều kiện sản xuất sinh

hoạt của người nông dân sản xuất nhỏ trong không gian làng xã đã hình thành nên

tâm lý tiểu nông như thế nào. Tác giả Đỗ Long trong công trình “Quan hệ cộng

đồng và cá nhân trong tâm lý nông dân” [103] phân tích làm rõ tâm lý cộng đồng

và cơ sở hình thành tâm lý cộng đồng đó chính là không gian làng xã. Tác giả Trần

Sỹ Dương trong cuốn sách “Ảnh hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ ở đội ngũ cán bộ

chủ chốt cấp cơ sở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay” [39] đã chỉ ra những yếu tố tác

động đến sự hình thành tâm lý sản xuất nhỏ là nền sản xuất nhỏ, điều kiện tự nhiên,

yếu tố văn hoá, xã hội đặc biệt là văn hoá làng xã, yếu tố chính trị. Luận án tiến sĩ

“Ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đến xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

hiện nay” [159] tác giả Cao Thị Sính cũng làm rõ cơ sở hình thành tâm lý tiểu nông

chính là do điều kiện sản xuất, sinh hoạt của người nông dân. Những công trình này

cũng là tài liệu tham khảo có giá trị cho tác giả luận án trong nghiên cứu lý luận về

tâm lý tiểu nông. Tuy nhiên, các công trình này đôi khi trình bày biểu hiện và những

cơ sở hình thành lẫn vào nhau, cách phân chia cơ sở hình thành cũng có nhiều tiếp

cận khác nhau. Ở trong luận án, tác giả sẽ trình bày 3 cơ sở quan trọng nhất để hình

16

thành tâm lý tiểu nông là điều kiện tự nhiên, cơ sở kinh tế và cơ sở văn hoá xã hội.

Tác giả sẽ phân tích cụ thể hơn những cơ sở này sẽ góp phần nảy sinh những biểu

hiện tiêu cực nào của tâm lý tiểu nông.

1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỰC TRẠNG ẢNH

HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÂM LÝ TIỂU NÔNG ĐẾN THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở

CƠ SỞ TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

Về tình hình nghiên cứu ở nước ngoài:

Trung Quốc là quốc gia có nền văn hoá có nhiều nét tương đồng với Việt

Nam, một đất nước nông nghiệp và trải qua hàng nghìn năm dưới chế độ phong

kiến. Vì vậy, quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Trung Quốc cũng chịu sự tác

động mạnh mẽ của nhân tố văn hoá truyền thống. Do đó, cũng có nhiều công trình

nghiên cứu ở Trung Quốc phân tích những cản trở của yếu tố tâm lý và văn hoá

truyền thống đối với việc thực hiện dân chủ cơ sở ở đất nước này, đồng thời đề xuất

các giải pháp ngăn chặn, hạn chế. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau:

Quách Ngọc Lan trong công trình Phân tích nhân tố tâm lý và văn hóa cản

trở việc tham gia xây dựng dân chủ cơ sở của nông dân [97] tập trung phân tích

nhân tố tâm lý và văn hóa của nông dân cản trở việc việc nâng cao chất lượng tham

gia của nông dân vào quá trình chính trị ở cơ sở.

Trương Hải Yến trong bài viết Xây dựng dân chủ cơ sở ở nông thôn dưới sự

ảnh hưởng của văn hóa chính trị truyền thống [224] cho rằng, cùng với việc nghiên

cứu xây dựng dân chủ cơ sở ở nông thôn ngày càng phát triển theo chiều sâu, ngày

càng nhiều học giả nhận thức được nhân tố văn hóa đã trở thành một nhân tố ở tầng

sâu chế ước việc xây dựng dân chủ cơ sở ở nông thôn. Điều này chủ yếu được thể

hiện ở thái độ và nhận thức đối với dân chủ, tính nhiệt tình và động cơ tham gia

chính trị, hoạt động bầu cử... Vì thế, để thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa ở nông thôn,

cần phải từng bước khắc phục những cản trở của văn hóa chính trị truyền thống đối

với phát huy dân chủ, tập trung phát triển sức sản xuất xã hội ở nông thôn, tăng

cường xã hội hóa chính trị ở nông thôn, nỗ lực bồi dưỡng văn hóa chính trị phù hợp

với dân chủ hiện đại.

17

Trong bài viết Hạn chế sự ảnh hưởng của văn hóa chính trị truyền thống,

thúc đẩy xây dựng dân chủ ở cơ sở [66], Lý Hồng Hải cho rằng, văn hóa chính trị

thường ảnh hưởng đến tiến trình dân chủ và sự phát triển chính trị của một quốc gia.

Văn hóa chính trị truyền thống Trung Quốc có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đối với đời

sống chính trị xã hội hiện đại, đặc biệt là sự ảnh hưởng của văn hóa chính trị truyền

thống đối với xây dựng dân chủ chính trị ở cơ sở càng rõ nét. Để thúc đẩy xây dựng

chính trị dân chủ ở cơ sở, cần phải hạn chế sự ảnh hưởng của văn hóa chính trị

truyền thống phong kiến đối với việc xây dựng dân chủ, chú trọng bồi dưỡng công

dân theo mô hình “người công dân tham gia”, tăng cường sự minh bạch chính trị,

xây dựng văn hóa chính trị hiện đại...

Vương Đổng với công trình Xây dựng dân chủ cơ sở trong 30 năm cải cách

mở cửa [59], sau khi trình bày nhiều thành tựu trong thực hiện dân chủ cơ sở ở

Trung Quốc, cũng khẳng định hiện nay, việc xây dựng dân chủ cơ sở ở Trung Quốc

vẫn còn tồn tại nhiều nhân tố cản trở việc phát huy dân chủ bắt nguồn từ lịch sử

2000 năm phong kiến của Trung Quốc.

Lê Học Huy trong bài viết Tố chất văn hóa của nông dân và sự ảnh hưởng

của nó đối với việc xây dựng chính trị dân chủ ở cơ sở [86] đã phân tích sự ảnh

hưởng về tố chất của nông dân đối với quá trình xây dựng chính trị dân chủ ở cơ sở

cũng như việc thực thi dân chủ ở cơ sở.

Như vậy, các công trình nghiên cứu ở Trung Quốc cũng đã bước đầu đặt ra

vấn đề về những trở lực của tâm lý, văn hoá truyền thống với thực hiện dân chủ ở

cơ sở. Đây là những tài liệu tham khảo rất hữu ích cho tác giả trong quá trình

nghiên cứu luận án.

Về tình hình nghiên cứu trong nước: Các sách nói về thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực

hiện dân chủ ở cơ sở, có thể nói đến một số công trình tiêu biểu sau:

Cuốn sách Hương ước trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt

Nam hiện nay [204] do Đào Trí Úc chủ biên, là tập hợp của nhiều bài viết nói về vai

trò của hương ước như một công cụ bổ sung cho pháp luật để quản lý xã hội ở nông

thôn hiện nay. Trong quá trình đó, các tác giả có phân tích những mặt tích cực và

18

tiêu cực của hương ước cũ, trong đó có những biểu hiện của tâm lý tiểu nông trong

hương ước, về tính điều chỉnh có hiệu lực, hiệu quả của hương ước cũ đối với hành

vi của mọi cá nhân. Mặc dù thể hiện ở những bài viết cụ thể nhưng rõ ràng qua

những nội dung này cho thấy tâm lý tiểu nông qua hương ước mà ảnh hưởng đến

mọi người dân ở nông thôn.

Trong công trình “Tâm lý xã hội trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở

cơ sở” [94], tác giả Trần Ngọc Khuê và Lê Kim Việt cũng đã chỉ ra những tác động

tiêu cực của tâm lý nông dân đối với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đó là

“Nhiều biểu hiện tâm lý tồn tại như một sức ỳ, một vật cản của quá trình dân chủ

hóa. Biểu hiện rõ nhất là tính duy tình, tự ti, mặc cảm về địa vị xã hội của một bộ

phận dân cư nên họ không dám đấu tranh, bộc lộ chính kiến, muốn dĩ hòa vi quý.

Trong đấu tranh phê bình thì thiếu công tâm, khách quan, cục bộ dòng họ, cục bộ

địa phương”. Bên cạnh tâm lý duy tình, tác giả còn chỉ ra biểu hiện của tư duy manh

mún dẫn tới “Trong bàn bạc, thảo luận, trao đổi quyết định những vấn đề lớn, tư

duy tiểu nông, tư duy cò con, manh mún, tủy tiện biểu hiện rất rõ, không vượt ra

ngoài những nhu cầu hạn hẹp, cá nhân của người nông dân”. Cùng với đó là tác

động của tâm lý dòng họ, cục bộ “Do tác động của tâm lý dòng họ, cục bộ địa

phương nên ở nhiều nơi xảy ra tình trạng cát cứ, bè phái, phân tán, gây chia rẽ, mất

đoàn kết, không tạo ra tính thống nhất, sức mạnh trí tuệ và nội lực của tập thể, cộng

đồng. Nhiều vấn đề đưa ra dân bàn bạc thì bị chi phối bởi quan hệ dòng họ, do vậy

thiếu khách quan, chính xác”. Một biểu hiện nữa là tâm lý bình quân chủ nghĩa

“Yếu tố bình quân, cào bằng ảnh hưởng đến việc triển khai, khi thực hiện dân biết,

dân làm, kiểm tra có biểu hiện đố kỵ, không thích ai hơn mình, cái gì cũng phải đều

nhau, kìm hãm nhân tố tích cực, nảy sinh sự thiếu tin cậy, nghi hoặc lẫn nhau”. Tác

giả tiếp tục chỉ ra tác động tiêu cực của tâm lý cộng đồng đến thực hiện dân chủ

“Tâm lý cộng đồng có mặt tích cực nhưng cũng có mặt tiêu cực, đang trở thành 1

dạng áp lực nhóm, mang tính áp đặt đối với thái độ và chính kiến của cá nhân. Do

tác động của tâm lý cộng đồng, tính trách nhiệm, trí tuệ, sáng kiến cá nhân không

được phát huy đầy đủ. Người nông dân có tâm lý ngại bộc lộ chính kiến của mình.

Tâm lý cộng đồng có ảnh hưởng lớn đến việc giải phóng năng lực, trí tuệ, sự tự do,

19

dân chủ của mỗi cá nhân”. Từ những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông đã

phân tích trên, tác giả đã đi đến kết luận: “Những ảnh hưởng tiêu cực này biểu hiện

cả trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân… Nông dân Việt Nam vốn có bản

chất tư hữu, lối tư duy trực quan, cụ thể, tùy tiện, manh mún. Do vậy, trong nhận

thức và hành vi, họ có tầm nhìn hạn hẹp, khi đụng chạm đến lợi ích, ít có khả năng

vượt khỏi cái cá nhân để vươn tới cái cộng đồng, cái tổng thể, chiến lược. Đây là

nguyên nhân hạn chế hiệu quả việc thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm

tra”.

Lê Kim Hải (chủ biên) trong cuốn sách Những vấn đề đặt ra trong triển khai

quy chế thực hiện dân chủ ở xã [66] đã nêu thực trạng thực hiện quy chế dân chủ ở

xã, những thành công và đặc biệt là những vấn đề đang đặt ra, trong đó có những

nội dung cho thấy ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông trong thực hiện quy chế như

không tuân thủ pháp luật.

Tác giả Hoàng Chí Bảo trong cuốn sách Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông

thôn trong tiến trình đổi mới đã khẳng định “những lực cản đối với dân chủ ở Việt

Nam hiện nay có cả trong quá khứ xa xưa để lại, có cả trong hiện tại với những thể

chế thiết chế của nó, trong tổ chức quản lý xã hội” [9]. Lực cản mà quá khứ để lại

với việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện nay đó chính là tâm lý làng xã. Cuốn

sách có 1 mục về ảnh hưởng và tác động của tâm lý làng xã đối với việc thực hiện

và phát huy dân chủ hiện nay ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ (từ trang 186 đến

trang 218). Tác giả bàn đến cả những tác động tích cực và tiêu cực. Về những tác

động tiêu cực, tác giả trình bày 3 đặc điểm tâm lý tác động đến thực hiện dân chủ là

tính phân tán, cát cứ, cục bộ địa phương gắn liền với tâm lý phường hội; tâm lý bình

quân cào bằng; tâm lý lệ làng, coi phép vua thua lệ làng.

Tác giả Lê Minh Quân trong cuốn sách Về quá trình dân chủ hoá xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam hiện nay [149] đã nêu một số yếu tố tác động đến quá trình dân

chủ hoá, thực hiện dân chủ ở Việt Nam như xây dựng Nhà nước pháp quyền, kiểm

soát quyền lực Nhà nước… trong đó dân chủ hoá ở cơ sở được coi là 1 hình thức để

thực hiện dân chủ hoá. Ở đây, tác giả có trình bày thành tựu và hạn chế trong quá

trình dân chủ hoá, đặc biệt là những hạn chế có chứa đựng những nội dung về việc

20

cán bộ không tích cực thực hiện pháp lệnh, nhân dân chủ yếu quan tâm đến lợi ích

bản thân… Những hạn chế này thực chất chính là do những ảnh hưởng tiêu cực của

tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Tuy nhiên, vì là 1 chương nhỏ

trong 9 chương của cuốn sách nên những nội dung này mới chỉ được nhắc đến chứ

chưa được phân tích sâu sắc.

Nguyễn Văn Hiển (chủ biên) trong cuốn sách Về thi hành pháp lệnh thực

hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 [69] đã tập trung phân tích những

thành tựu và hạn chế trong thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn với

các nội dung như xây dựng công trình công cộng tại địa phương và hoạt động của

Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, hoạt động bầu trưởng thôn, trưởng tổ dân phố,

hoạt động xây dựng và thực thi hương ước, quy ước văn hoá, hoạt động của ban

thanh tra nhân dân, hoạt động lấy phiếu tín nhiệm của cán bộ chủ chốt cấp xã,

phường, thị trấn. Mặc dù không nói đến tâm lý tiểu nông nhưng qua phần thực trạng

hạn chế, chúng ta có thể thấy nhiều ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến

thực hiện dân chủ ở cơ sở. Cuốn sách là tài liệu khảo sát công phu với nhiều số liệu

cụ thể, định lượng là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả trong quá trình đánh giá

thực trạng về những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ

ở cơ sở.

Về các bài viết nghiên cứu khoa học đăng trên tạp chí, nhiều tác giả đánh giá

thực trạng thực hiện dân chủ ở cấp xã, chỉ ra những bất cập của nó mà những bất

cập đó có liên quan tới ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông, mặc dù có tác giả

không nói rõ điều này. Tác giả Phạm Quang Nghị trong bài “Thực hiện quy chế dân

chủ cơ sở ở Hà Nam” [123] đánh giá trong thực hiện quy chế dân chủ, vẫn có

trường hợp cán bộ thoái hóa, biến chất tham nhũng cố tình làm sai quy chế dân chủ

cơ sở, không thực hiện đúng các quy định. Người dân không hiểu quy chế dân chủ

cơ sở, vụ lợi, bị các phần tử xấu kích động, có những hành động sai trái… Thực

chất những hạn chế này là nói đến sự không tuân theo pháp luật, kỷ cương của cán

bộ và nhân dân trong thực hiện dân chủ ở cấp xã. Tác giả Lê Kim Việt với bài “Qua

3 năm thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở nông thôn” [221] đã bước đầu thấy trong

thực hiện dân chủ cơ sở “Không ít người nhận thức được yêu cầu, nội dung, mục

21

đích và ý nghĩa của quy chế nhưng lại nghiêng về nhận thức được quyền lợi, cảm

nhận thấy quyền lợi là chủ yếu còn trách nhiệm của họ trong việc biết, bàn, làm,

kiểm tra thì chưa được nhận thức đúng đắn”. Tác giả chỉ rõ sự vun vén lợi ích cá

nhân trong nhân dân ảnh hưởng đến thực hiện dân chủ ở cơ sở “Điều đó thể hiện ở

nhiều nơi, nhất là các xã được coi là điểm nóng, có nhiều vụ khiếu kiện chỉ vì quyền

lợi, chỉ đòi quyền lợi cá nhân mà không tính đến trách nhiệm của mình, hoặc không

vì quyền lợi của tập thể cộng đồng. Một bộ phận lợi dụng quy chế để mưu lợi cá

nhân, bị kích động, lôi kéo, gây mất đoàn kết nội bộ. Đặt lợi ích cá nhân lên trên hết

trong 1 bộ phận cán bộ trong thực hiện dân chủ ở cơ sở thể hiện ở chỗ “Một số nơi

viện lý do này, lý do khác để né tránh, trì hoãn việc triển khai mà thực chất là chưa

tích cực, chưa quyết tâm, sợ liên lụy, động chạm đến lợi ích cá nhân”. Thực chất

đây chính là do ảnh hưởng của tâm lý tư hữu, cá nhân đối với cán bộ và người dân

trong thực hiện dân chủ ở xã. Tác giả Nhật Tân trong bài “Tính tất yếu đổi mới sự

lãnh đạo của Đảng để thực hiện dân chủ ở cơ sở” [166] cũng làm rõ những bất cập,

hạn chế trong thực hiện dân chủ ở xã như “Có trường hợp trình độ cán bộ non yếu,

bất cập, không hiểu rõ chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước tự

đặt ra những quy định gây phiền hà, tạo kẽ hở cho kẻ xấu nhũng nhiễu nhân dân”.

Cũng “Có trường hợp do nhận thức của cán bộ không đầy đủ, thậm chí nóng vội, sai

lệch. Tình trạng hiểu biết pháp luật không đầy đủ nên trong quá trình điều hành,

quản lý phạm những thiếu sót, không ít cán bộ ở cơ sở có hiện tượng dễ làm, khó

bỏ, thiếu công tâm, chưa thực sự vì dân, còn thiên lệch, nể nang, bênh vực, bao che

cho những việc làm sai trái của người cùng cánh”. Như vậy, ở đây, tác giả đã chỉ rõ

tác động của tâm lý thiếu tôn trọng pháp luật, tư hữu cá nhân, tâm lý nể nang, dòng

họ của đội ngũ cán bộ trong thực hiện dân chủ ở xã. Trong bài “Đà Nẵng phát huy

quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở” [30], Lê Tự Cường cũng chỉ ra những hạn

chế trong thực hiện dân chủ ở cơ sở mà chính là biểu hiện tác động tiêu cực của tâm

lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở, trước hết là trong thực hiện quyền được

bàn bạc, thảo luận “Phần lớn số người tham gia bàn bạc thảo luận ở địa bàn dân cư

là cán bộ hưu trí. Ý thức tự giác, tự nguyện tham gia sinh hoạt hội họp của nhân dân

để bàn bạc còn hạn chế, nhất là không dám đấu tranh phê phán tiêu cực”. Hạn chế

22

còn thể hiện trong thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân “Vấn đề dân

kiểm tra là khâu thực hiện ít nhất và kém hiệu quả nhất. Đại bộ phận nhân dân, cán

bộ chính quyền không dám nói thẳng, không dám phê phán trực tiếp các mặt của

lãnh đạo, họ sợ bị trù dập, bị gây khó khăn, nguy cơ mất việc làm. Nhân dân biết rõ

tiêu cực của cán bộ công chức, người có chức có quyền nhưng không tố giác vì

thiếu tin tưởng vào việc giải quyết công minh, kịp thời của cấp có thẩm quyền, sợ

bè cánh bao che cho nhau”. Qua đó, có thể thấy tác động tiêu cực của tâm lý thụ

động, thiếu tự giác và tâm lý nể nang, dòng họ, bè phái trong thực hiện dân chủ ở

xã. Lê Xuân Huy trong bài viết Ảnh hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ đối với việc

thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay [87] cũng đã chỉ ra một số ảnh

hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ với việc thực hiện dân chủ như hành động cảm tính,

không tuân theo pháp luật nên cán bộ không công khai thông tin đặc biệt là các

khoản thu, chi tài chính trước dân, không phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm.

Tác giả Huỳnh Đảm trong bài “Nhìn lại 10 năm thực hiện quy chế dân chủ ở xã,

phường, thị trấn” [40] cũng đã chỉ ra những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu

nông trong thực hiện dân chủ ở xã “Trình độ dân trí của một bộ phận người dân còn

hạn chế, ý thức làm chủ chưa được nâng cao, sự hiểu biết về dân chủ và pháp luật

còn chưa đầy đủ, tư tưởng tự do vô tổ chức, bè cánh, dòng họ còn khá nặng nề,

năng lực giám sát của nhân dân còn hạn chế nên nhiều người dân còn thờ ơ với việc

thực hiện quy chế, hoặc chỉ quan tâm đến quyền lợi mà xem nhẹ nghĩa vụ, trách

nhiệm, thậm chí còn xảy ra tình trạng lợi dụng pháp luật, gây rối trật tự”. Tác giả

Chu Thị Trang Vân trong bài “Một số vấn đề đặt ra trong quá trình thực thi pháp

lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn” [217] đã chỉ ra 3 khó khăn, vướng mắc trong

thực hiện dân chủ ở xã đó là những khó khăn xuất phát từ phía cộng đồng, những

khó khăn vướng mắc từ thể chế, cơ chế, và những khó khăn từ phía cán bộ, đảng

viên. Trong những khó khăn xuất phát từ phía cộng đồng, tác giả cũng chỉ ra nhiều

nhân tố trong đó có yếu tố tâm lý làng xã bao gồm tư duy manh mún, tâm lý cộng

đồng, tâm lý dòng họ, bình quân chủ nghĩa, tác động đến việc thực hiện dân chủ ở

xã. Trong khó khăn từ phía cán bộ, đảng viên tác giả cũng chỉ rõ tư tưởng tư hữu, cá

nhân ở đội ngũ cán bộ tác động đến việc thực hiện dân chủ ở xã.

23

Về luận án, Lê Xuân Huy trong công trình Ý thức pháp luật với việc thực

hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam hiện nay [88] đã phân tích những tác động tiêu

cực của lệ làng đối với ý thức pháp luật của người nông dân như tâm lý họ hàng cục

bộ địa phương bè phái, trọng lệ hơn luật trong lệ làng đã tác động tiêu cực đến ý

thực pháp luật của người dân nông thôn. Như vậy, qua sự phân tích về lệ làng, tác

giả cũng cho thấy sự điều chỉnh, chi phối của lệ làng đối với ý thức, hành động của

mỗi người dân. Đây là những gọi mở cho tác giả luận án khi nghiên cứu về phương

thức tác động của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Tóm lại, các công trình nghiên cứu về thực trạng thực hiện dân chủ ở cơ sở,

trong khi chỉ ra những bất cập, hạn chế đã có những nội dung thực chất chính là

những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở, mặc

dù các tác giả có thể chưa chỉ rõ điều này do không phải là đối tượng nghiên cứu

chính của các công trình này. Vì vậy, đây là những dữ liệu, gợi ý cho tác giả luận án

trong đánh giá thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện

dân chủ ở cơ sở. Tuy nhiên, vì không phải là đối tượng nghiên cứu chính nên các dữ

liệu này được trình bảy rải rác, lẻ tẻ, chưa có sự phân tích sâu sắc, thấu đáo, hệ

thống, cần được tiếp tục bổ sung, làm rõ.

1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ GIẢI PHÁP ĐỂ HẠN CHẾ

NHỮNG ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÂM LÝ TIỂU NÔNG ĐẾN THỰC HIỆN

DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ NƯỚC TA HIỆN NAY

Vì đây là vấn đề mới nên không có công trình nào trực tiếp bàn về các giải

pháp để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân

chủ ở cơ sở tại Việt Nam hiện nay song các công trình khi bàn về thực hiện dân chủ

ở cấp xã có đưa ra những giải pháp để thực hiện tốt hơn dân chủ ở cấp xã, trong đó

những giải pháp sẽ góp phần vào việc hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý

tiểu nông đến việc thực hiện dân chủ ở cấp xã. Đồng thời, các công trình nghiên cứu

về các loại hình tâm lý gần gũi với tâm lý tiểu nông trong từng lĩnh vực cụ thể cũng

đề ra các giải pháp để khắc phục tác động tiêu cực của tâm lý này trong các lĩnh

vực. Vì vậy, đây đều là những công trình tham khảo hữu ích trong quá trình nghiên

24

cứu về các giải pháp để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến

thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay.

Hoàng Chí Bảo (chủ biên) trong cuốn sách Hệ thống chính trị ở cơ sở nông

thôn nước ta hiện nay [10] đã nói về sự tác động của kinh tế thị trường đối với

những biến đổi tâm lý của người nông dân, họ đã biết tính toán hơn, có sự chấp

nhận đổi mới, chấp nhận mạo hiểu phiêu lưu “được ăn cả ngã về không”. Dù chưa

phải là nêu giải pháp nhưng qua sự phân tích tác động này chúng ta thấy rằng kinh

tế thị trường cũng có tác động tích cực đến việc hạn chế những biểu hiện tiêu cực

của tâm lý tiểu nông.

Cuốn sách Ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đối với cán bộ lãnh đạo,

quản lý doanh nghiệp nhà nước [222], Lê Hữu Xanh đã đưa ra các giải pháp cơ bản

hạn chế tâm lý tiểu nông ở đội ngũ này là đổi mới nội dung, phương thức đào tạo cán

bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp; Đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu hợp tác trong và ngoài nước; Hoàn thiện

cơ chế, chính sách và Luật doanh nghiệp nhà nước; Một số kiến nghị đối với doanh

nghiệp nhà nước hiện nay. Ưu điểm mà tác giả Lê Hữu Xanh đưa ra là bên cạnh giải

pháp nhằm loại bỏ cơ sở vật chất của tâm lý tiểu nông và thay đổi về nhận thức của

chính chủ thể tâm lý tiểu nông giống như nhiều công trình là phát triển kinh tế thị

trường và đổi mới công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo quản lý doanh nghiệp nhà nước,

tác giả đã đưa ra đề xuất về thay đổi môi trường hoạt động của chủ thể có tâm lý tiểu

nông, ví dụ như với cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước, tác giả để xuất

các giải pháp về hoàn thiện luật doanh nghiệp nhà nước để hạn chế tâm lý tiểu nông ở

đội ngũ này. Vì vậy, đây là gợi ý quan trọng cho tác giả luận án trong khi đề xuất các

giải pháp hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân

chủ ở cơ sở chắc chắn phải tiếp tục hoàn thiện luật, cơ chế về thực hiện dân chủ nhằm

đảm bảo dân chủ ở cơ sở được thực hiện nghiêm túc, từ đó làm cho những biểu hiện

tiêu cực của tâm lý tiểu nông không có cơ sở để tồn tại, ảnh hưởng.

Cũng theo hướng giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật về dân chủ ở cơ

sở, Nguyễn Hồng Chuyên trong cuốn sách Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã

phục vụ xây dựng nông thôn mới [29] và Nguyễn Tiến Thành trong công trình

25

Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay [172] đã

chỉ ra những bất cập của pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở, tác giả đưa ra hướng

hoàn thiện thiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong đó có pháp lệnh thực hiện dân

chủ ở xã, phường, thị trấn; các giải pháp tuyên truyền phổ biến pháp lệnh trong

nhân dân. Những giải pháp mà các tác giả đưa ra mặc dù không nói gì đến tâm lý

tiểu nông (vì không thuộc đối tượng nghiên cứu của các công trình này) song việc

hoàn thiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở cũng góp phần vào việc hạn chế những ảnh

hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Bên cạnh các công trình gợi mở hướng giải pháp hạn chế ảnh hưởng tiêu cực

của tâm lý tiểu nông bằng biện pháp hoàn thiện pháp luật, hướng giải pháp giáo

dục, tuyên truyền để phát huy tính cực của các chủ thể, giúp các chủ thể chủ động tự

hạn chế dần những ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông cũng được một số cuốn sách đề

cập tới.

Nguyễn Hồng Chuyên trong cuốn sách Thực hiện dân chủ ở cấp xã trong xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay [28], đã đề xuất 4

nhóm giải pháp tiếp tục đẩy mạnh thực hiện dân chủ ở cấp xã là tăng cường sự lãnh

đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương đối với việc thực hiện pháp

lệnh; Phát huy tính tích cực chính trị xã hội của cán bộ, đảng viên trong quá trình

thực hiện pháp luật dân chủ ở xã; Nâng cao nhận thức pháp luật, sự tham gia chủ

động, tự giác và tích cực của nhân dân vào hoạt động thực hiện pháp luật về dân

chủ ở xã; Đảm bảo các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hoá, pháp luật cho việc

thực hiện pháp lệnh. Như vậy, trong giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

luật dân chủ ở xã, tác giả đã chú ý nâng cao chủ thể thực hiện pháp luật là cán bộ cơ

sở và người dân. Mặc dù không nói đến tâm lý tiểu nông của các chủ thể này nhưng

việc nâng cao tích tích cực, chủ động của các chủ thể này trong thực hiện pháp luật

dân chủ cũng góp phần vào việc hạn chế dần những biểu hiện tiểu nông ở họ.

Một số bài tạp chí cũng tiếp cận các giải pháp về nâng cao nhận thức, ý thức

của các chủ thể thực hiện dân chủ ở cơ sở, qua đó nâng cao hiệu quả thực hiện dân

chủ. Theo tác giả luận án, đây cũng là một hướng để hạn chế những ảnh hưởng tiêu

cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.

26

Tác giả Trần Quang Nhiếp trong bài “Thực hiện dân chủ ở xã, mấy vấn đề

đặt ra” [138] chỉ ra các giải pháp để thực hiện dân chủ cấp xã là: Đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phát triển kinh tế bền vững; Nâng

cao trình độ và năng lực làm chủ của nông dân; Củng cố hệ thống chính trị, các cơ

quan đại diện quyền làm chủ của nhân dân ở nông thôn. Vẫn là tác giả Trần Quang

Nhiếp với bài “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở sau 2 năm nhìn lại” [139] có

bàn sâu đến giải pháp tuyên truyền, kịp thời sơ kết tổng kết, biểu dương, khen

thưởng, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Trong bài

“Qua 3 năm thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở nông thôn” [221], tác giả Lê Kim

Việt đã chỉ ra các giải pháp để thực hiện tốt dân chủ ở xã đó là tăng cường công tác

giáo dục, tuyên truyền, vận động; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nông thôn

vững mạnh làm nòng cốt, Củng cố hệ thống chính quyền cơ sở trong sạch, gắn việc

thực hiện quy chế với nâng cao dân trí và phát triển toàn diện kinh tế - văn hóa - xã

hội ở nông thôn. Các giải pháp thực hiện dân chủ ở xã mà tác giả Lê Quang Minh

đưa ra trong bài “Để thực hiện dân chủ ở cơ sở” [120] là Nâng cao nhận thức đúng

đắn đầy đủ về thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay; Xây dựng hệ thống cơ chế, chính

sách, pháp luật đảm bảo cho việc thực hiện dân chủ ở cơ sở; Tạo lập các tiền đề, các

yếu tố kinh tế - xã hội để thực hiện dân chủ ở cơ sở… Tác giả Tòng Thị Phóng

trong bài viết “Khâu đột phá của quá trình phát huy dân chủ ở nước ta thời kỳ đổi

mới” [146] cũng nêu các giải pháp để thực hiện dân chủ ở cơ sở tốt hơn bao gồm

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục quán triệt các quan điểm chủ trương của

Đảng về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; Không ngừng hoàn chỉnh, nâng cao

tính pháp lý của các quy định được ban hành; Tăng cường vai trò giám sát việc thực

hiện quy chế dân chủ; Đào tạo cán bộ về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Bài

viết “Ảnh hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ đối với việc thực hiện dân chủ ở nông

thôn nước ta hiện nay” [87] của Lê Xuân Huy có nội dung gần với đề tài của luận

án. Nhà nghiên cứu này đã đề xuất một số giải pháp khắc phục ảnh hưởng của tâm

lý tiểu nông như tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn; Không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống

chính trị ở cơ sở; Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân

27

dân, nâng cao dân trí, văn hoá. Như vậy, hướng tiếp cận về giải pháp của tác giả

cũng là khắc phục cơ sở vật chất hình thành tâm lý và giáo dục, tuyên truyền để

thay đổi nhận thức, tâm lý của chủ thể. Hướng tiếp cận giải pháp này cũng sẽ được

tác giả luận án tham khảo khi đề xuất các giải pháp

Những công trình nghiên cứu về tâm lý tiểu nông, tâm lý sản xuất nhỏ đối

với từng lĩnh vực cụ thể cũng đưa ra các giải pháp ngăn ngừa, hạn chế những biểu

hiện tiêu cực tâm lý tiểu nông như “Ảnh hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ ở đội ngũ

cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay” [39] đã đưa ra các giải pháp

như khắc phục tâm lý sản xuất nhỏ thông qua hoạt động lãnh đạo đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá; khắc phục tâm lý sản xuất nhỏ thông qua quá trình lãnh

đạo xây dựng đời sống văn hoá - xã hội mới và đẩy mạnh dân chủ hoá ở cơ sở;

Tăng cường công tác đào tạo nâng cao trình độ mọi mặt với việc khắc phục tâm lý

sản xuất nhỏ ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đồng bằng Bắc Bộ; Nâng cao

phẩm chất đạo đức cách mạnh cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đồng bằng

Bắc Bộ với việc khắc phục tâm lý sản xuất nhỏ. Nhìn chung, các giải pháp tác giả

đưa ra đã hướng tới việc thay đổi cơ sở vật chất của tâm lý tiểu nông bằng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá và các giải pháp hạn chế, xoá bỏ tâm lý tiểu nông ở đội

ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Tuy nhiên, vì giới hạn nghiên cứu của tác giả chỉ là

tâm lý sản xuất nhỏ ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đồng bằng Bắc Bộ nên các

giải pháp cũng chỉ hướng đến đội ngũ cán bộ.

Một số công trình nghiên cứu về tâm lý tiểu nông bên cạnh nhiều giải pháp

khác đã chú ý đến các giải pháp về công tác cán bộ.

Trong cuốn sách, “Tâm lý sản xuất nhỏ ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở

đồng bằng Bắc Bộ hiện nay” [39], tác giả Trần Sỹ Dương đưa ra nhiều giải pháp,

trong đó có giải pháp thay đổi nhận thức, đạo đức của cán bộ thông qua công tác

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Luận án tiến sĩ “Ảnh hưởng của tâm

lý tiểu nông đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam hiện nay” [159] của tác giả Cao Thị Sính, các giải pháp mà tác giả đưa ra là:

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước - cơ sở, tiền đề để khắc phục ảnh hưởng tiêu

28

cực của tâm lý tiểu nông; Phát huy vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng và

đẩy mạnh thực hiện dân chủ ở nông thôn; Nâng cao đời sống văn hoá đi đôi với cải

biến phong tục, tập quán lạc hậu; Nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân với việc

khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông; Tiếp tục đổi mới công tác đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Như vậy, trong nhiều giải pháp, tác giả Cao Thị

Sính có chú ý đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đây là một hướng tiếp cận

giải pháp đúng đắn mà tác giả luận án sẽ kế thừa. Tuy nhiên, các khâu khác trong

công tác cán bộ cũng góp phần vào việc hạn chế tâm lý tiểu nông ở đội ngũ này,

song các công trình này chỉ tập trung vào công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đây

là điểm khuyết mà luận án sẽ bổ sung.

Tóm lại, những công trình nghiên cứu về dân chủ ở cơ sở khi bàn về các giải

pháp để tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện dân chủ ở cơ sở dù tiếp cận ở nhiều góc

độ khác nhau và đưa ra những giải pháp không hoàn toàn giống nhau nhưng khái

quát lại có thể thống nhất ở một số giải pháp đó là hoàn thiện hệ thống pháp luật về

thực hiện dân chủ ở cơ sở, nâng cao trình độ, năng lực, ý thức tích cực của người

dân và cán bộ cơ sở - những chủ thể thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở, một số

giải pháp khác về kiểm tra, giám sát, khen thưởng, kỷ luật… Những giải pháp này

cũng có ý nghĩa đối với việc hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu

nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Tuy nhiên, vì không phải là đối tượng nghiên

cứu nên trong các công trình này, chưa có công trình nào chỉ rõ các giải pháp này có

thể hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông như thế nào. Còn những

công trình nghiên cứu về ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong từng lĩnh

vực cụ thể đều đưa ra giải pháp để hạn chế những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu

nông trong những lĩnh vực này là xoá bỏ cơ sở vật chất sản sinh tâm lý tiểu nông,

hạn chế tâm lý tiểu nông trong các chủ thể hành động thông qua giáo dục, đào tạo.

Hoàn thiện pháp luật ở từng lĩnh vực cụ thể để hạn chế những biểu hiện tiêu cực của

tâm lý tiểu nông trong lĩnh vực đó. Đây cũng là hướng tiếp cận của tác giả luận án

khi đề xuất các giải pháp. Tuy nhiên, vì lĩnh vực cụ thể mà tác giả nghiên cứu là ảnh

hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện

nay, một hướng nghiên cứu hoàn toàn mới, nên các giải pháp đưa ra trong luận án

29

không phải là hạn chế tâm lý tiểu nông ở cán bộ cơ sở và nhân dân chung chung mà

trong hoạt động cụ thể là thực hiện dân chủ ở cơ sở. Tác giả cũng bổ sung các giải

pháp để hạn chế những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong từng chủ thể

thực hiện dân chủ ở cơ sở không chỉ là qua giáo dục, tuyên truyền mà còn thông qua

các cách thức để ngăn chặn những phương thức tác động của tâm lý tiểu nông đến

thực hiện dân chủ ở cơ sở, các giải pháp về công tác cán bộ. Đồng thời, tác giả đề

xuất giải pháp về hoàn thiện cơ chế, pháp luật dân chủ ở cơ sở nhằm hạn chế những

ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ. Đây là những

hướng nghiên cứu mới, mà các công trình trước chưa làm được.

1.4. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH ĐƯỢC TỔNG QUAN VÀ

NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN ĐẶT RA CHO TÁC GIẢ LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC

NGHIÊN CỨU, GIẢI QUYẾT

1.4.1. Những giá trị cần tham khảo của các công trình đã tổng quan

Trên cơ sở tổng quan các công trình có liên quan đến đề tài, có thể thấy rằng

các công trình đã đề cập, phân tích được những vấn đề sau:

- Các nhà nghiên cứu trước đó đã làm rõ nội dung của việc thực hiện dân chủ

ở cơ sở trên các nhóm quyền dân biết, dân bàn bạc, quyết định và dân kiểm tra,

giám sát.

- Nhiều nghiên cứu cũng đã phân tích sự cần thiết của việc phải thực hiện

dân chủ ở cơ sở.

- Một số công trình đã làm rõ ý nghĩa, vai trò của việc thực hiện dân chủ ở cơ

sở, những yếu tố tác động đến việc thực hiện dân chủ ở cơ sở.

- Các công trình trước đó cũng đã chỉ ra những biểu hiện của tâm lý tiểu

nông cũng như cơ sở hình thành tâm lý tiểu nông.

- Một số nhà nghiên cứu khi đánh giá về những hạn chế của thực hiện dân

chủ ở cơ sở ở nước ta thời gian qua, mặc dù không nói đến tâm lý tiểu nông nhưng

những hạn chế trong thực hiện dân chủ ở cơ sở chỉ ra, thực chất chính là do ảnh

hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông. Một số công trình đã nhận thức và chỉ rõ một

số biểu hiện của tâm lý tiểu nông gây cản trở cho việc thực hiện dân chủ ở cơ sở.

30

- Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra giải pháp để thực hiện dân chủ ở cơ sở có

hiệu quả hơn và thực chất hơn, trong đó theo tác giả luận án, có một số giải pháp

cũng góp phần vào việc hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến

việc thực hiện dân chủ ở các xã. Một số công trình đưa ra giải pháp về hạn chế ảnh

hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông ở từng chủ thể ở trong một số lĩnh vực, đây là

cũng tài liệu tham khảo rất hữu ích về mặt cơ sở, phương pháp luận tiếp cận vấn đề.

1.4.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã làm được đó thì các công trình trên cũng

còn một số mặt chưa làm được, chúng tôi mong sẽ tiếp tục bổ sung, làm sâu sắc hơn

trong công trình của mình ở những nội dung sau:

- Trong phần nội dung của thực hiện dân chủ ở cơ sở, tác giả làm rõ những

nội dung của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, đồng thời có sự phân tích những nội

dung này đã bao hàm các quyền dân chủ trực tiếp và quyền dân chủ gián tiếp, các

quyền dân chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân.

- Các công trình trong khi phân tích các biểu hiện của tâm lý tiểu nông thì có

phân tích cơ sở hình thành tâm lý đó. Vì vậy việc trình bày cơ sở hình thành có

phần rải rác, lẻ tẻ, thiếu tập trung. Trong luận án này, tác giả sẽ làm rõ ba cơ sở hình

thành tâm lý tiểu nông là điều kiện tự nhiên, hoạt động sản xuất (kinh tế tiểu nông)

và hoạt động sinh hoạt (làng xã), từng cơ sở ấy góp phần hình thành những biểu

hiện gì của tâm lý tiểu nông.

- Các tác giả trước mặc dù đã có chỉ ra tâm lý tiểu nông có ảnh hưởng không

chỉ ở ngưởi nông dân sản xuất nhỏ mà tới mọi tầng lớp dân cư, nhưng chưa chỉ ra

được lí do tại sao tâm lý tiểu nông lại ảnh hưởng đến việc thực hiện dân chủ ở cơ

sở, nó ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực hiện dân chủ ở cơ sở theo những phương

thức nào, trên các phương diện nào. Trong luận án này, tác giả sẽ làm rõ điều đó.

- Tác giả sẽ tổng hợp phân tích sâu sắc và có tính hệ thống ảnh hưởng tiêu

cực của tâm lý tiểu nông trên 4 nội dung cơ bản của thực hiện dân chủ ở cơ sở là

dân biết, dân tham gia ý kiến, quyền quyết định, biểu quyết quyết định và dân kiểm

tra. Đây là điều mà các nghiên cứu đã có chưa làm được. Các công trình trước dù

chưa phải là đối tượng nghiên cứu chính song đã trình bày rải rác một số biểu hiện

31

tiêu cực của tâm lý tiểu nông đối với thực hiện dân chủ ở cơ sở nhưng thiếu tính hệ

thống và chủ yếu là nêu khái quát, thiếu phân tích cụ thể và dẫn chứng rõ ràng.

- Các giải pháp thực hiện dân chủ ở cơ sở thì có nhiều công trình đề cập đến.

Đồng thời, các công trình nghiên cứu về tâm lý tiểu nông trong từng lĩnh vực, hoạt

động cụ thể có đề xuất các giải pháp hạn chế những tác động tiêu cực của tâm lý tiểu

nông trên từng lĩnh vực cụ thể này. Tuy nhiên, các công trình về dân chủ ở cơ sở chưa

làm rõ được những giải pháp này góp phần vào hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tâm

lý tiểu nông như thế nào. Còn những nghiên cứu về tâm lý tiểu nông, chưa có nghiên

cứu nào về ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở,

nên các giải pháp đưa ra cũng chưa thật sát, chủ yếu có giá trị tham khảo về phương

pháp luận tiếp cận về giải pháp. Vì vậy, luận án này sẽ bổ sung một số giải pháp mới

và kế thừa một số giải pháp mà các công trình đã nêu nhưng làm rõ các giải pháp đó

sẽ hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở

cơ sở như thế nào, các biện pháp cụ thể để thực hiện các giải pháp đó.

Tóm lại, những công trình đã có thời gian qua là những tài liệu tham khảo bổ

ích cho tác giả trong quá trình triển khai đề tài “Ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý

tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay”. Tuy nhiên, các

nghiên cứu này chưa phân tích một cách hệ thống, sâu sắc, rõ ràng, cụ thể những

vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến nội dung của đề tài. Luận án sẽ kế thừa

những công trình đã có và tiếp tục bổ sung, hoàn thiện.

Tiểu kết chương 1

Trong chương này, tác giả luận án tổng quan các công trình nghiên cứu liên

quan đến đề tài trên 3 nội dung chính là những công trình nghiên cứu về dân chủ ở

cơ sở, về tâm lý tiểu nông trên phương diện lý luận; Những công trình nghiên cứu

về thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ

sở; Những công trình nghiên cứu về giải pháp hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực

của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Trong khi tổng quan các công

trình này, tác giả có đánh giá những giá trị mà tác giả sẽ kế thừa trong khi triển khai

luận án và những điểm cần bổ sung. Sau khi tổng quan các nghiên cứu liên quan

32

đến đề tài luận án, tác giả có đánh giá lại những giá trị mà công trình đã tổng quan

cần phải kế thừa và những điểm cần phải tiếp tục nghiên cứu, giải quyết trên cả 3

nội dung về mặt lý luận, thực tiễn và các giải pháp. Qua tổng quan, tác giả thấy rằng

việc lựa chọn đề tài nghiên cứu là không hề trùng lặp, chưa có công trình nào trực

tiếp nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, những công trình trước đó là tài liệu tham

khảo rất hữu ích và là những gợi mở ban đầu để tác giả tiếp tục nghiên cứu, bổ sung

những điểm còn chưa được bàn tới.

33

Chương 2

TÂM LÝ TIỂU NÔNG VÀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ -

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÂM LÝ TIỂU NÔNG

2.1.1. Khái niệm và cơ sở hình thành của tâm lý tiểu nông

2.1.1.1. Khái niệm tâm lý tiểu nông

Tâm lý là tình cảm, ý chí, thói quen, tâm trạng của con người hoặc cộng

đồng được nảy sinh một cách trực tiếp từ những điều kiện sinh sống hàng ngày của

họ, trong đó những điều kiện kinh tế là quan trọng nhất. Tâm lý bao gồm tâm lý cá

nhân và tâm lý xã hội. Trong Từ điển Triết học, tâm lý xã hội được hiểu là “toàn bộ

tình cảm, ý chí, tâm trạng, thói quen, truyền thống thể hiện trong tâm lý của các

nhóm xã hội, các giai cấp, các dân tộc, nhân dân các nước do có chung các điều

kiện kinh tế - xã hội trong đời sống của họ” [107, tr.523]. Còn theo định nghĩa của

Ban Chỉ đạo biên soạn sách giáo khoa Mác - Lênin, tâm lý xã hội bao gồm “toàn bộ

tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán... của con người, của một bộ phận xã hội,

hoặc của toàn xã hội được hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng

ngày của họ và phản ánh đời sống đó” [7, tr.569]. Như vậy, tâm lý xã hội là một bộ

phận của ý thức xã hội ở cấp độ thấp, biểu hiện một cách tập trung nhất ý thức đời

thường của con người. Nó phản ánh trực tiếp điều kiện sống, hoàn cảnh và môi

trường sống của con người. Tâm lý tiểu nông thực chất là một dạng của tâm lý xã

hội, một hiện tượng ý thức xã hội của một tầng lớp người trong xã hội là những

người sản xuất nông nghiệp nhỏ.

Vấn đề tâm lý tiểu nông đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và đưa ra

những quan niệm khác nhau. Tác giả Lê Hữu Xanh đưa ra khái niệm tâm lý tiểu

nông “tâm lý tiểu nông là tâm lý của người nông dân phân tán, tư hữu, sản xuất nhỏ

với công cụ sản xuất lạc hậu” [222, tr.9]. Định nghĩa này nêu được chủ thể và cơ sở

vật chất của tâm lý tiểu nông. Còn theo Đàm Thị Hồng “Tâm lý tiểu nông là loại

hình tâm lý phổ biến ở nông thôn nước ta, được hình thành trên cơ sở nền sản xuất

nông nghiệp lạc hậu, quy mô nhỏ, khép kín, mang nặng tính tự cấp, tự túc” [77].

Quan niệm về tâm lý tiểu nông của Đàm Thị Hồng nói được cơ sở vật chất quan

34

trọng của tâm lý tiểu nông và đặc biệt nói đến không gian tồn tại của dạng tâm lý

này thường là ở vùng nông thôn nhưng chưa nói tới chủ thể của tâm lý này. Các

định nghĩa này cũng chưa nói rõ những hiện tượng nội hàm của tâm lý. Vì vậy, theo

tác giả luận án, tâm lý tiểu nông có thể hiểu là một dạng của tâm lý xã hội, bao gồm

các hiện tượng như tình cảm, tâm trạng, niềm tin, ước muốn, nhu cầu, thói quen,

tập quán, động cơ, thái độ, hứng thú, sở thích, xu hướng… của người nông dân sản

xuất nhỏ, nảy sinh trực tiếp và phản ánh những điều kiện sản xuất và sinh hoạt của

người nông dân sản xuất nhỏ.

Tâm lý tiểu nông là tâm lý của người nông dân sản xuất nhỏ, nảy sinh và

phản ánh trực tiếp phương thức sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, mang tính tự phát,

manh mún, tự cung, tự cấp. Sản xuất của người nông dân tiểu nông khác với người

nông dân của sản xuất hàng hóa ở mục đích, ở quy mô và trình độ của hoạt động

sản xuất. Đặc điểm của sản xuất tiểu nông thể hiện ở những nội dung sau:

Là nền sản xuất nông nghiệp dựa trên sở hữu ruộng đất nhỏ lẻ, manh mún,

trình độ sản xuất thủ công, cầm tay, tự sử dụng tư liệu sản xuất của mình.

Sản phẩm của nông dân làm ra chủ yếu phục vụ cho bản thân và gia đình,

nếu có trao đổi thì ở phạm vi rất hẹp (chợ làng, xã) và chủ yếu trao đổi hiện vật.

Có nhiều khái niệm gần gũi với tâm lý tiểu nông như tâm lý nông dân, tâm lý

sản xuất nhỏ, tâm lý làng xã… Do tiếp cận ở những góc độ khác nhau nên nội hàm

khái niệm khác nhau nhưng có điểm chung là đều nảy sinh trên nền tảng sản xuất

nhỏ. Theo tác giả Trần Sỹ Dương, tâm lý sản xuất nhỏ là “các hiện tượng ý thức

như tình cảm, tâm trạng, mong muốn, thói quen, tập quán… của những người lao

động và sinh hoạt trong xã hội có nền tảng kinh tế là sản xuất nhỏ” [39, tr 9 -10].

Như vậy, khái niệm tâm lý tiểu nông hẹp hơn so với tâm lý sản xuất nhỏ vì sản xuất

nhỏ không chỉ là sản xuất nông nghiệp mà còn trong các lĩnh vực khác như sản xuất

tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh, công nghiệp. Tâm lý sản xuất nhỏ không chỉ của

nông dân mà của các tầng lớp, giai cấp khác. Tâm lý nông dân là các hiện tượng ý

thức như tình cảm, tâm trạng, ước muốn, nhu cầu, thói quen, động cơ, thái độ, hứng

thú… của tầng lớp lao động nông nghiệp, được hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp

của cuộc sống hàng ngày. Do đó, tâm lý nông dân cũng rộng hơn so với tâm lý tiểu

35

nông vì tâm lý nông dân không chỉ bao gồm những người nông dân sản xuất nhỏ

mà còn có cả những người nông dân sản xuất ở các quy mô, trình độ khác nhau.

Tâm lý làng xã là tâm lý của cư dân làng xã. Nông dân chính là bộ phận chủ yếu

chiếm tuyệt đại đa số cư dân làng xã. Bởi người nông dân sản xuất nhỏ thường sống

quần cư thành cộng đồng làng xã. Do đó, tâm lý làng xã tất nhiên bao gồm cả những

người nông dân sản xuất nhỏ. Tuy nhiên, tâm lý làng xã không chỉ phản ánh tâm lý

của người nông dân sản xuất nhỏ mà còn phản ánh tâm lý của các giai cấp, tầng lớp

khác nhau trong làng xã vì không phải mọi thành viên của làng đều là những người

nông dân sản xuất nhỏ. Tâm lý tiểu nông chú ý đến các biểu hiện đặc trưng có tính

bản chất gắn với điều kiện lao động là tiểu nông trong khi tâm lý làng xã chủ yếu

tiếp cận về không gian sinh hoạt là làng xã.

2.1.1.2. Cơ sở hình thành tâm lý tiểu nông

Theo quan điểm Mác xít, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã

hội hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của tồn tại xã hội, mà trước hết chính là

hoạt động sản xuất vật chất. Mác và Ăngghen viết “Không phải ý thức của con

người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức

của họ” [17, tr.15]. Trong ý thức xã hội thì hệ tư tưởng và tâm lý xã hội là hai bộ

phận chủ yếu nhất. Tâm lý xã hội là một dạng ý thức xã hội ở cấp độ thấp, phản ánh

và chịu tác động của tồn tại xã hội một cách sinh động, phong phú. Theo các lý

thuyết tâm lí học thì một hệ thống các quá trình, các trạng thái, các thuộc tính gọi

chung là tâm lý của mỗi người đều hình thành, phát triển và biểu hiện trong hoạt

động, bằng hoạt động, thông qua hoạt động. Chính vì vậy, giáo sư Phạm Minh Hạc

viết “Chính hoạt động, nó là bản thể của tâm lý, ý thức. Luận điểm này có ý nghĩa

phương pháp luận tổng quát đối với sự phát triển tâm lý học, theo đây xã hội - lịch

sử quy định cái tâm lý và bản chất hoạt động của tâm lý” [63, tr.210]. Hoạt động ở

đây chính là hoạt động sản xuất vật chất và hoạt động giao tiếp trong các sinh hoạt,

quan hệ xã hội. Mác và Ăngghen cũng khẳng định đây là những hoạt động chính

quyết định đến nội dung, bản chất của tâm lý “Chính con người, khi phát triển sự

sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình, đã làm biến đổi cùng với hiện

thực đó của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình. Không phải ý thức

36

quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức” [19, tr.38]. Do đó, có thể

thấy rằng tâm lý tiểu nông là một dạng của tâm lý xã hội, chịu tác động và chi phối

bởi tồn tại xã hội đó là hoạt động sản xuất vật chất và sinh hoạt của người nông dân

sản xuất nhỏ, đó chính là nền kinh tế tiểu nông với điều kiện tự nhiên bao quanh

hoạt động đó và không gian sinh hoạt làng xã.

Thứ nhất, điều kiện tự nhiên, khí hậu góp phần hình thành nền kinh tế tiểu

nông và tâm lý tiểu nông ở nước ta.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong các yếu tố của tồn tại xã

hội quyết định đến ý thức xã hội (bao hàm cả tâm lý xã hội) có điều kiện tự nhiên.

Tự nhiên, khí hậu có thể góp phần nhào nặn nên tâm lý, tính cách con người. Đối

với nước ta, khi nói về ảnh hưởng của điều kiện địa lý tự nhiên tới tâm lý, tính cách

của con người Việt Nam, tác giả Trần Văn Giàu đã viết “Hoàn cảnh địa lý tự nhiên

quả đã góp phần nhào nặn các đức tính lớn của người Việt Nam ngay từ thời thượng

cổ” [61, tr.64]. Vậy điều kiện tự nhiên, khí hậu của Việt Nam đã góp phần hình

thành tâm lý tiểu nông như thế nào.

Về địa hình, miền núi và trung du phía Bắc chủ yếu là đồi, núi trung bình và

núi cao. Đây là nơi có địa hình cao nhất, bị chia cắt nhất và hiểm trở nhất Việt Nam.

Vì vậy, đất đai thuận lợi để sản xuất nông nghiệp rất ít, chỉ là những thung lũng nhỏ

hẹp, xen kẽ giữa các dãy núi. Do khó khăn trong đất đai sản xuất nông nghiệp, ở

những sườn đồi, sườn núi có đất màu, người dân phải làm những ruộng bậc thang

để tận dụng nguồn nước ngầm, cũng như tránh bị xói lở, tận dụng được nguồn nước

khi trời mưa. Điều này thể hiện trình độ, kỹ thuật canh tác của người nông dân miền

núi nhưng những ruộng bậc thang diện tích rất nhỏ. Vùng đồng bằng sông Hồng,

tuy có thuận lợi hơn về đất đai cho sản xuất nông nghiệp nhưng do vùng đồng bằng

này bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi chằng chịt. Trong khi đó, do yêu cầu của sản

xuất lúa nước, nước trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu mà cha ông ta đã đúc kết

nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống nên ruộng đất ở đồng bằng Bắc bộ cũng bị

chia thành những mảnh nhỏ để có thể giữ nước được tốt hơn. Đặc điểm tự nhiên này

là một trong những nguyên nhân làm cho ruộng đất bị phân tán manh mún, tạo cơ

37

sở cho sự tồn tại lâu dài của chế độ sở hữu ruộng đất nhỏ - đặc trưng của nền sản

xuất tiểu nông.

Về khí hậu, khí hậu điển hình của Việt Nam là nhiệt đới chịu ảnh hưởng của

gió mùa. Chế độ gió mùa có sự tương phản rõ rệt: Mùa hè gió mùa Tây Nam nóng

khô, mưa nhiều, mùa đông gió mùa Đông Bắc lạnh, khô, ít mưa. Chế độ gió tạo ra

thời tiết có phần khắc nghiệt, khô nóng, hạn hán, lũ lụt trong mùa hè, sương muối,

giá rét trong mùa đông, gây trở ngại cho sản xuất nông nghiệp. Thiên nhiên Việt

Nam một mặt vừa tạo thuận lợi, hào phóng ban tặng nhiều ưu đãi cho cuộc sống và

sản xuất nông nghiệp nhưng mặt khác lại luôn đặt con người trước những khó khăn,

thử thách hiểm nghèo, hay gây ra những thiên tai bất thường như lũ lụt, hạn hán gây

tác hại đến sản xuất nông nghiệp, giành giật những gì mà con người làm ra. Đặc biệt

là lũ lụt luôn là mối đe doạ thường trực, lớn nhất đối với con người. Ví dụ như sông

Hồng mang đến cái lợi bồi đắp phù sa cho đồng bằng, song cũng là mối lo cho

người dân vì thường gây ra lụt lớn. Để chống chọi với thiên nhiên, những người

nông dân đã rất quan tâm đến vấn đề thủy lợi. Do vậy, “có thể nói rằng, toàn bộ

cuộc sống kinh tế của họ phụ thuộc vào cách giải quyết tốt đẹp các vấn đề thuỷ lợi”

[62, tr.66]. Trong vấn đề trị thuỷ nhằm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, nhất là

khi trình độ kỹ thuật lạc hậu, một người không thể làm nổi mà đòi hỏi phải gắn kết,

cố kết cả cộng đồng để đắp những con đê rất dài. Hơn nữa, khi lũ lụt đến, nó có thể

cuốn trôi tất cả hoa màu của mọi người dân, không trừ một ai, cho nên người nông

dân cũng cần phải đoàn kết, chia sẻ lẫn nhau những lúc khó khăn, hoạn nạn, sa cơ lỡ

vận. Điều kiện tự nhiên đó khiến một người không thể tự đảm bảo cuộc sống, sự an

nguy cho mình mà cần có sự đoàn kết, hỗ trợ của cộng đồng. Người nông dân muốn

tồn tại được không thể tách ra khỏi cộng đồng, họ phải tuân thủ mọi quy tắc, luật lệ

của cộng đồng. Điều này vừa tạo nên tinh thần cộng đồng nhưng khi nhấn mạnh

một cách thái quá, dẫn tới con người không dám vượt lên khỏi những quy định,

khuôn mẫu của cộng đồng, thể hiện quan điểm, chính kiến riêng. Cùng với đó, do

điều kiện khí hậu khắc nghiệt, nhiều thiên tai rình rập, sản xuất nông nghiệp với

công cụ thô sơ, lạc hậu nên sản xuất phụ thuộc vào tự nhiên. Việc sản xuất nông

nghiệp phụ thuộc vào tự nhiên một mặt vừa tạo tâm lý trông chờ vào tự nhiên, cầu

38

an, vừa làm cho năng suất lao động thấp, sản phẩm làm ra rất ít ỏi, chỉ đủ lo liệu cho

những nhu cầu cá nhân tối thiểu, không thể mở mang phát triển hàng hoá, càng

củng cố thêm nền kinh tế sản xuất nông nghiệp nhỏ, tự cung, tự cấp. Ở miền Nam

khí hậu, thiên nhiên ưu đãi hơn, con người không cần nỗ lực, cố gắng cũng có cái

ăn cũng dễ tạo tâm lý thụ động, không chịu suy nghĩ, tìm tòi, đổi mới, củng cố một

số biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông.

Thứ hai, cơ sở kinh tế của tâm lý tiểu nông.

Theo tác giả Dương Xuân Ngọc “Từ thời đồ đá mới, nông nghiệp nước ta đã

bắt đầu xuất hiện nền kinh tế tiểu nông” [127, tr.30]. Đặc điểm của nền kinh tế tiểu

nông là người nông dân sở hữu một chút ít ruộng đất nhỏ bé, cỏn con của mình và

tự mình sản xuất trên mảnh đất ấy “Nền kinh tế tiểu nông là nền kinh tế nông

nghiệp ở trạng thái sản xuất nhỏ theo lối người nông dân làm chủ một ít ruộng đất

và tự mình sản xuất lấy” [100, tr.120]. Đặc trưng của sản xuất tiểu nông là dựa trên

chế độ sở hữu nhỏ đối với đất đai của người nông dân, Lênin đã viết về đặc điểm

này như sau “Quyền tư hữu của nông dân đối với ruộng đất mà anh ta cày cấy, là cơ

sở của nền sản xuất nhỏ, là điều kiện cho nền sản xuất nhỏ ấy phồn thịnh và đạt tới

một hình thức điển hình” [213, tr.84]. Nền nông nghiệp Việt Nam cơ bản là nền sản

xuất độc canh lúa nước ở quy mô nhỏ. Dù ở trung du hay đồng bằng, miền núi hay

miền biển, đất canh tác thuộc sở hữu tư nhân hay sở hữu công (của làng) cũng chỉ là

những thửa ruộng, mảnh ruộng nhỏ nhoi. Với thời gian, đất đai không mở rộng ra

mà còn bị thu hẹp lại vì sự gia tăng dân số. Người Việt có tập quán chia ruộng tư

cho con trai, cả con trưởng lẫn con thứ. Diện tích vốn đã nhỏ sau mỗi lần thừa kế

như vậy, lại bị chia cắt vụn ra. Chính sự manh mún của đất đai là cơ sở để tạo nên

sự manh mún, nhỏ lẻ của sản xuất. Thêm vào đó, đặc điểm của sản xuất tiểu nông là

trình độ thủ công, cầm tay, tự cung, tự cấp, khép kín sản xuất chủ yếu là để thoả

mãn sự tiêu dùng của bản thân. Nó thoả mãn chủ yếu là những nhu cầu của người

sản xuất và gia đình họ… Chỉ khi nào họ sản xuất được một số dư ngoài nhu cầu

của bản thân và ngoài số phải nộp cho chúa phong kiến dưới hình thức hiện vật, thì

chỉ khi đó họ cũng sản xuất hàng hoá [21, tr.378]. Những đặc điểm này của sản xuất

39

nông nghiệp nhỏ đã ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành những nét biểu

hiện đặc trưng của tâm lý tiểu nông.

Trong nền kinh tế tiểu nông, do các tư liệu sản xuất từ ruộng đất, công cụ

đều nhỏ bé, vụn vặt, phân tán cùng với kỹ thuật canh tác lạc hậu nên năng suất thấp,

sản phẩm lao động ít. Người sản xuất phải tính toán, lo toan, vun vén sao cho kết

quả sản xuất ít ỏi đó đủ nhu cầu tối thiểu của bản thân họ và gia đình với đủ các loại

nhu cầu từ ăn, mặc, ở, lễ tết, hội hè, ma chay, cưới xin… dù nhỏ bé ở mức tối thiểu,

từ đó là cơ sở xuất hiện tâm lý vun vén cá nhân, tư lợi. Cũng vì người nông dân chỉ

tổ chức hoạt động sản xuất trên mảnh đất nhỏ bé của mình từ thế hệ này sang thế hệ

khác nên đã hình thành ở người nông dân một cách thức suy nghĩ manh mún, nhỏ

hẹp. Trình độ sản xuất thấp kém trong phạm vi nhỏ lẻ trên từng mảnh ruộng của

chính học, hầu như mọi tư liệu phục vụ cho sản xuất đều có sẵn trong tay người

nông dân, giống má thì dành từ mùa thu hoạch trước, phân bón lấy trong chuồng,

đặc biệt họ ít tính toán đến công sức mình bỏ ra, sản xuất theo kiểu “lấy công làm

lãi”. Chính điều này đã hình thành ở họ phẩm chất kém hạch toán, không quen

nhìn xa. Thêm vào đó, nền sản xuất nông nghiệp nhỏ tự cung tự cấp với năng suất

và hiệu quả thấp kém chỉ có thể đáp ứng những nhu cầu tối thiểu trong giai đoạn

ngắn, trước mắt của người nông dân, nên không cho phép và cũng không đặt ra

những yêu cầu buộc người lao động phải lo lắng, tính toán để đặt ra những kế

hoạch sản xuất lâu dài. Mọi yếu tố, chu trình, bước đi của quá trình sản xuất đều

đã được sắp đặt sẵn, từ đó khiến họ có tầm nhìn thiển cận, thiếu tầm nhìn xa. Có

thể nói, mảnh ruộng nhỏ bé đóng khung, hạn chế tầm suy nghĩ của con người. Lối

suy nghĩ manh mún của người nông dân càng được củng cố vững chắc thêm vì

cuộc sống quẩn quanh, khép kín bởi lũy tre làng.

Sản xuất tiểu nông trong phạm vi gia đình, những đơn vị sản xuất này độc

lập với nhau, tự giải quyết mọi công việc từ khâu đầu đến khâu cuối. Các hộ nông

dân ít phụ thuộc vào nhau, không phục vụ một kế hoạch chung nào cả, trồng hay

nuôi cây gì, con gì, làm thế nào, làm vào lúc nào hoàn toàn do mỗi gia đình tự quyết

lấy trong những điều kiện, hoàn cảnh riêng của mình. Nói về sự thiếu liên kết, hợp

tác trong sản xuất của từng hộ gia đình tiểu nông, Mác và Ăngghen đã viết như sau

40

“Phương thức sản xuất đó đòi hỏi sự xé lẻ ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác. Vì

nó gạt bỏ sự tích tụ tư liệu sản xuất, cho nên nó cũng gạt bỏ sự hiệp tác, phân công

lao động trong quá trình sản xuất, gạt bỏ việc xã hội thống trị và điều tiết thiên

nhiên, gạt bỏ sự phát triển tự do của các lực lượng xã hội” [22, tr.1057]. Hoạt động

sản xuất của người tiểu nông không đề ra yêu cầu về sự phối hợp đồng bộ giữa các

khâu cũng như một sự chỉ huy, lãnh đạo, quản lý thống nhất và nghiêm ngặt. Hơn

nữa, trong sản xuất, do mỗi thời vụ có thời gian khá dài và mỗi gia đình là một đơn

vị kinh tế độc lập nên họ muốn làm cũng được, muốn nghỉ cũng được theo kiểu

“ruộng hôm nay không cày thì để ngày mai”. Thời gian làm việc, nghỉ ngơi có thể

kéo dài hay rút ngắn tuỳ theo sở thích của mỗi người. “Quy chế”, “kỷ luật lao động”

là những điều ít ai đặt ra và cũng ít được quan tâm đối với mỗi người nông dân.

Chính điều này đã hình thành nên tâm lý tùy tiện, vô nguyên tắc, kỷ luật không chặt

chẽ của người nông dân.

Sản xuất nông nghiệp nhỏ theo kinh nghiệm cũ, ít có sự thay đổi. Công cụ

lao động qua nhiều thế hệ vẫn chỉ còn con trâu, cày chìa vôi, cuốc, liềm hái… hầu

như không biến đổi. Phương thức lao động của người nông dân trong sản xuất qua

hàng nghìn năm vẫn theo lối cũ. Các thao tác lao động kỹ năng, kỹ xảo sản xuất kể

từ khi con người biết sử dụng sức kéo đến giờ cũng không nhiều thay đổi, đời cha

làm thế nào, đời con làm theo vậy. Công việc cày, cuốc, bừa, phát, tỉa, gieo trồng,

chăm bón, thu hoạch… là một quá trình được lặp đi lặp lại. Cơ cấu cây trồng cứ

mùa nào thứ ấy theo nông lịch mà canh tác, hết chiêm rồi lại đến mùa. Do sự ổn

định của quá trình sản xuất nên thế hệ sau chỉ cần nắm vững những kinh nghiệm

của cha ông truyền lại, lặp lại các thao tác của các thế hệ trước là có thể tiếp tục duy

trì sản xuất và đời sống, những sáng kiến, phát minh, hợp lý hóa trong sản xuất, tổ

chức, quản lý sản xuất không trở thành những đòi hỏi bức xúc. Chính điều này đã

tạo nên nếp nghĩ theo kinh nghiệm cũ, bảo thủ, ngại đổi mới ở người tiểu nông. Nói

về tính bảo thủ của người tiểu nông do chính hoạt động sản xuất của họ quy định,

Mác, Ăngghen đã viết như sau: “Cày cấy trên mảnh đất của mình hoàn toàn theo lối

thô sơ cũ của cha ông họ và chống lại mọi điều mới mẻ với sự ngoan cố vốn có của

41

người nô lệ, của tập quán trải qua bao nhiêu đời kiếp vẫn không hề thay đổi” [20,

tr.336].

Sản xuất nông nghiệp lúa nước trong điều kiện nhiệt đới gió mùa với những

yếu tố bất ngờ luôn xảy ra như hạn hán, lũ lụt, sâu bệnh. Hoàn cảnh thiên nhiên đó

“Không phải chỉ có thể làm nảy sinh những đức tính tốt vì buộc con người phải hiệp

đoàn để có sức mạnh chống chọi với trời đất, mà cũng có thể nảy sinh và duy trì

nhiều tư tưởng tiêu cực, mê tín dị đoan vì con người thấy mình nhỏ yếu quá, bất lực

trước sức mạnh vô cùng lớn lao của trời đất” [86, tr.63]. Con người lại càng thấy bé

nhỏ, bất lực trước tự nhiên hơn khi kỹ thuật canh tác lạc hậu, công cụ sản xuất

không được cải tiến qua hàng nghìn năm, khoa học kỹ thuật không phát triển. Hơn

nữa, quy trình sản xuất nông nghiệp diễn ra trong thời gian dài nên cũng càng phụ

thuộc vào thiên nhiên. Kết quả của mùa màng cũng không thể nắm chắc khi khoai

sắn chưa phơi khô, thóc chưa vào bồ. Lúa đã chín vàng hoa đầy động, hứa hẹn một

mùa bội thu, vậy mà chỉ cần một cơn lốc tràn qua hay một trận bão ập xuống thì

người nông dân có thể mất trắng không còn gì để sinh nhai. Công sức của người bỏ

ra rất lớn nhưng kết quả lại phụ thuộc vào thiên nhiên. Do sản xuất tiểu nông phụ

thuộc vào tự nhiên, người nông dân luôn cầu cho “mưa nắng phải thì”, để mùa

màng được bội thu dẫn tới tâm lý cầu an, thụ động, trông chờ vào những yếu tố bên

ngoài, chỉ biết trông chờ vào sự may rủi, vào sự phù hộ của thánh thần, trời phật.

Thứ ba, cơ sở văn hoá, xã hội của tâm lý tiểu nông.

Tâm lý của người nông dân sản xuất nhỏ không chỉ bị quy định bởi phương

thức sản xuất đặc trưng của họ là sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ, phân tán, trình

độ thủ công, tự cung tự cấp mà còn bị quy định bởi chính hoạt động sinh hoạt văn

hoá của họ, đó là không gian làng xã. Làng xã là những đơn vị tụ cư sinh sống và

làm ăn của một cộng đồng nông dân Việt Nam trong một khu vực địa lý nhất định.

Những gia đình tiểu nông tập hợp lại trở thành làng như Mác đã từng mô tả “Mảnh

đất cỏn con, người nông dân và gia đình anh ta; cạnh đó lại là một mảnh đất cỏn con

khác, một nông dân khác và một gia đình khác. Một nhúm những đơn vị ấy họp

thành một làng và một nhúm làng họp thành một tỉnh” [16, tr.264]. Làng là tế bào

sống của xã hội Việt thời cổ, tác giả Trần Từ khẳng định làng là “sản phẩm tự nhiên

42

tiết ra từ quá trình định cư và cộng cư của người Việt trồng trọt” [200, tr.13-14].

Làng là không gian sinh sống, diễn ra các hoạt động sản xuất cũng như hoạt động

sinh hoạt, văn hoá của người tiểu nông. Làng không chỉ là một không gian sinh tồn,

một môi trường kinh tế - sản xuất với nghề trồng lúa cổ truyền mà còn là một không

gian xã hội và cảnh quan văn hoá đã xây đắp nên nền tảng văn hoá, bản sắc văn hoá.

Những đặc điểm trong hoạt động ở làng do đó cũng chi phối và quyết định những

nét đặc trưng của tâm lý tiểu nông.

Công xã nông thôn tức là làng Việt cổ truyền đã có một quá trình hình thành

từ rất lâu đời, cách ngày nay khoảng 4000 năm, từ thời văn hoá Phùng Nguyên, khi

công xã thị tộc tan rã. “Làng xã Việt Nam vốn từ công xã chuyển thành. Từ thế kỷ

thứ X, với chính quyền tự trị đầu tiên, người Việt đã lấy làng xã truyền thống của

mình làm đơn vị hành chính cơ sở của nhà nước” [78]. Làng xã Việt Nam với các

đặc trưng và hoạt động của nó đã hình thành và củng cố nhiều biểu hiện tiêu cực

của tâm lý tiểu nông như tác giả Lê Hữu Xanh khẳng định “Làng với tư cách là đơn

vị giao tiếp khép kín - đã trở thành dinh luỹ cho sự duy trì và phát triển những đặc

tính của người tiểu nông. Đó là đầu óc kinh nghiệm, chủ nghĩa bình quân, chế độ

gia trưởng, lề thói bài ngoại, cục bộ địa phương, thiển cận hẹp hòi” [222, tr.15].

Làng được hình thành từ một vài dòng họ ban đầu, rồi sinh con đẻ cháu ngày

một đông đúc. Quan hệ huyết thống thân tộc được coi là quan hệ ưu tiên hàng đầu

trong mối quan hệ gắn bó giữa người với người trong xã hội làng xã “đi làng bênh

họ”. Thậm chí nhiều họ đa số trong làng trở thành tên gọi chung của làng, “Vào thời

Lý Trần có nhiều làng lấy tên dòng họ. Cho đến nay, từ Quảng Bình, Quảng trị trở

ra Bắc có đến gần 200 làng có tên họ như Lê Xá, Phạm Xá, Trần Xá, Nguyễn Xá…

điều này nói lên vị trí dòng họ trong làng rất đậm” [32, tr.51]. Qua tên gọi của các

làng, ta có thể biết ngày xưa ở dó chỉ có một họ hoặc có đôi, ba họ mà một trong số

đó có vị thế lớn nhất giữ vai trò chủ đạo nhất trong những năm tháng đầu tiên thành

lập làng. Lê, Phạm, Trần, Nguyễn…đó là các họ. Còn xá chính là xã, làng xã. Trong

một làng với một họ thì quan hệ giữa người với người là quan hệ máu thịt, quan hệ

huyết thống. Đùm bọc lẫn nhau sau lũy tre xanh vẫn là các chú, bác, cô, dì, anh em

một họ, xa thì giữa các nhánh, các chi với nhau, gần thì trong nội bộ một nhánh,

43

một chi. Tuy nhiên, bên cạnh quan hệ dòng họ, phương thức tập hợp cộng đồng dân

cư của làng còn dựa trên quan hệ láng giềng giữa những gia đình sống bên cạnh

nhau. Khi làng phát triển hơn, có những gia đình khác, họ khác đến sống ở làng, lúc

đầu là dân ngụ cư, sau trở thành dân chính cư. Vì vậy, làng có nhiều họ và bên cạnh

quan hệ họ hàng còn có quan hệ xóm giềng. Làng Việt được hình thành từ hai mối

quan hệ chính là quan hệ địa vực (láng giềng) và quan hệ huyết thống (dòng họ).

Chính mối quan hệ giữa những người tiểu nông trong làng này là cơ sở cho nét tâm

lý trọng tình hơn lý của người nông dân sản xuất nhỏ. Dù trong làng có nhiều họ

nhưng con trai họ này lấy con gái họ kia thế là xuất hiện sự liên minh giữa các dòng

họ. Vì vậy, quan hệ giữa người với người trong làng cũng vẫn là quan hệ thân thích

có cội rễ gần nhau. Cả cuộc đời và truyền đời người tiểu nông sống trong làng xã

chỉ làm ăn ở làng là chính, quen sống với các mối quan hệ xóm giềng, huyết thống

“trong họ ngoài làng” ràng buộc và chồng chéo nhau một cách bền chặt. Vì thế,

người nông dân quen nhau và hiểu nhau từ tấm bé, không chỉ nguồn gốc tổ tông mà

cả dáng đi, giọng nói, tâm tính của từng người. Do đó, cũng từ tấm bé, người nông

dân thật sự tin nhau, nên trong giao tiếp, cư xử hàng ngày, cả trong vay mượn, mua

bán tài sản có giá trị lớn, thường lấy lòng tin với nhau là chính mà ít cần đến một

thứ giấy tờ hành chính nào. Phần lớn những mâu thuẫn tranh chấp giữa những

người làng với nhau được giải quyết bằng hoà giải theo phương châm nhường nhịn

nhau “chín bỏ làm mười”, lấy cái tình mà xử với nhau chứ không phải bằng cái lý,

bằng luật, để sao cho có tình, có lý, đó là cơ sở của tâm lý trọng tình hơn lý.

Làng trở thành một cộng đồng tương đối khép kín, tính chất nửa tự trị của

làng thể hiện ở mức độ khá cao. Trong lĩnh vực địa lý - lịch sử, mỗi làng cũng có

địa giới riêng, lãnh thổ riêng: đông, tây, nam bắc đều cắm mốc xác định. Ranh giới

được quy định nghiêm ngặt. Xung quanh làng là những lũy tre bao bọc như những

bức tường, bức thành, bên trong ngoặc ngoài lũy tre là những con hào, những con

mương, những con suối, con kênh tách phân làng này với làng khác. Về lĩnh vực

chính trị - xã hội có thể thấy mỗi làng là một đơn vị hành chính đối với một hệ

thống quản lý được tổ chức một cách độc lập ở từng làng với những quyền hạn và

nghĩa vụ, với những chức năng được xác định cụ thể cho các hạng dân đinh trong

44

làng. Về lĩnh vực văn hóa, làng nào cũng nổi lên như một đơn vị độc lập. Các làng

thường có những truyền thuyết và huyền thoại về nguồn gốc hình thành và phát

triển của làng. Về mặt tín ngưỡng, làng nào cũng có thần tích, thần phả ghi lại thân

thế sự nghiệp vị Thành Hoàng, công đức của vị Thành Hoàng đối với việc thành lập

làng, truyền bá một lĩnh vực hoạt động chủ đạo của làng, hay cống hiến cho sự

nghiệp chống giặc ngoại xâm, bảo vệ sự thịnh vượng của làng. Tính độc lập của

làng còn thể hiện ở chỗ, hễ là một làng thì nhất thiết phải xây dựng cho được một

ngôi đình của làng mình. Đình làng trước hết là nơi thờ cúng vị Thành hoàng và sau

đó là nơi diễn ra các sinh hoạt chính trị, văn hóa… của làng. Làng cũng là một đơn

vị tự túc, tự cấp, có thể thoả mãn những nhu cầu tối thiểu của mỗi thành viên trong

làng. Hầu hết các làng đều có một vài hộ làm nghề rèn, dăm ba hộ làm thợ mộc, thợ

nề, một số hộ buôn bán tạp hoá ở chợ làng, một vài ông đồ dạy học, ông lang bốc

thuốc… đảm bảo cho các làng có tính độc lập, tương đối, ít phụ thuộc vào nhau.

Mỗi gia đình sống trong từng làng xã tách biệt vẫn có thể sống với những sản phẩm

do tự bản thân họ hoặc do những người đang sống cùng làng sản xuất ra. Nói về

tính biệt lập của các làng xã Việt Nam ông Lorin người Pháp khi viết về Việt Nam

từng nhận định “thời tiền cổ Việt Nam là một liên bang gồm hơn 2000 tiểu vương

quốc”. Chính tính biệt lập, khép kín trong không gian làng xã, không gian sống của

người tiểu nông này làm phát sinh tâm lý cục bộ, địa phương, chỉ biết làng mình, lợi

ích của làng mình mà không cần biết lợi ích của làng khác, lợi ích chung.

Do tính chất sinh hoạt biệt lập và khép kín của làng xã khiến nhiều người nông

dân cả đời không ra khỏi làng. Cuộc sống cộng đồng đóng kín trong một làng quê

nhỏ hẹp, thiếu một sự giao lưu cần thiết để so sánh, đối chiếu. Nó đóng khung con

người trong không gian (địa lý, kinh tế, văn hoá, xã hội) hạn hẹp, nó hạn chế tầm suy

nghĩ của con người, làm cho con người quen cảm nhận mình trong những chiều kích

của làng xã, không muốn nghĩ tới một cái gì cao xa, vượt ngoài nhu cầu nhỏ bé của

mình và vượt ra ngoài làng mình, từ đó là cơ sở cho tầm nhìn thiển cận của người

tiểu nông. Không gian sống hạn hẹp trong khuôn khổ của làng khiến họ khó có tầm

nhìn xa, như Mác và Ăngghen khẳng định người nông dân sản xuất nhỏ “không bao

giờ vượt ra khỏi phạm vi những quan hệ địa phương gần nhất và khỏi cái chân trời

45

địa phương chật hẹp gắn liền với những quan hệ đó” [113, tr.459]. Cha ông ta thường

nói “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn” nhưng do tính biệt lập, khép kín, giao

tiếp hạn chế, giao lưu văn hóa không được mở mang làm cho người tiểu nông sống

trong không gian làng xã có tính bảo thủ, đề cao kinh nghiệm, không chấp nhận cái

mới. Không tiếp xúc với thế giới bên ngoài và chỉ quanh quẩn với phương thức hoạt

động cũ kỹ, người tiểu nông thường hoài nghi với cái lạ, dè dặt với cái mới. Họ chỉ

biết làm theo kinh nghiệm của thế hệ trước hoặc của chính mình.

Làng Việt vốn hình thành một cách tự nhiên, từ rất sớm trước khi có nhà

nước trung ương phong kiến ra đời, do đó không thông qua bàn tay nhào nặn của

chính quyền trung ương. Để duy trì trật tự và đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển

của mình, làng xã đã có những tục lệ truyền miệng để điều chỉnh mọi hành vi của

các thành viên trong làng xã. Luật pháp của nhà nước phong kiến không đến được

với người dân vì tục lệ của làng xuất hiện từ rất sớm nhưng hệ thống luật pháp của

nhà nước tự chủ lại xuất hiện muộn. Mãi đến năm 1042, Nhà Lý mới ban hành bộ

luật Hình thư - bộ luật đầu tiên của nhà nước phong kiến. Do tính tự trị của làng xã,

phương tiện tuyên truyền luật thô sơ, lạc hậu, văn bản luật in bằng tiếng Hán ít

người dân biết đọc dẫn đến nhiều người dân không biết đến luật của nhà nước. Có

thể nói tình trạng người dân “mù luật” rất phổ biến trong xã hội phong kiến. Điều

này khiến người dân dựa hẳn vào hương ước để bảo vệ mình. Hơn nữa, do tính kép

kín của quá trình sản xuất cũng như sự hạn hẹp của các mối quan hệ xã hội của

người tiểu nông nên cả cuộc đời họ từ lúc cất tiếng khóc chào đời cho đến khi nhắm

mắt xuôi tay họ chỉ sống ở trong làng, họ sống với làng nhiều hơn với nước. Họ biết

đến nước chỉ khi thiên tai hoặc giặc giã đe doạ đến cuộc sống cộng đồng lớn hơn

làng. Do vậy, họ theo những quy định của lệ làng, của khoán ước, phường hội hơn

là chịu sự tác động của pháp luật nhà nước. Cùng với đó, pháp luật lại không được

thực thi nghiêm chỉnh, bị thao túng bởi tham quan ô lại. Người dân đôi khi do bị

quan trên, chức dịch cường hào kích động, xúi bẩy, dùng lý và luật để xử nhau đã

dẫn đến “mất cả cơ nghiệp” vì phải đi hầu kiện, không những vậy còn dẫn đến mâu

thuẫn đôi bên căng thẳng, thậm chí thù hằn truyền đời. Điều này càng khiến họ dựa

hẳn vào tục lệ, hương ước. Nhiều người dân khi bị hại (trộm cướp, người khác thù

46

hằn) nhưng không đến cửa quan vì “Thà bị mất của hơn là báo quan”, “Vô phước

bước vào cửa quan”. Người tiểu nông trong làng xã cũng chịu ảnh hưởng của tư

tưởng Nho giáo. Nho giáo lại chủ trương đức trị hơn pháp trị nên cũng có tâm lý coi

thường pháp luật. Hơn nữa, pháp luật hà khắc, bất công của bọn phong kiến, thực

dân, đế quốc ngoại xâm là sự áp đặt từ bên ngoài, bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống

trị, trong khi hương ước do họ góp phần xây dựng nên, do đó đã tạo cho người

nông dân sản xuất nhỏ - những người bị trị thói quen phản kháng lại pháp luật thay

vì chấp hành pháp luật của xã hội. Chính những đặc điểm trên dẫn tới tâm lý “phép

vua thua lệ làng”, coi thường pháp luật, trọng lệ hơn luật của người nông dân sản

xuất nhỏ.

2.1.2. Những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông

Tâm lý tiểu nông có nhiều biểu hiện khác nhau, có cả những biểu hiện tích

cực và tiêu cực. Do đó, những ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân

chủ ở cơ sở có cả mặt tích cực và tiêu cực nhưng ảnh hưởng tiêu cực vẫn là chủ yếu.

Những biểu hiện tích cực của tâm lý tiểu nông như truyền thống yêu nước, đoàn kết

cộng đồng, lao động cần cù, lạc quan trong cuộc sống, trọng tình cảm, trọng đạo

đức, trọng danh dự, trọng danh tiếng, trọng người cao tuổi… Tuy nhiên, tâm lý tiểu

nông cũng có nhiều biểu hiện tiêu cực khác nhau. Ở đây, tác giả chỉ khái quát một

số biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông có thể ảnh hưởng tiêu cực đến thực hiện

dân chủ ở cơ sở như sau:

Thứ nhất, tâm lý thu vén cá nhân, tư lợi.

Biểu hiện của nét tâm lý này là chỉ lo việc của cá nhân mình theo kiểu “đèn

nhà ai nhà ấy rạng”, “việc ai người ấy lo, bè ai người ấy chống”, không quan tâm

đến những người xung quanh “của mình thì giữ bo bo, của người thì để cho bò nó

ăn”. Tâm lý này nảy sinh do sản xuất nông nghiệp nhỏ, người nông dân tự phải lo

liệu lấy mọi việc trong mảnh ruộng của mình. Tuy nhiên tâm lý tư lợi theo nhiều

nhà tâm lý học, chính trị học đó là bản chất cố hữu của con người. Hobbes từng

khẳng định “Tinh thần vị kỷ trong loài người là một khát vọng không ngừng đối với

quyền lực và điều này chỉ mất đi khi con người chết” [68, tr.161]. Do đó, tâm lý tư

lợi, vun vén cá nhân của người tiểu nông khác với tư lợi của các giai cấp khác ví dụ

47

như giai cấp tư sản. Lo vun vén cho cá nhân, bản thân của người có tâm lý tiểu

nông mang tính chất tủn mủn, vụn vặt, chỉ tính đến cái ăn ngay, trước mắt theo kiểu

“được đâu hay đó”, “méo mó có hơn không”, “tham bát bỏ mâm”. Kiểu thu vén của

người tiểu nông là “rất nhỏ nhen, đôi khi đến khó coi, bần tiện theo kiểu “sển nồi vơ

rế”, “hết nạc thì vạc đến xương” [37, tr.50-51]. Trong khi đó, tư lợi của nhà tư sản

là quan tâm đến những cái lợi lớn, thậm chí có thể hy sinh những mối lợi nhỏ để

kiếm mối lợi lớn cho bản thân. Cái nghèo đói, thiếu thốn quanh năm của người tiểu

nông trên nền tảng sản xuất nhỏ khiến luôn quan tâm đến những lợi ích của bản

thân khi có điều kiện, dù là rất nhỏ, thậm chí vì mối lợi nhỏ nhặt trước mắt mà quên

đi cái lợi lớn, lâu dài. Ví dụ như, một số nông dân có tâm lý tư lợi thấy một cây

trồng, vật nuôi nào đó được giá thì đua nhau trồng vì cái lợi trước mắt mà không

tính toán xem liệu có vượt quá nhu cầu hay không, từ đó có thể dẫn tới thất bại, thua

thiệt trong tương lai. Tính thu vén cá nhân nhỏ mọn, tư lợi của người tiểu nông về

bản chất, cũng là sự cường điệu hoá những lợi ích và quyền của cá nhân. Tuy nhiên,

tính thu vén cá nhân, tư lợi của người tiểu nông cũng chứa đựng mâu thuẫn, họ có

thể đấu tranh để tranh giành những mối lợi dù là nhỏ nhất nhưng cũng sẵn sàng chia

sẻ quyền lợi của mình để giúp đỡ đồng bào khi gặp khó khăn với tinh thần “lá lành

đùm lá rách”.

Thứ hai, nếp nghĩ nặng theo kinh nghiệm hàng ngày, tính bảo thủ, ngại thay

đổi, thụ động, cầu an, a dua, dựa dẫm vào tập thể, tầm nhìn thiển cận.

“Kinh nghiệm là tập hợp những tri thức đã tích luỹ được do kết quả của nhận

thức cảm tính” [130, tr.244]. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người trực tiếp thu

nhận và hình thành những thông tin. Nhờ lặp đi, lặp lại nhiều lần, những thông tin

đó tập hợp thành những tri thức mang tính trực quan, đó là kinh nghiệm. Trạng thái

tĩnh lặng, hầu như không vận động của nền sản xuất nông nghiệp nhỏ đã không làm

nảy sinh nhu cầu buộc người ta phải tìm tòi, sáng tạo và khi không cần phải tìm tòi,

sáng tạo thì nảy sinh tâm lý coi trọng kinh nghiệm cũ, những thói quen, cách làm

cũ. Do đó người nông dân sản xuất nhỏ có thói quen suy nghĩ, đánh giá mọi việc

theo kinh nghiệm của mình, điều này cũng khiến họ trở nên bảo thủ, ngại thay đổi,

không chịu học tập cái mới, không dám mạo hiểm thử nghiệm và sáng tạo cái mới,

48

khó chấp nhận cái mới, nhất là những thay đổi đột ngột, ngại di chuyển. Sự bảo thủ,

ngại đổi mới ở người tiểu nông thể hiện ở chỗ dù thấy đổi mới có thể là cơ hội đem

đến những lợi ích lớn hơn trong tương lai nhưng vẫn họ vẫn không muốn thay đổi

mà tiếp tục suy nghĩ và hành động theo nếp cũ. Nói về tính bảo thủ, ngại đổi mới,

sáng tạo của người tiểu nông, Mác đã viết như sau: “loại trừ mọi việc ứng dụng

những phương pháp cải tiến hiện đại trong nông nghiệp, đồng thời biến bản thân

người nông dân thành kẻ kiên quyết phản đối mọi tiến bộ xã hội” [18, tr.84-85].

Chính vì bảo thủ, ngại đổi mới nên người tiểu nông bằng lòng với những gì

đã có, yên phận, cầu an, tự tiết chế mọi nhu cầu và mong ước của mình. Người nông

dân sản xuất nhỏ yên phận với mơ ước cỏn con giản dị “nhà ngói cây mít”, chỉ cần

đảm bảo những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu theo kiểu “cơm ba bát, áo ba manh, đói

không xanh, rét không chết”. Họ thụ động, thiếu ý chí vươn lên khẳng định mình

với tư cách là một nhân cách độc lập, luôn trông chờ, ỷ lại, dựa dẫm vào tập thể,

kém ý chí phấn đấu, hay đổ lỗi cho hoàn cảnh, ủy thác cho người sau, ít thấy trách

nhiệm cá nhân và ít thể hiện tính tích cực cá nhân. Người tiểu nông có tâm lý luôn

nhìn trước ngó sau, không dám vượt khỏi những khuôn mẫu mà tập thể đã định sẵn

theo kiểu “sai sao tôi vậy”, không dám hành động theo ý muốn của chính mình,

luôn làm theo đa số, hành động không dựa theo điều kiện thực tế của bản thân, a

dua, đua đòi. Nói về nét tâm lý này của người tiểu nông, nhà văn Đỗ Lai Thuý đã

nhận xét như sau:

Con người Việt Nam ngay cả khi chưa sinh ra, trước hết và chủ yếu, là

con người của cộng đồng, nhỏ như gia đình, dòng họ, phe, phường, giáp

hội, lớn như làng, nước thậm chí cả thiên hạ nữa. Chỉ với tư cách là thành

viên của cộng đồng, chứ không phải với tư cách là cá nhân, con người mới

có chút ít giá trị…[186, tr 110]

Sống trong cộng đồng, người Việt Nam trước đây bị chi phối bởi những quy

tắc, luật lệ của cộng đồng và không thể khác được. Nếu làm khác, họ sẽ phải chịu

những hình phạt khác nhau và không thể tồn tại được, mỗi cá nhân không thể tách rời

được cuống nhau công xã, cộng đồng. Do đó

49

Trong khuôn khổ cộng đồng, người ta không có quyền lựa chọn lối sống

riêng cho mình. Cùng lắm, anh ta chỉ được lựa chọn những lối sống khác

nhau của cùng một phổ sống [186, tr.110].

Cùng với đó, điều kiện sản xuất và sinh hoạt khiến người nông dân sản xuất

nhỏ có tầm nhìn thiển cận, không có tầm nhìn xa, trộng rộng, không nhìn thấy vấn

đề ở phạm vi tổng quát, toàn diện. Họ chỉ thấy những cái trước mắt hoặc những cái

xảy ra trong tương lai gần, chỉ nhìn và giải quyết vấn đề ở phạm vi nhỏ lẻ, cục bộ,

rời rạc. Cái nhìn của họ không vượt xa hơn những mảnh ruộng nhỏ hẹp nơi họ cày

cấy và luỹ tre làng nơi họ sinh sống.

Thứ ba, tâm lý tùy tiện vô nguyên tắc, ý thức kỷ luật kém, trọng lệ hơn luật,

trọng tình hơn lý.

Do phương thức sản xuất, người tiểu nông có tâm lý tuỳ tiện, thích thì làm,

không thích thì nghỉ, hành động theo ý muốn cá nhân, không dựa trên những

nguyên tắc, kỷ luật chung. Họ còn có tâm lý trọng tình hơn lý “một trăm cái lý

không bằng một tý cái tình”, chủ yếu lấy cái tình làm tiêu chuẩn ứng xử trong các

mối quan hệ. Các quan hệ tranh chấp xảy ra trong quan hệ giữa người nông dân

thường giải quyết bằng hoà giải theo phương châm nhường nhịn nhau “chín bỏ làm

mười”, lấy cái tình mà xử với nhau, chứ không phải bằng cái lý, bằng pháp luật.

Trong trường hợp bất đắc dĩ phải “đưa nhau đến chỗ cửa công” thì cũng “bề ngoài

là lý, bên trong là tình”. Người nông dân sản xuất nhỏ vì nhiều lý do khác nhau, họ

chỉ biết có lệ làng, lệ làng chi phối mọi hành vi và ứng xử của họ, họ không biết đến

pháp luật của vua cho nên xuất hiện tâm lý trọng lệ hơn luật “phép vua thua lệ

làng”.

Thứ tư, tâm lý địa phương, cục bộ, dòng họ.

Trong đời sống của làng xã, người nông dân luôn hiện diện với hai tư cách -

thành viên của cộng đồng làng và thành viên của dòng họ. Dòng họ là những người

cùng huyết thống với nhau. Tình cảm dòng họ trong làng xã thể hiện ở chỗ người

nông dân luôn hướng về cội nguồn “Chim có tổ, người có tông”. Cách ứng xử giữa

những người cùng dòng họ khác hẳn với cách ứng xử giữa những người ngoài dòng

họ. “Một giọt máu đào hơn ao nước lã” trở thành phương châm ứng xử của người

50

dân trong làng. Tình cảm dòng họ tạo nên tinh thần tương thân, tương ái giữa các

thành viên của nó. Tuy nhiên, sự cố kết trong các dòng họ nếu đẩy tới quá mức sẽ

dễ dàng trở thành tâm lý bè phái, phe cánh. Cùng với đó, tính khép kín, biệt lập của

làng, mỗi làng đều có tục lệ, văn hoá riêng, thần linh riêng và không cần giao lưu

với các làng khác vẫn có thể đảm bảo những nhu cầu tối thiểu của mọi người trong

làng dẫn tới tâm lý cục bộ, địa phương theo kiểu “Ta về ta tắm ao ta”, “Trống làng

nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”, đặt lợi ích của làng mình lên trên

làng khác hoặc thậm chí trên cả lợi ích của nước. Tâm lý này còn dẫn đến sự bao

che dung túng những sai lầm của nhau theo kiểu “gà cùng một mẹ chớ hoài đá

nhau”. Nói về tâm lý cục bộ, địa phương, dòng họ của người tiểu nông giáo sư Vũ

Khiêu đã nhận định rất xác đáng:

Trong thời kỳ chống giặc ngoại xâm thì người dân không phân biệt ranh

giới làng này hay làng khác, xả thân vì nước vì dân tộc, nhưng khi về

chăm lo cho cuộc sống hàng ngày, trong thời bình, thì xuất hiện những tư

tưởng ích kỷ, vụn vặt, chăm lo cho lợi ích của gia đình, dòng họ, làng xã.

[94, tr.21].

Tâm lý tiểu nông không chỉ biểu hiện ở những người gắn liền với sản xuất

nông nghiệp nhỏ mà còn hiện diện ở các tầng lớp dân cư dù hoạt động của họ không

liên quan đến sản xuất nông nghiệp nhỏ như công nhân, trí thức, đội ngũ cán bộ,

công chức nhà nước. Tâm lý tiểu nông không chỉ hiện diện ở hầu khắp các tầng lớp

nhân dân mà còn biểu hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tâm lý tiểu

nông không chỉ tác động đến con người Việt Nam trong xã hội cũ mà còn ảnh

hưởng không nhỏ đến nhận thức, tình cảm, hành vi của chúng ta trong xã hội hiện

đại. Trong luận án này, tác giả tập trung chỉ ra những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý

tiểu nông ở những người dân và cán bộ sinh sống ở địa bàn các xã trong hoạt động

thực hiện dân chủ ở các xã.

2.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ

VIỆT NAM

2.2.1. Khái niệm, sự cần thiết thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam

Khái niệm thực hiện dân chủ ở cơ sở.

51

Dân chủ là một phạm trù triết học - chính trị, lần đầu tiên được nhà hiền triết

Hy Lạp cổ đại Hêrôđôt nêu ra cách đây hơn 2500 năm trước. Trong tác phẩm Lịch

sử, ông đã giải thích dân chủ là "quyền lực của nhân dân". Cả Hêrôđôt, sau này là

Platon và Arixtôt, đều sử dụng thuật ngữ dân chủ với hàm ý chỉ chính thể của nhân

dân và chia sẻ luận điểm quyền lực thuộc về nhân dân vốn xuất phát từ tiếng Hy

Lạp: Dân (demo) và quyền lực (cratos). Dân chủ có lịch sử lâu dài với nhiều nội

dung khác nhau. Theo nội dung dân chủ chính trị thì dân chủ chính là hình thức tổ

chức quyền lực nhà nước trên nguyên tắc nhân dân là chủ thể gốc của quyền lực nhà

nước. Đây là nội dung cốt lõi nhất và cũng là nội dung quan trọng nhất của dân chủ.

Dân chủ còn được hiểu là một hình thức của các tổ chức phi nhà nước, như các tổ

chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp. Dân chủ còn là một giá trị xã hội mang tính

toàn nhân loại như (tự do, bình đẳng, quan hệ giữa người với người trong các lĩnh

vực khác của đời sống xã hội như gia đình, bạn bè, thầy trò). Với những nội dung

này, dân chủ không chỉ là phạm trù chính trị mà còn là phạm trù xã hội, không chỉ

là phạm trù lịch sử mà còn là phạm trù vĩnh viễn.

Cơ sở theo nghĩa rộng là đơn vị nhỏ nhất cấu thành chỉnh thể xã hội và đời

sống xã hội, có thể là nhóm xã hội, một cơ quan, một bệnh viện, trường học, xí

nghiệp, doanh nghiệp, công ty đơn vị quân đội, tổ chức hành chính sự nghiệp. Đó là

cộng đồng lao động, hoạt động, giao tiếp. Tuy nhiên, những loại hình và mô hình

này không nằm trong đối tượng nghiên cứu và phạm vi của luận án. Cơ sở theo

nghĩa hẹp, gắn với hệ thống đơn vị hành chính, là đơn vị hành chính nhỏ nhất trong

tổ chức các đơn vị hành chính gồm trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương, quận, huyện thành phố trực thuộc tỉnh, xã phường, thị trấn. Trong phạm vi

của luận án này, cơ sở chính là các xã trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam.

Theo sách Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay:

Thực hiện dân chủ ở cơ sở là thực hiện các quá trình dân chủ về kinh tế,

chính trị văn hoá, xã hội một cách trực tiếp, rộng rãi và liên tục đối với

mọi người, mọi giới và mọi lứa tuổi. Dân chủ ở cơ sở được thực hiện

thông qua các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở và sự hiểu biết

cùng khả năng thực hiện của mỗi người.

52

Đồng thời, tác giả cuốn sách cũng nêu rõ hơn về các hình thức, phương châm

thực hiện dân chủ ở cơ sở

Dân chủ ở cơ sở được thực hiện dưới 2 hình thức: dân chủ trực tiếp và dân

chủ gián tiếp, trong đó dân chủ trực tiếp có ý nghĩa thiết thực nhất. Phương

châm thực hiện dân chủ ở cơ sở là dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra

[78, tr.21].

Định nghĩa này nói khá đầy đủ về nội dung của dân chủ ở cơ sở là thực hiện

các quyền dân chủ về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, về các hình thức thực hiện

dân chủ ở cơ sở bao gồm hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, trong đó

đặc biệt chú ý đến dân chủ trực tiếp, đồng thời cũng làm rõ chủ thể thực hiện dân

chủ ở cơ sở là cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị và người dân ở cơ sở. Tuy

nhiên, định nghĩa này lại chưa nói được căn cứ, cơ sở để thực hiện dân chủ ở cơ sở,

trong đó căn cứ chủ yếu và quan trọng nhất chính là pháp luật của Nhà nước về dân

chủ. Dân chủ làng xã trước đây ở Việt Nam cũng phải dựa vào những quy phạm xã

hội, đặc biệt là phong tục, tập quán, hương ước. Phong tục, tập quán, hương ước

đều là những quy phạm xã hội điều tiết, chi phối ràng buộc hành vi của con người,

buộc họ phải tuân theo mặc dù không mang tính cưỡng chế mạnh mẽ như pháp luật

mà có sự dao động giữa tình trạng bắt buộc và cái đáng làm theo. Theo Toan Ánh,

phong tục tập quán đặc biệt là luật tục, hương ước là hình thức sơ khai của pháp

luật, là sợi dây “ràng buộc hành vi của con người đôi khi còn chắc chắn hơn luật

pháp rất nhiều” [4, tr.5]. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở nước ta hiện nay, việc thực hiện dân chủ ở cơ sở phải chủ yếu dựa vào pháp

luật (mặc dù có thể dựa vào các quy phạm xã hội khác nhưng vẫn phải phù hợp với

quy định của pháp luật). Pháp luật và phong tục, tập quán đều gặp nhau ở một điểm

là đều là phương tiện, là quy tắc điều chỉnh hành vi của con người (cá nhân, cộng

đồng, các quan hệ xã hội) với mục đích đảm bảo trật tự các quan hệ xã hội, định

hướng cách cư xử của cá nhân theo khuôn mẫu chung. Thực hiện dân chủ ở cơ sở

dù ở bất kỳ giai đoạn nào cũng phải dựa trên những quy phạm, quy tắc theo một

khuôn mẫu chung được cộng đồng chấp nhận.

53

Do đó, theo tác giả Nguyễn Hồng Chuyên thì thực hiện dân chủ ở cấp xã nội

dung chủ yếu và quan trọng nhất chính là thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã.

Tác giả cũng đã đưa ra khái niệm:

Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã là quá trình triển khai những

quy định pháp luật về dân chủ ở cấp xã vào thực tiễn đời sống xã hội ở

xã, phường, thị trấn, chuyển từ nhận thức về các quyền dân chủ của nhân

dân trên địa bàn cơ sở thành hành vi pháp luật thực tế hợp pháp của các

chủ thể pháp luật (chính quyền, cán bộ, công chức cấp xã, cán bộ thôn, tổ

dân phố, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và nhân dân trên địa bàn

xã, phường, thị trấn) [28, tr.100].

Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật là mối quan hệ giữa hai mặt của một

vấn đề. Không có pháp luật đảm bảo thì không thể có dân chủ thực sự. Pháp luật là

giới hạn của dân chủ, xác định hành lang vận động của dân chủ, của công dân cũng

như của xã hội và của bản thân nhà nước. Pháp luật là phương tiện ghi nhận và thực

hiện nền dân chủ xã hội, là cơ sở để tổ chức các thiết chế dân chủ, các hình thức

thực hiện dân chủ trong xã hội. Pháp luật chứa đựng nội dung của dân chủ, quy định

các quyền tự do dân chủ trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng…

của các tổ chức và cá nhân. Pháp luật không chỉ là phương tiện để nhân dân thực

hiện quyền làm chủ mà còn nhằm hạn chế tình trạng độc đoán, chuyên quyền, vi

phạm các quyền tự do dân chủ từ phía các chủ thể cầm quyền. Việc thực hiện dân

chủ ở cơ sở chủ yếu phải dựa vào pháp luật, thông qua pháp luật về dân chủ. Vì vậy,

Đảng ta khẳng định dân chủ phải gắn liền với pháp luật, pháp chế, kỷ cương, kỷ

luật. Với ý nghĩa đó, luận án này tiếp cận thực hiện dân chủ ở cơ sở theo nghĩa quan

trọng nhất, căn cốt nhất là thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Cơ sở là hình ảnh

thu nhỏ của xã hội và đời sống xã hội. Nó là cái vi mô mang theo nội dung, tính

chất của cái vĩ mô. Cơ sở có đời sống chỉnh thể của nó như một cái vĩ mô thực sự.

Vì vậy, thực hiện dân chủ ở cơ sở là đảm bảo các quyền dân chủ về kinh tế, chính

trị, văn hoá, xã hội của mọi người dân. Do vậy, trong luận án này, thực hiện dân

chủ ở cơ sở được hiểu là quá trình đảm bảo quyền dân chủ về kinh tế, chính trị văn

hoá, xã hội của tất cả mọi người dân ở cơ sở (phạm vi của luận án là ở các xã trên

54

lãnh thổ Việt Nam) đi vào cuộc sống trên thực tế dựa trên cơ sở quan trọng và chủ

yếu nhất là các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước về dân chủ.

Thực hiện dân chủ ở cơ sở phải dựa trên những quy định của Hiến pháp,

pháp luật, cũng như điều lệ của các tổ chức chính trị - xã hội, các quy phạm xã hội

khác song phải đảm bảo đúng đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Các

quy định pháp luật liên quan đến thực hiện dân chủ trên địa bàn các xã cũng thể

hiện ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau, song Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn là cơ sở pháp lý quan trọng nhất, là nội dung trọng tâm, thường

xuyên để thực hiện dân chủ ở địa bàn các xã trong giai đoạn hiện nay và trong

tương lai. Do tính chất rộng lớn của vấn đề cần khảo sát, trong luận án này việc

thực hiện dân chủ ở địa bàn các xã trên cơ sở pháp luật của Nhà nước được tập

trung chủ yếu vào pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện dân chủ ở cơ sở là quy chế dân chủ ở cơ sở.

Quy chế dân chủ ở cơ sở năm 1998 ra đời sau sự kiện nông dân ở hầu hết các làng

xã của Thái Bình đồng loạt biểu tình khiếu kiện đông người, kéo dài, vượt cấp để

phản ứng những hiện tượng tiêu cực xảy ra ở cơ sở, tạo thành những điểm nóng

chính trị - xã hội vào những năm 1996 - 1997. Tuy nhiên, thực hiện dân chủ ở cơ sở

không chỉ là giải pháp tạm thời, không chỉ đơn thuần là một phản ứng chính trị của

Đảng và Nhà nước trước tình hình phức tạp của những điểm nóng ở cơ sở mà là vấn

đề cơ bản, lâu dài nhằm không ngừng mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thực

hiện dân chủ ở cơ sở là một đòi hỏi tất yếu, là khâu đột phá trong toàn bộ quá trình

phát huy dân chủ trong thời kỳ đổi mới ở nước ta. Khâu đột phá được mở, đương

nhiên sẽ tiếp tục củng cố thắng lợi, mở ra những khâu khác, lĩnh vực khác. Có

người ví quy chế giống như khoán 10 trong nông nghiệp. Dân chủ ở cơ sở có ý

nghĩa quyết định đến mức độ, phạm vi và quy mô của quá trình mở rộng nền dân

chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta bởi đó là một phần của tiến trình mở rộng và thực

hiện quyền dân chủ trên cả hai hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Lực

lượng đông đảo dân chúng đang sống, sinh hoạt và hoạt động ở xã, phường, thị trấn,

trong đó số xã chiếm số lượng chủ yếu. Theo số liệu thống kê của Viện Khoa học

55

và tổ chức, Bộ Nội vụ điều tra, đến hết năm 2014 cả nước có 11.163 đơn vị hành

chính cấp xã trong đó có 8999 xã với 118.067 cán bộ xã. Do đó, nếu giải quyết

thành công vấn đề dân chủ ở các xã sẽ giải quyết được một phần rất căn bản, trọng

yếu dân chủ cho cộng đồng xã hội. Trong đó, dân chủ ở cơ sở đặc biệt chú ý đến

hình thức dân chủ trực tiếp của nhân dân. Xét về bản chất và nội dung của dân chủ,

dân chủ trực tiếp là hình thức quan trọng nhất và có tính quyết định việc hiện thực

hóa quyền dân chủ của công dân. Dân chủ trực tiếp tạo ra nhiều khả năng cho sự

tham gia trực tiếp và nhiều mặt của người dân vào các công việc của nhà nước và xã

hội, là cơ chế hữu hiệu để mỗi công dân thực hiện các quyền chính trị của mình. Chỉ

có dân chủ trực tiếp mới thể hiện được ý chí trực tiếp một cách hiệu quả nhất và xác

thực nhất của công dân trong việc tham gia vào mọi quyết sách và quản trị công nói

chung. Vì vậy Lênin cho rằng cái để phân biệt chế độ dân chủ tư sản với dân chủ xã

hội chủ nghĩa chính là ở chỗ sự tham gia trực tiếp và hàng ngày của người dân vào

công việc của nhà nước, của xã hội.

Sự cần thiết thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Lênin từng khẳng định, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải bắt đầu

từ thực hiện dân chủ ở cơ sở với các hình thức dân chủ trực tiếp đảm bảo cho người

dân ở cơ sở thực sự tham gia vào quản lý nhà nước “Không phải chỉ tuyên truyền về

dân chủ, tuyên bố và ra sắc lệnh về dân chủ là đủ, không phải chỉ giao trách nhiệm

thực hiện chế độ dân chủ cho “những người đại diện” nhân dân trong những cơ

quan đại biểu là đủ. Cần phải xây dựng ngay chế độ dân chủ, bắt đầu từ cơ sở, dựa

vào sáng kiến của bản thân quần chúng, với sự tham gia thật sự của quần chúng vào

tất cả đời sống của nhà nước” [208, tr.336 -337]. Kế thừa tư tưởng của Lênin và

xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, Đảng ta cũng khẳng định dân chủ ở cơ sở là khâu

quan trọng và cấp bách nhất trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa xã hội ở

nước ta. Ngày 18.2.1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 30 CT/TW về xây dựng

và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, trong đó nhấn mạnh “Mở rộng dân chủ xã

hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động

lực đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới… Khâu quan

trọng nhất và cấp bách nhất là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở”. Dân

56

chủ ở tất cả các cấp đều quan trọng nhưng dân chủ ở cơ sở là khâu trực tiếp quyết

định hiệu quả của cả hệ thống dân chủ. Nếu các đơn vị cơ sở không có dân chủ thực

sự thì không thể đưa quyền dân chủ về chính trị và văn hóa trong Hiến pháp, pháp

luật của Nhà nước đến với mọi người dân. Đây không chỉ là khâu quan trọng mà

còn cấp bách nhất trong hệ thống dân chủ ở nước ta hiện nay. Điều này xuất phát từ

những lí do sau:

Thứ nhất, do tầm quan trọng của chính quyền ở cơ sở

Chính quyền cơ sở là kênh có quan hệ trực tiếp với nhân dân. Mọi cử chỉ, tác

phong, lời nói, cách thức tiếp xúc giải quyết công việc cho dân… của cán bộ cơ sở

thể hiện bộ mặt của nhà nước ta. Người dân nhìn vào cán bộ đảng viên ở cơ sở để

đánh giá nhà nước, để có lòng tin hay sự bất bình. Cơ sở là nền tảng của chế độ, là

nền móng của toà nhà, cơ sở suy yếu, rệu rã, mất lòng tin của nhân dân là khởi đầu

của những suy yếu, những điều không bình yên của chế độ. Do đó, muốn tạo lập

niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước, đối với Đảng thì phải quan tâm xây dựng

đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở và đảng viên ở cơ sở thực sự trong sạch, có phong

cách dân chủ, tôn trọng và lắng nghe nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân.

Chính quyền ở cơ sở là nơi quyết định hiệu quả thực hiện các đường lối,

chính sách của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị trung ương 5 khoá IX,

Đảng ta khẳng định “Các cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân

dân cư trú, sinh sống. Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc

tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp

luật của Nhà nước” [47, tr.166]. Cơ sở là cấp tổ chức thực hiện, cấp hành động, mọi

chủ trương, chính sách dù xuất phát ở cấp nào thì cuối cùng cũng đều phải được tổ

chức triển khai thực hiện ở cơ sở. Là cấp tổ chức thực hiện đường lối, chính sách

của Đảng và Nhà nước nên sự thành công hay thất bại của các đường lối chính sách

phụ thuộc vào sự lôi cuốn, huy động quần chúng ở cơ sở tham gia. Do đó, để quần

chúng tích cực ủng hộ, tham gia thì phải quan tâm thực hiện dân chủ, tạo điều kiện

cho nhân dân được biết, được bàn bạc quyết định phù hợp với nguyện vọng và lợi

ích của họ. Hơn nữa, vì cấp cơ sở là cấp tổ chức thực hiện nên dù đường lối, chính

sách đưa ra có đúng đắn nhưng nếu cấp cơ sở không trong sạch, mất dân chủ, thì

57

đường lối, chính sách khi thực thi có thể bị biến dạng. Vì vậy, muốn đường lối,

chính sách của Đảng và Nhà nước được thi hành đúng đắn, hiệu quả thì phải củng

cố hệ thống chính trị ở cơ sở, thực sự trong sạch, vì dân, có phong cách dân chủ. Đó

là lí do tại sao Hồ Chí Minh khẳng định “cấp xã là gần gũi dân nhất, là nền tảng của

hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi” [113, tr.371].

Thứ hai, thực hiện dân chủ ở cơ sở mới kiểm tra và xây dựng được đường

lối, chính sách đúng

Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Quần chúng ở cơ sở là người

trực tiếp thực hiện các đường lối, chính sách, thường xuyên phải giải quyết những

tình huống của cuộc sống đặt ra nên họ sẽ kiểm chứng toàn bộ các quyết định lãnh

đạo quản lý, về tính đúng sai, phù hợp hay không phù hợp cũng như nảy sinh từ

thực tế những kinh nghiệm có thể khái quát thành lý luận để phản hồi với các chủ

thể ra quyết định nhằm điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối cho phù hợp. Do

vậy, phải quan tâm phát huy dân chủ ở cơ sở để kịp thời điều chỉnh, bổ sung đường

lối, chính sách đang thực hiện cũng như phát huy mọi ý tưởng, sáng kiến của nhân

dân để thực hiện những đổi mới, cải cách.

Thứ ba, ở cơ sở, người dân có nhu cầu và đòi hỏi về thực hiện dân chủ

Cơ sở là nơi nhân dân có nhiều đòi hỏi về quyền dân chủ, có điều kiện thực

hiện quyền làm chủ của mình. Đây là nơi có đòi hỏi về thực hiện dân chủ vì cơ sở là

nơi diễn ra mọi hoạt động của đời sống gắn liền mật thiết với những lợi ích, nhu cầu

thường nhật của quần chúng. Cơ sở thực hiện những nhiệm vụ liên quan trực tiếp

đến lợi ích của dân như xoá đói, giảm nghèo, dự án của quốc gia và các ngân hàng

hỗ trợ đối với vùng nghèo được triển khai ở các xã. Chính vì vậy, người dân có nhu

cầu cấp thiết nhất đối với thực hiện dân chủ ở cơ sở, do liên quan đến lợi ích thiết

thân, hàng ngày của họ. Hơn nữa, cơ sở là nơi người dân có điều kiện thuận lợi nhất

để thực hiện dân chủ, đặc biệt là quyền dân chủ trực tiếp. Chính quyền xã tồn tại

ngay tại cơ sở, khác với đội ngũ cán bộ ở cấp cao hơn, mức độ tiếp xúc với dân ít

nhiều còn có tính chất gián tiếp thì cán bộ cơ sở, trong cuộc sống và hoạt động của

mình, họ luôn phải tiếp xúc với dân, mọi hành vi ứng xử, mọi biểu hiện trong lối

sống đều được quan sát trực tiếp bởi người dân. Do tính chất trực tiếp của các mối

58

quan hệ trong công việc và cuộc sống hàng ngày, nhân dân là những người hiểu biết

đầy đủ nhất về cán bộ cơ sở, do đó có nhiều thuận lợi để thực hiện tốt quyền kiểm

tra, giám sát đối với cán bộ và hoạt động của cán bộ. Thêm vào đó, hình thức dân

chủ trực tiếp cũng rất phù hợp với phạm vi nhỏ như cơ sở. Cấp cơ sở không chỉ là

cấp quản lý mà còn bao hàm các hình thức tự quản với việc phát huy quyền dân chủ

trực tiếp của nhân dân. Nhà nước trung ương cũng không thể giải quyết hết mọi

việc cụ thể đến từng cơ sở, bao biện làm hết sẽ không có hiệu quả, gây lãng phí lớn

cũng như bất bình trong nhân dân. Do đó, phát huy dân chủ ở cơ sở, để người dân tự

giải quyết và quản lý các công việc ở cộng đồng cơ sở là hết sức cần thiết.

2.2.2. Nội dung, hình thức thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam

2.2.2.1. Nội dung thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam

Nội dung của thực hiện dân chủ ở trên địa bàn các xã được thể hiện ở nhiều

quy tắc, quy định khác nhau của xã hội, tổ chức, trong đó quan trọng và chủ yếu

nhất là các quy định pháp luật của Nhà nước về dân chủ. Các quy định pháp luật

liên quan đến thực hiện dân chủ ở các xã cũng thể hiện ở nhiều văn bản pháp luật

khác nhau, thường xuyên được điều chỉnh, trong đó cơ sở pháp luật quan trọng nhất

chính là Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Sự ra đời của Pháp lệnh

này cũng là một quá trình không ngừng bổ sung, hoàn thiện. Trên cơ sở Chỉ thị số

30- CT/TW năm 1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ - CP ngày

11/5/1998 về việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Ngay sau đó, Thủ

tướng Chính phủ đã ra chỉ thị số 22/1998/CT-TTg ngày 22 tháng 5 năm 1998 về

việc triển khau thực hiện quy chế dân chủ ở xã, Ban Tồ chức - Cán bộ Chính phủ

(nay là Bộ Nội vụ) ban hành Thông tư số 03/1998/TT -TCCP ngày 6 tháng 7 năm

1998 hướng dẫn áp dụng quy chế thực hiện dân chủ ở xã đối với phường, thị trấn.

Tiếp theo, Chính phủ đã ban hành Nghị định 79/2003/NĐ - CP ngày 7 tháng 7 năm

2003 về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (thay thế Nghị định số

29/1998/NĐ - CP); Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thực hiện

dân chủ ở xã, phường, thị trấn (số 34 /2007/PL -UBTVQH11) thay thế Nghị định

79/2003/NĐ - CP. Sau đó ngày 17 tháng 4 năm 2008 Chính phủ và Uỷ ban Trung

ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam đã ban hành Nghị quyết liên tịch số 09/2008/

59

NQLT - CP - UBMTTQVN về hướng dẫn thi hành điều 11, điều 14, Điều 16 Điều

22, Điều 26 của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

Nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng bao gồm tất cả các quyền dân chủ

về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của người dân. Quyền dân chủ về chính trị thể

hiện ở chỗ nhân dân được trực tiếp bầu ra đại diện của mình là Ban thanh tra nhân

dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng, được trực tiếp bầu trưởng thôn, được góp ý

kiến cho chính quyền, được biết về việc tiếp thu ý kiến của chính quyền sau khi lấy

ý kiến của nhân dân, được biết các thủ tục hành chính, nhiệm vụ, quyền hạn của cán

bộ, công chức, góp ý kiến cho hoạt động của cán bộ chủ chốt cấp xã, được biết kết

quả thanh tra, kiểm tra các vụ tiêu cực liên quan đến cán bộ, công chức cấp

xã…Quyền dân chủ về kinh tế của người dân được thể hiện ở việc được thông tin

các vấn đề kinh tế của địa phương, được tham gia ý kiến vào các vấn đề kinh tế của

địa phương, được bàn và quyết định chủ trương, mức đóng góp để xây dựng kết cấu

hạ tầng ở địa phương, giám sát trực tiếp và gián tiếp các công trình xây dựng ở địa

phương… Quyền dân chủ về văn hoá, xã hội của người dân thể hiện ở việc xây

dựng hương ước, quy ước để tự quản lý các vấn đề văn hoá, xã hội ở địa phương.

Như vậy, nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở là rất toàn diện và bao quát các quyền

của người dân trên mọi lĩnh vực, các hình thức dân chủ cũng như bao quát tất cả các

quy trình thực hiện dân chủ.

Một cách tiếp cận khác về nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở chính là nội

dung các quyền dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Cụm từ “dân biết, dân

bàn, dân làm, dân kiểm tra” do nhân dân phường Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân,

Hải Phòng và nhân dân xã Đông Sơn, huyện Thuỷ Nguyên, Hải phòng nêu ra năm

1984. Chỉ thị số 53 - CT/TW về tăng cường công tác quần chúng của Đảng (28-11-

1984) lần đầu tiên tổng kết sáng kiến này và nâng lên thành phương châm chung để

áp dụng phổ biến. Với quy chế dân chủ ở cơ sở và đặc biệt là Pháp lệnh dân chủ ở

xã, phường, thị trấn, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” không chỉ là khẩu

hiệu dân vận hoặc phương châm thực hiện chủ trương, đường lối mà trở thành một

định chế về quyền làm chủ của nhân dân. Nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở ở

Việt Nam hiện nay chính là việc “thể chế hoá và thực hiện tốt phương châm dân

60

biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” [53, tr.169-170.] Nội dung của thực hiện dân

chủ trên địa bàn các xã là biểu hiện cụ thể của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là sự

đảm bảo nguyên tắc toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân tại địa bàn các

xã trên cơ sở thực hiện quyền được biết, quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ

quan có thầm quyền quyết định, quyền được quyết định, biểu quyết và quyền được

giám sát với những nội dung có liên quan đến đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá,

xã hội của người dân ở trên địa bàn các xã bằng những hình thức nhất định, phù hợp

với các nguyên tắc, quy định của pháp luật. Theo quy định của Pháp lệnh về thực

hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, nội dung thực hiện dân chủ trên địa bàn các xã

ở Việt Nam được thể hiện ở những nhóm quyền cơ bản của người dân như sau

- Dân biết (Quyền được biết với các nội dung cần được công khai cho

người dân).

Dân biết là khâu trước hết trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Có thể nói, dân

biết là điểm khởi đầu của dân chủ, là điều kiện, tiền đề để thực hiện các nội dung

sau của dân chủ. Nếu dân không biết thì không thể bàn, quyết định hay kiểm tra,

giám sát. Dân biết ở mức độ thấp là trang bị vốn hiểu biết, tăng thêm thông tin để

nâng cao nhận thức. Dân biết ở mức độ cao là sử dụng vốn hiểu biết của mình để

tham gia vào các quyết định quản lý, để kiểm tra. Để thực hiện quyền được biết của

nhân dân, phải thực hiện các nội dung, hình thức cần công khai cho nhân dân. Nội

dung công khai với dân không chỉ là những vấn đề liên quan đến cuộc sống hàng

ngày ở cơ sở bởi trong chế độ ta, dân biết không chỉ để giải quyết những vấn đề về

quyền và lợi ích của chính họ, mà còn đóng góp vào sự cải biến xã hội, thúc đẩy

tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, do nhận thức có giới hạn, Đảng cần định hướng cho dân

nên biết cái nào trước,, cái nào sau. Theo pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,

thị trấn, có 11 nội dung cần được công khai cho nhân dân biết, bao gồm:

1. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế

và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm của cấp xã.

2. Dự án, công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án

đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên

61

địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh,

quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã.

3. Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các

công việc của nhân dân.

4. Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương

trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng góp.

5. Chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xoá

đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn phát triển

sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế.

6. Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới

hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã.

7. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng

của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín

nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Uỷ

ban nhân dân cấp xã.

8. Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề

thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý

kiến nhân dân theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh này.

9. Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính

quyền cấp xã trực tiếp thu.

10. Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công

việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện.

11. Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.

- Dân tham gia ý kiến để cấp có thẩm quyền quyết định.

Dân được tham gia ý kiến là tôn trọng quyền được phát ngôn, biểu thị ý chí,

nguyện vọng của nhân dân đối với các cơ quan quản lý nhằm góp ý cho Đảng và Nhà

nước quyết định các chủ trương, chính sách cho phù hợp. Theo pháp lệnh thực hiện dân

chủ ở xã, phường, thị trấn, những nội dung nhân dân tham gia ý kiến bao gồm:

62

1. Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; phương án chuyển

đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất; đề án định canh, định cư, vùng kinh tế mới và

phương án phát triển ngành nghề của cấp xã.

2. Dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều

chỉnh; việc quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã.

3. Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp xã;

chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng,

tái định cư; phương án quy hoạch khu dân cư.

4. Dự thảo đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa

giới hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã.

5. Những nội dung khác cần phải lấy ý kiến nhân dân theo quy định của pháp

luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã

thấy cần thiết.

- Dân được quyết định trực tiếp và biểu quyết, quyết định.

Nhân dân quyết định trực tiếp về chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ

sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân

phố do nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí và các công việc khác

trong nội bộ cộng đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp luật.

Nhân dân tham gia xây dựng và biểu quyết cho bản hương ước, quy ước của

thôn, tổ dân phố.

Nhân dân bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố.

Nhân dân bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát

đầu tư của cộng đồng.

- Dân kiểm tra, giám sát.

Nhân dân thực hiện quyền giám sát thông qua Ban thanh tra nhân dân, Ban

giám sát đầu tư của cộng đồng hoặc trực tiếp thực hiện quyền giám sát thông qua

khiếu nại, tố cáo, kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Nội dung nhân dân tham gia giám sát chính là các nội dung nhân dân được

biết, được tham gia ý kiến và được bàn bạc, quyết định và biểu quyết.

63

Ngoài ra, quyền giám sát của nhân dân còn được thể hiện qua việc lấy phiếu

tín nhiệm những cán bộ chủ chốt cấp xã định kỳ trên cơ sở bản đóng góp ý kiến của

nhân dân đối với bản tự kiểm điểm của đội ngũ này trước nhân dân. Theo Pháp lệnh

thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, việc thực hiện lấy phiếu tín nhiệm được

tiến hành như sau:

1. Hai năm một lần trong mỗi nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cấp xã, Ban

Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tổ chức lấy phiếu tín

nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch, Phó Chủ tịch

Uỷ ban nhân dân cấp xã.

2. Thành phần tham gia lấy phiếu tín nhiệm gồm các thành viên Uỷ ban Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên Ban thường vụ của các tổ chức chính trị - xã hội

cấp xã, Trưởng ban thanh tra nhân dân, Trưởng ban giám sát đầu tư của cộng đồng

(nếu có), Bí thư chi bộ, Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, Trưởng ban công tác

mặt trận thôn, tổ dân phố.

Bốn nội dung của thực hiện dân chủ ở cơ sở có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ,

thúc đẩy lẫn nhau. Có thực hiện được dân biết thì mới thực hiện được dân tham gia

ý kiến, dân biểu quyết, quyết định cũng như kiểm tra, giám sát. Mức độ dân biết,

dân bàn sẽ quyết định đến quy mô huy động lôi cuốn dân làm trong thực tế cuộc

sống. Đồng thời, dân thực hiện được quyền kiểm tra, giám sát tốt thì sẽ tác động trở

lại đối với việc thực hiện quyền tham gia ý kiến, quyền biểu quyết và quyết định

của họ.

2.2.2.2. Hình thức thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam

Các quyền dân chủ của người dân ở cơ sở như đã trình bày ở trên được thực

hiện thông qua cả hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Người dân thực

hiện quyền làm chủ của mình một cách gián tiếp, ví dụ như nhân dân thực hiện

quyền giám sát thông qua Ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng

đồng - những người đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân bầu ra.

Những người tham gia việc lấy phiếu tín nhiệm cán bộ chủ chốt cấp xã cũng là đại

diện cho nhân dân trong việc thực hiện quyền giám sát. Trong nội dung thực hiện

dân chủ ở cơ sở, chủ yếu và chiếm ưu thế là các hình thức dân chủ trực tiếp. Nhân

64

dân được cung cấp thông tin về những vấn đề mình quan tâm và đã được quy định

trong pháp luật, được trực tiếp tham gia ý kiến trước khi cấp có thẩm quyền quyết

định, được biểu quyết và quyết định nhiều vấn đề liên quan đến lợi ích của mình,

được trực tiếp bầu ra những đại diện cho mình, nhân dân được trực tiếp tham gia

kiểm tra, giám sát thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, quyền góp ý cho bản kiểm

điểm của cán bộ chủ chốt cấp xã…

2.3. PHƯƠNG THỨC TÁC ĐỘNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI HẠN CHẾ

NHỮNG ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÂM LÝ TIỂU NÔNG ĐẾN THỰC HIỆN

DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ

2.3.1. Sự tồn tại của tâm lý tiểu nông ở Việt Nam hiện nay

Tâm lý tiểu nông vẫn còn tồn tại dai dẳng trong xã hội hiện nay ngay cả khi

cơ sở tồn tại xã hội của nó đã chấm dứt do đặc điểm của ý thức xã hội là tính ỳ, nhất

là với bộ phận tâm lý xã hội. Các yếu tố của tâm lý xã hội như thói quen, truyền

thống… tồn tại càng lâu thì sức ỳ càng lớn. Tâm lý tiểu nông tồn tại qua hàng nghìn

năm ăn sâu, bám rễ trong mỗi con người thông qua phong tục, tập quán cho nên nó

vẫn tồn tại và vận động theo lô gíc riêng ngay cả khi điều kiện kinh tế - xã hội sản

sinh ra nó đã thay đổi. Trong khi đó, bản thân cơ sở vật chất cho sự tồn tại của tâm

lý tiểu nông ở nước ta hiện nay vẫn chưa bị xoá bỏ hoàn toàn, triệt để vì tính chất

sản xuất nhỏ của nền nông nghiệp nước ta vẫn còn tồn tại. Sản xuất nông nghiệp ở

Việt Nam nhất là vùng sâu, vùng xa vẫn là sản xuất nhỏ, ruộng đất manh mún, phân

tán, trình độ thủ công, tự cung tự cấp. Do đó, tâm lý tiểu nông vẫn còn tồn tại tương

đối phổ biến, dai dẳng ở nước ta hiện nay.

Tâm lý tiểu nông không chỉ có ở những người nông dân sản xuất nhỏ mà

ngay cả những tầng lớp xã hội khác, những người sinh ra và trưởng thành trong

môi trường xã hội mới, thậm chí có trình độ văn hoá và lý luận cao cũng có tâm lý

này. Điều này Lênin đã khẳng định rất rõ “Công nhân không bao giờ bị một bức

trường thành nào tách khỏi xã hội cũ cả. Mà công nhân còn giữ lại nhiều tâm lý cổ

truyền” [210, tr.551]. Sau này, Đảng ta cũng khẳng định tâm lý tiểu nông vẫn còn

biểu hiện khá đậm nét trong suy nghĩ và hành động của cán bộ, đảng viên của

Đảng “Nền kinh tế sản xuất nhỏ và chiến tranh du kích kéo dài đã để lại trong

65

nhiều cán bộ, đảng viên những dấu ấn tiêu cực về cách suy nghĩ, những thói quen

và tập quán lạc hậu, cách làm việc tùy tiện, tính bản vị, cục bộ, địa phương chủ

nghĩa, thiếu hợp tác xã hội chủ nghĩa” [42, tr.55]. Sở dĩ, tâm lý tiểu nông có ở mọi

tầng lớp xã hội vì nước ta là nước nông nghiệp, hầu hết mọi người xuất thân từ

nông thôn, sinh ra và lớn lên trong gia đình nông dân. Quá trình xã hội hóa cá

nhân (từ lúc sinh ra đến lúc trưởng thành) diễn ra ở môi trường nông thôn khiến

con người kế thừa và chịu ảnh hưởng rất nhiều các đặc điểm tâm lý xã hội của xã

hội nông thôn. Mặt khác, cá nhân chịu sự chăm sóc, giáo dục trực tiếp của gia

đình (ông bà, cha mẹ là nông dân). Từ đó tâm lý tiểu nông ảnh hưởng đến suy

nghĩ, tình cảm, hành vi của cá nhân trong cả môi trường hoạt động mới, khi họ đã

ở thành thị và không còn sản xuất nông nghiệp theo lối nhỏ lẻ, tự cung tự cấp nữa.

Tâm lý này còn có cả ở những người dân thành thị vì một bộ phận cư dân vừa mới

là nông dân được chuyển lên thành thị dân, có quá khứ không xa là nông dân, lối

sống, nếp suy nghĩ, cung cách ứng xử còn chịu ảnh hưởng lớn của làng xã truyền

thống. Một số người sinh ra và lớn lên ở đô thị nhưng môi trường làm việc lại

phần lớn là các thành viên sinh ra ở nông thôn, xuất thân trong các gia đình nông

dân nên cũng chịu ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông ở những người mà họ thường

xuyên tiếp xúc, giao tiếp và hoạt động cùng. Do vậy, đối tượng của cuộc đấu tranh

chống lại những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông không chỉ ở nông dân mà

cả trong công nhân, trí thức và nhiều tầng lớp xã hội khác.

Trong điều kiện chiến tranh, khi những lợi ích cá nhân và lợi ích dòng họ,

địa phương, cục bộ đều tìm thấy trong mục tiêu chung của cả dân tộc, cộng đồng là

đánh thắng kẻ thù xâm lược, giành độc lập dân tộc thì những biểu hiện tiêu cực của

tâm lý tiểu nông tạm lắng xuống, ít có cơ hội, điều kiện được bộc lộ. Tuy nhiên,

trong điều kiện hoà bình, những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông lại trỗi dậy

và đặc biệt lại được củng cố hơn bởi cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp mà Việt

Nam áp dụng trong điều kiện cả nước quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội (1976-

1986). Thời kỳ này, chính việc phân phối theo chủ nghĩa bình quân, cào bằng đã

củng cố thêm tâm lý dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể, tâm lý bảo thủ, trì trệ, ngại suy

nghĩ, tìm tòi, đổi mới, sáng tạo. Sự thiếu dân chủ về mặt tư tưởng, không chấp nhận

66

sự đa dạng trong ý kiến, người dân chỉ được tham gia vào sinh hoạt chính trị thông

thường khiến họ không dám bộc lộ chính kiến riêng, mà a dua, nói và hành động

theo khuôn mẫu chung của cả cộng đồng, dư luận, không dám vượt lên dù biết điều

đó là không đúng. Việc thực hiện ngăn sông cấm chợ, cản trở sản xuất hàng hoá,

trao đổi, thông thương càng làm gia tăng sự khác biệt giữa các vùng, miền, các làng,

địa phương củng cố tâm lý địa phương, cục bộ.

Hiện nay, chúng ta đang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, bên cạnh những mặt tích cực, kinh tế thị trường cũng tự phát chứa đựng

những mặt trái nếu chúng ta không có giải pháp ngăn chặn, những mặt trái này có

thể là mảnh đất tốt, tiếp thêm nguồn dinh dưỡng cho những biểu hiện tiêu cực của

tâm lý tiểu nông tiếp tục tồn tại và phát huy ảnh hưởng trong các tầng lớp nhân dân.

Kinh tế thị trường đề cao lợi ích cá nhân, đặc biệt là lợi ích vật chất nhưng nếu bị

đẩy lên quá mức có thể làm nảy sinh tính ích kỷ, nhỏ nhen, dẫn tới chủ nghĩa cá

nhân cực đoan, chỉ quan tâm đến lợi ích của bản thân mà không chú ý thậm chí chà

đạp lên lợi ích của cộng đồng. Mặt trái này của kinh tế thị trường cộng với những

kẽ hở của pháp luật làm cho tính cá nhân thu vén, tư lợi có điều kiện phát triển và

gia tăng mạnh. Đồng thời vì chạy theo lợi nhuận, khát vọng làm giàu cho bản thân

bằng mọi cách, dẫn tới chà đạp lên các chuẩn mực đạo đức và hệ thống pháp luật.

Vì lợi ích cá nhân có thể bất chấp pháp luật để buôn lậu, lừa đảo, làm hàng giả, trốn

thuế…Như vậy, mặt tiêu cực này của kinh tế thị trường cũng làm gia tăng tâm lý

trọng lệ hơn luật, coi thường pháp luật của tâm lý tiểu nông.

2.3.2. Phương thức tác động của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ

ở cơ sở

Thứ nhất, tâm lý tiểu nông tác động đến suy nghĩ và hành động của mọi

người trong mọi lĩnh vực hoạt động, trong đó có việc thực hiện dân chủ ở cơ sở

thông qua phong tục, tập quán, hương ước.

Phong tục tập quán, hương ước là một dạng quy phạm xã hội góp phần điều

chỉnh, ổn định hành vi, từ đó chế ước tư tưởng, tâm lý, đạo đức của từng người,

thông qua việc các phong tục, tập quán đặc biệt là phong tục tập quán thành văn là

hương ước được mọi người bền bỉ, tự giác hành động biến thành thói quen bền

67

vững. Hương ước chi phối suy nghĩ và hành vi của con người không chỉ khi không

gian truyền thống cho sự ra đời và duy trì của hương ước xưa vẫn còn tồn tại mà

ngay cả khi những yếu tố đó đã mất đi. Nói về sức mạnh của hương ước chi phối

suy nghĩ và hành vi của nhiều người, tác giả Nguyễn Hữu Thông khẳng định:

Ngôi nhà rường truyền thống có thể không còn nhiều, viên đá tảng mất đi

vai trò; máy xay xát gạo đã hoàn toàn thay thế cối giã gạo… nhưng trên

thực tế, những hành vi bị chi phối bởi hương ước vẫn tồn tại đậm nhạt

khác nhau trong sự ứng xử cá nhân lẫn cộng đồng, và đâu đó, chi phối

đến mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ phạm vi sinh hoạt thường nhật cho

tới không gian lễ nghi, mà luật pháp, trên một số vấn đề, lĩnh vực chưa

đáp ứng được [180, tr.73].

Tâm lý tiểu nông tồn tại trong hương ước, phong tục, tập quán và đến lượt

mình, những hương ước, phong tục, tập quán này chi phối, uốn nắn tư tưởng và

hành vi của mọi người trong xã hội, từ đó làm cho tâm lý tiểu nông vẫn tiếp tục hằn

sâu và chi phối mọi suy nghĩ và hành động của con người, trong đó bao hàm cả việc

thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Theo tác giả Lê Hữu Xanh, “Phong tục tập quán là những thói quen trong suy

nghĩ, ứng xử của cộng đồng, là quy tắc, khuôn mẫu chi phối hành vi của thành viên

trong cộng đồng và được hình thành trong quá trình phát triển của xã hội” [223,

tr.82]. Phong tục tập quán là sự biểu hiện những thói quen được lan truyền, tập nhiễm

qua các thế hệ, từ người này đến người khác. Cũng theo tác giả, phong tục tập quán

biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, truyền miệng hoặc thành văn (lệ làng,

hương ước, quy ước làng ở vùng nông thôn đồng bằng, luật tục ở vùng đồng bào dân

tộc thiểu số). Như vậy, hương ước là một dạng biểu hiện của phong tục, tập quán.

Theo tác giả Vũ Duy Mền, hương ước “đó là những quy ước về các mặt

thuộc đời sống cộng đồng, do dân làng tự thoả thuận đặt ra và cùng nhau thi hành

nhằm đảm bảo quyền tự quản, tự trị của làng xã” [112, tr.311]. Hương ước chính là

luật thành văn của làng xã, là sản phẩm chung của cộng đồng làng xã, thông qua

thảo luận, bàn bạc trên cơ sở bình đẳng, tất cả các thành viên không phân biệt đẳng

cấp, giàu nghèo, phải có nghĩa vụ, trách nhiệm thực hiện. Theo nhiều nhà nghiên

68

cứu, thời điểm xuất hiện của hương ước ở Việt Nam là từ cuối thời Trần. Từ thời Lê

sơ về sau, hương ước ngày một nhiều. Đến cuối thế kỷ XV hương ước đã trở thành

phổ biến. Khoảng nửa cuối thế kỷ XV, việc các làng xã lập hương ước đã phát triển

rất mạnh khiến vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) phải ra đạo dụ nhằm khống chế

việc lập ra hương ước của các làng xã. Song, bên cạnh những làng có hương ước

sớm thì cũng có nhiều làng mãi đến tận cuối thể kỷ 18, đầu thế kỷ 19 hương ước

mới ra đời.

Hương ước chứa đựng nhiều giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc song những

biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông, làng xã trong hương ước cũng khá đậm đặc.

Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra những mặt tiêu cực của tâm lý tiểu nông, tư tưởng

phong kiến trong các bản hương ước cổ. Tác giả Hồ Liên đã khẳng định:

Hương ước là sự bộc lộ tư tưởng cục bộ địa phương, óc bè phái hình

thành trên cơ sở “tâm lý làng”. Sự phân biệt “làng” với “thiên hạ” làm

nảy sinh sự đối lập giữa “giá trị làng” với “giá trị ngoài làng”. Đó là tư

tưởng địa vị ngôi thứ, gắn với cả trật tự gia trưởng, trật tự lão quyền và

nhất là trật tự quan liêu. Địa vị kèm theo lợi ích, bổng lộc. Địa vị là danh

phận, là tất cả, là nỗi vinh nhục của kiếp người [102, tr.197].

Trong công trình chuyên khảo về hương ước, tác giả Đào Trí Úc cũng khẳng

định “Hương ước chứa đựng không ít những quy tắc mang tính tiêu cực thể hiện tư

tưởng cục bộ, địa phương, bè phái trên cơ sở “tâm lý làng” (…) Chính cái “tâm lý

làng” với đầy rẫy các quy tắc về hệ thống đẳng cấp, ngôi thứ trong làng, về các hủ

tục cưới xin, ma chay, khao vọng, hội hè đã được giới chức dịch trong làng bao đời

lợi dụng để trói buộc người nông dân vào hằng hà vô số các nghĩa vụ, trách nhiệm,

cấm đoán và hạn chế, tạo nên một lối sống chỉ theo lệ làng, coi thường luật nước

theo đúng ý nghĩa “phép vua thua lệ làng” [204, tr.195]. Như vậy, những nét biểu

hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông thể hiện rõ nét trong hương ước được các tác giả

khẳng định đó là tâm lý địa phương, cục bộ, trọng lệ hơn luật, coi thường pháp luật

“phép vua thua lệ làng”. Chúng ta cũng có thể dễ dàng chỉ ra nhiều nét tâm lý tiêu

cực đặc trưng của tâm lý tiểu nông được thể hiện trong các quy định của nhiều bản

hương ước cổ.

69

Biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông thể hiện rõ nét nhất trong các bản

hương ước là tâm lý địa phương, cục bộ. Sự cục bộ, địa phương trước hết thể hiện ở

việc phân biệt giữa dân ngụ cư và dân chính cư. Dân chính cư được coi là người của

làng, được ghi vào sổ hương ẩm, được hưởng nhiều quyền lợi như được chi phần

ruộng công của làng, được tham gia tế lễ ở đình, dự cỗ bàn và được chi biếu phần…

Người ngụ cư, tức là người làng khác đến, không được hưởng quyền lợi nhưng phải

chịu nhiều nghĩa vụ như tạp dịch ở làng, phục dịch ở đình trung. Dân ngụ cư cũng

tương tự như con hầu, người ở của làng, họ bị lép vế và chịu thua thiệt đủ điều, qua

thử thách nhiều đời mới có thể trở thành dân chính cư. Hương ước làng Hành

Thiện, tổng Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định quy định “những

người ngụ cư có đóng sưu ở làng xã và chịu tạp dịch thì được hưởng nửa phần cấp.

Nếu đã được 3 đời hoặc 30 năm liên tục thì được hưởng cả phần cấp như chính

đinh” [12, tr.66]. Tâm lý cục bộ, địa phương trong hương ước còn thể hiện ở việc

khuyến khích lấy nhau giữa những người trong làng “ta về ta tắm ao ta”; “trâu ta ăn

cỏ đồng ta”, qua việc phân biệt giữa cheo nội và cheo ngoại. Cheo nội áp dụng cho

trai gái trong làng lấy nhau và cheo ngoại áp dụng cho con gái đi lấy chồng ở làng

khác. Đa số các làng, cheo ngoại thường nặng gấp đôi cheo nội, thậm chí có làng xã

thu cheo ngoại cao gấp bội so với cheo nội, chủ yếu nhằm khuyến khích hôn nhân

giữa trai gái trong làng, củng cố tính bền vững của cộng đồng làng xã. Tính cục bộ,

địa phương còn thể hiện ở việc nhiều hương ước hạn chế việc giao lưu, buôn bán

giữa các làng. Lệ cấm đò, cấm chợ trong mối quan hệ thông thương rộng mở với

bên ngoài được thể hiện rõ nét ở khoán lệ Xuân Hoà “Ngay ở điều khoản đầu tiên,

làng cấm ngặt mọi sự mua bán hoá vật trong làng, chỉ được diễn ra tại chợ làng,

không được đi chợ khác. Còn trong những trường hợp gia đình có việc cần thiết mà

chợ làng không đáp ứng được thì gia chủ phải trình với làng xã, mới được ra ngoài

mua” [180, tr.185]. Lệ làng, hương ước của nhiều làng còn quy định khắt khe việc

giấu nghề bằng cách không truyền nghề cho người làng khác, thậm chí đối với cả

con gái, vì sợ họ mang bí quyết nghề sang làng khác đi nơi khác, thể hiện rõ nét tâm

lý cục bộ, địa phương.

70

Tâm lý bình quân chủ nghĩa cũng được thể hiện trong nhiều bản hương ước.

Trong nhiều bản hương ước, từ lao động công ích như đắp đê chống lụt, bảo vệ an

ninh làng xã, thuế thân đều tính bình quân chia đầu người hoặc hộ gia đình. Trong

việc thờ cúng, hội hè, tế lễ cũng bình quân trong đóng góp và lộc oản của chùa cũng

được phân phát như nhau.

Sự coi thường pháp luật của nhà nước, trọng lệ hơn luật cũng là nét tâm lý

tiểu nông biểu hiện khá rõ nét trong nhiều bản hương ước. Các bản hương ước đều

bắt đầu bằng câu “nước có luật nước, làng có ước lệ của làng” như một tuyên ngôn

khẳng định quyền tự trị của mỗi làng, cũng là khẳng định tính hiệu lực rất cao, giá

trị điều chỉnh của lệ làng trong không gian làng xã, nhiều khi còn hơn cả phép nước.

Hương ước hầu hết các làng đều có các điều khoản ngăn ngừa và xử phạt những

người khiếu nại, kiện cáo lên quan trên mà không thông qua làng. Ở nhiều làng có

quy định ai kiện cáo lên quan trên mà không thông qua làng sẽ bị phạt, hoặc không

bằng lòng với việc làng đối xử mà cứ tiếp tục đi kiện lên trên, nhưng nếu quan trên

vẫn xử như làng đã xử thì không những chỉ bị phạt mà còn chịu những phí tổn do

làng chi ra cho việc xét kiện đó. Chính những quy định này càng củng cố tâm lý

sống bằng lệ làng, coi trọng lệ làng hơn phép nước, phép vua thua lệ làng.

Những biểu hiện tiêu cực này của tâm lý tiểu nông trong hương ước đã chế

ước tâm lý, nhận thức của nhiều người thông qua sức mạnh bắt buộc mọi người

phải thực thi hương ước trên thực tế. Tác giả Trần Từ đã khẳng định hương ước “là

một cương lĩnh về nếp sống hàng ngày của làng xã mà mọi cá nhân, mọi tổ chức

trong làng phải tuân thủ” [205, tr.103]. Trong các bản hương ước đều quy định rất

rõ những hình phạt cụ thể đối với những hành vi không chấp hành các quy định của

hương ước đồng thời có những hình thức khen thưởng đối với các hành vi chấp

hành tốt hương ước. Qua đó, những quy định trong hương ước có tính thực thi trong

cuộc sống. Các hình thức khen thưởng phổ biến trong các bản hương ước là thưởng

tiền và hiện vật hoặc tăng vị trí ngôi thứ gắn liền với nhiều quyền lợi vật chất và

tinh thần trong làng, tuỳ thuộc vào công trạng và thành phần xuất thân của người

đó. Hình thức xử phạt phổ biến cũng là tiền và hiện vật. Ngoài ra, đánh đập cũng là

hình thức xử phạt mà làng xã áp dụng làm cho kẻ vi phạm “đòn đau nhớ đời”. Hạ vị

71

trí ngôi thứ của kẻ vi phạm cũng là một hình phạt tinh vi của lệ làng, hương ước.

Đặc biệt, đuổi khỏi làng là hình phạt cao nhất của làng xã đối với kẻ vi phạm hương

ước, không khác gì án tử hình đối với họ. Bởi vì, đối với người nông dân xưa, làng

là tất cả, là lẽ sống. Người nông dân Việt không dám tách rời “cuống nhau làng xã”.

Cả nước Việt là những làng tiểu nông biệt lập, đuổi khỏi làng đi nơi khác, làng

khác, người nông dân sống rất khó khăn, không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị,

tinh thần vì phải chịu thân phận của người ngụ cư. Các hình phạt đối với những

người vi phạm hương ước là rất nghiêm khắc, khắc nghiệt bằng việc kết hợp hai, ba

hình thức xử phạt cùng một lúc, có tác dụng răn đe, ngăn ngừa các vụ vi phạm rất

lớn. Hương ước còn dựa vào dư luận làng, vào sự giám sát của cộng đồng để quản

lý các cá nhân, buộc các cá nhân phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định trong

hương ước bằng cách ngoài việc quy định chế độ xử phạt trực tiếp kẻ vi phạm (ai

làm người ấy chịu) còn áp dụng chế độ chịu trách nhiệm liên đới giữa tổ chức với

cá nhân từng thành viên (trong làng xã còn có nhiều thể chế khác như giáp, ngõ

xóm, dòng họ, hội tư văn…). Một người không hoàn thành nghĩa vụ với làng hoặc

vi phạm lệ làng thì cả tổ chức mà người đó tham gia cũng phải chịu phạt, từ đó tạo

ra sự cưỡng chế của cộng đồng, quy định trách nhiệm của tổ chức để kiểm soát cá

nhân nên các tác dụng ngăn chặn các hành vi vi phạm rất lớn. Ví dụ ở làng Đại Tảo

(Bắc Ninh):

...ai đang tại lính mà đào ngũ thì dòng họ của người đó phải đi tìm để

giải lên quan trên và phải cử người khác thay thế. Cũng ở làng này, khi

có người chết, quan viên sở sổ khoán bạ (sổ ghi những người vi phạm

khoán ước) xem lúc còn sống người đó có vi phạm khoản ước mà chưa

nộp đủ thì bắt thân nhân và bà con trong họ phải nộp cho đủ mới được cử

hành chôn cất [220, tr.198].

Việc thực hiện các điều khoản của lệ làng, hương ước không chỉ dựa vào tính

pháp lý và dư luận mà còn dựa vào uy quyền của thần linh và sự linh nghiệm của

thế giới bên kia. Vi phạm hương ước có khi bị coi là vi phạm những điều cấm kỵ

của thần linh và sẽ bị thần linh trừng trị. Điều đó làm tăng thêm tính chất nghiêm

ngặt và tăng hiệu lực của lệ làng. Tóm lại, hương ước có nhiều hình thức khác nhau

72

buộc các thành viên phải tuân thủ các quy định của hương ước do đó những biểu

hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong hương ước được củng cố, duy trì bền chặt

trong các thế hệ người Việt Nam.

Thứ hai, những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông còn được trao truyền

qua các thế hệ người Việt Nam thông qua giáo dục gia đình, từ đó chi phối suy nghĩ

và hành động của mỗi người, trong đó có việc thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Gia đình là một hiện tượng đặc trưng của văn hoá dân tộc, bản sắc văn hoá

dân tộc được thể hiện đậm nét trong đạo đức, văn hoá gia đình. Cố giáo sư Trần

Đình Hượu đã khẳng định “Gia đình là một thiết chế xã hội mang màu sắc dân tộc

và đánh dấu tiến trình phát triển về văn hoá. Đó là một hiện tượng đặc trưng của văn

hoá dân tộc” [90, tr.58]. Chính vì vậy, tâm lý tiểu nông với tư cách là một biểu hiện

của văn hoá truyền thống dân tộc cũng in đậm trong văn hoá gia đình và được các

gia đình Việt Nam trao truyền thông qua giáo dục gia đình của ông bà, cha mẹ đối

với con cháu. Trong xã hội hiện đại, con người được giáo dục bởi nhiều hình thức

khác nhau, nhưng hình thức sâu sắc nhất, ảnh hưởng nhiều nhất đến nhân cách mỗi

người là giáo dục trong gia đình. Chính vì vậy, Đảng ta khẳng định “Gia đình là

môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” [51,

tr.77]. Mỗi con người Việt Nam trong điều kiện sản xuất và sinh hoạt của nền tiểu

nông đều mang nhiều biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông, đồng thời họ là các

thành viên của gia đình. Chính mối quan hệ bền chặt, thường xuyên giữa các thành

viên trong không gian văn hoá chung của gia đình đã làm cho những biểu hiện tiêu

cực của tâm lý tiểu nông được truyền đi, lan rộng tới toàn bộ gia đình. Trong gia

đình, đặc biệt là ông bà, cha mẹ có tâm lý tiểu nông thì con cái của họ cũng có

những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong suy nghĩ, hành động. Câu tục

ngữ “giỏ nhà ai quai nhà nấy” của ông cha ta không chỉ hàm ý sự giống nhau về

hình thức mà còn là sự kế thừa nguyên bản về tính cách, thái độ, gia phong của con

trẻ đối với cha mẹ, ông bà họ. Vậy giáo dục gia đình đã trao truyền những biểu hiện

tiêu cực của tâm lý tiểu nông cho các thế hệ sau thông qua các phương thức nào?

Gia đình có vai trò truyền thụ các đặc trưng văn hoá, đạo đức, nhân cách của

cha mẹ tới con cái trong đó có tâm lý tiểu nông như Đảng ta đã khẳng định “…gia

73

đình và các bà mẹ Việt Nam có vai trò cực kỳ to lớn, là những người truyền thụ

hiểu biết và nhân cách cho thế hệ Việt Nam từ thuở lọt lòng” [46, tr.89]. Gia đình

đã truyền thụ nhân cách nói chung, tâm lý tiểu nông cho thế hệ sau nói riêng bằng

nhiều phương thức khác nhau. Trước hết, những câu ca dao, tục ngữ, đồng dao mà

mẹ hát, ru cho con hàng ngày chứa đựng những biểu hiện của tâm lý tiểu nông từ

thuở lọt lòng cứ ngấm dần một cách tự nhiên vào con cái. Ví dụ những câu ca dao

rất quen thuộc với mỗi người Việt Nam như “Con vua thì lại làm vua, con sãi ở

chùa thì quét lá đa, bao giờ chạch để ngọn đa, khi ấy con vua lại ra quét chùa” một

cách tự nhiên hình thành tâm lý thụ động, bảo thủ, trì trệ, chấp nhận và không dám

thay đổi. Thông qua những lời phân tích, giảng giải, nhắn nhủ của ông bà, cha mẹ -

những người mang những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông mà qua đó tâm lý

này cũng truyền thụ đến con cái. Đặc biệt, mỗi khi con cái có những hành động đi

ngược theo những chuẩn mực đạo đức, văn hoá của ông bà, cha mẹ thì bị cha mẹ

điều chỉnh, thậm chí có thể bị những hình phạt, đòn roi… qua đó những biểu hiện

tiêu cực của tâm lý tiểu nông ở ông bà, cha mẹ cũng được định hình và củng cố ở

con cái họ. Trong các phương thức giáo dục gia đình để qua đó tâm lý tiểu nông

trao truyền cho các thế hệ sau thì phương thức thông qua tấm gương sống của ông

bà, cha mẹ có một vai trò đặc biệt. Không có gì có thể tác động lên tâm hồn non nót

của trẻ mạnh hơn quyền lực của sự làm gương, còn giữa muôn vàn tấm gương thì

không có gì gây ấn tượng sâu sắc và bền chặt bằng sự mẫu mực của cha mẹ. Đối với

trẻ thơ, cha mẹ luôn luôn đúng. Chúng bắt chước cha mẹ trong mọi hành động, lời

nói. Do đó, từng cử chỉ, hành động, cách ứng xử của cha mẹ, ông bà chứa đựng

những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông dù có chủ đích hay không đều hằn

sâu vào nếp nghĩ, nếp sống của con cái từ nhỏ cho đến lúc trưởng thành. Ngoài ra,

phương pháp giáo dục của gia đình truyền thống Việt Nam vẫn được một số gia

đình Việt Nam hiện nay bảo lưu cũng góp phần củng cố tâm lý thụ động, phục tùng

của tâm lý tiểu nông. Trong gia đình truyền thống Việt Nam, người lớn dạy trẻ con

bằng khuôn mẫu, lễ giáo có sẵn áp đặt cho con cái bằng quyền uy, mệnh lệnh, thậm

chí kể cả bạo lực. Cách thức giáo dục như thế tạo ra những con người thụ động, chỉ

biết phục tùng, cam chịu, nặng đầu óc bảo thủ, trì trệ.

74

2.3.3. Sự cần thiết phải hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý

tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở

Thứ nhất, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực

hiện dân chủ ở cơ sở sẽ đảm bảo những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện dân

chủ theo đúng pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, đáp ứng yêu cầu

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

Dân chủ gắn liền với pháp luật, kỷ cương, đó là hai mặt của một vấn đề. Dân

chủ luôn được thể hiện trong nội dung các quy phạm pháp luật cụ thể. Pháp luật

chính là hành lang pháp lý cho việc thực hiện dân chủ như Đảng ta khẳng định

“Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá bằng pháp luật,

được pháp luật bảo đảm” [51, tr.85]. Những chủ thể thực hiện dân chủ ở cơ sở khi

mắc tâm lý tiểu nông sẽ làm sai lệch, biến dạng việc thực hiện dân chủ, không theo

các quy định của pháp luật. Nhân dân cũng như cán bộ cơ sở khi có tâm lý họ hàng,

cục bộ, tâm lý thu vén cá nhân, coi thường pháp luật… thì các quy định pháp luật về

thực hiện dân chủ ở cơ sở không phải là cơ sở, tiêu chuẩn của hành động, họ sẽ

không thực hiện dân chủ đầy đủ theo quy định của pháp luật, thậm chí làm méo mó

pháp luật. Vì vậy, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong

thực hiện dân chủ ở cơ sở sẽ đảm bảo cho việc thực hiện dân chủ theo đúng quy

định của pháp luật, pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn được thi

hành một cách nghiêm túc và đầy đủ.

Khi việc thực hiện dân chủ gắn liền với pháp luật, dân chủ phát huy được

đến cao độ thì “chúng ta mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân; có thực

hiện dân chủ rộng rãi, mới khiến mọi người dân “đưa hết khả năng làm tròn nhiệm

vụ người chủ nước nhà để xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho nước ta mạnh, dân ta

giàu” [115, tr.592-593]. Thực hiện nghiêm pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị

trấn, người dân được tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội sẽ phát huy được

nguồn lực trí tuệ của nhân dân trong xây dựng đường lối, chính sách. Khi những

đường lối phát triển cộng đồng, đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp, nông thôn do nhân dân bàn bạc, đóng góp ý kiến vì lợi ích chung của cộng

đồng, họ sẽ ủng hộ nhiệt tình và sẵn sàng đóng góp sức người, sức của, các nguồn

lực để thực hiện. Đây chính là cơ sở vững chắc nhất để thực hiện thắng lợi sự

75

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn các xã ở

Việt Nam đúng như Hồ Chí Minh khẳng định dân chủ là chiếc chìa khoá vạn năng

để giải quyết mọi công việc.

Thứ hai, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực

hiện dân chủ ở cơ sở sẽ góp phần cải tạo những thói quen, tập tục lạc hậu ở nông

thôn trong đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay.

Cán bộ ở cơ sở do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan còn bị chi

phối bởi nhiều yếu tố đến quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Do

mối quan hệ cộng đồng gắn bó chằng chịt, cuộc sống tối lửa tắt đèn có nhau nên

những người làm việc trong các cơ quan chính quyền cấp xã lại dễ bị tác động bởi

những yếu tố phi chính thức. Bởi người cán bộ cơ sở giải quyết với tư cách là cán

bộ nhưng đồng thời cũng là một công dân đang sống trong làng xóm với vô vàn các

quan hệ gia đình, anh em, họ hàng, láng giềng. Chính đặc điểm này làm cho cán bộ

cơ sở dễ dẫn tới thực hiện sai lệch pháp luật, không thực hiện đúng đắn chức năng,

nhiệm vụ của mình. Hơn nữa, ở cấp cơ sở, do chế độ dân cử hiện nay, đội ngũ cán

bộ có rất ít cơ hội thăng tiến lên các chức vụ cao hơn mà thường hết nhiệm kỳ lãnh

đạo được bầu là họ nghỉ, trở về với cuộc sống của một công dân bình thường. Theo

thống kê, cứ mỗi nhiệm kỳ có khoảng 1 phần 3, có nơi tới gần 1 nửa số bí thư đảng

uỷ và chủ tịch uỷ bản nhân dân xã không tái cử hoặc không trúng cử. Điều này dễ

có tâm lý tranh thủ trục lợi cá nhân theo kiểu “kiếm miềng béo bở rồi chuồn”

(Lênin) ở đội ngũ cán bộ cơ sở. Chính vì vậy, cán bộ cơ sở còn mang nhiều những

thói quen, tập tục lạc hậu như tham nhũng, vơ vét, không tuân thủ pháp luật, thậm

chí vượt quyền, bảo thủ độc đoán không lắng nghe ý kiến của nhân dân… Khi hạn

chế được những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở

cơ sở ở đội ngũ này, cán bộ sẽ thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về thực

hiện dân chủ ở cơ sở, từ đó sẽ khắc phục được những thói quen, tập tục lạc hậu ở

đội ngũ này, xây dựng được đội ngũ cán bộ cơ sở có tinh thần tuân thủ pháp luật và

tận tuỵ phục vụ nhân dân. Việc thực hiện dân chủ ở cơ sở một cách đúng đắn,

nghiêm túc sẽ làm thay đổi phương thức và lề lối làm việc của cán bộ cơ sở theo

hướng dân chủ hóa và công khai hóa. Tác phong công tác của cán bộ cũng có nhiều

76

thay đổi: gần dân, sát dân, tiếp thu ý kiến của nhân dân, không quan liêu, hách dịch,

cửa quyền, độc đoán. Hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông

trong thực hiện dân chủ ở cơ sở trong đội ngũ cán bộ cơ sở sẽ làm cho hoạt động

của đội ngũ này thực sự “gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân

dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” [51, tr.56]. Chịu sự giám

sát của nhân dân, cán bộ cơ sở sẽ thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền

của mình, không lộng quyền, lạm quyền, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện

nhiệm vụ.

Thứ ba, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực

hiện dân chủ ở cơ sở sẽ góp phần nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật của

nhân dân trong việc bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thực hiện dân chủ.

Trình độ dân trí cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc phát huy dân chủ. Pháp luật

dù có quy định đầy đủ quyền dân chủ của người dân nhưng trình độ dân trí thấp sẽ

làm cho pháp luật đó chỉ trên giấy tờ mà khó trở thành hiện thực cuộc sống. Chính

vì vậy, Chủ tich Hồ Chí Minh đã từng trăn trở “làm sao cho nhân dân biết hưởng

quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm” [116, tr.223].

Đảng ta cũng khẳng định trình độ dân trí, sự hiểu biết và ý thức tuân thủ pháp luật là

điều kiện quan trọng cần thiết để thực hiện dân chủ, để người dân thực sự làm chủ

trên thực tế “Điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ là tăng cường và hoàn chỉnh

hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ dân trí,

trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân” [48, tr.296].

Trình độ dân trí thể hiện ở chỗ hiểu biết được mình có những quyền gì, tích cực vận

dụng quyền được hưởng trên thực tế, biết bảo vệ quyền của mình khi bị xâm phạm,

có tinh thần vì lợi ích công, tự giác tham gia vào các quá trình chính trị, thực hiện

quyền của mình. Khi người dân mắc tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ

sở như tâm lý coi thường pháp luật, tuỳ tiện, vô nguyên tắc, tư lợi cá nhân, họ hàng,

họ không quan tâm tìm hiểu quyền của mình, thậm chí biết quyền nhưng cũng

không tích cực, tự giác thực hiện quyền của mình hoặc không thực hiện đầy đủ

quyền của mình, không dám đấu tranh để bảo vệ quyền của mình… Vì vậy, hạn chế

những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở sẽ

77

góp phần nâng cao trình độ dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ

pháp luật của nhân dân ở cơ sở, do đó có ý nghĩa quyết định đến việc phát huy dân

chủ, đảm bảo người dân có đủ năng lực và ý thức làm chủ trên thực tế.

Thứ tư, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực

hiện dân chủ ở cơ sở sẽ góp phần tạo ra sự đoàn kết thống nhất giữa các tầng lớp

nhân dân trong thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện nay.

Dân chủ là cơ sở, nền tảng của sự đoàn kết, có dân chủ thực sự thì mới có

đoàn kết thực sự. Thiếu dân chủ sẽ tạo ra sự xa cách, thiếu hiểu biết lẫn nhau giữa

cấp trên và cấp dưới, giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân cũng như trong nội bộ nhân

dân. Khi còn ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ

sở thì làm méo mó, lệch lạc việc thực hiện dân chủ do đó tạo ra sự không công

bằng, vì thế không thể có sự đoàn kết thống nhất. Cán bộ cơ sở do tâm lý tiểu nông

đặc biệt là tâm lý tư lợi vun vén cá nhân, tham nhũng, làm giàu bất chính thì tạo ra

sự bất bình của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Cán bộ cơ sở khi đã mắc tâm lý

tiểu nông, không thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của người dân, bắt ép nhân dân

thực hiện, thiếu tuyên truyền, vận động, không tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân

dân nên không nhận được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân. Hơn nữa, khi cán bộ

cơ sở mắc tâm lý họ hàng, cục bộ trong thực hiện dân chủ ở cơ sở, ưu tiên lợi ích

của họ mình, làng mình cũng sẽ tạo ra sự mâu thuẫn giữa các dòng họ, giữa các

thôn, làng. Bản thân người dân khi có tâm lý tiểu nông, tâm lý thu vén cá nhân,

không dựa trên lợi ích chung mà chỉ chạy theo lợi ích cá nhân trong thực hiện dân

chủ ở cơ sở thì cũng sẽ dẫn tới sự mâu thuẫn, mất đoàn kết. Việc lợi dụng pháp luật

dân chủ để gây rối, mất an ninh trật tự, an toàn xã hội cũng dẫn tới sự mâu thuẫn,

chia rẽ giữa cán bộ cơ sở và nhân dân, trong nội bộ nhân dân. Vì vậy, khi hạn chế

những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở sẽ

tạo ra sự đoàn kết, thống nhất trong quá trình thực hiện dân chủ, từ đó hoàn thành

thắng lợi những nhiệm vụ chung của cả cộng đồng.

78

Tiểu kết chương 2

Trong chương này, tác giả luận án đã làm rõ những vấn đề lý luận về tâm lý

tiểu nông như khái niệm tâm lý tiểu nông, so sánh những loại hình tâm lý gần gũi

như tâm lý sản xuất nhỏ, tâm lý nông dân, tâm lý làng xã. Tác giả cũng phân tích 3

cơ sở chính hình thành tâm lý tiểu nông là điều kiện tự nhiên, cơ sở kinh tế là nền

kinh tế tiểu nông và cơ sở văn hoá xã hội của tâm lý tiểu nông là không gian sinh

hoạt làng xã. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra 4 biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu

nông có thể ảnh hưởng đến thực hiện dân chủ ở cơ sở. Tác giả cũng làm rõ một số

vấn đề lý luận về dân chủ ở cơ sở như khái niệm thực hiện dân chủ ở cơ sở, sự cần

thiết phải thực hiện dân chủ ở cơ sở, những nội dung của thực hiện dân chủ ở cơ sở

bao gồm quyền được biết, được tham gia ý kiến, quyền được quyết định, biểu quyết

và quyền được kiểm tra, giám sát của nhân dân. Nội dung của thực hiện dân chủ ở

cơ sở cũng thể hiện ở các quyền dân chủ về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của

nhân dân. Nội dung quyền dân chủ của nhân dân được thực hiện qua 2 hình thức là

dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Trong chương này, tác giả cũng chỉ rõ thông

qua phong tục, tập quán, hương ước và giáo dục gia đình mà những biểu hiện tiêu

cực của tâm lý tiểu nông tiếp tục chi phối suy nghĩ và hành động của mỗi người

Việt Nam trên mọi lĩnh vực, trong đó có việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Với việc

thực hiện dân chủ ở cơ sở còn bị ảnh hưởng bởi những mặt tiêu cực của tâm lý tiểu

nông ở cả cán bộ và người dân, tác giả chỉ ra sự cần thiết phải hạn chế những ảnh

hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở. Trong đó, tác

giả đã chỉ ra 4 lí do chính.

79

Chương 3

ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÂM LÝ TIỂU NÔNG

ĐẾN THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ VIỆT NAM HIỆN NAY -

THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN

3.1. THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÂM LÝ TIỂU NÔNG

ĐẾN THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1.1. Thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đối với quyền

được biết của người dân

Trong việc thực hiện quyền được biết của người dân, đội ngũ cán bộ công

chức ở cơ sở là người tổ chức và thực hiện những nội dung cần công khai. Tuy

nhiên, do tâm lý tiểu nông vẫn còn tồn tại trong đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở

nên việc thực hiện quyền được biết của nhân dân vẫn còn nhiều hạn chế.

Do tâm lý tư lợi, lo vun vén cá nhân nên một số cán bộ cơ sở vì muốn bớt

xén công quỹ để bỏ túi riêng nên không sẵn sàng, không mặn mà với việc công

khai, đặc biệt là công khai tài chính. Theo khảo sát của tác giả Nguyễn Tiến Thành,

có 36,4% ý kiến cho rằng vấn đề công khai về tài chính của địa phương vẫn chưa có

thay đổi gì đáng kể [170]. Một số cán bộ, công chức ở cơ sở không muốn công khai

đặc biệt là quy hoạch sử dụng đất vì mong muốn kiếm chác, thu lợi cá nhân như để

chuyển đổi mục đích sử dụng đất, biến đất nông nghiệp thành các đô thị, khu dân

cư, bán đất trái phép… Một số cán bộ, công chức ở cơ sở cũng không muốn công

khai hóa các khoản thu chi của ngân sách và các khoản quỹ do nhân dân đóng góp

vì muốn che đậy những hành vi chi sai quy định, chi không hợp lý nhằm lãng phí,

tham nhũng. Do đó, công khai về những việc quyết toán công trình, thu chi ngân

sách, quy hoạch sử dụng đất đai vẫn chưa được công bố một cách đầy đủ, kịp thời.

Quyền được biết của người dân ở những nội dung này còn bị hạn chế. Theo khảo

sát của PAPI năm 2017 ở Việt Nam, tỷ lệ người dân cho biết thu chi ngân sách của

xã, phường được công bố công khai mặc dù có tăng nhưng còn thấp, tăng từ 32%

năm 2016 lên 36% năm 2017. Tỷ lệ người trả lời được biết về quy hoạch, kế hoạch

sử dụng đất của địa phương còn thấp hơn nhiều, thậm chí còn giảm từ 23,6% năm

2016 năm 2017 chỉ còn 15,2%. Trong khi đây là những nội dung mà nhân dân

80

mong muốn được biết nhiều nhất. Theo điều tra về mong muốn của người dân về

những nội dung cần được công khai thì công khai về quy hoạch sử dụng đất có

85,49% số người được hỏi mong muốn được biết, thu chi ngân sách có 77,5% số

người được hỏi mong muốn được biết [70, tr.75]. Điều này cũng cho thấy thời gian

qua, chính quyền chưa làm tốt việc công khai những nội dung này.

Một số cán bộ cơ sở ở nhiều xã coi việc thực hiện các quy chế dân chủ ở cơ

sở, pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là “đòn hiểm”, vũ khí lợi

hại đánh vào những điểm khuất tất của họ nên vin vào những lí do khách quan như

khó khăn về cơ sở vật chất, điều kiện thời gian, trăm nghìn việc đột xuất khác để trì

hoãn triển khai quy chế, pháp lệnh, trong đó có việc công khai các thông tin theo

Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn với phương châm càng bưng bít

được thông tin càng nhiều càng tốt. Khi không trì hoãn được thì họ hình thức hoá

việc công khai, làm chiếu lệ cho xong, “không thật thà nhúng tay vào việc” như Hồ

Chí Minh nói. Họ thông tin vắn tắt những nội dung “nhạy cảm” bắt buộc phải công

khai như việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương

trình, mà chưa thông báo cụ thể những loại quỹ này được sử dụng như thế nào.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chính sách xã hội với

những đối tượng khó khăn như hộ nghèo, những người bị thiệt hại do thiên tai, bão

lũ. Những chính sách rất nhân văn, nhân đạo của Nhà nước ta mang lại lợi ích kinh

tế cụ thể cho đối tượng được hưởng. Do tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân, tâm lý họ

hàng, một số cán bộ cơ sở đã làm trái quy định của pháp luật, không công khai đầy

đủ quy trình và tiêu chuẩn bình xét hộ nghèo, những hộ được hỗ trợ ưu đãi trong

sản xuất hay bị thiệt hại dẫn tới nhiều khuất tất. Ở nhiều địa phương, danh sách hộ

nghèo, danh sách những người được hỗ trợ thiên tai hay nhận các ưu đãi của nhà

nước có tên những người thân của cán bộ xã (dù không gặp khó khăn gì), trong khi

những người gặp khó khăn thực sự thì lại không nhận được hỗ trợ gì, từ đó gây bất

bình trong nhân dân. Những lợi ích thu về cho cá nhân, gia đình cán bộ xã tuy

không phải là nhiều về giá trị kinh tế, nhưng do đặc trưng của tâm lý vun vén, tư lợi

cá nhân của người tiểu nông là tư lợi cả những lợi ích nhỏ bé, vụn vặt nhất nên họ

cũng tìm mọi cách để hiện thực hoá. Thời gian qua, các phương tiện thông tin

81

truyền thông đại chúng đưa nhiều thông tin về sự nhập nhằng, thiếu minh bạch

trong những vấn đề này. Có thể kể đến vô vàn những ví dụ điển hình trong thực tiễn

như tình trạng khi có chương trình, dự án đầu tư cho xã thì trâu bò, dê, gà đi “lạc”

vào nhà lãnh đạo xã và người thân cán bộ xã. Như năm 2017, xã Triệu Độ huyện

Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị có nhận 10 con bò đực giống theo phân bổ từ chương

trình hỗ trợ chăn nuôi nông hộ trên địa bàn tỉnh Quảng Trị. Đối tượng áp dụng là

các hộ gia đình trực tiếp chăn nuôi và phải cam kết chăm sóc, nuôi dưỡng và khai

thác con đực giống ít nhất 48 tháng. Thế nhưng, có đến 8 con bò giống chia cho

người nhà của cán bộ xã, trong đó có 5 con bị giết thịt [122]. Hay trong danh sách

niêm yết 24 người được hỗ trợ thiệt hại do bão số 12 của Uỷ ban nhân dân xã Vạn

Thạnh, huyện Vạn Ninh (Khánh Hòa) ngày 10-4-2018, có nhiều cán bộ xã và người

thân của các cán bộ này, có những người không nuôi cá cũng có tên, trong khi

những người dân bị thiệt hại thực sự lại không được hỗ trợ khiến người dân phản

ứng [178]. Hay ở xã Nga Thanh huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, có hiện tượng vợ

con cán bộ xã ghép vào danh sách các hộ nghèo mà bản thân các hộ nghèo không

biết tại sao lại có tên trong danh sách nhân khẩu nhà mình. Tương tự như vậy, việc

bình xét hộ nghèo tại thôn Bắc Yến (xã Hải Yến, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hoá), khi

cả thôn có 8 cán bộ thì 7 vị thuộc diện hộ nghèo, trong đó có trường hợp đang xây

nhà lầu 2 - 3 tầng, ước tính bạc tỷ, thuộc dạng to nhất thôn [82, tr.32].

Một số địa phương khi bình xét hộ nghèo không tổ chức đầy đủ các bước, bỏ

qua nhiều trình tự bắt buộc, không chú trọng nguyên tắc công khai, dân chủ, họp

hành xuê xoa, chiếu lệ, thậm chí, hộ trong danh sách bình xét lại không được mời dự

họp. Trong họp dân theo đơn vị khối, xóm, bản để lấy ý kiến bình xét hộ nghèo, do

tâm lý tư lợi cá nhân, họ hàng, cục bộ nên biểu quyết chưa khách quan, vì tình cảm

riêng. Vì vậy, xuất hiện trường hợp nhiều khi đúng là nhà anh A nghèo hơn nhà anh

B, nhưng do anh em, họ hàng ít nên khi biểu quyết vẫn đạt tỷ lệ thấp hơn. Đây chính

là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng người nghèo thì đứng ngoài cuộc, trong khi

đó, nhiều hộ không nghèo nhưng vì thuộc về dòng họ đa số, người nhà cán bộ thôn,

xã nên đưa vào diện nghèo (Cán bộ thôn thường thuộc về dòng họ chiếm số đông, áp

82

đảo các dòng họ khác về số lượng). Có hộ được nhận tiền hỗ trợ mà không biết tiền

gì, vì sao mình được hưởng. Đây là nguyên nhân xuất hiện nhiều hiện tượng giả danh

hộ nghèo để được hưởng nhiều ưu đãi mặc dù vẫn “Đúng hoàn toàn về mặt quy định”

và “Nhận được sự đồng thuận cao của Nhân dân”.

Theo quy định của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, chính

quyền phải công khai việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, các khoản huy động

nhân dân đóng góp. Có một tỉ lệ đất (công) nhất định giao cho chính quyền cơ sở

quản lý để sử dụng vào các mục đích công. Tuy nhiên, do tâm lý tư lợi cá nhân, coi

thường pháp luật, nhiều cán bộ xã đã lạm dụng quyền quản lý đất công, lợi dụng

việc không nắm chắc pháp luật của người dân và tìm cách bưng bít thông tin để bán

đất công vô tội vạ, biện minh là để làm quỹ công, quỹ thôn, quỹ xã để đầu tư nhưng

thực chất là chia chác, kiếm lợi cá nhân. Thời gian qua, tỉnh nào cũng có chuyện

cấp xã bán đất vô tội vạ. Ở Hà Nội, hàng ngàn hecta đất rừng phòng hộ của huyện

Sóc Sơn đã bị lâm trường có sự tiếp tay của chính quyền xã, bán trái phép cho hàng

trăm hộ. Tại huyện Đông Anh Hà Nội, có cán bộ xã như vua một vùng đã bán đất

công bừa bãi như mớ rau, con cá. Quá trình điều tra làm rõ từ tháng 1/2012 đến

ngày 30/12/2016, uỷ ban nhân dân xã Phúc Thành tỉnh Nghệ An đã tổ chức bán 283

lô đất trái thẩm quyền, với tổng diện tích gần 89.000 m2 cho dân thu về tổng số tiền

hơn 22 tỉ đồng [193]. Việc bán đất không chỉ ở xã, mà thậm chí có cả ở cán bộ thôn.

Trưởng thôn 21, xã Quỳnh Vinh (Thị xã Hoàng Mai), tỉnh Nghệ An là ông Nguyễn

Sỹ Đức đã tự ý bán đất nông nghiệp khi chưa được phép, thực hiện 4 vụ “chuyển

nhượng” đất nông nghiệp, thậm chí còn “cho phép” người nhận chuyển nhượng

được sử dụng đất lâu dài vào mục đích đất ở, với số tiền 255.5 triệu đồng. Số tiền

thu được, ông Đức chi cho xóm một phần nhỏ để làm đường nội thôn, còn lại bỏ túi

và chia chác [96]. Đây thực sự là một trường hợp coi thường pháp luật, lạm quyền

thu lợi cá nhân dù lợi ích không lớn nhưng rất điển hình của tâm lý tiểu nông. Tại

xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, năm 2012, thôn Đạo Ngạn có

đất ở khu Lò Gạch và Gò Mỏ Quán để hoang, xã giao cho ông Tuân - trưởng thôn,

vận động người dân nhận thầu nhưng không ai nhận làm. Một số hộ trong thôn có

đơn gửi ông Tuân xin đất ở đây để đặt lăng mộ của dòng họ. Kết luận điều tra xác

83

định từ năm 2013 đến 2015, ông Tuân đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao

cùng ban lãnh đạo thôn xét duyệt đơn xin đất làm lăng mộ của 19 hộ dân. Tổng số

tiền thu được của 23 hộ dân (19 hộ có đơn, một hộ xin trực tiếp, ba hộ tự lấn chiếm,

không có đơn nhưng được thôn thu tiền) là 68,5 triệu đồng. Tiền này được lập quỹ

trái phép để chi vào các công việc chung của thôn không đúng luật và trái thẩm

quyền của lãnh đạo thôn [203]. Những vụ làm trái quy định của pháp luật để “tham

nhũng vặt” diễn ra khá phổ biến ở nhiều thôn, xã tuy giá trị kinh tế của từng vụ

không lớn nhưng trên diện rộng gây hậu quả xã hội nghiêm trọng, và cũng có thấy

mức độ phổ biến của tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân, coi thường pháp luật mang đậm

tính tiểu nông.

Cũng do tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân, tâm lý “đèn nhà ai nhà ấy rạng”,

“cháy nhà hàng xóm bình chân như vại” của một bộ phận người dân ở các xã nên

nhiều người dân còn thờ ơ với những nội dung được công khai, chỉ quan tâm đến

những thông tin liên quan đến lợi ích trực tiếp, cụ thể, trước mắt, hàng ngày của cá

nhân và gia đình như tiêu chuẩn hộ nghèo, tiêu chuẩn chọn vay vốn, vấn đề bầu

trưởng thôn còn những vấn đề phát triển gắn với lợi ích chung của cộng đồng, họ ít

quan tâm. Phần lớn người dân quan tâm muốn được biết những vấn đề kinh tế và xã

hội hơn là các vấn đề chính trị và văn hoá. Do đó, dù chính quyền có nỗ lực tuyên

truyền, phổ biến, mời họp nhưng người dân vẫn không tiếp nhận thông tin, không ý

thức đầy đủ quyền được biết của mình, tự đánh mất quyền. Nhưng khi đụng chạm

đến lợi ích cá nhân thì khiếu kiện và cho rằng bản thân không được thông báo gì.

Tâm lý dòng họ, cục bộ, địa phương, phe cánh trong đội ngũ cán bộ, công

chức ở cơ sở cũng ảnh hưởng tiêu cực đến quyền được biết của nhân dân. Vì tâm lý

dòng họ mà nhiều khi lôi kéo cả họ hàng vào những vị trí chủ chốt ở xã, phường, thị

trấn tạo thành phe cánh, bao che, dung túng cho những việc làm trái pháp luật của

nhau. Một số cán bộ muốn bao che, nương nhẹ cho đồng nghiệp mà cũng là phe

cánh, họ hàng của mình nên những thông tin về những vụ việc tiêu cực, tham nhũng

của cán bộ cơ sở hoặc việc xử lý những vi phạm này không được công khai đầy đủ,

thông tin vắn tắt, hình thức. Điều này cũng xuất phát từ việc bao che, xử lý hình

thức những sai phạm của cán bộ, “giơ cao đánh khẽ” theo kiểu đóng cửa bảo nhau

84

dẫn tới việc giấu giếm, bưng bít những sai phạm của cán bộ cũng như các hình thức

xử lý.

Tâm lý coi thường pháp luật, thiếu kỷ cương, kỷ luật, trọng lệ hơn luật ở một

số cán bộ, công chức cấp cơ sở dẫn tới việc không thực hiện đầy đủ, nghiêm túc

quyền được biết của nhân dân được quy định rất rõ ràng trong Pháp lệnh thực hiện

dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Một số nơi còn tình trạng làm lướt, làm hình thức để

đối phó. Do pháp luật chỉ quy định về nội dung, hình thức công khai mà thiếu quy

định đảm bảo tính minh bạch trong việc công khai của chính quyền cấp xã. Điều

này dẫn tới nhiều địa phương thực hiện công khai một cách “chiếu lệ”, vẫn đúng nội

dung cần công khai, địa điểm cần công khai nhưng người dân vẫn khó khăn trong

việc tiếp thu nội dung văn bản cần công khai. Ví dụ như dán thông báo có nhiều

trang trên bảng thông báo có lưới bảo vệ, dẫn tới người dân chỉ biết trang đầu hay

dán thông tin trên bảng thông báo nhưng ngay sau đó lại dán thông tin khác không

quan trọng đè lên, khiến người dân không tiếp cận được với thông tin quan trọng,

muốn biết. Cán bộ thực hiện thiếu nghiêm túc, không tích cực các quy định công

khai như muốn sử dụng những hình thức công khai nào mà người dân ít có khả

năng tiếp cận nhất. Hình thức công khai hiệu quả nhất theo ý kiến của người dân là

họp thôn, tổ dân phố, có 57,8% người dân cho rằng thông tin thông qua tổ chức họp

thôn, họp tổ dân phố là hiệu quả nhất vì thông tin được phổ biến trực tiếp, rõ ràng,

có đối thoại giữa dân và chính quyền nếu cần thiết [152]. Tuy nhiên, cán bộ chính

quyền địa phương thường thích hình thức niêm yết tại trụ sở cơ quan vì tiện lợi,

không mất thời gian, không tốn kém kinh phí tổ chức họp dân, in tài liệu. Hơn nữa,

thông tin niêm yết ở trụ sở cơ quan thường ít người tiếp cận được bởi nhiều người

dân ngại đến “chốn quan trường”. Một số địa bàn xã có diện tích rộng, đường xá đi

lại khó khăn nên người dân khó tiếp cận với hình thức công khai này. Cùng với đó,

do tâm lý coi thường pháp luật của một bộ phận nhân dân cùng với việc nhận thức

chưa đầy đủ pháp luật, nên họ yêu cầu cán bộ cơ sở phải công khai mọi thông tin, cả

những thông tin không có trong quy định của pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn, thuộc bí mật nhà nước.

85

Do tác động tiểu cực của tâm lý tiểu nông ở cả cán bộ cơ sở và người dân

dẫn tới việc thực hiện các quy định về quyền được biết của người dân ở nhiều xã

trên địa bàn cả nước chưa hiệu quả. Theo khảo sát của tác giả Trương Hồng Quang,

chỉ có 53% số người dân được hỏi đánh giá công khai của chính quyền là tốt [152].

Còn theo khảo sát của tác giả Nguyễn Tiến Thành thì việc triển khai pháp lệnh thực

hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn về quyền được biết của người dân có 50% số ý

kiến cho rằng còn mang tính hình thức, 36% số ý kiến cho rằng việc thực hiện pháp

lệnh còn mang tính phong trào [170].

3.1.2. Thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đối với quyền

được tham gia ý kiến của người dân

Trước hết, do tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân, một số cán bộ cơ sở khi xây

dựng các kế hoạch, chương trình, dự án thì lồng lợi ích của cá nhân mình, gia đình,

dòng họ mình vào đó. Ví dụ như kế hoạch xây dựng các công trình công ích, cán bộ

chủ chốt ở làng nào thì làng đó được ưu tiên làm trước. Chính vì vậy mà họ không

muốn nhân dân tham gia ý kiến đóng góp cho các kế hoạch, chương trình (muốn tự

quyết định những chương trình, kế hoạch đó nhằm phục vụ cho những lợi ích cá

nhân, gia đình, dòng họ), cộng với tâm lý coi thường pháp luật nên một số cán bộ

chưa tích cực, nhiệt tình tạo điều kiện và trao quyền cho người dân tham gia thảo

luận, bàn bạc, không thực hiện đầy đủ quyền tham gia ý kiến của nhân dân theo quy

định của pháp luật. Họ tổ chức các cuộc họp dân chỉ là hình thức do pháp luật quy

định chứ không phải vì muốn tham khảo ý kiến của người dân. Nhiều cuộc họp dân

chủ được tổ chức nhưng phần lớn họp chỉ để họp và họp xong là “xong”, để đối

phó, báo cáo thành tích. Số lượng các cuộc họp được tổ chức trở thành chỉ số đánh

giá thành công của dân chủ, còn chất lượng và thông tin được trao đổi trong các

cuộc họp lại rất hạn chế và thiếu công khai. Chính vì do tác động của tâm lý tiểu

nông, cán bộ cơ sở không tích cực muốn lắng nghe ý kiến của dân nên các cuộc họp

thảo luận, trao đổi ý kiến rất hình thức, thiếu cởi mở. Sự bàn bạc, thảo luận mới chỉ

dừng lại ở việc thôn đưa ra thông tin và nội dung, các phương án có sẵn để nhân dân

thảo luận, nhân dân không được quyền đưa ra ý kiến mới để thảo luận trong cuộc

họp, cơ hội đóng góp ý kiến của người dân chưa nhiều. Những lĩnh vực nhạy cảm,

86

dễ xảy ra tham nhũng như xây dựng công trình công cộng, quy hoạch kế hoạch sử

dụng đất, các phương án đền bù giải phóng mặt bằng, dự án tái định cư thì cán bộ

cơ sở do mắc tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân nên ít tham khảo ý kiến của người dân

nhất, trong khi đây lại là lĩnh vực người dân quan tâm nhất vì liên quan đến lợi ích

thiết thân của họ. Tỷ lệ người cho biết họ có dịp góp ý cho quy hoạch, kế hoạch sử

dụng đất ở địa phương theo số liệu của PAPI năm 2017 tại Việt Nam chỉ là 4%.

Cũng theo số liệu khảo sát của PAPI tại Việt Nam năm 2017 tỷ lệ người cho biết họ

có dịp được đóng góp ý kiến cho quá trình thiết kế tu sửa, xây dựng mới công trình

công cộng ở địa phương năm 2016 là 36% năm 2017 là 33%. Còn theo khảo sát của

tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi có số dân nông

thôn lớn, chỉ có 14,7% tham gia thảo luận việc xây dựng các công trình công cộng

[188]. Số liệu khảo sát của tác giả Nguyễn Tiến Thành có lớn hơn nhưng vẫn còn

một tỷ lệ không nhỏ nhân dân chưa được tham gia đóng góp ý kiến. Về đóng góp ý

kiến xây dựng, tu sửa các công trình xây dựng hạ tầng 70% số người được hỏi có

tham gia ý kiến về chủ trương xây dựng các công trình ở địa phương, 30% trả lời

không được tham gia bàn bạc [171]. Việc thực hiện quyền bàn bạc, đóng góp ý kiến

của nhân dân đối với các công trình công cộng có sự đóng góp của nhân dân, chính

quyền xã còn chú ý, nhưng những công trình do Nhà nước, tỉnh đầu tư tại thôn, xã

thì người dân hầu như không biết gì, nhân dân không được thông tin và không được

tham gia ý kiến vào quá trình thực hiện công việc liên quan đến giải phóng mặt

bằng, điều chỉnh hệ thống giao thông, thuỷ lợi do công trình dự án gây ra. Chính vì

nhân dân không có nhiều cơ hội tham gia đóng góp ý kiến nên những công trình xây

dựng không phát huy hiệu quả trên thực tế. Một số công trình thiếu sự tham gia

đóng góp ý kiến của nhân dân về kiểu dáng, kích thước, vật liệu xây dựng dẫn tới

không phù hợp với đặc thù của từng vùng, nguyện vọng của nhân dân ví dụ như

nhiều nhà văn hoá xây xong thì cửa đóng, then cài, chỉ mang ý nghĩa đơn giản là

nơi hội họp, mỗi năm vài lần.

Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá, ở nhiều vùng nông

thôn diễn ra quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chuyển từ đất nông nghiệp

thành khu dân cư, nhà ở, các dự án sản xuất, kinh doanh, nhà máy, xí nghiệp, đường

87

xá, các công trình công cộng… Theo quy định pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn, cán bộ xã phải xin ý kiến của nhân dân trong phương án giải

phóng mặt bằng, hỗ trợ đền bù, các khu tái định cư. Tuy nhiên, ở nhiều xã cán bộ xã

do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân và coi

thường pháp luật đã lợi dụng chủ trương này để cưỡng chế và thu hồi đất canh tác

nông nghiệp một cách tràn lan, bừa bãi, vô tội vạ với giá rẻ như bèo, mà như một

đại biểu Quốc hội khoá XIV nói là “ăn hai tổ phở, hết một mét đất”. Giá đền bù,

giải phóng mặt bằng không lấy ý kiến của nhân dân, không nhận được sự đồng tình

của nhân dân, gây khiếu kiện kéo dài. Nguyên nhân của việc cán bộ xã không xin ý

kiến của nhân dân về phương án đền bù, giải phóng mặt bằng mà muốn áp giá thấp

là để cấu kết với các doanh nghiệp, chủ dự án, lấy đất nông nghiệp của dân với giá

thấp, thực hiện các dự án nhưng thực chất là bán đất ở với giá cao, chia chác kiếm

lời. Trong thực hiện các dự án tái định cư cho người dân bị mất đất, cán bộ xã cũng

không lấy ý kiến nhân dân hoặc làm một cách hình thức về địa điểm, cách thức xây

dựng dẫn tới không phù hợp với lợi ích, tập quán sản xuất của nhân dân, đặc biệt ở

những vùng đồng bào dân tộc thiểu số, dẫn tới nhiều khu tái định cư đầu tư hàng

chục, thậm chí hàng trăm tỷ nhưng bị bỏ hoang, người dân không đến ở.

Do tác động tiêu cực của tâm lý vun vén cá nhân, cộng với tâm lý địa

phương cục bộ, tầm nhìn thiển cận, thiếu nhìn xa, trộng rộng, cán bộ cơ sở muốn

xây dựng nhiều công trình để thu lợi nên xây dựng nên quy hoạch sử dụng đất, quy

hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng ở xã thiếu ăn nhập với quy hoạch của huyện, hệ thống

giao thông thuỷ lợi, cấp thoát nước, môi trường giữa các xã thiếu thống nhất, mạnh

xã nào xã đó làm, chưa bàn bạc thống nhất trong huyện, dẫn tới xã nào cũng có trạm

cấp điện, cấp nước, xử lý rác thải, chợ nông thôn, nghĩa trang… gây lãng phí nguồn

lực và tiền của. Trong thực hiện chương trình quốc gia về xây dựng nông thôn mới

được triển khai trên địa bàn các xã, một số cán bộ cơ sở do tầm nhìn thiển cận, tâm

lý tư lợi vun vén cá nhân đã cố tình hiểu chương trình xây dựng nông thôn mới là

chương trình đầu tư kết cấu hạ tầng ở nông thôn, không tham khảo ý kiến của nhân

dân, cố tình phình to các quy hoạch về kết cấu hạ tầng trong xây dựng nông thôn

mới để tiêu tiền, vì họ xem việc thực hiện chương trình này tại địa phương là cơ hội

88

tốt để tham nhũng, có thêm thu nhập. Điều này dẫn tới nhiều đề án xây dựng nông

thôn mới nặng về tính toán xây dựng kết cấu hạ tầng, chưa chú trọng đúng mức đến

phát triển sản xuất, văn hoá, bảo vệ môi trường, biến các xã xây dựng nông thôn

mới thành công trường thi công, đâu đâu cũng thấy xây dựng cơ bản…

Bên cạnh một bộ phận cán bộ cơ sở do tâm lý tư lợi, thiếu tôn trọng pháp

luật dẫn tới nói nhiều về dân chủ nhưng ít thực hiện những điều dân đề bạt, không

chú ý lắng nghe, hoặc lắng nghe nhưng để đấy, không tiếp thu, thực hiện, làm hạn

chế quyền được tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân thì cũng có một bộ phận

nhân dân, chủ thể thực hiện quyền tham gia đóng góp ý kiến, còn tồn tại tâm lý tiểu

nông cũng khiến quyền của họ không được thực hiện đầy đủ.

Theo quy định của pháp luật, có nhiều hình thức lấy ý kiến của nhân dân

nhưng hình thức họp thôn, tổ dân phố hiện nay là hình thức hiệu quả nhất để nhân

dân đóng góp ý kiến. Thông qua các cuộc họp, người dân và cán bộ cơ sở, cán bộ

thôn, xã có dịp trao đổi, gặp gỡ, lắng nghe ý kiến của nhau, cùng bàn bạc, tranh

luận để chính quyền tìm ra quyết định tối ưu, phù hợp với quyền lợi và nguyện

vọng của người dân. Tuy nhiên, do tâm lý dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể, thiếu trách

nhiệm cá nhân trong thực hiện quyền tham gia đóng góp ý kiến cùng với tâm lý

vun vén cá nhân trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, nhiều người dân mải

mê làm ăn, ít quan tâm đến công việc của cộng đồng, cho rằng đó là công việc của

thôn, xã đã có chính quyền lo, chẳng ảnh hưởng gì đến lợi ích thiết thân, trực tiếp

của mình nên ngại đi họp. Để tổ chức một cuộc họp, trưởng thôn phải mời nhiều

lần, chờ cả tiếng đồng hồ mới đến đông đủ số lượng để họp. Người tham gia chủ

yếu là người già, ít công việc. Ở một số nơi, số lượng cử tri là người cao tuổi lớn

hơn ½ tổng số cử tri dự họp nên thực tế gây khó khăn cho việc tổ chức và chất

lượng các cuộc họp cử tri [70, tr.168-169].

Người dân ở xã còn có tâm lý dựa dẫm vào tập thể, không dám bộc lộ quan

điểm, chính kiến riêng, hùa theo số đông nên họ ngại phát biểu, đóng góp ý kiến đặc

biệt là trước đám đông. Vì vậy, theo khảo sát của tác giả Trương Thị Hiền với 1000

mẫu phiếu điều tra ở 5 tỉnh Thái Bình, Hoà Bình, Quảng Ngãi, Đắc Lắc, Trà Vinh

người dân ở nông thôn tham gia các cuộc họp do trưởng thôn tổ chức (có giấy mời

89

hoặc được mời) khá đầy đủ, có 80% số người trả lời đã tham gia bất kỳ cuộc họp ở

xã, thôn, ấp liên quan đến vấn đề của địa phương. Tuy nhiên, các cán bộ xã thừa

nhận rằng để người dân đi họp thì không khó nhưng để người dân tham gia thảo

luận thì rất khó [74]. Người dân chưa thể hiện tính tích cực, tinh thần trách nhiệm

với tính cách là chủ thể của việc tham gia đóng góp ý kiến.

Do tác động tiêu cực của tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân ở một bộ phận

nhân dân nên họ đã không thực hiện đầy đủ quyền được bàn bạc, tham gia ý kiến

trước khi cấp có thẩm quyền quyết định, chỉ tích cực tham gia họp và bàn bạc

những vấn đề liên quan trực tiếp lợi ích thiết thân của dân, dù là rất nhỏ bé.

Những cuộc họp lấy ý kiến nhân dân liên quan đến lợi ích kinh tế như công tác

đền bù giải phóng mặt bằng, việc hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình, xoá đói giảm

nghèo, các chính sách thuế của nhà nước, thu chi các khoản đóng góp của

dân…thu hút đông đảo người dân tham gia nhưng các cuộc họp khác tỷ lệ tham

gia thấp. Người dân được đóng góp ý kiến nhiều nhất về việc xây dựng và đưa

vào vận hành các công trình (43,3%), phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ

cấu sản xuất 38,1%. Đây là những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống hàng

ngày của họ nên họ có ý kiến nhiều hơn [171]. Còn những vấn đề không liên

quan nhiều đến lợi ích thiết thực của người dân như dự thảo kế hoạch phát triển

kinh tế - xã hội của cấp xã, đề án định canh, định cư, dự thảo điều chỉnh địa giới

hành chính liên quan trực tiếp đến xã người dân ít tham gia ý kiến. Chỉ có 4,3%

số người được hỏi cho rằng họ có tham gia ý kiến vào đề án định canh, định cư

[171]. Cũng do tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân nên khi tham gia ý kiến, đưa ra

những phương án bàn bạc, thảo luận, người dân chỉ chú ý đến lợi ích của cá

nhân, dòng họ mà không tính hết đến lợi ích chung của cả cộng đồng, dẫn tới

việc đóng góp ý kiến chưa kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân và tập thể, chưa đảm

bảo tính khách quan, công bằng, thống nhất. Ví dụ như ở một số xã trong xây

dựng quy hoạch cơ sở hạ tầng, không thôn nào chịu quy hoạch xây dựng bãi xử

lý rác thải tại thôn, xóm của mình. Nếu xã quyết định chuyển đến đó thì dân lại

biểu tình, vì họ sợ sau này ô nhiễm nơi ở của họ.

90

3.1.3. Thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đối với quyền

biểu quyết, quyết định của người dân

Thứ nhất, ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến quyền quyết định mức đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng trên địa bàn thôn, xã

Một số cán bộ cơ sở có tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân và coi thường pháp luật, thiếu kỷ cương, kỷ luật muốn nhân dân đóng góp nhiều để bớt xén, bỏ túi riêng nên đã không thực hiện nghiêm túc quy định về quyền được quyết định trực tiếp của nhân dân. Việc huy động sự đóng góp của nhân dân phải được bàn bạc dân chủ và phải được sự đồng tình của người dân. Tuy nhiên, trong thực hiện chủ trương nhà nước và nhân dân cùng làm, tại một số địa phương, cán bộ cơ sở không có sự bàn bạc, thống nhất của người dân, đã bắt người dân đóng góp một cách tuỳ tiện, quá lớn so với mức thu nhập, ảnh hưởng tới đời sống dân sinh của nhiều người, gây bức xúc trong dư luận xã hội, nhất là đối với hộ nghèo, khó khăn, chính sách. Hiện tượng lạm thu đối với người dân xuất hiện ở nhiều nơi, ngoài những khoản đóng góp chính thức, cán bộ xã còn bắt dân phải đóng góp nhiểu khoản thu thêm khác. Có khoản thu có hoá đơn, biên lai, nhưng cũng có khoản thu để ngoài sổ sách. Một số loại phí và quỹ thường bị lạm thu như phí bảo vệ hoa màu, quỹ làng, quỹ xây dựng nông thôn mới, quỹ giao thông thuỷ lợi nội đồng, tu sửa điện sáng công cộng, quỹ huấn luyện dân quân tự vệ năm, phí hộ không làm vụ đông xuân, phí hộ trái quy hoạch cây trồng vụ xuân, quỹ thuê mướn máy cày làm đất cấy, phí đất cho hợp tác xã thu tính theo sào, phí hợp tác xã thu nợ vật tư và thuốc bảo vệ thực vật, thuế cây lưu niên, kênh mương nội đồng, quỹ công ích, quỹ tình thương, quỹ đầu tư phát triển quỹ bà mẹ trẻ em và người cao tuổi, quỹ khuyến học, quỹ tổ an ninh xã hội khu dân cư, quỹ văn hoá xã hội… Đồng thời, các cán bộ này lại lạm dụng chi tiêu bừa bãi, thất thoát công quỹ, không có sổ sách ghi chép, không minh bạch, giải trình được các khoản chi tiêu khi nhân dân thắc mắc. Đối với các công trình có quy mô lớn như trường học, đường giao thông cấp xã, trạm y tế…ở một số xã, mức đóng góp được chính quyền định ra từ trước, việc đưa xuống cho nhân dân quyết định ở cụm dân cư chủ yếu là thông qua cho đúng thủ tục pháp lý. Một số ý kiến của người dân cho rằng họ không được trực tiếp quyết định mức đóng góp mà do các đại diện cho cụm dân cư bàn bạc và quyết định, trong khi những người đại diện không tham khảo ý kiến của người dân trước khi đi họp.

91

Theo quy định của pháp lệnh, để quyết định mức đóng góp trong cuộc họp

cử tri hoặc cử tri đại diện họ gia đình có thể thực hiện biểu quyết bằng hình thức giơ

tay hoặc bỏ phiếu kín. Nếu số người tán thành chưa đạt quá 50% tổng số cử tri hoặc

cử tri đại diện hộ gia đình trong thôn hoặc trong toàn cấp xã thì tổ chức lại cuộc

họp. Ngay cả khi tỷ lệ tán thành quá 50% tổng số cử tri trong thôn, quyết định đã có

hiệu lực thi hành thì vẫn còn một thiểu số nhưng cũng không nhỏ gia đình chưa

đồng ý, vì vậy chính quyền xã phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và

các tổ chức thành viên của Mặt trận cùng cấp phải có trách nhiệm tổ chức tuyên

truyền, vận động, thuyết phục những cử tri, hộ gia đình chưa tán thành trong việc

thực hiện những quyết định đã có giá trị thi hành. Tuy nhiên, thực tế chính quyền cơ

sở ở nhiều nơi đã không thực hiện tốt quy định này mà sử dụng hình thức ép buộc.

Tại một số địa bàn xã áp dụng cách thức nếu gia đình nào không chịu đóng góp xây

dựng công trình công cộng thì khi cần xác minh lý lịch sẽ nhận xét là không chấp

hành chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Các phương tiện truyền thông

đại chúng cũng đã phản ánh rất nhiều về sự ép buộc của cán bộ xã, trưởng thôn

trong việc đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng bằng những hình thức khác nhau.

Như trường hợp một nữ cử nhân xã An Bình, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương khi

làm lý lịch xin việc bị cán bộ xã phê xấu vào lý lịch là “Bản thân và gia đình chưa

thực hiện tốt củ trương do xã đề ra”, khiến nữ cử nhân này không xin được việc.

Nguyên nhân là, khi làm 5 km đường liên thôn, quy định mỗi thành viên trong gia

đình phải đóng 2 triệu đồng. Gia đình nữ cử nhân này có 6 thành viên phải đóng 12

triệu nhưng vì nuôi con học đại học, phải vay tiền ngân hàng chính sách nên gia

đình xin nợ, đóng sau. Hay trường hợp ở thôn Sơn Tây, xã Sơn Thành Tây, huyện

Tây Hòa (Phú Yên), trưởng thôn tổ chức chặn xe đám cưới của gia đình bà Nguyễn

Thị Thu (ở cùng địa phương này) để đòi tiền đóng góp làm đường nông thôn mới.

Cách làm này thiếu sức thuyết phục, nên áp dụng cách thức tuyên truyền thuyết

phục dần dần mưa dần thấm lâu, cuộc họp thứ nhất không được thì họp lần tiếp theo

để lấy sự đồng thuận của các gia đình. Theo khảo sát của PAPI tại Việt Nam năm

2017 thì tỷ lệ người cho biết đã đóng góp tự nguyện (thay vì bị chính quyền ép

92

buộc) cho việc tu sửa, xây mới công trình công cộng ở địa phương mặc dù có tăng

nhưng vẫn còn thấp, từ 37% năm 2016 lên 43%.

Thứ hai, ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc xây dựng hương

ước, quy ước của thôn, bản, làng.

Việc xây dựng và thực thi hương ước là một trong những phương thức thực

hiện chủ trương mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của

nhân dân ở cơ sở. Hương ước được xây dựng là để nhân dân thực hiện vì vậy họ

phải có quyền tham gia xây dựng và biểu quyết.

Tuy nhiên, do tâm lý coi thường pháp luật, phép vua thua lệ làng, một số cán

bộ cơ sở đã không thực hiện nghiêm túc, đầy đủ quyền này của người dân. Người

dân chẳng những không được tham gia bàn bạc và biểu quyết đối với bản hương

ước của thôn mà thậm chí còn không biết đến bản hương ước của thôn. Mặc dù số

liệu khảo sát của các tác giả có sự chênh lệch nhưng vẫn có một số lượng lớn người

dân không biết đến bản hương ước của thôn mình. Theo khảo sát của tác giả Trương

Thị Hiền, mặc dù chính quyền xã đều cung cấp bản hương ước thôn nhưng chỉ có

64,3% số người biết đến bản hương ước, còn tới 35,7% số người không biết đến bản

hương ước mới của thôn, ấp [74]. Còn theo khảo sát của tác giả Nguyễn Văn Hiển,

khi hỏi người dân có biết đến bản hương ước trên địa bàn hay không có 32,9% số

người trả lời không biết [64, tr.226]. Cũng theo khảo sát của tác giả, số lượng người

dân không biết đến hoạt động xây dựng hương ước ở địa bàn cũng có tỷ lệ tương tự.

Khi khảo sát đối tượng là người dân thì chỉ có 67% người dân biết đến hoạt động

này [70, tr.218]. Điều này có nghĩa là 33% người dân không biết đến hoạt động xây

dựng hương ước ở địa bàn. Ngay cả những đối tượng biết đến hương ước của địa

phương, đến hoạt động xây dựng hương ước ở địa phương cũng không có nghĩa là

tất cả họ đều được tham gia xây dựng, biểu quyết cho bản hương ước đó. Nhiều nơi

còn hành chính hoá việc xây dựng hương ước, hương ước được một nhóm công

chức hành chính soạn thảo, đưa xuống địa phương để bổ sung hoặc không bổ sung

thêm, rồi thông qua tại Hội nghị một cách thủ tục, không tôn trọng ý kiến của nhân

dân địa phương. Những bản hương ước được xây dựng không có sự tham gia của

93

người dân nên không xuất phát từ thực tế cuộc sống, không nhận được sự đồng

thuận của nhân dân trong thực thi.

Mặc dù uỷ ban nhân dân các tỉnh đã chỉ đạo Sở Tư pháp, Sở Văn hoá, Thể

thao và Du lịch, Uỷ ban nhân dân huyện, xã tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật

và kỹ năng nghiệp vụ xây dựng quy ước, hương ước cho công chức tư pháp, công

chức văn hoá xã và trưởng thôn. Tuy nhiên, do sự thiếu hiểu biết đầy đủ về pháp

luật và tâm lý coi thường pháp luật, trọng lệ hơn luật của cán bộ cơ sở, trưởng thôn

và người dân - những người tham gia xây dựng hương ước nên trong một số bản

hương ước vẫn còn có những quy định trái với pháp luật. Ví dụ như hương ước của

làng Bình Lộc, xã Bình Điền, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế quy định phụ nữ

20 tuổi, nam giới 22 tuổi mới được phép kết hôn. Nhiều bản hương ước quy định

các hình thức phí, lệ phí xử phạt một cách tuỳ tiện, bừa bãi. Trong 230 bản hương

ước được đánh giá thì 24 bản quy định cấp thôn, bản, làng được thu lệ phí. Một số

xã của huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh có hương ước quy định “Các chủ phương

tiện xe bò, xe công nông thuộc người làng phải nộp lệ phí 12 xe sỏi/ năm. Người

ngoài có xe ô tô đi qua làng phải đóng góp, tu bổ đường 4000 đồng/ chuyến, xe

công nông 3000 đồng/ chuyến” [70, tr.230].

Do tác động tiêu cực của tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân, người dân chỉ quan

tâm đến những gì liên quan trực tiếp đến lợi ích, đặc biệt là lợi ích vật chất của bản

thân và gia đình nên họ cũng không quan tâm nhiều đến việc xây dựng hương ước.

Việc người dân ít tham gia xây dựng hương ước có một phần từ cán bộ cơ sở có tâm

lý coi thường pháp luật không thực hiện đúng các quy định nhưng còn xuất phát từ

chính chủ thể là nhân dân chưa tích cực, chủ động tham gia xây dựng hương ước.

Việc tổ chức họp dân, cử tri đại diện hộ gia đình khó khăn, số lượng người tham dự

ít, địa điểm họp thiếu nên việc lấy ý kiến, biểu quyết của người dân trong xây dựng

hương ước không cao.

Thứ ba, ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến quyền bầu, miễn nhiệm,

bãi nhiệm trưởng thôn của nhân dân.

Bầu, bãi nhiệm trưởng thôn là quyền tự quản của nhân dân. Nhân dân có

quyền lựa chọn người đại diện cho mình trong việc tổ chức các công việc tự quản ở

94

cộng đồng thôn, cũng như là cầu nối với chính quyền cấp xã. Tuy nhiên, do ảnh

hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông ở cả đội ngũ cán bộ cơ sở lẫn người dân nên

trong việc thực hiện quyền này của người dân cũng có những hạn chế nhất định.

Do tâm lý họ hàng, địa phương cục bộ, bè phái cộng với tâm lý tư lợi, cá

nhân, tâm lý coi thường pháp luật, một số cán bộ cơ sở chưa đảm bảo tốt quyền tự

do lựa chọn trưởng thôn, người đại diện cho mình của nhân dân. Có hiện tượng can

thiệp của chi bộ và Ban công tác Mặt trận Tổ quốc để có được một trưởng thôn “dễ

bảo” hoặc cùng “ê kíp” với chi bộ, xã. Bởi lẽ, ở một số vùng nông thôn, trưởng thôn

cùng cánh với xã, với chi bộ thường có nhiều lợi ích hơn trong đất đai, ruộng vườn,

ao rừng…Theo quy định pháp luật, Ban công tác Mặt trận có thể dự kiến giới thiệu

từ một đến hai người ứng cử để bầu trưởng thôn, nhưng đa số đều chỉ giới thiệu một

người, từ đó hạn chế quyền được lựa chọn của người dân. Theo báo cáo của chỉ số

PAPI năm 2017 ở Việt Nam, tỷ lệ người cho biết có hai ứng cử viên trở lên để lựa

chọn vị trí trưởng thôn tăng từ 42% năm 2016 lên 49% năm 2017, nhưng đây cũng

chưa phải là con số cao.

Tâm lý tiểu nông còn nặng nề trong một bộ phận người dân, đặc biệt là tâm

lý tư lợi, cá nhân nên những cuộc họp để dự kiến danh sách bầu trưởng thôn cũng

như tổ chức bầu trưởng thôn thường được họ cho là ít liên quan đến lợi ích thiết

thực của mình thì người dân lại ít quan tâm. Do đó, cán bộ thôn, xã phải rất vất vả

để vận động người dân tham gia đầy đủ để họp bầu. Một bộ phận nhân dân thờ ơ,

thiếu trách nhiệm trong việc lựa chọn trưởng thôn. Ngay tại hội nghị thôn khi tiến

hành lập danh sách ứng cử viên, do tâm lý thụ động, dựa dẫm vào tập thể, thiếu

chính kiến và trách nhiệm cá nhân, người dân cũng không có tinh thần xây dựng,

tích cực chủ động đề xuất ứng cử giới thiệu người có uy tín, phó mặc cho Ban Công

tác Mặt trận. Mặc dù bầu trưởng thôn là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người

trong thôn, nhưng do tâm lý coi thường pháp luật, người dân cũng không thực hiện

đầy đủ quyền của mình. Đến ngày bầu cử, đa số mỗi hộ gia đình chỉ có một người

đại diện hộ gia đình cầm lá phiếu đi bầu trưởng thôn cho cả hộ. Vì vậy, khi khảo sát

số người đã tham gia bầu trưởng thôn, không phải tất cả mọi người đều thực hiện

quyền của mình. Theo tác giả Nguyễn Tiến Thành, có 78,6% số người được hỏi trả

95

lời đã tham gia bầu trưởng thôn [171]. Còn theo số liệu của tác giả Nguyễn Văn

Hiển, 84% số người được hỏi đã từng tham gia hoặc biết đến việc bầu trưởng thôn,

có 16% số người không biết đến hoạt động này [70, tr.183].

Do tâm lý cục bộ dòng họ, tranh giành, co kéo trong một bộ phận nhân dân

nên nhiều người khi bầu trưởng thôn, họ thường lựa chọn những người trong dòng

họ của mình, không cần biết người đó có đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn hay

không hay, thậm chí mặc dù biết những ứng cử viên xứng đáng hơn nhưng vì thuộc

dòng họ khác nên họ cũng không lựa chọn. Tiêu chuẩn và khả năng đáp ứng yêu

cầu công việc không phải là tiêu chí lựa chọn mà tiêu chí đối với những người này

là cùng dòng họ. Vì vậy, ở một số thôn, vị trí trưởng thôn luân chuyển khép kín

hàng chục năm ở một dòng họ, đó là những dòng họ lớn chiếm đa số dân trong thôn

nên có đa số phiếu áp đảo. Chính do tâm lý họ hàng, cục bộ còn nặng nề trong nhân

dân ở một số thôn dẫn tới có tình trạng bầu cử cả những người yếu về năng lực và

phẩm chất, lại không có khả năng tập hợp nhân dân làm trường thôn và không bị bãi

nhiệm. Có những trưởng thôn vi phạm pháp luật, lạm quyền, tự cho mình quyền cắt

đất công ra bán, đấu thầu hoặc xẻ đất cho thuê trái phép, cho phép lập barie ở đường

đi chung để thu tiền phương tiện qua lại. Có thôn, khi phát hiện hộ dân cư xây dựng

không có giấy phép, thay vì thông báo với lực lượng thanh tra xây dựng, trưởng

thôn đến nhà dân đòi lập biên bản, phá huỷ công trình đang thi công. Có trưởng

thôn vi phạm pháp luật nhất là luật đất đai, luật xây dựng, luật ngân sách nhà nước,

vi phạm quy chế dân chủ. Tuy nhiên, những trường hợp này lại rất khó để bãi nhiệm

vì những trưởng thôn này thuộc dòng họ lớn trong thôn, nên luôn nhận được sự ủng

hộ của những người trong họ. Chính vì tâm lý dòng họ, cục bộ nặng nề trong một

bộ phận nhân dân, một số trưởng thôn lại coi dòng họ như bức bình phong có thể

che chắn cho mọi hành vi sai trái của mình, ngang nhiên tư lợi cá nhân, không thực

hiện được chức năng đại diện cho cộng đồng.

Thứ tư, ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc thực hiện quyền

bầu, bãi nhiệm ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng.

Ban thanh tra nhân dân do hội nghị nhân dân tại thôn, làng bầu ra với chức

năng, nhiệm vụ chính là giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải

96

quyết khiếu nại, tố cáo ở trên địa bàn xã, phường, thị trấn. Ban giám sát đầu tư của

cộng đồng cũng là tổ chức đại diện cho nhân dân do hội nghị thôn làng bầu ra và

giám sát việc xây dựng các công trình công cộng ở cơ sở.

Tuy nhiên, do tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân, một số cán bộ cơ sở muốn Ban

thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng hoạt động theo sự chỉ đạo,

điều khiển của mình, không bới móc những hành vi khuất tất, tham nhũng của mình

nên đã không đảm bảo tốt quyền của người dân trong việc lựa chọn những người

đại diện cho mình thực hiện việc giám sát. Ở nhiều nơi, Ban Quản lý xây dựng nông

thôn mới thường do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã đứng đầu, dưới có kế toán, thành

viên của các ban, ngành trong xã, dưới nữa có các trưởng thôn, dưới cùng mới đến

lượt đại diện cộng đồng dân cư đã được tuyển chọn theo tiêu chí ôn hoà. Ban quản

lý lại được chính Uỷ ban nhân dân xã và các ban cấp trên chỉ đạo, quản lý mọi mặt

hoạt động…Có trên dưới ½ số người ghi nhận Ban giám sát đầu tư của cộng đồng là

do xã đề cử chứ không phải do dân đề cử [85, tr.188]. Theo một khảo sát khác về

việc bầu ban giám sát đầu tư của cộng đồng cũng có số lượng tương tự, chỉ có

50,5% số người được hỏi đã tham gia góp ý, bàn bạc khi thành lập Ban giám sát

cộng đồng [171]. Khi người dân chưa được trực tiếp lựa chọn và bầu những đại diện

của mình trong Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng thì rất

khó để các ban này đại diện cho tiếng nói và quyền lợi của người nhân trong thực

hiện nhiệm vụ giám sát.

Bầu Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng là quyền và

trách nhiệm của mỗi người dân ở các xã nhưng do cán bộ cơ sở chưa đảm bảo tốt

quyền này cho người dân và một phần do người dân còn mang tâm lý chỉ lo vun vén

cá nhân, không quan tâm đến việc làng, việc nước, thụ động, thiếu trách nhiệm cá

nhân cũng như do tâm lý coi thường pháp luật, một bộ phận không nhỏ nhân dân đã

không thực hiện quyền bầu Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng

đồng mà pháp luật trao cho. Theo khảo sát của Nguyễn Văn Hiển với nhóm đối

tượng khảo sát là người dân có 7,7% cho rằng không có Ban thanh tra nhân dân tại

địa phương và 14% không biết đến ban thanh tra nhân dân trên địa bàn mình sinh

sống [70, tr.244]. Số liệu khảo sát của PAPI tại Việt Nam năm 2017 còn cho thấy

97

một con số thấp hơn nhiều, tỷ lệ người trả lời cho biết xã, phường có Ban Thanh tra

nhân dân là 39%. Việc biết là có Ban thanh tra nhân dân không có nghĩa là tất cả

đều tham gia bầu cử. Do đó, số người tham gia bầu, biểu quyết sẽ còn thấp hơn rất

nhiều so với những con số này.

3.1.4. Thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đối với quyền

kiểm tra, giám sát của người dân

Thứ nhất, ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc thực hiện giám

sát thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của

cộng đồng.

Do tác động của tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân ở một số cán bộ cơ sở, họ

quan niệm Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng chỉ chuyên

xoi mói chính quyền, vạch lá tìm sâu, nếu các ban này hoạt động hiệu quả thì những

việc làm khuất tất, tham nhũng của họ sẽ bị phanh phui, ảnh hưởng tới lợi ích cá

nhân của họ. Vì vậy, một số cán bộ cơ sở có thái độ bất hợp tác, không tích cực

giúp đỡ và ủng hộ hoạt động của các ban này. Một số nơi Ban thanh tra nhân dân,

Ban giám sát đầu tư của cộng đồng hoạt động đơn độc, khó khăn. Cán bộ cơ sở có

nhiều hoạt động cản trở hiệu quả hoạt động của các ban này. Ví dụ như, việc giám

sát các dự toán, quyết toán ngân sách đòi hỏi phải am hiểu sâu chuyên môn nghiệp

vụ về kế toán, tài chính. Việc giám sát các công trình xây dựng đòi hỏi phải có kiến

thức về kỹ thuật xây dựng, đọc và hiểu các bản thiết kế, nắm được quy trĩnh kỹ

thuật thi công. Thiếu kinh nghiệm, ít hiểu biết về lĩnh vực kiểm tra, giám sát là

nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong hoạt động kiểm tra, giám sát. Vì vậy,

một số nơi, chính quyền cơ sở không quan tâm đến việc tập huấn, hướng dẫn, trang

bị các kiến thức, kỹ năng chuyên môn cần thiết cho các thành viên của Ban giám sát

đầu tư của cộng đồng, Ban thanh tra nhân dân, đặc biệt là việc nắm bắt các quy định

về Luật đầu tư, luật xây dựng, luật đất đai, luật bảo vệ môi trường. Từ đó, làm giảm

hiệu quả giám sát, kiểm tra của các ban này, tạo điều kiện cho những hoạt động tư

lợi, tham nhũng của cán bộ cơ sở có điều kiện tồn tại.

Cùng với nhiều nhân tố khách quan và chủ quan khác nhau và do tác động

của tâm lý coi thường pháp luật, thiếu kỷ cương, kỷ luật cộng với tâm lý tư lợi, vun

98

vén cá nhân, một số cán bộ cơ sở không thực hiện đầy đủ quyền giám sát của Ban

thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Tại một số địa phương, chủ

đầu tư chưa quan tâm đến việc cung cấp đầy đủ thông tin, tài liệu cần thiết có liên

quan đến công trình, dự án làm căn cứ phục vụ cho việc giám sát của Ban giám sát

đầu tư của cộng đồng. Trong khi đó, cán bộ cơ sở ở địa phương không nhắc nhở, xử

lý thậm chí còn dung túng cho những hành vi trái luật này. Có trường hợp khi ban

giám sát phát hiện và kiến nghị sai sót của chủ đầu tư, nhà thầu thi công để xử lý,

nhưng chính quyền cấp xã không can thiệp hoặc để đó đợi từ năm này đến năm

khác, không kịp thời khắc phục hậu quả, làm giảm hiệu quả giám sát của Ban giám

sát đầu tư của cộng đồng.

Bản thân các thành viên của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của

cộng đồng cũng mang nặng tâm lý tiểu nông làm hạn chế khả năng đại diện cho nhân

dân trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Một số thành viên trong các ban này

còn có tâm lý thụ động, dựa dẫm, chưa thể hiện tốt vai trò và trách nhiệm, chưa chủ

động trong việc lập kế hoạch, chương trình hoạt động mà chủ yếu dựa vào sự phân

công chỉ đạo của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc. Những thành viên “đại diện” cho người

dân tham gia vào ban này cũng thường do uỷ ban nhân dân chỉ định. Nguồn tài chính

để hoạt động các ban này do chính quyền cơ sở chi phối. Chính vì Ban thanh tra,

giám sát ở cấp cơ sở đều phụ thuộc vào uỷ ban nhân dân cả về tài chính lẫn nhân lực

nên khi các thành viên của các ban này còn có tâm lý tư lợi cá nhân, trọng tình hơn

lý, coi thường pháp luật thì họ sẽ không tích cực thực hiện việc giám sát, ngại va

chạm, ngại đấu tranh, né tránh, sợ giám sát quá sẽ bị cắt kinh phí hoạt động ảnh

hưởng đến lợi ích của mình hoặc không được cơ cấu vào ban nhiệm kỳ sau. Hoạt

động của ban thanh tra nhân dân ở một số nơi chỉ đi sâu giám sát những công việc dễ

thấy như chính sách xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, quản lý thu chi các loại

quỹ do nhân dân đóng góp trong khi giám sát cán bộ, công chức, giám sát uỷ ban

nhân dân và các cơ quan công quyền trên địa bàn chưa đạt yêu cầu. Thậm chí, trong

quá trình giám sát, một số thành viên ban giám sát đầu tư của cộng đồng có tâm lý tư

lợi, vun vén cá nhân, nhận thù lao bồi dưỡng riêng từ chủ đầu tư. Điều này không

đảm bảo tính hiệu quả, tính công bằng trong hoạt động giám sát.

99

Chính vì những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong đội ngũ cán

bộ cơ sở và những thành viên của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của

cộng đồng như đã phân tích ở trên nên hiệu quả hoạt động của các ban này không

cao, quyền giám sát của người dân thông qua đại diện của mình là Ban thanh tra

nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng còn hạn chế. Theo khảo sát của Uỷ

ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2011 chỉ có 30% số Ban Thanh tra nhân dân

hoạt động tốt, số còn lại hoạt động trung bình hoặc yếu kém, thậm chí Ban Thanh

tra nhân dân thành lập ra nhưng không hoạt động hoặc hoạt động hình thức [70,

tr.96]. Cũng theo khảo sát của Nguyễn Văn Hiền, có 51,7% số người cho rằng, Ban

thanh tra nhân dân chưa thực hiện tốt vai trò thực hiện dân chủ ở cơ sở [70, tr.259].

Hiệu quả hoạt động của Ban giám sát đầu tư của cộng đồng cũng còn khá mờ nhạt,

theo khảo sát của tác giả Nguyễn Văn Hiển, có 39,8% đánh giá tốt vai trò của Ban

giám sát đầu tư của cộng đồng, trong khi đánh giá ở mức trung bình là 37,4% vào

10,7% ý kiến đánh giá chưa tốt [70, tr.170].

Thứ hai, ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc nhân dân trực tiếp

thực hiện giám sát thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị.

Để thực hiện tốt quyền nhân dân trực tiếp thực hiện giám sát thì bản thân

nhân dân phải có ý thức làm chủ, năng lực làm chủ. Tuy nhiên, bên cạnh nhiều cản

trở chủ quan khác, chính tâm lý tiểu nông vẫn còn nặng nề ở một bộ phận nhân dân

nên cũng hạn chế việc thực hiện quyền trực tiếp giám sát của mình.

Một bộ phận nhân dân có tâm lý thụ động, dựa dẫm vào tập thể, thiếu tinh

thần trách nhiệm cá nhân nên chưa tích cực, chủ động thực hiện quyền trực tiếp

giám sát. Họ quan niệm công việc của thôn, xã là công việc của chính quyền, không

phải của mình, coi giám sát là việc chung, chẳng liên quan gì đến mình hoặc mình

chẳng có trách nhiệm gì. Cũng do tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân nên khi thực hiện

quyền giám sát, họ chỉ quan tâm kiểm tra, giám sát việc liên quan trực tiếp đến lợi

ích của họ như mức đóng góp kinh phí, giải quyết khiếu nại tố cáo, quản lý và sử

dụng đất đai, thực hiện chế độ ưu tiên ưu đãi mà họ là diện được hưởng, còn những

việc khác ít liên quan trực tiếp đến lợi ích bản thân, họ không quan tâm đến việc

thực hiện quyền giám sát mà pháp luật trao cho, mà thường dựa vào ban thanh tra

100

nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Theo khảo sát của tác giả Trương Thị

Hiền về việc người dân tham gia giám sát ở 6 nội dung là giải quyết khiếu nại tố cáo

của công dân, thi công, nghiệm thu, quyết toán các công trình phúc lợi công cộng,

quản lý và sử dụng đất đai, thu chi các loại quỹ công ở xã, thanh tra các vụ tiêu cực,

tham nhũng liên quan đến cán bộ xã, thôn, ấp, thực hiện chế độ chính sách ưu đãi,

thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, số người tham gia việc giám sát ít nhất là

thanh tra các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, liên quan đến cán bộ xã, thôn, ấp chiếm

10,3%, hai nội dung mà số người dân tham gia giám sát cao nhất là 23% là đối với

thực hiện chế độ chính sách ưu đãi, thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và thi

công, nghiệm thu, quyết toán các công trình phúc lợi công cộng [74]. Đây cũng là

những nội dung có liên quan đến lợi ích cá nhân, trực tiếp, thiết thân của họ. Một

biểu hiện nữa của tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân, chỉ chăm chăm lo cho lợi ích của

bản thân trong việc trực tiếp thực hiện quyền kiểm tra, giám sát là người dân chưa

tích cực kiểm tra, giám sát những công trình đầu tư từ ngân sách nhà nước, ngay

kể cả khi những công trình đó liên quan trực tiếp đến đời sống của cộng đồng. Vì

nguồn kinh phí từ cấp trên, người dân chỉ được hưởng lợi, nếu công trình không

phát huy tác dụng thì họ cũng chẳng mất gì. Hơn nữa, người ta sợ đấu tranh thì

cấp trên sẽ không cho nữa. Do đó, người dân chỉ tích cực thực hiện quyền kiểm

tra, giám sát đối với các công trình do họ trực tiếp đóng góp. Một bộ phận người

dân có tâm lý trọng tình hơn lý nên biểu hiện dĩ hoà vi quý, ngại va chạm, ngại hỏi

đến cùng sợ dẫn đến mâu thuẫn vì dù sao cũng đều là quan hệ xóm làng cả nên ít

chất vấn. Chính những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông này ở một bộ phận

nhân nhân dân làm hạn chế ý thức làm chủ của người dân trong kiểm tra, giám sát

nên nhiều công trình hạ tầng nông thôn như đường sá, cầu cống, kênh mương,

trường học, nhà văn hoá thôn do doanh nghiệp thi công, người dân tham gia giám

sát còn hình thức, chưa hiệu quả. Không ít công trình chất lượng chưa đạt yêu cầu,

xảy ra hiện tượng giá thành thực hiện một số công trình trong đề án cao nhiều lần

so với giá thực tế hoặc tình trạng rút ruột đường nông thôn mới ở một số địa

phương.

101

Bên cạnh đó, do nhận thức, hiểu biết chưa đầy đủ về pháp luật và tâm lý

trọng lệ hơn luật, coi thường pháp luật, chưa hiểu biết đầy đủ đường lối, chính sách

của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhẹ dạ cả tin, bị kẻ xấu kích động, lôi kéo, xúi

giục, nên một bộ phận nhân dân có những hành vi phạm pháp luật trong thực hiện

quyền khiếu nại, tố cáo, thậm chí còn vu khống cán bộ. Cũng không ít hiện tượng

lạm dụng quyền dân chủ để làm những việc sai trái như có trường hợp công dân vì

đố kỵ, hiềm khích cá nhân suy diễn tạo dựng sự việc không có thật, đưa ra các tài

liệu giả vu khống, kích động làm mất đoàn kết nội bộ. Có trường hợp đi khiếu tố

“thuê” để được hưởng lợi từ những người có liên quan đến vụ việc khiếu tố nhưng

không muốn lộ diện. Có những người lợi dụng sự thiếu biết về pháp luật của một bộ

phận nhân dân để kích động, gây rối, phục vụ mục đích cá nhân hoặc phe cánh.

Tâm lý bè phái, cục bộ, họ hàng và tâm lý coi thường pháp luật ở một bộ

phận cán bộ cơ sở cũng làm hạn chế quyền trực tiếp giám sát của nhân dân. Cán bộ

cơ sở là người nhận những khiếu nại, tố cáo của nhân dân và giải quyết những khiếu

nại, tố cáo đó. Nhưng vì đối tượng bị tố cáo đôi khi là những người họ hàng, cùng

phe cánh nên không thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật, xử lý không

nghiêm người vi phạm, có hiện tượng bao che, giơ cao đánh khẽ, hình thức xử lý

không tương xứng với mức độ vi phạm. Nhiều tố cáo của nhân dân chưa được xem

xét xử lý kịp thời, nghiêm minh, có cơ quan nhận tin tố cáo không tiến hành kiểm

tra, xác minh đầy đủ hoặc cho rằng thiếu chứng cứ, căn cứ để xem xét. Vì vậy, theo

số liệu khảo sát của PAPI năm 2017 tại Việt Nam về quản trị ở cộng đồng cơ sở, tỷ

lệ người cho biết khiếu nại của họ được trả lời thoả đáng còn thấp chỉ là là 53% và

tỷ lệ người cho biết tố cáo của họ được trả lời thoả đáng còn thấp hơn chỉ có 33%

[25, tr 39].

Thứ ba, ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc nhân dân trực tiếp

góp ý bản kiểm điểm của các cán bộ chủ chốt ở cơ sở.

Theo quy định, cán bộ chủ chốt ở các xã được lấy phiếu tín nhiệm phải viết

và tự đọc bản kiểm điểm tại cuộc họp thôn để nhân dân góp ý vào bản kiểm điểm

nhằm mục đích nhân dân thấy được quá trình công tác, năng lực và phẩm chất của

cán bộ đồng thời là cơ hội để lắng nghe nhân dân góp ý rút kinh nghiệm và sửa

102

chữa những khuyết điểm. Tuy nhiên, do tâm lý thụ động, dựa dẫm tập thể, thiếu

trách nhiệm cá nhân, tâm lý tư lợi chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân đồng thời do

tâm lý trọng tình hơn lý, ngại va chạm với những người quen biết cùng xóm giềng

nên người dân không chủ động quan tâm đến việc góp ý cũng như không nhiệt tình,

thẳng thắn chỉ ra những mặt hạn chế của cán bộ. Một bộ phận người dân chưa quan

tâm đến hoạt động lấy phiếu tín nhiệm tại xã, theo khảo sát của tác giả Nguyễn Văn

Hiển, có 41,3% số người trả lời chưa từng tham gia hội nghị góp ý vào bản kiểm

điểm công tác ở thôn, tổ dân phố, với nhóm đối tượng khảo sát là những người dưới

30 tuổi thì tỷ lệ này còn cao hơn, có 56,3% [70, tr.279]. Việc họ tham gia hội nghị

góp ý đã ít nhưng chưa chắc họ đã tích cực và có những ý kiến góp ý thực sự có

chất lượng cho hoạt động của các cán bộ xã khi chuẩn bị lấy phiếu tín nhiệm.

Tâm lý tiểu nông còn tồn tại trong bản thân những cán bộ chủ chốt lấy phiếu

tín nhiệm là Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân xã và Chủ tịch, Phó Chủ tịch

Uỷ ban nhân dân xã cũng như những người có trách nhiệm trong công tác lấy phiếu

tín nhiệm nên cũng tác động tiêu cực đến việc thực hiện quyền trực tiếp góp ý vào

bản kiểm điểm công tác của cán bộ cơ sở.

Viết và đọc bản kiểm điểm trong hội nghị góp ý kiến của nhân dân là yêu cầu

bắt buộc trước khi lấy phiếu tín nhiệm. Tuy nhiên, những cán bộ này còn có tâm lý

tư lợi, vun vén cá nhân, và tâm lý coi thường pháp luật, sợ nhân dân góp ý những

hành vi sai trái, nhũng lạm, thu vén lợi ích cá nhân nên thực hiện chiếu lệ, hình

thức. Nhiều bản kiểm điểm của cán bộ đưa ra trước nhân dân rất sơ sài, hình thức

nhiều khi giống báo cáo thành tích của xã, chưa thẳng thắn nhìn nhận những sai

phạm, khuyết điểm của bản thân người làm kiểm điểm. Việc không nghiêm túc tuân

thủ quy định này còn thể hiện ở chỗ có tình trạng bản kiểm điểm không do người

được lấy phiếu tín nhiệm tự trình bày mà lại do cán bộ thôn đọc, cán bộ viết bản

kiểm điểm viện lí do bận đi công tác vắng mặt không tham dự. Thái độ không

nghiêm túc trong thực hiện quy định này còn biểu hiện ở chỗ cán bộ không có thái

độ cầu thị, lắng nghe, sửa chữa những khuyết điểm theo ý kiến đóng góp của nhân

dân. Có không ít cán bộ được nhân dân góp ý, chỉ ra nhiều khuyết điểm nhưng chưa

nghiêm túc tiếp thu và sửa chữa. Có 26,5% số người cho rằng cán bộ tiếp thu sửa

103

chữa chưa thật sự nghiêm túc, có 2,7% số người cho rằng cán bộ chưa tiếp thu [70,

tr.282]. Cũng vì tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân muốn có số phiếu tín nhiệm cao

cộng với tâm lý coi thường pháp luật nên một số cán bộ chủ chốt cấp xã và những

người có trách nhiệm triển khai việc lấy phiếu tín nhiệm là các thành viên Ban

thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã đã không thực hiện đúng

đắn quy định của pháp luật. Tại nhiều nơi, khi tổ chức hội nghị, nhân dân chỉ ra

nhiều khuyết điểm hạn chế của cán bộ nhưng bản tổng hợp trình bày trước hội nghị

lấy phiếu tín nhiệm ở cấp xã thường chỉ là bản kiểm điểm của người được lấy phiếu,

những ý kiến nhận xét phê phán gay gắt của nhân dân không được ghi vào biên bản.

Những thành viên Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã này

có tâm lý phe cánh, cục bộ (bản thân họ và những cán bộ lấy phiếu tín nhiệm cùng

phe cánh lợi ích với nhau) và tâm lý coi thường pháp luật, cộng với tâm lý tư lợi cá

nhân (người lấy phiếu tín nhiệm là người trực tiếp giải quyết vấn đề kinh phí của

Mặt trận và đoàn thể cùng cấp) nên đã để xảy ra những hành động trái quy định

pháp luật này. Do đó, thành phần tham gia bỏ phiếu tín nhiệm khó có căn cứ trung

thực để bỏ phiếu và kết quả bỏ phiếu thiếu chính xác, khách quan.

Chính vì tâm lý tiểu nông còn tồn tại trong cả nhân dân và cán bộ chủ chốt

cấp xã, những người có trách nhiệm trong việc lấy phiếu tín nhiệm nên hiệu quả

thực hiện quyền giám sát thông qua góp ý kiến vào bản kiểm điểm công tác của cán

bộ tại thôn định kỳ đặc biệt là trước khi lấy phiếu tín nhiệm còn hạn chế. Theo khảo

sát, về hiệu quả của hội nghị góp ý vào bản kiểm điểm của cán bộ tại thôn, có

46,6% số người cho rằng hoạt động này mới đạt được một số kết quả nhất định, có

14,8% cho rằng hoạt động này hoàn toàn mang tính hình thức [70, tr.277].

3.2. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA

TÂM LÝ TIỂU NÔNG ĐẾN THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ

Thứ nhất, cơ sở kinh tế vật chất của tâm lý tiểu nông là nền kinh tế tiểu nông

vẫn chưa xoá bỏ hoàn toàn ở nước ta là một trong những nguyên nhân khiến tâm lý

tiểu nông vẫn còn tồn tại trong nhân dân và cán bộ cơ sở. Trong công cuộc đổi mới,

chúng ta đã thực hiện khoán 100, khoán 10, chia quyền sử dụng ruộng đất của

người nông dân, từ đó làm phân tán ruộng đất, những mảnh ruộng được chia nhỏ

104

cho các hộ gia đình mang tính bình quân đảm bảo có tốt có xấu, có xa có gần, do đó

có 12 triệu hộ nông dân nhưng có trên 100 triệu mảnh ruộng, ở thời Pháp thuộc, cả

nước chỉ có 15 triệu mảnh [185, tr.303-304]. Mặc dù quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta đã được đẩy mạnh và đạt được

những kết quả đáng ghi nhận song ở nhiều địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa,

vùng dân tộc thiểu số, sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún, tự cung tự cấp vẫn

tồn tại phổ biến, khả năng tiếp cận thị trường rất khó khăn. Ở nhiều nơi, công cụ sản

xuất trong nông nghiệp vẫn là con trâu, cái cày, chưa thực hiện được cơ giới hoá

trong sản xuất. Sản xuất nông nghiệp theo quy mô hộ gia đình vẫn còn phổ biến.

Sản xuất quy mô lớn trong các hình thức liên doanh, liên kết trong mô hình cánh

đồng lớn và theo các trang trại chưa nhiều.

Thứ hai, việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho nhân dân về ý

nghĩa, tầm quan trọng, nội dung của thực hiện dân chủ ở cơ sở, tác hại của tâm lý

tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở còn hạn chế cũng làm tâm lý tiểu nông vẫn

còn tồn tại trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Công tác tuyên truyền giáo dục không được quan tâm, chú ý đúng mức,

người dân chưa nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ

ở cơ sở trong việc đảm bảo quyền và lợi ích của bản thân cũng như sự phát triển

chung của cộng đồng, chưa nhận thức rõ quyền của mình, chưa chủ động, tự giác

thực hiện quyền và dám đấu tranh để bảo vệ quyền, chưa nhận thức rõ tác hại của

việc mắc những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông…do đó, chưa thể phát huy

được tính tích cực, tự giác của người dân trong việc chủ động ngăn chặn, hạn chế

những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Thời gian qua, một số địa phương chưa đầu tư nhiều cho công tác tuyên truyền chủ

trương của Đảng và Nhà nước về phát huy dân chủ cơ sở, nội dung tuyên truyền

pháp luật còn hời hợt, không đến nơi đến chốn, dẫn đến người dân không hiểu biết

pháp luật, thờ ơ với việc thực hiện pháp luật về dân chủ. Phương pháp tuyên truyền

thì khô cứng, hình thức tổ chức còn đơn điệu, nghèo nàn, chưa đi vào chiều sâu và

thực chất, chạy theo phong trào, không thường xuyên.

105

Những hạn chế trong công tác tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân một phần

xuất phát từ việc kinh phí dành cho công tác tuyên truyền, giáo dục ít hoặc không

có. Kinh phí dành cho hoạt động triển khai Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn không được bố trí ngân sách riêng mà tính vào hoạt động chung

của các cơ quan, đơn vị. Đây là một trở ngại lớn. Ở hầu hết địa phương, kinh phí chi

cho hoạt động tuyên truyền về quy chế, pháp lệnh dân chủ được lấy từ kinh phí

thường xuyên của địa phương khiến việc triển khai không đồng đều, tuỳ thuộc vào

nhận thức của lãnh đạo xã. Xã nào lãnh đạo nhận thức rõ tầm quan trọng thì kinh

phí đầy đủ, các hoạt động triển khai sâu rộng và hiệu quả hơn. Nhiều khi cán bộ

lãnh đạo ở các xã cũng vì muốn tư lợi cá nhân nên không mặn mà với việc thực hiện

dân chủ ở cơ sở, không tạo điều kiện thuận lợi về kinh phí và các điều kiện khác

cho công tác tuyên truyền. Một số cán bộ lãnh đạo ở cơ sở chưa nhận thấy sự cần

thiết của việc thực hiện dân chủ ở xã, cho rằng đây là cơ hội để kẻ địch và các phần

tử xấu lợi dụng phá hoại, đặc biệt là ở các vùng đồng bào tôn giáo, do vậy dân chủ

trực tiếp là không cần thiết, chỉ gây phiền phức cho các cấp chính quyền, khó khăn

cho cán bộ lãnh đạo trong công tác quản lý, điều hành tại cơ sở nên không tích cực

triển khai pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, trong đó trước hết là

công tác tuyên truyền pháp lệnh.

Một nguyên nhân nữa dẫn tới hiệu quả chưa cao trong công tác tuyên truyền,

giáo dục là do năng lực của cán bộ cơ sở còn hạn chế. Bởi lẽ, người trực tiếp phổ

biến, tuyên truyền về pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở chính là đội ngũ cán bộ cơ

sở. Theo số liệu thống kê của bộ Tư pháp năm 2012, có 79,6% công chức Tư pháp -

hộ tịch đạt tiêu chuẩn theo quy định; 84,2% công chức Tài chính - Kế toán; 80,6%

công chức Văn phòng - Thống kê, 76,1% công chức Văn hoá - Xã hội; 82,7% công

chức Địa chính - Xây dựng, 68,5% Trưởng công an và 91,3% Chỉ huy trưởng quân

sự ở cấp xã có trình độ chuyên môn nghiệp vụ từ trung cấp trở lên [23, tr.2] Như

vậy, có nhiều cán bộ, công chức cấp xã chưa đạt chuẩn theo quy định, năng lực hạn

chế. Bản thân cán bộ, công chức cấp xã còn chưa nắm vững hết các quy định pháp

luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở thì khó có thể tuyên truyền, giáo dục để nhân dân

nắm vững nội dung, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, tác

106

hại của việc mắc những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân

chủ ở cơ sở. Theo khảo sát của tác giả Nguyễn Tiến Thành có 30 - 45% cán bộ cơ

sở được khảo sát chưa nắm rõ nội dung, cấu trúc của pháp lệnh thực hiện dân chủ ở

xã, phường, thị trấn [170]. Thêm vào đó, việc tổ chức tập huấn, nâng cao năng lực,

bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở và đối tượng có liên quan để tổ

chức thực hiện pháp lệnh dân chủ chưa có cơ sở pháp lý, chưa trở thành yêu cầu bắt

buộc nên được chú trọng và thiếu nguồn đầu tư, dẫn tới hiệu quả tuyên truyền bị

hạn chế. Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là cơ sở quan trọng cho

thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng chưa đề cập đến việc nâng cao nhận thức, tập huấn

các chuyên đề pháp luật hoặc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng

nghiệp vụ thực thi pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở, trưởng thôn,

trưởng tổ dân phố - những chủ thể đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện có

hiệu quả pháp lệnh. Kết quả về công tác tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân

chủ ở cơ sở, theo Báo cáo của Mặt trận Tổ quốc năm 2011 có 63% số người cho

rằng thông tin về quy chế dân chủ đến với người dân còn chậm [70, tr.121]. Theo

khảo sát của tác giả Nguyễn Văn Hiển năm 2014 có 64,6% số người cho rằng chính

quyền cấp xã đã thực hiện tốt việc tuyên truyền pháp luật về dân chủ trong thời gian

qua, 29,7% cho rằng tuyên truyền mới chỉ ở mức độ trung bình và 4,5% cho rằng ở

mức độ chưa tốt [70, tr.109].

Giáo dục gia đình chậm được đổi mới, làm cho tâm lý tiểu nông chưa thể xoá

bỏ hoàn toàn. Hiện nay, có nhiều gia đình mặc dù điều kiện kinh tế khá giả hơn

nhưng do tác động của kinh tế thị trường, mải mê làm ăn nên khoán trắng việc giáo

dục cho các thiết chế ngoài gia đình, buông lỏng sự quản lý, con cái nuông chiều

quá mức dẫn tới con cái thụ động, ỷ lại, không có ý thức tuân thủ kỷ cương, kỷ luật

làm củng cố thêm những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông. Có những gia đình

vẫn duy trì phương pháp giáo dục của gia đình truyền thống, dùng quyền uy mệnh

lệnh, chỉ nhằm con cái vâng lời cha mẹ, vì vậy dẫn tới việc thiếu tôn trọng nhân

cách cá nhân độc lập của con cái, con cái cũng thụ động, không có chính kiến riêng,

cũng củng cố biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông. Bản thân nhiều cha mẹ cũng

mắc tâm lý tiểu nông, cộng thêm tác động tiêu cực của kinh tế thị trường… chỉ chạy

107

theo lợi ích vật chất của cá nhân, gia đình, thậm chí làm ăn phi pháp, chà đạp lên

pháp luật, không tự giác vươn lên, là tấm gương tốt cho con cái. Sự thiếu hoàn thiện

nhân cách của cha mẹ, là tấm gương xấu cho con cái họ, cũng làm cho con cái họ

mắc tâm lý tiểu nông.

Trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được vai trò

của hương ước trong quản lý xã hội, đặc biệt ở nông thôn trên địa bàn cơ sở thôn,

làng. Phong trào xây dựng quy ước mới phát triển khá rầm rộ, làng nào, thôn nào

cũng có quy ước riêng nhưng nhiều khi na ná nhau, nhiều tập tục lạc hậu trong

hương ước cũ chứa đựng những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông không được

xoá bỏ mà vẫn tiếp tục duy trì trong quy ước mới cũng làm cho những biểu hiện

tiêu cực của tâm lý tiểu nông vẫn được củng cố trong nhân dân. Ví dụ như nhiều

quy ước có những quy định trái pháp luật của nhà nước hoặc củng cố tâm lý địa

phương, cục bộ…

Trong thời gian qua, các cấp chính quyền cũng không chú ý đúng mức đến

khen thưởng những tấm gương tốt trong nhân dân về thực hiện dân chủ ở cơ sở

cũng như kỷ luật nghiêm minh những kẻ lợi dụng dân chủ, không tuân thủ đúng các

quy định pháp luật về dân chủ để thực hiện ý đồ riêng. Việc khen thưởng, kỷ luật

không kịp thời, đúng người, đúng việc, làm cho những người dân tham gia tích cực

cũng như người không tham gia thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng không khác nhau.

Nhiều khi người tích cực thực hiện pháp luật dân chủ ở xã, tố cáo những hành vi

tiêu cực, tham nhũng lại bị trù dập, thua thiệt. Từ đó, không tạo ra được động lực để

khuyến khích nhằm phổ biến, nhân rộng những nhân tố tích cực, hành động thực

hiện nghiêm túc, đầy đủ dân chủ ở cơ sở, hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực

của tâm lý tiểu nông trong thực hiện cũng như chưa ngăn chặn, sửa chữa, xử lý kịp

thời những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở

trong nhân dân.

Thứ ba, hệ thống pháp luật về dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là Pháp lệnh thực

hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn chưa hoàn thiện dẫn tới tạo điều kiện cho tâm

lý tiêu nông có điều kiện bộc lộ.

108

Từ quy chế dân chủ ở cơ sở năm 1998 đến Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn năm 2007 là một bước tiến lớn trong quy định pháp luật về thực

hiện dân chủ ở cơ sở. Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn gồm 6

chương, 28 điều là văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất từ trước đến nay điều

chỉnh toàn diện về thực hiện dân chủ ở cơ sở, trong đó quy định những vấn đề cơ

bản như nguyên tắc thực hiện dân chủ ở cấp xã, trách nhiệm tổ chức thực hiện dân

chủ ở cấp xã, các hành vi bị nghiêm cấm, các nội dung công khai để nhân dân biết

và hình thức công khai, những nội dung nhân dân trực tiếp quyết định, những nội

dung nhân dân biểu quyết để cơ quan có thẩm quyền quyết định, những nội dung

nhân dân kiểm tra, giám sát. Tuy nhiên, trong pháp lệnh này vẫn còn nhiều hạn chế,

bất cập, sơ hở dẫn tới chưa thể ngăn chặn triệt để những ảnh hưởng tiêu cực của tâm

lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Một số quy định trong pháp lệnh chưa quy định đầy đủ, chặt chẽ dẫn tới là

cơ hội có ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện pháp lệnh bộc lộ.

Ví dụ như trong pháp lệnh, việc quy định về các nội dung cần công khai cho nhân

dân chỉ quy định về nội dung, hình thức công khai mà thiếu vắng các quy định đảm

bảo tính minh bạch trong việc công khai của chính quyền cấp xã. Chính bất cập này

trong pháp lệnh làm cho những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực

hiện dân chủ ở cơ sở trong đội ngũ cán bộ cơ sở không được ngăn chặn kịp thời, tạo

điều kiện cho việc thực hiện tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân hoặc tâm lý coi thường,

pháp luật, đó là cán bộ thực hiện một cách chiếu lệ, hình thức, người dân khó tiếp

cận được thông tin. Hoặc trong pháp lệnh, quy định về quyền của người dân rất

nhiều nhưng còn hình thức, thiếu cơ chế đảm bảo quyền, dẫn tới cán bộ cơ sở có thể

lộng quyền, lạm quyền, có thể dễ dàng có những hành vi thực hiện dân chủ ở cơ sở

chứa đựng những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông. Ví dụ như Ban Thanh tra

nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng đang hoạt động tương đối hình thức,

hiệu quả không cao, không thể ngăn chặn được những ảnh hưởng tiêu cực của tâm

lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở như tham nhũng để tư lợi cá nhân hay

thiếu tôn trọng pháp luật, không thực hiện đầy đủ. Nguyên nhân là những thiết chế

trên không đủ cơ sở và điều kiện để hoạt động hiệu quả. Mặc dù các ban này giám

109

sát hoạt động của chính quyền cơ sở, giám sát việc thực hiện dân chủ ở cơ sở,

nhưng lại phụ thuộc vào chính quyền cơ sở về ngân sách, kinh phí, nghĩa là thực tế

người bị giám sát lại có quyền quyết định điều kiện hoạt động của người giám sát,

các quy định về thẩm quyền còn hình thức, thiếu cơ sở pháp lý để thực hiện, khi

phát hiện dấu hiệu vi phạm thì Thanh tra nhân dân có quyền kiến nghị xử lý còn

việc xử lý đến đâu, như thế nào thì pháp luật không quy định… Do đó, thực chất

quyền giám sát của nhân dân trên thực tế còn rất hạn chế. Khi quyền giám sát còn

hạn chế thì không có cơ chế hữu hiệu để ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực của

tâm lý tiểu nông ở đội ngũ cán bộ cơ sở trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cũng còn thiếu các quy

định để đảm bảo tính trách nhiệm cao của cán bộ cơ sở trong tuân thủ pháp lệnh

hoặc quy định về quyền dân chủ của người dân chưa đủ mạnh để hạn chế những ảnh

hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Ví dụ, trong

pháp lệnh chưa quy định thẩm quyền, chức năng của các cơ quan cao hơn trong việc

theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc chính quyền cấp xã triển khai việc thực hiện dân

chủ ở cơ sở như thế nào, có đúng pháp luật hay không. Pháp luật chưa đề cập đến

giám sát độc lập việc thực hiện dân chủ ở cơ sở bởi các tổ chức dân sự khác ngoài

mặt trận. Pháp lệnh không đề cập đến tính chịu trách nhiệm của các chủ thể cụ thể

liên quan đến hệ quả của việc tuân thủ hay không tuân thủ pháp luật về thực hiện

dân chủ ở cơ sở, chưa quy định các biện pháp cụ thể có thể áp dụng để xử lý các vi

phạm pháp luật liên quan đến công tác thực hiện dân chủ ở cấp xã. Điều này dẫn tới

việc cán bộ cơ sở hoặc nhân dân mắc nhiều biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông

trong thực hiện dân chủ ở cơ sở, không tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về

thực hiện dân chủ ở cơ sở nhưng không được phát hiện, sửa chữa, ngăn chặn kịp

thời, mà vẫn tiếp tục duy trì và củng cố.

Pháp lệnh cũng chưa quy định đầy đủ, có tính khả thi về quyền của người

dân, đặc biệt là quyền kiểm tra, giám sát cũng dẫn tới những biểu hiện của tâm lý

tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở đội ngũ cán bộ cơ sở không bị phát hiện, ngăn

chặn, xoá bỏ mà tiếp tục được duy trì. Ví dụ như trong pháp lệnh này còn thiếu các

quy định về cơ chế giám sát của nhân dân đối với các công trình có sử dụng vốn

110

ngân sách (từ cấp huyện, tỉnh, trung ương) trên địa bàn xã. Thực tế cho thấy những

công trình đầu tư ở cơ sở (nhất là các công trình giao thông, hệ thống điện dân sinh,

trường học, trạm y tế, công trình thủy lợi, tưới tiêu…) do nhân dân tự huy động

(100% vốn đầu tư của nhân dân, hoặc một phần đóng góp của nhân dân) thì có sự

giám sát khá tốt của nhân dân và chất lượng công trình được đảm bảo, hiện tượng

tham nhũng, thất thoát nguồn lực được hạn chế, những biểu hiện tiêu cực của tâm lý

tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở đặc biệt là tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân

của cán bộ cơ sở được giảm thiểu tối đa. Trong khi đó, những công trình được đầu tư

100% vốn ngân sách triển khai trên địa bàn xã, phường, có ảnh hưởng lớn đến đời

sống của nhân dân nhưng chưa có những quy định về sự giám sát của nhân dân, dẫn

tới là cơ hội cho những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông có điều kiện phát

triển, những sai phạm trong quá trình thi công xảy ra nhiều hơn, tình trạng tham

nhũng, lãng phí khó kiểm soát, chất lượng công trình trong nhiều trường hợp không

đảm bảo. Hoặc nhiều vấn đề liên quan đến lợi ích trực tiếp của người dân nhưng họ

chỉ được tham gia ý kiến chứ chưa được biểu quyết, quyết định như việc quản lý, sử

dụng quỹ đất của cấp xã, chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng,

xây dựng kết cấu hạ tầng, tái định cư, phương án quy hoạch khu dân cư, kế hoạch sử

dụng các khoản đóng góp của dân…dẫn tới cán bộ cơ sở tự ý đưa ra các quy định trục

lợi, không xuất phát từ lợi ích của nhân dân, là điều kiện thuận lợi cho những biểu

hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông bộc lộ. Nếu đưa lên thành những nội dung nhân

dân được biểu quyết, quyết định sẽ hạn chế được sự tuỳ tiện của cán bộ cơ sở, những

biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông.

Những bất cập trong pháp luật về dân chủ ở cơ sở đã được nhiều người dân

chỉ ra. Theo khảo sát của tác giả Nguyễn Văn Hiển, sự đáp ứng của các quy định

hiện hành về dân chủ ở cấp xã với nhu cầu thực hiện quyền làm chủ của người dân

ở thời điểm hiện tại mới đạt hơn 56% [70, tr.121].

Thứ tư, công tác cán bộ ở cơ sở còn nhiều hạn chế, ý thức tự rèn luyện,

phấn đấu của cán bộ cơ sở còn thấp cũng là một trong những nguyên nhân làm cho

tâm lý tiểu nông ở đội ngũ này không được ngăn chặn, hạn chế, thậm chí còn làm

long rộng hơn.

111

Những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong công tác cán bộ ở cơ sở,

đặc biệt là ở những nơi miền núi, vùng sâu, vùng xa còn khá đậm nét. Không ít nơi

ở các xã, báo chí đưa tin về việc 8 hay thậm chí 12 cán bộ xã đều là người nhà của

Chủ tịch uỷ ban nhân nhân xã hay Bí thư xã. Ví dụ như nhiều người dân địa phương

phản ánh, nhiều người thân, anh em trong dòng họ của ông Lê Viết Hương, Bí thư

Đảng uỷ xã Hồng Tiến, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế phản được bố trí

giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy công quyền của xã. Trong đó, chủ tịch Uỷ

ban nhân dân xã đã bị kỷ luật vì vi phạm đạo đức, lối sống. Phó Bí thư Đảng uỷ xã

chưa tốt nghiệp trung học phổ thông [73]. Có rất nhiều phản ánh cụ thể về tình trạng

người nhà của những lãnh đạo chủ chốt cấp xã dù chưa đủ tiêu chuẩn hoặc đủ tiêu

chuẩn nhưng không xứng đáng bằng người khác nhưng vẫn nắm nhiều vị trí chủ

chốt ở xã. Tâm lý họ hàng, cục bộ trong công tác cán bộ vừa qua có thể thấy ở

nhiều cấp, nhưng rõ nét nhất chính là cấp cơ sở. Chính điều này làm củng cố thêm

những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông ở đội ngũ cán bộ cơ sở. Khi người

nhà cùng làm cán bộ ở một xã bao che dung túng cho nhau thì những tâm lý coi

thường pháp luật, tư lợi vun vén cá nhân càng có cơ hội được thực hiện trên thực tế.

Cán bộ cơ sở - những chủ thể rất quan trong thực hiện dân chủ ở cơ sở có tâm lý

tiểu nông thì chắc chắn những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông càng rõ nét.

Cùng với đó, công tác đánh giá cán bộ ở cấp cơ sở thiếu tiêu chí rõ ràng, còn

hình thức dẫn tới những cán bộ có sai phạm trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ,

lạm quyền, lộng quyền nhưng vẫn được đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ, thậm chí

hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Việc đánh giá cán bộ cơ sở, đặc biệt là cán bộ chủ

chốt cấp xã chưa gắn với kết quả tổ chức triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Trong thời gian qua, việc sơ kết, tổng kết định kỳ 6 tháng, 1 năm về thực hiện dân

chủ ở cơ sở cũng diễn ra nhưng chỉ là trong những báo cáo chung về hoạt động của

các cấp chính quyền, chưa gắn với công tác thi đua, khen thưởng và cả kỷ luật trong

công tác cán bộ ở cơ sở. Việc sơ kết, tổng kết nhiều khi còn rất hình thức, chưa đi

vào thực chất, ví dụ báo cáo việc thực hiện chủ yếu như đã tổ chức được bao nhiêu

cuộc họp dân chứ chưa đi vào thực chất như đã có bao nhiêu ý kiến đóng góp của

nhân dân, đã tiếp thu được bao nhiêu ý kiến, đã giải trình những nội dung chưa tiếp

thu ý kiến của nhân dân hay chưa… Vì vậy, dù sơ kết, tổng kết nhưng chưa chỉ ra

112

được những mặt hạn chế trong thực hiện dân chủ ở cơ sở, trong đó có chứa đựng

những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông để ngăn chặn, sửa chữa một cách

kịp thời. Thêm vào đó, hạn chế, bất cập của pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn là chưa quy định rõ ràng, cụ thể về việc khen thưởng, kỷ luật trong

thực hiện dân chủ làm cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tiễn, vì vậy cũng gây khó

khăn cho việc tổ chức khen thưởng, kỷ luật những cán bộ cơ sở thực hiện tốt hay

không tốt các quy định pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Việc chưa có cơ chế

gắn việc thực hiện tốt hay không tốt pháp lệnh này trở thành một tiêu chí trong đánh

giá hoạt động của cán bộ cơ sở hàng năm cũng dẫn tới việc thiếu tinh thần trách

nhiệm của cán bộ trong thực hiện, những người thực hiện tốt không được khen

thưởng, biểu dương để nhân rộng, những cán bộ có những biểu hiện tiêu cực của

tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ không bị phê bình, ngăn chặn. Ngay trong

đội ngũ này cũng còn nhiều người chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc

thực hiện dân chủ ở cơ sở trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Theo

khảo sát của tác giả Nguyễn Tiến Thành, chỉ có 50% số ý kiến cho rằng thực hiện

tốt pháp lệnh là thước đo tiêu chuẩn hoàn thành nhiệm vụ hoặc là thước đo năng

lực, phẩm chất của cán bộ, có 44,3% ý kiến cho rằng pháp lệnh là công cụ để cán bộ

hoàn thành nhiệm vụ [170].

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã mặc dù thời gian qua đã được

quan tâm hơn nhưng cán bộ xã thường đào tạo bồi dưỡng dưới hình thức không tập

trung, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chưa đáp ứng được nhu cầu, còn hình thức,

đặc biệt là việc bồi dưỡng lý luận chính trị, bồi dưỡng đạo đức cách mạng ở đội ngũ

này dẫn tới những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong đội ngũ cán bộ cơ

sở không được hạn chế, ngăn chặn. Nói về những bất cập, hạn chế trong công tác

giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ nói chung trong

đó có cán bộ cơ sở, Đảng ta khẳng định “Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng còn

nhiều hạn chế, thiếu sót… Công tác giáo dục tư tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống

còn chung chung, kém hiệu quả” [49, tr.269].

Đặc biệt, tác động tiêu cực của kinh tế thị trường càng củng cố thêm những

biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông như tư lợi, vun vén cá nhân, sẵn sàng chà

113

đạp, coi thường pháp luật cộng với việc thiếu tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu của

từng cán bộ cấp xã dẫn tới những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong đội

ngũ này lan rộng, phát triển. Những phản ánh, phanh phui trên báo chí rất thường

xuyên, phổ biến về tình trạng tham nhũng vặt, việc thiếu tuân thủ pháp luật trong

thực hiện công vụ ở đội ngũ này thời gian qua đã cho thấy điều đó. Như vậy, những

hạn chế trong công tác cán bộ ở cấp cơ sở là một nguyên nhân quan trọng làm cho

tâm lý tiểu nông trong đội ngũ này trong thực hiện công vụ, trong đó có thực hiện

dân chủ ở cơ sở không được ngăn chặn, xử lý thậm chí ngày càng gia tăng với

những biến tướng tinh vi, phức tạp.

Tiểu kết chương 3

Ở chương này, tác giả đánh giá thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu

nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở trên 4 nhóm quyền chính là quyền được biết

của dân với những nội dung cần công khai cho nhân dân, quyền được tham gia ý

kiến của nhân dân, quyền được biểu quyết, quyết định, quyền được kiểm tra, giám

sát của nhân dân. Trong đánh giá thực trạng ảnh hưởng đến việc thực hiện từng

nhóm quyền, tác giả đánh giá những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong

việc thực hiện các quyền này ở cả cán bộ cơ sở và người dân. Trên cơ sở phân tích,

đánh giá thực trạng, tác giả cũng chỉ ra nguyên nhân của những ảnh hưởng tiêu cực

của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở. Những nguyên nhân này là rất

đa dạng từ cơ sở vật chất của tâm lý tiểu nông vẫn còn tồn tại đến những hạn chế,

yếu kém trong công tác giáo dục, tuyên truyền trong nhân dân, trong công tác cán

bộ ở cơ sở, sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ cơ sở trong việc tự ngăn ngừa,

hạn chế những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông, những bất cập, hạn chế trong

pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở…Những nguyên nhân được đưa ra ở đây

chính là cơ sở để đề xuất các giải pháp hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm

lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở.

114

Chương 4

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC

CỦA TÂM LÝ TIỂU NÔNG ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ

Ở CƠ SỞ VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP,

NÔNG THÔN, PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI

CHỦ NGHĨA

4.1.1. Vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, phát

triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với việc xóa bỏ những biểu hiện

tiêu cực của tâm lý tiểu nông

Theo quan điểm duy vật lịch sử, tâm lý tiểu nông - một dạng của tâm lý xã

hội ra đời trên cơ sở tồn tại xã hội nhất định, bị chi phối, quyết định và phản ánh tồn

tại xã hội đó. Do đó, muốn hạn chế, xoá bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý

tiểu nông nói chung, tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở nói riêng thì

phải xoá bỏ tồn tại xã hội đã nảy sinh và củng cố tâm lý tiểu nông, đó chính là nền

kinh tế tiểu nông. Xoá bỏ hay xây dựng một tư tưởng, tâm lý nào đó đều phải bắt

đầu từ cơ sở vật chất đã sản sinh ra nó, việc muốn xoá bỏ tâm lý tiểu nông mà

không tìm cách thay đổi cơ sở vật chất nảy sinh tâm lý này cũng như muốn đưa một

tư tưởng mới, tiến bộ, tư tưởng cộng sản chủ nghĩa vào xã hội khi chưa tạo ra những

tiền đề vật chất cho tư tưởng ấy đều là ảo tưởng và chắc chắn dẫn tới thất bại. Lênin

đã khẳng định rất rõ điều này:

Không mảy may có ý nghĩa là chúng ta phải đưa ngay vào nông thôn

những tư tưởng thuần tuý cộng sản chủ nghĩa, hiểu theo nghĩa hẹp của

nó. Chừng nào chúng ta chưa có một cơ sở vật chất ở nông thôn cho chủ

nghĩa cộng sản thì làm như thế chỉ có thể coi là một việc có hại, một việc

bất hạnh cho chủ nghĩa cộng sản [212, tr.419].

Tâm lý tiểu nông được hình thành và tồn tại trên nền tảng kinh tế - xã hội là

nền kinh tế tiểu nông tự cung, tự cấp, manh mún, nhỏ bẻ, công cụ sản xuất thô sơ,

115

lạc hậu. Để thay đổi nền tảng kinh tế đó thì chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp

hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, phát triển kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đặc biệt là công nghiệp hoá, hiện

đại hoá nông nghiệp, nông thôn sẽ xoá bỏ tình trạng manh mún, nhỏ lẻ, công cụ sản

xuất lạc hậu, thô sơ của sản xuất nông nghiệp. Kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa lấy quan hệ hàng hoá tiền tệ là phương thức trao đổi mạnh mẽ sẽ xoá bỏ

tình trạng tự cung, tự cấp trong sản xuất nông nghiệp.

Đứng trên lập trường duy vật biện chứng, Ăngghen chỉ rõ cuộc cách mạng

công nghiệp không những chỉ tạo ra bước nhảy vọt về năng suất lao động mà còn

tạo ra sự chuyển biến có tính chất cách mạng trong tâm lý xã hội. Nói về vai trò của

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với việc hạn chế, xoá bỏ những ảnh hưởng tiêu

cực của tâm lý tiểu nông, Lênin cũng khẳng định:

Cải tạo người tiểu nông, cải tạo toàn bộ tâm lý và tập quán của họ là một

công cuộc phải làm nhiều thế hệ mới xong. Đối với người tiểu nông thì

chỉ có cơ sở vật chất, kỹ thuật, những máy kéo và máy móc quy mô lớn

trong nông nghiệp, điện khí hoá trên quy mô lớn mới có thể giải quyết

được vấn đề đó, mới có thể làm cho toàn bộ tâm lý của họ, có thể nói trở

nên lành mạnh được. Chính điều đó có thể cải tạo triệt để và hết sức

nhanh chóng người tiểu nông [207, tr.72].

Theo Lênin, để làm lành mạnh hoá tâm lý của người tiêu nông thì phải xây

dựng được cơ sở vật chất, kỹ thuật với những máy kéo và máy móc quy mô lớn

trong nông nghiệp, tức là phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn. Đó cũng chính là nội dung, nhiệm vụ của quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn như Đảng ta khẳng định trong Hội nghị Trung

ương 5 khoá IX:

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với công

nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ

lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công

nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu

116

sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả,

sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường [47, tr.93].

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm và lao động

các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao

động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch

phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và

xây dựng quan hệ sản xuất phủ hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công

bằng, văn mình, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của

nhân dân ở nông thôn [47, tr.94].

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tạo ra yếu tố quan

trọng có tính quyết định nhất tới việc ngăn chặn, hạn chế triệt để tâm lý tiểu nông vì

nó tạo ra nền nông nghiệp dựa trên trình độ cơ khí hoá, sử dụng máy móc, tập trung,

quy mô hớn. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đưa tiến bộ

khoa học công nghệ vảo sản xuất, công cụ thủ công thay thế bằng máy móc hiện

đại, cơ cấu cây trồng vật nuôi được thay đổi bằng những giống mới có năng suất

cao hơn, áp dụng quy trình công nghệ sản xuất mới… đòi hỏi mọi người phải thay

đổi, tích cực học tập mới đáp ứng được, từ đó lối suy nghĩ theo kinh nghiệm, bảo

thủ, ngại thay đổi, ngại tiếp thu cái mới của tâm lý tiểu nông sẽ bị loại bỏ. Như Hồ

Chí Minh cũng đã từng khẳng định điều này “Máy móc càng tinh xảo, nếu không có

trình độ văn hoá và kỹ thuật thì không thể điều khiển được. Trước đây làm việc theo

lối thủ công, nhưng bây giờ làm bằng máy móc tinh xảo cả, nên việc học tập văn

hoá, nâng cao trình độ kỹ thuật là rất cần thiết” [117, tr.50]. Việc sản xuất nông

nghiệp bằng máy móc với năng suất lao, cơ khí hoá, điện khí hoá trong sản xuất

nông nghiệp sẽ thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp tập trung, quy mô lớn. Máy

móc sẽ san phẳng những bờ, thửa của những mảnh ruộng manh mún, nhỏ lẻ, ngăn

cách tạo nên những cánh đồng ngút ngát thẳng cánh có bay. Sản xuất lớn sẽ hạn chế

dần tầm nhìn thiển cận, thiếu tầm nhìn xa, trông rộng trong tâm lý tiểu nông của

những người sản xuất nông nghiệp nhỏ. Khi sản xuất lớn, tập trung trong những

“cánh đồng lớn”, bản thân người nông dân phải hợp tác, liên kết với nhau để cùng

117

sản xuất một loại giống, xuống giống cùng một ngày, có sự ghi chép rõ ràng đảm

bảo truy nguyên nguồn gốc, xuất xứ… điều này đòi hỏi người nông dân hỏi phải

tuân thủ chặt chẽ về giờ giấc, kỷ luật lao động, từ đó lối sống tự do, vô kỷ luật, đi

muộn về sớm, tác phong lề mề, chậm chạp, thiếu trách nhiệm trong tâm lý tiểu nông

cũng sẽ bị loại bỏ. Khi sản xuất nông nghiệp bằng máy móc hiện đại, quy trình công

nghệ mới như sản xuất nông nghiệp trong lồng kính, sản xuất theo tiêu chuẩn

VietGap, Global Gap, những giống cây trồng, vật nuôi mới có khả năng chống chịu

bệnh tốt hơn… tính phụ thuộc vào tự nhiên của sản xuất nông nghiệp sẽ giảm bớt,

người lao động làm chủ quá trình sản xuất nông nghiệp của mình, từ đó tính thụ

động, cầu an, trông chờ vào những yếu tố bên ngoài trong tâm lý tiểu nông cũng sẽ

được hạn chế dần.

Trong kinh tế thị trường, mọi hàng hoá (yếu tố đầu vào của sản xuất và sản

phẩm do sản xuất tạo ra, tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng) đến tay người sản

xuất và người tiêu dùng đều phải qua mua bán, trao đổi, phải thông qua thị trường,

phụ thuộc vào tình hình thị trường. Đây là đặc trưng rõ rệt nhất về cơ chế vận hành

của kinh tế thị trường. Đảng ta khẳng định kinh tế thị trường không phải là liều

thuốc vạn năng, những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường có thể làm gia tăng

những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông nhưng những mặt tích cực của nó có

thể hạn chế, xoá bỏ dần những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông. Việc phát

triển kinh tế thị trường xoá bỏ tính tự cung, tự cấp của sản xuất, xoá bỏ những tiền

đề vật chất của tâm lý tiểu nông, từ đó sẽ khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của

tâm lý tiểu nông. Để phát huy mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế

thị trường thì phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là

con đường quan trọng để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông.

Điều này được thể hiện cụ thể như sau:

Kinh tế thị trường hình thành và phát triển, trao đổi hàng hoá trở thành

phương thức kinh tế chủ đạo, nó không những sẽ tạo ra thị trường nội địa thống

nhất mà còn mở rộng thị trường thế giới. Ranh giới giữa các địa phương chủ yếu

mang ý nghĩa quản lý hành chính, luỹ tre làng, sự biệt lập khép kín của làng xã, địa

phương được phá bỏ theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng, mở rộng các mối quan hệ ở

118

mọi lĩnh vực. Các huyết mạch kinh tế lưu thông nối liền gia đình với xã hội, làng xã

với đất nước, miền ngược với miền xuôi, thành thị với nông thôn, đồng thời mở

rộng giao lưu quốc tế về mọi mặt được thiết lập. Kinh tế thị trường mở rộng giao

thương trao đổi hàng hoá, dịch vụ, trao đổi lao động góp phần xoá dần đi tính hạn

hẹp, cục bộ địa phương của tâm lý tiểu nông.

Kinh tế thị trường đưa con người từ phục tùng chuyển sang tự chủ, tự lập, từ

hoà tan vào cộng đồng chuyển sang tôn trọng cá nhân và bản sắc, bản lĩnh cá nhân.

Quyết định theo số đông không phải là giải pháp tối ưu để có thể tồn tại trong kinh

tế thị trường. Do đó cá nhân, các chủ thể kinh tế phải độc lập, tự chủ, dám nghĩ,

dám làm, tự quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình, từ đó hạn chế

dần tâm lý thụ động, dựa dẫm vào tập thể, thiếu trách nhiệm cá nhân, không dám

thể hiện chính kiến cá nhân của tâm lý tiểu nông.

Một quy luật phổ biến của kinh tế thị trường là quy luật cạnh tranh. Quy luật

cạnh tranh là sức ép buộc doanh nghiệp, người sản xuất, người nông dân phải không

ngừng đổi mới kỹ thuật, công nghệ, cải tiến quản lý để sử dụng hợp ý những nguồn

lực và lợi thế của mình trong sản xuất, sáng tạo những sản phẩm mới để tồn tại và

phát triển. Điều đó sẽ phát huy tính năng động, sáng tạo, không ngừng đổi mới ở

người nông dân, người sản xuất, hạn chế dần tâm lý thụ động, trông chờ, bảo thủ,

ngại đổi mới của tâm lý tiểu nông. Hơn nữa, kinh tế thị trường, mọi hưởng thụ và

đãi ngộ đều dựa trên tài năng và cống hiến, điều này phá vỡ tính ỷ lại, lười biếng.

Mạo hiểm và dám chấp nhận rủi ro là một yêu cầu cần thiết đối với các chủ

thể trong kinh tế thị trường. Các chủ thể kinh tế, cá nhân phải phân tích tình huống

chính xác, đưa ra các quyết định hợp lý, phản ứng kịp thời trước những biến đổi

của thị trường, dám mạo hiểm, đưa ra những quyết định không giống mọi người

mới chớp được thời cơ, từ đó mới có thể chiến thắng trong cạnh tranh. Ông Adrian

Yang, Giám đốc chi nhánh ngân hàng First National Bank Chicago ở Hồng Kông

nói “Nếu bạn suy nghĩ quá lâu thì cơ hội sẽ tuột khỏi tay bạn”. Lec Iacocca, Tổng

giám đốc công ty xe hơi khổng lồ hãng Ford nói “Giám đốc cần hành động trước

khi có đầy đủ trong tay các dữ kiện. Nếu chờ đầy đủ các dữ kiện rồi mới hành

động thì sẽ lỗi thời, vì sự biến đổi nhanh chóng là một thuộc tính vốn có của thị

119

trường”, ông cho rằng “Một quyết định đúng cũng thành sai nếu bạn đưa ra chậm”

[83, tr.211]. Quyết đoán, quyết định nhanh chóng và chấp nhận mạo hiểm là yêu

cầu cần thiết trong kinh tế thị trường, điều nảy sẽ hạn chế dần tâm lý cầu an, bằng

lòng với cuộc sống nghèo hiện tại, không dám quyết định cái gì vì sợ rủi ro của

tâm lý tiểu nông.

Trong nền kinh tế tiểu nông, tự cung tự cấp, người nông dân chỉ biết có bản

thân mình, nhu cầu của bản thân vì vậy giới hạn suy nghĩ của họ trong mảnh ruộng,

mảnh vườn. Trong sản xuất hàng hoá, người nông dân không chỉ biết có bản thân

mình, họ phải biết nhìn rộng ra xã hội, biết quan tâm đến sản phẩm, thị trường… Họ

sản xuất vài ba, thậm chí vài chục ha ruộng đất, trồng một loại cây hoặc chăn nuôi

một loài vật, mục đích là để bán, vì vậy quá trình sản xuất phải tuân theo nhu cầu

của xã hội, lợi thế của bản thân, tuân theo yêu cầu của các quy luật kinh tế khách

quan của sản xuất hàng hoá thể hiện trên thị trường. Điều đó đòi hỏi người sản xuất

phải nắm bắt và tuân thủ các quy luật đó, phá bỏ tính chủ quan, tự do, tuỳ tiện, làm

theo kinh nghiệm của người tiểu nông. Đồng thời nó hạn chế dần lối suy nghĩ thiển

cận, không có tầm nhìn xa, trông rộng của người tiểu nông.

Với việc phát triển kinh tế thị trường, tâm lý coi thường pháp luật của tâm lý

tiểu nông sẽ dần được hạn chế và xoá bỏ. Nền kinh tế ở nước ta là nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động theo cơ chế thị trường dưới sự quản

lý bằng pháp luật của Nhà nước. Pháp luật điều chỉnh mọi mối quan hệ kinh tế trên

thị trường đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể, sự cạnh tranh lành mạnh cũng

như đặt ra giới hạn, những yêu cầu của hoạt động sản xuất, kinh doanh phục vụ cho

cộng đồng và mục tiêu chung (được sản xuất cái gì và không được sản xuất cái gì).

Nền kinh tế này đỏi hỏi mọi cá nhân, tổ chức khi tham gia hoạt động sản xuất, kinh

doanh, dịch vụ… đều tôn trọng, tuân thủ pháp luật, các hợp đồng, điều khoản kinh

tế, nếu không muốn bị đặt ngoài vòng pháp luật và bị phá sản, dần hình thành lối

sống “sống và làm việc theo pháp luật”, từ đó sẽ hạn chế dần tâm lý coi thường

pháp luật.

Tuy nhiên, cơ sở vật chất, kỹ thuật của tâm lý tiểu nông chưa được xoá bỏ

hoàn toàn ở nước ta. Sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ, trình độ thủ công, phân tán

120

vẫn còn tồn tại. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu vẫn theo quy mô hộ gia đình, nhỏ lẻ,

manh mún. Năm 2007, mặc dù đã bắt đầu giảm xuống nhưng cả nước có tới 10,46

triệu hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản. Đa số nông hộ sản xuất quy mô nhỏ, 73% hộ

có dưới 0,5 ha đất nông nghiệp. Các hộ này chủ yếu sản xuất tự cung, tự cấp, số

hàng hóa bán ra rất ít. Hơn nữa, ruộng đất lại manh mún nên hiệu quả canh tác

không cao, có gần 60% hộ lâm nghiệp có dưới 3 ha, 51,3% hộ thủy sản có dưới 1 ha

mặt nước, năm 2006 có 56% số hộ nuôi dưới 3 con lợn [187]. Trong hơn 30 năm

đổi mới vừa qua, chúng ta đã dần xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, như

Đảng ta khẳng định trong Hội nghị trung ương 5 khoá XII là kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành, có nhiều đặc điểm của nền kinh

tế thị trường hiện đại và hội nhập. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa ở nước ta vẫn còn có nhiều hạn chế. Chính vì vậy, để hạn chế những

ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở, chúng ta

cần tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; tiếp

tục xây dựng và hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đặc biệt

là trong vùng nông thôn, trong sản xuất nông nghiệp, gắn với quá trình xây dựng

nông thôn mới, thực hiện tam nông ở nước ta.

4.1.2. Một số định hướng nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa

Để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trong

tình hình mới, cần chú ý một số định hướng sau:

Một là, cần chuyển đổi mạnh chính sách đầu tư theo hướng tập trung ưu đãi

hơn nữa cho nông nghiệp, bao gồm cả đầu tư của Nhà nước, đầu tư của hộ nông

dân, của doanh nghiệp trong nước và vốn đầu tư gián tiếp và trực tiếp nước ngoài.

Trong khi hiện nay các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tập trung đầu tư vào

các ngành công nghiệp và dịch vụ thì Nhà nước, một mặt có chính sách ưu đãi hơn

đối với đầu tư ngoài Nhà nước cho nông nghiệp để bảo đảm các nhà đầu tư thu lợi

nhiều hơn; mặt khác Nhà nước phải ưu tiên trực tiếp đầu tư cho nông nghiệp. Trong

tình thế mới hiện nay, đầu tư cho nông nghiệp cần tập trung cho mục tiêu "năm

121

hóa": thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa, hóa học hóa, sinh học hóa nhằm đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, Nhà nước

cũng cần chú ý đầu tư và khuyến khích đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ

cao, sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào trong sản

xuất nông nghiệp, đẩy mạnh áp dụng các tiêu chuẩn sản xuất theo chuẩn quốc tế

như VietGap trong sản xuất nông nghiệp…

Hai là, có những chính sách ưu đãi và khuyến khích để phát triển ngành công

nghiệp phục vụ nông nghiệp ở Việt Nam nhằm cung cấp vật tư đầu vào trong sản

xuất nông nghiệp, đáp ứng được yêu cầu của sản xuất nông nghiệp nước ta cả về số

lượng và chất lượng. Phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp sẽ trực tiếp góp

phần vào việc thực hiện năm hoá ở nước ta là thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí

hóa, hóa học hóa, sinh học hóa.

Ba là, coi trọng nâng cao trình độ dân trí nói chung và trình độ kỹ thuật, công

nghệ cho người lao động nông nghiệp. Nhà nước cần có cơ chế phù hợp đẩy mạnh

giáo dục, đào tạo trong nông dân, nông thôn, các chương trình đào tạo nghề cho lao

động nông thôn, phát triển mạng lưới khuyến nông phổ biến tập huấn kỹ thuật mới

trong sản xuất nông nghiệp cho nông dân.

Bốn là, tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn, chủ yếu

bằng con đường xây dựng hợp tác xã kiểu mới. Hoàn thiện chính sách tích tụ, tập

trung ruộng đất, có cơ chế khuyến khích hình thành các trang trại, công ty cổ phần,

doanh nghiệp nông nghiệp, các hình thức tổ chức hợp tác xã, liên doanh liên kết

giữa các hộ nông dân trong mô hình cánh đồng lớn, khuyến khích các doanh nghiệp

lớn bao tiêu sản phẩm cho nông dân, ký kết sản xuất theo hợp đồng cho nhân dân…

Giải pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần tập trung vào một số nội dung sau:

Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế kinh tế thị trường ở nước ta

hiện nay bao gồm các thể chế về sở hữu, các thành phần kinh tế, loại hình doanh

nghiệp, thể chế phân phối cả đầu vào và đầu ra, thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố

thị trường và các loại thị trường, thể chế đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh

122

tế quốc tế, thể chế đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước để kinh tế

thị trường ở nước ta phát triển hiện đại, hội nhập và theo đúng định hướng xã hội

chủ nghĩa.

Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, tăng cường quản lý nhà nước

đối với nền kinh tế nhằm giảm thiểu can thiệp của Nhà nước vào giá cả, tăng cường

điều tiết thông qua các công cụ thị trường. Nhà nước sử dụng chính sách tài chính,

tiền tệ, thương mại quốc tế để điều tiết phân bổ nguồn lực và phân phối của cải xã

hội, khắc phục cơ chế bao cấp, xin cho trong các quan hệ kinh tế, xoá bỏ độc quyền

doanh nghiệp, ưu đãi theo loại hình doanh nghiệp. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công

tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán và thực thi pháp luật về kinh tế của nhà

nước… Điều này sẽ làm hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, từ đó xoá

bỏ mảnh đất dung dưỡng cho những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông.

Ba là, đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở

địa bàn nông thôn, trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của người nông dân. Nhân

dân, nông dân ở vùng nông thôn là nơi mà những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu

nông còn tồn tại nặng nề hơn nhưng cũng là nơi mức độ phát triển kinh tế thị trường

còn thấp, vì vậy phải đẩy nhanh tốc độ thị trường hoá trong hoạt động sản xuất, sinh

hoạt ở đây. Để đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

trong sản xuất nông nghiệp, ở vùng nông thôn, cần khuyến khích phát triển các dịch

vụ cung ứng, phân phối, thu mua các mặt hàng sản xuất và tiêu dùng, mở rộng số

lượng, quy mô các chợ giao dịch nông sản, tăng cường liên kết sản xuất nông

nghiệp theo chuỗi cung ứng, ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm để người nông dân sản

xuất theo thị trường, hạn chế dần tình trạng sản xuất tự cung, tự cấp.

4.2. NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC, TUYÊN TRUYỀN,

NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ, NHẬN THỨC, VĂN HÓA CỦA NHÂN DÂN

Hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đối với việc thực

hiện dân chủ ở cơ sở thực chất chính là quá trình xoá bỏ những biểu hiện lạc hậu

của tâm lý tiểu nông trong nhân dân ở cơ sở và cán bộ cơ sở - chủ thể của thực hiện

dân chủ ở cơ sở. Việc hạn chế, xoá bỏ những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông

123

ở nhân dân cũng có vai trò đối với việc hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm

lý này trong đội ngũ cán bộ, từ đó tạo ra tác động kép đến việc hạn chế ảnh hưởng

tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Như Chủ tịch Hồ Chí

Minh từng khẳng định “Quan tham vì dân dại. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót

thì quan dù không liêm cũng hoá ra liêm. Vì vậy, dân cần phải biết quyền hạn của

mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ liêm” [113, tr.641].

Nếu như nhân dân chủ động, tích cực thực hiện quyền làm chủ của mình thì cán bộ

sẽ không thể nào thực hiện được tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân, tâm lý dòng họ, cục

bộ hay tâm lý coi thường pháp luật được. Người dân có tích cực, chủ động thực

hiện quyền được biết thì chính quyền cấp xã mới không thể “bưng bít” mà phải

công khai thông tin theo quy định của pháp luật, tránh được các hành vi tham

nhũng, khuất tất, từ đó ngăn chặn được tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân ở một số cán

bộ cơ sở. Người dân có tự giác sử dụng quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ

quan có thẩm quyền quyết định mới làm cho quyết định đó thực sự vì lợi ích chung,

tránh chạy theo lợi ích cá nhân, dòng họ hay lợi ích nhóm, từ đó hạn chế tâm lý tư

lợi, vun vén cá nhân hay tâm lý cục bộ, địa phương, dòng họ ở cán bộ trong thực

hiện dân chủ ở cơ sở. Người dân có chủ động thực hiện quyền kiểm tra, giám sát

của mình thì mới buộc cán bộ cơ sở phải thực hiện nghiêm pháp luật, ngăn chặn

được tâm lý coi thường pháp luật, trọng tình hơn lý.

Theo quan điểm duy vật lịch sử, những nét tâm lý tiểu tiểu nông tiêu cực sẽ

mất đi khi điều kiện kinh tế - xã hội phương thức sản xuất biến đổi mạnh mẽ, sâu

sắc, toàn diện nhưng những nét tâm lý này cũng sẽ mất đi khi bản thân chủ thể

mang nét tâm lý này nhận thức được rằng, cần phải loại bỏ chúng ra khỏi nhân cách

của mình. Vì vậy, bên cạnh việc xoá bỏ cơ sở vật chất, kỹ thuật nảy sinh tâm lý tiểu

nông thì cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để chính chủ thể nhân

dân tự giác từ bỏ biểu hiện tiêu cực này. Theo Lênin, việc giáo dục nhân dân từ bỏ

tâm lý tiểu nông trong suy nghĩ và hành động của mình là công việc thường xuyên,

lâu dài và rất quan trọng. Người viết:

124

Nhiệm vụ cơ bản của các cán bộ công tác giáo dục và của Đảng Cộng sản,

đội tiên phong trong cuộc đấu tranh, là phải giúp đỡ việc giáo dục và rèn

luyện quần chúng lao động để khắc phục những thói quen cũ, những tập

quán cũ do chế độ cũ để lại, những thói quen, những tập quán của người tư

hữu đã tiêm nhiễm sâu vào quần chúng. Không bao giờ được quên nhiệm

vụ cơ bản ấy của mọi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa [214, tr.474].

Những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông nằm trong mỗi con người

chúng ta, vì vậy nó là kẻ địch “nội xâm”, không thể trấn áp được mà phải là quá

trình giáo dục nhằm thay đổi nhận thức, nếp nghĩ, thói quen, tập quán lạc hậu:

...còn phải xoá bỏ những người tiểu sản xuất hàng hoá nữa; nhưng với

những người này thì không thể tống cổ họ đi được, không thể trấn áp họ,

mà phải ăn ở thuận hoà với họ, chúng ta có thể (và phải) cải tạo họ, giáo

dục họ, nhưng chỉ bằng một công tác tổ chức hết sức lâu dài, từ từ và

thận trọng [214, tr.33].

Để công tác tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân góp phần hạn chế những

ảnh hưởng tiêu cực trong thực hiện dân chủ ở cơ sở cần chú ý một số nội dung sau

4.2.1. Đổi mới, tăng cường nội dung của công tác tuyên truyền, giáo dục

trong nhân dân

Thứ nhất, tuyên truyền về pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về dân chủ cơ sở nhằm cung cấp,

trang bị cho mỗi người dân những kiến thức, hiểu biết pháp luật về thực hiện dân

chủ cơ sở, bao gồm quyền dân chủ của dân, trách nhiệm của chính quyền, cán bộ

công chức cấp xã, cán bộ thôn, tổ dân phố, cơ quan tổ chức cá nhân có liên quan

trong thực hiện dân chủ cơ sở. Tuyên truyền cho nhân dân không chỉ tuyên truyền

nội dung của pháp lệnh, giúp họ nhận thức được những quyền của mình mà để

người dân chủ động, tích cực thực hiện các quyền đó thì phải tuyên truyền giúp cho

nhân dân hiểu rõ bản chất, tầm quan trọng của việc thực hành và phát huy dân chủ ở

cấp xã. Việc tuyên truyền pháp luật về thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở sẽ

hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở

cơ sở bởi lẽ nếu thực hiện đúng các quy định của pháp luật sẽ góp phần hình thành,

125

củng cố tâm lý tôn trọng luật pháp, trọng lý trong cán bộ và nhân dân. Khi nhân dân

hiểu đúng quyền và trách nhiệm của mình, thực hiện tốt các quy định này, sẽ ngăn

cản tâm lý họ hàng, ví dụ như bầu trưởng thôn trên cơ sở tiêu chuẩn, khả năng đáp

ứng yêu cầu công việc, sự tín nhiệm về năng lực, phẩm chất chứ không phải tiêu chí

cùng dòng họ. Nhân dân hiểu được quyền của mình và tầm quan trọng của việc thực

hiện quyền đó và chủ động, tích cực thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quyền dân

chủ này sẽ giúp hạn chế tâm lý thụ động, ỷ lại tập thể, thiếu trách nhiệm cá nhân

trong nhân dân…

Thứ hai, tuyên truyền về những tác hại của tâm lý tiểu nông đối với sự phát

triển của đất nước nói chung, thực hiện dân chủ ở cơ sở nói riêng.

Tâm lý tiểu nông đã ăn sâu bén rễ vào suy nghĩ của mỗi người thông qua

những thói quen, phong tục, tập quán hàng ngày, cho nên nhiều khi nhân dân không

biết đó là xấu, lạc hậu, lỗi thời cần phải xoá bỏ, như Hồ Chí Minh từng khẳng định

“Thói quen rất khó đổi. Cái tốt mà lạ, người ta có thể cho là xấu. Cái xấu mà quen

người ta cho là thường” [113, tr.107]. Do đó, cần phải tuyên truyền, giáo dục để

nhân dân thấy được những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông, tác hại của nó

đối với sự phát triển của cá nhân, cộng đồng, trong đó có thực hiện dân chủ ở cơ sở,

để họ chủ động loại bỏ dần. Ví dụ như tuyên truyền cho nhân dân thấy được nếu họ

có tâm lý họ hàng trong bầu trưởng thôn thì dẫn tới lựa chọn người không đủ năng

lực, phẩm chất, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của cộng đồng, thôn, bản, từ đó

cũng ảnh hưởng tới lợi ích của mỗi người. Tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân

thấy rằng nếu họ không tích cực, chủ động thực hiện đầy đủ các quyền mà pháp luật

trao cho, chỉ thực hiện quyền được biết, quyền tham gia ý kiến, quyền biểu quyết,

quyết định, quyền kiểm tra, giám sát ở những nội dung liên quan trực tiếp đến lợi

ích cá nhân thì cán bộ cơ sở sẽ nhũng lạm ở những nội dung không liên quan trực

tiếp, nhưng những vấn đề này cũng sẽ tác động trở lại đối với việc đảm bảo lợi ích

lâu dài của họ…

Thứ ba, tuyên truyền về ý thức làm chủ, tâm lý của người sản xuất hàng hoá,

tâm lý của xã hội công nghiệp, hiện đại.

126

Xây luôn luôn đi liền với chống. Muốn xây phải chống và muốn chống cái

cũ cũng phải từng bước xây dựng cái mới để thay thế dần cái cũ. Việc giáo dục để

làm thay đổi tâm lý tiểu nông sẽ có hiệu quả hơn khi có những biện pháp xây dựng

và hình thành tâm lý mới, tâm lý của người sản xuất hàng hóa, tâm lý của người

có tác phong công nghiệp. Phải làm thế nào để những thói quen và truyền thống

tốt từng bước xoá bỏ dần và tiến tới thay thế hoàn toàn những biểu hiện tiêu cực

của tâm lý tiểu nông. Ví dụ như khi người dân có ý thức làm chủ, có trách nhiệm

cá nhân đối với công việc chung họ sẽ hạn chế dần tâm lý thụ động, chỉ quan tâm

lo lợi ích cá nhân khi thực hiện dân chủ ở cơ sở. Khi hình thành được ở người dân

thái độ tôn trọng kỷ cương, kỷ luật, pháp luật sẽ hạn chế được tâm lý trọng lệ hơn

luật, vô nguyên tắc, thiếu kỷ luật ở họ. Hay khi xây dựng được ở người dân tinh

thần dám nghĩ, dám làm, dám thay đổi để phát triển sẽ hạn chế dần tâm lý bảo thủ,

làm theo kinh nghiệm ở họ. Vì vậy tuyên truyền về tính lạc hậu trong tâm lý tiểu

nông và những tác hại của nó đối với sự phát triển nói chung, thực hiện dân chủ ở

cơ sở nói riêng cũng phải gắn với việc tuyên truyền về những chuẩn mực trong

tâm lý, suy nghĩ của con người mới hiện đại và lợi ích của việc thực hiện các

chuẩn mực mới này.

4.2.2. Đổi mới hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục để những

nội dung cần tuyên truyền thấm sâu vào trong nhân dân

Nhân dân trình độ khác nhau, đặc biệt là người dân ở nông thôn còn mang

nặng tâm lý tiểu nông, trong khi trình độ lại thấp vì vậy hình thức, phương pháp

tuyên truyền phải sao cho giản dị, dễ hiểu, đi vào thực chất vấn đề, có ví dụ minh

hoạ giúp người nghe dễ hình dung trực tiếp và bằng trực cảm. Tuyên truyền dựa vào

tâm lý nông dân để có tính thiết thực. Ví dụ thông qua việc giải quyết những vấn đề

quen thuộc, bức xúc trong làng xã liên quan tới việc làm, đời sống, đất đai, nhà ở,

vệ sinh môi trường, những thắc mắc khiếu kiện của dân, những khoản đóng góp,

quyết toán thu chi ngân sách, vay vốn ngân hàng, quy hoạch sản xuất, triển khai dự

án… giúp người dân thấy rằng nếu chủ động, tích cực thực hiện pháp luật dân chủ

ở cơ sở, không mang nặng tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở thì lợi

ích của họ sẽ được đảm bảo. Người nông dân vốn nhạy cảm với những lợi ích

127

thường nhật, khi họ cảm nhận được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ quyền của mình

theo quy định pháp luật thì họ sẽ được giúp đỡ, bảo vệ, giải quyết những lo toan,

thắc mắc, nguyện vọng của họ thì họ sẽ dần chủ động hạn chế, loại bỏ tâm lý tiểu

nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở của mình.

Một quy luật rất phổ biến để thay đổi nhận thức, tư tưởng, thói quen, tâm lý

đó là mưa dầm thấm lâu. Vì vậy, việc tuyên truyền cũng phải thường xuyên, liên

tục, bền bỉ bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau, kết hợp được ưu điểm

riêng của từng phương pháp, đồng thời, qua đó những nội dung cần tuyên truyền sẽ

thấm dần, thấm dần vào từng người dân. Những nội dung trong pháp luật thực hiện

dân chủ ở cơ sở, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện đầy đủ, nghiêm túc

những quyền đó, tác hại của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở cần

được tuyên truyền tới người dân bằng nhiều hình thứ như tổ chức các cuộc họp

thôn, hội nghị nhân dân để báo cáo viên pháp luật trực tiếp phổ biến, tuyên truyền

bằng các phương pháp sinh động, hấp dẫn và nội dung gần gũi, thiết thực với nhân

dân; lồng ghép các nội dung tuyên truyền này vào các cuộc họp, hội nghị, sinh hoạt

của Đảng, chính quyền, đoàn thể cấp xã và các sinh hoạt tại khu dân cư, thôn, bản

vì bản thân mỗi người dân tham gia vào nhiều tổ chức khác nhau ở địa phương;

tuyên truyền trên mạng lưới Đài truyền thanh cấp xã, cần chú ý đến tần suất, khung

giờ cho phù hợp với nếp sống, tập quán sản xuất của nhân dân địa phương nhằm

đảm bảo hiệu quả thông tin.

Các hình thức tuyên truyền trên vẫn chỉ là tác động một chiều đến người dân,

để họ nhớ lâu, thấm sâu những nội dung tuyên truyền thì phải tổ chức các cuộc thi

để họ vận dụng những hiểu biết của mình vào giải quyết những tình huống, vấn đề

trong các cuộc thi đó. Việc tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về dân chủ cơ sở

có thể bằng các hình thức khác nhau như viết và nói. Các cuộc thi cần chú ý đến khả

năng vận dụng hiểu biết của người dân bằng việc đưa ra các tình huống cụ thể, các

hành vi, ứng xử trong các tình huống đó để người dân lựa chọn những cách ứng xử

nào là đúng, phù hợp, tác dụng của việc lựa chọn ứng xử đó, những cách ứng xử

nào là sai, hậu quả và trách nhiệm của những người vi phạm những hành vi sai trái

này…Để thu hút sự quan tâm và mọi người tham gia thì cuộc thi phải tổ chức nhiều

vòng từ các thôn, làng, để lựa chọn các đội tham gia các vòng thi tiếp theo.

128

Nghệ thuật luôn luôn có một sức mạnh cảm hoá kỳ diệu đối với con người,

có thể làm thay đổi suy nghĩ, nhận thức, tư tưởng, tâm lý của con người một cách tự

giác, nhẹ nhàng và tự nhiên thông qua những mẫu hình, hành vi lý tưởng cần khuôn

theo, hướng tới và những hanh vi cần lên án. Vì vậy cần và có thể sân khấu hoá

thông qua các hoạt cảnh, tiểu phẩm vui, hài, kịch, biến tấu thành các câu thơ, câu hò

vè chuyển tải những nội dung cần tuyên truyền đến với người dân. Đặc biệt, nếu

nhân dân là người trực tiếp sáng tác và biểu diễn các tác phẩm nghệ thuật đó và

công chiếu cho người dân ở địa phương xem thì chất lượng, mức độ tuyên truyền sẽ

càng hiệu quả và lan rộng hơn.

Nâng cao trình độ dân trí, năng lực làm chủ, năng lực tham gia quản lý nhà

nước, quản lý xã hội của nhân dân cũng là biện pháp cần thiết để hạn chế những ảnh

hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở của nhân dân.

Bởi như Lênin đã từng nói người mù chữ đứng ngoài chính trị. Khi nhân dân không

đủ năng lực giám sát, họ không thể giám sát các công trình công cộng, quyết toán

thu chi ngân sách, nhìn vào đó, họ cũng không hiểu thì họ sẽ dựa dẫm vào tập thể,

thụ động, mất tính tích cực, chủ động trong thực hiện quyền của mình. Vì vậy,

chính quyền cấp xã cần thường xuyên mở các lớp tập huấn về thực hiện dân chủ ở

cấp xã, tổ chức hướng dẫn nghiệp vụ về giám sát đầu tư của cộng đồng cho các

thành viên của Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng cũng

như mỗi người dân ở cơ sở.

Tâm lý được hình thành thông qua hành động, trong hành động cho nên việc

tổ chức, phát động các phong trào văn hoá, xã hội để nhân dân tham gia cũng sẽ

hình thành củng cố ở họ những nét tâm lý mới, hiện đại, xoá bỏ dần những biểu

hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông. Ví dụ như đẩy mạnh, thu hút nhân dân tích cực

tham gia thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” với

một trong những nội dung trọng tâm là xây dựng gia đình văn hoá làng văn hoá.

Trong số những tiêu chuẩn của Làng văn hoá và Gia đình văn hoá đều có tiêu chuẩn

yêu cầu tuân thủ pháp luật và thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, có trách nhiệm với

cộng đồng. Điều này người dân có cơ sở từ bỏ thói tuỳ tiện, không tôn trọng pháp

luật trong tâm lý tiểu nông, hình thành thói quen sống và làm việc theo pháp luật,

129

tâm lý tư lợi cá nhân. Hoặc việc tổ chức các hoạt động giao lưu văn hoá, văn nghệ

giữa các thôn, làng sẽ dần hạn chế tâm lý cục bộ, địa phương, khép kín trong nhân

dân, việc tổ chức các hoạt động chung của cộng đồng sẽ dần loại bỏ tâm lý tư lợi,

vun vén cá nhân trong nhân dân.

4.2.3. Đổi mới giáo dục gia đình theo hướng nhân văn, tiến bộ

Để giáo dục gia đình ở Việt Nam hiện nay hạn chế, ngăn chặn được những

ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông ở trong các thành viên của mình thì giáo

dục gia đình phải đổi mới cả về nội dung và phương pháp, cụ thể như sau:

Về nội dung giáo dục, giáo dục đạo đức, trao truyền các giá trị, chuẩn mực

văn hoá, thái độ, đạo đức trong gia đình Việt Nam hiện nay cần tiếp tục bảo tồn

những giá trị đạo đức của gia đình truyền thống như tinh thần cộng đồng, chia sẻ

trách nhiệm chung với gia đình, cộng đồng “Thương người như thể thương thân”,

“Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, các đức tính cần cù, hiếu học… qua đó cũng hạn

chế dần những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông, đặc biệt là tâm lý thu vén,

cá nhân. Bên cạnh đó, giáo dục gia đình Việt Nam hiện nay cũng cần phải truyền bá

những giá trị tiên tiến, mang tính nhân văn của thời đại. Đảng ta cũng khẳng định

mục tiêu của giáo dục gia đình và nhà trường, xã hội là thống nhất đó là hình thành

và phát triển ở các em những phẩm chất, năng lực, thói quen, hành vi chuẩn mực

của người công dân chân chính. Mục tiêu giáo dục của gia đình thống nhất với nhà

trường và xã hội trong mục tiêu chung là

...nhằm xây dựng con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc

lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên

cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước; giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp

thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con

người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá

nhân, làm chủ tri thức và khoa học công nghệ hiện đại, có tư duy sáng

tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức

và kỷ luật, có sức khoẻ.. [45, tr. 36].

130

Như vậy, nội dung giáo dục gia đình Việt Nam hiện nay cần bổ sung những

giá trị mới qua đó sẽ hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông.

Ví dụ như gia đình hiện nay giáo dục cho các thành viên biết tôn trọng quyền tự do

cá nhân trong xã hội hiện đại để nhân cách con người có điều kiện phát triển và toả

sáng, chứ không phải là những con người cá nhân “chìm đi”, “mài mòn” nhân cách

của mình trong tập thể, vì tập thể, giáo dục cho con sự tự ý thức về trách nhiệm,

nghĩa vụ, biết sống tự lập, nâng động, sáng tạo, tôn trọng kỷ luật…

Về phương pháp giáo dục gia đình cũng cần được đổi mới để hạn chế

những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông, hình thành những nét tâm lý, nhân

cách mới.

Phương pháp giáo dục gia đình rất đa dạng, phong phú song chủ yếu và quan

trọng nhất vẫn là thuyết phục và nêu gương. Cha mẹ không nên dùng quyền uy,

mệnh lệnh để ép buộc con cái mình mà thuyết phục con cái bằng điều hay, lẽ phải,

những phân tích giảng giải sâu sắc, để con cái tự nhận ra, tự lựa chọn những giá trị,

chuẩn mực phù hợp. Điều này rất quan trọng để hình thành nhân cách cá nhân độc

lập ở con cái mình, tránh sự thụ động, chỉ biết nghe lời. Việc cha mẹ tôn trọng, lắng

nghe ý kiến, nguyện vọng của con cái không chỉ giúp cha mẹ hiểu con cái mình hơn

mà còn giúp con cái họ chủ động, dám bộc lộ và thể hiện quan điểm riêng. Cha mẹ

không nên vì quá thương con mà làm cho con mọi việc, cần chủ động để con làm

việc, tham gia các công việc gia đình để hình thành tâm lý độc lập, có trách nhiệm

với bản thân và gia đình ở con cái mình. Đặc biệt, cha mẹ cần chú ý đến hình thức

giáo dục thông qua tấm gương “Cây ngay thì bóng tròn”. Đảng ta cũng đề cao vai

trò gương mẫu của ông bà, cha mẹ trong giáo dục gia đình “Giữ gìn và phát huy

những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò gương mẫu của các

bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hoá” [46, tr.60]. Muốn con cái không

có những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông thì bản thân cha mẹ cũng phải tự

hoàn thiện mình, nâng mình lên, trở thành những tấm gương sáng, trong mọi cử chỉ,

hành động, ứng xử đều thể hiện những nét nhân cách mới tiến bộ, không có biểu

hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông. Mỗi phụ huynh cần biết rõ họ muốn giáo dục

con cái họ trở thành người như thế nào, những mục tiêu cụ thể mà mình mong đợi ở

131

con, mong muốn con mình trở thành người con, người công dân như thế nào và cố

gắng trong mọi hành động, cử chỉ của mình phải hướng theo những mục tiêu đó để

làm gương cho con. Điều này, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có những định

hướng, giáo dục nhất định cho các bậc cha mẹ về nội dung, phương pháp giáo dục

gia đình cũng như sự tự nỗ lực, hoàn thiện của các bậc cha mẹ trong việc thực hiện

chức năng giáo dục.

4.2.4. Phát huy, kế thừa những điểm tiến bộ, từng bước loại bỏ những

phong tục, tập quán lạc hậu chứa đựng tâm lý tiểu nông của hương ước cũ

trong quá trình xây dựng quy ước mới

Hương ước với tư cách là phong tục, tập quán thành văn có tác động rất

mạnh, chế ước suy nghĩ, tâm lý của những người thực hiện nó, trong đó có việc

củng cố tâm lý tiểu nông. Vì vậy, để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý

tiểu nông ở người dân thì cũng phải bắt đầu từ hương ước. Thái độ của chúng ta đối

với hương ước nhằm hướng tới việc hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý

tiểu nông cần đảm bảo đúng nguyên tắc về thái độ đối với di sản truyền thống như

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn “Đời sống mới không phải cái gì cũng bỏ

hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ… Cái gì cũ mà

không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý… Cái gì cũ mà tốt thì

phải phát triển thêm” [113, tr.94 -95]. Hạn chế những biểu hiện tiêu cực của tâm lý

tiểu nông không phải bằng cách là xoá bỏ hết các hương ước cũ như nhận thức ấu

trĩ một thời mà Người cũng đã từng phê phán khi tiếp đoàn cán bộ tỉnh Thái Bình

tại Phủ Chủ tịch năm 1958:

Hương ước là những khoán ước trong làng. Người ta quy định với nhau

không được để trâu bò phá lúa, gà qué phá mạ, ăn rau, không được trộm

cắp của nhau... Đấy là những phong tục hay của nông thôn nước ta trước

đây. Từ sau cách mạng, các chú đem xoá bỏ cả, thế là không đúng. Cách

mạng chỉ xoá bỏ cái xấu, cái dở, còn lưu giữ cái tốt, cái hay [6, tr.30].

Chúng ta cần thực hiện đúng tinh thần Chỉ thị số 24/1998/ CT/TTg ngày

19/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy

ước của bản làng, thôn ấp, cụm dân cư, “duy trì và phát triển phong tục, tập quán tốt

132

đẹp ở cơ sở”, kịp thời “phát hiện và đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, sai trái

hoặc lợi dụng hương ước, quy ước để duy trì các hủ tục, tập quán lạc hậu” mới có

thể hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong nhân dân.

Những quy định chứa đựng những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông

như tâm lý cục bộ, địa phương, bình quân chủ nghĩa, trọng lệ hơn luật trong các bản

hương ước cũ cần phải được xoá bỏ một cách triệt để trong xây dựng hương ước,

quy ước mới hiện nay, qua đó sẽ ngăn chặn, hạn chế được những ảnh hưởng tiêu

cực của tâm lý tiểu nông ở người dân - những người thực hiện hương ước.

Tuy nhiên, trong xây dựng hương ước, quy ước mới hiện nay, chúng ta cũng

cần kế thừa những giá trị tích cực của hương ước, đặc biệt là những giá trị này góp

phần trực tiếp vào việc hạn chế những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông. Một

giá trị rất tích cực của các bản hương ước xưa là đề cao tính cộng đồng, trách nhiệm

với cộng đồng, qua đó sẽ hạn chế tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân của người nông

dân. Trong nhiều bản hương ước cũ có những quy định trách nhiệm bảo vệ, giúp đỡ

lẫn nhau giữa các thành viên trong đời sống hàng ngày, khuyến khích mọi người

giúp đỡ nhau khi gặp túng thiếu, hoạn nạn, hay khi có công việc lớn như cưới xin,

ma chay, làm nhà… Nhiều hương ước còn quy định trách nhiệm của từng cá nhân,

tổ chức hạng dân góp sức mình vào công việc chung của làng (làm thuỷ lợi, xây

dựng các công trình công cộng, bảo vệ an ninh làng xã, biện lễ và hành lễ thờ thành

hoàng…). Nhiều bản hương ước khuyến khích mọi người thực hiện nghĩa vụ công

dân đối với nhà nước. Những quy định về trách nhiệm với những người xung

quanh, cộng đồng, đất nước trong các bản hương ước, qua đó góp phần củng cố tinh

thần cộng đồng ở mọi người, cần được kế thừa, phát huy trong xây dựng hương ước

mới, qua đó sẽ hạn chế những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông như tâm lý tư

lợi vun vén cá nhân, tâm lý họ hàng, cục bộ, địa phương trong nhân dân.

Đồng thời, cách thức xây dựng và phổ biến của các bản hương ước xưa cũng

cần được kế thừa trong xây dựng quy ước, hương ước hiện nay nhằm xây dựng tinh

thần làm chủ của người dân, hạn chế dần tâm lý thụ động, trông chờ, tâm lý chỉ lo

vun vén cá nhân của người dân. Mặc dù không phủ nhận vai trò to lớn của các bậc

văn nho trong Hội tư văn của làng “dự thảo” nội dung, kể cả trong ý tưởng của các

bản hương ước, nhưng rõ ràng tất cả các hương ước đều là kết quả của một quá

133

trình bàn luận, bổ sung góp ý của toàn thể dân làng, đặc biệt là các bậc cao niên

theo đúng nguyên tắc Trọng lão, Lão quyền trên cơ sở lệ làng bất thành văn vốn đã

vận hành xưa nay, trở thành một “nghị quyết” của làng. Theo khảo sát của tác giả

Vũ Duy Mền đối với hương ước làng Ngọc Than, tất cả số thường dân tham dự xây

dựng bản hương ước này chiếm 93% [111, tr.317]. Cách thức xây dựng, phổ biến và

thực hiện hương ước xưa đã thể hiện nhiều giá trị dân chủ, người dân đã thực sự là

chủ thể tham gia xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện hương ước, qua đó

ý thức làm chủ của người dân được củng cố. Nói về giá trị dân chủ, giá trị củng cố

tinh thần làm chủ của các hương ước xưa, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói

“Lúc bấy giờ câu nói phép vua thua lệ làng có cái đạo lý chân chính của nó, chừng

nào thể hiện 1 dạng dân chủ mà phải biết nhìn với con mắt lịch sử thì mới thấy hết ý

nghĩa độc đáo” [59, tr.74]. Đó là những giá trị của hương ước cũ có thể góp phần

trực tiếp vào việc hạn chế những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông, nên cần

được chú ý kế thừa và phát huy trong xây dựng các bản hương ước, quy ước mới

hiện nay. Để hương ước, quy ước hiện nay góp phần vào việc hạn chế những ảnh

hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông thì còn cần phải bổ sung thêm những giá trị

mới như việc đề cao trách nhiệm cá nhân, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu

trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo, tư duy đổi mới, đề cao tính thượng tôn của

pháp luật… trong các quy định của các bản hương ước, quy ước mới này.

Để thực hiện được những nội dung này thì phải nâng cao chất lượng của

những người tổ chức xây dựng hương ước, tăng cường sự tham gia của các nhà

khoa, người dân và những nhà làm luật, tăng cường sự kiểm tra, giám sát từ cấp trên

đối với quá trình xây dựng, thực thi hương ước, quy ước mới.

4.3. HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở

CƠ SỞ, TRONG ĐÓ CÓ PHÁP LỆNH VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ,

PHƯỜNG, THỊ TRẤN

Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có vai trò quan trọng

đối với việc hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện

dân chủ ở cơ sở. Nói về vai trò của thể chế đối với việc xây dựng con người, Đặng

Tiểu Bình đã viết như sau “Chế độ tổ chức, chế độ công tác tốt thì người xấu không

thể tuỳ tiện làm bậy. Chế độ không tốt thì người tốt cũng không thể làm được việc

134

tốt, thậm chí có thể trở thành người xấu” [219]. Cũng giống như ở Singapore để

ngăn chặn tham nhũng, quốc gia này sử dụng nhiều biện pháp, trong đó có việc

hoàn thiện thể chế, pháp luật để không thể tham nhũng. Chúng ta cũng phải hoàn

thiện hệ thống pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở để những biểu hiện tiêu cực

của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở không có cơ sở, điều kiện tồn

tại được.

4.3.1. Nâng hiệu lực pháp lý của pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn lên thành luật

Trước hết, cần thống nhất các quy định pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ

sở, trong đó có pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007

hiện hành thành một văn bản thống nhất là luật về dân chủ cơ sở. Việc ghi nhận

thực hiện dân chủ cơ sở ở tầm một đạo luật sẽ càng khẳng định tầm quan trọng của

vấn đề này, tăng tính hiệu lực pháp lý trong việc thực hiện quyền dân chủ của người

dân, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với nhân dân, tạo cơ sở tốt hơn cho

việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời, Luật về dân chủ cơ sở sẽ

nâng cao tính hiệu lực pháp lý trong việc thực hiện nghiêm túc dân chủ ở các xã

theo quy định pháp luật, hạn chế những méo mó, lệch lạc trong thực hiện dân chủ ở

các xã do ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông. Bởi lẽ, khi xây dựng thành đạo

luật với các chế tài, cơ chế để thực hiện sẽ tăng tính trách nhiệm, bắt buộc của cán

bộ cơ sở trong thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các quy định, hạn chế những ảnh

hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong đội ngũ này. Đồng thời, khi nâng lên

thành một đạo luật, nhân dân cũng có cơ sở pháp lý hiệu quả hơn để đấu tranh với

những hoạt động thực hiện dân chủ chứa đựng tâm lý tiểu nông ở đội ngũ cán bộ cơ

sở, nhân dân cũng buộc phải thực hiện nghiêm túc các quy định, tránh những ảnh

hưởng của tâm lý tiểu nông trong quá trình thực hiện. Thực tế, cũng đã có một số

nước nâng việc thực hiện dân chủ ở cơ sở thành luật. Ví dụ như ở Trung Quốc, năm

1987 Luật tổ chức Ủy ban thôn dân Nước cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức

được ban hành và sửa đổi năm 2010 là cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định quyền

tự quản của nhân dân ở thôn.

135

4.3.2. Quy định cụ thể hơn, rõ ràng thẩm quyền và trách nhiệm của các

cá nhân, tổ chức trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn

nhằm tăng tính khả thi, thực hiện của pháp luật.

Khi pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn được quy định một

cách cụ thể, chi tiết, đảm bảo có khả năng thực hiện quyền của người dân một cách

đúng đắn, đầy đủ mới có hiệu lực để ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực của tâm lý

tiểu nông trong thực hiện dân chủ. Trong định hướng hoàn thiện pháp lệnh về thực

hiện dân chủ ở xã, phường thị trấn cần lưu ý một số điểm sau:

Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cần quy định cụ thể

hơn về khen thưởng, kỷ luật, các biện pháp chế tài áp dụng trong thực hiện dân chủ

ở xã, phường, thị trấn. Quy định những thành tích cụ thể nào đạt được trong thực

hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn thì được đề nghị khen thưởng, cần lượng hoá

thành tích bằng các tiêu chí càng cụ thể càng tốt nhằm đảm bảo sự công bằng,

khách quan, tạo điều kiện cho việc đánh giá, xét duyệt. Quy định các hình thức khen

thưởng cụ thể cả về vật chất và tinh thần. Quy định cụ thể các loại hành vi vi phạm

trong thi hành pháp luật dân chủ ở xã, phường, thị trấn phải bị xử lý kỷ luật như tính

chất, mức độ của lỗi, hậu quả xảy ra, ảnh hưởng của những hành vi vi phạm trong

cán bộ và nhân dân địa phương. Quy định cụ thể hình thức xử lý kỷ luật đối với

từng loại hành vi vi phạm cụ thể, đảm bảo tính giáo dục đối với người vi phạm và

tính ngăn ngừa, răn đe đối với người khác. Trường hợp hành vi vi phạm pháp luật

về dân chủ ở xã, phường, thị trấn mà hội đủ các yếu tố cấu thành tội phạm của một

tội nào đó được quy định trong Bộ luật hình sự thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình

sự. Việc quy định cụ thể, chi tiết các hành vi khen thưởng, kỷ luật và các chế tài áp

dụng trong thực hiện dân chủ sẽ đảm bảo cho pháp luật dễ đi vào cuộc sống, được

thực thi trên thực tế. Những hành vi tiêu cực, chứa đựng ảnh hưởng tiêu cực của

tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn ở cả người dân và

cán bộ cơ sở đều bị xử lý nghiêm túc, trực tiếp ngăn chặn, hạn chế và đủ sức răn đe

cho hành vi chứa đựng biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong tương lai.

Đồng thời, những hành vi thực hiện nghiêm túc pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã,

136

phường, thị trấn, ngăn chặn được những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông

được khuyến khích, tạo động lực nhân rộng.

Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cũng cần quy định cụ

thể, rõ ràng thầm quyền, chức năng của các cấp cao hơn như cấp tỉnh, cấp huyện

trong việc theo dõi, kiểm tra và đánh giá việc chính quyền cấp xã triển khai thực

hiện pháp luật về dân chủ cơ sở, xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát đồng bộ từ

Trung ương tới địa phương nhằm xử lý kịp thời những sai phạm xảy ra. Tăng cường

các hình thức kiểm tra, giám sát trong thực hiện dân chủ ở cấp xã, đặc biệt là các tổ

chức độc lập với chính quyền cơ sở nhằm làm cho những ảnh hưởng tiêu cực của

tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở từ phía cả cán bộ cơ sở lẫn người

dân đều bị phát hiện, xử lý, không thể tồn tại.

Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cần quy định cụ thể trách

nhiệm cá nhân của các cán bộ lãnh đạo chủ chốt, ít nhất là các chức danh Bí thư

Đảng uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã trong tổ

chức thực hiện pháp luật dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Pháp lệnh cần đưa việc tổ

chức thực hiện pháp lệnh này là một trong những chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ

này và có đánh giá thường xuyên, gắn với các khâu của công tác cán bộ ở cơ sở.

Những nơi không thực hiện hoặc thực hiện mang tính hình thức, đối phó, không

hiệu quả, để xảy ra các vụ sai phạm… thì những chức danh trên phải chịu trách

nhiệm cá nhân trước nhân dân địa phương, trước pháp luật. Việc quy định trách

nhiệm cá nhân sẽ nâng cao tính trách nhiệm của những người có chức năng tổ chức

thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở đảm bảo tính nghiêm túc trong thực hiện pháp

luật, từ đó ngăn chặn những hành vi méo mó, lệch lạc, chứa đựng những biểu hiện

tiêu cực của tâm lý tiểu nông.

Để hạn chế tình trạng cán bộ cơ sở thực hiện vấn đề công khai thông tin cho

nhân dân một cách hình thức, tìm cách bưng bít thông tin nhằm tư lợi cá nhân, bè

phái cục bộ, cần hoàn thiện các quy định pháp luật về nội dung, hình thức công khai

thông tin, đảm bảo quyền được biết của nhân dân, là cơ sở để người dân thực hiện

các quyền dân chủ khác, đặc biệt là quyền giám sát, ngăn chặn những ảnh hưởng

tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở đội ngũ cán bộ cơ sở. Về

137

hình thức công khai, cần đa dạng hoá các hình thức công khai để nhân dân được

biết một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất, ví dụ bổ sung hình thức tổ chức họp

thôn (nâng cao tính đối thoại giữa chính quyền và người dân), trang thông tin điện

tử, niêm yết tại các công trình công cộng (nhà văn hoá, sân hợp tác xã nơi gần gũi

với sinh hoạt của đại bộ phận người dân), gửi văn bản thông báo trực tiếp đến từng

hộ gia đình để nhân dân có thời gian đọc, nắm bắt kỹ hơn nội dung thông tin.

Không nên tiếp tục quy định theo hướng tất cả các hình thức công khai đều áp dụng

đối với nội dung cần công khai. Ví dụ như nội dung kết quả thu chi, quyết toán ngân

sách, quy hoạch sử dụng đất nên tập trung vào các hình thức niêm yết công khai,

trưởng thôn phát đến từng hộ dân, không nên áp dụng hình thức thông qua đài

truyền thanh (vì nội dung của những vấn đề này khá chi tiết, hay có hình vẽ, bảng

biểu nên khó thông báo qua hình thức nói). Đồng thời nên quy định về minh bạch

trong công khai (phạm vi của mỗi loại việc công khai đến đâu, bao gồm những vấn

đề gì, thời điểm công khai, thời gian công khai) để hạn chế tình trạng cán bộ cơ sở

thực hiện công khai một cách hình thức.

4.3.3. Pháp lệnh thực hiện quyền dân chủ ở xã, phường, thị trấn cần có

những quy định nhằm tăng quyền của người dân

Về nội dung thực hiện quyền nhân dân được biểu quyết, quyết định, có thể

và cần chuyển một số nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm

quyền quyết định thành nội dung nhân dân biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết

định đó là việc quản lý sử dụng quỹ đất của cấp xã, chủ trương phương án đền bù

hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, tái định cư, phương án quy

hoạch khu dân cư, kế hoạch sử dụng các khoản đóng góp của người dân… Những

nội dung này không mang tính chất kỹ thuật, chuyên môn cao và ảnh hưởng trực

tiếp đến quyền lợi cơ bản của người dân, có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh

tế, chính trị, xã hội của địa phương nên phải được nhân dân biểu quyết làm cơ sở

cho cấp có thẩm quyền quyết định. Hơn nữa, đây là những nội dung kinh tế chứa

đựng nhiều lợi ích, việc tăng quyền cho nhân dân được biểu quyết để cấp có thẩm

quyền quyết định sẽ hạn chế sự tuỳ tiện, không tuân thủ pháp luật của cán bộ cơ sở

nhằm tư lợi cá nhân hoặc nhóm lợi ích bè phái cục bộ.

138

Với các nội dung cần lấy ý kiến của nhân dân trước khi cấp có thẩm quyền

quyết định, cần có những quy định cơ chế đảm bảo việc lấy ý kiến có chất lượng,

ngăn cản việc cán bộ cơ sở tuỳ tiện quyết định theo lợi ích cá nhân hoặc nhóm lợi

ích cục bộ, địa phương. Ví dụ như để nâng cao chất lượng đóng góp ý kiến của nhân

dân như với nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền

quyết định (dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp xã), cần kèm theo văn

bản giải thích cụ thể, rõ ràng về nội dung của các dự thảo cần lấy ý kiến nhân dân.

Điều này giúp nhân dân đóng góp có hiệu quả hơn bởi những dự thảo nói trên

thường có tính chuyên môn, kỹ thuật cao, nếu không sẽ gây khó khăn cho người

dân. Bên cạnh đó, việc lấy ý kiến nên có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào những

nội dung quan trọng nhất của dự thảo. Hoặc với những dự án xây dựng trên địa bàn

xã, phường dù không sử dụng kinh phí do nhân dân đóng góp nhưng liên quan đến

lợi ích, đời sống của người dân cũng cần thông tin công khai, tổ chức thăm dò ý

kiến người dân về việc triển khai các dự án xây dựng công trình công cộng tại địa

bàn cấp xã. Đặc biệt, để tránh tình trạng cán bộ cơ sở vẫn lấy ý kiến nhân dân

nhưng không tiếp thu, vẫn áp đặt theo lợi ích cá nhân khi quyết định cần quy định

cụ thể về việc giải trình của chính quyền cấp xã trước nhân dân đối với những nội

dung đã lấy ý kiến, những ý kiến nào tiếp thu, những ý kiến nào chưa tiếp thu, tại

sao chưa tiếp thu.

Để hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, tư lợi cá nhân và

dòng họ của cán bộ cơ sở, pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cũng

cần tăng quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân cả hình thức trực tiếp và đại diện

cũng như các cơ chế đảm bảo quyền kiểm tra, giám sát được thực thi trên thực tế.

Pháp lệnh cần quy định rõ, cụ thể hơn trách nhiệm quyền hạn, cách thức hoạt động

của Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, ví dụ quy định rõ, cụ thể quy trình tiếp

nhận các phản ánh, kiến nghị của Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Gắn vai trò

và trách nhiệm của Ban Giám sát khi kết thúc công trình bằng cách quy định đại

diện Ban Giám sát phải là một bên ký xác nhận trong biên bản nghiệm thu công

trình. Đây là hình thức để thể hiện ý kiến của ban giám sát về chất lượng công trình,

mức độ hài lòng của người dân trong quá trình giám sát. Điều này sẽ hạn chế bớt

139

những hoạt động tham nhũng, tư lợi trong xây dựng công trình ở một số cán bộ cơ

sở. Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn là thiết chế giám sát của nhân dân,

có tính chất đại diện cho cộng đồng dân cư, các thành viên được lựa chọn từ cộng

đồng, do cộng đồng bầu ra và chỉ bị bãi nhiệm bởi hội nghị của cộng đồng nhân

dân. Vì vậy, cần hoàn thiện quy trình bầu ban thanh tra nhân dân theo hướng giảm

thiểu tối đa sự can thiệp của chính quyền vào quá trình lựa chọn người cũng như

bầu cử. Đồng thời, sẽ là không phù hợp nếu đặt thiết chế thanh tra nhân dân bên

cạnh thiết chế thanh tra chuyên ngành được điều chỉnh bởi luật Thanh tra. Luật

thanh tra cần sửa đổi theo hướng chỉ điều chỉnh tổ chức và hoạt động của các cơ

quan thanh tra chuyên ngành, không điều chỉnh tổ chức và hoạt động của Ban thanh

tra nhân dân. Thiết chế thanh tra nhân dân nên được quy định tập trung trong pháp

lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Đồng thời, để nâng cao hiệu quả hoạt

động của Ban thanh tra nhân dân, ban đầu tư giám sát của cộng đồng, pháp lệnh

cũng cần quy định rõ trách nhiệm của chính quyền cơ sở trong tổ chức đào tạo bồi

dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ giám sát, cung cấp tài liệu, thông tin đầy đủ cho các

ban này. Nhiệm kỳ của Ban thanh tra nhân dân hiện nay là 2 năm là quá ngắn làm

cho cơ cấu tổ chức thiếu ổn định, cơ quan có thẩm quyền không thể xây dựng được

kế hoạch, phương hướng bồi dưỡng nghiệp vụ cho các thành viên Ban thanh tra

nhân dân nhằm nâng cao chất lượng giám sát. Vì vậy, cần tăng nhiệm kỳ của Ban

thanh tra nhân dân lên 5 năm. Trong việc thực hiện quyền giám sát của nhân dân,

pháp lệnh cũng cần tăng thêm các hình thức dân chủ trực tiếp của nhân dân ở xã,

phường, thị trấn như nhân dân được tham gia bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch,

phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, Chủ tịch phó chủ tịch Hội đồng nhân dân xã.

Điều này sẽ giúp cho cán bộ chủ chốt cơ sở nâng cao trách nhiệm trong thực hiện

công vụ nói riêng, trong tổ chức thực hiện pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn.

4.4. HOÀN THIỆN CÔNG TÁC CÁN BỘ NHẰM ĐẢM BẢO ĐỘI NGŨ CÁN

BỘ, CÔNG CHỨC Ở CƠ SỞ CÓ ĐỦ NĂNG LỰC, PHẨM CHẤT

Cán bộ công chức cấp xã giữ vai trò kép trong thực hiện pháp luật dân chủ ở

xã, phường, thị trấn, vừa trực tiếp triển khai, thực hiện vận dụng các quy định của

140

pháp luật về dân chủ ở xã, vừa tổ chức phổ biến tuyên truyền, hướng dẫn các tầng

lớp nhân dân pháp huy các quyền dân chủ mà pháp luật trao cho họ thông qua việc

thảo luận, bàn bạc, đóng góp ý kiến. Các quyền dân chủ của người dân chỉ được

phát huy đầy đủ khi đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tôn trọng, lắng nghe ý kiến

của người dân, tận tuỵ phục vụ lợi ích của dân. Do đó, hiệu quả của việc triển khai

thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ

cán bộ, công chức ở cơ sở. Nếu như đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở có những

biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông thì việc thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã,

phường, thị trấn sẽ bị méo mó, biến dạng. Hơn nữa, khi cán bộ ở cơ sở có những

biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng sẽ tác

động trở lại đến nhân dân, làm cho nhân dân cũng có những biểu hiện tiêu cực của

tâm lý tiểu nông. Ví dụ cán bộ cơ sở có tâm lý họ hàng cục bộ, khi xây dựng các

quy hoạch sử dụng đất, phương án xây dựng các công trình công cộng… ưu tiên

cho người trong họ mình, làng mình, cán bộ ở làng nào thì làng đó được xây dựng

nhiều công trình công cộng, thì chắc chắn sẽ làm xuất hiện tâm lý họ hàng, cục bộ,

bè phái trong nhân dân, họ sẽ ưu ái hơn trong bầu, nhận xét, đánh giá đối với cán bộ

nào ở làng mình, họ mình vì khi người họ mình, làng mình làm cán bộ, trưởng thôn

thì họ sẽ được nhờ. Vì vậy, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông

trong thực hiện dân chủ ở cơ sở ở đội ngũ cán bộ công chức cấp xã có ý nghĩa quan

trọng, thậm chí quyết định đến việc hạn chế những tác động tiêu cực của tâm lý tiểu

nông trong thực hiện dân chủ ở các xã.

Công tác cán bộ là những công việc cụ thể, được tiến hành đồng bộ trên tất

cả các khâu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, gồm xây dựng tiêu chuẩn,

đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, đề bạt, bố trí, sử dụng, luân

chuyển, điều động, chính sách, quản lý, kiểm tra, khen thưởng, kỷ luật cán bộ. Công

tác cán bộ có ý nghĩa quan trọng quyết định đến việc ngăn chặn, hạn chế những

biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong đội ngũ cán bộ ở cơ sở. Khi bản thân

công tác cán bộ còn có những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông, những cán bộ

đứng đầu một tổ chức còn mang nặng tâm lý tiểu nông thì chắc chắn cán bộ của tổ

chức đó cũng sẽ mắc tâm lý tiểu nông. Những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu

nông không chỉ làm cho công tác cán bộ bị lệch lạc, những người có đủ năng lực,

141

tầm nhìn xa trông rộng, có đủ phẩm chất, đạo đức cách mạng, tránh được những

biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông, không được đánh giá đúng, giữ những vị trí

tương xứng mà còn làm cho những cán bộ nặng tâm lý tiểu nông lại tồn tại, phát

triển được, thậm chí giữ những vị trí quan trọng. Những người có tâm lý tư lợi cá

nhân, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham nhũng vẫn có thể tồn tại được. Để được

đánh giá tốt, để được giữ vị trí quan trọng, họ không cần trau dồi năng lực, phẩm

chất mà đầu tư cho các quan hệ, có vây cánh với những người có thế lực… Công tác

cán bộ còn chứa đựng những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông không chỉ

dung dưỡng mà nảy nở thêm nhiều những cán bộ có tâm lý tiểu nông. Bởi những

người cho dù chưa mắc biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông thì để tồn tại và phát

triển được họ phải có những biểu hiện này, phải gia nhập vào phe nhóm, dựa vào

các quan hệ họ hàng, hợp cạ… Vì vậy, ngăn chặn, hạn chế những biểu hiện tiêu cực

của tâm lý tiểu nông trong công tác cán bộ ở cơ sở là một giải pháp quan trọng để

hạn chế tâm lý tiểu nông ở đội ngũ cán bộ cơ sở. Đồng thời, bản thân từng khâu của

công tác cán bộ ở cơ sở hoàn thiện sẽ loại bỏ dần những biểu hiện tiêu cực của tâm

lý tiểu nông ở đội ngũ cán bộ cơ sở, như công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở

sẽ trực tiếp xây dựng những năng lực, phẩm chất mới để loại bỏ dần những biểu

hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông ở đội ngũ cán bộ cơ sở. Công tác đánh giá, chế độ

chính sách đối với cán bộ ở cơ sở cũng có thể hạn chế những lệch lạc, những ảnh

hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở xã phường, thị trấn ở

đội ngũ cán bộ cấp xã. Đồng thời, sự tự giác rèn luyện, đấu tranh chống những biểu

hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông ở đội ngũ cán bộ cũng có vai trò quan trọng,

quyết định. Do vậy, luận án tập trung vào các giải pháp lớn này.

4.4.1. Một số giải pháp để khắc phục những biểu hiện tiêu cực của tâm

lý tiểu nông trong công tác cán bộ ở cơ sở Một là, cụ thể hoá, hoàn thiện các quy định, quy trình trong công tác cán bộ

ở cơ sở.

Những thiếu sót, kẽ hở trong quy chế, quy trình của công tác cán bộ là điều

kiện thuận lợi để tâm lý tiểu nông được thể hiện như Đảng ta khẳng định “chậm đổi

mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối

142

với cán bộ… chưa góp phần đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực; chưa thể hiện rõ vai trò

của nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng cũng như trong công tác cán bộ” [56,

tr.22]. Vì vậy, phải thực hiện quy chế hoá trong công tác cán bộ, xây dựng ban hành

và thực thi các quy chế, quy định rõ ràng, cụ thể, chặt chẽ về từng khâu trong công

tác cán bộ. Hệ thống các yêu cầu, điều kiện của từng tiêu chuẩn cán bộ trong từng

khâu của công tác cán bộ phải cụ thể, không chỉ xác định về mặt định tính mà còn

phải xác định cả về mặt định hượng. Những yêu cầu, điều kiện, quy định càng được

lượng hoá cụ thể thì càng tạo cơ sở pháp lý cho công tác cán bộ, tránh sự vận dụng

theo ý chí chủ quan theo từng trường hợp, xuất hiện tâm lý tư lợi, bè phái, cục bộ.

Hai là, công khai, minh bạch, dân chủ hoá trong công tác cán bộ.

Dân chủ hoá trong công tác cán bộ đòi hỏi phát huy trí tuệ của cả tập thể, sự

tham gia của nhiều người vào các khâu của công tác cán bộ, tăng quyền của cấp

dưới, người dân trong công tác cán bộ. Sự tham gia của nhiều người, với nhiều góc

nhìn khác nhau, sẽ có cách nhìn toàn diện, bao quát trong công tác cán bộ, hạn chế

được tầm nhìn manh mún, hạn hẹp, thiển cận của tâm lý tiểu nông trong công tác

cán bộ. Đồng thời khi thực hiện dân chủ hoá trong công tác cán bộ sẽ tránh được sự

độc quyền, độc đoán của người đứng đầu, hạn chế được ý chí chủ quan, cảm tính và

những biểu hiện họ hàng, cục bộ, địa phương, tư lợi cá nhân, bình quân chủ nghĩa

trong công tác cán bộ.

Ba là, tăng cường chế độ trách nhiệm trong công tác cán bộ.

Việc thiếu quy định rõ ràng trách nhiệm của cá nhân, tập thể trong công tác

cán bộ dẫn tới khi có sai phạm trong công tác cán bộ thì đổ lỗi cho tập thể, không bị

xử lý một cách nghiêm minh, kịp thời. Điều này làm cho những sai phạm, biểu hiện

tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong công tác cán bộ chẳng những không bị ngăn

chặn mà tiếp tục lan rộng. Vì vậy, để cho người có trách nhiệm trong công tác cán

bộ sợ không dám mắc sai phạm, không dám thực hiện tâm lý tiểu nông trong công

tác cán bộ thì phải quy định rõ, cụ thể quyền và trách nhiệm của cá nhân, tập thể

trong công tác cán bộ. Cần quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu, của từng

cá nhân trong tập thể trong công tác cán bộ. Các cá nhân, tập thể đề nghị bổ nhiệm

cán bộ phải chịu trách nhiệm về đề nghị của mình. Trường hợp cán bộ lãnh đạo,

quản lý không đề xuất, bồi dưỡng được cán bộ dự nguồn để bổ nhiệm cũng như đề

143

xuất, bổ nhiệm không đúng gây hậu quả xấu đều phải chịu trách nhiệm. Cùng với

quy định rõ trách nhiệm trong công tác cán bộ cần các chế tài đối với từng sai phạm

trong công tác cán bộ. Chỉ có như vậy mới góp phần loại bỏ triệt để tâm lý tiểu

nông trong công tác cán bộ.

Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác cán bộ, xử lý

nghiêm các trường hợp vi phạm.

Để hạn chế những biểu hiện của tâm lý tiểu nông trong công tác cán bộ thì

những biểu hiện của nó phải sớm được ngăn chặn một cách kịp thời thông qua công

tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác cán bộ. Kiểm tra, giám sát công tác

cán bộ cần kết hợp cả giám sát bên trong (bản thân từng cấp uỷ kiểm điểm, giám sát

việc thực hiện công tác cán bộ của mình, sự giám sát của cấp uỷ cấp trên) cùng với

giám sát bên ngoài (sự kiểm tra, giám sát của cán bộ, nhân dân, báo chí, dư luận xã

hội đối với công tác cán bộ). Vì vậy, cần xây dựng chế độ tự kiểm điểm thường

xuyên, định kỳ của cấp uỷ, người đứng đầu tổ chức trong công tác cán bộ. Cấp uỷ

cấp trên cần chủ động trong công tác kiểm tra, giám sát về công tác cán bộ cùng với

việc tăng cường hình thức và cơ chế để nhân dân tố giác, tố cáo các sai phạm trong

công tác cán bộ, bảo vệ người tố cáo. Việc kiểm tra, giám sát phải gắn liền với khen

thưởng và kỷ luật, tránh làm hình thức, qua chuyện.

Năm là, đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao ý thức của người tham gia

vào công tác cán bộ theo hướng khắc phục tâm lý tiểu nông.

Người tham gia vào công tác cán bộ là đồng nghiệp, cán bộ, quần chúng cấp

dưới, tổ chức đảng nơi cán bộ sinh hoạt, thủ trưởng cấp trên. Do đó, nếu những chủ

thể này còn có tâm lý tiểu nông thì chắc chắn sẽ có những biểu hiện của tâm lý tiểu

nông trong công tác cán bộ. Vì vậy, cần nâng ý thức, trách nhiệm của họ đối với

Đảng và đất nước, trách nhiệm của họ trong công tác cán bộ, giúp họ hiểu rằng toàn

bộ công việc của công tác cán bộ đều phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị

và nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị, đó là việc chung của Đảng, của đất nước vì lợi

ích của Đảng, của nước. Khi họ thực sự nhận thức được điều này và có trách nhiệm

với công tác cán bộ thì sẽ dần hạn chế được biểu hiện của tâm lý tiểu nông trong

công tác cán bộ.

144

4.4.2. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi

mặt của cán bộ cơ sở

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở có thể trực tiếp xây dựng những

phẩm chất, tâm lý mới từ đó loại bỏ dần tâm lý tiểu nông ở đội ngũ này. Cả nội

dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đều góp phần vào việc hạn chế

những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông ở đội ngũ này cụ thể như sau:

Trình độ văn hoá, trình độ lý luận và chuyên môn quyết định trực tiếp tới

phương pháp tư duy, lối suy nghĩ nên khi công tác đào tạo được quan tâm, trình độ

các mặt của cán bộ cơ sở được nâng cao thì phương pháp tư duy khoa học sẽ dần

được hình thành, đồng thời lối tư duy kinh nghiệm, manh mún, tản mạm, tầm nhìn

thiển cận sẽ được xoá bỏ.

Nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ cơ sở cũng trực tiếp góp phần hạn

chế tâm lý tiểu nông. Đạo đức cách mạng chống lại chủ nghĩa cá nhân, loại bỏ dần

nét tâm lý cá nhân thu vén, tư lợi. Nguyên tắc cơ bản của đạo đức cách mạng là chủ

nghĩa tập thể, mình vì mọi người. Khi cán bộ cơ sở có đạo đức cách mạng, họ sẽ

làm việc, phấn đấu vì lý tưởng cao đẹp, vì nước, vì dân, từ đó sẽ không còn tâm lý

vun vén cá nhân, chỉ chăm chăm lo cho lợi ích của bản thân. Đạo đức cách mạng

còn góp phần hạn chế thói cục bộ địa phương, dòng họ, sẵn sàng vì lợi ích của địa

phương mình, dòng họ mình và quên đi lợi ích chung của cộng đồng. Vì đạo đức

cách mạng đặt lợi ích chung của toàn thể lên lên trên lợi ích của bộ phận. Vì vậy,

trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ cơ sở, cần chú ý đến các nội dung

về đào tạo, bồi dưỡng đạo đức cách mạng, đạo đức công vụ, đạo đức của người cán

bộ lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ cơ sở.

Việc cán bộ cơ sở còn có tâm lý coi thường pháp luật, trọng lệ hơn luật trong

hoạt động công vụ nói chung, trong thực hiện dân chủ ở cơ sở nói riêng một phần là

vì họ thiếu hiểu biết về pháp luật, không thấy được trách nhiệm, lợi ích của việc

tuân thủ pháp luật. Nhất là hiện nay khi nhiều cán bộ cơ sở ngành nghề đào tạo

không liên quan gì đến luật, hành chính. Đối với đội ngũ cán bộ cơ sở, do bận công

tác nên hình thức phù hợp nhất là bồi dưỡng, cập nhật kiến thức pháp luật mới, cụ

thể, thiết thực liên quan đến hoạt động chuyên môn của họ trong đó có pháp lệnh

dân chủ cho đội ngũ này. Khi cán bộ ở cơ sở hiểu biết sâu sắc về các quy định pháp

145

luật, đặc biệt là pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, những quyền

cơ bản của người dân, đặc biệt là vai trò, trách nhiệm của cán bộ cơ sở trong việc

thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở thì sẽ tránh được tình trạng cán bộ không thực

hiện đầy đủ các quy định của pháp luật. Cùng với việc đẩy mạnh giáo dục pháp luật

cho cán bộ, việc có chế tài xử lý đối với việc cán bộ không thực hiện đầy đủ quy

định của pháp luật hoặc ngăn cản quyền dân chủ của người dân sẽ hình thành ở đội

ngũ cán bộ cơ sở lối sống theo pháp luật, tránh tâm lý coi thường pháp luật. Vì vậy,

trong các lớp bồi dưỡng cho cán bộ cơ sở ở các trung tâm bồi dưỡng chính trị các

huyện và các trường chính trị tỉnh cần thiết đưa nội dung pháp lệnh dân chủ ở xã,

phường, thị trấn vào chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước và bắt

buộc viết tiểu luận để vận dụng các kiến thức, kỹ năng cần thiết vào xử lý những

tình huống cụ thể trong việc thực hiện dân chủ ở địa phương.

Do ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông nên cán bộ có tâm lý ỷ lại, thụ động

trong quá trình học tập, ngại đào sâu, suy nghĩ tiếp thu các vấn đề một cách cứng

nhắc, giáo điều nên trong giảng dạy, phải áp dụng các phương pháp hướng vào rèn

luyện tư duy độc lập sáng tạo, phát huy trí tuệ, sự chủ động, năng động của người

học như nêu vấn đề, thảo luận nhóm, tăng cường đối thoại, giao tiếp, hạn chế đọc

chép một chiều để hạn chế dần tâm lý thụ động, dựa vào số đông, không dám bộc lộ

chính kiến của cán bộ cơ sở.

4.4.3. Đẩy mạnh công tác đánh giá, kiểm tra và thực hiện chế độ chính

sách đối với cán bộ ở cơ sở

Cán bộ cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức triển khai thực hiện

pháp luật về dân chủ ở cơ sở, do đó, cần đưa việc thực hiện triển khai pháp lệnh dân

chủ ở xã, phường, thị trấn trở thành tiêu chí quan trọng để đánh giá cán bộ hàng

năm. Cần coi hiệu quả thực hiện dân chủ ở xã, phường là tiêu chuẩn quan trọng để

xem xét chi bộ, đảng bộ trong sạch, vững mạnh, đảng viên, cán bộ có đủ tư cách

hay hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đồng thời, kết quả việc thực hiện dân chủ ở

cơ sở của đội ngũ cán bộ cấp xã cũng phải là một tiêu chí quan trọng trong việc xem

xét bổ nhiệm hay miễn nhiệm cán bộ. Cán bộ cơ sở khi đánh giá kiểm điểm cuối

năm hoặc khi đánh giá tổng kết bất kỳ hoạt động nào triển khai tại cơ sở đều phải có

146

phần kiểm điểm, đánh giá việc quán triệt quy chế dân chủ vào trong quá trình chỉ đạo,

triển khai các công việc này theo chức trách, nhiệm vụ của mình. Có những tiêu chí,

định lượng cụ thể trong kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện pháp lệnh, tránh hình

thức, thiếu thực chất. Để nâng cao tính khách quan trong đánh giá việc thực hiện chức

trách, nhiệm vụ của cán bộ cơ sở trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, có thể

có những hình thức phù hợp lấy ý kiến của nhân dân về vấn đề này, đồng thời cấp

trên định kỳ và đột xuất thường xuyên kiểm tra việc thực hiện dân chủ ở cơ sở của

đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở. Điều này sẽ góp phần ngăn chặn kịp thời những ảnh

hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở ở đội ngũ cán bộ

cấp xã. Đồng thời, để khuyến khích cán bộ cơ sở thực hiện nghiêm túc pháp lệnh về

thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và răn đe đối với các trường hợp vi phạm,

việc kiểm tra đánh giá cán bộ cơ sở trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở cần

gắn liền với các chế tài khen thưởng, kỷ luật. Để việc khen thường, kỷ luật tạo ra

động lực tích cực hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực

hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn ở đội ngũ cán bộ cơ sở thì phải kịp thời, công

bằng, nghiêm minh, đúng đối tượng, đúng sự việc.

Quan tâm thực hiện tốt chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ cơ sở cũng

sẽ góp phần hạn chế những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông ở đội ngũ này.

Khi đời sống kinh tế chậm phát triển, lợi ích kinh tế, đời sống vật chất không được

đảm bảo thì cán bộ chính quyền xã, trưởng thôn dễ nảy sinh tâm lý tiểu nông, tư lợi,

vun vén cá nhân tư hữu nhỏ từ đó dẫn tới quan liêu độc đoán chuyên quyền, thực

hiện các hành vi tiêu cực tham nhũng, sách nhiễu. Đời sống khó khăn khó tránh

khỏi cán bộ cơ sở chối bỏ các nguyên tắc, quy định của pháp luật, nhắm mắt làm

càn, củng cố tâm lý coi thường pháp luật, trọng tình hơn lý. Tuy nhiên, thực tiễn

cho thấy, chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ cơ sở thường thấp hơn so với

cán bộ ở cấp cao hơn. Vì vậy, cần khắc phục tư duy coi nhẹ cán bộ cơ sở cả về năng

lực và chế độ chính sách. Do đó, cần hướng mạnh về cơ sở, quan tâm nâng cao trình

độ cũng như đời sống của cán bộ cơ sở, đây là cách thiết thực nhất để hạn chế

những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông ở đội ngũ này.

147

4.4.4. Phát huy tính tích cực, tự giác của đội ngũ cán bộ cơ sở trong việc tự đấu tranh, khắc phục những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông

Đấu tranh chống những tư tưởng, đạo đức cũ, lạc hậu, xây dựng tư tưởng, đạo đức mới, cách mạng là một quá trình thống nhất, gắn liền với nhau đòi hỏi một giải pháp đồng bộ, toàn diện. Các giải pháp về công tác cán bộ, giáo dục, đào tạo, tổ chức, rèn luyện bằng kỷ luật, kiểm tra, đánh giá là rất quan trọng nhưng chỉ phát huy hết tác dụng khi phát huy được nhân tố chủ quan, sự tự giác tu dưỡng, rèn luyện của chính bản thân mỗi cán bộ cơ sở trong việc đấu tranh ngăn chặn, hạn chế những tâm lý, thói quen lạc hậu trong đó có tâm lý tiểu nông. Việc cho rằng chỉ bằng công tác giáo dục, tuyên truyền từ bên ngoài từ tổ chức Đảng, đoàn thể là có thể xoá bỏ được ngay tâm lý, tư tưởng cũ trong mỗi con người sẽ là ảo tưởng, chủ quan “Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con người cũ để trở thành con người mới không phải là một việc dễ dàng, không phải trong một lớp nghiên cứu vài tháng mà hoàn toàn thắng lợi” [118, tr.149]. Công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ bên ngoài cần kết hợp với sự tự giác đấu tranh trong bản thân mỗi con người, mỗi cán bộ. Hồ Chí Minh cũng đã từng căn dặn điều này “Muốn gột rửa sạch những vết tích xấu xa của xã hội cũ, muốn rèn luyện đạo đức cách mạng, thì chúng ta phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Nếu không cố gắng để tiến bộ tức là thoái bộ, là lạc hậu” [115, tr.284]. Do đó, việc phát huy tính tự giác, tích cực trong tự tu dưỡng, tự cải tạo của từng cán bộ cơ sở để xoá bỏ, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông là giải pháp không thể thiếu, tạo ta nội lực mạnh mẽ để ngăn ngừa những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong hoạt động công vụ, trong đó có thực hiện dân chủ ở cơ sở. Đảng ta cũng khẳng định nguyên nhân dẫn tới những yếu kém, khuyết điểm của cán bộ ta trong đó có những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó “nguyên nhân chủ quan là chính”. Để phát huy tính tự giác đấu tranh, rèn luyện ở mỗi cán bộ cơ sở trong ngăn ngừa, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông thì trước hết cần phải làm cho cán bộ cơ sở hiểu rõ phải, trái, thấy được sự cần thiết phải xây dựng tư tưởng, lập trường cách mạng khoa học, có đạo đức cách mạng, sự cần thiết phải xoá bỏ những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông để tạo ra động lực bên trong mạnh mẽ. Do đó, công tác giáo dục đào tạo cán bộ cơ sở, đặc biệt về mặt tư tưởng, đạo đức, lập trường tư tưởng sẽ tạo nền tảng, tiền để cho việc phát huy tính tích cực, tự giác của cán bộ

148

trong tự đấu tranh, rèn luyện. Tâm lý, tư tưởng cũ trong đó có tâm lý tiểu nông giống như cỏ dại, chỉ chờ có cơ hội là phát triển vì vậy đòi hỏi cán bộ cơ sở phải có ý chí, quyết tâm cao, bền bỉ, kiên trì. Đó là một cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt trong mỗi con người. Phát huy tính tích cực, tự giác của cán bộ cơ sở trong đấu tranh ngăn ngừa, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông còn đòi hỏi phải nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình trong từng cán bộ “Chỉ có không ngừng đấu tranh, phê bình và tự phê bình, nhận rõ đúng sai, phát huy cái đúng, khắc phục cái sai mới có thể làm cho mình, cho Đảng, cho cách mạng tiến bộ mãi” [114, tr.584]. Cán bộ cơ sở phải có tinh thần phê bình và tự phê bình cao, thường xuyên tự soi mình, tự sửa, tự đánh giá đúng những ưu điểm, khuyết điểm của bản thân, những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong công việc, hoạt động hàng ngày của mình giống như rửa mặt với quyết tâm cao độ trong sửa chữa. Đồng thời, những đồng nghiệp cùng làm việc với nhau cũng cần nêu cao tinh thần phê bình, giúp đồng nghiệp của mình nhận ra những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong hoạt động công tác, trong thực hiện dân chủ ở cơ sở để sửa chữa, ngăn chặn. Cùng với nhiều giải pháp đồng bộ trong công tác cán bộ, cán bộ cơ sở cần nêu cao tính tiền phong, gương mẫu, tự vượt qua những cám dỗ, vượt qua và chiến thắng chính mình, đấu tranh nội tâm sâu sắc để chủ động xoá bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông mới có thể tiến tới thắng lợi trọn vẹn.

Tiểu kết chương 4

Hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân

chủ ở cơ sở là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải sử dụng tổng hợp các biện pháp cả

về kinh tế lẫn giáo dục, cơ chế, chính sách. Ở đây, tác giả đề xuất 4 giải pháp chính.

Giải pháp thứ nhất là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông

thôn, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - cơ sở vật chất xoá

bỏ tâm lý tiểu nông. Trong giải pháp này, tác giả đã phân tích công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp, nông thôn và phát triển kinh tế thị trường sẽ giúp xóa bỏ

những biểu hiện tiêu cực nào của tâm lý tiểu nông. Đồng thời, tác giả có đưa ra 1 số

định hướng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn,

phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giải pháp thứ hai là nâng

cao hiệu quả công tác giáo dục, tuyên truyền, nâng cao trình độ, nhận thức, văn hóa

149

của nhân dân từ đó dần hạn chế những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong

nhân dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Công tác giáo dục, tuyên truyền trong

nhân dân rất rộng bao gồm nhiều nội dung, hình thức khác nhau, trong đó tác giả

tập trung vào các giải pháp ngăn chặn phương thức tác động của tâm lý tiểu nông

đến thực hiện dân chủ ở cơ sở là đổi mới nội dung, hình thức giáo dục gia đình và

kế thừa những giá trị tốt đẹp, hạn chế những biểu hiện tiêu cực, lạc hậu trong phong

tục, tập quán, hương ước, quy ước. Giải pháp thứ ba là hoàn thiện hệ thống pháp

luật, cơ chế về thực hiện dân chủ ở cơ sở, đảm bảo dân chủ ở cơ sở thực thi trên

thực tế là cơ sở để hạn chế những biểu hiện của tâm lý tiểu nông trong thực hiện

dân chủ ở cơ sở. Giải pháp thứ tư là hoàn thiện công tác cán bộ ở cơ sở nhằm đảm

bảo đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất, hạn chế

dần những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông tới thực hiện dân chủ ở cơ sở

của đội ngũ này. Khắc phục những biểu hiện của tâm lý tiểu nông trong công tác

cán bộ ở cơ sở góp phần xóa bỏ tâm lý tiểu nông trong đội ngũ này. Đồng thời,

công tác đào tạo bồi dưỡng, đánh giá, kiểm tra và chế độ chính sách đối với cán bộ

cơ sở cũng trực tiếp hạn chế những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông ở đội

ngũ này. Trong nhóm giải pháp thứ tư, tác giả còn cho rằng cần phải quan tâm nâng

cao ý thức tự giác, tích cực trong hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu

nông ở chính bản thân từng cán bộ cơ sở.

150

KẾT LUẬN

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những động lực quan trọng để phát

triển đất nước. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định hệ động lực tổng hợp để

đổi mới và phát triển ở nước ta, trong đó có dân chủ đó là “Kết hợp hài hoà các lợi

ích, phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn

kết toàn dân tộc, phát huy nhân tố con người, vai trò của khoa học - công nghệ” [53,

tr.76]. Để dân chủ phát huy được vai trò động lực thì dân chủ cần được thực hiện

một cách đầy đủ và nghiêm túc trên thực tế.

Tuy nhiên, quyền làm chủ của người dân có được thực thi trên thực tế hay

không phụ thuộc vào nhiều nhân tố cả bên trong và bên ngoài. Những nhân tố bên

trong của các chủ thể thực hiện dân chủ cũng rất nhiều như ý thức, năng lực làm chủ

của người dân và năng lực tổ chức thực hiện dân chủ, thái độ, trách nhiệm phục vụ

nhân dân, tôn trọng quyền và lợi ích của nhân dân ở đội ngũ cán bộ, công chức nhà

nước... Tuy nhiên, do lịch sử để lại, những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông ở

cả nhân dân và đội ngũ cán bộ còn khá sâu sắc, dai dẳng đang là lực cản trên con

đường phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay.

Trong thực hiện dân chủ thì thực hiện dân chủ ở cơ sở là khâu quan trọng và

cấp bách nhất. Đồng thời, cán bộ và nhân dân ở cơ sở, ở các xã là những đối tượng

còn mắc nhiều biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông nặng nề nhất. Vì vậy, hạn chế

những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở

nước ta hiện nay đang là vấn đề cần thiết và cấp bách trong quá trình xóa bỏ những

tàn dư, rào cản của quá khứ đối với thực hiện dân chủ. Chỉ khi nào ngăn chặn và

hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực này thì việc thực hiện dân chủ ở cơ sở mới

thực sự theo đúng pháp luật, ngày càng thực chất và có ý nghĩa trong phục vụ nhân

dân, phát triển cộng đồng.

Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề này, luận án đã phân tích khái niệm,

bản chất, những biểu hiện tiêu cực cụ thể của tâm lý tiểu nông, các cơ sở hình thành

tâm lý tiểu nông ở nước ta cũng như sự cần thiết và các nội dung về thực hiện dân

chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, luận án đi vào làm rõ những phương

thức tác động của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện

151

nay, sự cần thiết phải hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến

thực hiện dân chủ ở cơ sở. Đây là những vấn đề lý luận quan trọng làm cơ sở cho

quá trình đánh giá thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện

dân chủ ở cơ sở. Tâm lý tiểu nông trong đội ngũ cán bộ cơ sở và nhân dân đã ảnh

hưởng đến dân chủ ở cơ sở thông qua việc thực hiện dân chủ ở những chủ thể này.

Từ đó, luận án đi vào đánh giá, tìm hiểu ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông

trên 4 nhóm quyền cơ bản của người dân là quyền được biết, quyền tham gia ý kiến,

quyền biểu quyết, quyết định và quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân. Trên cơ sở

phân tích thực trạng, luận án cũng chỉ ra nguyên nhân dẫn tới những ảnh hưởng tiêu

cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam thời gian qua.

Những nguyên nhân này cũng là cơ sở để luận án đề xuất các giải pháp hạn chế ảnh

hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở. Việc hạn chế

những ảnh hưởng tiêu cực này là một quá trình khó khăn, lâu dài, đòi hỏi phải có

những giải pháp đồng bộ, toàn diện, kiên trì, bền bỉ. Tác giả luận án đề xuất 4 nhóm

giải pháp cơ bản là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông

thôn, phát triển kinh tế thị trường để xoá bỏ cơ sở vật chất của tâm lý tiểu nông; đổi

mới công tác giáo dục tuyên truyền nâng cao trình độ văn hoá, nhận thức, ý thức

của nhân dân, hạn chế tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở nhân dân; hoàn

thiện hệ thống pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở nhằm hạn chế những ảnh

hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ; hoàn thiện công tác

cán bộ ở cơ sở để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong

thực hiện dân chủ ở đội ngũ cán bộ cơ sở. Tác giả hy vọng và tin tưởng rằng, những

giải pháp này khi được quán triệt và thực hiện nghiêm túc sẽ xoá bỏ những lực cản

trong thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay, nâng cao ý thức, năng lực làm chủ của

người dân, trách nhiệm của cán bộ cơ sở trong đảm bảo quyền dân chủ của người

dân, từ đó làm cho dân chủ được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, phát huy vai trò

động lực của mình.

152

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ĐÃ CÔNG BỐ

1. Hà Thị Thùy Dương (2012), Báo chí với việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam

hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, số tháng 5, tr. 35-38.

2. Hà Thị Thùy Dương (2013), Quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân

theo Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số

tháng 10 (295), tr. 2-8.

3. Hà Thị Thùy Dương (2018), “Ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong

công tác cán bộ của Đảng ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số tháng 1,

tr.100-104.

4. Hà Thị Thùy Dương (2018), “Hồ Chí Minh nói về những biểu hiện tiêu cực của

tâm lý tiểu nông trong công tác cán bộ”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số tháng 2

(151), tr.16-20.

5. Hà Thị Thùy Dương, Đinh Văn Thụy (2018), “Phát huy vai trò của Pháp lệnh

thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong xây dựng nông thôn mới”, Tạp

chí Lý luận chính trị, số 7, tr.68-73.

6. Hà Thị Thùy Dương (2018), Ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến quá trình

xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay, Tạp chí lý luận chính trị, số tháng 12, tr.

71-77.

7. Hà Thị Thùy Dương, Trần Sỹ Dương (2018), Hoàn thiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ

ở xã, phường, thị trấn nhằm khắc phục những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông ở

nước ta hiện nay, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 283 + 284, tr.50.

8. Hà Thị Thùy Dương, Nguyễn Tiến Thư (2019), Mối quan hệ giữa tâm lý tiểu nông và

kinh tế thị trường ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số tháng 1, tr.30-34.

153

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trương Nông An (2008), “Tự trị thôn dân - con đường tất yếu của xây dựng dân

chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc”, Tạp chí Hà Bắc, (1).

2. Phạm Tuấn Anh (2011), “Củng cố và mở rộng dân chủ ở cơ sở, nhân tố quan

trọng trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Tạp

chí Tổ chức Nhà nước, (8).

3. Toan Ánh (1991), Phong tục Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Toan Ánh (1993), Nếp cũ làng xóm Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,

Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Ban Chỉ đạo biên soạn sách giáo khoa Mác - Lênin (1999), Giáo trình triết học

Mác Lê nin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Ban Dân vận Trung ương (1998), Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và vấn

đề xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Lương Gia Ban (2004), Dân chủ và việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Thái Bình (1970), Thái Bình năm lần đón

Bác, Thái Bình.

9. Hoàng Chí Bảo (2010), Dân chủ và dân chủ ở nông thôn trong tiến trình đổi mới,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Hoàng Chí Bảo (Chủ biên) (2005), Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước

ta hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

11. Cao Văn Bên (1990), Cơ sở kinh tế cộng đồng của làng xã Bắc Kỳ trước cách

mạng tháng 8 -1945, Nông thôn và nông dân Việt Nam thời cận đại tập 1, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

12. Trần Thanh Bình (2003), “Phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam vận

động nhân dân thực hiện và giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”,

Tạp chí Tổ chức nhà nước, (9).

13. Nguyễn Khắc Bộ (2003), “Hội đồng nhân dân với việc thực hiện quy chế dân

chủ ở cơ sở”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (6).

154

14. Bộ Tư pháp (2012), Báo cáo một số vấn đề chung về chuẩn mực tiếp cận pháp

luật của người dân tại cơ sở, Hà Nội.

15. C Mác, Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. C Mác, Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. C Mác, Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. C Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. C Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. C Mác, Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. C Mác, Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. C Mác, Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Đặng Văn Cao (1999), “Hưng Yên - Kinh nghiệm bước đầu trong thực hiện

quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (19).

24. Nguyễn Xuân Cầu (2001), “Thực hiện quy chế dân chủ để củng cố, xây dựng

chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (9).

25. CECODES, VFF -CRT, RTA& UNDP (2018), Chỉ số hiệu quả Quản trị và

Hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI), 2017: Đo lường từ kinh nghiệm

thực tiễn của người dân, Hà Nội, Việt Nam

26. Nguyễn Hồng Chuyên (2011), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã trong điều

kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

27. Nguyễn Hồng Chuyên (2013), Đổi mới cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân

kiểm tra trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã, Tạp chí Dân chủ và

Pháp luật, số 3.

28. Nguyễn Hồng Chuyên (2013), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ

xây dựng nông thôn mới, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

29. Nguyễn Cúc, Lê Thị Phương Thảo, Doãn Hùng (2002), Thực hiện quy chế dân

chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Lê Tự Cường (2004),“Đà Nẵng phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở,

Tạp chí Cộng sản, (2).

31. Dương Ái Dân (2007), Nghiên cứu xây dựng dân chủ chính trị ở cơ sở, Nxb Đại

học Hà Bắc.

155

32. Phan Đại Doãn (1996), Mấy vấn đề suy nghĩ về hương ước trong văn hoá quản

lý nông thôn, thông tin khoa học pháp luật, Bộ Tư pháp, Hà Nội.

33. Phan Đại Doãn (1998), “Về truyền thống tự quản làng xã trong lịch sử Việt

Nam”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (5).

34. Phan Đại Doãn (2004), Mấy vấn đề về văn hóa làng xã Việt Nam trong lịch sử,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Phan Đại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên) (1994), Kinh nghiệm tổ chức

quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Nguyễn Quang Du (1994), Ý thức nông dân trong cán bộ đảng viên miền Bắc

Việt Nam - những đặc trưng chủ yếu, Luận án Phó Tiến sĩ Triết học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

37. Đỗ Tiến Dũng (1998), “Để quy chế thực hiện dân chủ ở xã đi vào cuộc sống”,

Tạp chí Tổ chức nhà nước, (5).

38. Đỗ Tiễn Dũng (2000), “Quy chế thực hiện dân chủ ở xã với công tác xây dựng

chính quyền cơ sở”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (11).

39. Trần Sỹ Dương (2011), Ảnh hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ ở đội ngũ cán bộ

chủ chốt cấp cơ sở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

40. Huỳnh Đảm (2008), “Nhìn lại 10 năm thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường,

thị trấn”, Tạp chí Cộng sản, (số tháng 7).

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (1973), Nghị quyết 225 - NQ/TW của Bộ Chính trị về

công tác cán bộ trong giai đoạn mới, Nxb Sự Thật, Hà Nội.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại đội Đảng toàn quốc lần thứ V,

tập 3, Nxb Sự Thật, Hà Nội.

43. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị Ban chấp hành Trung ương

Đảng lần thứ 2 khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện hội nghị Ban chấp hành Trung ương

Đảng lần thứ 5 khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện hội nghị Ban chấp hành Trung ương

Đảng lần thứ 5 khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

156

47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết Hội nghị trung ương 7 khoá X,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị Trung ương 4 Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khoá XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Văn kiện Hội nghị Trung ương 4 Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khoá XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

54. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Văn kiện Hội nghị Trung ương 5 Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khoá XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

55. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Văn kiện Hội nghị Trung ương 7 Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khoá XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

56. Trần Bạch Đằng (2003), “Dân chủ ở cơ sở - một sức mạnh truyền thống của dân

tộc Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, (35).

57. Đỗ Xuân Đông, Nguyễn Xuân Bình (1998), “Một số vấn đề pháp lý trong quá

trình xây dựng quy chế thực hiện dân chủ cơ sở”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (2).

58. Phạm Văn Đồng (1995), Văn hóa và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Vương Đổng (2008), “Xây dựng dân chủ cơ sở trong 30 năm cải cách mở cửa”,

Tạp chí Thế giới đương đại và Chủ nghĩa xã hội, (5).

60. Nguyễn Thị Vân Giang (2016), “Vấn đề thực hiện dân chủ ở cấp xã, phường,

thị trấn phục vụ chương trình xây dựng nông thôn mới”, Tạp chí Giáo dục lý

luận chính trị, (239).

61. Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ 19 đến

cách mạng tháng Tám, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

157

62. Phạm Minh Hạc (1989), Hành vi và hoạt động, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

63. Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (2004), Tâm lý người Việt Nam đi vào công nghiệp

hóa, hiện đại hóa những điều cần khắc phục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Bùi Tuấn Hải (2001), “Kết quả bước đầu thực hiện quy chế dân chủ cơ sở với

công tác xây dựng chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh”, Tạp chí Tổ chức

nhà nước, (10).

65. Lê Kim Hải (Chủ biên) (2006), Những vấn đề đặt ra qua quá trình triển khai

Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

66. Lý Hồng Hải (2006), “Hạn chế sự ảnh hưởng của văn hóa chính trị truyền thống,

thúc đẩy xây dựng dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Khoa học xã hội, (2).

67. Tiến Hải (2000), “Đôi điều về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của Hà Nội”,

Tạp chí Cộng sản, (10).

68. Trịnh Thị Hạnh (2016), “Phát huy vai trò của ván bộ, công chức cấp xã trong

thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (2).

69. Nguyễn Văn Hiển (Chủ biên) (2014), Về thi hành pháp lệnh thực hiện dân chủ ở

xã, phường, thị trấn năm 2007, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

70. Nguyễn Văn Hiển, Trương Hồng Quang (2015), “Một số vấn đề đặt ra trong

thực tiễn thi hành pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm

2007”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (1).

71. Trương Thị Hiền (2015), “Pháp luật và Hương ước trong quản lý xã hội nông thôn:

đánh giá từ phía người dân”, Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, (6).

72. Vũ Văn Hiền (Chủ biên) (2004), Phát huy dân chủ ở xã, phường, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

73. Lê Hiếu (2017), Nhiều người thân của Bí thư xã giữ vị trí chủ chốt... vì thiếu cán

bộ, tại trang https://vov.vn/nhan-su/ [truy cập 15/11/2017].

74. Nguyễn Minh Hoài (1993), “Những vấn đề nổi cộm của xã hội nông thôn trong

đổi mới”, Tạp chí Thông tin kinh tế kế hoạch, (3).

75. Hobbes (1968), leviathan, Harmondsworth, Penguin.

76. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2001), Cộng đồng làng xã Việt Nam

hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

158

77. Đàm Thị Hồng (2017), “Ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với quá trình xây

dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay”, Tạp chí sinh hoạt lý luận, (8).

78. Lê Thị Thu Hồng (2004), “Tính cộng đồng trong tâm lý nông dân Việt”, Tạp

chí dân tộc và thời đại, (70).

79. Thái Đài Hồng (2010), “Một số suy nghĩ về thúc đẩy xây dựng dân chủ cơ sở ở

nông thôn”, Tạp chí Nghiên cứu Trường Đại học Trường Xuân, (1).

80. Lê Quốc Hùng (2001), “Kế thừa và phát huy những mặt tích cực của hương ước

cổ trong việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng

sản, (12).

81. Quách Sĩ Hùng (2009), “Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân chủ cơ

sở ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (6).

82. Hoàng Thị Hoài Hương (2012), “Tăng cường trách nhiệm người đứng đầu cơ quan

hành chính các cấp trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Dân vận, (7).

83. Lê Thị Thanh Hương (2015), Một số yếu tố tâm lý của người nông dân ảnh

hưởng đến quá trình xây dựng nông thôn mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

84. Nguyễn Việt Hương (2004), “Dân chủ làng xã: Truyền thống và hiện tại”, Tạp

chí Nhà nước và pháp luật, (8).

85. Trần Đình Hượu (1996), Gia đình và giáo dục gia đình, Nghiên cứu xã hội học

về gia đình Việt Nam, quyển 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

86. Lê Học Huy (2010), “Tố chất văn hóa của nông dân và sự ảnh hưởng của nó đối

với việc xây dựng chính trị dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (2).

87. Lê Xuân Huy (2005), “Ảnh hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ với việc thực hiện

dân chủ ở nông thôn ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (7).

88. Lê Xuân Huy (2010), Ý thức pháp luật với việc thực hiện dân chủ ở nông thôn

Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

89. I.Gandhi, “Tư duy Ấn Độ”, Báo Văn nghệ, (4), tr.3.

90. Nguyễn Long Khánh (2001), “Thực hiện dân chủ ở cơ sở theo tư tưởng Hồ Chí

Minh”, Tạp chí Cộng sản, (16).

159

91. Vũ Ngọc Khánh (2004), “Thử bàn về tâm lý nông dân Việt”, Tạp chí Tâm lý

học, (7).

92. Hà Thị Khiết (2009), “Những bài học kinh nghiệm về xây dựng và thực hiện

quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (10).

93. Vũ Khiêu, Vai trò của văn hoá trong sự phát triển của nông thôn Việt Nam

ngày nay, Ủy ban thập kỷ quốc tế phát triển văn hoá của Việt Nam, Hà Nội.

94. Trần Ngọc Khuê, Lê Kim Việt (2004), Tâm lý xã hội trong quá trình thực hiện

quy chế dân chủ ở cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

95. Lê Thị Lan (2015), “Tư tưởng làng xã ở Việt Nam”, Tạp chí khoa học xã hội Việt

Nam, (3).

96. Nhật Lân, Phạm Bằng (2017), Qua mặt xã, trưởng thôn bán đất nông nghiệp,

tại trang https://baonghean.vn/ [truy cập 10/8/2017].

97. Quách Ngọc Lan (2003), “Phân tích nhân tố tâm lý và văn hóa cản trở việc tham

gia xây dựng dân chủ cơ sở của nông dân”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (5).

98. Vũ Lân (2011), “Một số vấn đề đặt ra qua việc kiểm tra thực hiện quy chế dân

chủ ở cơ sở”, Tạp chí Dân vận, (12).

99. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (Chủ biên) (1996), Các giá trị truyền thống và

con người Việt Nam hiện nay, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

100. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (Chủ biên) (1996), Các giá trị truyền thống và

con người Việt Nam hiện nay, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

101. Hồ Liên (2002), Đôi điều về cái thiêng và văn hoá, Nxb Văn hoá dân tộc –

Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

102. Nguyễn Hồi Loan (2005), “Một số đặc điểm tâm lý của người nông dân Việt Nam

ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình hội nhập kinh tế”, Tạp chí Tâm lý học, (7).

103. Đỗ Long (2000), Quan hệ cộng đồng và cá nhân trong tâm lý nông dân, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

104. Đỗ Long, Vũ Dũng (2002), Tâm lý nông dân trong thời kỳ đầu phát triển kinh

tế thị trường, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

105. Nguyễn Hải Long (2005), “Vai trò của thực hiện quy chế dân chủ đối với việc

củng cố, nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị cơ sở”, Tạp chí Dân vận, (5).

160

106. Lê Nguyễn Lưu (2011), Khoán định, Hương ước và nếp sống văn hoá làng xứ

Huế thế kỷ 17 - đầu thế kỷ 20, Nxb Thời đạ, Hà Nội.

107. M.M.Po (1986), Từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva..

108. Đỗ Thị Thanh Mai (2001), Tâm lý nông dân miền Bắc Việt Nam khi chuyển

sang kinh tế thị trường - đặc trưng và xu hướng biến đổi, Luận án Tiến sĩ, Học

viện Chính trị quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

109. Hoàng Mai (2014), “Hướng tới xây dựng mô hình chính quyền địa phương đô

thị ở Việt Nam”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, (6).

110. Nguyễn Văn Mạnh, Tào Thị Quyên (Đồng chủ biên) (2010), Dân chủ trực tiếp

ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

111. Vũ Duy Mền (2006), Tìm lại làng Việt xưa, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

112. Vũ Duy Mền (2010), Hương ước cổ làng xã đồng bằng Bắc Bộ, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

113. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

114. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

115. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

116. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

117. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

118. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

119. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

120. Lê Quang Minh (2003), “Để thực hiện dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (11).

121. Đỗ Mười (1998), “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở”, Tạp chí

Cộng sản, (20).

122. Quốc Nam (2018), Tỉnh cấp bò giống, xã chia người nhà cán bộ làm thịt, tại

trang https://tuoitre.vn/[truy cập 25/5/2018].

123. Phạm Quang Nghị (2000), “Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở Hà Nam”, Tạp

chí Cộng sản, (5).

124. Phạm Quang Nghị (2002), “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân xây dựng

hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh”, Tạp chí Cộng sản, (21).

125. Lê Hữu Nghĩa (2004), “Báo cáo đề dẫn hội thảo”, Tạp chí Cộng sản, (1).

161

126. Lê Hữu Nghĩa (2016), “Thực hành và phát huy dân chủ qua 30 năm đổi mới”,

Tạp chí Cộng sản, (2).

127. Dương Xuân Ngọc (Chủ biên) (2000), Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã

một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

128. Dương Xuân Ngọc, Lưu Văn An (2001), “Một số giải pháp nhằm thực hiện có

hiệu quả quy chế dân chủ ở xã”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (8).

129. Dương Xuân Ngọc, Lý Hồng Nhung (2015), “Để pháp lệnh thực hiện dân chủ

ở xã, phường thị trấn thực sự đi vào cuộc sống trong thời kỳ mới”, Tạp chí Lý

luận chính trị và truyền thông, (9).

130. Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp, Lê Hữu Tầng (Chủ biên) (1987), Từ điển Triết

học giản yếu, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

131. Nguyễn Quang Ngọc (2009), Một số vấn đề làng xã Việt Nam, NXb Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

132. Xuân Ngôn (1998), “Đào tạo nhân lực - một yêu cầu quan trọng trong việc

thực hiện quy chế dân chủ ở xã”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (9).

133. Ngọ Văn Nhân (2007), “Phát huy dân chủ ở cơ sở - điều kiện quan trọng để

hình thành và phát triển dư luận xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Phát triển nhân

lực, (2).

134. Ngọ Văn Nhân (2008), “Đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện

trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (5).

135. Trần Ngọc Nhẫn (2008), “Mặt trận tổ quốc Việt Nam với việc thực hiện Pháp

lệnh dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (10).

136. Trần Quang Nhiếp (1998), “Thực hiện dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (13).

137. Trần Quang Nhiếp (1999), “Để thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí

Cộng sản, (2).

138. Trần Quang Nhiếp (1999), “Thực hiện dân chủ ở xã, mấy vấn đề đặt ra”, Tạp

chí Cộng sản, (10).

139. Trần Quang Nhiếp (2000), “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở sau 2 năm

nhìn lại”, Tạp chí Cộng sản, (11).

140. Trần Quang Nhiếp (2004), “Dân chủ ở cơ sở với phát triển cộng đồng”, Tạp

chí Cộng sản, (4).

162

141. Nhiều tác giả (2012), Vài nét về văn hóa làng, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

142. P. Gourou (2003), Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ, Nxb Trẻ, Hà Nội.

143. Hữu Phan (1998), “Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, một công cụ quan trọng để

phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (5).

144. Hữu Phan (2002), “Quy chế thực hiện dân chủ ở xã và việc sửa đổi, hoàn thiện

quy chế”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (1+2).

145. Lưu Diệp Phong (2005), “Ý nghĩa của việc tăng cường xây dựng dân chủ cơ

sở ở nông thôn và một số khó khăn hiện thực”, Tạp chí Nghiên cứu Đại học

Giao thông Bắc Kinh, (4).

146. Tòng Thị Phóng (2004), “Khâu đột phá của quá trình phát huy dân chủ ở nước

ta thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Cộng sản, (21).

147. Thang Văn Phúc, Hà Quang Ngọc (1998), “Tự quản và vấn đề phát huy dân

chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (16).

148. Nguyễn Văn Phương (2012), “Nguyên tắc thực hiện dân chủ ở cơ sở - một số

vấn đề cần quan tâm”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (7+8).

149. Lê Minh Quân (2011), Về quá trình dân chủ hoá xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

150. Phạm Ngọc Quang (2004), “Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi

mới: Thành tựu, vấn đề và giải pháp”, Tạp chí Lý luận chính trị, (3).

151. Trần Đình Quang (2003), “Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở để quần

chúng tham gia xây dựng Đảng, chính quyền Nhà nước vững mạnh”, Tạp chí

Tổ chức nhà nước, (4).

152. Trương Hồng Quang (2013), “Thực trạng áp dụng quy định của Pháp lệnh

thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn về vấn đề công khai cho nhân dân

biết”, Tạp chí luật học, (12).

153. Nguyễn Huy Quý (2004), “Về dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (4).

154. Hồ Tấn Sáng (2005), “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của thành phố Đà

Nẵng- kết quả và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Cộng sản, (20).

155. Nguyễn Văn Sáu (2002), “Quan hệ giữa thực thi quy chế dân chủ ở cơ sở với

xây dựng chính quyền ở nông thôn”, Tạp chí Lý luận chính trị, (11).

163

156. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (2003), Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

157. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (2005), Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

158. Đỗ Siêu (2012), Xây dựng dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc hiện nay: hiện trạng, vấn đề và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Dân tộc Hồ Bắc.

159. Cao Thị Sính (2012), Ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

160. Diệp Văn Sơn (2000), “Một số kinh nghiệm bước đầu và vấn đề cần trao đổi khi kiểm tra việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (9).

161. Hoàng Đức Sơn (2009), “Phát huy quyền lực chính trị của dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5).

162. Phan Xuân Sơn (2002), Các đoàn thể nhân dân với việc đảm bảo dân chủ ở cơ sở hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

163. Ngô Thị Tám (2003), “Những điểm mới của quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (10).

164. Ngô Thị Tám (2007), “Kết quả của quá trình hiện thực hóa quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (8).

165. Đặng Đình Tân, Đặng Minh Tuấn (2002), “Tiếp tục thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Lý luận chính trị, (7).

166. Nhật Tân (2005), “Tính tất yếu đổi mới sự lãnh đạo của Đảng để thực hiện dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (24).

167. Nhật Tân (2006), “Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng để phát huy dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (5).

168. Trần Hữu Thắng (2005), “Thực hiện tốt quy chế dân chủ tạo điều kiện để nhân dân giám sát, đảm bảo chính quyền hoạt động có hiệu quả”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (8).

169. Nguyễn Kim Thanh (2009), “Một vài suy nghĩ về kết quả 10 năm xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn nông thôn nước ta”, Tạp chí Dân vận, (7).

164

170. Nguyễn Tiến Thành (2014), “Năng lực của cán bộ cấp xã, phường trong thực

hiện pháp lệnh dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí lý luận chính trị, (10).

171. Nguyễn Tiến Thành (2014), “Sự tham gia của người dân vào quá trình thực

hiện dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí giáo dục lý luận, (220).

172. Nguyễn Tiến Thành (2016), Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ

sở ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

173. Nguyễn Trung Thành (2014), “Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện quy chế dân

chủ ở cơ sở tại các địa phương”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (4).

174. Trịnh Anh Thau (2009), “Thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường thị trấn –

cần điều kiện đảm bảo”, Tạp chí Dân vận, (10).

175. Lê Thi (2002), Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

176. Lê Thi (2009), “Thực hiện dân chủ ở cơ sở và vấn đề tăng cường ý thức trách

nhiệm của nhà nước”, Tạp chí Triết học, (8).

177. Trương Thìn (2017), Hương ước xưa và quy ước làng văn hoá ngày nay, Nxb

Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

178. Thái Thịnh (2018), Dân phản ứng vì nhiều cán bộ xã được hỗ trợ thiệt hại bão,

tại trang https://tuoitre.vn/ [truy cập 14/5/2018].

179. Hồ Đức Thọ, Dương Văn Vương (1999), Lệ làng Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

180. Nguyễn Hữu Thông (2012), Mạch sống của Hương ước trong làng Việt Trung

bộ, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

181. Đinh Khắc Thuận (2006), Tục lệ cổ truyền làng xã Việt Nam: sưu tầm và

tuyển dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

182. Nguyễn Thuấn (2017), Thanh Hoá: Sẽ xử nghiêm đối với cán bộ sai phạm

trong bình xét hộ nghèo, tại trang http://thuonghieucongluan.vn/ [truy cập

ngày 25/10/2017].

183. Nguyễn Ninh Thực (1998), “Về quy chế thực hiện dân chủ ở xã”, Tạp chí Tổ

chức nhà nước, (4).

184. Lê Quang Thưởng (1998), “Tổ chức cơ sở đảng trong việc bảo đảm quyền làm

chủ của nhân dân ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (2).

165

185. Nguyễn Văn Thường (Chủ biên) (2004), Một số vấn đề kinh tế xã hội Việt

Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

186. Đỗ Lai Thúy (1996), Sự phát triển của ý thức cá nhân qua các mẫu người văn

hoá, sách Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay, tập 2, Hà Nội.

187. Đoàn Xuân Thủy (Chủ biên) (2011), Chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp

ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

188. Nguyễn Thị Thanh Thủy (2015), “Về thực hiện dân chủ trực tiếp ở đồng bằng

sông Cửu Long”, Tạp chí lý luận chính trị, (1).

189. Trần Thị Bích Thủy (2015), “Những chuyển biến mới trong xây dựng và thực

hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Dân vận, (4).

190. Trần Thị Hồng Thúy, Ngọ Văn Nhân (Chủ biên) (2004), Tác động của dư luận

xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

191. Đặng Quốc Tiến (2000), “Triển khai quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở kết

quả và kinh nghiệm bước đầu”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (2).

192. Lưu Duy Toàn (2014), “Tiếp tục nâng cao năng lực thực hành dân chủ của đội ngũ

cán bộ, công chức cấp cơ sở hiện nay”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (8).

193. Quỳnh Trang, Mạnh Cường (2018), Yên Thành: khởi tố 4 cán bộ xã vì tự ý

bán hàng trăm lô đất, tại trang http://congannghean.vn/ [truy cập 07/6/2018].

194. Nguyễn Tuấn Triết (2010), “Dân chủ cơ sở ở nông thôn Nam Bộ trong thời kỳ

đổi mới (qua một kết quả khảo sát”), Tạp chí Khoa học xã hội, (2).

195. Nguyễn Tuấn Triết (2011), “Dân chủ cơ sở: một số tiếp cận lý luận và thực

tiễn”, Tạp chí Khoa học xã hội, (1).

196. Bùi Ngọc Trinh (1997), “Để thực hiện dân chủ trực tiếp trên địa bàn làng xã”,

Tạp chí Cộng sản, (19).

197. Nguyễn Phú Trọng (2018), “Đi đôi với phát huy, mở rộng dân chủ, phải chú

trọng giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật; đề cao trách nhiệm xã hội, trách nhiệm

công dân”, Báo Nhân dân, ra ngày 17/7/2018.

198. Đặng Minh Trực (2002), “Thực hiện tốt quy chế dân chủ là một trong những

giải pháp để kiện toàn bộ máy chính quyền ở xã, phường, thị trấn”, Tạp chí Tổ

chức nhà nước, (8).

166

199. Hà Quang Trường (2012), “Ảnh hưởng của tâm lý làng xã trong cải cách hành

chính nhà nước”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (12).

200. Trần Từ (1981), Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

201. Đinh Công Tuấn (2008), “Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam nội dung và

những vấn đề”, Tạp chí Khoa học xã hội, (3).

202. Đỗ Quang Tuấn (1998), “Cơ sở lý luận - thực tiễn của phương châm dân biết,

dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và mấy vấn đề về xây dựng quy chế dân chủ ở

cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (8).

203. Thanh Tùng (2017), Trưởng thôn bị truy tố tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn,

tại trang http://plo.vn/phap-luat/[truy cập 13/7/2017].

204. Đào Trí Úc (2003), Hương ước trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn

Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

205. Đào Trí Úc (2010), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ

máy Đảng và Nhà nước một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

206. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2009), Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn năm 2007 và văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

207. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

208. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 31, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

209. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

210. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

211. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

212. V.I. Lênin (1977), Về pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.

213. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

214. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

215. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

216. V.I. Lênin (2006), Toàn tập, tập 41, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

217. Chu Thị Trang Vân (2009), “Một số vấn đề đặt ra trong quá trình thực thi pháp

lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (5).

167

218. Lê Ngọc Văn (1996), Gia đình Việt Nam và chức năng xã hội hoá, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

219. Văn tuyển Đặng Tiểu Bình (1994), quyển II, Bản Tiếng Trung, Nxb Nhân dân

Bắc Kinh, Trung Quốc.

220. Viện Sử học (1978), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, tập II, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

221. Lê Kim Việt (2002), “Qua 3 năm thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở nông

thôn”, Tạp chí Cộng sản, (18).

222. Lê Hữu Xanh (2005), Ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đối với cán

bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

223. Lê Hữu Xanh (Chủ biên) (2001), Tác động của tâm lý làng xã trong việc xây

dựng đời sống kinh tế xã hội ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ ở nước ta hiện

nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

224. Trương Hải Yến (2006), “Xây dựng dân chủ cơ sở ở nông thôn dưới sự ảnh

hưởng của văn hóa chính trị truyền thống”, Tạp chí Học viện cảnh sát tỉnh An

Huy, (5).