Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
HUỲNH VIỆT HƯNG
ĐIỀU TRA HIỆN TRẠNG CANH TÁC XOÀI
TẠI HUYỆN TRI TÔN VÀ TỊNH BIÊN, TỈNH
AN GIANG - ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI VÀ TRIỆU
CHỨNG GÂY HẠI CỦA DÒI BÔNG XOÀI
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NGHÀNH BẢO VỆ THỰC VẬT
Cần Thơ - 2012
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
ĐIỀU TRA HIỆN TRẠNG CANH TÁC XOÀI
TẠI HUYỆN TRI TÔN VÀ TỊNH BIÊN, TỈNH
AN GIANG - ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI VÀ TRIỆU
CHỨNG GÂY HẠI CỦA DÒI BÔNG XOÀI
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NGHÀNH BẢO VỆ THỰC VẬT
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
Th.s Lăng Cảnh Phú Huỳnh Việt Hưng
MSSV: 3096940
Cần Thơ - 2012
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN BẢO VỆ THỰC VẬT
Chứng nhận đã chấp thuận luận văn tốt nghiệp đính kèm với đề tài:
“Điều tra hiện trang canh tác xoài tại huyện Tri Tôn và Tịnh Biên, tỉnh An
Giang – Đặc điểm hình thái và triệu chứng gây hại của dòi bông xoài”
Do sinh viên HUỲNH VIỆT HƯNG thực hiện và đề nạp.
Kính trình hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp.
Cần Thơ, ngày……tháng……năm 2013
Cán bộ hướng dẫn
(Ký tên)
Th.s Lăng Cảnh Phú
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN BẢOTHỰC VẬT
Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp nhận luận văn với đề tài: “Điều tra
hiện trang canh tác xoài tại huyện Tri Tôn và Tịnh Biên, tỉnh An Giang - Đặc
điểm hình thái và triệu chứng gây hại của dòi bông xoài”
Do sinh viên HUỲNH VIỆT HƯNG thực hiện và bảo vệ trước hội đồng.
Ngày……..tháng…….năm 2013.
Luận văn đã được hội đồng đánh giá ở mức………................................................
Ý kiến của hội đồng:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
DUYỆT KHOA Cần thơ, ngày……tháng…..năm 2013.
CHỦ NHIỆM KHOA NN &SHƯD CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết quả
trình bày trong luận văn tốt nghiệp là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kì công trình nghiên cứu nào trước đây.
Người thực hiện
Huỳnh Việt Hưng
ii
LƯỢC SỬ CÁ NHÂN
Họ và tên: Huỳnh Việt Hưng.
Ngày sinh: 01/02/1991.
Nơi sinh: Thị Trấn Ba Chúc, Tri Tôn, An Giang.
Ho và tên Cha: Huỳnh Văn Chặt.
Họ và tên Mẹ: Lê Thị Hậu.
Quê quán: Ba Chúc, Tri Tôn, An Giang.
Quá trình học tập:
2009 : Tốt nghiệp trung học phổ thông Ba Chúc
2009 -2013: Là sinh viên trường Đại Học Cần Thơ, ngành Bảo Vệ Thực Vật, khóa
35, Khoa Nông Nghiệp & Sinh Học Ứng Dụng.
iii
LỜI CẢM TẠ
Kính dâng Cha Mẹ lòng biết ơn chân thành và thiêng liêng nhất. Con luôn
ghi nhớ công ơn Cha Mẹ đã sinh thành, dưỡng dục và nuôi dạy con nên người, sự hi
sinh cao cả đó là động lực giúp con vượt qua những khó khăn để có kết quả như
ngày hôm nay.
Em xin gởi đến thầy Lăng Cảnh Phú, giảng viên hướng dẫn lòng thành kính
và biết ơn sâu sắc. Thầy đã tận tình chỉ bảo, động viên em trong suốt quá trình thực
hiện luận văn tốt nghiệp.
Thành kính ghi ơn, Cô Lê Thị Ngọc Xuân và Thầy Phạm Kim Sơn cố vấn
học tập đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt thời gian em học tập tại
trường.
Xin chân thành cảm ơn các thầy, các cô trong khoa Nông Nghiệp & Sinh
Học Ứng Dụng và các thầy, các cô trong trường đại học Cần Thơ đã tận tâm dạy dỗ,
truyền đạt những kinh nghiệm và kiến thức quý báo cho em trong suốt thời gian học
tại trường.
Chân thành cảm ơn!
Các anh, các chị: Thương, Yến, Bảo, Long, Qúy, Trinh, Hồng Nga (Cao Học K17)
đã động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian làm luận văn tốt nghiệp.
Gia đình anh Hồ Duy Tân đã tận tình giúp đỡ và truyền đạt những kinh nghiệm quý
báu trong lúc tôi thực hiện đề tài này.
Cảm ơn bạn Nghiệm, Lộc, Còn những người bạn đã giúp tôi đi suốt chặng đường
dài để hoàn thành luận văn này.
Các bạn sinh viên lớp bảo vệ thực vật khóa 35 đã giúp đỡ tôi trong thời gian thực
hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!!!
Huỳnh Việt Hưng
iv
HUỲNH VIỆT HƯNG, 2012. “Điều tra hiện trang canh tác xoài tại huyện Tri
Tôn và Tịnh Biên, tỉnh An Giang - Đặc điểm hình thái và triệu chứng gây hại
của dòi bông xoài”. Luận văn tốt nghiệp Đại học, ngành Bảo Vệ Thực Vật, Khoa
Nông Nghiệp và SHƯD, trường Đại Học Cần Thơ, 56 trang.
Cán bộ hướng dẫn: Ths. Lăng Cảnh Phú
TÓM LƯỢC
Đề tài “ Điều tra hiện trang canh tác xoài tại huyện Tri Tôn và Tịnh Biên, tỉnh
An Giang - Đặc điểm hình thái và triệu chứng gây hại của dòi bông xoài” được thực
hiện tại phòng thí nghiệm Côn Trùng, Bộ môn Bảo Vệ Thực Vật, Khoa Nông
Nghiệp và SHƯD, Trường Đại Học Cần Thơ và hai huyện Tri Tôn, Tịnh Biên thuộc
tỉnh An Giang từ tháng 1 năm 2012 đến tháng 11 năm 2012 đạt được kết quả như
sau:
Kết quả điều tra cho thấy có 62,5% tổng số hộ điều tra là vườn trồng xoài
chuyên canh, dòi bông xoài phổ biến (65% số hộ điều tra) và là đối tượng gây hại
quan trọng. Dòi bông xoài chỉ gây hại 7,5% số vườn điều tra với tỷ lệ nhiễm đạt
dưới 50%.
Kết quả khảo sát đặc điểm hình thái trong phòng thí nghiệm: Dòi bông xoài họ
Cecidomyiidae, bộ Diptera, thành trùng có kích thước nhỏ khoảng 1-2 mm màu
vàng cam, cơ thể được bao phủ bởi một lớp lông. Trứng rất nhỏ có màu trắng trong
suốt hình oval giống như hạt gạo, kích thước trứng dài khoảng 1,5 ± 0,17 mm, rộng
0,6 ± 0,07 mm. Ấu trùng hình dáng giống như dòi, có thể có 5 tuổi. Nhộng màu
vàng cam co kích thước dài khoảng 1,5 ± 0,17 mm, rộng 0,6 ± 0,07 mm.
Triệu chứng gây hại ngoài đồng của muỗi gây hại trên bông xoài là bông có
màu hồng đỏ, có trường hợp có màu nâu sậm.
v
MỤC LỤC
Trang
Tóm lược ......................................................................................................... vi
Mục lục .......................................................................................................... vii
Danh sách bảng ............................................................................................. viii
Danh sách hình ................................................................................................ ix
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU .......................................................... 2
1.1 Tổng quan về cây xoài (Mangifera indica) ..................................... 2
1.1.1 Tình hình trồng xoài ở Việt Nam và Thế Giới ................................ 2
1.1.2 Quy trình xử lý xoài ra hoa xoài ................................................... 3
1.1.2.1 Giai đoạn sau khi thu hoạch ............................................ 3
1.1.2.2. Giai đoạn ra đọt non ....................................................... 3
1.1.2.3. Xử lý paclobutrazol....................................................... 3
1.1.2.4. Kích thích ra hoa 4
1.1.2.5. Giai đoạn nở hoa 5
1.1.2.6. Giai đoạn phát triển trái 5
1.2 Đặc điểm chung họ Cecidomyiidae ................................................ 6
1.2.1 Phân loại 6
1.2.2 Đặc điểm sống và cách gây hại 6
1.2.3 Đặc điểm hình thái 7
1.2.4 Đặc điểm sinh học 8
vi
1.3 Họ Cecidomyiidae gây hại trên xoài 9
1.3.1 Một số ghi nhận về sự phân bố của muỗi trên xoài 9
1.3.2 Erosomya indica 10
1.3.2.1. Đặc điểm hình thái và sinh học 11
1.3.2.2. Cách thức gây hại 11
1.3.2.3. Kiểm soát 12
1.3.3 Procontarinia frugivora 13
1.3.4 Procystiphora mangiferae 14
1.3. .1. Phân bố và ký chủ 14
1.3. .2. Đặc điểm hình thái và sinh học 15
1.3. .3. Sự gây hại 16
1.3.5 Dasineura amaramanjarae 16
1.3.6 Procontaria mangicola 16
1.4 Một số côn trùng chính gây hại trên bông xoài 17
1. .1 Bù lạch 17
1.4.1.1 Đặc điểm hình thái và sinh học 17
1.4.1.2 Tập quán sinh sống và cách gây hại 19
1.4.1.3 Biện pháp phòng trị 20
1. .2 Rầy bông xoài 20
1.4.2.1 Đặc điểm hình thái và sinh học 20
1.4.2.2 Tập quán sinh sống và cách gây hại 20
1.4.2.3 Biện pháp phòng trị 21
1. .3 Sâu ăn bông xoài 21
Chương 2: PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP 24
2.1 Phương tiện 24
2.1.1 Đối tượng nghiên cứu 24
2.1.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu 24
2.1.3 Vật tư thí nghiệm 24
vii
2.2 Phương pháp 24
2.2.1 Điều tra nông dân 25
2.2.2 Điều tra ngoài đồng 25
2.2.3 Khảo sát trong phòng thí nghiệm 26
2.3 Xử lý số liệu 26
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 27
3.1 Kết quả điều tra nông dân 27
3.1.1 Đặc điểm chung về tình hình canh tác trên các vườn xoài
khảo sát 27
3.1.2 Giống xoài và kỹ thuật canh tác 28
3.1.3 Hiểu biết của nông dân về sâu hại và biện pháp phòng trừ 31
3.1. Tình hình sử dụng nông dược của nông dân trên cây xoài 32
3.1.5 Hiểu biết của nông dân và biện pháp phòng trị đối với
dòi bông xoài 33
3.2 Kết quả điều tra ngoài đồng 35
3.3 Một số đặc điểm hình thái và triệu chứng gây hại ngoài đồng
của dòi bông xoài 37
3.3.1 Một số đặc điểm hình thái 37
3.3.1.1 Thành trùng 37
3.3.1.2 Trứng 41
3.3.1.3 Ấu trùng 42
3.3.1.4 Nhộng 43
3.3.2 Triệu chứng gây hại ngoài đồng của dòi bông xoài 45
Chương 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 49
4.1 Kết luận 49
.2 Đề nghị 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO 50
PHỤ CHƯƠNG
viii
DANH SÁCH BẢNG
Bảng Tựa bảng Trang
1.1 Quá trình phát triển hoa từ khi xử lý đến khi kết thúc quá trình nở
hoa của giống xoài
5
3.1 Đặc điểm chung của vườn điều tra
28
3.2 Mức độ phổ biến của các giống xoài ở hai huyện điều tra 29
3.3 Thành phần côn trùng gây hại trên cây xoài ở hai địa bàn điều tra
31
3.4 Các loại nông dược nông dân sử dụng để phòng trừ côn trùng gây
hại trên cây xoài
33
3.5 Kết quả hiểu biết của nông dân trên đối tượng dòi bông xoài 34
3.6 Kết quả khảo sát ngoài đồng về tình hình gây hại của dòi bông
xoài ở hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên.
36
3.7 Kích thước các giai đoạn phát triển của dòi bông xoài.
39
ix
DANH SÁCH HÌNH
Hình Tựa hình Trang
1.1 Bông bị muỗi gây hại 12
1.2 Triệu chứng gây hại của muỗi trên trái xoài 14
1.3 Ấu trùng trong mụt hoặc bướu, Nhộng, Thành trùng đực 17
1.4 Triệu trứng gây hại bù lạch trên trái và bông xoài 19
1.5 Trứng của rầy bông xoài 20
3.1 Thành trùng dòi bông xoài 37
3.2 Dạng đầu dòi bông xoài
38
3.3 Cánh của thành trùng dòi bông xoài 38
3.4 Hai cánh sau của thành trùng thoái hóa thành dạng chùy 39
3.5 Thành trùng cái dòi bông xoài
40
3.6 Thành trùng đực dòi bông xoài
41
3.7 Trứng dòi bông xoài
42
3.8 Ấu trùng của muỗi gây hại bông xoài
42
3.9 Các giai đoạn giai đoạn phát triển của dòi bông xoài
43
3.10 Hình nhộng còn trong kén trắng
43
3.11 Nhộng của muỗi gây hại bông xoài
43
3.12 Phân biệt giữa nhộng đực và cái
44
3.13 Nhộng vũ hóa ra khỏi bông xoài, nhộng bên trong bông xoài
44
3.14 Quan sát bông xoài từ xa, quan sát gần, bông xoài chưa biểu hiện
triệu chứng , trứng và dòi bên trong nụ bông
45
x
3.15 Triệu chứng đặc trưng của muỗi gây hại bông xoài
46
3.16 Ấu trùng muỗi bông xoài bên trong nụ bông 46
3.17 Triệu chứng gây hại ngoài đồng đặc trưng của muỗi bông xoài
47
3.18 Bông có nhộng sắp vũ hóa và bao nhộng đã vũ hóa hoàn toàn
48
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xoài là loại cây ăn trái có giá trị kinh tế rất cao, được trồng nhiều nơi trong cả
nước như ở trung du miền núi Bắc Bộ, Đồng bằng sông Hồng, duyên hải miền
Trung, Đông Nam Bộ và đặc biệt phổ biến ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam (2010), diện tích trồng xoài ở ĐBSCL
khoảng 3.000 ha chiếm 9,25% so với tổng diện tích trồng xoài cả nước. Trong
điều kiện tự nhiên ở ĐBSCL, cây xoài thường ra hoa vào tháng 12-1 và thu hoạch
tập trung từ tháng -5 (Trần Văn Hâu, 1997), chính vì thu hoạch tập trung nên giá
thành không được cao trong vụ chính nhưng rất cao trong vụ nghịch, đặc biệt là các
dịp lễ, tết. Từ thực tế này đã thu hút nhà vườn áp dụng nhiều biện pháp để kích
thích ra hoa xoài sớm hay nghịch vụ để có thể bán được giá cao gấp 2-3 lần so với
xoài chính vụ. Mùa vụ trồng xoài không còn phân biệt rõ như trước là nguồn thức
ăn dồi dào cho dịch hại. Những loài dịch hại quan trọng được ghi nhận như thán
thư, phấn trắng, xì mủ trái, rầy bông xoài, bù lạch (bọ trĩ), sâu đục hột, sâu ăn hoa,
sâu đục cành,… và hiện nay muỗi gây hại trên bông xoài là loài gây hại mới đã xuất
hiện một số nơi ở ĐBSCL.
Việc xử lý ra hoa không đồng loạt, không tập trung, vấn đề về biến đổi khí hậu
toàn cầu cùng với việc lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật quá mức, đặc biệt là những
vườn trồng chuyên canh xoài đã gây ô nhiễm môi trường, tạo tính kháng cho dịch
hại, ảnh hưởng đến cân bằng sinh thái. Do đó dẫn tới việc xuất hiện dịch hại mới
trên xoài là điều không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, đề tài “Điều tra hiện trạng
canh tác xoài tại huyện Tri Tôn và Tịnh Biên, tỉnh An Giang- Đặc điểm hình
thái và triệu chứng gây hại của dòi bông xoài” được thực hiện nhằm:
- Điều tra và khảo sát tình hình gây hại cũng như sự nhận biết của nông dân đối
với dòi bông xoài (MBX) tại hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên ở tỉnh An Giang.
- Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái và triệu chứng gây hại của MBX ở
ngoài đồng nhằm tạo cơ sở khoa học cho các nghiên cứu sâu hơn và xây dựng quy
trình phòng trị tổng hợp muỗi gây hại bông xoài.
2
CHƯƠNG 1
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1. TỔNG QUAN VỂ CÂY XOÀI (Mangifera indica)
1.1.1. Tình hình trồng xoài ở Việt Nam và Thế Giới
Cây xoài đã theo chân ông bà ta đến vùng ĐBSCL lập nghiệp từ lâu, xoài có
mặt hầu hết ở các vùng sinh thái khác nhau, từ núi cao đến vùng trũng, ngập lũ,
phèn và mặn. Do tính đa dạng của nó, cây xoài trở nên rất gần gũi với bà con nông
dân ở vùng sông nước (Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong, 2003).
Cây xoài có tên khoa học là Mangifera indica, thuộc chi Mangifera, họ đào lộn
hột Anacardiaceae. Trong chi Mangifera có tới 1 loài, có thể tìm thấy rải rác khắp
các nước vùng Đông Nam Á, trong đó chỉ có xoài (Mangifera indica) được trồng
rộng rãi nhất. Trên thế giới, xoài được chia làm 2 nhóm chính: (a) nhóm có hột đơn
phôi hay còn gọi là nhóm Ấn Độ, (b) nhóm có hột đa phôi hay còn gọi là nhóm
Đông Nam Á. Riêng tại Việt Nam, đặc biệt là khu vực ĐBSCL, một số giống xoài
với những đặc tính nổi trội và dễ tìm thấy như: xoài Cát Hòa Lộc, xoài Châu Hạng
Võ, xoài Bưởi, xoài Thơm, xoài Tượng, xoài BaHambang... (Vũ Công Hậu, 2000).
Hiện nay trên thế giới có 87 quốc gia trồng xoài, với tổng diện tích hơn 3,5
triệu ha, sản lượng năm 2010 đạt gần 27,5 triệu tấn (chiếm 37% so với tổng sản
lượng trái cây nhiệt đới), trong đó thì Việt Nam với diện tích: 87.500 ha (xếp thứ
10 thế giới) (Hoàng Quốc Tuấn, 2011). Theo FAO sản lượng xoài thế giới năm
1995 là 22,0 triệu tấn đến 2010 ước đạt gần 27,5 triệu tấn, tăng 5,5 triệu tấn trong
vòng 15 năm, bình quân một năm tăng 0,367 triệu tấn. Xuất khẩu xoài trái tươi tăng
liên tục qua các năm, Pakixtan đứng số 1 thế giới, niên vụ 2009-2010 xuất khẩu:
130.000 tấn, kim ngạch: 1,5 triệu USD và niên vụ 2010-2011 ước đạt 50 triệu
USD; kế đến là Ấn Độ xuất khẩu 82.000 tấn xoài chất lượng cao, với giá 1 hộp
xoài 3,5 kg lên đến 20 USD/hộp (bình quân 1,0 kg xoài xuất khẩu của Ấn Độ: 5,7
USD/kg). Thị trường nhập khẩu xoài là Mỹ, Nhật, Singapore, Anh, ARập Xêút.
Trong đó thị trường Mỹ chiếm 50% sản lượng xoài nhập khẩu hàng năm trên thế
giới (Hoàng Quốc Tuấn, 2011).
Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam (2010), cây xoài đã được trồng tất cả tỉnh,
thành phố của cả nước. Trong đó 59/63 tỉnh có diện tích xoài trên 100 ha. Vùng
trồng xoài lớn nhất là ĐBSCL là 3.000 ha chiếm 9,25% so với tổng diện tích
xoài cả nước.
3
Song song với tiềm năng xuất khẩu cao, diện tích lớn hình thành các vùng
chuyên canh cây ăn trái, trong đó có cây xoài ngày một tăng thì các loài sâu bệnh
hại cũng bắt đầu gây hại với mức độ trầm trọng hơn. Riêng nhóm côn trùng gây
hại, theo đánh giá của các nhà khoa học và tình hình sản xuất thực tế của bà con
nhà vườn cho thấy trong vài năm trở lại đây tình hình sâu hại trên các vườn trồng
xoài đang có chiều hướng gia tăng, gây ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất cũng
như phẩm chất của trái xoài.
1.1.2. Quy trình xử lý xoài ra hoa
1.1.2.1. Giai đoạn sau khi thu hoạch
Sau khi thu hoạch xoài chính vụ vào tháng -5 cần tiến hành các biện pháp kỹ
thuật để thúc đẩy cây ra đọt non tập trung để dễ phòng trừ sâu bệnh và kích thích ra
hoa. Các biện pháp quan trọng cần thực hiện là: tỉa bỏ những phát hoa đã rụng trái,
cành vô hiệu trong thân cây mẹ, cành ốm yếu, bị sâu bệnh hoặc che rợp lẫn nhau
gây trở ngại cho việc chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh và thu hoạch. Thông thường
những phát hoa đã rụng bông và trái non phải mất 3- tháng mới rụng. Do đó, nếu
cắt bỏ những phát hoa này sẽ kích thích cho cây ra đọt sớm hơn. Bón phân giúp cho
cây ra chồi khoẻ, lá to, tích lũy nhiều chất dự trữ giúp cho cây có khả năng ra hoa và
nuôi trái trong vụ sau. Đây là giai đoạn thúc đẩy sự sinh trưởng của cây nên công
thức phân thường có đạm và lân cao hơn so với kali như 2:1:1, 2:2:1 hay 3:2:1.
Lượng phân bón tùy theo tuổi cây, tình trạng sinh trưởng và năng suất vụ trước.
Tưới nước: 2-3 ngày/lần giúp cho cây xoài ra đọt tập trung. Đối với cây già (20-30
năm tuổi) khả năng ra đọt kém, cần kích thích cho cây ra đọt non bằng cách phun
urê ở nồng độ 1,5-2,0% hoặc Gibberellin ở nồng độ từ 5-10 ppm hoặc thiourea ở
nồng độ 0,5% (Trần Văn Hâu, 2009).
1.1.2.2. Giai đoạn ra đọt non
Sự phát triển của đọt non có ảnh hưởng rất quan trọng đến khả năng ra hoa và
nuôi trái của cây xoài, do đó cần chú ý phòng trừ các loại sâu, bệnh để bảo vệ cho
đọt non xoài phát triển tốt. Trường hợp bón phân không đúng lúc hay lượng phân
không đầy đủ làm cho chồi non xuất hiện sẽ ngắn, ốm yếu, có thể bổ sung bằng
cách phun các lọai phân bón qua lá (Trần Văn Hâu, 2009).
1.1.2.3. Xử lý paclobutrazol
Thời điểm xử lý: Khi lá non đã phát triển hoàn toàn, lá có màu đỏ hay vàng
nhạt (15-20 ngày tuổi) hay lá có màu đọt chuối đến màu xanh nhạt. Không nên xử
lý hóa chất khi lá đã già (có màu xanh đậm) (Trần Văn Hâu, 2009).
4
Liều lượng: 1-2 g a.i./m đường kính tán. Liều lượng hóa chất tùy thuộc vào
tuổi cây, tình trạng sinh trưởng của cây. Cây tơ nên xử lý hóa chất ở nồng độ cao
hơn so với cây trưởng thành. Cây sinh trưởng mạnh nên xử lý nồng độ cao hơn cây
sinh trưởng kém. Liều lượng paclobutrazol được xử lý cũng tùy thuộc vào từng
giống. Nồng độ quá cao có thể làm cho phát hoa ngắn hay chùn lại, không có khả
năng đậu trái (Trần Văn Hâu, 2009).
Cách xử lý: Xới đất xung quanh tán cây, bề rộng từ 20-50 cm, sâu từ 10-15
cm. Sau đó pha hóa chất với 20-50 lít nước tưới đều vùng đất đã xới. Đối với vùng
đất tơi, xốp, có nhiều cát nên tưới với lượng nước ít hơn để tránh cho dung dịch hóa
chất bị mất theo con đường thẩm lậu. Một tuần sau khi xử lý hóa chất nên tưới nước
đầy đủ để rễ cây xoài có thể hấp thụ hóa chất hoàn toàn (Trần Văn Hâu, 2009).
1.1.2.4. Kích thích ra hoa
Một tháng trước khi kích thích ra hoa cần làm giảm sự sinh trưởng của cây
bằng cách bón phân với tỉ lệ phân đạm thấp, tăng tỉ lệ lân và kali. Tiếp theo phun
MKP (0-52-34) với nồng độ 0,5% ở giai đoạn 10-15 ngày trước khi phun chất kích
thích ra hoa để giúp cho lá mau trưởng thành, tăng tỉ lệ đậu trái và ngăn cản sự ra
đọt non, 5-7 ngày trước khi kích thích ra hoa nên phun thuốc phòng ngừa các loại
sâu bệnh như bệnh thán thư (Colletotrichum gloeosporioides), rầy bông xoài và sâu
ăn bông (Trần Văn Hâu, 2009).
Sau khi xử lý paclobutrazol 75-90 ngày có thể tiến hành phun hóa chất kích
thích cho xoài ra hoa bằng cách phun thiourea ở nồng độ 0,3-0,5% hay nitrate kali ở
nồng độ 2,0-2,5%, 5-7 ngày sau phun lại lần hai với hóa chất tương tự nhưng nồng
độ giảm 50%. Cần chú ý là điều kiện mưa dầm, ẩm độ đất cao có thể kích thích
mầm lá phát triển thay vì mầm hoa. Do đó, chỉ nên kích thích ra hoa khi trời khô ráo
và rút hết nước trong mương cho đến khi mầm hoa xuất hiện (Trần Văn Hâu, 2009).
Thời gian xuất hiện mầm hoa tùy theo giống và thời vụ. Quá trình phát triển
hoa từ khi xử lý đến khi kết thúc quá trình nở hoa của bốn giống xoài Nam Dok
Mai, cát Hòa Lộc, Thơm và Thanh Ca được trình bày ở bảng sau:
5
Bảng 1.1 Quá trình phát triển hoa từ khi xử lý đến khi kết thúc quá trình nở hoa của 4 giống
xoài (Đặng Thanh Hải, 2000)
Giống Thời gian từ khi xử lý
đến nhú mầm hoa (ngày)
Thời gian từ khi nhú mầm
hoa đến khi hoa nở (ngày)
Thời gian hoa nở
(ngày)
Nam Dok Mai
Cát Hòa Lộc
Thơm
Thanh Ca
7-9
7-9
5-6
6-7
14-15
14-15
14
15
10
12
10
9
1.1.2.5. Giai đoạn nở hoa
Để làm tăng tỉ lệ đậu trái có thể phun các sản phẩm có chứa Bo (B) trước khi
hoa nở hay auxin như NAA giai đoạn 3-4 ngày sau khi hoa nở. Chú ý phun NAA ở
nồng độ cao có thể làm rụng trái non do NAA kích thích sự tạo thành khí ethylene
kích thích sự rụng trái. Hoa xoài thụ phấn chéo, chủ yếu nhờ côn trùng như ruồi nên
tuyệt đối không phun các loại thuốc trừ sâu bệnh, phân bón trong giai đoạn này để
không làm ảnh hưởng đến quá trình thụ phấn của hoa (Trần Văn Hâu, 2009).
1.1.2.6. Giai đoạn phát triển trái
Giai đoạn 7-10 ngày sau khi đậu trái (khi thấy “trứng cá”): phun phân bón lá như:
15-30-15 hoặc canxi nitrat (0,2%) để giúp quá trình phân chia tế bào và làm giảm sự
rụng trái non.
Giai đoạn 28-35 ngày sau khi đậu trái: Chú ý phòng ngừa sâu đục trái (hột)
(Deandis albizonalis). Phun GA3 với nồng độ 5-10 ppm để làm giảm sự rụng trái
non.
Giai đoạn 30-35 ngày sau khi đậu trái: Bón phân gốc với tỉ lệ 1:1:1 để giúp cho trái
phát triển. Có thể phun canxi nitrat ở nồng độ 0,2% để hạn chế sự nứt trái. Có thể
phun 2-3 lần cách nhau 10 ngày/lần để làm tăng phẩm chất trái.
Giai đoạn 55-60 ngày sau khi đậu trái: Nếu trái phát triển chậm nên bón thêm phân
vào đất để giúp trái phát triển tốt. Bao trái để ngừa sâu, bệnh.
Giai đoạn 70-75 ngày sau khi đậu trái: Phun KNO3 với nồng độ 1% lên trái để tăng
phẩm chất trái như màu sắc và độ ngọt.
6
Giai đoạn 84-90 ngày sau khi đậu trái: Thu hoạch khi trái đã phát triển bề rộng, bề
ngang, “lên màu” hoặc tỉ trọng bằng 1,02. Có thể xác định thời điểm thu hoạch
thích hợp bằng cách cho trái xoài vào nuớc, nếu trái chìm dưới đáy từ từ thì vừa thu
hoạch, nếu nổi lơ lửng là chưa thật già và nếu chìm quá nhanh tức là trái đã quá già
(Trần Văn Hâu, 2009).
1.2 ĐẶC ĐIỂM CHUNG HỌ CECIDOMYIIDAE
1.2.1. Phân loại
Theo CABI (2001); Tripplehom và Johnson (200 ); Nguyễn Thị Thu Cúc (2010):
Kingdom (Giới): Animalia
Phylum (Ngành): Arthropoda
Class (Lớp): Insecta
Order (Bộ): Diptera
Family (Họ): Cecidomyiidae (Muỗi năng, Muỗi bướm)
Subfamilies (Họ phụ): Cecidomyiidae (Gall Midges hoặc Gall Gnats)
Cecidomyiidae (hoặc gall midges) là một trong những họ lớn nhất trong bộ
Diptera với khoảng hơn 5.000 loài (Skuhravá, 1991; Grimaldi và Engel, 2005) cho
đến năm 2010 thì đã có 6131 loài và 783 chi (Gagne, 2010). Chúng hiện diện trên
khắp thế giới và châu Âu là nơi có số lượng loài phong phú nhất (Skuhravá và
Skuhravý, 2009). Trong đó, hai giống Dasineura Rondani (1840) và Contarinia
Rondani (1860) có số lượng loài nhiều nhất (Skuhravá và Skuhravý, 2009).
1.2.2. Đặc điểm sống và cách gây hại
Có rất nhiều báo cáo về sự gây hại của các loài thuộc họ Cecidomyiidae như
Mayetiola destructor Say (Hessian fly) trên lúa mì (Pedigo, 2002; Tripplehom và
Johnson, 2004), Contarinia sorghicola (Coquillett) (sorghum midge) trên cây lúa
miến (Sharma và Vidyasagar, 1992), Contarinia nasturtii (Kieffer) (swede midge)
trên họ cây thập tự (Kikkert và ctv., 2006; Chen và ctv., 2009), C. pisi Winn (pea
midge) trên đậu Hà Lan (Hillbur và ctv., 2001). Trong đó, Mayetiola destructor
Say và Contarinia sorghicola (Coquillett) được xem là hai đối tượng gây hại
nghiêm trọng và phổ biển nhất (Sharma và Vidyasagar, 1992; Pedigo, 2002;
Tripplehom và Johnson, 2004; Capinera, 2008).
Ở Việt Nam, cũng có nghiên cứu về sự gây hại của các loài thuộc họ
Cecidomyiidae như Muỗi gây mụt u trên lá xoài (Nguyễn Thị Thu Cúc, 2000).
Phạm Thị Vượng (2005) thuộc Viện Bảo vệ Thực Vật cũng đã công bố hai loài sâu năng
7
(dòi) hại đọt non và mầm hoa cam quýt ở Bắc Giang, Hà Giang, Hòa Bình, trong đó đã xác
định được có một loài thuộc chi Contarinia sp., kế tiếp là Muỗi Contarinia sp. tác nhân
gây hại hoa huệ trắng vùng ĐBSCL (Nguyễn Thị Thu Cúc và Huỳnh Thanh Đức,
2008), muỗi Contarinia sp. gây hại hoa lài (Trần Thị Kim Thúy, 2010). Bên cạnh đó,
thì còn có Muỗi hành Orseolia oryzae gây hại trên lúa (Nguyễn Hồng Ba, 2011), dòi đục lá
bưởi vùng ĐBSCL (Nguyễn Huy Thảo, 2012) .
Dựa trên tính ăn của ấu trùng, họ Cecidomyiidae được chia thành ba nhóm
chính: nhóm ăn thực vật, nhóm ăn nấm và nhóm ăn mồi (Skuhravá và ctv., 1991;
Skuhravá và Skuhravý, 2009). Trong đó, phần lớn các loài được mô tả thuộc nhóm
ăn thực vật (hơn 50%) và được xem là đối tượng gây hại nghiêm trọng trong hệ
sinh thái rừng và nông nghiệp (Cilbircioglu và Unal, 2008). Chúng có thể tạo bướu
trên cây ký chủ và sống trong các bướu này hoặc sống tự do trong nụ hoa, chồi lá
hoặc trong thân cây mà không hình thành bướu (Hawkins và Gagné, 1989;
Skuhravá, 1991). Có khoảng hơn 2/3 trong số 1.200 loài gây hại trên thực vật ghi
nhận được ở Bắc Mỹ tạo bướu trên cây. Vì thế chúng thường được gọi chung với tên “gall
midges” hoặc “gall gnats” (Tripplehom và Johnson, 2004).
Những loài không tạo bướu trên cây thường ăn mô phân sinh bên trong nụ hoa hay
chồi lá, làm lá quăn queo, biến dạng, gây hoại tử chuyển sang màu đen, chồi hay hoa dễ
chết và rụng đi (Peña và ctv.,1989; Bosio và ctv., 1998). Ở Florida, ấu trùng D. oxycoccana
ăn phá mạnh, gây hại 20-80% nụ hoa cây việt quất Vaccmium spp. và gây ảnh hưởng năng
suất đáng kể (Bosio và ctv., 1998). Ngoài ra, một số loài thuộc Cecidomyiidae có tính ăn
tạp, có thể gây hại trên nhiều loại cây trồng khác nhau (Peña và ctv., 1989; Tokuda và ctv.,
2002; Cameiro và ctv., 2009) nên được đặc biệt quan tâm trong việc phòng và trị (Tokuda
và ctv., 2002).
1.2.3. Đặc điểm hình thái
Thành trùng họ Cecidomyiidae có hình dạng giống như muỗi, kích thước rất nhỏ
(khoảng 1-5 mm), cơ thể mỏng mảnh với chân ngực dài (Tripplehom và Johnson,
200 ). Đa số con cái có kích thước hơi lớn hơn so với con đực, bụng con cái to,
màu vàng cam và phần cuối bụng có ống đẻ trứng dài (Alford, 2007). Cặp cánh
trước có gân cánh thoái hóa, chỉ có 2-3 đường, không có mạch ngang, trên bề mặt
cánh bao phủ một lớp lông nhỏ (microtrichia) (Tripplehom và Johnson, 2004;
Nguyễn Thị Thu Cúc, 2010). Cặp cánh sau biến thành dạng hình chùy nhỏ (halter)
để giữ thăng bằng khi bay nên được gọi là cánh thăng bằng (Nguyễn Thị Thu Cúc,
2010). Râu đầu dài hình chuỗi hạt, xung quanh có lông. Râu con đực dài và có
nhiều lông bao quanh như những sợi cảm giác nên thường nhạy cảm hơn con cái
(Crook và Mordue, 1999).
8
Ấu trùng thường có màu sáng như đỏ cam, hồng hoặc vàng (Tripplehom và
Johnson, 2004; Nguyễn Thị Thu Cúc, 2010), đầu rất nhỏ gần như tiêu biến và ở
mặt bụng của đốt ngực đầu tiên (ấu trùng tuổi cuối) có một thìa xương ức, là kitin
cứng chẻ đôi dạng chữ T (breastone hay steral spatula) (Tripplehom và Johnson,
2004). Spatula có rất nhiều chức năng như giúp ấu trùng có thể nạo lấy thức ăn, di
chuyển bằng cách búng đi (vài centimet), đào bới trong đất để hóa nhộng, giúp ấu
trùng cố định trong kén (cocoon), cắt tạo các rãnh trong thân cây để di chuyển hay
tạo lỗ chuẩn bị cho thành trùng vũ hóa đối với những loài tạo bướu trên cây
(Metcalfe, 1933 trích dẫn bởi Milne, 1961). Đây là bộ phận đặc trưng của họ
Cecidomyiidae và cũng là đặc điểm quan trọng để xét phân loại ở cấp độ nhỏ hơn
(Alford, 2007; Skuhravá, 2009; Gagné và ctv., 2009). Việc định danh các loài dịch
hại được xem là nhiệm vụ rất quan trọng để đánh giá khả năng gây hại của chúng
và từ đó có thể đưa ra chiến lược quản lý thích hợp.
1.2.4. Đặc điểm sinh học
Họ Cecidomyiidae có đặc điểm sinh học rất phức tạp (Cilbircioglu và Unal,
2008). Thành trùng thường sống trong khoảng thời gian rất ngắn, dao động 1-4
ngày, đôi khi chỉ sống trong vài giờ đủ thời gian để chúng bắt cặp và đẻ trứng
(Skuhravá, 1991). Con cái đẻ trứng trên bề mặt cây chủ, ấu trùng nở ra từ trứng sẽ
chui vào nụ hoa, chồi, thân cây sinh sống (Alford, 2007) hoặc tạo bướu các bộ
phận bị hại trên cây (Kolesik, 1993). Thông thường, ấu trùng phát triển trong 2-3
tuần, sau đó thường búng mình xuống đất để hóa nhộng hay trú đông ở lớp đất
mặt (Gagné và Beavers, 198 ; Skuhravá, 1991). Ấu trùng có khả năng thích nghi
rất cao, có thể chuyển sang giai đoạn tiềm dục hoặc chuyển sang ăn trên ký chủ
khác khi gặp điều kiện môi trường khắc nghiệt hay thiếu thức ăn (Forrester, 1987;
Kolesik, 1993) và có thể trải qua giai đoạn này trong thời gian dài, dẫn đến tích
lũy số lượng ấu trùng trong đất sau nhiều năm (Kolesik, 1993). Khi gặp điều kiện
thuận lợi, ấu trùng sẽ hóa nhộng và vũ hóa đồng loạt trong cùng một thời điểm,
đây là một trong những nguyên nhân làm bộc phát thành dịch (Bames, 1958 trích
dẫn bởi Gerson và Neubauer, 1976). Do đó, điều khiển khí hậu ảnh hưởng rất lớn
và quyết định đến chu kỳ sinh trưởng hoặc số lượng thế hệ của chúng trong năm
(Sarzynski và Liburd, 2003). D. oxycoccana (Johnson) gây hại trên cây việt quất
(Vaccinium) chỉ có 2-3 thế hệ mỗi năm ở Florida (Lyrene và Payne, 1992) nhưng
có đến 11 thế hệ trong năm khi khảo sát ở Mississippi (Sampson và ctv., 2002).
Trong điều kiện lý tưởng, chúng có thể hoàn thành vòng đời chỉ trong 2-3 tuần
(Sampson và ctv., 2002) và trong năm thường có nhiều thế hệ chồng chéo lẫn nhau
(Sarzynski và Liburd, 2003).
9
Khả năng sinh sản: hầu hết thành trùng họ Cecidomyiidae đều sống trong
khoảng thời gian rất ngắn nên rất khó quan sát, ngay cả trong điều kiện phòng thí
nghiệm (McKay và Hatchett, 1984; Lyrene và Payne, 1992). Phần lớn thành trùng
đực Cecidomyiidae thường vũ hóa sớm hơn so với con cái (Fisher và Teetes, 1982;
Peña và ctv., 1989; Kolesik, 1993; Sharma và ctv., 2003) và chúng có khả năng bắt
cặp ngay sau khi vũ hóa (Pivnick, 1993). Thành trùng chỉ sống trong một vài ngày
do đó sự vũ hóa đồng loạt là điều kiện rất quan trọng cần cho sự bắt cặp thành
công. Ngoài ra, kích thích tố giới tính cũng là yếu tố quan trọng được sử dụng để
nâng cao hiệu quả tìm kiếm bạn đời của chúng (Pivnick và Labbé, 1992).
Con cái có thể đẻ nhiều lần và đẻ ở nhiều vị trí khác nhau. Trứng được đẻ
thành từng nhóm từ hai trứng trở lên và ổ trứng thường tìm thấy nhiều nhất ở vị trí
đầu của tai bông (Huỳnh Thanh Đức, 2008) hay lá non nhất (Alford, 2007). Và có
thể nhiều con cái cùng đẻ trứng trên cùng một chồi (Skuhravá, 1991).
1.3 HỌ CECIDOMYIIDAE GÂY HẠI TRÊN XOÀI
1.3.1. Một số ghi nhận về sự phân bố của muỗi trên xoài
Dòi bông xoài (midge) tên bắt nguồn từ Old Norse Muggia. Dòi bông xoài lần
đầu tiên được mô tả bởi Felt vào năm 1911 từ các tài liệu thu thập được ở St.
Vincent, miền tây Ấn Độ (Whitwell, 1993). Sankaran (1988) mô tả rằng loài côn
trùng này được tìm thấy ở Ấn Độ, Indonesia, Keneya, Mauritius, Oman, Reunion,
Nam Phi và United Arab Emirates (UAE).
Barnes (1948), đã công nhận có 9 loài muỗi trên xoài, hai trong số 9 loài là
Asynapta sp. và Eryosomya mangifereae có nguồn gốc từ miền tây Ấn Độ. Loài
Dasineura mangifereae được Felt báo cáo ở Hawaii (Anonymous, 1981)
Singh (1960) ghi nhận rằng ở Ấn Độ có mười hai loài muỗi đại diện cho 3 chi
đã được biết là gây ra các loại bướu hoặc những mụt khác nhau trên lá xoài.
Có ích nhất 16 loài muỗi (Diptera: Cecidomyiidae) được biết đến là có khả
năng tấn công xoài ở châu Á. Một trong những loài gây hại trên xoài là Erosomyia
mangiferae (Felt), được ghi nhận ở vùng biển Caribbean và Brazil (Harris và
Schreiner, 1992).
Tại Oman, muỗi gây hại trên xoài là một dịch hại nghiêm trọng và gây ra sự
thất thu rất lớn về năng suất do thiệt hại lá và hoa, làm cho trái nhỏ, phát triển kém
(Sankaran và Mjeni, 1988 dẫn bởi Malik và ctv., 2005).
10
Tại Nhật Bản, loài Procantirinia mangicola tấn công lá xoài non và tạo ra mụt
u sưng, nổi phòng lên, đó là nguyên nhân làm cho lá nhăn lại (Harris và Schreiner,
1992 trích dẫn bởi Malik và ctv., 2005).
Loài Procontrainia mangicola cũng đã được ghi nhận từ khu vực Quảng Tây,
Trung Quốc (Shi, 1980). Muỗi gây hại tạo mụt u sưng phòng lên trên lá xoài lần đầu
tiên được tìm thấy trong một nhà kính ở làng Tamagusuku trên đảo Okinawa (Uechi
và ctv., 2002 trích dẫn bởi Malik và ctv., 2005).
Loài Procantirinia mitteiana được giới thiệu ở nước Mauritius vào năm 1909
trên cây xoài nhập khẩu từ Ấn Độ và trong mười năm tiếp theo nó đã lan rộng đến
hầu hết các khu vực của đảo (D'Emmerez deCharmoy, 1921).
Một loài muỗi khác ở Ấn Độ là Procontarinia mangiferae (Felt), đã được biết
đến từ xoài ở Tây Ấn và Brazil (Gagne, 1994). Chúng còn ăn trên phát hoa, nơi mà
nó tạo nụ hoa sưng phồng lên. Loài này có lẽ là từ Ấn Độ, đầu thế kỷ 20 và được
đặt theo tên của Felt (1911) từ các mẫu thu ở St Vincent, miền tây Ấn Độ, được đặt
tên lại của Tavares (1918) Brazil.
Theo Malik và ctv. (2005), dòi bông xoài đã trở thành một loại sâu hại chính
trên xoài và được tìm thấy trong tất cả các nước đang phát triển xoài trên thế giới.
Mười sáu loài muỗi đã được biết đến có gây hại trên xoài ở châu Á. Dòi bông xoài
phá hoại và gây thiệt hại cây trồng ở ba giai đoạn khác nhau. Không có biện pháp
kiểm soát nào được xác định hiệu quả.
Thep Jha và Sen-sarma (2008), một số loài muỗi như Erosomyia indica,
Dasineura amaram angerae, Procontorinia mangifaral và Procontorinia
matteriana là các loài gây hại nhiều trên xoài, trong số các loài trên thì phổ biến
nhất là loài Procontorinia matteriana, muỗi đẻ trứng về phía bên trong của lá. Khi
dòi nở ra bên trong mô lá sẽ ăn thức ăn trong mô lá, kết quả là gây ra triệu chứng
giống như u sưng trên lá. Muỗi gây hại bông xoài là loài Procystiphora mangiferae
và Procystiphora indica.
1.3.2. Loài Erosomya indica
Theo Malik và ctv. (2005), dòi bông xoài đã được chú ý nhiều trong thời gian
qua bởi vì nó đã trở thành một loại sâu hại chính trong tất cả các khu vực trồng xoài
của thế giới. Dòi bông xoài (Erosomya mangiferae. Felt) là một loại sâu hại
nghiêm trọng, gây hại bông xoài và ảnh hưởng lên đến 70% sự đậu trái, dẫn đến
giảm sản lượng xoài. Loài muỗi này cũng được tìm thấy ở vùng Caribbean và Brazil
trên ký chủ của nó (Harris và Schreiner, 1992).
11
1.3.2.1. Đặc điểm hình thái và sinh học
Theo Malik và ctv. (2005), từng con cái đẻ trứng trên các bộ phận của hoa như
trục phát hoa, trên những trái mới đậu hoặc những lá non bao quanh phát hoa.
Trứng nở trong vòng 2-3 ngày. Sau khi nở, dòi sẽ thâm nhập vào các bộ phận non
mềm là nơi mà trứng được đẻ vào và bắt đầu ăn các bộ phận bên trong ký chủ của
chúng. Các bộ phận của hoa khô và rơi xuống đất. Ấu trùng trưởng thành búng
mình xuống đất để hóa nhộng. Giai đoạn ấu trùng khoảng 7-10 ngày trong khi giai
đoạn nhộng khoảng từ 5-7 ngày. Có 3- thế hệ chồng chéo nhau trong giai đoạn từ
tháng 1 đến tháng 3 ở Bắc bán cầu. Sau đó, khi điều kiện thời tiết không thuận lợi,
ấu trùng trải qua thời kì nghỉ hoạt động (diapauses) trong đất thay vì thành nhộng.
Khi điều kiện thuận lợi thì ấu trùng hoạt động trở lại. Muỗi phá hoại và gây thiệt hại
cây trồng trong ba giai đoạn khác nhau. Sự gây hại đầu tiên là ở giai đoạn nụ bông
xoài mới nhú ra. Trứng được đẻ trong nụ bông mới xuất hiện, những con trưởng
thành thường đẻ trứng trong các nếp giữa các lá đài và cánh hoa của nụ hoa (Abbas,
1988). Chủ yếu là sự xuất hiện của thành trùng cao hơn ở 2 °C và 60 – 82 độ ẩm
(Grover, 1986a & 1986b). Ấu trùng tạo đường đục bên trong trục hoa và do đó gây
thiệt hại hoàn toàn phát hoa. Ấu trùng tuổi cuối làm cho lỗ thoát nhỏ ở trên trục phát
hoa và trượt xuống đất hóa nhộng.
Theo Malik và ctv. (2005) muỗi gây hại lần thứ hai là lúc đậu trái. Trứng được
đẻ trên các trái xoài mới đậu lúc còn nhỏ. Gây nguy hại nhất là đợt gây hại đầu tiên,
trong đó toàn bộ phát hoa bị phá hủy ngay cả trước khi ra hoa và đậu trái. Phát hoa
tăng trưởng còi cọc và uốn cong trục của nó tại điểm vào của ấu trùng. Cuối cùng
nó khô đi trước khi hoa nở và đậu trái. Muỗi gây hại các bông mới xuất hiện bởi đẻ
trứng ở giai đoạn nụ bông, và tuổi dòi đầu tiên trong bông đang phát triển. Bông bị
nhiễm uốn cong một góc cạnh đặc trưng, sau đó dòi cắn một lỗ thoát ra bên ngoài,
dòi rơi xuống đất chuyển thành nhộng trong đất. Giai đoạn ấu trùng của muỗi có
bốn tuổi, Khi sử dụng khung bẫy màu để thu hút cho thấy sự xuất hiện của thành
trùng là vào buổi chiều. Dòi gây hại giai đoạn nụ bông xoài vừa mới nhú ra, đậu trái
và lá non của đợt ra lộc mới (Irshad, 2005). Mật số của loài muỗi này ít trong tháng
Giêng, trong khi phá hoại tăng mật số trong tháng hai và tháng ba, sau đó trong
tháng tư mật số giảm.
1.3.2.2. Cách thức gây hại
Thành trùng muỗi không gây hại được, giai đoạn thành trùng muỗi kéo dài
trong vòng 2 giờ xuất hiện, sau khi chúng bắt cặp và đẻ trứng. Trứng thường được
đặt trong các nếp gấp giữa các lá đài và cánh hoa (Pena và ctv., 1998). Dòi nở bên
trong mô lá và ăn thức ăn bên trong lá dẫn đến sự hình thành của các mụn và mụt
12
trên lá. Lá nhiễm dòi bị biến dạng và rụng sớm. Ấu trùng ăn các bộ phân bên trong
bông làm cho bông không nở và ảnh hưởng đến sự đậu trái. Nụ bông bị gây hại ảnh
hưởng đến sự phát triển và sưng phù, hóa nhộng bên trong bông (Anonymous,
1981).
Singh (1960) chỉ ra rằng lá thiệt hại nặng do sự đẻ trứng của muỗi và ấu trùng
ăn phá mô bên trong bông làm cho bông u sưng ảnh hưởng nhiều đến cây xoài.
Trong hầu hết các vườn xoài, có nhiều lá bị mụt và rơi xuống mặt đất sớm hơn
nhiều so với bình thường.
Khi gây hại, ấu trùng tạo đường đục trong trục của phát hoa và gây thiệt hại
hoàn toàn. Sự gây hại do E. indica gây ra làm cho phát hoa xoài bị uốn cong và phát
hoa sẽ khô. Đợt gây hại thứ ba là vào giai đoạn ra lá non bao quanh phát hoa. Gây
nguy hại nhất là lần đầu tiên tấn công, trong đó toàn bộ phát hoa bị phá hủy. Phát
hoa tăng trưởng còi cọc và uốn cong trục của nó, tại nơi ấu trùng đục vào (Bhawan,
2012).
1.3.2.3. Phòng trị
Cho đến nay chưa có kiến nghị chung để phòng trị loài côn trùng này. Vì thế,
loài muỗi này ngày càng tăng ở các nước trồng xoài. Mặc dù một số thuốc trừ sâu
đang được thử nghiệm để kiểm soát gây chết loài muỗi này. Do đó, cần tìm hiểu
hoạt động của loài muỗi này cũng như chu kỳ sống, các yêu cầu về khí hậu (Harris
và Schreiner, 1992), thiên địch của muỗi trong tự nhiên, các biện pháp kiểm soát
khác nhau được áp dụng để kiểm soát chúng.
* Kiểm soát tự nhiên
Theo Malik và ctv. (2005), do ấu trùng hóa nhộng trong đất, vì thế cày đất
trong vườn cây ăn trái để cho nhộng phơi ra trên mặt đất cũng như ấu trùng sẽ bị
Hình 1.1 Bông bị muỗi gây hại (A) và lộc non bị muỗi gây hại (B) (Bhawan, 2012)
A B
13
nhiệt độ mặt trời giết chết chúng. Tại các địa điểm nhất định ở Pakistan, tấm nhựa
được sử dụng để phá vỡ vòng đời của muỗi. Đất dưới tán của cây ký chủ được bao
phủ bởi các tấm nhựa, do đó ngăn chặn sự xuất hiện của thành trùng từ đất và cũng
có thể ngăn chặn ấu trùng giảm đi vào đất hóa nhộng. Bằng cách này, vòng đời của
muỗi gây hại cây xoài bị gián đoạn và cuối cùng giảm mật số muỗi.
* Kiểm soát hóa học
Phun 0,05% Fenetrothion hoặc 0,0 5% Dimethoate hoặc Diazinon 0,0 % ở
giai đoạn ra hoa rộ, phát hoa đã được tìm thấy hiệu quả trong việc kiểm soát mật số
sâu hại (Irshad, 2005).
* Kiểm soát sinh học
Kiểm soát sinh học có tiềm năng lớn như là một chiến thuật để điều chỉnh các
quần thể dịch hại trong chương trình quản lý dịch hại tổng hợp đối với các vườn
xoài, một số thiên địch tự nhiên của họ Cecidomyiidae đã được ghi nhận. Trong
một cuộc khảo sát các loài ký sinh họ Cecidomyiidae gây hại trên xoài ở Ấn Độ,
Grover (1986) đã tìm thấy Platygaster sp., Systasis sp. và Eupelmus sp. ký sinh trên
Dasineura sp. và Tetrastychus sp. và ký sinh trên Eryosomya indica. Một loài ký
sinh bên ngoài là Pirens sp. đã được tìm thấy có khả năng tấn công loài
Procystiphora mangifereae (Felt). Thiên địch ăn thịt của họ Cecidomyiidae bao
gồm Formica sp., Oecophila spp. và Camponotus spp. (Pena và ctv., 1998). Bên
cạnh đó, những nghiên cứu để kiểm soát sinh học của muỗi ở Oman đang được tiến
hành bằng cách du nhập các loài côn trùng ký sinh triển vọng từ Ấn Độ. Một cuộc
khảo sát các khu vực bị gây hại trong năm 1983 cho thấy dịch hại có nhiều thiên
địch trong tự nhiên ở Oman. Một số loài ký sinh được giới thiệu từ Ấn Độ, các loài
cho đến nay phóng thích ở Oman bao gồm Chrysonotomyia pulcherrima,
Chrysonotomyia spp. (Sankaran và Mjeni, 1988), Inostemma oculare và Inostemma
ormyrus sp. Nhưng vấn đề vẫn còn đó. Ấu trùng A. viridigallicoal được ký sinh bởi
Torymus sp. và Prodecatoma sp. một số con ong bắp cày ký sinh cũng được biết là
tấn công Procontarinia spp. ở Ấn Độ (Srivastava, 1997).
1.3.3. Loài Procontarinia frugivora (Gagné)
Procontarinia frugivora (Gagné) là một loài mới thuộc họ Cecidomyiidae,
được ghi nhận tấn công cây xoài ở đảo Luzon của Philippines, nơi mà loài muỗi này
gây hại nghiêm trọng (Felt 1911).
Trong tháng hai năm 2002. Ấu trùng được tìm thấy ra khỏi các lỗ trên trái xoài
ở tỉnh Bulacan, đảo Luzon, Philippines (15,0 °N, 121,02°E) (Hình 1.2). Ngay sau
đó, thành trùng đã được nuôi dưỡng từ những ấu trùng và được chứng minh là một
14
loài Procontarinia Kieffer & Cecconi không giống như bất kỳ 11 loài khác của chi
đó, tất cả đều tạo bướu (gall) trên lá xoài.
Sự gây hại bởi loài muỗi mới thuộc họ Cecidomyiidae ảnh hưởng nghiêm
trọng đến chất lượng và năng suất của xoài. Bị nhiễm trên trái ban đầu cho thấy các
tổn thương nhỏ màu nâu đường kính 1 mm sau đó phát triển lớn hơn và sâu hơn.
Trái xoài bị nhiễm sẽ rơi xuống mặt đất trước khi chín.
1.3.4. Loài Procystiphora mangiferae (Felt)
Theo Nakahara, L.M. (1982) thiệt hại do dòi bông xoài (mango blossom
midge) đã được phát hiện đầu tiên vào cuối năm 1980 bởi những người dân ở Hilo,
những người dân đã đem những bông xoài đi kiểm tra và những "sâu" nhỏ đã được
tìm thấy bên trong các bông xoài, sau đó các cư dân gửi mẫu báo cáo đến các nhà
côn trùng vào ngày 0 tháng 01 năm 1981. Muỗi trưởng thành được nuôi từ mẫu và
sau đó được Tiến sĩ Raymond Gagne thuộc hệ thống Phòng thí nghiệm Côn trùng
học, USDA, Beltsville xác định là dòi bông xoài, Dasineura mangiferae Felt. Đây
là lần đầu tiên ghi nhận sự hiện diện của dòi bông xoài ở Hawaii.
1.3.4.1. Phân bố và ký chủ
Dòi bông xoài đã được ghi nhận từ Hawaii (Anonymous, 1981). Ấu trùng ăn
phá bên trong bông làm cho bông xoài phát triển lớn hơn bình thường và bị biến
dạng thành hình nón phồng lên.
Theo Nakahara, (1982) thì dòi bông xoài được ghi nhận từ Ấn Độ cũng đã
xuất hiện ở nhiều nơi khác ở châu Á. Có bốn loài Muỗi (midges) tấn công phát hoa
xoài ở Ấn Độ, trong đó có ba loài tấn công bông xoài và một loài tấn công trên gié
hoa của phát hoa xoài. Trong ba loài tấn công bông xoài, có hai loài hóa nhộng
trong đất và chỉ một loài D. mangiferae hóa nhộng trong bông xoài. Xoài là ký chủ
duy nhất được biết đến của cả loài này.
Hình 1.2. Triệu chứng gây hại của muỗi trên trái xoài (Felt 1911)
15
Theo Nakahara, (1982) loài Dasyneura mangiferae (Felt) đã được mô tả từ
miền Nam Ấn Độ vào năm 1927, sau đó được đổi tên thành Procystiphora
mangiferae (Felt) và sau đó là Dasineura mangiferae Felt. D. mangiferae thuộc họ
Cecidomyiidae, bộ Diptera.
Theo Gagne và Etienne (2006) thì năm 200 một loài Dasineura mangiferae
(Felt) được phát hiện ở Guadeloupe, French West Indies, trong số phát hoa của xoài
Mangifera indica L. (Anacardiaceae), đây là báo cáo đầu tiên của dòi bông xoài ở
châu Mỹ. Có nguồn gốc từ Ấn Độ, nơi nó được phân bố rộng rãi, dòi bông xoài là
một loại côn trùng gây hại nghiêm trọng (Venkatsubba 19 0, Prasad 1971)
Theo Gagne và Etienne (2006) thì loài Dasineura mangiferae Felt (1927) lần
đầu tiên được mô tả như là từ một loài nuôi từ bông xoài ở miền nam Ấn Độ, đã
được ghi nhận đặc điểm liên quan đến sinh học. Felt (1927) nhận ra rằng loài "trình
bày có đặc điểm đặc thù của chi" và dự kiến đặt nó trong Dasineura Grover và
Prasad (1966) và Prasad (1967, 1971) nghiên cứu sinh học và hình thái học các giai
đoạn của loài này ở Ấn Độ. Grover và Prasad (1966) đặt trong loài Procystiphora vì
cơ quan đẻ trứng được thay đổi thành Procystiphora là một chi Holarctic của ba loài
trên Cyperaceae (Họ Cói) và Juncaccae ( Họ Bấc). Cấu tạo cụ thể của các cơ quan
đẻ trứng được thay đổi của những loài khác nhau được tìm thấy trong các loài hiện
nay. Trong tìm kiếm để có một chi chung cho loài này, sau khi tìm hiểu thấy rằng
D. mangiferae Felt thỏa đáng vào chi Gephyraulus. Chi này nếu không được biết
đến từ chín loài từ các khu vực phía Tây và trung tâm Palearctic (Gagne, 200 ) thức
ăn trong hoa Brassicaceae trong cùng một cách như D. mangiferae trên xoài
1.3.4.2. Đặc điểm hình thái và sinh học
Theo Nakahara (1982) đã mô tả chu kỳ sống của Procystiphora mangiferae gây
hại trên bông xoài ở Ấn độ. Trứng được đẻ vào trong các nếp gấp của lá đài và cánh
hoa của nụ bông xoài nhỏ. Trứng nhỏ xíu dài và hình trụ, được đẻ vào ban ngày.
Giai đoạn ấu trùng của D. mangiferae có bốn tuổi. Khi vừa mới nở, ấu trùng gần
như trong suốt, tuổi hai thì ấu trùng chuyển dần sang màu trắng, trong khi đó ấu
trùng tuổi ba và tuổi bốn là màu vàng cam. Ấu trùng di chuyển bên trong bông xoài
và ăn các bộ phận bên trong của bông xoài. Ấu trùng ăn các bộ phận sinh sản của nụ
hoa và nhị hoa, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng bình thường của bông xoài. Điều
này làm cho các bông xoài hoàn toàn bị hư hại, ảnh hưởng đến sự đậu trái. Ấu trùng
có tuổi đạt chiều dài 2,6 mm và chiều rộng 0,7 mm. Trước khi hóa nhộng, ấu
trùng tuổi bốn sẽ hướng đầu của chúng với bề mặt của các bông xoài và cắt một lỗ
thoát. Ấu trùng sau đó quay một cái kén và hóa nhộng trong bông. Giai đoạn nhộng
kéo dài -6 ngày. Thông thường, chu kỳ sống của Procystiphora mangiferae được
16
hoàn thành trong vòng hai tuần. Thành trùng đực nhỏ hơn thành trùng cái. Ngay sau
khi trưởng thành chúng sẽ bắt cặp, những con cái đẻ trứng cho các nụ bông xoài.
Một thành trùng cái có thể đẻ từ 2-3 trứng trong một bông.
1.3.4.3. Sự gây hại
Theo nghiên cứu của Nakahara (1982) để xác định tỷ lệ nhiễm dòi bông xoài
trên hai giống xoài Haden và Pirie, kết cho thấy có 72-100% các bông bị nhiễm. Số
lượng ấu trùng hoặc nhộng dao động trong khoảng từ một đến 12 trên mỗi bông,
(trung bình 3,6 con trên mỗi bông).
1.3.5. Loài Dasineura amaramanjarae
Loài côn trùng này được phân phối rộng rãi trên khắp Ấn Độ. Ấu trùng ăn các
bộ phận bên trong của nụ bông làm cho nụ bông không nở và bông sẽ rụng xuống
đất kết quả cuối cùng là đậu trái kém. Sự ra bông của xoài trùng hợp với sự xuất
hiện của thành trùng muỗi. Ấu trùng của của muỗi năm trước đang ở thời kỳ nghỉ
hoạt động (diapausing) chuyển thành nhộng đất, tới mùa ra bông xoài khi đó chúng
sẽ vũ hóa thành con trưởng thành. Muỗi bắt cặp ngay sau khi xuất hiện và đẻ trứng
vào nụ hoa xoài, từ 3 đến 6 trứng trong mỗi nụ bông. Thành trùng cái đẻ 0 đến 50
trứng trên 21 đến 0 nụ bông. Trứng có màu kem trắng. giai đoạn trứng từ 30 đến
36 giờ thì trứng nở. Ấu trùng màu đỏ cam bò ra khỏi bông và được thả xuống. Giai
đoạn ấu trùng từ 10 đến 13 ngày. Nhộng trong đất có chiều sâu từ đến 8 cm trong
một cái kén bằng tơ với các hạt cát quấn chung với chúng và nổi lên mặt đất thành
con trưởng thành từ -6 ngày. Tuổi cuối của ấu trùng được nhìn thấy ở độ sâu từ 15
đến 18 cm trong đất (David và Ananthakrishman, 2004).
1.3.6. Loài Procontarinia mangicola
Theo Uechi N và ctv (2002) thì Một loài muỗi này gây ra các mụt (circular
blisters) tròn trên lá xoài đã được tìm thấy vào năm 2000 tại Tamagusuku Village
trên đảo Okinawa, Nhật Bản. Loài muỗi được xác định là Procontarinia mangicola
(Shi), và ban đầu được đặt trong các chi Erosomyia. Một loài khác là Procontarinia
schreineri Harris, được mô tả từ Guam giống vơi loài P. mangicola. Vào năm 2001,
loài muỗi này đã được tìm thấy trên tám hòn đảo ở Okinawa. Lá bị rất nhiều mụt
do bị gấy hại nặng do đó lá rơi xuống mặt đất sớm hơn nhiều so với lá cây bình
thường và xoài với các lá bị mụt rất cao có hầu như không có phát hoa, dẫn đến
năng suất thấp của xoài thấp. Chúng tôi xem xét rằng các thành trùng muỗi có thể
được phát tán nhờ gió hoặc ấu trùng có thể được vận chuyển với đất hoặc các bề
mặt khác bao gồm các gốc rễ của cây xoài trong vườn ươm.Chúng tôi cũng cung
17
cấp một số ý kiến về các biện pháp kiểm soát có thể được sử dụng để chống lại loài
muỗi này.
1.4 MỘT SỐ CÔN TRÙNG CHÍNH GÂY HẠI TRÊN BÔNG XOÀI
1.4.1 Bù lạch
Gồm hai loài: Scirtothrips dorsalis và Thrips. Trong hai loài này thì Scirtothrips dorsalis
xuất hiện phổ biến, Thrips chỉ xuất hiện rãi rác (Nguyễn Thị Thu Cúc, 2000).
1.4.1.1. Đặc điểm hình thái và sinh học
Theo G. Moritz (1997), râu bù lạch có từ -9 đốt nhưng thông thường 7- 8
đốt. Con đực thường nhỏ hơn và có râu ngắn hơn con cái. Bụng của bù lạch gồm 11
đốt, cơ quan đẻ trứng của bù lạch có dạng lưởi cưa.
Theo Đồng Chiến Thắng (200 ) thành trùng có kích thước rất nhỏ (0,8-0,9
mm X 0,17-0,19 mm). Khi mới vũ hoá có màu trắng, sau đó chuyển thành màu
vàng đến vàng cam, phần lưng của bụng có những mảng màu đen rất điển hình. Ba
mắt đơn có màu đỏ, hai mắt kép to có màu đen và râu đầu có 7 dốt. Hai đôi cánh
rất hẹp, hai bên rìa cánh có nhiều sợi lông nhỏ dài. Con cái có bộ phận đẻ trứng
dạng lưỡi cưa. Sau khi vũ hoá khoảng 3-5 ngày thì con cái bắt đầu đẻ trứng, số
lượng trứng đẻ khoảng 20-25 trứng.
Theo G. Moritz (1997) trứng của bù lạch có màu trắng nhạt, vàng hoặc tối,
hình trụ tròn hoặc dạng thận được che phủ bởi một lớp vỏ ngoài hoặc màng đệm. vó
trứng thì nhẵn, trứng được đé từng cái trong mô cây.
Hình 1.3 (A) Ấu trùng trong mụt hoặc bướu, (B) Nhộng, (C). Thành trùng đực (Uechi, 2002)
18
Theo Đồng Chiến Thắng (200 ) Trứng của bù lạch hình bầu dục, màu trắng
ngà tới vàng nhạt, được đẻ rãi rác trong mô lá non, gần gân lá. Khi mật số cao,
trứng thường được đẻ trên toàn bộ mặt lá. Do trứng được đẻ vào trong mô lá non
nên rất khó phát hiện. Khi trứng sắp nở, nếu quan sát kỹ dưới kính lúp (X 10) có
thể nhìn thấy phần chóp của trứng (màu trắng trong) hơi nhô ra phía ngoài mô lá
non. Các vết đẻ sau đó có thể bị bội nhiễm bởi vi sinh vật tạo thành những đốm
màu vàng nâu trên lá.
Theo T. Lewis (1997) ấu trùng của bù lạch có tuổi. 2 tuổi hoạt động gây hại
là ấu trùng tuổi 1 và tuổi giai đoạn tuổi 3 và không gây hại, ít hoạt động giai đoạn
là tiền nhộng và nhộng.
Theo G. Moritz (1997) ấu trùng tuổi 1 và tuổi 2 giống như là một phiên bản
thu nhỏ của thành trùng, chỉ thêm vào sự hiện diện của cánh và phần phụ sinh dục,
với những cơ quan được thích nghi với kích thước cơ thể nhỏ hơn.
Theo Đồng Chiến Thắng (2004) ấu trùng gồm 2 tuổi, ấu trùng tuổi 1 có cơ thể
màu trắng trong suốt, thân rất nhỏ (0,34-0,43 mm X 0,07-0,11 mm). Chân dài, râu
đầu có 7 đốt hình ống tròn. Ấu trung tuổi 2 có kích thước cơ thể lớn hơn (0,47-0,71
mm X 0,11- 0,17 mm), có màu vàng nhạt. Râu đầu 7 đốt, các lông trên cơ thể dài
hơn ấu trùng tuổi 1, đầu đã hoá cứng. giai đoạn ấu trùng tuổi 1 kéo dài từ 2-3 ngày,
ấu trùng tuổi 2 kéo dài từ 3- ngày. Cuối giai đoạn tuổi 2, phần lớn ấu trùng sẽ rơi
xuống đất để hoá nhộng, một số khác chui vào trong các khe nứt của cây hoặc trong
các lá cuốn lại để tiếp tục giai đoạn tiếp theo.
Theo CPC (1999) tiền nhộng có màu vàng nhạt, râu phình ra, ngắn, có sự phân
đốt rõ ràng, 2 cặp mầm cánh mở rộng trên ngực trái và ngực phải. Nhộng có màu
vàng tối, 2 mắt kép có màu đỏ, mầm cánh được kéo dài ra, râu ngắn và gập lại qua
đầu, nhộng cái với bụng lớn hơn nhộng đực.
Theo Đồng Chiến Thắng (2004), giai đoạn tiền nhộng có màu vàng, râu ngắn,
mập. Hai mầm cánh đã lộ ra bên ngoài cơ thể, thời gian phát triển của giai đoạn
tiền nhộng kéo dài từ 1 ngày. Giai đoạn nhộng có kích thước tương tự như giai
đoạn tiền nhộng. Nhộng có màu vàng sậm, mắt kép và mắt đơn có màu đỏ, mầm
cánh đã dài hơn, râu ngắn và gập lại qua đầu, nhộng cái với phần bụng lớn hơn
nhộng đực. Thời gian phát triển của nhộng là 1 ngày.
Theo Nguyễn Thị Thu Cúc (2000) thì loài S. dorsalis sau khi vũ hóa 3 ngày con cái bắt đầu
đẻ trứng, số lượng trứng đẻ khoảng 20-25 trứng. Trứng thường được đẻ trong mô lá non.
Chu kỳ sinh trưởng kéo dài khoảng 13-20 ngày. Sau khi hoàn thành giai đoạn tuổi
19
2, một số ấu trùng sẽ rơi xuống đất để hoá nhộng, một số khác hoá nhộng trong các
khe nứt của cây hoặc trong các lá cuốn lại.
1.3.1.2. Tập quán sinh sống và cách gây hại
Do bù lạch gây hại bằng cách chích hút trên cành non, lá non, nụ bông, bông
và trái nên triệu chứng thường được thể hiện rõ trên các bộ phận này. Các vết chích
của bù lạch sẽ tạo thành những chấm nhỏ lấm tấm như mũi kim chích nâu đen rãi
rác trên lá, bông, nhánh bông. Khi bị chích hút nặng, các vết chích liên kết lại thành
những mảng lớn biến màu (thường màu nâu hoặc màu vàng) trên các bộ phận nêu
trên.
Trên lá: khi bị nặng, chóp lá non bị héo, có màu đỏ sau đó bị khô đi. Hai mép
lá phát triển không bình thường và bị công queo.
Trên nụ bông: bù lạch chích hút sẽ gây những chấm đen li ti, các chấm này
liên kết lại với nhau tạo thành những vệt lớn, khi bị gây hại nặng, nụ bông không
phát triển. Còn trên bông : vào giai đoạn trổ, khi bù lạch tấn công nặng, bông sẽ khô
và rụng sau đó.
Trên trái: bù lạch tấn công ngay từ khi trái vừa được hình thành. Sự chích hút
của bù lạch sẽ để lại những chấm nâu đen xuất phát từ ngay cuống trái tạo thành
những vùng da cám chung quanh cuống trái, khi mật số cao, vết da cám sẽ lan dần
xuống chóp trái và toàn bộ trái sẽ bị da cám, làm giảm giá trị thương phẩm của trái.
Nếu bị tấn công nặng vào giai đoạn tượng trái non, trái có thể bị khô và rụng. Trên
trái lớn, nếu bị nhiễm bù lạch trái cũng có thể bị biến dạng và da trái bị đen. Khi trái
xoài to bằng cổ tay trở đi (vỏ trái dầy) thì mật số bù lạch giảm rất rõ.
Hình 1.4 Triệu trứng gây hại bù lạch trên trái và bông xoài
(Nguồn: bài giảng Côn Trùng của Nguyễn Thị Thu Cúc)
20
1.3.1.3. Biện pháp phòng trị
Theo Nguyễn Thị Thu Cúc (2003), thì một số loại thuốc hóa học to ra có hiệu
quả tốt đối với bù lạch khi được sử dụng đúng như: Comite, Carbosulfan, Phosalon,
Benfuracard, Prothiophos, Confidor, Regent, Bassa, Trebon, Cypermethrin,
Disulfoton, Vertimec… tuy nhiên do bù lạch có thể kháng thuốc nhanh nên chỉ sử
dụng khi thật sự cần thiết (khi có >=5% lá non, phát hoa, trái bị nhiễm với 2-3 bù
lạch/trái hoặc 5-10 bù lạch trên chồi non hoặc phát hoa.
1.3.2. Rầy bông xoài
Trên cây xoài thường có nhiều loài rầy gây hại bông. Ở Việt Nam chủ yếu gặp
loài Idiocerus niveosparsus (Lethierry). Ngoài ra, một loài khác ít phổ biến hơn là I.
clypeus (Lethierry), đa ký chủ (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2011)
1.3.2.1. Đặc điểm hình thái và sinh học
Theo Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen (2011), thành trùng của loài
Idiocerus niveosparsus (Lethierry) có thân dài khoảng mm, cánh màu nâu, trên
cánh phần giáp với ngực có một băng trắng chạy ngang. Trứng màu trắng trong khi
mới đẻ, sắp nở chuyển sang màu vàng. Thời gian ủ trứng từ -7 ngày. Ấu trùng khi
mới nở có màu trắng sữa, có 5 tuổi với thời gian phát triển từ 8 đến 10 ngày. Loài I.
clypeus có thành trùng nhỏ hơn, dài 3,5 - 4,0 mm xanh lục lợt đến đậm, ấu trùng
màu xanh lục non đến xanh lục ngả đen, đặc điểm về vòng đời cũng tương tự.
1.3.2.2. Tập quán sinh sống và cách gây hại
Theo Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen (2011), Thành trùng mới vũ hóa rất
linh động và liền sau đó di chuyển tới chồi non, bắt đầu đẻ trứng, ngay cả trên chồi
non còn cuốn lại, hoặc trên gân chính của lá, chúng còn đẻ trứng trên từng hoa nhỏ
hay trên cành nhỏ. Cả thành trùng và ấu trùng đều sống trong lá xoài và nhảy xào
xạc khi bị động đến. Khi xoài trổ bông thì rầy tập trung chích hút trên bông, chồi
non. Rầy cái dùng bộ phận đẻ trứng nhọn ở cuối bụng, đẻ trứng rải rác vào bên
A B
Hình 1.5 Trứng của rầy bông xoài (A) và ấu trùng rầy bông xoài (B)
21
trong cuống của chồi non. Rầy đẻ trứng và chích hút nhiều gây ra hai hiện tượng
như sau:
Số lượng trứng đẻ nhiều trên các bộ phận trên cành non, bông gây vết thương làm
cho các phần trên bị khô, héo và có thể rụng sự tập trung chích hút của thành trùng
và ấu trùng làm cây bị suy yếu.
Rầy còn tiết ra chất đường thu hút nấm đen tới đóng quanh nơi rầy bám hoặc
các tầng lá phía dưới làm cản trở quang hợp của cây. Nếu mật độ rầy cao thì xoài sẽ
không đậu bông và rụng trái
1.3.2.3. Biện pháp phòng trị
Theo Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen (2011) sử dụng các loại thuốc đặc trị
rầy, tốt nhất là nên ngừa sớm khi xoài vừa có nụ hoa nếu quan sát thấy có nhiều rầy
trú trong lá. Khi mật số khoảng 5 con/phát hoa có thể làm hoa rụng. Khi xoài đang
ra hoa nếu áp dụng thuốc thì nên thận trọng vì có thể ảnh hưởng đến các côn trùng
thụ phấn hoa. Sau đó nên áp dụng lại nếu mật số rầy còn cao vào giai đoạn tượng
trái. có thể dùng bẩy đèn thu hút thành trùng. Sau khi thu hoạch trái nên tỉa bớt cành
cây để giảm nơi trú ẩn của rầy.
1.3.3. Sâu ăn bông xoài
Theo Nguyễn Quang Huy và Nguyễn Thị Thu Cúc (2008) Trên xoài đã phát
hiện được loài, bao gồm Thalassodes falsaria, Geometrids 2, Geometrids 4
(Geometridae) và Homodes sp. (Noctuidae). Loài Homodes sp. có tính chuyên biệt,
khi quan sát chỉ thấy ăn lá non xoài. Còn 3 Còn lại 3 loài Thalassodes falsaria,
Geometrids 2 và Geometrids 4 thuộc nhóm đa ký chủ. Hai loài Geometrids 2 và
Geometrids , ngoài xoài ra chúng cũng ăn phá trên bông nhãn, loài Thalassodes
falsaria còn tấn công trên chôm chôm. Trong các loài sâu đo được phát hiện trên
xoài, Thalassodes falsaria là đối tượng gây hại quan trọng nhất, trên một chùm
bông có khi xuất hiện tới 5-7 con.
1.3.3.1. Đặc điểm hình thái và sinh học
Theo Nguyễn Quang Huy và Nguyễn Thị Thu Cúc (2008), thành trùng loài
Thalassodes falsaria có sải cánh dài ,2 cm, thân dài khoảng 2 cm. Thành trùng
nhìn từ trên toàn một màu xanh cả trên thân và cánh. Mặt dưới cánh có màu trắng
xanh, bụng trắng và được phủ một lớp lông khá dày. Các đôi chân có màu vàng đậm
với một ít chấm đen nhỏ trên các đốt to. Đầu xanh với 2 mắt to đen, râu dài khoảng
0,5 cm, hơi cong, luôn hướng ra phía trước, có dạng răng lược ở con cái và dạng sợi
chỉ ở con đực. Vòi hút dài khoảng 0,6 cm, lúc nào cũng cuộn tròn trước miệng.Mặt
22
trên cánh có một vài vân màu trắng, nhỏ và lợt. Xung quanh rìa cánh đều có viền
màu hồng nhạt. Trên 2 cánh sau, mỗi bên có một quần to màu vàng nhung hơi nhạt.
Thành trùng tương đối ít di chuyển, thường dang rộng cánh khi đậu. Thành trùng có
thể sống khoảng 5-6 ngày.
Trứng có dạng hình chiếc trống, màu xanh, đường kính khoảng 0,55-0,6 mm,
chiều cao khoảng 0,22-0,25 mm. Mặt trên và dưới trứng đều phẳng, không láng, hơi
lõm xuống làm lộ lên đường viền tròn xung quanh có dạng răng cưa. Do có bề mặt
khá phẳng nên khả năng tiếp xúc và bám chặt của trứng là rất cao, đồng thời xung
quanh mặt dưới trứng có lớp tơ trắng rất mịn và mỏng để giữ chặt trứng. Giai đoạn
ấu trùng kéo dài khoảng 17-18 ngày với tuổi khoảng 3 ngày, dài từ 0,3- 0,8 cm. Lúc
đầu T1 có màu vàng hơi xanh. Ấu trùng lớn khá nhanh, trong 2 ngày kích thước đã
tăng khoảng 0,5 cm.
Màu vàng trên thân ở giai đoạn cuối tuổi 1 nhạt dần, lúc này trông ấu trùng hơi
xanh hơn. Ở giai đoạn này, đầu ấu trùng vẫn chưa thấy nhô cao và xuất hiện đường
chẻ. Mắt ấu trùng có màu hơi vàng vàng ở cuối tuổi 1. Da ấu trùng mỏng, láng và
không thấv có lông, ấu trùng di chuyển khá nhanh và liên tục. Do quá nhỏ nên ấu
trùng ăn rất ít và chi cắn đứt phần biểu bì của lá, chừa lại loang lổ những đốm mỏng
nhưng không thủng hoàn toàn. Tuổi khoảng 3- ngày, dài từ 0,9-1,8 cm. Khi tuổi
dài khoảng 1,2 cm, màu xanh càng rõ hơn và sang ngày thứ , ngày cuối tuổi 2, ấu
trùng gần như có màu xanh hoàn toàn. Quan sát thấy phần đầu ấu trùng có màu hơi
ngã vàng, 2 đôi chân cuối cùng có màu hơi hồng.
Khi ấu trùng dài khoảng 1,7 cm, đầu ấu trùng đã lộ lên phần nhọn trên đầu với
đường chẻ ngay chính giữa. Đường chẻ này vẫn còn nhỏ và phần nhọn của đầu
cũng còn khá thấp. Cuối thân, ở đốt sau cùng của ấu trùng quan sát thấy có phần dư
hơi nhô ra khỏi đôi chân sau nhưng không dài lấm. Da ấu trùng quan sát dưới kính
như có vẻ dầy và xanh hơn. Thân ấu trùng không quan sát thấy có lông. Cuối tuổi 2,
ấu trùng ăn khá mạnh và cắn đứt lá non thành những mảng nhỏ, thường chỉ cắn đứt
từ mép lá vào chứ không cắn thủng được phần thịt lá bên trong. Quan sát thấy ở tuổi
này ấu trùng không di chuyển nhiều bằng lúc tuổi 1, nhưng nhìn chung chúng cũng
rất linh hoạt.
Giai đoạn ấu trùng tuổi 3 khoảng 3- ngày, dài từ 1,9-2,5 cm. Ở tuổi 3, thân ấu
trùng đã hoàn toàn có màu xanh. Riêng các đôi chân sau và phần đầu vẫn còn màu
hơi hồng. Trên thân ấu trùng xuất hiện nhiều đốm nhỏ màu vàng nâu ngay chỗ các
khớp thân. Ở giữa các đốt 2 đôi chân sau thì đốm nâu vàng này trông rõ, dài hơn và
to hơn.
23
Lúc này ấu trùng cắn phá rất mạnh và có thể cắn đứt cả những gân lá non
ngoại trừ gân chính, nhưng chúng ít di chuyển hơn lúc còn nhỏ. Ấu trùng tuổi kéo
dài khoảng ngày, dài lừ 2,6-3,3 cm. Các đôi chân trước chuyển sang màu đen,
phần chóp nhọn trên đầu cũng có màu nâu đen.
Trên thân ấu trùng quan sát thấy xuất hiện nhiều đốm đen nhỏ, mọc loang lổ
khấp trôn thân, tùy con mà các đốm này có thế xuất hiện nhiều hay ít. Da ấu trùng
có vẻ sần sùi hơn. Đây là giai đoạn mà ấu trùng tăng kích thước rất nhanh vì ấu
trùng ăn phá rất mạnh. Chúng ăn được cả gân chính lá non và những lá hơi cứng
hơn mà ấu trùng các tuổi nhỏ không ăn được. Nhìn chung ấu trùng di chuyển rất ít,
trông có vẽ không linh động lắm nhưng lại ăn phá liên tục và nhiều hơn hẳn so với
các giai đoạn trước. Ấu trùng tuổi 5, khoảng 3 ngày, dài từ 3, -3,7 cm. Đây là giai
đoạn mà ấu trùng gần như chỉ lớn nhanh theo chiều hướng tăng đường kính thân và
cũng là giai đoạn ấu trùng ăn phá mạnh nhất để chuẩn bị làm nhộng. Ngoài kích
thước khá to, điều dễ nhận thấy nữa đó là những đốm đen mọc trên thân càng rõ
hơn. Ở một số con, các đốm đen xuất hiện rất nhiều, phân bố thành từng đoạn, và
ngay bên trên là những vệt trắng rất rõ, chúng nằm ngay chỗ khớp chia đốt trên
thân. Ngoài ra, còn rất nhiều các đốm đen nhỏ khác phân bố không đều. Một số con,
các đốm đen này xuất hiện nhiều hơn, thành vệt to ở dưới bụng ấu trùng và chúng
phân bố không theo một trật tự nào. Da của ấu trùng trông rất sần sùi, nhiều hơn so
với ở tuổi và thấy xuất hiện một ít đốm trắng nhỏ li ti mọc rải rác khắp thân ấu
trùng, ở giai đoạn này, ấu trùng lại càng ít di chuyển hơn trước. Khi ấu trùng chuẩn
bị lột xác, chúng nằm yên và hơi duỗi ra, đầu cụp xuống, hai mắt hướng thẳng
xuống đất, phần nhọn của đầu sẽ đưa thẳng ra trước thay vì hướng lên như bình
thường. Các đôi chân sau bám chặt lấy cành hoặc lá, các đôi chân trước không bám
mà gập sát vào thân, cứ như thế nằm bất động cho đến khi chuẩn bị lột xác. Khi lột
xác, ấu trùng tách phần vỏ đầu trước, đôi khi phần vỏ này dính lại trên các đốt cổ.
Kế đến, bằng cách di chuyển và uốn éo, ấu trùng dần dần tách phần vỏ trên thân, bắt
đầu từ trên cổ xuống. Lớp vỏ mỏng được cuộn tròn và đẩy ngược ra phía sau, từ từ
được tách hẳn ra khỏi thân và để lại phía đuôi ấu trùng. Đặc biệt, ấu trùng sẽ quay
lại ăn phần xác vỏ lột ra từ thân nhưng không ăn phần vỏ đầu đã lột trước đó.
Nhưng đôi khi, ấu trùng lại không ăn phần xác vỏ trên thân mà lại ăn phần vỏ đâu,
và trường hợp này là rất ít. Giai đoạn nhộng khoảng 8-9 ngày.
24
Chương 2: PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1 PHƯƠNG TIỆN
2.1.1 Đối tượng cây trồng nghiên cứu
- Cây xoài (Mangifera indica L.)
2.1.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian thực hiện đề tài: tháng 1/2012 đến tháng 11/2012.
- Địa điểm: Tại phòng thí nghiệm Bộ môn Bảo vệ thực vật, Khoa Nông
Nghiệp và SHƯD, Trường Đại học Cần Thơ.
- Điều tra nông dân và khảo sát ngoài đồng: được thực hiện tại vườn xoài
thuộc xã Lương Phi (Huyện Tri Tôn) và xã An Cư (Huyện Tịnh Biên), Tỉnh An
Giang, thực hiện điều tra tại mỗi địa bàn 20 phiếu chuẩn bị sẵn.
2.1.3 Vật tư thí nghiệm
Nguồn bông xoài bị muỗi gây hại được thu trên các vườn xoài thuộc huyện
Tri Tôn và Tịnh Biên, tỉnh An Giang ở các giai đoạn phát triển khác nhau của bông.
- Bọc nilon đựng mẫu.
- Nhiệt kế, ẩm độ kế: để đo nhiệt độ và ẩm độ trong phòng thí nghiệm trong
quá trình làm thí nghiệm.
- Hộp nhựa (nhiều kích thước khác nhau), đĩa petri: để nuôi các loại ấu trùng
và thành trùng.
- Giấy thấm và bông gòn: để giữ ẩm
- Phương tiện quan sát: Kính lúp, kính hiển vi, máy ảnh: quan sát và ghi nhận
các giai đoạn của côn trùng.
- Cồn 70o dùng để bảo quản mẫu.
2.2 PHƯƠNG PHÁP
Thí nghiệm được thực hiện bao gồm:
- Điều tra nông dân.
- Điều tra ngoài đồng.
- Khảo sát trong phòng thí nghiệm.
25
2.2.1 Điều tra nông dân
Mục đích: nhằm tìm hiểu về kỹ thuật canh tác, tình hình dịch hại trong vùng
khảo sát cũng như sự hiểu biết và biện pháp đối phó của nông dân đối với côn trùng
gây hại chính trên bông xoài.
Địa bàn điều tra: các vườn trồng xoài ở 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên
thuộc tỉnh An Giang.
Phương pháp điều tra: tiến hành điều tra bằng cách phỏng vấn trực tiếp
người nông dân theo phiếu điều tra đã chuẩn bị sẵn (phiếu điều tra đính kèm ở phần
phụ lục).
Thời gian điều tra: tháng 7/2012 đến tháng 9/2012
Số hộ điều tra: mỗi địa bàn chọn từ 20 hộ trở lên.
Cách chọn vườn: chọn ngẫu nhiên những vườn có diện tích từ 1.000m2 trở
lên, cây xoài ở giai đoạn ra hoa.
Nội dung điều tra:
- Tình hình dịch hại trên vườn.
- Mức độ gây hại và thời gian gây hại của các loại dịch hại chính ở giai đoạn
bông.
- Sự hiểu biết của nông dân về dịch hại chính trên bông xoài.
- Biện pháp phòng trừ dịch hại của nông dân.
- Sự hiểu biết của nông dân về muỗi gây hại bông xoài
2.2.2 Điều tra ngoài đồng
2.2.2.1 Điều tra thành phần loài muỗi gây hại trên bông xoài
Mục đích: Xác định thành phần loài, sự hiện diện côn trùng gây hại phổ biến
trên bông, cũng như mức độ gây hại của muỗi gây hại trên bông xoài.
Địa bàn điều tra: các vườn trồng xoài ở 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên
thuộc tỉnh An Giang.
Phương pháp: trên mỗi vườn tiến hành khảo sát 5 điểm theo đường chéo
gốc. Tại mỗi điểm khảo sát 1 cây. Trên mỗi cây quan sát theo hướng, trên mỗi
26
hướng quan sát và chọn ngẫu nhiên từ 3 phát hoa để khảo sát thành phần sâu hại
trên bông, triệu chứng gây hại, tỷ lệ gây hại của muỗi gây hại bông xoài.
Chỉ tiêu ghi nhận: Ghi nhận thành phần sâu hại trên bông và mô tả triệu
chứng và tỷ lệ gây hại của muỗi gây hại bông xoài.
2.2.3 Khảo sát trong phòng thí nghiệm
Mục đích: Khảo sát một số đặc điểm về hình thái phân loại và sinh học của
loài muỗi gây hại trên bông xoài.
Địa điểm: tiến hành trong phòng thí nghiệm Bộ Môn Bảo Vệ Thực Vật,
khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng.
Phương pháp khảo sát: Các mẫu bông xoài bị muỗi gây hại được tiến hành
thu từ một số vườn tại huyện Tri Tôn và Tịnh Biên, tỉnh An Giang, bông xoài có
các giai đoạn phát triển của muỗi gây hại (trứng, ấu trùng, nhộng, thành trùng). Sau
đó đem về nuôi và khảo sát trong điều kiện phòng thí nghiệm, dùng kim châm và
dao mổ tách nhẹ một số bông chọn ngẫu nhiên để quan sát.
Chỉ tiêu theo dõi:
- Trứng: Ghi nhận hình dạng, màu sắc, kích thước (đo 30 trứng), số lượng và
thời gian trứng nở.
- Ấu trùng: quan sát ấu trùng tuổi 1 và ấu trùng tuổi cuối về hình dạng, màu
sắc, kích thước, thời gian sống ở các giai đoạn và khả năng gây hại.
- Nhộng: Ghi nhận hình dạng, màu sắc, kích thước (đo 50 nhộng).
- Thành trùng: Ghi nhận hình thái bên ngoài, màu sắc, kích thước, thời gian
sống của thành trùng (đo kích thước 50 thành trùng đực và 50 thành trùng cái).
- Phương pháp định danh: Sử dụng khóa phân loại của Gagne và Etienne
(2006) để định danh muỗi và tài liệu trên internet để phân loại theo sự hướng dẫn
của giáo viên hướng dẫn.
2.3 XỬ LÝ SỐ LIỆU
Số liệu được phân tích, xử lý bằng chương trình Excel 2003 để tính trung bình.
27
Chương 3: KẾT QUẢ THẢO LUẬN
3.1 KẾT QUẢ ĐIỀU TRA NÔNG DÂN
3.1.1 Đặc điểm chung về tình hình canh tác trên các vườn xoài khảo sát
Nhằm tìm hiểu về kỹ thuật canh tác và sự hiểu biết của nông dân về khả năng
gây hại của muỗi gây hại bông xoài ở hai huyện thuộc tỉnh An Giang, chúng tôi tiến
hành điều tra 0 hộ nông dân ở hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên (Bảng 3.1) kết quả
điều tra cho thấy:
Số hộ có diện tích trên 10000 m2 của hai huyện tương đối cao chiếm 2,5%
tổng số hộ (Bảng 3.1) trong đó thì huyện Tịnh Biên chiếm diện tích cao hơn huyện
Tri Tôn là 25% hộ, diện tích từ 5000 – 7500 m2 cũng chiếm tỷ lệ khá cao 35% tổng
số hộ. Nhìn chung phần lớn các hộ nông dân đều có diện tích xoài trên 5000 m2.
Điều này cho thấy, cây xoài chiếm vị trí quan trọng trong lĩnh vực sản xuất nông
sản ở tỉnh An Giang, tình hình canh tác cây xoài ở tỉnh An Giang được trồng tập
chung theo hình thức chuyên canh và cho trái quanh năm, tạo thu nhập cho người
dân.
Nhìn chung vườn trồng xoài chuyên canh chiếm tỷ lệ cao 62,5% tổng số hộ
điều tra, trong đó vườn trồng chuyên canh ở huyện Tịnh Biên chiếm 70% cao hơn
huyện Tri Tôn (15%). Số còn lại là những hộ nông dân trồng với hình thức xen canh
chiếm 37,5%. Các loại cây trồng xen canh như gừng, nghệ, mít, mãng cầu tập trung
chủ yếu ở huyện Tịnh Biên, còn lại là một số loại cây có múi như cam, chanh, quýt,
bưởi da xanh và chuối tập trung ở vùng núi huyện Tri Tôn. Như vậy, vườn trồng
xoài ở Huyện Tịnh Biên chủ yếu là hình thức chuyên canh, thuận lợi cho việc đầu tư
và chăm sóc, một số loại cây xen canh trong vườn để tận dụng những khoảng đất
trống canh tác để tăng thêm thu nhập. Huyện Tri Tôn thì mức độ chuyên canh còn
thấp, nhưng về các cây trồng xen canh thì đa số là những cây có múi mang lại lợi
nhuận cao, cho thấy huyện này cũng đang dần chuyển sang canh tác cây có múi,
nhằm làm phong phú các sản phẩm cây ăn trái trong huyện.
Tuổi cây trên vườn ở cả hai huyện điều tra tập trung nhiều ở độ tuổi từ 5 năm
đến 20 năm tuổi. Đối với số vườn có độ tuổi cây trên 20 năm tuổi chiếm rất ít chỉ
10% và tập chung ở huyện Tịnh Biên, còn lại là cây có độ tuổi từ 11 – 20 chiếm tỷ
lệ tương đối ngang nhau. Điều này chứng tỏ đây là vùng canh tác xoài lâu năm của
tỉnh An Giang.
28
Bảng 3.1. Đặc điểm chung của vườn điều tra
Đặc điểm Tỷ lệ% hộ nông dân
Tổng số hộ Huyện Tri Tôn Huyện Tịnh Biên
Diện tích (m2)
1000-2500 5 10 -
2500-5000 12,5 5 20
5000-7500 35 45 25
7500-10000 5 10 -
>10000 42,5 30 55
Vườn trồng:
Chuyên canh 62,5 55 70
Xen canh 37,5 45 30
Tuổi cây (năm)
5-10 35 40 30
11-20 60 60 60
>20 5 - 10
Ghi chú: khảo sát 40 hộ nông dân
3.1.2 Giống xoài và kỹ thuật canh tác
a. Giống xoài
Theo kết quả điều tra cho thấy, các giống xoài trồng phổ biến ở hai huyện điều
tra là cát Hòa Lộc chiếm 77,5% trên tổng số hộ điều tra, xoài Bưởi chiếm 50% và
hai giống xoài khác được ghi nhận trong quá trình điều tra là xoài Thanh Ca chiếm
27,5% và xoài Đài Loan chiếm 20% (Bảng 3.2).
Người dân trồng phổ biến xoài cát Hòa Lộc vì xoài có giá thành cao, giá trị
kinh tế ổn định, nhưng giống xoài nầy xử lý ra hoa rất khó, năng suất không cao. Kế
đến là giống xoài Bưởi do Hạt kiểm lâm huyện chuyển giao cho nông dân trồng để
phủ xanh đất trống đồi trọc, do giá trị thấp nên người dân dần dần lựa chọn xoài cát
Hòa Lộc và xoài Đài Loan để thay thế xoài Bưởi. Xoài Thanh Ca được nông dân tự
để giống bằng hột và trồng tại địa phương cũng khá lâu đời, vì thế tuổi cây xoài trên
15 năm tuổi cũng khá nhiều, theo nhận định của nông dân chọn giống xoài nầy vì
ngay tại thời điểm đó giống xoài Thanh Ca là giống xoài nổi tiếng dễ ra hoa đậu
trái. Xoài Đài Loan là một giống xoài khá mới cho năng suất, hiệu quả kinh tế cao
và thời gian cho trái cũng tương đối ngắn khoảng 2 năm là cho trái, do đó người dân
đang dần dần mua giống xoài này từ các trại giống tỉnh Vĩnh Long và Bến Tre đem
về địa phương trồng.
29
Bảng 3.2 Mức độ phổ biến của các giống xoài ở hai huyện điều tra
Giống xoài Mức độ phổ biến của các giống xoài
Tổng số hộ Phần trăm nông hộ
Xoài Bưởi 20 50
Xoài cát Hòa Lộc 31 77,5
Xoài Đài Loan 8 20
Xoài Thanh Ca 11 27,5
Như vậy, hiện nay các vườn xoài của hai huyện này đang chuyển dần qua canh
tác xoài cát Hòa Lộc và Đài Loan do có giá trị thương phẩm cao, cải thiện được thu
nhập cho người dân.
b. Khoảng cách trồng
Kết quả điều tra cho thấy do địa hình điều tra chủ yếu ở gần chân núi và trên núi,
do đó khoảng cách trồng gần vùng chân núi thì khoảng 6 x 6m, còn trên núi chủ yếu
trồng theo bậc thang và địa hình do đó việc chăm sóc cũng tương đối khó.
c. Tưới nước
Theo nông dân thì việc cung cấp nước rất cần thiết cho xoài giai đoạn bông và
trái để trái phát triển tốt. Tuy nhiên do địa bàn canh tác xoài chủ yếu là vùng núi do
đó không có đủ lượng nước để cung cấp cho xoài, mà chỉ tận dụng nguồn nước mưa
tự nhiên vào mỗi năm, nguồn nước ngầm tự nhiên rất ít chỉ đủ cho sinh hoạt của các
hộ ven núi và sống trên núi. Do đó việc chủ động nguồn nước để chăm sóc xoài vẫn
còn nhiều hạn chế.
d. Tỉa cành, tạo tán
Theo đa số nông dân trong địa bàn điều tra thì một năm chỉ cắt tỉa cành một lần
vào sau một đợt thu hoạch trong năm, thường thì cắt những cành sâu bệnh, những
cành vượt, nông dân cho rằng việc cắt tỉa cành giúp cây thông thoáng hạn chế được
sâu bệnh, dễ điều khiển xử lý ra hoa và chăm sóc cây khi xử lý ra hoa.
30
e. Phân bón
Nông dân thường bón phân hóa học cho cây khoảng 1-2 lần/năm, bón chủ yếu ở
các giai đoạn đầu vụ lúc chuẩn bị phun hóa chất kích thích ra hoa xoài. Các loại
phân hóa học chủ yếu được sử dụng chủ yếu là: NPK đầu trâu 20-20-15 TE, Urê,
phân lân và phân kali. Bên cạnh đó hầu hết nông dân đều có sử dụng rất nhiều loại
phân bón lá như Aha 14 18+18+21+TE, ba lá xanh… trong các hộ điều tra thì có
/ 0 hộ điều tra là có sử dụng phân hữu cơ chủ yếu là phân bò, còn có một số ít
nông dân lại cho rằng đất đai vùng đồi núi tốt sẵn nên không sử dụng phân hóa học,
phân hữu cơ và chỉ có sử dụng phân bón lá, vì theo nông dân việc sử dụng phân bón
lá góp phần cho cây tốt và kích thích ra hoa, bông to, đậu trái nhiều, và trái đẹp.
f. Xử lý ra hoa xoài
Theo kết quả điều tra thì 100% nông dân đều có xử lý ra hoa xoài bằng hóa chất,
trước khi phun các loại hóa chất kích thích họ sẽ tiến hành sử dụng Paclobutrazol để
đổ gốc bằng cách xới đất xung quanh gốc sau đó tưới thuốc vào gốc xoài, liều lượng
xử lý thì phụ thuộc vào tán cây, tuổi cây và theo hướng dẫn sử dụng trong bao bì,
sau khoảng từ 5-50 ngày thì nông dân tiến hành phun một số chất kích ra hoa phổ
biến nhất là fofen- X , bên cạnh đó còn có một số hộ sử dụng DOLA 02-X đây cũng
là một sản phẩm dùng để kích thích ra hoa, sản phẩm này có chứa tới 97%
Thiourea.
Thời điểm xử lý ra hoa: đa số nông dân xử lý quanh năm, xử lý không đồng loạt
là do tập quán canh tác của nông dân và nhu cầu của thị trường, do đó bông xoài ở
hai vùng khảo sát ra quanh năm, tạo điều kiện cho các loại côn trùng gây hại trên
hoa có ký chủ để lưu tồn và gây hại quanh năm, chính vì thế đã tạo điều kiện cho
dòi bông xoài gây hại quanh năm.
Hình 3.1 vườn xoài ở hai huyện Tịnh Biên (A) và Tri Tôn
(B)
A B
31
3.1.3 Hiểu biết của nông dân về sâu hại trên cây xoài.
Nhìn chung sâu hại trên cây xoài tại 2 huyện điều tra có 9 loài gây hại, trong
đó huyện Tri Tôn có 9 loài, huyện Tịnh Biên có 6 loài gồm bù lạch, rầy bông xoài,
ruồi đục trái, sâu đục trái, xén tóc đục thân, sâu ăn bông, vòi voi đục cành, cấu cấu
xanh và dòi bông xoài.
Theo nhận định của nông dân có 5 loài gây hại quang trọng là: bù lạch (bọ trĩ),
ruồi đục trái, dòi bông xoài, sâu đục (hột) trái và rầy bông xoài.
Bảng 3.3 Thành phần côn trùng gây hại trên cây xoài ở hai địa bàn điều tra
Côn trùng gây hại
Tỷ lệ% (hộ nông dân)
Tổng số
hộ Huyện Tri Tôn Huyện Tịnh Biên
Bù lạch (Bọ trĩ)
97,5 100 95
Rầy bông xoài
42,5 50 35
Ruồi đục trái
72,5 75 70
Sâu đục (hột) trái
47,5 55 40
Xén tóc đục thân
17,5 15 20
Sâu ăn bông 10 20 -
Vòi voi đục cành
2,5 5 -
Câu cấu xanh
2,5 5 -
Dòi bông xoài 50 90 10
Qua kết quả điều tra cho thấy (Bảng 3.3), ở giai đoạn ra hoa có 97,5% hộ nông
dân xem bù lạch là đối tượng gây hại phổ biến và quan trọng nhất. Bù lạch thường
xuất hiện với mật số rất cao và gây hại chủ yếu ở giai đoạn xoài ra hoa. Kế tiếp là
ruồi đục trái gây hại trên xoài chiếm tỉ lệ 72,5% tổng số hộ điều tra, dòi bông xoài
chiếm tỷ lệ 50% số hộ điều tra, sâu đục (hột) trái chiếm tỉ lệ 7,5% và rầy bông xoài
chiếm tỉ lệ 2,5%. Nhìn chung qua số liệu điều tra cho thấy các đối gây hại quan
32
trọng trên xoài cũng chiếm tỉ lệ khá cao, do đó cần phải có những biện pháp cụ thể
để giải quyết những đối tượng gây hại nghiêm trọng nhằm hạn chế ảnh hưởng đến
năng suất xoài của nông dân, đề nghị cán bộ khuyến nông huyện cần tổ chức nhiều
buổi tập huấn cho nông dân để nông dân có thêm hiểu biết về các đối tượng dịch hại
này nhằm quản lý được các loài dịch hại này.
Theo nhận định của 90% hộ nông dân Huyện Tri Tôn thì hiện nay có xuất hiện
một loại côn trùng mới mà nông dân thường gọi là “con bông bụp” gây hại nặng
trên bông xoài, ảnh hưởng đến sự đậu trái và dẫn đến giảm năng suất xoài của người
dân, có thể mất trắng cả vụ, một số nông dân còn cho rằng nếu không có biện pháp
phòng trị kịp thời có thể loài dịch hại nầy sẽ lan rộng ra nhiều nhà vườn và nguy hại
hơn cả bù lạch.
3.1.4 Tình hình sử dụng nông dược của nông dân trên cây xoài
Theo kết quả điều tra (Bảng 3. ) thì tình hình sử dụng thuốc BVTV trong
vườn xoài hiện nay rất đáng quan tâm. Qua điều tra cho thấy 100% hộ nông dân tại
hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên đều sử dụng rất nhiều loại thuốc BVTV để phòng
trừ sâu hại. Đây có thể là nguyên nhân làm cho nhiều loài thiên địch bị tiêu diệt và
làm cho các loài côn trùng gây hại ngày càng kháng thuốc và dẫn đến sự bộc phát
của dịch hại thứ cấp, gây ô nhiễm môi trường, nguồn nước và ảnh hưởng đến sức
khỏe người tiêu dùng và người canh tác.
Kết quả điều tra ghi nhận đa số các hộ phun thuốc trừ sâu định kỳ từ 7 – 10
ngày/lần, phun luân phiên các loại thuốc trừ sâu và phun nhiều loại thuốc khác nhau
trong một lần nên để cho thuận tiện và tiết kiệm công phun xịt thuốc người dân
thường trộn nhiều loại thuốc vào trong cùng một hồ chứa hoặc thùng có kích thước
lớn.
Qua điều tra cũng cho thấy tỷ lệ nông dân sử dụng thuốc nhóm độc II cũng
khá cao chiếm tỷ lệ 9/17 loại thuốc (Bảng 3. ) và kế tiếp là nhóm độc III, đặc biệt
theo điều tra còn ghi nhận người dân vẫn còn sử dụng các loại thuốc đã cấm sử
dụng có nguồn gốc từ Campuchia (người dân gọi thuốc này là UT80 loại thuốc này
được người dân cho biết mua từ trên Campuchia mang về sử dụng), từ thực trạng
này sẽ gây ra nhiều vấn đề khó kiểm soát như ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến
sức khỏe người dân.
33
Bảng 3.4 Các loại nông dược nông dân sử dụng để phòng trừ côn trùng gây hại trên cây xoài
Tên thương mại Tên hoạt chất Nhóm độc Tỷ lệ% hộ nông dân
Tri Tôn Tịnh Biên
Cyrux 25EC Cypermethrin II 60 55
Wavotox 585 EC Chlorpyrifos Ethyl
Cypermethrin I - 10
Hopsan 75ND Phenthoate…. 5%
Fenobucarb….30% II 10 15
Chess 50WG Pymetrozine III 10 10
Tungrin 5EC -
10EC - 25EC -
50EC
Cypermethrin 5%,
10%, 25%, 50% II 10 10
Kinalux 25 EC Quinalphos II - 5
Brightin 1.8EC,
4.0EC Abamectin II - 5
Ascend 20SP Acetamiprid III - 10
Bamectin 22.2WG Abamectin III - 5
Actara 25WG Thiamethoxam III 10 -
Cofidor 100 SL Imidacloprid III 30 -
Reasgant 1.8EC Abamectin II 10 -
Karate 2.5EC Lambda-Cyhalothrin II 15 -
Aba thái 1.8 EC Abamectin II 5 5
Motox 2.5EC-5EC-
10EC Alpha Cypermenthrin II 15 -
Admire 50EC Imidacloprid III 35 -
Thuốc khác - 20 10
3.1.5 Hiểu biết của nông dân và biện pháp phòng trị đối với dòi bông xoài
Nhìn chung qua kết quả điều tra cho thấy dòi bông xoài đang gây hại nặng tại
2 huyện Tịnh Biên và Tri Tôn, dòi bông xoài xuất hiện nhiều tại núi ô tà Sóc (thuộc
núi dài Huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) trên 90% vườn điều tra, còn huyện Tịnh
Biên chỉ xuất hiện ít khoảng 0% hộ nông dân, vì thế nông dân ở vùng này đang lo
ngại về đối tượng dịch hại mới gây hại trên bông xoài, qua đó cũng cho thấy loại
dịch hại này chưa phổ biến trên diện rộng.
Vì đây là đối tượng mới và có kích thước nhỏ nên đa số nông dân vẫn chưa
phân biệt được một cách chính xác đối tượng này mà chỉ ghi nhận được triệu chứng
34
ngoài đồng do dòi bông xoài gây hại, người dân thường gọi bông bị gây hại bằng
tên như “bông bụp” hay “búp sen”.
Bảng 3.5 Kết quả hiểu biết của nông dân trên đối tượng dòi bông xoài
Đặc điểm Số hộ/tổng số hộ điều tra (%)
Tổng số hộ Tri Tôn Tịnh Biên
Sự xuất hiện
Có 65 90 40
Không 35 10 60
Tên gọi triệu trứng
Bông bụp 42,5 85 -
Búp sen 10 20 -
Chưa biết 55 10 100
Thời điểm gây hại
Mùa mưa 52,5 40 65
Mùa nắng 35 50 20
Không chú ý 12,5 10 15
Tác nhân gây hại
Do côn trùng 17,5 25 10
Do vi sinh vật gây bệnh 22,5 25 20
Do thời tiết 32,5 40 25
Chưa thấy, không biết 27,5 10 45
Dòi bông xoài có quan
trọng hay không?
Có 60 90 30
Không 5 10 -
Số lần xử lý thuốc giai
đoạn cây ra hoa
1 lần 2,5 5
2 lần 17,5 10 25
3 lần 70 75 65
> 3 lần 10 15 5
ND* có tham gia lớp
IPM không
Có 2,5 5 -
Không 97,5 95 100
35
Qua kết quả điều tra cho thấy thời điểm muỗi gây hại vào mùa mưa chiếm tỉ lệ
đến 52,5% hộ nông dân, thời điểm muỗi gây hại vào mùa nắng chiếm tỉ lệ 35%, tuy
nhiên qua điều tra thực tế thì triệu chứng bông xoài bị hại vào mùa mưa chủ yếu là
do bệnh thán thư gây ra.
Qua kết quả bảng 3.5 cho thấy đa số nông dân đều không biết đúng tác nhân
gây hại bông xoài chiếm tỷ lệ 82,5% hộ nông dân (trong đó có 22,5% hộ cho rằng
bông xoài bị nhiễm vi sinh vật, còn hộ nông dân cho rằng do yếu tố thời tiết chiếm
tỉ lệ 32,5%, số lượng nông dân cho biết là không chú ý đến hiện tượng này chiếm tỉ
lệ 27,5%), chỉ có 17,5% hộ nông dân biết tác nhân gây hại là côn trùng, qua đó cho
thấy tỉ lệ hộ nông dân biết đối tượng gây hại là côn trùng khá thấp. Vì thế, việc sử
dụng các biện pháp phòng trị đối với dịch hại này còn nhiều hạn chế do nông dân
chưa biết được chính xác tác nhân gây hại và đặc điểm gây hại của đối tượng này.
Đa số vườn nông dân có muỗi gây hại nặng thì có đến 60% cho rằng dòi bông
xoài là đối tượng gây hại quan trọng, vì đây là đối tượng đặc biệt rất khó phát hiện
hoặc khi phát hiện được muỗi gây hại bông thì bông đã gần như không có khả năng
phục hồi lại.
Theo kết quả điều tra cũng cho thấy từ giai đoạn mầm hoa nhú đến khi hoa nở
thì nông dân có xử lý thuốc trừ sâu 3 lần, chiếm tỷ lệ cao nhất từ 70%, qua đó cũng
cho thấy việc xử lý thuốc trừ sâu của nông dân theo định kỳ là chủ yếu, dẫn đến tốn
nhiều chi phí của người dân.
Mặc dù huyện Tịnh Biên có diện tích tương đối lớn nhưng qua kết quả điều tra
thì có 100% hộ nông dân không có tham gia các lớp tập huấn quản lý dịch hại tổng
hợp (IPM) trên xoài, Huyện Tri Tôn chiếm tỷ lệ 95% không có tham gia các lớp tập
huấn IPM (Bảng 3.5), vì thế sự hiểu biết về dịch hại và các biện pháp quản lý dịch
hại của nông dân còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, người dân canh tác xoài chủ yếu
ở gần đồi núi và trên núi do đó việc tiếp xúc với các kênh thông tin đại chúng còn
nhiều khó khăn. Vì vậy, các ngành các cấp chính quyền địa phương cần tăng cường
tập huấn cho nông dân để họ có thể ứng dụng tốt thành tựu khoa học và quản lý
được dịch hại.
3.2 KẾT QUẢ ĐIỀU TRA NGOÀI ĐỒNG
Để đánh giá tỷ lệ gây hại, xác định triệu chứng gây hại của dòi bông xoài gây
ra chúng tôi tiến hành khảo sát trực tiếp trên vườn của 0 hộ điều tra thuộc 2 huyện
của tỉnh An Giang, có diện tích canh tác xoài tương đối lớn trong tỉnh.
Kết quả điều tra ngoài đồng trên hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên trong thời
gian từ tháng 7/2012 đến tháng 9/2012 ghi nhận dòi bông xoài xuất hiện khá phổ
36
biến đồng thời gây hại nghiêm trọng bông xoài. Tuy nhiên mức độ nghiêm trọng
của từng vườn khác nhau tùy vào điều kiện chăm sóc và trình độ nông dân, biện
pháp quản lý dịch hại.
Dựa vào số liệu điều tra ta thấy, dòi bông xoài chỉ gây hại 7,5% số vườn điều
tra, trong đó tỷ lệ nhiễm từ 5 – 30% chiếm 27,5%, tỷ lệ nhiễm từ 30-50% chiếm
15% và có đến 52,5% số vườn điều tra không nhiễm dòi bông xoài. Trong đó dòi
bông xoài gây hại ở huyện Tri Tôn với tỷ lệ 85% tổng số hộ trong huyện, trung bình
tỷ lệ phát hoa bị hại trên mỗi vườn chiếm 20,8%, huyện Tịnh Biên chỉ có 10% tổng
số hộ của huyện bị dòi bông xoài gây hại, còn tỷ lệ phát hoa bị hại thấp chỉ chiếm
6,3%.
Như vậy theo điều tra thực tế và nhận định của nông dân chủ yếu huyện Tri
Tôn thì hiện nay, dòi bông xoài đang bùng phát và lan rộng khắp nhà vườn trong
huyện, nếu không có biện pháp phòng trị kịp thời dịch hại mới này sẽ gây hại càng
nghiêm trọng hơn và ảnh hưởng đến năng suất, nếu nặng có thể gây thất thu hoàn
toàn. Chính vì thế cần tiến hành tìm hiểu đặc điểm về đặc hình thái và triệu chứng
gây hại của đối tượng dịch.
Bảng 3.6 Kết quả khảo sát ngoài đồng về tình hình gây hại của dòi bông xoài ở hai huyện Tri
Tôn và Tịnh Biên.
Tỷ lệ vườn (%) Tổng cả vườn
Tổng số hộ Tri Tôn Tịnh Biên
0 52,5 15 90
0- 5 5 5 5
5 - 30 27,5 50 5
30 – 50 15 30 -
≥ 50 - - -
Tổng 100 100 100
Trung bình (%) 20, 8 6,3
Ghi chú: Tỷ lệ (%) hộ nông dân bị muỗi gây hại ở các mức, trung bình (%) là tỷ lệ (%) phát hoa bị gây hại
trên mỗi vườn
37
3.3 MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI VÀ TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI
NGOÀI ĐỒNG CỦA DÒI BÔNG XOÀI
3.3.1 Một số đặc điểm hình thái
Qua kết quả khảo sát trong điều kiện phòng thí nghiệm tại bộ môn Bảo Vệ
Thực Vật, Khoa Nông Nghiệp và SHƯD, trường Đại học Cần Thơ, với điều kiện
nhiệt độ trong phòng dao động từ 29,7 ± 0,62 0C và ẩm độ từ 70,39 ± 3,25%, ghi
nhận được một số đặc điểm hình thái của dòi bông xoài như sau:
3.3.1.1 Thành trùng
Nhìn chung, thành trùng là loài muỗi thuộc bộ hai cánh (Diptera) có kích
thước nhỏ, dạng hình trụ dẹp với chiều dài thân từ 1 – 2mm có màu vàng cam, cơ
thể được bao phủ bởi một lớp lông nhỏ màu đen mịn.
Lúc mới vũ hóa, thành trùng còn rất yếu, hơi ướt mềm và chưa thể bay được,
sau vài giờ thành trùng trở nên cứng cáp và bay được, thành trùng đực thường vũ
hóa sớm hơn thành trùng cái. Đặc điểm này cũng được ghi nhận trên nhiều loài
thuộc họ Cecidomyiidae, thành trùng đực có thể vũ hóa sớm hơn so với thành trùng
cái, chênh lệch nhau vài giờ trong cùng một ngày (Peña và ctv.,1989; Kolesik,
1993). Khi đậu cánh xếp dọc theo chiều dài của cơ thể và bao phủ cả thân (Hình
3.1). Khác với ấu trùng, cơ thể thành trùng có thể chia thành 3 phần riêng biệt:
a. Đầu và râu đầu
Nhìn từ mặt lưng, đầu thành trùng dòi bông xoài màu đen có hình gần như
hình trái tim, đầu mang 2 mắt kép rất to chiếm 2/3 thể tích của đầu (Hình 3.2).
Miệng không có vòi hút.
Hình 3.1. Thành trùng dòi bông xoài
38
Râu đầu dạng hình chuỗi hạt có màu vàng nhạt, khi đậu râu cong lên giống
như hình móc câu, xung quanh mỗi đốt có nhiều lông dài màu đen, chiều dài râu
đầu khoảng 0,5 – 1,6mm, số lượng đốt râu dao động từ 13 – 14 đốt (tùy theo thành
trùng đực hay cái), râu con đực dài hơn râu con cái và râu con đực nhiều đốt hơn
râu con cái.
b. Ngực
Ngực có 3 đốt, đốt ngực giữa rất phát triển bao trùm hết phần ngực. Cánh gắn
ở đốt ngực giữa, gân cánh trong suốt. Hai cánh dài phủ đến cuối bụng, mặt trong và
ngoài của cánh có nhiều viền lông phủ thưa và dài màu đen nhạt.
Cánh có ba gân trong suốt nổi rõ, trên cánh có những đốm màu nâu đen
thường ở gần các gân cánh. Cánh sau thoái hóa thành dạng chùy (halteres) để giữ
thăng bằng (Hình 3. ).
Ba cặp chân gắn ở ba đốt ngực, có lớp lông mịn màu xám nâu bao phủ, ngoài
ra còn có những gai cứng, nhỏ và ngắn ở mặt trong của các đốt chân. Chân có màu
Hình 3.3. Cánh của thành trùng dòi bông xoài
Hình 3.2. Dạng đầu dòi bông xoài
39
vàng cam nhạt và những đốm màu đen chia thành những đoạn màu đen xen kẽ
nhau.
c. Bụng
Bụng có từ 6 – 7 đốt, hai bên hông các đốt bụng về cuối bụng có hai hàng lông
phủ màu xám đen, cuối bụng là bộ phận sinh dục. Phần thân có u lưng hơi gù, trên u
lưng có 3 vệt màu đen lớn, trên thân cũng có lớp lông phủ màu đen đậm theo các
đốt.
Bảng 3.7 Kích thước các giai đoạn phát triển của dòi bông xoài.
Giai đoạn khảo
sát
Số quan
sát
Chiều dài (mm) Chiều rộng (mm)
Trung
bình Biến thiên
Trung
bình Biến thiên
Thành trùng cái 50 1,9 ± 0,18 1,4-2,2 0,6 ± 0,07 0,4-0,7
Thành trùng đực 50 1, ± 0,12 1,2-1,6 0, ± 0,0 0,4-0,5
Ấu trùng tuổi
cuối 30 1,3 ± 0,19
1,08 ±
1,6 0,5 ± 0,09 0,38 ± 0,65
Nhộng 50 1,5 ± 0,17 1,1-1,8 0,6 ± 0,08 0,4-0,7
Trứng 30 0,3 ± 0,04 0,2-0,3 0,09 ± 0,02 0,08-0,1
Chiều dài râu
con cái 20 0,6 ± 0,06 0,5-0,7
Chiều dài râu
con đực 20 1,5 ± 0,12 1,1-1,6
Hình 3.4. Hai cánh sau của thành trùng thoái hóa thành dạng chùy
40
Thành trùng cái
Kích thước của thành trùng cái thông thường lớn hơn con đực, con cái thì có
cơ thể màu vàng cam đậm hơn con đực. Thân dài 1,9 ± 0,18mm, rộng từ 0,6 ±
0,07mm (Bảng 3.7), bụng con cái to tròn hơn bụng con đực. Thành trùng cái có bộ
phận đẻ trứng hình kim nhọn một đầu ở cuối bụng kéo dài ra, phần bụng phình to
thon nhỏ ở đoạn đầu, ở đoạn giữa hơi cong và là phần lớn nhất của bụng, đoạn sau
thẳng và nối liền với bộ phận đẻ trứng. Râu đầu con cái có 13 đốt, râu con cái ngắn
hơn râu con đực và cong ngược lên trên, chiều dài râu con cái 0,6 ± 0,06mm (Bảng
3.7), đốt râu của con cái đen đậm và khích lại với nhau, lông trên đốt cũng ít hơn
con đực, đặc biệt giữa đốt râu thứ 7 vào thứ 8 có một cái mấu nhọn đen đậm (Hình
3.5 D).
Thành trùng đực
Con đực có chiều dài thân từ 1, ± 0,12mm, rộng từ 0, ± 0,04mm (Bảng 3.7).
Con đực có cơ thể màu vàng nhạt. Con đực có màu bụng hơi nhạt màu hơn và thon
nhỏ hơn bụng của con cái. Bộ phận sinh dục không nhọn và có hai mấu cứng hình
Hình 3.5. Thành trùng cái dòi bông xoài (A,B), Bộ phận đẻ trứng (C), râu đầu (D)
A B
C D
41
gọng kìm được bao phủ bởi một lớp lông mịn. Phần bụng bắt đầu từ đoạn đầu thon
nhỏ dài tới đốt bụng cuối cùng, ở đoạn giữa hơi cong lên trên, đoạn sau thẳng và tạo
thành khớp ở chổ giao với bộ phận sinh dục đực và hơi cong lên. Râu đầu có 1 đốt,
dạng râu của con đực cong ngược lên như lưỡi câu, chiều dài râu con đực 1,5 ±
0,12mm (Bảng 3.7), khoảng cách giữa các đốt râu của con đực dài không có khích
lại giống như con cái.
3.3.1.2 Trứng
Thành trùng sau khi vũ hóa sẽ bắt đầu bắt cặp và đẻ trứng, trứng được đẻ
thành từng cụm từ 2 – trứng hoặc đẻ rời rạc từng trứng riêng lẻ bên trong cánh
hoa xoài. Kích thước trứng rất nhỏ, không thể quan sát bằng mắt thường, trứng có
màu trắng trong suốt, có hình oval dài gần giống như hạt gạo. Vỏ trứng mỏng, nhẵn
bóng và rất dễ vỡ. Màu sắc trứng có sự thay đổi, màu sắc trong suốt lúc mới đẻ, sau
đó có màu trắng đục. Trứng dài khoảng 0,3 ± 0,0 mm, rộng khoảng 0,09 ± 0,02mm
(Bảng 3.7).
C A
C
D
B
Hình 3.6. Thành trùng đực dòi bông xoài (A,B), bộ phận sinh dục đực (C), Râu đầu (D)
42
3.3.1.3 Ấu trùng
Ấu trùng hình dáng giống như dòi, cơ thể hơi dẹp thon nhỏ gọn hơn về phía
hai đầu. Toàn thân bóng loáng. Ấu trùng tuổi nhỏ có màu trắng trong, ít di chuyển
và bước đầu phân đốt nhưng chưa rõ có thể đây là ấu trùng tuổi 1, tiếp theo ấu trùng
sẽ chuyển sang màu trắng đục, di chuyển bằng cách co dãn các đốt cơ thể có thể là
ấu trùng tuổi 2, giai đoạn tiếp theo là chuyển sang mà vàng cam, cơ thể phân đốt rõ
khoảng 11 – 12 đốt. Ấu trùng tuổi cuối có màu vàng cam đậm có chiều dài khoảng
1,3 ± 0,19mm, rộng khoảng 0,5 ± 0,09mm, khi quan sát kĩ có thể thấy ấu trùng tuổi
cuối có hai mắt đỏ trên đầu và mỗi đốt đều có các sợi lông nhỏ.
Hình 3.8. Ấu trùng của muỗi gây hại bông xoài
Hình 3.7. Trứng dòi bông xoài
43
3.3.1.4 Nhộng
Nhộng còn trong kén trắng (Hình 3.10) khi đó tiến hành tách kén ra thì thấy
nhiều giai đoạn khác nhau (Hình 3.11).
Hình 3.9. Các giai đoạn phát triển của dòi bông xoài
Hình 3.10. Hình nhộng còn trong kén
trắng
Hình 3.11. Nhộng của muỗi gây hại bông xoài
44
Nhộng thuộc nhóm nhộng trần, có màu vàng nhạt kích thước dài khoảng 1,5 ±
0,17mm, rộng 0,6 ± 0,07mm (n=50). Nhộng có râu phát triển, hai râu hướng thẳng
về phía trước tuy nhiên lúc này râu còn ngắn. Bụng phân đốt rõ có khoảng 8 - 9 đốt.
Có thể quan sát thấy được hai mắt trên đầu nhộng, mắt chuyển dần từ màu
vàng nhạt sang màu đỏ cam và cuối cùng là màu đen. Mầm cánh và chân có màu
trắng trong sau đó chuyển sang màu nâu đen khi nhộng sắp vũ hóa. Vào giai đoạn
cuối của nhộng có thể phân biệt được nhộng đực và nhộng cái nhờ vào phần cuối
bụng của nhộng, nhộng đực có hai mấu hình gọng kiềm màu nâu đen và hai mấu
này không xuất hiện ở nhộng cái (Hình 3.12).
Mỗi bông xoài có khoảng từ 2 – 8 nhộng trên bông, sao khi vũ hóa vỏ nhộng
còn dính lại trên bông xoài (Hình 3.13).
Hình 3.12. Phân biệt giữa nhộng đực và cái
A. nhộng đực B. nhộng cái
A B
A B
Hình 3.13 Nhộng vũ hóa ra khỏi bông xoài (A), nhộng bên trong bông xoài (B)
45
3.3.2 Triệu chứng gây hại ngoài đồng của muỗi gây hại bông xoài
Giai đoạn đầu khi bông xoài mới nhiễm chưa ghi nhận sự thay đổi về hình
dạng, màu sắc của bông (Hình 3.1 A) nên rất khó phân biệt với bông không bị hại.
Tuy nhiên, khi tách cánh hoa ra và quan sát dưới kính lúp thì thấy trứng và dòi màu
trắng trong bên trong nụ bông. (Hình 3.14 E, F).
Hình 3.14. Quan sát bông xoài từ xa (A), quan sát gần (B), bông xoài
chưa biểu hiện triệu chứng (C,D), trứng và dòi bên trong nụ bông (E,F)
E F
B D
C
A
46
Giai đoạn tiếp theo ấu trùng nở ra và ăn phá các bộ phận bên trong của bông
xoài gây ảnh hưởng đến sự phát triển của bông, chính là nguyên nhân làm bông phát
triển không bình thường, phình to tròn, cánh hoa bóng hơn bình thường (Hình 3.15).
Khi tách cánh hoa ra sẽ thấy bên trong nụ bông xoài đã xuất hiện ấu trùng
(Hình 3.16), số lượng ấu trùng dao động từ 2-8 ấu trùng trên bông. Ấu trùng thường
ăn dọc theo hai bên trong bông trước và sau đó tấn công các bộ phận bên trong để
có chổ di chuyển. Có thể là những vết cắn phá của dòi làm cho bông bị biến đổi
thành màu hồng đỏ, đây cũng là triệu chứng rất đặc trưng khi chúng ta quan sát
ngoài đồng để nhận diện dòi gây hại. (Hình 3.16).
Qua kết quả khảo sát ngoài đồng, ta thấy rõ nhất triệu chứng gây hại của muỗi
trên bông xoài thì lúc đó bông xoài đã bị nhiễm nặng, nhìn toàn diện phát hoa ta
thấy các bông trên phát hoa đen sậm màu lại, khi quan sát kỹ từng nụ bông xoài thì
ta thấy trên bông xoài đã sậm màu và có bông thì màu đỏ hồng (Hình 3.17)
Hình 3.15 Triệu chứng đặc trưng của muỗi gây hại bông xoài
3.16 Ấu trùng muỗi bông xoài bên trong nụ bông
47
Khi bông thể hiện triệu chứng đỏ hồng gần hoàn toàn bông xoài thì lúc này
bên trong bông xoài ấu trùng đã tạo kén hóa nhộng, sau đó nhộng sẽ chuyển dần
màu mắt, xuất hiện mầm cánh, khi mầm cánh chuyển sang màu đen và mắt cũng
màu đen là lúc nhộng sắp vũ hóa, để lại kén nhộng bên trong và bông hư hại hoàn
toàn. Ấu trùng hóa nhộng bên trong bông và được bao bọc bởi 1 lớp kén màu trắng,
thì lúc này các bộ phận trong bông đã bị hư hại hết, phần bao phấn cũng bị kén
nhộng quấn vào, dẫn đến hoại tử bông và dần dần về sau bông sẽ khô đen, không
nở, lúc bông sậm màu lại đó chính là lúc nhộng sắp vũ hóa, sau đó bông sẽ khô dần
(Hình 3.18).
Hình 3.17. Triệu chứng gây hại ngoài đồng đặc trưng của muỗi bông xoài
48
Do ấu trùng họ Cecidoyiidae gây hại thường có kích thước rất nhỏ, có chu kì
sinh trưởng ngắn nên khả năng gây hại rất lớn. Do đó, đây là đối tượng gây hại
nghiêm trọng và khó phòng trừ (Huỳnh Thanh Đức và Nguyễn Thị Thu Cúc, 2008)
Mặc dù không khảo sát được vòng đời muỗi nhưng theo tài liệu Trần Văn Hâu
(2009) thì thời gian từ khi xuất hiện mầm hoa đến khi hoa nở dao động khoảng 1 -
15 ngày, do đó có thể vòng đời của dòi bông xoài có thể ngắn, vì thế tăng mật số
nhanh, nên tỷ lệ gây hại nặng, ảnh hưởng đến sự đậu trái, làm giảm đi năng xuất.
Bên cạnh đó, muỗi gây hại ở giai đoạn đầu không thể hiện triệu chứng, khi xuất
hiện triệu chứng điển hình thì đã quá muộn để phòng trừ, vì thế cần nắm vững rõ
đặc điểm từng giai đoạn gây hại để có biện pháp phòng trừ sớm.
Hình 3.18 Bông có nhộng sắp vũ hóa và bao nhộng đã vũ hóa hoàn toàn
49
CHƯƠNG 4
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1 Kết luận
Vườn trồng xoài chuyên canh chiếm tỷ lệ cao 62,5% tổng số hộ điều tra, dòi
bông xoài xuất hiện ở 65% số hộ điều tra và đây là đối tượng gây hại quan trọng
(60% nông dân vườn điều tra). Dòi bông xoài chỉ gây hại 7,5% số vườn điều tra
với tỷ lệ nhiễm đạt dưới 50%.
Kích thước của thành trùng cái lớn hơn thành trùng đực, râu đầu của thành
trùng cái có 13 đốt và ngắn hơn thành trùng đực (1 đốt), khoảng cách giữa các đốt
râu của thành trùng đực dài hơn thành trùng cái.
Ấu trùng tuổi 1 có màu trắng trong, ít di chuyển, phân đốt chưa rõ. Ấu trùng
tuổi 2 màu trắng đục, giai đoạn tiếp theo có màu vàng cam, cơ thể phân đốt rõ (11 –
12 đốt). Ấu trùng tuổi cuối có màu vàng cam đậm.
Nhộng thuộc nhóm nhộng trần, có màu vàng nhạt, bụng phân đốt rõ (8 - 9
đốt).
Bông xoài mới bị muỗi tấn công chưa ghi nhận sự thay đổi về hình dạng, màu
sắc nên rất khó phát hiện. Khi quan sát thấy từng nụ bông xoài chuyển màu đỏ
hồng, đen sậm là lúc ấu trùng ăn phá và hình thành nhộng bên trong nụ bông.
4.2 Đề nghị
Tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh đặc điểm sinh học của dòi bông xoài.
Theo dõi diễn biến mật số số dòi bông xoài trong năm.
Thử hiệu quả phòng trị dòi bông xoài với một số loại thuốc bảo vệ thực vật trong
điều kiện phòng thí nghiệm, nhà lưới và ngoài đồng.
50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
Huỳnh Thanh Đức (2008), Côn trùng gây thối bông trên cây huệ trắng (Polianthes
tuberosa L.): Thành phần loài, một số đặc điểm sinh học và khả năng gây hại,
Luận văn tốt nghiệp kỹ sư Nông học, Khoa Nông nghiệp và SHƯD, Trường
Đại học Cần Thơ, 7 trang.
Nguyễn Thị Thu Cúc (2010), Giáo trình Côn trùng đại cương, NXB Đại học Cần
Thơ, 239 trang.
Nguyễn Thị Thu Cúc và Huỳnh Thanh Đức (2008), Muỗi (Contarinia sp.) - tác nhân
gây hại hoa huệ trắng vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Nông nghiệp và
phát triển nông thôn 8: 29-33.
Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong (2003), Giáo trình cây ăn trái, Tủ sách Đại
Học Cần Thơ
Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen (2010), Giáo trình côn trùng hại cây trồng, Khoa
Nông nghiệp và SHƯD, Trường Đại học cần Thơ, 211 trang.
Nguyễn Viết Tùng (2006), Giáo trình Côn trùng học đại cương, NXB Nông nghiệp,
240 trang.
Trần Thị Kim Thúy (2010), Thành phần loài, các đặc điểm hinh thái và sinh học của các loài
Côn trùng gây hại chính trên hoa lài (Jasmintum sambac (L.) Ait), Luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Bảo vệ Thực vật, Khoa Nông nghiệp và SHƯD, Trường Đại học Cần
Thơ, 73 trang.
Trần Văn Hâu (2009), Giáo trinh xử lý ra hoa cây ăn trái, NXB Đại học Quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh, 175 trang.
Nguyễn Thị Thu Cúc (2000), Côn trùng và Nhện gây hại cây ăn trái vùng Đồng Bằng Sông
Cửu Long và biện pháp phòng trị, NXB Nông Nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, 3 2
trang.
Đồng Chiến Thắng (200 ), Bước đầu khảo sát thành phần, nguyên nhân bộc phát,
51
sự gây hại và một số đặc điểm sinh học, sinh thái của bù lạch (Thripidae) gây
hại trên xoài, Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành trồng trọt, Khoa Nông nghiệp
và SHƯD, Trường Đại học càn Thơ, 5 trang.
Trần Văn Khải (2000), Côn trùng gây hại trên xoài – biện pháp phòng trị sâu đục trái,
Deanolis albizonalis (Lepidoptera: Pyralidae) và tác động của một số thuốc Bảo vệ
Thực vật đến động vật đất vườn xoài. Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành trồng trọt,
Khoa Nông Nghiệp và SHƯD, Trường Đại Học Cần Thơ,
Nguyễn Quang Huy và Nguyễn Thị Thu Cúc (2008), Sâu đo gây hại trên cây ăn trái tại
thành phố Cần Thơ và vùng phụ cận: thành phần loài, đặc điểm hinh thái và sinh học
của các loài gây hại phổ biến, Tạp chí khoa học 2008 10:72-81.
Nguyễn Hồng Ba (2011), Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và sinh thái của muỗi
hành Orseolia oryzae (Diptera: Cecidomyiidae) hại lúa tại Châu Thành, Tiền
Giang, Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Bảo vệ Thực vật, Trường Đại Học
Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm Thị Vượng (2005), Nghiên cứu và ứng dụng các biện pháp phòng trừ sâu hại
tổng hợp nhằm phát triển cây ăn quả (cây có múi) ở Việt Nam, Viện Bảo Vệ
Thực Vật, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, 68 trang.
Nguyễn Thị Thu Cúc và Đồng Chiến Thắng (2005), Nghiên cứu về Bọ cánh tơ gây
hại xoài vùng ĐBSCL, Hội Nghị Côn Trùng Học Toàn Quốc Lần Thứ 5, Hà
Nội, trang: 301-306.
Nguyễn Quang Huy và Nguyễn Thị Thu Cúc (2008). Sâu đo gây hại cây ăn trái tại
Tp Cần Thơ và vùng phụ cận: Thành phần loài, đặt điểm hinh thái, sinh học của các
loài gây hại phổ biến. Tạp Chí Khoa học Trường Đại Học Cần Thơ 10: 72-81.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
Abbas S.R., Verghese A. and Fasih M. (1988) Studies on the Mango Inflorescence
Midge, Erosomya indica Grover, Acta Horticulturae 231: 593-596.
Anonymous (1981), Plant Pest News 1. U.S. Department of Agriculture, U.S.A.
52
Barnes H. F. (1948). Gall Midges of Economic Importance: Gall Midges of Fruit,
Vol. 3. Cosby Lockweek and Sons, London, UK.
D’Emmerez de Charmoy (1921) Notes on insects accidentally introduces in the
island of Mauritius. Bull. Ent. Res., 11: 171-177.
Grover (1986a), Integrated control of midge pests, Cecidol. Int., 7: 1-28.
Grover P. (1986b), Population fluctuation of Erosomya indica and Dasineura
amaramanjarae and co-related extent of damage, Cecidol. Int., 7: 43-57.
Harris K. M. and Schreine I. H. (1992), A new species of gall midge (Diptera:
Cecidomyiidae) attacking mango foliage in Guam, with observations in its pest
status and biology, Bull. Entomol. Res., 82: 41-48.
Waqar A., Muhammad A. N., Basharat A., Saleem and Muhammad A. (2005)
Incedence of mango midge and its control in different mango growing
countries of the world, Institute of Horticultural Sciences, University of
Agriculture, Faisalabads, 99-101
Nakahara, L. M. (1982), Mango blossom midge, Plant quarantine branch hawaii
department of agriculture, 4p
Nakahara L. M. (1981), Survey of new mango blossom midge in Hawaii, Hawaii
Department of Agriculture memorandum. 4p.
Nakahara L. M. and Lai P. Y. (1982), Hawaii pest report Hawaii Department of
Agriculture, 16-19.
Prasad S. N. (1971), The mango midge pests, Cecidological Society of India, 172p.
Yee W. (1976), The mango in Hawaii, University of Hawaii Cooperative Extension
Service Circular 388, 26p.
David B. V. and Ananthakrishman T. N. (2004), General and Applied Entomology,
Tata Mcgraw Hill, 2: 572-573.
Gagné R. J. and Etienne J. (2006), Gephyraulus mangiferae (Felt), N. comb (Diptera:
Cecidomyiidae): A mango pest from India newly recorded from the Western
53
Hemisphere, Proceedings of the Entomological Society of Washington, 108:
930-937.
Felt E. P. (1911), A generic synopsis of the Itoniduc, Journal of the New York
Entomological Society, 19: 31-62.
Felt E. P. (1916), New Indian gall midges, The Canadian Entomologist, 48: 400-
106.
Gagné R. J. (1989), The Plant-Feeding Gall Midges of North America. Cornell
University Press, Ithaca, New York, xiii & 355 pp.
Grover P. (1962), Studies on gall midges (Itonididae: Cecidomyiidae: Nematocera:
Diptera) from India VI, Proceedings of the National Academy of Sciences, 32:
312-318.
Grover P. and Prasad S. N. (1966), Studies on Indian gall midges XVI: Four species
of gall midges (Cecidomyiidae: Diptera) affecting inflorescence of mango.
Cecidologia Indica 1(1): 19.
Harris K. M. and I. H. Schreiner (1992), A new species of gall midge (Diptera:
Cecidomyiidae) attacking mango foliage in Guam, with observations on its
pest status and biology, Bulletin of Entomological Research 82: 41-48.
Kieffer J. J. (1909), Description de galles et d’insectes gallicolcs d'Asie. Marccllia,
7: 149 167.
Kieffer J. J. And Cecconi G. (1906), Un nuovo dittero galligeno su foglie di
Mangifera ididica, Marcellia, 5: 135-136.
Uechi N., Tokuda F. K. M. and Yukawa J. (2002), A mango pest, Procontarinia
mangicola (Shi) comb. nov. (Diptera: Cecidomyiidae), recently found in
Okinawa, Japan, Appl Entomol Zool, 37 (4): 53-593
Bhawan K. (2012), IPM Schedule for mango pests, National Horticulture Mission
Ministry of Agriculture Department of Agriculture & Cooperation Krishi
Bhawan, New Delhi 3-4p
54
CD-CAB International (1998), Crop Protection Compendium.
Grove T., Giliomee J. H. and Pringle K. L. (2000), Seadonal Abundance of different
Stages of the Citrus Thrips, Scirtothrips aurantii, on Two Mango Cultivars in
South Africa.
Lewis T. (1997), Chemical Control, Thrips as crop pest, CAB INTERNATIONAL.
Lewis T. (1997), Pest Thrips in Perspective, Thrips as crop pest, CAB
INTERNATIONAL.
Moritz G. (1997), Structure, Growth and Development. Thrips as crop pest. CAB
INTERNATIONAL.
Irshad G. (2005), www.geocities.com/irshadgardezi/mango.html.
Pena J. E., Mohyuddin A. I. and Wysoki M. (1998), A review of the pest
management situation in mango agro-ecosystems, J. Phytoparasitica 26(2): 1-
20.
Sankaran T. and Mjeni A. M. (1988), Recent Studies on the mango leaf-gall midge
Procontarinio Matteiana Kieffer and C’ecconi (Dip. Cecidomyiidae) and its
parasites in India and on prospects for biological control of the pest in Oman,
Proc. 2nd
International Symposium on Mango, Acta Horticulturae, 231: 587-
592.
Singh, L. B. (1960), The Mango, Leonard Hill, London.
Shi D. S. (1980), A new species of gall midges affecting young leaf of mango
(Diptera: Cecidomyiidae), Entomotaxonomia 2: 131-134.
Srivastava R. P. (1997), Mango Insect Pest Management, International Book
Distributing Co., New Delhi.
Uechi. N., Kawamura. F.. Tokuda. M. and Yukawa. J. (2002), A mango pest.
Procontaiiiia mangicola (Shi.) comb. Nov, (Diptera: Cecidomyiidae) recently
found in Okinawa, Japan, J. Appl. Entomol, 37(4): 589-593.
Veerish, G. K. (1989) Pest problems in mango - world situation, Acta Hortic. 231:
55
551-565.
Whitwell. A. C. (1993), The pest/predator/parasitoid complex on mango
inflorescences in Dominica, Acta Hortic, 341: 421-432.
Alford D. V. (2007), Pests of fruit crops: a color handbook, Plant protection handbook
series: 177-186
Bosio, G., Bogetti C., Brussino G., Gremo F. and Scarpelli F. (1998), Dasineura
oxycoccana, a new pest of blueberry in Italy, Informatore Fitopatologico) 11: 36-
41.
Carneiro M. A. A., Branco C. S. A., Braga C. E. D., Almada E., Costa M. B. M.,
Femandes G. W. and Maia V. C. (2009), Are gall midge species (Diptera,
Cecidomyiidae) host plant specialists?, Revista Brasileira de Entomologia, 53:
365-378.
Crook D. J. and Mordue A. J. (1999), Olfactory responses and sensilla morphology
of the blackcurrant leaf midge Dasineura tetensi, Entomologia Experimentalis et
Applicata, 91(1): 37-50.
Chen M. and Shelton A. M. (2010), Effect of insect density, plant age, and residue
duration on acetamiprid efficacy against swede midge, Journal of Economic
Entomology, 103(6): 2107-11.
Chen M., Zhao J. Z. and Shelton A. M. (2007), Control of Contarinia nasturtii
Keiffer (Diptera: Cecidomyiidae) by foliar sprays of acetamiprid on
cauliflower transplants, Crop Protection, 26(10): 1574-1578.
Gagné R. J. (1986), Revision of Prodiplosis (Diptera: Cecidomyiidae) with
descriptions of three new species, Annals of the Entomological Society of America, 79:
235- 245.
Gagné R. J. and Beavers G. M. (1984), Contarinia spp. (Diptera: Cecidomyiidae)
from shoots of slash pine (Pinus elliotti Engelm.) with the description of a new
species injurious to needles”, Florida Entomologist, 67(2): 221-224.
56
Kikkert J. R., Hoepting C. A., Wu Q., Wang P., Baur R. and Shelton A. M. (2006),
Detection of Contarinia nasturtii (Diptera: Cecidomyiidae) in New York, a new
pest of cruciferous plants in the United States, Journal of Economic Entomology, 99:
1310-1315.
Kolesik P. (1993). Basic bionomics of the lentil gall midge (Contarinia lentis Aczel)
(Diptera, Cecidomyiidae), Journal of Applied Entomology, 116(1-5): 371-380.
Lyrene P.M. and Payne J. A. (1992), Blueberry gall midge: a pest on rabbiteye
blueberry in Florida, Proceedings of the Florida State Horticultural Society, 105: 297-
300.
Milne D. L. (1961), The function of the sternal spatula in gall midges, Proceedings of
the Royal Entomological Society of London , 6: 126-131.
Ollerstam O. and Larsson S. (2003), Salicylic acid mediates resistance in the willow
Salix viminalis against the gall midge Dasineura marginemtorquens, Journal of Chemical
Ecology, 29( 1): 163-174.
Pedigo L. P. (2002), Entomology and pest management, 4th edition, Prentice Hall, Upper
Saddle, 742pp.
Peña J. E., Duncan R. and Torres V. (1990), Control of the citrus midge Prodiplosis
longifila Gagne in southern Florida limes, Proceedings of the Interamerican
Society for Tropical Horticulture, 34:159-161.
Peña J. E., Gagné R. J. and Duncan R. (1989), Biology and characterization of
Prodiplosis longifila (Diptera: Cecidomyiidae) on lime in Florida, Florida
Entomologist 72(3): 444-450.
Pivnick K. A. and Labbé E. (1992), Emergence and calling rhythms, and mating
behavior of the orange wheat blossom midge, Sitodiplosis mosellana (Géhin)
(Díptera: Cecidomyiidae), The Canadian Entomologist 124(3): 501-507.
Sampson B. J., Stringer S. J. and Spiers J. M. (2002), Integrated pest management
for Dasineura oxycoccana (Diptera: Cecidomyiidae) in blueberry, Environmental
57
Entomology 31: 339-347
Sarzynski E. M. and Liburd O. E. (2003), Techniques for monitoring cranberry
tipworm (Diptera: Cecidomyiidae) in rabbiteye and southern highbush
blueberries, Journal of Economic Entomology, 96: 1821-1827.
Skuhravá M. (1991), Gall midges (Cecidomyiidae, Diptera) in forest ecosystems, In:
Baranchiko Y. N., W. J. Mattson, F. P. Hain and T. L. Payne (editors): Forest
Insect Guilds: Patterns of Interactions with Host Trees. U.S. Department of
Agriculture, Forest Service - General Technical Report: 293-297.
Skuhravá M. and Skuhravý V. (2009) Species richness of gall midges (Diptera:
Cecidomyiidae) in Europe (West Palaearctic): biogeography and coevolution
with host plants, Acta Societatis Zoologicae Bohemicae 73: 87-156.
Tripplehom C. A. and Johnson N. F. (2004), Borror and DeLong's introduction to the study
of insects, 7th Edition, Brooks Cole Publishing, 864pp.
Uechi N., Yasuda K., Gyoutoku N. and Yukawa J. (2007), Further detection of an
invasive gall midge, Contarinia maculipennis (Diptera: Cecidomyiidae), on bitter
gourd in Okinawa and on orchids in Fukuoka and Miyazaki, Japan, with
urgent warning against careless importation of orchids, Applied Entomology and
Zoology 42(2): 277-283.
Uechi N., Tokuda M., Yukawa J., Kawamura F., Teramoto K. K. and Harris K. M.
(2003), Confirmation by DNA analysis that Contarinia maculipennis (Diptera:
Cecidomyiidae) is a polyphagous pest of orchids and other unrelated
cultivated plants, Bulletin of Entomological Research 93: 545-551.
Grimaldi D. and Engel M. S. (2005), Evolution of the Insects, Cambridge University
Press, Cambridge, 755pp.
Sharma H. C. And Vidyasagar P. (1992), Orientation of males of sorghum midge,
Contarinia sorghicola to sex pheromones from virgin females in the field,
Entomologia Experimentalis et Applicata 64 (1): 23-29
58
Gerson U. And Neubauer I. (1976), The citrus bloom midge, Contarinia citri Barnes
(Diptera: Cecidomyiidae), in Israel, Phytoparasitica 4(3): 163-172.
Gagné R. J., Wright S. A., Purcell M. F., Brown B. T., Pratt P. D. and Center T. D.
(2009), Description of the larva of Lophodiplosis trifida, an Australian gall midge
(Diptera: Cecidomyiidae) and biocontrol agent of paperbark in Florida, USA,
Florida Entomologist 92(4): 593-597.