18
KHI 12 HTHNG KIN THC HC KIN THC HC KÌ I, PHẦN VĂN HỌC TÂY TIN - QUANG DŨNG Phân tích mt sđoạn thơ TÁC GI- Quang Dũng là một nghsĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh và son nhc. - Quang Dũng là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hu, lãng mn và tài hoa, đặc bit khi ông viết vngười lính và xĐoài (Sơn Tây) của mình. - Thơ Quang dũng không nhiều nhưng để li ấn tượng khó phai, nhất là đề tài người lính. TÁC PHM 1. Hoàn cnh sáng tác: Tây Tiến là một đơn vị bđội thành lp đầu năm 1947, có nhim vphi hp vi bđội Lào, bo vbiên gii Vit - Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp thượng Lào cũng như ở min tây Bc BVit Nam. - Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rng, bao gm các tnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa và cSầm Nưa (Lào). - Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều hc sinh, sinh viên (như Quang Dũng), chiến đấu trong nhng hoàn cnh gian kh, vô cùng thiếu thn vvt cht, bnh st rét hoàng hành ddi. Tuy vy, hsng rt lc quan và chiến đấu rất dũng cảm. - Đoàn quân Tây Tiến sau mt thi gian hoạt động Lào, trvHòa Bình thành lp trung đoàn 52. - Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”. Khi in li, tác giđổi thành bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ in trong tập “Mây đầu ô”. 2. Bcc Đoạn 1:14 câu đầu Đoạn 2: 8 câu tiếp theo Đoạn 3: 8 câu tiếp Đoạn 4: 4 câu cui 1 Đoạn 1: 14 câu: K1.1. 2 câu đầu: Cm xúc vđoàn binh Tây Tiến + Điệp t“nhớ”, tláy “chơi vơi”, câu cm thán.. -> To ni nhmênh mông, sâu thm, hoài nim vi kniệm đầy p vđồng đội, dòng sông Mã, thiên nhiên núi rng

KH HỆ THỐNG KIẾN TH C H C KI N TH C H C KÌ I, PH C Ế QUANG …mariecurie.edu.vn/.../ngu-van-khoi-12-htkien-thuc-7032.pdf · 2020. 2. 19. · KHỐI 12 HỆ THỐNG KIẾN

  • Upload
    others

  • View
    0

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

  • KHỐI 12

    HỆ THỐNG KIẾN THỨC HỌC KIẾN THỨC HỌC KÌ I,

    PHẦN VĂN HỌC TÂY TIẾN - QUANG DŨNG

    Phân tích một số đoạn thơ

    TÁC

    GIẢ

    - Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc.

    - Quang Dũng là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài

    hoa, đặc biệt khi ông viết về người lính và xứ Đoài (Sơn Tây) của mình.

    - Thơ Quang dũng không nhiều nhưng để lại ấn tượng khó phai, nhất là đề tài người

    lính.

    TÁC

    PHẨM

    1. Hoàn cảnh sáng tác: Tây Tiến là một đơn vị bộ đội thành lập đầu năm 1947, có

    nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao lực

    lượng quân đội Pháp ở thượng Lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ Việt Nam.

    - Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh

    Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào).

    - Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh

    viên (như Quang Dũng), chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ, vô cùng thiếu thốn

    về vật chất, bệnh sốt rét hoàng hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và chiến đấu

    rất dũng cảm.

    - Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hòa Bình thành lập

    trung đoàn 52.

    - Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu,

    tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”. Khi in lại, tác giả đổi

    thành bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ in trong tập “Mây đầu ô”.

    2. Bố cục Đoạn 1:14 câu đầu

    Đoạn 2: 8 câu tiếp theo

    Đoạn 3: 8 câu tiếp

    Đoạn 4: 4 câu cuối

    1 Đoạn 1:

    14 câu: Kỉ

    1.1. 2 câu đầu: Cảm xúc về đoàn binh Tây Tiến

    + Điệp từ “nhớ”, từ láy “chơi vơi”, câu cảm thán.. -> Tạo nỗi nhớ mênh mông, sâu

    thẳm, hoài niệm với kỉ niệm đầy ắp về đồng đội, dòng sông Mã, thiên nhiên núi rừng

  • niệm về

    đoàn binh

    Tây Tiến,

    chặng

    đƣờng

    hành quân

    gian khổ

    nơi miền

    Tây Bắc

    Tây Bắc-> Khơi gợi cảm xúc cho toàn bài thơ

    1.2. 6 câu tiếp: Thiên nhiên miền Tây Bắc:

    + Khung cảnh hiểm trở, hùng vĩ: Địa danh lạ lẫm, gợi lên những miền đất xa xôi, hẻo

    lánh, hiểm trở: “Sài Khao sương lấp, Mường Lát hoa về, Pha Luông mưa ra khơi,

    Mường Hịch, Mai Châu”.

    - Địa hình hiểm trở, hoang sơ: từ láy gợi hình “heo hút, khúc khuỷu, thăm thẳm”, điệp

    từ “ngàn”, “dốc”, đảo ngữ “heo hút” diễn tả địa hình quanh co, hiểm trở, gấp khúc,

    đường đi dốc lên, dốc xuống, ngoằn ngoèo, núi cao, vực thẳm, gợi khó khăn, gợi ấn

    tượng về núi rừng Tây Bắc hùng vĩ.

    + Vẻ đẹp thơ mộng, mĩ lệ: Sương mù như khói bao phủ khắp không gian, hương thơm

    của những đóa hoa rừng trong đêm, câu thơ “ Nhà ….Luông” sử dụng toàn thanh bằng,

    gợi không gian thoáng đãng.

    1.3. 4 câu tiếp: Kỉ niệm về cuộc hành quân gian khó của ngƣời lính Tây Tiến

    + Dùng nghệ thuật nói giảm, nói tránh: “dãi dầu không bước nữa, bỏ quên đời”, động

    từ “ gục”-> Giảm bớt đau thương, gợi ra đi nhẹ nhàng, than thản của người lính

    + Điệp từ “chiều chiều, đêm đêm” gợi lên thời gian triền miên, bất tận của cuộc hành

    quân, vẻ hoang sơ, dữ dội, bí ẩn của núi rừng Tây Bắc mỗi khi chiều tàn, đêm xuống.

    Bằng bút pháp hiện thực cái vẻ đẹp huyền bí hoang sơ của cảnh vật đã được tác giả khai

    thác và tô đậm. Tuy nhiên dù ở hoàn cảnh nào người lính vẫn chiến thắng và vượt qua.

    1.4. 2 Câu cuối: Tình quân dân ấm áp

    + Câu cảm thán “Nhớ ôi…!” cùng với sự gợi nhắc tên dịa danh: Mai Châu. Nơi ấy còn

    là nơi diễn ra phút giây đầm ấm của tình quân dân trong cảnh quây quần bên những nồi

    xôi bóc khói, quyện mùi thơm nếp mới, xua tan nhọc nhằn gian lao sau bao ngày hành

    quân gian khổ.

    2. Đoạn 2:

    8 câu tiếp

    theo: Kỉ

    niệm đêm

    liên hoan

    lửa trại và

    buổi chiều

    tiễn biệt

    trên sông

    2.1. 4 câu đầu: Động từ “bừng” diễn tả không khí tưng bừng náo nhiệt của doanh

    trại bộ độii. Hai chữ “Kìa em” diễn tả cái nhìn ngỡ ngàng, ngạc nhiên đến say mê của

    những chàng lính trẻ trước vẻ đẹp của các cô thiếu nữ-> Bao mệt nhọc, gian khó đã lùi

    xa thay vào đó là tâm hồn hào hoa, lãng mạn của những chàng trai Hà Nội, họ không chỉ

    là những người lính dũng cảm mà còn là những chàng trai lãng mạn, đa tình.

    2.2. 4 câu sau: Cảnh chiều sƣơng phủ lên dòng nƣớc mênh mang:

    Hình ảnh thơ giàu chất trữ tình lãng mạn: “Người đi chiều sương, hồn lau, nước lũ, hoa

    đong đưa ...”. Tây Bắc như một bức tranh thủy mặc, giữa không gian rộng lớn, hoa lau

    nở trắng xóa lay động trong gió như lưu luyến chia ly. Khung cảnh rộng lớn ấy có núi,

    nước, có vẻ đẹp thiên nhiên hài hòa trong vẻ đẹp con người.

    3. Đoạn 3:

    8 câu tiếp

    Chân

    dung

    ngƣời lính

    Tây Tiến

    3.1. 2 câu đầu: Ngoại hình lạ lẫm kì dị: Hình ảnh thơ lạ ý thơ độc đáo, cả “đoàn

    binh không mọc tóc, quân xanh màu lá”, khắc họa chân thực sống động chân dung

    người lính Tây Tiến. Sống nơi chốn rừng thiêng, nước độc, thiếu thốn lương thực thuốc

    men, hành quân vất vả, hầu hết lính Tây Tiến đều mắc bệnh sốt rét, điều đó làm cho

    diên mạo những người lính trở nên bất thường: rụng tóc, da xanh như lá cây rừng.

    3.2. 2 câu tiếp: Tính cách: Hình ảnh " mắt trừng " đôi mắt mở to, diễn tả ánh mắt

    giận dữ, căm thù giặc, cảnh giác cao độ, niềm uất hận với kẻ thù của người lính TT. Từ

  • VIỆT BẮC - TỐ HỮU

    “trừng” bộc lộ sức mạnh căm thù bừng cháy và kết tinh sức mạnh chiến đấu mãnh liệt.

    Hình ảnh mang vẻ đẹp oai phong, lẫm liệt khí phách tuyệt vời của người lính TT.

    Tâm hồn: “Gửi mộng qua biên giới”: giấc mộng chiến trường, mộng lập công tiêu diệt

    kẻ thù mang lại hòa bình tự do cuộc sống tười đẹp cho đất nước. “Đêm mơ HN dáng

    kiều thơm”, ban ngày ánh mắt đó theo dõi biên cương Tổ Quốc thì ban đêm người lính

    lại sống với những riêng tư thầm kín, họ là những người rất yêu đời, tâm hồn hào hoa

    lãng mạn.

    3.3. 4 câu tiếp: Lí tƣởng: Cách dùng từ Hán Việt “biên cương, viễn xứ, áo bào,

    độc hành” => tạo âm hưởng bi hùng trang trọng. Từ láy “rải rác” gợi lên không khí

    trầm lắng, cảm xúc tiếc thương, ngậm ngùi trong lòng người đọc, đồng thởi gợi lên hiện

    thực khốc liệt của cuộc chiến trường. Người lính TT hi sinh nằm rải rác dọc đường hành

    quân, nơi đất lạ quê người. Cụm từ “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, tác giả dùng

    cụm từ phủ định “chẳng tiếc” và hoán dụ “đời xanh” nhằm khẳng định lí tưởng, khí

    phách của tuổi trẻ thời bấy giờ, họ không chỉ tự nguyện lên đường mà con sẵn sàng

    dâng hiến cả cuộc đời mình cho Tổ Quốc. Cái chết oai hùng đó được thiên nhiên cất lên

    tiếng nhạc tiễn đưa: “ Sông Mã…… độc hành” hai chữ “gầm lên” còn thể hiện sự quặn

    thắt dồn nén bật thành tiếng gầm than của thiên nhiên.

    4.Nghệ

    thuật

    - Kết hợp từ thuần Việt và từ Hán Việt.

    - Kết hợp cảm hứng lãng mạn và bi tráng.

    - Sử dụng các thủ pháp nghệ thuật, lời thơ gân guốc.

    TÁC GIẢ

    - Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền thi ca cách mạng Việt Nam . Các

    chặng đường thơ của TH gắn bó và phản ánh chân thực những chặng đường Cách mạng

    đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng đầy thắng lợi vẻ vang của dân tộc.

    - Thơ Tố Hữu mang tính chất trữ tình chính trị sâu sắc, mang đậm chất sử thi, luôn

    đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân.

    - Nghệ thuật biểu hiện trong thơ Tố Hữu mang tính dân tộc rất đậm đà.

    TÁC

    PHẨM

    1. Ý nghĩa nhan đề “ Việt Bắc”

    - Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, nơi che chở cho Đảng

    cho chính phủ trong những ngày kháng chiến gian khổ.

    - Nhan đề bài thơi gợi nhớ về Việt Bắc, có ý nghĩa nhắc nhở phải thủy chung với

    Việt Bắc tức là thủy chung với cách mạng.

    2. Hoàn cảnh sáng tác:

    - Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi. Tháng 7/1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về

    Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt

  • Phân tích một số đoạn thơ

    1. Khung

    cảnh chia

    tay đầy

    lưu luyến

    và nỗi nhớ

    đằm thắm

    thiết tha

    giữa

    người ra

    đi và

    người ở

    lại, giữa

    cán bộ

    cách

    mạng và

    nhân dân

    Việt Bắc

    (20 CÂU

    ĐẦU)

    1.1 .4 câu thơ đầu: Thể hiện tâm trạng nhớ nhung của người ở lại nhắn nhủ người

    ra đi:

    Mình về mình có nhớ ta

    Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

    Mình về mình có nhớ không

    Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

    - Thể thơ lục bát với lối kết cấu đối đáp và cách vận dụng đại từ “ mình”-“ta”quen

    thuộc trong ca dao dân ca chỉ những tình cảm thân mật, gần gũi, gắn kết nhƣ tình

    yêu đôi lứa, tình vợ chồng. “ Mình” là người ra đi, ngƣời cán bộ cách mạng về xuôi,

    “ta” là người ở lại cũng chính là nhân dân Việt Bắc.

    - Tố Hữu mượn câu hỏi tu từ kết hợp điệp từ “nhớ” để làm nỗi bật sự bịn rịn, băn

    khoăn, thăm dò tình cảm của nhân dân Việt Bắc: Người cán bộ cách mạng về xuôi có

    còn nhớ nghĩa tình sâu đậm “mười lăm năm”- một khoảng thời gian dài gian khổ kháng

    chiến trường kì- gắn bó với Việt Bắc hay không?

    - Đặc biệt vế đối kết hợp hình ảnh ẩn dụ: “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ

    nguồn” không chỉ gợi nhớ đến thiên nhiên Việt Bắc mà còn nhắc nhở đến đạo lý

    “uống nƣớc nhớ nguồn” truyền thống tốt đẹp ngàn đời của dân tộc.

    -Bốn câu thơ có đến bốn chữ “mình”, bốn chữ “nhớ” và một chữ “ta” hòa quyện, quấn

    quýt nhau càng làm cho đạo lý ân tình thủy chung thêm sâu đậm.

    1.2. 4 câu thơ tiếp theo: Miêu tả khung cảnh chia tay đầy lƣu luyến giữa ngƣời đi,

    kẻ ở.

    - Tiếng ai tha thiết bên cồn

    Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

    Áo chàm đưa buổi phân li

    tay vào xây dựng xã hội cuộc sống mới. Một trang sử mới của đất nước được mở ra.

    - Tháng 10/1954 những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi.

    Trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân sự kiện có

    tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.

    3. Vị trí đoạn trích: Đoạn trích SGK là phần đầu bài thơ “Việt Bắc” trong nỗi nhớ

    của người ra đi.

    4. Bố cục: Đoạn 1: 20 câu đầu - Cuộc chia tay của VB và CM, tái hiện cuộc k/c

    chống Pháp

    Đoạn 2: 22 câu tiếp theo - Nhớ về thiên nhiên, bản làng..VB

    Đoạn 3: 10 câu tiếp - Bức tranh thiên nhiên và con người VB (Búc tranh

    tứ bình)

    Đoạn 4: 22 câu tiếp - Việt Bắc ra trận

    Đoạn cuối: Vị trí, vai trò của Việt Bắc

  • Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay

    - “Ai” là đại từ phiếm chỉ gợi hình ảnh người Việt Bắc. Người đi lắng nghe và thấu

    hiểu tiếng lòng “tha thiết” của người ở lại nên nỗi niềm cũng đầy “bâng khuâng”,

    bước chân trở nên “bồn chồn” ngập ngừng, bối rối, không muốn rời xa.

    - Hình ảnh hoán dụ “Áo chàm” gợi nét mộc mạc, đôn hậu, thủy chung của nhân dân

    Việt Bắc, giờ đây trở nên quen thuộc, khó phai trong lòng người ra đi khiến giây phút

    chia li thêm nghẹn ngào, xúc động.

    - “ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Đó là sự im lặng không nói nên lời, trong cử

    chỉ chất chứa đầy cảm xúc trong cả nỗi lòng người đi và kẻ ở.

    1.3. Mười hai câu tiếp theo: Nhân dân Việt Bắc gợi lại những kỉ niệm với ngƣời ra

    đi về những năm tháng kháng chiến:

    - Đó là nỗi nhớ về không gian thiên nhiên khắc nghiệt rất đặc trƣng ở VB

    Mình đi, có nhớ những ngày

    Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù.

    - Đó còn là nỗi nhớ về những ngày kháng chiến gian khổ, thiếu thốn:

    Mình về, có nhớ chiến khu

    Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

    Mình về rừng núi nhớ ai

    Trám bùi để rụng, măng mai để già

    Vế đối “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?” và hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ “

    Rừng núi nhớ ai” , “Trám bùi để rụng, măng mai để già” không chỉ là cách nói của

    thơ ca diễn tả sự thiếu thốn vật chấ mà còn là thực tế của cuộc kháng chiến. Những bữa

    ăn đơn sơ, đạm bạc thiếu thốn ấy đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình,

    không thể nào quên.

    - Kỉ niệm đƣợc nhắc tới còn là hình ảnh những con ngƣời Việt Bắc giàu nghĩa

    tình:

    Mình đi có nhớ những nhà

    Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

    Đó là những con người nghèo khổ sống giữa đại ngàn “hắt hiu lau xám” nhưng giàu

    tình nghĩa với cách mạng. Một tấm “lòng son” đỏ thắm ân tình tương phản với nền

    “xám” hoang lạnh của núi rừng càng làm nổi bật nét đẹp của con người Việt Bắc.

    - Đặc biệt, kỉ niệm về những ngày đầu thành lập chiến khu vẫn in đậm trong lòng

    nhân dân Việt Bắc:

    Mình về, còn nhớ núi non

    Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

    Mình đi, mình có nhớ mình

    Tân trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?

    Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào bình dị như bao làng quê khác, nhưng giờ đây đã

    trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến. Bởi, cây đa Tân Trào là nơi Bác Hồ đã chủ trì

    cuộc họp Quốc dân đại hội. Mái đình Hồng Thái là nơi bí mật của cơ quan đầu não

    kháng chiến. Nay dù chia xa, những đại danh lịch sử ấy mãi là tâm điểm của nỗi nhớ.

    Như vậy, với thể thơ lục bát êm đềm, lối đối đáp mình –ta đằm thắm, linh hoạt, sáng

    tạo, hình ảnh thơ chân thành, xúc động, điệp từ nhớ da diết, 20 dòng thơ đầu bài thơ

    phác họa khung cảnh chia tay ân tình, lưu luyến, gói trọn những kỉ niệm thấm thía sâu

  • sắc , gói trọn tình cảm thủy chung son sắt giữa những người cán bộ cách mạng về xuôi

    với nhân dân Việt Bắc. Điều đó đã góp phần quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của bản

    tình ca cách mạng Việt Bắc.

    2. Phân

    tích bức

    tranh tứ

    bình 4

    mùa

    đông,

    xuân, hạ,

    thu:

    Ta về, mình có nhớ ta

    Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

    -“ Ta” là người cán bộ CM về xuôi, “mình” chính là nhân dân Việt Bắc. Với cách vận

    dụng đại từ nhân xưng “mình- ta” theo lối đối đáp nam nữ, lối hát giao duyên quen

    thuộc của ca dao dân ca kết hợp với điệp từ “nhớ”, câu hỏi tu từ, người cán bộ CM về

    xuôi tự hỏi để thăm dò tình cảm của nhân dân Việt Bắc đồng thời tự trả lời để khẳng

    định tình cảm của chính mình.

    - Nhớ chiến khu Việt Bắc, người cán bộ CM nhớ “Những hoa cùng người” nhớ thiên

    nhiên tươi đẹp đầy hương sắc, âm thanh, nhớ con người Việt Bắc nghĩa tình. Cảnh và

    người hòa quyện trong nỗi nhớ tạo nên một đoạn thơ đặc sắc, hoàn hảo.

    - Hư từ “ những, cùng” chồng chất thêm nỗi nhớ da diết trong lòng người cán bộ CM

    về xuôi mang theo cả bốn mùa Việt Bắc với cảnh sắc và con người tiêu biểu.

    Tám dòng thơ tiếp theo, nếu câu lục nhớ cảnh thì câu bát lại nhớ người..

    Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

    Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

    -Trên cái nền “xanh” thẳm, mênh mang của rừng già mùa đông, nổi bật lên hình ảnh

    “đỏ tươi” của những bông hoa chuối diễm lệ.

    - Nhớ thiên nhiên mùa đông Việt Bắc, nhà thơ lại nhớ đến hình ảnh những người Việt

    Bắc đi làm nương rẫy “dao gài thắt lưng” . Trên đèo cao ngập nắng và lộng gió, ánh

    nắng phản chiếu trên chiếc dao thép gài ở thắt lưng người đi rừng tạo nên ánh hào

    quang lung linh càng tô đẹp thêm hình ảnh con người đang chiếm lĩnh độ cao.

    Hình ảnh hoán dụ “dao gài thắt lưng”- một vật bất li thân của người dân miền núi- để

    vẽ nên nét đẹp đặc trưng của con người Việt Bắc kiêu hãnh, hùng dũng vượt qua cái

    lạnh lẽo mùa đông, chinh phục đèo cao.

    Ngày xuân mơ nở trắng rừng

    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

    -Mùa xuân sang thiên nhiên Việt Bắc được khoác lên tấm áo của màu sáng tươi của

    hoa “mơ nở” tạo nên vẻ đẹp thanh khiết, tinh khôi, thơ mộng của núi rừng.

    - Cách đảo ngữ “ trắng rừng” bộc lộ cảm xúc ngỡ ngàng của người cán bộ CM trước

    vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắcvừa gợi được cả sự bừng của sức sống mùa

    xuân.

    - Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ những người thợ thủ công “đan nón chuốt từng sợi

    giang”. Động từ “đan, chuốt” gợi bàn tay khéo léo, tỉ mỉ, cần cù của người dân Việt

    Bắc đã chuốt bóng từng sợi giang mỏng mảnh để đan từng chiếc nón, chiếc mũ phục

    vụ kháng chiến.

    Ve kêu rừng phách đổ vàng

    Nhớ cô em gái hái măng một mình

    Mùa hạ đến, những tiếng ve ngân vang trong rừng phách nở hoa vàng thắm tạo nên

    một chuỗi nhạc rừng, rộn rã chiến khu.. Động từ “đổ” không chỉ gợi sự chuyển màu

  • nhanh chóng kì lạ của rừng cây phách, mà còn gợi được sự bừng sáng, tươi tắn của

    quang cảnh

    - Nhớ mùa hè Việt Bắc là nhớ những cô thiếu nữ Tày, Nùng đi hái măng, giữa rừng

    núi, rừng trúc. Cô gái trẻ trung đi một mình giữa rừng mà không lẻ loi, vì cô đang lao

    động trong tiếng nhạc rừng rộn rã, góp phần nuôi quân phục vụ kháng chiến.

    Rừng thu trăng rọi hòa bình

    Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

    Mùa thu về trên chiến khu, ngườ cán bộ CM về xuôi quên sao được khung cảnh những

    đêm trăng thơ mộng. Ánh trăng thu trong trẻo, huyền ảo “rọi” xuống rừng núi tạo nên

    một bức tranh thiên nhiên diễm lệ. Trăng thanh mát dịu gợi một khung cảnh hòa bình,

    nên thơ.

    -. Cảnh trăng thu Việt Bắc càng cuốn hút lòng người bởi tiếng hát vọng đến trong đêm

    trăng. Đại từ phiếm chỉ “ai” kết hợp tính từ “nhớ” để chỉ đồng bào Việt Bắc giàu tình

    nghĩa, thủy chung, đã hi sinh, quên mình cho kháng chiến. “Tiếng hát ân tình” của họ

    còn tác động đến tinh thần , vơi bớt bao nhọc nhằn gian khổ của những cán bộ, chiến sĩ

    xa quê đi kháng chiến

    3. Phân

    tích cảnh

    Việt Bắc

    kháng

    chiến

    Theo mạch cảm xúc hòa niệm, bài thơ dẫn dắt đi vào khung cảnh Việt Bắc kháng

    chiến với những cảnh rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi nổi của cuộc kháng

    chiến.

    Cảnh Việt Bắc kháng chiến được miêu tả bằng bút pháp khái quát, nhân hóa kì vĩ.

    Nhớ khi giặc đến giặc lùng

    Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.

    Động từ “lùng” kết hợp với điệp từ “ giặc”, câu thơ nhấn mạnh tội ác của thực dân

    Pháp. Hình ảnh nhân hóa “Rừng cây núi đa ta cùng đánh Tây”cho thấy thiên nhiên đã

    trở thành những người đồng đội, chiến sĩ anh dũng cùng nhân dân ta đánh giặc. Cả núi

    rừng cùng con người tạo thành sức mạnh đoàn kết to lớn, bền vững ngăn chặn và vây

    hãm quân thù:

    Núi giăng thành lũy sắt dày

    Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

    Mênh mông bốn mặt sương mù

    Đất trời ta cả chiến khu một lòng

    Hàng loạt hình ảnh nhân hóa kết hợp nghệ thuật đối, nhà thơ đã biến thiên nhiên

    thành con người Việt Bắc anh dũng, nhấn mạnh vai trò của thiên nhiên trong cuộc

    kháng chiến. Thiên nhiên Việt Bắc khắc nghiệt, địa hình Việt Bắc hiểm trở góp phần

    che mắt quân thù, cản trở tầm nhìn và con đường tiếng công của giặc Pháp đồng thời

    che chở cho cán bộ cách mạng. Thiên nhiên cũng giống như con người, hiểu được ý

    nghĩa của cuộc kháng chiến chống Pháp nên đã “ một lòng” đoàn kết với quân và dân

    ta quyết tâm đánh giặc. Đoạn thơ gợi nhớ đến chiến dịch việt Bắc thu đông 1947, quân

    dân ta đã đập tan âm mưu đánh vào chiến khu nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não cách

    mạng, đánh thắng giặc Pháp với những chiến công vang dội:

    Ai về ai có nhớ không?

    Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

  • Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

    Nhớ từ Cao- Lạng, nhớ sang Nhị Hà

    Câu hỏi tu từ, điệp từ „nhớ”cùng đại từ phiếm chỉ “ai” và hàng loạt hình ảnh liệt

    kê về địa danh “Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao- Lạng, Nhị Hà..”

    góp phần khẳng định tình cảm thủy chung sâu nặng đồng thời gợi nhớ đến những trận

    đánh oai hùng, những chiến công oanh liệt của nhân dân ta. Đoạn thơ như một trang kí

    sự về chiến trường để lại trong lòng người đọc niềm tự hào về lịch sử dân tộc. Những

    tên núi, tên sông, tên phố, tên đèo đã đi vào lịch sử, thơ ca, lòng người.

    Nhớ về Việt Bắc, tố Hữu không chỉ nhớ về cuộc sống cách mạng, về con

    ngƣời,về thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, trong kí ức nhà thơ, việt Bắc còn hào

    hùng trong đêm ra trận đánh giặc.

    Mở đầu khung cảnh Việt Bắc đánh giặc là những nét vẽ khái quát của nhà thơ về

    con đường ra trận mạnh mẽ: Những đường Việt Bắc của ta

    Đêm đêm rầm rập như là đất rung.

    Cách nói “Những đường Việt Bắc của ta” thể hiện ý thức tự hào về quyền làm

    chủ quê hương đất nước, thể hiện niềm tự hào về một vùng đất Việt Bắc bất khả xâm

    phạm.Không khí kháng chiến, không khí lịch sử được tái hiện sinh động bằng nghệ

    thuật so sánh thậm xưng “Đêm đêm rầm rập như là đất rung” điệp những từ láy có

    âm rung và vang “Đêm đêm, rầm rập”. Khí thế chiến đấu hừng hực sôi trào, nhịp độ

    khẩn trương gấp gáp của một lực lượng đông đảo tạo thành sức mạnh tổng hợp như kết

    tinh của sức mạnh bốn nghìn năm lịch sử.

    Hình ảnh đoàn quân ra trận từ khắp các nẻo đường Việt Bắc hiện lên thật hùng

    hậu, vừa hào hùng vừa lãng mạn:

    Quân đi điệp điệp trùng trùng

    Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.

    Đoàn quân ra trận đẹp và dài đến vô tận. Từ láy “ điệp điệp, trùng trùng” diễn

    tả chính xác không khí hồ hởi của dòng người vô tận thi nhau ra tiền tuyến, tất cả vì

    kháng chiến. Hình ảnh ẩn dụ “ánh sao đầu súng” gợi ánh sao vừa gần gũi thân quen

    với chiếc mũ nan của người chiến sĩ vừa là ánh sao đêm phản chiếu vào nòng súng thép

    trên vai người chiến sĩ . Ánh sao của bầu trời đêm Việt Bắc hay cũng là ánh sao lí

    tưởng chiến đấu vì độc lập, tự do, ánh sao ngời sáng niềm tin, lạc quan vào ngày mai

    chiến thắng, đã soi các nẻo đường ra trận của anh bộ đội..

    Cùng với bộ đội là hình ảnh những đoàn dân công phục vụ kháng chiến được tái

    hiện với màu sắc sử thi hùng tráng. Họ là một lực lượng quan trọng của cuộc chiến

    tranh nhân dân:

    Dân công đỏ đuốc từng đoàn

    Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.

    Trong đêm tối ,từng đoàn dân công hùng dũng hiên ngang thắp lên những ngọn

    đuốc sáng soi đường cho đoàn quân ra trận. Hình ảnh “ muôn tàn lửa bay” gợi lên vẻ

    đẹp thật lãng mạn. Con đường ra trận như một đêm đèn hoa đăng rực rỡ. Muôn tàn lửa

    bay ra từ những bó đuốc rơi xuống đất làm cho con đường ra trận thêm lung linh, đẹp

    đẽ. Thành ngữ “chân cứng đá mềm” đã được Tố Hữu sáng tạo thành hình ảnh thậm

    xưng “bước chân nát đá” giàu ý nghĩa khẳng định ý chí phi thường, sức mạnh to lớn

  • của nhân dân kháng chiến , đạp bằng mọi chông gai để đi tới chiến thắng.

    Hòa nhịp cùng dòng người vô tận là hình ảnh của những đoàn xe cơ giới ra trận

    sáng ngời niểm lạc quan tin tưởng:

    Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

    Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

    Hai câu thơ đối lập giữa bóng tối và ánh sáng. Hình ảnh ẩn dụ “Nghìn đêm

    thăm thẳm sương dày” không chỉ gợi cảnh âm u, huyền bí của núi rừng Việt Bắc với

    sương dày bao phủ gây khó khăn trên con đường hành quân của nhân dân Việt Bắc mà

    còn gợi đêm trường nô lệ, đói khổ lầm than của đất nước. Hình ảnh ẩn dụ, so sánh

    “Đèn pha bật sáng như ngày mai lên” sáng ngời niềm tin. Ngọn đèn pha của đoàn xe

    kéo pháo ra trận đã “ bật sáng” phá tan những lớp sương dày, xua tan bóng đêm u tối ,

    đẩy lùi những khó khăn, thiếu thốn, soi sáng những con đường kháng chiến . Hình ảnh

    “ ngày mai lên” gợi niềm hi vọng ở ngày mai chiến thắng huy hoàng của dân tộc.

    Tin vui chiến thắng trăm miền

    Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

    Vui từ Đồng Tháp, An Khê

    Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”

    Những chiến thắng vang dội, dồn dập đổ về từ khắp các chiến trường trong cả

    nước. Hàng loạt đại danh được liệt kê. “Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên” là tên những

    chiến dịch lớn trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp. “Đồng Tháp”

    là khu căn cứ ở Nam Bộ. “An Khê” là một địa danh ở Tây Nguyên nơi ghi dấu nhiều

    trận thắng của ta. “Đèo de, núi Hồng” những địa danh ở Việc Bắc, nơi cơ quan Trung

    ương Đảng và Chính phủ làm việc. Từ “ vui” được điệp lại bốn lần, các cụm từ “vui

    về”, “vui từ”, “vui lên” không chỉ phản ánh không khí phấn chấn, rộn ràng, niềm vui,

    niềm tự hào về những chiến công vang dội mà còn biểu đạt ý nghĩa: Việt Bắc chính là

    cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Vì vậy, niềm vui chiến tháng của quân ta khắp

    nơi tụ về rồi lại tỏa đi trăm ngã.

    Bằng những hình ảnh đẹp, ngôn ngữ chọn lọc,âm hưởng anh hùng ca,mang đậm

    chất sử thi hào hùng vừa giàu tính lảng mạn tượng trưng, đoạn thơ đã khắc họa thành

    công hình ảnh Việt Bắc anh hùng trong cuộc kháng chiến, bộc lộ niềm tự hào của nhà

    thơ về sức mạnh của dân tộc.

    4.Nghệ

    thuật

    - Bài thơ kết cấu theo lối đối đáp nam nữ, lối hát giao duyên quen thuộc của ca dao dân

    ca. Nhà thơ đã sử dụng linh hoạt, sáng tạo hai đại từ “Mình”, “ta” quen thuộc gợi

    không khí ca dao, âm điệu ngọt ngào trong thể thơ lục bát, ngôn ngữ mộc mạc, dân dã

    đậm đà tính dân tộc kết hợp với những biện pháp tu từ như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ,

    tượng trưng…tạo phong vị dân gian và chất cổ điển..

    ĐẤT NƢỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM

    TÁC GIẢ

    Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu trưởng thành trong những năm

    kháng chiến chống Mĩ Thơ ông giàu chất suy tư về đất nước, con người Việt Nam.

    1. Hoàn cảnh sáng tác:

    Trường ca “Mặt đường khát vọng” được NKĐ hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm

  • TÁC

    PHẨM

    197, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền

    Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhịp

    với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược.

    - Đoạn trích “Đất Nước” (phần đầu chương V của trường ca) là một đoạn thơ hay về đề

    tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại.

    2. Bố cục: Đoạn 1: 9 câu thơ đầu: Cảm nhận mới mẻ của tác giả về Đất Nước

    Đoạn 2: “Đất….đời..” câu tiếp theo: Đất Nước được cảm nhận từ không gian,

    lịch sử, địa lí.

    Đoạn 3: “Những….ta..”: Đất Nước gắn bó giữa cá nhân với cộng đồng

    Đoạn 4: “Em ơi….sông xuôi”: Tư tưởng Đất Nước là của Nhân dân

    1. Cảm

    nhận mới

    mẻ của

    tác giả về

    Đất Nƣớc

    * 9 câu thơ đầu nhà thơ giải thích về sự hình thành và phát triển của Đất Nước, trả lời

    câu hỏi: Đất Nước có từ bao giờ?

    - Nhà thơ cảm nhận Đất Nước tồn tại như một điều tất yếu, hiển nhiên:

    “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”

    Từ “Đất Nước” được viết hoa, lặp lại nhiều lần thể hiện tình cảm yêu quý, trân trọng và

    tự hào.Từ “Đất Nước” kết hợp với những cụm từ “bắt đầu”, “lớn lên”, “có từ ngày đó”

    đã cụ thể hóa cả một quá trình hình thành và phát triển lâu đời của Đất Nước. Đặc biệt,

    dấu chấm lửng ở câu thơ: “Đất Nước có từ ngày đó…” còn mở ra sự trường tồn, bất biến

    của Đất Nước. .

    - Đất Nước rất gần gũi, gắn liền với những hình ảnh vô cùng thân thương ,gần gũi,

    bình dị và thiêng liêng nhất:

    “Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”

    Đất Nước có trong những câu chuyện mẹ thường hay kể. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa…”

    là thời gian nghệ thuật kết hợp với dấu chấm lửng làm sống dậy cả kho tàng văn hóa dân

    gian của dân tộc.

    “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”

    .Hình ảnh “miếng trầu”không chỉ là biểu tượng của văn hóa giao tiếp mà còn gợi lại sự

    tích “trầu cau” một biểu tượng của tình yêu chung thủy, tình vợ chồng, tình nghĩa anh em

    sâu nặng.

    Đất Nước tồn tại với truyền thống yêu nước , chống giặc ngoại xâm của dân tộc:

    “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

    Câu thơ vừa gợi tả lũy tre làng quen thuộc, vừa gợi nhớ truyền thuyết “Thánh Gióng” nhổ

    tre làng đánh giặc Ân thuở xa xưa, thể hiện vẻ đẹp của lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh

    chống giặc ngoại xâm quật cường của nhân dân ta.

  • Đất nước còn tồn tại trong những phong tục, tập quán của dân tộc,gắn liền với tập

    tục búi tóc sau gáy xa xưa của người phụ nữ, một trong những nét đặc thù của văn hóa

    Việt Nam không bao giờ bị ngoại lai. “Tóc mẹ thì bới sau đầu”

    Đất Nước còn hiện diện trong tình cảm thủy chung của dân tộc:

    “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”

    Thành ngữ “gừng cay muối mặn” diễn tả những gian nan, thử thách trong cuộc sống.

    Chính trong hoàn cảnh ấy, cha mẹ càng gắn bó bên nhau, chia sẻ những đắng cay ngọt

    bùi, vun đắp tình yêu thương, bền vững. Nhà thơ cảm nhận dáng hình của Đất Nước bằng

    chiều sâu trong tình yêu, bằng lối sống giàu ân tình, ân nghĩa của cha mẹ.

    Đất Nước còn tồn tại quá trình lao động sáng tạo cần cù của con người Việt Nam:

    “Cái kèo, cái cột thành tên

    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.”

    “Kèo”, “cột” là những vật dụng để làm nhà, gợi suy nghĩ đến mái ấm gia đình,.Hình ảnh

    “ Hạt gạo” là thành quả của nền văn minh lúa nước. Thành ngữ “một nắng hai sương” kết

    hợp với các động từ được liệt kê “xay”, “giã”, “giần”, “sàng” gợi lên hình ảnh người

    nông dân chịu thương, chịu khó, suốt ngày vất vả, lam lũ “với bao công việc nhà nông

    nhọc nhằn để làm ra sự sống, tạo nên cội nguồn văn hóa của Đất Nước:

    2. Đất

    Nƣớc

    đƣợc cảm

    nhận từ

    không

    gian, thời

    gian.

    *Những câu thơ tiếp theo, nhà thơ lại cảm nhận qua chiều rộng của không gian để trả

    lời câu hỏi: “ Đất Nước là gì?”. Qua đó, nhà thơ đã giúp ta định nghĩa về Đất Nước:

    “Đất”, “Nước” môi trường sống, là khoảng không gian học tập, sinh hoạt , không

    gian tình yêu vô cùng gần gũi không thể thiếu trong mỗi con người. Đất Nước đã trở

    thành nơi se kết, chứng giám cho tình yêu đôi lứa trước bao nhiêu thử thách của không

    gian, thời gian. NKĐ đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về Đất Nước bằng con mắt của tuổi trẻ

    vừa cá thể vừa táo bạo

    “Đất là nơi anh đến trường

    Nước là nơi em tắm

    Đất Nước là nơi ta hò hẹn

    Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

    Đất Nước là không gian núi non hùng vĩ, là biển khơi rộng lớn bao la:

    “Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

    .Những từ “núi bạc”, “biển khơi”, “chim phượng hoàng”, “cá ngư ông” mang âm hưởng

    dân gian kết hợp với từ láy “mênh mông” gợi ra không gian rộng lớn, kì vĩ của một Đất

  • Nước giàu đẹp, hùng vĩ, thiêng liêng mà hiền hòa, tươi đẹp.

    *Nhà thơ còn cảm nhận đất nước ở phương diện chiều dài thời gian, lịch sử:từ quá

    khứ đến hiện tại và tương lai:

    Thời gian đằng đẵng

    Không gian mênh mông…

    Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”

    Từ láy “ đằng đẵng” giàu giá trị biểu cảm, gợi nhiều liên tưởng, không chỉ diễn tả chiều

    dài mà còn là chiều sâu của lịch sử dân tộc bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước.

    Trong quá khứ, Đất Nước thiêng liêng, hào hùng gắn với huyền thoại Lạc Long Quân, Âu

    cơ, gắn liền với truyển thuyết vua Hùng dựng nước

    “Đất là nơi Chim về

    Nước là nơi Rồng ở

    Lạc Long Quân và Âu Cơ

    Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

    Những hình tượng quen thuộc trong thần thoại, truyền thuyết “Chim”, “Rồng”, “Lạc

    Long Quân”, “Âu Cơ”, bọc trăm trứng… cùng tụ về trong trường liên tưởng làm bật lên ý

    thơ có tầm khái quát cao như một lời giải thích cội nguồn cao quý, thiêng liêng của dân

    tộc gợi ra vẻ đẹp vừa chân thật, vừa lấp lánh huyền thoại, đánh thức tình cảm dân tộc

    trong tâm linh của con người Việt Nam.

    *Đất Nước còn là sự kết tinh thống nhất sâu sắc những giá trị tinh thần từ quá khứ

    “những ai đã khuất” đến hiện tại “những ai bây giờ” và cả tương lai “yêu nhau và sinh

    con đẻ cái”. Vì thế mỗi thế hệ, mỗi cá nhân đều gắn bó với Đất Nước. Đặc biệt trách

    nhiệm của thế hệ hôm nay vô cùng nặng nề nhưng vinh quang. Chúng ta vừa phải “gánh

    vác phần người đi trước để lại ”, vừa phải “dặn dò con cháu chuyện mai sau” ân cần, chu

    đáo để các thế hệ mai sau tiếp tục đứa Đất Nước “đi xa”, đến những chân trời hòa bình,

    hạnh phúc, ấm no, giàu mạnh.

    Những giờ khắc thiêng liêng nhất, niềm tự hào gắn bó với Đất Nước lại trỗi dậy nồng nàn

    “Hằng đâu ăn đâu làm đâu/Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.

    “Ngày giỗ Tổ” là ngày 10/3 âm lịch hằng năm, người Việt có truyển thống giỗ Tổ để

    tưởng nhớ các vị vua Hùng đã có công dựng nước. Hình ảnh “cúi đầu” chứa đựng biết

    bao tình cảm thiêng liêng, yêu thương, thành kính của /thế hệ con cháu đối với những bậc

    tiền nhân, những người có công dựng nước và giữ nước.

    *Nhà thơ phát hiện ra một chân lí giản dị và sâu sắc: “Trong anh và em hôm nay/ Đều

  • có một phần Đất Nước”. Giọng thơ tâm tình với lối xưng hô anh em tha thiết, nhà thơ như

    nhắn nhủ Đất Nước không chỉ tồn tại khách thể mà đã hóa thân trong mỗi người, trở thành

    một phần tâm hồn, trí tuệ của mỗi người, của anh và em. “Khi hai đứa cầm tay”, tình yêu

    đôi lứa riêng tư đã tự mang trong đó vẻ đẹp “hài hòa nồng thắm” của tâm hồn dân tộc.

    “Khi chúng ta cầm tay mọi người”- cái riêng của tình yêu đôi lứa gắn bó với cái chung

    của tình yêu Đất Nước, mỗi chúng ta đã nối vào vòng tay lớn của cộng đồng tạo nên khối

    đại đoàn kết dân tộc làm cho Đất Nước “vẹn tròn, to lớn”, trường tồn phát triển. Trách

    nhiệm với Đất Nước cũng chính là trách nhiệm đối với bản thân bởi “Đất Nước là máu

    xương của mình”, là một phần trên cơ thể của mỗi con người. Vì thế mỗi chúng ta đều tự

    nhiên “gắn bó” với Đất Nước bằng tình yêu tha thiết; “san sẻ” với cộng đồng bằng ý

    thức trách nhiệm và khi cần có thể “hóa thân” bằng hành động hi sinh, hiến dâng, hòa

    nhập, sống còn cùng Tổ quốc. Tiếng gọi tha thiết “em ơi em” như một lời thủ thỉ, tâm tình

    kết hợp với điệp từ “phải biết” rắn rỏi vừa như một mệnh lệnh, vừa là tiếng nói thúc giục

    của con tim và những động từ được liệt kê dồn dập “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” tạo

    thành chất trữ tình chính luận sâu sắc của bài thơ nhằm nhắn nhủ thế hệ trẻ phải cố gắng

    gìn giữ di sản của tiền nhân, phải đem tâm huyết, tài năng và cả đời sống của chính bản

    thân mình để “Làm nên Đất Nước muôn đời…”, xây dựng đất nước vững bền.

    2. Tƣ

    tƣởng

    Đất Nƣớc

    của Nhân

    dân

    2.1 Nhìn ở bình diện không gian – địa lí: Đất Nƣớc là những cảnh quan kì thú của

    non sông, là thiên nhiên đất nƣớc kết tinh vẻ đẹp tâm hồn, tình cảm của nhân dân.

    Hàng loạt các địa danh, sông núi, danh lam thắng cảnh được liệt kê: vịnh Hạ Long, hòn

    Vọng Phu, núi Bút, non Nghiên, làng Gióng, đất Tổ Hùng Vương… trải dài trên khắp đất

    nước ta được cảm nhận như một sự đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những cảnh

    ngộ, số phận nhân dân và thấm đẫm vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân.

    “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

    Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

    Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

    Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”.

    Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

    Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên”

    Cuộc sống bình dị và sự đóng góp thầm lặng của nhân dân đã đặt tên cho sông núi

    “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. Đến cả “con cóc, con gà quê hương cùng góp

    cho Hạ Long thành thắng cảnh”, thành đất nước dung dị mà tươi đẹp.

    “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

  • Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

    Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

    Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”

    Động từ “ góp” điệp lại nhiều lần và phương pháp liệt kê nhằm khẳng định vai trò vĩ đại

    của nhân dân. Nhân dân chính là người tạo dựng đã đặt tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên

    mỗi ngọn núi, dòng sông, miền đất.

    Nhìn ở phương diện thời gian – lịch sử, tư tưởng Đất Nước của nhân dân chi phối

    cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của

    dân tộc :

    “Em ơi em hãy nhìn rất xa

    Vào bốn nghìn năm Đất Nước

    Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

    Con gái con trai bằng tuổi chúng ta

    Cần cù làm lụng

    Khi có giặc người con trai ra trận

    Người con gái trở về nuôi cái cùng con

    Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

    Nhiều người đã trở thành anh hùng

    Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”

    Nhìn về lịch sử, nhà thơ tập trung nói tới những con người vô danh bình thường. Đó là

    “họ”, là “lớp lớp”, “con gái con trai” đã cần cù lao động, anh dũng trong chiến đấu

    suốt bốn nghìn năm để dựng nước và giữ nước.

    “Có biết bao người con gái con trai

    Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

    Họ đã sống và chết

    Giản dị và bình tâm

    Không ai nhớ mặt đặt tên

    Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”

    Nhà thơ đặt “họ” vào giữa hai bình diện sống và chết, gợi trạng thái tồn tại và tiếp nối,

    gợi sự trôi chảy của thời gian khi những thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau tạo nên

    dòng chảy vĩnh cửu của sự sống. Trong suốt 4000 năm lịch sử, nhân dân “ giản dị và bình

    tâm” cần cù làm lụng, nối tiếp nhau sáng tạo, giữ gìn, phát triển và truyền lại cho các thế

    hệ sau những giá trị văn hóa, tinh thần và vật chất.

  • Đất Nước của nhân dân còn thể hiện ở tâm sâu tâm hồn, tầm cao của ý chí giống nòi,

    bề dày của văn hóa – phong tục.

    “ Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

    Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

    Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

    Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyền di dân

    Họ đắp đập, be bờ cho người sau trồng cây hái trái

    Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm”

    “ Hạt lúa” là biểu tượng cho nền văn minh lúa nước lâu đời, biểu tượng cho truyền thống

    lao động cần cù của người nông dân Việt Nam. “ Lửa” là phương tiện giúp con người

    duy trì sự sống, là biểu tượng cho cuộc sống sum vầy, gợi nhớ đến ngọn lửa của tình yêu

    đôi lứa, gợi nhớ đến những cuộc chiến tranh đầy máu lửa… Nhân dân ta đã “ chuyền lửa

    cho mỗi nhà” không chỉ là truyền lại sự sống trường tồn cho 4000 năm lịch sử mà còn là

    truyền lại những tình cảm, phẩm chất cao đẹp. “ Giọng điệu” là tiếng nói, là tài sản tinh

    thần vô giá của một dân tộc. Qua những lời ru ngọt ngào của bà, của mẹ, qua những câu

    hát dân gian, những câu chuyện thần thoại, cổ tích… nhân dân ta đã truyền lại cho con

    cháu những tình cảm thắm thiết, ân tình và những bài học đạo lí, những kinh nghiệm quý

    giá

    .Nhân dân ta trân trọng, giữ gìn cả những địa danh thân thuộc của quê hương. Họ

    mang theo “ tên xã, tên làng” để nhắc nhở con cháu về cội nguồn về những truyền thống

    văn hóa, đạo lí, những thuần phong mĩ tục của quê hương..

    Nhân dân còn xây dựng những nền tảng vững chắc cho đời sau an cư lạc nghiệp: Họ

    đắp đập, be bờ cho ngƣời sau trồng cây hái trái” .

    Khi đất nước có chiến tranh, với truyền thống “ giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh” ,

    nhân dân lại là những người xông pha nơi hòn tên mũi đạn, dũng cảm chiến đấu, sẵn sàng

    xả thân, hi sinh vì sự bình yên của Tổ quốc: Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm /Có nội

    thù thì vùng lên đánh bại”

    Nhà thơ đã khẳng định một chân lí:

    “Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

    Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.

    Những chữ “Đất Nước” và “Nhân dân” được viết hoa dày đặc trong hai dòng thơ càng

    tôn lên vẻ đẹp bình dị mà cao quí của nhân dân. “Đất Nước của Nhân dân” là đất nước

    được hình thành từ những bản sắc văn hóa dân tộc, thấm đẫm vẻ đẹp tâm hồn của nhân

  • dân: yêu nước, cần cù lao động, hiếu học, chung thủy trong tình yêu, biết quý trọng lối

    sống tình nghĩa, bền bỉ kiên cường trong chiến đấu, lạc quan yêu đời trong gian khó:

    “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi

    Biết quí công cầm vàng những ngày lặn lội

    Biết trồng tre đến ngày thành gậy

    Đi trả thù mà không sợ dài lâu

    Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

    Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

    Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

    Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

    Trong cả kho tàng ca dao dân ca, nhà thơ chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện quan

    trọng nhất trong truyền thống nhân dân: giàu tình cảm yêu thương và say đắm trong tình

    yêu đôi lứa “dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”, quý trọng lối sống tình nghĩa “biết

    quí công cầm vàng những ngày lặn lội”, bền bỉ kiên cường trong chiến đấu bảo vệ đất

    nước “biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ đi trả thù mà không sợ dài lâu”.

    Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh “dòng sông” và “câu hát” đem lại cảm nhận về một

    Đất Nước đẹp hiền hòa, vĩnh cửu như dòng sông vô tận chảy từ quá khứ đến hiện tại,

    trường tồn bất tử cùng tương lai. Trên dòng sông đất nước âm vang những sắc màu và giai

    điệu văn hóa Việt Nam, phẩm chất tâm hồn Việt Nam vô cùng tự hào và yêu quí. Đó là

    Đất Nước của nhân dân.

    Tổng kết

    - Bằng sự kết hợp chất chính luận và trữ tình, vận dụng phong phú chất liệu văn hóa và

    văn học dân gian, thể thơ tự do với sự biến đổi linh hoạt về nhịp điệu. Nhà thơ Nguyễn

    Khoa Điềm đã góp thêm một thành công cho dòng thi ca nói về đất nước, làm sâu sắc

    thêm nhận thức về đất nước và nhân dân trên nhiều bình diện bằng tiếng nói nghệ thuật

    đậm đà chất dân gian qua đoạn trích Đất Nước. Đoạn trích là những suy nghĩ và tình cảm

    tha thiết, sâu sắc của tác giả về đất nước qua nhiều bình diện: địa lí, lịch sử, văn hóa,

    phong tục,… với tư tưởng bao trùm: Đất Nước của Nhân dân. Đó là vẻ đẹp riêng trong

    đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm.

  • TRÊN ĐÂY LÀ HỆ THÔNG KIẾN THỨC 03 BÀI VĂN, HỌC SINH XEM LẠI

    KIẾN THỨC LÝ THUYẾT PHẦN ĐỌC HIỂU TRONG ĐỀ CƢƠNG.

    CHÚC CÁC EM XEM BÀI TỐT