11
1 hoav BNG CHSChng khoán (ngày 22/11) VN - Index 977,78 1,02% HNX - Index 103,09 1,58% D.JONES CK Mỹ 27,875.62 0.39% STOXX CK C.Âu 3,687.32 0.21% CSI 300 CK TQ 3,849.99 1.02% Vàng (SJC cp nht 08h30 ngày 25/11) SJC Ng.đ/L 41.470 0,31% Quốc tế USD/Oz 1.463,10 - 0,69% Tgiá USD/VND BQ LNH 23.154 0,01% EUR/USD 1,1023 0,38% Du WTI USD/th 57,91 0,70% Muốn tồn tại, cạnh tranh và phát triển, M&A vẫn là giải pháp phù hợp cho các NH. Tuy nhiên, để M&A trong lĩnh vực NH diễn ra suôn sẻ, thành công hơn nữa, các chuyên gia cho rằng, Chính phủ cần sớm sửa đổi, hoàn chỉnh các luật liên quan đến đầu tư - kinh doanh như Luật Đầu tư, Luật DN, Luật CK, Luật XD... để tháo gỡ các vướng mắc, xoá bỏ chồng chéo, cắt giảm chi phí thủ tục tham gia thị trường, chi phí kinh doanh của DN. Nhất là các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động M&A cần phải rõ ràng, cụ thể hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế. Tin ni bt Thận trọng khi đầu tư trái phiếu doanh nghiệp Hiệu ứng tích cực khi LS giảm M&A NH sắp có chuyển động mạnh Tốc độ tăng trưởng GDP VN: Dự báo đạt 7%/năm giai đoạn 2021-2025 Kỳ vọng kim ngạch thương mại Việt Nam - Australia đạt 10 tỷ USD năm 2020 TQ quyết liệt sản xuất đất hiếm, nhiều nước lớn lo sợ Thứ Hai, ngày 25/11/2019 BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH [a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM [t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]

hoav - Sacombank · 2019-11-26 · đầu tư, đặc biệt là các cá nhân không mua TPDN chỉ vì LS cao. Ông Phan Tùng Lâm, Trưởng phòng cao cấp Kinh doanh sản

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

1

hoav

BẢNG CHỈ SỐ

Chứng khoán (ngày 22/11)

VN - Index 977,78 1,02%

HNX - Index 103,09 1,58%

D.JONES CK Mỹ 27,875.62 0.39%

STOXX CK C.Âu 3,687.32 0.21%

CSI 300 CK TQ 3,849.99 1.02%

Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 25/11)

SJC Ng.đ/L 41.470 0,31%

Quốc tế USD/Oz 1.463,10 - 0,69%

Tỷ giá

USD/VND BQ LNH 23.154 0,01%

EUR/USD 1,1023 0,38%

Dầu

WTI USD/th 57,91 0,70%

Muốn tồn tại, cạnh tranh và phát triển,

M&A vẫn là giải pháp phù hợp cho các NH.

Tuy nhiên, để M&A trong lĩnh vực NH diễn

ra suôn sẻ, thành công hơn nữa, các chuyên

gia cho rằng, Chính phủ cần sớm sửa đổi,

hoàn chỉnh các luật liên quan đến đầu tư -

kinh doanh như Luật Đầu tư, Luật DN, Luật

CK, Luật XD... để tháo gỡ các vướng mắc,

xoá bỏ chồng chéo, cắt giảm chi phí thủ tục

tham gia thị trường, chi phí kinh doanh của

DN. Nhất là các quy định pháp luật liên quan

đến hoạt động M&A cần phải rõ ràng, cụ thể

hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Tin nổi bật

Thận trọng khi đầu tư trái phiếu doanh nghiệp

Hiệu ứng tích cực khi LS giảm

M&A NH sắp có chuyển động mạnh

Tốc độ tăng trưởng GDP VN: Dự báo đạt 7%/năm

giai đoạn 2021-2025

Kỳ vọng kim ngạch thương mại Việt Nam -

Australia đạt 10 tỷ USD năm 2020

TQ quyết liệt sản xuất đất hiếm, nhiều nước lớn lo

sợ

Thứ Hai, ngày 25/11/2019

BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH

[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM

[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]

2

Thận trọng khi đầu tư trái phiếu

doanh nghiệp.

Bộ Tài chính vừa khuyến nghị các nhà đầu tư nên lưu ý khi tham gia thị

trường TPDN, cần hiểu rõ về đặc điểm của sản phẩm để hạn chế rủi ro,

trong bối cảnh thị trường đang phát triển nhanh. Bộ khuyến nghị các nhà

đầu tư, đặc biệt là các cá nhân không mua TPDN chỉ vì LS cao. Ông

Phan Tùng Lâm, Trưởng phòng cao cấp Kinh doanh sản phẩm tài chính,

CTCP Chứng khoán SSI nhận định nhà đầu tư cần có nhiều nguồn thu

nhập từ các kênh tài chính khác nhau. Rủi ro chính là nhà phát hành phá

sản hoặc không trả được nợ. Đây là yếu tố thường được nhà đầu tư xem

nhẹ, đặc biệt trong trường hợp trái phiếu có kỳ hạn ngắn hoặc điều khoản

mua lại sau 6 tháng hoặc 1 năm. Tâm lý chung, nhà đầu tư thường không

cho rằng nhà phát hành có thể phá sản trong thời gian này. Trái phiếu

doanh nghiệp là chứng khoán phụ thuộc vào khả năng thanh toán nợ

của đơn vị phát hành. Do đó, nhà đầu tư cần xem xét khả năng vỡ nợ

của công ty chào bán và tính đến rủi ro khi quyết định đầu tư.

Bộ Tài chính khuyến nghị nhà đầu tư khi tham gia thị trường cần tiếp cận

đầy đủ thông tin, phân tích và đánh giá kỹ các rủi ro có thể gặp phải khi

mua trái phiếu. Trách nhiệm của các tổ chức cung cấp dịch vụ là cần

công bố đầy đủ thông tin cho nhà đầu tư, tư vấn cho doanh nghiệp phát

hành tuân thủ đúng quy định của pháp luật khi phát hành trái phiếu.

Để hạn chế một phần rủi ro này, lựa chọn của nhà đầu tư là tìm đến một

đơn vị phân phối uy tín, công ty chứng khoán lớn, để lựa chọn trái phiếu.

Một rủi ro khác mà nhà đầu tư cũng cần lường trước khi đầu tư trái phiếu

là tính thanh khoản. Với cổ phiếu hoặc trái phiếu Chính phủ, luôn có một

thị trường sẵn sàng giao dịch để nhà đầu tư mua bán, tạo tính linh hoạt

về dòng tiền. Với trái phiếu doanh nghiệp, việc giao dịch tương đối hạn

chế do thanh khoản nhỏ. Nhà đầu tư có thể rơi vào trường hợp không

thể bán trái phiếu khi có nhu cầu dừng trước hạn, thu hồi vốn. Tại VN,

thị trường giao dịch trái phiếu còn rất nhỏ so với cổ phiếu và trái phiếu

Chính phủ. Thanh khoản thấp, đồng thời cũng ảnh hưởng đến giá trái

phiếu giao dịch, khiến nhà đầu tư có thể lỗ khi bán. Hiện nay, chỉ số ít

công ty chứng khoán hỗ trợ tạo lập thị trường với sản phẩm trái phiếu,

trong đó có Chứng khoán SSI. Các trái phiếu thuộc danh mục S-BOND

Tài chính – Ngân hàng

3

được yết giá trên website, nhà đầu tư có thể mua hoặc bán với công ty

chứng khoán nếu có nhu cầu.

Trái phiếu là một lựa chọn cho nhà đầu tư để đa dạng hóa danh mục,

mang về khoản thu nhập thụ động với ưu điểm lợi suất cố định cao hơn

lãi tiền gửi và an toàn hơn một số chứng khoán khác. Tuy nhiên, nhà đầu

tư cũng cần thận trong trước khi ra quyết định và nên lựa chọn các tổ

chức phân phối uy tín, lâu năm trên thị trường để mua trái phiếu.

Hiệu ứng tích cực khi LS giảm

Hàng loạt NH đang tiến hành giảm LS cho vay ngay sau khi Thủ tướng

Chính phủ đặt mục tiêu cắt giảm LS trong năm 2020 và NHNN hạ trần

LS. Yêu cầu giảm LS mà Thủ tướng Chính phủ “đặt hàng” ngành NH

được đưa ra trong bối cảnh hầu hết các quốc gia trên thế giới cắt giảm

LS, dư địa giảm LS trong nước cũng rất lớn. Có nhiều lý do để khẳng

định rằng, dư địa giảm LS trong nước hiện rất lớn:

Thứ nhất, thanh khoản của hệ thống NH rất dồi dào, lợi nhuận NH 9

tháng tăng mạnh. Thứ hai, các nguồn vốn nước ngoài đổ vào VN mạnh

mẽ, thu nhập của người dân tăng, khiến luồng tiền đổ vào NH tiếp tục

khả quan. Thứ ba, hàng loạt NH thương mại, sau một thời gian dài gấp

rút tăng huy động vốn để đáp ứng các chuẩn mới về quản trị của NHNN,

cũng không còn khát vốn như trước.

Công bằng mà nói, quyết định giảm LS huy động và cho vay lần này là

nỗ lực lớn của NHNN và các NH thương mại. Lý do là hiện nay, lãi cận

biên (NIM) bình quân của hệ thống NH khá thấp (dưới 3% - là mức tối

thiểu để đảm bảo cho các NH hoạt động hiệu quả), chi phí LS huy động

chưa giảm. Ngoài ra, bắt đầu từ năm 2020, NHNN chính thức “siết” vốn

ngắn hạn cho vay trung, dài hạn; tỷ lệ tối đa dư nợ cho vay so với tổng

tiền gửi cũng bị khống chế ở mức 85%, các NH chưa đạt chuẩn Basel II

phải gấp rút có lộ trình để đảm bảo đạt tiêu chuẩn này. Bên cạnh đó,

nguồn tiền gửi vào NH hiện bị cạnh tranh bởi nhiều kênh đầu tư hấp dẫn

khác như vàng, bất động sản, chứng khoán, trái phiếu…

Trước mắt, tác động của đợt giảm LS này với nền kinh tế trong năm 2019

là chưa nhiều và còn có độ trễ, bởi việc giảm LS chỉ áp dụng với các hợp

đồng tín dụng mới, lĩnh vực được giảm LS là lĩnh vực ưu tiên, khách hàng

phải có tình hình tài chính lành mạnh… Dù vậy, quyết định giảm LS huy

động và cho vay đang tạo tâm lý rất tốt cho thị trường, góp phần kích

thích doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, kinh doanh. Quyết định hạ trần LS

4

của NHNN cũng phát đi chỉ báo định hướng, khiến những NH nhỏ - dù

chưa hết căng thẳng vốn - không thể tùy tiện đua LS huy động như trước.

Với người gửi tiền, LS giảm sâu có thể khiến họ phải cân nhắc việc có

nên tiếp tục gửi tiết kiệm hay đầu tư sang kênh khác. Để giữ chân người

gửi, NH buộc phải duy trì LS huy động ở mức phù hợp. Việc giữ LS huy

động chênh lệch hợp lý so với ngoại tệ còn là một trong những giải pháp

để người dân giảm đầu cơ ngoại tệ. Trong thế khó nêu trên, LS sẽ chưa

thể giảm sâu. LS khó có thể giảm trên diện rộng, nhưng với khoảng 8

triệu tỷ đồng tín dụng, việc giảm thêm 0,5% LS cũng rất ý nghĩa với các

doanh nghiệp. Trong bối cảnh thương chiến Mỹ - Trung diễn biến phức

tạp, kinh tế thế giới đứng trước nguy cơ suy thoái… thì việc NH giảm LS

là một trong những điểm sáng của kinh tế, giúp doanh nghiệp củng cố

nội lực, chống đỡ tốt hơn các tác động từ bên ngoài. LS đã rẻ hơn, vấn

đề còn lại là làm sao để dòng vốn này được bơm vào nền kinh tế.

M&A NH sắp có chuyển động

mạnh

M&A NH sắp có chuyển động mạnh. Theo tổng hợp của Công ty Chứng

khoán SSI, lượng góp vốn, mua cổ phần của các NĐTNN tăng rất mạnh

trong 10 tháng đầu năm 2019. Cụ thể, trên cả nước có 7.509 lượt góp

vốn, mua cổ phần của NĐTNN với tổng giá trị vốn góp 10,81 tỷ USD,

tăng 70,5% so với cùng kỳ 2018. Trong số vốn góp trên, theo đánh giá

của giới chuyên môn, lượng vốn đổ vào lĩnh vực tài chính - NH chưa

nhiều. Nhưng dự báo trong thời gian tới, lượng vốn này sẽ chảy mạnh

khi M&A trong lĩnh vực tài chính - NH tiếp tục sôi động bởi có nhiều chất

xúc tác đối với thị trường này.

Nhận định trên hoàn toàn có cơ sở khi sau thương vụ BIDV bán 15% cổ

phần cho đối tác chiến lược Keb Hana Bank thu về gần 900 triệu USD

thì trên thị trường lại đồn đoán có thông tin MB dự kiến chuyển nhượng

7,5% cổ phần theo phương thức phát hành riêng lẻ cho các NĐTNN vào

cuối tháng 11/2019. Một thương vụ có giá trị cao không kém cũng đang

được thị trường ngóng đợi, đó là "đại gia" Vietcombank chào bán riêng

lẻ 6,5% cổ phần cho đối tác nước ngoài, dự kiến cuối năm nay hoặc đầu

năm sau.

Ngoài chất xúc tác mạnh trên, có điều dễ nhận thấy nhu cầu tăng vốn

của các TCTD rất lớn để áp ứng yêu cầu về an toàn vốn theo Basel II.

Theo số liệu của NHNN, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống các TCTD

bình quân giai đoạn 2016-2018 là 16,75%/năm, trong khi đó tăng trưởng

vốn tự có bình quân chỉ là 11,73%/năm. Trong bối cảnh nguồn vốn đầu

5

tư trong nước còn hạn chế, để cải thiện CAR, các TCTD buộc phải tăng

vốn tự có từ việc kêu gọi vốn ngoại hoặc bán cổ phần cho nhà đầu tư

trong và ngoài nước. Tiến trình tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn

2016 - 2020 cũng đang vào giai đoạn chạy nước rút, nhất là đối với các

NH yếu kém cần phải nâng cao năng lực tài chính nếu không muốn bị

loại ra khỏi cuộc chơi.

Chất xúc tác mới thúc đẩy M&A trong lĩnh vực NH theo nhận định của

các chuyên gia NH là xu hướng phát triển của công nghệ 4.0 với sự phát

triển nhanh của các Fintech đã trở thành mối đe dọa đến sự tồn tại của

các tổ chức cung cấp các dịch vụ tài chính bán lẻ trên thế giới. Sức ép

đối với các NH còn xuất phát từ cuộc đua cạnh tranh thị phần thanh toán,

bán lẻ nữa. Tại Dự thảo Nghị định quy định về thanh toán không dùng

tiền mặt, NHNN đề xuất tỷ lệ tối đa phần vốn góp của các NĐTNN tại

các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán bao gồm cả sở hữu

trực tiếp và gián tiếp là 49% cũng sẽ tạo thuận lợi thu hút vốn đầu tư

nước ngoài vào lĩnh vực tiềm năng này.

Không chỉ là từ nhu cầu của bản thân các NH, theo TS. Võ Trí Thành đó

còn là đòi hỏi từ Chính phủ, NHNN. Tại Quyết định số 986/QĐ-TTg về

Chiến lược phát triển ngành NH đến năm 2025, định hướng đến năm

2030 cũng đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện quy định về

việc NĐTNN mua cổ phần của các TCTD VN theo hướng tăng tỷ lệ sở

hữu của các NĐTNN đối với từng loại hình TCTD phù hợp với các cam

kết quốc tế đã ký kết nhằm tăng cường huy động nguồn lực về vốn, công

nghệ, quản trị của NĐTNN; đồng thời khuyến khích NĐTNN tham gia xử

lý TCTD yếu kém...

Cùng với tiềm năng, sức khỏe từ nền kinh tế nói chung, các NH VN nói

riêng ngày càng được tăng cường và với cơ chế cởi mở, thông thoáng

hơn, phù hợp với thông lệ chuẩn mực quốc tế hứa hẹn sẽ có nhiều những

thương vụ M&A NH khủng trong tương lai. Qua đó giúp công cuộc tái cơ

cấu hệ thống NH VN trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài đều cán

đích thành công, đạt cả về chất và lượng.

6

Tốc độ tăng trưởng GDP VN: Dự

báo đạt 7%/năm giai đoạn 2021-

2025

Nghiên cứu của Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia

(NCIF) công bố ngày 21/11, cho thấy, việc tham gia ký kết và thực hiện

các FTA, đặc biệt là Hiệp định CPTPP và EVFTA sẽ tác động sâu, rộng

tới nền kinh tế VN giai đoạn 2021-2025. Tốc độ tăng trưởng GDP VN:

Dự báo đạt 7%/năm giai đoạn 2021-2025

Theo NCIF, cả Hiệp định CPTPP và EVFTA đều có lĩnh vực cam kết

tương đối rộng so với các FTA khác, không chỉ nằm trong lĩnh vực trao

đổi, xuất nhập khẩu mà còn liên quan đến cách thức sản xuất ra hàng

hoá để trao đổi. Cả hai hiệp định nhìn chung đều có ảnh hưởng tích cực

tới tăng trưởng, XK, đặc biệt trong thị trường các nước nội khối.

EVFTA dự báo sẽ có tác động lớn hơn CPTPP, do CPTPP đã có nhiều

thành viên tham gia các hiệp định FTA khác với VN trước đó. Cụ thể,

EVFTA và CPTPP có thể giúp GDP VN tăng thêm lần lượt 4,3% và 1,3%

vào năm 2030. Kim ngạch XK của VN sang EU đến năm 2030 dự kiến

sẽ tăng thêm khoảng 44,4%; XK sang các nước trong CPTPP đến năm

2035 tăng 14,3%.

Liên quan đến thu hút FDI, theo NCIF, hai Hiệp định này đều có cam kết

cao hơn so với khuôn khổ WTO về mở cửa đầu tư, bảo hộ đầu tư, giải

quyết tranh chấp. Mặc dù chưa có mô hình phù hợp để đánh giá định

lượng tác động của đầu tư, nhưng về định tính, EVFTA và CPTPP có thể

giúp VN tăng khối lượng đầu tư nhằm tăng XK vào thị trường của các đối

tác của VN; Tăng đầu tư vào các ngành thượng nguồn nhằm khai thác

cam kết về tỷ lệ xuất xứ, từ đó cải thiện chuỗi cung ứng của VN; Tác

động đến môi trường và xã hội.

Ngoài ra, các hiệp định này cũng có tác động tích cực tới lao động, trong

đó những ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày là những

ngành dự báo sẽ được hưởng lợi nhiều nhất. Tác động tích cực từ các

hiệp định này còn có thể đến từ việc tạo sức ép cải thiện thế chế và môi

trường kinh doanh, do đó kỳ vọng tạo ra những tác động tích cực trong

trung và dài hạn.

Trên cơ sở đánh giá nền tảng kinh tế VN sau giai đoạn 2016-2020, xem

xét các yếu tố trong và ngoài nước nhiều khả năng tác động đến nền

Kinh tế Việt Nam

7

kinh tế VN giai đoạn tới, đặc biệt là bối cảnh hội nhập ngày càng sâu

rộng với nhiều cơ hội và thách thức từ các FTA, NCIF xây dựng hai kịch

bản dự báo tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021-2025.

Theo đó, với nhiều khả năng xảy ra hơn, tốc độ tăng trưởng GDP VN sẽ

đạt khoảng 7%/năm trong giai đoạn 2021-2025; kinh tế vĩ mô về cơ bản

ổn định, lạm phát ở mức 3,5-4,5%/năm. Năng suất lao động cải thiện

hơn với tốc độ tăng khoảng 6,3%/năm. Với kết quả tăng trưởng này, đến

năm 2025, GDP bình quân đầu người của VN đạt khoảng 4.688 USD,

đưa VN gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cao...

Kỳ vọng kim ngạch thương mại

Việt Nam - Australia đạt 10 tỷ

USD năm 2020

Kỳ vọng kim ngạch thương mại Việt Nam - Australia đạt 10 tỷ USD năm

2020. Ngày 22/11, tại buổi tiếp bà Robyn Mudie, Đại sứ Australia, Phó

Thủ tướng Trịnh Đình Dũng khẳng định, Việt Nam luôn luôn coi trọng đối

tác Australia và coi đây là ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt

Nam. Phó Thủ tướng đánh giá cao việc Australia hỗ trợ ODA không hoàn

lại cho Việt Nam với nhiều dự án xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu, nhiều

công trình đã trở thành biểu tượng hợp tác giữa hai nước như cầu Cao

Lãnh, cầu Mỹ Thuận. Cho rằng các lĩnh vực hợp tác, đầu tư còn dư địa

lớn, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng gợi ý các doanh nghiệp Australia

tìm hiểu đầu tư vào các lĩnh vực mà Việt Nam đang có nhu cầu và điều

kiện thuận lợi để phát triển như như nông nghiệp, công nghiệp hỗ trợ, du

lịch, năng lượng tái tạo,...

Phó Thủ tướng cũng đề nghị Đại sứ Robyn Mudie trong thời gian tới quan

tâm thúc đẩy việc trao đổi tiếp xúc thường niên giữa lãnh đạo cấp cao,

địa phương và doanh nghiệp hai nước, đặc biệt là cơ chế hợp tác song

phương giữa hai nước về kinh tế, thương mại. “Phấn đấu hai nước trở

thành đối tác thương mại trong top 10, trước mắt sớm hiện thực mục tiêu

kim ngạch thương mại hai chiều đạt 10 tỷ USD vào năm 2020”, Phó Thủ

tướng nhấn mạnh.

Tại buổi tiếp, Đại sứ Robyn Mudie khẳng định, nhiều nhà đầu tư Australia

ấn tượng với các chính sách tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi

mà Chính phủ Việt Nam đang triển khai thực hiện. Trong điều kiện đó,

việc hai nước có rất nhiều tiềm năng hợp tác sẽ thúc đẩy doanh nghiệp

hai bên mở rộng hợp tác, đầu tư kinh doanh tại thị trường của nhau.

8

TQ quyết liệt sản xuất đất hiếm,

nhiều nước lớn lo sợ

Hoạt động sản xuất đất hiếm tăng trưởng chóng mặt tại TQ đang tiềm

ẩn thách thức lớn với nhiều nỗ lực tại Mỹ cũng như nhiều nước khác

nhằm giảm sự phụ thuộc của châu Á vào đất hiếm từ TQ. Theo

Bloomberg, trong tháng này, phía TQ công bố nâng hạn mức khai thác

đất hiếm hàng năm lên 132 nghìn tấn, cao hơn 10% so với mức kỷ lục

của năm ngoái. Động thái này chắc chắn sẽ gây sức ép lên giá đất hiếm

trên toàn cầu và vì vậy tạo ra cú sốc với các nước đối thủ như Mỹ hay

Australia. Trong tháng trước, chính phủ nhiều nước kể trên đã đồng

thuận sẽ đẩy mạnh phát triển một số dự án khai thác đất hiếm mới trong

nỗ lực đa dạng hóa chuỗi cung ứng.

Quốc gia châu Á này cung cấp khoảng 70% đất hiếm của thế giới và

nắm kiểm soát khoảng 90% trong thị trường 4 tỷ USD của các loại hàng

hóa nguyên liệu như nam châm hay động cơ sử dụng trong điện thoại,

tuốc bin gió, thiết bị điện và và thiết bị phần cứng. Khi mà Mỹ và TQ

hiện đang mắc kẹt trong các cuộc đối thoại về thương mại, có nhiều nỗi

sợ về khả năng TQ sẽ hạn chế các nước tiếp xúc với loại nguyên liệu

này. Tuy nhiên, cuối cùng TQ đang tăng cường đầu tư mạnh hơn, điều

đó có thể khiến cho nhiều công ty ở các nơi khác lâm vào tình thế khó

khăn về tài chính khi mà họ tìm kiếm đầu tư vào các dự án mới, theo

phân tích của giám đốc điều hành công ty tư vấn về nguyên liệu chủ

chốt Adamas Intelligence, ông Ryan Castilloux.

Mỹ cũng đang có những điều chỉnh nhất định với ngành sản xuất đất

hiếm của họ. Công ty MP Materials, công ty quản lý mỏ đất hiếm duy

nhất tại Mỹ tại Mountain Pass ở California, đã khôi phục lại hoạt động

kinh doanh vào năm ngoái sau khi bị ngưng lại vào năm 2015. Năm

nay, công ty nhiều khả năng sẽ tăng sản lượng lên hơn 300 nghìn tấn,

tức tương đương khoảng 15% tổng sản lượng đất hiếm của toàn cầu.

Giờ đây, sản phẩm đất hiếm của công ty sản xuất ra đang phải gửi sang

TQ nhằm xử lý khâu cuối cùng. Thế nhưng đến cuối năm sau, điều đó

có thể thay đổi, theo nhận định của giám đốc điều hành công ty JHL

Capital Group LLC, công ty chủ sở hữu của MP Materials, ông James

Litinsky.

Kinh tế Quốc tế

9

Tài liệu tham khảo:

Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/

https://hnx.vn/vi-vn/hnx.html

https://www.bloomberg.com/markets/stocks

https://goldprice.org/vi

http://www.sjc.com.vn/

https://www.sbv.gov.vn/TyGia/faces/TyGia.jspx?_afrWindowMode=0&_afrLoop=2045785475492

8577&_adf.ctrl-state=1a9g0kizgf_4

Tin Tài chính - NH http://cafef.vn/ma-ngan-hang-sap-co-chuyen-dong-manh-20191124133506299.chn

https://tinnhanhchungkhoan.vn/tai-chinh/hieu-ung-tich-cuc-khi-lai-suat-giam-304717.html

https://ndh.vn/trai-phieu/than-trong-khi-dau-tu-trai-phieu-doanh-nghiep-1258953.html

Tin KT vĩ mô https://vietstock.vn/2019/11/toc-do-tang-truong-gdp-viet-nam-du-bao-dat-7nam-giai-doan-2021-

2025-761-716612.htm

https://bizlive.vn/thoi-su/ky-vong-kim-ngach-thuong-mai-viet-nam-australia-dat-10-ty-usd-nam-

2020-3528187.html

Tin KT Quốc tế https://bizlive.vn/kinh-doanh-quoc-te/trung-quoc-quyet-liet-san-xuat-dat-hiem-nhieu-nuoc-lon-lo-

so-3528331.html

10

Danh mục viết tắt

B K

Ban lãnh đạo BLĐ Khách hàng doanh nghiệp KHDN

Bảo hiểm BH Khách hàng cá nhân KHCN

Bảo hiểm tiền gửi BHTG Kinh tế KT

Bảo hiểm y tế BHYT Kinh tế xã hội KTXH

Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Kinh tế vĩ mô KTVM

Bảo hiểm xã hội BHXH Kiểm soát rủi ro KSRR

Bảo hiểm nhân thọ BHNT Kết quả KQ

Bất động sản BĐS Khu vực KV

Bình quân BQ Khu công nghiệp KCN

C

Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD L

Chỉ số giá tiêu dùng CPI LS LS

Chính sách tiền tệ CSTT Liên NH LNH

Chính sách tín dụng CSTD Lợi nhuận trước thuế LNTT

Chứng khoán/CTCK CK/CTCK Lợi nhuận sau thuế LNST

Công nghệ thông tin CNTT

Công ty cổ phần CTCP M

Cổ phần hóa CPH Mua bán, sáp nhập M&A

Cơ sở hạ tầng CSHT

Cơ quan/Cơ quan quản lý CQ/CQQL N

Cơ quan Nhà nước CQNN Nhà đầu tư NĐT

D Nhà đầu tư nước ngoài NĐTNN

Dịch vụ DV NH NH

Doanh nghiệp DN NH liên doanh NHLD

Doanh nghiệp nhà nước DNNN NH Nhà nước NHNN

Doanh nghiệp tư nhân DNTN NH quốc doanh NHQD

Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN NH thương mại cổ phần NHTMCP

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI NH thương mại Nhà nước NHTM NN

Dự trữ bắt buộc DTBB NH nước ngoài NHNNg

Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI NH trung ương NHTW

Đầu tư gián tiếp FII NH chính sách xã hội NHCSXH

Định chế tài chính ĐCTC Ngân sách nhà nước NSNN

G Ngân sách địa phương NSĐP

Giấy chứng nhận GCN Nhập khẩu NK

Giá trị gia tăng GTGT Nợ xấu NX

Giám đốc GĐ Nợ quá hạn NQH

H

Hợp tác xã HTX

11

P V

Phòng giao dịch PGD Vốn điều lệ VĐL

Phó Giám đốc PGĐ Vốn tự có VTC

Vốn chủ sở hữu VCSH

Q Văn bản pháp luật VBPL

Quản lý rủi ro QLRR

Quỹ tín dụng nhân dân QTDND X

Xã hội XH

S Xuất khẩu XK

Sản xuất SX Xuất nhập khẩu XNK

Sản xuất kinh doanh SXKD Xây dựng XD

So với SV Xây dựng cơ bản XDCB

T Quốc gia/Tổ chức

Tài chính - NH TC-NH VN VN

Tài sản bảo đảm TSBĐ Kho bạc Nhà nước KBNN

Tăng trưởng tín dụng TTTD Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX

Thanh toán quốc tế TTQT Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE

Thanh toán nội địa TTNĐ Tổng cục thống kê GSO (TCTK)

Thị trường chứng khoán TTCK Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT

Thị trường mở OMO Ủy ban Chứng khoán Nhà nước UBCKNN

Thu nhập cá nhân TNCN Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách VERP

Thu nhập doanh nghiệp TNDN Cục dự trữ liên bang Mỹ FED

Tổ chức tín dụng TCTD Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN

Tổng giám đốc TGĐ Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE

Tổng tài sản TTS Liên minh châu Âu EU

Tổng sản phẩm quốc nội GDP NH Thế giới (World Bank) WB

Trái phiếu Chính phủ TPCP NH Phát triển châu Á ADB

Trái phiếu doanh nghiệp TPDN NH trung ương châu Âu ECB

NH trung ương TQ PBOC

NH trung ương Nhật Bản BOJ

NH TTQT BIS

Tổ chức thương mại thế giới WTO

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD

TQ TQ

Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF