31
ĐẠI HC QUC GIA THÀNH PHHCHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HC KHOA HC XÃ HI VÀ NHÂN VĂN LÊ VÕ THANH LÂM GIGÌN VÀ PHÁT HUY BN SC VĂN HÓA DÂN TC VIT NAM THÀNH PHHCHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIP HÓA, HIN ĐẠI HÓA Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS Mã s: 62.22.80.05 TOÙM TAÉT LUAÄN AÙN TIEÁN SÓ TRIEÁT HOÏC THAØNH PHOÁ HOÀ CHÍ MINH – 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ... · ĐẠi hỌc quỐc gia thÀnh phỐ hỒ chÍ minh trƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn lÊ vÕ thanh

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ VÕ THANH LÂM

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN

TỘC VIỆT NAM Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA,

HIỆN ĐẠI HÓA

Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS

Mã số: 62.22.80.05

TOÙM TAÉT LUAÄN AÙN TIEÁN SÓ TRIEÁT HOÏC

THAØNH PHOÁ HOÀ CHÍ MINH – 2015

CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

1. TS. TRẦN CHÍ MỸ

2. TS. NGUYỄN ANH QUỐC

Phản biện 1: PGS. TS. NGUYỄN QUANG ĐIỂN

Phản biện 2: PGS. TS. ĐẶNG HỮU TOÀN

Phản biện 3: PGS. TS. NGUYỄN XUÂN TẾ

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp nhà nước họp tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, số 10 – 12 Đinh Tiên Hoàng, Quân 1, Tp. Hồ Chí Minh vào lúc: 08 giờ ngày 08 tháng 09 năm 2015.

Phản biện độc lập 1: PGS. TS. NGUYỄN QUANG ĐIỂN

Phản biện độc lập 2: PGS. TS. ĐẶNG HỮU TOÀN

Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học

Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.

- Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh - Thư viện Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh

CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

1. Lê Võ Thanh Lâm (2009), “Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt

Nam, số 6(37)/ 2009, tr. 111 - 116

2. Lê Võ Thanh Lâm (2009), “Bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam với sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Khoa học chính trị, số 1/ 2010,

tr. 42 - 46

3. Lê Võ Thanh Lâm (2005), “Phong trào Đông Kinh nghĩa thục với bước

chuyển biến tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX”, Bước chuyển tư tưởng Việt Nam

cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.114 - 133.

4. Lê Võ Thanh Lâm (2007), Giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận văn thạc sỹ Chủ

nghĩa xã hội khoa học, Trường ĐHKHXH & NV.

5. Lê Võ Thanh Lâm (chủ nhiệm đề tài) (2008), Giữ gìn bản sắc dân tộc của

văn hóa Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Hồ

Chí Minh hiện nay, Đề tài cấp trường, Trường ĐHKHXH & NV

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận án

Trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, cùng với các yếu tố cơ

bản khác như kinh tế, chính trị - xã hội… thì văn hóa đóng một vai trò hết sức

quan trọng; “là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực

thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”1. Một xã hội đạt được sự phát triển bền

vững, phải kết hợp phát triển cân đối và hài hòa giữa các lĩnh vực, như kinh tế,

chính trị, văn hóa. Sự phát triển của mỗi xã hội không chỉ căn cứ vào thước đo

duy nhất là kinh tế, mặc dù kinh tế là cơ sở nền tảng vật chất của một cơ cấu xã

hội. Văn hóa với những giá trị truyền thống của dân tộc là nền tảng tinh thần của

dân tộc đó sẽ góp phần quan trọng định hướng cho xã hội hướng đến sự phát

triển một cách bền vững. Chính vì thế, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước

trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), và

trong các nghị quyết của Đảng, Đảng ta luôn khẳng định, phải tiếp tục: “đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”2, đồng thời phải “khẳng định và

phát huy các giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam, làm cho văn hóa thấm sâu vào

đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan

trọng của phát triển bền vững”3.

Cùng với chiến lược phát triển chung của cả nước, thành phố Hồ Chí

Minh - một trong những đô thị, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa lớn của

cả nước, với danh hiệu “Đất thép thành đồng” trong công cuộc kháng chiến cứu

1 Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.55 2 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.72 3 Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Dự thảo “Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, tr.5

2 nước trước kia; và là thành phố “phải đi trước và về đích trước trong sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”4 hiện nay, nhiệm vụ mới đặt ra, đối

với Đảng bộ và nhân dân thành phố là cần phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa để phát triển thành phố “trở thành thành phố xã hội chủ nghĩa

văn minh, hiện đại”, nghĩa tình và là đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía

Nam.

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà thành phố Hồ Chí Minh và cả

nước đang thực hiện, không chỉ liên quan đến việc trang bị lại công nghệ hiện

đại cho các ngành kinh tế, mà thực chất chính là quá trình cải biến mọi hoạt

động kinh tế, chính trị, xã hội lên trình độ tiên tiến, hiện đại. Để thực hiện

nhiệm vụ trên, thành phố Hồ Chí Minh không chỉ đơn giản là ứng dụng khoa

học - kỹ thuật - công nghệ tiên tiến từ bên ngoài, mà là phải biết kết hợp các

nguồn nội lực, lợi thế của đất nước, vùng, địa phương cùng với các yếu tố bên

ngoài. Cùng với việc khai thác lợi thế của vùng cũng như huy động sức mạnh

tổng hợp của mọi nguồn lực cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

thì giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở thành phố Hồ Chí

Minh đóng một vai trò không nhỏ. Các giá trị truyền thống văn hóa dân tộc

luôn được xác định là nền tảng, là sức mạnh tinh thần, là động lực và mục tiêu

cho sự phát triển xã hội. Vì vậy, song song với việc phát triển kinh tế, thực hiện

công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì cần phải biết giữ gìn và phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc và các giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của nhân dân thành phố

Hồ Chí Minh, biến chúng trở thành một trong những nguồn lực nội sinh quan

trọng, đảm bảo thắng lợi toàn diện quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ở thành phố Hồ Chí Minh. Với tất cả những lý do trên, tác giả đã chọn

vấn đề “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” làm luận án tiến

sĩ Triết học của mình.

4 Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh (2005): Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VIII, tr.124.

3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Với đề tài luận án, đã có nhiều công trình của nhiều tác giả trong và ngoài

nước tiếp cận nghiên cứu theo các góc độ chính như sau:

Các công trình nghiên cứu vấn đề lý luận chung về văn hóa, bản sắc văn

hóa dân tộc và vai trò bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam đối với sự nghiệp phát

triển đất nước. Ở nước ngoài, khá nhiều công trình nghiên cứu tập trung trình bày

những vấn đề về đặc điểm, tính chất và quy luật vận động của văn hóa, vị trí và

vai trò của văn hóa trong phát triển cũng như những yếu tố xác định bản sắc văn

hóa dân tộc của mỗi quốc gia và vị trí của bản sắc văn hóa dân tộc. E.B.Taylor

(E.B.Tylor) công bố công trình Văn hóa nguyên thủy vào năm 1871. Vào cuối

những năm 70 của thế kỷ XX, Phrăngxoa Prutxơ (Francois Perroux) – giáo sư

người Pháp đã tập trung một số nhà lý luận có tên tuổi của UNESCO để viết cuốn

“Triết lý của sự phát triển” (Pour une philosophie du noveau développement). Và

ngày 8 tháng 12 năm 1986, Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết 41/187 tuyên

bố Thập kỷ 1988 – 1997 là Thập kỷ thế giới vì sự phát triển văn hóa. “Cơ sở lý

luận văn hóa Mác – Lênin” do Acnônđốp A.I chủ biên, Nxb. Văn hóa, Hà Nội,

1991 ; “Tính kế thừa trong sự phát triển văn hóa trong điều kiện của chủ nghĩa xã

hội” của Cairan V.I, Mátxcơva, 1977; “Văn hóa học” của V.M. Rôđin do Nxb.

Khoa học Mátxcơva,1998.

Ở trong nước, có thể phân các công trình nghiên cứu về các vấn đề liên

quan đến luận án ra thành hai nhóm cơ bản sau:

Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về văn hóa và vai trò của văn hóa đối

với sự phát triển; đó là các tác phẩm: Tổng tập “Khái niệm và quan niệm về văn

hóa” Viện Văn hóa ấn hành năm 1986; “Văn hóa xã hội chủ nghĩa” của tập thể

các nhà khoa học thuộc Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã biên soạn

tập bài giảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1986; “Vấn đề văn hóa và phát

triển” của Hoàng Trinh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; “Cơ sở văn hóa

Việt Nam” do Trần Quốc Vượng chủ biên, Nxb. Giáo dục xuất bản năm 1998;

“Văn hóa dân tộc một số vấn đề triết học” của TS. Hoàng Văn Lương, Nxb. Văn

4 hóa dân tộc, 2002; “Nhận thức văn hóa Việt Nam” của GS,TS. Nguyễn Duy

Quý, Nxb. Khoa học xã hội, 2008; “Văn hóa Việt Nam trên con đường đổi mới

những thời cơ và thách thức” của GS,TS. Trần Văn Bính, Nxb. Khoa học xã hội,

Hà Nội, 2010; Thứ hai, các công trình nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc

Việt Nam và vai trò của bản sắc văn hóa dân tộc đối với sự phát triển đất nước,

nổi lên một số công trình sau: “Bản sắc dân tộc của văn hóa" của GS,TS. Đỗ

Huy, Nxb. Văn hóa, 1990; “Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong văn hóa" của

GS,VS. Hoàng Trinh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, (2000); “Bản sắc văn

hóa Việt Nam” của GS. Phan Ngọc, Nxb. Văn học, 2002; “Bản sắc dân tộc và

hiện đại hóa văn hóa Việt Nam - Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn" do PGS,TS.

Thành Duy (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006…

Về các công trình nghiên cứu lịch sử - văn hóa của vùng đất Sài Gòn –

Thành phố Hồ Chí Minh và vai trò của văn hóa truyền thống đối với sự phát

triển của thành phố, có thể khái quát thành hai nhóm cơ bản như sau: Thứ nhất,

các công trình nghiên cứu về lịch sử - văn hóa và con người của vùng đất Nam

bộ. Đó là các công trình: “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức; Bộ

sách được dâng lên vua Minh Mệnh vào năm Canh Thìn (1820); “Lịch sử khẩn

hoang miền Nam (Biên khảo) của Sơn Nam, Nhà xuất bản Trẻ (tái bản lần thứ

nhất), 2014. “Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh” do GS. Trần Văn Giàu –

Trần Bạch Đằng – GS. Nguyễn Công Bình đồng chủ biên, Nxb. Thành phố Hồ

Chí Minh, 1987, 4 tập; “Miền Đông Nam Bộ con người văn hóa” của Phan Xuân

Biên, Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2004. Thứ hai, các công

trình viết về những giá trị văn hóa truyền thống với sự phát triển của thành phố

Hồ Chí Minh hiện nay; đó là công trình “Những giá trị văn hóa đô thị Sài Gòn –

Thành phố Hồ Chí Minh” do Tôn Nữ Quỳnh Trân chủ biên, Nxb. Tổng hợp

thành phố Hồ Chí Minh, 2010.

Các công trình nghiên cứu về sự tác động của quá trình phát triển kinh tế,

xã hội đối với các giá trị văn hóa truyền thống ở thành phố Hồ Chí Minh. Với

khá nhiều các công trình nghiên cứu, có thể kể đến những kết quả chủ yếu trong

5 các công trình tiêu biểu sau: “Văn hóa làng xã trước sự thách thức của đô thị

hóa tại thành phố Hồ Chí Minh” do Tôn Nữ Quỳnh Trân chủ biên, Nhà xuất bản

Trẻ, 1999. “Một số vấn đề văn hóa cơ bản ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” do GS. Nguyễn Tấn Đắc chủ nhiệm, năm

2000 “Vấn đề giữ gìn văn hóa truyền thống và xây dựng nền văn hóa hiện đại

đậm đà bản sắc dân tộc ở thành phố Hồ Chí Minh” là đề tài nghiên cứu khoa

học do GS. Hoàng Như Mai chủ nhiệm thuộc Sở khoa học công nghệ và môi

trường thành phố Hồ Chí Minh, năm 2001. “Về công tác tư tưởng và văn hóa ở

thành phố Hồ Chí Minh” của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Nxb. Thành phố

Hồ Chí Minh, 1985.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án

Mục đích của luận án:

Trên cơ sở làm rõ bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chỉ ra được những biểu hiện đặc thù và xác

định tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt

Nam đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Hồ Chí Minh;

luận án nhằm đánh giá thực trạng, xác định phương hướng và đề ra các nhóm

giải pháp cơ bản đảm bảo cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa.

Nhiệm vụ của luận án:

Để đạt được mục đích trên, luận án phải thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Thứ nhất, trình bày, phân tích làm rõ quan niệm về bản sắc văn hóa dân

tộc Việt Nam; phân tích, luận giải về đặc điểm của quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa ở Việt Nam, và vai trò của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam

trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.

- Thứ hai, trình bày khái quát những điều kiện ảnh hưởng và những biểu

hiện đặc thù của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh;

6 phân tích, làm rõ vai trò và yêu cầu của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc Việt Nam đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành

phố Hồ Chí Minh

- Thứ ba, trình bày, phân tích chỉ ra thực trạng, nguyên nhân và những

vấn đề đặt ra cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở

thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua; từ đó đề ra các phương hướng

và một số giải pháp cơ bản của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu việc giữ

gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu

Luận án được thực hiện trên cơ sở thế giới quan duy vật và phương pháp

luận biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nội dung của luận án được triển

khai tiếp cận chủ yếu với những phương pháp nghiên cứu tổng hợp liên ngành,

trong đó đặc biệt chú trọng các phương pháp như: phương pháp lịch sử - logic,

phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê…để nghiên cứu và

trình bày luận án.

5. Cái mới của luận án

Một là, luận án đã làm rõ những biểu hiện đặc thù của bản sắc văn hóa

dân tộc Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở khái quát những điều

kiện hình thành như: lịch sử, vị trí địa lý, dân cư, chính trị - xã hội.

Hai là, luận án đã trình bày, phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất một

số phương hướng, giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

7 Ý nghĩa khoa học: Luận án góp phần làm rõ lý luận về bản sắc văn hóa

dân tộc Việt Nam và những biểu hiện đặc thù của bản sắc văn hóa dân tộc Việt

Nam ở thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, phân tích, làm sáng tỏ vai trò và yêu

cầu của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở thành phố

Hồ Chí Minh đối với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Ý nghĩa thực tiễn: Những phân tích, đánh giá về thực trạng, những

phương hướng và giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước mà luận án đề xuất sẽ góp phần giúp Đảng bộ, chính quyền thành

phố tham khảo trong việc hoạch định chính sách để phát huy tốt hơn vai trò của

bản sắc văn hóa dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Hồ Chí

Minh.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài mục lục, phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo

và phụ lục, luận án được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết và 12 tiểu tiết.

Chương 1

BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP

CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VÀ BẢN SẮC

VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM

1.1.1. Quan niệm về văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc

Quan niệm về văn hóa

Văn hóa được xem là khái niệm đa tầng, đa nghĩa với ngoại diên rộng lớn

và nội hàm phong phú sâu sắc, là sự sáng tạo của con người đã diễn ra trong

quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại.

Trên cơ sở phân tích, đúc rút những nội dung căn bản, xuyên suốt qua các

định nghĩa về văn hóa đã được phổ biến và sử dụng rộng rãi từ cổ đại đến nay,

8 ở phương Đông và phương Tây, từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam, xuất phát từ mục đích

của luận án là xem xét văn hóa ở góc độ là giá trị và hệ giá trị - bản sắc văn hóa

dân tộc, tác giả tán thành định nghĩa văn hóa trong Từ điển bách khoa Việt

Nam, văn hóa là “toàn bộ những hoạt động sáng tạo và những giá trị của nhân

dân một nước, một dân tộc về mặt sản xuất vật chất và tinh thần trong sự

nghiệp dựng nước và giữ nước”. Văn hóa tự bản thân đã mang đậm dấu ấn

riêng của từng dân tộc, bản sắc riêng của từng dân tộc - bản sắc văn hóa dân

tộc.

Quan niệm về bản sắc văn hóa dân tộc

Bản sắc văn hóa dân tộc, để làm rõ quan niệm này tác giả luận án đã xác

định rõ các thuật ngữ “bản sắc”, “dân tộc”,“bản sắc dân tộc” và “bản sắc văn

hóa”. Mỗi dân tộc, mỗi tộc người, trong quá trình hình thành và phát triển của

mình, đều tạo nên những giá trị văn hóa riêng, bản sắc văn hóa dân tộc.

Trên cơ sở các đặc điểm của bản sắc văn hóa dân tộc: một là, thể hiện ra

ở những hệ giá trị - là cốt lõi của bản sắc văn hóa dân tộc; hai là, tính bền vững

và trường tồn trong lịch sử mà nhờ đó thế hệ sau kế thừa phát triển ngay trên

giá trị quá khứ, tiếp thu giá trị hiện đại. Vậy, bản sắc văn hóa dân tộc là tổng

thể những giá trị văn hóa đặc sắc, bền vững của một dân tộc được sáng tạo

nên trong lịch sử qua quá trình hoạt động thực tiễn lâu dài của dân tộc, làm

cho dân tộc đó hiện ra với những nét độc đáo, phân biệt với dân tộc khác.

Từ việc xác định rõ các thuật ngữ cũng như đặc điểm cơ bản và nội dung

của bản sắc văn hóa dân tộc, sẽ là cơ sở để đi vào tìm hiểu một cách cụ thể về

bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.

1.1.2. Quan niệm về bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam

Cơ sở hình thành bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam

Giá trị bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành từ chính những

điều cơ bản sau đây: thứ nhất, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam bị quy định

bởi môi trường trong đó cộng đồng dân tộc sinh sống; thứ hai, quốc gia dân tộc

9 Việt Nam được hình thành từ rất sớm, với ý thức quốc gia dân tộc được thể

hiện rất cao; thứ ba, các hình thái kinh tế - xã hội trong toàn bộ tiến trình lịch

sử Việt Nam phát triển không hoàn thiện trên cơ sở chính nó, mang tính xã hội

phức tạp và khó phân kỳ lịch sử; thứ tư, lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của

chuỗi dài đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại độc lập và bảo vệ Tổ quốc; thứ

năm, vị trí địa chính trị kinh tế hết sức thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế, xã hội

và đặc biệt là giao lưu văn hóa. Và xét cho cùng, yếu tố chính để quyết định nội

dung và bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam chính là cuộc sinh tồn lịch sử của

dân tộc Việt Nam.

Hệ thống các giá trị phổ biến của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam

Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc là tâm thức của con

người Việt Nam - một hệ giá trị cốt lõi, hàng đầu của dân tộc ta. Lòng yêu nước

của con người Việt Nam đã vượt lên tất cả, mang sắc thái riêng. Lòng yêu nước

đã trở thành chuẩn mực đạo đức, thành một triết lý xã hội và nhân sinh của

người Việt Nam. Từ tinh thần yêu nước - hệ giá trị cốt lõi đó còn là một hệ giá

trị gắn kết – ý chí tự cường dân tộc.

Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - làng xã - Tổ quốc là

nguồn sức mạnh nội sinh đặc biệt quan trọng của dân tộc Việt Nam, góp phần

làm cho dân tộc trường tồn và lớn mạnh.

Lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý chính là tình thương

yêu của con người Việt Nam thắm đượm trong các mối quan hệ giữa các thành

viên trong gia đình, làng xóm, cộng đồng và trở thành một nét độc đáo, một

chuẩn mực sống của con người Việt Nam.

Đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động là nguồn gốc của mọi của cải và

hạnh phúc đã ăn sâu vào tâm thức của người Việt Nam. Nó vừa là điều kiện

đảm bảo nhu cầu sống của con người, là sự thể hiện trách nhiệm của con người

Việt Nam đối với đất nước.

Sự tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống chính cuộc sống tần tảo

cũng như sự bình lặng ít thay đổi của nền sản xuất nông nghiệp đã tạo nên con

10 người với đức tính giản dị, khiêm tốn, ngay thẳng, thật thà coi trọng thực chất,

ghét thói xu nịnh. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam đã và đang là nguồn lực nội

sinh góp phần quan trọng tạo nên những thành công với mục tiêu của sự phát

triển.

1.2. CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ VAI TRÒ CỦA BẢN SẮC

VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,

HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

1.2.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đặc điểm của

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

Quan niệm chung về công nghiệp hóa và hiện đại hóa

Công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã hội theo

hướng phát triển mạnh công nghiệp, tạo ra sự vượt trội của công nghiệp trong

cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, áp dụng rộng rãi những tiến bộ khoa học,

công nghệ mới hiện đại làm nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển nhanh,

vững chắc của toàn bộ nền kinh tế, xã hội. Hiện đại hóa là quá trình sử dụng các

thành tựu của khoa học kỹ thuật tiên tiến của nhân loại để áp dụng trên mọi lĩnh

vực của đời sống xã hội, làm cho xã hội hiện đại, văn minh và mục tiêu cao

nhất là hiện đại hóa đời sống con người. Lý luận và thực tiễn cho thấy, công

nghiệp hóa, hiện đại hóa được xem là một quy luật, là một quá trình phát triển

kinh tế - xã hội.

Đặc điểm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay

Quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam với những

đặc điểm cơ bản: một là, công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa; hai là,

khoa học và công nghệ được xác định là nền tảng, là động lực của công nghiệp

hóa, hiện đại hóa; gắn liền với nền kinh tế trí thức; ba là, nó thực hiện trong bối

cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy hiệu quả

kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản; bốn là, nó gắn liền với việc xây dựng

nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Với vai trò là

11 nền tảng, động lực tinh thần của xã hội và là một trong những yếu tố định hướng,

đảm bảo cho sự thắng lợi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đó chính là

bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.

1.2.2. Vai trò của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là nền tảng tinh thần trong công cuộc

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Là nền tảng tinh thần của xã hội bản sắc

văn hóa dân tộc sẽ tạo nên cốt cách, trí tuệ, bản lĩnh và sức mạnh nội lực “nguyên

khí” của đất nước ta trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước.

Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là động lực tinh thần thúc đẩy tiến trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. “Động lực” là năng lượng vốn có của

bản thân sự vật, tạo nên sự tự thân vận động của bản thân sự vật đó, đồng thời

tác động, thúc đẩy sự vật khác vận động, phát triển. Với tư cách là động lực tinh

thần, bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ được hình thành, bồi đắp và thấm sâu

vào từng con người, từng lĩnh vực của đời sống xã hội mà còn trở thành năng

lượng, sức mạnh nội sinh, tiềm năng nội lực, tác động, thúc đẩy quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng và quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước nói chung.

Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là một trong những nhân tố định

hướng, đảm bảo thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước. Sự nghiệp đổi mới xây dựng phát triển ổn định bền vững nền kinh tế - xã

hội của Việt Nam nói chung, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng

muốn thành công cần có yếu tố vừa là nền tảng vừa có tính chất vạch hướng cho

quá trình phát triển đó. Từ đó mới xác định mục tiêu cách thức, phương pháp

phát triển xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi. Bản sắc văn

hóa dân tộc chính là yếu tố định hướng và đảm bảo cho sự phát triển đó đúng

hướng, gắn với đặc điểm yêu cầu riêng của điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam

cũng như thực tiễn Việt Nam.

12

Kết luận chương 1

Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là hệ giá trị bền vững, những tinh hoa

của cộng đồng dân tộc Việt Nam được vun đắp qua hàng ngàn năm lịch sử. Thể

hiện qua lòng yêu nước nồng nàn, ý thức tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết;

tính cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng - nước; lòng nhân ái bao dung,

trọng nghĩa tình đạo lý; đức tính cần cù sáng tạo trong lao động; tế nhị trong cư

xử, giản dị trong lối sống… Lấy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là nền tảng,

sức mạnh tinh thần, hệ điều tiết của sự phát triển và góp phần đem lại thành công

cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Chương 2

TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC

VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

2.1. THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN ĐẶC THÙ CỦA

BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM

2.1.1. Những điều kiện ảnh hưởng đến biểu hiện đặc thù của bản sắc

văn hóa dân tộc Việt Nam ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh

Lịch sử hình thành và điều kiện địa lý, tự nhiên ảnh hưởng đến sự biểu hiện

đặc thù của bản sắc văn hóa dân tộc ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh

Về đặc điểm vị trí địa lý: Tính chất phong phú, đa dạng và tính chất mở

của điều kiện địa lý của thành phố Hồ Chí Minh là một trong những điều kiện

góp phần hình thành nên một nền văn hóa ở thành phố khá phong phú, mang

tính dung hợp, tính mở, tính linh hoạt và tính lan tỏa cao. Về đặc điểm điều kiện

tự nhiên: Những điều kiện tự nhiên khá thuận lợi đã tác động tạo ra tính đa

dạng trong văn hóa ăn, ở, mặc, cư trú, đi lại cũng như tính đa dạng về nội dung,

hình thức biểu đạt và sinh hoạt tinh thần, nhất là những phẩm chất văn hóa nổi

bật như: tính hiền hòa, sự phóng khoáng, bao dung, trọng nghĩa khinh tài, tính

năng động, cởi mở, hướng ngoại…

13

Đặc điểm lịch sử, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự biểu hiện đặc thù của

bản sắc văn hóa dân tộc ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh

Về đặc điểm lịch sử: Nếu tính từ cái mốc nhà Nguyễn thành lập phủ Gia

Định và huyện Tân Bình năm 1698 thì đến nay chỉ hơn 300 năm tuổi. Trải qua

mọi thử thách, Sài Gòn với sức sống mãnh liệt luôn vững chãi và phát triển. Và

nay, với sức sống mãnh liệt của một thành phố trẻ của những con người giàu

truyền thống dân tộc, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố đã và đang

cùng cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng con người mới và

cuộc sống mới. Về đặc điểm kinh tế: Sài Gòn - Trung tâm kinh tế thương mại

bậc nhất của cả nước. Với lối tư duy mở, cơ chế động, vị trí thuận lợi cho việc

giao thương, đã giúp Sài Gòn nhanh chóng phát triển kinh tế hàng hóa. Hiện

nay, với quá trình phát triển và hội nhập quốc tế, là nơi hoạt động kinh tế năng

động nhất, đi đầu cả nước về tốc độ phát triển kinh tế, về sự tiếp thu khoa học

kỹ thuật, về việc thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài…Về đặc điểm dân cư:

Cư dân Sài Gòn bắt nguồn từ tính cách lưu dân sơ khởi, từ mọi miền đất nước,

từ sự giao thoa với bên ngoài đã thúc đẩy các nhóm dân cư, các cộng đồng dân

tộc gần gũi nhau, và trở thành vùng đất đa văn hóa, đa tôn giáo, tín ngưỡng và

đa màu sắc cư dân. Về tổ chức sinh hoạt gia đình và cộng đồng làng xã: Hình

thức gia đình cũng được tổ chức theo từng quan niệm truyền thống riêng của

mỗi tộc người. Làng ở Sài Gòn có tính hướng mở, tạo điều kiện dễ dàng giao

lưu, tiếp nhận và hội nhập với cái mới.

2.1.2. Những biểu hiện đặc thù của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam

ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh

Lòng yêu nước nồng nàn, ý thức tự cường dân tộc

Trong lịch sử trên 300 năm hình thành và phát triển của Sài Gòn - Thành

phố Hồ Chí Minh, nếu tính từ khi quân Pháp chiếm trọn Sài Gòn vào năm 1860

đến năm 1975 thì Sài Gòn với hơn một thế kỷ sống dưới ách thống trị của thực

dân, đế quốc. Ngay từ đầu với tinh thần không cam chịu mất nước, nhân dân Sài

Gòn đã một lòng đứng dậy chống xâm lược. Lịch sử đã ghi lại tinh thần yêu nước

14 nồng nàn và ý thức trách nhiệm cao cả của nhân dân Nam Bộ và Sài Gòn trước

vận mệnh của dân tộc. GS.Trần Văn Giàu nhận định: “In như là lịch sử thử thách

tinh thần chiến đấu cứu nước của nhân dân Việt Nam, của nhân dân Sài Gòn. Hy

sinh nối tiếp hy sinh, hy sinh lần sau lớn hơn lần trước, người Sài Gòn không biết

thối chí là gì”5. Tinh thần yêu nước, chủ nghĩa yêu nước của nhân dân Sài Gòn

được “hun đúc và tích tụ” một cách tập trung, phong phú và sâu sắc hơn, được

thể hiện rõ ràng và quyết liệt nhất với ý chí kiên cường bất khuất của một thành

phố “tiền đồn” đại diện cho cả nước.

Lòng yêu nước, ý thức tự cường dân tộc đã được thể hiện rõ nhất bởi sắc

thái của người dân thành phố với tính tiên phong, táo bạo, kiên cường, kiên

quyết, dũng cảm … Với tính cách ấy, lòng yêu nước là “vũ khí” sắc bén, sức

mạnh tinh thần giúp người dân Sài Gòn tiến hành hai cuộc kháng chiến thần

thánh cùng cả nước chống lại những tên đế quốc hùng mạnh của thế giới đem

lại lịch sử vẻ vang cho dân tộc. Tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước, tự cường

dân tộc, trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, Đảng

bộ và nhân dân Sài Gòn lại vươn lên đi đầu trong chống đói nghèo và lạc hậu,

với sự nhanh nhạy và năng động trong việc đổi mới lối sản xuất, phương thức

tổ chức, quản lý kinh doanh và cách thức tổ chức đời sống xã hội.

Tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng -

nước

Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh là một vùng đất mới, là vùng đất bao

gồm rất nhiều cư dân của nhiều địa phương, nhiều giai tầng xã hội khác nhau,

nhiều dân tộc và tôn giáo khác nhau đến lập nghiệp. Nếu không có một sự đoàn

kết, thống nhất thì tất cả các lưu dân ở đây sẽ không chinh phục được vùng đất

mới như ngày hôm nay. Dù là dân bản địa hay cư dân mới đến ba bốn đời, kể cả

những thành phần dân tộc ít người trên đất nước ta đều thấm nhuần cái đạo lý

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước nhớ thương nhau cùng”;

5 Viện nghiên cứu xã hội TP. Hồ Chí Minh (2006), Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh: Con người và văn hóa trên đường phát triển, Nxb. Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr.29.

15 “Đừng nài lương giáo khác dòng, vốn đều con Lạc cháu Rồng khi xưa”… đã

chung sống với nhau hòa đồng, luôn có tinh thần tương trợ lẫn nhau. Việc định

cư tại một vùng đất là nơi tiếp biến giao lưu những giá trị văn hóa, nên sớm

tiếp xúc với những giá trị dân chủ, bình đẳng của phương Tây làm cho người

Sài Gòn khá cởi mở trong lối sống, trong cách nghĩ cách làm. Họ có đầu óc

thực tế, coi trọng nội dung hơn hình thức, không thích người “nói nhiều hơn

làm”, họ biết “tùy cơ ứng biến”, học tập kinh nghiệm để đạt được hiệu quả.

Với hoàn cảnh, đất rộng, người thưa, thiên nhiên cũng không kém phần khắc

nghiệt, con người nơi đây phải dành hết thời gian, công sức đấu tranh cho sự

sống còn. Và cũng chính điều đó đã kéo con người xích lại với nhau, đẩy họ ra

xa những mâu thuẫn, hận thù để còn lại sự khoan dung và đầy lòng nhân ái.

Lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình, đạo lý

Đặc điểm này của nhân dân thành phố Hồ Chí Minh được thể hiện trước tiên

thông qua tinh thần hào hiệp, phong cách phóng khoáng của người Sài Gòn bắt đầu

từ tính cách lưu dân sơ khởi của họ. Tất cả các cư dân khi đến vùng đất mới, trước

hết họ phải cùng nhau “chung lưng đấu cật”, đùm bọc yêu thương lẫn nhau để vượt

qua những thử thách của thiên nhiên “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội như bánh canh”,

thú dữ, rừng thiêng nước độc…Cũng như khi ra đi họ đã biết bỏ hết ở nơi quê chốn

cũ những ràng buộc lề giáo phong kiến nghiệm ngặt để dễ thích ứng với vùng đất

mới. Người Sài Gòn với ý thức luôn xem trọng tình cảm, “nhân nghĩa” lên hàng đầu,

yêu thương con người là trên hết đã làm cho những con người nơi đây thể hiện rất rõ

về tinh thần hào hiệp. Trịnh Hoài Đức một người địa phương, nhà cai trị cũng là nhà

sử học, địa lý đã nhận xét như sau: “Thành Gia Định ở về phương nam, chỗ gần ánh

sáng mặt trời, người phần nhiều trung dũng khí tiết, khinh của trọng người”6. Tinh

thần hào hiệp, phong cách phóng khoáng của người Sài Gòn cũng chính là sự biểu

hiện của lòng vị tha, trọng nghĩa tình, ghét lợi danh và dễ thích ứng với hoàn cảnh

của họ.

6 Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia - Viện Sử học (1998), Gia Định thành thông chí, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr.142.

16

Đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động

Trong quá trình mở đường, trước hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt và

trong công cuộc khai phá đầy gian nan, vất vả, những người đi mở cõi đã biết

nương tựa vào nhau, cưu mang lẫn nhau, cần cù, sáng tạo và dũng cảm trong lao

động sản xuất chống thiên tai, địch họa để sinh cơ lập nghiệp. Trong những bối

cảnh đổi thay về điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội, cư dân Sài Gòn thường

không dễ bó tay, ngồi chờ đợi thời cơ, mà trái lại luôn tìm cách tạo ra những thời

cơ mới, tìm tòi cái mới… Sự năng động, sáng tạo của người Sài Gòn còn được thể

hiện ở lối sống hết sức phóng khoáng. Với một cộng đồng đa dạng về nguồn gốc,

đa dạng về văn hóa, Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh trở thành nơi hội tụ của

sự sáng tạo, sự năng động như một tính chất đặc trưng của những người ưa thích

lao động, ưa thích học hỏi tìm tòi cái mới. Từ đó, tạo nên một trong những đặc

điểm nổi bật của người Sài Gòn đó là tính tiên phong năng động và sáng tạo.

Người Sài Gòn nhờ có được bản lĩnh hiên ngang, kiên cường của những ngày

tháng khai hoang, lập ấp, được thiên nhiên ưu đãi về đất đai, sản vật… lại sớm tiếp

cận được với văn hóa, khoa học kỹ thuật phương Tây, nên họ có những táo bạo,

linh hoạt, sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm và phong cách tiếp cận với cái mới.

Tế nhị trong cư xử, giản dị trong lối sống

Cũng chính cuộc sống “cộng cư” và “giao thoa”, những lưu dân đến đây

sống xa quê, họ phải chung đụng với dân cư xứ khác, sự mới mẻ và phức tạp

này khiến họ giữ nguyên tập quán, thói quen của mình, mà phải tìm lối sống

phù hợp và điều đó đã tạo nên lối ứng xử rất linh hoạt và tế nhị. Cuộc mở mang

bờ cõi, đấu tranh với thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm và cuộc sống cộng cư

cùng nhau tồn tại đã đặt ra nhu cầu và tạo điều kiện hình thành lối sống giản dị,

cởi mở, có ý thức cộng đồng, tạo nên một nét riêng trong phong cách sống của

người Sài Gòn. Trong cuộc sống, người Sài Gòn ưa chuộng lối sống sòng

phẳng, cương trực, phóng khoáng, tự do, trọng tình nghĩa. Điều này cũng cho

thấy rất rõ ở phong cách ứng xử tinh tế “biết người, biết ta” hết sức linh hoạt

của người Sài Gòn. Đối với người Sài Gòn, giá trị con người là ở hành động, ở

17 việc làm. Người Sài Gòn rất ghét nói nhiều, hay nói nhiều mà làm ít. Một nét

riêng, nổi bật trong giao tiếp, ứng xử của người Sài Gòn đó là sự thân tình, là

tinh thần bình đẳng với nhau không kể họ thuộc thành phần nào và từ đâu tới.

Trong cuộc sống người Sài Gòn không quá cầu kỳ, vốn năng động, chịu khó làm

ăn, biết cách làm ăn lớn, nhưng vẫn giữ được cái dáng vẻ ung dung thư thái.

Đặc biệt, người Sài Gòn ít chịu sự gò bó trong các nghi thức với quan niệm nghi

lễ là điều cần thiết nhưng không quá rườm rà.

2.2. VAI TRÒ CỦA VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA

DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI

HÓA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.2.1. Khái quát về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Hồ Chí

Minh

Thành phố Hồ Chí Minh đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ sự kế

thừa những yếu tố của nền công nghiệp hiện đại

Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh là nơi sớm tiếp nhận các yếu tố của

công nghệ khoa học kỹ thuật từ bên ngoài mà chủ yếu là phương Tây được diễn

ra sớm nhất so với các vùng miền trong cả nước.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố diễn ra trong điều kiện nền kinh

tế thị trường và hội nhập quốc tế phát triển sôi động so với cả nước

Thành phố trở thành nơi tiếp nhận những tinh hoa ở mọi nơi, thuận lợi

cho việc mở rộng quan hệ hợp tác cả trong nước và ngoài nước về các mặt, các

ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Mô hình chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế theo hướng hiện đại là

nội dung trọng tâm của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố.

Với mô hình cơ cấu kinh tế ngành là dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp

được xem là cơ cấu kinh tế hiện đại thì thành phố đã bước đầu chuyển dịch theo

mô hình kinh tế trên ứng với một đô thị lớn, phát triển theo hướng hiện đại, văn

minh.

18

Tính tiên phong trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành

phố Hồ Chí Minh

Thành phố không chỉ là trung tâm kinh tế, văn hóa của cả nước mà luôn

thể hiện tính tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước. Qua tốc độ, quy mô của quá trình trang bị lại công nghệ cho các ngành

kinh tế, đưa mọi hoạt động kinh tế - xã hội ở Thành phố lên trình độ hiện đại,

tiên tiến.

Sự năng động, sáng tạo của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành

phố trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Chủ thể thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố

chính là những con người luôn đi đầu tìm tòi những cái mới, dám nghĩ, dám

làm, không ngừng sáng tạo và cải tiến… góp phần tạo nên những nội dung mới

cho quá trình phát triển đất nước

2.2.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vai trò của việc giữ gìn, phát

huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là giữ gìn cốt cách dân tộc

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Hồ Chí Minh. Giữ

gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc chính là củng cố và phát triển ý thức

dân tộc, sự tự tôn dân tộc và niềm tự hào về truyền thống lịch sử dân tộc từ đó

sẽ làm cho tất cả người dân thành phố luôn có ý thức để phát huy mọi tiềm

năng, phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc sẽ là nền tảng tinh thần

vững chắc, thúc đẩy việc thực hiện thành công những nội dung của quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Hồ Chí Minh. Những giá trị văn hóa

của dân tộc sẽ được thấm sâu vào từng người và chuyển hóa thành sức mạnh

nội sinh, quyết tâm thực hiện thành công công cuộc phát triển của thành phố.

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là tiếp tục phát huy các giá

trị tinh thần mang nét đặc trưng của nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trong

quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Và khi thực hiện tốt các

19 mục tiêu của sự phát triển lại là cơ sở, điều kiện khẳng định và phát huy sức

mạnh trường tồn của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam cùng các giá trị tinh

thần mang nét đặc trưng của người dân thành phố.

Kết luận chương 2

Được bắt nguồn, kết tinh từ nền văn hóa của dân tộc, chứa đựng trong

mình những giá trị vốn có của bản sắc văn hóa dân tộc, gắn với những đặc thù

của vùng đất “mới”, với lịch sử hình thành, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, dân

cư, kinh tế, chính trị - xã hội... đã tạo nên những sắc thái, biểu hiện đặc thù của

bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc luôn

được xác định là sức mạnh nội sinh giúp thành phố “đi trước về trước” trong sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và công cuộc xây dựng và phát triển

thành phố hướng đến thành phố xã hội chủ nghĩa văn minh, hiện đại.

Chương 3 THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIỮ GÌN, PHÁT HUY

BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRONG QUÁ TRÌNH ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

3.1. THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO VIỆC

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM Ở THÀNH PHỐ

HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI

HÓA

3.1.1. Thực trạng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt

Nam ở thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua

Những thành tựu đạt được trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa

dân tộc Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa

Giữ gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc của nhân dân thành

phố luôn thể hiện rõ trong lối sống, tư tưởng của người dân. Thông qua việc

20 xây dựng và đẩy mạnh cụ thể hóa các phong trào gắn với việc giữ gìn và phát

huy bản sắc văn hóa dân tộc, làm cho những nét mới trong giá trị văn hóa và

chuẩn mực đạo đức của người dân thành phố từng bước được hình thành và

phát huy một cách mạnh mẽ từ tinh thần yêu nước, đoàn kết, năng động, sáng

tạo, nghĩa tình và ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu… hướng tới xã

hội văn minh, hiện đại, tác phong công nghiệp, nếp sống đô thị. Là thành phố

luôn đi đầu và đạt được rất nhiều kết quả trong những phong trào đoàn kết,

tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển. Thành phố đã phát huy tốt phương

thức xã hội hóa các hoạt động văn hóa, năng động thiết kế, tổ chức các loại

hình, hình thức hoạt động phong phú, đa dạng, sinh động, vừa đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ chính trị, vừa phục vụ nhu cầu học tập, vui chơi giải trí đa dạng của

các tầng lớp nhân dân.

Những hạn chế trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa

Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống lại có chiều

hướng lan rộng với tính chất nghiêm trọng, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển

kinh tế, xã hội và nhiệm vụ chính trị của thành phố. Nhiều giá trị truyền thống,

đạo đức nghề nghiệp bị đảo lộn, ảnh hưởng tiêu cực đối với định hướng giá trị

nhân cách. Tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống, lệch lạc nhận thức về giá

trị nhân cách ở một bộ phận nhân dân, nhất là thanh thiếu niên còn diễn biến

phức tạp, gây lo lắng, bất bình trong xã hội. Sự du nhập lối sống hiện sinh kiểu

phương Tây với sự ích kỷ cá nhân, cách sống thực dụng, sòng phẳng, lạnh lùng

hoàn toàn trái ngược với các chuẩn mực truyền thống của dân tộc, với nét đặc

trưng của người thành phố là hào hiệp, chan hòa, cởi mở và phóng thoáng…

3.1.2. Nguyên nhân và vấn đề đặt ra trong quá trình giữ gìn và phát

huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

Nguyên nhân của thành tựu: Thứ nhất, nền kinh tế thị trường và bản thân

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã tác động tích cực đến việc phát huy

21 tính năng động, nhạy bén, táo bạo… thích ứng với sự phát triển của thành phố;

Thứ hai, quá trình đô thị hóa làm xuất hiện những tầng lớp thị dân với những

lối sống mới, giá trị mới, chuẩn mực mới…; Thứ ba, toàn cầu hóa đang diễn ra

đã tạo điều kiện để tiếp thu những giá trị, tinh hoa văn hóa của nhân loại, bổ

sung và làm phong phú các giá trị tuyền thống của dân tộc; Thứ tư, tăng cường

và nâng cao tầm lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền trên lĩnh vực văn hóa; Thứ

năm, trình độ nhận thức của người dân thành phố về tầm quan trọng của việc

gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc có nhiều bước tiến bộ rõ rệt.

Nguyên nhân của hạn chế: Thứ nhất, những mặt trái và tiêu cực của nền

kinh tế thị trường đã tác động không nhỏ, làm phai mờ và mất dần những giá trị

truyền thống văn hóa dân tộc; Thứ hai, hiện tượng đô thị hóa và sự phát triển về

các mặt hoạt động thương mại, dịch vụ, sản xuất hàng hóa… ảnh hưởng đến

những hành vi cư dân thành phố nói chung và giới trẻ nói riêng; Thứ ba, mặt

trái của quá trình toàn cầu hóa với các yếu tố ngoại lai, tệ nạn xã hội du nhập

vào làm suy giảm, phai dần những giá trị truyền thống đạo đức; Thứ tư, với một

thành phố chịu hơn một trăm năm thống trị của chủ nghĩa thực dân vẫn còn ảnh

hưởng tâm lý về nhiều mặt trong lối sống đô thị; Thứ năm, với thành phần dân

cư đa dạng nên công tác quản lý đô thị của thành phố gặp nhiều khó khăn trong

việc nâng cao ý thức của người dân về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc.

Một số vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa

dân tộc Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

Một là, phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, gắn liền giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Hai là phát

huy cái hay, cái đẹp trong ứng xử giữa cá nhân với cộng đồng, giữ được những

nét đẹp truyền thống của bản sắc văn hóa cho phù hợp và đáp ứng như cầu của

sự phát triển xã hội. Ba là, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cùng với hội nhập

quốc tế một cách sâu rộng. Bốn là, chính quyền và đoàn thể các cấp, các ngành

đưa ra những giải pháp hiệu quả để ngăn chặn âm mưu, hành động phá hoại của

22 các thế lực thù địch nhằm bảo vệ giá trị bản sắc văn hóa dân tộc. Năm là, quản

lý thật tốt những thông tin văn hóa, ngăn chặn những cái phản giá trị thâm nhập

vào đời sống cũng như hướng cho quần chúng tiếp nhận một cách có chọn lọc,

phù hợp với bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam. Sáu là, phải nâng cao nhận

thức trong việc kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng các giá trị

chuẩn mực của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.

3.2. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC

VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ

TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

3.2.1. Phương hướng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt

Nam ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại

hoá

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở thành phố Hồ

Chí Minh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải xuất phát từ yêu

cầu nhiệm vụ chính trị và dựa trên đặc điểm điều kiện riêng của thành phố

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc phải góp phần khơi dậy và

mang lại hiệu quả cho nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở thành phố Hồ

Chí Minh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải kết hợp được tính

truyền thống và tính hiện đại, gắn với việc xây dựng, phát triển nền văn hóa

Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

Kết hợp truyền thống và hiện đại trong bản sắc văn hóa dân tộc sẽ phát

huy tối đa nguồn nội lực, sức mạnh tinh thần của dân tộc để thực hiện thành

công mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội đồng thời giữ gìn được cái “cốt” bản

sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Việt Nam phải bảo đảm cho việc xây dựng nền văn hóa với sự thống nhất hữu

cơ giữa tiên tiến, hiện đại và tính dân tộc sâu sắc.

23 Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở thành phố Hồ

Chí Minh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là phát huy các giá trị

tinh thần đặc trưng của thành phố, đồng thời tiếp thu có chọn lọc các giá trị

tinh hoa văn hóa của nhân loại

Phát huy thế mạnh đặc thù của bản sắc văn hóa dân tộc, truyền thống

“Nhân văn, thượng võ” của người Sài Gòn cùng với việc tiếp thu những giá trị

nhân loại là một trong những nguyên lý sống còn và có ý nghĩa thực tế sâu sắc

không chỉ đóng vai trò là một trong những nguồn “nội lực” quan trọng giúp cho

quá trình phát triển vững chắc của thành phố.

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở thành phố Hồ Chí

Minh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở xác định rõ bản sắc

văn hóa dân tộc Việt Nam là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh

nội sinh quan trọng bảo đảm mục tiêu phát triển thành phố “văn minh, hiện đại,

nghĩa tình”

Phát triển nền tảng tinh thần của xã hội - văn hóa gắn kết chặt chẽ, đồng bộ

và tương xứng với nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then

chốt. Đó cũng chính là điều kiện quyết định cho sự phát triển hướng đến thành phố

“văn minh, hiện đại, nghĩa tình”.

3.3.2. Một số giải pháp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp hoá, hiện

đại hoá hiện nay

Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản

sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nói riêng cho cán bộ và nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Thứ nhất, các ban ngành chức năng thành phố thông qua việc tổ chức các

ngày lễ lớn, các sự kiện, các ngày kỷ niệm của dân tộc, đất nước và của thành

phố để giáo dục tuyên truyền các giá trị văn hóa truyền thống đến quần chúng

nhân dân. Thứ hai, chú trọng hơn nữa công tác tư tưởng, tuyên truyền xây dựng

môi trường văn hóa, xây dựng xã, ấp văn hóa, khu dân cư văn hóa, cơ quan đơn

24 vị văn hóa như trường học, chợ, xí nghiệp… Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động giáo

dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức chính trị và tinh thần cảnh giác cho

cán bộ, đảng viên và nhân dân trước các hoạt động phá hoại của thế lực thù

địch.

Triển khai và thực hiện tốt các thể chế, chính sách của Nhà nước để thúc

đẩy việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở thành phố Hồ

Chí Minh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Để nâng cao hiệu quả của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc Việt Nam thì thành phố cần phải đặc biệt triển khai và thực hiện tốt các thể

chế, chính sách của Nhà nước với vai trò lãnh đạo, quản lý đối với hoạt động

văn hóa. Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội một khi nắm

vững chủ trương, chính sách của Nhà nước sẽ phát huy được năng lực lãnh đạo,

quản lý cũng như mang lại hiệu quả cao đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.

Đẩy mạnh công tác xây dựng, tổ chức, hoàn thiện các thiết chế văn hóa

và phương tiện vật chất - kỹ thuật nhằm phục vụ tốt cho việc bảo tồn, tôn tạo,

khai thác và phát huy một cách hợp lý, có hiệu quả các di sản văn hóa dân tộc

phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh

Xây dựng, tổ chức và hoàn thiện các thiết chế văn hóa nhằm đạt hiệu quả

tốt nhất trong việc bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa ở thành phố. Thiết

chế văn hóa đòi hỏi phải có sự thay đổi cơ bản về cách thức, quản lý hoạt động.

Cần phải xây dựng các tiêu chuẩn kết hợp giữa yêu cầu quy hoạch phát triển đô

thị, khai thác và phát huy một cách hợp lý, có hiệu quả các di sản văn hóa dân

tộc phù hợp với thực tiễn nhu cầu của đời sống xã hội.

Nâng cao năng lực tổ chức, quản lý văn hoá và công tác đào tạo đội ngũ

cán bộ làm công tác chuyên môn nhằm đảm bảo thực hiện hiệu quả việc giữ

gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ở thành phố Hồ Chí Minh

25 Triển khai và thực hiện tốt sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng đối với việc phát

huy sức mạnh về nhận thức tư tưởng, khoa học, triển khai chỉ đạo đúng đắn trong

việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở thành phố. Phải nêu

cao tính gương mẫu của cán bộ đảng viên, nâng cao tinh thần “tự phê bình và

phê bình” trong tổ chức Đảng. Đặc biệt, cần xây dựng nếp sống văn hóa từ trong

Đảng, đồng thời Đảng phải tạo mọi điều kiện thực hiện quyền tự do, dân chủ của

cá nhân trong sáng tác văn hóa, chủ động sáng tạo. Sở Văn hóa, Du lịch và Thể

thao thành phố phải hoàn thiện cơ chế chính sách đào tạo và thu hút nhân lực

chất lượng cao trong lĩnh vực văn hóa - xã hội. Bên cạnh đó, thành phố phải chú

trọng tăng cường nguồn lực hỗ trợ, các phương tiện cần thiết cho hoạt động quản

lý văn hóa.

Kết luận chương 3

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì

việc giữ gìn và phát huy những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam với vai

trò làm nền tảng tinh thần để tăng trưởng kinh tế bền vững và là nhiệm vụ mang

tính hết sức cấp bách. Bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc giữ gìn và

phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam đã trở thành động lực, sức mạnh

cho sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố thì vẫn còn tồn tại những hạn

chế đang đặt ra, gây cản trở đối với sự nghiệp cách mạng mà thành phố đang

đảm nhiệm. Vì vậy, đòi hỏi các cấp ủy Đảng và nhân dân thành phố xác định rõ

phương hướng, triển khai và thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp nhằm

góp phần giữ gìn, phát huy những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc và giá trị

“mang nét đặc trưng của thành phố”.

PHẦN KẾT LUẬN

1. Nghiên cứu văn hóa với góc độ xem xét là giá trị và hệ giá trị - bản sắc

văn hóa dân tộc là một chủ đề có ý nghĩa vô cùng to lớn cả về khoa học lẫn

thực tiễn chẳng những có ý nghĩa đối với công cuộc xây dựng nền văn hóa

26 chung của quốc gia mà còn đối với sự phát triển của mỗi vùng, miền địa

phương. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là hệ giá trị bền vững, những tinh

hoa của cộng đồng dân tộc Việt Nam được vun đắp qua hàng ngàn năm lịch sử.

Trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì bản sắc văn hóa

dân tộc là một trong những nguồn nội lực quan trọng để đáp ứng sự nghiệp xây

dựng và phát triển. Là nền tảng tinh thần, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam tạo

nên cốt cách, trí tuệ, bản lĩnh và sức mạnh nội lực của một quốc gia. Là động

lực tinh thần, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam thúc đẩy và khơi dậy những

tiềm năng sáng tạo vô tận của nguồn lực con người, từ đó mà khai thác tốt nhất

các nguồn lực khác phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Như

vậy, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam không đứng ngoài sự phát triển, nó nằm

bên trong, là nhân tố nội sinh và là một trong những yếu tố định hướng, đảm

bảo thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2. Suốt chiều dài lịch sử hơn ba trăm năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí

Minh luôn gắn với lịch sử của dân tộc, cùng với những đặc thù của vùng đất

“mới” - về địa lý, tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội… đã tạo nên những sắc

thái, biểu hiện đặc thù của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam và được tô điểm

thêm bằng các giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của thành phố. Ngày nay,

những giá trị ấy sẽ là sức mạnh nội sinh giúp thành phố “đi trước về trước”

trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và phát triển thành

phố hướng đến thành phố xã hội chủ nghĩa văn minh, hiện đại, nghĩa tình. Cùng

với quá trình phát triển kinh tế, xã hội thì việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh là nhiệm vụ cấp bách và cần

thiết gắn với chiến lược phát triển của thành phố. Giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc để những giá trị văn hóa của dân tộc sẽ được thấm sâu vào từng

người và chuyển hóa thành sức mạnh nội sinh, quyết tâm thực hiện thành công

công cuộc phát triển của thành phố. Và khi thực hiện tốt các mục tiêu của sự

phát triển lại là cơ sở, điều kiện để khẳng định và phát huy sức mạnh trường tồn

27 của bản sắc văn hóa dân tộc cùng với các giá trị tinh thần mang nét đặc trưng

của người dân thành phố.

3. Từ những thành tựu đạt được của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc ở thành phố Hồ Chí Minh trong những năm vừa qua gắn với công

cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự phản ánh hài hòa giữa

truyền thống và hiện đại, giữa bản sắc văn hóa dân tộc với hiện đại hóa trong

văn hóa, giữa việc phát triển văn hóa phải đồng bộ với kinh tế cũng như bản sắc

văn hóa dân tộc trở thành nền tảng tinh thần vững chắc cho sự phát triển của

thành phố. Tuy nhiên, cũng còn không ít những biểu hiện tiêu cực vẫn đang xảy

ra trong nhiều lĩnh vực hoạt động của đời sống, trong các mối quan hệ xã hội

dẫn đến nguy cơ làm mất đi hoặc mai một những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc

Việt Nam và những nét đặc trưng riêng của thành phố, tạo ra những rào cản

trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố. Trước

thực trạng trên, hơn bao giờ hết nhân dân thành phố phải nêu cao tinh thần giữ

gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời hạn chế tối đa những biểu hiện

tiêu cực làm suy thoái, mất dần bản sắc văn hóa dân tộc trong sự phát triển.

Từ sự phân tích vai trò và làm rõ thực trạng, nguyên nhân của việc giữ

gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam cũng như căn cứ vào nhiệm vụ

kinh tế, chính trị của thành phố, để đảm bảo thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì cần phải xác định thật cụ thể phương

hướng, giải pháp đúng đắn và hiệu quả nhất trong việc giữ gìn và phát huy bản

sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.

Từ những vấn đề nêu trên, luận án đã xác định một số phương hướng cơ

bản nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh như sau: thứ nhất, giữ gìn

và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm

vụ chính trị và những đặc điểm điều kiện riêng ở thành phố Hồ Chí Minh trong

quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thứ hai, giữ gìn và phát huy

bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam phải kết hợp được tính truyền thống và tính

28 hiện đại, gắn với việc xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm

đà bản sắc dân tộc; thứ ba, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt

Nam là phát huy các giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của thành phố Hồ Chí

Minh đồng thời tiếp thu có chọn lọc các giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại;

thứ tư, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trên cơ sở xác

định rõ bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là nền tảng tinh thần vững chắc của

xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm mục tiêu phát triển thành phố

“văn minh, hiện đại, nghĩa tình”.

Để thực hiện những phương hướng trên, luận án đã đề xuất hệ thống các

giải pháp sau: một là, nâng cao nhận thức và trách nhiệm về tầm quan trọng của

việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong quá trình phát

triển kinh tế nói chung và trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa nói riêng; hai là, triển khai và thực hiện tốt các thể chế, chính sách của Nhà

nước để thúc đẩy việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở

thành phố Hồ Chí Minh; ba là, đẩy mạnh công tác xây dựng, tổ chức, hoàn thiện

các thiết chế văn hóa và phương tiện vật chất - kỹ thuật nhằm phục vụ tốt cho

việc bảo tồn, tôn tạo, khai thác và phát huy một cách hợp lý, có hiệu quả các di

sản văn hóa dân tộc; bốn là, nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý văn

hoá cùng với chiến lược, giải pháp đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên

môn nhằm đảm bảo thực hiện đạt kết quả tốt nhất trong việc giữ gìn, phát huy

bản sắc văn hóa dân tộc.