Upload
others
View
18
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT
ĐẶNG VĂN KIÊN
ĐẶNG VĂN KIÊN
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤN ĐỘNG NỔ MÌN
KHI THI CÔNG ĐƯỜNG HẦM
ĐẾN KẾT CẤU CÔNG TRÌNH NGẦM LÂN CẬN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT
HÀ NỘI– 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT
ĐẶNG VĂN KIÊN
ĐẶNG VĂN KIÊN
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤN ĐỘNG NỔ MÌN
KHI THI CÔNG ĐƯỜNG HẦM ĐẾN
KẾT CẤU CÔNG TRÌNH NGẦM LÂN CẬN
Ngành: Kỹ thuật xây dựng Công trình ngầm
Mã số: 9580204
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS.NGND.Võ Trọng HùngS.. Võ Trọng
Hùng
Hà Nội - 2018
i
MỤC LỤC
Nội dung Trang
Mục lục i
Lời cam đoan iv
Lời cảm ơn v
Danh mục các chữ viết tắt vi
Danh mục các bảng vii
Danh mục các hình vẽ ix
Mở đầu xv
Chương 1. Tổng quan về ảnh hưởng của chấn động nổ mìn thi công
đường hầm đến kết cấu chống các đường hầm lân cận 1
1.1. Tổng quan và định hướng nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ
mìn khi đào hầm đến công trình ngầm lân cận 1
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu chấn động nổ mìn do đào hầm đến
công trình ngầm lân cận trên thế giới 5
1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu chấn động nổ mìn do đào hầm đến
công trình ngầm lân cận tại Việt Nam 9
1.4. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước
về hướng nghiên cứu của luận án 14
1.5. Những vấn đề tập trung nghiên cứu của luận án 16
1.6. Kết luận Chương 1 18
Chương 2. Lý thuyết về truyền sóng trong môi trường đất đá và
phương pháp xác định sự ảnh hưởng của sóng nổ lên kết cấu đường
hầm lân cận
19
2.1. Tổng quan về các loại sóng chấn động gây ra do nổ mìn đào đường
hầm và đặc tính của chúng 19
2.2. Phương trình truyền sóng nổ trong môi trường đất đá đàn hồi, đồng
nhất và đẳng hướng 24
ii
2.3. Đặc tính tải trọng sinh ra do sóng nổ và đặc điểm làm việc của kết
cấu đường hầm dưới tác dụng của sóng nổ 28
2.4. Các phương pháp mô phỏng áp lực nổ khi nổ mìn tại gương hầm 31
2.5. Các thông số nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của chấn động nổ mìn 39
2.6. Kết luận Chương 2 40
Chương 3. Nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn thi công
đường hầm bằng phương pháp khoan nổ mìn đến kết cấu đường hầm
lân cận thông qua phương pháp đo đạc thực nghiệm hiện trường
42
3.1. Tổng quan về sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn tới môi trường 42
3.2. Nghiên cứu đo PPV, biến dạng khi thi công đường hầm Croix-Rousse 44
3.3. Các phương pháp đánh giá chấn động nổ mìn đến công trình lân cận 49
3.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến kết cấu đường
hầm lân cận khi nổ mìn tại gương hầm bằng phương pháp đo đạc thực tế 56
3.5. Khảo sát mối quan hệ giữa RMR của khối đá và các thông số K và
α trong công thức của Chapot 68
3.6. Kết luận Chương 3 79
Chương 4. Nghiên cứu các thông số động của khối đá và vỏ chống 81
4.1. Tổng quan về các thông số động của khối đá và vỏ chống 81
4.2. Phương pháp xác định các thông số động của khối đá và kết cấu chống 83
4.3. Xác định các thông số động của khối đá bằng thí nghiệm động SHPB 84
4.4. Kết quả thí nghiệm 90
4.5. Tính toán đặc tính động học của các thanh 94
4.6. Thí nghiệm SHBP trên mẫu đá granit 95
4.7. Phát triển mô hình số ba chiều 3D mô phỏng thí nghiệm SHPB 104
4.8. Kết luận Chương 4 109
Chương 5. Nghiên cứu sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn khi đào
hầm đến kết cấu chống đường hầm lân cận bằng phương pháp số 110
5.1. Tổng quan 110
iii
5.2. Xây dựng mô hình số hai chiều 2D, mô hình ba chiều 3D khảo sát
ảnh hưởng của chấn động nổ mìn 111
5.3. Kiểm tra kích thước lưới và kiểm chứng mô hình số 116
5.4. Nhận xét 122
5.5. Khảo sát các thông số mô hình 123
5.6. Khảo sát sự ảnh hưởng của khoảng cách từ gương đường hầm đến
vị trí quan sát trong vỏ chống cố định của đường hầm cũ lân cận dọc
theo trục đường hầm
136
5.7. Đánh giá độ ổn định của vỏ chống bê tông của đường hầm cũ lân cận 139
5.8. Đánh giá độ ổn định của khối đá xung quanh đường hầm 141
5.9. Xây dựng công thức kinh nghiệm dự báo giá trị PPV trong vỏ chống
bê tông cố định của đường hầm cũ lân cận 142
5.10. Kết luận Chương 5 143
Kết luận và kiến nghị của luận án 144
Danh mục các công trình khoa học của tác giả 148
Tài liệu tham khảo 152
Phụ lục 163
iv
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 25 tháng 03 năm 2018
Tác giả luận án
Đặng Văn Kiên
v
LỜI CẢM ƠN
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn tập thể lãnh đạo, các nhà khoa học, cán
bộ, chuyên viên Bộ môn Xây dựng Công trình ngầm và Mỏ, Khoa Xây dựng,
Trường Đại học Mỏ-Địa chất; tập thể Ban Lãnh đạo Khoa Xây dựng, Trường
Đại học Mỏ-Địa chất; tập thể Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau Đại học,
Trường Đại học Mỏ-Địa chất, các giảng viên, cán bộ các phòng, ban chức năng
Trường Đại học Đại học Mỏ-Địa chất đã hết sức tạo điều kiện và giúp đỡ tận
tình trong quá trình thực hiện luận án với luận án "Nghiên cứu ảnh hưởng của
chấn động nổ mìn khi thi công đường hầm đến kết cấu công trình ngầm lân cận”.
Chúng tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành về sự giúp đỡ đó.
Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS.NGND. Võ Trọng
Hùng - Người Thày đã dành nhiều tâm huyết trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo cho
Tôi hoàn thành luận án này.
Chúng tôi cũng xin cảm ơn TS. Đỗ Ngọc Anh đã hướng dẫn, giúp đỡ tôi
hoàn thiện phần nội dung nghiên cứu mô hình số.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên
tôi trong thời gian thực hiện luận án.
Xin cảm ơn Nguyễn Thị Phương, Đặng Gia Bảo, Đặng Gia Hân đã luôn
bên tôi động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực
hiện và hoàn thành luận án này.
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BDI - Chỉ số phá hủy nổ mìn (Blast Damage Index)
BEM - Phương pháp phần tử biên (Boundary Element Method)
CAE - Môi trường đầy đủ của Abaqus (Complete Abaqus Evironment)
DAM - Chuyển vị của phần tử (Displacement or the amount of
movement)
DEM - Phương pháp phần tử riêng rẽ (rời rạc) (Distinct Element Method),
DDA - Phương pháp phân tích biến dạng không liên tục (Discontinuos
Deformation Analysis)
FCPV - Tần số dao động ứng với vận tốc dao động phần tử (Frequency
content of particle velocity)
FDM - Phương pháp sai phân hữu hạn (Finite Difference Method)
FE - Phần tử loại hữu hạn (Finite Element)
FEM - Phương pháp phần tử hữu hạn (Finite Element Method)
FEM-DEM - Phương pháp hỗn hợp phương pháp phần tử hữu hạn và
phần tử rời rạc (Finite-Discrete Element Method)
IE - Phần tử loại vô hạn (Infinite Element)
n.n.k - Những người khác
NRBC - Điều kiện biên không phản xạ (Non-Reflecting Boundary Condition)
PFC - Phương pháp dòng hạt (Particle Flow Code)
PPV - Vận tốc dao động phần tử đỉnh (Peak Particle Velocity)
PPA - Gia tốc phần tử lớn nhất (Peak Particle Acceleration)
SF - Tần số dao động riêng của kết cấu (Specific Frequency)
SHPB - Thí nghiệm động (Split Hopkinson Pressure Bar test)
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Nội dung Trang
Bảng 2.1. Các thông số trong phương trình trạng thái của thuốc nổ TNT 38
Bảng 3.1. Trình tự nổ và số lượng các lỗ mìn trên gương 46
Bảng 3.2. Giá trị giới hạn của PPV với tỉ lệ khoảng cách tiêu chuẩn 50
Bảng 3.3. Tiêu chuẩn PPV theo AS 2187 (Tiêu chuẩn Úc) 51
Bảng 3.4. Tiêu chuẩn DIN 4150-3 (CHLB Đức) 52
Bảng 3.5. Tiêu chuẩn của Pháp 52
Bảng 3.6. Tiêu chuẩn của Thụy sĩ đánh giá mức độ chấn động của chấn
động nổ mìn đến các công trình lân cận (SN 640 312:1978) 52
Bảng 3.7. Tiêu chuẩn GB 6722-2003 của Trung Quốc về mức độ an
toàn của kết cấu công trình ngầm trên cơ sở giá trị cho phép của [PPV] 53
Bảng 3.8. Tiêu chuẩn Đức về mức độ an toàn của kết cấu công trình
ngầm trên cơ sở giá trị của [PPV] (DIN4150 1999-02) 53
Bảng 3.9. Hệ số tỉ lệ khoảng cách và [PPV] theo quy phạm 53
Bảng 3.10. Mối quan hệ giữa Dib và mức độ phá hủy trong khối đá bao
quanh và kết cấu chống giữ đường hầm (vỏ chống bê tông cũ) 56
Bảng 3.11. Kết quả đo chấn động gây ra bởi quá trình nổ mìn đường
hầm bởi cảm biến P với dải tần số thấp (f=130 Hz) 64
Bảng 3.12. Thông số cơ học của khối đá khảo sát 66
Bảng 3.13. Kết quả tính toán giá trị [PPV], mm/s 66
Bảng 3.14. Dự báo lượng thuốc lớn nhất cho một lần nổ, kg 67
Bảng 3.15. Vị trí của các khu vực nghiên cứu trong đường hầm 70
Bảng 3.16. Quan hệ giữa Ln(K), và RMR của cảm biến P với H>0 71
Bảng 3.17. Quan hệ giữa Ln(K), và RMR của cảm biến P với H<0 72
Bảng 3.18. Quan hệ giữa Ln(K), và RMR của cảm biến P với 0<H<45 m 73
Bảng 3.19. Quan hệ giữa Ln(K), K, α và giá trị RMR của cảm biến T 75
viii
Bảng 3.20. Quan hệ giữa Ln(K), K, α với RMR của cảm biến T khi H>0 75
Bảng 3.21. Quan hệ giữa Ln(K), α và RMR của cảm biến T với H<0 75
Bảng 4.1. Tổng hợp kích thước và các thông số cơ học của mẫu đá 92
Bảng 4.2. Các đặc tính cấu tạo của các thanh trong thí nghiệm SHPB 93
Bảng 4.3. Các mẫu đã tiến hành thí nghiệm 93
Bảng 4.4. Kết quả thí nghiệm trên mẫu N°38 95
Bảng 4.5. Số lượng phần tử cho mô hình nghiên cứu 108
Bảng 5.1. Các thông số động của khối đá, vỏ chống bê tông 115
Bảng 5.2. So sánh kết quả mô hình số và dữ liệu đo tại điểm A 122
Bảng 5.3. Sự ảnh hưởng của hệ số giảm chấn đến giá trị PPV trong vỏ
chống bê tông 126
Bảng 5.4. Sự ảnh hưởng của mô đun đàn hồi động Ed đến giá trị PPV 129
Bảng 5.5. Giá trị PPV (mm/s) đạt được trong phương pháp mô hình số
với các mô hình phá hủy vật liệu khác nhau và phương pháp đo đạc thực tế 131
Bảng 5.6. Kết quả nghiên cứu sự ảnh hưởng của vị trí gương đường
hầm đến chấn động đối với vỏ chống bê tông cũ của đường hầm lân cận 138
Bảng 5.7. Giá trị (Dib) tại một số điểm quan sát trên biên đường hầm
mới và đường hầm cũ 141
ix
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Nội dung Trang
Hình 1.1. Sự cố, phá hủy xảy ra trong một số đường hầm ở Việt Nam và
trên thế giới 2
Hình 1.2. Nổ mìn đào đường hầm gây nứt nhà dân tại dự án xây dựng
đường hầm cao tốc Đà Nẵng-Quảng Ngãi 3
Hình 1.3. Điều kiện khu vực xung quanh đường hầm 4
Hình 1.4. Sóng ứng suất truyền trong khối đá 4
Hình 1.5. Ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến kết cấu công trình lân
cận: a - Kết cấu đường hầm lân cận; b - Kết cấu công trình bề mặt 5
Hình 1.6. Mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của nổ mìn trong môi trường
san hô 13
Hình 2.1. Sơ đồ mô tả sự tác động của các loại sóng nổ gây ra bởi vụ nổ
đến kết cấu đường hầm lân cận 21
Hình 2.2. Sơ đồ tính toán tương đương kết cấu đường hầm do sự lan
truyền của sóng nổ gây ra 22
Hình 2.3. Sự hình thành các vùng xung quanh vụ nổ 23
Hình 2.4. Sơ đồ tính xung riêng tác dụng lên kết cấu đường hầm 30
Hình 2.5. Biểu đồ mô phỏng áp lực nổ mìn 30
Hình 2.6. Quá trình nổ của một khối thuốc nổ trong lỗ khoan 32
Hình 2.7. Biểu đồ áp lực nổ khối thuốc tác dụng lên thành lỗ khoan 34
Hình 2.8. Hình dạng xung áp lực nổ ứng với hai loại thuốc nổ khác nhau 35
Hình 2.9. Sơ đồ mô tả áp lực nổ mìn 37
Hình 2.10. Mô hình tải trọng tác dụng theo thời gian khi nổ nhiều đợt lỗ
mìn trên gương 37
Hình 2.11. Hàm áp lực nổ theo thời gian của loại nổ dạng 1 39
Hình 3.1. Mặt cắt dọc địa chất tuyến đường hầm 45
Hình 3.2. Mặt bằng vị trí tuyến hầm 45
Hình 3.3. Mặt cắt địa chất điển hình 45
x
Hình 3.4. Một mặt cắt địa chất gương hầm 45
Hình 3.5. Giá trị RMR của khối đá dọc tuyến đường hầm 45
Hình 3.6. Sơ đồ bố trí các lỗ mìn trên gương và trình tự nổ các lỗ mìn 46
Hình 3.7. Cấu tạo cảm biến Géophone 47
Hình 3.8. Vị trí các cảm biến trong vỏ chống bê tông của đường hầm cũ 48
Hình 3.9. Kết quả đo PPV, phổ vận tốc của cảm biến C100 tại PM100 48
Hình 3.10. Kết quả đo PPV và chuyển vị tại một vị trí của cảm biến
điển hình tại dự án hầm Croix-Rousse 49
Hình 3.11. Đồ thị mức độ an toàn chấn động nổ mìn 51
Hình 3.12. Biểu đồ quy định [PPV] cực trị ở dải tần số thấp theo 54
Hình 3.13. Kết quả quan hệ giữa ln(PPV) và tỉ lệ khoảng cách (D/ Q )
theo ba phương dựa trên dữ liệu đo của cảm biến T tại dự án hầm Croix-
Rousse
59
Hình 3.14. Kết quả quan hệ giữa ln(PPV) và tỉ lệ khoảng cách (D/ Q )
theo ba phương dựa trên dữ liệu đo của cảm biến A theo ba phương 59
Hình 3.15. Kết quả quan hệ giữa ln(PPV) thẳng đứng (V) và tỉ lệ
khoảng cách (D/ Q ) dựa trên dữ liệu đo của cảm biến P tại vị trí PM
220÷PM340
59
Hình 3.16. Kết quả quan hệ giữa ln(PPV) theo phương nằm ngang (H)
và tỉ lệ (D/ Q ) dựa trên dữ liệu đo của cảm biến P tại vị trí PM
220÷PM340
60
Hình 3.17. Kết quả quan hệ giữa ln(PPV) theo phương dọc trục hầm (L)
và (D/ Q ) dựa trên dữ liệu đo của cảm biến P tại vị trí PM
220÷PM340
60
Hình 3.18. Kết quả quan hệ giữa ln(PPV) theo phương dọc trục hầm và
(D/ Q ) dựa trên dữ liệu đo của cảm biến P tại vị trí PM 220÷PM340
theo ba phương
60
Hình 3.19. Quan hệ giữa ln(PPV) theo ba phương (V, H, L) và tỉ lệ
khoảng cách (D / Q ) theo kết quả ghi được của cảm biến T tại vị trí
PM1400
61
xi
Hình 3.20. Sơ đồ xác định khoảng cách giữa vị trí nổ mìn và điểm quan sát 62
Hình 3.21. Mối quan hệ giữa PPV và tỉ lệ lượng nạp SC 65
Hình 3.22. Giá trị RMR trong vùng nghiên cứu 1 70
Hình 3.23. Sơ đồ thể hiện khoảng cách tương đối H của vị trí đặt cảm
biến trong đường hầm 71
Hình 3.24. Quan hệ giữa RMR và ln(K) khi H>0 71
Hình 3.25. Quan hệ giữa RMR và K khi H>0 71
Hình 3.26. Quan hệ giữa RMR và α khi H>0 72
Hình 3.27. Quan hệ giữa RMR và ln(K) khi H<0 72
Hình 3.28. Quan hệ giữa RMR và K khi H<0 72
Hình 3.29. Quan hệ giữa RMR và α khi H<0 72
Hình 3.30. Quan hệ giữa RMR và ln(K) khi 0<H<45m 73
Hình 3.31. Quan hệ giữa RMR và K khi 0<H<45 m 73
Hình 3.32. Quan hệ giữa RMR và α khi 0<H<45 m 74
Hình 3.33. Các mối quan hệ giữa ln(K), RMR và RMR tại cảm biến P 74
Hình 3.34. Giá trị RMR trong vùng nghiên cứu thứ 2 75
Hình 3.35. Mối quan hệ giữa Ln(K), α và RMR ở vùng 2 75
Hình 3.36. Quan hệ giữa ln (K) và α theo RMR khi H<0 và H>0 m 76
Hình 3.37. Quan hệ giữa RMRvà ln(K) 76
Hình 3.38. Quan hệ giữa RMR và K 76
Hình 3.39. Quan hệ giữa RMR và 76
Hình 3.40. Quan hệ giữa RMR và ln(K) 76
Hình 3.41. Quan hệ giữa RMR và K 77
Hình 3.42. Quan hệ giữa RMR và 77
Hình 3.43. Quan hệ giữa RMR và ln(K) 77
Hình 3.44. Quan hệ giữa RMR và K 77
Hình 3.45. Quan hệ giữa RMR và α 77
Hình 3.46. So sánh quan hệ giữa ln(K), và RMR ở các vùng 1, vùng 2 77
xii
Hình 4.1. Ảnh hưởng của tốc độ biến dạng đến độ bền nén của bê tông 82
Hình 4.2. Ảnh hưởng của tốc độ biến dạng đến độ bền kéo của bê tông 82
Hình 4.3. Tần số, biên độ cho các tải trọng động khác nhau 83
Hình 4.4. Hệ thống thí nghiệm SHPB 85
Hình 4.5. Biến dạng trong thanh tới và thanh truyền 86
Hình 4.6. Đồ thị truyền sóng ứng suất trong thí nghiệm SHPB điển hình 86
Hình 4.7. Sơ đồ của một cầu Wheatstone 88
Hình 4.8. Sơ đồ tính toán mẫu hình trụ 89
Hình 4.9. Sơ đồ thiết bị thí nghiệm SHBP tại phòng thí nghiệm thuộc
INSA Lyon, Cộng hòa Pháp 91
Hình 4.10. Hệ thống khởi động của thanh chuyển động và vị trí mẫu
giữa hai thanh tới và thanh truyền 92
Hình 4.11. Vị trí cảm biến trên thanh 92
Hình 4.12. Các mẫu thí nghiệm đường kính 45,0 mm chiều cao 100,0 mm 92
Hình 4.13. Các tín hiệu trong thanh tới 94
Hình 4.14. Tín hiệu cảm biến vận tốc 96
Hình 4.15. Biến dạng trên thanh tới (cảm biến 5) và thanh truyền (cảm
biến 7) theo thời gian 96
Hình 4.16. Thời gian bổ sung: a - Hình tổng quan; b - Hình phóng to 98
Hình 4.17. Ứng suất trong thanh tới khi áp lực tác dụng lên thanh đánh
bằng 0,3 MPa 99
Hình 4.18. Ứng suất trong thanh truyền khi áp lực tác dụng lên thanh
đánh bằng 0,3 MPa 99
Hình 4.19. Vận tốc thanh tới tại khi áp lực tác dụng lên thanh đánh 0,3 MPa 100
Hình 4.20. Tốc độ biến dạng mẫu khi áp lực tác dụng lên thanh đánh
0,3 MPa 100
Hình 4.21. Ứng suất trong mẫu N038 (khi áp lực tác dụng lên thanh
đánh bằng 0,3 MPa) 100
Hình 4.22. Sơ đồ mô tả tín hiệu điện áp 101
xiii
Hình 4.23. Biến dạng trên thanh tới (cảm biến 5) và thanh truyền (cảm
biến 7) theo thời gian 101
Hình 4.24. Ứng suất trong thanh tới theo thời gian khi áp lực tác dụng
lên thanh đánh bằng 0,35 MPa 102
Hình 4.25. Ứng suất trong thanh truyền theo thời gian khi áp lực tác
dụng lên thanh đánh bằng 0,35 MPa 102
Hình 4.26. Vận tốc thanh tới theo thời gian 102
Hình 4.27. Ứng suất theo thời gian trong mẫu số N038 áp lực tác dụng
lên thanh đánh 0,35 MPa (tại thời điểm t14,0 ms) 102
Hình 4.28. Tốc độ biến dạng theo thời gian của mẫu đá với áp lực tác
dụng lên thanh đánh có giá trị khác nhau (0,30 MPa và 0,35 MPa) 103
Hình 4.29. Trình tự mô phỏng thí nghiệm SHPB 105
Hình 4.30. Kích thước mô hình thí nghiệm SHPB 105
Hình 4.31. Mô hình áp lực tác dụng lên thanh tới do thanh đánh tác dụng 105
Hình 4.32. Ứng suất trong mẫu với kích thước phần tử khác nhau 107
Hình 4.33. Sự thay đổi ứng suất trong mẫu theo kích thước phần tử của mẫu 108
Hình 4.34. Ứng suất trong mẫu trường hợp 2 108
Hình 4.35. Ứng suất trong mẫu trường hợp 3 108
Hình 5.1. Kích thước mô hình hai chiều 2D 113
Hình 5.2. Kích thước mô hình ba chiều (3D) 113
Hình 5.3. Mô hình áp lực nổ lên biên đường hầm 117
Hình 5.4. Các loại phần tử vô hạn được sử dụng trong mô phỏng 118
Hình 5.5. Sơ đồ xác định chiều dài phần tử vô hạn trong mô hình số 119
Hình 5.6. Kích thước mô hình số khảo sát 120
Hình 5.7. Sơ đồ đặt lực kiểm tra kích thước lưới 120
Hình 5.8. Cường độ của lực Tác dụng theo thời gian 120
Hình 5.9. Sự khác nhau về thời gian giữa hai điểm B và C 121
Hình 5.10. Các điểm quan sát khảo sát trong mô hình số 124
Hình 5.11. Ảnh hưởng của hệ số giảm chấn đến giá trị PPV tại điểm A 125
xiv
Hình 5.12. Ảnh hưởng của hệ số giảm chấn đến giá trị PPV tại điểm B 126
Hình 5.13. Tổng hợp sự ảnh hưởng của hệ số giảm chấn đến giá trị
PPV xuất hiện trong vỏ chống bê tông liền khối của đường hầm cũ tại B 127
Hình 5.14. Sơ đồ lựa chọn hệ số giảm chấn cho mô hình số B 128
Hình 5.15. Quan hệ giữa mô đun đàn hồi động Ed và PPV theo phương
thẳng đứng tại B 128
Hình 5.16. Quan hệ giữa mô đun đàn hồi động Ed và PPV theo phương
nằm ngang tại B 130
Hình 5.17. Tổng hợp sự ảnh hưởng của mô đun đàn hồi động Ed đến giá
trị PPV trong vỏ chống bê tông cố định của đường hầm cũ 131
Hình 5.18. Ảnh hưởng của mô hình phá hủy vật liệu đến PPV 133
Hình 5.19. Sự ảnh hưởng của chiều dài mô hình số đến chấn động nổ
mìn trong vỏ chống bê tông liền khối của đường hầm cũ 133
Hình 5.20. So sánh các PPV theo phương thẳng đứng (PPV1) trong vỏ
chống bê tông của đường hầm cũ khi chiều dài mô hình số thay đổi tại
điểm B
134
Hình 5.21. So sánh các giá trị PPV theo phương nằm ngang PPV2 trong
vỏ chống bê tông của đường hầm cũ khi chiều dài mô hình số thay đổi
tại điểm B
134
Hình 5.22. So sánh biên độ thay đổi của PPV tại điểm quan sát 136
Hình 5.23. Ảnh hưởng của khoảng cách giữa hai đường hầm đến giá trị
PPV trong vỏ chống bê tông cố định của đường hầm cũ 137
Hình 5.24. Sơ đồ nghiên cứu sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn tại
gương hầm mới đến vỏ chống bê tông của đường hầm cũ lân cận theo
phương dọc trục hầm
138
Hình 5.25. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của khoảng cách D- từ vị trí
quan sát trong vỏ chống đường hầm cũ tới mặt phẳng trùng với mặt
phẳng gương hầm mới đến giá trị PPV
140
Hình 5.26. Vùng phá hủy trong vỏ chống bê tông của hầm cũ lân cận 142
Hình 5.27. Vùng phá hủy của khối đá 143
xv
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án nghiên cứu
Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng của Việt
Nam được từng bước được đầu tư xây dựng hoàn thiện, trong đó xuất hiện các
dự án hầm được đào mới, đào mở rộng ngay cạnh các dự án hầm đã được xây
dựng nhiều năm trước đó như dự án hầm Cổ Mã, hầm Hải Vân,…Do khoảng
cách giữa hai hầm thường có giá trị nhỏ (30,0 m), cho nên khi tại khi mở rộng
hầm lánh nạn bằng phương pháp khoan nổ mìn sẽ gây nên những ảnh hưởng xấu
của sóng nổ đến kết cấu vỏ chống chống giữ hầm chính. Do đó, việc nghiên cứu
sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến kết cấu chống giữ của đường hầm lân
cận khi thi công đường hầm bằng phương pháp khoan nổ mìn ở Việt Nam hiện
nay là hết sức cần thiết. Kết quả giải quyết vấn đề trên sẽ góp phần làm cơ sở cho
việc đánh giá chấn động nổ mìn đường hầm dân dụng, phục vụ công tác thiết kế
và thi công đường hầm nhằm hạn chế chấn động kết cấu đường hầm lân cận. Đây
là vấn đề còn hết sức mới mẻ ở Việt Nam. Do đó, các vấn đề tác giả đã lựa chọn
trong luận án nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn khi thi công đường
hầm đến kết cấu đường hầm lân cận để tiến hành nghiên cứu có tính thời sự và
mang tính cấp thiết.
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Mục tiêu nghiên cứu của luận án như sau:
➢ Xây dựng các mô hình số 2D, 3D cho phép phân tích, dự báo ảnh
hưởng của chấn động nổ mìn đến kết cấu chống giữ của đường hầm lân cận khi
thi công đường hầm bằng phương pháp khoan nổ mìn;
➢ Nghiên cứu sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến kết cấu chống giữ
của đường hầm lân cận trên các mô hình số 2D, 3D;
➢ Đánh giá được mức độ ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến kết cấu
chống giữ của đường hầm lân cận dựa trên các số liệu đo đạc thực tế tại một số
xvi
dự án và kết quả nghiên cứu trên mô hình số 2D, 3D;
➢ Tìm ra một số quy luật thực nghiệm đánh giá mức độ ảnh hưởng của
chấn động nổ mìn đến kết cấu chống giữ của đường hầm
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án như sau:
➢ Kết cấu chống giữ bê tong của đường hầm lân cận với đường hầm được
thi công bằng phương pháp khoan nổ mìn;
➢ Môi trường đất đá là đàn hồi tuyến tính và đồng nhất, chưa xét đến sự
ảnh hưởng của khe nứt và mặt phân cách trong khối đá đến sự truyền sóng;
➢ Mối liên kết giữa vỏ chống bê tông liền khối của đường hầm cũ với
khối đá là liên kết cứng liên tục. Lớp vỏ chống bê tông liền khối thỏa mãn được
coi là lớp lát hàn bám chặt vào đất đá và cùng dao động với đất đá.
4. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu
Luận án tiếp cận các vấn đề nghiên cứu từ các góc độ sau đây:
➢ Phương pháp tiếp cận lý thuyết: tiếp cận các kết quả của các bài toán
động truyền sóng nổ trong môi trường đất đá đồng nhất, đẳng hướng;
➢ Phương pháp tiếp cận thực tế: tiếp cận các kết quả đo đạc chấn động
thực tế tại hầm Croix-Rousse, Lyon, Pháp;
➢ Phương pháp tiếp cận bằng cách sử dụng các thành tựu khoa học tiên
tiến của thế giới và trong nước: để lựa chọn các phương pháp đánh giá ảnh
hưởng của chấn động nổ mìn đến kết cấu đường hầm lân cận thông qua các công
trình khoa học đã được công bố trên các tạp chí, các báo cáo tại các hội thảo,
kinh nghiệm của các nhà khoa học nhà quản lý tại các cơ sở nghiên cứu trong
lĩnh vực nghiên cứu của luận án trong nước và ngoài nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau:
➢ Phương pháp nghiên cứu phân tích tổng hợp: tiến hành thu thập các số
xvii
liệu đo đạc thực tế tại các dự án hầm thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án;
➢ Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm: thí nghiệm trên các mẫu đá thu
được tại hiện trường tại phòng thí nghiệm;
➢ Phương pháp số: xây dựng các mô hình số đánh giá ảnh hưởng của
chấn động nổ mìn đến kết cấu đường hầm lân cận khi thi công đường hầm bằng
phương pháp khoan nổ mìn trên mặt phẳng đi qua gương hầm (2D) và dọc trục
đường hầm (3D).
6. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Phạm vi nghiên cứu của luận án như sau:
➢ Môi trường đất đá là đàn hồi tuyến tính và đồng nhất, chưa xét đến sự
ảnh hưởng của khe nứt trong khối đá đến sự truyền sóng;
➢ Liên kết giữa vỏ chống bê tông liền khối của đường hầm cũ với khối đá
là liên kết cứng liên tục. Lớp vỏ chống bê tông liền khối thỏa mãn được coi là
lớp lát hàn bám chặt vào đất đá và cùng dao động với đất đá.
7. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là vỏ chống bê tông liền khối của
đường hầm cũ được xây dựng trước đó theo công nghệ truyền thống đổ tại chỗ
bằng ván khuôn di động hoặc ván khuôn lắp ghép có lớp bê tông lấp đầy và bám
chặt vào lớp đất đá (lớp lát hàn), do đó lớp vỏ chỉ được tính toán cho sóng nổ,
không tính cho áp lực đất đá.
8. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án
➢ Ý nghĩa khoa học của luận án: các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ
góp phần làm cơ sở lý luận cho việc đánh giá chấn động nổ mìn khi thi công các
đường hầm dân dụng và công nghiệp;
➢ Ý nghĩa thực tiễn của luận án: các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ
phục vụ cho các công tác thiết kế, công tác thi công đường hầm nhằm hạn chế sự
xviii
chấn động có hại của sóng nổ mìn đến kết cấu của các đường hầm lân cận ở Việt
Nam.
9. Những điểm mới của luận án
Luận án đạt được một số điểm mới như sau:
➢ Thực hiện thí nghiệm động SHPB và mô phỏng số để xác định các
thông số động của môi trường đất đá, kết cấu chống giữ; tìm ra các mối quan hệ
giữa ứng suất, biến dạng, tốc độ biến dạng theo thời gian của kết cấu chống giữ
dưới tác dụng của tải trọng động giống như áp lực nổ mìn trên thực tế;
➢ Xây dựng các công thức kinh nghiệm xác định giá trị PPV và lượng
thuốc nổ nạp lớn nhất khi nổ mìn thi công đường hầm; chỉ ra mối quan hệ giữa
RMR của khối đá, mức độ chấn động đến vỏ chống bê tông đường hầm lân cận
tại dự án hầm Croix-Rousse; xây dựng các công thức thực nghiệm xác định giá
trị PPV phụ thuộc vào RMR;
➢ Xây dựng, kiểm chứng mô hình số hai chiều 2D, ba chiều 3D; khảo sát
các thông số của các mô hình và tìm ra giá trị hệ số giảm chấn phù hợp bằng 5,0
%; xác định giá trị PPV tỉ lệ nghịch với hệ số giảm chấn của khối đá; xác định
chiều dài mô hình hợp lý; chỉ ra các vùng phá hủy của vỏ chống đường hầm cũ;
tìm ra các công thức thực nghiệm dự báo giá trị PPV cho các vị trí trong vỏ
chống đường hầm cũ; đề xuất phương pháp xem xét mức độ chấn động của nổ
mìn thi công đường hầm mới đến trạng thái của khối đá và kết cấu chống giữ bê
tông của đường hầm cũ lân cận.
10. Cấu trúc luận án
Luận án có kết cấu gồm 5 chương như sau:
➢ Chương 1. Tổng quan về ảnh hưởng của chấn động nổ mìn thi công
đường hầm đến kết cấu chống các đường hầm lân cận
➢ Chương 2. Lý thuyết về truyền sóng trong môi trường đất đá và
phương pháp xác định sự ảnh hưởng của sóng nổ lên kết cấu đường hầm lân cận
xix
➢ Chương 3. Nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn thi công
đường hầm bằng phương pháp khoan nổ mìn đến kết cấu đường hầm lân
cậnthông qua phương pháp đo đạc thực nghiệm hiện trường
➢ Chương 4. Nghiên cứu các thông số động của khối đá và vỏ chống
➢ Chương 5. Nghiên cứu sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn khi đào
hầm đến kết cấu chống đường hầm lân cận bằng phương pháp số
1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤN ĐỘNG NỔ MÌN THI CÔNG
ĐƯỜNG HẦM ĐẾN KẾT CẤU CHỐNG CÔNG TRÌNH NGẦM LÂN CẬN
1.1. Tổng quan về ảnh hưởng của chấn động nổ mìn khi đào hầm đến công
trình ngầm lân cận và hướng nghiên cứu của luận án
Tại nước ta trong thời gian qua xuất hiện các dự án đường hầm được đào mới
ngay cạnh các dự án đường hầm đã được xây dựng trước đó nhiều năm như dự án
đường hầm Cổ Mã, dự án mở rộng hầm lánh nạn thuộc dự án hầm Hải Vân. Tại
đường hầm Cổ Mã thuộc dự án hầm đường bộ Đèo Cả, đường hầm chính đào gần
song song với đường hầm đường sắt số 24 (vị trí gần nhất 47,0 m, vỏ bê tông đường
hầm được Pháp thi công khoảng 100 năm trước đây) (Phụ lục 1). Công tác đảm bảo
an toàn cho kết cấu đường hầm đường sắt được yêu cầu nghiêm ngặt thông qua
công tác giám sát nổ mìn bằng cách đo thực nghiệm giá trị PPV nhằm điều chỉnh
lượng thuốc nổ lớn nhất cho một lần nổ để đảm bảo an toàn cho vỏ chống bê tông.
Đối với dự án hầm đường bộ qua đèo Hải Vân, khoảng cách giữa đường hầm
chính của Dự án đường hầm Hải Vân và đường hầm lánh nạn chỉ khoảng 30,0 m
(Phụ lục 1). Tuy nhiên, khi mở rộng đường hầm lánh nạn bằng phương pháp khoan
nổ mìn, vấn đề đánh giá dự báo ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đào hầm đến kết
cấu vỏ chống của hầm chính vẫn chưa được quan tâm đúng mức để có thể dự báo
chính xác sự ảnh hưởng nhằm đưa ra các giải pháp phù hợp khi thi công mở rộng
đường hầm lánh nạn. Ngoài ra, quá trình thi công mở rộng đường hầm lánh nạn còn
phải xét đến những nứt nẻ, phá hủy xuất hiện trong vỏ chống bê tông tại đường hầm
chính xuất hiện trước đó để có giải pháp xử lý phù hợp (Hình 1.1.a) [1]. Khi nổ mìn
thi công đường hầm, ngoài tác dụng phá vỡ khối đá trên gương đường hầm, năng
lượng sinh ra khi nổ mìn còn ảnh hưởng đến vùng khối đá xung quanh trong một
phạm vi nhất định. Các đường hầm ở trong phạm vi đó cần được đánh giá mức độ
tác động gây ra do nổ mìn khi đào đường hầm.
2
a) b)
Hình 1.1. Sự cố, phá hủy xảy ra trong một số đường hầm ở Việt Nam và trên thế
giới: a - Các vết nứt xuất hiện trong vỏ hầm chính của hầm Hải Vân [1], [23]; b - Vụ
nổ trong đường hầm lấy nước Port Huron tại Mỹ vào năm 1971 [2], [4]
Trong quá khứ, nhiều sự cố phá hủy các công trình do nổ mìn trong khu vực
lân cận đã được ghi nhận trên thế giới. Năm 1971, một vụ nổ đã xảy ra tại một đường
hầm được xây dựng 220 feet dưới bờ biển gần hồ Huron, Mỹ làm chết 21 người và
khiến 9 người bị thương [4]. Toàn bộ kết cấu trong đường hầm đã hoàn toàn bị phá
hủy sau vụ nổ (Hình 1.1.b). Sức công phá của vụ nổ mạnh đến mức làm cấu trúc
đường hầm bị hư hỏng nghiêm trọng. Năm 1980, đường hầm đường sắt Jiuguaidao,
Trung Quốc đã bị phá hủy nghiêm trọng do chấn động nổ mìn từ việc đào mái dốc
gần đó: 123,0 m đường hầm đã bị phá hủy 3000,0 m3 đất đá bên trong đường hầm bị
sạt lở. Chi phí khắc phục sự cố lên đến hàng tỉ đôla [67].
Trên thế giới hiện có rất nhiều dự án đường hầm đào bằng khoan nổ mìn cần
được giám sát chấn động nổ mìn cho các kết cấu công trình ngầm lân cận như dự án
đường hầm Croix-Rousse ở Lyon, Cộng hòa Pháp. Đường hầm Croix-Rousse là
một công trình đường hầm giao thông đô thị giữa sông Rhône và sông Saône. Chiều
dài của đường hầm là 1757,5 m; diện tích mặt cắt ngang bằng 84,10 m2 (Hình 1.2).
Vị trí đường hầm nằm ở khu vực rất đông dân cư, có nhiều tòa nhà gần đó [54].
Ngoài ra, có một đường hầm cũ có dạng vòm tường thẳng (bán kính vòm là 8,05 m,
chiều cao tường 1,0 m) nằm song song với đường hầm mới. Đường hầm đào mới
có dạng hình vòm móng ngựa, bán kính của vòm là 5,55 m. Khoảng cách giữa hai
trục đường hầm bằng 42,6 m. Do đường hầm đào hoàn toàn trong đất đá rắn cứng
với độ bền nén trên 120 MPa, cho nên nhà thầu (Công ty EGIS, Pháp) đã chọn
phương pháp khoan nổ mìn để thi công đường hầm. Khi thi công đường hầm, Công
3
ty EGIS đã sử dụng phương pháp đo đạc hiện trường kết hợp với tiêu chuẩn đánh
giá chấn động cho kết cấu vỏ chống đường hầm của Pháp để đánh giá mức độ chấn
động. Từ đây, lượng thuốc nổ lớn nhất được điều chỉnh cho mỗi lần nổ và cho cả
gương hầm để đảm bảo an toàn cho kết cấu vỏ chống của đường hầm cũ lân cận.
Các dự án đường hầm cao tốc Damaoshan, đường hầm đường sắt ở Xinjiang (Trung
Quốc),… cũng được tiến hành tương tự.
a)
b)
Hình 1.2. Điều kiện khu vực xung quanh đường hầm: a - Mặt cắt ngang
và khoảng cách hai đường hầm; b - Vị trí mặt bằng cửa đường hầm [54]
Vấn đề nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đào hầm đã được các
nhà khoa học trên thế giới quan tâm, nhiều công trình khoa học được công bố trong
thời gian gần đây. Tại Việt Nam do hạn chế về phương tiện đo đạc thực nghiệm,
thiếu các phần mềm chuyên dụng để mô phỏng trong tính toán thiết kế đối với các
công trình ngầm dân sự nên kết quả nghiên cứu vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều tác
giả đã quan tâm nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đối với các công trình
ngầm quân sự, tuy nhiên, tải trọng được xem xét trong các nghiên cứu chủ yếu do
áp lực nổ của bom đạn trên mặt đất hoặc lượng thuốc nổ đơn độc nằm nông so với
mặt đất. Việc nghiên cứu ảnh hưởng của các thông số cơ học của đất đá, tính không
đồng nhất của môi trường, đặc tính áp lực nổ mìn, khoảng cách giữa hai đường
hầm, loại liên kết giữa đất đá và vỏ chống đường hầm đến mức độ chấn động của
kết cấu công trình ngầm cũng ít được chú ý.
Hiện nay, việc nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến kết cấu
công trình ngầm lân cận được tiến hành theo các hướng chủ yếu sau: nghiên cứu sự
ảnh hưởng của chấn động nổ mìn khi nổ một lượng thuốc nổ đơn độc (đánh bom
4
khủng bố trong tàu điện ngầm, nổ do bom đạn...); khi nổ vi sai trong trong giai đoạn
thi công do nổ mìn tại gương hầm đến kết cấu công trình ngầm phía sau và xung
quanh gương hầm với kết cấu là bê tông phun, bê tông liền khối cùng với tuổi khác
nhau [7], [8], [9], [33], [40] (Hình 1.3).
Hình 1.3. Sóng ứng suất truyền trong khối đá: a - Mặt cắt ngang hầm;
b - Mặt bằng đường hầm [7], [8], [9], [33], [40]
a)
b)
Hình 1.4. Ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến kết cấu công trình lân cận:
a - Kết cấu đường hầm lân cận; b - Kết cấu công trình bề mặt [42], [62], [63]
Hướng nghiên cứu đánh giá sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn khi đào
đường hầm bằng phương pháp nổ mìn đến kết cấu chống đường hầm lân cận đã
được đẩy mạnh nghiên cứu trong thời gian gần đây do số lượng các dự án đào
đường hầm mới, đào mở rộng bên cạnh tuyến đường hầm tăng nhanh nhằm đáp ứng
5
các yêu cầu về giao thông (Hình 1.4.a). Với các dự án đường hầm mới được đào
ngay dưới lòng thành phố (ví dụ đường hầm Croix-Rousse, Lyon) việc nghiên cứu
ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến các công trình bề mặt cũng rất được quan tâm
(Hình 1.4.b). Luận án tiến hành xây dựng các mô hình số cho phép nghiên cứu
đánh giá ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến sự ổn định của vỏ chống bê tông của
đường hầm lân cận dựa trên các số liệu đo đạc hiện trường tại dự án Croix-Rousse
(Pháp). Việc nghiên cứu khảo sát các thông số của mô hình sẽ cho phép rút ra được
những kết quả cần thiết để có thể điều chỉnh các thông số khoan nổ mìn nhằm giảm
thiểu chấn động nổ mìn đến vỏ chống bê tông của đường hầm lân cận trong những
điều kiện xây dựng tương tự.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu chấn động nổ mìn đến kết cấu công trình
ngầm lân cận khi thi công đường hầm bằng phương pháp khoan nổ mìn
Vấn đề nghiên cứu sự ảnh hưởng của chấn động do nổ mìn khi thi công
đường hầm đến kết cấu chống giữ của đường hầm lân cận đã được nhiều tác giả trên
thế giới quan tâm và đã có nhiều kết quả được công bố. Các phương pháp nghiên
cứu đã được sử dụng trong các nghiên cứu bao gồm: phương pháp giải tích; phương
pháp nghiên cứu trên mô hình tương đương; phương pháp đo thực nghiệm hiện
trường; phương pháp nghiên cứu trên mô hình số.
1.2.1. Các phương pháp giải tích
Các phương pháp giải tích tương đối hiếm, chủ yếu thông qua phương pháp
tích phân và lý thuyết tia của Pao Y.H. (1983) [80]. Ngoài ra, Wersall C. (2008)
[92] sử dụng một giải pháp chuyển dạng kín cho trường hợp đường hầm hình tròn
chịu áp lực nổ. Tại đây, áp lực nổ được mô phỏng như một nguồn hữu hạn tác động.
Giải pháp đạt được bằng cách sử dụng toán tử Laplace cùng với mối quan hệ với
thời gian và toán tử Fourier cùng mối quan hệ với tọa độ. Các nghiên cứu của Li và
n.n.k [66] đã thể hiện một phương pháp giải tích đánh giá ứng xử của vỏ chống
đường hầm thông qua việc đánh giá giá trị của PPV và ứng suất phân bố. Sự ảnh
hưởng của sóng nổ lên đường hầm cũ lân cận đã được xem xét để đánh giá độ ổn
6
định của đường hầm. Thông thường, bài toán truyền sóng nổ trong môi trường khối
đất đá rất phức tạp. Vì vậy, hầu hết các phương pháp giải tích mới chỉ dừng lại ở
việc giải các bài toán đơn giản như biên đường hầm có dạng hình tròn, môi trường
khối đá là đàn hồi, đồng nhất và đẳng hướng. Khả năng ứng dụng của phương pháp
này bị hạn chế khi đường hầm có tiết diện ngang không phải hình tròn, môi trường
khối đất đá phân lớp, nứt nẻ,…
1.2.2. Các phương pháp nghiên cứu trên mô hình vật lý tương đương
Một số tác giả (Khosrow B., 1997 [52]; Smith P.D., 1998 [84]), đã sử dụng
mô hình vật lý tương đương để nghiên cứu chấn động nổ mìn lên một đường hầm
cũ. Smith và n.n.k [84] giới thiệu kết quả nghiên cứu thực nghiệm trên mô hình
đường hầm nhỏ khi sóng nổ truyền thẳng dọc theo đường hầm nhám được tạo ra
bằng các tấm lá thép có kích thước khác nhau, đặt dọc theo hai bên sườn đường
hầm. Mô hình đường hầm được chế tạo từ thép tấm với chiều dày bằng 3,0 mm.
Các kích thước chiều rộng, chiều cao, chiều dài của đường hầm bằng 150100500
mm. Tác giả đã sử dụng mô hình này để xác định giá trị áp lực nổ tác dụng lên
đường hầm khi thay đổi vị trí đặt khối thuốc nổ. Khosrow B. (1997) [52] đã nghiên
cứu sự ảnh hưởng của vi khe nứt và khe nứt nên sự phản ứng của đường hầm sử
dụng mô hình vật lý 1-G. Kết quả nghiên cứu cho thấy tồn tại sự phù hợp rất lớn
giữa nổ mìn đào đường hầm thực tế và việc giảm tỉ lệ thí nghiệm của mô hình. Từ
đây cho phép chỉ ra các ứng dụng của mô hình vật lý vào việc nghiên cứu tương tác
giữa thuốc nổ và công trình. Mặc dù phương pháp mô hình vật lý tương đương cho
phép mô phỏng các điều kiện phức tạp của môi trường truyền sóng và công trình,
tương tác giữa công trình với môi trường xung quanh khá giống so với điều kiện
thực tế, nhưng phương pháp có nhược điểm lớn là việc chế tạo mô hình phức tạp,
chi phí cao. Ngoài ra, do kích thước mô hình nhỏ cho nên không thể mô phỏng hết
các yếu tố ảnh hưởng. Điều này có ảnh hưởng không tốt đến kết quả bài toán nghiên
cứu.
7
1.2.3. Các phương pháp nghiên cứu đo đạc thực nghiệm tại hiện trường
Phương pháp đo đạc thực nghiệm cho phép thu được kết quả đo phản ảnh
gần nhất với thực tế. Chúng khắc phục những nhược điểm của các phương pháp giải
tích, thí nghiệm mô hình vật lý. Các thiết bị đo hiện trường sẽ xác định PPV và biến
dạng của các phần tử đất đá, vỏ chống đường hầm do tác động của sóng nổ mìn tại
gương đường hầm. Các dữ liệu đo cho phép tìm ra các quy luật, các công thức kinh
nghiệm thể hiện mối quan hệ giữa các thông số của vụ nổ, môi trường truyền nổ,
các biểu hiện của công trình chịu tác dụng của sóng nổ cho các loại môi trường địa
chất khác nhau. Chúng cho phép dự báo sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến
công trình. Theo hướng này đã có nhiều tác giả tiến hành nghiên cứu tại nhiều dự án
khác nhau (Ansell, 2004; Ahmed, A., 2011; Lin, D., 2011) [40], [42], [68]. Ví dụ,
Lin D. [68] đã tiến hành đo đạc chấn động tại 46 vụ nổ, kết hợp với 96 dữ liệu đo
đạc khác để rút ra công thức thực nghiệm tính khối lượng thuốc nổ cho phép lớn
nhất khi đào đường hầm không gây ảnh hưởng đến đường hầm cũ và các công trình
bề mặt nằm gần đó.
Phương pháp đo đạc thực nghiệm đơn giản nhưng đòi hỏi phải đầu tư các
thiết bị đo hiện đại có chi phí lớn, phải tiến hành nổ thử nghiệm tại hiện trường.
Ngoài ra, độ chính xác của kết quả đo đạc thực nghiệm sẽ giảm đi rất nhiều nếu
không có đầy đủ thông tin về môi trường khối địa chất sóng nổ truyền qua. Việc áp
dụng các kết quả đo đạc thực nghiệm thu được từ một công trình trước đó cho một
công trình khác đòi hỏi phải có nghiên cứu so sánh tỉ mỉ, cẩn thận.
1.2.4. Các phương pháp mô hình số
Cùng với sự phát triển của máy tính điện tử, phương pháp sử dụng mô hình số
đã, đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới trong lĩnh vực nghiên cứu bài toán truyền
sóng nổ trong môi trường đất đá. Quá trình truyền sóng nổ trong đất đá là bài toán
không gian 3 chiều (3D). Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của các mô hình 3D, thời
gian thực hiện các tính toán trên mô hình 3D kéo dài, cho nên các nghiên cứu ảnh
hưởng của chấn động nổ mìn đến kết cấu đường hầm lân cận được tiến hành trên mô
8
hình 3 chiều (3D) chưa có nhiều. Các nghiên cứu theo hướng này có các tác giả [16],
[25], [29], [49], [70], [82], [88], [90], [93], [96],...
Liang và n.n.k [67] đã đánh giá ảnh hưởng của nổ mìn đào đường hầm đến
khối đá và kết cấu chống giữ của đường hầm cũ liền kề tại dự án đường hầm
Daomaoshan (Trung Quốc). Sự phá hủy của khối đá và hệ thống vỏ chống dưới các
tải trọng khác nhau sinh ra do nổ mìn đã được phân tích bằng dữ liệu đo thực
nghiệm và mô phỏng số. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: mức độ phá hủy khối đá
xung quanh đường hầm tăng tuyến tính với sự gia tăng của giá trị PPV. Tác giả
cũng chỉ ra giá trị giới hạn của PPV đối với đường hầm cũ lân cận là 0,22 m/s. Xia
và n.n.k [93] đã nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn từ một đường hầm
đang đào tới đường hầm đường sắt cũ ở Xinjiang (Trung Quốc) bằng việc sử dụng
số liệu đo tại phòng thí nghiệm, hiện trường và mô hình số. Trong đó, các số liệu đo
từ các thí nghiệm và tại hiện trường đã được sử dụng để xác định các thông số động
cần thiết cho mô hình và làm cơ sở để so sánh với kết quả thu được từ mô hình số.
Trên cơ sở các kết quả đo đạc thực nghiệm và mô hình số, các tác giả đã chỉ ra giá
trị giới hạn của PPV. Tại đây, sự ảnh hưởng của ứng suất tĩnh trước khi nổ mìn và
ứng suất động hình thành do nổ mìn lên giá trị ứng suất tổng trong đường hầm cũ đã
được giới thiệu. Ahmed và Ansell [40] đã tiến hành nghiên cứu sự ảnh hưởng của
một khối thuốc nổ tập trung ở các vị trí khác nhau gần một đường hầm đến lớp vỏ
chống bê tông phun bên trong đường hầm đó. Các tác giả đã xây dựng được công
thức kinh nghiệm để tính các thông số động của bê tông phun; phát triển mô hình liên
kết giữa bê tông phun và khối đá là liên kết kiểu dầm-lò xo. Jong-Ho Shin và n.n.k
[49] đã nghiên cứu sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến đường hầm cũ trong khu
vực thành phố và đưa ra đánh giá về vùng bảo vệ chịu sự tác dụng của chấn động nổ
mìn. Mô hình số 2D được sử dụng để mô hình đường hầm trong đá yếu. Áp lực nổ
mìn được mô phỏng trên cơ sở điều chỉnh công thức tính áp lực nổ dựa vào kết quả
đo. Sự ảnh hưởng tới vỏ đường hầm do chấn động khi nổ mìn được khảo sát theo giá
trị PPV, chuyển vị và ứng suất trong vỏ chống. Tại đây, tác giả cũng đưa ra một
hướng dẫn xác định vùng bảo vệ chấn động nổ mìn trên cơ sở các thông số như vị trí
9
nổ mìn, độ sâu đường hầm, khối lượng thuốc nổ. Zhao và n.n.k [96] đã tiến hành
nghiên cứu sự ảnh hưởng tới vỏ chống đường hầm cũ ở mức trên khi tiến hành đào hệ
thống đường hầm tàu điện ngầm ở mức dưới. Mô hình số phát triển dựa trên phần
mềm LS-DYNA. Kết quả đạt được bằng phương pháp số có thể so sánh với dữ liệu
đo đạc hiện trường theo giá trị biên độ, trạng thái của hàm PPV hoặc hàm biến dạng
hoặc so sánh giá trị biên độ của hai hàm trên. Cách so sánh kết quả đạt được của hai
phương pháp theo cả biên độ và trạng thái thường chỉ áp dụng cho việc nghiên cứu
các vụ nổ đơn độc như nổ mìn do khủng bố hoặc nổ mìn để thực nghiệm đơn thuần
(Lu, Y., et al, 2005 [70]; Saharan and Mitri, 2008 [85]; Wu, Ch., 2004 [92]). Việc so
sánh giá trị biên độ thường áp dụng cho vụ nổ với nhiều đợt khác nhau trong điều
kiện địa chất phức tạp (nổ mìn bãi lộ thiên, nổ mìn trên gương hầm,…). Các kết quả
nghiên cứu theo hướng này được nhiều tác giả đề cập (Jong-Ho Shin et al, 2011 [49];
Liang Q., 2013 [67]; Lua W. et al. [71], Saharan và Mitri, 2008 [85]; Yang J., 2012
[94]; Xia et al., 2013 [93]). Việc nghiên cứu chấn động nổ mìn bằng phương pháp
mô hình số được sử dụng nhiều do những ưu điểm sau: khả năng dễ dàng sử dụng;
cho phép thu được kết quả đáng tin cậy. Tuy nhiên, đây là một bài toán động học
phức tạp. Việc xây dựng mô hình số cần chú ý đến các thông số động đưa vào của
bài toán, kích thước mô hình phải đủ lớn hoặc sử dụng biên loại không phản xạ để
tránh hiện tượng sóng phản xạ lại tại biên mô hình làm ảnh hưởng đến kết quả khảo
sát trên mô hình. Ngoài ra, đến nay các kết quả nghiên cứu trên cũng chưa chú ý
nhiều đến ảnh hưởng của chủng loại liên kết giữa kết cấu chống trong công trình và
khối đất đá xung quanh, chưa chú ý nhiều đến tính phân lớp của đất đá, loại phần tử
biên sử dụng,… Những thông số trên có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả nghiên cứu
của mô hình truyền sóng nổ trong môi trường đất đá và tác dụng của sóng nổ lên kết
cấu công trình. Do đó cần thiết phải có những nghiên cứu, đánh giá cụ thể thêm.
1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu chấn động nổ mìn do đào hầm đến công
trình ngầm lân cận tại Việt Nam
10
Tại Việt Nam, hướng nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn khi thi
công các đường hầm theo phương pháp thi công hở hoặc khai thác mỏ lộ thiên bằng
khoan nổ mìn đến các công trình lân cận trên bề mặt (nhà, các công trình công
nghiệp,…) đã được chú ý. Khoảng cách từ vị trí nổ mìn và khối lượng thuốc nổ
được quy định rất rõ theo Quy phạm [30]. Tuy nhiên, việc nghiên cứu ảnh hưởng
của chấn động nổ mìn đối với các kết cấu đường hầm ít được thực hiện. Các kết quả
nghiên cứu về PPV, khối lượng thuốc nổ lớn nhất cho phép chưa được xác định rõ
ràng. Số lượng các công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đào
đường hầm đến các đường hầm lân cận rất hạn chế. Vấn đề này đã được một số tác
giả nghiên cứu và công bố kết quả.
Tác giả Hoàng Thị Hồng [6] đã sử dụng phương pháp giải tích để nghiên cứu
trường ứng suất, biến dạng xung quanh vị trí nổ với quan điểm coi đất đá là môi
trường có tính chất cơ lý phù hợp với mô hình lưu biến Kelvin, buồng nổ hình cầu,
mô hình lưu biến Poynting-Thomson, buồng nổ hình trụ (Phụ lục 2). Tác giả [6]
cũng nghiên cứu sự lan truyền sóng ứng suất và biến dạng xung quanh vị trí nổ mìn
với buồng nổ hình trụ. Kết quả nghiên cứu tìm ra giá trị ứng suất, biến dạng của
khối đá xung quanh buồng nổ bằng phương pháp giải tích, đồng thời giải thích được
sự lan truyền ứng suất, biến dạng trong đất đá xung quanh vị trí nổ có dạng sóng.
Kết quả tìm ra đã được so sánh với kết quả đo đạc thực nghiệm. Kết quả nghiên cứu
cũng xác định được ranh giới giữa ba vùng phá hoại xung quanh vị trí nổ mìn. Tuy
nhiên, kết quả nghiên cứu còn tồn tại một số điểm hạn chế như: môi trường đất đá
xung quanh buồng nổ được giả thiết là liên tục, đồng nhất, đẳng hướng, cho nên kết
quả chỉ đúng khi đất đá nguyên khối hoặc mức độ nứt nẻ không lớn, độ mở của các
khe nứt nhỏ.
Tác giả Nguyễn Xuân Mãn [27] đã tiến hành nghiên cứu bằng phương pháp
giải tích xác định bán kính phá hủy khi nổ một lượng thuốc nổ đơn độc với lời giải
gần đúng cho bài toán có dạng hình tròn. Bài toán được lập trên cơ sở xác định
trường ứng suất do sóng nổ phân bố trong môi trường. Nghiệm của bài toán được
xác định bằng việc giải phương trình phân bố sóng ứng suất trong môi trường đất đá
11
có giới hạn bền chịu kéo đã biết. Kết quả thực nghiệm cho thấy vùng phá hủy hình
xuất hiện xung quanh lượng thuốc nổ như phân tích lý thuyết.
Tác giả Lê Đình Tân [34] đã tiến hành khảo sát đường hầm đặt trong môi
trường đất đá chịu tác dụng của áp lực sóng nổ có xét đến: sự phân lớp của môi
trường, vật liệu đàn hồi tuyến tính, hệ kết cấu-môi trường làm việc theo mô hình
biến dạng phẳng, mặt sóng nén phẳng, song song với trục công trình và tác dụng lên
toàn bộ kết cấu một cách đồng thời. Tác giả đã xây dựng mô hình, phương pháp
tính động lực học đường hầm chịu tác dụng của tải trọng động do nổ mìn có kể đến
tính không đồng nhất của môi trường, hình dạng tùy ý của kết cấu và sự tương tác
sóng nổ-môi trường-kết cấu. Bài toán được giải theo phương pháp phần tử hữu hạn.
Tại đây, tác giả Lê Đình Tân [34] sử dụng thuật toán của phương pháp lặp không
gian con để giải bài toán dao động riêng và phương pháp tích phân trực tiếp
Newmark để giải bài toán dao động cưỡng bức của hệ. Tác giả cũng nghiên cứu sự
ảnh hưởng các đặc tính cơ học của môi trường và tải trọng đến trạng thái chịu lực
của đường hầm. Phương pháp mô hình tương đương được tiến hành trong [34] với
kết cấu đường hầm có dạng vòm tường thẳng được lắp ghép từ các thanh thép bản
chiều dày 2 mm, chiều rộng 2 cm, môi trường đất đá là san hô với kích thước
100100100 cm đặt trong một hộp kín bằng gỗ. Tải trọng động được tạo ra bởi lực
va chạm vào bề mặt môi trường bởi vật nặng 5 kG. Tác giả tiến hành đo biến dạng
và gia tốc tại các điểm đo trong mô hình.
Phương pháp đo đạc thực nghiệm được một số tác giả thực hiện. Tuy nhiên,
do điều kiện thực nghiệm nổ mìn phức tạp nên số lượng các công trình nghiên cứu
chưa nhiều [15], [34], [35]. Tác giả [15] tiến hành phân tích dữ liệu đo đạc với 54
vụ nổ khác nhau tại đường hầm Croix-Rousse, Lyon, Pháp. Kết quả rút ra các công
thức thực nghiệm dự báo khối lượng thuốc nổ lớn nhất cho một lần nổ nhằm giảm
thiểu ảnh hưởng đến đường hầm lân cận. Tác giả Lê Đình Tân [34] tiến hành đo đạc
thực nghiệm tại đường hầm Truông Khấp (Đô Lương, Nghệ An). Tác giả Nguyễn
Hữu Thế [35] tiến hành thí nghiệm nổ mìn trong môi trường đá san hô tại phía
Đông-Nam của đảo Sơn Ca thuộc quần đảo Trường Sa. Do những khó khăn của
12
phương pháp đo đạc thực nghiệm nên phương pháp sổ được sử dụng phổ biến hơn
trên thực tế [13], [15], [30], [32], [34], [35]. Nhìn chung các công trình chủ yếu
nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ bom, mìn trên bề mặt hay nằm gần mặt đất
đến kết cấu đường hầm quân sự (dạng công sự). Ví dụ, trong [34] đã nghiên cứu
ảnh hưởng của đường hầm quân sự dưới tác động của sóng nổ do bom mìn phía trên
bề mặt. Kết quả mô hình tính toán chưa chú ý nhiều đến ảnh hưởng của điều kiện
biên, loại phần tử biên được sử dụng. Các thông số động phục vụ cho việc tính toán
mô hình chưa được thí nghiệm để xác định; chưa xem xét bài toán trong trường hợp
nổ khối lượng thuốc nổ với nhiều đợt nổ khác nhau. Ngoài ra, các phần mềm được
viết dựa trên những thuật toán cụ thể nên chưa xem xét nhiều yếu tố ảnh hưởng cần
thiết.
Trong [13], tác giả Nguyễn Hải Hưng đã giới thiệu phương pháp giải bài
toán động lực học của kết cấu đường hầm quân sự với môi trường chịu tác dụng tải
trọng sóng nổ của bom đạn (cường độ mạnh, thời gian tác dụng ngắn) và đưa ra kết
quả tính toán ảnh hưởng thời gian tác dụng của sóng nổ đến trạng thái ứng suất-biến
dạng của kết cấu công trình. Vật liệu kết cấu giả thiết là đàn hồi tuyến tính, đồng
nhất đẳng hướng. Hệ kết cấu-môi trường làm việc theo sơ đồ biến dạng phẳng trong
điều kiện chuyển vị bé và biến dạng bé. Trong quá trình chất tải coi liên kết trên bề
mặt tiếp xúc giữa kết cấu và môi trường dạng liên tục, không có hiện tượng trượt
hay tách cục bộ. Bài toán được giải bằng phương pháp phần tử hữu hạn, hệ kết cấu-
môi trường được rời rạc hóa. Thuật toán để giải bài toán động là phương pháp tích
phân trực tiếp Newmark. Kết quả tính toán chỉ ra rằng khi kết cấu công trình chịu
tác dụng của tải trọng sóng xung kích lan truyền trên mặt đất thì chúng không chịu
sự ảnh hưởng nhiều như so với trường hợp chịu tải trọng do bom đạn nổ cục bộ lên
công trình. Tại đây, tác giả chỉ đề cập đến trạng thái ứng suất-biến dạng của kết cấu
mà chưa đề cập đến vận tốc sóng nổ lan truyền trong môi trường và kết cấu. Biên
được sử dụng là loại liên kết gối tựa nên có sự phản xạ của sóng nổ tại biên vào mô
hình gây ảnh hưởng đến kết quả mô hình. Với việc sử dụng phần mềm SAP2000,
tại đây các thông số của môi trường và vật liệu kết cấu chưa đề cập nhiều.
13
Tác giả [16] đã sử dụng mô hình số để nghiên cứu sự ảnh hưởng của chấn
động nổ mìn đến kết cấu vỏ chống bê tông của đường hầm lân cận trong hai trường
hợp: biên loại cố định; biên loại không phản xạ (được tạo ra bằng cách sử dụng loại
phần tử vô hạn). Kết quả so sánh với số liệu đo thực tế cho thấy: biên loại không
phản xạ cho kết quả tốt hơn. Tác giả kiến nghị sử dụng loại biên này để nghiên cứu
bài toán truyền sóng nổ trong môi trường đất đá. Tác giả [15] đã phát triển mô hình
2D để nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đào đường hầm đến vỏ chống
bê tông của đường hầm liền kề tại dự án Croix-Rousse, Lyon, Pháp. Từ mô hình
2D, tác giả đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của hệ số giảm chấn của môi trường
đất đá và kết cấu đến kết quả mô hình.
Hình 1.5. Mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của nổ mìn trong môi trường san hô [35]
Gần đây, tác giả Nguyễn Hữu Thế [35] đã nghiên cứu ảnh hưởng của sóng
nổ lên kết cấu công trình công sự đặt trong môi trường san hô. Phần thực nghiệm
được tiến hành tại đảo Sơn Ca thuộc quần đảo Trường Sa. Mô hình số hai chiều
(2D) được tiến hành mô phỏng thông qua phần mềm Plaxis và chương trình
MineBlast (Hình 1.5) của phần mềm Autodyn. Tác giả đã so sánh kết quả mô hình
khi xây dựng trên hai phần mềm khác nhau đồng thời so sánh kết quả thí nghiệm.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu này các thông số của khối đá và vỏ chống đưa vào mô
hình số là các thông số tĩnh trong khi vỏ đường hầm làm việc ở trạng thái động nên
phần nào ảnh hưởng đến kết quả mô hình.
14
1.4. Kết luận chung về tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước về
hướng nghiên cứu của luận án
Từ kết quả nghiên cứu trên đây, có thể rút ra một số nhận xét sau:
➢ Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết có rất nhiều hạn chế, khó áp dụng
để nghiên cứu sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn cho các đường hầm có tiết diện
không phải hình tròn. Phương pháp nghiên cứu trên mô hình vật lý tương đương đòi
hỏi thời gian chế tạo mô hình dài, phải có các trang thiết bị chuyên dụng nên cũng
khó sử dụng trong điều kiện Việt Nam;
➢ Phương pháp mô hình số và phương pháp đo đạc hiện trường đang được
sử dụng rất phổ biến và cho kết quả tin cậy. Do đó, luận án chọn sử dụng kết hợp
hai phương pháp trên để nghiên cứu. Trong đó, các dữ liệu đo đạc hiên trường lấy
từ dự án đường hầm Croix-Rousse, Cộng hòa Pháp được sử dụng để khẳng định
tính đứng đắn của mô hình số được xây dựng. Trên cơ sở đó, mô hình số sẽ được sử
dụng để nghiên cứu các thông số, từ đó đưa ra những đánh giá về sự ổn định của kết
cấu đường hầm do ảnh hưởng của chấn động nổ mìn;
➢ Việc nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến kết cấu đường hầm
lân cận khi đào đường hầm bằng phương pháp khoan nổ mìn ở Việt Nam chưa được
chú ý nhiều do cho đến nay mới chỉ bắt đầu có những dự án thi công đường hầm
song song hay được đào mở rộng gần đường hầm cũ;
➢ Các nghiên cứu chủ yếu mới chỉ chú ý xem xét sự ảnh hưởng đối với các
đường hầm quốc phòng đặt trên mặt đất hoặc gần mặt đất hay đặt ngầm trong môi
trường nước, san hô. Tại đây, tải trọng được đề cập chủ yếu là do áp lực nổ của bom
đạn trên mặt đất hoặc bom đạn nổ trong môi trường đất đá gần đường hầm quân sự
nằm gần mặt đất và kích nổ một lần;
➢ Trong các mô hình số đã xây dựng, nhiều tác giả vẫn sử dụng các thông số
tĩnh của khối đá, kết cấu chống giữ đường hầm để mô phỏng trong khi đây là những
thông số động phải xử lý cho bài toán động. Sự không phù hợp trên dẫn đến những
ảnh hưởng không tốt đến kết quả của mô hình số. Việc xem xét sự ảnh hưởng của
15
dao động riêng, dao động tắt dần (thể hiện qua hệ số giảm chấn) cũng chưa được
chú ý làm ảnh hưởng xấu đến kết quả, độ tin cậy của mô hình;
➢ Việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của đặc tính không đồng nhất của môi
trường đất đá, đặc tính áp lực nổ mìn, phương pháp mô phỏng áp lực nổ, khoảng cách
giữa hai đường hầm, loại liên kết giữa đất đá và kết cấu chống giữ đến kết quả mô
hình ít được chú ý. Đa số các khảo sát mô hình số hiện nay mới chỉ thực hiện thông
qua các mô hình số hai chiều 2D. Tuy nhiên, mô hình 2D thường không thể hiện
được điều kiện thực tế do khi nổ mìn tại gương đường hầm một phần năng lượng nổ
được hấp thụ bởi khối đá và vỏ chống của đường hầm. Tại mô hình 2D năng lượng
nổ khi hấp thụ không đáng kể trên mặt phẳng. Vì vậy, mô hình 3D nên nghiên cứu sử
dụng cho phù hợp với điều kiện thực tế;
➢ Trong thời gian qua, một số ít các tác giả đã phát triển mô hình 3 chiều 3D
bằng các phương pháp khác nhau (phương pháp phần tử hữu hạn, phương pháp
phần tử biên, phương pháp phần tử rời rạc,...). Tuy vậy, các kết quả hầu hết mới chỉ
dừng lại ở việc xem xét sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến phần vỏ chống bê
tông liền khối của đường hầm lân cận trong phạm vi mặt cắt ngang trùng với mặt
cắt đi qua gương đường hầm mới;
➢ Kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy chấn động mạnh nhất xuất hiện tại
mặt bên gần nhất với tâm khối thuốc được giả định đặt tại trung tâm gương hầm, chịu
sự ảnh hưởng bởi lượng thuốc lớn nhất khi nổ một lần nổ (thường trong khoảng 8,0
ms) lớn hơn sự ảnh hưởng của tổng lượng thuốc trên gương đường hầm [87]. Trong
khối đá rắn cứng có ít khe nứt thường xảy ra chấn động mạnh hơn so với trong khối
đá mềm chứa nhiều khe nứt. Kết quả này cho thấy, trong khối đá có chất lượng cao
thì các rủi ro gây ra do chấn động nổ mìn sẽ cao hơn;
➢ Các kết quả nghiên cứu đến nay chủ yếu mô phỏng trên mô hình số 2D
mới dừng lại ở việc đánh giá ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến phần vỏ chống
đường hầm lận cận nằm trong cùng mặt phẳng với gương đường hầm mới; chưa có
những nghiên cứu đánh giá cụ thể trong miền vỏ chống bê tông phía trước, phía sau
16
mặt phẳng chứa gương đường hầm mới và đường hầm cũ lân cận. Đây là cơ sở để
luận án tập trung nghiên cứu đưa ra những kết quả mới.
1.5. Những vấn đề tập trung nghiên cứu của luận án
Từ các tổng hợp, phân tích và đánh giá ở trên, vấn đề nghiên cứu sự ảnh
hưởng của chấn động nổ mìn đến vỏ chống bê tông của đường hầm cũ lân cận khi
đào đường hầm mới bằng phương pháp khoan nổ mìn dọc trục đường hầm tập trung
vào một số hướng nghiên cứu chính như sau (Hình 1.6 và Hình 1.7):
Hình 1.6. Ảnh hưởng chấn động nổ mìn đào đường hầm đến các công trình lân cận
➢ Nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến kết cấu đường hầm lân
cận bằng phương pháp đo đạc hiện trường tại dự án đường hầm Croix-Rousse,
Lyon: xây dựng mối quan hệ giữa PPV và tỉ lệ nạp thuốc, tỉ lệ khoảng cách cũng
như các thông số cơ lý của khối đá đường hầm đào qua (ví dụ như như RMR); xây
dựng các công thức thực nghiệm dự báo khối lượng thuốc nổ lớn nhất cho phép cho
một lần nổ trong đá granit để áp dụng cho các dự án thi công đường hầm trong
những điều kiện tương tự;
17
Hình 1.7. Sơ đồ thể hiện các bước nghiên cứu của luận án
➢ Nghiên cứu các thông số động học của khối đá bằng thí nghiệm động học
SHPB trên các mẫu đá làm dữ liệu đầu vào cho việc lập các mô hình số;
18
➢ Xây dựng, kiểm chứng và khảo sát thông số mô hình số bằng mô hình số
hai chiều 2D và ba chiều 3D theo trình tự sau đây:
Xây dựng các mô hình số hai chiều 2D và ba chiều 3D bằng phương pháp
phần tử hữu hạn thông qua sử dụng phần mềm Abaqus. Trong đó, biên mô hình là
loại điều kiện không phản xạ NRBC bằng cách sử dụng phần tử loại vô hạn IE dựa
trên dữ liệu đo đạc tại dự án đường hầm Croix-Rousse;
Khảo sát sự ảnh hưởng của tính chất cơ lý của khối đá và vỏ chống (mô
đun đàn hồi động, hệ số giảm chấn, mô hình phá hủy vật liệu,…) đến quá trình hoạt
động của mô hình;
Khảo sát ảnh hưởng của khoảng cách, vị trí đường hầm để tìm khoảng cách
tối thiểu cho phép đảm bảo an toàn cho vỏ chống cố định của đường hầm cũ;
Khảo sát sự ảnh hưởng của mô hình áp lực nổ, đánh giá sự ảnh hưởng vỏ
đường hầm cố định dưới tác dụng của áp lực nổ mìn;
➢ Sử dụng chỉ số phá hủy nổ mìn BDI (Blast Damage Index) để dự báo mức
độ phá hủy của khối đá và kết cấu đường hầm lân cận thông qua việc sử dụng kết
quả của mô hình số đã xây dựng và đã được kiểm chứng.
1.6. Kết luận Chương 1
Chương 1 đã tiến hành nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu trong
nước và trên thế giới về sự ảnh hưởng của chấn động gây ra do nổ mìn khi thi công
đường hầm đến kết cấu chống giữ của đường hầm lân cận. Trong đó, đặc biệt nhấn
mạnh về vai trò quan trọng của các phương pháp đo thực nghiệm tại hiện trường và
các phương pháp nghiên cứu trên mô hình số cho quá trình nghiên cứu bài toán.
Chương 1 đã đưa ra những nhận xét về tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài
nước về hướng nghiên cứu, những điểm còn tồn tại của vấn đề nghiên cứu, từ đó đề
xuất những vấn đề nghiên cứu chính của luận án.
19
CHƯƠNG 2
CHƯƠNG 2. LÝ THUYẾT VỀ TRUYỀN SÓNG TRONG MÔI TRƯỜNG
ĐẤT ĐÁ VÀ PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA SÓNG
NỔ LÊN KẾT CẤU CÔNG TRÌNH NGẦM LÂN CẬN
2.1. Tổng quan về các loại sóng chấn động gây ra do nổ mìn đào đường hầm và
đặc tính của chúng
Khi nổ mìn đào đường hầm, khối thuốc trong các lỗ mìn được kích nổ sẽ giải
phóng năng lượng dưới dạng các sóng ứng suất truyền trong đất đá. Sóng chấn động
sinh ra do nổ mìn trong khối đất đá là một loại sóng địa chấn. Sóng địa chấn là
những dạng sóng năng lượng hình thành và lan truyền bởi sự va chạm của các phần
tử đất đá trong các lớp địa tầng khi xảy ra động đất hoặc nổ mìn. Sóng địa chấn có
nhiều dạng với nhiều cách lan truyền khác nhau. Trong đó, có thể phân ra hai nhóm
lớn: nhóm sóng khối (body wave); nhóm sóng bề mặt (surface wave). Sóng khối có
thể lan truyền trong các tầng đất phía sâu. Còn sóng bề mặt chỉ có thể lan truyền ở
lớp đất phía trên của vỏ quả đất.
2.1.1. Sóng khối
Khi nổ khối thuốc nổ, năng lượng được giải phóng dưới dạng các sóng, sóng
khối di chuyển xuyên qua các lớp đất và truyền lên mặt đất. Sóng khối có tần số cao
hơn và vận tốc lan truyền từ tâm chấn nhanh hơn sóng bề mặt. Có hai dạng sóng
khối chính: sóng sơ cấp P (sóng nén P); sóng thứ cấp (sóng S).
a. Sóng sơ cấp P (sóng nén P)
Sóng sơ cấp P là sóng địa chấn có vận tốc nhanh nhất và được ghi nhận sớm
nhất khi động đất xảy ra. Sóng P có thể di chuyển qua các lớp đá rắn và các lớp vật
chất lỏng trong vỏ quả đất, như lớp mắc ma, nước biển hay nước ngầm. Sóng P
truyền theo phương dọc, tương tự như sóng âm thanh. Sóng P còn được gọi là sóng
nén vì tác dụng đẩy và kéo lên lớp đất đá. Hướng chuyển động của các phần tử sóng
sóng với hướng truyền sóng.
20
b. Sóng thứ cấp (sóng S)
Vận tốc lan truyền của sóng S nhỏ hơn sóng P. Do đó, sóng S được ghi nhận
sau sóng P. Vì thế, chúng được gọi là sóng thứ cấp. Sóng S chỉ có thể lan truyền
trong lớp đá rắn mà không thể di chuyển qua các lớp vật chất lỏng. Dưới sự lan
truyền sóng S, các hạt vật chất chuyển động vuông góc với phương truyền sóng
(cũng là phương của sóng P).
2.1.2. Sóng bề mặt
Dạng sóng này có tần số thấp hơn so với sóng khối. Chúng chỉ di chuyển
trong lớp đất phía trên sát mặt đất. Mặc dù dạng sóng này đến sau sóng khối, nhưng
hầu như sóng bề mặt mới là nguyên nhân chính gây ra phá hoại nhà cửa trong các
trận động đất. Khi tâm chấn ở độ sâu lớn, thì cường độ sóng cũng như nguy cơ phá
hoại do sóng này gây ra mới giảm bớt.
a. Sóng Love
Sóng Love là dạng sóng đầu tiên của sóng bề mặt, được đặt tên theo nhà toán
học người Anh A.E.H. Love - Người đầu tiên đề xuất mô hình toán học cho kiểu
sóng này vào năm 1911. Dưới sự lan truyền của sóng Love, các hạt vật chất chuyển
động theo phương ngang và có tốc độ lan truyền nhanh nhất trong các sóng bề mặt.
Sóng Love là nguyên nhân chủ yếu gây nên chuyển động ngang của bề mặt vỏ quả
đất [5].
b. Sóng Rayleigh
Sóng Rayleigh là dạng thứ hai của sóng bề mặt, được đặt theo tên của Lord
Rayleigh - Người đã dùng công thức toán học tiên đoán sự tồn tại của dạng sóng
này vào năm 1885. Sóng Rayleigh cuộn tròn dọc theo mặt đất tương tự như sóng
nước cuộn trên mặt biển, cho nên mặt đất bị di chuyển lên xuống, qua lại theo
phương truyền của sóng này. Phần lớn sự rung lắc cảm nhận được trong các trận
động đất là từ sóng Rayleigh, với cường độ lớn hơn tất cả các dạng sóng địa chấn
khác. Khi nổ mìn, ngoài các sóng đàn hồi địa chấn kể trên, ở gần vùng nổ còn xuất
hiện các sóng va đập. Các sóng này khác với các sóng đàn hồi ở chỗ: biến dạng và
21
ứng suất do chúng gây ra vượt quá giới hạn đàn hồi và đạt đến độ bền của đá, kết
quả làm đá bị phá vỡ. Vận tốc lan truyền của sóng va đập cao hơn vận tốc của sóng
đàn hồi dọc.
Kết quả khảo sát cho thấy, khi nổ khối thuốc nổ các sóng sinh ra tác dụng lên
đường hầm lân cận gồm: sóng nén P, sóng cắt S, trong khi công trình bề mặt chịu
thêm sóng bề mặt Rayleigh (Hình 2.1). Trong một số trường hợp, khi tính toán kết
cấu đường hầm có kể đến ảnh hưởng của sóng địa chấn thường sử dụng phương
pháp tải trọng tĩnh tương đương khi xem xét sóng có bước sóng lớn. Đây là phương
pháp tính gần đúng cho phép tính toán kết cấu công trình chịu tải trọng ngắn hạn do
nổ gây ra thường áp dụng cho các công trình có kết cấu đơn giản, tính chất công
trình không đặc biệt quan trọng (Hình 2.2). Phương pháp này có những ưu điểm: có
khả năng đơn giản hóa việc tính toán; việc xác định tải trọng tác dụng lên công trình
không đòi hỏi độ chính xác cao. Tuy nhiên, tại đây kết quả tính toán thường lớn hơn
giá trị thực của tải trọng tác dụng lên công trình, cho nên chúng sẽ gây lãng phí vật
liệu chống giữ.
Hình 2.1. Sơ đồ mô tả sự tác động của các loại sóng nổ
gây ra bởi vụ nổ đến kết cấu đường hầm lân cận [77]
Với sự tác động của hai loại sóng chính ở trên, trong vỏ chống đường hầm
(bê tông phun, bê tông liền khối,...) sẽ xuất hiện cả ứng suất nén và ứng suất kéo.
Tuy nhiên, ứng suất gây phá hủy vỏ chống bê tông cốt thép liền khối chủ yếu là
thành phần ứng suất kéo. Đối với các công trình bề mặt: sóng nén P và sóng bề mặt
Rayleigh là hai loại sóng tác động chính đến công trình bề mặt. Thực tế cho thấy:
sóng gây ra phá hủy các công trình bề mặt là sóng bề mặt Rayleigh.
22
Hình 2.2. Sơ đồ tính toán tương đương kết cấu đường hầm
do sự lan truyền của sóng nổ gây ra [31]
2.1.3. Sự lan truyền sóng nổ trong môi trường đất đá khi nổ mìn đào hầm
Xét lượng nổ hình cầu trong môi trường đất đá vô hạn. Sau quá trình gây nổ,
sản phẩm nổ được nén ép với áp lực cao va chạm mạnh với các phần tử đất đá xung
quanh và tạo nên sóng xung kích trong đất đá. Khi vụ nổ xảy ra bên trong nền đất
đá, từ tâm nổ hình thành sóng chấn tâm lan truyền trong khối đá. Sản phẩm nổ được
hình thành có áp suất rất lớn tạo ra sóng xung kích trên bề mặt phân cách môi
trường và lượng nổ. Sóng xung kích là một nhiễu động mạnh, tức thời của môi
trường. Sự lan truyền của sóng xung kích gắn liền với sự tổn thất năng lượng. Đối
với lượng nổ thông thường vùng lan truyền của sóng xung chỉ xảy ra trong phạm vi
57 lần bán kính vùng nổ [77]. Trong trường hợp tổng quát, tại một điểm cách tâm
nổ một khoảng cách r nào đó, một phân tố môi trường chịu tác dụng nén của ứng
suất nén n, chịu tác dụng kéo của ứng suất kéo k. Trong vùng tác dụng của sóng
xung kính, ứng suất trên mặt sóng lớn, do đó môi trường rắn ở gần lượng nổ bị vỡ
vụn và chuyển sang trạng thái chảy, hình thành vùng biến dạng dẻo trong phạm vi
3÷7 lần bán kính nổ.
23
Trong quá trình lan truyền ở một cự ly nào đó tính từ tâm nổ, sóng xung kích
trong môi trường có tính dẻo sẽ chuyển thành sóng nén với thời gian tăng tải và
giảm tải của sóng. Sóng nén là nhiễu động không đàn hồi của môi trường. Các tham
số của chúng biến thiên một cách từ từ. Tốc độ lan truyền của sóng bằng tốc độ
sóng âm truyền trong môi trường. Trong vùng lan truyền của sóng nén, môi trường
có tính chất không đàn hồi, nó phát sinh biến dạng dư dẫn đến sự phá hoại liên kết
giữa các phần tử của môi trường. Kết quả sẽ hình thành hệ thống các vết nứt hướng
tâm và hình tròn. Vùng lan truyền biến dạng này có phạm vi khoảng 120÷150 lần
bán kính lượng nổ [77]. Hình ảnh vụ nổ trong môi trường rắn thể hiện trên Hình
2.3. Môi trường xung quanh lượng nổ hình thành bốn vùng rõ rệt: vùng nén ép;
vùng vỡ vụn; vùng long rời; vùng chấn động (Hình 2.3). Vùng nén ép chịu áp lực
lớn nhất của sóng xung kích. Tại vùng vỡ vụn: môi trường đất đá bị phá vỡ thành
từng mảng, nếu gần bề mặt đất đá sẽ bị văng đi. Trong vùng long rời: đất đá phá vỡ
thành từng mảng lớn, không văng được. Trong vùng chấn động đất đá chỉ bị chấn
động mà không bị phá vỡ.
Hình 2.3. Sự hình thành các vùng xung quanh vụ nổ [77]
Trong vùng nén ép, dưới tác dụng của áp suất, nhiệt độ rất lớn của sản phẩm
nổ, các lớp đá granit bị đập vụn, chuyển động mạnh theo hướng bán kính đồng thời
cũng đẩy các lớp đất đá sau tiếp theo. Do vậy, đất đá gần tâm nổ bị sản phẩm nổ đẩy
ra ngoài tạo thành lỗ rỗng. Trong phạm vi vùng vỡ trong, đá granit trong vùng này bị
phá hoại một phần dưới dạng các vết nứt xuyên tâm và tiếp tuyến [77]. Vùng chấn
24
động hay vùng biến dạng đàn hồi, trong đó đất đá không bị phá hoại về kết cấu nhưng
bị dao động do tác dụng của sóng nổ tạo thành chấn động trong đá granit. Do đặc
điểm cấu tạo của môi trường đất đá, sóng xung kích tồn tại duy trì một khoảng cách
thời gian và khoảng cách rất ngắn rồi nhanh chóng biến thành sóng nén. Các đặc
trưng cơ bản của sóng nén như sau: mặt sóng nén không thay đổi đột ngột và dốc
đứng như mặt sóng xung kích mà biến đổi từ từ, áp lực tăng từ 0 đến giá trị cực đại rồi
giảm từ giá trị cực đại về giá trị 0; thời gian tác dụng của tải trọng do sóng nén gây ra
lớn hơn nhiều so với thời gian lan truyền của sóng xung kích; trị số áp lực cực đại
khác nhau tại các khoảng cách khác nhau.
2.1.4. Các tham số sóng nén gây ra do nổ mìn
Khi nổ lượng thuốc nổ nằm trong môi trường đất đá, từ tâm nổ sẽ hình thành
sóng nổ lan truyền từ tâm nổ ra xung quanh gọi là sóng chấn tâm. Ở cự ly gần tâm
nổ sẽ là sóng xung kích, ở cự ly xa là sóng nén lan truyền trong môi trường. Các
tham số của sóng chấn tâm phụ thuộc vào các yếu tố sau: vị trí đặt lượng nổ; điều
kiện địa chất tại khu vực xây dựng công trình; tính chất cơ lý của đất đá; khoảng
cách từ tâm nổ đến vị trí khảo sát và công suất vụ nổ.
Áp suất, xung riêng của sóng nén truyền trong đá: khi nổ trong đất đá, sóng
xung kích được hình thành và lan truyền trên một khoảng cách ngắn so với tâm nổ
khoảng 37 lần bán kính nổ r0, sau đó chuyển nhanh thành sóng nén. Sóng nén khác
với sóng xung kích ở chỗ trên mặt sóng không có bước nhảy đột ngột, mà áp suất
tăng dần trong một khoảng thời gian nào đó, sau đó giảm dần. Các tham số của sóng
nổ bao gồm trị số áp lực cực đại, thời gian duy trì tải trọng, quy luật biến đổi theo
thời gian thường xác định bằng thực nghiệm.
2.2. Phương trình truyền sóng nổ trong môi trường đất đá đàn hồi, đồng nhất
và đẳng hướng
Khi nổ lượng thuốc nổ nhiệt độ môi trường đột ngột tăng lên dẫn tới thể tích
khí thải ra tăng; áp lực nổ tăng lên. Những hiệu ứng trên gây nên sóng ứng suất lan
25
truyền trong môi trường và gây ra hiện tượng va đập của các phần tử do đó nổ mìn
thường có tác dụng phá huỷ môi trường.
Nếu đặt vào khối đá giới hạn một tải trọng gây nên các ứng suất không vượt
quá giới hạn đàn hồi thì khối đá này sẽ di chuyển được một khoảng cách u theo
phương của các lực tác dụng. Bởi vì các phần tử đá liên kết chặt chẽ với nhau nên
biến dạng của một phần tử sẽ gây ra sự dịch chuyển của các phần tử khác ở xa hơn.
Như vậy là có sự truyền biến dạng đàn hồi (với một vận tốc xác định). Nếu không
có sự mất mát năng lượng do sự ma sát giữa các phần tử kề nhau, sự kích động đàn
hồi sẽ truyền đi trong khối đá.
Theo định luật thứ hai của Niutơn, tích khối lượng m của một thể tích phân
bố và gia tốc thì bằng tổng tất cả các lực F tác dụng vào thể tích đó [5]:
2
2
d um. dF.
dt
=
(2.1)
Trong đó: u - Biên độ dao động, là trị số độ chuyển dời tức thời của phần tử dao
động kể từ vị trí cân bằng; t - Thời gian.
Có thể biểu diễn tổng tất cả các lực dọc theo một trục tọa độ bất kì như tổng
của tất cả các ứng suất phân tố nhân với diện tích tương ứng và với các ứng suất đó.
Nếu thừa nhận lực thẳng góc (lực pháp tuyến) chỉ tác dụng dọc theo trục x, còn mẫu
đá là một thanh dài mảnh đến nỗi không có ứng suất tiếp thì [31]:
( )xdF / x . x. y. z . = (2.2)
Vì m=(.x.y.z) và =(/g) là khối lượng thể tích (mật độ) của đá, cho nên:
2x
2
u.
xt
=
(2.3)
Đây là phương trình chuyển động của một thể tích đá bất kỳ dọc theo trục x
khi không có các lực khác tác dụng vào phần đất đá trên. Để chuyển sang biến dạng
cần phải sử dụng phương trình của định luật Hook: x=(x.E). Thay thế biến dạng tỉ
đối x bằng độ dịch chuyển tương ứng dọc theo trục x [31]:
x=(u/x) (2.4)
26
chúng ta có phương trình sóng đơn giản (khi không có sự mất mát năng lượng):
2 2
2 2
u E u.g. .
t x
=
(2.5)
Phương trình (2.9) đặc trưng sự truyền sóng dọc phẳng theo trục x. Ngoài ra,
vận tốc lan truyền của sóng nén đàn hồi trong thanh đá được tính [31]:
( )tr E / .g. = (2.6)
Trong đá có kích thước lớn (trong khối nguyên) có các sóng khối lan truyền.
Chúng được đặc trưng bằng hệ thống phương trình vi phân sau [31]:
( )
( )
( )
22
2
22
2
22
2
u. ' G . G u;
xt
. ' G . G ;yt
w. ' G . G w;
zt
= + +
= + +
= + +
(2.7)
Trong đó: u, v, w - Các giá trị chuyển dời ứng với các trục tọa độ x, y, z; - Mức độ
dãn nở thể tích; - Toán tử Laplace; ’ - Hằng số Lame;
u u u
x y z
= + +
;
x y z
= + +
;
2. .G'
1 2
=
− . (2.8)
Có thể biểu diễn sự lan truyền của các biến dạng đàn hồi (bất kỳ kiểu nào)
trong đá bằng nghiệm của hệ thống phương trình vi phân (2.11).
Lý thuyết truyền sóng trong môi trường vật rắn đồng nhất, đẳng hướng được
các nhà khoa học như Stocks, Poisson, Rayleigh đề cập. Trong môi trường đàn hồi,
đồng nhất, đẳng hướng, phương trình mô tả sự truyền sóng có dạng [31]:
G.2u+(+G)GradDivu+X=u (2.9)
Trong đó: G, - Các hằng số Lamê; u - Chuyển vị; - Trọng lượng riêng của vật
chất trong môi trường truyền sóng (chẳng hạn là đá).
Trong môi trường đàn hồi-dẻo và thoả mãn điều kiện dẻo thì sóng biểu diễn
bởi phương trình [31]:
27
2 2t
2 2 2 2p
u u u 1 u2 2 2 .
r r rr r c t
+ − = +
(2.10)
Khi kể đến hiện tượng giảm bền của vật liệu (đá) thì các thành phần ứng suất
nén và ứng suất tiếp sẽ tuân theo quy luật [31]:
*r t i. . .
k
− = + −
(2.11)
Có thể viết (2.14) dưới dạng [31]:
( )2
rr 2
2 u. .
r r t
+ − =
. (2.12)
Trong các công thức trên: , r - Lần lượt là ứng suất vòng (ứng suất tiếp) và ứng
suất hướng tâm trong hệ toạ độ phẳng cực (r, ); ε - Biến dạng tương đối; χ - Hệ số
kể đến thay đổi dấu (khi kéo: χ=1; khi nén: χ=-1); i* - Hàm tái bền của vật liệu.
Khi tuyến tính hóa hàm tái bền, có thể viết phương trình sóng cầu trongđất đá đàn
hồi-dẻo bằng phương trình [31]:
2 2t1
2 2 2 21 p
u u u 1 E 1 u2 2 . 1 . .
r r r E 3K Er r c t
+ − = − +
+ (2.13
Trong đó: c - Tốc độ truyền sóng, xác định theo công thức:
1
1
K(1 E / E)c .
(1 E / 9K)
+=
− (2.14)
Tại đây: K - Mô đun nén thể tích; E - Mô đun tái bền của vật liệu theo hàm tái bền
được tuyến tính hóa.
Các phương trình truyền sóng trong môi trường đàn hồi, đồng nhất, đẳng
hướng trên đây là hướng đơn giản hóa để giải quyết vấn đề. Việc giải bài toán
truyền sóng nổ là bài toán động rất phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.
Ngoài ra, môi trường đá thực tế không phải là môi trường đàn hồi, đồng nhất, đẳng
hướng. Cho nên, để giải quyết bài toán truyền sóng trong môi trường đàn hồi nên sử
dụng phương pháp thực nghiệm hoặc xây dựng các mô hình số.
28
2.3. Đặc tính tải trọng sinh ra do sóng nổ và đặc điểm làm việc của kết cấu
đường hầm dưới tác dụng của sóng nổ
Đặc tính làm việc của phần kết cấu chịu sóng nổ phụ thuộc vào các yếu tố:
tính chất của môi trường đất đá xung quanh; phương pháp thi công; đặc điểm của kết
cấu [36]. Đối với kết cấu nguyên khối đường hầm chịu sóng nổ, trong tính toán có thể
xem như kết cấu nằm trong môi trường đàn hồi. Tại đây, có thể vận dụng các phương
pháp của lý thuyết đàn hồi để tính [36]. Kết cấu được chia ra các trường hợp tính toán
sau đây: trường hợp lớp lát hàn; trường hợp lớp lát lồng.
2.3.1. Trường hợp lớp lát hàn
Trong trường hợp này kết cấu được xem như hàn chặt vào đất đá và cùng
dao động. Lớp lát hàn phải thỏa mãn các điều kiện sau đây [36]:
➢ Thứ nhất: E0>E. Tại đây: E0 và E - Mô đun đàn hồi của đất đá và vật liệu
kết cấu. Điều kiện này cũng có nghĩa: đất đá xung quanh đường hầmcứng hơn vật
liệu kết cấu;
➢ Thứ hai: ()<[R]. Tại đây thỏa mãn điều kiện ổn định của khoảng trống
đường hầm không chống;
➢ Thứ ba: ()<[Rtr].
Trong đó: [R] - Giới hạn bền của đất đá; Rtr - Cường độ chống trượt; Rtr=(2Rk); Rk -
Cường độ chịu kéo của vật liệu kết cấu (thường là bê tông).
Lớp lát hàn phù hợp trong những trường hợp thi công vỏ chống đường hầm
bằng phương pháp đổ bê tông nguyên khối tại chỗ (công nghệ truyền thống), khe hở
còn lại giữa đất đá và vỏ chống được nhồi đầy bằng vữa bê tông hay thi công vỏ
đường hầm bằng neo kết hợp với lưới thép và vữa. Đối với lớp lát hàn chỉ tính toán
cho sóng nổ, không tính cho áp lực đất đá.
2.3.2. Trường hợp lớp lát lồng
29
Trường hợp lớp lát lồng áp dụng khi đất đá và kết cấu không có liên kết chặt
chẽ và thỏa mãn một trong ba điều kiện sau đây [36]:
➢ Thứ nhất: E0<E;
➢ Thứ hai: E0>E và đất đá nứt nẻ nhiều, phân lớp hay tồn tại lớp chống
thấm, hay có lớp lấp đầy (không nhồi khe hở thi công bằng vữa bê tông);
➢ Thứ ba: ()>[R]. Điều này có nghĩa: đất đá xung quanh đường hầm mềm
yếu hơn vật liệu kết cấu hay đường hầm không chống không ổn định.
Trong trường hợp này, do tồn tại sự chuyển dịch tương đối giữa đất đá và vỏ
đường hầm, cho nên tại đó xuất hiện các thành phần ứng suất tiếp xúc. Kết cấu lắp
ghép thường được tính toán theo trường hợp lát lồng trừ những trường hợp nó chỉ là
một bộ phận cấu thành nên kết cấu nhiều lớp. Trong các công thức trên đây đại
lượng () (ứng suất trên chu vi khoang không chống và khoang có lớp lát) được
xác định theo công thức [36]:
ntx
i i k d zmax ki 1
( ) (h ).K k . .k .
=
= +
(2.15)
Trong đó: hi, i - Chiều dày và trọng lượng thể tích các lớp đất đá phía trên khoang
đường hầm; Kktx - Hệ số tập trung ứng suất trên chu vi khoang dưới tác dụng của
trọng lượng bản thân đất đá (tự trọng) hay tải trọng tĩnh (hệ số tập trung ứng suất
thường xuyên); kd - Hệ số động trong tính toán có thể lấy gần đúng kd=1,2; kk - Hệ
số tập trung ứng suất dưới tác dụng của sóng nổ; zmax - Giá trị cực đại của tải
trọng động [36].
( )txk p qK = K + x.K . (2.16)
kk=[(cos2+sin2).KP+(sin2+cos2).Kq+(1-)sincos.Kpq]. (2.21)
Trong đó: - Góc giữa phương truyền sóng và trục thẳng đứng lấy ngược theo
chiều kim đồng hồ; - Hệ số áp lực hông của đất đá; Kp, Kq, Kpq - Các hệ số tập
trung ứng suất do các thành phần tải trọng động theo các phương thẳng đứng,
30
phương nằm ngang và phương tiếp tuyến gây ra; Kp, Kq phụ thuộc vào tỉ số (h/l)
và (f/h) có thể lấy theo bảng tính sẵn theo đồ thị (Phụ lục 14, [36]).
Các tham số của sóng nổ tác dụng lên đường hầm khi nổ khối thuốc nổ trong
đất đá bao gồm: xung riêng khi sóng nén truyền đến kết cấu đường hầm; tải trọng
tĩnh tương đương (Hình 2.4). Xung riêng khi sóng nén truyền đến kết cấu đường
hầm được xác định theo công thức gần đúng [36]:
.
2 / 32
1 2 2
Ci = K .K f( ), T/m
D (2.17)
Trong đó: C - Trọng lượng thuốc nổ, kg; D - Khoảng cách từ tâm nổ đến kết cấu, m;
K1 - Hệ số xét đến tính chất của đất; K1=0,14 cho đất sét; K2 - Hệ số xét tới điều
kiện vùi lấp; K2=1 khi hx≥(0,25.rp); f() - Hàm số xét tới ảnh hưởng của góc giữa
phương truyền sóng và chướng ngại vật; f()=1 khi D=[(0,751,25).rp];
f()=(0,3+0,7.cos) khi D=[(1,251,75).rp]; rp - Bán kính phá hoại của kết cấu chịu
sự tác dụng của sóng nổ, m. Các công thức trên chỉ đúng trong trường hợp C≤100
kg và D≤5 [36].
Hình 2.4. Sơ đồ tính xung riêng tác
dụng lên kết cấu đường hầm [36]
Hình 2.5. Biểu đồ mô phỏng
áp lực nổ mìn [36]
Tải trọng tĩnh tương đương do xung nổ tác dụng lên kết cấu đường hầm được
xác định theo công thức sau [36]:
( ) 1 2 2
2/3
td
CP i. K .K . .f ( ). ,
D= = T/m2. (2.18)
31
Trong đó: i - Xung riêng khi sóng nén truyền đến kết cấu đường hầm (xác
định theo công thức 2.22); ω - Hệ số kể đến loại thuốc nổ sử dụng.Khi lượng nổ và
khoảng cách lớn hơn tác dụng của nổ không phải là tức thời và phải tính theo sóng
nén. Các tham số của sóng nén gồm: áp lực cực đại, thời gian tác dụng nổ. Áp lực
của sóng nén khi nổ lượng thuốc nổ ở sâu (Hn>>rP) có thể được xác định theo công
thức thực nghiệm sau [36]:
n3
m
C= a.
D
, kG/cm2. (2.19)
Trong đó: C - Trọng lượng khối thuốc nổ, kg; D - Khoảng cách từ tâm nổ đến điểm
nghiên cứu, m; a, n - Các hệ số thực nghiệm; a=8, n=3,0 cho các loại đất đá á sét;
a=18, n=2,8 cho các loại đất đá sét.
Thời gian tác dụng của sóng nén (Hình 2.5) xác định theo công thức [36]:
( )3= c C + b.R , giây. (2.20)
Trong đó: c, b - Các hệ số thực nghiệm, với á sét thì c=1.10-2; b=1.10-2 [36].
Thời gian tăng tải xác định theo công thức [36]:
( )3
t1 a0
D - d C= -1 ,
a
giây. (2.21)
Trong đó: = (a0/a1); a0 - Tốc độ lan truyền sóng đàn hồi trong đất đá, m/s; d - Tốc
độ lan truyền sóng dẻo trong đất đá, m/s.
Việc tính toán kết cấu đường hầm chịu tải trọng động phụ thuộc vào nhiều
yếu tố: sơ đồ tính toán chưa phản ánh chính xác sự làm việc thực của vỏ chống
đường hầm cũng như tình trạng đất đá xung quanh đường hầm; hầu hết phương
pháp tính toán chỉ mang tính gần đúng (phụ thuộc vào mô hình áp lực nổ và mô
hình vật liệu); việc xác định các hệ số trong công thức gặp nhiều khó khăn do cần
thực hiện trên nhiều công trình khác nhau [36].
2.4. Các phương pháp mô phỏng áp lực nổ khi nổ mìn tại gương hầm
32
Mô hình tính áp lực nổ là yếu tố quan trọng trong phương pháp mô phỏng sự
ảnh hưởng của chấn động nổ mìn khi đào đường hầm. Việc chọn mô hình mô phỏng
áp lực nổ mìn có ảnh hưởng trực tiếp đến sơ đồ tính toán và kết quả bài toán. Các
phương pháp tính toán mô phỏng áp lực nổ mìn đã được chú ý nghiên cứu từ rất
sớm. Tuy nhiên, cho đến nay các kết quả mới chỉ mới dừng lại ở dạng gần đúng.
Các phương pháp tính toán lý thuyết, phương pháp sử dụng phương trình trạng thái
hay các công thức kinh nghiệm đều chỉ chú ý đến một vài yếu tố và chấp nhận một
số giả thuyết về môi trường và về chính thuốc nổ. Mỗi mô hình áp lực nổ đều có
những ưu điểm, nhược điểm nhất định, được áp dụng trong phạm vi nhất định và
cho các kết quả khác nhau. Việc lựa chọn được mô hình phù hợp trong từng điều
kiện là hết sức quan trọng và có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả nghiên cứu. Theo
kết quả tổng hợp, hiện có ba phương pháp tính và mô phỏng áp lực nổ mìn khi nổ
khối thuốc nổ tại gương hầm bao gồm:
➢ Phương pháp tính toán sử dụng các công thức kinh nghiệm;
➢ Phương pháp tính áp lực nổ mìn dựa trên tỉ lệ khoảng cách;
➢ Phương pháp sử dụng phương trình trạng thái cho khối đá, thuốc nổ;
2.4.1. Phương pháp tính sử dụng các công thức kinh nghiệm
Áp lực tác dụng lên thành lỗ khoan khi nổ khối thuốc nổ trong lỗ mìn được
thể hiện như Hình 2.6.
Hình 2.6. Quá trình nổ của một khối thuốc nổ trong lỗ khoan theo
Atlas (1987), Clark (1987), Khoshrou (1996) và Bhandari (1997) [85]
33
Các phương trình đơn giản dưới đây được sử dụng để xác định giá trị áp lực
do nổ khối thuốc nổ trong lỗ khoan của Atlas (1987); Clark (1987); Nie và Olsson
(2001) [85]. Cụ thể:
➢ Áp lực do lực tạo ra khi phát nổ khối thuốc nổ trong lỗ mìn:
2
dd
VP ,
4= Pa; (2.22)
➢ Áp lực do nổ mìn trong lỗ khoan:
2
d dc
P VP , Pa;
2 8= = (2.23)
➢ Áp lực nổ tác dụng lên thành lỗ khoan:
Pb=Pe.(rc)2, Pa. (2.24)
Trong đó: - Mật độ thuốc nổ, kg/m3; Vd - Vận tốc khởi nổ của thuốc nổ sử dụng, m/s;
rc - Hệ số chuyển đổi rc=(dt/dk); dt, dk - Đường kính thỏi thuốc và đường kính lỗ
khoan; Q - Nhiệt phát ra từ vụ nổ, kJ/kg; - Hệ số mũ adiabatic; =1,5 (Persson và
n.n.k, 1994) [77]; 2
d1 V / Q = + theo Pickett và Davis (1979) [85].
Áp lực tác dụng lên thành lỗ khoan có thể tính theo phương pháp củaDuvall
(1953) và được phát triển bởi Lima và n.n.k (2002) [60]:
( ).t .t
0P(t) P . e e .− −= −
(2.25)
Trong đó: , - Các hằng số của đá theo Aimone (1982) [60].
Ngoài ra, biên độ áp lực nổ sinh ra từ việc mở rộng các khí từ vụ nổ, có thể
được tính theo công thức của Konya và Walter (1991) [60]:
7 2
e ed
e
4,18 10 SG VP
1 0,8SG.
−
=+
(2.26)
Trong đó: Pd - Biên độ áp lực nổ, Pa; SGe - Mật độ của thuốc nổ, g/cm3; Ve - Vận
tốc truyền nổ của thuốc nổ, m/s.
34
Hình 2.7. Biểu đồ áp lực nổ khối thuốc tác dụng lên thành lỗ khoan [60]
Áp lực nổ (áp lực gây ra bởi một lượng thuốc nổ nạp trong lỗ khoan) thường
phải xét đến sự ảnh hưởng của khoảng trống giữa thỏi thuốc và thành lỗ khoan. Để
xét đến sự ảnh hưởng của khoảng trống giữa khối thuốc nổ và thành lỗ khoan, áp
lực sẽ được điều chỉnh theo công thức [60]:
2
cB d
h
dP = P .
d
(2.27)
Trong đó: PB - Đại lượng áp lực tác dụng lên thành lỗ khoan, Pa; dc, dh - Tương ứng
là đường kính thỏi thuốc và đường kính lỗ khoan, mm.
Áp lực nổ mìn tác dụng lên biên đường hầm khi nổ một lượng thuốc nổ tại
các thời điểm khác nhau (phân đợt nổ) được thể hiện bằng công thức [60]:
BP(t) P .f(t) , Pa.= (2.28)
Trong đó: f(t) - Hàm mô phỏng sự thay đổi của áp lực theo thời gian.
Hàm mô phỏng sự thay đổi của áp lực nổ theo thời gian được sử dụng để mô
phỏng sự tác động của áp lực nổ lên thành lỗ khoan. Hầu hết các nghiên cứu đã sử
dụng hàm mũ để mô hình hình dạng sóng áp lực nổ hoặc kết hợp của hàm mũ và
dạng hàm sin cho mô hình hàm áp lực. Ví dụ, hàm f(t) được sử dụng bởi Park và
các cộng sự có dạng như sau [79]:
t1
td
d
tf(t) e
t
− = (2.29)
35
Áp
lự
c
Trong đó: f(t) - Hàm mô phỏng sự thay đổi của áp lực theo thời gian; t - Thời gian
đánh giá, s; td - Thời gian đạt được áp lực lớn nhất; td=0,0003361 s.
Trong thực tế, có hai loại áp lực nổ mìn chính thường được chấp nhận để mô
phỏng quá trình nổ mìn cho môi trường đất đá gồm: áp lực nổ dạng 1; áp lực nổ
dạng 2. Áp lực nổ dạng 1 tương ứng với loại thuốc nổ nhũ tương có thời gian tăng
áp lực nổ là rất ngắn và đường giảm áp lực có độ dốc lớn. Áp lực nổ dạng 2 tương
ứng với chất nổ dạng ANFO có thời gian để áp lực nổ đạt giá trị lớn nhất là dài hơn;
đường giảm áp lực có độ dốc nhỏ hơn so với loại thuốc nổ nhũ tương (Hình 2.8)
[85].
Hình 2.8. Hình dạng xung áp lực nổ ứng với hai loại thuốc nổ khác nhau [85]
2.4.2. Phương pháp tính áp lực nổ mìn dựa trên tỉ lệ khoảng cách
Phương pháp tính áp lực nổ mìn dựa trên tỉ lệ khoảng cách đánh giá áp lực
do nổ mìn do một vụ nổ trên cơ sở tỉ lệ khoảng cách Z đã được nghiên cứu trong
các nghiên cứu trước đây. Đại lượng Z được định nghĩa theo biểu thức [86]:
Z=(D/W1/3). (2.30)
Trong đó: D - Khoảng cách từ tâm của khối thuốc tới điểm quan sát, m; W - Khối
lượng thuốc nổ tương đương với thuốc nổ TNT, kg. Khi sử dụng loại thuốc nổ khác
cần tính quy đổi về chủng loại thuốc nổ TNT theo công thức sau:
( )TNT x TNTW W Q /Q .= (2.31)
36
Trong đó: Qx, QTNT - Năng lượng riêng của thuốc nổ đang sử dụng và thuốc nổ
TNT, kJ/kg.
Theo Henrych (1979), áp lực nổ mìn tác dụng lên biên đường hầm xác định
theo các công thức [86]:
s 2 3 4
1407,2 554,0 35,7 0,625P , kPa
Z Z Z Z
= + − +
khi 0,05 Z 0,3; (2.32)
s 2 3
619,4 32,6 213,2P , kPa
Z Z Z
= − +
khi 0,3 Z 1,0; (2.33)
s 2 3
66,2 405 328,8P , kPa
Z Z Z
= + −
khi 1,0 Z 10,0. (2.34)
Trong đó: Z - Tỷ lệ khoảng cách, m/kg; Ps - Giá trị lớn nhất của áp lực.
Khi 0,005Z3, Henrych cũng đưa ra mối quan hệ giữa thời gian tác dụng
nổ và tỉ lệ khoảng cách theo công thức [86]:
( )3 2 3 4a
3
t10 . 0,107 0,444Z 0,264Z 0,129Z 0,0335Z
W
−= + + − +
(2.35)
Trong đó: ta - Thời gian khi nổ mìn, s; W - Khối lượng thuốc nổ, kg; Z - Tỉ lệ
khoảng cách. Khi thay Z và W vào công thức (2.40) ta có thể xác định được ta.
Theo tiêu chuẩn US Dept của Mỹ (1986), 10 % của thời gian này là thời gian
tăng áp lực tr, thời gian yêu cầu để đạt được áp lực cực đại (Ps). Sau khi có Ps, sóng
tiêu tán theo quy luật [86]:
a
t
tt 0P P .e
− = .
(2.36)
Trong đó: Pt - Áp lực nổ tại thời điểm t bất kỳ.
Khi xét đến khoảng cách và khối lượng thuốc nổ từ vụ nổ, áp lực nổ mìn có
thể tính theo công thức của (Wang, 1984) [67]:
max 2 3
139,97 844,81 2154P 0,8034 .
Z Z Z
= + + −
(2.37)
Trong đó: Z=(D/Q1/3) - Tỉ lệ khoảng cách; D - Khoảng cách từ khối thuốc nổ đến
điểm quan sát, m; Q - Khối lượng thuốc nổ nạp nổ trong cùng một thời điểm, kg.
37
Thời gian tăng áp lực tR và tổng thời gian tải trọng hình tam giác tS của tải
trọng hình tam giác có thể được tính toán theo công thức của (Wang, 1984). Theo
đó, thời tăng áp lực nổ tR và thời gian áp lực nổ hình tam giác tS lần lượt là 10 ms và
100 ms (Sun và Hou, 1991; Yang et al., 2005) [67]:
2- 0,05
R12 r Q
t =K
;
3 2- 0,2
S84 r Q
t =K
; r
ra
= . (2.38)
Trong đó: tR - Thời gian tăng của tải trọng hình tam giác, s; tS - Tổng thời gian của
áp lực hình tam giác, s; K - Mô đun áp lực thể tích của vùng, K=105, Pa; - Hệ số
Poisson của nền; a - Bán kính lỗ khoan, m; r - Bán kính tác dụng của áp lực nổ
mìn, được giả thuyết tác dụng lên biên trong của đường hầm mới. Từ đây, luận án
đã vẽ ra biểu đồ áp lực tác dụng lên biên đường hầm (Hình 2.9).
Hình 2.9. Sơ đồ mô tả áp
lực nổ mìn [67]
Hình 2.10. Mô hình tải trọng tác dụng theo thời gian
khi nổ nhiều đợt lỗ mìn trên gương [67]
2.4.3. Phương pháp sử dụng phương trình trạng thái
Phương trình trạng thái của Jones-Wilkins-Lee (JWL) đã được sử dụng rất
phổ biến để mô phỏng tương đối chính xác áp lực-thể tích-năng lượng ảnh hưởng
của thuốc nổ khi nổ. Phương pháp này sử dụng phổ biến nhất hiện nay và hầu như
có sẵn trong các phần mềm mạnh mô phỏng bài toán kỹ thuật như UDEC, FLAC,
Abaqus,... Phương trình được viết dưới dạng [64]:
1 2- r V -r V 01 2
1 2
EP = C (1- ).e + C (1- ).e +
r V r V V
. (2.39)
38
Trong đó: C1, r1, C2, r2, - Các hằng số vật liệu chọn theo từng loại thuốc, P - Áp
lực tạo ra bởi khối thuốc nổ; V - Thể tích tương đối: V=(0/); - Mật độ hiện tại
của thuốc nổ, 0 - Mật độ của thuốc nổ ở trạng thái tinh thể trước khi nổ; E0 - Năng
lượng ban đầu bên trong của thuốc nổ, Pa. Các thông số cho thuốc nổ (TNT) sử
dụng trong nghiên cứu này được thể hiện trong Bảng 2.1.
Bảng 2.1. Các thông số trong phương trình trạng thái của thuốc nổ TNT [64]
0 (kg/m3) C1(GPa) C2(GPa) DC-J (m/s) r1 r2 E0 (GPa)
1640,0 373,77 3,23 6930,0 4,15 0,95 0,30 7,0
Để mô phỏng vụ nổ bằng mô hình JWL: vật liệu nổ được mô hình hóa ở
dạng rắn; tình trạng trước nổ và chia lưới sử dụng một số phần tử. Sau khi nổ có sự
gia tăng nhanh chóng áp lực gây ra bởi các vật liệu nổ để mở rộng ra phía ngoài.
2.4.4. Lựa chọn phương pháp mô phỏng áp lực nổ mìn
Trên cơ sở ba phương pháp được giới thiệu ở trên, luận án chọn sử dụng
phương pháp thứ nhất tính toán mô hình áp lực nổ bằng công thức kinh nghiệm. Cụ
thể, tại đường hầm Croi-Rousse, do sử dụng thuốc nổ nhũ tương nên dạng áp lực 1
đã được chọn để sử dụng tính toán với sơ đồ đơn giản hóa thể hiện trên Hình
2.11.b. Sơ đồ bố trí các lỗ mìn trên gương bao gồm 8 nhóm lỗ mìn khác nhau: nhóm
đột phá; ba nhóm phá; hai nhóm tường; nhóm biên; nhóm nóc; nhóm nền. Từ hộ
chiếu khoan nổ mìn của đơn vị thi công hầm Croix-Rousse (Công ty EGIS-Pháp),
các lỗ mìn trên gương hầm được nổ thành 8 đợt nổ vi sai, trong mỗi đợt nổ bao gồm
các lỗ mìn nổ đồng thời gồm: Nhóm đột phá, nhóm phá 1 phía trên nhóm đột phá,
nhóm phá 2 và nhóm phá 3 ở hai bên sườn nhóm đột phá, 2 nhóm lỗ mìn tường,
nhóm nóc và nhóm nền (Xem hình 2.11.a). Do vậy, áp lực nổ mìn tại gương hầm
có thể mô phỏng đơn giản hóa là 8 tải trọng độc lập cùng với biên độ áp lực lên biên
đường hầm mới là PB và thời gian chậm nổ tương ứng với thời điểm áp lực cực đại,
hàm thời gian f(t) thể hiện sự thay đổi áp lực nổ theo thời gian được mô phỏng như
Hình 2.11b.
39
Hình 2.11. Hàm áp lực nổ theo thời gian của loại nổ lý tưởng [77]
a - Các đợt nổ trên gương hầm; b - Hàm số mô phỏng áp lực
2.5. Các thông số nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của chấn động nổ mìn
Hiện nay, có rất nhiều các thông số để đánh giá ảnh hưởng của chấn động nổ
mìn đến kết cấu các công trình lân cận như các đường hầm lân cận, các công trình
bề mặt,... Để đánh giá chấn động nổ mìn khi đào đường hầm bằng phương pháp
khoan nổ mìn thường sử dụng các thông số cơ bản sau đây [31]:
➢ PPV - Vận tốc dao động phần tử đỉnh (Peak Particle Velocity);
➢ PPA - Gia tốc phần tử lớn nhất (Peak Particle Acceleration);
➢ SF - Tần số dao động riêng của kết cấu (Specific Frequency);
➢ DAM - Chuyển vị của phần tử (Displacement or the Amount of
Movement);
Thực tế cho thấy PPV và SF là hai thông số được sử dụng nhiều hơncả trên
thực tế [40], [42], [54], [60], [64], [79], [85], [86], [91].
2.5.1. Thông số PPV
PPV được định nghĩa là tốc độ di chuyển lớn nhất của một phần tử đất đá
hoặc kết cấu chống khi chịu ảnh hưởng của một lực gây ra bởi sóng chấn động do
nổ mìn đào hầm. Giá trị PPV có thể xác định bằng phương pháp đo đạc trực tiếp
hoặc các công thức xây dựng trên cơ sở đo đạc thực tế (công thức kinh nghiệm).
2.5.2. Tần số dao động riêng SF của công trình
40
Theo kết quả các công trình nghiên cứu và quan sát thực tế, chấn động nổ
mìn gây ra đối với một công trình lân cận nói chung và đường hầm nói riêng ở tần
số thấp nguy hiểm hơn so với chấn động gây ra ở tần số cao. Ví dụ, theo Cengiz
[44] các phá hủy kết cấu ở phạm vi tần số thấp (<40 Hz) là cao hơn phá hủy này ở
tần số cao (>40 Hz). Đối với các công trình đánh giá chấn động thì tần số dao động
riêng cần được quan tâm. Đối với các công trình trên bề mặt, tần số dao động riêng
SF được xác định theo công thức kinh nghiệm của Green, (1980) [9]:
0,05.HSF .
B
=
(2.40)
Trong đó: H - Chiều cao của công trình, m; B - Chiều rộng của công trình theo
hướng chấn động, m.
Đối với việc truyền sóng trong các lớp đất đá cần quan tâm tới tần số cộng
hưởng của các lớp đất đá. Khi có ít nhất một lớp đá (hoặc đất) tần số sẽ được
khuyếch đại, được gọi là tần số chính hoặc tần số cộng hưởng, trong khi những lớp
khác sẽ được giảm chấn, tùy thuộc vào tính chất của môi trường. Mối quan hệ giữa
vận tốc truyền sóng cắt CS chiều dày lớp Hl và tần số khuếch đại f được xác định
bởi công thức kinh nghiệm của Dowding (1996) có dạng như sau [31]:
S
l
Cf .
4.H
=
(2.41)
Trong nghiên cứu này, luận án chọn sử dụng thông số PPV như là tiêu chí
chính để nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đào hầm đến kết
cấu công trình ngầm lân cận.
2.6. Kết luận Chương 2
Từ các kết quả nghiên cứu trên, có thể rút ra một số kết luận sau:
➢ Khi nổ mìn đào đường hầm, sóng nổ gây phá hủy vỏ chống và khối đá
xung quanh là sóng xung kích và sóng nén. Hai loại sóng trên là nguyên nhân sinh
ra ứng suất kéo trong vỏ chống và là nguyên gây phá hủy vỏ chống;
41
➢ Có nhiều phương pháp tính toán, mô phỏng áp lực nổ mìn khi tiến hành
nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn. Việc lựa chọn mô hình áp lực nổ ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả mô hình;
➢ Việc lựa chọn mô hình mô phỏng có thể dưạ trên các yếu tố khác nhau
như các dữ liệu đầu vào, các kết quả đo đạc thực tế hoặc dựa trên việc có sẵn các
mô-đun trong các phần mềm chuyên dụng. Do vậy hướng lựa chọn phương pháp
mô phỏng áp lực nổ như sau:
Khi có các kết quả đo đạc chuẩn xác, việc mô phỏng áp lực nổ có thể sử
dụng công thức (2.32)(2.37).
Khi tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đào đường
hầm, thuốc nổ trên gương đường hầm được chia thành nhiều đợt nổ. Trong trường
hợp thuốc nổ trên gương đường hầm nổ thành nhiều đợt khác nhau (thời gian vi sai
lớn hơn 8 ms) nên chọn mô hình áp lực nổ theo công thức (2.42) (Wang, 1984)
[67]. Công thức này do cho phép biểu diễn áp lực theo số đợt nổ trên gương. Trong
phần sau của luận án tác giả sử dụng công thức trên để mô phỏng áp lực nổ mìn.
42
CHƯƠNG 3
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤN ĐỘNG NỔ MÌN ĐẾN KẾT CẤU
ĐƯỜNG HẦM LÂN CẬN KHI THI CÔNG ĐƯỜNG HẦM BẰNG PHƯƠNG
PHÁP KHOAN NỔ MÌN THÔNG QUA PHƯƠNG PHÁP ĐO ĐẠC THỰC
NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG
3.1. Đặt vấn đề
Đo đạc thực nghiệm hiện trường là phương pháp được sử dụng trong nghiên
cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn và các vấn đề khác nhằm khắc phục những
nhược điểm của các phương pháp giải tích, phương pháp mô hình vật lý tương
đương,... Phương pháp đo đạc thực nghiệm cho phép thu được kết quả đo phản ảnh
gần nhất với thực tế, có độ tin cậy cao khi thiết bị tốt và người đo làm chủ được
thiết bị cũng như có sự phân tích đánh giá đúng điều kiện địa chất khu vực đo. Đây
cũng là phương pháp được sử dụng phổ biến và là yêu cầu cần thiết để giám sát
chấn động nổ mìn trong quá trình đào hầm bằng phương pháp khoan nổ mìn. Kết
quả của phương pháp có thể được sử dụng để kiểm chứng độ chính xác và phù hợp
của các mô hình số cũng như các phương pháp khác. Khi giám sát chấn động nổ
mìn, các thiết bị đo sẽ đo các thông số cơ bản như PPV; tần số dao động FCPV ứng
với PPV; gia tốc phần tử lớn nhất PPA; chuyển vị của phần tử DAM. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy các thông số PPV, phổ vận tốc và chuyển vị phần tử DAM là các
thông số cơ bản trong các dữ liệu đo. Việc phân tích các dữ liệu đo cho phép tìm ra
các quy luật chung, các công thức kinh nghiệm thể hiện quan hệ giữa các thông số
của vụ nổ, môi trường truyền nổ và biểu hiện của công trình chịu tác dụng của sóng
nổ. Từ đó điều chỉnh vụ nổ một cách hợp lý, tránh những tác động tiêu cực đến
công trình.
Phương pháp đo thực nghiệm đã được nhiều tác giả trên thế giới sử dụng để
nghiên cứu như: Ahmed, L., Ansell, A. (2011) [40], Ansell A., (2004) [42], Cengiz
Kuzu (2008) [44]; Nateghi R. (2011) [75]; Singh T.N. (2010) [87]; Zhao, J., Li HB.
(2000) [97];… Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu mới chỉ tập trung nghiên cứu
43
ảnh hưởng của chấn động nổ mìn khi khai thác các mỏ lộ thiên đến các công trình
xung quanh. Phương pháp đo đạc thực nghiệm sử dụng để nghiên cứu chấn động nổ
mìn khi đào đường hầm đến công trình lân cận còn hạn chế. Qua khảo sát, Ansell A.
(2004) [42] đã đo đạc sóng chấn động do nổ mìn khi đào đường hầm trong vỏ
chống bê tông phun gần gương. Từ đó đánh giá mức độ ảnh hưởng của chấn động
đến vỏ chống này, đồng thời điều chỉnh khối lượng thuốc nổ để đảm bảo an toàn
cho vỏ chống bê tông phun. Lin (2011) [68] đã tiến hành đo đạc dữ liệu chấn động
tại 46 vụ nổ, kết hợp với 96 dữ liệu đo đạc khác. Từ đó tác giả đã rút ra một số công
thức thực nghiệm tính toán khối lượng thuốc nổ cho phép lớn nhất khi đào đường
hầm không gây ảnh hưởng đến đường hầm cũ và các công trình bề mặt nằm gần
đường hầm mới đang thi công.
Tại Việt Nam, vấn đề này chưa được nghiên cứu nhiều, kết quả đạt được
còn hạn chế, trong đó phải kể đến các công trình nghiên cứu của các tác giả
như Võ Trọng Hùng [7], Nguyễn Hải Hưng [13], Vũ Đình Lợi [26], Lê Đình
Tân [34], Nguyễn Hữu Thế [35],... Tuy nhiên, các nghiên cứu này mới chỉ đề
cập đến nổ mìn cho một khối thuốc nổ tập trung do bom mìn trên mặt đất hoặc
trong lòng đất mà chưa nghiên cứu đến nổ mìn khi đào đường hầm. Cũng trong
thời gian qua, khi thi công đường hầm Cổ Mã, Hội Kỹ thuật Nổ mìn Việt Nam đã
tiến hành đo đạc, đánh giá ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến kết cấu đường hầm
đường sắt bên cạnh được xây dựng trước đó khoảng 100 năm. Tuy nhiên, kết quả
nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc đo chấn động, so sánh giá trị tốc độ PPV với các
tiêu chuẩn hiện hành mà chưa có những nghiên cứu đánh giá cụ thể. Phương pháp
đo đạc thực nghiệm đơn giản nhưng đòi hỏi phải đầu tư các thiết bị đo hiện đại với
chi phí lớn. Ngoài ra, giá trị của kết quả đo thực nghiệm sẽ giảm đi rất nhiều nếu
không có đầy đủ thông tin về môi trường khối đất đá sóng nổ truyền qua. Đây cũng
là lý do việc sử dụng các kết quả đo thực nghiệm thu được từ một công trình cho
một công trình khác đòi hỏi phải có những nghiên cứu tỉ mỉ, cẩn thận tiếp theo.
Hiện tại, công ty Cổ phần Đầu tư Đèo Cả cùng với Tư vấn Nippon Koei (Nhật Bản)
đã thực hiện thi công mở rộng đường hầm phụ Hải Vân vào đầu tháng 5 năm 2017.
44
Một trong các hướng nghiên cứu ưu tiên hiện nay là nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng
của chấn động nổ mìn đến kết cấu chống của đường hầm chính. Hiện nay chủ đầu
tư đã thuê Hội Kỹ thuật Nổ mìn Việt Nam theo dõi đo đạc, đánh giá chấn động
nhằm điều chỉnh lượng thuốc nổ theo từng loại đất đá, góp phần giảm thiểu chấn
động nổ mìn đến vỏ chống cố định. Tuy nhiên phương pháp này khá thụ động vì
phụ thuộc lớn vào trang thiết bị đo và người sử dụng máy.
Khi khối lượng đào chưa nhiều việc sử dụng phương pháp kinh nghiệm dựa
trên kết quả nghiên cứu đã có để đánh giá dự báo gặp nhiều hạn chế. Ngoài ra, có
thể dựa trên kết quả đo đạc hiện có xây dựng các mô hình số cho các loại đá khác
nhau cho phép dự báo chấn động khi đường hầm đào qua các loại đá đó trong thời
gian tới. Hướng nghiên cứu ảnh hưởng của các đặc tính khối đá (thể hiện qua một
số chỉ số đánh giá chất lượng khối đá như RMR, Q,...) chấn động khối đá và kết cấu
chống đường hầm lân cận cũng nên áp dụng cho các công trình trong điều kiện
tương tự. Kết quả nghiên cứu hiện nay cho thấy: hiện tại mới chỉ có một số tác giả
chú ý đến hướng nghiên cứu sự ảnh hưởng của đặc tính khối đá thông qua chỉ số
RQD, GSI đến giá trị PPV. Tuy nhiên, tại đây sự ảnh hưởng của các chỉ số khác của
khối đá như RMR, Q hầu như chưa được đề cập. Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu
theo hướng này là cần thiết do các chỉ số này thường được thể hiện khá chi tiết
trong các báo cáo địa chất.
3.2. Nghiên cứu đo PPV, biến dạng khi thi công đường hầm Croix-Rousse
3.2.1. Hình dạng, vị trí, điều kiện địa chất tuyến đường hầm Croix-Rousse
Đường hầm giao thông đô thị Croix-Rousse nằm ở thành phố Lyon, Pháp,
giữa sông Rhône và sông Saône. Các thông số đường hầm đã được giới thiệu tại
Chương 1 của luận án. Khối đá, trong đó đường hầm đào qua, bao gồm đá granit và
đá gơnai có độ bền nén đơn trục lớn hơn 120,0 MPa. Giá trị trung bình của
RQD=68,0, RMR=70,0÷80,0. Đá liền khối ít nứt nẻ, khoảng cách trung bình các khe
nứt 0,6÷2,0 m [45]. Độ sâu đặt đường hầm trung bình là 100,0 m. Mặt cắt dọc địa
chất và mặt bằng tuyến đường hầm được thể hiện trên các Hình 3.1, Hình 3.2 [45],
45
[54], mặt cắt địa chất gương đường hầm điển hình, một mặt cắt gương thực tế thể
hiện trên các Hình 3.3, Hình 3.4 [45]. Giá trị RMR của khối đá dọc tuyến đường
hầm được thể hiện trên Hình 3.5 [59].
Hình 3.1. Mặt cắt dọc địa chất tuyến đường hầm Hình 3.2. Mặt bằng vị trí tuyến hầm
Hình 3.3. Mặt cắt địa chất điển hình Hình 3.4. Một mặt cắt địa chất gương hầm
Hình 3.5. Giá trị RMR của khối đá dọc tuyến đường hầm [59]
46
3.2.2. Phương pháp đào và các thông số khoan nổ mìn
Đường hầm Croix-Rousse chạy dưới lòng thành phố Lyon (Hình 3.2), cách
mặt đất khoảng 100,0 m. Do đường hầm đào qua đá rắn cứng đến rất rắn cứng nên
phương pháp khoan nổ mìn vẫn được chọn để thi công nhằm giảm giá thành xây
dựng. Phương pháp nổ mìn tạo biên được sử dụng khi đào đường hầm nhằm hạn
chế chấn động đến khối đá. Các lỗ mìn có đường kính 51,0 mm và 48,0 mm được
nạp thuốc nổ nhũ tương loại Emulsion Reelle. Ví dụ về vị trí các lỗ mìn trên gương
và trình tự nổ mìn được thể hiện trên Hình 3.6 và Bảng 3.1.
Hình 3.6. Sơ đồ bố trí các lỗ mìn trên gương và trình tự nổ các lỗ mìn [54]
Bảng 3.1. Trình tự nổ và số lượng các lỗ mìn trên gương [54]
Nhó
m đ
ột p
há
SP
.25 m
s N0
V VII IX XI XIII XV XVII XIX
Số
lượ
ng
1 1 1 1 1 1 1 1
Chậm
nổ L
P.1
00 m
s
N0
6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20
Số
lượ
ng
2 2 3 0 3 0 6 0 8 0 13 0 12 0 11
N0
25 30 35 40 45 50 55 60 65 70 75
Số
Lượ
ng
9 8 7 7 4 11 12 12 6 2 0
Hộ chiếu mẫu khoan nổ mìn được sử dụng trong đá granit có các thông số
như: tổng khối lượng thuốc nổ cho một lần nổ khoảng 364,0 kg với chiều dài lỗ
47
khoan 3,3 m; 409,0 kg với chiều dài 3,5 m. Theo đó các lỗ khoan đột phá nổ đầu tiên
với thời gian chậm nổ là 25 ms. Tiếp theo là đến các lỗ khoan phía ngoài với thời
gian chậm nổ là 100 ms, gương hầm có tám nhóm với tám đợt nổ khác nhau.
3.2.3. Cảm biến đo PPV và biến dạng tại đường hầm Croix-Rousse
Các cảm biến để đo PPV là loại Géophone (Hình 3.7). Loại cảm biến này
dùng để đo PPV và biến dạng, chúng được gắn vào một tấm và được gắn vào kết
cấu cần theo dõi để đo PPV. Kích thước gồm: cảm biến 1655050 mm, tấm đỡ
1107012 mm, cáp khoảng 1,5 m, khối lượng 1,8 kg. Cảm biến có độ nhạy 42,0
mV/(mm/s) ±10 %. Thông số PPV được đo bằng các cảm biến đặt trong vỏ chống bê
tông liền khối của đường hầm cũ và một số tòa nhà quan trọng trên bề mặt.
Vị trí các cảm biến: các cảm biến đo PPV và chuyển vị được đặt trong vỏ
chống bê tông của đường hầm cũ (cảm biến A, P, T, C), bố trí dọc trục đường hầm
cũ với khoảng cách 60,0 m (Hình 3.8). Trên mặt đất, các cảm biến được đặt tại bề
mặt các tòa nhà quan trọng như các trường học, tòa nhà công cộng, tên cảm biến là
S được bố trí như Hình 3.8. PPV được đo theo ba phương (V, T, L) cùng với tần số
thay đổi giữa 1,0 và 250,0 Hz trong thời gian 10 s, biểu đồ quang phổ vận tốc như
Hình 3.9.
a) b)
Hình 3.7. Cấu tạo cảm biến Géophone: 1, 2, 3, 4 - Các lỗ để gắn cảm biến trên
bảng; 5 - Géophne đo theo phương thẳng đứng; 6 - Géophone đo theo phương
nằm ngang 2; 7 - Géophone nằm ngang 1; 8, 9 - Lỗ để gắn trên tường; 12, 13 -
Đầu bắt vào các phương tiện (H, V) [54]
48
a) b)
Hình 3.8. Vị trí các cảm biến trong vỏ chống bê tông của đường hầm cũ:
a - Trên mặt cắt ngang; b - Tại các tòa nhà trên bề mặt [54]
Hình 3.9. Kết quả đo PPV, phổ vận tốc của cảm biến C100 tại PM100: a - PPV theo
phương thẳng đứng; b - Phổ vận tốc theo phương thẳng đứng; c - PPV theo phương
nằm ngang; d - Phổ vận tốc theo phương nằm ngang; e - PPV theo phương dọc
trục đường hầm; f - Phổ vận tốc theo phương dọc trục đường hầm [54]
49
Các phương đo PPV gồm: phương V - Phương thẳng đứng; phương L -
Phương nằm ngang vuông góc với trục dọc đường hầm; phương H - Phương dọc
trục đường hầm. Ngoài PPV, tại đây cũng sử dụng các cảm biến để đo biến dạng tại
những vị trí quan trọng. Hình 3.10 thể hiện kết quả kết quả đo PPV và giá trị biến
dạng lớn nhất thu được từ các cảm biến.
Nhận xét: các dữ liệu đo thực nghiệm tại dự án hầm Croix-Rousse đã được
tiến hành đo đạc và điều chỉnh lượng thuốc nổ nhằm giảm chấn động đến khối đá.
Các dữ liệu đo đã được kiểm chứng và có độ tin cậy. Trên cơ sở đó, dữ liệu được sử
dụng để phân tích ngược tìm ra những quy luật sự phụ thuộc của PPV vào các yêu
tố môi trường hay xây dựng các công thức kinh nghiệm cho phép dự báo khối lượng
thuốc nổ lớn nhất có thể nổ mà không ảnh hưởng đến kết cấu vỏ chống hầm lân cận.
Ngoài ra dữ liệu đo đạc là cơ cở quan trọng giúp kiểm chứng mô hình số và so sánh
các kết quả của mô hình.
Hình 3.10. Kết quả đo PPV và chuyển vị tại một
vị trí của cảm biến điển hình tại dự án hầm Croix-Rousse [54]
3.3. Các phương pháp đánh giá chấn động nổ mìn đến công trình lân cận
50
Hiện nay, trên thế giới để đánh giá chấn động nổ mìn có thể tiến hành theo
một số phương pháp như sau:
❖ Phương pháp 1 - Tiêu chuẩn giới hạn PPV. Tiêu chuẩn này yêu cầu mỗi
vụ nổ được giám sát bởi một thiết bị đo chấn động có khả năng giám sát PPV. Theo
đó giá trị của PPV phải nằm dưới mức giá trị quy định tại Bảng 3.2;
❖ Phương pháp 2 - Tiêu chuẩn tỉ lệ khoảng cách. Tiêu chuẩn này đòi hỏi các
nhà thầu khi thiết kế các vụ nổ với tỉ lệ khoảng cách thỏa mãn theo Bảng 3.2. Với
phương pháp này có thể không cần phải sử dụng thiết bị giám sát nổ mìn;
❖ Phương pháp 3 - Tiêu chuẩn đồ thị mức độ chấn động nổ mìn. Phương
pháp này cho phép nhà thầu sử dụng giới hạn PPV với các tần số khác nhau như
minh họa trên Hình 3.11 (tiêu chuẩn của Mỹ). Yêu cầu của phương pháp: phải tiến
hành phân tích tần số của sóng chấn động nổ mìn cũng như PPV đo được cho mỗi
lần nổ. Phương pháp này thể hiện tốt nhất khả năng đánh giá thiệt hại đến công trình
cũng như những phiền toái của con người do nổ mìn. Bất kỳ dữ liệu chấn động với
bất kỳ thành phần của PPV (theo chiều dọc, ngang và thẳng đứng) ở một tần số cụ
thể nằm phía dưới đường liền trên biểu đồ Hình 3.11 được đánh giá là an toàn.
Ngược lại, bất kỳ giá trị nằm trên bất kỳ phần nào của đường liền nét sẽ tăng khả
năng phá hủy các công trình, gây phiền toái cho con người.
Bảng 3.2. Giá trị giới hạn của PPV với tỉ lệ khoảng cách tiêu chuẩn [69], [73]
Khoảng cách từ vị trí
nổ mìn đến điểm quan
sát, m
Phương pháp 1 - Giá
trị PPV cho phép,
mm/s
Phương pháp 2 - Tỉ lệ khoảng
cách được sử dụng (không cần
đo đạc chấn động)
0÷91,44 m 31,75 mm/s 50,0
91,75÷152,4 m 25,40 mm/s 55,0
152,4 và lớn hơn 19,05 mm/s 65,0
3.3.1. Các tiêu chuẩn quy phạm hiện hành trên thế giới
51
Tiêu chuẩn của Hội đồng Môi trường Úc - AS 2187 thể hiện trong Bảng 3.3.
Tiêu chuẩn giới thiệu giá trị giới hạn lớn nhất cho mức độ chấn động nền trong đất
gần nền móng của công trình. Một số tiêu chuẩn đánh giá mức độ phá hủy công
trình của các nước được thể hiện trên Bảng 3.4, Bảng 3.5, Bảng 3.6 và Bảng 3.7.
Hiện nay, các tiêu chuẩn đánh giá ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến vỏ
chống bê tông của đường hầm lân cận hầu như ít được đề cập. Nội dung tiêu chuẩn
của Trung Quốc và của Đức thể hiện trên Bảng 3.7 và Bảng 3.8. Sự khác nhau giữa
các tiêu chuẩn phá hủy của một kết cấu do các chấn động nền khi nổ mìn phụ thuộc
chính vào bản chất của công trình, điều kiện địa chất cũng như đặc tính của chấn
động.
a)
b)
Hình 3.11. Đồ thị mức độ an toàn chấn động nổ mìn:
a - Theo tiêu chuẩn USBM (Mỹ); b - Theo tiêu chuẩn OSM (Mỹ) [69], [73]
Bảng 3.3. Tiêu chuẩn PPV theo AS 2187 (Tiêu chuẩn Úc) [69], [73]
[PPV], mm/s Loại công trình và kết cấu
25 Trung tâm thương mại, nhà công nghiệp hoặc kết cấu gia cường
bê tông hoặc kết cấu thép
10 Công trình khu dân cư thấp tầng
2 Tòa nhà lịch sử, tượng đài hoặc công trình có ý nghĩa đặc biệt
52
Trong đó: [PPV] - giá trị giới hạn, giá trị lớn nhất cho phép; mm/s
Bảng 3.4. Tiêu chuẩn DIN 4150-3 (CHLB Đức) [69], [73]
Loại kết cấu
[PPV], mm/s
Nền móng công trình Trần nhà của tầng
cao nhất của tòa nhà
<10 Hz 1050 Hz 50100 Hz Tất cả các tần số
Công trình thương
mại, công nghiệp 20,0 20,040,0 40,050,0 40,0
Công trình khu dân cư 5,0 5,015,0 15,020,0 15,0
Công trình nhạy cảm 3,0 3,08,0 8,010,0 8,0
Bảng 3.5. Tiêu chuẩn của Pháp [69], [73]
Chủng loại
kết cấu công trình
[PPV], mm/s
48 Hz 830 Hz 30100 Hz
Dân cư 8,0 12,0 15,0
Nhạy cảm 6,0 9,0 12,0
Rất nhạy cảm 4,9 6,0 9,0
Bảng 3.6. Tiêu chuẩn của Thụy sĩ đánh giá mức độ chấn động của chấn động
nổ mìn đến các công trình lân cận (SN 640 312:1978) [69], [73]
Chủng loại kết cấu [PPV], mm/s
1030 Hz 3060 Hz
Công trình thương mại, công nghiệp bao
gồm duy trì các tường 12,0 12,018,0
Nền các tường và các tầng xây dựng từ bê
tông và khối xây 8,0 8,012,0
Các nền và nền móng bê tông các tầng 5,0 5,08,0
53
đường hầm. Tường gạch
Công trình đặc biệt nhạy cảm 3,0 3,05,0
Bảng 3.7. Tiêu chuẩn GB 6722-2003 của Trung Quốc về mức độ an toàn của
kết cấu công trình ngầm trên cơ sở giá trị cho phép của [PPV] [50]
Đối tượng bảo vệ
[PPV], mm/s
f10 Hz 10 Hz<f 5 0 Hz f>50 Hz
Đường hầm thủy điện 70,080,0 80,0100,0 100,0 150,0
Đường hầm giao thông 100,0120,0 120,0150,0 150,0200,0
Đường hầm mỏ 50,0180,0 180,0250,0 200,0300,0
Bảng 3.8. Tiêu chuẩn Đức về mức độ an toàn của kết cấu công trình ngầm
trên cơ sở giá trị của [PPV] (DIN4150 1999-02) [39]
Thông số [PPV], mm/s
Tần số (Hz) 110 1050 50100 100
Kết cấu chống 40 4080 80100 Nhỏ nhất 100
3.3.2. Tiêu chuẩn quy phạm hiện hành của Việt nam
Hiện nay, ở nước ta khi đánh giá ảnh hưởng của chấn động nổ mìn thường sử
dụng Quy phạm QCVN 02-2008-BCT của Bộ Công Thương. Theo đó, hệ số tỉ lệ
khoảng cách SD và giá trị của [PPV] để đảm bảo công trình an toàn được đưa ra
như trong Bảng 3.9.
Bảng 3.9. Hệ số tỉ lệ khoảng cách và [PPV] theo quy phạm [30]
Khoảng cách từ vị trí nổ mìn
đến công trình gần nhất
Hệ số tỷ lệ
cho phép SD
Giá trị
[PPV]
Từ 0,0 đến 91,4 m SD22,6 31,75 mm/s
54
Từ 92,0 m đến 1524,0 m SD24,9 25,40 mm/s
1524,0 m trở lên SD29,4 19,00 mm/s
Hình 3.12. Biểu đồ quy định [PPV] cực trị ở dải tần số thấp theo [30]
Ngoài ra, có thể áp dụng đồ thị Hình 3.9 để xác định mức cho phép của PPV
cực trị ở dải tần số thấp thay cho Bảng 3.9. Kết quả xem xét đánh giá, so sánh các
biểu đồ Hình 3.11.a và Hình 3.12 cho thấy: biểu đồ tiêu chuẩn của Việt Nam giống
hoàn toàn với biểu đồ tiêu chuẩn USBM của Mỹ về giá trị giới hạn PPV cũng như
dải tần số thấp được khảo sát f=1,0÷100,0 Hz.
Trên cơ sở các kết quả tổng hợp ở trên có thể rút ra một số nhận xét sau:
➢ Khi thiết kế các đường hầm mới lân cận với các đường hầm cũ thường
được thiết kế theo kinh nghiệm, chưa chú ý nhiều đến mức độ chấn động của nổ
mìn (Nan Jiang, Chuanbo Zhou, 2012 [74]) do sự phức tạp của cơ chế nổ mìn trong
đất đá, các điều kiện cấu tạo, cấu trúc của khối đá, các tiêu chuẩn an toàn về chấn
động nổ mìn đối với khối đá và đường hầm;
➢ Hầu hết các quy phạm tiêu chuẩn mới đưa ra ngưỡng PPV tại dải tần số
thấp (thường 100,0 Hz) mà chưa đề cập ở tần số lớn hơn. Trong khi đó, các cảm
biến địa chấn có thể đo PPV ở tần số cao. Do đó, các tiêu chuẩn có thể mở rộng việc
đánh giá chấn động nổ mìn ở tần số cao để có được đánh giá toàn diện hơn;
55
➢ Các quy phạm ít đề cập đến ngưỡng PPV cụ thể cho vỏ chống bê tông của
đường hầm. Đây là loại kết cấu đặc biệt nằm hoàn toàn trong lòng đất và là đối
tượng cần được bảo vệ khi tiến hành nổ mìn gần khu vực bố trí đường hầm;
➢ Tại Việt Nam chưa có tiêu chuẩn cụ thể về đánh giá ảnh hưởng của chấn
động nổ mìn cho vỏ chống đường hầm nên khi thiết kế hoặc giám sát ảnh hưởng
của chấn động nổ mìn thường tham khảo các tiêu chuẩn của thế giới (ở đây có thể
tham khảo hai bộ tiêu chuẩn của Trung Quốc và Đức theo Bảng 3.7 và Bảng 3.8).
Tuy nhiên, Việt Nam cần phải xây dựng tiêu chuẩn riêng để áp dụng cho phù hợp
với điều kiện thực tế tại Việt Nam trong thời gian tới;
➢ Mức độ khó khăn phức tạp khi xác định các thông số: việc đánh giá chấn
động, đo đạc chấn động dựa trên các thiết bị cảm biến có thể được tiến hành tuy
nhiên đòi hỏi chi phí lớn, người đo phải có trình độ khoa học công nghệ nhất định.
Do đó, việc giám sát chấn động nên được tiến hành theo phương pháp 2 trong Bảng
3.2;
➢ Các thiết bị sử dụng trong đo đạc chấn động các thông số như PPV,... cho
phép sử dụng xác định dễ dàng. Tuy nhiên, các nhà thầu của Việt Nam thường
không có các loại thiết bị đặc chủng này, cho nên thông thường khi phải giám sát
chấn động thường phải thuê một đơn vị thứ ba. Hiện tại ở Việt Nam mới chỉ có Hội
kỹ thuật nổ mìn có thiết bị và thực hiện các dịch vụ đo đạc.
3.3.3. Tiêu chuẩn mới đánh giá ảnh hưởng của chấn động nổ mìn thông qua chỉ
số đánh giá phá hủy nổ mìn BDI Dib
Tiêu chuẩn mới đánh giá ảnh hưởng của chấn động nổ mìn thông qua chỉ số
đánh giá phả hủy nổ mìn BDI (Blasting Damage Index) thường được ký hiệu là Dib
được định nghĩa bằng tỉ số giữa ứng suất kéo gây ra do sóng chấn động gây nên sau
khi nổ mìn và độ bền kéo động của khối đá.
Chỉ số không thứ nguyên Dib có giá trị thay đổi trong khoảng Dib=0÷2. Hiện
nay, chỉ số Dib được sử dụng như một chỉ số để xác định mức độ thiệt hại từ chấn
động nổ mìn đào đường hầm đến khối đá xung quanh. Chỉ số Dib được Yu và
56
Vongpaisal (1996) định nghĩa; sau đó được Sóng và n.n.k (2006), Kaushik Dey và
n.n.k (2012) phát triển theo công thức [50], [69], [95]:
-8r Pib
r td
PPV.ρ .CD = .10
K .σ. (3.1)
Trong đó: ρr - Mật độ của khối đá, kg/m3; CP - Vận tốc truyền sóng dọc khi nổ mìn,
m/s; td - Độ bền kéo động của khối đá hoặc vỏ chống, MPa.
Mối quan hệ giữa chỉ số Dib và mức độ phá hủy của khối đá xung quanh
đường hầm và kết cấu chống giữ được thể hiện trên Bảng 3.10. Chỉ số Dib có thể
được sử dụng như một tiêu chuẩn mới để đánh giá ảnh hưởng của chấn động nổ mìn
rất hiệu quả qua một số nghiên cứu của các tác giả trên thế giới [39], [58], [69],
[95]. Tuy nhiên, chỉ số này hầu như chưa được nghiên cứu và áp dụng ở Việt Nam.
Luận án sẽ tiến hành sử dụng chỉ số Dib ở các phần nghiên cứu tiếp theo như là một
tiêu chuẩn đánh giá mức độ chấn động nổ mìn.
Bảng 3.10. Mối quan hệ giữa Dib và mức độ phá hủy trong khối đá bao
quanh và kết cấu chống giữ đường hầm (vỏ chống bê tông cũ) [95]
N0 Dib Đặc điểm phá hủy của kết cấu chồng giữ và khối đá
1 ≤0,125 Không phá hủy
2 0,250 Phá hủy không nhìn thấy
3 0,500 Phá hủy nhỏ và xuất hiện các khe nứt bên tường bên
4 0,750 Phá hủy trung bình và xuất hiện các khe nứt bên tường bên
5 1,000 Phá hủy ở mức độ lớn và xuất hiện các khe nứt ở tường bên
6 1,500 Phá hủy nghiêm trọng xảy ra trong khối đá
7 ≥2,000 Phá hủy quy mô rất lớn
3.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến kết cấu đường hầm lân
cận khi nổ mìn tại gương hầm bằng phương pháp đo đạc thực tế
Để xác định giá trị của PPV có thể sử dụng rất nhiều công thức kinh nghiệm
của các tác giả khác nhau. Phần dưới luận án sử dụng một số công thức thực nghiệm
hay được áp dựng nhiều trong thực tế trên thế giới, sử dụng trong các bộ tiêu chuẩn:
57
➢ Công thức xác định PPV theo Xađôvski M.A. [95]:
( )m
31PPV = K . Q / D , m/s. (3.2)
Trong đó: m=1÷3 - Hệ số phụ thuộc vào khoảng cách từ điểm đo đến vị trí nổ; K1
=50÷600 - Hệ số phụ thuộc vào tích chất của môi trường, các thông số đặc tính nổ
và công nghệ nổ mìn; Q - Khối lượng thuốc nổ được kích nổ đồng thời, hoặc các
lượng thuốc nổ giãn cách trong một khoảng thời gian nhỏ hơn 8,0 ms được coi là nổ
tức thời [87], kg; D - Khoảng cách từ vị trí lượng thuốc nổ đến điểm đo, m.
➢ Công thức tính PPV theo Dowding (1985) [69]:
PPV=(K.SD-α). (3.3)
Trong đó: SD - Tỉ lệ khoảng cách tính theo công thức [69]:
( )SD D/ Q= . (3.4)
➢ Công thức tính PPV theo Chapot (1980) [69]:
( )α
PPV K. D/ Q−
= . (3.5)
➢ Công thức tính PPV theo tiêu chuẩn USBM của Mỹ, Trung Quốc [69]:
( ) 1α
1PPV K Q / D= . (3.6)
➢ Công thức tính PPV theo tiêu chuẩn của Ấn Độ [69]:
( ) 2α
2/32PPV K Q / D= . (3.7)
Trong các công thức trên: K, K1, K2 - Các hệ số phụ thuộc và điều kiện địa chất, các
thông số nổ mìn và các yếu tố khác; , 1, 2 - Hệ số thể hiện sự tắt dần của chấn
động gây ra do nổ mìn; D - Khoảng cách từ nguồn nổ đến vị trí quan sát (m); Q -
Khối lượng thuốc nổ lớn nhất tức thời, kg.
Để nghiên cứu chấn động dựa trên các dữ liệu đo đạc hiện trường có thể tiến
hành theo nhiều phương pháp khác nhau. Tuy nhiên, phương pháp phân tích các số
liệu đo đạc theo các công thức kinh nghiệm, tìm ra các hệ số thực nghiệm cho từng
công trình cụ thể, được sử dụng phổ biến hơn. Trong luận án tác giả tiến hành theo
cách trên để nghiên cứu sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn tại dự án đường hầm
58
Croix-Rousse. Tại đây, tác giả sử dụng công thức của Chapot (1980) để khảo sát
mối quan hệ giữa PPV, lượng nạp và khoảng cách từ vị trí nạp đến vị trí nổ mìn
[30]:
( )-α
nPPV=K. D / Q (3.14)
Trong đó: PPV, m/s; K và α - Các thông số phụ thuộc vào đặc tính cơ lý của đất đá
và loại thuốc nổ; D - Khoảng cách từ gương đường hầm đến vị trí quan sát, m; Q -
Khối lượng thuốc nổ lớn nhất đồng thời; kg; n - Hệ số thường được chọn n=0,5. Khi
n=0,5 công thức (3.14) có dạng như sau (công thức Chapot) [30]:
( )-
PPV = K. D/ Q .
(3.15)
Ở đây: ( )D/ Q - Tỉ lệ khoảng cách.
3.4.1. Khảo sát mối quan hệ giữa PPV và tỉ lệ khoảng cách dựa trên dữ liệu đo
của cảm biến T
Bằng cách sử dụng công thức (3.16) kết hợp với các dữ liệu ghi được của
cảm biến T tại dự án hầm Croix-Rousse, tác giả tiến hành vẽ biểu đồ mối quan hệ
giữa ln(PPV) và tỉ lệ khoảng cách ( )D/ Q (Hình 3.13Hình 3.18). Trên cơ sở các
biểu đồ, tác giả tìm được hàm gần đúng cũng như các giá trị K và với dạng biểu
đồ thu được. Kết quả đưa ra được các công thức kinh nghiệm dự báo PPV gần đúng
cho dự án hầm Croix-Rousse theo các công thức:
➢ Theo phương thẳng đứng (V): ( )1,82
PPV 19,4 D/ Q−
= (3.16)
➢ Theo phương dọc trục đường hầm (H): ( )1.56
PPV 1,93 D/ Q−
= (3.17)
➢ Theo phương vuông góc với trục hầm (L): ( )2,01
PPV 28,5 D/ Q−
= (3.18)
➢ Tổng hợp theo ba phương: ( )1,08
PPV 16,44 D/ Q−
= . (3.19)
59
Hình 3.13. Kết quả quan hệ giữa ln(PPV) và tỉ lệ khoảng cách (D/ Q ) theo
ba phương dựa trên dữ liệu đo của cảm biến T tại dự án hầm Croix-Rousse
Hình 3.14. Kết quả quan hệ giữa ln(PPV) và tỉ lệ khoảng cách (D/ Q )
theo ba phương dựa trên dữ liệu đo của cảm biến A theo ba phương
Hình 3.15. Kết quả quan hệ giữa ln(PPV) thẳng đứng (V) và tỉ lệ khoảng
cách (D/ Q ) dựa trên dữ liệu đo của cảm biến P tại vị trí PM 220÷PM340
60
Hình 3.16. Kết quả quan hệ giữa ln(PPV) theo phương nằm ngang (H) và
tỉ lệ (D/ Q ) dựa trên dữ liệu đo của cảm biến P tại vị trí PM 220÷PM340
Hình 3.17. Kết quả quan hệ giữa ln(PPV) theo phương dọc trục hầm (L) và
(D/ Q ) dựa trên dữ liệu đo của cảm biến P tại vị trí PM 220÷PM340
Hình 3.18. Kết quả quan hệ giữa ln(PPV) theo phương dọc trục hầm và (D/ Q )
dựa trên dữ liệu đo của cảm biến P tại vị trí PM 220÷PM340 theo ba phương
61
Hình 3.19. Quan hệ giữa ln(PPV) theo ba phương (V, H, L) và tỉ lệ khoảng cách
(D / Q ) theo kết quả ghi được của cảm biến T tại vị trí PM1400 [17]
Ngoài ra, khi tiến hành khảo sát mối quan hệ giữa PPV và tỉ lệ khoảng cách
( )D / Q qua phân tích số liệu các lần nổ mìn thi công đường hầm khác tại đường
hầm Croix-Rousse, Lyon, Pháp được ghi lại bởi cảm biến T tại vị trí PM1400 ta thu
được biểu đồ mối quan hệ giữa giá trị PPV và tỉ lệ khoảng cách thể hiện trên biểu
đồ Hình 3.19. PPV theo ba phương V, H, L của cảm biến T1400 được dự báo theo
công thức kinh nghiệm (3.20) [17]:
( )1,68
PPV 340 D/ Q−
= . (3.20)
3.4.2. Khảo sát mối quan hệ giữa PPV và tỉ lệ lượng nạp dựa trên dữ liệu của
cảm biến P
Tỉ lệ lượng nạp được định nghĩa bởi tỉ số giữa khối lượng thuốc nổ nạp tối
đa tức thời Q (kg) và khoảng cách từ các điểm quan sát đến vị trí nổ mìn D (m).
Giá trị SC được xác định tại mỗi nước là khác nhau. Theo công thức của Chapot
(1980) thì SC=(Qn/D); với n - Hệ số phụ thuộc vào điều kiện địa chất và loại
thuốc nổ.
a. Phương trình thực nghiệm đơn giản
Chấn động gây ra bởi nổ mìn có thể chia thành hai nhóm dựa trên dải tần số:
tần số cao với f >25 Hz và tần số thấp phạm vi f=8,0÷25,0 Hz [54]. Điểm khảo sát
(vị trí đặt cảm biến) đặt tại lớp vỏ chống bê tông cố định của đường hầm cũ. Sau đó
tiến hành phân tích dữ liệu thu được từ cảm biến P với 52 lần nổ mìn tại gương
62
đường hầm với khối lượng thuốc nổ (Q) và khoảng cách (D) từ gương đến điểm đo
như Bảng 3.11. Khoảng cách (D) giữa các vị trí nổ và điểm quan sát (vị trí đặt cảm
biến) được xác định theo sơ đồ trên Hình 3.20. Từ tam giác vuông ở sơ đồ Hình
3.20, khoảng cách (D) từ gương hầm đến vị trí nổ mìn có thể tính theo công thức
(3.22):
2 2 2
avD L (PMC PM )= + − , m. (3.21)
Trong đó: L - Khoảng cách giữa hai đường hầm, m; PMC - Khoảng cách từ cửa
đường hầm đến vị trí đặt cảm biến, m; PMav - Khoảng cách trung bình của gương
đường hầm (vị trí nổ mìn), m.
Hình 3.20. Sơ đồ xác định khoảng cách giữa vị trí nổ mìn và điểm quan sát [15]
Giá trị PPV có thể tính theo công thức [46], [58], [65]:
2 2 2
V H LPPV = PPV + PPV + PPV , m/s. (3.22)
Trong đó: PPVV, PPVH, PPVL - Các thành phần PPV theo phương thẳng đứng
(V), phương dọc trục (H) và phương vuông góc nằm ngang (L) so với trục đường
hầm.
Từ công thức của Chapot (1980) về mối quan hệ giữa PPV, lượng nạp và
khoảng cách từ vị trí nạp đến vị trí nổ mìn [58]:
-
n
DPPV = K×
Q
hay ( )n
C
QPPV = K× K× S .
D
=
(3.23)
63
Tại đây: SC=(Qn/D) - Gọi là tỉ lệ lượng nạp; n, - Các hệ số phụ thuộc vào điều
kiện địa chất và đặc tính thuốc nổ.
Giá trị của PPV được dự báo trong nhiều tài liệu tham khảo của các nhà
nghiên cứu. Công thức (3.24) là phương trình kinh nghiệm thường được sử dụng để
phân tích chấn động gây ra bởi nổ mìn [58]:
( )α
CPPV K.S= . (3.24)
Trong đó: K - Hệ số liên quan đến địa chất, các thông số nổ mìn, và các yếu tố
khác; α - Hệ số suy giảm; SC - Tỉ lệ lượng nạp được xác định bởi khối lượng nạp tối
đa cho mỗi lần nổ Q (kg) và khoảng cách từ các điểm quan sát đến vị trí nổ mìn D
(m). Các dữ liệu chấn động bởi nổ mìn được phân tích bởi các giá trị SC theo các
tiêu chuẩn khác nhau tại các nước khác nhau [58]:
➢ Theo công thức kinh nghiệm của Sodev (Nga):
( )3C1S = Q /D . (3.25)
➢ Theo công thức tính PPV trong tiêu chuẩn của Nhật bản:
( )34C2S = Q /D . (3.26)
➢ Theo công thức tính PPV trong tiêu chuẩn của Ấn Độ:
( )3 2
C3S = Q/ D . (3.27)
➢ Theo công thức tính PPV của Chapot (1980):
( )C4S = Q /D . (3.28)
Các công thức trên sẽ được sử dụng để khảo sát mối quan hệ giữa PPV và SC.
Để thuận lợi phân tích, lấy logarit cơ số 10 hai vế công thức (3.24):
lg(PPV)=lgK+.lg(SC). (3.29)
Trong đó: SC có thể xác định theo công thức (3.26)÷(3.29) với 52 dữ liệu đo chấn
động nổ mìn đo bởi cảm biến P thu được tại hầm Croix-Rousse thể hiện trên Bảng
3.11.
64
Bảng 3.11. Kết quả đo chấn động gây ra bởi quá trình nổ mìn đường hầm bởi
cảm biến P với dải tần số thấp (f=130 Hz) [89]
Q, kg H, m PPV, mm/s Q, kg H, m PPV, mm/s Q, kg H, m PPV, mm/s
422 75,18 7,24 571 44,70 7,76 581 36,67 52,43
363 72,13 7,24 619 47,18 7,89 621 38,81 51,36
438 66,99 10,53 622 49,86 8,83 706 40,36 50,68
465 61,61 12,83 422 75,18 9,25 571 42,32 64,62
465 59,00 12,91 363 72,13 6,56 571 44,70 47,16
501 56,08 16,87 438 66,99 8,13 619 47,18 97,07
406 51,27 39,80 465 61,61 10,34 622 49,86 53,27
425 48,84 24,34 465 59,00 12,27 654 52,53 49,09
430 46,54 36,34 422 75,18 7,24 629 55,51 31,69
430 44,70 39,73 501 56,08 14,57 589 58,02 24,14
611 42,72 51,88 406 51,27 24,32 650 61,21 33,93
556 40,82 22,84 425 48,84 26,74 648 64,48 22,87
628 39,40 27,48 430 46,54 23,26 637 67,84 18,90
259 36,10 13,44 430 44,70 24,20 493 71,26 13,51
581 36,67 13,78 611 42,72 37,51 462 74,74 10,54
621 38,81 13,15 556 40,82 30,64 547 78,05 9,99
706 40,36 8,79 628 39,40 41,22 501 56,08 14,57
571 42,32 10,38 259 36,10 39,11 406 51,27 24,32
Các dữ liệu được phân tích bằng phần mềm Excel. Kết quả mối quan hệ giữa
PPV và tỉ lệ lượng nạp SC được thể hiện trên Hình 3.21. Từ mối quan hệ giữa PPV
cho phép và tỉ lệ nạp thuốc (SC) tác giả có thể xác định giá trị PPV theo biểu đồ thể
hiện trên Hình 3.21 [58]:
( )1,5261
3PPV = 344,349× Q / D , R²=0,300; (3.30)
( )1,2267
34PPV = 8,214× Q / D , R²=0,287; (3.31)
( )1,0186
3 2PPV =1681,899× Q/ D , R²=0,293; (3.32)
( )1,4172
PPV = 64,92 Q / D , R²=0,300. (3.33)
65
Kết quả cho thấy rằng bốn phương trình kinh nghiệm sử dụng để dự báo PPV
gây ra bởi nổ mìn đào hầm có hệ số tương quan R2 khác nhau. Trong trường hợp
này, phương trình kinh nghiệm với hệ số tương quan lớn nhất tại công thức (3.33)
được lựa chọn để tính toán.
a) b)
c) d)
Hình 3.21. Mối quan hệ giữa PPV và tỉ lệ lượng nạp SC: a - Theo công thức
Sodev; b - Theo công thức của Nhật Bản; c - Theo công thức của Ấn Độ; d -
Theo công thức Chapot (Châu Âu) [58]
b. Xác định chi phí thuốc nổ lớn nhất cho mỗi lần chậm nổ
Phương trình thực nghiệm (3.34) cho thấy sự phụ thuộc của giá trị PPV vào
tỉ lệ lượng nạp tại đường hầm Croix-Rousse. Sau khi biến đổi tương đương, phương
trình (3.34) có thể chuyển sang dạng dưới đây [15]:
( )1,4172
PPV = 64,92 Q /D . (3.34)
66
Sử dụng phương pháp Ln hai vế và biến đổi ta đưa ra công thức xác định lượng
thuốc nổ lớn nhất phụ thuộc vào giá trị ngưỡng [PPV] và khoảng cách D từ vị trí nổ
mìn đến vị trí quan sát:
2 1,4112
maxQ = 0,002768×D ×[PPV] , m/s. (3.35)
Trong đó: [PPV] - Giá trị ngưỡng của PPV.
Sau khi biết ngưỡng [PPV] có thể xác định được lượng thuốc nạp lớn nhất
cho mỗi lần chậm nổ theo công thức (3.36). Giới hạn giá trị ngưỡng [PPV] có thể
được xác định theo các tiêu chuẩn dựa trên các điều kiện cụ thể của vị trí công trình,
bao gồm cả cấu trúc địa chất và tính chất tự nhiên của đá.
c. Xác định giá trị PPV dựa trên chỉ số phá hủy nổ mìn BDI
Do đường hầm mới đào bằng khoan nổ mìn gần với đường hầm cũ nên cần
giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của chấn động nổ mìn đến vỏ chống của
đường hầm cũ. Chỉ số phá hủy nổ mìn BDI được sử dụng trong nghiên cứu này để
đánh giá mức độ nguy hiểm đến đường hầm hiện có do chấn động gây ra bởi nổ
mìn được tính theo công thức (3.1) [95]. Căn cứ vào công thức (3.1), tác giả có thể
xác định giá trị ngưỡng [PPV]. Giá trị [PPV] trên tường của đường hầm cũ tương
ứng với ngưỡng giới hạn của Dib. Các thông số cơ học của khối đá khảo sát thể hiện
trên Bảng 3.12. Kết quả khảo sát thể hiện trong Bảng 3.13 tương ứng với giá trị R:
Dib=0,125; Dib=0,25.
Bảng 3.12. Thông số cơ học của khối đá khảo sát [15]
Loại đá Mật độ, kg/m3 C, m/s σk, MPa Kr
Granit 2700 3500 15 0,96
Bảng 3.13. Kết quả tính toán giá trị [PPV], mm/s [15]
Loại đá Dib=0,125 Dib=0,25
Granit 12,698 mm/s 25,396 mm/s
d. Khối lượng nạp thuốc cho mỗi lần chậm nổ khi đào đường hầm
Tổng khối lượng nạp của mỗi lần chậm nổ và số lượng lần chậm nổ có thể
67
xác định dựa trên tổng lượng nạp trên gương và lượng nạp tối đa cho mỗi lần chậm
nổ. Để giảm thiểu thiệt hại nên tăng số lượng lần chậm nổ, giảm khối lượng thuốc
nổ tức thời và làm giảm các tác động tiêu cực của chấn động nổ mìn. Theo phương
pháp tính Qmax theo ngưỡng giá trị giới hạn [PPV]=15,0 mm/s [69] và theo tiêu
chuẩn của Pháp, từ công thức (3.35), ta có [15]:
Qmax1=0,126D2. (3.36)
Trong đó: D - Khoảng cách nhỏ nhất từ vị trí quan sát đến vị trí nổ mìn, m.
Theo phương pháp tính Qmax theo ngưỡng giới hạn DBI’’ và khoảng cách từ
gương đường hầm đến đường hầm đang tồn tại (L). Khối lượng nạp cho mỗi lần
chậm nổ có thể tính theo công thức (3.1) dựa trên công thức (3.35) [15]:
1,4112
5 2s tmax 2
k σQ 286,63 10 L
ρ.C
=
. (3.37)
Trong đó L - Khoảng cách giữa hai đường hầm, m.
Theo kết quả trên, tác giả có thể xác định khối lượng nạp tối đa cho mỗi lần
chậm nổ khi đào đường hầm theo hai lựa chọn từ công thức [15]:
Qmax=Min(Qmax1; Q max2). (3.38)
Từ khoảng cách giữa hai đường hầm, khoảng cách từ gương đường hầm đến
vị trí quan sát, đặc tính cơ lý của các lớp đất đá đường hầm đào qua, lượng nạp lớn
nhất Qmax cho mỗi lần chậm nổ được tính toán và đưa ra trên Bảng 3.14 theo các
công thức (3.36)÷(3.38).
Bảng 3.14. Dự báo lượng thuốc lớn nhất cho một lần nổ, kg [15]
Giá trị thuốc nổ
giới hạn, kg
Khoảng cách giữa hai đường hầm L, m
40,0 50,0 60,0 70,0 80,0
Qmax1, kg 201,6 315 453,6 617,4 806,4
Qmax2, kg 283,4 442,8 637,6 867,9 1133,6
Qmax, kg 201,6 315 453,6 617,4 806,4
Từ những kết quả nghiên cứu trên đây có thể rút ra một số nhận xét sau:
68
➢ Khi sử dụng phương pháp khoan nổ mìn để đào đường hầm Croix-Rousse
trong đất đá rắn cứng, các tác động tiêu cực của chấn động nổ mìn đến các tòa nhà,
đường hầm đang tồn tại, nằm gần đường hầm mới phải đảm bảo nhỏ hơn giá trị
ngưỡng quy định;
➢ Kết quả đo đạc thực địa, phân tích thống kê sự phân bố của các tần số
chấn động và phương trình kinh nghiệm của chấn động nổ mìn gây ra với đường
hầm cũ cho thấy: hầu hết các chấn động nguy hiểm có tần số dưới 30,0 Hz;
➢ Theo đặc tính tần số của chấn động nổ mìn, kết hợp với tình hình thực tế
của đường hầm và các tòa nhà gần đó, chấn động gây ra bởi nổ mìn được xem xét
[PPV]=15,0 mm/s và ngưỡng giới hạn thiệt hại Dib=0,125 lần lượt được lựa chọn
tính toán để tránh những tác động tiêu cực chấn động nổ mìn đến sự ổn định của
đường hầm đang tồn tại lân cận;
➢ Khối lượng nạp thuốc nổ tối đa Qmax cho mỗi lần chậm nổ được xác định
từ các thông số: khoảng cách D từ điểm quan sát đến gương đường hầm; khoảng
cách L từ gương đường hầm đến đường hầm đang tồn tại; tính chất cơ lý của các
loại đá đường hầm đào qua. Khi đào đường hầm mới có thể điều chỉnh giá trị Qmax
cho mỗi lần chậm nổ theo phương pháp trên đây để có thể giảm thiểu các tác động
tiêu cực của chấn động nổ mìn đến đường hầm đang tồn tại gần đó.
3.5. Khảo sát mối quan hệ giữa RMR của khối đá và các thông số K và α trong
công thức của Chapot
Việc đánh giá ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến kết cấu đường hầm lân
cận đã được nghiên cứu theo hướng khối thuốc nổ đặt cùng mức với trục đường
hầm cũ lân cận theo các phương án: khối thuốc nổ đặt bên sườn đường hầm; khối
thuốc nổ đặt phía trước gương đường hầm. Ngoài ra, một số tác giả còn nghiên cứu
sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn trong các trường hợp sau: ảnh hưởng của vụ nổ
khối thuốc nổ đặt ngay trong đường hầm (các vụ nổ do khủng bố,…); ảnh hưởng
của vụ nổ khối thuốc nổ đặt trên mặt đất đến các đường hầm; ảnh hưởng của vụ nổ
bom đạn tại bề mặt đến các công sự. Phần tiếp theo của luận án sử dụng kết quả đo
69
đạc chấn động tại dự án hầm Croix-Rousse, thành phố Lyon, Pháp để nghiên cứu.
Đặc điểm về dự án hầm Croix-Rousse đã được giới thiệu trong các bài báo [16],
[17], [18], [19].
Khi nghiên cứu sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn, việc sử dụng các chỉ số
chất lượng khối đá để đánh giá mức độ ảnh hưởng của chấn động nổ mìn là hướng
nghiên cứu mới chưa được nhiều nhà khoa học chú ý nghiên cứu. Một vài tác giả
trên thế giới đã chú ý đến việc nghiên cứu ảnh hưởng của chỉ số RQD theo Cilsal
Murat (2006) [8], chỉ số GSI để đánh giá mức độ chấn động của kết cấu chống giữ
công trình ngầm chịu tác dụng của sóng nổ thông qua tốc độ PPV [8]. Công thức
Chapot (1980) trong bộ tiêu chuẩn của Pháp thường được sử dụng để đánh giá chấn
động nổ mìn trên thế giới có dạng như công thức (3.14) [69], khi n=0,5, công thức
(3.14) có dạng như sau [69]:
( )α
PPV = K. D / Q-
(3.39)
Ở đây: D/Q1/2 - Tỉ lệ khoảng cách.
Để tạo thuận lợi phân tích, sau khi lấy logatit cơ số e cho hai vế công thức
(3.39), chúng ta có công thức tương đương:
( )Ln(PPV) = Ln(K) Ln D / Q .- . (3.40)
Phương trình (3.41) có dạng hàm bậc nhất tuyến tính:
y=ax+b. (3.41)
Tại đây: y= ln(PPV); a=(-); x=ln(D/Q1/2) và b=ln(K).
Giá trị các thông số K và có thể tìm ra sau khi khảo sát mối quan hệ giữa
logarit cơ số e của PPV Ln(PPV) và tỉ lệ khoảng cách D/Q1/2 dựa trên dữ liệu đo đạc
hiện trường từ các cảm biến. Để xét đến chỉ tiêu RMR của khối đá bổ sung vào công
thức Chapot (3.39), chúng tôi đã sử dụng các dữ liệu đo tại hầm Croix-Rousse [15],
[24], [28]. Khu vực nghiên cứu được chia thành ba vùng tương ứng theo chiều dài dọc
trục đường hầm như Bảng 3.15. Giá trị chỉ tiêu chất lượng RMR của khối đá tại các
đoạn được thể hiện trên Hình 3.22. Các dữ liệu địa cơ học trong vùng 1 (khối đá
70
granit), vùng 2 (khối đá gơnai), các thông số đường hầm đào qua được sử dụng làm các
số liệu đầu vào để nghiên cứu.
Bảng 3.15. Vị trí của các khu vực nghiên cứu trong đường hầm [59]
Khu vực
nghiên cứu Từ PM Tới PM
Chiều dài vùng
nghiên cứu, m Loại đá
1 200 600 400 Granit
2 640 750 110 Gơnai
3 750 1430 680 Granit
Hình 3.22. Giá trị RMR trong vùng nghiên cứu 1 [59]
3.5.1. Nghiên cứu cảm biến P trong vùng 1 (PM200PM600)
Công tác khảo sát bắt đầu ở khu vực 1. Các giá trị kết quả đo không phù hợp
của các cảm biến sẽ được loại bỏ trước khi tìm kiếm mối quan hệ giữa các thông số K,
(trong công thức của Chapot) và giá trị RMR của khối đá. Tại mỗi lần nổ mìn ở
gương đường hầm, chấn động sinh ra do nổ mìn sẽ được đo bằng cảm biến đặt phía
trước và phía sau của gương đường hầm với khoảng cách tương đối là H. Ta quy định:
các cảm biến đặt phía trước gương đường hầm mới có H>0; các cảm biến đặt phía sau
gương đường hầm mới có H<0 (Hình 3.23). Các mối quan hệ giữa ln(K), và giá trị
RMR của cảm biến P thể hiện trong các Bảng 3.16, Bảng 3.17, Bảng 3.18, Bảng 3.19 và
các hình từ Hình 3.24 đến Hình 3.32 [12].
71
Hình 3.23. Sơ đồ thể hiện khoảng cách tương đối H
của vị trí đặt cảm biến trong đường hầm [12], [23], [58], [59]
Bảng 3.16. Quan hệ giữa ln(K), và RMR của cảm biến P với H>0 [12]
Các hệ số Chỉ số chất lượng khối đá RMR
67 72 77 80
ln(K) 8,837 8,195 7,187 6,652
K 6883 3622 1322 774
1,901 1,578 1,256 1,843
Hình 3.24. Quan hệ giữa RMR và ln(K)
(Bảng 3.16) khi H>0 [12]
Hình 3.25. Quan hệ giữa RMR và K
(Bảng 3.16) khi H>0 [12]
Từ Hình 3.24 ta có mối quan hệ (khi H>0) [12]:
ln(K)=(3958.e-0,022.RMR); R2=0,9846. (3.42)
Từ Hình 3.25 ta có mối quan hệ (khi H>0) [12]:
K=(7.108.e-0,171.RMR); R2=0,9909. (3.43)
72
Hình 3.26. Quan hệ giữa RMR và
(Bảng 3.16) khi H>0 [12]
Hình 3.27. Quan hệ giữa RMR và
ln(K) (Bảng 3.17) khi H<0 [12]
Bảng 3.17. Quan hệ giữa ln(K), và RMR của cảm biến P với H<0 [12]
Các hệ số Chỉ số chất lượng khối đá RMR
67 72 77 80
ln(K) 16,889 1,073 9,134 12,820
K
4,919 0,739 1,728 3,106
Hình 3.28. Quan hệ giữa RMR
và K (Bảng 3.17) khi H<0 [12]
Hình 3.29. Quan hệ giữa RMR
và (Bảng 3.17) khi H<0 [12]
Từ Hình 3.26 ta có mối quan hệ (khi H>0) [12]:
=(2,4991.RMR3-539,79.RMR2+38736.RMR-921961). R2=1,0. (3.44)
Từ Hình 3.27 ta có mối quan hệ (khi H<0) [12]:
ln(K)=(-81,511.RMR3+18084.RMR2-106.RMR+3.107); R2=1,0. (3.45)
73
Từ Hình 3.28 ta có mối quan hệ (khi H<0) [12]:
K=[-107.ln(RMR)+4.107]; R2=0,5543. (3.46)
Từ Hình 3.29 ta có mối quan hệ (khi H<0) [12]:
=(92,43.RMR2-13686.RMR+506799); R2=0,9221. (3.47)
Bảng 3.18. Quan hệ giữa ln(K), và RMR của cảm biến P với 0<H<45 m [12]
Các hệ số Chỉ số chất lượng khối đá RMR
67 72 77 80
ln(K) 9,143 8,215 6,707 13,869
K 9347 3694 818 1054946
1,932 1,595 1,080 3,292
Hình 3.30. Quan hệ giữa RMR và ln(K)
(Bảng 3.18) khi 0<H<45m [12]
Hình 3.31. Quan hệ giữa RMR và K
(Bảng 3.18) khi 0<H<45 m [12]
Từ Hình 3.30 ta có mối quan hệ (khi 0<H<45 m) [12]:
ln(K)=(-0,0404.RMR3+9,2086.RMR2-697,17.RMR+17547); R2=1,0. (3.48)
Từ Hình 3.31 ta có mối quan hệ (khi 0<H<45 m) [12]:
K= (-108.ln(RMR)+5.108); R2=0,6766. (3.49)
Từ Hình 3.32 ta có mối quan hệ (khi 0<H<45 m) [12]:
=(-0,0054.RMR3+1,2779.RMR2-99,635.RMR+2579,4); R2=1,0. (3.50)
74
Hình 3.32. Quan hệ giữa RMR
và (Bảng 3.18) khi 0<H<45 m [12]
Hình 3.33. Các mối quan hệ giữa ln(K), và
RMR tại cảm biến P [12]
Từ đây, chúng tôi tổng hợp sự phụ thuộc của các thông số Ln(K), trong
công thức Chapot vào chỉ số RMR tại cảm biến P trên Hình 3.33. Từ các kết quả
trên, chúng tôi rút ra các công thức thực nghiệm dự báo giá trị PPV xuất hiện trong
khối đá khi đường hầm đào trong khối đá granit như sau [12]:
➢ Khi H>0:
( ) ( )2,4991.RMR -539,79.
8 -0,171.RMR
RMR+-
+38736.RMR-9219617.10 .PPV = . D Qe /
3 2
; (3.51)
➢ Khi H<0:
( ) ( )( )- 92,43.RMR -13686.RMR+57 7 06799
P 10 .ln RMR + 4PV = - /. Q10 . D
2
; (3.52)
➢ Khi 0<H<45 m:
( ) ( )-0,0054.RMR +1,2779.RMR ---99,635.RMR+2579,48 810 .ln RMR +5.10PPV = - . D/ Q
3 2
. (3.53)
3.5.2. Nghiên cứu cảm biến T trong vùng 2 (PM 640PM750)
Giá trị RMR của khối đá tại vùng 2 thể hiện ở Hình 3.34. Mối quan hệ giữa
RMR và thông số K qua (ln(K)), α ở công thức Chapot thông qua dữ liệu đo đạc của
cảm biến T thể hiện trên Bảng 3.19, Bảng 3.20, Bảng 3.21 và Hình 3.35, Hình 3.36.
75
Hình 3.34. Giá trị RMR
trong vùng nghiên cứu thứ 2 [12]
Hình 3.35. Mối quan hệ giữa
ln(K), α và RMR ở vùng 2 [12]
Bảng 3.19. Quan hệ giữa ln(K), K, α và giá trị RMR của cảm biến T [12]
Các hệ số Chỉ số chất lượng khối đá RMR
4050 5055 5560 6065 6575
ln K 6,234 7,635 6,706 8,461 7,713
K 510 2070 818 4726 2237
α 1,189 1,578 1,302 2,002 1,722
Bảng 3.20. Quan hệ giữa ln(K), K, α với RMR của cảm biến T khi H>0 [12]
Các hệ số Chỉ số chất lượng khối đá RMR
4050 5055 5560 6065 6575
ln K 6,287 10,368 6,706 9,092 8,998
K 537 31825 817 8880 8084
α 1,157 2,527 1,311 2,203 2,163
Bảng 3.21. Quan hệ giữa ln(K), α và RMR của cảm biến T với H<0 [12]
Các hệ số Chỉ số chất lượng khối đá RMR
4050 5055 5560 6065 6575
ln K 7,933 9,714 0,467 7,022 8,802
K 2788 16549 2 1120 6644
α 1,857 2,465 0,844 1,531 2,247
76
Hình 3.36. Quan hệ giữa ln(K) và α theo RMR khi H<0 và H>0 m [12]
Từ các số liệu tại các Bảng 3.19, Bảng 3.20, Bảng 3.21, chúng tôi đã xây
dựng các mối quan hệ phụ thuộc giữa ln(K), K, và chỉ số RMR (từ Hình 3.37 đến
Hình 3.45) cho cảm biến T: cho trường hợp chung (Bảng 3.19); cho trường hợp khi
H>0 (Bảng 3.20); cho trường hợp khi H<0 (Bảng 3.21).
Hình 3.37. Quan hệ giữa RMR
và ln(K) (Bảng 3.19) [12]
Hình 3.38. Quan hệ giữa RMR
và K (Bảng 3.19) [12]
Hình 3.39. Quan hệ giữa RMR
và (Bảng 3.19) [12]
Hình 3.40. Quan hệ giữa RMR
và ln(K) (Bảng 3.20) [12]
77
Từ Hình 3.37, Hình 3.38, Hình 3.39 (theo Bảng 3.19) tìm ra các mối quan
hệ giữa ln(K), K, α và giá trị RMR bởi cảm biến T như sau [12]:
ln(K)= 0,9315.RMR0,5098 ; R2=0,4999; (3.54)
K=0,0007.RMR3,6295; R²=0,481; (3.55)
=0,0367.RMR0,9236; R²=0,547. (3.56)
Hình 3.41. Quan hệ giữa RMR
và K (Bảng 3.20) [12]
Hình 3.42. Quan hệ giữa RMR
và (Bảng 3.20) [12]
Hình 3.43. Quan hệ giữa RMR
và ln(K) (Bảng 3.21) [12]
Hình 3.44. Quan hệ giữa RMR
và K (Bảng 3.21) [12]
Hình 3.45. Quan hệ giữa RMR
và (Bảng 3.21) [12]
Hình 3.46. So sánh quan hệ giữa ln(K),
và RMR ở các vùng 1, vùng 2 [12]
78
Từ Hình 3.40, Hình 3.41, Hình 3.42 (theo Bảng 3.20) tìm ra các mối quan hệ
giữa ln(K), K, α với RMR của cảm biến T khi H>0 như sau [12]:
l(K)=0,6659.RMR0,6196; R²=0,2352; (3.57)
K=5E-05xRMR4,4823; R²=0,19; (3.58)
=0,0173.RMR1,1472; R²=0,3075. (3.59)
Từ Hình 3.43, Hình 3.44, Hình 3.45 (theo Bảng 3.21) tìm ra các mối quan
hệ giữa ln(K), K, α với RMR của cảm biến T khi H>0 như sau [12]:
ln(K)=-1,157.ln(RMR)+11,463; R²=0,0028; (3.60)
K=-4278.ln(RMR)+22705; R²=0,0115; (3.61)
=2,4002RMR-0,089; R²=0,0012. (3.62)
Từ đây, chúng tôi rút ra các công thức thực nghiệm dự báo giá trị PPV xuất
hiện trong khối đá khi đường hầm đào trong khối đá gơnai ở khu vực 2 [12]:
➢ Trong trường hợp chung (Bảng 3.19):
( )( )0,0367.RMR3,6295PPV = 0,0007.RMR . D/ Q
0,9236
; (3.63)
➢ Trong trường hợp H>0 (Bảng 3.20):
( )( )0,0173.RMR4,4823PPV = 0,00005.RMR . D/ Q
1,11472
; (3.64)
➢ Trong trường hợp H<0 (Bảng 3.21):
( ) ( )( )- 2,4002.RMR
.ln RMR + 227PPV = -4278 5 . D/ Q0
-0,089
. (3.65)
3.5.3. So sánh kết quả khảo sát vùng 1 và vùng 2
So sánh sự phụ thuộc của các thông số Ln(K), trong công thức Chapot vào
chỉ số RMR của vùng nghiên cứu 1 và vùng nghiên cứu 2 được thể hiện trên Hình
3.46 cho thấy: các mối quan hệ phụ thuộc này mang đặc tính phi tuyến rất phức tạp;
quy luật biến đổi của chúng có đặc tính tương tự nhau cho các khu vực đất đá khác
nhau ở những đoạn đường hầm khác nhau. Tổ hợp các công thức (3.51)÷(3.53) và
(3.63)÷(3.65) cho phép dự báo giá trị của PPV xuất hiện trong các loại đá granit và
đá gơnai, kết cấu chống giữ trong những điều kiện xây dựng đường hầm tương tự
79
dự án đường hầm Croix-Rousse (Lyon, Pháp) dựa trên khối lượng thuốc nổ Q và
khoảng cách D từ gương đường hầm đến vị trí quan sát. Các công thức
(3.51)÷(3.53) và (3.65)÷(3.67) đã xét tới một số tính chất của khối đá thông qua chỉ
số chất lượng khối đá RMR. Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu này mới chỉ là
bước đầu, thể hiện những quy luật định lượng sơ bộ. Những kết quả nghiên cứu này
vẫn phải hoàn thiện thêm trong tương lai [12]. Từ kết quả nghiên cứu tổng hợp,
chúng tôi rút ra công thức thực nghiệm chung để dự báo giá trị PPV xuất hiện trong
khối đá ở dự án đường hầm Croix-Rousse (Lyon, Pháp) như sau:
➢ Trong vùng nghiên cứu số 1 đường hầm đào trong đá granit, các hệ số
thực nghiệm trong công thức Chapot được xác định là: α=1,601 và K=1846;
( )1,601
PPV 1846 D/ Q .−
= (3.66)
➢ Trong vùng nghiên cứu 2 đường hầm đào trong đá gơnai, các hệ số thực
nghiệm xác định được là α=2,263 và K=8084:
( )2,263
PPV 8084 D/ Q .−
= (3.67)
Các công thức (3.66), (3.67) cho phép xác định, dự báo giá trị của PPV cho
hai loại đá granit và gơnai trong các điều kiện tương tự dựa trên khối lượng thuốc
và khoảng cách từ vị trí gương hầm đến vị trí quan sát. Kết quả nghiên cứu trên đây
cho phép rút ra một số nhận xét sau:
➢ Việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của chỉ số chất lượng khối đá RMR đến
PPV làm cơ sở cho việc đánh giá mức độ ổn định của kết cấu chống công trình
ngầm lân cận, là hướng đi rất mới;
➢ Kết quả cho phép đưa ra các mối quan hệ giữa chỉ số RMR và các thông
số Ln(K),K, trong công thức tính PPV của Chapot;
➢ Nghiên cứu đã phát triển, đề xuất một số dạng mới của công thức Chapot có
xét đến sự ảnh hưởng của chỉ số chất lượng khối đá RMR đến tốc độ PPV.
3.6. Kết luận Chương 3
Hiên nay, việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của tính chất cơ lý của khối đá xung
quanh đường hầm đến PPV chưa được chú ý. Số lượng các công trình công bố chưa
80
nhiều, kết quả còn hạn chế, do đó việc tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của các chỉ số
phân loại khối đá đến PPV là một hướng đi mới khi số lượng các đường hầm đào mới,
đào mở rộng cạnh các đường hầm cũ sẽ tăng nhanh. Chương 3 đã phân tích ngược các
số liệu đo đạc tại dự án đường hầm Croix-Rousse, Lyon, Pháp. Kết quả phân tích cho
phép đưa ra mối quan hệ giữa PPV với tỉ lệ khoảng cách và tỉ lệ lượng nạp, đồng thời
tìm ra các công thức thực nghiệm cho phép xác định giá trị PPV tại một số loại đá như
granit và gơnai. Từ ngưỡng giá trị PPV, tác giả tìm ra công thức thực nghiệm cho phép
xác định khối lượng thuốc nổ lớn nhất cho một lần nổ để đảm bảo an toàn cho vỏ
chống bê tông của đường hầm cũ lân cận trong hai loại đá granit và gơnai. Các công
thức này cho phép áp dụng cho các dự án có điều kiện địa chất tương tự để dự báo sự
ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến vỏ chống của đường hầm lân cận mà không phải
tiến hành đo đạc hiện trường,... trong những điều kiện tương tự. Các kết quả nghiên
cứu trong Chương 3 cũng cho thấy những kết quả bước đầu về sự ảnh hưởng của đặc
tính khối đá (thông qua RMR) đến PPV do chấn động nổ mìn đào hầm. Thông qua việc
khảo sát chỉ số RMR của đá với các thành phần ln(K) và trong công thức thực
nghiệm của Chapot có thể cho phép đưa ra được công thức gần đúng xác định giá trị
của PPV cho đá granit và gơnai có thể áp dụng cho các đường hầm khác trong điều
kiện tương tự. Kết quả phương pháp đo đạc đã được xử lý và chọn lọc sử dụng các giá
trị phù hợp nhất sẽ làm cơ sở để kiểm chứng với các mô hình số ở phần sau của luận
án.
81
CHƯƠNG 4
NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH CÁC THÔNG SỐ ĐỘNG CỦA KHỐI ĐÁ VÀ
VỎ CHỐNG BẰNG THÍ NGHIỆM ĐỘNG HỌC
4.1. Đặt vấn đề
Khi nổ mìn đào hầm, thuốc nổ được giải phóng dưới dạng các sóng tác
dụng lên phần đất đá trên gương hầm và khối đá xung quanh đường hầm. Thông
thường, trên gương các lỗ mìn được bố trí thành các nhóm nên thuốc nổ được nổ
thành nhiều đợt. Do đó, biên độ và thời gian tác dụng của áp lực thay đổi theo
thời gian. Trong các mô hình tính toán, các thông số cơ lý của đất đá và vỏ
chống phải là thông số động nhằm đảm bảo sự làm việc của đất đá và vỏ chống
giống như trong điều kiện chịu tải trọng động của nổ mìn trên thực tế.
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của kết cấu chịu tác động của tải trọng động, một
số công trình nghiên cứu tại Việt Nam vẫn sử dụng các thông số tĩnh của vật liệu
kết cấu để đưa vào mô hình khảo sát [13], [27], [34], [35], [37]. Do đó, mô hình
thường không phù hợp với thực tế hoặc không phản ảnh đúng bản chất thực tế làm
việc của kết cấu dưới tác dụng của tải trọng động. Việc sử dụng các thông số đặc
tính của đất đá, kết cấu chống ở trạng thái động là cần thiết vì kết cấu làm việc ở
trạng thái động dưới tác dụng của sóng nổ mìn. Vỏ chống bê tông liền khối của
đường hầm cũ là đối tượng nghiên cứu của luận án. Khi nổ mìn vỏ chống bê tông
chịu ảnh hưởng của tải trọng động nên việc xem xét đặc tính biến dạng của loại vỏ
chống này dưới tải trọng động là cần thiết. Kết quả khảo sát cho thấy sự ảnh hưởng
của tốc độ biến dạng đến độ bền nén của bê tông (Hình 4.1) và độ bền kéo của bê
tông (Hình 4.2). Hình 4.3 thể hiện tần số, biên độ dao động với các tải trọng động
khác nhau theo Lamis Ahmed, (2015) [52], trong đó có tải trọng sinh ra do nổ mìn.
Những đánh giá trên cho thấy: đặc tính làm việc của kết cấu dưới tác động
của áp lực lên thanh đánh động rất khác so với chịu tải trọng tĩnh (Hình 4.1, Hình
4.2). Theo kết quả trên độ bền nén và kéo sẽ tăng lên khi tốc độ biến dạng tăng
82
lên. Do đó, khi nghiên cứu sự làm việc của kết cấu dưới tác động của tải
trọngđộng, các thông số của khối đá và kết cấu nhất thiết phải sử dụng thông số
động.
Hình 4.1. Ảnh hưởng của tốc độ biến dạng đến độ bền nén của bê tông [52]
Hình 4.2. Ảnh hưởng của tốc độ biến dạng đến độ bền kéo của bê tông [52]
83
Hình 4.3. Tần số, biên độ cho các tải trọng động khác nhau (Lamis Ahmed, 2015) [52]
4.2. Phương pháp xác định các thông số động của khối đá và kết cấu chống
Hiện nay trên thế giới, các phương pháp chính để xác định các thông số
động của khối đá và kết cấu chống bao gồm:
➢ Sử dụng các thí nghiệm động học - Thí nghiệm SHPB;
➢ Sử dụng búa đập lên mẫu bê tông xác định các thông số động;
➢ Sử dụng các công thức thực nghiệm chuyển đổi các thông số tĩnh sang
các thông số động.
Phương pháp sử dụng các công thức thực nghiệm chỉ được áp dụng trong
các dự án có những điều kiện tương tự trên thực tế. Cho nên, các phương pháp
này có phạm vi áp dụng nhỏ. Ví dụ, Wang (1980) đưa ra mối quan hệ giữa các
thông số động của khối đá và các thông số tĩnh qua dữ liệu đo đạc tại 20 dự án
khác nhau ở Trung Quốc như sau [83]:
➢ Với đá nguyên khối: Et=[(0,25.(Ed)1,3]; (4.1)
➢ Khối đá và đá bị phá hủy: Et=[(0,025.(Ed)1,7]; (4.2)
➢ Khối đá trong vùng sụt lở, bãi thải: Et=[(0,0025.(Ed)2,0]; (4.3)
➢ Hệ số Poisson: d=(0,8.t). (4.4)
Trong đó: Ed, d và Et, t - Lần lượt là mô đun đàn hồi, hệ số Poisson động và
tĩnh của khối đá. Từ các công thức trên có thể xác định được mô đun đàn hồi, hệ
số Poisson động của khối đá thông qua giá trị mô đun đàn hồi, hệ số Poisson tĩnh
đã xác định được trong phòng thí nghiệm.
84
Những kết quả nghiên cứu trên đây cho thấy giá trị thông số động là khác
với giá trị các thông số tĩnh. Do vậy, việc sử dụng các thông số động trong các
mô hình số là hết sức cần thiết để đảm bảo trong mô hình khối đá và kết cấu
công trình ngầm làm việc giống như trong điều kiện thực tế.
Trong các phương pháp xác định thông số động của khối đá trình bầy trên
đây, phương pháp thí nghiệm động SHPB được thực hiện khá phổ biến trên thế
giới, cho kết quả có độ tin cậy. Tuy nhiên hiện tại ở nước ta thí nghiệm này vẫn
còn mới và chưa từng được thực hiện.
4.3. Xác định các thông số động của khối đá bằng thí nghiệm động SHPB
4.3.1. Mục đích của thí nghiệm
Trong thực tế khi nổ mìn, khối đá bị phá hủy dưới áp lực nổ mìn trong
một khoảng thời gian rất ngắn (ms), cho nên không thể thực hiện việc xác định
trực tiếp các thông số của khối đá. Thí nghiệm SHPB được sử dụng để xác định
gián tiếp tính chất cơ học của mẫu đá dưới sự tác động của tải trọng động khi bị
phá hủy gần giống với sự phá hủy của khối đá do tác dụng của áp lực nổ mìn.
4.3.2. Cấu tạo thiết bị thí nghiệm
Hệ thống SHPB bao gồm hai thanh đồng trục (thanh tới, thanh truyền) và
một thanh chuyển động (thanh đánh) được truyền động nhờ áp lực của một máy
nén khí có gắn đồng hồ báo giá trị áp lực khi mở van. Hình 4.4 thể hiện sơ đồ
tổng thể các thiết bị của thí nghiệm SHPB. Mẫu đá hình trụ được đặt giữa hai
thanh. Trong thí nghiệm SHPB, các phép đo được thực hiện gián tiếp: các cảm
biến được gắn trên các thanh mà không gắn trực tiếp trên mẫu thí nghiệm. Các
cảm biến đưa ra giá trị của các phép đo biến dạng của thanh tới và thanh truyền
gây ra bởi sóng tới, sóng phản xạ và sóng truyền trong thanh truyền.
85
Hình 4.4. Hệ thống thí nghiệm SHPB [72]
4.3.3. Thiết bị tải trọng
Thanh đánh được phóng bởi một sự giải phóng đột ngột của khí nén hoặc
khí gas trong một bình lưu trữ áp lực và tăng tốc trong nòng súng dài cho đến khi
nó tác động đến đầu của thanh tới. Vận tốc thanh đánh được đo bằng quang học
hoặc bằng từ tính ngay trước khi tác động bởi cảm biến vận tốc. Đây là loại cơ
cấu thanh đánh phóng tạo ra một tác động điều khiển và lặp lại trên thanh tới.
Tốc độ đập vào có thể được điều chỉnh đơn giản bằng cách thay đổi áp lực của
khí nén hoặc độ sâu của các thanh đánh bên trong nòng súng. Khoảng thời gian
chất tải tỉ lệ thuận với chiều dài thanh đánh.
4.3.4. Thành phần các thanh
Một thí nghiệm SHPB điển hình bao gồm một thanh tới, một thanh truyền
và một thiết bị chặn động lực ở cuối. Thông thường, tất cả các thanh được chế
tạo từ chất liệu và đường kính tương tự, vật liệu thanh là đàn hồi tuyến tính với
độ bền cao. Để đảm bảo truyền sóng một chiều trong các thanh, các thanh phải
thẳng tự nhiên, tự do di chuyển trong sự hỗ trợ và giảm thiểu ma sát. Hệ thống
toàn bộ thanh phải đồng trục để đảm bảo tính truyền lực. Thanh tới nên dài hơn
ít nhất hai lần so với thanh đánh để tránh chồng chéo các tín hiệu đến và phản xạ.
Mẫu bị kẹp giữa thanh đến và thanh truyền như trên Hình 4.4. Trục của mẫu
thẳng với trục của các thanh. Khi thanh đánh có cùng chất liệu và đường kính
86
như thanh tới, ứng suất (hoặc biến dạng) biên độ của xung tới I (hoặc biến dạng
I) tạo ra do tác động thanh đánh phụ thuộc vào vận tốc của thanh đánh Vst [72]:
( )B B st0,5.ρ .C .υI = hoặc ( )1 st Bε 0,5.υ /C= . (4.4)
Trong đó: B và CB - Mật độ và vận tốc truyền sóng trong thanh.
Xung đến và phản xạ được đo bởi cảm biến biến dạng trên thanh tới. Các
xung truyền được đo bằng thiết bị đo biến dạng trên thanh truyền (Hình 4.5).
Hình 4.5. Biến dạng trong thanh tới và thanh truyền [48]
4.3.5. Thu thập dữ liệu và hệ thống dữ liệu
Hai cảm biến thường được gắn đối xứng trên bề mặt chắn ngang đường
kính thanh. Các tín hiệu từ các thiết bị đo được điều hòa với một cầu Wheatstone.
Trong một thí nghiệm SHPB, điện áp từ cầu Wheatstone có biên độ nhỏ, thường
yêu cầu của milli-volt (Hình 4.6).
Hình 4.6. Đồ thị truyền sóng ứng suất trong thí nghiệm SHPB điển hình [48]
Trong một thí nghiệm thanh nén SHPB điển hình, sóng ứng suất được tạo
ra bởi tác động của các thanh đánh trên thanh tới. Hình 4.6 thể hiện sơ đồ (X-t)
87
truyền sóng ứng suất trong các thanh. Khi sóng nén trong thanh tới truyền đến bề
mặt giữa thanh tới và mẫu, một phần của nó phản xạ trở lại thanh tới, phần còn
lại truyền vào mẫu [48].
4.3.6. Chuẩn bị thí nghiệm
Đối với mỗi thí nghiệm SHPB các dữ liệu sau đây được xác định và ghi
lại: thông số hình học của mẫu trước khi tiến hành thí nghiệm; sơ đồ thí nghiệm;
khoảng cách của mỗi cặp cảm biến đo biến dạng từ bề mặt tiếp xúc thanh
tới/mẫu; hướng của các cặp đo biến dạng (hướng trục hay vòng tròn); chiều dài
của thanh đánh; giá trị tăng của mỗi bộ khuếch đại; thời gian chuyển động của
thanh đánh trong nòng súng; hình ảnh các thanh mẫu trước và sau khi thí
nghiệm; ghi chú bổ sung bao gồm cả cảm biến bị hư hỏng và khoảng cách phá
hủy; áp lực của súng bắn tác dụng lên thanh đánh. Các mẫu được đặt thẳng hàng,
cần sử dụng một đèn cao áp để hỗ trợ ánh sáng có thể được nhìn thấy ở giao
diện. Các dữ liệu được thiết lập số lượng các kênh khác nhau để đọc. Cần có một
camera tốc độ cao để ghi lại sự phá hủy mẫu.
4.3.7. Tính toán các thông số trong thí nghiệm
a. Thời gian chu kỳ của sóng phản xạ
Sóng tới rời khỏi thiết bị đo biến dạng gần trung tâm của thanh tới và tiếp
tục tới giao diện giữa thanh tới và mẫu đá. Tại giao diện, một phần của sóng
được chuyển đến mẫu và một phần khác được phản xạ trở lại thanh tới. Do đó
trong một kênh dữ liệu sẽ chứa dữ liệu cả sóng tới và sóng phản xạ. Thời gian
chu kỳ của sóng phản xạ (t) là thời gian cần thiết để sóng di chuyển từ cảm
biến tới giao diện và quay lại. Thời gian chu kỳ của sóng ứng suất đến được tính
theo công thức (4.5) [72]:
t=(2.l/CB). (4.5)
Trong đó: CB - Vận tốc truyền sóng ứng suất của thanh tới; L - Khoảng cách từ
trung tâm cặp cảm biến biến dạng trên thanh tới tới giao diện giữa thanh tới và mẫu.
88
Kết quả thí nghiệm xác nhận: vận tốc sóng ứng suất trong thanh tới hoặc
mẫu có quan hệ với mô đun đàn hồi và mật độ của thanh hoặc mẫu [48]:
B dC E /ρ= . (4.6)
Trong đó: Ed - Mô đun đàn hồi động của thanh hoặc mẫu, MPa; - Mật độ của
thanh hoặc mẫu, kg/m3.
Từ mối quan hệ (4.6) chúng ta có thể tính mô đun đàn hồi động của các
thanh và mẫu bằng việc sử dụng công thức [48]:
( )2
d BE ρ.C= . (4.7)
b. Chuyển đổi điện áp thành biến dạng
Mục tiêu của thí nghiệm là nghiên cứu ảnh hưởng động của vật liệu dưới
tốc độ biến dạng cao, cho phép đưa ra các đường cong ứng suất-biến dạng của
tín hiệu tại đầu ra của mỗi cảm biến. Trên thực tế, cảm biến biến dạng sử dụng
một cầu Wheatstone và được đặc trưng bởi một hệ số cảm biến k (Hình 4.7).
Hình 4.7. Sơ đồ của một cầu Wheatstone [48]
Mối quan hệ giữa điện trở và biến dạng dọc của thanh thể hiện bằng công
thức [13]:
R/R=(k.1). (4.8)
Biến dạng dọc của thanh được tính qua tín hiệu điện áp đo được bằng các
cảm biến theo công thức [13]:
out1
ex
2 V= .
( +1).k V
(4.9)
89
Trong đó: l - Biến dạng dọc của các thanh; Vout - Điện áp ra (đo bằng cảm biến);
Vex - Điện áp kích thích (200,1 V); k - Hệ số cảm biến; k=2,115 cho hầu hết
các cảm biến; - Hệ số Poisson.
c. Biến dạng và tốc độ biến dạng của mẫu
Giả sử các sóng ứng suất truyền trong cả thanh tới và thanh truyền không
phân tán. Khi đó, vận tốc của thanh tới và thanh truyền tính qua biến dạng của
các thanh tính theo theo công thức sau [48]:
(t)ε(t)ε.C(t)V R1B1 −= ; (4.10)
(t)ε.C(t)V TBT = . (4.11)
Ở đây các kí hiệu I, R và T thể hiện xung đến, phản xạ và truyền tương
ứng. Tốc độ biến dạng trung bình, biến dạng trong mẫu tính theo công thức [48]:
.
T I Bm I R T
S S
V (t) V (t) Cε ε (t) ε (t) ε (t)
L L
−= = − − . (4.12)
t
tB
m I R T0
S0
Cε εdt ε (t) ε (t) ε (t) dt
L= = − − . (4.13)
Trong đó: LS - Chiều dài của mẫu.
d. Ứng suất trong mẫu
Ứng suất trung bình trong mẫu có thể thể hiện qua lực tác dụng tại mỗi bề
mặt của mẫu. Biểu đồ các lực tác dụng vào mẫu được thể hiện trên Hình 4. 5.
Hình 4.8. Sơ đồ tính toán mẫu hình trụ [48]
Khi mẫu bị tác dụng bởi các lực của các thanh; gọi lực F1(t) và F2(t) là các
lực tác dụng lên mẫu có đường kính DS. Lực trung bình tác dụng lên mẫu xác
định bằng công thức sau [48], [61]:
( )avg 1 2F (t) 0,5. F (t) F (t) .= + (4.14)
90
Do đó, ứng suất trung bình của mẫu hình trụ được xác định bằng lực trung
bình tác dụng lên mẫu thông qua công thức [48], [61]:
avgavg 2
S
F (t)σ .
π.D / 4= (4.15)
Ứng suất tại vị trí tiếp xúc bề mặt mẫu và thanh tới hoặc thanh truyền có
thể được tính bằng công thức [48]:
(t)ε(t)ε.E(t)σ RIbI += ; (4.16)
(t)ε.E(t)σ TbT = . (4.17)
Trong đó: 1(t) - Biến dạng được tạo ra bởi sóng đến; R(t) - Biến dạng được tạo
ra bởi sóng phản xạ; T(t) - Biến dạng được tạo ra bởi sóng truyền tới; EB - Mô
đun đàn hồi của thanh tới hoặc thanh truyền. Các lực F1(t) và F2(t) tác dụng lên
bề mặt mẫu do áp lực các thanh được tính qua ứng suất tại vị trí tiếp xúc giữa
mẫu và thanh [61]:
21 I I I R bF (t) A .σ (t) E ε (t) ε (t) .πD / 4;= = + (4.18)
22 T T T bF (t) A .σ (t) Eε (t).πD / 4.= = (4.19)
Sau khi thay công thức (4.18), (4.19) vào phương trình (4.14), tìm ra biểu
thức tính ứng suất trung bình trong mẫu theo biến dạng các thanh [48]:
2b
avg I R T2S
EDσ (t) ε (t) ε (t) ε (t) .
2.D= + + (4.20)
Trong đó: Db - Đường kính của các thanh áp lực; Ds - Đường kính của mẫu.
4.4. Kết quả thí nghiệm
4.4.1. Thí nghiệm động học không phá hủy
Mẫu được tiến hành thí nghiệm động học không phá hủy trước khi tiến
hành thí nghiệm phá hủy động học SHPB. Các thông số cơ bản của mẫu (kích
thước, trọng lượng thể tích,…) được tiến hành đo trước tiên. Phương pháp thí
nghiệm động đơn giản được tiến hành theo phương pháp địa chấn để xác định
91
mô đun đàn hồi và hệ số biến dạng ngang (tham số động) của khối đá. Giữa các
tham số cơ học của khối đá và vận tốc lan truyền sóng âm qua khối đá có mối
quan hệ theo các công thức dưới đây [48]:
p SE (1 ν) E 1
V ; V .ρ (1 ν)(1 2ν) ρ 2(1 ν)
−= =
+ − + (4.21)
Trong đó: VP - Tốc độ lan truyền sóng dọc; VS - Tốc độ lan truyền sóng ngang
hay sóng cắt; - Khối lượng thể tích (mật độ) của khối đá.
Trên cơ sở đo được VP, Vs và sẽ xác định được hệ số biến dạng ngang
động d, mô đun đàn hồi động Ed theo các công thức [48]: 2
p sp 2
p s
(V /V ) 2V
2.(V /V ) 2
−=
− và d cE 2.V . .(1 ) .= + (4.22)
Kết quả thí nghiệm các mẫu thu được các thông số thể hiện trên Bảng 4.1.
4.4.2. Thí nghiệm động SHPB
Chúng tôi tiến hành thí nghiệm động SHPB trên mẫu đá granit thu được
tại đường hầm Croix-Rousse bằng các thiết bị thí nghiệm của Phòng thí nghiệm
của Viện Nghiên cứu và ứng dụng quốc gia (INSA de Lyon). Các thiết bị thí
nghiệm thể hiện trên Hình 4.9.
Hình 4.9. Sơ đồ thiết bị thí nghiệm SHBP tại phòng thí nghiệm thuộc INSA
Lyon, Cộng hòa Pháp [20], [61]
a) b)
92
Hình 4.10. Hệ thống khởi động của thanh chuyển động và vị trí mẫu giữa
hai thanh tới và thanh truyền: a - Sơ đồ các thiết bị trong hệ thống SHBP;
b - Vị trí mẫu kẹp giữa hai thanh [20], [53]
Hình 4.11. Vị trí cảm biến trên thanh [20], [53]
Hình 4.12. Các mẫu thí nghiệm đường kính 45,0 mm chiều cao 100,0 mm [53]
Bảng 4.1. Tổng hợp kích thước và các thông số cơ học của mẫu đá [20], [53]
Mẫu
N°
Đường
kính,
mm
Chiều
dài,
mm
Trọng
lượng,
g
Mật
độ,
kg/m3
Mô đun
đàn hồi
tĩnh E, GPa
Vận tốc
sóng P
Vp, m/s
Vận tốc
sóng S
Vs, m/s
Mẫu đường kính 45,0 mm chiều cao 100,0 mm
0 44,95 100,5 405,2 2541,7 5,29 2668,549 1443
1 44,93 101,3 410,3 2555,2 7,78 3236,213 1745
2 44,90 100,8 404,1 2532,9 10,56 3770,330 2045
25 44,93 99,6 393,3 2491,0 18,56 4998,461 2730
27 44,94 99,55 392,2 2484,0 2,12 1689,333 924
29 44,97 99,46 403,9 2556,7 2,55 1852,753 999
32 44,93 98,52 388,6 2487,7 10,82 3816,462 2086
34 44,95 99,41 397,2 2518,1 15,58 4579,637 2487
93
35 44,86 99,95 399,8 2530,3 7,55 3188,018 1727
37 44,92 100,1 390,5 2460,9 6,04 2851,450 1567
38 44,87 100,7 403,2 2531,8 18,56 4998,461 2730
39 44,95 99,76 398,7 2518,9 12,11 4037,564 2193
42 44,96 98,57 392,7 2509,4 9,85 3641,375 1981
43 44,93 100 389,7 2457,8 9,2 3519,178 1903
44 44,95 100 403,3 2540,8 1,72 1521,639 823
Mẫu đường kính 45,0 mm chiều cao 50,0 mm
13-1 44,95 47,69 183 2418,1 - - -
13-2 44,83 46,66 186 2525,5 - - -
24-1 44,94 47,69 188 2485,4 - - -
24-2 44,93 47,32 187 2492,1 - - -
28-1 45,02 47,33 187 2482,2 - - -
28-2 44,90 47,41 197 2623,9 - - -
31-1 44,86 47,87 192 2538,0 - - -
31-2 44,82 48,22 194 2549,6 - - -
Bảng 4.2. Các đặc tính cấu tạo của các thanh trong thí nghiệm SHPB [53]
Đặc tính Thanh đánh:
thép
Thanh tới: hợp
kim nhôm
Thanh truyền:
hợp kim nhôm
Mô đun đàn hồi E, Pa 2e11 7,363e11 7,363e11
Mật độ, kg/m3 7700 2810 2810
Hệ số Poisson 0,30 0,30 0,30
Đường kính, m 0,05 0,05 0,05
Chiều dài, m 0,90 3,00 2,00
Bảng 4.3. Các mẫu đã tiến hành thí nghiệm [53]
N° Đường
kính,
mm
Chiều
dài,
mm
Khối
lượng,
g
Mật
độ,
kg/m3
Mô
đun
đàn hồi,
E, GPa
Vận
tốc sóng
P, Vp,
m/s
Vận
tốc
sóng S,
Vs, m/s
Vận tốc
của thanh
đánh,
m/s
Áp
lực lên
thanh
đánh, bar
Mẫu có đường kính 45,0 mm chiều cao 100,0 m
2 44,9 100,8 404,1 2532,9 10,56 3770,33 2045 28,57(90) 1,8
32 2,5
94
25 44,93 99,6 393,3 2491 18,56 4998,461 2730 38,46(90) 3,0
27 44,94 99,55 392,2 2484 2,12 1689,333 924 40(90) 3,5
34 44,95 99,41 397,2 2518,1 15,58 4579,637 2487 59 2,5
48,4(50) 3,5
37 44,92 100,1 390,5 2460,9 6,04 2851,45 1567
38 44,87 100,7 403,2 2531,8 18,56 4998,461 2730
16,85 3,5
15,34 3,0
17,34 3,5
Mẫu có đường kính 45,0 mm chiều cao 50,0 mm
28-1 45,.02 47,33 187 2482,2 - - - 4,0
4.5. Tính toán đặc tính động học của các thanh
Thí nghiệm đầu tiên được thực hiện không mẫu, thanh ở trạng thái tự do
với mục đích để xác định các thông số động của các thanh. Áp lực mở van tác
động lên thanh đánh là 0,10 MPa. Kết quả biến dạng trong thanh tới được thể
hiện trên Hình 4.13. Chúng ta có thể đo được khoảng thời gian giữa xung đến và
xung phản xạ khi thanh tới bị tác động bởi thanh đánh là t =1,17 ms. Vận tốc
truyền xung động trong thanh tới được tính theo công thức dưới đây [53]:
CB=(2.L/t). (4.23)
Trong đó: L - Chiều dài thanh tới, L=3,0 m; t - Thời gian của sóng truyền, giá
rị của vận tốc sóng truyền trong thanh tới là: CB=[23,0/(1,1710-3)]=5128 m/s.
Hình 4.13. Các tín hiệu trong thanh tới [20], [53]
95
Từ công thức lý thuyết: c E /= , chúng ta có thể tính giá trị mô đun
đàn hồi động của thanh trên cơ sở kết quả thí nghiệm CB=5128 m/s như sau:
89,73.102,81.5128ρCE 62B
2
d === − GPa.
4.6. Thí nghiệm SHBP trên mẫu đá granit
Thí nghiệm tiến hành trên mẫu N038 với áp lực tác dụng lên thanh đánh
tăng tương ứng từ 0,10 MPa đến 0,35 MPa. Kết quả mẫu N038 bị phá hủy tại áp lực
tác dụng lên thanh đánh bằng 0,35 MPa. Kết quả thí nghiệm thể hiện trên Bảng 4.4.
Bảng 4.4. Kết quả thí nghiệm trên mẫu N°38 [20], [53]
Áp lực, bar 1,0 1,5 2,0 2,5 3,0 3,5
Hiện
tượng
Không
phá
hủy
Vỡ vụn
nhỏ ở
hai đầu
Những
mảnh vỡ
hai đầu
Những
mảnh nhỏ
hai đầu
Vỡ vụn
lớn hai
đầu
Phá
hủy
Hình ảnh
4.6.1.Thí nghiệm SHBP trên mẫu N038 với áp lực tác dụng lên thanh đánh
0,30 MPa
Mỗi cảm biến thu được khoảng 60.000 tín hiệu khác nhau. Hình 4.14 thể
hiện các tín hiệu dạng điện áp đo được bằng các cảm biến. Chúng ta có thể tính
toán vận tốc của thanh đánh dựa trên khoảng cách hai cảm biến vận tốc và thời
gian thanh đánh chuyển qua.
Theo kết quả trên Hình 4.14, thời gian thanh đánh chuyển động qua hai
cảm biến là ∆t=3,26 ms. Khoảng cách giữa hai cảm biến S=50,0 mm nên vận tốc
thanh đánh tính theo công thức [53]:
Vst=S /∆t=0,05/(3,26.10-3)=15,34 m /s.
96
Hình 4.14. Tín hiệu cảm biến vận tốc [20], [53]
Hình 4.15. Biến dạng trên thanh tới (cảm biến 5) và thanh truyền (cảm biến 7)
theo thời gian (mẫu N038, áp lực tác dụng lên thanh đánh bằng 0,3 MPa) [53]
Theo kết quả hình Hình 4.15 có thể tính toán thời gian truyền sóng giữa
cảm biến số 5 trên thanh tới và cảm biến số 7 trên thanh truyền: ∆t=0,564 ms.
Trong thời gian này, sóng đã truyền trong thanh tới với độ dài 1,5 m, chiều dài
mẫu 0,1007 m và 1,0 m trong thanh truyền. Do vận tốc của sóng truyền trong các
thanh là 5128 m/s (tính ở phần trên), cho nên thời gian sóng truyền trong mẫu:
3
s_ 0
1,5 1Δt Δt 10 0,076 ms.
5128
+= − =
Từ đây, chúng ta có thể tính được vận tốc truyền trong mẫu:
97
s
SS_ 0
t
L 100,7C 1325 m/s.
Δ 0,076= = =
Cùng với mật độ của mẫu, =2351,8 kg/m3 (Bảng 4.1), chúng ta có thể
tính toán Ed của mẫu số N038:
Ed=[.(Cs0)2])=(2351,813252)=4,129 GPa.
Giá trị này là nhỏ hơn so với giá trị trong điều kiện thực tế. Lý do cho sự
khác nhau này là do sóng phản xạ tại thanh tới trước khi tiếp xúc với mẫu.
Chúng ta sẽ phân tích lại và tính toán mô đun đàn hồi động của mẫu với chú ý có
thời gian tăng thêm này. Bằng cách phóng to biểu đồ Hình 4.16.a ta có biểu đồ
Hình 4.16.b và có thể đo được thời gian tăng thêm là: t=0,044 m. Từ đó có thể
tính toán tính toán thời gian thực tế truyền ứng suất qua mẫu:
S S_ 0 ttΔt Δt Δt 0,076 0,044 0,032= − = − = ms; SS
S
L 100,7C 3146,87
Δt 0,032= = = m/s.
Từ đó, chúng ta tính được mô đun đàn hồi động của đá:
Ed=[.(Cs0)2])=(2351,83146,872)=23,29 GPa.
a)
b)
98
Hình 4.16. Thời gian bổ sung: a - Hình tổng quan; b - Hình phóng to [53]
Giá trị này phù hợp hơn giá trị đã đạt được trước đó (4,129 GPa). Do một
số tín hiệu sai lệch, thời gian tiếp xúc tại giao diện giữa mẫu và thanh tới không thể
xác định một các chính xác, cho nên không thể xác định chính xác thời gian sóng
truyền qua mẫu. Một lý do khác sự suy giảm chất lượng mẫu trước khi thí nghiệm
phá hủy do những thí nghiệm trước tích lũy lại (tại áp lực lên thanh đánh 0,10; 0,15;
0,20 và 0,25 MPa) và kích thước mẫu chưa tối ưu theo kinh nghiệm. Giá trị đạt
được không thực sự phù hợp với giá trị mô đun đàn hồi động của đá. Mặc dù sự
khác biệt này do sự phá hủy mẫu, cho nên cần thực hiện một thí nghiệm trên mẫu
khác. Theo kinh nghiệm của Wang et al. (1980) [83], giá trị mô đun đàn hồi động
có thể tính qua giá trị mô đun đàn hồi tĩnh áp dụng cho hầu hết các loại đá:
E=0,025(Ed)1,7. Suy ra: 1,7
0,025lglgE
d 10E
−
= . Với mô đun đàn hồi tĩnh, kết quả thí nghiệm
được thể hiện trên Bảng 4.1 đạt giá trị 18,56 GPa. Thay vào công thức trên ta được:
Ed= 48,75 GPa. Tuy nhiên, giá trị tính ở trên vẫn nhỏ hơn giá trị trong thực tế.
Thông thường, giá trị này có thể lựa chọn khoảng 60,0 GPa cho đá granit.
Sử dụng các tín hiệu đo bằng cảm biến, kết hợp các phương trình trên,
chúng ta cũng có thể tính biến dạng dài, biến dạng tạo ra bởi sóng đến I(t), biến
dạng tạo ra bởi sóng phản xạ R(t), biến dạng tạo ra bởi sóng truyền T(t) trong
99
các thanh trên cơ sở công thức (4.6). Từ những kết quả này, ứng suất trong các
thanh tại bề mặt tiếp xúc I(t), T(t) và ứng suất trung bình trên mẫu được tính
bằng công thức (4.13), công thức (4.14) và công thức (4.17). Từ các giá trị vận
tốc lớn nhất tại điểm cuối thanh tới, thanh truyền VI(t), VT(t), chúng ta có thể xác
định tốc độ biến dạng trung bình và các giá trị biến dạng của mẫu bằng việc sử
dụng công thức (4.9) và (4.10). Biểu đồ ứng suất-thời gian và tốc độ biến biến
dạng-thời gian trong các thanh và mẫu được thể hiện trên Hình 4.17, Hình 4.18,
Hình 4.19. Hình 4.20 thể hiện vận tốc của thanh tới với áp lực tác dụng lên
thanh đánh 0,3 MPa. Ta có thể quan sát thấy ứng suất lớn nhất trong thanh tới là
khoảng 140,0 MPa, giá trị này trong thanh truyền là khoảng 100,0 MPa. Đường
cong ứng suất/thời gian trong mẫu được thể hiện trên Hình 4.21 (cho giá trị áp
lực lên thanh đánh 0,3 MPa).
4.6.2. Thí nghiệm SHPB trên mẫu số 38 tại áp lực 0,35 MPa
Tại áp lực lên thanh đánh 0,35 MPa, mẫu bị phá hủy. Các tín hiệu đo bằng
các cảm biến bao gồm hơn 60.000 giá trị.
Hình 4.17. Ứng suất trong thanh tới
khi áp lực tác dụng lên thanh đánh
bằng 0,3 MPa [20], [53]
Hình 4.18. Ứng suất trong thanh
truyền khi áp lực tác dụng lên thanh
đánh bằng 0,3 MPa [20], [53]
100
Hình 4.19. Vận tốc thanh tới tại khi áp lực
tác dụng lên thanh đánh 0,3 MPa [53]
Hình 4.20. Tốc độ biến dạng mẫu khi áp lực
tác dụng lên thanh đánh 0,3 MPa [53]
Hình 4.21. Ứng suất trong mẫu N038 (khi áp lực
tác dụng lên thanh đánh bằng 0,3 MPa) [20], [53]
Hình 4.22 thể hiện tín hiệu điện áp tại các cảm biến khi áp lực tác dụng
lên thanh đánh 0,35 MPa. Hình 4.23 thể hiện biến dạng trên thanh tới (cảm biến
5) và thanh truyền (cảm biến 7) theo thời gian (mẫu N038, khi áp lực tác dụng
lên thanh đánh 0,35 MPa). Theo kết quả trên Hình 4.22 có thể tính toán vận tốc
của thanh đánh dựa trên khoảng thời gian thanh đánh chuyển động qua cảm biến
vận tốc và khoảng cách hai cảm biến. Có thể đo được thời gian vượt hai cảm
biến ∆t=2,88 ms, khi biết khoảng cách giữa hai cảm biến S=50,0 mm và có thể
tính toán vận tốc va chạm Vst=(S/∆t)=17,34 m/s. Ứng suất-thời gian trong các
thanh thể hiện trên Hình 4.24, Hình 4.25.
101
Hình 4.22. Sơ đồ mô tả tín hiệu điện áp [53]
Vận tốc thanh tới thể hiện trên Hình 4.26. Kết quả ứng suất lớn nhất trong
thanh tới là khoảng 144,0 MPa. Giá trị này trong thanh truyền là khoảng 110,0
MPa. Tại thời điểm t14,0 ms, vận tốc thanh giảm một cách đột ngột tương ứng
với thời điểm phá hủy của mẫu. Hình 4.27 thể hiện quan hệ ứng suất biến dạng
trong mẫu áp lực tác dụng lên thanh đánh 0,35 MPa. Tốc độ biến dạng của mẫu
với hai giá trị áp lực tác dụng lên thanh đánh là 0,3 MPa và 0,35 MPa thể hiện
trên Hình 4.28.
Hình 4.23. Biến dạng trên thanh tới (cảm biến 5) và thanh truyền (cảm biến 7)
theo thời gian (mẫu số 38, áp lực tác dụng lên thanh đánh bằng 0,35 MPa) [53]
102
Hình 4.24. Ứng suất trong thanh tới theo
thời gian khi áp lực tác dụng lên thanh
đánh bằng 0,35 MPa [53]
Hình 4.25. Ứng suất trong thanh truyền
theo thời gian khi áp lực tác dụng lên
thanh đánh bằng 0,35 MPa [53]
Hình 4.26. Vận tốc thanh tới theo thời gian [53]
Hình 4.27. Sự thay đổi của ứng suất theo thời gian trong mẫu số N038 với
103
áp lực tác dụng lên thanh đánh 0,35 MPa (tại thời điểm t14,0 ms) [53]
Hình 4.28. Tốc độ biến dạng theo thời gian của mẫu đá với áp lực tác dụng
lên thanh đánh có giá trị khác nhau (0,30 MPa và 0,35 MPa) [51], [81]
4.6.3. Một số nhận xét
Mẫu N038 bị phá hủy khi áp lực tác dụng lên thanh đánh đạt 0,35 MPa.
Kết quả cho thấy, giá trị độ bền của mẫu nhỏ hơn giá trị thực tế. Lý do cho kết
quả này là do mẫu đã tiến hành thí nghiệm nhiều lần trước đó với nhiều áp lực
khác nhau (0,10 MPa; 0,15 MPa; 0,20 MPa; 0,25 MPa; 0,30 MPa) cho đến khi bị
phá hủy. Vì vậy, chất lượng mẫu đã bị giảm xuống sau mỗi lần thí nghiệm.
Ngoài ra, một số nguyên nhân khác cũng ảnh hưởng đến kết quả thí nghiệm như:
➢ Đường kính DS, chiều cao LS của mẫu là không thực sự phù hợp với
đường kính các thanh DB; (theo kinh nghiệm để có kết quả tốt thì đường kính
mẫu DS= (0,8.DB), chiều cao (LS/DS)=1,0);
➢ Mẫu số N037 và N038 đã tiến hành thí nghiệm nhiều lần với nhiều áp
lực lên thanh đánh khác nhau trước khi mẫu bị phá hủy dẫn đến giảm độ bền;
➢ Số lượng mẫu tiến hành thí nghiệm là không nhiều. Do đó, cần tiến
hành thí nghiệm với nhiều mẫu khác để có kết quả tốt hơn;
➢ Bằng thí nghiệm SPHB chúng tôi đã xác định được mối quan hệ giữa
ứng suất-biến dạng và tốc độ biến dạng theo thời gian khi mẫu chịu áp lực lên
thanh đánh giống như áp lực lên thanh đánh sinh ra do nổ mìn trong thực tế.
104
4.7. Phát triển mô hình số ba chiều 3D mô phỏng thí nghiệm SHPB
Việc mô hình số thí nghiệm SHPB cho phép mô phỏng thí nghiệm trong
các loại đá khác nhau dựa trên kết quả thí nghiệm. Mô hình số được tiến hành
theo sơ đồ Hình 4.29.
4.7.1. Kích thước mô hình mô phỏng
Hình dạng kích thước mẫu, các thanh cùng mô hình được thể hiện trên
Hình 4.30. Kích thước các thanh và đặc tính vật liệu được thể hiện trên Bảng 4.2.
4.7.2. Mô hình áp lực tác dụng lên thanh đánh, loại phần tử và mô hình tiếp xúc
Áp lực tác dụng lên thanh đánh có biên độ phụ thuộc vào vận tốc chuyển
động, vật liệu chế tạo của thanh đánh và được tính theo công thức 4.24. Giá trị
áp lực phụ thuộc vào thời gian với biểu đồ dạng hình thang Hình 4.31 [53]:
f(t).PP strmax = với ( )tr b stP 0,5.ρ.S .C.V= . (4.24)
Trong đó: ρ - Mật độ thanh đánh, kg/m3; Sb - Diện tích mặt cắt ngang thanh
đánh, m2; C - Vận tốc truyền trong thanh đánh, m/s; Vst - Vận tốc chuyển động
của thanh đánh, m/s.
Trong biểu đồ: tA=99,0 µs, tB=101,0 µs, tC=200,0 µs, T=200,0 µs. Loại
phần tử được lựa chọn để sử dụng là loại C3DR8 (3D stress, explicit) gồm 8 nút.
Mô hình tiếp xúc giữa các thanh và mẫu là loại được lựa chọn là loại tiếp xúc
trực tiếp kiểu bề mặt-bề mặt (surface to surface).
105
Hình 4.29. Trình tự mô phỏng thí nghiệm SHPB [53]
Hình 4.30. Kích thước mô hình thí nghiệm SHPB [53]
Hình 4.31. Mô hình áp lực tác dụng lên thanh tới do thanh đánh tác dụng [53]
106
4.7.3. Các trường hợp nghiên cứu
Quá trình mô phỏng số được tiến hành với 3 trường hợp gồm:
➢ Trường hợp 1: mô hình phá hủy vật liệu của mẫu là mô hình đàn hồi
tuyến tính với các thông số cơ học cơ bản: =2451; kG/m3; Eđ =26,5; MPa, hệ số
Poisson =0,3.
Mô hình được tiến hành với nhiều trường hợp bằng cách thay đổi kích
thước lưới. Việc so sánh kết quả của các trường hợp này sẽ cho phép chọn kích
thước lưới phù hợp cho mô hình để nghiên cứu cho các trường hợp khác;
➢ Trường hợp 2: sử dụng mô hình phá hủy vật liệu mẫu đàn-dẻo với ứng
suất nén trong mẫu là 117,312 MPa (chọn giá trị ứng suất nén trung bình của đá
granit bằng 94% giá trị ứng suất của đá granit trong thí nghiệm tĩnh);
➢ Trường hợp 3: sử dụng mô hình phá hủy Mohr-Coulomb cho mẫu đá,
các thông số cho mẫu đá gồm: =53,990; góc dãn nở =40; lực dính kết
C=23,07596 MPa.
4.7.4. Kết quả nghiên cứu trên mô hình
➢ Trường hợp 1: ứng suất trong mẫu với kích thước lưới khác nhau được
thể hiện trên hình 4.32. So sánh giá trị ứng suất lớn nhất trong mẫu được thể hiện
trên Hình 4.33.
Từ Hình 4.33 ta thấy giá trị ứng suất lớn nhất trong mẫu không thay đổi khi
kích thước trung bình của phần tử trong khoảng 0,003÷0,004 mm. Từ kết quả trên
ta chọn kích thước trung bình của phần tử là 0,0035 mm cho mẫu để mô phỏng
cho các mô hình tiếp theo.
➢ Trường hợp 2 và trường hợp 3. Số lượng phần tử của mô hình được thể
hiện trên Bảng 4.5. Kết quả ứng suất trong mẫu cho trường hợp 2 được thể hiện
trên Hình 4.34. Hình 4.35 thể hiện quan hệ ứng suất-biến dạng trong mẫu
trường hợp 2.
Trong trường hợp 3, ứng suất trong mẫu được thể hiện trên Hình 4.36,
quan hệ ứng suất-biến dạng được thể hiện trên Hình 4.37.
108
Hình 4.33. Sự thay đổi ứng suất trong mẫu theo kích thước phần tử của mẫu [53]
Bảng 4.5. Số lượng phần tử cho mô hình nghiên cứu [53]
Thông số Thanh tới Mẫu Thanh truyền Tổng
Số lượng phần tử 46400 19430 29000 94.830
Kích thước phần tử 0,01 0,0035 0,010 -
Số lượng nút 52644 21330 32964 106.938
Hình 4.34. Ứng suất trong mẫu trường hợp 2 [53]
Hình 4.35. Ứng suất trong mẫu trường hợp 3 [53]
109
Những kết quả nghiên cứu trên đây cho phép rút ra một số nhận xét:
➢ Giá trị ứng suất lớn nhất thay đổi theo từng mô hình. Trong đó, giá trị
ứng suất lớn nhất của mô hình đàn hổi dẻo lớn hơn mô hình phá hủy Mohr-
Coulomb;
➢ Kết quả của mô hình số so với kết quả thí nghiệm vẫn có sự khác nhau
đáng kể;
➢ Lý do của sự khác nhau có thể là do sự khác nhau của mô hình áp lực
trong mô hình và áp lực tác dụng lên thanh tới trong thực tế;
➢ Một lý do khác là do trong mô hình số, điều kiện biên là chuyển vị của
thành truyền được giả thiết là bằng 0,0 còn trên thực tế không hoàn toàn như vậy.
4.8. Kết luận Chương 4
Việc nghiên cứu các thông số động của khối đá và vỏ chống cố định
đường hầm thông qua phương pháp thí nghiệm và mô phỏng số cho phép rút ra
một số kết luận sau:
➢ Thí nghiệm SHPB là thí nghiệm mới chưa từng được thực hiện tại Việt
Nam, thí nghiệm được NCS thực hiện tại phòng thí nghiệm thuộc INSA Lyon,
Cộng hòa Pháp;
➢ Kết quả thí nghiệm đã được kiểm chứng so với các kết quả đạt được
trước đó nên có độ tin cậy;
➢ Thí nghiệm SHBP cho thấy sự làm việc của mẫu đá dưới áp lực của áp
lực động giống như áp lực tạo ra do quá trình nổ mìn. Kết quả nghiên cứu đưa ra
mối quan hệ giữa ứng suất và biến dạng, cũng như phản ảnh thay đổi của biến
dạng theo thời gian;
➢ Các kết quả thí nghiệm SHPB cho phép xác định được các thông số
động của khối đá và vỏ chống. Giá trị của các thông số này được sử dụng làm kết
quả đầu vào của mô hình số trong các phần nghiên cứu tiếp theo của luận án;
➢ Phần mô hình số 3D đã đạt được các kết quả bước đầu như kiểm chứng
được sự hội tụ của lưới, sau khi so sánh với kết quả thí nghiệm có thể sử dụng để
nghiên cứu các thông số của mẫu, sự tiếp xúc của mẫu và thanh đến kết quả thí
nghiệm trong các điều kiện tương tự.
110
CHƯƠNG 5
XÂY DỰNG MÔ HÌNH SỐ NGHIÊN CỨU SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA
CHẤN ĐỘNG NỔ MÌN KHI THI CÔNG HẦM ĐẾN KẾT CẤU CHỐNG
CÔNG TRÌNH NGẦM LÂN CẬN
5.1. Đặt vấn đề
Việc giải các bài toán động thường rất phức tạp, khó tiến hành bằng phương
pháp giải tích khi tải trọng thay đổi và hình dạng đường hầm không tròn. Các phương
pháp số được sử dụng để mô phỏng các bài toán động trong đó có nghiên cứu ảnh
hưởng của chấn động nổ mìn bao gồm các phương pháp vi phân, phương pháp tích
phân và phương pháp phần tử rời rạc.
➢ Phương pháp vi phân bao gồm: phương pháp phần tử hữu hạn FEM; phương
pháp sai phân hữu hạn FDM. Trong các phương pháp này: môi trường nghiên cứu
được chia cắt theo một mạng các phần tử có kích thước hữu hạn, tiếp xúc với nhau bởi
các nút; việc giải một hệ các phương trình vi phân được đưa về dạng giải một hệ các
phương trình đại số; các lực tại các nút liên kết với các chuyển vị nút thể hiện thông qua
ma trận độ cứng. Các hàm số hình dạng, nội suy được áp dụng để diễn tả các thành phần
ứng suất, biến dạng của từng phần tử;
➢ Phương pháp tích phân hiện nay được phát triển với tên gọi là phương pháp
phần tử biên BEM. Tại đây, miền nghiên cứu chỉ phải chia theo mạng phần tử tại
biên, nhằm thực hiện được các điều kiện trên biên. Điều kiện áp dụng của phương
pháp BEM: phải tồn tại lời giải chính xác cho bài toán nêu ra cho một trường hợp tải
trọng cơ bản nhất định. Trong đó, các điều kiện cân bằng, liên tục của biến dạng phải
được thoả mãn;
➢ Phương pháp phần tử rời rạc hay những giải pháp cho môi trường không
liên tục bao gồm: phương pháp phần tử riêng rẽ (rời rạc) DEM, phương pháp phân
tích biến dạng không liên tục DDA, phương pháp dòng hạt PFC. Các phương pháp
này có điểm khác với cơ học môi trường liên tục: chúng phân chia đối tượng nghiên
cứu thành các khối, các hạt riêng rẽ, có liên kết nhất định và tác động tương hỗ lẫn
111
nhau. Tại đây, nhiều thuật toán đã được phát triển, nhưng nói chung đều phải thoả
mãn các điều kiện sau: phải kiểm soát được các điểm tiếp xúc hoàn toàn tự động; phải
mô tả đầy đủ mọi điều kiện động học (chuyển động quay, dịch chuyển, các quá trình
biến mất hay thiết lập mới các điểm tiếp xúc). Các khối riêng rẽ lại được phân chia
theo mạng lưới các phần tử nhằm chú ý đến đặc tính biến dạng của các khối đó. Như
vậy, các quá trình xảy ra trong các khối lại được nghiên cứu bằng phương pháp FEM
hay phương pháp FDM.
Nhìn chung các phương pháp số đều có những ưu điểm nhất định. Các phương
pháp vi phân có ưu điểm: có thể xét đến các đặc điểm phi tuyến, tính không đồng
nhất, không liên tục của môi trường.
Phương pháp tích phân BEM có ưu điểm hơn so với các phương pháp vi phân
ở chỗ giảm được việc phân chia phần tử (chỉ ở trên biên); với bài toán phẳng chỉ cần
sử dụng phần tử dạng thanh (một chiều); với bài toán không gian chỉ cần sử dụng
phần tử phẳng (hai chiều). Đối với các bài toán đơn giản, thời gian tính của phương
pháp BEM thường ngắn hơn so với phương pháp FEM. Ngoài ra, trong cơ học đá
phương pháp BEM cho kết quả phù hợp nhất đối với các bài toán bán không gian vô
hạn. Nhược điểm của phương pháp BEM so với các phương pháp vi phân là: không
hoặc hạn chế khả năng xem xét các đặc tính không tuyến tính, không đồng nhất,
không đẳng hướng của môi trường. Các phương pháp phần tử rời rạc có ưu điểm
chính trong việc giải các bài toán cho môi trường không liên tục hay môi trường rời
(như khối đá nứt nẻ, môi trường cát, sỏi, cuội). Ngoài ra, phương pháp này cho phép
minh hoạ các điều kiện phá huỷ sát với thực tế hơn. Thực tế cho thấy: hai phương
pháp số được sử dụng chủ yếu là phương pháp phần tử hữu hạn FEM trên nền các
phần mềm ANSYS/LS-DYNA, Phase, AUTODYN 2D/3D, ABAQUS,... và phương
pháp phần tử riêng rẽ (rời rạc) DEM dựa trên các phần mềm LS-DYNA và UDEC,...
Khái quát chung về các kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn
đến kết cấu công trình ngầm lân cận bằng phương pháp số xem Phụ lục 3.
5.2. Xây dựng mô hình số hai chiều 2D, mô hình ba chiều 3D khảo sát ảnh hưởng
của chấn động nổ mìn
112
Mô hình số được xây dựng để khảo sát sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn khi
đào đường hầm mới bằng phương pháp khoan nổ mìn đến đường hầm đang tồn tại.
5.2.1. Giới thiệu phần mềm Abaqus
Abaqus là một bộ phần mềm lớn dùng để mô phỏng các công trình, kết cấu
dựa trên phương pháp phần tử hữu hạn, trong đó phần mềm có khả năng tính những
bài toán tĩnh và tính toán động. Phạm vi giải quyết của phần mềm có thể từ phân tích
tuyến tính vấn đề tương đối đơn giản đến vấn đề mô phỏng phi tuyến phức tạp. Ngoài
ra, Abaqus có kho phần tử phong phú có thể mô phỏng hình dạng phẩn tử bất kỳ.
Đồng thời, thư viện mô hình vật liệu có thể mô phỏng đại đa số tính năng vật liệu,
kết cấu điển hình. Trong đó, bao gồm kim loại, cao su, vật liệu cao phân tử, vật liệu
phúc hợp, bê tông cốt thép,… Phần mềm Abaqus không chỉ giải quyết vấn đề trong
phân tích kết cấu (ứng suất, chuyển vị) mà còn có khả năng mô phỏng, nghiên cứu
vấn đề trong lĩnh vực khác như truyền đẫn nhiệt, phân tích âm thanh, điện tử, phân tích
cơ học môi trường điện áp,... Ở Việt Nam phần mềm này còn hết sức mới mẻ mới chỉ áp
dụng để tính toán một số kết cấu của thủy điện nên tiềm năng khai thác sử dụng chúng
rất lớn [38].
5.2.2. Kích thước mô hình
Với chiều rộng trung bình của đường hầm là 16,0 m theo kinh nghiệm chọn
chiều rộng mô hình bằng 5D (D0 - Đường kính của đường hầm) về một phía (chiều
rộng mô hình là 160,0 m). Mô hình được xây dựng gồm khối đá có kích thước
160160 m trong đó hai đường hầm được bố trí ở trung tâm của mô hình, phần này
sử dụng phần tử hữu hạn. Để tạo ra biên loại không phản xạ sử dụng phần tử vô hạn
có chiều dài 160,0 m tại ba mặt bên của mô hình, phần trên cùng của mô hình để tự
do như vậy tạo ra được mô hình có kích thước tổng thể là 480480 m như Hình 5.1.
Như vậy, mô hình xây dựng bao gồm ba phần: khối đá bao quanh công trình rộng
160,0 m, cao 160,0 m, vỏ chống của đường hầm cũ với chiều dày trung bình 0,7 m và
phần biên của mô hình được tạo ra từ các phần tử vô hạn với chiều dài 160,0 m. Như
vậy kích thước mô hình rộng tổng cộng 480,0 m, cao 320,0 m. Trên cơ sở kết quả của
mô hình được trình bày trong [85], tác giả tiến hành xây dựng mô hình 3D. Với mô
113
hình 3 chiều (3D) kích thước mặt cắt ngang như mô hình 2 chiều (2D) tuy nhiên độ sâu
của mô hình (L) thay đổi.
Hình 5.1. Kích thước mô hình
hai chiều 2D [21]÷[23], [52]÷[56], [76]
Hình 5.2. Kích thước mô hình
ba chiều (3D) [57], [59]
Theo khảo sát trong [79]: khi chiều dài mô hình đạt 42,0 m trở lên hoàn toàn
loại bỏ được sự ảnh hưởng của chiều dài mô hình đến kết quả mô hình. Trong trường
hợp này tác giả tiến hành xây dựng mô hình với chiều dài 102,0 m (xem Hình 5.2)
trong đó luôn bảo đảm gương đường hầm đặt ở giữa mô hình, chiều sâu lỗ mìn trung
bình để mô phỏng là 4,0 m. Tác giả tiến hành kiểm chứng mô hình ba chiều (3D)
bằng cách thay đổi chiều dài mô hình (L) và lựa chọn chiều dài mô hình hợp lý ứng
với chiều dài đó kết giá trị vận tốc giao động phần tử phù hợp với giá trị đo đạc đồng
thời khối lượng tính toán là ít nhất.
5.2.3. Cơ sở lý thuyết của phương pháp
Phân tích số hai chiều được thực hiện trên mô hình phần tử hữu hạn xây dựng
trên phần mềm Abaqus phiên bản 6.10-2. Cơ sở lý thuyết của phương pháp dựa trên
phương pháp phần tử hữu hạn đã được trình bày rất cụ thể trong [85]. Phương trình
động học cơ bản của phương pháp có dạng [85]:
[𝑀]{𝑢}̈ + [𝐶]{�̇�} + [𝐾]{𝑢} = {𝑃(𝑡)}. (5.3)
Trong đó: u - Chuyển vị; {�̇�}- Vận tốc; {𝑢}̈- Gia tốc.
Ma trận khối lượng được tính toán theo công thức [85]:
T
v
M = r N N dV . (5.4)
114
Trong đó, - Trọng lượng thể tích của vật liệu; [N] - Ma trận hình dạng của kết cấu.
Ma trận giảm chấn [C] tính cho giảm chấn Rayleigh tính theo công thức [85]:
C = M + K . (5.5)
Ở đây: và - Hằng số xác định trước. Ma trận độ cứng [K] phụ thuộc vào thời gian
và được tính toán theo công thức [85]:
T
v
K = B D B dV . (5.6)
Với: [D] và [B] - Ma trận cấu tạo và ma trận ứng suất-biến dạng tương ứng. Các vec
tơ lực tại các nút của phần tử do lực kéo bề mặt [q(t)] và lực thể tích [f(t)] được tính
toán theo công thức [85]:
T T
S V
P(t) = N q(t)S+ N f(t)V . (5.7)
Khi đó phương trình (5.5) có thể viết dưới dạng:
[𝑀]{𝑢}̈ = {𝑓𝑒𝑥𝑡} − {𝑓𝑖𝑛𝑡} (5.8)
Ở đây: extf = P(t) và {𝑓𝑖𝑛𝑡} = [𝐶]{�̇�} + [𝐾]{𝑢} (5.9)
Phương trình (5.3) và (5.9) có thể được giải quyết bằng cách phương pháp
explicit (một trong những phổ biến nhất là phương pháp sai phân trung tâm) hoặc
bằng phương pháp dạng ẩn (thuật toán Nemark hoặc Hubolt). Khi xác định được gia
tốc của phần tử theo phương trình (5.6) ta hoàn toàn có thể tính được các thành phần
khác như vận tốc dao động, chuyển vị của phần tử.
5.2.4. Ma trận giảm chấn
Phương pháp giảm chấn loại Rayleigh được sử dụng trong nghiên cứu này,
trong đó ma trận giảm chấn của hệ thống được giả thiết là sự kết hợp tuyến tính của
ma trận khối lượng và ma trận độ cứng [36]:
[C] = α.[M]+β.[K] (5.10)
Trong đó: α và β - Các hằng số giảm chấn phụ thuộc vào năng lượng giảm chấn, tính
chất của vật liệu, có thể được tính theo công thức [36]:
115
1 2 1 2 2 1 1 2 2 12 2 2 22 1 2 1
2ω ω (ξ ω ξ ω ) 2(ξ ω ξ ω )α ; β .
ω ω ω ω
− −= =
− −
(5.11)
Ở đây: ω1 - Tần số chấn động đầu tiên và ω2 - Tần số chấn động lớn nhất của tần số
quan trọng quan tâm (thường f1=ω1/2 π và f2=ω2/2π). Các hệ số của mô hình giảm
chấn ξ1 và ξ2 tương ứng với tần số ω1 và ω2. Hệ số giảm chấn kết hợp với chế độ chấn
động j được xác định thông qua công thức [36]:
2
jβω
jω2
αjξ += . (5.12)
5.2.5. Mô hình vật liệu
Theo tài liệu khảo sát địa chất, khối đá xung quanh đường hầm Croix-Rousse là
đá granit và gơnai. Trong mô hình, khối đá được giả định là vật liệu đàn hồi-dẻo cùng
với quá trình tăng ứng suất-biến dạng tuân theo mô hình Mohr-Coulomb.
Bảng 5.1. Các thông số động của khối đá, vỏ chống bê tông [54], [55], [76]
Tên thông số Giá trị
Đơn vị Đá Vỏ bê tông
Trọng lượng thể tích 2650 2400 kG/m3
Mô đun đàn hồi động 60,0 35,0 GPa
Hệ số Poisson 0,25 0,20 -
Góc ma sát trong 53,99 - Độ
Góc dãn nở 4,0 - Độ
Lực dính kết 23,0 - MPa
Độ bền nén 120,0 35,0 MPa
Độ bền kéo 5,7 2,9 MPa
Vỏ chống bê tông đường hầm được mô phỏng sử dụng mô hình phá hủy dẻo
có sẵn trong phần mềm Abaqus. Các thông số động của đá và bê tông sử dụng cho
mô hình bao gồm: mô đun đàn hồi động, hệ số Poisson động, mật độ, độ bền nén, độ
bền kéo, góc dãn nở, lực dính kết,… được lấy từ kết quả thí nghiệm SHPB (Chương
4). Giá trị các thông số được thể hiện trên Bảng 5.1.
116
5.3. Kiểm tra kích thước lưới và kiểm chứng mô hình số
5.3.1. Mô hình áp lực nổ mìn
Theo lập luận và lựa chọn ở Chương 1, mô hình áp lực nổ được chọn tương
ứng với thuốc nổ nhũ tương. Áp lực nổ sinh ra từ việc mở rộng các khí từ vụ nổ, có
thể được tính theo công thức của Konya và Walter (1991) [79]:
2
ed
e
449,93.SG .VODP = .
1+ 0,8.SG
(5.13)
Trong đó: Pd - Đại lượng áp lực nổ, Pa; SGe - Mật độ của thuốc nổ, g/cm3; VOD -
Vận tốc truyền sóng nổ của thuốc nổ trong đất đá, m/s.
Áp lực nổ PB là áp lực gây ra bởi một lượng thuốc nổ nạp đầy lỗ khoan. Phương
trình xác định áp lực nổ PB sau đây được sử dụng để xét đến sự ảnh hưởng của khoảng
trống giữa cột thuốc nổ và thành lỗ khoan (trong trường hợp này là giữa khối thuốc
nổ giả định và biên đường hầm mới) [79]:
2
h
cdB
d
dPP
= (5.14)
Trong đó: PB - Đại lượng áp lực lên thành lỗ khoan, Pa; dc, dh - Tương ứng là đường
kính thỏi thuốc và đường kính lỗ khoan, mm.
Thuốc nổ sử dụng loại Emulsion Reelle với (dc/dh=0,9). Áp lực nổ được tính
từ phương trình (5.14), kết quả PB=7,478 GPa. Áp lực nổ mìn tác dụng lên biên đường
hầm mới được thể hiện bằng phương trình [54], [55], [56], [76]:
BP(t) P .f(t) 7,478.f(t) , GPa.= = (5.15)
Trong đó: f(t) - Hàm áp lực theo thời gian.
Hàm hình dạng đã được sử dụng để tìm quan hệ giữa áp lực nổ và thời gian.
Hầu hết các nghiên cứu đã sử dụng hàm mũ để mô hình hình dạng sóng áp lực nổ
hoặc kết hợp của hàm mũ và dạng hình sin cho hàm áp lực. Ví dụ, hàm mũ thể hiện
quan hệ với thời gian được Park và các cộng sự sử dụng để mô phỏng hàm áp lực nổ
[79]:
117
d
t1
t
d
tf(t) e
t
−
= (5.16)
Trong đó: f(t) - Phương trình mô phỏng hình dạng áp lực nổ; t - Thời gian khảo sát,
s; td - Thời gian đạt được áp lực lớn nhất, s; td=0,0003361 s [79].
Tại đường hầm Croi-Rousse, do sử dụng thuốc nổ loại nhũ tương nên dạng nổ
dạng 1 (như Hình 2.8, chương 2) đã được chọn sử dụng để tính toán. Sơ đồ đơn giản
hóa áp lực nổ với các khoảng thời gian được thể hiện trên Hình 2.11.
5.3.2. Lựa chọn phần tử sử dụng cho mô hình
Bài toán truyền sóng trong môi trường đất đá là bài toán động phức tạp. Kết quả
bài toán ảnh hưởng nhiều bởi môi trường truyền sóng, các tính chất cơ lý của đất đá, kích
thước mô hình. Với bài toán động, biên mô hình nên sử dụng là loại biên không phản xạ
cho phép tạo ra biên không phản xạ sẽ cải thiện đáng kể kết quả mô hình. Trong nghiên
cứu này, chúng tôi sử dụng loại phần tử vô hạn có tác dụng tạo ra biên loại không phản
xạ NRBC, khi đó năng lượng và sóng truyền qua biên như trong mô trường thực tế. Do
đó, kích thước vùng khối đá chọn không làm ảnh hưởng đến kết quả mô hình. Các mô
hình số 2D và 3D lần lượt sử dụng cặp phần tử hữu hạn FE và phần tử vô hạn IE. Với
mô hình 2D, phần tử hữu hạn tuyến tính hình chữ nhật loại CPE4R và phần tử vô hạn
loại CINPE4 được chọn mô phỏng khối đá xung quanh công trình ngầm và vỏ chống bê
tông liền khối. Với mô hình 3D cặp phần tử hữu hạn và vô hạn tương ứng là C3D8R và
CIN3D8 (Hình 5.3).
Hình 5.3. Các loại phần tử vô hạn được sử dụng trong mô phỏng: a - Phần tử
CINPE trong mô hình 2D; b - Phần tử CIN3D8 trong mô hình 3D [36]
Tác dụng của phần tử vô hạn là tạo ra biên mô hình ở dạng không phản xạ
(Non-reflecting) nhờ tạo ra tác dụng sóng truyền qua biên như trong điều kiện thực
tế. Với biên này sóng không bị phản xạ trở lại, năng lượng không bị giảm tại bề mặt
118
biên mô hình. Do đó, kích thước vùng khối đá chọn không làm ảnh hưởng đến kết quả
mô hình. Cơ sở lý thuyết phần tử vô hạn xem các tài liệu [36].
5.3.3. Kiểm tra kích thước lưới của mô hình
Lưới của mô hình ảnh hưởng đến số lượng phần tử, số lượng nút và mức độ chính
xác của mô hình cũng như sự hội tụ của phương pháp tính toán do đó cần xác định
kích thước lưới cho phù hợp.
a. Mô tả kích thước mô hình số
Kích thước của mô hình được thể hiện trên Hình 5.4. Trên cơ sở kích thước
của các đường hầm được mô tả ở phần 2.1, mô hình khảo sát khối đá bao quanh công
trình có chiều rộng kích thước là B0=160,0 m, chiều cao vùng khối đá nghiên cứu
H0=160,0 m.
Hình 5.4. Sơ đồ xác định chiều dài phần tử vô hạn trong mô hình số [79]: 1 -
Vùng phần tử vô hạn; 2 - Biên mô hình giữa hai miền phần tử vô hạn và hữu
hạn; 3 - Biên của vùng phần tử vô hạn; L0 - Chiều dài phần tử vô hạn; B0 - Chiều
rộng mô hình; H0 - Chiều cao mô hình.
Theo kinh nghiệm, phần tử biên loại vô hạn thường được chọn có chiều dài
phần tử bằng chiều rộng của vùng khối đá nghiên cứu. Tức là L0=B0 [36],
119
cho nên chiều dài của phần tử vô hạn sẽ được lựa chọn là 160,0 m. Do đó, kích thước
tổng cộng của mô hình có chiều rộng (gồm chiều rộng phần khối đá, chiều dài phần
tử vô hạn về 2 bên) sẽ là H=480,0 m, chiều cao tổng thể H=320,0 m (Hình 5.5).
Hình 5.5. Kích thước mô hình số khảo sát [79]
b. Kiểm tra kích thước lưới mô hình
Phần tử hữu hạn FE trong vùng nghiên cứu được lựa chọn là loại CPE4R (phần
tử chữ nhật loại biến dạng phẳng tuyến tính, giảm khối lượng tích phân), phần tử vô
hạn được chọn sử dụng là loại CINPE4 (phần tử tuyến tính 4 nút, một chiều). Kích
thước trung bình của phần tử được lựa chọn là 0,5 m. Như vậy tổng số lượng phần tử
là 103360 (trong đó gồm 102400 phần tử tuyến tính loại CPE4R và 960 phần tử vô
hạn loại CINPE4). Trong phần này tác giả sử dụng phương pháp tính vận tốc sóng
Rayleigh để xác định sự phù hợp kích thước của lưới. Giả sử có một lực phụ thuộc
thời gian tác dụng tại một điểm trên bề mặt mô hình trong đó khoảng cách từ điểm
đó đến biên mô hình là 5,0 m (Hình 5.6). Biên độ của lực là 1500,0 GPa, mối liên hệ
giữa cường độ áp lực và thời gian được thể hiện trên Hình 5.7. Các thông số của vật
liệu của khối đá gồm: mô đun đàn hồi động Ed =73,0 GPa, hệ số Poatxông νd=0,33,
mật độ d =2650 kg/m3 ([54]÷[56]):
F(t)=[1,5.1012.f(t)]. (5.17)
Để mô phỏng sóng bề mặt, vận tốc sóng Rayleigh được xem xét và đánh giá,
kết quả vận tốc sóng tại điểm B và điểm C được thể hiện trên Hình 5.8.
120
Hình 5.6. Sơ đồ đặt lực
kiểm tra kích thước lưới [59]
Hình 5.7. Cường độ của lực
Tác dụng theo thời gian [55], [56]
Hình 5.8. Sự khác nhau về thời gian giữa hai điểm B và C [55], [56]
Hình 5.8 cho thấy thời gian vận tốc đạt cực trị khác nhau giữa hai điểm B và C
là t=0,00600117 giây, trong khi khoảng cách giữa chúng là S=18,5 m. Từ đó ta có thể
tính được vận tốc sóng Rayleigh VR truyền giữa hai điểm VR=S/t=3082,72968 m/s. Mặt
khác, vận tốc sóng Rayleigh được tính theo phương pháp lý thuyết bằng công thức của
Bergmann-Viktorov (E.G. Nesvijski, 2000) [76]:
0,87 +1,12.V = .V ,R S1+
m/s. (5.18)
Trong đó: - Hệ số Poisson; VS - Vận tốc sóng S, m/s.
Vận tốc sóng ngang S được đưa ra bởi công thức [76]:
121
G EV = = , m/s.S 2(1+ )
, (5.19)
Thay các giá trị cần thiết vào công thức (5.18) và (5.19), chúng ta tính được:
VS=3218 m/s và VR=2999 m/s. Sự sai khác về vận tốc giữa hai phương pháp là 2,71%.
Sai số giữa hai phương pháp không lớn, do vậy kích thước lưới được xem là phù hợp,
đảm bảo tính hội tụ của mô hình và có thể được sử dụng trong mô hình để mô phỏng
chấn động nổ mìn đào đường hầm.
Nhận xét: Với kích thước phần tử 0,5 m được xem là phù hợp để sử dụng cho
mô hình số mô phỏng ảnh hưởng của chấn động nổ mìn khi đào đường hầm đến vỏ
chống bê tông của đường hầm cũ lân cận. Kích thước lưới cũng đã được kiểm tra theo
điều kiện quan hệ giữa bước sóng và kích thước phần tử bằng công thức của Lysmer
và Kuhlemeyer, 1969 [36].
[Vp/(10.f)] (5.20)
Trong đó: l - Kích thước phần tử; f - Tần số của tải trọng; Vp - Tốc độ sóng nén P.
Phạm vi tần số thông thường của chấn động gây ra bởi nổ mìn công trình ngầm
dao động trong khoảng (50÷100) Hz (theo Dowing, 1996) và (Yang và n.n.k, 2003) [36].
Kết quả cho thấy kích thước phần tử hoàn toàn thỏa mãn điều kiện trên.
5.3.4. Kiểm chứng mô hình số
Để kiểm chứng mô hình, tác giả lấy dữ liệu của mô hình số so sánh với dữ liệu
đo đạc thực tế. Điểm quan sát gồm điểm A trùng với vị trí cảm biến A; điểm B trùng
với vị trí cảm biên P; điểm C trùng với vị trí cảm biến T đặt trong vỏ chống bê tông
của hầm cũ thuộc dự án hầm Croix-Rousse, Lyon, Pháp như Hình 5.9..
Hình 5.9. Các điểm quan sát khảo sát trong mô hình số [16], [18], [19], [56], [57], [59]
122
Kết quả mô hình số với trường hợp thời gian t=1,0 giây khi so sánh với dữ liệu
đo tại điểm A được thể hiện trên Bảng 5.2. Kết quả cho thấy, sai số trung bình giữa
hai phương pháp là 14,73 % không lớn có thể chấp nhận được nên mô hình số xây
dựng có độ tin cậy
Bảng 5.2. So sánh kết quả mô hình số và dữ liệu đo tại điểm A
N0 t (s)
Mô hình số
PPV1 (mm/s)
Phương pháp đo
đạc
PPV1(mm/s) , %
1 0,0064010 9,8949041 9,230 6,710
2 0,0336001 9,0867624 7,179 20,99
3 0,0608001 8,3239946 9,523 14,40
4 0,1616008 9,4726295 10,10 6,62
5 0,2640003 10,9205880 8,058 26,21
6 0,3664009 10,5836970 12,161 14,90
7 0,5680007 11,3409950 9,816 13,44
8 0,7696010 10,3974300 10,246 14,56
Trung bình sai khác tb 14,73
5.4.Nhận xét
Các kết quả nghiên cứu trên cho phép rút ra một số nhận xét sau đây:
➢ Với điều kiện biên loại không phản xạ việc sử dụng loại phần tử vô hạn có
thể cải thiện kết quả của mô hình tính [14];
➢ Kết quả tính toán vận tốc truyền sóng Rayleigh bằng mô hình số với kích
thước lưới lựa chọn là phù hợp với kết quả tính toán giá trị vận tốc này theo phương
pháp giải tích. Do vậy, mô hình số 2 chiều (2D) và 3 chiều (3D) được xây dựng ở
trên đã được kiểm chứng. Kết quả nghiên cứu mô hình đảm bảo hội tụ và là cơ sở để
sử dụng để nghiên cứu thông số ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến các công trình
lân cận ở phần sau.
123
5.5. Khảo sát các thông số mô hình
Trên cơ sở các mô hình đã xây dựng ở phần trên, chúng tôi tiến hành khảo
sát sự ảnh hưởng của các thông số khác nhau của mô hình theo ba nhóm sau:
➢ Khảo sát sự ảnh hưởng của các thông số cơ lý của khối đá và vỏ chống
(mô đun đàn hồi động, hệ số giảm chấn, mô hình phá hủy vật liệu,…);
➢ Khảo sát sự ảnh hưởng của khoảng cách giữa các đường hầm, vị trí đường
hầm và tìm ra giá trị khoảng cách tối thiểu cho phép nhằm đảm bảo an toàn cho
vỏ chống cố định của đường hầm cũ;
➢ Khảo sát sự ảnh hưởng của mô hình áp lực nổ để đánh giá sự ảnh hưởng
của áp lực nổ mìn đến mức độ chấn động của vỏ chống cố định của đường hầm.
Trên cơ sở kết quả khảo sát các thông số kết hợp với giá trị các thông số
mô hình theo các tiêu chuẩn hiện hành cho phép đánh giá sự ảnh hưởng của các
thông số này đến mức độ chấn động của vỏ chống. Từ đó tìm ra các giá trị thích
hợp của các thông số nhằm điều chỉnh các thông số nhằm giảm thiểu ảnh hưởng
của chấn động nổ mìn đến kết cấu chống đường hầm. Các điểm khảo sát của mô
hình tương ứng với vị trí đặt cảm biến. Do đó, kết quả khảo sát bằng mô hình sẽ
có cơ sở để so sánh với kết quả đo đạc thực nghiệm.
5.5.1. Khảo sát sự ảnh hưởng tính chất cơ lý của khối đá và vỏ chống
a. Khảo sát sự ảnh hưởng của hệ số giảm chấn đến PPV
Đối với các vật liệu địa chất (đất, đá,…), thông thường hệ số giảm chấn
thay đổi từ 2,0 % đến 5,0 %. Đối với hệ thống kết cấu công trình, giá trị thay
đổi từ 2,0 % đến 10,0 % [43]. Dựa vào quang phổ vận tốc được trình bày trong
Hình 3.9 (Chương 3), hai tần số f=10,0 Hz và f=100,0 Hz dẫn đến quang phổ
của PPV đạt giá trị lớn nhất được chọn sử dụng để xác định hệ số giảm chấn .
124
Hình 5.10. Ảnh hưởng của hệ số giảm chấn đến giá trị PPV tại điểm A:
a - PPV theo phương thẳng đứng b - PPV theo phương nằm ngang [57]
Khảo sát sự ảnh hưởng của hệ số giảm chấn của đá đến kết quả vận hành
của mô hình được thực hiện dựa trên việc thay đổi giá trị hệ số giảm chấn tương ứng
với bốn trường hợp: =3,0 %; =4,0 %; =5,0 %; =6,0 % cho đá. Đối với vỏ chống
bê tông của đường hầm cũ, tác giả chọn giá trị hệ số giảm chấn cố định =4,0 %.
Hình 5.10 mô tả sự ảnh hưởng của hệ số giảm chấn đến giá trị PPV xuất hiện tại
điểm A: a - PPV theo phương thẳng đứng b - PPV theo phương nằm ngang. Hình
5.11 mô tả sự ảnh hưởng của hệ số giảm chấn đến giá trị PPV xuất hiện tại điểm B:
a - PPV theo phương thẳng đứng; b - PPV theo phương nằm ngang.
125
Hình 5.11. Ảnh hưởng của hệ số giảm chấn đến giá trị PPV tại điểm B:
a - PPV theo phương thẳng đứng; b - PPV theo phương nằm ngang [57]
Các quy luật biến đổi giá trị PPV trên Hình 5.10, Hình 5.11 cho thấy: giá
trị PPV tại một số điểm quan sát tỉ lệ nghịch với hệ số giảm chấn . Vận tốc PPV
đạt giá trị lớn nhất khi hệ số giảm chấn là nhỏ nhất (=3,0 %). Vận tốc PPV đạt
giá trị nhỏ nhất khi hệ số giảm chấn là lớn nhất (=6,0 %). Bảng 5.3 và Hình
5.12 thể hiện kết quả nghiên cứu tổng hợp sự ảnh hưởng của hệ số giảm chấn
(%) đến giá trị PPV đo được trong vỏ chống bê tông liền khối của đường hầm cũ.
Tuy nhiên, do giá trị PPV đạt được cùng với các giá trị =3,0 %, và =4,0 % khác
nhiều so với giá trị PPV đạt được bằng thực nghiệm nên kết quả được tập trung so
sánh cùng với =5,0 %, và =6,0 % như trên Hình 5.12.
126
Bảng 5.3. Sự ảnh hưởng của hệ số giảm chấn đến giá trị PPV trong vỏ
chống bê tông [57], [59]
Thời
gian t, s
Giá trị PPV xuất hiện trong vỏ chống, mm/s
DLD =3 % , % =4 % , % =5 % , % =6 % , %
0,0064 9,23 16,54 44,22 13,50 31,67 11,42 19,19 9,89 6,71
0,033 7,17 15,75 54,44 12,65 43,26 10,61 32,39 9,08 20,99
0,061 9,52 15,27 37,65 11,99 20,61 9,81 2,980 8,32 14,42
0,163 10,10 14,66 31,11 11,30 10,62 9,16 10,20 7,71 30,98
0,264 8,05 17,08 52,82 14,96 46,17 12,58 35,97 10,92 26,21
0,366 12,16 18,75 35,15 14,70 17,29 12,40 1,980 10,58 14,91
0,568 9,81 15,78 37,81 14,59 32,75 13,17 25,50 11,34 13,45
0,771 10,24 17,35 40,97 13,546 24,36 10,298 0,500 8,348 22,74
Trung bình sai khác tb 41,76 - 28,34 - 16,09 - 18,90
Ghi chú: DLD - Dữ liệu đo đạc thực tế; - Sự sai khác giữa giá trị dữ liệu
đo thực tế và giá trị PPV thu được trên mô hình số.
Hình 5.12. Tổng hợp sự ảnh hưởng của hệ số giảm chấn đến giá trị PPV
xuất hiện trong vỏ chống bê tông liền khối của đường hầm cũ tại B [16], [57], [59]
127
Kết quả nghiên cứu so sánh các giá trị PPV đạt được bằng mô hình số và
kết quả đạt được bằng phương pháp đo đạc thực tế DLD trên Hình 5.13 cho
thấy: khi giá trị hệ số giảm chấn =5,0% thì sự sai khác giữa hai phương pháp
đạt giá trị nhỏ nhất (sự sai khác trung bình tb=16,09 %). Do vậy, giá trị hệ số
giảm chấn cho khối đá =5,0 % được xem là phù hợp và sẽ được chọn để sử
dụng cho các bước tính toán tiếp theo trên mô hình khảo sát.
Hình 5.13. Sơ đồ lựa chọn hệ số giảm chấn cho mô hình số B [16], [60], [57]
b. Khảo sát sự ảnh hưởng của mô đun đàn hồi động Ed đến PPV
Để tiến hành khảo sát sự ảnh hưởng của mô đun đàn hồi động Ed đến
mức độ chấn động của vỏ chống bê tông đường hầm cũ khi nổ mìn, chúng tôi
tiến hành thay đổi giá trị Ed trong khoảng Ed=30,0÷70,0 GPa với biên độ thay
đổi 10,0 GPa. Mô hình phá hủy khối đá được sử dung Mohr-Coulomb.
Các mô Các thông số khác của mô hình được giữ nguyên. Kết quả sự ảnh
hưởng của mô đun đàn hồi động Ed của khối đá đến giá trị PPV trong vỏ chống
bê tông liền khối được thể hiện trên các Hình 5.14, Hình 5.15.
128
Hình 5.14. Quan hệ giữa mô đun đàn hồi động Ed và PPV theo phương thẳng đứng tại B [57]
Hình 5.15. Quan hệ giữa mô đun đàn hồi động Ed và PPV theo phương nằm ngang tại B [57]
Từ kết quả thể hiện trên các Hình 5.14 và Hình 5.15 có thể rút ra một số
nhận xét về mối quan hệ giữa mô đun đàn hồi động Ed và PPV như sau:
➢ Mối quan hệ giữa mô đun đàn hồi động Ed và PPV theo phương thẳng
đứng và theo phương nằm ngang có đặc tính thay đổi hoàn toàn khác nhau;
➢ Giá trị mô đun đàn hồi động Ed khác nhau (Ed=30,0÷70,0 GPa) gần như không gây
những tác động lớn đến sự thay đổi về quy luật biến đổi và giá trị của PPV;
➢ Sự thay đổi giá trị của PPV trong khoảng thời gian từ 0,0 ÷1,0; giây có
đặc tính xung rõ rệt: số lượng xung nhiều nhất xuất hiện ở thời điểm ngay sau khi
129
nổ mìn và giảm dần theo thời gian, giá trị biên độ xung lớn nhất đột ngột tăng lên
trong thời điểm ngay sau khi nổ mìn, sau đó giảm xuống chút ít và đạt tới giá trị
lớn nhất trong khoảng 0,6÷0,8, giây và cuối cùng sẽ giảm dần. Sự ảnh hưởng của
mô đun đàn hồi động Ed đến sự biến đổi của PPV xuất hiện trong vỏ chống bê
tông của đường hầm cũ thể hiện trong Bảng 5.4 và Hình 5.15.
Bảng 5.4. Sự ảnh hưởng của mô đun đàn hồi động Ed đến giá trị PPV [59]
Thời
gian t,
s
Giá trị PPV xuất hiện trong vỏ chống, mm/s
DLD Ed=40
GPa
,
%
Ed=50
GPa
,
%
Ed=60
GPa
,
%
Ed=70
GPa
,
%
0,0064 9,23 5,84 36,72 11,72 21,24 11,42 19,18 9,63 4,15
0,033 7,17 7,22 0,69 12,386 42,11 10,61 32,42 8,5 15,65
0,061 9,52 9,7 1,86 12,48 23,72 9,81 2,96 7,43 28,13
0,163 10,10 13,8 26,81 12,56 19,59 9,16 10,26 6,5 35,64
0,264 8,05 1,23 84,72 9,7 17,01 12,58 36,01 11,29 28,69
0,366 12,16 4,16 65,79 13,1 7,18 12,4 1,94 10,3 15,29
0,568 9,81 -0,047 100,48 8,36 14,78 13,17 25,51 11,85 17,21
0,771 10,24 14,73 30,48 14,41 28,94 10,29 0,49 7,73 24,51
Trung bình sai khác tb 43,44 - 21,82 - 16,09 - 21,16
Ghi chú: DLD - Dữ liệu đo đạc thực tế; - Sự sai khác giữa giá trị dữ liệu
đo thực tế và giá trị PPV thu được trên mô hình số.
Kết quả nghiên cứu thu được trên biểu đồ Hình 5.14, Hình 5.15, Hình 5.16
và các số liệu trong Bảng 5.4 cho thấy:
➢ Giá trị PPV trong vỏ chống bê tông cố định của đường hầm cũ tỉ lệ nghịch
với mô đun đàn hồi động của khối đá xung quanh đường hầm;
➢ Giá trị PPV đạt được bằng phương pháp khảo sát mô hình số khi mô
đun đàn hồi động Ed=60,0 GPa có kết quả tương đối giống với giá trị đạt được
bằng phương pháp đo đạc thực tế (sự sai khác trung bình giữa hai phương pháp
130
tb=16,09 %). Do đó, giá trị mô đun đàn hồi động Ed=60,0 GPa đạt được từ thí
nghiệm SHPB đủ độ tin cậy và được sử dụng cho những nghiên cứu dưới đây.
Hình 5.16. Tổng hợp sự ảnh hưởng của mô đun đàn hồi động Ed
đến giá trị PPV trong vỏ chống bê tông cố định của đường hầm cũ
c. Khảo sát sự ảnh hưởng của mô hình phá hủy vật liệu
Việc chọn mô hình phá hủy của vật liệu có thể gây nên sự ảnh hưởng lớn
đến kết quả vận hành của mô hình số. Trong phần dưới đây luận án tiến hành
nghiên cứu ảnh hưởng của mô hình phá hủy của vật liệu đến giá trị PPV của vỏ
chống bê tông của đường hầm cũ. Hai mô hình phá hủy vật liệu được lựa chọn cho
khối đá là: mô hình đàn hồi tuyến tính và mô hình Mohr-Coulomb. Các giá trị PPV
(mm/s) đạt được với hai mô hình phá hủy vật liệu khác nhau được lựa chọn ở trên
và theo phương pháp đo đạc hiện trường thể hiện trên Bảng 5.5 và Hình 5.17. Kết
quả cho thấy có một sự phù hợp về giá trj của PPV giữa kết quả mô hình số khi sử
dụng mô hình Mohr-Coulomb và dữ liệu đo đạc. Ngược lại, giá trị PPV trong vỏ
chống bê tông đạt được khi sử dụng mô hình đàn hồi tuyến tính cao hơn khoảng
50,0 % so với dữ liệu đo đạc (Hình 5.17). Đây là cơ sở quan trọng để khẳng định
rằng: mô hình đàn hồi tuyến tính không đủ phức tạp và không đủ khả năng sử
131
dụng để nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn. Vì vậy, tại đây tác giả sử
dụng mô hình Mohr-Coulomb để nghiên cứu các thông số của mô hình số.
Bảng 5.5. Giá trị PPV (mm/s) đạt được trong phương pháp mô hình số với
các mô hình phá hủy vật liệu khác nhau và phương pháp đo đạc thực tế [59]
Thời
gian
(s)
Mô hình
đàn hồi
tuyến tính
Mô hình
Mohr-
Coulomb
Sự khác nhau
giữa hai mô
hình (%)
Phương
pháp
đo đạc
Sự khác nhau
giữa hai phương
pháp (%)
(0) (1) (2) (1)/(2) (3) (3)/(2)
0,0064 22,743 11,422 49,77 9,230 19,19
0,033 20,713 10,619 48,73 7,179 32,39
0,061 19,291 9,816 49,11 9,523 2,98
0,163 24,342 10,543 56,68 10,100 4,20
0,264 29,168 12,584 56,85 8,058 35,96
0,366 27,617 12,407 55,07 12,161 1,98
0,568 37,356 13,176 64,72 9,816 25,50
0,771 50,356 11,422 49,77 10,246 10,29
Hình 5.17. Ảnh hưởng của mô hình phá hủy vật liệu
đến PPV của vỏ chống bê tông [59]
132
d. Nhận xét chung
Các kết quả nghiên cứu các thông số của khối đá và vỏ chống bằng mô hình
số cho thấy:
➢ Tính chất cơ lý của khối đá và vỏ chống đường hầm cũ có ảnh hưởng lớn
đến mức độ chấn động của vỏ chống đường hầm cũ;
➢ Giá trị của PPV tỉ lệ nghịch với hệ số giảm chấn của khối đá xung
quanh đường hầm. So sánh kết quả thực hiện trên mô hình số với kết quả đo thực
tế cho thấy: khi giá trị hệ số giảm chấn của khối đá =5,0 % và giá trị hệ số giảm
chấn của kết cấu chống vỏ đường hầm bê tông liền khối =4,0 %, giá trị PPV đạt
được bằng mô hình số gần với giá trị đo đạc tại hiện trường;
➢ Giá trị PPV tỉ lệ nghịch với giá trị mô đun đàn hồi động Ed của khối đá
xung quanh đường hầm. Nghĩa là: khi mô đun đàn hồi động Ed của khối đá tăng
lên thì giá trị PPV sẽ giảm xuống và ngược lại;
➢ Mô hình phá hủy vật liệu có ý nghĩa lớn cho độ chính xác của kết quả
vận hành mô hình số. Kết quả so sánh hai mô hình phá hủy (mô hình đàn hồi tuyến
tính và mô hình phá hủy Mohr-Coulomb) được chọn sử dụng cho khối đá cho
thấy: mô hình đàn hồi tuyến tính không có khả năng áp dụng cho mô hình số bài
toán nghiên cứu chấn động nổ mìn tác dụng lên kết cấu chống giữ đường hầm do
kết quả thu được trong mô hình số có những sai khác lớn so với các kết quả đo
đạc trên thực tế; ngược lại, mô hình phá hủy Mohr-Coulomb cho kết quả tốt hơn
và sẽ được sử dụng trong việc nghiên cứu các thông số của mô hình số.
5.5.2. Khảo sát sự ảnh hưởng của chiều dài của mô hình số
Sau khi tiến hành chạy với ba mô hình số có chiều dài khác nhau (L1=28,0
m; L2=42,0 m; L3=84,0 m) sẽ thu được giá trị PPV, gia tốc dao động phần tử lớn
nhất, ứng suất và biến dạng tại các điểm bất kỳ trong vỏ chống. Sự ảnh hưởng của
chiều dài mô hình số đến kết quả khảo sát mô hình có thể quan sát ở các điểm tại
mặt phẳng của vỏ chống đường hầm cũ trùng với mặt phẳng gương đường hầm
mới (Hình 5.18).
133
a)
b)
c)
Hình 5.18. Sự ảnh hưởng của chiều dài mô hình số đến chấn động
nổ mìn trong vỏ chống bê tông liền khối của đường hầm cũ [18]
Hình 5.19. So sánh các PPV theo phương thẳng đứng (PPV1) trong vỏ chống
bê tông của đường hầm cũ khi chiều dài mô hình số thay đổi tại điểm B [18]
134
Hình 5.20. So sánh các giá trị PPV theo phương nằm ngang PPV2 trong vỏ chống
bê tông của đường hầm cũ khi chiều dài mô hình số thay đổi tại điểm B [18]
Hình 5.21. So sánh biên độ thay đổi của PPV tại điểm quan sát [18]
135
Giá trị PPV được sử dụng để so sánh kết quả nghiên cứu trên các mô hình
với chiều dài khác nhau là các đại lượng PPV1 (PPV theo phương thẳng đứng),
PPV2 (PPV theo phương nằm ngang). Giá trị của PPV theo ba phương được thể
hiện trên Hình 5.21. Kết quả so sánh giá trị và quy luật biến đổi của PPV trong ba
mô hình số (Hình 5.21) cho thấy: dạng biểu đồ và điểm đạt giá trị PPV giống
nhau. Biên độ lớn nhất của PPV đạt được khi mô hình số có chiều dài ngắn nhất
L1=28,0 m; biên độ này nhỏ nhất ứng với mô hình số có chiều dài lớn nhất L3=84,0
m. Sự khác nhau trên do nguyên nhân: trong mô hình 3D có sự tiêu hao một phần
năng lượng nổ trong khối đá và vỏ chống tại mô hình có dạng khối; do đó, khi mô
hình số có chiều dài càng lớn thì sự tiêu hao này càng nhiều dẫn đến giá trị PPV
càng nhỏ. Ngoài ra, khi chiều dài mô hình thay đổi trong khoảng 42,084,0 m thì
giá trị PPV trong vỏ chống bê tông không thay đổi. Vì vậy, có thể kết luận: chiều
dài 42,0 m (khoảng 4.D) được coi đủ độ chính xác cần thiết để có thể loại bỏ sự
ảnh hưởng của điều kiện biên đến kết quả khảo sát trên mô hình số.
Các kết quả nghiên cứu trên cho phép rút ra một số nhận xét sau đây:
➢ Khi mô phỏng số sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến kết cấu đường
hầm lân cận trên mô hình 3D, chiều dài mô hình số có ảnh hưởng trực tiếp đến kết
quả khảo sát trên mô hình. Kết quả nghiên cứu ba trường hợp với chiều dài
L1=28,0 m, L2=42,0 m tức bằng (1,5L1) m, và L3=84,0 m tức là bằng (2L2) m
cho thấy: giá trị PPV tại điểm quan sát càng giảm khi mô hình số có chiều dài càng
lớn và ngược lại. Sự hấp thụ năng lượng của phần khối đá xung quanh vụ nổ chính
là nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau trên;
➢ Chiều dài mô hình số L=42,0 m (L≥ 4.DN; với DN là chiều rộng khi đào
của đường hầm mới đang đào) đủ lớn để có thể loại bỏ sự ảnh hưởng của điều kiện
biên đến kết quả mô hình và đủ độ chính xác cần thiết khi sử dụng mô hình để mô
phỏng sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn. Các nghiên cứu tiếp theo có thể dùng
giá trị độ dài của mô hình số để nghiên cứu.
136
5.5.3. Khảo sát sự ảnh hưởng khoảng cách giữa hai đường hầm
Khoảng cách giữa hai đường hầm là yếu tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến
mức độ chấn động của vỏ chống đường hầm lân cận. Việc lựa chọn chọn vị trí
đường hầm mới sẽ quyết định khoảng cách giữa hai đường hầm. Cùng với lượng
thuốc nổ Q được giữ không đổi, việc thay đổi khoảng cách giữa hai đường hầm
cho thấy sự ảnh hưởng của chúng tới đại lượng khoảng cách đảm bảo an toàn cho
kết cấu chống đường hầm cũ (Hình 5.22).
Hình 5.22. Ảnh hưởng của khoảng cách giữa hai đường hầm đến
giá trị PPV trong vỏ chống bê tông cố định của đường hầm cũ [19]
Theo một số tiêu chuẩn an toàn đã đề cập tại Mục 3.3 trong Chương 3, các
giá trị PPV đã tìm ra cho thấy: khi khoảng cách giữa hai đường hầm là 32,50 m
thì đường hầm sẽ an toàn.
5.6. Khảo sát sự ảnh hưởng của khoảng cách từ gương đường hầm đến vị trí
quan sát trong vỏ chống cố định của đường hầm cũ lân cận dọc theo trục
đường hầm
Luận án tập trung nghiên cứu sự ảnh hưởng của khoảng cách từ gương
đường hầm mới tới vị trí quan sát trong vỏ chống cố định của đường hầm cũ lân
137
cận (H) đến mức độ chấn động của vỏ chống bê tông liền khối của đường hầm cũ
lân cận theo phương dọc trục đường hầm theo sơ đồ Hình 5.23. Trong đó H là
khoảng cách từ vị trí gương thi công đường hầm mới (nơi tiến hành vụ nổ mìn)
đến vị trí mặt cắt ngang của đường hầm cũ tính theo phương dọc trục đường hầm.
Khoảng cách H sẽ thay đổi tùy theo vị trí khảo sát tại đường hầm cũ so với gương
thi công đường hầm mới. Đối với các điểm trong vỏ chống cố định nằm phía trước
mặt phẳng chứa gương thi công đường hầm mới thì H<0. Ngược lại, đối với các
điểm trong vỏ chống cố định nằm phía sau mặt phẳng chứa gương thi công đường
hầm mới thì H>0 (Hình 5.23).
Hình 5.23. Sơ đồ nghiên cứu sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn tại
gương hầm mới đến vỏ chống bê tông của đường hầm cũ lân cận theo
phương dọc trục hầm [59]
Bằng cách khảo sát mô hình 2D và 3D đã được xây dựng và kiểm chứng ở
ở phần trên, giá trị PPV đạt được tại vỏ chống bê tông cố định của đường hầm cũ
lân cận thông qua mô hình số và được so sánh với các kết quả đo đạc trong thực
tế thể hiện trên Bảng 5.6 và Hình 5.24.
138
Bảng 5.6. Kết quả nghiên cứu sự ảnh hưởng của vị trí gương đường hầm
đến chấn động đối với vỏ chống bê tông cũ của đường hầm lân cận [59]
Stt
H (m)
Mô hình
số 3D
(mm/s)
Phương pháp
đo đạc
(mm/s)
Sự khác nhau giữa
hai phương pháp
(%)
Mô hình
2D
(mm/s)
1 -12,0 2,78 3,58 22,22 -
2 -8,0 6,24 8,99 30,56 -
3 -4,0 14,96 12,12 23,43 -
4 0,0 15,53 15,36 1,12 17,35
5 4,0 8,09 10,08 19,70 -
6 8,0 7,19 7,21 0,27 -
7 12,0 5,62 5,69 1,16 -
Hình 5.24. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của khoảng cách D- từ vị trí quan sát
trong vỏ chống đường hầm cũ tới mặt phẳng trùng với mặt phẳng gương hầm
mới đến giá trị PPV [59]
Từ kết quả so sánh hai phương pháp số (thông qua mô hình số 2D và 3D)
và phương pháp đo đạc tại hiện trường cho phép rút ra một số nhận xét sau:
139
➢ Các giá trị PPV đạt được bằng mô hình số phù hợp với kết quả đo đạc
thực nghiệm;
➢ Giá trị PPV tỉ lệ nghịch với khoảng cách từ gương đường hầm đến điểm
quan sát trong vỏ chống theo phương trục đường hầm cũ;
➢ Khi điểm quan sát nằm trong mặt phẳng trùng với mặt phẳng gương thi
công đường hầm mới thì PPV đạt giá trị lớn nhất trong vỏ chống đường hầm cũ.
5.7. Đánh giá độ ổn định của vỏ chống bê tông của đường hầm cũ lân cận
Để đánh giá trạng thái phá hủy của vỏ chống đường hầm dưới sự ảnh hưởng
của chấn động nổ mìn, thông thường hai tiêu chuẩn được chọn sử dụng như sau:
(1) giới hạn của PPV hoặc (2) độ bền kéo của vỏ chống. Ngưỡng giá trị PPV theo
tiêu chuẩn DIN4150 (LB Đức) được sử dụng rộng rãi tại Châu Âu. Giá trị PPV
cho phép phụ thuộc vào chủng loại kết cấu đường hầm, đặc biệt trong các tiêu
chuẩn thiết kế của Tiêu chuẩn DIN4150, phần 3, năm 1986. Tần số phổ biến trong
phạm vi của các kết cấu đường hầm chịu sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn
thường thay đổi trong khoảng 50,0100,0 Hz. Theo tiêu chuẩn đó, ngưỡng giá trị
PPV dao động từ 40,0 đến 100,0 mm/s cùng với tần số dao động từ 1,0 đến 100,0
Hz. Trong nghiên cứu này, giá trị PPV lớn nhất đo được bằng cảm biến là 15,53
mm/s, nhỏ hơn giới hạn được đề cập trong Bảng 5.6. Ngoài ra, giá trị độ bền kéo
trong vỏ chống do chấn động nổ mìn tạo ra bằng khoảng 2,69 MPa, cũng nhỏ hơn
giá trị cho phép là 2,9 MPa sử dụng cho vật liệu bê tông (do Chong Zhang đề xuất,
2013) [78]. Vì vậy, tại đây kết cấu vỏ chống sẽ bền vững và ổn định dưới sự tác
động của chấn động nổ mìn từ phía đường hầm mới.
Để đánh giá các tham số ảnh hưởng là nguyên nhân phá hủy vỏ chống bê
tông của đường hầm cũ lân cận, áp lực nổ mìn tác dụng lên biên của chu vi đường
hầm mới được điều chỉnh tăng dần từ giá trị áp lực thực tế tại đường hầm Croix-
Rousse tới khi xuất hiện các phá hủy trong vỏ chống bê tông xuất hiện. Bằng cách
giữ nguyên hàm thời gian tăng giá trị biên độ trong công thức tính áp lực nổ mìn
140
(công thức (5.15)), chúng tôi nhận thấy: khi giá trị biên độ áp lực tăng thêm 1,5
lần so với giá trị trước đó, trong vỏ chống bê tông đường hầm cũ bắt đầu xuất hiện
các vùng nguy hiểm có khả năng phá hủy.
Kết quả với sự tăng thêm biên độ áp lực, chúng ta có thể quan sát các phần
tử phá hủy trong mặt cắt sóng sóng với gương hầm và hai bên tường hầm như trên
Hình 5.25. Theo đó, các vùng nguy hiểm nhất trong vỏ chống bê tông cùng với
mật độ cao các phần tử phá hủy nằm trong mặt cắt sóng sóng với gương đường
hầm mới. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra các vùng phá hủy trong vỏ chống bê
tông phía sau gương hầm mới. Các phần tử phá hủy được quan sát chủ yếu tại phía
tường đường hầm. Tại đây, các phần tử phá hủy quan sát thấy tập trung tại vai
vòm và thậm chí tại phần dưới của đường hầm. Sự khác nhau này có thể liên quan
tới ảnh hưởng của quá trình truyền sóng nổ từ đường hầm mới đến đường hầm tồn
tại trong khối đá dọc theo hướng trục đường hầm mới (Hình 5.25).
Hình 5.25. Vùng phá hủy trong vỏ chống bê tông của hầm cũ lân cận khi
t=0,00332 s: a - Vị trí hai đường hẩm; b - Ví trí tường bên đối diện với
gương hầm; c - Ví trí tường bên không đối diện với gương hầm [59]
141
5.8. Đánh giá độ ổn định của khối đá xung quanh đường hầm
Hiện nay trên thế giới thường sử dụng phương pháp thực nghiệm trên cơ sở
các tiêu chuẩn mới để đánh giá ảnh hưởng của chấn động nổ mìn, trong đó có chỉ
số phá hủy nổ mìn BDI Dib. Giá trị của chỉ số phá hủy nổ mìn BDI Dib để đánh giá
ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đào đường hầm đến khối đá xung quanh đường
hầm mới và đường hầm cũ được xác định theo công thức (3.1) (Chương 3). Trên
cơ sở các chỉ số Dib đã tính, sự phá hủy trong khối đá và kết cấu chống giữ có thể
được dự báo như trong Bảng 5.7.
Bảng 5.7. Giá trị (Dib) tại một số điểm quan sát trên biên đường hầm mới
và đường hầm cũ [59]
N0 PPV, mm/s Dib Đánh giá mức độ phá hủy
Khối đá xung quanh đường hầm mới
1 142,75 3,318 Phá hủy quy mô rất lớn
2 21,80 0,506 Phá hủy nhỏ và xuất hiện các khe nứt bên tường bên
3 80,81 1,878 Phá hủy nghiêm trọng xảy ra trong khối đá
4 85,87 1,996 Phá hủy nghiêm trọng xảy ra trong khối đá
5 132,26 3,074 Phá hủy quy mô rất lớn
Khối đá xung quanh đường hầm cũ lân cận
6 5,55 0,155 Phá hủy không nhìn thấy
7 3,19 0,077 Phá hủy không nhìn thấy
8 5,30 0,131 Phá hủy không nhìn thấy
9 7,82 0,203 Phá hủy không nhìn thấy
Bề mặt đất
S22 7,39 0,171 Phá hủy không nhìn thấy
Kết quả khảo sát của các mô hình số đưa ra trên Bảng 5.7 cho thấy: khối
đá xung quanh đường hầm mới bị phá hủy mạnh do sự tác dụng của năng lượng
142
nổ mìn (Hình 5.26.a). Trong khi đó, không có những phá hủy rõ ràng xuất hiện
trên biên của đường hầm cũ (Hình 5.26.b).
Hình 5.26. Vùng phá hủy của khối đá: a - Trên biên của đường hầm mới
đang đào và trên mặt đất; b - Giá trị PPV tại biên đường hầm cũ (tại thời
điểm t=0,00332 s) [59]
6.9. Xây dựng công thức kinh nghiệm dự báo giá trị PPV trong vỏ chống bê
tông cố định của đường hầm cũ lân cận
Trên cơ sở kết quả các dữ liệu đo đạc từ thực tế và các kết quả đạt được từ
quá trình khảo sát các mô hình số trên đây, luận án tiến hành xây dựng mối tương
quan giữa giá trị PPV và khoảng cách tính từ gương đường hầm đến các điểm
khảo sát (H) dọc theo trục đường hầm như biểu đồ Hình 5.27. Trên cơ sở đó, luận
án tiến hành xây dựng các công thức thực nghiệm dự báo giá trị PPV trong vỏ
chống bê tông của đường hầm cũ lân cận trong khối đá granit.
Theo đó, giá trị PPV trong vỏ chống bê tông của đường hầm cũ lân cận cho
các điểm phía trước gương hầm có thể dự báo gần đúng bằng công thức (5.21),
ngược lại các điểm phía sau gương hầm trong môi trường khối đá granit có thể dự
báo gần đúng bằng công thức công thức (5.22), cụ thể:
➢ Các điểm phía trước gương đường hầm:
PPV=(-0,0002H3+0,0237H2-0,9252H+15,4487); R²=0,9991 (5.21)
➢ Các điểm phía sau gương đường hầm:
PPV=(0,00035H3+0,03349H2-1,08508H+15,20692); R²=0,9955 (5.22)
143
Việc sử dụng các công thức (6.1) và (6.2) có thể cho phép dự báo giá trị của
PPV xuất hiện trong khối đá granit trong cùng những điều kiện tương tự (ví dụ như
trong những điều kiện thi công mở rộng dự án hầm Hải Vân, hầm Cổ Mã).
a)
b)
Hình 5.27. Mối quan giữa giá trị PPV và khoảng cách tính từ gương
đường hầm đến các điểm khảo sát (H)
5.9. Kết luận Chương 5
Chương 5 sử dụng mô hình số 2D đã được kiểm chứng để tiến hành khảo sát
3 nhóm thông số chính (các thông số cơ lý của khối đá, vỏ chống; khoảng cách giữa
144
hai đường hầm, vị trí đường hầm, tìm ra giá trị khoảng cách tối thiểu cho phép để
đảm bảo an toàn cho vỏ chống cố định của đường hầm cũ; thông số mô hình tính áp
áp lực nổ mìn tại gương hầm để đánh giá sự ảnh hưởng của áp lực nổ mìn đến mức
độ chấn động của vỏ chống cố định của đường hầm). Trên cơ sở kết quả khảo sát các
thông số tìm được các thông số phù hợp bằng mô hình 2D như hệ số giảm chấn,…,
luận án tiến hành sử dụng mô hình 3D để khảo sát sự ảnh hưởng của chấn động nổ
mìn khi đào hầm đến sự ổn định của các vùng vỏ chống trước, sau gương hầm mới.
Cùng với việc so sánh các dữ liệu đo đạc, việc khảo sát mô hình số đã đưa ra được
mối quan hệ giữa PPV và một số thông số cơ lý của đất đá và vỏ chống, mô hình vật
liệu. Kết quả nghiên cứu mô hình 3D cho phép chỉ ra sự ảnh hưởng của các vùng vỏ
chống của đường hầm cũ lân cận phía trước, sau mặt cắt trùng với mặt cắt gương hầm
mới. Phần cuối của Chương 5 luận án tìm ra các công thức thực nghiệm dự báo giá
trị PPV cho các điểm trong các vùng bê tông phía trước và sau mặt cắt của đường
hầm cũ lân cận của dự án hầm Croix-Rousse đào trong đá granit. Các công thức có
độ hội tụ và tin cậy cho phép áp dụng trong các điều kiện tương tự như hầm Hải Vân
đào trong đá granit.
145
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Các kết quả nghiên cứu của luận án cho phép rút ra những kết luận sau:
➢ Việc nghiên cứu các thông số động của khối đá, vỏ chống dưới tác
dụng của tải trọng động (áp lực nổ) là hết sức cần thiết khi tiến hành nghiên cứu
ảnh hưởng của chấn động nổ mìn. Bằng việc sử dụng các thí nghiệm SHPB, luận
án đã xác định được các thống số động của khối đá, vỏ chống; đưa ra các mối
quan hệ của khối đá và vỏ chống dưới tác dụng của tải trọng động. Các thông số
này được sử dụng làm dữ liệu đầu vào của các mô hình số. Chúng là cơ sở đảm
bảo độ chính xác của quá trình vận hành của mô hình số;
➢ Luận án đã tiến hành phân tích các dữ liệu đo đạc tại dự án hầm Croix-
Rousse, đưa ra mối quan hệ thực nghiệm, xây dựng các công thức kinh nghiệm
để xác định giá trị PPV và lượng thuốc nạp lớn nhất cho phép Q tại dự án hầm
Croix-Rousse dựa trên việc khảo sát mối quan hệ giữa tỉ lệ khoảng cách, tỉ lệ
lượng nạp với giá trị PPV;
➢ Trên cơ sở giá trị RMR trong vùng nghiên cứu, luận án đã đưa ra mối
quan hệ giữa giá trị RMR của khối đá và mức độ chấn động đến vỏ chống bê
tông của đường hầm cũ lân cận; luận án đã đề xuất một số phương án phát triển
công thức Chapot có xét đến chỉ tiêu chất lượng khối đá RMR;
➢ Luận án đã ứng dụng phương pháp phần tử hữu hạn và phần mềm
Abaqus xây dựng kiểm chứng mô hình số hai chiều 2D và ba chiều 3D. Kết quả
so sánh mô hình số với các dữ liệu đo đạc thực nghiệm hiện trường tại dự án
hầm Croix-Rousse, Lyon, Pháp, cho thấy có sự phù hợp giữa kết quả nghiên cứu
trên mô hình số và các dữ liệu đo đạc. Điều này chứng tỏ: mô hình số xây dựng
đã được kiểm chứng có độ tin cậy và sẽ được sử dụng để khảo sát các thông số
của mô hình số;
➢ Luận án đã tiến hành sử dụng bộ mô hình số theo các nhóm đặc tính,
146
thông số khác nhau để khảo sát ảnh hưởng chấn động nổ mìn đào hầm đến vỏ
chống bê tông cũ của đường hầm tồn tại lân cận tại các vị trí khác nhau trong
khối đá granit và rút ra một số nhận xét sau:
Giá trị PPV tỉ lệ nghịch với hệ số giảm chấn của khối đá. Trên cơ sở so
sánh các giá trị PPV khi thay đổi giá trị hệ số giảm chấn đá granit kết hợp với dữ
liệu đo đạc cho phép chọn giá trị giảm chấn phù hợp cho mô hình là 5,0 %;
Mô hình phá hủy của khối đá là đàn hồi tuyến tính không thực sự phù
hợp để sử dụng cho mô phỏng số ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến kết cấu
công trình ngầm lân cận trong khi đào hầm bằng phương pháp khoan nổ mìn;
Mô hình số 3D phù hợp hơn so với dữ liệu đo đạc thực nghiệm do phản
ánh gần đúng sự thoát năng lượng nổ vào vùng khối đá xung quanh công trình
ngầm, trong khi đó tại mô hình số hai chiều 2D năng lượng này chỉ được hấp thụ
bởi mặt phẳng chứa gương hầm. Vì vậy, mô hình số hai chiều 2D không phù hợp
để mô phỏng đầy đủ sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến vỏ chống công
trình ngầm lân cận khi đào hầm bằng phương pháp khoan nổ mìn;
Giá trị PPV tỉ lệ nghịch với chiều dài mô hình số 3D. Tại đây luôn tồn
tại một giá trị chiều dài mô hình số có thể loại trừ hoàn toàn sự ảnh hưởng của
chiều dài mô hình đến kết quả khảo sát trên mô hình số. Đối với trường hợp tại
hầm Croix-Rousse, giá trị đó bằng 42,0 m;
Kết quả khảo sát của mô hình số 3D chỉ ra rằng: PPV trong vỏ chống
bê tông đạt giá trị lớn nhất tại mặt cắt ngang đường hầm cũ trùng với mặt cắt
ngang vị trí nổ mìn trên gường đường hầm mới;
Các phần tử phá hủy chủ yếu xuất hiện phía tường hầm trong vỏ chống
bê tông phía sau gương hầm của đường hầm mới; các phần tử phá hủy tập trung
tại vai vòm và thậm chí tại phần dưới của đường hầm tại vùng vỏ chống bê tông
phía trước gương thi công đường hầm;
Vỏ chống bê tông đường hầm cũ ổn định dưới tác động của chấn động
nổ mìn của lượng thuốc nổ lớn nhất Q tại dự án hầm Croix-Rousse. Các phá hủy
147
trong vỏ chống bê tông bắt đầu xuất hiện khi biên độ áp lực nổ tăng tới 1,5 lần so
với giá trị biên độ lớn nhất. Khối đá trên biên đường hầm mới bị phá hủy mạnh,
trong khi đó: phá hủy xảy ra không đáng kể tại biên đường hầm cũ và bề mặt-
khu vực phía trên đường hầm mới;
➢ Luận án đã tìm ra các công thức thực nghiệm dự báo giá trị PPV cho các
điểm trong các vùng bê tông phía trước và sau mặt cắt của đường hầm cũ lân cận
của dự án hầm Croix-Rousse đào trong đá granit. Các công thức có độ hội tụ và tin
cậy cao cho phép áp dụng trong các điều kiện tương tự như hầm Hải Vân đào trong
đá granit.
2. Kiến nghị
Để phát triển luận án nên triển khai theo các hướng nghiên cứu sau đây:
➢ Luận án mới dừng lại ở việc khảo sát hai đường hầm đào sóng sóng
cùng một mức. Vì vậy, nên tiếp tục nghiên cứu ảnh ảnh hưởng của chấn động nổ
mìn đến vỏ chống hầm cũ lân cận ở các vị trí khác nhau. Từ đó chỉ ra vị trí tốt
nhất cho thiết kế hai đường hầm nằm gần nhau;
➢ Nên xem xét sự ảnh hưởng của các mặt phân lớp trong các khối đá khác
nhau, mối liên kết giữa vỏ chống đường hầm và đất đá hay lớp vỏ gia cố tạm
xung quanh vỏ chống bê tông trong quá trình khảo sát mô hình số.
148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN ÁN
1. Dang Van Kien, Huang Ge-Jia, Vu Xuan Hong, Frederic Pellet
(2012), Experimental and numerical investigations of the Split Hopkinson test on
granit rock, Proceedings of the 2nd international conference on Advances in Mining
and Tunneling, Publishing house for science and technology. HaNoi, VietNam.
2012. ISBN: 978-604-913-081-6, pp.263-271.
2. Dang V.K., V.K. Limam A., Surin D., Humbert E. (2013), Blast vibration
induced during tunnel excavation in urban areas: Numerical simulation and measure
results, Proceedings of conference Franco-Vietnamienne CIGOS 2013 Construction et
Developpement Durable, Lyon, France, 2013, pp.1-8.
3. Keshavarz M., Dang V.K., Amini Hosseini K., Pellet F.L., (2013), AE
thresholds and compressive strength of different crystalline rocks subjected to
static and dynamic loadings, 1st International Conference on Rock Dynamics and
Applications. Lausanne-Switzerland, 06-08 June 2013, Taylor & Francis Group,
London, ISBN 978-1-138-00056-8, pp.213-218.
4. Pellet F.L., Dang V.K., Baumont C., Dusseux M., Huang G.J., (2013),
Determination of dynamic rock strength to assess blasting efficiency, International
conference on Rock Mechanics for Resources, Energy, and Environment- Eurock
2013, 21-26 September 2013, Wroclaw, Poland. DOI:10.1201/b15683-129,
pp.757-762.
5. Đặng Văn Kiên (2014), Ảnh hưởng của loại phần tử biên đến điều kiện biên và
kết quả mô hình số trong việc phân tích chấn động nổ mìn khi đào hầm bằng
phương pháp khoan nổ mìn ở khu vực thành phố, Tuyển tập Báo cáo Hội nghị
Khoa học lần thứ 21, Đại học Mỏ-Địa chất, tr.88-96.
149
6. Đặng Văn Kiên (2014), Đánh giá ảnh hưởng của chấn động do nổ mìn đào hầm
ở khu vực thành phố: Đường hầm Croix-Rousse, Lyon, Cộng Hòa Pháp. Tuyển tập
Báo cáo Hội nghị Khoa học lần thứ 21, Đại học Mỏ-Địa chất. 11/2014, tr. 97-104.
7. Đặng Văn Kiên (2014), Khảo sát chấn động nổ mìn khi đào hầm bằng phương
pháp khoan nổ mìn ở khu vực thành phố bằng mô hình 2D, Tạp chí Công nghiệp
Mỏ, (6), 2014, tr. 7-12.
8. Dang Van Kien (2015), The Effect of Element Type to Use the Boundary
Condition And Result of a Model in Analysis the Blast Vibration, International conference
on Numerical Analysis in Geotechnics-NAG2015. 20 August 2015, Hanoi, pp.1-8.
9. Đặng Văn Kiên (2015), Các tiêu chuẩn quy phạm đánh giá ảnh hưởng của chấn
động nổ mìn khi đào hầm đến kết cấu công trình lân cận, Tạp chí Công nghiệp
Mỏ, (5), tr. 7-13.
10. Đặng Văn Kiên (2016), Ảnh hưởng của độ dài của mô hình ba chiều (3D) đến kết
quả mô hình khi nghiên cứu chấn động nổ mìn đến kết cấu công trình ngầm lân cận do
đào hầm bằng phương pháp khoan nổ mìn, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, (2), tr. 32-37.
11. Dang Van Kien (2016), Numerical Simulation of Wave Propagation in Rock
Media: The Effect of Element Type on the Boundary Condition and the Analysis
Result in a Model of Blast Vibration, Journal of Mining and Earth Sciences, ISSN
1859-1469, 54, (3), pp. 17-25.
12. Đặng Văn Kiên (2016), Nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến kết
cấu công trình ngầm lân cận bằng hai phương pháp đo đạc hiện trường và phương
pháp số, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, (3), tr. 17-21.
13. Van Kien Dang, Trong Hung Vo, Ngoc Anh Do (2016), 2D/3D numerical
simulation the effect of blast vibration on the existing tunnel during tunnel excavation by
blasting method. Proceedings of the international conferences on earth sciences and
sustainable geo-resources development (ESASGD), ISBN: 978-604-76-1171-3, pp:
339-346.
150
14. Van Kien Dang, Trong Hung Vo, Ngoc Anh Do (2016), The estimation of the
vibration effects caused by tunnel blasts: a case study in croix-rousse tunnel,
Proceedings of the international conferences on earth sciences and sustainable geo-
resources development (ESASGD), ISBN: 978-604-76-1171-3, pp: 339-346.
15. Đặng Văn Kiên (2016), Sử dụng thí nghiệm động Split Hopkinson pressure bar
để xác định các thông số động của đá, Tuyển tập các công trình khoa học kỷ niệm 50
năm thành lập Bộ môn "Xây dựng Công trình ngầm và Mỏ" 1996-2016, NXB Khoa
học Tự nhiên và Công nghệ, ISBN:978-604-913-445-6, Hà Nội, tr.179-191.
16. Đặng Văn Kiên (2016), Nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến kết
cấu vỏ hầm lân cận khi đào hầm bằng phương pháp khoan nổ mìn, Tuyển tập các
công trình khoa học kỷ niệm 50 năm thành lập Bộ môn "Xây dựng Công trình
ngầm và Mỏ" 1996-2016, NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, ISBN: 978-604-
913-445-6, Hà Nội, tr.167-178.
17. Đặng Văn Kiên (2016), Nghiên cứu các thông số đánh giá ảnh hưởng của
chấn động nổ mìn đến kết cấu công trình ngầm lân cận khi đào hầm bằng phương
pháp khoan nổ mìn. Hội thảo Khoa học Công nghệ Mỏ Toàn Quốc, Cửa lò. 2016.
ISBN: 978-604-931-201-4, tr.353-359.
18. Đặng Văn Kiên (2017), Nghiên cứu đánh giá ản hưởng của chấn động nổ mìn
đến kết cấu cỏ chống của đường hầm chính tại dự án hầm Hải Vân khi tiến hành
mở rộng hầm lánh nạn bằng phương pháp khoan nổ mìn, Tạp chí Công nghiệp
Mỏ, (2), tr. 33-40.
19. Đặng Văn Kiên, Võ Trọng Hùng, Đỗ Ngọc Anh (2017), Nghiên cứu ảnh hưởng
của chấn động nổ mìn đến kết cấu vỏ chống của đường hầm lân cận khi tiến hành thi
công hầm bằng phương pháp khoan nổ mìn, Tạp chí Xây dựng Việt Nam, (7), tr. 203-
207.
151
20. Trần Tuấn Minh, Đặng Văn Kiên và nnk (2017), Ảnh hưởng của chấn động nổ
mìn khi thi công một đường hầm mới dến độ ổn định của đường hầm cũ bên cạnh.
Tạp chí Công nghiệp Mỏ, (4), tr.53-59.
21. Võ Trọng Hùng, Đặng Văn Kiên (2017), Một hướng nghiên cứu mới về ảnh
hưởng của chấn động nổ mìn thi công đường hầm đến kết cấu chống đường hầm
lân cận, Tại chí Công nghiệp Mỏ, (4), tr. 78-84.
22. Dang V.K., Dias D., Do N.A., Vo T.H., (2018), Impact of Blasting at
TunnelFace on an Existing Adjacent Tunnel. International Journal of GEOMATE,
July, 2018 Vol.15, Issue 47, pp.22-31 Geotec., Const. Mat. & Env., ISSN: 2186-
2982 (Print), 2186-2990 (Online), Japan
DOI:https://doi.org/10.21660/2018.47.04640.
23. Võ Trọng Hùng, Đặng Văn Kiên (2018), Nghiên cứu đề xuất phương pháp
đánh giá mức độ chấn động nổ mìn thi công đường hầm mới đến trạng thái của
đường hầm cũ lân cận, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, (2), tr. 1-7.
24. Võ Trọng Hùng, Đặng Văn Kiên (2018), Nghiên cứu sử dụng chỉ số “RMR” để
đánh giá chấn động do nổ mìn đào hầm đến kết cấu đường hầm lân cận thông qua
vận tốc PPV, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, (3), tr. 1-9.
152
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
[1]. https://baomoi.com/ham-hai-van-xuat-hien-nhieu-vet-nut-toac-nghiem-trong/c/
23673347.epi.
[2]. http://blogs.detroitnews.com/history/1998/09/16/horror-in-a-port-huron-water-
intaketunnel/Michigan History-The Detroi.
[3]. http://dantri.com.vn/su-kien/nha-dan-bi-nut-tien-den-bu-khong-mua-noi-cai-keo-
1433027892.htm.
[4]. http://www.detroitnews.com/story/news/local/michigan-history/2016/09/17/deadly-
lake-huron-water-tunnel-explosion/90522336/.
[5]. https://vi.wikipedia.org/wiki/Sóng_địa_chấn.
[6]. Hoàng Thị Hồng (1985), Trường ứng suất và biến dạng xung quanh vị trí nổ mìn
với quan điểm coi khối đá là môi trường có tính chất lưu biến, buồng nổ hình cầu,
hình trụ, Hội thảo Cơ học các công trình phục vụ sản xuất và quốc phòng, Học viện
Kỹ thuật Quân sự, Vĩnh yên, Vĩnh Phú, Tháng 3 năm 1985, tr.22-25.
[7]. Võ Trọng Hùng, (2010), Nghiên cứu sự tác động của sóng nổ mìn đến kết
cấuchống giữ đường hầm, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, số 6, tr.1-4.
[8]. Võ Trọng Hùng, (2012), Ảnh hưởng của công tác khoan nổ mìn đến sự hình thành
vùng phá hủy xung quanh đường hầm, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, số 1, tr.5-9.
[9]. Võ Trọng Hùng, (2013), Bảo vệ môi trường trong xây dựng công trình ngầm và
mỏ, Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội, 560 tr.
[10]. Võ Trọng Hùng, Đặng Văn Kiên (2017), Một hướng nghiên cứu mới về ảnh
hưởng của chấn động nổ mìn thi công đường hầm đến kết cấu chống đường hầm lân
cận, Tại chí Công nghiệp Mỏ, (4), tr.78-84.
[11]. Võ Trọng Hùng, Đặng Văn Kiên (2018), Nghiên cứu đề xuất phương pháp đánh
giá mức độ chấn động nổ mìn thi công đường hầm mới đến trạng thái của đường hầm
cũ lân cận, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, (2), tr. 1-7.
153
[12]. Võ Trọng Hùng, Đặng Văn Kiên (2018), Nghiên cứu sử dụng chỉ số “RMR” để
đánh giá chấn động do nổ mìn đào hầm đến kết cấu đường hầm lân cận thông qua vận
tốc PPV, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, (3), tr. 1-9.
[13]. Nguyễn Hải Hưng và n.n.k (2014), Ảnh hưởng của thời gian tác dụng nổ đến kết
cấu đường hầm quân sự, Tuyển tập báo cáo Hội nghị Khoa học lần thứ 21, Đại học
Mỏ-Địa chất, Hà Nội, 14/11/2014, tr.81-86.
[14]. Đặng Văn Kiên (2014), Ảnh hưởng của loại phần tử biên đến điều kiện biên và
kết quả mô hình số trong việc phân tích chấn động nổ mìn khi đào hầm bằng phương
pháp khoan nổ mìn ở khu vực thành phố, Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Khoa học lần
thứ 21, Đại học Mỏ-Địa chất, tr.88-96.
[15]. Đặng Văn Kiên (2014), Đánh giá ảnh hưởng của chấn động do nổ mìn đào hầm
ở khu vực thành phố: Đường hầm Croix-Rousse, Lyon, Cộng Hòa Pháp, Tuyển tập
Báo cáo Hội nghị Khoa học lần thứ 21, Đại học Mỏ-Địa chất. 11/2014, tr.97-104.
[16]. Đặng Văn Kiên (2014), Khảo sát chấn động nổ mìn khi đào hầm bằng phương
pháp khoan nổ mìn ở khu vực thành phố bằng mô hình 2D, Tạp chí Công nghiệp
Mỏ, (6), tr.7-12.
[17]. Đặng Văn Kiên (2015), Các tiêu chuẩn quy phạm đánh giá ảnh hưởng của chấn
động nổ mìn khi đào hầm đến kết cấu công trình lân cận, Tạp chí Công nghiệp
Mỏ, (5), tr.7-13.
[18]. Đặng Văn Kiên (2016), Ảnh hưởng của độ dài của mô hình ba chiều (3D) đến kết quả
mô hình khi nghiên cứu chấn động nổ mìn đến kết cấu công trình ngầm lân cận do đào hầm
bằng phương pháp khoan nổ mìn, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, (2), tr. 32-37.
[19]. Đặng Văn Kiên (2016), Nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến kết
cấu công trình ngầm lân cận bằng hai phương pháp đo đạc hiện trường và phương
pháp số, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, (3), tr.17-21.
[20]. Đặng Văn Kiên (2016), Sử dụng thí nghiệm động Split Hopkinson pressure bar
để xác định các thông số động của đá, Tuyển tập các công trình khoa học kỷ niệm 50
154
năm thành lập Bộ môn "Xây dựng Công trình ngầm và Mỏ" 1996-2016, Nhà xuất bản
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, ISBN: 978-604-913-445-6, Hà Nội, tr.179-191.
[21]. Đặng Văn Kiên (2016), Nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến kết cấu
vỏ hầm lân cận khi đào hầm bằng phương pháp khoan nổ mìn, Tuyển tập các công trình
khoa học kỷ niệm 50 năm thành lập Bộ môn "Xây dựng Công trình ngầm và Mỏ" 1996-
2016, Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, ISBN: 978-604-913-445-6, Hà
Nội, tr.167-178.
[22]. Đặng Văn Kiên (2016), Nghiên cứu các thông số đánh giá ảnh hưởng của chấn
động nổ mìn đến kết cấu công trình ngầm lân cận khi đào hầm bằng phương pháp
khoan nổ mìn. Hội thảo Khoa học Công nghệ Mỏ Toàn quốc, Cửa Lò. ISBN: 978-604-
931-201-4, tr.353-359.
[23]. Đặng Văn Kiên (2017), Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của chấn động nổ mìn
đến kết cấu vỏ chống của đường hầm chính tại dự án hầm Hải Vân khi tiến hành mở
rộng hầm lánh nạn bằng phương pháp khoan nổ mìn, Tạp chí Công nghiệp
Mỏ, (2), tr.33-40.
[24]. Đặng Văn Kiên, Võ Trọng Hùng, Đỗ Ngọc Anh (2017), Nghiên cứu ảnh hưởng
của chấn động nổ mìn đến kết cấu vỏ chống của đường hầm lân cận khi tiến hành thi
công hầm bằng phương pháp khoan nổ mìn, Tạp chí Xây dựng Việt Nam, (7), tr.203-
207.
[25] Nguyễn Tương Lai (2005), Nghiên cứu sự tương tác động lực học phi tuyến của
kết cấu với nền biến dạng, Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật, Học viện Kỹ thuật Quân sự.
2005. Hà Nội.
[26]. Vũ Đình Lợi (2002), Truyền sóng và áp lực nổ, Bài giảng Cao học ngành “Xây
dựng Công trình Đặc biệt”. Viện Kỹ thuật Công trình Đặc biệt. Học viện Kỹ thuật
Quân sự.
[27] Nguyễn Xuân Mãn và n.n.k (2010), Xác định bán kính phá hủy khi nổ một lượng
thuốc nổ đơn độc trong khối đá, Tuyển tập báo cáo Hội nghị Khoa học lần thứ 19, Đại
học Mỏ-Địa chất, Hà Nội. 11/11/2010, tr.21-25.
155
[28]. Trần Tuấn Minh, Đặng Văn Kiên và nnk (2017), Ảnh hưởng của chấn động nổ
mìn khi thi công một đường hầm mới đến độ ổn định của đường hầm cũ bên cạnh. Tạp
chí Công nghiệp Mỏ, (4), tr.53-59.
[29]. Vũ Ngọc Quang (2006), Tính toán động lực học kết cấu nhà có tầng đường hầm
chịu tác dụng của tải trọng nổ, Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật, Học viện Kỹ thuật Quân sự.
[30]. QCVN 02-2008-BCT (2008), Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn trong bảo
quản, vận chuyển, sử dụng và tiêu hủy vật liệu nổ công nghiệp, Bộ Công Thương,
2008.
[31]. Rjevxki V.V., Novik G.Ya., (1971). Cơ sở vật lý đá. Lê Mạnh Chiến, Đoàn
Phương dịch. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. Hà Nội.
[32]. Nguyễn Trí Tá (2006), Nghiên cứu sự tương tác giữa kết cấu công sự và môi
trường dưới tác dụng của tải trọng bom đạn có xét đến tính phi tuyến của môi trường,
Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật, Học viện Kỹ thuật Quân sự.
[33]. Lê Đình Tân, Võ Trọng Hùng, Nguyễn Tiến Khiêm (1999). Xác định lượng
thuốc nổ phá đá ngầm đảm bảo an toàn cho các tuynen Truông Khấp, Tạp chí Công
nghiệp Mỏ, số 1, tr.9-11.
[34]. Lê Đình Tân, (2000), Tính toán động lực học đường hầm chịu tác dụng của sóng
nổ, Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật, Học viện Kỹ thuật Quân sự.
[35]. Nguyễn Hữu Thế (2015), Nghiên cứu sóng nổ trong môi trường San hô và tác
động của sóng nổ lên kết cấu công trình, Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật, Học viện Kỹ thuật
Quân sự.
[36]. Đỗ Như Tráng (1996), Giáo trình đường hầm, Phần II, Áp lực đất đá và tính
toán kết cấu đường hầm, Học viện Kỹ thuật Quân sự.
[37]. Nguyễn Duy Túy (2009), Nghiên cứu phương pháp tính toán tải trọng tácdụng
lên công trình ngầm đặt trong môi trường đất đá bão hòa nước do sóng nổ gây ra,
Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật, Học viện Kỹ thuật Quân sự.
Tiếng Anh
[38]. ABAQUS User’s Examples and Theory Manual, Version 6.10, Simulia,
156
Providence, 2011.
[39]. Agne Rustan, (2011), Mining and Rock Construction Technology Desk Reference
Rock mechanics, drilling and blasting, © 2011 Taylor & Francis Group, London, UK.
[40]. Ahmed, L., Ansell, A. (2011), Structural dynamic and stress wave models for the
analysis of shotcrete on rock exposed to blasting, Engineering Structures, 2011, 35:
pp.11-17.
[41]. Amichai Mitelman, Davide Elmo, (2014), Modelling of blast-induced damage in
tunnels using a hybrid finite-discrete numerical approach, Journal of Rock Mechanics
and Geotechnical Engineering 6 (2014), pp.565-573.
[42]. Ansell A., (2004), In situ testing of young shotcrete subjected to vibration from
blasting, Tunneling and Underground Space Technology, 2004, 19: pp.587-593.
[43]. Biggs J.M., (1964), Introduction to Structural Dynamics, New York, McGraw-
Hill.
[44]. Cengiz Kuzu, (2008), The mitigation of the vibration effects caused by tunnel
blasts in urban areas: a case study inIstanbul, Environ Geol 54: pp.1075-1080.
[45]. Clayton E., Soler B., Voiron J., (2011), Renovation of Croix. Rousse tunnel
Specific points of the technical design, AFTES. Congrès International, Lyon 1, page
135.
[46]. Deković Z. et al., Measurement of blasting seismic effects during the excavation
of the Frukov Krč Tunnel, European Federation of Explosives Engineers, ISBN 978-0-
9550290-1-1.
[47]. Deng X.F., UDEC-AUTODYN Hybrid Modeling of a Large-Scale
Underground Explosion Test, Rock Mech Rock Eng.
[48]. Jeffrey Craig Johnson (2010), The Hustrulid bar-A dynamic strength test and its
application to the cautions blasting of rock, Thesis doctor of Philosophy, Department
of Mining Engineering, The University of Utah, August 2010.
[49]. Jong-Ho Shin et al., Effect of blast-induced vibration on existing tunnels in soft
rocks, Tunnelling and Underground Space Technology 26 (2011), pp.51-61.
157
[50]. Kaushik Dey et al, (2012), Prediction of blast-induced overbreak from
uncontrolled burn-cut blasting in tunnels driven through medium rock class.
Tunnelling and Underground Space Technology, No28, pp.49-56.
[51]. Keshavarz M., Dang V.K., Amini Hosseini K., Pellet F.L., (2013), AEthresholds
and compressive strength of different crystalline rocks subjected to static and dynamic
loadings, 1st International Conference on Rock Dynamics and Applications. Lausanne-
Switzerland, 06-08 June 2013, Taylor & Francis Group, London, ISBN 978-1-138-
00056-8, pp.213-218..
[52]. Khosrow Bakhtar, Impact of joints and discontinuities on the blast-response of
responding tunnels studied under physical modeling at 1-g. Int. J. Rock
[53]. Dang Van Kien, Huang Ge-Jia, Vu Xuan Hong, Frederic Pellet, (2012),
Experimental and numerical investigations of the Split Hopkinson test on granite
rock, Proceedings of the 2nd international conference on Advances in Mining and
Tunneling, Publishing house for science and technology. HaNoi, VietNam. 2012.
ISBN: 978-604-913-081-6, pp.263-271.
[54]. Dang V.K., Limam A., Surin D., Humbert E. (2013), Blast vibration induced
during tunnel excavation in urban areas: Numerical simulation and measure
results, Proceedings of Conference Franco-Vietnamienne CIGOS 2013 Construction et
Developpement Durable, Lyon, France. pp.1-8.
[55]. Dang Van Kien (2015), The Effect of Element Type to Use the Boundary Condition
And Result of a Model in Analysis the Blast Vibration, International conference on
Numerical Analysis in Geotechnics - NAG2015. 20 August 2015, Hanoi.pp.1-8.
[56]. Dang Van Kien (2016), Numerical Simulation of Wave Propagation in Rock
Media: The Effect of Element Type on the Boundary Condition and the Analysis Result
in a Model of Blast Vibration, Journal of Mining and Earth Sciences, ISSN 1859-
1469, 54, (3), pp.17-25.
[57]. Van Kien Dang, Trong Hung Vo, Ngoc Anh Do (2016), 2D/3D numerical
simulation the effect of blast vibration on the existing tunnel during tunnel excavation
158
by blasting method. Proceedings of the International Conferences on Earth Sciences
and Sustainable Geo-resources Development (ESASGD), ISBN: 978-604-76-1171-3,
pp.339-346.
[58]. Van Kien Dang, Trong Hung Vo, Ngoc Anh Do (2016), The estimation of the
vibration effects caused by tunnel blasts: a case study in croix-rousse tunnel,
Proceedings of the International Conferences on Earth Sciences and Sustainable Geo-
resources Development (ESASGD), ISBN: 978-604-76-1171-3, pp.339-346.
[59]. Dang V.K., Dias D., Do N.A., Vo T.H. (2018), Impact of Blasting at Tunnel
Face on an Existing Adjacent Tunnel. International Journal of GEOMATE, July, 2018
Vol.15, Issue 47, pp.22-31 Geotec., Const. Mat. & Env., ISSN: 2186-2982 (Print),
2186-2990 (Online), Japan DOI:https://doi.org/10.21660/2018.47.04640.
[60]. Konya C.J., Walter E.J., 1991, Rock blasting and overbreak control, FHWA-HI-
92-00, National Highway Institute, 5 pp.
[61]. Lal Ninan, Tsai J., Sun C.T., (2001), Use of split Hopkinson pressure bar for
testing off axis Composites, International Journal of Impact Engineering 25 (2001),
pp.291-313.
[62]. Lamis Ahmed, Anders Ansell, (2014), Vibration vulnerability of shotcrete on
tunnel walls during construction blasting, Tunnelling and Underground Space
Technology 42 (2014), pp.105-111.
[63]. Lamis Ahmed, (2015), Models for analysis of young cast and sprayed concrete
subjected to impact-type loads, Doctoral Thesis. Stockholm, Sweden.
[64]. Lee E., JWL equation of stat coefficients for high explosives, Technical Report.
Orig. Receipt Date: 31-DEC-73. awrence Livermore National Lab. (LLNL),
Livermore, CA (United States).
[65]. Lee In-Mo, (1996), Transient groundmotion in an elastic homogeneous halfspace to
blasting loading, Soil Dynamics and Earthquake Engineering 15 pp.151159.
159
[66]. Li Haibo, Tingting Liu, Yaqun Liu, Jianchun Li, Xiang Xia, Bo Liu, Numerical
Modeling of Wave Transmission Across Rock Masses with Nonlinear Joints, Rock
Mech Rock Eng, Volume 49, Issue 3, pp 1115-1121.
[67]. Liang, Q. et al., (2013), Effect of Blast-Induced Vibration from New Railway
Tunnel on Existing Adjacent Railway Tunnel in Xinjiang, China, Rock Mech Rock.
Eng, pp.19-39.
[68]. Lin D., (2011), The mitigation negative effect of tunnel-blasting-induced
vibrations on existing tunnel and buildings, Journal of coal science & engineering,
Vol.17 No.1 Mar. 2011. pp.28-33.
[69]. Lin Da-neng, (2011), The mitigation negative effect of tunnel-blasting-induced
vibrations on existing tunnel and buildings, Journal of coal science & engineering.
Vol.17 No.1 Mar. 2011. Pp.28-33.
[70]. Lu, Y., et al., (2005), A comparative study of buried structure in soil subjected to
blast load using 2D and 3D numerical simulations, Soil Dynamics and Earthquake
Engineering, 25: pp.275-288.
[71]. Lua W., Yang J., Chen M., Zhou C., Yi Luo, Jin L., (2012), Dynamic response of
rock mass induced by the transient release of in-situ stress, Rock Mech. Rock Engng,
53: pp.129-141.
[72]. Michael Adam Kaiser (1998), Advancements in the Split Hopkinson Bar Test,
Master of Science in Mechanical Engineering - Blacksburg, Virginia, May 1, 1998.
[73]. Mostafa Tantawy Mohamed, Vibration Control, Mining and Metallurgical
Department Faculty of Engineering, Assiut University, Egypt.
[74]. Nan Jiang, Chuanbo Zhou, (2012), Blasting vibration safety criterion for a tunnel
liner structure, Tunnelling and Underground Space Technology 32, pp.52-57.
[75]. Nateghi, R., (2011), Prediction of ground vibration level induced by blasting at
different rock units, International Journal of Rock Mechanics and Mining Sciences 48,
pp.899-908.
160
[76]. Nesvijski, E. G., (2009), On a Possibility of Rayleigh Transformed Sub-Surface
Waves Propagation, The e-Journal of Nonde-structive Testing & Ultrasonics. Issue
Vol. 5,No9. (https://www.ndt.net/article/v05n09/nesvi/nesvi.htm)
[77]. Olsson M., Nie S., Bergqvist I., Ouchterlony F., (2001), What causes cracks in
rock blasting? In: Proc. EXPLO2001. Hunter valley, NSW, Australia, pp.191-196.
[78]. Par Chong Zhang, (2013), Seismic Safety Evaluation of Concrete Dams: A
Nonlinear Behavioral Approach, USA.
[79]. Park, D., Byungkyu Jeon, Seokwon Jeon, (2009), A Numerical Study on the
Screening of Blast-Induced Waves for Reducing Ground Vibration, Rock Mech Rock
Eng 42, pp.449-473.
[80]. Pao Y.H., (1983), Elastic waves in solids. Journal of Applied Mechanics 50 (4),
pp.1152-1164.
[81]. Pellet F.L., Dang V.K., Baumont C., Dusseux M., Huang G.J., (2013), Determination of
dynamic rock strength to assess blasting efficiency, International conference on Rock
Mechanics for Resources, Energy, and Environment- Eurock 2013, 21-26. September 2013,
Wroclaw, Poland. DOI:10.1201/b15683-129, pp.757-762.
[82]. Qingguo Liang, Yafang An, Lei Zhao, (2011), Comparative Study on Calculation
Methods of Blasting Vibration Velocity, Rock Mech Rock Eng 44: pp.93-101.
[83]. Qingguo Liang et al., (2013), Effect of Blast-Induced Vibration from New
Railway Tunnel on Existing Adjacent Railway Tunnel in Xinjiang, China, Rock Mech
Rock Eng 46: pp.19-39.
[84]. Smith P.D., Vismeg P., Teo L.C., Tingey L., (1998), Blast wave transmission
along rough-Walled tunnels, Int. J. Impact Engng Vol. 21, No. 6, pp.419-432.
[85]. Saharan M. R. and Mitri H.S., (2008), Numerical Procedure for Dynamic
Simulation of Discrete Fractures Due to Blasting, Rock Mech. Rock Engng, 41,
Issue 5, pp.641-670.
[86]. Shahnazari1 H. et al., (2010), Simulating the Effects of Projectile Explosion on a
Jointed Rock Mass Using 2D DEM: A Case Study of Ardebil-Mianeh Railway Tunnel,
161
International Journal of Civil Engineering. Vol.8, No.2, 2010. pp.125-133.
[87]. Singh P.K., (2002), Blast vibration damage to underground coal mines from
adjacent open-pit blasting, International Journal of Rock Mechanics & Mining
Sciences 39 (2002) 959973, pp. 959-973.
[88]. Wang Z.L. et al., (2009), Coupled finite element and discrete element method for
underground blast in faulted rock masses, Soil Dynamics and Earthquake Engineering,
29: pp.939-945.
[89]. Wang Z.L. and Konietzky H., (2009), Modelling of blast-induced fractures in
jointed rock masses, Engineering Fracture Mechanics, 76: pp.1945-1955.
[90]. Wenbo Lu, Jianhua Yang, Ming Chen, Chuangbing Zhou, (2011), An
equivalentmethod for blasting vibration simulation, Simulation Modelling Practice and
Theory 19, pp.2050-2062.
[91]. William Higgins, Development of a High Strain-Rate Constitutive Model for
Sands and its Application in Finite Element Analysis of Tunnels Subjected to Blast,
Master's Theses. University of Connecticut Graduate School.
[92]. Wu Ch., Lu Y. and Hao H., (2004), Numerical prediction of blast-induced stress
wave from large-scale underground explosion, Int. J. Numer. Anal. Meth. Geomech,
28: (DOI: 10.1002/nag.328) pp.93-109.
[93]. Xia X., Li H.B., Li J.C., Liu B., Yu C., (2013), A case study on rock damage
prediction and control method for underground tunnels subjected to adjacent
excavation blasting, Tunnelling and Underground Space Technology, No 35, pp.1-7.
[94]. Yang J., Lu W., Chen M., Zhou Ch., (2012), Microseism Induced by
TransientRelease of In Situ Stress During Deep Rock Mass Excavation by Blasting, Rock
Mech Rock Eng, DOI 10.1007/s00603-012-0308-0. July 2013, Volume 46, Issue 4, pp
859-875.
[95]. Yu T.R., Vongpaisal S., (1996), New blast damage criteria for underground
blasting, CIM Bulletin 89 (2), pp.139-145.
162
[96]. Zhao Hua-bing et al., Experimental and Numerical Investigation of the Effect of
Blast-induced Vibration from Adjacent Tunnel on Existing Tunnel, KSCE Journal of
Civil Engineering (0000) 00(0): pp.1-9.
[97]. Zhao, J., Li H.B., Li, T.J., (1999), Triaxial compression tests on a granite at
different strain rates and confining pressures, International Journal of Rock
Mechanics and Mining Sciences 1999; 36: pp.1057-1063.
[98]. Zeinab Aliabadian, Wave and fracture propagation in continuum and faulted
rock masses: distinct element modeling, Arabian Journal of Geosciences December
2014, Volume 7, Issue 12, pp 5021-5035.
163
PHỤ LỤC 1
HIỆN TRẠNG MỘT SỐ ĐƯỜNG HẦM Ở VIỆT NAM
Hình 1. Hiện trạng dự án hầm Cổ Mã
Hình 2. Hiện trạng dự án hầm đường bộ qua đèo Hải Vân
PHỤ LỤC 2
MÔ HÌNH BUỒNG NỔ
a)
b)
Hình 1. Mô hình buồng nổ: a - Buồng nổ hình cầu; b - Buồng nổ hình trụ [6]
164
PHỤ LỤC 3
KHÁI QUÁT CHUNG VỂ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA
CHẤN ĐỘNG NỔ MÌN ĐẾN KẾT CẤU CÔNG TRÌNH NGẦM LÂN CẬN
BẰNG PHƯƠNG PHÁP SỐ
1. Phương pháp phần tử rời rạc
Phương pháp mô hình sử dụng phương pháp phần tử rời rạc được sử dụng
rất hiệu quả khi nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn với môi trường đất
đá có chứa khe nứt hoặc bị phân lớp. Wang Z.L. và Konietzky (2009) [89] đã mô
phỏng sự xuất hiện khe nứt xung quanh lỗ khoan khi nổ khối thuốc nổ trong lỗ
khoan. Trong các nghiên cứu trên đây, các tác giả sử dụng hai phần mềm khác
nhau là LS-DYNA và UDEC (Hình 1),… với khối đá có hai hệ thống khe nứt trực
giao. Tác giả tiến hành khảo sát các thông số: cấu trúc khe nứt với hai loại khe nứt
khác nhau; ảnh hưởng của khối lượng thuốc nổ trong lỗ khoan (thể hiện mật độ tải
trọng). Từ đó, rút ra kết luận: khối lượng thuốc càng lớn thì giá trị lớn nhất của
sóng nén cao hơn, giá trị lớn nhất của sóng cắt (tiêu cực) có cùng xu hướng. Số
lượng các vết nứt xung quanh lỗ khoan nạp thuốc cũng tăng lên khi tăng mật độ tải
trọng. Ngoài ra, tác giả cũng tiến hành khảo sát ảnh hưởng của trạng thái ứng suất
trước (với các đường hầm nằm ở độ sâu lớn) khi giả thiết lỗ khoan đặt ở độ sâu lớn
và ảnh hưởng bởi bề mặt tự do gần đó. Kết quả cho thấy: các vết nứt xuất hiện do
nổ mìn sắp xếp theo hướng ứng suất chính (phương có ứng suất ban đầu lớn hơn),
(trong mô hình là hướng thẳng đứng).
Sau đó, tác giả tiến hành khảo sát sự hình thành hệ thống khe nứt xung
quanh lỗ khoan theo các điều kiện khác nhau: ảnh hưởng của cấu trúc khe nứt
trong khối đá, mật độ thuốc nổ nạp trong lỗ khoan khác nhau; điều kiện ứng suất
ban đầu xung quanh lỗ khoan khác nhau (Hình 2, Hình 3).
Haibo Li (2015) [66] đã nghiên cứu sự truyền sóng nổ vượt qua khe nứt của
đá bằng phương pháp phần tử riêng rẽ thông qua phần mềm UDEC (Hình 4);
nghiên cứu truyền sóng trong môi trường có một hệ khe nứt (Hình 4.a). trong môi
trường khe nứt có hai hệ khe nứt giao nhau (Hình 4.b).
165
Hình 1. Mô hình số bằng phần mềm UDEC [89]: a - Mô hình truyền sóng nổ
trong khối đá liên tục; b - Mô hình truyền sóng nổ trong khối đá phân lớp [89]
Hình 2. Sự hình phát triển của các khe nứt hướng tâm trong khối đá [89]
Hình 3. Sự xuất hiện của các vết nứt khi thay đổi mật độ tải trọng [89]
166
a) b)
Hình 4. Mô hình nghiên cứu truyền sóng qua khe nứt:
a - Mô hình với một khe nứt; b - Mô hình với hai hệ khe nứt [66]
Hình 5. Mô hình nghiên cứu sự lan truyền sóng
bằng phương pháp phần tử rời rạc [98]
a)
b)
Hình 6. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của khe nứt đến sự truyền sóng: a -
Ảnh hưởng của khe nứt khi truyền sóng; b - Ảnh hưởng của của khoảng cách
từ lỗ khoan đến khe nứt trong mô hình có và không có khe nứt [98]
Kết quả nghiên cứu cho thấy: góc nghiêng khe nứt có ảnh hưởng đáng kể
167
đến sự truyền sóng qua khe nứt. Zeinab Aliabadian (2013) [98] nghiên cứu sự lan
truyền sóng nổ khi tiến hành nổ khối thuốc nổ trong lỗ khoan đường kính 38,0 mm
trong môi trường có hai khe nứt nghiêng 450 và thẳng đứng. Tác giả tiến hành
nghiên cứu sự ảnh hưởng của mật độ khe nứt đến sự lan truyền sóng trong đất đá
bằng cách so sánh hai mô hình khi chưa có khe nứt và khi có khe nứt (Hình 5,
Hình 6).
Amichai Mitelman, Davide Elmo (2014) [41] sử dụng phương pháp hỗn hợp
giữa phương pháp phần tử hữu hạn và phần tử rời rạc FEM-DEM để nghiên cứu sự
phá hủy do nổ mìn trong một đường hầm hình tròn. Việc sử dụng các kết quả đo
đạc trước đó để kiểm chứng mô hình số cho thấy: mô hình số phù hợp với các số
liệu thí nghiệm đã được công bố trước đó khi nổ mìn trong buồng nổ tiết diện lớn.
Tác giả sử dụng mô hình đã xây dựng để khảo sát đặc tính độ bền của đá yếu (đá
cát kết) và đá rắn cứng (đá granit) đến độ bền của kết cấu chống đường hầm dưới
tác dụng của vụ nổ. Kết quả nghiên cứu cho thấy: khi đá có độ bền càng cao sẽ làm
tăng sức chống lại của đường hầm dưới tác dụng của áp lực, mặt khác làm giảm.
Đặc biệt tác giả có sử dụng mô hình phá hủy cho khối đá là loại Hooke-Brown
(Hình 7 và Hình 8).
Hình 7. Mô hình khảo sát ảnh hưởng phá hủy đường hầm với bốn vùng: a -
Vùng 1 (tổng biến dạng); b - Vùng 2 (phá hủy mạnh); c - Vùng 3 (phá hủy
vừa phải); d - Vùng 4 (phá hủy nhẹ) [41]
168
Hình 8. Kết quả khảo sát mô hình số theo [41]
Hình 9. Mô hình số trên phần mềm
Autodyn [47]
Hình 10.Mô hình số trên phần mềm
UDEC [47]
Hình 11. Mối quan hệ giữa PPV1 và
khoảng cách theo phương thẳng đứng
từ buồng nổ [47]
Hình 12. Mối quan hệ giữa PPV và
khoảng cách theo phương nằm
ngang từ buồng nổ [47]
169
Deng X.F. (2014) [47] đã nghiên cứu sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn
trong đường hầm tiết diện lớn bằng thuốc nổ TNT thông qua mô hình số. Mô hình
được xây dựng dựa trên hỗn hợp hai phương pháp phần tử hữu hạn FEM và phần
tử rời rạc DEM dựa trên code hai phần mềm UDEC và AUTODYN. Kết quả khảo
sát mô hình số đã được so sánh với công thức kinh nghiệm và kết quả đo đạc
(Hình 9, Hình 10, Hình 11, Hình 12).
Quá trình nổ và truyền sóng xung kích được mô phỏng bằng phần mềm
AUTODYN và kiểm chứng thông qua các số liệu đo đạc thực tế, các công thức
kinh nghiệm. Kết quả mô hình sử dụng phần mềm AUTODYN được sử dụng làm
số liệu đầu vào cho mô hình khi chạy bằng phần mềm UDEC. Các kết quả nghiên
cứu mô hình UDEC-AUTODYN được so sánh với các công thức kinh nghiệm, dữ
liệu thực nghiệm cho thấy: chúng hoàn toàn nằm trong giới hạn cho phép của giá
trị PPV. Tuy nhiên, giá trị PPV tính bằng phần mềm AUTODYN lớn hơn các dữ
liệu đo. Điều đó dẫn tới sự nâng cao mức độ bảo vệ do chấn động nổ mìn và có thể
làm tăng chi phí xây dựng công trình. Tuy nhiên PPV tính bằng hỗn hợp phương
pháp UDEC-AUTODYN lại có thể chấp nhận được với các dữ liệu đo hiện trường
(do tại đây có xem xét các khe nứt trong khối đá). Như vậy: hỗn hợp phương pháp
UDEC-AUTODYN phù hợp để mô phỏng quá trình nổ mìn trong buồng và cho
phép sóng truyền qua một hệ thống khe nứt.
Mặc dù mô hình đã xét đến sự có mặt của các khe nứt, đặc điểm nổi bật của
khối đá và kết quả đạt được khá tin cậy, sóng các vụ nổ mới chỉ dừng lại ở việc
xem xét khối thuốc nổ một lần tức thời. Trong khi đó nổ mìn đào đường hầm cần
nổ thành nhiều đợt nên phương pháp này còn hạn chế.
Một số nhận xét: phương pháp phần tử rời rạc DEM cho phép mô phỏng các
mô hình có kể đến sự ảnh hưởng của đặc tính không liên tục của khối đá thông qua
các khe nứt tồn tại trong các mô hình tính. Mặc dù một số lượng lớn các công trình
nghiên cứu khoa học đã thưc hiện, sóng các kết quả mới chỉ dừng lại ở việc nghiên
cứu quá trình truyền sóng nổ từ một lỗ khoan đơn độc hay một khối thuốc nổ nổ
trong một lỗ khoan. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ mới dừng lại cho mô hình đường
hầm kích thước nhỏ với một hoặc hai khe nứt do tính phức tạp của bài toán và sự
170
giới hạn về kích thước của mô hình. Đa số các nghiên cứu số mới chỉ tiến hành trên
mô hình 2D do tính phức tạp của mô hình số. Ngoài ra, kết quả chưa nghiên cứu xem
xét hết được sự tổn thất năng lượng nổ do khối đất đá xung quanh hấp thụ.
2. Phương pháp phần tử hữu hạn
Saharan và Mitri (2008) [85] đã nghiên cứu vùng phá hủy hình thành xung
quanh lỗ khoan có đường kính 38,0 mm trong môi trường khối đá khi tiến hành nổ
một lượng thuốc nổ trong lỗ khoan. Trong nghiên cứu, hai loại hình tải trọng được
sử dụng là áp lực "lý tưởng" và áp lực "không lý tưởng" (Hình 13.b) tương ứng
với đặc tính hai loại thuốc nổ khác nhau (thuốc nổ ANFO, thuốc nổ nhũ tương).
Dạng nổ "lý tưởng" với chất nổ nhũ tương thể hiện: thời gian tăng áp lực nổ
là rất ngắn và đường giảm áp lực có độ dốc lớn. Dạng nổ "không lý tưởng" với
chất nổ ANFO thời gian để áp lực nổ đạt giá trị lớn nhất dài hơn; đường giảm áp
lực có độ dốc nhỏ hơn (so với loại thuốc nổ nhũ tương). Tác giả đã tiến hành
nghiên cứu sự ảnh hưởng của các thông số khối đá cũng như điều kiện ứng suất
ban đầu, loại hình áp lực nổ đến sự hình thành các vết nứt xung quang lỗ khoan.
Phương pháp số được sử dụng khá hiệu quả trong nghiên cứu này thông qua phần
mềm Abaqus. Nan Jiang (2012) [74] đã tính toán, phân tích sự ảnh hưởng của chấn
động nổ mìn lên kết cấu đường hầm lân cận khi nổ mìn phía trên bề mặt. Tác giả
đã tính toán, phân tích giá trị PPV và ứng suất ảnh hưởng lên vỏ chống đường hầm
và khối đá xung quanh do chấn động nổ mìn bằng phương pháp phần tử hữu hạn
thông qua phần mềm LS-DYNA trên cơ sở dữ liệu đo đạc của một dự án đường
hầm gần đường hầm đường sắt (Hình 14). Nghiên cứu chỉ ra: những khác biệt của
PPV giữa vỏ chống bên trong đường hầm và khối đá xung quanh mối quan hệ giữa
ứng suất động và giá trị PPV. Tiêu chuẩn PPV được đưa ra từ lý thuyết độ bền kéo
lớn nhất và các kết quả nghiên cứu của mô hình số đã được kiểm chứng bằng dữ
liệu đo. Từ đó cung cấp tài liệu tham khảo quan trọng cho các dự án tương tự.
Nghiên cứu chỉ ra ngưỡng vận tốc giới hạn cho vỏ chống bê tông bằng 11,0 cm/s
và đưa ra công thức thực nghiệm xác định giá trị độ bền kéo k dựa trên giá trị
PPV [74]:
171
( )k 7,7164 PPV 0,3230 = + cho vỏ chống; (1)
( )k 7,7164 PPV 0,3230 = + cho khối đá. (2)
a) b)
Hình 13. Mô hình số trong nhiên cứu của Saharan và Mitri (2008):
a - Kích thước mô hình nghiên cứu; b - Mô hình áp lực nổ [85]
a) b)
Hình 14. Mô hình của Nan Jiang, Chuanbo Zhou (2012): a - Mô hình số;
b - Mối quan hệ giữa PPV và ứng suất tiếp trong khối đá và vỏ chống [74]
Qingguo Liang (2013) [83] đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của chấn
động nổ mìn khi đào đường hầm đến vỏ chống của đường hầm lân cận thông qua
nghiên cứu thực nghiệm và mô hình số tại dự án đường hầm đường sắt của Trung
Quốc gồm hai đường hầm đào sóng sóng (trong đó đường hầm mới liền kề với
đường hầm cũ). Nghiên được tiến hành từ việc xác định các thông số động của
172
khối đá để phục vụ cho việc mô hình hóa thông qua thí nghiệm động tại phòng thí
nghiệm (Hình 5.15).
a) b)
c) d)
Hình 15. Mô hình của Qingguo Liang (2013): a-Đường hầm trong thực tế; b-
Kích thước mô hình; c-PPV từ mô hình; d-So sánh giá trị PPV giữa mô hình
2D và mô hình 3D [83]
Bằng mô hình số và phương pháp đo đạc thực nghiệm, nghiên cứu tiến hành
so sánh giá trị PPV giữa hai mô hình hai chiều 2D và ba chiều 3D. Kết quả so sánh
cho thấy: giá trị PPV trong mô hình 3D nhỏ hơn so với mô hình 2D. Đồng thời, tác
giả cũng đưa ra giải pháp giảm chấn động đến vỏ chống của đường hầm cũ bằng
cách điều chỉnh hộ chiếu khoan nổ mìn. Tuy nhiên, do viêc mô phỏng ảnh hưởng
của chấn động nổ mìn đến kết cấu chống đường hầm lận cận là một bài toán phức
tạp có số lượng các phần tử rất lớn, cho nên việc kiểm chứng mô hình rất phức tạp.
Nghiên cứu của Qingguo Liang đã bỏ qua bước kiểm chứng mô hình. Hua-bing
Zhao (2015) [96] đã nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn khi đào đường
hầm đến vỏ chống bê tông của đường hầm lân cận ở mức trên thông qua mô hình
173
số bằng cách sử dụng các số liệu đo đạc để làm các thông số đầu vào (ví dụ: áp lực
nổ mìn tính qua vận tốc sóng dài; vận tốc chấn động) (Hình 16).
a) b) c)
Hình 16. Mô hình của (Zhao, 2015): a - Kích thước thực tế của dự án;
b - Kích thước mô hình số; c - Kết quả so sánh mô hình số và kết quả đo [96]
Bằng các số liệu đo đạc, nghiên cứu đã chỉ ra tần số dao động nguy hiểm
của vỏ chống đường hầm cũ lân cận và áp lực nổ mìn lên biên đường hầm mới.
Bằng phương pháp phần tử hữu hạn FEM, tác giả xây dựng mô hình số để nghiên
cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn và so sánh với kết quả đo thực tế. Tuy nhiên,
biên mô hình là loại phản xạ cho nên ít nhiều đã ảnh hưởng đến kết quả mô hình.
A. Ansell (2007), Lamis, Ahmed (2012, 2014) [40], [62] đã nghiên cứu sự
ảnh hưởng của chấn động nổ mìn khi đào đường hầm đến kết cấu vỏ chống bê tông
phun phía sau gương và đường hầm lân cận bằng phương pháp thực nghiệm và
phương pháp mô hình số.
Bằng thực nghiệm hiện trường, các tác giả xác định được tần số dao động
ảnh hưởng chủ yếu đối với vỏ chống bê tông phun cũng như xác định mô đun đàn
hồi động của khối đá làm dữ liệu đầu vào cho mô hình số. Phương pháp số được
nghiên cứu bằng phương pháp phần tử hữu hạn.
Đặc biệt, các tác giả đã nghiên cứu sự ảnh hưởng của liên kết giữa bê tông
phun-khối đá. Trong đó, giả định tại đây tồn tại liên kết hệ lò xo và liên kết dầm-lò
xo. Tác giả cũng đã nghiên cứu ảnh hưởng của nổ mìn đến lớp bê tông mới phun,
từ đó đưa ra khuyến cáo tránh nổ mìn trong vòng 12 giờ đầu tiên sau khi phun. Đây
là nghiên cứu khá điển hình cho xem xét ảnh hưởng của liên kết giữa lớp bê tông
phun và khối đá [57].
174
3. Nhận xét
Cùng với sự phát triển máy tính điện tử, các phương pháp số được ứng dụng
nhiều trong các lĩnh vực, đặc biệt là nghiên cứu truyền sóng và ảnh hưởng của
chấn động nổ mìn. Trong đó phương pháp phần tử hữu hạn đã được sử dụng sớm
và rất phổ biến do những ưu điểm vượt trội: thuật toán đơn giản; tốc độ giải bài
toán nhanh; độ hội tụ; độ chính xác của phương pháp cao; phản ánh khá đầy đủ
điều kiện thực tế. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi môi trường là đồng
nhất hoặc đào trong đất đá đồng nhất hoặc nhiều lớp đất đá có tính chất cơ lý giống
nhau. Trong luận án, tác giả chọn sử dụng phương pháp phần tử hữu hạn thông qua
phần mềm Abaqus vì các lí do: bài toán động có thời gian tính toán rất lớn, đặc biệt
cho các mô hình 3D có số lượng phần tử lớn; kết quả nghiên cứu mô hình có độ tin
cậy nên phù hợp để sử dụng trong trường hợp này.