169
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN TIẾN THÀNH hoµn thiÖn c¬ chÕ ph¸p lý thùc hiÖn d©n chñ c¬ së ë viÖt nam hiÖn nay LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HÀ NỘI - 2016

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN TIẾN THÀNH

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN TIẾN THÀNH

hoµn thiÖn c¬ chÕ ph¸p lý thùc hiÖn

d©n chñ c¬ së ë viÖt nam hiÖn nay

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

HÀ NỘI - 2016

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN TIẾN THÀNH

hoµn thiÖn c¬ chÕ ph¸p lý thùc hiÖn

d©n chñ c¬ së ë viÖt nam hiÖn nay

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Mã số: 62 38 01 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HƯƠNG

HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có

nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả luận án

Nguyễn Tiến Thành

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ

ĐẶT RA CẦN NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 8

1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước 8

1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 21

1.3. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần

tiếp tục nghiên cứu đề tài luận án 26

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC

HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM 32

2.1. Nhận thức về dân chủ và dân chủ cơ sở 32

2.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở 41

2.3. Các thành tố của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở 49

2.4. Tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở 60

Chương 3: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC HIỆN DÂN CHỦ

CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 71

3.1. Thực trạng xây dựng các nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở 71

3.2. Thực trạng thể chế thực hiện dân chủ cơ sở 83

3.3. Thực trạng thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở 90

3.4. Thực trạng các điều kiện đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở 99

3.5. Thực trạng tác động của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở 103

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ

THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 117

4.1. Dự báo những chuyển biến của xã hội tác động đến quá trình hoàn thiện

cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam 117

4.2. Quan điểm hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam

hiện nay 123

4.3. Giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam

hiện nay 127

KẾT LUẬN 148

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCHTW : Ban Chấp hành Trung ương

CNXH : Chủ nghĩa xã hội

HĐND : Hội đồng nhân dân

HTCT : Hệ thống chính trị

MTTQ : Mặt trận Tổ quốc

QCDC : Quy chế dân chủ

UBND : Ủy ban nhân dân

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trên phương diện nhận thức luận, quyền lực nhân dân trong mọi xã hội hiện

đại đều có thể và cần thiết thể hiện theo hai phương thức: dân chủ đại diện, dân chủ

trực tiếp và thực hiện trên các phạm vi không gian của đất nước. Điều đó bao hàm

cách hiểu, nhân dân - với vị thế chủ thể quyền lực, có thể trao quyền cho cá nhân

hay tổ chức đại diện cho mình để thực hiện quyền lực nhân dân đồng thời nhân dân

cũng có thể tự mình bày tỏ ý chí của mình để trực tiếp thực hiện quyền lực nhân

dân. Nói cách khác, mặc dù làm chủ thông qua con đường nhà nước là phương thức

làm chủ thông dụng và hữu hiệu nhưng nhân dân không thể trao hết quyền lực cho

nhà nước. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, Nhà nước luôn vấp phải những lỗi hệ

thống và nhân dân luôn gặp khó khăn trong việc kiểm soát hoạt động của các cơ

quan Đảng và Nhà nước nhằm đảm bảo quyền lực nhân dân. Vì vậy, nhân dân

không thể đặt cược toàn bộ vào nhà nước. Nhân dân phải tự mình - thông qua

những hình thức khác nhau, trực tiếp thực hiện quyền của chủ nhân quyền lực. Điều

này thể hiện rõ nét nhất tại địa bàn cơ sở. Cách đặt vấn đề đó đã chỉ ra nhu cầu phải

tìm kiếm căn cứ lý thuyết để tạo khung tư duy cho việc xác lập các cơ chế bảo đảm

quyền lực thuộc về nhân dân, trong đó - như một tất yếu - có cơ chế pháp lý thực

hiện dân chủ cơ sở.

Trên phương diện thực tiễn, Đảng ta luôn coi trọng nhân dân, luôn xác định

vị thế chủ thể quyền lực của nhân dân và phấn đấu vì lợi ích của nhân dân. Trong

quá trình đổi mới, tính pháp quyền của Nhà nước, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

(XHCN) đã từng bước được xây dựng, củng cố. Bước tiến đó đã có khả năng

thâm nhập sâu rộng vào mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, vào đời sống xã

hội trên nhiều vùng của đất nước, đang tạo ra những mô hình, những điển hình có

sức lan tỏa lớn. Tuy nhiên, trong thực tế, cơ chế bảo đảm quyền lực thuộc về nhân

dân vẫn đang tồn tại những bất cập. Một mặt, tuy Hiến pháp 2013 đã có những

thay đổi quan trọng trong ghi nhận chủ quyền nhân dân và các cơ chế thực thi dân

chủ nhưng trên thực tế, quá trình triển khai thi hành Hiến pháp mới được khởi

2

động, mặt khác, dân chủ cơ sở ở nước ta chưa được phát huy đúng mức - xét cả ở

góc độ nhận thức cũng như ở hiện thực của các hình thức và cơ chế đảm bảo

quyền tham gia và quyết định trực tiếp của nhân dân đối với các vấn đề của địa

phương và đất nước. Trong suốt những năm đổi mới vừa qua, để đảm bảo tính an

toàn và ổn định xã hội, quá trình phát huy dân chủ ở nước ta vẫn căn bản dựa trên

cơ sở chiêm nghiệm thực tế, vừa làm vừa đúc rút lý luận và kinh nghiệm, do vậy

tính tổng thể, tính đồng bộ, tính phù hợp và hiệu quả còn bị hạn chế. Đặc biệt, tại

địa bàn cơ sở, tình trạng vi phạm dân chủ vẫn là hiện tượng tương đối phổ biến. Đi

kèm với nó là trạng thái suy giảm lòng tin của dân chúng và hiệu ứng ngược đối

với năng lực thực hành dân chủ của nhân dân. Những nỗ lực phát huy dân chủ ở

cơ sở trong những năm gần đây vẫn chưa phát huy hết được tác động thực tế. Các

cơ chế, hình thức thực thi dân chủ của người dân và các cơ chế bảo vệ, bảo đảm

quyền dân chủ của người dân ở cơ sở vẫn có không ít khoảng trống về mặt lý luận

và thiết kế pháp lý. Nhìn một cách tổng thể, phương châm "Dân biết, dân bàn, dân

làm, dân kiểm tra" tại cơ sở vẫn chưa có được những căn cứ chính trị và pháp lý

vững chắc cho việc thực hiện nhất quán để một mặt bảo đảm vai trò và sứ mệnh

lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội của Đảng, quyền làm chủ của nhân dân, hiệu

lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, mặt khác, bảo đảm để có sự cầm quyền và

thực thi quyền lực chính đáng, hợp hiến vì nhân dân, ngăn chặn có hiệu quả mọi

biểu hiện của sự lạm dụng quyền lực và nguy cơ phát triển chệch hướng, vượt ra

ngoài quỹ đạo phục vụ nhân dân.

Nhu cầu khắc phục tình trạng nói trên đã được Đảng và Nhà nước ta nhận

thức rất rõ. Nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề lý luận và tổng kết thực tiễn để hình

thành một chủ thuyết đầy đủ về chủ quyền nhân dân, trên cơ sở đó xác lập cơ chế

hữu hiệu đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, tăng cường các cơ chế, hình thức

đảm bảo phát huy dân chủ cơ sở, giải quyết các mối quan hệ giữa quyền làm chủ

trực tiếp của người dân với các thiết chế thuộc hệ thống chính trị cơ sở… đã được

xác định là một yêu cầu cấp bách và trở thành một định hướng quan trọng trong

nghiên cứu khoa học và được đặt trong bối cảnh đổi mới chính trị hiện nay nhằm

khơi thông một cách tiếp cận và quảng bá xã hội về quyền của người dân, về khả

3

năng nhân dân được làm gì và làm như thế nào để bảo vệ và thực thi quyền lực

nhân dân trong một trật tự nhà nước pháp quyền. Đặc biệt, thực hiện tốt và đẩy

mạnh dân chủ cơ sở không chỉ đơn thuần là một phản ứng chính trị của Đảng và

Nhà nước trước tình hình phức tạp của những điểm nóng ở cơ sở mà còn thể hiện

cái nhìn hướng tới cơ sở, coi trọng cái gốc ở cơ sở, do vậy mang tính chiến lược,

căn bản, lâu dài. Theo hướng đó, trên từng bình diện cụ thể, nhiều đề tài nghiên cứu

đã được triển khai. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu đến nay vẫn chưa phúc đáp được

yêu cầu.

Trong bối cảnh đó, rất cần thiết phải tiến hành nghiên cứu theo hướng làm

sâu sắc thêm về mặt lý luận, tổng kết thực tiễn và định hình một cách cơ bản, đồng

bộ, có hệ thống về các giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân

chủ cơ sở gắn với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, thúc đẩy và bảo

vệ các quyền cơ bản của con người ở Việt Nam. Bối cảnh triển khai Hiến pháp năm

2013 hiện nay càng khiến cho chủ đề này trở nên cấp bách.

Như vậy, có thể khẳng định, trong tình hình hiện nay việc lựa chọn nghiên

cứu chủ đề “Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam

hiện nay” trong quy mô của một luận án tiến sĩ và dưới góc độ tiếp cận của khoa

học pháp lý là rất cần thiết, xét cả từ góc độ lý luận và góc độ thực tiễn.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích tổng quát của luận án là xây dựng luận cứ khoa học cho các giải

pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, góp phần phát

huy dân chủ, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân trong quá trình đổi mới đất

nước hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu làm sáng tỏ nhận thức về dân chủ cơ sở; xác định khái niệm,

đặc điểm, các yếu tố cấu thành và vai trò của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ

sở ở Việt Nam hiện nay.

- Nhận diện các tiêu chí hoàn thiện và các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn

thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam.

4

- Đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam.

Xác định và phân tích các nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế của cơ chế pháp lý

thực hiện dân chủ cơ sở hiện nay.

- Xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế

pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam trong giai đoạn tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Các khía cạnh lý luận về hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở.

- Hệ thống pháp luật và thực hiện pháp luật về quyền dân chủ, các hình thức,

phương pháp, trình tự, thủ tục thực hiện dân chủ tại cơ sở.

- Hệ thống pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động

của các thiết chế thực thi dân chủ tại cơ sở.

- Các điều kiện, yếu tố tác động đến quá trình hoàn thiện cơ chế pháp lý thực

hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi không gian: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là một phạm

trù có nội hàm rộng, khó có thể giải quyết thấu đáo trong quy mô của luận án tiến sĩ

luật học.

Vì vậy, luận án triển khai nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng thể chế,

thiết chế và các điều kiện đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở trên không gian cả nước

nhưng chỉ giới hạn ở đơn vị hành chính - lãnh thổ cấp cơ sở. Khái niệm thực hiện

dân chủ cơ sở - đối tượng nghiên cứu của đề tài - được xác định là việc thực hiện

dân chủ tại loại hình cơ sở xã, phường, thị trấn (chủ yếu là xã - đơn vị hành chính

cơ sở phổ biến ở nước ta hiện nay), không bao hàm việc thực hiện dân chủ trong

các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức nhà nước tại cơ sở.

- Phạm vi thời gian:

Luận án triển khai nghiên cứu quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ chế

pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam từ sau khi Bộ Chính trị (khóa VIII)

có Chỉ thị số 30/CT-TW của Bộ Chính trị ngày 18/2/1998 về xây dựng và thực

hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Trực tiếp là từ khi Chính phủ có Nghị định số

5

29/1998/NĐ-CP ngày 28/5/1998 về việc ban hành quy chế thực hiện quy chế dân

chủ cơ sở đến 2015.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận của luận án

Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu luận án là lý luận của chủ nghĩa Mác -

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, chủ quyền nhân dân và bản

chất của dân chủ XHCN, về chức năng nhiệm vụ của hệ thống chính trị cơ sở, về vị

trí vai trò của các tổ chức quần chúng, về đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy

Đảng và Nhà nước theo hướng phục vụ nhân dân và bảo đảm quyền lực nhân dân.

Luận án trực tiếp dựa trên những quan điểm và định hướng các nhiệm vụ

chính trị được đề cập trong các Văn kiện Đại hội VIII, IX, X, XI của Đảng về tiếp

tục phát huy dân chủ, đổi mới hệ thống chính trị, về chiến lược phát triển bền vững

ở Việt Nam, về tiến bộ và công bằng xã hội, về xây dựng hệ thống pháp luật đồng

bộ, minh bạch, đảm bảo các quyền con người, quyền công dân…

Luận án cũng dựa trên cách tiếp cận nghiên cứu của một số lý thuyết phổ

biến hiện nay trên thế giới như: lý thuyết về chủ quyền nhân dân, học thuyết nhà

nước pháp quyền, học thuyết về quyền con người…

4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án

Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến hiện nay của khoa

học pháp lý, trong đó chú trọng các phương pháp: phân tích và tổng hợp, kết hợp

giữa lý luận và thực tiễn, lý thuyết hệ thống. Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số

phương pháp cụ thể như thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, lịch sử...

Do tính chất liên ngành của đề tài, luận án có chú ý thích đáng đến cách tiếp

cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội trên cơ sở lát cắt chủ đạo của khoa học

pháp lý và khoa học chính trị.

Chương 1 sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp phân tích

tài liệu thứ cấp nhằm kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, phân tích, tổng hợp,

khái quát thành quan điểm riêng của tác giả.

Chương 2 sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp trên cơ sở quan

điểm biện chứng của triết học Mác-Lênin.

6

Chương 3 sử dụng phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh, điều tra xã hội

học, đánh giá thực hiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở các tỉnh, thành

phố trong cả nước.

Chương 4 sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, lý thuyết hệ thống nhằm

phát hiện mối liên hệ giữa bối cảnh, điều kiện với các yêu cầu phát huy dân chủ cơ

sở; bảo đảm tính tổng thể và khoa học của các giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý

thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay.

5. Đóng góp mới của luận án

Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về hoàn thiện cơ chế pháp lý thực

hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay. Tác giả luận án phân tích toàn diện cơ sở

lý luận và thực tiễn về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở và kiến nghị hệ

thống các giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam

hiện nay.

Những đóng góp chủ yếu của luận án là:

- Đưa ra khái niệm cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở; chỉ rõ các

thành tố của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam; xác định các

tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở

ở Việt Nam.

- Luận án chỉ ra sự tương tác giữa phát huy dân chủ cơ sở với đảm bảo quyền

con người ở nước ta hiện nay.

- Đánh giá những kết quả và hạn chế, bất cập của cơ chế pháp lý thực hiện

dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay; Chỉ rõ nguyên nhân của những kết quả và hạn

chế trong sự tác động của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đối với xã hội

Việt Nam hiện nay.

- Nêu và luận chứng đầy đủ về hệ thống giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý

thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Về lý luận

Kết quả nghiên cứu và đóng góp mới của luận án góp phần làm sáng tỏ và

phong phú thêm những vấn đề lý luận về thực hiện dân chủ nói chung, về cơ chế

7

pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam nói riêng. Từ đó, luận án góp phần đổi

mới nhận thức lý luận về dân chủ và dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay.

6.2. Về thực tiễn

Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với các nhà nghiên cứu,

các nhà hoạch định chính sách và quản lý.

Kết quả luận án có thể được sử dụng phục vụ cho hoạt động đào tạo cho học

viên cao học, sinh viên đại học tại các cơ sở đào tạo ngành luật và các ngành khoa

học xã hội có liên quan.

Các kết quả nghiên cứu của luận án có thể được các cơ quan hữu quan tại các

địa phương sử dụng làm luận cứ khoa học, tài liệu tham khảo phục vụ việc xây

dựng các giải pháp, biện pháp cụ thể để phát huy dân chủ cơ sở trên địa bàn, góp

phần đảm bảo quyền lực nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc

phòng, trật tự an toàn xã hội, phát triển bền vững tại địa phương.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của tác

giả liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung luận án gồm 4

chương, 15 tiết.

8

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ

ĐẶT RA CẦN NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC

Cùng với quá trình đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và nền

kinh tế thị trường định hướng XHCN, yêu cầu phát huy dân chủ trong các lĩnh vực

của đời sống đã được đặt ra hết sức mạnh mẽ ở Việt Nam. Theo đó, hoạt động

nghiên cứu hướng tới mục tiêu tìm kiếm các giải pháp đảm bảo thực hiện dân chủ

nói chung, dân chủ cơ sở nói riêng diễn ra đặc biệt sôi động ở nước ta trong những

năm gần đây. Số lượng các công trình nghiên cứu liên quan đến chủ đề này khó có

thể liệt kê hết thông qua những con số thống kê đơn thuần. Sản phẩm của hoạt

động nghiên cứu được công bố dưới nhiều hình thức ấn phẩm khác nhau: Báo cáo

tổng hợp và kiến nghị của các đề tài nghiên cứu các cấp, sách chuyên khảo, các

bài báo khoa học, các kỷ yếu hội thảo khoa học, các luận án và luận văn trong các

lĩnh vực chuyên ngành luật học, chính trị học, hành chính học…

Nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu chủ đề luận án, nghiên cứu sinh chỉ

dừng ở việc lựa chọn và tổng quan những quan điểm nghiên cứu chính của một số

công trình tiêu biểu có liên quan trực tiếp tới các nội dung thuộc phạm vi bàn luận

của luận án. Về cơ bản, có thể gom các công trình đó thành các nhóm sau:

1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về dân chủ và dân chủ cơ sở

Trước hết, nghiên cứu về dân chủ có thể kể đến các công trình sau:

- Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, của Thái Ninh, Hoàng Chí

Bảo [96]. Nội dung cuốn sách tập trung làm rõ các vấn đề lý luận về dân chủ tư

sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa; coi dân chủ tư sản là thành quả của cuộc cách

mạng tư sản, là kết quả việc nhà nước tư sản sử dụng phương pháp tự do chủ

nghĩa để thực hiện chuyên chính tư sản; chỉ ra những đặc trưng cơ bản của dân

chủ tư sản. Dân chủ XHCN là nền dân chủ gắn với bản chất của chế độ Nhà nước

XHCN; là hình thức chính quyền mà đặc trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên

tắc thiểu số phục tùng đa số và thừa nhận quyền tự do bình đẳng của công dân.

9

Trong tương quan với quyền lực nhân dân, dân chủ được coi là công cụ, là hình

thức chủ yếu thực hiện quyền lực nhân dân...

- Mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân công dân với Nhà nước, của Trần

Ngọc Đường, Chu Văn Thành [44]. Nội dung cuốn sách đã phân tích và lý giải về

mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước và công dân về quyền và nghĩa vụ. Bởi lẽ,

chế độ chính trị ở nước ta nhân dân là người chủ của đất nước, đương nhiên phải

có đầy đủ quyền của người làm chủ, đồng thời cũng phải thực hiện nghĩa vụ, đó là

mối quan hệ biện chứng. Nhưng để bảo đảm quyền, nghĩa vụ được thực thi trên

thực tế, phải được luật quy định chính xác, đầy đủ, đó là điều kiện quyết định, nếu

không thì dù có cơ chế tốt đến đâu cũng không thể thực thi được.

- Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và thực tiễn, của Nguyễn Tiến

Phồn [100]. Cuốn sách bàn tập trung về cách hiểu khái niệm dân chủ, tập trung

dân chủ, trạng thái của dân chủ trong xã hội hiện đại và ở Việt Nam…

- Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay, của Đỗ

Trung Hiếu [54]. Tác giả dành sự quan tâm phân tích nhu cầu và đặc thù nền dân

chủ Việt Nam, đề xuất các giải pháp tiếp tục phát huy dân chủ trong điều kiện hiện

nay ở Việt Nam.

- Dân chủ và pháp luật, của Ngô Huy Cương [16]. Cuốn sách gồm 3

chương, trình bầy những nhận thức chung về dân chủ, đánh giá tính dân chủ trong

pháp luật Việt Nam hiện nay, đề cập việc xây dựng dân chủ và pháp luật dân chủ

ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay như: xây dựng nền văn hóa chính trị, xây

dựng Hiến pháp dân chủ, xây dựng chính quyền dân chủ, phát triển các hình thức

dân chủ và xây dựng xã hội công dân.

- Các chuyên đề bài giảng chính trị học, của Phan Xuân Sơn [119]. Các

chuyên đề bài giảng chính trị học đều có những nội dung liên quan ở các mức độ

khác nhau đến nền dân chủ. Đó là các vấn đề lý luận về quyền lực chính trị, quyền

lực nhà nước, hệ thống chính trị, Nhà nước pháp quyền, Đảng chính trị và xã hội

công dân, kiểm soát quyền lực nhà nước, bầu cử... Đặc biệt chuyên đề 21 - Xây

dựng nền dân chủ XHCN Việt Nam do Lê Minh Quân biên soạn đã trình bầy một

cách hệ thống những vấn đề lý luận chung về dân chủ, bao gồm: các quan niệm về

10

dân chủ và các mô hình dân chủ trong lịch sử chính trị thế giới từ thời cổ đại đến

nay, quan niệm về dân chủ của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, những

yếu tố tạo nên cơ sở cho nền dân chủ hiện đại và tiêu chuẩn dân chủ. Trên cơ sở

đó, chuyên đề đánh giá khái quát thực trạng dân chủ ở Việt Nam và đặt ra yêu cầu

tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị

trường định hướng XHCN.

- Đặc biệt, số lượng các bài báo khoa học về chủ đề dân chủ hết sức phong

phú, trong đó phải kể đến danh mục các bài sau: Hoàng Văn Hảo, Vấn đề dân

chủ và các đặc trưng của mô hình tổng thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam [50]; Nguyễn Trọng Thóc, Nâng cao vai trò lãnh đạo của

Đảng đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ

nghĩa ở nước ta hiện nay [133]; Đặng Hữu Toàn, Xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa và vấn đề thực thi quyền làm chủ của nhân dân [140];

Lương Đình Hải, Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ hóa xã hội

ở nước ta hiện nay [49]; Nguyễn Minh Đoan, Dân chủ với pháp luật [42]; Phạm

Văn Nhuận, Để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo xây dựng nền dân chủ xã hội

chủ nghĩa ở nước ta hiện nay [94]; Đặng Viết Đạt, Pháp luật và dân chủ trong

nhà nước pháp quyền [41]…

Đi sâu bàn luận về dân chủ cơ sở đã có rất nhiều công trình nghiên cứu từ

các góc độ khác nhau, trong đó phải kể đến các công trình sau:

- Mối quan hệ giữa các yếu tố tâm lý xã hội với quá trình thực hiện quy chế

dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay, của Trần Ngọc Khuê [68]. Đề tài đã phân tích

làm rõ sự tác động qua lại của một số yếu tố tâm lý xã hội cơ bản với việc thực

hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ hiện nay; đánh giá

thực trạng và nguyên nhân thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn đồng

bằng Bắc Bộ; đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm thực hiện có hiệu quả Quy chế

dân chủ ở cơ sở nông thôn trong thời kỳ mới.

- Quá trình thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở một số tỉnh đồng bằng sông

Hồng hiện nay, của Nguyễn Thị Ngân [89]. Đề tài đã tiến hành nghiên cứu thực

trạng việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, qua

11

đó đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh và hoàn thiện việc thực hiện quy chế

dân chủ (QCDC) ở khu vực đồng bằng sông Hồng.

- Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - một số vấn đề lý luận và thực tiễn,

của Dương Xuân Ngọc [90]. Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận tác giả đã làm rõ ý

nghĩa và tầm quan trọng của Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp, phân tích đánh giá

thực trạng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã, đưa ra những giải pháp

phù hợp cho việc thực hiện QCDC ở cấp xã ở nước ta trong điều kiện mới.

- Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta

hiện nay, của Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông [116]. Nội dung của cuốn sách

được rút ra từ những kết quả khảo cứu, nghiên cứu của tập thể tác giả tiến hành ở

nhiều địa phương trên cả ba miền đất nước và có tham khảo kinh nghiệm ở một

số nước. Qua nội dung cuốn sách cho thấy trong thời gian qua, chính quyền cơ

sở đã tích cực thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, nhiều nơi đã triển khai

quy chế dân chủ cơ sở có hiệu quả cùng nhân dân làm nên những thành tựu đổi

mới trong phát triển kinh tế làm thay đổi bộ mặt nông thôn và thành thị. Tuy

nhiên, trong quá trình xây dựng, chính quyền cơ sở còn bộc lộ những khuyết

điểm, yếu kém trong công tác lãnh đạo, tổ chức và vận động nhân dân. Tình

trạng quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân

còn xảy ra ở không ít nơi, quy chế dân chủ cơ sở chưa được triển khai đầy đủ, có

nơi chưa đi vào cuộc sống...

- Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, của Nguyễn

Văn Sáu, Hồ Văn Thông [117]. Nội dung của cuốn sách cho thấy cách nhìn sinh

động trong việc thực Quy chế dân chủ ở cơ sở và xây dựng chính quyền cấp xã

trên một số hoạt động như quản lý xã hội, kinh tế, quản lý tài chính, thực hiện

chương trình xóa đói giảm nghèo, nhằm phát triển nông thôn Việt Nam trong giai

đoạn mới.

- Hỏi đáp về dân chủ ở cơ sở, của Nguyễn Bắc Son [118]. Cuốn sách gồm 3

phần, trong đó phần I đề cập đến thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Bao

gồm những quy định chung trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Những

nội dung công khai để nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định;

12

những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền bàn và

quyết định; những nội dung nhân dân giám sát. Sách được kết cấu dưới dạng hỏi -

đáp, được sắp xếp theo từng vấn đề, dễ nhớ, dễ thuộc và dễ tra cứu. Các câu hỏi và

đáp án trả lời trong cuốn sách đã khái quát và cụ thể hóa những quy định pháp lý

cơ bản nhất trong lĩnh vực dân chủ ở cơ sở: quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ

chức, cá nhân trong hoạt động dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

- Đỗ Tiến Sâm, Vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc

[115]. Trong công trình này, tác giả nghiên cứu hệ thống chính quyền cơ sở, tổ

chức tự quản ở nông thôn Trung Quốc và vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông

thôn Trung Quốc. Trên cơ sở đánh giá những thành tựu, hạn chế, các vấn đề đặt ra

và phương hướng giải quyết, tác giả rút ra những bài học kinh nghiệm có thể tham

khảo trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã tại Việt Nam.

- Vũ Văn Hiền, Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm ở Thụy Điển và Trung

Quốc [52]. Cuốn sách tập hợp các bài viết của các nhà khoa học nghiên cứu về

vấn đề bảo đảm quyền dân chủ của người dân ở cơ sở trên tất cả các lĩnh vực của

đời sống xã hội qua kinh nghiệm thực hành dân chủ ở Thụy Điển và Trung Quốc.

- Viện Chính sách công và Pháp luật - Viện Nhà nước và pháp luật (Đồng

chủ biên): Đào Trí Úc và các cộng sự, Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ

trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam [150]. Cuốn sách gồm tập hợp

những bài tham luận tại cuộc Hội thảo “Dân chủ trực tiếp, Dân chủ cơ sở trên thế

giới và ở Việt Nam”, trong đó, các tác giả đã chia sẻ kiến thức, thông tin về một

loạt vấn đề lý luận, thực tiễn và các mô hình tổ chức thực hiện dân chủ trực tiếp,

dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam; đồng thời, đề xuất những quan điểm,

giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và các cơ chế bảo đảm thực hiện dân

chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở ở nước ta trong thời gian tới.

- Cuốn sách: Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình đổi

mới, của Hoàng Chí Bảo [5]. Nội dung của cuốn sách bao gồm sáu vấn đề lớn:

1. Ý thức dân chủ của người Việt Nam từ lịch sử đến hiện đại.

2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và quy chế dân chủ ở cơ sở.

13

3. Quan hệ giữa thể chế chính thống và phi chính thống trong việc củng cố,

xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn hiện nay.

4. Tác động của quy chế dân chủ ở cơ sở đối với việc thực hiện xoá đói

giảm nghèo ở nông thôn từ góc nhìn đánh giá chính sách.

5. Tâm lý làng xã trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở và tăng cường văn

hoá pháp luật ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.

6. Những bài học kinh nghiệm từ các địa phương về quá trình triển khai,

thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và một vài khuyến nghị.

- Cuốn sách Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay, của

Hoàng Chí Bảo [6]. Theo tinh thần nội dung Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX)

về "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị

trấn, cuốn sách trên là kết quả nghiên cứu của đề tài "Nghiên cứu một số vấn đề

nhằm củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới ở

nước ta hiện nay".

Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP Về việc ban

hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đã có rất nhiều bài báo khoa học được đăng

tải trên các Tạp chí chuyên ngành Luật học, Chính trị học, Triết học... bàn sâu các

khía cạnh của dân chủ cơ sở nói chung, dân chủ trên địa bàn cấp xã nói riêng:

- Ngọ Văn Nhân, Về đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện

trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay [93]. Trong bài viết, tác giả khẳng định

rằng, phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền

XHCN là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nước ta trong công

cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển đất nước hiện nay, là điều kiện tiên quyết để

xây dựng bộ máy nhà nước thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,

đồng thời nhấn mạnh, dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện đều là hình thức của

chế độ dân chủ, có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau.

- Đỗ Văn Dương, Những giải pháp phát huy vai trò hệ thống chính trị cơ

sở nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh

Tây Nguyên [20]. Theo tác giả bài viết, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở xã,

14

phường, thị trấn ngày càng đổi mới và hoàn thiện được coi là cơ chế vận hành

của nền dân chủ nhằm bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, là khâu then chốt

của toàn bộ quá trình dân chủ hóa đời sống chính trị - xã hội ở cơ sở, giúp giải

quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và công dân, qua đó quyền làm chủ

của nhân dân ngày càng được bảo đảm đầy đủ hơn trên thực tế. Nhìn trên

phương diện đó, những hạn chế, bất cập của hệ thống chính trị cơ sở đối với việc

lãnh đạo, triển khai thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên

vẫn còn rất lớn. Chính vì vậy, tác giả khẳng định cần phải có những giải pháp

toàn diện nhằm phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở nhằm bảo đảm thực

hiện dân chủ ở cấp xã ở Tây Nguyên, như tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ

cơ sở; nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của đội ngũ cán

bộ cấp xã ở Tây Nguyên...

- Nguyễn Thị Thu Hà, Thực hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống chính trị

cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay [47]. Nội dung bài viết tập trung làm rõ hai

phương diện của hoạt động thực hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống chính trị cơ

sở nông thôn ở nước ta hiện nay, những kết quả bước đầu, một số hạn chế và

nguyên nhân.

- Nguyễn Thọ Khang, Thực hiện dân chủ ở cấp xã và vấn đề đặt ra đối với

báo chí ở nước ta hiện nay [65]. Bài viết nhấn mạnh vai trò của việc thực hiện dân

chủ ở cấp xã trong phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở xã,

phường, thị trấn, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân

trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, tăng cường đoàn kết toàn dân,

cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn

thể ở xã trong sạch, vững mạnh; trên cơ sở đó, bài viết cho rằng các loại hình báo

chí có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phổ biến, tuyên truyền Pháp lệnh

Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và nêu một số giải pháp nhằm nâng cao

chất lượng, hiệu quả tuyên truyền của báo chí về thực hiện dân chủ ở cấp xã.

- Ngoài ra, có thể điểm danh một danh mục lớn các sách chuyên khảo, các

bài báo và các luận án, luận văn nghiên cứu tập trung về dân chủ cơ sở như:

15

Dương Xuân Ngọc, Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn đề lý luận

và thực tiễn [90]; Lương Gia Ban, Dân chủ và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở

cơ sở [3]; Đặng Đình Tân, Đặng Minh Tuấn, Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân

chủ ở cơ sở [122]; Trần Bạch Đằng, Dân chủ ở cơ sở - một sức mạnh truyền

thống của dân tộc Việt Nam [40]; Lê Quang Minh, Để thực hiện dân chủ sở cơ

sở [76]; Phạm Ngọc Quang, Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi mới -

thành tựu, vấn đề và giải pháp [104]; Hoàng Trọng Chính, Nâng cao hiệu quả

hoạt động quy chế dân chủ ở cơ sở [10]; Nguyễn Kim Thanh, Một vài suy nghĩ

về kết quả 10 năm xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở [129]; Trần

Quốc Huy, Hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ cơ sở cấp xã ở Việt Nam hiện

nay [61]; Vũ Thị Nhung, Hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa

bàn tỉnh Bắc Ninh [95]…

1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu trực diện về cơ chế pháp lý và

cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

Liên quan đến cơ chế pháp lý, khó có thể tìm thấy các công trình nghiên

cứu chuyên biệt về chủ đề này nhưng hoàn toàn có thể nhận diện các quan điểm

khoa học về cơ chế pháp lý thông qua các công trình nghiên cứu về cơ chế thực thi

pháp luật hoặc cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực

khác nhau của đời sống xã hội, chẳng hạn:

- Dân chủ trực tiếp và hoàn thiện cơ chế pháp lý thực thi dân chủ trực tiếp

trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của Nguyễn Thị Việt

Hương [59]. Đề tài nêu ra cách hiểu về cơ chế pháp lý thực thi dân chủ trực tiếp,

phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến cơ chế pháp lý thực thi dân chủ trực tiếp ở

Việt Nam, đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý thực thi dân chủ trực tiếp và trên cơ

sở đó đề xuất hệ thống các giải pháp tiếp tục phát huy dân chủ trực tiếp và hoàn

thiện cơ chế pháp lý thực thi dân chủ trực tiếp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện

nay. Có thể nói đây là công trình nghiên cứu có nhiều nội dung gắn bó tới chủ đề

của luận án này và có nhiều điểm có thể tiếp thu khi triển khai nghiên cứu nội

dung luận án.

16

- Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta

hiện nay, của Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh [148]. Khi bàn về giám sát quyền lực

nhà nước, các tác giả đã dành một dung lượng thích đáng để xem xét khái niệm

“cơ chế”, “cơ chế giám sát”và đưa ra cách hiểu nội hàm hai khái niệm này.

- Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và

Nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Đào Trí Úc [149]. Công trình

là sản phẩm của đề tài KX 10-07 được triển khai trong khuôn khổ của Chương

trình nghiên cứu khoa học xã hội cấp nhà nước: “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ

thống chính trị nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước và chủ động hội nhập quốc tế”. Cuốn chuyên luận đã đi sâu phân tích, cơ

chế và hình thức kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy

Đảng và Nhà nước; làm rõ vị trí, tính chất, đặc điểm của cơ chế và hình thức kiểm

tra, giám sát xã hội ở nước ta; đánh giá những ưu điểm và thực trạng cơ chế giám

sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước cũng như thực

trạng thiết chế hệ thống chính trị ở nước ta; xây dựng và đề xuất mô hình nội dung

và hình thức giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Đảng và Nhà nước…

Trong quá trình phân tích các nội dung của cuốn chuyên luận, các tác giả đã thể

hiện quan điểm khoa học về “cơ chế” “cơ chế giám sát của nhân dân”.

- Kiểm soát quyền lực nhà nước - một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt

Nam hiện nay, của Trịnh Thị Xuyến [160]. Nội dung của cuốn sách chỉ tập trung

chủ yếu vào vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước trên cả hai phương diện lý luận

và thực tiễn, phạm vi nghiên cứu trên bình diện tổ chức quyền lực nhà nước trung

ương giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp và kiểm soát xã hội đối với hoạt động

quyền lực nhà nước, thông qua đó góp phần làm sáng tỏ một phần kiểm soát

quyền lực Nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Ở mức độ nhất định, cuốn chuyên khảo

cũng chú ý luận bàn về cơ chế pháp lý của kiểm soát quyền lực nhà nước, tập

trung là cơ chế pháp lý của giám sát xã hội.

- Nghiên cứu về đổi mới hệ thống chính trị, có công trình của Trần Đình

Hoan về Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam giai

17

đoạn 2005-2020 [55]. Khi luận bàn về đổi mới hệ thống chính trị, công trình này

tiếp cận từ góc độ cơ chế, quy chế phối hợp giữa các thiết chế trong hệ thống

chính trị trên cơ sở làm rõ chức năng của tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ

quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Theo đó, nội hàm của “cơ chế” được hiểu

với các phạm vi rộng, hẹp khác nhau.

- Tương tự như trên, công trình nghiên cứu Đổi mới tổ chức và hoạt động

của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay, của

Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương [102] đã tập trung phân tích luận giải tính

phổ biến và tính đặc thù của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị

ở nước ta, vai trò của xã hội dân sự trong xây dựng và phát triển dân chủ xã hội

chủ nghĩa, luận chứng tính tất yếu khách quan và cơ sở lý luận - thực tiễn của việc

đổi mới tổ chức, khẳng định vai trò đại diện của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

nhân dân trong việc xây dựng, kiểm tra giám sát và phản biện từ khâu khởi thảo

chính sách, pháp luật đến khâu thực thực hiện chính sách, pháp luật và cả công tác

cán bộ… Cùng với việc làm rõ những vấn đề nói trên, cơ chế hoạt động của Mặt

trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cũng được đề cập như là hệ thống các

nguyên tắc, phương pháp, hình thức để hiện thực hóa vai trò, vị trí, chức năng,

thẩm quyền của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị Việt Nam.

- Năm 2006, nhằm triển khai nội dung trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần

thứ IX và thứ X, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì nghiên cứu Đề án phản biện

xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đề án đã thu hút được sự chú ý, quan tâm

đông đảo của các giới nghiên cứu, nhân sĩ, tri thức, các nhà lãnh đạo cách mạng

lão thành đóng góp ý kiến để xây dựng, hoàn thiện phản biện xã hội. Nội dung đề

án, đề cập đến những vấn đề như: khái niệm, mục đích, phạm vi; cơ chế, mối quan

hệ giám sát và phản biện xã hội. Đề án này đã góp phần không nhỏ tạo sự nhận

thức đúng đắn về cơ chế giám sát, phản biện xã hội, là cơ sở cho việc xây dựng cơ

chế về giám sát, phản biện xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở

nước ta hiện nay.

- Một số bài viết, luận án, luận văn có một số nội dung tham gia bàn luận về

cơ chế pháp lý như: Hoàng Chí Bảo, Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện

18

dân chủ: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu [4]; Lê Minh Thông,

Tăng cường cơ sở pháp luật về dân chủ trực tiếp ở nước ta trong giai đoạn hiện

nay [135]; Lê Minh Thông, Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người

ở nước ta [136]; Nguyễn Văn Mạnh, Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp lý

thực hiện quyền con người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay [71];

Trương Thị Hồng Hà, Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm chức năng giám sát của

Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam [48]; Nguyễn Chí Dũng, Cơ

chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp ở Việt Nam [19];…

Tiếp thu quan niệm về cơ chế pháp lý, đã có một số công trình đi sâu

nghiên cứu riêng biệt từng yếu tố cụ thể hợp thành nội hàm cơ chế pháp lý thực

hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Phần lớn trong số đó tiếp cận từ góc độ xây dựng

và thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở. Đáng chú ý là một số công trình sau:

- Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay, của

Phan Xuân Sơn [119]. Cuốn sách đã phân tích vai trò của các đoàn thể nhân dân

như là một thiết chế quan trọng trong cơ chế đảm bảo dân chủ ở cơ sở. Theo đó,

cuốn sách đã đề cập hệ thống các giải pháp nâng cao vai trò của đoàn thể nhân dân

trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.

- Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong điều kiện xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ thực tiễn của tỉnh Thái Bình), của

Nguyễn Hồng Chuyên [13]. Nội dung cuốn sách đã phân tích, góp phần làm rõ cơ

sở lý luận của việc thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong điều kiện xây dựng

nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; khảo sát đánh giá thực trạng thực hiện

pháp luật về dân chủ ở cấp xã cả về những điểm thành công cũng như hạn chế và

nguyên nhân của thực trạng đó qua thực tiễn tỉnh Thái Bình; trên cơ sở đó đề xuất

và luận giải một số quan điểm, giải pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa

hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà

nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

- Phản biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền, của Hồ Bá Thâm,

Nguyễn Tôn Thị Tường Vân [125]. Cuốn sách chỉ rõ việc thực hiện chức năng

19

phản biện xã hội của các tổ chức xã hội dân sự, đặc biệt là của Mặt trận và tổ chức

CT-XH, xã hội nghề nghiệp đối với các cấp chính quyền và cả cấp ủy đảng ở nước

ta nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Theo đó, để thực hiện dân chủ

thực sự, tránh hình thức, các cơ quan lãnh đạo, quản lý cần tạo điều kiện để nhân

dân thực hiện vai trò phản biện xã hội mà thực chất là thực hiện quy trình “dân

biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân quyết định và dân thụ hưởng”.

Ngoài các công trình tiêu biểu trên đây còn một số bài viết đăng trên các

Tạp chí chuyên ngành có nội dung gắn với thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã,

phường thị trấn như:

Bài báo “Pháp luật với vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam

hiện nay”, của Lê Xuân Huy [62]. Trong bài viết này, tác giả đã luận chứng vai

trò quan trọng của pháp luật với việc bảo đảm và thực hiện dân chủ ở nông thôn

nước ta hiện nay, thể hiện ở chức năng hướng dẫn thực hiện dân chủ, điều chỉnh

và bổ sung các giá trị mới, định hướng nhận thức về quyền và nghĩa vụ, đồng thời

góp phần cải tạo tâm lý tiểu nông, các luật tục và thói quen lạc hậu cũng như đấu

tranh khắc phục tệ quan liêu, gia trưởng của một bộ phận cán bộ ở cơ sở. Từ đó,

tác giả khẳng định sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật và nâng cao ý thức pháp

luật của cán bộ và nhân dân ở nông thôn nước ta; Bài báo “Những điểm mới của

Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, của Kim Thanh, Phan Hiên

[128]. Nội dung bài viết giới thiệu những điểm mới của Pháp lệnh Thực hiện dân

chủ ở xã, phường, thị trấn, được Quốc hội khóa X thông qua ngày 1/7/2007. Đây

là một bước tiến trong việc phát huy dân chủ, là cơ sở pháp lý vững chắc để người

dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Các tác giả đã nêu lên những điểm mới

của Pháp lệnh so với Nghị định 79/2003 trước đây, Pháp lệnh có kết cấu hợp lý

với những quy định định điều chỉnh quan hệ mới, bảo đảm tính khả thi, mang tính

dự báo dài hơi của sự vận động và phát triển. Tuy nhiên, theo các tác giả cho rằng

trong tương lai không xa, vấn đề dân chủ cần được điều chỉnh dưới hình thức Bộ

luật để bao quát được các loại hình một cách hiệu quả hơn; Bài báo “Nhìn lại 10

năm thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, của Huỳnh Đảm [22]. Nội

dung bài viết đã đánh giá khái quát những kết quả đạt được sau 10 năm thực hiện

20

Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, trên cơ sở đó đề ra 5 nhiệm vụ, giải pháp

để tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã

hội lên một tầm cao mới; Bài báo “Một số vấn đề đặt ra trong quá trình thực thi

Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, của Chu Thị Trang Vân [153]. Nội

dung bài viết xác định việc thực hiện và phát huy dân chủ cơ sở là một chủ trương

lớn của Đảng ta, trách nhiệm của hệ thống chính trị cơ sở trong việc thực hiện

Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của tổ

chức đảng, chính quyền và đặc biệt là trưởng thôn trong thực hiện Pháp lệnh dân

chủ ở xã, phường, thị trấn; từ đó chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong quá

trình thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn và hướng giải quyết; Bài

báo “Luật tục và việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở Tây Nguyên thực trạng và

những vấn đề đặt ra”, của Nguyễn Văn Nam [87] đề cập vai trò của các thiết chế

xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên có tác động

đến quá trình tổ chức và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Theo tác giả, để thực

hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, cần phải khai thác các mặt tích cực của thiết chế

xã hội và tín ngưỡng truyền thống để xây dựng và phát triển kinh tế, chính trị - xã

hội, văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, kết hợp vận dụng những ưu điểm

của luật tục vào quá trình triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Bài báo

“Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay”, của

Quách Sĩ Hùng [58]. Nội dung bài viết đã góp phần làm rõ khái niệm dân chủ và

dân chủ cơ sở. Dân chủ cơ sở được xem là hình thức phương pháp dân chủ trực

tiếp của nhân dân trong việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Dân chủ cơ sở

bao gồm các nội dung mà nhân dân được biết được bàn để nhà nước quyết định,

hoặc nhân dân quyết định, các nội dung nhân dân được giám sát kiểm tra;…

- Cũng đã có một số luận văn, luận án tiếp cận nghiên cứu dân chủ cơ sở từ

góc nhìn của cơ chế pháp lý như: Đỗ Minh Khôi “Mối quan hệ giữa dân chủ và

pháp luật trong điều kiện Việt Nam hiện nay” [67]; Đỗ Văn Dương, Thực hiện

pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây nguyên [21];

Nguyễn Hồng Chuyên “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [14]; Nguyễn Tiến

21

Thành “Kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế

dân chủ ở xã trên địa bàn thành phố Hà Nội” [131];...

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI

Liên quan đến đề tài luận án là các vấn đề lý luận về dân chủ và dân chủ cơ

sở; lý luận về nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân được

xem là cốt lõi của nền dân chủ; vai trò của hệ thống chính trị trong việc bảo đảm

thực hiện quyền dân chủ của công dân. Trong các vấn đề trên, công dân (người

dân) với tư cách là chủ thể của chế độ dân chủ được quan tâm đặc biệt trong các

hình thức, phương pháp thực hiện quyền dân chủ của mình đặc biệt là ở cơ sở.

Tuy nhiên, đây là những vấn đề thu hút sự quan tâm rất lớn của các học giả nước

ngoài - nơi có những tranh luận khoa học sôi nổi về dân chủ trong suốt chiều dài

lịch sử nhân loại. Vì vậy, luận án chỉ xin điểm danh một số công trình nghiên cứu

mang tính minh họa và nằm trong khả năng thu thập tư liệu của tác giả luận án.

- Robert Alan, Dalh, Democracy and its Critics (Dân chủ và sự phê phán)

[166]. Trong cuốn sách này, từ cách tiếp cận chính trị học, tác giả khẳng định

quyền lực mà nhà nước có được là xuất phát từ quyền lực gốc của nhân dân; bởi

vậy, để thực thi một nền dân chủ đòi hỏi phải có sự chế ước lẫn nhau giữa các chủ

thể trong xã hội, phải được cụ thể hóa và bảo đảm thực thi bằng pháp luật. Tuy

nhiên, mỗi một chế độ dân chủ được duy trì, thực thi như thế nào còn phụ thuộc

vào các điều kiện về kinh tế, truyền thống văn hóa dân tộc của mỗi quốc gia khác

nhau. Khi làm rõ khái niệm dân chủ, tác giả khẳng định rằng, cho đến nay, chưa

có quốc gia nào đáp ứng đầy đủ các lý tưởng dân chủ. Để đạt tới một nền dân chủ

lý tưởng, theo tác giả cuốn sách, phải đáp ứng năm tiêu chí sau: 1) Sự tham gia

hiệu quả: mọi công dân phải có cơ hội đầy đủ và bình đẳng để thể hiện nguyện

vọng của mình và đặt câu hỏi trong các chương trình công cộng, thể hiện các lý do

cho một kết quả tốt đẹp hơn; 2) Các công dân phải được bình đẳng, công bằng

trong bầu cử ở giai đoạn quyết định; 3) Sự hiểu biết sâu sắc: các công dân phải

được hưởng những cơ hội phong phú và bình đẳng cho những phát hiện và lựa

chọn tốt nhất phục vụ cho lợi ích của họ; 4) Kiểm soát các chương trình nghị sự:

22

các công dân phải có cơ hội quyết định những vấn đề chính trị thực sự toàn diện;

5) Tính toàn diện: tính bình đẳng phải được mở rộng đến tất cả các công dân. Mọi

người đều phải có cổ phần hợp pháp trong quá trình chính trị.

- Tương lai của nền dân chủ xã hội” của Thomas Meyer, Nicole Breyer.

[134]. Bản dịch tác phẩm "Tương lai của nền dân chủ xã hội" là kết quả của dự án

nghiên cứu về phong trào dân chủ xã hội ở Đức và Tây Âu, do nhóm nghiên cứu

của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện trên cơ sở quan hệ hợp tác

giữa Học viện và Viện Friedrich Rbert (Fes) trong những năm gần đây. Cuốn sách

là một tác phẩm khoa học lý luận gồm 10 chương. Tư tưởng lớn của cuốn sách là

sự phê phán chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tân tự do với những đặc trưng của nó là

phát triển và bảo vệ sở hữu tư nhân, kinh tế thị trường tự do, tự điều tiết, các

quyền con người thụ động, nền dân chủ hình thức và không hoàn thiện. Tư tưởng

cốt lõi của cuốn sách là dân chủ xã hội ra đời và phát triển trên cơ sở không hoàn

thiện của dân chủ tự do. Dự án dân chủ xã hội khác với chủ nghĩa tự do thuần túy,

bao gồm một hệ thống các giá trị cơ bản, các quan điểm, nguyên tắc và giải pháp

cải cách kinh tế - xã hội. Vì mục tiêu phát triển và lý tưởng tự do công bằng bình

đẳng và hạnh phúc của con người trong bối cảnh hiện nay của thế giới. Xuất phát

từ lập trường quan điểm dân chủ xã hội, các tác giả cố gắng lập luận về triển vọng

sáng sủa của dân chủ xã hội so với dân chủ tân tự do trong sự phát triển của thế

giới đương đại.

- Cuốn sách: Trào lưu xã hội dân chủ ở một số nước phương Tây hiện đại,

của Tống Đức Thảo, Bùi Việt Hương [132]. Hiện nay trào lưu xã hội dân chủ có

ảnh hưởng mạnh mẽ và các Đảng dân chủ xã hội có vai trò quan trọng trong đời

sống chính trị châu Âu, đặc biệt là các nước Tây Âu. Nội dung của cuốn sách đã

khái quát trào lưu xã hội dân chủ, nguồn gốc nội dung, bản chất của trào lưu xã

hội dân chủ, và sự điều chỉnh cơ bản của trào lưu dân chủ xã hội trong bối cảnh

quốc tế đương đại. Các tác giả đã bàn đến những ảnh hưởng của trào lưu xã hội

dân chủ ở các nước phương Tây hiện nay, những giá trị và hạn chế của trào lưu xã

hội dân chủ và ảnh hưởng của trào lưu này đối với Việt Nam.

23

- Virginia Beramandi, Andrew Elis và các tác giả khác, Dân chủ trực tiếp:

Sổ tay IDEA Quốc tế [158]. Cuốn sách này được biên dịch và xuất bản bằng tiếng

Việt bởi Viện Chính sách công và Pháp luật trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa

học và Kỹ thuật Việt Nam với sự cho phép của IDEA Quốc tế, sự hỗ trợ của Đại

sứ quán Na Uy tại Hà Nội và sự cộng tác của Bộ môn Luật Hiến pháp - Hành

chính thuộc Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nội dung cuốn sách cung cấp

các khuyến nghị và bài học thực tiễn về việc vận dụng dân chủ trực tiếp ở tất cả

các vùng trên thế giới; đánh giá điển hình ở 06 quốc gia, gồm Hungary, Thụy Sĩ,

Hoa Kỳ (bang Oregan), Uruguay và Venezuela với các hoạt động trưng cầu dân ý,

sáng kiến của công dân, sáng kiến chương trình nghị sự và bãi miễn...

- Olivier Vidal (Nguyễn Hoàng Anh dịch), Nước Cộng hòa Pháp và các

cộng đồng lãnh thổ địa phương: sự trở lại của nhóm Girondins?, bài viết in trong

cuốn sách “Phân cấp quản lý nhà nước” [98]. Trong bài viết tác giả bàn về sự

hình thành của tư tưởng phân quyền theo chiều dọc, nghĩa là phân quyền cho các

đơn vị hành chính lãnh thổ địa phương. Thực chất phân quyền là sự thể hiện của

mô hình quản lý phi tập trung, là sự biểu hiện của dân chủ, nếu không có dân chủ

thì không có phân quyền theo chiều dọc. Theo tác giả, việc thừa nhận sự tự quản

của cộng đồng lãnh thổ địa phương ở nước Pháp trải qua một quá trình rất lâu dài,

phức tạp, là kết quả của sự đấu tranh giữa phái ủng hộ chế độ tập quyền và phái

ủng hộ chế độ phân quyền; đồng thời, tác giả đề cập tới hình thức thực hiện hoạt

động tự quản địa phương thông qua hình thức trưng cầu ý dân hay “dân chủ ở cơ

sở” - đỉnh cao của chế độ phân quyền.

- Adam Przeworski, Michael Alvarez, Jose Antonio Chebub and Fernando

Limongi, What makes Democracies Endure? (Điều gì tạo nên các nền dân chủ

bền vững?) [162]. Trong bài viết, thông qua việc khảo sát thực chứng về dân chủ

tại 135 nước trên thế giới, các tác giả đã chỉ ra được với mức độ thu nhập bình

quân đầu người ở mức nào thì dân chủ xuất hiện, ở mức nào thì dân chủ bền vững.

Các tác giả cho rằng, các cuộc khủng hoảng kinh tế là một trong những mối đe

dọa phổ biến nhất đối với sự ổn định, phát triển nền dân chủ. Ngược lại, tăng

trưởng kinh tế sẽ luôn có lợi cho sự sống còn của nền dân chủ. Trên thực tế, nhiều

24

nền kinh tế phát triển đã góp phần giúp cho nền dân chủ có thể tồn tại, phát triển

bền vững hơn so với các nước có nền kinh tế phát triển kém.

- Harold Hongju Koh, The right to Democracy, Towards a community of

democracy (Quyền dân chủ, Hướng tới một cộng đồng dân chủ), Issue of

Democracy [163]. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã đề cập tới nhiều

tiêu chuẩn của dân chủ, cho thấy dân chủ bao trùm lên tất cả mọi lĩnh vực của đời

sống kinh tế, chính trị và xã hội. Mục tiêu của việc xây dựng dân chủ không chỉ

dừng lại ở cách hành xử về chính trị, mà còn làm cho dân chủ trở thành yếu tố

định hướng hành vi của con người.

- Sorensen Georg, Democracy and democractization processes and

prospects in changing world (Dân chủ và quá trình dân chủ hóa và triển vọng

trong một thế giới chuyển đổi) [167]. Từ cách tiếp cận lịch sử về dân chủ, tác giả

xem xét, đánh giá triển vọng dân chủ trong thế giới ngày nay, làm rõ khái niệm

dân chủ và cho thấy tiềm năng tích cực trong xu hướng dân chủ hóa, sự phát triển

dân chủ trong những điều kiện khác nhau ở các nước có điều kiện kinh tế - xã hội

khác nhau.

- Phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng xã hội hài hoà, của Đàm

Đức Vũ [159]. Nội dung của bài viết cho rằng: "Dân chủ xã hội chủ nghĩa không

phải từ xưa đã có, nó là thành quả của sự phát triển xã hội và văn minh của loài

người. Dân chủ xã hội chủ nghĩa tuy đã kế thừa, phát triển các hình thức dân chủ

trong lịch sử, nhưng các hình thức dân chủ tồn tại trong hình thái TBCN trước

đây... Trong khi đó dân chủ XHCN cần được xây dựng phù hợp với sự thống trị

của tuyệt đại đa số nhân dân nhằm xoá bỏ bóc lột giai cấp. Tác giả bàn đến dân

chủ XHCN là nội dung quan trọng của chế độ XHCN; xây dựng xã hội hài hoà

XHCN cần phát triển dân chủ XHCN; xây dựng phát triển dân chủ XHCN, thúc

đẩy xây dựng xã hội hài hoà và giữ vững ổn định xã hội; mở rộng sự tham gia của

nhân dân vào đời sống chính trị, thúc đẩy xã hội không ngừng tiến tới hài hoà.

- Đảng Cộng sản Trung Quốc và vấn đề dân chủ, của Tạp chí Thông tin

Những vấn đề lý luận [123]. Bài giới thiệu quan điểm của Đảng Cộng sản Trung

25

Quốc về dân chủ trong quá trình diễn biến tích cực. Những luận điểm có liên quan

đến dân chủ được trình bày trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung

ương (BCHTW) Đảng tại Đại hội XVII được phân tích chi tiết trong bài báo đăng

trên Báo Nguyệt san “Diễn đàn nhân dân” nhan đề: Dân chủ là sinh mệnh của

nước Cộng hoà của Du Khả Bình. Nội dung bài báo đã phân tích việc cải cách

chính trị không chỉ khẳng định lại “phát triển chính trị dân chủ XHCN là mục tiêu

phấn đấu không mệt mỏi của chúng ta” mà còn đặt mục tiêu: “Kiên định phát

triển dân chủ XHCN”. Dân chủ với tư cách là giá trị chính trị chung của nhân loại,

đều có tính phổ biến trên các mặt giá trị chính trị, hình thức thực hiện, yếu tố nội

tại, cơ chế thực hiện, ví dụ, chính trị dân chủ không tách rời pháp trị, không tách

rời bầu cử của nhân dân, không tách rời sự tham gia của nhân dân, không tách rời

việc giám sát quyền lực, không tách rời sự minh bạch về chính trị, không tách rời

việc quản lý xã hội. Không có những giá trị mang tính phổ biến nêu trên dân chủ

sẽ chỉ là tập hợp từ trống rỗng giả hiệu.

- Xây dựng chế độ dân chủ chính trị ở Trung Quốc theo tinh thần của chủ

nghĩa Mác, của Tạp chí “Tân Hoa xã” [124]. Bài báo phân tích thực chất của dân

chủ là nhân dân làm chủ. Dân chủ là thành quả văn minh chung của nhân loại, dân

chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ kiểu mới tiếp nhận và kế thừa truyền thống dân

chủ tốt đẹp trong lịch sử nhân loại. Bài báo đã nêu những nội dung chủ yếu của

"Mô hình dân chủ đặc sắc Trung Quốc" và các nội dung cần chú ý đầy đủ, thường

xuyên áp dụng biện pháp đủ hiệu lực để phát triển chính trị dân chủ cải cách thể

chế chính trị coi phát triển dân chủ chính trị là mục tiêu và động lực của cải cách

thể chế chính trị.

- Ngoài ra, có thể kể thêm một số tài liệu, công trình nghiên cứu của các tác

giả khác, như: A. B. Agapốp, Luật Hành chính (tái bản lần thứ sáu) [2]; Bộ Giáo

dục Liên bang Nga, Đ.N. Bakhrac, Luật Hành chính Nga [8]; G.V. Atamanchuc,

Lý thuyết quản lý nhà nước [46]; Matinne Lombard, Gille Dumont, Pháp luật

hành chính của Cộng hòa Pháp [74]... Các công trình trên chủ yếu tập trung giải

quyết những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước, dân chủ được xem xét như là

một trong những nhân tố bảo đảm sự thành công của hoạt động quản lý nhà nước

26

và phương thức quản lý nhà nước, đề cập tới các hình thức dân chủ: dân chủ đại

diện và dân chủ trực tiếp, đặc biệt là dân chủ ở những cộng đồng lãnh thổ địa

phương ở Liên bang Nga và ở Cộng hòa Pháp.

1.3. NHẬN XÉT CHUNG VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN

ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.3.1. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

luận án

Căn cứ tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến chủ đề luận

án, có thể rút ra một số nhận xét sau:

Thứ nhất, số lượng các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

rất lớn, phong phú và đa dạng, được tiếp cận từ nhiều hướng với các mức độ liên

quan khác nhau. Đây là một thuận lợi đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với

việc triển khai nghiên cứu đề tài luận án. Kết quả của các công trình nghiên cứu đã

cung cấp một lượng kiến thức quan trọng về dân chủ, dân chủ cơ sở và cơ chế

pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, là nguồn tư liệu vật chất cần thiết và

có thể tiếp thu để tiếp tục triển khai nghiên cứu sâu về những nội dung trọng yếu

của đề tài luận án. Tuy nhiên, các quan điểm nghiên cứu về dân chủ cơ sở và cơ

chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có nhiều sự khác biệt, thậm chí trái chiều

nhau, cộng với các thông tin đa chiều, thiếu thống nhất và tính phức tạp của vấn

đề lại là những trở lực không nhỏ cho công việc nghiên cứu đề tài.

Thứ hai, nhiều vấn đề liên quan đến chủ đề luận án đã được làm sáng tỏ

và đề tài có thể tiếp thu, không cần phải trở lại để phân tích, lập luận làm sáng

tỏ thêm.

Trên phương diện lý luận, một số nhận thức chung về Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về quyền lực nhân dân và dân chủ xã hội chủ

nghĩa cũng như vai trò của việc thực hiện dân chủ trong Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam đã rõ. Tương tự như vậy, quan niệm về cơ sở và cơ chế quản lý

cơ sở ở Việt Nam đã đạt được sự thống nhất cao. Tiêu chí về một nền dân chủ

hoàn thiện cũng không còn nhiều vấn đề gây tranh luận. Nhận thức về vai trò của

pháp luật trong việc chế định hóa các yếu tố của nền dân chủ và tạo lập các đảm

27

bảo thực thi dân chủ đã được chấp nhận trong hầu hết các công trình nghiên cứu.

Đặc biệt, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài đã phân tích rất sâu về nội hàm

của dân chủ và các phương thức để đạt tới dân chủ trong xã hội hiện đại.

Trên phương diện thực tiễn, một số khía cạnh của đời sống dân chủ đã được

làm rõ. Nhiều công trình nghiên cứu đã tổng kết đầy đủ quan điểm về dân chủ

trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong nhận thức của Đảng, Nhà nước ta. Quá trình

xây dựng pháp luật về dân chủ đã được đề cập một cách khái quát. Đặc biệt, các

nghiên cứu hầu như đã làm rõ được thực trạng của nền dân chủ đại diện ở Việt

Nam hiện nay. Công việc tổng kết và đánh giá thực trạng dân chủ trực tiếp trong

nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đã được triển khai mạnh mẽ trong nhiều nghiên

cứu. Đặc biệt, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nói chung

và Pháp lệnh về dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn đã được nhiều công trình

nghiên cứu đề cập và đạt được sự thống nhất cao trong nhận định. Một số nguyên

nhân liên quan đến những bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện dân chủ cơ sở

ở Việt Nam đã được phân tích, trong đó điểm nhấn là những nguyên nhân nằm

trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật (vai trò của tổ chức Đảng và chính

quyền cơ sở; năng lực thực hành dân chủ của người dân; điều kiện vật chất đảm

bảo cho việc triển khai thực hiện dân chủ tại cơ sở..).

Trên phương diện đề xuất, kiến nghị, đã có nhiều ý kiến khả thi về giải

pháp phát huy dân chủ, đảm bảo thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở tại Việt Nam hiện

nay. Đã có sự nhất trí cao về sự cần thiết thực hiện tổng thể các giải pháp để phát

huy dân chủ ở Việt Nam hiện nay, trong đó tập trung ở một số giải pháp chính

như: nâng cao nhận thức của Đảng, Nhà nước và các bộ phận nhân dân về dân chủ

và thực hành dân chủ; hoàn thiện pháp luật và đảm bảo hiệu quả thực thi pháp luật

về dân chủ; tạo lập các đảm bảo cho việc thực thi dân chủ trong các lĩnh vực cụ

thể ở Việt Nam hiện nay.

Thứ ba, nhiều vấn đề trọng yếu liên quan trực diện tới chủ đề nghiên cứu

của luận án chưa được đề cập giải quyết hoặc chưa được giải quyết thấu đáo.

Trước hết đó là một số vấn đề đã được đề cập trong nhiều công trình

nghiên cứu nhưng chưa đạt được sự thống nhất cao như: cách hiểu một số khái

28

niệm: dân chủ ở cơ sở, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ ở cơ sở; các yếu tố hợp

thành của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ ở cơ sở; đặc điểm của cơ chế pháp lý

thực hiện dân chủ ở cơ sở; trạng thái hiện hành của cơ chế pháp lý thực hiện dân

chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay xét cả từ phương diện điều chỉnh pháp luật và cả

từ phương diện thực thi pháp luật; các giải pháp pháp lý và giải pháp tổ chức để

hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ ở cơ sở, trong đó bất cập lớn nhất là

thiếu tính hệ thống giữa các giải pháp đã được đề xuất trong quá trình hoàn thiện

cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ ở cơ sở. Cũng liên quan đến vấn đề này là tình

trạng thiếu một quan điểm được thừa nhận chung về mô hình pháp luật cần thiết

và khung pháp luật cơ bản cho việc ghi nhận và điều chỉnh quá trình dân chủ cơ

sở ở nước ta hiện nay.

Bên cạnh đó, có khá nhiều vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt tới việc xác

định các luận cứ khoa học đúng đắn nhằm hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân

chủ ở cơ sở tại Việt Nam nhưng chưa được đề cập nghiên cứu. Cụ thể các vấn đề

sau: nội dung cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam; các yếu tố ảnh

hưởng đến mức độ hoàn thiện của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt

Nam; kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở

ở một số quốc gia có hoàn cảnh, điều kiện tương đồng với Việt Nam; những bất

cập của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở hiện hành trước nhu cầu triển khai

thi hành Hiến pháp năm 2013 và các chủ trương lớn của Đảng ta về phát huy dân

chủ, tăng cường dân chủ trực tiếp ở Việt Nam hiện nay; Nguyên nhân của các ưu

điểm và hạn chế của cơ chế pháp lý hiện hành về thực hiện dân chủ cơ sở; giải

pháp về xây dựng chiến lược tổng thể và lâu dài cho quá trình hoàn thiện cơ chế

pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Ngoài ra, cũng đang thiếu sự lập

luận cần thiết và thuyết phục cho từng giải pháp cụ thể liên quan đến yêu cầu hiện

thực hóa cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay.

Như vậy nhìn một cách tổng thể, có thể thấy, mặc dù số lượng các công

trình nghiên cứu liên quan tới đề tài luận án lên tới con số hàng trăm nhưng

hiện tại chưa có một công trình nghiên cứu nào tổ chức nghiên cứu một cách hệ

29

thống và đầy đủ, toàn diện về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt

Nam hiện nay để từ đó, đề xuất những phương hướng, giải pháp hoàn thiện cơ

chế pháp lý đảm bảo phát huy dân chủ cơ sở trong bối cảnh xây dựng và hoàn

thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hội

nhập quốc tế của đất nước và trong yêu cầu triển khai thi hành Hiến pháp năm

2013. Nói cách khác, hiện chưa có công trình nghiên cứu nào ở trong và ngoài

nước đặt cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam là đối tượng

nghiên cứu chính.

1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu đề tài luận án

Xuất phát từ sự phân tích thực trạng tình hình nghiên cứu liên quan đến chủ

đề luận án nêu trên, có thể thấy không gian nghiên cứu dành cho luận án còn hết

sức rộng rãi, bao gồm những vấn đề sau:

Thứ nhất, nghiên cứu những thay đổi mới trong nhận thức lý luận về dân

chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nhất nguyên chính trị, một Đảng

cộng sản cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm và nội dung của dân chủ cơ sở.

Nghiên cứu các mối quan hệ phát sinh trong tiến trình dân chủ hoá ở cơ sở (đi từ

chủ quyền nhân dân, quyền con người để xác định các mối quan hệ cơ bản hướng

tới đảm bảo quyền lực nhân dân và quyền con người: mối quan hệ giữa công dân

với các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở, vai trò, trách nhiệm của Nhà nước

và các thiết chế khác đối với phát huy dân chủ cơ sở…).

Thứ ba, nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, vai trò và các yếu tố hợp thành

của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu phải

đưa ra được định nghĩa về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, các yếu tố cấu

thành nội hàm cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở. Kết quả nghiên cứu cũng

cần đạt được sự luận chứng thuyết phục về vai trò không thể thiếu của cơ chế pháp

lý trong thực hiện dân chủ gắn liền với các quyền và lợi ích thiết thực của người

dân tại cơ sở.

30

Thứ tư, nghiên cứu xác lập các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ

chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay. Các tiêu chí cần được

xem xét ở mức độ toàn diện và cụ thể.

Thứ năm, nghiên cứu đánh giá toàn diện, tổng thể về quá trình xây dựng,

hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở và thực trạng cơ chế pháp lý

thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu phải chỉ rõ

được những thành tựu, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của các thành tựu, hạn

chế của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở hiện hành. Kết quả nghiên cứu

cũng cần chỉ ra thực trạng các điều kiện đảm bảo mức độ hoàn thiện của cơ chế

pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay.

Thứ sáu, nghiên cứu dự báo bối cảnh phát huy dân chủ ở Việt Nam trong

giai đoạn tới. Từ đó xây dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp tiếp tục

hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Kết quả nghiên

cứu phải đảm bảo lập luận thuyết phục hơn về các giải pháp có liên quan đã được

các công trình nghiên cứu khác đề cập và luận chứng, đồng thời kiến nghị hệ giải

pháp tổng thể mang tính chiến lược cho quá trình hoàn thiện cơ chế pháp lý thực

hiện dân chủ cơ sở ở nước ta.

Tiểu kết chương 1

Hoàn thiện, phát huy dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân ở mọi

phạm vi trong đời sống xã hội là yêu cầu tất yếu khách quan trong xã hội hiện đại.

Chính vì vậy, đây là vấn đề nhận được nhiều nhất sự quan tâm của xã hội.

Trong chương 1, luận án đã tiến hành khảo cứu nhiều công trình nghiên

cứu trong nước và ngoài nước có liên quan đến chủ đề hoàn thiện cơ chế pháp lý

thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Kết quả tổng quan tình hình nghiên cứu cho

thấy nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ cơ sở, cơ chế pháp lý và cơ chế

pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở… đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước

nghiên cứu ở các mức độ và khía cạnh khác nhau. Nhìn chung, đã có nhiều chất

liệu tốt cho việc tiếp tục triển khai nghiên cứu đề tài luận án.

31

Tuy nhiên, phần lớn các công trình nghiên cứu đều tập trung giải mã một

trong hai vấn đề lớn: 1/ pháp luật về dân chủ cơ sở ở Việt Nam; và 2/ thực tiễn

phát huy dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Rất ít các công trình luận bàn toàn diện về

dân chủ cơ sở. Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu trực diện về hoàn

thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Vì vậy, còn nhiều vấn

đề lý luận và thực tiễn liên quan đến cơ chế pháp lý và hoàn thiện cơ chế pháp lý

thực hiện dân chủ cơ sở chưa được giải quyết triệt để.

Luận án, một mặt tìm kiếm những giá trị có thể kế thừa và phát triển trong

các công trình đã công bố, mặt khác có nhiệm vụ triển khai nghiên cứu nhiều nội

dung mới, hướng tới tạo lập cơ sở khoa học vững chắc cho các giải pháp hoàn

thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở trong điều kiện đẩy mạnh xây dựng

nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và triển

khai thi hành Hiến pháp năm 2013 ở Việt Nam hiện nay.

32

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ

THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM

2.1. NHẬN THỨC VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ CƠ SỞ

2.1.1. Quan niệm về dân chủ

Trong tri thức nhân loại, dân chủ được coi là một cụm từ có được từ “sản

phẩm của nền văn minh”, là điều kiện và tiêu chuẩn tiến bộ xã hội.

Dân chủ trong lịch sử thường được nhận diện như một phạm trù đa nghĩa

với bản chất nhiều thứ bậc, do vậy, dân chủ được xem xét ở nhiều phương diện

khác nhau.

Nhìn từ khía cạnh tổng quát, dân chủ bao gồm một tổ hợp các giá trị nhân

bản, duy lý và cao đẹp. Dân chủ là sự hòa hợp giữa các giá trị: tự do, bình đẳng,

sự thống nhất trong tính đa dạng. Ở mức độ này, dân chủ được hiểu như một lý

tưởng mà con người khao khát hướng đến và cố gắng thực hành trong cuộc sống.

Những nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại cho rằng, để có một xã hội tốt đẹp thì dân phải

có quyền lực mạnh nhất, cao nhất, từ đó xuất hiện khái niệm "dân chủ"

(Demokratia) có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân.

Các công trình nghiên cứu đều chỉ ra rằng: Dân chủ với tư cách là hiện

tượng chính trị gắn liền với xã hội có giai cấp, nó mang tính giai cấp nên chế độ

dân chủ cần được xem xét trong mối tương quan với chế độ nhà nước. Hai chế độ

này nhiều khi khác nhau, đối lập nhau, nhưng về cơ bản thì tồn tại không thể thiếu

nhau. Dân chủ có liên hệ chặt chẽ với bản chất của nhà nước, với chức năng,

nhiệm vụ và hình thức nhà nước. Nhiều cách hiểu đã được đưa ra nhưng về cơ bản

đều quy tụ về bản chất “Dân chủ tức là chính quyền của nhân dân” “Chế độ dân

chủ, đó là một nhà nước thừa nhận việc thiểu số phục tùng đa số” “Nếu không

khinh thường lẽ phải và lịch sử, ai cũng thấy rõ ràng chừng nào mà còn có những

giai cấp khác nhau thì không thể nói đến “dân chủ thuần tuý” được, mà chỉ có thể

nói đến dân chủ có tính giai cấp” [154, tr.304]. Như vậy, dân chủ trước hết là

thuộc tính của nhà nước, trong đó người dân thể hiện quyền làm chủ của mình, kể

33

cả quyền tạo lập và kiểm soát quyền lực nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm bảo

đảm bằng quyền năng của Nhà nước, thông qua các phương thức thực hiện quyền

lực nhà nước để nhân dân thực hiện các quyền của mình.

Nếu xuất phát từ cách hiểu như trên, dân chủ trong hiện thực đời sống sẽ

liên quan đến quan niệm về ba yếu tố: 1/ Nhân dân; 2/ quyền lực công cộng và 3/

tính chất trực tiếp của mối quan hệ giữa nhân dân và quyền lực công cộng trong sở

hữu quyền lực công cộng.

Điểm khác nhau căn bản giữa cách hiểu về dân chủ trong thời cổ đại với

thời hiện đại là ở cách quan niệm về phạm trù nhân dân và tính chất trực tiếp của

mối quan hệ sở hữu quyền lực công cộng. Đã là một nền dân chủ thì nó phải

chứng tỏ quyền lực thuộc về nhân dân. Nhưng nhân dân mang nội dung thế nào lại

tùy thuộc vào các thời đại khác nhau mà xác định. Chế độ dân chủ nào thì nhà

nước cũng là của nhân dân, nhưng sự khác nhau giữa chế độ dân chủ này với chế

độ dân chủ khác là ở chỗ nhân dân là ai và ai trong nhân dân có thực quyền. Điều

này nói nên nội dung bản chất giai cấp của dân chủ. Không có dân chủ trìu trượng,

bao giờ dân chủ cũng có nội dung cụ thể, xác định. Trong xã hội ai là nhân dân

mới có dân chủ và trong nhân dân thì quyền lực thực sự, cuối cùng không phải lúc

nào cũng thuộc về tất cả nhân dân. Như vậy, dân chủ chỉ là một nhưng nó bị chế

ước bởi những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội ở các thời đại và các quốc gia

khác nhau.

Theo cách hiểu thông dụng ở Việt Nam “dân chủ là hình thức tổ chức thiết

chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền

lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào

các tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế xã hội nhất định” [91,

tr.89]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lý giải “dân chủ” một cách hết sức giản dị, cô

đọng và dễ hiểu, theo đó: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân làm chủ”, “nước

ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Như vậy, quan niệm về

dân chủ gắn liền với nguyên lý chủ quyền nhân dân.

Với việc kế thừa những giá trị tư tưởng và kinh nghiệm thực tiễn có liên

quan đến tổ chức nhà nước trong lịch sử, nguyên lý về chủ quyền nhân dân được

34

khẳng định như là bản chất và trụ cột của việc tổ chức và vận hành xã hội hiện

đại. Cho đến nay, mặc dù, với những góc nhìn và quan niệm hết sức đa dạng

nhưng nội dung cơ bản và chung nhất của nguyên lý này là: quyền lực nhân dân

là quyền lực tối cao và là quyền lực gốc trong các xã hội dân chủ; quyền lực

nhân dân không được biểu hiện và thực thi liên tục bởi chính chủ thể của nó là

nhân dân nhưng tư cách chủ thể của nhân dân thể hiện ở việc trực tiếp thực hiện

một phần quyền lực, ủy thác thực hiện quyền lực và kiểm tra, giám sát, kể cả

việc thay đổi, hủy bỏ quyền lực đã được ủy thác; quyền lực nhà nước là bộ phận

cơ bản của quyền lực nhân dân được hình thành thông qua sự đồng thuận ủy

quyền của nhân dân mà bằng chứng hữu hình của sự đồng thuận đó là sự hiện

diện của chủ nghĩa lập hiến. Trong nội hàm của nguyên lý nói trên, nhân dân là

một khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng của mọi cá nhân trong xã hội tuy có

sự khác nhau về thành phần xã hội như dân tộc, sắc tộc, hoạt động chính trị - xã

hội, quan điểm tư tưởng, tôn giáo, giới tính, nghề nghiệp v.v… nhưng thống nhất

lại, vượt lên trên sự khác biệt xã hội để có và thực hiện một ý chí, một định

hướng, một mục tiêu phát triển cộng đồng, đất nước. Từ phương diện chính trị -

pháp lý, nhân dân - với sự thống nhất lại, vượt lên trên sự khác biệt xã hội đó đã

trở thành một đoàn thể pháp lý bao gồm các cử tri được quyền hành xử chủ

quyền thông qua các thể thức pháp lý nhất định. Chính các thể thức pháp lý này

định chế hóa chủ quyền nhân dân.

Như vậy, dân chủ với tính cách là một chế độ, được thực hiện dưới hai hình

thức cơ bản là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.

Dân chủ đại diện (còn gọi là dân chủ gián tiếp) là hình thức dân chủ mà

theo đó nhân dân thông qua đại diện của mình để bày tỏ chính kiến, để quyết định

những vấn đề của đời sống cộng đồng. Nhờ thông qua bầu cử để lựa chọn những

người ưu tú đứng đầu các cơ quan đại diện, nhờ đó những người đại diện sáng

suốt trong việc quyết định vấn đề quan trọng của đời sống xã hội, giải quyết nhanh

chóng kịp thời những vấn đề bức bách trong xã hội đặt ra. Với sự ra đời, hình

thành của Nhà nước, do mức độ rộng lớn về không gian, dân số ngày càng đông,

trình độ dân cư chênh lệch, tính phức tạp và khẩn trương của công việc quản lý

nhà nước, quản lý xã hội mà hình thức dân chủ đại diện trở thành phương thức chủ

35

yếu của nền dân chủ xã hội. Ở hầu hết các nước phát triển trên thế giới, quá trình

mở rộng dân chủ dường như trước hết là quá trình hoàn thiện các hình thức dân

chủ đại diện và các thiết chế đại diện sao cho các công dân có thể dễ dàng hơn

trong việc bày tỏ chính kiến của mình khi tham gia vào quyết định các vấn đề

quan trọng của đất nước. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy dân chủ đại diện có những

nhược điểm cho đến nay vẫn chưa khắc phục được. Đó là những biểu hiện đặc

quyền, đặc lợi, có khả năng lạm quyền, tham nhũng mà quyền lực đó có được do

nhân dân ủy quyền.

Dân chủ trực tiếp là hình thái nhân dân trực tiếp quyết định các vấn đề,

các công việc quan trọng của quốc gia của cộng đồng lãnh thổ, trực tiếp thông

qua các đạo luật mà không một yếu tố trung gian nào. Theo nghĩa đó, dân chủ

trực tiếp gắn liền với nguồn gốc bản chất của khái niệm dân chủ

(demokratia/δημοκρατία - tiếng Hy Lạp) mà có nghĩa là “quyền lực, sự cai trị

của nhân dân” (power/ruleofthepeople). Chính vì vậy, dân chủ trực tiếp đôi khi

còn được gọi là dân chủ đích thực/ nguyên nghĩa (pure/true democracy) và được

xem là biểu hiện cho chính quyền của dân, do dân và vì dân. Nhìn nhận một cách

tổng quát thì dân chủ trực tiếp là phương thức để người chủ quyền lực trực tiếp thể

hiện ý chí của mình, tự mình thực hiện một số hoạt động trong chu trình quyền

lực. Dân chủ trực tiếp là một phương thức làm chủ của nhân dân khi nhân dân -

chủ thể quyền lực duy nhất có thể bày tỏ ý chí, nguyện vọng, đề đạt kiến nghị nào

đó trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đồng thời thực hiện kiểm

tra, giám sát bộ máy nhà nước do chính mình lập nên. Kết quả của sự bày tỏ ý chí

đó có thể có ý nghĩa quyết định, bắt buộc phải thi hành ngay như trưng cầu ý dân,

bầu cử, bãi miễn đại biểu dân cử; hoặc chỉ có ý nghĩa tham khảo như các hình

thức tham khảo ý kiến nhân dân, kiểm tra, giám sát bộ máy nhà nước v.v.. Trong

nền dân chủ hiện đại, các quốc gia đã ngày càng dành sự chú ý đặc biệt tới việc sử

dụng các hình thức dân chủ trực tiếp để quyết định một số vấn đề quan trọng đối

với quốc gia và các vấn đề của cộng đồng tại địa phương. Trong rất nhiều trường

hợp phương thức dân chủ trực tiếp có nhiều ưu điểm mà phương thức dân chủ đại

diện không có được. Đó là khả năng thể hiện một cách khách quan nhất ý chí,

36

nguyện vọng của nhân dân và thể hiện một cách thiết thực nhất quyền lực của

nhân dân trong việc quản lý xã hội.

Như vậy, khi nói đến dân chủ đại diện là người ta nhắc đến hình thức mà

người dân ủy quyền cho những người đại diện cho mình quyết định các công việc

nhà nước trong phạm vi xác định. Dân chủ đại diện thường gắn liền với các cơ

quan hoạt động tập thể nghị viện (hoặc tên gọi khác), hội đồng địa phương. Còn

khi nói đến dân chủ trực tiếp, người ta nói đến việc quyết định các công việc nhà

nước do công dân trực tiếp thực hiện không thông qua khâu trung gian. Như vậy,

dân chủ đại diện hay dân chủ trực tiếp đều dựa vào chỗ chủ thể nào quyết định các

vấn đề thuộc công việc nhà nước, tức là căn cứ vào tiêu chí ai quyết định công

việc nhà nước nào đó.

Như vậy, sẽ xuất hiện câu hỏi lớn: giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại

diện, có những hình thức thể hiện quyền của người dân nhưng sẽ xếp vào đâu nếu

chỉ theo tiêu chí nói trên? Các hình thức đó như: khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản

biện xã hội, tư vấn xã hội, giám sát trực tiếp của người dân. Các hình thức này tự

nó không có vai trò quyết định trong việc ra quyết định hoặc thực hiện các hành

động, hành vi nào của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền. Vậy nên chăng,

trong nhận thức lý luận cần xem nó như một yếu tố của công đoạn, hay quy trình

không thể thiếu trong các trường hợp nhất định để chính quyền quyết định về vấn

đề nào đó. Về cơ bản, đây là các hình thức đứng trung gian để thực hiện quyền của

người dân, vừa mang yếu tố của dân chủ trực tiếp (xét về tính chất và mục tiêu),

vừa mang yếu tố của dân chủ đại diện (xét về kỹ thuật thực hiện). Một số nhà

nghiên cứu gọi đó là hình thức “dân chủ tham gia” [138, tr.58].

2.1.2. Quan niệm về dân chủ cơ sở và thực hiện dân chủ cơ sở

Nếu xét từ khía cạnh quan hệ thứ bậc mang tính pháp lý của cấu trúc hành

chính - lãnh thổ và chỉnh thể hệ thống chính trị thống nhất ở nước ta thì cơ sở là

cấp thấp nhất, tuy nhiên cơ sở không đơn thuần là cánh tay nối dài của cấp trên.

Cơ sở là địa bàn cư trú của dân, là nơi diễn ra mọi hoạt động sinh sống và làm ăn

của nhân dân lao động, vì vậy nói tới cơ sở là nói tới vai trò chủ thể của người dân

và hình thức tổ chức các hoạt động sống của cộng đồng, các mối quan hệ xã hội.

37

Cơ sở là nơi trực tiếp nhất của thực tiễn, thể hiện ý thức và năng lực làm chủ của

nhân dân bằng cả phương thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, cũng là nơi

đầu tiên đối mặt với những yêu cầu bức xúc của dân chúng với những mâu thuẫn,

thậm chí cả những xung đột nảy sinh trong đời sống dân sự. Trong hệ thống quản

lý, cấp cơ sở là cấp cuối cùng nhưng lại là cấp đầu tiên và trực tiếp nhất với tư

cách nền tảng xây dựng chế độ dân chủ của toàn hệ thống chính trị. Cơ sở tuy là

cấp thấp nhất nhưng lại là tầng sâu nhất mà sự vận hành của thể chế chính trị từ vĩ

mô phải tác động tới, là địa chỉ quan trọng nhất mà mọi chỉ thị, nghị quyết, chủ

trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phải tìm đến, phải bằng mọi

cách tổ chức, tuyên truyền, vận động làm cho dân hiểu, dân tin, dân làm. Cơ sở

còn là cấp hành động và tổ chức hành động, nghĩa là cấp tổ chức triển khai thực

hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cơ sở cũng không chỉ là cấp

thực hiện chức năng lãnh đạo và quản lý của Nhà nước mà còn là nơi diễn ra các

hoạt động tự quản của cộng đồng xã hội, quản lý với tự quản đan xen vào nhau,

các thể chế quản lý, pháp luật nhà nước và các quy ước của thôn, làng, ấp, bản tồn

tại song hành với nhau. Cấp cơ sở là nơi chính quyền trong lòng dân, cán bộ cơ sở

từ dân mà ra, là cấp có nhiều lợi thế và khả năng nhất để giảm thiểu xuống mức

thấp nhất những thói tật quan liêu, hành chính, mệnh lệnh, tệ hại tham ô, tham

nhũng, mặt khác cán bộ ở cơ sở là người sở tại, làm việc tại cơ sở, hàng ngày sinh

sống, làm việc và quan hệ trực tiếp với dân, bị chi phối, ràng buộc rất mạnh mẽ

bởi quan hệ họ hàng, thân tộc, bởi các truyền thống, phong tục, tập quán, lối sống

làng xã.

Liên quan đến khái niệm này, cơ sở được hiểu theo tinh thần Pháp lệnh

34/2007/PL-UBTVQH ngày 20/7/2007 của Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội về việc

thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Cơ sở được lấy làm đối tượng nghiên

cứu ở đây không phải là một đơn vị cơ sở bất kỳ (gia đình, cơ quan, công sở,

trường học, bệnh viện, doanh nghiệp hay viện nghiên cứu…) mà là cơ sở với tư

cách là một cấp quản lý nhà nước trong hệ thống quản lý hành chính nhà nước

hiện hành. Cơ sở đó chính là xã - phường - thị trấn, là cấp cơ sở của quản lý nhà

nước trong đó xã là cấp cơ sở ở khu vực nông thôn - địa bàn rộng lớn, chiếm đa số

trong tổng số đơn vị cơ sở nước ta.

38

Dân chủ cơ sở là sự phản ánh vị thế quyền lực của nhân dân trên địa bàn cơ

sở. Xã, phường, thị trấn là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng, chính sách

pháp luật của Nhà nước, là nơi kiểm nghiệm một cách chính xác nhất đường lối

của Đảng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa trong thực tiễn khách quan.

Thực hiện dân chủ ở cấp xã là toàn bộ quá trình hiện thực hóa các quyền thể hiện

sự tham gia của công dân vào chu trình thực hiện quyền lực tại cơ sở. Khi nghiên

cứu nhóm quyền này thì dân chủ, với ý nghĩa là quyền tự nhiên tối cao nhất của

con người được thực hiện trước hết là ở cơ sở. Với tư cách chủ thể quyền lực,

người dân tại cơ sở có quyền có đại diện của mình, có quyền trực tiếp được biết,

được bàn, được tham gia giải quyết và kiểm tra giám sát mọi hoạt động quyền lực

diễn ra tại cơ sở.

Như vậy, do bản chất của dân chủ ở cơ sở là phát huy quyền làm chủ mọi

mặt của người dân ở cơ sở nên dân chủ cơ sở là một phương thức hỗn hợp để thực

hiện dân chủ. Dân chủ cơ sở bao gồm trong nó cả hình thức dân chủ đại diện và

hình thức dân chủ trực tiếp, hướng tới mục tiêu hiện thực hóa quyền lực của chủ

nhân quyền lực tại địa bàn cơ sở. Ngoài ra, dân chủ cơ sở còn thể hiện ở quyền

tham gia ý kiến với tư cách cá nhân vào các vấn đề nảy sinh tại cơ sở có liên quan

đến quyền và lợi ích của chính họ, của các cá nhân khác hoặc của Nhà nước. Theo

đó, ý kiến của một số nhà nghiên cứu cho rằng, tham gia cũng có thể được xem là

một hình thức thực hiện dân chủ mang đặc thù của dân chủ cơ sở: “Thực hiện dân

chủ cơ sở được thông qua bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, cụ thể

là dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ tham gia” [138, tr.58].

Ở Việt Nam, thực hiện dân chủ cơ sở được biểu hiện trước hết ở sự tồn tại

và hoạt động của các thiết chế đại diện của nhân dân, bao gồm Hội đồng nhân dân

cấp xã và các đoàn thể nhân dân. Đây là các thiết chế do nhân dân lập ra và trực

tiếp ủy quyền lực nhân dân, thay mặt nhân dân để thực hiện quyền lực của nhân

dân. Thông qua hoạt động của các thiết chế này, người dân tham gia vào quản lý

nhà nước, quản lý xã hội và kiểm soát hoạt động của Nhà nước, buộc hoạt động

quyền lực nhà nước vận hành trong quỹ đạo phục vụ nhân dân.

39

Tuy nhiên, trong các quy chế dân chủ ở cơ sở, chẳng hạn như Quy chế dân

chủ ở xã, có rất nhiều loại công việc cần được đưa ra trưng cầu ý kiến của nhân

dân để các cấp có thẩm quyền tham khảo trước khi quyết định. Mặc dù kết quả

trưng cầu ý kiến trong Quy chế dân chủ ở xã được xác định là “để tham khảo”

nhưng bản thân việc đưa ra trưng cầu ý kiến là bắt buộc.

Ngoài loại hình trưng cầu ý kiến “để tham khảo” các quy chế cũng đã có

những quy định việc lấy ý kiến nhân dân có “tính chất quyết định”.

Hình thức lấy ý kiến nhân dân có tính chất quyết định đã được quy định cụ

thể trong quy chế thực hiện dân chủ ở xã như sau:

- Chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình

phúc lợi công cộng (điện, đường, trường học, trạm y tế, nghĩa trang, các công trình

văn hóa, thể thao);

- Xây dựng hương ước, quy ước làng văn hóa, nếp sống văn minh, giữ gìn

an ninh trật tự, bài trừ các hủ tục, mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội;

- Các công việc trong nội bộ cộng đồng dân cư thôn, phù hợp với quy định

của pháp luật hiện hành.

- Thành lập Ban Giám sát các công trình xây dựng do dân đóng góp;

- Tổ chức bảo vệ sản xuất, kinh doanh giữ gìn an ninh trật tự, an toàn giao

thông, vệ sinh môi trường và các hoạt động khác trên địa bàn xã, thôn”.

Như vậy, mặc dù có sự phân biệt các nội dung giữa dân chủ trực tiếp, dân

chủ đại diện và dân chủ tham gia nhưng dân chủ trực tiếp là hình thức phổ biến và

dễ thực hiện nhất tại cơ sở. Các nội dung “dân bàn và quyết định trực tiếp “chính

là những biểu hiện của dân chủ trực tiếp theo nghĩa hẹp, cổ điển nhất. Bên cạnh

đó, các nội dung “dân bàn, biểu quyết, tham gia ý kiến để cấp có thẩm quyền

quyết định” và “dân tham gia kiểm tra, giám sát” là những biểu hiện của dân chủ

trực tiếp theo nghĩa rộng và được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam từ trước đến nay.

Dân chủ cơ sở không đồng nhất với tự quản cơ sở. Xét về bản chất, dân chủ

cơ sở tạo ra nhiều khả năng cho sự tham gia trực tiếp và nhiều mặt của người dân

vào các công việc của Nhà nước và xã hội. Theo đó, dân chủ cơ sở là mắt xích

quan trọng nối liền những mặt tích cực của dân chủ và của chế độ tự quản cơ sở.

40

Mặc dù vậy, dân chủ cơ sở là hình thức quyền lực nhân dân, không trùng lặp với

tự quản cơ sở.

Trên thực tế, cả dân chủ cơ sở và tự quản cơ sở đều được thực hiện ở cơ sở,

ở đơn vị nhỏ nhất hoặc các tập thể, cộng đồng khác nhau, nhưng khi nói dân chủ

cơ sở là nói đến những khía cạnh giải quyết các vấn đề chính trị - nhà nước, dù là

ở cơ sở. Dân chủ cơ sở phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể quyền lực gốc - nhân

dân - với các thiết chế được nhân dân ủy quyền lực và với việc đảm bảo quyền lực

thuộc về nhân dân tại cơ sở. Nói đến dân chủ cơ sở là nói đến mối quan hệ tương

tác giữa nhà nước và nhân dân tại cơ sở. Ở Việt Nam, các đơn vị cơ sở như vậy là

các xã, phường, thị trấn; là các tập thể cơ quan, tổ chức, đơn vị, trường học, bệnh

viện… là nơi mọi chính sách, đường lối, pháp luật của Đảng và Nhà nước được

phản ánh qua lăng kính của cá nhân, của lợi ích tập thể, là nơi kiểm nghiệm tính

đúng đắn và hiệu quả của các quyết sách của Đảng ta. Dân chủ cơ sở là “hệ thống

báo động” nhạy cảm nhất, những thông tin phản hồi nhanh nhất về hiệu lực, hiệu

quả của các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước để kịp thời

sửa chữa, bổ sung. “Hệ thống báo động” và các thông tin phản hồi này giúp cho

Đảng và Nhà nước kiểm nghiệm lại đường lối, chính sách của mình một cách

nhanh nhất, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, xa rời thực tế, tăng cường mối

quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Trong khi đó, tự quản cơ sở là vấn đề

nằm ngoài hệ thống nhà nước, liên quan đến cách tổ chức và vận hành của xã hội.

Xét về bản chất, tự quản cơ sở cũng là một phương thức thực hiện quyền lực nhân

dân, tuy nhiên phương thức này không nằm trong mối liên hệ tương tác chặt chẽ

với quyền lực nhà nước, không có mục tiêu tác động trực tiếp vào quyền lực nhà

nước, không có sự tham gia trực tiếp của các thiết chế quyền lực công. Các hình

thức tự quản cơ sở do các cộng đồng dân cư tự tổ chức và thực hiện tại cơ sở để tự

giải quyết những vấn đề của xã hội mà không cần tới sự can thiệp của nhà nước.

Dân chủ cơ sở là một đòi hỏi tất yếu của quá trình thực hiện và phát huy

dân chủ ở Việt Nam hiện nay. Thực hiện tốt và đẩy mạnh dân chủ cơ sở không chỉ

đơn thuần là một phản ứng chính trị của Đảng và Nhà nước trước tình hình phức

tạp của những điểm nóng ở cơ sở mà nó thể hiện cái nhìn hướng tới cơ sở, coi

trọng cái gốc ở cơ sở nên nó mang tính chiến lược, căn bản, lâu dài.

41

2.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC

HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ

2.2.1. Khái niệm cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở

Cơ chế là một thuật ngữ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, tùy vào

hoàn cảnh và lĩnh vực.

Cơ chế có thể hiểu là “máy móc, bộ máy, cơ cấu”. Chẳng hạn, cơ chế nhà

nước (bộ máy nhà nước). Theo Đại từ điển tiếng Việt thì: “Cơ chế là cách thức,

sắp xếp tổ chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện” [161, tr.463].

Theo GS,TS Triết học Phạm Ngọc Quang, “Cơ chế là khái niệm dùng để chỉ một

chuỗi những khâu liên kết với nhau theo một lôgic nhất định nhờ vậy mục tiêu

được thực hiện” [104, tr.38].

Theo cách hiểu thông thường nhất thì cơ chế được hiểu là “cách thức theo

đó một quá trình được thực hiện” [99, tr.234].

Có nhiều loại cơ chế. Đối với khoa học luật học nước ta, khái niệm cơ chế

pháp lý mới ra đời nhằm giải quyết một số vấn đề thực tiễn trong điều kiện xây

dựng nhà nước pháp quyền XHCN.

Trong các công trình nghiên cứu về cơ chế pháp lý đều cơ bản đồng thuận ý

kiến khi hiểu cơ chế pháp lý như sau:

(1) Đó là tổng thể các yếu tố, bộ phận cấu thành hay hợp thành;

(2) Các bộ phận trong cơ chế có mối quan hệ, tác động lẫn nhau, hướng đích;

(3) Cơ chế hoạt động theo các nguyên tắc, qui trình do luật quy định;

(4) Thiếu một bộ phận thì cơ chế hoạt động không đồng bộ, kém hiệu quả...

Cơ chế pháp lý là một khái niệm luôn gắn liền với pháp luật và khả năng

điều chỉnh của pháp luật. Cơ chế pháp lý trước hết phải được pháp luật ghi nhận ở

các cấp độ khác nhau trong các văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý khác nhau,

khởi nguồn từ Hiến pháp - đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất chế định những

vấn đề có tính nguyên tắc của cơ chế pháp lý trong một lĩnh vực cụ thể của đời

sống xã hội.

Xét trên phương diện nội dung, cơ chế pháp lý phải bao gồm hệ thống các

quy định pháp luật ghi nhận các quy tắc ứng xử của các cá nhân và tổ chức liên

42

quan đến một chuỗi các khâu của quá trình thực hiện mục tiêu trong một lĩnh vực

cụ thể.

Xét trên phương diện tổ chức, cơ chế pháp lý bao gồm hệ thống các quy

định về tổ chức và hoạt động của các thiết chế tham gia vào quá trình thực hiện

mục tiêu trong một lĩnh vực cụ thể.

Xét trên phương diện thủ tục, cơ chế pháp lý là sự hợp thành của các

phương pháp, trình tự, bước đi, hậu quả pháp lý do pháp luật ghi nhận để đảm bảo

tính hợp pháp của quá trình thực hiện mục tiêu trong một lĩnh vực nhất định.

Như vậy, cơ chế pháp lý được hiểu là tổng thể của nhiều yếu tố có quan hệ

tác động qua lại mật thiết với nhau, bao gồm các yếu tố thể chế, thiết chế và các

bảo đảm để thực hiện một chức năng hoặc một nhiệm vụ nào đó trong quản trị nhà

nước và xã hội. Các yếu tố này gắn kết với nhau, hợp thành hệ thống, do pháp luật

quy định, nếu thiếu một trong các bộ phận đó thì hệ thống không thể vận hành một

cách bình thường.

Từ đó, có thể đưa ra khái niệm về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở:

Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là tổng thể các nguyên tắc, thể chế, thiết

chế và các điều kiện đảm bảo, gắn kết với nhau, hợp thành hệ thống, do pháp luật

quy định, nhằm xác lập các quyền và khả năng để nhân dân thực hiện quyền làm

chủ tại cơ sở.

2.2.2. Đặc điểm của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở

Thứ nhất, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở gắn liền với pháp luật và

điều chỉnh pháp luật.

Bản thân khái niệm “cơ chế pháp lý” đã gắn liền với pháp luật bởi lẽ không

có pháp luật thì không thể có tính pháp lý của cơ chế. Hơn nữa, “dân chủ” và

“dân chủ cơ sở” không phải là lời nói suông mà phải được thể hiện thông qua

hình thức pháp lý, được ghi nhận, giới hạn và đảm bảo thực hiện bởi pháp luật.

Nói cách khác, cơ chế pháp lý thực thi dân chủ cơ sở phải gắn với pháp luật, tồn

tại và vận hành dưới hình thức pháp luật. Điều 7, tuyên ngôn thế giới về quyền

con người cũng đã ghi nhận: “Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và

có quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân

43

biệt nào”. Mặt khác, trong chế độ pháp quyền dân chủ và xã hội dân sự thì mọi

quyền đều do luật định [62, tr.95].

Hệ thống pháp luật bao gồm nhiều văn bản có cấp độ giá trị khác nhau,

cao nhất là Hiến pháp, tiếp đó là các luật và văn bản dưới luật. Dân chủ dưới hai

hình thức cơ bản là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp là quyền cơ bản của

công dân và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nên luôn được ghi nhận trong Hiến

pháp và các luật, bởi lẽ “chỉ bằng Hiến pháp và luật, các quyền và nghĩa vụ trên

mới mang đủ ý nghĩa long trọng và hiện thực” [43, tr.185]. Hiến pháp là văn bản

chính trị - pháp lý có giá trị cao nhất trong việc giới hạn quyền lực nhà nước và

bảo vệ quyền con người, quyền công dân do đó bảo đảm bằng hiến pháp là bảo

đảm ở mức độ cao nhất.

Quy định pháp luật về dân chủ không chỉ được thể hiện trong một văn bản

mà được thể hiện trong nhiều văn bản trên các lĩnh vực khác nhau. Chính vì vậy,

khi nói đến cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở từ phương diện này, điều đó

cũng phản ánh được những nội dung cơ bản của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ

cơ sở được thể hiện ra bên ngoài thông qua việc cụ thể hóa quyền của người dân

tại cơ sở trên các lĩnh vực gắn liền với các phương pháp, hình thức, thủ tục giải

quyết có hiệu quả vấn đề dân chủ cơ sở, cũng như các yêu cầu liên quan đến thanh

tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở…

Thứ hai, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở thể hiện trách nhiệm của

Nhà nước và yêu cầu của người dân trong việc bảo đảm thực thi quyền con người,

quyền công dân tại địa bàn cơ sở.

Như đã nói ở trên, cấp cơ sở là tầng sâu nhất mà sự vận hành của thể chế từ

vĩ mô phải tác động tới. Cơ sở là địa chỉ quan trọng cuối cùng mà mọi quyết định,

mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải tìm

đến. Đường lối, nghị quyết có đi vào cuộc sống thực sự hay không, dân có được tổ

chức hành động trong phong trào rộng khắp để biến khả năng thành hiện thực hay

không; đường lối, chính sách có tác dụng, hiệu quả đến đâu, đúng sai ra sao đều

được chứng thực bởi cuộc sống, tâm trạng, thái độ, niềm tin và hành động thực tế

của dân chúng tại cơ sở. Vì vậy, cấp cơ sở tuy là cấp thấp nhất trong hệ thống

44

quản lý nhưng có tầm quan trọng đặc biệt, là vấn đề sống còn, thành bại của chế

độ. Cơ sở là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, là vùng nhạy cảm nhất của đời sống xã

hội, không được xao nhãng mà cần đặc biệt quan tâm, chỉ đạo thường xuyên.

Thực chất của mất cơ sở là mất dân, mà khởi đầu của sự mất dân là xa dân của cán

bộ xã, sự thiếu trách nhiệm, thiếu đồng bộ, cồng kềnh của tổ chức bộ máy và nạn

quan liêu, tham nhũng, thiếu minh bạch của đội ngũ cán bộ công chức cấp xã.

Cơ chế pháp lý thực thi dân chủ cơ sở phản ánh bản chất dân chủ trong việc

thực hiện quyền lực nhà nước và thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong mối

quan hệ Nhà nước - công dân tại địa bàn quan trọng nhất. Trách nhiệm của Nhà

nước thường được hiểu trên hai phương diện là bảo đảm thực hiện và bảo đảm bảo

vệ. Bảo đảm thực hiện có ý nghĩa rất trực quan, đó là nhà nước tạo ra các điều

kiện để công dân thể hiện ý chí của mình, tự mình thực hiện một số hoạt động

trong chu trình quyền lực trên thực tế. Bảo đảm bảo vệ là việc nhà nước giải quyết

các khiếu nại, khiếu kiện và xử lý các vi phạm trong quá trình bảo đảm thực thi

dân chủ cơ sở. Bảo đảm thực hiện và bảo đảm bảo vệ có quan hệ hữu cơ với nhau.

Trên thực tế, khó có thể phân biệt được bảo đảm thực hiện và bảo đảm bảo vệ bởi

lẽ ngay trong việc tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền dân chủ tại cơ sở thì

đã bao hàm cả mục đích bảo vệ quyền này.

Như vậy, trách nhiệm bảo đảm thực hiện dân chủ tại cơ sở đòi hỏi Nhà

nước phải ghi nhận các quyền và phương thức thực hiện quyền con người, quyền

công dân trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật. Đó là cơ sở quan trọng để tạo lập

các thủ tục pháp lý gắn với thiết chế, phương tiện và quy trình cụ thể trong việc

thực hiện dân chủ cơ sở; kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật trong việc

thực hiện dân chủ cơ sở; tạo điều kiện để các chủ thể khác tham gia, hỗ trợ trong

việc thực hiện quyền dân chủ tại cơ sở của công dân.

Thứ ba, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở chỉ vận hành có hiệu quả

trong môi trường dân chủ, pháp quyền của đất nước và trên cơ sở nguyên tắc công

khai, minh bạch của Nhà nước. Vì thế, dân chủ hóa đời sống chính trị xã hội, xây

dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, phát huy quyền làm

chủ của nhân dân và dân chủ XHCN, tôn trọng quyền tự chủ, tự quản của cơ sở

45

ngày càng được tăng cường thì cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ngày càng

có hiệu lực và hiệu quả.

Thứ tư, giá trị và năng lực tác động thực tế của cơ chế pháp lý thực hiện

dân chủ cơ sở phụ thuộc vào nhận thức, khả năng của mỗi cá nhân công dân, trình

độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức và sự tôn trọng, hỗ trợ từ phía xã hội.

Quyền dân chủ của công dân là nhu cầu và khả năng của công dân được

Nhà nước thừa nhận nên cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở luôn gắn liền với

khả năng và nhận thức của mỗi cá nhân công dân. Mỗi cá nhân công dân có những

đặc điểm riêng về thể chất và tinh thần, với nhu cầu và khả năng riêng rất đa dạng.

Do đó, sự thực thi dân chủ cũng được thực hiện bằng các hình thức, mức độ khác

nhau tùy thuộc vào ý chí chủ quan và sự lựa chọn của họ. Nếu công dân không

nhận thức được hoặc không có khả năng để thực hiện thì quyền dân chủ tại cơ sở

cũng không trở thành hiện thực. Đặc điểm này đòi hỏi việc hoàn thiện các bảo

đảm pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở của công dân phải dựa trên nhu cầu và phù

hợp với năng lực của cá nhân công dân.

Bên cạnh đó, việc thực hiện dân chủ cơ sở còn phụ thuộc vào trình độ, năng

lực của đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị cơ sở - là những người

có thẩm quyền xem xét, giải quyết các vấn đề liên quan đến thực thi quyền dân

chủ của công dân. Phát huy dân chủ, trao quyền thực sự cho nhân dân là nội dung

thực chất của đổi mới hệ thống chính trị. Tại địa bàn cơ sở, yêu cầu này gắn việc

nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở với việc thực hiện pháp luật về dân

chủ ở cơ sở và nâng cao trách nhiệm thực hành dân chủ trong đảng và trong xã

hội. Vì vậy, bộ máy Đảng và chính quyền phải chân thành lắng nghe ý kiến nhân

dân, hành động vì lợi ích của nhân dân, sẵn sàng đối thoại cởi mở với dân, triệt để

khắc phục bệnh quan liêu, cửa quyền, hống hách, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi,

bao che khuyết điểm của cán bộ đảng viên.

Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở còn chịu sự tác động bởi những

điều kiện xã hội, đó là ý thức trách nhiệm, văn hóa pháp lý của cộng đồng nói

chung, là sự tham gia trực tiếp của các định chế xã hội trong việc hỗ trợ, thúc đẩy

hoặc thậm chí cản trở việc thực hiện dân chủ cơ sở của người dân.

46

Thứ năm, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở mang tính cụ thể và linh

hoạt, nhanh chóng, có tác dụng đảm bảo tính nguyên vẹn của ý chí chính trị của

nhân dân, chuyển tải ý chí chính trị của nhân dân một cách cụ thể và hiệu quả đối

với các vấn đề của địa phương và quốc gia, tạo lập cơ sở để nhân dân trực tiếp

kiểm soát con đường chính trị của bộ máy Đảng và Nhà nước.

2.2.3. Vai trò của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở

Thứ nhất, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là phương tiện pháp lý cơ

bản, hiệu quả nhất bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thực thi quyền làm

chủ của nhân dân tại địa bàn cơ sở.

Thực hiện tốt dân chủ tại cơ sở sẽ góp phần xây dựng, củng cố và phát huy

nền dân chủ, góp phần bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tuy

nhiên, dân chủ sẽ chỉ là những khẩu hiệu nằm trên biểu ngữ nếu không có cơ chế

hữu hiệu để hiện thực hóa. Thông qua các thể chế, thiết chế và các bảo đảm được

ghi nhận và triển khai trên thực tế, dân chủ sẽ chuyển hóa từ lý tưởng, mong muốn

thành hiện thực đời sống. Chính vì vậy, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

XI đã chỉ rõ: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người

là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Phải bảo đảm

quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người phát triển toàn

diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nhất

là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng

thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước” [38].

Thứ hai, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có vai trò quan trọng trong

việc củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở, góp phần phát triển

kinh tế xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa bàn cơ sở.

Trong mô hình quản lý xã hội hiện đại luôn tồn tại hai yếu tố không thể

thiếu và ràng buộc lẫn nhau. Đó là dân chủ và pháp quyền: Nhà nước và các thiết

chế khác được nhân dân giao quyền và có trách nhiệm phải điều hoà, giải quyết

các mâu thuẫn, đảm bảo cho các hoạt động xã hội trong khuôn khổ pháp luật và

dân - người chủ đích thực của quyền lực có quyền không thể bị xâm phạm là tác

động và kiểm soát nhà nước thực thi quyền lực thông qua các chính sách công và

47

các hành vi điều hành, quản lý xã hội. Từ đó, hình thành một nhu cầu tất yếu

khách quan - Nhà nước của dân, do dân, vì dân thì phải lắng nghe dân nói còn

người dân thì phải dõi theo Nhà nước làm [167].

Từ phương diện này, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là căn cứ để

người dân tham gia vào việc xây dựng và kiểm soát toàn bộ hệ thống chính trị cơ

sở, trực tiếp tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước tại cơ sở. Đây chính là một

trong những kênh dẫn quan trọng để tăng cường tính chính đáng, tính hiệu quả của

hệ thống chính trị cơ sở. Lịch sử lập hiến của thế giới và Việt Nam đã biết đến các

mô hình tham gia của dân vào việc quản lý nhà nước và kiểm soát việc thực thi

quyền lực nhà nước mà điển hình là giám sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức

trong hệ thống chính trị, cán bộ, công chức nhà nước, phản ánh, kiến nghị, tham

gia ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, quyết định những vấn đề quan trọng

của quốc gia thông qua trưng cầu ý dân, bầu cử,… trên phạm vi cả nước và ở từng

đơn vị cơ sở.

Ngoài ra, chính cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là căn cứ pháp lý

cho tổ chức và hoạt động của các thiết chế tham gia thực hiện dân chủ cơ sở. Ở

nghĩa này, một cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phù hợp sẽ đảm bảo chất

lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế chính trị - pháp lý tại địa bàn cơ sở.

Thứ ba, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở góp phần tạo ra sự đồng

thuận, sự đoàn kết và nhất trí cả về chính trị và tinh thần tại cộng đồng dân cư cơ

bản của xã hội.

Xét về vị trí của người dân, ngoài việc tham gia vào hoạt động quản lý nhà

nước với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước, thì sự tham gia của họ còn có

ý nghĩa bởi họ còn là đối tượng chịu sự tác động (có thể trực tiếp hoặc gián tiếp)

bởi các quyết định của nhà quản lý. Bởi vậy, họ có quyền được đại diện, quyền

được biết, được tiếp cận, được tham gia ý kiến, được kiến nghị, được đối thoại và

được giám sát trong toàn bộ quá trình xây dựng và ban hành các quyết định quản

lý. Nếu các cá nhân tin rằng, họ vừa tham gia một cách có ý nghĩa vào các quyết

định ảnh hưởng đến bản thân mình thì họ sẽ sẵn sàng chấp nhận những thay đổi đó

hơn. Nhưng nếu họ tin là bị người ngoài cuộc hoặc một Chính phủ không đếm xỉa

48

gì đến mối quan tâm của họ áp đặt phải thay đổi thì chắc chắn sự tức giận sẽ bùng

lên và gây tác hại cho xã hội. “Quá trình tham gia mang lại cho cá nhân tiếng nói

để định hình một đổi thay, cho nên những thay đổi đó có khả năng dễ được chấp

nhận hơn và ít bị đảo ngược hơn khi cơ hội đầu tiên xuất hiện" [63]. Nói một cách

khác, khi người dân trực tiếp tham gia và bỏ công sức vào góp ý một chính sách

hay một quyết định quản lý thì họ sẽ đối xử với chính sách đó như một sản phẩm

tự nguyện ràng buộc thi hành, vì họ đã đóng góp xây dựng nên chính sách này.

Nói theo ý nghĩa chính trị, đó chính là thực hiện đại đoàn kết và hướng tới hài hoà

các lợi ích trong xã hội thông qua sự tham gia của người dân.

Sự tham gia của dân còn là yếu tố căn bản của chủ thuyết “quản lý nhà

nước tốt” (Good Government). “Quản lý nhà nước tốt” có nghĩa là một Chính

quyền hoạt động có hiệu quả cùng với việc ban hành các quyết định của mình

đúng trình tự, quy định: quản lý nhà nước bằng pháp luật; trách nhiệm giải trình;

minh bạch và đảm bảo sự tham gia của công chúng. Quản lý bằng pháp luật có

nghĩa là người ra văn bản khi ra quyết định không được căn cứ trên trực giác hoặc

ý tưởng ngẫu nhiên của họ, mà phải căn cứ trên các chuẩn mực được chấp nhận,

có lý lẽ và cơ sở thực tiễn vững chắc. Trách nhiệm giải trình thể hiện ở chỗ: người

ra quyết định phải giải trình các quyết định của họ một cách công khai, chịu sự

giám sát của cơ quan có thẩm quyền cấp trên và của cử tri. Minh bạch, chính là

việc các công chức thi hành công việc nhà nước một cách công khai để các công

dân và báo chí có thể biết và bàn bạc về công việc của họ. Và bảo đảm sự tham

gia của dân chính là việc tạo cơ hội cho những người chịu tác động (trực tiếp hoặc

gián tiếp) của một quyết sách sắp ban hành có cơ hội khả thi tối đa để đóng góp ý

kiến hoặc tham gia vào quá trình ra quyết định.

Thứ tư, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở giúp kiểm soát được tệ quan

liêu, cục bộ - căn bệnh trầm kha của nhà nước, của các nhà quản lý, nhất là tại địa

bàn cơ sở.

Các cơ quan nhà nước vốn mang sẵn trong mình ít nhiều bản chất “quan

liêu”, cho dù đó là nhà nước tiến bộ và phát triển. Cơ quan nhà nước, công chức

không chỉ bị giới hạn về sự nhạy cảm thực tiễn, vốn sống thực tế mà còn do tâm

49

lý tự vệ của “người gác cổng”, luôn muốn “tuyệt đối hoá” cho sự an toàn của

toàn xã hội. Ngoài ra, quá trình ban hành các quyết định quản lý luôn bị chi phối

bởi lăng kính chủ quan của những nhà quản lý, trong một số trường hợp còn bị

chi phối bởi những toan tính cục bộ, đặc quyền đặc lợi của một bộ phận nào đó.

Bởi vậy, sự tham gia của người dân sẽ tạo sự cân bằng và khoa học: có bảo vệ và

có phản biện, có nêu vấn đề và có phản bác vấn đề, có vai trò của quản lý và bị

quản lý, có quyền tự do kinh doanh và có trật tự công cộng… Hồ Chí Minh từng

nói: “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, muốn biết các nghị quyết có

được thi hành không, thi hành có đúng không, muốn biết ai ra sức làm, ai làm

qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo, bao nhiêu

khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa, kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định sẽ

bớt đi [78, tr.286].

Theo nghĩa đó, kiểm soát có hai cách: từ trên xuống và từ dưới lên. Kiểm

soát từ dưới lên là do quần chúng thực hiện. Đây là cách tốt nhất, như lời Chủ tịch

Hồ Chí Minh “để kiểm soát các nhân viên” thì người dân “đã là người làm chủ thì

phải biết tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ. Mỗi người phải

ra sức góp công, góp của để xây dựng nước nhà” [81, tr.310].

2.3. CÁC THÀNH TỐ CỦA CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC HIỆN DÂN CHỦ

CƠ SỞ

2.3.1. Nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở

Nguyên tắc là những định hướng cơ bản được con người đặt ra dựa trên

những quan điểm, tư tưởng nhất định làm nền tảng cho các mối quan hệ xã hội,

đòi hỏi các tổ chức và cá nhân phải tuân theo nhằm bảo đảm trật tự xã hội.

Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là một hệ thống gồm các bộ phận

cấu thành có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau vì vậy phải vận hành theo các

nguyên tắc, quy trình nhất định do luật định. Nguyên tắc đảm bảo dẫn dắt các

hành vi của cá nhân và thiết chế không xa rời quan điểm thực thi dân chủ tại cơ sở

của mỗi quốc gia. Nói cách khác, các hành vi dân chủ tại cơ sở sẽ không hợp

thành cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở nếu thiếu các nguyên tắc kết nối

chúng được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật.

50

Nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở có thể có những biểu hiện phong phú,

đa dạng khác nhau, tuy nhiên mọi nguyên tắc đều phải được xác lập trên nền tảng

của nguyên lý chủ quyền nhân dân - mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Tuy nhiên,

dân chủ đích thực chỉ có được khi dân chủ được thực hiện một cách tự do. Đây là

thước đo đánh giá mức độ phát triển một chế độ chính trị, mức độ tự do của con

người. Đương nhiên, không có dân chủ tự do không có giới hạn. Tự do phải là tất

yếu được nhận thức và thực hiện. Giới hạn của tự do của mỗi người là tự do của

người khác. Vì vậy, các nguyên tắc cũng đồng thời phải hướng tới bảo đảm trật tự

xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các lực lượng xã hội, các thiết chế tham gia

vào quá trình vận hành nguyên lý chủ quyền nhân dân.

Ở Việt Nam, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn số

34/2007/PL-UBTVQH11 ghi nhận các nguyên tắc sau:

1. Bảo đảm trật tự, kỷ cương, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

2. Bảo đảm quyền của nhân dân được biết, tham gia ý kiến, quyết định,

thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.

3. Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,

cá nhân.

4. Công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp xã.

5. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

2.3.2. Thể chế thực hiện dân chủ cơ sở

Thể chế là một phạm trù đa diện và rộng, thường được định nghĩa khái

quát, nhiều khi mơ hồ.

Trên thực tế, đã có nhiều khái niệm về thể chế với các khuôn khổ rộng, hẹp

khác nhau.

Một trong những định nghĩa đầu tiên về thể chế là do Thorstein Veblen đưa

ra vào năm 1914, theo đó thể chế là tính quy chuẩn của hành vi hoặc các quy tắc

xác định hành vi trong những tình huống cụ thể, được các thành viên của một

nhóm xã hội chấp nhận về cơ bản và sự tuân thủ các quy tắc đó là do bản thân tự

kiểm soát hoặc do quyền lực bên ngoài khống chế.

Vào năm 2003, Báo cáo của Ngân hàng thế giới về phát triển bền vững

trong thế giới năng động đã đưa ra khái niệm về thể chế, xem đó là “những quy

51

tắc và tổ chức, gồm cả các chuẩn mực không chính thức, phối hợp hành vi con

người”. Trong định nghĩa này, hệ thống chuẩn mực chính thức bao gồm: Hiến

pháp, Luật, các văn bản quy phạm dưới luật, các thiết chế chịu trách nhiệm xây

dựng, sửa đổi, thi hành… Hệ thống chuẩn mực không chính thức bao gồm lòng tin

và các giá trị xã hội (trong đó có cả những chuẩn mực lâu đời chi phối hành vi xã

hội) đến các cơ chế và mạng lưới phối hợp không chính thức.

Ở nước ta, cách hiểu về thể chế cũng có nhiều khác biệt.

Trong cuốn Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, thể chế được nhìn

nhận một cách tổng quát nhất, là “những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội

buộc mọi người phải tuân theo” [99].

Trong giới nghiên cứu ở Việt Nam, quan niệm rộng xem thể chế bao gồm

“các quy định, quy tắc, pháp luật, điều lệ, chế tài xử lý vi phạm, bộ máy nhà nước

từ trung ương đến địa phương, các yếu tố văn hóa, tâm lý, thói quen, trình độ tri

thức” [56, tr.15]. Trong khi đó, quan niệm hẹp hơn cho rằng “nói đến thể chế là

nói đến các luật lệ, quy định điều chỉnh các quan hệ xã hội, các tổ chức vận hành

xã hội nói chung, nền kinh tế nói riêng” [56, tr.22]. Quan niệm ngắn gọn hơn cho

rằng “thể chế là con đường, là cách thức để đi tới mục tiêu” [56, tr.23].

Tóm lại, mặc dù có những khác biệt nhất định nhưng điểm tương đồng giữa

các quan niệm và từ đó cho phép nhận diện về thể chế như sau:

- Thể chế là sản phẩm chủ quan của con người (tổ chức, cộng đồng, quốc

gia, khu vực hay quốc tế)

- Thể chế được ban hành nhằm những mục tiêu cụ thể nhưng chung nhất là

mục tiêu bảo đảm thực hiện ý chí chung của cộng đồng xã hội trong việc xác lập

trật tự, chuẩn mực giá trị của sự phát triển. Nếu thể chế tốt sẽ cho phép các thành

viên (các chủ thể tham gia) cùng hợp tác làm việc hiệu quả, tránh được nguy cơ

bất ổn định, trì trệ, lệch lạc trong phát triển.

- Thể chế có hai loại: thể chế chính thức và thể chế phi chính thức. Thể chế

chính thức là sản phẩm của nhà nước. Thể chế phi chính thức là sản phẩm của các

tổ chức phi nhà nước.

52

- Mỗi lĩnh vực phát triển của xã hội đều có thể chế riêng: thể chế chính trị,

thể chế kinh tế, thể chế văn hóa…

- Thể chế gắn chặt với điều kiện cụ thể của từng thời kỳ phát triển và đặc

điểm, yêu cầu phát triển của từng quốc gia, cộng đồng.

- Nội dung của thể chế gồm ba yếu tố (ba khía cạnh): một là, pháp luật, các

quy tắc, tập quán (các luật chơi dành cho các chủ thể tham gia cuộc chơi); hai là,

các chủ thể: các tổ chức, cá nhân (cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức kinh tế, xã

hội, chính trị, các cộng đồng, doanh nghiệp, các cá thể…); ba là, cơ chế thực hiện

“luật chơi” bao gồm cách thức thực thi (các quy trình, thủ tục) và chế tài. Các nội

dung này đều phải được pháp luật thừa nhận.

Trên nền của cách quan niệm nêu trên, có thể đưa ra khái niệm thể chế thực

hiện dân chủ cơ sở như sau: Thể chế thực hiện dân chủ cơ sở là hệ thống luật và

các quy định khác do Nhà nước tạo ra hay thừa nhận nhằm xác lập những quyền

và khả năng để nhân dân thực hiện dân chủ tại cơ sở.

Như vậy, cấu trúc của thể chế thực hiện dân chủ cơ sở gồm hai bộ phận chủ

yếu: 1/ Thể chế chính thức - sản phẩm của Nhà nước, bao gồm: Hiến pháp và các

văn bản quy phạm pháp luật như: các bộ luật, đạo luật, nghị quyết, nghị định,

thông tư... Trong bộ phận này, Hiến pháp là thể chế gốc, căn bản, có vai trò định

khung, định hướng và tạo lập nguyên tắc cơ bản làm căn cứ cho hệ thống pháp

luật được ban hành đồng bộ, thống nhất, khả thi, có hiệu lực và hiệu quả. Hệ thống

pháp luật bao gồm các ngành luật, các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật

là những bộ phận của hệ thống thể chế của cơ chế; 2/ Thể chế phi chính thức - sản

phẩm của các tổ chức phi nhà nước và được nhà nước thừa nhận. Bộ phận này thể

hiện ở các quy tắc, quy định của cộng đồng và các tổ chức của xã hội, góp phần

xác lập các quyền và khả năng để đảm bảo thực hiện quyền lực nhân dân tại cơ sở.

Ở Việt Nam, bộ phận này thể hiện chủ yếu ở các quy tắc cộng đồng - hương ước,

quy ước làng văn hóa.

Về nội dung, thể chế thực hiện dân chủ cơ sở bao gồm:

- Các quy định về nguyên tắc, mục tiêu, phạm vi và giới hạn của dân chủ

cơ sở;

53

- Các quy định về nội dung quyền dân chủ của người dân;

- Các quy định về hình thức, trình tự, thủ tục thực hiện quyền;

- Các quy định về hình thức, trình tự, thủ tục, hậu quả pháp lý của giám sát

việc thực hiện quyền và bảo vệ quyền dân chủ của người dân tại cơ sở;

- Các quy định về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các

thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở;

- Các quy định về các điều kiện đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở.

Thể chế là yếu tố cơ bản tạo lập nên cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ

sở. Thể chế đầy đủ, tiến bộ, ưu việt sẽ giúp hình thành một cơ chế tương ứng thực

hiện dân chủ cơ sở một cách thực chất, hiệu quả.

2.3.3. Thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở

Thiết chế là hệ thống tổ chức bộ máy, quy chế và chương trình hành động

của hệ thống bộ máy đó được thiết lập trên cơ sở quy định của pháp luật để thực

hiện một hoạt động nào đó trong xã hội. Trong đó, thiết chế tổ chức nhà nước có ý

nghĩa đặc biệt cho sự phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước, có vai trò củng

cố, bảo vệ chế độ, bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân,

vì thế thiết chế tổ chức bộ máy nhà nước có ý nghĩa sống còn với bất cứ một chế

độ chính trị, xã hội nào. Nhà nước là một thiết chế rộng lớn và phức tạp ở đó bao

gồm một hệ thống tổ chức bộ máy rộng khắp, một hệ thống chế định pháp luật

phục vụ cho quản lý xã hội, một hệ thống cơ sở hạ tầng tương ứng với một hệ

thống kiến trúc thượng tầng và một đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, nhân

viên đông đảo…

Thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở là toàn bộ các cơ quan, tổ chức, cá nhân

có liên quan đến quá trình thực hiện dân chủ cơ sở, được tổ chức và hoạt động trên

cơ sở pháp luật, góp phần đảm bảo quá trình hiện thực hóa dân chủ tại cơ sở. Theo

đó, với tư cách là một thành tố của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, pháp

luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở là tổng hợp

các quy định pháp luật ghi nhận hệ thống các thiết chế, cơ cấu tổ chức và thẩm

quyền của mỗi thiết chế trong hệ thống tham gia vào quá trình hiện thực hóa

quyền và khả năng của người dân ở cơ sở.

54

Hệ thống thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta bao gồm: 1/ các thiết

chế cấu thành hệ thống chính trị cơ sở (tổ chức Đảng cơ sở, Chính quyền cơ sở,

Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể xã hội tại cơ sở); 2/ các thiết chế dân

cử thực hiện dân chủ tại cơ sở (Ban Thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của

cộng đồng, tập thể lao động); 3/ các phương tiện thông tin đại chúng; 4/ các nhóm

dân cư và cá nhân.

Các thiết chế có thể tồn tại với tư cách là chủ thể trực tiếp thực hiện các

quyền dân chủ tại cơ sở hoặc với tư cách là chủ thể tổ chức triển khai, đảm bảo

việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân tại cơ sở. Tính hiệu quả của mỗi thiết

chế được xác định thông qua việc thiết kế các yếu tố, tổ chức, bộ phận có bảo đảm

tính thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ hay không. Ngoài yếu tố đó, các thiết chế phải

đảm bảo năng lực chủ thể, năng lực đại diện, năng lực tham gia, năng lực thực

hiện; các bộ phận của thiết chế phải có mối liên hệ, tác động, phối hợp chặt chẽ

với nhau, tránh trùng chéo, mâu thuẫn đồng thời phải có các bảo đảm tương ứng

để các thiết chế vận hành đồng bộ, thống nhất và thông suốt. Hệ thống thiết chế

đầy đủ, chặt chẽ, tổ chức khoa học là cơ sở để cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ

sở hoạt động có hiệu lực và tránh được các biểu hiện chung chung, hình thức, kém

hiệu quả.

2.3.4. Các bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở

Các yếu tố bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở vừa là một bộ phận hợp thành

cơ chế thực hiện dân chủ cơ sở vừa là yếu tố “bên ngoài” thể chế và thiết chế, tồn

tại như là điều kiện “nhất thiết phải có” cho sự vận hành hiệu quả của thể chế và

thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở.

Về cơ bản, các bảo đảm thực hiện hiện dân chủ cơ sở bao gồm:

Thứ nhất, bảo đảm về chính trị

Dân chủ - bản thân nó là một quá trình chính trị - pháp lý phức tạp, cùng

vận hành với các yếu tố chính trị - xã hội khác và chịu tác động mạnh mẽ từ các

yếu tố chính trị - xã hội khác của đất nước.

Trong mối quan hệ giữa chính trị và dân chủ cơ sở, chính trị đóng vai trò

tiên quyết trong việc thực hiện dân chủ cơ sở.

55

Bảo đảm về chính trị trước hết thể hiện ở chế độ chính trị tiến bộ, coi trọng

và đề cao dân chủ, nhân quyền. Một chế độ chính trị có xu hướng độc tài, chuyên

chế thường song hành với hiện tượng xâm hại và tàn lụi của dân chủ và nhân

quyền (trước hết là các quyền chính trị - dân sự). Chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ

có mục tiêu chính trị vì con người, quan tâm tới việc xây dựng đường lối, chiến

lược, chính sách, pháp luật lấy con người làm trung tâm, hướng tới việc tạo mọi

khả năng bảo đảm tốt nhất quyền con người sẽ là bảo đảm chắc chắn nhất cho các

quá trình và phạm vi dân chủ. Sự ổn định chính trị của đất nước, sự hài hoà về lợi

ích giữa các lực lượng xã hội, sự dân chủ trong Đảng, trong Nhà nước và trong

các tổ chức chính trị xã hội khác của đất nước tạo điều kiện để nhân dân lao động

tham gia một cách bình đẳng và ngày càng nhiều vào các lĩnh vực quản lý nhà

nước và xã hội, ảnh hưởng tích cực đến việc hiện thực hóa các mục tiêu của cơ

chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở.

Bảo đảm về chính trị cũng thể hiện ở tương quan quyền lực chính trị giữa

các nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội, phản ánh mức độ những nhu cầu chính

trị của quần chúng và áp lực chính trị lên giới cầm quyền. Điều này trực tiếp liên

quan đến những yêu cầu về sự ổn định chính trị, về tính minh bạch và dân chủ của

hệ thống nhà nước và về khả năng của giới cầm quyền trong việc tiếp nhận và

phản ánh những nhu cầu và lợi ích tự nhiên, vốn có của con người.

Từ khía cạnh tổ chức quyền lực, bảo đảm về chính trị biểu hiện ở cơ chế

hợp lý để vừa chế ngự nhà nước nhằm giảm tối đa sự vi phạm dân chủ vừa phát

huy tính trách nhiệm, tích cực của Nhà nước trong nghĩa vụ đảm bảo thực thi

quyền làm chủ của nhân dân. Theo đó, đặt ra trách nhiệm của Nhà nước phải kiềm

chế không can thiệp (trực tiếp hay gián tiếp) vào việc hưởng thụ các quyền con

người của cá nhân, liên quan trước hết đến các quyền chính trị và dân sự; trách

nhiệm của Nhà nước phải có những hành động tích cực dân chủ cơ sở được thực

hiện trên thực tế thông qua việc thể chế và đưa các quy định pháp luật về dân chủ

cơ sở vào cuộc sống; cũng như trách nhiệm của Nhà nước phải ngăn chặn các

hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân từ phía các chủ thể khác. Điều này

trực tiếp đặt ra yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền trong đó thừa nhận

56

nguyên lý chủ quyền nhân dân và ưu thế của pháp luật, biến pháp luật trở thành

đạo đức của Nhà nước, bằng việc ghi nhận tính bất khả xâm phạm các quyền và tự

do của công dân, đi đôi với tính tất yếu hoàn thiện các công cụ tổ chức nhà nước

mà trước hết là hoàn thiện các cơ quan nhà nước với tính cách là các công cụ bảo

hộ pháp lý đối với quyền lực nhân dân.

Bảo đảm về chính trị đối với thực hiện dân chủ cơ sở thể hiện còn ở năng

lực lãnh đạo của Đảng cầm quyền, cụ thể là của tổ chức đảng cơ sở trong lãnh đạo

thực thi dân chủ. Sự ảnh hưởng của Đảng được thể hiện ở lý luận của Đảng về dân

chủ, ở trí tuệ của lãnh tụ và các đảng viên của Đảng liên quan đến dân chủ, ở uy

tín, ở tính tổ chức chặt chẽ, khoa học, ở tác phong gương mẫu, ở lối sống và thực

thi dân chủ của các cá nhân đảng viên, mà đặc biệt là của người lãnh đạo. Nếu

Đảng không chú ý chăm lo cho việc thực thi dân chủ, củng cố phát triển dân chủ

thì vai trò cầm quyền, lãnh đạo của Đảng đối với việc thực thi dân chủ sẽ bị giảm

sút. Do vậy, các tổ chức đảng và các cá nhân đảng viên phải không ngừng nâng

cao nhận thức về dân chủ, về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, về

dân chủ cơ sở nói riêng, về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc thực thi dân chủ

trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền… Trên cơ sở đó, nâng cao bản

lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là

của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp trong lãnh đạo Nhà nước và xã hội

đối với vấn đề dân chủ cơ sở.

Trong bảo đảm về chính trị đối với dân chủ cơ sở thì văn hoá chính trị có

vai trò vô cùng quan trọng. Văn hóa chính trị thể hiện ở trình độ tư duy, nhận

thức, ở lương tâm, trách nhiệm, phong cách sống và lối ứng xử đúng đắn của giới

cầm quyền trong những vấn đề liên quan đến dân chủ cơ sở. Theo nghĩa đó, văn

hóa chính trị chính là nền tảng tinh thần và đạo đức cho những tư duy và hành

động sáng suốt của các nhà chính trị trong quá trình thực hiện dân chủ cơ sở trong

đời sống.

Thứ hai, bảo đảm về pháp lý

Trên thực tế, dân chủ với tư cách là tư tưởng, quan điểm, nguyên lý và dân

chủ cơ sở trong hiện thực có một khoảng cách rõ ràng. Bảo đảm pháp lý vừa đóng

vai trò thu hẹp khoảng cách đó, vừa tạo kênh dẫn cho các quyền pháp định đi vào

57

đời sống thông qua việc ghi nhận quyền trong pháp luật và thiết lập chu trình thực

hiện các quyền dân chủ.

Pháp luật, bằng việc ghi nhận các quyền dân chủ của con người đã chính

thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội của các quyền đó. Những tư tưởng lớn, những

khám phá mới về dân chủ chỉ là không tưởng hoặc thủ đoạn mị dân nếu không được

biểu hiện dưới hình thức pháp luật. Kể cả khi chúng được thừa nhận, các quyền dân

chủ cũng không được mặc định áp dụng ở nhiều xã hội. Chỉ khi mang tính pháp lý,

dân chủ mới có đầy đủ giá trị hiện thực, được xã hội phục tùng, được quyền lực nhà

nước bảo vệ. Pháp luật chính là (và phải là) phương tiện thực hiện quá trình chuyển

hóa đó. Từ phương diện này, nhu cầu đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở đòi hỏi phải

thể chế hóa tư duy chính trị về dân chủ thành các quy định pháp luật cụ thể, phù hợp

với điều kiện và hoàn cảnh thực tế của quốc gia. Nói cách khác, một hệ thống pháp

luật được xem là nền tảng pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện dân chủ cơ sở trước

hết phải là hệ thống pháp luật có được chỉ số ghi nhận tới mức tối đa các quyền dân

chủ tại cơ sở trong tương quan với các hoàn cảnh của quốc gia.

Tầm quan trọng số một của pháp luật trong ý nghĩa là đảm bảo thực hiện

dân chủ cơ sở còn ở chỗ pháp luật chính là phương tiện thúc đẩy và mang lại giá

trị hiện thực cho các đảm bảo khác. Các đảm bảo về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã

hội… đều phải thông qua pháp luật, thể hiện dưới hình thức pháp luật mới trở

thành giá trị xã hội ổn định, được hiện thực hóa trên quy mô toàn xã hội và nhờ

vậy, mới phát huy được vai trò của mình trong việc bảo đảm thực hiện dân chủ nói

chung, dân chủ cơ sở nói riêng. Nếu xem xét từ phương diện này thì yêu cầu đặt ra

đối với hệ thống pháp luật là phải hiện diện ở tất cả các điều kiện khác, chế định

hóa môi trường chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa…, tạo cơ sở pháp lý cho các

điều kiện đó phát huy được vai trò và hiệu quả của chúng trong việc thực hiện dân

chủ cơ sở trên quy mô toàn xã hội và trong từng địa bàn cơ sở cụ thể. Từ góc độ

này, cũng có thể thấy tính chất đan xen, hòa quyện, tạo tiền đề cho nhau giữa các

đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở. Một cách diễn đạt khác cho thấy, bảo đảm thực

hiện dân chủ cơ sở là một quá trình, phụ thuộc vào tổng thể nhiều điều kiện, trong

đó pháp luật có vị trí, vai trò và tầm trọng đặc biệt.

58

Thứ ba, bảo đảm về nguồn lực (nguồn lực vật chất và nguồn nhân lực)

Thực hiện dân chủ, nhất là dân chủ trực tiếp đòi hỏi những chi phí không

nhỏ về mặt vật chất và thời gian, công sức. Do vậy, nội dung, phương thức và điều

kiện thực thi dân chủ nói chung, dân chủ cơ sở nói riêng luôn phụ thuộc vào các

điều kiện kinh tế ở mỗi thời kì phát triển nhất định.

Điều kiện kinh tế đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở là một phổ rộng gồm nhiều

yêu cầu, trong đó biểu hiện rõ nét nhất là trình độ phát triển của nền kinh tế bộc lộ

qua các chỉ số đánh giá mức độ tăng trưởng, mức độ thu hẹp sự chênh lệch giàu

nghèo, mức độ ổn định của chu kỳ tăng trưởng, mức độ an toàn của môi trường kinh

tế đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững, mức độ kết hợp phát triển kinh tế với đảm

bảo an sinh xã hội… Các yêu cầu này càng đạt được ở trình độ cao thì càng tạo ra cơ

sở vật chất thuận lợi cho khả năng biến các quyết tâm chính trị về thực hiện dân chủ

cơ sở và các quyền pháp định của con người thành hiện thực. Mặc dù, giữa phát triển

kinh tế với đảm bảo dân chủ không hoàn toàn là một tương quan thuận chiều, bởi trên

thực tế, có những quốc gia đạt được trình độ phát triển và mức độ tăng trưởng kinh tế

cao nhưng tình trạng vi phạm dân chủ vẫn diễn ra phổ biến.

Trong thế giới đương đại, việc tạo lập điều kiện kinh tế đảm bảo thực thi

dân chủ gắn liền với tính tất yếu phát triển nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ

chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng - con đường ngắn nhất để đem

lại những thành công về kinh tế ở mỗi quốc gia. Từ phương diện này cũng có thể

nói, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là điều kiện

kinh tế cho đảm bảo thực hiện dân chủ. Như vậy, mặc dù không thể chờ đến khi

có một nền kinh tế phát triển với một nguồn vật chất dồi dào mới thực hiện dân

chủ nhưng phát huy dân chủ cơ sở phải song hành với thúc đẩy kinh tế phát triển,

nâng cao mức sống của nhân dân trên địa bàn cơ sở. Thiếu nền tảng kinh tế, dân

chủ cơ sở dễ rơi vào trạng thái hình thức. Bản thân cơ chế pháp lý là điều kiện để

thực hiện dân chủ nhưng đến lượt nó, để cơ chế này vận hành được lại phụ thuộc

vào điều kiện kinh tế và các nguồn lực khác để chuyển hoá nền dân chủ còn nhiều

biểu hiện hình thức sang nền dân chủ thực sự, thực tế và đầy đủ.

59

Cũng liên quan tới khía cạnh bảo đảm nguồn lực là vấn đề nguồn nhân lực

phục vụ quá trình triển khai cơ chế thực hiện dân chủ cơ sở. Trong mọi quá trình

chuyển biến của xã hội, con người luôn là nhân tố quyết định. Thực hiện dân chủ

cơ sở cần có một đội ngũ cán bộ, công chức nhiệt tình, có trách nhiệm, có uy tín

với cộng đồng, có năng lực và dám xả thân vì sự nghiệp dân chủ. Đội ngũ đó phải

được xây dựng, đào tạo và sử dụng trên cơ sở một chiến lược hướng tới dân chủ

và nhân quyền.

Thứ tư, bảo đảm về xã hội

Từ khía cạnh xã hội, điều kiện đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở đòi hỏi một

số chuẩn mực nhất định của văn hóa, trước hết là những chuẩn mực liên quan đến

trình độ nhận thức và hiểu biết về quyền dân chủ, mức độ phổ biến của quyền dân

chủ, mức độ sẵn sàng đối với việc thực thi nhân quyền, năng lực vận dụng công cụ

pháp luật bảo vệ quyền dân chủ, năng lực tiếp cận dựa trên quyền, năng lực kết hợp

thực hiện quyền với việc giải quyết các vấn đề của cuộc sống hàng ngày… Trên thực

tế, trình độ dân trí nói chung, văn hóa thực thi dân chủ nói riêng là điều kiện tinh thần

rất quan trọng quyết định mức độ thực thi dân chủ cơ sở. Sự thiếu vắng hoặc hạn chế

trong hiểu biết và năng lực vận dụng quyền dân chủ sẽ trở thành rào cản làm vô hiệu

hóa ở các chừng mực khác nhau đối với cả luật pháp, cả những điều kiện cơ sở vật

chất đảm bảo thực hiện dân chủ. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc chờ

đợi có đủ trình độ dân trí mới thực hiện dân chủ.Về mặt phương pháp, nếu muốn có

dân chủ thật sự thì dân chúng phải được thực hành ngay trong đời sống chính trị -

pháp lý. Nói cách khác, người dân hoàn toàn có thể thực hiện được quyền dân chủ tại

cơ sở ngay cả khi có thể dân trí chưa cao. Quá trình thực hiện dân chủ cơ sở cũng

chính là quá trình nâng cao dân trí, văn hóa nhân quyền.

Ở bình diện rộng lớn hơn, điều kiện xã hội để thực hiện dân chủ cơ sở

chính là một xã hội cởi mở, dân chủ, minh bạch của hợp thể các công dân tự do,

công dân trưởng thành - công dân có tính tích cực chính trị, tính tích cực công dân.

Điều này cũng liên quan đến việc thừa nhận và đề cao tính trách nhiệm của xã hội

đối với việc bảo đảm thực thi các quyền dân chủ. Có thể nói nhận thức của xã hội

về dân chủ, dân chủ cơ sở, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có ảnh hưởng

60

rất lớn đến việc thúc đẩy quá trình hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ

sở. Khi các nhà nhà lãnh đạo, quản lý, đội ngũ trí thức, đặc biệt là của các luật gia,

các tầng lớp nhân dân có những nhận thức đúng đắn, cần thiết về dân chủ nói

chung, về dân chủ cơ sở nói riêng họ sẽ có những cố gắng trong việc phải quy

định, củng cố dân chủ, thực hành đầy đủ các nghĩa vụ và quyền hạn trong các hoạt

động nhà nước và xã hội trên địa bàn cơ sở.

Ngoài các điều kiện nói trên, các yếu tố về lịch sử, dân tộc, đạo đức, tôn

giáo, phong tục, tập quán cũng có vai trò nhất định tác động, ảnh hưởng đến từng

bộ phận hay toàn thể cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở. Sự phù hợp đó có ý

nghĩa tạo ra sự đồng bộ, thống nhất giữa thể chế và thiết chế, giữa nội dung,

phương thức và các điều kiện bảo đảm để tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý thực

hiện dân chủ cơ sở.

2.4. TIÊU CHÍ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC HIỆN DÂN CHỦ

CƠ SỞ

Tiêu chí là những chuẩn mực, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại

một sự vật, hiện tượng. Tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở

là những dấu hiệu, chuẩn mực dựa vào đó để nhận biết, đánh giá được mức độ đạt

được của cơ chế là tốt hay chưa tốt, đạt hay chưa đạt, thể hiện mức độ tác động

của cơ chế đối với việc hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân dân tại cơ sở. Xác

định tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có ý nghĩa hết sức

quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong quá trình xây dựng pháp luật, thúc đẩy

quyền dân chủ và tạo lập các điều kiện thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta hiện

nay. Những tiêu chí đó, xét về mặt lý thuyết là những yếu tố làm nên giá trị của hệ

thống, xét về mặt thực tiễn, là những điều kiện đòi hỏi công tác xây dựng pháp

luật phải đáp ứng để bảo đảm và phát huy vai trò của cơ chế pháp lý thực hiện dân

chủ cơ sở trong thực tiễn.

2.4.1. Tính toàn diện của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở

Tính toàn diện là tiêu chuẩn cơ bản thể hiện mức độ hoàn thiện của hệ

thống pháp luật nói chung, của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở nói riêng.

Tính toàn diện là tiêu chuẩn để định lượng pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở,

61

có ý nghĩa quan trọng nhằm tiếp tục nghiên cứu để xác định tiêu chuẩn về định

tính của cơ chế thực hiện dân chủ cơ sở.

Tính toàn diện của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở bao gồm sự toàn

diện về cấu trúc và sự đầy đủ về nội dung của cơ chế.

Về cấu trúc, tính toàn diện của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đặt

ra yêu cầu về mức độ bao phủ của pháp luật đối với các thành tố hợp thành cơ chế:

nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở, thể chế thực hiện dân chủ cơ sở, thiết chế

thực hiện dân chủ cơ sở, các đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở. Thiếu sự điều

chỉnh pháp luật đối với các thành tố cơ bản nói trên, cơ chế pháp lý thực hiện dân

chủ cơ sở rơi vào tình trạng khiếm khuyết, rất khó vận hành hoặc vận hành không

đạt hiệu quả mong muốn.

Trên thực tế, mức độ bao phủ của pháp luật đối với các thành tố hợp thành

cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở không hoàn toàn đồng nghĩa với việc phải

thiết lập những văn bản quy phạm pháp luật độc lập ghi nhận từng thành tố. Tuy

nhiên, yêu cầu đặt ra là các thành tố phải được ghi nhận đầy đủ, phải hợp thành hệ

thống, tạo thành một chỉnh thể, các thành tố nằm trong cơ chế và là một phần của

cơ chế hướng tới thực hiện mục tiêu hiện thực hóa quyền làm chủ của người dân

tại cơ sở.

Về nội dung, tính toàn diện của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đặt ra

yêu cầu về mức độ ghi nhận đầy đủ các nguyên tắc, các quyền và khả năng thực

hiện quyền của người dân tại cơ sở, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của

các thiết chế tham gia thực hiện dân chủ cơ sở, các điều kiện đảm bảo và cách thức

tạo lập, sử dụng các điều kiện đảm bảo trong quá trình thực hiện dân chủ cơ sở.

Pháp luật phải là công cụ không chỉ để nhân dân làm chủ, mà còn để xử lí các văn

bản, các hành vi vi phạm dân chủ, ảnh hưởng xấu đến quyền, lợi ích của nhân dân

tại cơ sở.

Liên quan đến vấn đề nói trên, có hai khía cạnh tác động quan trọng: 1/

nguồn của pháp luật Việt Nam khá đa dạng về thể loại và vì do nhiều cấp có thẩm

quyền ban hành nên có hiệu lực pháp lý khác nhau. Trong hoạt động quản lý cũng

như trong hoạt động xét xử của Tòa án, các viên chức nhà nước, các thẩm phán

thường làm nhiệm vụ áp dụng pháp luật đúng như tinh thần và lời văn của pháp

62

luật. Điều này, một mặt đòi hỏi nâng cao tính pháp điển của hệ thống văn bản quy

phạm pháp luật về dân chủ cơ sở, mặt khác, hoạt động xây dựng pháp luật cần

hướng tới việc tạo ra không gian rộng rãi hơn cho sự sáng tạo trong quá trình áp

dụng pháp luật trên nền của những nguyên tắc chung thống nhất; 2/ pháp luật Việt

Nam thường xuyên thay đổi, thiếu ổn định. Đây là hệ quả tất yếu của quá trình đổi

mới đất nước với việc xuất hiện tư duy pháp lý và những quan hệ xã hội mới.

Thực tế đó đặt ra yêu cầu phải thiết kế chương trình và chính sách pháp luật về

dân chủ cơ sở một cách mạch lạc theo từng thời gian, theo cấp có thẩm quyền…

để đảm bảo quá trình điều chỉnh pháp luật về dân chủ cơ sở không bị chệch hướng

về nội dung.

Quan điểm định hướng cho việc đảm bảo tính toàn diện về nội dung của cơ

chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là sự thừa nhận nguyên tắc tất cả quyền lực

thuộc về nhân dân - xem đó là nguyên tắc quan trọng nhất của điều chỉnh pháp

luật về dân chủ cơ sở. Nhân dân - người sáng tạo ra lịch sử, là nguồn gốc của

quyền lực, là chủ thể của quyền lực nhà nước, họ phải được quyền trực tiếp hoặc

gián tiếp tham gia vào quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Đồng thời

nhân dân còn có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, bộ

máy của các tổ chức xã hội khác. Nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân được

thể hiện trên các phương diện cơ bản là: 1/ Nhân dân được quyền tham gia đông

đảo và tích cực vào việc thành lập bộ máy nhà nước và bộ máy các tổ chức xã hội.

Pháp luật phải tạo cơ sở pháp lý để nhân dân thể hiện ý chí, phát huy quyền làm

chủ của mình, trực tiếp bầu ra các cơ quan đại diện cho mình và thông qua hệ

thống cơ quan đại diện đó để lập ra các cơ quan chấp hành, điều hành và các cơ

quan khác. Như vậy, quyền lực nhà nước cũng như quyền lực của các tổ chức xã

hội khác đều xuất phát từ nhân dân, thể hiện ý chí của nhân dân và thuộc về nhân

dân; 2/ Nhân dân được quyền tham gia quản lý và quyết định những công việc

trọng đại của Nhà nước và xã hội. Pháp luật quy định cho công dân quyền tham

gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước

và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức

trưng cầu ý dân. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, bởi sự tham gia đông

63

đảo của nhân dân vào quản lý các công việc nhà nước và xã hội là cơ sở để nhân

dân trực tiếp phát huy sức lực, trí tuệ, vai trò làm chủ của mình trong quản lí nhà

nước và xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, cá nhân. Sự tham gia của

nhân dân vào quản lí nhà nước được coi là phương pháp tuyệt diệu, bởi "dễ trăm

lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong"; 3/ Pháp luật cần tạo cơ

chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ

quan nhà nước, cơ quan các tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước, các cá nhân khác

được trao cho những quyền hạn nhất định để quản lí các công việc của Nhà nước

và xã hội. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, đồng thời là một trong những phương

pháp bảo đảm cho bộ máy nhà nước và bộ máy các tổ chức xã hội hoạt động đúng

mục đích, phục vụ và bảo vệ lợi ích của nhân dân, chống những biểu hiện tiêu cực

như quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, xa rời quần chúng của đội ngũ

cán bộ, công chức, viên chức; 4/ Pháp luật quy định trách nhiệm của các cơ quan

nhà nước, nhân viên nhà nước trong việc tôn trọng, bảo đảm nguyên tắc quyền lực

nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như những hình

thức tham gia của nhân dân vào việc thiết lập bộ máy nhà nước, tham gia quyết

định những vấn đề quan trọng của đất nước và kiểm tra giám sát hoạt động của

các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước; 5/ Pháp luật cần quy định

những biện pháp để nhân dân có điều kiện nâng cao trình độ học vấn, chính trị,

pháp luật, quản lí, đồng thời nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân,

cung cấp thông tin đầy đủ để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra các hoạt

động của Nhà nước và xã hội nói chung, tại địa bàn cơ sở nói riêng.

Trên tinh thần đó, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải bao hàm sự

ghi nhận của pháp luật ở những điểm cơ bản sau:

- Xác lập phạm vi các quyền cụ thể của người dân tại cơ sở dựa trên phương

châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”; quy định các quyền tự

do, dân chủ trong sinh hoạt chính trị, bảo đảm cho người dân làm chủ về mặt chính

trị; xác lập và thực hiện quyền dân chủ thông qua chế độ bầu cử người đại diện; xác

lập quyền của nhân dân bày tỏ ý kiến, kiến nghị, thảo luận một cách dân chủ, bình

đẳng các vấn đề nảy sinh tại cơ sở; xác lập các quyền cụ thể của người dân được

64

trực tiếp hoặc thông qua thiết chế đại diện thực hiện kiểm tra, giám sát đối với bộ

máy Đảng và Nhà nước tại cơ sở.

- Xác lập các trình tự, thủ tục minh bạch để nhân dân thực hiện các quyền dân

chủ cụ thể tại cơ sở. Đây là yếu tố rất quan trọng vì thực tế cho thấy, các quyền dân

chủ sẽ không thể được hiện thực hóa nếu thiếu các thủ tục cần thiết để thực hiện.

- Quy định chặt chẽ, chính xác nhiệm vụ, quyền hạn của các thiết chế quyền

lực tại cơ sở, hạn chế tình trạng lạm quyền, độc đoán, chuyên quyền, vi phạm các

quyền tự do dân chủ từ phía các chủ thể cầm quyền. Quy định cụ thể về mối quan

hệ giữa các thiết chế được ủy quyền lực với người chủ quyền lực là nhân dân tại địa

bàn cơ sở.

- Ghi nhận trách nhiệm cụ thể của bộ máy Đảng, Nhà nước và xã hội đối với

việc tạo lập các bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở. Quy định cách thức vận hành của

các bảo đảm đó.

2.4.2. Tính đồng bộ của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở

Tính đồng bộ của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở cần được nhận diện

ở hai mức độ: 1/ Tính đồng bộ bên ngoài, tức là khả năng “đồng hành”, khả năng

tương thích của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở với các hệ thống, các cơ chế

và giá trị xã hội khác được biểu hiện về mặt pháp luật và 2/ Tính đồng bộ giữa các

thành tố bên trong của cơ chế, từ các quy định pháp luật đến thực tiễn pháp luật và

nhận thức pháp luật của xã hội.

Về tính đồng bộ bên ngoài, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế

pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đặt ra yêu cầu về sự liên quan và thống nhất giữa

các lĩnh vực thuộc hệ thống pháp luật hướng vào mục tiêu ghi nhận và phát huy

ngày càng đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Hệ thống pháp luật và toàn bộ quá

trình thực thi pháp luật phải xuất phát từ tinh thần dân chủ. Các quy định của Hiến

pháp năm 2013 là cơ sở của sự đồng bộ đó. Trên nền của Hiến pháp, quá trình xây

dựng pháp luật phải cụ thể hóa được tinh thần nguyên lý chủ quyền nhân dân trong

tất cả các lĩnh vực pháp luật. Theo đó, hệ thống pháp luật phải đảm bảo sự đầy đủ,

cân đối, khắc phục tư duy bao cấp, sự mâu thuẫn, chồng chéo và tính “tuyên ngôn”,

tăng cường tính dự báo, tính ổn định, tính phù hợp, tạo ra các bảo đảm thực tế để

dân chủ được thực hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

65

Về tính đồng bộ bên trong, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế

pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đặt ra yêu cầu trước hết về sự đồng bộ giữa pháp

luật nội dung và pháp luật thủ tục, giữa các văn bản ghi nhận quyền và khả năng,

phương thức thực hiện quyền của người dân với các luật về tổ chức và hoạt động

của chính quyền địa phương, của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, của

các thiết chế khác liên quan đến thực hiện dân chủ cơ sở. Sự đồng bộ của hệ thống

pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở còn được thể hiện ngay trong mỗi văn bản, ở sự

thống nhất các quy phạm và giữa các chế định pháp luật trong các quan hệ được cấu

trúc tạo ra logic nhất quán trong việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá

trình thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở.

Tính đồng bộ bên trong của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đòi hỏi

thiết lập mối liên hệ chặt chẽ, chi phối, tác động lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành

cơ chế, cùng nhau quyết định hiệu quả hoạt động của toàn bộ cơ chế. Mỗi một bộ

phận (thành tố) của cơ chế cần được xác định một cách chặt chẽ, đảm bảo tính liên

kết, nhưng vẫn có tính độc lập tương đối trong hoạt động của mình. Mỗi thành tố

của cơ chế đảm trách một chức năng, nhiệm vụ khác nhau tạo nên tính đa dạng

trong thống nhất của cơ chế. Để cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở vận hành có

hiệu lực, hiệu quả thì cần xác định và tổ chức một cách khoa học, chính xác, khả thi

ngay từ các chi tiết của từng thành tố trong cơ chế.

Yếu tố nguyên tắc đóng vai trò quyết định hướng tổ chức và vận hành của cơ

chế, đảm bảo bản chất và tính gắn kết của cơ chế. Các nguyên tắc cơ bản phải được

ghi nhận chính thức trong các văn bản pháp luật điều chỉnh việc thực hiện dân chủ

cơ sở đồng thời tinh thần của các nguyên tắc phải được thể hiện trong tất cả các quy

phạm, chế định pháp luật liên quan đến dân chủ sơ sở. Trong đó, nguyên tắc đóng

vai trò chi phối là nguyên tắc “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” đã được Hiến

pháp năm 2013 hiến định tại điều 2.

Yếu tố thể chế có vai trò then chốt, là cơ sở, căn cứ pháp lý chi phối việc

hình thành các thiết chế và xác lập các khả năng, điều kiện bảo đảm cho việc hoàn

thiện và hoạt động của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở. Thể chế của cơ chế

pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có mối liên hệ mật thiết, phụ thuộc và chịu sự chi

66

phối, quyết định của thể chế chính trị, pháp lý. Do đó, khi thể chế chính trị, thể chế

pháp lý có sự thay đổi thì thể chế của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở cũng

phải thay đổi theo. Sự thay đổi của thể chế kéo theo sự thay đổi của hệ thống thiết

chế và các bảo đảm cho cơ chế hoạt động. Sự thay đổi có thể theo hướng tích cực

và tiêu cực. Hướng tích cực đòi hỏi phải hoàn thiện và dân chủ hoá nội dung các thể

chế, tạo điều kiện để các yếu tố thiết chế và bảo đảm chính trị, pháp lý, kinh tế- xã

hội được phát triển tương ứng, phù hợp giúp toàn bộ cơ chế hoạt động có hiệu lực,

hiệu quả. Hướng tiêu cực là thể chế không chịu đổi mới phù hợp với xu thế phát

triển dân chủ, pháp quyền, không mở rộng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,

trì trệ, bảo thủ thì các yếu tố về thiết chế và bảo đảm không có điều kiện hoàn thiện

và hoạt động tốt, dân chủ tại cơ sở sẽ không được phát huy.

Yếu tố thiết chế có vai trò hiện thực hoá quy định của thể chế bằng thiết lập

cấu trúc tổ chức và hoạt động tương ứng với yêu cầu thực hiện các quyền dân chủ

tại cơ sở. Các thiết chế vận hành, hoạt động trong khuôn khổ quy định của pháp luật

luôn có xu thế phát triển, mở rộng ra ngoài pháp luật, vì vậy, các thiết chế của cơ

chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có thể là một trật tự pháp lý, một trật tự điều lệ

hay hỗn hợp, đó còn là các tổ chức và các hình thức dân chủ khác của nhân dân và

mang tính nhân dân, xã hội tác động thường xuyên vào hoạt động thực thi dân chủ.

Các thiết chế hoạt động, tương tác với nhau tác động trực tiếp đến quyền làm chủ

của nhân dân tại cơ sở và chỉ có hiệu quả khi có các điều kiện bảo đảm tương ứng,

do đó thiết chế có tác động trở lại trong việc hoàn thiện thể chế và các bảo đảm cho

cơ chế hoạt động.

Yếu tố bảo đảm chính trị, pháp lý, kinh tế - xã hội cho cơ chế pháp lý thực

hiện dân chủ cơ sở hoạt động có vai trò làm căn cứ cho việc xây dựng, hoàn thiện

thể chế, là nguồn lực để các thiết chế duy trì bộ máy và tổ chức hoạt động, đồng

thời là cơ sở và điều kiện để thiết lập, vận hành toàn bộ cơ chế nhằm đạt được mục

đích kiểm soát quyền lực nhà nước. Không có các bảo đảm thì thể chế chỉ tồn tại

trên văn bản và thiết chế chỉ hoạt động trên lý thuyết. Các bảo đảm là nhân tố để

hiện thực hoá quy định của thể chế, hiệu quả hoá hoạt động của thiết chế và ngược

lại thể chế, thiết chế lại có vai trò tác động, quy định và làm cho các bảo đảm ngày

67

càng hoàn thiện, đầy đủ hơn tạo điều kiện để toàn bộ cơ chế được vận hành, hoạt

động đạt được mục đích, yêu cầu đề ra.

2.4.3. Tính phù hợp, khả thi của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở

Tính phù hợp của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là tiêu chí về nội

dung bên trong của cơ chế. Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở được coi là

hoàn thiện phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về mặt nội dung cơ bản sau đây:

Thứ nhất, phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về phát

huy nền dân chủ XHCN.

Thứ hai, phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội tồn tại một

cách khách quan. Yêu cầu về tính phù hợp của cơ chế thể hiện sự tương quan giữa

trình độ của pháp luật về dân chủ với sự phát triển nền kinh tế, chính trị, văn hóa -

xã hội ở mỗi thời kỳ phát triển và hệ thống pháp luật nói chung, cũng như ở tương

quan giữa yêu cầu về quyền làm chủ tại cơ sở với khả năng hiện thực hóa các

quyền dân chủ.

Thứ ba, phù hợp với những nguyên tắc, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay.

Thứ tư, phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực của quốc tế về dân chủ, nhân

quyền. Tiêu chí này đòi hỏi cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải được thiết

kế phù hợp với các nguyên tắc,chuẩn mực dân chủ trên thế giới, tiếp thu có chọn lọc

kinh nghiệm của các nước trong việc điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ xã hội

phát sinh trong thực hiện dân chủ cơ sở, bảo đảm cho hệ thống pháp luật về dân chủ

cơ sở của Nhà nước trở thành cầu nối hội nhập quốc tế về dân chủ, đồng thời phải

phù hợp với truyền thống và điều kiện kinh tế, chính trị của Việt Nam.

Tính phù hợp của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là căn cứ đảm bảo

tính khả thi của cơ chế. Mức độ hiện thực hóa cơ chế, hiệu quả vận hành của cơ chế

pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở tùy thuộc rất nhiều vào sự phù hợp của các thành tố

thuộc cơ chế. Vấn đề còn lại liên quan đến năng lực tổ chức của bộ máy quản lý và

tính tích cực chính trị của công dân. Điều này, đến lượt nó lại phụ thuộc vào quá

trình tổ chức thực tiễn phản ánh khả năng phối, kết hợp các thành tố của cơ chế

hướng vào mục tiêu dân chủ hóa đời sống xã hội tại cơ sở.

68

2.4.4. Tính minh bạch và khả năng tiếp cận của cơ chế pháp lý thực hiện

dân chủ cơ sở

Tính minh bạch của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là một đòi hỏi

không thể thiếu của nền dân chủ và của chế độ pháp quyền.

Yêu cầu về sự minh bạch của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở thể

hiện trước hết ở sự rõ ràng, rành mạch trong việc ban hành và áp dụng, thực hiện

các quy định pháp luật liên quan đến dân chủ cơ sở. Biểu hiện cụ thể là ở sự công

khai, chính xác, mục đích rõ ràng của các cơ quan ban hành pháp luật và cơ quan tổ

chức thực thi pháp luật và quan trọng hơn đó là gắn những bảo đảm để người dân

có thể tiếp cận với các quy định của pháp luật để tham gia tích cực vào các quan hệ

pháp luật.

Theo đó, tính minh bạch của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở liên

quan đến nhu cầu nâng cao năng lực lập pháp nói chung, trình độ kỹ thuật lập pháp

nói riêng. Điều này đòi hỏi quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật thực hiện

dân chủ cơ sở phải được tiến hành theo những nguyên tắc tối ưu, xác định chính xác

cơ cấu nội tại của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, được biểu đạt bằng ngôn

ngữ pháp lý rõ ràng, cô đọng, logic, chính xác và một nghĩa, đồng thời mang tính

phổ thông và ổn định cao. Việc bảo đảm kỹ thuật lập pháp là điều kiện quan trọng

để thể hiện được một cách minh bạch ý chí của chủ thể ban hành pháp luật, bảo đảm

tính chính xác về nội dung, bảo đảm văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện dân

chủ cơ sở dễ hiểu, thống nhất và dễ thực hiện.

Tính minh bạch của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở với yêu cầu về

sự công khai cũng liên quan đến quá trình phổ biến và cập nhật của các quy định

pháp luật. Các văn bản pháp luật về dân chủ, đặc biệt là dân chủ cơ sở cần được phổ

biến rộng rãi và kịp thời tới mọi tầng lớp nhân dân thông qua công tác tuyên truyền,

phổ biến, giáo dục pháp luật hiệu quả. Từ khía cạnh này, vai trò quan trọng thuộc về

các phương tiện truyền thông, hệ thống giáo dục quốc dân và các nhóm xã hội. Đây

cũng là con đường khả thi nhất để đảm bảo khả năng tiếp cận của người dân đối với

cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở và là một trong những căn cứ đảm bảo hiệu

quả của cơ chế.

69

Tính minh bạch của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở gắn với yêu cầu

về khả năng kiểm tra, giám sát của người dân đối với toàn bộ quá trình thực hiện

dân chủ cơ sở. Thể chế dân chủ cơ sở phải đảm bảo cho người dân giám sát được

việc quản lý sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, những việc nhân dân được

bàn chính quyền quyết định, những việc nhân dân trực tiếp quyết định, những việc

nhân dân đề xuất chính quyền xem xét quyết định, đồng thời giám sát được trách

nhiệm của các thiết chế thuộc hệ thống chính trị cơ sở trong phát huy quyền làm

chủ của người dân. Pháp luật phải phân định rõ chức năng, thẩm quyền của các cơ

quan làm công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở, quy

định cụ thể các loại hành vi vi phạm trong thực hiện dân chủ cơ sở phải bị xử lý,

quy định cụ thể hình thức xử lý kỷ luật đối với từng loại hành vi vi phạm cụ thể…

2.4.5. Mức độ tác động của cơ chế thực hiện dân chủ cơ sở đối với đời

sống vật chất và tinh thần của cộng đồng dân cư tại cơ sở

Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở không chỉ phụ thuộc vào

mức độ hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở về hình thức và nội dung

pháp luật mà còn thể hiện ở hiệu quả tác động của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ

cơ sở đối với đời sống dân chủ ở cơ sở nói riêng, sự phát triển của đất nước nói

chung. Nói cách khác, mức độ tác động của cơ chế chính là tiêu chí thực tiễn quan

trọng để đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở.

Hiệu quả của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có nhiều biểu hiện và

được đánh giá bởi nhiều tiêu chí thành phần nhưng biểu hiện căn bản nhất là ở sự

thay đổi theo chiều hướng tích cực của các quan hệ xã hội ở cơ sở, lấy người dân và

yêu cầu bảo đảm các quyền cơ bản của người dân là trung tâm. Từ phương diện

này, hiệu quả của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải được đánh giá gắn

liền với hiệu quả hoạt động của chính quyền và các các thiết chế khác trong hệ

thống chính trị cơ sở đối với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội

tại địa phương. Xét đến cùng thì hiệu quả của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ

sở phải được đánh giá thông qua những thay đổi trong đời sống vật chất và tinh thần

của người dân tại cơ sở, ở sự hài lòng của người dân về chính quyền của họ và ở

thái độ của họ đối với các vấn đề chung của cộng đồng và của đất nước.

70

Tiểu kết chương 2

Nhận diện những vấn đề lý luận cơ bản về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ

cơ sở là tiền đề cho việc triển khai đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý thực hiện dân

chủ cơ sở và đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân

chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay.

Kết quả nghiên cứu tại chương 2 của luận án cho thấy có nhiều cách hiểu

rộng, hẹp khác nhau về dân chủ cơ sở và cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở.

Tuy nhiên, nhìn nhận một cách tổng quát nhất, dân chủ cơ sở là sự phản ánh vị thế

quyền lực của nhân dân trên địa bàn cơ sở. Thực hiện dân chủ ở cơ sở là toàn bộ

quá trình hiện thực hóa các quyền thể hiện sự tham gia của công dân vào chu trình

thực hiện quyền lực tại cơ sở. Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là tổng thể

các nguyên tắc, thể chế, thiết chế và các điều kiện đảm bảo, gắn kết với nhau, hợp

thành hệ thống, do pháp luật quy định, nhằm xác lập các quyền và khả năng để nhân

dân thực hiện quyền làm chủ tại cơ sở. Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có

những đặc điểm riêng và có vai trò quan trọng trong quá trình phát huy quyền làm

chủ của nhân dân, đồng thời chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đời sống hiện

thực của mỗi quốc gia.

Phúc đáp yêu cầu của chủ đề tài luận án, chương 2 dành điểm nhấn vào việc

nêu và phân tích các tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở. Căn

cứ vào các thành tố của cơ chế, các tiêu chí hoàn thiện cơ chế được xác định bao

gồm: tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp và khả thi, tính minh bạch và dễ tiếp

cận, mức độ tác động của cơ chế đối với đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân

tại địa bàn cơ sở. Các tiêu chí này liên hệ chặt chẽ với nhau, trở thành những yêu

cầu cơ bản và bắt buộc của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở trong trật tự nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

71

Chương 3

THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG CÁC NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN DÂN CHỦ

CƠ SỞ

3.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về dân chủ và

xây dựng cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở

Ở Việt Nam, trước khi có sự ra đời của Nhà nước cách mạng, chưa có một

thể chế dân chủ chính thức nào. Có chăng chỉ tồn tại những giá trị dân chủ nhất định

thể hiện trong không gian của làng xã mang tính chất "dân chủ làng xã". Tuy nhiên,

ước vọng về dân chủ và thực hiện dân chủ luôn là chủ đề nhận thức của các nhà tư

tưởng cách tân trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc.

Tư tưởng về một nền dân chủ đích thực, mọi quyền lực thuộc về nhân dân,

xem dân chủ như là bảo bối để đem lại tự do, hạnh phúc, cơm ăn, áo mặc cho người

dân, đem lại sự phát triển phồn vinh và ổn định cho đất nước… đã được định hình

và thể hiện rõ nét nhất trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh không dùng những lý luận cao xa để diễn giải về dân chủ nhưng

vẫn có thể thấy sự nhất quán và có hệ thống qua các bài nói và viết của Người về địa

vị và quyền làm chủ của nhân dân. Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, trong khái

niệm về dân chủ, vấn đề nhất quán và sáng tỏ nhất là sự khẳng định “bao nhiêu lợi

ích đều vì dân”,“quyền hành”, “trách nhiệm, lực lượng” là “của dân”, “đều ở nơi

dân”. Hồ Chí Minh đã nêu một mệnh đề cô đọng, súc tích: “Chế độ ta là chế độ dân

chủ, tức là nhân dân là người chủ”. Trong mệnh đề này chứa đựng đầy đủ nội dung

dân chủ là của con người, do con người và vì con người. Con người là chủ thể của

nền dân chủ và nền dân chủ với tư cách như một thể chế chính trị phải lấy con người

làm nhân tố chủ đạo, phải đặt con người ở vị trí trung tâm trong các chính sách phát

triển của mình. Nền dân chủ mà Người đã dành cả cuộc đời đấu tranh để giành lấy và

vun đắp cho nhân dân là một nền dân chủ hiện thực từ những biểu hiện nhỏ nhất, gần

gũi với con người nhất, sát sườn nhất với lợi ích của người dân.

Trong khi khẳng định dân chủ là thành quả to lớn mà cách mạng đem lại cho

mỗi người dân, Hồ Chí Minh cũng luôn đề cập đến trách nhiệm của mỗi người dân

72

trong việc xây dựng nền dân chủ. “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa

vụ làm tròn bổn phận công dân”. Bổn phận công dân được nhắc đến ở đây là bổn

phận công dân của một thể chế dân chủ nhân dân, bổn phận công dân trong một xã

hội do nhân dân làm chủ.

Khi chỉ ra những yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể đối với từng đối tượng là những

giai cấp, thành phần xã hội khác nhau để thực hành dân chủ một cách thiết thực và

hiệu quả, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến quyền dân chủ theo từng địa vị xã hội của

họ. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi sự phấn đấu của mọi người để đạt đến một nền dân

chủ thực sự, hiện hữu trong thực tiễn. Người thường nhắc đến vai trò “người chủ

đất nước” của mọi người dân trong các ngành, các giới. Hồ Chí Minh cũng thường

xuyên chú trọng tạo dựng một môi trường dân chủ để dân dám “mở miệng”. Người

chủ trương: “Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết”…

đồng thời Người thường xuyên và kiên quyết chống lại những biểu hiện mất dân

chủ, xâm phạm tới quyền dân chủ của nhân dân: quan liêu, tham ô, lãng phí, chuyên

quyền độc đoán, xa dân...

Đảng ta ngay từ khi ra đời đã khẳng định Đảng không có lợi ích nào khác

ngoài đem lại lợi ích cho nhân dân. Dân chủ là động lực và mục tiêu phấn đấu

của Đảng. Trung thành với tư tưởng dân chủ do Hồ Chí Minh khởi xướng, trong

cương lĩnh đường lối, chủ trương, chính sách của mình, Đảng ta luôn nhận thức

rằng: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và nhân dân là chủ thể tối cao của

quyền lực nhà nước. Mặc dầu vậy, trong hoàn cảnh đặc thù của thời kỳ tiến hành

hai cuộc chiến tranh giữ nước và thực hiện cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, quan

điểm về dân chủ và dân chủ cơ sở của Đảng ta đã không được hiện thực hóa đầy đủ

do thiếu các điều kiện cần thiết.

Trong quá trình đổi mới đất nước, các nghị quyết Đại hội VI, VII, VIII, IX,

X, XI, XII của Đảng ngày càng nhất quán khẳng định quan điểm về việc xây dựng

chế độ dân chủ XHCN và đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Cương lĩnh xây

dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991) cũng đã chỉ ra tiêu chí,

mô hình nền dân chủ XHCN. Mô hình này rõ nét hơn trong Cương lĩnh xây dựng

đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung phát triển năm 2011): "xã hội xã

hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân

chủ, công bằng, văn minh" do nhân dân làm chủ" [38, tr.70].

73

Bước tiến quan trọng trong việc nhận thức về dân chủ của Đảng ta thể hiện

qua những luận điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, Đảng ta đã thẳng thắn thừa nhận những thiếu sót, sai lầm trong

việc thực hành dân chủ như: Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý:

chưa được thể chế hóa thành cơ chế; việc lựa chọn, bố trí cán bộ: chưa chú ý lắng

nghe ý kiến của quần chúng; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ; về mặt tổ chức:

đã để cho bộ máy nhà nước, bộ máy của Đảng và các đoàn thể phình ra quá lớn; bộ

máy cồng kềnh, phong cách quan liêu, vi phạm dân chủ, thậm chí vi phạm nghiêm

trọng quyền làm chủ của nhân dân, v.v..

Thứ hai, Đảng ta đã chỉ ra nguyên nhân dẫn đến những thiếu sót sai lầm đó

là: công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng

được yêu cầu của việc thực hành dân chủ; nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của

công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu thống nhất; sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng,

quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực và một số vấn đề lớn chưa tập

trung, kiên quyết dứt điểm; tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu; năng lực, phẩm chất

của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn bất cập…

Thứ ba, trên cơ sở nhận ra những thiếu sót, sai lầm và tìm ra nguyên nhân

dẫn đến những thiếu sót, sai lầm đó, Đảng ta đã đề ra những chủ trương đúng đắn

về dân chủ, biểu hiện như sau:

1) Lấy dân làm gốc, tập trung và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Đảng ta nhấn mạnh rằng: Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước

ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã

hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Mỗi chủ trương, chính sách

phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng của nhân dân. Đổi mới phải dựa vào nhân

dân, vì lợi ích của nhân dân.

2) Đảng ta coi dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất

nước, là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu và động lực của công

cuộc đổi mới. Đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa là do nhân dân làm chủ. Mục

tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ.

3) Thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và xây dựng cơ chế cụ

thể để thực hiện phương châm đó. Bảo đảm dân chủ trong quá trình ra quyết định

74

và thực hiện các quyết định, phải thảo luận dân chủ. Thực hành dân chủ, giám sát

và phản biện xã hội.

4) Quyền làm chủ của nhân dân cần được thể chế hóa bằng pháp luật và tổ

chức. Dân chủ đi đôi với kỷ luật. Quản lý đất nước bằng pháp luật, chứ không phải

chỉ bằng đạo lý. Phải xây dựng pháp luật về Đảng. Dân chủ phải gắn với công bằng

xã hội. Dân chủ phải đi đôi kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được

pháp luật bảo đảm. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ

quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp; quyền con người và tự do cá nhân được đảm

bảo bằng pháp luật. Phát huy dân chủ đi liền với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng

cường pháp chế.

5) Nhân dân làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng

hướng dẫn, vừa thực hiện dân chủ trực tiếp, vừa thực hiện dân chủ đại diện.

6) Thực hiện quy chế dân chủ trong nghiên cứu và sáng tạo khoa học. Bảo

đảm tự do, dân chủ cho mọi sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ thuật. Thực hiện quy

chế dân chủ ở cơ sở và ban hành pháp lệnh dân chủ cơ sở; v.v…

7) Phải thực hành dân chủ trong Đảng. Đảng phải đặc biệt chăm lo, củng cố

sự liên hệ giữa Đảng và nhân dân, khắc phục chủ nghĩa quan liêu, phải thực hiện

nguyên tắc tập trung dân chủ. Các cơ quan nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm

những quyền công dân. Diệt trừ các tệ hối lộ, cửa quyền, loại bỏ và nghiêm trị

những phần tử đục khoét nhân dân. Dựa vào nhân dân để phát hiện và xử lý kịp

thời những vụ vi phạm quyền công dân. Việc bài trừ những hành động phạm pháp

chỉ thực hiện có hiệu quả nếu thật sự dựa vào sự kiểm tra, giám sát của quần

chúng. Phải kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi. Nhà

nước phải liên hệ với nhân dân. Phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi

mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân

dân; cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước và xây dựng Nhà

nước pháp quyền.

Có thể nhận xét rằng các luận điểm của Đảng ta về dân chủ được trình bày ở

nhiều văn kiện khác nhau nhưng thể hiện tính nhất quán cao; các luận điểm bổ sung

cho nhau và tạo thành một hệ thống khá đầy đủ, chặt chẽ, từ dân chủ trong kinh tế

đến dân chủ trong chính trị; từ dân chủ trong Đảng đến dân chủ trong xã hội; từ dân

75

chủ trong các hoạt động của Đảng đến dân chủ trong các quan hệ của Đảng; từ dân

chủ trong Nhà nước đến dân chủ trong Mặt trận và các đoàn thể quần chúng; từ dân

chủ trong nghiên cứu và sáng tạo khoa học đến dân chủ trong sáng tạo văn hóa, văn

học, nghệ thuật; từ việc xây dựng quy chế dân chủ cơ sở đến việc chống lại mọi

biểu hiện của tệ hối lộ, cửa quyền, quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, v.v..

Trong bối cảnh phát huy dân chủ nói trên, dân chủ cơ sở không phải là vấn

đề mới mẻ ở nước ta. Về cơ bản, có thể nhận diện bước phát triển trong nhận thức,

tư duy của Đảng ta về dân chủ cơ sở như sau:

Đảng ta nhận thức rất rõ rằng, cấp cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ

trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền

dân chủ của nhân dân một cách rộng rãi và trực tiếp nhất. Do đó khâu quan trọng và

cấp bách trước mắt trong quá trình dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội là thực

hiện quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Theo đó, ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị

khóa VIII đã ban hành chỉ thị 30/CT-TW về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.

Đây được coi là bước đột phá trong sự chỉ đạo của Đảng nhằm mở rộng và phát huy

dân chủ trực tiếp ở cơ sở.

Thể chế hóa sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị định về ban

hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (Nghị định 29/1998/NĐ-CP), Nghị định về ban

hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan (Nghị định

71/1998/NĐ-CP), Nghị định về ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp

nhà nước (Nghị định 07/1999/NĐ-CP). Quá trình thực hiện các Quy chế này đã thu

được những kết quả đáng kể trong thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội ở cấp cơ sở.

Chỉ thị số 10/CT-TW ngày 28-3-2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng

khóa IX đã nêu rõ những giải pháp nhằm phát huy những kết quả đã đạt được

đồng thời khắc phục những hạn chế trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở.

Cụ thể là:

- Tiếp tục tuyên truyền, giáo dục sâu rộng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân

những quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị và những nội dung cơ bản của quy chế

dân chủ ở ba loại hình cơ sở.

- Đưa công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ với thực hiện

chức năng nhiệm vụ được giao và trách nhiệm của từng cá nhân, nhất là những

76

người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, mặt trận và các đoàn thể cần phát huy tốt vai

trò của mình trong việc vận động nhân dân thực hiện và giám sát việc thực hiện quy

chế dân chủ ở cơ sở.

- Cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng gương mẫu thực hiện dân chủ, đưa việc

thực hiện dân chủ ở cơ sở thành một tiêu chuẩn để xem xét đánh giá đảng viên đủ tư

cách, đơn vị tiên tiến, xuất sắc, chi bộ, đảng bộ trong sạch vững mạnh. Đồng thời

thực hiện tốt chế độ lấy ý kiến nhân dân trước khi ban hành các chủ trương chính

sách, quan trọng liên quan đến đời sống nhân dân ở cơ sở.

Nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò của nhân dân trong việc tham gia quản

lý nhà nước và xã hội, nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng

đã chỉ rõ: "Cần thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở,

tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những

vấn đề quan trọng" [30, tr.134].

Sự phát triển trong nhận thức của Đảng đã dẫn tới việc Uỷ Ban Thường vụ

Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 về thực

hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn - kết quả thể chế hóa quan điểm của Đảng và

tổng kết thực tiễn xây dựng và thực thi dân chủ tại cơ sở.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định:

Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ của công dân, năng lực làm chủ,

tham gia quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân

thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Thực hiện tốt hơn quy

chế dân chủ ở cơ sở và pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở xã, phường,

thị trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ

cương xã hội [38, tr.239].

Tóm lại, mặc dù có những thăng trầm nhất định trong quá trình nhận thức và

thực thi các nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở nhưng tư duy, nhận thức của Đảng

cộng sản Việt Nam về dân chủ và dân chủ cơ sở ngày càng được đổi mới theo chiều

hướng hoàn thiện. Đảng ta đã thường xuyên và kịp thời đề ra những chủ trương

quan trọng nhằm mở rộng và phát huy dân chủ cơ sở, làm cho việc thực hiện dân

chủ cơ sở ngày càng thực chất và sâu sắc.

77

3.1.2. Nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay

Quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở

nước ta thể hiện trước hết ở việc ghi nhận ngày càng đầy đủ và rõ ràng các nguyên

tắc thực hiện dân chủ nói chung, thực hiện dân chủ ở cơ sở nói riêng trong Hiến

pháp và pháp luật Việt Nam.

Nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam bao gồm hai nhóm nguyên

tắc chính: 1/ nhóm nguyên tắc xây dựng và thực hiện các quyền dân chủ của người

dân tại cơ sở; 2/ nhóm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các thiết chế đảm bảo

thực hành dân chủ của người dân tại cơ sở.

Thứ nhất, liên quan đến việc xây dựng và thực hiện các quyền dân chủ của

người dân tại cơ sở, ngay tại Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 về xây dựng và

thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã chỉ rõ những quan điểm chỉ đạo sau:

- Đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế tổng

thể của hệ thống chính trị "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm

chủ". Coi trọng cả ba mặt nói trên, không vì nhấn một mặt mà coi nhẹ, hạ thấp

các mặt khác.

- Vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu

lực hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân

các cấp, vừa thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để nhân dân bàn

bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng thiết thực, gắn liền với

lợi ích của mình.

- Phát huy dân chủ phải gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao

dân trí, tạo điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả.

- Nội dung các quy chế phát huy dân chủ ở cơ sở phải phù hợp với Hiến

pháp, pháp luật, rõ tinh thần dân chủ đi đôi với kỷ cương, trật tự; quyền hạn gắn với

trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ; chống quan liêu, mệnh lệnh, đồng thời

chống tình trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ vi phạm pháp luật.

- Gắn quá trình xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ với công tác cải cách

hành chính, sửa đổi những cơ chế, chính sách về thủ tục hành chính không phù hợp.

Trên tinh thần quán triệt các quan điểm chỉ đạo trên, Nghị định số 29/1998/

NĐ-CP ngày 11 tháng 5 năm 1998 về ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đã

78

xác định rõ ở phần Những quy định chung (Chương I) về một số nội dung có tính

nguyên tắc sau:

Điều 2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân gắn liền với cơ chế "Đảng

lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ"; phát huy tốt chế độ dân

chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của Hội đồng

nhân dân và Uỷ ban nhân dân, thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cơ

sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan

trọng, thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình.

Điều 3. Dân chủ trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật; quyền đi

đôi với nghĩa vụ; dân chủ đi đôi với trật tự, kỷ cương; kiên quyết xử lý

những hành vi lợi dụng dân chủ vi phạm Hiến pháp, pháp luật, xâm

phạm quyền tự do, dân chủ của nhân dân.

Pháp lệnh thực hiện dân chủ tại xã, phường, thị trấn số 34/2007/

UBTVQH11 ngày 20/04/2005 đã chính thức ghi nhận tại điều 2 về 05 nguyên tắc

thực hiện dân chủ ở cấp xã:

1) Bảo đảm trật tự, kỷ cương, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

2) Bảo đảm quyền của nhân dân được biết, tham gia ý kiến, quyết định,

thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.

3) Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,

cá nhân.

4) Công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp xã.

5) Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

Quá trình thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ tại xã, phường, thị trấn cho

thấy các nguyên tắc được xác định đã cơ bản phù hợp với nhu cầu vận hành có hiệu

quả cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở. Tuy nhiên, cần cụ thể và phát huy một

cách thực chất các quyền hiến định của người dân, đồng thời cần tăng cường tính

gắn kết giữa các thành tố của cơ chế. Vì vậy, tại Kết luận số 65-KL/TW của Ban Bí

thư ngày 04/02/2010 về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30/CT/TW của Bộ Chính

trị (Khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở đã tiếp tục đưa ra

các yêu cầu mang tính nguyên tắc cho việc triển khai cơ chế pháp lý thực hiện dân

chủ cơ sở ở nước ta, bao gồm:

79

1) Tiếp tục quán triệt, không ngừng nâng cao nhận thức; xác định rõ trách

nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể chính trị-

xã hội; của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân

dân về những quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về

phát huy quyền làm chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở.

2) Tăng cường việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về dân

chủ xã hội chủ nghĩa trong các quy định của pháp luật, chính sách cụ thể.

Tổng kết, rà soát, bổ sung các văn bản đã ban hành; sớm nghiên cứu, ban

hành pháp lệnh về xây dựng và thực hiện dân chủ cho các loại hình

doanh nghiệp. Các cơ sở, các loại hình cần rà soát, bổ sung, xây dựng

quy chế thực hiện dân chủ (xây dựng thành quy định, nguyên tắc, quy

trình thực hiện dân chủ) trong các lĩnh vực hoạt động cụ thể của địa

phương, đơn vị mình, nhất là các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến

quyền và lợi ích của nhân dân.

3) Gắn việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở với việc thực hiện nhiệm vụ

chính trị; cải cách hành chính; cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh"; các phong trào thi đua yêu nước nhằm

tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thúc đẩy phát triển kinh

tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần của nhân dân.

4) Nâng cao trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính tri, phát huy cao

vai trò làm chủ của nhân dân trong phòng, chống quan liêu, tham nhũng,

lãng phí, các tệ nạn, tiêu cực ở cơ sở; chủ động đấu tranh làm thất bại mọi

âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch kích động, chống đối, chia rẽ

khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị, trật tự xã hội.

5) Phát huy vai trò của ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ

ở cơ sở, các cấp, các ngành trong việc hướng dẫn, đôn đốc, tham mưu

cho cấp ủy kiểm tra, chỉ đạo thường xuyên; đẩy mạnh công tác nghiên

cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn; coi trọng công tác tập huấn, bồi dưỡng,

giáo dục, rèn luyện cán bộ, công chức về ý thức, trách nhiệm, phong

cách, năng lực thực hiện dân chủ ở cơ sở và dân chủ với nhân dân.

80

6) Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng; trách nhiệm của chính

quyền, của người đứng đầu về thực hiện quy chế dân chủ; tiếp tục chỉ

đạo cụ thể hóa phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"

ở cơ sở. Phát huy vai trò của mặt trận, các đoàn thể nhân dân trong việc

tuyên truyền và giám sát việc thực hiện; vận động nhân dân nâng cao ý

thức chấp hành pháp luật cơ sở.

Thứ hai, liên quan đến tổ chức và hoạt động của các thiết chế đảm bảo thực

hành dân chủ của người dân tại cơ sở, các nguyên tắc chỉ đạo là những nguyên tắc

tổ chức và hoạt động của Hệ thống chính trị cơ sở.

Trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị (HTCT) ở cơ sở, Đảng ta có nhiều

chỉ đạo cụ thể. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta nhấn mạnh: “Đẩy

mạnh hoạt động cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ,

tăng cường pháp chế… Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, coi trọng cả năng lực

và đạo đức, bồi dưỡng, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức danh,

tiêu chuẩn. Tăng cường cán bộ cho cơ sở” [30, tr.35]. Để thực hiện chủ trương trên

đòi hỏi phải thực hiện nhiều nội dung quan trọng, trong đó có việc xây dựng HTCT

cơ sở, từng bước hoàn thiện bộ máy nhà nước, nâng cao năng lực quản lý của đội

ngũ cán bộ cấp cơ sở, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn

hiện nay, bởi HTCT cơ sở là bộ phận quan trọng trong cấu trúc HTCT ở nước ta, là

nơi tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối chính sách của Đảng, Pháp

luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của

dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của mọi

cộng đồng dân cư.

Dấu ấn quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về đổi mới HTCT cơ sở thể

hiện trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ V của Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khoá IX (tháng 3 năm 2002). Hội nghị chỉ rõ:

... hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn có nhiều mặt yếu kém, bất cập

trong công tác lãnh đạo, quản lý tổ chức thực hiện và vận động quần

chúng. Tình trạng tham những, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi

phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ đúng kỷ cương phép nước

xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ

81

của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch,

trách nhiệm không rõ ràng; nội dung và phương thức chậm đổi mới, còn

nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ

cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở còn

chắp vá [32, tr.45].

Hội nghị tiếp tục khẳng định các yêu cầu, nhiệm vụ và chủ trương tăng

cường đường lối “Đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường thị trấn” đây là

khâu quan trọng nhằm tạo ra cho HTCT cơ sở một sức mạnh và những khả năng

mới trong việc hoàn thành nhiệm vụ, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của

Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện một cách rõ ràng và đầy

đủ ở cơ sở.

Tinh thần nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X (tháng

9 năm 2006) đặc biệt coi trọng đổi mới HTCT ở cơ sở. Đây cũng là thể hiện nhận

thức mới của Đảng về đổi mới hệ thống chính trị. Những nguyên tắc, yêu cầu, nội

dung, phương thức đổi mới hệ thống chính trị cấp vĩ mô chi phối quá trình đổi mới

HTCT cấp cơ sở và sự đổi mới HTCT cấp cơ sở có tác động tích cực trở lại HTCT

nói chung.

Tổng kết quá trình đổi mới HTCT nói chung và HTCT cơ sở nói riêng trong

thời gian qua, trên cơ sở nhận diện rõ những thành công và hạn chế, tại Hội nghị

Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khóa XI) diễn ra từ ngày 02/5 đến ngày

11/5/2013, Đảng ta đã thảo luận và cho ý kiến kết luận về đề án "Tiếp tục đổi mới,

hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở".

Trên tinh thần đó, tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong HTCT cơ sở

trong giai đoạn hiện nay bám sát, cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm của Cương

lĩnh, Điều lệ Đảng, Văn kiện Đại hội XI của Đảng, đồng bộ với nội dung Hiến pháp

năm 2013, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước

trong thời kỳ mới; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý

của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trên những nét chính, tổ

chức và hoạt động của các thiết chế trong HTCT cơ sở phải đảm bảo các nguyên

tắc: 1/ đảm bảo tính nhất nguyên chính trị của HTCT; 2/ đảm bảo tính thống nhất

của HTCT; 3/ đảm bảo HTCT gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của

82

nhân dân; 4/ đảm bảo phương thức vận hành của HTCT” Đảng lãnh đạo, Nhà nước

quản lý, Nhân dân làm chủ; 5/ đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các

thiết chế trong HTCT.

Trong giai đoạn hiện nay, nền tảng của nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở ở

Việt Nam hiện nay là các nguyên tắc hiến định về dân chủ được ghi nhận trong

Hiến pháp năm 2013.

Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm

chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người,

quyền công dân” (Điều 3); “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ

trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND)

và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6); “Ở Nước Cộng hòa XHCN

Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn

hóa xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp

luật…” (Điều 14); và “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận

thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy

định” (Điều 25); “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham

gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa

phương và cả nước” (Điều 28); “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan,

tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ

chức, cá nhân” (Điều 30) v.v..

Cùng với việc tái khẳng định và chính xác hóa các quy định về trưng cầu ý dân,

bầu cử, bãi miễn đại biểu dân cử và quyền tham gia quản lý nhà nước, xã hội của

người dân như đã nêu trong các Hiến pháp năm 1980, năm 1992, Hiến pháp năm

2013 cũng tái quy định quyền cho ý kiến về Dự thảo Hiến pháp của nhân dân (Điều

120, khoản 3). Điều này đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1946. Đồng thời Hiến

pháp 2013 cũng ấn định trách nhiệm của Nhà nước phải: “…tạo điều kiện để công

dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp

nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Điều 28, khoản 2). Những quy định

mới này cho thấy xu hướng củng cố nền tảng hiến định cho việc đẩy mạnh dân chủ

ở Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về hoàn thiện khuôn khổ luật

pháp để thực thi trong thực tế.

83

Theo Điều 6 Hiến pháp năm 2013, “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước

bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông

qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Việc bổ sung dân chủ trực tiếp bên cạnh việc

thực hiện dân chủ đại diện (hay còn gọi là dân chủ gián tiếp) và thể hiện chính xác

hơn tư duy về các thiết chế thực thi dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là một

nhận thức mới phù hợp với quy luật phát triển của xã hội gắn với việc xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN của nước ta hiện nay.

Liên quan trực tiếp đến các phương thức thực hiện dân chủ tại cơ sở, mặc dù

Hiến pháp năm 2013 không đề cập một cách cụ thể và chi tiết nhưng có nhiều quy

định thể hiện tinh thần mới và tiến bộ về vấn đề này, ví dụ như: “Nhân dân thực

hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua

Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6) và “Nhà

nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai,

minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”. Đây là

các nguyên tắc tiến bộ, định hướng cho việc cụ thể hóa các nguyên tắc xây dựng và

thực hiện các quyền dân chủ của người dân tại cơ sở và các nguyên tắc tổ chức và

hoạt động của các thiết chế đảm bảo thực hành dân chủ của người dân tại cơ sở.

3.2. THỰC TRẠNG THỂ CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ

3.2.1. Quá trình xây dựng thể chế thực hiện dân chủ cơ sở

Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30/CT-TW về việc xây dựng

và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị này được ban hành trong bối cảnh

“quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ

quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn

đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta vẫn chưa đẩy lùi, ngăn chặn được.

Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chưa được cụ thể hóa và

thể chế hóa thành luật pháp, chậm đi vào cuộc sống” [7].

Thể chế hóa nội dung Chỉ thị 30/CT-TW, Ủy Ban Thường vụ Quốc hội đã

ban hành Nghị quyết số 45-1998/NQ-UBTVQH10 ngày 26/2/1998 về việc ban

hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (Nghị quyết số 45). Nghị

quyết này khẳng định lại phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”,

lấy đó làm cơ sở để “giao Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã,

84

phường, thị trấn”. Theo Nghị quyết, Quy chế này phải đảm bảo tăng cường sự tham

gia của nhân dân (lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, những vấn đề được đưa ra để

nhân dân thảo luận và quyết định, nhân dân giám sát và kiểm tra); quyền tiếp cận

thông tin của nhân dân và trách nhiệm giải trình của cơ quan chính quyền địa

phương (báo cáo các quyết định để nhân dân biết và thực hiện, báo cáo thu chi ngân

sách và quyết toán, tiếp dân và báo cáo kết quả giải quyết…).

Sau khi Nghị quyết số 45 được thông qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định

số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở

xã (Nghị định số 29). Với sự ra đời của Quy chế, lần đầu tiên trong lịch sử xây dựng

pháp luật, Nhà nước ta đã tạo ra một công cụ pháp lý về thực hiện dân chủ, trao cho

các tầng lớp nhân dân ở cơ sở những quyền dân chủ thực sự, bao gồm: quyền được

biết các nội dung liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân ở cơ sở;

quyền được bàn và quyết định trực tiếp, bàn và biểu quyết để cấp có thẩm quyền

quyết định đối với những vấn đề quan trọng của địa phương; quyền được tham gia ý

kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; quyền giám sát đối với tất cả các

nội dung mà nhân dân được công khai để biết, được bàn và quyết định trực tiếp,

được bàn và biểu quyết, được tham gia ý kiến.

Sau 5 năm thực hiện Nghị định số 29, căn cứ vào Nghị quyết số 17/NQ-TW

ngày 18/3/2002 Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về

đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn và Chỉ

thị số 10-CT/TW ngày 28/03/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy

mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Chính phủ đã ban hành

Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003),

thay thế cho Nghị định số 29. Về cơ bản, Nghị định số 79 vẫn giữ nguyên những

nội dung cốt lõi về các quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở, chỉ có một số sửa đổi,

bổ sung cho phù hợp, đi vào thực chất hơn, cụ thể hơn theo hướng tăng cường vai

trò, trách nhiệm của bộ máy chính quyền cấp xã trong việc thực hiện Quy chế thực

hiện dân chủ ở xã.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định: Phát huy dân chủ là

vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với tiến trình phát triển nước ta. Do đó, cần có một

văn bản pháp luật cao hơn Nghị định để điều chỉnh vấn đề thực hiện dân chủ xã,

85

phường, thị trấn. Năm 2007, Ủy Ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh

thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn thay cho Nghị định 79.

Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 gồm 6 chương,

28 điều, là văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất từ trước đến nay điều chỉnh toàn

diện về việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, trong đó quy định các vấn đề cơ bản như

nguyên tắc thực hiện dân chủ ở cấp xã, trách nhiệm tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp

xã, các hành vi bị nghiêm cấm, những nội dung công khai để nhân dân biết và hình

thức công khai, những nội dung nhân dân bàn và quyết định, những nội dung nhân

dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và những nội dung

nhân dân giám sát.

Trên tinh thần của Pháp lệnh, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam và các cơ quan hữu quan đã ban hành nhiều nghị định, quyết định

và thông tư liên quan hướng dẫn về việc thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Sau 12 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII),

ngày 04/3/2010, Ban Bí thư đã ban hành Kết luận số 65-KL/TW về tiếp tục thực

hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân

chủ cơ sở. Gần đây nhất, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày

3/6/2013 về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận

trong tình hình mới liên quan đến nhiều nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Trong thời gian gần đây, nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động

của các thiết chế bảo đảm quyền làm chủ, quyền tự quyết của nhân dân được quy

định trong các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn như: Hiến

pháp, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu HĐND, Luật Tổ chức

HĐND và Ủy ban nhân dân (UBND), Luật Đất đai, Luật Mặt trận Tổ quốc

(MTTQ) Việt Nam, Luật Hòa giải cơ sở, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật CBCC,

Luật Thanh tra, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống

lãng phí… Đặc biệt bản Hiến pháp năm 2013 đã đánh dấu một bước tiến mới trong

lịch sử lập hiến nước ta về đề cao quyền lực của nhân dân và quyền làm chủ của

nhân dân. Hiến pháp đã xác định phương thức cụ thể để nhân dân thực hiện quyền

lực của mình đối với xã hội và nguyên tắc nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước;

quy định cụ thể việc nhân dân bầu ra người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của

mình làm đại biểu Quốc hội; đề cao quyền con người, quyền công dân.

86

Những văn bản pháp luật này đã góp phần thể chế hoá quyền làm chủ của

nhân dân trên các lĩnh vực đời sống xã hội diễn ra ở cơ sở. Song nền tảng để thực

hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã vẫn là Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn năm 2007. Đây là bộ phận quan trọng của pháp luật về dân chủ cơ

sở của nước ta.

3.2.2. Ưu điểm và hạn chế của thể chế thực hiện dân chủ cơ sở

Trong phạm vi được giới hạn về phạm trù cơ sở, có thể đưa ra những đánh

giá tập trung về nội dung ghi nhận quyền của người dân trong Pháp lệnh năm 2007

và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như tác động thực tế của nó.

Về ưu điểm:

Thứ nhất, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 là văn

bản pháp luật có hiệu lực cao nhất từ trước đến nay điều chỉnh toàn diện về việc

thực hiện dân chủ ở cơ sở, trong đó có nhiều tiến bộ so với Quy chế thực hiện dân

chủ ở xã trước đây, thể hiện:

- Pháp lệnh năm 2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành là sự thể chế tương

đối đầy đủ 04 nhóm quyền của người dân trong việc thực hiện dân chủ cơ sở: quyền

của người dân bàn và trực tiếp quyết định; quyền của người dân bàn, biểu quyết để

cấp có thẩm quyền quyết định; quyền của người dân tham gia ý kiến trước khi cơ

quan có thẩm quyền quyết định; quyền giám sát của người dân việc thực hiện quyền

lực nhân dân tại cơ sở. Pháp lệnh quy định chi tiết và cụ thể hơn nhiều về các hình

thức thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng như vai trò, trách nhiệm của các cơ quan và cá

nhân trong hệ thống cơ quan chính quyền cấp xã.

- Pháp lệnh tập trung nhiều hơn vào những nội dung quan trọng, thiết thực

đối với người dân ở cơ sở, không còn những nội dung như Nghị quyết của HĐND

xã, sơ kết, tổng kết hoạt động của HĐND, UBND xã.

- Pháp lệnh quy định rõ ràng, cụ thể về thực thi của những quyết định, biểu

quyết của người dân - điều không có trong Quy chế thực hiện dân chủ ở xã năm

1998 và Quy chế thực hiện dân chủ ở xã năm 2003.

- Điểm nhấn rất đáng lưu ý là Pháp lệnh năm 2007 đã chỉ ra vai trò, nhiệm vụ

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị, xã hội trong tình hình mới,

đó là nâng cao trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành

87

viên trong việc giám sát và phản biện xã hội, nhất là giám sát hoạt động của chính

quyền cơ sở, bảo đảm quyền tự do dân chủ của người dân ngay từ cơ sở.

Như vậy, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là một công cụ

pháp lý mạnh để đảm bảo tính dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động của

bộ máy chính quyền cơ sở, phát huy các quyền dân chủ của nhân dân, thúc đẩy sự

tham gia chủ động, tích cực hơn của người dân vào đời sống chính trị - xã hội ở cơ

sở, bảo vệ các quyền con người.

Thứ hai, việc thực thi Pháp lệnh năm 2007 và các văn bản hướng dẫn thi

hành đã có tác động tích cực và toàn diện lên đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã

hội ở tất cả các địa phương trong cả nước. Kết quả số liệu khảo sát cho thấy, ở các

tiêu chí cơ bản của đời sống xã hội đã nhận được sự đánh giá về chất lượng tăng

lên. Đặc biệt, quá trình triển khai thi hành pháp lệnh đã làm chuyển biến đáng kể

nhận thức của người dân về dân chủ cũng như tác động theo chiều hướng tích cực

đến ý thức, trách nhiệm và năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ chính

quyền cơ sở.

Về hạn chế, bất cập:

Bên cạnh những ưu điểm, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn

và các văn bản có liên quan cũng đang bộc lộ những bất cập, hạn chế nhất định. Cụ

thể như sau:

- Tuy quy định nhiều nội dung hoạt động của chính quyền cấp xã phải được

công khai cho nhân dân, nhưng Pháp lệnh thiếu những quy định cụ thể, minh bạch

nên người dân không có khả năng tiếp cận đầy đủ thông tin để thực hiện quyền

năng của mình. Ví dụ: pháp luật chỉ quy định về nội dung, hình thức công khai mà

thiếu vắng quy định đảm bảo tính minh bạch trong việc công khai của chính quyền

cấp xã. Chính điều này đã dẫn đến tình trạng, nhiều địa phương thực hiện việc công

khai một cách “chiếu lệ” (tuy vẫn đúng nội dung cần công khai, đúng địa điểm phải

công khai nhưng người dân vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp thu tất cả nội dung văn

bản được công khai, như việc dán thông báo có nhiều trang trên bảng thông báo có

lưới bảo vệ...).

- Chưa xác định đúng tính chất của một số việc nhân dân bàn, biểu quyết để

cấp có thẩm quyền quyết định với những việc nhân dân tham gia ý kiến trước khi

88

cấp có thẩm quyền quyết định. Ví dụ: qua quá trình thăm dò ý kiến tại một số cuộc

tọa đàm khoa học, có nhiều ý kiến đề xuất chuyển một số nội dung của Điều 19

Pháp lệnh năm 2007 (những nội dung nhân dân tham gia ý kiến) lên thành nội dung

nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định, đó là: việc quản lý, sử

dụng quỹ đất của cấp xã; chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt

bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, tái định cư; phương án quy hoạch khu dân cư; kế

hoạch sử dụng các khoản đóng góp của người dân... Trên thực tế, đây cũng là

những nội dung có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người dân, thường xảy ra

nhiều vi phạm pháp luật, tham nhũng do thiếu cơ chế giám sát trong nội bộ bộ máy

nhà nước cũng như sự giám sát của nhân dân. Do vậy, những nội dung này cần

được người dân bàn, biểu quyết làm cơ sở cho chính quyền quyết định chứ không

phải chỉ có giá trị để chính quyền tham khảo...

- Pháp lệnh chưa quy định thẩm quyền, chức năng của các cơ quan cao hơn

trong việc theo dõi, kiểm tra và đánh giá việc chính quyền cấp xã triển khai thực

hiện dân chủ ở cơ sở như thế nào, có đúng quy định pháp luật không,

- Pháp lệnh chưa đề cập sự giám sát độc lập việc thực hiện dân chủ ở cơ sở

bởi các tổ chức xã hội dân sự khác ngoài MTTQ. Hạn chế này có thể làm phát sinh

tình trạng dung túng, bao che lẫn nhau giữa các cơ quan, tổ chức đó mà không bị

phát hiện, xử lý kịp thời.

- Pháp lệnh không đề cập tính chịu trách nhiệm của các chủ thể cụ thể liên

quan đến hệ quả của việc tuân thủ hoặc không tuân thủ pháp luật về thực hiện dân

chủ cơ sở; chưa quy định các biện pháp cụ thể có thể áp dụng để xử lý các vi phạm

pháp luật liên quan đến công tác thực hiện dân chủ ở cấp xã. Đây cũng là nguyên

nhân dẫn đến việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về thực hiện

dân chủ cơ sở còn chậm trễ, bị động, chưa nghiêm minh và thiếu sự răn đe cần thiết.

- Nguồn kinh phí chi cho hoạt động thực hiện dân chủ cơ sở vẫn chưa được

quan tâm đúng mức, chưa được đề cập cụ thể trong Pháp lệnh. Trong khi đó, nếu

điều kiện kinh tế không cho phép, nguồn chi ngân sách nhà nước cho công tác

thực hiện pháp luật, gồm cả thực hiện dân chủ cơ sở, còn khó khăn, eo hẹp hoặc

không được cấp thì hoạt động thực hiện dân chủ cơ sở khó mà đạt được kết quả

như mong muốn.

89

- Pháp lệnh cũng chưa đề cập việc nâng cao nhận thức, tập huấn các chuyên

đề pháp luật hoặc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ thực

thi pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân

phố - những chủ thể đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện có hiệu quả Pháp

lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, như Chủ tịch UBND xã, người đứng

đầu các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân v.v.. Nguồn nhân lực chất

lượng thấp sẽ là lực cản, trở ngại lớn đối với việc triển khai có hiệu quả hoạt động

thực hiện dân chủ cơ sở.

- Các văn bản hướng dẫn thi hành trên các lĩnh vực cụ thể (xây dựng công

trình công cộng, bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh cấp xã, bầu trưởng thôn, thanh

tra nhân dân, giám sát đầu tư cộng đồng...) chưa phù hợp. Ví dụ trong lĩnh vực huy

động sự đóng góp của nhân dân: các quy định hiện hành thiếu tính linh động, chưa

giải quyết được khó khăn phát sinh trong thực tế (ảnh hưởng của đặc thù vùng miền

trong việc tổ chức họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình, cơ sở vật chất,...).

- Hương ước/ quy ước đang được xây dựng theo phong trào, không có cơ chế

giám sát thực hiện, ít có tác dụng thực tế trong điều chỉnh các quan hệ xã hội tại các

cộng đồng dân cư cơ sở, nhất là vùng đô thị và nông thôn đồng bằng; xu hướng luật

hóa hương ước đang diễn ra ngày càng phổ biến. Thông qua khảo sát có thể thấy,

phần lớn các hương ước/ quy ước hiện nay tại các vùng đồng bằng, đô thị đều rập

khuôn và không có sự đặc thù đáng kể. Các quan hệ xã hội được điều chỉnh trong các

hương ước/ quy ước phần lớn đã được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật, thậm

chí có quy định trái pháp luật. Giá trị điều chỉnh quan hệ xã hội của các hương ước tại

các khu vực đồng bằng, đô thị tương đối mờ nhạt và không tương xứng với chi phí,

nguồn lực của nhà nước, xã hội phải bỏ ra để xây dựng, ban hành và duy trì.

Những bất cập, hạn chế trong thể chế thực hiện dân chủ cơ sở là nguyên

nhân quan trọng dẫn đến công tác thực hiện dân chủ cơ sở trong những năm qua

gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc. Hệ lụy dễ nhận thấy là dân chủ cơ sở chưa

được phát huy, tình trạng vi phạm các quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở tương

đối phổ biến, ở nhiều nơi việc thực hiện dân chủ cơ sở còn mang tính hình thức,

quyền làm chủ của người dân bị xâm hại. Theo đó, mức độ suy giảm niềm tin của

nhân dân vào chế độ gia tăng, hiệu quả hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước

90

thấp, các điểm nóng chính trị - xã hội xuất hiện và có mức độ lan tỏa nhanh. Đây là

những vấn đề hết sức phức tạp cần phải được xử lý trong giai đoạn hiện nay.

3.3. THỰC TRẠNG THIẾT CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ

Thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở là hệ thống các cơ quan, tổ chức, cá nhân

tham gia vào quá trình hiện thực hóa các quyền của người dân tại cơ sở. Theo đó, hệ

thống này rất đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, đóng vai trò quan trọng là các bộ

phận cấu thành cơ bản của HTCT cơ sở bao gồm: tổ chức Đảng cơ sở, chính quyền

cơ sở và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại cơ sở.

3.3.1. Vai trò tích cực của các thiết chế trong thực hiện dân chủ cơ sở

Theo đánh giá chung được nêu trong Kết luận số 65-KL/TW của Ban Bí thư

ngày 04/3/2010, sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị

(khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở:

Cấp ủy, chính quyền, mặt trận, đoàn thể các cấp đã có nhiều biện pháp chỉ

đạo, triển khai sâu rộng, làm chuyển biến tích cực về nhận thức, quan điểm,

chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với việc xây dựng và

thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở… Dân chủ và thực hành dân chủ xã hội

chủ nghĩa ở nước ta, nhất là dân chủ trực tiếp của nhân dân tiếp tục được

coi trọng, tăng cường. Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã

góp phần đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản

lý, điều hành của Nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của

mặt trận, các đoàn thể nhân dân; phát huy tính tiền phong, gương mẫu,

chấn chỉnh phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức theo hướng

sát dân, trọng dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng

nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân; góp phần quan trọng

trong phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí;

tăng cường đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa

Đảng, Nhà nước với nhân dân; chống lại các âm mưu lợi dụng dân chủ, dân

tộc, tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc [7].

Các cấp uỷ đảng cơ sở đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt

động, tăng cường sự lãnh đạo toàn diện đối với mọi hoạt động của HTCT ở cơ sở.

Thường xuyên chăm lo công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tích cực chăm lo công

tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực lãnh đạo, tổ chức phân công, phân nhiệm

91

và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đổi mới phương pháp hội họp, đổi mới

cách ra nghị quyết. Hầu hết, các cấp uỷ cơ sở đã tiến hành ra soát, bổ sung và hoàn

thiện quy chế làm việc, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, của tập thể Ban Chấp

hành, Ban Thường vụ và trách nhiệm của từng cấp uỷ viên, phát huy tính tiên

phong gương mẫu của đảng viên trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao

gắn với “việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ chí Minh”.

Tính trên phạm vi cả nước, đã có 100% các huyện, thị xã, thành phố thành

lập Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng quy chế hoạt động; có

100% xã, phường, thị trấn bố trí đồng chí Bí thư, Phó Bí thư hoặc Ủy viên Thường

vụ kiêm Trưởng Ban chỉ đạo. Hệ thống tổ chức chi bộ Đảng và các đoàn thể được

sắp xếp lại theo mô hình thôn, buôn, làng, tổ dân phố, đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp

của chi bộ đối với các chi hội, chi đoàn với phương châm xây dựng Đảng, chính

quyền trong sạch vững mạnh, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tăng cường

triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở về dân biết, dân bàn, dân làm, dân

kiểm tra. Việc nắm bắt, tuân thủ pháp luật trong thực thi công vụ của cán bộ công

chức, nhất là cán bộ chủ chốt có chuyển biến tích cực, phong cách làm việc gần

dân, sát dân, hiểu được tâm tư, nguyện vọng của dân, tính minh bạch, công khai,

dân chủ đã được đề cao. Hoạt động của khối Dân vận, MTTQ và các đoàn thể ở cấp

xã đã tập trung vào việc tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân tăng cường,

củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, hăng hái tham gia phát triển sản xuất, xóa đói,

giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, thực hiện Quy chế dân chủ ở

cơ sở, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Chú

trọng đổi mới và đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng, đổi mới phương

thức hoạt động với nhiều hình thức phong phú...

Cấp chính quyền cơ sở đã đổi mới phong cách làm việc theo hướng gần dân,

sát dân hơn; tôn trọng, lắng nghe và chân thành tiếp thu ý kiến, nguyện vọng chính

đáng của nhân dân, chăm lo đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân; giải quyết

kịp thời những vướng mắc của nhân dân; đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành

chính theo cơ chế một cửa. Chính quyền cơ sở cũng như các cơ quan, tổ chức đã

gắn việc thực hiện dân chủ cơ sở với việc thực hiện các kế hoạch, chương trình phát

triển kinh tế, xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời

92

sống của người dân, người lao động. Bên cạnh đó chính quyền cơ sở cũng đã gắn

kết việc thực hiện dân chủ cơ sở với việc phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh

thần của người dân, người lao động.

Vai trò của MTTQ Việt Nam và mối quan hệ giữa chính quyền cơ sở với

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể được tăng cường; quyền và nghĩa vụ của công

dân được thực hiện tốt hơn; vai trò tự quản của cộng đồng dân cư ngày càng phát

huy hiệu quả và được khẳng định. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã đổi mới nội

dung và phương pháp hoạt động, thể hiện rõ trách nhiệm như: Trực tiếp sinh hoạt,

trao đổi và cùng với nhân dân tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở, động

viên đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia các cuộc vận

động, các phong trào thi đua yêu nước ở cơ sở. Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc và

các đoàn thể còn tham gia giám sát hoạt động của chính quyền cơ sở, góp phần

quan trọng trong xây dựng và củng cố hệ thống chính trị vững mạnh, xây dựng

cộng đồng dân cư tự quản ở thôn, làng, tổ dân phố, làm thay đổi bộ mặt nông thôn,

thành thị.

Ban Thanh tra nhân dân được thành lập ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà

nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước để giám sát việc thực hiện chính

sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở

cơ sở, góp phần phát huy dân chủ, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Thanh tra nhân dân được

pháp luật quy định là một tổ chức quần chúng và hoạt động thanh tra mang tính

nhân dân.

Ban Thanh tra nhân dân là hình thức thực hiện dân chủ cơ sở đồng thời là

thiết chế mang tính nhân dân do các tổ chức Mặt trận, Công đoàn tổ chức, chỉ đạo,

hướng dẫn hoạt động nhằm kết hợp chặt chẽ giữa Thanh tra nhân dân với thanh tra

nhà nước trong kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải

quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Theo Báo cáo của Ban

thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổng hợp kết quả báo

cáo của 61 tỉnh, thành phố trong cả nước thì đến hết năm 2013 đã có 100% các xã,

phường, thị trấn đã có Ban Thanh tra nhân dân (với trên 12.400 ban và 81.250 thành

viên) [152, tr.4]. Hầu hết Trưởng Ban Thanh tra nhân dân là Phó Chủ tịch Uỷ ban

93

MTTQ xã, phường, thị trấn hoặc trưởng các đoàn thể. Đa số các thành viên Ban

Thanh tra nhân dân là những người có hiểu biết pháp luật, trung thực, tự nguyện, có

tinh thần trách nhiệm, được nhân dân tín nhiệm. Trong những năm qua, Ban Thanh

tra nhân dân được tích cực hoàn thiện về mặt thể chế, thiết chế và các điều kiện bảo

đảm đã tăng cường phối hợp với tổ chức Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và cơ

quan chức năng của Nhà nước thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn;

quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện có hiệu quả cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm,

dân kiểm tra", tạo lập không khí dân chủ, minh bạch nhằm huy động rộng rãi các

nguồn lực cho đầu tư xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần

cho nhân dân. Việc Thanh tra nhân dân tham gia tiếp nhận, giải quyết, kiến nghị,

khiếu nại, tố cáo của nhân dân đã góp phần quan trọng khắc phục những vụ việc

phát sinh phức tạp từ cơ sở.

Thực hiện dân chủ cơ sở đã khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của nhân dân lao

động, phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân trong quá trình xây dựng

Nhà nước và xã hội, giải quyết những vấn đề lớn về quốc kế, dân sinh.

Hiệu ứng tích cực của việc thực hiện khá tốt dân chủ ở cấp xã đã được lan

tỏa. Hoạt động của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân

dân cấp cơ sở và lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn

cơ sở cả nước đã dần đi vào nề nếp, ổn định và tuân theo các quy chế, quy định, quy

trình cụ thể. Các xã, phường, thị trấn đã căn cứ vào pháp luật và tình hình thực tế

của địa phương để tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới các quy

chế, quy định liên quan đến việc thực hiện dân chủ ở cấp xã theo từng lĩnh vực cụ

thể, tập trung vào các hoạt động chính ở cơ sở như Quy chế làm việc của Đảng ủy,

Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc cấp xã và các đoàn thể

nhân dân; Quy chế quản lý, sử dụng đất đai, tài chính, xây dựng cơ bản; Quy chế

giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ môi trường, quản lý giao thông, sử dụng điện ở các xã

thôn; Quy chế tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; Quy

chế thực hiện “cơ chế một cửa” về giải tỏa mặt bằng làm đường giao thông và xây

dựng khu công nghiệp, xây dựng hương ước, quy ước làng văn hóa; Quy định về

việc cưới, việc tang… Ví dụ, ở tỉnh Thái Bình, trên 60% số xã, phường, thị trấn có

từ 11 đến 15 bản quy chế, quy định; gần 40% có trên 15 văn bản, cá biệt có nơi xây

94

dựng trên 20 quy chế, quy định [101]. Ở nhiều nơi đã thực hiện hiệu quả cơ chế

“một cửa”, “một cửa liên thông”, tổ chức tiếp dân, giải quyết các khiếu nại của dân

và ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan quản lý nhà nước, góp phần

khắc phục việc gây phiền hà dân và giảm bớt thời gian giao dịch và tiết kiệm chi phí

cho ngân sách; người dân thông qua tổ chức MTTQ Việt Nam góp ý và bỏ phiếu tín

nhiệm Chủ tịch HĐND và Chủ tịch UBND; thực hiện công khai, minh bạch các

nguồn quỹ do nhân dân đóng góp, công khai các dự án, công trình có liên quan đến

phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới; các cơ quan nhà nước công

khái niêm yết thủ tục hành chính, thuận tiện cho người dân.

3.3.2. Bất cập, hạn chế của các thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở

Nhìn một cách tổng thể, hiện tại, mô hình HTCT cơ sở với các thiết chế hợp

thành là cấu trúc nhỏ nhất trong mô hình tổ chức và vận hành của HTCT Việt Nam

được áp dụng chung trên địa bàn cả nước, được tổ chức và vận hành theo khuôn

mẫu chung của HTCT. Nếu xét từ khía cạnh quan hệ thứ bậc mang tính pháp lý của

chỉnh thể HTCT thống nhất ở nước ta thì HTCT cơ sở là cấp thấp nhất, tuy nhiên

HTCT cơ sở không đơn thuần là cánh tay nối dài của HTCT cấp trên. Cơ sở là địa

bàn cư trú của dân, là nơi diễn ra mọi hoạt động sinh sống và làm ăn của nhân dân

lao động, vì vậy nói tới cơ sở là nói tới vai trò chủ thể của người dân và hình thức tổ

chức các hoạt động sống của cộng đồng, các mối quan hệ xã hội, cơ sở là nơi trực

tiếp nhất của thực tiển, thể hiện ý thức và năng lực làm chủ của nhân dân bằng cả

phương thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, cũng là nơi đầu tiên đối mặt với

những yêu cầu bức xúc của dân chúng với những mâu thuẫn, thậm chí cả những

xung đột nảy sinh trong đời sống dân sự. Cơ sở là cấp hành động và tổ chức hành

động, nghĩa là cấp tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và

Nhà nước. Cơ sở cũng không chỉ là cấp thực hiện chức năng lãnh đạo và quản lý

của Nhà nước mà còn là nơi diễn ra các hoạt động tự quản của cộng đồng xã hội,

quản lý với tự quản đan xen vào nhau, các thể chế quản lý, pháp luật nhà nước và

các quy ước của thôn, làng, ấp, bản tồn tại song hành với nhau. Những đặc điểm nói

trên của cơ sở cho thấy, việc áp dụng thống nhất một cách máy móc mô hình tổ

chức và cơ chế vận hành của HTCT cho đơn vị cơ sở ở nước ta là thiếu thực tế,

chưa phát huy được hết lợi thế trong huy động sức mạnh của cơ sở, thậm chí trong

95

chừng mực nhất định còn có thể gây trở lực cho phát triển kinh tế - xã hội và thực

hiện dân chủ tại cơ sở.

Về phương diện tổ chức, các thiết chế tham gia thực hiện hiện dân chủ cơ sở

tồn tại trong trạng thái liên kết tương đối lỏng với cấp trên và trong mối tương quan

không thực sự thuận chiều với các yếu tố của xã hội tự quản truyền thống. Trạng

thái liên kết lỏng giữa các thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở với hệ thống cấp trên

không mang tính toàn thể đối với mọi thiết chế trong HTCT và cũng không diễn ra

trong mọi lĩnh vực hoạt động của HTCT. Nói cách khác, trạng thái liên kết lỏng

không đồng nghĩa với việc buông lỏng sự lãnh đạo, chỉ đạo từ cấp trên mà là sự thể

hiện mức độ phối, kết hợp trong hoạt động chưa thật sự nhịp nhàng, liên tục cũng

như mức độ không liên tục, thường xuyên trong hoạt động báo cáo, kiểm tra, giám

sát. Ví dụ, trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị các cấp uỷ, các tổ chức đảng

ở cơ sở còn chậm tổ chức triển khai tuyên truyền, phổ biến chỉ thị, nghị quyết của

Đảng, pháp luật dân chủ của Nhà nước, những chủ trương của cấp trên, do đó lượng

thông tin của Đảng, Nhà nước đến với cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế,

việc đói thông tin là một trong những nguyên nhân khiến cho một số người dân bị

phần tử xấu lợi dụng, lôi kéo, kích động gây mất trật tự, an ninh; từ chiều ngược lại,

một số hiện tượng bất ổn, kể cả tình trạng vi phạm dân chủ tại cơ sở chưa được cấp

trên nắm bắt và chỉ đạo kịp thời… Trạng thái liên kết lỏng này thể hiện rõ nhất

trong hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Nhìn từ mối quan

hệ giữa các thiết chế thuộc HTCT cơ sở với các thiết chế của xã hội tự quản truyền

thống cũng có thể nhận thấy những dấu hiệu bất hợp lý đang tồn tại, ảnh hưởng tới

hiệu quả thực thi dân chủ cơ sở. Cho đến nay, mức độ tương hợp giữa tổ chức và

hoạt động của HTCT cơ sở với vai trò của dòng họ và luật tục vẫn chưa thực sự hợp

lý. Một mặt, HTCT cơ sở chưa khai thác hết các khía cạnh tích cực của các yếu tố

của xã hội tự quản truyền thống, mặt khác cũng chưa ngăn chặn, gạt bỏ kịp thời

những khía cạnh tiêu cực, không phù hợp của chính các yếu tố này. Hệ quả dẫn tới

các cách xử lý không thuận chiều, thậm chí trái chiều nhau khi giải quyết các vấn đề

liên quan tới quyền dân chủ của người dân tại cơ sở.

Cũng trên phương diện tổ chức, biểu hiện của sự bất cập của các thiết chế

thực hiện dân chủ cơ sở nằm ở hạn chế của đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở. Đặc

96

biệt, năng lực của cán bộ, công chức cấp xã liên quan đến việc giải quyết các vấn đề

dân chủ còn nhiều yếu kém. Trình độ chuyên môn, khả năng điều hành, kỹ năng xử

lý các vấn đề do thực tiễn đặt ra đều còn hạn chế. Một số làm việc cảm tính, thụ

động, không nắm bắt được tình hình, không hiểu dân, không có khả năng thu hút sự

ủng hộ của dân, thiếu khả năng truyền tải các chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước tới nhân dân, thiếu những kiến thức cơ bản về bảo đảm quyền con người.

Về phương diện hoạt động, mức độ bất cập của các thiết chế thực hiện dân

chủ cơ sở thể hiện rõ nhất trong phương thức hoạt động của cơ quan đại diện và

quyền lực (HĐND cấp xã) và Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân tại cơ sở.

Trên thực tế, mặc dù là cơ quan đại diện gần nhất của nhân dân, trực tiếp do nhân

dân giám sát nhưng hoạt động của HĐND cấp xã mang nhiều tính hình thức và

thiếu hiệu quả. HĐND chưa hội đủ điều kiện, môi trường để thực hiện đầy đủ vai

trò, trách nhiệm của một cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân tại địa phương.

Chất lượng của các kỳ họp HĐND vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập so với yêu cầu

của giai đoạn mới. Vì những hạn chế về nhân sự, cơ chế hoạt động và điều kiện làm

việc nên trong nhiều hoạt động của mình HĐND còn thụ động và có phần ỷ lại cho

UBND trong việc chuẩn bị các kỳ họp (chuẩn bị tài liệu và những đảm bảo khác

cho kỳ họp; việc phổ biến và triển khai thực hiện nghị quyết…). Trong thực hiện

chức năng quyết định các vấn đề về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng,

nhân sự… HĐND còn chờ đợi nhiều vào sự lãnh đạo của cấp ủy. Trong kỳ họp, có

nơi vẫn tồn tại tình trạng trầm lắng, đại biểu ít có ý kiến, ít tranh luận. Quá trình phổ

biến, vận động tổ chức thực hiện nghị quyết và những kế hoạch do mình đề ra,

HĐND cũng còn trông chờ nhiều vào sự tham gia, hỗ trợ của Mặt trận và các đoàn

thể quần chúng hoặc chờ đợi sự hỗ trợ của cấp trên. Ngoài ra, hoạt động giám sát

của HĐND tuy có được cải thiện nhưng những tiến bộ đó chưa nhiều, chưa đồng

đều. Vẫn còn một bộ phận đại biểu có trình độ chuyên môn thấp, năng lực hạn chế,

chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, vì vậy, nhiều đại biểu ngại tiếp xúc với cử tri,

nhất là ở những địa bàn có thành phần cử tri phức tạp, đã làm ảnh hưởng khá lớn

đến chất lượng đại diện và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân tại cơ sở. Trong

khi đó, nội dung và phương thức hoạt động của MTTQ Việt Nam, các đoàn thể

nhân dân chậm được đổi mới, một số phong trào chưa phát huy được tính tự giác, tự

97

nguyện tham gia của đoàn viên, hội viên, chất lượng các hoạt động còn thiếu bền

vững. Công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung pháp luật về thực hiện dân chủ ở

xã, phường, thị trấn trong hệ thống các cơ quan Mặt trận và nhân dân ở nhiều địa

phương nhiều nơi còn mang tính thụ động và chưa được quan tâm kịp thời, thậm

chí tại một số địa phương (đặc biệt là vùng núi) Pháp lệnh số 34/2007 về dân chủ cơ

sở mới chỉ triển khai bằng văn bản, chưa thực sự đến được với dân. Hoạt động của

MTTQ và các đoàn thể còn hạn chế trong việc huy động đông đảo nhân dân chủ

động và tích cực đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, bảo vệ các quyền

và lợi ích hợp pháp của nhân dân, thậm chí không ít nơi Mặt trận còn né tránh, ngại

va chạm, do vậy chưa góp phần ngăn chặn có hiệu quả sự gia tăng tệ quan liêu,

tham nhũng, mất dân chủ, các biểu hiện tiêu cực khác trong đời sống kinh tế - xã

hội. Có thể nói, hoạt động của MTTQ tại cơ sở khá mờ nhạt. Bất cập lớn nhất có lẽ

từ những khiếm khuyết trong mô hình tổ chức và hoạt động tổng thể của cả hệ

thống. Với việc xác định MTTQ có chức năng “giám sát” hoạt động và “phản biện”

chính sách đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, nhưng việc thiết kế mô hình

trên thực tế lại làm cho MTTQ lệ thuộc (thậm chí phụ thuộc) vào chính đối tượng bị

giám sát, phản biện về ngân sách, biên chế, cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động

thường xuyên... Rõ ràng, MTTQ không thể có vị thế độc lập tương đối và có tiếng

nói khách quan trong quá trình giám sát, phản biện… Vì vậy, hoạt động giám sát

của Mặt trận và nhân dân đối với chính quyền mặc dù đã có chuyển biến nhất định

nhưng chất lượng còn thấp, hiệu quả giám sát chưa cao, nhất là giám sát việc xây

dựng các công trình do ngân sách Nhà nước đầu tư ở cơ sở và giám sát việc thực

hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

Liên quan đến những vấn đề cụ thể hơn, có thể thấy một số khía cạnh tổ chức

và hoạt động của thiết chế đang ít nhiều cản trở quá trình vận hành của cơ chế pháp

lý thực hiện dân chủ cơ sở như:

- Các địa phương đang có xu hướng biến thiết chế trưởng thôn/tổ trưởng tổ

dân phố thành một cấp chính quyền tại cấp xã và không có sự xây dựng linh hoạt,

khoa học trong mô hình tổ chức thiết chế này để phù hợp với điều kiện thực tiễn của

các vùng, miền, đặc điểm dân cư. Nhiều công việc lẽ ra phải do chính quyền cấp xã

thực hiện đang bị đẩy về cho trưởng thôn/ tổ trưởng tổ dân phố (như việc thu thuế,

98

thu phí, việc xác minh các thủ tục hành chính...), cách thức tổ chức và hoạt động

của thiết chế này cũng đang từng bước hành chính hóa và theo các khuôn mẫu

chung khá cứng nhắc: không có sự phân biệt giữa các vùng, miền, địa phương; giữa

đô thị, nông thôn và miền núi. Vậy, thiết chế thôn/ tổ dân phố có vị trí như thế nào

trong mô hình tổ chức bộ máy nhà nước? Là cánh tay nối dài của chính quyền cơ sở

hay là thiết chế tự quản tại cơ sở? Có nhất thiết cách thức tổ chức, trình tự hình

thành, địa vị pháp lý thiết chế này ở tất cả các vùng, miền, địa phương là như nhau

hay không? Đây là những câu hỏi đặt ra cần được giải mã.

- Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng đang hoạt

động tương đối hình thức, hiệu quả không cao. Những thiết chế trên không đủ cơ

chế và điều kiện thực tế để hoạt động hiệu quả (phụ thuộc vào chính quyền cơ sở về

ngân sách, kinh phí; các quy định về thẩm quyền mang tính hình thức, thiếu cơ sở

pháp lý để thực hiện; người dân không nhận thức được vị trí, tính chất hoạt động

của thiết chế này; trên thực tế người bị giám sát lại là người có quyền quyết định

những điều kiện làm việc cho người có quyền giám sát…). Ngoài ra, khi phát hiện

dấu hiệu vi phạm thì Thanh tra nhân dân chỉ có quyền kiến nghị xử lý còn việc xử

lý đến đâu, như thế nào, có phải trả lời hay không thì pháp luật chưa quy định.

- Đang xuất hiện vấn đề khó giải quyết liên quan đến số lượng và ngân sách

dành cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Theo thống kê, hiện nay, cả nước có

khoảng 11.148 xã, phường, thị trấn với gần 130.000 thôn, ấp, bản, tổ dân phố… rất

nhiều chức danh cán bộ: cán bộ trưởng thôn, phó trưởng thôn; bí thư chi bộ, trưởng

các đoàn thể chính trị (MTTQ, phụ nữ, cựu chiến binh, thanh niên, nông dân...) và

một số chức danh khác (hòa giải viên nhân dân, thanh tra nhân dân...). Đội ngũ cán

bộ này làm rất nhiều công việc góp phần vào thực hiện dân chủ ở cơ sở và được

hưởng lương/ phụ cấp từ ngân sách nhà nước. Như vậy, vấn đề đặt ra là các thiết

chế này sinh ra để thực hiện công việc của Đảng, Nhà nước hay thực hiện các công

việc của cộng đồng (với tư cách là đại diện cho các thành viên trong cộng đồng cơ

sở - thiết chế tự quản)? Trả lời câu hỏi đó sẽ liên quan đến việc thiết kế hợp lý nội

dung các văn bản pháp luật về chức năng, nhiệm vụ cũng như phụ cấp đối với các

chức danh này.

99

3.4. THỰC TRẠNG CÁC ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ

3.4.1. Thực trạng môi trường chính trị - pháp lý

Có thể khẳng định, hiện nay Việt Nam đang có môi trường chính trị tương

đối thuận lợi cho việc đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở. Trong nhận thức chính trị

của Đảng và Nhà nước Việt Nam, dân chủ và quyền con người là một khái niệm

tích cực, là một giá trị chung của nhân loại được tạo lập bởi sự phấn đấu của các

dân tộc qua các thời đại. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định thực hiện dân chủ trên

các phạm vi không gian khác nhau của đất nước là bản chất và mục tiêu của chế độ

xã hội ta, là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước, vì vậy chính sách nhất quán

của Nhà nước Việt Nam là phát huy dân chủ, tôn trọng và bảo đảm quyền con

người, thể hiện bằng luật pháp, bằng các chính sách cụ thể trong các lĩnh vực của

đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng và ngày

càng hoàn thiện. Nhà nước nỗ lực xây dựng và kiện toàn các thiết chế nhằm phát

huy dân chủ cơ sở trên thực tế. Hệ thống các cơ quan nhà nước đảm bảo thực hiện

chức năng bảo vệ pháp luật, đảm bảo các quyền dân chủ và lợi ích công dân được

củng cố. Nổi bật là vai trò của Quốc hội trong việc thực hiện chức năng giám sát

hoạt động của cơ quan nhà nước, việc bảo đảm tính độc lập của hệ thống tư pháp,

hiệu quả của hệ thống cơ quan điều tra nhà nước cũng như vai trò ngày càng tăng

của các tổ chức chuyên môn như Đoàn Luật sư, Hội Luật gia, cơ quan Công

chứng, Văn phòng trợ giúp pháp luật… Mặc dù, hiệu quả hoạt động của bộ máy

nhà nước được đánh giá không cao nhưng so với các nước bất ổn trong khu vực

thì được xem là tốt. Mức độ minh bạch hóa các hoạt động của Nhà nước từng

bước được cải thiện. Mức độ ổn định chính trị đạt ở mức lý tưởng so với các nước

trong khu vực. Cạnh tranh chính trị theo nghĩa của phương Tây không diễn ra

nhưng lòng tin và sự ủng hộ của người dân đối với chính phủ rất cao, hơn nữa đã

bắt đầu hình thành cơ chế phản biện xã hội như một hình thái “đối trọng” được

Nhà nước khuyến khích. Vị thế của các tổ chức, đoàn thể xã hội, giới truyền thông

trong việc thúc đẩy dân chủ, nhân quyền ngày càng được nâng cao thông qua việc

tăng cường vai trò giám sát, phản biện xã hội của các thiết chế này theo nguyên

tắc nhà nước pháp quyền. Trên thực tế, môi trường tự do cho hoạt động của công

dân ngày càng được mở rộng hơn. Trên bình diện toàn xã hội, không khí dân chủ,

cởi mở có mức độ lan tỏa nhanh.

100

Trên bình diện pháp lý, Việt Nam đang có điều kiện thuận lợi cho việc đảm

bảo thực thi dân chủ cơ sở nếu xét từ góc độ ghi nhận các quyền dân chủ của con

người và mức độ bao trùm của hệ thống pháp luật đối với các lĩnh vực của đời sống

xã hội. Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa các nguyên tắc và nội dung dân chủ

thành các quy định làm cơ sở cho việc ban hành các chính sách, pháp luật cụ thể để

hiện thực hóa dân chủ trong thực tiễn đời sống xã hội. Hệ thống luật chế định các

quyền dân chủ cơ bản của con người đang được hoàn thiện dần và đặc biệt phát

triển từ sau khi ban hành bản Hiến pháp năm 2013. Về cơ bản, điều kiện pháp lý

trực tiếp phục vụ dân chủ cơ sở đã có sự tiến bộ rõ rệt, thể hiện trên một số mặt: (1)

Mối quan hệ pháp lý giữa nhà nước và công dân trong các quan hệ pháp luật cụ thể

thể hiện ngày càng bình đẳng hơn về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm. Xu thế dân

chủ hóa xã hội và hoạt động của Nhà nước ngày càng được nâng cao; (2) Hiến pháp

và pháp luật của nước ta có nhiều quy định đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong

việc phục vụ nhân dân; thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện trên thực

tế quyền con người, quyền công dân; (3) Hiến pháp và pháp luật ghi nhận đầy đủ

hơn phương thức thực hiện dân chủ của nhân dân bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ

đại diện, tạo điều kiện thuận lợi hơn để nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát

quyền lực nhà nước có hiệu quả.

Những tiến bộ trong việc tạo lập điều kiện pháp lý bảo đảm thực thi dân chủ

cơ sở cũng thể hiện qua sự hiện hữu của các cơ chế pháp lý và mức độ hiện thực

hóa các cơ chế có liên quan trong việc đưa các quy định pháp luật về quyền con

người trở thành thực tiễn luật pháp. Có thể nhận thấy rõ nhất là ở mức độ kiện toàn

các thiết chế đảm bảo quyền con người và đặc biệt là ở sự chuyển biến mạnh mẽ

của các cơ chế pháp lý như bầu cử, ứng cử, chất vấn, khiếu nại, tố cáo, phòng chống

tham nhũng,… cho phép sự tham gia trực tiếp của người dân trong việc giám sát đối

với hoạt động của Nhà nước trong lĩnh vực thực hiện quyền con người.

Tuy nhiên, điều kiện chính trị - pháp lý đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở ở

Việt Nam tồn tại không ít bất cập.

Trước hết, đó là sự chưa đồng bộ trong hệ thống nhà nước và cùng với nó là

tình trạng thiếu minh bạch trong hoạt động nhà nước chậm được khắc phục. Nạn

tham nhũng chưa có biện pháp ngăn chặn hữu hiệu mặc dù Chính phủ có quyết tâm

101

rất cao. Đây là yếu tố chính trị bất lợi nhất cho những cố gắng đảm bảo thực hiện

dân chủ ở nước ta hiện nay. Nhận thức chính trị của giới chức lãnh đạo có những

chuyển biến tốt nhưng văn hóa chính trị thể hiện trong ứng xử đối với con người và

tư cách chủ thể quyền lực của con người của đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ

thống hành chính nhà nước còn nhiều tồn tại. Lối sống vị kỷ chỉ lo vun đắp cho bản

thân, thái độ vô cảm trước nỗi đau của con người, sự thiếu trách nhiệm trong thực

hiện chức trách hành chính và chuyên môn... còn diễn ra khá phổ biến.

Môi trường pháp lý ở Việt Nam hiện nay hoàn toàn chưa phải là môi trường

lý tưởng cho việc đảm bảo phát huy dân chủ cơ sở. Nhìn tổng thể hệ thống pháp

luật chế định quyền con người và hoạt động nhà nước phục vụ quyền con người

chưa theo kịp thực tiễn. Vẫn còn một số quyền hiến định liên quan trực tiếp tới thực

thi dân chủ chưa được cụ thể hóa thành luật (các Luật liên quan đến quyền được lập

hội, quyền thông tin, quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, quyền trưng cầu ý dân,

quyền tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước và xã hội…); mối quan hệ nội tại

trong hệ thống luật còn chồng chéo, mâu thuẫn; trong một số trường hợp, việc “cấy

ghép” khiên cưỡng, nội luật hóa thiếu chọn lọc đã làm cho nội dung luật vừa thiếu

tính cập nhật vừa ít phù hợp với thực tế Việt Nam, không phản ánh được tính đặc

thù của quá trình thực thi quyền con người nói chung, các quyền chính trị nói riêng;

các cơ chế minh bạch hóa pháp luật chưa được quan tâm xây dựng đúng mức…

Nhìn rộng hơn, tính pháp quyền chưa bao trùm, điều chỉnh hết các chủ thể và mối

quan hệ xã hội. Nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động của Nhà nước

chưa được thể chế hóa đầy đủ và thực thi nghiêm túc trên thực tế. Vai trò lãnh đạo

của Đảng, vị trí cầm quyền và phương thức thực hiện còn chưa được xác định đầy

đủ bằng pháp luật.

3.4.2. Thực trạng điều kiện kinh tế - xã hội

Tốc độ thúc đẩy nhanh nhất trong việc tạo lập các điều kiện đảm bảo thực

hiện dân chủ nói chung, dân chủ cơ sở nói riêng ở nước ta nằm trong lĩnh vực kinh

tế. Nhờ công cuộc đổi mới và đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt ở mức cao liên tục

trong hơn một thập kỷ qua. Sau 30 năm đổi mới, thu nhập bình quân đầu người đã

tăng gấp hơn 5 lần, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc gia giảm ấn tượng, ở mức 4 lần

102

(từ 60% xuống còn 13,8%). Chuẩn nghèo quốc gia của Việt Nam từng bước được

nâng lên và đang dần tiếp cận với chuẩn nghèo quốc tế. Quỹ tiêu dùng của người

dân được bổ sung rõ rệt, thể hiện qua sức tăng mạnh mẽ của tổng mức bán lẻ hàng

hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng của cả nước. Sau khi gia nhập Tổ chức Thương

mại thế giới (WTO) năm 2006, Việt Nam đã hoàn thành quá trình hội nhập quốc tế

trên lĩnh vực kinh tế, tạo đà cho sự phát triẻn mới về kinh tế trong bối cảnh toàn cầu

hóa. Nhiều nhà đầu tư có tiềm năng của nước ngoài đã làm ăn có hiệu quả tại Việt

Nam, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động, mặt

khác, các doanh nghiệp Việt Nam bước đầu đã đầu tư ra nước ngoài, góp phần tăng

tổng thu nhập quốc dân của Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng giúp cho Việt

Nam tiếp cận được với những thành tựu của nền kinh tế tri thức. Cơ sở hạ tầng về

công nghệ thông tin thấp song lại là lĩnh vực có tỷ lệ phát triển nhanh chóng, đóng

góp một phần cho sự ra đời của một kênh phản biện xã hội mới. Tăng trưởng kinh

tế ở nước ta diễn ra trong trạng thái tương đối an toàn, chưa gặp phải khủng hoảng

kinh tế trầm trọng, mặc dù một tương quan hợp lý giữa tăng trưởng kinh tế và phát

triển bền vững chưa được xác lập trên bình diện toàn xã hội. Như vậy, môi trường

kinh tế của Việt Nam chưa thực sự ổn định và đủ độ mạnh, chưa phải là môi trường

lý tưởng đảm bảo thực hiện thật tố dân chủ cơ sở nhưng đã có nhiều điểm sáng. Đặc

biệt, tốc độ hình thành các điều kiện kinh tế tăng nhanh đã cho phép duy trì một tinh

thần lạc quan trong việc thu hẹp khoảng cách bất cập giữa trạng thái kinh tế hiện

hành với yêu cầu tạo lập nền tảng kinh tế cần thiết cho mục tiêu bảo đảm tốt nhất

dân chủ, nhân quyền.

Về mặt xã hội, văn hóa nhân quyền ở nước ta đang đạt ở mức độ thấp so với

yêu cầu thực hiện dân chủ cơ sở. Đặc biệt, trong văn hóa nhân quyền, các yếu tố cấu

thành là các giá trị truyền thống (dân chủ, khoan dung) được đánh giá tích cực theo

hướng ủng hộ nhân quyền còn năng lực và thái độ sẵn sàng đối với việc thực thi

nhân quyền thể hiện ở nhận thức về quyền, cách tiếp cận dựa trên quyền và khả

năng vận dụng công cụ thực hiện quyền để giải quyết những công việc hàng ngày

của các chủ thể mang quyền còn rất hạn chế. Điều này phản ánh mức độ thấp trong

việc nâng cao năng lực cho các chủ thể mang quyền và cho thấy hoạt động thông

tin, tuyên truyền, giáo dục về dân chủ, nhân quyền chưa đạt yêu cầu.

103

Dân trí được hiểu là mức độ nhận thức chung của nhân dân trong một phạm

vi nhất định. Dân trí và nhận thức pháp luật luôn đi liền với nhau và có tính tiền đề,

bổ sung nhau. Trình độ dân trí cao thì nhận thức pháp luật của nhân dân cao và

ngược lại. Khi dân trí, kiến thức và hiểu biết pháp luật được nâng lên thì năng lực sử

dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân cũng

được nâng lên. Trong thời gian vừa qua, trạng thái dân trí ở Việt Nam đã được cải

thiện đáng kể, từ đó tính tích cực chính trị, tính tích cực công dân và năng lực hiểu

biết, thực hành pháp luật của người dân được nâng lên. Tuy nhiên, hiện nay dân trí

của nước ta không đồng đều, kiến thức và sự hiểu biết pháp luật của đa số nhân dân

còn hạn chế, mức độ nhận thức có sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa

miền xuôi và miền núi, giữa các dân tộc, tôn giáo với nhau. Công bố của Viện khoa

học thống kê (Tổng cục Thống kê) qua nghiên cứu một đề tài khoa học năm 2011

cho thấy tỉ lệ người biết chữ trên toàn quốc đạt 93,6%. Báo cáo phát triển con người

(HDR) năm 2011 do UNDP công bố cho thấy Việt Nam đã đạt số năm học trung

bình cho người dân là 5,5 năm. Về hiểu biết pháp luật: "Theo con số thống kê, hiện

nay 90% nông dân chưa hiểu biết về pháp luật, trong số đó có 50% không hiểu biết.

Ở vùng cao, vùng sâu, thậm chí nhiều người còn không hiểu luật sư là ai, làm việc

gì" [149, tr.292]. Tình trạng này dẫn đến các biểu hiện tha hoá quyền lực như: lộng

quyền, lạm quyền, quan liêu, tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác từ phía cơ

quan nhà nước. Cũng vì thế mà sống và làm việc theo pháp luật, tuân thủ pháp luật

và sử dụng pháp luật để đấu tranh với các hành vi sai trái của cơ quan, cán bộ, công

chức nhà nước chưa trở thành thói quen của người dân. Một bộ phận nhân dân thiếu

niềm tin, tình cảm đối với pháp luật và cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước nên

không tự giác thực hiện pháp luật, dễ bị dân chủ quá đà, bị xúi giục, lôi kéo vào các

hoạt động trái pháp luật...

3.5. THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC HIỆN DÂN

CHỦ CƠ SỞ

3.5.1. Những tác động tích cực

Thứ nhất, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đã tác động tích cực đến

nhận thức và khả năng làm chủ của người dân, tác động mạnh mẽ đến ý thức, trách

nhiệm và năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở.

104

Trình độ dân chủ của xã hội nói chung đã được nâng lên một bước, làm cho

đời sống chính trị của đất nước đã cởi mở hơn, quyền con người, quyền công dân

được bảo đảm tốt hơn. Thực hiện dân chủ cơ sở đã khơi dậy sức mạnh tiềm tàng

của nhân dân lao động, phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân trong

quá trình xây dựng Nhà nước và xã hội, giải quyết những vấn đề lớn về quốc kế,

dân sinh.

Đặc biệt, Pháp lệnh năm 2007 là một chủ trương đúng đắn nên có tác dụng

nâng cao nhận thức của cán bộ, chất lượng hoạt động của chính quyền, có tác dụng

tích cực đối với việc rèn luyện, giữ gìn phẩm chất, đạo đức của đội ngũ cán bộ cấp

xã. Việc thực hiện Pháp lệnh năm 2007 giúp cán bộ, chính quyền cơ sở giải tỏa

được một số lo ngại trước đây về việc thực hiện dân chủ ở cấp xã [157].

Theo kết quả điều tra xã hội học của tác giả Nguyễn Hồng Chuyên, trong

việc thực hiện dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn, đối với việc thực hiện những

nội dung công khai để nhân dân biết, 88% cán bộ, công chức cấp xã và 83,7% số

người dân được hỏi khẳng định chính quyền cấp xã đã thực hiện ở mức độ tương

đối tốt. Đối với việc thực hiện những nội dung nhân dân bàn và quyết định,

chính quyền cấp xã các địa phương ở nước ta đã thực hiện khá tốt, 88% cán bộ,

công chức cấp xã và 81% số người dân được hỏi khẳng định như vậy [14]. Trên

địa bàn xã, phường, thị trấn, những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp

gồm có: mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, lập và thu chi các loại quỹ, quy

ước, hương ước làng xã văn hóa, dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp, thành lập

Ban giám sát công trình do dân tự nguyện đóng góp và bảo vệ sản xuất v.v…

Những nội dung công việc nêu trên được thực hiện nghiêm túc bằng cách họp

thôn, làng, tổ dân phố hoặc phiếu lấy ý kiến các hộ gia đình, tạo được sự thống

nhất cao trong nhân dân và thực hiện có kết quả trên thực tế. Ví dụ, ở thành phố

Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp về chủ

trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công

cộng ở phường, xã, phố, thôn như: nâng cấp hệ thống điện, đường, trường, trạm,

xây dựng nhà văn hóa, đóng góp các loại quỹ, tham gia xây dựng quy ước,

hương ước phố, làng văn hóa, xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang

105

và lễ hội, phòng chống tệ nạn xã hội và các công việc khác trong nội bộ cộng

đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp luật [17]. Đối với những nội dung

nhân dân được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định, đa

số chính quyền cấp cơ sở trên phạm vi cả nước thực hiện khá tốt. Cũng theo kết

quả điều tra xã hội học nêu ở phần trên, 84.28% cán bộ, công chức cấp xã và

78.18% số người dân được hỏi khẳng định như vậy). Các nội dung nhân dân

tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định bao gồm: dự thảo

kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của xã; phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế,

cơ cấu sản xuất; phương án phát triển ngành nghề; dự thảo quy hoạch, kế hoạch

sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh; việc quản lý, sử dụng quỹ đất của

xã; chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở

hạ tầng… Hình thức thực hiện các nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi

cơ quan có thẩm quyền quyết định đã được chính quyền cơ sở triển khai chủ yếu

bằng cách; họp đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; phát

phiếu lấy ý kiến và sử dụng hòm thư góp ý. Đối với việc thực hiện quyền giám

sát của nhân dân ở cơ sở, phần lớn nhân dân ở các địa phương đã thực hiện ở

mức độ tốt và khá, 79.63% cán bộ, công chức cấp xã và 71.49% số người dân

được hỏi khẳng định như vậy. Theo quy định của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở

xã, phường, thị trấn, nhân dân được quyền giám sát đối với tất cả các nội dung

mà họ được công khai để biết, được bàn và quyết định trực tiếp, được bàn và

biểu quyết và được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định.

Nhân dân thực hiện việc giám sát những nội dung đó theo các hình thức: thông

qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng

hoặc trực tiếp thực hiện việc giám sát thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, kiến

nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Chẳng hạn, ở thành phố Thanh Hóa,

nhân dân được tham gia giám sát việc quản lý quy hoạch sử dụng đất đai, về

triển khai các dự án, chế độ chính sách đền bù giải phóng mặt bằng, chế độ quản

lý tài chính, quyết toán thu chi ngân sách, các khoản đóng góp của nhân dân để

xây dựng cơ sở hạ tầng của địa phương… Nhờ đó, quyền dân chủ được phát huy,

ý thức trách nhiệm và tinh thần làm chủ của nhân dân được nâng lên, việc huy

106

động sức dân để đầu tư phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô

thị được triển khai thuận lợi, công tác quản lý tài chính, nguồn vốn trong xây

dựng cơ sở hạ tầng ở xã chặt chẽ hơn… [17].

Thứ hai, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đã góp phần củng cố và

hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở.

Hệ thống tổ chức Đảng cơ sở không ngừng phát triển về số lượng và kiện

toàn về tổ chức. Đặc biệt cơ chế thực hiện dân chủ cơ sở đã tạo ra những chuyển

biến tích cực trong hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn. Nhìn chung,

năng lực đội ngũ đảng viên được nâng cao, năng động hơn, hoạt động có hiệu quả

hơn, dám chịu trách nhiệm và biết tổ chức quản lý, xử lý các tình huống dân chủ

theo luật định.

Các cấp chính quyền đã đổi mới phong cách làm việc theo hướng gần dân,

sát dân hơn; tôn trọng, lắng nghe và chân thành tiếp thu ý kiến, nguyện vọng chính

đáng của nhân dân, chăm lo đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân; giải quyết

kịp thời những vướng mắc của nhân dân; đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành

chính theo cơ chế một cửa. Chính quyền cơ sở cũng như các cơ quan tổ chức đã gắn

việc thực hiện dân chủ cơ sở với việc thực hiện các kế hoạch, chương trình phát

triển kinh tế, xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời

sống của người dân, người lao động. Bên cạnh đó chính quyền cơ sở cũng đã gắn

kết việc thực hiện dân chủ cơ sở với việc phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh

thần của người dân, người lao động.

Mối quan hệ giữa chính quyền với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể được

tăng cường; quyền và nghĩa vụ của công dân được thực hiện tốt hơn; vai trò tự quản

của cộng đồng dân cư ngày càng phát huy hiệu quả và được khẳng định. Mặt trận

Tổ quốc và các đoàn thể đã đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động, thể hiện

rõ trách nhiệm như: Trực tiếp sinh hoạt, trao đổi và cùng với nhân dân tháo gỡ

những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở, động viên đoàn viên, hội viên và các tầng lớp

nhân dân tích cực tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước ở

cơ sở. Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể còn tham gia giám sát hoạt

động của chính quyền cơ sở, góp phần quan trọng trong xây dựng và củng cố hệ

107

thống chính trị vững mạnh, xây dựng cộng đồng dân cư tự quản ở thôn, làng, tổ dân

phố, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, thành thị.

Ở một số địa phương, ngoài vai trò của đội ngũ cán bộ công chức cấp xã còn

phát huy mạnh mẽ vai trò của đội ngũ cán bộ tự quản như trưởng thôn, tổ trưởng

dân phố trong công tác thực hiện dân chủ cơ sở.

Thứ ba, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đã thúc đẩy bầu không khí

dân chủ, đảm bảo quyền lực nhân dân, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế, lành

mạnh hóa các quan hệ văn hóa - xã hội tại địa bàn cơ sở.

Theo đánh giá chung được nêu trong Kết luận số 65-KL/TW của Ban Bí thư

ngày 04/3/2010, sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị

(khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở: cấp ủy, chính quyền,

mặt trận, đoàn thể các cấp đã có nhiều biện pháp chỉ đạo, triển khai sâu rộng, làm

chuyển biến tích cực về nhận thức, quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của

Nhà nước đối với việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở… Dân chủ và

thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nhất là dân chủ trực tiếp của nhân

dân tiếp tục được coi trọng, tăng cường. Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở

cơ sở đã góp phần đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng,

quản lý, điều hành của Nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của

mặt trận, các đoàn thể nhân dân; phát huy tính tiền phong, gương mẫu, chấn chỉnh

phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức theo hướng sát dân, trọng dân và

phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của các

tầng lớp nhân dân; góp phần quan trọng trong phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng

quan liêu, tham nhũng, lãng phí; tăng cường đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố

mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; chống lại các âm mưu lợi

dụng dân chủ, dân tộc, tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Chính quyền cơ sở cũng như các cơ quan tổ chức đã gắn việc thực hiện dân

chủ cơ sở với việc thực hiện các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế, xã hội,

xây dựng cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống của người dân,

người lao động. Bên cạnh đó chính quyền cơ sở cũng đã gắn kết việc thực hiện dân

chủ cơ sở với việc phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần của người dân,

người lao động. Kết quả số liệu khảo sát của Dự án nói trên cho thấy, ở các tiêu chí

108

cơ bản của đời sống xã hội đã nhận được sự đánh giá về chất lượng tăng lên, trong

đó có sự tác động tích cực của công tác triển khai một số công việc cụ thể theo Pháp

lệnh năm 2007.

3.5.2. Những hạn chế, bất cập

Bên cạnh những tác động tích cực đã nêu, việc triển khai cơ chế pháp lý thực

hiện dân chủ cơ sở vẫn còn những bất cập, hạn chế, gây tác động tiêu cực đến nhận

thức và các kết quả phát trển kinh tế, xã hội trên địa bàn cơ sở ở nước ta. Điều này

thể hiện tập trung và rõ nhất ở quá trình triển khai thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở

mà điển hình nhất là Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007.

Theo Kết luận số 65-KL/TW của Ban Bí thư, nhìn chung, việc xây dựng và

thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở mới được triển khai tích cực ở loại hình xã,

phường, thị trấn; ở các loại hình cơ sở khác kết quả còn hạn chế. Việc xây dựng và

thực hiện các quy chế, quy ước, hương ước không ít nơi còn hình thức, chất lượng

chưa cao, chưa thành nền nếp. Một số xã, phường, thị trấn chưa làm tốt việc công

khai, dân chủ về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giá cả đền bù khi chuyển mục

đích sử dụng đất, chính sách tái định cư. Không ít cơ quan thiếu công khai, dân chủ

về quản lý thu, chi tài chính công, nâng lương, quy hoạch đào tạo, đề bạt cán bộ.

Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân, cơ sở dịch vụ ngoài công lập và một số doanh

nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn chưa xây dựng,

thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; thiếu công khai, dân chủ về sản xuất, kinh doanh,

tiền lương, tiền thưởng và thực hiện chế độ bảo hiểm đối với người lao động. Một

số nơi nội bộ lãnh đạo cấp ủy, chính quyền mất đoàn kết; tình trạng quan liêu, tham

nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn kịp thời; tình hình khiếu kiện của

nông dân, đình công, bãi công của công nhân diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không

nhỏ đến lòng tin của nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền.

Những kết quả đạt được, nếu so với mục tiêu, yêu cầu về dân chủ và thực

hành dân chủ mà Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị đã đề ra, cũng như so với

mong đợi của người dân, thì vẫn còn khoảng cách, mới chỉ dừng lại ở một số việc

cụ thể. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở diễn ra chưa đồng bộ, chưa đều, có

nơi đã trở thành nề nếp, có nơi triển khai còn chậm. Một số cấp ủy, chính quyền có

biểu hiện “khoán trắng” cho Ban chỉ đạo; Ban chỉ đạo ở một số nơi chậm được kiện

109

toàn, chưa có kế hoạch kiểm tra thường xuyên, vai trò của từng thành viên chưa

được phát huy nên kết quả thực hiện còn hạn chế.

Những hạn chế cụ thể được thể hiện ở các mặt sau đây:

Thứ nhất, nhận thức của nhân dân về các quyền làm chủ của người dân ở cơ

sở còn thấp.

Nhiều người dân vẫn chưa biết đến các văn bản, chính sách, pháp luật về

thực hiện dân chủ ở cơ sở. Theo kết quả điều tra xã hội học của tác giả Nguyễn

Hồng Chuyên, chỉ có 55,58% người dân được hỏi trả lời rằng họ nắm bắt được

phần lớn nội dung pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở và nắm bắt được những

nội dung chính của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở. 27,5% người dân được

hỏi cho biết họ chỉ nắm bắt được một số nội dung mà nhân dân được bàn và quyết

định, tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định hoặc được giám

sát; 13,54% chỉ nắm được một số ít nội dung mà nhân dân được bàn và quyết định

trực tiếp, và 3,38% hầu như không nắm được nội dung của pháp luật về thực hiện

dân chủ ở cơ sở. Không chỉ có người dân mà ngay cả một số cán bộ, công chức cấp

xã cũng thiếu hiểu biết pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở [14]. Ở không ít địa

phương, người dân tỏ ra thờ ơ, cho rằng Quy chế dân chủ ở cơ sở ít có tác dụng cho

bản thân. Một số cán bộ chính quyền, nhất là người có chức, có quyền chưa thực sự

cùng gia đình gương mẫu chấp hành để người dân học tập, noi theo.

Thứ hai, kết quả hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị cơ sở

chưa có đổi mới đột phá, làm hạn chế các quyền dân chủ của người dân. Thể hiện

cụ thể:

Một là, những nội dung công khai để nhân dân biết đôi khi còn chưa đến

được với mọi người dân. Nhiều nơi xem việc công khai thông tin không phải là

nghĩa vụ của chính quyền cấp xã, đôi khi thông tin bị bưng bít, khi mọi thứ đã xong

xuôi thì người dân mới là người nắm thông tin cuối cùng, ví dụ: các vấn đề về địa

giới hành chính, quy hoạch, dự án đầu tư xây dựng, thông tin về các vấn đề về dịch

bệnh… Nhiều người dân đi làm cả ngày nên chưa tiếp xúc nhiều với các nội dung

công khai; hình thức công khai chủ yếu là qua loa truyền thanh, ít người nghe và

chú ý, thời lượng phát thanh còn ngắn nên hiệu quả thấp. Ở một số địa phương, đối

với những việc chính quyền xã phải thông báo công khai để nhân dân được biết,

110

trên thực tế việc này chưa được tổ chức thực hiện hoặc thực hiện chưa đạt yêu cầu,

như quy định công khai dự toán và quyết toán ngân sách xã hàng năm chưa được

minh bạch nên nhân dân chưa thông suốt sinh ra hoài nghi. Về việc chính quyền địa

phương phải thông tin về quyết toán thu - chi các quỹ, dự án, các khoản đóng góp

xây dựng cơ sở hạ tầng ở thôn, tổ dân phố, có một số nơi triển khai chưa chu đáo,

thiếu công khai cụ thể cho dân biết.

Hai là, những nội dung do nhân dân bàn và quyết định trực tiếp, cũng còn

một số tồn tại. Đôi lúc, đôi nơi, chính quyền địa phương tự quyết định những nội

dung mà lẽ ra phải do dân bàn và quyết định, dẫn đến vi phạm quyền dân chủ của

nhân dân. Vẫn còn một bộ phận không nhỏ nhân dân chưa có ý thức đầy đủ về

quyền dân chủ của mình trong xã hội, chưa có sự tham gia đầy đủ trong các hoạt

động chính trị, kinh tế, xã hội, nhiều nơi nhân dân tham gia thảo luận không cởi mở,

sự bàn bạc, thảo luận chỉ dừng lại ở việc thôn đưa ra nội dung để nhân dân thảo

luận, nhân dân không được quyền đưa ra ý kiến mới để thảo luận trong cuộc họp.

Ba là, những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm

quyền quyết định, cũng còn những hạn chế, bất cập. Ở nhiều nơi, nhiều chỗ vẫn còn

mang căn bệnh dân chủ hình thức. Việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân còn gặp

rất nhiều khó khăn, do nhận thức của nhân dân còn thấp nên các nội dung nhân dân

tham gia ý kiến còn ít. Số lượng người dân tham gia đóng góp ý kiến trực tiếp hoặc

qua đại diện còn hạn chế, chất lượng các ý kiến thấp, đôi khi không có đủ thời gian

để nhân dân nghiên cứu, nêu các đề xuất, kiến nghị. Ví dụ, ở thành phố Hải Phòng,

việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, nhất là về các công trình dự án, quy hoạch,

quản lý và sử dụng đất đai và các chế độ chính sách có liên quan đến nhân dân chưa

được triển khai có nề nếp, thậm chí còn biểu hiện rất hình thức.

Bốn là, việc nhân dân thực hiện quyền giám sát, đây là khâu yếu hơn cả

trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Hầu hết mọi công việc được giám sát thông

qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân và Ban giám sát cộng đồng, nhân dân

chỉ tham gia được một phần nhỏ. Nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát quá

trình thực hiện công việc của chính quyền cơ sở là rất khó khăn, người dân khó tiếp

cận được với những tài liệu, hồ sơ cần để phục vụ cho việc kiểm tra, giám sát.

Nhiều khiếu nại, tố cáo của nhân dân chưa được giải quyết dứt điểm và thấu đáo

111

dẫn đến kiện tụng và khiếu kiện kéo dài gây bức xúc trong nhân dân, nhiều vụ việc

vi phạm quy chế được nhân dân phát hiện, kiến nghị nhưng bị chính quyền cơ sở

gây khó dễ, không tin tưởng và còn có những thái độ thờ ơ với ý kiến của nhân dân,

do đó, nhiều nơi nhân dân không mặn mà với quyền giám sát của mình. Ví dụ, ở

tỉnh Quảng Nam, những việc nhân dân giám sát, kiểm tra thực hiện còn nhiều yếu

kém. Một số công trình phục vụ dân sinh như nhà sinh hoạt, đường giao thông nông

thôn, nhân dân có giám sát, nhưng một số công trình khác có quy mô lớn do cấp

trên làm chủ đầu tư thì chức năng giám sát của nhân dân chưa được coi trọng [15].

Thứ ba, tác động của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở nói chung, của

Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói riêng đến xây dựng, phát

triển kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa bàn cơ sở còn hạn chế.

Trước hết, tác động của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở diễn ra

không đồng đều ở các địa phương, đặc biệt ở miền núi vẫn tồn tại tương đối phổ

biến tình trạng đói nghèo, lạc hậu, dân trí thấp.

Chất lượng và tính bền vững của tăng trưởng kinh tế ở cơ sở chưa cao, chưa

chủ động. Một số cơ sở chưa kịp thời nắm bắt và giải quyết những vấn đề mới nảy

sinh trong xã hội, đặc biệt là tình trạng bức xúc và khiếu kiện liên quan đến đất đai.

Điều này gắn với nhận thức về dân chủ của một bộ phận dân cư chưa đúng đã dẫn

tới một số diễn biến phức tạp, tạo ra một số điểm nóng về dân chủ tại địa bàn cơ sở,

gây giảm sút niềm tin của nhân dân vào chế độ xã hội.

3.5.3. Nguyên nhân của các kết quả và hạn chế

3.5.3.1. Nguyên nhân của các kết quả

Thứ nhất, đường lối, chính sách pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở đúng

đắn, kịp thời, hợp lòng dân.

Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã được thể hiện

trong nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng và được Nhà nước thể chế hóa thành

pháp luật. Cùng với đó là việc thực hiện tốt phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà

nước quản lý, nhân dân làm chủ” nhằm phát huy quyền làm chủ của dân, thu hút

nhân dân tham gia quản lý, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái,

quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng, qua đó, xây dựng bộ máy chính quyền

cấp xã ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; góp phần

112

to lớn vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Quá trình này đã

tạo ra bầu không khí dân chủ trong xã hội, được đông đảo các tầng lớp nhân dân

đồng tình, ủng hộ, nhờ đó đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.

Thứ hai, sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt của các cấp ủy Đảng, chính

quyền các cấp, nhất là cấp cơ sở.

Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về thực hiện Quy chế dân

chủ, cho đến nay, 100% đơn vị hành chính từ cấp tỉnh, cấp huyện cho đến cấp xã

trên toàn quốc đã thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, đồng

thời thường xuyên bổ sung, kiện toàn thành viên và phân công nhiệm vụ cụ thể cho

từng thành viên phù hợp với sự biến động, thay đổi nhân sự của địa phương. Phần

lớn Đảng bộ, chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện trên toàn quốc đã quán triệt đầy đủ,

sâu sắc ý nghĩa, vai trò của việc thực hiện dân chủ cơ sở và lãnh đạo, chỉ đạo quyết

liệt, sát sao, thể chế hóa kịp thời, đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng và

Nhà nước về thực hiện dân chủ cơ sở.

Đặc biệt, cấp ủy Đảng và chính quyền cấp xã ở nhiều nơi đã nhận thức sâu

sắc vai trò của hoạt động thực hiện dân chủ cơ sở đối với việc phát huy các quyền

dân chủ của nhân dân nên đã triển khai và thực hiện nghiêm túc, tích cực sự chỉ đạo

của cấp trên.

Tổ chức Đảng cơ sở, đội ngũ công chức lãnh đạo chính quyền, các doanh

nhân, những người đứng đầu các tổ chức xã hội ở cơ sở đã ngày càng ý thức được

rõ ràng vai trò của phát huy dân chủ và đồng thuận xã hội đối với hiệu quả của quá

trình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. Trên cơ sở

đó, lực lượng này đã quan tâm thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở như là một

khâu trong chu trình quản lý.

Thứ ba, sự vào cuộc mạnh mẽ, tâm huyết của đội ngũ cán bộ công chức tại

đơn vị cơ sở.

Ở cơ sở, đội ngũ cán bộ công chức là lực lượng nòng cốt, đi tiên phong trong

công tác tuyên truyền, tổ chức, hướng dẫn, vận động các tầng lớp nhân dân thực

hiện dân chủ cơ sở. Cán bộ công chức đảng viên có nhiệm vụ tổ chức, tham gia

thực hiện phải là người gương mẫu, đi đầu thực hiện dân chủ cơ sở để làm gương

cho nhân dân, cho người lao động. Bởi vậy, những kết quả đạt được trong thực hiện

113

dân chủ cơ sở không thể tách rời vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ công

chức, đảng viên tại cơ sở.

Ở một số địa phương, ngoài vai trò của đội ngũ cán bộ công chức cấp xã còn

phát huy mạnh mẽ vai trò của đội ngũ cán bộ tự quản như trưởng thôn, tổ trưởng

dân phố trong công tác thực hiện dân chủ cơ sở.

Thứ tư, sự đồng thuận, ủng hộ và tham gia chủ động, tích cực của các tầng

lớp nhân dân tại đơn vị cơ sở.

Pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta trong những năm qua đã như

luồng sinh khí mới vào đời sống sinh hoạt chính trị, xã hội ở các địa phương. Chính

vì vậy, việc triển khai thực hiện dân chủ cơ sở đã nhận được sự đồng thuận, ủng hộ

và tham gia chủ động, tích cực của các tầng lớp nhân dân, mang lại những thành

tựu, kết quả tích cực. Khi nhân dân đã thông suốt về tư tưởng, đồng thuận cao với

chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước thì việc thực hiện dân chủ cơ sở sẽ

trở nên thuận lợi, dễ dàng. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có tổng kết:

“Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.

3.5.3.2. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập

Thứ nhất, do pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở còn thiếu và bất cập.

Như đã phân tích ở trên, pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở hiện đang

thiếu tính đồng bộ và toàn diện. Nhiều quy định lạc hậu, thậm chí mâu thuẫn, chồng

chéo. Hiện cũng đang thiếu nhiều quy định trong điều chỉnh các quan hệ liên quan

đến cơ chế phối hợp thực hiện dân chủ cơ sở, trong khi nhiều quy định lại chưa cụ

thể, khó áp dụng.

Điều đáng chú ý là vai trò, trách nhiệm của các thiết chế trong hệ thống chính

trị cơ sở đối với thực hiện dân chủ cơ sở chưa được định chế hóa một cách cụ thể.

Thứ hai, một số cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở còn xem nhẹ vai trò của

việc thực hiện dân chủ cơ sở nên công tác lãnh đạo chưa sâu sát, sự chỉ đạo còn

mang tính hình thức, đối phó.

Trong thực hiện dân chủ cơ sở, các cấp ủy Đảng, chính quyền cấp xã giữ vai

trò là chủ thể giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, quản lý. Nếu chủ thể nhận thức

đầy đủ vai trò của mình, có sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt thì hoạt động

thực hiện dân chủ cơ sở sẽ đạt được chất lượng, hiệu quả cao. Ngược lại, chủ thể

114

xem nhẹ vai trò của việc thực hiện dân chủ cơ sở, công tác lãnh đạo chưa sâu sát, sự

chỉ đạo còn mang tính hình thức, đối phó thì chất lượng, hiệu quả thấp là điều chắc

chắn sẽ xảy ra. Thực tiễn thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta cũng đã chứng minh

điều này. Một số cấp uỷ, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ, thiếu chủ động, sáng

tạo trong chỉ đạo thực hiện. Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở một số cơ sở

chưa được bổ sung, kiện toàn kịp thời, hiệu quả hoạt động chưa cao. Sự phối hợp

của chính quyền với các ban, ngành, đoàn thể chưa chặt chẽ, nhiều nơi còn thể hiện

rất hình thức, công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện dân chủ ở cơ sở chưa

thường xuyên. Phương thức lãnh đạo của một bộ phận cấp ủy đảng cơ sở còn hạn

chế, chưa gắn vai trò, trách nhiệm cá nhân trong chỉ đạo, triển khai thực hiện; thiếu

kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện quy chế dân chủ.

Thứ ba, một bộ phận trong đội ngũ cán bộ công chức, đảng viên chưa nhận

thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình trong việc triển khai thực hiện dân chủ cơ

sở nên chưa tận lực, tận tâm.

Trong quá trình cải cách hành chính và thực hiện dân chủ ở nước ta, nhận

định chung đều cho rằng, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tuy về trình độ, kiến

thức và trách nhiệm đã được nâng lên, song một bộ phận không nhỏ, nhất là đội ngũ

cán bộ, công chức cấp xã, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới. Bản thân

nhiều cán bộ, công chức, đảng viên chưa nhận thấy đầy đủ tầm quan trọng của thực

hiện dân chủ tại cơ sở nên chưa thật sự tận tâm.

Thứ tư, một bộ phận nhân dân chưa có hiểu biết đầy đủ pháp luật về thực

hiện dân chủ cơ sở nên chưa chủ động, tích cực tham gia vào quá trình này.

Trên thực tế, nhận thức pháp luật về dân chủ của người dân còn hạn chế,

không đồng đều. Đối với việc thực hiện những nội dung nhân dân bàn và quyết

định trực tiếp, tuy dân được bàn bạc, đóng góp ý kiến và quyết định, nhưng do hiểu

biết pháp luật hạn chế nên nhiều ý kiến đưa ra còn cảm tính, thiếu thuyết phục. Mặt

khác, do nhu cầu mưu sinh, nên người dân chưa tham gia được nhiều vào việc phát

huy quyền dân chủ. Đặc biệt, người dân và cán bộ ở cơ sở chưa có nhận thức thống

nhất và đúng đắn về sự tham gia. Nhận thức lợi ích của việc tham gia mới dừng ở

mức chung chung, chưa thực sự hiểu hết được ý nghĩa của nó là nâng cao vị thế,

115

năng lực, nhận thức và hành vi của người dân bao gồm cả việc nâng cao tính minh

bạch, công khai, tính trách nhiệm và giải trình, thúc đẩy việc thực hiện quá trình

phân cấp diễn ra mạnh hơn, là động lực thúc đẩy vận động xã hội, góp phần xây

dựng xã hội dân chủ và văn minh, tạo ra sự công bằng và đồng thuận xã hội. Một số

cán bộ và người dân hiểu khái niệm tham gia chưa đầy đủ, đơn thuần chỉ là việc

đóng góp (tiền, công lao động) hoặc sự có mặt trong các cuộc họp. Gần đây, sự

tham gia đã trở thành một vấn đề được xã hội quan tâm. Tuy nhiên, vẫn thiếu vắng

những hoạt động tuyên truyền, đào tạo nâng cao nhận thức về sự tham gia cho cán

bộ và người dân.

Thứ năm, cơ chế giám sát ở địa phương và năng lực giám sát của các bộ

phận còn nhiều hạn chế. Chưa có có sự phân định quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng

cho các bộ phận và cá nhân trong hệ thống giám sát.

Mặc dù chính quyền cấp cơ sở đã tạo điều kiện cho người dân thực hiện

quyền tham gia, giám sát các hoạt động của chính quyền tại địa phương nhưng

hoạt động giám sát ở cơ sở nhất là đơn vị cơ sở ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số

còn yếu kém. Hệ thống giám sát hiện đã được mở rộng cùng với việc phân cấp

(không chỉ có cơ quan chuyên trách - Ban Thanh tra nhân dân, mà còn có các tổ

chức xã hội và người dân cũng tham gia giám sát). Tuy nhiên, các bộ phận, cá

nhân trong hệ thống giám sát hoạt động thiếu sự phối hợp, chồng chéo lẫn nhau do

chưa được phân định rõ ràng. Cơ chế phản hồi thông tin trở lại người dân một

cách rõ ràng cũng chưa có. MTTQ và các tổ chức thành viên thiếu sự độc lập,

thậm chí, một số ý kiến cho rằng, MTTQ và các tổ chức thành viên chưa thực sự

được trao quyền trong giám sát. Sự kết hợp giữa Ban Thanh tra nhân dân, Ban

giám sát công trình với các tổ chức xã hội, cán bộ thôn thiếu chặt chẽ cũng làm

giảm hiệu quả giám sát các chương trình kinh tế - xã hội ở cơ sở. Với năng lực

như hiện nay, hệ thống giám sát ở cơ sở không đủ khả năng giải quyết được tất cả

những việc cần giám sát và không đạt được những mong muốn đặt ra cho hệ

thống giám sát thực thi dân chủ ở cơ sở.

116

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam

về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì

nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Hiến pháp và pháp luật Việt

Nam đã có sự ghi nhận, quy định ngày càng đầy đủ, tiến bộ hơn nhằm bảo đảm để

nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình một cách thực chất, hiệu quả.

Cùng với đổi mới hệ thống chính trị, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở

ở Việt Nam đã có những đổi mới tích cực, toàn diện về các nguyên tắc, thể chế,

thiết chế nhằm xác lập và thực thi các quyền làm chủ của nhân dân. Bên cạnh đó,

các điều kiện đảm bảo thực hiện dân chủ tại cơ sở cũng có rất nhiều chuyển biến

mạnh mẽ. Trên cơ sở đó, sự vận hành của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có

tác động tích cực trên nhiều phương diện. Điều này cho phép khẳng định tính đúng

đắn trong định hướng phát huy dân chủ cơ sở ở nước ta và là động lực để tiếp tục

hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở.

Tuy nhiên, thực trạng cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta còn

tồn tại nhiều hạn chế, bất cập trên cả phương diện thể chế, thiết chế và các điều kiện

đảm bảo thực thi dân chủ. Hệ quả dễ nhận thấy là làm giảm sút hiệu quả tác động

của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở. Tình trạng này là tổng hòa của nhiều

nguyên nhân, trong đó những nguyên nhân chủ quan thuộc về hệ thống pháp luật và

quá trình triển khai thực hiện pháp luật là nguyên nhân căn bản.

Đặt trạng thái hiện hành của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ và thực trạng

tác động của nó trước nhu cầu phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhân dân tại

địa bàn cơ sở trong bối cảnh đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở

Việt Nam hiện nay đã cho phép nhận diện nhu cầu, tính tất yếu và khả năng tiếp tục

hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay.

117

Chương 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ

THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. DỰ BÁO NHỮNG CHUYỂN BIẾN CỦA XÃ HỘI TÁC ĐỘNG ĐẾN

QUÁ TRÌNH HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở

VIỆT NAM

4.1.1. Mức độ tác động của việc hoàn thành các nhiệm vụ chính trị, kinh

tế, xã hội căn bản của đất nước đến năm 2020, tầm nhìn 2030

Mục tiêu cơ bản đặt ra cho đất nước ta trong giai đoạn tới là xây dựng đất

nước đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đẩy

mạnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với những dự báo về khả năng tác động

của nó, các mục tiêu này vừa là cơ hội, vừa là thách thức lớn đối với nhiệm vụ hoàn

thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta.

Sự phát triển công nghiệp phúc đáp mục tiêu biến nước ta thành một nước

công nghiệp theo hướng hiện đại một mặt đánh dấu sự chín muồi của kinh tế thị

trường, tạo ra nền tảng kinh tế cho việc hiện thực hóa nền dân chủ cơ sở nhưng

đồng thời dẫn đến những biến đổi lớn về mặt kết cấu giai cấp xã hội. Trên lĩnh vực

tinh thần, tư tưởng, có thể dẫn tới sự thay đổi tư duy và lối sống đến mức có thể làm

xoay chuyển các giá trị truyền thống, những giá trị mới mà theo nếp nghĩ truyền

thống là khó chấp nhận nhưng vẫn được khẳng định cùng với ý thức dân chủ và tinh

thần đòi hỏi dân chủ ngày càng lớn trong công chúng. Như vậy, mục tiêu xây dựng

Việt Nam thành một quốc gia công nghiệp theo hướng hiện đại vừa tạo ra cơ hội,

vừa đặt ra những thách thức rất lớn, thúc đẩy hơn nữa quá trình dân chủ hóa sâu

rộng trong mọi mặt đời sống xã hội.

Nhiệm vụ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính được

xác định là một trong ba đột phá chiến lược từ nay đến năm 2020. Có thể nói, đây là

một nhiệm vụ đòi hỏi cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa theo chiều rộng và chiều sâu; xác định rõ hơn mối quan hệ giữa

Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng

118

xã hội chủ nghĩa. Điều này sẽ tạo nên những tiền đề vật chất và môi trường cho

bước phát triển mới đối với các quan hệ xã hội, tác động sâu sắc đến các nhận thức

và đòi hỏi thực thi, phát huy dân chủ.

Những kết quả phát triển kinh tế - xã hội tất yếu sẽ dẫn tới những chuyển

biến trong tâm lý xã hội của các nhóm dân cư. Về vấn đề này, sẽ có hai khả năng

xảy ra: (i) những thất bại trong phát triển kinh tế, trong việc thực thi các chính sách

xóa đói, giảm nghèo và các chương trình xã hội khác sẽ gây ra tâm lý tiêu cực, suy

giảm lòng tin của người dân, phá vỡ khối đồng thuận xã hội và mất động lực phát

triển; (ii) ngược lại, những thành công trong phát triển kinh tế - xã hội sẽ là cơ hội

thuận lợi cho đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin, tạo cơ sở cho các phản ứng tích

cực đối với các chủ trương, quyết sách của Đảng và Nhà nước trong xây dựng, phát

triển địa phương.

Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một định

hướng có tính nguyên tắc trong chiến lược phát triển của đất nước ta. Nhà nước ta

được khẳng định là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân

dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo vệ

các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy

nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có

sự phân công phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các

quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp [38, tr.52].

Toàn bộ tình hình nói trên đặt nhiệm vụ phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa

trước những thách thức lớn. Liên quan trực tiếp đến bối cảnh nói trên là nhu cầu

chuẩn hóa hệ thống lý luận về dân chủ, tiếp thu những hạt nhân hợp lý của các lý

thuyết mới để tiếp tục bổ sung, hoàn thiện lý luận về dân chủ, trong đó dân chủ cơ

sở là một nội dung đặc biệt quan trọng.

4.1.2. Những biến đổi to lớn và sâu sắc của bối cảnh quốc tế với những

thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường liên quan đến các vấn đề về toàn

cầu hóa, hội nhập

Toàn cầu hoá kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức

biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức

đan xen rất phức tạp. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng

119

lớn. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày

càng sâu rộng. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu

đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế. Sự phụ thuộc lẫn nhau, hội

nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước ngày càng trở thành phổ biến.

Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó con người và tri thức càng trở

thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia [38, tr.97].

Cùng với quá trình đó, vị thế kinh tế và chính trị của khu vực châu Á, nhất là

các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ngày càng gia tăng. Đây là giai đoạn

mà nước ta cùng với các nước khác ở Đông Nam Á hoàn thành tiến trình xây dựng

một cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột hội nhập kinh tế, an ninh và xã hội hoạt

động theo Hiến chương ASEAN. Trong bối cảnh đó, nhu cầu hội nhập quốc tế đòi

hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách Nhà nước, cải cách pháp luật, củng cố

hệ thống chính trị, đồng thời đảm bảo mở rộng và phát huy dân chủ, củng cố độc

lập, tự chủ để giữ vững và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Như vậy, thực tiễn sẽ đặt ra nhiều thời cơ và thách thức cho Việt Nam trong

quá trình hội nhập, tiếp tục xây dựng và củng cố vị trí, vai trò trong sự phát triển

chung của thế giới. Điều đó đòi hỏi phải có những thay đổi quan trọng trong tư duy

chính trị, đổi mới quan niệm về các mối quan hệ trong hệ thống chính trị, mà vấn đề

cốt lõi, có tính nguyên tắc là bảo đảm và phát huy dân chủ về mọi mặt.

4.1.3. Mức độ dân chủ hóa và thực hành dân chủ ở đơn vị cơ sở

Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 là sự khẳng định rõ

nét nhất về xu hướng dân chủ hóa đất nước, đẩy mạnh dân chủ trực tiếp, dân chủ

đại diện ở nước ta hiện nay và những năm tiếp theo. Bản Hiến pháp 2013 cũng tạo

lập cơ chế hữu hiệu để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ, thực hiện tốt

hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,thị trấn.

Trong bối cảnh và quyết tâm chính trị đó, có thể dự đoán bước phát triển mới

về dân chủ trong Đảng, trong hoạt động nhà nước và trong toàn xã hội nói chung, ở

đơn vị cơ sở nói riêng.

Về mặt nhận thức, chắc chắn sẽ có sự thay đổi lớn trong quan niệm về dân

chủ và dân chủ tại cơ sở. Một sự thay đổi phù hợp trong giai đoạn tới sẽ đi theo

120

chiều hướng xem dân chủ cũng như quyền làm chủ của người dân là quyền tự

nhiên, vốn có của người dân, không do ai ban phát. Vấn đề không phải là “thu

hút” hay “phát huy” mà là “tôn trọng và bảo đảm” thực hiện dân chủ. Nhận thức

về dân chủ cũng sẽ phải chuyển hướng xem dân chủ không phải tự nhiên đến

được, phải qua rèn luyện và đấu tranh trong thực tế, không một xã hội nào mà dân

chủ có thể “nhảy cóc” từ số không đến nền dân chủ văn minh mà phải theo quy

luật lượng đổi chất đổi và vì vậy, về mặt phương pháp, nếu muốn có dân chủ thật

sự thì dân chúng phải được thực hành ngay trong đời sống chính trị - pháp lý.

Theo đó, dân chủ không chỉ là sự tham gia, đóng góp trí tuệ tập thể, các nguồn lực

của nhân dân vào vận hành của bộ máy nhà nước, mà còn phải xem đây là phương

thức tránh các sai lầm của người lãnh đạo, của nhà nước. Tương tự như vậy, bản

chất của dân chủ ở cơ sở là phát huy quyền làm chủ của người dân trên mọi mặt ở

cơ sở, vì vậy, đây sẽ được xem là một hình thức dân chủ hỗn hợp, ở đó, dân chủ

trực tiếp là một trong những phương thức dân chủ được phát huy một cách cơ bản

và chủ yếu.

Có thể thấy trước một sự chuyển biến quan trọng về nhu cầu và năng lực

thực hành dân chủ trực tiếp của người dân tại địa bàn cơ sở trong thời gian tới. Trên

thực tế, người dân hoàn toàn có thể thực hiện được quyền dân chủ ngay cả khi dân

trí chưa cao. Tuy nhiên, có thể chắc chắn rằng, trong thời gian tới, trình độ dân trí

của người dân sẽ được nâng lên đáng kể, cùng với điều kiện kinh tế và mức sống

được cải thiện, trách nhiệm chính trị và ý thức cộng đồng được vun đắp… sẽ đặt ra

yêu cầu ngày càng cao về đảm bảo quyền dân chủ và tạo ra tiền đề thuận lợi hơn

cho quá trình hiện thực hóa các quyền dân chủ của người dân.

Bối cảnh dự đoán nói trên đòi hỏi cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở

cần phải được hoàn thiện tương thích. Pháp luật và các thiết chế thực hiện dân chủ

cơ sở phải được thiết kế và vận hành hướng tới mục tiêu bảo đảm ngày càng đầy

đủ các quyền dân chủ của người dân. Tuy nhiên, sẽ khó khăn hơn gấp nhiều lần

việc ban hành văn bản pháp luật về dân chủ đó là xây dựng nếp sống dân chủ tại

cơ sở.

121

4.1.4. Xu hướng vận động của hệ thống chính trị Việt Nam trong thời

gian tới

Ở Việt Nam, thực chất của đổi mới hệ thống chính trị là phát huy dân chủ xã

hội chủ nghĩa. Với tính cách là hệ thống các thiết chế được nhân dân trao quyền lực

chính trị, hệ thống chính trị là phương thức quan trọng để nhân dân thực hiện quyền

làm chủ của mình dưới các hình thức và cấp độ khác nhau. Mỗi thiết chế trong hệ

thống chính trị đều là một phương thức bảo đảm địa vị “là chủ” và quyền “làm chủ”

của nhân dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đều có trách nhiệm biến các

giá trị dân chủ thành hiện thực cuộc sống. Vì vậy, xu hướng vận động của hệ thống

chính trị, trong đó có hệ thống chính trị cơ sở có tác động mạnh mẽ tới quá trình

hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam.

Trong thời gian tới, nhiệm vụ đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam có khả

năng xảy ra một trong ba xu hướng sau:

Thứ nhất, hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới, giải quyết thành công

những mục tiêu chính trị quan trọng hàng đầu, tạo được động lực mạnh mẽ cho phát

triển kinh tế và lành mạnh hoá xã hội.

Nội dung căn bản của xu hướng này là đổi mới hệ thống chính trị thành

công, trở thành lực đẩy mạnh mẽ để thúc đẩy kinh tế tăng trưỏng, hướng tới mục

tiêu phát triển bền vững, xã hội trở nên lành mạnh theo các chuẩn mực công bằng,

dân chủ. Quan sát thực tiễn đổi mới, có thể nhận ra nhiều dấu hiệu quan trọng cho

phép tin vào xu hướng phát triển tích cực, thuận chiều của đổi mới hệ thống chính

trị ở nước ta. Đây là một khả năng thực tế nhưng đòi hỏi sự nỗ lực quên mình, sự hy

sinh phấn đấu của toàn đảng, toàn dân ta, trong đó lực lượng chủ đạo quyết định

thành công của đổi mới và đổi mới hệ thống chính trị là Đảng và tính mục đích của

đổi mới hệ thống chính trị là hướng vào phát triển toàn diện kinh tế - xã hội - văn

hoá để phục vụ tốt nhất cuộc sống của nhân dân.

Thứ hai, hệ thống chính trị tiếp tục có những đổi mới nhưng không đồng

bộ,triệt để; tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị tuy có những chuyển biến

từng mặt nhưng hiệu quả thấp không đủ sức để tạo được đột phá và sự phát triển

mới về chất.

122

Xu hướng này cho thấy, đổi mới hệ thống chính trị mới dừng ở những cải

cách chứ chưa ở tầm chuyển biến mang tính cách mạng. Ổn định chính trị vẫn đạt

được nhưng chưa hẳn là tích cực và phát triển. Trong trường hợp có những khó

khăn đột biến về kinh tế xã hội ở trong nước hoặc những tác động bất lợi từ thế giới

dội vào thì hệ thống chính trị với xu hướng nêu trên sẽ không đủ sức để duy trì ổn

định, không thể chủ động định hướng phát triển, rất dễ rơi vào tình trạng bị động,

thụ động trước tình hình. Nguy cơ chệch hướng, mất phương hướng có thể xảy ra.

Xu hướng này là một thực tế không thể xem thường.

Thứ ba, hệ thống chính trị lâm vào tình trạng khủng hoảng, tái sinh những

dấu hiệu trì trệ, ngăn cản xu hướng đổi mới tích cực và phát triển lành mạnh của xã

hội. Các thế lực chống đối núp dưới danh nghĩa phong trào đấu tranh cho dân chủ

và tự do, kích động dân chúng gây rối loạn xã hội và mất ổn định chính trị, thậm chí

đòi thay đổi chế độ.

Đây là tình huống hoàn toàn không mong muốn nhưng có khả năng xảy ra

nếu chúng ta mất cảnh giác, xa rời định hướng, thiếu quyết tâm chính trị và các giải

pháp tích cực. Những dấu hiệu ban đầu của xu hướng này đang tiềm ẩn trong lòng

xã hội. Vấn đề là cần phải làm gì và làm như thế nào để loại trừ những biểu hiện đó,

để ngăn chặn không cho những biến động chính trị có thể xảy ra. Câu trả lời nằm ở

cách xử lý những vấn đề liên quan đến công tác chỉnh đốn Đảng, tăng cường hiệu

lực của Nhà nước và phát huy sức mạnh của các đoàn thể nhân dân, đảm bảo quyền

dân chủ của người dân.

Dự báo về các xu hướng vận động có thể xảy ra của hệ thống chính trị Việt

Nam trong thời gian tới là để đặt vấn đề về một hệ thống các giải pháp cần phải

được triển khai trên phạm vi toàn hệ thống chính trị nói chung, trong các cấp độ của

hệ thống chính trị nói riêng nhằm nâng cao năng lực tổ chức thực hành dân chủ.

Tùy thuộc vào bối cảnh và tình hình cụ thể, các giải pháp có thể có những điểm

nhấn khác nhau nhưng yêu cầu chung là mọi giải pháp đều mang tính chất và ý

nghĩa là giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn cái xấu, hạn chế và giảm thiểu các tình

huống xấu nhất, đồng thời thúc đẩy cái tốt, cái tích cực, thúc đẩy cho những khả

năng tích cực trở thành một hiện thực thực tế.

123

4.2. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC HIỆN DÂN CHỦ

CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.2.1. Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải đặt

trong tổng thể mối liên hệ với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, phát huy dân chủ xã

hội chủ nghĩa

Một trong những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền, đó là yêu cầu thực

hành dân chủ trong một nhà nước bảo đảm được tính chính đáng của mình, dựa trên

cơ sở tuân thủ và tự giới hạn các quyền của mình bằng pháp luật - một thứ pháp luật

mang tính hợp lý, công bằng.

Trong trật tự nhà nước pháp quyền, bất kỳ nhà nước nào cũng phải khẳng

định và bảo đảm được tính chính đáng của mình. Tính chính đáng này trước hết

phải thể hiện ở sự tín nhiệm của nhân dân đối với nhà nước. Có nghĩa là trong mọi

hoạt động của mình, nhà nước phải thể hiện được bản chất của dân, do dân và vì

dân, luôn hướng tới việc chăm lo, bảo vệ, phục vụ lợi ích của nhân dân. Bên cạnh

việc củng cố tổ chức bộ máy vững mạnh, thân thiện, hợp tác với người dân, cần

phải tạo lập các kênh, các thiết chế phản ánh được nguyện vọng, ý chí của nhân dân

một cách hiệu quả, trong đó có cơ chế pháp lý thực thi dân chủ tại cơ sở. Theo

hướng này cần sớm nhận thức lại cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân

dân làm chủ” để tránh tình trạng giữa Đảng và Nhà nước còn chồng chéo về chức

năng và nhiệm vụ, nhân dân làm chủ nhưng không có thực quyền và không có

quyền quyết định. Cũng cần nghiên cứu sử dụng khái niệm xã hội dân sự vì đây là

vấn đề liên quan rất chặt chẽ với vấn đề dân chủ. Tránh vấn đề này là né tránh một

trong ba trụ cột của sự phát triển.

Yếu tố hạt nhân trong nhà nước pháp quyền, đó là tính tối thượng của pháp

luật, mà Hiến pháp là đạo luật tối cao. Pháp luật ở đây phải là đại lượng của tính

công bằng, hợp lý, bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Đặc điểm này của pháp luật

trong nhà nước pháp quyền phản ánh hai nội dung: thứ nhất, pháp luật phải thể

hiện được ý chí, nguyện vọng và những giá trị nhân văn, đã được kết tinh, giữ gìn

124

và bảo vệ, trước hết là của nhân dân trong quốc gia đó; thứ hai, pháp luật ấy phải

là phương tiện, môi trường, hành lang pháp lý để thúc đẩy các cơ chế bảo đảm,

bảo vệ quyền con người, các giá trị dân chủ, văn minh được thực thi trong thực tế.

Dân chủ cơ sở đương nhiên trở thành một nội dung không thể thiếu trong sự phản

ánh của pháp luật, đồng thời là sự thể hiện trên thực tế của sự phản ánh hai nội

dung nói trên.

Như vậy, chính việc thiết kế cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là một

trong những chất keo kết dính quan trọng để các cột trụ phát triển đất nước được

củng cố vững chắc hơn nữa.

4.2.2. Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải đạt được

sự tương thích với các cơ chế thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện ở

Việt Nam

Việc phân chia các hình thức dân chủ thành dân chủ trực tiếp và dân chủ

đại diện cho đến nay vẫn chỉ mang tính tương đối. Cần phải khẳng định rằng

các hình thức dân chủ đều cần thiết và có vai trò quan trọng như nhau. Phân

chia các hình thức dân chủ không nhằm đặt dân chủ trực tiếp cao hơn dân chủ

gián tiếp hay ngược lại, mà chỉ nhằm phản ánh tính đa dạng của các hình thức

dân chủ mà thôi.

Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thực chất là hai hình thức dân chủ bổ

sung cho nhau. Hình thức này tạo điều kiện bổ sung những hạn chế của hình thức

kia và ngược lại. Đồng thời, dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện nằm trong tổng

thể các hình thức dân chủ đa dạng, phản ánh chủ thuyết quyền lực gốc của Nhà

nước thuộc về nhân dân.

Dân chủ cơ sở là hình thức dân chủ hỗn hợp, vừa bao gồm dân chủ đại diện

vừa bao gồm dân chủ trực tiếp, trong đó yếu tố dân chủ trực tiếp phổ biến hơn. Vì

vậy, hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải đảm bảo độ tương thích

với các cơ chế thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay. Tương thích không có nghĩa là

không có sự khác biệt. Vấn đề chỉ nằm ở chỗ là sự khác biệt đó không đi tới chỗ

mâu thuẫn, chồng chéo, phủ nhận lẫn nhau.

125

4.2.3. Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải đảm bảo

sự đa dạng và tính khả thi của các hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở

Một cơ chế pháp lý thực thi dân chủ cơ sở được coi là hoàn thiện khi pháp

luật quy định nhiều hình thức thực hiện dân chủ đa dạng tại cơ sở, nhất là những

hình thức dân chủ trực tiếp có ảnh hưởng lớn đến quyền lợi ích của người dân và có

khả năng thực hiện được trong những điều kiện hiện tại của đất nước. Việc quy định

các hình thức thực hiện dân chủ tại cơ sở phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính

trị, văn hóa, xã hội… của đất nước, tâm lý và khả năng nhận thức, sử dụng của nhân

dân ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định là điều kiện quan trọng để có thể thực hiện

chúng trên thực tế. Với nhiều hình thức thực hiện dân chủ tại cơ sở sẽ làm cho cơ

chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có thể đạt tới kết quả tốt nhất trong quá trình

vận hành. Đồng thời cũng là điều kiện để cơ chế pháp lý thực thi dân chủ cơ sở có

khả năng thích nghi với sự phát triển xã hội ở mỗi giai đoạn nhất định, làm cho cơ

chế luôn luôn có sự đổi mới, hoàn thiện và phát triển đáp ứng nhu cầu dân chủ hóa

đời sống nhà nước và xã hội.

4.2.4. Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải đảm bảo

sự gắn kết chặt chẽ, thống nhất giữa các thành tố và sự vận hành khoa học,

hiệu quả của toàn cơ chế

Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực thi dân chủ cơ sở không chỉ thuần túy yêu

cầu có sự hiện diện và hoàn thiện của mỗi thành tố trong cơ chế mà còn phải có sự

gắn kết chặt chẽ, sự tác động qua lại nhịp nhàng và sự thống nhất giữa các thành tố

của cơ chế. Một cơ chế chỉ có thể được cho là hoàn thiện khi tất cả các thành tố của

nó luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau, kiểm tra, giám

sát, kiểm soát lẫn nhau trong một thể thống nhất.

Mối quan hệ gắn kết, tác động qua lại và thống nhất giữa các thành tố phải

bảo đảm cho sự vận hành khoa học và hiệu quả của cơ chế pháp lý thực thi dân chủ

cơ sở. Muốn vậy, cấu trúc và vận hành của cơ chế phải bảo đảm tính khoa học,

không quá phức tạp đến mức có thể không thực hiện được trên thực tế. Tất cả các

thành tố thuộc cơ chế phải bảo đảm tính hợp pháp, nghĩa là các thể chế quy định về

dân chủ cơ sở phải phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, các thiết chế thực thi dân

126

chủ cơ sở phải được nhà nước cho phép thành lập, cho phép tồn tại, hoạt động, các

điều kiện cho việc thực hiện dân chủ cơ sở phải được pháp luật ghi nhận và bảo

đảm thực hiện.

Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở sẽ hiệu quả khi nó được xây dựng và

vận hành phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa truyền thống

của đất nước. Những chi phí cho việc vận hành cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ

sở không quá cao, có khả năng thực hiện được trên thực tế.

4.2.5. Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải đảm bảo

tạo điều kiện phát huy tính tích cực, chủ động của nhân dân trong thực hiện

quyền làm chủ tại cơ sở

Quan điểm này nhằm khẳng định vai trò trung tâm của nhân dân trong mục

tiêu và nội dung hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở.

Một trong những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế pháp lý

thực thi dân chủ cơ sở ở Việt Nam là mức độ hoàn thiện của các thể chế liên quan

đến dân chủ cơ sở, trước hết là các quy định pháp luật về phạm vi các quyền dân

chủ tại cơ sở; các quy định về trình tự, thủ tục để người dân thực hiện đầy đủ các

quyền dân chủ tại cơ sở; các quy định về trách nhiệm, quyền hạn của các thiết chế

tham gia tổ chức thực hiện dân chủ cơ sở; các quy định về kiểm tra, giám sát quá

trình thực hiện dân chủ ở cơ sở. Tính khả thi của thể chế thể hiện ở việc các quy

định của thể chế được ban hành phải phù hợp với cơ chế thực thi hiện hành. Nếu

không chú đến vấn đề này thì quy định của nhiều thể chế chỉ mang tính hình thức.

Do vậy, khi ban hành các quy định của thể chế phải xem xét tới điều kiện về kinh

tế, chính trị, xã hội của đất nước có cho phép thực hiện được quy định đó hay

không, đồng thời phải tính đến các điều kiện khác như tổ chức bộ máy, trình độ của

đội ngũ cán bộ, nhân viên có cho phép thực hiện được không, dư luận xã hội trong

việc tiếp nhận quy định đó, trình độ văn hoá và kiến thức pháp lý của nhân dân.

Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải thể hiện ở kết quả, mục đích

cuối cùng mà nó hướng đến và đạt được trên thực tế là quyền làm chủ của nhân dân

được thực hiện đúng pháp luật, đúng mục đích và làm cho cuộc sống của nhân dân

ngày càng tốt đẹp hơn.

127

4.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC HIỆN DÂN CHỦ

CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.3.1. Nâng cao nhận thức về dân chủ cơ sở và vai trò của cơ chế pháp lý

thực hiện dân chủ cơ sở

Trước hết, cần phải nhận thức được “dân chủ” theo nghĩa chủ động.

Trên thực tế, nhận thức khá phổ biến về mối quan hệ giữa nhà nước và nhân

dân là xem nhân dân như chủ thể thụ động, cần phải thu hút rộng rãi họ tham gia

vào hoạt động của Nhà nước. Trong nền chính trị hiện đại và dân chủ, điều này

không còn đúng nữa.

Dân chủ trong tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước phải là dân chủ chủ

động, là quyền của nhân dân, quyền của công dân. Dân chủ không chỉ là sự tham

gia, đóng góp trí tuệ tập thể, các nguồn lực của nhân dân vào vận hành của bộ máy

Nhà nước, mà còn phải xem đây là phương thức tránh các sai lầm của người lãnh

đạo, của Nhà nước. Dân chủ là yêu cầu nội tại của mỗi quốc gia và là xu hướng có

tính chất toàn cầu. Nhưng quyền dân chủ đích thực chỉ có khi dân chủ được thực

hiện một cách tự do. Đây là thước đo đánh giá mức độ phát triển một chế độ chính

trị, mức độ tự do của con người. Đương nhiên, không có dân chủ tự do không có

giới hạn. Tự do phải là tất yếu được nhận thức và thực hiện. Giới hạn của tự do của

mỗi người là tự do của người khác. Nền dân chủ càng phát triển cao thì các quyền

tự dân chủ của công dân càng được mở rộng và thực chất.

Đối với nước ta, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, các thành tựu kinh tế

đã đưa nước ta trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, đời sống vật chất của

người dân đã được nâng cao hơn. Trong tính quy luật, những thành tựu đạt được

trong lĩnh vực kinh tế sẽ đòi hỏi tương ứng nhu cầu cao hơn về dân chủ, về quyền

chính trị của công dân. Đó không chỉ là nhu cầu của người dân mà còn là cách để

củng cố, bảo đảm duy trì và phát triển các thành quả về kinh tế.

Liên quan đến nhận thức chung về dân chủ là nhận thức về tiêu chí phân chia

các hình thức dân chủ.

Nói dân chủ đại diện người ta nhắc đến hình thức mà người dân ủy quyền

cho những người đại diện cho mình quyết định các công việc nhà nước trong phạm

vi xác định. Dân chủ đại diện thường gắn liền với các cơ quan hoạt động tập thể

128

nghị viện (hoặc tên gọi khác), hội đồng địa phương. Còn khi nói đến dân chủ trực

tiếp, người ta nói đến việc quyết định các công việc nhà nước do công dân trực tiếp

thực hiện không thông qua khâu trung gian. Ở đây có thể sẽ xuất hiện câu hỏi lớn:

giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, có những hình thức thể hiện quyền của

người dân nhưng sẽ xếp vào đâu nếu chỉ theo tiêu chí nói trên? Các hình thức đó

như: khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản biện xã hội, tư vấn xã hội, giám sát trực tiếp

của người dân. Các hình thức này tự nó không có vai trò quyết định trong việc ra

quyết định hoặc thực hiện các hành động, hành vi nào của cơ quan nhà nước, người

có thẩm quyền. Vậy nên chăng, trong nhận thức lý luận cần xem nó như một yếu tố

của công đoạn, hay quy trình không thể thiếu trong các trường hợp nhất định để

chính quyền quyết định về vấn đề nào đó. Về cơ bản, đây là các hình thức đứng

trung gian để thực hiện quyền của người dân, vừa mang yếu tố của dân chủ trực tiếp

(xét về tính chất và mục tiêu), vừa mang yếu tố của dân chủ đại diện (xét về kỹ

thuật thực hiện). Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng khi người dân, qua việc bầu cử,

bầu ra người đại diện của mình để thay mặt mình, thực hiện quyền lực mà nhân dân

ủy thác, thì việc bầu cử ở đây chính là một phương thức để tạo lập nên nền dân chủ

đại diện, một công đoạn của dân chủ đại diện...

Các phân tích nói trên nhằm đi tới yêu cầu nhận thức đúng về dân chủ cơ sở.

Do bản chất của dân chủ ở cơ sở là phát huy quyền làm chủ của người dân trên mọi

mặt ở cơ sở, nên đây là một hình thức dân chủ hỗn hợp, ở đó, dân chủ trực tiếp là

một trong những hình thức dân chủ được phát huy một cách cơ bản và chủ yếu.

Gắn mật thiết với yêu cầu nâng cao nhận thức về dân chủ, dân chủ cơ sở là

nhu cầu cần thiết đổi mới tư duy lý luận về Nhà nước pháp quyền Việt Nam và về

nền chính trị Việt Nam hiện nay. Trên thực tế, trong 30 năm đổi mới vừa qua,

chúng ta đã từng bước hình thành nhận thức về Nhà nước pháp quyền. Đến nay,

những đường nét cơ bản về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và

theo đó, những yêu cầu cơ bản của Nhà nước pháp quyền Việt Nam đối với việc

phát huy dân chủ đã được định hình. Tuy nhiên, một chủ thuyết đầy đủ về Nhà

nước pháp quyền Việt Nam vẫn chưa được xác lập, kéo theo những lúng túng trong

nhận diện và triển khai các cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ.

129

Tương tự như vậy, trong tiến trình đổi mới từ năm 1986 đến nay, có thể thấy

nhiều vấn đề của hệ thống chính trị đã được đặt ra nghiên cứu và có những nhận

thức ngày càng rõ ràng hơn. Từ chỗ giáo điều, cứng nhắc và áp đặt, nhận thức các

mối quan hệ trong hệ thống chính trị dần đi tới chỗ bàn luận về các vấn đề gai góc

có tính thực chất, cởi mở hơn. Trên thực tế, mặc dù Đảng ta đề cao vị trí chủ thể

quyền lực của nhân dân, coi hệ thống chính trị là hình thức thực hiện quyền lực

chính trị của nhân dân, là hệ thống các thiết chế được tổ chức để thực hiện các

nhiệm vụ và quyền hạn do nhân dân giao phó nhưng đang tồn tại mâu thuẫn rất lớn

trong nhận thức về mối tương quan giữa nhu cầu đảm bảo tính tối cao của nguyên

lý chủ quyền nhân dân với nhu cầu duy trì sự lãnh đạo duy nhất và toàn diện của

Đảng Cộng sản đối với nhà nước và và xã hội. Dường như chúng ta đang e ngại, né

tránh khi đề cập đến phạm vi, cơ chế, phương thức ủy quyền của nhân dân cho các

thiết chế trong hệ thống chính trị cũng như chưa chú ý đúng mức trong nhận thức về

tính chính đáng và hợp pháp của việc thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà

nước ở Việt Nam.

Một bộ phận lớn các vấn đề nêu trên đã được nhận thức lại và có những vấn

đề được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Gần đây, trên các phương tiện truyền

thông và trong các hội thảo, hội nghị… có nhiều vấn đề cốt tử của các mối quan hệ

trong nền chính trị, trong đó có các vấn đề liên quan đến dân chủ tại cơ sở lại tiếp

tục được bàn thảo sôi nổi. Tuy nhiên vẫn còn nhiều câu hỏi rất căn bản về hệ thống

chính trị, các mối quan hệ của hệ thống chính trị nếu chưa được giải quyết, chắc

chắn không thể thiết lập được cơ chế pháp lý hữu hiệu thực thi dân chủ cơ sở cũng

như tổ chức và hoạt động nói chung của hệ thống chính trị tại cơ sở.

4.3.2. Hoàn thiện thể chế thực hiện dân chủ cơ sở

4.3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về dân chủ cơ sở

Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của quá trình hoàn thiện thể chế pháp

lý liên quan đến thực hiện dân chủ cơ sở là nhu cầu pháp điển hóa hệ thống quy

định pháp luật hiện hành về dân chủ cơ sở. Theo hướng đó, vấn đề ban hành Luật

Dân chủ cơ sở được bàn thảo rất sôi nổi. Về cơ bản, đã có sự thống nhất cao về

nhu cầu ban hành Luật Dân chủ cơ sở. Tuy nhiên, liên quan đến phạm vi điều

130

chỉnh của Luật này, có nhiều ý kiến khác biệt, thậm chí trái chiều, thể hiện hai xu

hướng chính sau:

1. Ban hành một Luật chung điều chỉnh quá trình thực hiện dân chủ tại tất cả

các loại hình cơ sở (dân chủ ở cấp xã, doanh nghiệp, cơ quan hành chính nhà nước).

Luật này sẽ được hình thành trên cơ sở hợp nhất, chỉnh sửa, bổ sung các Quy chế

dân chủ cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn hiện hành.

Định hướng chung về nội dung của Luật là tăng cường hình thức thực hiện

dân chủ trực tiếp tại cấp cơ sở như tăng số lượng các công việc mà cấp chính quyền

cơ sở phải thông tin, thảo luận tiếp thu các ý kiến nguyện vọng của nhân dân, đồng

thời nâng cao hiệu lực pháp lý của việc tiếp thu ý kiến nhân dân đóng góp, nâng cao

vai trò giám sát của nhân dân đối với các cơ quan dân bầu, dân cử ở các địa phương,

cũng như các cơ quan đại diện ở địa phương do nhân dân hoặc HĐND bầu ra thông

qua các hình thức dân chủ trực tiếp hoặc dân chủ gián tiếp.

2. Xây dựng, ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên cơ

sở nâng Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn thành Luật với sự sửa

đổi, bổ sung nhiều điểm căn bản. Theo hướng này thì đồng thời với việc ban hành

Luật Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cũng sẽ diễn ra một quá trình tiếp

tục hoàn thiện và ban hành các văn bản để thực hiện Quy chế dân chủ ở các loại

hình cơ sở, các lĩnh vực mới chưa có quy chế; rà soát, sửa đổi, bổ sung các Quy chế

dân chủ tại cơ sở đang hiện hành. Đi đôi với quá trình đó là nhu cầu sửa đổi và ban

hành các văn bản pháp luật có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân

dân, đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo thuận lợi trong mọi hoạt động hợp pháp của

nhân dân. Công khai, minh bạch các chủ trương, chính sách, chế độ của Đảng, Nhà

nước các cấp cho dân, cho công nhân viên chức biết để kiểm tra, giám sát…

Xem xét hai xu hướng nói trên có thể thấy, việc ban hành một luật chung

cũng có ưu điểm là đạt được sự thống nhất về những nguyên tắc chung, giảm bớt

đầu mối văn bản. Tuy nhiên, do sự khác biệt về tính chất của các loại hình cơ sở

cũng như các yêu cầu khác biệt về nội dung, quy trình, thủ tục.. thực hiện dân chủ ở

mỗi loại hình cơ sở nên việc ban hành một Luật chung sẽ dễ dẫn tới sự gom lại một

cách khiên cưỡng các Quy chế dân chủ cơ sở, tạo thành những mảng khác nhau

131

trong một Luật hoặc Luật sẽ rơi vào trạng thái Luật nguyên tắc, quy định chung

chung và tiếp tục cần đến một số văn bản dưới luật để cụ thể hóa hoạt động dân chủ

trong từng loại hình cơ sở.

Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, xu hướng thứ hai mang tính hiện thực và

hợp lý hơn. Theo hướng đó, có thể đồng tình với ý kiến hiện nay của đa số các nhà

khoa học về việc sửa đổi Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và

nâng lên thành Luật Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn theo những hướng cụ

thể sau:

- Kế thừa, tiếp thu được những quy phạm pháp luật phù hợp, đã được thực

tiễn kiểm nghiệm trong quá trình thực hiện những năm qua;

- Mở rộng hơn nữa nội dung các quyền dân chủ của nhân dân, trao cho

nhân dân địa phương quyền được bàn và quyết định trực tiếp nhiều hơn các vấn

đề, nội dung liên quan thiết thực đến các vấn đề kinh tế - xã hội và lợi ích chung

của cộng đồng theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân

quyết định”;

- Bổ sung thêm các hình thức công khai những nội dung nhân dân phải được

biết, như hình thức phát miễn phí tài liệu tới từng hộ gia đình để người dân có thời

gian đọc, nắm bắt kỹ hơn nội dung thông tin...;

- Tăng thêm các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân ở xã,

phường, thị trấn, như nhân dân được tham gia bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch,

Phó Chủ tịch HĐND và Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã;

- Quy định cụ thể, rõ ràng thẩm quyền, chức năng của các cấp cao hơn, như

cấp tỉnh, cấp huyện, trong việc theo dõi, kiểm tra và đánh giá việc chính quyền cấp

xã triển khai thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở;

- Ngoài quy định Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của

Mặt trận ở cấp xã có trách nhiệm giám sát việc thực hiện và tham gia tuyên truyền,

vận động nhân dân thực hiện dân chủ cơ sở, phải quy định thêm vai trò của các tổ

chức xã hội dân sự trong giám sát độc lập việc thực hiện dân chủ ở cấp xã. Cần xây

dựng được cơ chế kiểm tra, giám sát đồng bộ việc thực hiện dân chủ cơ sở từ Trung

ương tới địa phương nhằm xử lý kịp thời những sai phạm xảy ra;

132

- Quy định cụ thể trách nhiệm cá nhân của những cán bộ lãnh đạo chủ chốt,

ít nhất là các chức danh Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND cấp xã

trong tổ chức thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở. Những nơi không thực hiện hoặc

thực hiện mang tính hình thức, đối phó, không hiệu quả, để xảy ra các vụ việc sai

phạm... thì những chức danh trên phải chịu trách nhiệm cá nhân trước nhân dân địa

phương, trước pháp luật;

- Quy định cụ thể về khen thưởng, kỷ luật, các biện pháp chế tài áp dụng trong

thực hiện dân chủ cơ sở: Quy định những thành tích cụ thể nào đạt được trong thực

hiện dân chủ cơ sở thì được đề nghị khen thưởng, cần lượng hóa thành tích bằng

những tiêu chí càng cụ thể càng tốt nhằm đảm bảo sự công bằng, khách quan, tạo

thuận tiện cho việc đánh giá, xét duyệt; Quy định cụ thể các loại hành vi vi phạm

trong thi hành pháp luật dân chủ cơ sở phải bị xử lý kỷ luật, như tính chất, mức độ

của lỗi, hậu quả xảy ra, ảnh hưởng của hành vi vi phạm trong cán bộ và nhân dân địa

phương. Quy định cụ thể hình thức xử lý kỷ luật đối với từng loại hành vi vi phạm cụ

thể, đảm bảo tính giáo dục đối với bản thân người vi phạm và tính ngăn ngừa, răn đe

đối với những người khác. Trường hợp hành vi vi phạm pháp luật về thực hiện dân

chủ cơ sở mà hội đủ các yếu tố cấu thành tội phạm của một tội nào đó được quy định

trong Bộ luật Hình sự thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

- Chú trọng đúng mức sự đầu tư nguồn lực cho công tác triển khai thi hành

pháp luật dân chủ cơ sở, đặc biệt là công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ

cán bộ công chức cấp xã.

4.3.2.2. Hoàn thiện một số lĩnh vực pháp luật có liên quan đến thực hiện

dân chủ cơ sở

Song song với việc xây dựng, ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn và việc rà soát, sửa đổi bổ sung các Quy chế dân chủ ở các loại hình

cơ sở khác, hiện rất cần hoàn thiện một số lĩnh vực pháp luật có liên quan trực tiếp tới

thực hiện dân chủ cơ sở để tạo ra sự đồng bộ, hỗ trợ cho việc thực hiện dân chủ cơ sở.

Theo tinh thần đó, trước mắt cần chú ý hoàn thiện một số lĩnh vực pháp

luật sau:

Thứ nhất, xây dựng và ban hành Luật về giám sát của nhân dân với sự tham

gia trực tiếp của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội của người dân

133

Đề xuất xây dựng và ban hành Luật về giám sát của nhân dân đã được nhắc

tới trong nhiều nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, đây vẫn đang là vấn đề mang tính

thời sự cấp bách.

Hiện nay, về phương diện chính trị, chúng ta nói nhiều đến sự kiểm tra, giám

sát của nhân dân, nhưng việc thực hiện quyền này chưa có quy định rõ ràng. Công

dân không biết mình có quyền gì, trong giới hạn nào và trách nhiệm của các cơ

quan nhà nước ra sao? Chưa có những quy định về quy trình, cách thức tiến hành

kiểm tra, giám sát. Chưa có quy định rõ về hệ quả pháp lý của kiểm tra, giám sát

của công dân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các kết quả của

hoạt động kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với bộ máy của Đảng và Nhà nước.

Không có các quy định cụ thể thì quyền này chỉ là những tuyên ngôn chính trị. Vì

vậy, trước mắt cần thực hiện tốt chế độ công khai trách nhiệm, quyền hạn của các

cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, trong đó cần đặc biệt chú trọng chế

độ báo cáo, thông tin, công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà

nước, cán bộ, công chức nhà nước, thực hiện chế độ kê khai tài sản của cán bộ công

chức nhà nước. Đồng thời, trên cơ sở rà soát, hệ thống hóa, pháp điển hóa các quy

định về giám sát của nhân dân trong các văn bản pháp luật để tiến tới xây dựng Luật

về giám sát của nhân dân. Trong Luật này, các vấn đề về thẩm quyền, lĩnh vực, nội

dung, hình thức, thủ tục giám sát của nhân dân cần được xác định rõ. Các quy định

cần bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của công dân trong việc xây dựng chính sách,

pháp luật là việc tiến hành thường xuyên. Trên cơ sở đó, cần có những hướng dẫn

thực hiện quy trình, thủ tục tiến hành đối với từng hình thức kiểm tra, giám sát như:

Tiếp xúc cử tri; Chất vấn đại biểu cơ quan dân cử; Đối thoại trực tiếp giữa các cấp

lãnh đạo Đảng và chính quyền nhà nước với người dân;

Thứ hai, nghiên cứu xây dựng pháp luật về phản biện xã hội

Cũng giống như Luật về giám sát của nhân dân, yêu cầu xây dựng pháp luật

về phản biện xã hội đã được đề cập đến từ khá lâu nhưng cho đến nay vẫn chưa có

được khung pháp lý cần thiết.

Phản biện xã hội là một hình thức nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực.

Nói cách khác, đó thực chất là sự phản biện của nhân dân. Với tư cách là chủ thể

của quyền lực nhà nước, thông qua thực hiện phản biện xã hội, nhân dân thực hiện

134

quyền giám sát của mình đối với Nhà nước. Mặt khác, với tư cách là đối tượng chịu

sự quản lý của Nhà nước, nhân dân có quyền phản biện đối với chủ trương, chính

sách, pháp luật của Nhà nước để bảo vệ quyền lợi của mình. Trên thực tế, chủ thể

phản biện xã hội có tiếng nói độc lập trong quan hệ với chủ thể quyết định chính

sách, pháp luật (Đảng, Nhà nước) về tính hợp pháp và hợp lý của các chính sách,

pháp luật. Nội dung cơ bản của phản biện xã hội là đưa ra nhận xét, đánh giá đối với

dự thảo chính sách, dự thảo văn bản pháp luật hoặc chính sách và văn bản pháp luật

đã ban hành, có thể kèm theo các đề xuất, kiến nghị cụ thể. Tất nhiên, không loại trừ

trường hợp, ý kiến phản biện xã hội bác bỏ hoàn toàn dự thảo chính sách, văn bản

quy phạm pháp luật. Phản biện xã hội thể hiện tính tự giác chính trị cao độ của chủ

thể thực hiện và không mang tính quyết định, áp đặt, không nhất thiết dẫn đến sự thay

đổi trong quyết sách nhưng là tiếng nói xây dựng, đầy trách nhiệm của nhân dân nên

rất cần phải thiết lập cơ chế đảm bảo cho hoạt động này được thực thi đúng đắn, được

tiếp nhận và mang lại hiệu ứng tích cực cho quá trình lãnh đạo, điều hành đất nước.

Để phản biện xã hội sớm được tiến hành như một hình thức dân chủ mang

tính trực tiếp rõ nét và hiệu quả hơn trong đời sống xã hội tại cơ sở, đòi hỏi phải

nhanh chóng nghiên cứu và ban hành pháp luật về vấn đề này. Bước đầu tiên của

quá trình hoàn thiện lĩnh vực pháp luật đó bao gồm cả những thể chế liên quan và

những thể chế trực tiếp về phạm vi đối tượng, nội dung của phản biện xã hội, trình

tự tiến hành phản biện xã hội và xử lý kết quả phản biện xã hội.

Về đối tượng: phản biện xã hội được thực hiện đối với tất cả những hoạt

động có liên quan đến tổ chức và thực hiện quyền lực nhân dân, liên quan đến công

quyền, trước hết và trực tiếp nhất là hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước. Phản

biện xã hội có thể thực hiện đối với cả những vấn đề đang còn ở mức độ dự thảo và

cả những quyết định, dự án đã được thông qua và đang triển khai thực hiện nhưng

trọng tâm và mang tính chất bắt buộc là đối với các dự thảo đường lối, chính sách,

quyết định, dự án, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Về nội dung: phản biện xã hội không nhất thiết tiến hành đối với mọi nội

dung của đối tượng phản biện. Nhìn một cách tổng quan thì nội dung phản biện xã

hội là các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên

quan đến các vấn đề quốc kế dân sinh, phát triển kinh tế, xã hội, quyền và lợi ích

135

của công dân, tổ chức bộ máy và cán bộ… Trong những trường hợp cụ thể, nội

dung phản biện xã hội sẽ được chỉ ra chi tiết trong từng bối cảnh nhất định.

Về hình thức: phản biện xã hội có thể áp dụng nhiều hình thức phong phú

phụ thuộc vào chủ thể, đối tượng và nội dung phản biện như: tổ chức hội nghị lấy ý

kiến nhận xét, đánh giá; thành lập các hội đồng tư vấn, ban tư vấn; tổ chức đối thoại

trực tiếp với cơ quan, tổ chức có dự án, đề án được phản biện xã hội; trực tiếp gửi

thư, ý kiến đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền…

Về trình tự: phản biện xã hội được tiến hành theo ba giai đoạn: 1/ Chuẩn bị

phản biện; 2/ Tiến hành phản biện; 3/ Hồi âm, ghi nhận kết quả phản biện. Sự chuẩn

bị phản biện được thực hiện bằng việc công khai hóa càng rộng càng tốt chủ trương,

kế hoạch, dự án trước một khoảng thời gian thích hợp để chủ thể phản biện có đủ

thời gian tiếp cận, nghiên cứu tài liệu và tích lũy tư liệu cho sự phản biện của họ.

Quá trình phản biện là quá trình cung cấp thông tin đầy đủ cho bên phản biện. Tiến

hành phản biện có thể diễn ra dưới hình thức tranh luận trực tiếp với sự hiện diện

của các bên. Tranh luận có thể diễn ra tại cuộc họp hoặc thông qua các phương tiện

thông tin đại chúng. Các cuộc phản biện đều phải được ghi lại thành biên bản và

trình lên cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Về xử lý kết quả phản biện: các cơ quan, tổ chức được phản biện phải thể

hiện việc tiếp thu kết quả phản biện và trả lời bằng văn bản để chủ thể phản biện

được biết, giải trình và đối thoại với chủ thể phản biện đã có kiến nghị phản biện

trong trường hợp không không tán thành với ý kiến phản biện.

4.3.3. Phát huy vai trò của các thiết chế trong hệ thống chính trị cơ sở và

các thiết chế xã hội khác trong tổ chức thực hiện dân chủ cơ sở

Dân chủ và hệ thống chính trị có mối quan hệ biện chứng, tác động và

chuyển hoá lẫn nhau giữa nguyên nhân và kết quả. Để các giá trị dân chủ được hiện

thực hoá trong cuộc sống, thì vấn đề đòi hỏi khách quan là phải có hệ thống tổng

hợp các tiêu chí, điều kiện, công cụ, phương tiện và biện pháp để hướng dẫn và tổ

chức thực hiện dân chủ. ở đó phải có cơ chế dân chủ cụ thể, có các chỉ dẫn hành

động sát thực cho các chủ thể. Đặc biệt, điều quan trọng hơn là phải vừa tạo ra điều

kiện, vừa thiết lập cơ sở pháp lý nhằm đảm bảo cho việc tổ chức, thực thi và kiểm

136

soát quyền lực, bảo đảm cho tính năng động sáng tạo của mỗi chủ thể và ngăn ngừa

những hành vi thái quá, cũng như khắc phục tình trạng dân chủ hình thức.

Xây dựng mô hình hệ thống chính trị cơ sở ngày càng đổi mới và hoàn thiện

được coi là cơ chế vận hành của nền dân chủ nhằm đảm bảo quyền lực thuộc về

nhân dân. Vì thế, Đảng ta đã xác định: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống

chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện

nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. Đồng thời,

Đảng đã nhấn mạnh: “Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi

mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu vừa là động lực của công

cuộc đổi mới”. Đây là phương châm, là những định hướng chính trị đúng đắn và

sáng suốt của Đảng ta trong chỉ đạo và lãnh đạo việc kiện toàn hệ thống chính trị

các cấp. Hơn nữa, giải quyết vấn đề dân chủ ở cơ sở không chỉ là vấn đề kết hợp,

mà còn bao hàm cả nhiệm vụ giải quyết vấn đề dân chủ cả trong Đảng, cả mọi

thành viên trong hệ thống chính trị từ trên xuống. Như vậy, trước hết, đổi mới hệ

thống chính trị không phải là thay đổi chế độ chính trị, mà là làm cho chế độ chính

trị đã được kiến lập ở nước ta ngày càng vững bền hơn, thể hiện đúng đắn và đầy đủ

hơn bản chất dân chủ XHCN.

Trong điều kiện ở cơ sở nước ta hiện nay, đó chính là việc tổ chức và thực

hiện tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của

HĐND, UBND cấp xã, đồng thời thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp để nhân dân

tham gia bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng thiết thực, gắn

liền với lợi ích của họ. Thông qua dân chủ trực tiếp ở cơ sở không chỉ để nhân dân

có điều kiện bày tỏ tâm tư, nguyện vọng chính đáng của mình, mà còn khơi dậy và

phát huy mọi tiềm năng trí tuệ, tính tích cực chính trị - xã hội và trách nhiệm công

dân trong việc xây dựng chính quyền xã trong sạch, vững mạnh. Nếu được thực

hiện tốt, dân chủ trực tiếp ở cơ sở sẽ trở thành hệ thống kiểm tra, giám sát đi vào

thực chất hơn đối với đại biểu của dân, với các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp

xã, góp phần tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân. Vấn đề quan

trọng bảo đảm cho việc sử dụng tốt cả dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp là việc

đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở phải gắn liền với phát huy có hiệu

quả pháp luật nội dung về thực hiện dân chủ cơ sở, phù hợp với Hiến pháp, pháp

137

luật, thể hiện tinh thần dân chủ đi đôi với kỷ cương trật tự, quyền hạn gắn liền với

trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ, đồng thời phải thiết thực và có tính khả thi.

Đi vào cụ thể, quá trình phát huy vai trò tổ chức thực hiện dân chủ của các

thiết chế trong hệ thống chính trị cơ sở cần triển khai những biện pháp cụ thể sau:

- Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng với việc thực hiện pháp luật về dân

chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn cơ sở. Cấp ủy Đảng tại cơ sở phải xác định

việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn

là nhiệm vụ chính trị có tầm quan trọng hàng đầu. Trong bối cảnh hiện nay khi mà ở

một số nơi nội bộ lãnh đạo cấp ủy, chính quyền mất đoàn kết; tình trạng quan liêu,

tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn kịp thời; tình hình khiếu kiện

của người dân đang diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ đến lòng tin của nhân

dân đối với cấp ủy, chính quyền, thì sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng

cơ sở đối với việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở lại càng phải được đề cao.

Để tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng với việc thực hiện pháp luật về

dân chủ ở các đơn vị cơ sở phải chú trọng: (i) xây dựng đảng bộ, chi bộ cơ sở thực

sự là hạt nhân chính trị lãnh đạo toàn diện các nhiệm vụ ở cấp xã; (ii) nâng cao chất

lượng sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ, đảng bộ theo quy định của Điều lệ Đảng, nội dung

sinh hoạt phải thực sự dân chủ để đảng viên tham gia, góp ý thể hiện quan điểm của

mình; (iii) kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh trong dân cư, không để

phát sinh những “điểm nóng”, tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp, hoặc lợi

dụng dân chủ để làm mất ổn định chính trị ở thôn, buôn, tổ dân phố; (iv) kiên quyết

đưa những người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi Đảng, nhất là đảng viên thoái hoá về

tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cố tình vi

phạm kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước.

- Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp và công tác tiếp dân theo

hướng dân chủ, chống quan liêu cửa quyền. Thực hiện đầy đủ các nội dung “dân

biết, dân bàn”, đội ngũ cán bộ công chức và đại biểu Hội đồng nhân dân phải

thường xuyên gặp gỡ, đối thoại, tiếp thu và kịp thời giải quyết các vấn đề do các

đơn vị đóng trên địa bàn và nhân dân đặt ra hoặc đang rất bức xúc. Các quyết định

hành chính của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phải đảm bảo

tính khách quan, chính xác, đúng thẩm quyền, đúng thủ tục ban hành. Tiếp tục thực

138

hiện cải cách thủ tục hành chính, coi đây là khâu đột phá trong toàn bộ quá trình

thực hiện cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông” đối với tất cả các công việc của

dân. Giảm hội họp, cán bộ cấp xã tăng cường xuống các khu dân cư, phân công

trách nhiệm cụ thể của cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở với các địa

bàn dân cư. Bố trí lịch tiếp dân, địa điểm tiếp dân chu đáo. Lấy kết quả thực hiện

nhiệm vụ và phát huy dân chủ của địa bàn khu dân cư được phân công theo dõi, chỉ

đạo làm thước đo đánh giá cán bộ công chức. Công khai chi tiết tất cả các khoản thu

để nhân dân có điều kiện giám sát. Định kỳ tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm, xử

lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về dân chủ.

- Tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể ở đơn vị

cơ sở trong thực hành dân chủ. Cần sớm khắc phục tình trạng hành chính hóa; phát

huy mạnh mẽ vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân, tham gia xây dựng Đảng,

chính quyền trong sạch, vững mạnh; nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Thanh

tra nhân dân và ban Giám sát đầu tư của cộng đồng. Cần có một cơ chế thống nhất

để tổ chức, quản lý và phát huy chức năng nhiệm vụ của Ban Thanh tra nhân dân và

ban Giám sát đầu tư của cộng đồng. Nên trao cho các thiết chế giám sát quyền năng

giám sát tất cả các cá nhân là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước sinh sống trên

địa bàn dân cư về các biểu hiện xa dân, giàu có bất thường hay các hoạt động không

minh bạch khác. Theo đó, cần có quy định về cơ chế thực hiện cụ thể để tránh tình

trạng nể nang, né tránh, xuôi chiều hoặc bị các cơ quan, cá nhân trong bộ máy nhà

nước "tác động", "chi phối"... làm biến dạng kết quả kiểm soát, giám sát của nhân

dân. MTTQ cũng cần tăng cường tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, vận

động các tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa - xã

hội, an ninh - quốc phòng, bảo đảm cho địa phương phát triển nhanh, bền vững.

Tiếp tục đổi mới công tác dân vận cho phù hợp với tình hình mới, hướng mạnh về

cơ sở, bám sát địa bàn, bám dân, tăng cường đối thoại trực tiếp với nhân dân.

MTTQ cần tăng cường tham gia cùng với chính quyền giải quyết những nguyện

vọng chính đáng, đúng pháp luật của nhân dân về các vấn đề có ảnh hưởng, liên

quan trực tiếp đến đời sống, việc làm, thu nhập của nhân dân.

- Cần tổ chức cho người dân địa phương bầu trực tiếp Chủ tịch Ủy ban nhân

dân xã. Lợi ích của việc bầu cử trực tiếp Chủ tịch Ủy ban nhân dân có thể thấy rõ đó

139

là khi được dân bầu, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã sẽ tranh thủ được sự ủng hộ của

nhân dân nhiều hơn và đương nhiên trách nhiệm trực tiếp và cao nhất đối với nhân

dân. Chủ tịch Ủy ban nhân dân sẽ phải chịu trách nhiệm trực tiếp toàn bộ về sự phát

triển hay lụn bại về kinh tế, văn hoá xã hội của xã nhưng đồng thời sẽ có điều kiện

suy nghĩ nhiều hơn, chủ động hơn trong các quyết sách phát huy lợi thế cạnh tranh

của xã mình với xã khác.

- Theo xu hướng chung hiện nay, cần tính đến áp dụng mô hình nhất thể hóa

hai chức danh Bí thư và người đứng đầu tổ chức chính quyền tại cơ sở để đảm bảo

tính hiệu quả, tập trung quyền lực thuộc về nhân dân và góp phần tinh giảm số

lượng cán bộ lãnh đạo.

Vấn đề lý luận phức tạp đặt ra hiện nay liên quan đến mô hình nhất thể hóa

chức danh Bí thư và Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Thực tế cho thấy,

nhất thể hóa chức danh Bí thư và Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn là

mô hình phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại và hội nhập, có khả năng tạo ra

sự đồng bộ, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành các mặt công tác của địa

phương, góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của

Nhà nước, đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu. Tuy nhiên, mô hình này

cũng có những mặt hạn chế như: rất khó xác định và phân định được ranh giới lúc

nào thì thực hiện nhiệm vụ của Bí thư cấp uỷ, lúc nào thì thực hiện nhiệm vụ của chủ

tịch Ủy ban nhân dân; đồng chí Bí thư đồng thời là Chủ tịch sẽ mất nhiều thời gian đi

họp hoặc xử lý những công việc cụ thể của Ủy ban nhân dân, ít có thời gian để tập

trung lãnh đạo, chỉ đạo những mặt công tác trọng tâm của đảng bộ và khi quyền lực

được tập trung vào một người, nếu không có cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ thì dễ

xuất hiện và xảy ra hiện tượng gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, vi phạm nguyên

tắc tập trung dân chủ của Đảng. Hơn nữa đây là vấn đề mới, chưa quy định trong

Điều lệ Đảng, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.

Từ sự phân tích nói trên, trước khi được chính thức thừa nhận và nhân rộng

trên địa bàn cả nước thì ở đơn vị cơ sở chỉ nên áp dụng mô hình nhất thể hóa Bí thư

và chủ tịch Ủy ban nhân dân tại cơ sở đối với những cơ sở nào có đủ ba điều kiện:

Thứ nhất, cơ sở phải có tập thể cấp ủy mạnh, đoàn kết thống nhất trong một

quy chế hoạt động lãnh đạo và quản lý khoa học, đổi mới, hiệu quả. Tình hình kinh

140

tế xã hội phát triển tương đối ổn định; nội bộ đoàn kết, thống nhất và đã thực hiện

tốt việc đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ; đại diện

cho các vùng, miền có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau;

Thứ hai, Bí thư kiêm Chủ tịch phải bảo đảm tiêu chuẩn cán bộ và đáp ứng

yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của chức danh. Các tiêu chuẩn cơ bản như sau: có phẩm

chất chính trị và đạo đức tốt; có năng lực và kinh nghiệm về công tác đảng, công

tác chính quyền; ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm và tính đảng cao; tác

phong làm việc dân chủ, sâu sát, nói đi đôi với làm; có sức khỏe và uy tín trong

cán bộ, đảng viên và nhân dân địa phương, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và

lý luận chính trị từ trung cấp trở lên, đã đảm nhiệm (hoặc được quy hoạch) một

trong các chức vụ lãnh đạo, quản lý tương ứng với chức vụ đảm nhiệm hoặc

những đồng chí có trình độ, kiến thức và năng lực đủ hoàn thành tốt chức trách,

nhiệm vụ được giao;

Thứ ba, tại cơ sở phải có đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh, có đội ngũ

đảng viên thực sự tiên phong gương mẫu, vững vàng về chính trị, có đạo đức trong

sáng, lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân.

Ngoài ra, cần chú trọng công tác phát triển đảng viên làm nguồn quy hoạch

đội ngũ cán bộ kế cận, khi xem xét phát triển đảng viên mới nên chú trọng xem

xét động cơ phấn đấu vào Đảng, phẩm chất chính trị, tư cách công dân để làm nền

tảng cho quá trình đào tạo, bồi dưỡng tiếp theo trong tương lai gần. Tiếp tục đổi

mới nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc

tự đánh giá chất lượng hoạt động của tổ chức đảng kết hợp với sự đánh giá của

quần chúng nhân dân và của cấp trên. Thực hiện việc kiểm tra định kỳ và đột xuất,

kết hợp với nắm bắt ý kiến phản ánh của nhân dân để phát hiện kịp thời các sai

phạm của đảng viên nhằm ngăn chặn và xử lý kiên quyết, thích hợp, không bao

che xử lý nội bộ, khi xử lý cần công khai cho nhân dân biết để nhân dân tham gia

giám sát quá trình khắc phục khuyết điểm, sửa chữa sai lầm của đảng viên.

4.3.4. Tăng cường năng lực thực hiện dân chủ của người dân tại cơ sở

Khó khăn hơn gấp nhiều lần việc xây dựng thể chế và thiết kế hệ thống thiết

chế thực hiện dân chủ cơ sở chính là vấn đề xây dựng nếp sống dân chủ, tạo lập khả

năng thực hiện dân chủ của chủ thể mang quyền dân chủ. Nói cách khác, năng lực

141

thực hành dân chủ của người dân là yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt đối với hiệu

quả của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở.

Để tăng cường năng lực thực hành dân chủ của người dân tại cơ sở, cần phải

chú trọng thực hiện các biện pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao dân trí và ý thức pháp luật cho công dân

Nâng cao dân trí có ý nghĩa không nhỏ đối với năng lực thực hành dân chủ,

bởi năng lực trước hết là một yếu tố mang tính chủ quan, phụ thuộc trước tiên bởi

chính chủ thể ấy, mà nhận thức là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến năng lực, giúp

việc thực hành năng lực mang tính định hướng và có hiệu quả hơn trong thực tế.

Có tính giao thoa với việc nâng cao dân trí là nhiệm vụ nâng cao ý thức

pháp luật cho công dân. Ý thức pháp luật là một phạm trù rộng lớn, luôn được quan

tâm trong mọi Nhà nước, đặc biệt trong trật tự Nhà nước pháp quyền. Khi tri thức

và hiểu biết pháp luật ở một tầm nhất định, mỗi cá nhân sẽ nhận thức được ý nghĩa

của việc tuân thủ pháp luật, cũng như các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình,

để từ đó, có những ứng xử, hành vi thích hợp trong mỗi quan hệ xã hội. Khi nhận

thức tốt về dân chủ, về vai trò của mình trong thực thi dân chủ, người dân sẽ có thái

độ tích cực hơn trong mối quan hệ pháp lý với Nhà nước, đồng thời, trong việc sử

dụng và bảo vệ quyền làm chủ của mình.

Đây là một yếu tố quan trọng có tính then chốt trong việc tăng cường năng

lực thực hành dân chủ của người dân tại cơ sở nhất là trong bối cảnh 2/3 dân số

nước ta đang sống trên địa bàn nông thôn với trình độ dân trí và ý thức pháp luật

không cao bởi những lý do lịch sử và xã hội.

Giải pháp căn bản nhất để nâng cao dân trí và ý thức pháp luật cho người dân

tại đơn vị cơ sở là đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng pháp luật nói chung,

pháp luật về dân chủ cơ sở nói riêng. Kiến thức, hiểu biết pháp luật về thực hiện dân

chủ ở cơ sở là tiền đề, nền tảng để nhân dân phát huy các quyền dân chủ của mình

theo luật định.

Mục đích của công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ

ở cơ sở là nhằm cung cấp, trang bị cho mỗi người dân những kiến thức, hiểu biết

pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, bao gồm các quyền dân chủ của nhân dân,

trách nhiệm của chính quyền, cán bộ công chức cấp xã, cán bộ thôn, tổ dân phố, của

142

cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ

cơ sở, từ đó, làm hình thành trong nhân dân ở cơ sở thái độ, tình cảm, niềm tin đối

với pháp luật, tạo dựng thói quen, lối sống, hành vi xử xự tích cực theo các quy định

của pháp luật về dân chủ cơ sở, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Trong giai đoạn hiện nay, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về dân

chủ cơ sở cần chú ý một số vấn đề sau:

Về chủ thể, ngoài các chuyên gia pháp luật, chủ thể chính làm công tác phổ

biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở cho các tầng lớp nhân dân

là đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Việc thực hiện vai trò, chức năng này của họ

có tác động rất lớn đến sự hiểu biết, nhận thức, thái độ, tình cảm của nhân dân đối

với pháp luật và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã. Dù đã được tham dự các

lớp tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở song khi

đảm nhiệm vai trò chủ thể phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ cơ

sở cho nhân dân, mỗi cán bộ công chức được giao nhiệm vụ cần chuẩn bị kỹ lưỡng,

chu đáo, nghiêm túc các nội dung pháp luật cần phổ biến, tuyên truyền, dự liệu các

câu hỏi, tình huống thực tế mà nhân dân có thể đặt ra để có sự giải đáp thỏa đáng.

Quá trình đó cũng chính là quá trình giú họ tự nâng cao hiểu biết, kỹ năng và ý thức

trách nhiệm của mình về thực hiện dân chủ cơ sở.

Về phương pháp,cán bộ, công chức làm nhiệm vụ phổ biến, tuyên truyền

pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở cần quán triệt phương pháp “lấy người dân

làm trung tâm” bằng cách đưa ra các ví dụ thực tiễn sinh động gắn liền với thực

hiện pháp luật về dân chủ ở địa phương, nêu các câu hỏi có tính chất gây tranh luận

nhằm tạo sự thảo luận sôi nổi... biến nhân dân thành “người trong cuộc” trong các

hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở.

Về nội dung, cần tập trung vào các văn bản pháp luật liên quan nhiều và trực

tiếp tới quyền con người và đời sống xã hội trên địa bàn cơ sở, như Bộ Luật dân sự,

Luật đất đai, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, pháp luật về an toàn giao thông, phòng

chống tội phạm và các tệ nạn xã hội, các chế độ chính sách... Đối với pháp luật về

thực hiện dân chủ cơ sở, cần tập trung phổ biến, tuyên truyền nội dung các quyền

dân chủ của nhân dân ở xã, phường, thị trấn: quyền được biết; quyền được bàn và

143

quyết định; quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết

định và quyền giám sát...

Về hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật, cần lựa chọn những hình

thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật hiệu quả nhất, bao gồm:

- Tổ chức các cuộc họp thôn, hội nghị nhân dân để báo cáo viên pháp luật

trực tiếp phổ biến, tuyên truyền bằng các phương pháp sinh động, hấp dẫn và nội

dung gần gũi, thiết thực với nhân dân.

- Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở bằng cả

hai hình thức viết và nói (có thể sân khấu hóa thông qua các hoạt cảnh, tiểu phẩm

vui, thi tuyên truyền viên pháp luật giỏi...).

- Tăng cường hoạt động phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân

chủ ở cơ sở trên mạng lưới Đài Truyền thanh cấp xã. Khi tiến hành, cần chú ý đến

tần suất, khung giờ… cho phù hợp với nếp sống, tập quán sản xuất của nhân dân địa

phương nhằm đảm bảo hiệu quả thông tin.

- Phát miễn phí các tài liệu pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở cho các hộ

gia đình để nhân dân có thời gian nghiên cứu, hiểu biết sâu hơn.

- Lồng ghép các nội dung phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân

chủ cơ sở vào các cuộc họp, hội nghị, sinh hoạt của Đảng, chính quyền, đoàn thể

cấp xã và các sinh hoạt tại khu dân cư, tổ dân phố.

- Quốc hội đã ban hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, trong

đó quy định ngày 9/11 hàng năm là Ngày Pháp luật nước Cộng hòa XHCN Việt

Nam “nhằm tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, giáo dục ý thức thượng tôn pháp luật

cho mọi người trong xã hội”. Ủy ban nhân dân nhiều tỉnh/thành phố đã xây dựng và

phê duyệt Kế hoạch thực hiện “Ngày pháp luật” tất cả các cơ quan, đơn vị, địa

phương... và đã tổ chức triển khai thực hiện tốt “Ngày pháp luật” tại các xã, phường,

thị trấn, trong đó có lồng ghép tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở.

Đây là một sáng kiến hay cần được triển khai nhân rộng trên địa bàn xã, phường, thị

trấn cả nước và cũng là một hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật rất hiệu quả.

Thứ hai, tăng cường vai trò tích cực, chủ động của công dân trong mối quan

hệ với Nhà nước

Trong xã hội hiện đại, yêu cầu về tính chính đáng của Nhà nước ngày càng

trở nên mạnh mẽ và thiết yếu. Ở đó, Nhà nước phải đáp ứng được các kỳ vọng và

144

tiêu chuẩn của người dân đối với chính quyền của mình. Ngược lại, phía công dân

cũng cần có thái độ hợp tác tích cực trong ý thức về trách nhiệm và nghĩa vụ công

dân, đồng thời, đòi hỏi được thực thi, bảo vệ các quyền hợp pháp của mình một

cách chủ động và hữu hiệu nhất.

Thứ ba, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân

Có thể nói, thông tin là một nền tảng thiết yếu của nền dân chủ ở mọi cấp độ.

Việc người dân tham gia vào quá trình ra quyết định đạt hiệu quả ở mức độ nào phụ

thuộc vào quyền tiếp cận thông tin, mà một phần quan trọng là các thông tin được

nắm giữ từ các cơ quan công quyền.

Quyền tự do thông tin hay quyền tiếp cận thông tin là một quyền đặc biệt

quan trọng của con người. Trong một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, các cơ

quan công quyền không được phép nắm giữ thông tin cho riêng mình, mà “những

thông tin này phải được các thành viên của cộng đồng tiếp cận và nắm rõ nếu họ có

mong muốn, trừ khi có một lợi ích công cộng khác quan trọng hơn buộc chúng phải

được giữ bí mật" [127, tr.539].

Nội dung này không chỉ đòi hỏi việc bảo đảm cho người dân được chủ động

tiếp cận và được đáp ứng các yêu cầu chính đáng về thông tin, mà còn đòi hỏi sự

chủ động minh bạch, công khai hóa các thông tin từ phía các cơ quan công quyền,

trừ khi có một lợi ích công cộng khác quan trọng hơn buộc phải được giữ bí mật.

Như vậy, để nâng cao năng lực thực hành dân chủ cho người dân thì một

điều kiện quan trọng là phải đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của người dân trên

mọi phương diện, bao gồm cả yêu cầu nâng cao chất lượng, cơ sở vật chất, các

nguồn lực phục vụ cho công tác công khai, minh bạch hóa thông tin ở Việt Nam.

Thứ tư, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nhằm tạo lập kỹ năng thực hiện

quyền của người dân đi đôi với việc phát huy hơn nữa hiệu quả của cơ chế giải

quyết khiếu nại, tố cáo.

Các biện pháp cụ thể để tăng cường hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo

của người dân trong điều kiện nước ta là: 1/ rà soát văn bản, sửa đổi, bổ sung nội

dung không thống nhất và cụ thể về quyền công dân để giảm tải khiếu nại; 2/

tiếp tục hoàn thiện Luật khiếu nại, Luật tố cáo theo hướng quy định về các thủ

tục thông thoáng, đơn giản, rõ ràng hơn cho công dân thực hiện quyền và chặt

145

chẽ hơn cho cơ quan nhà nước trong quan hệ với công dân cùng với các chế tài

cụ thể khi cơ quan nhà nước trì hoãn tiến độ giải quyết khiếu nại, tố cáo của

công dân (ví dụ, công dân có thể lựa chọn, hoặc giải quyết bằng con đường hành

chính, hoặc bằng con đường tư pháp để khiếu kiện; tăng cường giám sát, kiểm

tra giải quyết khiếu nại, tố cáo từ các cơ quan dân cử và cơ quan thanh tra); 3/

thực hiện nghiêm chỉnh cơ chế đối thoại trực tiếp giữa người dân với cơ quan

giải quyết khiếu nại, tố cáo; 4/ phát huy vai trò hòa giải của các tổ chức đoàn thể

nhân dân; 5/ đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật về khiếu nại, chuyên nghiệp

hoá hoạt động giải quyết khiếu nại, tăng cường thanh tra, kiểm tra hệ thống hành

chính để tạo một cơ chế hợp lý, khoa học sao cho mọi hành vi, quyết định hành

chính của mọi cơ quan hành chính nhà nước đều bị kiểm soát và các hành vi vi

phạm pháp luật được xử lý nhanh chóng; 6/ ngoài ra, áp dụng quy trình, thủ tục

tư pháp cho việc giải quyết khiếu nại trong cơ quan hành chính nhà nước là xu

thế dân chủ hoá hoạt động quyền lực chính trị nói chung và hoạt động của cơ

quan nhà nước nói riêng cần được nghiên cứu kịp thời, nhất là trong giai đoạn

hoàn thiện mối quan hệ công dân và công quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền

của dân, do dân và vì dân như hiện nay.

Thứ năm, xây dựng và vận hành các hình thức tổ chức cụ thể để nhân dân

thực hiện quyền dân chủ tại cơ sở.

Để dân chủ thực hiện có hiệu quả, cần phải có những điều kiện cần thiết để

bảo đảm việc thực hiện đó. Theo đó, phải đa dạng hóa các hình thức tổ chức mang

tính tự quản của người dân để họ có thể thực hiện quyền làm chủ tương ứng với

từng hình thức dân chủ tại cơ sở. Mỗi hình thức tổ chức đó phải được xác lập trên

cơ sở tính đến sự khác nhau trong việc vận hành chúng trên các địa bàn khác nhau,

đối với mỗi loại hình cơ sở khác nhau. Mặt khác, cũng cần xem xét đến tính chất

đặc thù của từng hình thức dân chủ để có mô hình tổ chức phù hợp. Ví dụ, cùng là

trong chế độ bầu cử, nhưng những quy định về đối thoại, gặp gỡ cử tri sẽ do Mặt

trận Tổ quốc đứng ra tổ chức còn việc đóng góp ý kiến của nhân dân đối với ứng cử

viên phải quy định là nhân dân - chủ thể quyền lực chủ động thực hiện quyền làm

chủ của mình. Đương nhiên, các quy định về tiếp nhận, xử lý các ý kiến của hai

việc đó phải khác nhau.

146

4.3.5. Tăng cường các đảm bảo cho quá trình hiện thực hóa cơ chế pháp

lý thực hiện dân chủ cơ sở

Về chính trị:

Bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân là nhân tố hàng đầu quyết định sự

đúng đắn, lành mạnh của mối quan hệ nói trên. Không thể chỉ dừng lại trong nhận

thức mà nguyên tắc chủ quyền nhân dân phải trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn

bộ thực tiễn quá trình tổ chức và thực thi quyền lực ở nước ta hiện nay. Việc thực

thi dân chủ và thiết kế cơ chế pháp lý thực thi dân chủ cơ sở phải bảo đảm các

nguyên lý chủ quyền của nhân dân cũng như các nguyên tắc của Nhà nước pháp

quyền, ở đó, mọi hoạt động của các chủ thể trong xã hội phải đặt trong khuôn khổ

pháp luật. Nhân dân ủy quyền do vậy nhân dân cũng có thể thu hồi lại quyền lực

đã ủy quyền. Theo hướng đó, dân chủ hóa nền chính trị và toàn bộ đời sống xã hội

là định hướng quan trọng nhất trong đổi mới nền chính trị ở nước ta hiện nay.

Về kinh tế:

Để bất kỳ một cơ chế nào vận hành cũng cần phải có nền tảng vật chất vững

chắc. Xét từ góc độ cơ sở vật chất, cần có sự đầu tư thích đáng, hỗ trợ cho hoạt

động nghiên cứu, tuyên truyền, phổ biến và thực hiện dân chủ cơ sở.

Đồng thời, việc thiết kế cơ chế pháp lý thực thi dân chủ cơ sở cũng cần phải

được tiến hành trên nền tảng nền kinh tế phát triển với cơ sở vật chất đủ mạnh để

hiện thực hóa các yêu cầu của cơ chế này. Theo hướng đó, các chủ trương đổi mới

nền kinh tế, xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần được triển

khai quyết liệt và hiệu quả.

Về xã hội:

Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nói riêng liên quan tới toàn bộ nền tảng chính trị

và xã hội nước ta, ảnh hưởng tới lợi ích của mỗi người dân đồng thời cũng tạo khả

năng thụ hưởng của mọi người, mọi tầng lớp xã hội. Do vậy, một mặt cần nâng cao

nhận thức của toàn xã hội về ý nghĩa của dân chủ và dân chủ cơ sở trong giai đoạn

mới, mặt khác cần huy động sức mạnh của toàn xã hội vào các hoạt động thực thi

và phát huy dân chủ, trong đó có dân chủ cơ sở. Đặc biệt, cần tăng cường các biện

pháp giáo dục, nâng cao dân trí, nâng cao ý thức chính trị, ý thức pháp luật và trách

nhiệm của công dân để nhân dân thực sự trở thành chủ thể của quyền lực chính trị,

quyền lực nhà nước.

147

Tiểu kết chương 4

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta là nhu

cầu tất yếu và là đảm bảo sống còn cho quá trình phát huy dân chủ XHCN, xây

dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Quá trình hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải được đặt

trong bối cảnh cụ thể của đất nước trong giai đoạn tới. Những phân tích mang tính

dự báo trong luận án đóng vai trò tạo ra một cách nhìn định hướng về các phương

án hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta.

Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là một quá trình chính trị

- pháp lý hết sức quan trọng. Vì vậy, quá trình này cần được triển khai trên cơ sở

tuân thủ một số quan điểm có tính chất chỉ đạo. Các quan điểm này được xác định

trên nền tảng chung là lấy người dân làm trung tâm, lấy sự tôn trọng, bảo đảm các

quyền con người, quyền công dân làm mục đích.

Để hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đòi hỏi một quá trình

lâu dài, với nhiều bước đi và sự nỗ lực không ngừng nghỉ của Đảng, Nhà nước, các

thiết chế xã hội và mọi người dân. Trong giai đoạn hiện nay, các giải pháp cần được

triển khai ngay bao gồm: 1/ Nâng cao nhận thức về dân chủ cơ sở và vai trò của cơ

chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở; 2/ Hoàn thiện thể chế thực hiện dân chủ cơ sở;

3/ Phát huy vai trò của các thiết chế trong hệ thống chính trị cơ sở và các thiết chế

xã hội khác trong tổ chức thực hiện dân chủ cơ sở; 4/ Tăng cường năng lực thực

hiện dân chủ của người dân tại cơ sở; 5/ Tăng cường các đảm bảo cho quá trình

hiện thực hóa cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở.

Các giải pháp này cần được thực hiện đồng bộ với một quyết tâm chính trị

rất cao.

148

KẾT LUẬN

Nghiên cứu chủ đề hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt

Nam hiện nay, luận án đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn sau:

1. Dân chủ và dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay là chủ đề nghiên cứu có ý

nghĩa nhận thức, lý luận và thực tiễn rất quan trọng, bởi lẽ xuất phát từ giá trị quyền

con người và phát huy giá trị quyền con người, từ sự cần thiết phải tăng cường hiện

thực hoá quyền con người, từ triển khai thực hiện quan điểm coi con người là trung

tâm của sự phát triển, từ đổi mới căn bản, toàn diện các cơ chế để thực thi quyền lực

nhân dân, từ yêu cầu của xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ

nghĩa, từ thực trạng thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta và từ xu hướng căn bản của

cộng đồng quốc tế và khu vực ngày càng quan tâm đến dân chủ và các mô hình

pháp lý để hiện thực hóa nền dân chủ trong thế giới đương đại.

2. Trong thời gian qua, dân chủ ở nước ta đã được quan tâm nghiên cứu và

đã đạt được những kết quả bước đầu. Các công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ một

số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ và dân chủ cơ sở, về cơ chế pháp lý. Các

công trình nghiên cứu ngoài nước về dân chủ và cơ chế pháp lý đã đạt được những

thành tựu lý luận và thực tiễn đáng kể, làm cơ sở cho việc xây dựng và thực hiện

các mô hình thực hiện dân chủ trên các phạm vi không gian khác nhau. Luận án đã

kế thừa những kết quả nghiên cứu đó để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu

được đặt ra. Đồng thời, luận án đặt vấn đề và xác định những nội dung nghiên cứu

cơ bản hơn, toàn diện hơn, chỉnh thể hơn, hệ thống hơn, sâu sắc hơn tất cả những

vấn đề lý luận và thực tiễn của dân chủ và cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở

nước ta hiện nay.

3. Dân chủ ngày nay được xem xét chủ yếu dưới các giác độ khác nhau: là

chế độ nhà nước; là nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của đời sống xã hội; là giá trị

xã hội (thể hiện ở trình độ đạt được về bảo đảm các quyền, nghĩa vụ, tự do của công

dân và sự tham gia của họ trong đời sống xã hội); là lý tưởng, nhân sinh quan, thế

giới quan, mục đích hoạt động của các lực lượng chính trị - xã hội. Việc thực hiện

dân chủ phụ thuộc chủ yếu vào trình độ dân trí, văn hoá của nhân dân; nhân sinh

149

quan và thế giới quan, phẩm chất và năng lực của chủ thể cầm quyền; các thể chế

dân chủ được chế định bằng nguyên tắc, luật pháp, chuẩn mực văn hoá đạo đức về

đời sống xã hội. Dân chủ ở cơ sở là hình thức thực hiện quyền làm chủ của nhân

dân ở cơ sở với những phương thức và cơ chế thực hiện riêng, có những mặt mạnh,

mặt hạn chế riêng.

Luận án, dựa trên cách tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội,

chuyên ngành và đa ngành luật học, cách tiếp cận dựa trên quyền đã phân tích, luận

giải và đưa ra quan điểm của tác giả về những vấn đề lý luận về cơ chế pháp lý thực

hiện dân chủ cơ sở. Đó là phân tích, luận giải sâu sắc hơn, toàn diện hơn, chỉnh thể

hơn, hệ thống hơn những vấn đề: quan niệm về dân chủ và dân chủ cơ sở; khái

niệm, đặc điểm, vai trò của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở; các thành tố của

cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở; các tiêu chí xác định mức độ hoàn thiện của

cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở. Những vấn đề lý luận đó trong chỉnh thể đã

hình thành nên mô hình lý luận về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt

Nam hiện nay. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc nhận thức và tổ

chức thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta.

4. Luận án, dựa trên các tài liệu, số liệu đã được thu thập để tiến hành phân

tích, đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta thời gian

qua theo cấu trúc của mô hình lý luận về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở.

Các phân tích cho thấy: trên tất cả các thành tố của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ

cơ sở ở nước ta đều có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực, ngày càng

chủ động, cơ bản, hệ thống hơn và đã đạt được những kết quả cần được phát huy

trên các phương diện. Tuy nhiên, cũng trên tất cả các thành tố đó, hiện vẫn đang tồn

tại không ít bất cập, ảnh hưởng không nhỏ đến quyền làm chủ thực sự của người

dân tại địa bàn cơ sở, hạn chế tốc độ phát triển kinh tế và sự lành mạnh của các

quan hệ chính trị - xã hội. Luận án cũng đã chỉ ra nguyên nhân của những kết quả

và hạn chế, xem đó là căn cứ thực tiễn nhằm lập luận cho sự cần thiết tiếp tục hoàn

thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta trong thời gian tới.

5. Luận án, dựa trên mô hình lý luận về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ

sở, thực trạng cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta và và dự báo bối

150

cảnh đất nước và quốc tế trong thời gian tới đã luận giải nhu cầu, quan điểm và giải

pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Hoàn

thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam trong giai đoạn tới mang

tính tất yếu, xuất phát từ các nhu cầu mang tính toàn cầu, khu vực, và các nhu cầu

trong nước. Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam trong

giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn 2030 cần phải tuân thủ những quan điểm nhất

định với tư cách là những tư tưởng mang tính nguyên tắc chỉ đạo và xuyên suốt quá

trình thực hiện dân chủ cơ sở. Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở

Việt Nam trong giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đòi hỏi phải xây dựng và

thực hiện, thúc đẩy thực hiện một cách đồng bộ, có hệ thống các giải pháp đã được

luận giải trong luận án.

6. Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là một chủ đề nghiên cứu lớn và

mang tính chiến lược lâu dài. Trong quy mô một luận án tiến sĩ, nhiều vấn đề vẫn

đang để ngỏ, mang tính gợi mở. Trong thời gian tới, vẫn rất cần thiết triển khai

nhiều hoạt động nghiên cứu về chủ đề này theo hướng mở rộng hơn và đẩy sâu hơn

những nội dung đã được đề cập. Sự nỗ lực của giới nghiên cứu, các nhà hoạch định

chính sách, các nhà lập pháp, các nhà quản lý và người dân chắc chắn sẽ đem lại

những bước tiến lớn trong quá trình hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ

sở để dân chủ thực sự hiện hữu trong mọi khía cạnh của đời sống xã hội Việt Nam.

151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Tiến Thành (2014), "Năng lực của cán bộ cấp xã / phường trong thực

hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở", Tạp chí lý luận chính trị, (10).

2. Nguyễn Tiến Thành (2014), "Sự tham gia của người dân vào quá trình thực

hiện dân chủ cơ sở", Tạp chí Giáo dục lý luận, (220).

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Tài liệu tiếng Việt

1. Vũ Hồng Anh (2003), “Vai trò của Hiến pháp đối với việc phát huy dân chủ, bảo

đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, Tạp chí Luật học, 3(52).

2. B. Agapốp (2009), Luật Hành chính (tái bản lần thứ sáu), Nxb Iurait.

3. Lương Gia Ban (2003), Dân chủ và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Hoàng Chí Bảo (1992), “Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ:

Quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu”, Tạp chí Thông tin lý

luận, (9), Hà Nội.

5. Hoàng Chí Bảo (2010), Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình

đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Hoàng Chí Bảo (2004), Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Bộ Chính trị (1998), Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 18/2/1998 Về việc xây dựng và

thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, Hà Nội.

8. Bộ Giáo dục Liên bang Nga, Đ.N. Bakhrac (2010), Luật Hành chính Nga (tái

bản lần thứ năm), Nxb Exkimô, Mátxcơva.

9. Bộ Tư pháp (2014), Đề án 5 Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban

hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật, Viện Khoa

học Pháp lý, Hà Nội.

10. Hoàng Trọng Chính (2006), “Nâng cao hiệu quả hoạt động quy chế dân chủ ở

cơ sở”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (358), Hà Nội.

11. Chính phủ (2003), Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 ban hành Quy

chế thực hiện dân chủ ở xã, Hà Nội.

12. Chính phủ (2013), "Hiến pháp Việt Nam 2013", www.chinhphu.vn, [truy cập

ngày 20/2/2015].

13. Nguyễn Hồng Chuyên (2011), Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong

điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ

thực tiễn của tỉnh Thái Bình), Nxb Tư pháp, Hà Nội.

153

14. Nguyễn Hồng Chuyên (2014), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo

yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận

án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

15. Đinh Thành Công (2010), "Kinh nghiệm của Hải Phòng trong việc triển khai và

thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở", Tạp chí Tổ chức Nhà nước, (01).

16. Ngô Huy Cương (2006), Dân chủ và pháp luật dân chủ, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

17. Cao Thiện Cường (2013), "Kết quả bước đầu trong thực hiện dân chủ ở xã,

phường trên địa bàn thành phố Thanh Hóa", Tạp chí Thanh tra, (4).

18. D.N.Gorhunov (2006), “Những yếu tố tâm lý trong thực thi pháp luật”, Tạp chí

Nghiên cứu Lập pháp, (79).

19. Nguyễn Chí Dũng (2009), Cơ chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp ở Việt

Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

20. Đỗ Văn Dương (2013), "Những giải pháp phát huy vai trò hệ thống chính trị cơ

sở nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các

tỉnh Tây Nguyên", Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, (7).

21. Đỗ Văn Dương (2014), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn

trên địa bàn các tỉnh Tây nguyên, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.

22. Huỳnh Đảm (2008), “Nhìn lại 10 năm thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường,

thị trấn”, Tạp chí Cộng sản, (789).

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1989), Nghị quyết Hội nghị lần thứ VI, Ban Chấp

hành Trung ương khóa VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết Hội nghị lần thứ III Ban Chấp

hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

154

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành

Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Chỉ thị số 10 CT/TW ngày 28/3 của Ban Bí

thư Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện

quy chế dân chủ ở cơ sở, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp

hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Báo cáo tổng kết 6 năm thực hiện Chỉ thị số

30 CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế

dân chủ ở cơ sở, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp

hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp

hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Kết luận số 65-KL/TW ngày 04/3/2010 của

Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị về

xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành

Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Trần Bạch Đằng (2003), “Dân chủ ở cơ sở - một sức mạnh truyền thống của

dân tộc Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, (35).

41. Đặng Viết Đạt (2010), “Pháp luật và dân chủ trong nhà nước pháp quyền”, Tạp

chí Lý luận chính trị và truyền thông, (9), tr.35.

155

42. Nguyễn Minh Đoan (2007), “Dân chủ với pháp luật”, Tạp chí Nhà nước và

Pháp luật, (10).

43. Bùi Xuân Đức (2004), Giáo trình Luật Hiến Pháp, Nxb Tư pháp.

44. Trần Ngọc Đường, Chu Văn Thành (1994), Mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân

công dân với nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Trần Ngọc Đường (2004), Bàn về quyền con người, quyền công dân, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. G.V. Atamanchuc (2004), Lý thuyết quản lý nhà nước, Nxb Omega, Mátxcơva.

47. Nguyễn Thị Thu Hà (2013), “Thực hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống chính

trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lịch sử Đảng, 8 (273).

48. Trương Thị Hồng Hà (2007), Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm chức năng

giám sát của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận

án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

49. Lương Đình Hải (2006), “Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ

hóa xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, 1 (176).

50. Hoàng Văn Hảo (2003), “Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình tổng

thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà

nước và Pháp luật, (2).

51. Hoàng Văn Hảo, Các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân, Đề

tài KX.07.16, Hà Nội.

52. Vũ Văn Hiền (chủ biên) (2004), Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm ở Thụy Điển

và Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Vũ Văn Hiền (2004), Quy chế Dân chủ ở cơ sở - vấn đề lý luận và thực tiễn,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

54. Đỗ Trung Hiếu (2004), Một số suy nghĩa về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam

hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

55. Trần Đình Hoan (chủ biên) (2008), Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ

thống chính trị ở Việt Nam giai đoạn 2005-2020, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

156

56. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), "Xây dựng thể chế kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Kỷ yếu Hội thảo

khoa học, Hà Nội.

57. Nguyễn Anh Hùng (2009), “Những xu hướng dân chủ hóa ở các nước Mỹ La

tinh ngày nay”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (10).

58. Quách Sĩ Hùng (2009), “Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân chủ ở

nước ta”, Tạp chí Dân và chủ pháp luật, (6), tr.35-39.

59. Nguyễn Thị Việt Hương (2009), “Truyền thống chính trị - pháp lý làng xã và

khả năng thích ứng trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp

quyền Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (1), Hà Nội.

60. Nguyễn Thị Việt Hương (chủ nhiệm) (2013), Dân chủ trực tiếp và hoàn thiện

cơ chế pháp lý thực thi dân chủ trực tiếp trong Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, Đề tài cấp Bộ, Hà Nội.

61. Trần Quốc Huy (2005), Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt

Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật, Hà Nội.

62. Lê Xuân Huy (2007), “Pháp luật với vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt

Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, 12 (199), tr.41-46.

63. Jean - Jacques Rousseau (2004), Bàn về khế ước xã hội, Hoàng Thanh Đạm

dịch thuật, chú thích và bình giải, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

64. Joseph Stiglitz (2002), Tham gia và Phát triển: Quan điểm từ mô hình phát

triển toàn diện, World Bank xuất bản.

65. Nguyễn Thọ Khang (2013), “Thực hiện dân chủ ở cấp xã và vấn đề đặt ra đối

với báo chí ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền

thông, (6).

66. Lại Quốc Khánh (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ dân chủ nhân dân”,

Tạp chí Triết học, 7(170).

67. Đỗ Minh Khôi (2006), Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật trong điều kiện

Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội.

68. Trần Ngọc Khuê (chủ nhiệm) (2002), Mối quan hệ giữa các yếu tố tâm lý xã hội

với quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay, Báo

cáo tổng quan đề tài nghiên cứu cấp bộ của Khoa Tâm lý Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

157

69. Đàm Văn Lợi (2010), "Nhìn lại 10 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở",

http://www.mattran.org.vn, [truy cập ngày 15/8/2014].

70. Nguyễn Khắc Mai (1997), Dân chủ - di sản văn hóa Hồ Chí Minh, Nxb Sự thật,

Hà Nội.

71. Nguyễn Văn Mạnh (1995), Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp lý thực hiện

quyền con người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Phó

tiến sĩ Luật học, Hà Nội.

72. Nguyễn Văn Mạnh (2010), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam: lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

73. Nguyễn Văn Mạnh (chủ biên) (2010), Thực hiện pháp luật - những vấn đề lý

luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia - Hành chính, Hà Nội.

74. Matinne Lombard, Gille Dumont (2007), Pháp luật hành chính của Cộng hòa

Pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

75. Đinh Văn Mậu (2000), Tổ chức thực hiện quyền lực nhân dân và mối quan hệ

giữa nhà nước và công dân, Đề tài nghiên cứu khoa học 96-98-043/ĐT,

Hà Nội.

76. Lê Quang Minh (2003), “Để thực hiện dân chủ sở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (11).

77. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

78. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

79. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

80. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

81. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

82. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

83. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

84. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

85. Montesquieu (2006), Bàn về tinh thần pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

86. N.M.Voskresenskaia, N.B.Davletshina (2009), Chế độ dân chủ: Nhà nước và

xã hội, Nxb Tri thức, Hà Nội.

87. Nguyễn Văn Nam (2013), “Luật tục và việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở

Tây Nguyên thực trạng và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Sinh hoạt Lý

luận, 1(116).

158

88. Neal Tate C (1997), “Về nền dân chủ và pháp luật những bước tiến mới trong lý

luận và phân tích” Thông tin khoa học xã hội, (10), tr.24-29.

89. Nguyễn Thị Ngân (chủ nhiệm) (2003), Quá trình thực hiện quy chế dân chủ cơ

sở ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay, Báo cáo tổng quan đề tài

nghiên cứu cấp Bộ của Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

90. Dương Xuân Ngọc (chủ biên) (2000), Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã, một

số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

91. Nhà xuất bản Xây dựng (2002), Văn bản hướng dẫn xây dựng và thực hiện Quy

chế Dân chủ ở cơ sở, Nxb Xây dựng, Hà Nội.

92. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa (2005), Từ điển Bách khoa Việt Nam,

Hà Nội.

93. Ngọ Văn Nhân (2008), “Về đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại

diện trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, 5(204),

Hà Nội.

94. Phạm Văn Nhuận (2010), “Để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo xây dựng

nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính

trị, (8).

95. Vũ Thị Nhung (2011), Hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa

bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công, Hà Nội.

96. Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ

nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.

97. Nguyễn Thị Hiền Oanh (2005), Vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với

việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, Nxb Lý

luận chính trị, Hà Nội.

98. Olivier Vidal (2011), “Nước Cộng hòa Pháp và các cộng đồng lãnh thổ địa

phương: sự trở lại của nhóm Girondins?”, trong cuốn Phân cấp quản lý

nhà nước, Nguyễn Hoàng Anh dịch, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà

Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

159

99. Hoàng Phê (Chủ biên) (1988), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

100. Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và thực

tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

101. Nguyễn Hạnh Phúc (2007), "Thực hiện Quy chế dân chủ ở Thái Bình - thành

tựu và kinh nghiệm", Tạp chí Cộng sản, (775).

102. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên) (2007), Đổi mới tổ

chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội

ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

103. Vũ Đình Quân (2005), “Kinh nghiệm, từ việc thực hiện thể chế dân chủ cơ sở

(thôn tự trị) ở Trung Quốc”, Thông tin Chính trị học, Viện Chính trị học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (1).

104. Phạm Ngọc Quang (2004), “Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi

mới - thành tựu, vấn đề và giải pháp”, Tạp chí Lý luận chính trị, (3).

105. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ luật Hình sự

(sửa đổi năm 2009), Hà Nội.

106. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Luật Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam, Hà Nội.

107. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Hiến pháp Việt

Nam, Năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 và Nghị quyết về việc

bổ sung sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

108. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật Khiếu nại,

Luật Tố cáo, Hà Nội.

109. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật Phổ biến,

giáo dục pháp luật, Hà Nội.

110. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp năm

2013 và tìm hiểu Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ, Nxb Hồng Đức,

Hà Nội.

160

111. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Hoà giải cơ

sở, Hà Nội.

112. Nguyễn Duy Quý (2004), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của dân, do dân và vì dân, Đề tài KX 04, Hội thảo tại Thành phố

Hồ Chí Minh.

113. Rozdental M.M. (1986), Từ điển triết học, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva.

114. S.L. Montesqieu (1990), Tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

115. Đỗ Tiến Sâm (2005), Vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung

Quốc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

116. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (đồng chủ biên) (2003), Thực hiện quy chế

dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

117. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (chủ biên) (2005), Thể chế dân chủ và phát

triển nông thôn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

118. Nguyễn Bắc Son (2010), Hỏi đáp về dân chủ ở cơ sở - sách của Hội đồng chỉ

đạo xuất bản sách xã, phường, thị trấn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

119. Phan Xuân Sơn (2003), Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở

cơ sở hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

120. Phan Xuân Sơn (chủ biên) (2010), Các chuyên đề bài giảng chính trị học

(dùng cho cao học chuyên ngành chính trị học), Nxb Chính trị - Hành

chính, Hà Nội.

121. Nguyễn Chính Tâm (2007), "Phản biện xã hội và sự phát triển của Việt Nam",

http://vietnamnet.vn/chinhtri/, [truy cập ngày 25/8/2015].

122. Đặng Đình Tân, Đặng Minh Tuấn (2002), “Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân

chủ ở cơ sở”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (7), Hà Nội.

123. Tạp chí Thông tin những vấn đề lý luận (2008), "Đảng Cộng sản Trung Quốc

và vấn đề dân chủ", Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

124. Tạp chí Tân Hoa xã (2007), "Xây dựng chế độ dân chủ chính trị ở Trung Quốc

theo tinh thần của chủ nghĩa Mác", dịch đăng trên Thông tin Những vấn đề

lý luận - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, (22).

161

125. Hồ Bá Thâm, Nguyễn Tôn Thị Tường Vân (đồng chủ biên) (2010), Phản biện

xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

126. Trần Gia Thắng (2002), Hiến pháp Việt Nam, (từ năm 1946 đến năm 1992) và

các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

127. Thái Vĩnh Thắng (2011), Lịch sử hình thành và phát triển của quyền tiếp cận

thông tin, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

128. Kim Thanh, Phan Hiên (2007), “Những điểm mới của Pháp lệnh Thực hiện

dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, Tạp chí Dân vận, (10).

129. Nguyễn Kim Thanh (2009), “Một vài suy nghĩ về kết quả 10 năm xây dựng và

thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Dân vận, (7).

130. Thanh tra Nhà nước (2002), Phát huy dân chủ và giải quyết khiếu tố ở cơ sở,

Hà Nội.

131. Nguyễn Tiến Thành (2006), Kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp

trong thực hiện quy chế dân chủ ở xã trên địa bàn thành phố Hà Nội,

Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.

132. Tống Đức Thảo, Bùi Việt Hương (đồng chủ biên) (2011), Trào lưu xã hội dân

chủ ở một số nước phương Tây hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

133. Nguyễn Trọng Thóc (2005), “Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc

xây dựng nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta

hiện nay”, Tạp chí Triết học, 6(169).

134. Thomas Meyer, Nicole Breyer (2007), Tương lai của nền dân chủ xã hội (Die

Zukunft Sozialen Demokratie), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

135. Lê Minh Thông (2000), “Tăng cường cơ sở pháp luật về dân chủ trực tiếp ở nước

ta trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (1), tr.17-27.

136. Lê Minh Thông (2000), “Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người

ở nước ta”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (8).

137. Thủ tướng Chính phủ (1998), Chỉ thị số 24/1998 ngày 19/6 của Thủ tướng

Chính phủ về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng,

bản thôn, ấp, cụm dân cư, Hà Nội.

138. Trần Thị Hồng Thúy, Ngọ Văn Nhân (đồng chủ biên) (2004), Tác động của

dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, Nxb

Tư pháp, Hà Nội.

162

139. Nguyễn Trung Tín (chủ nhiệm) (2010), Vai trò và quyền của nhân dân với tư

cách là chủ thể xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam năm 2011-2020, Báo cáo tổng hợp Đề tài cấp Bộ, Đại học

Luật Hà Nội.

140. Đặng Hữu Toàn (2005), “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

và vấn đề thực thi quyền làm chủ của nhân dân”, Tạp chí Khoa học xã

hội, (9).

141. Nguyễn Văn Toàn (2008), “Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, kết quả

sau 10 năm thực hiện”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (155), tr.14-18.

142. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Công văn số 1833/TLĐ ngày

04/12/2013 về việc Công đoàn tham gia thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở,

Hà Nội.

143. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh (2002), Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người, Hà Nội.

144. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh và Hội nghiên cứu quyền con người Trung quốc (2003), Quyền con

người ở Trung Quốc và Việt Nam (truyền thống, lý luận và thực tiễn), Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

145. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

146. Nguyễn Minh Tuấn (2014), “Các hình thức dân chủ và việc mở rộng dân chủ

ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (6), tr.40.

147. Đào Trí Úc (1998), “Củng cố các hình thức dân chủ vì sự vững mạnh của Nhà

nước ta”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (1).

148. Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh (đồng chủ biên) (2003), Giám sát và cơ chế giám

sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

149. Đào Trí Úc (chủ biên) (2009), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt

động của bộ máy Đảng và Nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

163

150. Đào Trí Úc và các cộng sự (2014), Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ

trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội.

151. Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội (2007), Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11

ngày 20/4 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Hà Nội.

152. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2013), Báo cáo số 495/BC-

MTTW-ĐCT ngày 18/10/2013 về Tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và

nhân dân, Hà Nội.

153. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

154. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

155. Chu Thị Trang Vân (2009), “Một số vấn đề đặt ra trong quá trình thực thi

Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, Tạp chí Nhà nước và

Pháp luật, (5), tr.51-59.

156. Viện Khoa học pháp lý (2005), Thiết chế chính trị và bộ máy nhà nước một số

nước trên thế giới, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

157. Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (2013), Thực trạng thi hành Pháp

lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Hà Nội.

158. Virginia Beramandi, Andrew Elis và các cộng sự (2014), Dân chủ trực tiếp:

Sổ tay IDEA Quốc tế (Chủ biên bản dịch Đào Trí Úc, Vũ Công Giao),

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

159. Đàm Đức Vũ (2008), “Phát triển dân chủ xã hội dân chủ xã hội chủ nghĩa và

xây dựng xã hội hài hòa”, Thông tin Những vấn đề lý luận, Học viện

Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, (13).

160. Trịnh Thị Xuyến (2009), Kiểm soát quyền lực nhà nước-một số vấn đề lý luận

và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

161. Nguyễn Như Ý (2011), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia thành

phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

164

* Tài liệu tiếng Anh

162. Adam Przeworski, Michael Alvarez, Jose Antonio Chebub and Fernando

Limongi (1996), What makes Democracies Endure? (Điều gì tạo nên các

nền dân chủ bền vững?), Journal of Democracy 7/January, pag. 39-55.

163. Harold Hongju Koh (2000), The right to Democracy, Towards a community of

democracy (Quyền dân chủ, Hướng tới một cộng đồng dân chủ), Issue of

Democracy, May, p. 9.

164. Harold Hongju Koh (2000), The right to democracy, Towards a community of

democracy, Issue of Democracy, May, 2000, p.9.

165. Przeworski, Alvarez, Cheibub, and Limongi (1996), What makes democracies

endure?. Journal of Democracy 7 (January): 39-55.

166. Robert Alan, Dalh (1991), Democracy and its Critics (Dân chủ và sự phê

phán), New Haven: Yale University Press. USA.

167. Sorensen Georg (2007), Democracy and democractization processes and

prospects in changing world (Dân chủ và quá trình dân chủ hóa và triển

vọng trong một thế giới chuyển đổi), Westview press.