Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
hoav
VCBS duy trì quan điểm áp lực lên tỷ giá
trong ngắn hạn vẫn có thể tiếp diễn, nhưng
với nguồn lực hiện có cùng thông điệp rõ
ràng về định hướng điều hành, NHNN hoàn
toàn có thể giữ mức giảm của tỷ giá trung
tâm với USD quanh 2 - 2,5% cho năm 2018,
thấp hơn đáng kể so với các nước trong khu
vực. NHNN vẫn đang làm khá tốt trong vai
trò của nhà điều hành đối với tỷ giá khi đã
đưa ra định hướng chính sách rõ ràng và các
biện pháp điều hành dựa trên sự vận hành
của thị trường và không bị cuốn theo các
diễn biến khó lường trên thị trường thế giới.
Tin nổi bật
Lãi suất tiết kiệm bất ngờ tăng
VCBS: NHNN có thể giữ tỷ giá trung tâm
giảm 2-2,5% trong năm 2018
Chênh lệch lãi suất trở lại "chia lửa" cho tỷ
giá
Các tổ chức quốc tế lạc quan về triển vọng
kinh tế Việt Nam
Thu ngân sách từ dầu thô đã cán đích
Cho vay ngang hàng ở Trung Quốc lâm
khủng hoảng
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 14/08)
VN - Index 978,27 0,02%
HNX - Index 109,79 0,61%
D.JONES CK Mỹ 25.299,92 0,45%
STOXX CK C.Âu 3.409,44 0,01%
CSI 300 CK TQ 3.372,91 0,51%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 15/08)
SJC Ng.đ/L 36.720 - 0,00%
Quốc tế USD/Oz 1193,0 0,14%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.685 0,00%
EUR/USD 1.1339 0,55%
Dầu
WTI USD/th 66,71 1,10%
6
Thứ Tư, ngày 15/08/2018
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Lãi suất tiết kiệm bất ngờ tăng
Một số NH vừa tăng LS huy động 0,1-0,5%/năm để hút nguồn vốn, sớm
hơn so với diễn biến thông thường mọi năm. Hơn tuần qua, các NH đều
có động thái tăng LS tiền gửi. Cách đây gần 2 tháng, các NH như
Sacombank, Vietcombank, Techcombank... đã có đợt giảm LS huy
động 0,2-0,4% tùy kỳ hạn. Lãnh đạo một NHCP có trụ sở phía Nam cho
rằng, về mặt chính sách, chủ trương chung của NHNN và các NHTM là
cố gắng hạ LS đầu vào để giảm LS cho vay, hỗ trợ DN và nền KT. Tuy
nhiên, tín dụng những quý cuối năm thường có xu hướng tăng cao, đặc
biệt là cho vay ngắn hạn để phục vụ nhu cầu vốn lưu động của DN. Vì
vậy, nhiều NH đã tăng LS huy động các kỳ hạn để có thêm nguồn vốn
phục vụ cho vay. Mới đây, LS LNH cũng tăng mạnh trở lại với LS qua
đêm gấp đôi so với cuối tuần trước đó và gần bằng LS vay trên thị
trường mở OMO (4,75%). Đến ngày 10/08, LS qua đêm 2,28% lên
4,42%. LS kỳ hạn 1 và 2 tuần đều 1,9 và 1,7 lần thời điểm 01 tuần
trước đó. Tại buổi làm việc với UBND và NHNN CN TP.HCM hôm
10/08, Phó thống đốc Đào Minh Tú đưa ra thảo luận nhiều vấn đề quan
trọng như ổn định LS cho vay, cho vay các lĩnh vực ưu tiên và các lĩnh
vực đột phá và được đa số các NH bày tỏ sự đồng thuận. Đại diện lãnh
đạo một số NH cho rằng việc giảm LS cho vay chỉ nên tính toán ở một
số lĩnh vực, ngành nghề. Về cơ bản duy trì sự ổn định mặt bằng LS huy
động và cho vay như hiện nay là phù hợp với các diễn biến vĩ mô của
nền KT và đảm bảo hoạt động của hệ thống NH. Trong các tháng cuối
năm, Phó thống đốc y/c NHNN CN TP HCM và các NH trên địa bàn tiếp
tục tập trung vào hoạt động tái cơ cấu các TCTD, coi đây là một nhiệm
vụ trọng tâm. NHNN sẽ tiếp tục ổn định mặt bằng LS và chưa đặt ra y/c
tăng hoặc giảm LS huy động và cho vay.
VCBS: NHNN có thể giữ tỷ giá
trung tâm giảm 2-2,5% trong
năm 2018
Báo cáo về thị trường ngoại hối và tình hình thương mại Mỹ - Trung vừa
được VCBS công bố đã chỉ ra nhiều yếu tố tích cực giúp NHNN hoàn
thành mục tiêu giữ mức giảm giá hợp lý của VND trong 6th cuối 2018.
Cụ thể là dòng vốn FDI tiếp tục tăng trưởng, dự trữ ngoại hối đạt 63,5 tỷ
USD, cán cân thương mại được duy trì và kiều hồi về nước được dự báo
tiếp tục tăng trưởng. VCBS tiếp tục duy trì quan điểm áp lực lên tỷ giá
Tài chính – Ngân hàng
3
trong ngắn hạn vẫn có thể tiếp diễn, nhưng với nguồn lực hiện có cùng
thông điệp rõ ràng về định hướng điều hành, NHNN hoàn toàn có thể
giữ mức giảm của tỷ giá trung tâm với USD quanh 2 - 2,5% cho năm
2018, thấp hơn đáng kể so với các nước trong KV. Trong các năm gần
đây, việc thu hút lượng lớn vốn FDI và FII đã tạo ra nhiều dư địa để nhà
điều hành duy trì sự ổn định của nền KT VN. Dòng vốn khối ngoại tạo
ra nguồn cung ngoại tệ đủ lớn và dồi dào để NHNN tiến hành tăng dự
trữ ngoại tệ đi kèm với tăng quy mô hoạt động XNK vốn luôn tăng
trưởng mạnh ở mức 2 con số trong các năm 2017 (gần 21%) và 6th/2018
(13,3%). Tính đến hết tháng 6, dự trữ ngoại hối VN đạt 63,5 tỷ USD,
#12-15 tuần NK. Nguồn lực này đã hỗ trợ gián tiếp, giúp thanh khoản
trên hệ thống NH dồi dào. Từ đó, các NHTM có dư địa để TTTD, đẩy
nhanh quá trình xử lý nợ xấu. Từ góc độ này, ưu tiên chính sách của
Chính phủ trong các năm tiếp theo sẽ là tiếp tục cải thiện môi trường
KD, đảm bảo sự ổn định của các số liệu KTVM, từ đó duy trì sức hấp
dẫn của điểm đến đầu tư VN đối với dòng vốn ngoại. Theo VCBS, các
mục tiêu liên quan đến chỉ số KTVM sẽ bao gồm đảm bảo lạm phát
được kiểm soát, không vượt quá mục tiêu cam kết đưa ra hàng năm của
Chính phủ và giữ cho đồng nội tệ giảm giá ở mức tương đối hợp lý so
với các nước trong KV. NHNN vẫn đang làm khá tốt trong vai trò của
nhà điều hành đối với tỷ giá khi đã đưa ra định hướng chính sách rõ
ràng và các biện pháp điều hành dựa trên sự vận hành của thị trường
và không bị cuốn theo các diễn biến khó lường trên thị trường TG,
VCBS nhận định. Tuy nhiên, CTCK cũng đề cập đến tính trạng leo
thang của tỷ giá thời gian qua, bắt nguồn từ việc thiếu hụt nguồn cung
ngoại tệ tiền mặt tạm thời do sự thay đổi đối tác khai thác DV này không
chỉ tại thị trường VN mà còn ở nhiều quốc gia khác trên TG. Đây là
nguyên nhân lý giải cho hiện tượng lượng lớn ngoại tệ khoảng 2,12 tỷ
USD được NHNN bán ra với mức “giá thấp” 23.050 đồng để các NHTM
hấp thụ chỉ trong tuần cuối tháng 7, trong khi nhu cầu thực phục vụ cho
các hoạt động SX, XNK được đánh giá là không đột biến.
4
Chênh lệch lãi suất trở lại "chia
lửa" cho tỷ giá
Thị trường LNH vừa đón một tuần thay đổi hẳn xu hướng trước đó của
LS VND. Diễn biến này có lợi cho cân đối với tỷ giá USD/VND, trong bối
cảnh TG xuất hiện biến động lớn. Trong tuần cuối tháng 7 gối đầu
tháng 8, trên thị trường LNH, LS VND liên tục giảm nhanh và mạnh, làm
thu hẹp nhanh chóng chênh lệch với LS USD. LS VND qua đêm từ trên
4,5%/năm liên tục rơi sâu xuống còn quanh 2,3%/năm, trong khi LS qua
đêm USD trên cùng thị trường khá ổn định quanh 2,15%/năm. Chênh
lệch đó góp phần gây sức ép lên tỷ giá USD/VND cuối tháng, với trạng
thái kịch trần giá bán xuất hiện trên biểu niêm yết của một số NHTM.
Tuy nhiên, trong tuần qua (6–10/08), diễn biến của LS VND trên thị
trường LNH đã đảo ngược hoàn toàn, liên tục tăng nhanh và mạnh để
doãng rộng chênh lệch so với LS USD. Cụ thể, chốt tuần vừa qua, LS
VND trên LNH đã trở lại mặt bằng khá cao, giao dịch quanh mức: qua
đêm ở 4,51% (2,29 điểm % so với tuần liền trước); 1 tuần 4,61% (2,13
điểm %); 2 tuần 4,60% (1,83 điểm %); 1 tháng 4,65% (1,17 điểm %).
Còn LS LNH đối với USD không nhiều thay đổi trong tuần qua, chốt
phiên cuối tuần 10/08 đứng ở mức qua đêm 2,17%; 1 tuần 2,29%; 2
tuần 2,37%; 1 tháng 2,51%/năm. Chênh lệch LS VND - USD được
doãng rộng, trở lại "chia lửa" cho áp lực đối với tỷ giá. Và gần như trọn
tuần qua giá USD trên thị trường LNH liên tục có các bước giảm đáng
kể. Tuy nhiên, cuối tuần qua, thị trường TG biến động với "sự kiện Thổ
Nhĩ Kỳ" và sự lên giá mạnh của đồng USD. Sự sụt giảm của đồng Lira
và sự chao đảo về kinh tế của Thổ Nhĩ Kỳ đã và đang gây ra biến động
cho các thị trường mới nổi khác và gây tổn thương cho một số NH châu
Au - vốn có tài sản ở Thổ Nhĩ Kỳ. Diễn biến này gây ảnh hưởng bất lợi
đến giá các tài sản có độ rủi ro cao hơn trên toàn cầu, kéo nhiều TTCK
giảm điểm và đẩy những tài sản trú ẩn an toàn như đồng USD và trái
phiếu kho bạc Mỹ tăng giá. Đặc biệt, tỷ giá EUR/USD đã giảm mạnh
xuống dưới ngương 1,15 trong phiên cuối tuần trước, đồng thời chỉ số
USD cũng vượt mốc 95 điểm, lên 96,36 điểm. Trong nước, phiên đầu
5
tuần này (13/08), NHNN cũng đã nâng tỷ giá trung tâm giữa VND với
USD lên một bước, ở 22.686 VND (10 VND so với cuối tuần trước). Giá
USD bán ra của các NHTM phổ biến ở 23.350 VND, chênh lệch giữa
giá mua vào - bán ra vẫn giữ nguyên khoảng 80 - 100 VND.
Giảm sở hữu Nhà nước, niêm yết
VCB, BID và CTG ở nước ngoài
Ngày 08/08/2018, Thủ tướng có Quyết định số 986 phê duyệt chiến
lược phát triển ngành NH VN, trong đó nêu cụ thể hướng giảm tỷ lệ sở
hữu Nhà nước tại ba NH lớn. Đây là ba NHTM NN, gồm Vietcombank,
(mã CK VCB), BIDV (BID) và VietinBank (CTG). Cụ thể, trong chiến lược
trên giai đoạn 2018 - 2020, đối với các NHTM NN (không bao gồm NH
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Agribank), Chính phủ sẽ tăng vốn
điều lệ để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn thực hiện chuẩn mực Basel 2, bảo
đảm vai trò chi phối của Nhà nước trong các NHTM NN, trong đó Nhà
nước nắm giữ ở mức tối thiểu 65% tổng số cổ phần có quyền biểu
quyết. 3 NH trên sẽ lựa chọn cổ đông chiến lược có uy tín trên thị
trường, có năng lực tài chính, kinh nghiệm quản trị; chuẩn bị các điều
kiện tiền đề, tiến tới niêm yết cổ phiếu trên TTCK nước ngoài. Đến giai
đoạn 2021 - 2025, Chính phủ xác định các NHTM NN nói trên tiếp tục
đóng vai trò là lực lượng chủ lực, chủ đạo về quy mô, thị phần, khả
năng điều tiết thị trường; đi đầu trong việc triển khai và áp dụng Basel 2
theo phương pháp nâng cao và hội nhập quốc tế. Đáng chú ý, quyết
định trên nêu rõ: đảm bảo tỷ lệ sở hữu NN ở mức 51% tại nhóm NH
này, tức giảm từ mức đảm bảo tối thiểu 65% sở hữu hiện nay. Ngoài ra,
Chính phủ cũng đặt lộ trình thực hiện niêm yết cổ phiếu của các NH
trên (VCB, BID và CTG) trên TTCK nước ngoài; riêng cố phiếu Agribank
sau khi cổ phần hóa sẽ thực hiện niêm yết tại thị trường trong nước.
6
Các tổ chức quốc tế lạc quan về
triển vọng kinh tế Việt Nam
Cơ quan nghiên cứu của Fitch nhận định, mặc dù 2 năm qua đã có vài
thương vụ thoái vốn đáng chú ý từ các NH ngoại, tuy nhiên, tổ chức này
tin rằng, môi trường hoạt động tại VN vẫn rất hấp dẫn với các TCTD
quốc tế. Fitch dự báo, nhiều khả năng các NH ngoại tiếp tục tham gia
thị trường VN thông qua hình thức thành lập các chi nhánh 100% vốn
ngoại. Theo ANZ, NH này tiếp tục nhìn nhận khả quan về tăng trưởng
KT của VN trong 2 năm tới với dự báo tăng trưởng GDP năm nay là
6,8% và năm 2019 là 7% sau khi đạt mức ấn tượng trong ½ đầu năm
2018. Trong bối cảnh của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung,
ANZ cho rằng VN có thể có được những lợi ích nhất định từ cuộc xung
đột này, đặc biệt là trong lĩnh vực XK. ANZ cho rằng, triển vọng dài hạn
của VN cũng tích cực nhờ các yếu tố như nhân khẩu học thuận lợi, lực
lượng lao động có trình độ, các cải cách KT đang được thực hiện và lợi
ích từ các hiệp định thương mại tự do. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, KT
VN cũng đối mặt với nhiều thách thức như việc cần tập trung bảo đảm
lạm phát ở mức mục tiêu, giữ cho TTTD không quá mạnh và tăng
cường các bảng cân đối của KV tài chính. Hãng xếp hạng tín nhiệm
Moody's ngày 10/08 dự đoán KT VN sẽ tăng trưởng 6,4%/năm trong
giai đoạn 2018-2022. Hãng nhận định sức mạnh KT của VN là sự kết
hợp từ cả tăng trưởng cao và sức cạnh tranh cao, khi đang trong quá
trình chuyển dịch sang các ngành có giá trị gia tăng cao. Moody's cũng
nâng mức xếp hạng tín nhiệm của VN từ B1 lên Ba3 và điều chỉnh triển
vọng từ tích cực sang ổn định. Đánh giá của Moody’s được đưa ra dựa
trên tiềm năng tăng trưởng mạnh mẽ với sự hỗ trợ từ việc sử dụng ngày
càng hiệu quả lực lượng lao động và nguồn vốn trong nền KT. Theo
Moody's, kỳ hạn trung bình của TPCP dài và giảm dần sự phụ thuộc
vào nợ bằng ngoại tệ cho thấy sự ổn định và giảm dần gánh nặng nợ
của chính phủ, nhất là nếu tăng trưởng KT mạnh mẽ được duy trì dài
hơn dự kiến. Cấu trúc trái phiếu của Chính phủ VN cũng hạn chế sự tác
động của các "cú sốc" tài chính. Việc nâng mức xếp hạng nói trên đối
với VN cũng cho thấy sự cải thiện "sức khỏe" của ngành NH mà
Moody's dự báo sẽ được duy trì dù là từ các mức tương đối yếu.
Kinh tế Việt Nam
7
Ngày 12/08, NHTW Qatar (QNB) đã nhận định rằng "con hổ" mới nhất
của châu Á hiện nay là VN khi quốc gia Đông Nam Á đang nổi lên
thành một trong những nền KT tăng trưởng nhanh nhất TG. Theo phân
tích của QNB, một loạt các chỉ số cho thấy nền KT VN đang bùng nổ.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong 6th/2018 đã 7,1% so với cùng
kỳ 2017 và đây là mức tăng trưởng nhanh nhất của nền KT VN kể từ
năm 2011… Ngoài ra, nghiên cứu gần đây của nhóm chuyên gia thuộc
Viện Brookings tại Mỹ nhấn mạnh rằng khả năng xây dựng trên những
nền tảng vững chắc này thông qua các chính sách hiệu quả là những gì
đang thực sự làm cho VN vượt hơn hẳn các nước khác…
Việt Nam học được gì từ các chu
kỳ khủng hoảng kinh tế trong quá
khứ?
Báo cáo chuyên đề của MBS mới đây đã chi tiết lại các giai đoạn của
KT VN, đồng thời rút ra những kinh nghiệm nhằm đối phó với khủng
hoảng, nếu xảy đến. Theo MBS, trong quá khứ từ khi áp dụng nền KT
thị trường một cách rộng rãi vào đầu những năm 1990 tới nay, KT VN
đã trải qua 2 giai đoạn khó khăn. (i) Ở giai đoạn 1998 – 1999, tăng
trưởng GDP suy giảm xuống mức thấp nhất là 4,77% vào năm 1999.
Tuy nhiên thời gian diễn ra đợt suy giảm ngắn và các cân đối vĩ mô
tuơng đối được giữ vững. Lạm phát chỉ tăng trong một năm 1998 và
cũng ở mức không quá cao là 8,1%. Mặc dù khủng hoảng tài chính xảy
ra đồng loạt tại các quốc gia Đông Nam Á và đồng nội tệ của các quốc
gia này giảm mạnh cộng thêm dòng vốn đầu tư nước ngoài vào VN
giảm mạnh song Chính phủ cũng chỉ phải thực hiện hai lần tăng giá
USD từ từ 11.113 đồng năm 1996 lên 13.908 đồng năm 1998. Tổng
cộng VNĐ 25% giá trị so với USD. Cân đối vĩ mô cơ bản được giữ
vững và VN nhẹ nhàng vượt qua khủng hoảng tài chính KV chỉ trong 2
năm mà không chịu hậu quả đáng kể nào. (ii) Giai đoạn thứ hai, từ
2008 – 2012, tăng trưởng GDP giảm xuống mức thấp nhất là 5,03% vào
năm 2012. Thời gian diễn ra đợt suy giảm kéo dài cộng thêm bất ổn
KTVM thường xuyên diễn ra với tình trạng lạm phát phi mã và căng
thẳng tỷ giá. Xen giữa giai đoạn suy thoái thứ hai là một nhịp phục hồi
nhẹ năm 2009, 2010 khi Chính Phủ triển khai gói kích thích KT mạnh
tay. Về bản chất, gói kích thích kinh tế năm 2009 vẫn dựa trên việc nới
lỏng cả CSTT và chính sách tài khóa, bao gồm cả tăng tín dụng, giảm
lãi suất, tăng chi tiêu NSNN và giảm thuế. Gói kích thích KT 2009 chỉ
giúp cho nền KT phục hồi nhẹ trong năm 2010 song để lại hậu quả trầm
trọng trong các năm sau với tình trạng bất ổn kinh tế kéo dài…
8
Theo quan sát của MBS, hiện nền KT VN đang đi đúng hướng với các
giải pháp điều hành rất đúng đắn của Chính phủ và NHNN. Trong thời
gian tới nền KT TG vẫn sẽ có xu hướng ổn định tạo điều kiện cho VN
tiếp tục kiên định quá trình cải cách KT. MBS cho rằng yếu tố bên ngoài
chỉ có thể khiến cho KT trong nước giảm tốc, còn chính những yếu kém
bên trong mới đáng lo ngại. Do đó, nếu Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh
quá trình cải cách thể chế, khuyến khích KV tư nhân phát triển, tái cơ
cấu các DNNN và kiện tòan hệ thống NH, VN hoàn toàn có thể vượt
qua được những chu kỳ kinh tế xảy ra trong tương lai.
Thu ngân sách từ dầu thô đã cán
đích
Thống kê mới nhất từ Bộ Tài chính, thực hiện thu cân đối NSNN 7th ước
đạt 775.000 tỷ đồng, #58,7% dự toán, 13,4% so cùng kỳ 2017. Trong
đó: Thu nội địa ước đạt 621.570 tỷ đồng, #56,5% dự toán, 14,3% so
với cùng kỳ 2017. Không kể các khoản thu có tính chất đặc thù, số thu
nội địa còn lại ước đạt 479.500 tỷ đồng, #55,3% dự toán, 12,6% so
cùng kỳ 2017. Có 45/63 địa phương thu nội địa đạt tiến độ dự toán
(>58%); 57/63 địa phương thu cao hơn so với cùng kỳ 2017. Tính đến
tháng 7/2018, cơ quan Thuế đã thực hiện trên 30.200 cuộc thanh tra,
kiểm tra thuế; kiến nghị xử lý thu vào NSNN gần 5.800 tỷ đồng; chống
chuyển giá, giảm lỗ >9.000 tỷ đồng; thu hồi được gần 18.000 tỷ đồng nợ
thuế. Cơ quan Hải quan đã thực hiện 4.400 cuộc kiểm tra sau thông
quan, xử lý thu vào NSNN 1.480 tỷ đồng; bắt giữ, xử lý 6.270 vụ buôn
lậu, gian lận thương mại, tăng thu cho ngân sách 85 tỷ đồng. Riêng thu
từ dầu thô ước đạt xấp xỉ 35.400 tỷ đồng, #98,5% dự toán, 34,3% so
cùng kỳ 2017. Giá dầu thô thanh toán BQ 7th khoảng 72 USD/thùng,
22 USD/thùng so với giá dự toán; sản lượng 7th ước đạt 7,1 triệu tấn,
#62,8% dự toán, #90% cùng kỳ 2017. Thu từ hoạt động XNK ước đạt
172.500 tỷ đồng, #61% dự toán, 3,4% so với cùng kỳ 2017. Hoạt
động XNK hàng hóa 7th vẫn duy trì đà tăng trưởng khả quan với tổng
giá trị 12,7% so với cùng kỳ 2017 sau khi thực hiện hoàn thuế GTGT
theo chế độ (56.500 tỷ đồng). Về chi NSNN, luỹ kế chi 7th đạt 759.700 tỷ
đồng, #49,9% dự toán, 9,8% so với cùng kỳ 2017. Chi đầu tư phát
triển đạt 150.450 tỷ đồng, #37,6% dự toán, 26%; Chi trả nợ lãi đạt
68.800 tỷ đồng, #61,1% dự toán, 10,4%, đảm bảo thanh toán đầy đủ,
9
kịp thời nghĩa vụ nợ đến hạn theo cam kết; Chi thường xuyên đạt
534.000 tỷ đồng, #56,8% dự toán, 5,1%. Trong tháng 7/2018, hệ
thống KBNN đã thực hiện kiểm soát chi ước đạt 415.410 tỷ đồng, đạt
42,5% dự toán chi thường xuyên năm 2018; phát hiện 6.010 khoản chi
chưa chấp hành đúng thủ tục, chế độ quy định, số tiền thực từ chối
thanh toán là 7,3 tỷ đồng. Cân đối ngân sách trung ương và ngân sách
các cấp địa phương được đảm bảo, đến ngày 25/07/2018, đã thực hiện
phát hành 105.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, đạt 38,1% kế hoạch
phát hành. Trong tháng 7/2018, KBNN đã tổ chức 2 phiên đấu thầu trái
phiếu. Kết quả huy động là 6.320 tỷ đồng. Lũy kế 7th, tổng khối lượng
huy động đạt 95.901 tỷ đồng, đạt 34,8% kế hoạch được giao (275.970 tỷ
đồng). Huy động vốn trong nước 7th là 105.001 tỷ đồng (#38,05% kế
hoạch); huy động vốn nước ngoài của Chính phủ là 844,2 triệu USD
thông qua 11 Hiệp định vay.
10
Bị ảnh hưởng bởi chiến tranh
thương mại và nỗ lực giảm nợ,
kinh tế Trung Quốc mất đà, đầu
tư giảm xuống mức thấp kỷ lục
Tháng 7, sản lượng công nghiệp và doanh số bán lẻ tăng trưởng lần
lượt 6% và 8,8% sv cùng kỳ 2017. Đầu TSCĐ tăng trưởng 5,5% trong
7th đầu năm, thấp nhất kể từ 1999. Cả 3 chỉ tiêu này đều thấp hơn dự
báo, đồng thời tỷ lệ thất nghiệp ở KV thành thị đã tăng từ mức 4,8%
trong tháng 6 lên 5,1% trong tháng 7. Nền KT TQ mất đà trong bối cảnh
tuyên bố chuẩn bị sẵn sàng cho 1 cuộc chiến thương mại dài hơi với
Mỹ. Các quan chức nước này đã tuyên bố sẽ tăng cho vay đối với các
DN nhỏ và hỗ trợ đầu tư CSHT nhưng sẽ cần 1 thời gian để các biện
pháp hỗ trợ này phát huy tác dụng. Các dữ liệu trên cùng với số liệu
TTTD chậm lại trong tháng 7 sẽ tạo thêm áp lực buộc Chính phủ và
NHTW phải hành động nhiều hơn để hỗ trợ tăng trưởng… Theo chuyên
gia KT trưởng Viện tài chính quốc tế IIF, KT TQ giảm tốc là kết quả của
việc thắt chặt chính sách trong 6 quý vừa qua. Dự đoán TQ sẽ triển
khai chính sách tài khóa lỏng lẻo hơn trong nửa cuối năm 2018. "Không
thể tránh khỏi chuyện thắt chặt tín dụng đen sẽ làm tổn hại các DN nhỏ
và DNTN, trong khi căng thẳng thương mại leo thang ảnh hưởng tiêu
cực đến niềm tin của DN"… Tổng vốn đầu tư của KV tư nhân tăng
trưởng 8,8% sv cùng kỳ 2017, mạnh nhất kể từ tháng 3. Ngược lại, đầu
tư của KV DNNN tăng trưởng ở mức chậm nhất kể từ 2004. Xu hướng
này sẽ tiếp tục duy trì trong dài hạn bởi TQ đang tăng cường kiểm soát
hoạt động của DNNN như một phần của nỗ lực giảm nợ.
'Đám mây đen' chiến tranh
thương mại bao trùm nỗ lực quốc
tế hóa của đồng nhân dân tệ
Sự trượt giá của CNY đang tạo ra những cơn bão đầy thách thức cho
quá trình thúc đẩy quảng bá đồng nội tệ của TQ trên toàn cầu - một yếu
tố quan trọng trong việc tự do hóa rộng lớn hơn của nền KT lớn thứ 2
thế giới. Trong khi TQ ghi nhận được một số mốc quan trọng, CNY đã
sụt giảm giá trị trong thời gian qua, hệ quả của một nền KT suy giảm và
một cuộc chiến thương mại với Mỹ. Một dấu mốc quan trọng chính là
vào năm 2016, khi nhân dân tệ gia nhập hàng ngũ đồng USD, euro,
yên và bảng Anh như một phần của Quyền rút vốn đặc biệt của Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (SDR), một tài sản dự trữ quốc tế... Căng thẳng thương
mại đã làm lộ ra các lỗ hổng trong nền KT đang giảm tốc của TQ làm
Kinh tế Quốc tế
11
cho NĐTNN lo lắng. Quan trọng hơn, sự yếu đi của CNY đã diễn ra
trong 2018 và không thể chỉ đổ lỗi cho căng thẳng thuế quan. Theo các
nhà KT học của IHS Markit, CNY đã mất giá sv USD trong nửa đầu
năm nay vì lợi suất tăng ở Mỹ khi FED tiếp tục tăng LS. Việc Mỹ sử
dụng các mức thuế trừng phạt để cố gắng khắc phục thâm hụt thương
mại kinh niên của TQ với nước này cũng đóng một vai trò quan trọng.
Cho vay ngang hàng ở Trung
Quốc lâm khủng hoảng
TQ đang đẩy mạnh giám sát và soạn thảo các biện pháp mới đối với
lĩnh vực cho vay qua mạng Internet vốn phát triển chóng mặt những
năm qua. Các vụ phá sản quỹ xảy ra gần đây đã dẫn tới biểu tình, và
thậm chí đã khiến một chuỗi cửa hàng tiện ích ở Bắc Kinh phải ngừng
hoạt động. Đối tượng trong đợt tăng cường giám sát này là các trang
cho vay ngang hàng (peer-to-peer lending - P2P). Vào 2015, số công ty
P2P ở TQ lên tới con số 3.500 nhưng đến nay đã đóng cửa khoảng ½…
Từ tháng 6, đã có 73 trang web P2P "sập tiệm" do vấn đề thanh khoản
và sẽ chỉ có chưa đầy 200 trang web P2P có thể tồn tại. Làn sóng sụp
đổ trong lĩnh vực cho vay ngang hàng có thể bắt nguồn từ tín dụng vĩ
mô bị thắt chặt, chi phí gia tăng khiến nhiều trang web P2P phải tự
động đóng cửa; và các đợt rút vốn ồ ạt do NĐT hoảng sợ đã khiến
những quỹ không có sự chuẩn bị kỹ lương rơi vào tình trạng "trở tay
không kịp". Chỉ sau vài năm phát triển, lĩnh vực cho vay ngang hàng ở
TQ đã đạt quy mô 1.300 tỷ CNY, #188,7 tỷ USD. Tuy nhiên, dự nợ của
lĩnh vực này chỉ #1% tổng lượng vốn cho vay trong hệ thống NH TQ.
Myanmar cho phép 13 ngân
hàng nước ngoài cung cấp dịch
vụ tài trợ nhập khẩu
Thống đốc NHTW Myanmar cho biết: "Chúng tôi sẽ ưu tiên cho 13 NH
cho phép hiện tại bằng cách cho phép họ mở rộng DV, bao gồm tài trợ
NK". Người cho vay nước ngoài có thể cung cấp trọn bộ DV tài trợ
thương mại. Tài trợ NK cũng sẽ tạo thuận lợi cho thương mại và duy trì
giá của sản phẩm NK dưới sự kiểm soát. Ngoài ra Myanmar còn có kế
hoạch cho phép các nhà NK mở tài khoản tại NHNNg, đó là một chính
sách tốt để đảm bảo việc nhập thêm ngoại tệ vào thị trường. Các
NHNNg tại Myanmar vẫn bị cấm cung cấp các DV NH bán lẻ như tài
khoản tiết kiệm và các khoản vay vì CBM hạn chế họ cung cấp tài trợ
XK và DV NH bán buôn, một sự bất bình đẳng mà NHTW thừa nhận.
"Chúng tôi có kế hoạch cho phép nhiều NHNNg tham gia vào nền KT
nhưng hiện chưa có thời gian cụ thể".
12
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH http://ndh.vn/vcbs-nhnn-co-the-giu-ty-gia-trung-tam-giam-2-2-5-trong-nam-2018-
20180814091821252p4c149.news
https://vietstock.vn/2018/08/lai-suat-tiet-kiem-bat-ngo-tang-757-623141.htm
http://cafef.vn/giam-so-huu-nha-nuoc-niem-yet-vcb-bid-va-ctg-o-nuoc-ngoai-
20180814165656062.chn
https://vietstock.vn/2018/08/chenh-lech-lai-suat-tro-lai-chia-lua-cho-ty-gia-757-622935.htm
Tin KT vĩ mô http://cafef.vn/cac-to-chuc-quoc-te-lac-quan-ve-trien-vong-kinh-te-viet-nam-
20180814171044234.chn
http://cafef.vn/viet-nam-hoc-duoc-gi-tu-cac-chu-ky-khung-hoang-kinh-te-trong-qua-khu-
20180815012322507.chn
http://ndh.vn/thu-ngan-sach-tu-dau-tho-da-can-dich-20180814053538171p145c151.news
Tin KT Quốc tế http://cafef.vn/bi-anh-huong-boi-chien-tranh-thuong-mai-va-no-luc-giam-no-kinh-te-trung-quoc-
mat-da-dau-tu-giam-xuong-muc-thap-ky-luc-20180814143844953.chn
http://cafef.vn/dam-may-den-chien-tranh-thuong-mai-bao-trum-no-luc-quoc-te-hoa-cua-dong-nhan-
dan-te-2018081508054635.chn
https://vietnambiz.vn/cho-vay-ngang-hang-o-trung-quoc-lam-khung-hoang-72312.html
https://vietnambiz.vn/myanmar-cho-phep-13-ngan-hang-nuoc-ngoai-cung-cap-dich-vu-tai-tro-
nhap-khau-72384.html
13
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG LS LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bất động sản BĐS Mua bán, sáp nhập M&A
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng NH
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng bán lẻ NHBL
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng Nhà nước NHNN
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTMCP
DNNN DNNN Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTMNN
DN tư nhân DNTN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
DN vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách Nhà nước NSNN
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Ngân sách trung ương NSTW
Dự án DA Nhập khẩu NK
Dự trữ bắt buộc DTBB Sản xuất KD SXKD
Đăng ký KD ĐKKD Tài sản bảo đảm TSBĐ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổ chức tín dụng TCTD
Giấy chứng nhận GCN Tổng tài sản TTS
Giá trị gia tăng GTGT Tổng SP quốc nội GDP
Hợp đồng tín dụng HĐTD Trung Quốc TQ
Khách hàng DN KHDN Trái phiếu Chính phủ TPCP
Khách hàng cá nhân KHCN Trái phiếu DN TPDN
KT vĩ mô KTVM Thị trường chứng khoán TTCK
Kho bạc Nhà nước KBNN VN VN
Khu vực KV Vốn điều lệ VĐL
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Vốn tự có VTC
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Xã hội XH
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Xuất khẩu XK
Ngân hàng TG World Bank Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng trung ương châu Au ECB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Hiệp hội Thép VN VSA
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội HNX
Liên minh châu Au EU Sở Giao dịch chứng khoán Tp.HCM HOSE
Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Tổng cục thống kê GSO