Upload
others
View
7
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
Kinh tế vĩ mô tháng 4 năm 2017: Những điểm nổi bật
Những điểm nổi bật của kinh tế, giá cả, tài chính tiền tệ quốc tế
- Kinh tế thế giới tiếp tục đón nhận những tín hiệu tích cực, ngoại trừ Mỹ và Anh;
- Chỉ số giá cả hàng hóa toàn cầu giảm nhẹ trong tháng 4, giảm mạnh nhất là các mặt hàng
kim loại;
- Diễn biến thị trường ngoại hối về cơ bản không có nhiều thay đổi: Đồng USD tiếp tục suy
yếu, đồng EUR, đồng GBP duy trì đà tăng tháng thứ 2 liên tiếp trong khi đồng JPY và đồng
CNY đều giảm giá nhẹ so với đồng USD;
- Giá vàng đã tăng trở lại sau xu hướng giảm nhẹ trong tháng 3;
- Các thị trường chứng khoán toàn cầu diễn biến tích cực;
- Trong tháng có 3 NHTW tăng lãi suất điều hành và 7 NHTW cắt giảm lãi suất điều hành, tất
cả đều tập trung ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi.
Những điểm nổi bật của kinh tế trong nước
- Sản xuất công nghiệp tiếp tục ghi nhận những diễn biến xấu trong khi đó tình hình cải thiện
khu vực sản xuất thể hiện qua chỉ số PMI cũng đã giảm nhẹ so với tháng trước;
- Hoạt động bán lẻ hàng hóa tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng khả quan;
- Vốn đầu tư từ NSNN đã có sự cải thiện tuy nhiên tốc độ tăng trưởng chỉ ở mức thấp, trong
khi đó đầu tư trực tiếp nước ngoài chứng kiến những diễn biến tốt xấu đan xen;
- Kim ngạch xuất nhập khẩu trong tháng 4 đã sụt giảm so với tháng trước, ghi nhận sự suy
giảm trong giá trị nhập khẩu của các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ chốt;
- Lạm phát trong tháng 4 không có sự biến động so với tháng trước;
- Thu NSNN đã có sự cải thiện, bội chi NSNN ở mức thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây;
- Lãi suất huy động cho vay tiếp tục diễn biến ổn định, lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn ngắn đã
giảm so với tháng trước;
- Tỷ giá VND/USD diễn biến phù hợp với tình hình thị trường, giá vàng trong nước diễn biến
sát với giá vàng thế giới;
- TTCK Việt Nam đã trở thành thị trường có mức tăng trưởng âm trong khu vực lần đầu tiên
kể từ đầu năm..
2
I. KINH TẾ THẾ GIỚI
1. Kinh tế thế giới
Kinh tế Mỹ đối
mặt với dấu hiệu
giảm tốc
Các số liệu vĩ mô mới công bố trong tháng 4 cho thấy kinh tế Mỹ diễn biến
kém khả quan so với những tháng trước đó. Cụ thể, tăng trưởng GDP trong
quý I chỉ ước đạt 0,7%, tốc độ tăng thấp nhất kể từ năm 2014 trở lại đây.
Nguyên nhân chính dẫn đến sự sụt giảm tăng trưởng đó là do chi tiêu dùng
thường chiếm 2/3 các hoạt động kinh tế của Mỹ chỉ đạt được mức tăng trưởng
0,3% trong quý I vừa qua, thấp hơn rất nhiều so với mức tăng trưởng 3,5% của
quý cuối năm ngoái. Trong khi đó, khu vực sản xuất cũng tiếp tục giảm tốc
khi chỉ số PMI toàn phần nối dài chuỗi đi xuống kể từ đầu năm đến nay và
hiện chỉ đạt 52,7 điểm. Điểm tích cực là thị trường lao động vẫn diễn biến khả
quan khi tỷ lệ thất nghiệp hiện ở mức 4,5% - mức thấp nhất trong vòng nhiều
năm trở lại đây và số việc làm được tạo thêm vẫn giữ đà gia tăng ổn định kể từ
đầu năm.
Tốc độ tăng GDP so với cùng kỳ (%)
Số việc làm được tạo thêm (nghìn việc làm)
Doanh số bán lẻ hàng hóa so với cùng kỳ (%)
Chỉ số PMI sản xuất của Mỹ
Nguồn: Trading economicsics
Kinh tế châu Âu
tiếp tục đón nhận
những tín hiệu
tốt
Kinh tế khu vực châu Âu vẫn tiếp tục cho thấy những tín hiệu phục hồi vững
chắc trên cả hai khu vực sản xuất cũng như tiêu dùng. Cụ thể, doanh số bán lẻ
hàng hóa so với cùng kỳ đã duy trì đà tăng trưởng liên tục kể từ đầu năm với
mức tăng tháng sau cao hơn tháng trước. Trong khi đó, khu vực sản xuất cũng
tiếp tục đà mở rộng với chỉ số PMI tổng hợp tháng 4 đã đạt 56,7 điểm, mức
cao nhất kể từ tháng 4/2011. Sự ổn định của kinh tế càng được củng cố khi tỷ
lệ thất nghiệp vẫn đang trong chiều hướng giảm và tốc độ tăng CPI vẫn duy trì
ổn định xấp xỉ ở ngưỡng mục tiêu 2%, trong đó tháng 4 đạt mức tăng 1,9%.
Tỷ lệ thất nghiệp
Doanh số bán lẻ hàng hóa so cùng kỳ (%)
3
Tốc độ tăng CPI so cùng kỳ (%)
Chỉ số PMI sản xuất của Châu Âu
Nguồn: Trading economicsmics
Kinh tế Nhật
Bản đang có sự
chuyển biến
Kinh tế Nhật Bản tăng trưởng ổn định nhờ được hỗ trợ từ diễn biến tích cực của
hoạt động xuất khẩu và đà hồi phục trên cả hai khu vực sản xuất, tiêu dùng.
Trái với diễn biến có phần ảm đạm của cùng kỳ năm ngoái, hoạt động sản xuất
đã duy trì xu hướng mở rộng liên tục kể từ đầu năm, với chỉ số PMI trong tháng
4 đạt 52,6 điểm. Trong khi đó, hoạt động tiêu dùng trong tháng gần đây nhất
cũng có sự cải thiện mạnh mẽ với mức tăng trưởng 2,1% so với cùng kỳ, cao
hơn nhiều tốc độ tăng 0,1% của tháng trước. Đáng chú ý, kim ngạch xuất khẩu
danh nghĩa trong tháng 2 và tháng 3/20171 đã đạt tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ
lên đến hai con số, đẩy thặng dư thương mại lên mức cao nhất kể từ năm 2010.
Ngoài ra, tốc độ tăng CPI đạt tháng thứ 6 dương liên tiếp và tỷ lệ thất nghiệp
vẫn duy trì ở mức thấp nhất trong vòng nhiều năm qua cho thấy kinh tế Nhật
Bản đang thực sự chuyển biến.
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
Tốc độ tăng CPI so với cùng kỳ (%)
Doanh số bán lẻ hàng hóa so cùng kỳ (%)
Chỉ số PMI khu vực sản xuất
Nguồn: Trading economics
Những lo ngại
về tình trạng
giảm tốc của
kinh tế Anh đã
trở thành hiện
thực
Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội của Anh chỉ đạt mức tăng 0,3% so
với quý trước trong quý I năm 2017, thấp hơn tốc độ tăng trưởng 0,7% của quý
liền trước. Nguyên nhân là do lạm phát gia tăng mạnh trong thời gian gần đây
đã ảnh hưởng đến khả năng chi tiêu thực tế, khiến doanh số bán lẻ hàng hóa
trong quý I vừa qua đạt mức tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 2010. Mặc dù
vậy, khu vực sản xuất vẫn đang trên đà mở rộng với chỉ số PMI tổng hợp tháng
4 đã đạt 56,2 điểm – mức cao nhất từ đầu năm đến nay.
1 Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản trong tháng 2 đạt 11,3%, tháng 3 đạt 12% so với cùng kỳ.
4
Tốc độ tăng GDP so với quý trước (%)
Diễn biến lạm phát (yoy)
Doanh số bán lẻ hàng hóa
Chỉ số PMI khu vực sản xuất
Nguồn: Trading economics
Kinh tế Trung
Quốc đang thể
hiện sự phục hồi
vững chắc
Tốc độ tăng trưởng GDP so với cùng kỳ trong quý I ước đạt 6,9%, cao hơn so
với mức tăng trưởng 6,8% của quý cuối năm ngoái và cũng là mức tăng trưởng
tốt nhất kể từ tháng 9/2015 trở lại đây. Sự cải thiện của tăng trưởng đến từ sự
tăng tốc trở lại của hoạt động tiêu dùng và đà gia tăng mạnh mẽ của xuất khẩu,
với mức tăng của 2 khu vực này trong tháng gần đây nhất lần lượt đạt mức
10,9% và 26,4% so với cùng kỳ.
Tốc độ tăng GDP so với cùng kỳ (%)
Doanh số bán lẻ hàng hóa của Trung Quốc
Tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc (yoy)
Chỉ số PMI khu vực sản xuất
Nguồn: Trading Economics
5
Chỉ số giá cả hàng hóa
toàn cầu giảm nhẹ trong
tháng 4
Trong tháng 4, chỉ số giá cả hàng hóa toàn cầu theo thống kê của IMF vẫn
tiếp tục giảm nhẹ gần 0,1% so với cuối tháng 3. Nguyên nhân là do chỉ số
giá nhóm hàng phi năng lượng đã giảm 3,15% so với cuối tháng trước với
nhiều mặt hàng giảm giá như lương thực thực phẩm giảm 1,74%, nông
nghiệp thô giảm 1,77%, kim loại giảm 6,39%. Mặc dù vậy, giá nhóm hàng
năng lượng đã có sự phục hồi trở lại với mức tăng 2,65%.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu mặc dù vẫn chịu sức ép từ sự gia tăng
nguồn cung trên toàn cầu2, tuy nhiên với kỳ vọng các nước OPEC sẽ kéo dài
thời hạn cắt giảm sản lượng đến hết năm 2017 nên đã lấy lại đà tăng điểm
trong tháng. Kết thúc tháng 4, giá dầu WTI tăng 3,19% và giá dầu Brent
tăng 2,11% so với cuối tháng trước.
Giá hàng hóa thế giới
Giá dầu thế giới
Nguồn: IMF commodity price index
2. Điều hành chính sách của NHTW các quốc gia
10 NHTW thay
đổi lãi suất điều
hành và đều là
các nền kinh tế
đang phát triển
và mới nổi
Trong tháng 4, có 10 NHTW các quốc gia điều chỉnh lãi suất chính sách, trong
đó 7 NHTW đã tiến hành cắt giảm lãi suất từ 0,5% đến 1% và chỉ có 3 NHTW
tiến hành tăng lãi suất. Trong số các quốc gia tiến hành cắt giảm lãi suất có
nhiều nền kinh tế đang phát triển và mới nổi chủ chốt thuộc khu vực Đông Âu
và Mỹ La Tinh như Colombia, Nga, Brazil để hỗ trợ đà phục hồi kinh tế sau
một giai đoạn trì trệ.
3. Diễn biến thị trường ngoại hối, chứng khoán
Thị trường ngoại hối
2 Số liệu của Viện Xăng dầu Mỹ (API) cho thấy lượng dầu tại các kho dự trữ ở nước này đã tăng 897.000 thùng trong tuần thứ 3 của tháng 4.
Ngoài ra, hai mỏ dầu lớn của Libya là Sharara và El Feel, với sản lượng gần 400.000 thùng/ngày, đã mở cửa trở lại sau khi hoạt động sản
xuất bị ngưng trệ do các vụ biểu tình tại quốc gia Bắc Phi này.
Đồng USD tiếp
tục suy yếu
Kết thúc tháng 4, chỉ số USD index đã giảm 1,32% - là tháng giảm thứ 2 liên
tiếp kể từ đầu năm. Diễn biến của đồng USD trong tháng đã không nhận được
sự hỗ trợ mạnh mẽ từ tình hình trong nước cũng như thế giới. Đồng USD chỉ có
được xu hướng tăng liên tục trong tuần giao dịch đầu của tháng, với tổng mức
tăng là 0,9%. Sau đó đến hết tháng, USD index đã đảo chiều, tăng giảm đan
xen, đồng bạc xanh giảm rõ rệt khi căng thẳng địa chính trị có dấu hiệu leo
thang và sau nhận định của Tổng thống Trump về việc hiện tại đồng USD đã
tăng giá quá mạnh. Trong chuỗi giảm đó, đáng chú ý là đồng USD đã giảm rất
mạnh vào ngày 24/4 với mức giảm lớn hơn mức tăng trong tuần giao dịch đầu
của tháng trước những tín hiệu lạc quan của khu vực Châu Âu và kết quả bỏ
phiếu vòng đầu tại Pháp.
6
Diễn biến chỉ số USD
Nguồn: investing.com
3 Căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Canada đang gia tăng sau khi Bộ Thương mại Mỹ quyết định áp thuế chống bán phá giá đối với một số
mặt hàng gỗ xẻ của Canada.
Đồng EUR, đồng
GBP tiếp tục duy
trì đà tăng tháng
thứ hai liên tiếp
Tại khu vực Châu Âu, đồng EUR và đồng GBP đã có một tháng diễn biến gần
như là tốt nhất kể từ đầu năm. Trong đó, xu hướng tăng đã xuất hiện ngay từ đầu
tháng, đồng EUR tăng 2,3%; đồng GBP tăng hơn 3% - đạt mức tăng mạnh nhất
kể từ đầu năm. Diễn biến của cả hai đồng tiền mạnh này đều bị chi phối bởi xu
hướng giảm của đồng bạc xanh, rõ nét nhất là đồng EUR. Bên cạnh đó, những
thông tin tích cực từ kinh tế vĩ mô, từ diễn biến chính trị trong khu vực Châu Âu
cũng hỗ trợ mạnh cho đồng EUR và đồng GBP, cụ thể là cả đồng EUR và đồng
GBP đều tăng ở mức cao nhất trong vòng 3 tháng vừa qua vào những ngày mà
Chính phủ các nước thành viên lớn có các quyết định chính trị quan trọng, cụ thể
là mức tăng giá hơn 1,3% của đồng EUR vào ngày 24/4 và mức tăng hơn 2% của
đồng GBP vào ngày 18/4.
Bên cạnh đó, đồng AUD và đồng CAD lại có diễn biến không khả quan, mặc dù
cả hai đồng tiền đều có xu hướng tăng giảm đan xen nhưng kết thúc tháng đều
giảm giá so với USD. Trong tháng, xu hướng tăng của đồng AUD đã không được
hỗ trợ vững chắc từ đà tăng của giá vàng thay vào đó bị ảnh hưởng khá mạnh bởi
diễn biến còn mờ nhạt của kinh tế trong nước và quyết định không thay đổi định
hướng điều hành lãi suất của NHTW. Kết thúc tháng đồng AUD đã giảm hơn
1,8% - là tháng giảm điểm thứ hai liên tiếp. Trong khi đó, diễn biến của đồng
CAD đã bỏ qua những tín hiệu tích cực của kinh tế trong nước, bị chi phối mạnh
bởi diễn biến của giá dầu, giá cả hàng hóa phi năng lượng và căng thẳng thương
mại giữa Mỹ và Canada3. Trong tháng đồng CAD cũng đã có chuỗi tăng liên tục
từ 6 – 12/4 với tổng mức tăng là 1,35%. Tuy nhiên xu hướng giảm gần như liên
tục từ 18/4 cho đến hết tháng đã lấn át xu hướng tăng trước đó, thậm chí đồng
CAD đã giảm hơn 2,5% vào cuối tháng – là tháng có mức giảm điểm mạnh nhất
kể từ đầu năm.
Đồng JPY và
đồng CNY đều
giảm giá nhẹ so
với đồng USD
Trong tháng 4, vai trò tài sản đầu tư an toàn của đồng JPY chỉ được duy trì trong
gần 10 ngày giao dịch đầu của tháng với tổng mức tăng lớn hơn 2%, tuy nhiên xu
hướng đó đã đảo chiều giảm gần 3% cho đến cuối tháng. Xu hướng tăng trong
gần nửa đầu tháng tiếp tục được hỗ trợ mạnh bởi những bất ổn địa chính trị gia
tăng tại khu vực Châu Á. Mặc dù vậy, sự hỗ trợ này đã không được duy trì bền
7
Diễn biến tỷ giá của các đồng tiền mạnh
Nguồn: investing.com
1.04
1.05
1.06
1.07
1.08
1.09
1.1
3-A
pr-
17
5-A
pr-
17
7-A
pr-
17
9-A
pr-
17
11
-Ap
r-1
7
13
-Ap
r-1
7
15
-Ap
r-1
7
17
-Ap
r-1
7
19
-Ap
r-1
7
21
-Ap
r-1
7
23
-Ap
r-1
7
25
-Ap
r-1
7
27
-Ap
r-1
7
EUR/USD
1.2
1.22
1.24
1.26
1.28
1.3
3-A
pr-
17
5-A
pr-
17
7-A
pr-
17
9-A
pr-
17
11
-Ap
r-1
7
13
-Ap
r-1
7
15
-Ap
r-1
7
17
-Ap
r-1
7
19
-Ap
r-1
7
21
-Ap
r-1
7
23
-Ap
r-1
7
25
-Ap
r-1
7
27
-Ap
r-1
7
GBP/USD
0.74
0.745
0.75
0.755
0.76
0.765
3-A
pr-
17
5-A
pr-
17
7-A
pr-
17
9-A
pr-
17
11
-Ap
r-1
7
13
-Ap
r-1
7
15
-Ap
r-1
7
17
-Ap
r-1
7
19
-Ap
r-1
7
21
-Ap
r-1
7
23
-Ap
r-1
7
25
-Ap
r-1
7
27
-Ap
r-1
7
AUD/USD
1.3
1.31
1.32
1.33
1.34
1.35
1.36
1.37
3-A
pr-
17
5-A
pr-
17
7-A
pr-
17
9-A
pr-
17
11
-Ap
r-1
7
13
-Ap
r-1
7
15
-Ap
r-1
7
17
-Ap
r-1
7
19
-Ap
r-1
7
21
-Ap
r-1
7
23
-Ap
r-1
7
25
-Ap
r-1
7
27
-Ap
r-1
7
USD/CAD
106
107
108
109
110
111
112
3-A
pr-
17
5-A
pr-
17
7-A
pr-
17
9-A
pr-
17
11
-Ap
r-1
7
13
-Ap
r-1
7
15
-Ap
r-1
7
17
-Ap
r-1
7
19
-Ap
r-1
7
21
-Ap
r-1
7
23
-Ap
r-1
7
25
-Ap
r-1
7
27
-Ap
r-1
7
USD/JPY
6.876.875
6.886.885
6.896.895
6.96.905
3-A
pr-
17
5-A
pr-
17
7-A
pr-
17
9-A
pr-
17
11
-Ap
r-1
7
13
-Ap
r-1
7
15
-Ap
r-1
7
17
-Ap
r-1
7
19
-Ap
r-1
7
21
-Ap
r-1
7
23
-Ap
r-1
7
25
-Ap
r-1
7
27
-Ap
r-1
7
USD/CNY
vững trước diễn biến chính trị khả quan của các nước trong khu vực EU vào cuối
tháng, trong tuần giao dịch cuối đồng JPY đã giảm mạnh hơn mức tăng vào đầu
tháng. Kết thúc tháng đồng JPY giảm 0,14% so với USD – ghi nhận mức mất giá
đầu tiên kể từ đầu năm.
Bên cạnh đó, đồng CNY cũng đã giảm nhẹ, khoảng 0,09% so với đồng USD –
duy trì tháng giảm điểm thứ hai liên tiếp. Trong những ngày giao dịch đầu tháng,
đồng CNY đã mất giá hơn 0,2%, tuy nhiên xu hướng đó chỉ duy trì đến ngày
10/4, đồng CNY đã quay đầu tăng liên tục trong hơn một tuần giao dịch tiếp theo
trước sự hỗ trợ mạnh mẽ của kết quả kinh tế vững chắc trong quý I. Diễn biến
giảm chỉ xuất hiện trở lại sau khi PBOC quyết định điều chỉnh tỷ giá tham chiếu
ở mức 6,884 vào ngày 25/4.
8
Diễn biến thị trường vàng
Diễn biến giá vàng thế giới
Nguồn: usagold.com
Giá vàng kỳ hạn
đã tăng giá trở
lại sau xu hướng
giảm nhẹ trong
tháng 3
Ngay từ đầu tháng, trước những tín hiệu bất ổn, đặc biệt về tình hình địa chính
trị của thế giới, nhu cầu mua tài sản đầu tư an toàn đã tăng mạnh, vì thế vàng đã
tăng giá gần như liên tục cho đến ngày 21/4 và thể hiện rõ nét nhất ở giá vàng
giao kỳ hạn tháng 6 với tổng mức tăng lớn hơn 3%. Trong tháng, giá vàng đã
đạt được những ngưỡng giá cao so với đầu năm, giá vàng giao ngay và kỳ hạn
đã có nhiều phiên giao dịch gần chạm ngưỡng 1.300USD/ounce. Kết thúc
tháng, giá vàng giao ngay đã tăng 1,51% và giá vàng kỳ hạn tháng 6 đã tăng
1,37%.
Mặc dù từ đầu năm đến nay, đà tăng của giá vàng vẫn đang được hỗ trợ mạnh
mẽ bởi lực cầu trước những bất ổn chưa chấm dứt của tình hình kinh tế, chính
trị trên thế giới, nhưng theo báo cáo của WGC (Hội đồng vàng thế giới) thì nhu
cầu vàng trong quý I/2017 đã giảm 18% so với cùng thời điểm so sánh của năm
ngoái. Trong đó, nhu cầu đầu tư vàng qua các Quỹ ETFs đã có sự thu hẹp, nhu
cầu dự trữ của NHTW các nước cũng đã chậm lại, tín hiệu tích cực chỉ xuất
hiện từ hai cấu phần chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng cầu như nhu cầu đầu tư vàng
miếng, vàng trang sức và vàng sử dụng trong khu vực sản xuất.
Nhu cầu vàng trong Quý I năm 2017
Nguồn: gold.org
Bên cạnh đó, lượng vàng cung cấp ra thị trường trong Quý I cũng đã giảm 12%
so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó xu hướng giảm diễn ra trên cả 03 cấu phần
chính đó là sản lượng sản xuất từ các mỏ vàng; lượng vàng phòng ngừa rủi ro từ
nhà sản xuất và lượng vàng tái chế.
9
Thị trường chứng khoán toàn cầu
Lượng cung vàng trong Quý I năm 2017
Nguồn: gold.org
TTCK toàn cầu
diễn biến tích
cực
Thị trường chứng khoán toàn cầu trong tháng 4 chịu chi phối của nhiều yếu tố
chính trị. Căng thẳng địa chính trị leo thang tại Syria, Triều Tiên, Afganistan
trong nửa đầu tháng đã tác động khiến thị trường có nhiều phiên liên tục giảm
điểm. Tuy nhiên, diễn biến tích cực của cuộc bầu cử tổng thống tại Pháp đã
giúp nâng đỡ và lấy lại đà tăng điểm của thị trường trong nửa cuối tháng.
Thị trường chứng khoán Mỹ
hình thành xu hướng tăng điểm
ngay từ những ngày đầu tháng
nhờ kỳ vọng về việc chính
quyền sẽ thực hiện chương trình
cắt giảm thuế doanh nghiệp. Đà
gia tăng chỉ chậm lại đôi chút
trong tuần 2 sau khi Mỹ thực
hiện không kích tại Syria và
những số liệu vĩ mô công bố
trong tháng cho thấy tăng
trưởng Mỹ không đạt được như
kỳ vọng. Tuy nhiên, sự hứng
khởi của thị trường đã nhanh
chóng quay trở lại trong những ngày cuối tháng khi một loạt các công ty niêm
yết công bố lợi nhuận chốt quý I khả quan. Theo đó, các chỉ số chứng khoán
chính liên tiếp đạt đỉnh, trong đó S&P 500 đã có thời điểm vượt ngưỡng 6000
điểm lần đầu tiên trong lịch sử. Kết thúc tháng 4, cả 3 chỉ số chính của thị
trường đều đã tăng điểm so với cuối tháng trước, trong đó Dow Jones tăng
1,48%, S&P 500 tăng 1,08% và Nasdaq tăng 2,59%.
Chứng khoán châu Âu vẫn giữ được đà tăng điểm từ những tháng trước nhờ
được hỗ trợ bởi sự phục hồi kinh tế của toàn khu vực, hiệu ứng tích cực của kết
quả cuộc bầu cử vòng 1 Tổng thống Pháp và kết quả kinh doanh của một số
doanh nghiệp. Chốt tháng, chỉ số Euro Stoxx toàn khu vực đã gia tăng 2,5% so
cuối tháng 3 với hầu hết chỉ số tại các nước thành viên đều tăng điểm, ngoại trừ
chỉ số FTSE 100 của Anh giảm 1,08% do những lo ngại phát sinh xoay quanh
Brexit.
Trong khi đó, tại châu Á điểm nhấn đáng chú ý là sự sụt giảm của thị trường
chứng khoán Trung Quốc do việc thắt chặt các quy định kiểm soát các đòn bẩy
tài chính. Kết quả là chỉ số Shanghai đã giảm 3,13% so với cuối tháng 3. Trong
Diễn biến các chỉ số chứng khoán chủ chốt
trong tháng 4
Nguồn:Bloomberg
1.48%1.08%
2.59%
-1.08%
2.50%
1.48% 1.46%1.12%
-3.13%
-4.00%
-3.00%
-2.00%
-1.00%
0.00%
1.00%
2.00%
3.00%
10
KINH TẾ TRONG NƯỚC
1. Tăng trưởng kinh tế
khi đó, các thị trường khác diễn biến tích cực theo xu thế tăng điểm chung của
chứng khoán thế giới. Cụ thể, chỉ số Nikkei 225 đã tăng 1,12% trong khi đó chỉ
số HangSeng của Hồng Kông có tháng gia tăng thứ 4 liên tiếp với mức tăng
1,46%.
Sản xuất công
nghiệp tiếp tục
ghi nhận diễn
biến xấu
Chỉ số sản xuất công nghiệp IIP tháng 4/2017 đã tăng 7,4% so với cùng kỳ,
thấp hơn không đáng kể so với mức tăng 7,9% trong tháng 4/2016. Tuy nhiên
diễn biến của các nhóm ngành chính vẫn không có sự thay đổi, công nghiệp chế
biến, chế tạo tiếp tục giữ vai trò chủ chốt với mức tăng 11,1%; tiếp đến là sản
xuất và phân phối điện tăng 9,9%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước
thải tăng 6,5%, trong khi đó ngành khai khoáng tiếp tục giảm 5,6%. Ngoài ra,
nếu so sánh theo tháng thì chỉ số IIP trong tháng 4 đã giảm 0,8% so với tháng 3
– quay trở lại xu hướng suy giảm trong 2 tháng đầu năm.
Bên cạnh đó, mặc dù IIP tính chung 4 tháng đã tăng 5,1% nhưng vẫn thấp hơn
nhiều so mức tăng của cùng kỳ năm 2016 (IIP 4 tháng đầu năm 2016 tăng 7,3%
so với cùng kỳ năm 2015) và xu hướng này cũng xuất hiện trong tất cả các
nhóm ngành công nghiệp chủ chốt. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo
tăng 9,2%, đóng góp 6,5 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản
xuất và phân phối điện tăng 9,3%, đóng góp 0,6 điểm phần trăm; ngành cung
cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,3%, đóng góp 0,1 điểm phần
trăm; ngành khai khoáng giảm 9,7%, làm giảm 2,1 điểm phần trăm mức tăng
chung.
Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 4
tháng đầu năm 2017 tăng mạnh hơn rất nhiều so với mức tăng chung như sản
xuất kim loại tăng 47,5%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy
móc, thiết bị) tăng 13,3%; dệt tăng 12,5%; sản xuất xe có động cơ tăng 10,9%;
sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất tăng 10,7%; sản xuất đồ uống tăng
10,3%.
Diễn biến IIP so với tháng trước
Diễn biến IIP so với cùng kỳ
Nguồn: TCTK
Diễn biến không thuận lợi của khu vực sản xuất còn được thể hiện rõ nét qua hai
chỉ số tồn kho và tiêu thụ tính đến đầu tháng 4/2017. Hai chỉ số này tiếp tục có diễn
biến xấu so với cùng kỳ năm trước. Theo đó, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 3 tháng
đầu năm nay, chỉ số tiêu thụ ngành chế biến, chế tạo tăng 7,5% so với cùng kỳ năm
trước, thấp hơn mức tăng 10,2% của năm ngoái.
11
Diễn biến chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo
Diễn biến chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo
Nguồn: TCTK
Hoạt động bán lẻ
hàng hóa tiếp tục
đạt tốc độ tăng
trưởng khả quan
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 4 ước tính
đạt 317,5 nghìn tỷ đồng, tăng 1,7% so với tháng trước và tăng 11,1% so với
cùng kỳ năm trước. Mức tăng trưởng này nhìn chung tốt hơn so với cùng kỳ 2
năm liền trước4.
4 Tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 4/2016 đạt mức tăng 1,59% so với tháng trước và 8,5% so với
cùng kỳ, tháng 4/2015 đạt mức tăng 2,5% so với tháng trước và 7,1% so với cùng kỳ.
Tình hình tiêu thụ hàng hóa không thuận lợi đã ảnh hưởng nhất định đến tình hình
tồn kho hàng hóa. Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thời
điểm 01/04/2017 tăng 12,7% so với cùng kỳ, cao hơn so với mức tăng 8,9% của
tháng 3/2016. Ngoài ra, tỷ lệ tồn kho bình quân toàn ngành chế biến, chế tạo 3
tháng đầu năm là 71,9%, trong đó một số ngành tỷ lệ tồn kho cao: Sản xuất thuốc,
hóa dược và dược liệu 111,4%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy
móc, thiết bị) 107,3%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất 98,2%; sản xuất,
chế biến thực phẩm 86,3%.
Tình hình cải
thiện trong lĩnh
vực sản xuất đã
giảm nhẹ so với
tháng trước
Chỉ số nhà quản trị mua hàng – PMI trong tháng 4 đạt 54,1 điểm, mặc dù vẫn
nằm trong vùng mở rộng nhưng đã giảm nhẹ 0,5 điểm so với tháng 3/2017. Xu
hướng mở rộng vẫn được hỗ trợ mạnh mẽ bởi sức tăng mạnh của số lượng đơn
đặt hàng mới, đặc biệt là tốc độ gia tăng mạnh chưa từng có trong lịch sử khảo
sát của số lượng đơn đặt hàng từ xuất khẩu – và xu hướng này đã kéo dài
trong 3 tháng. Thực tế này đã tác động lan tỏa tích cực tới các khâu khác của
hoạt động sản xuất như lượng công việc mới, hàng tồn kho, việc làm.
Mặc dù vậy, giá cả hàng hóa đầu vào và đầu ra tuy đã giảm so với những
tháng trước song vẫn tiếp tục gia tăng. Xu hướng đó bị chi phối đáng kể từ
nhu cầu hàng hóa đầu vào gia tăng và xu hướng giảm hiệu suất của người bán
hàng.
Diễn biến chỉ số PMI
Nguồn: nikkei.com
12
Tính chung 4 tháng đầu năm nay, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng ước tính đạt 1.267,9 nghìn tỷ đồng, tăng 9,6% so với cùng kỳ
năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 6,7%, mặc dù thấp hơn mức tăng 7,8%
của cùng kỳ năm 2016 nhưng vẫn đang hình thành xu hướng gia tăng. Điều
này tích cực hơn nếu so với diễn biến đi xuống của cùng kỳ 2 năm liền trước.
Tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh
thu DV TD so với tháng trước và cùng kỳ (%)
Tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng đã loại trừ yếu tố giá (% yoy)
Nguồn: TCTK
Vốn đầu tư từ
NSNN đã có sự
cải thiện tuy
nhiên tốc độ tăng
trưởng vẫn ở
mức thấp
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện tháng 4 ước tính đạt 19,46 nghìn
tỷ đồng, tăng 17% so với tháng trước. Như vậy, sau 3 tháng đầu năm giải
ngân chậm, lượng vốn đầu tư từ Nhà nước đã bắt đầu tăng tốc trở lại trong
tháng 4. Tuy nhiên, tính chung 4 tháng đầu năm, vốn đầu tư thực hiện từ
nguồn ngân sách Nhà nước đạt 64,4 nghìn tỷ đồng, bằng 22,2% kế hoạch năm
và tăng 3,6% so với cùng kỳ năm 2016, vẫn thấp hơn khá nhiều mức tăng
trưởng 11,5% của 4 tháng đầu năm 2016.
Diễn biến vốn đầu tư từ NSNN
Nguồn: TCTK
Đầu tư trực tiếp
nước ngoài
chứng kiến
những diễn biến
tốt xấu đan xen
Tính đến 20/4/2017, tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới, cấp vốn bổ
sung và đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần đạt xấp xỉ 10,6 tỷ USD,
tăng 40,5% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, diễn biến tích cực nhất thuộc
về lượng vốn đăng ký tăng thêm của các dự án FDI đã triển khai với mức
tăng qua 4 tháng đầu năm gấp 2,4 lần so với cùng kỳ năm 2016.
Trong khi đó, diễn biến của lượng vốn FDI đăng ký mới và vốn FDI thực
hiện lại có nhiều điểm kém tích cực. Tính chung 4 tháng, lượng vốn đăng ký
mới đang giảm 4% so với 4 tháng đầu năm 2016. Vốn FDI thực hiện 4 tháng
ước tính đạt 4,8 tỷ USD, chỉ tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 2016, thấp hơn
nhiều mức tăng 12% của 4 tháng đầu năm 2016.
13
Diễn biến vốn FDI thu hút và thực hiện tháng 1/2016 – tháng 4/2017
Nguồn: TCTK
Một điểm đáng chú ý là trong tháng 4, lượng vốn đầu tư FDI đổ vào ngành
khai khoáng có sự gia tăng đột biến đưa ngành này vượt bất động sản lên
đứng vị trí thứ 2 trong các nhóm ngành thu hút FDI nhiều nhất. Tính chung 4
tháng, ngành chế biến chế tạo hiện vẫn dẫn đầu khi chiếm 52,9% tổng vốn
FDI cấp mới; đứng thứ 2 là ngành khai khoáng chiếm 26,2%.
Cơ cấu đầu tư FDI phân theo ngành kinh tế
Nguồn: TCTK
Kim ngạch xuất
nhập khẩu trong
tháng 4 giảm so
với tháng trước
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 4 ước tính đạt 16,70 tỷ USD, giảm 3,2%
so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 4,60 tỷ USD, giảm
7,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 12,10 tỷ USD,
giảm 1,4%. Sự giảm sút này là do nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực có kim
ngạch giảm mạnh so với tháng trước như hàng dệt may giảm 12%; điện tử,
máy tính và linh kiện giảm 20,1%; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 11,7%; sắt thép
giảm 30,9%; hạt tiêu giảm 16%. Sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu của các mặt
hàng này chủ yếu là do giá thành xuất khẩu giảm trước tác động từ xu hướng
sụt giảm chung của giá cả hàng hóa toàn cầu.
Tương tự xuất khẩu, nhập khẩu tháng 4 ước tính đạt 17,50 tỷ USD, giảm 4,6%
so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 7,00 tỷ USD, giảm
3,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 10,50 tỷ USD, giảm 5,2%. Kim
ngạch nhập khẩu nhiều mặt hàng giảm so với tháng trước: Điện tử, máy tính
và linh kiện giảm 4,6%; điện thoại và linh kiện giảm 8,2%; xăng dầu giảm
29,5%; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 17,9%; phân bón giảm 15,2%. Sự tương đồng
giữa các nhóm hàng nhập khẩu và xuất khẩu đều có kim ngạch giảm sút trong
0500
1,0001,5002,0002,5003,0003,5004,000
Trie
u U
SD
Vốn đăng ký
Vốn thực hiện
14
tháng 4 cho thấy rõ ràng nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu là các mặt hàng gia
công để tái xuất khẩu trở lại. Điều đó dẫn đến khi các đơn hàng xuất khẩu
giảm sẽ kéo theo nhập khẩu những mặt hàng này có chiều hướng chững lại.
Cán cân thương mại tháng 4 ước tính nhập siêu 800 triệu USD. Tính chung 4
tháng đầu năm 2017 nhập siêu 2,74 tỷ USD, bằng 4,5% tổng kim ngạch hàng
hóa xuất khẩu, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 8,49 tỷ USD;
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 5,75 tỷ USD.
Diễn biến XK, NK và nhập siêu giai đoạn 1/2016 – 4/2017
Nguồn: TCTK
Một số VBPL chính sách quan trọng về điều tiết tăng trưởng kinh tế được ban hành trong tháng 4
Nghị quyết số 38/NQ-CP ngày 25/4/2017 của Chính phủ: Ban hành chương trình hành động của Chính phủ
thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW về "Thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững
ổn định chính trị - xã hội, trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới"
Chính phủ ban hành Nghị quyết 38/NQ-CP chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 06-
NQ/TW về “Thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, trong
bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”. Đây là Nghị quyết có ý nghĩa rất quan
trọng, cụ thể hóa đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và chủ trương coi “hội nhập quốc
tế là định hướng lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Quyết định số 12/2017/QĐ-TTg ngày 22/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ: Ban hành Quy định nguyên tắc,
tiêu chí, định mức phân bổ vốn ngân sách trung ương và tỷ lệ vốn đối ứng của ngân sách địa phương thực
hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy định nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn ngân sách trung ương và
tỷ lệ vốn đối ứng của ngân sách địa phương thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2016 - 2020, trong đó, tập trung đầu tư cho các xã mới đạt dưới 05 tiêu chí và các xã đã đạt trên 15 tiêu
chí để phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới; chú trọng đầu tư cho các xã chưa hoàn thành các
công trình hạ tầng cơ bản (giao thông, điện, trường học, trạm y tế, nước sạch, thủy lợi); hỗ trợ phát triển sản
xuất, bảo vệ môi trường....
2. Lạm phát
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 năm nay không có sự biến động so với tháng trước.
CPI tăng 4,3% so cùng kỳ năm trước và tăng 0,9% so với tháng 12 năm trước.
Chỉ số CPI cơ bản tiếp tục ổn định, chỉ tăng nhẹ 0,09% so với tháng trước và
tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 4 tháng đầu năm 2017 đã
tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2016.
15
Nguồn: Tổng cục thống kê
-
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
Th
g1
-15
Th
g4
-15
Th
g7
-15
Th
g1
0-1
5
Th
g1
-16
Th
g4
-16
Th
g7
-16
Th
g1
0-1
6
Th
g1
-17
Th
g4
-17
CPI SO VỚI CÙNG KỲ
GIAI ĐOẠN 2015 - 2017
CPI cơ bản CPI Chung
Lạm phát đứng yên trong tháng 4 là do có nhiều nhóm hàng hóa, dịch vụ chiếm
tỷ trọng lớn trong rổ tính CPI giảm giá so với tháng trước. Cụ thể, có 04 nhóm
giảm giá và 07 nhóm tăng giá.
Nhóm hàng hóa và dịch vụ tăng giá:
+) Thuốc và dịch vụ Y tế: CPI nhóm này tăng 8,05% so với tháng trước, chủ
yếu do dịch vụ Y tế tăng giá 10,59%. Trong tháng có 14 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương thực hiện điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế bước 2, từ đó tác
động làm tăng CPI chung khoảng 0,41%.
+) Các nhóm hàng hóa, dịch vụ còn lại đều có CPI tăng nhẹ: Văn hóa, giải trí,
du lịch (+0,1%); Thiết bị và đồ dùng gia đình (+0,1%); Đồ uống và thuốc lá
(+0,06%); May mặc, mũ nón và giày dép (+0,02%); Giáo dục (+0,01%); Hàng
hóa và dịch vụ khác (+0,08%).
Nhóm hàng hóa và dịch vụ giảm giá:
+) Hàng ăn và dịch vụ ăn uống: CPI nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm
0,66% so với tháng trước. Đáng chú ý, CPI nhóm Thực phẩm giảm 1,11% và đã
giảm tháng thứ 5 liên tiếp. CPI nhóm Thực phẩm đã giảm 3,17% kể từ đầu năm
nay. Nguyên nhân chính là do giá cả một số mặt hàng thực phẩm đã giảm xuống
mức thấp kỷ lục trong nhiều năm trở lại đây, điển hình là giá thịt lợn hơi chạm
đáy, giá thịt và trứng gia cầm đang ở mức thấp.
+) Giao thông: CPI nhóm Giao thông giảm 1,38% so với tháng trước do ảnh
hưởng từ hai đợt điều chỉnh giảm giá xăng dầu vào thời điểm 21/3/2017 và thời
điểm 5/4/2017 (làm giá xăng, dầu giảm 3,06%), từ đó tác động làm CPI chung
giảm 0,13%.
+) Nhà ở và vật liệu xây dựng: CPI nhóm Nhà ở và VLXD giảm 0,24% so với
tháng trước chủ yếu do giá Gas và khí hóa lỏng đã giảm đáng kể trong tháng
vừa qua.
+) Bưu chính viễn thông: CPI nhóm Bưu chính viễn thông giảm nhẹ 0,03% so
với tháng trước.
16
Nguồn: TCTK
Một số VBPL chính sách quan trọng về điều tiết giá cả được ban hành trong tháng 4 năm 2017
Công văn số 2833/BCT-TTTN ngày 5/4/2017 của Bộ Công Thương về việc điều hành kinh doanh xăng dầu
Điều chỉnh giá xăng dầu: Xăng RON 92: giảm 81 đồng/lít; Xăng E5: giảm 67 đồng/lít; Dầu diesel 0.05S: giảm
369 đồng/lít; Dầu hỏa: giảm 189 đồng/lít; Dầu mazut 180CST 3.5S: giảm 234 đồng/kg.
Công văn số 3372/BCT-TTTN ngày 20/4/2017 của Bộ Công Thương về việc điều hành kinh doanh xăng dầu
Điều chỉnh giá xăng dầu: Xăng RON 92: tăng 350 đồng/lít; Xăng E5: tăng 350 đồng/lít; Dầu diesel 0.05S: tăng
350 đồng/lít; Dầu hỏa: tăng 350 đồng/lít; Dầu mazut 180CST 3.5S: tăng 350 đồng/kg.
3. Thu chi ngân sách Nhà nước
5 4 tháng năm 2016, thu NSNN bằng 25,1% dự toán trong đó thu nội địa đạt 26,7% dự toán, thu từ dầu thô bằng 20,1% dự toán và thu từ
hoạt động XNK bằng 19,7% dự toán.
-1.64
0.81
0.09
1.61
0.4
17.59
2.76
-0.22
1.23
0.45
0.77
-5 0 5 10 15 20
Hàng ăn và dịch vụ ăn …
Đồ uống và thuốc lá
May mặc, mũ nón, giày dép
Nhà ở và vật liệu xây dựng
Thiết bị và đồ dùng gia …
Thuốc và dịch vụ y tế
Giao thông
Bưu chính viễn thông
Giáo dục
Văn hóa, giải trí và du lịch
Hàng hóa và dịch vụ khác
%
CPI THÁNG 4/2017
SO VỚI CUỐI NĂM 2016
-10
-5
0
5
10
15
20
25
30
%CPI MỘT SỐ NHÓM HÀNG SO VỚI
THÁNG TRƯỚC GIAI ĐOẠN 2015-
2016
Lương thực thực phẩm
Thuốc và dịch vụ y tế
Giao thông
CPI chung
Thu NSNN đã có
sự cải thiện, bội
chi đạt mức thấp
nhất trong nhiều
năm trở lại đây
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/4/2017 ước tính đạt
316,7 nghìn tỷ đồng, bằng 26,1% dự toán năm, trong đó thu nội địa 253,8 nghìn
tỷ đồng, bằng 25,6%; thu từ dầu thô 13 nghìn tỷ đồng, bằng 33,9%; thu cân đối
ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 49,9 nghìn tỷ đồng, bằng 27,7%. Về cơ
bản thu ngân sách trong quý I năm nay đã diễn biến khả quan hơn so với cùng
kỳ năm ngoái nhờ sự phục hồi của hai nguồn thu từ hoạt động xuất nhập khẩu
và thu từ dầu thô5 .
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/4/2017 ước tính đạt
336,8 nghìn tỷ đồng, bằng 24,2% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt
246,7 nghìn tỷ đồng, bằng 27,5% dự toán năm; chi trả nợ lãi 31,6 nghìn tỷ
đồng, bằng 32%; riêng chi đầu tư phát triển mới đạt 57,8 nghìn tỷ đồng, bằng
16,2% dự toán năm. Cơ cấu chi vẫn chưa có nhiều thay đổi khi chi thường
xuyên vẫn chiếm trên 70% dự toán.
Như vậy, từ đầu năm đến nay bội chi ngân sách khoảng 20,1 nghìn tỷ đồng,
mức bội chi thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây.
17
So sánh thu NSNN 4 tháng 2016 và 4 tháng 2017
So sánh chi NSNN 4 tháng 2016 và 4 tháng 2017
Nguồn: GSO
Một số VBPL chính sách quan trọng về điều tiết thu chi NSNN được ban hành trong tháng 4 năm 2017
Quyết định số 544/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 20/4/2017 Phê duyệt Chương trình quản lý nợ
trung hạn 2016-2018
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Chương trình quản lý nợ trung hạn giai đoạn 2016-2018 với mục tiêu nợ
công (bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương) không quá 65% GDP,
trong đó dư nợ chính phủ không quá 54% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP.
Quyết định số 583/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 28/4/2017 về việc phê duyệt kế hoạch vay, trả nợ
của Chính phủ và các hạn mức vay nợ năm 2017.
Theo Quyết định, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch vay của Chính phủ năm 2017 là 342.060 tỷ đồng,
gồm: Vay trong nước 243.300 tỷ đồng và vay ODA, ưu đãi nước ngoài 98.760 tỷ đồng, trong đó vay cho cân đối
ngân sách nhà nước 316.300 tỷ đồng (vay để bù đắp bội chi là 172.300 tỷ đồng và vay để trả nợ gốc 144.000 tỷ
đồng); vay về cho vay lại 25.760 tỷ đồng.
Kế hoạch trả nợ của Chính phủ năm 2017 là 260.150 tỷ đồng, trong đó: Trả nợ trực tiếp của Chính phủ năm
2017 là 242.900 tỷ đồng; trả nợ của các dự án cho vay lại 17.250 tỷ đồng.
Tỷ lệ huy động thành
công TPCP đã đạt
cao hơn tháng trước
Trong tháng 4, KBNN tổ chức gọi thầu TPCP với các kỳ hạn từ 5 năm cho đến
30 năm. Trong đó, giá trị gọi thầu lớn nhất rơi vào kỳ hạn 30 năm và 5 năm. Kết
quả huy động trong tháng cho thấy tỷ lệ TPCP trúng thầu tiếp tục đạt tỷ lệ cao
với kỳ hạn dài, nổi bật là kỳ hạn 10 năm và 15 năm.
Kết thúc tháng 4, KBNN huy động thành công 25.083 tỷ đồng trái phiếu Chính
phủ qua đấu thầu với tổng giá trị gọi thầu là 28.150 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 89,1% -
cao hơn so với tỷ lệ 83,7% của tháng 3/2017.
Giá trị trúng thầu qua các kỳ hạn trong tháng 4 năm 2017
Nguồn: hnx.vn
0
2000
4000
6000
8000
10000
5 7 10 15 20 30
Tỷ đ
ồn
g
Kỳ hạn
18
4. Tình hình doanh nghiệp
Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh
5.5%
-0.2%
21.8%
6.9%
237.2%
15.7%
9.9%
18.2%
34.4%
14.9%
-53.2%12.4%
16.2%
30.4%
19.9%
13.5%
66.0%
-100% 0% 100% 200% 300%
Nghệ thuật, giải trí
Vận tải, kho bãi
Nông, lâm thủy sản
Khai khoáng
Thông tin và truyền thông
Xây dựng
Buôn bán, sửa ô tô xe…
Dịch vụ việc làm, du lịch
Sản xuất điện, nước, gas
Dịch vụ lưu trú và ăn…
Tài chính ngân hàng
CN chế biến chế tạo
Khoa học công nghệ
Giáo dục và đào tạo
Hoạt động dịch vụ khác
Y tế và trợ giúp xã hội
Kinh doanh BĐS
SỐ DOANH NGHIỆP THÀNH LẬP MỚI
4 THÁNG ĐẦU NĂM 2017
257.7%-13.5%
-12.9%
86.2%
44.9%
54.7%
52.6%
145.0%
-3.2%
106.1%
79.5%
59.7%
21.5%
84.2%
-12.4%
45.7%
49.9%
-100% 0% 100% 200% 300%
Nghệ thuật, giải trí
Vận tải, kho bãi
Nông, lâm thủy sản
Khai khoáng
Thông tin và truyền…
Xây dựng
Buôn bán, sửa ô tô xe…
Dịch vụ việc làm, du…
Sản xuất điện, nước, gas
Dịch vụ lưu trú và ăn…
Tài chính ngân hàng
CN chế biến chế tạo
Khoa học công nghệ
Giáo dục và đào tạo
Hoạt động dịch vụ khác
Y tế và trợ giúp xã hội
Kinh doanh BĐS
VỐN ĐĂNG KÝ KINH DOANH MỚI
4 THÁNG ĐẦU NĂM 2017
Qua 4 tháng đầu năm, hoạt động của khối doanh nghiệp ghi nhận sự tích cực
khi hầu hết các nhóm ngành đều có số lượng doanh nghiệp gia nhập thị trường
tăng lên so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tăng mạnh nhất là các ngành:
Thông tin và truyền thông, Kinh doanh bất động sản. Ngược lại, ngành Tài
chính ngân hàng có số lượng doanh nghiệp sụt giảm khá sâu so với giai đoạn
trước.
Về vốn đăng ký kinh doanh, những nhóm ngành có tỷ lệ vốn đăng ký kinh
doanh mới tăng cao trong 4 tháng đầu năm tập trung chủ yếu ở khu vực Dịch
vụ, đó là các ngành: Nghệ thuật, vui chơi và giải trí; Dịch vụ việc làm và du
lịch; Dịch vụ lưu trú và ăn uống, Giáo dục đào tạo,…
Tháng 4 năm nay có số lượng doanh nghiệp thành lập mới cao kỷ lục khi cả
nước có 13.102 doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 98.397
tỷ đồng - tăng 8,9% về số doanh nghiệp và giảm 17,1% về số vốn đăng ký so
với tháng trước. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong tháng này cũng
tăng khá mạnh khi có 2.274 doanh nghiệp quay trở lại thị trường - tăng 75,7%
so với tháng 3 năm 2016.
Về tình hình giải thể, ngừng đăng ký và tạm ngừng kinh doanh, trong tháng có
789 hoàn tất thủ tục giải thể - tăng 6% so với tháng trước, có 1.744 doanh
nghiệp tạm ngừng kinh doanh - tăng 24% so với tháng trước. Tăng cao nhất là
số doanh nghiệp đang chờ giải thể với 4.561 doanh nghiệp – tăng 43,2% so với
tháng 3 năm 2016.
Có thể thấy hoạt động của khu vực doanh nghiệp trong những tháng đầu năm
19
Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh
III. DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ, CHỨNG KHOÁN
Một số VBPL chính sách quan trọng điều tiết hoạt động trên thị trường tiền tệ, ngân hàng được ban hành
trong tháng 4 năm 2017
Ngày 24/4/2017, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có Quyết định số 813/QĐ-NHNN về chương trình cho
vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Nghị quyết
30/NQ-CP ngày 07/3/2017 của Chính phủ.
Theo đó, đối tượng áp dụng của chương trình bao gồm: (i) Đối tượng vay vốn (sau đây gọi là khách hàng) bao
gồm pháp nhân và cá nhân có nhu cầu vay vốn để thực hiện dự án, phương án sản xuất – kinh doanh nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo tiêu chí xác định chương trình, dự án nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch quy định tại Quyết định số 738/QĐ-BNN-KHCN ngày 14/3/2017 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; (ii) Các ngân hàng thương mại (NHTM) cho vay được thành lập và hoạt
động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng.
0
2,000
4,000
6,000
8,000
10,000
12,000
14,000
SỐ DOANH NGHIỆP THÀNH LẬP
GIAI ĐOẠN 2016 - 2017
Số doanh nghiệp thành lập mới
Số doanh nghiệp hoạt động trở lại
0
20,000
40,000
60,000
80,000
100,000
120,000
140,000
1/2
016
2/2
016
3/2
016
4/2
016
5/2
016
6/2
016
7/2
016
8/2
016
9/2
016
10
/2016
11
/2016
12
/2016
1/2
017
2/2
017
3/2
017
4/2
017
tỷ đồng
VỐN ĐĂNG KÝ KINH DOANH
GIAI ĐOẠN 2016 - 2017
0
2,000
4,000
6,000
8,000
TÌNH HÌNH GIẢI THỂ, DỪNG ĐĂNG KÝ VÀ TẠM DỪNG KINH DOANH
GIAI ĐOẠN 2016 - 2017
Số doanh nghiệp giải thể
Số doanh nghiệp dừng đăng ký hoặc chờ giải thể
Số doanh nghiệp tạm dừng kinh doanh
diễn ra khá tích cực, không chỉ ở góc độ gia nhập thị trường mà kể cả việc sàng
lọc, loại ra khỏi thị trường những doanh nghiệp yếu kém, không có khả năng
cạnh tranh cũng đang diễn ra mạnh mẽ.
20
Diễn biến lãi suất huy động bình quân của Khối
NHTM Nhà nước
Diễn biến lãi suất huy động bình quân Khối
NHTM Cổ phần
Nguồn: Tổng hợp
Diễn biến lãi suất liên ngân hàng trong tháng 4
Doanh số giao dịch liên ngân hàng trong tháng 4
Nguồn: NHNN
6 Dựa trên số liệu được tổng hợp từ 35 NHTM
Lãi suất huy
động và cho vay
tiếp tục ổn định
Diễn biến lãi suất huy động trong tháng 4 về cơ bản là khá ổn định, lãi suất tiếp
tục được điều chỉnh hợp lý, diễn ra rải rác ở một số ngân hàng6. Trong đó chỉ
duy nhất có ngân hàng Đông Á điều chỉnh giảm lãi suất ở kỳ hạn ngắn còn chủ
yếu là xu hướng điều chỉnh tăng nhẹ từ 0,1-0,2%/năm đối với lãi suất huy động
kỳ hạn từ 12 tháng trở lên. Hiện mặt bằng lãi suất huy động VND không kỳ hạn
phổ biến trong khoảng 0,2-1,0%/năm ở cả hai khối NHTM Nhà nước và NHTM
cổ phần, lãi suất huy động VND có kỳ hạn phổ biến trong khoảng từ 4,8 -
7,5%/năm đối với khối NHTM Nhà nước và trong khoảng từ 4,9 - 8%/năm đối
với khối NHTM cổ phần.
Trong khi đó, lãi suất liên ngân hàng thay đổi mạnh hơn, liên tục giảm trong
gần 2/3 thời gian đầu của tháng, giảm mạnh nhất vào tuần giao dịch đầu trong
biên độ từ 0,06% – 0,29% đối với hầu hết các kỳ hạn ngắn. Lãi suất có dấu hiệu
tăng trở lại trong tuần giao dịch cuối tháng, rõ nét nhất là lãi suất kỳ hạn 1 tuần,
2 tuần đã tăng trở lại về mức đầu tháng. Diễn biến của lãi suất liên ngân hàng đã
phản ánh thanh khoản hệ thống đã lấy lại vị thế cân bằng. Mặc dù vậy, kết thúc
tháng, lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn ngắn từ qua đêm, 1 tuần giảm lần lượt là
0,47 và 0,2 điểm phần trăm về mức 4,4%/năm và 4,72%/năm, riêng lãi suất kỳ
hạn 2 tuần thì không thay đổi, ở mức 4,95%/năm và lãi suất kỳ hạn 1 tháng tăng
nhẹ 0,08 điểm phần trăm lên mức 5,11%/năm.
21
7 Trong 04 ngày (11-14/4) tỷ giá tham khảo tại Sở giao dịch NHNN cao hơn mức tỷ giá niêm yết tại các NHTM.
Theo đó, lãi suất cho vay VND tiếp tục diễn biến ổn định, phổ biến đối với các
lĩnh vực ưu tiên ở mức 6-7%/năm đối với ngắn hạn, các NHTM nhà nước áp
dụng lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở
mức 9-10%/năm. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông
thường ở mức 6,8-9%/năm đối với ngắn hạn; 9,3-11%/năm đối với trung và dài
hạn. Đối với nhóm khách hàng tốt, tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, lãi
suất cho vay ngắn hạn từ 4-5%/năm.
Bên cạnh đó, lãi suất cho vay USD phổ biến ở mức 2,8-6,0%/năm; trong đó lãi
suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 2,8-4,8%/năm, lãi suất cho vay trung, dài
hạn ở mức 4,8-6,0%/năm.
Tỷ giá diễn biến
phù hợp với tình
hình của thị
trường
Trong tháng 4, tỷ giá trung tâm tiếp tục được điều chỉnh tăng 0,33% so với
tháng trước và xu hướng này được thể hiện rõ nhất vào tuần giao dịch đầu và
cuối tháng, với mức tăng lần lượt là 0,2% và 0,13%. Tại hai đợt điều chỉnh tăng
này, tỷ giá trung tâm được điều chỉnh tăng mạnh nhất vào ngày 7/4 và ngày
20/4 lần lượt là 14 đồng và 8 đồng – là những bước điều chỉnh mạnh nhất kể từ
đầu năm. Diễn biến tăng mạnh của tỷ giá trung tâm trong tuần đầu khá phù hợp
với diễn biến của đồng USD trên thị trường quốc tế, tuy nhiên xu hướng tăng
vào những ngày giao dịch sau đó được xem là động thái để hỗ trợ cho hoạt động
xuất khẩu trong điều kiện cung ngoại tệ trong nền kinh tế khá dồi dào. Kết thúc
tháng, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 22.350 VND/USD.
Mặc dù được điều chỉnh theo xu hướng tăng với tần suất liên tục nhưng ở mức
điều chỉnh nhỏ cùng với các động thái điều hành qua tỷ giá niêm yết trên sở
giao dịch của NHNN7 được đánh giá là phù hợp với tình hình kinh tế đã không
gây sức ép lên tỷ giá niêm yết của các NHTM và cũng không tạo ra bất kỳ cú
sốc nào về mặt tâm lý trên thị trường tự do như đã từng xảy ra trong giai đoạn
trước. Trong tháng 4 tỷ giá trên cả 02 thị trường giao dịch chính thức và tự do
đều giảm, thậm chí xu hướng giảm điểm trên thị trường tự do còn diễn ra mạnh
mẽ hơn tỷ giá giao dịch chính thức. Kết thúc tháng 4, tỷ giá niêm yết tại các
NHTM giảm 0,11% ở cả 2 chiều mua và bán; tỷ giá niêm yết tại Vietcombank ở
mức 22.695 – 22.765 VND/USD và tỷ giá niêm yết của Eximbank là 22.690 –
22.770 VND/USD. Trong khi đó, tỷ giá giao dịch USD trên thị trường tự do đã
giảm lần lượt là 0,18% - 0,13%, giao dịch ở mức 22.700 – 22.760, tiếp tục thấp
hơn thị trường chính thức từ 5 – 10 đồng.
Diễn biến tỷ giá VND/USD trong tháng 4 năm 2017
Nguồn: NHNN
22
Diễn biến giá vàng trong nước 4 tháng đầu năm 2017
Diễn biến giá vàng trong nước và quốc tế quy đổi
Nguồn: sjc.com.vn
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
600
620
640
660
680
700
720
740
3/4
/201
7
4/4
/201
7
5/4
/201
7
7/4
/201
7
10
/4/2
017
11
/4/2
017
12
/4/2
017
13
/4/2
017
14
/4/2
017
17
/4/2
017
18
/4/2
017
19
/4/2
017
20
/4/2
017
21
/4/2
017
24
/4/2
017
25
/4/2
017
26
/4/2
017
27
/4/2
017
28
/4/2
017
tỷ đồng
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HOSE T4/2017 Giá trị giao dịch (tỷ đồng)Chỉ số HOSE
0
200
400
600
800
1000
1200
75
80
85
90
95
3/4
/201
7
4/4
/201
7
5/4
/201
7
7/4
/201
7
10
/4/2
017
11
/4/2
017
12
/4/2
017
13
/4/2
017
14
/4/2
017
17
/4/2
017
18
/4/2
017
19
/4/2
017
20
/4/2
017
21
/4/2
017
24
/4/2
017
25
/4/2
017
26
/4/2
017
27
/4/2
017
28
/4/2
017
tỷ đồng
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HNX T4/2017
Giá trị giao dịch (tỷ đồng)Chỉ số HNX
Giá vàng trong
nước diễn biến
sát với giá vàng
thế giới
Kết thúc tháng 4, giá vàng SCJ trong nước đã tăng 0,53% cả chiều mua và chiều
bán so với tháng trước. Giá vàng trong nước mặc dù có mức độ thay đổi thấp
hơn nhưng đã diễn biến khá sát với xu hướng của giá vàng thế giới, chính vì
vậy chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế đã được thu hẹp đáng kể, hiện ở
mức hơn 1,8 triệu đồng/lượng.
Vàng đã tăng giá liên tục vào 2 tuần đầu của tháng, ghi nhận chuỗi tăng mạnh
từ ngày 10-17/4 với tổng mức tăng lên đến 1,63%, trong thời gian này giá vàng
đã có ngày giao dịch vượt qua mốc 37 triệu đồng/lượng, tuy nhiên ngưỡng điểm
này không duy trì được lâu. Tính đến hết tháng, giá vàng trong nước chốt giao
dịch ở mức 36,53 – 36,75 triệu đồng/lượng.
TTCK Việt Nam đã
trở thành thị trường
có mức tăng trưởng
âm trong khu vực lần
đầu tiên kể từ đầu
năm
Sau diễn biến khởi sắc trong Quý 1, thị trường chứng khoán trong tháng 4 được
kỳ vọng sẽ tiếp tục bứt phá về mặt điểm số. Tuy nhiên đà tăng trưởng của thị
trường chỉ được tiếp nối trong giai đoạn ngắn sau đó giảm dần. Kết thúc tháng
4, chỉ số VN-Index đóng cửa ở mức 717,73 điểm - giảm 4,58 điểm tương đương
0,63% so với phiên đóng cửa tháng 3. Trên sàn HNX, chỉ số HNX-Index kết
thúc phiên giao dịch cuối tháng ở mức 89,54 điểm - giảm 1,28 điểm tương
đương 1,41% so với phiên giao dịch cuối cùng của tháng trước.
23
Nguồn: UBCKNN
Nguồn: Bloomberg
Nguồn: UBCK
640
660
680
700
720
740
03
/01
09
/01
13
/01
19
/01
25
/01
07
/02
13
/02
17
/02
23
/02
01
/03
07
/03
13
/03
17
/03
23
/03
29
/03
04
/04
11
/04
17
/04
21
/04
27
/04
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HOSE 4 THÁNG
NĂM 2017
Chỉ số HOSE
76
80
84
88
92
96
03
/01
09
/01
13
/01
19
/01
25
/01
07
/02
13
/02
17
/02
23
/02
01
/03
07
/03
13
/03
17
/03
23
/03
29
/03
04
/04
11
/04
17
/04
21
/04
27
/04
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HNX 4 THÁNG
NĂM 2017
Chỉ số HNX
Ngay từ đầu tháng, thị trường liên tục tăng điểm và chỉ số VN-Index thiết lập
mức đỉnh mới trong năm 2017 vào ngày 11/4 với 731,33 điểm. Tuy nhiên sau
đó thị trường đã có những phiên giảm điểm khá mạnh, do chịu tác động chung
của việc thị trường chứng khoán thế giới sụt giảm. Các phiên giao dịch diễn ra
trong trạng thái giằng co tại các chỉ số khi áp lực chốt lời xuất hiện và xu hướng
giảm là chủ đạo. Thị trường chỉ bật tăng trở lại trong những ngày giao dịch cuối
cùng của tháng. Với những diễn biến có phần thiếu tích cực, TTCK Việt Nam
đã trở thành thị trường có mức tăng trưởng âm trong khu vực lần đầu tiên kể từ
đầu năm.
Thanh khoản thị trường trong tháng 4 giảm nhẹ so với tháng trước những vẫn
được duy trì ở mức cao so với giai đoạn gần đây. Tổng khối lượng giao dịch
trên cả hai sàn đạt khoảng 3.495,38 triệu cổ phiếu, với tổng giá trị giao dịch
khoảng 88.660 tỷ đồng, tăng 31% về khối lượng và 57% về giá trị so với cùng
kỳ năm 2016.
24
Nguồn: UBCK
Sự bứt phá của một số ít cổ phiếu thuộc nhóm vốn hóa lớn như VNM, MSN,
HPG, VJC, VHC,… là động lực tăng trưởng cho thị trường và giữ nhịp trong
những phiên giảm điểm. Ngược lại, nhiều cổ phiếu vốn hóa nhỏ không còn duy
trì được đà tăng khi dòng tiền có xu hướng chuyển dịch sang các cổ phiếu cơ
bản trong nhóm vốn hóa lớn và trung bình để đón đầu mùa đại hội cổ đông và
công bố kết quả kinh doanh Quý I. Về mặt nhóm ngành, sự khởi sắc của thị
trường chủ yếu đến từ ngành Thép, Hàng hóa tiêu dùng. Trong khi đó nhiều
nhóm ngành chủ chốt như Dầu khí, Ngân hàng, Bảo hiểm đã suy giảm hoặc
không thực sự tăng trưởng rõ nét trong tháng qua.
Điểm đáng chú ý của thị trường trong tháng 4 là việc khối ngoại vẫn hoạt động
khá tích cực, tuy nhiên đã có sự khác biệt so với các tháng trước đó khi khối
này tiếp tục mua ròng mạnh trên sàn HOSE nhưng đã bán ròng trở lại trên sàn
HNX. Cụ thể, khối ngoại trên HOSE mua ròng với tổng giá trị khoảng 2.272,68
tỷ đồng, tập trung lớn nhất ở các mã VNM (+931,6 tỷ đồng); VHC (+409,6 tỷ
đồng); VJC (+259,8 tỷ đồng) và HPG (+229,6 tỷ đồng). Ngược lại, khối ngoại
trên sàn HNX có tháng bán ròng đầu tiên kể từ đầu năm với giá trị bán ròng là
23,4 tỷ đồng. Trong đó các cổ phiếu có giá trị bán ròng nhiều nhất là SHB (-165
tỷ đồng); PVS (-22,5 tỷ đồng); PGS (-10,6 tỷ đồng).