Upload
ngokhanh
View
223
Download
2
Embed Size (px)
Citation preview
Học Viện Thần HọcHội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam
LUÂN VĂN TỐT NGHIỆP THẦN HỌC
Đề tài :
CỘNG ĐOÀN TÍN HỮU TIÊN KHỞI LÀ HÌNH MẪU LÝ TƯỞNG
CHO ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN ĐAN TU
Sinh viên thực hiện:
Fm. Giuse Marchandu Phạm Văn Thăng O. Cist
Cộng đoàn Châu Sơn – Nho Quan
Giáo sư hướng dẫn:
Lm. Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh O. Cist
Niên Khoá 2014 – 2018
2
Lời Tri ÂnTrong tâm tình “Uống ước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, con xin nói lên
tấm lòng biết ơn:
Trước tiên con xin tạ ơn Thiên Chúa Ba Ngôi và toàn thể các thánh đã ban cho con rất nhiều ơn lành trong những năm tháng qua để con hoàn thành chương trình học thần học cách tốt đẹp.
Thứ đến, con xin hết lòng tri ân đến Cha Viện trưởng Đaminh Savio Nguyễn Tuấn Hào, quí cha, quí thầy và anh em trong Đan Viện Thánh Mẫu Châu Sơn Nho Quan, đã dày công dạy dỗ, hướng dẫn, chỉ giáo cho con từ khi con chập chững bước vào đời đan tu. Nhất là đã tạo điều kiện cho con có cơ hội học hỏi, khám phá về chân lý đức tin và giá trị đời tận hiến trong chương trình thần học, để con xác tín hơn trong đời sống đan tu và dấn thân phục vụ.
Tiếp đến, con xin tri ân đến quí Cha trong Ban Giám Đốc của Học Viện Thần Học Xitô Thánh Gia Việt Nam, đã tận tình hướng dẫn và đồng hành với chúng con như những người cha, người anh để chúng con yên tâm học hành trong thời gian ở học viện.
Đặc biệt con hết lòng tri ân cha Phó giám đốc Vinh Sơn Liêm - Nguyễn Hồng Thanh, là người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ con trong suốt thời gian con làm bài luận văn này. Nhờ công lao đồng hành và chỉ dạy của Cha mà con đã hoàn thành khoá học và bài luận văn này cách tốt đẹp.
Con cũng xin tri ân quí Cha Giáo, Thầy Giáo, Soeur Giáo, đã tận tình truyền dạy không chỉ kiến thức mà còn những kinh nghiệm thiêng liêng, những kỹ năng của cuộc sống và cả tinh thần nhiệt tâm tông đồ cũng như đời sống chiêm niệm cho con cách riêng và cho học viện nói chung.
Cách riêng, trong tình huynh đệ, em xin cảm ơn tất cả quí anh em trong khoá học, đặc biệt các anh em cùng lớp, đã chân thành góp ý, giúp đỡ và khích lệ em trong những năm tháng học cùng nhau. Nhờ đó, em mới có được thành quả ngày hôm nay.
Cuối cùng, con xin tri ân Bố Mẹ; Bố Mẹ đỡ đầu; các vị ân nhân, là những người đã sinh thành dưỡng dục con, đã cưu mang con; cùng với tất cả anh chị em trong gia đình nội ngoại xa gần; các bạn là những người đã tận tình giúp đỡ con về nhiều mặt, đặc biệt là luôn đồng hành với con trong những lời cầu nguyện.
Nguyện xin Thiên Chúa là Cha nhân từ, giàu lòng thương xót trả công bội hậu cho Quí Cha, Quí Giáo Sư, Quí Thầy, Bố Mẹ, Anh Chị Em cùng tất cả bạn bè, luôn được bình an, tràn đầy niềm vui và ân sủng của Chúa Phục Sinh.
Con xin hết lòng tri ân!
Châu Sơn Đơn Dương, ngày 25 tháng 3 năm 2018M. Marchandu Phạm Văn Thăng O.cist
3
Nhận Xét Của Giáo Sư Hướng Dẫn
Nhìn vào thực trạng của xã hội hiện đại hôm nay, đời sống thánh hiến nói chung và đan tu nói riêng đang phải đương đầu với những thách đố, và những cuộc khủng hoảng trong nếp sống cộng đoàn. Vậy đâu là những đặc tính căn bản làm nền tảng để khôi phục đời sống cộng đoàn? Làm sao để xây dựng và thăng tiến một cộng đoàn thánh hiến nói chung và cộng đoàn đan tu nói riêng? Phải xây dựng và phát triển cộng đoàn đan tu theo kiểu mẫu nào để thích ứng với xã hội Việt Nam tục hóa và vô thần này?
Từ những vấn nạn trên, ta thấy được đề tài “Cộng đoàn tín hữu tiên khởi là hình mẫu lý tưởng cho đời sống cộng đoàn đan tu” của sinh viên rất thực tế và có giá trị. Vì qua đề tài nghiên cứu này, có thể tìm ra những lời giải đáp cho những vấn nạn liên quan đến đời sống các cộng đoàn thánh hiến nói chung và cộng đoàn đan tu nói riêng.
Tiểu luận của sinh viên có liên quan đến bốn lãnh vực: Kinh thánh, thần học, tu đức và đan tu. Nội dung chính bàn về đời sống cộng đoàn thánh hiến nói chung và cộng đoàn đan tu nói riêng. Nền tảng của đời sống cộng đoàn được khởi nguồn từ kiểu mẫu của cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi.
Bài nghiên cứu của sinh viên khá dài và sâu rộng. Sinh viên đã triển khai các khía cạnh khác nhau về đời sống cộng đoàn: từ nền tảng lý thuyết cho đến thực tế; từ thời cộng đoàn Giáo hội sơ khai đến thời các linh phụ đan tu, rồi đến hiện trạng của các cộng đoàn thánh hiến hôm nay.
Trong phần nội dung, sinh viên đã trình bày các yếu tố thiết yếu và đặc nét riêng của cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi, ở chương 1 & 2. Từ đó, qua các chương kế tiếp (chương 3 & 4), sinh viên rút ra những đặc tính căn bản làm nền tảng để xây dựng và thăng tiến cộng đoàn thánh hiến nói chung và cộng đoàn đan tu nói riêng. Ở chương cuối, sinh viên đưa ra những nhận định xác thực về đời sống cộng đoàn thánh hiến trong bối cảnh cụ thể của xã hội thời hiện đại. Phần mở và kết sinh viên viết khá hay.
Nhìn chung, sinh viên đã hoàn tất đề tài nghiên cứu đúng theo yêu cầu của phương pháp nghiên cứu và biên soạn, với nội dung rất sâu sắc. Do đó, luận văn của sinh viên có giá trị làm tài liệu nghiên cứu và học hỏi. Hy vọng rằng, những đóng góp của sinh viên sẽ hữu ích cho mọi kitô hữu, nhất là cho những ai đang dấn thân trong đời sống thánh hiến, đặc biệt là cho các cộng đoàn đan tu chiêm niệm Xitô hôm nay.
Châu Sơn, ngày 15 tháng 3 năm 2018
Điểm : . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
M. Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh
4
Mục lục
MỞ ĐẦU......................................................................................................................61. Lý do chọn đề tài................................................................................................62. Mục đích nghiên cứu đề tài...............................................................................73. Giới hạn đề tài....................................................................................................84. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu................................................................85. Bố cục của đề tài.................................................................................................9
Chương 1...................................................................................................................11
BỐI CẢNH CỘNG ĐOÀN TÍN HỮU TIÊN KHỞI.............................................111. Hoàn cảnh lịch sử.............................................................................................11
1.1. Nguồn gốc khai sinh Giáo hội....................................................................111.2. Giáo hội sau biến cố Chúa Giêsu Phục Sinh.............................................13
2. Thành phần của Cộng đoàn............................................................................153. Mục đích chung của cộng đoàn: chứng nhân Tin Mừng phục sinh............17
Chương 2...................................................................................................................21
NHỮNG ĐẶC NÉT..................................................................................................21
CỦA ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN KITÔ HỮU TIÊN KHỞI.................................211. Nghe các Tông đồ rao giảng............................................................................21
1.1. Lắng nghe lời các Tông Đồ rao giảng.......................................................211.2. Thinh lặng..................................................................................................23
2. Hiệp thông với nhau.........................................................................................252.1. Nguy cơ chín người mười ý........................................................................252.2. Mô hình lý tưởng mười người một ý...........................................................26
3. Siêng năng tham dự lễ bẻ bánh.......................................................................293.1. Hiệp thông với nhau...................................................................................293.2. Hiệp thông với Chúa..................................................................................32
4. Chuyên cần cầu nguyện...................................................................................344.1. Đồng tâm nhất trí.......................................................................................354.2. Cần mẫn kiên trì.........................................................................................36
5. Đóng góp tài sản chung....................................................................................38
Chương 3...................................................................................................................41
XÂY DỰNG CỘNG ĐOÀN ĐAN TU THEO MẪU HÌNH CỘNG ĐOÀN TÍN HỮU TIÊN KHỞI..................................................................................41
1. Lắng nghe các bậc bề trên...............................................................................411.1. Vâng phục...................................................................................................411.2. Thinh lặng..................................................................................................45
2. Sống hiệp thông tình huynh đệ.......................................................................482.1 Lắng nghe....................................................................................................492.2 Đón nhận.....................................................................................................51
3. Siêng năng tham dự lễ bẻ bánh.......................................................................553.1. Tham dự thánh lễ........................................................................................553.2. Bí tích Thánh Thể.......................................................................................56
4. Đời sống cầu nguyện........................................................................................594.1. Các giờ kinh phụng vụ................................................................................59
5
4.2. Cầu nguyện.................................................................................................615. Đóng góp tinh thần vật chất cho cộng đoàn..................................................65
Chương 4...................................................................................................................69
ĐỂ SỐNG THĂNG TIẾN HƠN MỖI NGÀY TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN ĐAN TU.....................................................................................69
1. Tương Quan Trong Cộng Đoàn......................................................................691.1. Gặp gỡ, giao lưu, trao đổi..........................................................................691.2. Dấn thân, hy sinh, phục vụ.........................................................................741.3. Trung tín, trân trọng, lễ phép.....................................................................77
2. Trách Nhiệm Với Cộng Đoàn.........................................................................802.1. Kiến tạo sự hiệp nhất..................................................................................802.2. Lao động.....................................................................................................832.3. Dấn thân xây dựng cộng đoàn với ý thức trách nhiệm..............................87
3. Các Nhân Đức Cần Thiết Trong Đời Sống Cộng Đoàn................................913.1. Hiền lành và khiêm nhường.......................................................................913.2. Chân thật, yêu thương, bác ái....................................................................943.3. Quảng đại, tha thứ......................................................................................973.4. Hòa nhịp với mọi sinh hoạt của cộng đoàn..............................................100
Chương 5.................................................................................................................104
MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH........................................................................................1041. Về cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi..................................................................104
1.1. Tích cực....................................................................................................1041.2. Tiêu cực....................................................................................................106
2. Về cộng đoàn đan tu hôm nay.......................................................................1072.1. Tích cực....................................................................................................1072.1. Tiêu cực....................................................................................................109
KẾT LUẬN CHUNG..............................................................................................112
THƯ MỤC SÁCH THAM KHẢO........................................................................118
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài“Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay,
Anh em được sống vui vầy bên nhau” (Tv 133, 1).
Lời của vịnh gia trên đây nói lên tình cảm yêu thương giữa con người với nhau, đặc
biệt là giữa những người có chung niềm tin, chung lý tưởng. Sống ở trên đời, chắc chắn bất
cứ ai cũng muốn có một cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc; nhưng cuộc sống ấy không tự nhiên
mà có, đặc biệt là đời sống chung. Muốn có cuộc sống an vui, hạnh phúc, đòi hỏi mỗi
người phải tích cực xây dựng, vun đắp tương quan tốt đẹp với những người có liên hệ. Một
gia đình, một tập thể hay một cộng đoàn không có tương quan tốt với nhau, chắc chắn sẽ
không có hạnh phúc. Do đó, xây dựng tương quan tốt đẹp là một trong những yếu tố thiết
yếu tạo nên cuộc sống hạnh phúc. Trong một gia đình, mọi thành viên sống thuận hoà với
nhau, đó là gia đình hạnh phúc. Đối với bạn hữu, tương quan có tốt thì mới có tình cảm bền
vững. Ngoài xã hội, dù chỉ là quan hệ xã giao hay tương tác làm ăn thì cũng cần tạo niềm
tin cho nhau mới có thể gắn bó với nhau lâu dài. Cũng một lẽ như thế, người sống đời
thánh hiến, sống chung với nhau trong một cộng đoàn lại càng cần xây dựng mối tương
quan tốt đẹp với nhau hơn. Bởi lẽ, trong cộng đoàn đó, không phải là những người để biết
nhau, hay được tìm hiểu về nhau từ trước, càng không được chọn lựa nhau để sống chung;
mà ở đó là tổng hợp những con người đến từ nhiều vùng miền khác nhau, với tính cách
khác nhau, văn hoá, phong tục tập quán cũng khác nhau, hoàn cảnh gia đình lại càng
không như nhau,… Nói chung là mỗi người mang theo mình một “background” riêng,
chẳng ai giống ai.
Tuy nhiên, khi đã cùng chung lý tưởng, cùng một mục đích là thánh hiến cho Chúa,
từ những con người với nhiều nét riêng biệt như thế lại có thể trở nên như anh em một nhà,
gắn bó, yêu thương và giúp nhau vượt qua mọi khó khăn. Để có thể vượt qua những rào
cản khác biệt đó không phải là điều dễ dàng, nó cần có sự thanh tẩy của thời gian, cần sự
cố gắng của mỗi cá nhân, và cần thiết hơn cả là ơn trợ lực từ Thiên Chúa.
Bản thân người viết cũng được sống trong đời sống cộng đoàn một thời gian không
phải là quá dài, nhưng cũng đủ để có thể cảm nghiệm về đời sống ấy. Chính vì vậy, người
viết thao thức làm thế nào để đời sống cộng đoàn ngày một tốt đẹp hơn.
Đời sống cộng đoàn nghe qua có vẻ quen thuộc, thậm chí là “nhàm chán” với người
sống đời thánh hiến, nhưng nó không bao giờ là chủ đề lạc hậu, mà ngược lại còn là một
vấn đề luôn mang tính thời sự trong mọi giai đoạn.
7
Theo lời cha Jean Vanier, đời sống cộng đoàn là một sự mạo hiểm. Điều đó được
cha khám phá ra không phải từ sách vở, nhưng qua cuộc sống thường ngày, qua những
thiếu sót, những chướng ngại, những thất bại của bản thân, qua ơn Thiên Chúa soi sáng
và sự trợ giúp của anh chị em trong cộng đoàn, qua những thời khắc hiệp nhất, căng
thẳng và đau khổ.1 Thực tế cho thấy, có quá nhiều sự khác biệt giữa các thành viên
trong cộng đoàn, thế nên để có thể sống cùng nhau không chỉ một vài khoảnh khắc
ngắn ngủi mà là sống cùng nhau cho đến cuối cuộc đời thì quả là điều vô cùng khó
khăn. Vậy, làm thế nào để có thể vượt qua những khó khăn ấy? Làm thế nào để cộng
đoàn được sống trong sự hiệp nhất? Câu trả lời có thể tìm thấy nơi tinh thần của cộng
đoàn tiên khởi trong sách Công vụ Tông đồ (xc. Cv 2, 42 - 47; 4, 32 - 35). Riêng bản
thân người viết cảm nhận rằng việc học hỏi tinh thần của các tín hữu tiên khởi là một
trong những phương thế hữu hiệu cho đời sống cộng đoàn.
Cộng đoàn các tín hữu thủa ban đầu tuy có nhiều thành phần khác nhau, nhưng các
ngài đã gầy dựng nên một đời sống cộng đoàn thật tuyệt vời khi lấy Chúa làm trung tâm,
tất cả đều đồng tâm nhất trí và chuyên cần cầu nguyện, để mọi sự làm của chung. Các tín
hữu tiên khởi yêu thương, hiệp nhất với nhau, và thời đó người ta đã dùng cụm từ “đạo yêu
thương” để dành tặng các ngài!
Một nếp sống cộng đoàn tốt đẹp như thế thật đáng để các tu sĩ hôm nay dõi theo và
tiếp bước. Đặc biệt là nếp sống đan tu không ra ngoài phục vụ, nhưng ngày ngày cùng
nhau cầu nguyện, lao động, học tập, làm việc đạo đức… trong đan viện thì tinh thần hiệp
thông ấy càng được chăm chút nhiều hơn cho các đan sĩ.
Vì những lý do đó, đề tài CỘNG ĐOÀN TÍN HỮU TIÊN KHỞI LÀ HÌNH MẪU
LÝ TƯỞNG CHO ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN ĐAN TU được người viết “thai nghén” và
hôm nay đã “chào đời”!
Bất kỳ hành động nào cũng mang một mục đích nào đó, và khi người viết dành thời
gian, dùng tâm huyết để nghiên cứu đề tài này cũng có một mục đích nhất định. Vậy mục
đích của đề tài là gì?
2. Mục đích nghiên cứu đề tàiMục đích của đề tài này là phân tích sâu hơn những đặc tính của đời sống các tín hữu
tiên khởi, để giúp củng cố đời sống cộng đoàn đan tu ngày hôm nay.
1 Xc. Jean Vanier, Community and Growth- Thăng Tiến Cộng Đoàn, Đaminh Rosa Lima chuyển ngữ, St. Paul Publications- Sydney 1979, tr. 9.
8
Qua các đặc tính của cộng đoàn tín hữu tiên khởi như: chuyên cần nghe các Tông đồ
giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện
không ngừng; người viết được chiêm ngắm hình ảnh của một cộng đoàn lý tưởng, nơi đó,
tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Các ngài đem bán đất
đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Các thành viên trong cộng đoàn
luôn đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Tất cả cùng ca tụng Thiên
Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những
người được cứu độ (xc. Cv 2, 42- 46).
Khi ngược dòng thời gian, dõi nhìn vào đời sống các bậc tiền nhân như vậy, trước
tiên là giúp cho bản thân người viết có thêm động lực để tích cực cộng tác, tạo nên đời
sống hiệp thông huynh đệ cộng đoàn, là hành trang cho bản thân bước tiếp trên con đường
thánh hiến đan tu một cách xác tín hơn. Thứ đến, người viết cũng ước mong sao qua đề tài
này, các cộng đoàn đan tu có thể bắt chước để sống theo những đặc tính của cộng đoàn
Giáo hội sơ khai, giúp cho đời sống cộng đoàn đan tu ngày hôm nay thêm tình hiệp thông
huynh đệ, đậm tình yêu thương anh em.
3. Giới hạn đề tàiNói về đề tài cộng đoàn, thiết nghĩ đó là chủ đề rộng lớn, đa dạng, phức tạp, nan
giải và rất thời sự. Mỗi chủ đề về cộng đoàn có thể khai triển nhiều khía cạnh khác
nhau; hướng giải quyết cũng rất phong phú, đa dạng. Có lẽ không bút giấy nào có thể
diễn tả trọn vẹn đầy đủ mọi mặt, muôn hướng của đời sống cộng đoàn. Thế nên, trong
bài viết này, người viết xin giới hạn chủ đề trong khuôn khổ những nét đặc trưng nổi
bật nơi đời sống cộng đoàn của các tín hữu tiên khởi có ảnh hưởng, gần gũi với đời
sống đan tu tại Việt Nam.
4. Tư liệu và phương pháp nghiên cứuĐề tài được trình bày bằng phương pháp nghiên cứu Thánh Kinh, cách riêng về đời
sống cộng đoàn của tín hữu tiên khởi; tiếp đến là tổng hợp các nguồn tài liệu của các tác
giả có kinh nghiệm về đời sống cộng đoàn, các văn kiện của Giáo hội về đời sống thánh
hiến; cuối cùng là bằng những hiểu biết, trải nghiệm cá nhân của người viết về đời sống
huynh đệ cộng đoàn thánh hiến. Từ đó, người viết rút ra những nét độc đáo và những đặc
tính của đời sống cộng đoàn. Dựa vào những đặc tính của đời sống cộng đoàn tín hữu tiên
khởi, người viết muốn đề nghị một hình thức xây dựng cộng đoàn đan tu ngày hôm nay, và
bổ sung thêm các nhân đức thiết yếu, hầu giúp cho cộng đoàn ngày một thăng tiến hơn.
9
5. Bố cục của đề tàiNgoài phần mở đầu và kết luận, người viết khai triển đề tài này với năm chương.
Chương thứ nhất: Bối cảnh cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi.
Chương này giới thiệu qua về nguồn gốc khai sinh Giáo hội, đôi nét về hoàn cảnh
hình thành cộng đoàn tín hữu tiên khởi, qua đó ta biết được cộng đoàn tín hữu gồm rất
nhiều thành phần, không chỉ có người Do thái, mà còn có những kiều bào ở các nước khác
hồi hương, và dân đến từ các vùng miền khác nhau, tạo nên một cộng đoàn tín hữu đa sắc
thái. Mặc dù có nhiều thành phần khác nhau, nhưng các tín hữu lại có chung một mục đích
là chứng nhân cho Tin mừng Phục sinh. Vậy để cho cộng đoàn có chung một mục đích,
một ý hướng thì cần những điều kiện gì? Chương hai sẽ nêu lên những điều kiện cụ thể để
trả lời cho câu hỏi ấy.
Chương hai: Những đặc nét của đời sống cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi.
Ở chương này trình bày những đặc nét cụ thể của đời sống cộng đoàn tín hữu tiên
khởi. Những đặc nét đó là: các tín hữu lắng nghe các Tông đồ giáo huấn và giảng dạy; họ
hiệp thông với nhau trong tình huynh đệ, siêng năng tham dự các hoạt động về phụng vụ
“Lễ Bẻ Bánh”, chuyên cần cầu nguyện hàng ngày và đóng góp tài sản để xây dựng cộng
đoàn ngày một lớn mạnh hơn. Chính những đặc nét này đã giúp cho cộng đoàn ngày một
thêm đông và gắn bó yêu thương nhau, tạo nên một cộng đoàn hiệp nhất huynh đệ.
Chương ba: Xây dựng cộng đoàn đan tu theo mẫu hình cộng đoàn tín hữu tiên khởi.
Chương thứ ba này sẽ trình bày về những yếu tố thiết yếu để xây dựng đời sống cộng
đoàn đan tu ngày hôm nay, dựa vào những đặc nét của đời sống cộng đoàn tín hữu tiên
khởi. Để cộng đoàn cùng đồng tâm nhất trí thì cần phải lắng nghe các bậc bề trên, luôn ý
thức xây dựng tình hiệp nhất huynh đệ, siêng năng tham dự các phận vụ về đời sống thiêng
liêng như tham dự đầy đủ thánh lễ, giờ kinh phụng vụ, cầu nguyện, chầu Thánh Thể, các
việc đạo đức cá nhân và đóng góp tinh thần vật chất cho cộng đoàn bằng sự nhiệt tâm
trong việc xây dựng cho cộng đoàn.
Chương bốn: Để sống thăng tiến hơn mỗi ngày trong cộng đoàn đan tu.
Chương này sẽ nhấn mạnh hơn các yếu tố cần thiết cho đời sống cộng đoàn, đó là:
các mối tương quan trong cộng đoàn phải có sự gặp gỡ, giao lưu, trao đổi để hiểu, thông
cảm và đón nhận nhau dễ dàng hơn. Hiểu nhau để có thể dấn thân, hy sinh mà phục vụ cho
cộng đoàn, cho tình huynh đệ chân thành. Để được như vậy, mỗi người cần phải biết trân
trọng nhau, biết kính trên nhường dưới thì tình hiệp nhất mới có thể tăng triển mỗi ngày.
Bên cạnh đó, mỗi thành viên trong cộng đoàn cũng phải có trách nhiệm xây dựng cộng
đoàn bằng lao động chân tay cũng như trí óc với tinh thần trách nhiệm cao.
10
Cuối cùng, sống trong cộng đoàn thánh hiến, đặc biệt là đời sống đan tu chiêm niệm
cần có các nhân đức thiết yếu để sống tình huynh đệ như hiền lành, khiêm nhường, chân
thành, bác ái, yêu thương, luôn biết quảng đại đón nhận mọi người và hài hoà với mọi sinh
hoạt của cộng đoàn.
Chương 5: Một vài nhận định.
Từ những phần trình bày về đời sống cộng đoàn các tín hữu tiên khởi cho đến những
điều thiết yếu xây dựng đời sống đan tu ở các chương trước, người viết sẽ rút ra một vài
nhận định về những điểm tích cực cũng như những điểm tiêu cực của đời sống cộng đoàn,
để nhận ra đâu là những điểm son cần phát triển và đâu là những điểm yếu cần khắc phục
cần tránh trong đời sống cộng đoàn.
11
Chương 1
BỐI CẢNH CỘNG ĐOÀN TÍN HỮU TIÊN KHỞI
Trong chương này, chúng ta cùng tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử của Giáo hội thời sơ
khai để biết được Giáo hội được khai sinh từ đâu, trong cộng đoàn gồm những thành phần
nào và mục đích của cộng đoàn là gì?
1. Hoàn cảnh lịch sử
1.1. Nguồn gốc khai sinh Giáo hộiMầu nhiệm Giáo hội thánh thiện được biểu lộ trong chính việc thành lập. Thực thế,
Chúa Giêsu đã khai sinh Giáo hội bằng việc rao giảng Phúc Âm rằng Nước Thiên Chúa đã
đến như đã hứa trong Thánh Kinh từ ngàn xưa: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa
đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin mừng” (Mc 1, 15; xc. Mt 4, 17). Nước này
chiếu sáng trước mặt mọi người qua lời nói, hành động và sự hiện diện của Chúa Kitô. Lời
Chúa ví như hạt giống gieo trong ruộng (xc. Mc 4, 14): ai tin nghe lời Chúa và gia nhập
đàn chiên nhỏ của Chúa Kitô (xc. Lc 12, 32), thì đã đón nhận chính Nước Ngài; rồi tự sức
mình, hạt giống nẩy mầm và lớn lên cho đến mùa gặt (xc. Mc 4, 26 - 29). Các phép lạ của
Chúa Giêsu cũng chứng minh rằng Nước Ngài đã đến thế gian: “Còn nếu tôi dùng ngón
tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11,
20; xc. Mt 12, 28). Nhưng trước tiên, Nước ấy biểu lộ trong chính con người Chúa Kitô,
Con Thiên Chúa và Con loài người, Ðấng đã đến “không phải để được người ta phục vụ,
nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 45).2
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, có ba biến cố khai sinh Giáo hội. Biến cố thứ
nhất là trong bữa tiệc ly của Đức Giêsu với các Tông đồ trước lúc Ngài chịu tử nạn, là một
thời điểm quan trọng trong quá trình sáng lập Giáo hội. Nhà chú giải A. Feuillet viết: “Như
nhiều nhà chú giải thường nhận xét, thiết tưởng phải nhận là trong bữa tiệc ly có một biến
cố gì khác hơn là việc đơn thuần thiết lập một bí tích; chính vì thế, trong dịp này Đức
Giêsu đã khai sinh một tôn giáo mới và đã thành lập Giáo hội”. Lý do là vì, tại đó, Đức
Giêsu đã lập một giao ước mới, một chức tư tế mới và một bữa tiệc cánh chung.3
Biến cố thứ hai ở trên đồi Can - vê, nhiều nhà Thánh kinh cho rằng: Sau khi trao phó
cho Đức Maria nhiệm vụ làm Mẹ chúng ta (xc. Ga 19, 27), và sau khi Đức Maria nhận
nhiệm vụ ấy, Đức Giêsu liền sinh hạ chúng ta từ trái tim bị đâm thâu. Nói rõ hơn, khi
2 Xc. Công đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen Gentium, số 5.3 Xc. Filipe Gomez, SJ, Giáo Hội Học - Thần học tín lý, lưu hành nội bộ, 2017, tr.101- 102.
12
người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Đức Giêsu, tức thì máu cùng nước chảy ra (xc. Ga
19, 34). Theo nhiều Giáo phụ, nước tượng trưng cho phép rửa, còn máu tượng trưng cho
phép Thánh Thể. Mà phép Rửa và phép Thánh Thể tượng trưng cho Giáo hội, là bà Eva
mới được làm thành từ cạnh sườn Đức Giêsu là Adam mới.4 Hiến chế Phụng vụ thánh cho
biết: “Từ cạnh sườn của Chúa Kitô đang trong giấc ngủ trên Thập Giá, đã phát sinh nhiệm
tích kỳ diệu là Giáo hội”.5 Trong sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo cũng khẳng định:
“Sự khởi đầu và tăng trưởng của Hội thánh được đánh dấu bằng việc máu và nước trào ra
từ cạnh sườn rộng mở của Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá. Chính từ cạnh sườn của
Đức Kitô yên nghỉ trên thập giá đã phát sinh bí tích kỳ diệu là toàn thể Hội thánh. Như bà
Eva được tạo ra từ cạnh sườn của ông Adam, thì cũng vậy, Hội thánh được sinh từ trái tim
bị đâm thâu của Đức Kitô chết trên thập giá”.6
Biến cố thứ ba, có thể nói sau cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, đến ngày lễ
Ngũ Tuần thì cộng đoàn các tín hữu đầu tiên bắt đầu hình thành, khởi đi từ các Tông đồ và
những người phụ nữ theo Chúa trong những lần Chúa đi rao giảng. Hiến chế Tín lý về
Giáo hội của công đồng Vaticano II dạy rằng ý định của Chúa Cha thành tựu trọn vẹn khi
Thánh Thần đến; vì thế, sau biến cố Hiện xuống mới có thể nói được là Giáo hội phổ quát
xuất hiện như một dân tộc được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần. Cũng vậy, khi Thần Khí được đổ tràn trên nhóm Tông đồ, thì Giáo hội
đã lãnh nhận sứ mạng rao truyền và thiết lập Nước của Đức Kitô và của Thiên Chúa trong
mọi dân tộc.7 Trong Hiến chế Phụng vụ thánh cũng khẳng định: “Chính trong ngày lễ Ngũ
Tuần, ngày Giáo Hội xuất hiện trước thế giới, “những người suy phục lời giảng” của
thánh Phêrô, “đều được Thánh tẩy”. Họ “kiên vững trong giáo huấn của các Tông đồ,
hiệp thông trong nghi lễ bẻ bánh và trong lời cầu nguyện… luôn ngợi khen Thiên Chúa và
được toàn dân quý mến” (Cv 2, 4 - 42.47). Kể từ đấy, Giáo hội không bao giờ bỏ việc
cùng nhau quy tụ để cử hành mầu nhiệm Phục sinh: bằng việc đọc “tất cả những lời Sách
Thánh liên quan đến Người” (Lc 24, 27), bằng việc cử hành Lễ Tạ Ơn trong đó hiện tại
hoá “sự vinh thắng và khải hoàn nhờ cái chết của Người”, đồng thời “cảm tạ Thiên Chúa
về hồng ân khôn tả” (2 Cr 9, 15) trong Chúa Giêsu Kitô, “để ca tụng vinh quang của
Người” (Ep 1, 12) nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần”.8
4 Xc. Lm Hoàng Đắc Ánh, tiến sĩ Kinh Thánh, Thần Học Về Đức Maria, Nxb Tôn Giáo, 2007, tr. 38- 39.5 Công đồng Vaticano II, Hiến Chế Phụng Vụ Thánh - Sacrosanctum Concilium, số 5.6 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, uỷ ban Giáo Lý Đức Tin, Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, Nxb
Tôn Giáo, 2012, số 766.7 Xc. Công đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen Gentium, số 5- 6.8 Công đồng Vaticano II, Hiến Chế Phụng Vụ Thánh - Sacrosanctum Concilium, số 6.
13
1.2. Giáo hội sau biến cố Chúa Giêsu Phục SinhThần học coi ngày phục sinh như là ngày Giáo hội hình thành. Thật ra, Giáo hội là
thân thể của Đức Kitô Phục sinh. Khi làm cho Đức Kitô từ cõi chết sống lại, Chúa Cha “đã
tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không
những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả
dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể
Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1, 19 - 23).
Và dù Ngài là “trưởng tử mọi tạo vật” nhưng Ngài là đầu của Hội Thánh với tính cách là
trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại (xc. Cl 1, 1 - 20).9
Theo quan điểm lịch sử, lịch sử Giáo Hội bắt đầu khoảng năm 30 tại Giêrusalem
vào ngày lễ Ngũ Tuần của người Do thái (kỷ niệm giao ước Sinai). Nhóm mười hai
loan báo cho đồng bào Do thái ở khắp nơi về một Tin mừng. Các vị nói về Đức Giêsu,
sứ giả của Thiên Chúa tuy bị đóng đinh nhưng vẫn đang sống, Ngài đã phục sinh. Ngài
chính là Đấng Messia, là Đấng Cứu Thế mà dân Do thái qua bao thế hệ hằng mong đợi:
“Xin toàn thể nhà Israel hãy biết cho rằng: Thiên Chúa đã đặt làm Chúa, làm Messia,
Đức Giêsu mà các người đã đóng đinh kia” (Cv 2, 36). Qua lời loan báo Tin mừng đó
(Kerygma), các Tông đồ tự khẳng định tiếp nối sứ vụ của Đức Giêsu, Đấng sáng lập
Giáo hội. Được đầy tràn Thánh Thần, những ngư phủ nhút nhát bỗng nói năng trôi
chảy. Các vị như thấy một dân tộc mới đang nảy sinh; “Lời hứa được ban cho anh em
và con cái anh em cùng mọi kẻ ở phương xa và cho hết mọi người” (Cv 2, 39). Phêrô
mạnh dạn lên tiếng trước đám đông đang nghĩ ông say rượu. Ông tuyên xưng niềm tin
vào đức Giêsu – Messia và kêu gọi hoán cải (Metanoia): “Anh em hãy hối cải và mỗi
người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được tha thứ và anh em sẽ
được lãnh ơn Thánh Thần” (Cv 2, 38). Ngày hôm đó, khoảng ba ngàn người xin chịu
thanh tẩy, Hội thánh được khai sinh.10 Với giới hạn của đề tài, chúng ta chỉ dừng lại nơi
biến cố ngày lễ ngũ tuần trong sách Công vụ Tông đồ.
Theo Tin mừng Gioan, Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với ông Phêrô và các môn đệ ở
biển hồ Tiberia. Ngài chuẩn bị bữa sáng và cùng ăn với họ. Sau khi ăn, Ngài hỏi Phêrô ba
lần xem Phêrô có yêu Ngài không. Rồi Ngài kết thúc với lời mời gọi: “Hãy theo Thầy”
(Ga 21, 15 - 19). Lần này, bối cảnh sau phục sinh, mệnh lệnh đến từ Đấng đã chịu đau khổ,
9 Xc. Filipe Gomez, SJ, Giáo Hội Học - Thần học tín lý, lưu hành nội bộ, 2017, tr. 107.10 Xc. Lm. Px. Đào Trung Hiệu OP, Cuộc Lữ Hành Đức Tin, Tập 1, Giáo hội thời Thượng Cổ và Trung Cổ,
Ấn bản 2015, tr. 5-6. Hoặc, Jean Daniélou và D. Henri Marrou, Tân Lịch Sử Giáo Hội, Cuốn 1, Từ nguồn gốc đến Thánh Gregorio Cả, chuyển ngữ Lm. Phạm Phúc Khánh, Lm. Mai Đức Vinh, Lm. Trần Định, 2002. tr. 52- 56.
14
đã chết và đã sống lại. Lời kêu gọi này được đáp trả bằng tiếng “Xin vâng” mới, một lời
đáp trả được thanh luyện bằng thử thách và được thực hiện trong một nhận thức đầy kinh
nghiệm với ý nghĩa và những yêu sách của việc theo Chúa Kitô. Chúa Kitô tái quy tụ các
môn đệ thành một cộng đoàn mới. Cũng theo Tin mừng Gioan, chính khi tái hợp, cộng
đoàn nhận được Chúa Thánh Thần: Chúa Kitô “thổi hơi vào các ông và nói: Anh em hãy
nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 22).
Thánh Luca thì tường thuật sự kiện này trong sách Công vụ Tông đồ: “Khi đến ngày
lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như
tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những
hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn
đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban
cho” (Cv 2, 1- 4). Vào lễ Ngũ Tuần, một cộng đoàn mới được sinh ra. Cộng đoàn
Giêrusalem là “cộng đoàn mới” vì nguồn sự sống của cộng đoàn là Chúa Thánh Thần,
Đấng trước đó chưa được ban: “Đức Giêsu muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào
Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giêsu chưa
được tôn vinh” (Ga 7, 39), nhưng vào lễ Ngũ Tuần đã được Chúa Kitô Phục Sinh thông
truyền. Cộng Đoàn Giêrusalem được kêu gọi sống trong sự mới mẻ của Thánh Thần.11
Sau khi Chúa Giêsu Thăng Thiên, các môn đệ trở về nhà, trong sách Công vụ Tông
đồ cho biết: “Bấy giờ các ông từ núi gọi là núi Ôliu trở về Giêrusalem. Núi này ở gần
Giêrusalem, cách đoạn đường được phép đi trong ngày sabát. Trở về nhà, các ông lên lầu
trên, là nơi các ông trú ngụ. Đó là các ông: Phêrô, Gioan, Giacôbê, Anrê, Philípphê,
Tôma, Batôlômêô, Mátthêu, Giacôbê con ông Anphê, Simon thuộc nhóm Quá Khích, và
Giuđa con ông Giacôbê. Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện
cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức
Giêsu” (Cv 1, 12 - 14). Lúc này, các Tông đồ họp nhau lại để đề cử người thay thế ông
Giuda Itcariot - kẻ phản bội; kết quả cuối cùng là ông Matthia đã trúng thăm và được kể
thêm vào số mười một Tông đồ: “Họ đề cử hai người: ông Giô-xếp, biệt danh là Ba-sa-ba,
cũng gọi là Giút-tô, và ông Mátthia. Họ cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, chính Chúa thấu
suốt lòng mọi người; giữa hai người này, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai để nhận chỗ trong
sứ vụ Tông đồ, chỗ Giuđa đã bỏ để đi về nơi dành cho y. "Họ rút thăm, thăm trúng ông
Matthia: ông được kể thêm vào số mười một Tông đồ” (Cv 1, 23 - 26). Và từ đây cộng
đoàn đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền thờ và cầu nguyện ca tụng Chúa.
11 Xc. Lm. Samuel H.Canilang, CMF Linh Đạo Hiệp Thông - Một Hướng Dẫn Để Sống Đời Sống Cộng Đoàn Cho Tu Sĩ, Nxb Claretian, Philippines, 2004, chuyển ngữ Lm. Benado Duệ, Phước Sơn, tr. 29-30.
15
Một điều chúng ta cần lưu tâm đó là Giêrusalem chính là thủ đô tôn giáo và chính trị
của Do thái. Kế hoạch cứu độ đã được hoàn thành tại đây nhờ cuộc tử nạn và Phục sinh của
Chúa Kitô. Như vậy, cho phép ta kết luận rằng cộng đoàn tín hữu tại Giêrusalem hình
thành là do kế hoạch lâu đời của Thiên Chúa.12 Và cộng đoàn có tồn tại được là nhờ sự
nâng đỡ của Chúa Thánh Thần.13
Trong bối cảnh thời đầu của Giáo hội sơ khai đó, có rất nhiều những khó khăn cả
về mặt kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Vì cha ông ta có câu: “Vạn sự khởi đầu
nan”, khởi đầu công việc gì cũng sẽ có những khó khăn. Nhưng, đây là một cộng đoàn
đức tin, có Chúa Giêsu hiện diện và có Chúa Thánh Thần nâng đỡ, nên mọi khó khăn
sẽ vượt qua, nếu mỗi thành viên trong cộng đoàn đó có niềm xác tín. Ở đây người viết
chỉ hướng về những điều tích cực nhiều hơn, để từ đó xây dựng một cộng đoàn thánh
hiến tốt hơn, lý tưởng hơn.
2. Thành phần của Cộng đoànCác thành phần của Hội Thánh sơ khai gồm những ai?
Cộng đoàn Hội thánh sơ khai gồm nhiều thành phần có nguồn gốc văn hóa và tôn
giáo khác biệt: Do thái tại Giêrusalem, những người Galilê đi theo Đức Giêsu, những
người Do thái kiều theo văn hoá Hy lạp đã hồi hương, sống tại Giêrusalem, những Do
thái kiều về dự lễ rồi hội nhập Hội thánh sơ khai (xc. Cv 2, 5)…Thành phần đa tạp,
không chọn nhau để mà sống. Sở dĩ các thành phần khác biệt có thể sống chung với
nhau được là vì các tín hữu có cùng một đức tin, mọi người đều là môn đệ Đức Kitô,
Đấng đã dạy cho họ biết yêu thương nhau. Do đó, các tín hữu thi thố tình thương đối
với nhau. Chính trong bầu khí thân ái đó mà thánh Luca đã kết luận: “Họ được toàn dân
mến phục và cộng đoàn ngày càng thêm đông” (Cv 2, 47).14
Sau lễ Ngũ tuần, các môn đệ của Chúa Giêsu quy tụ thành những nhóm nhỏ
quanh các Tông đồ. Họ họp nhau để nghe nói về Đức Giêsu Kitô và cử hành việc
nhắc lại cái chết và sự Phục sinh của Ngài để tưởng niệm Ngài: “Chúng ta đây, có
người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a,
Pon-tô, và A-xi-a, có người là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và những vùng Li-
by-a giáp giới Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma đến đây; nào là người Do- thái
cũng như người đạo theo; nào là người đảo Cơ-rê-ta hay người Ả-rập, vậy mà chúng
ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của
12 Xc. Lm. Phan Tấn Thành, Đời Sống Tâm Linh, Tập 2, Roma 2002, tr. 34.13 Xc. Sđd, tr. 33.14Xc.http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GIAOLUAT/TuSachGiaoLyGP/GiaoAnKinhThanhIII/Bai15.htm.
16
Thiên Chúa!” (Cv 2, 10- 11). Các môn đệ ngày càng họp thành những cộng đoàn
đông đảo hơn, nhất là trong các thành phố. Các Tông đồ và nhóm môn đệ tiên khởi
thuộc về đạo Do thái sống tại Palestine. Nói đúng hơn, trong hàng ngũ Do thái, đừng
kể các phe nhóm tôn giáo và chính trị (Saduxe, Biệt phái, Esseni, Zelot), ta nên phân
biệt hai loại cư dân: người bản xứ và người nước ngoài. Người nước ngoài, đôi khi
được đặt tên là Hy lạp, là những người Do thái hồi hương sau một thời gian sinh sống
ở ngoại quốc. Nhóm người này có đầu óc cởi mở hơn, sẵn sàng đón nhận các trào lưu
tư tưởng của các nền văn hóa khác.15
Hội thánh khai sinh từ môi trường Do thái giáo với truyền thống nghi thức khắt
khe. Nhưng dần dần Hội thánh được Chúa Thánh Thần tác động, hướng dẫn đi tới dân
ngoại. Hội Thánh quy tụ các dân tộc thuộc mọi nền văn hoá khác nhau, như người
Samari (xc. Cv 8, 4 - 25); quan thái giám người Ê- thi- ốp (xc. Cv 8, 26 - 40); ông Cor-
nê-li-ô đại đội trưởng Rô-ma (xc. Cv 10, 1 - 48); những người gốc Sýp, Ky-rê-nê, An- ti-
ô-khi-a (xc. Cv 11, 20). 16
Như vậy, Hội thánh gồm nhiều thành phần khác nhau, nhưng không phải là đám
đông ô hợp, mà là một cộng đoàn đức tin, đồng tâm nhất trí với nhau. Do đó cần phải có tổ
chức để việc phục vụ anh em tín hữu đạt hiệu quả hơn.17 Đứng đầu là các Tông đồ, các
ngài chuyên lo việc giảng dạy Lời Thiên Chúa, rao giảng Đức Giêsu, như thánh Phêrô
giảng cho dân chúng trong sách Công vụ Tông đồ: “Thưa đồng bào, xin nghe những lời
sau đây. Đức Giêsu Na-da-rét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để
chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép màu, điềm
thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó. Theo kế hoạch Thiên Chúa đã
định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh
Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát
Người khỏi những đau khổ của cái chết” (Cv 2, 22 - 24).
Vì các Tông đồ chuyên lo việc giảng dạy nên không thể nào quan tâm đúng mức đến
cho những anh em nghèo, các bà goá…nên các Tông đồ đặt các phó tế trông coi việc ăn
uống của cộng đoàn cũng như tài sản chung:18 “Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các
tín hữu Do thái theo văn hoá Hy lạp kêu trách những tín hữu Do thái bản xứ, vì trong việc
phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm
Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: "Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên
15 Xc. Lm. Phan Tấn Thành, Đời Sống Tâm Linh, Tập 2, Roma 2002, tr. 31.16 Xc. Phần dẫn nhập sách Công vụ Tông đồ.17 Xc. Sđd.18 Xc. . Sđd.
17
Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng
đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ
làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên
Chúa." Đề nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông Tê-pha-nô, một người đầy
lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Phi-líp-phê, Pơ-rô-khô-rô, Ni-ca-no, Ti-
môn, Pác-mê-na và ông Ni-cô-la, một người ngoại quê An-ti-ô-khi-a đã theo đạo Do-
thái. Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay
trên các ông. Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ tăng thêm
rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin” (Cv 6, 1- 7).
Ngoài ra, sách Công vụ Tông đồ còn nói đến các kỳ mục. Hai thánh Phaolô và
Banaba chỉ định cho mỗi Hội thánh những kỳ mục: “Trong mỗi Hội thánh, hai ông chỉ
định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai ông phó thác những
người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin” (Cv 14, 23). Hẳn nhiên, các kỳ mục này rất khác
với các kỳ mục Do thái giáo. Khi đọc hai chương 15 và 16 trong sách Công vụ Tông
đồ, ta thấy các kỳ mục được nói ngay sau các Tông đồ (xc. Cv 15, 2.4.6.22.23; 16, 4).
Như vậy, các kỳ mục là cộng sự viên quan trọng bên cạnh các Tông đồ và sẽ thay thế
các Tông đồ, khi các ngài vắng mặt hoặc chết.19 “Anh em hãy ân cần lo cho chính mình
và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt
Hội thánh của Thiên Chúa, Hội thánh Người đã mua bằng máu của chính mình” (Cv
20, 28). Sau cùng là các kitô hữu từ nhiều nguồn gốc khác nhau, nhưng cùng tuyên
xưng một niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Phục sinh, Đấng cứu độ trần gian.
Như thế, các Tông đồ xây dựng Hội thánh vững chắc không những bằng lời giảng
dạy, mà còn bằng cả nhân sự: các kỳ mục và phó tế. Đó là giới lãnh đạo của “đạo” mới.
Chưa có quy chế về các phó tế và kỳ mục thời các Tông đồ. Sau này, Hội thánh phát triển,
có thêm nhiều tín hữu nên cần có nhiều kỳ mục. Tất nhiên lúc ấy phải có quy chế.20
3. Mục đích chung của cộng đoàn: chứng nhân Tin Mừng phục sinhNhư Đức Giêsu, các thành viên đầu tiên của Giáo hội là người Do thái, dùng ngôn
ngữ Aram. Họ vẫn lui tới đền thờ và giữ luật Môse. Xét bề ngoài, các tín hữu này giống
như một trong nhiều nhóm Do thái khác: Pharisiêu, Saducêô, Zêlốt ... Thế nhưng họ không
khép kín như những nhóm này. Họ gọi nhau là anh em và mở rộng vòng tay đón nhận mọi
người. Tài liệu quí nhất về sinh hoạt cộng đoàn tiên khởi là sách Công vụ Tông đồ của
19 Xc. Phần dẫn nhập sách Công vụ Tông đồ.20 Xc. Sđd.
18
thánh Luca, cho ta thấy niềm tin của tín hữu tiên khởi, và cho thấy những hình ảnh lý
tưởng nhất: “Ngày ngày họ đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới Đền thờ, bẻ bánh ở nhà,
cùng nhau chia sẻ của nuôi thân, lòng hân hoan, dạ đơn thành, trong lời ngợi khen Thiên
Chúa, trong sự mến phục của toàn dân. Và số những kẻ được cứu rỗi cứ mỗi ngày được
Chúa ban thêm mà nên một cùng nhau” (Cv 2, 46 - 47).21
Sự đồng tâm nhất trí của các tín hữu tiên khởi là nhờ tác động của Chúa Thánh Thần.
Điều này được minh chứng trong chương thứ nhất của sách Công vụ Tông đồ như sau:
“Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, có phải bây giờ là
lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không? " Người đáp: "Anh em không cần biết thời
giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của
Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy
tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 6
- 8). Sức mạnh của Thánh Thần làm cho các Tông đồ trở nên chứng nhân của Chúa Giêsu.
Chứng tá này hoạt động trong một loạt mở rộng các vòng tròn đồng tâm, trước tiên tại
Giêrusalem, sau đó khắp Giuđê, rồi Samari, và trở nên chiếc cầu dẫn ra thế giới bên ngoài,
và cuối cùng chứng tá ấy sẽ vươn đến tận cùng trái đất.22 Chúa Giêsu nói với các Tông đồ
rằng: “anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giu đê,
Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8).
Đón nhận Tin mừng, mỗi người đều hoán cải, lãnh phép rửa nhân danh Đức Giêsu và
lãnh nhận được ân huệ là Thánh Thần (xc. Cv 2, 38), từ đó “các tín hữu chuyên cần nghe
các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và
cầu nguyện không ngừng” (Cv 2, 42). Ngoài ra “Các kẻ tin hết thảy đều coi mọi sự là của
chung: đất đai của cải họ bán đi, phân phát cho mọi người, ai nấy tuỳ theo nhu cầu” (Cv
2, 44). Họ làm vậy vì tình huynh đệ cộng đoàn, nhưng một phần cũng vì ngày Chúa quang
lâm đã gần kề. Trong chuyện hai vợ chồng Khanania và Saphira nộp của cải nhưng giấu đi
một phần nên bị phạt cho ta thấy việc góp tài sản này tuy hoàn toàn tự do và tự nguyện,
nhưng cần sự trung thực; chính vì sự gian dối mà cả hai vợ chồng Khanania đã phải trả giá.
Thánh Phêrô nói: “Khi đất còn đó thì nó chẳng còn là của anh đó sao? bán đi rồi thì anh
chẳng có quyền sử dụng tiền bán đó sao? sao anh lại rắp tâm làm việc ấy? anh đã không
lừa dối người phàm mà lừa dối Thiên Chúa”(Cv 5, 4).
21 Xc. Lm. Px. Đào Trung Hiệu OP, Cuộc Lữ Hành Đức Tin, Tập 1, Giáo hội thời Thượng Cổ và Trung Cổ, Ấn bản 2015, tr. 6-7.
22 Xc. William Barclay, Bộ Sách Chú Giải Kinh Thánh, Sách Công vụ Tông đồ, Nxb Tôn Giáo, 2008, tr. 6.
19
Ngồi lại với nhau, các tín hữu chia sẻ cho nhau những kinh nghiệm sống động được
gặp Đức Kitô của mình. Họ kể: “Ngày ấy ... Ngài đang nói thì ...”. Mađalêna, các môn đệ
làng Emmaus vẫn còn đó. Gioan thì nói về Đấng mình đã nghe, đã chứng kiến, cung
chiêm, đụng chạm đến ... “để anh em được hiệp thông và được sự sống đời đời” (1Ga 1, 1-
3). Thánh Phêrô còn cho ta biết thêm bầu khí của cộng đoàn: “cùng nhau thông cảm, mặn
nồng tình huynh đệ, đầy lòng xót thương và khiêm nhu" (1Pr 3, 8). Kết quả là "số kẻ được
cứu rỗi mỗi ngày được ban thêm cho cộng đoàn” (Cv 2, 47).
Cộng đoàn tín hữu tiên khởi ở Giêrusalem được coi như mẫu mực và lý tưởng cho
các cộng đoàn kitô hữu. Cộng đoàn này được xây dựng trên bốn trụ cột quan trọng:
Chuyên cần nghe lời giảng dạy của các Tông đồ; năng tham dự lễ nghi bẻ bánh; cầu
nguyện không ngừng; sống tình bác ái hiệp nhất (xc. Cv 2, 42). Một cụm từ được tác giả
sách Công vụ sử dụng nhiều lần để diễn tả tình hiệp thông giữa các tín hữu, đó là “đồng
tâm nhất trí”. Tình hiệp thông này đã làm cho Giáo hội, dù đông đảo, nhưng trở nên “một
lòng một ý”, làm nên sức mạnh kỳ diệu, thuyết phục nhiều người tin vào Chúa và gia nhập
Đạo ngày một đông. Trong ngày Lễ Ngũ Tuần, thánh Phêrô rao giảng về Đức Kitô và ngày
hôm đó đã có khoảng ba ngàn người theo đạo (xc. Cv 2, 1 - 41).
Lịch sử của cộng đoàn kitô hữu tiên khởi nói với chúng ta điều rất quan trọng. Khi
một người thật sự biết về Chúa Giêsu Kitô và tin vào Người, người đó cảm nghiệm được
sự hiện diện của Người trong cuộc sống. Người đó cảm nghiệm được sức mạnh của sự
Phục sinh của Ngài. Người đó đã truyền lại kinh nghiệm này, và nếu có gặp khó khăn thử
thách, họ cũng sẽ chấp nhận như Chúa Giêsu trong Cuộc Khổ Nạn của Ngài. Cộng đoàn
kitô hữu tiên khởi đã cố gắng sống với đức tin và sự Phục sinh của Đức Giêsu mặc dù có
những cuộc bách hại vì cấm cách. Ta thấy nơi nào có tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng
Kitô, là cứu Chúa, nơi đó có Giáo hội. Giáo hội hiện hiện nơi nào mà Đấng Kitô là Chúa
của cộng đoàn được tuyên xưng trước môn dân. Giáo hội là cộng đoàn thuộc về Chúa.
Thêm một bước nữa cho thấy bản chất của Giáo hội, con người không thể thiết lập Giáo
hội được; mà phải được sinh ra “bởi ơn trên” (Ga 3, 3). Các môn đệ không có ý định để
lập một cộng đoàn trong ngày lễ Hiện xuống. Họ đã được hứa ban cho và đối với họ, thực
sự là bất ngờ, khi hồng ân sức mạnh từ trên cao đổ tràn vào họ (Cv 1, 8), Giáo hội là công
trình của Thánh Linh Thiên Chúa, cũng là Thần Khí của Chúa Giêsu Kitô.23
Như vậy qua chương thứ nhất này, ta thấy hoàn cảnh của cộng đoàn tiên khởi đang ở
giai đoàn bắt đầu hình thành và phát triển lan rộng dần; khởi đi từ một nhóm nhỏ các Tông
23 Xc. Lm. Augustino Nguyễn Văn Trinh, Lịch Sử Giáo Hội, Tập 1, tr. 122.
20
đồ, sau đó là cộng đoàn có thêm các phó tế, các kỳ mục, dân chúng và những người ngoại
gia nhập đạo. Dần dần trở thành cộng đoàn với nhiều thành phần, nhiều sắc tộc, đa văn
hoá. Từ cộng đoàn non trẻ trở thành cộng đoàn lớn mạnh, mang Tin mừng đi sang các
vùng khác, tới tận chân trời góc biển. Từ đâu mà cộng đoàn tiên khởi này mới có được
những thành quả như vậy?
21
Chương 2
NHỮNG ĐẶC NÉT
CỦA ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN KITÔ HỮU TIÊN KHỞI
Đời sống cộng đoàn kitô hữu tiên khởi được coi là một cộng đoàn kiểu mẫu cho đời
sống đan tu, bởi vì nó có những yếu tố cần thiết để cho các cộng đoàn đan tu noi theo để dễ
dàng trở nên trọn hảo hơn. Vậy những yếu tố đó là gì?
1. Nghe các Tông đồ rao giảng
1.1. Lắng nghe lời các Tông đồ rao giảng.Trong sách Tông đồ Công vụ nói đến việc thánh Phêrô rao giảng những bài giảng
đầu tiên cho dân chúng: “Thưa đồng bào Ít-ra-en, xin nghe những lời sau đây. Đức Giê-su
Na-da-rét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh
của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa
anh em. Chính anh em biết điều đó. Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức
Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà
giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau
khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi” (Cv 2, 22 - 24).
Lời rao giảng này của Phêrô được các nhà Thánh Kinh gọi là Kerygma. Lần đầu tiên ngỏ
lời với một nhóm thính giả mới, các Tông đồ luôn giảng Kerygma. Mỗi Kerygma, cho dù
có khác nhau trong những chi tiết phụ, nhưng luôn gồm những yếu tố chính về Ðức Giêsu:
Tóm tắt cuộc sống trần thế của Ðức Giêsu; cái chết của Ngài; biến cố Ngài sống lại; kêu
gọi tin vào Ngài để được cứu độ. Tin vào nội dung Kerygma là bước đầu tiên và là điều
quan trọng cơ bản để trở thành kitô hữu.24
Trong cộng đoàn “các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy” (Cv 2,42).
Nghĩa là siêng năng nghe các Tông đồ cắt nghĩa Kinh thánh dưới ánh sáng Phục sinh,
nghe lại cuộc đời Đức Giêsu qua các chứng nhân. Đây là hình thức Tin mừng truyền
khẩu, vì các sách chỉ được viết mấy chục năm sau đó. Việc lắng nghe khơi dậy đức tin,
nhờ đức tin, người tín hữu ý thức được mối liên đới giữa mình với cộng đoàn. Đức tin có
là nhờ người giảng dạy. Thật vậy, các Tông đồ là những chứng nhân của Đức Kitô, nên
các ông loan báo các việc Người làm, các điều Người dạy: “Thưa ngài Thê-ô-phi-lô,
trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm
24 Xc. http://gpphanthiet.com/pt/index.php?language=vi&nv=news&op=Chuyen-de/Su-Vu-Truyen-Giao-11- Duc-Giesu-lich-su-va-Kito-cua-niem-tin-Lm-GB-Hoang-Van-Khanh-2359.
22
và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngày Người được rước lên trời. Trước
ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh
Thần. Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống
sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các
ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông đồ, Đức Giê-su
truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều
Chúa Cha đã hứa, "điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm
phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh
Thần” (Cv 1,1- 5). Đồng thời các Tông đồ cũng chứng minh Đức Giêsu hoàn tất lịch sử
cứu độ, khi Người chấp nhận chết trên thập giá và Thiên Chúa cho Người trỗi dậy từ
cõi chết: “Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho
Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng. Chính nhờ lòng tin
vào danh Người, mà danh Người đã làm cho kẻ anh em nhìn và biết đây trở nên cứng
cáp; chính lòng tin Người ban đã cho anh này được khỏi hẳn như thế, ngay trước mắt
tất cả anh em” (Cv 3, 15 - 16). Không phải chỉ Nhóm Mười Hai, mà còn nhóm bảy phó
tế, thánh Phaolô và các bạn đồng hành giảng dạy cho tín hữu. Trung thành với giáo
huấn các Tông đồ, anh em tín hữu tránh được những gièm pha, đe doạ từ phía anh em
Do thái giáo, giữ vững đức tin, đi theo đúng con đường của Đức Kitô25.
Chúa đòi buộc các Tông đồ phải rao giảng lời của Chúa, để lời của các Tông đồ rao
giảng phải là lời của Thiên Chúa và phải được đón nhận như lời của Thiên Chúa. Trong
Giáo Hội tiên khởi, thánh Phaolô cho biết, các tín hữu đầu tiên đã ý thức và đón nhận lời
các Tông đồ rao giảng “không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng
theo bản tính của lời ấy” (1Tx 2, 13). Vì thế, khước từ lời rao giảng Tin mừng của các
Tông đồ cũng là khước từ lời rao giảng của Chúa Giêsu, và khước từ những người Chúa
Giêsu sai đến là khước từ chính Chúa Giêsu (xc. Ga 13, 20). Người ta không thể ngụy biện
rằng, chúng tôi tin Chúa Giêsu và nghe lời Ngài, nhưng chúng tôi không nghe lời các Tông
đồ Chúa sai đến. Lối ngụy biện đó không có đất sống, vì lời Chúa đã nói: “Ai nghe các con
là nghe Thầy; và ai khước từ các con là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ
Đấng đã sai Thầy” (Lc 10, 16). Chính vì tầm quan trọng của lời rao giảng, đòi hỏi các
Tông đồ phải trung thành với lời Chúa hơn. Cộng đoàn xác tín rằng bền đỗ lắng nghe và
25 Xc. Phần dẫn nhập sách Công vụ Tông đồ.
23
tìm hiểu lời giảng của các Tông đồ là con đường chắc chắn và chuyên nhất để giữ vững
đức tin chân chính và tránh không đi lệch lạc.26
Những lời giảng của các Tông đồ bao giờ cũng tập trung vào Chúa Kitô với biến cố
chết và sống lại của Ngài. Điều quan trọng cuối cùng vẫn là sự sống lại của Chúa Kitô, sự
sống lại bao giờ cũng giả thiết cái chết đi trước, vì thế ta luôn nói đến sự chết của Người
trước rồi mới nói đến sống lại, có chết thực mới sống lại, nếu không có chết thực tất nhiên
không có sống lại.27 Nói khác đi, nội dung giáo huấn của các Tông đồ là những lời nói và
việc làm của Đức Kitô, nhắc nhớ thân thế và sự nghiệp của Người. Biến cố cuộc đời của
Đức Kitô được ôn lại và giải thích dựa theo các lời ngôn sứ Cựu ước. Đời sống tâm linh
của cộng đoàn được nuôi dưỡng bằng việc suy niệm Lời Chúa.28 Như thế, ngay từ những
ngày đầu tiên các Tông đồ đã ý thức và say mê rao giảng Tin Mừng, và các tín hữu thì say
mê đón nhận lời giảng của các ngài. Nhờ đâu mà các Tông đồ có được lòng hăng say ấy,
động lực nào đã thúc đẩy các tín hữu say sưa lắng nghe Tin mừng như thế? Phải chăng là
nhờ họ đã biết chìm trong thinh lặng?
1.2. Thinh lặngKinh nghiệm của cộng đoàn tiên khởi Giêrusalem được miêu tả trong sách Công vụ
Tông đồ là: “Họ kiên trì trong việc lắng nghe giáo huấn của các Tông đồ và trong sự hiệp
nhất huynh đệ, trong việc bẻ bánh và trong các lời cầu nguyện” (Cv 2, 42). Để lắng nghe
các giáo huấn và sống đức tin thì mỗi người tín hữu cần sự thinh lặng. Không phải chỉ
thinh lặng bên ngoài, mà cần phải có cả thinh lặng nội tâm để nghe và suy đi nghĩ lại
những lời giáo huấn của của các Tông đồ nói về con người của Đức Kitô.
Chúa Giêsu lên tiếng dạy: “Khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu
nguyện cùng Cha của anh em, Đấng hiện diện nơi kín đáo (Mt, 6, 6). Không chỉ dừng lại ở
lời dạy mà chính Chúa Giêsu cũng đã làm như vậy trong đời sống hằng ngày khi “Sáng
sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó”
(Mc 1, 35). Với một tâm trạng lo âu, bồn chồn, xao xuyến và náo động thì con người khó
có khả năng và cung cách tiếp nhận Lời Chúa, mà chỉ với tâm hồn tha thiết muốn lắng
nghe trong thanh thản và bình lặng thì lời Chúa mới dễ dàng được rót vào tâm trí và đọng
lại nơi trái tim ta. Bởi thế, khung cảnh tĩnh mịch, vắng vẻ bên ngoài là môi trường hết sức
26 Xc. Niền Tin Của Người Công Giáo, huấn giáo cơ bản, nguyên tác: La foi des Catholiques, nhóm phiên dịch: Phạm Minh Thiện, Tống Viết Hiệp, Phạm Mạnh Trinh, Nxb Tôn Giáo, 2009, tr. 74.
27 Xc. Lm. Nguyễn Thế Thuấn, Kerygma: Lời Giảng Tiên Khởi, lưu hành nội bộ, 1974, tr. 115.28 Xc. Lm. Phan Tấn Thành, Đời Sống Tâm Linh, Tập 2, Roma 2002, tr. 32.
24
cần thiết để lắng nghe và đón nhận Lời Chúa, và để Lời Chúa vang lên những thanh âm
trong trẻo nơi tâm hồn ta.
Chúa Giêsu đã dặn dò các Tông đồ: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.
Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường” (Lc 10, 4): nghĩa là phải tránh mọi thứ xáo trộn và
rườm rà phụ thuộc bên ngoài làm phân tán sự bình lặng bên trong, làm cho việc rao giảng
Lời Chúa trở nên bất lợi và mất đi tính cách hữu hiệu. Ở đây không phải chỉ đơn thuần là
vấn đề giữ thinh lặng, mà là sống thinh lặng. Sống thinh lặng nghĩa là làm cho cái “tôi”
hoàn toàn trống rỗng, là dành riêng một cõi riêng tư cho Lời Chúa được lên tiếng trong
cuộc sống và lời rao giảng của mình, như thánh Phaolô đã nói về chính Ngài: “Tôi là
Phaolô, tôi tớ của Đức Kitô Giêsu; tôi được gọi làm Tông đồ, và dành riêng để loan báo
Tin Mừng của Thiên Chúa. Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà
hứa trước trong Kinh Thánh. Đó là Tin Mừng về Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta” (Rm 1, 1 - 3). Khi càng tiến sâu vào sa mạc của sự tĩnh lặng, người ta càng phải
vứt bỏ những thứ cồng kềnh, những hình ảnh, những ký ức trong đầu óc, những ham muốn
bề ngoài, những thần tượng trần tục.29
Trong chương 15 của sách Công vụ Tông đồ, nói đến sự thinh lặng của đám đông.
Sau khi nghe xong diễn từ của thánh Phêrô, họ đã im lặng để nghe các Tông đồ rao giảng:
“Sau khi các ông đã tranh luận nhiều, ông Phêrô đứng lên nói: "Thưa anh em, anh em
biết: ngay từ những ngày đầu, Thiên Chúa đã chọn tôi giữa anh em, để các dân ngoại
được nghe lời Tin Mừng từ miệng tôi và tin theo. Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi tâm
can đã chứng tỏ Người chấp nhận họ, khi ban Thánh Thần cho họ cũng như đã ban cho
chúng ta. Người không phân biệt chút nào giữa chúng ta với họ, vì đã dùng đức tin để
thanh tẩy lòng họ. Vậy bây giờ, sao anh em lại thử thách Thiên Chúa, mà quàng vào cổ
các môn đệ một cái ách mà cả cha ông chúng ta lẫn chúng ta đã không có sức mang
nổi? Vả lại, chính nhờ ân sủng Chúa Giêsu mà chúng ta tin mình được cứu độ, cùng một
cách như họ. "Bấy giờ toàn thể hội nghị im lặng. Họ nghe ông Banaba và ông Phaolô
thuật lại các dấu lạ điềm thiêng Thiên Chúa đã dùng hai ông mà làm giữa các dân ngoại”
(Cv 15, 7 - 12). Nếu như họ không im lặng để lắng nghe, hay chỉ nghe cách bàng quang thì
họ sẽ không cảm nhận được giá trị thực tại của Tin Mừng Phục Sinh mà các Tông đồ rao
giảng. Và người ta sẽ không trở thành những chứng tá Tin Mừng được. Vâng, chính trong
thinh lặng mà người ta dễ dàng lắng nghe được lời Chúa, và có lẽ cũng trong sự tĩnh lặng
ấy, người ta gắn kết với nhau để tạo nên tình hiệp thông.
29 Xc. http://www.simonhoadalat.com/giaoducgd/tuduc/22ThinhLang.htm
25
2. Hiệp thông với nhauCộng đoàn đức tin rất cần sự hiệp thông giữa các tín hữu với nhau. Một cộng đoàn có
rất nhiều thành phần, đến từ nhiều nền văn hóa khác nhau, nên dễ có những tính khí trái
ngược nhau. Vì vậy, rất cần phải tránh nguy cơ bè phái mỗi người một ý và cần đồng tâm
nhất trí mười người một ý.
2.1. Nguy cơ chín người mười ýÔng cha ta có câu, “bá nhân, bá tánh”, hay “chín người mười ý”, đông người thì
nhiều ý kiến. Mỗi người một tính cách, mỗi người ở một nơi có một nền văn hoá, tập quán
khác nhau. Cho nên, khi họ ở chung với nhau thành cộng đoàn thì chắc chắn sẽ có những
tư tưởng và suy nghĩ khác nhau. Cũng vậy, trong cộng đoàn tiên khởi tại Giêrusalem có rất
nhiều thành phần khác nhau. Ngay ở hàng ngũ các Tông đồ, ta thấy các ngài cũng đến từ
nhiều vùng miền khác nhau. Các ngài có những nghề nghiệp, tập quán, tính cách và văn
hoá khác nhau. Như bốn môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu chọn gọi làm nghề chài lưới ở
Galilê: “Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simon,
cũng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm
nghề đánh cá. Người bảo các ông: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành
những kẻ lưới người như lưới cá." Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. Đi một
quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là
ông Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Người
gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4, 18 - 22). Còn
Matthêu thì làm nghề thu thuế ở Capharnaum: “Đức Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì
thấy một người tên là Mattheu đang ngồi tại trạm. Người bảo ông: "Anh hãy theo tôi! "
Ông đứng dậy đi theo Người” (Mt 9, 9). Riêng thánh Tôma Tông đồ thì xuất thân từ gia
đình nghèo khó. Ngài là một trong nhóm mười hai Tông đồ, tức là những môn đệ thân tín
nhất của Chúa Giêsu, đã đồng hành với Chúa Giêsu suốt ba năm trường với tư cách là
những người bạn và những môn sinh, và ông cũng còn được mang biệt hiệu là người đa
nghi. Vì trước khi tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Giêsu Phục Sinh thì Ngài đã
nghi ngờ về sự phục sinh của Chúa, cho tới khi chính ngài tận mắt thấy được và tận tay sờ
vào những dấu đinh trên mình của Chúa Giêsu Phục sinh (xc. Ga 20, 19 - 29).
Lược qua tiểu sử một vài vị trong hàng ngũ các Tông đồ như thế, ta đã thấy có
những tính cách và địa vị khác nhau. Trong cộng đoàn tiên khởi còn có các hàng kỳ
mục và cộng đoàn dân chúng đông đảo. Trong đó có những người theo văn hóa Do
thái, cũng có những người theo văn minh Hy lạp và còn nhiều người theo các nền văn
26
hóa khác. Mà văn hoá giữa các nơi hoàn toàn khác nhau, tư tưởng cũng khác biệt thì
làm sao lại không có nhiều ý kiến khác nhau: “Chúng ta đây, có người là dân Pác-thi-
a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, và A-xi-a, có người
là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp giới Ky-rê- nê; nào
là những người từ Rô-ma đến đây; nào là người Do-thái cũng như người đạo theo; nào
là người đảo Cơ-rê-ta hay người Ả-rập” (Cv 2, 9 - 11).
Sự xung đột đầu tiên xảy ra giữa những người mà Luca gọi là “những tín hữu Do thái
bản xứ”, là những môn đệ đến từ Do thái giáo miền Palestin, và những tín hữu Do thái gốc
Hy lạp, là những tín hữu đến từ Do thái giáo Diaspora (nghĩa là những người Do thái sống
tản mác trên khắp thế giới). Nhóm người này phàn nàn rằng những bà goá của họ bị bỏ bê
trong việc phân phát lương thực hằng ngày. Việc quản lý này, tự nó là việc nhỏ, đã đưa tới
một quyết định quan trọng: những người Do thái gốc Hy lạp sẽ chọn giữa họ bảy người
được tiếng tốt để chu toàn việc phân phối của cải vật chất trong nhóm họ, đồng thời phụ
trách việc loan báo Tin Mừng trong môi trường Do thái ở hải ngoại. Một trong bảy người
được chọn đó có Stêphano, là người “đầy ân sủng và quyền năng, đã làm nhiều điềm
thiêng dấu lạ trong dân” (Cv 6, 8), đến nỗi các địch thủ của ông, vì “không địch nổi lời lẽ
khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông” (Cv 6, 11), và các đối thủ đó đã mua chuộc
những chứng gian để hạ Stêphano. Việc thiết lập bảy vị này chứng tỏ những vị có thẩm
quyền trong Giáo hội sơ khai biết sống uyển chuyển, sẵn sàng đưa ra những điều mới, hầu
có thể đương đầu với những khó khăn gắn liền với khung chật hẹp của thời buổi ban đầu.30
Một cộng đoàn có rất nhiều thành phần như vậy, thì nguy cơ “chín người mười
ý” không thể tránh được. Nếu không tránh được thì sẽ nảy sinh ra mâu thuẫn, dẫn đến
sự chia rẽ trong cộng đoàn, và có nguy cơ đổ vỡ cộng đoàn. Vậy làm gì để có một
cộng đoàn lý tưởng “mười người một ý”? Phải chăng là cộng đoàn có cùng một ý
hướng, cùng một đức tin?
2.2. Mô hình lý tưởng mười người một ý
Làm cách nào để có những kế hoạch tốt cho cộng đoàn? Đó là cần phải có sự bàn
luận, từ đó đi đến những quyết định đúng đắn nhất để giúp cộng đoàn ngày càng phát triển
hơn. Sách Châm ngôn nói: “người khôn đánh giặc dùng mưu, càng đông mưu sĩ, càng
nhiều chiến công” (Cn 24, 6). Trong Tin mừng Luca, Chúa Giêsu cũng kể câu chuyện về
nhu cầu hội ý bàn bạc: “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên
30 Xc. Niền Tin Của Người Công Giáo, huấn giáo cơ bản, nguyên tác: La foi des Catholiques, nhóm phiên dịch: Phạm Minh Thiện, Tống Viết Hiệp, Phạm Mạnh Trinh, Nxb Tôn Giáo, 2009, tr. 77.
27
lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra,
đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười
mà bảo: "Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc. Hoặc có vua nào
đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có
thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình
chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu
hoà” (Lc 14, 28 - 32). Khi nói đến bàn luận nghĩa là không hành động theo cảm tính, cũng
không làm theo điều mình cho là đúng mà cần đến ý kiến của mọi người trong cộng đoàn.
Một kế hoạch được bàn luận tức là sẽ có góp ý, có tính toán, có ý kiến trái triều từ nhiều
người, nhưng cuối cùng sẽ cùng chung một quyết định.
Hội thánh tại Antiokia đối diện với vấn đề cắt bì hay không cắt bì: “Có những người
từ miền Giuđê đến dạy anh em rằng: "Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Môsê,
thì anh em không thể được cứu độ." Ông Phaolô và ông Banaba chống đối và tranh luận
khá gay go với họ” (Cv 15, 1- 2). Sau cuộc tranh luận này thì Hội thánh đã cử hai ông
Phaolô và Banaba và vài người khác đi lên Giêrusalem để gặp các Tông đồ và các kỳ mục
để bàn luận về vấn đề này, sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Có những người thuộc phái
Pharisêu đã trở thành tín hữu, bấy giờ đứng ra nói rằng: "Phải làm phép cắt bì cho người
ngoại và truyền cho họ giữ luật Môsê. "Các Tông đồ và các kỳ mục bèn họp nhau để xem
xét vụ này. Sau khi các ông đã tranh luận nhiều, ông Phêrô đứng lên nói: "Thưa anh em,
anh em biết: ngay từ những ngày đầu, Thiên Chúa đã chọn tôi giữa anh em, để các dân
ngoại được nghe lời Tin Mừng từ miệng tôi và tin theo. Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi
tâm can đã chứng tỏ Người chấp nhận họ, khi ban Thánh Thần cho họ cũng như đã ban
cho chúng ta. Người không phân biệt chút nào giữa chúng ta với họ, vì đã dùng đức tin để
thanh tẩy lòng họ. Vậy bây giờ, sao anh em lại thử thách Thiên Chúa, mà quàng vào cổ
các môn đệ một cái ách mà cả cha ông chúng ta lẫn chúng ta đã không có sức mang nổi?
Vả lại, chính nhờ ân sủng Chúa Giêsu mà chúng ta tin mình được cứu độ, cùng một cách
như họ. "Bấy giờ toàn thể hội nghị im lặng. Họ nghe ông Banaba và ông Phaolô thuật lại
các dấu lạ điềm thiêng Thiên Chúa đã dùng hai ông mà làm giữa các dân ngoại” (Cv 15,
5 - 12). Ta thấy cuộc tranh luận này cũng diễn ra khá lâu và có lẽ cũng căng thẳng, nhưng
sau cùng thì vấn đề được giải quyết: “ông Giacôbê lên tiếng nói: "Thưa anh em, xin nghe
tôi đây: Ông Simôn đã thuật lại cho chúng ta rằng: ngay từ đầu, Thiên Chúa đã đoái
thương chọn trong các dân ngoại một dân mang danh Người. Những lời các ngôn sứ cũng
phù hợp với điều ấy, như đã chép: Sau đó, Ta sẽ trở lại, và sẽ xây dựng lại lều Đa-vít đã
sụp đổ; đống hoang tàn đó, Ta sẽ xây dựng lại, và Ta sẽ dựng lại lều ấy. Như vậy các
28
người còn lại và tất cả các dân ngoại được mang danh Ta sẽ tìm kiếm Chúa. Chúa phán
như vậy, Người là Đấng cho biết những điều ấy tự ngàn xưa. "Vì vậy, phần tôi, tôi xét là
không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa, nhưng
chỉ viết thư bảo họ kiêng những thức ăn ô uế vì đã cúng cho ngẫu tượng, tránh gian dâm,
kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết và kiêng ăn tiết. Thật vậy, từ những thế hệ xa xưa,
trong mỗi thành ông Môsê đều có những người rao giảng: họ đọc lời của ông trong các
hội đường mỗi ngày sabát." Bấy giờ các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội
Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi Antiôkhia với ông Phaolô và
ông Banaba. Đó là ông Giuđa, biệt danh là Basaba, và ông Xila, những người có uy tín
trong Hội thánh. Các ông trao cho phái đoàn bức thư sau: Chúng tôi nghe biết có một số
người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo
trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết
định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân
mến của chúng tôi là ông Banaba và ông Phaolô, những người đã cống hiến cuộc đời vì
danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi cử ông Giuđa và ông Xila đến trình
bày trực tiếp những điều viết sau đây: Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt
lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã
cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh
em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh. "Sau khi được mọi
người tiễn chân, các đại biểu xuống Antiôkhia, triệu tập cộng đoàn lại và trao bức
thư. Đọc thư xong, họ vui mừng vì lời khích lệ đó” (Cv 15, 13 - 31). Như vậy, vấn đề là
phải biết lắng nghe những ý kiến của nhau. Trong mỗi cuộc họp hay những lúc người khác
đóng góp ý kiến, thì ta phải lắng nghe để học hỏi, tiếp thu. Nhất là trong cộng đoàn đức tin,
chúng ta phải tin rằng, những lúc đó có Chúa Thánh Thần tác động trên mỗi thành viên.
Trong ý nghĩa này, cộng đoàn tín hữu tiên khởi là một mẫu hình lý tưởng cho sự hiệp nhất
yêu thương. Các đoạn văn trong sách Công vụ chứng minh cho ta điều đó.
Đoạn thứ nhất: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn
hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi
người đều kinh sợ, vì các Tông đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp
nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia
cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền
Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng
Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm
những người được cứu độ” (Cv 2, 42 - 47).
29
Đoạn thứ hai cũng nói lên mô hình lý tưởng của đời sống cộng đoàn: “Các tín hữu
thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có
là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung. Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên
Chúa ban, các Tông đồ làm chứng Chúa Giê-su đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả
các ông dồi dào ân sủng. Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những
người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông đồ. Tiền ấy
được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu” (Cv 4, 32- 35). Qua hình ảnh của cộng
đoàn tín hữu tiên khởi, ta thấy đó là cộng đoàn lý tưởng trong đó các tín hữu yêu thương
nhau, sống bác ái huynh đệ với nhau. Bởi đâu mà một cộng đoàn đông đảo lại một lòng
một ý và không ai ham tích luỹ cho riêng mình. Đó là vì họ có niềm tin mạnh mẽ. Họ tin
rằng, Chúa sẽ không để họ phải thiệt thòi khi họ biết yêu thương: “Cho thì có phúc hơn là
nhận” (Cv 20, 35). Niềm tin ấy được cụ thể hóa khi họ cùng nhau tham dự lễ bẻ bánh.
3. Siêng năng tham dự lễ bẻ bánhCử hành lễ bẻ bánh là cách gọi ban đầu về cử hành Thánh Thể hiện nay. Đây là cử
hành riêng biệt và đặc trưng của các kitô hữu tiên khởi. Mặc dù đã tham dự các cử hành
của anh em Do thái nơi Đền thờ và hội đường, nhưng các kitô hữu luôn ý thức cử hành
phụng vụ đúng nghĩa chính là hiện tại hoá cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô. Khi các tín hữu
cùng nhau cử hành bẻ bánh, Chúa Kitô trao ban Thân mình Ngài như hy lễ tạ ơn dâng lên
Chúa Cha và để nuôi sống con người. Trong thời kì này cử hành bẻ bánh được lồng trong
khung cảnh bữa ăn thường ngày. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô đã
nhắc đến một cử hành phụng vụ trong bữa ăn để khuyến cáo các tín hữu phải biết chia sẻ
khi tham dự vào Bữa Ăn của Chúa: Tấm Bánh được bẻ ra cho mọi người chính là Chúa
Kitô, vì thế khi ai tham dự vào Tấm Bánh này sẽ hiệp thông với Ngài, trở nên một thân thể
duy nhất trong Ngài, và phải biết yêu thương chia sẻ cho anh em (1Cr 11, 17 - 34).31
Thể hiện sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa, thì việc bẻ bánh và Koinonia cùng diễn tả
một vấn đề là sự hiệp thông với nhau và sự hiệp thông với Chúa.
3.1. Hiệp thông với nhauVấn đề đặt ra là hiệp thông với nhau có khi nào ưu tiên hơn hiệp thông với Chúa?
Trong bài hát Đâu Có Tình Yêu Thương của linh mục Vinh Hạnh có câu: “Đâu có
tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời. Đâu có lòng từ bi, là đấy có ân sủng Người.
Đâu có tình bác ái, thì Chúa chúc lành không ngơi. Đâu ý hợp tâm đầu, ở đấy chứa chan
31 Xc. Lm. Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ, Các Nguyên Tắc Căn Bản Về Phụng, Đại Chủng Viện Thánh Giuse- TPHCM, Tháng 9 - 2001, tr. 45.
30
niềm vui”. Điều này Chúa Giêsu cũng dạy trong Tin mừng Matthêu: “Nếu khi anh sắp
dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh,
thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rời trở lại dâng
lễ vật của mình” (Mt 5, 23 - 24). Như vậy, dù ta là người gây ra hay gánh chịu điều xấu thì
bằng mọi giá và nhanh bao nhiêu có thể phải cố gắng giải quyết sự xung đột trong tương
quan với anh em của mình trước khi dâng của lễ. Như vậy, hiệp thông với anh em là cửa
ngõ dẫn đưa chúng ta đến hiệp thông với Chúa.
Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô (1Cr 11, 20) đã dùng từ ngữ
“Bữa ăn của Chúa” để chỉ bữa ăn cộng đoàn, nơi đó đức ái kitô giáo phải được thể hiện rõ
nét khi mọi người quan tâm đến nhu cầu của anh em. Theo vị Tông đồ dân ngoại, khi mọi
người ngồi cùng bàn chia sẻ một bữa ăn, thì lúc đó các kitô hữu sẽ biểu lộ sự hiệp thông
với nhau. Bữa ăn trở nên biểu tượng của tương quan huynh đệ: cởi mở đối với nhau, đón
nhận người khác, chia sẻ và thông cảm hỗ tương. Như thế bữa ăn này sẽ vừa là bữa ăn của
sự hiệp thông vừa là bữa ăn của sự trợ giúp huynh đệ. Cũng theo Thánh Phaolô, bữa ăn của
Chúa còn là nơi biểu thị sự hiệp nhất kitô hữu: “Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là
một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một
thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy” (1Cr 12, 12). Thánh Phaolô nhấn mạnh sự hiệp nhất trong
Bữa ăn của Chúa như hoa quả của hiến lễ Đức Kitô, nay đã bị các kitô hữu làm lu mờ khi
chia rẽ nhau trong cộng đoàn (1Cr 11, 18).32
Sự hiệp thông của các kitô hữu trong bữa tiệc Thánh Thể không chỉ do việc qui tụ lại
cùng bàn, nhưng còn bởi lãnh nhận sự sống từ một nguồn cội do việc họ cùng bẻ chung một
tấm bánh, cùng uống chung một chén, tức là cùng ăn chung một của ăn, cùng uống chung
một thức uống vì “Chỉ có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều cũng chỉ làm nên một thân
thể, vì tất cả chúng ta đều cùng ăn một bánh này mà thôi” (1Cr 10, 17). Chúa Kitô hiện diện
trong cử hành bẻ bánh là một xác tín nền tảng của Giáo hội ban đầu. Ngài không chỉ là Đấng
làm cho hy tế Thánh Thể của Ngài luôn mang tính hiện tại và có giá trị vượt không gian và
thời gian, mà còn hiện diện trong các hành vi phụng vụ khác. Ngài hiện diện trong đó để giúp
con người quy tụ cử hành bí tích và mang đến sự hiệp thông với nhau.
Thánh Phaolô viết thư gửi cho tín hữu Êphêsô để huấn dụ các tín hữu, mỗi người nhờ
Phép Rửa đã trở nên con cái của Hội thánh, được tháp nhập vào Thân Thể mầu nhiệm của
Chúa Kitô, vì thế mọi người phải hiệp nhất với nhau để xây dựng Hội thánh. Sự hiệp nhất
trong thân thể không làm mất đi tính đa dạng của các chi thể. Trong việc xây dựng Thân
32 Xc. Lm. Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ, Phụng Vụ Thánh Thể, Đại Chủng Viện Thánh Giuse - TPHCM, tr. 8.
31
Thể Chúa Kitô, cần có nhiều chi thể với phận vụ khác nhau. Chỉ có một Chúa Thánh Thần
ban những ân sủng khác nhau, để làm ích cho Hội thánh theo sự sung mãn của Người và
tuỳ nhu cầu của các công việc. Sự hiệp nhất của Nhiệm Thể làm phát sinh và thúc đẩy lòng
bác ái giữa các tín hữu: “Vậy, tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy
sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy ăn ở thật
khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy
thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với
nhau. Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ
cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên
Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người.
Nhưng mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Kitô ban cho. Vì
thế, có lời Kinh Thánh nói: Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Người đã ban ân huệ
cho loài người. Người đã lên nghĩa là gì, nếu không phải là Người đã xuống tận các vùng
sâu thẳm dưới mặt đất? Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời
để làm cho vũ trụ được viên mãn. Và chính Người đã ban ơn cho kẻ này làm Tông đồ,
người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi
sóc và dạy dỗ. Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng
thân thể Đức Kitô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong
sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn
của Đức Kitô. Như vậy, chúng ta sẽ không còn là những trẻ nhỏ, bị sóng đánh trôi giạt
theo mọi chiều gió đạo lý, giữa trò bịp bợm của những kẻ giảo quyệt khéo dùng mưu ma
chước quỷ để làm cho kẻ khác lầm đường. Nhưng, sống theo sự thật và trong tình bác ái,
chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Kitô vì Người là Đầu. Chính Người
làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ
gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế Người
làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái” (Ep 4, 1- 16).
Hiệp thông trong cùng một đức tin, chúng ta không chỉ đón nhận nhưng còn có
bổn phận làm cho đức tin đó mỗi ngày một lớn lên. Trong hội thánh, mỗi người góp
phần nâng đỡ đức tin của người khác, cũng như nhờ đức tin của người khác mà đức tin
của mình được nâng đỡ và lớn mạnh, như thánh Phaolô nói trong thư Roma: “Trước
hết, nhờ Đức Giêsu Kitô, tôi tạ ơn Thiên Chúa của tôi về tất cả anh em, vì trong khắp
hoàn cầu, ai ai cũng đều nói đến lòng tin của anh em. Thiên Chúa là Đấng tôi hết
lòng thờ phượng khi loan báo Tin Mừng về Con của Người, chính Người làm chứng
cho tôi là tôi hằng nhắc nhở đến anh em: mỗi khi cầu nguyện, tôi hằng xin
32
Người cho tôi có ngày nào được dịp tốt đến thăm anh em, nếu Người muốn. Thật vậy,
tôi rất ước ao được gặp anh em, để chia sẻ với anh em phần nào ân huệ của Thánh
Thần, nhờ đó anh em vững mạnh, nghĩa là để chúng ta cùng khích lệ nhau, bởi vì cả
anh em lẫn tôi, chúng ta đều chung một niềm tin” (Rm 1, 8 - 12).
Hiệp thông với nhau trong cùng một đức ái, đó là chia sẻ với nhau của cải vật chất,
đến nỗi “trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn” (Cv 4, 34) và cả của cải thiêng liêng
vì “nếu một bộ phận nào đau thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ
vang thì mọi bộ phận cùng vui chung” (1Cr 12, 26).
Đặc biệt là bí tích Thánh thể, là bí tích dưỡng nuôi và hoàn thành mối hiệp thông
trong Hội thánh: “Bởi vì chỉ có một tấm bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một tấm
bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10, 17).
Như vậy, hiệp thông với nhau có nghĩa là mọi người hướng về nhau, suy nghĩ những
điều giống nhau, hành động và làm những việc làm giống nhau, đồng tâm nhất trí với
nhau... Hiệp thông nghĩa là luôn ở trong nhau qua suy nghĩ và việc làm.
3.2. Hiệp thông với ChúaKhi người tín hữu tham dự vào Bữa Ăn của Chúa họ thực hiện điều Chúa Kitô truyền
dạy: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm
như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy. Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và
nói: Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy
làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy” (1Cr 11,25 - 26), nghĩa là họ làm lại các cử
chỉ Chúa Kitô đã làm trong Bữa Vượt Qua để tưởng niệm mầu nhiệm tử nạn và Phục sinh
của Ngài. Như vậy khi cử hành Thánh Thể, Giáo hội không làm gì khác là thi hành lệnh
truyền của Chúa Kitô. Cử hành Thánh Thể không phải là sáng kiến riêng của con người,
nhưng là cử hành do Chúa Kitô thực hiện, Ngài luôn hiện diện và chủ toạ trong cộng đoàn
những người tin Ngài, Giáo hội chỉ cử hành điều Chúa Kitô muốn và truyền lệnh mà thôi.
Sự hiện diện của Chúa Kitô và Thánh Thần là điểm khác biệt cơ bản giữa các buổi
tập hợp của Giáo hội tiên khởi với cộng đoàn Do Thái. Đối với anh em Do thái, những lời
ca tụng và cầu xin trong cử hành phụng tự là công thức và nghi lễ được thi hành theo mệnh
lệnh, truyền thống và quy định của Luật, đó là dấu chỉ của dân thuộc về Thiên Chúa. Còn
đối với các tín hữu, cử hành phụng vụ không chỉ dừng lại ở nơi dấu chỉ của những kẻ tin
vào Chúa Kitô trong một Dân mới, mà còn là hành vi của chính Thần Linh: phụng vụ trước
hết là hành vi của Chúa Kitô trong sức mạnh của Thánh Thần, nơi đó con người được liên
33
kết với Chúa Kitô để dâng lời tạ ơn Thiên Chúa trong tâm tình của những người con:
“Abba, Cha ơi” (Rm 8, 15).33
Trong Công vụ Tông đồ chương bốn nói về việc hai ông Phêrô và Gioan mạnh dạn
rao giảng Tin mừng mặc dù hai ông là những người không có chữ nghĩa: “Họ ngạc nhiên
khi thấy ông Phêrô và ông Gioan mạnh dạn, và biết rằng hai ông là những người không có
chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân. Họ nhận ra hai ông là những người đã từng theo Đức
Giêsu; đồng thời họ lại thấy người đã được chữa lành đứng đó với hai ông, nên họ không
biết đối đáp thế nào. Họ mới truyền cho hai ông ra khỏi Thượng Hội Đồng, và bàn tính với
nhau. Họ nói: "Ta phải xử làm sao với những người này? Họ đã làm một dấu lạ rành
rành: điều đó hiển nhiên đối với mọi người cư ngụ tại Giêrusalem, và ta không thể chối
được. Nhưng để cho việc đó khỏi lan rộng thêm trong dân, ta hãy ngăm đe, nghiêm cấm họ
từ nay không được nói đến danh ấy với ai nữa. "Họ cho gọi hai ông vào và tuyệt đối cấm
hai ông không được lên tiếng hay giảng dạy về danh Đức Giê-su nữa. Hai ông Phêrô và
Gioan đáp lại: "Nghe lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa, xin hỏi: trước mặt Thiên
Chúa, điều ấy có phải lẽ không? Các ông thử xét xem! Phần chúng tôi, những gì tai đã
nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra. "Sau khi ngăm đe lần nữa, họ thả hai
ông về, vì không tìm được cách trừng trị hai ông. Lý do là vì họ sợ dân: ai nấy đều tôn
vinh Thiên Chúa vì việc đã xảy ra. Thật vậy, người được phép lạ ấy chữa lành đã ngoài
bốn mươi tuổi” (Cv 4, 13 - 22). Đứng trước cuộc tấn công ấy, Phêrô và Gioan đã có một
sự tự vệ, đó là lòng trung thành đối với Chúa. Nếu đây là vấn đề chọn lựa giữa vâng lời
người ta và vâng lời Thiên Chúa, thì Phêrô và Gioan đã không ngần ngại chọn con đường
phải theo là vâng lời Thiên Chúa. Và do đó các ngài có niềm tin vững chắc đến nỗi muốn
liều mạng sống mình vì Chúa Giêsu.34
Như vậy, đối với cộng đoàn tín hữu tiên khởi, ta thấy, nếu như không có sự hiệp thông
với Chúa thì sẽ không có một cộng đoàn lý tưởng. Cộng đoàn sẽ không có sự đồng tâm nhất
trí, không có bác ái huynh đệ, mọi người sẽ thu gom cho riêng mình, sống chỉ biết bản thân.
Lúc đó cộng đoàn sẽ chia năm sẻ bảy, cộng đoàn sẽ dẫn đến sự mất hiệp thông, và đổ vỡ là
điều khó tránh khỏi. Phêrô mạnh dạn đứng trước đám đông để rao giảng Tin Mừng bất chấp
những nguy hiểm như vậy là nhờ đâu? Đó là ông có Chúa trong tâm hồn, có một phẩm giá
thực sự mà không sự học vấn hoặc nghề nghiệp chuyên môn nào có thể tạo ra được. Dù có
những sự đe doạ, nhưng ông biết rằng những gì người ta phạm đến mình chỉ kéo dài trong
33 Xc. Lm. Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ, Các Nguyên Tác Căn Bản Về Phụng, Đại Chủng Viện Thánh Giuse- TPHCM, Tháng 9 - 2001, tr. 48.
34 Xc. William Barclay, Bộ Sách Chú Giải Kinh Thánh, Sách Công vụ Tông đồ, Nxb Tôn Giáo, 2008, tr. 36.
34
chốc lát, còn việc Chúa làm kéo dài mãi mãi. Kết quả Phêrô và các tông đồ đạt được hôm nay
phải chăng là nhờ các ngài đã kết hiệp liên lỉ với Chúa trong cầu nguyện.
4. Chuyên cần cầu nguyệnDựa vào bằng chứng các sách Tin Mừng, chúng ta thấy hoạt động hằng ngày của
Chúa Giêsu được liên kết sâu xa với đời cầu nguyện, đến nỗi, theo một cách nào đó, nó
được coi như xuất phát từ đời cầu nguyện của Ngài. Cho đến cuối đời, lúc cuộc khổ nạn đã
gần kề (xc. Ga 12, 17), trong bữa Tiệc ly (xc. Ga 17,1 - 26), trong cơn hấp hối (xc. Mt 26 ,
26 - 41) và trên thánh giá (xc. Lc 23, 34 - 46; Mt 27, 46; Mc 15, 34), vị Thầy Chí Thánh đã
cho thấy việc cầu nguyện là linh hồn của sứ mạng thiên sai của Ngài và của sự hoàn tất sứ
mạng đó trong Mầu Nhiệm Vượt Qua (QCGK 4).
Vào thời Đức Giêsu, người Do thái có thói quen mỗi ngày cầu nguyện ba lần. Tập
tục đã bắt đầu ít là từ thời ông Đaniel (xc. Đn 6, 11.14; Giuditha 9, 1; 12, 5-6; 13,3), và
vọng lại trong Thánh vịnh: “Phần tôi, tôi kêu khấn Chúa Trời, Chúa sẽ nghe tiếng tôi. Sớm
trưa chiều, tôi than sầu rên rỉ, Người sẽ nghe tiếng tôi” (Tv 55, 17 - 18).
Trong những chương đầu của sách Công vụ Tông đồ, ta thấy các kitô hữu cũng tuân
giữ tập tục đó. Giờ Ba (9 giờ sáng): ông Phêrô giảng bài đầu tiên tại đền thờ sau khi nhận
lãnh Thánh Thần (Cv 2, 15). Giờ Sáu (Trưa): ông Phêrô lên sân thượng cầu nguyện (Cv
10, 9). Giờ Chín (khoảng 3 giờ chiều), ông Phêrô và Gioan lên đền thờ cầu nguyện (Cv 3,
1), và vào dịp đó các ông đã chữa người bất toại.35
Tuy nhiên, ngoài những giờ cầu nguyện theo luật định, các kitô hữu không thể quên
mệnh lệnh của Thầy: “Hãy cầu nguyện luôn và không được nản chí” (Lc 18,1). Thánh
Luca đã mô tả hai đặc trưng của đời sống cầu nguyện của Hội thánh tiên khởi là “Đồng
tâm” và “Kiên trì” (xc. Cv 2, 42). Chúng ta đọc thấy chứng tích của việc cộng đoàn Kitô
hữu cầu nguyện ban đêm trong thời kì ông Phêrô bị giam tù (xc. Cv 12, 5 - 12). Một cách
tương tự như vậy, khi bị giam tù, vào khoảng nửa đêm, ông Phaolô và ông Sila đã ca hát
chúc tụng Chúa (xc. Cv 16 , 25).
Mục đích của việc cầu nguyện không chỉ để có sức chống lại cơn cám dỗ (xc. Mc 14,
35; Mt 26, 40 - 46); nhưng đặc biệt còn là một dấu chỉ cánh chung, là sự chờ đợi ông chủ
về, chời đợi Đấng Phu Quân đến giữa đêm đen: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn hầu
xứng đáng thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,
36; xc. Mc 13, 33). Thật vậy, việc cầu nguyện mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi các tín hữu phải
là việc cầu nguyện kiên tâm và bền chí trong mọi lúc (xc. Lc 18, 1). Đó là lý tưởng của
35 Xc. Lm. Phan Tấn Thành, Về Nguồn, Tập 2, Thời Các Tông Đồ, Roma 1998, tr. 218.
36 Xc. A.G. Marimort, Phụng Vụ Giờ Kinh, 2016, tr.
3
cộng đoàn kitô hữu đầu tiên và sẽ được thánh Phaolô thường xuyên nhắc lại. Đặc điểm cầu
nguyện thời các cộng đoàn sơ khai đó là.
4.1. Đồng tâm nhất tríCụm từ “đồng tâm nhất trí” được thánh Luca thường sử dụng để nói về việc cầu
nguyện (xc. Cv 1, 14; 2, 46; 4, 24) và cũng được thánh Phaolô nói đến (xc. Rm 15, 6). Sự
đồng tâm nhất trí này hiện hữu ngay cả khi các môn đệ không tụ họp nhau, vì “các tín hữu
thời bấy giờ đông đảo mà chỉ có một lòng một ý” (Cv 4, 32).36
Họ cầu nguyện với nhau trong mọi hoàn cảnh, như khi các Tông đồ từ trên núi Ôliu
về họ cùng với Đức Mẹ, các phụ nữ và các anh em Chúa Giêsu tụ họp cầu nguyện (x. Cv 1,
14); sau khi Chúa lên trời họ cũng cùng nhau cầu nguyện để chọn ra người thay thế ông
Giuđa, kẻ phản bội. Khi các Tông đồ phải ra trước Thượng Hội đồng họ cầu nguyện cho
các ông: “Nghe vậy, họ đồng tâm nhất trí cất tiếng lên cùng Thiên Chúa: "Lạy Chúa, Ngài
là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó; Ngài là Đấng đã nhờ
Thánh Thần, dùng miệng tổ phụ chúng con là Đa-vít, tôi trung của Ngài, mà phán: Sao
chư dân lại ồn ào náo động, sao vạn quốc dám bày kế viển vông? Vua chúa trần gian cùng
nổi dậy, vương hầu khanh tướng rập mưu đồ, chống lại Đức Chúa, chống lại Đấng Người
đã xức dầu phong vương. "Đúng vậy, Hê-rô-đê, Phong-xi-ô Phi-la-tô, cùng với chư dân và
dân Ít-ra-en đã toa rập trong thành này, chống lại tôi tớ thánh của Ngài là Đức Giê-su,
Đấng Ngài đã xức dầu. Như thế họ đã thực hiện tất cả những gì quyền năng và ý muốn của
Ngài đã định trước. Giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của họ, và cho các
tôi tớ Ngài đây được nói lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn. Xin giơ tay chữa lành, và thực
hiện những dấu lạ điềm thiêng, nhân danh tôi tớ thánh của Ngài là Đức Giêsu." Họ cầu
nguyện xong, thì nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và
bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa (Cv 4, 24 - 31). Khi đặt tay chọn bảy phó tế họ cũng
đồng tâm cầu nguyện, và khi ông Stephano bị ném đá, ông cũng đã cầu nguyện: “Họ ném
đá ông Stephano, đang lúc ông cầu xin rằng: "Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con. "Rồi
ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: "Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này." Nói thế rồi, ông
an nghỉ” (Cv 7, 59 - 60). Trước khi tiễn các Tông đồ đi truyền giáo họ cũng: “Ăn chay cầu
nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi” (Cv 13, 3). Ông Phaolô và ông Xila cùng nhau
cầu nguyện khi bị bắt giam và chính ở đây hai ông đã có cơ hội rao giảng Tin Mừng cho
những viên cai ngục: “Vào quãng nửa đêm, ông Phaolô và ông Xila hát thánh ca cầu
nguyện với Thiên Chúa; các người tù nghe hai ông hát. Bỗng nhiên có động đất mạnh,
3
khiến nền móng nhà tù phải rung chuyển. Ngay lúc đó, tất cả các cửa mở toang và xiềng
xích của mọi người buột tung ra. Viên cai ngục choàng dậy và thấy các cửa ngục mở
toang, liền rút gươm định tự tử, vì tưởng rằng các người tù đã trốn đi. Nhưng ông Phaolô
lớn tiếng bảo: "Ông chớ hại mình làm chi: chúng tôi còn cả đây mà! "Viên cai ngục bảo
lấy đèn, nhảy bổ vào, run rẩy sấp mình dưới chân ông Phaolô và ông Xila, rồi đưa hai ông
ra ngoài và nói: "Thưa các ngài, tôi phải làm gì để được cứu độ? "Hai ông đáp: "Hãy tin
vào Chúa Giê-su, thì ông và cả nhà sẽ được cứu độ. "Hai ông liền giảng lời Chúa cho viên
cai ngục cùng mọi người trong nhà ông ấy. Ngay lúc đó, giữa ban đêm, viên cai ngục đem
hai ông đi, rửa các vết thương, và lập tức ông ấy được chịu phép rửa cùng với tất cả người
nhà. Rồi ông ấy đưa hai ông lên nhà, dọn bàn ăn. Ông và cả nhà vui mừng vì đã tin Thiên
Chúa” (Cv 16, 25 - 34). Sự đồng tâm hợp ý giữa các tín hữu vừa được nuôi dưỡng vừa
được triển nở nơi các buổi cầu nguyện chung hàng ngày, đặc biệt là các cuộc “bẻ bánh”
vốn được hiểu theo nghĩa chuyên môn là “cử hành Thánh Thể”, nhưng vài nhà chú giải cho
rằng ở đây nó không chỉ giới hạn vào một lễ nghi phụng vụ nhưng còn được lồng trong
khung cảnh của bữa ăn huynh đệ, vừa nuôi dưỡng thân xác vừa biểu lộ niềm vui vì được
sống bên nhau và cảm nhận sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh.37
Như vậy, qua các biến cố đó, ta nhận ra sức mạnh của việc cầu nguyện chung và sự
đồng tâm nhất trí trong khi cầu nguyện. Khi có sự đồng tâm nhất trí trong lời cầu nguyện
thì sẽ có Chúa hiện diện ở đó (xc. Mt 18, 19 - 20) để giúp sức cho ta vượt qua mọi gian nan
thử thách, và ban cho ta có thêm nghị lực.
4.2. Cần mẫn kiên trìCần mẫn kiên trì là một đặc tính khác trong cầu nguyện của cộng đoàn thời các Tông
đồ. Sau khi Chúa Giêsu về trời, nhóm nhỏ bao gồm Đức Maria, các Tông đồ và một số anh
em hội họp nhau và chuyên cần cầu nguyện (xc. Cv 1, 14). Sau lễ ngũ tuần, lúc cộng đoàn
đã lớn rộng, sự kiên trì chuyên chăm này vẫn được duy trì (Cv 2, 42). Phải thừa nhận rằng
sách Công vụ Tông đồ đã giới thiệu một Hội thánh hơi lý tưởng, nhưng ở đây tác giả hẳn
đã nhận thức được tầm quan trọng của lý tưởng này đối với các thế hệ kitô hữu về sau; theo
đó, trong đời sống Tông đồ (vita apostolica) họ phải để tâm theo gương cộng đoàn được
mô tả trong sách Công vụ Tông đồ.38
Thánh Phaolô cầu nguyện ngày đêm: “Đêm ngày chúng tôi tha thiết nài xin Chúa
cho được thấy mặt anh em và bổ túc những gì còn thiếu trong đức tin của anh em” (1Tx
37 Xc. Lm. Phan Tấn Thành, Đời Sống Tâm Linh, Tập 2, Roma 2002, tr. 33.38 Xc. A.G. Martimort, Phụng Vụ Giờ Kinh, 2016, tr .11.
3
3,10) và “Vì thế, lúc nào chúng tôi cũng cầu nguyện cho anh em: xin Thiên Chúa chúng ta
làm cho anh em được xứng đáng với ơn gọi, và xin Người dùng quyền năng mà hoàn thành
mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin” (2Tx 1, 11). Ngài cũng
khuyến khích các tín hữu hãy cầu nguyện không ngừng: “Anh em hãy vui mừng luôn
mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như
vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1Tx 5, 16- 18), bền tâm cầu
nguyện (Rm 12, 12; Cl 4, 2): “Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và
mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh
thức và cầu xin cho các các thánh” (Ep 6, 18). Việc cầu nguyện không chỉ dừng lại nơi
bản thân hay người thân cận mà còn phải cầu nguyện cho toàn thể Giáo hội, cho những
người đang dấn thân trong sứ vụ tông đồ (Ep 6, 18-20).39 Hơn nữa, thánh Phaolô đã vạch
ra một chương trình sống thiêng liêng cho các kitô hữu, trong đó nhấn mạnh việc cầu
nguyện không ngừng; và chính ngài đã nêu gương cầu nguyện đêm ngày (1Tx 3, 10; 2Tx
1, 11). Thậm chí, thánh Phaolô dường như còn ám chỉ đến những buổi canh thức: "Anh em
hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể các thánh. Anh em cũng hãy cầu xin cho
tôi nữa" (Ep 6,18-19; Cl 4,2). Chính ngài cũng tuyên bố là ngài cầu nguyện đêm ngày (1Tx
3,10; 2Tx 1,11). Dù ý nghĩa chính xác mà thánh Phaolô gán cho những kiểu nói trên như
thế nào đi nữa, thì ngài cũng đã vạch ra một chương trình sống thiêng liêng để từ này các
Kitô hữu phải quyết tâm thực hiện. Theo họ, số lần cầu nguyện được coi là sự biểu lộ và
nhắc nhở về việc phải nỗ lực cầu nguyện không ngừng.40
Việc cầu nguyện kiên trì và liên lỉ được biểu lộ qua sự tỉnh thức cầu nguyện ban
đêm, theo gương Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (xc.
Mc 14, 38; Mt 26, 41; Lc 22, 40 - 46). Việc tỉnh thức không những để chống trả những
chước cám dỗ của quyền lực tăm tối mà còn là biểu hiệu của niềm trông chờ Chàng rể đến
giữa đêm (xc. Lc 21, 36).
Như vậy, cộng đoàn Giêrusalem được cho là cộng đoàn kiểu mẫu về sự kiên trì trong
cầu nguyện.41 Bởi họ họ có niềm xác tín vào Đấng Phục Sinh, sau khi Chúa Thăng Thiên,
cộng đoàn đã luôn đồng tâm nhất trí và chuyên cần cầu nguyện (xc. Cv 1, 14). Sự chuyên
cần ấy trước tiên là từ các Tông đồ, rồi đến những người phụ nữ, đi theo Chúa khi Ngài
còn ở dưới trần gian rao giảng Nước Trời, sau khi Chúa Thăng Thiên thì họ đi theo các
Tông đồ để phụ giúp các ông trong việc loan giảng Tin mừng Phục Sinh, trong đó có Đức
39 Xc. Lm. Phan Tấn Thành, Về Nguồn, tập 2, Thời Các Tông Đồ, Roma 1998, tr. 218-219.40 Xc. A.G. Martimort, Phụng Vụ Giờ Kinh, 2016, tr. 11- 12.41 Xc. Tìm Chúa số 16, Học Hỏi Về Công Đồng Vaticano II, nội san linh đạo Đan tu Biển Đức – Xitô, 2014, tr. 55.
3
Maria, Mẹ Thiên Chúa. Từ những chứng nhân sống cùng với Chúa là làm chứng cho sự
Phục Sinh của Chúa, đã làm gương cho mọi tín hữu trong Hội thánh sơ khai noi theo. Vì
vậy, sự chuyên cần cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh đã đi vào đời sống của Hội thánh thời
ban đầu. Dù làm việc gì, có khó khăn hay thuận lợi mọi người đều cầu nguyện trước tiên.
Chính nhờ có đời sống cầu nguyện mà các tín hữu có chiều sâu đức tin, từ đó họ có thể
mạnh mẽ và kiên trì vượt qua mọi khó khăn. Trong thời kì bị bách hại, Hội thánh dù có
gặp thử thách đến đâu thì đức tin của các tín hữu luôn vững vàng, vì họ tin có Chúa đang
hiện diện và nâng đỡ họ: “Giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của họ, và
cho các tôi tớ Ngài đây được nói lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn. Xin giơ tay chữa lành,
và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, nhân danh tôi tớ thánh của Ngài là Đức Giêsu.
"Họ cầu nguyện xong, thì nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh
Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa” (Cv 4, 29 - 31). Các kitô hữu sẵn sàng hy
sinh vì lý tưởng nước trời. Mẫu gương điển hình là Stêphano, ngài chẳng những không sợ
cái chết mà còn cảm thấy vinh hạnh khi được chết vì danh Đức Kitô: “Được đầy ơn Thánh
Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên
hữu Thiên Chúa. Ông nói: "Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên
Chúa. "Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành mà
ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saolô. Họ ném đá
ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng: "Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con. "Rồi
ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: "Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này. "Nói thế rồi, ông
an nghỉ”( Cv 7, 55 - 60).
Tóm lại, thời kì đầu, Hội thánh đã kiên trì cần mẫn trong cầu nguyện. Đó là tấm
gương sáng cho mỗi người chúng ta là thế hệ hậu sinh. Các tín hữu tiên khởi là những
người sống cùng thời với Chúa Phục Sinh, họ đã tin, đã mến, đã yêu thì tại sao chúng ta lại
không tin, không yêu, không mến,? Chính những sự đồng tâm nhất trí đó, mà trong cộng
đoàn tín hữu tiên khởi, các tín hữu không giữ của gì riêng mà để mọi sự làm của chung.
5. Đóng góp tài sản chungTrong sách Công vụ Tông đồ cho biết các kitô hữu để mọi sự làm của chung, và ai có
đất đai của cải thì bán đi để cho người túng thiếu cũng được chia sẻ: “Tất cả các tín hữu
hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền
chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu” (Cv 2, 44 - 45). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về
niềm tin mà còn hiệp nhất với nhau trong tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho nhau.
Sự liên đới này tạo nên một cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người đều
3
được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tuỳ nhu cầu của từng người.
Chính nhờ đời sống bác ái của các tín hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân thương
mến. Nhờ vậy mà có nhiều người gia nhập vào Giáo hội: “Họ ca tụng Thiên Chúa, và
được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người
được cứu độ” (Cv 2, 47). Sự thương mến đó cũng là nền tảng bảo vệ các tín hữu khỏi
những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn sau này.
Mặc dù cộng đoàn đông đảo, nhưng các tín hữu chỉ có một lòng một ý. Không một ai
coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung (xc. Cv
4, 32). Họ giúp đỡ nhau và trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những
người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông đồ. Tiền ấy
được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu của từng người (xc. Cv 4, 34- 35). Điều
này chứng minh rằng đây là một cộng đoàn trọn hảo,vì đã thực hành đức ái kitô giáo. Tiêu
biểu là lòng quảng đại của ông Banaba: “Ông Giô-xếp, người được các Tông đồ đặt tên là
Ba-na-ba, nghĩa là người có tài yên ủi, có một thửa đất. Ông là một thầy Lê-vi quê quán ở
đảo Sýp. Ông bán đất đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông đồ” ( Cv 4, 36- 37).
Có hai điểm mà ta cần lưu tâm đến về sự đóng góp tài sản chung đó là: Các tín hữu thời
đó có ý thức cao về trách nhiệm tương thân tương ái. Tất cả đều thấy nơi mình một ước muốn
chia sẻ những gì mình có, sự chia sẻ này không do luật quy định, nhưng là sự tự nguyện. Xã
hội thực sự là một xã hội kitô giáo khi người ta chia sẻ bằng con tim chứ không phải vì luật
buộc.42 Chúa Giêsu dạy về luật yêu thương không điều kiện và yêu hết mình, yêu hy sinh mạng
sống mình vì vậy vì tình tương thân tương ái. Yêu là cho đi, không mong nhận lại (xc. Ga 15,
12- 15). Trong cộng đoàn không những mọi sự là của chung, không ai giữ riêng cho mình,
không sống ích kỉ, thu vén cho mình, mà cộng đoàn còn phải sống bác ái với nhau. Thiết tưởng
cần nhấn mạnh rằng việc để chung của cải không phải là một quyết định bắt buộc cho mọi tín
hữu. Đây là hành vi tự nguyện, và là hệ luận của sự thông hiệp nội tâm sâu xa của các tín hữu
đến nỗi mọi phần tử chỉ có “một lòng và một ý” (Cv 4, 32).43 Tinh thần chia sẻ và liên đới
luôn là lời mời gọi thường xuyên gửi đến các anh chị em cũng như đến các cộng đoàn (xc. Cv
11, 29; Rm 15, 25 - 28).44 Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo cũng nói rằng đối với các tín hứu
đầu tiên, mọi sự đều là của chung (Cv 4, 32): Kitô hữu thật sự không sở hữu một điều gì, mà
không cho rằng đó là của chung cho mình cùng với tất cả những
42 Xc. William Barclay, Bộ Sách Chú Giải Kinh Thánh, Sách Công vụ Tông đồ, Nxb Tôn Giáo, 2008, tr. 38.43 Xc. Lm. Phan Tấn Thành, Đời Sống Tâm Linh, Tập 2, Roma 2002, tr .32.44 Xc. Niền Tin Của Người Công Giáo, huấn giáo cơ bản, nguyên tác: La foi des Catholiques, nhóm phiên
dịch: Phạm Minh Thiện, Tống Viết Hiệp, Phạm Mạnh Trinh, Nxb Tôn Giáo, 2009, tr. 75.
4
người khác; vì vậy họ phải mau mắn và sẵn sàng làm nhẹ bớt sự cùng khốn của những người túng
thiếu. Kitô hữu là người quản lý tài sản của Chúa.45
Như vậy, ta học được thêm một nhân đức từ cộng đoàn tiên khởi đó là sự từ bỏ. Từ
bỏ của cải vật chất có lẽ là điều cần thiết nhất đối với đời sống tu trì. Bởi mỗi tu sĩ, hay đan
sĩ đều có lời khấn khó nghèo, từ bỏ vật chất, từ bỏ ý riêng để chỉ một lòng một ý với Chúa.
Chúng ta không nên như người thanh niên giàu có trong Tin Mừng Matthêu, khi Chúa
Giêsu nói với anh: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, hãy đi và bán những gì anh có phân
phát cho người nghèo rồi hãy đến theo tôi và anh sẽ có một kho tàng trên trời” (Mt 19,
21), thì anh đã “buồn rầu bỏ đi” vì “anh có nhiều của cải”. Rõ ràng anh muốn nên hoàn
thiện, nhưng anh không thể nào dứt ra được khỏi sự ràng buộc của tiền bạc. Cũng vậy,
chúng ta phải biết từ bỏ sự ích kỉ mà cởi mở để xây dựng cho cộng đoàn của mình. Như
vậy, cộng đoàn sẽ trở nên một cộng đoàn hiệp thông yêu thương trong tình yêu của Chúa
chứ không phải vì danh lợi của cá nhân.
Như vậy, qua năm yếu tố: Lắng nghe các tông đồ rao giảng, sống hiệp thông với
nhau, siêng năng tham dự bữa ăn của Chúa, chuyên cần cầu nguyện và đóng góp tải sản
chung, các tín hữu tiên khởi cùng với các Tông đồ đã tạo nên một cộng đoàn thật tuyệt hảo.
Đó là một cộng đoàn đức tin, sống theo lời Chúa Giêsu dạy dưới sự hướng dẫn và đồng
hành của Chúa Thánh Thần. Đó cũng là một cộng đoàn thánh, là kiểu mẫu cho mọi thế hệ
sau này học hỏi và tiếp nối.
45 Xc. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, uỷ ban Giáo Lý Đức Tin, Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, Nxb Tôn Giáo, 2012, số 952.
4
Chương 3
XÂY DỰNG CỘNG ĐOÀN ĐAN TU THEO MẪU HÌNH CỘNG ĐOÀN TÍN HỮU TIÊN KHỞI
Để xây dựng một cộng đoàn đan tu lý tưởng, thiết nghĩ chúng ta cần phải quy chiếu
về những đặc tính của cộng đoàn tín hữu tiên khởi. Những đặc tính đó là nguồn và là mẫu
gương để cho các cộng đoàn đan tu noi theo. Vậy, quy chiếu theo cách nào và những đặc
nét đó ra sao để xây dựng mô hình cho cộng đoàn đan tu ngày nay?
1. Lắng nghe các bậc bề trên
1.1. Vâng phục
Cuộc đời Chúa Giêsu “từ khi bước vào thế gian” (Dt 5, 10) cho đến khi “chết trên
thập giá” (Pl 2, 8), kết dệt bằng đức vâng phục. Nghĩa là Đức Giêsu gắn bó với Thiên
Chúa xuyên qua một loạt trung gian: các nhân vật, những biến cố, định chế, văn tự và các
thế quyền. Chính Đức Giêsu đã khẳng định rằng Người đến không phải để thi hành ý muốn
của mình nhưng là ý muốn của Đấng đã sai mình (xc. Ga 6, 38). Vì thế, trong suốt cuộc đời
trần thế, Người đã thi hành những bổn phận thông thường như: vâng lời cha mẹ (xc. Lc 2,
51) và tuân phục quyền bính hợp pháp (xc. Mt 17, 27). Lúc chịu thương khó, Đức Giêsu
vâng lời tuyệt đối, tự nộp mình không phản kháng những quyền lực bất công và bất nhân,
mặc dù Người là“Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được
thế nào là vâng phục” (Dt 5,8). Người đã chịu chết để làm Hy tế quý trọng nhất dâng lên
Thiên Chúa, đó chính là hy tế của đức vâng lời (xc. Dt 10, 5-10; xc. 1Sm 15, 22). Đức
vâng phục của Chúa Giêsu không phải chỉ là một nhân đức trong số các nhân đức, mà là
một tâm tình toàn diện chi phối chính sự hiện hữu của Người trong thân phận Con Thiên
Chúa làm người. Người đến trong thế gian để thi hành thánh ý Cha. Do đó, có thể khẳng
định rằng suốt cuộc đời Người đã luôn thực thi điều đó.
Theo gương Thầy Chí Thánh của mình, các Tông đồ cũng đã vâng phục trọn vẹn
thánh ý Chúa. Sau khi Đức Giêsu về với Cha, thì ở dưới trần gian, các Tông đồ vẫn
vâng lời Đức Giêsu truyền dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương
anh em” (Ga 15, 9-17) và hãy đem Tin Mừng đến cho muôn dân:“Anh em hãy đi khắp
tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15). Tiếp nối sau
các Tông đồ, các tín hữu tiên khởi cũng đã lắng nghe các Tông đồ rao giảng và dạy dỗ.
Các tín hữu thủa ban đầu ấy đã đồng tâm nhất trí với nhau trong mọi việc. Cộng đoàn
4
sống vui vẻ, hạnh phúc, chan hoà và yêu thương. Vì mọi thành viên đã vâng nghe lời
các Tông đồ giáo huấn và giảng dạy (xc. Cv 2, 42 - 46).
Bước theo Đức Kitô, đan sĩ được mời gọi hướng đến một mục đích là tiếp tục
thực hiện ý Chúa trong suốt cả cuộc đời dâng hiến. Đan sĩ khấn vâng phục phải ý thức
rằng đức vâng phục làm cho Chúa Kitô được hiện diện ngay ở trong cộng đoàn và như
thể biến đổi một xã hội con người thành một cộng đoàn của Giáo hội.46 Đồng thời đan
sĩ cũng phải ý thức rằng cần phải thực hiện điều đó trong khuôn khổ cộng đoàn, bởi vì
cả cộng đoàn cũng như từng phần tử trong cộng đoàn đều phải thực thi ý Chúa và đều
là sự hiện diện của Chúa giữa trần thế.
Như thế, vâng phục không phải là một nhân đức cá nhân, hay là một phương thế để
sống khổ hạnh, hãm mình (đối với người dưới) hoặc để kiểm soát hay để bắt mọi người
phải theo lệnh của mình (đối với người trên), nhưng là để trở nên đồng hình đồng dạng với
Chúa Kitô. Đức vâng phục cũng không phải chỉ để tạo ra một trật tự chung hay để điều
hành, tổ chức những sinh hoạt đối nội và đối ngoại, nhưng là để tìm kiếm ý Chúa, làm theo
ý Chúa, để Chúa đến hiện diện trong môi trường sống và trong chính cuộc đời của mình.
Có nghĩa là: “Vâng phục bằng đức tin, là tự nguyện quy thuận lời đã nghe, bởi vì chân lý
của Lời đó đã được nguồn chân lý là Thiên Chúa bảo đảm”.47 Đó là sự độc đáo và sâu sắc
của đức vâng phục thánh hiến. Hình ảnh của Abraham vâng lệnh Chúa ra đi mà không biết
mình đi đâu (xc. Dt 11, 8) là một bằng chứng hùng hồn của đức vâng phục vì lòng tin (xc.
St 12). Vì tin vào Thiên Chúa, nên Abraham đã ra đi theo lệnh truyền của Ngài, do đó,
Abraham được kể “là người công chính” (Rm 4, 3), là “cha của mọi kẻ tin” (Rm 4, 11).
Cũng trong ý nghĩa này, thánh Phaolô viết trong thư gửi tín hữu Galat: “Nếu tôi còn muốn
làm đẹp lòng người đời, thì không phải là tôi tớ của Đức Kitô” (Gl 1, 10). Vì thế trong đời
tu, nếu đan sĩ còn muốn làm theo ý mình thì không còn phải là đan sĩ đích thực.48
Nếu hiểu đức vâng phục theo chiều hướng là tiếp tục và tham dự vào sứ mạng của
Đức Kitô, thì tất cả mọi người và từng người, bề dưới và bề trên, cá nhân cũng như cộng
đoàn đều phải vâng phục. Tại sao? Bởi vì, cá nhân hay cộng đoàn đều có sứ mạng tìm
kiếm và thi hành ý Chúa. Chúa Thánh Thần luôn hiện diện một cách sinh động trong mỗi
người và trong mọi người. Người có thể thổi đâu tùy ý nhưng chắc chắn không phải là
không có mục đích. Vì thế phải lưu tâm lắng nghe và tìm hiểu ý Chúa qua vị bề trên và
mọi thành viên trong cộng đoàn. Thánh Biển Đức còn đi xa hơn nữa, trong những công
46 Xc. Rene Voillaume, Đời Sống Tu Trì, chuyển ngữ, Lm. Phêrô Vũ Văn Chương, Nxb Tôn Giáo, 2015, tr. 92.47 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, uỷ ban Giáo Lý Đức Tin, Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, Nxb
Tôn Giáo, 2012, số 144.48 Xc. Lm. Đỗ Xuân Quế OP, Sống Đời Thánh Hiến, Nxb Tổng Hợp TPHCM, 2007, tr. 35.
4
việc có liên can hệ trọng đến lợi ích thiêng liêng hoặc trần thế của đan viện, ngài ao ước
viện phụ cần phải triệu tập anh em lại trình bày việc ngài định làm, để hỏi ý kiến anh em.
Lý do thánh phụ dạy phải bàn luận như vậy chính vì Chúa thường tỏ cho những anh em ít
tuổi nhất những quan điểm đúng đắn hơn.49
Do đó, vâng phục đòi hỏi phải có tinh thần đối thoại và tinh thần đồng trách nhiệm.
Để đối thoại chúng ta phải có ý kiến của chính mình. Mỗi người đều là một huyền nhiệm.
Mỗi người đều có một “mã số riêng” của mình. Bề trên cần phải biết lắng nghe, tìm hiểu,
tham khảo giúp bề dưới nhận ra ý Chúa và thi hành ý Chúa trong hoàn cảnh riêng của mỗi
người; trao cho họ sứ mạng phù hợp với mã số riêng con người họ. Mỗi người trong cộng
đoàn phải đóng góp bằng sự trình bày, đối thoại, trao đổi để bề trên nhận biết ý Chúa đối
với cộng đoàn và từng thành viên. Bề trên giúp cộng đoàn vâng phục ý Chúa và ngược lại
nhờ cộng đoàn giúp, bề trên thấy rõ ý Chúa hơn để vâng phục và thi hành. Sứ mạng thi
hành ý Chúa cần có nhiều sự phân công phục vụ khác nhau, người ra mệnh lệnh và người
thi hành mệnh lệnh. Tuy vậy, những công tác này không làm cho người này đứng cao hơn
người kia mà mỗi người chỉ là một thành phần của cộng đoàn, bình đẳng với nhau với
những công tác khác nhau trong cùng một sứ mạng chung.
Nhờ sự cởi mở rộng rãi như thế trong đối thoại với Chúa và với nhau, đan sĩ mới có
thể đọc thấy sự thật, sự thật của mỗi cá nhân, của cộng đoàn và của thế giới hôm nay. Nhờ
đó, mọi thành viên trong cộng đoàn mới hiểu được những dấu chỉ của thời đại và nghe
được những tiếng gọi mới của Chúa. Điều đó giúp chúng ta sửa đổi cái cổ hủ mà tiến bước
về phía trước vì Nước Trời.
Như thế, khi một đan sĩ nói rằng họ chỉ vâng lời vị bề trên nào đó mà họ có thể hoàn
toàn tin tưởng, tức là đan sĩ đang tìm kiếm một người cha lý tưởng. Đòi hỏi này loại bỏ khả
năng chấp nhận người lãnh đạo được bầu với nhiệm kỳ, cũng như việc chia sẻ trách nhiệm
đích thực với bề trên và cộng đoàn. Trái lại, các đan sĩ phải học cách vâng phục vị lãnh đạo
đã được chỉ định hay được bầu theo hiến pháp, kể cả những người mà mình không có chút
thiện cảm nào. Chỉ khi nào đan sĩ xác tín được điều này, thì đó là một đan sĩ đích thực. Bởi
vì, nếu vâng phục mà lại đòi điều kiện tin tưởng theo cảm tính như thế thì sẽ dẫn đến tình
trạng hỗn loạn và cộng đoàn có thể tan rã.50
Thực ra, đức vâng phục của đan sĩ chỉ có thể thực hiện được một cách hữu hiệu trong
sự hiệp thông sâu xa với Chúa và với cộng đoàn. Điều này đòi hỏi cần có sự rèn luyện liên
tục trong tình thương, trong sự thật, trong ân sủng của Chúa Thánh Thần. Nếu sống được
49 Xc. Dom Columba Marmion, Chúa Kitô Lý Tưởng Đan Sỹ, Linh đạo đan tu, chuyển ngữ: Châu Sơn, tr. 120.50 Xc. Lm. Giuse Đỗ Văn Thuỵ, Tân Phúc Âm Hoá Đời Sống Cộng Đoàn, Nxb Tôn Giáo, 2014, tr. 67- 68.
4
như thế, đức vâng phục sẽ làm cho nhân phẩm của đan sĩ được trưởng thành và sinh nhiều
hoa trái phong phú theo tinh thần Phúc Âm.
Nếu trong trường hợp, sau khi đã khiêm nhường cầu nguyện và suy nghĩ kỹ lưỡng,
có sự biện phân chính xác, có sự đồng tình và ủng hộ của nhiều người trong cộng đoàn, có
sự chân thành trao đổi với bề trên trong tinh thần trách nhiệm, mà ý kiến của mình vẫn bất
đồng với quyết định của bề trên thì sao? Khi đó phải chấp nhận quyết định của bề trên vì
đức vâng phục. Đây là vâng phục trong đêm tối của đức tin. Vâng phục, không phải vì
chúng ta cho rằng quyết định đó phù hợp với ý Chúa, nhưng chúng ta vẫn chấp nhận vì
quyết định đó được đề ra bởi một người đã được trao quyền phục vụ và là người thay mặt
Chúa. Cũng vậy, việc hoàn toàn bỏ ý riêng để tuân phục ý Chúa qua những vị đại diện của
Ngài không phải là một điều làm cho đan sĩ trở nên nhu nhược, mất tự do. Nhưng nhờ đó
mà đan sĩ được trưởng thành hơn, tự do hơn. Bởi vì họ xác tín rằng: “Tuân phục ý Chúa là
con đường tăng trưởng, và vì thế, là con đường tự do cho con người; vì sự tuân phục này
cho phép chấp nhận một kế hoạch hay một ý muốn trái với ý riêng mình, điều này không
chỉ không làm nhẹ hay làm giảm phẩm giá con người, nhưng lại là nền tảng của nó. Đồng
thời, tự do tự nó cũng là một con đường vâng phục, bởi vì đó là vâng phục kế hoạch của
Cha theo cách giống trẻ thơ, mà người tín hữu hoàn thành sự tự do của mình.”51
Thánh Biển Đức còn nhấn mạnh không những các đan sĩ phải vâng phục bề trên mà
còn phải vâng phục nhau: “Vâng phuc là điều tốt lành, nên không nhưng moi nguơ i phai
vâng phuc
viẹ n phu, mà anh em cung vâng phuc nhau nưa, vì biết mình se phai qua con
đuơ ng vâng phuc mà đến cùng Thiên Chúa. Vạ y, ngoài lẹ nh truyền cua viẹ n phụ hay các vi
hưu trách do ngài đạ t lên, cha không cho phép anh em đạ t mọ t lẹ nh riêng tu nào lên trên.Còn trong các truơ ng hơp
khác, anh em hãy hết lòng yêu mến và ân cần vâng phuc đàn
anh mình. Gạ p ai to ra chống đối, se bi sư a phat ”52.
Tóm lại, đức vâng phục không chỉ bắt buộc đan sĩ vâng phục ý bề trên chỉ vì đó là ý
của vị bề trên mà phải vâng phục ý bề trên vì tin rằng đó là ý Chúa. Nói cách khác, bề trên
được Chúa dùng để nói lời của Người cho họ. Chỉ riêng vâng phục thôi thì con người đã
được Thiên Chúa chấp nhận, vì ý muốn của Thiên Chúa là làm cho mọi sự có giá trị siêu
nhiên đối với linh hồn tuân phục.53 Vì thế, cả bề trên lẫn bề dưới phải nhìn nhận đức vâng
phục và quyền bính theo hướng phục vụ cộng đoàn, xây dựng cộng đoàn theo linh đạo của
51 Xc. Huấn Thị Về Quyền Bính và Vâng Phục; Thánh Bộ các tu hội dòng tận hiến và các tu đoàn Tông đồ, Nxb Tôn Giáo, tr. 19.
4
52 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 71.53 Xc. Jean – Pierre de Caussade, Niềm Vui Tín Thác, chuyển ngữ: Anh Sơn, Nxb An Tôn & Đuốc Sáng, 2011, tr. 30.
4
dòng mình, đó là nên thánh theo đường lối đấng sáng lập đã vạch ra.54 Bên cạnh đó, để tạo
dựng được một cộng đoàn hiệp nhất và bình an, chúng ta cũng cần học cách thinh lặng.
1.2. Thinh lặngThinh lặng là một trạng thái hoàn toàn luôn sẵn sàng lắng nghe.55 Đó là yếu tố rất
cần thiết để mỗi người chúng ta hồi tâm, kiểm soát lại việc mình làm, lời mình nói có điều
gì lầm lỗi hay gây ảnh hưởng không tốt cho linh hồn của mình và của người khác; từ đó ta
kịp thời uốn nắn, chỉnh sửa sao cho phù hợp lối sống một người con của Thiên Chúa. Với
tư cách là kitô hữu, ta có cơ hội gặp gỡ chính Thiên Chúa trong tâm hồn mình, nhờ đó
nhận ra thánh ý của Người để làm theo, và trở thành chứng nhân cho Tin Mừng. Về điều
này, ngay khi Chúa Giêsu xuống thế làm người, dù Người vẫn là Thiên Chúa nhưng đồng
thời cũng mang lấy bản tính nhân loại đầy những yếu đuối của con người chúng ta ngoại
trừ tội lỗi (xc. Dt 4, 16). Vì vậy, dù là khởi sự hay muốn hoàn thành bất cứ việc gì thì
Người vẫn dành cho mình những giây phút thinh lặng vừa để tạ ơn Thiên Chúa, vừa để xin
Chúa cho tăng thêm sức mạnh, sự trợ lực để có thể chu toàn thánh ý của Chúa Cha, hay sự
soi sáng, hướng dẫn, thúc đẩy của Chúa Thánh Thần: “Sau khi giải tán đám đông, Người
đi riêng lên núi mà cầu nguyện” (Mt 14, 23). Một số bản văn khác của Tin mừng nói đến
đời sống của cầu nguyện của Chúa Giêsu, thinh lặng mới có thể cầu nguyện được (xc. Mt
4, 1 - 4; Lc 6, 12 - 13; Mc 14, 32 - 42; Ga 4, 34).
Về phương diện đời sống tập thể và xã hội, thinh lặng giữ một vai trò quan trọng:
thinh lặng tạo bầu khí tôn trọng và lắng nghe. Vì thế người đời thường khuyên nhau: “Nói
là bạc, nhưng thinh lặng là vàng”. Con người có khả năng sử dụng miệng lưỡi để diễn tả
tư tưởng và truyền thông tình cảm cho nhau. Đó là hồng ân của Thiên Chúa. Nhưng lời nói
cũng có thể là con dao hai lưỡi, nếu chúng ta biết sử dụng thì đó là một lợi khí, giúp con
người sống gần nhau và hiểu nhau hơn; ngược lại nó sẽ gieo rắc sự chết và oán thù.
Trong giao tiếp thông thường, người ta tìm cách làm sao cho câu chuyện được
rộn ràng liên tục không có gián đoạn để tránh bầu khí lạnh nhạt buồn tẻ và thiếu thân
tình. Trái lại, giữa bạn thân thì thinh lặng không làm gián đoạn đối thoại, thinh lặng
không hề tạo bầu khí trống rỗng lạnh nhạt, nhưng làm tăng thêm vẻ đẹp của tình bạn và
sự hồn nhiên của cuộc gặp gỡ chuyện trò. Nhà văn Péguy nói: “Hạnh phúc dường nào
những bạn hữu thân tình biết nhau khá đầy đủ để yêu nhau đậm đà và cùng nhau thinh
54 Xc. Lm. Đỗ Xuân Quế OP, Sống Đời Thánh Hiến, Nxb Tổng Hợp – TPHCM, 2007, tr. 36.55 Xc. Rene Voillaume, Đời Sống Tu Trì, chuyển ngữ, Lm. Phêrô Vũ Văn Chương, Nxb Tôn Giáo, 2015, tr. 201.
4
lặng”.56 Trong đời sống đan tu, hằng ngày các đan sĩ phải yêu mến nhau đủ để cùng
nhau giữ gìn thinh lặng. Bởi vì thinh lặng là tiếng nói sâu đậm nhất của tình yêu, trung
thực nhất của hạnh phúc, và chân thành nhất của lòng biết ơn. Yêu nhau, tôn kính nhau
và tôn trọng quyền lợi của nhau giúp đan sĩ ý thức và giữ thinh lặng bằng sự yêu mến.
Nhờ sự thinh lặng chúng ta có thể gặp gỡ chính mình, đồng thời gặp gỡ chính Chúa ở
trong cõi lòng mình. Chỉ trong tĩnh lặng, con người mới sống trọn vẹn căn tính của mình và
gần với những giá trị vĩnh cửu.57 Từ đó, chúng ta được sự soi sáng hướng dẫn, nhủ bảo của
chính Thiên Chúa để ơn gọi và sứ vụ của chúng ta làm mưu ích cho thế giới và làm rạng
danh Chúa58. Thinh lặng không phải là để ngắm mình, để tự thoả mãn về bản thân, mà là
để tiến đến những mối tương quan đầy yêu thương, giúp con người tương quan với thế giới
chung quanh một cách tròn đầy và ý nghĩa.59
Thinh lặng là một trong những đặc điểm nổi bật nhất của đời sống đan tu. Các đan sĩ
Biển Đức - Xitô không phải là những ẩn sĩ độc tu trong sa mạc thanh vắng. Các đan sĩ
sống trong cộng đoàn có tổ chức. Đan viện là “Trường Học Phụng Sự Thiên Chúa”, là mái
nhà nơi các đan sĩ chọn làm gia đình thiêng liêng để kí thác cuộc đời trần thế của mình.
Đan viện phải là một nơi thanh vắng, yên tĩnh để các đan sĩ có thể sống đời chiêm niệm
cầu nguyện, dễ dàng tìm kiếm Thiên Chúa và gặp gỡ được chính Ngài. Sự an bình nội tâm
được bảo đảm bằng sự yên lặng ngoại giới. Thinh lặng là một điều kiện cần thiết tối thiểu
cho đời sống tĩnh nguyện. Vì thế, các đan sĩ phải giữ thinh lặng không những trong các nơi
sinh hoạt tập thể như nhà nguyện, nhà cơm, nhà hội… mà ngay cả trong phòng riêng của
mình và ngoài đồng ruộng, nơi lao tác, bất cứ ở đâu, đan sĩ cũng phải giữ thinh lặng.
Đời sống đan tu luôn luôn là một lời mời gọi gặp gỡ Thiên Chúa trong sự thinh lặng.
Các Tổ phụ Xitô hay thánh phụ Biển Đức không chủ trương thinh lặng để mà thinh lặng.
Mục đích của thinh lặng là tạo một môi trường thích hợp cho việc chiêm niệm và cầu
nguyện, để sống thân tình với Thiên Chúa và tâm sự với Ngài. Thánh Gioan Thánh Giá
nói: “Trong đời sống thiêng liêng kết hợp với Thiên Chúa, nếu chúng ta muốn nghe tiếng
Chúa nói thì phải thinh lặng, bởi vì lời mà Thiên Chúa nghe rõ hơn cả là thinh lặng tình
yêu”. Đối với Chân phước Guerico: “Trong thinh lặng, con người nội tâm được hình
thành theo hình ảnh Chúa Kitô”. Theo nhà văn Paul Claudel: “Thiên Chúa ở đó trong
thinh lặng như một người đang lắng nghe, và khi người ta nghe thì Thiên Chúa nói”. Còn
56 Xc. Lm. Đm Trần Minh Công, Đời Sống Đan Tu Lý Tưởng Phúc Âm, Đan viện Đức Mẹ Fatima Thuỵ Sĩ, 2007, tr. 228- 232.
57 Xc. Trần Thị Giồng, tiến sĩ tư vấn tâm lý, Tâm Bất Biến Giữa Dòng Đời Vạn Biến, Nxb Phương Đông, 2007, tr. 12.58 Xc. Lm. Jn M. Nguyên Phương, Được & Mất, lưu hành nội bộ, tr. 115- 116.59 Xc. Trần Thị Giồng, tiến sĩ tư vấn tâm lý, Tâm Bất Biến Giữa Dòng Đời Vạn Biến, Nxb Phương Đông, 2007, tr. 35.
4
văn hào Saint Exupéry viết: “Khoảng không gian của thần trí, nơi có thể cất cánh bay lên,
đó là thinh lặng”. Sự thinh lặng giúp đan sĩ khỏi phân tán và làm cho đời sống kết hiệp
thân mật với Chúa và phản ứng trước mọi sự việc theo tinh thần của Chúa.60
Trong tu luật thánh Biển Đức, ngay ở lời mở Ngài dạy các môn sinh: “Con ơi, hãy
lắng nghe lời thầy dạy, ghé tai lòng con mà thuận tình đón nhận lời cha hiền khuyên nhủ
và thực hiện cho bằng được, để nhờ gắng công vâng phục, con trở về với Đấng con đã xa
lìa vì ươn lười bất tuân. Vậy cha nói với con đây, dù con là ai, mà đã đoạn tuyệt với ý
riêng, mang lấy khí giới rất mạnh mẽ và rạng ngời của đức vâng phục, để chiến đấu cho
Chúa Kitô, Vua chân thật”.61 Như thánh Biển Đức dạy, ta nhận ra được điều ngài muốn nói
trong sâu thẳm của sự lắng nghe; đó là “ghé tai lòng” tức nghe bằng con tim, nghe bằng cả
con người; và để có thể nghe bằng “tai lòng” thì thinh lặng là điều tất yếu phải có. Trong
thinh lặng để nghe bằng tai lòng mình, đan sĩ sẽ dễ dàng nghe và nghiền ngẫm Lời Chúa,
qua đó tạo nên sự trưởng thành tâm linh cho các đan sĩ để đi vào hiệp thông huynh đệ thực
sự trong Đức Kitô. Đặc biệt, Cha thánh dành trọn chương sáu trong tu luật để nói lên điều
cần thiết về sự thinh lặng của các đan sĩ: “Ta hãy thi hành theo lời ngôn sứ: “Tôi đã nói
mình phải giữ gìn trong nếp sống, để khi ăn nói khỏi lỗi lầm, nên miệng tôi quyết ngậm
tăm, tôi câm lặng làm thinh chẳng hé môi, im lặng cả những điều hay điều tốt”. Qua đó, vị
ngôn sứ tỏ cho ta thấy, vì quí trọng sự im lặng, mà đôi khi phải làm thinh cả những lời
lành; phương chi đối với những chuyện hư từ, càng phải tránh để khỏi bị phạt vì tội. Vì sự
im lặng quan trọng như thế, nên ngay cả những môn đệ hoàn hảo, cũng ít khi được phép
nói những lời lành thánh và xây dựng, vì có lời chép: “Nói nhiều không tránh khỏi tội”. Và
nơi khác: “Sống chết ở cả đầu lưỡi”. Thực ra, nói năng dạy dỗ là việc của thầy, còn môn
đệ thì im lặng mà nghe. Bởi đó, nếu phải thưa trình bề trên việc gì, hãy trình bày với tất cả
lòng khiêm tốn, kính cẩn và tùng phục. Còn những chuyện bông đùa, những lời phù phiếm
khôi hài, bất cứ ở đâu và lúc nào, cha đều lên án và cha không hề cho phép môn đệ mở
miệng nói những lời như thế”.62
Thinh lặng là một điều kiện thiết yếu để gặp gỡ Thiên Chúa và tâm sự với Ngài.
Nhưng thinh lặng bề ngoài mà thôi chưa đủ, đan sĩ phải có sự thinh lặng nội tâm. Thinh
lặng nội tâm là sự thinh lặng của trái tim.63 Để có đời sống nội tâm và sống trong mầu
nhiệm Ba Ngôi, các đan sĩ cần phải trau dồi thinh lặng bên ngoài và bên trong. Cần
tránh những nơi náo động, sầm uất, giữ gìn miệng lưỡi, chớ nói nhiều, làm chủ các giác
60 Xc. Lm. Andre Đỗ Xuân Quế, Sống Đời Thánh Hiến, Nxb Tổng Hợp TPHCM, 2007, tr. 18- 19.61 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, Lời Mở Đầu 1- 4.62 Sđd, chương 6.63 Xc. Rene Voillaume, Đời Sống Tu Trì, chuyển ngữ, Lm. Phêrô Vũ Văn Chương, Nxb Tôn Giáo, 2015, tr. 200.
4
quan, cần đến những nơi thanh vắng. Thinh lặng bề ngoài chẳng có ích gì nếu trong nội
tâm chúng ta đi lang thang suốt ngày. Thinh lặng nội tâm là gạt bỏ những bận tâm,
những tư tưởng vô bổ làm xao xuyến, xáo trộn con tim. Quả thật, để gặp gỡ, sống
tương quan với Thiên Chúa và sống tốt với anh em, chúng ta cần có một đời sống nội
tâm sâu xa. Đời sống nội tâm giúp chúng ta có điều kiện để đối thoại với Thiên Chúa,
và biết lắng nghe tiếng Chúa, biết lắng nghe tiếng nói của anh em trong cộng đoàn và
tha nhân. Nhưng để có sự thinh lặng đích thực, chúng ta phải biết nhường lại không
gian và thời gian của lời nói cho sự hiện diện của sự yên tĩnh và bình an.
Thói lệ Hội dòng Xitô Thánh Gia cũng yêu sách về đời sống thinh lặng của các đan
sĩ như sau: “Sống thinh lạ ng va co tic h la quy luạ t cua đơ i sống thie ng lie ng trong ca c Họ
i dong. Đan sĩ sống đời chie m niẹ m ca ng phai chấp ha nh nghie m chinh viẹ c na y ho n nưa.
Vi
thế, trong cọ ng đoa n phai tru liẹ u thơ i gian va no i chốn da nh cho viẹ c giư co tich va thinhlạ ng, để dễ lắng nghe va suy niẹ m Lơ i Chu a, đồng thơ i giu p
tao linh va sư hiẹ p tho ng huynh đẹ trong Chu a Kito ”64.ne n sự truơng tha nh ta m
Hiến Pháp dòng Xitô Thánh Gia cũng minh định rằng: “Thinh lặng là yêu sách đời
chiêm niệm. Vì thế, tu sĩ suốt ngày sống trong thanh vắng và giữ thinh lặng, đặc biệt từ giờ
Kinh tối đến sau Kinh sáng, khi thật cần kíp mới nên nói đôi lời”65.
Như vậy, khi đan sĩ có đời sống thinh lặng thì việc sống đức vâng lời thật sự rất dễ
dàng. Lúc đó các đan sĩ sẽ cảm thấy tuyệt vời hơn vì sống trong bình an, không phải lo
lắng hay bon chen nhiều thứ. Và như thế, tương quan giữa bề trên với các thành viên trong
cộng đoàn cũng được tốt đẹp và thoải mái hơn. Hay nói cách khác là tình huynh đệ được
triển nở hơn. Thế nhưng, để sống tình hiệp thông huynh đệ thực sự, chúng ta phải chăng
chỉ dừng lại ở việc thinh lặng mà thôi, hay còn cần thêm yếu tố nào nữa?
2. Sống hiệp thông tình huynh đệĐời sống huynh đệ, hiểu như là một đời sống chia sẻ trong tình yêu, là dấu chỉ hùng
hồn về sự hiệp thông. Nó được vun trồng kỹ càng trong các dòng tu, những nơi mà đời
sống cộng đoàn được vun đắp. Khi sống ơn gọi làm môn đệ theo Tin mừng, tất cả những
người thánh hiến dấn thân thực thi “điều răn mới” của Chúa, bằng cách yêu thương nhau
như Người đã yêu thương.66 Vậy phải thực thi tình huynh đệ đó như thế nào? Ở đây xin
đưa ra hai phương cách để sống tình hiệp thông huynh đệ.
64 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Thói lệ, số 194.65 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Hiến Pháp, số 140.
4
66 Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến- Vita Consecrata, bản dịch của Cha Phan Tấn Thành, Nxb Tôn Giáo, 2014, số 42.
5
2.1 Lắng ngheĐể sống hiệp thông tình huynh đệ trong cộng đoàn thì trước tiên mỗi người phải biết
lắng nghe nhau, và để lắng nghe nhau thì phải biết lắng nghe bản thân, mà muốn lắng nghe
bản thân thì phải biết lắng nghe Lời Thiên Chúa, vì Lời Thiên Chúa là nguồn mạch đầu
tiên của mọi linh đạo kitô giáo. Lời Chúa dưỡng nuôi tương quan thân tình với Thiên Chúa
hằng sống, với ý định cứu chuộc và thánh hóa của Người.67
Lắng nghe là gì? Thưa, lắng nghe: “Chính là sự im lặng của con tim... Khi ta im
lặng, dừng hết mọi lao xao, buông xả hết những mong cầu hay chống đối, ta sẽ nghe được
rất nhiều tiếng động chung quanh đang diễn ra. Dù đó là tiếng thở dài não ruột của người
kia ở nơi xa hay cả tiếng vô thanh của dòng sông, của ngọn đồi. Cuộc sống bận rộn quá,
dễ khiến ta quên đi thói quen lắng nghe sâu sắc bằng trái tim. Nhiều khi, người kia đã nói
rõ ràng ra mà ta còn chưa chịu hiểu huống chi chỉ nói nửa câu hoặc im lặng để ta tự suy
gẫm… Bởi có những niềm đau đã giấu kín trong lòng thì không thể dễ dàng nói ra khi
người nghe không thể hiện được độ rung cảm chân thành từ nơi trái tim. Chỉ cần im lặng
lắng nghe mà đừng vội can thiệp hay phán xét để ta hiểu được những ngõ ngách sâu kín
trong tâm hồn”68. Con người là một hữu thể tương quan, và nhu cầu thâm sâu nhất của con
người là yêu và được yêu, hiểu biết và được hiểu biết. Để nhu cầu đó được đáp ứng một
cách thỏa đáng cần có sự chia sẻ và cảm thông chân thành giữa người với người. Sự chia
sẻ đúng nghĩa phải là lời bày tỏ tâm tư chân thành từ tận đáy lòng. Đây chính là lúc ta mở
lòng ra với người khác để cùng cảm thông chia sẻ. Vì lời chia sẻ phát xuất từ con tim nên
cần được lắng nghe bằng cả tấm lòng. Trên thực tế để lắng nghe và thật sự thấu hiểu một
người là một thách đố lớn. Trước hết, không dễ gì người ta có thể bày tỏ những kinh
nghiệm sâu xa trong cuộc đời của họ. Bởi vì, “Khi tôi chia sẻ những cảm nghiệm của tôi
chính là lúc tôi bộc lộ tâm hồn mình cho người khác. Khi tôi nói cho bạn về quá khứ của
tôi hay là những tình cảm hiện thời tôi có thì đó chính là cách tôi nói cho bạn biết tôi là ai,
bởi tôi đã nói cho bạn biết cách mà tôi kinh nghiệm cuộc sống. Trong mức độ nào đó, tôi
đang cho bạn thấy một phần bản chất thực của tôi”69.
Lắng nghe người khác đem lại sự trưởng thành cho cả người nghe lẫn người nói.
Lắng nghe giúp cho chúng ta biết mình và hiểu người khác. Khi chúng ta biết cách nhìn
sự việc qua con mắt của người khác là chúng ta bắt đầu hiểu họ như chính họ hiểu họ.
Khi cho họ sự chú ý đầy đủ của chúng ta là chúng ta dứt bỏ vị trí của mình và đặt mình
67 Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến - Vita Consecrata, bản dịch của Cha Phan Tấn Thành, Nxb Tôn Giáo, 2014, số 94.
68 Minh Niệm, Hiểu về trái tim, Nxb Trẻ, 2010, tr. 151.69 Xc. Desmond O’ Donnell, Cộng Đoàn Dưới Ánh Sáng Lời Chúa, Simon chuyển ngữ, 2000, tr. 27- 28.
5
trong nguy cơ bị thay đổi. Chúng ta có thể đồng ý với người khác nhưng khi chúng ta
lắng nghe, chúng ta đang bước vào thế giới của họ. Lắng nghe giúp chúng ta cầu nguyện
và trưởng thành thiêng liêng.70
Theo Chúa Giêsu trong đời sống thánh hiến, chúng ta muốn được làm môn đệ của
Chúa, làm bạn với Chúa, nhưng đối với Chúa, Người còn muốn chúng ta là mẹ của
Ngài, Người nói: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và
đem ra thực hành” (Lc 8, 20). Chỗ khác Người lại nói: “Phúc thay kẻ lắng nghe và
thực hành lời Chúa” (Lc 11, 28). Lắng nghe và thực hành lời Chúa dạy đó là gì? Đó là
thực hành hai điều răn trọng nhất mà Chúa Giêsu đã dạy:“Thiên Chúa, Chúa chúng ta,
là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết
trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân
như chính mình ngươi” (Mc 12, 29 - 31). Muốn tuân giữ lời Chúa dạy thì phải lắng
nghe lời Chúa để biết được Ngài muốn gì? Ngài muốn: “Anh em hãy yêu mến nhau, như
Thầy đã yêu mến anh em” (Ga 15, 12).
Cũng vậy, trong đời sống cộng đoàn đan tu, các đan sĩ cần phải biết lắng nghe lời
Chúa hàng ngày bằng cách tham dự đầy đủ các giờ kinh nguyện và Thánh lễ, để được lời
Chúa nhắn nhủ và nhắc bảo. Phương cách tốt nhất để lắng nghe lời Chúa là đọc và suy gẫm
lời Chúa hàng ngày (Lectio divina): “Đọc sách là phương tiện mở mang kiến thức và dinh
dưỡng tâm hồn chiêm niệm. Vì thế, anh em hãy chuyên cần đọc sách, nhất là Lời Chúa theo
phương thức đan tu, gồm 4 yếu tố: đọc – suy niệm – cầu nguyện – chiêm niệm”.71
Thánh Biển Đức đã đi tới Subiaco, vùng đất của tĩnh lặng. Sau khi đã chìm vào chiều
sâu tâm hồn, ngài đã nghe và gặp được Đấng thấu suốt những gì bí ẩn. Ngài tìm và lắng
nghe tiếng Chúa qua việc cử hành thần vụ. Ở đó, ngài và các môn sinh của mình, không
những lắng nghe qua việc nhanh chân đến nhà nguyện khi có hiệu, hiện diện đầy đủ trong
ca toà; cũng không phải ở việc đọc, hát nhằm câu, trúng chữ, nhưng chính là nghe được
tiếng lòng: “Hãy cử hành giờ kinh phụng vụ thế nào cho tâm trí hoà hợp với lời ca; cần
một tâm hồn thanh sạch, hoà với dòng lệ thống hối là được Chúa nhận lời” (Tl 19, 20).72
Khi các đan sĩ biết lắng nghe tiếng Chúa, và thực hành lời Chúa thì việc lắng nghe nhau
trong tình hiệp thông cũng sẽ trở nên dễ dàng hơn. Chúng ta cần phải có một trái tim biết
lắng nghe những lời chia sẻ của anh em trong cộng đoàn, hầu có thể chia sẻ gánh nặng cho
70 Xc. Nt. Maria Vũ Thị Thu Thuỷ, Hội dòng MTG Tân Lập, Tình Bạn Trong Cộng Đoàn Thánh Hiến, Nxb Phương Đông, 2014, tr. 142- 143.
71 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Thói lệ, số 215.72 Trích bài giảng lễ 11/07/2017 của Cha Viện trưởng Đaminh Nguyễn Tuấn Hào, cộng đoàn CSNQ.
5
nhau. Khi biết lắng nghe những lời chia sẻ của nhau là chúng ta giúp nhau vượt qua mọi
thử thách mà chúng ta đang gánh chịu, để cùng nhau vững bước trên con đường trọn lành.
Như vậy, để sống tình hiệp thông huynh đệ, các đan sĩ cần phải lắng nghe Lời Chúa.
Không những nghe lời Chúa mà các thành viên trong cộng đoàn phải biết lắng nghe nhau.
Học hỏi nơi cộng đoàn tiên khởi, các tín hữu biết lắng nghe các Tông đồ giáo huấn và lắng
nghe nhau, chia sẻ với nhau, từ đó mới có một cộng đoàn lý tưởng là mọi người đều đồng
tâm nhất trí. Trong những sinh hoạt hàng ngày của đời sống cộng đoàn hay trong những
cuộc hội ý, cuộc họp mà các đan sĩ không có tinh thần lắng nghe nhau thì sẽ không đưa đến
một kết quả tốt. Bởi vì, nếu mỗi người mỗi ý, mạnh ai nấy thắng thì sẽ dẫn đến nguy cơ đổ
vỡ cộng đoàn. Tranh chấp, chia rẽ và phe nhóm sẽ có nguy cơ phá vỡ đời sống huynh đệ.
2.2 Đón nhậnNgạn ngữ Anh quốc có câu: “Không ai là một hòn đảo”. Thật vậy, con người sinh ra
đâu chỉ sống cho riêng mình nhưng còn là sống cho, sống với người khác. Mọi việc cá
nhân thực hiện đều có ảnh hưởng đến tha nhân.
Đón nhận là một trong những dấu hiệu đầu tiên cho hay cộng đoàn đang sống. Cho
phép mỗi thành viên sống trong cộng đoàn là dấu chỉ mọi người không sợ, mỗi người có
một kho báu chân thật và an bình cần phải được chia sẻ. Khi cộng đoàn bắt đầu đóng cửa
thì đó là dấu chỉ khoá chặt cửa lòng.73
Trong đời sống của cộng đoàn tiên khởi ta thấy có rất nhiều thành phần, nhiều văn
hoá khác nhau, nhưng các tín hữu luôn mở rộng tâm lòng để đón nhận nhau, bởi vì đó là
một cộng đoàn có cùng một lý tưởng, cùng một đức tin.
Chúng ta không chỉ liên đới với người khác trên bình diện hiện hữu mà mọi người
đều đón nhận, con người chúng ta cũng chỉ có thể hoàn thành nhờ người khác. “Trở nên
người” có nghĩa là gì? Trước hết, “trở nên người” là mang lấy một thân xác, vì nhờ thân
xác mà chúng ta tháp nhập vào thế giới. Nhờ thân xác mà tôi cảm nhận và đi vào thế giới
chung quanh, một thế giới đầy màu sắc và âm thanh. Trên bình diện giác quan, chúng ta
cần đến người khác. Nhờ tác nhân kích thích từ bên ngoài, chúng ta có thể gặp được thế
giới bên trong của mình. Điều cơ bản nữa là con người cần đến cộng đoàn khi con người
tương tác với thế giới để tự bộc lộ bản thân. Con người đáng được gọi là người, khi họ mở
lòng ra với
73 Xc. Jean Vanier, nguyên tác: La communauté: Lieu du pardon et de la fête, Nxb Fleurus/ Bellarmin; Đời Sống Cộng Đoàn: Cộng đoàn nơi tha thứ & mừng lễ; chuyển ngữ: Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ, lưu hành nội bộ, tr. 370.
5
anh chị em của mình.74 Điều này cũng được thánh Phaolô nhắc đến trong thư gửi tín hữu
Roma rằng: “Anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng
danh Thiên Chúa” (Rm 15, 7). Đức Kitô đã đón nhận tất cả chúng ta như người cha nhân
hậu luôn chờ đón và sẵn sàng đón nhận người con bỏ nhà ra đi tiêu phí hết phần gia tài (xc.
Lc 15, 11- 32), hay như người mục tử nhân lành luôn nhiệt tâm chăm sóc từng con chiên
một. Mỗi khi có con chiên lạc người mục tử đã bỏ mọi công việc để tìm cho được con chiên
đó (xc. Lc 15, 4- 7). Chúa Giêsu đã yêu mến hết thảy mọi người chúng ta, kể cả những
người tội lỗi, thì tại sao chúng ta lại không yêu mến và đón nhận nhau? Nhất là những
người sống đời thánh hiến, càng được nhắc nhớ hơn nữa trong việc đón nhận và yêu mến
tha nhân, yêu mến anh chị em cùng sống chung với ta trong cùng một cộng đoàn.
Bước vào đời sống thánh hiến là chúng ta bước vào hành trình sửa đổi bản thân để
trở nên hoàn thiện hơn. Tiến trình sửa đổi con người của mình không phải một sớm một
chiều nhưng là suốt cả cuộc đời. Nhất là trong đời sống chung vì mỗi người có những tính
cách và lịch sử cá nhân khác nhau. Tục ngữ có câu: “Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau
quả bồ hòn cũng vuông”; vì vậy, mỗi người phải lắng nghe và thực hành lời Chúa dạy là:
“Anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 15, 12). Khi hiểu và chấp nhận nhau, tu sĩ sẽ trưởng
thành và làm phong phú ơn gọi của mình. Mỗi người đều có một nét đặc thù và khác biệt
riêng về: tâm lý, văn hóa, tính tình, khả năng và mỗi người là một bông hoa với vị trí riêng
trong cộng đoàn, góp phần làm nên vẻ đẹp chung của cộng đoàn. Dĩ nhiên chúng ta chỉ có
thể tiếp nhận một ai đó như là ơn Chúa nếu ý thức rằng chúng ta cũng được Thiên Chúa
yêu thương đúng như thực trạng của mình và chúng ta cũng là ơn huệ đối với cộng đoàn.75
Cộng đoàn người sống đời thánh hiến cần đến sự đa dạng của các thành viên
mà “không có sự chia rẽ trong thân thể, trái lại, các bộ phận đều lo lắng cho nhau” (1Cr
12, 25), nên điều tiên quyết là mỗi người cần phải đổi mới cách nhìn và lối sống để trở nên
người đồng hành của nhau. Cụ thể, cần khiêm tốn chấp nhận chính mình và đón nhận anh
chị em với tất cả con tim. Chấp nhận chính mình với những điểm yếu, khiếm khuyết và tập
đón nhận sự yếu đuối của người anh em mình. Những điểm giống nhau giúp hiểu nhau,
nhưng chính việc đón nhận những khác biệt của người anh em sẽ giúp nhau yêu thương và
làm phong phú cho nhau. Như Đức Giáo Hoàng Phanxico nói trong cuộc yến kiến chung
ngày 09- 10- 2014 như sau: “Sự hiệp nhất và đa dạng kết hợp với nhau thành sự phong
74 Xc. Felix Podimattam, OFM CAP, Cộng Đoàn Sống Đời Thánh Hiến, chuyễn ngữ: Nguyễn Ngọc Kính, OFM, Nxb Tôn Giáo, 2016, tr. 34- 37.
75 Xc. Jean Vanier, nguyên tác: La communauté: Lieu du pardon et de la fête, Nxb Fleurus/ Bellarmin; Đời Sống Cộng Đoàn: Cộng đoàn nơi tha thứ & mừng lễ; chuyển ngữ: Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ, lưu hành nội bộ, tr. 377.
5
phú. Mỗi người mang những gì Thiên Chúa đã ban cho riêng mình để làm cho người khác
trở nên phong phú… cộng đoàn như một dàn nhạc trong đó tất cả cùng chơi chung với
nhau trong sự hòa hợp nhưng âm sắc của mỗi nhạc cụ không bị xóa bỏ mà trái lại đặc tính
riêng của từng nhạc cụ sẽ đạt đến mức tối đa”.
Cộng đoàn còn bao gồm những người tìm kiếm và kinh nghiệm về Thiên Chúa. Do
đó, mỗi người đều cần sự trợ lực. Khi một người biết chấp nhận chính mình sẽ dễ dàng mở
rộng tâm hồn đón nhận những trợ lực nơi anh chị em của mình như: “Một nhân cách vững
mạnh nhưng bình thản nhẹ nhàng, được xây dựng trên việc vui lòng chấp nhận sứ mạng
độc nhất và giới hạn duy nhất của mình. Chỉ khi nào một người chấp nhận chính thực tại
của mình thì mới thấy được bình an nơi chính mình”.76 Khi ấy, mỗi người sẽ sống theo
những đòi hỏi của ân sủng; biết lấy khuôn mẫu của Thiên Chúa để cư xử với anh em mình.
Nhờ vậy, đời sống cộng đoàn sẽ trở nên phong phú và triển nở hơn, vì: “Chúng ta liên đới
với nhau như những bộ phận của một thân thể” (Rm 13, 5).
Đời sống cộng đoàn đan tu không phải là bãi chiến trường, mà là nơi đón nhận và
yêu thương nhau như lời Thánh vịnh diễn tả:“Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay. Anh em được
sống vui vầy bên nhau” (Tv 133, 1). Qua cộng đoàn, Thiên Chúa muốn mỗi đan sĩ phải
sống quảng đại, dấn thân, gắn bó với đời sống phục vụ anh chị em trong cộng đoàn. Chắc
chắn cộng đoàn đan tu không chỉ là những con người thánh, vì vậy, các thành viên cần đón
nhận những sự khác biệt bằng cặp mắt đức tin để được lớn lên.
Đời sống cộng đoàn là nét đặc trưng của đời sống tu trì nói chung và đời sống đan tu
chiêm niệm nói riêng. Nét đặc trưng ấy được thể hiện cách cụ thể qua đời sống yêu thương
hiệp nhất trong cộng đoàn: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh
em có lòng yêu thuơng nhau” (Ga 13, 35). Khi sống yêu thương hiệp nhất thì cộng đoàn
đan tu đã phát triển hết tất cả sự phong phú của mình. Thật vậy, khi ấy cộng đoàn sẽ không
là cộng đoàn thuần túy nhân loại, không là một thực tại tầm thường nhưng mang tính
thiêng liêng vì cộng đoàn ấy được tham dự vào mầu nhiệm tình yêu Ba Ngôi. Chính Ba
Ngôi là suối nguồn tình yêu. Tình yêu ấy được thể hiện trong tương quan Cha – Con -
Thánh Thần. Đan sĩ sống đời thánh hiến sẽ thông phần tình yêu ấy cách đặc biệt nhờ quyền
năng Chúa Thánh Thần và mỗi người chỉ có thể sống mầu nhiệm Ba Ngôi trong cộng đoàn
khi yêu thương bằng chính tình yêu của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần được đổ xuống
trong lòng: “Vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần
mà Ngài đã ban cho chúng ta” (Rm 5, 5). Khi sống yêu thương là đan sĩ được hiệp thông
76 Xc. Adrian Van Kaam, C.S.Sp, Religion and Personality, New York: Englewood Cliffs, 1964; Nhân cách tôn giáo, chuyển ngữ, Ngô Văn Vững, tr. 73-74.
5
và góp phần họa lại mầu nhiệm ấy trong cộng đoàn. Bởi vì, một mặt đời sống cộng đoàn
phải là họa ảnh của tình yêu Ba Ngôi, đồng thời, chính nếp sống cộng đoàn sẽ giúp mỗi
thành viên sẽ sống đời tận hiến cách trọn hảo hơn. Nhiệm vụ của những đan sĩ chiêm niệm
là sống và làm chứng cho tình yêu ấy chính nơi đời sống cộng đoàn của mình.
Thánh Biển Đức khuyên các môn sinh: “Nhu có thư nhiẹ t tâm xấu xa cay đắng làm
xa cách Chúa và đua xuống hoa nguc , thì cung có thư nhiẹ t tâm tốt lành giúp xa lìa nết
xấu,dân
đên Chúa và đơ i sông vin
h cư u. Đó là thư nhiẹ t tâm mà đan si phai say mê tạ p luyẹ n,
nghia
là pha i ân cân tôn kính lân
nhau, hêt sư c nhân
nai
chiu
đưn
g nhưng yếu đuối xác hồn
cua nhau, thi đua vâng lơ i nhau, đư ng ai tìm theo tu lơị , nhung tốt ho n hãy muu ích cho tha
nhân, yêu thuo ng nhau trong tình huynh đẹ thanh khiết, kính sợ Chúa trong đư c ái, mến yêu
viẹ n phụ trong tình mến chân thành và khiêm tốn. Tuyẹ t đối không lấy gì làm ho n Chúa
Kitô,nguyẹ n xin Ngài dân
đua tất ca chúng ta đến cuộc sống muôn đơ i”.77 Một nét đặc trưng của
dòng Xitô Thánh Gia Việt nam, đó là nghi thức đón nhận và chúc bình an cho nhau trong
nghi thức khấn trọn đời. Khi khấn sinh đọc xong lời tuyên khấn trọn đời, thì các đan sĩ
trong cộng đoàn lên để đón nhận và chúc bình an cho tân đan sĩ. Điều đó thể hiện tình
huynh đệ sống động và hiệp nhất trong cộng đoàn. Chính những lúc như vậy, người viết
thấy rất cảm động và được ấm lòng trong tình hiệp nhất huynh đệ với anh em!
Di ngôn cha Biển Đức Thuận, Đấng sáng lập dòng Xitô Thánh Gia Việt nam cũng
dạy: “Chúng ta là anh em với nhau, đi đàng nhân đức như nhau, cho nên phải yêu
thương nhau, chẳng những anh em ở một nhà với chúng ta đã rồi, lại phải yêu thương
hết mọi người. Mà muốn cho được yêu thương anh em, phải ra khỏi mình là bỏ mình đi,
thì mới thương yêu anh em được. Chúng ta hay yêu mình quá, cả ngày cứ nghĩ đến mình,
còn anh em thì không được nghĩ tới. Mình đau chỉ một chút, lấy là cả thể lắm; còn anh
em đau, mình không lấy làm chi cả, vì chúng ta yêu mình quá”.78 Đúng vậy, con người
chúng ta thường hay ích kỉ, chỉ biết mình mà không biết người, chúng ta sống mà
không biết người anh em mình cần gì ở nơi ta. Như cha tổ phụ Biển Đức Thuận dạy,
chúng ta phải nhìn nhận lại con người của mình để mở lòng mình ra đón nhận và chia sẻ
với nhau trong đời sống cộng đoàn.
Như vậy, trong đời sống cộng đoàn, đặc biệt là cộng đoàn đan tu chiêm niệm, các
đan sĩ cần phải biết lắng nghe và đón nhận nhau, dù ở hoàn cảnh hay văn hoá khác nhau.
5
Vì đức bác ái và tình yêu huynh đệ mà các đan sĩ sẵn sàng chấp nhận nhau, cho dù người
anh em có những bất toàn, hay không cùng quan điểm với mình. Vì Chúa dạy: “Các con
77 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 72.78 Cha Biển Đức Thuận, Di ngôn, số 112.
5
hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con. Không có tình thương nào cao cả
hơn tình thương của người hy sinh mạng sống cho bạn hữu của mình” (Ga 15, 12 - 13).
Một cộng đoàn biết yêu thương và hy sinh cho nhau thì đó là một cộng đoàn hiệp nhất
trong mầu nhiệm Ba Ngôi. Mầu nhiệm Ba Ngôi thực sự trở nên sống động cách đặc biệt
khi chúng ta cùng nhau tham dự Tiệc Thánh Thể.
3. Siêng năng tham dự lễ bẻ bánh
3.1. Tham dự thánh lễTừ xưa việc cử hành Thánh lễ không bắt buộc phải thực hiện hàng ngày. Nhưng từ
Công Đồng Vaticano II đã khuyên giáo sĩ nên cử hành mọi ngày79, vì đó là hồng ân bao la
của Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại và là nguồn gốc thiêng liêng của mọi tín hữu nói
chung và của những người sống thánh hiến nói riêng. Tuy Giáo hội không buộc các giáo sĩ
cử hành Thánh lễ mọi ngày nhưng buộc các tín hữu tham dự ngày Chúa Nhật và khuyên
tham dự các Thánh lễ thường ngày.80
Đối với đời sống đan tu, Thánh lễ là trung tâm của đời sống cộng đoàn, vì thế toàn
thể anh em trong đan viện mỗi ngày họp nhau cử hành thánh lễ. Mà trọng tâm của Thánh lễ
đó là Thánh Thể. Thánh Thể là nguồn mạch và là sức mạnh cho chúng ta thi hành sứ vụ.81
Bởi đó mà ngày nay trong Hiến pháp và Thói lệ của Hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam
khuyên các đan sĩ siêng năng tham dự Thánh lễ mỗi ngày. Vì nhận thấy Thánh lễ Missa có
một sức sống mà các đan sĩ có thể kín múc lấy sức sống đó khi tham dự Thánh lễ. Nơi
Thánh lễ, các đan sĩ thực hiện việc thờ phượng tuyệt hảo nhất: “Đọc kinh hát lễ thay cho
cả Hội Thánh thờ phượng ca ngợi Chúa, cũng như quân lính hằng canh thức luôn mà cầu
nguyện thay cho Hội Thánh...”.82
Hiến pháp Hội dòng Xitô Thánh Gia khẳng định: “Thánh lễ là trung tâm quy tụ và
liên kết cộng đoàn: “Thánh lễ là trung tâm quy tụ mọi hoạt động của đời đan tu. Vì thế, khi
tham dự Thánh lễ và Hiệp lễ, Đan sĩ liên kết tận hiến bản thân với hy lễ nhiệm mầu của
Chúa Kitô để tôn vinh Thiên Chúa Cha, đồng thời thể hiện sự hiệp nhất huynh đệ”.83
Đời sống huynh đệ của cộng đoàn đan tu được thể hiện cách cụ thể nhất nơi Thánh
lễ. Họ ý thức rằng mình đang cử hành mầu nhiệm thánh mà Chúa Kitô đã lập trong bữa
Tiệc Ly vào đêm Người bị nộp và được tiếp diễn qua các thời đại.84 Khi dâng Thánh lễ,
79 Xc. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Bộ Giáo Luật 1983, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội 2007, điều 276 § 2. 2o.80 Xc. Sđd, điều 663 §2.81 Xc. Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI, Tông huấn Thượng Hội Đồng Giám Mục (Sacramentum Caritatis), số 85.82 Cha Biển Đức Thuận, Di Ngôn, số 139.83 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Hiến Pháp, số 119.84 Xc. Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Thói lệ, số 166. Hay Công Đồng Vaticano II, Hiến Chế Phụng Vụ, số 47.
89 Xc. .Sđd, tr.
5
chúng ta hiện tại hoá Hy lễ của chính Chúa Kitô. Việc dâng Thánh lễ là trách vụ của mọi
đan sĩ. Để từ nơi đây các đan sĩ, múc lấy sức sống nuôi dưỡng cộng đoàn: “Thánh lễ là
trọng tâm của cộng đoàn, vì thể toàn thể anh em trong đan viện mỗi ngày họp nhau cử
hành Thánh lễ và tham gia bữa tiệc Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa Kitô”85; Hiến
pháp còn nói: “Hằng ngày mọi người phải tham dự Thánh lễ cộng đồng”.86 Qua việc cử
hành Thánh lễ, sự hiệp nhất tình huynh đệ trong cộng đoàn được thăng tiến hơn, vì cùng
chung bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể.
Cùng với việc cử hành Thánh lễ là việc cử hành Bí tích Thánh Thể cách sốt sắng và
trang nghiêm để nuôi dưỡng đời sống huynh đệ trong cộng đoàn.
3.2. Bí tích Thánh ThểThánh Thể là nền tảng và trung tâm của mọi cộng đoàn Kitô hữu: “Không một cộng
đoàn kitô hữu nào được thiết lập mà không đặt nền tảng và trọng tâm vào việc cử hành Bí
tích Thánh Thể; cho nên mọi nền giáo dục về tinh thần cộng đoàn phải được bắt đầu từ
đó” (LM 6, đ.5).87
Thánh Thể nuôi dưỡng đời sống huynh đệ: Đời sống chung được nuôi dưỡng bằng
giáo lý Phúc Âm, Phụng vụ thánh và nhất là Bí tích Thánh Thể phải được duy trì trong lời
cầu nguyện, trong sự hiệp thông cùng một tinh thần (xc. Cv 2, 42) theo gương Giáo hội sơ
khai (DT 15).88
Do tự bản chất, Thánh Thể ở trung tâm đời sống thánh hiến, của các cá nhân và cộng
đoàn. Đó là của ăn đường mỗi ngày và là nguồn linh đạo cho cá nhân và cộng đoàn. Trong
Bí tích Thánh Thể, tất cả tín hữu, cách riêng những người sống đời thánh hiến được mời
gọi sống mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô, khi hiệp nhất với Người trong việc Người
hiến dâng mạng sống cho Chúa Cha, nhờ Thánh Thần. Tôn thờ Chúa Kitô hiện diện trong
Thánh Thể cách chuyên cần và lâu giờ sẽ cho chúng ta được sống một phần nào kinh
nghiệm của thánh Phêrô trong dịp Chúa hiển dung: “chúng con ở đây thật là hay” (Mc 9,
5; Mt 17, 4)). Trong khi cử hành mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa, sự hiệp nhất và bác ái
của những người đã thánh hiến cho Chúa cuộc đời mình sẽ được củng cố và phát triển.89
Thánh Thể là bí tích tình yêu và là nguồn mạch của đời sống đức ái. Lòng tôn sùng
Thánh Thể sẽ đưa chúng ta tới việc thực thi đức ái: “việc tôn sùng mầu nhiệm Thánh Thể
85 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Thói lệ, số 166.86 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Hiến Pháp, số 120.87 Lm Phaolo Vũ Chí Hỷ, SSS. Thánh Thể, Giáo trình Thần Học Thánh Thể và tài liệu đọc thêm, Học Viện
Thánh Thể, 2016, tr. 207.
89 Xc. .Sđd, tr.
5
88 Xc. Sđd, tr. 207- 208.
92 Sđd, số
5
là linh hồn của mọi đời sống kitô hữu. Thật vậy, nếu đời sống kitô hữu được diễn tả trong
việc chu toàn lệnh truyền cao cả, nghĩa là trong tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha
nhân thì tình yêu đó bắt nguồn từ chính bí tích thánh, thường được gọi là bí tích tình yêu.
Không những chúng ta biết được tình thương mà chúng ta còn bắt đầu yêu thương. Có thể
nói chúng ta bước vào con đường của tình yêu và thực hiện những bước tiến trên con
đường này. Tình yêu phát xuất từ mầu nhiệm Thánh Thể, hình thành trong chúng ta, phát
triển, cắm rễ sâu và trở nên vững chắc trong ta nhờ mầu nhiệm này”.90
Việc tôn sùng Thánh Thể thúc đẩy chúng ta sống phục vụ yêu thương, đó là ơn gọi
của mỗi người kitô hữu: “Việc tôn sùng màu nhiệm Thánh Thể là cách diễn tả tình yêu, một
nét đặc thù và sâu thẳm nhất của ơn gọi Kitô hữu. Việc tôn sùng đó xuất phát từ tình yêu
và phục vụ tình yêu, đó là ơn gọi của chúng ta trong Đức Giêsu Kitô”.91 Bí tích Thánh Thể
là trường học dạy yêu thương tha nhân. Việc tôn sùng Thánh Thể giúp mỗi người chúng ta
ý thức về phẩm giá con người: “Nếu Việc tôn sùng Thánh Thể có giá trị đích thực, thì sẽ
làm nảy sinh trong chúng ta ý thức về nhân phẩm của mọi người. Ý thức phẩm giá này trở
thành lý do sâu thẳm nhất cho tương quan của chúng ta với tha nhân”.92 Hy lễ Thánh Thể
trở nên mối dây liên kết tình yêu giữa anh em, là thần lương bồi dưỡng cuộc đời thánh
hiến. Cộng đoàn có Thánh Thể hiện diện, sẽ làm cho sinh hoạt của chúng ta sốt sắng và ấm
áp tình huynh đệ hơn. Đức Giêsu hiện diện giữa cộng đoàn, chia sẻ cuộc sống và biến ngôi
nhà của cộng đoàn thành mái ấm Nazareth, nơi mà mọi người một lòng một ý tôn kính
Thiên Chúa và yêu thương nhau. Khi chiêm ngắm và sống “linh đạo tình yêu” nơi Thánh
Thể, người sống đời thánh hiến được mời gọi trở nên dấu chỉ của sự hiệp thông, xây dựng
và giữ gìn mối dây bác ái với người anh em của mình, bởi vì, khi bẻ bánh tạ ơn, chúng ta
thực sự thông phần vào Thân Thể của Chúa Giêsu, nên chúng ta được nâng lên để hiệp
thông với Ngài và với nhau. Vì thế, tất cả mỗi người chúng ta trở nên chi thể của Thân thể
ấy: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (1Cr 12, 27),
và “mỗi người là chi thể của nhau” (Rm 12, 5). Khi gắn bó với Chúa Giêsu trong bí tích
Thánh Thể, chúng ta được tháp nhập vào trong đại dương tình yêu bao la của Chúa, và
được liên kết với anh chị em đồng loại như cành cây gắn liền với thân cây: “Thầy là cây
nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều
hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5).
90 Xc. Lm Phaolo Vũ Chí Hỷ, SSS. Thánh Thể, Giáo trình Thần Học Thánh Thể và tài liệu đọc thêm, Học Viện Thánh Thể, 2016, tr. 219-220.
91 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Tông Thư “Dominecae Cenae” Về Mầu Nhiệm Thánh Thể và Việc Phụng Thờ Máu Thánh, số 5.
96 Xc. Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Thói lệ, số
5
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Bí Tích Thánh Thể, sự hiện diện cứu độ của
Chúa Giêsu trong cộng đoàn tín hữu và lương thực thiêng liêng cho cộng đoàn nầy, là những
gì quí giá nhất mà Giáo hội có thể có được trong cuộc lữ hành theo dòng thời gian.”93 Sự
hiệp thông Thánh Thể làm cho Chúa Kitô và môn đệ của Ngài lưu lại trong nhau một cách
tuyệt vời: “Anh em hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em” (Ga 15,4).94
Việc tôn sùng Thánh Thể ngoài Thánh lễ mang một giá trị vô song trong đời sống
Giáo hội. Việc tôn sùng được phối hợp chặt chẽ với việc cử hành Hy tế Thánh Thể. Sự
hiện diện của Chúa Kitô dưới hình bánh rượu được giữ lại sau Thánh lễ – sự hiện diện
này tồn tại bao lâu hình bánh và rượu vẫn còn phát xuất từ việc cử hành Hy tế và
hướng về việc hiệp thông bí tích hay thiêng liêng. Các mục tử có nhiệm vụ khuyến
khích, bằng cả chứng tá cá nhân, việc tôn sùng Thánh Thể, đặc biệt là việc Chầu Thánh
Thể, cũng như việc tôn thờ Chúa Kitô hiện diện trong hình bánh rượu. Trò chuyện thân
mật với Ngài, và nghiêng mình vào lòng Ngài như môn đệ yêu dấu (xc. Ga 13, 25), xúc
động trước tình yêu vô biên của trái tim Ngài là một điều thiện hảo. Quả thật vào thời
đại chúng ta, kitô giáo phải trổi vượt nhất là trong “nghệ thuật cầu nguyện”, làm sao ta
không cảm thấy lại có nhu cầu mới được ở lại lâu giờ, trò chuyện thiêng liêng, tôn thờ
im lặng, trong thái độ yêu thương, trước mặt Chúa Kitô hiện diện trong bí tích thánh?95
Như vậy Thánh Thể phải là trung tâm của đời sống chúng ta, là nguồn nghị lực giúp
chúng ta vượt thắng những rào cản. Chúng ta sẽ rất hạnh phúc nếu chúng ta luôn biết kết
hiệp với mầu nhiệm Thánh Thể và sống mầu nhiệm ấy trong đời sống cộng đoàn. Đối với
đời sống đan tu, đặc biệt là Hội dòng Xitô Thánh gia Việt nam, mỗi Chúa nhật và các ngày
lễ trọng đều có giờ chầu Thánh Thể chung cho cộng đoàn lúc thuận tiện.96 Trong giờ Chầu
Thánh Thể này, mỗi đan sĩ có thời gian tĩnh lặng để chiêm ngắm Chúa Giêsu hiện diện
trong hình bánh. Ngài đang thật sự hiện diện để đáp lại lời cầu của mỗi người. Trong tận
sâu thẳm mỗi đan sĩ, nếu nghe được tiếng Chúa thúc dục thì đó sẽ là bước khởi đầu của
một cuộc biến đổi. Cũng chính trong giờ Chầu Thánh Thể này, tình hiệp thông huynh đệ
cũng được nuôi dưỡng. Tuy không nói nên lời, nhưng có cùng một ý là hướng lòng lên
Đấng tình yêu. Như vậy, các đan sĩ đã một lòng một ý với nhau trong giờ Chầu Thánh Thể.
93 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Thông Điệp “Ecclesia De Eucharistia”, Bí Tích Thánh Thể Trong Mối Tương Quan Với Giáo Hội, số 9.
94 Sđd, số 22.
96 Xc. Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Thói lệ, số
5
95 Xc. .Sđd, số 25.
97 Xc. Lm. Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ, Giờ Kinh Phụng Vụ, Đại chủng viện Thánh Giuse-TPHCM, 2001,
5
4. Đời sống cầu nguyện
4.1. Các giờ kinh phụng vụGiờ kinh phụng vụ là lời cầu chính thức của Giáo Hội: “Các Giờ kinh phụng vụ là
lời nguyện ca ngợi và khẩn cầu và thực sự là lời cầu nguyện của Hội thánh cùng với Chúa
Kitô và dâng lên Chúa Kitô” (GK 2).97
Khi Giáo hội cầu nguyện qua giờ kinh phụng vụ, Giáo hội thực hiện lệnh truyền của
Chúa Giêsu: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cừ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì
hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7, 7; 26, 41).
Khi cầu nguyện, lời cầu của Giáo hội được liên kết mật thiết với lời cầu của Chúa Giêsu
dâng lên Chúa Cha: “Chính Đức Kitô đã liên kết toàn thể cộng đồng nhân loại với Người,
khiến giữa lời cầu của Người với lời cầu nguyện của toàn thể nhân loại có một tương quan
chặt chẽ. Vì trong Đức Kitô và chỉ trong Người mà thôi, việc thờ phượng của loài người
mới có giá trị cứu độ và đạt tới mục đích” (GK 6).
Khi cầu nguyện, chúng ta được Thánh Thần soi sáng, chính người là Đấng dẫn đưa
chúng ta vào kinh nguyện và dạy cho chúng ta biết phải cầu nguyện thế nào cho đẹp lòng
Thiên Chúa: “Nếu Chúa Thánh Thần không tác động, chúng ta không thể cầu nguyện theo
đúng tinh thần kitô giáo được, vì chính Thánh Thần là mối dây liên kết Hội thánh, dẫn đưa
chúng ta đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Con” (GK 8).
Các đan sĩ cử hành các giờ kinh phụng vụ cách sốt sắng và trang nghiêm được ví như
dòng máu chảy nuôi dưỡng Thân Mình Đức Kitô. Nghĩa là đan sĩ cử hành các giờ kinh
phụng vụ theo sự uỷ nhiệm của Giáo hội và cùng với Giáo hội hằng ngày dâng lên Thiên
Chúa lời tạ ơn, tựa như tiếng của hiền thê với phu quân của mình.
Việc thờ phượng Thiên Chúa và ca ngợi Thiên Chúa, đó là bổn phận đối với mọi
người Kitô hữu, vì chúng ta biết rằng tình thương của Thiên Chúa tuôn đổ biết bao ơn lành
xuống cho con người. Nhưng với thân phận con người không sao thờ phượng Thiên Chúa
cách xứng đáng được mà phải nhờ Chúa Thánh Thần trợ giúp (xc. Rm 8, 26) và sẵn sàng
hiến dâng làm của lễ Hy tế (xc. Rm 12, 1 - 2). Của lễ đó chính là Chúa Giêsu dâng mình
trên bàn thờ và cùng với Chúa Giêsu, người tín hữu nguyện kinh nhân danh Giáo hội để tạ
ơn Thiên Chúa bằng chính lời Chúa trong Thánh Kinh. Ý thức bổn phận cao cả đó, các đan
sĩ ngày đêm cử hành các giờ thần vụ để ngợi khen và cảm tạ Chúa.
Tại các Đan viện, các giờ kinh được cử hành long trọng, trang nghiêm, số giờ cầu
nguyện chung nhiều hơn, ban ngày cũng như ban đêm. Ban ngày ngoài hai giờ kinh lúc
100 Công Đồng Vaticano II, Hiến Chế Phụng Vụ, số
6
sáng sớm và khi chiều tà, còn thêm các giờ giữa: giờ ba, giờ sáu, giờ chín. Về sau còn thêm
giờ nhất. Ngoài ra, các buổi canh thức trở thành thường xuyên, chứ không phải chỉ vào dịp
lễ trọng. Tuân theo lời răn của Chúa :“Hãy tỉnh thức, bởi vì các con không biết được chủ
nhà sẽ đến, ban tối, nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng” (Lc 12, 38). Các đan sĩ du nhập
các buổi canh thức theo các phiên gác của quân đội Rôma: đêm chia thành bốn canh, dài
ngắn tuỳ theo mùa đông hay mùa hạ: I (từ 18- 21 giờ); II ( từ 21- 24 giờ); III (từ 0- 3 giờ);
IV (từ 3- 6 giờ), bởi đó các giờ trong ngày được tổ chức như sau: kinh đêm (tháng sáu: 2-
3 giờ, tháng 12: 1 giờ 30 - 2 giờ 50); kinh sáng (lúc rạng đông, tháng sáu: 3
giờ 10, tháng 12: 7 giờ 15); kinh giờ nhất (lúc mặt trời mọc, tháng sáu: 4 giờ, tháng 12: 8
giờ); kinh giờ ba (tháng sáu: 7 giờ 45, tháng 12: 9 giờ 20); kinh giờ sáu (tháng sáu: 10 giờ
45; tháng 12: 11 giờ 20); kinh giờ chín: (tháng sáu: 14 giờ; tháng 12: 13 giờ 20); kinh
chiều (tháng sáu: 18 giờ - 18 giờ 45; tháng 12: 14 giờ 50 – 15 giờ 30); kinh tối (tháng sáu:
19 giờ 50; tháng 12: 15 giờ 55).98 Cách sắp xếp giờ nói lên đặc tính cầu nguyện của các
Đan sĩ muốn đạt được bảy lần đọc kinh mỗi ngày, một đàng dựa theo Thánh vịnh 118:
“con ca tụng Chúa mỗi ngày bảy lượt” (Tv 118, 164), đàng khác số bảy biểu tượng cho sự
sung mãn. Với sự tăng thêm các giờ cầu nguyện, các kinh đọc cũng tăng theo, một nét đặc
biệt của đời đan sĩ là đọc hết 150 Thánh vịnh trong vòng một tuần lễ, chứ không phải chọn
lọc như ngày nay.99 Nhưng sau Công đồng Vatiacano II để hội nhập văn hoá địa phương
và hợp với thời đại, Công đồng truyền đọc 150 Thánh vịnh trong hai tuần cho các đan sĩ và
bốn tuần cho các Giáo sĩ triều. Cung cách đọc từng các giờ kinh như thế nào được thánh
Biển Đức hướng dẫn cách tỉ mỉ trong Tu Luật của ngài từ chương 8 đến chương 20.
Quả thực những đóng góp của các đan sĩ đã được Giáo hội nhìn nhận rằng: giờ kinh
phụng vụ, lời kinh của Giáo hội: “Là tiếng của Hiền Thê nói với Phu Quân mình; và hơn
thế nữa, còn là lời cầu nguyện của Chúa Kitô cùng với nhiệm thể Người dâng lên Thiên
Chúa Cha”.100 Đan sĩ hay đúng hơn là tất cả những người sống đời thánh hiến là những
người được uỷ nhiệm cử hành lời kinh của Giáo hội. Do đó, họ được gọi là “người tạ ơn”,
bằng việc phụng thờ là con người đại kết, bằng tình yêu phổ quát và là “con người cánh
chung”, bằng cuộc sống làm chứng cho những thực tại tương lai.
Khi chu toàn các giờ kinh phụng vụ chúng ta giải quyết khó khăn trong việc tìm
kiếm ngôn từ và nội dung cầu nguyện. Nhiều khi sắp xếp được thời gian cầu nguyện,
nhưng lòng trí lo ra, tư tưởng phân tán, hoặc khi có những tâm tình cảm tạ, ngợi khen, cầu
98 Xc. M. Louis.J.Lekai.oc, Lịch sử Dòng Xitô, chuyển ngữ, Lê Văn Thành, lưu hành nội bộ, 2007, tr. 203; Hoặc xc. Phạm Văn Hiền, Lịch Sử Dòng Xitô, tr. 54.
100 Công Đồng Vaticano II, Hiến Chế Phụng Vụ, số
6
99 Xc. Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 48.
6
xin, thống hối... chúng ta không biết phải cầu nguyện thế nào cho xứng hợp, giờ kinh
phụng vụ sẽ giúp chúng ta đi vào tâm tình cầu nguyện của những người còn đang khắc
khoải đi tìm Chúa.101
Thái độ khi cử hành giờ kinh phụng vụng được thánh Biển Đức căn dặn: “Khi
muốn thinh cầu điều gì vơ i ngu ơ i quyền thế, ta đã phai khiêm tốn lễ đọ , thì huống hồ
vơ i Thiên Chúa, Chu Tể càn khôn, ta lai càng pha i khân câu cách rât mưc
khiêm cung,
vơ i lòng sốt sắng tinh tuyền. Hãy ý thư c rằng chẳng phai do nhiều lơ i nhu ng chi cân mọ t
tâm hôn trong sac h, hòa vơ i dòng lẹ thông hôi là đu ơc Chúa nhạ n lơ i. Vì thế lơ i
cầu nguyẹ n phai ngắn gon và tinh tuyền, trư khi đu ợc o n Chúa thúc đây mà kéo dài
thêm. Nhưng dù sao trong cọ ng đoàn, kinh nguyẹ n phai rất vắn tắt, và khi bề trên vư a
ra hiẹ u moi ngu ơ i hãy cùng đư ng lên”.102
Lời khẩn cầu là phần vụ của thầy dòng chúng ta, đó là lời cha tổ phụ Biển Đức
Thuận, Đấng sáng lập dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam đã nhắn nhủ con cái mình: “Phần
vụ của thầy dòng chúng ta, không phải là hoạt động bên ngoài, nhưng là việc dâng lên
Thiên Chúa bài ca tụng liên lỉ. Phước của đời ta, là trở nên một “loài chim”, hót lên bài
ca ngợi Chúa, theo gương Đức Mẹ, là con chim hót hay hơn cả”.103
Khi cầu nguyện phải có lòng thanh sạch hoà với dòng lệ thống hối: “Hãy ý thức
rằng: chẳng phải do nhiều lời, nhưng chỉ cần một lòng thanh sạch, hoà với dòng lệ thống
hối là được Chúa nhận lời”.104
Kinh nghiệm thực tế hàng ngày của mỗi đan sĩ chúng ta thấy rằng, khi tham gia đầy
đủ các giờ kinh phụng vụ cùng với cộng đoàn, ta cảm thấy ấm áp con tim, ấm áp tình
huynh đệ. Mỗi khi ta bỏ giờ kinh vì ốm đau hay vì công việc, ta cảm thấy mình lạc lõng và
trống rỗng. Cả cộng đoàn cử hành các giờ thần vụ, thể hiện tình huynh đệ nồng thắm. Bởi
đó, mỗi đan sĩ là những chuyên gia cầu nguyện và phụng vụ, nên cần phải cố gắng tham dự
đẩy đủ các giờ kinh phụng vụ chung cùng cộng đoàn, để được sống trong tình hiệp thông
bác ái.
4.2. Cầu nguyệnCầu nguyẹ n la hoi thơ cua linh hồn, la điều kiẹ n phat triển đơi sống thie ng lie ng. Vi thế, các
đan sĩ kho ng nhưng hoc
hoi cho biết cach cầu nguyẹ n, ma con phai tạ p cho min
h co thoi quen cầu
nguyẹ n.105 Thật vậy, con người có thể tạm nhịn ăn, nhịn uống, nhưng không thể nhịn thở.
6
101 Xc. Lm. Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ, Giờ Kinh Phụng Vụ, Đại chủng viện Thánh Giuse - TPHCM, 2001, tr. 9.102 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 20.103 Cha Biển Đức Thuận, Di Ngôn, số 128.104 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 20, 3.105 Xc. Hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Thói lệ, số 191.
6
Trong đời sống, Đức Giêsu chẳng những đã dạy các môn đệ cầu nguyện, nhưng
chính Ngài cũng luôn cầu nguyện. Đức Giêsu cầu nguyện không chỉ nêu gương, nhưng để
kết hợp với Cha và thi hành ý muốn của Cha. Tin Mừng cho thấy, Đức Giêsu đã sống và
thi hành trọn vẹn sứ mệnh của Ngài trong lời cầu nguyện: “Người lên núi một mình mà cầu
nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình” (Mt 14, 23). Ngài cầu nguyện một mình trong
nơi vắng vẻ: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và
cầu nguyện ở đó” (Mc 1, 37). Nhất là trong những giây phút quan trọng của cuộc đời và sứ
vụ cứu độ của Ngài như: lãnh phép rửa của Gioan tại sông Jordan (xc. Lc 3, 21), lúc vào
trong sa mạc để chuẩn bị cho sứ vụ công khai (xc. Mt 4, 7), khi chọn nhóm mười hai (xc.
Lc 6, 12), và thời điểm biến hình trên núi Tabor (xc. Lc 9, 29). Trước khi chịu khổ hình
thập giá, lời cầu nguyện của Ngài gắn bó với Cha hơn bao giờ hết (xc. Ga 17, 26). Chúa
Giêsu cầu nguyện, để công việc của Ngài hoàn toàn đúng theo thánh ý Chúa Cha. Nếu như
cám dỗ lớn nhất của Chúa Giêsu là thi hành sứ mệnh cứu thế không theo ý Chúa Cha mà
theo kiểu trần gian, thì chính nhờ cầu nguyện, Ngài đã vượt qua cám dỗ và đã thi hành
thánh ý Cha cách trọn vẹn. Điều này cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng của lời cầu
nguyện trong cuộc đời Đức Giêsu. Nếu như biến cố tử nạn, phục sinh của Đức Giêsu là
một khúc quanh cho giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ, là trung tâm và cao điểm của ơn
cứu độ, thì lời cầu nguyện của Ngài cũng là một khúc quanh mới trong lời cầu nguyện của
người kitô hữu. Từ nay, lời cầu nguyện của các kitô hữu được đặt trên nền tảng là tất cả
mọi ân huệ đã được Chúa Cha ban cho ta trong Đức Kitô. Như thế, Đức Giêsu trở nên mô
hình và nền tảng của đời sống cầu nguyện của người Kitô hữu như Dubois Dumée đã
khẳng định: “Đức Giêsu không những chỉ là sứ giả của lời cầu nguyện mà Ngài còn là
chính sứ điệp và linh hồn của sứ điệp. Ngài không chỉ là bậc thầy cầu nguyện mà còn là
linh hồn của lời cầu nguyện”.106
Cuộc sống con người là sống với những tương quan, và tương quan căn bản liên hệ
đến vận mệnh đời người chính là tương giao với Thiên Chúa. Con người không thể sống
một cách sung mãn nếu không có tương giao mật thiết với Thiên Chúa. Bởi vậy, đời đan sĩ
là đi tìm và thiết lập tương giao với Chúa. Con đường để các đan sĩ gặp gỡ Thiên Chúa
chính là cầu nguyện. Như vậy, cầu nguyện là phương thế thiết yếu đưa cuộc đời đan sĩ vào
trong mối giao hảo mật thiết với Ngài.
Đan sĩ không thể đứng vững nếu không chìm sâu trong cầu nguyện. Bởi vì, cầu
nguyện là hơi thở, là sức sống của đời đan tu chiêm niệm. Qua đời sống kết hợp với Thiên
106 Xc. Lê Quang Phúc, Nơi Đâu Là Nhà, lưu hành nội bộ, 2000, tr. 34.
6
Chúa, đan sĩ kín múc được bao ơn lành từ nguồn mạch Ba Ngôi Thiên Chúa không bao giờ
vơi cho chính mình cũng như cho tha nhân, nhất là giúp đan sĩ tập trung toàn diện con
người trong Thiên Chúa, Đấng thống nhất toàn bộ đời sống và sứ vụ của mình. Ta có thể
nói được: khi những đan sĩ dìm mình vào trong đời sống cầu nguyện, thì cho dầu cho chân
còn đạp đất, nhưng như đã tiên cảm niềm vui phát xuất từ suối nhạc thiên đàng. Hiến pháp
Hội dòng Xitô Thánh Gia minh định: “Là thành phần của Hội dòng chuyên về chiêm niệm,
các tu sĩ hãy cố gắng sống trong tinh thần cầu nguyện. Mỗi ngày hai lần, mỗi lần 30 phút,
tu sĩ nguyện ngắm ở nơi chung hay nơi nào viện phụ chỉ định”.107
Khi nói về đời sống cầu nguyện, Đức Phaolô VI nhấn mạnh: “Sự trung thành cầu
nguyện mỗi ngày luôn là một nhu cầu thiết yếu đối với tu sĩ và phải chiếm một vị trí ưu tiên
hàng đầu trong đời dâng hiến”.108 Nhờ cầu nguyện, các đan sĩ mới có khả năng đáp trả
được hồng ân thánh hiến của mình. Xác quyết điều ấy, Công đồng Vaticano II tha thiết
mời gọi mọi tu sĩ, nhất là đan sĩ chiêm niệm hãy cần mẫn luyện tập tinh thần cầu nguyện
để múc lấy nơi nguồn mạch đích thực nền tu đức kitô giáo.109 Nhờ ơn Chúa Thánh Thần
phù trợ, họ sẽ đạt được một cuộc sống thân mật với Ba Ngôi Thiên Chúa, và chính mối
thân tình ấy sẽ nên nguồn mạch liên kết và khởi điểm của nhiệt tâm chiêm niệm và tông
đồ.110 Qua đó, những đan sĩ sẽ trở nên chứng nhân của Chúa Kitô bằng việc nuôi dưỡng đời
sống cầu nguyện của mình, tận hiến như một của lễ thanh sạch, thánh thiện và thực hiện tác
vụ ngôn sứ mà Đức Kitô đã chia sẻ cho những kẻ thuộc về Ngài, bằng một đời sống tin
yêu, và trở nên lời chứng sống động cho Thiên Chúa.
Trong tông huấn Đời sống Thánh hiến, đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng
từng xác định lại giá trị của ơn gọi chiêm niệm như sau: “Các dòng hoàn toàn sống đời
chiêm niệm, gồm những người nữ hoặc nam, là một lý do hãnh diện cho Giáo hội và một
nguồn mạch đưa lại những ân sủng thiên quốc. Nhờ nếp sống và sứ mạng của họ, những
phần tử thuộc các dòng ấy bắt chước Đức Kitô cầu nguyện trên núi, họ làm chứng về quyền
chủ tể của Thiên Chúa trên lịch sử, họ tiên báo vinh quang mai ngày sẽ đến. Trong cô tịch
và thinh lặng, bằng việc lắng nghe Lời Thiên Chúa, cử hành phụng vụ, khổ chế cá nhân,
kinh nguyện, hãm mình và hiệp thông vào tình yêu huynh đệ, họ hướng toàn thể đời sống và
toàn thể sinh hoạt vào việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa. như thế họ cống hiến cho cộng đồng
107 Hội dòng Xitô Thánh Gia Việt nam, Hiến Pháp, số 122.108 Trích: “Theo Chúa Kitô”, tr. 70.109 Xc. Công đồng Vaticano II. Sắc lệnh “Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Tu Trì”, số 6.110 Xc. Sđd, số 6.
6
Giáo hội một chứng tá độc đáo về tình yêu của Giáo hội dành cho Chúa, và góp phần với
sức phong nhiêu Tông đồ huyền diệu vào sự tăng trưởng của Dân Thiên Chúa”.111
Sống đời chiêm niệm là để cầu nguyện và cầu nguyện chuyên cần. Vì cầu nguyện là
sự sống của một trái tim mới. Cầu nguyện phải làm cho chúng ta được sống động mọi
lúc.112 Những người hiến mình trong các đan viện là những người tự nhiên phải có khuynh
hướng thích cầu nguyện và có khả năng cầu nguyện gần như thường xuyên. Ở trong đan
viện có hai hình thức cầu nguyện: một là cầu nguyện cá nhân, hai là hình thức cầu nguyện
tập thể. Cầu nguyện cá nhân là cầu nguyện một mình trong những lúc yên lặng ở phòng
riêng, ngoài hành lang hay ngoài vườn, nơi làm việc, những khi đọc sách thiêng liêng hay
nguyện ngắm. Cầu nguyện tập thể là những khi cử hành phụng vụ Thánh lễ, các Giờ kinh
Phụng vụ hay làm các việc đạo đức chung với nhau. Dù cầu nguyện theo hình thức nào,
chung hay riêng, đan sĩ cũng phải tỏ ra chuyên cần và lấy làm thích thú, vì đó là ơn gọi và
sở trường của mình. Ngược lại nếu cảm thấy chán ngán hay nặng nề thì đó là dấu hiệu cho
thấy một cái gì trục trặc hay bất bình thường cần phải xem xét lại để điều chỉnh cho kịp
thời.113 Trong tông huấn Đời sống Thánh hiến cũng nói: “Trong đời đan tu cũng như hoạt
tu, luôn luôn những người nào biết cầu nguyện mới làm được những công việc lớn, bởi vì
họ biết nhận ra đúng ý Thiên Chúa và đem ra thực hành. Nhờ năng tiếp xúc với Lời Thiên
Chúa, họ được soi sáng để biện phân cho chính bản thân và cho cộng đoàn”.114
Cũng trong ý nghĩa này sách Giáo lý Hội thánh Công giáo cho thấy rõ giá trị của cầu
nguyện đối với người sống đời sống thánh hiến: “Đời sống thánh hiến không thể tồn tại và
triển nở nếu không có kinh nguyện. Đời sống này là một trong những nguồn mạch sống
động của việc chiêm niệm và đời sống thiêng liêng trong Hội thánh”115.
Thánh Biển Đức không chỉ định cho các đan sĩ một số thời giờ nhất định khả dĩ lo
việc cầu nguyện riêng tư. Ngài chỉ dạy đơn giản: “Đan sĩ phải siêng năng cầu nguyện”.116
Nơi khác, cha thánh cũng dạy: “Giờ Thần Vụ vừa xong, mọi người triệt để im lặng đi ra
với hết lòng cung kính Chúa, để anh em nào muốn cầu nguyện riêng khỏi bị phiền hà ngăn
trở. Còn những lúc khác, ai muốn cầu nguyện âm thầm một mình, cứ đơn sơ vào cầu
nguyện, không
111 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Tông huấn, Đời Sống Thánh Hiến - Vita Consecrata, chuyển ngữ Lm.Phan Tấn Thành, Nxb Tôn Giáo, 2015, tr. 20- 21.
112 Xc. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, uỷ ban Giáo Lý Đức Tin, Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, Nxb Tôn Giáo, 2012, số 2697.
113 Xc. Lm. Andre Đỗ Xuân Quế OP, Sống Đời Thánh Hiến, Nxb Tổng Hợp TPHCM, 2008, tr. 69- 70.114 Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Tông huấn, Đời Sống Thánh Hiến - Vita Consecrata, chuyển ngữ
Lm, Phan Tấn Thành, Nxb Tôn Giáo, 2015, tr. 179- 180.115 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, uỷ ban Giáo Lý Đức Tin, Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, Nxb
Tôn Giáo, 2012, số 2687.116 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 4 câu 57.
6
lớn tiếng ồn ào, nhưng với nước mắt và lòng chân thành”.117 Thánh phụ Biển Đức không có
chủ đích nào hơn là làm cho đan sĩ tìm thấy Chúa và kết hiệp với Người.
Hơn nữa, khi đan sĩ cầu nguyện cho nhau và sống tình huynh đệ sẽ làm cho cộng
đoàn vững mạnh. Một vấn đề thực tế là khi cộng đoàn cung cấp những phương tiện cho
đan sĩ để trưởng thành trong cầu nguyện, là trang bị cho các thành viên nguồn sức mạnh
lớn nhất của sự phát triển và trưởng thành. Chỉ qua cầu nguyện các đan sĩ mới có thể
trưởng thành trong đức tin và phó thác để sống như một người bạn của Chúa. Cũng trong
cầu nguyện, những người bạn của Chúa mới có thể thấy được cách họ sẽ chia sẻ cuộc sống
của Chúa về tình yêu một cách hiệu quả và đầy ý nghĩa trong cuộc sống huynh đệ.118
Như vậy, là đan sĩ, chúng ta không chỉ cầu nguyện chung trong các giờ kinh phụng
vụ, nhưng trong tất cả các sinh hoạt hàng ngày, chúng ta đều sống trong tâm tình cầu
nguyện. Từ đó, các đan sĩ mới có thể kết hiệp mật thiết với Chúa, sống tình huynh đệ chân
thành và cởi mở hơn.
5. Đóng góp tinh thần vật chất cho cộng đoànNgay từ đầu, đời sống đan tu cũng muốn thực hành theo mẫu gương của cộng đoàn
Giêrusalem, ở đó các tín hữu “chỉ có một lòng một ý” (Cv 4, 32). Thánh Luca nhìn nơi
cộng đoàn Giêrusalem việc hoàn thành tâm nguyện sống cộng đồng của Đức Giêsu: “Các
tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì
mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung. Nhờ quyền năng mạnh
mẽ Thiên Chúa ban, các Tông đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và Thiên Chúa ban
cho tất cả các ông dồi dào ân sủng. Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả
những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông đồ.
Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu” (Cv 4, 32-35). Cộng đoàn hậu
phục sinh cố gắng thể hiện mọi điều Thầy đã dạy. Người yêu cầu Nhóm Mười Hai được
đặt định trở thành các Tổ phụ của Israel mới: “Thầy nói với anh em là những người đang
nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền
rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả
má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Anh em
muốn hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho
mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Cv 6, 27 - 31). Các môn đệ của Đức Giêsu
phải yêu thương như vậy. Họ nên trọn lành như Cha và như Đức Giêsu là Đấng trọn lành.
117 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 52.118 Xc. Nt. Maria Vũ Thị Thu Thuỷ, Hội dòng MTG Tân Lập, Tình Bạn Trong Cộng Đoàn Thánh Hiến, Nxb
Phương Đông, 2014, tr. 155- 156.
6
Chúa Cha hay thương xót và đầy lòng trắc ẩn; Đức Giêsu cũng vậy, Người luôn chạnh lòng
thương. Do đó, chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta cũng phải thương xót và có
lòng trắc ẩn như chính Đức Giêsu được khắc họa qua hình ảnh người Samaritano mà thánh
Luca thuật lại (xc. Lc 10, 29 - 37).
Sứ điệp tình yêu của Đức Giêsu mà môn đệ phải dành cho tha nhân trong cộng đoàn
Giêrusalem hậu phục sinh là một dạng thức thể hiện: “Cứ làm như vậy là sẽ được sống”
(Lc 10, 28). Người cũng nói điều đó với một kinh sư đọc thuộc lòng kinh Shema: “Ngươi
cũng hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của người, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và
hết trí khôn người, và yêu mến người thân cận như chính mình” (Lc 10, 27). Theo Luca,
cộng đoàn Giêrusalem sống theo Shema. Anh em hãy kính mến Thiên Chúa và yêu thương
nhau hết lòng, và như thế họ chỉ có “một lòng”, họ yêu thương nhau với tất cả khả năng, và
như vậy, “không ai giữ của riêng”, nhưng “để mọi sự làm của chung”. Tình yêu này trải
rộng đến mọi người và đó là lý do tại sao họ được mọi người yêu mến và chấp nhận.119
Dự phóng cộng đoàn tu trì được khởi hứng bởi nếp sống chung của cộng đoàn Đức
Giêsu trong các giai đoạn tiền và hậu phục sinh. Cộng đoàn đó phải ý thức rằng, cách thức
tốt nhất để chu toàn sứ vụ tông đồ của mình là cảm nhận đời sống tông đồ như một nếp
sống trong hiệp thông. Trước hết, nếp sống này bao gồm “unio cum Christo”, là kết hiệp
sống động với Chúa, kết hiệp này là nguồn mạch và sự công chính hoá cho đời sống cộng
đoàn Kitô hữu. Mọi người chúng ta đã được chính Chúa kêu gọi chia sẻ cuộc đời và sứ vụ
của Người. Chia sẻ cuộc đời của Người là thông phần tình yêu say đắm dành cho Chúa
Cha và cho anh em của ta. Những ai chia sẻ đời sống với chúng ta trong cộng đoàn sứ vụ
chắc chắn là những người thân cận; nhiều người thân cận khác sẽ dần dần xuất hiện trên
bước hành trình của ta. Người thân cận phải được yêu mến hết lòng, hết linh hồn và hết sức
lực ta. Tình yêu hỗ tương phải trổi vượt giữa những người thân cận trong cộng đoàn chúng
ta đến độ chúng ta phải chiến đấu để chỉ có một lòng, một ý và để mọi sự làm của chung.
Làm sao bạn có thể nói rằng bạn yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà bạn không nhìn thấy, hết
lòng, hết linh hồn và hết sức lực, nếu như bạn không có cùng một lòng, một linh hồn, và
không chia sẻ mọi sự với anh em của bạn, những người bạn nhìn thấy mỗi ngày? Trong
Đức Kitô, chúng ta làm nên một thân hình. Hiệp nhất với Người, ta có thể đạt tới điều
không tưởng là sống với anh em mình trong một lòng và một ý.120
119 Xc. Jose Cristo Rey Garcia Paredes. CMF, Teologia de la Vida Religiosa, bản dịch Việt ngữ: Đời Tu Hiệp Thông Và Cộng Đoàn, Chuyển ngữ Lm Giuse Đỗ Ngọc Bảo, OP, 2008, tr. 34-35.
120 Xc. Sđd, tr. 35.
6
Đời sống huynh đệ trong khó nghèo Tin mừng là một cách sống dưới tính ưu việt của
điều răn mới, của tình yêu hỗ tương vô điều kiện, được hiểu như là một đời sống chia sẻ
tình yêu, là một dấu chỉ hùng hồn về sự hiệp thông Giáo hội. Những người tận hiến, hợp
nhau nên “một lòng một ý” (Cv 2, 32) nhờ tình yêu đã được Chúa Thánh Thần đổ chan hoà
vào trong các tâm hồn (xc. Rm 5, 5), cảm thấy trong lòng yêu sách là đặt mọi sự làm của
chung: những tài sản vật chất và những kinh nghiệm thiêng liêng, những tài năng và những
cảm hứng, kể cả những lý tưởng tông đồ và việc phục vụ bác ái.121
Trong Tin mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi người thanh niên hãy bán của cải phân chia
cho người ngheo để đi theo Chúa (xc. Mc 10, 21). Cũng vậy, là đan sĩ khi bước chân vào
đời sống đan viện, chúng ta đã được dạy dỗ về việc sử dụng của cải. Đặc biệt chúng ta đã
đọc lời tuyên khấn trước sự chứng kiến của Chúa và sự hiện diện của cộng đoàn, trong đó
có lời khấn khó nghèo, các tu sĩ tự nguyện đặt tất cả mọi nhu cầu của đời mình trong tay bề
trên: không còn quyền sở hữu hay chiếm hữu của gì ngoài sự cho phép của bề trên.
Giáo luật của Hội thánh quy định: “Tất cả những gì tu sĩ thủ đắc do công lao của
mình hoặc nhân danh tu hội thì đều thuộc về tu hội. Những tài sản tu sĩ nhận được bằng
bất cứ hình thức nào dưới danh nghĩa cấp dưỡng, trợ cấp, hoặc bảo hiểm thì đều thuộc về
tu hội, trừ khi có luật riêng ấn định cách khác”.122
Với thánh Biển Đức, ngài rất khắt khe trong việc quản lý và dùng của cải đối với các đan
sinh, không phải là sự ích kỉ nhưng để các đan sĩ biết ý thức không phải của cải vật chất là khí
cụ
hữu ích nhất giúp thăng tiến đời sống thánh thiện, ngài dạy rằng: “Phai đạ c biẹ t loai trư tạ n gốc
tạ t xấu giư cua riêng khoi đan viẹ n. Đư ng ai tự tiẹ n cho hay nhạ n mọ t vạ t gì khi chua có phép
viẹ n phu, hoạ c giư riêng vạ t gì, tuyẹ t nhiên không có vạ t gì, dù cuốn sách, dù bang viết, hay
cây bút, nói tắt là không gì ca, vì ngay đến ban thân và ý muốn họ cung không còn quyền làm
chunưa. Moi
nhu cầu, hãy mong chơ no i gia truơng, không bao giơ đan si đu ơc
có cua gì mà không
do viẹ n phụ phân phát hay cho phép. Moi
sự hãy là cua chung, nhu đã chép, đư ng ai nói hoạ c
chiếm lấy vạ t gì làm cua riêng mình. Nếu gạ p ai vui thích vơ i tạ t xấu rất đọ c hai này, hãy canh
cáo mọ t hai lần, nếu không sư a mình se bi phat theo luạ t”.123 Cũng vậy, trước khi khấn, các đan
sĩ cũng phải từ bỏ mọi sự sở hữu tài sản để chỉ chuyên tâm vào phận vụ của mình: “Nếu có cua
cai gì, thì truơ c đó hoạ c phân phát cho nguơ i nghèo, hoạ c long tron
g dâng cho đan viẹ n, không
giư lai chút gì cho mình, vì khấn sinh nên biết rằng tư ngày ấy mình không có chu quyền ngay ca
6
121 Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến - Vita Consecrata, chuyển ngữ Lm. Phan Tấn Thành, Nxb Tôn Giáo, 2015, số 42.
122 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Bộ Giáo Luật 1983, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội 2007, điều 688 § 3123 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 33.
6
trên ban thân mình nưa”.124 Còn từ ngày khấn thì: “Ngay đến bản thân và ý muốn cũng không
còn quyền làm chủ nữa”. Quan niệm của thánh phụ là: Đan sĩ phải sử dụng của cải vật chất tùy
theo nhu cầu của mình dưới con mắt minh mẫn của Viện phụ, có chừng mực điều độ, để lanh
lẹ, hân hoan phục vụ Thiên Chúa. Với thánh Biển Đức, tinh thần thực thi khó nghèo cũng là
chấp nhận đời sống lao nhọc cần cù bằng những hành động cụ thể khiêm tốn, khước từ tư hữu
và sẵn sàng từ bỏ để được tự do hơn trong sứ vụ phục vụ Tin mừng; biết thán phục và trân
trọng những công trình sáng tạo cũng như những đồ dùng đang sử dụng, hòa mình với cộng
đoàn trong mức sống và an vui đón nhận mọi nhu cầu cần thiết nơi viện phụ với một tinh thần
siêu thoát.
Hiến pháp Hội dòng Xitô Thánh Gia cũng khẳng định: “Theo gương Giáo hội sơ
khai, đan sĩ sống đồng tâm nhất trí, kiên định trong cầu nguyện, để mọi sự làm của chung,
hầu kiến tạo một gia đình thiêng liêng và thực sự theo gương mẫu của Thánh Gia”125. Từ
bỏ quyền tư hữu để mọi sự làm của chung, các đan sĩ sẽ cảm thấy thanh thoát hơn.
Như vậy, đan sĩ không phải đóng góp của cải cho đan viện bằng cách mỗi tháng
phải nộp cho đan viện bao nhiêu tiền của hay vật chất. Nhưng là đóng góp bằng chính
tinh thần từ bỏ của cải, kiến tạo và xây dựng cộng đoàn qua việc chu toàn mọi phận
vụ của mình một cách có trách nhiệm.
Qua những gì trình bày ở phần ba này, có thể kết luận rằng để có một cộng đoàn hiệp
nhất, chúng ta cần phải sống bác ái huynh đệ. Sự hiệp nhất đó thể hiện qua việc các đan sĩ biết
lắng nghe lời bề trên, biết sống hiệp thông huynh đệ trong cộng đoàn, tham dự đầy đủ các phận
vụ trong cộng đoàn cả về đời sống thiêng liêng lẫn vật chất với tinh thần yêu mến và khiêm
nhường. Noi gương cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem (x. Cv 2, 42), chúng ta ý thức rằng lời
Chúa, Thánh Thể, cầu nguyện chung, tận tụy và trung thành với lời giảng dạy của các Tông đồ
và những người kế vị các ngài là những yếu tố giúp các đan sĩ tiếp xúc với những kỳ công của
Thiên Chúa. Nhờ các cử hành cộng đoàn, những kỳ công này trở nên rực sáng và làm nên lời
ngợi khen, cảm tạ, vui mừng, hiệp nhất các tâm hồn, giúp nhau chia sẻ những khó khăn trong đời
sống hằng ngày, và khuyến khích nhau trong niềm tin.126
124 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 58, câu 24- 25.125 Hội dòng Xitô Thánh Gia Việt nam, Hiến Pháp, số 107.126 Xc. Huấn Thị, Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, số 14.
7
Chương 4
ĐỂ SỐNG THĂNG TIẾN HƠN MỖI NGÀY TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN ĐAN TU
Ai trong chúng ta cũng đều muốn tìm cho mình một cộng đoàn lý tưởng để sống. Ở
đó, mọi thành viên biết yêu thương, tôn trọng nhau, cùng một lòng một ý hướng về Cha
trên trời. Nhưng để có được một cộng đoàn yêu thương, hiệp nhất như thế, mỗi thành viên
trong cộng đoàn phải cố gắng tạo nên mối tương quan huynh đệ cách tốt đẹp, luôn sống có
trách nhiệm với cộng đoàn và tích cực xây dựng tình hiệp nhất.
1. Tương Quan Trong Cộng Đoàn
1.1. Gặp gỡ, giao lưu, trao đổiCộng đoàn là một tập hợp những cá nhân, những người cùng hoạt động, có tương
quan trực tiếp diện đối diện với nhau và có chung một mục đích. Mối tương quan lâu dài
của họ có ảnh hưởng hoặc tác động lên nhau, đủ để thiết lập và xác định rõ ràng tư cách là
thành viên của mỗi người trong cộng đoàn. Họ được gọi để sống và chia sẻ các giá trị Tin
mừng với nhau.127 Vì thế, khi tìm hiểu một vấn đề, con người cần phải có sự gặp gỡ, giao
lưu để cùng nhau trao đổi, tìm hiểu; qua đó mới có thể hiểu rõ được vấn đề nhờ góc nhìn
đa diện từ nhiều người góp lại. Nhìn một việc từ nhiều phía sẽ khách quan hơn và hiểu rõ
vấn đề hơn. Nếu không có sự gặp gỡ, cởi mở trao đổi với nhau, chúng ta dễ trở thành
những thầy bói xem voi. Cũng vậy, trong đời sống đan tu, các đan sĩ muốn hiểu được nhau,
cảm thông được với nhau, cũng cần phải có sự gặp gỡ, giao lưu và trao đổi với nhau về các
khía cạnh trong đời sống chung.
Tục ngữ có câu: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một
giàn”. Sống ở trên đời, không ai giống ai. Mỗi người có một nguồn gốc, hoàn cảnh, điều
kiện sống khác nhau. Tuy vậy, người ta vẫn có những điểm chung với nhau, ví dụ như:
Anh em ruột thịt có chung cha mẹ; Bạn bè đồng lứa cùng chung trường, chung lớp, chung
thầy cô; Hàng xóm láng giềng chung đường đi lối lại… Dù có khác nhau về điều kiện làm
cảnh ngộ chung, những nét giống nhau giữa người với người đã làm nên mối quan hệ ràng
buộc, gắn bó. Vì cái chung ấy mà mỗi người phải biết thương yêu đùm bọc, biết nhường
nhịn chia sẻ để công việc chung được tốt đẹp, cảnh ngộ chung được cải thiện, hạnh phúc
127 Xc. Lm. Giuse Đỗ Văn Thuỵ, Tân Phúc Âm Hoá Đời Sống Cộng Đoàn, Nxb Tôn Giáo, 2014, tr. 43.
ăn, về lứa tuổi, ngành nghề, nhưng tất cả đều chung một quê hương, đất nước...Nhữ
7
chung được bảo tồn. Không ai có thể sống riêng lẻ, tách biệt, vì tình thương yêu, sự san sẻ
làm cho con người gắn bó với nhau hơn. Cuộc sống của mỗi người sẽ tốt đẹp hơn.
Trong đời sống cộng đoàn tu trì cũng vậy, chúng ta từ nhiều vùng miền khác nhau
quy tụ thành cộng đoàn. Nhiều người cho rằng thiết lập cộng đoàn đơn thuần chỉ là quy
tụ một số người lại với nhau dưới một mái nhà, và có cùng cam kết sống theo một lý
tưởng. Kết quả đem lại có thể là bất hạnh. Đời sống cộng đoàn được hình thành không
đơn giản chỉ do tính tự phát hoặc quy định của lề luật. Một số điều kiện rõ ràng phải
được đào sâu và phát triển trải qua những khủng hoảng, những căng thẳng và những
giai đoạn tốt đẹp. Nếu những điều kiện cần thiết không được bảo đảm sẽ rất dễ đi chệch
hướng. Cuối cùng, cộng đoàn có thể sẽ tan vỡ hoặc chết về mặt tinh thần, và lúc đó
Một số người nhận ra rằng không thể nào sống một mình; đối với họ, điều này giống
như đang nếm trước cái chết. Vì thế, cộng đoàn có thể được xem là nơi đón nhận và chia
cộng đoàn nhờ việc chúng ta có thể tha thứ và chấp nhận những yếu đuối, nghèo nàn của
nhau. Nhưng niềm tin này không dễ có ngay trong một lúc mà cần phải có thời gian để xây
dựng và vun đắp. Trong một cộng đoàn, các thành viên có tin tưởng vào nhau, thì đó mới
thực sự là cộng đoàn vững bền.
Cộng đoàn không đơn thuần là một nhóm người chung sống và yêu thương nhau,
nhưng còn là dòng chảy của sự sống: một trái tim, một tâm hồn, một tinh thần. Cộng đoàn
gồm những con người yêu thương nhau tha thiết và đang cùng nhau hướng tới một niềm hy
vọng. Chính điều này mang đến một bầu khí đặc biệt của niềm vui và của sự đón nhận, là
Phaolô nhắc đến: “Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an
ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu
chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của
tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn,
cùng một ý hướng như nhau” (Pl 2, 1- 2). Bầu khí niềm vui này có được là nhờ tất cả các
thành viên cảm thấy được tự do để trở thành chính mình trong một ý nghĩa sâu xa nhất.
128 Xc. Lm. Giuse Đỗ Văn Thuỵ, Tân Phúc Âm Hoá Đời Sống Cộng Đoàn, Nxb Tôn Giáo, 2014, tr. 26- 27.129 Xc. Jean Vanier, Community and Growth- Thăng Tiến Cộng Đoàn, Đaminh Rosa Lima chuyển ngữ, St.
Paul Publications - Sydney 1979, tr. 10.130 Xc. Lm. Giuse Đỗ Văn Thuỵ, Tân Phúc Âm Hoá Đời Sống Cộng Đoàn, Nxb Tôn Giáo, 2014, tr. 29.131 Xc. Jean Vanier, Community and Growth- Thăng Tiến Cộng Đoàn, Đaminh Rosa Lima chuyển ngữ, St.
Paul Publications - Sydney 1979, tr. 27- 28.
tưởng lẫn nhau giữa tất cả các thành viên.130 Niềm tin tưởng được khai sinh mỗi ngày
những thành viên của cộng đoàn sẽ trở thành nô lệ.128
sẻ cách tuyệt diệu.129 Đời sống cộng đoàn sẽ trở nên sâu sắc và thắm thiết hơn qua sự tin
những yếu tố làm nên căn tính của một cộng đoàn đích thực.131 Điều này cũng được
7
Chúng ta không cần phải đóng kịch, giả vờ như thể mình tốt hơn người khác, hoặc tỏ ra
tiến bộ để được người khác yêu mến. Chúng ta khám phá ra rằng mình được yêu mến vì
chính chúng ta là như thế, chứ không do chúng ta khôn ngoan và khéo léo.
Chính khi cộng đoàn gặp gỡ nhau, giao lưu với nhau, chia sẻ cùng nhau thì lúc đó ta
cảm thấy mọi thành viên của cộng đoàn không còn là những vị thánh hay quỷ dữ, nhưng là
những con người có sự hoà trộn giữa cái tốt và cái xấu, giữa bóng tối và ánh sáng, đang
lớn lên cùng với niềm hy vọng. Chính khi thực tại hoá cuộc sống, người ta nhận ra cội
nguồn của mình. Cộng đoàn không là thiên đàng và cũng chẳng phải là hoả ngục. Nó được
xây dựng chắc chắn trên trái đất để mọi người có thể bước đi trong cộng đoàn và cùng với
cộng đoàn. Mọi thành viên chấp nhận thực tại của cộng đoàn và của mỗi người, đồng thời
tin tưởng để cùng nhau thăng tiến, hướng đến những điều tốt đẹp hơn.132
Sống đời thánh hiến, là chúng ta được mời gọi một cách đặc biệt để đến sống với
nhau và thuộc về một cộng đoàn, một thân thể. Lời mời gọi này là nền tảng để chúng ta có
thể quyết định dấn thân sống với nhau, cho nhau và vì nhau.133 Sự cần thiết của tình liên
đới cũng được thánh Phaolô nói tới: “Cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ
phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng, thì chúng ta cũng vậy: tuy nhiều
nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Kitô, mỗi người liên đới với những người khác như
những bộ phận của một thân thể” (Rm 12, 4- 5). Trong thân thể, mỗi bộ phận đóng một
vai trò khác nhau, cho nên cần đến sự liên đới với nhau: “Những bộ phận xem ra yếu đuối
nhất thì lại là cần thiết nhất; và những bộ phận ta coi là tầm thường nhất, thì ta lại tôn
trọng hơn cả. Những bộ phận kém trang nhã, thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết”
(1Cr 12, 22 - 23). Do đó, trong đời sống cộng đoàn không phải chỉ người nhỏ đến tìm gặp
người lớn để học hỏi mà chính những người lớn hơn và cả bề trên cũng sẽ học hỏi được
nhiều điều bổ ích từ những anh em mới vào.
Mỗi người chúng ta đều cần gương sáng, mà gương sáng đó chắc chắn phải có từ nơi
những người có đạo đức, có kinh nghiệm đời sống cộng đoàn. Những người này không dạy
cho chúng ta những bài học; nhưng chúng ta có thể bước vào ánh sáng của họ và muốn trở
nên giống họ. Những người trẻ trong cộng đoàn luôn nhìn vào những vị lớn tuổi đã sống ở
đó nhiều năm. Nếu những người này buồn bực hay tức giận, những người trẻ sẽ quyết định
rất nhanh rằng họ không muốn trở nên như thế; họ sẽ tin ít nhiều một cách rõ ràng
rằng:
132 Xc. Jean Vanier, Community and Growth- Thăng Tiến Cộng Đoàn, Đaminh Rosa Lima chuyển ngữ, St.Paul Publications - Sydney 1979, tr. 46.
133 Xc. Lm. Giuse Đỗ Văn Thuỵ, Tân Phúc Âm Hoá Đời Sống Cộng Đoàn, Nxb Tôn Giáo, 2014, tr. 45.
135 Xc. Huấn Thị, Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, số
7
cộng đoàn làm cho người ta bất hạnh. Nếu nhìn thấy được nơi những người đi trước cách
sống thoải mái và không sợ hãi, người trẻ sẽ coi đó như những nguồn nâng đỡ cho mình.134
Đối với đời sống cộng đoàn, sẽ luôn có các cuộc hội họp để cho các thành viên có cơ
hội gặp gỡ, giao lưu với nhau. Những cuộc hội họp thường lệ ở cấp độ cộng đoàn,
thường theo nhịp độ hàng tuần, cũng tỏ ra rất hữu ích; những buổi gặp gỡ này giúp các
thành viên chia sẻ các vấn đề liên quan đến cộng đoàn, đến hội dòng, đến Giáo hội, và các
tài liệu quan trọng của Giáo hội. Chúng tạo cơ hội để lắng nghe nhau, chia sẻ những ý
nghĩ riêng của mỗi người, nhìn lại và đánh giá những kinh nghiệm quá khứ, cùng nhau
suy nghĩ và đưa ra kế hoạch, chương trình sống phù hợp. Những cuộc họp mặt như thế
đặc biệt cần thiết cho sự thăng tiến và phát triển đời sống huynh đệ, nhất là trong những
cộng đoàn rộng lớn. Phải dành riêng thời giờ cho mục đích này và tránh tất cả những công
việc khác. Thêm vào việc quan tâm tới đời sống cộng đoàn, những cuộc hội họp này cũng
quan trọng để thực thi tinh thần đồng trách nhiệm và sắp đặt công việc không những trong
bối cảnh của đời sống cộng đoàn, mà còn trong cơ cấu rộng lớn hơn của đời sống tu trì,
đời sống Giáo hội và đời sống thế giới mà chúng ta được sai đến thi hành sứ vụ. Đây là con
đường mà mỗi cộng đoàn phải theo đuổi, phải thích nghi nhịp điệu và đường hướng với
chiều kích của cộng đoàn và những dấn thân của các thành viên, đồng thời tôn trọng
lối sống riêng của các cộng đoàn chiêm niệm.135
Trong sứ vụ công khai, sau những lời giảng với các thính giả chung chung, chúng ta
thấy từ chương năm Tin mừng Luca, Chúa Giêsu bước vào thuyền đời của Phêrô (xc. Lc 5,
1 - 11). Đó là một cuộc gặp gỡ đích thực, vì nó là bước khởi đầu của một cuộc gặp gỡ mỗi
ngày mỗi sâu xa và trọn vẹn hơn. Từ biến cố này, Phêrô không còn thấy Chúa Giêsu là một
ngôn sứ cho mọi người cách chung chung nữa. Chúa Giêsu dính dáng vào cuộc đời ông.
Chúa Giêsu chia sẻ công việc với Phêrô và mời gọi ông chia sẻ sứ vụ của Ngài. Chúa
Giêsu bước vào thuyền của Phêrô, và cuộc gặp gỡ này không phải chỉ là một cuộc gặp gỡ
qua đường, nhưng là một cuộc gặp gỡ thay đổi cuộc đời. Từ cuộc gặp gỡ này, Phêrô bỏ
mọi sự mà theo Thầy (xc. Mt 4, 22), và Phêrô tuyên bố: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với
ai” (Ga 6, 68). Thánh nhân vui lòng chịu khổ vì Thầy (xc. Cv 5, 41), và cuối cùng còn sẵn
sàng hy sinh mạng sống vì Thầy. Đó là một cuộc gặp gỡ đích thực, vì nó bắt đầu bằng việc
chia sẻ công việc của nhau và mở màn cho tiến trình đi vào lịch sử thăng trầm của nhau,
làm nên một lịch sử nghĩa tình.
134 Xc. Jean Vanier, Community and Growth- Thăng Tiến Cộng Đoàn, Đaminh Rosa Lima chuyển ngữ, St.Paul Publications - Sydney 1979, tr.117- 118.
139 Xc. Sđd, tr.
7
Thánh Biển Đức rất chú trọng đến đời sống của các đan sĩ, đặc biệt là tương quan
giữa các thành viên với nhau. Ngài nói: “Đàn em hãy kính trong đàn anh, đàn anh hãy yêu
thuo ng đàn em. Về viẹ c xưng hô, không ai đu ơc
phép goi
suông tên nguơ i khác. Nhung đàn
anh hãy goi
nguơ i duơ i là “em”, còn đàn em phai xung đàn anh là “cha”, để to lòng kính
trong họ nhu cha”.136 Trong bất cứ công việc gì, viện phụ cũng nên hội họp các thành viên
để lắng nghe ý kiến. Trong khi đóng góp ý kiến, Cha thánh cũng khuyên các môn sinh hãy
góp ý kiến bằng lòng khiêm tốn và tùng phục lẫn nhau.137 Trong khi giao tiếp cũng đòi
buộc các đan sĩ phải ăn nói nhẹ nhàng và sinh ích cho người nghe. Bởi lời nói có thể đem
lại lợi ích cho cộng đoàn, cũng có thể đem lại vô ích cho cộng đoàn cũng như tương quan
huynh đệ. Đừng quên rằng: “Lời nói bừa bãi khác nào mũi gươm đâm, miệng lưỡi khôn
ngoan lại chữa trị cho lành” (Cn 13, 17). Chúng ta thường nói với nhau nhiều điều, nhưng
lời chúng ta trao nhau nhiều khi không cần thiết, có khi còn gây tác hại. Nhu cầu nói hay
nhu cầu được lắng nghe đều quan trọng. Chỉ tiếc là chúng ta ít gặp được người thật sự lắng
nghe người khác, mà gặp rất nhiều người thích nói. Thật ra, xu hướng nói lời tiêu cực rất
thường gặp trong các lần trao đổi; mặt khác, xu hướng muốn nghe những lời tiêu cực về
người khác cũng không ít, vì có một số người thích nghe chuyện lạ nên đã tạo điều kiện
cho những người nói xấu. Vì vậy, ngạn ngữ Phương Đông có câu: “Trước hết là mình
thích nghe nói xấu, nên người ta cũng trở thành kẻ nói xấu”.138 Thật ra, dù muốn dù không
trong cuộc sống của chúng ta luôn cần phải dùng đến lời nói. Trao đổi, học hỏi, chia sẻ với
nhau là điều tốt, tuy nhiên, phải biết lúc nào cần giữ thinh lặng. Biết thích ứng trong mọi
hoàn cảnh mới là người khôn ngoan thật sự. Như Pasteur từng nói: “Thông minh là biết
cách nói hợp lý, nghe chăm chú, trả lời dí dỏm, và ngừng nói khi cần”. Để tránh những
điều hại hay làm đau lòng nhau, những người khôn ngoan luôn dạy chúng ta càng nói ít
càng tốt, Thánh Giacobê quả quyết: “Tất cả chúng ta thường hay vấp ngã.” (Gc 3, 2).139
Như vậy, giao lưu, gặp gỡ, trao đổi là điều cần thiết đối với đời sống huynh đệ trong
cộng đoàn thánh hiến, đặc biệt là đời sống đan tu. Bởi vì, mọi người quy tụ lại với nhau để
làm gì nếu không phải là để trở thành một gia đình, một cộng đoàn huynh đệ hiệp thông. Ở
đó, các thành viên trở thành huynh đệ và tiến đến sự hiệp thông, cộng đoàn phải trở thành
“Schola amoris”- trường dạy yêu mến, cho người trẻ cũng như cho người trưởng thành.
Trong trường học này, mọi người học biết yêu mến Thiên Chúa, yêu mến anh em sống
136 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 63, câu 10 - 12.
139 Xc. Sđd, tr.
7
137 Xc. Sđd, chương 3.138 Xc. Trần Thị Giồng. CND, Tiến sĩ tư vấn tâm lý, Họa – Phúc Từ Đâu Đến, Nxb Phương Đông, 2008, tr. 194- 195.
144 Xc. Fx. Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, số
7
chung với mình và yêu mến đồng loại.140 Nơi trường học này, từ hồng ân hiệp thông phát
xuất bổn phận xây dựng tình huynh đệ, bổn phận trở thành anh chị em với nhau trong một
cộng đoàn, nơi mà tất cả mọi người được kêu gọi sống chung với nhau.141
1.2. Dấn thân, hy sinh, phục vụHiến chế Lumen Gentium nhắc nhở về nghĩa vụ của tu sĩ trong tinh thần dấn thân
phục vụ do bậc sống của họ, làm chứng cách hùng hồn và cao quý rằng: người ta không thể
cải tạo thế giới và cung hiến nó cho Thiên Chúa được, nếu không có tinh thần các mối
phúc thật. Ðó là nơi Thiên Chúa gọi họ, để dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm, như
men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và
như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, và nhất là với bằng chứng đời sống, họ tỏ lộ Chúa
Kitô cho kẻ khác, vì thế, họ có nhiệm vụ đặc biệt soi sáng và xếp đặt những thực tại trần
gian có liên hệ mật thiết với họ, để chúng không ngừng phát triển và lớn mạnh theo thánh ý
Chúa Kitô, hầu ca tụng Ðấng Tạo Hóa và Ðấng Cứu Ðộ.142
Sự dấn thân không phải là làm những gì to lớn mới được tính, nhưng hy sinh từ
những công việc tầm thường nhất. Một cộng đoàn mà chỉ là sự bùng nổ của chủ nghĩa anh
hùng thì không phải là một cộng đoàn đích thực. Một cộng đoàn thực sự bao gồm một cung
cách sống, cung cách nhìn thực tại, và trên hết là khả năng trung thành trong những việc
thường nhật. Việc thường nhật là những gì đơn giản như nấu ăn, dọn dẹp, rửa chén đĩa, hội
họp. Việc thường nhật là trao ban, niềm vui và ca ngợi.143 Thánh Phaolô luôn nhắc nhở
rằng: “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau” (Gl 6, 2) và đừng bao giờ nản chí khi làm
điều thiện cho nhau, nhất là những anh chị em sống chung trong đời sống cộng đoàn với
mình (xc. Gl 6, 9 – 10).
Chúng ta đừng nghĩ dấn thân là lao mình vào hoạt động hăng say náo nhiệt, mà hãy
hiểu nghĩa dấn thân sâu hơn: theo gương Chúa, yêu thương đến mức độ quên mình vì người
khác, hiến mình hoàn toàn nhưng không, để hiệp nhất với kẻ khác, hầu được phong phú và
công việc của Chúa nơi họ được thành công.144 Do vậy, chúng ta cần phải trung thành trong
việc dấn thân và buộc tu sĩ phải hiện diện trên đường hy vọng để dâng hiến và mời gọi kẻ
khác dâng hiến, đó là cách phục vụ họ tốt đẹp hơn cả: con giúp họ giống hình ảnh Thiên
Chúa trong Đức Kitô là đã đạt được mục đích rồi. Thế nên, các tu sĩ dấn thân và trung
thành không như những người khác, mà họ dấn thân nhìn dưới mục đích, phương diện, và
cái nhìn
140 Xc. Huấn Thị, Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, số 25.141 Xc. Sđd, số 11.
144 Xc. Fx. Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, số
7
142 Xc. Công đồng Vaticano II, Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen Gentium, số 31.143 Xc. Lm, Giuse Đỗ Văn Thuỵ, Tân Phúc Âm Hoá Đời Sống Cộng Đoàn, Nxb Tôn Giáo, 2014, tr. 50.
148 Xc. Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương
7
đức tin. Với mục đích: vì Chúa Kitô, con mến Chúa trong anh em. Với phương diện: hãy
nhớ rằng qua các tổ chức, cơ cấu con nhắm “con người” hợp tác chân chính chứ không giật
dây họ, yêu thương chứ không thù ghét, không vụ lợi, không làm loạn.145
Một cộng đoàn chỉ được hình thành khi mỗi thành viên chấp nhận rằng họ không dự
tính làm những chuyện vĩ đại, không dự định trở thành anh hùng, mà chỉ đơn giản sống
mỗi ngày với niềm hy vọng mới, như một đứa trẻ biết ngạc nhiên khi mặt trời mọc và tạ ơn
khi mặt trời lặn. Cộng đoàn chỉ được hình thành khi mỗi người đều nhận ra sự bình thường
của mình, những điều kiện của nhân sinh, và trái đất này, đồng thời tạ ơn Thiên Chúa đã
đặt để trong thân thể hữu hạn những hạt giống vĩnh cửu được nhìn thấy qua những cử chỉ
nhỏ bé yêu thương và tha thứ hằng ngày. Nét đẹp của con người chính là sự trung tín với
những điều kỳ diệu mỗi ngày.146 Chúng ta nên nhớ rằng: “Không ai trong chúng ta sống
cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho
Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về
Chúa; vì Đức Kitô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết”
(Rm 14, 7 - 9). Cho nên, trong đời sống cộng đoàn, chúng ta đừng mắc nợ gì ai, ngoài món
nợ tương thân, tương ái và đừng làm hại người anh chị em sống chung với mình trong cộng
đoàn cũng như người đồng loại. (xc. Rm 13, 8 – 10).
Các cộng đoàn đan sĩ đầu tiên chọn đời sống chung để đảm bảo sự thoát bỏ của cải,
khước từ sự tư hữu, theo mẫu cộng đồng tín hữu đầu tiên (xc. Cv 4, 32). Đời sống chung
còn là phương thế giúp chúng ta thoát bỏ ý riêng để chu toàn thánh ý Thiên Chúa, bằng
việc vâng phục bề trên và vâng phục một lề luật. Điều này bao hàm một sự hy sinh rất
lớn và liên tục.147
Theo thánh Biển Đức, đời sống cộng đoàn trước hết là sự hòa hợp, lệ thuộc lẫn
nhau, nó đòi hỏi sự dấn thân của mỗi người.148 Nói đến dấn thân và lệ thuộc là nói
đến sự khiêm nhường. Vậy để luyện tập khiêm nhường cần phải sống với tha nhân.
Một vị ẩn tu không thể tự mình luyện tập đức hiền hòa, nhân ái, nhẫn nhục, khiêm
nhường. Ngài sẽ phục vụ ai khi không có đời sống cộng đoàn? Vâng phục chính là
con đường đưa các đan sĩ đến với Chúa cũng đòi phải có cộng đoàn. Theo tinh thần
Tu luật, không phải chỉ thỉnh thoảng mới đặt ra một tác động vâng phục nhưng là
145 Xc. Fx. Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, số 625.146 Xc. Jean Vanier, Community and Growth- Thăng Tiến Cộng Đoàn, Đaminh Rosa Lima chuyển ngữ, St.
Paul Publications - Sydney 1979, tr. 85.147 Xc. Anton Ngô Văn Vững, Đời Thánh Hiến Theo Công Đồng Vaticano II, Nxb Tôn Giáo, 2008, tr. 344.
7
sống thường xuyên trong tâm trạng vâng phục.149 Như thế, làm sao có thể vâng phục
nếu không có đời sống cộng đoàn. Mặt khác, thánh Biển Đức còn cho thấy, trong đan
viện tập trung mọi sức lực cho cùng một công tác, công tác riêng chỉ thực hiện nhằm
nhu cầu chung rộng lớn hơn của cộng đoàn.150 Đời sống đan tu thường đặt đan sĩ
trước một lựa chọn, hoặc làm việc có ích lợi cho anh em, hoặc ích kỷ cho riêng mình.
Một chọn lựa giúp các đan sĩ cố gắng thường xuyên phục vụ cộng đo àn. Trong cuộc
sống, nhu cầu phục vụ lẫn nhau gắn liền với đời sống con người. Chúa Giêsu cũng
khẳng định: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục
vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn loài” (Mt 20, 28). Đối với thánh
Biển Đức, đan viện là trường học phụng sự Thiên Chúa và trường học phục vụ lẫn
nhau. Ngài dạy các môn sinh rằng: “Anh em hãy phục vụ lẫn nhau”.151
Đời sống cộng đoàn làm phong phú hóa cho nhau, tùy theo mỗi người ý thức
về bổn phận của mình là nguồn hy vọng, niềm vui, sự tăng trưởng… cho tha nhân.
Đời sống cộng đoàn bảo đảm cho các đan sĩ những giá trị đó, và theo nghĩa đó, tất
cả quy luật thánh Biển Đức là để phục vụ mỗi người, vì mỗi người, là một bản
hiến chương cho đời sống xã hội và cộng đoàn. Đời sống chu ng còn góp phần hiệu
quả trong việc đem lại ích lợi cho từng đan sĩ trong cộng đoàn. Gia đình tu trì đảm
bảo cho các phần tử của mình một nếp sống ổn định và bền vững hơn; một giáo
huấn minh xác hơn để theo đuổi đức trọn lành, một sự hiệp thông huynh đệ tr ong
việc phụng sự Chúa; một sự tự do được củng cố bằng đức tuân phục. Như vậy, đan
sĩ được cung cấp khả năng để sống yên hàn và trung tín với đời sống tu trì mà họ
cam kết theo đuổi và thăng tiến với tinh thần vui tươi trên con đường tình yêu.
Điều đó cho thấy rằng, con người chỉ có thể triển nở cách trọn vẹn khi sống trong
một cộng đoàn, đó là lý do để cộng đoàn hiện hữu.
Với tinh thần dấn thân: “Các tu sĩ phải đem hết tâm lực làm cho Giáo hội qua con
người của họ, thực sự biểu dương Chúa Kitô mỗi ngày một hoàn hảo hơn cho các tín
hữu cũng như các lương dân”.152 Sự dấn thân đó không phải dành cho các tu sĩ hoạt động
tông đồ, nhưng còn cho cả các đan sĩ sống đời chiêm niệm. Bởi vì, chiêm niệm không
phải không cần sự dấn thân trong công cuộc truyền giáo. Mà đờ i sống chiêm niệm cũng
đóng góp tích cực vào việc truyền giáo bằng những giờ kinh nguyện, các việc làm đạo
đức. Điều này đã được Giáo luật 1983 xác định rõ ràng: “Công việc tông
149 Xc. Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 5.150 Xc. Sđd, chương 57.151 Xc. Sđd, chương 35.152 Công đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen Gentium, số 46a.
7
đồ của tất cả mọi tu sĩ trước tiên ở chứng từ đời sống thánh hiến của họ, mà h ọ phải
duy trì bằng việc cầu nguyện và hãm mình, đền tội”.153 Vì vậy, đối với đan sĩ, sống đời
chiêm niệm, cần có tinh thần dấn thân, hy sinh và phục vụ trước tiên cho nhau trong cộng
đoàn, sau đó hiệp thông với tha nhân bằng đời sống thánh thiện và các nhân đức.
1.3. Trung tín, trân trọng, lễ phépÐời sống chung được nuôi dưỡng bằng giáo lý Phúc Âm, Phụng vụ Thánh và nhất là
Bí tích Thánh Thể phải được duy trì trong lời cầu nguyện, trong sự hiệp thông cùng một
tinh thần (xc. Cv 2, 42), theo gương Giáo hội sơ khai, trong đó các tín hữu chỉ có một tấm
lòng, một tâm hồn (xc. Cv 4, 32). Là chi thể Chúa Kitô, các tu sĩ hãy mang lấy gánh nặng
của nhau (xc. Gl 6, 2), và trọng kính lẫn nhau trong tinh thần giao hảo huynh đệ (xc. Rm
12, 10). Thực vậy, khi được tình yêu của Thiên Chúa, nhờ Chúa Thánh Thần tràn đầy
trong mọi tâm hồn (xc. Rm 5, 5), cộng đoàn giống như một gia đình thực sự đoàn tụ nhân
danh Chúa, được hưởng sự hiện diện của Ngài (xc. Mt 18, 20). Yêu mến là chu toàn luật
pháp (x. Rm 13, 10) và là dây liên kết sự trọn lành (xc. Col 3, 14); nhờ đức ái mà chúng ta
biết rằng mình được chuyển từ cõi chết sang cõi sống (xc. 1Ga 3, 14). Hơn nữa, sự hiệp
nhất huynh đệ loan báo Chúa Kitô đã đến (xc. Ga 13, 35; 17, 21) và phát sinh một năng lực
tông đồ mãnh liệt.154
Khi gia nhập cộng đoàn, người ta luôn muốn thể hiện một hình ảnh nào đó về mình
sao cho phù hợp với những gì người khác mong muốn. Dần dần, họ khám phá ra rằng
những người khác yêu mến họ như họ là và tin tưởng nơi họ. Nhưng niềm tin tưởng này
phải được trải nghiệm và lớn lên. Chính qua những khó khăn và căng thẳng, những trải
nghiệm và thử thách niềm tin mà chúng ta có thể lớn lên trong sự tin tưởng lẫn nhau.
Trong một cộng đoàn, các thành viên có tin tưởng vào nhau, thì đó mới thực sự là một
cộng đoàn vững bền.155 Muốn có được sự tin tưởng thì trước tiên mỗi thành viên phải biết
sống sự trung tín của mình. Như Chúa Giêsu khi dạy các môn đệ đã quả quyết rằng: “Ai
trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất
nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn” (Lc 16, 10). Trước hết là trung tín với Chúa vì lòng
yêu mến Chúa. Chúa Giêsu hỏi Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy
không?”. Ba lần Chúa đều hỏi ông như vậy. Điều này càng tăng thêm sức mạnh của sự đòi
hỏi. Vì một khi đã sẵn lòng và cam kết ký giao ước thì cả đôi bên không thể thất trung
được. Chúa đang đòi hỏi nơi Phêrô một tình yêu thực sự, tình yêu không còn là của khía
153 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Bộ Giáo Luật 1983, Nxb Tôn Giáo, Hà nội 2007, điều 673.154 Xc. Công đồng Vaticano II, Sắc Lệnh Về Canh Tân Thích Nghi Dòng Tu - Perfectae Caritatis, số 15.155 Xc. Lm, Giuse Đỗ Văn Thuỵ, Tân Phúc Âm Hoá Đời Sống Cộng Đoàn, Nxb Tôn Giáo, 2014, tr. 35.
7
cạnh Eros, hay như một tình cảm bình thường mà phải là Phileo và Agape; vì khi yêu mến
rồi, chắc chắn ông sẽ vâng giữ các huấn giáo và chỉ dẫn của Chúa. Chúng ta cũng thấy,
chẳng có ai trên cõi đời này yêu người mà họ không mến, không thích; chẳng có quyết hy
sinh tính mạng mình cho người mà họ không yêu. Kinh Thánh dạy: Thiên Chúa yêu
thương thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một Người để làm giá cứu chuộc muôn dân (xc.
Ga 3, 16). Quả vậy, sự tín trung phát xuất từ lòng mến. Cũng vậy, trong đời sống đan tu,
Đan viện là nhà Chúa hay gia đình Chúa, thiết tưởng không sai, nhưng trong gia đình gồm
những con người khác biệt “bá nhân bá tính”, nên sống được với nhau cần một sự hy sinh
từ bỏ rất lớn để khép mình theo đặc sủng đòi hỏi. Sống được với nhau, sống vui trong cộng
đoàn thì mới trung tín được với những gì đã thề hứa trong giao ước.156
Biết chấp nhận yếu đuối của mình để kính trọng và lễ phép với người khác. Kính
trọng là trân trọng người khác một cách chân thành và sâu xa. Kính trọng là nhìn thấy
người khác như một phản ảnh độc đáo của Thiên Chúa và cúi mình trước sự độc đáo của
họ. Trong khi nhấn mạnh đến tất cả những đòi hỏi của đời sống cộng đoàn, chúng ta cũng
cần phải tôn trọng các nhu cầu riêng của mỗi thành viên. Có những thành viên cần tương
tác với nhóm hơn những người khác; có kẻ lại ít cần tương tác hơn. Kính trọng lẫn nhau,
chúng ta cũng nhìn nhận những sự khác biệt của nhau và xem đó là điều thánh thiêng.157
Trong đời sống chung, có lẽ chúng ta hay bị vướng vào cái tôi hình thức và cái tôi tiêu cực.
Cái tôi hình thức là quá chú trọng tới hình thức đến nỗi quên đi phần nội dung là điều
làm nên ý nghĩa của cuộc hiện hữu. Có những đan sĩ dị ứng với những gì thuộc thiêng
liêng. Họ thích trau chuốt cho bộ cánh bề ngoài để thu hút người khác bằng sự đạo mạo
của mình. Khuynh hướng này ảnh hưởng đến cách họ đánh giá người khác theo hình thức
bề ngoài mà họ khó khám phá ra nội lực của người khác.158
Còn cái tôi tiêu cực là họ tự đánh giá thấp về hình ảnh bản thân. Bất cứ sự gì xảy ra,
họ đều nhận định theo chiều hướng tiêu cực. Vô hình chung, họ làm méo mó thực tại.
Những vấn đề thông thường trong cuộc sống lại được họ thổi phồng lên, khiến tình thế trở
nên trầm trọng. Điều này khiến các đan sĩ bị phân tán nội lực, mất đi sự tập trung vào đời
sống tương quan với anh em trong cộng đoàn và đến ý nghĩa của cuộc sống. Vì tâm trạng
thường xuyên của người tiêu cực là không hài lòng với bản thân mình; từ đó, trở nên khép
kín, né tránh tham gia sinh hoạt chung, dần dà dẫn đến tình trạng trầm cảm.159 Ngược lại,
156 Tìm Chúa số 11, Trung Tín Trong Đời Sống Đan Tu, nội san liên Đan tu 7- 2009, tr. 64.157 Felix Podimattam, OFM CAP, Cộng Đoàn Sống Đời Thánh Hiến, chuyễn ngữ: Nguyễn Ngọc Kính, OFM,
Nxb Tôn Giáo, 2016, tr. 99.158 Xc. Eymardo An Mai Đỗ O.Cist, Nhân Cách Đời Tu, Nxb Tôn Giáo, 2015, tr. 30.159 Xc. Sđd, tr. 32 - 33.
7
trong đời sống cộng đoàn, cần mỗi người phải biết sống với cái tôi tích cực. Bởi vì, nhờ
sống tích cực và lạc quan, sẽ giúp ta dễ khám phá và thán phục những nét đẹp, những điều
tích cực nơi người khác. Chính sự tin tưởng và biết mình đúng mức, sẽ là lợi thế giúp bản
thân biết dấn thân không mệt mỏi và dễ dàng kêu gọi sự hợp tác của người khác. Một đan
sĩ tích cực luôn mang lại nét yêu đời trong đời sống chung. Ngoài ra, họ còn là những
người tiên phong trong những công việc lớn nhằm giúp xây dựng cộng đoàn.160
Mỗi người là hình ảnh của Thiên Chúa, là một nhân vị được Thiên Chúa yêu thương
chọn gọi. Trân trọng nhau là cách xây dựng tình huynh đệ, cách thức thể hiện tình yêu
thương và tôn trọng nhau. Trân trọng lẫn nhau được biểu hiện trong sự chia sẻ cuộc sống
hàng ngày, như Văn kiện đời sống huynh đệ cộng đoàn nói: “Để dưỡng nuôi sự hiệp thông
tâm trí giữa những người được gọi là chung sống trong một cộng đoàn, nhất thiết phải
trau dồi những đức tính cần thiết cần có trong tất cả các mối quan hệ bản thân: sự kính
trọng, lòng tốt, sự chân thành, sự kiềm chế, lịch thiệp, biết khôi hài và tinh thần chia
sẻ”.161 Muốn được như vậy mỗi đan sĩ cần phải biết xây dựng một lòng tin vững mạnh vào
Thiên Chúa. Bởi vì, khi có lòng tin vững mạnh, lúc đó ta mới có thể trao phó mọi sự cho
Thiên Chúa và chấp nhận người anh em sống chung trong đời sống cộng đoàn. Đặc biệt,
phải ý thức rằng cộng đoàn này là của Chúa, vì chính Chúa đã quy tụ những con người
khác biệt về văn hoá, địa lý... để cùng với Người làm nên một cộng đoàn hiệp nhất yêu
thương nhau như thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn
nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất
mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau. Chỉ có một thân thể, một
Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một
Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự
trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4, 2- 6).
Đối với thánh Biển Đức, ngài rất chú trọng trong việc giao tiếp hàng ngày của các môn
sinh: “Đàn em hãy kính tron g đàn anh, đàn anh hãy yêu thuo ng đàn em. Về viẹ c xung hô,
không ai đuơc
phép goi
suông tên nguơ i khác. Nhung đàn anh hãy goi nguơ i duơ i là “em”,
còn đàn em phai xung đàn anh là “cha”, đê to lòng kính trong họ nhu cha”.162 Không
những vậy, ngài còn dạy: “Anh em gạ p nhau bất cư ơ đâu, đàn em phai xin đàn anh chúc
lành cho. Khi đàn anh đi qua, đàn em hãy đư ng lên nhuơ ng chỗ cho đàn anh ngồi, và đư ng
tự tiẹ n ngồi khi đàn anh chua bao ngồi, hầu giư đúng nhu lơ i đã chép: “Anh em hãy ân cần
160 Xc. Eymardo An Mai Đỗ O.Cist, Nhân Cách Đời Tu, Nxb Tôn Giáo, 2015, tr. 32.161 Xc. Huấn Thị, Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, số 27.162 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 63, 10-12.
8
tôn kính lân nhau”.163 Trong ca dao, cha ông ta cũng luôn nhắc nhở con cháu rằng: “Lời nói
chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, trong cuộc sống chúng ta hãy biết
kính trên, nhường dưới chẳng phải sẽ sống hoà thuận vui vầy với mọi người chung quanh
hay sao. Cũng vậy, là đan sĩ, sống trong nội vi đan viện, chúng ta sống đời sống cộng đoàn,
mọi thành viên ra vào gặp nhau hàng ngày, nếu chúng ta không có sự tương quan trân
trọng, lễ phép và tạo niềm tin nơi nhau thì cộng đoàn sẽ trở nên gánh nặng cho nhau.
Như vậy, trong đời sống cộng đoàn, chúng ta cần phải có sự trung tín trong đời sống,
trân trọng nhân cách của nhau và sống lễ phép với nhau. Cộng đoàn sẽ trở nên sống động,
vui tươi và trở nên một cộng đoàn sống hiệp thông có ý nghĩa trọn vẹn hơn.
2. Trách Nhiệm Với Cộng ĐoànMỗi thành viên sống trong đời sống cộng đoàn, từ lớn đến nhỏ đều cần phải có
trách nhiệm với cộng đoàn. Sống tinh thần trách nhiệm là phải biết kiến tạo sự hiệp nhất,
có tinh thần lao động cả về trí óc lẫn chân tay và luôn biết dấn thân xây dựng cộng đoàn
với ý thức trách nhiệm.
2.1. Kiến tạo sự hiệp nhấtLinh mục Giuse Đào Trung Hiệu đã cảm hứng viết trong bài hát Không Ai Là Một Hòn
Đảo rằng:“Tôi chỉ thật sự là người nếu tôi sống với anh em tôi. Thế giới này không ai là một
hòn đảo. Loài hoa này không có loài hoa lạc loài”. Đúng vậy, chúng ta hiện hữu trên cuộc
đời là phải có sự tương quan, phải sống trong tương quan, không ai sống cô độc một mình mà
lại cảm thấy hạnh phúc. Hạnh phúc là gì nếu không phải là chúng ta có những mối tương
quan yêu thương, không phải yêu thương bình thường mà là yêu như Chúa yêu (xc. Mt 23, 34
- 40; Lc 10, 25 - 28; Mc 12, 28 - 34). Chúng ta được dựng nên trong kế hoạch yêu thương
của Thiên Chúa nên chúng ta sống là sống cùng, sống với và sống cho mọi người. Sách Công
vụ Tông đồ cho biết rằng thánh Phaolô luôn cho đi chính bản thân mình và ngài mời gọi
chúng ta cũng hãy biết cho đi: “Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người
đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: cho thì có
phúc hơn là nhận” (Cv 20, 35). Cũng vậy, thánh Gioan Tông đồ đã khẳng định: “Thiên Chúa
đã yêu thương chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4, 11). Nếu trong đời
sống cộng đoàn chỉ có sự hợp tác mà không có sự hiệp thông thì sẽ nhanh chóng biến thành
trại lao động hoặc một nhà máy, lúc đó cộng đoàn sẽ có nhiều căng thẳng và xung đột xảy
ra.164
163 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 63, 15- 17.164 Xc. Jean Vanier, nguyên tác: La communauté Lieu du pardon et de la fête, Nxb Fleurus/ Bellarmin; Đời
Sống Cộng Đoàn: Cộng đoàn nơi tha thứ & mừng lễ; chuyển ngữ: Lm Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ, lưu hành nội bộ, tr. 36.
8
Điểm phân biệt giữa cộng đoàn và một nhóm bạn hữu, đó là trong cộng đoàn, chúng
công bố chủ đích và tinh thần hợp nhất; chúng ta biết mình có trách nhiệm với người anh
em của mình và mối dây liên kết đến từ Thiên Chúa. Đây chính là một hồng ân Thiên
Chúa, chính Người đã chọn chúng ta và cùng kêu gọi chúng ta bước vào một giao ước tình
yêu và một mối quan tâm hỗ tương. Một nhóm bạn hữu cũng có thể trở thành một cộng
đoàn, khi mà ý hướng thuộc về lớn mạnh lên, biết cởi mở với tha nhân và bắt đầu cảm thấy
thật sự có trách nhiệm với nhau.165 David Clark viết: “Tôi đã đi đến chỗ tin rằng nếu đánh
mất ý nghĩa thâm thuý của cộng đoàn, con người sẽ tàn lụi và sẽ chết. Cộng đoàn là nền
tảng của xã hội loài người, là chóp đỉnh của việc tương thuộc, là nẻo đường nhanh nhất đi
đến hiệp nhất: là chặng cuối của hành trình”.166
Khi các thành viên của cộng đoàn sống hoà hợp với nhau và những người cùng
Nước Chúa. Là dấu hiệu cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã đến để mạc
khải cho nhân loại biết Thiên Chúa không phải là hữu thể đơn độc, vĩnh hằng và tự
chiêm ngắm chính vinh quang mình; Người không chỉ là Đấng Tạo Hoá lạ lùng của
một vũ trụ kì diệu nhưng đầy đau khổ. Thiên Chúa là một gia đình với ba Ngôi Vị, ba
Ngôi Vị thông hiệp với nhau và tự thông ban cho nhau, Ngôi vị này lên hệ với Ngôi
khác.167 Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho tất cả trở nên một như Chúa Cha ở trong Ngườivà Người ở trong Chúa Cha (xc. Ga 17, 21 - 23).
Đời sống cộng đoàn không phải là một khía cạnh như người ta có thể lầm tưởng,
thân thể khi các thành viên vượt qua từ "cộng đoàn cho tôi" để đi đến "tôi cho cộng đoàn",
cách khác, đó còn là cuộc vượt qua vị kỷ đến yêu thương, từ sự nô lệ cho đến sự tự dodâng hiến trọn vẹn. Như vậy, cộng đoàn là một nhóm người tạo lập với nhau những quanhệ bền vững mà mục đích không phải là một công việc, nhưng là sự gặp gỡ và đón tiếp lẫnnhau; tuy các thành viên cũng hướng về mục đích chung, nhưng căn bản hơn, họ thường
hướng về nhau, và không phải chỉ sống bên nhau mà còn sống với nhau, sống cho nhau.169
165 Xc. Jean Vanier, nguyên tác: La communauté Lieu du pardon et de la fête, Nxb Fleurus/ Bellarmin; Đời Sống Cộng Đoàn: Cộng đoàn nơi tha thứ & mừng lễ; chuyển ngữ: Lm Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ, lưu hành nội bộ, tr. 27- 28.
166 Sđd, tr. 7.167 Xc. .Sđd, tr. 83- 84.168 Xc. Nguyễn Hồng Giáo, Chúa Gọi Tôi Đi Theo Người, Nxb Phương Đông, TPHCM, 2009, tr. 247.169 Xc. Sđd, tr. 248.
ta trao đổi với nhau về những việc chúng ta thuộc về nhau và liên kết với nhau; chúng ta
khổ được đặt vào tâm điểm của đời sống thì cộng đoàn được xem như là dấu hiệu của
nhưng là một yếu tố thiết yếu của đời thánh hiến tu trì.168 Một cộng đoàn chỉ thật sự là
có nghĩa là con tim của từng người đang mở ra cho mỗi thành viên không trừ một ai. Nói
Chúa, được hưởng sự hiện diện của Ngài”.171 Giáo luật 1983 cũng xác quyết rằng: “Đời
8
Sự hiệp nhất trong cộng đoàn tu trì, cần nhắc đến tính đa dạng của các ơn gọi. Tính
đa dạng là một yếu tố không thể thiếu trong một cộng đoàn và cũng không ai giống ai hoàn
toàn. Như thế, sự hiệp nhất đòi hỏi một sự linh động và phải có phương pháp. Hơn nữa,
tính đa dạng cũng là yếu tố để duy trì sự hiệp nhất bởi đơn giản một lẽ, có khác nhau mới
đi đến hiệp nhất, cần đến hiệp nhất. Trong sách Đời Tu Dưới Ánh Sáng Công Đồng
Vaticano II và Giáo Luật nói về việc Giáo Hội xác nhận khả năng trong một dòng tu có thể
có những ơn gọi đặc biệt, sinh ra sự khác biệt giữa các phần tử mà vẫn không làm suy yếu
sự hợp nhất của cộng đoàn. Những thành viên này cũng được liên kết hướng về một ơn gọi
chung, tức là đoàn sủng của dòng, nhưng với những hình thái cụ thể, tuy nhiên tất cả đều
hoạt động vì sứ mạng chung của toàn dòng.
Như một thân cây trổ sinh nhiều cành khác nhau với những đặc điểm riêng, các phần
tử cũng biểu thị sự phong nhiêu của một ơn gọi chung, những đặc điểm ấy đem lại sức
hiệp thông trong Đức Kitô được biểu lộ ra cách bền vững và hữu hình bằng đời sống
chung. Đó là một yếu tố cốt yếu của đời sống cộng đoàn. Điều này được Công đồng
Vaticano II khẳng định: “Là chi thể Chúa Kitô, các tu sĩ hãy mang lấy gánh nặng của nhau
(xc. Gl 6, 2), và trọng kính lẫn nhau trong tinh thần giao hảo huynh đệ (xc. Rm 12, 10).
Thực vậy, khi được tình yêu của Thiên Chúa nhờ Chúa Thánh Thần tràn đầy trong mọi
tâm hồn (xc. Rm 5, 5), cộng đoàn giống như một gia đình thực sự đoàn tụ nhân danh
sống huynh đệ, thích hợp với mỗi tu hội, nhờ đó tất cả các thành viên được hiệp nhất với
nhau trong Đức Kitô như trong một gia đình riêng, phải được xác định thế nào để trở nên
một sự tương trợ lẫn nhau cho tất cả các thành viên trong việc chu toàn ơn gọi của mình.
Như vậy, nhờ sự hiệp thông huynh đệ được bén rễ và được xây dựng trên đức ái, các thành
viên phải trở nên một mẫu gương của sự hoà giải đại đồng trong Đức Kitô”.172
Trong đời sống cộng đoàn, chúng ta phải xác tín rằng sự hiệp thông huynh đệ không
chỉ là phương tiện giúp ta thi hành sứ vụ nào đó, mà còn là nơi Thiên Chúa ngự, nơi mà ta
có thể kinh nghiệm được sự hiện diện bí nhiệm của Chúa Phục sinh. Điều này được thực
hiện nhờ tình yêu hỗ tương của các thành viên trong cộng đoàn, tình yêu được nuôi dưỡng
bởi Lời Chúa và Thánh Thể, được thanh luyện nhờ bí tích Hoà giải, được nâng đỡ nhờ lời
170 Elino Gambari, SMM, JCD, Religious Life According to Vaticano II and The New Code of Canon Law, The Daughters of St. Paul, 1986, bản dịch Việt ngữ: Đời tu dưới ánh sáng Công đồng Vaticano II và Giáo luật, Mathia M. Ngọc Đính chuyển ngữ, quyển I, tr. 276.
171 Công đồng Vaticano II, Sắc Lệnh Về Canh Tân Thích Nghi Dòng Tu - Perfectae Caritatis, số 15.172 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Bộ Giáo Luật 1983, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội 2007, điều 602.
sống cho những ơn gọi đặc biệt và cho sự khác biệt của các phần tử.170 Đối với tu sĩ,
8
nguyện xin ơn hiệp nhất, là một ân huệ Thánh Thần ban cho những ai biết sẵn sàng lắng
nghe Tin mừng với lòng vâng phục. Chính Thánh Thần là Đấng dẫn đưa tâm hồn chúng ta
vào sự hiệp thông với Chúa Cha và với Chúa Con, sự hiệp thông này là nguồn mạch của
đời sống huynh đệ. Nhờ Thánh Thần, các cộng đoàn sống đời thánh hiến được hướng dẫn
trong nỗ lực chu toàn sứ mạng của mình.173
Cũng vậy, trong đời sống đan tu chiêm niệm, việc sống tinh thần hiệp nhất càng cần
thiết hơn đối với các đan sĩ. Nếu trong cộng đoàn mà mỗi đan sĩ sống lầm lũi một mình thì
không khác gì những bóng ma của cộng đoàn. Các đan sĩ phải sống: “Trong mọi hoàn
cảnh, tôi cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích riêng tôi, nhưng cho nhiều người,
ngõ hầu họ được cứu độ” (1Cr 10, 33). Thánh Biển Đức khuyên dạy các môn sinh của
mình hãy
ân cân tôn kính lân
nhau, hêt sư c nhân
naị chiu
đưn g nhưng yêu đuôi xác hôn cu a nhau, thi
đua vâng lơi nhau, đư ng ai tìm theo tu lơị , nhung tốt hon hãy muu ích cho tha nhân, yêu
thuo ng nhau trong tình huynh đẹ thanh khiêt, kính sơ Chúa trong đư c ái, mên yêu viẹ n
phu trong tình mến chân thành và khiêm tốn. Tuyẹ t đối không lấy gì làm hon Chúa Kitô,
nguyẹ n xin Ngài dẫn đua tất ca chúng ta đến cuọ c sống muôn đơi.174 Cũng vậy, cha Biển Đức Thuậntrong Di ngôn đã dạy các môn sinh của mình rằng: “Chúng ta là anh em với nhau, đi đàng
nhân đức như nhau, cho nên phải yêu thương nhau, chẳng những anh em ở một nhà với
chúng ta đã rồi, lại phải yêu hết mọi người. Mà muốn cho được thương yêu anh em, phải ra
khỏi mình là bỏ mình đi, thì mới thương yêu anh em được. Chúng ta hay yêu mình quá, cả
ngày cứ nghĩ đến mình, còn anh em thì không được nghĩ tới. Mình đau chỉ một chút, lấy làm
cả thể lắm; còn anh em đau, mình không lấy làm chi cả, vì chúng ta yêu mình quá”.175 Vì
vậy, trong đời sống đan tu chiêm niệm, các đan sĩ hãy luôn biết kiến tạo sự hiệp nhất với
Chúa, với bản thân và với anh em. Như thánh Phaolô dạy: “Mỗi người đừng tìm lợi ích cho
riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có
những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu” (Pl 2, 4).
2.2. Lao độngLao động là một trong những quy luật thuộc bản tính nhân loại. Chúng ta thấy trong
sách Sáng thế, sau khi thuật lại công việc sáng tạo thế giới, Thiên Chúa đặt con người vào
trong vườn đầy hoan lạc. Con người phải làm gì trong đó? Có phải để sống trong an nhàn
và thưởng ngoạn không? Chắc là không, nhưng để trồng tỉa và coi sóc vườn đó (xc. St 2,
173 Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến - Vita Consecrata, bản dịch của
8
Cha Phan Tấn Thành, Nxb Tôn Giáo, 2014, số 42.174 Xc. Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 72.175 Cha Biển Đức Thuận, Di Ngôn, số 112.
8
15). Vậy thì ngay cả trước khi con người sa ngã, Thiên Chúa đã muốn Adam làm việc, bởi
vì lao động phát huy những khả năng và nghị lực của con người.176 Đi tìm những gì dễ
chịu và sống thoái mái cách đê hèn là đi ngược với chương trình của Thiên Chúa, và một
nếp sống tương tự như thế không thể đòi Chúa ghé mắt thương ban những đặc ân của Ngài
cho ta được. Thánh Phaolô nói: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn! Thế mà chúng tôi
nghe nói: trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì
cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những
người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân. Phần anh em, hãy làm việc thiện,
đừng sờn lòng nản chí!” (2 Tx 3, 10b - 13).
Bất cứ ai thực sự nghèo khổ, đều không thể có tiền bạc mà không phải lao động,
không thể sống mà không phải làm gì cả và chỉ sống dựa vào người khác. Trong đời sống
thánh hiến, ta phải thừa nhận sự hiện diện khuấy đảo của những con người ăn bám, sống
nhờ người khác. Việc chúng ta chia sẻ mọi của cải có khi lại dẫn đến việc thiếu trách
nhiệm trong lao động, sống lười biếng và ăn bám, cũng như vô trách nhiệm trong việc chia
sẻ gánh nặng với người khác. Do đó, lao động đã được nhấn mạnh như một yếu tố quan
trọng trong đời sống thánh hiến, đặc biệt là đời sống đan tu chiêm niệm.177
Trong Tông huấn Evangelica Testificatio của Đức Giáo hoàng Phaolo VI đã rất chú
trọng vấn đề này: “Các con cũng gắng biết nghe thấy lời than vãn của biết bao con người
bị cuốn theo cơn lốc của lao động để kiếm lời, để hưởng khoái tiêu thụ, do đó bắt buộc con
người đôi khi phải làm công việc trái nhân đạo. Một khía cạnh thiết yếu của đức khó
nghèo nơi các con là chứng minh ý nghĩa nhân bản của việc lao động, phải được thực hiện
trong sự tự do của lý trí và đem lại cho bản tính của lao động tính cách mưu sinh và phục
vụ. Công Đồng đã chẳng nhấn mạnh rất đúng lúc, là các con cần phải tuân theo “luật
chung phải làm việc” đó sao? Làm việc để mưu sinh cho các con, mưu sinh cho anh chị em
các con, để giúp đỡ những người nghèo, đó là bổn phận của các con. Nhưng những hoạt
động của các con không được trái với ơn kêu gọi của Dòng các con, cũng không thể cho
phép các con thường xuyên làm những việc thay thế nhiệm vụ riêng biệt của Dòng các con.
Những hoạt động ấy cũng không được lôi cuốn các con, bất cứ cách nào, đến tình trạng
tục hoá, gây thiệt hại cho đời sống tu trì của các con. Vậy các con hãy lưu ý đến tinh thần
176 Xc. Dom Columba Marmion, Chúa Kitô Lý Tưởng Đan Sỹ; Linh đạo đan tu, chuyển ngữ: Châu Sơn, tr. 128.177 Xc. Jose Cristo Rey Garcia Paredes. CMF, Teologia de la Vida Religiosa, bản dịch Việt ngữ: Đời Tu Hiệp
Thông Và Cộng Đoàn, Chuyển ngữ Lm. Giuse Đỗ Ngọc Bảo, OP, 2008, tr. 140 – 141.
8
thúc đẩy các con làm việc: thật là một thất bại ghê gớm, nếu các con tưởng mình “có giá
trị” chỉ vì được thưởng công do những công việc trần tục đem lại”.178
Khi mọi thành viên đều biết đóng góp vào kinh tế của cộng đoàn qua việc lao động
của mình, thì toàn thể cộng đoàn được hưởng lợi và thậm trí còn cho phép cộng đoàn chia
sẻ với tha nhân nhiều hơn nữa. Ai cũng ý thức được điều này thì sẽ biến lao động của mình
thành một dụng cụ yêu thương mọi người và khiến cho lao động có thêm giá trị hơn.179
Chúa Giêsu, mặc dù đã ý thức được thần tính của mình, nhưng Ngài vẫn sống ròng
rã ba mươi năm trong lao khổ âm thầm tại xưởng thợ nghèo nàn. Các cuộc du hành truyền
giáo suốt đời công khai của Ngài là gì, nếu không phải là lao nhọc liên miên, không ngừng
dâng lên để danh Cha được vinh hiển và mưa phần rỗi cho các linh hồn. Các đan sĩ phải
thực hiện cách hoàn hảo chương trình của cuộc đời kitô hữu mà chính Chúa Kitô là tấm
gương nguyên thuỷ và đích thực, đan sĩ cần phải dành một phần quan trọng của đời mình
cho việc lao động. Việc ấn định hình thức và đối tượng lao tác có nhiều, cứ theo sát nghĩa
Tu luật của thánh Biển Đức, thì thời giờ của các đan sĩ ngoài các giờ thần tụng, đều được
dùng vào việc tay chân hay việc đọc sách.180
Theo thánh Biển Đức có hai loại lao động: là trí óc và chân tay.
Lao động bằng trí óc: Thánh Biển Đức đề cao loại lao động này, vì ngài khuyên nhủ
anh em phải đọc sách mỗi ngày.181 Nhờ lao động bằng trí óc của các đan sĩ mà ngày nay
nhân loại được hưởng một kho tàng tri thức, nhất là họ đã thu nhập các pho sách từ rất lâu
đời và được bảo quản cẩn thận của các đan viện thời cổ đại. Đối với nhân loại nói chung, và
các đan sĩ nói rêng, những pho sách họ để lại là tài sản vô cùng quý giá của nhân loại.182
Tinh thần này vẫn được nối dài cho đến ngày nay, ngay trong linh đạo hội dòng Xitô
Thánh Gia Việt Nam rất chú trọng đến vấn đề này. Học vấn là một phương tiện cần thiết
giúp đan sĩ đạt tới trưởng thành nhân bản và giáo lý. Vì thế, đan sĩ suốt đời phải học hỏi
Kinh Thánh, thần học và các môn chuyên biệt hữu ích cho đời đan tu.183 Việc học hành
không những là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ. Vì thế, anh em hãy lợi dụng những phương
thế sẵn có để học hỏi và trau dồi kiến thức trong “Trường Học Phụng Sự Thiên Chúa”. Nhờ
đó, anh em có thể sống đời đan tu một cách sung mãn hơn, đồng thời có khả năng chu
toàn sứ mạng của Hội
178 Đức Phaolo VI, Tông huấn Chứng Tá Phúc Âm – Evangelica Testificatio, ngày 29.06.1971, số 20.179 Xc. Jose Cristo Rey Garcia Paredes. CMF, Teologia de la Vida Religiosa, bản dịch Việt ngữ: Đời Tu Hiệp
Thông Và Cộng Đoàn, Chuyển ngữ Lm. Giuse Đỗ Ngọc Bảo, OP, 2008, tr. 141.180 Xc. Dom Columba Marmion, Chúa Kitô Lý Tưởng Đan Sỹ; Linh đạo đan tu, chuyển ngữ: Châu Sơn, tr. 129- 130.181 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 38.182 Xc. Lm. Toma Thiện Lê Thanh Các O.S.B, Đan Tu Sử, lưu hành nội bộ, tr. 65.183 Xc. Hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Hiến Pháp, số 128- 129.
8
dòng một cách hoàn hảo.184 Là đan sĩ chiêm niệm, nếu có tinh thần học hỏi, trau dồi tri thức
sẽ là hành trang giúp đan sĩ có thể sống một cách viên mãn đời tận hiến cho Thiên Chúa
trong ơn gọi chiêm niệm, cũng như sống tình huynh đệ cách xác tín hơn.
Lao động bằng chân tay: Lao động chiếm một vị trí đặc biệt trong đời sống đan tu.
Lao động trước hết không chỉ để sinh sống, nhưng còn mang ý nghĩa khác cao hơn, đó là
phương thế giúp anh em hãm mình, chia sẻ với anh em đồng bào đói nghèo, giúp đan sĩ
quân bình, thăng tiến trong đời sống thiêng liêng và nhất là để tôn vinh Thiên Chúa. Mặt
khác, lao động còn biểu lộ sự hiệp thông bác ái huynh đệ và sự cộng tác giữa anh em với
nhau trong đời sống cộng đoàn. Bởi vậy mà cha Biển Đức Thuận đã dạy:“Lao động chân
tay là cốt yếu của đời sống hãm mình. Bởi đó hễ mạnh khoẻ, dù ở chức vụ nào, ai cũng
phải tham gia, trừ khi vì lý do xác đáng và đặc biệt mới được chuẩn chước”.185 Lao động
chân tay có giá trị hơn các yếu tố khác, vì lao động vừa giúp nuôi sống con người, gia
đình, xã hội, được Chúa Kitô nâng cao để làm sáng danh Chúa. Thánh Biển Đức đã dạy
các môn sinh của mình về cách thức làm việc thế nào để làm vinh danh Thiên Chúa. Chẳng
hạn với những anh em thạo nghề trong đan viện, ngài dạy rằng: “Nếu trong đan viện có
anh em thạo nghề, họ hãy hành nghề với tất cả lòng khiêm tốn, miễn là viện phụ cho phép.
Nếu ai trong họ kiêu căng cậy mình biết nghề, tưởng mình làm lợi cho đan viện, người ấy
sẽ bị ngưng việc, không được làm nữa, trừ khi đã khiêm tốn và viện phụ truyền làm lại”186.
Chính lao động cũng giúp mỗi người chúng ta sẽ đỡ trở thành gánh nặng cho anh em, cho
cộng đoàn: “Chúng tôi đã chẳng ăn bám ai, trái lại đêm ngày đã làm lụng khó nhọc vất vả,
để khỏi nên gánh nặng cho người nào trong anh em” (2 Tx 3, 8).
Thói lệ của Hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam cho biết: “Theo guo ng Thánh Gia và
các tổ phu, anh em chuyên cần lao đọ ng để tham gia chuo ng trình sáng tao và cư u chuọ c,
thánh hóa ban thân, đem lai thế quân bình cho đơ i đan tu, đồng thơ i nuôi mình và góp
phần xây dưng xã họ i cung nhu công cuọ c truyền giáo. Anh em đư ng ham mê công viẹ c
quá đến nôi xao lãng đơ i sống đan tu. Hãy sắp xếp công viẹ c thế nào đê tham dự đầy đu
các sinh hoat chung trong cọ ng đoàn”187. Hiến pháp cũng khẳng định: “Lao tác vốn tự nó
đặc biệt trong đời sống đan tu, là tham dự vào công trình sáng tạo và cứu chuộc. Tu sĩ hội
dòng chúng ta noi gương Thánh Gia và các đấng tổ phụ làm việc để nuôi mình và giúp
184 Hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Thói Lệ, số 202.185 Cha Biển Đức Thuận, Di Ngôn, số 92.186 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 57, câu 1- 3.187 Hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Thói lệ, số 216.
8
công cuộc truyền giáo. Moi tu si, nhât là anh em thao
nghề, hãy cha m chi làm viẹ c viẹ n
phụ chi đinh trong tinh thần khiêm tốn và phuc vu”.188
Cha Biển Đức Thuận còn dạy: “Theo gương Chúa Cứu Thế, các tu sĩ lao động như
những người nghèo. Sống cuộc sống trong cảnh nghèo để đền tội, để toả hương thơm
của Chúa Kitô, và để có khả năng dùng phần dư mà giúp đỡ người đang hoạt động cho
phần rỗi của những người chưa nhận biết Chúa”.189 Làm việc là thi hành việc thờ
phượng Chúa cũng như để hoàn thành công cuộc sáng tạo của Ngài, nhất là kiếm của
nuôi bản thân hầu có thể gọi là đan sĩ đích danh. Thánh Biển Đức mạnh mẽ hơn rằng:
“Ở nhưng là thù địch của linh hồn, thế nên anh em phải có giờ làm việc chân tay, có giờ
đọc sách… chỉ khi nào đan sĩ sống bằng thành quả lao động của mình như cha ông ta và
các Tông đồ, ta mới thật là đan sĩ”.190
Khi nói tới đời sống đan tu chiêm niệm của Hội dòng Xitô không thể không nói tới
khẩu hiệu “Ora et Labora” (Lao Động và Cầu Nguyện), chính tinh thần này đã giúp các đan
sĩ gặt hái được nhiều thành quả cho bản thân, cho Giáo hội và xã hội. Khi các đan sĩ chu
toàn phận vụ: cầu nguyện, học hành, lao động thì đó cũng là phương thế để họ sống đời
sống thánh thiện, vì cầu nguyện giúp họ có ơn Chúa, việc học hành giúp họ hiểu và sống
đúng với linh đạo. Vì vậy, anh em hãy phục vụ lẫn nhau và đối với anh em yếu sức hãy cho
người phụ giúp để họ chu toàn công tác mà không buồn phiền.191 Thánh Phaolô cũng nói:
“Anh em hãy lấy đức ái mà phục vụ lẫn nhau” (Gl 5, 13). Ngài còn nói thêm: “Mỗi người
chúng ta hãy chiều theo sở thích kẻ khác, vì lợi ích của họ và để xây dựng” (Rm 15, 2).
Như vậy, lao động là điều chân chính và là phương thế giúp đan sĩ trở nên hoàn thiện
hơn. Đặc biệt, lao động giúp xây dựng đời sống cộng đoàn cách chân thực hơn qua sự cố
gắng và hy sinh của từng thành viên. Cũng qua lao động mà đời sống huynh đệ được chia
sẻ và hiệp thông hơn, cộng đoàn ngày một thăng tiến hơn trên con đường trọn lành.
2.3. Dấn thân xây dựng cộng đoàn với ý thức trách nhiệmCông đồng Vaticano II nhấn mạnh đến chiều kích Giáo hội của các lời khuyên Phúc
âm. Chính Đức Giêsu, trong Tin mừng, cho thấy rằng mục tiêu của các lời kêu gọi vào đời
thánh hiến là thiết lập vương quốc: sống độc thân tự nguyện vì Nước Trời (Xc. Mt 19, 12).
Vì thế, theo Công đồng, các tu sĩ có trọng trách và nghĩa vụ phải “làm việc trên khắp mặt
đất” để củng cố và mở rộng vương quyền của Chúa Kitô. Trong muôn vàn hình thức phục
188 Hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Hiến Pháp, số 131- 132.189 Cha Biển Đức Thuận, Di Ngôn, số 106.190 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 48.191 Xc. Sđd, chương 35.
8
vụ mà Giáo hội đang cần, luôn có chỗ cho tất cả mọi người: và mỗi người thánh hiến có
thể và phải dấn thân với tất cả sức lực mình trong công trình xây dựng và mở rộng vương
quyền Chúa Kitô trên mặt đất, tuỳ theo khả năng và đặc sủng được ban cho mình, trong sự
hài hoà khéo léo với sứ vụ của mỗi Hội dòng.192
Trình thuật Tin mừng thứ tư, thuật lại cho ta về việc Chúa Giêsu rửa chân cho các
môn đệ trong bữa Tiệc Ly (Ga 13, 4 -15). Khi đảo ngược mối qua hệ chủ-tớ một cách chưa
từng thấy, Đức Giêsu đã mạc khải trước đặc tính cứu độ trong cuộc tử nạn của Ngài: trong
cuộc tử nạn này, Đức Giêsu sẽ tuôn đổ chính sự sống của Ngài cho họ bằng cách làm một
cử chỉ phục vụ cao cả chưa từng có trong lịch sử nhân loại (xc. Pl 2, 5 - 11). Sau khi làm
xong cử chỉ khiêm hạ đối với những kẻ chậm hiểu đi theo Ngài, Đức Giêsu nói: “Anh em
có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”,
điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà
còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương
cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 12 - 15).193 Cử chỉ
rửa chân diễn tả rõ ràng: tình yêu phục vụ của Đức Giêsu giúp chúng ta bước ra khỏi tính
tự kiêu và làm cho chúng ta thanh sạch trước mặt Thiên Chúa.194
Về phần Đức Giêsu, Ngài ý thức rất rõ sự đối chọi giữa tình yêu thương muốn ta
phục vụ kẻ khác và lòng ham mê quyền lực đẩy người ta vào tình trạng nô lệ. Chính vì lý
do này mà Ngài đả kích giới lãnh đạo tôn giáo vì họ làm cho luật trở thành vị luật và giữ
luật chỉ như một phương tiện để tìm kiếm uy thế và lời ca tụng của dân chúng. Ngài nói với
đám đông, gồm cả các môn đệ đừng theo gương họ:“Vì họ nói mà không làm. Họ bó
những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón
tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật
lớn, mang những tua áo thật dài” (Mt 23 , 3 - 5; Lc 11, 46; Mc 2, 27).195
Nơi Đức Giêsu, ta còn thấy sự lựa chọn hạ mình này có tính chất nghiêm túc và cơ
bản. Không phải hạ mình theo kiểu mát mình thì làm, lúc này lúc nọ, như một ông vua
thỉnh thoảng vi hành làm cho thần dân điều gì đó. Đức Giêsu đã trở thành thấp hèn, như
Ngài đã trở thành xác phàm, tức là một cách bền vững, tới cùng. Ngài đã lựa chọn đi vào
sống như những người hèn mọn, khiêm nhường. Khi có “lòng hiền hậu và khiêm nhường”
192 Xc. Lm. Phan Tấn Thành OP, Theo Chúa Kitô (Những văn kiện đời tu) tập II, Nxb Tôn Giáo, 2015, tr. 70- 71.193 Xc. Briam Grenier CFC, Đức Giêsu Nhà Giáo Ưu Việt, Câu lạc bộ dịch thuật ĐCV Thánh Giuse Hà Nội
2009, Nxb Tôn Giáo, tr. 143.194 Xc. Joseph Ratzinger ĐGH Beneđicto XVI, Đức Giêsu thành Nazareth, Phần II: Từ lúc vào Giêrusalem
cho đến Phục sinh, Nxb Tôn Giáo, 2011, tr. 76.195 Xc. Briam Grenier CFC, Đức Giêsu Nhà Giáo Ưu Việt, Câu lạc bộ dịch thuật ĐCV Thánh Giuse Hà Nội,
2009, Nxb Tôn Giáo, tr.144-148.
8
cũng có nghĩa là đi vào hàng dân nghèo hèn của Thiên Chúa. Chúa Giêsu làm thế không vì
ai áp đặt, nhưng là do tự ý Ngài. Một lần, các môn đệ của Ngài tranh luận với nhau xem ai
là người lớn nhất. Nghe thế, Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Ai muốn làm người đứng
đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9, 35). Muốn làm
đầu, phải làm người rốt hết, tức là phải đi xuống, hạ mình xuống. Liền sau đó, Chúa cho họ
hiểu làm người rốt hết có nghĩa gì? Có nghĩa là phục vụ mọi người như chính cuộc đời của
Ngài: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mt
20, 28). Đây cũng là điều mà Hội thánh trình bày cách rõ ràng trong Giáo lý: Đời sống tận
hiến qua việc tuân giữ các lời khuyên Phúc Âm, là một lối sống bền vững, nhờ đó, các tín
hữu theo sát Đức Kitô, dưới tác động của Thánh Linh, tự hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa
như Đấng đáng mến yêu tột bậc, ngõ hầu một khi đã hiến thân, với một danh nghĩa mới và
đặc biệt, cho việc tôn vinh Thiên Chúa, cho việc kiến thiết Giáo hội và cho phần rỗi thế
giới, họ nhắm tới đức ái hoàn thiện trong việc phục vụ Nước Chúa, và trở thành dấu chỉ
rực rỡ trong Giáo hội tiên báo vinh quang trên trời.196
Trong một cộng đoàn huynh đệ chân chính, mỗi phần tử đều phải có tinh thần đồng
trách nhiệm đối với sự trung thành của những người khác. Mỗi người đóng góp cho bầu
khí thanh bình của đời sống chia sẻ, của sự hiểu biết và sự trợ giúp hỗ tương, mỗi người
lưu tâm đến những lúc chán nản, đau khổ, cô đơn hay những lúc thiếu sự động viên nơi
những người khác; mỗi người sẵn sàng nâng đỡ những ai bị buồn sầu vì những khó khăn
và thử thách. Như vậy, đời sống huynh đệ cộng đoàn mới là dấu chỉ của lòng thành tín
vĩnh tồn nơi Thiên Chúa, trở nên cột trụ chống đỡ đức tin và sự trung tín của các Kitô hữu
đang bị nhận chìm giữa bao biến cố cuộc đời.197 Huấn thị về Quyền Bính và Vâng Phục đã
nói: “Cộng đoàn là những gì các phần tử làm nên. Vì thế, kích thích và thúc đẩy sự cống
hiến từ mọi người để mỗi người đều cảm thấy bổn phận phải cống hiến sự sáng tạo, năng
lực và đức ái của mình sẽ là nền tảng. Thật thế, tất cả những năng lực được củng cố và
đem lại với nhau trong dự phóng cộng đoàn, thúc đẩy và tôn trọng chúng”.198
Những đan sĩ hiến dâng cho Thiên Chúa không gì khác hơn là tuân giữ các lời
khuyên Phúc Âm. Ngang qua việc bỏ đi con người cũ, mặc lấy con người mới qua việc
thực thi tốt đời sống chiêm niệm, sống thân tình, kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Tuy
nhiên, hy tế tình yêu của các đan sĩ ngoài việc tận hiến cho Thiên Chúa, còn phải dấn thân
và hiến thân mình cho anh em trong đời sống đan tu mà mình đã chọn lựa. Để đáp lại lời
196 Xc. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Bộ Giáo Luật 1983, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội 2007, điều 573 §1.197 Xc. Huấn Thị, Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, số 57.198 Huấn Thị Về Quyền Bính và Vâng Phục, Thánh Bộ các tu hội dòng tận hiến và các tu đoàn Tông đồ,
chuyển ngữ, Nt Maria Trần Thị Sâm, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội 2009, số 20c.
9
mời gọi của Chúa Giêsu: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã
hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Khi tuyên khấn, đan sĩ tự nguyện,
can đảm nói lên quyết tâm của mình là: giết chết con người cũ, mặc lấy con người mới
trong Đức Kitô để phục vụ Chúa và anh em.
Sự dấn thân và hy sinh tính mạng của các đan sĩ không đơn thuần được biểu lộ qua
hành động tử đạo, chết thay cho người khác như thánh Kolbe, nhưng là một cuộc dấn thân,
chết dần chết mòn qua những hy sinh mà đan sĩ lãnh nhận theo tiếng gọi của Thầy Giêsu:
“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Do
đó, “Đời đan tu cũng là một cuộc tử đạo liên lỉ qua việc bỏ mình vác thập giá theo chân
Chúa”.199 Như thế, đan sĩ từ bỏ chính mình, sống âm thầm trong đan viện là một sự điên rồ
đối với người đời: Bởi họ đã khước từ mọi quyền lợi của một con người qua lời khấn khó
nghèo; họ bỏ đi quyền tự do qua lời khấn vâng phục; họ đánh mất tình yêu đôi lứa, trai gái,
nam nữ qua lời khấn khiết tịnh; họ tự nguyện kiên định trong nếp sống đan tu và sống chết
với anh em trong đan viện mình khấn qua lời khấn vĩnh cư; họ không được giẫm chân tại
chỗ, sống ù lì với những tính mê nết xấu của mình, nhưng phải không ngừng cố gắng vươn
lên mỗi ngày để đạt tới đức ái hoàn hảo qua lời khấn canh tân.200
Các đan sĩ đã noi gương Đức Kitô trong tinh dấn thân phục vụ vô vị lợi trong hân
hoan, phục vụ không một chút so đo, tính toán hơn thiệt. Đặc biệt, khi đan viện xem ra
bị sa sút thì cha Biển Đức Thuận khuyên dạy con cái mình phải hãm mình, cầu xin Chúa
ban lại cho sự sốt sắng, để làm gương cho kẻ khác. Nếu mình đã làm hết sức, vẫn thấy
chưa được việc chi, thì chớ ngã lòng, hãy cứ một mực làm như vậy mà đợi cho đến thời
Chúa muốn. Đừng có ở như kẻ hễ thấy nhà mình sút kém, lại chiêm bao, muốn đi dòng
khác.201 Trong tình huynh đệ, hãy tha thứ và mang lấy gánh nặng cho nhau, hãy quan tâm
đến anh em trong cộng đoàn và hãy giữ đúng vị trí, trách nhiệm của mình và hãy xắn tay
lên cùng chia sẻ gắng nặng của anh em, góp một bàn tay dựng xây cộng đoàn. Vì đan sĩ
được mời gọi đến với nhau trong ơn gọi và sống trong cộng đoàn không phải là để hơn
thua nhau, mà là để cùng nhau xây dựng.
Như vậy, mỗi đan sĩ cần phải có tinh thần trách nhiệm để xây dựng cộng đoàn. Nếu
không có trách nhiệm với cộng đoàn thì chúng ta sẽ dễ trở nên ù lì với tình huynh đệ. Lúc
đó, đời sống cộng đoàn sẽ trở nên cô quạnh, ai biết người đó. Để có tinh thần trách nhiệm
với cộng đoàn, đòi buộc mỗi thành viên phải có sự yêu mến. Bởi vì, yêu mến là điều kiện
199 Xc. Hội dòng Xitô Thánh Gia Việt nam, Các giờ kinh phụng vụ, Phần chung và lễ riêng, 2010, tr. 76.200 Xc. Hội dòng Xitô Thánh Gia Việt nam, Hiến Pháp, số 94-106.201 Xc. Cha Biển Đức Thuận, Di Ngôn, số 142.
9
tối ưu để được giao trách nhiệm. Như thánh Phêrô được Chúa Giêsu trao Hội thánh của
Ngài khi Ngài hỏi Phêrô đến ba lần rằng: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến
thầy không?” Cả ba lần Phêrô đều khẳng định rằng: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu
mến Thầy” (Ga 21, 15- 18). Cũng vậy, các đan sĩ cần phải có sự yêu mến Chúa, yêu mến
anh em, yêu mến cộng đoàn thì mới chu toàn mọi trách vụ trong tinh thần trách nhiệm.
3. Các Nhân Đức Cần Thiết Trong Đời Sống Cộng Đoàn
3.1. Hiền lành và khiêm nhườngSống chung với nhau cần phải hiền lành và khiêm nhường, vì nó là hai đức tính cần
thiết trong bậc tu trì. Gương mẫu cho chúng ta về hai nhân đức này là Chúa Giêsu. Vì thế,
chúng ta cùng lật lại những trang Tin mừng xem Người đã giảng dạy và thực hành hai nhân
đức này như thế nào. Sau đó, chúng ta tìm ra những cách thức xứng hợp và cụ thể để sống
hai nhân đức này trong đời sống chung.202
Trước hết, về lời giảng dạy và thái độ hiền lành cũng như khiêm nhường của Chúa
Giêsu, sách Tin mừng nói với chúng ta: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học
gương tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 29). Ách là một cái gì nặng
nề khó chịu đè lên người hay lên vật như ách nô lệ, ách thực dân, ách phong kiến, ách độc
tài, hoặc ách trâu, ách bò... Nhưng tại sao Chúa lại dùng ách để nói về mình. Chúa biết ách
là một cái gì nặng nề khó chịu. Ách của Chúa là những lời giáo huấn và những đòi hỏi của
Người trong phạm vi đức tin và luân lý như:“Anh em đã nghe Luật dạy rằng: yêu bạn ghét
thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: phải yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh
em” (Mt 6, 43 - 44). Mang lấy ách của Chúa là mang lấy những đòi hỏi của đức mến
không vị lợi, không theo lối thông thường của người ta. Nhưng lạ lùng thay! Khi mang
những cái ách ấy, không những không làm người ta thấy nặng nề mà lại làm cho người ta
thấy ách ấy của Chúa thật dịu êm. Cái gì làm cho ách của Người ra êm, nếu không phải là
tình yêu, không phải là sức mạnh của ơn Người cảm hoá chúng ta, làm cho chúng ta dám
tình nguyện hy sinh chấp nhận gian khổ và cuối cùng ban cho chúng ta niềm vui chiến
thắng.203 Học gương Chúa Giêsu vì Chúa hiền hậu và khiêm nhường (xc. Mt 11, 29). Chúa
hiền hậu đến mức Người không nỡ đạp cây sậy đã ngả nghiêng, dập tắt tim đèn còn bốc
khói (xc. Is 42, 3). Đó chính là cử chỉ và thái độ của người hiền hậu, không nỡ mạnh tay,
không dám nặng lời. Một trường hợp khác chứng tỏ Chúa Giêsu thật hiền lành là khi
Người quở trách ông Phêrô và ông Gioan, khi hai ông này muốn dùng lửa từ trời thiêu đốt
202 Xc. Lm. Andre Đỗ Xuân Quế O.P, Sống Đời Thánh Hiến, Nxb Tổng Hợp TPHCM, 2007, tr. 41.203 Xc. Sđd, tr. 42.
9
một làng của người Samari, vì dân làng này đã không muốn tiếp đón Người (xc. Lc 9, 52 -
56), hoặc khi Người bảo ông Phêrô xỏ gươm vào bao, sau khi ông đã chém đứt tai phải của
người đầy tớ vị thượng tế trong vườn Gietsimani (xc. Ga 18, 10 - 11). Như thế là Người
không chấp nhận các hành vi bạo lực. Còn về cử chỉ khiêm nhường của Chúa thì rất nhiều,
như cấm các Tông đồ cũng như dân chúng không được nói cho ai biết những việc lạ Người
đã làm, hoặc khi người ta muốn tôn Người lên làm vua, Người đã ẩn mặt đi. Người không
ưa thói giả hình kiêu ngạo của nhóm Pharisieu. Người dùng bữa với những người tội lỗi tại
nhà ông Lêvi (xc. Lc 5, 29 - 32). Người dạy phải ăn ở khiêm nhường, vì “Ai tôn mình lên
sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14, 11). Trong mọi việc như bố
thí, cầu nguyện, ăn chay, Người đều dạy phải làm cách kín đáo, đừng có phô trương (xc.
Mt 6, 1- 6. 6 -18). Người yêu quý trẻ em (xc. Mt 19, 14 - 15) và đối xử đặc biệt với những
người hèn kém hay ngang tàng tội lỗi (xc. Mc 12, 43; Lc 21, 3; Ga 8, 11).204 Đó là gương
hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu. Còn bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta áp
dụng gương đó trong đời sống đan tu như thế nào?
Về đức hiền lành, chúng ta sẽ cố nhịn những cái khó chịu do mắt thấy tai nghe. Một câu
nói ngang, một lời mỉa mai châm chọc, bóng gió xa gần, một thái độ khoe khoang tự phụ, một
câu nói khoác lác, một thái độ ngang bướng ngạo ngược, những lời chê bai trách móc...Tất cả
những cái đó, có thể nói các tu sĩ thường gặp thấy trong đời sống hàng ngày. Tất cả những cái
đó điều làm cho ai nấy đều bực mình khó chịu, muốn phản ứng lại. Người nóng tính thì nói
toáng lên, người kém nhân đức thì làm dữ, người hiền thì làm thinh, chịu đựng hay bỏ qua,
hoặc có nói thì đợi dịp thuận tiện và dùng lời lẽ ôn tồn hoà nhã mà nói. Thông thường là vấn
đề tâm tính. Có người dễ tính, có người khó tính, có người hiền lành, có người nóng nảy. Ở
đâu và bao giờ cũng vậy. Còn cao hơn là vấn đề nhân đức. Đã là nhân đức thì phải tập luyện
lâu ngày và chịu khó mới được. Vì thế, phải là người nhân đức mới có thể ăn ở hiền lành, chịu
đựng và tha thứ cho người khác. Nếu chẳng may mình thuộc loại người nóng tính, dễ gây
buồn phiền cho người khác thì phải coi chừng, thong thả rồi hãy nói, đợi một chút rồi hãy
phản ứng, đừng vội phản ứng ngay theo cảm tính tức thời. Đối với người nóng tính thì tốt hơn
cả là hãy làm thinh, đợi cho qua cơn nóng rồi hãy nói, hãy làm. Tính nóng hay đi đôi với tính
giận. Giận cũng là khuyết điểm làm cho các mối liên lạc của chúng ta với người khác ra nặng
nề và căng thẳng. Làm thế nào đây? Hãy tự bảo mình rằng tôi nghĩ như thế chưa chắc đã đúng
và không hẳn người ta có ý như vậy. Nếu tôi
204 Xc. Lm. Andre Đỗ Xuân Quế O.P, Sống Đời Thánh Hiến, Nxb Tổng Hợp TPHCM, 2007, tr. 43.
9
đợi và tìm hiểu cho kĩ, chắc chắn sự việc sẽ khác. Có lẽ tôi đã chủ quan và chỉ nhìn một phía mà
thôi. Tôi cần phải có thời gian và tìm hiểu người ta mới thấy rõ vấn đề được.205
Thánh Phaolô khuyên: “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng
khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình,
nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm
tình như chính Đức Kitô Giêsu” (Pl 2, 3 - 5). Những cách thế luyện tập đức khiêm nhường
đó là ưa thích điều đơn sơ tầm thường, trọng kính người khác, thành thật, tránh khoe
khoang quảng cáo bản thân mình và sống cách ẩn dật.
Thánh Biển Đức dành hẳn chương 7 trong bộ Tu luật để nói lên 12 bậc khiêm
nhường mà đan sĩ phải có, đặc biệt trong tương quan tình huynh đệ thì bậc khiêm
nhường thứ 12 nói đến đó là: “Không những trong lòng mà cả phong cách bên ngoài
đan sĩ đều tỏ ra khiêm tốn trước mặt mọi người, nghĩa là trong khi cử hành Thần Vụ,
nơi nhà nguyện, trong đan viện, ngoài vườn, trên đường đi, ở ngoài đồng hoặc bất cứ
ngồi đâu, đi đâu, đứng đâu, chỗ nào đầu cũng cúi, mắt nhìn xuống đất, bao giờ cũng
đinh ninh mình là phạm nhân đầy tội lỗi, dường như bị điệu ra trước toà án kinh
khủng, lòng hằng thầm thĩ lời người thu thuế trong Phúc Âm, mắt nhìn xuống đất và
thân thưa: “Lạy Chúa, con là kẻ có tội, chẳng đáng ngước mắt nhìn trời”. Hay nói
cùng với vị ngôn sứ: “Con uốn thân hạ mình luôn mãi”.206 Đan sĩ sống khiêm nhường
không chỉ ở nội tâm mà cần những cử chỉ bên ngoài. Biết kính trọng người khác, dù
người ta ít tuổi, kém tài hay kém đức hơn mình và đặc biệt tôn trọng quyền bính của
người có trách nhiệm trong cộng đoàn, dù người bất tài hay có nhiều khuyết điểm.207
Cha Biển Đức Thuận cũng dạy các đan sĩ về khiêm nhường, vì đức khiêm nhường là
nền tảng của đời sống Kitô hữu. Kẻ khiêm nhường thì được Chúa thương và được ban
muôn ơn lành. Cho nên, sự khiêm nhường là bằng lòng chịu lấy hết mọi nỗi vui buồn
Chúa gửi đến cho chúng ta. Kẻ khiêm nhường thì chi cũng được, việc chi cũng xong; bữa
nay được nhắc lên thì cũng được, đến mai lại bị hạ xuống cũng vâng, chi cũng vâng hết.208
Cuối cùng, về đức khiêm nhường, chúng ta cần phải ở đúng chỗ của mình với những
cái hay cái dở và những giới hạn của bản thân. Hay thì nhận rồi quy về Chúa, còn dở thì
chịu và tìm cách sửa chữa. Trong cuộc sống cộng đoàn, mỗi người hãy ở chỗ của mình và
bằng lòng nhường phần hơn cũng như vinh dự cho người khác. Đừng tranh giành những
cái hư danh làm chi. Tất cả những gì mình làm chỉ nhắm ích chung để tôn vinh danh Chúa
205 Xc. Lm. Andre Đỗ Xuân Quế O.P, Sống Đời Thánh Hiến, Nxb Tổng Hợp TPHCM, 2007, tr. 43- 45.206 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 7, câu 62- 66.207 Xc. Lm. Andre Đỗ Xuân Quế O.P, Sống Đời Thánh Hiến, Nxb Tổng Hợp TPHCM, 2007, tr. 52.208 Xc. Cha Biển Đức Thuận, Di Ngôn, số 124.
9
và mưu ích cho người chung quanh. Như vậy, mình sẽ được yên tâm, không phải lo đến
chuyện người ta nghĩ về mình thế nào, mình có được chấp nhận hay không?209
Tóm lại, người hiền lành thì nhịn nhục và chịu đựng, tránh gây khó dễ, làm cực lòng
người khác; người khiêm nhường thì không tìm vinh dự cho mình mà quy hướng thành
công cũng như tiếng khen về Chúa; và bằng lòng chịu những sự thiệt thòi cho người khác
được vẻ vang, lại không tìm cách thắng vượt hay nổi hơn người, mà chỉ muốn âm thầm,
kín đáo, không thích xuất hiện, không cần được người ta nói tới. Có như thế, chúng ta mới
noi gương hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu được, vì Người đến không phải để
làm theo ý mình mà theo ý Chúa Cha và đối xử hiền lành với tất cả mọi người.
3.2. Chân thật, yêu thương, bác áiTrong đời sống khi đa co long tốt thi cung cần đến sự chân thanh, vi tương quan co
sự kinh trong ma không co sự chân thanh la môt tương quan gia dối. Bơi thế, sống chân
thành là điều rất quan trọng. Khi sống chân thành, chung ta cởi mở, không che đậy, để anh
em có thể hiểu về nhau. Từ đó, chúng ta mới có thể yêu thương nhau được.
Lý do mạnh nhất khiến chúng ta phải yêu thương anh em mình là vì họ là hình ảnh
của Thiên Chúa. Mỗi người anh chị em của chúng ta đều mang hình ảnh của Chúa và giống
Ngài. Hơn nữa, họ dần dần nên giống Thiên Chúa trong tự do, Đấng mà họ là hình ảnh. Các
nhân vị là những kho báu tốt nhất của một cộng đoàn hay một tu hội vì tính cách độc nhất
của mỗi người, không thể nhân đôi hoặc chuyển nhượng được. Mỗi người là một hình ảnh
của Thiên Chúa: “Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của
Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh
đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí” (2Cr 3, 18).
Lý do khác để yêu thương anh chị em mình là tất cả chúng ta làm nên một thân mình.
Tất cả những ai kết hiệp với Đức Kitô đều làm nên một thân mình mầu nhiệm duy nhất với
Người: “Vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người” (Ep 5, 30). Không ai lại đi ghét
thân xác mình. Hiểu và trải nghiệm thực tại này là một hồng ân của Thần Khí. Thông
thường, việc trải nghiệm ơn gọi của ta, theo tư cách Kitô hữu và đặc sủng, đều chỉ là manh
mún. Chúng ta cảm nhận ơn gọi nhiều hơn việc triệu tập; chúng ta cảm nhận chúng ta là
chi thể hơn là cảm nhận mình như một thân thể. Đầu óc cá nhân hiện đại đã khuấy đảo tình
thế. Do đó, trải nghiệm hiệp nhất của thân mình Đức Kitô là ân sủng của Thần Khí, một ân
sủng chiêm ngưỡng. Đó là khám phá thấy rằng chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa, các
hình ảnh chiếu theo Hình Ảnh, vốn là Đức Giêsu Kitô, và qua việc trở thành Giáo hội và
209 Xc. Lm. Andre Đỗ Xuân Quế O.P, Sống Đời Thánh Hiến, Nxb Tổng Hợp TPHCM, 2007, tr. 45.
9
sống như Giáo hội. Đây là ân sủng mà Phaolo đã trải nghiệm trên đường đi Damas: lối
hiểu sinh tử về sự đồng nhất giữa cộng đoàn đức Giêsu nơi Thân Mình Người.210
Tiếp đến, chúng ta yêu thương anh em mình vì đây là luật của Thần Khí, điều răn
mới của Đức Giêsu: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình
thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương
của Người. Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và
niềm vui của anh em được nên trọn vẹn. Ðây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của
người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,10 - 13). Luật nội tâm của Thiên
Chúa là yêu thương vì Thiên Chúa là tình yêu. Đó cũng là luật nội tâm của tất cả những ai
được kêu gọi để trong tự do trở thành những hình ảnh sống động của Thiên Chúa. Không
có tình yêu, chúng ta sẽ xuống cấp, sẽ mất đi khả năng được bất tử và sự bền vững, vì ai
không yêu thương thì ở trong sự chết. Luật nội tâm này động viên chúng ta yêu thương sâu
sắc hơn nữa trong những hoàn cảnh khó khăn. Người mà tình yêu của họ dành cho Đức
Giêsu là sâu sắc và cảm thấy mình nên một với Người, thì có thể nhìn nơi chính mình và
trong ý thức của mình, luật của Thần Khí, luật này lôi cuốn họ yêu thương tuyệt đối không
giới hạn, ngay cả khi điều này xem ra là vô phương.211
Có một “khuôn vàng, thước ngọc” mà Đức Giêsu dạy sống bác ái với người khác là:
“Điều gì anh em muốn người ta làm cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Mt
7, 21; Lc 6, 31). Và một lời dạy khác vượt xa hơn nữa: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu
nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 44). Đối với đan sĩ, những điều này được
thể hiện cụ thể trong việc sống tình huynh đệ trong cộng đoàn đan viện. Bác ái có một vai
trò quan trọng trong đời sống người tín hữu nói chung và đan sĩ nói riêng vì đó chính là
bản tính Thiên Chúa: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là
tình yêu” (1Ga 4, 8). Là dấu chỉ môn đệ Đức Kitô: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn
đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35). Là yếu tố xây
dựng đời cộng đoàn: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không
một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung”
(Cv 4, 32). Trong chiều hướng đó, công đồng Vatican II khẳng định: “Thực vậy, đức ái là
mối dây liên kết của sự trọn lành, là sự viên mãn của lề luật (xc. Cl 3, 14; Rm 13, 10), nên
đức ái chi phối mọi phương thế nên thánh, làm cho chúng hình thành và đạt được
210 Xc. Jose Cristo Rey Garcia Paredes. CMF, Teologia de la Vida Religiosa, bản dịch Việt ngữ: Đời Tu Hiệp Thông Và Cộng Đoàn, Chuyển ngữ Lm Giuse Đỗ Ngọc Bảo, OP, 2008, tr. 40.
211 Xc. Sđd, tr. 40.
9
cùng đích. Vì thế, đức ái đối với Thiên Chúa và tha nhân là dấu chỉ người môn đệ chân
chính của Chúa Kitô”.212 Cũng vậy, thánh Phaolô nhấn mạnh thêm: “Trên hết mọi đức
tính, anh em phải có lòng bác ái, đó là mối dây tuyệt hảo liên kiết anh em” (Cl 3, 12), đó là
tình bác ái Đức Giêsu đã dạy, đã sống và đã truyền đạt cho chúng ta nhờ Thánh Thần. Tình
yêu hiệp nhất này cũng là tình yêu thúc đẩy chúng ta trải rộng tới người khác kinh nghiệm
hiệp thông với Thiên Chúa và với nhau. Nói cách khác, tình yêu này tạo nên những vị
Tông đồ bằng cách thúc đẩy các cộng đoàn trên nẻo đường sứ vụ, dù đó là việc chiêm
niệm, loan truyền lời Chúa hay làm việc từ thiện. Thiên Chúa muốn làm cho trần gian tràn
ngập tình yêu của Người; bởi thế, các cộng đoàn huynh đệ trở nên người thừa sai của tình
yêu này, và trở thành những dấu chỉ ngôn sứ cho sức mạnh hiệp nhất của tình yêu ấy.213
Đặt nền tảng trên đức ái, sắc lệnh Canh Tân Thích Nghi Dòng Tu cũng khẳng định: “Đức
ái là chu toàn lề luật và là giây ràng buộc làm cho chúng ta nên hoàn thiện; đức ái là linh
hồn, là sức mạnh của mầu nhiệm vượt qua, là biểu chứng tối cao của tình yêu”.214 Vì vậy,
bác ái huynh đệ là yếu tố nền tảng để duy trì đời sống cộng đoàn. Bác ái là con đường đưa
ta đến gặp gỡ Chúa và đến với anh em mình.
Yêu thương, bác ái với nhau, không chỉ những lúc khoẻ mạnh, nhưng những khi đau
yếu càng cần hơn nữa. Cho nên thánh Biển Đức đã rất chú trọng việc anh em chăm sóc
người đau yếu. Truơc hết và trên hết moi sư,
phai để ý sa n sóc bẹ nh nhân nhu phuc vu
chính Chúa Kitô. Viẹ n phu phai rât mưc quan tâm đê ý keo anh em đau ôm bi bo ro i.215
Rồi đến anh em lớn tuổi cũng phải luôn quan tâm tơi sự yếu đuối cua ho, đư ng khắt khe
vơ i ho trong viẹ c a n uông; trái lai, phai biêt nhân nhuơng và cho ho dùng bưa truơc giơ
đã đinh.216 Tình yêu thương ấy thánh phụ muốn chúng ta biểu lộ ra bằng sự quên mình, đừng
tìm thoả thích cho riêng mình, nhưng tìm ích lợi cho tha nhân. Thánh phụ còn nói thêm,
chính tình yêu này đặt vào tâm hồn mỗi đan sĩ lòng nhẫn nhục triệt để chịu đựng những
yếu đuối hồn xác và những khuyết điểm của anh em.217
Chân thành, yêu thương, bác ái là ba đặc điểm của các tương quan mà thánh phụ
muốn thấy giữa các thành viên trong gia đình đan sĩ. Thật là hạnh phúc ngàn lần cho cộng
đoàn nào có được những tâm tình ấy và hạnh phúc cho cộng đoàn nào mà tất cả các thành
viên đều đồng tâm nhất trí với nhau. Chắc chắn Chúa sẽ đổ tràn trề ơn phúc xuống cho
cộng đoàn ấy, vì cộng đoàn đang thể hiện ước nguyện nồng nhiệt nhất của Thánh Tâm
212 Công đồng Vaticano II, Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen Gentium, số 42.213 Xc. Huấn Thị, Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, số 56.214 Công đồng Vaticano II, Sắc Lệnh Về Canh Tân Thích Nghi Dòng Tu - Perfectae Caritatis, số 15.
9
215 Xc. Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 36.216 Xc. Sđd, chương 37.217 Xc. .Sđd, chương 72.
9
Chúa, và cũng là ước nguyện cao cả nhất của đời Ngài: “Mọi người nhận biết anh em là
môn đệ Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35).218
Trong đời sống đan tu, đan sĩ sống trong bốn bức tường, ngày ngày sinh hoạt cùng
nhau. Vậy, chúng ta phải yêu thương nhau, hãy giúp nhau, hãy gánh đỡ gánh nặng cho
nhau, hãy nhịn nhục nhau khi lầm lỗi, lấy đức thương yêu mà che đậy nết xấu nhau, đừng
xét nét anh em khi không phải việc mình, vì sự ấy đã có bề trên và các người coi sóc. Nếu
trong nhà, mọi người đều bỏ mình đi mà lo đến anh em cách riêng, thì mọi người trong nhà
đều được sự an ủi, vui vẻ biết mấy. Chớ có ai dựa vào việc bổn phận mà làm cực lòng anh
em.219
3.3. Quảng đại, tha thứTrong đời sống cộng đoàn cần mỗi người có lòng quảng đại, bao dung. Hẹp hòi thì
khó mà tha thứ. Người tính tình cứng cỏi cũng vậy. Người chịu cực chịu khổ mãi rồi lại
sống trong những hoàn cảnh khắc nghiệt thì cũng khó tha thứ cho người khác. Vì vậy, phải
khoan hồng, quảng đại, nghĩa là cố gắng bỏ qua, không cố chấp.220 Thiên Chúa muốn
chúng ta sống quảng đại, dấn thân, gắn bó với đời sống phục vụ tha nhân, gần hơn cả là
chấp nhận anh chị em trong cộng đoàn. Vì chắc chắn cộng đoàn tu trì không chỉ toàn là
những con người thánh, nhưng bên cạnh đó còn những yếu đuối bất toàn. Những người
thánh trong cộng đoàn cần đón nhận những sự khác biệt bằng cặp mắt đức tin để được lớn
lên. Do đó, để tình huynh đệ được gắn kết với nhau, đòi hỏi mỗi đan sĩ phải có tấm lòng
bao dung, tha thứ như Đức Giêsu dạy: “Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ
tha” (Lc 6, 37). Sống quảng đại với nhau trong đời sống cộng đoàn là một đức tính cần
thiết. Chúng ta luôn biết cố gắng chấp nhận lẫn nhau và cam kết vượt qua những khó khăn,
những đặc điểm của các cộng đoàn không thuần nhất, cho thấy tính siêu việt trong lý do
làm cho cộng đoàn hiện hữu, đó là sức mạnh của Thiên Chúa, một sức mạnh của Chúa tỏ
hiện trọn vẹn trong sự yếu đuối của mỗi người chúng ta (xc. 2Cr 12, 9 - 10). Chúng ta sống
với nhau trong cộng đoàn không phải vì chúng ta đã chọn lựa người khác, nhưng vì chúng
ta được Thiên Chúa chọn lựa.221
Sống quảng đại cũng phải biết đón nhận nhau, không gây chia rẽ, bè phái mà cần đến
sự tương trợ lẫn nhau, như thánh Phaolô dạy: “Không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các
bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu
một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung” (1Cr 12, 25 - 26).
218 Xc. Dom Columba Marmion, Chúa Kitô Lý Tưởng Đan Sỹ; Linh đạo đan tu, chuyển ngữ: Châu Sơn, tr. 145.219 Xc. Cha Biển Đức Thuận, Di Ngôn, số 122.220 Xc. Lm. Andre Đỗ Xuân Quế O.P, Sống Đời Thánh Hiến, Nxb Tổng Hợp TPHCM, 2007, tr. 47.221 Xc. Huấn Thị, Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, số 41.
9
Cũng như Chúa Giêsu đã sống quảng đại với con người chúng ta trong suốt thời gian sống
thân phận con người. Người cho chúng ta tất cả tâm trí và con người của Người. Quảng đại
nhất là hình ảnh của Người trên thập giá, Người dang tay tha thứ, đền thay mọi tội lỗi
chúng ta và chờ đón chúng ta trở về với Người, để nhờ đó chúng ta được kéo lên khỏi vũng
lầy của tội lỗi về với ân nghĩa của Chúa.
Để đi đến sự trọn vẹn, ngoài lòng quảng đại, chúng ta còn cần có sự tha thứ. Tha thứ
là phương thuốc chúng ta phải dùng tới rất nhiều. Một cuộc cãi vã rất có khả năng nhen
nhóm lòng hận thù, mối thù hận sẽ nhanh chóng dẫn đến sự phân ly. Chúng ta phải đau
khổ một cách không cần thiết. Tha thứ rất khó, nhưng tha thứ chưa bao giờ là điều không
thể thực hiện được. Nếu bạn cố gắng mở lòng mình, sống bao dung, cuộc đời sẽ dẫn dắt
bạn đến một chân trời mới.222
Muốn là người đạo đức thật thì cần phải biết tha thứ, vì tha thứ là một hình thức bác ái.
Mà có bác ái thì mới là người đạo đức thật. Nhưng phải dựa vào đâu để hiểu thế nào là tha
thứ? Tha thứ là một giáo huấn quan trọng của Thiên Chúa. Chúa dạy chúng ta phải tha thứ
cho những người làm mất lòng chúng ta, không phải bảy lần bảy mà là bảy mươi lần bảy (xc.
Mt 18, 21 - 28), nghĩa là nhiều lắm, nghĩa là tha thứ mãi mãi, tha thứ đến vô cùng. Người lại
còn dạy chúng ta để của lễ đấy, đi làm hoà với người anh em bất bình với ta rồi hãy trở lại
dâng của lễ (xc. Mt 5, 23 - 24). Chúng ta đã thực hành được giáo huấn đó của Chúa chưa? Có
lẽ, phải nói rằng chúng ta chưa thực sự làm được điều đó. Chúng ta còn khó tha thứ, tuy vẫn
biết là cần phải tha thứ để được Chúa thứ tha. Lý do là vì chúng ta thường chỉ nghĩ đến nết
xấu của người anh em mất lòng ta. Ngoài ra, còn vì ngại gặp mặt và lấy làm ngượng với nhau.
Chúng ta có cầu nguyện cho người làm mất lòng chúng ta và cũng xin cho được ơn tha thứ.
Nhưng nhiều khi chúng ta thấy khó quá, vì tính tự ái của mình và sự cố chấp của anh chị em.
Cuối cùng, chúng ta hay đi đến chỗ tiêu cực là không giận nữa, nhưng tránh gặp mặt, tránh
nói chuyện, giữ thái độ yên lặng để khỏi va chạm. Có lúc, chúng ta lại muốn quên người đó đi
cho khỏi phải nghĩ tới hay ước mong cho người ta đi chỗ khác để không phải gặp mặt họ
nữa.223 Nếu như vậy, tình huynh đệ cộng đoàn sẽ không có sự hiệp thông nữa. Vì, mỗi người
sẽ sống cho riêng mình, không quan tâm đến người anh chị em của mình nữa. Cộng đoàn sẽ bị
thu hẹp trong cách sống cá nhân của từng thành viên, cộng đoàn sẽ thật lạnh lẽo, bất hạnh.
Vậy, làm cách nào để chúng ta có thể tha thứ cho nhau, để cùng nhau sống hiệp
thông trong cộng đoàn? Trước hết, mỗi thành viên trong cộng đoàn phải biết cầu nguyện
222 Xc. Edward M. Hallowell, M.D, Dám Tha Thứ, Biên dịch Xuân Khanh - Hiếu Dân - Hạnh Nguyên, Nxb Tổng Hợp TPHCM, 2011, tr. 18 - 19.
223 Xc. Lm. Andre Đỗ Xuân Quế O.P, Sống Đời Thánh Hiến, Nxb Tổng Hợp TPHCM, 2007, tr. 46.
1
hằng ngày. Vì, đối với họ, đời sống huynh đệ có những chiều kích sâu rộng hơn, bắt nguồn
từ những đòi hỏi cơ bản của ơn gọi đặc biệt này, là tìm kiếm một mình Thiên Chúa trong
thinh lặng và cầu nguyện. Việc họ thường xuyên gắn bó với Thiên Chúa làm cho họ gắn bó
với những thành viên khác trong cộng đoàn cách tế nhị và tôn trọng hơn. Sự chiêm niệm
đem lại cho họ sức mạnh giải phóng, sẽ giúp họ khỏi mọi hình thức ích kỷ.224 Chính vì thế,
Chúa Giêsu luôn muốn mỗi người chúng ta phải biết cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh, để
nhận biết sự tha thứ của Thiên Chúa là vô biên, nhưng cũng lệ thuộc ở nơi con
người:“Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ
cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không
tha lỗi cho anh em” (Mt 6, 14 - 15).
Sống đời thánh hiến là sống trong một cộng đoàn. Đời sống cộng đoàn là một đời
sống vừa cao đẹp vừa khó khăn, trong đó sự tha thứ là một đức tính tối cần để hoá giải mọi
khó khăn và làm dịu bớt các mối căng thẳng do tính tình xung khắc. Người ta vào nhà dòng
không chọn nhau nhưng lại phải sống với nhau. Gặp được những người tính tình hoà hợp
là một điều may lớn, nhưng ngược lại là một sự hy sinh triền miên mà chỉ có sự nhịn nhục
và tha thứ cùng với ơn Chúa trợ giúp mới chịu đựng và vượt qua được.225
Cha Jean Vanier cho rằng: “Đời sống cộng đoàn là một sự mạo hiểm phi thường”.226
Cho nên, cha Basil Hume có lý khi nhận định: “Thật không đơn giản khi nói về cộng đoàn.
Đừng nghĩ rằng cộng đoàn là một loại sống chung tạm thời. Tuy nhiên, khi anh em phải
sống một nếp sống với những biểu hiện của một thực tại đầy khó khăn, nó đặt ra nhiều vấn
đề. Nhưng anh em sẽ khám phá ra những khuyết điểm của mình, đối với đời sống chung
trong cộng đoàn. Anh em sẽ khám phá ra điều bổ ích, chúng ta nhận được sự nâng đỡ của
nhau. Và tôi nghĩ có một chứng cớ hiển nhiên là anh em đã học được nhiều điều ở đây.
Anh em bắt đầu thông cảm cho nhau hơn đón nhận người khác như họ là, chứ không phải
điều anh em muốn họ là. Đây là vấn đề quan trọng đầu tiên trong đời sống cộng đoàn: đón
nhận người khác như họ là, chứ không như anh em muốn hay mong đợi họ là. Một sự bao
dung và chấp nhận người khác là nền tảng của đời sống cộng đoàn. Sau cùng, nó là nền
tảng của đức bác ái huynh đệ”.227
Do đó, để xây dựng đời sống cộng đoàn, người tu sĩ cần đón nhận cộng đoàn, đón
nhận những con người giới hạn bằng xương bằng thịt, đón nhận nhau trong đức ái Chúa
224 Xc. Huấn Thị, Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, số 10.225 Xc. Lm. Andre Đỗ Xuân Quế O.P, Sống Đời Thánh Hiến, Nxb Tổng Hợp TPHCM, 2007, tr. 48226 Jean Vanier, Community and Growth- Thăng Tiến Cộng Đoàn, Đaminh Rosa Lima chuyển ngữ, St. Paul
Publications- Sydney 1979, tr. 9.227 Basil Hume, O.S.B, Tìm Kiếm Thiên Chúa, Nxb Tôn Giáo, 2009, tr. 45.
1
Kitô. Đồng thời, để xây dựng cộng đoàn huynh đệ đòi hỏi mỗi thành viên phải từ bỏ tính
ích kỷ của mình để xây dựng tình hiệp nhất trong Ba Ngôi Thiên Chúa, phải thể hiện tình
huynh đệ qua các dấu chỉ cụ thể của lòng quảng đại và bao dung tha thứ.
Đối với đời sống đan tu chiêm niệm, đời sống cộng đoàn càng là một thách đố. Nếu
như mỗi đan sĩ không có lòng quảng đại và có lòng khoan dung tha thứ cho nhau, thì cộng
đoàn sẽ trở nên ngột ngạt, khó thở. Vì vậy, để xây dựng tình hiệp nhất huynh đệ trong đời
sống cộng đoàn, cần mỗi thành viên luôn biết cố gắng mỗi ngày trong sự bỏ mình, sống
quảng đại và bao dung với nhau như thánh Phaolô khuyên: “Tha thứ tất cả, tin tưởng tất
cả và chịu đựng tất cả” (1Cr 13, 7).
3.4. Hòa nhịp với mọi sinh hoạt của cộng đoànCộng đoàn tu trì là “trường dạy yêu mến” (Schola Amoris) giúp con người lớn lên
trong tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em, nên cũng là nơi cho con người
được triển nở. Con đường triển nở là một con đường cam go, vì đòi hỏi sự từ bỏ những
điều có giá trị cao (xc. LG 46), nhưng không phải là không thực hiện được. Đông đảo các
thánh nam nữ và những khuôn mặt diệu kỳ của các tu sĩ nam nữ minh chứng rằng sự thánh
hiến cho Đức Kitô không tạo nên một chướng ngại nào cho sự phát triển thực sự, nhưng tự
bản chất là một phúc lợi tột bậc cho sự phát triển đó.228
Đời sống huynh đệ cộng đoàn đòi hỏi mọi phần tử phải có sự quân bình về tâm lý, là
điều kiện để đạt được sự trưởng thành về tình cảm. Mọi yếu tố nòng cốt của sự trưởng
thành là sự tự do về mặt tình cảm, giúp những người thánh hiến có thể yêu mến ơn gọi của
mình sao cho phù hợp. Chính sự tự do và sự trưởng thành này giúp chúng ta sống đời sống
tình cảm một cách đứng đắn cả ở bên trong lẫn bên ngoài cộng đoàn. Yêu mến ơn gọi của
mình, nhận thức ơn gọi đem lại ý nghĩa thật cho cuộc sống, và yêu mến sự thánh hiến như
là một thực tại đích thực, đẹp đẽ và tốt lành, đem lại chân thiện mỹ cho cuộc sống của
mình. Tất cả những điều đó làm cho con người thêm mạnh mẽ, tự lập và an toàn trong căn
tính của mình, không cần đến những hình thức nâng đỡ và bù trừ khác, đặc biệt trong lãnh
vực tình cảm. Tất cả những điều này củng cố mối dây liên kết con người tận hiến với
những người cùng chia sẻ ơn gọi của mình. Trước hết và trên hết, chính là với họ, mà
người tận hiến cảm thấy được kêu gọi để sống liên đới trong tình huynh đệ và tình bằng
hữu. Yêu mến ơn gọi của mình cũng là yêu mến Giáo Hội, là yêu mến hội dòng của mình,
và cảm nghiệm cộng đoàn như là gia đình riêng của mình.229
228 Xc. Huấn Thị, Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, số 35.229 Xc. Huấn Thị, Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, số 37.
1
Vì lẽ đó mà bộ Giáo luật 1983 nhắc nhớ các bề trên phải cẩn thận khi thâu nhận
những ứng sinh không những đủ độ tuổi đòi buộc, mà còn có sức khoẻ, tính tình thích hợp
và sự trưởng thành, để đảm nhận nếp sống riêng của tu hội.230 Khi khấn tạm thì khấn sinh
tối thiểu phải được 18 tuổi trọn, 231 và để khấn trọn đời được hữu hiệu thì khấn sinh phải đủ
21 tuổi trọn.232 Trong Thói lệ Hội dòng Xitô Thánh gia Việt nam cũng quy định khi nhận
thỉnh tu,
ứng sinh phải đat tơi mư c truơ ng thành nhân ban và Kitô giáo. Quân bình về tình cam và
phái tính, nghia
là có kha na ng chấp nhạ n nguơi khác, dù nam hay nư, mà vân
tôn trong sư
khác biẹ t cua ho.233 Bản Hiến pháp của Hội dòng của nói rằng: “Đuơc
nhưng nguơ i có ý ngay lành, muốn sống thanh bần, khiết tin h, tuân phucnhạ n vào đan viẹ
n theo guo ng
Chúa
Ki-tô. Có sư c khoe tâm thần và thể xác kha di đáp ư ng nhưng đòi hoi cua đơ i đan tu”.234
Chúng ta phải xác định mình là một mắt xích trong cộng đoàn. Một cộng đoàn
mà dung túng cho những thành viên không làm việc gì cả, thì cộng đoàn đó sẽ tan vỡ.
Vì vậy, mỗi thành viên nhận một công việc cụ thể để phục vụ vì cộng đoàn, để trong
những lúc hoài nghi người ta không cảm thấy mình vô dụng. Mỗi cộng đoàn phải
nhận ra rằng không chỉ người yếu mới cần đến người mạnh mà cả người mạnh cũng
không thể tồn tại nếu không có người yếu. Loại trừ người yếu là giết chết tình huynh
đệ.235 Cho nên, chúng ta không được tự ti tôi thế này, thế kia không dám hoà nhập với
các sinh hoạt của cộng đoàn. Những lúc yếu đau bệnh tật, hay những lúc lầm lỗi càng
cần chúng ta phải có sự hiệp thông vào trong các sinh hoạt của cộng đoàn. Từ đó, các
thành viên hiểu và giúp cho nhau vượt qua mọi rào cản.
Phải luôn luôn nhớ rằng sự thành toàn của người tu sĩ nam hay nữ đạt được đều qua
cộng đoàn của mình. Ai thử cố sống một cuộc đời tự lập, tách biệt khỏi cộng đoàn, chắc chắn
không gặp được con đường an toàn dẫn tới sự trọn lành của bậc mình. Như thế, cộng đoàn trở
thành “Schola Amoris”, trường dạy yêu mến, cho người trẻ cũng như cho người trưởng thành
– trong trường học này, mọi người học biết yêu mến Thiên Chúa, yêu mến người anh em, chị
em chung sống với mình, và yêu mến đồng loại, những người đang rất cần đến lòng thương
xót của Thiên Chúa và tình liên đới huynh đệ.236
230 Xc. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Bộ Giáo Luật 1983, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội 2007, điều 642.231 Xc. Sđd, điều 656, 10.232 Xc. Sđd, điều 658, 10.
1
233 Xc. Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Thói lệ, số 63.234 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Hiến Pháp, số 69.235 Xc. Lm. Giuse Đỗ Văn Thuỵ, Tân Phúc Âm Hoá Đời Sống Cộng Đoàn, Nxb Tôn Giáo, 2014, tr. 47.236 Xc. Huấn Thị, Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, số 25.
1
Hoà nhịp với mọi sinh hoạt của cộng đoàn là nghĩa vụ của mỗi thành viên trong cộng
đoàn, đặc biệt là những khấn sinh đã có lời khấn. Chính vì vậy, Giáo luật quy định như
sau: Phải lấy việc theo Chúa Kitô, đề nghị trong Phúc Âm và diễn tả trong hiến pháp dòng
làm luật tối thượng cho đời sống của mình.237 Nhiệm vụ số một và chính yếu là chiêm
ngắm các mầu nghiệm Thiên Chúa và liên lỉ cầu nguyện, kết hợp với Người. Hằng ngày
tham dự Thánh lễ, đón rước Mình Thánh Chúa và chầu Thánh Thể, đọc Thánh Kinh, tâm
nguyện, đọc kinh nhật tụng theo luật dòng và các việc đạo đức khác. Tôn sùng Đức Mẹ là
mẫu gương và Đấng bảo vệ cuộc đời tận hiến. Trung thành giữ việc (cấm phòng) tĩnh tâm
hàng năm.238 Phải giữ đời sống chung và góp phần xây dựng cộng đoàn.239 Trong bản Hiến
pháp của Hội dòng Xitô Thánh Gia cũng quy định: “Moi nguơ i cùng chung mọ t nếp sống:thơ i khắc, thư c a n, áo mạ c, đồ dùng đều nhu nhau. Khi có lý do chính đáng, bề trên có thể
châm chuơ c, để moi phần tư trong đan viẹ n
đuơcan hoà phung sự Chúa”.240
Trong bộ tu luật của thánh Biển Đức, ngài cũng không quên khuyên dạy các môn
sinh của mình sống hài hoà với nếp sống cộng đoàn bằng cách tham gia đầy đủ mọi sinh
hoạt theo như luật định, bằng sự khiêm nhường, từ bỏ ý riêng để nhắm đến lợi ích chúng
của cộng đoàn:“Bạ c khiêm nhuơ ng thư hai là không yêu thích ý riêng, không tìm thoa mãn
uơ c muốn cua mình, nhung moi hành đọ ng đều theo lơ i Chúa: “Ta không đến để làm theoý Ta mà là ý Ðấng đã sai Ta”.241 Và đan si không làm gì ngoài luạ t chung cua đan viẹ nvà
guong lành các vi cao niên, tức là tham gia đầy đủ tất cả mọi sinh hoạt chung của cộng
đoàn cách chu toàn.242 Anh em hãy phuc vu lân
nhau, nên không ai đuơc
miên
công tác
làm bếp, trư khi bẹ nh tạ t hay bi nga n trơ bơi mọ t công tác nào khác hưu ích hon; vì nhơ đó,
ta đuơc thêm phân thuơ ng và đư c ái. Đôi vơ i nhưng anh em yêu sư c, hãy cho nguơ i phugiúp đê ho chu toàn nhiẹ m vu mà không buôn phiên; vạ y moi
nguơi đều đuơc
phu giúp,
tùy tình tran g cọ ng đoàn và hoàn canh đia
phuong. Nếu cọ ng đoàn đông thì miên
công tác
làm bếp cho quan lý, hay cho nhưng ai bạ n công tác nào hưu ích hon, nhu cha đã nói trên.
Còn nhưng anh em khác, hãy lấy đư c ái mà phuc vu lân
nhau.243 Không chỉ những công
việc lao động mà cả trong các giờ thần vụ cũng như giờ ăn, Cha Thánh luôn nhắc nhớ đan
sĩ phải luôn chu toàn cách sốt sắng. Ví dụ như, tơ i giơ Thần Vu, vư a nghe hiẹ u báo, ai
nấy
1
237 Xc. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Bộ Giáo Luật 1983, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội 2007, điều 662.238 Xc. Sđd, điều 663.239 Xc. .Sđd, điều 665, 10.240 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Hiến Pháp, số 108.241 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 7, câu 31- 32.242 Xc. Sđd, chương 7, câu 55.243 Xc. .Sđd, chương 35.
1
phai bo ngay nhưng gì đang cầm trong tay và nhanh chân đến tham dư. Tuy nhiên, vânphai nghiêm trang để khoi sinh dip chia trí. Đư ng lấy gì làm hon viẹ c Chúa. Giơ a n,ai
không đến truơc câu xuơng để cùng đoc câu ấy vơi lơi nguyẹ n rồi cùng ngồi vào bàn, nếu
vì uon luơi hay thói quen chạ m trê,
se bi khiên trách đên hai lân, nêu sau đó vân
không sư a
mình, thì đư ng cho a n chung nưa, phai a n riêng mọ t mình và mất phân
ruơu đên tọ i và tu sư a.244
cho đến khi đã
Cuối cùng, ta phải khẳng định rằng đơi đan tu là thông hiẹ p vơi mầu nhiẹ m Thạ p Giá
Đư c Kitô, nhơ đó, đan si dâng hiến tế ta on đê tôn vinh Thiên Chúa. Vì thế, đan si không
lấy gì làm hon viẹ c Chúa.245 Tất cả mọi việc chúng ta làm là vì phần rỗi các linh hồn và vì
yêu mến Chúa.
Như vậy, qua những điểm vừa trình bày ở chương này, ta có thể đưa ra nhận định
sau: để đời sống cộng đoàn đan tu được thăng tiến hơn mỗi ngày, điều cần thiết ở cộng
đoàn là phải có những mối tương quan giữa các thành viên. Mối tương quan đó được thể
hiện qua những cuộc gặp gỡ, qua những dịp giao lưu, những lần trao đổi với nhau những
vấn đề trong cuộc sống cũng như kinh nghiệm đời sống thiêng liêng. Mối tương quan cũng
cần được thể hiện qua sự dấn thân, phục vụ và hy sinh cho nhau. Không những vậy, để tạo
nên mối tương quan tốt đẹp trong đời sống cộng đoàn cũng cần ở mỗi thành viên sự trung
tín, biết trân trọng nhau, biết kính trên nhường dưới. Song song với đó, mỗi đan sĩ sống
trong đan viện của mình không chỉ là những vị khách bàng quang, nay đến mai đi. Nhưng
các đan sĩ có lời khấn vĩnh cư, là thành viên chính thức của cộng đoàn đan viện. Vì vậy,
các đan sĩ phải ý thức mình phải có trách nhiệm với cộng đoàn, có tinh thần kiến tạo sự
hiệp nhất và xây dựng cộng đoàn cả về mặt vật chất lẫn tinh thần bằng sự dấn thân và ý
thức trách nhiệm. Cùng ý nghĩa đó, muốn cộng đoàn được thăng tiến mỗi ngày, các đan sĩ
cũng cần phải luôn nhắc nhớ bản thân về các nhân đức thiết yếu cho đời sống cộng đoàn.
Để bản thân mỗi đan sĩ không lấy gì hơn việc Chúa và học ở Chúa những đức tính cần thiết
đó. Từ đây, các đan sĩ sẽ càng ngày càng gắn bó mật thiết với Chúa hơn và hương nhân
đức lan toả khắp thế gian.
244 Xc. Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 43.245 Xc. Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Hiến Pháp, số 117.
1
Chương 5
MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH
Qua bốn chương đã trình bày ở trên về hình ảnh của đời sống cộng đoàn các tín hữu
tiên khởi và phác thảo về đời sống cộng đoàn đan tu ngày hôm nay. Ở chương cuối này
người viết sẽ đưa ra một vài nhận định vắn gọn về những điểm tích cực và những điểm tiêu
cực về hai hình ảnh đời sống cộng đoàn. Để từ đó giúp mỗi người chúng ta biết cách phát
huy điều tốt và tránh những điều chưa tốt. Hầu mong đời sống cộng đoàn mỗi ngày một
tiến triển hơn trên đường nhân đức.
1. Về cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi
1.1. Tích cựcKhi tìm hiểu về cuộc sống của Cộng đoàn tín hữu tiên khởi qua sách Công vụ Tông
đồ, ta chân nhận đây là cộng đoàn có những yếu tố thiết yếu làm nên một cộng đoàn hiệp
nhất. Điều này biểu lộ rõ nét qua hai đoạn tiêu biểu.
Đoạn thứ nhất, đó là: Cv 2, 42 - 46: chỉ vỏn vẹn bốn câu, nhưng đoạn này đã lột tả
đầy đủ tính chất đặc trưng của cộng đoàn tiên khởi: các tín hữu chuyên cần nghe các Tông
đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu
nguyện không ngừng. Tính hợp nhất còn biểu lộ qua việc các thành viên trong cộng đoàn
để mọi sự làm của chung, đất đai của cải được đem bán, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ
theo nhu cầu. Hơn thế, họ đồng tâm nhất trí với nhau trong đời sống hàng ngày.
Đoạn văn thứ hai không thể không nói tới là: Cv 4, 32 - 35: đoạn này cho ta biết về
thời điểm mặc dù số lượng các tín hữu trong cộng đoàn ngày một đông và lớn mạnh nhưng
các tín hữu vẫn chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng,
nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung. Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì
tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông
đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu. Đặc biệt, là có ơn Chúa, mặc
dù còn đó những nỗi sợ hãi, nhiều khó khăn tác động từ bên ngoài, nhưng họ đã vượt qua
tất cả để xây dựng một cộng đoàn hiệp nhất. Để rồi, từ cộng đoàn đó, Tin mừng lan truyền
dần cho muôn người.
Rải rác trong sách Công vụ còn nhiều chỗ nói về đời sống cộng đoàn nữa,
nhưng hai đoạn vừa nêu trên là hai đoạn nói rõ và điển hình nhất về các yếu tố cần
thiết nhất cho một cộng đoàn.
1
Khi phân tích và tìm hiểu về cuộc sống của các tín hữu tiên khởi, ta thấy những điều
mà các tín hữu đã sống và đã hành động qua các yếu tố đó là thiết thực đối với mỗi cộng
đoàn thánh hiến, đặc biệt là các cộng đoàn đan tu chiêm niệm ngày hôm nay. Bởi vì, khi
thiếu một trong những yếu tố đó, có lẽ cộng đoàn sẽ khó sống trong tình hiệp nhất. Vậy
cộng đoàn có trở nên hiệp nhất và yêu thương nhau được hay không, điều đó tùy thuộc nơi
sự dấn thân của mỗi thành viên trong cộng đoàn, cùng ơn Chúa trợ giúp. Nếu một cộng
đoàn thiếu sự đồng tâm nhất trí, thiếu đi tinh thần xây dựng, thiếu sự cầu nguyện, thiếu sự
hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, cộng đoàn đó chỉ tồn tại sự ganh tị, ích kỉ, thu vén cho
bản thân. Khi không có đời sống cầu nguyện, và thiếu sự liên đới với nhau, liệu cộng đoàn
đó có thể tồn tại được hay không?
Một điểm son của cộng đoàn tín hữu tiên khởi là cơ chế trong cộng đoàn. Theo như
phần dẫn nhập của sách Công vụ Tông đồ, chúng ta biết rằng Hội thánh không phải là đám
đông ô hợp, nhưng là một cộng đoàn. Do đó, cần phải có tổ chức để việc phục vụ mọi tín
hữu đạt hiệu quả hơn. Đứng đầu là các Tông đồ, vì các ngài được chính Chúa Giêsu tuyển
chọn để làm rường cột cho cộng đoàn (xc. Lc 6, 12 - 16); các ngài chuyên lo việc giảng
dạy Lời Thiên Chúa (xc. Cv 6, 4); rao giảng Đức Giêsu (xc. Cv 2, 22 - 25). Chính vì những
công việc như thế, nên các Tông đồ không thể nào quan tâm đúng mức đến những người
nghèo, các bà goá… và như thế, để giải quyết vấn đề này các ngài đã đặt các phó tế để
trông coi việc ăn uống cũng như tài sản chung của cộng đoàn (xc. Cv 6, 1 - 6).
Ngoài ra, theo dõi chương 15 và 16 của sách Công vụ, chúng ta sẽ được biết tại sao
lại có các kỳ mục trong Hội thánh tiên khởi. Nhìn thấy những nhu cầu ngày càng nhiều
trong cộng đoàn, hai thánh Phaolô và Banaba đã chỉ định cho mỗi cộng đoàn những vị kì
mục để cùng cộng tác với các ngài trong việc coi sóc và quản trị cộng đoàn. Như thế, các
Tông đồ xây dựng Hội thánh vững chắc không những bằng lời giảng dạy, mà còn bằng cả
nhân sự: các kì mục và phó tế. Đó là giới lãnh đạo của cộng đoàn, mặc dù lúc này chưa có
quy chế về các phó tế và kì mục.
Trải dài dòng lịch sử, khi tìm một gương mẫu cho đời sống thánh hiến, Cộng đoàn
Giêrusalem vẫn luôn là kiểu mẫu tiêu biểu được chọn lựa. Công đồng Vatiano II đã trình
bày rất rõ ràng về Cộng đoàn Giêrusalem: “Đời sống chung trong cầu nguyện và chia sẻ
cùng một tinh thần nên được duy trì theo gương Giáo hội sơ khai, nơi đó cộng đoàn tín
hữu chỉ có một lòng và một linh hồn” (PC 15). Cũng một cái nhìn như thế, trong Tông
1
huấn Vita Consecrata, đời sống của các tín hữu Giêrusalem sơ khai được đặt như gương
mẫu để các tu sĩ nam nữ noi theo (xc. VC 45, 93, 94).246
1.2. Tiêu cựcMô tả cộng đoàn Giêrusalem bao gồm những biểu lộ tinh tuý về sự hiệp thông, bác
ái, chia sẻ, phục vụ lẫn nhau, và trung thành với “Lễ Bẻ Bánh”. Tuy nhiên, đằng sau bức
tranh lý tưởng này cũng xuất hiện những trải nghiệm về những căng thẳng của tình trạng
đa văn hoá. Nhìn gần hơn, chúng ta sẽ thấy trước mắt chúng ta một cộng đoàn, một cách
cụ thể, có phần đóng kín, qui về mình, và thậm chí nghi ngờ thế giới bên ngoài vì thái độ
thù nghịch của những người Pharisieu cũng như những nhà lãnh đạo tôn giáo đối với họ.
Cộng đoàn gặp khó khăn rất lớn trong việc tiếp nhận những điều mới: những hoàn
cảnh mới, kinh nghiệm, sáng kiến và phát triển mới. Điển hình đó là việc các tín hữu Hy
Lạp than phiền vì các bà goá trong nhóm họ không được quan tâm (xc. Cv 6,1 - 6). Thái độ
này còn rõ ràng hơn khi thánh Phêrô và thánh Gioan phải đi và kiểm soát cộng đoàn ở
Philiphe khi các ngài đang rao giảng ở Samaria (xc. Cv 8, 3 - 25).
Thái độ phòng thủ đối với những điều mới mẻ này thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa
khi thánh Phaolô xuất hiện. Phaolô, một kẻ bắt bớ mới hoán cải, đã nhận được thái độ
thiếu tin tưởng dù ông đã được thánh Barnaba dùng uy tín của mình để bảo lãnh (xc. Cv 9,
26 - 30). Sự từ chối này dường như chính là lý do khiến Phaolô phải ra đi trong sự thất
vọng và sống một mình trong nhiều năm; trong khi đó, không có ai ở Giêrusalem nghĩ rằng
họ sẽ mất ngài mãi mãi. Một ví dụ nữa là thánh Phêrô đã gặp phải những thắc mắc khi làm
phép rửa cho một người dân ngoại, đó là ông Cornelius ở Xêdarê. Và sau đó, ngài đã phải
biện minh công khai trước cộng đoàn về sự thắc mắc đó (xc. Cv 11, 1 - 8).
Ngay chính trong cộng đoàn cũng còn khó khăn trong việc phân chia của cải và để
của cải làm tài sản chung, ở đó cũng xảy ra nhiều vấn đề như sự gian dối, không trung
thực, và tính ích kỉ trong cộng đoàn. Như trường hợp của vợ chồng Khanania và Xaphira
(xc. Cv 5, 1 – 11).
Dù được mô tả như một khung cảnh dễ chịu và thần tiên, nhưng trong môi
trường cộng đoàn Giêrusalem không có chỗ cho những thách đố sáng tạo và văn hoá.
Cộng đoàn bị điều kiện hoá bởi văn hoá Giuđa truyền thống và bởi nỗi sợ đánh mất đi
căn tính của cộng đoàn mình!
246 Xc. Lm. Samuel H.Canilang, CMF, Linh Đạo Hiệp Thông-Một Hướng Dẫn Để Sống Đời Sống Cộng Đoàn Cho Tu Sĩ, Nxb Claretian, Philippines, 2004, chuyễn ngữ Lm. Benado Duệ, Phước Sơn, tr. 34
1
Ngày nay, sức hấp dẫn của cộng đoàn lý tưởng nguyên thuỷ này không còn là cách
thức phù hợp với những đòi hỏi của hoàn cảnh mới. Cộng đoàn Giêrusalem cho ta thấy
hình ảnh của một cộng đoàn kiên định với bước đi thận trọng, nhưng thiếu khả năng sáng
tạo và chủ động. Cộng đoàn quá bảo thủ trong việc tiếp nhận những cái mới, không chỉ vì
thận trọng nhưng còn vì sự nghi ngờ.
Lời mời gọi rao giảng “đến tận cùng trái đất” Cv 1, 8) thật sự cần thiết trong
những giai đoạn thích nghi và cần kíp hơn là trong giai đoạn sáng tạo và khám phá.
Cộng đoàn Giêrusalem dường như không có khả năng đối thoại với những người khác
bằng một thái độ trưởng thành, tôn trọng và tự do. Chúa Thánh Thần, sau sự bùng nổ
của lễ Ngũ Tuần, bị biến thành một nhân viên bảo vệ dè dặt, hơn là một làn gió ngôn sứ.
Các thừa sai được mô tả là nhút nhát và bị kiểm soát hơn là can đảm và mang đến cảm
hứng. Cộng đoàn Giêrusalem có khuynh hướng làm dịu những xung đột hơn là đối
diện với nó một cách tự do.247
2. Về cộng đoàn đan tu hôm nay
2.1. Tích cựcNếp sống đan tu là sống tình nguyện giam mình ở nơi thanh vắng, ít đi lại tiếp xúc với
người đời. Đêm ngày các đan sĩ chỉ chăm lo đọc kinh cầu nguyện, tiếp xúc với Thiên Chúa đến
gần như quên các sự đời, để chỉ nghĩ đến Chúa, đến phần rỗi của mình và của tha nhân. Đây là
một đời sống khác thường, hết sức đặc biệt mà chỉ những người được ơn gọi riêng mới sống
được. Dù sống ẩn thân trong Chúa và cách biệt với trần gian, các đan sĩ không vì thế mà tách
biệt với thế giới bên ngoài, trở nên xa lạ và vô ích với xã hội.248 Nhưng như Hiến chế Ánh
Sáng Muôn Dân khẳng định: “Đừng tưởng rằng các tu sĩ vì hiến thân cho Chúa mà trở thành
xa lạ với người đời và vô ích cho xã hội. Vì dù đôi khi không thể trực tiếp phụ giúp người đồng
thời với mình, nhưng tu sĩ lại hiện diện một cách sâu xa hơn trong lòng Chúa Kitô và cộng tác
một cách thiêng liêng với họ, giúp cho việc xây dựng xã hội trần gian đặt nền móng nói Chúa
và luôn hướng về Người, hầu những người xây dựng xã hội trần thế sẽ không luống công”.249
Cụ thể là các đan viện, đan sĩ được thừa hưởng những thành quả của khoa học kỹ thuật trong
thế giới hiện đại. Có nhiều phương tiện, tiện nghi để đáp ứng cho đời sống chiêm niệm và phát
triển khả năng tri thức. Cơ sở vật chất vững chắc, ổn định thoải mái hơn. Không phải lo lắng về
cái ăn, cái mặc nhiều nữa, mà an tâm phụng sự Chúa hơn.
247 Xc. Lm. Samuel H.Canilang, CMF, Linh Đạo Hiệp Thông-Một Hướng Dẫn Để Sống Đời Sống Cộng Đoàn Cho Tu Sĩ, Nxb Claretian, Philippines, 2004, chuyễn ngữ Lm. Benado Duệ, Phước Sơn, tr. 34-37.
248 Xc. Lm. Andre Đỗ Xuân Quế O.P, Sống Đời Thánh Hiến, Nxb Tổng Hợp TPHCM, 2007, tr. 62- 63.249 Công đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội- Lumen Gentium, số 46.
1
Là đan sĩ, ai cũng biết những yếu tố căn bản của đời tu chiêm niệm. Điểm cốt yếu
của ơn gọi chiêm niệm trong đời sống đan tu là quyết tâm dâng trọn đời mình để phụng sự
Chúa trong thanh vắng, bằng lao động và cầu nguyện để kết hợp với Chúa và chuyển cầu
cho tha nhân. Sống chiêm niệm là để cầu nguyện, các đan sĩ là những người có khả năng
cầu nguyện và cầu nguyện liên lỉ vì đó là ơn gọi và sở trường của mình. Như trong Sắc
lệnh Canh tân Thích nghi Đời sống Dòng tu chỉ dạy: “Trong những Hội dòng hoàn toàn
chuyên lo chiêm niệm, các tu sĩ chỉ nhất tâm phụng sự một mình Thiên Chúa trong cô tịch
và lặng lẽ, trong việc chuyên lo cầu nguyện và hân hoan hãm mình, thì cho dù nhu cầu
hoạt động tông đồ có khẩn thiết đi nữa, những Hội dòng ấy vẫn luôn giữ một địa vị cao quí
trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Họ dâng lên Thiên Chúa hy lễ chúc tụng tuyệt hảo, làm vẻ
vang dân Thiên Chúa bằng những hoa trái thánh thiện dồi dào, lấy gương lành lôi cuốn và
làm cho dân ấy thêm lớn mạnh bằng việc tông đồ tuy âm thầm nhưng phong phú. Họ là
vinh dự và là nguồn mạch tuôn trào các ơn thiêng”.250 Trong quá trình hoàn thiện bản
thân, điều tiên quyết đòi hỏi các đan sĩ phải thực hiện là lột bỏ con người cũ đầy khiếm
khuyết và bất toàn của mình, là tránh xa mọi tội lỗi và mọi thói hư tật xấu. Phải sống trọn
đức ái đối với hết mọi người, vì đức ái là luật tối thượng của đường trọn lành, là dây ràng
buộc mọi nhân đức (xc. Cl 3, 14).
Ngày hôm nay với những biến động của xã hội, có dư luận cho rằng đời sống chiêm
niệm hiện nay không còn hợp thời và coi đó như là sự trốn tránh thế gian để thu mình vào
cái vỏ ích kỉ. Vậy, mỗi người chúng ta phải đối diện với những dư luận đó như thế nào?
Trong Tông huấn Đời sống Thánh hiến nói rằng: “Các hội dòng hoàn toàn sống đời
chiêm niệm, gồm những người nữ hoặc người nam, là một lý do hãnh diện cho Giáo hội và
một nguồn mạch đưa lại những ân sủng thiên quốc. Nhờ nếp sống và sứ mạng của họ,
những phần tử thuộc các dòng ấy bắt chước Đức Kitô cầu nguyện trên núi, họ làm chứng
về quyền chủ tể của Thiên Chúa trên lịch sử, họ tiên báo vinh quang mai ngày sẽ đến.
Trong cô tịch và thinh lặng, bằng việc lắng nghe Lời Thiên Chúa, cử hành phụng vụ, khổ
chế cá thân, kinh nguyện, hãm mình và hiệp thông vào tình yêu huynh đệ, họ quy hướng
toàn thể đời sống và toàn thể sinh hoạt vào việc chiêm ngắm Thiên Chúa. Như vậy, họ
cống hiến cho Giáo hội chứng tá độc đáo về tình yêu của Giáo hội dành cho Thiên Chúa,
cũng như góp phần với sức phong nhiêu tông đồ huyền diệu vào sự tăng trưởng của Dân
Thiên Chúa”.251 Chính Đức Giêsu cũng đã dạy chúng ta hãy luôn tỉnh thức mà cầu nguyện
250 Công đồng Vaticano II, Sắc lệnh “Perfectae Caritatis” - Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Tu Trì, số 7.251 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến- Vita Consecrata, bản dịch của Cha
Phan Tấn Thành, Nxb Tôn giáo, 2014, số 8.
1
luôn (xc. Lc 21, 36; Mt 26, 41; Lc 22, 31). Và thánh Phêrô cũng không quên nhắn nhủ các
tín hữu: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử
gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5, 8). Cũng vậy, các tín hữu tiên khởi ngày ngày
lên đền thờ và chuyên cần cầu nguyện (xc. Cv 2, 42).
Như thế, Chúa Giêsu khuyên cầu nguyện, giáo huấn của Giáo hội cũng khuyên cầu
nguyện, các bậc tiền nhân cũng luôn cầu nguyện không ngừng, thì đối với chúng ta, là
những đan sĩ được mời gọi sống trong cô tịch và cầu nguyện, chúng ta không phải tự ti
cũng không cần phải tranh luận với những dư luận là đời sống chiêm niệm hợp hay không
hợp mà chúng ta hãy sống theo Lời Chúa dạy. Cũng vậy, chúng ta hãy sống theo giáo huấn
của Giáo hội, là chúng ta đã chu toàn một cách viên mãn ơn gọi của chính mình.
2.1. Tiêu cựcĐời sống thánh hiến nói chung và đời sống đan tu nói riêng, ngày hôm nay đang phải
đối diện với rất nhiều khó khăn. Những khó khăn đó không những đến từ bên trong đời
sống cộng đoàn, nhưng còn có những tác động từ thế giới bên ngoài.
Cũng giống như cộng đoàn tín hữu tiên khởi, cộng đoàn đan tu ngày hôm nay cũng ở
trong tình trạng là cộng đoàn đa văn hoá. Một cộng đoàn gồm những thành phần đến từ
nhiều vùng miền khác nhau trên một đất nước. Mỗi một vùng miền có những phong tục tập
quán khác nhau, tạo nên tính cách cũng như quan điểm sống khác nhau. Khó khăn rất lớn
cho đời sống cộng đoàn khi phải hợp nhất với nhau trong đời sống chung. Trong đời sống
cộng đoàn, ta thấy sự xung đột trong đời sống chung là một cám dỗ cho sự thăng tiến đời
sống thiêng liêng của các đan sĩ. Chúng ta biết rằng đời sống chung chiếm vị trí quan trọng
trong sự phát triển của đời sống chiêm niệm. Thực tế cho thấy trong cộng đoàn có những
trường hợp sống bên nhau, cùng ăn, cùng uống, cùng sinh hoạt với nhau nhưng lại coi như
không có sự hiện hữu của nhau. Trong cộng đoàn, một cám dỗ rất lớn là muốn loại trừ
những khác biệt, muốn nắn đúc người khác theo hình ảnh của mình, muốn cho mình là
khuôn mẫu để người khác phải sống theo. Các thành viên trong cộng đoàn chưa biết nghe,
biết nói, biết hiểu và biết đón nhận vấn đề của nhau, nên những xung khắc, bất hòa, chia rẽ
vẫn còn ngự trị. Khi tâm hồn chúng ta bất an, chúng ta khó có thể cầu nguyện sốt sắng
được. Do đó, những bất hòa trong cộng đoàn chính là một thách đố lớn lao trong đời sống
chiêm niệm và cầu nguyện của các đan sĩ. Vì lý do đó, trong cộng đoàn dễ dàng hình thành
nên các nhóm đối nghịch nhau, và đây là một điều đáng buồn cho cộng đoàn. Nó làm mất
đi tính hiệp thông trong cộng đoàn và chia rẽ tình huynh đệ.
1
Giữa một thế giới đang trên đà của sự phóng túng và tha hóa, các đan sĩ ít nhiều
cũng bị ảnh hưởng, có những đan sĩ vì không cẩn trọng, mà để cho dòng đời cuốn trôi,
biến họ trở nên những cỗ máy của công việc. Dẫu biết rằng đi tu là chọn Chúa làm gia
nghiệp, nhưng thay vì chọn Chúa, có những người lại chọn công việc của Chúa. Cũng
có những đan sĩ vì quá ham thành công trong công việc mà bỏ bê đời sống cầu nguyện,
hờ hững với việc tham dự Thánh lễ, các giờ kinh phụng vụ, rồi chẳng mấy thiết tha với
việc nguyện ngắm, xét mình, lần chuỗi Mân côi, đọc sách thiêng liêng, viếng Thánh
Thể hay lãnh nhận các Bí tích...
Đan sĩ thường rao giảng cho thiên hạ về linh đạo đời sống chiêm niệm cầu nguyện
của mình, nhưng lại chưa sống cầu nguyện cho tốt. Đan sĩ mới chỉ cầu nguyện trong những
giờ nhất định mà bỏ quên tinh thần cầu nguyện liên lỉ suốt ngày. Cơn cám dỗ của công việc
thúc đẩy các đan sĩ viện cớ này, cớ kia để tự chước chuẩn cho mình những bổn phận thiêng
liêng; hoặc đan sĩ cầu nguyện một cách nhanh gọn hay dồn tất cả việc thiêng liêng vào
những giây phút cuối ngày sau khi thân xác đã mệt mỏi rã rời, hay chỉ làm vì bổn phận chứ
không xuất phát từ lòng yêu mến. Từ đó, những xác tín về đời sống thiêng liêng mờ nhạt
dần, dẫn đến chủ nghĩa dửng dưng thắng thế. Cứ trong một chiều hướng trượt dài như thế,
không lạ gì nếu các đan sĩ dễ dàng quên đi sự hiện diện của Thiên Chúa, để còn lại sau đó
là sự lạnh nhạt, hững hờ!
Đi đôi với cơn cám dỗ của công việc, các đan sĩ ngày hôm nay còn đối diện với những
thách đố của khuynh hướng hưởng thụ. Đây cũng là một vật cản không nhỏ giăng bẫy đời
sống lao động và cầu nguyện của đan sĩ. Thật thế, ngày nay khoa học kỹ thuật phát triển ở
đỉnh điểm của sự tối tân, với sự bùng nổ của phương tiện truyền thông. Một mặt, nó giúp các
đan sĩ mở rộng tầm mắt ra thế giới xung quanh, và cho họ tiếp cận với những loại hàng hóa
đa dạng về chủng loại và mẫu mã, với đầy đủ các chức năng để giải trí, làm việc… Tuy
nhiên, mặt trái của sự phát triển này là làm cho đời sống chiêm niệm dễ dàng rơi vào cơn cám
dỗ triền miên của thái độ sống hưởng thụ vật chất. Các đan sĩ sẽ dễ rơi vào tình trạng mải
mê với các phương tiện mà không còn thiết tha với việc cầu nguyện, không tìm được hứng
thú và niềm vui khi gặp gỡ Thiên Chúa. Thay vào đó, họ để mình cuốn vào vòng xoáy của
cuộc sống hưởng thụ vật chất nhằm thỏa mãn những đam mê trần tục của mình.
Bên cạnh đó, thế giới ngày nay có quá nhiều tiếng ồn ào. Sự tĩnh lặng, trầm lắng xem ra
vô bổ và xa xỉ đối với nhiều đan sĩ. Họ tìm cách giải khuây và bị hấp dẫn bởi nhịp sống sôi
động của âm nhạc, phim ảnh, trò chơi... Một cơn lốc mãnh liệt của sự ồn ào xé tan bầu khí
thinh lặng của đời sống chiêm niệm thanh vắng. Đời sống chiêm niệm của đan sĩ dường như
thích nói, thích hàn huyên tâm sự, thích trao đổi thông tin với nhau hơn là đi vào sa mạc tĩnh
lặng để gặp
1
gỡ Thiên Chúa. Họ thích tìm niềm vui chóng qua bên ngoài để giải tỏa sau những giờ phút học
tập và làm việc căng thẳng hơn là đến với Chúa để được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Nhiều đan sĩ trẻ
ưa thích nhịp sống ồn ào và cảm thấy chán ngán khi phải thinh lặng. Vì thế, thật khó khăn cho
việc cầu nguyện khi tâm hồn của họ không hề có một khoảng lặng nào dành cho Thiên Chúa.
Sự ồn ào chính là con sâu gặm nhấm đời sống cầu nguyện của cuộc sống các đan sĩ!
1
KẾT LUẬN CHUNG
Những đặc tính của đời sống cộng đoàn tiên khởi (xc. Cv 2, 42) là hình mẫu cho đời
sống thánh hiến đan tu của chúng ta ngày hôm nay. Mặc dù những đặc tính đó của các thế
hệ tiền bối đã cách chúng ta gần 2000 năm, nhưng thiết nghĩ không bao giờ lỗi thời. Những
đặc tính đó là gì mà lại cần thiết cho đời sống của các cộng đoàn thánh hiến nói chung và
nhất là cho đời sống đan tu như vậy?
Đặc tính thứ nhất là biết lắng nghe: thời giáo hội sơ khai, các tín hữu được nuôi
dưỡng đức tin bằng những lời giảng dạy và giáo huấn từ các Tông đồ. Các ngài đã truyền
dạy cho các tín hữu Tin mừng của Chúa Giêsu, rao giảng cho họ chân lý Nước Trời, để họ
nhận ra con đường của sự thật đi đến ơn cứu độ. Và các tín hữu đã đáp lại sự nhiệt thành
của các Tông đồ qua thái độ lắng nghe cách chuyên cần những giáo lý mà các ngài giảng
dạy.
Đặc tính thứ hai là hiệp thông với nhau: như người viết đã trình bày ở phần bối cảnh,
cộng đoàn ban đầu có rất nhiều những thành phần khác nhau. Các tín hữu tiên khởi bao
gồm những con người đến từ nhiều vùng miền, nhiều nền văn hoá cũng như phong tục tập,
quán khác nhau. Cho nên, điều hiển nhiên là các tín hữu có những tính cách, lối sống khác
nhau. Cứ ngỡ những khác biệt ấy sẽ làm xáo trộn cộng đoàn, nhưng không, các tín hữu
thuở ấy đã đón nhận những khác biệt và dùng tình hiệp thông để gắn kết mọi thành viên
trong cộng đoàn nên một. Đây là một nét son cho chúng ta học đòi bắt chước. Ngày hôm
nay, nếu như trong một cộng đoàn mà mỗi người một ý, sống theo cái tôi của mình thì đó
có còn là cộng đoàn thánh hiến nữa chăng? Có lẽ lúc đó cộng đoàn chỉ còn là một tập hợp
những con người sống riêng lẻ mà thôi. Điều quan trọng để tạo nên tình hiệp thông là mỗi
người phải biết từ bỏ cái tôi ích kỉ của mình để sống với “cái chúng ta”. Các tín hữu tiên
khởi đã vượt qua được cái gọi là “chín người mười ý” để là cộng đoàn “mười người một
ý”, lẽ nào cộng đoàn tu sĩ hôm nay lại không thể làm nên được “chiến tích” như bậc tiền
nhân? Thiết nghĩ câu trả lời nằm ở sự nỗ lực và cố gắng vượt thắng chính mình của từng
thành viên trong cộng đoàn.
Đặc tính thứ ba đó là siêng năng tham dự “Lễ Bẻ Bánh”: đó là tham dự Thánh Lễ
mà chúng ta gọi ngày hôm nay. Việc cử hành này được lồng trong khung cảnh bữa ăn
thường ngày của các tín hữu. Thánh Phaolô đã nhắc đến một cử hành phụng vụ trong
bữa ăn để khuyên các tín hữu phải biết chia sẻ khi tham dự vào Bữa Ăn của Chúa; bởi vì,
khi các tín hữu cùng nhau cử hành bẻ bánh, Chúa Kitô trao ban Thân mình Ngài như hy
lễ tạ ơn dâng lên Chúa Cha và để nuôi sống con người: Tấm Bánh được bẻ ra cho mọi
người chính là Chúa Kitô. Vì thế, khi ai tham dự vào Tấm Bánh này sẽ hiệp thông
1
với Ngài, trở nên một thân thể duy nhất trong Ngài, và phải biết yêu thương chia sẻ cho
anh em (1Cr 11, 17 - 34). Như vậy, việc cử hành Lễ Bẻ Bánh tạo nên mối hiệp thông với
tha nhân và với chính Chúa.
Đặc tính thứ tư là chuyên cần cầu nguyện: thái độ cầu nguyện khiến cho ta cảm
phục nơi các tín hữu tiên khởi, đó là các ngài luôn đồng tâm nhất trí và cần mẫn kiên
trì. Dù ở trong hoàn cảnh nào, các tín hữu cũng cùng nhau dân lên Chúa những lời cầu
nguyện không ngừng.
Đặc tính thứ năm, đó là đặt mọi sự là của chung: đây là việc diễn tả dễ nhận ra nhất
của sự hiệp nhất giữa các môn đệ Chúa. Sách Công Vụ cho biết các kitô hữu để mọi sự
làm của chung, và ai có đất đai của cải thì đem bán đi để cho những người túng thiếu
cũng được chia sẻ (xc. Cv 2, 44 - 45). Chính sự hiệp thông với Thiên Chúa qua đức tin
tạo ra sự hiệp thông giữa chúng ta và cần được diễn tả ra một cách cụ thể như được miêu
tả trong sách Công Vụ, nghĩa là bằng việc chia sẻ. Không ai trong cộng đoàn kitô hữu
phải đói, phải sống nghèo: đó là một đòi buộc nền tảng. Có thể ai đó sẽ đặt vấn đề: ngày
nay trong cộng đoàn đan tu có ai còn nghèo túng quá mức đâu? Vâng, xét về mặt vật chất
thì có thể là như thế, vậy nên hôm nay chúng ta nên nhìn theo chiều hướng tinh thần
nhiều hơn: anh em sống chung trong cộng đoàn chúng ta có đang nghèo túng hơn chúng
ta về tri thức, về tài năng, về tình cảm hay không…? Hãy dành một chút thời gian mỗi
ngày để nhìn vào chính mình, nhìn xem mình có đang giàu có quá mức so với người anh
em bên cạnh chăng?
Qua những đặc tính của cộng đoàn tín hữu tiên khởi, chúng ta cùng liên hệ đến đời
sống thánh hiến hôm nay. Thời đại ngày nay, hầu hết mọi phương tiện đều phát triển ở
mức độ đỉnh điểm, và tác động nhiều đến đời sống của những người thánh hiến nói
chung, cách riêng là những cộng đoàn đan tu. Cùng với sự phát triển của khoa học, mọi
phương tiện cho sinh hoạt hàng ngày dần trở nên đầy đủ, tiện nghi. Sự tiện nghi ấy có
thực sự giúp cho đời sống cộng đoàn tốt hơn không? Chắc chắn là sẽ có, nhưng theo sau
đó cũng là những hệ lụy khó tránh khỏi. Đơn cử một vấn đề phổ biến toàn xã hội, đó là từ
khi công nghệ phát triển, người ta không còn tha thiết gì với những cuộc nói chuyện thân
mật trực tiếp mà hầu hết ngủ vùi trong những mối quan hệ ảo trên các trang mạng xã hội.
Ngay cả khi ngồi cạnh nhau, thì chuyện mỗi người cầm một cái smartphone để lướt là
chuyện rất đỗi bình thường! Người ta ngồi cạnh nhau, nhưng thực sự là rất xa nhau.
Với thực trạng xã hội như thế, rất cần việc chúng ta ý thức trở về nguồn, về với nếp
sống chuẩn mực của các bậc tiền bối. Ta sẽ trở về với nếp sống ấy bằng cách nào? Có lẽ
không gì khác hơn là họa lại “mô hình” của các tín hữu tiên khởi xưa.
1
Trước hết phải biết lắng nghe: nhìn vào lối sống của các tín hữu tiên khởi, các ngài
đã luôn biết lắng nghe các Tông đồ giảng dạy và giáo huấn, để Lời Chúa được thấm đượm
trong đời sống huynh đệ hàng ngày. Đối với tu sĩ nói chung và đan sĩ nói riêng đều có lời
khấn vâng lời. Chính lời khấn vâng phục giúp cho các tu sĩ nhìn vào mẫu gương Chúa
Giêsu vâng phục Chúa Cha, từ bỏ mọi vinh quang, danh dự và uy quyền để sống thân phận
phàm nhân, sống và chết vì tình yêu (xc. Pl 2, 6 - 11). Để rồi khi nhìn vào mẫu gương vâng
phục của Đức Giêsu, tu sĩ cũng biết thực thi đức vâng lời không chỉ đối với các vị bề trên,
nhưng còn sẵn sàng vâng phục anh em của mình, hay thậm chí là những người “vai dưới”
của mình với một thái độ vui tươi và khiêm tốn.
Thứ đến là sống tình hiệp thông huynh đệ. Để sống được tình hiệp thông, mỗi thành
viên trong cộng đoàn phải biết lắng nghe và đón nhận nhau. Lắng nghe tiếng Chúa trong
cuộc đời mình để đáp trả đúng lúc, và lắng nghe nhau để hiểu nhau, thông cảm cho nhau.
Lắng nghe và cảm nhận chân lý của Chúa: “Là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga
14, 6). Lắng nghe tiếng Chúa để thực hiện điều răn Chúa dạy: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức
Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai
là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12, 29 - 31). Không những thế
Chúa còn nhấn mạnh thêm: “Anh em hãy yêu thuương nhau như Thầy đã yêu thương anh
em, không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì
bạn hữu của mình” (Ga 15, 12 - 13). Chính khi đã lắng nghe được những lệnh truyền,
những khát khao mong mỏi của Chúa muốn ta phải sống yêu thương như thế nào, trong tận
thâm sâu mỗi người sẽ có một lực đẩy vô hình giúp ta đến gần tha nhân, để sẵn sàng thực
thi tình bác ái qua thái độ khiêm tốn lắng nghe. Lắng nghe nỗi lòng của anh em, lắng nghe
những nhu cầu của anh em, lắng nghe cả những lời góp ý hay chê bai,… để rồi sau những
lần lắng nghe nhau, tình huynh đệ được hun nóng trong tình Chúa, và dìu nhau thăng tiến
trên đường nhân đức trọn lành.
Tiếp theo là siêng năng tham dự Thánh lễ và đến với bí tích Thánh Thể: đây là trung
tâm điểm của đời sống cộng đoàn, vì là bữa ăn thiêng liêng mang đậm nét tình huynh đệ.
Mọi thành viên họp nhau nơi nhà nguyện, có đầy đủ các thành phần trong cộng đoàn và có
sự hiện diện của Chúa Giêsu Thánh Thể để sưởi ấm tình gia đình đan viện. Hiến pháp Hội
dòng Xitô Thánh Gia khẳng định: “Thánh lễ là trung tâm qui tụ moi
hoat
đọ ng cua đơ i đan
tu. Vì thế, khi tham dự thánh lễ và hiẹ p lê,
đan si liên kết viẹ c tạ n hiến ban thân vơ i Hy lê
1
Nhiẹ m Mầu cua Chúa Kitô, để duơ i tác đọ ng cua Chúa Thánh Thần, tôn vinh Thiên Chúa
Cha, đồng thơ i thê hiẹ n sự hơp nhất huynh đẹ ”.252
Một yếu tố không thể thiếu cho đời sống cộng đoàn thánh hiến nói chung và đời sống
đan tu nói riêng, đó là đời sống cầu nguyện: Một cộng đoàn bình thường là tập hợp một số
người cùng sống chung cho một lý tưởng, một mục đích, là nơi mọi người đều tìm thấy
niềm vui của chính mình khi sống với anh em, khi phấn đấu học hành, làm việc phục vụ
anh em, phục vụ mọi người theo lý tưởng chung. Nhưng cộng đoàn đan tu thì không chỉ
dừng lại ở những yếu tố thông thường ấy, vì là cộng đoàn đức tin, nơi cộng đoàn đan tu
không thể thiếu giây phút cầu nguyện bên nhau. Mỗi đan sĩ đều biết rằng: Cầu nguyẹ n la
hoi thơ cua linh hồn, la điều kiẹ n phat triển đơi sống thie ng lie ng. Vi thế, các đan sĩ kho ngnhưng hoc hoi cho biết cach cầu nguyẹ n, ma con phai tạ p cho minh co thoi quen cầu
nguyẹ n.253 Sống đời chiêm niệm là để cầu nguyện và cầu nguyện không ngừng. Vì cầu
nguyện là sự sống của một trái tim mới. Cầu nguyện phải làm cho chúng ta được sống
động mọi lúc.254 Và chỉ qua cầu nguyện các đan sĩ mới có thể trưởng thành trong đức tin
và phó thác để sống như một người bạn của Chúa. Cũng trong cầu nguyện, những người
bạn của Chúa mới có thể thấy được cách họ sẽ chia sẻ cuộc sống của Chúa bằng tình yêu
một cách hiệu quả và đầy ý nghĩa trong cuộc sống huynh đệ.255
Cuối cùng, để xây dựng cộng đoàn, mọi thành viên phải biết đóng góp tinh thần vật
chất cho cộng đoàn: như đã trình bày ở trên, đóng góp ở đây không nhất thiết là mỗi thành
viên phải đóng góp cho đan viện mỗi tháng hay mỗi năm bao nhiêu tiền, mà sự đóng góp ở
đây là không ai giữ gì làm của riêng, đặt mọi sự là của chung, được sử dụng nhưng không
được sở hữu. Thánh Biển Đức dạy các môn sinh trước khi khấn: “Nếu có cua cai gì, thì
truơ c đó hoạ c phân phát cho nguơ i nghèo, hoạ c long trong dâng cho đan viẹ n, không giư
lai
chút gì cho mình, vì khấn sinh nên biết rằng tư ngày ấy mình không có chu quyền ngay
ca trên ban thân mình nưa”.256 Cũng vậy, Hiến pháp Dòng Xitô Thánh gia cũng quy định:
“Theo gương Giáo hội sơ khai, đan sĩ sống đồng tâm nhất trí, kiên định trong cầu nguyện,
để mọi sự làm của chung, hầu kiến tạo một gia đình thiêng liêng và thực sự theo gương
mẫu của Thánh Gia”.257
252 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Hiến Pháp, số 119.253 Xc. Hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Thói lệ, số 191.254 Xc. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, uỷ ban Giáo Lý Đức Tin, Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo,
Nxb Tôn giáo, 2012, số 2697.255 Xc. Nt. Maria Vũ Thị Thu Thuỷ, Hội dòng MTG Tân Lập, Tình Bạn Trong Cộng Đoàn Thánh Hiến, Nxb
Phương đông, 2014, tr. 155- 156.256 Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức, chương 58, câu 24- 25.257 Hội dòng Xitô Thánh Gia Việt nam, Hiến Pháp, số 107.
1
Đó là mô hình xây dựng đời sống đan tu theo mẫu hình đời sống của các tín hữu tiên
khởi. Nhưng để cho cộng đoàn đó ngày một thăng tiến hơn thì cần nhiều những yếu tố nữa.
Những yếu tố đó cần thiết để nuôi dưỡng và giúp cho đời sống huynh đệ ngày một tiến
triển trong tình hiệp nhất. Vậy những yếu tố đó là gì? Thưa, đó là:
Sống tốt tương quan với cộng đoàn: để sống tốt tương quan với nhau thì cần ở mỗi
thành viên những điều sau đây: phải có sự gặp gỡ để giao lưu và trao đổi với nhau; mỗi
đan sĩ cần phải có sự dấn thân trong đời sống huynh đệ, biết hy sinh và giúp đỡ nhau trong
mọi sinh hoạt hàng ngày; cần giữ sự trung tín, và trân trọng nhau; bề dưới biết vâng lời,
kính trọng bề trên; anh em trẻ kính trọng, lễ phép với anh em lớn hơn; bề trên và các anh
em lớn sống gương mẫu cho các em nhỏ có động lực và điểm tựa noi gương cho đời sống
thánh thiện. Mỗi thành viên trong cộng đoàn phải biết trân trọng nhau. Trân trọng lẫn nhau
được biểu hiện trong sự chia sẻ cuộc sống hàng ngày, như văn kiện đời sống huynh đệ
cộng đoàn nói: “Để dưỡng nuôi sự hiệp thông tâm trí giữa những người được gọi là chung
sống trong một cộng đoàn, nhất thiết phải trau dồi những đức tính cần thiết, cần có trong
tất cả các mối quan hệ bản thân: sự kính trọng, lòng tốt, sự chân thành, sự kiềm chế, lịch
thiệp, biết khôi hài và tinh thần chia sẻ”.258
Một điểm nữa cần có để cộng đoàn được thăng tiến, đó là: mỗi người phải có trách
nhiệm với đời sống cộng đoàn. Mỗi đan sĩ sống trong đan viện mà thờ ơ bàng quang thì
đan viện chẳng bao giờ có thể vươn lên được. Như vậy, muốn cho cộng đoàn thăng tiến,
đòi hỏi mỗi đan sĩ phải luôn cố gắng kiến tạo sự hiệp nhất trong tình huynh đệ cộng đoàn,
hăng say trong đời sống lao động, và dấn thân xây dựng cộng đoàn với ý thức trách nhiệm.
Để làm được những điều đó, các đan sĩ nhất thiết phải lưu tâm rèn luyện các nhân
đức. Các nhân đức không chỉ giúp các đan sĩ cộng tác làm cho cộng đoàn thăng tiến mà
còn giúp cho mỗi thành viên thăng tiến trên đường trọn lành. Vậy những nhân đức thiết
yếu đó là gì?
Nhân đức quan trọng không thể không nhắc đến ở đây là hiền lành và khiêm nhường;
sự hiền lành và khiêm nhường đích thực như Chúa Giêsu đã là gương cho chúng ta noi
theo. Trong cuộc sống hàng ngày, đan sĩ phải sống với nhau bằng sự chân thành, biết yêu
thương giúp đỡ lẫn nhau, biết quảng đại để đón nhận nhau với tất cả lòng bác ái, và luôn
luôn hoà nhịp với mọi sinh hoạt của đời sống cộng đoàn; muốn làm được điều đó, đòi hỏi
đan sĩ phải thực sự hiền lành và khiêm nhường mới có thể đón nhận mọi khác biệt, trái ý
trong cuộc sống và toàn tâm chăm chút xây dựng đời sống cộng đoàn hạnh phúc, vui tươi.
258 Xc. Huấn Thị, Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, số 27.
1
Dẫu biết rằng, đời sống cộng đoàn tiên khởi là mẫu hình lý tưởng, nhưng không phải
là không có những khuyết điểm. Khi mang thân phận phàm nhân, ai cũng là những người
chưa hoàn thiện. Để hoàn thiện bản thân phải mất rất nhiều thời gian, phải nỗ lực không
ngừng và phải có sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần để thánh hoá chúng ta mọi ngày. Cộng
đoàn tín hữu tiên khởi đã trải qua bao sóng gió của hoàn cảnh tác động bên ngoài, nhưng
với lòng tin, sự đồng tâm nhất trí và ơn Chúa trợ giúp, các tín hữu đã vượt qua tất cả khó
khăn để xây dựng và giữ gìn cộng đoàn của mình. Cộng đoàn đó mặc dù chưa hoàn thiện
nhưng cũng là mẫu gương cho mỗi cộng đoàn đan tu chúng ta ngày nay học hỏi, nhất là về
những nhân đức căn bản, nền tảng. Chính khi học hỏi, tập luyện được những nhân đức nền
tảng ấy sẽ giúp mỗi một thành viên trong cộng đoàn tăng trưởng, không chỉ về nhân bản
mà còn về đức tin, đồng thời góp phần làm thăng tiến cuộc sống chung của cộng đoàn. Ước
mong rằng, mỗi đan sĩ chúng ta nhìn vào mẫu gương của các tín hữu tiên khởi đã sống, để
làm lực đẩy cho bản thân vững bước sống đời đan tu và không ngừng xây dựng cộng đoàn
của mình ngày một trọn hảo hơn.
1
THƯ MỤC SÁCH THAM KHẢO
Sách nguồn Kinh Thánh Trọn Bộ Cựu Ước và Tân Ước. Bản dịch Cách Giờ Kinh Phụng Vụ,
Nxb TPHCM, 2002
Kinh Thánh Trọn Bộ, bản dịch của Lm. Giuse Nguyễn Thế Thuấn, Dòng Chúa
Cứu Thế, Sài Gòn, Nxb Tôn Giáo, 2007.
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Bộ Giáo Luật 1983, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội 2007.
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, uỷ ban Giáo Lý Đức Tin, Sách Giáo Lý Của Hội
Thánh Công Giáo, Nxb Tôn Giáo, 2012.
Các sách khác Briam Grenier CFC, Đức Giêsu Nhà Giáo Ưu Việt, Câu lạc bộ dịch thuật ĐCV
Thánh Giuse Hà Nội 2009, Nxb Tôn Giáo.
Joseph Ratzinger ĐGH Beneđicto XVI, Đức Giêsu thành Nazareth, Phần II: Từ
lúc vào Giêrusalem cho đến Phục sinh, Nxb Tôn Giáo, 2011.
Jean Vanier, Community and Growth- Thăng Tiến Cộng Đoàn, Đaminh Rosa
Lima chuyển ngữ, St. Paul Publications- Sydney 1979.
Jean Vanier, nguyên tác: La communauté Lieu du pardon et de la fête, Nxb
Fleurus/ Bellarmin; Đời Sống Cộng Đoàn: Cộng đoàn nơi tha thứ & mừng lễ;
chuyển ngữ: Lm Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ, lưu hành nội bộ
Rene Voillaume, Đời Sống Tu Trì, chuyển ngữ, Lm. Phêrô Vũ Văn Chương, Nxb
Tôn Giáo, 2015.
Desmond O’ Donnell, Cộng Đoàn Dưới Ánh Sáng Lời Chúa, Simon chuyển ngữ, 2000.
Felix Podimattam, OFM CAP, Cộng Đoàn Sống Đời Thánh Hiến, chuyễn ngữ:
Nguyễn Ngọc Kính, OFM, Nxb Tôn Giáo, 2016.
Adrian Van Kaam, C.S.S, Religion and Personality, New York: Englewood
Cliffs, 1964, Nhân cách tôn giáo, chuyển ngữ: Ngô Văn Vững.
William Barclay, Bộ Sách Chú Giải Kinh Thánh, Sách Công Vụ Tông Đồ, Nxb
Tôn Giáo, 2008.
Jean – Pierre de Caussade, Niềm Vui Tín Thác, chuyển ngữ Anh Sơn, Nxb An Tôn
& Đuốc Sáng, 2011.
M. Louis. J. Lekai. oc, Lịch sử Dòng Xitô, Lê Văn Thành, chuyển ngữ, lưu hành
nội bộ 2007.
Filipe Gomez, SJ, Giáo Hội Học - Thần học tín lý, lưu hành nội bộ, 2017.
1
Dom Columba Marmion, Chúa Kitô Lý Tưởng Đan Sỹ, Linh đạo đan tu, chuyển
ngữ: Châu Sơn.
Jean Daniélou và D. Henri Marrou, Tân Lịch Sử Giáo Hội, Cuốn 1, Từ nguồn gốc
đến Thánh Gregorio Cả, chuyển ngữ Lm. Phạm Phúc Khánh, Lm. Mai Đức Vinh,
Lm. Trần Định, 2002.
Jose Cristo Rey Garcia Paredes. CMF, Teologia de la Vida Religiosa, bản dịch
Việt ngữ: Đời Tu Hiệp Thông Và Cộng Đoàn, Chuyển ngữ Lm Giuse Đỗ Ngọc
Bảo, OP, 2008.
Edward M. Hallowell, M.D, Dám Tha Thứ, Biên dịch Xuân Khanh- Hiếu Dân-
Hạnh Nguyên, Nxb Tổng Hợp TPHCM, 2011.
Elino Gambari, SMM, JCD, Religious Life According to Vaticano II and The New
Code of Canon Law, The Daughters of St. Paul, 1986, bản dịch Việt ngữ: Đời tu
dưới ánh sáng Công đồng Vaticano II và Giáo luật, Mathia M. Ngọc Đính chuyển
ngữ, quyển I.
Fx. Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng.
Eymardo An Mai Đỗ O.Cist, Nhân Cách Đời Tu, Nxb Tôn Giáo, 2015.
Lm. Samuel H.Canilang, CMF Linh Đạo Hiệp Thông-Một Hướng Dẫn Để Sống
Đời Sống Cộng Đoàn Cho Tu Sĩ, Nxb Claretian, Philippines, 2004, chuyễn ngữ
Lm. Benado Duệ, Phước Sơn.
A.G. Maritimort, Phụng Vụ Giờ Kinh, lưu hành nội bộ, 2016.
Lm. Giuse Đỗ Văn Thuỵ, Tân Phúc Âm Hoá Đời Sống Cộng Đoàn, Nxb Tôn Giáo, 2014.
Lm. Đỗ Xuân Quế OP, Sống Đời Thánh Hiến, Nxb Tổng Hợp TPHCM, 2007.
Lm. Đỗ Xuân Quế OP, Sống Đời Thánh Hiến, Nxb Tổng Hợp TPHCM, 2007.
Trần Thị Giồng, tiến sĩ tư vấn tâm lý, Tâm Bất Biến Giữa Dòng Đời Vạn Biến,
Nxb Phương Đông, 2007.
Nt. Maria Vũ Thị Thu Thuỷ, Hội dòng MTG Tân Lập, Tình Bạn Trong Cộng
Đoàn Thánh Hiến, Nxb Phương Đông, 2014.
Lm. Jn M. Nguyên Phương, Được & Mất, lưu hành nội bộ.
Lm. Đm Trần Minh Công, Đời Sống Đan Tu Lý Tưởng Phúc Âm, Đan viện Đức
Mẹ Fatima Thuỵ Sĩ, 2007.
Minh Niệm, Hiểu về trái tim, Nxb Trẻ, 2010.
Lm. Augustino Nguyễn Văn Trinh, Lịch Sử Giáo Hội, Tập 1.
Lm. Phaolo Vũ Chí Hỷ, SSS. Thánh Thể, Giáo trình Thần Học Thánh Thể và tài
liệu đọc thêm, Học Viện Thánh Thể, 2016.
1
Anton Ngô Văn Vững, Đời Thánh Hiến Theo Công Đồng Vaticano II, Nxb Tôn
Giáo, 2008.
Dominico, Phạm Văn Hiền O.cist, Lịch Sử Dòng Xitô, lưu hành nội bộ.
Lm. Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ, Giờ Kinh Phụng Vụ, Đại chủng viện Thánh
Giuse –TPHCM, 2001.
Nguyễn Hồng Giáo, Chúa Gọi Tôi Đi Theo Người, Nxb Phương Đông, TPHCM, 2009.
Lê Quang Phúc, Nơi Đâu Là Nhà, lưu hành nội bộ, 2000.
Lm. Toma Thiện Lê Thanh Các O.S.B, Đan Tu Sử, lưu hành nội bộ.
Lm. Hoàng Đắc Ánh, tiến sĩ Kinh Thánh, Thần Học Về Đức Maria, Nxb Tôn
Giáo, 2007.
Lm. Px. Đào Trung Hiệu OP, Cuộc Lữ Hành Đức Tin, Tập 1, Giáo Hội Thời
Thượng Cổ và Trung Cổ, Ấn bản 2015.
Lm. Phan Tấn Thành, Về Nguồn, Tập 2, Thời Các Tông Đồ, Roma 1998.
Lm. Phan Tấn Thành, Đời Sống Tâm Linh, Tập 2, Roma 2002.
Lm. Phan Tấn Thành OP, Theo Chúa Kitô (Những văn kiện đời tu) Tập II, Nxb
Tôn Giáo, 2015.
Niền Tin Của Người Công Giáo, huấn giáo cơ bản, nguyên tác: La foi des
Catholiques, nhóm phiên dịch: Phạm Minh Thiện, Tống Viết Hiệp, Phạm Mạnh
Trinh, Nxb Tôn Giáo, 2009.
Lm. Nguyễn Thế Thuấn, Kerygma: Lời Giảng Tiên Khởi, lưu hành nội bộ, 1974.
Lm. Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ, Các Nguyên Tắc Căn Bản Về Phụng, Đại Chủng
Viện Thánh Giuse- TPHCM, Tháng 9 - 2001.
Lm. Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ, Phụng Vụ Thánh Thể, Đại Chủng Viện Thánh Giuse.
Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Tu Luật Thánh Biển Đức.
Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Thói lệ.
Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Hiến Pháp.
Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, Di Ngôn - Cha Biển Đức Thuận.
Tìm Chúa số 11, Trung Tín Trong Đời Sống Đan Tu, nội san liên Đan tu, 7- 2009.
Tìm Chúa số 16, Học Hỏi Về Công Đồng Vaticano II, nội san linh đạo đan tu, 2014.
Các Văn kiện của Giáo hội Công đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen Gentium, Khoa V
Ngay 21 thang 11 Na m 1964.
1
Công đồng Vaticano II, Hiến Chế Phụng Vụ Thánh - Sacrosanctum Concilium,
Ngày 4 tháng 12 năm 1963.
Công đồng Vaticano II, Sắc lệnh Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Tu Trì -
Perfectae Caritatis, Ngày 28 tháng 10 năm 1965.
Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI, Tông huấn Thượng Hội Đồng Giám Mục
(Sacramentum Caritatis), Roma 22/02/2007 – 13/3/2007, chuyển ngữ: Uỷ ban Giáo
lý Đức tin, Trực thuộc HĐGMVN.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Tông Thư “Dominicae Cenae”- Về Mầu
Nhiệm Thánh Thể và Việc Phụng Thờ Máu Thánh, Vatican 24/02/1980.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II, Thông Điệp “Ecclesia De Eucharistia”- Bí
Tích Thánh Thể Trong Mối Tương Quan Với Giáo Hội .
Huấn thị, Đời Sống Huynh Đệ Trong Cộng Đoàn, Rôma, 2.2.1994, Hồng Y Tổng
Trưởng Eduardo Martinez Somalo, Tổng thư ký Francisco Javier Errázuriz Ossa.
Huấn Thị Về Quyền Bính và Vâng Phục, Thánh Bộ các tu hội dòng tận hiến và các
tu đoàn Tông đồ, chuyển ngữ, Nt Maria Trần Thị Sâm, Nxb Tôn Giáo, Hà nội 2009.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến - Vita
Consecrata, bản dịch của Cha Phan Tấn Thành, Nxb Tôn Giáo, 2014.
Đức Phaolo VI, Tông huấn Chứng Tá Phúc Âm – Evangelica Testificatio, ngày
29/06/1971.
Nguồn Internet http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GIAOLUAT/TuSachGiaoLyGP/GiaoA
nKinhThanhIII/Bai15.htm
http://gpphanthiet.com/pt/index.php?language=vi&nv=news&op=Chuyen-de/Su-
Vu-Truyen-Giao-11-Duc-Giesu-lich-su-va-Kito-cua-niem-tin-Lm-GB-Hoang-
Van-Khanh-2359
http://www.simonhoadalat.com/giaoducgd/tuduc/22ThinhLang.htm