19
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------ DƢƠNG KHÁNH TOÀN HèNH TƢỢNG NGƢỜI TRÍ THỨC TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN HÀ NỘI - 2004

HèNH TƢỢNG NGƢỜI TRÍ THỨC TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/15090/1/V_L2_00522.pdf · bài Đám cưới không có giấy giá thú

  • Upload
    others

  • View
    6

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------------

DƢƠNG KHÁNH TOÀN

HèNH TƢỢNG NGƢỜI TRÍ THỨC TRONG

VĂN XUÔI VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2004

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

****************

DƢƠNG KHÁNH TOÀN

HèNH TƢỢNG NGƢỜI TRÍ THỨC TRONG

VĂN XUÔI VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Chuyờn ngành: Lý thuyết và lịch sử văn học

Mó số: 5.04.01

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN VĂN DÂN

HÀ NỘI – 2004

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Tổ bộ môn Lý thuyết

và Lịch sử văn học, các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Văn học, Phòng Sau đại học,

Phòng Quản lý khoa học nhà trƣờng đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong quá

trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Văn Dân, ngƣời thầy đã

tận tình chỉ bảo cho tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và những ngƣời thân trong gia đình đã

giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2004 TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Dƣơng Khánh Toàn

MỤC LỤC

PHẦN I: MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài 3

2. Lịch sử vấn đề 4

3.Nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 8

4. Phƣơng pháp nghiên cứu 9

5. Đóng góp mới của luận văn 10

6. Cấu trúc của luận văn 10

PHẦN II: NỘI DUNG 13

Chương một: Vị trí nhân vật trí thức trong văn xuôi

Việt Nam hiện đại 13

1.Hệ thống nhân vật của văn xuôi Việt Nam hiện đại 13

1.1. Khái niệm nhân vật văn học 13

1.2. Hệ thống nhân vật trong văn xuôi Việt Nam hiện đại 14

1.3. Tính giao thoa của nhân vật 15

1.4. Nhân vật trí thức 15

2. Lý do ra đời của nhân vật trí thức 17

2.1. Lý do khách quan 17

2.2. Lý do chủ quan 18

3. Những bƣớc tiến hoá của nhân vật trí thức trong

văn xuôi Việt Nam hiện đại 19

3.1. Nhân vật trí thức trong văn xuôi giai đọan đầu thế kỷ 19

3.2. Nhân vật trí thức trong văn xuôi giai đoạn 1930- 1945 20

3.3. Nhân vật trí thức trong văn xuôi thời kỳ chống Pháp 22

3.4. Nhân vật trí thức trong văn xuôi thời kỳ chống Mỹ 24

3.5. Nhân vật trí thức trong văn xuôi thời kỳ đổi mới 34

Chương hai: Hình tượng người trí thức trong văn xuôi

thời kỳ đổi mới 36

1. Bối cảnh lịch sử 36

2. Các xu hƣớng thể hiện hình tƣợng ngƣời trí thức trong

văn xuôi thời kỳ đổi mới 38

2.1. Xu hƣớng khai thác lịch sử 39

2.2. Xu hƣớng nhập cuộc hiện tại 49

2.3. Xu hƣớng phê phán và hoài nghi 80

Chƣơng ba: Nhân vật trí thức với tư cách là một nhân tố

góp phần phát triển nghệ thuật văn xuôi 104

1.Vai trò của nhân vật trí thức trong cấu trúc hƣớng nội 104

1.1. Các mô hình cấu trúc tác phẩm văn xuôi 104

1.2.Vai trò của nhân vật trí thức trong cấu trúc hƣớng nội 109

2. Vai trò của nhân vật trí thức đối với sự đổi mới

nghệ thuật tiểu thuyết 110

PHẦN III: KẾT LUẬN 113

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 116

PHẦN I: MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975, đặc biệt là từ thời kỳ đổi mới

đến nay, nhân vật trí thức ngày càng có vị trí quan trọng, trở thành nhân vật trung

tâm trong cơ cấu thành phần nhân vật. Hàng loạt các tác phẩm thể hiện nhân vật trí

thức hoặc “pha trí thức” ra đời và gây đƣợc tiếng vang trong dƣ luận hoặc đoạt giải

thƣởng cao trong các cuộc thi tiểu thuyết và truyện ngắn đã phần nào chứng tỏ

đƣợc vị trí trung tâm trong văn học của nhân vật trí thức.

Không chỉ phong phú về số lƣợng nhân vật trí thức trong văn học thời kỳ đổi

mới còn đa dạng về hình thức nghệ thuật, đề tài, thành phần… so với nhân vật trí

thức trong văn học trƣớc 1975. Trƣớc đây nhân vật văn học nói chung, trong đó có

nhân vật trí thức thƣờng mang đậm màu sắc duy lý, thể hiện ở tính cách nhất quán,

thiếu đa dạng, thì hình tƣợng nhân vật trí thức trong văn học thời kỳ đổi mới đƣợc

thể hiện rất phong phú: đa dạng về thành phần, đa dạng về màu sắc thẩm mỹ, vừa

giàu chất tạo hình vừa có chiều sâu tƣ tƣởng, tâm lý… Nhân vật trí thức cũng đã

đặt ra và tìm tòi giải đáp hàng loạt những vấn đề xã hội mang tính thời sự nhƣ: Vai

trò của trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, mâu thuẫn giữa lý

tƣởng khoa học với tƣ tƣởng làm giàu trong thời kinh tế thị trƣờng, thực trạng lãng

phí chất xám và những bài học về sử dụng trí thức trong thời kỳ quá độ xây dựng

chủ nghĩa xã hội hiện nay… Vai trò của

nhân vật trí thức trong văn học còn thể hiện ở những đóng góp của nó trong việc

phát triển nghệ thuật văn xuôi. Với đặc thù lao động trí óc có trình độ văn hoá cao,

có tri thức khoa học, nhạy cảm trƣớc những biến đổi của thời cuộc, nhân vật trí

thức có ƣu thế đặc biệt trong xây dựng tiểu thuyết hƣớng nội – một hƣớng phát

triển mới của nghệ thuật tiểu thuyết hiện nay.

Tóm lại hình tƣợng ngƣời trí thức văn xuôi trong thời kỳ đổi mới có

thể làm thành một đề tài đáng nghiên cứu và hứa hẹn sẽ cho những kết quả bổ ích.

Nghiên cứu đề tài này chẳng những có thể bổ sung vào việc đánh giá văn học Việt

Nam sau 1975 mà còn có khả năng tác động trở lại với khu vực sáng tác, bởi lẽ đây

là một vấn đề còn nóng hổi của đời sống văn học hôm nay. Đó cũng là lý do tại sao

chúng tôi chọn đề tài Hình tượng người trí thức trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ

đổi mới.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Nhân vật trí thức đã và đang trở thành nhân vật quan trọng của văn xuôi Việt

Nam trong giai đoạn hiện nay, nhƣng do nhiều nguyên nhân, cả chủ quan và khách

quan, mà cho đến nay lý luận phê bình của chúng ta dƣờng nhƣ vẫn chƣa quan tâm

đúng mức tới loại nhân vật này. Hệ quả là chúng ta vẫn chƣa có đƣợc những công

trình nghiên cứu chuyên sâu để đánh giá vấn đề một cách toàn diện và thấu đáo.

Nếu không tính đến những bài nghiên cứu về nhân vật trí thức trong tác phẩm của

Nam Cao trƣớc cách mạng, thì nhân vật trí thức hầu nhƣ mới chỉ đƣợc đề cập rải

rác trong một số tiểu luận về văn học Việt Nam sau 1975, hoặc trong một số bài

phê bình một số tác phẩm cụ thể trong đó có miêu tả nhân vật trí thức. Tuy nhiên,

nhìn một cách tổng thể, mỗi bài viết cũng để lại một vài nhận định mang tính gợi

mở vấn đề. Sau

khi tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng ra đời đã có

nhiều bài báo tranh luận, đóng góp ý kiến về những vấn đề mà tác phẩm này đặt ra,

trong đó có vấn đề về nhân vật trí thức. Tác giả Lê Thành Nghị trong bài Về người

trí thức trong Đám cưới không có giấy giá thú (Báo Nhân dân, ngày 4/8/1990) đã

phân tích những nhân vật trí thức trong tác phẩm, từ đó chỉ ra những xung đột gay

gắt trong quan hệ gia đình, đồng nghiệp trƣớc sức tấn công của những hiện tƣợng

tiêu cực vốn là mặt trái của cơ chế thị trƣờng, sự lung lay niềm tin của một số trí

thức khi phải đối mặt với bất công, cảnh báo về sự tha hoá nhân cách của một bộ

phận trong độ ngũ những ngƣời trí thức. Tác giả Phong Thu trong bài Tâm sự với

tác giả Đám cưới không có giấy giá thú (Báo Hà Nội chủ nhật, ngày 6/5/1990) đã

đánh giá cao những nhân vật trí thức trong tác phẩm và chỉ ra lực cản ngăn trở

ngƣời trí thức cống hiến tài năng tâm huyết của mình cho xã hộ là bộ ba: Thành

phần xã hội + Bệnh quan liêu + Kẻ buông tuồng. Tác giả Đào Thanh Tùng trong

bài Đám cưới không có giấy giá thú – một cách nhìn nhận về người thầy (Báo Giáo

viên nhân dân, số 16, ngày 18/4/1990) lại bày tỏ sự lo ngại trƣớc cái nhìn méo mó

về ngƣời trí thức trong tác phẩm… Nhìn chung, phần lớn các bài viết về nhân vật

trí thức trong Đám cưới không có giấy giá thú đều có chung hạn chế là tính chất xã

hội học trong tiếp cận vấn đề. Nhân vật trí thức của Ma Văn Kháng ít khi đƣợc “tả

chân” mà giàu tính cách điệu, tính biểu tƣợng, tiêu biểu cho thân phận ngƣời trí

thức trƣớc những biến động của xã hội, vì vậy không thể chỉ dựa vào một vài chi

tiết cụ thể mà đƣa ra đánh giá về nhân vật, tác phẩm hay nhà văn.

Đáng chú ý là luận văn thạc sỹ văn học của Đào Tiến Thi (ĐHSP Hà Nội,

1999) Phong cách Ma Văn Kháng trong truyện ngắn sau 1975. Tác giả luận văn đã

khảo sát nhiều truyện ngắn của Ma Văn Kháng, từ đó chỉ ra những đặc điểm của

nhân vật trí thức trong các tác phẩm này: Có phong cách ứng xử trên thế thƣợng

phong trƣớc mọi sóng gió cuộc đời, có cốt cách ung dung tự tại kiểu nhà Nho trong

mọi hoàn cảnh, không đội trời chung với cái xấu, cái ác, sống “ngoài vòng cƣơng

toả” với cái tài hoa tài tử của mình. Nhân vật trí thức trong văn học thời kỳ đổi mới

cũng đƣợc đề cập tới trong luận văn thạc sỹ văn học của Nguyễn Thị Hằng (ĐHSP

Hà Nội, 1999): Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời đổi mới.

Trong luận văn này tác giả đã khẳng định: “Nhân vật trí thức đƣợc khắc họa trong

nhiều tác phẩm của các tác giả đƣơng đại nhƣ Đám cưới không có giấy giá thú (Ma

Văn Kháng), Bức tranh, Sắm vai (Nguyễn Minh Châu) …” [20, tr. 23]. Trên cơ sở

so sánh nhân vật trí thức trong tác phẩm của Nam Cao, Nguyễn Minh Châu với

nhân vật trí thức của Nguyễn Khải, tác giả luận văn đã đƣa ra những nhận xét mang

tính khái quát: “Cùng viết về nhân vật trí thức nhƣng sáng tác của Nam Cao là sự tự

ý thức về bản thân, nhân phẩm của ngƣời trí thức, xót xa cho sự thức tỉnh của họ vì

bất lực trƣớc hoàn cảnh. Còn ngƣời trí thức trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu

luôn ở trạng thái tự ý thức về nhân cách, họ tự đối diện với chính mình trong nhu

cầu tự thú, tự sám hối, tự đấu tranh với bản thân, thể hiện khát khao tự hoàn thiện

rất đáng trân trọng. Đó là nhân vật Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành),

nhân vật ngƣời họa sỹ (Bức tranh), nhà văn T (Sắm vai)… Nhân vật trí thức của

Nguyễn Khải lại thể hiện sự nhận thức, suy ngẫm về bản thân, thời cuộc, sự lựa

chọn trƣớc hoàn cảnh, từ đó bộc lộ nhân cách của mình. Nét chung của tầng lớp trí

thức trong truyện của Nguyễn Khải là sự mặc cảm mình đang lạc thời, lầm thời

nhƣng không vì thế mà trở thành kẻ hèn. Họ luôn tìm cách vƣợt lên hoàn cảnh để

thích ứng với nó.” [20, tr. 41]. Trong những bài phê bình tiểu luận về

văn học Việt Nam sau 1975 có hai bài viết có đề cập trực tiếp tới nhân vật trí thức

là bài Về một xu hướng tiểu thuyết đang phát triển của Nguyễn Đăng Mạnh (Báo

Nhân dân, ngày 26/10/1985) và bài Mấy vấn đề về nhân vật của văn xuôi Việt Nam

sau 1975 của Nguyễn Thị Bình (in trong tập 50 năm văn học Việt Nam sau cách

mạng Tháng Tám. NXB ĐHQG, H., 1996). Trong bài viết Về một xu hướng tiểu

thuyết đang phát triển, tác giả Nguyễn Đăng Mạnh đã chỉ ra rằng văn học Việt

Nam từ sau cách mạng Tháng Tám, thời kỳ nào cũng có nhân vật trí thức. Đồng

thời tác giả cũng nhấn mạnh về vai trò quan trọng của loại nhân vật này trong văn

xuôi thời kỳ đổi mới: “Nhân vật cách mạng có tri thức, hay nói cách khác, nhân vật

công nông trí thức hoá ngày càng đƣợc quan tâm và trở thành nhân vật trung tâm

trong nhiều tác phẩm gần đây.” [51, tr. 463]. Trong bài Mấy vấn đề về nhân vật của

văn xuôi Việt Nam sau 1975 tác giả Nguyễn Thị Bình đã có nhận định tƣơng tự

khi cho rằng nhân vật trí thức đang trở thành nhân vật trung tâm trong cơ cấu thành

phần nhân vật của văn xuôi Việt Nam giai đoạn hiện nay và bƣớc đầu lý giải những

nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan dẫn đến sự xuất hiện hàng loạt các tác

phẩm có xây dựng nhân vật trí thức: “Văn xuôi sau 1975 phát triển trong bối cảnh

đất nƣớc chuyển đổi cơ chế kinh tế, giao lƣu văn hoá nhiều chiều, ý thức cá nhân

đƣợc sự cổ vũ của cơ chế thị trƣờng trỗi dậy mạnh mẽ. Nhu cầu thức tỉnh gắn liền

với cảm hứng khám phá, nghiền ngẫm hiện thực, nhu cầu công bố tƣ tƣởng riêng

trong thái độ “nhập cuộc” của nhà văn… có lẽ đây là những nguyên nhân xâu xa

của việc xuất hiện một cách phổ biến nhân vật trí thức.” [5, tr. 223]. Tác giả

Nguyễn Thị Bình cũng đã đƣa ra những nhận xét về hạn chế của nhân vật trí thức

trong văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung: “Cho đến thời điểm này, chƣa có nhân

vật trí thức nào đạt tới cái mốc mà nhân vật ngƣời lính và ngƣời nông dân trong văn

xuôi đã đạt tới.” [5, tr. 224]

Nhìn chung, cho đến nay tình hình nghiên cứu về nhân vật trí thức trong văn

xuôi hiện đại nói chung và trong văn xuôi thời kỳ đổi mới nói riêng vẫn chƣa đáp

ứng đƣợc yêu cầu mà loại nhân vật này đặt ra, chƣa khái quát đƣợc những đặc điểm

của hình tƣợng nhân vật trí thức, xu hƣớng thể hiện nó trong các tác phẩm cũng

nhƣ những đóng góp của nó cho sự phát triển nghệ thuật văn xuôi.

3. NHIỆM VỤ, ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN

VĂN

3.1. Luận văn không thể đề cập đến tất cả sự phong phú đa dạng trong phong

cách thể hiện nhân vật trí thức trong văn xuôi thời kỳ đổi mới mà chỉ tập trung vào

các phƣơng diện cơ bản sau:

+ Qúa trình tiến hoá của nhân vật trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.

+ Các xu hƣớng thể hiện nhân vật trí thức trong văn xuôi thời kỳ đổi mới

+ Nhân vật trí thức với tƣ cách là một nhân tố góp phần phát triển nghệ thuật

văn xuôi.

3.2. Đối tƣợng khảo sát của luận văn là nhân vật trí thức trong văn xuôi thời

kỳ đổi mới, nhƣng mốc thời gian “thời kỳ đổi mới” chỉ có tính chất tƣơng đối.

Đƣờng lối đổi mới của Đảng đƣợc chính thức hoá từ Đại hội VI của Đảng năm

1986 nhƣng công cuộc đổi mới phải kể từ những năm 1980, đây cũng là thời gian

xuất hiện nhiều tƣ tƣởng văn học mới trên cả lĩnh vực sáng tác và lý luận phê bình.

Vì vậy những tác phẩm văn xuôi thể hiện nhân vật trí thức xuất hiện trong khoảng

thời gian cuối những năm 1970 đầu những năm 1980 vẫn thuộc phạm vi nghiên

cứu, khảo sát của chúng tôi trong luận văn này.

3.3. Số lƣợng tác phẩm văn xuôi thời kỳ đổi mới có xây dựng nhân vật trí

thức là rất lớn. Do vậy luận văn buộc phải bỏ qua rất nhiều tác phẩm để có điều

kiện đi sâu vào một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu.

4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

4.1. Phƣơng pháp luận nghiên cứu

Trong luận văn này chúng tôi sử dụng phƣơng pháp luận mác xít, lấy quan

điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm cái gốc trong khi xem xét mối quan

hệ phức tạp giữa nhân vật và tác phẩm, nhân vật và tác giả cũng nhƣ giữa tác phẩm

và thời đại. Trong khi phân tích các đặc điểm của hình tƣợng nhân vật trí thức

chúng tôi luôn ý thức về sự thống nhất biện chứng giữa nội dung và hình thức nghệ

thuật của một tác phẩm văn học.

4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu chuyên biệt

Để giải quyết nhiệm vụ cụ thể của 3 chƣơng của luận văn chúng tôi vận dụng

nhiều phƣơng pháp nghiên cứu chuyên biệt thuộc phƣơng pháp luận nghiên cứu

văn học và không tuyệt đối hoá một phƣơng pháp nào. Những phƣơng pháp nghiên

cứu chuyên biệt đƣợc sử dụng nhiều nhất là phƣơng pháp phân tích ngữ văn,

phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp so sánh hệ thống và phƣơng pháp lịch sử - xã

hội.

4.3. Chúng tôi dựa vào lý luận về nhân vật văn học, hình tƣợng văn học, cấu

trúc tác phẩm văn xuôi làm cơ sở để phân tích hình tƣợng ngƣời trí thức trong các

tác phẩm văn xuôi cụ thể.

Chúng tôi cũng tham khảo những kết quả nghiên cứu của các nhà lý luận phê

bình và các nhà văn trong các công trình nghiên cứu, các bài phê bình tiểu luận, các

bài báo về văn học Việt Nam đã đƣợc công bố trên sách báo.

5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN

Luận văn lần đầu tiên cố gắng đem lại một cái nhìn mang tính hệ thống về

những bƣớc tiến hoá của hình tƣợng nhân vật trí thức trong văn học Việt Nam hiện

đại từ đầu thế kỷ 20 đến thời kỳ đổi mới. Riêng giai đoạn văn học từ sau 1975 đến

nay, đặc biệt là từ thời kỳ đổi mới, hình tƣợng ngƣời trí thức không chỉ đƣợc mô tả,

hệ thống hoá mà còn đƣợc cắt nghĩa, đánh giá, chỉ ra những đặc điểm chính, những

xu hƣớng thể hiện và vai trò quan trọng của nó trong việc phát triển nghệ thuật văn

xuôi.

6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN

Luận văn gồm bốn phần: Mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu

tham khảo

Phần nội dung gồm ba chƣơng:

Chương một: Vị trí nhân vật trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại

1. Hệ thống nhân vật của văn xuôi Việt Nam hiện đại

1.1. Khái niệm nhân vật văn học

1.2. Hệ thống nhân vật trong văn xuôi Việt Nam hiện đại

1.3. Tính giao thoa của nhân vật

1.4. Nhân vật trí thức

2. Lý do ra đời của nhân vật trí thức

2.1. Lý do khách quan

2.2. Lý do chủ quan

3. Những bƣớc tiến hoá của nhân vật trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại

3.1. Nhân vật trí thức trong văn xuôi giai đoạn đầu thế kỷ 20

3.2. Nhân vật trí thức trong văn xuôi giai đoạn 1930-1945

3.3. Nhân vật trí thức trong văn xuôi thời kỳ chống Pháp

3.4. Nhân vật trí thức trong văn xuôi thời kỳ chống Mỹ

3.5. Nhân vật trí thức trong văn xuôi thời kỳ đổi mới

Chương hai: Hình tượng người trí thức trong văn xuôi thời kỳ đổi mới

1. Bối cảnh lịch sử

2. Các xu hƣớng thể hiện hình tƣợng ngƣời trí thức trong văn xuôi thời kỳ đổi mới

2.1. Xu hƣớng khai thác lịch sử

2.2. Xu hƣớng nhập cuộc hiện tại

2.3. Xu hƣớng phê phán và hoài nghi

Chương ba: Nhân vật trí thức với tư cách là một nhân tố góp phần phát triển

nghệ thuật văn xuôi

1. Vai trò của nhân vật trí thức trong cấu trúc hƣớng nội

1.1. Các mô hình cấu trúc tác phẩm văn xuôi

1.2. Vai trò của nhân vật trí thức trong cấu trúc hƣớng nội

2. Vai trò của nhân vật trí thức đối với sự đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết.

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan Thị Vàng Anh (1993), Khi người ta trẻ, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

2. Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ (2001)

Truyện ngắn bốn cây bút trẻ, NXB Văn học, Hà Nội.

3. Tạ Duy Anh (2002), Nhân vật, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội

4. Bakhtin (1987), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trƣờng viết văn Nguyễn Du, Hà

Nội. ( Phạm Vĩnh Cƣ tuyển chọn và biên dịch )

5. Nguyễn Thị Bình (1996), “Mấy nhận xét về nhân vật của văn xuôi Việt Nam sau

1975” ( Sách: 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng tám) , NXB

ĐHQG, Hà Nội, tr 217-226 )

6. Nguyễn Minh Châu (2001), Nguyễn Minh Châu toàn tập, Tập I, NXB Văn học,

Hà Nội.

7. Nguyễn Minh Châu (2001), Nguyễn Minh Châu toàn tập, Tập II, NXB Văn học,

Hà Nội.

8. Đỗ Chu (1967), Phù sa, NXB Văn học, Hà Nội.

9. Đỗ Chu (1971), Gió qua thung lũng, NXB Văn học, Hà Nội.

10. Nguyễn Văn Dân (2002), Văn học phi lý, NXB Văn hoá- Thông tin, Hà Nội.

11. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết Phương Tây hiện đại.

NXB GD, Hà Nội.

12. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB GD, Hà Nội 2000

13. Phan Cự Đệ (2001), “Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu đổi mới”. TC Văn

nghệ quân đội (số 3-2001).

14. Nguyễn Việt Hà (1999), Cơ hội của chúa, NXB Văn học, Hà Nội.

15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG, Hà

Nội.

16. Hoàng Quốc Hải (2003), Bão táp cung đình, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

17. Hoàng Quốc Hải (2003), Thăng Long nổi giận, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

18. Hoàng Quốc Hải (2003), Huyền Trân công chúa, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

19. Hoàng Quốc Hải (2003), Vương triều sụp đổ, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

20. Nguyễn Thị Hằng (1999), Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Khải

thời đổi mới, Luận văn thạc sỹ khoa học ngữ văn, ĐHSP, Hà Nội.

21. Dƣơng Thu Hƣơng (1988), Bên kia bờ ảo vọng, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

22. Dƣơng Thu Hƣơng(1988), Những thiên đường mù, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

23. Dƣơng Thu Hƣơng (1989), Quãng đời đã mất, NXB Hải Phòng, Hải Phòng.

24. Phạm Thị Hoài (1989), Mê lộ, NXB Tổng hợp Phú Khánh, Phú Khánh.

25. Phạm Thị Hoài (1995), Man nương, NXB Hà nội, Hà Nội.

26. Phạm Thị Hoài (1995), Thiên sứ, NXB Hà Nội, Hà Nội.

27. Tô Hoài (1959), Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, NXB Văn học, Hà Nội.

28. Nguyễn Xuân Khánh (2001), Hồ Quý Ly, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

29. Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Quốc Bảo (2001), Một số vấn đề về trí thức Việt

Nam, NXB Lao động, Hà Nội.

30. Ma Văn Kháng (1982), Mưa mùa hạ, NXB Lao động, Hà Nội.

31. Ma Văn Kháng (1999), Mùa lá rụng trong vườn, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

32. Ma Văn Kháng (2000), Đám cưới không có giấy giá thú, NXB Hội nhà văn, Hà

Nội.

33. Ma Văn Kháng (1999), Ngược dòng nước lũ, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

34. Ma Văn Kháng (2001), Gặp gỡ ở La Pan Tẩn, NXB Văn hoá, Hà Nội.

35. Ma Văn Kháng (1996), Tuyển tập truyện ngắn, NXB Công an nhân dân, Hà

Nội.

36. Ma Văn Kháng (2002), “Tiểu thuyết, một giá trị không thể thay thế”, Đổi mới

tư duy tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, tr 12-34

37. Nguyễn Khải (1973), Chiến Sỹ, NXB QĐND, Hà Nội.

38. Nguyễn Khải(1979), Cha và con, và…, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.

39. Nguyễn Khải (1987), Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người, NXB Tác phẩm

mới, Hà Nội.

40. Nguyễn Khải (1996), Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Khải, NXB Hội nhà văn,

Hà Nội.

41. Đông La (2001), Biên độ của trí tưởng tượng, NXB Văn học, Hà Nội.

42. Chu Lai (2003), Nắng đồng bằng, NXB Văn học, Hà Nội.

43. Phong Lê (1983), “Văn học những năm 80”. TC Văn học số (số 3-1983)

44. Lê Lựu (1984), Thời xa vắng, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.

45. Lê lựu (2000), Hai nhà, NXB Thanh niên, Hà Nội.

46. Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, Thành Thế Thái

Bình (2003), Lý luận văn học, NXB GD, Hà Nội.

47. Nguyễn Văn Lƣu (1995), Luận chiến văn chương, NXB Văn học, Hà Nội.

48. Hữu Mai (1971), Vùng trời, Tập I, NXB QĐND, Hà Nội.

49. Hữu Mai (1974), Vùng trời, tập II, NXB QĐND, Hà Nội.

50. Hữu Mai (2000), Ông cố vấn, NXB QĐND, Hà Nội.

51. Nguyễn Đăng Mạnh (1985), “Về một xu hƣớng tiểu thuyết đang phát triển”,

Báo Nhân dân (ngày 26/10/1985).

52. Lê Minh (1976), Tiếng gió, NXB Lao động, Hà Nội.

53. Vƣơng Trí Nhàn (2001), Nghiệp văn, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.

54. Bảo Ninh (2003), Thân phận tình yêu, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

55. Đỗ Hải Ninh (2002), “Nhân vật trí thức trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng”, TC

Sông Hương , (số 10-2002).

56. Đào Thuỷ Nguyên (1999), Nhân vật trong tiểu thuyết của Nguyễn Khải, Luận

văn thạc sỹ khoa học ngữ văn, ĐHSP, Hà Nội.

57. Lê Thành Nghị (1990), “Về ngƣời trí thức trong Đám cƣới không có giấy giá

thú, Báo Nhân dân (ngày4/8/1990).

58. Huy Phƣơng (1986), Xi măng, NXB Văn học, Hà Nội.

59. Lê Phƣơng (1977), Thung lũng Cô Tan, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

60. Pospelov (1988), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB GD, Hà Nội. (Trần

Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch)

61. Số phận của tiểu thuyết (1993), NXB Tác phẩm mới, Hà Nội. (

nhóm biên dịch: Lại Nguyên Ân, Nguyễn Minh, Phong Vũ)

62. Võ Huy Tâm (1975), Vùng mỏ, NXB Văn học, Hà Nội.

63. Tạp chí Văn học và tuổi trẻ (2004), (số 10- 2004)

64. Bùi Việt Thắng (1996), “Những biến đổi trong cấu trúc thể loại tiểu thuyết sau

1975”, 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng tám). NXB ĐHQG, Hà

Nội, Tr. 218-227

65. Nguyễn Quang Thân (1994), 15 truyện ngắn /Nguyễn Quang Thân. NXB Văn

học, Hà Nội.

66. Đào Tiến Thi (1999), Phong cách Ma Văn Kháng trong truyện ngắn sau 1975,

Luận văn thạc sỹ khoa học ngữ văn, ĐHSP, Hà Nội.

67. Nguyễn Đình Thi (1969), Xung kích, NXB Văn học, Hà Nội.

68. Nguyễn Đình Thi (1987), Vỡ bờ, NXB Văn học, Hà Nội.

69. Nguyễn Đình Thi (1969), Công việc của người viết tiểu thuyết, NXB Văn học,

Hà Nội.

70. Nguyễn Ngọc Thiện (2000), Văn chương, tài năng và người thưởng thức, NXB

Hội nhà văn, Hà Nội.

71. Nguyễn Ngọc Thiện (1990), “Tiểu thuyết hƣớng nội trong văn học Việt Nam

hiện đại”, TC Văn học (số 6-1990).

72. Nguyễn Huy Thiệp (1999), Như những ngọn gió, NXB Văn học, Hà Nội.

73. Tạ Nguyên Thọ (1997), Người hùng trường làng. NXB CAND, Hà Nội.

74. Bích Thu (1998), Theo dòng văn học, NXB KHXH, Hà Nội.

75. Bích Thu (1995), “Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi nghệ thuật sau 1975

qua hệ thống mô típ chủ đề”, TC Văn học (số 4- 1995).

76. Bích Thu (1990), “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975”, TC Văn học

(số 9-1990).

77. Bích Thu (1990), “Tâm sự với tác giả Đám cƣới không có giấy giá thú”. Báo

Hà Nội chủ nhật (ngày 6/5/1990)

78. An Thuỳ (2003), “Nghề sáng giá”, Báo Văn nghệ (số 43 ngày 25/10/2003)

79. Nguyễn Thị Ngọc Tú (1974), Đất làng, NXB Văn học, Hà Nội.

80. Nguyễn Thị Ngọc Tú (1977), Buổi sáng, NXB Thanh niên, Hà Nội.

81. Nguyễn Thị Ngọc Tú (1989), Hạt mùa sau, NXB Thanh niên, Hà Nội.

82. Nguyễn Mạnh Tuấn (1986), Cù lao tràm, Tập I, NXB Hải Phòng, Hải Phòng.

83. Nguyễn Mạnh Tuấn (1986), Cù lao tràm, Tập 2, NXB Hải Phòng, Hải Phòng.

84. Phan Tứ (1978), Mẫn và tôi, NXB Thanh niên, Hà Nội.

85. Nguyễn Huy Tƣởng (1996), Sống mãi với Thủ Đô, NXB Hà Nội, Hà Nội.

86. Lê Ngọc Trà (2002), “Văn học những năm đầu đổi mới”, TC Văn học, (số 2-

2002)

87. Nguyễn Khắc Trƣờng (2002), Mảnh đất lắm người nhiều ma, NXB Hội nhà

văn, Hà Nội.

88. Chu Văn, Bão biển, Tập I (1975), Tập II (1978), , NXB Văn học, Hà Nội.

89. Đào Vũ (1959), Cái sân gạch, NXB Văn học, Hà Nội.

90. Đào Vũ (1961), Vụ lúa chiêm, NXB Văn học, Hà Nội.