516
TÁC GIA VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI TỪ SAU 1945 TÁC GIA VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI TỪ SAU 1945 LỜI NÓI ĐẦU Sự xuất hiện ngày càng mạnh mẽ, qua các giai đoạn cách mạng, một đội ngũ tác giả văn xuôi (cũng như các thể loại khác) là đặc điểm, và cũng là thành tựu nổi bật của văn học cách mạng trong chế độ mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chính vì vậy, sau cuốn Mấy vấn đề văn xuôi Việt Nam 1945 - 1970, Nhóm văn học Việt Nam hiện đại, Ban văn học Việt Nam, tiếp tục nghiên cứu trong chuyên đề này một số tác giả văn xuôi Việt Nam hiện đại. Khó khăn lớn đặt ra cho chúng tôi, như trên đã nói, là sự phát triển rất mạnh mẽ của phong trào sáng tác, thể hiện trong sự ra đời thường xuyên, ngày càng đông đảo các lực lượng viết, không phải với con số hàng chục, mà phải tính đến hàng trăm. Chúng tôi cảm thấy, với khả năng hạn chế của mình, khó mà bao quát cho hết được mọi hiện tượng, mọi tên tuổi đã xuất hiện trong phong trào. Do vậy, trong phạm vi mấy trăm trang của chuyên đề, chỉ xin phép được trình bày, trong khuôn khổ có hạn, một số cây bút tương đối quen biết, mà chúng tôi, qua nhiều lần thảo

Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

  • Upload
    lethuy

  • View
    227

  • Download
    1

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

TÁC GIA VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI TỪ SAU 1945TÁC GIA VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

TỪ SAU 1945

LỜI NÓI ĐẦU

Sự xuất hiện ngày càng mạnh mẽ, qua các giai đoạn cách mạng, một

đội ngũ tác giả văn xuôi (cũng như các thể loại khác) là đặc điểm, và cũng là

thành tựu nổi bật của văn học cách mạng trong chế độ mới dưới sự lãnh đạo

của Đảng. Chính vì vậy, sau cuốn Mấy vấn đề văn xuôi Việt Nam 1945 -

1970, Nhóm văn học Việt Nam hiện đại, Ban văn học Việt Nam, tiếp tục

nghiên cứu trong chuyên đề này một số tác giả văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Khó khăn lớn đặt ra cho chúng tôi, như trên đã nói, là sự phát triển rất

mạnh mẽ của phong trào sáng tác, thể hiện trong sự ra đời thường xuyên,

ngày càng đông đảo các lực lượng viết, không phải với con số hàng chục, mà

phải tính đến hàng trăm. Chúng tôi cảm thấy, với khả năng hạn chế của mình,

khó mà bao quát cho hết được mọi hiện tượng, mọi tên tuổi đã xuất hiện

trong phong trào. Do vậy, trong phạm vi mấy trăm trang của chuyên đề, chỉ

xin phép được trình bày, trong khuôn khổ có hạn, một số cây bút tương đối

quen biết, mà chúng tôi, qua nhiều lần thảo luận, và trong tình hình nghiên

cứu hiện nay, đã tương đối có đủ điều kiện để giới thiệu với bạn đọc.

Cố nhiên chúng tôi biết rõ là vớii bấy nhiêu tên tuổi được trình bày,

cuốn sách chỉ mới có thể phản ảnh một phần nhỏ quá trình phát triển, thành

tựu và những vấn đề đặt ra trong sự nghiệp sáng tác của chúng ta. Những tác

giả đáng chú ý còn nhiều. Vả chăng cuốn sách không hoàn toàn là mội cuốn

“sử”, mà chỉ là một số chuyên đề nhỏ, cho nên chúng tôi hy vọng không lâu

sau này sẽ có dịp được trình bày tiếp các tác giả khác, hoặc về nhiều vấn đề

đã được đặt ra ở đây sẽ được bàn lại một cách thấu đáo hơn. Mặt khác, ở

những tác giả được trình bày, chúng tôi cũng chưa có ý định đề cập toàn diện

Page 2: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

những đóng góp và đặc điểm của họ mà chỉ mới đi sâu vào một vài khía cạnh

này khác, mà theo chúng tôi là có tính chất nổi bật.

Yêu cầu của bạn đọc thì cao, việc nghiên cứu, phê bình, đánh giá các

nhà văn hiện đại lại có nhiều cái khó, trình độ người viết cũng có hạn, bài viết

khó tránh khỏi các sơ suất, khiến chúng tôi lắm lú rất đắn đo. Nhưng trên tinh

thần trách nhiệm chung của tập thể, với cố gắng cao nhất của mỗi cá nhân,

chúng tôi vẫn xin mạnh dạn cho ra mắt chuyên đề này, với lòng mong mỏi

được sự góp ý kiến trên tinh thần đồng chí, đoàn kết và học tập lẫn nhau của

các nhà phê bình, nghiên cứu, nhà văn, của các đồng chí làm công tác giảng

dạy văn học, và đông đảo bạn dọc, nhằm cùng nhau chung sức thúc đẩy nền

văn nghệ cách mạng của chúng ta tiến lên mạnh mẽ hơn nữa trong giai đoạn

mới.

Cuốn sách do tập thể các anh chị em trong Nhóm nghiên cứu văn học

Việt Nam hiện đại, Ban văn học Việt Nam biên soạn với sự cổ vũ và giúp đỡ

của nhiều đồng chí nghiên cứu hoặc có quan tâm đến văn học Việt Xam.

Đồng chí Phong Lê, trưởng nhóm, phụ trách chung việc biên soạn và chữa lại

lần cuối bản thảo.

Cuốn sách đã được sự góp ý chu đáo của đồng chí Như Phong, Giám

đốc Nhà xuất bản Văn học, Phan Cự Đệ, cán bộ giảng dạy Khoa Văn Trường

đại học Tổng hợp Hà Nội và đồng chí Vũ Đức Phúc, Phó Viện trưởng Viện

Văn học, Trưởng ban Ban văn học Việt Nam. Ban biên tập Nhà xuất bản

Khoa học xã hội cũng góp phần tích cực giúp chúng tôi trong việc hoàn chỉnh

bản thảo. Nhân cuốn sách ra đời, chúng tôi xin được gửi lời cảm ơn chân

thành tới các đồng chí trong Ban duyệt và Ban biên tập Nhà xuất bản.

Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 1975

Page 3: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Phần một. MỘT SỐ NHÀ VĂN CÓ SÁNG TÁC TỪ TRƯỚC CÁCH MẠNG

Phần này trình bày một số cây bút tiêu biểu thuộc thế hệ các nhà văn

mà tên tuổi đã trở nên quen thuộc với độc giả, hoặc đã sáng tác ngay từ

trước Cách mạng.

Nhìn chung, đây là những nhà văn đã đến với văn học cách mạng từ

nhiều trào lưu khác nhau. Nhưng trong số đó, chiếm số lớn và có vị trí quan

trọng vẫn là trào lưu hiện thực phê phán với hầu hết các cây bút tiêu biểu như

Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài, Bùi Hiển,

Kim Lân, Mạnh Phú Tư, Nguyễn Đình Lạp… Ngoài ra cũng có những nhà văn

thuộc các trào lưu khác như Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Thanh

Tịnh…

Trong các nhà văn trên đây, một số đã tham gia Hội văn hóa Cứu quốc

từ trước Cách mạng như Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Nam

Cao, Kim Lân. Tuy vậy, sự nghiệp sáng tác, trình độ giác ngộ chính trị của

các nhà văn trước 1945, không phải là những đảm bảo thật chắc cho giá trị

sáng tác của mỗi người sau này. Nếu không kể những người vì bận các công

tác khác mà ít viết, thì sự đóng góp của các nhà văn thuộc thế hệ trước Cách

mạng cho nền văn học mới, nói chung khác nhau, có khi khác nhau rất xa,

phụ thuộc vào mức độ chuyển biến và tiến bộ tronq tư tưởng và thế giới

quan, về trình độ hiểu biết cuộc sống mới, về nhiệt tình cách mạng, về sự cố

gắng nhiều hay ít trong việc trau dồi ngòi bút của mình.

Cho nên bạn đọc sẽ dễ dàng nhận thấy trong đội ngũ này, có nhà văn

trước đây đã từng có địa vị quan trọng trên văn đàn, nhưng sau Cách mạng,

về mặt này hay mặt khác, đã không còn giữ được vị trí cũ của mình. Có nhà

văn phải trải qua một thời kỳ lung túng khá dài rồi mới viết, hoặc viết tốt được.

Lại cũng có nhà văn viết được đều đặn, luôn luôn giữ một vị trí xứng đáng

trong phong trào. Có những người tài năng trước kia chưa phát triển lắm, nay

tiến lên vị trí những hàng đầu.

Dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu cụ thể hơn một số cây bút tiêu biểu.

Page 4: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

NGUYỄN CÔNG HOAN sau Cách mạngNguyễn Công Hoan là nhà văn từng sống và từng viết nhiều tác phẩm

có giá trị dưới chế độ cũ. Nhưng khoảng vài năm trước ngày Tổng khởi

nghĩa, sáng tác của nhà văn có phần lạc hướng: Danh tiết và Thanh đạm bị

dư luận tiến bộ phê phán. Giữa lúc nhà văn cảm thấy đời viết văn của mình

“tàn tạ, sắp chết” thì Cách mạng tháng Tám thành công. Như đang từ bóng,

tối bước ra ánh sáng, cảm thấy “choáng mắt” vì thời đại lớn lao quá, nhà văn

còn lúng túng chưa viết được gì đáng kể thì Kháng chiến toàn quốc bùng nổ.

Nguyễn Công Hoan vào quân đội, làm công tác dạy học. Từ 1946 đến 1954,

phần lớn thời gian Nguyễn Công Hoan dành cho việc tổ chức giảng dạy, đồng

thời vừa làm chủ nhiệm, vừa biên tập tờ Quân nhân học báo. Khoảng thời

gian này, nhà văn có viết được mấy truyện ngắn về kháng chiến. Từ 1952–

1953, Nguyễn Công Hoan trở về công tác văn nghệ, học tập chính trị, tham

gia phát động giảm tô, cải cách ruộng đất, chuẩn bị cho sáng tác.

Hòa bình lập lại, Nguyễn Công Hoan mới viết tương đối đều. Năm

1935, nhà văn cho xuất bản tập truyện ngắn Nông dân với địa chủ và mấy

truyện ngắn khác.

Nguyễn Công Hoan còn viết ký. Năm 1960, nhà văn viết Những ngày

tháng Tám ở Côn Đảo và Người cặp rằng hầm xay lúa ở ngục Côn Lôn năm

1930, nói về các chiến sĩ cách mạng. Năm 1962, nhân sang thăm Ba Lan

Nguyễn Công Hoan viết Thăm nhà người anh em chiến đấu anh dũng.

Song phần sáng tác chủ yếu của nhà văn vẫn là mấy truyện dài viết về

xã hội cũ như: Tranh tối tranh sáng (1956), Hỗn canh hỗn cư (1961), Đống

rác cũ (1963). Ngoài ra, Nguyễn Công Hoan còn một số đóng góp về kinh

nghiệm viết văn, về nghiên cứu văn học, chủ yếu là văn học cổ cận đại Việt

Nam.

***

Page 5: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Quá trình sáng tác của Nguyễn Công Hoan cho thấy trước Cách mạng,

nhà văn viết nhiều truyện ngắn và truyện dài, nhưng phần chính là truyện

ngắn, và có nhiều truyện ngắn hay. Sau Cách mạng, phần sáng tác chính lại

là mấy truyện dài và rất ít truyện ngắn, đến mức mấy năm gần đây, hầu như

nhà văn bỏ hẳn thể loại này. Tuy nhiên, trước khi tìm hiểu truyện dài, chúng ta

cũng cần điểm sơ qua đến truyện ngắn (và truyện vừa), bút ký.

Mấy truyện của Nguyễn Công Hoan trong thời kỳ kháng chiến: xổng cũi

(truyện vừa, 1947, ký tên Nguyễn Văn Lung), Bà lái đò Việt Nam (truyện

ngắn, 1948).

Những truyện ngắn sau ngày hòa bình được lập lại gồm tập Nông dân

với địa chủ (1955, gồm 13 truyện) và một số truyện đăng rải rác trên báo hoặc

in chung trong các tập với người khác như Nắm cơm, Anh Dụ, Xây dựng…

Trong số những truyện này, khá nhất là Cây mít, kể lại một cách chua

chát nỗi đắng cay, tủi cực của một gia đình nông dân ta trước đây: người

trồng cây đã không được hưởng quả mà còn bị đánh đập, hành hạ dã man.

Một số truyện khác cũng đáng chú ý: Quanh cái xác chết, Chị Liền,… Nhưng

số lượng truyện dở vẫn nhiều hơn. Có thể kể: Anh Dụ, Xây dựng,…và nhiều

truyện trong tập Nông dân với địa chủ.

Trong Anh Dụ, Xây dựng, sự diễn biến nội tâm của nhân vật chưa hợp

lý, gây cho người đọc cảm giác không chân thực. Phần lớn truyện trong tập

Nông dân với địa chủ có phần sơ lược, đơn điệu, mang dáng dấp của những

báo cáo hoặc ghi chép, thu hoạch qua mấy đợt Cải cách ruộng đất.

Sau Cách mạng, Nguyễn Công Hoan viết tuy ít, nhưng vẫn có một số

truyện khá. Thêm vào đó, ngay trong những truyện dở vẫn có ít nhiều đoạn

sắc sảo, dí dỏm. Có điều, trước đây nhà văn nỗi tiếng chủ yếu do nhiều

truyện ngắn trào phúng, đả kích, còn sau Cách mạng, mấy truyện ngắn hay

lại là truyện đi vào tâm tình.

Trứớc Cách mạng, Nguyễn Công Hoan đã viết Cô làm công (theo thể

nhật ký), toàn tập tuy chưa hay nhưng có nhiều trang xúc động. Năm 1960,

Page 6: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

nhờ nghe những người thân kể lại, Nguyễn Công Hoan đã viết được hai bài

bút ký hay: Những ngày tháng Tám ở Côn Đảo và Người cặp rằng hầm xay

lúa ở ngục Côn Lôn năm 1930. Cũng có thể coi hai bài bút ký này là hai

truyện ngắn hoàn chỉnh và xuất sắc. Với lối viết sinh động, gọn gàng, súc tích,

giàu tình cảm, Nguyễn Công Hoan đã làm sống lại những sự việc xảy ra cách

đây hàng mấy chục năm, khiến người đọc ngày nay giở lại những trang sách

đó vẫn cảm thấy rạo rực một tình cảm cách mạng nóng hổi. Nhưng tập Thăm

nhà người anh em chiến đấu anh dũng thì lại hơi nặng và nhạt.

Tuy nhiên, ta vẫn thấy Nguyễn Công Hoan có khả năng viết ký hay.

Điều này càng rõ khi nhà văn cho xuất bản Đời viết văn của tôi, được đông

đảo bạn đọc hoan nghênh, cũng với lối viết nêu lên nhiều sự việc mà vẫn giản

dị, tự nhiên, hấp dẫn. Tiếc rằng Nguyễn Công Hoan viết ký còn ít.

Về truyện dài, năm 1936, Nguyễn Công Hoan cho xuất bản Tranh tối

tranh sáng (trên 300 trang) miêu tả cuộc sống buổi giao thời giữa hai giai

đoạn lịch sử, thời kỳ tiền khởi nghĩa. Năm 1961, nhà văn lại viết Hỗn canh

hỗn cư cũng khai thác đề tài trong thời kỳ này. Hai cuốn đi sâu vào hai khía

cạnh. Tranh tối tranh sáng chủ yếu lên án sự áp bức, bóc lột của bọn địa chủ

câu kết với thực dân, đế quốc. Hỗn canh hỗn cư nói nhiều đến truyền thống

bất khuất và cuộc đấu tranh của một làng trước Cách mạng tháng Tám. Năm

1963, nhà văn lại cho xuất bản Đống rác cũ (tập I) (trên 500 trang): nói về

những mánh khóe lừa đảo để làm giàu của vợ chồng tên An-be Thừa, qua đó

tập trung tố cáo khá nhiều hiện tượng thối nát trong xã hội thực dân phong

kiến những năm chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914– 1918) và sau đó ít

lâu.

Qua mấy truyện dài trên, Nguyễn Công Hoan đã bộc lộ một số ưu điểm

và nhược điểm chung. Chúng tôi không đi sâu phân tích từng tác phẩm mà

chỉ muốn nói một vài điểm bao quát, rồi từ đây thử nêu lên mấy nguvên nhân

chưa thành công trong sáng tác của nhà văn sau Cách mạng.

Page 7: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Trước kia, Nguvễn Công Hoan viết khỏe, đã lên án nhiều mặt thối nát

của xã hội thực dân phong kiến. Đến nay, với Tranh tối tranh sánq, nhất là

Hỗn canh hỗn cư, do có nhận thức mới, Nguyễn Công Hoan đã khẳng định

sức mạnh của quần chúng lao động làm nên lịch sử. Nhà văn thể hiện quá

trình giác ngộ của nhân dân từ tự phát đến tự giác, cuối cùng đấu tranh thắng

lợi dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ở đây, những người nông dân, những người

trí thức tiểu tư sản yêu nước,… đã được giác ngộ, cho nên dù phải hoạt động

gian khổ vẫn hết sức tin tưởng ở sự tất thắng của cách mạng ngay trong lòng

xã hội cũ. Nhà văn nhìn thấy phẩm chất tốt đẹp của những cán bộ Đảng.

Nguyễn Công Hoan cũng cho thấy rõ: chính sách bóc lột, đàn áp tàn bạo của

thực dân Pháp, phát xít Nhật, với sự câu kết giữa bè lũ quan lại, địa chủ

cường hào chính là nguyên nhân đã dẫn tới nạn đói khủng khiếp năm 1945.

Những thủ đoạn bóc lột địa tô, những mánh khóe chỉ điểm để phá hoại cách

mạng… của bọn địa chủ cường hào cũng bị tác giả vạch rõ. Nhà văn đã chú ý

xây dựng cả một hệ thống hình tượng từ những tên thực dân cáo già đến

những tên tay sai đủ loại. Nhờ đưa ra nhiều loại người, nhiều sự việc với thái

độ rõ ràng, nên mấy truyện của Nguyễn Công Hoan, ở mức độ nào đó, đã có

giá trị phê phán, vạch được nhiều mặt xấu xa, thối nát, đáng ghê tởm trong

chính sách cai trị của thực dân Pháp.

Do có cách nhìn mới soi sáng, lại do nhà văn hiểu biết nhiều mảng

sống của xã hội cũ nên ở truyện của Nguyễn Công Hoan chúng ta bắt gặp

những trang viết lý thú, hấp dẫn như cảnh đón tiếp tên công sứ Va-mê (Tranh

tối tranh sáng), cảnh mấy tên lính gác ở đầu làng Văn Chương (Hỗn canh hỗn

cư), cảnh mật thám khám nhà, phiên tòa xử kiện, những việc làm ám muội,

bẩn thỉu của bọn cha cố trong nhà chung… Có những bức tranh gợi lên nhiều

nét xúc động như cuộc sống ẩn dật kín đáo của gia đình Phúc Lâm, cái chết

oan uổng của cô Lễ, rồi sự lụn bại tan nát của gia đình này (Đống rác cũ, tập

I)… Trong những trang viết về xã hội cũ, có những đoạn, những trang viết hay

mà tới nay vẫn chưa thấy nhà văn nào vượt được. Nếu Đống rác cũ được

Page 8: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

sửa chữa lại công phu, nghiêm túc thì có thể trở thành tác phẩm có giá trị, vì

nó phản ánh tương đối phong phú xã hội thực dân phong kiến một thời kỳ.

Một đóng góp nữa khá đặc sắc của Nguyễn Công Hoan là yếu tố trào

phúng đậm nét trong các truyện dài. Chúng ta đều biết trong xã hội cũ có

nhiều cái xấu xa, thối nát mà trước đây các nhà văn chưa có điều kiện nói

hết, hoặc có nói cũng chưa được sâu, do nếp nhìn còn bị hạn chế. Sau Cách

mạng, chúng ta đã có một số truyện vạch rõ bản chẩt thối nát của cái xã hội

thực dân, phong kiến đáng nguyền rủa ấy, vì nó đã có lúc sống lại một cách

khủng khiếp hơn, quá quắt hơn ở miền Nam nước ta, dưới nanh vuốt nguy

hiểm của đế quốc Mỹ. Mặt khác, trong xã hội mới, do những tàn dư của tư

tưởng cũ, không phải không còn những mặt chưa tốt, thậm chí xấu nữa, mà

nhà văn cần phê phán để nêu bật những cái mới đang nảy nở. Như vậy,

truyện dài trào phúng, hoặc truyện mang nhiều yếu tố trào phúng vẫn cần

phải có. Nhưng trong thực tế sáng tác, loại này còn hiếm. Nói đến chất trào

phúng trong truyện, người ta nghĩ ngay đến Nguyễn Công Hoan với Tranh tối

tranh sáng, đống rác cũ (tập I) và nhiều đoạn trong Hỗn canh hỗn cư, đến Bùi

Huy Phồn với Phất. Ở Nguyễn Công Hoan, trước Cách mạng có nhiều truyện

ngắn trào phúng hay, truyện vừa Bà chủ cũng tương đối thành công. Đến

những truyện dài viết sau Cách mạng tuy có thiếu sót mặt này, mặt kia,

nhưng về căn bản, lối trào phúng của nhà văn nhiều khi mạnh, sắc và dí dỏm,

có duyên (đoạn tả vợ chồng Va-mê, Hàn Thưởng, vợ chồng Thừa, cả những

tên Đuy-ru-roa, cha đạo…). Có thể nói, một phần nhờ đó mà truyện của

Nguyễn Công Hoan tuy có những mặt chưa đạt, nhưng vẫn dễ đọc, không

nặng nề. Với vốn sống và tài nghệ trào phúng đó, nếu nhà văn phấn đấu để

nâng cao thêm chất tư tưởng của tác phẩm, thì chắc hẳn nhà văn sẽ có nhiều

đóng góp tốt hơn.

Đúng là sau Cách mạng, nhận thức tư tưởng của Nguyễn Công Hoan

đã có mặt đổi mới, do đó nhà văn có điều kiện để nhìn đối tượng châm biếm,

đả kích được rõ hơn, để nói thẳng không cần úp mở. Vốn sống của Nguyễn

Công Hoan về xã hội cũ lại tương đối phong phú hơn so với nhiều nhà văn

Page 9: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

hiện nay. Thực tế, Nguyễn Công Hoan có vận dụng phần nào sở trường riêng

của mình với những thuận lợi đó nên đã đạt được một số kết quả.

Nhưng nhà văn chưa khai thác triệt để những mặt mạnh của mình nên

truyện còn bộc lộ nhiều hạn chế. Có những nhược điểm lẽ ra ngày nay có thể

khắc phục được thì tác giả vẫn mắc phải, đôi khi lại ở mức độ trầm trọng hơn.

Nguyễn Công Hoan tuy hiểu biết nhiều người, nhiều việc, nhưng lắm

khi sử dụng cái vốn đó chưa thận trọng, đưa vào tác phẩm một cách hơi dễ

dãi, cho nên không tránh khỏi những trường hợp bối cảnh của tác phẩm chưa

rõ nét hoặc chưa có được đầy đủ tính chân thực, lịch sử. Nguyễn Công Hoan

còn có những chỗ yếu nhất định trong việc xây dựng nhân vật. Trước kia, nhà

văn thành công chủ yếu ở thể truyện ngắn, trong đó chỉ cần đề cập tới một vài

nhân vật với một mảng đời, một tình huống, và vì thế, ngòi bút của nhà văn

nhiều khi tỏ ra sắc sảo, hóm hỉnh. Với truyện dài, nhà văn phải đưa ra nhiều

nhân vật với cuộc sống phức tạp của họ. Đánh giá cho nghiêm khắc, nhiều

nhân vật trong truyện vừa và dài của Nguyễn Công Hoan, kể cả những truvện

trước Cách mạng, chưa thật sinh động. Bước đường cùng là một thành công

đặc biệt, nhưng chưa phải đã mô tả hay các loại nhân vật. Yêu cầu của truyện

dài là phải trình bày nhiều nhân vật, nhiều sự việc vừa phức tạp vừa đa dạng,

nên những điểm yếu của nhà văn càng bộc lộ rõ hơn. Trong các tác phẩm

Tranh tối tranh sáng, Hỗn canh hỗn cư, Đống rác cũ (tập I), phần đông nhân

vật còn mờ nhạt, có nhiều nét gượng ép, ít nhân vật có tính cách sắc sảo với

quá trình phát triển chặt chẽ, hợp lý. Ở nhiều đoạn, Nguyễn Công Hoan còn

đưa ra nhiều chi tiết tuy có thực ở ngoài đời, nhưng vì thiếu chọn lựa, sắp xếp

nên người đọc vẫn thấy chưa hợp với sự phát triển của tính cách nhân vật và

lôgích cuộc sống. Nhân vật chính diện tuy tác giả chú ý mô tả nhiều nhưng

vẫn không nổi lên được (anh Na trong Hỗn canh hỗn cư, hoặc anh Xi, anh

Nghĩa trong Đống rác cũ). Ngay đến việc thể hiện các nhân vật phản diện,

vốn là sở trường, mà Nguyễn Công Hoan vẫn để lộ những nhược điểm đáng

tiếc. Sở dĩ những nhân vật đó chưa trở thành những điển hình sắc nét là do

nhà văn chưa đi sâu thể hiện cụ thể và sinh động những mặt chủ yếu trong

Page 10: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

bản chất của đối tượng mô tả. Đôi khi, nhà văn đánh mạnh vào những khía

cạnh thứ yếu của hạng người phản diện như các mặt sinh hoạt đồi bại, hoặc

rởm đời. Việc chọn nhân vật trung tâm của truvện có khi chưa đại diện cho

một lực lượng xã hội cần tập trung phê phán (Thừa trong Đống rác cũ). Nhiều

lúc tác giả lại nói thẳng ý đồ chủ quan của mình. Vì thế, truyện dài của

Nguyễn Công Hoan thường chỉ hấp dẫn ở từng mảng.

Nhiều nhân vật của Nguyễn Công Hoan chưa thực sự là những tính

cách điển hình với cá tính rõ nét, nhân vật ở tác phẩm này nhiều khi lại hao

hao giống nhân vật ở tác phẩm kia. Chẳng hạn tâm trạng và hoàn cảnh của

chị vú em trong Nông dân với địa chủ không khác mấy chị vú em trong ông

chủ (1944). Một số nhân vật hoạt động cách mạng ở Tranh tối tranh sáng,

Hỗn canh hỗn cư cũng na ná giống nhau. Hai nhân vật me Tây Mi-mi (Tranh

tối tranh sáng) và Ma-ri (Đống rác cũ) không khác nhau mấy. Hoặc có những

sự việc trước kia Nguyễn Công Hoan đã viết rồi, nhưng do nghĩ ràng ngày

nay nhiều người chưa có điều kiện đọc được nên nhà văn viết lại, như đoạn

tả cảnh khao trong truyện Địa chủ (Nông dân nới địa chủ) gần giống đoạn tả

cảnh khao trong Cái thủ lợn; mẩu chuyện chị Mão kể cho cụ Điều nghe khi ra

thăm chồng về việc làng lập ấu trĩ viên (Đống rác cũ) cũng là sự lặp lại sơ

lược một đoạn trong Chương trình năm năm… Song sáng tác đã in ra, thế tất

có một số người đọc được, nên khi đọc lại sẽ kém hứng thú, cho nên yêu cầu

của sáng tác vẫn phải là luôn luôn phát hiện và sáng tạo cái mới.

Một nhược điểm đáng kể nữa trong tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan

là ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên. Một số truyện ngắn trươc Cách mạng

như Ái tình tiểu thuyến, Ai khôn, Đàn bà là giống yếu, Một tấm gương sáng…

đã có màu sắc tự nhiên chủ nghĩa khá rõ. Đáng tiếc là đến Tranh tối tranh

sáng, nghĩa là sau Cách mạng hàng chục năm, khi viết về nạn đói, tảc giả vẫn

chưa khắc phục được nhược điểm ban đầu. Đáng lẽ Nguyễn Công Hoan

không nên khai thác những chi tiết như mẹ ăn thịt con (dầu có thực trong

cuộc sống) bởi chưa chắc nó đã làm cho người đọc đau xót, căm thù lũ thực

dân chính là tội phạm gây ra nạn đói khủng khiếp, mà chỉ làm cho người đọc

Page 11: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

thấy ghê sợ. Trong Hỗn canh, hỗn cư có nhiều đoạn viết lan man, dài dòng,

không giúp ích gì mấy cho sự phát triển của truyện. Đến Đống rác cũ (tập I)

thì khuyết điểm này càng bộc lộ rõ. Nhiều đoạn, tác giả tả tỉ mĩ những chi tiết

vụn vặt, không giúp ích gì cho việc thể hiện chủ đề truyện, nhưng lại đầy

những yếu tố thô tục, không có tác dụng tốt về mặt tư tưởng và cũng chẳng

có giá trị nghệ thuật gì. Nhiều bài phê bình đã phê phán đúng mức những

đoạn văn như vậy, coi đó là độc tố. Cũng do đó mà nhiều nhà phê bình đánh

giá: Đống rác cũ (tập I) là một cuốn truyện tự nhiên chủ nghĩa. Thực tế, phải

thấy rằng Nguyễn Công Hoan không giải phẫu nhân vật của mình bằng học

thuyết Phơ-rớt như có lúc thấy ở Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang. Chủ nghĩa tự

nhiên ở Nguvễn Công Hoan thể hiện chủ yếu ở chỗ nhà văn chưa nêu bật

được những vấn đề lớn, mà đã sa vào những chi tiết vụn vặt, tầm thường,

gây tò mò vô ích. Đáng tiếc là gần chục năm sau, khi cho in Đời viết văn của

tôi, nhà văn cũng chưa tự phê bình thiếu sót của Đống rác cũ, và ngay trong

cuốn hồi ký này cũng còn đôi chỗ tự nhiên chủ nghĩa.

Ai cũng phải công nhận trình độ viết truyện ngắn vừa cô đọng, sắc bén,

vừa dí dỏm, hấp dẫn với một ngôn ngữ trong sáng, nhiều hình ảnh của

Nguyễn Công Hoan. Nhưng trong truvện vừa và truyện dài, nhà văn còn vấp

phải những nhược điểm về nghệ thuật. Bố cục truyện của nhà văn thường

chưa chặt chẽ. Không kể Tay trắng trắng tay, Cô giáo Minh, những tác phẩm

mà trong đó người đọc dễ thấy hàng nửa chương, có khi cả chương, chưa

khớp lắm với quá trình phát triển của truyện, mà ngay đến Bước đường cùng,

tác giả cũng tự nhận là có thể bỏ đi cả hai chương đầu. Mấy truyện dài viết

sau Cách mạng, bố cục cũng chưa chặt chẽ. Trong Tranh tối tranh sáng,

chúng ta gặp một số chương có thể chỉ cần viết gọn vào mấy trang. Hỗn canh

hỗn cư, Đống rác cũ (tập I) cũng có nhiều đoạn quá dài dòng, đôi lúc câu

chuyện bị ngập vào nhiều chi tiết bề bộn, rối rắm.

***

Page 12: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Với một cây bút có uy tín từ trước Cách mạng như Nguyễn Công Hoan,

độc giả chờ đợi nhiều trong những sáng tác sau đó, nhưng tác giả chưa đáp

ứng được đầy đủ lòng mong mỏi ấy.

Chúng ta rất hiểu những điều chủ yếu Nguyễn Công Hoan muốn nói

qua mấy tác phẩm của mình sau Cách mạng, song trong văn nghệ không

phải người viết bao giờ cũng đạt được ý muốn chủ quan của mình. Nguyễn

Công Hoan muốn phê phán thậm tệ cái cũ, cái xấu để làm nỗi bật cái mới, ca

ngợi cái mới nhưng sự phê phán ấy chưa sâu sắc, chưa thành những nhát

búa lớn bổ vào đầu địch, và những tội ác tầy trời của chúng cũng chưa bị

vạch trần tận bản chất. Những cái được tác giả, ca ngợi, những nhân vật tích

cực của phong trào hãy còn bàng bạc, chưa mang được sức sống và khí thế

tất thắng của nó. Tâm tư tưởng của tác phẩm nói chung chưa cao.

Trước kia do hoàn cảnh xuất thân và môi trường sống, Nguyễn Công

Hoan có một nếp cảm nghĩ tiến bộ, cái nhìn của nhà văn nhiều lúc gần gũi với

đông đảo nhân dân. Trong đường lối của Đảng, có phần, nhà văn tiếp nhận

được, có phần nhà văn hiểu chưa thấu đáo. Nguyễn Công Hoan cũng chưa

thật hiểu cách mạng, chưa rõ những khó khăn gian khổ của phong trào từ khi

mới là những “đốm lửa ban đầu”. Do đó, sau Cách mạng tuy nhà văn đi ngay

vào con đường đúng, nhưng như thế chưa phải đã có một cái nền vững chắc,

khả dĩ làm cơ sở cho việc nhận thức sâu sắc về xã hội mới. Phải chăng,

những hạn chế về cách nhìn ấy đã khiến cho sáng tác của nhà văn thường

vướng phải những nhược điểm khi phản ánh hiện thực mới; và cũng từ đấy,

sau Cách mạng, Nguyễn Công Hoan khó thành công ở truyện ngắn trào

phúng, một thể loại trước kia nhà văn rất sở trường. Bản chất xã hội cũ là thối

nát, đầy ung nhọt, khó có thể che giấu nên chỉ cần bắt chộp một hiện tượng,

một sự việc là nhà văn có thể viết ngay được một truyện nhiều khi mang ý

nghĩa đả kích khá mạnh và sâu. Nnưng bản chất của chế độ ta khác hẳn.

Nhất là trong giai đoạn quá độ hiện nay, nếu chỉ nhìn vào hiện tượng mà đả

kích thì có khi mắc sai lầm. Bởi hiện tượng xấu nhiều khi chỉ là cá biệt, nhất

thời, hoặc bề ngoài dường như chưa tốt nhưng thực chất đó là nhược điểm

Page 13: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

trong quá trình của một cái gì tốt đẹp đang trưởng thành. Thực tế đó đòi hỏi

nhà văn phải có cái nhìn biện chứng, phải suy nghĩ sâu mới có thể sáng tác

thành công.

Quả thực sau Cách mạng tháng Tám, xã hội mới có trang bị cho

Nguyễn Công Hoan những nhận thức mới, lư tưởng mói. Nhưng về căn bản,

nhà văn vẫn dừng lại ở cái nhìn của một tiểu tư sản trí thức, có tinh thần dân

tộc, giác ngộ cách mạng, với một thế giới quan còn nhiều hạn chế.

Phương pháp sáng tác của Nguyễn Công Hoan chưa hẳn là phương

pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, thậm chí với Đống rác cũ (tập I), nhà văn

vẫn căn bản dừng lại ở phương pháp hiện thực phê phản, còn chứa nhiều

yếu tố tự nhiên chủ nghĩa. Rõ ràng, sở trường của Nguyễn Công Hoan gắn

liền với chủ nghĩa hiện thực phê phán. Đây là phương pháp sáng tác được sử

dụng khá tốt trong nền văn học công khai nước ta trước Cách mạng tháng

Tám. Nhưng phương pháp đó chỉ có hiệu lực trong yêu cầu miêu tả mặt đen

tối của xã hội, nên sau Cách mạng nó không còn thích hợp nữa, mà phải

nhường chỗ cho một phương pháp sáng tác mới, thích hợp hơn, đó là

phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. Phương pháp này có kế thừa một

số thành tựu của phương pháp trước, nhưng về bản chất thì khác hẳn. Nó

yêu cầu phải biểu hiện hiện thực một cách cụ thể, chân thực trong sự phát

triển cách mạng, cũng có nghĩa là phải phát hiện được cái mới đang nảy nở

và cái cũ đang bị tiêu diệt, từ đấy đòi hỏi người viết phải đứng hẳn về phía cái

mới, đấu tranh cho cái mới thắng lợi. Từ yêu cầu ấy, phương pháp sáng tác

mới đòi hỏi người viết lấy việc miêu tả nhân vật tích cực làm trung tâm. Chính

vì vậy mà ở Nguyễn Công Hoan, một vấn đề nữa cũng cần bàn tới, đó là vấn

đề vốn sống mới.

Trước Cách mạng, Nguyễn Công Hoan có hiểu biết về người nông dân

và một số tầng lớp lao động khác, như viên chức, nhà văn, nhà báo, kép hát,

người làm công, đi ở, kéo xe,… Nhà văn đã có nhiều đóng góp về đề tài nông

thôn, song chưa phải đã hiểu sâu về người nông dân như hiểu bọn địa chủ

Page 14: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

cường hào. Nhà văn càng chưa hiểu công nhân bao nhiêu. Tuy nói chung

Nguyễn Công Hoan có vốn sống phong phú về xã hội cũ, nhưng tiếc rằng vốn

sống đó chưa cân xứng về các mặt. Tác giả hiểu mặt trái sâu hơn, và vì thế

chính cái mảng nhà văn còn yếu này với những con người nhà văn hiểu chưa

sâu, thì sau Cách mạng lại trở thành những nhân tố quyết định sự phát triển

của xã hội mới. Vả lại, ngay trong mặt trái cũng có bộ phận Nguyễn Công

Hoan hiểu chưa sâu, chẳng hạn bọn đế quốc. Nếu tác giả nắm vững bản chất

và căm ghét bọn thực dân Pháp như đối với bọn quan lại tay sai thì dù trước

Cách mạng nhà văn không tả được lũ chúng, sau Cách mạng, trong sáng tác

của mình nhà văn cũng có thể có nhiều thành công hơn. Phải chăng, ngày

xưa Nguyễn Công Hoan ghét Tây chủ yếu về tính chất dâm bạo và sinh hoạt

lố lăng hơn là căm thù bản chất thâm hiểm độc ác của chúng, cho nên nhà

văn không quan sát kỹ được chúng, ngày nay mô tả chúng tất nhiên khó sắc

sảo. Thêm nữa, trong cái vốn sống phong phú về xã hội những điều tác giả

cảm thụ sâu sắc, về cơ bản đã viết rồi, nay có viết lại cũng khó hay hoặc có

chỗ trở thành lặp lại, như việc tả bọn quan lại,v.v…

Trước Cách mạng, Nguyễn Công Hoan là nhà giáo chưa trực tiếp tham

gia cách mạng. Sau ngày khởi nghĩa, Nguyễn Công Hoan đã hòa nhịp dần

với cuộc sống mới. Nhưng do vị trí công tác, do thiếu điều kiện để đi sâu lâu

dài vào những mũi nhọn của cuộc đấu tranh cách mạng, nên Nguyễn Công

Hoan vẫn chưa bù đắp được đầy đủ những thiếu thốn của mình. Nhà văn đã

có lần thú nhận điều này với các bạn viết trẻ. Tất nhiên cũng nên thông cảm

là từ những năm sau hòa bình, nhà văn đã có tuổi, sức khỏe kém đi, nên sự

lăn lộn của mình ở những nơi mũi nhọn của sản xuất, chiến đấu có bị hạn

chế. Trong khi đó con người mới đã tiến những bước kỳ diệu, nhu cầu thẩm

mỹ và trình độ nhận thức của quần chúng bạn đọc cũng không ngừng được

nâng cao, làm cho nhà văn càng khó có điều kiện theo kịp. Thực tế, Nguyễn

Công Hoan đã phần nào nhận ra chỗ mạnh, chỗ yếu của ngòi bút mình.

***

Page 15: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Nghiên cứu để góp thêm một tiếng nói nhỏ đánh giá Nguyễn Công

Hoan sau Cách mạng, chúng tôi chợt nghĩ đến một nhận xét chí lý của tác

giả: “Không ai có thể nâng giá trị cho một người viết văn đến mức chưa xứng

đáng, cũng như không ai có thể dìm giá trị của một nhân tài”.

Nguvễn công Hoan là nhà văn lão thành, có tài, có nhiều đóng góp xuất

sắc trước Cách mạng; sau Cách mạng, nhà văn cũng viết được một số truyện

ngắn, bút ký khá hay, một số đoạn truyện dài có giá trị, chưa kể nhiều kinh

nghiệm viết văn và một số bài nghiên cứu có công phu. Những nhược điểm

của tác giả đều là do không tự giác, chứ không cố ý viết những điều sai trái.

Điều đáng quý nhất của nhà văn sau Cách mạng là sức làm việt dẻo dai và

nhất là sự chân thực, nhiệt tình đối với sự nghiệp cách mạng. Những nhược

điểm của mình do nhà văn thành thật nói ra, cũng để lại nhiều kinh nghiệm

quý cho lớp người viết trẻ trên đường kế tục sự nghiệp của những bậc đàn

anh. Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Công Hoan, chúng ta còn có

thể rút ra nhiều kinh nghiệm bổ ích cho sáng tác, nghiên cứu và lý luận.

NGUYÊN HỒNG và quá trình sáng tác của anhNếu có những người chỉ qua “trường đời” mà trở thành nhà văn thì phải

kể Nguyôn Hồng vào số ấy. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình đang thời kỳ

sa sút, anh không có đủ điều kiện theo học lên những bậc cao. Nhưng để bù

lại sự thãt học đó, anh đã sớm bắt rễ được vào cuộc đời của những người

nghèo khổ. Đấy là nét nổi bật ở Nguyên Hồng, nó để lại dấu ấn khá đậm trên

mỗi bước đi trong quá trình sáng tác của nhà văn.

Thời thơ ấu cực khổ đã dạy cho anh biết xót thương những con người

cùng cảnh ngộ và lòng thương xót đó đã khiến anh viết nên những trang ca

ngợi và bênh vực họ. Có lẽ chính vì họ mà Nguyên Hồng đã sớm cầm bút, và

cũng chính nhờ viết về họ mà anh đã sớm thành công. Không giống với nhiều

cây bút cùng thời, đi vào làng văn một cách lặng lẽ, dần dà, Nguyên Hồng

xuất hiện trong làng văn ấy khá đột ngột, với một số truyện ngắn rối tiếp luôn

Page 16: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

đến tác phẩm nổi tiếng Bỉ vỏ (trích đăng báo –1937; xuất bản – 1938). Sau Bỉ

vỏ là Những ngày thơ ấu (đăng báo – 1938; xuất bản –1941), rồi đến Bảy

Hựu (1941). Tâm hồn non trẻ, trắng trong của nhà văn lúc này, một tâm hồn

dạt dào tình thương và lòng nhân đạo, đã đem lại cho văn chương đương

thời cái nhìn với nhiều đổi mới về cuộc sống và con người. Dưới ngòi bút của

anh, cả đến một cô gái điếm và một kẻ lưu manh “chạy vỏ” cũng hiện lên như

những con người có tình yêu chân thành và có lòng nhân đạo.

Tuy nhiên, vì tuổi đời còn ít và vốn sống tích lũy được chưa phải đã

nhiều, cho nên nhà văn không tránh khỏi một cái nhìn còn ít nhiều lý tưởng

đối với cuộc sống nay đây mai đó của mọi hạng lưu manh. Anh chưa phân

biệt được trong số ấy, đâu là những con người lương thiện, bị cuộc sống xô

đẩy đến cùng cực rồi trở thành lưu manh, mà trong thâm tâm vẫn luôn luôn

dằn vặt, đau khổ, chỉ mong có ngày được trở lại sống cuộc đời lương thiện;

và đâu là những kẻ tự nguyện chọn nghề “Chạy vỏ” để sống. Anh chỉ thấy họ

đều nghèo khổ và đều đáng thương như nhau, vì vậy anh đã gắn cho họ

những phẩm chất cao quý như nhau: tính hào phóng và tâm hồn rộng mở,

lòng thương yêu và sự đùm bọc nhau khi xảy ra tai nạn hay lúc gặp khó khăn

và tinh thần sẵn sàng hy sinh vì bạn.

Rất có thể, sau Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu và Bảy Hựu, Nguyên Hồng

sẽ còn bị hạn chế lâu nữa trong cái nhìn thương người một cách chung chung

ấy, nếu như anh không bắt được vào huyết mạch của ngọn lửa cách mạng

đang âm ỉ cháy trong lòng giai cấp công nhân lúc ấy. Nhưng nhờ từ nhỏ

Nguyên Hồng vẫn sống giữa những người lao động nghèo khổ và nhờ chịu

ảnh hưởng mạnh mẽ của Đảng trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, cho nên đến

lúc này anh đã phần nào hiểu được và gắn bó với phong trào đấu tranh của

giai cấp công nhân. Do đó, từ cái nhìn nhân đạo chung chung, anh dần dần

chuyển sang một cái nhìn ít nhiều có mang tính chất giai cấp, nghĩa là anh đã

hướng cảm tình của mình về phía những người lao động, viết tác phẩm ca

ngợi cuộc đấu tranh kiên trì và tất thắng của họ – Người đàn bà Tầu (1939).

Ở đây, bằng một bút pháp rất gần với bút pháp của các nhà văn hiện thực xã

Page 17: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

hội chủ nghĩa, Nguyên Hồng miêu tả cuộc bãi công, trong một quy mô rộng

lớn chưa từng thấy, của anh chị em công nhân thành phố Hải Phòng vào

tháng 6 năm 1939, giữa cao trào cách mạng trong cả nước. Qua hình ảnh

một bà mẹ Trung Quốc chạy loạn sang Việt Nam, tự nguyện tham gia vào

cuộc đấu tranh này, nhà văn đã nói lên được mối tình đoàn kết của nhân dân

Việt Nam với giai cấp công nhân quốc tế. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh vào ý

thức giai cấp và tinh thần đồng chí ở những người công nhân đã được cách

mạng giác ngộ và đã biết đoàn kết thành một đội ngũ có tổ chức, có kỷ luật để

tiến hành đấu tranh chống bọn tư bản chủ xưởng. Nhà văn khẳng định rằng,

nhờ có sự giác ngộ giai cấp ấy, có ý thức tổ chức và kỷ luật ấy, có tinh thần

đoàn kết nội bộ và quốc tế ấy mà cuộc đấu tranh đã kết thúc hoàn toàn thắng

lợi. Có thể nói, Người đàn bà Tầu là đỉnh cao của tư tưởng Nguyên Hồng

trước Cách mạng. Bởi vì từ sau tác phẩm này, nhà văn không còn tiếp tục đi

vào đề tài công nhân nữa, mà anh đi theo hướng của Những ngày thơ ấu,

nghĩa là hầu như chỉ thu hẹp sáng tác mình trong phạm vi miêu tả cuộc sống

của một thanh niên tri thức tiểu tư sản nghèo. Anh viết một loạt tác phẩm:

Cuộc sống (1942), Miếng bánh (viết vào khoảng 1943, xuất bản – 1945), Hơi

thở tàn (1943), Ngọn lửa (1944). Nhân vật chính ở đây thường là một thanh

niên tương đối có học và có lý tưởng nhưng vì cùng túng mà phải lận đận,

thậm chí cuối cùng chết trong nghèo đói. Nhưng điểm đáng quý ở họ là tinh

thần lạc quan, họ luôn tin tưởng ở một ngày mai xán lạn sẽ đến trong cuộc

đời họ. Và chính tinh thần lạc quan ấy đã giúp họ có đủ nghị lực để sống, và

cao hơn, để làm cách mạng (như Giang trong Ngọn lửa). Cũng chỉ từ Ngọn

lửa ta mới lại thấy thấp thoáng trong tác phẩm của Nguyên Hồng bóng dáng

người cộng sản, và mới lại thấy anh có nhắc tới phong trào công nhân. Cũng

cần phải nói thêm là, ở giai đoạn này, Nguyên Hồng có một tác phẩm hơi lạc

lõng so với toàn bộ sáng tác của anh – đó là truyện Lưới sắt, miêu tả tâm

trạng có phần hoảng hốt của một người đã từng tham gia cách mạng và bị

bắt, vừa được tha từ Côn Đảo về. Tác phẩm này đáng ra không nên có trong

sáng tác của nhà văn. Tuy nhiên, nhìn chung trước Cách mạng tháng Tám,

Page 18: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Nguyên Hồng vẫn là một trong những nhà văn giác ngộ cách mạng sớm. Vì

vậy chúng ta không ngạc nhiên khi, sau hàng loạt tác phẩm nhàn nhạt như

Cuộc sống, Miếng bánh, Hơi thở tàn, v,v… anh lại viết được tác phẩm giá trị

như tập Địa ngục và Lò lửa (xuất bản 1946). Ở đây tác giả đề cập tới hai vấn

đề lớn của giai đoạn lịch sử ấy: nạn đói khủng khiếp đang lan tràn như một

bệnh dịch trong cả nước và phong trào cách mạng đang dâng lên như nước

vỡ bờ. Nói là hai vấn đề, nhưng thực chất chúng chỉ là một, hay đúng hơn,

chúng gắn bó với nhau, khăng khít trong một quá trình biện chứng. Chính cái

“địa ngục” của sự đói nghèo cùng cực đã là nguyên nhân thúc đẩy con người

đi vào một cuộc thử thách lớn lao, vào “lò lửa” cách mạng. Đau lòng biết bao

khi ta đọc những trang trong Người học trò, Vũng máu, Đi, Tiếng nói và Tàu

đêm. Nhưng cũng qua những trang đó, chúng ta mới có thề khẳng định được

cách mạng là tất yếu, con người sống khổ hơn cả kiếp ngựa trâu thì làm sao

còn chịu mãi một bề. Họ sẽ phải đứng lên. Và quả là như vậy, Nguyên Hồng

đã cho ta thấy rõ cái quá trình tức nước phải vỡ bờ ấy. Qua tác phẩm của

anh, chúng ta thấy những người chiến sĩ cách mạng thật dũng cảm, kiên

cường (Nam trong Lò lửa và bà cụ Việt trong truyện ngắn cùng tên).

Tuy nhiên phải nhận rằng, tác giả viết về những cảnh “địa ngục” đạt

hơn về “lò lửa”. Trước mắt chúng ta như hiện lên những làng quê đang “lịm

dần, lịm dần” trong cơn vật lộn với cái đói đến kiệt sức và những phố xá với

cái cảnh ăn mày “lũ lượt… tràn hết mọi ngả. Họ đi như thế rồi mà lả đi…”

(Lửa thiêng); và mặc dầu có một vài trang ngòi bút nhà văn hơi tự nhiên chủ

nghĩa, khi anh đưa vào tác phẩm mình cả những chi tiết ghê sợ, rợn người,

song lại có những trang anh cho ta thấy con người, ngay cả trong khi đói,

cũng vẫn giữ được nhân cách của mình. Chẳng hạn như các nhân vật trong

Tiếng nói và Tàu đêm. Tiếng nói kể lại câu chuyện một người đàn ông thà

chịu chết đói chứ nhất định không chịu đi ăn mày, không chịu sống bám vào

lòng thương của người khác, nhất đấy lại là lòng thương hại của những kẻ

giàu sang; anh ta chỉ có một nguyện vọng duy nhất là được đi làm để nuôi

thân. Nhưng cuộc sống đã cùng quẫn đến mức cả cái nguyện vọng nhỏ nhoi

Page 19: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

ấy cũng không sao tìm được nơi thực hiện. Truyện Tàu đêm kể, có hai mẹ

con đã đến bước đường cùng, người mẹ phải thắt ruột lại mà ném con xuống

sông, rồi mình cũng nhảy xuống chết theo. Những tác phẩm như thế có một

giá trị tố cáo lớn. Nó vạch cho thấy hết sự tăm lối và bế tắc của cái địa ngục

trần gian là xã hội Việt Nam những năm trước Cách mạng. Nhưng ngược lại,

những tác phẩm của anh viết về đề tài cách mạng thì lại có phần hơi yếu. Hai

nhân vật Nam và bà cụ Việt được miêu tả còn sơ sài, và điều cơ bản là, các

nhân vật ấy vẫn mắc cái nhược điểm cố hữu của nhiều nhân vật Nguyên

Hồng là thuyết lý nhiều, nhất là bà cụ Việt. Suốt từ đầu đến cuối truyện, ta

toàn thấy bà cụ lúc thì giảng giải cho mọi người: “Cả ông Nhật cũng là giống

đi ăn cướp”, lúc thì kêu gọi: “Chúng ta phải thoát đời trâu ngựa,., phải sống

cho ra người”, v.v… và v.v… mà không thấy tác giả miêu tả hành động nào

của nhân vật cả. Người đọc có cảm giác như đây chỉ là một con người tượng

trưng chứ không phải con người thực, thay tác giả đứng ra để nói lên những

nhận thức của nhà văn về cách mạng. Ngoài hai đề tài về đói và cách mạng,

truyện Buổi Chiều, xám (trong Địa ngục và Lò lửa) còn đề cập tới đề tài chiến

tranh. Nhà văn đã thành công trong việc lên án một cuộc chiến tranh đế quốc,

gây đau thương tang tóc cho con người; anh đã nói lên được tâm trạng chán

chường của những người lính đánh thuê: họ thà chọn cái chết còn hơn đi làm

bia đỡ đạn để làm giàu cho một lũ “lái súng khát vàng và máu”.

Có thể nói, Địa ngục và Lò lửa là một mốc mới trong quá trình sáng tác

của Nguyên Hồng, nó đánh dấu bước chuyển biến không những trong tư

tưởng của nhà văn mà cả trong đời sống xã hội. Hay đúng hơn, phải nói

ngược lại, sự chuyển biến trong đời sống xã hội, cuộc Cách mạng tháng Tám

thành công đã dội vào tư tưởng của nhà văn và cuốn người cầm bút vào

dòng thác cuồn cuộn của mình, buộc anh phải quan tâm tới nó, phải phản ánh

những vấn đề của nó. Và Nguyên Hồng, tuy chưa dám tự mình lao thẳng vào

dòng thác ấy, nhưng cũng đã phần nào để cho nó cuốn mình theo. Và anh đã

viết tác phẩm ca ngợi cách mạng với tất cả tấm lòng khâm phục và ngưỡng

mộ.

Page 20: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Nhưng sự thắng lợi của cách mạng không phải lúc nào cũng hiện ra

rầm rộ, ồ ạt và vui như một ngày hội lớn, mà thắng lợi đó còn đòi hỏi phải

được bảo vệ bằng những quá trình đấu tranh gay go quyết liệt. Cuộc kháng

chiến chống Pháp là một giai đoạn trong quá trình đấu tranh như thế. Và như

chúng ta đã biết, đấy là thời kỳ thử thách không phải chỉ riêng với Nguyên

Hồng mà còn là chung cho hầu hết các nhà văn có quá trình sáng tác từ

trước Cách mạng. Nhưng không ít người trong số họ đã vượt qua được thử

thách ấy một cách không đến nỗi quá chật vật, bởi vì họ có một quyết tâm cao

đi vào cuộc sống lao động, chiến đấu của quần chúng để tự cải tạo mình. Các

nhà văn này ngay trong kháng chiến đã viết được những tác phẩm có giá trị,

đánh dấu một thời kỳ lịch sử. Còn một số nhỏ các nhà văn khác, thì do

nguyên nhân này hay nguyên nhân khác đã không làm được như thế. Có lẽ

Nguyên Hồng thuộc loại này. Trong suốt chín năm kháng chiến, anh không

viết được bao nhiêu: Vài tập ký: Đất nước yêu dấu (1949), Đêm giải phóng

(1951); mấy tập truyện ngắn: Dưới chân cầu Mây (1951), Giữ thóc (1955)

mỏng cả về số trang cũng như số phận.

Thế nhưng, khi kháng chiến thành công, đất nước mang vòng hoa chói

lọi và ngày hội chiến thắng lại đến, thì nhà văn hình như cũng sống lại cùng

với cái không khí hòa bình. Tất nhiên, lúc này cũng còn biết bao nhiêu khó

khăn to lớn mà chúng ta sẽ phải vượt qua; nhưng dù sao, đối với nhà văn,

tiếng bom đạn cũng đã im và con người đã có thể sống một cách tương đối

yên ổn. Và Nguyên Hồng lại xông xáo đi vào thực tế. Anh về lại Hải Phòng,

nơi trước kia anh đã từng nhiều năm lăn lộn, và lại bắt ngay được vào mạch

sống của thành phố, đối với anh đã trở thành gần như quê hương. Và không

lâu sau đó, anh đã có tác phẩm ra đời. Đầu tiên là tập thơ Trời xanh (1961)–

tràn đầy tình yêu thiên nhiên hùng vĩ và đất nước giàu đẹp đang thay da đổi

thịt. Rồi tiếp theo là phác thảo của một bộ tiểu thuyết cỡ lớn Cửa biển (lúc

đầu nhà văn định viết thành ba tập, nay dần dần đã thành bốn) mà anh đã

hoàn thành ba tập đầu, với một số trang có thể nói nhiều vào loại hiếm có ở ta

– gần một nghìn rưỡi trang. Tập I – Sóng gầm – ra đời năm 1961; tập II – Cơn

Page 21: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

bão đã đến – hoàn thành năm 1968; và gần đây nhất, năm 1973, Nguyên

Hồng đã cho in tập III – Thời kỳ đen tối. Song song với bộ tiểu thuyết lớn này,

nhà văn còn viết một tập hồi ký – Bước đường viết văn (in năm 1970) – ôn lại

những kỷ niệm cũ trong cuộc đời sáng tác, nhưng trang sách đầu tay và cái

không khí văn chương những năm xã hội Việt Nam đang trong cơn chìm nổi.

Ngoài ra, anh còn viết một số truyện ngắn đăng trên báo Văn nghệ. Trong số

này nổi bật nhất là truyện Cháu gái người mãi võ họ Hoa kể về sự đổi thay

trong cuộc đời một gia đình Hoa kiều trước và sau Cách mạng.

Tuy nhiên, không phải Nguyên Hồng đã hoàn toàn khắc phục được

những nhược điểm cũ của mình: cái chủ nghĩa nhân đạo chung chung ban

đầu ở anh có lúc đã trở lại (trong Chnyện cái xóm tha hương ở cửa rừng suối

Cát và con hùm bồ côi); và cũng do thiếu cảnh giác mà trong thời kỳ Nhân

văn–Giai phẩm, Nguyên Hồng có lúc đã không nhận ra được tư tưởng phản

động của bọn này.

Nhưng những ưu điểm và nhược điểm của sáng tác Nguyên Hồng sau

Cách mạng biểu hiện rõ nét nhất và tập trung nhất trong bộ tiểu thuyết lớn

Cửa biển của anh, mà chúng ta đã được đọc ba tập (Sóng gầm, Cơn bão đã

đến và Thời kỳ đen tối), viết về xã hội Việt Nam những năm tiền Cách mạng.

Ở đây, cũng như trước kia, anh tỏ ra rất thông thuộc về cuộc sống của

lớp dân nghèo xóm thợ. Chính nhờ vậy mà anh đã thành công trong việc xây

dựng một số nhân vật, thậm chí, một số gia đình tiêu biểu cho lớp dân nghèo

xóm thợ ấy. Đấy là nhà mẹ La, cực khổ và cùng quẫn. Một mình mẹ đi làm

nuôi ba con nhỏ, lại thêm bị người chồng nghiện rượu luôn luôn hành hạ. Cứ

lúc nào “bòn không ra sờ không thấy” thì lão lại mò về, để ăn hại, để bòn rút

và… để làm cho mẹ La lại phải đẻ thêm một đứa con; rồi lão lại bỏ đi. Cũng

vào một lần lão La mò về như vậy, mà trong nhà mẹ La đã xảy ra tấn bi kịch

đến nỗi gia đình tan nát: lão La đói rượu quá đã liều mạng đem cầm chiếc nồi

đồng của nhà mẹ Xim, hôm trước thằng La mượn luộc khoai. Mẹ La giận lão

đến bầm gan tím ruột, mẹ ngồi sẵn ở cửa chờ lao về, và lão La chỉ vừa loạng

Page 22: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

choạng bước vào nhà, mẹ đã phang ngay cho lão một thanh gỗ vào chân. Cái

chân lành còn lại của lão thế là què nốt! Đêm ấy, đau đớn quá, lão La đã tự tử

chết ở bờ ao. Mẹ La thì bị bắt đi tù vì tội ”giết chồng”. Ba đứa con nhỏ ở lại bơ

vơ.

Cái cảnh sẩy đàn tan nghé ấy đã diễn tả không phải chỉ với gia đình mẹ

La. Nhà ông Dâng Cũng vậy. Bỗng dưng vô cớ thì một tai vạ ập đến: ông

Dâng bị cảnh sát bắt vì khám thấy trong nhà ông có mấy mảnh vải; Con chim

mà Gái đen vừa mua lại đượcc cho ông, chắc là của bọn ăn cắp. Ông bị đánh

đập tàn nhẫn; ức quá ông Dâng đã cắn lưỡi tự tử chết trong nhà giam. Dâng

phải vào làm con ở cho nhà Thy San, còn chị em Ngọt chẳng biết tha phương

cầu thực nơi nào.

Gia đình cụ Cam tuy không đến nỗi như thế, nhưng cũng đã trải qua

một tấn bi kịch đau lòng. Gái đen lúc đầu thảo lảo, xởi lởi và đáng yêu là thế

mà rồi về sau hóa ra sa ngã; và kết quả cuối cùng cũng lại là cái chết. Cái

chết vừa là hình phạt đối với Gái vì sự phản bội, mà cũng lại vừa là sự giải

thoát cho Gái khỏi mọi nỗi day dứt, đau khổ vì sự ruồng rẫy của những người

thân yêu (một bên là ông nội Gái, cụ Cam; và bên kia là Kiều, người Gái bấy

lâu dan díu). Cái chết của Gái càng bi thảm hơn bên cạnh cái chết của cha

Gái ngoài Côn Đảo. Người cha đã hy sinh vì hết lòng đấu tranh cho lý tưởng

cách mạng, còn người con gái lại chết vì đã xa rời cái lý tưởng đó.

Nói chung trong cuộc sống tối tăm khổ cực trước Cách mạng, những

cảnh bi thảm như thế là rất thường gặp, nó như không thể nào tránh khỏi đối

với bất cứ ai, với bất cứ một gia đình cùng túng nào. Vì nghèo mà họ phải

chịu mọi nỗi oan khiên, cũng vì nghèo mà họ trở nên tàn nhẫn, cắn rứt nhau,

có khi đánh đập nhau. Chỉ đến lúc tấn bi kịch đã xảy ra rồi, họ mới ân hận,

dằn vặt thì đã quá muộn. Chính cái tâm trạng thương chồng da diết, thương

con đến điên dại, liều lĩnh của mẹ La là biểu hiện nỗi niềm ân hận ấy. Nhưng

cũng lại chính những con người lúc thường có thể đánh nhau, chửi nhau mất

mặn mất nhạt như thể, lại hết sức thương yêu đùm bọc nhau khi tối lửa tắt

Page 23: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

đèn. Nhà Thanh hết gạo, mẹ con Thanh lặng lẽ nhịn ăn. Nhưng Gái đen đã dò

biết được, và Gái đã tự tay chia sẻ bớt số gạo mà cô lấy cắp được và quét

được ở ngoài kho, mang sang cho cái Ngơ, nói dối là mẹ nó nhờ Gái mua hộ.

Hơn thế nữa, bà con trong xóm lại còn bàn nhau tìm cho Thanh một công việc

để kiếm ăn. Thế là Thanh nghiễm nhiên trở thành cậu giáo dạy đám trẻ con

của những người hàng xóm nghèo khổ ấy. Nhờ đó, gia đình Thanh thoát khỏi

được cảnh sống bữa đói bữa no.

Nhưng mặt khác, qua gần một nghìn rưỡi trang sách của ba tập Sóng

gầm, Cơn bão đã đến và Thời kỳ đen tối, chúng ta chưa hình dung nổi, rồi

đây những con người lao động nghèo khổ như mẹ La, như Dâng, như Ngọt

v.v… kia làm thế nào mà đến được với cách mạng, bởi vì đối với họ, cách

mạng còn xa vời quá. Chỉ có Gái đen là người có triển vọng nhất trong số ấy,

thì cuộc đời Gái lại rẽ vào một con đường hoàn toàn lạc: Gái đi buôn lậu, rồi

Gái mê Kiều (một tên chỉ cách mạng mồm và cuối cùng quay ra phản bội) mà

bỏ cả gia đình, cả bè bạn; và kết quả là Gái chết một cách thảm thương, để

lại đứa con vừa lọt lòng mẹ. Thực ra, gia đình Gái là một gia đình có truyền

thống cách mạng lâu đời: cụ Cam (ông nội Gái) đã từng là nghĩa quân của Đề

Thám, cha Gái (bác Quất) hoạt động cách mạng bi bắt đày ra Côn Đảo rồi

chết ở ngoài ấy; còn Cam em trai Gái) nay cũng đã bắt đầu đi vào con đường

của ông và cha nó; rồi cả bản thân Gái nữa, từ trước đến giờ Gái vẫn tự hào

vì cha mình, vẫn sống rất tốt. Vậy mà bỗng nhiên Gái biến chất. Làm sao có

thể giải thích được hiện tượng này?

Còn những nhân vật được nhà văn miêu tả như những chiến sĩ cách

mạng ngay từ đầu, như Chấn, Lương, Tò Gầy, Xim, bác Vy và cả Sấm nữa,

nói chung đều còn mờ nhạt, họ hầu như chưa có tính cách, chưa diện mạo rõ

ràng. Tất nhiên, ở một số cảnh, một số trang, tác giả đã có những thành công.

Chẳng hạn, những trang anh tả sinh hoạt của các chiến sĩ cách mạng trong

nhà tù, đặc biệt là Tô Gầy, một con người đã sinh tất cả vì sự nghiệp của

Đảng; và đối lập với anh, là Kiều, một kẻ đầu hàng, phản bội, sợ chết; những

trang tả cuộc gặp gỡ của hai vợ chồng Sấm trong căn phòng hỏi cung thật

Page 24: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

xúc động. Phải được sống qua, hay ít nhất cũng phải được chứng kiến những

cảnh và những người ấy, nhà văn mới viết nổi những trang như thế.

Riêng đối với nhân vật tiểu tư sản, mà ngay từ đầu quá trình sáng tác,

Nguyên Hồng đã chú ý tới một cách ít nhiều đặc biệt, thì ở đây cũng thế. Anh

đã dành cho Thanh một số trang đáng kể, và về mặt nào đó, phải nhận rằng

anh đã thành công, hay ít ra thì cũng đã trung thực trong việc miêu tả con

người và cuộc sống của Thanh. Có lẽ, Thanh là loại nhân vật mà tác giả hiểu

kỹ hơn bất kỳ một loại người nào khác; có thể nói, anh hiểu họ như hiểu chính

bản thân mình. Vì vậy mà anh đã chộp được rất đúng, như người bắt quả

tang những suy nghĩ thầm kín không lấy gì làm đẹp đẽ, cũng như những biểu

hiện yếu đuối và những giờ phút dao động thoáng qua trong Thanh. Chỉ tiếc

là anh vẫn chưa có được một cái nhìn thật đổi mới đối với bản chất tiểu tư

sản của nhân vật này. Anh chưa phê phán được một cách triệt để những mặt

hạn chế trong tư tưởng cũng như trong hành động của Thanh. Chẳng hạn,

thái độ dao động của anh ta khi phong trào cách mạng xuống hay thái độ

thèm khát đến ghen tị của Thanh đối với cuộc sống tư sản giàu sang và hành

động mê muội của anh ta với Giáng Hương. Điều này chứng tỏ tư tưởng của

chính bản thân nhà văn còn có chỗ bị hạn chế, anh cũng chưa có được một

cái nhìn sáng suốt đối với bản chất của bọn này.

Có lẽ cũng vì vậy mà dưới ngòi bút của tác giả, các nhân vật thuộc giai

cấp tư sản như Giáng Hương, Huệ Chi và cả Thy San nữa, đã hiện lên với

nhiều nét đẹp. Thực ra mà nói, có lẽ anh mới chỉ thấy cái bề ngoài đẹp đẽ giả

tạo của chúng chứ chưa thấy hết cái xấu xa bên trong, cái bản chất bóc lột,

ăn bám và thối nát của chúng. Nhìn vào Giáng Hương, anh thấy (hay nếu

không thì anh cũng đã cho chúng ta thấy), đấy là một người đàn bà có tâm

hồn phóng khoáng, rất nghệ sĩ mà lại cũng hết sức mực thước, vừa học rộng

có tài, rất thông minh, thanh lịch và xinh đẹp vào loại hiếm có; lại vừa tỏ ra

giản dị, khiêm nhường và có vẻ rất bình dân trong sinh hoạt hằng ngày. Cũng

như Giáng Hương, Huệ Chi lại là tấm gưong về lòng trong trắng và trinh bạch

của người con gái, được biểu hiện một cách tượng trưng và kín đáo qua hình

Page 25: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

ảnh những bông huệ và những bông hồng trắng, hai thứ hoa mà Huệ Chi vẫn

ưa dùng. Còn Thy San thì đẹp trai, lịch lãm và khi cần, lại có thể tỏ ra là một

con người có tinh thần chống đối nữa. Chẳng hạn, khi Đờ Vanh-xi rủ y họp

tác với hắn trong việc chuyển cảng Hải Phòng ra Hồng Gai. Thy San thấy đây

chưa phải là cơ hội tốt nhất để cho mình kiếm lời, nên đã từ chối. Nhưng y lại

làm ra vẻ như mình là một người cao thượng, khinh ghét bọn cướp nước:

“Được! Con cáo già và chó đói này (chỉ Đờ Vanh-xi) sẽ phải thấy một người

Việt Nam như thế nào!”, rồi lại chửi thầm Đờ Vanh-xi: “Hừm, họ Đờ quý tộc

Pháp đấy! Một bằng kỹ sư quèn. Lại là quan ba nữa! Vừa bao thầu làm các

đường tàu, kho, bến, doanh trại, cầu cống, chợ búa… lại còn ngoạm vào cả

cứt nữa…”. Những câu chửi kể cũng khá cay độc, vạch ra được bản chẩt bẩn

thỉu của bọn thực dân; nhưng giá nó là lời của một nhân vật trí thức tiến bộ

nào đó thì hợp hơn, chứ còn về Thy San nói những câu ấy thì có vẻ không

thật, vì nó thốt ra từ một cái miệng vốn cũng không lấy gì làm sạch sẽ.

Như vậy chúng ta thấy, Nguyên Hồng sau Cách mạng chỉ là sự kế tiếp

một cách lô-gích Nguyên Hồng những năm trước Cách mạng, nhưng hình

như trong anh chưa có bước phát triển nhảy vọt.

Cho nên, khi đánh giá Nguyên Hồng, trước tiên cần khẳng định ở anh

những đóng góp đáng kể với tư cách là một nhà văn hiện thực phê phán tiến

bộ nhất, tiếp cận gần nhất với cách mạng, anh không chỉ hiểu cách mạng mà

còn viết về cách mạng, cũng không phải chỉ viết một cách cảm tính, mà ít

nhiều có quan điểm, có lý luận. Quan điểm nghệ thuật có bản nhất mà anh

nhiều lần khẳng định qua các tác phẩm của mình là: sự đòi hỏi nghệ thuật

phải nhất thiết gắn liền với cuộc sống, phải phục vụ cuộc sống một cách thiết

thực. Lần lại các tác phẩm của anh, ta sẽ thấy rõ điều ấy. Trong Cuộc sống,

anh viết: đối với người cầm bút “không có gì cô độc và nhỏ nhen bằng phải xa

Người” (chỉ cuộc sống)… “hay bị lìa Người bởi sự nghèo nàn và ích kỷ của

tâm hồn ta” và cũng như vậy, đối với “bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào

thiếu những cái đó (chỉ cuộc sống) là không có tất cả, là chết!”. Trong Hơi thở

tàn, anh khẳng định: những nhà văn nào chỉ say theo “những cái mộng phiêu

Page 26: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

lưu với rừng, biển, trăng và những tình yêu thi vị” thì không mang lại gì cho

cuộc đời. “Trăng sáng, trời cao và không khí trong xanh gợi ra trên kia Sinh

vẫn trông ngắm đấy, mà Sinh có thấy vui sướng đâu?” Và đến Ngọn lửa thì

nhà văn tự kiểm điểm lại mình: “Trước kia sự viết đối với An chỉ là để cởi mở

những xúc động”, để “tự lừa dối và lừa dối bao người bằng những danh từ

văn hoa, đẹp đẽ, làm sai lệch, lầm lẫn cả sự nhìn nhận cuộc đời, gây cho

mình và chung quanh một cái u mê giữa những khốn nạn không được tìm

hiểu, giải thoát mà lại thấy thi vị nữa”. Và anh tự đặt cho mình nhiệm vụ phải

hoàn toàn cải tạo mình: “Cuộc sống phải được nhìn nhận khác hẳn từ đây(…)

với một tinh thần mới của An, cuộc sống không còn là những cớ để An rên

xiết ủ rũ nữa. Cuộc sống phải là những kích thích không ngừng của những

tha thiết yêu thương mới, của những chứa chan tin tưởng mới, của sự nỗ lực

mới làm việc trên cái mặt đất mà không còn ai dám thấy mình tàn héo và chắc

chắn phải thay đổi, xóa bỏ hết những đói khổ, đau xót”. Quan điểm này rất

gần với tư tưởng của các nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Cho nên, tiếng nói mới, riêng biệt của Nguyên Hồng góp vào dòng văn

học hiện thực phê phán, về căn bản vẫn là một tiếng nói yêu thương, nhân

đạo, có phê phán, nhưng không mỉa mai, trào lộng như Nguyễn Công Hoan,

không chì chiết và đau đớn như Nam Cao, hay sâu sắc nặng nề như Ngô Tất

Tố, mà sôi nổi, lạc quan, tràn đầy một lòng tin ở ngày mai tươi sáng vì nhìn

thấy được những phẩm chất đẹp đẽ ở những con người nghèo khổ hôm nay.

Từ sau Cách mạng, Nguyên Hồng vẫn tiếp tục viết về các đề tài cũ và

cũng đã có những đóng góp đáng kể vào nền văn xuôi sau Cách mạng với

các tác phẩm Địa ngục và Lò lửa và bộ bốn tiểu thuyết Cửa biển. Nhưng nhìn

chung, sự đổi mới về mặt phương pháp sáng tác ở anh chưa phải đã thật sâu

sắc, trọn vẹn.

Chúng ta không đòi hỏi các nhà văn lớp trước Cách mạng phải rời bỏ

những đề tài về xã hội cũ. Nhà văn vẫn có thể dùng vốn cũ của mình để phục

vụ tốt cuộc sống hiện tại, nhưng phải với điều kiện luôn luôn gắn mình với

Page 27: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

những yêu cầu mới, với tình hình và nhiệm vụ chính trị mới của cuộc cách

mạng hiện nay. Bởi vì, dù viết về quá khứ đi nữa, nhà văn vẫn phải đặt nhiệm

vụ của mình là đóng góp phần giải quyết những vấn đề nóng hổi của thời đại,

chứ không phải cứ viết một cách tự nhiên, cứ trình bày tất cả mọi kiến thức

của mình về xã hội cũ một cách xô bồ là được. Chúng ta muốn đọc những tác

phẩm viết về xã hội cũ với một cái nhìn và một phương pháp sáng tác hoàn

toàn mới – cái nhìn của một con người thời đại và phương pháp hiện thực xã

hội chủ nghĩa.

NGUYỄN TUÂN trong tùy bútTên tuổi Nguyễn Tuân gắn với trào lưu lãng mạn trong văn học Việt

Nam những năm đại chiến thế giới thứ hai. Đó là một thứ lãng mạn tiêu cực,

thoát ly cuộc sống, với sự đề cao tuyệt đối chủ nghĩa cá nhân hưởng lạc, có

mặt nào đó muốn như là một sự phản ứng với thực tại, nhưng lại gây ra nhiều

ảnh hưởng tiêu cực đối với cuộc sống lúc này. Đúng như nhận xét của Như

Phong trong bài Về mấy khuynh hướng phức tạp trong văn học gần đây (Bình

luận văn học, Nxb. Văn học, 1964): “Nguyễn Tuân ngày xưa đã viết những

Vang bóng một thời, Một chuyến đi, Chiếc lư đồng mắt cua, Thiếu quê

hương, và đưa vào văn học nước ta một kiểu người dáng phóng túng mà

bụng ích kỷ, trối kệ cuộc đời, chỉ thích hưởng lạc, chắp tay nâng sự hưởng

lạc lên thành một triết lý, một đạo sống, cho rằng hưởng lạc là khát vọng thoát

ly của những tâm hồn “thanh cao”, phản ứng với đám người “dung tục” quanh

mình, càng biết hưởng thụ cuộc sống một cách cầu kỳ, tinh vi bao nhiêu thì

càng là người đạt bấy nhiêu… Hồi đó, thứ nhân sinh quan này cũng chẳng

còn gì mới lạ. Nhà văn tư sản Pháp Ăng-đơ-rê Gi-đơ từ lâu đã đề xướng cái

chủ nghĩa cá nhân đồi trụy và vị kỷ đến cực điểm này, nó nấp dưới những

khẩu hiệu rất hào nhoáng: “sống một cách nhiệt thành”, “sống triệt để”, “phải

dám là mình”. Khuynh hướng tư tưởng ấy sang ta, có ngay một bọn người

chuốc lấy, đưa nó vào đời sống tư tưởng của thanh niên ta hồi bấy giờ.

Page 28: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Những người ấy là cả một lô văn nghệ sĩ: Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Tuân, Vũ

Hoàng Chương… Nhiều thanh niên ta hồi bấy giờ đi hát cô đầu, hút thuốc

phiện, săn tìm các thú chơi, nhờ có các nhà văn ấy, đã không thấy mình là hư

hỏng mà còn là người biết sống cho ra sống”.

Thứ chủ nghĩa cá nhân hưởng lạc ấy có thể nói đã được kết tinh cô đặc

trên những trang Nguyễn Tuân. Nó đã được mọi chàng Nguyễn trong các

sáng tác khác nhau của Nguyễn Tuân tuyên bố, và những lời sau đây là của

một trong số đó: “… phải làm cho trọn cái bổn phận tối thiểu của thằng người

đời. Nghĩa là phải sống. Sống với thị dục. Sống với giác quan. Sống bằng xác

thịt. Chỉ có thế là họp với ý muốn của đấng Sáng tạo tối cao và tối linh đã sinh

ra hết thảy muôn vật trên thế gian này” (Phong vị tỉnh xép; Tiểu thuyết thứ

bảy, số 273, 1939). Khoan hãy phê phán cái nội dung chủ trương ấy, nó vốn

là triết lý sống của bọn thống trị, có trong tay mọi quyền lực. Cứ xem đây là ý

nghĩ sai lệch của một người lương thiện. Thì mọi ham muốn đó của những

anh chàng Nguyễn đâu phải là không có giới hạn. Anh hàm muốn xê dịch,

nhưng trên vị trí một anh tiểu tư sản trong xã hội thuộc địa, sự ham muốn xê

dịch của anh chỉ có thể thực hiện trên mấy cung đường ngắn ngủi, quanh

quẩn. Anh ham phát triển giác quan, muốn nếm cho đủ mọi lạc thú: trà, rượu,

hút xách… thì, mặc dù thực dân khuyến khích đấy, anh cũng phải có tiền và

có quyền!

Thất vọng trước hiện tại, nhà văn quay về quá khứ, nhấm nháp những

“vang bóng một thời”, những thú chơi được xem là thanh lịch như ướp hương

cuội, thả thơ… thậm chí với cả những ham muốn dã man, ma quái như buổi

“tiệc đầu lâu”, và cách “chém treo ngành”…

Đào bới mãi trong cái tôi cô đơn, ích kỷ, mặc kệ cuộc đời, đi mãi vào

chủ nghĩa cá nhân hưởng lạc, thế giới Nguyễn Tuân hoàn toàn cách biệt với

cuộc sống nhân dân. Rồi, không tránh khỏi có lúc, nhà văn đi lạc sang một thế

giới khác, cái thế giới kinh dị, ma quái như trong Trên đỉnh non Tản, Báo oán,

Loạn ám… và sau này, Chùa Đàn.

Page 29: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Rốt cuộc thì dù có muốn buông thả cho chủ nghĩa cá nhân tung hoành

ngang dọc, muốn xê dịch trong không gian, hoặc muốn tiến lui theo thời gian,

muốn đi lên “non Tản”, hoặc xuống cõi âm, thế giới Nguyễn Tuân vẫn chỉ là

một thế giới tù túng, chật hẹp, ngột ngạt, thiếu khí trời, và thiếu hơi người.

Có thể nói đó là cả một sự bế tắc nằm trong sự bế tắc chung của nền

văn học công khai, dưới ách thống trị của thực dân trong xã hội cũ. Nếu văn

học hiện thực trong khi hướng về đời sống, cảm thấy không thể nào nói

được, hoặc không đủ sức để nói về các vấn đề lớn lao bức thiết của xã hội,

thì văn học lãng mạn lại cảm thấy không biết nói gì hơn được nữa về những

chuyện đã mòn nhàm, vô vị trong những tưởng tượng bệnh hoạn và trong đời

sống quẩn quanh của một lớp người bị buộc phải, hoặc cố tự tạo ra cho mình

một hàng rào cách biệt với đời sống quần chúng.

Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân là một trong số các

nhà văn lãng mạn hiếm hoi ngay từ đầu đã có cái may mắn tiếp nhận được

ánh sáng mới, để tìm ra con đường giải thoát cho cuộc sống và nghệ thuật

của mình. Nhà văn hồ hởi đi theo cách mạng, và có lúc chan hòa đi vào dòng

người, vui cái vui xuống đường: “Mê say với ánh sáng trắng vừa được giải

phóng, tôi đã là một dạ lữ khách không mỏi quên ngủ của một đêm phong hội

mới”. cảm xúc bồng bột trước những đổi thay của đất trời, nhà văn dứt khoát

khẳng định: “Chưa có thu nào mà mây mùa khói mùa đẹp được như mây khói

mùa này. Sớm cũng như hôm, bốn chiều tám hướng, chân giời Việt Nam nổi

bồng lên những hình mây khỏe mạnh và những sắc mây lộng lẫy” (Ngày đầy

tuổi tôi cách mạng; Văn hóa và cách mạng, 8-1946). Và cũng chính trong

những tiếp xúc với đời sống thực, lớn lao, cuồn cuộn ấy, nhà văn đã có dịp

đối chiếu, soi lại con người cũ của mình, và nhận ra những mặt hư hỏng trong

triết lý sống, quan niệm sống của mình, để hứa hẹn một cuộc “đào thải tất cả

cố nhân trong lòng mình”, hứa hẹn cương quyết lấy mình “ra làm lửa mà đốt

cháy hết những phong cảnh cũ của tâm tưởng” (Vô đề; Văn mới, 2-11-1945).

Page 30: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Nhưng những hứa hẹn đó thực ra chưa lấy gì làm chắc. Nhà văn đi vào

cách mạng vẫn còn với tâm lý chuộng lạ của một người đã chán ngấy với

cuộc sống cũ, đang khao khát một sự đổi thay không khí. Mọi trật tự cũ, giá trị

cũ đang bị đổ nhào. Nhưng giá trị mới ra sao? Đi vào dòng người mà anh vẫn

còn lắm lúc ngơ ngác. Tính chất triệt để và giá trị nhân đạo lớn lao của cách

mạng anh chưa thể nhận ra. Trong một vở kịch viết cho thiếu nhi: Cỏ độc lập,

đăng trên báo Thiếu sinh (Xuân Độc lập, 1946) nhà văn đã có khía cạnh nhận

thức sai về cách mạng khi cho xuất hiện nhân vật Thần cách mạng với màu

đỏ “ác dữ”, với lời xưng danh rất oai vệ và với cảnh Thần quát vào mặt Sông,

Núi, cho rằng “lịch sử bây giờ là của Lý trí chứ không khi nào là của Tình cảm

nữa”!

Sự phản ứng đối với trật tự cũ với ít nhiều tinh thần dân tộc, trên lập

trường của người tiểu tư sản bất đắc chí, là nguyên nhân đưa Nguyễn Tuân

đến với cách mạng. Nhưng cũng chính chủ nghĩa cá nhân hưởng lạc cùng tư

tưởng tự do, thích đập phá vô trách nhiệm, và quan điểm nghệ thuật cũ đã

khiến cho Nguyễn Tuân vẫn còn đứng ở một vị trí cách xa với quần chúng

nhân dàn. Sự giằng co giữa hai mặt đó trong anh hầu như quán xuyến trên

mọi trang viết lúc này. Và khi chưa có sự chiến thắng căn bản của quan điểm

mới, giá trị mọi sáng tác của anh vẫn còn mỏng manh, bấp bênh. Sự dung

hòa hai quan điểm, hai nhận thức trái ngược nhau ấy chỉ có thể khiến cho

Nguyễn Tuân đẻ ra một loại sáng tác theo kiểu Chùa Đàn (1946) kể một câu

chuyện ma quái gắn theo một cái đuôi cách mạng.

Phải đến cuộc kháng chiến chống Pháp, trong đời sống của nhân dân,

trong ngọn lửa của chiến đấu, con người và nghệ thuật của Nguyễn Tuân mới

có điều kiện gột rửa dần những mặt tiêu cực để hướng vào quỹ đạo của văn

nghệ cách mạng.

***

Kháng chiến đưa Nguyễn Tuân vào cuộc sống lớn lao của quần chúng.

Ba lô (không phải va li) trên vai, gậy cầm tay, nhà văn hăm hở lên đường.

Page 31: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Cuộc hành trình đưa Nguyễn Tuân tới những vùng xa: từ Khu Bốn ra Việt

Bắc, lại vào Khu Bốn, ra Khu Ba, qua Sơn Tây, đi Tây Bắc, theo bộ đội vào

Bắc Cạn…

Trong Đại hội văn nghệ lần thứ nhất năm 1948, Nguyễn Tuân được bầu

làm Tổng thư ký Hội. Anh vui vẻ hứa: “Tôi quả quyết nhận lấy bổn phận mà

hội nghị giao cho, vì tôi muốn tập cho tôi nhận lấy những trách nhiệm” (Biên

bản Đại hội; tạp chí Văn nghệ, số 10, tháng 3-1949).

Ý thức trách nhiệm trong công tác và kết quả những chuyến đi nối tiếp

nhau đó đã bước đầu đem lại cho tùy bút Nguyễn Tuân những cảnh sắc mới,

những cảm xúc lạ. Cuộc sống ùa vào. Nhưng nếu như trong mấy năm đầu,

sự chăm chú nhìn ngắm, tìm hiểu, ghi chép đã làm cho tùy bút Nguyễn Tuân

sinh sắc hẳn lên trên hình ảnh những mảng đời thực, tươi rói; thì mặt khác,

qua lăng kính của những quan niệm, cảm xúc và thị hiếu của con người nghệ

sĩ cũ, bức tranh cuộc sống có lúc bị méo mó đi. “Sau đêm 19 tháng Chạp”,

nhà văn cùng dòng người tản cư. Cái giờ phút nghiêm trang đó của lịch sử

hẳn không thể diễn ra trong cái vẻ tếu, nhộn như đêm hội của “những tửu đồ”

thế này: “Hàng nước nào cũng thành ra “quán Biên thùy”, mặt hàng ngổn

ngang dồi, chả, tiết canh chó. Kính trọng sự đi về của du kích cần phải được

kín tiếng khi lưu động, nhân dân đã vui vẻ hóa kiếp cho gia súc…”

Thì ra nhà văn vẫn còn là người đi đường với cái ham thích được săn

tìm những cảnh lạ. Qua Cống Thần, hoặc ghé phố Văn Trai, trước khi vào đất

tề, nhà văn có cái thú của một người thăm dò: “Giặc mà thọc một mũi dùi vào

đây thì phải biết, cháy nhà ra mặt chuột, còn khối sự lạ. Tôi phải lượn phố

Văn Trai này ba lượt…” (Một đêm vào tề). Sau này, đi theo bộ đội công đồn,

có lúc anh không kìm được cái vui ồn ào của con trẻ: – “Tôi quăng tôi xuống

chân núi, cọc, gai, nửa nhọn, phớt hết. Mau lên không có thì nhạt hết khói

dưới ấy rồi!” (…) “Từ bé đến giờ mình vẫn là một đứa trẻ đói thanh đói sắc

nay được một chầu thỏa thuê cho tai cho mắt. Bắn nữa đi! Hàng rào cháy rồi

anh em ơi! Chúng tôi đang mơ chung một cơn hỏa mộng!” (Tình chiến dịch).

Page 32: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Thăm phòng triển lãm của Trung đoàn Thủ đô giữa rừng, nhà văn nhắc nhỏm

“phở Hàng Trống”, “chả Đồng Xuân”, “bánh đa Hàng Bè” (Đường vui)...

Nhưng rồi cũng có khi nhà văn thấy chán. Cuộc sống vất vả, gian khổ,

và cái lạc quan có phần dễ dàng giữa hai xuân 1946–1947, mơ “những khải

hoàn môn kết bằng bích đào” (Giữa hai xuân) không còn là cái viễn cảnh thu

hút bước chân của người bộ hành. Quanh quẩn trong rừng già Việt Bắc, nhà

văn lắm lúc bực bội vì thấy mình như một “tù nhân của thung lũng”, vì thiếu

“chân giời”, vì cái màu xanh vĩnh viễn, xanh tất cả ở Nhà văn than thở: “vẫn

bé nhỏ trong thiên nhiên, bọn tôi chỉ là ba cái chấm nâu ngày ngày ngoằn

ngoèo trong các lòng chảo thượng du xanh lam” (Chân giời). Những lúc ấy,

Nguyễn Tuân đành phải tìm chỗ dựa cho mình ở một chân trời “trong tâm

tưởng”, với cái yên trí là “cái nhỡn giới của tư tưởng thì không còn núi rừng

của bất cứ thượng du nào bưng bít nữa”.

Rõ ràng cuộc kháng chiến đã đưa nhà văn vào một cuộc đấu tranh mới:

cuộc đấu tranh giữa những mặt tiêu cực cố hữu trong ý thức, quan niệm của

một lớp người từ lâu xa cách với đời sống quần chúng, và những mặt mới,

tích cực, tiến bộ đang từng bước nhen nhóm trong ý thức và tình cảm họ.

Từng bước nhích về phía nhân dân, từng bước vươn lên nhận thức cho được

yêu cầu chung của cách mạng là từng bước thanh toán trong mình những vết

cũ. Sự đấu tranh đó lắm lúc thật gay gắt, và đúng là có kinh qua nó thì mới

thật thấm thía cái ý nghĩa của một cuộc “xé vỏ trổ mầm”; một cuộc “xé vỏ”, có

thể nói chính là bắt đầu từ những dòng này trong tùy bút Đường vui: “Sống

với hiện đại giờ là gắng gỏi, phải lắng hết trí tuệ ra để kiềm chế thiên tính, thú

tính… nhiều lúc cứ bị lặng ngất đi như có ai bỏ mình vào một cái hũ lớn mà

lắc mạnh đủ trăm chiều. Thấy ngòi bút mình chạy trên giấy không kịp được

cái bước đi của nhân vật đời thật tại đã nhiều lần tôi muốn quẳng ngay cái

thằng Tôi đi…”

Vấn đề đặt ra ở đây đúng là “cái thẳng Tôi”. Trước Cách mạng, cái tôi

đó – hợm hĩnh, kênh kiệu, khinh bạc, hiện ra có mặt nào đó như là sự đối lập

Page 33: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

với một xã hội “phàm tục” giữa đám người có của và hợm của, thì sau Cách

mạng, trước quần chúng nhân dân, hẳn lại không thể cứ bộ dạng thế mà đi

giữa cuộc đời. Thật vất vả là cái quá trình khổ luyện để biến cái tôi đó thành

một con người bình thường chân chính, một công dân - nghệ sĩ của chế độ

dân chủ cộng hòa.

Đối với một nghệ sĩ như Nguyễn Tuân thì việc đổi dạng đó là vô cùng

quan trọng. Phải làm sao qua cái tôi mà nói được tâm tình, cảm xúc của quần

chúng cách mạng. Và những bước tiến của Nguyễn Tuân sẽ được ghi nhận

trên phương hướng này. “Cách mạng hóa tư tưởng” và “quần chúng hóa sinh

hoạt” sé đưa Nguyễn Tuân về với quần chúng, giúp nhà văn biết đặt cá nhân

vào tập thể, và do đó đánh giá cá nhân được đúng hơn. Trong ngọn lửa vĩ đại

của cuộc kháng chiến nhà văn sẽ thấy phải khiêm tốn kiểm tra lại mình, và

bớt dần đi những chủ quan, hoài nghi, khinh bạc cố hữu.

Trên đà chuyển biến tư tưởng đó, những trang Nguyễn Tuân rồi đây

ấm dần tình người. Bớt dần đi những trang lạnh lẽo, chỉ có phô bày những

cảnh sắc lạ, những nhận xét thông minh, hoặc cái lắt léo trong cách chọn lời,

chơi chữ. Thay vào đó là những lời giản dị. Trên đường lên Việt Bắc đầu năm

1949 nhà văn ghi: “Trông Dakota và Junker tiếp tế của nó hỗn hển trong mù

sương của ngày mưa ẩm, mình thấy khoái trong lòng, mặc dầu thời tiết có

dằn vặt mình trên những con đường lầy trơn như tráng mỡ nước”. Gặp một

đơn vị bộ đội: “Những cái bóng đen này trong đêm làm cho mình ấm lòng

ngang với những chấm lửa của lớp Bình dân học vụ buổi tối trong rừng sâu”.

Rồi tiếng chào của anh du kích đêm ấy qua sông, nhà văn cảm thấy như “còn

vang hưởng đến tận mãi tương lai” đời mình (Lại ngược).

Tình chiến dịch còn cho ta thấy hình ảnh một Nguyễn Tuân thật gần

gũi: “Lúc tôi mở mắt dậy thì còn tối lắm, đũa bát lách cách trên bếp sàn. Ăn

sớm, hành quân sớm. Tôi tung bạt, sà xuống ăn ngay. Tôi cũng đã quen với

kiểu ăn cơm ba bốn giờ sáng không cần súc miệng”… “Tôi thành ra cán bộ

dân vận (…) Ngoài giờ công tác ở đơn vị, tôi xách cái túi gai chạy đi các nhà,

Page 34: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

ngồi góp chuyện bên bếp lửa, tập nói tiếng địa phương. Tôi thấy tôi trở nên

thân mật với người ở xóm bản như là đã quen biết từ lâu lắm. Rồi nó thành

hẳn một nếp tình cảm…”

Quý những “nếp tình cảm” mới ấy ở một người như Nguyễn Tuân, ta

càng quý sức cảm hóa của cách mạng, càng quý những mối quan hệ mới và

cái ý nghĩa cao đẹp của đời sống tinh thần mà cách mạng đã đem lại cho mỗi

người. Làm sao mà tìm được trong các trang viết trước đây của Nguyễn Tuân

những mối “tình đơn vị”, “tình chiến dịch”, hoặc cái “nỗi nhớ miên man” nó

gắn bó con người bền chặt đến thế: “Nhớ miên man. Tôi không nhớ một

người hai người. Tôi nhớ hàng trăm người một lúc, nhớ người mà không nhớ

ra tên. Nhớ từng bộ phận, nhớ từng binh chủng, nhớ cái không khí sinh hoạt

luôn luôn chuyển chỗ như là nước chảy, không bao giờ tụ lâu” (Tình chiến

dịch).

Những tình cảm mới ấy, những mối quan hệ mới ấy càng được khơi

đậm và cụ thể trong Nguyễn Tuân những ngày nhà văn được tham gia cuộc

Giảm tô và Cải cách ruộng đất ở nông thôn. Lần đầu tiên, ánh sáng của đấu

tranh giai cấp soi rõ cho anh thấy những vấn đề lớn lao của cuộc đời thực, và

bước chuyển tình cảm của anh do đó mới thật là có gốc rễ. Nhà văn đã viết

Bóng nó còn bám lên xóm làng với cái nhận thức mới là: “Ở nông thôn, cái

sàn, cái giếng, cái đình, bóng cây đa, bờ ao, lối đi, lũy tre, chỗ nào cũng tìm

được chuyện khổ, toàn chuyện kẻ giàu, người nghèo. Khi đã đi sâu vào được

cái khổ của giai cấp, thì chỗ nào quanh xóm, ngõ, đồng, ruộng đều có cạnh,

có góc chứ không chung chung như trước kia tôi vẫn tưởng”. Nhà văn ngồi

nghe nông dân kể khổ, “vừa kể vừa nhớ thêm, vừa nói vừa khóc. Nước mắt

tôi cũng hòa theo”. Xong một đợt đấu tranh, cán bộ đội rút đi, “ba lô mỗi người

đeo trên lưng rồi, nhưng thấy trong xã mới vẫn còn nhiều vấn đề dở dang. Đi

rồi, nhưng trong lòng tôi chưa thể nào yên được”.

Chính những giọt “nước mắt hòa theo” đó, và cái tâm trạng không “thể

nào yên” khi thấy “bóng nó – bọn địa chủ – còn bám lên xóm làng” đã đánh

Page 35: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

dấu một biến chuyển cơ bản trong đời sống tình cảm, ý thức của Nguyễn

Tuân.

Nhưng không phải chỉ có sự đổi thay trong cái tối. Tùy bút kháng chiến

còn cho thấy, dần dần, những cố gắng của anh trong yêu cầu ‘khách quan

hóa’, nhằm mô tả đời sống khách quan. Anh đã từng có lúc bứt rứt vì sự bất

lực của ngòi bút mình, bất lực trước thể tùy bút, mà theo anh, so với tiểu

thuyết, vốn bị hạn chế nhiều. Trong Hội nghị tranh luận văn nghệ năm 1949

anh phát biểu: “Bây giờ là thời kỳ viết tiểu thuyết, đừng viết tùy theo bút

nữa… Viết tiểu thuyết cho con người nói lên được”… “Tùy bút dễ làm cho

người ta chủ quan. Muốn chữa cái chủ quan chỉ có cách lá không viết tùy bút,

mà viết tiểu thuyết”.

Ý kiến đó về chức năng của thể loại không tránh khỏi có phần cực

đoan, nhưng rõ ràng sự mong muốn thôi không viết “tùy theo bút” nữa quả là

nằm trong sự phát triển của ý thức tư tưởng Nguyễn Tuân, muốn hạn chế bớt

cái phần chủ quan, để tăng cường chất sống khách quan, có nhớ lại Nguyễn

Tuân trước Cách mạng, mới thấy đây là một nổ lực vượt mình. Đưa cái tôi

làm nhân vật trung tâm, sáng tác Nguyễn Tuân trước đây chỉ là sự phô bày

những ấn bản khác nhau của cùng một mẫu người. Cái tôi trong tùy bút – cố

nhiên. Cái tôi đó còn ám vào tất cả mọi “nhân vật” khác trong các trang Vang

bóng một thời. Nói cho phải cũng có thể nhắc đến một thế giới nhân vật trong

sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, ngoài chàng Nguyễn quen

thuộc, đó là các cậu ấm, cô chiêu, quan án ông, quan án bà, cụ kép, ông phủ,

các bậc tài hoa trong các gánh hát, hoặc náu ở một ngôi chùa: ưa đàn ngọt,

hát hay, sành thơ, rượu, trà, hoặc có một năng khiếu gì đó khác đời…

Nhưng tất cả đó, dù có mang theo tên riêng, vẫn chỉ là những dạng

khác nhau của một chàng Nguyễn mà thôi. Nhân vật chỉ là điểm tựa cho nhà

văn lồng vào đó mà phô bày các lạc thú vật chất vốn đã được nâng lên như

một biểu tượng của thẩm mỹ, của cái đẹp.

Page 36: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Sau Cách mạng, căn bản đã hết rồi cái say sưa tự nhấm nháp mình,

Nguyễn Tuân còn phấn đấu đi xa hơn thế. Trong sáng tác của anh đã dần

dần xuất hiện những con ngưòi kháng chiến mà anh yêu mến khâm phục: anh

giao thông “Đầu Gáo”, anh biệt động, anh tự vệ Thủ đô, anh du kích Liên xã…

Trong cái cố gắng “không viết tùy theo bút nữa”, có lúc anh đã thử bước sang

địa hạt truyện ngắn để dựng hẳn một chân dung quần chúng cách mạng như

trong Những con đò danh dự (Độc lập, số 23, tháng 6-1950), hoặc một khung

cảnh chiến thắng với nhiều tâm trạng, nhiều khuôn mặt khác nhau của quân

dân vùng địch hậu như trong Thắng càn (1954).

***

Hòa bình lập lại trên miền Bắc mở ra một giai đoạn mới trong sáng tác

Nguyễn Tuân. Rời chiến khu về xuôi, trong cái tết hòa bình đầu tiên sau bốn

tháng chỉnh huấn, nhà văn lòng dặn lòng không quên những lời ân cần của

Đảng: “Ánh sáng của lớp học do Đảng mở cửa đã giúp cho năm trăm anh chị

em cả đảng viên và chưa đảng viên thấy rõ đoạn đời ngày trước, quãng đời

hiện tại và cái tương lai của mình. Việc lớn việc nhỏ, nội tâm ngoại cảnh đều

hiện lên có góc có cạnh, chứ không “lờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” như

trước nữa.

Từ cái buổi chiều mùng một tết ấy Xuân đã trở về với nhiều tâm hồn.

Thêm một tuổi đời, thêm một tuổi đảng (…) Lá rừng Việt Bắc rụng sau ngày

tựu trường nói lên phần nào cái rơi rụng lả tả của những cái cũ trong mỗi anh

chị em (…) cả một mùa xuân tư tưởng này, nhựa sống trong mỗi anh chị em

trào dâng lên không ngừng. Trên cái hư nát của đống lá thối mục của bao

nhiêu mùa đông tàn đã tích lũy lại, vụt thấy chồi lộc nhú lên, trổ lên dần dần.

Nhiều anh chị em đã trải qua những cái đau khổ của cuộc xé vỏ trổ mầm. Qua

một cái tết chỉnh huấn dài bốn tháng trong lòng rừng chiến khu, tôi có thấy tôi

nhìn tạo vật, nhìn chung quanh và nhìn mình đúng hơn trước. Tôi thấy yêu

đời hơn lên nhiều lắm… Sự trưởng thành tư tưởng của tôi đi vào hệ thống từ

khóa học mở trong rừng” (Xuân ở rừng).

Page 37: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Những xúc động cũ còn chưa nguôi thì những xúc động mới đã dồn tới.

Đáp chuyến tàu hòa bình từ Hà Nội lên Mục Nam Quan, cả một dĩ vãng tủi

buồn hiện lên trước mắt nhà văn: «Tôi rơm rớm nước mắt nghĩ lại, chuyện cũ

mười lăm năm, mỗi lúc ấy bước chân lên tàu là lúc xoay lưng ngoảnh mặt đi

với cuộc đời! Lúc ấy, tôi chỉ là một người hành khách lậu vé trên xe lửa đế

quốc lủi thủi muốn đi tìm một cái quê hương ngoài trần gian…”. Rồi nhà văn

nhẩm tính mà thấy rằng mới từ hôm tiếp quản thủ đô đến lúc ấy, “nước mắt

tôi trào hai lần. Lần đầu, hôm biểu dương lực lượng đầu năm, lúc thấy đơn vị

nữ du kích Tả ngạn đi qua lễ đài. Và lần này”.

Nhưng miền Bắc, sau 1954, bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa

xã hội với cuộc đấu tranh giữa hai con đường nổi bật lên như một thử thách

mới đối với mọi nhà văn. Trên lĩnh vực tư tưởng, đó là một cuộc đấu tranh

giữa tư tưởng vô sản với tư tưởng tư sản, tiểu tư sản và các tư tưởng phi vô

sản khác… Trong kháng chiến chống Pháp, yêu cầu xác định lập trường vô

sản tuy đã được đặt ra, nhưng mới chỉ là bước đầu; tư tưởng tư sản và tiểu

tư sản chưa bị phê phán mạnh. Cho nên, sau hòa bình, tư tưởng tiểu tư sản

bấp bênh dao động sẽ còn là miếng đất tốt cho tư tưởng tư sản thâm nhập

vào, phản công lại cách mạng. Cuộc đấu tranh chống Nhân văn – Giai phẩm,

một cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực văn nghệ, có phần gay go, kéo dài

chính là vì bọn phản động đã tìm được chỗ dựa trong sự sơ hở, mất cảnh

giác, mơ hồ về lập trường, của nhiều Văn nghệ sĩ trong giai đoạn mới, trong

đó có Nguyễn Tuân.

Nếu trước đây, trong những ngày gian khổ của kháng chiến, ở Đại hội

văn nghệ lần thứ nhất, Nguyễn Tuân đã thành tâm “từ bỏ ba đứa con tinh

thần” của mình là Vang bóng một thời, Nguyễn, Thiếu quê hương, thì giờ đây,

trong những ngày hòa bình, Nguyễn Tuân đã cho in lại Vang bóng một thời,

và ủng hộ lại việc tái bản không cần chọn lọc các tác phẩm cũ.

Trên những tùy bút mới viết vào lúc này như Phở, Cây Hà Nội, hoặc bài

tiểu luận về Sê-khốp, và trả lời tạp chí Học tập, Nguyễn Tuân đã có lúc gần

Page 38: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

như trở lại những thị hiếu cũ của mình, và cùng với sự phản ứng trước ý kiến

của công chúng, Nguyễn Tuân đã bộc lộ một số quan niệm không đúng về sứ

mệnh của nền văn nghệ mới và trách nhiệm của nhà văn cách mạng

Nhưng có điều may mắn là những lệch lạc của Nguyễn Tuân chưa kịp

đi xa. Ánh sáng của Đảng đã giúp Nguyễn Tuân “nhìn rõ sai lầm”. Nhân bài

học mới, bài học đấu tranh giai cấp và cải tạo tư tưởng trong giai đoạn mới

lúc này, Nguyễn Tuân lại có dịp ôn và khẳng định lại bài học cũ, bài học có lúc

mình đã quên đi hoặc phủ định: «… Trong những năm kháng chiến, công tác

và sáng tác của tôi tuy chưa có là bao nhiêu, nhưng đều chứng minh cái kết

quả bước đầu của cuộc cải tạo đó. Và tôi thấy cần phải nói thêm rằng có

được cái kết quả ấy, cũng lá nhờ ở phần khách quan nhiều hơn là phần chủ

quan, và nhất là nhờ có cái phần Đảng dìu dắt cho…” (Nhìn rõ sai lầm; Văn

nghệ, số 12–1958).

Bài học kiên định lập trường giai cấp và kiên trì cải tạo tư tưởng đó,

một năm sau, trong chuyến đi Tây Bắc, viết Sông Đà, anh còn tiếp tục tự nhắc

nhủ thêm một lần nữa: “Chợt nhớ lại ngày này tháng này cách đây đúng một

năm, tôi đã thấy một con đê vỡ ở sát nách Hà Nội; nhật ký tôi ghi hồi ấy đã

mang những dòng nặng trĩu: “Trong lòng mình cũng đang thẩm lậu một con

đê. Con đê ngoại, hàn khẩu được rồi. Nhưng còn cái đê nội này? Đê ngoại

cần giữ, nhưng đê nội càng cần giữ vững hơn bao giờ… Con đê trong lòng tôi

và những con đê trong lòng một số người quen”.”

Chính là trên sự nhận thức mới về nguy cơ “thẩm lậu” và cái quyết tâm

“hàn khẩu con đê nội” kia, mà Sông Đà sẽ tiếp tục ghi tiếp một bước chuyển

mới trên cái đồ thị đi lên, nhưng từ trước tới lúc bấy giờ quả là còn chưa ổn

định lắm trong đời sống tư tưởng và nghệ thuật Nguyễn Tuân.

Sông Đà, kết quả của cuộc đấu tranh tư tưởng và những đợt đi thực tế

Tây Bắc từ 1938 đến 1960, tập hợp mười bốn tùy bút và một bài thơ “phác

thảo” nói về những đổi thay ở Tây Bắc; Vốn nằm trong sở trưòng miêu tả của

Nguyễn Tuân, cái đẹp của thiên nhiên ở đây rất lắm sắc màu, rất tạo hình.

Page 39: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

“Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn

hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn

cuộn mù khói nùi Mèo đốt nương xuân”. Nhưng say sưa với thiên nhiên,

Nguyễn Tuân không quên con người. Nguyễn Tuân đã dành nhiều trang nói

về con người, và có lúc đã tự nhận mình là người đi tìm vàng, tìm “cái thứ

vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang

nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi

vui và vững bền”. Ghé qua Tây Trang thăm một đồn biên phòng giáp Lào;

dừng lại ở Điện Biên – nơi chiến trường xưa; thăm đất cũ Sơn La, nơi có “cây

đào Cộng sản”; tạt vào Lai Châu tìm hiểu “một tí về lịch sử và một bản lý lịch”

của tên vua Đèo Văn Long và đội xòe của hắn, hoặc trò chuyện với những

người “đi mở đường” hoặc những ông lái đò với những con thuyền hình thoi

đuôi én ngược xuôi trên sóng thác… nơi đâu nhà văn cũng có dịp dừng lại,

suy ngẫm để thấy cái đổi mới, lớn lên của đất nước, con người. Rồi có hẳn cả

một mối quan hệ gắn bó, thân mật, và đôi khi đến vồn vã, cởi mở giữa cảnh

ấy, người ấy và nhà văn. Cũng như những trang Tùy bút kháng chiến trước

đây, đã vắng dần đi trong Sông Đà con người cao đạo, đứng lẻ ra ngoài mà

quan sát, ngắm nhìn. Đây là một Nguyễn Tuân mới, xuề xòa, giản dị, không ai

ngỡ là “trí thức” mà cứ tưởng nhầm là một nhân viên trong các tổ khảo sát địa

chất, một ông chủ máy kem, một anh chủ xe vận tải tư doanh, một ông quản

lý của một Đoàn văn công nào đó. Nguyễn Tuân cho ta chiêm nghiệm sâu sắc

những đổi mới của Tây Bắc qua sự so sánh với cuộc sống thê thảm trong chế

độ cũ, mà anh đã gắng công tìm hiểu với một sự quan tâm hết sức tỉ mỉ.

Trong cuộc sống của Tây Bắc đó, anh xúc động nhiều về thân phận người

phụ nữ, nhất là những kiếp nô tì, những cô gái xòe. Và đây, một cảnh anh

dựng lên, không phải bằng quan sát mà bằng biết bao tâm huyết: “Ngoài sàn

múa xòe kia, tiếng thác sông Đà vẫn xô đá ào ào. Và trong đêm tiệc, máu

đồng trinh cứ rỏ theo bước đi của đôi chân khiêu vũ, cô gái xòe cứ dẫm lên

máu mình mà múa, rồi máu tươi ấy khô dần một đống trên một cuộc đời đã

Page 40: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

biến thành một cái đệm, lớp máu đêm sau đóng vảy lên lớp máu đêm đầu, và

cứ thế cứ thế” (Xòe).

Cuộc hành trình cũng đã gợi cho Nguyễn Tuân bao suy nghĩ mới mẻ.

Anh “bận tâm” về “một số khỏ khăn nội tâm” của anh em chiến sĩ làm đường.

Anh thấy “con người, cái vốn người đưa lên Tây Bắc ngày nay còn quý hơn

tất cả những của chìm của nổi ở Tây Bắc”. Anh so sánh giá trị đóng góp của

câu hát, điệu múa, trang sách với những cung đường, và cho thấy con đường

đang làm và những cuốn sách đang viết đều bình đẳng về giá trị phục vụ”.

Anh bình giảng về nghĩa mới của hai chữ “Quê hương” để mà nhắn nhủ với

một chị áo-xanh-công-nhân vừa rời miền xuôi lên miền núi còn lắm lúc nhớ

nhà. Đứng dưới gốc đào Sơn La, vào một chiều tất niên năm 1959, anh tin

tưởng đất nước “sẽ còn nảy nở không biết bao nhiêu là con người dũng cảm,

và từ lòng quần chúng nhân dân rồi sẽ còn xuất hiện rất nhiều những con

người lãng mạn dám nghĩ dám làm.

Nguyễn Tuân, qua Sông Đà, từ Sông Đà, đang có một đà say về cuộc

sống mới.

Nhưng rồi mấy năm sau, từ tháng 8-1964, cách mạng chuyển giai

đoạn. Miền Bắc bước vào cuộc kháng chiến lần thứ hai, chống Mỹ.

***

Nếu trong cuộc kháng chiến trước, Nguyễn Tuân viết nhiều về sinh

hoạt chiến sĩ và nhân dân qua những chuyến đi, thì ở cuộc kháng chiến lần

thứ hai này, đề tài chính và đóng góp chính của Nguyễn Tuân lại tập trung

vào giặc lái Mỹ. Đứng trên chỗ đứng của dân tộc và gội trong không khí chiến

thắng của nhân dân mà phê phán kẻ thù, ngòi bút Nguyễn Tuân trên những

tùy bút chống Mỹ, sau này tập hợp in trong Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (Hội văn

nghệ Hà Nội xuất bản, 1972) quả có một phong vị sảng khoái, hiên ngang

hiếm có. Nhà văn tập trung sức bút để vẽ lên những hình thù Mỹ, với cái ý

thức rõ rệt như đã được nói lên trong thư Gửi một nhà văn Mỹ thật sự yêu tự

do và hòa bình (Văn nghệ, số 194) là: “Biến cố của lịch sử đã đặt chúng tôi

Page 41: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

phải đụng độ đương đầu sống mái với bọn hiếu chiến Hoa Kỳ thì dĩ nhiên

chúng tôi càng phải tìm hiểu Hoa Kỳ về mọi mặt, bằng mọi cách, và bằng mọi

điều kiện có thể của mình. Lực lượng võ trang cả nước tôi tìm hiểu về cách

đánh của quân đội Mỹ. Và những người như chúng tôi tìm hiểu về cách nghĩ

Hoa Kỳ để mà cũng đánh Mỹ, đánh cho chết tiệt đi cái cách nghĩ phản khoa

học và trịch thượng đó của bọn phát xít Hoa Kỳ hợm hĩnh về súng đạn và tính

du côn lộng hiểm”.

Trên cái hướng chung ấy, nhà văn đã chủ tâm tìm hiểu săn đón mọi chi

tiết, tài liệu để đánh địch không phải chỉ ở tầm gần, mà cả tầm xa. Chẳng hạn

đánh vào dinh lũy bọn chúng ở Sài Gòn khi giáo hoàng Xpen- man đến làm lễ

Giáng sinh cho bọn viễn chinh, hoặc sang mãi tận bên kia Tây bán cầu đánh

vào sào huyệt Mỹ ngay giữa những tiệm rượu trên đường phố Ca-ra-cát. Còn

với bọn ở “tầm gần” – bọn phi công Mỹ bị bắt sống, thì dưới mắt anh, qua bút

anh, đã hiện nguyên hình là những tên hợm hĩnh mà hèn nhát, sạch sẽ mà

ngu xuẩn, sang trọng mà trâng tráo, kệch cỡm, vô liêm sỉ; một lũ người máy

được kỹ nghệ chiến tranh Hoa Kỳ sản xuất ra hàng loạt. Theo đoàn tù Mỹ giải

qua các phố Hà Nội, anh “chụp” lại cho ta rất nhiều “pô” những chân dung

“yêng hùng” và “sĩ diện Hoa Kỳ” bây giờ chỉ còn trơ ra những nét “ngu Mỹ và

ác Mỹ”…

So với cuộc kháng chiến lần trước, thì kỳ này, khi cuộc chiến đấu đi vào

giai đoạn quyết liệt, nhà văn ít có điều kiện tiếp xúc với đời sống rộng rãi, nhất

là ở những nơi tuyến đầu. Nhưng không khí thời đại kết hợp với một vài

chuyến đi vào Khu Bốn, cùng với tài liệu, sách báo, các phương tiện thông tin

lại có thể trợ lực cho nhà văn một phần để bù vào các chỗ thiếu của thực tế

nóng hổi. Nhà văn vẫn tiếp tục suy nghĩ trên những vấn đề mới đặt ra.

Cuối 1973, trên Cứu quốc, số 3673, ra ngày 29 tháng 12, Nguyễn Tuân

viết Hà Nội ta vậy mà đã một năm chiến thắng B.52. Nhà văn không muốn

mình và mọi người có những suy nghĩ và lòng tin dễ dãi. Không khí hồ hởi,

ấm áp, nhưng vẫn còn có cái gì phấp phỏng “xì xào” ở một vùng nông thôn,

Page 42: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

nơi làng Em (M) một năm sau hòa bình, cùng với niềm lo âu khắc khoải đến

không ngủ được, khiến cho tác giả “cứ ngồi đối mãi bình rượu quê mà thức

tới gần sáng, nghĩ về đủ mọi thứ chuyện lành chuyện gở…” quả là điều đáng

chú ý. Anh muốn mọi người đừng có vô tâm mà quên cảnh giác. Nhưng qua

hình ảnh một căn bếp nửa mái lợp dở của người chủ nhà nơi nhà văn sơ tán,

khác nào một kẻ đang húi đầu “bị còi báo động cắt quãng vào”, đành bỏ cả

dao kéo, tong-đơ đó mà chạy, “bưng cái đầu nham nhở da báo vọt xuống

hầm mà chờ lệnh báo yên” để so sánh cuộc sống cả nước trong hoàn cảnh

nửa chiến tranh nửa hòa bình, và nửa nước miền Nam sau Hiệp nghị Pa-ri thì

thực là không khỏi khiến cho ngưòi đọc băn khoăn. Quả có một cái gì chưa

được đúng lắm trong cách so sánh ấy, nó khiến cho người đọc không khỏi ít

nhiều nghĩ về chiến thắng của dân tộc, về thành quả của cách mạng với một

cảm giác bẽ bàng, thậm chí có cái gì đó pha chút hài hước nực cười. Thành

ra, sau bài bút ký, người đọc lại thấy loãng đi không ít cái niềm vui lớn lao và

lòng tự hào chính đáng của nhân dân ta sau một chiến thắng vĩ đại.

Trong một tùy bút khác Nguyễn Tuân viết tiếp sau đó không lâu, trên

Cứu quốc, số 3687, ra ngày 29 tháng 3- 1974. Đêm xuân nằm hồ này, nằm

ngẫm thêm về bầy hổ Mỹ, nhà văn đã theo dõi kỹ các tin tức và những số liệu

về sự can thiệp của bọn Mỹ ở miền Nam, về con số quỹ chiến tranh, về con

số giờ bay và các phi vụ của Mỹ –Thiệu để cho người đọc nhận thức rõ ở

miền Nam một năm sau Hiệp định Pa-ri, chúng ta vẫn chưa có hòa bình, ở

miền Bắc chúng ta vẫn chưa thể ngủ yên cho đầy giấc được, “trong kia vẫn

còn mất máu, ngoài này vẫn vã mồ hôi trộm”. Bài tùy bút có đóng góp trong

việc vạch bộ mặt những ác thú hổ nấp sau lốt cố vấn dân sự Mỹ, bên cạnh cái

hào khí sôi nổi khi nói về những lò cao hổ khổng lồ rừng rực 12 ngày đêm hạ

B.52 ở Hà Nội, như một liều thuốc trợ sức truyền thống đối với nhân dân ta,

khiến cho “Thủ đô ta hồi sức ngay, và cả nước ta từ Bắc chí Nam khỏe hẳn

ra, mà anh em ta khắp bốn bề năm châu đều hể hả ra mặt ra lời”. Nhưng bên

cạnh những nhận xét đúng và những cảm xúc mạnh, bài tùy bút vẫn còn

những điểm không sáng lắm trong nhận thức, và cũng chưa vững lắm trong

Page 43: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

lòng tin. Chẳng hạn khi Nguyễn Tuân tỏ ra hối hận và tự nghiêm trách mình là

“khờ” trong cái tiêu đề: Đất cùng trời toàn cõi ta từ nay sạch hẳn bóng Nó, cho

một ký sự về sự kiện lịch sử Mỹ cuốn gói trên cả hai miền mà nhà văn cho là

quá bốc. Nhà văn thấy phải vội vàng thêm ngay vào một chữ “coi như”:… coi

như sạch hẳn bóng Nó, để mà đính chính ngay cái sai lầm “chủ quan” có tính

chất cả tin và nhẹ dạ kia! Chút hoài nghi ấy còn đậm hơn qua những suy nghĩ

của nhà văn trong đoạn kết bài tùy bút về cái “tính nhị nguyên của cuộc sống

nhãn tiền”, và về cái việc chúng ta “tìm cái thắng bằng chiến, tìm cái thắng

bằng hòa, hòa cho được”.

Dù sao trong phạm vi đề tài cách mạng dân tộc dân chủ suốt mấy chục

năm qua, và cho đến lúc này, phải thấy rằng, Nguyễn Tuân đã có một tiếng

nói đóng góp. Một tiếng nói, có đôi khi chưa được trong trẻo, nhưng vẫn là sốt

dẻo, kịp thời. Tình cảm dân tộc vẫn là đường mạch ngầm khá dồi dào ở trong

anh.

Tuy nhiên có điều đáng tiếc là Nguyễn Tuân đôi lúc chưa được sâu sắc

lắm trước những vấn đề đặt ra trong cuộc sống mới đang xây dựng chủ nghĩa

xã hội. Cái say trong Sông Đà mấy năm trước lúc này quả có nhạt đi, và do

vậy dường như nhà văn chưa tạo ra được đà đi tiếp. Ngót hai mươi năâm

trước đây, Nguyễn Tuân viết Phở và giờ đây nhà văn lại viết Giò lụa (Văn hóa

nghệ thuật; số 31, tháng 7-1973).

Nhân bàn về giò, phở và về nhiều thứ khác nữa trong đời sống, người

đọc không ai không công nhận Nguyễn Tuân là người có vốn đọc, vốn hiểu

phong phú. Nhà văn biết nhiều chuyện, chẳng hạn lý lịch một nhân vật, lịch sử

một địa danh, chẳng hạn tên các loại gỗ ở rừng, hoặc số cây trồng ở Hà Nội

ở tận con số lẻ. Nhưng dù sao cũng phải nhận rằng bấy nhiêu hiểu biết theo

kiểễu như trên, cũng chỉ mới là những kinh nghiệm về một vài mảng sống

chưa phải là rộng lắm. Tùy bút Nguyễn Tuân do vậy có gợi tò mò, đôi khi

hứng thú, nhưng nhìn chung còn rườm rà những chi tiết phụ, còn bề bộn

những câu chuyện ngoài lề, chứ chưa phải là nơi chứa đựng những vấn đề

Page 44: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

mới, dồn tụ những âm vang lởn của đời sống, nhất là đời sống trong xây

dựng chủ nghĩa xã hội.

Cũng cần phải nói thêm là, trong giai đoạn cách mạng mới này, qua tùy

bút Nguyễn Tuân, dù viết về chiến tranh hay về xây dựng hòa bình, nhà văn

thường hay cài vào những ý lấp lửng, khiến cho thông qua chủ quan mình,

nhiều trang viết của anh, có một vẻ gì đó không bình thường. Thực tế cho

thấy, đối với Nguyễn Tuân, một thiếu sót nào đó của cuộc đời đôi khi có thể

làm cho nhà văn có ý nghĩ lệch về toàn bộ. Trong Tờ hoa (Văn nghệ; số 143,

1966) không phải chỉ có chuyện ong, chuyện bướm, chuyện hoa… Sau cái vẻ

bâng quơ của câu chuyện người đọc không khỏi cảm thấy có một cái gì

vướng bận. Trong Tình rừng (Văn nghệ, số 267, 1968) giữa chuyện rừng thật,

nhà văn cho chen vào chuyện “rừng văn”; giữa chuyện những tên giặc Mỹ ưa

“sạch sẽ”, lại có chuyện về người đốt rừng “dốt nát”; giữa chuyện cháy rừng

lại có chuyện “đốt bản thảo” với “cơ man là sách in”. Trong Hà Nội ta đánh Mỹ

giỏi, giữa chuyện những con thú vườn Bách Thảo hôi hám mùi thịt sống, nhai

xương gau gáu, lại có chuyện chúng “vừa ăn vừa nói, giọng vặn vẹo mà nuốt

chửng cả con chữ, mà nhai biến cả vần”… Cứ thế, lâu lâu trước mắt ta lại

thấy xuất hiện một đối tượng để cho Nguyễn Tuân trút vào đấy mọi nỗi bực

giận. Người đọc tự hỏi không hiểu vì sao nhà văn cứ phải chọn một cách nói

như thế, mà không nêu rõ ý kiến của mình. Cách làm đó hẳn không thể xem

là thích hợp với hoàn cảnh bấy giờ, khi nhân dân đã làm chủ, và khi nhà văn

đã trở thành người phát ngôn cho tâm tình và nguyện vọng của lớp công

chúng mới, vốn là những người luôn mong muốn có một nhận thức thật là

sáng sủa, một thái độ thật là đường hoàng trước mọi vấn đề, mọi sự kiện.

***

Ký Nguyễn Tuân cho ta một hình ảnh khá rõ nét về bản thân nhà văn

trên bước đường phát triển của cách mạng hơn ba chục năm qua. Một

Nguyễn Tuân trước đây không phủ nhận là có một tinh thần dân tộc nhất

định. Nhưng, như nhà văn đã nói: “về những vấn đề lớn thuộc về vận mệnh

Page 45: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

dân tộc, tôi nghĩ rằng cái biểu hiện yêu nước của tôi, ở tôi, tôi chỉ xin khung

nó gọn vào vấn đề xây dựng tiếng nói” (Văn nghệ; số 12, 1958), thì tinh thần

dân tộc đó quả là còn ít ỏi. Trong sáng tác của nhà văn trước Cách mạng, ta

chưa hề thấy có sự đả động gì đến bộ mặt thực dân, đến chế độ phong kiến,

thuộc địa. Đối tượng để cho nhà văn phê phán, khinh bỉ, nếu có đôi chút bóng

dáng thì cũng chỉ lá mấy khuôn mặt hợm của của vài tên trọc phú, không biết

gì là tài năng, dốt nát về văn chương nghệ thuật. Sau Cách mạng, khía cạnh

ý thức dân tộc hiếm hoi đó ở Nguyễn Tuân được phát huy và có đóng góp

thiết thực hơn. Nhà văn đã có lúc phấn đấu vươn lên được hàng đầu, và nói

được trong một chừng mực nào đó những vấn đề lớn của nhân dân, đất

nước. Không còn bơ vơ “thiếu quê hương”, lao vào cuộc sống và tìm được

chỗ đứng cho mình, nhận lấy những trách nhiệm và vinh dự mà nhân dân trao

cho, nhà văn đã cố gắng để từng bước thay đổi mình, để cải tạo cái tôi cũ

thành cái tôi mới, cái tôi công dân nghệ sĩ.

Ở Nguyễn Tuân, con đường đấu tranh cải tạo cái tôi cá nhân chủ nghĩa

cũng đồng thời là con đường nhà văn đi tới, gắn bó với quần chúng cách

mạng. Ở đây cần có một lòng thương yêu thật sự đối với quần chúng. Và điều

này không phải là không có ý nghĩa đối với Nguyễn Tuân, vì cái hoài nghi,

khinh bạc vốn đã từng có lúc làm giảm đi không ít lòng tin yêu của anh đối với

con người. Trước Cách mạng, chọn cái tôi làm trung tâm, nhà văn chỉ biết và

chỉ yêu có một chàng Nguyễn. Nói cho đúng, anh cũng có le lói một lòng yêu,

nhưng lòng yêu đó chỉ dành cho những kẻ có một cái tài gì đó, phù hợp với

quan điểm duy mỹ của anh. Người được anh yêu trên hết, trước hết phải có

tài. Cũng chính vì sùng chuộng cái tài trên quan điểm duy mỹ ấy, nên lòng

yêu của anh đôi khi đi đến mất lập trường một cách nghiêm trọng như trong

Một đám bất đắc chí nói về cái tài “ném bút chì” giết người của một tổ cướp,

hoặc Chém treo ngành ca ngợi lối hành nghề rất tài hoa của một tên đao phủ.

Cách mạng đã đem lại cho Nguyễn Tuân một quan điểm mới trong

cách nhìn nhận người và việc. Cuộc kháng chiến chống Pháp và Cải cách

ruộng đất đã làm thay đổi phần lớn tình cảm anh. Những trang Tùy bút kháng

Page 46: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

chiến và Sông Đà đã dần dần cho thấy một Nguyễn Tuân mới, khác, biết gắn

bó và yêu thương người lao động.

Con đường đi của Nguyễn Tuân trong ba mươi năm qua là con đường

có nhiều bước thăng trầm. Đi vào đời sống, xuất phát từữ đời sống (chứ

không phải từ cá nhân mình), gắn bó, chan hòa với quần chúng (chứ kkông

phải đứng tách ra ngoài), tin ở cách mạng, và rèn luyện mình theo lập trường

và quan điểm của Đảng… đó là nguyên nhân đem đến thành công cho ký của

anh. Lãng quên những bài học đó, để cho cái tôi phồng lên, lấn át, là anh

chuệnh choạng, và có khi vấp ngã. Kinh nghiệm ấy chính nhà văn cũng đã có

lần thấm thía: Tôi mới hiểu rằng thấm nhuần chính sách của Đảng không phải

là một việc hoàn toàn thuộc về lý trí. Đây quả là một vấn đề đòi hỏi rất nhiều

tình cảm, nó hàng ngày đặt cho ta những câu hỏi dứt khoát: “Yêu thương ai?”

và “Căm thù ai?”. Trình độ chính sách của tôi thêm được đến hạn độ nào thì

tim tôi nhịp cùng với anh chị em đến mức ấy. Và chỉ có đứng hẳn vào giữa

cuộc đấu tranh nóng hổi của dân cày thì tôi mới lắng nghe được rõ ràng cái

tiếng đập của trái tim vĩ đại ấy của quần chúng nhân dân (Bóng nó còn bám

lên xóm làng).

Con đường đi của Nguyễn Tuân rất có ý nghĩa đối với mọi thế hệ nhà

văn chúng ta, nhất là những người đã sống và viết trải qua hai chế độ.

Cách mạng tháng Tám và NAM CAOTrước Cách mạng tháng Tám, sáng tác của Nam Cao cho ta thấy sự

bế tắc về tinh thần của cả một lớp người trí thức tiểu tư sản, sự bần cùng

hóa, có bộ phận đi tới lưu manh hóa, của đại bộ phận nhân dân lao động

thành thị và nông thôn. Bức tranh cuộc sống anh dựng lên in rõ dấu ấn đặc

biệt của thời kỳ tiền khởi nghĩa với những nỗi đau khổ ghê gớm và sự oi ngột

đến kinh người mà nhân dân ta phải chịu đựng dưới hai tầng áp bức Pháp –

Nhật. Như tên của một tác phẩm Nam Cao: Nửa đêm, đây là thời kỳ cuộc

sống đang chuyển đến phút cuối cùng của một đêm sâu, đến “nửa đêm” thăm

Page 47: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

thẳm, mịt mùng; và cố nhiên, theo xu thế của nó, sau nửa đêm sẽ là một ngày

mới bắt đầu. Nam Cao chưa biết được cái sắp xảy tới sẽ là cách mạng; anh

chỉ mới dự cảm một tai ương sẽ xảy ra – nạn đói năm 1945. Rồi sau cơn

khủng hoảng tột cùng đó là cái gì? Nhà văn chỉ biết ước ao “một cuộc đổi

thay” mơ hồ như lời Thứ trong Sống mòn.

Trong cảnh sống cùng quẫn đó, nhân vật của Nam Cao ra sức cựa

quậy, nhưng nào có ích gì. Mẫu người tưởng mà Nam Cao xây dựng trong

tầm nhìn còn nhiều hạn chế của nhà văn lúc ấy là những trí thức, nhà giáo,

nhà văn lương thiện, khao khát một cuộc sống trong sạch, hữu ích, muốn

phát huy mọi khả năng, tài năng của mình để đóng góp cho xã hội. Nhưng đối

với họ, nói gì đến chuyện thực hiện lý tưởng, dù lý tưởng đó chưa có gì là cao

lắm; nói gì đến chuyện thi thố được một chút tài mọn nào, nếu thực họ có tài.

Cuộc sống nặng đè lên đầu họ, và tất cả sức lực của họ lúc này chỉ được

dùng vào chuyện kiếm cho được ngày hai bữa, để khỏi chết đói. Rồi còn vợ,

còn con, còn mẹ, anh em, ông bà nội ngoại, cả một gánh gia đình đang như

một chuyến xe thồ nặng, leo dốc, mà bản thân họ đúng là một con ngựa còm

đang gò lưng kéo.

Cuộc đời những anh trí thức nghèo rồi đây rút lại chỉ còn có việc kiếm

sống và băn khoăn vì mục đích sống; Bứt rứt và đau xót bao nhiêu khi họ

không nhìn thấy trước mặt một kẻ thù cụ thể nào (do đứng ở vị trí của tầng

lớp trung gian), mà cuộc sống thì lại luôn luôn bị đe dọa khủng khiếp, càng

cựa quậy càng bị thắt lại, càng bị lún xuống sâu hơn. Muốn sống cho “thanh

cao”, họ phải chịu cảnh tầm thường; muốn gỡ ra khỏi các vòng vây trói buộc

mà cứ bị xiết vào; thấy rõ nguy cơ mà không tránh được. Rốt cuộc, họ đành

phải nhẫn nhục chịu đựng một cảnh “sống mòn”, mội cuộc “đời thừa”; rồi than

thân trách phận và cắn rứt lẫn nhau. Rối triết lý về sự đau khổ của mình và

của… kiếp người!

Triết lý chẳng đi đến đâu; chỉ càng quẫn, càng mụ người đi. Chỉ có một

lối thoát duy nhất, là con đường cách mạng. Lối thoát đó, nhân vật Nam Cao

Page 48: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

không nhận ra, đó là một phần sự thực bế tắc trong đời. Nhưng bản thân

Nam Cao cũng chưa sớm nhận ra, đó mới là chuyện bế tắc thực sự. Ta hiểu

vì sao nhân vật Nam Cao có lúc bị giày vò dữ dội đến thế. Họ làm khổ nhau,

và tự mình làm khổ mình đến điều. Ở đây, nguyên nhân chính là do sự han gỉ

của tâm hồn họ. Trong sáng tác của mình, Nam Cao tuy có phê phán con

người tiểu tư sản nhưng chưa sâu, chưa triệt để, chính là do anh chưa có tầm

nhìn cao hơn nhân vật để chỉ rõ lối thoát cho họ và vạch rõ chủ nghĩa cá nhân

đã gây cản trở cho bước chân và tầm mắt của họ như thế nào. Cố nhiên

không phải nhà văn cứ gò họ đi theo cách mạng một cách gượng ép. Trong

thực tế, không phải ai cũng đi theo cách mạng cả. Nhưng nếu có được tầm

nhìn mới, nhất định anh sẽ miêu tả họ khác đi.

Nhà văn bế tắc thì nhân vật cũng bế tắc.

Nhưng bế tắc không phải là hết, là chết, dù có “sống mòn” – hay là chết

mòn thì cũng vậy. Là vì nhân vật của Nam Cao tuy vẫn chưa vượt ra khỏi

vòng vây của ý thức hệ tư sản, nhưng căn bản họ không phải là người mang

chủ nghĩa cá nhân cực đoan, ích kỷ, chỉ lăm le đi tìm những lạc thú cho mình.

Họ biết nhìn rộng ra cảnh ngộ chung của nhân dân. Những điều trông thấy

làm cho họ lo âu. Mỗi thảm cảnh họ nêu lên đều phản ánh một thực trạng của

đời sôang quần chúng đông đảo. Thông qua sự bế tắc của một lớp người, họ

vạch rõ sự cùng đường của cả xã hội. Tất cả những hiện tượng đó đã khách

quan nói rõ sự gắn bó giữa nhà văn với quần chúng nhân dân; cho nên sự

thật đặt ra trong tác phẩm lại cho ta thấy rõ, nếu như quần chúng phải tự giải

phóng cho mình bằng cách mạng, thì người trí thức cũng không thể có con

đường giải thoát nào khác ngoài con đường cách mạng.

***

Nhưng đến với Cách mạng tháng Tám, từ những hoàn cảnh khác nhau

mới chỉ là một chặng đường. Con đường đi theo Cách mạng, từ sau tháng

Tám 1945, cũng là một cuộc trường chinh. Mỗi người viết lại phải trở lại từ

đầu một cuộc chuẩn bị. Để tránh sự lạc hướng, hoặc chậm trễ.

Page 49: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Tùy bút Đường vô Nam có thể xem là tâm trạng bối rối của nhà văn khi

thấy sáng tác của mình còn chậm trễ. “Cây bút của tôi bất lực. Nó không khạc

ra lửa và ra đạn như cây súng. Nó ỳ ạch chạy Iheo phong trào mãi mà không

kịp. Các bạn tôi cũng đều thấy na ná như tôi. Họ đều thấy rằng bàn tay họ

nếu chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng vụng về”. Nhưng chính những

bối rối và sự nhận thức ra tình hình chậm trễ đó lại đánh dấu một bước

trưởng thành cơ bản trong đời sống tư tưởng và nghệ thuật của Nam Cao.

Trước đây, anh sống chết với nghệ thuật; bây giờ, chưa lúc nào như lúc này,

những lời thiết tha thành kính nhất của anh lại được dành cho đoàn thể:

“Đoàn thể, đó là một cái gì rất thiêng liêng”. Trước đây, anh chỉ mong đưọc

viết, viết để mà sống – và cũng không có cách gì khác hơn để sống – thì giờ

đây, trong tâm trạng người công dân được giải phóng, điều khao khát hơn đối

với anh là được sống, “sống đã rồi hãy viết”, để đóng góp phần mình cho

cách mạng. Con người Nam Cao hiện ra khác hẳn. Anh đem hết sức mình

làm mọi công tác, không nề hà bất cứ việc gì. Từ một nhà văn, nhà giáo ủ dột,

xo ro, Nam Cao đã trở thành một cán bộ tích cực tham gia cướp chính quyền

ở địa phương; sung vào đoàn quân Nam tiến; trở về làm công tác văn hóa,

tuyên truyền; được vinh dự tham gia nhập Đảng; sống những ngày “ở rừng”

gian khổ; dẻo dai trên những nẻo đường kháng chiến; đi công tác thuế nông

nghiệp và hy sinh ở vùng hậu địch Khu Ba.

Đời sống và sáng tác của Nam Cao cho ta thấy anh luôn luôn mong

muốn rèn luyện mình trở thành một công dân tốt, một chiến sĩ cách mạng

trước khi là nhà văn. Anh không tách con người nghệ sĩ ra làm hai. Đối với

anh, con người “Công dân” không mâu thuẫn với con người nghệ sĩ, và người

nghệ sĩ trước hết phải là một người “công dân”. Những trang Ở rừng cho ta rõ

Nam Cao đã tận tụy như thế nào trong mọi công việc của đoàn thể. Anh viết

sách địa lý phổ thông, phụ trách huấn luyện cho cán bộ cơ quan… Anh rất

ham chuộng cái công việc mà giá trước đây có ai bắt anh làm anh có thể

“điên người lên được”. Mỗi ngày cặm cụi viết bài. Từ bài “phông” đến một cái

tin vặt đều phải cố viết sao cho thật ngắn, thật dễ hiểu. Viết xong, đưa cho

Page 50: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

mộtf chú giao thông người Thổ đọc trước và hỏi xem có hiểu cả không, chỗ

nào chú không hiểu, viết lại. Chữ nào chú chưa quen, thay bằng chữ khác…

Thỉnh thoảng anh cũng có lo lắng: lâu không thấy viết lách gì khiến cho bạn

bè phải nhắc nhở; hoặc sợ lối viết báo có làm hỏng đi ít nhiều lối viết tiểu

thuyết của anh đã được nhiều người ưa thích không. Nhưng chỉ một lúc thôi.

Đối với anh, điều đáng quan tâm lúc này không phải là chuyện lo cho mình có

tên tuổi, mà là chuyện làm sao sống cho đúng, sống cho đầy đủ cuộc chiến

đấu của dân tộc “Sống đã rồi hãy viết!”

Nhưng “sống đã rồi hãy viết”, đối với Nam Cao không có nghĩa là một

sự hy sinh nghệ thuật cho cách mạng. Càng gắn bó với cách mạng, anh càng

thiết tha ao ước một tác phẩm được viết ra do yêu cầu của đời sống lúc này:

một tác phẩm về sự đổi mới của những người trí thức như anh, hoặc về sự

đổi mới của làng quê anh. Nhưng anh biết rõ phải chuẩn bị cho mình những

gì. Quá trình công tác, đối với anh, không có nghĩa chỉ là làm tốt trách nhiệm

của một công dân, mà còn có ý nghĩa một sự chuẩn bị cơ bản cho nghệ thuật;

chuẩn bị về vốn sống, và trước hết là “đôi mắt”, là cách nhìn. Và muốn có “đôi

mắt” ấy thì không thể cứ khoanh tay ngồi chờ, nhất là ngồi chờ trong một ngôi

nhà ấm, với một cô vợ trẻ, và một bộ tiểu thuyết trứ danh như anh chàng

Hoàng trong Đôi mắt, để mỗi tối hưởng cái thú nghe vợ đọc truyện, rồi vỗ đùi

đen đét phục sát đất một nhân vật tưởng tượng, còn tất cả các anh hùng

trong cuộc đời thì coi khinh.

Tầm quan trọng của “đôi mắt”, của cách nhìn, không phải chỉ được

Nam Cao nói đến một lần. Tham gia vào cuộc tranh luận về nghệ thuật và

tuyên truyền khá sôi nổi vào hồi đầu kháng chiến, anh viết: “Ta không còn

phải là ta khi trước nửa, những người quanh ta không còn phải là những

người quanh ta khi trước nữa. Cuộc sống hiện nay không còn phải là cuộc

sống khi trước nữa thì sao ta lại có thể cứ viết, cứ vẽ như trước được”…

“Chính lòng người nghệ sĩ có cảm xúc, rung động thì tác phẩm nghệ thuật

mới xúc cảm, rung động được lòng người. Nhưng nếu người nghệ sĩ "vẫn

còn cảm xúc rung động theo những nếp tình cảm cũ thì những cảm xúc rung

Page 51: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

động của anh tìm sao được tiếng vang trong những tâm hồn mới hiện nay?

Có ích gì cho những tâm hồn cũ đang tìm thay đổi. Bởi vậy vấn đề cốt yếu đối

với người “nghệ sĩ của thời đại mới là phải làm thế nào đổi hẳn lại những giác

quan lệch lạc cũ của mình, nắn hẳn lại những nếp tình cảm cũ không được

lành mạnh lắm”. Anh rất sợ người viết gán cho nhân vật những thói tật của

mình, làm sai lạc hiện thực khách quan. Anh ca ngợi những sáng tác mới của

quần chúng, và xem đó như là mẫu mực, về một phương diện nào đó, để

mình noi theo: “Những người viết cũng như những nhân vật họ tả đều là

những con người hành động. Họ hy sinh và đoàn kết, chiến đấu và kỷ luật.

Tâm lý họ không phiền phức, rắc rối. Họ giản dị và thiết thực, không viễn

vông, vơ vẩn...”

Mặt khác, “sống đã rồi hãy viết”, đối với Nam Cao cũng không phải là

một sự chờ đợi tiêu cực, bị động. Cách mạng lớn hơn nghệ thuật, và ý nghĩa

cao quý của nghệ thuật là phục vụ cách mạng. Làm gì có ích để đóng góp cho

cách mạng đều đáng quý. Chẳng nên quá băn khoăn đến các điều kiện,

phương tiện, thì giờ; chưa câu nệ quá lắm về hình thức, nghệ thuật, kỹ xảo.

Quý hơn hết là nhiệt tình, là ý thức phục vụ. “Nói được một điều thiết thực,

đăng được một cái tin, làm người ta phải kể lại với nhau, làm được những

câu ca dao mộc mạc nhưng không đến nỗi thành vè, viết được một bài thật ít

lời, nhưng đủ ý, đọc lên đàn bà trẻ con nghe cũng hiểu, tôi cũng thấy sung

sướng như viết được một truyện ngắn chính tôi ưng ý” (Ở rừng). Anh yêu cầu

sáng tác phải có tính chiến đấu và giá trị kịp thời: “Giết nghệ thuật không phải

là cái quan niệm nghệ thuật phải tuyên truyền. Chính là cái quan niệm ngược

lại cho nghệ thuật không thể tuyên truyền, nghệ thuật mà tuyên truyền thì

không còn phải là nghệ thuật. Anh vạch kế hoạch thi đua trong thư gửi cho

Nguyễn Huy Tưởng: “Viết được nhiều, bất cứ bài báo, truyện dài, truyện ngắn

gì cũng kể. Bởi vì lúc này mà cứ viết những tác phẩm đồ sộ là không thiết

thực, khó in, khó bán, khó đọc”.

Trong khung cảnh những ngày đầu Cách mạng, những quan niệm và

việc làm như của Nam Cao trên đây quả có ý nghĩa tiến bộ rõ rệt. Chính trên

Page 52: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

cơ sở cái nền mới về tư tưởng đó, so với một số nhà văn khác, Nam Cao

không vất vả lắm trong những bước “nhận đường”. Từ vị trí một nhà văn hiện

thực anh chuyển nhanh sang vị trí một nhà văn cách mạng. Quá trình lao

nhanh vào cuộc sống, đồng cam cộng khổ với nhân dân, gắn bó với cách

mạng, đã giúp anh khơi nhanh được nguồn sáng tác cho mình; đã giúp anh,

mặc dù hoàn cảnh bận rộn, vẫn luôn luôn có sáng tác đáp ứng kịp yêu cầu

của phong trào. Cố nhiên, không phải sáng tác nào của anh cũng thành công,

có những sáng tác còn sơ lược, còn gượng, còn sượng do người viết nghĩ

chưa chín, chưa đủ vốn; hay nói như Nguyễn Đình Thi, người viết muốn “nắm

cổ nghệ thuật” lôi đi. Tuy nhiên, những trang hay lại nhiều hơn, những trang

nhà văn nêu lên và tìm được lời giải cho nhiều vấn đề mà trước đây, do hạn

chế của tầm nhìn, anh chưa thể nào thấy được.

***

Trước Cách mạng, sáng tác của Nam Cao là một câu hỏi lớn về

nguyên nhân mọi nỗi khổ trên đời. Anh thấy những người lao động chung

quanh mình ai cũng khổ. Nỗi khổ mênh mông. Thắp thoáng đâu đó có một vài

bóng dáng cường hào. Nhưng chuyện chúng “bóp hầu bóp cổ” nông dân

cũng chỉ là chuyện xảy ra sau lũy tre xanh. Vậy thì do đâu? Có lúc anh đã cho

đó là do con người “cấu xé lẫn nhau”… “Hạnh phúc trên đời chỉ là một chiếc

chăn quá hẹp, người này co thì người kia bị hở” (Mua nhà). Anh không tin

cuộc sống sẽ thay đổi, vì “nhân loại là một đám hỗn độn vô nghĩa lý”, vì “chất

độc ở ngay trong sự sống!” (Sống mòn).

Đi tìm nguyên nhân mọi thất bại của cuộc đời mình, sự bế tắc tinh thần

của cả một lớp người tiểu trí thức nghèo, có lúc anh cho đó là do những khó

khăn của áo cơm. “Áo cơm ghì sát đất”. “Áo cơm giết giết mọi ước mơ, mộng

đẹp”. Những anh nhà văn nghèo như Điền, Hộ, lắm lúc đã mơ ước cảnh sống

phú quý giàu sang để có thể rảnh rang tâm trí mà viết văn, làm thơ. Cùng

quẫn vì sinh kế, họ tự an ủi: có tiền rồi hãy viết! (Nhưng biết bao giờ họ có

tiền). Họ chưa lúc nào nghĩ cho đến cùng: khó khăn về cơm áo là do đâu? Họ

Page 53: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

càng không thể thấy sự bần cùng về vật chất và bế tắc về tinh thần của con

người là hai mặt của một thảm trạng đối với mọi tầng lớp nhân dân lao động

trong xã hội cũ.

Giờ đây mọi vấn đề đều được cách mạng làm cho sáng tỏ. Nỗi khổ

mênh mông của quần chúng đều do sự đè nén bất công của cả một chế độ.

Nguyên nhân sâu xa đâu phải do mấy anh tiểu tư sản “cấu xé lẫn nhau”, làm

khổ nhau, hoặc do một thứ “chất độc” siêu hình nào. Cũng không phải chủ

yếu do vài tên cường hào. “Người ta thấy họ đè trên mình thì cứ họ mà lay.

Nhưng sức nặng ở họ chỉ có một phần nhỏ mà thôi. Sức nặng chính là ở trái

núi kê trên họ. Muốn làm được trò gì, điều trước hết phải bạt cả trái núi, phải

phá cả cái chế độ bóc lột và áp bức đi” (Cách mạng).

Ánh sáng cách mạng cũng đồng thời rọi cho Nam Cao thấy rõ hơn bản

thân mình, tầng lớp mình. Mọi chuyện tầm thường, han gỉ chủ yếu là do chủ

nghĩa cá nhân trong con người họ. Đâu phải do những khó khăn về cơm áo?

Bằng chứng là có chán kẻ sống no đủ, phè phỡn mà vẫn “mòn” như San,

Đích, Oanh trong Sống món trước kia; hoặc như anh chàng Hoàng trong Đôi

mắt sau này. Bằng chứng là quần chúng lao động, trước hết là công nhân, tuy

phải chịu đựng tình cảnh cơ cực hơn nhiều, nhưng họ vẫn sống khỏe, lành

hơn hẳn mấy anh tiểu trí thức nọ. Tất cả những điều đó khi chưa có ánh sáng

cách mạng rọi vào sao khó thấy đến thế, mặc dù người ta đã cố giương to

mắt ra để nhìn. Giờ đây, trong ánh sáng cách mạng chan hòa, sự thực lại

hiện ra rất giản dị. Con người được giải phóng trở nên phơi phới như bông

hoa ngoài khí trời. Không còn chuyện xo ro trong tư thế, trong cách sống;

không còn vị buồn tủi, chua chát, ngán ngẫm, xấu hổ của những bữa ăn,

những tính toán chi li hằng ngày, những lần về thăm vợ con, những cuộc chia

tay não nuột nhìn bóng nắng nhích chậm chạp trên thềm… Một cái gì lớn lao

vụt đến làm đổi hẳn những eo sèo, nhí nhách hằng ngày. Cuộc sống trở nên

đầy ý nghĩa. Những trang Ở rừng, Đôi mắt cho thấy người ta sống tuy thiếu

thốn, vất vả nhưng vẫn vui tươi, lạc quan; bận rộn, căng thẳng mà không mệt

Page 54: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

mỏi, ủ dột; xa gia đình, vợ con mà tình cảm càng gắn sâu. Chả bù với ngày

xưa! Tất cả đó là nhờ cách mạng.

Trong bước chuyển về nhận thức và tư tưởng của Nam Cao sau Cách

mạng, vị trí người tiểu tư sản trong cuộc sống cũng được Nam Cao lật lại,

khúc trước, không còn là nhân vật trung tâm, không còn có lúc nào đó đứng ở

thế bề trên. Điều đó, trước đây do những hạn chể chủ quan và khách quan,

sáng tác Nam Cao chưa đặt ra được. Một mặt chưa đứng trên lập trường của

người lao động để phê phán người tiểu tư sản, nhất định Nam Cao không thể

có cái nhìn triệt để. Bản thân anh cũng mơ hồ về mình, cái nhìn tốt xấu đôii

khi cũng lẫn lộn. Mặt khác, trong xã hội cũ, “sự đối lập giai cấp đẻ ra sự đối

lập cá nhân và xã hội làm cho chủ nghĩa cá nhân là điều khó tránh khỏi”. Giờ

đây, quan hệ xã hội thay đổi, người ta có điều kiện nhìn nhận và phê phán

chủ nghĩa cá nhân một cách triệt để hơn. Riêng đối với Nam Cao, sự phê

phán đó đã được nâng lên thành một sự phê phán có ý thức, thành một chủ

đề nổi bật. Sáng tác nào của anh cũng đều có những trang cảm động; đó là

những trang nhà văn dũng cảm soi nhìn lại con người cũ của mình, chống

chọi với những mặt buồn yếu để từng bước vươn lên.

Sức chống chọi đó ghi được bàn thắng quvết định trong Đôi mắt. Chiến

thắng dứt khoát mà không ồn ào. Nhưng Đôi mắt không chỉ chứng tỏ tầm mới

về tư tưởng của Nam Cao, mà còn chứng tỏ sự chín về tư tưởng của Nam

Cao trong nghệ thuật. Bởi vì từ những chuyển biến về tư tưởng đến thành tựu

trong nghệ thuật, đối với nhà văn còn là cả một khoảng cách không phải ai

cũng dễ dàng vượt qua được. Chính khoảng cách đó làm cho không ít người,

trong những ngày đầu đi vào kháng chiến đâm ra hoài nghi: phải chăng phục

vụ cách mạng, người nghệ sĩ phải hy sinh nghệ thuật? Thành công của Nam

Cao trong một số truyện chứng tỏ Cách mạng không gây cản trở gì, trái lại,

càng tạo những cơ sở chắc chắn cho nghệ thuật phát triển. Đôi mắt được

Nam Cao viết trong mấy ngày nghỉ Tết (1948), “cho đỡ nhớ”, được viết thoải

mái một thôi, khỏe khoắn, tự nhiên, không có chút gì vướng gợn, vì chủ đề,

nhân vật đã thực sự chín muồi trong anh. Qua hình ảnh Hoàng, Nam Cao

Page 55: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

nhìn với cái nhìn thương hại và xin đủ tẩt cả những mẫu người cũ, những

kiểu sống cũ, lạc lõng, xa lạ với đời sống kháng chiến. Đồng thời Hoàng cũng

là cái vết đen bẩn, cái mảng bóng tối trong con người mình mà Nam Cao đã

rứt ra được.

Trong bước đường vươn lên của người trí thức, bên cạnh việc xác định

lý tưởng cách mạng, sức viện trợ của quần chúng cơ bản cũng là một nhân tố

rất quan trọng. Trên sáng tác của Nam Cao sau Cách mạng, luôn luôn ta thấy

có sự xuất hiện cùng một lúc hình ảnh hai loại người, một bên là những anh

tiểu tri thức, đang trong quá trình “lột vỏ”, và bên kia là quần chúng nhân dân;

và nếu như ở người trí thức thỉnh thoảng vẫn còn những lúc ủ dột, sầu muộn,

thì hình ảnh quần chúng lại hiện ra với một bộ mặt mạnh khỏe, sáng sủa.

Cố nhiên, không phải trước Cách mạng, Nam Cao không có những

trang tốt về quần chúng lao động. Chí Phèo không phải là hình ảnh duy nhất

của Nam Cao về nông dân. Còn bao nhiêu hình ảnh khác về tầng lớp dân

nghèo nông thôn và thành thị đã được Nam Cao vẽ ra với bao xót xa, thương

cảm. Bởi vì anh với họ đều cùng chung cảnh ngộ. Cái ngõ heo hút và căn

buồng tối ẩm, những bữa cơm rau và nước lã đun sôi, năm xu húi đầu, chiếc

vé tàu điện, bát phở họa hoằn mới dám ăn, trong cảnh sống của Thứ, Điền,

Hộ nào có gì cách biệt lắm với nhân dân. Đó chính là cơ sở cho anh hiểu, và

cảm thông với người lao động. Tuy nhiên, điều hạn chế là mọi kinh nghiệm

sống về phương diện này chưa được anh nâng lên thành một nhận thức quán

xuyến, vững vàng; mặt khác, đôi khi ngưòi viết vẫn chưa tránh khỏi cái nhìn

bề trên. Con người tiểu tư sản vẫn kín đáo tìm cho mình một chỗ đứng riêng.

Giờ đây, sống với quần chúng, nhà văn luôn giữ được trong mình tấm

lòng ưu ái chân thành. Tình thương yêu quần chúng trước kia đã được nâng

lên thành một tình cảm giai cấp. Những ngày ở rừng, anh “băn khoăn rất

nhiều đến thằng con đồng chí Chấn, nó gầy như một con nhái bén, mềm như

một lá rau úa, suốt ngày vắt vẻo trên lưng bà cụ”. Điều khổ tâm của Nam Gao

giờ đây không phải là chuyện mình không có gì khác với quần chúng, mà trái

Page 56: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

lại, vì anh thấy mình xa cách họ, không cóỏ được vẻ đẹp tâm hồn trong trẻo,

giản dị như họ. Điều khó khăn của anh giờ đây không phải là tạo được cho

mình một thế đứng cao hơn họ, mà là làm sao gạt bỏ mọi “gai góc” của bản

thân để đến thẳng cùng chỗ đứng với quần chúng mà không có chút vướng

gợn gì. Nhật ký anh ghi: “Lời phê bình của Lành và Tưởng: “Mình lãnh đạm, ơ

hờ với quần chúng, không gắn sát mình với quần chúng”. Tự xét không phải

thế. Mình chỉ e dè (timide) đó thôi. Ở lâu với mình người ta mến. Mình luôn

luôn biết xót thương, biết hy sinh. Nhưng thầm lặng quá, kín đáo quá, ghét

biểu lộ tình cảm, mặt lạnh lùng và khinh khỉnh. Tại sao như vậy? Khổ tâm lắm

lắm!”. Trước Cách mạng, Nam Cao đã có lần tự giễu mình mà thật ra là nói

đúng một phần con người mình trong một truyện ngắn: Cái mặt không chơi

được, kể lại nỗi khổồ tâm của một con người có một khuôn mặt lầm lì, khinh

khỉnh. Đó có thể là cá tính. Nhưng cho dù là cá tính cũng có phần thể hiện

một lối sống, một quan niệm. Người tiểu tư sản trong xã hội cũ thường cố tạo

cho mình một khoảng cách với quần chúng, để khẳng định ”cái tôi”, để chứng

tỏ mình “thanh cao” hơn, có “cưu thế” hơn quần chúng, mà thực ra trái lại chỉ

làm cho anh ta trở nên yếu đuối cô đơn, gầy mòn. Con đường trở lại cùng vị

trí và chan hòa với quần chúng chính là con đường cải tạo toàn bộ cách sống

cũ của anh, trong đó cóỏ cá tính, làm cho họ sống khỏe, vui, hết cô đơn, hết

kênh kiệu, nói chung là hết các bi kịch trong đời. Con đường đó Nam Cao rất

thấm thía: “«Tôi đã nghĩ đến tôi nhiều quá. Sau cuộc Cách mạng tháng Tám

càng ngày tôi càng thấy cái “tôi”» của mình thật ra chẳng có nghĩa lý gì. Nó có

một giá trị nào là khi nó biết hòa hợp nó vào với những người chung quanh”

(Ở rừng).

Trên cơ sở nhận thức đó, nhật ký, sổ táy, sáng tác của Nam Cao luôn

luôn là sự đối chiếu bản thân mình với quần chúng để ghi lại từng bước vươn

lên trên con đường chan hòa vào tạp thể. Dù sao, thỉnh thoảng vẫn còn

những thoáng tiêu cực, những lúc “thằng nghệ sĩ” trong anh vùng dậy. Nam

Cao biết rõ đó là do con người mình chưa hoàn toàn thay đổi. Buồn trong

những lần chia tay với vợ con: “Kháng chiến thành công nếu còn sống về làng

Page 57: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

này tìm nhau nhé!” (Đợi chờ). Buồn trong những ngày mưa: “Đời mình như

toàn mưa cả” (Ở rừng). Nhưng anh không triền miên và nhấm nháp trong đó.

Anh luôn luôn dựa vào quần chúng để kiểm tra mình. Sau cái buồn chia tay

với vợ con là sự nhận thức về nhiệm vụ của người công dân: “Chưa đuổi cổ

được thẳng Tây ra khỏi đất này thì hãy khoan nói đến hạnh phúc”. Chống với

cái buồn đêm mưa, anh tìm đến người Vệ quốc: “Ôi! những anh Vệ quốc

quân (…) Các anh hãy dạy tôi biết hy sinh, biết chiến đấu, chiến đấu lặng lẽ

không nghĩ gì cả đến thân mình nữa. Các anh hãy rọi vào lòỏng tôi ánh nắng

rực rỡ trong đôi mắt và cõi lòng của các anh. Lòng tôi vẫn còn u ám lắm.

Những đám mây đen xưa cũ vẫn còn lởn vởn. Các anh hãy quét sạch nó hộ

tôi. Quét sạch hẳn. Để cho tâm hồn quang quẻ và mới hẳn…

Quá trình chống chọi với cái buồn yếu, bi quan, đối với Nam Cao cũng

có nghĩa là sự chống chọi với chủ nghĩa cá nhân trong con người tiểu tư sản

để vươn tới tầm cao của lý tưởng cách mạng. Quyết tâm đổi mới con người

cũ ở Nam Cao cũng có nghĩa là quyết tâm phấn đấu đi tới sự nhất trí giữa

con người cán bộ quần chúng và con người nghệ sĩ ở trong anh. Rồi đây, một

cái nhìn, một cử chỉ của quần chũng cũng đủ làm cho anh bồi hồi xúc động.

Chiến dịch Biên giới, Thu đông 50. Buổi chiều vượt đèo gặp rất nhiều dân

công vận tải. Chuyện trò vui. “Một chị Thổ mặc dầu gánh nặng, khi qua trước

mặt chũng tôi cũng đi chậm lại, một tay khép nép kéo áo, mắt nhìn xuống thỏ

thẻ chào rất khẽ: “Các đồng chí về công tác”. Tiếng chị thanh nhẹ, đầm ấm rất

xứng với khuôn mặt thùy mị, dịu hiền. Nghe thấm thía đến tận lòng. “Các

đồng chí về công tác!”. Sao mà gần gũi thương mến thế! Người nghe thấy

rưng rưng nước mắt!” (Chuyện Biên giới).

***

Đi sâu vào cái tôi cá nhân, càng sâu càng cô đơn, càng lạnh. Hòa vào

quần chúng, càng thấm nguồn vui, sức lực được nhân lên. Đó là cơ sở cho

nhân tố lạc quan chan chứa trong sáng tác của Nam Cao, dù hoàn cảnh còn

nhiều gian khổ, có khi còn gian khổ hơn nhiều hoàn cảnh những anh Thứ,

Page 58: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Điền, Hộ ngày xưa. Khi anh say sưa ca ngợi con người mới của dân tộc: “Hỡi

người Việt mới, con đẻ của Cách mạng tháng Tám. Nhân loại văn minh và

tiến bộ đang nhìn theo từng bước tiến của anh(…) Anh đã mang ở trong

người mầm non của một con người mới nói chung, con người của ngày mai

nhân loại”; khi anh phác họa hình ảnh đất nước tương lai: “Trước mắt chúng

ta cả một vùng rừng núi mênh mông không còn phải là chỗ ma thiêng nước

độc bất khả xâm phạm như xưa, mà là một miền rộng rãi có nhiều khả năng

khai thác. Những nhà máy sau này sẽ mọc lên rất nhiều ở trên này, bên cạnh

những thác nước dùng làm động lực. Những đồn điền chăn nuôi lớn sẽ lập

nên cùng với các nông trường. Đèn điện sẽ sáng trưng. Bệnh sốt rét hết chỗ

nương thân. Hà Nội lên đây nghỉ hè. Những thanh niên nam nữ Thổ, Mán,

Mèo về học trường Đại học ở Thủ đô. Không còn phân biệt miền ngược và

miền xuôi, cũng như đã hết sự ngăn cách giữa thôn quê và thành thị. Những

ngày kiến thiết sau này vui biết mấy“; khi anh dứt khoát khẳng định: “Sức

sống của dân tộc chúng ta đang độ lớn lên rất dồi dào. Nay mai những xiềng

xích tháo tung rồi chúng ta sẽ lớn rất mau và rất mạnh” (Đường vô Nam)…

“Lao động nước mình trong thời kháng chiến này có gì mà họ không làm

được”…, chúng ta hiểu đó là tất cả lòng tin vững chắc của anh đối với cách

mạng.

Từ lòng tin đó, con người tiểu tư sản cũng xây dựng được lòng tin đối

với bản thân mình. Trước đây, trong Sống mòn, một anh bạn của Thứ đã có

lần chua chát mà nói đúng thực trạng của mình: “Chúng mình hóa dở dang.

Chạy chọt để vào làm sở nọ sở kia thì chúng mình lấy tiền đâu. Làm thợ thì

không có nghề. Đi buôn không có vốn. Về nhà quê làm ruộng thì chúng nó

cười cho thối đầu lâu. Vả lại cuốc không hay, cày không biết, với cũng không

có sức. Ngay lưng quen rồi”. Giờ đây những con người ấy đã trở nên cứng

rắn, dày dạn. Không còn nữa những lời chua chát, ngán ngẩm về mình, mà là

những lời hân hoan tự tin: “Lúc này mình mới biết được sức mình. Thì ra

mình khỏe chẳng kém gì ai (…). Tôi thấy rằng sau kháng chiến, nếu tôi thích

đi cày, đi cuốc hơn cầm bút, tôi cũng có thể đi cày, đi cuốc được. Cực nhọc

Page 59: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

không đáng sợ (…) Cuộc kháng chiến rồi đây có thể đẩy chúng tôi vào những

hoàn cảnh khó khăn hơn hiện nay gấp nghìn lần. Nhưng chúng tôi không nản

sợ một chút nào. Chúng tôi tin ở sức chịu đựng của chúng tôi và sự giúp che

chở của đồng bào. Khi mà ở tận chốn thâm sơn cùng cốc này vẫn còn những

người Mán sống nghèo khổ và lẻ tẻ, tha thiết với cách mạng và độc lập tự do

thì chúng tôi có quyền vững lòng và tin tưởng…” (Ở rừng).

Với Nam Cao, rõ ràng con đường đi theo cách mạng, đến với quần

chúng không những giải phóng cho người trí thức tiểu tư sản ra khỏi các bi

kịch kiểu “sống mòn” mà còn phát huy được mọi khả năng, tài năng của họ,

đem lại cho họ một cuộc sống đầy ý nghĩa.

Mang cái nhìn lạc quan đó mà đi vào cuộc sống mớĩ, sáng tác của Nam

Cao thường có nhiều trang vui. Đó là điều khó tìm được trong các sáng tác

trước của anh. Có một chút lạc quan nào trong Hai đứa trẻ thì cũng rất mong

manh; có chăng là trong tưởng tượng; có một cái “cười”, nhưng là cười ra

“nước mắt”. Giờ đây, cuộc sống mới trong sáng tác Nam Cao, tuy vẫn còn

nhiều khó khăn, gian khổ mà anh không che giấu vẫn luôn luôn hiện ra với

màu sắc tươi sáng. Cố nhiên, trừ một số trang anh viết về mình. Nhưng cái

buồn không bao giờ anh để lây ra chung quanh. Nam Cao ít khi gắn cái bi

quan của bản thân mình cho nhân vật như đôi lúc vẫn có ở Trần Đăng, mặc

dù cả Trần Đăng và Nam Cao đều là những nhà văn quyết tâm bám chắc vào

cuộc sống mới. Ngay sau Cách mạng đã nghe vang giọng điệu hồ hởi, reo vui

của Nam Cao: “Chúng ta đã biết nhìn hẳn vào sự thật rồi. Những kẻ đi lầm

đường thấy ngay rằng mình phải trở về con đường đúng mà đi. Cả dân tộc đã

dồn cả vào một con đường: ấy là con đường ra mặt trận, con đường cứu

nước, con đường vô Nam” (Đường vô Nam). Anh nói đến cách mạng với tất

cả niềm say sưa bồng bột, nó vừa là nhận thức nhưng lại vừa là tâm sự, nên

có một chiều sâu thấm thía và một vẻ cảm động, chân thành. Cách mạng đối

với anh có cái ơn cứu sống, nên trong sáng tác của anh, mốc lịch sử tháng

Tám 1945 trở thành cái bản lề ngăn đôi bóng tối và ánh sáng, tủi cực và niềm

vui. Cuộc sống mới có một sức hấp dẫn đặc biệt đối với anh: “Biết bao nhiêu

Page 60: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

là đau đớn, cay đắng, xót xa trong những cuộc đời như vậy; và cũng biết bao

nhiêu là đẹp đẽ, can đảm, anh hùng trong đó mà chúng ta chưa nói được. Có

thể nói trong thời kháng chiến này, mỗi người là một truyện, mỗi cử chỉ là một

đề tài nghệ thuật”. “Người anh hùng đã thành thường thấy trong thời kháng

chiến này, chính người bạc nhược mới là người hiếm thấy”. Nhưng tiếc là anh

chưa viết được nhiều. Anh chỉ mới đi được một chặng đầu, mới làm được

“một cuộc chuẩn bị” cho sáng tác, rất say mê cuộc sống chung quanh, nhưng

đồng thời còn phải soi nhìn lại mình. Sáng tác của anh hồi đầu chủ yếu là

những tâm sự (Đường vô Nam); nói cuộc sống mới cũng là để đối chiếu với

mình (Ở rừng) để nhìn lại những mẫu người cũ (Đôi mắt). Trong Bốn cây số

cách một căn cứ địch đã hiện ra bóng dáng những thanh niên quyết tâm bám

đất giữ làng, với tiếng cười trẻ trung sôi nổi của họ, nhưng hình ảnh họ vẫn

mới chỉ là cái cớ cho nhà văn bộc lộ những nỗi niềm riêng. Càng về sau, bức

tranh cuộc sống mới càng đậm màu. Vài nét ghi qua vùng vừa giải phóng,

Chuyện Biên giới là những trang ghi nhanh trên một chặng đường ra trận.

Hình ảnh tấp nập đông vui của dân công bộ đội hiện lên trên màu ngô vàng

óng, trong sắc chàm xanh của áo, của núi rừng,…hiện lên trong tiếng hát,

tiếng nói cười, những câu chuyện trò tâm sự.

Cuộc sống mới đang ùa vào tác phẩm của Nam Cao với những đường

nét đúng thực, khỏe và đậm.

***

Bài học Nam Cao là bài học về một nhà văn quyết tâm phấn đấu theo

phương hướng người nghệ sĩ mới của Đảng.

Toàn bộ sáng tác của Nam Cao sau Cách mạng được đặt ra trên cái

nền mới đó về tư tưởng. Nhưng vẫn còn một cái gì dở dang, chưa xong, và

có thể nói tất cả đang còn ở trước mặt Nam Cao. Hình ảnh người tiểu tư sản

đi theo cách mạng mà anh theo đuổi, nhằm chứng tỏ sự cải tạo và cảm hóa

kỳ diệu của Đảng, mới chỉ thấp thoáng chỗ này chỗ kia, tản mạn trong các

tâm sự trữ tình, chưa có điều kiện đúc lại thành đường nét, thành điển hình.

Page 61: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Những đổi thay của nông thôn sau Cách mạng đang được nung nấu trong dự

định của anh, như anh nói “chỉ về làng một tua, bắt tay nhìn mặt chúng nó một

cái thì phần cuối cùng cuốn truyện mình nhất định viết xong” cũng còn chờ

dịp... Sự chuẩn bị, tích lũy bước đầu về kinh nghiệm sống và tình cảm của

một nhà văn thành tâm đi theo cách mạng, gắn bó thiết tha với quần chúng,

với sự nghiệp của Đảng, quyết tâm làm người nghệ sĩ kiều mới, lao sâu vào

các dòng chính của đời sống, nắm bắt nhạy bén các yêu cầu của cách

mạng… bảo đảm cho Nam Cao tiến tới có những thành tựu lớn; nhưng thời

gian chưa cho phép anh thực hiện được: kẻ thù đã cướp mất Nam Cao của

chúng ta.

Tuy nhiên những gì đã được Nam Cao viết ra đều là những trang đáng

quý. Cũng đáng quý là những kinh nghiệm sống, viết và hoạt động của anh…

Đọc Nam Cao, chúng ta thấm thía hơn vẻ đẹp của cuộc sống mới, đồng thời

cũng có dịp thấy rõ con đường đúng nhất, cũng có nghĩa là con đường ngắn

nhất đối với một nghệ sĩ chân chính trên quá trình sáng tác phục vụ nhân dân,

phục vụ cách mạng.

Sáng tác của TÔ HOÀITô Hoài viết văn khá sớm. Từ tuổi thiếu niên anh đã làm thơ. Những

bài thơ đầu tiên đăng báo của anh gợi lên một thứ tình cảm lãng mạn nhẹ

nhàng, không khác gì loại thơ lãng mạn phổ biến đương thời. Ở một vài bài,

tứ thơ có khi cũng hay hay, nhưng vần điệu kém, câu thơ vụng về. Dễ hiểu là

Tô Hoài không đi vào con đường thơ. Viết văn xuôi mới đúng là con đường

của anh. Truyện ngắn Nước lên (đăng trên Hà Nội tản văn) ghi lại khung cảnh

khổ đau và bi thảm của nhân dân ngoại ô một năm nước lên ở sông Hồng là

truyện ngắn đầu tay anh viết sau khi đi hộ đê ở Tứ Tổng về. Tiếp đó anh viết

những truyện ngắn Bụi ô tô, Một đêm sáng trăng suông, Bệnh già, Trê Cóc,

ông Trạng Chuối, Con gà mái ri…

Page 62: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Năm 1941, Tô Hoài viết Dế mèn phiêu lưu ký, một thiên đồng thoại xuất

sắc nói lên được những khát vọng chính đáng của người lao động mơ ước

một cuộc sống hòa bình yên vui. Những tiểu thuyết và tập truyện ngắn: O

Chuột (1941), Giăng thề (1941), Quê người (1942), Nhà nghèo (194:5), Cỏ

dại, Xóm Giếng ngày xưa (1944), được Tô Hoài xây dựng trên cơ sở tự

truyện, hoặc chuyện của gia đình, bà con, làng xóm của mình. “Những sáng

tác của tôi đều miêu tả tâm trạng tôi, gia đình tôi, làng tôi, mọi cái của mình

quanh mình. Những nghèo đói, cùng túng, đau đớn phần nào nhẹ nhàng, hay

xót xa, hay nghịch ngợm và đá chút khinh bạc là phần nào con người và tư

tưởng tiểu tư sản của tôi”.

Phần tích cực trong tư tưởng Tô Hoài trước Cách mạng được bộc lộ rõ

hơn cả trong đoạn đầu của một tiểu thuyết có tên là Xóm Giếng, không được

bọn kiểm duyệt của đế quốc cho xuất bản.Trong phần đầu đó (được anh đặt

tên là Xóm Giếng ngày xưa, 1941), Tô Hoài đà gửi gắm nhiều tâm sự, thể

hiện niềm băn khoăn của một lớp thanh niên trong cảnh sống khó khăn bế

tắc: “Hỡi Phượng, tuổi trẻ chúng ta bây giờ đi đâu? Đi đâu?”. Tác giả thấy

phải thoát khỏi cái không khí ngột ngạt lúc ấy, nhưng cũng không tán thành

cái bệnh xê dịch, cái thú giang hồ đi để mà đi, không có mục đích: “Tôi cho

rằng lúc này mà cứ ca ngợi xê dịch, tán tụng vẩn vơ cái thú đi lông bông là

thất sách lắm”. Nhân vật trong Xóm Giếng ngày xưa là một gã con trai, có

nhiều khả năng, nhưng chỉ vì nghèo khổ mà “không có sự nghiệp nào đứng

đợi gã ở ngã ba đường phố và trong mọi ngưỡng cửa”. Gã cũng chỉ vì nghèo

mà không tài nào lấy được người mình yêu, phải đau xót nói với người yêu:

“Em ơi! còn lúc nào là lúc anh không mong chúng mình lấy được nhau. Bấy

nay anh chỉ có một tấm lòng. Nhà anh thanh bạch quá. Sự nghiệp anh không

có, cơm áo còn thiếu, chuyện chi đến trăm năm lúc này, Ly ơi!”. Gã không

chán nản, gã vẫn tin gã sẽ về với Ly như một ông hoàng cưỡi ngựa trắng,

đeo lưng túi vàng. Nhưng gã đã đi mòn gót chân mà vẫn đói rách như cũ, còn

người gã yêu thì phải lấy người khác và chết.

Page 63: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Hình ảnh của gã con trai đó cũng là bóng dáng của bản thân tác giả.

Trước một xã hội đầy dẫy những bất công và những cảnh bi thảm, Tô Hoài

thấy rằng nếu cứ yên lòng sống trong khuôn khổ đó thì sẽ chịu đựng một cuộc

sống hết sức bi đát, anh phải tìm một con đường sáng, tin vào một tương lai

có thể giải phóng cho mình và cho mọi người. Niềm tin có lúc kín đáo ngụ vào

một “trận mưa sung sướng”: “Phượng nhỉ, người ta ao ước lắm một trận mưa

rào, mưa rào xuống cho lòng người hả hê và cho trời quang đãng.” Những cái

gì oi bức được gạt bỏ. Trong khoảng mênh mông xanh nhởn nhơ kia sẽ nhả

một không khí tốt lành và tự do hơn. Trời đất chín nẫu này quẫy cựa dưới một

cái mặt trời thui người đương chờ một trận mưa sung sướng”. Niềm tin có lúc

rõ nét hơn ở một “phương trời tự do”: “Hình như tôi có ao ước một cái gì, một

quãng trời xa lạ, để thở và thảnh thơi hơn”… “Tôi hướng về những đốm nhà

tranh nắng đẹp đẽ, trong núi, nghĩ đến một trời nào rộng rãi, tự do. Tự do như

núi cao, tự do như sông dài”. Trong những dòng trên quả có một cái gì oi bức

và cả một nỗi trông mong, chờ đợi. Chờ đợi gì? Trong tác phẩm trên, nhà văn

chưa nói hoặc chưa dám nói cho thật rõ. Khát vọng còn mơ hồ. Nhưng có lẽ

đó là nhân tố làm cho Tô Hoài căn bản không đi lạc đường và đã giúp anh tìm

được một con đường đúng. Anh đã tham gia Hội văn hóa Cứu quốc. Chân

trời đã sáng rõ. Cách mạng thành công. Trận mưa thực trong đời đã đến. Tô

Hoài bước sang một chặng đường sáng tác mới.

***

Đối với Tô Hoài, Cách mạng tháng Tám đánh dấu một bước chuyển

biến trong tư tưởng và sáng tác. So với nhiều nhà văn hiện thực khác, Tô

Hoài không dừng lại quá lâu ở tâm trạng phân vân. Nếu Nguyễn Gông Hoan,

Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng và nhiều người khác nữa, chuyển sang Cách

mạng, bước vào Kháng chiến toàn quốc, còn tỏ ra lúng túng, chưa viết được

hoặc viết không hay lắm về cuộc sống mới, thì Tô Hoài có thể bám được kịp

thời các vấn đề mới của đời sống và viết được tương đối thành công một số

truyện, ký ngắn góp phần vào bước chuyển chung của văn xuôi sau Cách

mạng.

Page 64: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Những năm kháng, chiến chống Pháp, cùng với Nam Cao, Tô Hoài đi

vào đời sống các dân tộc ở Việt Bắc tìm hiểu và miêu tả cuộc sống của họ.

Và sự đổi mới trong sáng tác của anh trước hết là đổi mới cả về chủ đề và đề

tài. Từ cuộc sống quẩn quanh, chật hẹp của một vùng dân nghèo thợ thủ

công, anh đã chuyển sang cảnh sống rộng lớn tưng bừng của nhiều lớp

người ở nhiều địa phương, hào hứng đi theo cách mạng và tham gia kháng

chiến, trong đó nổi bật là cuộc sống với những đổi thay cách mạng của đồng

bào các dân tộc thiểu số. Tập truyện Núi Cứu quốc (1948) bước đầu chứng tỏ

những kết quả của Tô Hoài.

Một sáng tác khác cũng đáng chú ý của Tô Hoài vào thời kỳ đầu này là

Ngược sông Thao (1949) viết về chiến dịch mùa hè của quân dân Tây Bắc.

Tác giả ghi nhanh khung cảnh chiến đấu trong các trận Phố Ràng, Đồn Dóm,

Đại Bục, Đại Phác, đồng thời cũng phác họa vài nét về tinh thần quân dân

trong chiến đấu. Tô Hoài còn cho ta thấy hình ảnh một cuộc chiến đấu quyết

liệt và bền bỉ của bộ đội ta trên ngọn Tây Côn Lĩnh rét thấu xương (Vượt Tây

Côn Lĩnh, 1949). Năm 1950, tác giả viết phóng sự Đại đội Thăng Bình ca ngợi

tinh thần vượt khó khăn và dũng cảm chiến đấu của một đại đội độc lập hoạt

động ở vùng địch hậu với nhiệm vụ gây phong trào du kích, quấy rối địch,

giam chân địch lại một chỗ. Năm 1951, sau chiến dịch giải phóng biên giới,

tập truyện Xuống làng được xuất bản. Cũng trong năm 1951, để phục vụ kịp

thời chính sách thuế nông nghiệp, Tô Hoài viết truyện ngắn Chính phủ tạm

vay.

Cuối 1953, Truyện Tây Bắc ra đời đánh dấu bước phát triển mới của Tô

Hoài về cả hai mặt tư tưởng và nghệ thuật. Đấy là một tập truyện xuất sắc

trong văn xuôi kháng chiến, được giải nhất về tiểu thuyết năm 1954 – 1955

của Hội văn nghệ Việt Nam.

Miêu tả cuộc sống của nhân dân với cái nhìn sâu hơn, trên quan điểm

giai cấp, tập truyện Khác trước, ra đời năm 1957, đã vạch rõ tội ác của phong

Page 65: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

kiến địa chủ, ca ngợi những đổi thay trong nếp suy nghĩ của người nông dân

tham gia kháng chiến và gắn bó với Đảng, với chế độ.

Quá trình viết văn của Tô Hoài, trong Cách mạng tháng Tám và trong

kháng chiến chống Pháp thể hiện khá rõ sự phấn đấu của nhà văn theo yêu

cầu của cách mạng. Tuy vậy, con đường viết văn của anh không tránh khỏi

có những vấp váp, những khúc khuỷu, quanh co. Những chuyển biến mới của

đời sống sau ngày hòa bình lập lại, nhất là khi miền Bắc bước vào thời kỳ cải

tạo xã hội chủ nghĩa, có làm cho nhà văn bỡ ngỡ. Tô Hoài đã có phần mơ hồ

trước tình hình cách mạng trong giai đoạn mới. Coi nhẹ đấu tranh tư tưởng,

anh đã chủ trương “không nên dán thuốc cao khi chưa có nhọt đầu đanh”.

Trong bài Tổ chức phát triển lực lượng sáng tác trước nhất và Góp phần vào

ý kiến về con người thời đại, Tô Hoài nhấn mạnh một chiều việc thúc đẩy

sáng tác, có phần coi nhẹ nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng gay go trong văn nghệ

lúc ấy. Trong sáng tác, anh lại có khuynh hướng miêu tả con người tùy theo

khả năng nhà văn, trái với đường lối của nền văn học chúng ta là phấn đấu

để xây dựng điển hình con người mới trong công nông binh. Sau khi Đảng

phát động phong trào chống Nhân văn – Giai phẩm, Tô Hoài đã nhận ra

khuyết điểm của mình. Anh đã viết bài tự phê bình: Nhìn lại một số sai lầm

trong bài báo và trong công tác.

Tiểu thuyết Mười năm (1958) viết trong giai đoạn này bộc lộ khá rõ

những sai lầm trên của tác giả. Trong Mười năm, Tô Hoài muốn vẽ lên cuộc

sống của nhân dân ta từ phong trào Mặt trận dân chủ đến Cách mạng tháng

Tám. Tác giả miêu tả quá trình phá sản của một làng thủ công và cảnh sống

bấp bênh của những người làm nghề thủ công trước Cách mạng, cảnh chết

đói thê thảm năm 1915. Anh có dụng ý muốn phản ánh những thay đổi lớn lao

trong cuộc sống và con người mà cách mạng đã đem đến trong mười năm

lịch sử đó. Nhưng tác giả đã không thực hiện được ý muốn của mình. Người

đọc chưa thấy được những nét chủ yếu của hiện thực như những mâu thuẫn

cơ bản của thời đại, âm mưu và tội ác của phong kiến, thực dân, phong trào

quần chúng, sự lãnh đạo của Đảng, mặc dù tác giả có đề cập đến. Người đọc

Page 66: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

chỉ thấy ở đây sinh hoạt của một nhóm thanh niên nhiệt tình đi vào “cách

mạng” với tâm lý chuộng lạ”, và hoạt động cách mạng của họ chưa có một

mục đích nào thật rõ ràng. Không nói đến quần chúng, ngay những nhân vật

được xem là tích cực như Lê và Lạp cũng nhiều khi có một phẩm chất tầm

thường. Các nhân vật phụ nữ cũng ít gây cho ta một sự kính mến, tôn trọng.

Mười năm có nhiều đoạn miêu tả sự việc một cách tự nhiên chủ nghĩa.

Cảnh nạn đói năm 1945 hiện ra rất thê thảm nhưng cũng có gì ghê rợn.

Người ta chưa thấy tác giả qua việc miêu tả nạn đói mà gây được căm thù đối

với phong kiến, thực dân.

Từ sau thời kỳ chống Nhân văn –Giai phẩm, Tô Hoài đã có sự phấn

đấu để chuyển mạnh về tư tưởng. Một số bút ký anh viết lúc này như Xuôi

sông Hồng (1958), Sầm Sơn (1961), Mặt trời xuân đến sớm (1931), nhằm ca

ngợi vẻ đẹp của chế độ và làm nổi bật sự tương phản giữa hai cuộc đời mới,

cũ. Trong bút ký Xuôi sông Hồng, tác giả ghi lại những cảm xúc và suy nghĩ

của mình trước những điều tai nghe mắt thấy trên một chuyến tàu xuôi Thái

Bình. Hình ảnh của nhiều con người trở về quê hương trên con tàu mới, thật

khác xa những chuyến tàu xuôi xưa kia, chỉ đem lại những cảnh tang tóc,

những sự mất mát, chia ly. Tuy vậy, bước vào đầu những năm sáu mươi, khi

miền Bắc chuyển sang cao trào xây dựng chủ nghĩa xã hội cho đến mấy năm

đầu của công cuộc chống Mỹ, cứu nước, dường như cũng đã có lúc nhận

thức về cái mới ở Tô Hoài có sút đi ít nhiều so với thời kỳ đầu Cách mạng và

Kháng chiến trước đây. Ngoài Thành phố Lê-nin (1961), Tôi thăm Căm-pu-

chia (1964) là hai tập bút ký dài viết về các cuộc đi thăm hữu nghị ở nước

ngoài, anh chưa viết được những bút ký sôi nổi gắn sát với thời sự những

năm đầu kháng chiến. Chỉ có một số bút ký viết trước kia được tập họp lại

trong tập Vỡ tỉnh (1962) và một số bài về lý luận và kinh nghiệm sáng tác

trong Một số kinh nghiệm viết văn của tôi (1959), Người bạn đọc ấy (1964).

Đến 1967, chúng ta mới lại được đọc một tiểu thuyết mới về miền núi

của Tô Hoài: Miền Tây. Tiếp theo đó, anh viết truyện ngắn Người ven thành

Page 67: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

ca ngợi truyền thống yêu nước của nhân dân ta, và một vài truyện, ký ngắn

như Phố thể hiện những đổi mới trong sinh hoạt của các khu phố Hà Nội, và

vẽ lên hình ảnh người cán bộ khu phố tích cực đóng góp cho cách mạng

bằng những công việc bình thường, vô danh.

Có lẽ phần viết tương đối liên tục và lúc nào cũng trong sáng của Tô

Hoài là phần sáng tác cho thiếu nhi. Trước sau anh đã viết trên ba mươi tác

phẩm thuộc nhiều thể loại cho nhiều lứa tuổi khác nhau. Tuyển tập Con mèo

lười (1964), Vừ A Dính (1970) gồm những sáng tác chọn lọc của anh viết cho

thiếu nhi từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay. Tuyển tập gồm đủ các thể

truyện, kịch, kịch phim, hoạt họa, đồng thoại, nhưng nổi bật vẫn là truyện. Tô

Hoài thành công khi viết về truyền thống yêu nước của thiếu nhi hoặc về đồng

thoại. Còn truyện về sinh hoạt của thiếu nhi của anh thì chưa thành công lắm.

***

Cho đến nay, phần đóng góp nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của

Tô Hoài vẫn là những tác phẩm viết về miền núi. Có thể nói, đề tài miền núi

có “duyên nợ” với anh từ lâu. Hồi còn hoạt động bí mật trong Hội văn hóa

Cứu quốc, khi được nghe kể về tinh thần dũng cảm của đội nữ du kích Ba Bể,

anh đã sôi nổi có ý định viết một sáng tác về đề tài mới mẻ và hấp dẫn này.

Nhưng chỉ bằng tưởng tượng không thôi, thiên truyện không thành công. Tuy

vậy đối với anh, đấy là một kỷ niệm khó quên trong đời viết văn: “Đội du kích

Ba Bể tưởng tượng của tôi đã thành một kỷ niệm trong đời viết. Biết đâu nó

không phải là ngọn nguồn cho tư tưởng và tình cảm của tôi sau này, khi tôi đi

vào cuộc sống miền núi – quê hương thứ hai cho sáng tác của tôi”.

Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ đã đưa Tô Hoài đi vào một thực

tế lớn, từ đó tạo nên một chuyển biến mới trong sáng tác của nhà văn. Anh

đã đi sâu vào nhiều vùng thuộc căn cứ địa Việt Bắc, vừa làm công tác báo chí

tuyên truyền, vừa viết văn. Mùa thu 1952, anh lại theo bộ đội chủ lực tiến

quân vào miền Tây, tham gia chiến dịch giải phóng Tây Bắc. Sống với đồng

bào các dân tộc, hoặc đi theo bộ đội, Tô Hoài luôn luôn có ý thức chan hòa

Page 68: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

với quần chúng để hiểu họ. Anh học tiếng địa phương. Anh “ba cùng” với

nhân dân. Qua những năm tháng chung sống với đồng bào các dân tộc dũng

cảm, chất phác, chung thủy và giàu lòng tin đối với cách mạng, anh đã có một

tình cảm sâu sắc đối với họ: “Đất nước và người miền Tây đã để thương để

nhớ cho tôi nhiều quá”. “Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào

cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi. Đó là một ám ảnh

mạnh mẽ thúc đẩy tôi sáng tác”. Do kết quả của việc tích lũy vốn sống và do

có tình cảm gắn bó tha thiết đó, qua những năm đi sâu vào Việt Bắc, Tây Bắc,

Tô Hoài đã viết thành công nhiều sáng tác về miền núi, góp phần đáng kể vào

những thành tựu chung của văn xuôi cách mạng.

Sáng tác miền núi đầu tiên của anh là tập Núi Cứu quốc viết năm 1948

gồm bốn truyện ngắn: Đồng chí Hùng Vương, Nà Lôộc, Tào Lường, Công tác

xa, và hai bút ký Đường bí mật xuống làng và Qua Ba Bể. Tất cả đều hướng

về một đề tài chung là cuộc sống của đồng bào các dân tộc ít người ở những

triền núi Cứu quốc, căn cứ địa của cách mạng. Núi Cứu quốc tuy nghệ thuật

còn đơn giản nhưng đã có thể đem lại cho ta một hình ảnh tương đối đúng về

đồng bào miền núi, khác hẳn loại truyện đường rừng tưởng tượng của một số

nhà văn lãng mạn hồi xưa. Ở đây, căn bản không còn những cảnh nên thơ

một cách giả tạo với những cô gái Thổ đẹp, bí ẩn, chỉ hợp với thị hiếu và sự

tưởng tượng của những anh tiểu tư sản thành thị sống quanh quẩn, mơ màng

những chuyện xa xôi. Cũng không còn nữa những cảnh ma thiêng nước độc

với những con người bịa đặt, sống theo bản năng, những phong tục, tập quán

kỳ quái man rợ, những cuộc báo thù rùng rợn được dựng đứng lên. Tác

phẩm cho ta hiểu con người miền núi đúng với bản chất của họ là những con

người thật thà, chất phác, chung thủy, có một lòng tin mãnh liệt cách mạng.

Tác giả đặc biệt nhấn mạnh lòng trung nành với cách mạng của những con

người miền núi khi họ đã giác ngộ. Đồng bào ở đây sốt rét quanh năm, mỗi

năm thường thiếu ăn đến ba bốn tháng, nhưng họ không tiếc sức tiếc công để

ủng hộ cách mạng, ủng hộ cán bộ và bộ đội Cụ Hồ.

Page 69: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Nhưng đáng tiếc, Núi Cứu quốc vẫn còn những biểu hiện tự nhiên chủ

nghĩa trong phương pháp nghệ thuật, “quá chuộng lạ, thích lạ và khoe chữ”.

Có thể nói những khuyết điểm này vẫn còn dai dẳng, tồn tại trong sáng tác Tô

Hoài trong một thời gian khá dài.

Sau Núi Cứu quốc, năm 1951, Tô Hoài cho xuất bản tập truyện ngắn

Xuống làng trên cơ sở khắc phục dần dần những biểu hiện lệch lạc của chủ

nghĩa tự nhiên.

Nhưng phải đến Truyện Tây Bắc, năm 1953, gồm ba truyện ngắn: Cứu

đất cứu mường, Mường Giơn, Vợ chồng A Phủ, thì bước chuyển của Tô Hoài

mới thật sự được khẳng định. Tập truyện nhằm phản ánh chung cuộc đấu

tranh giai cấp của nhân dân các dân tộc miền núi chống chế độ áp bức của

phong kiến, thực dân, đồng thời ca ngợi cách mạng đã giải phóng cho nhân

dân Tây Bắc thoát khỏi cuộc đời tối tăm, ca ngợi những con người miền núi,

nhất là lớp thanh niên đã vùng dậy làm chủ cuộc sống của mình, ca ngợi tinh

thần đoàn kết giữa các dân tộc.

Bà Ảng, nhân vật chính của Cứu đất cứu mường được tác giả miêu tả

trong sự khác hẳn nhau của hai cuộc đời mới cũ. Người con gái đẹp nức

tiếng Mường Cơi, mười bảy tuổi phải lấy ông lão sáu mươi. Lão già chết, cô

gái trẻ ấy phải trải qua hết tay quan này đến quan khác. Cô rất khiếp sự cảnh

sống ấy, nhưng không sao thoát được. Đâu cũng là đất nước quan lang, quan

châu. Điều cực lòng nữa là cô có con, nhưng quan không nhận, chúng trở

thành con hoang. Theo lệ làng thì mỗi người chửa hoang phải đem nộp làng

mười hai đồng bạc xòe và người đàn bà không chồng theo phép quan là

không được chia ruộng. Ảng phải bán con. “Con ơi, vì mẹ khổ mà hai con,

đứa thì hóa ra trâu, đứa thì hóa ra bò”.

Nhưng ánh sáng cách mạng đã đến với bà Ảng từ khu du kích Phiềng

Sa. Hồi còn trẻ, khi đôi mắt bà còn đẹp thì đôi mắt đó chẳng “còn lúc nào

ngước trông ra cho thấy được mùa nào có con chim nào đã về qua dưới cửa

Page 70: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

sổ”. Bây giờ bà đã già rồi nhưng tầm mắt bà lại được mở rộng. Bà đã được tự

do làm chủ cuộc đời mình.

Nếu trang hình ảnh những người già, Tô Hoài muốn nhấn mạnh sự đổi

thay giữa hai cuộc đời mới, cũ, thì trong hình ảnh lớp thanh niên mới, Tô Hoài

cũng cho thấy vẻ đẹp, sức vươn lên của con người mới trong ánh sáng của

cách mạng. Nếu những đau khổ tối tăm dưới chế độ cũ đã kết lại thành điển

hình qua hình ảnh bà Ảng, ông Mờng, Tạo On thì vẻ đẹp của chế độ mới

cũng được thể hiện tập trung trong hình ảnh của lớp trẻ như Sạ, A Phủ, Ính,

Mỵ. Ính trong Mường Giơn được tác giả miêu tả như là một người phụ nữ tiên

tiến, dám đi đầu trong công cuộc giải phóng Mường Giơn, dám đấu tranh với

những phong tục cổ hủ.

Hình ảnh người cán bộ miền núi trong Truyện Tây Bắc cũng đưọc tác

giả chú ý miêu tả nhằm khẳng định rõ hơn quá trình cách mạng hóa của nhân

dân vùng cao. Nếu trước đây trong Núi Cứu quốc, những Hùng Vương, Pảo,

Sin tuy đã có những nét mới, nhưng nhìn chung vẫn còn sơ lược, thậm chí có

những nét sai lạc, thì đến Vợ chồng A Phủ, nhân vật chính đã được Tô Hoài

miêu tả sâu hơn trong các mối quan hệ xã hội và nhất là trong lịch sử đau

thương của đời mình.

Thành công của Truyện Tây Bắc còn là ở sự miêu tả những khung

cảnh mang đậm màu sắc riêng của miền núi. Tô Hoài am hiểu sâu và kể lại

khá thành công những chuyện sinh hoạt như tục lệ đi ở cuông, đi ở rể, chơi

hang, tắm suối nước nóng, cưới vợ, hoặc những cảnh sinh hoạt vui chơi như

chơi xuân, đánh pao, thổi sáo, thổi khèn. Tất cả những khung cảnh sinh hoạt

đó có tác dụng làm nền cho tính cách nhân vật và đem lại cho người đọc một

cảm giác chân thật, tin cậy.

Có thể nói Truyện Tây Bắc khá thành công trong chủ đề phản phong.

Tuy vậy chủ đề phản đế thì chưa thật đậm.

Sau Truyện Tây Bắc, viết về cách mạng dân tộc dân chủ, năm 1967, Tô

Hoài cho ra đời Miền Tây, một tiểu thuyết miêu tả những thay đổi lớn lao về

Page 71: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

mọi mặt của người dân Tây Bắc trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Ở đây, ta được thấy cả một nguồn sống mới chan hòa trên khắp bản mường,

thứ ánh sáng trước đây mới chỉ le lói trong Mường Giơn, Vợ chồng A Phủ.

Nhưng cuộc sống vẫn còn nhiều khó khăn và cuộc đấu tranh giai cấp vẫn còn

tiếp diễn. Cũng như Truyện Tây Bắc, trong Miền Tây, Tô Hoài vẫn sắc sảo

trong những trang miêu tả cảnh tối tăm của người dân miền núi trước Cách

mạng.

Bà Giàng Súa khổ vì chồng chết trong khi đi phu cho quan. Bà còn khổ

vì dân làng mê muội, tin lời quan cho là chồng bà phải ma chài nên xa lánh bà

đến nỗi mẹ con bà phải sống cô độc chui rúc trong rừng sâu. Bà còn khổ vì

đứa con đầu lòng là Thào Nhìa bị bắt đi phu. Cách mạng thành công, bà sung

sướng được trở về sống trong tình thương và sự đùm bọc của bà con. Bà tự

hào vì sự trưởng thành của hai con bà là Thào Khay, Thào My. Nhưng vẫn

còn một nỗi buồn canh cánh vì một đứa con là Thào Nhìa đi nhầm đường.

Cuốn sách cho thấy ánh sáng cách mạng chan hòa trên khắp mọi nẻo

của vùng cao. Nhưng trong bước đầu xây dựng một cuộc sống mới vẫn còn

tồn tại nhiều khó khăn do đời sống kinh tế thấp kém và do sự phá phách của

bọn phản động.

Mặt khác, nạn mê tín dị đoan vẫn còn đè nặng lên đời sống tinh thần

người dân miền núi. Đấu tranh với tư tưởng lạc hậu này không phải là câàu

chuyện một lúc mà giải quyết được ngay. Trong Miền Tây, việc Thào Khay

chữa khỏi bệnh cho con thôn trưởng Pàng và ngay cho cả ông thầy cúng

người Xá, đã gây được lòng tin của người dân vào khoa học. Họ bắt đầu

không tin vào sự cúng bái. Nhưng đó mới chỉ là bước đầu.

Chính qua những cuộc đấu tranh với kẻ thù giai cấp và đấu tranh trong

nội bộ nhân dân, người cán bộ miền núi trưởng thành.

Trong Truyện Tây Bắc, người cán bộ miền núi chưa được miêu tả với

nguồn sáng rưc rỡ tỏa ra từ trong con người họ. Bởi vì từ trong bóng tối cuộc

đời cũ bước ra, con đường đi lên của họ mới chỉ là những bước đầu, những

Page 72: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

chân trời mà họ vươn tới còn đang ở trước mặt, có khi họ cũng chưa hình

dung cho thật cụ thể. Phải đến Miền Tây, tất cả những ánh sáng, những khát

vọng đó mới được thể hiện rõ, làm thành một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp của con

người đã thật sự được giải phóng. Trong hình ảnh chủ tịch Sóa Tỏa, ta tìm

được khá dễ dàng những nét điển hình của lớp cán bộ cơ sở trung niên miền

núi: cộng tác hăng, lao động giỏi, cởi mở, bộc trực, nhưng đôi khi cũng nóng

nảy.

Trong hình ảnh Thào Khay, ta thấy khuôn mặt của một lớp cán bộ trẻ

mới trưởng thành, được quần chúng yêu mến, tin cậy và trở thành niềm tự

hào của dân Phiềng Sa; “Cả vùng này xưa kia tăm tối, cả vùng này ngày nay

giải phóng. Có giải phóng mới sinh ra được một lớp người bộ đội đẹp như

thế, cưỡi ngựa về, đứng một chỗ mà thơm khắp nhà”.

Bên cạnh hình ảnh người cán bộ miền núi, Tô Hoài cũng chú ý khắc

họa người cán bộ miền xuôi lên miền núi hoạt động. Truyện Tây Bắc cho ta

tiếp xúc với A Châu. Đến Miền Tây ta lại đưọc tiếp xúc với cán bộ Nghĩa.

Nghĩa nghe lời Đảng gọi đã lên miền Tây để cùng đồng bào làm cách mạng,

đánh đổ đế quốc phong kiến, sau đó đã tự nguyện ở lại cùng đồng bào miền

Tây xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tô Hoài không miêu tả Nghĩa như một người

cán bộ hoàn toàn tốt về mọi phương diện. Tuy vậy việc vạch một số hạn chế

trong tính cách của Nghĩa vẫn không làm giảm tình yêu mến của ta đối với

anh. Trước khó khăn, Nghĩa cũng đã từng có lúc dao động muốn về xuôi.

Trước tình yêu của Thào Mỵ, anh cũng do dự, với ý nghĩ tự dối mình là sợ

phải sống suốt đời ở miền núi. Trong người anh vẫn còn rơi rớt tư tưởng cũ,

coi thường người dân miền núi. Nhưng chính thực tế đã giáo dục anh. Sự

kiện địch phá hoại ở Nà Đắng đã giúp anh hiểu thêm về cuộc đấu tranh còn

tiếp diễn trong những ngày hòa bình, và người cán bộ không thể mỏi gối chồn

chân. Mặt khác, chinh quá trình tiếp xúc với những con người mới miền núi

như Sóa Tỏa, Thào Khay, Thào Mỵ, Huổi Ca, cũng đã làm nảy nở trong anh

những tình cảm mới, và giúp anh gắn bó với miền Tây, miếng đất từ nay sẽ

trở thành quê hương thứ hai của anh.

Page 73: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Nhưng trong hình ảnh Thào Nhìa, người đọc lại thấy có mặt chưa thỏa

mãn. Thào Nhìa là anh ruột Thào Khay, nhưng lại đi theo con đường trái

nguợc. Quá trình lưu manh hóa của Thào Nhìa tuy có phù hợp với tính cách

thèm khát sự giàu sang, lười lao động, đam mẻ rượu chè, trai gái của hắn,

nhưng tác giả vẫn chưa có được một sự giải thích rõ ràng vì sao Thào Nhìa

xuất thân từ một gia đình nghèo khổ, đã từng phải chịu bao sự đè nén, áp

bức, bên cạnh đó luôn có tình thương bao la của bà mẹ và cô em gái, mà hắn

vẫn cứ lao đầu vào con đường phản cách mạng đến cùng.

Nhin chung, Miền Tây cho ta thấy bức tranh rộng lớn - miền núi trong

buổi đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tô Hoài đã thành công khi miêu tả vẻ

đẹp của cách mạng và những đổi thay giữa hai chế độ. Anh cũng đã nêu lên

được những mặt khó khăn phức tạp trong bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã

hội ở miền núi. Qua hình ảnh những bà Giàng Súa, sóa Tỏa, Pàng, Thào

Khay, Thào Mỵ, Huổi Ca, ông già ngừời Xá, ta sẽ có dịp hiểu thêm, yêu mến

thêm con người miền núi dũng cảm chất phác, giàu tình yêu thương và thủy

chung với cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ. Tuy vậy, phần miêu tả khí thế

tưng bừng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền núi và hình ảnh

con người mới xã hội chủ nghĩa vẫn chưa thật rõ nét hẳn trong bức tranh

chung của miền Tây.

Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971) tiếp tục phương hướng cố gắng của Tô

Hoài trong yêu cầu xây dựng những hình ảnh con người cách mạng miền núi

với vẻ đẹp toàn diện. Có thể nói, nếu như trong Kim Đồng, Vừ A Dính, Tô

Hoài đã khắc họa thành công hình ảnh lớp thiếu nhi miền núi bất khuất trước

kẻ địch thì trong tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, anh đã cố gắng dựng lên hình ảnh

người chiến sĩ cách mạng tiêu biểu cho lứa tuổi trẻ miền núi quyết tâm gác bỏ

hạnh phúc gia đình, quyết vượt mọi khó khăn, gian khổ để theo lý tưởng. Nếu

như trong Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Miền Tây đã có hình ảnh những

cán bộ miền núi từ bóng tối thoát ra, và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của

Đảng thì trong Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, tác giả đã hướng về lớp người tiên

Page 74: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

phong, đi trước vạch đường chỉ lối cho dân. Với họ, cách mạng đã được gieo

mầm, và với họ, miền núi đã trở thành cái nôi của cách mạng.

Tuy vậy, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ vẫn chưa phải đã gây được một ấn

tượng sâu sắc trong bạn đọc. Nhân vật chính ở đây chưa được thể hiện đậm

nét do chưa được soi chiếu trên nhiều góc độ. Không khí cách mạng, bối

cảnh cách mạng của Lạng Sơn – Cao Bằng, căn cứ địa nói riêng, của miền

núi nói chung, nơi địa đầu đất nước, nơi in dấu chân bao chiến sĩ cộng sản,

cũng chưa thật nổi rõ, làm thành một cái nền cho nhân vật chính hoạt động.

Những mảng sáng trong đời sống dân tộc Vùng cao, trong ý thức của con

người vùng cao chưa được khơi sâu khiến cho chủ đề cách mạng chưa trở

thành một nét quán xuyến làm tôn nhân vật chính lên. Người đọc, qua Tuổi

trẻ Hoàng Văn Thụ, chưa phải đã có thể dễ dàng cắt nghĩa được chân dung,

tính cách Hoàng Văn Thụ, một cán bộ ưu tú của Đảng trên lĩnh vực tinh thần,

tình cảm, và cả về phương diện trí tuệ cách mạng nữa.

***

Tác phẩm Tô Hoài có những trang rất hay khi miêu tả sinh hoạt. Anh có

tài dựng những khung cảnh gắn bó với con người. Cảnh vật luôn luôn gợi cho

ta hình dung được những sắc thái riêng của miền núi, nhất là miền núi trong

sự đổi thay của hai chế độ, hai cuộc đời mới, cũ. Cảnh chợ ngày trước và

cảnh chợ ngày nay. Cảnh người, ngựa chở thuốc phiện đi trong sương núi.

Cảnh tết trước và nay, cảnh người dân sống trong trại tập trung. Cảnh tấp

nập tưng bừng của người dân miền núi nô nứửc đi lao động xây dựng xã hội

chủ nghĩa.

Thiên nhièn đóng một vai trò quan trọng trong tác phẩm Tô Hoài. Thiên

nhiên đầy hương sắc, mùi vị. Mùa xuân, “hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi

ra màu đỏ hau, đỏ thẫm rồi sang màu tím man mát”. Những con chim đủ loại

của miền Tây, “con chim kỳ xanh biếc chân đỏ, tiếng nó thánh thót cao thấp

như tiếng kèn đi săn”; từng đoàn “chào mào rừng đỏ chóe, đội mũ nhung cao,

mỗi con như một đám đuốc lỗ đỗ bay ra trải dài cả đàn trên vòm trời sương

Page 75: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

tan”. Những rừng hồi “ngào ngạt xanh thẫm trên các quả đồi quanh làng” mà

“một mảnh lá gãy cũng dậy mùi thơm”.

Bút pháp Tô Hoài linh hoạt. Anh có tài dẫn chuyện và chuyển cảnh. Đọc

tác phẩm của anh, ta có cái thú của một người xem phim, được thấy những

chuyện bất ngờ.

Ngôn ngữ Tô Hoài thường ngắn gọn và rất gần với khẩu ngữ của nhân

dân lao động, với những ưu điểm và nhược điểm của khẩu ngữ: phong phú,

giàu hình tượng, nhưng cũng nhiều lúc không được trong sáng lắm.

***

Sáng tác của Tô Hoài từ sau Cách mạng chứng minh khá rõ cái chân

lý: nhà văn trước hết phải là một người cách mạng, gắn bó với cơ sở, mới

sáng tác tốt được. Tuy những rơi rớt của cách nhìn và quan điểm tiểu tư sản

nhiều khi đã gây nên một số thiếu sót đáng tiếc trong sáng tác của Tô Hoài,

nhưng nhìn chung anh là nhà văn có sức phấn đấu dẻo dai, bền bỉ để bám

chắc vào cuộc sống, và tự nâng mình lên không ngừng.

Nổi bật ở Tô Hoài là sự gắn bó sâu xa với đề tài miền núi. Nếu nói mỗi

nhà văn cần có một “vùng quê” thì “vùng quê” của Tô Hoài cho đến nay chính

là miền núi. Một vùng quê anh yêu mến, hiểu biết thông thuộc, môt vùng quê

đã “để thương để nhớ” nhiều cho anh. Vùng quê ấy hẳn còn là nguồn viết,

nguồn cảm hứng phong phú của anh. Một tác phẩm lớn, xứng đáng với hiện

thực lớn lao của miền núi đang có sức hấp dẫn, kêu gọi không ít các cây bút

văn xuôi, trọng đó chúng ta hy vọng nhiều từ Tô Hoài.

NGUYỄN HUY TƯỞNG qua hai chế độNguyễn Huy Tưởng thuộc trong số nhà văn đã sống và viết trải qua hai

chế độ. Anh có một sức viết dồi dào; trong khoảng hai mươi năm cầm bút,

anh đã cho ra đời liên tục, đều đặn một khối lượng không nhỏ các sáng tác

ngắn dài thuộc nhiều thể loại, trong đó có thể kể những cái mốc chính như

Page 76: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

sau: Vũ Như Tô (kịch lịch sử, đăng báo, 1943), Bắc Sơn (kịch, 1946), Những

người ở lại (kịch, 1948), Ký sự Cao Lạng (1951), Truyện anh Lục (tiểu thuyết,

1955), Bốn năm sau (truyện, 1959), Sống mãi với Thủ đô (tiểu thuyết, 1960).

Cố nhiên, nói đến Nguyễn Huy Tưởng, còn phải nắm đầy đủ các sáng tác

khác của anh – những ghi chép, bút ký, tùy bút khác, có khá nhiều, xen kẽ, bỗ

sung cho các mốc chính trên, không thể thiếu được, và đôi lúc còn có ý nghĩa

quan trọng để giúp ta hiểu được một cách cặn kẽ những diễn biến và quá

trình phát triển của tư tưởng, tài năng Nguyễn Huy Tưởng, và qua đó, cũng

đồng thời giúp ta hiểu thêm bối cảnh chung của phong trào sáng tác văn học

mấy chục năm qua.

Là vì từng bước phát triển của Nguyễn Huy Tưởng gắn sát với từng

bước tiến lên của văn học cách mạng. Và những nhược điểm của anh cũng

lại phản ánh một khía cạnh nào đó trong các khó khăn, vướng mắc chung của

phong trào. Có lẽ có phần rõ nét và dễ thấy hơn nhiều người khác, anh là nhà

văn mà sáng tác tương đối có ý nghĩa tiêu biểu cho con đường đi của một lớp

nghệ sĩ, tuy không quá nặng nợ quá khứ, nhưng cũng chưa hoàn toàn dứt bỏ

được quá khứ một cách thanh thản trong từng bước đi lên của mình.

***

Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn chuyên

về đề tài lịch sử. Điều đó có lý do khách quan. Thời kỳ 1940 –1945 là thời kỳ

bọn phản động thuộc địa đang đi vào con đường phát xít hóa. Chế độ kiểm

duyệt rất khắt khe. Mọi yếu tố tích cực hoặc tiến bộ trên văn đàn đều bị cấm

đoán, chỉ có thể biểu hiện một cách kín đáo, quanh co. Mặt khác, về chủ

quan, hồi này Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn có chịu ảnh hưởng của khuynh

hướng lãng mạn, với ít nhiều mặt tích cực, muốn trở lại tìm hình ảnh cha ông

trong lịch sử.

Anh viết truvện và kịch, và trong số đó, tác phẩm hoàn chỉnh và có

chiều sâu nhất định là Vũ Như Tô, Đêm hội Long Trì. Trong cái bề bộn, hỗn

tạp đủ dạng loại của văn học công khai lúc này, sáng tác của Nguyễn Huy

Page 77: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Tưởng có một vẻ riêng trong sáng, nghiêm túc, lành mạnh. Người đọc đọc

anh là được tiếp xúc với một không khí mới. Anh đem lại cho họ hình ảnh một

quá khứ đen tối dưới sức nặng của cường quyền như trong Vũ Như Tô, và

chừng mực nào đó, cảnh ngộ bi thảm của nhân dân như trong Đêm hội Long

Trì. Anh cũng đã ít nhiều gợi nghĩ một tinh thần dân tộc xa xôi như trong An

Tư, Cột đồng Mã Viện, về nghệ thuật, các cốt truyện và cốt cách nhân vật

trong sáng tác của anh tuy có mang màu sắc lãng mạn, nhưng ít nhiều vẫn

dựa trên sự thực lịch sử, ít khi tô vẽ, xuyên tạc, như số lớn sáng tác lúc này.

Tuy vậy, trong khuôn khổ của văn học công khai, và do khuynh hướng

lãng mạn, sáng tác Nguyễn Huy Tưởng lúc này vẫn còn nhiều nhược điểm. Đi

vào lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng là người, nổi bật hơn các nhà văn đương

thời, muốn nêu những vấn đề lớn, muốn rút ra những bài học lịch sử. Nhưng

do hạn chế của thế giới quan tiểu tư sản và quan điểm nghệ thuật cũ, anh

thường không giải quyết được, hoặc giải quyết một cách không đúng lắm, các

vấn đề đặt ra. Nhà văn thường đi vào lúng túng, mâu thuẫn, và nhiều khi sáng

tác của anh thường có xen những khía cạnh lệch lạc.

Trong Vũ Như Tô, dường như vấn đề tác giả muốn làm cho nổi bật là

vấn đề quan hệ giữa nghệ thuật và cường quyền, nói cho rõ hơn, quan hệ

giữa nghệ thuật và giai cấp thống trị. Nguyễn Huy Tưởng muốn chứng tỏ:

dưới một chế độ đồi bại, nghệ thuật không được tự do nảy nở mà phải trở

thành vật hy sinh cho những mục đích tầm thường, xấu xa của giai cấp thống

trị. Nhà văn đã để cho Vũ Như Tô nói những lời sảng khoái kiên quyết chống

lại cường quyền. Gốc rễ lao động, sự gắn bó với quần chúng của Vũ, qua

những đoạn đối thoại với vợ, và cả hình ảnh người vợ lam lũ, hiền lành, đôi

lúc đã làm cho hình lượng Vũ có một vẻ hiên ngang, rất đẹp. Nhưng hết màn

một vở kịch thì tình thế lại xoay chuyển, nghệ thuật của Vũ lại phục vụ cho

cường quyền.

Cố nhiên nhà văn vẫn có thể đặt vấn đề nghệ thuật phục vụ cường

quyền. Nhưng vậy thì phải phê phán thứ nghệ thuật đó. Đáng tiếc là thái độ

Page 78: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

của Nguyễn Huy Tưởng ở đây lại không như vậy, hoặc có cái gì chưa rõ

ràng. Người ta cảm thấy việc Vũ Như Tô phục vụ cho cường quyền, đem tài

năng mình xây dựng Cửu Trùng đài không có tội lỗi gì lớn lắm, trái lại, còn có

một vẻ gì sáng suốt, vì, với chủ trương đó, Vũ Như Tô đã có thể làm cho

nghệ thuật được nảy nở, và thoát khỏi được những lợi ích thiển cận, tầm

thường. Như thế có nghĩa là trong xã hội cũ, nghệ thuật vẫn có một lối ngoi ra

tốt hơn cả là xu hướng nghệ thuật vị nghệ thuật. Nhà nghệ sĩ có thể bàng

quan vô tâm trước tất cả mọi ý đồ của giai cấp thống trị, chỉ cần tự mình mình

biết, tự mình mình hay về một mục đích tự thân của nghệ thuật tách rời chính

trị, xây dựng một cái đẹp thuần túy, lưu danh thiên cổ; cái đẹp ấy sống vĩnh

viễn, vận mệnh của nó lâu dài hơn giai cấp thống trị. Chúng ta hiểu ý này qua

lời Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô: – “Ông cứ xây lấy một tòa đài cao cả, vua

Hồng Thuận và lu cung nữ kia rồi mất đi, nhưng sự nghiệp của ông còn lại về

muôn đời”.

Nhưng việc xây cửu Trùng đài không thành công. Và trong khi cố gắng

làm sáng rõ nguyên nhân thất bại của việc xây dựng cửu Trùng đài, Nguyễn

Huy Tưởng lại không hoàn toàn có ý chứng minh sự thất bại của nghệ thuật

khi nó phục vụ cho giai cấp thống trị. Qua cách nhìn của Nguyễn Huy Tưởng,

ta thấy sự thất bại của Vũ Như Tô dường như là do bị kẹt giữa hai thế lực đối

chọi nhau là nhân dân và vua chúa bạo ngược. Bằng vào số phận Vũ Như

Tô, ta lại thấy nghệ thuật đi theo quần chúng chưa chắc đã là con đường tốt,

trái lại, có khi còn phải chịu đựng nhiều nỗi thiệt thòi. Qua lời Đan Thiêm, hình

ảnh quần chúng lại hiện lên như là một lực lượng “nông nổi”, “tàn ác”, “không

phân biệt được phải trái”, “không hiểu được nghệ thuật”. Rõ ràng ở đây

Nguyễn Huy Tưởng có một sự lúng túng trong nhận thức và tình cảm, nó

khiến cho tác phẩm mang một tính cách giằng co khá rõ: một mặt nhà văn

ghét vua chúa bạo ngược, nhưng vẫn tán thành việc chúng xây cung điện đồ

sộ; mặt khác đồng tình với quần chúng chống áp bức, nhưng lại cho quần

chúng mâu thuẫn với nghệ thuật.

Page 79: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Cũng trên những sáng tác vào giai đoạn đầu này của anh, người đọc

cũng không dễ đồng tình với sự đánh giá quá cao của Nguyễn Huy Tưởng đối

với người trí thức tiểu tư sản. Hiện tượng này có một vẻ gì không thực, nhất

là trong hoàn cảnh xã hội ta lúc này, một nước thuộc địa nửa phong kiến mà

sự phân hóa giai cấp trong xã hội chưa đi đến giai đoạn hình thành một đội

ngũ trí thức đông đảo có vai trò lớn trong sinh hoạt xã hội. Vấn đề đánh giá

vai trò người trí thức có liên quan đến vấn đề văn hóa dân tộc. Và trên vấn đề

này, quan niệm của Nguyễn Huy Tưởng cũng còn hẹp hòi và có chỗ sai khi

anh có xu hướng làm cho người đọc nghĩ rằng chỉ có giai tầng trí thức mới có

khả năng xây dựng một nền văn hóa dân tộc thực sự mà thôi. Và cái gọi là

văn hóa dân tộc ở đây vị tất đã được quan niệm một cách đúng đắn; theo nhà

văn, chắc cũng không ngoài một số công trình nghệ thuật hoặc khoa học của

một vài cá nhân có tài năng. Ở đây chưa có vai trò nhân dân. Có khi nhân

dân lại hiện lên như một lực lượng phá hoại.

Những hạn chế của Nguyễn Huy Tưởng trên đây xuất phát từ lập

trường một người tiểu trí thức có mặt đồng cảm với đời sống nhân dân,

nhưng mặt khác, vẫn còn loay hoay trong những quan điểm nghệ thuật cũ.

***

Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra cho Nguyễn Huy Tưởng

một con đường sáng tác hoàn toàn mới mẻ. Từ nay anh sẽ có đầy đủ mọi

điều kiện để trực tiếp đi thẳng vào các đề tài thời sự, hiện đại. Trên nhiều

trang ký ngắn:Ở chiến khu, Hai cha con, Ngày mùa… ta thấy nhà văn đã đón

chào cách mạng với một tình cảm chân thành, tuy đôi khi còn có gì hơi vụng

về, bỡ ngỡ. Nếu trước kia anh là người say sưa với quá khứ bao nhiêu thì

bây giờ anh lại là người nồng nhiệt với hiện tại bấy nhiêu.

Đi vào thời sự, Nguyễn Huy Tưởng vẫn là người luôn luôn có ý muốn

đặt ra những vấn đề lớn của lịch sử. Nhưng bây giờ lịch sử là lịch sử của

nhân dân, lịch sử cách mạng. Bắc Sơn là một thành công rực rỡ, bất ngờ và

cũng tự nhiên trên chiều hướng đó.

Page 80: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Chủ đề của Bắc Sơn không phải là hoàn toàn mới lạ. Trên sân khấu cổ

điển Việt Nam, nhiều vở tuồng đã nêu lên hiện tượng một gia đình bị phân

hóa, vợ chồng, anh em, cha con xung đột với nhau khi một triều đình chia làm

hai phe đấu tranh với nhau kịch liệt. Nhiều vở kịch cách mạng trên thế giới và

trong nước từ trước tới nay cũng thường nêu lên vấn đề xung đột giữa lý

tưởng chính trị và tình cảm gia đình.

Hơn nữa, nội dung của vở kịch cũng chưa thật xứng với tên gọi. Là vì

nói tới Bắc Sơn, người ta nghĩ luôn tới một phong trào đấu tranh vũ trang kiên

cường, bền bỉ của nhân dân miền núi dưới sự lãnh đạo của Đảng, làm cho đế

quốc và tay sai phải lúng túng, lo ngại. Nghĩ tới Bắc Sơn, người ta nghĩ đến

hoạt động của những chiến sĩ du kích như Chu Văn Tấn, con “hùm xám Bắc

Sơn”. Xét về mặt chiến lược quân sự cách mạng, thì khởi nghĩa Bắc Sơn đã

thắng lợi ở chỗ phát động và duy trì được phong trào đấu tranh võ trang. Mà

đó là điều bọn đế quốc thấy rõ và rất khiếp sợ. Không thể cho rằng khởi nghĩa

Bắc Sơn đã thất bại ở chỗ không giữ được chính quyền cách mạng, chiếm

được đất. Thế mà vở kịch Bắc Sơn lại chỉ tập trung vào một tấn bi kịch gia

đình, chưa phản ánh được cuộc khởi nghĩa với những mặt tiêu biểu của nó,

chưa nêu lên được cái ý nghĩa vô cùng lớn lao của phong trào Bắc Sơn. Mặt

khác, tác giả lại quá chú trọng đến sự khủng bố của bọn đế quốc, cho nên vở

kịch còn nhiều chất bi lụy, thiếu hơi thở lạc quan.

Nhưng Bắc Sơn có nhiều đặc sắc về mọi phương diện. Viết về một

cuộc khởi nghĩa lịch sử vang dội là một điều khó, vì người viết cần phải mất

nhiều công phu điều tra nghiên cứu. Viết về miền núi cũng là một điều khó

nữa. Xưa kia các nhà văn lãng mạn thường hay bịa đặt, tô vẽ, hoặc xuyên tạc

khi mô tả đồng bào các dân tộc thiểu số. Nguyễn Huy Tưởng chưa viết được

về Bắc Sơn như ta mong muốn, nhưng nhà văn đã cố gắng phản ánh chân

thực cuộc sống của đồng bào Bắc Sơn, vạch rõ mâu thuẫn giữa nhân dân và

bọn đế quốc, quan lại, mô tả được tinh thần đấu tranh kiên cường của đồng

bào. Tính cách của các nhân vật, nhất là nhân vật chính diện, trong Bắc Sơn,

được xây dựng một cách chững chạc. Hình ảnh những con người mới của

Page 81: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Bắc Sơn hùng vĩ như cụ Phương, Sáng, Thơm… gây được nhiều xúc động

cho người xem. Không khí căng thẳng trong những màn đầu của vở kịch

càng thu hút được sự chú ý của mọi người. Đối thoại của vở kịch sôi nổi

nghiêm trang, thích hợp với một vở kịch có tính chất anh hùng ca. Trong lịch

sử kịch nói Việt Nam, Bắc Sơn thực sự đã đánh dấu một chặng đường phát

triển mới. Nói chung vở kịch đã chứng minh đường lối văn nghệ dân tộc, khoa

học, đại chúng của Đảng là đúng đắn, chủ nghĩa hiện thực cách mạng là rất

lành mạnh, yêu cầu phải mô tả những nhân vật anh hùng trong quần chúng

lao động là rất cần thiết.

Rõ ràng từ Bắc Sơn, Nguyễn Huy Tưởng đã có một bước chuyển căn

bản từ chủ nghĩa lãng mạn tiến bộ sang hiện thực cách mạng. Cố nhiên, con

đường đi của anh còn nhiều thăng trầm. Nhưng cái chính là hướng đi lên. Từ

đây, anh luôn luôn có mặt trong mỗi bước tiến của phong trào. Đi vào kháng

chiến, anh mong muốn tìm hiểu những vang động lớn của nó đã làm xáo trộn,

thay đổi số phận con người như thế nào. Kịch vẫn là thể loại được anh quan

tâm nhất, và sau Bắc Sơn, anh lại có Những người ở lại. Tiếc là, lần này, do

chưa nhận thức kỹ bối cảnh cách mạng, và vẫn còn cái thích thú riêng đối với

các bi kịch gia đình, mặt khác có chịu ảnh hưởng phần nào Lôi vũ, nèn

Những người ở lại không thành công. Tuy vậy, mấy năm sau anh lại có đóng

góp đáng quý trong Ký sự Cao Lạng, thiên ký sự dài đầu tiên của văn học

kháng chiến dựng lên được một cách khá rõ nét khí thế chiến thắng của dân

tộc, qua hình ảnh những người Vệ quốc, những anh chị em dân công miền

ngược, miền xuôi, mà anh đã có dịp thâm nhập, tìm hiểu, để mô tả với một

tình cảm yêu mến, chân thành. Đi vào đời sống nông dân, nhân một đợt Cải

cách ruộng đất, anh đã có thể cho ra đời một tiểu thuyết dài như Truyện anh

Lục. Cuốn tiểu thuyết tuy chưa thoát ra khỏi được những hạn chế của bệnh

công thức, sơ lược vốn là tình trạng chung của phong trào sáng tác lúc này,

nhưng vẫn có những chương, những trang xúc động vạch tội ác của địa chủ

và mô tả nỗi khổ của người nông dân trong tay giai cấp địa chủ. Những năm

xây dựng hòa bình, Nguyễn Huy Tưởng là ngưòi chăm chỉ thâm nhập thực tế,

Page 82: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

và Bốn năm sau đã có cái vinh dự là sáng tác dài đầu tiên thông qua đề tài

hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới ở Điện Biên Phủ,

mà nói về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc nước ta.

***

Nhưng đồng thời đi vào thời sự, quan tâm đến nhiều mặt khác nhau

của đời sống cách mạng, Nguyễn Huy Tưởng vẫn không nguôi ấp ủ một đề

tài, nó theo đuổi anh khá lâu, về cố đô Thăng Long, về Thủ đô Hà Nội. Anh đã

nhiều lần viết ký, kịch, làm phim về Hà Nội. Nhưng điều ao ước của anh là thể

hiện đề tài đó bằng truyện. Một thiên truyện dài sẽ giúp anh có điều kiện tung

hoành thoải mái, nói hết được mọi điều muốn nói, đi từ ngóc này sang ngách

khác của Thủ đô, dựng lên nhiều lớp người, miêu tả cái bộn bề của cuộc

sống bên ngoài, đi sâu vào những diễn biến phức tạp của tâm lý bên trong.

Lần này trong Sống mãi với Thủ đô, không giống với các sáng tác trước

đây, Nguyễn Huy Tưởng đã đi thẳng vào cuộc kháng chiến của Hà Nội. Một

Hà Nội phong phú, phức tạp, muôn màu vẻ, Hà Nội phù hoa, Hà Nội thượng

lưu, Hà Nội lao động. Hà Nội lầm than, Hà Nội của mọi tầng lớp người… Ngòi

bút Nguyễn Huy Tưởng vẫn sở trường trong việc đi sâu vào những diễn biến

của tâm trạng và thái độ của mọi tầng lớp trung gian Hà Nội; và nhờ ở một

năng khiếu quan sát có tài, Nguyễn Huy Tưởng đã nắm được những đặc

điểm riêng của cuộc kháng chiến ỏ Hà Nội, để gợi lên một thứ không khí

riêng, không khí Hà Nội, cho thiên truyện của mình.

Miêu tả Hà Nội trong vẻ toàn vẹn và phức tạp của nó, Nguyễn Huy

Tưởng đã có những cố gắng lớn để mở rộng thế giới nhân vật của mình. Anh

miêu tả nhiều tầng lớp nhân dân lao động Hà thành như cô gái bán hoa Ngọc

Hà, mẹ Thắng bán xôi chè, Dân – thợ nguội, Sờn – thợ xẻ, Quý – tài xế, Hai –

chữa xe đạp… nhiều con người thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau đó

đã tham gia vào cuộc kháng chiến của Hà Nội một cách khỏe khoắn, tự nhiên,

vì cuộc đời của họ nói chung đã phải trải nhiều cực khổ. Trong lớp quần

chúng cơ bản, Nguyễn Huy Tưởng chú ý những công nhân ưu tú, những cán

Page 83: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

bộ lãnh dạo phong trào như Dân, Quốc Vinh, Nguyễn Gia Định là lực lượng

nòng cốt, tiêu biểu cho tinh thần sống chết với Thủ đô, chèo chống cho cuộc

kháng chiến ở Thủ đô.

Tất cả khối người đông đúc đó đã được nhà văn đặt chung trên một bối

cảnh lịch sử, với những vấn đề có quan hệ đến vận mệnh chung của dân tộc.

Giáp mặt với quân thù, người Hà Nội thay đổi hẳn tầm thước. Nhiều trang

Sống mãi với Thủ đô rạo rực một không khí hùng tráng của sử thi. Đọc thiên

truyện, ta khó theo dõi được thời gian, ta bị cuốn đi trong những diễn biến lớn

lao, căng thẳng của cuộc đời, tưởng như đã xảy ra hàng năm hàng tháng,

nhưng thật ra chỉ có mấy ngày đêm. Không khí loãng tan xao xác dưới những

mái trường. Quang cảnh rạo rực chuẩn bị kháng chiến trên từng khu phố, góc

nhà, đến buổi chiều ở vườn hoa cửa Nam, người Hà Nội vẫn vây quanh một

anh thợ nặn, sống nốt quang cảnh yên bình cuối cùng khi chung quanh đã

ngột lên mùi tanh giá của chiến tranh. Từng chuyến tàu vội vã. Đêm tản cư.

Những buồi chia tay. Vụ thảm sát Yên Ninh. Những trận đánh giằng co. căng

thẳng ở Bắc Bộ phủ, ở nhà Bưu điện Bờ Hồ… Biết bao nhiêu là sự kiện, là

đổi thay, là diễn biến, là xáo trộn! Nhưng thiên truyện cũng thật dồi dào chất

thơ. Âm hưởng chung của thiên truyện là âm hưởng lạc quan. Tiếng cười nói,

tiếng súng đạn, tiếng trẻ bán báo, rao hàng, tiếng đàn ấm áp, tiếng sinh hoạt

của cuộc đời… bản hòa tấu của nhiều âm thanh khác nhau đó trong thiên

truyện, nghe khác hẳn tiếng gõ quan tài bi thảm trong Những người ở lại.

Tuy nhiên, thiên truyện vẫn còn những mặt non yếu nhất định. Do sức

khái quát chưa cao, nên nhiều chương vẫn còn ngập trong sự kiện. Nhiều

người cho rằng những trang thành công trong Sống mãi với Thủ đô vẫn là

những trang có tính chất ký sự. Và cũng là nhược điểm cố hữu của anh, ngòi

bút anh miêu tả các nhân vật tiểu tư sản vẫn đúng và sâu hơn tầng lớp cán

bộ, công nhân. Mặt khác, Sống mãi với Thủ đô cũng có những trang phảng

phất gợi ta nhớ Chiến tranh và hòa bình của Tôn-xtôi trong các cảnh chè

rượu say sưa hoặc các cuộc thảo luận quân sự.

Page 84: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Dù sao, thiếu sót của Nguyễn Huy Tưởng trong Sống mãi với Thủ Đô

cũng chỉ là những thiếu sót trên một quá trình thể nghiệm, tìm tòi, lúc mà trình

độ tư tưởng, nhận thức và tài năng của nhà văn đang trong độ chín. Có lẽ đó

cũng là điều chứng minh cho tâm trạng chưa thỏa mãn với Sống mãi với Thủ

đô mà Nguyễn Huy Tưởng thường nói khi anh còn sống.

***

Nhìn lại toàn bộ quá trình sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta

thấy rõ bước tiến lên của anh không phải là một con đường bằng phẳng. Sau

Cách mạng, anh có ngay thành công Bắc Sơn. Nhưng cũng viết về đề tài

cách mạng, khi anh có ý định biểu dương một số mặt “tích cực” có phần giả

tạo trong sinh hoạt của tầng lớp tư sản, địa chủ sống sa đọa và có nhiều nợ

máu với nhân dân như trong Vết cũ (Tiên phong, số đặc biệt kỷ niệm 19-8-

1946) thì lại có thể gây cho người đọc nhiều phân vân. Hoặc trong truyện

ngắn Một phút yếu đuối (Tiên phong, số 1, ngày 10-11-1945), khi anh mô tả

với sự cảm phục một “chiến sĩ cách mạng”, như An, vợ một công chức cao,

dâu một bà huyện, vì tự ái, và vì không muốn để liên lụy cho gia đình nhà

chồng mà chịu cho địch bắt, rồi vì đấu tranh tư tưởng căng thẳng quá mà

chết, thì lại có thể làm cho người đọc hiểu sai về người cách mạng.

Đi vào kháng chiến, sau Những người ở lại, nhà văn viết được Ký sự

Cao Lạng, một sáng tác rất đậm đà hơi thở thời đại và chan chứa nhiệt tình

ca ngợi. Nhưng Anh Sơ đầu quân (1948) lại là một tập kịch dở. Bước vào

công cuộc cải cách ruộng đất, Nguyễn Huy Tưởng cho ra đời rất kịp thời cuốn

tiểu thuyết dài Truyện anh Lục, miêu tả đời sống nông thôn với tình cảm giai

cấp khá sâu, mặc dù vốn hiểu biết của anh còn chưa thật dồi dào, khiến cho

cuốn truyện còn nhiều đoạn nhạt. Nhưng không lâu sau đó, những năm miền

Bắc bước vào công cuộc xây dựng hòa bình, anh lại viết Một ngày chủ nhật

(1957) với tâm trạng bi quan và một cái nhìn có chiều bối rối.

Cố nhiên trong khi tìm hiểu những mặt phức tạp, những bước thăng

trầm của Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta cần phân biệt việc nhà văn đấu tranh

Page 85: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

với những khuyết điểm với việc anh khắc phục những nhược điểm của mình

để có sự đánh giá khác nhau. Có nhược điểm dẫn tới khuyết điểm. Nhưng

cũng có nhược điểm vổn chỉ là nhược điểm, và chúng ta không thể sốt ruột

đòi hỏi nhà văn khắc phục ngay. Chúng ta đều biết Nguyễn Huy Tưởng là nhà

văn không muốn có một sự dễ dãi hoặc đơn giản trong cách nhận thức và

đánh giá cuộc đời. Những sự kiệu lớn của đời sống từ sau Cách mạng, anh

đều theo dõi sát, để qua đó kịp thời viết được tác phẩm tiêu biểu, đánh dấu

cho từng chặng. Trong mỗi tác phẩm, anh đều biết khai thác những âm vang

của các sự kiện trong tâm tư, tình cảm con người. Anh muốn nêu lên đồng

thời, cùng trên một bình diện, những biến cố lớn lao của cách mạng và những

số phận riêng của từng cá nhân con người. Nhưng không phải lúc nào nhà

văn cũng làm tốt được điều mình mong mỏi. Tác phẩm của Nguyễn Huy

Tưởng cho ta thấy một bên là những khao khát lớn và bên kia là khả năng

còn có hạn của nhà văn. Một bên là những vấn đề lớn, có khi rất lớn của cuộc

sống chỉ vừa kịp le lói, đủ cho ta thoáng nhận ra, và bên kia, nhà văn chưa đủ

sức, đủ vốn để theo đuôi nó kỳ cùng, nên đành bỏ dở. Nhà văn đành phải

“khoanh vùng” lại. Những bi kịch riêng của tình yêu, của gia đình nhiều khi

được đặt vào một hoàn cảnh trong thực tế quá vĩ đại làm cho người đọc

muốn biết nhiều cái lớn hơn là điều nhà văn mô tả. Đó là lý do vÌ sao khi đọc

Bốn năm sau, người ta lại phân vân không rõ nhà văn có ý định mô tả không

khí lao động xây dựng cuộc sống mới ở Điện Biên hay là mối tình duyên éo le

giữa Doan và Ngàn. Nhớ lại hồi kháng chiến chống Pháp, khi viết Những

người ở lại, Nguyễn Huy Tưởng có nói: “Kịch nói không phải là chuyện phân

tích tâm lý một vài con người, bởi vì trong xã hội mới của ta, những cá nhân

đều hòa mình vào cái bể quần chúng. Muốn tả một cơn bão bể, vấn đề không

phải là vẽ từng ngọn sóng, mà là vẽ cả “cái bể đang trào lên”. Đúng là nhà

văn có thể miêu tả cả “cái bể đang trào lên”, nhưng cũng có thể chỉ miêu tả

“từng ngọn sóng” mà cho thấy cả “cái bể đang trào lên”. Tiếc là, cả hai yêu

cầu này, trong Những người ở lại, anh đều chưa đạt được.

Page 86: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Việc khắc phục những thị hiếu tiểu tư sản trong quá trình sáng tác của

mình cũng là một khó khăn đáng kể trong quá trình tiến lên của Nguyễn Huy

Tưởng. Trong Đêm hội Long Trì, mà phần tích cực chúng ta còn có thể ghi

nhận là sự phê phán hiện thực xã hội phong kiến thối nát thời Lê mạt, nhân

vật chính là Trịnh Sâm cùng một số nho sĩ văn nhân, hoặc vương tôn công tử

lại có một vẻ đáng yêu riêng. Còn hình ảnh nhân dân thì lại mờ nhạt. Nỗi khổ

của nhân dân thật ra không đậm bằng nỗi khổ của tầng lớp quý tộc bị bọn du

côn như Đặng Mậu Lân quấy rầy. Cảm hứng chủ đạo của tác giả khi viết

truyện này là sự nuối tiếc một cuộc sống, và hẹp hơn, một mối tình, mối tình

Bảo Kim – Quỳnh Hoa, lẽ ra có thể thơ mộng nếu không có bàn tay phá quấy

của bọn du côn.

An Tư là thiên truyện lịch sử viết về cuộc kháng chiến của quân dân

nhà Trần. Nhưng xen vào trong câu chuyện, thậm chí có thể xem như là

đường dây chính của truyện lại là mối tình ngang trái giữa An Tư công chúa

và Chiêu Thành vương Trần Thông. Tình cảm hào hùng, phấn chấn về chiến

thắng của dân tộc có khi bị lẫn đi trong những thoáng ngậm ngùi về một mối

tình dang dở.

Sau Cách mạng, Nguyễn Huy Tưởng có bước chuyển rõ ràng về nhiều

mặt. Nhưng việc đổi mới hẳn các quan niệm, thị hiếu nghệ thuật cũ cũng đã

phải diễn ra trên cả một quá trình. Người đọc dễ dàng nhận rõ dấu vết của nó,

mà biểu hiện tập trung là Những người ở lại. Ở vở kịch này, như tâm sự của

tác giả, “cuộc kháng chiến Thủ đô chỉ là đường viền cho một tấn kịch nhỏ gia

đình”. Kể ra việc đi sâu vào những bi kịch gia đình và tình yêu như vậy cũng

có ý nghĩa, nếu nhà văn vạch ra được mối liên hệ giữa những sinh hoạt ấy

với dòng thác lớn của thời đại. Hơn nữa, như Mác nói: “Những cuộc cách

mạng là đề tài chân chính của bi kịch”. Tấn kịch gia đình bác sĩ Thành mà tác

giả có ý định dựng lên ở đây: đi hay không đi kháng chiến, theo vợ là gián

điệp hay theo con là Quyết tử quân Hà Nội, có ý nghĩa xã hội lắm chứ! Nhưng

đáng tiếc là trong Những người ở lại, những vấn đề lớn của xã hội mới chỉ

hiện ra thấp thoáng mà thôi. Những chuyện rắc rối của gia đình bác sĩ Thành

Page 87: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

có vẻ đặt vào hoàn cảnh nào khác cũng được. Người ta không thấy rõ “cơn

thử thách vĩ đại mà dân tộc đang trải qua, tức là cuộc chiến tranh cách mạng

giải phóng đã cải tạo con người như thế nào”.

Quá trình Nguyễn Huy Tưởng tham gia cách mạng, đi sâu vào đời sống

công nông binh cũng đồng thời là quá trình anh khắc phục dần những thị hiếu

tiểu tư sản trong cách nhìn nhận và đánh giá cuộc đời. Sự vươn lên của nhà

văn về mặt này sẽ hạn chế dần những ảnh hưởng tiêu cực của mặt kia. Vị trí

của con người tiểu tư sản trí thức trong tác phẩm sẽ dần dần được đặt đúng

chỗ. Anh sẽ dần dần không còn xem họ là nhân vật trung tâm của cuộc đời.

Anh đặt họ trong mối tương quan với quần chúng nhân dân và do vậy, những

ưu điểm và nhược điểm của họ sẽ được nhìn nhận rõ và đánh giá xác đáng

hơn. Trong Sống mãi với Thủ đô, một vài chỗ còn chút ít thi vị hóa con người

tiểu tư sản sẽ không đến nỗi làm mờ đi những mặt tiêu cực ở họ, mà anh đã

cố vươn tới một sự đánh giá đúng đắn, nghiêm khắc, toàn diện.

***

Nguyễn Huy Tưởng giàu nhiệt tình cách mạng và có cảm giác nhạy bén

trước cuộc sống, nên khi đi vào thực tế thì anh tích lũy, ghi chép được ngay.

Anh cũng dũng cảm đi vào những đề tài lớn, và là người lúc nào trong đầu óc

cùng ôm ấp những dự kiến, những hoài bão lớn lao. Có lẽ, nổi bật hơn một số

nhà văn, Nguyễn Huy Tưởng là người thao thức nhiều hơn cả cái ý muốn

miêu tả cuộc sống trong dạng anh hùng ca vốn có của nó. Anh muốn đưa ra

những bức tranh huy hoàng của lịch sử. Khả năng, tài năng của anh được bồi

đắp rất nhiều trong quá trình đi theo cách mạng, nhưng dù sao, vẫn chưa đủ

cho anh thực hiện những hoài bão lớn lao và chính đáng của mình. Quả có

một cái gì còn so le, chưa cân đối, giữa ước vọng của nhà văn giàu tinh thần

lãng mạn cách mạng một bên và bên kia là trình độ tư tưởng, suy nghĩ, vốn

hiểu biết, và khả năng khái quát, khiến cho ta chưa được xem một tác phẩm

nào thật là hay trọn vẹn, kề cả Sống mãi với Thủ đô là tác phẩm cuối cùng

được anh viết bằng tất cả vốn liếng và tâm huyết của mình. Nhưng trong mọi

Page 88: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

lĩnh vực của văn xuôi, kịch nói, Nguyễn Huy Tưởng đều đã viết được khá

nhiều trang có phong cách trang nghiêm, dạt dào khí thế cách mạng, thấm

nhuần chất anh hùng ca của thời đại. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy

Tưởng thấp thoáng một cái gì thật là lớn lao mà anh đang quyết tâm theo

đuổi nhưng đành nửa chừng bỏ dở.

Những chặng đường sáng tác của BÙI HIỂNBùi Hiển là nhà văn viết truyện ngắn và bút ký. Nằm vạ, tập truyện ngắn

đầu tay của anh, ra đời năm 1941. Từ đó tới nay đã hơn ba chục năm. Ba

chục năm đối với một quá trình sáng tác kể ra cũng là một chặng đường dài.

Song nhìn lại, ta thấy tác phẩm của Bùi Hiển không nhiều lắm. Bởi vì ở những

thời kỳ đầu anh viết có hơi thưa: hai mươi năm, sau khi Nằm vạ xuất bản, anh

mới lại có thêm cuốn sách thứ hai – Ánh mắt (tập truyện ngắn về kháng chiến

chống Pháp, 1961). Tất nhiên chúng ta không nhìn vào thời gian mà đánh giá

nhà văn, chúng ta chỉ nhìn vào tác phẩm. Phải nhận rằng ở thời kỳ này, tuy

viết ít, nhưng Bùi Hiển đã chứng tỏ mình là một cây bút thận trọng, có trách

nhiệm sâu sắc. Mỗi truyện ngắn trong tập Ánh mắt của anh đều có một giá trị

nhất định, cho nên ngay lúc ra đời đã được dư luận bạn đọc chú ý. Cũng

trong năm 1961, anh còn viết cuốn sách nhỏ – Bước đầu viết truyện – nhằm

phổ biến một số kinh nghiệm của bản thân cho các cây bút trẻ.

Từ 1962, anh bắt đầu sáng tác đều hơn. Những tập truyện ngắn và bút

ký của anh liên tiếp ra đời: 1962– Đường vui xứ bạn (bút ký thăm Ru-ma-ni và

Liên-Xô), Bên đồn địch (truyện thiếu nhi kháng chiến); 1965 – Trong gió cát

(tập bút ký và truyện ngắn về xây dựng; chủ nghĩa xã hội), Quỳnh xóm cháy

(truyện viết cho thiếu nhi); 1966 – Đường lớn (tập bút ký về kháng chiến

chống Mỹ); 1967 – Cao Bá Tuyết và đồng đội (truyện anh hùng lái xe Bá

Tuyết), Người mẹ trẻ (truyện chiến sĩ thi đua mẫu giáo Nguyễn Thị Thảo);

1970– Những tiếng hát hậu phương (tập truyện ngắn về kháng chiến chống

Mỹ)…

Page 89: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Nhìn lướt qua các tác phẩm của Bùi Hiển, ta thấy nổi bật lên điều này:

từ kháng chiến chống Mỹ và về kháng chiến chống Mỹ, anh viết nhiều hơn cả;

mà có lẽ cũng chỉ bắt đầu trong kháng chiến chống Mỹ anh mới được bạn đọc

chú ý nhiều. Nhưng sự chú ý đó chắc chắn không phải chỉ vì anh viết nhiều,

mà căn bản vì ngòi bút chính luận đanh thép và sắc sảo của anh đã thu hút

được người đọc.

Song nếu như ta nhìn lại Bùi Hiển những năm trước Cách mạng, ta sẽ

thấy anh không phải đứng vào hàng các nhà văn tiên tiến. Ngược lại, ngòi bút

của anh còn mang nhiều yếu tố tự nhiên chủ nghĩa. Trong khi Nguyễn Công

Hoan đã có Bước đường cùng (1938), Ngô Tất Tố đã viết cuốn Tắt đèn nổi

tiếng (1939); trong khi Nam Cao đã xây dựng được hình tượng Chí Phèo bất

hủ (1341) và Nguyên Hồng đã viết cuốn Bỉ vỏ (1938) rồi Người đàn bà Tầu

(1939); nghĩa là trong khi văn học Việt Nam đã có những cây bút hiện thực

phê phán chững chạc, hay nói một cách khác, trong khi dòng văn học “tả

chân” ở ta đã phát triển và lôi cuốn đông đảo những người sáng tác, trong khi

văn học đã trở thành một thứ vũ khí sắc bén để vạch trần bộ mặt xấu xa của

cái xã hội cũ thối nát, thì Bùi Hiển mới chỉ nhìn cái xã hội ấy bằng con mắt

khách quan của một người ngoài cuộc, hay đúng hơn, anh mới chỉ nhìn nó

qua những hiện tượng rời rạc, mà chưa thấy sau những hiện tượng đó cái

nguyên nhân sâu xa của sự thối nát ấy. Anh có xu hướng biến tất cả mọi

chuyện thành hài hước. Anh cười một chị phụ nữ nằm vạ, một cô gái chê

chồng, cười hai anh học trò lớn tuổi, cười sự ngờ nghệch của một anh viên

chức nghèo nơi tỉnh lẻ, cười một chàng thanh niên lười biếng, cười cái vẻ

vụng về của mội kẻ mới học làm cha…; anh cười tất cả.

Chỉ sau Cách mạng và trong Kháng chiến, cái nét khách quan tự nhiên

chủ nghĩa ở nhà văn mới được dần dần khắc phục. Sự gian khổ của kháng

chiến và tinh thần hy sinh quên mình của nhân dân không cho phép anh cười

cợt hài hước nữa, nó đã bắt anh phải suy nghĩ nhiều hơn, phải nhìn cuộc

sống thực hơn. Sống giữa cơn xoáy lớn của kháng chiến là mặt trận Bình Trị

Thiên, anh càng có điều kiện thấy được rõ hơn sự khốc liệt của chiến tranh

Page 90: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

cũng như tinh thần quả cảm của những người dân trong đó, anh càng thán

phục họ và do đó đã viết nên được những trang rất đẹp ca ngợi họ và phản

ánh cuộc sống gian khổ nhưng anh dũng của họ ở vùng sau lưng địch. Song

sự tàn phá có tính chất hủy diệt của kẻ thù không phải không để lại dấu ấn

nào trên những trang anh viết. Nó chẳng những làm anh suy nghĩ nhiều, mà

có khi nó còn làm anh đau buồn, và có lúc anh đã để cho ngòi bút mình đi

theo những cảm nghĩ nặng nề ấy của bản thân– những lúc như thế, anh miêu

tả cuộc kháng chiến với màu sắc không được thật lạc quan như chính nó vốn:

Anh có phần tô đậm thêm những khó khăn gian khổ, những hy sinh mất mát,

làm cho người đọc cảm thấy cảnh sắc của kháng chiến trong những tác phẩm

ấy hơi đen tối.

Từ năm 1960, Bùi Hiển bắt đầu viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã

hội; và khi giặc Mỹ gây ra chiến tranh phá hoại trên miền Bắc anh lại viết về

chiến tranh. Nét đặc điểm của giai đoạn này là Bùi Hiển đã bỏ cái nhìn bi

quan, phảng phất trong một vài tác phẩm của anh mấy năm trước, anh đã

nhìn cuộc sống bằng con mắt lành mạnh, khỏe khoắn hơn nhiều. Điều này

không phải ngẫu nhiên mà có được. Cơ sở của nó là sự quyết tâm cao độ

của nhà văn muốn đi vào cuộc sống để thấy được những yếu tố mới, những

nhân tố tích cực của cuộc sống ngày nay, và anh đã tìm ra một phương pháp

rất đúng để thực hiện cái quyết tâm đó của mình – đến với những nơi tiên tiến

và sống với những con người tiên tiến, nơi cuộc sống mới hiện lên rõ nét nhất

và con người mới cũng bộc lộ bản chất mình một cách đầy đủ nhất. Chính

nhờ vậy mà anh đã nói lên được những thay đổi cơ bản của cuộc sống hôm

nay. Suốt mấy năm kháng chiến chống Mỹ, Bùi Hiển vẫn luôn luôn sống ở nơi

mũi nhọn của chiến tranh: Khu Bốn. Chính nhờ thế mà anh đã thấy được

những điển hình đẹp nhất của tinh thần chiến đấu dũng cảm cũng như đã

chứng kiến những tội ác ghê tởm nhất của kẻ thù. Vì thế những tác phẩm của

anh viết vào thời kỳ này có một sức nặng thật sự và cảm động được người

đọc.

***

Page 91: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Bùi Hiển sinh ở Nghệ An, cho nên những truyện ngắn đầu tay của anh

thường gắn liền với những nét đặc điểm của phong tục tập quán người dân

xứ Nghệ. Điển hình là hai truyện Nằm vạ và Ma đậu. Những truyện ngắn này

mang phong cách hài hước nhẹ nhàng, gây được những nụ cười tinh nghịch,

di dỏm, biểu hiện một khả năng miêu tả tâm lý nhân vật khá sắc sảo và một

nghệ thuật vận dụng ngôn ngữ địa phương tương đối sinh động và nhuần

nhuyễn. Song ở đây tác giả thường không đặt được các vấn đề xã hội, mặc

dầu những hiện tượng anh đưa ra như sự nằm vạ hay chê chồng của phụ nữ

đều có nguyên nhân sâu xa nằm trong bản chất xã hội. Những câu chuyện

như thế làm sao có thể kết thúc được một cách dễ dàng và ổn thỏa như nhà

văn miêu tả. Có thể nào tin được, chị Đỏ sau bảy ngày nằm vạ lại chịu làm

hòa với chồng chỉ nhờ mấy câu pha trò nhạt, thếch và quá đỗi vô duyên của

ông Lý, và một người con gái chê chồng quyết liệt như chị Đỏ Câu lại chỉ vì

một lúc sợ ma thôi mà hết chê chồng?

Ngoài hai truyện Nằm vụ và Ma đậu viết về nông thôn, trước Cách

mạng Bùi Hiển còn viết về những người tiểu tư sản lớp dưới. Đó là mấy

truyện Cái đồng hồ, Ốm, Hai anh học trò có vợ, Ác cảm, Làm cha. Ở đây nói

chung anh vẫn giữ phong cách hài bước. Tất nhiên cũng có lúc cái cười của

anh đúng chỗ, chẳng hạn anh chế giễu nhân vật Bình (trong Ốm), một thanh

niên khỏe mạnh mà lười biếng đến mức cam chịu sống nhờ vào ngôi hàng

tạp hóa nghèo nàn và bắt đầu ế ẩm của người mẹ già tháng ngày tần tảo.

Và phải nhận rằng, đây đó trong những truyện ngắn của tập Nằm vạ, ta

cũng đã bắt gặp những nét phê phán khá sắc sảo. Chẳng hạn đoạn tác giả tả

những xác chết vô thừa nhận trong truyện Nhà xác. Qua đó ta thấy được

phần nào bộ mặt bần cùng của cái xã hội ngày trước và sự tàn nhẫn ghê gớm

trong quan hệ giữa con người đối với con người trong cái xã hội đen tối ấy.

Trong truyện Ác cảm, Bùi Hiển miêu tả mặt đen tối khác của xã hội cũ – sự

lừa đảo lẫn nhau. Qua nhân vật Bạc Hói, và sau đó qua Tạo, anh đã cho ta

thấy một mẫu người sống bằng sự giả dối. Trong Nằm vạ, đoạn tả ông Lý

Page 92: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

cũng có nét bút châm biếm. Trong Hai anh học trò có vợ, tác giả biểu hiện

khá rõ thái độ phê phán, đả kích đối với loại người học làm sang ở nông thôn.

Tóm lại, trước Cách mạng, Bùi Hiển căn bản là một cây bút “khách

quan, mang màu sắc tự nhiên chủ nghĩa. Song nhờ chịu ảnh hưởng của

những loại sách như Kép Tư Bền và dòng văn học “tả chân” (theo như lời tác

giả đã tự nhận trong bài trao đổi với Nguyễn Công Hoan; tạp chí Tác phẩm

mới; số 6, tháng 3 và 4-1970), mà trong sáng tác của anh đã bắt đầu xuất

hiện đôi nét phê phán, báo hiệu một ngòi bút hiện thực tương lai.

***

Ngòi bút hiện thực đó đã được biểu hiện qua một số tác phẩm của anh

in trong tập Ánh mắt (1961).

Truyện thành công và điển hình nhất của anh giai đoạn này là Đánh

trận giặc lúa. Đây là câu chuyện mưu lược, câu chuyện về sự đọ trí, đọ tài

giữa địch và ta; và trong cuộc đọ trí, đọ tài ấy, ta đã hoàn toàn thắng lợi. Một

không khí lạc quan phấn khởi bao trùm lên câu chuyện. Với ngòi bút của một

nhà văn hiện thực, Bùi Hiển đã miêu tả rất đúng cuộc chiến tranh nhân dân

của ta như là một sự kết hợp chặt chẽ giữa hai mặt: quân sự và kinh tế. Anh

đã cho ta thấy rằng: công việc sản xuất của nhân dân trong vùng tạm chiếm

làm được tốt không phải chỉ riêng nhờ vào tinh thần dũng cảm, óc mưu trí và

sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau của đồng bào, mà bên cạnh đó, còn phải có sự

hỗ trợ đắc lực của bộ đội địa phương và dân quân du kích. Đến mùa gặt, các

anh về gặt giúp dân và cũng vừa làm nhiệm vụ đánh đòn quấy rối giặc, không

cho chúng có thì giờ và tâm trí để cản trở việc thu hoạch mùa màng của ta.

Tác giả khẳng định, nhân dân ta không những chỉ đánh giặc giỏi, chiến đấu

dũng cảm, mà trong lửa đạn chúng ta vẫn sản xuất rất giỏi, bảo đảm cho

nhân dân và bộ đội có đủ lúa gạo ăn, bảo đảm cơ sở vật chất cho cuộc kháng

chiến lâu dài Đánh trận giặc lúa đến nay vẫn có giá trị thời sự. Vấn đề kết hợp

giữa sản xuất và chiến đấu là vấn đề mà trong giai đoạn kháng chiến chống

Mỹ vừa qua nhiều nhà văn đã đề cập tới. Đọc Đánh trận giặc lúa (viết cách,

Page 93: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

đây hơn hai chục năm – 1951), ta vẫn thấy tác phẩm có cái nét sinh động và

hấp dẫn riêng.

Ngoài Đánh trận giặc lúa, các truyện ngắn còn lại trong tập Ánh mắt, ở

khía cạnh này hay khía cạnh khác đều góp phần phản ánh cuộc sống rất gian

khổ nhưng đầy tinh thần lạc quan cách mạng của nhân dân Bình Trị Thiên

trong kháng chiến. Gặp gỡ là một truyện có nhiều nét đặc sắc, miêu tả một

cách rất thực cuộc sống của những cặp vợ chồng cán bộ trong kháng chiến,

họ rất ít có dịp gặp nhau, vì thế những cuộc gặp gỡ hiếm hoi của họ thật là

cảm động. Nó thường rất vội vàng mà lại không mấy khi được yên lành,

nhưng đối với họ, nó vẫn là một niềm hạnh phúc lớn, vì mỗi lần gặp nhau, họ

lại thấy nhau tiến bộ hơn, họ càng yêu nhau thêm, quý trọng nhau thêm.

Truyện Người vợ nói về quá trình tiến bộ của Luyến, một phụ nữ có chồng là

cán bộ. Trước kia chị rất nhút nhát, chỉ nghĩ đến chuyện phải sống xa chồng

là chị đã lo sợ lắm rồi, thế mà nay khi anh đã thoát ly công tác, chị lại tiến bộ

vượt lên, không những tự lực quán xuyến được mọi công việc gia đình, mà

còn bắt đầu nhận công tác liên lạc do tổ chức bí mật của ta giao cho.

Mặt thành công trong các tác phẩm viết về kháng chiến của Bùi Hiển là

mặt miêu tả cuộc sống và tấm lòng của nhân dân và cán bộ vùng địch hậu.

Mặt anh chưa thành công lắm là mặt xây dựng hình ảnh người bộ đội. Nhược

điểm này biểu hiện khá rõ trong truyện ngắn Ánh mắt. Ở đây, qua ba nhân vật

Đăng, Thành, Các, tác giả có ý định phê phán tính chất tiểu tư sản trong một

số anh em bộ đội hồi đầu kháng chiến. Lúc ra đi họ thật là lạc quan yêu đời.

Nhưng chẳng bao lâu, những khó khăn gian khổ và bệnh tật ốm đau đã hoàn

toàn đánh quỵ họ, giết chết đi trong họ cái nhiệt tình rơm rạ lúc ban đầu, và

thế là, họ tan tác mỗi người mỗi ngả. Các đã chết thảm thương vì bệnh tật;

Đăng theo đơn vị về đồng bằng để tìm đường chạy trốn, và anh ta đã đào ngũ

một cách “an toàn”; chỉ một mình Thành là người cuối cùng của bộ ba ấy còn

lại trong đơn vị. Nhưng hiện tình của Thành cũng thật là bi đát: một mình anh

bị rớt lại ở chiến trường, vừa đói lại vừa buồn, vì đi đến đâu cũng bị nhân dân

xua đuổi, hắt hủi, họ sợ vì anh mà liên lụy đến bản thân. Và thế là Thành lại

Page 94: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

đành lê bước trên đường cái. Một sự phân vân ập đến: không biết nên về

Huế để tìm lại sự an ủi ở mẹ và em gái, hay trở lại chiến khu? Giữa lúc ấy thì

một cô bé đến với anh. Bằng lòng tin yêu hồn nhiên của mình đối với các anh

bộ đội trên chiến khu, cô gái đã làm cho Thành phải nghĩ lại và anh quyết định

trở về chiến khu.

Tác giả khẳng định với chúng ta, cuối cùng lẽ phải trong Thành đã

thắng. Song dù sao ta vẫn cảm thấy sự thắng thế ấy quá mong manh vì cơ sở

của nó không có gì chắc chắn cả, nó huyền ảo mơ hồ, như cái hình ảnh mơ

hồ huyền ảo của cô bé, mà Thành cũng đã phải nhận rằng, đó chỉ là “một cái

bóng thoáng qua thôi”. Và chúng ta càng cảm thấy khó tin, khi sự thắng thế

đó lại có được ở một con người như Thành, một con người mà lòng tin vào

nhân dân đã hoàn toàn không còn nữa. Mới chỉ bị hai gia đình từ chối mà anh

đã có thể rút ra một kết luận hết sức hồ đồ và cạn tàu ráo máng về tình quân

dân: “Xà! Anh em cứ hay nói quân với dân như cá với nước. Nắng hạn lâu

quá rồi, nước bây giờ sắp khô rồi. Khuấy lên chỉ còn bùn loãng nữa thôi. Cá

không lo mà nhảy thì cá cũng xẹp bụng mà chết mất thôi”. Rồi anh lại phát

biểu những lời rất tầm thường và bạc bẽo về vinh dự của người chiến sĩ:

“Thằng Đăng thế mà khôn, thằng Các chết là dại, khi nào độc lập hắn không

còn đâu nữa mà hưởng. Mà rồi ai còn nhớ tới hắn đã có lần đi chiến đấu cứu

nước”.

Tất nhiên những trường hợp như Đăng, Thành, Các không phải không

tìm thấy trong số anh em bộ đội tiểu tư sản những năm đầu Kháng chiến.

Song chúng tôi tin rằng, trong một thực tế điển hình và phổ biến, người chiến

sĩ Việt Nam lúc này không phải là như thế. Chứng cứ là ngay từ những năm

1950–1951, Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi (trong ký sự Cao Lạng

và Xung kích) đã xây dựng được những hình ảnh khá đẹp về người bộ đội

Việt Nam, với tinh thần luôn luôn lạc quan và dũng cảm, mà nhiều người

trong số họ cũng từ thành phần tiểu tư sản mà ra, có người cũng vừa rời khỏi

ghế nhà trường, bước vào Kháng chiến. Có lẽ, vấn đề quyết định ở đây là cái

nhìn của người cầm bút.

Page 95: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

***

Khoảng từ 1958, Hùi Hiển bắt đầu viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã

hội. Đặc điểm của giai đoạn này là anh viết nhiều về cuộc sống mới và con

người mới. Có thể nói, đây là thời kỳ trưởng thành của ngòi bút nhà văn.

Cùng viết về những năm hòa bình xây dựng, nhưng những tác phẩm của anh

có một sức nặng tư tưởng hơn hẳn một số cây bút viết truyện và ký khác, bởi

vì anh không đi vào những đề tài vụn vặt mà nhiều nhà văn lúc ấy rất thích,

họ gọi đó là viết về “con người bình thường, cuộc sống bình thường”. Bùi

Hiển cũng không viết những câu chuyện nhẹ nhàng, dí dỏm, nhưng thường

lại ít đặt được những vấn đề xã hội sâu sắc, nói chung anh không thích một

cái gì bằng phẳng, dễ dãi; anh thích đi vào những mũi nhọn của cuộc sống để

viết về những nơi tiên tiến và những con người tiên tiến. Đó là hợp tác xã Đại

Phong với hình ảnh mẹ Cặn là tiêu biểu (Sức mạnh Đại Phong); đó cũng là

nông trường Rạng Đông với anh hùng chăn vịt Nguyễn Hữu Quyền (Trên một

nông trường miền bể); đó là nông trường trồng cây chống cát với cả cái tập

thể những con người lao động quên mình (Trong gió cát); đó là một tổ đánh

cá với người thuyền trưởng gan góc dạn dày, luôn luôn kiên trì bám biển – Lễ

(Bám biển).

Và đặc điểm của ngòi bút anh ở đây là: khi viết về cái mới bao giờ anh

cũng ôn lại cái cũ, đặt cái mới ngay bên cạnh cái cũ ấy, làm cho cái mới nổi

bật hẳn lên.

Những năm kháng chiến chống Mỹ, nhà văn vẫn không ngừng theo

đuổi chủ trương sống ở những nơi đầu sóng ngọn gió. Vì vậy suốt mấy năm

chiến tranh, anh vẫn ở Khu Bốn. Nhờ thế mà anh đã nói lên được một cách

khá sinh động tinh thần bất khuất của nhân dân ta; kẻ địch muốn tiêu diệt ta,

nhưng ta vẫn tồn tại, và tồn tại một cách đường hoàng hơn bao giờ hết. Bộ

mặt của đất nước vẫn hầu như không có gì xáo trộn; cuộc sống vẫn bình

thản, mọi người ai vẫn việc nấy. Người bám biển vẫn ra khơi, có điều bây giờ

không phải chỉ đàn ông đi đánh cá, mà cả phụ nữ cũng đã bắt đầu tập nghề

Page 96: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

khơi lộng để khi cần, có thể thay thế chồng con mình đã đi đánh giặc cứu

nước (Lớp sóng). Lúa khoai trên đồng vẫn luôn luôn xanh tốt, bà con nông

dân chỉ bận thêm một chút vì phải bỏ công ra lấp những hố bom rơi trúng

ruộng, để cho lúa lại lên đều (Dọc đường tỉnh Nghệ), cả nước ta trong những

ngày chống Mỹ không phải chỉ giữ mức làm việc bình thường, mà mỗi người

còn cố gắng “làm việc bằng hai”, làm việc với sự cố gắng cao nhất của mình

(Chuyện một bệnh xá nhỏ). Chiến tranh tuy có gây cho ta một số khó khăn

thật, song chiến tranh cũng thúc đẩy chúng ta thêm cố gắng làm việc. Và

chiến tranh càng ác liệt, chúng ta càng cố gắng nhiều hơn – đó là tinh thần

của Phan Thị Tuyết Lan trong việc cần làm và có lẽ cũng là tinh thần chung

của lớp thanh niên trong chống Mỹ, cứu nước.

Nhưng đây là về phía chúng ta. Còn kẻ địch thì sao? Bên cạnh sự vĩ

đại và tư thế đường hoàng của dân tộc, chúng ta, bộ mặt kẻ địch hiện lên thật

đê hèn và cuồng dại. Đúng như Bùi Hiển đã nói: “Chúng nó là một lũ đê hèn”.

Chúng “đê hèn” đến mức ném bom vào cả các trường học và bệnh viện.

Chúng nó cố tình phá những gì mà ta muốn xây dựng. Nhưng sự điên cuồng

của chúng chỉ là những hành động giãy chết. Lại mội lần nữa, Bùi Hiển khẳng

định, chúng ta là những người hiếu thắng vì chúng ta có chính nghĩa, dưới

chân chúng ta có đất Mẹ nâng đỡ, và đặc biệt, vì chúng ta có tinh thần chiến

đấu đến cùng.

Tuy nhiên, khi đọc các tác phẩm của Bùi Hiển viết về những năm xây

dựng hòa bình và cả những năm chống chiến tranh phá hoại củạ giặc Mỹ, đôi

lúc chúng ta vẫn bắt gặp những nét có vẻ lạc lõng. Bên cạnh số truyện, ký có

thể xếp vào loại xuất sắc của anh viết về con người mới và cuộc sống mới

cũng như về tinh thần chiến đấu dũng cảm và lạc quan của nhân dân ta,

chúng ta thấy trong một vài tác phẩm, nhân vật của anh hiện lên có phần

không được lành mạnh lắm. Chẳng hạn như, Đợi (trong truyện ngắn cùng

tên), như Lựu (trong Chiếc lá) và Nguyện (trong Hạt vàng)

Page 97: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Truyện Đợi giá như chỉ hạn chế trong việc miêu tả sự vươn lên của

người con gái tàn tật (Đợi) nhờ được sống trong chế độ mới, thì có thể nói đó

là một truyện tốt. Song tác giả hình như lại thích thú đi vào miêu tả tâm lý

không bình thường của nhân vật. Anh đã: để cho Đợi có tình cảm yêu đương

với Bình (một cán bộ kỹ thuật về hợp tác xã của Đợi công tác). Nhưng những

tình cảm chân thành của cô gái tàn tật ấy chỉ gợi trong người đọc lòng thương

hại. Với tính tình hiền dịu và thái độ làm việc đầy nhiệt tình, Đợi đáng để cho

chúng ta yêu quý lắm chứ; và tình cảm yêu quý đó đối với cô không đủ hay

sao mà tác giả còn phải miêu tả tình yêu? Nhất là anh lại dùng những từ như

“ngoi”, “cái ngoi yếu ớt, chơi vơi, loạng choạng”, “âm thầm”, “tăm tối” để chỉ rõ

cái tình cảm đó thì nó càng trở nên đáng thương hơn. Kết quả là, nhà văn

muốn đề cao nhân vật Đợi, song kỳ thực, anh đã làm cho con người vốn nhỏ

bé về thể xác ấy, nay lại nhỏ bé cả về tâm hồn nữa.

Về truyện Chiếc lá thì vấn đề có hơi khác, ở đây tác giả muốn thông

qua cái chết của nhân vật (Lựu – một cô gái mù) để tố cáo tội ác dã man, tàn

bạo của kẻ địch. Nhìn chung, câu chuyện cảm động và gây được lòng căm

thù. Song, nếu nhìn riêng về nhân vật Lựu, thì chúng ta cảm thấy chưa thỏa

mãn với cách miêu tả của nhà văn. Cũng như trường hợp Đợi, anh có nêu lên

được đôi nét tích cực trong con người Lựu. Chẳng hạn, việc Lựu đêm tối một

mình lần ra chỗ máy guồng nước muốn được cùng mọi người tham gia lao

động, hoặc việc Lựu cùng cha nhận chăn bò cho hợp tác xã, “được nhất đội”

và “được thưởng hai cái bát hoa”. Nhưng đó có lẽ là những hành động tích

cực rất hiếm ở cô gái mù ấy, ngoài ra, qua lời nói và cử chỉ của cô, ta chỉ thấy

toát lên một sự bi quan chán chường. Vũ Thị Thường trong Mội buổi sáng

đẹp trời cũng miêu tả một cô gái mù – Bích. Nhưng cuộc sống của Bích, qua

ngòi bút của nhà văn, hiện lên cũng bình thường và cũng phong phú như bất

cứ cuộc sống của một cô gái náo khác. Tất nhiên, để đi đến một cuộc sống

như vậy, Bích phải trải qua bao nhiêu khó khăn, phải dày công luyện tập và

học hỏi. Còn ở Lựu, sự cố gắng vươn lên yếu ớt, bên cạnh đó, thái độ bi

quan chán nản lại rất trầm trọng.

Page 98: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Bên truyện Hạt vàng thì tâm lý các nhân vật (Nguyện và mẹ cô), lại phát

triển theo hướng có phần giả tạo. Họ vốn là những người nông dân hồn nhiên

chất phác, nhưng nhà văn để họ suy nghĩ một cách cầu kỳ rối rắm, như

những con người tiểu tư sản. Tình cảm của họ cũng yếu đuối, những băn

khoăn dằn vặt của bọ cũng nặng nề, mang đầy chất tiểu tư sản như thế.

***

Bùi Hiển là một nhà văn viết truyện ngắn có nhiều kinh nghiệm. Anh rất

thận trọng và có tinh thần trách nhiệm, ít khi anh viết nhanh, viết vội, lấy tay

nghề thay cho chất sống. Anh không có gan viết về một vấn đề gì mà anh

chưa “thuộc” lắm, hay như anh nói: “Tôi không dám hạ bút viết mội cái gì, nếu

tôi chưa biết và hiểu kỹ lưỡng”.

Bùi Hiển là một nhà văn xông xáo, anh thường xuyên có mặt ở nơi mũi

nhọn của cuộc sống, vì vậy vốn sống của anh khá phong phú. Song anh

không sử dụng nó một cách sống sượng, mà chịu khó chọn lọc lấy những gì

tinh túy nhặt trong đó, rồi nhào nặn cho cái vốn sống ấy được thật nhuần

nhuyễn, lúc bấy giờ anh mới bất đầu viết. Cho nên đọc truyện ngắn của anh,

ta ít gặp những nét chung chung dễ dãi, mỗi chi tiết anh đưa vào tác phẩm

đều có một ý nghĩa cần thiết riêng.

Nhiều khi chỉ bằng một vài chi tiết mà anh có thế vẽ lên được một hình

ảnh khá rõ nét. Chẳng hạn, khi miêu tả vẻ đẹp của người con gái Thừa Thiên,

anh chỉ cần nhắc đến một nét đặc sắc nhất trong cách trang điểm của họ –

chải tóc bằng dầu dừa – là người đọc sẽ nhớ mãi. Hay khi miêu tả đức tính

chịu thương chịu khó, dịu dàng hiền hậu của người phụ nữ xứ Huế, anh chỉ

cần cho ta thấy một cử chỉ chăm sóc chồng của người vợ – mỗi buổi sáng

trước khi gánh hàng đi bán, chị đều nhớ bưng lên cho chồng chén đậu hũ và

mời: “Mình ăn đi”, “Em đi bán hàng, mình nờ”…và chúng ta không thể nào

quên được.

Khả năng miêu tả tâm lý nhân vật cũng là một nét nổi bật trong sáng tác

của Bùi Hiển. Trong Nằm vạ, anh miêu tả tâm trạng của một người đói rất tài.

Page 99: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Một mẩu khoai khô “nhỏ bằng hạt đỗ” của một chú chuột nhắt đánh rơi, cũng

không lọt qua mẳt chị ta, chị ta nhặt ngay lấy, “bỏ tót” vào miệng nhai ngon

lành. Rồi đến khi khám phá ra hũ khoai khô để trong buồng thì chị chén một

bữa no cật, đến nỗi sau đó chị “nằm thiếp di trong cơn bội thực”. Trong Đánh

trận giặc lúa, anh tả tình cảm mâu thuẫn của bà Mảng, mộl bà mẹ chiến sĩ,

cũng rất đúng. Bà yêu các anh bộ đội như con ruột của mình. Khi các anh đột

ngột kéo về thì bà mẹ mừng lộ ra nét mặt, bà chăm sóc các anh từng ly từng

tý, nắn lại từng cái đầu nằm ngủ bị ngật ra đất. Nhưng khi các anh, vì nhiệm

vụ, phải bí mật đột ngột ra đi không cho bà biết, thì bà bực, bà giận lắm, rồi

nghĩ lại, bà lại thấy thương các anh phải vất vả vì nước vì dân.

Miêu tả thành công tâm lý của người lớn, Bùi Hiển cũng hiểu cả tâm lý

các em nhỏ. Hình như anh có một sự cảm thông gần như bằng trực giác. Cho

nên nhiều lúc ta tưởng như nhà văn cũng bỗng dưng trở thành đứa trẻ, để nô

đùa, nghịch ngợm, thậm chí đã đánh nhau, rồi bực tức nhau, với các em.

Song tất nhiên anh cũng lại chính là người phân giải mọi chuyện công bàng

nhất và chính xác nhất, làm cho các em nhỏ đọc anh không cãi vào đâu

được.

Tuy nhiên, đề cao khả năng miêu tả tâm lý của Bùi Hiển, chúng tôi lại

muốn rằng anh sẽ bớt đi sâu khai thác những khía cạnh quá đặc biệt, đôi khi

không được thật lành mạnh, rối rắm khó hiểu trong tâm lý các nhân vật (như

các trường hợp Đợi, Lựu, Nguyện và mẹ cô, và cả Đăng, Thành, Các mà

chúng tôi đã nhắc tới ở trên).

Nhìn chung Bùi Hiển là một cây bút truyện ngắn vững vàng, và bước

tiến của anh từ những tác phẩm đầu tay đến những sáng tác gần đây là một

bước tiến dài cả về mặt tư tưởng lẫn nghệ thuật. Song có một điều đáng chú

ý: ở mỗi chặng đường anh đi, chúng ta vẫn thấy còn có những vết gợn, mà

những vết gợn ấy đôi khi không phải là không đậm nét, làm cho người đọc dễ

dàng nhận thấy.

Page 100: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Với tài năng và kinh nghiệm lâu năm của mình, với sự xông xáo và ý

muốn luôn luôn đi sát cuộc sống, lên những nơi đầu sóng ngọn gió của nhà

văn, chúng ta tin chắc Bùi Hiển sẽ khắc phục được những nhược điểm ấy và

sẽ cống hiến cho bạn đọc nhiều tác phẩm có giá trị lâu dài hơn nữa.

Phần hai. NHỮNG CÂY BÚT TRƯỞNG THÀNH TỪ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

Từ sau Cách mạng, lần lượt xuất hiện nhiều nhà văn mới. Bước vào

giai đoạn kháng chiến chống đế quốc Pháp, không ít người trong số đó đã

nhanh chóng đóng vai trò chủ lực trong đội quân văn nghệ mới, và đã sớm

viết được những tác phầm thành công.

Nói về giai đoạn mới này, bạn đọc nghĩ trước hết đến Nguyễn Đình Thi,

không hẳn vì Nguyễn Đình Thi viết trội hơn cả mà là vì vai trò quan trọng của

anh trong mọi mặt đời sống văn học lúc này. Cùng với với Nguyễn Đình Thi,

còn có Trần Đăng, Thép Mới, Nguyễn Văn Bổng, Võ Huy Tâm… Đó là chỉ kể

mấy nhà văn đã có sáng tác nổi bật. Từ bấy đến nay nhiều người trong số họ

đã có những bước tiến xa, bên cạnh một số người khác sáng tác không đều

hoặc có khi tụt lại. Nhưng nhìn chung, họ đã có một vị tri quan trọng trong

phong trào, vì họ đã mang lại cho văn xuôi lúc này nhiều cái mới thực sự.

Xung kích của Nguyễn Đình Thi là sáng tác tương đối có qiá trị về các chiến

dịch lớn và bộ đội chính quy. Vùng mỏ của Võ Huy Tâm là cuốn truyện thành

công đầu tiên về nền truyện ký mới viết về giai cấp công nhân. Con trâu của

Nguyễn Văn Bông mô tả khá rõ cuộc chiến đấu của nông dân trong vùng địch

hậu. Sáng tác của Trần Đăng không nhiều lắm nhưng chứng tỏ một tài năng

thực sự của một nhà văn (quyết tâm lao mình vào cuộc sống, và luôn luôn

không tự bằng lòng vời ngòi bút của mình. Thép Mới chuyên về bút ký, phóng

sự với một lối văn sôi nổi, hùng hồn.

Thực ra đội ngũ các nhà văn mới xuất hiện trong thời kỳ kháng chiến

trở đi đã có khá nhiều. Nhưng ngoài một số cây bút chính kể trên, thì, những

Page 101: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

cây bút khác như Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Hồ Phương… phải từ sau

1954, tài năng của họ mới thực sự được khẳng định. Chúng ta sẽ nghiên cứu

các nhà văn lớp mới này trong phần sau.

Truyện và ký của NGUYỄN ĐÌNH THIViết về Nguyễn Đình Thi là viết về một nhà văn ít nhiều có phần đặc

biệt, bởi vì, khác với đa số các tác giả văn xuôi, anh không chỉ chuyên tâm

trong lĩnh vực truyện và ký mà ngoài ra anh còn làm thơ, viêt lý luận phê bình,

soạn kịch, sáng tác nhạc và thậm chí nghiên cứu cả triết học nữa. Do đó, văn

xuôi chỉ là một lĩnh vực trong toàn bộ sáng tác của anh, tất nhiên là lĩnh vực

nổi bật nhất.

Không nói thì chúng ta cũng rõ, Nguyễn Đình Thi là một con người có

nhiều tài năng và những tài năng ấy lại kết hợp với nhau một cách uyển

chuyển trong mỗi tác phẩm của anh. Thơ và văn anh rất giàu nhạc tính, các

tác phẩm lý luận phê bình của anh thì lại đượm chất thơ; và cũng có thể nói,

anh là nhà thơ khi sáng tác nhạc, là nhạc sĩ, nhà lý luận khi làm thơ, là nhà

thơ và nhạc sĩ khi viết văn, là nhà văn và nhà thơ khi đi vào lý luận phê bình.

Sự kết hợp uyển chuyển ấy không phải ở bất cứ nhà văn nhà thơ nào

cũng có, vì vậy nó rất quý; nó tô điểm cho sáng tác của Nguyễn Đình Thi.

Song sự tản mạn của tài năng anh ở giai đoạn đầu đến mức làm cho người

đọc khó lòng xác định nổi ngòi bút anh hướng vào lĩnh vực nào của văn học

nghệ thuật: nhạc, thơ, văn hay lý luận phê bình – thì lại không phải là điều có

lợi cho anh. Bởi vì, một con người, cho dù tài năng đến mấy, mà cứ dàn trải

ngòi bút của mình ra quá nhiều lĩnh vực thì chắc chắn ngòi bút ấy sẽ không

thể đi sâu được vào một lĩnh vực nào. Điều này chúng ta thấy khá rõ qua các

sáng tác của Nguyễn Đình Thi ở giai đoạn từ 1945 đến 1950. Anh có một số

bản nhạc hay và được nhiều người chú ý, song anh vẫn không phải là nhạc

sĩ; anh có một số bài thơ được đăng, nhưng ý kiến chê các bài thơ ấy lại khá

nhiều; anh có viết được một số truyện ngắn, nhưng rất ít truyện được duyệt

Page 102: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

và in; chỉ có các bài lý luận, phê bình của anh là tương đối nổi. Cho nên kết

quả là: nhẽ ra, cứ với cái đà như ban đầu, thì thành công quyết định bước

đường đến với văn học nghệ thuật của anh phải gắn liền với nhạc hoặc lý

luận phê bình, là hai lĩnh vực mà ở giai đoạn đầu anh đã phần nào có đóng

góp, thì lại hoàn toàn trái ngược. Thành công quyết định của anh lại gắn với

một lĩnh vực mà trước đó anh hầu như không có chút ít sở trường nào cả –

đó là văn xuôi, với tác phẩm Xung kích (1951) nổi tiếng. Và từ khi đạt được

thành công đầu tiên ấy trong lĩnh vực văn xuôi, Nguyễn Đình Thi đã xác định

được hướng đi lâu dài cho ngòi bút mình: sau mấy bài hát Diệt phát xít

(1945), Thanh niên cứu quốc (1945) và Người Hà Nội (1947). Anh hầu như

không sáng tác nhạc nữa; sau hai tập thơ Người chiến sĩ (1956) và Bài ca

Hắc Hải (1958) anh cũng ít làm thơ; lý luận đôi khi anh còn viết, nhưng phê

bình thì hầu như sao nhãng. Ngược lại, chỉ trong vòng mười năm (từ 1962

đến 1970) anh đã cho ra đời ba tác phẩm văn xuôi đáng chú ý: Vỡ bờ (2 tập:

tập I – 1962, tập II – 1970), Vào lửa (1966) và Mặt trận trên cao (1967).

Cho nên không phải không có lý do mà chúng tôi lại đặc biệt chú ý đến

lĩnh vực này trong sáng tác của anh.

***

Đóng góp của Nguyễn Đình Thi về mặt văn xuôi gồm ba mảng: truyện

ngắn, ký và tiểu thuyết. Truyện ngắn và ký nằm ở giai đoạn đầu và không

chiếm một địa vị lớn trong sáng tác của nhà văn, tiểu thuyết mới là phần đóng

góp cơ bản của anh.

Truyện ngắn của Nguyễn Đình Thi – viết rải rác –những năm từ 1948

đẽn 1954, in chung trong tập Bên bờ song Lô (1957) – chủ yếu phản ánh

những nét sinh hoạt kháng chiến, bắt gặp ở chỗ này chỗ kia, rất giản dị và rất

đẹp: một đêm phục kích tàu chiến địch (Bên bờ sông Lô), một trận đánh đồn

(Anh hùng cứ điểm), tấm lòng nhân dân đùm bọc và thương yêu bộ đội (Cái

áo trắng), cảnh một cơ quan ở rừng già Việt Bắc vào mùa mưa (Mùa mưa),

sự trưởng thành của những cán bộ nữ nhờ được rèn luyện qua nhiều năm

Page 103: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

kháng chiến (Cánh chim), tinh thần dũng cảm gan dạ của các cán bộ giao

thông khi bị rơi vào tay địch (Mấn), số phận hèn kém đáng thương của những

người lính da đen trong quân đội Pháp (Người tù binh da đen) và cuối cùng là

không khí yên tĩnh, thanh bình, thiêng liêng và quý báu của những ngày đầu

tiên khi tiếng súng ngừng nổ trên một nửa đất nước thân yêu, cảnh những

người cán bộ chia tay với Việt Bắc trở về xuôi (Đường về).

Cũng có khi ta lại bắt gặp trong truyện ngắn Nguyễn Đình Thi những

tình huống éo le đau khổ, xảy ra với người này, người khác, do cuộc chiến

tranh tàn khốc gây nên: nỗi băn khoăn của một anh bộ đội sau khi bị thương

tật, tàn phế và tấm lòng yêu thương quý mến của những người xung quanh

đối với anh (Anh thương binh Hiền), những hậu quả thương tâm mà cán bộ

và nhân dân ta ở vùng địch chiếm phải chịu đựng (Tiếng hét), tâm trạng bi

thảm của một ông già có con đi lính ngụy bị chết thiêu trong một trận quân ta

vào đánh đồn mà người đưa đường lại à ông cụ (Ông cụ đưa đường), nỗi cô

quạnh lẻ loi của người bộ đội, trên đường hành quân tạt qua nơi công tác cũ

tìm thăm mộ người yêu mà không tìm thấy(Hoa mua). Trong những truyện

ngắn này của anh phảng phất một nỗi buồn man mác, khó tả, làm cho người

đọc không thể không suy nghĩ đến những hậu quả đau thương của chiến

tranh. Tất nhiên điều đó cũng là sự thực thôi, song có nên nhấn mạnh vào cái

khía cạnh đó?

Khác hẳn với truyện ngắn, ký của Nguyễn Đình Thi viết rải rác từ 1948

đến 1954, in chung trong tập Thu đông năm nay (1954)–không đi vào miêu tả

những cảnh - những người riêng lẽ mà thường phản ánh từng chặng đường,

từng bước chuyển biến ngày một lên dần của cuộc kháng chiến thần thánh

chống Pháp. Thu đông năm nay (1948) nói lên những thắng lợi đầu tiên của

ta trên núi rừng Việt Bắc vào thu–đông năm 1947, và từ đấy ta có một mùa-

mới-kháng-chiến – mùa “thu đông” - mùa đánh giặc, mùa mở màn cho các

chiến dịch; Tất cả để chiến thắng (1949) nói về chiến thắng của ta ở Bắc và

Đông Bắc và sự hoảng hốt luống cuống của địch, về ý chí quyết giành thắng

lợi cuối cùng của nhân dân ta; Mùa xuân báo hiệu (1950) miêu tả không khí

Page 104: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

trong những ngày cả nước chuẩn bị chuyển sang giai đoạn tổng phản công;

Chúng ta và chúng nó (1930) so sánh, đối lập giữa một bên là bộ mặt tàn bạo,

nhơ bẩn và hèn mạt của kẻ thù với một bên là bộ đội và nhân dân ta, những

con người nhân hậu, dũng cảm và, vì có chính nghĩa, nên tất thắng; Trên biên

giới, chúng ta chiến thắng cho hòa bình (1950) nói về ý nghĩa của chiến thắng

Biên giới và lòng nhân đạo của bộ đội ta đối với bọn tù binh Pháp; Những

người con của nhân dân (1952) ca ngợi phẩm chất rất mực anh hùng mà giản

dị và đạo đức liêm khiết của các cán bộ và chiến sĩ ta và sự trưởng thành của

họ trong kháng chiến; Bên kia sông Mã (1953) phản ánh tinh thần đoàn kết

giữa nhân dân hai nước Việt–Lào trong chiến dịch Thượng Lào; Mùa xuân

của các chiến sĩ Điện Biên Phủ (1954) ca ngợi tinh thần dũng cảm vượt mọi

khó khăn gian khổ và mưu trí của bộ đội ta trong quá trình chuẩn bị để đánh

và thắng địch một trận quyết định là trận Điện Biên. Một không khí lạc quan,

sôi nổi thắm đượm những trang bút ký. Hiện thực thắng lợi hùng hồn của

cuộc kháng chiến chống Pháp đã được nhà văn phản ánh khá đầy đủ trong

bút ký của anh.

Mặc dầu vậy, truyện ngắn và ký của Nguyễn Đình Thi vẫn chỉ là những

tác phẩm mở đầu, tên tuổi nhà văn chỉ đi vào đọc giả từ sau Xung kích. Cùng

với mấy tác phẩm khác được giải trong Giải thưởng văn nghệ 1951 – 1952,

Xung kích đã góp phần tạo nên một bước tiến mới cho văn xuôi kháng chiến.

Khác với các truyện ngắn và ký của anh trước đó, mới chỉ cho ta những cảnh

và những người rời rạc hoặc những nhận thức có tính chất chung chung về

từng giai đoạn của kháng chiến, Xung kích đã xây dựng được bức tranh

kháng chiến với một quy mô khá rộng và với một tập thể nhân vật khá đông

đảo. Có những hình tượng, tuy chưa phải là hoàn chỉnh, nhưng đã có phần rõ

nét và sinh động. Những con người ấy là Sản, Kha, chú liên lạc Lũy và cả bộ

ba Thông, Cốc, Mẫn. Họ đã để lại trong người đọc ấn tượng đậm nét và rất

đẹp. Cảnh dân công đi phục vụ chiến trường, cảnh bộ đội hành quân và đánh

đồn cũng như cảnh chiến thắng nói lên được cái không khi phấn khởi, nhộn

Page 105: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

nhịp của những ngày chuẩn bị vào chiến dịch và khi chiến dịch đã kết thúc

thành công.

Trong Vỡ bờ, Nguyễn Đình Thi lại mêu tả một hiện thực khác, hiện thực

của những ngày đất nước còn đang trên bước đường đi đến giành độc lập tự

do, một hiện thực vinh quang trong lịch sử, nhưng cũng gian khổ và khốc liệt

vô cùng, vì vậy ngòi bút của nhà văn ở đây có cái nét trầm tĩnh, sâu lắng chứ

không sôi nổi ồn ào như trong Xung kích. Vỡ bờ miêu tả toàn bộ xã hội Việt

Nam vào những năm ngay trước Cách mạng, với đầy đủ các tầng lớp, các

loại người trong một bức tranh rộng lớn bao trùm cả thành thị lẫn thôn quê và

các vùng công nghiệp. Ở đây vốn sống và vốn kiến thức văn hóa của nhà văn

đã kết hợp với nhau một cách nhuần nhuyễn, cho phép anh có thể nhìn nhận

cuộc sống một cách vừa chi tiết lại cũng vừa khái quát. Tất nhiên để xây dựng

được một tác phẩm như Vỡ bờ, Nguyễn Đình Thi đã phải bắt đầu sự chuẩn bị

từ nhiều năm trước (từ 1918), và vì thế, để có một tác phẩm lớn thứ hai

ngang tầm với Vỡ bờ, nhà văn cũng cần một thời gian chuẩn bị không kém;

trong thời gian ấy anh đã viết những tác phẩm ngắn, có tính chất phản ánh và

đáp ứng kịp thời đòi hỏi của cuộc sống, có thể coi Vào lửa (1966) và Mặt trận

trên cao (1967) của anh là loại tác phẩm kịp thời như vậy. Và, vì viết kịp thời,

nên chúng tránh khỏi những nhược điểm nhất định. Vào lửa là một trong các

cuốn sách đầu tiên viết về kháng chiến chống Mỹ ở miền Bắc, vì vậy nó còn

mang nhiều dấu vết của ký và lại còn phảng phất đôi nét của Xung kích trước

kia. vẫn cái nét bình dị và trầm tĩnh của chính trị viên Sản trong chính ủy

Xuân, vẫn cái vẻ khắc khổ và lặng lẽ của chị Lý trong nhân vật Lích, và lại vẫn

cái tình yêu kín đáo, đầy sự cảm thông nảy nở giữa người chỉ huy quân đội

dạn dày nắng gió và chị cán bộ cũng trải nhiều gian truân ấy. Mặc dầu vậy,

bằng những nhân vật mới như Mai (con gái Xuân) dám rời bỏ cái tình yêu mà

cô cho là cá nhân, nhỏ bé để đi vào cuộc kháng chiến vĩ đại của toàn dân tộc;

như Đương, người chiến sĩ vô cùng kiên cường trong chiến đấu, nhưng lại rất

dịu dàng trong cuộc sống riêng tư, Vào lửa vẫn cho ta những hình ảnh thực

Page 106: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

và sinh động về tinh thần của bộ đội và nhân dân ta trong những ngày đầu

chiến đấu chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ.

Ở Mặt trận trên cao, không khí của cuộc kháng chiến chống Mỹ càng rõ

nét hơn. Và điều cần bàn là cái không khi ấy ùa vào tác phẩm một cách rất tự

nhiên, rất thực. Nhưng đóng góp đặc biệt của Mặt trận trên cao là ở chỗ nhà

văn đã mạnh dạn viết về một binh chủng mới của bộ đội ta – binh chủng

không quân, và anh đã phần nào thành công trong việc miêu tả những người

phi công Việt Nam, những con người có một tinh thần chiến đấu hết sức dũng

cảm và đồng thời cũng có một trình độ kỹ thuật cao.

***

Về mặt đề tài, văn xuôi Nguyễn Đình Thi tập trung vào hai đề tài lớn:

chiến đấu và cách mạng.

Hầu như tất cả các tác phẩm của anh – các truyện ngắn, các bài ký, và

ba tập truyện (Xung kích, Vào lửa và Mặt trận trên cao) – đều viết về đề tài

chiến đấu, nói rõ hơn là về hai cuộc kháng chiến: chống Pháp và chống Mỹ.

Trong các tác phẩm này, nhà văn lại đặc biệt chú ý đến hình ảnh anh bộ đội:

Còm (trong Anh hùng cứ điểm), Sản, Kha, Lũy (trong Xung kích), Xuân (trong

Vào lửa) và Lương (trong Mặt trận trên cao). Và gộp chung lại, các tác phẩm

về đề tài chiến đấu của anh đã cho chúng ta một ấn tượng phần nào hoàn

chỉnh về quá trình trưởng thành của người bộ đội Việt Nam, từ những ngày

anh mới bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp còn gặp bao nhiêu khó

khăn gian khổ, những ngày của “đói, lở, rét, ốm, mưa phùn liên miên núi rừng

trùng điệp” và những ngày xung kích còn phải “cầm mác lao lên dốc, chân

giẫm đất vượt qua chông mìn dây thép gai”, đến những ngày thắng lợi đầu

tiên, khi bộ đội ta đã được trang bị khá đầy đủ, “anh nào cũng cồm cộm súng

đạn, vai lưng to lù lù”, những trận đánh phục kích, những trận tấn công: đòn lẻ

tẻ đến những trận đánh có quy mô rộng lớn, đánh từng chiến dịch và cuối

cùng chiến thắng với chiến dịch Điện Biên lịch sử.

Page 107: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Nhưng hình ảnh anh bộ đội trong sáng tác Nguyễn Đình Thi không

dừng lại ở cuộc kháng chiến chống Pháp, Vào lửa và Mặt trận trên cao tiếp

tục xây dựng những hình ảnh ấy ở một giai đoạn mới, giai đoạn chống Mỹ.

Anh bộ đội Việt Nam lúc này đã lớn mạnh lên nhiều về mọi mặt, anh đã tiến

lên sử dụng được những vũ khí tối tân, hiện đại, anh là chiến sĩ pháo binh, ra-

đa, tên lửa và không quân. Một quân đội đã sẵn có một tinh thần dũng cảm, ý

chí kiên cường bất khuất, lại biết sử dụng những thứ vũ khí tối tân hiện đại

như vậy, nhất định quân đội ấy sẽ chiến thắng bất cứ kẻ địch nào.

Về đề tài cách mạng, Nguyễn Đình Thi chỉ có Vỡ bờ. So với một số tác

phẩm khác cùng viết về đề tài này như Hỗn canh hỗn cư của Nguyễn Công

Hoan, Sóng gầm, Cơn bão đã đến và Thời kỳ đen tối của Nguyên hồng, thì

tác phẩm Nguyễn Đình Thi có phần hơi khác – phạm vi cuộc sống mà anh

miêu tả rộng hơn. Anh đã cho ta thấy được bộ mặt tương đối toàn diện của

xã nội Việt Nam những năm sắp đổi đời. Và lĩnh vực anh thành công hơn cả

là miêu tả các nhân vật thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản nghèo và dân

nghèo thành thị. Trong số ấy, nổi bật nhất là Khắc-một chiến sĩ cách mạng

xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo. Có thể nói, với Khắc, Nguyễn Đình

Thi đã xây dựng được một hình tượng mang những nét khá mẫu mực về

người cộng sản, một con người rất bình dị nhưng lại cũng phi thường, một

tấm lòng rất giàu tình cảm yêu thương với gia đình, bạn bè, đồng chí, song

cũng lại mang nặng mối căm thù với những kẻ cướp nước và bán nước, một

tấm gương về lòng trung thành với Đảng, với nhân dân, thà chết chứ không

bao giờ chịu khuất phục kẻ thù, phản bội đồng bào và đồng chí. Bên cạnh

Khắc là An (người yêu và người vợ lý tưởng của anh), con người có một tâm

hồn trong trắng và một trái tim rất thông minh. Bằng trái tim ấy, cô đã tìm ra

được con đường đi đúng đắn cho cuộc đời mình – đến với cách mạng. An

yêu Khắc. Lúc đầu, vì Khắc mà cô đã đi theo cách mạng, nhưng về sau, đến

khi Khắc không còn nữa, thì cô lại vì cách mạng mà nén xuống mọi nỗi

thương đau để khỏi qụy ngã giữa đường, để tiếp tục và hoàn thành sự nghiệp

mà Khắc trước đây đã từng theo đuổi.

Page 108: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Nhiều nhân vật khác cũng có những mặt đạt, như Quyên (trong tập I),

như Tư (cũng trong tập I). Đặc biệt ở tập I này phải nhắc đến Xoan. Hình như

tất cả những trang viết về Xoan đều để lại trong người đọc ấn tượng sâu sắc.

Trước mắt chúng ta như hiện lên rõ ràng hình ảnh cô gái nông thôn ấy với

cuộc đời đi ở đày đọa, khổ cực và tủi nhục, nhưng lại với một tâm hồn trong

sáng tràn đầy sức sống, hy vọng và ước mơ. Tuy cho đến lúc tác phẩm kết

thúc, Xoan mới chỉ là một con người được giải phóng, nhưng chúng ta vẫn

thấy ở cô tiềm tàng một sức mạnh lớn; chắc chắn những cuộc đời như Xoan

sẽ hoàn toàn thuộc về cách mạng và sẽ đi theo cách mạng đến cùng. Chúng

ta hơi ngạc nhiên, tại sao Nguyễn Đình Thi lại có thể xây dựng được hình ảnh

một cô gái nông thôn đạt đến thế. Có lẽ đây là nhân vật được anh dành cho

nhiều sự chú ý và nhiều công phu nhất. Tuy nhiên, cũng phải nhận rằng xây

dựng một tính cách tương đối “thuần”, như Xoan, có phần ít khó khăn hơn là

xây dựng những tính cách khá “phức tạp”, như Quế, Thơm chẳng hạn. Và

cũng phải nói thêm, ngay cả ở Xoan, những nét lý tưởng đôi khi vẫn đậm hơn

những nét hiện thực.

***

Nhìn về hình thức, văn xuôi Nguyễn Đình Thi có cái nét trong sáng của

thơ và nét êm dịu nhẹ nhàng của nhạc. Những đoạn tả nỗi vui của Xoan

(trong Vỡ bờ) khi được ra khỏi nhà Nghị Khanh về thăm mẹ: “Xoan như bay”

và “mặt nó tươi dần lên, mắt sáng long lanh, đôi má hồng lên, và cái sức hy

vọng của tuổi trẻ lại làm cho trong lòng nó dần dần có cái gì ca hát, nhảy

nhót”; đoạn tả giấc mơ của Xoan: Xoan mơ thấy mình biết bay, rồi lại mơ thấy

mình được gặp người yêu, hai bàn tay tự nắm vào nhau mà tưởng rằng đang

được người yêu cầm tay dắt đi chơi trên cánh đồng quen thuộc; đoạn tả An

(cũng trong Vỡ bờ) về thăm quê Khắc, rồi hai đứa con anh gặp nhau; những

trang tả Lương (trong Mặt trận trên cao) về thăm em gái là Đào, và qua hình

ảnh em, Lương lại nhớ lại người mẹ mình với cuộc đời vui ít buồn nhiều;

đoạn tả cuộc gặp gỡ giữa chị Lý và Kha (trong Xung kích) và Lý tặng Kha

chiếc huy hiệu làm kỷ niệm; đoạn tả tâm trạng của những người bộ đội trước

Page 109: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

khi bước vào trận đánh (cũng trong Xung kích)… là những đoạn mang đậm

màu sắc trữ tình và rất thơ. Ngoài ra, mỗi truyện ngắn và mỗi bài ký của

Nguyễn Đình Thi đều có thể gọi là một bài thơ – thơ bằng văn xuôi.

Tuy nhiên, cũng phải thấy một khía cạnh nữa là, vì văn xuôi Nguyễn

Đình Thi “thơ” quá cho nên nhiều khi nó không nói hết được những khía cạnh

“không thơ” của cuộc đời: cảnh sống cùng cực của những ngưòi nông dân

chân lấm tay bùn và những người công nhân bán sức nuôi thân dưới chế độ

cũ, những tâm tư tình cảm của họ. Ngòi bút nhà văn ở đây nhiều khi còn có

phần thi vị hóa (chẳng hạn những đoạn tả cảnh gặt hái và những đêm trăng

đập lúa; người nông dân ở đây có vẻ vô tư quá, họ chỉ biết có lao động và

đùa vui mà hầu như không nghĩ ngợi gì nhiều lắm về thân phân xã hội thấp

hèn, về những nỗi uất ức của mình).

Đặc điểm thứ hai của văn xuôi Nguyễn Đình Thi là rất đằm thẳm, nhân

hậu: những đoạn tả Xoan, tả Quvên, những đoạn tả tình yêu giữa Xoan và

Mầm, An và Khắc, những đoạn tả đói, tả gia đình nhà Bích (trong Vỡ bờ),

những đoạn miêu tả tình cảnh quyến luyến của một cô gái Thái đối với bộ đội

(trong truyện ngắn Cái áo trắng), những trang miêu tả Mai (trong Cánh chim)

… là những đoạn thật là cảm động, vì nó mang nặng tình người vô sản, rất

nhân đạo nhưng cũng rất có tính giai cấp.

Tuy nhiên, vì nhân đạo mà có lúc ngòi bút nhà văn trở nên hiền quá.

Anh không thể tàn nhẫn được ngay cả với kẻ thù, điều này biểu hiện trong

việc anh miêu tả bọn địa chủ, tư sản – như gia đình Nghị Khanh và bè bạn

của chúng, như Phượng và gia đình Phượng.

Cho đến nay, Nguyễn Đình Thi vẫn chưa phải là một nhà văn xuất sắc

trong số những người cùng thế hệ với anh. Đấy là mội điều đáng tiếc. Bởi vì,

thực ra với tài năng như anh thì anh có thể trở thành một nhà văn có đóng

góp lớn. Phải chăng vẫn là sự tản mạn đã gây tác hại chỗ này. Tuy nhiên

chúng ta vẫn thiết tha mong anh sẽ tập trung tài năng của mình để xây dựng

Page 110: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

những cuốn tiểu thuyết xứng đáng với tầm cỡ của hai cuộc kháng chiến

chống Pháp và chống Mỹ, như anh đã từng dự kiến.

TRẦN ĐĂNG và buổi đầu của nền văn học mớiTên tuổi Trần Đăng từ lâu đã trở nên quen thuộc với chúng ta mặc dầu

sáng tác của anh để lại còn ít ỏi: một tuyẻn tập nhỏ gồm mấy tùy bút, truyện

ngắn, ký sự. Ra mắt bạn đọc tháng Giêng năm 1946, trong tùy bút Một lần tới

Thủ đô; hy sinh trên biên giới Đông Bắc cuối năm 1949, với thiên bút ký Một

trận vui lớn trên đường số 4 còn dở dang: bốn năm vào nghề của Trần Đăng

là bốn năm thâm nhập cuộc sống, suy nghĩ, thể nghiệm; bốn năm găn với thời

kỳ mở đầu của nền văn học mới chúng ta cũng đang trong thời kỳ mò mẫm,

phấn đấu theo những phương hướng mới do cách mạng đề ra.

***

Nét nổi bật trong sáng tác của Trần Đăng là nhiệt tình đối với cách

mạng. Một thứ nhiệt tình kín đáo, lắng sâu. Sáng tác của anh bộc lộ rõ con

người anh. Mỗi đường đi, mỗi suy nghĩ, tìm tòi, mỗi khát vọng của anh đều có

in dấu trên từng trang viết. Nam Cao nhân xét: Trần Đăng lạnh như đá.

Chúng ta hiểu nhận xét ấy của Nam Cao nhằm chỉ một phong cách sang tác

của Trần Đăng chứ không nhằm chỉ cá tính con người. Trần Đăng muốn ôm

sát hiện thực, để cho hiện thực tự nó nói lên, không muốn tô điểm vào sang

tác, dù chỉ là một ý nnghĩ, một niềm mong muốn chủ quan. Điều này quả

không có gì mâu thuẫn với tâm hồn yêu mến cuộc sống mới của Trần Đăng.

Sự yêu mến ấy cũng đi đôi với sự phủ định nghiêm khắc con người cũ. Anh

có ý thức lấy ánh sáng của cách mạng kiểm tra và đặt phương hướng phấn

đấu cho mình. Trong tùy bút Một lần tới Thủ đô, Trần Đăng ghi lại một chuyển

biến khá rõ trong tình cảm. Bấy giờ là tháng Giêng 1946, cách mạng vừa mới

thành công, nhưng cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài của dân tộc vẫn

diễn ra gay gắt. Hà Nội vẫn đầy dẫy một bọn sĩ quan ngoại quốc nghênh

ngang, và ngập trong một thứ ánh sáng lòe loẹt, phù hoa của đời sống tư sản

Page 111: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

trụy lạc đang cố sức trỗi dậy. Trần Đăng miêu tả những rác rưởi đó của Hà

Nội qua cách nhìn dửng dưng khinh bỉ của bốn chiến sĩ từ chiến khu về. Họ đi

hàng một, người đi sau giẫm lên vết chân người đi trước, hướng về một

trường quân chinh ở ngoại ô. Bấy nhiêu hình ảnh về con người mới đã được

ghi lại qua đôi mắt nhìn âu yếm của nhà văn… Mặt khác, thiên tùy bút cũng

có giá trị như những dòng tâm sự. Người thanh niên Trần Đăng vẫn còn giữ

nguyên trong lòng mình niềm vui sôi nổi của những ngày tháng Tám; anh dứt

khoát từ chối Hà Nội cũ, cũng có nghĩa là từ chối quãng đời quá khứ trong

chế độ cũ của mình. Đọc thiên tùy bút, chúng ta thấy quý thái độ phủ nhận

chân thành của Trần Đăng đối với chế độ cũ, và thái độ yêu mến, tin tưởng

của Trần Đăng đối với cách mạng, đối với cuộc sống mới. Hai mặt phủ định

và khẳng định trong anh thật rõ ràng, cụ thể. Nhớ lại hoàn cảnh những ngày

đầu Cách mạng, mới thấy quý một thái độ chuyển biến đúng hướng như vậy

của Trần Đăng. Bởi vì, vào lúc ấy không phải nhà văn nào cũng có được một

thái độ dứt khoát như anh. Bên cạnh những tình cảm mới do cách mạng đem

lại, một số người vẫn còn mang trong mình sự thích thú với lối sống cũ, và

những quan điểm nghệ thuật cũ. Có những cái “tôi” vẫn nghênh ngang giữa

cuộc đời. Có người viết tự nhủ: “Hãy đào thải tất cả cố nhân trong lòng mình”,

nhưng trong thực tế, nhiều mối dây vô hình của chế độ cũ vẫn còn ràng buộc

họ.

Trần Đăng cũng biết rõ việc đổi mới con người của mình không thể chỉ

dừng lại ở một ý muốn tốt đẹp, mà phải được thử thách trong đấu tranh.

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, con đường cải tạo, rèn luyện tư tưởng Trần

Đăng chính là con đường đi sâu vào quần chúng, cụ thể là đi sâu vào đời

sống bộ đội. Thu đông 1947 ở Yên Thế Thượng, La Hiên; xuân 1948 ở chung

quanh Hà Nội; xuân 1949 ở đường số 4 men theo Lũng Phầy; hè 1949 trên

sông Thao; thu đông 1949 lại lên Đông Bắc, vượt qua đường 13, tiến sâu vào

những vùng núi đá và đồi trọc hoang vu vùng địch hậu. Nói như Tô Hoài:

“Đăng đã đi nhiều, Đăng đi cực kỳ khỏe!”. Chan hòa trong cuộc sống chiến

đấu của nhân dân, niềm mong mỏi lớn của Trần Đăng là làm sao thông thuộc

Page 112: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

được tâm hồn người chiến sĩ, đứng được cùng chỗ đứng với họ để tiến tới

xây dựng được hình ảnh họ trên những trang viết của mình. Bởi vì Trần Đăng

biết rõ nền văn nghệ mới đang đòi hỏi sự xuất hiện những nhân vật mới –

những chủ nhân ông mới của đời sống–, trước hết là người chiến sĩ nhân dân

đang đứng ở vị trí hàng đầu của cuộc đấu tranh. Quá trình đi vào cuộc sống ở

Trần Đẳng, do vậy, không phải là quá trình nhìn ngắm khách quan, tìm cảm

giác lạ, hoặc quan sát hời hợt như một số người, mà là quá trình sống – hóa

thân vào con người mới, để rèn luyện bản thân mình và để xây dựng những

điển hình mới của văn học cách mạng.

***

Mỗi trang viết của Trần Đăng thể hiện rõ phương hướng phấn đấu của

anh: phương hướng đi sâu vào cuộc sống mới, quyết tâm lấy con người mới

làm nhân vật trung tâm của tác phẩm. Trong tùy bút Lúa mới, Trần Đăng ghi

cảm xúc của mình trước cảnh lúa tốt bời bời sau bao nhiêu thiên tai địch họa.

Lòng anh thiết tha với lúa, bởi vì đằng sau sức lúa là sức người, bởi vì qua

lúa, anh nhìn thấy rõ sức sống dẻo dai, bền bỉ trong chiến đấu và sản xuất

của nhân dân. Từ những ngày rời bản đi công tác xa, buồn nản bao nhiêu

trước cảnh lúa xơ xác, khô cằn vì lụt, hạn, vì địch quần phá, bây giờ trở về lúa

đã xanh tốt, có nơi đã đỏ hoe, lòng Trần Đăng rất vui. Nhưng “hồi hộp vẫn rồn

rập đưa lên hơi thở”, bên cạnh niềm vui còn xen lẫn một nỗi lo: “Lúa đẹp non

nường làm gì, ngào ngạt cả đất nước để báo tin ngon ngọt đến tận mũi quân

thù bên kia rặng núi hay sao”. Nhà văn tự nhắc nhủ mình: “Phải hành động

ngay, làm ngay những việc gì để đảm bảo ngày mai cho lúa”. Sau này, lắm

khi Trần Đăng cảm thấy bực bội và hổ thẹn về sự trực tiếp bộc lộ tình cảm

này. Anh gọi đó là cái “xác chủ quan”. Nhưng đối với chúng ta, chuyện đó

chẳng có gì đáng lo ngại, vì tình cảm của nhà văn ở đây là một tình cảm đẹp

đẽ, chân thành. Vả chăng, bên cạnh tâm trạng “chủ quan” của anh, cũng đã

thấy thấp thoáng đôi nét về hình dáng con người mới, với tình cảm của họ. Ấy

là Nhình Quan, giữa những ngày mưa lũ, nước dềnh lên tận những thửa

ruộng cao, đứng trên bờ suối, nẫu ruột nhìn thửa ruộng bị nước ngập bên kia

Page 113: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

bờ. Là Pả Túc xót xa trước những đàn vịt háu đói cứ rúc mãi vào gốc lúa mà

rỉa. Pả bảo cứt chúng ỉa xót cho ruột lúa lắm! Là những anh bộ đội mặt cũng

xanh như lúa, phục cả ngày dưới bờ ruộng này, đón địch lên, “lúa cũng đã

thấy nắm cơm chua loét của các anh”. Mấy hình ảnh thấp thoáng đó trong

Lúa mới đã hiện lên bên cạnh nhà văn, không còn có sự lẫn lộn.

Rồi đây trên những trang viết mới, con người nhà văn sẽ còn lùi xa hơn

nữa, rồi lùi xa hẳn, để nhường chỗ cho một tập thể đông đảo nhân dân và

chiến sĩ. Ký sự Trong rừng Yên Thế ghi hình ảnh một đơn vị bộ đội sau

những ngày quần nhau với địch, đã cùng với nhân dân bí mật thoát ra khỏi

gọng kìm của chúng, bảo toàn lực lượng. Giữa khung cảnh chiến đấu căng

thẳng, thấy hiện lên hình ảnh những chiến sĩ nét mặt đanh lại vì căm thù và

hình ảnh của nhân dân gồng gánh tản cư. Trần Đăng không chen vào tâm

tình của mình. Anh cố hết sức khách quan. Giữa khung cảnh bộn bề người và

hình ảnh tác giả chỉ thoáng hiện ra một lần rồi mất hút đi…

Ngòi bút của Trần Đăng đang đi tới chỗ khách quan, tự chủ. Hình ảnh

đám đông nhân dân, bộ đội xuất hiện đã đem lại một đổi thay căn bản cho

không khí những trang viết của anh. Dĩ nhiên, trong những bước mò mẫm

ban đầu của Trần Đăng, hình ảnh đám đông đó vẫn còn chưa thật rõ, thậm

chí, đôi khi Trần Đăng còn gán cho họ những suy nghĩ, tình cảm không đúng,

không thực, không phải của họ. Nhưng phương hướng cố gắng của anh thật

đáng quý. Phương hướng đó sẽ đem lại cho anh những thành công mới trong

các ký sự Trận Phố Ràng, Một cuộc chuẩn bị, là những ký sự vào loại thành

công trong buổi đầu văn xuôi kháng chiến của chúng ta. Ở đây, Trần Đăng

không còn đóng vai người đi quan sát với tâm trạng không tin lắm ở mình

(không biết ghi như vậy đã đúng chưa?). Anh cũng không còn để lẫn lộn

những tâm sự riêng (dù là những tâm sự cảm động). Ngòi bút Trần Đăng trên

những ký sự mới này nhiều khi đã len sâu được vào một số suy nghĩ, tâm tư

của người chiến sĩ. Nói cách khác, nhà văn đã có thể soi qua mình mà thấy

tâm hồn của người chiến sĩ. Những trang viết ấm áp hẳn lên. Chủ quan nhà

văn đã dần dần hòa hợp với khách quan. Trong khung cảnh đã thấy con

Page 114: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

người. Sức sống từ trong bản thân họ toát ra, chứ không phải do nhà văn gán

vào. Chẳng hạn tâm trạng bồi hồi của người chiến sĩ trước giờ ra trận: “Thực

ra, ngày chuẩn bị cuối cùng giờ giấc không có cỡ nào cả. Lắm lúc thấy mưa

sốt ruột lạ. Lắm lúc lại giật hoảng mình, không biết còn quên, còn thiếu gì

không? Nhẩm qua lại nhiệm vụ thuộc lòng như cháo rồi, nhắm mắt còn vẽ

được sơ đồ. Rồi vớ lấy súng lau thêm mấy cái. Lại dở đến dép, dở kim chỉ

khâu vài mũi vậy” (Một cuộc chuẩn bị). Hoặc nỗi sốt ruột của người chiến sĩ

nằm chờ địch trên một quãng đồi men đường số 4, giữa trời mưa: “Cột điện,

những hàng dây thép có con chim bay tới đậu, gợi những ý xa xôi, những

điều gì vui lạ cho người đội viên ngược cũng như người đội viên xuôi. Mắt đo

lại cái tầm thả lựu đạn. Tay buộc chặt quả mìn (…). Trời lại mưa (…) vẫn mưa

to. Rồi chiều. Đời bộ đội lắm cái vất vả đều phớt đi. Nhưng thật không có cái

khổ nào bằng trời mưa phục kích suốt ngày không gặp địch (…). Mảng đường

nhựa thêm rỏ rãi, tụt xuống có mười lăm thước rồi chạy nhảy múa hò hét một

tua thì mới hả được” (Một trận vui lớn trên đường số 4).

Không khí truyện và ký sự của Trần Đăng dần dần thay đổi theo từng

bước thâm nhập đời sống bộ đội của anh: từ chỗ phô bày cảm xúc chủ quan

tiến đến khả năng khắc họa hiện thực khách quan, từ chỗ lúng túng bị động

hồi đầu đến thoải mái chủ động trong hình ảnh những tập thể chiến sĩ. Quá

trình ấy diễn ra rất nhanh trong khoảng vài năm. Nhớ lại khoảng thời gian đó,

từ 1947 đến 1949, trong văn xuôi chúng ta, hình ảnh những con người đứng

ở vị trí trung tâm của cuộc chiến đấu, hình ảnh những chiến sĩ nhân dân vẫn

còn hiếm, chỉ mới thấp thoáng trong mấy ghi chép, mẩu truyện còn sơ lược

của anh em chiến sĩ trên các sổ tay hoặc trên báo tường. Ký sự của Trần

Đăng do vậy đã góp phần đem lại một khí sắc mới cho văn xuôi. Có thành

tích đó chính là do Trần Đăng đã có nhận thức rõ và có sự nỗ lực bản thân để

phấn đấu theo yêu cầu của văn nghệ cách mạng. Sự nhạy bén về phương

hướng mới ở Trần Đăng thật đáng quý nhất là trong hoàn cảnh những ngày

đầu sau Cách mạng, khi phần đông các nhà văn chúng ta vừa thoát ra khỏi

chế độ cũ, đang còn nhiều bỡ ngỡ.

Page 115: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

***

Cố nhiên, đối với Trần Đăng, bước tiến ấy không phải diễn ra một cách

đơn giản, nhẹ nhàng. Khó khăn không chỉ ở chỗ dám lao vào một đề tài mới

mẻ trong khi những đề tài quen thuộc với mình (chẳng hạn đề tài về con

người tiểu tư sản) vẫn còn có sức cám dỗ. Khó khăn còn là ở chỗ trong khi

hướng về đề tài mới còn phải thanh toán dần những nếp nhìn, cách nghĩ và

những thích thú riêng không lành mạnh của con người tiểu tư sản vẫn có khả

năng làm sai lạc bức tranh của đời sống khách quan. Cho nên quyết tâm của

Trần Đăng đi vào đời sống cũng là quyết tâm cải tạo và rèn luyện tư tưởng,

tình cảm của mình. Công việc tìm hiểu, thâm nhập cuộc sống mới không đơn

giản, và công việc cải tạo rèn luyện mình lại càng không đơn giản, do vậy trên

sáng tác của anh, hình ảnh con người mới không phải lúc nào cũng hiện lên

với vẻ đẹp trọn vẹn. Tâm trạng “đêm hành quân như một giấc mơ nặng nhọc”

với hình dáng mệt mỏi chập chờn của người chiến sĩ trong ký sự Trong rừng

Yên Thế rõ ràng có nhiều nét giả tạo, mang khá rõ cái “xác chủ quan” của tác

giả. Ngay trong ký sự Trận Phố Ràng, hình ảnh người chỉ huy lầm lì tay nắm

chuôi kiếm luôn tay nhìn đồng hồ cũng có ít nhiều màu sắc “yêng hùng”, chưa

thật sự là hình ảnh tiêu biểu cho những cán bộ, chiến sĩ cách mạng. Rõ ràng

nhược điểm khá nặng còn tồn tại trong một vài sáng tác hồi đầu của Trần

Đăng là một nhược điểm về tư tưởng. Đó là cách nhìn có phần nào còn bi

quan, một thái độ có ít nhiều màu sắc hư vô trên lập trường tiểu tư sản, khi

nhìn vào cuộc sống chiến đấu của nhân dân. Những người chiến sĩ trước lúc

công đồn qua cách miêu tả của Trần Đăng thường hay nghĩ đến cái chết:

‘Ngày mai, một cuộc đời mới nữa, sống hay chết trong đạn lửa?’. Một câu hỏi

bâng quơ, nhà văn không tỏ thái độ dứt khoát, thậm chí như có ý buông xuôi,

làm cho người đọc không thể nào yên tâm được. Chuyện sống chết ở đây

thật mong manh và con người ở đây dường như chịu tùy thuộc ở số phận, có

khi những chiến sĩ Trần Đăng miêu tả cũng hay đùa vui, nhưng bên trong vẫn

cứ phảng phất một vẻ bi quan, một chút ngậm ngùi. Đây là quang cảnh buổi

tối của một đơn vị đang chuẩn bị chỗ ngủ: “Sàn dưới ồn ào chia nhau mấy

Page 116: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

tấm gỗ không biết vác ở đâu về làm cho một anh liên lạc đại đội bộ ở trên

ngày trước làm nghề đóng áo ở Phòng ngứa mồm chõ xuống gọi: -Này! Một

người thì phải sáu tấm, bốn dài hai ngắn nhớ, ngủ đi nhớ!”. Cái chết, những

chuyện mất mát trong chiến đấu vẫn thường còn ám ảnh Trần Đăng. Anh

chưa có một chỗ đứng cao, trên lập trường vô sản, để nhìn đúng sự hy sinh

trong đấu tranh cách mạng. Chính quá trình giáo dục của Đảng đã giúp Trần

Đăng chỉnh lại hướng nhìn, và do vậy, cũng làm cho tình cảm anh vững lên.

Những quan niệm và những thị hiếu tiểu tư sản không lành mạnh về kiểu mẫu

anh hùng cá nhân, về những khia cạnh bi quan trong cuộc sống ở Trần Đăng

dần dần được uốn nắn lại. Anh sẽ hướng về chủ nghĩa anh hùng tập thể

trong hình ảnh quần chúng đông đúc, khỏe mạnh. Niềm say mê những

chuyện lạ, say mê vẻ hào nhoáng bên ngoài sẽ được thay thế bằng niềm say

mê vẻ đẹp bên trong, bình thường, cao quý của người chiến sĩ nhân dân.

Phẩm chất đẹp đẽ của người chiến sĩ, trên cơ sở quá trình tu dưỡng về tư

tưởng và tình cảm của anh, dần dần được thể hiện đúng hơn và khai thác

sâu hơn. Có những chi tiết nhỏ mà làm ta nhớ mãi. Như chi tiết giữa hai trận

đánh, bộ đội nằm trên cỏ, chuyện trò với nhau, “chuyện trước còn sôi nổi

đánh nhau, ta, Tây, khố đỏ. Rồi chuyện chuyển sang bộ răng đen của đồng

chí Hội, cái bụng hắc lào của đồng chí Minh. Một bọn bàn cãi gay go về cái

vấn đề chưa được giải quyết trong đại đội: châu chấu, cào cào thì con nào

bằng đầu, con nào nhọn đầu”. Nét phấn khởi, lạc quan cũng dần dần đậm đà

hơn trên những trang viết mới của anh, nó làm cho khung cảnh sống kháng

chiến anh dựng lên tuy vất vả gian khổ nhưng vẫn có một vẻ nhộn nhịp, trẻ

trung. Như quang cảnh lán trại của các chàng Vệ, luộm thuộm mà vẫn vui:

“Trước lán treo bi đông, mắc súng, đạn, mũ áo, xà cột như hai dãy lều chợ

giời: phố “Vệ quốc”. Anh nào cũng thú vị, đi lại tung tăng”. Hoặc quang cảnh

một đơn vị trước lúc ra trận, mọi công việc chuẩn bị đã xong, “các trung đội

đã bắt đầu vui hát. Chèo Ét-ti-pô tẩu mã cười nôn ruột. Thơ. Tình quân dân, ý

nghĩa: anh là bộ đội giết giặc, tôi là dân ở nhà tăng gia sản xuất. Những lời

hai người đối đáp văn hoa rất dài…”.

Page 117: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Trần Đăng cũng khai thác được ở các chiến sĩ những khía cạnh tình

cảm cơ bản: lòng căm thù địch, tình thương yêu đồng đội, tình cảm gắn bó

với nhân dân… Có thể nói đó cũng là tình cảm nổi bật của nhân dân lao động,

của những người nông dân mặc áo lính trong cuộc kháng chiến giữ nước giữ

nhà. Qua hình ảnh những chiến sĩ bề ngoài trông vất vả và có gì như khắc

khổ, Trần Đăng còn nhìn thấy ấp ủ bên trong họ những tâm sự, những

chuyện vui buồn rất gần gũi, rất yêu thương. Anh ghi được thật sâu cái nhìn

âu yếm, khao khát của những chiến sĩ ngày đêm len lỏi trong rừng bỗng nhiên

bắt gặp được một khung cảnh quen thuộc của làng quê: “Dưới ao xanh rờn

mấy con vịt chúi đầu xuống nước giồng cây chuối, hai chân vẫy lên giời.

Tiếng vịt kêu vang động mặt ao, đằm thắm như tiếng cuộc đời đã lâu mới gặp

lại”. Ai bảo tình cảm Trần Đăng lạnh nhạt? Phải có một tấm lòng tha thiết mới

ghi được cái tha thiết trong tình cảm những con người. Có phương hướng

phấn đấu đúng và có nhiệt tình cách mạng, Trần Đăng tiến rất nhanh. Những

trang viết của anh đang mở ra nhiều triển vọng. Trên số lượng sáng tác còn ít

ỏi của mình, anh đã xây dựng được hình ảnh đẹp đẽ về tập thể các chiến sĩ

nhân dân của chúng ta, những anh Vệ quốc quân rất anh hùng nhưng rất hiền

lành. Hình ảnh họ ở đây không hiện lên trong nhịp điệu ồn ào hoặc trong tiếng

gươm súng va nhau loảng xoảng, mà hiện lên trong vẻ đẹp chân thật, hồn

nhiên. Họ căn bản không mang tư thế “những chàng trai chưa trắng nợ anh

hùng”, với “giày vạn dặm”, với “bụi trường chinh”, với lời thề “ra đi không trở

về” như trên một số văn thơ. Bởi vì con người đó không phải là sản phẩm của

nhiệt tình chủ quan, của sự tưởng tượng. Trần Đăng đã tìm hiểu họ trong đời

thực, trong chiến đấu và sinh hoạt hằng ngày.

Bên cạnh hình ảnh anh Vệ quốc với vẻ đẹp chân thật, tự nhiên của nó,

Trần Đăng cũng đã có lúc, có dịp mở rộng diện quan sát của mình. Truyện

ngắn Những ngày cuối năm viết về một vùng nông thôn không xa Ha Nội

mấy, những ngày đầu kháng chiến, cũng đã góp phần gợi cho ta sống lại một

số cảnh ngộ, tâm trang thực của một số tầng lớp người lúc này – lớp người

Page 118: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

trung gian đi vào kháng chiến với bao lo tính, boăn khoăn, nhưng quyết tâm,

tin tưởng.

***

Trần Đăng mất ngày 26 tháng 12 năm 1949 trên biên giới Đông Bắc,

trong một trận bộ đội biên phòng của ta đánh cản bọn tàn quân Tưởng khi

chúng đang cố sống chết lọt vào câu kết với một đồn binh Pháp. Cái chết đến

với anh bất ngờ giữa bốn tuổi nghề đang chứa chan sức lực, giữa lúc những

dự định đang được anh gấp rút thực hiện. Trong những câu chuyện thường

ngày với bạn bè, Trần Đăng luôn say sưa trước bối cảnh Đông Bắc chiến

thắng; anh có ý định viết một truyện dài, và sẽ đưa vào truyện, có thể là ngay

từ chương đầu, hình ảnh tấp nập của những binh đoàn, với những chuyến

cần vụ hàng nghìn người, với từng đoàn phụ nữ dân tộc áo chàm màu nhiễu

mới, đi tiếp tế, đi tải thương. Bấy giờ là cuối 1949, một năm trước chiến thắng

Biên giới – năm chuẩn bị cho sự ra đời của nhiều sáng tác tương đối dài hơi

trong văn xuôi chúng ta. Nhưng rồi anh lại bình tĩnh kiểm tra vốn liếng của

mình, lại khiêm tốn tự nhủ: hãy sống đã, trước hết hãy tự rèn luyện mình

thành một chiến sĩ… Không nôn nóng, tự lượng được sức mình, Trằn Đăng

vẫn tiếp tục “một cuộc chuẩn bị”. Và cuộc chuẩn bị đã gần xong. Thiên tiểu

thuyết anh chưa kịp viết nhưng trên những trang anh đã ghi, chúng ta cũng ít

nhiều thấy được những khung cảnh, những sự việc, những mẫu người cho

một tiểu thuyết tương lai.

Bài học chúng ta rút ra được qua cuộc đời sáng tác của Trần Đăng là

bài học về nhiệt tình cách mạng, về sự nhạy bén trước những yêu cầu của

văn nghệ cách mạng, về ý chí nghiêm khắc rèn luyện bản thân trong thực tiễn

chiến đấu của quần chúng.

Page 119: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

THÉP MỚI từ những bút ký đầu tay đến Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam

Thép Mới bước vào nghề làm báo từ sau Cách mạng tháng Tám. Ban

đầu, anh viết mấy bài nhỏ ở mục Từ lời nói… đến việc làm của báo Sự thật

dưới bút danh Hồn Nhiên, và mấy phóng sự điều tra phục vụ nhiệm vụ công

tác trước mắt. Kháng chiến nổ ra, anh viết tiếp một số bút ký, phóng sự được

nhiều người chú ý như Sức mạnh từ đất dấy lên; Kháng chiến sau lũy tre, trên

đồng lúa; Trại của ta, nhà máy của ta; Trong thế giới công binh xưởng; 19

tháng 12;… Từ 1950, nhân có dịp ra công tác ở nước ngoài, Thép Mới viết

nhiều về các nước anh em: Thư về nước (1950), Trách nhiệm (1951). Chủ đề

này sau ngày hòa bình lập lại vẫn được anh tiếp tục trong Hữu nghị (1955),

Như anh em một nhà (1958), Hiên ngang Cu-ba (1963). Đến 1964, anh

chuyển đề tài, viết một số bút ký, phản ánh tình hình sản xuất và chiến đấu

của nhân dân ta trong công cuộc chống Mỹ cứu nước: Gặt chiêm ở Quỳnh

Côi, Bờ biển phía Nam- chiến công tháng Tám, một số bài sau này in thành

tập Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam (1960). Ngoài ra, Thép Mới còn ghi

mấy hồi ký, trong đó có một số bài in trong tập Nhân dân ta rất anh hùng

(1960), kể lại hoạt động cách mạng của một số đồng chí lãnh đạo Đảng hoặc

của các anh hùng.

Một điểm đáng chú ý trong bút ký của Thép Mới là mặc dù lấy đề tài

trong nước hay ngoài nước, những bài viết của anh đã kết hợp được khá

nhuần nhuyễn tính chiến đấu và chất trữ tình cách mạng.

Nhìn chung, đề tài và chủ đề Thép Mới chọn để miêu tả, thường nhằm

phục vự trực tiếp, nhiều khi khá kịp thời cho cuộc chiến đấu của dân tộc.

Bước vào kháng chiến, anh chú ý ngay đến hình ảnh những người

nông dân cần cù, dũng cảm, từ bao đời bị bóc lột, áp bức nay theo tiếng gọi

của Đảng, của Hồ Chủ tịch đứng lên vừa đánh giặc, vừa sản xuất. Anh khẳng

định họ là đội quân chủ lực của cách mạng và kháng chiến, là “sức sống bắt

nguồn từ bùn lầy nước đọng, ngùn ngụt, dạt dào một sức mạnh đương dấy

lên và chưa dấy lên hết”. Thép Mới có cái nhìn khá đúng đắn về vai trò nông

Page 120: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

dân và chiến tranh du kích: Sức mạnh từ đất dấy lên (1947), Kháng chiến sau

lũy tre, trên đồng lúa (1947). Anh cũng ca ngợi tinh thần tự lực cánh sinh, khí

thế lao động quên mình của những công nhân sản xuất vũ khí trong điều kiện

vô cùng khó khăn gian khổ. Ở các công binh xưởng thì “đá và người cùng đổ

mồ hôi”; “hòa nhịp máy với những cánh tay người, ráng hết sức lực, đổ xuống

dốc thời gian vùn vụt của những ngày thi đua để chiến thắng” (Trong thế giới

công binh xưởng; Trại của ta, nhà máy của ta).

Ngòi bút Thép Mới như một pháo thủ cơ động, linh hoạt, cố gắng phát

huy sức chiến đấu từ nhiều phía. Anh ca ngợi tinh thần sản xuất hăng say,

chiến đấu quên mình của nông dân, công nhân, tố cáo tội ác tầy trời của giặc,

phê phán những ai còn hoài nghi vào sự chiến thắng của cuộc kháng chiến.

Anh tin rằng “chính nghĩa rồi sẽ thắng”.

Quả như niềm tin của Thép Mới và cũng là của toàn dân, chúng ta kỷ

niệm 10 năm chiến thắng Điện Biên Phủ trong không khí giặc Pháp đã cuốn

gói khỏi nửa nước ta từ lâu, nhưng nửa đất nước vẫn còn tạm thời nằm trong

tay bè lũ Mỹ – ngụy tàn bạo. Nhân dịp này, Thép Mới viết một loạt bài về

chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (in thành tập Điện Biên Phủ, một danh từ

Việt Nam). Bằng những hình tượng khá cụ thể, sinh động, anh nói lên chiến

công “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu” của dân tộc và khẳng định rằng

nhân dân cách mạng hoàn toàn có khả năng từ hai bàn tay trắng, tiến lên đủ

sức đập tan bạo lực phản cách mạng. Anh viết: “Ánh chớp lửa tiến công Điện

Biên Phủ soi sáng con đường chúng ta đi tới mãi”. Năm bài trong tập đó cũng

nhằm nói lên ý chí quyết tâm thắng giặc và khí thế hào hùng của quân dân ta

(Đâu có giặc là ta cứ đi), cảnh cáo bọn đế quốc đừng có nuôi ảo tưởng ỷ vào

vũ khí hiện đại (Nhân nghe nói về bọn “cọp đen và ó đỏ”), bảo cho Mỹ biết đô-

la và trí khôn của chúng không sao xoay chuyển được tình thế (Ha-kin ra mà

xem bảo tàng Điện Biên Phủ). Anh nói đến thực chất bọn lính đánh thuê lòng

dạ “rỗng tuếch” như chiếc ca rỗng, nhưng từ đáy ca một “làn sóng ngầm sẽ

đùng đùng nỗi dậy, sâu và mạnh” (Chiếc ca rỗng chứa sóng ngầm). Và cuối

cùng anh gợi lên phút hấp hối thảm hại của kẻ địch, và ý nghĩa to lớn của

Page 121: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Điện Biên Phủ, đồng thời cảnh cáo Mỹ rằng “còn đế quốc là còn nhiều quá

trình Điện Biên Phủ” (Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam). Rồi khi giặc Mỹ

leo thang ra ném bom miền Bắc thì ngay sau chiến công đầu của ta (5-8-

1964), ngòi bút Thép Mới đã kịp thời biểu dương tinh thần cực kỳ anh dũng

của đồng bào, đồng chí ta, báo cho chúng biết “nhân dân này là cốt thép”…

Ngay khi viết về nước ngoài, Thép Mới vẫn nhằm thể hiện sức chiến

đấu của ta và sự giúp đỡ chí tình, vô tư của các nước anh em đối với sự

nghiệp cách mạng của ta. Viết về nước bạn, Thép Mới thường chú ý đến lịch

sử đấu tranh, đến tinh thần cách mạng của bạn. Trong Hiên ngang Cu-ba,

anh làm sáng rực lên hình ảnh những người dân Cu-ba anh hùng đang sống

trong không khí chiến đấu gay go, gian khổ, nhưng tràn đầy nhiệt tình và ý chí

lạc quan cách mạng. Người đọc thấy ở Cu-ba, cuộc đời mỗi người dân gắn

liền với “cây súng dân quân, quyển sách mác-xít và nhiệm vụ sản xuất”. Cu-

ba đã tạo nên trong một thời gian rất ngắn những sự kiện lớn lao “vượt quá

sức tưởng tượng của những người lạc quan nhất”, chiến thắng vẻ vang ở bãi

biển Hi-rông, thanh toán nạn mù chữ trong sáu tháng, v.v… Thép Mới hết sức

phẫn nộ tố cáo những thủ đoạn bóc lột dã man, những mánh khóe quỷ quyệt

bỉ ối “rất Mỹ” của bọn trùm đế quốc ở Cu-ba trước đây cũng như ở miền Nam

Việt Nam những năm vừa qua.

Dù nói về ta, ca ngợi bạn, hay phê phán địch, lập trường của tác giả lúc

nào cũng rõ ràng, dứt khoát. Cách chọn đề tài và thể hiện chủ đề ở Thép Mới

luôn luôn hướng về phía khẳng định tư thế chiến đấu và chiến thắng của

nhân dân, của cách mạng.

Bút ký của Thép Mới không phải là loại bút ký hấp dẫn người đọc ở

những câu chuvện nhỏ nhẹ, tâm tình, là loại bút ký lôi cuốn người đọc vào

những vấn đề đấu tranh cách mạng, vào dòng thời sự trong và ngoài. Nhiều

trang viết của anh chứa chan tình cảm yêu nhân dân, yêu đất nước. Anh say

sưa nói đến Hà Nội, thành phố giàu chất Việt Nam nhất nước, anh yêu Hà Nội

như “yêu đôi mắt của người thương”. Và ngày nay, mỗi mùa hoa ban lại gợi

Page 122: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

anh nhớ tới “những đoàn quân rầm rập năm trước” tiến vào Điện Biên. Anh

ca ngợi đức tính hy sinh vô bờ bến của người chiến sĩ Việt Nam. Phải có một

con mắt và một tấm lòng như thế nào, anh mới nói lên được “cái nết chịu

thương chịu khó của anh lính nhà ta” và anh nghĩ đó là vì người chiến sĩ “hiểu

và thương đất nước còn nghèo”. Ngay khi đi ra nước ngoài, anh cũng luôn

luôn nghĩ về nước mình, “trăng Cu-ba thơm gió mía” gợi anh nhớ đến “trăng

thơm mùi cốm ở nhà”. Bút ký của Thép Mới không chỉ toát lên lòng yêu nước

nồng nàn mà còn gợi một niềm tự hào chính đáng về dân tộc Việt Nam, dân

tộc bao nhiêu năm bị kìm hãm dưới ách nô lệ nhưng khi đã vùng lên thì

“không gì làm chùn bước được đôi chân thần tốc của quân ta tiến”. Hoặc Điện

Biên Phủ đã “đá phốc” hạm đội bảy của Mỹ về tận “sào huyệt của chúng” và

“cái roi kháng chiến của ta đã quất vào mặt những con vật cầm vũ khí”…

Không những chỉ tự hào về dân tộc mình mà Thép Mới còn tự hào về sự lớn

mạnh của phe xã hội chủ nghĩa, vì thế, anh viết về nước bạn cũng rất tha thiết

mặn nồng. Anh nhìn con đường dẫn ra bán đảo (ở Cu-ba) cũng thấy như

“nắm tay đấm sang nước Mỹ”. Anh thấy “đêm trăng mía thở nồng nàn”. Anh

yêu những người dân Cu-ba “vốn nóng hổi nhiệt tình như nắng”, v.v… Cái

hay của bút ký Thép Mới khi viết về nước ngoài còn ở chỗ khiến cho người

đọc luôn luôn cảm thấy nước bạn gần gũi với ta, ta và bạn hòa làm một. Ca

ngợi bạn hết sức mà vẫn tự hào về mình một cách chính đáng. Anh thấy ở

Cu-ba có những “Phù Đổng thiên vương chống đế quốc Mỹ” và những “chiến

sĩ Điện Biên Phủ của Cu-ba”. Đó chính là biểu hiện của một tình cảm quốc tế

chân chính.

Thép Mới luôn truyền cho ta một niềm say sưa tin tưởng ở lực lượng

cách mạng. Cách nhìn, cách nghĩ của Thép Mới là cách nhìn cách nghĩ của

một người lạc quan cách mạng, một người có đôi mắt nhìn thấy “tương lai

tràn lên và dĩ vãng teo dần”, nhìn thấy “thần chiến thắng Điện Biên Phủ, với

đôi cánh rộng đã về ngự trên trời Hà Nội” và “ở đây mãi”.

Viết về đề tài đấu tranh cách mạng có khả năng khai thác được những

chủ đề có ý nghĩa lớn, nâng cao được tầm tư tưởng người đọc, nhưng không

Page 123: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

khéo sẽ dễ trở thành khô khan, nhạt nhẽo, sa vào lối tuyên truyền sống

sượng. Ngòi bút Thép Mới, nhìn chung không vướng phải những chỗ yếu đó.

Rõ ràng nhiều bút ký của anh đã có sức lôi cuốn người đọc, làm cho người

đọc say sưa theo những vấn đề thời sự. Ở Thép Mới, tính chiến đấu được thể

hiện trong một sắc thái riêng, đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính

trị cao và chất trữ tình đậm đà.

Trong các loại bút ký, Thép Mới sử dụng thuần thục nhất loại bút ký

chính luân. Thực vậy, ta thấy ngòi bút anh đã biết kết hợp tài tình giữa chính

trị, lịch sử và văn học dưới một hình thức khá sinh động, có hình tượng, có cá

tính, thỏa mãn phần nào nhu cầu thẩm mỹ của người đọc (thể hiện khá rõ ở

Hiên ngang Cu-ba, nhất là ở Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam).

Một nét nổi rõ trong những bài viết của Thép Mới là lối châm biếm vừa

dí dỏm vừa sâu cay. Có khi anh dùng lối so sánh giữa các mặt đối lập, như

nói đến những đồ đạc giản dị, thô sơ của Đại tướng ta với những đồ đạc tối

tân của Na-va để làm rõ hơn sự thất bại đau đớn, nhục nhã của chúng. Hoặc

dùng “gậy ông đập lưng ông” như nói đến việc chính phủ Pháp vừa tặng

thưởng huân chương chiến công cho quân đội viễn chinh Pháp, vì tinh thần

dũng cảm nêu “gương sáng chói”, thì không đầy mười hai ngày sau, những

đơn vị cứng nhất của chúng đã “nhảy cẩng lên, vui như điên, vì được kết thúc

cuộc đề kháng bằng đầu hàng”. Cái cười của anh làm cho kẻ địch mất mặt,

mất mũi, khiến người đọc thỏa thuê, sảng khoái. Như khi tả khách sạn “Bên

bờ biển” ở Cu-ba trước kia, Thép Mới viết: “Ở đây không có bàn viết, triệu

phú Mỹ thì còn có gì trong đầu nữa mà ghi ra giấy”. Hoặc sắt thép tốt thì “các

người hùng” của thế giới tự do có “thừa thãi”, duy chỉ “thiếu mất có chút ít sắt

thép trong lòng”. Thép Mới kể những câu chuyện mỉa mai như “củ cà rốt

trước mũi Đờ Cát”, “chiếc ca rỗng chứa sóng ngầm”, “các cô đầm ấy ôm cầm

thuyền khác”, v.v…

Bút ký Thép Mới có kết cấu tương đối chặt chẽ, lối hành văn nhanh

gọn, nhiều suy nghĩ, ngôn ngữ giàu hình tượng. Nếu như trong các bút ký

Page 124: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

trước kia, chúng ta đòi hỏi Thép Mới phải chú ý hơn trong việc khắc họa nhân

vật thì đến Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam anh đã tiến dần đến những

ký có hình tượng khá rõ nét (Đờ Cát, Đa-lét). Những đoạn có tính chất tường

thuật hoặc triết lý khô khan cũng giảm dần đi.

Có thể nói, do nhạy bén về chính trị, do nhiệt tình cách mạng sôi nổi,

Thép Mới đã có những thành công trong thể bút ký.

Tuy vậy, có điều đáng tiếc là ngòi bút Thép Mới giàu sức xông xáo,

nhưng đôi khi còn tỏ ra thiếu trau chuốt và có phần hơi ồn ào. Sự tự lặp lại

mình trong một số bút ký sau này của anh quả có gây cho ta ít nhiều cảm giác

đơn điệu.

NGUYỄN VĂN BỔNG với Con trâuNguyễn Văn Bổng là cây bút trưởng thành sau Cách mạng, được người

đọc quen biết qua tác phẩm Con trâu (1953).

Anh là một nhà văn chịu khó lăn lộn vói thực tế và chịu khó thử thách

ngòi bút của mình. Trên đường công tác anh tranh thủ ngày đêm, viết bất cứ

ở đâu, “kê giấy lên đá, đứng trong nước suối mà viết, ghé nhờ ánh đèn hội

nghị mà viết”. Truyện của anh đề cập đến nhiẽu loại người, nhưng có lẽ tầng

lớp nhân vật được anh yêu mến, hiểu kỹ hơn và nói đến nhiều hơn vẫn là

người nông dân với những vấn đề thiết thân của họ. Có thể kể mấy cuốn:

Con trâu (1953), Cắm thẻ Đồng Câu (1954) và Bếp đỏ lửa (2 tập) (1955 –

1956), trong đó Con trâu là tác phẩm thành công nhất, gây được ấn tượng

khá sâu trong người đọc. Vì thế, với Nguyễn Văn Bổng nói về đề tài nông dân

phải chăng chủ yếu là nói về tác phẩm Con trâu.

Trong những sáng tác hồi khống chiến chống Pháp, chúng ta đã có

những tác phẩm hay về công nhân (Vùng mỏ của Võ Huy Tâm), về bộ đội

(Xung kích của Nguyễn Đình Thi), về dân tộc ít người (Truyện Tây Bắc của

Tô Hoài), về người nông dân tham gia kháng chiến và đánh giặc giữ làng,

Page 125: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

chúng ta cũng đã có một số truyện có giá trị như Làng (của Kim Lân), Con

đường sống (của Minh Lộc), Đánh trận giặc lúa (của Bùi Hiển), Trận Thanh

Hương (của Nguyễn Khắc Thứ). Nhưng so với những tác phẩm này thì Con

trâu nói lên được một cách phong phú hơn đời sổng người nông dân vùng

địch hậu, vừa sản xuất vừa chiến đấu. Ở đây, ta gặp nhiều hình ảnh nông

dân chân thật và đẹp. Đọc Con trâu, ta lại liên tưởng đến tác phẩm cùng tên

của Trần Tiêu viết trước Cách mạng. Nhưng rõ ràng hai tác phẩm là hai thế

giới khác nhau. Người nông dân trong Con trâu của Nguyễn Văn Bổng là

người nông dân đã có một sự đổi đời từ sau Cách mạng tháng Tám và

trưởng thành với cuộc kháng chiến giữ nước giữ nhà.

Đối với nông dân, con trâu không phải chỉ là công cụ sản xuất mà còn

là người bạn cùng chia sẻ với họ mọi nỗi nhọc nhằn vất vả. “Con trâu là đầu

cơ nghiệp”, nó gắn bó mật thiết với sản xuất, với đời sống và tình cảm người

nông dân, nên họ gần gũi, âu yếm coi trâu như người thân trong nhà. Ông

Đẫu, sau trận giặc càn, khi tìm thấy con trâu đã “chạy ùa đến ôm choàng lấy

cổ nó”. Khi nghe Hương Trà gửi trâu sang Thái Học, ông nghĩ mà “ứa nước

mắt”. Đến khi trâu về, ông mừng vui quên cả hỏi xem chân con mình đã khỏi

chưa, ông vuốt ve, xuýt xoa thương con trâu gầy. Đến các em bé cũng biết

bảo vệ trâu. Em Sơn, 13 tuổi, bị đạn giặc, máu chảy ròng ròng nhưng em

không lo cho mình mà chỉ sốt ruột hỏi xem con trâu có làm sao không. Thật

mà quên được cái cảnh không có trâu, một ông già phải cuốc đất, mình “đỏ

hừng hực” và “mồ hôi chảy ròng ròng”, nạy bật được tảng đất lên thì người

“vặn ẹo đi”, các thớ thịt “săn cứng lại”. Chính vì thấy rõ trâu là vấn đề sống

còn của người nông dân nên trong một cuộc họp huyện, có tỉnh về dự, đồng

chí bí thư cứ nhắc đi nhắc lại: “Vấn đề bây giờ là con trâu”. Giặc Pháp vô

cùng nham hiểm, tìm mọi cách bắt trâu, giết trâu của nông dân, nhằm phá

hoại sản xuất cũng tức là phá hoại kháng chiến. Chúng ra lệnh cho bọn đi càn

là cứ giết một con trâu bằng giết ba nông dân. Có trận chúng vừa bắn vừa

giết hơn bảy chục con. Chúng còn dụ dỗ dân ta gửi trâu vào đồn để chúng dễ

bề chiếm đoạt, đồng thời lùng sục, bắn giết, khủng bố, hòng uy hiếp tinh thần

Page 126: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

nhân dân ta. Nhưng với quyết tâm thà chết chứ không chịu làm nô lệ, nhân

dân ta đã bám đất, bám làng, đánh cho chúng nhiều đòn trí mạng. Nhiều du

kích và đồng bào xã Hồng Phong đã đứng lên chống chọi dũng cảm với

chúng. Tinh thần quả cảm của đội du kích xã này đã được tác giả trân trọng

ghi lại, từ cái chết hiên ngang của chị Tần đến những người vọt ra khỏi hầm

bắn nhau với giặc để cứu thoát những "đồng chí còn nằm lại ở tầng dưới. Chị

Bai, một nữ du kích mới xin vào vùng đội, trước khi quyết định vượt hầm, vẫn

giữ thói quen thường ngày “rút mấy cái kẹp tóc xuống, ngậm giữa hai hàm

răng, rủ rủ mớ tóc, mấy ngón tay xóc xóc lên cho tóc xõa đều xuống hai vai”

đủ nói lên tư thế bình tĩnh, thanh thản của chị trước khi nhận lấy cái chết cho

đồng đội sống. Hoặc như anh Phận, giặc bắt dẫn đi chỉ hầm đã thừa cơ quật

ngã thằng quan hai xuống, ôm ghì lấy nó, lăn tràn trên đất, đến khi kiệt sức, bị

chúng chĩa súng, đạp chân lên ngực, còn cố ngoi dậy, bứt tung áo, chỉ vào

ngực, hét lớn: “Hầm đây, hầm bí mật đây”, v.v… Không chỉ du kích mà cả

đồng bào cũng có những cử chỉ và việc làm rất anh hùng. Hình ảnh ông Học

lặng lẽ, thận trọng cởi chiếc áo cụt ra gói đầu con gái vừa bị giặc chặt? Làm

người đọc vừa kính phục vừa đau xót đến sững sờ. Hay như chị Mai, tay

bồng con nhỏ, xông vào ngăn không cho thằng Sát Sanh bắt Hiếu đi, cuối

cùng mẹ con chị bị nó bắn chết. Đó chính là những biểu hiện về phẩm chất

anh hùng của người phụ nữ Việt Nam nói riêng và cả của dân tộc ta nói

chung.

Bát chấp mọi hy sinh mất mát, tinh thần của du kích và đồng bào xã

Hồng Phong vẫn ngày càng được củng cổ. Một vài phần tử lừng chừng nhút

nhát, được bà con giáo dục, thuyết phục cũng đã chuyển biến dần. Giặc đánh

phá ác liệt nhưng du kích vẫn thường xuyên canh giữ xóm làng. Vợ anh

Chức, một nách hai con nhỏ, một con ốm, vẫn đi gác đêm. Những ông Đẩu,

ông Học, các em bé Liêu, Sơn đều tích cực tham gia giúp đỡ đu kích. Phong

trào địa phương cứ mỗi ngày một phát triển. Từ chỗ họ lo gửi trâu sang xã đã

lập tề, sau thấy không thể gửi vào họng thằng Tây, đã đánh tháo trâu về, đào

hầm giữ trâu, tích cực bố phòng, chờ đánh địch. Từ chỗ bảo vệ trâu, chịu

Page 127: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

đựng gian khổ khó khăn để sản xuất đến chỗ kiên quyết chống giặc, giữ trâu,

giữ làng…

Tác phẩm mở đầu bằng một trận càn, ta phải tạm rút lui vì sức yếu, tổ

chức chưa tốt, anh Phận – chỉ huy dân quân – và chị Bai bị giết, và kết thúc

cũng bằng một trận càn, nhưng tình hình đã đổi khác hẳn: tinh thần nhân dân

vững vàng, du kích đánh tốt, trâu được bảo vệ chu đáo. Một quá trình trưởng

thành của nhân dân vùng địch hậu. Một bước tiến lên của cuộc kháng chiến.

Xu thế phát triển của hiện thực đó làm cho thiên truyện thấm đượm một ý vị

lạc quan.

Có người đã xem Con trâu như một màn tiêu biểu trong cuốn phim dài

của Liên Khu Năm anh dũng. Qua Con trâu, chúng ta càng hiểu thêm Khu

Năm lúc ấy bị hạn hán mấy năm liền, tình hình sản xuất và chiến đấu vốn đã

khó nay càng khó khăn thêm. Thế nhưng đồng bào và cán bộ, chiến sĩ ở đây

vẫn kiên trì, anh dũng giữ cho Vùng đất này suốt tám, chín năm kháng chiến

vẫn là vùng đất tự do của Tổ quốc.

Chủ đề của thiên truyện đặt ra là mới, có tính chất thời sự và ý nghĩa

giáo dục. Đây là vấn đề bảo vệ trâu, bảo vệ sản xuất, kiên quyết đánh bại âm

mưu địch, không thối chí bỏ trâu, bỏ làng tản cư, mà bám làng, tổ chức chiến

đấu, tổ chức đời sống, tăng gia sản xuất để bảo đảm kháng chiến lâu dài.

Cách nêu vấn đề phương hướng giải quyết đó là hoàn toàn đúng đắn, gây

được cho người đọc lòng tin tưởng ở sức mạnh vô tận và sự chiến thắng tất

yếu của kháng chiến trường kỳ.

Những tình cảm lớn của nhân dân lao động cũng thông qua đó mà

được thể hiện khá rõ. Đó là tình yêu yêu nước; là mối quan hệ tốt đẹp giữa

người lao động với nhau, giúp đỡ, động viên nhau trong khó khăn, hoạn nạn;

là ý thức căm thù đối với kẻ địch.

Vấn đề xây dựng nhân vật trong Con Trâu cũng thể hiện một cố gắng

khá rõ của tác giả, trong tình hình chung của phong trào sáng tác lúc này.

Nhìn chung nhân vật đã được người viết cố gắng khắc họa trong những nét

Page 128: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

riêng, và ít nhiều có được soi qua tính giai cấp: Chấn, con Chánh Huệ, xuất

thân con nhà giàu, nên bản chất lừng chừng, nghiêng ngả, sợ gian khổ; Liêu

đi ở, và Trợ, xuất thân nhà nghèo, cày ruộng rẽ, nên có bản chất tích cực,

gắn bó với kháng chiến; Hiếu, một nữ sinh, con nhà trung lưu, với một ít rắc

rối, không dứt khoát trong tình yêu…

Rõ ràng tác giả có ý định xây dựng mỗi nhân vật với một ít nét riêng,

tuy vậy tính cách đó vẫn chưa thật rõ lắm. Nhiều nhân vật như ông Đẩu,

Hoạch, Hương Trà… mới chỉ có tên. Ông Hoạch có chút ít nhộn, vui; Trợ có

vẻ lầm lỳ, cục cằn; Hòe nhút nhát… nhưng những nét ấy lại có một vẻ ngẫu

nhiên, khó hiểu, chưa cắt nghĩa được. Nhìn chung tính cách nhân vật đều

chưa được thể hiện rõ, tuy đây đó, có lúc dường như người viết có thoáng

thấy và có ý định thể hiện một cái gì đó vừa như là tính giai cấp vừa như là cá

tính. Cũng như thế, các mối quan hệ xã hội ở nông thôn cũng chưa thật sự

được soi rõ trong quan hệ giai cấp, cho nên, nhìn chung người xem vẫn chưa

thể nào phân biệt được rõ sự khác nhau của các tầng lớp nông dân ở nông

thôn.

Một nhược điểm khác của tác phẩm là sự lãnh đạo của Đảng cũng

chưa được thể hiện rõ, do các nhân vật tích cực, giữ địa vị lãnh đạo trong

truyện như Chức, Phận còn mờ nhạt. Như trên đã nói, vấn đề đặt ra của tác

phẩm là đúng và hay. Vấn đề đó đôi khi người đọc được tiếp nhận một cách

trực tiếp thông qua nhân vật. Chẳng hạn, qua ý kiến ông Học: “Cái thế là phải

về chứ không tản cư được. Nhưng không phải để rứa là đồng bào tự nhiên

về. Cho nên bây giờ bà con mình ai đã về thì một mặt lo làm ăn, lo đào hầm

trâu, giữ trâu, giữ xe nước, lại phải lo canh gác, giúp đỡ anh em du kích. Một

mặt nữa còn ai bên đó, mình nhắn về. Mỗi người mỗi tiếng nhắn hết về bên

ni. Thấy bên ni có tổ chức canh gác, làm ăn được thì bên kia rồi cũng về”. Rõ

ràng đó là hướng giải quyết tốt nhất trong tình hình đấu tranh gay go của

nhân dân vùng địch hậu.Nhưng đáng tiếc là nó mới chỉ được nói ra ở miệng

một quần chúng bình thường. Sự lãnh đạo của Đảng và phong trào chung

Page 129: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

(ngoài xã Hồng Phong) còn chưa rõ. Người ta cảm thấy phong trào ít nhiều có

tính chất tự phát.

Tuy vậy, Con trâu vẫn là một đóng góp có giá trị vào nền văn học kháng

chiến chống Pháp của chúng ta. Một điều nên nói thêm là Con trâu đã được

tác giả kiên trì sửa đi sửa lại nhiều lần; và mỗi lần sửa là một lần giá trị tác

phẩm được nâng lên rõ rệt.

Về chủ đề nông dân, Nguyễn Văn Bổng còn có Cắm thẻ Đồng Câu,

Bếp đỏ lửa (tập I, II). Ở Cắm thẻ Đồng câu, tác giả miêu tả đời sống cực khổ

của người nông dân dưới ách địa chủ phong kiến và sự đấu tranh thắng lợi

của nông dân trong phát động quần chúng giảm tô Cải cách ruộng đất. Nhưng

tác giả quá ôm đồm nhiều sự việc và mặt khác lại quá lo nói cho đủ diễn biến

của cả cuộc đời hai nhân vật, nên truyện thiếu hẳn chiều sâu.

Đến Bếp đỏ lửa, Nguyễn Văn Bổng đã có điều kiện mô tả cuộc sống

sâu hơn. Bưởi, nhân vật chính của truyện là một cô gái bị địa chủ cưỡng hiếp,

đày đọa đến trở thành ngu đần. Qua cuộc phát động giảm tô, Bưởi vẫn sống

âm thầm đau khổ. Đến cải cách ruộng đất, Bưởỉ được phát động, người Bưởi

dần dần được hồi sức lại, rồi phấn khởi, rạng rỡ hẳn lên. Bưởi tích cực tham

gia đấu tranh và được đứng trong hàng ngũ Đảng, rồi được bầu làm bí thư

chi bộ. Nhân vật này có để lại ấn tượng trong người đọc. Một số nhân vật

khác cũng tương đối đạt (Chữ, Ninh, Đại…). Nhìn chung, trong số khá nhiều

tác phẩm viết về cải cách ruộng đất hồi này, Bếp đỏ lửa là tác phẩm miêu tả

được khá đạt, khá tự nhiên khía cạnh đổi đời trong cuộc sống của người phụ

nữ nông thôn, nên, theo chúng tôi, cho đến nay, vẫn còn có khả năng gây

được xúc động.

Sau ngày hòa bình lập lại, Nguyễn Văn Bổng viết truyện ngắn Về thành

phố, phản ánh diễn biến tư tưởng và tâm trạng có nhiều lệch lạc của một cán

bộ kháng chiến khi trở về Hà Nội. Vấn đề đặt ra có ý nghĩa thời sự, nhưng sự

phê phán của tác giả chưa đúng mức nên tính tư tưởng của truyện còn yếu.

Page 130: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Bên cạnh chủ đề nông thôn, Nguyễn Văn Bổng, từ sau 1954, dành

phần lớn tâm sức cho chủ đề đấu tranh giành thống nhất nước nhà. Năm

1960, anh cho xuất bản tập Người chị, gồm bốn truyện ngắn, viết trong

khoảng thời gian trước sau hòa bình. Đáng tiếc là nhiều truyện trong tập có

mang những nét yếu đuối, tiêu cực. Người chị mô tả cuộc đời chị Cầm, ba

chìm bảy nổi mà vẫn nhẫn nại, chịu đựng và yêu cuộc sống, tưởng như sẽ có

lúc vùng lên đấu tranh cho chính nghĩa, nhưng sao người đọc vẫn thấy heo

hút, âm thầm, gây cảm giác xót xa, thương hại hơn là đồng tình, mến trọng.

Trong Người kháng chiến, thái độ của tác giả tỏ ra còn nương nhẹ đối với một

cán bộ đã sa sút về tư tưởng trong hoàn cảnh sau hòa bình, còn vai trò của

chị Luyến, tức “người kháng chiến”, thì gần như một cái bóng mờ nhạt. Chỉ có

Kỷ niệm là truyện khá hay, trong đó tác giả nêu bật lên phẩm chất anh hùng

của một phụ nữ bình thường. Chị băn khoăn, xót xa vì có con nhỏ nên không

đi công tác được, đã cương quyết cai sữa sớm cho đứa con đầu lòng rồi gửi

mẹ đẻ, để đi thoát ly và cuối cùng đã hy sinh. Người đọc, nhất là những người

không thể không xúc động và suy nghĩ.

Năm 1961, Nguyễn Văn Bổng viết tập bút ký Đón một xuân mới từ miền

Nam, gồm tám bài, mô tả hình ảnh đồng bào miền Nam trong đấu tranh có

đau thương tổn thất nhưng anh dũng tuyệt vời và tin tưởng vô hạn vào sự tất

thắng của cách mạng. Năm 1962, anh cho xuất bản kịch bản Dân cụ Hồ,

phản ánh phần nào phong trào đấu tranh anh dũng của nhân dân miền Nam,

nhưng nhân vật còn mờ nhạt, kết cấu chưa chặt, ngôn ngữ kịch chưa súc

tích.

Năm 1963, Nguyễn Văn Bổng còn viết truyện phim Đường về Nam, ca

ngợi tinh thần phục vụ của một số cán bộ miền Nam tập kết và mối tình ruột

thịt Bắc Nam, với nhiều cảnh gây được xúc động cho người đọc, nhưng toàn

truyện thì chưa thật xuất sắc.

***

Page 131: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Nguyễn Văn Bổng chịu khó lăn lộn, xông xáo vào thực tế, nhất là thực

tế chiến đấu gay go và ác liệt, nên chủ đề các sáng tác của anh thường có tác

dụng phục vụ kịp thời. Các tác phẩm của anh ít nhiều đều có góp phần vào

sự nghiệp đấu tranh chống đế quốc, phong kiến, đấu tranh cho thống nhất

nước nhà. Anh là nhà văn có ý thức rõ ràng về ngòi bút của mình nên những

gì anh viết ra đều chứa đựng một tinh thần chiến đấu, đều mang một tình cảm

chân thành. Nguyễn Văn Bổng là cây bút nghiêm túc, khiêm tốn, biết tranh thủ

ý kiến tập thể. Anh say sưa quan sát, chăm chú ghi chép những điều mắt thấy

tai nghe trên những chuyến đi công tác, cho nên trong tác phẩm của anh

thường có những chi tiết sống làm người đọc hứng thú. Nhưng chính ở đây

tác giả lại bộc lộ nhiều nhược điểm. Truyện của anh thường rườm rà, nhiều

trang, nhiều đoạn còn ở mức ghi chép. Đôi khi, do chưa thâu tóm được

những nét điển hình của các mẫu người trong cuộc sống nên nhân vật của

anh thường dễ sơ lược, mờ nhạt, thiếu chiều sâu. Lại có trường hợp do tác

giả thai nghén vấn đề chưa chín nên chủ đề của một vài truyện chưa rõ, kết

cấu chưa chặt.

Tất cả những chỗ yếu trên quả có gây cho đọc giả cảm tưởng hơi nặng

nề khi đọc tác phẩm của Nguyễn Văn Bổng. Nhưng nhìn chung, anh vẫn là

một nhà văn có những đóng góp đáng quý cho nền văn học mới. Từ bấy đến

nay, phong trào sáng tác đã tiến xa, nhiều người viết đã vượt lên, tự bản thân

anh cũng đã không dừng lại ở mức cũ. Nhưng nhắc đến Nguyễn Văn Bổng,

nghĩ đến Con trâu, người đọc vẫn giữ được một niềm yêu mến, tôn trọng,

xem đó như là một trong những viên gạch đầu tiên, một viên gạch quý, đóng

góp cho sự nghiệp văn học mới, trong những bước đầu còn rất khó khăn của

phong trào. Có hiểu rõ yêu cầu của lịch sử mới thấy hết những đóng góp của

Nguvễn Văn Bổng, của Con trâu. Cho đến bây giờ và cả sau này nữa, giá trị

lịch sử, ý nghĩa hiện thực và giáo dục của tác phẩm vẫn là điều không ai có

thể phủ nhận.

Page 132: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

VÕ HUY TÂM và Vùng mỏBước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, nền văn học mới yêu cầu nhà

văn miêu tả cho được hình ảnh từng con người mới trong hàng ngũ công

nông binh. Song, trong mấy năm đầu, thành công của những tác phẩm văn

học thời kỳ này, hầu như chỉ mới có hình ảnh anh bộ đội và người nông dân.

Sự xuất hiện Vùng mỏ (1951) của Võ Huy Tâm không chỉ góp phần làm

hoàn chỉnh bộ mặt văn học kháng chiến mà còn làm nảy ra nhiều hướng mới

cho sáng tác văn nghệ.

Từ một người thợ, Võ Huy Tâm bước vào văn học với tất cả vốn hiểu

biết và lòng say mê đất mỏ của mình. Bước đầu sáng tác của anh là làm các

bài ca dao, vè, diễn ca các tài liệu vận động công nhân mỏ đấu tranh chống

ách bóc lột của bọn thực dân chủ mỏ. Có những bài như Bữa ăn nước mắt,

nói lên cảnh sống cực nhục lầm than của người thợ rất được anh em công

nhân ưa thích. Sau đó Võ Huy Tâm có ý định tổng kết những kinh nghiệm

công tác vận động của anh trong một cuốn truyện để đọc. Nhân được đọc bộ

Tam quốc chí, anh nảy ra ý nghĩ viết một quyển Đình công, về hình thức

giống như Tam quốc, nghĩa là cũng chia thành từng chương, hồi, mở đầu và

kết thúc mỗi hồi đều có ít câu thơ. Anh em góp ý kiến và Võ Huy Tâm đã sửa

chữa và viết thành cuốn tiểu thuyết Đình công, sau đổi tên là Vùng mỏ. Với

Vùng mỏ, Võ Huy Tâm đã đem lại cho văn xuôi hình ảnh một nhân vật mới:

người công nhân.

Nhưng thực ra không phải đến Vùng mỏ, người công nhân mới xuất

hiện trong văn học.

Trước đó, hình ảnh họ đã hiện ra thấp thoáng trong một số sáng tác

như của Lan Khai (Lầm than), Nguyễn Công Hoan (Sáng – chị phu mỏ),

Nguyên Hồng (Người đàn bà Tầu)… Nhưng đáng tiếc là những hình ảnh đó

vẫn còn ít ỏi, mờ nhạt, có khi sai lạc.

Page 133: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Phải đến Vùng mỏ, người thợ mỏ mới được mô tả trong bản sắc của

giai cấp tiên phong, trong bối cảnh chung của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu

tranh dân tộc.

Cảnh sống của người công nhân mỏ dưới ách thực dân Pháp đã được

Võ Huy Tâm mô tả với những đường nét khá sinh động, cảnh “đi xe, về xe,

uống nước chanh” mà bọn thực dân Pháp lừa mị công nhân ở đây thực chất

là cảnh đi đẩy xe, về đẩy xe tranh nhau uống nước. Có những người công

nhân đã bị hộc máu mồm máu mũi vì đi “trục”, vì goòng bị “cặm”. Trong

những ngôi nhà ẩm thấp của họ đầy ruồi muỗi và rệp, chỉ cần đập nhẹ một cái

xuống giường là hàng trăm con rệp bò ra lổm ngổm. Ngoài mỏ, “gió heo may

thổi mạnh, đưa cát bụi từ những tầng trên xuống”. Toàn tác phẩm toát lên một

bầu không khí lao động nặng nề. Đó là hiện thân của cuộc sống lam lũ, đầu

tắt mặt tối của người phu mỏ. “Ăn cơm với cá mòi he, lấy chồng Cẩm Phả

đun xe suốt đời”. Võ Huy Tâm còn miêu tả tỉ mỉ khung cảnh làm việc ở các

tầng lò, các trục, ở máy, ở goòng, của người lái xe, đội than, nhặt đá, ni-vê…

Người đi làm và cả người ở nhà đều nơm nớp lo sợ. Cảnh sập lò, sập tầng vì

lối khai thác hàm ếch bừa bãi của Pháp xảy ra như cơm bữa. Ở tầng lò nào

cũng có cảnh “những hạt than, cám nổi lên một lớp đen đen trên vũng máu”.

Trẻ con ốm quặt quẹo, gầy nhom, mới bảy, tám tuổi đã đi làm “nhau” đội than,

nhặt đá lấy ngày vài xu, được ít phút nghỉ ngơi giữa hơi nóng hầm hập và bụi

bay mù trời, người phu “ăn bữa trưa bằng những vấu cháo và cá mặn”, uống

nước lã không lọc, lấy “từ bể tắm, bọt xà phòng và bông băng đầy ở miệng

bể”. Bệnh ỉa chảy, sốt xuất huyết, thương hàn vào hùa với bọn chủ Tây,

hoành hành người thợ. Bệnh tật, ốm đau, đánh đập, thất nghiệp, sập lò, đổ

xe... là những tai nạn triền miên đối với đời sống người thợ mỏ những ngày

dưới ách thực dân.

Bộ mặt kẻ thù hiện ra khá rõ nét trong tác phẩrn. Chính bọn này tạo ra

không khí căng thẳng của vùng mỏ. Đó là thằng Si-mô-nét cáo già, vừa nhận

lương lính, vừa nhận lương của bọn chủ Tây, để đốc thúc phu, hắn tìm mọi

cách hành hạ, ăn bớt của thợ, hễ ai trái ý là đánh hộc máu mồm máu mũi. Bất

Page 134: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

kể mưa, gió, nắng, bão, bất kể già trẻ, ốm đau, phụ nữ mang thai, đều phải

làm cật lực, nghỉ tay chút ít là nó đánh liền. Biết bao công nhàn đã là nạn

nhân của nó. Đó là vợ chồng, chủ thầu Quang nham hiểm và ti tiện, tìm mọi

cách để đục đẽo và nặn bóp người thợ; từ cái ống đong gạo hai đáy, cái hàm

ếch trong cối giã gạo đến việc cho vay gạo, mua sổ lương trước kỳ đều để

làm căng thêm túi tiền của vợ chồng hắn. Đó là xếp Cẩm mật thám. Đó là

thằng Chố chỉ điểm. Và xung quanh chúng là cả một bọn Tây cai, Tây lính,

hùng hổ, câu kết với nhau, nhằm bóc lột đánh phá giai cấp công nhân.

Trong tác phẩm, Vó Huy Tâm cũng đã cho ta thấy sự can thiệp của đế

quốc Mỹ vào Việt Nam. Hàng hóa, quần áo, máy móc Mỹ nhan nhản. Từ bọn

chủ đến thằng lính đều nhận tiền của Mỹ và bắt đầu mặc quần áo Mỹ.

Ở Vùng mỏ, không khí lao động bị cưỡng bức và không khí đấu tranh

quyện vào nhau. Nó âm ỉ và sẵn sàng bùng nổ. Nói lần đầu tiên chúng ta có

một tác phẩm văn học đi vào đời sống cơ bản của giai cấp công nhân là nói

đến đời sống tinh thần, nói đến ý thức giác ngộ giai cấp, khí thế đấu tranh từ

tự phát đến tự giác của người thợ. Không giống với hình ảnh thấp thoáng

trong một số tác phẩm trước Cách mạng, người công nhân ở đây là một đội

ngũ. Họ vốn là những người nông dân, hoặc những người thuộc các tầng lớp

dân nghèo bị bần cùng hóa, hoặc phải chạy ra mỏ, hoặc bị đầy ra mỏ để kiếm

sống, gia sản chỉ còn hai bàn tay lao động. Họ đã biết đoàn kết, đấu tranh để

đòi quyền sống. Mỗi một người thợ đều mang trong mình tình cảm của người

lao động, họ biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Ngay cả những người còn

do dự, chần chừ, dễ nghiêng ngả, dần dần cũng được giác ngộ, nhận rõ

được kẻ thù như nhân vật Tư – để đứng vào hàng ngũ giai cấp mình. Từ

trong cuộc sống cay cực, từ trong đấu tranh, tình yêu giai cấp giữa những

người thợ được nảy nở.

Tinh thần tiên phong, xả thân nói lên rất rõ ở những Đảng viên như

Thiết, Tài Bá, Tuấn; ở những quần chúng tích cực như cụ Thứ, Hàn, Le, Min,

Bảo, Khiết… Tất cả là đòn bẩy, xeo phong trào lên, giữ vững phong trào.

Page 135: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Trong cuộc sống lao động ngột ngạt, bị áp bức bóc lột tàn nhẫn, người thợ

nung nấu ý chí căm thù, sẵn sàng bột phát đấu tranh. Đảng đã giáo dục họ,

chuẩn bị chọ đi vào đấu tranh có tổ chức, có mục đích và kiên quyết đấu tranh

đến cùng. Từ những cuộc phá hoại bạo động, lẻ tẻ, vô tổ chức, Đảng đã tập

hợp những người thợ lại thành một đội ngũ, biết sẵn sàng hy sinh cho quyền

lợi của giai cấp, cho thắng lợi của cách mạng.

Như vậy, bên cạnh hiện thực tối tăm quằn quại của vùng mỏ ngày thực

dân Pháp tạm chiếm, Võ Huy Tâm đã chú ý miêu tả hiện thực của vùng mỏ

trong đấu tranh.

Hình thức đấu tranh của công nhân khá phong phú. Từ những đợt đấu

tranh lẻ tẻ (như phu trục đòi được đi trục, các tầng lò đòi có nước sạch để

uống, đòi phát lương, phát gạo đúng kỳ, đòi tiền thưởng…), tổ chức Đảng đã

khéo léo tập hợp quần chúng, vận động một cách linh hoạt các hoàn cảnh để

tổ chức một cuộc đình công lớn. Dù là lãn công một vài giờ đòi tiền thưởng

hay một vài ngày đòi phát gạo, đều có sự chỉ đạo và chuẩn bị kỹ càng của

Đảng. Cuộc biểu tình của những người phu mới có hậu thuẫn mạnh mẽ của

sức mạnh tập thể.

Người mỗi lúc một đông dần, dần dần biến thành một cuộc đình công

để ủng hộ cuộc bãi công lớn… Chủ nhất đứng dậy nhìn ra đám thợ và phu

cũ. Họ không sợ, họ vẫn đứng yên nhìn lại… Những cánh tay nắm chặt giơ

lên, cả anh chị em cũ đứng phía ngoài cũng gào thét lẫn trong ấy»…

Cuộc đấu tranh lớn, kéo dài, gặp nhiều khó khăn và có đổ máu, nhưng

dưới sự lãnh đạo của Đảng, với tình thương yêu giai cấp nồng thắm, với ý chí

cách mạng kiên định, đã thu được thắng lợi. Thắng lợi đó cũng đồng thời là

kết quả của cả một quá trình vận động và giác ngộ quần chúng của Đảng.

Vùng mỏ, một địa phương thời kỳ bị địch tạm chiếm với những năm quằn

quại, những năm sôi sục không khí chuẩn bị tổng phản công đã được nhà văn

phản ánh lại trong những hình ảnh đáng nhớ.

***

Page 136: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Võ Huy Tâm viết về người thợ là đối tượng mà anh rất am hiểu, quen

thuộc nên trong tác phẩm, anh đã khắc họa được nhiều khuôn mặt có sức

sống. Những nhân vật chính như Tuấn, Thiết, Tài Bá, Min, Le, Thịnh, sử…

đến những nhân vật chỉ thoáng qua như Lê, Bảo, Khiết, Chất, thậm chí có

nhân vật không có tên, hoặc chỉ được nhắc đến một đôi lần như cụ Tài Kha,

cụ Huyến, bà hàng cá, bà xôi chè, ông lái thuyền, bác Tài Cụt, anh em phu

“động”… đều được đặt trong bối cảnh chung của phong trào.

Người công nhân mỏ dưới ngòi bút của Võ Huy Tâm không còn là

những công nhân chỉ biết nhẫn nhục cam chịu hoặc quằn quại trong đau khổ.

Bằng nhiều con đường, từ tự phát đến tự giác họ đã tìm đến với cách mạng.

Min, từ một cô gái ngoan đạo, dần dần được ngộ, lao vào công tác với tất cả

nhiệt tình của tuổi trẻ. Cô như con thoi truyền dòng tin nóng giữa Đảng và

quần chúng. Tình yêu giúp cô vượt mọi gian khổ, hy sinh. Tình yêu của Min

đối với Tuấn – người thay mặt Đảng lãnh đạo phong trào ở mỏ không chỉ là

tình cảm lứa đôi đơn thuần, mà nó được xuất phát từ tình cảm giai cấp cao

đẹp. Chị Le, người đàn bà lam lũ, chỉ biết cúi đầu làm việc, bị đánh đập, đày

ải, đã được Đảng giúp cho nhận ra con đường đi của mình. Ngay từ khi chưa

được vào đoàn thể, Le đã chủ động lập một cái “họ” trong anh em để giúp đỡ

nhau lúc ốm đau hoạn nạn. Và khi đã được giác ngộ, Le đã hướng cái “họ”

của mình vào những việc làm có ý nghĩa: giúp cho đấu tranh thắng lợi. Le

như trẻ ra, tươi vui khi bước vào sinh hoạt đoàn thể, đấu tranh cho quyền lợi

của giai cấp… Những nhân vật phụ nữ khác trong tác phẩm như Min, Le,

Den, Tuyến, bà Gái, cụ Tài Kha… cũng đều có sức truyền cảm, đem lại được

cho người đọc những ấn tượng đẹp.

Với Vùng mỏ, lần đầu tiên những đại biểu ưu tú của cấp tiên phong đã

được khắc họa trong tác phẩm. Tài Bá nóng nảy, ăn to nói lớn nhưng rất tận

tụy, kiên quyết. Thiết chín chắn, sâu sắc, linh hoạt. Thịnh xông xáo, bồng bột.

Sử say mê, trung thành đến liều lĩnh. Tuấn, con chim đầu đàn ở đấy, lúc nào

cũng nghĩ đến công việc. Tuấn biết lo lắng, quan tâm tỉ mĩ đến mọi mặt của

phong trào. Vì phong trào, Tuấn biết hy sinh cả tình cảm máu mủ ruột thịt (chị

Page 137: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Le là chị gái của Tuấn, chị em xa nhau hơn chục năm trời, gặp lại, Tuấn

không nhận vì sợ lộ, ảnh hưởng đến công việc). Mỗi đảng viên ở trong tác

phẩm, đều được tác giả để khá nhiều công sức xây dựng. Võ Huy Tâm đã

mạnh dạn phê phán những người dao động, phiêu lưu tiểu tư sản (Thịnh, sử),

dành cho những con người tận tụy trung thành với Đảng, với giai cấp những

tình cảm yêu thương. Tài Bá và Thiết là hai nhân vật khá sống trong tác

phẩm. Người đọc mến cái tính xông xáo, thẳng thắn, lúc nào cũng ở hàng

đầu của Tài Bá, yêu cái mưu trí thông minh, linh hoạt mà quả cảm của Thiết;

hai con người này, cùng với Tuấn, bổ sung cho nhau, tạo nên một thế đứng

vững chắc của một chi bộ hoạt động trong vùng địch.

Nếu tách riêng từng nhân vật mà xét thì trong tác phẩm Vùng mỏ chưa

có một nhân vật nào thật điển hình, chưa có một tính cách nào thật đậm nét,

nhưng tất cả các nhân vật, từ những người có tên đến những người không có

tên, từ những người có quá khứ lâu dài đến những người mới trưởng thành,

mỗi người một cảnh ngộ khác nhau, một cá tính khác nhau, tất cả hòa quyện

được vào nhau, mỗi người một nét bổ sung cho nhau, tạo thành một đội ngũ

kiên cường, có sức sống trong tác phẩm.

Võ Huy Tâm trân trọng và yêu mến thực sự những người thợ mà anh

miêu tả. Chính vì lòng yêu mến nhân vật, nên mỗi nhân vật của Vùng mỏ đều

ít nhiều có sức thuyết phục người đọc. Đất mỏ chính là quê hương sinh sống

và quê hương tâm hồn của nhà văn, nên mỗi dáng vẻ của người thợ anh

miêu tả đều mang những nét hồn nhiên, rắn rỏi. Hiện thực cuộc sống, con

người vùng mỏ hiện ra tự nhiên, chân thực, không ồn ào, lên gân. Võ Huy

Tâm đã phát hiện đúng, tuy chưa sâu, bản chất giai cấp công nhân qua

những nhân vật tích cực của mình. Anh đã khơi sâu được vào những tình

cảm mới mẻ trong người công nhân mới. Đó là tình thương yêu giai cấp, sự

gắn bó với tập thể, tinh thần triệt để đấu tranh và tinh thần hy sinh cho sự

nghiệp của giai cấp. Ánh sáng của Đảng đã soi rọi vào tâm hồn những con

người mới; lòng yêu nước, chí căm thù giặc được bộc lộ khá rõ rệt trong con

người họ.

Page 138: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Với Vùng mỏ, hình tượng người công nhân đã bước vào văn học như

một đối tượng cảm xúc. Vùng mỏ là thành công của việc phản ánh một đề tài

mới, là thành công của đường lối phát động phong trào quần chúng sáng tác

và đào tạo văn nghệ sĩ mới của cách mạng. Nó đáp ứng được nhu cầu cấp

bách của văn học kháng chiến, đi vào phản ánh con người mới của thời đại.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên, Vùng mỏ cũng còn một số

nhược điểm. Vai trò lãnh đạo có Đảng tuy có được nhắc đến nhưng chưa thật

nổi. Những cán bộ cốt cán của phong trào như Tuấn, Thịnh, Sử còn mang ít

nhiều dáng nét tiểu tư sản. Tuấn, nhân vật trung tâm, chưa phải là một cán bộ

lãnh đạo có bản lĩnh. Ở Sử thiếu một thái độ chủ động, tích cực đối với với

âm mưu mua chuộc, ly gián của địch. Nói chung, nhiều nhân vật còn chưa

được khắc họa sâu.

***

Từ sau năm 1954, Võ Huy Tâm vẫn tiếp tục đề tài cuộc sống vùng mỏ

với hàng loạt tác phẩm: từ những truyện ngắn Chiếc cán búa (1959), Ngõ

ngang xóm thợ (1960) đến tiểu thuyết Những người thợ mỏ (1961), Đi lên đi

(1971).

Nếu Vùng mỏ phản ánh những con người công nhân mỏ thuộc thế hệ

đầu của giai đoạn kháng chiến chống Pháp thì Những người thợ mỏ là hình

ảnh những người kế tục thế hệ đó trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống trong

hòa bình. Qua gần mười năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, thế hệ trẻ thanh

niên đã trưởng thành lại tiếp tục đi vào tiểu thuyết Đi lên đi. Qua sự phát triển

của các thế hệ công nhân mỏ, Võ Huy Tâm muốn nói lên sự phát triển của

cuộc sống vùng mỏ.

Tiểu thuyết Những người thợ mỏ viết trong những năm 1956–1958 nêu

lên mối mâu thuẫn giữa một số quần chúng tích cực muốn xây dựng hầm mỏ

tiên tiến với mội số cán bộ lãnh đạo quan liêu, bảo thủ, kém năng lực. Họ đòi

hỏi dân chủ hóa sản xuất, đề cao vai trò làm chủ của người công nhân. Đọc

Page 139: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

tác phẩm, trong khối tư liệu, sự việc phong phú, Võ Huy Tâm muốn đưa ta

đến một vùng mỏ mới cũng còn rất bề bộn ở những ngày đầu mới hòa bình.

Phải nói rằng với Những người thợ mỏ, Võ Huy Tâm đã tỏ ra có vốn

sống, có sự hiểu biết nhiều chi tiết cụ thể trong đời sống ở mỏ. Một số nhân

vật hiện lên khá sinh động. Tuy vậy, có điều đáng tiếc là ở đây Võ Huy Tâm

đã nhìn nhận sai mối mâu thuẫn cơ bản của cuộc sống vùng mỏ lúc này. Anh

đã quá cường điệu mối mâu thuẫn giữa công nhân và cán bộ mà không chú ý

đúng mức đến những mâu thuẫn khác, những khó khăn khác, đó là những di

sản nghèo nàn, những hậu quả nặng nề của quá khứ để lại, là sự phá hoại

của kẻ địch còn lẩn khuất trong đời sống.

Bản chất tích cực của giai cấp công nhân trong tác phẩm còn chưa

được giải thích một cách đúng đắn bằng quá trình giáo dục của Đảng, mà

như một hiện tượng tự phát, còn những mặt tiêu cực của cán bộ thì lại được

thể hiện như là nguyên nhân chính kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Điều

đó không đúng. Cái nhìn thiên lệch ấy khiến cho cuộc sống được miêu tả

trong truyện lại rơi vào một sự “sơ lược” khác: ở cán bộ thì cái gì cũng dở,

còn công nhân thì cái gì cũng tốt. Do chỗ tác giả không nhấn mạnh vào tính

thống nhất trong tổ chức sản xuất của ta, lại cường điệu quá mức mối mâu

thuẫn giữa cán bộ và công nhân, nên việc thể hiện chủ đề chống quan liêu

trong Những người thợ mỏ trở nên thiếu tính hiện thực, và có ý nghĩa không

tốt.

Tiểu thuyết Đi lên đi viết về đất mỏ những năm đầu vừa sản xuất, vừa

đánh Mỹ. Tác phẩm muốn nêu lên và giải quyết mối quan hệ giữa sản xuất

lớn và sản xuất nhỏ, đề cao lối sản xuất công nghiệp, phê phán lối làm tự do,

tản mạn. Qua cuộc đấu tranh cho cung cách làm ăn mới, thế hệ trẻ với những

mẫu người như Đạt, Đan đã khẳng định vai trò tích cực của mình, và tiến

bước “đi lên”.

Rõ ràng với Đi lên đi, Võ Huy Tâm muốn mở rộng phạm vi mô tả của

mình, muốn phản ánh một xu thế đầy triển vọng của thế hệ trẻ. Nhưng đồng

Page 140: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

thời qua Đi lên đi, người đọc dễ dàng nhận ra một khoảng cách khá xa giữa

nhà văn với thế hệ trẻ. Võ Huy Tâm đã tỏ ra lúng túng trong việc đi sâu vào

tâm tư, suy nghĩ, ước vọng của thế hệ trẻ, lúng túng trước những vấn đề mới

của cách mạng khoa học kỹ thuật. Tác phẩm do vậy trở thành một lược đồ

khô khan, một sự minh họa cho các ý có sẵn.

***

Với Vùng mỏ và một số sáng tác khác viết về người công nhân mỏ, Võ

Huy Tâm đã có những đóng góp đáng quý vào sự trưởng thành của văn học

ta. Nhà văn có một phong cách viết dí dỏm, khai thác được nhiều chi tiết đặc

sắc, có ý nghĩa; có một vốn từ ngữ phong phú, có tính chất đại chúng rõ rệt.

Nhược điểm quan trọng của Võ Huy Tâm là thường chú trọng nhiều về

chi tiết, về bộ phận hơn là toàn thể, thấy cây hơn thấy rừng, đó là một trong

những nguyên nhân đem đến những thiếu sót đáng tiếc trong Những người

thợ mỏ. Sự phát triển nhanh chóng của đời sống trong công cuộc xây dựng

chủ nghĩa xã hội dưới tác động của ba cuộc cách mạng dường như cũng gây

cho Võ Huy Tâm nhiều lúng túng. Vốn sống của anh dường như không kịp

được bổ sung, đổi mới để vươn theo cho kịp và bao quát hiện thực mới.

Võ Huy Tâm cũng chưa đủ khả năng xây dựng những tác phẩm lớn, có

nhiều nhân vật, điều này chứng tỏ trình độ khái quát của nhà văn chưa cao.

Ngôn ngữ của anh tuy phong phú, nhưng lại thường hay lạm dụng nhiều tiếng

lóng, tiếng nhà nghề, khẩu ngữ, làm cho câu văn có lúc thiếu trong sáng.

Đời sống công nghiệp, hình ảnh người công nhân mỗi xã hội chủ nghĩa

đang còn là cả một đề tài lớn đặt ra cho sáng tác văn học. Trên hướng đi của

Võ Huy Tâm “từ trong lòng cuộc sống mà ra”, chúng ta mong đợi sự xuất

hiện, ngày càng nhiều, một đội ngũ người viết, từ hầm mỏ, xí nghiệp, công

trường… có đủ mọi khả năng và điều kiện, để tự mình viết lấy lịch sử của

mình.

Page 141: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Phần ba. LỰC LƯỢNG SÁNG TÁC MỚI TRONG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ ĐẤU TRANH THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ

Từ sau năm 1954, nhất là từ khi bọn Nhân văn– Giai phẩm bị đánh bại,

do đường lối văn học của Đảng là khuyến khích, nâng đỡ những tài năng

chân chính, do sự nghiệp cách mạng không ngừng phát triển, đội ngũ những

người viết văn xuôi càng lớn mạnh, với số lượng rất đông đảo.

Một số người viết như Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Hồ Phương,… đã

có ít nhiều thành tích sáng tác trong thời kỳ kháng chiến, nhưng phải từ sau

1954, các anh mới thực sự được nhiều người chú ý đến. Số đông hơn là

những cây bút xuất hiện sau ngày hòa bình lập lại. Từ đó đến nay, kết quả

lớn nhất của mỗi một cuộc thi truyện, ký là sự khám phá ra một số tài năng

mới, nhiều hứa hẹn.

Những người viết văn trưởng thành trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa

xã hội là một bộ phận quan trọng trong đội quân chủ lực về văn xuôi mấy

chục năm nay. Họ sáng tác khỏe và đã đóng góp cho phong trào rất nhiều tác

phẩm ưu tú, với đề tài phong phú, giá trị tư tưởng cao và có nhiều thành tựu

về nghệ thuật. Nguyên Ngọc viết thành công về đề tài miền núi và nhất là Tây

Nguyên. Nguyễn Khải chú ý đến nhiều mặt cuộc sống, luôn xông xáo vào

những lĩnh vực mới, nhằm nêu những vấn đề có ý nghĩa thời sự. Nguyễn

Địch Dũng, Nguyễn Kiên, Chu Văn, Nguyễn Thế Phương, Vũ Thị Thường,

Đào Vũ, Vũ Tú Nam Nguyễn Thị Cẩm Thạnh… viết khá nhiều truyện đặc sắc

về cuộc sống nông thôn. Huy Phương, Xuân Cang, Lê Minh, Lê Phương… cố

gắng đi vào đời sống công nhân và đề tài công nghiệp vốn là một lĩnh vực

mới và khó. Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, Đoàn Giỏi… trở lại đề tài miền

Nam hồi kháng chiến chống Pháp, trong khi Nguyễn Ngọc Tấn, Hoàng Văn

Bổn lại chú ý đến các hoạt động của cán bộ và chiến sĩ miền Nam tập kết ra

Bắc từ sau Hiệp nghị Giơ-ne-vơ. Lê Khâm, Hữu Mai, Hồ Phươnq, Hải Hồ…

có nhiều thành công khi viết về người lính – người lính trong chiến đấu, và

nhất là người lính trong hòa bình tiến lên chính quy hiện đại.

Page 142: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Sự xuất hiện một số cây bút viết văn các dân tộc ít người như Nông

Minh Châu, Hoàng Hạc… và những cây bút nữ có bản sắc riêng khá rõ như

Vũ Thị Thường, hoặc xông xáo như Nguyễn Thị Ngọc Tú… là hiện tượng rất

đáng chú ý trong giai đoạn này.

Từ sau năm 1965, trong cao trào chống Mỹ, cứu nước, trên cả hai

miền, lực lượng viết văn xuôi càng có thêm điều kiện để mở rộng đề tài, chủ

đề sáng tác và trên cơ sở đó phát huy mạnh mẽ hơn những đặc sắc của

mình. Hồ Phương, Nguyễn Khải, Hữu Mai, Hải Hồ, Xuân Thiều, Mai Ngữ…

vẫn tiếp tục đi sâu vào các vùng tuyến lửa, các lực lượng vũ trang, để khám

phá những biểu hiện mới của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nguyễn Minh

Châu là cây bút mới, vừa gia nhập đội ngũ này, bỗng trội hẳn lên với một sổ

tiểu thuyết vừa và dài. Chu Văn có quá trình viết từ lâu, nhưng cũng phải đến

lúc này, mới thật sự làm cho người đọc chú ý với thành công nổi bật trong

Bão biển, một tiểu thuyết về đề tài nông thôn công giáo. Trong khi đó, Vũ Thị

Thường, Nguyễn Kiên, Nguyễn Địch Dũng... vẫn kiên trì hướng khám phá vào

những mảnh nhỏ có ý nghĩa của đời sống nông thôn, nhằm thể hiện sự gắn

bó giữa sản xuất và chiến đấu; và chừng mực nào đó, những tác động của ba

cuộc cách mạng trên hậu phương lớn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Ngoài

ra còn phải kể đến sự xuất hiện liên tục của nhiều cây bút trẻ trên các báo chí

hoặc qua các cuộc thi như Đỗ Chu, Lê Lựu, Triệu Bôn, Lê Khánh, Ma Văn

Kháng, Trần Kim Thành, Nguyễn Thị Như Trang…

Đánh giá chung sự nghiệp sáng tác của đội ngũ đông đảo những nhà

văn trên, quả là một việc khó, nếu không nói là quá sớm, vì nhiều lý do: nói

chung họ đang ở độ sung sức, năng lực sáng tác còn dồi dào, nhiều người

trong họ còn trẻ cả tuổi nghề và tuổi đời, họ còn có thể tiến xa hơn nữa (và cố

nhiên cũng có thể dừng lại nửa chừng, vào một lúc nào đó). Nhìn chung, lớp

nhà văn xuất hiện từ sau 1954 đến nay luôn luôn được bổ sung, họ tiếp sức

cho nhau. Đó là một đội ngũ gồm nhiều thế hệ đang trên đà tiến lên, người

nhanh, kẻ chậm, có khác nhau, nhưng tất cả họp lại chính là lực lượng cơ

bản làm nên bộ mặt của đời sống văn học, như ta thấy hiện nay.

Page 143: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Chọn ai để đưa vào phần này, xin thú thật đó là một điều khó. Họ xấp xỉ

nhau. Để người này tiếc người kia. Nhưng cuối cùng cũng phải chọn một

cách làm. Còn yêu cầu hoàn chỉnh xin hẹn một dịp khác. Giới hạn ở mốc năm

1975 xin được bước đầu trình bày ở đây một số tác giả.

Bước đường NGUYÊN NGỌCNguyên Ngọc quen thuộc với chúng ta từ Đất nước đứng lên (1950).

Cuốn truyện được viết và ra mắt bạn đọc sau ngày hòa bình lập lại,

trong không khí sôi nổi, hào hứng của chiến thắng Điện Biên Phủ. Nhưng có

thể nói toàn bộ sự chuẩn bị của Nguyên Ngọc cho tác phẩm thành công là

thuộc về những năm cuối của giai đoạn trước, giai đoạn kháng chiến chống

Pháp, lúc nền văn học ta sau khi trải qua những khó khăn vướng mắc của

những năm đầu đã chuyển sang giai đoạn gặt mùa. Nhiều nhà văn như Tô

Hoài, Nguyễn Văn Bổng, Bùi Hiển… đã tạo được cho mình những môi trường

sống quen thuộc. Nếu Võ Huy Tâm là nhà văn công nhân rất hiểu vùng mỏ,

thì Nguyên Ngọc cũng đã từng là người chiến sĩ quân đội có dịp sống và

chiến đấu nhiều năm ở Tây Nguyên. Anh kể: “Tôi đã sống trong các làng của

đồng bào Ê-đê, được cùng đồng bào đi làm rẫy, làm nương, đi săn, đi bắt cá,

cùng ăn, cùng ở, cùng bàn bạc công tác, cùng đi đánh du kích, cùng dự các

cuộc vui và được nghe đồng bào kể những sự tích về núi, rừng, sông, suối,

về truyền thống bất khuất lâu đời của dân tộc”.

Từ 1953, Nguyên Ngọc được gặp anh hùng Núp ở Đại hội chiến sĩ thi

đua Liên khu Năm. Cuộc gặp gỡ đó đã tác động lớn đến tình cảm của

Nguyên Ngọc và kích thích mạnh trí sáng tạo của anh. Tất cả vốn sống của

Nguyên Ngọc về Tây Nguyên trước đây còn tản mạn, sau khi được gặp Núp,

hình như đều được quy về một điểm. Nhân vật chính đã được xác định. Mọi

ấn tượng, mọi kỷ niệm trong anh sẽ trở về xoay quanh hình tượng trung tâm

và tìm được vị trí thích hợp cho nó. Ánh sáng không loãng tan ra mà tụ lại

quanh một con người. Và chính vì vậy mà toàn cảnh bức tranh càng sáng rõ:

Page 144: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

“Ở đồng chí Núp tôi thấy tiêu biểu cho tất cả những điều tôi được biết trước

nay về Tây Nguyên, tiêu biểu cho Tây Nguyên bất khuất và hết sức anh

dũng”.

Những hiểu biết về cuộc sống và con người, về hoàn cảnh và nhân vật,

đã đem lại cho Nguyên Ngọc khả năng mạnh dạn sáng tạo trong thể truyện

mà anh chọn. Trong tác phẩm, bên cạnh nhân vật chính là Núp, có khá nhiều

nhân vật phụ. Nhân vật được miêu tả trong công tác và đời riêng, thông qua

nhiều mối quan hệ xã hội: Tình yêu, tình vợ chồng, gia đình, tình đồng chí,

đồng đội của các nhân vật đều được khơi sâu. Tính cách và vẻ đẹp của

người anh hùng được thể hiện trên nhiều khía cạnh và có quá trình phát triển.

Khung cảnh thiên nhiên, điều kiện sinh hoạt của đồng bào các dân tộc Tây

Nguyên cũng góp phần làm nổi con người. Những non yếu, thiếu sót của

người anh hùng cũng có một vẻ chân thực, hợp lý, không gợi cho ta cái cảm

giác là người viết muốn tầm thường hóa người anh hùng, tả nhân vật tích cực

phải có tốt, có xấu, có mặt nọ mặt kia cho có vẻ là con người “bình thường”,

đê chứng tỏ họ có “chất người”!.

Tuy nhiên, nói đến những ưu điểm trong việc xây dựng nhân vật của

Nguyên Ngọc không phải là nói đến một cái gì rời rạc, tách ra khỏi chủ đề tư

tưởng của tác phẩm. Giờ đây, đọc lại Đất nước đứng lên, chúng ta vẫn còn

giữ nguyên được những xúc động hồi đầu khi tác phẩm mới ra đời. Thiên

truyện tỏ ra có khả năng vượt được những thử thách của thời gian bởi vì

những vấn đề Nguyên Ngọc đặt ra trong tác phẩm vẫn luôn luôn là vấn đề

nóng hổi. Qua hoạt động của người anh hùng, qua những tình huống gay go

mà họ đã vượt qua, ngay cả trong những ý nghĩ hoặc lời nói của họ ta đều

thấy rõ sự thể hiện những chân lý lớn trong đời sống cách mạng của chúng

ta, những chân lý bao giờ cũng giản dị: “Muốn đánh Pháp lâu năm thì phải

thương yêu, không ghét nhau. Phải làm rẫy nhiều, lúa tốt, ăn no. Phải tổ chức

lũ làng lại”. “Ăn tro tranh khổ lắm. Nhưng ăn tro tranh khổ một đời mình thôi,

còn ăn muối Pháp khổ hết đời mình, đời con mình khổ nữa, đời cháu mình

khổ nữa”. Rõ ràng phải có một nhận thức đúng và sâu về kẻ thù như thế nào,

Page 145: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

và có lòng tin ở mình như thế nào, chúng ta mới có thể có quyết tâm: “Đánh

đến khi hơn Pháp, hết Pháp ở đất nước mình mới thôi. Đánh đời mình chưa

xong, đánh đến đời con, đời cháu mình nữa”. Tất cả những chân lý trên đã

thực sự hòa thấm vào tác phẩm, toát ra trong tính cách nhân vật, và được

Nguyên Ngọc xem như là nét chủ yếu làm nên phẩm chất anh hùng ở họ.

Thiên truyện nêu lên được ý chí quyết tâm chiến đấu đến cùng cho độc

lập và tự do của nhân dân ta, đồng thời cũng cho ta hiểu cái gì đã tạo nên

sức mạnh cho nhân dân ta chiến thắng bất cứ loại kẻ thù nào. Câu trả lời đó

cũng đồng thời giúp cho bạn bè trên thế giới hiểu ta. Sức mạnh đó toát ra tập

trung ở nhân vật Núp, nhưng cũng đồng thời toát ra từ toàn bộ bức tranh

cuộc sống Nguyên Ngọc dựng lên. Như tên tác phẩm, ở đây đúng là hình ảnh

của “đất nước đứng lên”. Con người gắn với đất nước quê hương, gắn với

truyền thống cha ông, và truyền cho đất nước sức sống của mình. Rừng cây,

sông suối, đất trời hình như đều sôi lên trong một cơn giận vĩ đại, “mỗi hòn

đá, gốc cây cũng đều biết giận Pháp, đánh Pháp” để bảo vệ cuộc sống yên

vui, tươi đẹp của nhân dân.

Như vậy, nét đặc sắc của tác phẩm chính là ở chỗ Nguyên Ngọc đã từ

đời sống cách mạng của dân tộc mà tìm hiểu người anh hùng, và từ người

anh hùng mà giúp ta hiểu dân tộc, thời đại.

Bên cạnh đó, hay nói đúng hơn, gắn chặt với những thành công trên,

vẻ đẹp của Đất nước đứng lên còn là ở những tình cảm luôn luôn dạt dào

trong từng trang buộc ta phải tỏ thái độ, cho ta cái cảm giác được sống trong

những cảnh ngộ của người trong truyện. Có lẽ là cái làm nên chất thơ riêng

trong bút pháp Nguyên Ngọc, cái làm nên vẻ đẹp riêng của Đất nước đứng

lên ít truyện theo kịp. Nhiều cảnh đời người viết dựng lên đậm màu sắc địa

phương, nhưng lại khó tìm thấy ở đây nét hoang dại của con người, vẻ bí

hiểm của núi –rừng theo kiểu những truyện đường rừng tưởng tượng hồi

xưa; cũng hiếm cái ngồ ngộ trong khung cảnh, một chút ngẩn ngơ nào đó

trong tâm lý, cử chỉ con người theo kiểu một vài sáng tác hồi đầu Cách mạng.

Page 146: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Ở đây trang nào cũng đẹp, vẻ đẹp của con người đã truyền đến cho thiên

nhiên và thiên nhiên góp phần tô điểm con người. Những tình cảm lớn của

nhân dân, càng trong gian khổ càng bền chặt, thủy chung đã được phối hợp

với nhau, như nhiều con suối đổ về một dòng sông, thống nhất trong tình yêu

đất nước quê hương; và đó chính là cơ sở cho cảm hứng trữ tình cất lên rất

đậm đà trong tác phẩm. Lòng khao khát tự do, tình cảm gắn bó với Đảng, với

lãnh tụ chính là nguồn sức mạnh giúp cho con người vượt qua mọi gian khổ;

đó chính là cơ sở cho cảm hứng anh hùng ca luôn gắn chặt với cảm hứng trữ

tình – có sức thôi thúc làm phấn chấn con người. Bản thân người viết nhiều

khi cũng không nén nổi cảm xúc riêng của mình, anh truyền đến cho ta những

phút lắng sâu của nội tâm, rất quý, gây được một thứ không khí riêng cho tác

phẩm. Và thực ra Nguyên Ngọc nói cũng là nói hộ ta đấy thôi. Tình yêu

thương, trân trọng của Nguyên Ngọc đối với nhân vật đã thấm vào ta; hay nói

đúng hơn, anh đã nói hộ cho ta những tình cảm đó một cách trọn vẹn.

Thiên truyện cũng cho ta thấy quả có một cái gì đó rất say người trong

những trang Nguyên Ngọc viết về miền núi, về Tây Nguyên. Có lẽ đó là sở

trường của anh chăng? Điều chắc chắn là vẻ đẹp hùng tráng và nên thơ, nên

họa–kể cả một chút gì đó hơi huyền bí nữa–trong khung cảnh thiên nhiên và

tâm hồn con người miền núi, quả có sức hấp dẫn đặc biệt đối với Nguyên

Ngọc, là nhà văn, như chúng ta biết, vốn có tâm hồn thơ, dễ rung động và đôi

mắt của người họa sĩ.

***

Một giai đoạn mới trong sáng tác của Nguyên Ngọc mở ra từ sau 1954.

Như tất cả những nhà văn là con em của miền Nam, trong thời kỳ mới

này, Nguyên Ngọc quan tâm trước hết đến chủ đề đấu tranh thống nhất nước

nhà. Chúng ta đã biết, công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, vào lúc ấy,

do sự phá hoại của Mỹ – Diệm, gặp nhiều khó khăn, phải kéo dài, đồng bào

miền Nam còn phải chịu đựng nhiều gian khổ, đồng bào miền Bắc – trong đó

có những người con miền Nam tập kết – sống trong tâm trạng khắc khoải

Page 147: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

từng ngày. Dựng lại hình ảnh cuộc sống của đồng bào miền Nam trong kháng

chiến (Kỷ niệm Tây Nguyên, 1957), hoặc miêu tả những tâm trạng khác nhau

của con người trước nhiệm vụ cách mạng đó (Đứa con, 1957; Em gái tôi,

1961), Nguyên Ngọc muốn nêu một số băn khoăn riêng của mình. Không

riêng Nguyên Ngọc, đây còn là tình hình chung của một số nhà văn vào lúc

ấy. Trong thơ: nhiều giọng bi thương; trong văn xuôi: nhiều bi kịch. Nhân vật

chính diện trong sáng tác của một số nhà văn hầu như chỉ còn một việc là

căng sức ra để chịu đựng những đau khổ riêng tư trong khi bóng đen của kẻ

thù trùm lên lớn quá. Trong Kỷ niệm Tây Nguyên, Nguyên Ngọc dựng một

chuyện tình. Hai thanh niên cùng yêu một người con gái, nhưng vì là bạn với

nhau, nên không ai dám ngỏ lời. Họ tham gia cách mạng. Giặc giết mất cô gái

trong một trận càn. Bây giờ họ ngồi bên nhau, một người im lặng, “khó hiểu

như một con thú rừng”, một người hát to lên mối tình đau khổ nọ, chung

quanh là cái im vắng mênh mông của rừng núi. Trong Đứa con, Nguyên Ngọc

miêu tả sự gặp gỡ giữa hai con người bất hạnh: một em bé không còn cha

mẹ, một người đàn ông không còn vợ con; anh muốn sự gặp nhau của họ sẽ

làm dịu được phần nào những đau khổ riêng của mỗi người, giúp họ có sức

đi tiếp con đường đời đã dành cho họ quá nhiều thiệt thòi, mất mát. Nhưng

người đọc không thấy kẻ thù đâu cả; đau khổ không làm thức tỉnh sự căm thù

trong ta, càng không làm sứt mẻ kẻ thù, mà chỉ gợi cho ta một sự ngậm ngùi

trước những tai họa mà con người còn phải cắn răng gắng chịu. Người đọc

cũng khó lòng tin ở cái hạnh phúc mong manh mà nhân vật trong truyện vừa

níu được. Bởi vì, trong cách miêu tả của Nguyên Ngọc, đau khổ đã thành nếp

rồi, đã thành thói quen của họ rồi; trong tư thế của em bé: “Đầu em hơi cúi

xuống. Một cái gì quá sức đè lên cấi cổ nhỏ, trắng, hơi gầy làm cho em không

ngẩng đầu lên được”; trong vẻ sầu muộn, chán nản, tưởng không còn chút

sinh thú gì ở người đàn ông nọ. Thực ra, trong cuộc sống của chúng ta có khi

có những đau khổ còn lớn hơn, nhưng chắc chắn con người chúng ta không

chịu đựng với tinh thần và tư thế như vậy. Ta tin đây chỉ là một chút yếu đuối,

đa cảm của nhà văn. Anh muốn dựng một bi kịch để nhân đó triết lý về những

Page 148: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

đau khổ; những đau khổ theo anh là quá sức chịu đựng của con người,

nhưng đối với chúng ta, có vẻ lớn chăng là do người trong cuộc luôn luôn

xuýt xoa kêu đau.

Có người sẽ nói: những chỗ yếu trên là điều khó tránh khỏi, vì sự thực

là tình hình cách mạng ở miền Nam những năm đầu rất khó khăn. Tin tức

hằng ngày đưa đến cho chúng ta đều là những tin đau xót, không vui, trong

khi chúng ta không có điều kiện sống như một người trong cuộc để cảm cho

hết những đau thương và tinh thần gan góc, quật cường của nhân dân miền

Nam đang ráo riết chuẩn bị cho một ngày đồng khởi. Nhưng nói như vậy là

chưa thấy hết trách nhiệm của nhà văn, chưa thấy hết những thiếu sót chủ

quan của nhà văn, nếu chúng ta nghĩ đến văn học như một thứ vũ khí tinh

thần để cổ vũ nhân dân xông lên trong đấu tranh cách mạng. Một mặt khác,

nói như vậy cũng là chưa hiểu được tâm trạng của những người cách mạng

chân chính, dũng cảm, không bi quan trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào.

Cũng với chủ đề đấu tranh thống nhất nước nhà, Nguyên Ngọc cố gắng

nêu lên một số vấn đề đang đặt ra trong cuộc sống của miền Bắc sau ngày

hòa bình lập lại. Đáng chú ý là kịch bản phim Hòa bình (1960) dựng lại khung

cảnh những ngày tiếng súng vừa ngừng, một đơn vị bộ đội đang trên đường

về xuôi, bỗng được giao nhiệm vụ trở lại biên giới tiểu phỉ; đấu tranh tư tưởng

xảy ra trong mỗi người, giữa cái sống và cái chết, giữa hạnh phúc hòa bình

đang chờ đợi họ và trước mặt là nhiệm vụ cách mạng gian khổ còn đòi hỏi họ

hy sinh… Người chiến sĩ mà Nguyên Ngọc ca ngợi là Hồi, trong một phút

quyết định, đã tìm cách thu hút hỏa lực của địch về mình cho đồng đội thoát

khỏi vòng vây; anh chỉ kịp nhờ bạn gửi lại một quyển sổ tay cho người yêu, là

Gội. Giờ đây anh bạn của Hồi đang len lỏi giữa dòng sông hoa đào của Hà

Nội vào xuân để tìm Gội, chuyển cuốn sổ tay kia. Năm năm sau, lại một lần

nữa, anh bạn nọ đi tìm Gội. Nhưng anh vẫn không tìm thấy. Không hiểu Gội đi

đâu, ở đâu?

Page 149: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Viết Hòa bình, Nguyên Ngọc muốn đặt vấn đề thái độ con người trước

những hy sinh mà cách mạng đòi hỏi trong hoàn cảnh hạnh phúc đã tới trước

mặt mà họ có quyền được hưởng. Nói gọn hơn, đó là vấn đề quan hệ giữa lợi

ích cá nhân và lợi ích cách mạng. Vấn đề đặt có ý nghĩa thời sự, khi trên miền

Bắc, cuộc sống đang bước vào thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng

chủ nghĩa xã hội. Anh đã bắt trúng mạch. Truyện phim không còn cái vẻ hững

hờ, hơi lạc lõng như một số sáng tác của anh hồi đầu. Anh ca ngợi vẻ đẹp

của từng chiến sĩ không tên, biết hy sinh lặng lẽ, biết vui vẻ chịu nhận những

khó khăn về mình cho người khác được hưởng hạnh phúc hòa bình. Anh

nhắc nhủ chúng ta đừng quên những hy sinh đó, đừng nghĩ hạnh phúc mình

đang hưởng tự nhiên có được một cách dễ dàng. Kịch phim có nhiều câu triết

lý, lắm đoạn tâm tình, nên có vẻ là một bài thơ bằng văn xuôi. Người viết rất

say sưa. Từng cử động, lời nói của nhân vật, và nhất là tiếng thuyết minh, lời

dẫn kịch như rung cùng nhịp cảm xúc của nhà văn. Nhưng mặc dù vấn đề đặt

ra là đúng, tình cảm của người viết khá sôi nổi, mặc dù tất cả những điều đó,

kết thúc truyện phim vẫn toát ra một vẻ ngậm ngùi. Nguyện vọng cuối cùng

của người chiến sĩ trước lúc hy sinh vẫn không thực hiện được. Cuốn sổ tay

của anh vẫn không giao được cho người yêu. Cô gái nọ đi đâu? Sao tìm cô

khó khăn thế? (Thực ra anh bạn nọ chỉ mới ghé qua Hà Nội hai lần). Hay là

cô đã quên người cũ? Còn cuộc sống thì có vẻ nhộn nhịp vui vẻ một cách vô

tâm. Tết đến, đường Hà Nội náo nức và rực đỏ như một dòng sông hoa đào,

chẳng ai còn chú ý đến một anh lính biên phòng ngơ ngác đi tìm người quen!

Trong lời dẫn kịch, tác giả đã tỏ ra quá đa cảm, và cách giải quyết anh nêu

lên trong đoạn kết có phần không đúng, vì tính chất tiêu cực của nó: “Có lẽ

anh nên giữ lấy quyển vở quý báu ấy, anh không nên đi tìm Gội làm gì nữa!

Có khi nhắc lại với cô gái ấy một người anh hùng đã mất lại là một việc không

nên làm. Hãy để cho hạnh phúc mới của cô được hoàn toàn trong sáng,

không mang chút dấu vết mất mát nào của chiến tranh (?). Còn người lính thì

họ im lặng, và hơn ai hết họ hiểu rõ giá trị của hạnh phúc và hòa bình hôm

nay”. Sao lại không nên đi tìm Gội? Sao lại không nên nhắc cho Gội biết

Page 150: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

người yêu của cô là một anh hùng đã mất? Sao lại đồng ý cho Gội vô tình với

người yêu cũ, đi tìm “hạnh phúc mới”? Có lẽ không riêng ngườii lính, nhiều

người trong chúng ta, nhất là phụ nữ Việt Nam đều hiểu rõ những giá trị của

hạnh phúc; họ cần biết những gian khổ, hy sinh của người trước để Sống thế

nào cho đúng, cho phải. Lẽ nào nhà văn (vì vô tâm hay vì tự ái) lại khuyên

người ta quay mặt đi.

Kịch phim Hòa bình ghi lại hình ảnh một cuộc sống đã qua. “Chuyện cũ

viết lại” đối với Nguyên Ngọc dù sao cũng có những hạn chế trong việc thể

hiện những vấn đề thời sự. Anh là nhà văn luôn luôn nói đến việc nâng cao

tính hiện thực, tính chiến đấu của tác phẩm; chúng ta hiểu sự lúng túng của

anh trong cả một thời gian dài im lặng trước những câu hỏi của đời sống miền

Bắc đã trải qua các thời kỳ khôi phục, cải tạo kinh tế và bây giờ đang đứng

trước nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng kế hoạch năm năm

lần thứ nhất, 1961 – 1965. Cuộc sống đang vươn tới những chân trời mới.

Nếu “sáng tác là một hành động nhận thức” đúng như cách nói của anh, thì

nhà văn không thể đành tâm im lặng, đi sau, mà phải vươn lên phía trước,

hoặc ra là đuổi kịp nó để mà ghi nhận cho đúng, cho sâu hình thù, vóc dáng

của nó, nhằm gây cho con người niềm tin để vươn mạnh lên.

Đó là lý do Nguyên Ngọc viết Mạch nước ngầm (1960), một truyện vừa,

khá công phu, kể từ sau Đất nước đứng lên.

Khung cảnh Nguyên Ngọc dựng lên trong Mạch nước ngầm là hoạt

động của một công trường xây dựng trạm bơm đang bị lưu sa và mạch nước

ngầm uy hiếp nghiêm trọng. Khó khăn rất lớn đòi hỏi cán bộ và chiến sĩ phải

quyết tâm cao, thậm chí, lúc cần, phải có những hành động mạo hiểm. Tinh

hình khó khăn làm nảy sinh các vấn đề tư tưởng. Đội ngũ cán bộ, chiến sĩ

nhiều người đã trải qua những thử thách lớn của kháng chiến, hy sinh không

tiếc thân mình, nhưng đến lúc này một số đã tỏ ra hoang mang, chùng lại.

Tình đồng chí đồng đội nảy nở trong hoàn cảnh kháng chiến gian khổ, vào

sinh ra tử có nhau, lúc này có nguy cơ sứt mẻ, phai nhạt. Tất cả những biểu

Page 151: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

hiện tư tưởng đó được Nguyên Ngọc trình bày thông qua một loạt các tình

huống khó khăn của công trường, thông qua tính cách và các mối quan hệ xã

hội của một số nhân vật chính của truyện, để đi đến một kết luận về sự Cần

thiết đối với chúng ta, phải tìm hiểu cho kỹ những mạch nước ngầm trong

lòng đất và trong lòng người”.

Nêu lên sự cần thiết phải nhìn cho ra và hàn gắn cho kịp những mạch

nước ngầm như trên là đúng. Nhưng vấn đề quan trọng là ở chỗ nhà văn thể

hiện những mạch nước ngầm đó như thế nào cho phù hợp với thực tế, và

nhất là thể hiện cho đúng thái độ của chúng ta trước những mạch nước

ngầm, bất kỳ nó ở chỗ nào. Có điều khó hiểu trong Mạch nước ngầm là sự

bất lực của nhân vật tích cực trước những mạch nước ngầm đó. Không riêng

Thuyết, mà tác giả miêu tả như một nhân vật tiêu cực, ngay Quả, nhân vật

được xem là chính diện của tác phẩm cũng luôn luôn sống trong tâm trạng

bực bội, bất lực, đối phó với công tác chung đã nặng, lại còn những khó khăn

của đời riêng: “Trong cuộc chiến đấu lớn hiện nay mỗi người ngoài cái gánh

nặng công tác, trách nhiệm thường là quá sức mình, còn phải căng đôi vai lên

mà gánh những đau khổ riêng tư cũng nặng biết bao”. Cho đến cả cái đám

quần chúng chung quanh Quả, tuy có lúc cũng ồn ào nói cười, nhưng cái vui

của họ thường gượng gạo; trước khó khăn họ đâm ra lủng củng, cáu kỉnh,

lắm lúc cục cằn, tục tĩu.

Nguyên Ngọc muốn nói một thứ mạch nước ngầm trong lòng người.

Nhưng như vậy thì chẳng riêng nhân vật Thuyết mới có. Không khí truyện trở

nên nặng nề vì cái ám ảnh của những mạch nước ngầm đó, vốn có sức phá

phách khá mạnh. Vậv có thực đó là một hình ảnh đúng và phổ biến của miền

Bắc chúng ta trong xây dựng chủ nghĩa xã hội?

Vả lại, cũng cần xét thêm điều này: qua một mạch nước ngầm trong

lòng đất, theo nghĩa đen, gây ra bao nhiêu khó khăn, rắc rối cho công trường,

anh đặt vấn đề phê phán sự dốt nát: “Càng ngày càng thấy sự dốt nát dẫn

đến biết bao nhiêu là tai vạ. Tốn bao nhiêu công sức, của cải, mồ hôi, nước

Page 152: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

mắt, có khi cả máu nữa… “. Nhưng như vậy thì nhân vật Thuyết vốn là nhân

vật tiêu cực, lại có chỗ đúng, vì anh ta phản đối một việc làm không có căn cứ

khoa học và nhân vật chính diện là Quả lại có vẻ phiêu lưu. Nguyên Ngọc

muốn phê phán sự dốt nát, nhưng lại vô hình trung ủng hộ một sự làm liều.

Rõ ràng trong Mạch nước ngầm, Nguyên Ngọc tỏ ra bối rối, bi quan.

Anh chưa cho ta quan niệm được một cách sáng sủa cái đúng cái sai. Anh

càng chưa nói được một cách đúng đắn, phù hợp với thực tế, thái độ của

chúng ta trước những khó khăn của cách mạng. Cuộc sống chúng ta không

ngừng vươn lên chính vì trong mỗi người chúng ta cái mới luôn luôn chiến

thắng cái cũ. Nhưng qua cách nhìn của Nguyên Ngọc, những khó khăn đặt ra

lại quá sức chịu đựng của con người: Những khó khăn không biết đến bao

giờ mới giải quyết hết được”. Một mạch nước ngầm đã được hàn lại, nhưng

“dưới lớp đất màu mỡ kia còn có bao nhiêu mạch nước ngầm?”. Và nhất là

những mạch nước ngầm trong lòng người thì lại càng khó lòng dò tìm, càng

khó biết làm cách nào, và lúc nào hàn gắn cho xong. Thiên truyện kết thúc rồi

mà một câu hỏi như vậy cứ xoáy sâu vào chúng ta. Nó gây nên một sự hoài

nghi không đúng, không phù hợp với tinh thần của người cách mạng, và nhất

là không phù hợp với thực tế “gương mặt người ai cũng sáng long lanh…”

(Tố Hữu). Trong xã hội ta, những “mạch nước ngầm” trong lòng một số kẻ

nào đó, nhất định cuối cùng cũng bị khám phá.

Một câu hỏi như vậy chúng ta không thấy có trong Đất nước đứng lên

dù những khó khăn đặt ra cho con người lúc ấy lớn hơn gấp nhiều lần. Là vì

con người trong đó đứng cao hơn tất cả mọi khó khăn, mọi kẻ thù, và miêu tả

được như vậy chính do nhà văn đã vươn tới tầm của họ.

***

Trong sáng tác cũng như trong nhiều lần tâm sự, Nguyên Ngọc luôn

luôn tỏ ra quan tâm đến việc tìm chọn cho mình những chủ đề mới mẻ.

Những tìm tòi thường đem lại kết quả tốt đẹp khi anh biết bám chặt vào hiện

thực, hướng mạnh về phía cái mới của đời sống. Bám vào đời thực, chủ đề

Page 153: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

của tác phẩm sẽ như những nhánh rễ khỏe, càng ăn sâu vào đất; hình thức

của tác phẩm sẽ đạt tới vẻ đẹp cao nhất là cái đẹp giản dị, chân chất như đời

sống thực, không sa vào vẽ vời, xa lạ. Những trang Đất nước đứng lên chan

chứa một thứ chất thơ khá say người. Ở đây, bút pháp trữ tình và anh hùng

ca luôn luôn cất lên ở những cung bậc cao, phù hợp với khung cảnh cuộc

sống và con người miền núi: gần gũi với thiên nhiên bao la, rộng rãi, tươi

thắm các sắc màu; phù hợp với tính cách con người yêu chuộng cuộc sống

phóng khoáng, tự do. Tình cảm trân trọng của anh đối với nhân vật chính diện

luôn luôn tràn đầy, đôi khi không nén nổi trong một cảm hứng trữ tình bồng

bột, nhưng được đặt đúng chỗ, không làm mất tính chất cân đối, trang trọng,

có tính sử thi của tác phẩm, cũng không gây ra một lớp sương mù mờ ảo, che

mất khuôn mặt thực của họ.

Trái lại, khi nhà văn xa cách đời sống, và trong lòng mình lòng tin đối

với sự nghiệp cách mạng có sút đi thì những tìm tòi về nội dung và hình thức

sẽ trở nên xa lạ. Để bù đắp cho những chỗ yếu của mình, đôi khi anh phải lấy

suy tưởng chủ quan thay vào. Trong truyện ngắn Pồn viết về một con người

mới có thực là Phạm Trung Pồn, Nguyên Ngọc muốn gợi ta đi sâu tìm hiểu

động cơ nào đã kích thích Pồn có những việc làm tốt đẹp. Nhân một lần tâm

sự, Nguyên Ngọc đã nói rõ ý định của mình: “Không viết sáng chế phát minh

mà là viết… tình yêu”. Kể ra trong đời sống lắm khi tình yêu cũng là một nhân

tố thúc đẩy con người vươn lên. Nhưng Nguyên Ngọc muốn cho ta thấy tất cả

những việc làm tốt đẹp của con người mới đều chỉ xuất phát từ tình yêu, thì

vấn đề lại trở nên đơn giản, và không khỏi gây cho chúng ta cái cảm tưởng

làm con người mới cũng dễ. Chính Nguyên Ngọc cũng không tin lắm ở mình

và không tin cả ở anh Pồn (hoặc là tác giả “hư cấu” về anh Pồn); trong đoạn

kết cuốn truyện tác giả cho biết: “Đó là câu chuyện có lẽ có thật (?) về anh

Pồn mà tôi được nghe anh Pồn kể (…) Biết đâu câu chuyện trên đây cũng chỉ

là một ước mơ của anh”… Trong Em gái tôi Nguyên Ngọc cũng sa vào một

thứ tìm tòi cầu kỳ; nội dung câu chuyện có một vẻ phức tạp giả tạo nên mất

hẳn sức truyền cảm đáng lẽ có được, mặc dù người viết ngay từ trang đầu đã

Page 154: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

tỏ ra không muốn có những “niềm vui dễ dãi” (!). Điều dễ thấy là do chưa nắm

kịp những vấn đề đúng thực của đời sống, một số truyện của Nguyên Ngọc

thường lộ rõ vẻ sắp đặt, bố trí, thậm chí nhiều lúc lộ rõ sự bắt chước một vài

sáng tác nước ngoài. Những tìm tòi của anh lúc đó không tránh khỏi chuyện

đi tìm của lạ, hoặc quanh quẩn trong một vài hình ảnh, suy tưởng sáo mòn.

Bám sát cuộc sống, giữ được cho mình nhiệt tình cách mạng, đó là con

đường đúng nhất cho nhà văn tìm đến một phong cách thật sự là của mình;

cũng chính là con đường tốt nhất cho Nguyên Ngọc trở lại được tâm trạng

bình tĩnh như những ngày đầu, như niềm mong muốn của chúng ta. Một số

truyện ngắn về miền núi trong tập Rẻo cao (1961) cho ta thấy lại một Nguyên

Ngọc rất quen thuộc mà chúng ta ai đã gặp lần đầu tiên, qua Đất nước đứng

lên, đều khó lòng quên được. Đọc Rẻo cao ta lại được gặp Nguyên Ngọc

trong giọng điệu đằm thắm, sôi nổi, những cảm xúc tinh tế, ngọt ngào, cái

nhìn lành khỏe, trong trẻo. Ở đây, sau Đất nước đứng lên, lại một lần nữa, ta

thấy thiên nhiên và con người miền núi quả có một vẻ hấp dẫn, một sức tác

động trở lại đối với Nguyên Ngọc, làm cho ngòi bút của anh trở nên phơi phới,

tha thiết, lắng sâu. Giữa cái bát ngát, đậm đà sắc màu của đất trời quê hương

là hình ảnh những con người, với những khoảng tâm hồn hiện ra rất đẹp, rất

say người: cô gái miền xuôi “dũng cảm” một cách hồn nhiên, yên tâm ở lại

miền núi với những em học trò đối với cô đã như người ruột thịt (Dũng cảm);

anh giao thông miền núi gắn bó với công việc phát hành báo Đảng không chỉ

với tinh thần “trách nhiệm” mà còn với tất cả tình yêu, say như với người yêu,

vì anh thấy tất cả ý nghĩa lớn lao trong công việc mình làm (Rẻo cao); chị chủ

tịch xã Vàng Thị Mỹ như một bông hoa bừng nở giữa thiên nhiên vùng Mèo,

ngày xưa đất trời tối tăm mù mịt (Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng).

Từ 1960, Nguyên Ngọc đã suy nghĩ nhiều về “hàng ngũ chúng ta” – ghi

nhanh chung quanh Đại hội Đảng – nói cái sôi nổi của đất nước vào xuân,

đón mừng kế hoạch năm năm, với nhiều lạc quan, tin tưởng. Năm 1961, anh

suy nghĩ về con người mới, qua báo cáo của một xã đội trưởng, Dương Đình

cởn, nhân Đại hội thi đua toàn quân: “Con người mới của chúng ta ngày nay

Page 155: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

là như vậy đấy. Ở họ, cuộc đấu tranh để làm cho cuộc sống chung quanh

mình tốt hơn lên”. Trước đây, trong Mạch nước ngầm, anh cho rằng những

thử thách đối với con người trong hòa bình còn gay go gấp mấy lần trước cái

chết, và do vậy nhiều người khó lòng vượt qua nổi; bây giờ, qua gương

Dương Đình Cởn trong Đại hội, anh lại thấy con người mới “đã giải quyết

được” những khó khăn “một cách thắng lợi”. Những suy nghĩ của anh về con

người mới, về trách nhiệm của nhà văn, cũng đáng chú ý: “Văn học bao giờ

cũng tìm đến biểu hiện những đỉnh cao của cuộc sống. Ngày nay những đỉnh

cao đó nó lẩn khuất trong những điều rất nhỏ hàng ngày. Chính trong những

việc rất nhỏ hàng ngày đó đang rèn luyện, đang hình thành những con người

mới chắc chắn, toàn diện, đối tượng cao quý của mỗi người viết chúng ta”…

“Tôi nghĩ rằng: rõ ràng là càng ngày việc trở nên những con người tiên tiến

của xã hội, của cuộc sống càng khó khăn thêm lên rất nhiều. Càng ngày cuộc

sống tiến lên càng đòi hỏi những người muốn đi lên hàng đầu của nó những

sự nổ lực sâu sắc và toàn diện hơn nhiều. Và viết về những con người đang

đi lên hàng đầu một cách anh dũng như vậy thật là một nhiệm vụ khó khăn và

cũng hấp dẫn đẹp đẽ biết bao đối với mỗi người cầm bút chúng ta”.

Thực ra, mỗi giai đoạn cách mạng đều có những yêu cầu mới và cuộc

sống càng ngày càng vươn lên phía trước, nhưng không phải do vậy mà việc

làm người anh hùng càng ngày càng khó khăn thêm ra, càng trở nên hiếm đi.

Rõ ràng là việc phấn đấu trở thành người anh hùng của nhân dân, trong bất

cứ hoàn cảnh nào, lúc nào, cũng đòi hỏi con người phải có những phấn đấu

cao nhất, và trên đất nước ta, càng ngày chủ nghĩa anh hùng cách mạng

càng được mở rộng, khơi sâu, nói cụ thể là càng ngày số người tốt việc tốt

càng thêm nhiều. Tuy nhiên, khi nêu yêu cầu cho văn nghệ, Nguyên Ngọc đã

có những suy nghĩ lạc quan và đầy tinh thần trách nhiệm. Đó chính là cơ sở

cho những chuyển biến mạnh mẽ của Nguyên Ngọc để anh khắc phục những

chỗ yếu cũ và phấn đấu vươn lên vị trí những hàng đầu.

***

Page 156: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Con đường sáng tác mà Nguyên Ngọc đã đi qua với những thành công

và chưa thành công như đã nói trên thật ra chưa dài lắm so với toàn bộ quá

trình sáng tác của anh. Nguyên Ngọc còn trẻ và con đường đi của anh sau

này còn dài. Nhưng nó vẫn là một chặng đường nhiều ý nghĩa. Bởi vì tuy

ngắn, nó vẫn ghi lại cho ta khá rõ những chỗ mạnh và chỗ yếu tiêu biểu của

Nguyên Ngọc, đồng thời, qua đó cũng phần nào phản ánh được bước đi, chỗ

mạnh, chỗ yếu chung của một lực lượng trẻ xuất hiện và trưởng thành trước

sau cái mốc 1954. Chỗ mạnh của anh không ai phủ nhận được, đó là chỗ

mạnh của một cây bút trẻ sống trong lòng thực tế, từ thực tế mà ra; cho nên

không phải ngẫu nhiên anh đã viết được Đất nước đứng lên mà kinh nghiệm

thành công của nó đã gây cho ta niềm tin ở khả năng văn nghệ trong việc xây

dựng điển hình con người mới và thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Tuy nhiên nếu như ở nhà văn, điều quan trọng là cần phải biết chuẩn bị

cho mình những gì để đạt được kết quả ngay từ sáng tác đầu tay, thì điều

quan trọng nơn, là làm cách nào để giữ gìn và phát huy cho được những kết

quả đó trong các bước sau, trên cơ sở có được một bản lĩnh thật vững vàng

trước những chuyển biến của đời sống cách mạng. Những mặt chưa thành

công của Nguyên Ngọc có thể giúp ta hiểu thêm điều này. Dù sao nếu có nói

đến những chỗ yếu, những mặt chưa thành công của anh thì cũng là nói đến

một cái gì tạm thời, trong một lúc; đó không phải là mặt chủ yếu trên con

đường anh đã đi qua, càng không đáng kể đối với cả sự nghiệp tương lai của

anh. Con người anh luôn luôn gắn bó với cách mạng, cho nên con đường anh

đi sẽ là con đường dẫn anh đến hàng đầu cuộc sống, dẫn anh đến hòa làm

một, sống như một người trong cuộc với nhân dân, để từ trong đó nghe rõ

được tất cả mọi tiếng động của cuộc đời – từ những rung chuyển lớn lao của

thời cuộc đến những nhịp đập khẽ của mỗi con tim. Trong nguồn sống đó,

tiếng nói của anh cất lên hẳn sẽ không phải là tiếng nói xa lạ, đơn lẻ, mà là

tiếng nói lớn của nhân dân, tiếng nói lạc quan, đằm thắm, hùng tráng, có sức

giục giã con người vươn lên.

Page 157: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Con đường đó, Nguyên Ngọc đang đi, chắc chắn cũng là con đường

ngắn nhất cho người viết vươn tới những đỉnh cao.

Đặc điểm sáng tác NGUYỄN KHẢIHiện nay Nguyễn Khải là một trong những cây bút viết khỏe, và càng

viết anh càng tỏ ra sung sức. Có lẽ đấy là chỗ mạnh của anh so với nhiều nhà

văn cùng thế hệ mà quá trình sáng tác càng về sau hình như càng gặp nhiều

khó khăn hơn. Nguyễn Khải không chỉ viết nhiều, anh còn tỏ ra sắc sảo.

Tuy nhiên, nếu nhìn lại từ những bước đi đầu tiên, thì trong cuộc đời

sáng tác, anh lại không phải là người chỉ gặp toàn những điều thuận lợi. Khác

với mội số cây bút trẻ gần đây, bước vào làng văn một cách khá ồn ào, với

những thành công nổi bật, làm xôn xao dư luận ngay từ tác phẩm đầu tay,

nhưng rồi sau đó lại chìm dần và mờ đi, có khi mất hút hẳn, trước con mắt dõi

theo và trông chờ của bạn đọc, Nguyễn Khải bắt đầu con đường sáng tác của

mình một cách tương đối lặng lẽ, hầu như chẳng có gì đặc sắc, nhưng rồi

những bước đi của anh càng về sau lại càng tỏ ra vững vàng hơn.

Anh bắt đầu viết vào những năm cuối kháng chiến chống Pháp, với khá

nhiều truyện ngắn về cuộc chiến đấu của du kích Liên khu Ba và năm 1951,

với truyện Xây dựng, anh đã được giải khuyến khích về văn xuôi trong cuộc

thi văn nghệ 1951–1952. Mặc dầu vậy, lúc này anh vẫn chưa được bạn đọc

để ý. Thậm chí cả cho đến khi anh viết một cuốn sách khá dày dặn về đời

hoạt động của nữ anh hùng liệt sĩ Mạc Thị Bưởi (Người con gái quang vinh,

1956) và một loạt truyện ngắn nữa: Nằm vạ (19315), Đôi mắt (1957), Ngày tết

vê thăm quê (1957), Chỉ lại một ngày trâu (1958), v.v…, Nguyễn Khải vẫn

không thu hút được người đọc, bởi vì nhược điểm rõ ràng của ngòi bút anh

lúc ấy là thường kể lể nhiều hơn miêu tả, những câu chuyện của anh do đó

có phần tản mạn, nhạt nhẽo, dài dòng.

Chỉ đến năm 1959, với Xung đột (phần I), Nguyễn Khải mới được dư

luận bạn đọc đánh giá tương đối cao. Và từ đấy, trước con mắt ngạc nhiên

Page 158: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

của mọi người, tác giả Xung đột liên tiếp cho ra đời những cuốn sách ngày

càng khẳng định thêm chỗ đứng của mình trong nền văn học đương đại: Mùa

lạc (1960), Xung đột (phần II; 1962), Một chặng đường (1962), Hãy đi xa hơn

nữa (1963), Người trở về (1964), Họ sống và chiến đấu (1966), Hòa Vang

(1967), Đường trong mây (1970), Ra đảo (1970), Chủ tịch huyện (1972) và

Chiến sĩ (1973).

Thực ra kết quả này đâu phải là một sự ngẫu nhiên, nó chỉ có được

nhờ một vốn sống phong phú và một tài năng đã đến độ chín muồi, nó là một

bước tiến nhảy vọt, một sự biến đổi về chất, mà quá trình tích lũy, mò mẫm

trong bao nhiêu năm lần tìm mạch nguồn cuộc sống và chiếc chìa khóa nghệ

thuật đã làm nên.

Vì vậy, đọc Nguyễn Khải, chúng ta không thể không trọng một ngòi bút

thông minh, sắc sảo và giàu tính chiến đấu, một ngòi bút đầy tinh thần trách

nhiệm, luôn luôn có sự đòi hỏi cao đối với bản thân và đối với mọi người.

Muốn làm được như vậy, điều kiện tất yếu trước tiên là người cầm bút

không thể chỉ đến với văn học bằng thứ tình cảm bồng bột nhất thời của tuổi

trẻ hay bằng những kỷ niệm đẹp đẽ về thời ấu thơ có thể trút ra tràn trề một

lúc, nhưng rồi sau đó trong lòng sẽ rỗng không, hầu như chẳng còn gì để viết,

mà phải đến với nó bằng tất cả cuộc đời mình, bằng kinh nghiệm và vốn

sống, mà trải qua bao nhiêu năm khổ công tích lũy mới có được. Ở Nguyễn

Khải thì khả năng về mặt -này lại khá dồi dào. Anh là một người tương đối

chịu đi thực tế và lại thường đi về những nơi khó khăn gian khổ. Anh đã có

mặt ở một vùng công giáo toàn tòng vào khoảng thời gian sau Cải cách ruộng

đất, khi mà cuộc đấu tranh giai cấp ở đây đang diễn ra một cách căng thẳng

nhất; anh đã lên Điện Biên ngay từ lúc nông trường mới ở những bước đầu

xây dựng còn nhiều khó khăn; anh đã ra Cồn cỏ hầu như cũng vào những

ngày đầu gay go của cuộc chiến tranh phá hoại. Cho đến nay, sau hơn hai

chục năm trong nghề, anh vẫn cố gắng đi vào vùng chiến đấu để có thể viết

nên những trang nóng hổi thời sự chiến trường.

Page 159: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Có thể nói, nhờ đi nhiều, biết nhiều mà Nguyễn Khải hầu như không

bao giờ cảm thấy mình bị rơi vào tình trạng bế tắc trong việc tìm kiếm và phát

hiện đề tài cho tác phẩm, như một số nhà văn cùng thế hệ với anh hiện đang

vấp phải. Trái lại, anh lúc nào cũng như đang sống giữa dòng thác của cuộc

đời, và những vấn đề của nó cứ tự nhiên đến với anh. Anh viết liên tục, mà

hầu như trong tác phẩm nào anh cũng vẫn đặt ra được, những vấn đề có ý

nghĩa thiết thực đối với giai đoạn nó ra đời. Chẳng hạn, cuộc đấu tranh quyết

liệt giữa địch và ta sau Cải cách ruộng đất tại một vùng công giáo (Xung đột),

chủ nghĩa nhân đạo cộng sản chủ nghĩa trong xã hội ta ngày nay (Mùa lạc),

quan hệ giữa sở hữu cá thể, tập thể và nhà nước ở giai đoạn hợp tác xã tiến

lên cấp cao (Tầm nhìn xa), cách đánh giá đúng đắn đối với những đổi mới

trong cuộc sống ở nông thôn hiện nay (Người trở về), phẩm chất của người

cán bộ địa phương trong thời kỳ nông thôn tiến lên sản xuất lớn (Chủ tịch

huyện), hay cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân (Hãy đi xa hơn nữa,

Anh đội phó và người thợ mộc, Một cặp vợ chồng), và chủ nghĩa anh hùng

cách mạng (Họ sống và chiến đấu, Đường trong mây, Ra đảo, Chiến sĩ).

***

Qua những tác phẩm mà chúng tôi vừa kể trên, ta có thể thấy, trong

sáng tác của Nguyễn Khải, hai đề tài lớn được dần dần hình thành và ngày

càng rõ nét, đó là đề tài nông thôn (Mùa lạc, Xung đột (2 phần), Hãy đi xa hơn

nữa, Người trở về, Chủ tịch huyện) và đề tài chiến đấu (Họ sống và chiến

đấu, Đường trong mây, Ra đảo, Chiến sĩ).

Và gắn liền với hai đề tài này là hai cách nhìn con người và cuộc sống,

hai sự thể nghiệm nghệ thuật của ngòi bút miêu tả và phương pháp xây dựng

nhân vật khác nhau.

Khi viết về nông thôn, Nguyễn Khải thường để mắt nhiều hơn đến

những khía cạnh còn chưa hoàn chỉnh con người và cuộc sống, để phê phán,

góp phần xây dựng một nông thôn hoàn toàn đổi mới. Ở đây, anh thường tỏ

ra sắc sảo và nhạy bén, luôn luôn phát hiện ra được những vấn đề mới nhất

Page 160: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

và thường viết theo cách đặt vấn đề, do đó mà toàn bộ các yếu tố khác cấu

thành tác phẩm, như cốt truyện, tình tiết, chi tiết và nhất là nhân vật, đều buộc

phải chuyển động xung quanh một vấn đề mấu chốt, nói đúng hơn, đều xuất

hiện và phát triển hoặc kết thúc vai trò của mình theo yêu cầu của việc giải

quyết vấn đề mà tác giả đặt ra cho tác phẩm mình.

Trái lại, khi viết về những con người đang chiến đấu, nhà văn thường

cố gắng tìm ra những nét đẹp trong chiến sĩ ta để ca ngợi, biểu dương, ở đây

anh lại thường tỏ ra hiền lành, có phần như ít chú ý đến những vấn đề gay

cấn về mặt tư tưởng có thể xảy ra với người lính ngoài tiền tuyến; những con

người anh miêu tả ở đây thường hiện lên đơn giản, dễ hiểu. Đa số các tác

phẩm của anh về đề tài chiến đấu thường không có cốt truyện, hay đúng hơn,

cái cốt của những tác phẩm ấy thường là một chuyến đi, và xoay quanh

những con người và sự việc mà anh gặp trong chuyến đi ấy, Nguyễn Khải xây

dựng nên tác phẩm mình. Bởi vậy truyện thường ít tính chất hư cấu, điển

hình hóa, có đôi khi còn mang khá rõ dấu ấn của sự kiện thực. Và do đấy,

mặc dầu có lúc tác giả tự coi tác phẩm mình là tiểu thuyết, chúng ta vẫn thấy

đó có vẻ là một phác thảo ghi nhanh nhiều hơn. Và ở đây, nói chung ta cũng

không thấy tác giả nêu lên một vấn đề gì cụ thể, có chăng là một vấn đề lớn,

chung cho tất cả những tác phẩm cùng viết về đề tài này – đấy là chủ nghĩa

anh hùng cách mạng.

Thực ra thì việc nhà văn làm như vậy cũng là điều hợp lý. Bởi chưng,

mỗi con người chúng ta, khi phải sống trong những hoàn cảnh gay go ác liệt

của cuộc chiến đấu, thường biểu hiện mình ra với những phẩm chất đẹp đẽ

nhất; lúc ấy chúng ta thường ít nghĩ đến những cái tầm thường, hay đúng

hơn những cái tầm thường bị một cái gì vô cùng lớn lao đẩy lùi về phía sau

một khoảng cách khá xa – đó là sự sống còn – và sự sống còn này không

phải chỉ của một cá nhân hay thậm chí một tập thể, mà là sự sống còn của cả

một dân tộc, sự sống còn của một nòi giống, một đất nước. Và vì sự sống còn

đó, người chiến sĩ sẵn sàng hy sinh cuộc đời mình, hy sinh tất cả. Vậy nên

việc ca ngợi ở đây là rất đúng, là cần thiết, là không thể nào thiếu được, và

Page 161: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

người viết cũng không việc gì phải tốn công vô ích để hư cấu những tình tiết

phức tạp, những cuộc đấu tranh tư tưởng gay go, những sự dằn vặt nặng nề

trong việc lựa chọn giữa sự sống và cái chết để gán cho người lính: các chiến

sĩ ta quan niệm về sự sống và cái chết giản dị hơn nhiều – sống là để chiến

đấu và chết cũng chỉ vì sự thắng lợi của cuộc chiến đấu mà thôi.

Còn ngược lại, khi con người sinh hoạt trong hoàn cảnh hòa bình thì

khác. Lúc đó người ta không phải dễ gì mà nhận ra ngay được, như trong

chiến đấu, cái mục đích và cái lý tưởng, mà vì nó mình có thể hy sinh cả, có

thể quên hết bản thân. Cho nên ở đây, nếu con người không tự vạch cho

mình một lý tưởng sống rõ ràng, một kỷ luật sống nghiêm khắc thì rất dễ trở

thành cá nhân, ích kỷ, tham ô, địa vị. Cuộc sống đã cho chúng ta những ví dụ

cụ thể và sinh động biết chừng nào! Cho nên ở đây, việc Nguyễn Khải thường

nhìn thấy mặt nhược điểm nhiều hơn, âu cũng là một điều dễ hiểu.

Chỉ có điều làm ta suy nghĩ là, tại sao khi viết về nông thôn, nói rõ hơn,

khi miêu tả những mặt còn tồn tại trong đời sống, thì ngòi bút nhà văn lại sinh

động, sắc sảo và thuyết phục hơn khi anh viết những tác phẩm ca ngợi con

người mới, xã hội chủ nghĩa? Phải nói thêm ngay ở đây là, kể cả những tác

phẩm khẳng định trong lĩnh vực nông thôn, như các truyện vừa Gia đình lớn

và Những người vui vẻ cũng vậy. Ở đây ngòi bút tác giả tự nhiên trở thành

nhạt nhẽo, mòn và có khi còn giả tạo nữa? Tất nhiên, chắc không phải là nhà

văn chưa yêu hết lòng mình cuộc sống mới và con người mới; có chăng chỉ là

vì anh chưa hiểu hết những gì tốt đẹp ở những con người và cuộc sống ấy

mà thôi.

***

Cho đến nay, trong việc phê phán những mặt còn tồn tại ở nông thôn,

Nguyễn Khải vẫn được coi là một cây bút xuất sắc, dám mạnh dạn đi vào cái

cốt lõi của cuộc sống là vấn đề đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con

đường qua từng giai đoạn: từ sau Cải cách ruộng đất đến bước xây dựng nếp

Page 162: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

làm ăn tập thể và cao hơn nữa, đến việc quản lý và lãnh đạo cái nếp làm ăn

tập thể ấy.

Để nắm cho được và tìm cho ra cái gì là cơ bản, là mạch máu chính

chảy xuyên suốt cuộc sống muôn hình nghìn vẻ của nông thôn qua những

thời kỳ chuyển biến, không phải là một việc làm đơn giản, và nó càng không

đơn giản hơn, khi nhà văn phải theo sát từng bước đi của đời sống mà phát

hiện dần ra cái mạch máu chính ấy, chứ không phải đã có điều kiện dừng lại

lâu để suy nghĩ, đứng từ xa mà nhìn lại chặng đường vừa qua như một quá

khứ, để có thể có một tầm khái quát mà rút ra cái quy luật cơ bản chi phối

cuộc sống trong thời gian ấy.

Phải là người có công phu nghiên cứu về nông thôn như Nguyễn Khải,

mới thấy được hết sự uyển chuyển của cuộc đấu tranh giai cấp ở đây. Chẳng

hạn, vẫn là cái đầu óc tư hữu và tính hẹp hòi của người nông dân ở một nước

nông nghiệp lạc hậu, nhưng vào thời kỳ Cải cách ruộng đất thì nó chưa biểu

hiện ra như một nét phản diện: ở đây người nông dân được chia ruộng đất,

quyền lợi chính đáng của họ được thỏa mãn và họ thanh thản đi vào cuộc

đấu tranh với bọn địa chủ và bọn phản động đội lốt tôn giáo. Nhưng, khi đi

vào cuộc sống làm ăn tập thể, thì cái đầu óc tư hữu của họ bị va chạm mạnh,

họ phải đấu tranh rất gay go mới theo được nếp sống mới, thậm chí trong khi

hợp tác xã tiến lên cấp cao, cái đầu óc tư hữu ấy vẫn còn cố phát huy tác

dụng của mình bằng cách chăm lo vun quén cho cái tập thể nhỏ bé của mình

là hợp tác xã, đối lập sở hữu tập thể này với sở hữu nhà nước, có lúc vì lợi

ích của cái tập thể nhỏ bé ấy mà hy sinh cái lợi ích có tính chất chung hơn,

tưởng như là ít liên quan trực tiếp đến mình hơn – là lợi ích của nhà nước. Và

lại vẫn cái đầu óc tư hữu của người nông dân ở một nước nông nghiệp lạc

hậu ấy đã hạn chế không ít tầm nhìn của một số người lãnh đạo, biểu hiện

trong lối làm ăn cò con, sợ những cái mới, cái lớn, sợ thiệt đến bản thân, lo

cho sự ở ăn đầy đủ của cá nhân mình hơn là của bà con trong hợp tác.

Page 163: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Có thể nói, qua các tác phẩm của Nguyễn Khải, chúng ta thấy được

một cách khá rõ ràng và sinh động những tình hình đó. Về mặt này, ngòi bút

Nguyễn Khải tỏ ra sắc sảo.

Chúng ta thấy có không ít các nhà văn cũng viết về đề tài nông thôn,

nhưng không mấy người dám mạnh dạn đi vào cái vấn đề cốt tử ấy. Nói

chung nhiều người còn ngại, nên thường hướng về những đề tài sinh hoạt,

những cái có thể đem lại cho bạn đọc một niềm vui thanh thản hơn là một sự

dằn vặt, nghĩ ngợi.

***

Thế nhưng, phải nói ở một khía cạnh khác, chúng ta thấy trong phong

cách Nguyễn Khải có một nét làm cho phải suy nghĩ: có phải nhà văn đã giữ

một thái độ hơi quá khách quan, lạnh lùng đối với những gì anh miêu tả? Anh

có vẻ ít chú ý đến con người, hạt nhân của hình tượng nghệ thuật. Nếu ai đã

từng đọc anh chắc đều nhận thấy cái điều rõ ràng này: Nguyễn Khải thường

xây dựng tác phẩm mình không phải trên cơ sở của những hình tượng mà

trên cơ sở của vấn đề, một vấn đề được định ra từ trước khi tác phẩm hình

thành. Hình như, với đầu óc thông minh và cách nhìn sắc sảo của mình, nhà

văn đến với con người và cuộc sống trước tiên bằng lý trí, bằng sự phân tích

mổ xẻ để tìm ra cội nguồn và những lý do tồn tại của nó, chứ không phải bằng

tình cảm yêu-ghét, bằng trái tim. Nói một cách khác, anh luôn luôn bắt mình

phải tìm cho ra những vấn đề có tác dụng chi phối đối với con người và cuộc

sống, rồi anh lo giải quyết cho được những vấn đề đã tìm ra đó, chứ anh ít

quan tâm đến việc làm sao bằng những hình tượng sống, bằng những con

người có thịt có da, có cuộc đời riêng gắn bó chặt chẽ với cuộc đời chung của

toàn xã hội, dựng lại bức tranh nghệ thuật sinh động, và từ bức tranh đó tự nó

toát ra cái điều anh muốn nói, cái vấn đề anh muốn đặt ra và giải quyết. Vì

thế, ta có cảm giác như nhiều khi các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn

Khải mới chỉ là những con-người-chịu-sự-điều-khiển, chứ chưa phải là những

con-người-tự-mình-làm-chủ-mình. Có thể nói, ở đây chúng ta ít tìm thấy

Page 164: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

những hình tượng nghệ thuật hoàn chỉnh; sự phát triển của tính cách các

nhân vật thường được quyết định bởi sự cần thiết phải kết thúc vai trò của họ

ở đoạn này hoặc đoạn kia trong tác phẩm để phục vụ cho việc giải quyết vấn

đề mà nhà văn đặt ra. Đấy chính là cơ sở cho cái mà chúng tôi gọi là thái độ

có phần nào lạnh lùng của Nguyễn Khải đối với những con người mà anh

miêu tả. Giữa anh và họ bao giờ cũng có một khoảng cách, khoảng cách khá

xa, và một quan hệ hoàn toàn lý trí. Hình như chúng ta ít thấy anh cùng vui

buồn, sướng khổ với nhân vật mình, như các nhà văn lớn xưa nay thường

trải. Qua nhiều trường hợp mà chúng ta gặp trong sáng tác của anh (như với

các nhân vật Môn, Thụy, Nhàn trong Xung đột, Khôi trong một số truyện ngắn

về nông trường Điện Biên, Như trong Chủ tịch huyện, v.v…) mà chúng tôi đã

có dịp phân tích, ở đây xin miễn nhắc lại”, thì ta thấy Nguyễn Khải có nhiều

khả năng lạnh lùng để cho một nhân vật có thể trở thành rớt trượt xuống

những vực thẳm đáng sợ của lỗi lầm, hơn là có đủ nhiệt tình và lòng thương

để đưa tay dìu họ vượt lên trên những thói hư tật xấu, nâng bước họ đi, giúp

cho họ đạt tới cái đỉnh cao của vẻ đẹp lý tưởng mà trong họ vốn có, nhưng họ

không đủ khả năng để tự nhận ra và nhà văn có nhiệm vụ phải phát hiện cho

bằng được.

Có người cho rằng, vì Nguyễn Khải hay viết về những mặt phản diện

còn tồn tại trong cuộc sống, nên không hề vừa lòng những ai chỉ thích một sự

nhẹ nhàng, bay bổng. Nhưng theo chúng tôi nghĩ thì điều quan trọng trong

nghệ thuật không chỉ là ở chỗ người cầm bút phản ánh cái gì, mà là phản ánh

như thế nào, nghĩa là người cầm bút có thái độ như thế nào đối với những gì

anh miêu tả. Chắc mọi người chúng ta ai cũng nghĩ rằng, dù phản ánh mặt

tốt, mặt tích cực, hay mặt xấu, mặt tiêu cực, thì mục đích cuối cùng của nhà

văn vẫn chỉ là để làm cho cuộc sống và những con người chúng ta ngày càng

đẹp hơn lên, chứ không phải phản ánh để mà phản ánh, phản ánh một cách

khách quan chủ nghĩa, trong đó người viết không cần tỏ rõ thái độ của mình:

ca ngợi hay phê phán, xây dựng hay phá bỏ. Nguyễn Khải không phải là

người hoàn toàn như thế. Chỉ có điều, tuy anh có phê phán, nhưng đôi khi

Page 165: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

còn chưa triệt để (trường hợp nhân vật Tuy Kiền trong Tầm nhìn xa và Khôi

trong một số truvện ngắn về nông trường Điện Biên), tuy anh ngợi ca, nhưng

có lúc còn thiếu nhiệt tình, thậm chí còn có phần hời hợt và giả tạo (như nhân

vật Ngà trong Gia đình lớn, và các nhân vật Dĩnh, Khỏa, Ngọt trong Những

người vui vẻ). Bởi thế các nhân vật tích cực của anh thường ít thành công.

Có cái cần xây dựng và vun đắp vào thì anh lại lạnh lùng gạt bỏ đi (như

những nét tích cực trong tính cách các nhân vật Môn, Thụy, Nhàn trong Xung

đột, hay Khôi trong một số truyện ngắn về nông trường Điện Biên); ngược lại,

có những cái giá bỏ đi có lẽ tốt hơn, thì anh lại như cố tình giữ lại, thậm chí

còn tôn lên, tô đậm thêm mãi vào (như những nét tiêu cực cũng ở các nhân

vật trên) –tất cả chắc cũng chỉ vì anh muốn cho vấn đề anh nêu ra được hấp

dẫn hơn, sắc sảo và mạnh mẽ hơn mà thôi. Tất nhiên, việc sử dụng các thủ

pháp nghệ thuật, như cường điệu hóa hay đơn giản hóa, là thuộc quyền tự do

của nhà văn. Mặc dầu vậy, nhà văn phải sử dụng những thủ pháp thế nào

cho đúng và cho hợp lý. Chúng tôi không có ý cho rằng, khi miêu tả những

mặt tiêu cực, nhà văn không có quyền cường điệu hóa. Ngược lại, khi cần

thiết, chúng tôi còn đề nghị nhà văn phải sử dụng thủ pháp này để gây được

tác dụng phê phán mạnh mẽ hơn trong người đọc đối với hiện tượng tiêu cực

mà anh miêu tả. Song có điều này thì chúng ta phải khách quan mà công

nhận: nếu một nhà văn trong quá trình sáng tác của mình mà thường chỉ miêu

tả được sinh động những nhân vật tiêu cực, còn khi viết về những nhân vật

tích cực, những con người mới, những anh hùng thì lại chưa hay – thì như

vậy có lẽ nhà văn ấy cũng nên suy nghĩ.

Một bạn làm công tác phê bình đã viết về Nguyễn Khải: “Có thể rằng

trong lĩnh vực văn xuôi sự tỉnh táo thường mang lại nhiều thành công hơn”.

Nhưng vấn đề là ở chỗ, có phải ở nhà văn Nguyễn Khải chỉ là một sự tỉnh táo

thường tình mà người cầm bút nào cũng cần có hay không? Và có phải chỉ

người viết văn mới cần sự tỉnh táo? Theo chúng tôi quan niệm thì hơi khác,

chúng tôi nghĩ rằng, đối với tất cả những người cầm bút, dù là nhà thơ hay

nhà văn, đều đòi hỏi sự say mê và tỉnh táo như nhau, nhưng tỉnh táo đến mức

Page 166: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

độ nào và say mê đến mức độ nào, vấn đề là ở đấy. Đừng vì quá say mê mà

mất cả khách quan, và cũng đừng tỉnh táo quá đến mức lạnh lùng, khách

quan chủ nghĩa, trở thành người ngoài cuộc. Dù là nhà văn hay nhà thơ thì

sự mù quáng hay lạnh lùng đều đáng kỵ. Không phải cứ là nhà văn thì có thế

tỉnh hơn, còn là nhà thơ thì phải say hơn đâu. Nếu quan niệm như vậy, chúng

ta sẽ chẳng bao giờ có được những tác phẩm văn xuôi đốt cháy lòng người,

mà sẽ chỉ có những trang sách dạy đời khô khốc.

Trở lại Nguyễn Khải, rất có thể, trong lòng anh tràn đầy tình cảm yêu

thương đối với những con người anh miêu tả, nhưng phải chăng anh đã cố

tình kìm giữ lại để có được một thái độ thật khách quan, hay như anh nói, “sự

say mê, sự đắm đuối” ở anh “bao giờ cũng có chừng mực, lại được giấu dưới

cái vỏ ngoài bình thản lạnh lẽo” (chúng tôi nhấn mạnh – C.N.). Rất có thể là

như thế, và chúng tôi cũng chỉ mong rằng điều đó thực sự là như thế. Song

giữa nhiều trường hợp mà chúng tôi gặp trong sáng tác của anh, thì Nguyễn

Khải không hẳn là người chỉ có cái vẻ lạnh lùng, bình thản bề ngoài. Có lúc ta

bắt gặp anh biểu hiện mình rõ ràng có phần tàn nhẫn.

Chẳng hạn như thái độ của anh ở đoạn anh miêu tả đứa con trai Tuy

Kiền: vừa giễu cợt lại vừa châm biếm. Mà theo chúng tôi nghĩ thì một thái độ

phê phán như thế chắc chắn sẽ chẳng đạt được kết quả tốt đẹp nào, có

chăng là chỉ đẩy nhân vật ngày càng xa chúng ta hơn và càng gần lại với cái

vực thẳm tội lỗi. Theo tôi nghĩ, khi phê phán, hơn lúc nào hết, nhà văn phải tỏ

rõ sự chân thành, tình thương và lòng nhân đạo đối với con người. Bởi vì chỉ

có bằng cách ấy người cầm bút mới mong thuyết phục được họ đi theo con

đường mà anh vạch ra.

Cho nên rút lại vẫn là: trong sáng tác, yêu cầu phản ánh cái gì phải

được kết hợp với yêu cầu phản ánh như thế nào, và bạn đọc chúng ta cũng

không khi nào vô lý đến mức đi đòi hỏi nhà văn phải viết về những đề tài này

mà không được viết về những đề tài khác; hay phê phán họ, tại sao lại chỉ

phản ánh những mặt tiêu cực mặt xấu, mà không phản ánh mặt tốt, mặt tích

Page 167: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

cực của cuộc sống và con người. Chúng ta chỉ mong người cầm bút làm sao

có được sự chân thành và sáng suốt khi ca ngợi, cũng như khi phê phán. Cao

hơn một mức, chúng ta muốn rằng, người cầm bút trong chế độ ta, hơn ai

hết, sẽ là những con người biết yêu và biết tin ở con người, tin vào tương lai

và những ước mơ cao đẹp rất thực và có cơ sở hiện thực ở họ. Nhưng muốn

vậy, người cầm bút lại phải hết sức say mê. Bởi vì, thực ra, nếu chỉ dùng con

mắt tỉnh táo, sắc lạnh mà nhìn mọi thứ, thì vô tình nhà văn đã bỏ qua mất bao

nhiêu vẻ đẹp mà chỉ khi say mê ngưòi ta mới thấy. Và như vậy cũng có nghĩa

là: người cầm bút đã tự mình tước bỏ mất của ngòi bút mình cái quyền tưởng

tượng, cái yếu tố lãng mạn cách mạng, mà nhờ nó tác phẩm mới có được đôi

cánh, nâng tâm hồn ta lên những đỉnh cao của cuộc đời.

***

Tuy nhiên, không phải bao giờ chúng ta cũng chỉ gặp có một Nguyễn

Khải lạnh lùng, tỉnh táo và sắc sảo như vậy. Chúng ta cũng đã từng gặp anh,

nhân hậu, say mê mà vẫn không kém phần sắc sảo trong tập Mùa lạc nổi

tiếng và trong một số truyện ngắn khác của anh, viết về nông trường Điện

Biên như: Hãy đi xa hơn nữa, Nguồn vui (in ở tập Hãy đi xa hơn nữa) và Một

cặp vợ chồng (in ở tập truyện cùng tên), trong truyện vừa Người trở về và

phần nào trong cả tập bút ký Họ sống và chiến đấu. Nhưng không phải vì ở

đây nhà văn đã không nói đến những mặt xấu, những nét tiêu cực còn khá

phổ biến trong xã hội hiện nay, mà ngược lại ở đây chúng ta vẫn gặp những

con người mà tàn dư của xã hội cũ đã hủy hoại tâm hồn làm cho họ trở nên

xấu xí cằn cỗi (như Đào trong truyện ngắn Mùa lạc và em Tấm trong Đứa con

nuôi), hay đẩy họ đến những lầm lạc của chủ nghĩa cá nhân đủ loại (như Nam

trong Hãy đi xa hơn nữa, Giao trong Một cặp vợ chồng, v.v…). Nhưng ở đây

tấm lòng nhân đạo của nhà văn đã không cho phép anh bỏ mặc họ trôi nổi

trong dòng đời rồi phiêu bạt đến đâu thì đến, mà anh đã cố gắng vạch ra cái

bản chất đẹp đẽ vốn có trong họ, nhưng lâu nay bị bụi đời và thời gian phủ

kín, để đưa họ trở lại với chính bản thân mình. Cũng có thể vì nhà văn ở đây

như một người lao công kiên trì và nhẫn nại, cẩn thận lau từng hạt bụi bám

Page 168: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

trên những tấm gương mờ cũ để cuối cùng những tấm gương ấy lại sáng lên,

lại phản chiếu được những sắc màu tươi mới. Và điều quan trọng nhất ở đây

là, tác phẩm Nguyễn Khải đã gây được cho ta lòng yêu cuộc sống một cuộc

sống mới với những con người mới đầy tính nhân đạo cộng sản và niềm lạc

quan trong sáng, đang nảy nở và bám rễ trên một mảnh đất vừa giàu đẹp,

vừa anh hùng của Tổ quốc là Điện Biên Phủ.

Ngay ở một những nhân vật tiên tiến như Khang (trong Người trở về)

chúng ta cũng vẫn gặp những nét lạc hậu. Nhưng tác giả không tô đậm

những nét ấy lên, biến nó thành nét chủ yếu trong tính cách của nhân vật

mình, mà ngược lại anh đã tạo mọi điều kiện để nhân vật tự vụt lên trên bản

thân mình, trở thành một con người mới thật sự.

Chúng ta mong muốn lúc nào cũng được thấy nhà văn Nguyễn Khải

say mê và yêu người như thế, để với con mắt tinh đời và sắc sảo của anh,

anh sẽ đóng góp cho văn xuôi đương đại những tác phẩm vừa rất hiện thực

mà cũng vừa rất nhân đạo.

HỒ PHƯƠNG và cuộc sống mớiHồ Phương là nhà văn thuộc thế hệ trẻ của giai đoạn văn học kháng

chiến chống Pháp, là chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô, sung vào đội quân “văn

nghệ bộ đội”, được đón chào nồng nhiệt với các sáng tác đầu tay như Lưỡi

mác xung kích và nhất là Thư nhà (1948). Thế hệ người viết chuyên nghiệp,

đàn anh của văn nghệ kháng chiến lúc này như Nam Cao, Nguyễn Huy

Tưởng, Tô Hoài, Trần Đăng đã đón mừng hình ảnh những “anh lính mới” của

Hồ Phương, Siêu Hải với biết bao yêu mến, tin tưởng!. Cố nhiên, trong đôi lời

bình của một vài người viết văn lúc này cũng còn có chút ít “bốc”, chưa thấy

hết hoặc bỏ qua những nhược điểm khá rõ trong các sáng tác của lớp trẻ.

Thời gian và công chúng rồi đây sẽ còn tiếp tục làm một cuộc sàng lọc

chặt chẽ, và lúc ấy mới là chắc chắn. Thư nhà của Hồ Phương sẽ là một

trong số sáng tác hiếm hoi của lực lượng trẻ, được trân trọng giữ lại.

Page 169: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Kể cũng xứng đáng. Hiếm có một truyện ngắn đầu tay của một cây bút

trẻ không chuyên, vào một buổi đầu còn rất lắm bỡ ngỡ của văn học cách

mạng, lại có được cái vẻ chín, nhuyễn cả về nội dung và nghệ thuật như Thư

nhà. Thiên truyện, đứng bên cạnh những Đôi mắt của Nam Cao, Làng của

Kim Lân, quả không lép chút nào. Chỉ thiếu một sáng tác về công nhân nữa là

đủ cho ta có một bộ “tứ bình” hoàn chỉnh về công- nông - binh - trí thức đi vào

cách mạng. Với Thư nhà anh bộ đội đã có thể chững chạc đi vào văn học

sớm hơn nhiều lớp người khác, với tất cả dáng vẻ riêng của nó, và qua anh,

thấy in rõ cả dấu ấn của một thời kỳ đầu vẻ vang, gian khổ của cuộc kháng

chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ… Anh ta đang làm cái công việc chuẩn

bị cho những đội quân “xung kích”, bước vào các chiến thắng lớn, mấy năm

sau.

Thiên truvện chặt chẽ, xúc động. Anh bộ đội ở đây không được miêu tả

trên nền cảnh chiến đấu, hoặc chuẩn bị chiến đấu, vốn là nền cảnh quen

thuộc mà nhiều người viết lúc này đều tập trung miêu tả, như trong Voi đi,

Trận Phố Ràng, Một cuộc chuẩn bị, Hành quân chiến đấu, Hành quân trú

quân… Hồ Phương đặt anh trong những thử thách khác, đó là những khó

khăn, những mất mát riêng của bản thân trong buổi đầu gian khổ của phong

trào: làng quê bị tàn phá, gia đình tan nát, người yêu bị hiếp, bố mẹ không

còn… để quan sát những “phản ứng” của tâm hồn anh. Và kết quả thật đáng

ngạc nhiên, khi chúng ta có dịp đặt mình trở lại vị của số đông người viết,

người đọc lúc bấy giờ: hoàn cảnh rất đáng bi quan, nhưng nhân vật lại không

tỏ ra có một vẻ phức tạp, giả tạo nào, một sự “phức tạp” rất có thể diễn ra nếu

người viết “đa cảm” một chút. Trái lại, bằng một bút pháp chân thật, tự nhiên

mà không sơ lược, Hồ Phương cho thấy tất cả vẻ đẹp tâm hồn, cái khả năng

con người có thể vượt qua mọi đau khổ riêng tư, để vươn lên, làm tròn nhiệm

vụ. Lâu sau, người đọc vẫn không sao quên cái đoạn Hồ Phương kết thúc

câu chuyện bi thương trong đời riêng và gia đình anh chiến sĩ đó, với cái

khung cảnh, trên đầu “ngôi sao mai vàng óng đã hiện lên trên nền trời sang

như bạc phía đông”, khi anh chia tay người yêu ra đi và bây giờ, lúc trở về

Page 170: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

đơn vị, đôi bạn gác chân lên nhau, chuyện nhà vừa kể xong, đã lại “chuyển

sang chuyện Bắc Cạn giải phóng lúc nào không biết”… rất “ý tại ngôn ngoại”.

Rõ ràng là bằng vào sự sống và vào tình cảm trong sáng, lạc quan, mà Hồ

Phương co thể nắm được cái thần cơ bản của nhân vật, nó khiến cho Thư

nhà dễ dàng tránh được một sự phức tạp giả tạo, hoặc một sự sơ lược dễ

dãi, là hai phía thường dễ rơi vào, đối với không ít sáng tác lúc này.

Thư nhà ghi một cái mốc của văn học kháng chiến, và có khả nặng đưa

Hồ Phương vào cùng vị trí những người mở đầu của văn học kháng chiến.

Thế nhưng sau Thư nhà, bẵng đi khá lâu, có dễ hàng chục năm sau,

Hồ Phương mới lại gây được sự chú ý cho người đọc. Quãng cách khá dài đó

làm cho người đọc nghĩ về anh như là nhà văn của những năm hòa bình. Và,

cũng khác với Thư nhà, các sáng tác sau này của Hồ Phương it gây được

một ấn tượng đột ngột như lúc đầu. Anh đến với người đọc dần dà, trong một

nhịp đi cần mẫn, đều đặn, có phần chậm chạp…

***

Những năm sáu mươi mới thực là những năm sôi nổi trong sáng tác Hồ

Phương. Anh viết dễ dàng và nhanh về mọi loại đề tài. Dường như mọi giai

đoạn lớn của đời sống cách mạng đều có bóng dáng trên sáng tác của anh.

Cuộc kháng chiến chống Pháp, trên những nẻo đường đất nước, người chiến

sĩ, người dân tản cư miền xuôi, miền ngược, và đặc biệt là cảnh và người Hà

Nội những ngày đầu kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Hòa bình lập lại với

những xáo trộn trong đời sống những “trông tìm” và mất mát những, “câu

chuyện gia đình” ít nhiều rắc rối, những gặp gỡ vui sướng hoặc bẽ bàng của

người ra đi kẻ ở lại… Cuộc sống mở đầu thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội

trên miền Bắc nơi một “xóm mới”, hoặc một nông trường, và nhất là con

đường phấn đấu đi lên chính quy hiện đại của người lính thuộc mọi binh

chủng. Bước vào kháng chiến chống Mỹ, cùng với Nguyễn Khải, Hồ Phương

có ngay cho bạn đọc những trang nóng hổi về Cồn cỏ, đúng vào khi họ đang

nao nức chờ đợi; và từ đấy, với quãng cách đều đặn, anh tiếp tục cho ra đời

Page 171: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

các chân dung về Nguyễn Viết Xuân, Kan Lịch, Lê Mã Lương… Hướng về

hậu phương, anh không quên tiền tuyến, và sau một đợt đi chiến trường, anh

đã có thể tranh thủ cho ta sống cái không khí Huế trở lại mùa xuân (1971), và

nói cho ta biết về Số phận Lữ dù 3 Sài Gòn (1971)…

Có khả năng đáp ứng nhanh những yêu cầu của thời sự, của người

đương thời, sự chuyển biến không tỏ ra có gì nhọc mệt với sự thay đổi của đề

tài, về những “đơn đặt hang” của xã hội, sự có mặt đều đặn trên diễn dàn

sáng tác… bấy nhiêu điều đó khiến cho Hồ Phương luôn gây được sự chú ý,

yêu mến của bạn đọc.

Vả chăng không phải chỉ có đề tài. Nói Hồ Phương, người ta có thể

nghĩ đến không ít đề tài anh tỏ ra quen thuộc và có khả năng đem lại cho

người đọc những hiểu biết và cảm xúc nhất định. Anh có nhiều kỷ niệm sâu

về Hà Nội: một “tiếng hát” sau một dãy nhà đổ, tượng trưng cho sức sống bất

diệt của Thủ đô; “một gian nhà cũ” luôn gợi cho người sau những kỷ niệm về

những người thân yêu đã khuất cho cuộc sống tươi đẹp bây giờ; một “viên

đạn cuối cùng” gợi nghĩ về một sự thay bậc đổi ngôi khi tiếng súng nổ ran trên

đường phố… Viết về chiến tranh, anh có những trang sôi nổi mà đầy chất

thơ. Cuộc sống người dân tản cư, một vùng xa Hà nội, với tất cả vất vả, lo

toan mà lạc quan của nó, ngày nọ dệt vào ngày kia, cho thấy sức chịu đựng

bền bỉ của nhân dân ta trong kháng chiến trường kỳ,.. Người chiến sĩ quân

đội nhân dân cũng là hình ảnh đậm đà trên nhiều trang viết của anh, có điều

họ không hiện lên trên màu đỏ, sắc lửa của chiến đấu như Nguvễn Huy

Tưởng, Trần Đăng, Hữu Mai… mà trên nền xanh của xây dựng hòa bình–đó

là nền xanh “trên biển lớn”, và nhất là nền xanh “cỏ non” bát ngát của nông

trường,

Nói đến Hồ Phương, căn bản là nói đến một ngòi bút dồi dào nhiệt tình

ca ngợi. Đặc sắc này bộc lộ rõ và khá tập trung trên một số truyện trong các

tập cỏ non (1960), Xóm mới (1963), Trên biển lớn (1964), ra đời trong không

Page 172: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

khí sôi nổi của mùa gặt văn xuôi bước vào những năm sáu mươi. Nhạy bén

với cái mới, anh thiên về khẳng định những mặt tốt đẹp của cuộc đời.

Có lẽ đó là một chủ trương của anh chăng? Một chủ trương dựa trên

cơ sỏ nhìn rõ vào khả năng, sở trường của bản thân mình. Là vì người đọc

thấy anh không thành công lắm khi đi vào những mặt rắc rối, phức tạp của

cuộc sống. Trong Câu chuyện một gia đình, nói về một cuộc đoàn viên sau

chín năm kháng chiến của một gia đình Hà Nội “cũ”, Hồ Phương muốn cho ta

thấy tất cả sự rắc rối, lủng củng khi người ta không cùng chung một tư tưởng,

không đi cùng một con đường. Nhưng cái rắc rối có thực đó của đời sống lại

hiện ra trong tác phẩm một cách không tự nhiên chút nào; nó có một vẻ bố trí,

gượng gạo. Người đọc thấy tác giả đã viẽt quá sơ lược về một vấn đề phức

tạp. Trong Trông tìm, tác giả chừng như cũng muốn hứa hẹn với ta một câu

chuyện xúc động, nhưng toàn thiên truyện lại dựa trên một tình huống ngẫu

nhiên, nên không tránh khỏi một sự sắp xếp, nó gây cho ta một ấn tượng giả

tạo, mất đi khá nhiều sự xúc động đáng lẽ có được.

Rõ ràng khi đi vào các tình huống phức tạp, hoặc đi vào các uẩn khúc

rắc rối của tâm lý con người, ngòi bút Hồ Phương thường tỏ ra sơ lược, hoặc

muốn tránh sơ lược thì lại đi vào “phức tạp hóa” nó một cách vụng về. Có lúc

do “Không nắm vững đối tượng mô tả, sáng tác của anh còn đi xa hơn. Trong

Những đứa con và những người cha khi so sánh cái chết của hai người cha,

– một tên sĩ quan viễn chinh Đơ-vô-rét tàn bạo và một chiến sĩ du kích của ta

– để nói về sự mất mát của con người trên hai phương trời khác nhau… Hồ

Phương đã nhân dịp đó mà để cho nhân vật nghĩ rộng ra về những điều “khó

hiểu”: sao một thằng giặc như vậy “cũng biết yêu vợ con”; không hiểu trên các

hành tinh xa xôi có loài người không, còn trên đời này thì các người cha lại

bắn giết nhau và những đứa con thì đều đau khổ (!). Rõ ràng ở đây sự “đa

cảm” của nhà văn thật là không cần thiết và không đúng chỗ, còn suy nghĩ

của anh thì cũng quá ư mơ hồ, nếu không nói là có ít nhiều lệch lạc.

Page 173: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Tuy vậy, có điều may mắn là những truyện như thế chỉ như ngẫu nhiên

lạc vào sáng tác của anh; nó cộm lên một vẻ xa lạ với phong cách quen thuộc

của anh. Phần chính thì vẫn là những truyện anh đi vào những mặt bình

thường, tươi sáng của cuộc đời, những tình cảm hồn hậu, lành mạnh của con

người, những khung cảnh tươi sáng, giàu chất thơ…

Nhưng không chủ trương – hoặc không có sở trường – đi vào những gì

rắc rối, phức tạp, không có nghĩa là sơ lược. Trên hai tập Cỏ non, Xóm mới,

khi mô tả tấm lòng người chiến sĩ nông trường yêu công việc, gắn bó với đàn

bò mình chăn dắt (Cỏ non), hay tấm lòng cô gái ngoại kiều xa Tổ quốc trở về,

tìm được tình yêu quê hương trong tình yêu đồng chí (Xóm mới), ngòi bút Hồ

Phương cũng đã tỏ ra có khả năng mô tả những diễn biến tinh tế của tâm hồn

con người.

Đọc anh, còn có nhiều trang hóm hĩnh tươi vui. Ghi lại cuộc chiến đấu

“trên đồi cháy”, anh phác mấy nét mà làm ta nhớ mãi hình ảnh một chiến sĩ có

tên là anh Nuôi. “– Rõ! – Bao giờ Nuôi cũng chỉ đáp lại tất cả lời dặn dò hoặc

mệnh lệnh của cấp trên bằng một tiếng ngắn ngủi, giản dị ấy (…) – Báo cáo,

được, tôi làm được! Báo cáo, đã làm người chiến sĩ thì dẫu có khó khăn…

(…) – Báo cáo, thật ra thì có lúc nó “tấn” mạnh quá cũng hãi, nhưng thiết

nghĩ, mình đã làm người chiến sĩ thì nhiệm vụ dù khó khăn đến đâu… Anh

vẫn chỉ có bằng ấy lời, bằng ấy ý…”. Ở đây, đằng sau cái cười tinh nghịch là

một tấm lòng đôn hậu. Đặc biệt, ngòi bút đó cũng đã có lần đi vào mô tả trực

diện một cuộc đấu tranh giữa mới và cũ, trong các lực lượng võ trang, trên

con đường phấn đấu đi lên chính quy, hiện đại. Đó là truyện ngắn Trường

hợp đồng chí Hạp, một truyện ngắn hay, trong tập Trên biển lớn, và có thể

cũng nên kể ra đây tỉ mĩ hơn một chút là vì nó phát hiện cho ta thấy một nét

mới cũng nên phát triển trong phong cách Hồ Phương. Tiểu đoàn trưởng Hạp

là nhân vật đại diện cho cái mới đầy nhiệt tình, khí thế, nhưng cũng còn một

số nhược điểm như hay nóng gắt, chưa mềm dẻo khiến cho các phần tử tiêu

cực có thể lợi dụng bám vào, khuếch to ra làm cho anh có lúc bị động bó tay,

không phát huy được tác dụng. Chính trị viên Mịch là người có tinh thần ủng

Page 174: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

hộ cái mới, nhưng cũng có lúc bối rối, vì bị bao vây trong hỏa mù. Thiên

truyện diễn biến trên cái nền của một cuộc đấu tranh của tập thể làm cho

sáng rõ mới cũ, đúng sai. Nhìn mặt tiêu cực, Hồ Phương cũng có con mắt

tinh; các khía cạnh tinh vi của chủ nghĩa cá nhân, những lẫn lộn giữa thực và

giả lắm khi cũng khó lọt qua mắt anh. Dẫn ra đây một đoạn vui vui:

Hạp đề nghị Bàn phản ánh cho biết khuyết điểm mình. Hạp gặng.

–Không! Quả thật không có vấn đề gì đâu! Chúng tôi vẫn nói với nhau:

Từ khi đồng chí Hạp về đây, chính chúng tôi cũng tiến lên nhiều lắm.

Khuôn mặt Hạp lại ửng đỏ. Tuy vậy, anh vẫn cố gặng:

–Nhưng xem ra có người cũng không thông cảm với tôi lắm, ví dụ như

đồng chí Lanh.

–À! Báo cáo đồng chí, Lanh thì… tính cậu ấy vẫn thế. Tôi cũng đã

nhiều lần lấy chỗ anh em giúp đỡ cậu ấy, tôi bảo: chúng mình phải biết phục

thiện, tiếp thu cái mới…

Hạp gật gù. Suy nghĩ mấy giây, anh đột ngột hỏi thêm:

–Theo ý đồng chí, tôi có nôn nóng, có… thiếu dân chủ không?

–Tuyệt đối không! Chúng tôi rất thích lối làm việc nghiêm chỉnh, dứt

khoát của đồng chí là đằng khác. Nếu gọi là khuyết điểm thì xin thành thật nói:

đồng chí rất ít chú ý giữ gìn sức khỏe. Nom đồng chí thế này nhưng chưa

chắc đã dai sức bằng tôi đâu”.

Nhưng loại truyện như Trường hợp đồng chí Hạp rất hiếm hoi trong

sáng tác của Hồ Phương. Chỉ xuất hiện một lần, thế thôi. Càng về sau này,

khi đi vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, Hồ Phương càng chuyển mạnh sang

hướng viết về các anh hùng. Và rồi dần dần hình thành hẳn ở anh một dòng

viết: dòng viết về người thực, để khẳng định, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng

cách mạng trong cuộc chiến đấu của chúng ta.

***

Page 175: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Như vậy là bạn đọc đã có thể nói đến một hướng viết, nó như là sự

phát triển tự nhiên, một khuynh hướng đã có sẵn và đậm nét trong sáng tác

Hồ Phương: sự khẳng định, ca ngợi những cái mới, cái đẹp ở cuộc đời. Trong

điều kiện mới của cuộc chiến đấu chống Mỹ, sự ca ngợi cái mới, cái đẹp đã

tìm được miếng đất phát triển thuận lợi nhất trong hoạt động của những tập

thể hoặc cá nhân anh hùng có thực mà quần chúng đang nồng nhiệt đón

chào, ca ngợi. Chẳng phải là sự kiện Cồn cỏ, sự kiện Nguyễn Viết Xuân đã

từng làm nức lòng chúng ta khi miền Bắc bước vào chống Mỹ? Chẳng phải là

những tấm gương Kan Lịch, Lê Mã Lương đã được cả một thế hệ trẻ soi

chung khi đất nước đang đi vào cao trào của chủ nghĩa anh hùng cách mạng?

Hướng về cái mới của đời sống mà biết tìm đến các anh hùng, sự lựa chọn

đó quả đã có khả năng giúp cho Hồ Phương rút ngắn được không ít chặng

đường đi của mình.

Sau vấn đề chọn đề tài, có một khâu lựa chọn khác, tuy đơn giản,

nhưng đáng tiếc là đôi khi vẫn gây ra không ít “phức tạp”, đó là vấn đề chọn

thể loại: viết về người thực, việc thực, nhưng dưới hình thức nào?

Riêng đối với Hồ Phương, khâu chọn lựa này khá ổn, và do đó đã tránh

được cho anh không ít rắc rối. Ngoài Chúng tôi ở Cồn cỏ (1966), có tính chất

một hồi ký, ghi theo lời kể của nhân vật, các sáng tác khác viết về các anh

hùng của anh đều được xây dựng dưới hình thức truyện. Đó là một sự lựa

chọn dứt khoát. Anh dựng truvện, nghĩa là anh dành cho mình cái quyền cấu

tạo lại những sự thực ngoài đời. Nhưng trong hình thức truyện, anh vẫn giữ

nguyên tên thật của nhân vật, của địa phương, và nhìn chung, toàn bộ các sự

kiện có liên quan đến người thật đều được anh tôn trọng.

Chính ý thức tôn trọng sự thật đó là điều cơ bản làm nên sự thông cảm

giữa anh và người đọc. Người đọc tin đây là sự thật, vì họ tin anh. Nhưng sự

tôn trọng người thật ở Hồ Phương không có vẻ nô lệ, ỷ lại. Dưới hình thức

truyện, anh có quyền, và bạn đọc cũng đòi hỏi anh phải sáng tạo. Có nghĩa là

các nhân vật, các sự kiện không chỉ được đánh giá trên tiêu chuẩn có chính

Page 176: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

xác không, có đúng sự thật không; mà chủ yếu còn phải được xét theo quan

điểm có sống không, có sinh động không. Và như vậy thì việc xây dựng các

điển hình không chỉ đơn giản là việc kể lại cặn kẽ một số quãng đời nói cho

đủ các chiến công hoặc minh họa cho khéo một số bản chất anh dũng, hy

sinh đã được người viết (hoặc các báo cáo thi đua) khái quát sẵn. Trái lại, đó

là một công việc đòi hỏi người viết phải làm sáng tỏ sự thống nhất giữa hành

động và tư tưởng tình cảm của nhân vật, phải thích sâu sắc các chiến công

của họ; đồng thời thông qua hoạt động và các mối quan hệ của anh hùng mà

làm rõ bộ mặt cuộc sống với những dấu ấn mới mẻ của thời đại.

Những yêu cầu đó nhìn chung Hồ Phương đều nắm vững, và do vậy,

tác phẩm của anh thường không rơi vào kể việc một cách sơ lược, khô khan.

Cố nhiên, mức thành công ở mỗi tác phẩm có khác nhau. Chúng tôi ở Cồn cỏ

trong dạng khiêm tốn của một lời kể – lời kể của Trần Đăng Khoa, người

chiến sĩ Cồn cỏ, cả người kể và người ghi đều muốn làm nổi rõ hẳn lên hình

ảnh một tập thể anh hùng, một tập thể với những quan hệ gắn bó khăng khít

giữa các cá nhân với nhau, giữa đảo và đất liền, giữa chiến sĩ và nhân dân,

và Tổ quốc đây không có một cá nhân nào làm trung tâm, ở đây là chúng tôi.

Người kể, với tư cách là chủ, tự náu mình đi, chỉ muốn làm một người chứng;

còn người ghi thì đứng về phía khách quan, phía chúng ta, để mà biểu lộ tình

yêu thương, niềm khâm phục, tự hào.

Trong hình thức truyện, với Nhằm thẳng quân thù mà bắn (1967), Kan

Lịch (1968), Khi có một mặt trời (1972), Hồ Phương phải đáp ứng những yêu

cầu mới của thể loại. Người đọc thấy rõ những cố gắng của anh để nắm đối

tượng, mở rộng các mối quan hệ, đặt nhân vật vào các tình huống, các môi

trường. Viết Kan Lịch trong yêu cầu thu gọn mà tên truyện gợi ra, dựng một

chân dung, kể chuyện một con người, Hồ Phương đã gắng tìm hiểu bối cảnh

chiến trường Trị – Thiên, tìm hiểu đời sống đồng bào dân tộc Pa-cô, hoàn

cảnh gia đình và quá khứ Kan Lịch… Viết Nhằm thẳng quân thù mà bắn, chọn

cái giây phút sáng ngời tiêu biểu nhất của người anh hùng đã khuất để miêu

tả, Hồ Phương đã phải lần lại từ đầu nhiều chặng đời có ý nghĩa, để làm sống

Page 177: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

lại những kỷ niệm về tình bạn bè, tình vợ chồng, tình đồng chí của nhân vật

chính.

Rõ ràng đó là một sự chuẩn bị cần thiết, một cách làm việc cẩn thận.

Dù sao không phải tác phẩm nào của Hồ Phương cũng đạt được những

thành công như nhau. Bởi lẽ không phải đề tài nào, nhân vật nào cũng được

anh tìm hiểu một cách thuận lợi và chu đáo như nhau. Dựng lại cuộc đời

Nguyễn Viết Xuân, Hồ Phương đã phải vượt qua nhiều trở ngại. Người ta có

thể làm thơ, với những ý thơ xúc động, hoặc kể lại với nhiều chi tiết, nhiều

mẩu chuyện sinh động, trong một bút ký hoặc ghi chép về một người anh

hùng đã khuất. Nhưng với truyện, thì bấy nhiêu xúc động, bấy nhiêu chi tiết

chưa hẳn đã đủ bảo đảm cho tác phẩm thành công. Bởi vì ở truyện, phương

thức cơ bản là dựng, chứ không phải kể; phải để cho cuộc sống tự nó biểu

hiện, như cách người ta thường nói. Không phải là Hồ Phương không thấy

điều đó, nhưng sự cố gắng của anh trong Nhằm thẳng quân thù mà bắn quả

không tránh khỏi bị hạn chế khá nhiều vì những tài liệu gián tiếp, vì cái đối

tượng cảm xúc, thẩm mỹ là người anh hùng không còn trước mặt anh, vì anh

phải làm việc bằng trí tưởng tượng nhiều hơn. Rút lại thì, cũng như trong đời,

qua câu chuyện, người đọc chỉ có thể nhớ lại một hành động, một tình huống:

ấy là lời hô bất hủ của anh vang lên trên trận địa, và những giây phút cuối

cùng dũng cảm của đời anh.

Nhược điểm đó Hồ Phương đã khắc phục được trong Kan Lịch do anh

không gặp phải những khó khăn như khi viết về Nguyễn Viết Xuân. Ở đây Hồ

Phương đã tạo được sự gặp gỡ giữa lòng yêu mến và sự hiểu biết, giữa nhiệt

tình và khả năng, giữa điều anh muốn và điều anh có thể làm được. Người

đọc cảm thấy ít có vướng gợn, vì cùng với sự tiếp xúc trực tiếp, sự hiểu biết

đối tượng của người viết, dường như còn có thêm một sự phù hợp; một sự

ăn ý, tự nguyện giữa người viết và đề tài. Và có lẽ đó cũng là một trong

những nguyên nhân tạo ra tiền đề thành công cho tác phẩm.

Page 178: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Cho nên, đọc Kan Lịch ta có cảm giác như được tiếp xúc với con người

và cuộc sống trong dạng ít nhiều trọn vẹn. Ở đây mọi chiến công đã trở thành

một bộ phận – cố nhiên là bộ phận quan trọng – trong cuộc đời người anh

hùng. Nhưng ấn tượng bao trùm trong chúng ta vẫn là con người. Có con

người ấy mới có chiến công ấy. Con người trong tính cách riêng. Con người

trong quá trình phát triển. Nhưng bức chân dung sẽ không sáng rõ nếu không

có một nền cảnh. Đó là thôn Lê-a-lốc, là núi rừng miền Tây với thiên nhiên

tươi thắm sắc màu. Đó là cuộc sống chiến đấu và làm ăn, quá khứ và hiện tại,

gia đình và xã hội, đất nước và quê hương trong cái vẻ hùng tráng và nên thơ

chỉ riêng nó có… Ở đây nhân vật trung tâm hoạt động, thoải mái trong một bối

cảnh, giữa nhiều nhân vật phụ. Các nhân vật phụ không phải chỉ có nhiệm vụ

làm nổi nhân vật chính, mà bản thân họ, mỗi người cũng có một vị trí riêng.

Tác phẩm không chỉ xây dựng thành công một tính cách anh hùng mà còn

làm rõ được cả sự phát triển chung của cuộc sống, thể hiện được quá trình

cách mạng hóa đang diễn ra trong đời sống của nhân dân các dân tộc ít

người ở miền Tây. Và đó cũng là một khía cạnh độc đáo trong chủ đề của tác

phẩm.

Rõ ràng là ở Kan Lịch, Hồ Phương đã có được những thuận lợi không

dễ có để thu được những kết quả tốt hơn khi viết về Nguyễn Viết Xuân.

Những thuận lợi đó vẫn được tiếp tục khi anh viết về Lê Mã Lương, với

khoảng cách bốn năm về sau, trong Khi có một mặt trời. Nhưng sáng tác này

lại ít gây được sự chú ý. Có phải do anh cũng có phần chủ quan đối với một

đề tài mà anh tự cảm thấy là quen thuộc? Có phải do anh quá “thành thạo”

trong nghề nghiệp, do một sự quen tay? Một số trang quá trôi chảy khi anh tả

cảnh, tả người, khi anh đi vào các tâm sự, tâm trạng của nhân vật trong

truyện quả đã gây cho người đọc cảm tưởng đó.

Nhưng lý do cơ bản khiến cho sáng tác mới này của anh trở nên bằng

phẳng, theo tôi, là ở chỗ Hồ Phương chưa kịp suy nghĩ cho thật sâu về đối

tượng để nêu lên một vấn đề gì mới mẻ ở nhân vật, và do vậy chủ đề của

thiên truyện không có gì độc đáo. Tác phẩm dường như mới chỉ là sự điểm lại

Page 179: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

một vài đoạn đời của nhân vật, nhưng nét gì thật sự nói lên trong đó khiến

cho Lê Mã Lương có một bản sắc riêng, khác với nhiều người, thì chưa được

Hồ Phương bồi đắp cho thật rõ. Nói cho đúng thì không phải, ở chỗ này hay ở

chỗ khác, Hồ Phương không có sự nhận xét hoặc khơi gợi cho ta chú ý

những nét mới nào đó của nhân vật. Nhưng cũng chỉ mới là nhận xét; hơn

nữa, nó cũng chưa thật sự thấm vào tác phẩm, hướng vào làm sáng tỏ một

chủ đề mà người viết đã dụng công suy nghĩ kỹ.

Rõ ràng mỗi anh hùng đều tự khẳng định bản lĩnh của mình trên cơ sở

đáp ứng những yêu cầu mới của cuộc sống. Nhưng đời sống vô cùng đa

dạng và luôn phát triển. Cho nên các anh hùng tuy đều có một phẩm chất

chung, nhưng họ rất khác nhau. Sự khác nhau đó có mặt là do những bản

sắc cá nhân, nhưng cũng có mặt là do dấu ấn của cuộc sống, của thời đại.

Chính vì vậy mà bạn đọc chờ đợi ở hình tượng Lê Mã Lương, như họ từng

suy nghĩ, một con người mới, tiêu biểu cho thế hệ trẻ, sinh ra và lớn lên trong

nôi của cách mạng trong mình tính ưu việt của một quan hệ sản xuất mới,

vừa là sản phẩm của hoàn cảnh lại vừa có sức mạnh cải tạo lại hoàn cảnh.

Những nét đó quả chưa được thể hiện cho thật đậm trong sáng tác mới này

của Hồ Phương.

***

Hướng về cái mới của đời sống, chọn những con người mới làm nhân

vật trung tâm của tác phẩm, Hồ Phương quả đã đi đúng vào quỹ đạo của khả

năng, sở trường của mình. Thành công của anh là điều đã được khẳng định.

Còn thiếu sót, non yếu là điều mà người đọc muốn nhắc đến để cho anh có

dịp soi kỹ hơn vào các kinh nghiệm của mình, dụng công hơn nữa trong nghệ

thuật mô tả, và nhất là nhìn kỹ hơn nữa vào những đặc điểm mới của đời

sống, những dấu ấn mới của thời đại, để có thể đem lại cho mỗi sáng tác mới

của mình những khám phá độc đáo trong chủ đề và phương thức biểu hiện,

tránh bằng phẳng, lặp lại mình.

Page 180: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Người bộ đội trong tác phẩm HỮU MAIHữu Mai sớm bước vào đời sống bộ đội. Anh lại có cái may mắn được,

tham gia nhiều chiến dịch lịch sử như chiến dịch Biên giới, Hòa Bình, Điện

Biên… Nhưng quyển sách đầu tay của anh được người đọc chú ý lại không

phải viết về đề tài bộ đội mà viết về Cải cách ruộng đất: Những ngày bão táp

(1957). Như tên tác phẩm gợi ra, tác giả hình như muốn nói với ta Cải cách

ruộng đất và Sửa sai là “những ngày bão táp” trong đời sống nông thôn.

Hữu Mai đã mạnh dạn đi vào đề tài lớn này. Anh cố gắng nói lên lòng

trung thành với cách mạng của một số cán bộ bị quy oan. Anh cũng đã cố

gắng biểu hiện lòng dân gắn bó với Đảng qua cuộc thử thách lớn lao này.

Nhưng đáng tiếc là, ở đây tác giả đã có cái nhìn lệch lạc về những người cán

bộ Đội, và có một cách đánh giá không đúng về thành quả của Cải cách

ruộng đất. Không khí phấn khởi sau ngày sửa sai không hề được nhắc đến

trong tác phẩm; trái lại, một thứ màu sắc buồn nản, chua xót lại dường như

tràn ngập toàn truyện. Đó là điều không đúng. Có thể tác giả muốn có một sự

phản ánh chân thực, nhưng do nhận thức chưa đầy đủ và nhất là cách nhìn

còn có mặt lệch lạc nên tác phẩm không đạt được giá trị hiện thực và ý nghĩa

giáo dục đáng lẽ phải có.

Nhưng thất bại của cuốn sách không làm Hữu Mai chán nản. Đấy cũng

là một dịp để anh nhìn rõ hơn những điểm yếu của bản thân mình. Một năm

sau, năm 1958, anh viết Lứa tuổi tòng quân ghi lại những nét trẻ trung sôi nổi

của lứa tuổi thanh niên trong những ngày đầu hòa bình. Truyện có tác dụng

giáo đục nhất định trong phong trào tòng quân. Cùng với Lứa tuổi tòng quân,

Hữu Mai viết Mất hết (đăng trên Văn nghệ quân đội, 1957) nói về những “viên

đạn bọc đường” của đời sống tư sản trong hoàn cảnh hòa bình có khả năng

làm hư hỏng một số người không vững vàng.

Bước vào những năm sáu mươi, trong cao trào xây dựng chủ nghĩa xã

hội, Hữu Mai chủ yếu viết về người bộ đội như trong Cao điểm cuối cùng

(1961), Đồng đội (1962). Đặc biệt từ sau 1965, khi miền Bắc chuyển sang

Page 181: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

chiến tranh, đề tài chiến đấu càng được anh tiếp tục triển khai qua Phía trước

là mặt trận (1966), Dải đất hẹp (1968, ký tên Trần Mai Nam), Vùng trời tập I

(1971), và tập II (1974).

Ngoài truyện ngắn, truyện dài, Hữu Mai còn viết nhiều bút ký trong tập Chiến

thắng Điện Biên Phủ, và được giao nhiệm vụ quan trọng là ghi lại mấy hồi ký

có giá trị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về những ngày thành lập Quân đội

nhân dân: Từ nhân dân mà ra (1964), về chiến thắng Điện Biên Phủ: Một vài

hồi ức về Điện Biên Phủ (1954), và về Bác Hồ: Nhưng năm tháng không thể

nào quên (1970).

***

Qua tác phẩm của mình, Hữu Mai muốn chứng minh trong bất cứ lĩnh

vực nào, hoặc hoàn cảnh nào, người chiến sĩ nhân dân cũng đều phát huy

được truyền thống tốt đẹp của mình.

Khác hẳn người lính thú đời xưa “bước chân xuống thuyền nước mắt

như mưa”, khác hẳn bọn lính đánh thuê vác súng ra chiến trường với tâm

trạng chán nản sợ chết, các chiến sĩ ta ra đi chiến đấu với tư thế đàng hoàng

và lòng tin vào chiến thắng: “Người ta còn nghe tiếng sột soạt của những bộ

quần áo chưa giặt hết hồ. Hầu hết các chiến sĩ đều mặc quần áo mới. Họ có

thói quen dành những bộ quần áo đẹp nhất, mới nhất cho những ngày đặc

biệt này” (Cao điểm cuối cùng).

Đoạn văn trên gợi ta nhớ đến Trần Đăng. Người chiến sĩ trong Trận

Phố Ràng, Một cuộc chuẩn bị giờ đây đang đi tới đỉnh cao chiến thắng Điện

Biên Phủ trong Cao điểm cuối cùng. Và Hữu Mai cũng như nhiều đồng chí

của anh đang đi tiếp con đường Trần Đăng để dựng lại chân dung những

“người lính”.

Chân dung người lính trong những phẩm chất ưu tú của họ –đó là điều

Hữu Mai hết sức quan tâm. Nhưng anh vẽ họ không phải chỉ trên nền cảnh

khói lửa của chiến trường. Trong Người chữa đồng hồ tại đường hầm A1,

Hữu Mai kể chuyện một chiến sĩ lái xe trẻ tuổi, đôn hậu, và có nhiều tài vặt.

Page 182: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Niềm vui của anh là sau khi làm tròn nhiệm vụ, anh thường suốt ngày cặm cụi

tìm mọi phụ tùng để chữa đồng hồ cho anh em. Và anh đã hy sinh trong một

tình huống thật xúc động: sau khi làm tròn nhiệm vụ của mình còn ra giúp

bạn, kéo pháo về trận địa.

Trong chiến đấu, có mất mát là điều tất nhiên. Nhưng sao ta vẫn nghẹn

ngào khi đọc đến đoạn người kể chuyện sau khi đi công tác về, xin được một

ít thuốc lào, định háo hức đem đến tặng bạn. Nhưng khi đến trận địa, tác giả

chẳng còn được gặp lại người chiến sĩ ấy nữa, chỉ còn lại lời dặn dò của anh,

qua một người bạn: “Hôm nọ tôi nghe Phong nói cái dây cót đồng chí ấy kiếm

thay cho anh hơi ngắn. Mỗi lần lên dây anh nhớ vặn từ từ… nhưng nó vẫn

chạy thừa sức 24 tiếng đồng hồ đấy anh ạ”.

Trong Sức sống, người đọc lại được tiếp xúc với hình ảnh người chiến

sĩ không phải lao vào cái chết mà lại chịu đựng một cái chết đến dần dần. Tác

giả đặt nhân vật trong tình thế chịu đựng thầm lặng. Quý biết mình sẽ chết

nhưng anh cố nén tình cảm, không lộ cho bạn biết. Anh vẫn pha trò, gieo lòng

tin vào bạn bè rằng mình sẽ khỏi. Chỉ trước khi chết anh mới thổ lộ với bạn:

“Cuộc sống của chúng ta rất đẹp. Tôi muốn sống để làm việc thật nhiều

nhưng bây giờ cái chết cứ dần đến… thì tôi đón nó với thái độ của một người

chiến sĩ”. Đúng như lời tác giả nói, “cho đến phút cuối cùng cuộc sống trong

anh vẫn thắng”.

Chiến sĩ của ta là thế đấy! Ở môi trường nào họ cũng giữ được phẩm

chất của người chiến sĩ cách mạng.

Kể chuyện chiến sĩ ta, Hữu Mai rất say sưa. Dường như luôn luôn có ở

anh cả một “kho” chuyện. Cũng không hiếm những chuyện ly kỳ. Trong Phía

trước là mặt trận viết về cuộc kháng chiến chống Pháp, tác giả kể lại cho ta

nghe câu chuyện về Ba, một trung đội trưởng lái xe, để cứu bạn, đã lao thẳng

xe xuống vực sâu. Thế nhưng, lạ lùng thay, lúc anh mở mắt ra thì xe anh vẫn

còn. Chính một gốc cây đã làm cho xe anh lao đi một vòng. Nhưng chính cái

Page 183: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

vòng lao ấy lại đã làm cho bốn bánh xe của anh đứng thẳng trên mặt đất, y

như người làm xiếc.

Trong Vùng trời, Tú, đại đội trưởng không quân sau khi truy kích địch,

máy bay hết dầu, anh được chỉ huy cho phép nhảy dù. Nhưng anh không thể

bỏ chiếc máy bay, anh quyết cứu lấy nó. Nhờ có sự tính toán chính xác và sự

bình tĩnh lạ kỳ, anh đã hạ chiếc máy bay an toàn trên một khoảng trống cách

bờ nhánh một con sông năm thước.

Người đọc kinh ngạc, thán phục trước sự bình tĩnh của Ba, Tú và xúc

động trước tinh thần bảo vệ máy bay, đạn dược của các chiến sĩ ta, dù họ có

phải hy sinh. Chính sự gan góc, dũng cảm đã cứu sống họ. Ở đây các chiến

sĩ không những chỉ tỏ ra gan dạ, bình tĩnh mà còn tỏ ra là mưu trí, linh hoạt.

Họ không hành động một cách mù quáng. Họ không dựa vào những ngẫu

nhiên, may mắn. Đấy cũng là những nét mới của các chiến sĩ trong chống Mỹ.

So với thời kỳ chống Pháp, các chiến sĩ còn có những người chưa biết chữ,

rất hiếm người có trình độ phổ thông, nhưng, ngày nay, các chiến sĩ trẻ tuổi

của chúng ta đã nắm được những tri thức khoa học tiên tiến nhất.

Không phải chỉ trong chiến đấu người chiến sĩ mới bộc lộ những đức

tính tốt đẹp của mình. Ngay cả trong cuộc sống bình thường, ở họ cũng toát

lên phẩm chất cao quý.

Đông trong Vùng trời khi hạ máy bay xuống một vùng miền núi, bị nhân

dân hiểu lầm, tưởng là giặc lái, có người đã cầm cán dao đập vào trán anh

đến sưng vù lên. Nhưng khi cô y tá hỏi, anh điềm nhiên trả lời: “A, tôi va phải

một cành cây”. Đến khi vợ anh hỏi, anh cũng vui vẻ trả lởi: “Anh đụng đầu

phải cái cột nhà. Đồng bào ở nhà sàn tối quá”. Anh không hề muốn cho mọi

người nghĩ nhầm về đồng bào.

Mô tả người chiến sĩ trong chiến đấu, Hữu Mai không ngại đề cập đến

cái chết. Trong Cao điểm cuối cùng, Hữu Mai cho thấy không phải chỉ một vài

chiến sĩ hy sinh mà có khi cả một trung đội đi xây dựng trận địa đều hy sinh

cả. Đoạn kể bác cấp dưỡng hì hà hì hục nấu những bát chè chờ đợi anh em

Page 184: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

ra về, càng gây cho người đọc một sự thương tiếc vô hạn. Chính cái chết của

đồng đội sẽ tiếp sức cho người sống, giục giã họ phải chiến đấu hăng hơn để

trả thù cho bạn, để xứng đáng với máu người đã đổ xuống, để tiếp tực sự

nghiệp của những người đi trước.

Nhưng Hữu Mai không phải chỉ kể những hy sinh tiếp nối nhau, mà

bằng cách xen kẽ, bên cạnh sự mất mát, anh đã dành nhiều trang rất sôi nổi,

để ca ngợi những chiến thắng oanh liệt làm nức lòng người đọc. Và, điều tự

nhiên là, càng tiếp xúc với những chiến công rực rỡ của quân dân ta, người

đọc lại càng biết ơn những người đã mất.

Rõ ràng sự chân thực là điều mà Hữu Mai luôn luôn phấn đấu để nắm

cho được. Xuất phát từ một vốn sống phong phú, một sự hiểu biết sâu, và

một tấm lòng yêu mến chân thành người chiến sĩ, anh đã truyền đến cho

người đọc sự xúc động thật sự trước vẻ đẹp dưới nhiều dạng khác nhau của

họ.

***

Gần như hầu hết các truyện của Hữu Mai đều ca ngợi tinh thần tập thể,

tình đồng đội trong chiến đấu của người chiến sĩ.

Thể hiện tập trung và nổi bật nhất chủ đề này là Vùng trời. Đây là một

tiểu thuyết dài đầu tiên viết về -. t binh chủng trẻ tuỗi nhất của quân đội ta:

binh chủng không quân, gồm những chiến sĩ không những phẩm chất cách

mạng cao quý, mà còn có trình độ khoa học kỹ thuật nhất định. Một binh

chủng đòi hỏi một sự phối hợp chặt chẽ giữa dưới đất và trên không, giữa

đồng đội với nhau, giữa chiến sĩ và thợ máy.

Cho nên không có gì lạ khi các chiến sĩ lái lập được nhiều chiến công,

họ đều khiêm tốn nói rằng: đấy không phải là thành tích của cá nhân họ, mà

là chiến công của toàn đơn vị, còn họ chỉ là “người bấm cò”.

Mỗi một chiến thắng dù nhỏ hay lớn của các chiến sĩ lái đều đem lại

niềm vui chung cho toàn đơn vị, nhất là ngày không quân ta bắn rơi chiếc

Page 185: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

máy bay phản lực Mỹ đầu tiên trên đất nước ta. Cha ông ta đã nhiều lần đánh

thắng rất oanh liệt kẻ thù trên đất, trên biển, trên song. Nhưng ở mặt trận trên

không, đấy mới chính là trận đầu tiên. Hữu Mai đã ghi lại trong tác phẩm

không khí ngày chiến thắng lịch sử ấy.

Trong Vùng trời, tác giả không phải chỉ miêu tả tình đồng đội của các

chiến sĩ trong chiến đấu mà ngay cả trong cuộc đời riêng, họ cũng rất quan

tâm, chăm sóc đến nhau, chia sẻ với nhau những niềm vui và những nỗi

buồn, đấy chính là sức mạnh, là nguồn động viên giúp họ vượt qua khó khăn,

thúc đẩy họ hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.

Trong nhiều tác phẩm của Hữu Mai, hình ảnh những con người ở hậu

phương luôn luôn được miêu tả song song với hình ảnh các chiến sĩ.

Hảo, Nguyệt, Thùy trong Vùng trời đã để lại trong lòng người đọc một

tình cảm yêu mến, và những dáng nét khó quên. Mỗi người mỗi vẻ, hình ảnh

họ nói lên sự đôn hậu, đằm thắm, chung thủy, đảm đang của người phụ nữ

Việt Nam.

Hảo có những nét đáng chú ý. Trong tác phẩm của chúng ta còn rất ít

hình ảnh nữ sinh viên. Có thể nói Hữu Mai đã có nhiều cố gắng trong việc xây

dựng nhân vật này. Đấy là một cô sinh viên mới rời khỏi nhà trường với nhiều

ước mơ và hoài bão. Khác hẳn với những cô gái chỉ thích giam mình trong

bốn bức tường hay không dám rời thành phố, Hảo tung mình vào những nơi

khó khăn, đòi hỏi nhiều thử thách. Cô đi từng bước vững chắc vào đời. Trong

tình yêu, cô cũng có chút kiêu kỳ, nhưng đã yêu thì chủ động, tha thiết.

Có điều cần yêu cầu thêm ở Hữu Mai là truyện của anh còn ít đề cập

đến tình yêu. Tình vợ chồng, anh viết khá đạt. Nhưng viết về tình yêu nam

nữ, anh có phần “ngoại đạo”. Đoạn viết dưới đây miêu tả về tình yêu quá

vụng về. “Họ cứ tiếp tục im lặng đi mãi bên nhau như thế. Lời nói đã trở thành

không cần thiết Nhưng họ lại thấy mình không thể cứ im lặng. Họ sẽ khó mà

chịu đựng mãi cái trạng thái sinh lý trái tim cứ đập gấp những tiếng đập thình

thịch và đôi chân thì cứ mỗi lúc chơi vơi như mất dần trọng lượng”.

Page 186: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Tác phẩm của Hữu Mai cũng còn ít những trang tả cảnh. Anh nghiêng

về miêu tả nhân vật. Truyện của anh, dù ngắn hay dài đều có một cốt truyện

với những chi tiết khá sinh động, nên ít nhiều đều có sức thu hút. Nhưng cảnh

thiếu thì truyện quả có hiếm phần tươi tắn.

***

Có ý kiến cho rằng Vùng trời chưa nói được những mặt khó khăn, phức

tạp của một cuộc sống vốn đa dạng. Ở đây cái gì cũng đẹp, con người ai

cũng tốt, cuộc sống đầy thuận lợi. Ý kiến đó có đúng không?

Hữu Mai đã từng phát biểu: “Trước sự xuất hiện của kẻ thù, mọi người

tự nâng mình lên, xích lại gần nhau hơn, cái tốt trong mỗi người được phát

huy. Thời gian câu chuyện trong Vùng trời tập I xảy ra đầu năm 1966. Nhớ lại

tình hình lúc ấy, nhiều cái khác bây giờ: không khí khác, suy nghĩ của con

người cũng khác, trận chiến đấu cũng khác”… Ý kiến này cũng đã có lần

được tác giả gửi gắm qua suy nghĩ của Hảo: “Bây giờ một hiệu lệnh của đất

nước đã phát ra, nó đã thống nhất suy nghĩ của mọi người”. Nhận xét như

trên là đúng. Không riêng gì Hữu Mai, nhiều nhà văn của chúng ta khi mô tả

cuộc sống miền Bắc những ngày từ hòa bình chuyển sang chiến tranh đều cố

gắng dựng cho được không khí đó. Không kể rất nhiều truyện ngắn, riêng tiểu

thuyết chúng ta cũng đã có những cuốn gây được sự chú ý như Cửa sông

của Nguyễn Minh Châu.

Nhưng vấn đề không phải ở chỗ Hữu Mai chỉ chuyên miêu tả những

con người tốt, hoặc một cuộc sống tươi đẹp. Đòi hỏi Hữu Mai tránh con

đường đó, đòi hỏi Hữu Mai phải điểm thêm đây đó những nét xấu, những cái

vết đen, những mặt “phức tạp”… để cho cuộc sống được “chân thực” theo

một cách hiểu nào đó, quả là một đòi hỏi không đúng, không tránh khỏi sa vào

một thứ công thức nào khác, chắc chắn là còn đáng ngại hơn. Vấn đề là ở

chỗ người đọc yêu cầu Hữu Mai mô tả được sâu hơn nữa, thuyết phục hơn

nữa những hình tượng, những cảm nghĩ, những quan hệ của nhân vật trong

truyện. Nguyễn Thi viết Người mẹ cầm súng, Nguyên Ngọc viết Đất nước

Page 187: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

đứng lên không cần phải gán cho nhân vật một vết xấu nào; Núp hay chị út

đều là những con người hoàn toàn, nhưng chẳng khiến cho ai cảm thấy là tác

phẩm không chân thực.

Trở lại Vùng trời. Các nhân vật ở đây quả là đẹp. Người đọc hoàn toàn

không nghi ngờ cái sự thực là: trong cuộc sống chúng ta ngày nay có biết bao

nhiêu là sự việc, con người đẹp, rất đáng ca ngợi. Nhưng điều chủ yếu là ca

ngợi như thế nào để có sức thuyết phục người đọc. Chúng ta yêu mến cái

dũng cảm điềm đạm của Quỳnh, cái gan góc sôi nổi của Đông, cái trầm tĩnh

chín chắn của Tú, cũng như cái dịu hiền của Thùy, cái đôn hậu của Nguyệt,

cái xông xáo phóng khoáng của Hảo. Mỗi một nhân vật đều có những nét

riêng biệt. Có điều đáng tiếc là những nét đẹp đó ở mỗi nhân vật lại chưa có

một chiều sâu đáng kể. Truyện của Hữu Mai một mặt có những khám phá tinh

tế, gợi cảm, thì mặt khác đang còn thiếu một sức nặng cần thiết để tác động

trực tiếp và mạnh mẽ vào suy nghĩ người đọc.

Có điều cần thông cảm: Vùng trời là tác phẩm viết về một binh chủng

còn rất trẻ, rất mới. Có thể do hoàn cảnh chưa cho phép, nên có nhiều điều

anh chưa tiện nói chăng?

***

Không phải Hữu Mai chỉ chuyên ca ngợi. Miêu tả người lính anh cũng

chú ý nêu lên để phê phán tư tưởng cá nhân chủ nghĩa được biểu hiện dưới

nhiều dạng khác nhau. Cao điểm cuối cùng, một trong những tác phẩm xuất

sắc viết về cuộc kháng chiến chống Pháp, trình bày trước mắt chúng ta hình

ảnh những trận đánh ác liệt vào cao điểm A1, nơi quân địch đặt tên là “cái

chìa khóa sống của Điện Biên Phủ”. Qua tác phẩm, Hữu Mai đã nêu lên tinh

thần dũng cảm, lạc quan và niềm tin vào chiến thắng cuối cùng của các chiến

sĩ. Có biết bao người đã ngã xuống, đã dành lấy phần chiến thắng cho dân

tộc, nhưng cũng không phải không có kẻ dao động, hoang mang trước khó

khăn, thậm chí, có kẻ đã hèn nhát bỏ chạy.

Page 188: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Vì sao cuộc tấn công lần đầu vào cao điểm A1 lại thất bại? Đây là ý

kiến của một tiểu đoàn phó trả lời cấp trên: “Tôi thấy trận này không thành

công là do chỉ huy của cán bộ”.

Hữu Mai đã dành trọn một chương riêng (chương 14) để miêu tả cuộc

họp của cấp lãnh đạo nhằm kiểm điểm những thất bại đáng tiếc xảy ra. Lời

của đồng chí Tư lệnh trưởng đã cho ta đi thẳng vào nguyên nhân chính của

sự thất bại: “Các chiến sĩ đã chiến đấu rất anh dũng kiên cường vào đồn địch,

mất liên lạc với cán bộ, còn một tổ ba người, một người cũng tiếp tục chiến

đấu không rời trận địa; anh em rất ít khuyết điểm nhưng cán bộ thì trái lại,

khuyết điểm rất nhiều”.

Một số nhân vật cũng đã được Hữu Mai mô tả, với dụng ý phê phán rõ

rệt, để rút ra những bài học về nhân sinh quan cách mạng. Đó là Quỳ, một

cán bộ tiểu đoàn, xuất hiện lúc đầu trong tác phẩm với thái độ lặng lẽ, tự kiêu,

sau đó, trước sự hy sinh khá nhiều của đồng đội, anh ta dao động, luôn xin ý

kiến bàn lùi, và cuối cùng, khi giáp lá cà với địch, anh ta đã hoảng sợ rồi hèn

nhát bỏ chạy. Tính chất nghiêm trọng trong khuyết điểm của Quỳ đã được

Hữu Mai vạch thẳng.

Nhân vật Quế Vinh cũng được Hữu Mai tập trung công sức xây dựng.

Đấy là một trong những tiểu đoàn trưởng lãnh đạo một mũi tấn công vào A1.

Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, lại ít được tiếp xúc với những khó

khăn của cuộc sống, Quế Vinh dễ dao động, hoang mang. Hữu Mai đã đặt

anh trước trách nhiệm được giao, và trong quan hệ với tập thể và đồng đội để

dần dần cho anh nhận rõ bản chất con người mình. Chính những gương hy

sinh cao cả của các chiến sĩ “lính trơn”, và chính tình thương yêu đồng chí đã

giúp anh thoát khỏi đi vào con đường hèn nhát, đầu hàng trước cái chết.

Quá trình đi lên của Quế Vinh khá chật vật, nhưng anh đã vượt qua

được chăng đường khó khăn nhất. Qua Quế Vinh, Hữu Mai muốn dựng lên

một điển hình về lớp người tiểu tư sản theo cách mạng.

Page 189: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Không phải Hữu Mai chỉ viết những truyện phê phán tư tưởng cá nhân

chủ nghĩa thể hiện trong chiến đấu. Mất hết (sau này được chữa lại, và có tên

mới là Câu chuyện một ngày đầu) là một thiên truyện có chiều sâu nhận thức

và một ý nghĩa giáo dục nhất định. Thông qua tâm trạng dằn vặt phức tạp của

một chiến sĩ những năm đầu sau hòa bình lập lại đang lung lay trước sức

cám dỗ của đời sống tư sản, tác giả muốn nêu một hình ảnh về cuộc đấu

tranh giai cấp đang diễn ra khi miền Bắc bước vào thời kỳ cải tạo xã hội chủ

nghĩa. “Kháng chiến lấy đi của chúng ta quá nhiều rồi, tuổi thanh niên của

chúng ta quả đã mất rồi!”. Đấy là lời “sám hối” của một nhân vật trước kia đã

từng là một chiến sĩ gương mẫu. Thật là mỉa mai khi anh ta tự phủ định con

người anh ta trước kia. Trước sự cám dỗ của đời sống tư sản, giờ đây, theo

quan niệm “mới” của anh ta, nếu cứ khư khư giữ bản chất cũ của mình trước

đây thì rồi sẽ “mất hết, mất hết”! Y như một lời kêu cứu!

Nhưng mất gì? Mất lạc thú của đời sống tư sản mà anh bước đầu được

nếm qua, hay mất phẩm chất cách mạng của mình? Hữu Mai đã cố gắng trình

bày cho ta thấy sự “biến chất” đó trong con người anh. Trước kia anh “dũng

cảm sửa đường mặc bom đạn, bóng anh vươn lên trên đoàn người anh dũng

đang bám chặt lấy nó để chiến đấu”. Thế mà giờ đây: “Bạn tôi mái tóc chải

uốn một cách vụng về. Chiếc áo sơ mi kẻ ô ôm cứng lấy người anh, mặt anh

nhợt nhạt, cái nhìn lo âu, chung quanh anh đang lởn vởn rất nhiều bóng tối…”

Tiếc rằng phần cuối của truyện quá đuối. Ở Mất hết, tác giả chưa đứng

một chỗ đứng cao để nhìn rõ sự xuống dốc của nhân vật, giúp cho nhân vật

(và cả người đọc nữa) thấy rõ sự được, mất thật sự trong đời trên quan điểm

cách mạng. Đời sống tư sản chưa hoàn toàn phơi bày bộ mặt thối tha của nó,

nó vẫn còn có khía cạnh cám dỗ, và do vậy cái “mất” ở đây còn làm nhân vật

băn khoăn, tiếc nuối. Chuyện “mất” cái gì ở đây vẫn còn là một lởn vởn, nhất

là khi sự phê phán chưa cao. Vấn đề không phải là cần một kết luận có hậu

mà là một thái độ dứt khoát, một quan điểm đánh giá rõ ràng. Chuyển từ Mất

hết sang Câu chuyện một ngày đầu, mấy năm sau, tác giả đã có ý thức chữa

Page 190: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

lại chỗ yếu đó, nhưng phải chăng do vội muốn đưa ra một hướng giải quyết

nên thiên truyện đâm ra sơ lược.

Sự phê phán còn yếu, chưa trên một chỗ đứng cao về những mặt tiêu

cực trong đời sống con người, cũng một lần nữa, xuất hiện trong Đôi mắt, khi

anh để cho nhân vật nói những lời chua chát bi quan về chiến tranh.

***

Nhìn chung, môi trường bộ đội là “vùng quê” quen thuộc của Hữu Mai.

Từ Cao điểm cuối cùng đến Vùng trời, chúng ta ghi nhận ở Hữu Mai hai cái

mốc có ý nghĩa trên con đường sáng tác của anh.

Những chỗ yếu hoặc thiếu sót ở Hữu Mai không phải là điều khó thấy.

Nhưng đó là thiếu sót của một cây bút chân thành muốn có những đóng góp

mới, muốn có những tìm tòi. Người đọc không ngạc nhiên khi thấy Hữu Mai

vẫn vững bước đi lên. Cái hướng lớn mà anh theo đuổi và những thành công

thu được chính là điều khiến cho anh chiếm được cảm tình của người đọc.

Người đọc nghĩ về anh: một nhà văn bền bỉ, khiêm tốn, trung thực, nồng nhiệt

với cuộc sống, tin tưởng vào tương lai, quan tâm đến những vấn đề lớn của

đời sống, trước hết là đời sống người bộ đội trên suốt cả một cuộc hành trình

qua hai cuộc kháng chiến của dân tộc.

CHU VĂN, một vùng nông thônĐọc Chu Văn viết về nông thôn ta có cái cảm giác của một người lao

thác những khúc thượng nguồn, hơn là người buông chèo những bến hạ lưu,

mặc dù thác ghềnh hay bến lặng đều là hiện thực của một dòng sông.

Không phải Chu Văn cố đi tìm những mâu thuẫn của đời sống để làm

nên cái xung đột đầy kịch tính trong sáng tác của mình. Mà bản thân cuộc

sống với sự va chạm nảy lửa của những mặt đối lập đã được tái hiện trên

những trang viết của anh. Từ Cô lái đò sông Ninh (1960) qua Ánh sáng bên

hàng xóm (1964), đến Bão biển (hai tập, 1969) đều là sự đụng độ gay gắt

Page 191: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

giữa ta và địch, cũ và mới, lạc hậu và tiến bộ, bóng tối và ánh sáng, phản

động và cách mạng, xuyên thấm qua những sự việc, những cảnh đời, những

con người. Ở tập Cô lái đò sông Ninh, nhất là ở truyện ngắn cùng tên, tác giả

đã miêu tả những con người hiền lành nhất, những cảnh vật êm ả nhất trong

cuộc chiến đấu nổi giận, vật lộn tử sinh với kẻ thù của dân tộc là bọn xâm

lược Pháp và bè lũ Việt gian. Cái chết của cô lái đò sông Ninh là một sự bi

thảm chưa được tẩy rửa. Nhưng dẫu sao, cô cũng đã trải qua một cuộc chiến

đấu thầm lặng, quyết liệt. Nông thôn mà Chu Văn miêu tả là luôn luôn trong

cuộc đấu tranh phức tạp. Tiểu thuyết Bão biển và một vài truyện ngắn khác,

Con trâu bạc chẳng hạn, thể hiện tính chất phức tạp ở nông thôn ấy. Với số

trang ít ỏi, trong Con trâu bạc tác giả đã phản ánh được tình trạng rắc rối ở

nông thôn những ngày bước vào con đường tập thể. Cái thói hư tật xấu, đục

khoét hợp tác ở đấy được miêu tả như một trở ngại cho bước tiến lên của

nông thôn đã đành, nó còn được trình bày như một tội ác làm tổn thương đến

tình cảm của những người nhân hậu. Đó là cái hay của truyện ngắn Con trâu

bạc. Một vùng nông thôn công giáo tiến lên chủ nghĩa xã hội với tất cả những

nặng nề phức tạp, khó khăn gay gắt đã được tái hiện trong Bão biển. Những

nét khác biệt, trước hết là của đề tài, của cái hiện thực mà tác giả tái hiện đã

làm cho cuốn tiểu thuyết trở nên độc đáo. Giá trị của Bão biển trước hết là giá

trị nhận thức. Bạn đọc, với cuốn tiểu thuyết này, sẽ được sống giữa một vùng

“đất thánh”, với tất cả những cái hay, cái lạ của nó: lịch sử xây dựng một nhà

thờ tiền bạc đổ vào như nước chảy, đám rước nườm nượp trong ngày lễ đầu

dòng; những cha cố, con chiên đủ loại; những bọn phản động khoác áo thầy

tu, những con người vì cuồng tín mà mất hết nhẽ trái phải trên đời; đám cưới

em gái mà chị dẫn bọn côn đồ đến hành hung, con ốm sắp chết mà bố mẹ

không lo chạy chữa, chỉ lo “rửa tội”… Chu Văn đã dựng lên trước mắt người

đọc cả một vùng công giáo hầm hập những thế lực phản động, những tàn tích

hủ lậu, những tệ nạn khủng khiếp, nó làm đen tối cả làng xóm, nó đè nặng lên

cuộc sống dân lành. Và như vậy, cuộc đấu tranh củo chủ nghĩa xã hội ở đây

đã được trình bày không đơn giản, không nhẹ nhàng chút nào, ý nghĩa của nó

Page 192: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

cũng cụ thể, sâu sắc hơn: nó vẫn còn là sự nghiệp giải phóng nông thôn, giải

phóng những con người, những số phận. Về mặt khác mà nói thì một hoàn

cảnh khó khăn, một tình huống phức tạp nhường ấy cũng chính là nơi những

nhân vật tích cực, những anh hùng mới ở nông thôn, hoạt động. Những con

người của chung ta, có thể nói, đã được Chu Văn nhìn nhận trong một cuộc

chiến đấu không khoan nhượng, nơi họ phải đương đầu với sức chống đối lợi

hại. Đọc Chu Văn, do đó, ta không có cảm giác khó chịu về sự miêu tả cái

thắng lợi quá dễ dãi của những anh hùng thời đại chúng ta.

Bão biển đánh dấu một bước ngoặt trên con đường viết văn của Chu

Văn. Anh xuất hiện trước đông đảo bạn đọc bằng Cô lái đò sông Ninh, với

truyện ngắn xuất sắc cùng tên, và trở nên quen thuộc với bạn đọc bằng Ánh

sáng bên hàng xóm với truyện ngắn xuất sắc Con trâu bạc. Đến khi tiểu

thuyết Bão biển ra đời với tiếng vang nhanh chóng và sức cuốn mạnh mẽ của

nó thì người ta cũng không lấy gì làm lạ: sự hiểu biết của Chu Văn về nông

thôn, nhất là nông thôn một vùng công giáo, tài năng của Chu Văn trong đề tài

nông thôn, nhất là nông thôn một vùng công giáo, đã thể hiện hứa hẹn… ở

những tập truyện ngắn trước Bão biển. Thế nhưng, đọc xong Bão biển, người

ta không khỏi sửng sốt. Chu Văn đã làm một bước nhảy vọt mà không phải

nhà văn nào cũng làm được. Bây giờ trước người đọc, Chu Văn không còn là

một nhà văn có những truyện ngắn về nông thôn đọc được có, hay có, thậm

chi xuất sắc cũng có, đại loại như những truyện ngắn của nhiều người viết

cùng thời. Bây giờ Chu Văn đã nghiễm nhiên là tác giả của cuốn tiểu thuyết

viết về nông thôn vào loại xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại từ sau

Cách mạng tháng Tám. Và đó cũng là một trong những điều phân biệt Chu

Văn với những nhà văn đương thời thạo về đề tài nông thôn. Song điều mà

chúng tôi muốn đề cập ở đây là quy luật nhảy vọt trong quá trình sáng tác của

nhà văn. Bắt đầu là những bước chuẩn bị “lấy đà” rồi mới bột phát bằng một

sức mạnh sáng tạo để từ một bến bờ, vọt sang một bến bờ… Thế rồi lại

chuẩn bị, lấy đà để vượt xa hơn nữa. Rõ ràng, mỗi nhà văn đều có thể có

những bước chuẩn bị, lấy đà, nhưng không phải nhà văn nào cũng có thể

Page 193: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

nhảy vọt, vì muốn nhảy vọt cần phải có sức bật nữa, và đó mới là cái quyết

định. Sức bật sáng tạo ấy tuy là hiếm, nhưng vẫn có thể chuẩn bị để tạo ra

được. Bằng nhiều bước nhảy vọt như vậy, nhà văn đã bỏ xa những bạn viết

suốt đời chỉ có những bước tiệm tiến đều đều… Sau Bão biển, Chu Văn viết

Hương cau – Hoa lim. Tập truyện ngắn về hậu phương và tiền tuyến chống

Mỹ này lại bắt đầu trước chuẩn bị đà cho lấy một chặng đường với bước

nhảy vọt mới đấy chăng?…

***

Hầu như ta không thấy trong sáng tác của Chu Văn con người buông

mình cho tình thế cuốn đi đến đâu thì đến, thậm chí đến chết – kiểu như cô

Chăm đẹp mà lẳng, đáng giận mà cũng đáng thương của Nguyễn Thế

Phương (Nắng). Ở Chu Văn, cả đến những con người suốt một đời nhẫn

nhục, chìm trong bóng tối, thì cuối cùng do một sự biến nào đấy, cũng bật dậy

cố tìm ra chỗ sáng. Bà cụ bao nhiêu năm sống trong gian lều tối tăm, cái gì

cũng cho là ở Chúa cả, thì rồi cũng phải phân vân khi thấy cái ánh sáng hạnh

phúc do con người tạo ra cứ đêm đêm hắt sang nhà mình (Ánh sáng bên

hàng xóm). Lão bõ nửa say, nửa tỉnh, cả đời sống cái kiếp con chó trong nhà

thờ, thì cuối cùng cũng phải phát khùng lên chửi cha tên cha đểu cáng, rồi

chết một cách khốn khổ trên cái ổ rệp ở góc vườn nhà chúa, sau một đêm

cấm khẩu chót già… (Bão biển). Những con người hành động đến cùng,

chống lại đến cùng những gì cản đường mình, ta gặp không ít trong tiểu

thuyết Bão biển và đó cũng chính là một trong những nét độc đáo của cuốn

truyện. Nếu ta hình dung Bão biển như một cuộc đấu, thì những đấu thủ của

nó quả là những tay lì lợm, lợi hại. Lão chánh già chỉ nghĩ đến ngày tận số

của một vị chúa ăn trên ngồi trốc, giàu sang tột cùng… cũng đủ để uất lên,

hộc cả máu mồm, ốm liệt giường, cái xác gần luỗng ra mà vẫn còn nát óc bày

mưa tính kế làm cho “hợp tác tan, chính quyền nát”. Tên cha bây giờ không

được mặc áo nhà binh, bắn giết giáo dân giữa đường giữa chợ như trước kia

nữa, thì lồng lộn như con chó điên trong bốn bức tường nhà chúa; mới nghe

có hai tiếng “công an” đã bật lên phát cuồng, không làm gì được ai thì chửi

Page 194: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

con khỉ: “tiên sư giống thủy tổ cộng sản!”, rồi vung roi quật nó lia lịa, làm nó

kêu lên những tiếng man rợ: khẹc khẹc! Mụ đàn bà trước kia trong những vụ

bọn phản động nổi loạn từng trần như nhộng, tay này cầm tro trộn ớt, tay kia

cầm gạch củ đậu xông vào đánh bộ đội, thì nay luôn có mặt trong các vụ

chống phá, đến khi bị bắt còn hung hăng dùng vỏ chai chống cự, đánh bị

thương một chị dân quân… Cô gái đã vượt qua được sự ngăn cản ghê gớm

của người chị cuồng tín, hơn nữa đã dám xem thường các lề thói cũ, chống

lại và chiến thắng các thế lực hắc ám đè nặng lên số phận mình, tâm hồn

mình để làm lại cuộc đời và cho thiên hạ hay rằng, con người phải tự tìm lấy

hạnh phúc, và có thể làm lấy hạnh phúc ngay cả ở cõi đời này, chứ chẳng có

chúa nào dính dáng vào đấy, có chăng chỉ là một bọn giả danh chúa. Anh

thanh niên mới lớn lên đã không chịu thua tên côn đồ vũ phu, dù chỉ là trong

một keo vật, đã dám yêu và cưới, theo một cung cách mới, và nhất là đã dám

xuống đồng gặt lúa trong ngày “kiêng việc” mà không sợ một hình phạt nặng

nề nhất của nhà thờ: rút phép thông công. Mơ hồ, thỏa hiệp, yếu đuối đến

như ông chủ tịch có bà vợ bị mua chuộc bởi vài cái lợi trước mắt, có cô con

gái đú đởn vào hội Pha-ti-ma rồi sinh đổ đốn…kia, thì cuổi cùng, sau một cơn

mê man suýt nữa sa ngã, cũng phải tìm đến với đồng chí, với Đảng… Rõ

ràng Chu Văn đã xây dựng được những nhân vật có sức sống mạnh mẽ. Chu

Văn đã miêu tả thoải mái ”đến cùng” nhiều nhân vật của mình, chính diện

cũng như phản diện. Anh không run tay, không sa đà khi viết về những con

người xấu, những bọn phản động với tất cả suy nghĩ, hành động trong bóng

tối của chúng. Với con mắt sắc sảo tinh đời, với cái nhìn vững vàng về chính

trị. Chu Văn đã đưa ra nhiều nhân vật phản diện với cả lối sống, âm mưu,

hành động để theo đuổi đến cùng mục đích của chúng mà vẫn không gây cho

người dọc phản cảm về sự hiểu sai lệch bản chất của hiện "thực xã hội chúng

ta – thế giới của những con người mới, thế lực mới, tiến bộ, tích cực, đầy sức

mạnh. Thế nhưng, không rõ vì sao tác giả lại để người anh hùng số một trong

cuộc đấu tranh mà anh miêu tả, cái linh hồn của toàn bộ cuộc sống mà anh tái

hiện, dừng lại giữa đường. Mối tình của Tiệp với Nhân (bạn đọc nên nhớ

Page 195: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

rằng, dù sao chăng nữa, Nhân là vợ một tên phản động hiện hành, và… câu

chuyện mà chúng ta đang bàn đây lại diễn ra trong tình hình của một cuộc

đấu tranh - giai cấp rất gay gắt) đã là điều ngờ ngợ, nhưng cũng có thể hiểu

được. Song cái tình yêu mà tác giả muốn có ấy cũng chẳng đem lại gì cho

anh và cho cả cô, người đàn bà nửa phần đáng giận và nửa phần đáng

thương ấy. Giá như từ tình yêu với Tiệp, Nhân bắt đầu một cuộc lột xác, tái

sinh thì đã đi một nhẽ! Đằng này cô lại vẫn cứ chìm ngập, bế tắc. Nếu như ở

Bão biển có điều gì làm người đọc phân vân nhất, thì đó là những lần tiếp xúc

cuối cùng với Tiệp, bởi vì những lần gặp cuối cùng; với một người bạn

thường để lại trong ta nhiều ấn tượng và suy nghĩ. Một người như Tiệp

mà:”đã biết, thì có dừng lại ngại ngùng và thối chí trong tình yêu và nhất là

trong công việc không? Thật ngạc nhiên hết sức, khi thấy tác giả để anh rời

bỏ vị trí của mình ở Sa Ngoại là mảnh đất gắn bó cả cuộc đời anh, là môi

trường tạo ra anh, cần anh và chứng tỏ sự tồn tại của anh… Một khi bị gạt ra

khỏi cái môi trường sống và hoàn cảnh hành động, người anh hùng coi như

thất thế, nhân vật coi như đã chết. Tôi ngờ rằng trong khi viết Bão biển, Chu

Văn có bị ám ảnh bởi cách xây dựng nhân vật anh hùng ở một vài cuốn tiểu

thuyết nước ngoài nào đó? (Tuy nhiên nhận xét này mới chỉ là “ngờ”, vị tất đã

đúng!)

***

Chỉ tính từ Cô lái đò sông Ninh, qua Ánh sáng bên hàng xóm, đến Bão

biển, không kể Hương cau – Hoa lim (1971) ta thấy Chu Văn không dừng lại

trong những vấn đề mòn lối, cũng không quanh quẩn trong những chuyện vụn

vặt.

Sự mở rộng đề tài, cả về đối tượng miêu tả lẫn quy mô miêu tả, đã làm

cho sáng tác của Chu Văn thêm tính chất phong phú, chứa nổi những vấn đề

lớn, bắt kịp sự quan tâm của người đồng thời. Ấy là điều làm nên cái sức

nặng trong những trang viết của anh. Tuy nhiên đọc anh, người đọc không chỉ

thấy khô khốc những vấn đề là vấn đề, những vấn đề mà anh đặt ra đã chìm

Page 196: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

đi, lẫn đi trong sự phong phú, rộng lớn của cái hiện thực mà anh miêu tả, và

rồi đột nhiên trong một lúc nào đó, chúng nổi rõ lên, ám ảnh sự suy nghĩ của

người đọc. Ở sảng tác của Chu Văn, không có sự khập khiễng giữa đề tài

miêu tả và chủ đề hàm ý, giữa hiện thực tái hiện và vấn đề đặt ra. Có những

cuốn sách, sự miêu tả, kể lể tràn lan đã hàng mấy trăm trang người đọc vẫn

không thấy tác giả định nói gì; ngược lại, có những tác phẩm, vấn đề đặt ra

sắc sảo, thu hút người đọc ngay từ đầu, nhưng “tính vấn đề” ấy lại nổi lên

như một sự cố ý, nó làm nghèo nàn, méo mó và trơ trụi cả cuộc sống tái hiện,

cả hai khuynh hướng này, Chu Văn đều không rơi vào. Đó là cái may cho anh

trên con đường phấn đấu trở thành nhà tư tưởng-nghệ sĩ.

Nhà văn có thể chọn những đề tài quen thuộc hay chưa quen thuộc,

nghĩa là có thể chọn những vùng (bao gồm người và việc) quen thuộc hay

chưa quen thuộc, làm đối tượng sáng tác. Nhưng có một điều quan trọng

trước tiên là sự hiểu biết sâu rộng về đề tài ấy, đối tượng ấy. Sự nắm chắc đề

tài sẽ giúp nhà văn chân thật và có sức bay bổng trong lao động sáng tạo, sẽ

giúp nhà văn đỡ phải đánh vật với mình, đối phó với chính mình, tránh được

những mánh khóe nghệ thuật dù khôn khéo đến mấy cũng không qua nỗi con

mắt tinh tường của người đọc hiện đại. Hiểu thấu đáo cái hiện thực mà mình

định bụng miêu tả, Chu Văn đã dựng được những cảnh thật sống, mang đến

cho người đọc những tri thức mới về nhiều phương diện của cuộc sống, và

do đó thu hút người đọc. Có những chương, những cảnh, nếu vào tay một

nhà văn ít am hiểu về một vùng nông thôn công giáo, thi sẽ bị lách đi, lướt đi,

hoặc lược kể qua loa, khiến người đọc mất hứng. Ấy là chương Chu Văn dám

dựng cả cảnh hũ nút trong nhà thờ với đủ loại cha đi đứng, nói năng, suy

nghĩ, lừa miếng, đe dọa, chửi rủa, âm mưu, ăn uống… và cả những sinh hoạt

khác. Ấy là chương dựng cả một ngày lễ đầu dòng với đám rước kéo dài

hàng cây số nườm nượp đủ loại người: những đội trống, dàn nhạc các xứ

đua nhau trổ tài làm đinh tai nhức óc người qua; những đoàn nghĩa binh toàn

các em nhỏ, đọc kinh yếu ớt, có các bà quản đi kèm để cốc vào đầu mấy cô

bé tội nghiệp đi lệch hàng; những hội viên Pha-ti-ma ô đen, áo dài trắng, guốc

Page 197: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

cao gót; những đoàn nữ tu sĩ toàn những cô gái mắt bồ câu, mặt trẻ măng lại

cố làm ra vẻ nghiêm lúc toán thanh niên ngoại đạo vây lấy xem; những đoàn

người trên bộ, dưới thuyền lũ lượt kéo từ các ngả, các sông đổ về đất

thánh… cả một ngày hội với đủ các loại nghi lễ, tục lệ, và cả đoạn kết thúc

vào buổi tối trên những quãng đưòng vắng, thằng già mất dạy suýt nữa làm

hại một cô gái… Bạn đọc đã thấy và hiểu thế nào là ngày lễ đầu dòng ở cái

xứ từ xa nhìn về chỉ thấy tua tủa lên những nóc chuông nhà thờ ấy. Một

chương sách tràn đầy không khí tiểu thuyết. Có thể nói, văn xuôi của ta còn

hiếm những chương như vậy.

Sự hiểu biết kỹ lưỡng về một vùng nông thôn với những cảnh vật,

những con người, những vấn đề của nó đã dẫn đến thành công, hay ít nhất

cũng là một nguyên nhân đáng kể dẫn đến thành công của Chu Văn trong

một số truyện ngắn, và đặc biệt là trong tiểu thuyết Bão biển. Nhưng rõ ràng,

nông thôn của Chu Văn mới chỉ là nông thôn bước vào ngưỡng cửa của chủ

nghĩa xã hội với tất cả những nặng nề, gay gắt của cuộc đấu tranh chống bọn

phản động đội lốt thầy tu, chống những thói hư tật xấu, tàn tích hủ lậu – chứ

chưa phải là nông thôn xây dựng chủ nghĩa xã hội với những vấn đề của ba

cuộc cách mạng mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt, chưa

phải là nông thôn của một cuộc lột xác từ sản xuất nhỏ, lạc hậu tiến lên sản

xuẩt lớn xã hội chủ nghĩa. Chẳng phải Chu Văn, ở Bão biển, đã quy tất cả vấn

đề của một vùng nông thôn tiến lên chủ nghĩa xã hội mà anh miêu tả vào cuộc

đấu tranh với bọn phản động và những cái lạc hậu. Nhưng rõ ràng sau thắng

lợi của cuộc đấu tranh đó thì tác giả đã lúng túng. Phải chăng đó là một trong

những nguyên nhân chủ yếu gây ra những bước hẫng trên đường dài của

toàn bộ Bão biển, thể hiện ở tập II cuốn tiểu thuyết.. Sự nhận thức sâu sắc và

nhạy bén những vấn đề của chủ nghĩa xã hội đặt ra ở nông thôn hiện nay là

đòi hỏi chung đối với tất cả những nhà văn viết về nông thôn, trong đó có Chu

Văn.

Nhà văn luôn luôn phải đứng trước những lĩnh vực mới, những vấn đề

mới mà thời đại vừa làm nảy sinh, "là trước đây, không bao giờ có. Và đó

Page 198: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

chính là cái môi trường sống, hoạt động, chiến đấu của con người đồng thời,

đó chính là cái hiện thực mang chất thời đại mà nhà văn có tinh thần phụ

trách không thể không phản ánh. Đương nhiên, đây là một cuộc thử lửa mới,

nó đặt ra trước nhà văn không ít khó khăn, mà trước hết là khó khăn về sự

hiểu biết, bởi lẽ có hiểu biết thì mới khám phá, sáng tạo được. Để hiểu biết,

có khi phải đi xa, đến những nơi gian khổ, nguy hiểm; có khi phải dày công

nghiên cứu học tập từ những điều cơ bản đến những kiến thức tiên tiến.

Hương cau – Hoa lim, nhất là phần Hoa lim, đánh dấu sự cố gắng của Chu

Văn trong việc mở rộng ngòi bút ra những vùng xa mới mẻ. Nhưng cũng ở

Hoa lim, đã chứng minh rất rõ ý nghĩa của sự hiểu biết trong việc khám phá,

sáng tạo của nhà văn. Rời xa đề tài nông thôn, đứng trước những con người

và sự việc mà mình làm quen chua lâu, hiểu biết chưa thấu, ngòi bút Chu Văn

đã có lúc tỏ ra gượng ép vô lý (Câu chuyện trong túi nước), sắp đặt giả tạo

(Hoa lim). Trong Hương can – Hoa lim, riêng truyện ngắn Hò lìa trâu là hay

hơn cả. Điều này có thể giải thích được: con trâu từng gắn bó máu thịt với đời

sống vật chất và tình cảm ở nông thòn, nó đã một lần vào sáng tác của Chu

Văn trong một truyện ngắn xuất sắc: Con trâu bạc.

Truyện ngắn VŨ THỊ THƯỜNGHầu hết sáng tác của Vũ Thị Thường đều lấy đề tài ở nông thôn, trừ

mấy truyện viết về các đề tài khác như Một đêm khó ngủ, Bé Minh, Một buổi

sáng đẹp trời, Câu chuyện bắt đầu từ những đứa trẻ… Những sáng tác đã

xuất bản của chị gồm có Cái hom giỏ (1959), các tập Gánh vác (1963), Hai

chị em (1965), Bông hoa súng (1067), và gần đây là Vợ chồng ông lão chăn

vịt (1973). Ngoài ra, còn một số ít sáng tác đang rải rác trên báo.

Qua phần lớn sáng tác của mình, Vũ Thị Thường một mặt ca ngợi,

khẳng định những người nông dân mới ở những khía cạnh khác nhau, mặt

khác nêu lên những vướng mắc còn tồn tại trong đời sống hoặc phê phán một

số hiện tượng lạc hậu còn cản trở bước tiến của nông thôn.

Page 199: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Vũ Thị Thường, với cái nhìn vừa tinh tế vừa ưu ái, đã thể hiện khá đạt

một số mặt của đời sống nông thôn. Chẳng hạn, chị nêu lên sự đổi thay cuộc

đời của người nông dân trong chế độ mới, và qua đó, khẳng định vẻ đẹp, tính

ưu việt của chế độ ta. Qua truyện ngắn Hai chị em, tác giả đã gợi lên một

cách tự nhiên sự khác nhau giữa hai cuộc đời ở hai chế độ. Hoặc trong Nỗi

vui bỡ ngỡ, ta thấy một người con gái đã 29, 30 tuổi đầu, không có lấy một bộ

quần áo lành lặn, làm như “con trâu lăn” mà vẫn bị anh trai, chị dâu đối xử

nghiệt ngã. vẫn bị dè bĩu là “con ngẩn ngơ”, “con dở hơi” đến nỗi chính người

con gái ấy cũng tưởng mình ngẩn ngơ thật, thậm chí không biết là mình khổ,

bởi bản thân có được sướng bao giờ đâu. Nhưng chế độ mới đã cải tử hoàn

sinh, đưa chị trở về cuộc sống, trở thành người con gái làm ăn “chăm chỉ, gọn

gàng, đâu ra đấy”. Bà con hợp tác đều lo lắng vun thu cho chị. Từ một con

người ăn gửi nằm nhờ, sống tối tăm, khốn khổ, nay có công ăn việc làm, có

gian buồng và đủ cả giường màn, hòm xiểng, cả mấy tờ tranh dán trên

tường… thì đúng là tâm trạng Nền phải ngỡ ngàng, không hiểu là thực hay

mơ. Trong truyện, những chi tiết bình thường như “mấy cái gốc tre cháy gần

hết, đang reo lên trong bếp lửa”, hay như trời sáng trăng, “một con chó con

tròn như nắm bông đang chờn vờn đùa với đôi guốc mới” v.v… đều như

muốn nói lên ở Nền đang rạo rực “một niềm vui vừa mênh mang vừa sâu xa

bỡ ngỡ”. Câu chuvện gợi người đọc nghĩ đến một cái gì thật cao đẹp. Phải

chăng đó là tính chất nhân đạo, tính chất ưu việt của chế độ ta? Với một cái

nhìn hồ hởi, tin yêu con người và cuộc sống, Vũ Thị Thường đã phác họa

sinh động hàng loạt hình ảnh những người nông dân đang tích cực xây dựng

chủ nghĩa xã hội ở nông thôn. Tác giả muốn qua những tâm tư, suy nghĩ,

những việc làm cụ thể của một số nhân vật để nêu bật lên phẩm chất của con

người mới như trong Cái đĩ con, Một ngày, Ông chủ tịch xã, Chúng tôi…, Vợ

chồng ông lão chăn vịt, v.v…

Chúng ta đã sống hàng bao nhiêu năm dưới chế độ thực dân phong

kiến nên nếp sống, thói quen, sự suy nghĩ của mỗi người không thể bỗng

chốc mà đổi thay ngay được. Tác giả chú ý đến quá trình nhận thức, vật lộn

Page 200: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

để vượt lên từ người phụ nữ cũ sang người phụ nữ mới (Gánh vác, Theo

chồng). Đúng như câu chuyện tác giả đã kể trong Từ mỗi căn nhà như thế,

thường ngày có biết bao nhiêu người có thể sống cuộc sống tưởng như

“không có ý vị gì”, với biết bao nhiêu chi tiết “tầm thường vụn vặt”, nhưng khi

đất nước có nạn ngoại xâm thì họ đã sống hoàn toàn khác. Thật là một chân

lý giản đơn mà kỳ diệu: “Thì ra anh, vợ anh và biết bao nhiêu người khác nữa

đều phải được đánh giá lại cho đúng vào những giai đoạn thử thách này”.

Cuộc sống mới cũng đòi hỏi một cách nhìn, cách nghĩ, một phương

pháp tư tưởng mới. Trong Xung khắc, Vũ Thị Thường nói về tính cách và

phẩm chất của một anh thanh niên tên là Hược. Tác giả gợi lên hình ảnh

Hược từ thuở còn là thằng bé nghịch ngợm, xấc láo, hay trêu chó, phá cày

nhà ông Điềm, chủ nhiệm hợp tác xã; đến khi làm bí thư chi đoàn thì lại mấy

phen xô xát với ông trong công tác, và giờ đây thực ra cũng “còn có chỗ ông

không ưa”. Nhưng ông Điềm đã không bị những ấn tượng, những định kiến

hay cảm tình cá nhân chi phối, mà vẫn thấy được cái đúng, cái mạnh dạn,

xông xáo, (được việc của Hược nên đã giới thiệu anh vào Đảng; bởi ông nghĩ

“Đảng rất cần những người như Hược”.

Qua một số truyện, người đọc thấy Vũ Thị Thường đã đạt được thành

công khi ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân mới, lộ ra

trong công việc chung hay qua một khía cạnh riêng tư của tình cảm. Nhà văn

còn chú ý đến bước chuyển biến, quá trình vươn lên của một số nhân vật

hoặc gợi lên cách nhìn, cách nghĩ, cách đánh giá một con người như thế nào

cho phù hợp với sự phát triển của xã hội.

Nhiều truyện của Vũ Thị Thường, cốt truyện không có gì ly kỳ, không

phản ánh những xung đột gay gắt, có thể không nhằm đặt ra và giải quyết

một vấn đề gì thật lớn. Nói cách khác, những truyện ấy không gây nhiều hiệu

quả bề ngoài, nhưng vẫn tạo được một sức hấp dẫn bên trong đối với người

đọc. Bởi nhà văn biết tìm ra những nét mới mẻ, nhiều khi không lớn lắm

nhưng có ý vị trong cuộc sống. Lại nữa, hầu hết nhân vật hiện ra trong tác

Page 201: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

phẩm của Vũ Thị Thường đều có xương, có thịt, có tâm hồn và cốt cách

riêng. Phải chăng đó là một đặc sắc của ngòi bút chị? Tất nhiên điều ấy không

phải chỉ do nghệ thuật viết mà chính là do ở “con mắt” và “tấm lòng” của

người cầm bút.

***

Một số truyện của Vũ Thị Thường như đã nêu trên chủ yếu mang

khuynh hướng ca ngợi, tuy có ghi lại được một số nét của con người mới

trong từng hoàn cảnh nhất định, và mặt khác, tác giả có cố gắng đổi mới

trong cách viết, mở rộng và làm phong phú thêm tư tưởng chủ đề, nhưng đây

vẫn chưa phải là những truyện hay nhất, đạt nhất của tác giả. Sự quan tâm

của Vũ Thị Thường sau này lại hướng vào một số truyện có khuynh hướng

phê phán trực tiếp một số mặt tiêu cực trong nội bộ nhân dân (mặc dầu loại

này chưa nhiều). Thực ra, đây là nói khuynh hướng chính của truyện, chứ khi

phê phán cái xấu, cũng tức là để khẳng định, ca ngợi cái tốt, và ngay những

nhân vật tiêu cực vẫn có mặt tích cực; hơn nữa, bên cạnh những nhân vật

tiêu cực vẫn có những nhân vật tích cực.

Vũ Thị Thường là một cây bút trưởng thành sau Cách mạng. Chị chịu

khó thâm nhập cuộc sống nông thôn, và với sự nhạy bén riêng, chị đã cố

gắng đặt ra một số vấn đề đáng chú ý, làm nhiều người đọc phải quan tâm,

suy nghĩ. Chị nêu lên những vấn đề như lý tưởng sống (Một đêm khó ngủ,

1961), (Hạnh phúc, 1964), quan hệ giữa hạnh phúc cá nhân và công tác xã

hội (Cái riêng bé nhỏ, 1964), chỗ đứng của người phụ nữ (Vợ chồng chị đội

trưởng, 1966), tinh thần trách nhiệm trong công tác (Bông hoa súng, 1967),

sự mắc míu trong quan hệ vợ chồng cán bộ (Câu chuyện xảy ra không tránh

khỏi, 1966), sự tha hóa của một cán bộ chủ chốt (Cái lạt, 1970), cách suy

nghĩ chủ quan, tự mãn của một cán bộ lãnh đạo hợp tác xã (Cái bi kịch của

một ông chủ nhiệm, 1972), v.v…

Trong loại truyện này, cách đặt vấn đề của Vũ Thị Thường ngày càng

có những ưu điểm đáng chú ý. Tất nhiên, không phải bỗng chốc chị viết ngay

Page 202: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

được những Câu chuyện xảy ra không tránh khỏi, Cái lạt v.v… mà bản thân

phải trải qua nhiều vật lộn, thử thách. Như ở thời kỳ đầu, ngòi bút của Vũ Thị

Thường đã có những lúng túng và hạn chế khi trình bày và giải quyết vấn đề

(Một đêm khó ngủ. Hạnh phúc, Cái riêng bé nhỏ).

Chỗ mạnh của Vũ Thị Thường trước hết ở sự tinh tế và mạnh dạn phát

hiện một số vấn đề còn mắc míu trong quan hệ gia đình, trong quan hệ xã hội

hoặc trong phương pháp làm việc, trong cách nhìn, kiểu nghĩ của một số cán

bộ cơ sở.

Đọc Câu chuyện xảy ra không tránh khỏi, không ít người thích thú, bởi

vấn đề được nêu ra tinh tế và mới mẻ. Trong một số gia đình, sự tích cực và

tiến bộ nhanh chóng của người vợ đôi khi làm cho người chồng khó chịu và

từ đó quay ra gây trở ngại cho công việc của vợ. Thêm nữa, trong tình hình

nền sản xuất xã hội và tổ chức đời sống chưa cao, thì người phụ nữ còn gặp

không ít khó khăn trong khi tham gia công tác chung. Đó là những chủ đề đã

trở nên quen thuộc ở nhiều truyện. Còn ở đây, Vũ Thị Thường lại đặt vấn đề

ở một khía cạnh khác. Nhân vật Mùi trong truyện được chồng hết sức giúp

đỡ, công việc gia đình lại khá rảnh rang; vấn đề của câu chuyện không phải

xảy ra ở sự giúp đỡ mà lại xoáy vào cách giúp đỡ của người chồng, xã hội

ngày nay đã tạo điều kiện cho người phụ nữ mở rộng tầm nhìn, tầm nghĩ nên

dầu có kém chồng, có phải chịu ơn chồng, họ vẫn cảm thấy khó chịu với sự

giúp đỡ theo kiểu bề trên, với cái nhìn thương hại của chồng: “Giời ơi, em non

quá!”. Cách nhìn, cách giúp đỡ này tất nhiên sẽ dẫn người chồng đến chỗ

không hiểu và không chịu nổi, khi thấy vợ có ý kiến riêng, không đúng với

mình, và tới một lúc nào đó câu chuyện “xảy ra không tránh khỏi”.

Hoặc như trong Bông hoa súng, tác giả không xây dựng hình ảnh một

cán bộ hoàn toàn vô trách nhiệm hay có sai lầm lớn về lập trường tư tưởng.

Nhân vật Tấn ở đây một mặt thì tích cực xông xáo, muốn hoàn thành tốt công

việc được giao, nhưng mặt khác, do tinh thần trách nhiệm chưa đầy đủ, lại

chuộng hình thức nên đã để xảy ra tình trạng bỏ quên một nữ tiểu đội trưởng,

Page 203: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

người tuy xấu, nhưng “củ mỉ củ mỉ, lặng lẽ cùng chị em lập hết thành tích này

đến thành tích khác”, đề cao một nữ dân quân khác, về hình thức thì có đẹp,

tuy cũng có đóng góp cho phong trào, nhưng chưa phải là người tiêu biểu.

Mãi đến lúc cán bộ tỉnh đội về, chuyện mới được giải quyết. Người báo cáo

điển hình lần này đã được chọn đúng; do bản thân cùng chị em lập thành tích

nên cô đã nói rất hay, rất tự nhiên, thoải mái, ai nghe cũng thích thú. Câu

chuyện giản dị nhưng có ý nghĩa, bởi trong cuộc sống, chúng ta cần thực sự

cầu thị, không thể để cho những “bông hoa súng” bị bỏ quên.

Vũ Thị Thường cũng mạnh dạn đi vào những mâu thuẫn phức tạp,

những vấn đề có thể gọi là hóc búa mà nếu người cầm bút không vững tay,

truyện viết sẽ hạn chế về tầm tư tưởng. Trong nền văn học mới, nói về một số

mặt tiêu cực còn tồn tại trong xã hội. chưa phải đã có nhiều nhà văn viết hay,

bởi viết thế nào cho vừa có tình, vừa có lý, phê phán nghiêm khắc được mặt

xấu, nhưng đồng thời khẳng định được mặt tốt, mặt bản chất của chế độ ta là

rất khó.

Thông thường trong nhiều truyện, người viết mới chỉ dừng lại ở chỗ để

cho những thanh niên tiến bộ thẳng thắn đấu tranh với những nhân vật bảo

thủ, lạc hậu, hoặc những người giữ các nhiệm vụ bình thường trong hợp tác

xã. Còn Vũ Thị Thường, trong Cái lạt, thì đã để một thanh niên dám phê bình

thẳng một đảng ủy viên, kiêm chủ nhiệm hợp tác xã. Người đọc rất sảng

khoái khi nghe một thanh niên mới lớn lên, dám nói hết những điều mình nghĩ

về một đồng chí già, một đồng chí mà anh từng chịu ơn, dắt dẫn anh vào

Đảng, giúp anh trở thành đảng ủy viên… Làm việc này, anh đã phải suy nghĩ

rất nhiều, bởi anh phải nói hết ra mọi sự thật, như thế thì ơn của đồng chí đối

với mình mới thật sự là tốt, nếu không, đó chỉ là những sự mua chuộc, vả

mình trở thành “tay chân” của đồng chí mình, hay đúng ra là “một tên thỏa

hiệp”. Ông chủ nhiệm này mặc dầu có những đóng góp tích cực, nhưng đã

tham ô của hợp tác xã. Việc tham ô của ông Luận tuy không lớn lắm, nhưng

lâu dần, gộp lại mỗi thứ một ít, nên đã tới lúc không thể bỏ qua. Những việc

này hầu như cả hợp tác xã ai cũng biết, nhưng “ai cũng né tránh, cũng lấn

Page 204: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

cấn lẽ này lẽ nọ”, không nỡ nói ra, phải đến Ứng mới làm được. Thành công

chính của truyện là ở chỗ tác giả phê phán sự tha hóa, đồng thời vẫn nói lên

được người cán bộ Đảng ta, dù có mặt sai lầm nhưng vẫn có những đóng

góp tích cực đối với nhân dân, mặt khác khuyến khích được thanh niên đấu

tranh thẳng thắn với những sai trái, Ứng vạch rõ cái thực chất nguy hại của

những thủ đoạn “mua chuộc” tinh vi, kiểu “lạt mềm buộc chặt” của ông Luận.

Cái cách mua chuộc của ông Luận đã khiến Duyện, mội đảng ủy viên, thường

có nhiều suy nghĩ khá đúng đắn, nhưng vì ơn huệ “nề nả” (ông Luận đã quan

tâm giúp đỡ, có khi cứu giúp gia đình anh, nhiều lúc còn góp ý tận tình cho

Duyện ngay cả trong công tác) mà cứ ngần ngại, e dè không nỡ nói ra, thậm

chí có lúc còn lờ mờ không nhìn rõ khuyết điểm của ông ta nữa. Mãi đến khi

Ứng nói ra tất cả sự thật thì Duyện mới bừng tỉnh mà nhìn lại quan hệ giữa

mình và ông Luận. Tất nhiên, sau đó anh sẽ xác định lại thái độ của anh. Ở

đây, tác giả còn nói đến trách nhiệm của tập thể trong sự sai lầm của cá

nhân, khi chị nêu rõ sự né tránh, lấn cấn của nhiều người, cả đồng chí bí thư

Đảng ủy cũng “dĩ hòa vi quý”. Trong chế độ ta, mỗi cá nhân phải có trách

nhiệm đối với tập thể, nhưng ngược lại, tập thể cũng phải có trách nhiệm đối

với mỗi cá nhân. Vũ Thị Thường còn nhấn mạnh điều này cả trong Cái bi kịch

của một ông chủ nhiệm. Ông này làm việc khá tốt, chỉ phải cái chủ quan, kiêu

căng không chịu hỏi các hợp tác xã bạn, làm cho hợp tác xã đang là đầu tầu

bị tụt xuống. Chị Nhẫn, bí thư chi bộ đã nói với Hệ, phó chủ nhiệm hợp tác xã:

“Tôi nói chi bộ kiểm điểm là kiểm điểm chung, phong trào hợp tác xã mình

xẹp, anh tưởng không có lỗi của tôi, của anh vào đấy à?”

Phần lớn truyện của Vũ Thị Thường, trong đó có những truyện hay,

thường đi vào khai thác những khía cạnh tâm tư, tình cảm của những con

người bình thường, không giữ những nhiệm vụ quan trọng. Nhưng trong một

số truyện thuộc khuynh hướng phê phán, Vũ Thị Thường chủ yếu đi vào mặt

chính của những con người đứng ở mũi nhọn của cuộc sống trên mặt trận

sản xuất với những công việc, cách làm, nếp nghĩ của họ, có động chạm tới

nhiều người, nhiều việc, ảnh hưởng đến tổ chức, quản lý sản xuất… tức là

Page 205: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

những vấn đề có ảnh hưởng tới năng suất, có tầm quan trọng trong một

phạm vi xã hội nhất định. Do đó, ở đây sức đặt vấn đề của tác giả đã được

nâng lên rõ ràng. Mặt khác, cái đáng quý ỏ Vũ Thị Thường là chị biết lượng

sức ngòi bút của mình, như chị đã từng tâm sự trong khi trao đổi riêng: “Tôi

không muốn kiễng chân”. Thành ra trong một số truyện của chị, các vấn đề

nêu ra tuy không lớn lắm, nhưng với cách giải quyết thỏa đáng, cách phân

tích tâm lý nhân vật khá tinh tế, sâu sắc, không để người đọc thấy có sự khiên

cưỡng giả tạo, không để lộ rõ bàn tay bố trí, sắp xếp của tác giả, nên được

bạn đọc đồng tình.

Chính do ưu điểm đó mà một số truyện ngắn của Vũ Thị Thường quả

đã gây được sự chú ý của người đọc và có một tác dụng giáo dục nhất định.

Quả thật, trong phạm vi đời sống gia đình, có không ít người, nhất là phụ nữ,

có lúc nào đó quá lo lắng chăm chút cho hạnh phúc riêng của mình, đến nỗi

ảnh hưởng đến công tác chung, thì đọc Cái riêng bé nhỏ không thể không liên

hệ và suy nghĩ. Hoặc trong phạm vi quan hệ bạn bè, đồng chí với nhau ở một

tập thể lớn hoặc nhỏ có lẽ cũng cần xem lại xem có vấn đề “cái lạt” không?

Mỗi cá nhân cũng nên nghiêm khắc, tỉnh táo tự nhìn lại xem mình có sử dụng

những “cái lạt” không, hoặc có bị những “cái lạt” nào đó ràng buộc không?

Trong gia đình, sự giúp đỡ nhau giữa vợ chồng trong phạm vi công tác nếu

có điều kiện là rất tốt, nhưng cũng nên đề phòng tình trạng như “câu chuyên

xảy ra không tránh khỏi”. Nói rộng ra, ngoài xã hội, một thái độ giúp đỡ khiến

cho người chịu sự giúp đỡ phải ở dưới tầm tay của mình cũng là điều cần suy

nghĩ đối với một số bậc đàn anh.

Cái nhìn của Vũ Thị Thường vốn ưu ái. Ngay cả khi chị phê phán, lên

án những mặt tiêu cực, người ta vẫn thấy cái nét ưu ái đó. Như ông Luận

trong Cái lạt, tuy là nhân vật có sai lầm, nhưng cũng chẳng vì thế mà chị bỏ

quên những đóng góp tích cực của ông đối với nhân dân. Cái sai của ông ta

là do chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng quá lo lắng, vun quén cho mình của những

người quen làm ăn riêng lẻ lừ bao lâu nay. Mặt khác ông cũng là người có

công với hợp tác xã. Không có ông ta, chưa chắc cái Vạn Thắng này đã được

Page 206: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

xếp vào loại tiếng tăm trong huyện, mà có phải một năm, hàng bảy tám năm

nay nó vẫn vững vàng như thế”. Ông Luận không phải là một người xấu, khó

cải tạo. Với những người xấu hẳn thì vấn đề thật đơn giản, dễ thấy. Đằng

này, ông Luận có tội, lại cũng có công. Do đó, ở đây đòi hỏi tác giả vừa phải

phê phán nghiêm khắc, rạch ròi, lại vừa phải có cái nhìn độ lượng, đúng mức.

Vũ Thị Thường đã làm được điều đó. Chính đây là ưu điểm nổi bật của chị

khác với cái nhìn sắc lạnh của một số nhà văn khác khi viết về mặt tiêu cực

trong nội bộ nhân dân.

***

Tuy sức đặt vấn đề của Vũ Thị Thường ngày càng được nâng cao,

nhưng đọc giả vẫn muốn đòi hỏi hơn ở chị. Một truyện muốn có sức khuấy

động đông đảo bạn đọc thì vấn đề nêu lên phải có tầm lớn về tư tưởng,

những người, những việc nêu lên phải tiêu biểu cho mặt này, mặt khác của

thời đại. Loại truyện này của Vũ Thị Thường chưa có nhiều. Bên cạnh đó,

những thanh niên vốn là lực lượng đầu tầu trong sản xuất và chiến đấu, như

Hược (Xung khắc), Ứng (Cái lạt), Ngọ (Chúng tôi…) chưa nhiều đã đành, lại

còn chưa được thể hiện thật sinh động. Mặt khác, những nhân vật sâu sắc, rõ

nét lại thuộc lớp người sống dưới hai chế độ như chị Bộc (Gánh vác), chị

Phức (Theo chồng)… với những đức tính truyền thống đáng ca ngợi, nhưng

dù sao ta vẫn thấy ở họ những nét về người phụ nữ cũ đậm hơn, việc làm

của họ vẫn mang ít nhiều tính chất thụ động, chịu đựng, thiếu sự xông xáo, tự

tin như thường thấy trong lớp phụ nữ mới. Thực tế kháng chiến chống Mỹ ở

miền Bắc đã xuất hiện vô vàn những người mẹ, người vợ, có chồng con đi

chiến đấu xa, đã dũng cảm tay cày, tay súng, đảm đang việc nhà, tham gia

công tác xã hội một cách xuất sắc. Cho nên hình ảnh bà lão trong Vợ chồng

ông lão chăn vịt so với biết bao bà mẹ chiến sĩ khác thì thấy có vẻ cũ kỹ.

Ngay những chị Bộc, chị Phức, trong thời kỳ tổ chức đổi công hoặc mới xây

dựng hợp tác xã (cấp thấp) thì còn có tác dụng tốt đối với nhiều bà con nông

dân, chứ tới giai đoạn này, thì đã trở thành bình thường, ít tác dụng thúc đẩy.

Tất nhiên, có những truyện phản ánh những con người trong một giai đoạn

Page 207: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

nhất định vẫn giữ được giá trị lớn của nó khi xã hội đã chuyển sang giai đoạn

cao hơn, nhưng đấy không phải là trường hợp của những truyện Gánh vác,

Theo chồng… Người đọc muốn Vũ Thị Thường thể hiện thật tốt những phụ

nữ, nhất là lớp trung niên với tư thế của con người mới, tiên tiến, tiêu biểu

cho giai đoạn chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nông thôn

ta. Tất nhiên, đi vào đề tài nào, loại nhân vật nào là tùy ở sở trường riêng của

người cầm bút, nhưng dẫu sao tác phẩm có giá trị cao và lâu dài vẫn phải là

tác phẩm ghi lại được những người, những việc tiêu biểu cho thời đại, nhất là

thời đại anh hùng của chúng ta ngày nay.

Để khắc phục chỗ yếu đó, người viết cần luôn luôn bám chắc vào đời

sống. Sự bám chắc đó, người đọc cảm thấy ở Vũ Thị Thường mấy năm gần

đây dường như có sút đi.

Nhiẽu người còn thấy một số truyện của Vũ Thị Thường đơn điệu, bằng

phẳng, thậm chí có người cho đấy chỉ là những “ấn bản khác nhau của cùng

một mẫu người”. Theo chúng tôi, đúng là một số truyện của chị, để riêng thì

vẫn đọc được, nhưng nếu đem đọc cùng một lúc thì thấy hơi nhàm, bởi chủ

đề cơ bản của chúng không khác nhau bao nhiêu. Đó là trường hợp những

truyện như Một ngày, Neo đơn, Ông chủ tịch xã, Ông Nguyện, Bức thư của

một ông bố, v.v… Những truyện này tuy đề tài cụ thể có khác nhau, nhưng

chủ yếu đều nhằm ca ngợi sự tích cực và tinh thần trách nhiệm của hững cán

bộ cơ sở ở nông thôn. Có truyện đã rơi vào tình trạng lặp lại, như Cái

Khuyên, viết về một em bé chịu khó giúp đỡ mẹ trong khi bố đi tái ngũ. Thực

ra, chỉ cần một đoạn viết về em Thắng trong Từ mỗi căn nhà như thế cũng đủ

để nói lên sự chuyển biến của một em bé vừa dễ thương, dễ yêu, mặc dầu

em chỉ như một chấm sáng tô đậm thêm cho chủ đề của truyện. Ở truyện Cái

Khuyên, em này đã chín tuổi, làm một số việc như thổi cơm, trông em,… mà

ngay con cán bộ ở thành phố cũng nhiều em làm được hơn thế. Em Khuyên

lại có vẻ thương thương, tội tội, và mẹ em cứ bùi ngùi không yên tâm để em

làm những việc cần thiết giúp mình để có thì giờ công tác. Vũ Thị Thường còn

viết một số truyện khác, chủ yếu cho các em, trong đó có truyện hay, giúp cho

Page 208: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

trí tưởng tượng của các em thêm phong phú như Những chuyện tưởng tượng

của bé Hồng, nhưng lại có truyện chưa hay, và đứng ở góc độ giáo dục thiếu

nhi mà nói thì cũng có khía cạnh khiến cho một số người đọc chưa thật tán

thành, như Chuyện về một con mèo.

Ưu điểm của Vũ Thị Thường là sự hiểu biết, yêu mến và gần gũi người

nông dân. Nhưng có lẽ cũng cần nói thêm là do nhiều khi không giữ được

mức độ trong tình cảm, nên có những lúc dường như chị ca ngợi một chiều

cả những cái chưa tốt, chưa phù hợp với nền sản xuất mới. Người đọc có

cảm giác chị đồng tình, ca ngợi có phần khâm phục cả cái cách sống tất bật,

luộm thuộm thiếu khoa học, thiếu trách nhiệm đối với gia đình của một số cán

bộ. Đúng là trong hoàn cảnh nước ta, người cán bộ cơ sở còn phải chịu đựng

nhiều khó khăn, vất vả, và ở họ có mặt đáng biểu dương là nhiều người hầu

như không nghĩ đến hạnh phúc cá nhân, đến lợi ích riêng cho gia đình mà lúc

nào cũng lo lắng cho tập thể. Nhưng nền sản xuất phát triển đòi hỏi một nếp

sống ngày càng văn minh, khoa học, có tổ chức cao; nó không dung nạp

được những tập quán, nếp sống của lối làm ăn theo kiểu sản xuất nhỏ. Văn

học nghệ thuật không phải chỉ có chức năng phản ánh hiện thực mà còn có

chức năng giáo dục. Vì thế, khi nhà văn phản ánh những nếp sống, cách làm

việc chưa tốt thì cần có thái độ phê phán, để góp phần cải tiến công tác và

nếp sống cho những cán bộ cơ sở. Đọc Vũ Thị Thường, người đọc có cảm

giác người cán bộ nông thôn tuy về tinh thần có phấn khởi, tự hào, nhưng sao

nó bề bộn, căng thẳng, và về cách sống thì quá luộm thuộm, đôi khi lạc hậu.

Họ họp hành liên miên “ngày nào cũng bận rối tinh lên” thường là đêm khuya

mới “lọ mọ về”. Họ lo lắng việc chung thì thấu đáo, thuộc vanh vách từng hộ

trong hợp tác xã, nhưng việc nhà cửa thì khoán trắng cho vợ con. Có người

cả năm có một lần hứa giúp vợ đánh đống rơm, thì cũng lại bỏ đấy. Người

khác thì hoàn cảnh túng thiếu, con đã hàng đàn mà vợ vẫn cứ tiếp tục đẻ,

v.v…

Quả thật, đất nước ta sau mấy chục năm dưới chế độ mới đã có những

bước tiến lớn lao, nhưng đời sông nông thôn vẫn còn những mặt nghèo nàn

Page 209: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

và lạc hậu; mỗi nhà văn cần có ý thức đóng góp phần mình vào công cuộc cải

tạo và xây dựng cho nông thôn ngày càng tươi đẹp, rạng rỡ hơn lên.

NGUYỄN ĐỊCH DŨNG và bức tranh ấm áp của nông thôn trong quan hệ sản xuất mới

Qua hai tập truyện của Nguyễn Địch Dũng: Hai vợ (1959), Trai làng

Quyền (1965) chúng ta cảm thấy đâu đây gần lắm và quen thuộc lắm khung

cảnh làng quê của chúng ta với những đêm sương, những gốc đa, bến nước,

bờ ao…

Tuy nhiên, khung cảnh đó không phải chỉ có riêng trong truyện ngắn

của Nguyễn Địch Dũng. Sáng tác của Nguyễn Địch Dũng lôi cuốn chúng ta

chủ yếu là ở chỗ anh đã nêu lên được một cách khá tinh vi những biến đổi

lớn lao trong đời sống nông thôn sau Cách mạng. Cuộc cách mạng về quan

hệ sản xuất đã làm cho toàn bộ lĩnh vực ý thức, tinh thần của con người sớm

muộn cũng phải thay đổi theo. Cuộc cách mạng không những đem lại ruộng

đất, cơm áo cho nông dân lao động mà còn giáng một đòn mạnh mẽ vào tất

cả mọi thành trì của tư tưởng cũ, làm cho đời sống con người trở nên thoải

mái, vui tươi, làm cho mọi quan hệ xã nội, mọi tình cảm của con người: cha

con, anh em, vợ chồng, bè bạn, láng giềng… cũng đều khác trước, mang

theo một màu sắc riêng, đậm đà và trong trẻo hơn.

***

Một nhà nêu vấn đề đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng cũ và mới của

một người trung nông khi đi vào hợp tác xã. Vấn đề người nông dân tham gia

hợp tác xã hoặc tổ đổi công là một thực tế lớn ở nông thôn đã có nhiều tác

phẩm mô tả. Cái khó là làm sao tránh được những vết mòn của người đi

trước, chẳng hạn cái công thức “vào–ra–vào” vì những lý do gì đó rất giống

nhau. Nhìn chung, nhiều người viết thường hay lạm dụng việc mô tả những

khó khăn hoặc tai họa ngẫu nhiên để bó buộc nhân vật phải vào hợp tác xã,

trong khi tính ưu việt của hợp tác xã lại chỉ được miêu tả một cách đơn giản.

Page 210: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Cố nhiên cũng nên tránh cái nhìn phức tạp một cách giả tạo: cường điệu

những mặt tiêu cực của đời sống, khoác cho con người một bộ mặt lúc nào

cũng sầu thảm, hoặc làm cho những đấu tranh nội tâm của họ lúc nào cũng

có vẻ gay go, éo le, không thích hợp với hoàn cảnh của họ.

Trong Một nhà, tác giả nhấn mạnh đầu óc thiết thực của người trung

nông. Anh không tạo ra một tình huống đặc biệt để buộc người ta vào hợp tác

xã một cách bất đắc dĩ. Sản xuất của nhà ông Rĩ vẫn có vẻ phát đạt do ông

cố đua tranh với hợp tác xã. Nhưng dù có phát đạt bao nhiêu, ông vẫn cảm

thấy mong manh, không tin tưởng ở mình. Ông nhìn cơ đồ hợp tác xã với tâm

lý lo ngại và biết chắc thế nào mình cũng thua trong cuộc chạy đua với tập

thể. Tác giả không chú ý dựng trực tiếp bộ mặt hợp tác xã, nhưng cũng hé

cho ta thấy cơ đồ tập thể ngày một lớn lên, trong cảnh làm ăn đông vui, trong

phương hướng trang bị máy móc, cải tiến kỹ thuật, và trong sinh hoạt tinh

thần phấn khởi của con người. Chính đầu óc thiết thực làm cho ông Rĩ trước

đây “chân trong chân ngoài”, thì bây giờ, cũng chính với đầu óc ấy, ông sẽ xin

vào hợp tác xã.

Tác giả đồng thời cho ta thấy khi quan hệ sản xuất trong đời sống nông

thôn thay đổi thì tâm lý gia trưởng của người nông dân cũng rạn vỡ dần. Ông

Rĩ rất buồn phiền vì thấy mình không tài nào điều khiển được vợ chồng đứa

con trai cũng như đàn em của ông theo ý muốn. Ông không thể lấy quyền làm

cha, làm anh, làm người trưởng họ để sai khiến, bảo ban họ như hồi còn làm

ăn riêng lẻ. Họ đã có một cuộc đời mới, khác với cách sắp đặt của ông, chẳng

những có thể tự bảo đảm đời mình, mà còn luôn luôn giở lý sự, thuyết phục

ông cùng đi theo con đường của họ. Ông càng bực bội vì đứa con trai cùng

sống chung “một nhà”. Trong suy nghĩ của ông, anh con trai vốn chỉ là một

đứa trẻ khờ dại và xốc nổi. Còn bà mẹ thì căm tức con dâu vì lẽ “thoát khỏi

bàn tay của bà mà vẫn phởn phơ, vẫn tươi hơn hoa, đời sống lại cứ ngày một

dễ chịu ra… “. Thế nhưng, khi trong lòng ông sự đố kỵ với tập thể bớt dần; thì

cách nhìn của ông đối với vợ chồng đứa con và mấy đứa em cũng không còn

khe khắt lắm nữa. Ông hiểu con ông không phải là cứng cổ. Nó có cái lý đúng

Page 211: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

của nó. Ông biết nó cũng rất thương bố mẹ, nhưng là thương theo cách của

nó: muốn đưa ông thoát khỏi con đường làm ăn luẩn quẩn cò con. Và khi ông

nhận ra điều đó thì mâu thuẫn trong gia đình được gỡ ra dần, nỗi phiền muộn

của ông cũng tiêu tan. Cha con cùng đi chung đường, nên cảnh sống “một

nhà” không còn gây khó chịu, trái lại càng thêm hòa thuận.

Một nhà trực tiếp phản ánh cuộc đấu tranh giữa hai con đường trong

đời sống nông thôn, đồng thời chứng minh tính ưu việt của quan hệ sản xuất

mới. Một số truyện khác của Nguyễn Địch Dũng như Trai làng Quyền, Nhà chị

Nhỡ, Quê hương, tuy không miêu tả trực tiếp cuộc đấu tranh đó nhưng cũng

nêu lên được một vài nét đổi mới trong sinh hoạt tinh thần của người nông

dân. Thiên truyện xuất sắc về chủ đề này là Quê hương, miêu tả một chuyến

về thăm nhà của một người con xa quê từ nạn đói năm Ất Dậu, nay trở về

thấy quê hương rất khác xưa.

Đúng là tình yêu quê hương vốn có những nét riêng và bao giờ cũng

dạt dào trong chúng ta. Ai trong chúng ta, trong tâm hồn không dành một

khoảng cho quê hương. Hình ảnh ông Bổng ngổn ngang trăm mối tâm sự trên

con đường về quê gợi cho ta nhiều nỗi đồng tình. Chúng ta chờ đợi những

chuyện bất ngờ. Nhưng sự thực lại rất giản dị. Những lời chào hỏi, bát nước,

miếng trầu, bữa cơm, câu chuyện… tất cả đều nhanh chóng kéo ta về gội

trong không khí quen thuộc của quê hương dù xa cách bao nhiêu năm tháng

vẫn giữ nguyên vẻ mộc mạc, hiền hòa.

Nhưng thiên truyện không chỉ nói riêng tình yêu quê hương. Đúng hơn,

thông qua tình yêu quê hương người viết muốn nói một tình cảm chung, lớn

hơn: tình yêu chế độ, yêu cách mạng. Nhà văn đem đối chiếu cho ta thấy sự

khác nhau giữa cảnh ấm no, đoàn tụ trong các gia đình, bộ mặt vui tươi của

con người bây giờ với cảnh chết chóc, ly tán năm xưa. vẻ đẹp của chế độ

mới, của quan hệ sản xuất mới càng thấm thía hơn thông qua nỗi mừng tủi

nghẹn ngào của một người con đã trải qua nhiều cay đắng trong cuộc đời cũ.

Page 212: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Tình yêu quê hương ở đây, do vậy, gắn bó chặt chẽ với tình yêu cách mạng,

càng yêu quê hương lại càng thêm yêu cách mạng.

Mặt khác, chính tình cảm gắn bó với cách mạng đã làm cho tình yêu

quê hương không còn bị hạn chế trong khuôn khổ bình thường. Khi quan hệ

sản xuất đã đổi mới, và trong đời sống không còn giai cấp bóc lột, khi quan hệ

giữa người với người được xây dựng trên tình giai cấp, tình đồng chí rất sâu,

thì quan niệm về quê hương sẽ được mở rộng. Quê hương không còn là

miếng đất nhỏ hẹp quây quần một số người thân cùng chung huyết thống, gia

tộc, gia đình. Nơi nào trên đất nước chúng ta bây giờ cũng đều có thể là quê

hương vì nơi nào cũng đều có sự săn sóc của Đảng và Chính phủ, cũng đều

có tình cảm tốt đẹp của nhân dân lao động đối với nhau. Lòng yêu nơi chôn

rau cắt rốn vẫn thiết tha như cũ, nhưng dù có xa quê hương, xa người thân,

người ta vẫn tìm được những tình cảm ấm áp, che chở của đồng chí, đồng

bào. Cuộc sống bây giờ dù ở đâu cũng không còn là “đất khách quê người”,

nhất là trên đất nước mình. Chính tình cảm giai cấp là tình cảm cách mạng

nhất Đảng đem lại cho chúng ta đã làm đổi mới mọi tình cảm khác trong đời

sống xã hội. Thiên truyện của Nguyễn Địch Dũng thể hiện được khá sâu khía

cạnh tinh cảm mới mẻ này. Ở đây ta cảm động trước nỗi mừng tủi nghẹn

ngào của ông Bổng khi về quê cũ, nhưng ta càng cảm động hơn khi nỗi nhớ

quê mới lại làm ông bồn chồn. Và cái điều ông quyết định: sẽ trở về quê mới,

lại làm chúng ta đồng tình. Ông sẽ lại từ giã Thái Bình để về Phú Thọ, nơi đó

cũng có gia đình, có bà con hợp tác tuy không cùng máu mủ, nhưng đối với

ông cũng rất thân yêu. Tuy nhiên, rời quê hương cũ, lòng ông không khỏi bịn

rịn. Ông đã quyết định gửi đứa con gái về ở với người anh ruột để giữ đường

đi lối lại sau này, và để cho lòng ông đỡ áy náy…

Bấy nhiêu khía cạnh tình cảm đó của nhân vật làm cho Quê hương có

sức lôi cuốn của một bài thơ trữ tình. Tác giả đi sâu vào nhiều khía cạnh tâm

tình tinh vi và xúc động để thể hiện sự gắn bó sâu sắc giữa người nông dân

với chế độ mới. Cũng cần lưu ý thêm thứ màu sắc bình dị, thứ không khí ấm

Page 213: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

áp, quen thuộc rất đặc biệt của thiên truyện, toát lên từ cảnh và người, – đúng

là cảnh và người nông thôn chúng ta.

***

Trên phương hướng khám phá những biến đổi mới trong đời sống

nông thôn, sáng tác của Nguyễn Địch Dũng còn có những đóng góp đáng kể

trong việc xây dựng hình ảnh con người mới. Cố nhiên về phương diện này,

hiếm có nhà văn nào dám quả quyết là mình đã làm cho bạn đọc hoàn toàn

thỏa mãn. Nguyễn Địch Dũng cũng vậy. Anh chưa có khả năng miêu tả được

nhiều loại người. Đối với lớp thanh niên trẻ, anh chỉ mới ghi được một vài

khía cạnh trong tình vêu, trong sinh hoạt vui tươi, trẻ trung của họ mà thôi

(Ngày xuân). Nhưng ngòi bút của anh lại tỏ ra sắc sảo khi khắc họa hình ảnh

người phụ nữ mới. Thiên truyện hay hơn cả trong hai tập sáng tác của anh là

Người vợ.

Người vợ miêu tả sinh hoạt gia đình của vợ chồng Túc và Đoan, cả hai

đều là cán bộ xã. Đoan trong công tác rất tiến bộ nên được nhân dân tín

nhiệm. Chồng Đoan là Túc, dần dần thấy mình thua kém vợ nên chạnh lòng.

Anh sinh ra lo nghĩ, cáu bẳn, hễ có cớ là gây sự với Đoan. Những lúc Đoan

bận việc chung hoặc đi họp về muộn, không kịp chăm lo con cái, bếp núc, lợn

gà! Túc lại có cớ ể chì chiết Đoan. Đoan biết vậy nên cố làm tốt việc nhà, và

nhất là cố cảm hóa chồng, mong chồng cũng vươn lên như mình. Mâu thuẫn

đến độ cao khi Túc nhận được bài báo viết về Đoan, trong đó có đoạn nói đến

chuyện “người phụ nữ mới” ấy phải đấu tranh với một anh chồng “lạc hậu” để

vươn lên như thế nào. Giận quá mất khôn, Túc tát vợ. Nhưng rồi người chồng

biết lỗi ngay. Đoan tuy rất giận chồng, nhưng hiểu tâm trạng chồng, chị không

“làm to” việc này…

Truyện nêu được những khó khăn thực tế trong quá trình vươn lên của

người phụ nữ. Họ phải vượt qua rất nhiều trở ngại mới có thể tham gia được

công tác chung. Đây là vấn đề lớn mà nhiều người viết chúng ta nói chung từ

trước đến nay còn chưa miêu tả được sâu. Một số bạn viết xem việc người

Page 214: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

phụ nữ tham gia công tác xã hội như một việc dễ dàng, chưa thấy hết những

khó khăn của người phụ nữ lớn hơn rất nhiều so với khó khăn của nam giới

khi tham gia công tác xã hội; cho nên hình ảnh người phụ nữ mới trong một

số truyện của họ còn đơn giản và thấp hơn đời sống rất nhiều. Người viết

cũng chưa làm cho thấy rõ phương hướng giải quyết triệt để những khó khăn

lớn của người phụ nữ, chẳng hạn trong khi tham gia công tác chung, họ còn

phải đảm đang việc nhà, việc nuôi con. Sự thật là việc trông nhà, nuôi con, nói

chung là gánh nặng gia đình, trong hoàn cảnh nền sản xuất xã hội và tổ chức

đời sống của chúng ta chưa phát triển, còn gây cản trở không ít cho người

phụ nữ tham gia công tác xã hội. Người phụ nữ còn phải đấu tranh với những

tư tưởng lạc hậu còn tồn tại ở nhiều người, và ngay cả trong những người

thân của mình, thậm chí cả với những người thân cũng là cán bộ như kiểu

anh chồng của Đoan. Vợ tham gia công tác tốt, đó là điều làm cho nhiều

người chồng vui mừng; nhưng nếu có phải vì vậy mà anh bận bịu hơn, hoặc

nếu quyền làm chồng của anh có bị lung lay theo một cách nghĩ còn nặng đầu

óc gia trưởng nào đấy, thì có khi chưa biết chừng, có anh chồng lại đề ra yêu

cầu phải “xét lại” việc “tiến bộ” của người vợ. Đó là không kể người phụ nữ,

còn phải tự mình giải phóng mình ra khỏi tâm lý tự ti giới tính và hệ ý thức

phong kiến còn dai dẳng trong đầu óc họ. Có thấy được rất nhiều khó khăn đè

nặng trên vai người phụ nữ thì mới có thể nêu lên được những khía cạnh

thiết thực, mới mẻ trong vấn đề giải phóng phụ nữ và làm cho hình ảnh nhân

vật có chiều sâu.

Nhìn chung, trong Người vợ, Nguyễn Địch Dũng đã nêu lên được khá

nhiều mặt và một cách khá sinh động những gì còn “níu áo” người phụ nữ,

còn kìm hãm bước tiến lên của họ. Đồng thời qua những cuộc đấu tranh khá

gay go đó, vẻ đẹp của người phụ nữ mới cũng hiện lên rất rõ.

Tác giả không tô đậm mặt tiêu cực của người chồng, không dồn cho

người chồng nhiều nét xấu để mong làm nổi hình ảnh người vợ lên, như một

số người viết chúng ta hay làm. (Có lẽ có tình hình ngược lại là tác giả còn coi

nhẹ chuyện Túc tát vợ. Tác giả chưa làm cho bạn đọc thấy chuyện Túc tát vợ,

Page 215: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

và nói chung, chuyện người chồng hành hạ vợ theo lối phong kiến đó là tàn

nhẫn, man rợ, không thể tha thứ được!). Ở đây, nhà văn trực tiếp đi sâu vào

vẻ đẹp tâm hồn và lý tưởng của Đoan, thông qua cách chị xử lý đúng đắn mối

quan hệ vợ chồng, mối quan hệ giữa việc nhà và việc xã hội.

Giải quyết mâu thuẫn gia đình, Đoan không có thái độ cứng cỏi một

cách giả tạo: bỏ bê tất cả việc nhà, sát phạt thật dữ với chồng, bỏ mặc ngoài

tai những chuyện eo sèo… để lao vào công tác chung. Nhưng chị cũng không

tiêu cực trước thái độ của chồng, lùi về công tác gia đình, theo kiểu những

người vợ, người mẹ ngày xưa luôn chịu phận thiệt thòi, luôn cam chịu hy

sinh. Lâu nay, trên một số sáng tác của chúng ta, người viết thường có xu

hướng biểu dương người phụ nữ ở khía cạnh này: làm tốt mọi việc nhà, hy

sinh tất cả cho chồng con… Người viết có ưu điểm là miêu tả với lòng trân

trọng và thương cảm những người phụ nữ có một vẻ đẹp gì đó rất xưa.

Nhưng nếu chỉ vậy thôi thì không đủ. Hơn nữa, còn có một vẻ gì hơi tội

nghiệp. Người phụ nữ mới trong cuộc sống lớn hơn nhiều. Nếu xem vẻ đẹp

của người phụ nữ mới chỉ có bấy nhiêu nét: dịu dàng, kín đáo, hy sinh cho

chồng con như trong ca dao xưa thì không tương xứng với thực tế bây giờ,

và rõ ràng là quan niệm của người viết cũng chưa được cách mạng lắm. Cần

phải thấy người phụ nữ mới bây giờ đang thực sự có những đóng góp lớn lao

cho xã hội, để có sự biểu dương xứng đáng vai trò của họ. Mặt khác, cũng là

để yêu cầu họ ngày càng vươn cao hơn. Giải phóng phụ nữ có nghĩa là

khuyến khích, động viên, tạo điều kiện cho chị em tham gia vào công tác

chung. Có bình đẳng trong những đóng góp cho xã hội thì mới thực sự có

bình đẳng trong đời sống gia đình.

Hình ảnh Đoan trong Người vợ đã được tác giả xây dựng theo một lý

tưởng thẩm mỹ đúng đắn. Chị là hình ảnh người phụ nữ mới, hoàn toàn mới

trong tình cảm, suy nghĩ và việc làm; mới cả trong những nét dịu dàng, kín

đáo, rất xưa, rất Việt Nam.

Page 216: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Đi sâu vào mâu thuẫn gia đình Túc và Đoan, người viết cũng gợi ra cho

ta phương hướng đúng đắn để xây dựng hạnh phúc gia đình. Mâu thuẫn

trong gia đình Túc và Đoan được giải quyết không phải một cách đột ngột do

một duyên có ngẫu nhiên nào đó bên ngoài. Mâu thuẫn gia đình đưọc giải

quyết trên cơ sở tình yêu của họ đối với nhau. Và đó là cách tốt nhất. Do yêu

nhau, hiểu nhau, họ nhìn thấy thiện chí và mặt tốt của nhau. Người vợ ở đây

rất thấu lý và đạt tình. Chị đấu tranh không nhân nhượng với những mặt tiêu

cực của chồng một cách khéo léo, rất “tâm lý”, vì hiểu được những uẩn khúc

trong tâm trạng chồng. Người chồng trước thái độ đúng mực của vợ cũng dần

dần thấy rõ mình sai. Họ xích lại gần nhau một cách dễ dàng nhưng không

đơn giản. Hạnh phúc của gia đình họ được nối lại tuy trước hết là do vẻ đẹp

và sức cảm hóa của người vợ, nhưng cũng rất quan trọng là cái khâu giác

ngộ này của anh chồng: “Trước sau Đoan vẫn chỉ là người vợ dịu dàng, đáng

yêu và biết kính trọng chồng (…) Túc càng cảm thấy bấy nay anh chỉ là một

người chồng hẹp hòi, ích kỷ. Anh yêu vợ thiết tha nhưng tình yêu đó như thể

của một người trên đối vời kẻ dưới. Anh thích vợ phải phục tùng mình hơn là

tôn trọng ý kiến của vợ…” Mới hay, ý thức gia trưởng trong đầu óc nhiều ông

chồng, kể cả những ông chồng “đồng chí”, không phải là cái gì quá nhẹ nhàng

trong đời sống chúng ta. Bài học rút ra ở đây là: hạnh phúc gia đình phải

được xây dựng trên cơ sở bình đẳng, vự chồng cùng giúp nhau tiến bộ, chứ

không thể là chuyện cầu tiến bộ riêng cho người nào, càng không phải chỉ có

chuyện cầu tiến bộ riêng cho người chồng. Và tình yêu, sự tôn trọng lẫn nhau

chính là cơ sở tốt nhất để giải quyết mọi rắc rối thường khi vẫn xảy ra trong

đời sống gia đình của chúng ta.

***

Bẵng đi một thời gian khá dài, phải đến mười năm sau, Nguyễn Địch

Dũng mới lại xuất hiện, và lần này với một truyện vừa Người ở nhà (1974).

Tuy xa cách lâu, nhưng ngưỡi đọc vẫn nhận ra những dáng nét quen thuộc ở

Nguyễn Địch Dũng: vẫn những cảnh ấy, người ấy, vẫn những âm điệu quen

thuộc ấy, vẫn một cách nói, cách kể ấm áp, nhuần nhị ấy…

Page 217: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Nông thôn vẫn là đối tượng quan sát của anh, nông thôn vẫn là môi

trường quen thuộc của anh.

Nhưng gần mười năm qua rồi, sau Trai làng Quyền. Trong quãng thời

gian ấy, nhân dân ta đã tiến hành một cuộc kháng chiến lần thứ hai, đưa đến

chiến thắng vĩ đại cuối 1972; và mặc dầu chiến tranh, nhân dân ta vẫn tiến

hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi cảnh đó nhất định sẽ đem lại cho sáng

tác những nét mới; và Nguyễn Địch Dũng, trong cuốn tiểu thuyết mới của

mình cũng đã có những cố gắng để ghi lại.

“Người ở nhà” – chuyện hậu phương. Nói “người ở nhà” là để phân

biệt, để “đối thoại” với “người ra đi”. Trong chiến đấu, tất cả cho tiền tuyến.

Nhưng hậu phương, hậu phương xã hội chủ nghĩa vẫn đóng vai trò là chỗ

dựa quan trọng, là cái nôi vững chẳc cho tiền tuyến. Nhận thức ấy, chúng ta

đã được làm quen qua nhiều sáng tác ngắn và dài như của Vũ Thị Thường,

Nguyễn Kiên, Nguyễn Minh Châu, Mai Ngữ… Lần này có thêm Nguyễn Địch

Dũng.

Có lẽ sức hấp dẫn của cuốn truyện là ở một thứ không khí ấm áp, quen

thuộc, toát lên khá chân thật qua một cách dẫn dắt riêng của Nguyễn Địch

Dũng. Anh vẫn tiếp tục được sở trường của mình trong việc đi sâu vào phần

riêng, phân bên trong của con người: những mối quan hệ gia đình, chòm

xóm, tình vợ chồng, mẹ con… để rồi, từ khuôn khổ gia đình riêng tư mà mở

rộng ra những vấn đề chung, những mối quan hệ xã hội.

Tác giả tập trung nói tới cái mới, đẹp ở cuộc sống và con người một

cách thành tâm và không do dự chút nào. Có lẽ đó là cái làm nên đặc sắc của

Người ở nhà. Ở đây là những khuôn mặt thật là đẹp. Ở đây là một cuộc sống

thật là ấm áp, tin cậy. Nói cho phải, cũng có một chút tâm lý bảo thủ nào đó ở

một đôi người, ở một số người già, nhưng chỉ thoáng qua, và rồi họ cũng sửa

chửa được, để vươn lên theo phong trào chung. Phải trên cơ sở một nhận

thức quán xuyến về bản chất cách mạng của chế độ, và một lòng tin sâu sắc

ở quần chúng mới có thể khiến cho Nguyễn Địch Dũng vững tay trong một sự

Page 218: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

khẳng định như thế. Hẳn có thể còn có ý kiến khác nhau trong việc đánh giá

Nguyễn Địch Dũng, hoặc Người ở nhà, nhưng riêng tôi, tôi cho rằng, trong

phần phản ánh cái mới, cái tốt đẹp của đời sống, Nguyễn Địch Dũng đã có

những thành công đáng kể, chính vì anh có được một sự quả quyết và tự tin

trong nhận thức và đánh giá của mình.

Trong Người ở nhà, cũng như trong nhiều truyện ngắn khác trước đây,

người phụ nữ vẫn là đối tượng quen thuộc của Nguyễn Địch Dũng. Nhưng lần

này không phải là một vài người. Có thể nói một loạt nhân vật đã được anh

xây dựng cùng với chuyện nhà, chuyện hậu phương, cùng với mọi quan hệ

phong phú của tình yêu, tình vợ chồng, mẹ con, mẹ chồng, nàng dâu… Đó là

những Tặng – Soan, Nguyệt – Đán, Côi – Mùi, những Thanh–Thắng–Quýt–

Tơ… Nhưng mặt khác, đáng tiếc là sự mở rộng ấy do chỗ không đi cùng,

không kết hợp với việc xác định một cái cốt thật vững chắc trong chủ đề, nên

hình ảnh cuộc sống trở nên dàn trải. Là vì, chủ đề quán xuyến của thiên

truyện, như người đọc cảm thấy, là sức vươn lên của người ở nhà, nó là một

biểu hiện của sự vững chắc của hậu phương, một sự hỗ trợ về tinh thần rất

lớn cho người ra đi, cho tiền tuyến. Nhưng người đọc vẫn cảm thấy ở đây chủ

đề đó chưa được thể hiện với tất cả sức nặng và chiều sâu cần thiết của nó.

Cái đẹp của con người ở đây vẫn chỉ mới thu hẹp trong phạm vi các mối quan

hệ về tinh thần, và đạo đức nhiều hơn. Hơn nữa, nó lại còn có một vẻ gì đó

hơi thuần phác, đơn sơ, trong khi người đọc lại muốn có một cái gì hơn thế.

Chưa làm được điều đó, có thể là do Nguyễn Địch Dũng chưa đặt được nhân

vật vào những nền tảng lớn, vào những mối quan hệ cơ bản, đó là cuộc đấu

tranh xây dựng cuộc sống mới xây dựng chủ nghĩa xã hội với tất cả thực chất

của nó, tức là một cuộc đấu tranh gay gắt giữa mới và cũ, một cuộc đấu tranh

quyết liệt giữa hai con đường với mọi dạng vẻ phức tạp.

***

Trình bày mấy nét về bức tranh nông thôn trong nội dung sáng tác của

Nguyễn Địch Dũng trên đây, chúng tôi đồng thời có nhắc đến chỗ này chỗ kia

Page 219: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

những nét đặc sắc trong nghệ thuật của anh. Chúng tôi đã nói đến hình ảnh

những nhân vật được xây dựng thành công trong một số truyện của anh, nói

đến sự am hiểu ngôn ngữ quần chúng và khả năng dựng lên những cảnh rất

thực của nông thôn. Có thể cần lưu ý thêm điều này: Nguyễn Địch Dũng có

khả năng khám phá những khía cạnh mới mẻ trong các chủ đề quen thuộc.

Những vấn đề anh nêu ra trong tác phẩm đều phù hợp với thực tế, người viết

không cố ý xếp đặt, không “lên gân”, và người xem vẫn nhận thức được các

vấn đề một cách tự nhiên. Cách giải quyết vấn đề của anh cũng thường gọn

gàng, “có hậu”, không để lửng lơ, phù hợp với lối cảm nghĩ của người Việt

Nam. Anh lại có cái nhìn trân trọng đối với nhân vật của mình. Nếu có lúc anh

giễu cợt một vài nét xấu của một lớp người nào đó, chẳng hạn một anh chồng

nhu nhược như trong Hai vợ, một truyện ngắn khá đặc sắc về hậu quả của tệ

đa thê, thì cũng là cái giễu cợt trên tinh thần độ lượng, không có ác ý.

Truyện ngắn của NGUYỄN NGỌC TẤNCác nhà phê bình trước đây ít nói tới Nguyễn Ngọc Tấn không phải là

không có một phần lý do chính đáng. Trong tập Bóng dừa xanh (Nhà xuất bản

Văn nghệ 1957) tôi đã được đọc bài thơ Tặng một con người của Nguyễn

Ngọc Tấn đúng vào thời kỳ một số nhà văn viết những Một ngày chủ nhật,

Ông lão hàng xóm, Thao thức. Bài thơ chải chuốt, êm êm như khá nhiều bài

thơ khác, người ta đọc rồi quên đi, có một điều là khó thấy nó có lợi gì cho

tâm hồn chúng ta trong lúc hăng say xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh

giành thống nhất. Truyện ngắn Im lặng (Văn nghệ quân đội, số 12– 1957) còn

làm chúng ta hơi thất vọng. Khá nhiều chất bi kịch dồn ép, nhồi nhét trong câu

chuyện ly kỳ một cách giả tạo: Hải, một anh bộ đội miền Nam, thời Kháng

chiến chống đế quốc Pháp, có người vợ yêu bị một bạn đồng ngũ sau phản

bội làm Việt gian, cưỡng hiếp. Khi anh tập kết ra Bắc, thì vợ anh ở nhà bị tên

kia giết chết vì chị không chịu lấy nó. Anh phát điên, được một chị hộ lý tận

tình săn sóc. Nhưng cuộc đời chị hộ lý này cũng là một chuỗi bi kịch: thời

Page 220: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Kháng chiến, chị là một nữ du kích dũng cảm, bị quân giặc bắt và hãm hiếp.

Chị mắc bệnh, trở nên xấu xí. Người yêu chị là bộ đội ruồng bỏ chị. Vì chị

nhảy xuống nước cứu Hải đang lên cơn điên, nên chị bị chết đuối!… Tác giả

tuyệt tối không gây được lòng căm thù địch mà lại trình bày quân dân ta như

những người chịu thua, chịu thất bại một cách thảm thiết trước những thủ

đoạn độc ác, dã man của địch. Nhân dân ta rất anh hùng. Những nỗi đau

đớn, những thử thách chỉ làm cho tâm hồn chúng lớn lên. Lòng căm thù địch

sâu sắc biến thành những hành động long trời lở đất của chúng ta. Đâu có

phải một tội ác của địch gây ra liên hoàn hàng chuỗi bi kịch trong cuộc sống

của chúng ta như thế! Khi chúng ta là cán bộ, bộ đội, là du kích, thì chúng ta

lại càng hiểu rõ ý nghĩa cao cả của sự hy sinh. Ít nhất, chúng ta cũng không

bao giờ được sờn lòng, nản chí trước những khó khăn, gian khổ. Dù ở trong

hoàn cảnh như thế nào, chúng ta cũng không chịu là nạn nhân khổ sở của kẻ

địch mà chúng ta căm hờn, khinh ghét. Nguyễn Ngọc Tấn, anh lầm rồi!

Nhưng may thay, anh đã thấy mình lầm… Tâm hồn Nguyễn Ngọc Tấn như

một dòng suối trong, hơi bị vẩn đục một thời gian ngắn, nhưng lại trong trẻo

ngay. Từ năm 1959, anh nhìn đời với cặp mắt sáng suốt, mới mẻ; tâm trạng

anh không còn bi quan, quằn quại như trước nữa khi anh nghĩ về miền Nam.

Chắc chắn cuộc đấu tranh chống bọn Nhân văn– Giai phẩm năm 1958 đã có

ảnh hưởng tốt tới thế giới quan của Nguyễn Ngọc Tấn. Ngòi bút của anh

hoàn toàn đổi mới. Vì thế chúng ta có hai tập truyện ngắn đặc sắc (Trăng

sáng, 1960; Đôi bạn, 1962).

***

Đề tài của Trăng sáng và Đôi bạn khá rộng rãi: hoạt động của công

nhân và cán bộ cách mạng trước Cách mạng; ký ức về cuộc kháng chiến

chống đế quốc Pháp; việc tập luyện quân sự, đời sống của bộ đội trong hòa

bình; những cảnh đau thương ở miền Nam vùng giới tuyến; sinh hoạt trong

nhiều hợp tác xã nông nghiệp, ngư nghiệp, nông trường quốc doanh, trên một

công trường làm đường sắt… Phần lớn các truyện (nhất là trong Trăng sáng)

mô tả hoạt động của cán bộ, bộ đội miền Nam ra tập kết ở miền Bắc. Hướng

Page 221: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

chính của chủ đề là tấm lòng của con người Việt Nam ở cả hai miền đối với

quê hương miền Nam.

Đọc hai tập sách, tôi có cảm giác thoải mải nhẹ nhõm như người không

bị một nỗi phiền muộn riêng tư gì giày vò cả; tôi yêu thêm những con người

trong xã hội chúng ta, và nhìn đời một cách tươi trẻ hơn trước, dễ dàng tha

thứ mọi cử chỉ hành động thường làm nét mặt chúng ta không vui vẻ. Tôi

càng thấm thía mấy câu thơ Tố Hữu:

Này các chị các anh đi trên đường, có thấy

Nước non mình, đâu cũng đẹp như tranh

Gương mặt người, ai cũng sáng long lanh

Những đôi mắt trong lành vui ấm lạ!

(Trên đường thiên lý)

Những cảnh và người Nguyễn Ngọc Tấn mô tả thường đẹp đẽ, đáng

yêu. Khá nhiều truyện không có bóng một nhân vật phản diện nào: Quê

hương, Làm việc, Lao động quang vinh, Món quà tết (Trăng sáng), Mặt trận,

Đôi bạn (Đôi bạn)… Tác giả không “tô hồng” cuộc đời, nhưng thích phản ánh

cuộc đời ở những nơi vốn nó đã hồng. Đừng vội kết tội nhà văn là theo cái

thuyết ”không mâu thuẫn”. Những làng xóm, hợp tác xã mà nhân dân xét đến

cùng ai cũng tốt về căn bản, những chi bộ bốn tốt, tổ lao động xã hội chủ

nghĩa, đơn vị bộ đội quyết thắng, v.v… ở nước ta nhiều lắm. Chẳng phải

những nơi, những tổ chức như thế thiếu mâu thuẫn, không còn vấn đề gì rắc

rối. Con người đáng yêu, con người mới, nhất là phụ nữ, cũng có một tâm

hồn phong phú, ta muốn tìm hiểu không phải dễ. Những bà mẹ, bà chị, những

người vợ, cô em, trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tấn, sao mà Việt Nam

đến thế, mà cũng mỗi người một vẻ tươi đẹp khác nhau! Mỗi nhân vật có một

cõi lòng riêng của họ. Quê hương, một trong những truyện hay nhất của

Nguyễn Ngọc Tấn, dựng lên hình ảnh một người vợ rất thương yêu chồng tha

thiết muốn có một đứa con. “Ngồi xuống, mâm cơm, chị giật mình vì thiếu

Page 222: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

tiếng khua đũa chén của trẻ. Chiều khi làm việc về mệt, bước từ dưới bến

tắm lên, chị lại giật mình vì thấy lưng mình lạnh lẽo, trống trải, thiếu một bàn

chân trẻ nhỏ vùng vẫy sau lưng”. Chồng chị là bộ đội, sau tập kết ra Bắc làm

công nhân ở Hải Phòng, một năm mới có dịp về thăm vợ một lần. Khi theo

chồng đi tập kết, chị ỏ liền bên bờ Bắc, hằng ngày nhìn về quê hương ở ngay

bờ Nam. thấy bóng mẹ già bên đó. Rủi đứa con đầu lòng của chị chết. Chị

liền ra Hải Phòng báo tin cho chồng, đồng thời thăm anh và cũng muốn gần

anh để có một đứa con khác. Xí nghiệp giúp anh tìm cho chị một việc làm ở

Cảng. Chị có đầy đủ các điều kiện để hưởng thụ hạnh phúc và thỏa mãn ước

mơ của mình. Chị cũng rất thích được ở một thành phố đông đúc nhộn nhịp

như Hải Phòng, say mê được đi, được biết những miền giàu, đẹp, đang xây

dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng anh dỗ dành chị như thế nào, chị cũng quyết

tâm trở về vùng giới tuyến: nơi đây có biết bao nhiêu kỷ niệm hồi thơ ấu, có

bóng mẹ già đau khổ bên kia sông, có mộ đứa con đầu lòng trên ngọn đồi…

Nhất là do chị đã được bà con bầu làm đại biểu phụ nữ, cho nên, có trăm

nghìn mối tình cảm nó gắn bó chị với những người quen thuộc hai bên bờ

sông, họ cần chị công tác hằng ngày: “Tháng một, tháng chạp đi góp gạo giúp

đồng bào mình bên Nam… Tháng sáu nghỉ hè làm cách nào gửi giúp thư từ

của các em sang bên sông cho bạn… Xã cất trường học cấp hai, chị em ta

góp vào bao công trở lá… Và đêm qua, bọn cảnh sát chửi ai, đánh ai ở bên

tê…». Chị làm những công việc của một người trong ban chấp hành phụ nữ

xã với tất cả bầu nhiệt huyết của mình. Chị tha thiết với công tác vì tha thiết

với bà con, nhất là bà con bờ Nam. Chị không lý luận cao xa gì cả, nhưng cái

tình của chị là cái lý đúng nhất, nên chị không thể theo chồng. Người chồng

đã tìm đủ mọi cách giữ vợ lại, và ý nghĩ của anh cũng rất chính đáng… nhưng

cuối cùng anh cũng cảm thấy vợ suy nghĩ đúng nên anh vui lòng để vợ về

gần quê, vùng giới tuyến.

Tác giả đã nêu lên và giải quyết một vấn đề xảy ra đối với khá nhiều

người trong chúng ta là mâu thuẫn giữa tình vợ chồng một bên, và hoàn cảnh

công tác hoặc nhiều tình cảm chính đáng khác (lòng thương mẹ, nhớ quê,

Page 223: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

yêu người quen kẻ thuộc đang cần sự giúp đỡ của mình, v.v…) một bên, làm

cho nhiều cặp vợ chồng không được lúc nào cũng sống bên nhau. Chỗ khó

giải quyết nhất trong vấn đề này không phải là hoàn cảnh bắt buộc phải xa

nhau, mà là khi ý nghĩ và tình cảm của hai vợ chồng khác nhau. Đó là nguyên

nhân gây ra sự lục đục trong quan hệ vợ chồng. Người chồng, trong truyện

ngắn của Nguyễn Ngọc Tấn rất thương vợ và chị cũng rất thương chồng. Đó

là tiền đề để giải quyết tốt tất cả mọi sự rắc rối. Nhưng cái kiểu yêu thương

của người phụ nữ nông dân Việt Nam cũng có nhiều nét rất tế nhị, có khi nhìn

vào hiện tượng thì thấy khó hiểu. Chị mong nhớ chồng từng ngày, luôn luôn

đếm từng ngày xa cách, nhưng chồng chị gửi cho bao nhiêu thư chị không

nhớ; mỗi bức thư chị đọc xong đều để con chơi xé đi mất. Chị không phải vô

tâm, mà chỉ do không muốn nói nhiều về tình cảm của mình. Chị gửi rất ít thư

cho chồng, nhưng khi thấy anh giữ gìn thư vợ trong hộp thì chị đem giấu đi.

“Còn định để cho ai coi? Tính anh ấy giống tính mạ tôi ở nhà”. Chị sợ anh

mang thư vợ đi khoe làm chị thẹn. Chị vẫn tin chồng: “Đàn ông, ai mà không

thương vợ…”. Khi chồng giận dỗi trách vợ là không thương mình nên cứ

muốn ở quê, thì chị khóc: “Tôi nói anh cứ cho tôi một đứa con đi, rồi một năm

anh mới về một lần tôi cũng vui. Còn nói tôi không thương anh thì răng tôi lại

thương con anh? Răng tôi lại cất công cất ngày ra tận đây với anh làm chi”.

Nhưng khi anh đã vui vẻ đồng ý cho vợ về quê thì chị lại vừa nhớ vừa hơi

giận: “Anh ấy càng pha trò bao nhiêu, ruột tôi càng thắt lại. Đàn ông họ to

xương nên gan góc, vợ về mà cứ vui như không”. Chị có quan điểm rất đúng

đắn về tình nghĩa vợ chồng, bất đắc dĩ mà chị đành phải xa chồng, nhưng chị

không tán thành tư tưởng của những cặp vợ chồng xa nhau vì một duyên cớ

không chính đáng, cho nên khi thấy chị bạn gái làm giáo học vì dỗi chồng nên

về quê trong dịp nghỉ hè, thì chị trách bạn là ác và khuyên nên về ngay với

chồng. Như vậy là tác giả đã giải quyết vấn đề theo nhiều khía cạnh khác

nhau và cũng nghiên cứu một cách khá tinh vi tâm lý con người. Không có thể

trách Nguyễn Ngọc Tấn là gán cho nông dân những tình cảm của tiểu tư sản

thành thị.

Page 224: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Chị Tình trong Lao động quang vinh lại là một kiểu phụ nữ khác. Tình

vui vẻ sốt sắng, thích gần bộ đội nhưng cũng rất kín đáo, dũng cảm; tài giỏi về

quân sự nhưng vẫn có cái nhũn nhặn, cái tính e lệ cổ truyền của những cô gái

Việt Nam. Chị hay sang giúp đỡ tiểu đội anh nuôi, nhân tiện học lỏm các anh

một chút về quân sự, vì chị chỉ huy một trung đội nữ dân quân. Chị thẹn

không dám nói cho bộ đội biết: “Ai lại đi nói chuyện tập tành với bộ đội, như

thế chẳng hóa ra là…” Trong một buổi các anh nuôi tập pháo, vì muốn giữ bí

mật quân sự (đồng thời một số anh nuôi cũng muốn giấu dốt vì bây giờ mới

bắt đầu tập pháo), nên các anh mời chị về. Sang, một anh nuôi tiễn chị ra

cổng, chị lần khần mãi chưa chịu về, sau nói nhỏ với anh: “Anh Sang, anh

đừng cười em nhé… Em chả muốn xem pháo đâu, anh bảo, cho em biết cái

này… Giả dụ như mình mà… Ví thế như là… là… là… Hay thôi… ngày kia

anh với bố Hàm cho mượn ba cái thắt lưng nhá…” Rồi chị quay ngoắt đi.

Sang đã tưởng chị “chiếu cố gì đến mình chăng”. Thực ra thì chị chỉ muốn hỏi

về một vấn đề đang làm chị băn khoăn là khi giặc đã phát hiện ra đại liên của

mình ở ngoài đồng trống thì mình phải nằm ngay xuống bắn lại hay cứ tiến

lên chiếm mô đất thuận lợi rồi hãy nằm bắn. Chị còn hỏi nhiều câu khác nữa

hóc búa hơn. Nhưng chỉ đến ngày Đại hội dân quân toàn huyện thì các anh

nuôi (và bạn đọc) mới khám phá ra là chị chỉ huy một trung đội nữ dân quân

rất giỏi, có tài bắn đại liên ít ra cũng khá hơn nhiều anh nuôi. Chị tập trận một

cách hết sức nghiêm túc, nhưng “vừa kịp hô giải tản, Tinh đã chạy vội vào, và

cô cười, giấu mặt sau chiếc khăn vuông, cười mãi, hai tai đỏ mọng như ớt

chín, giàn giụa nước mẳt”. Chị ham tập quân sự vì rất có ý thức là nhiệm vụ

của thanh niên nam nữ phải bảo vệ Tổ quốc. Hình ảnh Tình (cũng như bóng

dáng các nữ dân quân trong truyện Mật trận) làm chúng ta liên hệ tới những

chị như chị Hằng, chị Tuyển ở Nam Ngạn (Thanh Hóa). Thời gian đã làm cho

người ta thấy truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tấn phản ánh chân thực cuộc

sống.

Chị công nhân trẻ trong Đôi bạn cũng có những nét rất mới, đồng thời

có một vẻ gì rất Việt Nam. Chị đã góa chồng, và tuy nhớ thương người chồng

Page 225: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

cũ, chị cũng không còn quan niệm về “thờ chồng” như các bà mẹ xưa. Chị

yêu thầm một anh công nhân trẻ người miền Nam và đã tinh nghịch mô tả

hình dáng người yêu cho mẹ ở quê hương biết. Nhưng cho đến phút cuối

cùng, khi ra ga tiễn người mình yêu đi nơi khác, chị vẫn không bộc lộ tình

cảm của mình và cũng không dám nhìn thẳng vào lòng mình nữa. Đôi bạn

thật thà nói với nhau đủ cả mọi chuyện, trừ câu chuvện họ muốn nói nhất và

hoàn toàn có quyền tự do nói. Như thế nghĩa là chưa nói được với nhau gì

cả. Thế nhưng khi tàu đến ga thì họ cũng đã hiểu lòng nhau sau khi loanh

quanh bên rìa cái vấn đề đang đốt cháy lòng họ, và anh bạn đã ở lại công

trường với người yêu.

Cái đức tính kín đáo, có ý tứ, nó quyện chặt một cách hữu cơ với nhiều

đức tính mới khác rất quý báu của người phụ nữ nông dân Việt Nam, giúp

người phụ nữ: chín chắn hơn trong khi suy nghĩ về những vấn đề quan trọng

của cuộc sống, trong khi cố gắng tìm hiểu tình cảm của người khác để hết

sức tránh làm điều gì mất lòng họ. Người phụ nữ Việt Nam (cố nhiên, tôi

muốn nói. người phụ nữ lao động, chủ yếu là nông dân, chứ không muốn nói

tới một kiểu phụ nữ siêu giai cấp- không thể có được), hết sức tôn trọng tình

cảm con người. Họ có thể lắm điều, chanh chua, hoặc sắc sảo, “nói nhỏ nhẻ,

nhưng nếu con ruồi mà bay qua cũng phải chết lăn quay” như chị Bình trong

Trăng sáng; nhưng nếu vô tình họ xúc phạm đến tình cảm trong sạch, ngay

thẳng, cao quý của người khác, dù là người đó họ ít có thiện cảm, thì họ coi

như mình đã phạm một lỗi lầm không thể tha thứ được. Vì thế, một mặt họ có

ý tứ, mặt khác họ rất tinh tế. Nhiều chị giỏi về khoa tâm lý hơn những “nhà

tâm lý học”. O Quế (Trăng sáng) bên bờ Nam vùng giới tuyến cứ trông thấy

anh Bình trên bờ Bắc là lấy nón quạt tóc, mục đích để vẫy chào. Anh cũng

tinh ý biết như vậy. Anh về hỏi vợ:

“ – Tôi đố ả biết răng o lại hay vẫy tôi?

Chị Bình cười bằng hàm răng trắng rất xinh của mình, rồi nhắm tít mắt,

ngủ.

Page 226: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Đúng như ý nghĩ của chị Bình. O Quế chẳng vẫy gì riêng anh Bình. O

gửi cử chỉ ấy tới tất cả những người nào đi bên này sông, khi thì bằng cách

quạt nón, khi thì bằng cách vỗ tay để đuổi một con se sẻ nào tận trên trời”.

Thế ra anh chàng Bình có tiếng là sắc sảo, chỉ là một anh hãy còn “phổi bò”

so với vợ anh. Anh đã nhiều lần “tự trách mình chỉ giỏi bông lơn xuề xòa mà

không nghĩ được tận ngọn ngành ngóc ngách như vợ “…

Đức tính kín đáo, có ý tứ, của người phụ nữ Việt Nam vừa là một vũ khí

để tự vệ, vừa là một vũ khí để tấn công nữa. Chị Cầm trong Tự do (Đôi bạn)

là người căm thù địch sâu sắc và một lòng tưởng nhớ tới người chồng đã tập

kết ra Bắc. Tên đồn trưởng tay sai Mỹ rất muốn hiếp chị. Chị hằng ngày phải

chống cự lại một cách mềm mỏng nhưng kiên quyết. Khi hiểu rõ nó đã bố trí

cẩn thận để quyết tâm giở trò đê tiện, chị căm thù sôi sục, nhưng vẫn bình

tĩnh xếp đặt mưu mẹo giết nó mà nó vẫn không biết gì, cho đến lúc chiếc lược

gỗ lim của chị vụt đâm vào mắt nó, chiếc đèn làm bằng vỏ đạn đại bác đập vỡ

sọ nó.

Chúng ta còn thấy rất nhiều hình ảnh phụ nữ khác trong truyện ngắn

của Nguyễn Ngọc Tấn: chị Sương âm thầm chịu đựng nhiều gian khổ về vật

chất cũng như tinh thần để công tác tốt trong một làng công giáo phức tạp

(Xuống núi, trong Trăng sáng); cô gái mồ côi, con nuôi một cán bộ quân đội,

sáng suốt làm chủ số phận của mình (Hai cha con người chính ủy, trong Đôi

bạn); bóng dáng những chị dân quân chăm luyện tập (Mặt trận, trong Đôi

bạn); cô gái, bà má miền Nam đêm ngày hướng về miền Bắc (Ngày về, trong

Đôi bạn). Hình như nhà văn có dụng ý mô tả nhiều điển hinh phụ nữ lao động

khác nhau, vừa có những đặc điểm rất mới trong tính cách lại vừa có những

nét thực sự của người Việt Nam.

Nếu như đối với các nhân vật phụ nữ, Nguyễn Ngọc Tấn không chú ý

mô tả nhược điễm của tâm hồn, những nét tiêu cực trong tính cách, thì đối

với nhiều nhân vật bộ đội đáng yêu, Nguyễn Ngọc Tấn thường có cái nhìn hơi

khác. Nhà văn một mặt biết phân tích tinh vi cá tính của từng nhân vật để thấy

Page 227: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

rõ điểm tốt điểm xấu, mặt khác lại biết đánh giá chung mỗi nhân vật và

thường mô tả được quá trình phát triển của cá tính nhân vật.

Những anh bộ đội trong Làm việc, Lao động quang vinh thật đúng là

những anh bộ đội yêu quý của chúng ta, mặc dầu đôi khi các anh có những

nhược điểm lớn cần khẳc phục. Hàm (Lao động quang vinh) là một anh nuôi

đã 38 tuổi trong một đơn vị pháo. Anh có rất nhiều thành tích trên chiến

trường Nam Bộ hồi kháng chiến chống đế quốc Pháp. Hiện nay anh cũng là

một anh nuôi gương mẫu, lao động quên mình để chăm lo việc ăn uống cho

anh em. Nhưng anh lại không thích tập pháo, không tán thành lắm cái khẩu

hiệu “pháo thủ toàn năng”, cho rằng “xoong chảo mà tập pháo tì cũng vẫn

xoong chảo, có làm cóc gì mà tập”. Lý do ngại tập của anh không phải giản

đơn. Anh cho là mình đã nhiều tuổi, tập cũng không đánh chác gì được nữa.

“Anh không sợ mệt nhưng rất sợ nhức đầu. Binh khí học, phương thức bắn,

lắm thú quá anh không thể nào theo nổi. Tập pháo xong thì cũng vẫn là người

nấu ăn… Rồi thì, một cái gì đấy, hình như nó đang kêu gọi, lôi kéo, nhắn nhủ

anh phải trung thành với việc bếp núc, đừng đa mang pháo phiếc gì cho thêm

nặng… đi học pháo, anh sẽ bị mất đi bao nhiêu công việc đã nên da nên thịt

của mình”. Anh rất yêu công việc bếp núc nên không đành lòng bỏ đó cho

người khác để đi học pháo. Anh cũng không phải không chịu khó học tập,

chứng cớ là anh đã bỏ tiền ra mua bộ sách Kinh tế chính trị học và đọc mãi

nhưng chỉ hiểu lờ mờ một hai điều đơn giản. Nghĩa là động cơ không thích

học pháo của Hàm cũng khá phức tạp, và vấn đề khó lòng có thể giải quyết

bằng những cuộc tranh luận; anh cũng lắm lý thuyết, càng tranh luận, anh

càng tức. Bên cạnh Hàm là Sang, “rất hay đùa, việc nhẹ thì làm lơ phơ nhưng

việc nặng lại kham vào bậc nhất đại đội”. Anh chàng ấy lại rất thích tập pháo,

bỏ cả việc cho Hàm làm để tập pháo. Vì anh còn trẻ, chưa vợ, nên thường

ngày cũng để ý tìm hiểu người này người khác. Chỗ xấu, tốt trong con người

các anh phức tạp như thế đó. Nhìn chung, các anh là những người tốt, nhưng

có những bệnh không thể không chữa. Nếu cứ đè nghiến các anh ra là cắt cái

mặt xấu đi, thí dụ tổ chức một cuộc hội nghị đập cho các anh một trận tơi bời

Page 228: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

thì cũng không ổn. Nhưng nhiều nhân tố trong cuộc sống mới dần dần lôi kéo

các anh lên, các anh cũng lôi kéo lẫn nhau lên. Đơn vị phát thanh phê bình

quan niệm của Hàm; Sang cho rằng lao động bảo thủ như Hàm cũng chưa

quang vinh; chị Tình ngồi trên cây ổi nghe tiểu đội anh nuôi bàn về tập pháo

cũng buông một câu lơ lửng: “Đi bộ đội mà lại không muốn học bắn súng!”.

Hàm lại càng tức già, nhưng sự bực tức ấy chứng tỏ tư tưởng đang lay

chuyển. Đến khi Sang vận động cấp trên mang được khẩu pháo về tận chỗ

anh nuôi để các anh tiện học tập, lại có người làm thay cho các anh để các

anh tập, Hàm đành phải học; tuy vậy anh cũng chưa thông lắm, còn miễn

cưỡng. Nhưng khi thấy chị Tình còn là con gái mới lớn lên mà đã hăng hái

học quân sự để bảo vệ Tổ quốc thì anh thông thực sự. Những tình cảm tốt

đẹp nhất trong con người anh trỗi lên: anh phấn khởi nhận ra chỗ kém của

mình. Và anh lại hăng hái giáo dục lại Sang. Trong cái đà phát triển của cuộc

sống tập thể, người nọ giúp đỡ người kia, họ càng ngày càng tiến bộ như thế.

Nhà văn đã chăm chú theo dõi sự phát triển của mỗi con người. Người ta

phải thấy được bản chất tốt đẹp của người lao động, phải biết yêu thương

những người chung quanh mình thì mới giúp họ tiến bộ được. Đó là cảm giác

của tôi khi đọc nhiều truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tấn.

Nhưng không phải nhà văn chỉ biết nhìn đời với cặp mắt hiền lành. Khi

cấn bắn kẻ thù thì những phát súng của anh cũng rất chính xác. Hình ảnh

những tên đồn trưởng ác ôn trong các truyện Tự do, Hai cha con người chính

ủy đủ chứng tỏ điều ấy.

***

Những điều tôi trình bày sơ lược và còn có rất nhiều thiếu sót trên đây

về chủ đề, tư tưởng, nhân vật trong truyện của Nguyễn Ngọc Tấn chỉ là tóm

tắt những nhận định cuối cùng khi đọc xong hai tập sách. Nhưng nếu tác giả

chỉ viết như người phê bình đã phân tích thì không thể hấp dẫn được người

đọc. Nguyễn Ngọc Tấn không tạo ra những cốt truyện ly kỳ để thu hút chúng

ta – như thời kỳ anh viết Im lặng. Nhưng anh lôi cuốn người đọc ở chỗ mô tả

Page 229: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

dần dần tính cách của nhân vật. Mỗi một đoạn văn đều giúp người đọc, thấy

được thêm một khía cạnh mới của lòng người. Có khi câu chuyện bắt đầu ở

chỗ nó đang dở dang, sau mới quay trở lại quá khứ, và đã có lúc nhà văn kết

thúc một truyện ngắn bằng những dòng mô tả hình dáng diện mạo nhân vật

chính (Quê hương). Vì vậy khi đọc đến giữa truyện, chúng ta vẫn chưa hiểu

tính chất của nhân vật ra sao cả. Như hình ảnh chị Cầm trong Tự do, lúc đầu

được mô tả theo cách nhìn của tên sĩ quan ngụy, mãi đến cuối truyện, toàn

bộ con người của chị mới hiện lên đẹp đẽ vô cùng, khiến chúng ta phải đọc lại

truyện từ đầu để thưởng thức cái hay của từng chi tiết. Người ta chưa thể có

một nhận xét gì chắc chắn về chị vợ anh công nhân khi chưa đọc hết Quê

hương… Nhiều nhà văn xây dựng hình tượng theo lối trình bày của văn chính

luận, nghĩa là lúc đầu nói hết về gia đình, thành phần quá khứ, tính chất của

nhân vật, sau mới kể lể các sự kiện để minh họa cho tính chất ấy. Theo tôi,

đó là một cách viết vụng về, làm cho người đọc mất hứng thú theo dõi câu

chuyện. Không một truyện nào trong Trăng sáng và Đôi bạn viết theo khuôn

sảo đó.

Giác quan nhạy bén của Nguyễn Ngọc Tấn chứng tỏ anh là người có

tài viết truyện. Đây là cảnh bộ đội từ giã một nông trường, lên xe về đơn vị:

“Đoàn xe phóng nhanh hơn. Cánh đồng cà phê xanh thẫm. Con bê to vểnh tai

lên nhìn xe. Những bóng nón lá, thấp thoáng giơ lên vẫy vẫy. Thỉnh thoảng,

tiếng còi xe réo lên inh ỏi như để chào riêng những cô gái nào làm gần đâu

đó. Tiếng cười rộ lên. Vài câu đùa tục. Văng vẳng có một điệu hành khúc đâu

như ở chiếc xe đầu, không rõ lắm, mơ hồ như một kỷ niệm rất xa” (Ngày về,

trong Đôi bạn). Một sáng mùa thu bình thường và giản dị: “Trên không từng

đàn nhạn bay giơ cái yếm trắng nõn nà xuống mặt đất, trời vẩn vài gợn mây,

nắng chiếu trong mắt bò óng ánh” (Làm việc). Đối với anh nuôi thì “một buổi

sáng đẹp trời, nghĩa là trời chỉ vừa đủ rét để anh nuôi ngồi bếp cho ấm” (Lao

động quang vinh). Viết tiểu thuyết cần có giác quan nhạy bén để có thể phát

hiện được những nét mới lạ trong thiên nhiên và con người để xây dựng hình

tượng một cách cụ thể và độc đáo. Những người viết tiểu thuyết một cách

Page 230: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

khó nhọc chính là người không có ấn tượng nhọn, sắc, mới mẻ về cảnh vật

và con người.

Truyện của Nguyễn Ngọc Tấn còn có nhiều chất thơ nữa: “Cô Lý hiện

ra ngoài cổng. Hiện ra như một cô tiên hiện đại dưới bóng trăng xanh: áo

trắng gài kín cổ, khăn đội hơi lệch một bên, mái tóc mai chải ngược có mùi

thơm hoa bưởi, cái thắt lưng màu mỡ gà óng ả bên hông. Chỉ nhìn cô, người

ta cũng biết ngoài cuộc đời đang có một ngày hội lớn” (Làm việc). “Người ta

bảo cô chẳng nói dối ai được cái gì. Tiếng cười của cô rung rinh, vô tư. Màu

áo trắng nhuộm ánh trăng làm cho thân người cô trong vắt” (Làm việc). Nhiều

đoạn văn trong Trăng sáng và Đôi bạn có những tứ thơ rất hay. Vả lại, không

khí thơ bao trùm nhiều truyện của Nguyễn Ngọc Tấn. Nói chung người viết

truyện ở nước ta thường có khuynh hướng viết những đoạn ”thơ mộng”.

Nhiều khi đó là một khuynh hướng dở, làm cho tác phẩm nhạt nhẽo đi. Cái

chất thơ hay thực sự trong văn xuôi, người ta chỉ thấy trong truyện của một

vài nhà văn như Nguyễn Ngọc Tấn.

Nguyễn Ngọc Tấn còn có những nhận xét rất tinh tế. Đi sâu vào những

ngóc ngách của tâm hồn con người để xây dựng nhân vát, việc ấy đòi hỏi nhà

văn phải tinh tế lắm. Nhưng trong truyện của Nguyễn Ngọc Tấn, chúng ta còn

thường thấy những nhận xét nhỏ có tính chất khám phá ra một ý nghĩa mới lạ

của những hiện tượng phổ biến trong cuộc sống: “Đối với các cô gái thì chỉ

khi nào nói đúng ý riêng của họ, họ mới bằng lòng” (Ngày về). “Càng nói, mặt

chị càng lồ lộ, đỏ hồng, nói xong, môi chị vẫn run run mấp máy như muốn nói

thêm nữa. Những người như thế thật có thể đảm đương được nhiều việc

xứng đáng trong một lần” (Quê hương)… Ngày cuối năm: “Hình như hôm nay

người ta dễ quen nhau hơn mọi ngày” (Về Nam). Một khuôn mặt hiền lành:

“Tôi nghĩ đến những người con trai hay có đôi mắt cười giống mẹ” (Món quà

Tết, trong Trăng sáng).

Như một người đáng yêu và biết yêu, Nguyễn Ngọc Tấn có nhiều phép

chiếm lấy trái tim người đọc. Óc trào lộng, lối văn tinh nghịch, dí dỏm là một

Page 231: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

đặc điểm dân tộc của nhiều nhà viết truyện nước ta: Võ Huy Tâm, Nguyễn

Khải, Nguyễn Địch Dũng, Vũ Thị Thường trong Cái hom giỏ, Bùi Hiển trong

nhiều truyện vui vui v.v… Nguyễn Ngọc Tấn tinh nghịch như những cô gái trẻ

thông minh yêu đời, tinh nghịch với một phong cách đa dạng, tinh nghịch cả

trong những lúc giả bộ nghiêm trang (nhưng cái bản chất của con người thì

thực sự là nghiêm). Những nhân vật đáng yêu của anh hình như đều mỗi

người có một cái gì đó khiến anh bật cười, không phải nụ cười chế giễu mà là

nụ cười có rất nhiều thiện cảm. Nhiều khi anh “trêu” cả bạn đọc: Tiểu đội

trưởng Thi “nhận được thư của một cô gái dưới xuôi… Chẳng hiểu anh nghĩ

gì, hôm nay, trước khi xuống núi, anh mang ra đọc lại. Mắt anh mở to hơn, nụ

cười anh nở rộng hơn, khuôn mặt anh hồng lên vì nắng chiều, nghiêng qua,

nghiêng lại, bàn tay anh gãi gãi vào tai, rồi vặt cỏ, rồi giơ lên, giơ xuống, giống

như đang nói chuyện say sưa với ai” (Xuống núi, trong Trăng sáng). Nhưng

cuối cùng chúng ta thấy Thi chỉ là một người bạn, một đồng chí của cô gái đó.

***

Có lẽ điểm thiếu sót lớn nhất của Nguyễn Ngọc Tấn là: tuy anh chú ý

đến con người, nhưng anh vẫn chưa chú ý đầy đủ tới những vấn đề lớn về

công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cái không khí phấn khởi hăng say

những năm 1958–1901 (thời kỳ anh viết Trăng sáng, Đôi bạn). Hợp tác xã,

công trường nhiều khi chỉ là khung cảnh, cái đường viền cho những câu

chuyện tâm tình có chủ đề tốt của nó, nhưng chưa phải là những vấn đề lớn

lắm. Anh cũng có khuynh hướng đi sâu hơi nhiều vào tình yêu. Đời sống của

bộ đội, dân quân trong hòa bình mà Nguyễn Ngọc Tấn chú ý tới có ý nghĩa rất

lớn, nhưng giá anh tiên đoán được cuộc đấu tranh của quân dân Nam Bắc

chống đế quốc Mỹ hiện nay gay go gian khổ nhưng anh dũng nhường nào, thì

có lẽ anh sẽ viết về sự tập luyện của bộ đội, dân quân, sâu sắc hơn. (Như thế

có phải là đòi hỏi quá cao ở một nhà văn không?), Dù sao niềm khắc khoải

của một con người căm thù giặc Mỹ và tha thiết đêm ngày với quê, hương

miền Nam vẫn thể hiện qua nhiều trang của hai tập sách.

Page 232: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Nguyễn Ngọc Tấn là một nhà văn tâm hồn rất đẹp, thực sự có tài năng

và có nhiều triển vọng. Tôi không tin rằng những truyện khá nhất của anh hiện

nay đã là những đỉnh cao nhất trong sự nghiệp sáng tác của anh.

Đóng góp của NGUYỄN MINH CHÂUNói đến Nguyễn Minh Châu, cây bút trẻ trong quân đội, bạn đọc nghĩ

đến cuốn truyện vừa Cửa sông (1967), ra đời vào những ngày miền Bắc

bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ. Kể ra, Cửa sông chưa phải là tác

phầm văn học sâu sắc, nhưng nếu đặt nó vào hoàn cảnh ra đời, vào quá trình

sáng tác của nhà văn thì rõ ràng Cửa sông có một vị trí nhất định.

Những truyện ngắn viết trước đó của Nguyễn Minh Châu, sau này

được tập hợp lại trong Những vùng trời khác nhau (1970), mới chỉ là những

bức tranh sinh hoạt nho nhỏ, ghi lại những mảng sống của bộ đội, nhân dân

ta trong hòa bình.

Cửa sông, với yêu cầu của một tiểu thuyết, có một ý nghĩa khái quát và

điển hình hơn. Thông qua sự đổi thay của một làng nhỏ vùng cửa sông Kiều

khi miền Bắc bước vào chiến tranh, thông qua quá trình hòa hợp của một gia

đình vì sự có mặt của hai người con ngoài chiến trường, tác giả đã nêu ra và

giải quyết tốt những vấn đề có ý nghĩa.

Sức mạnh của lòng yêu nước và mối quan hệ mới giữa con người

trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là hai nhân tố cơ bản được Nguyễn Minh

Châu chú ý khai thác để chứng minh sự vững vàng của miền Bắc chúng ta

trước thử thách của chiến tranh. Trong hình ảnh của những người mẹ, anh

nói lên vẻ đẹp truyền thống. Trong lớp trẻ, anh cho thấy sức sống mới của

chế độ. Và hình ảnh cuộc sống, qua sự miêu tả của anh, luôn luôn là sự

chằng chịt các mối quan hệ: giữa lớp trẻ với lớp già, giữa lớp trước với lớp

sau, giữa quá khứ và hiện tại. Những thanh niên mới như Bân hoặc Lân, sớm

mang trong mình tinh thần cứu nước và hăng hái lên đường ra tiền tuyến là

bởi họ được nuôi dưỡng, lớn lên trong truyền thống của gia đình: ngày xưa,

Page 233: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

cha họ đã từng đi kháng chiến, và những người mẹ của họ thì nuôi giấu, chở

che cán bộ. Và hôm nay đây, trước những yêu cầu mới của cách mạng, mỗi

người trong gia đình họ đều có ý thức, bằng những việc làm cụ thể đóng góp

chút sức lực nhỏ bé của mình vào cuộc kháng chiến. Nguyễn Minh Châu đã

nêu lên được sức mạnh của một dân tộc từng có một quá khứ đấu tranh giữ

nước bất khuất và đang trải qua một thời kỳ xây dựng một xã hội tốt đẹp. Tác

phẩm viết về không khí của làng xóm, rộng hơn, của đất nước chúng ta vào

thời kỳ bắt đầu công cuộc chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ; nhưng

xen vào đó còn là bức tranh sinh hoạt của miền Bắc trong những năm xây

dựng chủ nghĩa xã hội với sự đổi thay lớn lao trong mỗi xóm làng, mỗi ngôi

nhà, mỗi con người cụ thể. Những sự lủng củng trong gia đình, nỗi đau khổ

của ông Lâm trong bao nhiêu năm, nay được giải quyết một cách tốt đẹp. Bởi

vì, ở vào thời điểm này, mọi người đều có ý thức nâng mình lên cho xứng với

tầm lớn lao của dân tộc và thời đại. Chính lòng yêu nước và lòng căm thù

giặc đã cho phép họ dẹp bớt những cái riêng nhỏ bé, vụn vặt trong cuộc sống

hằng ngày. Đó chính là nguyên nhân sâu xa để cho những người mẹ, người

vợ, có chồng con và những người thân yêu đang ở chiến trường, tìm thấy

trong cuộc sống của xóm làng, trong tình cảm của hậu phương những nguồn

động viên lớn làm dịu bớt những nhớ thương, lo lắng, trông chờ.

Cửa sông viết về một cuộc sống đang đi vào thời kỳ chiến tranh, nhưng

không khí ở nông thôn là không khí lạc quan. Ý thức làm chủ tập thể, làm chủ

cuộc đời là nét nổi bật trong phẩm chất của mỗi người. Thanh niên nô nức

tòng quân. Phụ nữ hậu phương đảm đang việc đồng áng, việc gia đình cũng

như tham gia chiến đấu ở cương vị và hoàn cảnh của mình. Bộ mặt nông

thôn, với mối quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đã tạo cho miền Bắc một thế

đứng vững vàng để chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ.

Chúng ta có thể gặp lại trong cửa sông những nhân vật vốn quen thuộc

với Nguyễn Minh Châu. Trong cái làng nhỏ này, chúng ta gặp đủ loại: một cô

giáo trẻ mơ mộng, dịu dàng; một người mẹ nông thôn lam lũ tất bật mà tâm

hồn là một viên ngọc trai ngời sáng; một phóng viên nhà báo; những chiến sĩ

Page 234: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

trẻ và những người lính từng cầm súng từ cuộc kháng chiến chống Pháp

trước đây… Mỗi người có một hoàn cảnh và một nỗi niềm riêng. Cô giáo

Thùy còn lắm băn khoăn với nghề nghiệp hiện tại. Ông Vàng từng khao khát

tái ngũ. Chị Quý từng yếu đuối trong tình cảm đối với đứa con đi xa. Ông cụ

Lâm đã ngoài tám mươi tuổi đầu, vẫn tiếc là không còn sức để được cầm

súng đánh giặc như con cháu cụ… Nhưng điều đáng chú ý ở đây là mỗi

người đều nhanh chóng thích ứng với hoàn cảnh mới và vươn lên cho kịp với

yêu cầu chung. Không phải chỉ ở những người ra đi mới biết lo lắng về trách

nhiệm của mình: “Hiện nay, thằng giặc Mỹ đang giày xéo lên nửa đất nước ta,

có mảnh đất nào mà người chiến sĩ không phải đặt chân tới?”. Còn người ở

lại? Những ngày gặt hái, phụ nữ nhanh chóng làm quen với những công việc

đồng áng nặng nhọc mà trước đây chỉ có nam giới làm. Cả làng tham gia việc

đào sông, chuyển máy. Những giờ lên lớp say sưa của cô giáo và tâm sự mới

của cô trên vị trí mới của nghề nghiệp: “Chẳng nhẽ những bài học ở nhà

trường không góp thêm một phần nào vào lớp người trẻ đang lớp lớp cằm

súng lên đường hôm nay?” Rõ ràng, mỗi người đã tìm được một vị trí chiến

đấu cho mình. Bằng vào tình cảm trong sáng, bằng vào những việc làm có ý

nghĩa, người hậu phương đã gửi tấm lòng yêu thương và tin cẩn cho tiền

tuyến. Niềm vui chân chính của Bân trước những thắng lợi của hạm tầu như

được nhân lên khi anh gặp đứa em trai giờ cũng là chiến sĩ, và nhất là khi

được nghe những tin tức đáng yên lòng về gia đình và quê hương. Thùy đã

xứng đáng đón nhận hạnh phúc đẹp đẽ ở một nơi mà trước đây mình không

hề nghĩ tới: “Hối ấy, chắc chắn không bao giờ mình có thể nghĩ rằng những

đồng chí dìu dắt mình lại là những người nông dân ở một làng bình thường

và mình cũng chỉ làm một công tác bình thường – một cô giáo dạy học”.

Với Cửa sông, Nguyễn Minh Châu bước đầu đi vào một tác phẩm dài

hơi, viết về một đề tài rất thời sự, nhưng vẫn làm chủ được ngòi bút mà

không bị choáng ngợp trước những sự kiện. Tác phẩm đã ghi lại được vẻ lạc

quan tin tưởng cũng như không khí bình thản trước tình hình khẩn trương của

miền Bắc từ hòa bình chuyển sang chiến tranh. Đó là nét không dễ có trong

Page 235: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

những tiểu thuyết cùng thời. Nhiều vấn đề xã hội có ý nghĩa đã được anh nêu

ra thông qua hình tượng nghệ thuật khá nhuần nhuyễn. Đó là một thành công

đáng nhất là đối với một tác giả trẻ như Nguyễn Minh Châu. Tuy nhiên, Cửa

sông chưa phải là một tác phẩm gây cho người đọc một ấn tượng thật sâu.

Nó còn chưa có sự cân xứng trong khi thể hiện các mặt chiến đấu xây dựng;

nhiều mảng sống, nhiều nhân vật chưa được khơi sâu cho tương xứng với đề

tài. Ngay cuộc sống ở đây cũng có phần phẳng lặng. Người ta thấy khá rõ

mặt vươn lên, thuận lợi, nhưng còn ít thấy các khó khăn. Tuy vậy, đặt cửa

sông vào hoàn cảnh sáng tác lúc bấy giờ, lúc mà tiểu thuyết của chúng ta

phần nhiều còn ít tác phẩm khơi đúng vào mạch đập của cuộc sống, đương

dừng lại ở trình độ ghi chép… thì cửa sông với cách đặt vấn đề và sức khái

quát sâu của nó, rất đáng cho chúng ta trân trọng…

***

Năm năm sau cửa sông, Nguyễn Minh Châu cho ra đời tiểu thuyết Dấu

chân người lính. Ngay từ lúc được trích đăng trên tạp chí Văn nghệ quân đội

trước đó, tác phẩm đã hấp dẫn khá nhiều bạn đọc.

Không giống với Cửa sông, tác phẩm viết về hậu phương bình thản và

hiên ngang đi vào kháng chiến, lần này, Dấu chân người lính đã đi thẳng vào

cuộc chiến đấu ác liệt và ngoan cường nơi tiền tuyến: chiến dịch Khe Sanh.

Những cuộc hành quân gian khổ, những trận chiến đấu ác liệt, những chiến

công và những tấm gương dũng cảm của bộ đội, tội ác ghê tởm của kẻ thù…

tất cả, tất cả được tác giả chú ý thể hiện nhằm mong muốn đem lại cho bạn

đọc một bức tranh rộng rãi về chiến trường. Đi vào đề tài này, Nguyễn Minh

Châu như gội được vào không khí chung của đất nước những năm tháng sôi

động, ngòi bút của anh trở nên linh hoạt. Bằng vào sở trường của mình, anh

đã gợi được cho tác phẩm một không khí riêng, không khí của chiến trường

vào mùa xuân Tổng tiến công năm 1968.

Ngay từ đầu, tác phẩm đã có thể gợi cho ta cái khí phách hiên ngang,

dũng cảm của dân tộc Việt Nam: không sợ Mỹ và dám đánh Mỹ. Mở đầu tác

Page 236: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

phẩm là cảnh hành quân của hàng sư đoàn bộ đội: “Trên chặng đường đầy

cây cối đổ ngả nghiêng, khói bom khét lẹt và đất đỏ lật lên lấp hết cây cối,

từng đơn vị cứ đi qua, hết đơn vị này lại đến đơn vị khác, hết binh chủng này

lại đến binh chủng khác. Con đường hành quân cứ mở dần theo những khu

vực tọa độ”. Không phải họ đi một cách lầm lũi âm thầm. Cứ nghe những câu

chuyện dọc đường, cứ xem vẻ mặt thanh thản, chất lạc quan toát ra từ mỗi

dáng đi, giọng nói, chúng ta cũng cảm nhận được ngay từ những trang đầu

tiên của cuốn sách một không khí hào hùng tươi trẻ. Không khí ấy làm cho ta

thấy rõ điều này: để chống lại một kẻ thù có vũ khí tối tân, chúng ta phải huy

động ra đây tất cả, từ sức người sức của của những năm xây dựng chủ nghĩa

xã hội đến truyền thống yêu nước của bốn nghìn năm. Chúng ta gặp ở đây

những người nông dân mặc áo lính mà cuộc đời đã nếm trải những cay đắng

ngọt bùi qua hai chế độ như Kinh, Cận; những học sinh vừa rời ghế nhà

trường để học tiếp những bài học trong thực tiễn của cuộc chiến tranh gian

khổ như Lữ, Hoại, Khôi; những trí thức, văn nghệ sĩ như Thái Văn, như Hiền;

những người bộ đội như Lượng, Khuê; những người dân miền núi một lòng đi

theo cách mạng như cụ Phang; những cô gái thanh niên xung phong dũng

cảm như Nết… Bằng vào thế giới nhân vật đó, Nguyễn Minh Châu muốn nói

với chúng ta: công cuộc chống Mỹ cứu nước là sự nghiệp vinh quang của tất

cả mọi người dân yêu nước, không phân biệt Nam Bắc, già trẻ, gái trai.

Với Dấu chân người, lính, Nguyễn Minh Châu đã cố gắng dựng lại cái

không khí dữ dội của chiến tranh. Ở đây, cả quá khứ, hiện tại cùng xen kẽ

vào nhau. Hình ảnh cuộc sống hiện rõ trước mắt ta luôn biến động và thay

đổi. Những ngày mưa lũ hành quân. Những trận chiến đấu ác liệt của bộ đội

ta chống những trận công kích của bọn Mỹ trên Đồi không tên. Một đêm trăng

đẹp của Lữ với những suy nghĩ về tình yêu, về lẽ sống. Cảnh sống lạc quan

của bộ đội ta giữa hai trận đánh. Cuộc sống giữa rừng của một đơn vị nữ

thanh niên xung phong. Sự hy sinh của một tiểu đội và ý nghĩ của một người

cha trước cái chết của đứa con mình… Biết bao nhiêu cảm xúc, bao nhiêu sự

kiện. Nó chợt đi, chợt đến bất ngờ. Nhưng tất cả lại dường như được gội

Page 237: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

trong khung cảnh của mùa xuân, mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của

chiến thắng. Cuốn truyện do vậy vừa có âm hưởng trữ tình, lại vừa dồi dào

chất anh hùng ca. So với Cửa sông, đó chính là nét mới.

Tham gia vào chiến dịch Khe Sanh lịch sử, ngoài sự đóng góp của hậu

phương, của nhân dân miền Nam, miền Bắc, nhân vật chủ yếu ở đây là

người lính – những người trực tiếp cầm súng. Ngòi bút Nguyễn Minh Châu

như muốn lột tả cho được vẻ đẹp từ trong tâm hồn, trong cuộc đời của mỗi

người chiến sĩ. Trải qua những trận chiến đấu căng thẳng, con người trở nên

rắn rỏi. Nhưng bước đi của mỗi con người đâu phải giống nhau. Mỗi thế hệ đi

vào lịch sử với mỗi hoàn cảnh riêng. “Có cái gì khác nhau trong vẻ đẹp của

mỗi thế hệ cầm súng hôm nay?”. Phải chăng, ở lớp cha anh như Kinh, Nhẫn

thì có cái dẻo dai, vững chãi của những người từng được thử thách, từng

hiểu thấu đáo ý nghĩa cuộc đời bằng những gian khổ mà họ đã nếm trải. Và ở

lớp người trẻ hơn, những thanh niên như Lữ, Hoạt, Khuê… thì vẻ đẹp ấy lại

chính là ở lòng khát khao lý tưởng, ở nhiệt tình cháy bỏng, và ở tình yêu –

yêu đất nước gia đình, yêu bạn bè đồng chí.

Lần theo “dấu chân người lính”, Nguyễn Minh Châu như càng ngạc

nhiên trước những thay đổi, những sự trưởng thành của nhân vật. Cuộc sống

không còn cái vẻ bình thản như trong Cửa sông. Nó đòi hỏi con người khẩn

trương hành động. Nhân vật tự khám phá mình và khám phá chung quanh.

Đặt bên một Kinh đậm đặc chất nông dân xứ Nghệ là một Nhẫn ít nói, nghiêm

khắc, xuất thân trong tầng lớp tiểu tư sản, “lên đường ra mặt trận bằng những

khúc hát”. Bên một Lữ mơ mộng, lãng mạn có một Khuê tháo vát, láu lỉnh,

một Cận hoặc Lượng gan góc lầm lì. Những tính cách này như hỗ trợ cho

nhau, bù đắp cho nhau, làm nên cái phong phú cho bộ mặt tinh thần của các

thế hệ. Tình người, tình đồng chí của họ, qua ngòi bút của tác giả càng đẹp

đẽ, cảm động bao nhiêu, càng tương phản với bộ mặt kẻ thù, như thằng Kiếm

(tuy chỉ mới được lướt qua nhưng cũng gợi được những nét đáng chú ý),

những công cụ cầm súng, những cái máy giết người trong tay đế quốc Mỹ.

Page 238: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Giữa những lớp người cầm súng khác nhau đó, thế hệ trẻ nổi lên tiêu

biểu cho sức thanh xuân của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến này. Đó là lớp

người sinh ra trong nôi của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Họ là những thanh

niên có văn hóa, có tâm hồn, say lý tưởng, dũng cảm trong chiến đấu và hết

lòng vì bạn bè, đồng chí. Những người lính nông dân ngày xưa đã cầm súng

để chiến đấu cho mảnh ruộng và mái nhà của mình. Còn thế hệ trẻ ngày nay,

họ đã “từ giã gia đình, trường học, từ giã một cuộc sống tương lai đẹp đẽ hết

sức bảo đảm đã bắt đầu xây dựng cho họ, từ bỏ trái hạnh phúc đang ửng

hồng trong vườn nhà” để lao vào cuộc chiến đấu. Giữa cuộc sống đầy gian

khổ và hy sinh ấy, chất lạc quan tươi trẻ đến hồn nhiên vẫn tồn tại trong mỗi

người như một bản năng, cảm động biết bao khi cả một tiểu đội bị nghễnh

ngãng vì bom Mỹ vẫn chăm chú đón nghe tiếng hát. Một chiến sĩ lầm lỳ từng

đạp lên cả tiểu đội lính Mỹ lại say sưa lắng nghe tiếng hót của một con chim

bông lau bị điếc! Giữa hai trận đánh họ vẫn làm thơ, thổi sáo, vẫn dành chút

thì giờ ngắn ngủi để kịp nghĩ lại mình và nhớ đến người thân.

Tuy vậy, nhân vật được tác giả dành nhiều công phu xây dựng hơn cả

trong tác phẩm, có ý nghĩa điển hình cho lớp người mới trong quân đội ngày

nay là Lữ. Đây là một nhân vật, đặt vào quá trình sáng tác của Nguyễn Minh

Châu thì rất mới mẻ và đặc biệt. Đó là một học sinh mơ mộng, lẵng mạn, từng

đốt hết sách vở, bỏ nhà ra đi, trải qua trường học chiến đấu mà trở nên chín

chắn, điềm đạm. Đó là một người từng như choáng ngợp trước mối tình của

mình, từng say sưa với ánh trăng huyền ảo giữa đêm Trường Sơn sau cơn

mưa, lại cũng đã biết chọn cho mình sự hy sinh dũng cảm để dành về cho

đồng đội phần thắng quyết định. Ý nghĩa điển hình của nhân vật này là ở chỗ

tác giả muốn thông qua đó để lý giải cho mình những câu hỏi về động cơ,

mục đích, nguồn sức mạnh trong chiến đấu của thế hệ trẻ, một thế hệ vốn là

sản phẩm của miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

Nhìn chung, Nguyễn Minh Châu muốn đem lại cho ta một kiểu nhân vật

có đời sống nội tâm sâu sắc và tính lý tưởng rõ ràng. Cuộc sống đang chuyển

–nghĩa là sẽ còn nhiều thay đổi. Ngoài sự hy sinh dũng cảm của Lữ và cả tiểu

Page 239: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

đội anh, chúng ta chưa biết những biến động gì sẽ còn đến với các nhân vật.

Nhưng có một điều khiến ta tin chắc: cuộc chiến đấu sẽ làm cho con người

lớn dậy, cứng cáp và khỏe khoắn thêm lên. Đó là điều Nguyễn Minh Châu

muốn chứng minh qua Lữ, cũng như qua những bạn bè đồng đội của anh. Đó

cũng là điều mà người viết đã từng chứng minh qua những con người ở làng

Kiều – một vùng của sông. Trên ý nghĩa ấy mà nói, Dấu chân người lính cũng

là một bước tiếp tục của Cửa sông. Nhưng ở tác phẩm mới này, dường như

tác giả bộc lộ rõ hơn niềm say sưa với vẻ đẹp của cuộc sống, với chất lý

tưởng ở con người, và do đó, chất lãng mạn cũng đậm đà hơn.

***

So với Cửa sông, Dấu chân người lính là một bước tiến của Nguyễn

Minh Châu. Bối cảnh chiến trường, những cơn mưa Trường Sơn, những buổi

sương mù Tà Cơn hay một bếp lửa trên đường giao liên, và nhất là những

con người – những con người thuộc nhiều thế hệ, trên bối cảnh của một cuộc

ra quân lớn… đã gây cho chúng ta những ấn tượng khó quên.

Nhưng có lẽ do quá say sưa trước một hiện thực mới mẻ phong phú

mà Dấu chân người lính chưa có được sự cân đối cần thiết giữa hai mặt lãng

mạn và hiện thực, để giúp cho người đọc có được một cái nhìn trọn vẹn, toàn

diện. Hệ thống nhân vật trong Dấu chân người lính có vẻ dàn trải. Mỗi nhân

vật đều còn ít có sự đấu tranh trong nội tâm. Một số nhân vật trong tác phẩm

được xây dựng sơ sài. Cũng cần phải nói thêm là Nguyễn Minh Châu ít viết

về những gian khổ, khó khăn của chiến tranh. Ngay tội ác của kẻ thù cũng

chưa được anh chú ý thê hiện cho đúng mức cần thiết. Tất nhiên viết về

những điều này rất khó. Một số người cứ muốn tô đậm những khó khăn gian

khổ của chiến tranh do kẻ địch gây ra, với một dụng ý không tốt, hoặc với một

tâm lý dao động không lành mạnh. Nhưng điều mà chúng ta cần nhấn mạnh

là không nói về khó khăn, gian khổ thì không thể biểu hiện được sâu đậm

nhân vật tích cực và khí thế cách mạng, tinh thần lạc quan cách mạng của

dân tộc anh hùng. Tóm lại, mọi mặt, từ cuộc sống đến con người trong Dấu

Page 240: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

chân người lính đều có vẻ hơi dễ dãi. Điều đó không tránh khỏi hạn chế ít

nhiều giá trị hiện thực và tư tưởng của Dấu chân người lính – tác phẩm muốn

vươn tới một bức tranh tổng hợp về một cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn

trong lịch sử dân tộc. Ngoài ra, nhiều đoạn viết chưa được cô đọng, tập trung

vào những điều đáng mô tả nhất, cho nên tác phẩm như một bó hoa mới hái,

cành lá còn rậm rạp, chưa được xén gọt sửa sang. Những đoạn quá dài ấy

đọc hơi nhạt.

Dù sao, thiếu sót của Nguyễn Minh Châu trong Dấu chân người lính là

thiếu sót trong quá trình thể nghiệm, tìm tòi. Bước tiến của anh, so với Cửa

sông, và những đổi thay trong bút pháp của anh, cho phép chúng ta hy vọng

ở anh nhiều hơn nữa.

Dư luận chung đánh giá Nguyễn Minh Châu là một cây bút văn xuôi có

nhiều triển vọng. Anh là người có quyết tâm đi vào những đề tài có tính chất

thời sự. Anh là người đi vào cuộc sống, biết tìm chọn và giữ lại được cho

mình những gì đáng giá nhất. Đó hẳn sẽ là cơ sở vững chắc cho anh, từ

những thành công bước đầu này, vươn tới những mục tiêu mới.

Phần bốn. ĐỘI NGŨ VĂN XUÔI GIẢI PHÓNG Lực lượng viết của văn xuôi Giải phóng hình thành và trưởng thành

trong cuộc chiến đấu thiêng liêng vì sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, đấu tranh

thống nhất nước nhà. Tiếng súng đồng khởi và sự ra đời của Mặt trận dân tộc

giải phóng miền Nam năm 1960 đã mở đầu một giai đoạn mới của sự nghiệp

đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam. Nó cũng đồnq thời làm

xuất hiện những sáng tác tiêu biểu của quần chúng, như các bức thư trong

Từ tuyến đầu Tổ quốc, các hồi ký trong Những ngày gian khổ. Từ phong trào

quần chúng sáng tác ngay trong nước sôi lửa bỏng của cuộc chiến đấu, lực

lượng văn xuôi Giải phóng đã dần được hình thành và tiến tới xây dựng được

một đội ngũ của mình, gồm những chiến sĩ vừa cầm súng vừa cầm bút, quyết

Page 241: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

tâm bám trụ trên các chiến trường, trong vùng địch hậu, trên các vành đai, có

nhiều người đã ngã xuống trong tư thế chiến đấu.

Có thể nói đến một sự xuất hiện thật nhanh chóng – đôi khi dường như

bất ngờ nữa – của đội ngũ văn xuôi Giải phóng, với những người mở đường,

đến với cách mạng từ nhiều nguồn, như Giang Nam, Anh Đức, Trần Đình

Vân, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, Trần Hiếu Minh, Phan Tứ, Lê Vĩnh

Hòa…, mà tác phẩm của họ đã có vinh dự góp phần vào Giải thưởng văn

nghệ Nguyễn Đình Chiểu năm 1965, đánh dấu chặng đường đi vẻ vang, hào

hùng đầu tiên của nền văn nghệ cách mạng miền Nam.

Lực lượng viết của văn xuôi Giải phóng ngày càng phát triển đông đảo

thêm qua từng bước tiến của phong trào. Từ sau cuộc Tổng tiến công mùa

xuân năm 1968, nhiều cây bút mới, gắn với giai đoạn cách mạng mới ra đời

như: Nguyễn Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Chí Trung, Nam Hà, Thu Bồn, Đinh

Quang Nhã, Dương Thị Minh Hương, Tô Nhuận Vỹ…

Đội ngũ văn xuôi Giải phóng trưởng thành nhanh chóng với những bản

sắc riêng khá rõ ràng. Nguyễn Thi trước đây trong bút danh Nguyễn Ngọc

Tấn đã có một mảng truyện ngắn đặc sắc, nay lại vượt lên, thành công trong

nhiều thể loại, đặc biệt là các truyện ký về anh hùng, với bút pháp rất biến

hóa, mà Người mẹ cầm súng là một sáng tạo hết sức độc đáo, rất dân gian

mà cũng rất hiện đại. Nguyễn Trung Thành vẫn tiếp tục cái băn khoăn tìm tòi

của Nguyên Ngọc giai đoạn trước, nay viết được những truyện ngắn đặc sắc

như Rừng xà nu, rồi lại tiếp tục bắt tay vào xây dựng một tiểu thuyết với niềm

mong muốn sao cho xứng với tầm vóc của cuộc sống như Đất Quảng. Trần

Hiếu Minh, Anh Đức, Phan Tứ, Nguyễn Sáng… nhìn chung đều là những

người viết có sáng tác tốt từ trước, với các bút danh khác nhau, như đã được

nghiên cứu hoặc nhắc đến trong các phần trên, nay trong sự nghiệp xây dựng

một nền văn xuôi Giải phóng trên tiền tuyến lớn, lại tiếp tục có đóng góp nổi

bật trong nhiều lĩnh vực, người thì hấp dẫn chúng ta bằng một chất trữ tình

Page 242: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

nồng thắm của thơ, người thì gây hứng thú bằng những căng thẳng đầy tính

kịch, hoặc với cái bộn bề hùng tráng có dáng dấp sử thi.

Tóm lại, tuy quãng đường đi còn ngắn, nhưng với những thành công

của mình, văn xuôi Giải phóng đã có thể mang lại những đóng góp đặc sắc

vào bộ mặt văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Đặc Sắc NGUYỄN THINguyễnThi cho đến bay giờ, và có lẽ còn lâu về sau, đối với chúng ta,

vẫn cứ mới mẻ mà quen thuộc như thế. Nhiều người đã nói đến cái phong vị

dân gian truyền thống trong Người mẹ cầm súng. Những câu chuyện của ông

bà Sáu Hò, những câu chuyện của bà con Tam Ngãi kể về vợ chồng, mẹ con

chị út… qua mô tả của Nguyễn Thi, quả nghe như vọng lại từ ca dao hoặc

truyện cổ.

Nhưng dân gian mà rất hiện đại. Cái sâu sắc của Nam Cao, cái châm

biếm của Nguyễn Công Hoan, cái mới lạ của Trần Đăng, cái tinh tế của Bùi

Hiển… ít nhiều đều có dấu ấn trong Nguyễn Thi. Đặc biệt, cái oi ngột quằn

quại của Tắt đèn lại không dễ trở lại với chúng ta một lần thứ hai, đậm đến

thế, nếu vì một sự rủi ro gì đó Ở xã Trung Nghĩa không kịp đến tay chúng ta.

Tóm lại, Nguyễn Thi gợi cho ta nhớ, dường như trong một ấn tượng toàn bộ,

dáng nét của nhiều người đi trước.

Nhưng không phải bóng người trước trùm lên anh. Nếu vậy chẳng còn

anh nữa cho ta bàn. Cũng không phải anh đi theo bắt chước. Sự bắt chước

trong nghệ thuật sẽ thủ tiêu ngay chính bản thân nó, sẽ chẳng là gì cả. Đây là

một sự tiếp tục, một cuộc gặp gỡ. Người đọc tiếp xúc với Nguyễn Thi, và thật

kỳ lạ, qua Nguyễn Thi, như trong một nguồn sáng mà gặp rất nhiều người.

Những người thân quen, đã nhiều lần sống cùng ta, trên trang sách; họ ở đâu

đây gần lắm, sẽ lại cùng ta tâm tình, trò chuyện.

Page 243: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Văn mạch dân tộc – nếu có thể mượn dùng chữ ấy để nói về truyền

thống – vốn là một con đường đã có sẵn. Nhưng đừng tưởng bất cứ ai cũng

có thể dễ dàng đặt chân lên trên con đường đó; hoặc nói cho đúng hơn, ai

cũng có thể đặt chân lên đó, nhưng chưa dễ đứng riêng ra, trên đôi chân của

mình, mà làm một cuộc chạy tiếp sức lên phía trước.

Hiện tại đi từ truyền thống. Truyền thống bao giờ cũng làm nền. Nhưng

nền truyền thống trong văn học bao giờ cũng là một cái gì ẩn ngầm, lặn sâu,

nó được đúc nên bằng những tinh hoa. Người viết lạnh nhạt hoặc chưa sâu

sắc đến độ cần thiết, khó bắt gặp được nó. Đây là chỗ hội tụ của vốn từng

trải, sự hiểu đời; hơn thế, đây là chỗ giao lưu của những tình cảm lớn. Mỗi

người viết gắn vào một giai đoạn lịch sử, đề cập những vấn đề của người

đương thời. Nhưng nếu cố gắng đi thật sâu vào đời, cảm xúc đến tận cùng

những buồn vui của nhân dân, nhất định anh sẽ bắt gặp được những vấn đề

chung của lịch sử, nó xuyên suốt không gian, thời gian và kết tinh thành

những mạch ngầm. Chính điều đó là cái làm cho sáng tác Nguyễn Thi luôn có

xu nướng vươn rộng ra, viết về miền Nam mà cho ta hiểu toàn đất nước, viết

về hiện tại mà gợi nghĩ cả quá khứ, tương lai.

***

Nguvễn Thi viết ít, vài tùy bút, mươi truyện ngắn, một truyện vừa hoàn

chỉnh, vài phác thảo ký, truyện dài còn dở dang. Thế nhưng, đọc anh ai mà

không cảm thấm một nỗi xôn xao, day dứt về “những điều trông thấy”, và

cũng xôn xao không kém là sức dội, tiếng vang của cuộc đời ấy trong chính

tâm hồn mình. Một nhận thức, và từ đó, một xúc động cùng đến và ở lại đấy,

nơi sâu thẳm của tâm hồn mình, không nhòa đi, không rời bỏ được, đó là cái

làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của những trang Nguyễn Thi.

Nổi bật hơn nhiều nhà văn, Nguyễn Thi không e ngại đi vào những

xung đột dữ dội, không trốn tránh việc mô tả bộ mặt kẻ thù. Những mâu

thuẫn, những giao tranh, những trái ngược luôn được anh dồn đẩy đến một

cái thế tức bí nhất, khiến cho người đọc không sao yên được. Đó là cái không

Page 244: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

khí Ở xã Trung Nghĩa. những tháng năm nhân dân còn phải sống trong sự

kìm kẹp của kẻ thù. Cảnh ngộ ông Tư Trầm, chị Hai Khê trong truyện có thể

xem là sự kết tinh số phận quần chúng bị dồn đẩy đến thế cùng; qua đấy cho

ta thấy cả một bóng đêm dày nặng của xã hội, mà tiêu điểm là hai khuôn mặt

cùng một bản chất sát sinh của đại diện Hiếm và cảnh sát Âu. Nguyễn Thi đã

thành công biết bao nhiêu trong hai nhân vật ấy, với bấy nhiêu trang ít ỏi của

một truyện dài viết dở, bằng một ngôn ngữ đặc biệt, nó là những chữ bằng

chì lỏng, nóng chảy và định hình ngay tức khắc khi đổ vào khuôn.

Với Nguyễn Thi, cuộc sống là bao nhiêu dường mối, đường mạch xô

đẩy, quấn quýt, xen cài chằng chịt vào nhau, bổ sung cho nhau, tương phản

lẫn nhau. Những người dân “bảng đen” như ông Tư Trầm, chị Hai Khê mà cả

một bộ máy khổng lồ với súng, gươm tách họ ra vẫn cứ xô giạt, nương tựa

được vào nhau. Còn những thế lực thống trị như đại diện Hiếm, cảnh sát Âu,

Ba Kỳ, Ba Sồi, Hai Mật… vừa nhâng nháo trở về trên bàn tiệc, ngồi bên nhau,

bàn tính cùng nhau cách làm ăn, từ việc “xây nhà tôn, mua ghe máy” đến việc

cướp từng quả đu đủ, lận từng đồng của người dân lương thiện, trong cái “hồi

buổi làm chơi ăn thiệt” này lại sẵn sàng lừa miếng nhau, thọc gậy vào lưng

nhau. Một cuộc sống mà “miếng ăn ngay thẳng thì phải làm trong cảnh tối

tăm, còn của cướp thì chúng mặc sức làm phơi phới giữa ban ngày như phơi

áo”, mà mỗi người đều phải có “một cái tai riêng để nghe chuyện”, “có thêm

một cặp mắt để nhìn cho thấu những sự việc con mắt thường không thấy và

thêm một cái miệng nữa để bàn những việc mà thông thường không nói

được… “. Một cuộc sống mà bên ngoài là một vẻ an bài, phẳng lặng, đâu vào

đấy, nhưng bên trong, có trời mà biết, nó sẽ nổ tung ra từng mảnh bất cứ lúc

nào. Một cuộc sống thực mà giả, giả mà thực, đang chờ đợi “một phép mầu”

đễ được hoàn nguyên là nó…

Và thế tất là cái sự nổ tung đó phải diễn ra. Nguyễn Thi nói với ta, hạnh

phúc đã đến với con người trong đấu tranh – hạnh phúc “cầm súng” – và đấu

tranh là con đường duy nhất đưa đến hạnh phúc cho họ. Anh nói với chúng ta

về những cuộc lên đường, những cuộc ra đi. Có cuộc ra đi vui như hội, mắt

Page 245: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

phóng ra phía trước, đầy hào hứng như của ba cô gái trong Mùa xuân: Hà đi

với lý do là Tết này mình đã mười bảy, không cho mình đi thì mình già, còn

gì… Nga lớn kèo xin đi cũng có lý, là vì anh Ba Nghề, du kích, cứ hỏi ý kiến

hoài, mình ở nhà chắc phải tuyên bố mất. Còn Chỉnh thì chỉ khoái cầm súng

đi cùng trời cuối đất, như các anh bộ đội vậy”. Nhưng cũng có cuộc ra đi như

của hai chị em Việt trong Những đứa con trong gia đình mang hai cái tang

trên đầu, diễn ra trong âm thầm, lặng lẽ, phải lo tính việc nhà, nghĩ lại về phía

sau, ngày qua, người đã khuất. Nhưng dù thế nào, những cuộc ra đi đó, đối

với họ, đều là một nhu cầu khẩn thiết, và cái hạnh phúc trong chiến đấu đó

luôn luôn tạo nên những trang sôi nổi, xúc động ở Nguyễn Thi. Tuy vậy đối

với Nguyễn Thi, đó cũng là một cuộc chiến đấu mà thắng lợi không được

miêu tả một cách dễ dàng. Và cũng không phải chỉ là công việc của một thế

hệ. Nó vẫn còn tiếp diễn khi trang sách đã hết hoặc đang tạm dừng.

Thực ra, đóỏ là điều mà ai trong chúng ta cũng đều có thể thấy rõ.

Nhưng mặc dù vậy, Nguyễn Thi vẫn cứ có thể giúp ta nhìn kỹ thêm, thấm thía

hơn. Là vì chẳng bao giờ anh nói điều ấy một cách trừu tượng. Anh để cho

nhân vật “nói”. Và cái tiếng nói của hình ảnh mà anh gợi cho ta trên trang

sách ở đây, luôn luôn có sức gợi và làm cho ta xúc động. Anh náu mình sau

những câu chuyện của bà con Tam Ngãi kể về mẹ con chị Út: Mẹ con nó dạy

nhau cùng một khuôn, con Út kia đi đánh giặc thì lại có con út nọ ở nhà”. Anh

để cho con bé Gái đeo cạc-bin, mắt long lanh, môi chúm chím, quần vo quá

gối, đầu súng đưa qua đưa lại, khiến cho mấy bà mẹ phát kêu lên: “Nó giống

hệt mẹ nó hai mươi năm trước”. Anh để cho hai bà mẹ trao trầu cho nhau,

tâm sự: – “Nghĩ cho ông Cụ Hồ mình khéo nuôi con cháu, năm đình chiến,

đám con Chỉnh, ông Cụ còn gửi kẹo theo tàu vô cho ăn, giờ ông Cụ đã được

nhờ rồi”… Chỉ thế thôi, mà thực ra không cần nói gì thêm cũng đủ để cho ta

thấy cuộc chiến đấu đang tiếp tục, các thế hệ chúng ta đang nối bước nhau

cầm sủng, như thế nào, và sức trẻ đang lớn lên ra sao.

Thật là thích hợp với Nguyễn Thi, cây bút trữ tình rất mực, khi anh

hướng về đám trẻ, hướng về những khuôn mặt thân yêu của các bà mẹ, nó là

Page 246: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

chất thơ không bao giờ vơi cạn trên các trang viết của anh. Nhưng với

Nguyễn Thi, chất thơ đó không bao giờ che khuất hoặc làm mờ đi cái vẻ dữ

dội, khốc liệt của cuộc chiến đấu. Bộ mặt kẻ thù, những mảng đen tối trong

đời sống luôn luôn được nhà văn đặt vào đúng vị trí của chúng, khiến cho ta

căm ghét và cảnh giác, chứ không phải để cho ta ớn ngợp hoặc kinh sợ;

nhưng chính sự có mặt đó đã góp phần cho ta hiểu tính chất cực kỳ gian khổ,

ác liệt của cách mạng miền Nam. Cũng như vậy, bằng sáng tác của mình,

Nguyễn Thi nói với chúng ta cái niềm vui cưa bao giờ vui đến thế của nhân

dân được giải phóng, nhưng sự nghiệp giải phóng nhân dân vẫn còn tiếp

diễn. Trong đấu tranh, hạnh phúc vô giá đã đến với con người, khi họ được tự

mình làm chủ đời mình, nhưng giờ đây vẫn chưa phải là lúc con người nghĩ

đến hưởng thụ. Tóm lại, đối với Nguyễn Thi, cuộc sống đầy màu sắc, luôn

chuyển động, và đang tiếp diễn.

***

Chính trên bối cảnh một cuộc sống như vậy, Nguyễn Thi dễ dàng giúp

ta đi tới những khám phá đúng đắn và sâu sắc về con người Việt Nam. Đây là

con người không cần đến và cũng chẳng bao giờ biết đến những bi kịch cá

nhân. Con người đó không phí công mất sức vào những đau khổ riêng tư và

những gì gọi bằng “thân phận”, “số phận”… Dựng chân dung các anh hùng Út

Tịch, Nguyễn Thị Hạnh, hay đi vào bất cứ con người quần chúng bình thường

nào, Nguyễn Thi không bao giờ mô tả họ trong tình trạng bối rối, mình tự đối

lập với mình. Anh đặt họ trong bối cảnh cách mạng, trước những yêu cầu của

cách mạng. Đối với những người không ưa sơ lược, thích những gì gọi bằng

“phức tạp”, thì ở đây vẫn là hai vế, vẫn có “mâu thuẫn”, có điều không phải

mâu thuẫn nội tâm, mà là mâu thuẫn trong sự đối chiếu giữa khả năng con

người và yêu cầu của cách mạng, con người không ngừng vươn lên và yêu

cầu cách mạng không ngừng phát triển. Bao nhiêu khó khăn đặt ra trước mắt

chị Út: việc nhà, con cái, bụng mang dạ chửa… cũng chính là bấy nhiêu hoàn

cảnh cho chị bộc lộ tất cả sự dồi dào vô hạn những khả năng và nghị lực của

mình. Cũng có thể nói như vậy về Nguyễn Thị Hạnh trong Ước mơ của đất.

Page 247: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Tóm lại, đó là hướng khám phá tính cách con người mới ở Nguyễn Thi, nhằm

làm sáng tỏ một cách tự nhiên, không chút cố ý, cái hiện tượng có thể xem là

đặc trưng cơ bản của cuộc sống dân tộc Việt Nam ngày nay: cái bình thường

đã được nâng lên tầm vóc anh hùng, và người anh hùng đã trở thành bình

thường, tự nhiên như đời sống vậy.

Nguyễn Thi không băn khoăn quá nhiều về việc đi tìm cho nhân vật của

mình một cá tính gì đó đặc biệt, để cho người đọc dễ nhận, mặc dù cái tài đó

anh không thiếu. Một Đực Cò, “mới mười bảy tuổi, lòng dạ và tác người đều

gà tồ, ai hỏi gì cũng cứ “hả” rồi mới trả lời”; một cô Hà, nữ du kích “không hề

sợ máy bay bỏ bom mà chỉ lo máy bay nó rớt trúng đầu mình”; một chị Tư,

người mẹ trẻ “hiền như chiếc lá”, đi biểu tình cõng con sau lưng để rủi có

trúng đạn thì mình chịu trước… chỉ thoáng một lần mà đâu phải dễ quên.

Nhưng dường như Nguyễn Thi không để tâm vào đó quá nhiều. Anh đi thẳng

vào những bề sâu, những thuộc tính cơ bản ở con ngưòi, và khi đã xác định

được nét cơ bản đó, anh đem toàn bộ bút lực của mình ra để thể hiện. Đối

với anh, những con người mới vốn có một bản chất chung, nhưng biểu hiện

của nó lại vô cùng phong phú, không lặp lại, không giống nhau. Trong tùy bút

Những câu nói ghi trong Đại hội, anh cho ta thấy cách nhìn ấy; đến với từng

anh hùng, anh cố tìm tòi để nắm lấy và thể hiện cho được ngay trong một câu

nói, một đặc trưng cơ bản của nhân vật. Chị út: “Còn cái lai quần cũng đánh!”.

Nguyễn Thị Hạnh: “Đừng lo tôi chết. Cứ để tôi ở đây sống với đồng bào”. Tạ

Quang Tỷ: “Chận đầu!”. Phạm Văn Cội: “Cứ đánh, trước khó sau quen”.

Trương Văn Hòa: “Tìm Mỹ mà diệt”. Kan Lịch: ”Đánh gần!”…

Nguyễn Thi cho thấy: đó là những lời tự nhiên. Nhưng là một cái tự

nhiên mà ngẫu nhiên đúc kết toàn bộ một tính cách, một lẽ sống, một phương

châm, mục tiêu hành động. Họ nói một cách không cố ý những điều dường

như đã trở thành chân lý của thời đại. Những chân lý giản dị mà có người

nghĩ cả hàng đời vẫn không ra. Nhưng chính vì giản dị mà nó là chân lý. Kan

Lịch ham đánh gần vì, “nổ như vậy chắc trúng, trúng thì nó sẽ chết, nó chết

thì nó không bắn lại được mình”, Chi Út cười, miếng trầu còn ở trong miệng:

Page 248: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

“ở xã tôi, bót nhiều lắm, mình không giết nó, nó cũng giết mình, nó thu tô”. Rồi

chính cái phát hiện đó sẽ là điểm tựa giúp anh dựng lên chân dung của người

nữ anh hùng, hơn thế, chân dung của cả một thế hệ, mang rất rõ trong mình

khí phách của dân tộc, tinh thần của thời đại. Tưởng không nên kể lại – và

quả cũng khó mà kể lại – chân dung chị Út “sống” đến mức nào trên tính cách

cơ bản đó, cái con người lúc bé ốm nhách đã vung ớt bột vào mặt mụ Hàm

Giỏi, “đánh nó để nó không đánh được mình”, leo tuốt lên ngọn dừa đái “bi

cao” cho biết, kẻo ai đó cứ khinh thường đàn bà con gái đái không qua ngọn

cỏ, gan góc nổi tiếng khiến cho các bà mẹ Tam Ngãi phải kêu lên: “Không biết

nó uống cái toa thuốc gì mà gan trời vậy chớ!”. Tất cả những chi tiết đó lúc

này đều được xuyên suốt, xâu chuỗi nhau mà đắp nổi cho hình tượng.

Rõ ràng quả hiếm có người viết nào chỉ với số trang, số dòng ít ỏi như

vậy, lại dựng lên được những chân dung sống như Nguyễn Thi, nó là kết quả

của một sự trải đời, hiểu người thật là phong phú. Đây là thế giới nhân vật

Nguyễn Thi, thế giới của trẻ con, của những người mẹ, người chị, những ông

bà nội ngoại quen thuộc với chúng ta đến mức ngỡ như họ cũng là những

người thân yêu của chính mình. Nhưng mỗi loại nhân vật đó bao giờ cũng

được Nguyễn Thi mô tả nhằm một mục đích nghệ thuật nhất định. Không phải

ngẫu nhiên mà hình ảnh trung tâm, và cũng là hình ảnh thành công trong tác

phẩm Nguyễn Thi, lại là hình ảnh người mẹ, và là người mẹ cầm súng. Là vì,

đối với anh, người mẹ, – người mẹ Việt Nam –, luôn luôn, lúc nào cũng đều

đóng vai trò là chỗ dựa cả về vật chất và tinh thần cho tất cả những đứa con,

lớn hoặc nhỏ, gần hoặc xa, trong gia đình hoặc ra ngoài xã hội; là nhân vật có

khả năng quy tụ vào mình nhiều mối quan hệ có ý nghĩa, và cũng là gốc sinh

ra, là nguồn nuôi dưỡng những tình cảm lớn lao, đằm thắm ở con người. Và

cũng không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Thi nói nhiều về thế giới trẻ con, vì

chính là, bằng vào thế giới trẻ con, những Đực, Bỉnh trong Chuyện xóm tôi,

mấy chị em con Bé trong Mẹ vắng nhà, Nguyễn Thi đã có thề nói lên được

một cách thật là rung động một thứ chất thơ, để qua đó, đi tới khẳng định một

Page 249: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

chủ nghĩa lạc quan vô cùng dồi dào trong cuộc sống chúng ta, đồng thời

chứng tỏ cuộc chiến đấu của dân tộc vẫn còn tiếp diễn…

***

Có thể nói đến một hiện thực được phản ánh theo phong cách Nguyễn

Thi, một phong cách luôn luôn gắng đến mức tối đa để có thể thâu tóm hiện

thực ở dạng đúc kết nhất.

Chuyện một gia đình. Hay nói cho đúng, và thu nhỏ hơn: Những người

con trong gia đinh. Chuyện một chiến sĩ trên chiến trường, giữa một thời điểm

căng thẳng nhất và cũng là yên tĩnh nhất của đời anh: lúc anh bị thương, lạc

đơn vị, nằm trên trận địa vắng lặng, sau một cuộc đọ lê, bây giò chỉ còn mùi

khét của khói và mùi tanh của xác Mỹ. Cái chết chờn vờn đến bên anh,

nhưng không phải là cái lúc này anh nghĩ đến. Suy nghĩ mông lung của Việt

hướng Việt nghĩ về mẹ, về những người trong gia đình, và theo triền dây suy

tưởng đó, dựng lại cả một quá khứ của tuổi thơ anh. Gia đình: đó là cái rõ nét

trong anh, với hình ảnh trung tâm quần tụ mọi kỷ niệm đẫm nước mắt về một

người mẹ đã khuất, người kết tinh cả một quá khứ vật lộn với sinh kế và kẻ

thù để nuôi chồng nuôi con. Gia đình: là kỷ niệm rỉ máu về một người cha đã

hy sinh cho đất nước. Gia đình: đó là một ông chú, người hiện đang còn giữ

một cuốn sổ ghi lại chuyện của những người trong nhà – những mối thù,

những chiến công, người làm nhiệm vụ kể lại sự tích gia đình, và cuối mỗi

câu chuyện thế nào cũng hò lên mấy câu. Gia đình: còn là một người chị

được tạc theo hình ảnh của mẹ, cũng đã lên đường đi chiến đấu ở một

phương nào đó.

Nguyễn Thi cho ta thấy bao nhiêu là tình sâu nghĩa nặng trong một chữ

“gia đình”, nó là nỗi niềm sâu thẳm của người chiến sĩ ra trận lần đầu. Nguyễn

Thi nói đến gia đình – cái đơn vị cơ bản, nền tảng đó của mỗi người con ra đi,

đồng thời đem lại cho nó một ý vị thiêng liêng khi mở rộng nó ra và gắn nó vói

quê hương đất nước. Trong một truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tấn hồi 1960

những người chiến sĩ trong tập luyện, có thói quen khắc tên quê hương trên

Page 250: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

vành mũ, “khi xung phong, quê hương cùng đi theo”. Những người chiến sĩ

miền Nam, trong Nguyễn Thi, mấy năm sau, khi ra trận, khắc hẳn hình ảnh

quê hương trong trái tim mình. Thiên truyện vừa mở ra vừa đi sâu.

Chuyện một xóm: Chuyện xóm tôi, cái xóm nhỏ miền Nam, mươi chục

nóc nhà, con mương nhỏ, rặng dừa, chiếc cầu tre. Chuyện xóm nhỏ mà lại

bắt đầu bằng hai đứa trẻ: Đực và Bỉnh. Tình bạn của chúng kết giao bền chặt

tự nhiên, vì chúng có hai ông bố cùng bị ác ôn Tổng Phòng giết một ngày,

“hai người bị thằng Phòng bắn nằm gác chân lên nhau, tay bị trói chung và

cần cổ bị cột chung một sợi dây buộc lớn”. Gia đình chúng có chung một mối

thù nên chúng cũng có một trò chơi chung: “Hai cái dáng bé nhỏ ấy cùng chạy

dọc, chạy ngang, vừa bắn vừa hô, vừa cười hí hố, vừa nhai chùm ruột, say

sưa rượt đánh một thằng giặc vô hình nào đó đang chạy ở trước mặt và

ngoan cố chưa chịu khuất phục đầu hàng” – trong tưởng tượng của chúng, đó

chính là thằng Phòng. Câu chuyện mở ra khỏi cái giới hạn chật hẹp của nó

lúc nào không biết: chuyện trẻ con mà ra người lớn, chuyện nhà thành

chuyện làng, chuyện trò chơi mà mang một ý nghĩa nghiêm chỉnh. Cái xóm

nhỏ hiện ra trước mắt ta trải bao nhiêu biến cố, máu chảy, người chết, bao

nhiêu náo động: tiếng súng, tiếng mõ, tiếng reo hò… nhưng tất cả rồi cũng

qua đi cuộc sống trở thành bình thường, bởi vì “những việc như máy bay trực

thăng Mỹ mới bắn xối xả vào xóm sáng hôm qua đấy thì sáng nay nó đã trở

thành dĩ vãng, thù đó không quên, nhưng việc mới dồn dập tới, mọi người

tưởng như nó đã qua lâu lắm rồi…”. Người lớn ra đi, lớp này qua lớp khác.

Và tác giả lại dẫn chúng ta trở về cái bình lặng gan góc của xóm nhỏ đêm

hôm, trong giấc mơ trẻ thơ, trong câu chuyện giữa những ngưòi già, về quê

hương, về thời cuộc… Ở đày cũng là một sự mở rộng dần ra, để rồi thu nhỏ

lại.

Chuyện một xã: Ở xã Trung Nghĩa; nhưng là qua một xã để thấy sự kết

tinh tất cả cái oi ngột dữ dội nén lặng của miền Nam trong thế kìm kẹp của Mỹ

– ngụy. Lúc này, dường như kẻ thù còn đang trong cơn vênh vang đắc thắng:

tòa trụ sở hội đồng được sửa sang, khu trù mật đang được khởi công, chiếc

Page 251: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

mô-tô của cảnh sát Âu và chiếc xe đạn của đại diện Hiếm đều đặn đi về…

Nhưng chính cái lúc tưởng lặng lẽ nhất ấy, cũng lại là lúc trời sắp nổi bão lên

rồi. Bão bên trong. Thiên truyện dừng lại ở cái phút im lặng ấy, vào cái điểm

“mắt bão” ấy.

Chính cái ý thức khái quát đó luôn luôn thường trực trong Nguyễn Thi

đã giúp anh vượt lên trên hiện thực bề bộn, làm chủ được tài liệu, trên cả bề

mặt và bề sâu. Bề mặt xã hội, bề sâu con người. Nó là một sự đúc kết. Cuộc

sống đọng lại ở đấy, ở phía sau, ở chiều sâu trang sách.

Nhưng với tất cả sức đúc kết đó, sáng tác của Nguyễn Thi không bao

giờ dừng lại ở mức chỉ làm thỏa mãn cho ta một nhu cầu nhận thức đơn

thuần. Cuộc sống trong sáng tác Nguyễn Thi không bao giờ là cuộc sống để

cho ta xem ngắm một cách thờ ơ, mà là một cuộc sống luôn luôn sục sôi, giục

giã, buộc ta bộc lộ một thái độ, đòi hỏi ta phải có ý kiến trả lời. Nguyễn Thi ít

khi nói to lên, một cách trực tiếp, những cảm xúc của chính mình. Nhưng sau

những trang viết “khách quan” để cho sự việc tự nó nói lên, thấy dồn nén bao

nhiêu nghĩ suy, tâm sự, khiến cho người đọc không thể nào bình yên, vô tâm

được. Bởi lẽ, nhà văn luôn luôn biết rọi vào đấy một thứ ánh sáng riêng,

không phải chỉ của đôi mắt, mà là của cả tấm lòng, khiến cho mọi màu sắc,

âm điệu, cung bậc của đời sống hiện lên thật rành rõ. Khi anh viết về một

thằng Phòng “mà cuộc đời làm tổng của nó đã tới nước nó có thể nghĩ rằng

đạn trúng thằng nào thằng đó là Việt cộng, cứ bắn”; về đàn con chị Út nằm

hầm: “Cả bốn đứa đều chống tay xuống đất, chổng mông lên trời như bốn tai

nấm (…) Con bé, một tay bồng em, một tay thò ra ngoài hầm quấy bột, nó bắc

xoong lên ba cục đất, chụm bằng lá dừa.. “; về người mẹ chỉ đêm đêm mới

khóc, mẹ khóc lặng lẽ khi đàn con đã ngủ cả, “chỉ còn tiếng chuột chạy trên

nóc nhà, tiếng chó sủa ở đầu xóm và tiếng mõ của dân canh trên đồn dân

vệ…”; về vợ chồng ông Tư Trầm nhận năm công đất cách mạng trao cho; về

hai chị em Việt khiêng bàn thờ mẹ sang nhờ nhà chú để ra đi, hẹn “đến

chừng nước nhà độc lập lại đưa má về…”…, ta tưởng như tất cả những lời,

Page 252: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

những chữ ấy không phải chỉ được viết bằng thứ mực thông thường, mà là

bằng mực của chính tấm lòng anh, đôi khi nó còn là máu và nước mắt.

Thể hiện cuộc sống trong mọi màu sắc, âm điệu, cung bậc khác nhau

của nó, đó cũng là nét đặc sắc trong tài năng, trong phong cách Nguyễn Thi.

Cho nên nói về Nguyễn Thi là nói về một cuộc sống rất mực dữ dội bên cạnh

một chiều sâu êm dịu, lặng lẽ của tâm tình; nói về sự phong phú của một chất

thơ trong suốt bên cạnh cái bộn bề, hùng tráng của sử thi; nói về một bút

pháp rất trữ tình, đôn hậu bên cạnh không ít âm điệu trào phúng sâu cay.

Tóm lại, nói về Nguyễn Thi là nói về một phong cách đa dạng.

Quả là thế, và hoàn toàn dễ hiểu, khi người viết, đó là Nguyễn Thi, và

khi đối tượng miêu tả, đó là hiện thực miền Nam. Người đã dốc cả tâm hồn

lên những trang thơ về con trẻ, về ông bà, cô bác của chúng ta, hẳn không

thể không sôi trào sự khinh bỉ, căm giận lên đầu những kẻ hình người dạ thú.

Và cũng thật khó mà phân biệt âm điệu nào là chính khi cuộc sống vốn bộn

bề đến thế. Giữa những tình huống đang bị dồn ép đến mức bi đát nhất như

trong Ở xã Trung Nghĩa, vẫn không ít những cảnh ngộ khiến cho ta bật cười,

cái cười vừa như ngọn roi đập vào mặt kẻ thù, vừa làm cho con người trong

cuộc khoan khoái trở lại, có thêm sức để đi tiếp con đường đi còn rất lắm

chông gai. “Rầu thúi ruột mà vẫn còn tiếu lâm” là thế!

Nhưng đa dạng mà nhất quán. Đó là sự nhất quán của một vốn từng

trải, một tâm hồn, một tài năng, một trí tuệ.

***

Thế nhưng, với tất cả những gì thành công và đã làm ta xúc động đến

thế, sáng tác Nguyễn Thi vẫn chỉ mới ở vào giai đoạn đầu của một quá trình

tìm tòi. Cũng như Nam Cao, “sống đã rồi hãy viết”, Nguyễn Thi cũng đang

trong thời kỳ chuẩn bị, mà Người mẹ cầm súng là một sự hoàn chỉnh đầu tiên,

và Ở xã Trung Nghĩa là một thành công không lặp lại. Nhưng trong Ước mơ

của đất, Mẹ vắng nhà, cũng như trong nhiều tùy bút, bút ký khác của Nguyễn

Thi, cuộc sống của những “người mẹ cầm súng” vẫn đang được anh tiếp tục

Page 253: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

theo dõi, ấp ủ, để mở mang nó ra trên cả hai chiều rộng và sâu, quá khứ và

tương lai.

Nguyễn Thi thuộc trong số ít nhà văn mà cuộc đời và tác phẩm có khả

năng gợi cho ta suy nghĩ nhiều điều. Nghĩ về anh là nghĩ về mối liên hệ giữa

nhà văn và cuộc sống, nhà văn và quần chúng; và những lời anh tâm sự sau

đây hoàn toàn có sức nặng của một chân lý đã được thể nghiệm: “Chúng ta

tự hào sung sướng được sống trong lòng biển, vì giọt nước có vinh quang

cách mấy cũng chỉ là giọt nước, nó sẽ khô ngay lập tức nếu không được nằm

chung với biển, còn vinh quang của biển thì đời đời không lay chuyển được”

(Đại hội anh hùng). Nghĩ về anh là nghĩ về văn mạch dân tộc, đi từ nguồn và

nằm trong dòng chảy của những Ngô Tất Tố, Nam Cao, Trần Đăng… Nghĩ về

anh là nghĩ về sự thống nhất giữa tâm hồn và tài năng, tâm hồn nuôi dưỡng

tài năng, và tài năng bồi đắp cho tâm hồn. Nghĩ về anh là nghĩ về sự kết hợp

thành công giữa nội dung vừa dân tộc vừa hiện đại, trong một hình thức vừa

quen thuộc vừa đổi mới.

Chắc chắn là bạn đọc nhiều nơi, từ nay về sau, sẽ còn đọc anh với

niềm cảm ơn và cả sự hứng thú về những gì mà đời sống và đời văn của anh

sẽ còn tiếp tục gợi ra cho họ.

NGUYỄN TRUNG THÀNH và những trang về miền Nam đất lửaNguyễn Trung Thành viết chưa nhiều. Các truyện, ký ngắn của anh

được tập hợp, in trong Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (Nxb.

Giải phóng, 1969), trong đó, ngoài thiên truyện ngắn xuất sắc Rừng xà nu, thì

những sáng tác khác phần lớn đều là các tùy bút, bút ký, hoặc là các trích

truyện, ký sự. Tiểu thuyết Đất Quảng (Nxb. Giải phóng, 1971) mới thực là một

bức tranh rộng lớn về cuộc sống quyết liệt của miền Nam “đất lửa”. Nhưng

cuốn tiểu thuyết mới chỉ có phần Một.

Có tình hình đó phải chăng là do Nguyễn Trung Thành còn tự khe khắt

với mình. Người đọc cảm thấy, đối với anh, cuộc sống phải được miêu tả

Page 254: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

trong cái dạng hết sức phong phú và phức tạp của nó, với các sự kiện bề

bộn, những con người có tầm vóc lớn, những vấn đề luôn luôn mới mẻ… Do

đó người viết không thể đơn giản và nóng vội được.

Nhưng mặc dù viết ít, mặc dù một số truyện, ký của anh mới chỉ là

những phác thảo, có một vẻ gì đó chưa thật trọn vẹn, nhìn chung, toàn bộ

sáng tác của Nguyễn Trung Thành vẫn thể hiện rõ xu thế đi tới bao quát một

bối cảnh rộng lớn của Tây Nguyên, hoặc “đất Quảng” Khu Năm suốt cả một

quá trình, từ những ngày oi ngột trong thế bị kìm kẹp đến cái hả hê của một

cuộc đồng khởi, và cái thế vươn lên rộn ràng của một “cuộc ra trận lớn lao”.

Có lẽ do người viết luôn luôn có ý thức muốn nhìn và thể hiện cuộc sống

trong dạng cô đúc nhất của nó.

Trong tùy bút, Nguyễn Trung Thành cũng thường nói với ta về một

cuộc sống trong dạng như vậy. Anh nói về một ngày nào đó như là sự đúc kết

của thời gian. Ngày ấy, theo anh đứng cao vòi vọi giữa năm tháng, cha ông

từng ngước mắt trông vào đó, và lớp lớp thế hệ về sau vẫn mãi mãi dõi theo

(Trận đánh bắt đầu hôm nay). Đó là những ngày kỳ diệu mà con người tha

thiết được chứng kiến: “Có thể hôm nay, điều ấy cũng thường tình, tôi sẽ ngã

xuống. Nếu như vậy, thì cũng có sao đâu. Bởi vì giá như sau đấy vì một sự kỳ

diệu, tôi được sống trở lại thì cũng xin cho tôi được sống trong ngày hôm nay

của dân tộc ta” (Đường chúng ta đi).

Anh nói về một con đường “đường chúng ta đi”. Đó là một con đường

cụ thể, con đường người lính đi ra trận. Nhưng với Nguyễn Trung Thành, con

đường cụ thể đó sẽ lại hòa vào con đường của dân tộc hơn mấy chục năm

qua, con đường đi từ trong máu và nước mắt, từ trong nước sôi lửa bỏng đến

cái ngày chúng ta được cầm súng trong tay.

Cuộc sống bề bộn từng phút từng giây. Những ngày ngổn ngang sự

việc. Những người chật căng tâm tư, suy nghĩ, hành động… Tuy vậy, nếu

như tất cả những điều đó mới chỉ được anh nói đến, như một nhận xét, trong

Page 255: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

các tùy bút, thì đến Rừng xà nu và Đất Quảng nó đã được thể hiện trong

dạng của hình ảnh, thật phong phú và xúc động.

Rừng xà nu, một chuyến về thăm quê nhà của anh giải phóng quân

Tnú. Một câu chuyện kể về Tnú của cụ già Mết với dân làng. Chuyện đời Tnú

và cũng là chuyện của bà con làng Xô-man. Chuyện làng Xô-man và cũng là

chuyện của Tây Nguyên… Một nhân vật trung tâm là Tnú, mở ra một loạt

quan hệ: cụ già Mết, Mai, Dít, bé Heng… và đằng sau là dân làng Xô-man,

làng xô-man với bạt ngàn những rừng xà nu “nối tiếp tới chân trời”… Một thời

điểm ngắn, một ngày sống với làng quê của Tnú mở ra cả một quãng đường

dài của nhân dân, của cách mạng, từ quá khứ đến tương lai, từ những đau

thương lớn đến một cuộc đồng khởi vĩ đại, “cả làng Xô-man ào ào rung động,

và lửa cháy khắp rừng”…

Chính cái khả năng đúc kết đó đã làm cho Nguyễn Trung Thành, trong

phạm vi ngắn gọn của một truyện ngắn, có thể dựng lại cá một quá trình cuộc

sống trong những mảng đậm nhất, gây xúc động nhiều nhất.

Tiểu thuyết Đất Quảng vẫn tiếp tục cái hàm súc, cô đúc đó của Rừng

xà nu. Bao nhiêu ý nghĩa trong một chữ đất đã được gợi ra ngay từ trong câu

ca dao được chọn làm đề từ cho tác phẩm: “đất Quảng Nam chưa mưa đã

thấm. Rượu Hồng đào chưa nhấm đã say”. Đất, tượng trưng cho quê hương,

và đất, tượng trưng cho truyền thống tổ tiên ông bà. Đất mang nặng đau

thương oán thù, đất cháy lửa và sinh sôi. Con người gắn với đất, và tô điểm

cho đất bằng máu và nước mắt của chính mình.

Bổi cảnh của truyện là một vùng “đất Quảng” xơ xác vì địch quần phá:

một con sông từng có lúc ngầu máu, một làng quê im lìm, một cánh đồng trơ

trụi… Nhưng ở nơi giặc Mỹ và tay sai dã man định tiêu diệt mọi sự sống ấy,

thì chính ở đó sức sống lại sôi lên mãnh liệt nhất. Với Đất Quảng, Nguyễn

Trung Thành dẫn ta đi vào không khí một cuộc chiến đấu giữa địch và ta ngay

từ đầu đã căng thẳng, và có ý nghĩa điển hình.

Page 256: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Nhưng cuốn tiểu thuyết chưa được viết xong. Cuộc chiến đấu từ màn

đầu đã quyết liệt. Nhưng mới chỉ bắt đầu. Cuộc sống đang được người viết

triển khai. Tác phểm đang đưa ta đi từ quá khứ vào hiện tại. Sự đấu sức sẽ

bước vào thời kỳ căng thẳng nhất khi thằng địa chủ ác ôn Hứa Min bước vào

sân khấu, và đằng sau đó, cả một đám giặc Mỹ làm nền. Thử thách quyết liệt

đã mở ra với cái chết của bé Xuyến, và thêm một chút bí mật, ly kỳ, là sự xuất

hiện của một người đàn bà lạ mặt, mụ Tám; chính nhân vật này sẽ có khả

năng mở ra nhiều tình huống về sau cho sự đọ sức trực tiếp giữa ta và Mỹ.

Không khí Đất Quảng cũng tương tự như không khí Ở xã Trung Nghĩa của

Nguyễn Thi. Cuộc sống không thể dừng lại ở đấy, có một sự chuyển động

gấp rút bên trong đang đẩy nó đi tới một cao trào.

Cao trào đầy tính kịch.

***

Chính là thông qua những cao trào đầy tính kịch như vậy, Nguyễn

Trung Thành nhằm đưa tới cho ta một bức tranh rộng lớn về cuộc chiến đấu

ở miền Nam. Anh cố gắng tìm hiểu kỹ và đi sâu mô tả bộ mặt kẻ thù. Thể hiện

hình ảnh những thằng Dục (Rừng xà nu), hay thằng Xàng, thằng Min (Đất

Quảng), Nguyễn Trung Thành làm cho ta thấy rõ khát vọng của chúng là tàn

sát, giết chóc, đốt phá đến mức điên cuồng. Nhưng đó không phải là mục

đích cuối cùng của chúng. Tất cả những hành động đó thực ra rốt cùng là

nhằm đi tới “một trật tự”, một trật tự trong đó chúng có một chỗ đứng, trong đó

chúng là chỉ huy, chúng ra lệnh, tự ý sắp xếp mọi việc, mọi cuộc đời, mọi số

phận… Để đạt tới mục đích đó, cũng có khi chúng im lặng, và cái “im lặng” đó

không phải là không có ý nghĩa. Đó là cái im lặng của thằng Min, suốt năm

năm ròng, thôi không chơi gái, không rượu chè, sa đọa, bê tha. “Không phải

vì nó ghê sợ tất cả những cái đó, nhưng là vì sự thèm khát của nó, cái điều

nó ước ao, thèm nhớ còn lớn hơn, sâu độc hơn và dữ tợn hơn: nó thèm khát

một trật tự xã hội mà có được thì nó sẽ có tất cả”.

Page 257: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Đọc Nguyễn Trung Thành, ta giữ được những ấn tượng khá rõ nét về

bộ mặt kẻ thù. Bởi vì anh không muốn dừng lại ở những nét đơn giản, bề

ngoài. Anh muốn đi vào những động cơ bên trong, những âm mưu, những ý

đồ của chúng. Nhưng có điều, người đọc chưa thực sự được thấy rõ là đằng

sau mọi hành động tàn bạo và âm mưu sâu độc của chúng, thực chất chúng

chỉ là những tên ngụy, những tên đày tớ thảm hại của Mỹ. Chúng muốn làm

“ông chủ”, nhưng thực tế chỉ là những tên tay sai đê tiện; chúng muốn “một

chỗ đứng xứng đáng”, nhưng đó là chỗ đứng của một kẻ nô lệ; chúng muốn

một “trật tự”, nhưng là một trật tự do Mỹ cầm đầu; chúng muốn có “tất cả”,

nhưng “tất cả” thực ra chỉ là bơ thừa sữa cặn…

Những thằng Mỹ, những ông chủ thật sự của bọn Hứa Xâng, Hứa Min

cũng đã được Nguyễn Trung Thành cố gắng vẽ ra trong Đất Quảng. Lặng lẽ,

lì lợm, những thằng Mỹ làm cái việc giải trí bằng cách chọn những trẻ em Việt

Nam làm mục tiêu bắn; làm cái việc chôn từng quả mìn đánh trụi từng gốc tre

làng Việt Nam để bắt cán bộ. Cũng có thằng như thằng A-nê-lô, có trong mình

một cuốn nhật ký, một tấm ảnh vợ con, để cũng được như mọi người, tỏ ra

cũng có một cuộc sống bình thường, cũng quan tâm đến hạnh phúc gia đình,

nhưng chính vì thế mà càng phô ra tính chất dã man của một cuộc chiến

tranh do chúng gây ra, và cái chết thì sẵn sàng chờ chúng bất cứ lúc nào, chỗ

nào.

Thể hiện vẻ dữ dội của cuộc sống, Nguyễn Trung Thành cho ta đi sâu

vào bộ mặt và những tội ác của kẻ thù; và thể hiện bộ mặt kẻ thù lại chính là

để cho Nguyễn Trung Thành có dịp làm sáng rõ sự kiên trì, anh dũng chịu

đựng những gian khổ, những thử thách lớn lao của nhân dân miền Nam. Và

nhân vật nổi rõ hơn cả trong sáng tác của Nguyễn Trung Thành vẫn là những

nhân vật chính diện, trong đó mỗi người đều khẳng định vẻ đẹp của mình

bằng những chiến công. Bảy chiến sĩ Điện Ngọc trong cái thế bất lợi, bị dồn

vào một giếng cạn, vẫn đánh bật được cả một đơn vị địch, rồi rút lui (Trong

giếng cạn). Chị Chiện với một cuộc trả thù quyết liệt trong im lặng (Chiện). Lê

Văn Nghiêu một mình một súng, trên bãi cát trắng, phá mấy xe tăng khổng lồ

Page 258: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

của địch (Trên quê hươnq những anh hùng Điện Ngọc). Chị Thuận, một lựu

đạn diệt một Mỹ vẫn còn băn khoăn, tiếc rẻ, như vậy có lãng phí quá không

(Chị Thuận)…

Nhưng với Nguyễn Trung Thanh, chiến công mới chỉ là kết quả. Anh

muốn từ chiến công mà đi ngược lên những động cơ, những nguyên nhân, và

chính cái ý thức đó đã làm cho hình ảnh cuộc sống, con người được thể hiện

trong sáng tác của anh bao giờ cũng có một chiều dày, một bề sâu nhất định.

Chiều dày của quá trình. Bề sâu của lịch sử. Quá trình từ đau thương, căm

thù đến quật khởi. Lịch sử của những cuộc ra đi. Chị Thanh ra đi từ vũng máu

của chồng bên dòng Bàu Đưng (Đất lửa). Chị Thắm ra đi với kỷ niệm xoáy

sâu “một đôi mắt tha thiết và trầm ngâm của chồng, một tiếng khóc u oa của

con trên nền xi măng nhà tù lạnh ngắt… “(Đất Quảng). Cô nữ trinh sát Hoa ra

đi từ những chang tóc phải cắt cụt nhiều lần để mua tre rào ấp chiến lược

(Trận đánh bắt đầu hôm nay). Tnú ra đi với cái chết thê thảm của vợ con và

mười ngón tay sém cụt vì lửa xà nu hun đốt (Rừng xà nu)…

Có thể là trong một vài tùy bút, khi nói đến cuộc chiến đấu quyết liệt ở

miền Nam, Nguyễn Trung Thành trong xúc cảm bồng bột của mình, có lúc

không tránh khỏi còn gây cho người đọc cái cảm tưởng hơi nặng nề vì những

đau thương. Chẳng hạn, anh nói đến lịch sử dân tộc như là những trang đầy

máu. “Máu thắm đượm rãnh cày ta gieo hạt giống, máu thắm đượm mảnh

sân con ta nô đùa ngày bé, máu thắm đượm những con đường nơi đó mẹ ta

lau nước mắt ngày tiễn ta ra đi, máu thắm đượm bờ ao em ta ngồi giặt áo

trên chiếc cầu nhỏ gập ghềnh…” (Đường chúng ta đi). Chẳng hạn anh muốn

nêu lên: “Chúng ta ra đi từ giữa bùn đen và đau thương. Chúng ta ra đi từ chỗ

chưa phải là con người” (Trận đánh bắt đầu hôm nay). Nếu nói ra đi “từ giữa

bùn đen”, từ chỗ “chưa phải là con người” để chứng minh một quá khứ gian

khổ, và để nhấn mạnh những tội ác của kẻ thù hòng vùi dập chúng ta trong

cảnh sống lầm than và nô lệ thì có khía cạnh đúng. Nhưng cũng cần cho thấy

hơn mấy chục năm qua, từ sau 1945, chúng ta không phải chỉ ra đi với tư thế

của một con người đầy đau thương hoặc chìm trong “bùn đen”, mà trái lại, với

Page 259: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

tư thế của một người chủ, và từ sau 1954, đã có trong tay một phần giang

sơn gấm vóc của mình “dẫu chưa toàn vẹn đã bay cờ hồng” (Tố Hữu: Bài ca

mùa xuân 1961). Thành ra chân lý anh nên ra mới chỉ đúng một phần.

Cũng như vậy, ở một chỗ khác Nguyễn Trung Thành có nói đến “trận

đánh để làm người” của chúng ta (Trận đánh bắt đầu hôm nay). Anh nêu

nhận xét này để so sánh và làm cho thấy sự khác nhau, sự đối lập nhau giữa

chúng ta và kẻ thù. Nhưng về phía ta, nếu chỉ nói rằng chúng ta chiến đấu để

“làm người” thì có lẽ không đầy đủ. Chúng ta chiến đấu cho chúng ta, cho

muôn đời con cháu chúng ta, và còn chiến đấu cho “ba ngàn triệu trên đời”

nữa, như Tố Hữu nói… Suy nghĩ về chiến công của ta, có lúc Nguyễn Trung

Thành say sưa nói đến ưu thế đặc biệt của những tấm lòng, “tấm lòng chúng

ta”, “tấm lòng Việt Nam”. “Chiến công chủ yếu của chúng ta là ở trong tấm

lòng em đó, trong tấm lòng chúng ta. Chúng ta đã chiến đấu tử sinh mấy

mươi năm nay để lập nên chiến công đó, để tìm ra lối sống đó và tạo nên tấm

lòng Việt Nam ngày nay đó” (Trận đánh bắt đầu hôm nay). Nhưng có lẽ đúng

ra, vấn đề đâu phải chúng ta chiến đấu để làm một “tấm lòng” như một sự cố

ý, mà chính cuộc sống bão táp của dân tộc đã tự nhiên tạo ra tấm lòng đó ở

ta, và bằng nó, với nó, chúng ta chiến thắng mọi loại kẻ thù.

Nhưng những gì anh chưa nói được đầy đủ hoặc chưa cụ thể trong một

vài tùy bút thì ở các truyện ký khác anh lại đã có thể nói với ta một cách rõ

ràng hơn. Trong hình ảnh những Tnú, Mai, Heng… của Rừnq xà nu, trong

hình ảnh những chị Thắm, ông già sông Trúc, mẹ Lúa… của Đất Quảng, ta

nhận ra hình ảnh con người miền Nam của Việt Nam, với tất cả những đau

thương lớn lao, nhưng cũng với tất cả vẻ rạng rỡ trên gương mặt. Những

người vợ đã trở thành người chiến sĩ. Những người mẹ, đó là người mẹ Tổ

quốc. Họ sẽ ra đi không chỉ với tư thế của những người trả thù mà là ra đi với

tư thế người cách mạng, người chiến sĩ đấu tranh cho độc lập tự do. Bởi vì ở

họ, cùng lớn lên với nỗi đau chồng chất là sự lớn lên của sức chịu đựng, của

ý chí quyết tâm biến căm thù thành hành động, ở sự nhận thức đúng đắn về

con đường đi của mình trong con đường đi chung của nhân dân, của dân tộc.

Page 260: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

***

Rõ ràng, với Nguyễn Trung Thành, cuộc chiến đấu trên đất lửa miền

Nam đã được thể hiện trong những đường nét vô cùng quyết liệt, và để góp

phần chứng tỏ sự quyết liệt đó, anh không ngần ngại đưa ta đi vào tội ác của

kẻ thù, cũng như đi vào những đau thương lớn mà nhân dân miền Nam đang

phải chịu đựng trong suốt mấy chục năm qua. Nhưng cuộc sống không phải

chỉ có mặt đau thương. Đúng ra đau thương chính là chỗ xuất phát cho anh đi

tới tìm hiểu sức mạnh của lòng căm thù, và từ căm thù anh đi tới giải thích

các chiến công của quần chúng cách mạng.

Những trang đặc sắc của Nguyễn Trung Thành là những trang anh đi

vào quá trình đó của cuộc sống, cũng chính là quá trình anh đi vào sức mạnh

và vẻ đẹp của con người miền Nam. Con người miền Nam, đối với Nguyễn

Trung Thành, hẳn là mội đối tượng đầy hấp dẫn mà với bấy nhiêu thời gian,

bấy nhiêu trang viết, anh mới chỉ có thể nêu được một vài nhận xét khiêm tốn.

Nhưng chúng ta thấy rõ, bằng vào những quan niệm, những suy nghĩ đúng

đắn và có phần độc dáo của anh, Nguyễn Trung Thành dường như đang đi

vào thời kỳ chín muồi của quá trình tích lũy để chuẩn bị cho sự ra đời của

những hình tượng có tầm khái quát lớn.

Là nhà văn luôn có ý thức muốn nhìn nhận cuộc sống trong cả quá

trình, muốn làm sáng rõ hành động con người từ những động cơ, những

nguyên nhân, anh đặc biệt lưu ý chúng ta một nét khá nổi bật này ở nhân vật:

đó là lòng căm thù và sự hiểu biết sâu sắc, cặn kẽ về kẻ thù. Bởi vì, theo anh

hai mặt này thường gắn với nhau: họ cần hiểu kẻ thù để làm cho chí căm thù

của mình luôn được mài sắc và luôn đúng hướng. Nói cách khác, họ cần biết

cách nâng nỗi căm thù riêng của mỗi cá nhân lên thành niềm căm thù chung

của giai cấp, của dân tộc. Thằng Xí, cháu bà Lúa (trong Đất Quảng), cha đi bộ

đội, mẹ bị một thằng Mỹ sún răng hiếp rồi mổ bụng. Từ đó gặp thằng Mỹ nào,

em cũng cố tìm xem thử nó có sún răng không…

Page 261: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Bé Xí đi tìm một thằng Mỹ sún răng. Nhưng cách mạng miền Nam thì

phải tìm và tiêu diệt hết thảy bọn đế quốc Mỹ xâm lược. Bà con làng Xô-man

đòi giết một thằng Dực, kẻ đã lấy que sắt đánh chết mẹ con Mai và đốt cụt

mười ngón tay Tnú. Nhưng Tnú ra đi “lực lượng” phải quyết giết cho hết tất cả

những thằng Dục, bởi lẽ “chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục cả”. Chính là

trong thực tế của cuộc chiến đấu mà con người tự nhiên vươn lên nhận thức

đó. Đau thương đưa tới căm thù, nhưng là một căm thù tỉnh táo, trên cơ sở

một sự nhận thức sâu về kẻ thù và một quyết tâm hành động. Nguyễn Trung

Thành đã suy nghĩ đúng và cố gắng thể hiện cho được những điều đó.

Nhưng chỉ với lòng căm thù không thôi thì chưa đủ. Những trang dồi

dào cảm xúc của Nguyễn Trung Thành chính là những trang anh đi vào các

mối quan hệ ràng buộc nhiều mặt của con người trong chiến đấu, để từ đó

giúp ta nhìn nhận nguồn gốc thực sự của những chiến công của nhân dân ta.

Với Nguyễn Trung Thành, con người chiến đấu là con người có một tình yêu,

một sự gắn bó sâu sắc bền chặt với quê hương, và do vậy, họ mang được

trong mình sức mạnh tổng hợp của quê hương. Về thăm một vùng đất lửa,

Nguyễn Trung Thành nhận xét: “Ở đây, mấy mươi năm nay, cuộc sống của

một xóm, một làng, một xã và cuộc sống của những con người ở đó gắn bó

quyện chặt lấy nhau đến nỗi không sao tách gỡ ra được dầu chỉ là một ngày

một tháng” (Đất lửa). Kể chuyện về Kơ-pa Kơ-lơng, anh nhấn mạnh rằng mới

mười tám tuổi, em “đã đi gần suốt cuộc đời của dân tộc mình” (Người dũng sĩ

dưới chân núi Chư Pông). Chính đó là lý do giải thích sức mạnh không bao

giờ vơi cạn của nhân dân ta, và là cơ sở cho những ý thơ rất đậm trong

không ít trang viết của Nguyễn Trung Thành. Trong Đất lửa, có đoạn Nguyễn

Trung Thành kể chuyện giặc Mỹ đặt mìn đánh bật từng gốc tre để bắt cán bộ;

chị Thanh liều hy sinh xông vào khối thuốc nổ, để lấy cái chết của mình khơi

ngòi cho một cuộc đấu tranh chính trị, bảo vệ cán bộ. Nhưng điều kỳ diệu là

chị Thanh không chết… “một cái gốc tre nhăn nheo, sần sùi to khỏe như

khuôn ngực một cụ già nông dân suốt đời dang nắng trên sông Bàu Đưng đã

che cho chị… “.

Page 262: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Sức mạnh của quê hương và sức mạnh của truyền thống. “Trận đánh

bắt đầu hôm nay” nhưng đã có gốc rễ sâu xa trong lịch sử. Mỗi con người ra

trận hôm nay đều là sự tiếp tục và có sự tiếp sức của người đi trước. Kể

chuyện Lê Văn Nghiêu một mình trên bãi cát mênh mông chờ xe tăng địch,

Nguyễn Trung Thành để cho nhân vật tự tìm hiểu mình: “Mình là gì đây? Là

một con người với hai cánh tay còn vững nhưng đôi mắt đã hơi mờ, với một

viên cạc-bin thù trong má, với một trái tim khỏe đến thế mà vẫn chảy máu vì

cái tang quê hương và gia đình…”. Trận đánh đã diễn ra và kết thúc rất

nhanh. Hai xe tăng P.18 chở đầy một trung đội Mỹ và một trung đội ngụy to

bằng cả một ngôi nhà đã cháy rụi. Trận chiến thắng giòn giã ấy của người

chiến sĩ đã được Nguyễn Trung Thành giải thích như sau: “Quả đạn lớn ở

đầu súng, đó chính là quả tim anh. Nòng súng, đó chính là cánh tay anh đã

mọc thêm ra cho tới tầm hiệu quả nhất. Không còn có anh, Lê Văn Nghiêu,

cộng với một khẩu súng nữa. Chỉ có Lê Văn Nghiêu, em của anh Chua, con

của bà mẹ Hòa Vang, bạn chưa quen của Lê Độ, toàn thân Lê Văn Nghiêu đã

biến thành vũ khí ghê gớm, vũ – khí – con – người” (Trên quê hương những

anh hùng Điện Ngọc).

Nghĩ sâu về truyền thống, Nguyễn Trung Thành đã dành những trang

xúc động để nói về Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung. Nghĩ về sự

tiếp tục của truyền thống trong hiện tại, anh đã dựng lên rất thành công hình

ảnh nhiều thế hệ cùng đi đánh giặc. Lớp ông già trong sáng tác của anh quả

là giàu tính chất tượng trưng. Đó là cụ già Mết đã được anh miêu tả như là

hiện thân của đất nước để làm người chứng kiến, người viết sử cho lớp lớp

những thế hệ anh hùng (Rừng xà nu). Đó là “ông già sông Trúc” của “đất

Quảng”, ông già không có tên riêng mà cả cuộc đời như gắn làm một với lịch

sử quê hương, ông già với những đêm không ngủ để lắng nghe mọi tiếng

động dội lên từ đất và cũng là từ trong sâu thẳm cuộc đời mình, mỗi tiếng

động gợi cả một quãng đời “từ tiếng gàu đạp nước reo vui của cô con gái,

tiếng gió nam lào xào đồng lúa tháng ba thơm nức mà già hai phần ba đời

người, cách mạng mới giành lại được cho ông (…) tới tiếng kêu thất thanh

Page 263: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

nghẹn tắc của những người bị giết hại ven bờ sông Trúc, tiếng chó sủa dân

vệ cồn cào đêm đen, tiếng còi tàu thét vang nghiền nát đầu thằng ác ôn Hứa

Xâng (…) tiếng súng du kích nổi dậy và tiếng mõ sôi náo nức những đêm

đồng khởi, tiếng giày đinh Mỹ lội đêm rào rạo nỗng cát Cồn Hến, tiếng chân

bộ đội khiêng pháo qua làng đi đánh sân bay…” (Đất Quảng).

Nếu những ông già sông Trúc, cụ già Mết trong cách miêu tả của

Nguyễn Trung Thành dường như đã được nâng lên thành biểu tượng của đất

nước, của lịch sử, thì lớp con trẻ lại được anh miêu tả trong những nét chấm

phá mà vẫn rất cụ thể, độc đáo, rất hiện thực. Đó là cái dáng tung tăng như

một con sẻ non của Heng, chấm một màu sắc tươi mát trong đời sống chiến

đấu gian khố của làng Xô-man (Rừng xà nu). Là cái thói quen của Sơn, rất

nhiều lần đi xem xét tội ác của bọn Mỹ, lẳng lặng, không chau mày, không nói,

rồi cầm cái búa to tướng đi lên núi Thạch Nham (Đất Quảng). Riêng con

Xuyến, nhân vật chính của Đất Quảng đã được Nguyễn Trung Thành chăm

chút xây dựng với rất nhiều chi tiết xúc động, nhằm giúp ta hiểu vì sao, ngay

từ bé, em đã biết sống như một người cách mạng và bước vào một cái chết

anh hùng.

Chính là thông qua việc mô tả hai thế hệ nhân vật, một già, một trẻ,

Nguyễn Trung Thành đã mở rộng hình ảnh cuộc chiến đấu hiện tại, và mặt

khác, thể hiện được một cách thành công ý chí quyết tâm chiến đấu đến cùng

cho những quyền lợi dân tộc cơ bản của nhân dân ta. Chừng nào chưa có

độc lập, tự do thực sự thì chừng đó nhân dân ta còn tiếp tục chiến dấu, một

cuộc chiến đấu “năm năm, mười năm, hai mươi năm hoặc lâu hơn nữa”, đời

cha chưa đánh xong, đời con đánh tiếp, như lời Bác Hồ dạy.

Thể hiện cuộc sống trong cả một quá trình và trong xu thế đi tới của nó,

Nguyễn Trung Thành cũng đã dựng lên rất thành công không khí một cuộc

đồng khởi vĩ đại, dồi dào chất anh hùng ca. Xúc động trong những trang đau

thương, sâu lắng trữ tình khi đi vào nguồn gốc sức mạnh và vẻ đẹp của con

người, ngòi bút Nguyễn Trung Thành trở nên hùng tráng khi đi vào những

Page 264: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

trang quật khởi: “Kẻ thù đã bắt đầu mở tiệc trên mảnh đất chúng tưởng đã

san phẳng bằng máy chém và rào kín bằng dày thép gai Mỹ, bỗng nghe mảnh

đất dưới chân chúng rùng rùng chuyển động. Súng đã nổ bốn bề, người đã

ào ào xông tới, mõ đã dậy khắp làng quê… “. Rừng xà nu dẫn ta đi vào không

khí đó một cách tự nhiên, khi những đau thương và sức chịu đựng của dân

làng Xô-man đã đến mức tột cùng, khi ngọn lửa nhựa xà nu trên tay Tnú đang

cháy lên rần rật. Phút im lặng của chịu đựng và nén đợi đã chấm hết để cho

cơn giông nổi lên: “– Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! (…). Đứng trên đồi xà nu

gần con nước lớn, suốt đêm nghe cả rừng Xô-man ào ào rung động. Và lửa

cháy khắp rừng”.

Nguyễn Trung Thành đã nhận xét đúng: nỗi đau càng thấm khi con

người bị bó tay. Nỗi đau sẽ được vơi nhẹ đi rất nhiều đối với con người hành

động. “Ngày trước mỗi người ngã xuống dường như là một sự mất mát

suông. Kẻ thù giết chúng ta rồi cứ nhởn nhơ đứng đó, không chút suy suyển.

Còn chúng ta thì chỉ có căm thù chất chứa thêm, càng u uất vì không có gì để

hành động cả, không được đứng dậy, không được báo thù. Bây giờ thì mỗi

người ngã xuống đều là ngã xuống trong một cuộc đi tới, một trận tấn công”

(Đất Quảng). Có điều, hành động đó, sức quật khởi đó không phải là một cái

gì đột ngột. Nó là cái thế tất nhiên phải đi tới, cho nên nó phải được chuẩn bị.

Không phải chuẩn bị bằng suy nghĩ đơn thuần. Cũng không có một khoảng

cách bất ngờ. Có bất ngờ chăng là đối với kẻ địch, chứ không phải đối với

chúng ta. Kẻ thù hung hãn điên cuồng, không phải là đối tượng cho ta trầm

tư, chiêm nghiệm, suy nghĩ, mà chính là đối tượng cho ta hành động.

Đặc điểm cơ bản của con người chúng ta là sự nhất trí giữa suy nghĩ

và hành động, và cơ bản là con người hành động. Nét đó, qua Rừng xà nu,

Đất Quảng, Nguyễn Trung Thành đã thể hiện được một cách đúng đắn, trọn

vẹn.

***

Page 265: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Nguyễn Trung Thành sâu lắng trong tùy bút, điêu luyện trong truyện

ngắn, hàm súc trong truyện dài, mặc dù những gì anh đã viết dường như còn

mang tính chất một sự chuẩn bị để đi tới một sáng tác lớn mà có lẽ anh chỉ

mới bắt tay vào… Nhưng chỉ bấy nhiêu cũng đã có thể cho ta một bức tranh

đặc sắc về đất lửa miền Nam trong cuộc đấu tranh căng thẳng, gay go giữa

nhân dân ta với mọi loại kẻ thù, và trong cái thế vươn lên, quật khởi của cách

mạng đang đi tới. Nhạy cảm, sôi nổi, giàu hình ảnh và suy nghĩ, những trang

Nguyễn Trung Thành nhìn chung hài hòa được chất cô đọng của kịch, chất

trữ tình của thơ và chất tráng lệ của anh hùng ca. Sáng tác Nguyễn Trung

Thành có xu hướng vừa muốn giữ được cái bộn bề gai góc, đa dạng, nhiều

màu sắc, cung bậc của sự thật, vừa muốn đạt tới cái cân đối hài hòa của một

sự tái tạo, khái quát, chắt lọc công phu. Tuy vậy có thể một đôi khi ý muốn đó

là quá sức đối với anh, hoặc anh chưa có đầy đủ điều kiện để thực hiện ý

muốn đó, nên không tránh khỏi gây cho ta một cảm giác nặng nhọc, vất vả,

thiếu ít nhiều cái thanh thoát, nhẹ nhõm, tự nhiên mà vẫn sâu sắc của Nguyễn

Thi, như trong Người mẹ cầm súng, Ở xã Trung Nghĩa.

Một vài hạn chế của Nguyễn Trung Thành bộc lộ trong tùy bút. Tùy bút

Nguyễn Trung Thành thiên về chứng minh một triết lý, một suy tưởng. Nhưng

suy tưởng có khi chưa thật chín, thật toàn diện, nên hình ảnh anh vận dụng

để minh họa cũng có khi trở thành cường điệu, hoặc phiến diện. Có khi triết lý

anh nêu ra chưa thật cụ thể.

Tuy vậy, đó chỉ là một vài thiếu sót. Nhìn chung, Nguyễn Trung Thành

là nhà văn có bản sắc rõ nét và có đóng góp nổi bật trong văn học cách mạng

miền Nam. Người đọc dễ dàng nhận thấy anh đã nói được bằng cảm xúc dồi

dào, hình ảnh mới mẻ, và suy nghĩ độc đáo của mình về nhiều vấn đề lớn của

hiện thực cách mạng miền Nam, khiến cho ta thật sự xúc động. Bởi vì những

gì anh cảm thụ, suy nghĩ đều xuất phát từ sự thể nghiệm sâu sắc của chính

bản thân anh. Bởi vì, ở Nguyễn Trung Thành, tình yêu, lòng tin, sự gắn bó với

nhân dân, với đất lửa quả là chân thành, thủy chung, nồng nhiệt.

Page 266: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Ngòi bút chân thật TRẦN HIẾU MINHNói đến văn học cách mạng những năm gần đây ở miền Nam, không

thể quên Trần Hiếu Minh. Bởi vì, với những tác phẩm của mình: Cửu Long

cuộn sóng (1985), Sài Gòn ta đó (1970), Rừng u Minh (1970), anh đã có

những đóng góp; hơn nữa, ở anh đã hình thành một số nét khác biệt so với

những nhà văn đương thời.

Hiện thực mà Trần Hiếu Minh tái hiện dường như còn đang ở cái vẻ

nguyên dạng của nó. Dù là ở thể ký hay truyện, anh vẫn lấy cái chân chất của

cuộc sống làm đầu. Và chính cái chân chất ấy kích thích rất mạnh cảm hứng

sáng tạo của anh. Trong cái thật thà, giản dị của Trần Hiếu Minh, ta đọc thấy

một sự say sưa. Không say sưa, không viết nổi cửu Long cuộn sóng với mười

bài ký kể chuyện nhân dân đồng khởi dày đặc những sự kiện, những việc,

những người và những suy nghĩ bật ra không kìm lại được. Viết những bài

bút ký tươi rói, Trần Hiếu Minh chưa phải đã sáng tác như một nhà văn chắt

lọc từ đời sống những tinh chất để tái tạo nên tác phẩm, mà mới chỉ như một

người đi xa đã kịp thời góp lượm, kể lại những điều mình nghe, mình thấy,

giải bày những điều mình nghĩ… với người ở nhà. Bởi vì bản thân những điều

anh nghe, anh thấy, ở những điểm “nóng” của thời gian và không gian, nơi

những con người chúng ta đang sống và chiến đấu, đang đương đầu với

những vấn đề sống còn của cả một dân tộc ấy, đã chứa trong mình sức cuốn

hút của nó. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều ký giả tiến bộ ở nước ngoài đã

lăn lộn đến miền Nam để mong được nghe, được thấy, được chứng kiến tại

chỗ những sự việc, những con người mà nhân loại đang để mắt vào đấy, và

những ghi chép của họ đã cuốn hút hàng triệu độc giả tò mò cũng có, quan

tâm đến những nỗi lo của thời đại cũng có.

Luôn luôn bám chắc lấy những sự kiện lớn lao, làm rung chuyển đất

nước của cách mạng miền Nam, những trang viết của Trần Hiếu Minh, ở thể

ký đã đành, mà ở cả truyện và tiểu thuyết, đều nóng bỏng tính thời sự, chính

Page 267: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

trị và do đó, sắc bén tính chiến đấu. Và đó cũng chính là cái hạt nhân của tính

chân thật, gắn với đời sống trong sáng tác của anh. Bến Tre những ngày

trước và sau đồng khởi; Ấp Bắc – thành đồng của thành đồng; một đơn vị anh

hùng mang tên Tiểu đoàn Gi-rông (Cửu Long cuộn sóng); Sài Gòn trong

những ngày quân ta kéo về làm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đầu xuân

1968 (Sài Gòn ta đó); một vùng ven và trong rừng U Minh trước và sau đồng

khởi (Rừng u Minh); quang cảnh, con người, sự việc, nhân dân ta sống, chiến

đấu ra sao. bọn địch nham hiểm điên cuồng thế nào…, tất cả là hiện thực, là

cuộc sống, hiện lên trong tác phẩm của Trần Hiếu Minh với cái vẻ dày cộm

của nó. Tính “không gọt giũa” ấy là nét riêng của Trần Hiếu Minh. Anh giữ

người đọc, đôi khi cũng vất vả, bằng chính bề dày của cuộc sống, chứ không

bằng một thứ văn hoa che đậy một vốn sống nghèo nàn, hay tệ hơn, một sự

miêu tả giả tạo. Trần Hiếu Minh không muốn “sắp đặt lại”, không muốn “gọt

giũa” cuộc sống. Anh cứ để mặc cho nó diễn ra theo cái chiều hướng của nó.

Ngay ở tiểu thuyết, nơi cần một sự sắp xếp, chắt lọc tinh vi những chất liệu

của cuộc sống, ta cũng vẫn thấy cái ngổn ngang, bề bộn vốn có ở anh. Bởi

vậy ta không ngạc nhiên khi thấy anh vào đầu tiểu thuyết Rừng u minh bằng

cảnh đám cưới trên nhà, dưới bếp, sòng đàn, cuộc ca lủng củng những người

là người… kéo đến năm chục trang sách, trong khi ở một nhà văn khác phần

này có thể thu gọn lại. Thế nhưng chính sự chân chất, tự nhiên ấy lại dường

như là một sự cố ý của tác giả, và độc giả thì chấp nhận được, và đối với một

số độc giả thì đó là sự hấp dẫn. Bởi vì tác giả đã dựng lên trước mắt người

đọc cảnh một đám cưới độc đáo có nhiều nét Nam Bộ, nhưng là Nam Bộ

những ngày vừa sau Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, cuộc đấu tranh giữa đồng bào ta

với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai chưa thực sự bắt đầu mà mới chỉ là những

“màn thăm dò” báo hiệu một trận đấu quyết liệt xảy ra đến nơi. Và qua những

nét sinh hoạt độc đáo mang nhiều nét Nam Bộ ấy, với những con người đi

đứng, nói năng, ăn uống, đàn hát ấy, độc giả đã dần dần làm quen và rồi dần

dần hiểu ra để không thể nào quên những con người như Tám Nhớ, Mười

Mến, chị Hai Ngoan, bà Tư Hù, cô Tám Liếc, ông già U Minh, Năm Thắm…,

Page 268: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

thằng Gà Lôi, Ba Răng Vàng, tên Trung úy Đào…, một thế giới nhân vật khá

đông đảo của tiểu thuyết Rừng U Minh.

Trần Hiếu Minh miêu tả chân thật và giản dị những con người miền

Nam trong cuộc chiến đấu hằng ngày với kẻ thù. Không những ở ký, mà cả ở

truyện, điều mà tác giả quan tâm là miêu tả sao cho khoảng cách giữa cuộc

đời thật và cuộc đời tái hiện không có nữa, hoặc có thì cũng chẳng là bao.

Anh không miêu tả nhân vật với những nét trữ tình bay bổng, hay những tâm

lý miên man. Trước hết, anh chú ý đến việc làm, đến hành động của nhân vật.

Điều này ta dễ dàng nhận thấy trong Cửu Long cuộn sóng, Sài Gòn ta đó, là

những tập ký, hoặc truyện có nhiều chất ký. Một nông dân gọi tên ác ôn thèm

thịt rắn xuống ruộng xem con rắn, để khi nó cúi xuống thì vung cuốc bổ vào

gáy nó. Một cô gái tay không xông vào bốt, lao lên “chuồng chim” đoạt súng

máy, bị tên ngụy nắm chân này kéo xuống thì lấy chân kia đạp vào mặt nó mà

xông lên. Một chị phụ nữ thành, trong một tình huống bắt buộc, đã rút súng

lục lia mấy viên đạn vào mặt tên cảnh sát giữa đường phố ban ngày, rồi

phóng xe máy lao đi như gió… Trần Hiếu Minh đặc biệt quan tâm đến cung

cách hành động của những con người mà mình miêu tả. Và chính ở đấy,

chúng ta đã bắt gặp những dáng nét khó quên. Trong nhiều chuyện về những

em bé miền Nam, những “măng tầm vông” như tên một bài ký của anh, nhớ

nhất là chuyện em bé mới ngót năm tuồi đầu đã biết căm thù giặc. Thấy bọn

lính bắn súng đì đẹt, em nói: “Đấy, đó cái bọn bắn cha, bắn chú tao đó”; rồi

gọi anh: “Hồng ơi, lính nó vô có hai thằng, mày phục kích với tao, bắt sống

nó”… Chuyện đến tai thằng cảnh sát ác ôn, nó xuống làng đi thẳng vào nhà,

bảo: “Này nhỏ, hôm nay tao xuống một mình, mày muốn giết, tao cho giết, để

trả thù cho ba, cho chú mày”. Bà mẹ phải lựa lời nói mãi, tên ác ôn mới đi. Khi

nó đã cút rồi, chú bé mới bước ra khỏi chân mẹ, chửi: “Mẹ cha nó, ỷ lớn có

súng làm phách!”. Trong nhiều chuyện về những ông già Nam Bộ chống địch,

nhớ nhất là chuyện ông già thà sống chết với giặc chứ nhất định không cho

chúng đốn tre; không thèm van nài chúng, ông già cầm ngay lưỡi mác bước

ra bụi tre nói: “Tre này trồng từ thuở đời ông, đời cha tao, nay đầu tóc tao đã

Page 269: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

bạc, đứa nào muốn đốn, cứ bước ra đây”, rồi ném cây mác cắm phập xuống

đất. Ta sẽ nhận ra ông già lầm lì nổi giận này trong tiểu thuyết Rừng u Minh.

***

Nhưng không phải chỉ một mình ông già được phác họa trong ký với cái

nét ném phập cây mác xuống đất, khiến ta không thể quên được ấy, đã vào

tiểu thuyết với tất cả đời sống của một nhân vật. Một số nhân vật khác của

Rừng u Minh hình như ta cũng đã gặp ở đâu đó, trong những bài ký, với cái

dáng dấp mang máng nhớ. Chị Hai Ngoan chẳng hạn, người đàn bà từng phá

tan cuộc họp “tố cộng” của chúng nó bằng một hành động nhanh trí: nhân

việc một phụ nữ yếu đuối tội nghiệp là Chín Thương bị ngất, đã hô hoán lên

đòi mở cửa đưa chị ra ngoài, để bà con phá ra theo, từng “như con hổ lồng

lên vẫy vùng, trì kéo, thoi đạp chúng nó, húc đầu, đập trán vào ngực chúng,

miệng thét lớn: không được bắt người vô cớ…” hình như ta đã có lần được

làm quen, hoặc gặp mặt đâu đó giữa đám chị em được miêu tả trong tập cửu

Long cuộn sóng, những chị em khi giặc Mỹ đến nhà thì cứ vậy xông ra đánh,

những chị em từng làm cho mấy tên cai ngục khát máu phải quỳ xuống mà

lạy: “Xin lạy các bà, mời các bà về mau cho rồi, để các con đỡ khổ”. Vậy là

không phải chỉ ở truyện, mà ngay ở ký, Trần Hiếu Minh đã chú ý rất nhiều đến

việc khắc họa những dáng nét của nhân vật. (Bởi thế, nếu như bạn đọc đã

thấy một số truyện của anh có nhiều chất ký, thì đến lượt mình, không ít ký

của anh lại có nhiều chất truyện). Có điều là ở truyện thì những dáng nét ấy

đã hằn nổi lên trong một chuỗi những việc làm, và cung cách làm việc quán

xuyến suốt một quãng đời đáng nhớ nhất của con người. Và như vậy, trước

mắt chúng ta sẽ không còn là những hình bóng thoáng qua, tuy là sự thoáng

qua hằn vết, của hết người này đến người khác – như kiểu phim thời sự – mà

là sự ở lại, qua đi, trở lại, sự tồn tại của những nhân vật có cả một cuộc đời,

hay ít nhất cũng là những đoạn đáng nhớ nhất của một đời người – như kiểu

phim truyện.

Page 270: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Lắm lúc, như một người lẩn thẩn, tôi cứ cố tìm xem cái gì là chính nhất,

chủ yếu nhất đã làm nên Trần Hiếu Minh – cây bút truyện. Ấy là sự quan tâm

đặc biệt đến nhân vật, với những nét độc đáo nhưng chân thật, chân thật mà

độc đáo về nhiều phương diện, cả về những tên gọi nữa. Điều này rõ nhất là

trong tiểu thuyết Rừng u Minh. Cái quan trọng đối với Trần Hiếu Minh là làm

sao xây dựng được những con người với những nét hằn nổi, nó đập vào mắt

người đọc và khắc vào trí nhớ người đọc, rồi từ đó người đọc đâm ra quen

biết nhân vật, và chú ý theo dõi những biến đổi trong cuộc đời nhân vật, theo

dõi cả cuộc đời và số phận nhân vật. Sức hấp dẫn của Rừng u Minh (và một

vài truyện ngắn khác) chính là ở chỗ đó, mặc dù cuốn tiểu thuyết thiếu những

trang lấp lánh tài năng làm sửng sốt bạn đọc. Thành công của Rừng u Minh là

thành công của nhiều nhân vật. Như ông già u Minh lầm lì, giận dữ, giận dữ

trong cả tình thương, sống chết với căn nhà hẻo lánh mé rừng làm nơi đi về

của cán bộ. Như Tám Nhớ, nghệ sĩ ca bài ca cách mạng cho đến khi bị bóp

cổ, tiếng hát nghẹn ứ lại. Như Chín Thương tội nghiệp, hờn tủi một đời. Như

út Hảo ngoan nết hồn nhiên, đầy ước mơ hy vọng và trong sáng. Như Tư

Khánh thủ phận rúc vào gầm giường vợ. Như Tám Cá Ngát, bà Tư Hù. Đó là

những con người miền Nam đau thương và anh dũng trong những năm kẻ

thù điên cuồng tàn bạo gây ra bao cảnh tàn khốc, trong những ngày vùng lên

chiến đấu, – đồng khởi lịch sử 1960. Nhưng không phải chỉ là những con

người miền Nam chung chung, họ còn có những nét độc đáo của những con

người Nam Bộ, những con người của rừng u Minh, thoải mái, sởi lởi, bộc

trực, nổi giận và bất khuất.

***

Khác với một vài nhà văn đồng thời, sáng tác bút ký, tùy bút, và cả

truyện nữa, với những nghiền ngẫm nát óc, những suy nghĩ da diết gạn chắt

từ máu thịt…, Trần Hiếu Minh viết bút ký, tùy bút, truyện man mác những sự

việc, những con người, và tự thân những sự việc, những con người ấy sẽ nói

lên hộ anh những suy nghĩ. Đôi khi không kìm nổi mình, anh cũng bật ra

những câu hỏi, những giãi bày về thời cuộc, về đường lối hành động của

Page 271: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

chúng ta, về những vấn đề mà có khi cả một dân tộc, một thời đại phải trả lời.

Trình bày sự việc dày cộm, Trần Hiếu Minh không sợ cồng kềnh; liệt kê

những trường hợp tương tự nhau về chất lượng, anh không sợ trùng lặp. Anh

muốn từ chính những sự trình bày liệt kê ấy, một câu hỏi, một vấn đề gì đó

phải bật ra.

« Nguyễn Thị Ràng đang gánh nước…

Nguyễn Văn Tài đang ngồi ăn cơm…

Đặng Văn Huệ đang phát cỏ…

Trằn Văn Năng đang nhổ mạ…»

liền bị chúng bắn chết. Hai mươi mốt trường hợp được kể ra tự nhiên dẫn

đến câu hỏi: “Chúng ta phải làm gì đây? “. Và có thể nói gần nửa cuốn tiểu

thuyết Rừng u Minh cũng là sự dẫn đến câu hỏi đó. Cảnh đám cưới, nghĩa là

hạnh phúc của con người, diễn ra trong sự thăm dò, trong cái vẻ “bề ngoài

thơn thớt nói cười” của những tên trung úy ác ôn, những thằng côn đồ… tức

là sự mấp mé, nguy cơ, nơm nớp của cuộc sống. Người của ta chỉ ca mấy

câu” có ý nghĩa” mà ngay sau đó bị bắt, bị đánh đập rất dã man, rồi bị giết

chết, xác quẳng xuống sông. Nguy cơ đã ập xuống. Trần Hiếu Minh đã trình

bày tất cả sự hung hăng điên cuồng, trắng trợn ra mặt của kẻ thù bằng những

cuộc bắt bớ tra tấn, đấu tố, những cuộc vây làng, sục hầm, dồn dân. Người

của ta, có kẻ hèn nhát đã ra “đầu thú”, người thì chạy vào rừng u Minh, người

thì đi moi những khẩu súng giấu cất từ “hồi chín năm”; nhưng vẫn chưa biết

phải làm gì cho đúng đường lối. Phải làm gì đây? Trần Hiếu Minh không trả

lời, anh muốn để chính cuộc sống với cái quy luật khách quan của nó trả lời

cho câu hỏi mà chính nó đặt ra: “Cuối năm 1959 có tin đồng bào nổi dậy lấy

bót Lộ Thuận thu 11 súng” và “Ở Mỏ Cày đồng bào hẹn ngày đồng khởi: ngày

17 tháng giêng năm 1960…” (Cửu Long cuộn sóng), có thể nói, già nửa phần

sau cuốn tiểu thuyết Rừng u Minh là để trả lời cho câu hỏi về sự sống còn của

cả một dân tộc ấy. Cuốn tiểu thuyết miêu tả cuộc đấu tranh của đồng bào ta

chống bọn xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai của chúng trong những ngày trước

Page 272: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

và sau cuộc đồng khởi lịch sử. Nhưng về một mặt khác, nó cũng là nhằm nói

lên hộ tác giả những suy nghĩ về chân lý của thời đại chúng ta, cái chân lý

“ngọn lửa cháy từ trong lòng người” mà “không một ai, không một cái gì có

thể dập tắt được”… Còn đối với Trần Hiếu Minh thì cái miền đất Mỏ Cày, Bến

Tre, Sài Gòn, cửu Long, rừng U Minh với những cây đước cây tràm bạt ngàn,

với những con người không bao giờ chịu khuất phục… mà anh từng sống,

yêu mến, cảm phục và đã chọn làm đối tượng sáng tác ấy, chính là “hòn đá

thử vàng cho chân lý đó của thời đại”.

Trần Hiếu Minh có những suy nghĩ bình thường, giản dị; những điều

anh nghĩ thường cũng là những điều mọi người cùng nghĩ, cùng quan tâm.

Hơn nữa, anh nghĩ gì thì nói vậy, trình bày vậy, không dùng những ngôn từ

cầu kỳ làm tối tăm mặt mũi người đọc, không có những cách nói lắt léo nhiều

khi như đánh đố người đọc. Cho nên đọc anh, người đọc không có cái cảm

giác về sự cố làm ra vẻ căng trán suy nghĩ.

***

Cùng với những truyện, ký của Trần Đình Vân, Nguyễn Thi, Nguyễn

Sáng về những anh hùng tên tuổi như Nguyễn Văn Trỗi, Út Tịch, Nguyễn Văn

Bé, chúng ta có truyện, ký của Trần Hiếu Minh về những anh hùng vô danh

xuất thân từ các tầng lớp nhân dân miền Nam. Ấy là những truyện, ký in trong

hai tập Cửu Long cuộn sóng và Sài Gòn ta đó xuất bản cách nhau năm năm.

Đối với Trần Hiếu Minh, những ghi chép nóng bỏng ấy là sự tích lũy chuẩn bị

cho một sáng tác dài sâu, công phu hơn – tiểu thuyết Rừng u Minh – như ta

đã thấy. Với những đặc sắc của mình, Rừng u Minh làm phong phú đa dạng

thêm cho nền văn học cách mạng miền Nam những năm chống Mỹ nói riêng,

và là một đóng góp vào kho tàng văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung. Tuy

nhiên, Rừng u Minh chưa thể là tác phẩm đánh dấu một bước dài trong quá

trình viết văn của Trần Hiếu Minh… Anh đã đem đến cho nghệ thuật văn xuôi

hiện đại một cách viết chân thật, giản dị, với tất cả cái nóng bỏng phong phú,

bề bộn ngỗn ngang của cuộc sống. Nhưng đọc anh, đôi khi ta cũng khá vất vả

Page 273: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

trước cái hiện thực dày cộm lên mà anh tái hiện. Có điều, đó lại là một lối viết

có ý thức của anh. Và như vậy thì chúng ta chỉ có thể nói thêm rằng, tính bề

bộn ngổn ngang của hiện thực được tái hiện không hề loại trừ tính gọt giũa

tinh lọc, vốn là một đặc điểm của sáng tác văn học.

ANH ĐỨC với bút ký, tiểu thuyết và truyện ngắn của anhMột điều làm chúng ta ngạc nhiên là ở hầu hết những cây bút văn xuôi

cách mạng miền Nam, phải sáng tác trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt mà

màu sắc trữ tình lại nổi lên đậm nét. Tất nhiên, ở mỗi nhà văn, cái màu sắc ấy

được biểu hiện ra một cách khác nhau và ở những mức độ cũng rất khác

nhau. Ngòi bút Nguyễn Trung Thành trầm hùng sâu đọng; nhiều truyện ngắn

của Nguyễn Sáng để lại trong ta những hình ảnh trong trẻo mát tươi; các

nhân vật của Nguyễn Thi thông minh, hóm hỉnh; chất trữ tình ở Phan Tứ có

phần điềm đạm, mà lại đậm đà; con người Nam Bộ trong tác phẩm của Trần

Hiếu Minh rất “anh hùng hảo hớn”.

Điều đó nói với chúng ta rằng, những người cầm bút ở miền Nam thật

đã có một tấm lòng nhân đạo lớn, dù ở đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ

vẫn giữ được cho mình một nguồn tình cảm sôi nổi, không bao giờ vơi cạn –

một tình yêu vô hạn với nhân dân, với quê hương đất nước và một lòng căm

thù tột độ với kẻ thù. Và cũng điều đó lại nói với chúng ta rằng, những con

người cầm bút ở miền Nam đã có một tinh thần lạc quan lớn: không biết sợ

hãi, tự ti, mà chỉ biết tin tưởng, tự hào.

Tuy nhiên, phải nhận rằng, người trữ tình nhất trong số ấy là Anh Đức,

một ngòi bút trữ tình đằm thắm ngọt ngào. Có thể nói, qua nhiều tác phẩm

của anh, mà trước tiên là những bài ký, ta có thể thấy một cách đầy đủ nỗi

lòng của người cầm bút.

Bút ký của anh thường được viết dưới dạng các bức thư, mà đa số anh

đề gửi Nguyễn Tuân. Anh gửi cho Nguyễn Tuân, cho anh em văn nghệ miền

Bắc, nhưng mà thực ra, đó là lòng anh, lòng của cả miền Nam thân thương,

Page 274: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

ruột thịt hướng về miền Bắc tin yêu, hướng về trái tim và niềm hy vọng. Vì

thế, đọc các bút ký của anh, chúng ta luôn luôn có cảm giác như anh đang

trực tiếp nói chuyện với ta. Anh kể cho ta nghe về vùng quê anh – Cà Mau –

nơi “cuối đất” của Tổ quốc, về những gian nan, vất vả mà đồng bào ta trong

ấy đã phải trải qua trên hai mươi năm trời chiến đấu. Nhưng phần chính mà

anh kể trong thư có lẽ vẫn là những thắng lợi ngày càng lớn mà đồng bào

miền Nam đã giành được kể từ sau ngày đồng khởi.

Qua các bút ký của anh (đúng hơn, qua những bức thư anh đều đặn

gửi ra miền Bắc): từ Bức thư Cà Mau (11-1963) đến Lá thư cuối năm (12-

1965), rồi Thư tháng Bảy (7-1965), Dưới một vầng sáng đục (11-1965),

Những chuyện xung quanh một trận càn hình móng ngựa (4-1967) và bài bút

ký không dưới hình thức thư Vào mùa nắng (12-1966), chúng ta có thể theo

thời gian mà hình dung ra những bước đi cứ lên dần, cứ sáng sủa dần của

tình hình chiến sự miền Nam. Từ chiến thắng Đầm Dơi, Cái Nước, từ những

cuộc pháo kích vào sân bay Biên Hòa, Tân Sơn Nhất chúng ta đã tiến lên

đánh những trận rất quy mô như Ba Gia, Đồng Xoài, Sông Bé, Núi Thành,

Đắc Tô, Cần Thơ, Mỹ Tho, Long An, Đà Nẵng, Sóc Trăng, Bình Dương, rồi

Bàu Bàng, Tây Ninh… càng về sau chiến thắng càng lớn.

Những chiến thắng ấy đã đẩy kẻ thù đến một tình trạng khốn quẫn vô

cùng: “Lưng nó hở, mặt nó hở, vai nó hở, còn ta thì chỉ có việc dốc sức mà

đánh vào vô số chỗ hở ấy của kẻ thù”. Và cũng những chiến thắng ấy đã tạo

cho chúng ta thêm cơ sở để lạc quan. Trong Bức thư Cà Mau, Anh Đức kể

rằng: “Ở mũi đất xa xôi này”, ở “nơi bom đạn rất đậm đặc này, sự sống vẫn

bình thường”; và cuộc chiến đấu ở đây nó “trẻ trung tươi đầy”, chứ đâu phải

luôn luôn căng thẳng. Và chúng ta ngạc nhiên thấy tâm hồn người cầm bút

trong cuộc chiến đấu vô cùng quyết liệt ấy vẫn giữ được một sự thanh thản lạ

thường, anh vẫn thả tâm hồn mình theo vẻ đẹp của phong cảnh thiên nhiên,

vẫn thích thú “nghe tiếng thông reo, nhìn những quả thông rụng chạm xuống

mặt cỏ nhẹ nhàng”.

Page 275: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Rõ ràng cuộc chiến đấu gian khổ ở miền Nam không làm cho tâm hồn

chúng ta sắt lại, cằn đi, mà ngược hẳn, nó chỉ làm cho tâm hồn ta càng rộng

mở và đầy thêm sức sống. Càng căm thù kẻ địch bao nhiêu, chúng ta lại càng

thương yêu nhau và càng thấy yêu đời hơn bấy nhiêu. Yêu đời nhưng lại vẫn

sẵn sàng vì một cuộc đời tươi đẹp hơn cho tất cả mọi người mà hy sinh sự

sống của bản thân. Sự lạc quan tin tưởng và tinh thần chiến đấu hy sinh

không hề có gì mâu thuẫn, trái lại, chúng luôn luôn đi song song và hỗ trợ lẫn

cho nhau. Có lạc quan, tin tưởng thì mới có tinh thần tự tin mà chiến đấu, có

chiến đấu hy sinh thì mới có thắng lợi để củng cố tinh thần lạc quan. Đọc bút

ký của Anh Đức, có thể thấy một cách rõ ràng điều đó.

Và một điều nữa chúng ta cũng thấy rõ trong các bút ký của anh – đó là

mối tình Bắc Nam ruột thịt. Có thể nói, không trong một lá thư nào, Anh Đức

không nhắc tới miền Bắc, nhắc tới với tất cả tấm lòng yêu mến, nhớ thương

và ngưỡng mộ. Đã có lần nhà văn thổ lộ với Nguyễn Tuân: “Kể với anh đôi

chuyện Sài Gòn mà sao cứ luôn luôn hoài tưởng mơ màng tới Hà Nội. Mơ

thấy Hà Nội những trưa hè cháy đỏ một trời phượng. Mơ thấy Hà Nội những

sáng sang thu gợn gợn heo may. Mơ thấy Hà Nội với tất cả sự lành mạnh, sự

trí tuệ và văn hóa của nó… Sài Gòn rồi sẽ tiến tới một Hà Nội không xa”

(Dưới một vầng sáng đục). Cho nên ta thấy, trong ký của Anh Đức, cái hiện

thực Bắc Nam là một không gì chối cãi được.

***

Cây bút viết ký trữ tình đặc sắc ấy cũng lại là cây bút có thành công

sớm nhất trong lĩnh vực tiểu thuyết. Cuốn Hòn Đất của anh ra đời đánh dấu

một bước phát triển mới, tất yếu, có tính chất chung cho hầu hết các cây bút

văn xuôi cách mạng miền Nam.

Chúng ta còn nhớ cuộc gặp mặt đầu tiên của chúng ta với các nhà văn

Phan Tứ, Trần Hiếu Minh, Anh Đức, Nguyễn Trung Thành. Lúc đó, mỗi người

trong số các anh đều mới xuất hiện như những cây bút của các thể loại vừa

hoặc ngắn (mà đại đa số là truyện ngắn và bút ký). Đó là các tập về làng

Page 276: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

(1964) của Phan Tứ, Cửu Long cuộn sóng (1965) của Trần Hiếu Minh, Bức

thư Cà Mau (1966) của Anh Đức, các bút ký và truyện vừa Rừng xà nu (1966)

của Nguyễn Trung Thành. Có nhiều bạn viết trẻ vẫn thường bắt đầu con

đường sáng tác của mình bằng những tác phẩm nhỏ (bao gồm cả sự khiêm

tốn về số trang) rồi tiến lên xây dựng những tác phẩm lớn (kể cả một độ dày

bề thế). Nhưng đấy không phải là trường hợp của những cây bút văn xuôi

cách mạng miền Nam. Bởi ngay từ khi bắt đầu tiếp xúc với thực tế miền Nam,

các anh đã ở tư thế của những người viết ít nhiều già dặn, mà đa số lại đã là

tác giả của những cuốn tiểu thuyết ít nhiều nổi tiếng. Song sở dĩ ở miền Nam

các anh chưa thể đi ngay vào xây dựng những tác phẩm có tầm cỡ lớn là bởi

vì thời gian và mức độ thâm nhập thực tế còn chưa cho phép. Nhưng đến một

lúc, khi mọi điều kiện đã đến độ chín muồi, thì hàng loạt tiểu thuyết được các

anh xây dựng lần lượt ra đời, như một mùa gặt, như một kết quả tất yếu của

quá trình phát triển: trước tiên là Hòn Đất (1966) của Anh Đức, rồi Gia đình

má Bảy (1968) của Phan Tứ, tiếp đến Rừng u Minh (1970) của Trần Hiếu

Minh, Đất Quảng (1971) của Nguyễn Trung Thành và gần đây hơn cả là cuốn

tiểu thuyết thứ hai của Phan Tứ – Mẫn và tôi (1973).

Nhưng trong số ấy, tác phẩm được đón tiếp rầm rộ hơn cả là Hòn Đất.

Sở dĩ Hòn Đất được đọc giả miền Bắc dành cho một nhiệt tình hoàn toàn đặc

biệt như vậy là có nhiều nguyên nhân. Trước tiên, vì nó là tác phẩm báo hiệu,

thậm chí mở màn cho một mùa tiểu thuyết của văn xuôi cách mạng miền

Nam. Và sau nữa, vì Hòn Đất cũng là tác phẩm đầu tiên phản ánh được một

cách sinh động tính chất nhân dân của cuộc chiến đấu mà đồng bào ta ở

miền Nam trên hai mươi năm nay vẫn kiên trì và dũng cảm tiến hành. Nhưng

như vậy không có nghĩa là Hòn Đất đã dẫn chúng ta đi dọc theo và xuyên

suốt cả thời gian lẫn không gian của cuộc chiến đấu ấy, như một cuốn sử thi.

Không phải Hòn đất chỉ kể cho chúng ta nghe về một sự kiện hết sức cụ thể

và có lẽ cũng hết sức bình thường và phổ biến, mà ở đâu trên đất miền Nam

chúng ta cũng có thể không tìm mà gặp. Nhưng chính đó mới là nguyên nhân

làm nên giá trị của tác phẩm nhà văn, chính nhờ đó mà Hòn Đất đã có được

Page 277: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

tính điển hình ở mức độ nhất định. Một cuộc đọ sức hoàn toàn không cân

xứng (về số người và nhất là về sự trang bị) giữa một bên là quân ta (gồm

mười bảy anh chị em du kích và hai cháu nhỏ, được trang bị bằng mấy chục

quả lựu đạn và dăm khẩu súng trường cùng súng ngựa trời tự tạo), với một

bên là quân địch (gồm trên một nghìn quân chính quy, được trang bị đến tận

răng); thế mà cuối cùng ta vẫn thắng, địch vẫn thua, và lại thua đau nữa chứ

– những sự kiện như thế thì ở đâu trên đất miền Nam mà chẳng có. Nhưng

chỗ khác nhau của chúng là ở cách tiến hành và những biện pháp cụ thể

được ta sử dụng trong quá trình sự kiện diễn ra. Với cuộc chống càn tại Hòn

Đất thì đây là kế hoạch phục kích đón đánh địch ở vườn mãng cầu, rồi sau đó

là việc rút vào hang và sự phân công bố trí các lực lượng ở trong hang để

chống lại những trận tấn công của địch từ ngoài vào. Và một khâu quan trọng

nữa là việc tổ chức và lãnh đạo nhân dân bên ngoài giúp đỡ anh chị em du

kích trong hang về mọi mặt: tiếp tế gạo, nước, đấu tranh chính trị và binh vận.

Về mặt này, mỗi sự kiện sẽ hoàn toàn khác biệt. Nhưng dù khác biệt nhau

đến đâu, thì mục đích của chúng cũng chỉ là để dẫn đến cái kết quả cuối cùng

ta thắng, địch thua. Và cái sức mạnh khiến cho ta thắng được ấy chính là sự

kết hợp giữa hai lực lượng: nhân dân và quân đội (hoặc quân du kích) chứ

không phải chỉ riêng có lực lượng vũ trang thôi – đặc điểm của cuộc chiến

tranh nhân dân ở Việt Nam là như vậy.

Chân lý ấy trong Hòn Đất đã được chứng minh một cách rõ ràng.

Tất nhiên, Hòn đất chưa phải là một tuyệt tác mà chúng ta có thể đề

cao ghê gớm. Nhưng riêng về mặt nói lên cho được tính chất nhân dân của

cuộc chiến tranh, mà trên hai mươi năm nay chúng ta đã và đang tiến hành

và sẽ còn tiến hành mãi trong tương lai đối với bất cứ kẻ thù nào muốn đè

đầu cưỡi cổ chúng ta, thì phải nhận là tác phẩm của Anh Đức đã đạt được

một thành công đáng kể. Cho nên, không phải không có lý do mà một bạn làm

công tác phê bình đã đánh giá Hòn Đất như một miền Nam thu nhỏ: đọc Hòn

Đất ta có thể hình dung ra cuộc chiến đấu của cả miền Nam.

Page 278: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Đấy là chúng tôi chưa nói đến nhiều mặt thành công khác của cuốn tiểu

thuyết, chẳng hạn như việc tác giả đã xây dựng được cho văn xuôi miền Nam

một số hình tượng phụ nữ, điển hình cho những phẩm chất cao quý của các

mẹ và các chị em chúng ta ở miền Nam. Đó là mẹ Sáu, Quyên, Năm Nhớ, Cà

Mỵ, và nổi nhất là chị Sứ. Hình như trong con người chị đã kết tinh được mọi

nét tiêu biểu của những người phụ nữ xứ Hòn và cũng là của cả miền Nam.

Nói đến Hòn Đất, chúng ta cũng không thể quên được những trang

miêu tả thiên nhiên. Phong cảnh xứ Hòn, tuy ta chưa một lần được đặt chân

tới, mà ta vẫn có thể hình dung ra một cách rõ ràng. Trước mắt ta, Hòn Đất

chìm trong một màu xanh um tùm của các vườn cây ăn quả: những vườn

mãng cầu sai lúc lỉu, những vườn dừa xiêm trái lớn, nước ngọt và thơm,

những vườn mít đang chín đưa hương vào tận hang Hòn… Ta lại còn hình

dung ra cả độ vòng của con suối Lươn chảy quanh Hòn Đất và những cô gái

Khơ-me, với chiếc cà om trên đầu, đi đội nước, hai tay vung vẩy uyển chuyển

nhịp nhàng; và cả những “ngôi nhà sàn lâu năm có cái bậc thang, nơi bất cứ

lúc nào đứng đó” ta “cũng có thể nhìn thấy sóng biển, thấy xóm nhà xen lẫn

trong vườn cây, thấy ruộng đồng, thấy núi Ba Thê vòi või xanh lam mà mỗi

buổi hoàng hôn lại hiện trắng những cánh cò”. Một đoạn tả cảnh thật là đẹp!

Có lẽ không phải tả nữa mà là khắc họa, là vẽ lên thành một bức tranh với sự

phong phú về màu sắc và hình khối.

Trong Hòn đất không hiếm những đoạn tả cảnh (và cả tả người) đẹp

như thế. Chỉ tiếc rằng có đôi khi những đoạn ấy lại chưa được đặt đúng chỗ,

làm cho chúng trở thành gượng gạo, vô duyên. Chẳng hạn như, đáng nhẽ

nên để cho Sứ, bằng hành động của mình, tự nói lên tình cảm với quê

hương, với nơi chôn rau cắt rốn, thì tác giả lại dùng một đoạn ngoại đề trữ

tình để miêu tả cái tình cảm rất là khó miêu tả ấy: “Chị Sứ yêu biết bao cái

chốn này, nơi chị oa oa cất tiếng khóc đầu tiên, nơi quả ngọt trái sai đã thấm

hồng da dẻ chị. Chị Sứ yêu Hòn Đất bằng cái tình yêu hầu như là máu thịt,

Chị thương ngôi nhà sàn lâu năm…” (và tiếp theo là đoạn chúng tôi vừa trích

ở trên). Hay một đoạn khác, đoạn tác giả miêu tả đôi cánh tay trần của Sứ,

Page 279: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

khi chị bị bọn giặc trói quặt ra sau rồi treo ngược lên cây dừa. Trông thấy một

cảnh thương tâm như thế, ai là người trong chúng ta còn có đủ bình tĩnh để

mà suy nghĩ miên man: “Đây là đôi tay đẹp đẽ và mát rượi. Đây là đôi tay làm

lụng và vén khéo. Đôi tay này đã có khi rụt rè, đã nhiều lần âu yếm, đã có lúc

run lên ôm lấy chồng, ôm lấy con, mẹ và em, cô bác và đồng chí”, rồi mới

thấy rằng: “Nên đôi tay đó bị trói quặt trông sao mà tàn nhẫn, trông mà uất,

mà thương” (C.N. nhấn mạnh). Người đọc rất có thể nghĩ, không biết khi nhà

văn nói ra một cách cầu kỳ như vậy cái cảm xúc của mình, thì cái cảm xúc ấy

có còn là thực nữa hay không?

Còn có thể tìm thấy những đoạn khác tương tự. Chẳng hạn, đoạn tác

giả tả đôi mắt tràn đầy nỗi sung sướng của Sứ, khi chị vừa nghe được tiếng

súng của anh chị em trong hang báo tin con Thúy còn sống, hay đoạn tả bộ

tóc của Sứ tung bay dưới ánh trăng trong cái đêm chị bị trói chặt vào cây cọc

bên bờ biển – những đoạn văn tả này tuy rất đẹp, nhưng chúng ta vẫn có cảm

giác như nó được đặt vào nơi không thật là hợp hoàn cảnh và đúng chỗ. Có

lẽ những đoạn tương tự, tùy theo từng lúc, có thể thay bằng những đoạn

nhân vật tự biểu hiện mình, hoặc là dành cho người đọc phát biểu thì hơn.

Bởi vì, hoặc là chỉ có nhân vật mới có thể tự nói lên những tình cảm của mình

một cách thuyết phục, hoặc nữa, chỉ có người đọc mới đủ tỉnh táo để mà bình

luận một cách văn hoa về những điều mình cảm thụ được từ tác phẩm của

nhà văn. Chúng ta rất hoan nghênh việc nhà văn cố gắng hòa mình vào nhân

vật. Nhưng có lẽ, anh chỉ nên làm việc ấy với mục đích để hiểu những con

người anh miêu tả được sâu hơn và đúng hơn, chứ có lẽ không nên, để rồi

anh sẽ nói thay nhân vật tất cả những tình cảm sâu xa thầm kín nhất của họ,

tự biến mình thành nhân vật. Và có lúc say mê quá với những cảm xúc trữ

tình, anh bỗng quên đi cả hiện thực. Những lúc ấy, cái hiện thực của cuộc

chiến đấu ác liệt, dưới ngòi bút của nhà văn, hiện ra có phần hơi nhẹ nhàng,

bóng bẩy, mang những sắc màu lãng mạn rõ ràng.

***

Page 280: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Có lẽ thể loại mà Anh Đức viết thành công hơn cả lại là truyện ngắn.

Sự sâu sắc, phong phú trong việc chọn tìm và thể hiện đề tài cũng như tính

chân thực trong việc miêu tả con người và cuộc sống là những yếu tố căn bản

làm nên giá trị của truyện ngắn nhà văn. Ở đây ta cũng ít thấy cái nhược điểm

có phần cố hữu của tác giả Hòn Đất – sự lạm dụng yếu tố trữ tình.

Truyện ngắn của Anh Đức đã đề cập đến rất nhiều loại đề tài: về ruộng

đất (Đất, Đứa con), về tính chất nhân dân của cuộc chiến tranh (Khói, Giấc

mơ của ông lão vườn chim), về trí thông minh và tinh thần dũng cảm của

những con người Việt Nam trong cuộc đọ sức với kẻ thù (Con chị Lộc, Xôn

xao đồng nước), về thái độ sống bình thản của chúng ta trong hoàn cảnh

chiến tranh khốc liệt (Mùa gió), và cuối cùng nhà văn đã vẽ lên bộ mặt của kẻ

thù qua một hình ảnh cụ thể – thằng Mỹ, một con-người-thú, rất hung hãn bạo

tàn, mà lại vô cùng hèn nhát (Thằng Mỹ).

Nhưng đọc truyện ngắn của Anh Đức, cái thu hút sự chú ý của chúng ta

nhiều hơn cả có lẽ lại chưa phải là đề tài của truyện. Bởi, nói cho đúng, thì có

ai trong số những cây bút viết văn ở miền Nam mà lại chẳng đề cập đến

những đề tài tương tự. Điều hấp dẫn chúng ta ở truyện ngắn Anh Đức có lẽ là

cách nhà văn thể hiện những đề tài trên. Phải nói, về mặt này, Anh Đức có ít

nhiều độc đáo.

Nếu chúng ta chú ý theo dõi thì sẽ thấy, trong hầu hết các truyện ngắn

của anh, nhân vật chính chỉ xuất hiện ở cao trào cùng với một sự kiện trung

tâm nổi bật, làm nên giá trị của tác phẩm nhà văn. Còn trước đó chúng ta hầu

như chỉ gặp những con người và những tình tiết tưởng như là bâng quơ,

không ăn nhập gì với chủ đề của truyện. Chẳng thế mà đã có bạn đọc phải

chê Anh Đức là ở đoạn mở đầu của Đất, anh có vẻ dài dòng, thậm chí còn

tản mạn. Nhưng theo tôi nghĩ, chính cái chỗ tưởng như là dài dòng, tản mạn

ấy mới là nét độc đáo của ngòi bút truyện ngắn nhà văn. Và bây giờ nghiệm

ra ta thấy, không chỉ với Đất, anh mới có vẻ “dài dòng”, mà cả với nhiều

truyện khác như Khói, Con chị Lộc, Xôn xao xao đồng nước, Trọng, Mùa gió,

Page 281: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

anh cũng đều “dài dòng” như thế. Mà hình như lại chỉ nhờ vào sự “dài dòng”

ấy mà những truyện ngắn trên lại trở nên hấp dẫn. Vì sao vậy?

Bởi vì truyện ngắn của anh thường không phải là những câu chuyện

bằng phẳng, bình thường, những câu chuyện êm đềm dịu ngọt, mà thường là

rất dữ dội, gay go, với những tình tiết có khi ly kỳ và những xung đột chứa

đầy kịch tính; nhưng nhà văn lại không muốn trình bày những câu chuyện ấy

như một điều kỳ lạ, một sự kiện phi thường; anh không muốn gây cho đọc giả

cái cảm giác đột ngột có phần giả tạo, làm cho họ phải giật mình, choáng

váng. Trái lại, anh chỉ muốn kể về chúng như về những sự kiện bình thường,

đúng như chúng có trong thực tế hiện nay của miền Nam –những kỳ tích mà

có khi loài người chưa từng biết, thì ở Việt Nam hầu như mỗi con người, đến

lượt mình, đều có đủ sức để làm.

Mà muốn gây được một không khí bình thường như thế cho những sự

kiện mình miêu tả thì không có cách gì tốt hơn là bắt đầu viết về chúng một

cách thật bình thường, một cách tưởng như dông dài tản mạn, nhưng thực ra

là để dần dần dẫn bạn đọc đến cái sự kiện dữ dội, trung tâm kia bằng cách

cũng hết sức bình thường. Và Anh Đức đã làm như vậy. Trở lại truyện Đất ta

sẽ thấy, thực ra, những tình tiết mở đầu đâu có phải là bâng quơ, tản mạn,

mà nó gắn bó rất chặt chẽ với phần sau. Bởi vì nó làm nhiệm vụ gần như là

chuẩn bị, nó giới thiệu với chúng ta về nhân vật chính, về ông Tám. Qua đó ta

mới biết ông Tám là một cơ sở rất tốt của ta, là người luôn luôn chăm lo đến

đời sống của các cán bộ hoạt động trong vùng và ông sẵn lòng hy sinh mọi

thứ vì cách mạng. Chính vì thế mà khi ông Tám xuất hiện với sự kiện ông qua

Tết chết để bám lấy mảnh đất mà Đảng và cách mạng đã đem lại cho gia đình

ông, thì chúng ta không sửng sốt, không đột ngột như nghe một tiếng sét nổ

ngang trời. Ngược lại, chúng ta thấy đó chỉ là một sự kiện tất yếu, một hiện

tượng bình thường, và có lẽ, bất cứ một người Việt Nam nào, ở vào hoàn

cảnh như ông Tám, cũng sẽ làm như vậy.

Page 282: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Có thể nói, nét nổi bật trong nghệ thuật viết truyện ngắn của Anh Đức là

tài dẫn truyện, và đi đôi với nó, là tài dựng cốt cho truyện ngắn của mình. Mỗi

truyện ngắn của anh thường rất ngắn, nhưng bao giờ cũng có một cái cốt rõ

ràng, trong cái cốt đó chỉ có một sự kiện nổi bật và một con người trung tâm,

còn tất cả những sự kiện khác và những con người khác chỉ đóng vai trò rất

phụ, nhằm làm cho sự kiện nổi bật và con người trung tâm càng nổi bật lên và

càng trở thành trung tâm hơn nữa mà thôi.

Có lẽ, những truyện ngắn của Anh Đức không thuộc loại truyện không

có chuyện, mà ngược lại, nó khẳng định một loại truyện ngắn chứa đầy chất

sống, căng chật những nội dung, một loại truyện không phải trữ tình pha màu

lãng mạn, mà hiện thực hoàn toàn, hiện thực như bản thân cuộc sống.

***

Ngoài bút ký, tiểu thuyết và truyện ngắn, Anh Đức còn có một số tác

phẩm mà anh gọi là ghi chép. Đó là tập Chim đầu đàn (về Anh hùng Quân giải

phóng Bi Năng Tắc), và bài Chuyện của một người cùng quê (về chiến sĩ thi

đua Bùi Văn Nổi) in trong tập Giấc mơ của ông lão vườn chim. Nhưng dù viết

theo thể loại nào và về đề tài gì thì trong sáng tác của nhà văn ta vẫn thấy nổi

bật lên một- hình ảnh chính – hình ảnh của con người Nam Bộ. Vì vậy, nếu

đứng về mặt này, về mặt phản ánh con người và cuộc sống, thì ta có thể gọi

Anh Đức là cây bút Nam Bộ nhất trong số những cây bút miền Nam, hay cho

chính xác hơn, thì phải gọi anh là cây bút của đất Cà Mau, nơi tận cùng của

Tổ quốc Việt Nam. Bởi hầu hết các tác phẩm của anh (một số bút ký và toàn

bộ truyện ngắn in trong hai tập Bức thư Cà Mau (1966), Giấc mơ của ông lão

vườn chim (1969) cũng như truyện dài Hòn Đất (1966), anh đều dành viết về

nơi đó – Cà Mau – mảnh đất xa xôi mà gần gũi với mọi miền đất nước và là

vùng quê quen thuộc của nhà văn. Và bởi vậy, trong quá trình sáng tác của

mình, Anh Đức đã xây dựng được một số tính cách điển hình cho những con

người Nam Bộ nhất của miền Nam. Trong một bài tùy bút gửi Nguyễn Tuân,

nhân nói về cây đước, anh đã viết: “Chỗ đứng đầu sóng ngọn gió sản sinh ra

Page 283: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

loại cây khả dĩ có thể chống chọi được sóng gió. Con người sinh ra ở đây

cũng vậy, theo tôi, họ là những người Việt Nam thống khổ nhứt, bị áp bức giai

cấp mà vẫn bám riết cái chỗ hết đất hết trời”. Phải chăng ở đây Anh Đức đã

nắm bắt được cái nét bản chất nhất trong những con người của đất Cà Mau –

đó là sức chịu đựng phi thường và sự kiên trì ghê gớm? Và phải chăng nhà

văn cũng đã cố gắng thể hiện cái nét đó vào trong tính cách của những nhân

vật nổi tiếng mà ngòi bút anh đã xây dựng được, như ông Tám Xẻo Đước

(trong Đất) và ông Tư vườn chim (trong Giấc mơ của ông lão vườn chim),

như má Sáu, bà Cà Sợi, chị Sứ (trong Hòn Đất) hay o Quế (trong Khói), v.v…

Những con người này quả thật không có một sức mạnh nào thắng nổi. Nhưng

lại phải nói thêm rằng, những nét phi thường và ghê gớm ấy dưới ngòi bút

của nhà văn lại hiện ra trong một dạng rất bình thường, bằng một ngòi bút trữ

tình đằm thắm. Và nhìn chung lại, chúng ta có thể khẳng định rằng, đặc điểm

ngòi bút miêu tả hiện thực của Anh Đức là ở chỗ nhà văn đã cho ta thấy một

cuộc sống rất bình thường mà vẫn đẹp trong cái không khí tưởng như là rất

căng thẳng, rất quyết liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ ở miền Nam. Và

bằng cách đó, anh đã truyền được sang cho người đọc sự bình tĩnh và lòng

tự tin, yêu đời. Chúng ta đánh giặc tuy rất gian khổ nhưng vẫn ung dung, và vì

thế, chúng ta có thể đánh rất lâu dài. Chúng ta đánh giặc với tất cả lòng căm

thù và sự quyết tâm, nhưng chúng ta không lên gân, tâm hồn ta không luôn

luôn căng thẳng như một dây đàn, mà chúng ta vẫn sống bằng một cuộc sống

tình cảm nhất, với tất cả lòng yêu đời và yêu người, có như thế chúng ta mới

có khả năng để trường kỳ kháng chiến. Đọc Anh Đức, ta dễ nhận ra chân lý

ấy.

PHAN TỨ, từ Về làng đến Mẫn và tôiTrong dòng văn học đầy sức sống và khí thế chiến đấu của lực lượng

văn xuôi Giải phóng, Phan Tứ là một trong những cây bút có đóng góp đáng

kể. Với sức viết luôn luôn vươn tới, và bằng chất trẻ khỏe của tâm hồn, tên

Page 284: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

tuổi của anh ngày càng trở nên thân quen với đông đảo bạn đọc, từ Về làng

(1964) đến Gia đình má Bảy (1968) và rồi gần đây với Mẫn và tôi (1973).

Thực ra, về làng không phải là sáng tác đầu tay của anh. Anh đã đến với văn

học sớm hơn, rất tự nhiên và ngày càng nồng nhiệt, ở anh, viết văn vừa là

nhiệm vụ cách mạng, vừa là một hứng thú, một nhu cầu của cuộc sống bản

thân. Anh là cây bút thông minh, có nhiều suy nghĩ và chịu khó, xông xáo. Có

lần, anh nói lên cái yêu cầu của người viết văn là phải “tắm mình trong cuộc

sống”, “vừa chung tay xây dựng nó, vừa rèn giũa mình, chắt chiu gạn lọc mỗi

ngày đêm lấy vài nét độc đáo nhất của nó, không ngừng suy nghĩ và cảm xúc

về nó, nghiền ngẫm tìm cách tái hiện nó…”. Những “phương châm” mà Phan

Tứ nêu ra trên đây quả là do anh đã rút ra từ kinh nghiệm sống và viết của

bản thân. Anh đã lăn lộn trong thực tế chiến đấu, mặt giáp mặt với quân thù,

làm nhiều việc, ở nhiều nơi, đặc biệl là ở đồng bằng Trung Trung Bộ: khi nhận

công tác tuyên huấn phát động quần chúng đồng khởi, lúc tham gia các chiến

dịch, theo sát từng đơn vị cơ sở, nay lên núi, mai xuống đồng bằng, v.v…

Nhờ vậy mà khi xây dựng tác phẩm, anh luôn luôn tỏ ra thoải mái, sung sức,

đầu óc của anh dường như lúc nào cũng đầy ắp các mẩu chuyện, các sự

kiện.

Tới nay, qua một tập truyện ngắn và hai cuốn tiểu thuyết, Phan Tứ đã

có thể biểu hiện được phần nào cái thực tế chiến đấu vô cùng gay go, gian

khổ và phức tạp của đồng bằng Trung Trung Bộ trong một số thời điểm nhất

định, từ những năm đen tối, đến ngày đồng khởi, chuyển sang thời kỳ bản lề

giữa cuộc chiến tranh đặc biệt và chiến tranh cục bộ. Qua những con người,

với những sự việc đã chắt lọc và tái hiện, anh như muốn gửi gắm vào đấy tất

cả sự suy nghĩ và tâm huyết của mình. Anh không bao giờ chỉ làm người

quan sát, đứng ngoài cuộc. Ở sáng tác của anh, luôn luôn chúng ta bắt gặp

những nét chân thực, xúc động, bởi nó được lấy ngay từ trong lòng cuộc

sống đông đặc, sôi sục của miền Nam. Nổi bật trong tất cả các tác phẩm của

anh là hình ảnh một khối đông đảo quần chúng cách mạng. Nhưng anh không

mô tả quần chúng như một khối đồng nhất, bất luận hoàn cảnh nào cũng sẵn

Page 285: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

sàng hy sinh không kể bom đạn, luôn luôn xông tới, dù trước kẻ thù tàn ác,

quỷ quyệt. Nhà văn đã phân tích quá trình chuyển biến của tâm lý quần chúng

qua những băn khoăn, vướng mắc, thậm chí có lúc chao đảo ngả nghiêng,

nhưng cuối cùng họ đã tìm ra con đường duy nhất đúng, đó là con đường đi

theo cách mạng.

Hãy lấy ông Sần, nhân vật chính trong Về làng làm ví dụ. Khi nghe tin

Quân giải phóng về, ông mừng vui mà ngỡ ngàng: bao nhiêu nỗi đắng cay

chịu đựng trong mấy năm trời đến nay đã thanh thỏa ư? Ông hồ hởi theo bà

con đi vạch tội ác ôn, phá rào ấp chiến lược… Ông lại bắt con dâu mổ gà ăn

mừng, nhấm nháp vài chén rượu vì “nhất sinh ông chưa bao giờ hả như lần

này”. Lúc thuận buồm xuôi gió thì ông băng băng theo cách mạng, nhưng khi

đại bác địch bắn về thôn thì ông sợ quá, tản cư vào ấp chiến lược của chúng

cho yên thân. Ở đây, không phải ông không có điều phải nghĩ ngợi: một đằng

được sống ngẩng mặt thẳng lưng cho ra con người, nhưng phải chịu bom đạn

dữ dội; một đằng tuy không sợ bom đạn nhưng phải sống cực nhục, bị Mỹ –

Diệm đè đầu cưỡi cổ. Nhưng đâu phải chỉ có thế, còn tiếng xấu bỏ cách

mạng, còn tình bà con, làng xóm,… Thật ngổn ngang trăm nỗi. Đến khi vì điều

này, lẽ nọ, ông Sần trở về làng mà lòng còn e ngại. Nhưng một cái gì mạnh

hơn, khiến ông dấn bước, và cuối cùng không những ông quyết tâm trở về

làng mà còn tự hào cùng bà con lên quận đấu tranh với địch. Phan Tứ nói

đến sức mạnh đã thôi thúc ông Sần trở “về làng”, đó là cái ơn sâu đối với

cách mạng; cách mạng đã đem lại ruộng đất cho ông. Chưa cần hiểu cách

mạng là những gì xa xôi, mà chỉ cần một câu “người cày có ruộng” là ông

hiểu “đúng, người nghèo nổi dậy rồi”, và nhận ngay cuộc cách mạng này là

của ông. Ở đây, bằng một ngòi bút khá chân thật, sắc sảo, Phan Tứ nêu lên

sự giác ngộ cách mạng gay go, chật vật của ông Sần, và cũng có thể của

không ít người nông dân bình thường ở miền Nam. Có thể nói, bằng ngòi bút

của mình, nhà văn đã góp phần làm sáng tỏ thêm quan hệ giữa cách mạng

dân tộc và vấn đề ruộng đất ở nông thôn.

Page 286: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Mỗi người có thể đi theo cách mạng bằng con đường của mình. Cúc,

nhân vật chính trong Con đĩ, là một nữ sinh trong trắng ngây thơ, con một nhà

giáo nghèo, đã bị chế độ Mỹ –Diệm tàn phá, hủy hoại cả cuộc đời tươi trẻ,

đẩy cô trở thành một con đĩ một trăm phần trăm. Cúc bị gia đình hắt hủi, xóm

làng khinh bỉ. Mãi khi con bị ốm chết, thằng chồng khốn nạn bị cách mạng

bắn vỡ sọ, Cúc mới thấm thìa tất cả nông nỗi của đời mình. Cô trở về làng

sống cho qua ngày. Nhưng ít lâu sau, làng bị càn, má và các em cô bị địch

bắt. Cúc căm uất đến điên loạn, nghẹn thở và hôm sau theo bà con lên quận

đấu tranh. Cúc xông lên trước đám biểu tình, kêu gọi binh lính, sẵn sàng chìa

ngực hứng lấy những viên đạn của tên ác ôn Tòng. Kết cục, cái chết của Cúc

đã như một cơn sấm sét trên cầu Gò Bàn, làm thằng Tòng tan xác và bọn

ngụy chạy tán loạn. Ở đây, một sự đau khổ cực kỳ đã lắng đọng, kết tinh lại,

làm bật sáng trong tâm hồn Cúc một tia lửa Cách mạng.

Bên cạnh những ông Sần, cô Cúc, còn không ít bà con khác như chị

Hai Phước (Một buổi chợ), cô Hợp (Chè đầu xuân), ông Bảy (Tấm ảnh), v.v…

mà mỗi người ở họ, ý thức cách mạng đã nhen nhóm một cách khác nhau để

cuối cùng tạo nên dòng thác cách mạng, nhấn chim bè lũ Mỹ – ngụy.

Song nói đến khí thế cách mạng miền Nam, nói đến lòng căm thù sôi

sục bọn cướp nước và bán nước, lòng yêu nước mãnh liệt của quảng đại

quần chúng thì chủ yếu phải là nói đến những con người tích cực như Hậu,

Hồ, Cam, Sửu… (Về làng), má Bảy, út Sâm, Tư Sỏi, Hai Ngọ, ông Nhâm (Gia

đình má Bảy) hoặc mẹ Sáu… và đông đảo bà con Tam Sa (Mẫn và tôi), vốn

là những người lúc nào cũng hướng về cách mạng, quyết tâm “thà chết vinh

còn hơn sống nhục”, những con người bao giờ cũng đứng ở vị trí hàng đầu

trong mọi cuộc đấu tranh. Nếu như ở Về làng, Phan Tứ tập trung sự chú ý

của mình vào việc phản ánh nhiều loại quần chúng đang còn rời rạc, phần lớn

mới bước đầu giác ngộ cách mạng thì đến Gia đình má Bảy, tác giả đã đi

thẳng vào khối quần chúng cách mạng, thông qua nhân vật trung tâm là một

bà mẹ, bà mẹ của một gia đình: gia đình má Bảy.

Page 287: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Ở cuốn tiểu thuyết mới này, Phan Tứ chọn thời điểm miền Nam trước

và sau đồng khởi, như là một cái nền, qua đó đi sâu xây dựng một số nhân

vật trung tâm và theo dõi từng bước con đường đi của họ. Anh mạnh dạn gợi

lên những nỗi lòng, những tâm tư giúp ta thấy sâu sắc hơn sự gian khổ, ác

liệt của cuộc đấu tranh này. Người đọc không thể không xúc động trước tâm

trạng một bà mẹ giàu cảm nghĩ, làm nhiều nói ít, mội lòng sắt son với cách

mạng như má Bảy, từng có lúc nghĩ đến “anh em mình vẫn hoạt động” thì chỉ

“chớp mắt”, và “những ý nghĩ ấy chỉ lóe thành chấm sáng yếu ớt chứ không

bốc cháy trong má nữa”. Một cái gì như đắng cay, tủi hổ, khiếu má không

dám nhìn thẳng con, chỉ lắc đầu ngập ngừng: “Để vắng vắng đã. Tụi nó làm

quá tay”. Đó là lúc má “ngấm mệt” sau những ngày bị địch bắt, bị tra tấn và

má tưởng mẹ con má có thể sống yên lành, nhẫn nhục ít lâu nếu tạm ngừng

làm cách mạng. Nhưng chế độ Mỹ – Diệm đâu có để yên cho má! Hay như

Tư Sỏi, con trai má, lầm lỳ ít nói, không sợ hy sinh, song chỉ e chống lại chúng

hoặc “nhảy núi” theo cách mạng thì mẹ và em sẽ bị tụi nó đánh đập, tra tấn,

bắt đi dinh điền,… nên anh phải dằn lòng mà lãnh súng, vào dân vệ. Sỏi lặng

lẽ chịu đựng sự lãnh đạm, nỗi đau lòng của mẹ và em gái, tuy biết mẹ có

phần nào thông cảm với anh. Song địch càng tàn bạo bao nhiêu, càng như

thúc đẩy người dân đứng lên chống lại chúng không ngừng, không mỏi. Còn

thử thách nào nhức nhối tận tim can bằng cảnh người mẹ phải nhìn con “máu

ứa đầy mình” và nghe tiếng con rú lên khi địch đóng con dấu đỏ rực cháy xèo

xèo trên da thịt con. Má Bảy đã không khóc, không van, chỉ có ánh mắt như

dỗ dành con gắng chịu. Cuối cùng, con đường sống, con đường thoát duy

nhất của gia đình má cũng như của đồng bào miền Nam là phải vùng lên

đánh địch, giải phóng cho mình, cho gia đình mình và cả cho đồng bào, làng

xóm. Qua đồng khởi, mỗi người trong gia đình má đều trưởng thành nhanh

chóng và vươn lên, hòa vào dòng thác cách mạng. Với niềm tin tuyệt đối ở

thắng lợi, có sự lãnh đạo của Đảng, thông qua những cán bộ từng sống chết

với phong trào, những gì là lo âu, mệt mỏi trong lòng mỗi người dân cũng dễ

dàng tan đi để cùng nhau tự nâng mình lên.

Page 288: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Quần chúng làm nên lịch sử, sự nghiệp cách mạng cũng là sự nghiệp

của quần chúng, cho nên khi mô tả cuộc chiến tranh cách mạng, nhà văn

không thể không đi sâu thể hiện các tầng lớp quần chúng với vai trò và vị tri

đúng đắn của họ. Qua tác phẩm của mình, Phan Tứ đã có thể góp phần làm

cho người đọc một lần nữa cảm nhận sâu sắc thêm điều ấy.

Bên cạnh việc thể hiện khá thành công các tầng lớp quần chúng, Phan

Tứ càng ngày càng chú ý đi vào mô tả tầng lớp cán bộ, nòng cốt của phong

trào. Nếu như trong Về làng, hình ảnh người cán bộ hãy còn lờ mờ, thấp

thoáng thì tới Gia đình má Bảy, ta đã gặp được một số hình ảnh sinh động

hơn về những cán bộ lãnh đạo có kinh nghiệm như Dõng, Chín Huyền, Bê,

chị Năm Tân, v.v… Chỉ việc Dõng và Bê xuất hiện ở nhà má bảy vào một đêm

mưa và cái cảm giác của má như thấy “hàng vạn đôi chân ùa lên theo hai anh

cán bộ” cũng có thể cho ta hình dung được phần nào lòng dân đối với cán bộ

Đảng, người đang dẫn dắt họ từng đường đi nước bước vượt qua mọi hiểm

trở chông gai.

Nhưng về điểm này, phải đến Mẫn và tôi, Phan Tứ mới thực có một

đóng góp nổi bật. Ở tác phẩm mới này giữa cái biển cả quần chúng đang

bừng bừng khí thế của “cuộc nỗi dậy của lòng yêu nước vì những mối thù

chưa trả”, khi mà dòng thác cách mạng đã nổi thành những cơn bão lớn,

nhận chìm từng mảng bọn cướp nước và bán nước thì Phan Tứ đã có thể có

những điều kiện hết sức thuận lợi để làm nổi bật lên hình ảnh những cán bộ

kiên cường như sắt thép, trong sáng như pha lê. Ở đây nhà văn chú ý đến sự

tiếp tục của các thế hệ: một lớp cán bộ “một thân hai cuộc trường kỳ” và

những lớp khác trẻ măng, vùn vụt trưởng thành lên từng ngày, từng giờ.

Tác phẩm tưởng như chỉ kể chuyện “Mẫn và tôi”, nhưng hình ảnh hiện

ra lại là cả một tập thể: những Điển, Năm Dõng, Bảy quai nón, Ba Tơ, Tư

Luân, các chị Bỉnh, chị Tám Giàu v.v… hiện ra khá rõ trong tác phẩm, khả dĩ

chiếm được nhiều tình cảm của người đọc. Đó là lớp cán bộ có tài, có đức,

vừa dìu dắt, khích lệ, vừa khiêm tốn học hỏi lớp trẻ, lớp đàn em để cùng

Page 289: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

chung tay lo việc lớn. Thực ra, Phan Tứ chưa tập trung nhiều sự chú ý vào

các nhân vật loại này, nhưng bằng nhiều nét sắc gọn, gợi cảm, anh đã gây

cho người đọc những ấn tượng khó quên. Chẳng hạn, chúng ta nhớ từ cái

“nét đăm chiêu” trên khuôn mặt “giãn ra” khi nghe tin ta thắng trận, đến “tiếng

nấc dội từ đáy ngực nặng và sâu” khi biết tin về những tai hại khủng khiếp

của nạn lụt, ở anh Ba Tơ, một “con người những lửa là lửa, nhưng vẫn có

một góc kín của tâm hồn dành cho ánh trăng mát rượi của người yêu”. Từ

những lời nói chân thành đầy tình nghĩa đến những việc làm chín chắn của

anh Tư Luân, từng lúc cứ làm sáng lên cái đạo đức mà cô cán bộ trẻ mới lớn

lên với phong trào như Mẫn cảm thấy phải “học một đời chưa hết”. Chỉ những

con người “bụng như vàng ròng” mới có thể quên đi bao nhiêu năm vào sinh

ra tử để nói với cô cháu trẻ măng: “Chú dốt lắm cháu à!”… “Chịu khó nhắc

chú thật nhiều nghe!”. Hoặc những lời phân tích rạch ròi mà “đẫm thương

yêu” của anh Bảy, nhằm thuyết phục Tám Liệp, giúp anh ta thấy lỗi lầm mà

hối cải. Hình ảnh chị Tám Giàu lặng lẽ hy sinh hạnh phúc riêng của mình,

mười năm mới nhận được có hai lá thư và một tấm ảnh nhỏ của chồng, để

hết lòng vun thu cho hạnh phúc của lứa em, v.v…

Nhưng Phan Tứ đã tập trung sự chú ý và dành nhiều tâm huyết vào

việc thể hiện lớp thanh niên, đặc biệt là cán bộ trẻ. Dân tộc ta đã phải liên tục

trải qua nhiều năm chiến tranh chống ngoại xâm. Tất nhiên, sự nghiệp đó

không thể chỉ là công việc của một thế hệ. Bên cạnh lớp cha anh vốn tình sâu

nghĩa nặng với cách mạng, từng trải, đầy kinh nghiệm sống và chiến đấu, có

người không khỏi có những hạn chế do tuổi tác, sức lực, có thể phần nào ở

cả nếp nhìn, nếp nghĩ, cần phải được luôn luôn bổ sung thêm những đội ngũ

trẻ, đầy nhiệt tình, xông xáo, dám nghĩ dám làm, say mê học hỏi để tiếp thu

những cái mới nhằm đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao hơn của cách

mạng. Với cái nhìn nhạy bén, với tình cảm chân thành, Phan Tứ đã nhiệt tình

biểu dương, cổ vũ lớp trẻ. Ngay từ Về làng, chúng ta đã gặp Hậu, Cam,

Sửu…, nhưng những nhân vật này mới chỉ thoáng qua. Chúng ta cũng đã

gặp những Bê, Sâm, Ngọ… trong Gia đình má Bảy, song chưa phải đủ là

Page 290: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

những nhân vật gây được ấn tượng sâu. Cho đến Mẫn và tôi thì hình ảnh lớp

con người mới này mới có một sức thu hút thật sự. Hai nhân vật chính này

tỏa sảng bao trùm lên toàn bộ diễn biến câu chuyện. Từ đấy, dưới ánh sáng

của tư tưởng tiên tiến, tác giả gắng thử giải đáp một số vấn đề nóng hổi đặt ra

trong cuộc sống cách mạng.

Trước hết, Phan Tứ muốn khẳng địnn một cái đẹp lý tưởng, một sự

trưởng thành không ngừng của thế hệ trẻ trong thời đại chống Mỹ, cứu nước.

Ở đây, những vấn đề lý tưởng sống, tình yêu, nghề nghiệp, tình bạn, tình

đồng chí cũng đồng thời là một loạt vấn đề chung và riêng đã phần nào được

nói lên một cách khá sinh động hấp dẫn, hợp lô-gích, thông qua hai nhân vật

Mẫn – Thiêm, và mối tình của họ.

Hình ảnh cô du kích Tam Sa cứ mỗi lúc một rõ dần, ngời lên trước mắt

người đọc. Mẫn vừa có cái hồn nhiên tươi trẻ của cô gái hai mươi, vừa có cái

sắc sảo, từng trải của một cán bộ lãnh đạo. Ở Mẫn sức cuốn hút, vẻ say

người không chỉ ở những nét đẹp kín đáo, mộc mạc mà Phan Tứ đã phác

họa, mà còn toát lên từ cái vẻ trong sáng trong tâm hồn, nhiệt tình trong trái

tim, và năng lực suy nghĩ. Trong công tác, Mẫn dám nghĩ, dám làm, với lập

trường dứt khoát, luôn luôn có ý thức phân tích cái đúng, cái sai. Trong tình

cảm, Mẫn đằm thắm, yêu thương, trọn nghĩa, trọn tình. Mẫn yêu Thiêm tha

thiết nhưng cô cũng sẵn sàng “cắt đứt” và thậm chí có thể hành động quyết

liệt hơn, nếu anh chạy sang phía thù. Mẫn yêu bé Hoàn, đứa con nuôi, bằng

cả tấm lòng người mẹ yêu thương con nhất. Cô lo lắng, đùm bọc cho các em,

thay mẹ đã mất. Từ một cô gái còn rất non trẻ tuổi đời, chỉ trong vòng trên

dưới vài năm trời đã vùn vụt từ một du kích lên xã đội trưởng, lên bí thư chi

bộ, rồi đảng ủy viên của cả khu vành đai mười hai xã đang hiên ngang chống

chọi với tên đế quốc đầu sỏ. Có thể nói, cho tới nay, Mẫn là một trong số ít

các nhân vật nữ thanh niên đẹp nhất, đáng yêu nhất của văn học cách mạng

miều Nam.

Page 291: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Sóng đôi với Mẫn là Thiêm, anh bộ đội giải phóng, từng bôn ba lưu lạc,

làm nhiều nghề, nhưng chung quy là để làm cách mạng. Anh có kiến thức, có

trình độ, “trải đời, trải đạn”. Nổi bật ở Thiêm là lòng say mê lý tưởng, là hoài

bão lớn, là lập trường dứt khoát, kiên định. Thiêm là con người của tư duy,

của hành động, trước mỗi người, mỗi việc anh đều phân tích, lý giải, đánh

giá, tốt xấu, đúng sai, và khi làm việc gì thì bao giờ cũng “tận bờ sát góc”.

Thiêm tự hào mà cũng rất tự tin; anh tin mình, bởi anh tin Đảng, tin đồng bào,

đồng chí. Thiêm không chủ quan khi nhìn ta, nhìn địch. Trong hoàn cảnh

chiến đấu ác liệt, lại gặp phải tình trạng hiểm nghèo, Thiêm đã bình tĩnh vượt

mọi thử thách và chiến thắng cái chết. Gặp mặt người yêu, ai cũng tưởng

Thiêm sẽ dặn dò. Nhưng không, anh chỉ gặp Mẫn để yêu thương một chút, để

hỏi han tình hình chiến sự. Khi Mẫn dặn anh đừng nhắc nhiều, thương để

bụng, anh vẫn giỡn: “Để bụng, bụng rách nó rớt ra thì làm sao?”

Rõ ràng, chỉ có “tắm mình” trong thực tế chiến đấu, lại đã từng yêu say

mê và hiểu biết về lớp trẻ, Phan Tứ mới có thể viết được những trang sinh

động chân thực, thoải mái như vậy. Thông qua mối tình giữa Mẫn và Thiêm,

tác giả gợi ra một số vấn đề có ý nghĩa, đặc biệt là vấn đề tình yêu và lý

tưởng, làm cho nhiều người đọc, nhất là tầng lớp thanh niên phải suy nghĩ.

Mẫn và Thiêm có những mặt khác nhau rất xa về tính nết, nghề nghiệp, về

trình độ văn hóa, về sự từng trải. Hồi đầu, Thiêm cho rằng “Mẫn không thuộc

kiểu người tôi thích”, xin chỉ “kính nhi viễn chi”. Nhưng qua một thời gian,

trong quan hệ công tác, họ đã phục nhau, mến nhau và ngày càng trở nên

gần gũi, bởi cả hai cùng có một số nét căn bản giống nhau: họ có cùng một lý

tưởng, cùng ham học hỏi, cùng dám nghĩ, dám làm. Thành ra với họ, những

mặt khác nhau lại có thể bổ sung cho nhau thêm hoàn hảo, và tình yêu đến

với họ một cách tự nhiên. Đó là một tình yêu đẹp, lấp lánh trong ánh sáng của

lý tưởng mới của thời đại.

Ngòi bút Phan Tứ còn tràn đầy ưu ái, khâm phục đối với phụ nữ. Qua

tác phẩm của anh, hình ảnh các má, các chị thường gây cho ta những xúc

động mạnh và sâu. Phan Tứ không chỉ ca ngợi lòng kiên trinh bất khuất, đức

Page 292: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

tính hy sinh quên mình để lo việc nước của phụ nữ ta, mà qua một số nhân

vật như chị Năm Tân, Tám Giàu…, đặc biệt là Mẫn, tác giả đã khẳng định vai

trò, vị trí và năng lực của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Những ý nghĩ đại loại như: coi phụ nữ là “bông hoa làm cảnh”, “cây lúa nuôi

người” chứ không thấy được gỗ lim, gỗ nghiến, hoặc phụ nữ chưa nên nhúng

tay vào việc lãnh đạo, chỉ huy, bởi địch sợ súng đạn chứ sự đâu “mắt sáng

môi hồng”, rằng đối với phụ nữ thì phải “khuyến khích riết đi”, bởi họ cần sự

động viên hơn nam giới v.v… từng được những “tảng lý sự rất vững” bênh

vực, thì nay vấp vào Mẫn đã bị “long lở”, “rã vụn”. Phan Tứ còn gợi đến một

số khía cạnh khác cũng có ý nghĩa, là trong thời đại ngày nay khi mà phụ nữ

đã thực sự không thua kém nam giới trong nghĩa vụ đối với Tổ quốc thì tại

sao có khi họ vẫn còn phải chịu sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng? Anh

khéo phê phán cái cách Tư Luân xin với Thiêm khi cưới rồi hãy rộng lượng

cho Mẫn ở lại Tam Sa công tác mấy năm nữa. Ngay ở người yêu, Thiêm

cũng nhận thấy “ngày mới quen còn khá ngang tàng, từ khi yêu tôi bỗng đâm

ra sợ sệt, bởi chưa biết tôi sẽ thống trị Mẫn ra sao?”. Quả thật, chiến thắng kẻ

thù bằng xương, bằng thịt có khi còn dễ hơn đánh lùi những lề thói cũ kỹ, lạc

hậu trong đầu óc mỗi con người, ngay cả ở những người được coi là tiên tiến.

***

Đọc Phan Tứ, ta ít thấy cái sôi nổi, ồn ào của những cảm xúc bồng bột,

mà thấy một cái gì trầm tĩnh, lắng đọng. Những ai trong chúng ta chưa có

điều kiện được đi, được biết về miền Nam trong những ngày rực lửa thì qua

sáng tác của Phan Tứ, cũng có thể hình dung được phần nào cái bề bộn,

căng thẳng, khẩn trương, ác liệt của cuộc đọ sức giữa ta và địch, đồng thời

với cái không khí đầm ấm, yêu thương, đùm bọc của xóm làng, của đồng bào,

đồng chí, và bao trùm lan tỏa lên trên tất cả là một tinh thần lạc quan cách

mạng, khiến cho ngay giữa những ngày đen tối, ngột ngạt, bom đạn ác liệt,

cuộc sống mới vẫn cứ mở dần ra và thế tất những gì muốn đẩy lùi lịch sử sẽ

bị lịch sử đẩy lùi. Thực tế của cách mạng miền Nam nói chung và của đồng

bằng Trung Trung Bộ nói riêng đã diễn ra như vậy. Phan Tứ là nhà văn có

Page 293: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

tâm hồn, có tài năng, lại chịu khó lăn lộn trong thực tế, chịu khó thu lượm tài

liệu và cố gắng suy nghĩ, vật lộn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, nên anh

đã đạt được một số thành công đáng kể.

Tuy nhiên, hiện thực được phản ánh trong sáng tác Phan Tứ cũng có

phần chưa thỏa mãn người đọc, mặc dầu anh cố gắng bám sát thực tế nóng

hổi của miền Nam. Hiện thực ở ngòi bút Phan Tứ, đôi khi có một vẻ hơi tròn

trĩnh, trong đó các thế đối lập chưa thật gay go, chưa nói lên được cái dữ dội

khốc liệt như Ở xã Trung Nghĩa của Nguyễn Thi, hoặc Đất Quảng của

Nguyễn Trung Thành.

Cùng với khả năng đề cập những vấn đề xã hội có ý nghĩa, qua các tác

phẩm của mình, Phan Tứ đã từng bước phát triển khả năng khái quát nghệ

thuật. Từ Về làng, đến Gia đình má Bảy rồi Mẫn và tôi, bước phát triển đó rất

rõ trong việc dựng lại những bức tranh lớn của đời sống, theo dõi số phận

của nhiều lớp người, đi sâu vào những mối quan hệ và những chân dung tiêu

biểu.

Đọc anh, càng về sau, tuy còn ít, nhưng chúng ta đã bắt gặp những

cảm thụ rất nghệ sĩ mà nếu nhà văn không thực sự rung động thì không sao

mô tả được. Có những đoạn xúc động như lúc Thiêm bị thương nặng gặp

Mẫn, lần Mẫn đến bệnh viện thăm Thiêm… Có những đoạn, những cảnh

thấm đượm chất thơ như đoạn tả hoa bông bạc, cảnh đạp chè giữa đêm

trăng… Anh biết thuật lại linh hoạt, dí dỏm, những cuộc đối thoại, làm cho

người đọc tưởng như chính mình cũng đang tham gia trao đổi, bàn bạc. Phan

Tứ biết cách dẫn dắt vấn đề một cách tự nhiên, sinh động, đi từ chuyện mình

đến chuyện người, chuyện đời, có khi cả chuyện xưa, chuyện nay. Có thể đây

là mặt mạnh của Phan Tứ, rõ nhất trong Mẫn và tôi, có điều chưa phải đã trở

thành phong cách ổn định. Ai cũng biết rằng muốn có những cuốn tiểu thuyết

lớn vừa lôi cuốn, hấp dẫn người đọc, vừa nâng được tầm tư tưởng của họ

lên, người viết phải được trang bị rất nhiều thứ. Đối với Phan Tứ, có thể là

yếu tố lãng mạn, là sức tưởng tượng, là những cảm xúc nóng bỏng, mãnh liệt

Page 294: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

hoặc tươi mát cần được tăng cường nhiều hơn nữa. Phải chăng, chính vì cái

phần chưa nhiều ấy, mặt khác là hiện thực được phản ánh thường còn ít thấy

cái gồ ghề, góc cạnh, thêm vào đó là một số nhân vật của anh thường sinh

phân tích, lý giải, nghĩ nhiều hơn cảm…, nên một số nhà phê bình cho rằng

Phan Tứ hãy còn “tỉnh quá” trong khi tái hiện hiện thực chăng? Phan Tứ

thông minh, sắc sảo, có lý trí sáng suốt, cái đó rất cần cho một nhà tiểu

thuyết, nhưng nếu để cho phần lý trí lấn át phần cảm xúc, sự tỉnh táo che lấp

sự say mê thì lại trở thành một nhược điểm. Đọc anh, đôi khi ta thấy nặng nề

bởi sự bề bộn các sự kiện. Người đọc có cảm giác, cái hướng dẫn ngòi bút

nhà văn nhiều khi là vấn đề, là sự kiện, là phong trào, chứ chưa phải là cuộc

sống của bản thân nhân vật, thế mà vấn đề rất quan trọng của tiểu thuyết lại

là vấn đề nhân vật. Cũng vì vậy, nhiều chương, nhiều đoạn của anh còn ở

mức ghi chép, ít gắn bó với việc làm sáng tỏ số phận nhân vật. Một số suy

nghĩ hay vấn đề mà nhà văn muốn đem đến cho người đọc lắm lúc còn lộ liễu

do phải diễn tả bằng đối thoại, bằng những trang lý thuyết, chứ chưa toát ra

từ chính sự việc hay hình tượng nhân vật. Người đọc khó có thể tin rằng một

người có nhiều suy nghĩ, với một quan niệm sống riêng đã ăn sâu vào nếp

cảm, nếp nghĩ như Hảo (Mẫn và tôi) lại có thể dễ dàng chuyển biến sau một

hồi thuyết phục của Thiêm. Bởi những lẽ trên, truyện dài của Phan Tứ cũng

có nhiều trang phải kiên nhẫn mới đọc được.

Nhìn chung, sáng tác của Phan Tứ tuy còn có nhược điểm, nhưng càng

về sau, truyện của anh càng có sức hấp dẫn hơn, không những ở nội dung tư

tưởng mà cả ở giá trị nghệ thuật, từ cách xây dựng nhân vật, bố cục, lời văn,

ngôn ngữ… Nhất là lời văn ở Mẫn và tôi so với hai tác phẩm trước thì đã tiến

một bước dài. Văn anh viết sắc gọn, trau chuốt, gợi cảm, giàu hình ảnh, có

những so sánh, ví von khá thú vị, với một ngôn ngữ ngày càng phong phú,

súc tích, có chọn lọc.

Có thể nói, bằng sáng tác của mình, đặc biệt là Mẫn và tôi, Phan Tứ đã

có đóng góp đáng quý cho nền văn học cách mạng miền Nam. Với sức viết

luôn luôn tự vượt mình, người đọc còn hy vọng nhiều hơn ở anh.

Page 295: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Truyện ngắn NGUYỄN SÁNGKhông phải Nguyễn Sáng không có ý định viết truyện dài. Anh đã cho in

truyện vừa Chiếc áo thằng hình rơm (Nxb. Giải phóng, 1973), và đã cho đăng

dần trên tạp chí Tác phẩm mới (1974) một số chương của truyện dài Mùa gió

chướng. Nhưng trong hoàn cảnh miền Nam vào những ngày chống Mỹ ác

liệt, anh tập trung sức lực vào truyện ngắn. Anh đã từng nói: “Tôi rất thích viết

tiểu thuyết. Ngay lúc bắt đầu lên đường về chiến trường, tôi đã nghĩ đến tiểu

thuyết. Nhưng khi sống trong thực tế của bom đạn, tôi nghĩ biết sống biết chết

lúc nào mà để dành. Có cái gì viết cái ấy, phục vụ ngay. Phải đánh trả lại kẻ

thù từng miếng, từng nhát, thật sâu”.

Năm 1968, anh viết tập truyện ngắn Chiếc lược ngà; và tiếp ngay năm

sau, anh cho xuất bản tập truyện Bông cẩm thạch.

Hai tên truyện gợi cho người đọc nghĩ ngay đến những vật kỷ niệm nhỏ

nhắn, xinh xắn nào đó của một cuộc sống êm ả. Đúng, đấy là những kỷ niệm.

Nhưng có điều đó không phải là những kỷ niệm bình thường của một cuộc

đời phẳng lặng mà là những kỷ niệm có khi nhòa lẫn máu của những ngày

chống Mỹ ác liệt, những ngày nổi dậy của Cửu Long cuộn sóng. Cái ý ấy, có

lúc anh đã nói đến một cách bóng gió: “Sông Cửu Long lúc nào cũng có sóng.

Đừng thấy dòng sông lặng lẽ mà bảo dòng sông không có sóng; sóng đang

nổi lên từ dưới đáy, người ta gọi đó là sóng ngầm”.

Đầu xuân năm 1968, Sài Gòn với những đợt sóng ngầm đã đến lúc dậy

lên ồ ạt, dữ dội. Sài Gòn những ngày tổng công kích, ta có dịp hiểu rõ hơn về

con người Sài Gòn, đủ mọi tầng lớp, với lòng yêu nước tha thiết và lối đánh

giặc theo “kiểu Sài Gòn” của họ. Tiếng súng trên đường phố Sài Gòn, Sài

Gòn dưới những tầng khói là hai bút ký Nguyễn Sáng tranh thủ ghi nhanh trên

đường phố. Tuy đấy mới chỉ là vài nét phác họa nhưng người đọc vẫn không

sao quên hình ảnh mười ba cô gái đẩy lui cả một tiểu đoàn quân Mỹ. Cuối

cùng các cô đều bị thương nặng. Biết rằng mình không thể sống được nữa,

Page 296: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

các cô bắn đến viên đạn cuối cùng rồi nằm bên nhau cất tiếng hát. Câu

chuyện đẹp và kỳ diệu như một truyền thuyết.

Truyện Nguyễn Sáng thường chứa đựng những yếu tố “kỳ diệu” như

thế. Nói kỳ diệu là nói những chuyện lạ. Nhưng với Nguyễn Sáng, đó là

những chuyện lạ đã trở thành bình thường, những chuyện lạ không phải do

“phép tiên” mà có, nó được làm nên bởi những con người bình thường.

Cái “kỳ diệu” đó không có chút gì xa lạ, vì đó chính là chất thơ, chất anh

hùng tràn đầy trong cuộc sống chiến đấu của chúng ta. Nguyễn Sáng là

người viết có ý thức khai thác đề tài và khơi nguồn cảm hứng của mình trong

những điều kỳ diệu đó của cuộc sống. Kể một câu chuyện bình thường nhất

về một người mẹ, một “người đàn bà Đồng Tháp” chỉ muốn sống hòa bình, lo

làm ăn, nuôi con, anh cho thấy rõ một cách hết sức tự nhiên bước chuyển

quan trọng trong ý thức tư tưởng của người phụ nữ Việt Nam: “Thời bây giờ

đánh với Mỹ, người mẹ muốn nuôi con cũng phải có súng”. Phải chăng, trên

đất lửa của chúng ta, cái ý thức đó chính là sự khởi đầu chủ nghĩa anh hùng

của biết bao nhiêu người vợ, bà mẹ?

Một truyện khác: Một chuyện vui, kể chuyện anh Bảy Ngàn trên đồng

nước bị trực thăng vây bố, sau hai lần hụt chết, ung dung đến ngồi bên một

cây tràm bị tên lửa bắn, còn nghi ngút khói, hút thuốc, thở khói phà phá. Câu

chuyện mấy lần hụt chết đó lại cứ như là “một chuyện vui”, chẳng mới mẽ gì,

thế nhưng cái điều kỳ diệu về tư thế ung dung, coi thường nguy hiểm, xem

thường kẻ địch lại gây một ấn tượng sâu trong người đọc. Qua anh Bảy Ngàn

ta thấy một nét tiêu biểu về tính cách anh hùng của con người miền Nam.

Nói được một cái gì thật kỳ diệu trong những điều tưởng chừng rất bình

thường của cuộc sống, đó là đóng góp đáng chú ý ở Nguyễn Sáng.

***

Nhưng làm quen với Nguyễn Sáng, người đọc được tiếp xúc nhiều hơn

với những câu chuyện được xây dựng trên những tình tiết ngẫu nhiên, bất

ngờ, lắm khi gay cấn, căng thẳng, đầy tính kịch. Thật ra thì hai hiện tượng

Page 297: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

trên không có gì mâu thuẫn với nhau, vì nó cùng thống nhất trong mục đích

chung của tác giả là nói cho được những điều lớn lao kỳ diệu của cuộc sống.

Người đọc thấy được điều đó qua những mẩu đời bình thường như

trong Người đàn bà Đồng Tháp hay Một chuyện vui…

Nhưng người đọc sẽ càng thấy được điều đó trong những tình huống

khác như Quán rượu người câm, Chiếc lược ngà…

Quán rượu người câm là câu chuyện anh Ba Hoành bị địch bắt năm

1956, tra tấn đến hóa câm. Anh về nhà, ở với vợ, dọn một hàng rượu, ở quán

rượu ”người câm” được nghe đủ mọi thứ chuyện về tội ác của kẻ thù, về sức

căm thù quật khởi của nhân dân. Cho đến ngày đồng khởi, nhân dân chờ đợi

người lãnh đạo xuất hiện. Phút chờ đợi thật nghiêm trang. Nhưng không ngờ

người đó lại chính là anh: “Bốn năm rồi, tôi không nói, không phải tôi câm. Mà

tôi im lặng. Đã đến lúc chúng ta không im lặng được nữa!”

Bốn năm im lặng trong tư thế một người câm! Một tiếng nói cất lên

đúng vào hôm đồng khởi, cùng với tiếng hò reo, tiếng súng nổ dậy trời của

nhân dân phá thế kìm kẹp của kẻ thù! Cái thế giới mà người đọc được

Nguyễn Sáng đưa vào quả là kỳ lạ! Thêm vào đó là chi tiết về một em bé gái

mười sáu tuổi, em bé trước mặt một tên phản bội đến năn nỉ xin em đầu thú

bỗng hất tóc ra sau vai và nói như nghiến: – “Chú Hai! Chú sợ chết hả! Chú

hãy nhìn tôi đây này!”, rồi “thè lưỡi, mắt long lên, đưa quả đấm đánh vào cằm

mình”. Quả là những chuyện bất ngờ đến làm ta nín thở vì căng thẳng, hồi

hộp!

Cũng hồi hộp nhưng không đến nỗi căng thẳng như trên là những gặp

gỡ như trong Chiếc lược ngà. Một người cha về thăm nhà, con không nhận

mặt, vì anh có một vết sẹo, không giống như trong hình. Một cô con gái khi

nhận ra cha, chỉ ao ước có một chiếc lược ngà. Người cha chưa kịp gửi quà

cho con thì bị hy sinh. Một người bạn nhận lấy nhiệm vụ chuyển món quà kỷ

niệm đó cho cô con gái. Một cô giao liên trên đường công tác. Một câu

chuyện được kể lại… Tất cả khớp với nhau và trước mặt ta bây giờ, những

Page 298: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

hình ảnh, những chi tiết tưởng như rời rạc đó bỗng nhiên gắn với nhau, tạo

nên một bức tranh xúc động về tình cha con, về tình đồng chí, về những mất

mát lớn lao mà chúng ta phải chịu đựng trong chiến đấu, và về những bù đắp

quý giá mà cách mạng đem lại cho mỗi người…

Trong Bông cẩm thạch, Nguyễn Sáng cũng đã dựng được một câu

chuyện gặp gỡ ngẫu nhiên mà xúc động như thế giữa hai mẹ con cùng đi làm

cách mạng, cho ta thấy tấm lòng thủy chung và thương yêu rất đẹp của con

người miền Nam. Thiên truyện cũng đồng thời cho thấy những hiểu nhầm,

những mất mát đau thương, những uẩn khúc chưa thể giải tỏa của con người

chỉ có thể giãi bày khi cuộc chiến đấu nổ ra, khi đã chấm hết cái thời khắc nén

lặng, chờ đợi trong bóng tối và kìm kẹp của kẻ thù, để cho tiếng súng cất lên.

***

Truyện Nguyễn Sáng giàu chi tiết sống. Nhưng chi tiết đối với anh

không phải là một thứ trang sức để phô bày. Chi tiết được anh dùng trước hết

là nhằm khắc họa nhân vật.

Tả người câm rất dễ có những nét chung chung, nhưng hình ảnh anh

Ba Hoành trong Quán rượu người câm thì thật khó quên. Qua cách nhận xét

của kẻ địch: “Thằng cha câm khi nó muốn ngủ với vợ, nó không ú ớ mà ư ư

như rên, khi nó bị vợ phủi tay thì nó kêu á á, khi vợ nó kéo tới thì nó à à, một

lần nữa chúng xác định tên tù ấy câm thật”. Qua cách hiểu của ta: “ông câm

nhưng ông thấy, ông nghe, ông biết”, “ông uống rượu như ông uống thuốc

độc”, “ông khóc nhưng không phải khóc bằng nước mắt mà khóc bằng nước

miếng. Đó là kiểu khóc của người câm”.

Cùng miêu tả lớp trẻ, nhưng với Nguyễn Sáng, mỗi người một nét khác

nhau. Thế hệ trẻ vốn là lớp người Nguyễn Sáng vốn rất nâng niu và quý

trọng. Ai chẳng biết tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất trong đời người, nhưng nếu cần

hy sinh, họ không ngần ngại dâng cả cuộc đời của mình cho hạnh phúc chung

của mọi người. Trong chiến đấu, lớp trẻ miền Nam quả đã tỏa ra những ánh

sáng chói ngời, xứng đáng với cha anh. Chính họ đã tô điểm cho cuộc sống

Page 299: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

thêm tươi vui. Ai mà chẳng yêu cô xã đội trưởng xinh đẹp, dũng cảm mà lại

chúa nghịch ngợm trong Chị xã đội trưởng. Cô “thử thách” người yêu bằng

cách nói rằng mình bị cháy đen thui thủi, làm anh đại đội phó, người yêu của

cô, cứ ngơ ngẩn cả người. Tác giả cũng nhân dịp đó mà “chen ngang” một

nhận xét dí dỏm của anh về lớp trẻ: “Tôi không dám bàn luận về tình yêu,

nhưng tôi nghĩ, điều mà chị xã đội trưởng bày ra cho thêm rắc rối đó là cái

chất trẻ đẹp của tình yêu mà bom đạn của giặc Mỹ không thể nào giết chết

được. Đứng trong cuộc sống chiến đấu đầy bom đạn, chẳng biết lúc nào mình

bị hy sinh, bị tàn tật, nhưng điều đó không ám ảnh được chị. Chị vẫn sống

một cách bình thường, vẫn yêu, yêu một cách rắc rối và hồn nhiên như vậy

đó. Và đó là sức mạnh của chị”.

Không giống với chị xã đội trưởng, cô gái Khơ-me Sa-rết lại rất dịu

dàng, kín đáo trong tình yêu, một tình yêu không bộc lộ ra ngoài nhưng thật

nồng cháy bên trong… Suốt bao nhiêu năm trời cô giữ gìn chiếc áo của người

yêu, khác nào người con gái trong ca dao: “Áo xông hương của chàng vắt

mắc. Đêm em nằm em đắp lấy hơi”. Rồi từ chiếc áo của Sa-rết gửi cho bộ

đội, đi theo bước chân của chồng, mà dệt nên cả một câu chuyện đẹp như cổ

tích…

Cùng miêu tả các cô giao liên, nhưng qua ngòi bút Nguyễn Sáng, mỗi

người vẫn có một vẻ riêng. Thu trong Chiếc lược ngà rất thông minh và bình

tĩnh. Người ta kháo rằng cô “có cái mũi rất thính, cô dùng mũi để nghe mùi

địch và có thể phân biệt được thằng nào là Mỹ, thằng nào là ngụy nữa”.

Nhung trong Chị Nhung, thì quả có cái bề ngoài của một phụ nữ Sài Gòn

đúng mốt: cưỡi xe Hon-đa, mang kiếng mắt đen, quần ống hẹp và áo bó sát

thân người. Trinh, Phương trong Người bạn mới quen có những nét mơ

mộng của những nữ sinh viên mới gia nhập hàng ngũ bộ đội; còn Mì trong

Bông cẩm thạch thì ít nói, gan góc, nén chịu rất giỏi những đau thương riêng

của bản thân mình. Ánh trong Chị xã đội trưởng lại hồn nhiên, nhí nhảnh…

Page 300: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Rõ ràng họ là những bông hoa tươi thắm trong cuộc chiến đấu chống

Mỹ. Không giống với những ngày kháng chiến chống Pháp, các giao liên

thường là thiếu nhi. Ngày nay trong cuộc chiến đấu với tên đầu sỏ đế quốc

Mỹ, các giao liên thường lại là nữ. Nguyễn Sáng có đóng góp trong việc xây

dựng hình ảnh loại nhân vật này.

Có điều cần chú ý là lâu nay trong các bài hát cũng như trong thơ,

truyện, cuộc sống người giao liên mới được miêu tả ở khía cạnh bay bổng,

nhẹ nhàng, hoặc ở sự mưu trí lanh lẹ trong mọi tình huống. Đúng, đấy là

những thực tế cần phải ca ngợi và miêu tả. Nhưng người viết đừng để người

đọc hiểu lệch về cuộc sống của người giao liên chỉ là những trang thơ đầy

màu xanh của cây rừng hoặc đầy hoa bướm. Cuộc đời của họ phải chịu bao

vất vả và gian khổ, phải đương đầu với bao nhiêu khó khăn: một mình đảm

nhiệm mọi công tác giữa thiên nhiên rộng lớn, bí hiểm và lắm khi khắc nghiệt;

một mình tác chiến đơn độc; một mình phụ trách biết bao sinh mệnh con

người.

Có thể nói nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Sáng là những con

người được vươn lên trong ánh sáng của cách mạng. Những nét u buồn

không đọng lâu trong con người họ. Khó khăn, mất mát, chết chóc là điều khó

tránh khỏi trong cuộc chiến đấu ác liệt này, nhưng điều đó không hề làm giảm

lòng tin của họ vào chiến thắng ngày mai. Niềm lạc quan và lòng tin đó toát

lên trong mọi truyện ngắn của Nguyễn Sáng, đó là dụng ý của tác giả. Anh

muốn gieo vào lòng người đọc niềm tin, lòng yêu đời để sống và chiến đấu.

Mỗi nhà văn có một sở trường. Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành cho

ta hình dung một cuộc sống rất mực dữ dội, khốc liệt trong sự đối mặt giữa ta

và địch. Anh Đức, Phan Tứ đi sâu vào quá trình vùng dậy của nhân dân. Trần

Hiếu Minh hướng vào cả một quá trình cuộc sống bề bộn các sự kiện.

Nguyễn Sáng không thế, anh đi vào từng mảng nhỏ của đời sống, làm cho

thấy sự kết hợp giữa chất anh hùng cao cả và chất thơ trong trẻo, đơn giản.

Page 301: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Nhưng phải chăng có thể xem đây là một nhược điểm của tác giả: trong

truyện ngắn của anh, ta chưa hề thấy có một nhân vật phản diện nào. Chính

anh đã từng khẳng định là những nhân vật chính diện trong các tác phẩm

miền Nam “đã trở thành những điển hình sống, phong phú, đa dạng, có sức

chinh phục và thuyết phục lòng người, ngược lại, những nhân vật phản diện

vẫn còn mờ nhạt, nó tàn bạo đó, nó giết người đó, nó ăn thịt người nữa, nó lố

lăng, nó lưu manh, nhưng đọc rồi, ta vẫn cứ thấy nó mờ mờ. Bởi vì ta chỉ thấy

cái bên ngoài”. Qua ý kiến phát biểu trên của nhà văn, ta hiểu được sự băn

khoăn chính đáng của anh và càng thấy quý sự chân thật và tinh thần trách

nhiệm của anh đối với người đọc. Nếu như trong một hai tác phẩm không có

bóng dáng tên phản diện thì cũng chẳng sao, nhưng nếu là cả một chuỗi tác

phẩm viết về hiện thực miền Nam mà không hề đả động đến bọn chúng thì

điều đó không phải là không đáng tiếc.

Giàu chi tiết sống, lắm tình huống bất ngờ, truyện Nguyễn Sáng thường

mang nhiều chất kịch, có thể xem đó là phong cách của anh. Truyện của anh

bao giờ cũng có khía cạnh làm cho người đọc hồi hộp, chờ đợi. Kết thúc

truyện bao giờ cũng đột ngột, người đọc khó đoán trước được.

Nhưng có điều, chất ly kỳ đó hoàn toàn không phải là do anh bịa đặt

hoặc thêm thắt vào, mà chính do cuộc sống gợi ra.

Quán rượu người câm quả là chuyện lạ, nhưng trong cuộc sống miền

Nam, những chuyên lạ như thế đâu phải là hiếm.

Nguyễn Sáng vốn là cây bút khéo sử dụng các yếu tố ngẫu nhiên,

nhưng đó là cái ngẫu nhiên tự nhiên, có thể xảy ra, đóng vai trò là chất xúc

tác thực sự, đẩy các tình huống phát triển. Những cuộc gặp gỡ bất ngờ luôn

luôn là đường mối chính cho những truyện ngắn của anh. Nhưng sau cái vẻ

ngẫu nhiên bên ngoài, anh bao giờ cũng cho ta thấy cái cốt tất yếu, hợp lý

bên trong. Người đọc tự nghĩ: cuộc sống cách mạng là thế, đầy những điều

kỳ diệu!

Page 302: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Cuối cùng, có thể nói, truyện ngắn Nguyễn Sáng tuy đậm tính kịch

nhưng vẫn mang nhiều chất trữ tình. Không ít truyện của anh thường được

gội trong không khí của những kỷ niệm như Chiếc lược ngà, Bông cẩm thạch.

Và đằng sau những kỷ niệm là tất cả mối dây bền chặt của những mối quan

hệ giữa con người: tình cha con, mẹ con, tình đồng chí, tình bạn, tình yêu.

Nguyễn Sáng cố không tham gia bình phẩm, nhưng xúc động của người viết

thường vẫn không giấu được.

***

Đọc xong truyện ngắn của Nguyễn Sáng, người đọc càng thêm tự hào

về con người đồng bằng sông cửu Long. Chỉ với truyện ngắn, anh đã có thể

phác vẽ cho ta hình thù, dáng nét con người miền Nam bình thường mà kiên

trung, bất khuất, lạc quan qua những anh Ba Hoành, Bảy Ngàn, vợ chồng ông

già Sa Thét, chị Bảy, Thu, Nhung.., Có thể nói, thế giới nhân vật truyện ngắn

của anh đã góp phần tạo nên một hình ảnh nhuần nhị, nên thơ về chủ nghĩa

anh hùng cách mạng Việt Nam.

Phụ lục. BẢNG KÊ TÁC GIẢ VĂN XUÔI HIỆN ĐẠILỜI CHỈ DẪN

1.Bảng này chọn ghi tương đối rộng rãi những tác giả văn xuôi đã có

sáng tác được in thành sách và được dư luận chú ý qua các thời kỳ.

2.Tác giả xếp theo thứ tự a, b, c… của vần cuối bút danh. Tác phẩm

của mỗi tác giả ghi theo thứ tự năm xuất bản, cho đến năm 1975.

3.Nói chung, ở mỗi tác giả chỉ ghi những tác phẩm chính, được xuất

bản ở các nhà xuất bản Trung ương, không ghi những tác phẩm lẻ tẻ, chưa in

thành sách, hoặc in chung với nhiều người, trừ một số trường hợp đặc biệt;

cũng không ghi các tác phẩm thuộc các thể loại khác như thơ; những tác

phẩm viết cho thiếu nhi in ở Nhà xuất bản Kim Đồng cũng sẽ dành một dịp

khác.

Page 303: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Số

thứ

tự

Tác giả Tác phẩm Thể loạiNhà xuất bản/

Năm xuất bản

1 2 3 4 5

1 Bùi Đức Ái Lão anh hùng dưới

hầm bí mật

Truyện Văn nghệ, 1956

Con cá song Truyện ngắn Văn học, 1959

Một chuyện chép ở

bệnh viện

Truyện Văn học, 1959

Biển xa Tập truyện Văn học, 1961

2 Hoàng Thị Ái Một lòng với Đảng Hồi ký Phụ nữ, 1964

3 Hoài An Chuyện làng Tập truyện,

Văn học, 1963

Trong vỉa than ngầm Tập truyện,

Thanh niên,

1964

Chuyện chép trên

đường kháng chiến

Tập truyện,

Văn học, 1971

4 Trịnh Xuân An Đường trở về Tập truyện Văn học, 1960

5 Vân An Nghĩa vụ Truyện ngắn Văn học, 1959

Lòng tin Tập truyện Văn học, 1961

Bám đất Tiểu thuyết Thanh niên,

1971

6 Hoàng Ngọc

Anh

Xóm thợ Trường Thi Tiểu thuyết Lao động, 1975

7 Hà Ân Quận He khởi nghĩa Tiểu thuyết Quân đội nhân

Page 304: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

dân, 1963

Ánh đèn xanh Truyện Lao động, 1967

Tổ quốc kêu gọi Tiểu thuyết Quân đội nhân

dân, 1972

8 Trần Bảo Hạt máu Hồi ký Loa động, 1970

9 Vũ Bão Sắp cưới Tiểu thuyết Hội nhà văn,

1957

Phá đám Truyện Thanh niên,

1958

Khe Tre Ký sự Quân đội nhân

dân, 1971

Xe tăng ta Ký sự Quân đội nhân

dân, 1973

10 Lê Bầu Thông reo Tập truyện Văn học, 1962

11 Trần Tứ Bình Phú Riềng đỏ Hồi ký Lao động, 1965

12 Vi Thị Kim Bình Đêm giao thừa Truyện ngắn Văn học 1966

13 Ngô Ngọc Bội Chị Cả Phây Tập truyện Văn học, 1963

Ao làng Tiểu thuyết Văn học, 1975

14 Triệu Bôn Mầm sống Tập truyện,

Quân đội nhân

dân, 1970

Cửa ngõ mặt trận Tập truyện,

Giải phóng,

1975

15 Thu Bồn Chớp trắng Tiểu thuyết Giải phóng,

1973

Dưới đám mây màu Tiểu thuyết Thanh niên,

Page 305: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

cánh vạc (2 tập) 1975

16 Hoàng Văn

Bồn

Bông hường bông

cúc

Truyện Lao động, 1957

Có những lớp người Truyện Lao động, 1958

Mùa mưa Tiểu thuyết Quân đội nhân

dân, 1960

Trên mảnh đất này Tiểu thuyết Quân đội nhân

dân, 1962

17 Nguyễn Văn

Bổng

Hàm Rồng ký Văn học, 1968

Sóng Hòn Mê ký Quân đội nhân

dân, 1971

Con trâu Tiểu thuyết Văn nghệ, 1953

Cắm thẻ Đồng Câu Truyện Văn nghệ, 1955

Bếp đỏ lửa (2 tập) Tiểu thuyết Văn nghệ, 1955

Người chị Tập truyện Văn học, 1960

Đón một mùa xuân

mới từ miền Nam

ký Văn học, 1961

Đường về Nam Truyện phim Văn học, 1963

Áo trắng Truyện Thanh niên,

1973

18 Xuân cang Suối gang Tiểu thuyết Quân đội nhân

dân, 1960

Lên cao Tập truyện Văn học, 1962

Đôi cánh Truyện Lao động, 1967

Page 306: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Những vẻ đẹp khác

nhau

Tập truyện Văn học, 1971

19 Nam Cao Chí Phèo Truyện Đời mới, 1941

Nửa đêm Tập truyện Cộng lực, 1943

Chuyện một người

hàng xóm

Truyện Trung Bắc chủ

nhật, 1944

Sống mòn Tiểu thuyết Viết năm 1944,

văn nghệ in

1956

Đôi mắt Truyện ngắn 1948

Ở rừng Nhật ký 1948

Bốn cây số cách một

căn cứ địch

Truyện ngắn 1949

Chuyện biên giới Ký Văn nghệ, 1951

20 Vũ Cao Đất nước một giải Ký Quân đội nhân

dân, 1955

Truyện một người bị

bắt

Truyện Quân đội nhân

dân, 1957

Những người cùng

làng

Tiểu thuyết Quân đội nhân

dân, 1961

Từ một trận địa Tập truyện Văn học, 1969

21 Lương Sĩ Cầm Ánh lửa Tập truyện Văn học, 1962

Page 307: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Giữ vững Thèn Chu Tập truyện Quân đội nhân

dân, 1962

22 Hồng Châu Trường Sơn hùng

tráng

Bút ký Văn học, 1967

23 Nguyễn Minh

Châu

Cửa sông Tiểu thuyết Văn học, 1967

Những vùng trời

khác nhau

Tập truyện Văn học, 1970

Dấu chân người lính Tiểu thuyết Thanh niên,

1972

24 Nông Minh

Châu

Ché Mèn được đi

họp

Truyện ngắn Văn học, 1959

Muối lên rừng Tiểu thuyết Văn học, 1964

25 Đỗ Chu Phù sa Tập truyện Văn học, 1967

Vòm trời quen thuộc Tập ký Thanh niên,

1969

Gió qua thung lũng Tập truyện

Văn học, 1971

Đám cháy trước mặt Tiểu thuyết Thanh niên,

1973

26 Đình Chương Như cánh chim bay Tiểu thuyết Văn học, 1960

27 Hồng Chương Ngược đường số

chín

Truyện Quân đội nhân

dân, 1958

Một luồng gió mới Tiểu thuyết Văn học, 1959

Page 308: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

28 Lê Chưởng Trời sắp sáng Tiểu thuyết Văn học, 1964

29 Văn Dân Nắng giữa đồng Tiểu thuyết Văn học, 1962

30 Châu Diên Con nhện vàng Tập truyện Thanh niên,

1962

31 Xuân Diệu Phấn thông vàng Tập truyện Đời nay, 1939

Miền Nam nước Việt

và người Việt miền

Nam

Ký Đoàn xuất bản

Bắc Bộ, 1946

Việt Nam nghìn dặm Ký 1946

Việt Nam trở dạ Ký Văn nghệ, 1948

Ký sự thăm nước

Hung

Văn nghệ, 1956

Đi trên đường lớn Tập ký Văn học, 1968

32 Nguyễn Địch

Dũng

Hai vợ Tập truyện Văn học, 1959

Trai làng Quyền Tập truyện Văn học, 1965

Người ở nhà Tiểu thuyết Văn học, 1974

33 Quang Dũng Đường lên Châu

Thuận

Ký Văn nghệ, 1955

Rừng về xuôi Ký Văn học, 1964

Page 309: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Nhà đồi Truyện ký Văn học, 1970

34 Trần Đăng Truyện và ký sự Tập truyện,

Văn nghệ, 1954

35 Nguyễn Khoa

Điềm

Cửa Thép Ký Giải phóng,

1970

36 Xích Điểu Trắng đen Tập văn tiểu

phẩm

Phổ thông,

1960

Sau mặt nạ nhận vị Tiểu phẩm Phổ thông,

1961

Người hay vật Tiểu phẩm Phổ thông,

1962

Gạn đục khơi trong Tiểu phẩm Phổ thông,

1964

Cái đuôi con chó Tiểu phẩm Phổ thông,

1969

37 Nguyễn Thị

Định

Không còn con

đường nào khác

Hồi ký Phụ nữ, 1968

38 Trần Độ Kể chuyện Điện

Biên

Tập ký Văn học, 1964

Bên sông đón súng Hồi ký Thanh niên,

1964

39 Anh Đức Bức thư Cà Mau Tập truyện,

Văn học, 1966

Chim đầu đàn Truyện ký Quân đội nhân

dân, 1966

Page 310: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Hòn Đất Tiểu thuyết Văn học, 1966

Giấc mơ ông lão

vườn chim

Tập truyện,

Giải phóng,

1969

40 Lại Giang Trong vành đai diệt

Mỹ

Tập truyện,

Văn học, 1969

41 Trần Thanh

Giao

Dòng sữa Tập truyện Văn học, 1962

42 Võ Nguyên

Giáp

Khu giải phóng Ký Hội văn hóa

cứu quốc, 1946

Một vài hồi ức về

Điện Biên Phủ

Quân đội nhân

dân, 1964

Từ nhân dân mà ra Hồi ký Quân đội nhân

dân, 1964

Những năm tháng

không thể nào quên

Hồi ký Quân đội nhân

dân, 1970

43 Đoàn giỏi Cá bống mú Truyện Văn nghệ, 1955

Ngọn tầm vông Ký Văn nghệ, 1956

Trần Văn Ơn Truyện ký Thanh niên,

1957

Hoa hướng dương Tiểu thuyết Văn học, 1960

44 Dũng Hà Gió bấc Tập truyện Quân đội nhân

dân, 1963

Sao Mai Tiểu thuyết Quân đội nhân

dân, 1974

Page 311: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

45 Hồng Hà Lên công trường Ký Văn nghệ, 1956

46 Nam Hà Gió vịnh Cam Ranh Tập truyện,

Giải phóng,

1969

47 Nguyễn Sơn

Gió tươi Tập truyện Lao động, 1974

48 Trúc Hà Chuyện một người

cha

Tập truyện Văn học, 1960

49 Hoàng Hạc Ké Nàm Tập truyện Văn học, 1964

50 Song Hào Dưới ngọn cờ vinh

quang của Đảng

Hồi ký Quân đội nhân

dân, 1965

51 Siêu Hải Đại đội sơn pháo 75 Tập truyện Quân đội nhân

dân, 1964

52 Phạm Tường

Hạnh

Vợ chồng Bảy Thẹo Tập truyện Văn học, 1962

53 Trần Mai Hạnh Nắng Thu Bồn Truyện ký Giải phóng,

1975

54 Bùi Hiển Nằm vạ Tập truyện Đời nay, 1941

Ánh mắt Tập truyện Văn học, 1961

Đường vui xứ bạn Ký Văn học, 1962

Trong gió cát Tập truyện,

Văn học, 1965

Đường lớn Tập truyện,

Văn học, 1966

Page 312: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Những tiếng hát hậu

phương

Tập truyện Thanh niên,

1970

Hoa và thép Tập truyện Văn học, 1972

55 Tô Ngọc Hiến Người kiểm tu Tập truyện Thanh niên,

1974

56 Nguyễn Văn

Hiếu

Bạn bè ta khắp năm

châu

Tập ký Văn học, 1963

57 Hải Hồ Mùa xuân Tập truyện Văn học, 1960

Bài ca từ chiến hào Tập truyện Văn học, 1962

Người chiến sĩ trẻ Truyện phim Văn học, 1965

Những người cùng

tuyến

Tiểu thuyết Quân đội nhân

dân, 1973

58 Phạm Hổ Chuyện Võ Lang Tập truyện Văn nghệ, 1955

Vườn xoan Tập truyện Văn học, 1962

59 Lê Vĩnh Hòa Người tị nạn Tập truyện Giải phóng,

1972

60 Tô Hoài Dế mèn phiêu lưu ký Truyện Á Châu, 1941

Giăng thề Tập truyện Á châu, 1941

O chuột Truyện Tân Dân, 1941

Quê người Truyện Á Châu, 1942

Page 313: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Nhà nghèo Tập truyện Tân Dân, 1943

Cỏ dại Truyện Tân Dân, 1944

Núi cứu quốc Tập truyện Văn nghệ, 1948

Ngược sông Thao Phóng sự Cứu quốc,

1949

Xuống làng Tập truyện Văn nghệ, 1951

Chính phủ tạm vay Tập truyện Văn nghệ 1951

Truyện Tây Bắc Tập truyện Văn nghệ, 1953

Cứu đất cứu mường Tập truyện Văn nghệ, 1954

Tào Lường Tập truyện Văn nghệ, 1955

Khác trước Tập truyện Thanh niên,

1957

Mười năm Tiểu thuyết Hội nhà văn,

1958

Thành phố Lê-nin Bút ký Văn học, 1961

Vỡ tỉnh Tập truyện,

Văn học, 1962

Tôi thăm Cam-pu-

chia

Bút ký Văn học, 1964

Con mèo lười Tập truyện Văn học, 1964

Page 314: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Miền Tây Tiểu thuyết Văn học, 1967

Nhật ký vùng cao Tập ký Thanh niên,

1969

Tuổi trẻ Hoàng Văn

Thụ

Tiểu thuyết Thanh niên,

1971

Người ven thành Tập truyện,

Văn học, 1972

61 Nguyễn Công

Hoan

Kiếp hồng nhan Tập truyện Tác giả xuất

bản, 1923

Tay trắng trắng tay Truyện dài Trịnh Văn Binh,

1932

Hai thằng khốn nạn Tập truyện Mai Lĩnh, 1934

Kép Tư Bền Tập truyện Tiểu thuyết thứ

7, 1935

Tắt lửa lòng Truyện Phổ thông bán

nguyệt san,

1936

Cô giáo Minh Truyện Phổ thông bán

nguyệt san,

1936

Tấm lòng vàng Truyện Đời mới, 1937

Tơ vương Truyện 1938

Đào kép mới Tập truyện Phổ thông bán

nguyệt san,

Page 315: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

1938

Sóng vũ môn Tập truyện Phổ thông bán

nguyệt san,

1938

Bước đường cùng Truyện Phổ thông bán

nguyệt san,

1938

Người vợ lẽ bạn tôi Tập truyện Phổ thông bán

nguyệt san,

1939

Lá ngọc cành vàng Truyện Phổ thông bán

nguyệt san,

1939

Ông chủ báo Tập truyện Phổ thông bán

nguyệt san,

1940

Trên đường sự

nghiệp

truyện Phổ thông bán

nguyệt san,

1941

Lệ Dung truyện Đời mới, 1943

Thanh đạm Truyện Đời mới, 1943

Nghịch cảnh Truyện Đời mới, 1943

Bơ vơ Truyện Đời mới, 1944

Ông chủ, bà chủ Truyện Đời mới, 1944

Page 316: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Cô làm công Nhật ký Đời mới, 1944

Danh tiết Truyện Thụy ký, 1944

Người An Nam Truyện Đời mới, 1945

Cái thủ lợn Truyện Đời mới, 1945

Nông dân với địa

chủ

Tập truyện Văn nghệ, 1955

Tranh tối tranh sáng Tiểu thuyết Văn nghệ, 1956

Hỗn canh hỗn cư Tiểu thuyết Văn học, 1961

Tôi quyết sống Ký Văn học, 1962

Thăm nhà người

anh em chiến đấu

anh dũng

Bút ký Văn học, 1962

Đống rác cũ (I) Tiểu thuyết Văn học, 1963

Đời viết văn của tôi Hồi ký Văn học, 1971

62 Dân Hồng Quê mới Truyện Quân đội nhân

dân, 1961

Mở luồng Truyện Quân đội nhân

dân, 1968

63 Nguyên Hồng Bỉ vỏ Tiểu thuyết Đời nay, 1938

Bảy Hựu Tập truyện Tân Dân, 1941

Page 317: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Những ngày thơ ấu Tập truyện Đời nay, 1941

Qua những màn tối Truyện Phổ thông bán

nguyệt san,

1942

Cuộc sống Tiểu thuyết Tân Dân, 1942

Quán Nải Tiểu thuyết Tân Dân, 1943

Hơi thở tàn Tiểu thuyết Thời đại, 1943

Hai dòng sữa Tập truyện Hàn Mặc, 1943

Vực thẳm Truyện Hàn Mặc, 1944

Ngọn lửa Truyện Mới, 1944

Miếng bánh Tập truyện Đời nay, 1945

Địa ngục và lò lửa Tập truyện Minh Đức,

1946

Đất nước yêu dấu ký Văn nghệ, 1949

Đêm giải phóng Truyện Văn nghệ, 1951

Giữ thóc Truyện văn nghệ 1955

Sóng gầm Tiểu thuyết Văn học, 1961

Sức sống của ngòi

bút

ký Văn học, 1963

Page 318: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Cơn bão đã đến Tiểu thuyết Văn học, 1968

Bước đường viết

văn của tôi

Hồi ký Văn học, 1970

Thời kỳ đen tối Tiểu thuyết Văn học, 1973

64 Minh Huệ Ngọn cờ Bến Thủy Hồi ký Thanh niên,

1975

65 Trọng Hứa Gợi khổ Tập truyện Văn nghệ. 1954

Quê ta Tập truyện Văn nghệ, 1955

66 Thanh Hương Quán nhỏ Tập truyện Phụ nữ, 1958

Cô Tím Tập truyện Văn học, 1965

67 Nguyễn Khải Xây dựng Truyện Văn nghệ, 1951

Gặp mẹ Truyện Văn nghệ, 1952

Người con gái

quang vinh

Truyện Thanh niên,

1956

Mùa lạc Tập truyện Văn nghệ, 1960

Xung đột (tập I) Truyện Văn học, 1961

Xung đột (tập II) Truyện Văn học, 1962

Một chặng đường Truyện Văn học, 1962

Hãy đi xa hơn nữa Tập truyện Văn học, 1963

Page 319: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Người trở về Tập truyện Văn học, 1964

Họ sống và chiến

đấu

Ký Văn học, 1966

Hòa vang Ký Văn học, 1967

Đường trong mây Tiểu thuyết Văn học, 1970

Ra đảo Tiểu thuyết Quân đội nhân

dân, 1970

Chủ tịch huyện Truyện Văn học, 1972

Chiến sĩ Tiểu thuyết Quân đội nhân

dân, 1973

68 Ma Văn Kháng Xa Phủ Tập truyện Văn học, 1969

Mùa mận hậu Tập truyện Phụ nữ, 1972

Người con trai họ

Hạng

Tập truyện Thanh niên,

1972

Cái móng ngựa Tập truyện Lao động, 1973

Bài ca trăng sáng Tập truyện Văn học, 1974

69 Lê Khánh Những ngày vui Tập truyện Văn học, 1962

Một đêm đi Tập truyện Văn học, 1971

70 Xuân Khánh Rừng sâu Tập truyện Văn học, 1963

71 Lê Khâm Bên kia biên giới Truyện Quân đội nhân

Page 320: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

dân, 1958

Trước giờ súng nổ Tiểu thuyết Văn học, 1960

72 Nguyễn Kiên Trong làng Tập truyện Văn học, 1960

Lá rụng Truyện Văn học, 1962

Đồng tháng năm Tập truyện Văn học, 1963

Vụ mùa chưa gặt Tập truyện Văn học, 1965

Chân sóng Truyện Văn học, 1967

Nơi xa Tập truyện Thanh niên,

1969

Ngày và đêm ở hậu

phương

Truyện Văn học, 1970

Chuyến xe ra Tập truyện Văn học, 1972

Vùng quê yên tĩnh Tiểu thuyết Thanh niên,

1974

73 Phạm Kiệt Từ núi rừng Ba Tơ Hồi ký Quân đội nhân

dân, 1964

74 Huyền Kiêu Thung lũng nàng

tiên

Tập truyện Văn học, 1962

75 Lưu Quý Kỷ Miền Nam yêu quý ký Sự thật, 1955

Một phút về Nam Ký Thanh niên,

1973

Page 321: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

76 Lê Tri Kỳ Phố vắng Tập truyện Văn học, 1965

Một người không nổi

tiếng

Tập truyện Văn học, 1970

77 Kim Lân Làng Truyện ngắn 1948

Nên vợ nên chồng Truyện Văn nghệ, 1954

Cô gái công trường Truyện phim Thanh niên,

1960

Con chó xấu xí Tập truyện Văn học, 1962

78 Trần Huy Liệu Nghĩa Lộ vượt ngục

– Nghĩa Lộ khởi

nghĩa

Hồi ký Hội văn hóa

cứu quốc, 1946

Mặt trận dân chủ

Đông Dương

Hồi ký Sử học, 1960

Dưới hầm Sơn La Hồi ký Sử học, 1961

Đảng thanh niên Hồi ký Sử học, 1961

79 Hà Khánh Linh Thúy Tiểu thuyết Giải phóng,

1973

80 Văn Linh Mùa hoa dẻ Tiểu thuyết Thanh niên,

1957

Goòng Tiểu thuyết Văn học, 1960

Phim Pha Tập truyện Thanh niên,

1973

Page 322: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Pả Sua Tiểu thuyết Phụ nữ, 1975

81 Nguyễn Thành

Long

Bát cơm Cụ Hồ ký Văn nghệ, 1955

Hương Điền Ký Văn nghệ, 1955

Gió bấc, gió nồm ký Văn nghệ, 1958

Chuyện nhà, chuyện

xưởng

Tập truyện Văn học, 1962

Gang ra Tập truyện Văn học, 1964

Những tiếng vỗ cánh Tập truyện Văn học, 1967

Vuông cỏ Tập truyện Lao động, 1972

Giữa trong xanh Tập truyện Văn học, 1972

82 Minh Lộc Con đường sống Truyện Văn nghệ, 1953

Giữ đất Tập truyện Văn nghệ, 1955

83 Lưu Trọng Lư Huế một buổi chiều Truyện Phổ thông bán

nguyệt san,

1944

Chiến khu Thừa

Thiên

Ký Văn nghệ, 1952

Hòa bình đã trở lại ký Văn nghệ, 1954

Truyện cô Nhụy Truyện Văn học, 1962

Page 323: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

84 Lê Lựu Người cầm súng Tập truyện Văn học, 1970

Phía mặt trời Tập truyện Văn học, 1972

85 Hữu Mai Những ngày bão táp Tiểu thuyết Văn nghệ, 1957

Lứa tuổi tòng quân Truyện Văn nghệ, 1958

Cao điểm cuối cùng Tiểu thuyết Văn học, 1961

Đồng đội Tập truyện Quân đội nhân

dân, 1962

Phía trước là mặt

trận

Tập truyện Văn học, 1966

Vùng trời (tập I) Tiểu thuyết Quân đội nhân

dân, 1971

Dưới cờ trung hiếu Tùy bút Thanh niên,

1972

Vùng trời (tập II) Tiểu thuyết Quân đội nhân

dân, 1974

86 Sao Mai Trại di cư Pa Gốt

Hải Phòng

ký Văn nghệ, 1954

Thôn Bầu thắc mắc Tiểu thuyết Văn nghệ, 1957

Tìm đất Ký Văn học, 1966

Ba Vì núi mới Truyện ngắn Văn học, 1968

87 Lê Vũ Mai Con đò Tập truyện Văn học, 1960

Page 324: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Tre xanh Tập truyện Văn học, 1970

88 Lê Minh Mẻ gang đầu Tập truyện,

Văn học, 1965

Ngày mai sắp đến Tập truyện,

Văn học, 1969

89 Trần Hiếu Minh Cửu Long cuộn

sóng

Tập ký Văn học, 1965

Sài Gòn ta đó Tập truyện,

Giải phóng,

1970

Rừng U minh Tiểu thuyết Giải phóng,

1970

90 Thép Mới Trách nhiệm Bút ký Văn nghệ, 1951

Hữu nghị Bút ký Văn nghệ, 1955

Như anh em một

nhà

Bút ký Văn học, 1958

Hiên ngang Cu-Ba Bút ký Văn học, 1962

Điện Biên Phủ, một

danh từ Việt Nam

Bút ký Văn học, 1965

91 Giang Nam Vở kịch cô giáo Tập truyện,

Văn học, 1962

Người giồng tre Tập truyện,

Giải phóng,

1970

92 Trần Mai Nam Dải đất hẹp ký Văn học, 1968

Page 325: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

93 Vũ Tú Nam Bên đường 12 Truyện Thép mới, 1950

Sau trận núi Đanh Truyện 1951

Nhân dân tiến lên Truyện 1951

Mất con mất cháu Tập truyện Quân đội nhân

dân, 1955

Mùa đông Tập truyện Quân đội nhân

dân, 1957

Nhật ký của đời

sống

Tập truyện,

Hội nhà văn,

1957

Quê hương Tập truyện Văn học, 1960

Ngày xuân Tập truyện Văn học, 1963

Kể chuyện quê nhà Tập truyện Văn học, 1964

Thử thách thầm lặng Tập truyện Văn học, 1971

94 Lâm Quang

Ngọc

Vùng quê Tập truyện Văn học, 1975

95 Nguyên Ngọc Đất nước đứng lên Tiểu thuyết Văn nghệ, 1955

Mạch nước ngầm Truyện Văn học, 1960

Rẻo cao Tập truyện Văn học, 1961

96 Lữ Huy

Nguyên

Nhật ký đường trong Tập ký Văn học, 1970

Page 326: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

97 Trần Nguyên Ngọn lửa Tập truyện Văn học, 1960

98 Bút Ngữ Bên đồng nước úng Tập truyện Văn học, 1960

Đêm về sang Tập truyện Thanh niên,

1974

99 Mai Ngữ Đất nước Tập truyện Văn học, 1963

Bầu trời và dòng

sông

Truyện Văn học, 1967

Hai người du kích cũ Truyện Thanh niên,

1969

Xốc tới Truyện Quân đội nhân

dân, 1971

Dòng sông phía

trước

Tiểu thuyết Quân đội nhân

dân, 1972

Điểm cao Tập truyện Văn học, 1972

100 Đinh Quang

Nhã

Mùa nấm tràm Tập truyện,

Giải phóng,

1970

Đồng tro Tập truyện,

Giải phóng,

1972

Đất trong làng Tiểu thuyết Giải phóng,

1974

101 Hoàng Trung

Nho

Đồng quê hoa nở Truyện Văn nghệ, 1955

102 Trần Đăng

Ninh

Hai lần vượt ngục Hồi ký Cứu quốc,

1949

Page 327: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

103 Nguyễn Gia

Nùng

Sao băng Tiểu thuyết Lao động, 1968

104 Nguyễn Khắc

Phê

Vì sự sống con

đường

Tập ký Thanh niên,

1968

105 Mạc Phi Rừng động (tập I) Tiểu thuyết Văn học, 1975

106 Bùi Huy Phồn Khao Truyện Minh Đức,

1946

Phất Tiểu thuyết Văn học, 1961

107 Hồ Phương Thư nhà Truyện ngắn 1948

Cỏ non Tập truyện Văn học, 1960

Xóm mới Tập truyện Văn học, 1963

Trên biển lớn Tập truyện Quân đội nhân

dân, 1964

Chúng tôi ở Cồn Cỏ Ký Quân đội nhân

dân, 1966

Nhằm thẳng quân

thù mà bắn

Truyện, ký Quân đội nhân

dân, 1967

Kan Lịch Truyện Quân đội nhân

dân, 1967

Số phận Lữ dù 3 Sài

Gòn

Phóng sự Quân đội nhân

dân, 1971

Huế trở lại mùa xuân Truyện, ký Quân đội nhân

dân, 1971

Page 328: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Khi có một mặt trời Truyện Quân đội nhân

dân, 1972

Những tầm cao Tiểu thuyết Quân đội nhân

dân, 1974

108 Huy Phương Tầm sáng Tập truyện Văn học, 1963

Những ngôi sao đỏ ký Văn học, 1964

Xi măng Tiểu thuyết Văn học, 1968

Đường chân trời Truyện, ký Thanh niên,

1970

109 Lê phương Con chim đầu đàn Truyện, ký Lao động, 1962

Bất khuất (tập I) Tiểu thuyết Lao động, 1963

Bất khuất (tập II) Tiểu thuyết Lao động, 1964

Người sông Gianh Truyện Lao động, 1965

Pháo đài 4-4 Ghi chép Lao động, 1968

Bè xuôi sông Mã Tiểu thuyết Lao động, 1973

Thung lũng Cô tan Tiểu thuyết Lao động, 1973

Bạch đàn Tiểu thuyết Phụ nữ, 1975

110 Nguyễn Thế

Phương

Đi bước nữa Tiểu thuyết Văn học, 1960

Page 329: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Ở vùng lửa Tập truyện,

Thanh niên,

1971

Nắng Tiểu thuyết Văn học, 1972

111 Viễn Phương Anh hùng mìn gạt Truyện ký Giải phóng,

1968

Tuổi trẻ Thành đồng Truyện Thanh niên,

1968

112 Hà Thị Quế Nữ tự vệ chiến đấu Hồi ký Phụ nữ, 1964

113 Dương Thị

Xuân Quý

Chỗ đứng Tập truyện Văn học, 1968

114 Xuân Sách Cô giáo làng Tập truyện Văn học, 1962

Đêm ra trận Tập truyện,

Văn học, 1970

Ở một cung đường Tiểu thuyết Phụ nữ, 1972

115 Nguyễn Sáng Nguyễn Văn Bé Tập truyện Thanh niên,

1967

Chiếc lược ngà Tập truyện,

Giải phóng,

1968

Bông cẩm thạch Tập truyện,

Giải phóng,

1969

Cái áo thằng hình

rơm

Truyện Giải phóng,

1973

116 Nguyễn Quang

Sáng

Người quê hương Tập truyện Văn học, 1960

Page 330: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Nhật ký người ở lại Truyện Văn học, 1962

Đất lửa (Tập I) Tiểu thuyết Văn học, 1963

Câu chuyện trên

trận địa pháo

Truyện Phụ nữ, 1957

117 Mộng Sơn Giận nhau Truyện Lao động, 1959

Gỡ mối Truyện Văn học, 1962

Một khoảng trời

xanh

Tập truyện Lao động, 1957

118 Nguyễn Anh

Tài

Ngọn lửa gang (2

tập)

Truyện ký Văn học, 1959

119 Nguyễn Tạo Sống để hoạt động Hồi ký Văn học, 1959

Trong ngục tối Hỏa

Hồi ký Văn học, 1961

Một nhà đại thiện xạ Truyện Văn nghệ, 1951

120 Võ Huy Tâm Vùng mỏ Tiểu thuyết Văn nghệ, 1955

Mỏ thời Tây Truyện ngắn Văn học, 1959

Chiếc cán búa Truyện ngắn Văn học, 1959

Ngõ ngang xóm thợ Truyện Văn học, 1960

Những người thợ

mỏ

Tiểu thuyết Văn học, 1961

Page 331: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Đi lên nào Tiểu thuyết Văn học, 1971

Trăng bão Tập truyện Văn học, 1975

121 Bùi Ngọc Tấn Đêm Tháng Mười Tập truyện Văn học, 1962

122 Chu văn Tấn Một lòng theo Đảng Hồi ký Dân tộc, 1962

Một năm trên biên

giới Việt Trung

Hồi ký Quân đội nhân

dân, 1964

Kỷ niệm cứu quốc

quân

Hồi ký Quân đội nhân

dân, 1971

123 Nguyễn Ngọc

Tấn

Trăng sáng Tập truyện Văn học, 1960

Đôi bạn Tập truyện Văn học, 1962

124 Hoài Thanh Nam Bộ mến yêu Bút ký Văn nghệ, 1955

125 Nguyễn Trung

Thành

Trên quê hương

những anh hùng

Điện Ngọc

Tập truyện,

Giải phóng,

1969

Đất Quảng Tiểu thuyết Giải phóng,

1971

Trận đánh bắt đầu

từ hôm nay

Tập truyện,

Văn học, 1975

126 Trần Kim

Thành

Hạnh phúc Tập truyện Văn học, 1962

Phía trước Tập truyện Văn học, 1964

Page 332: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Đường phía trước Tập truyện Văn học, 1967

Trên mặt sóng Tập truyện Văn học, 1971

Cánh rừng phía Tây Tập truyện Văn học, 1974

127 Nguyễn Thị

Cẩm Thạnh

Những người bạn

gái

Tập truyện Văn học, 1964

Làng Cát Tập truyện Văn học, 1968

128 Lê Văn Thảo Ngoài mặt trận Tập truyện,

Giải phóng,

1969

Từ thế cao Tập truyện,

Giải phóng,

1970

Đêm Tháp Mười Tập truyện,

Giải phóng,

1972

129 Phù Thăng Trận địa mới Tiểu thuyết Quân đội nhân

dân, 1961

Phá vây Tiểu thuyết Quân đội nhân

dân, 1963

130 Nguyễn Quang

Thân

Hương đất Tập truyện,

Thanh niên,

1964

Cô gái Triều Dương Truyện Thanh niên,

1967

Nước về Tập truyện,

Lao động, 1968

Ba người bạn Tập truyện,

Thanh niên,

1971

Page 333: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

131 Nguyễn Thi Người mẹ cầm súng Truyện, ký Quân đội nhân

dân, 1966

Truyện và ký Giải phóng,

1969

132 Nguyễn Đình

Thi

Vĩnh Linh tường

thuật

ký Tổng cục chính

trị, 1951

Xung kích Truyện Văn nghệ, 1951

Thu đông năm nay ký Văn nghệ, 1954

Bên bờ sông Lô Tập truyện Hội nhà văn,

1957

Con nai đen Kịch bản Văn học, 1962

Vỡ bờ (tập I) Tiểu thuyết Văn học, 1962

Vào lửa Tiểu thuyết Văn học, 1966

Mặt trận trên cao Tiểu thuyết Văn học, 1967

Vỡ bờ (tập II) Tiểu thuyết Văn học, 1970

133 Chu Thiên Nhà Nho Tiểu thuyết Á châu, 1941

Bút nghiên Tiểu thuyết Á châu, 1942

Bóng nước Hồ

Gươm (2 tập)

Tiểu thuyết Văn học, 1970

134 Xuân Thiều Đôi vai Tập truyện Văn học, 1961

Page 334: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Chiến đấu trên mặt

đường

Ký sự Thanh niên,

1968

Trời xanh Tập truyện Văn học, 1969

Mặt trận kêu gọi Truyện Quân đội nhân

dân, 1969

Đi xa Bút ký Thanh niên,

1973

Thôn ven đường Tiểu thuyết Thanh niên,

1974

135 Xuân thu Ông lão chăn bò

trên núi Thắm

Truyện Văn học, 1957

136 Thủy thủ Đất quê hương Truyện Văn học, 1965

Pháo đài trong vườn

dừa

Truyện ký Giải phóng,

1971

137 Bích Thuận Lòng mẹ Truyện Phụ nữ, 1955

Mùa dưa hấu Tập truyện Văn học, 1971

Từ một mái nhà Truyện Phụ nữ, 1973

138 Nguyễn Đức

Thuận

Bất khuất Hồi ký Thanh niên,

1967

139 Đỗ Đức Thuật Vẫn một con người Tập truyện Văn học, 1961

140 Trần Hữu

Thung

Vinh rực lửa Tập ký Văn học, 1969

141 Nguyễn Khắc Trận Thanh Hương Truyện Văn nghệ, 1951

Page 335: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Thứ

Phá kho bom Tân

Sơn Nhất

Truyện Thanh niên,

1954

Đất chuyển Tiểu thuyết Văn nghệ, 1955

Bản án tử hình Truyện Thanh niên,

1958

142 Vũ Thị Thường Cái hom giỏ Truyện ngắn Văn học, 1959

Gánh vác Tập truyện Văn học, 1963

Hai chị em Tập truyện Văn học, 1965

Bông hoa súng Tập truyện Văn học, 1967

Vợ chồng ông lão

chăn vịt

Tập truyện Văn học, 1973

143 Trần Dân Tiến Những mẩu chuyện

về đời hoạt động

của Hồ Chủ Tịch

Ký 1948

144 Đỗ Quang Tiến Biến đổi ở thôn Đèo

Hoa

Truyện Văn nghệ, 1955

Ngoại ô Tập truyện Thanh niên,

1960

Đêm pháo hoa Truyện Lao động, 1960

Làng Tề Tiểu thuyết Văn học, 1962

Page 336: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Phía sau quầy hàng Phóng sự Văn học, 1964

Ánh lửa Truyện Văn học, 1967

Vùng cao Truyện ký Văn học, 1970

145 Hoàng Tiến Sương tan Tập truyện Văn học, 1963

146 Thanh Tịnh Quê mẹ Tập truyện Đời nay, 1941

Chị và em Tập truyện Thời đại, 1942

Ngậm ngải tìm trầm Tập truyện Thời đại, 1943

Xuân và Sinh Tập truyện Thời đại, 1944

Những giọt nước

biển

Tập truyện Văn nghệ, 1958

147 Nguyễn Thị

Như Trang

Màu tím hoa mua Tập truyện Văn học, 1969

Ở thành phố bờ biển Tập truyện Văn học, 1972

148 Trần Kim Trắc Cái lu Truyện ngắn Văn nghệ, 1956

149 Xuân Trinh Từ một làng ở Vĩnh

Linh

Tập truyện Văn học, 1970

150 Nguyễn Chí

Trung

Bức thư làng Mực Tập truyện,

Giải phóng,

1969

151 Nguyễn Thị

Ngọc Tú

Huệ Truyện Văn học, 1964

Page 337: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Người hậu phương Tập truyện Giải phóng,

1969

Đất làng Tiểu thuyết Văn học, 1974

152 Hà Minh Tuân Trong lòng Hà Nội Truyện Quân đội nhân

dân, 1957

Hai trận tuyến Tiểu thuyết Văn học, 1969

Vào đời Tiểu thuyết Văn học, 1963

153 Nguyễn Tuân Vang bóng một thời Tập truyện Tân Dân, 1940

Ngọn đèn dầu lạc Tiểu thuyết 1941

Chiếc lư đồng mắt

cua

Tùy bút 1941

Một chuyến đi Tùy bút Tân Dân, 1941

Tùy bút (I) Tùy bút Cộng lực, 1941

Tóc chị Hoài Tùy bút Cộng lực, 1943

Tùy bút (II) Tùy bút Lượm lúa vàng,

1943

Thiếu quê hương Tùy bút Anh Hoa, 1943

Nguyễn Tùy bút Thời đại, 1945

Chùa Đàn Truyện 1946

Page 338: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Đường vui Tùy bút Văn nghệ, 1949

Tình chiến dịch Tùy bút Văn nghệ, 1950

Thắng càn Truyện Văn nghệ, 1954

Tùy bút kháng chiến Tùy bút Văn nghệ, 1955

Tùy bút kháng chiến

và hòa bình

Tùy bút Văn nghệ, 1956

Bút ký thăm Trung

Hoa

Tùy bút Văn nghệ, 1955

Sông Đà Tùy bút Văn học, 1960

Hà Nội ta đánh Mỹ

giỏi

Tùy bút Hội văn nghệ

Hà Nội, 1972

154 Phạm Hữu

Tùng

Lòng dân Truyện Văn nghệ, 1951

Ngẩng lên Truyện Phổ thông,

1957

155 Phan Văn

Tùng

Lớn lên với Điện

Biên

Hồi ký Quân đội nhân

dân, 1964

156 Phan Tứ Về làng Tập truyện Văn học, 1964

Gia đình má Bảy Tiểu thuyết Giải phóng,

1968

Mẫn và tôi Tiểu thuyết Giải phóng,

1973

Page 339: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Trại ST-18 Truyện Giải phóng,

1974

157 Nguyễn Huy

Tưởng

Đêm hội Long Trì Truyện 1944

Vũ Như Tô Kịch Viết 1943, Hoa

Lư, 1946

Bắc Sơn Kịch 1946

Những người ở lại Kịch Văn nghệ, 1948

Anh Sơ đầu quân Tập kịch Văn nghệ, 1949

Ký sự Cao Lạng Ký Văn nghệ, 1951

Gốc đa Truyện Văn nghệ, 1954

Gặp Bác Ký Văn nghệ, 1955

Truyện anh Lục Tiểu thuyết Văn nghệ, 1955

Một ngày chủ nhật Ký Văn nghệ, 1957

Bốn năm sau Truyện Văn học, 1959

Sống mãi với thủ đô Tiểu thuyết Văn học, 1960

Lũy hoa Truyện phim Văn học, 1960

Truyện viết cho thiếu

nhi

Tập truyện Văn học, 1966

Page 340: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

158 Chu Văn Con đường lầy Truyện ngắn Văn học, 1959

Cô lái đò sông Ninh Tập truyện Văn học, 1960

Tiếng hát trên sông Tập truyện Văn học, 1963

Ánh sáng bên hàng

xóm

Tập truyện Văn học, 1964

Bão biển (2 tập) Tiểu thuyết Văn học, 1969

Hương cau – Hoa

lim

Tập truyện Văn học, 1971

Đất mặn (2 tập) Tiểu thuyết Thanh niên,

1975

159 Trần Đình Vân Sống như Anh ký Văn học, 1965

160 Chế Lan Viên Thăm Trung Quốc Bút ký Văn học, 1963

Những ngày nổi giận Bút ký Văn học, 1966

161 Nguyễn Khắc

Viện

Pa-ri Hà Nội Ký Văn học, 1964

162 Đào Vũ Cái sân gạch Tiểu thuyết Văn học, 1959

Vụ lúa chiêm Tiểu thuyết Văn học, 1960

Người cửa sông Truyện Văn học, 1966

Con đường mòn ấy Tiểu thuyết Thanh niên,

1971

Page 341: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

Lưu lạc Tiểu thuyết Phụ nữ, 1973

Dải lụa Tiểu thuyết Phụ nữ, 1973

Hoa lửa Tiểu thuyết Phụ nữ, 1973

163 Tô Nhuận Vỹ Người sông Hương Tập truyện Giải phóng,

1970

Làng thức Truyện Giải phóng

1973

Dòng sông phẳng

lặng

Tiểu thuyết Thanh niên,

1974

MỤC LỤCLời nói đầu

Phần Một. MỘT SỐ NHÀ VĂN CÓ SÁNG TÁC TỪ TRƯỚC CÁCH MẠNG

- Nguyễn Công Hoan sau Cách mạng (Lê Thị Đức Hạnh)

- Nguyên Hồng và quá trình sáng tác của anh (Chu Nga)

- Nguyễn Tuân trong tùy bút (Phong Lê)

- Cách mạng tháng Tám và Nam Cao (Phong Lê)

- Sáng tác của Tô Hoài (Vân Thanh)

- Nguyễn Huy Tưởng qua hai chế độ (Phong Lê)

- Những chặng đường sáng tác của Bùi Hiển (Chu Nga)

Phần Hai. NHỮNG CÂY BÚT TRƯỞNG THÀNH TỪ KHÁNG CHIẾN CHỐNC PHÁP

- Truyện và ký của Nguyễn Đình Thi (Chu Nga)

Page 342: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

- Trần Đăng và buổi đầu của nền văn học mới (Phong Lê)

- Thép Mới từ những bút ký đầu tay đến “Điện Biên Phủ, một danh từ

Việt Nam” (Lê Thị Đức Hạnh)

- Nguyễn Văn Bổng với “Con trâu” (Lê Thị Đức Hạnh)

- Võ Huy Tâm và “Vùng mỏ” (Đặng Quốc Nhật)

Phần Ba. LỰC LƯỢNG SÁNG TÁC MỚI TRONG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ ĐẤU TRANH THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ

- Bước đường Nguyên Ngọc (Phong Lê)

- Đặc điểm sáng tác Nguyễn Khải (Chu Nga)

– Hồ Phương và cuộc sống mới (Phong Lê)

- Người bộ đội trong tác phẩm Hữu Mai (Vân Thanh)

- Chu Văn, một vùng nông thôn (Tất Thắng)

- Truyện ngắn Vũ Thị Thường (Lê Thị Đức Hạnh)

- Nguyễn Địch Dũng và bức tranh ấm áp của nông thôn trong quan hệ

sản xuất mới (Phong Lê)

- Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tấn (Vũ Đức Phúc)

- Đóng góp của Nguyễn Minh Châu (Tôn Phương Lan)

Phần Bốn. ĐỘI NGŨ VĂN XUÔI GIẢI PHÓNG

- Đặc sắc Nguyễn Thi (Phong Lê)

- Nguyễn Trung Thành và những trang về miền Nam đất lửa (Phong Lê)

- Ngòi bút chân thật Trần Hiếu Minh (Tất Thắng)

- Anh Đức với bút ký, tiểu thuyết và truyện ngắn của anh (Chu Nga)

- Phan Tứ, từ “về làng” đến “Mẫn và tôi” (Lê Thị Đức Hạnh)

- Truyện ngắn Nguyễn Sáng (Vân Thanh)

Phụ lục

Page 343: Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại Từ Sau 1945 (Word)saomaidata.org/library/404.TacGiaVanXuoiVietNamHienD…  · Web viewtÁc gia vĂn xuÔi viỆt nam hiỆn ĐẠi

BẢNG KÊ TÁC GIẢ VĂN XUÔI HIỆN ĐẠI

(Phong Lê - Đặng Quốc Nhật)

---//---

ỦY BAN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

VIỆN VĂN HỌC

TÁC GIA VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

(TỪ SAU 1945)

NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ NỘI – 1977

Biên tập: TRẦN ĐÌNH VIỆT

Chữa bản in: HOÀNG NGUYỄN

Trình bày bìa: HOÀNG TRƯỜNG

In 15.300 cuốn, khổ 13 X 18,8 cm. Nhà máy in Tiến Bộ, Hà Nội. Số in 1475.

Số xuất bản: 01-KHXH-77. In xong 15-2-1977. Lưu chiểu tháng 2-1977.