32
LUẬN VĂN: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toán

Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

LUẬN VĂN:

Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng

chọn mẫu trong kiểm toán

Page 2: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

LỜI MỞ ĐẦU

Nền kinh tế của Việt Nam đang ngày càng phát triển với tốc độ chóng mặt.

Nguồn đầu tư từ trong và ngoài nước ngày càng lớn, dẫn theo sự xuất hiện của một

số lượng lớn các doanh nghiệp mới hoạt động trong mọi lĩnh vực. Đặc biệt, trong

những năm gần đây điểm nổi bật nhất của nền kinh tế Việt Nam chính là sự xuất

hiện và nhanh chóng phát triển của thị trường chứng khoán. Tham gia thị trường

chứng khoán cũng là một cách khá hiệu quả để thu hút vốn đầu tư nhằm mở rộng

hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Về phía các nhà đầu tư, họ có

vốn trong tay và dĩ nhiên họ luôn muốn những đồng tiền họ bỏ ra đầu tư sẽ thu được

số lợi nhuận tối đa. Bởi vậy họ luôn tìm hiểu thật kỹ về tình hình tài chính, tình hình

hoạt động, kinh doanh và khả năng sinh lời trong tương lai của doanh nghiệp để từ

đó có thể đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn. Chính vì lý do đó mà tất cả các

công ty đều bắt buộc phải được kiểm toán hàng năm.

Nhưng chúng ta cũng biết được rằng số lượng tài liệu cần được kiểm toán

trong mỗi công ty không phải là nhỏ, vậy làm sao để kiểm toán viên vừa có thể

kiểm toán được các tài liệu nhưng cũng đảm bảo được thời hạn kiểm toán đã đặt ra.

Cũng vì lý do đó mà các kiểm toán viên đã phải áp dụng phương pháp chọn mẫu

trong quá trình thu thập bằng chứng kiểm toán. Phương pháp này sẽ giúp các kiểm

toán viên tiết kiệm thời gian nhưng vẫn đàm bảo thu thập được những bằng chứng

kiểm toán cần thiết.

Nhằm mục đích hiểu rõ hơn về các phương pháp chọn mẫu trong kiểm toán

mà cụ thể hơn là trong thử nghiệm kiểm soát, em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài:

"Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toán".

Đề tài của em được chia ra làm 3 phần chính:

Phần 1: Cơ sở lý luận của lý thuyết điều tra chọn mẫu

Phần 2: Ứng dụng kỹ thuật chọn mẫu trong kiểm toán

Phần 3: Những hạn chế còn tồn tại và những kiến nghị nhằm khắc phục

những ảnh hưởng tiêu cực của chọn mẫu đối với kiểm toán

Page 3: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LÝ THUYẾT

ĐIỀU TRA CHỌN MẪU

Trong nghiên cứu kinh tế - xã hội, người ta thường phải dựa trên cơ sở của tài

liệu mẫu để nghiên cứu và đi đến kết luận. Tuy nhiên để kết quả có thể tin tưởng

được thì việc chọn mẫu phải được tiến hành một cách khoa học.

Không chỉ những người làm công tác nghiên cứu mà cả những người cần ra

quyết định trong kinh doanh, trong sản xuất cũng cần phải trang bị cho mình những

kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn mẫu để đánh giá tính tin cậy và tính giá trị của

mẫu thông tin trước khi đưa ra quyết định cần thiết.

1.1. Những khái niệm cơ bản về lý thuyết điều tra chọn mẫu

Điều tra chọn mẫu: là loại điều tra không toàn bộ, trong đó người ta chỉ

chọn ra một số đơn vị trong toàn bộ các đơn vị của hiện tượng nghiên cứu để điều

tra thực tế. Các đơn vị này được chọn theo những quy tắc nhất định để đảm bảo tính

đại biểu. Kết quả điều tra thường dùng để đánh giá cho toàn bộ đối tượng nghiên

cứu.

Quy luật số lớn đã chỉ ra rằng: Nếu nghiên cứu một số tương đối lớn hiện

tượng thì những biểu hiện ngẫu nhiên, những đặc thù của hiện tượng đơn nhất sẽ bù

trừ và triệt tiêu cho nhau, tính quy luật sẽ được biểu hiện rõ. Lý thuyết xác suất

cũng đã chứng minh rằng: Sự sai khác giữa số trung bình của một số lớn các đại

lượng ngẫu nhiên với kỳ vọng toán của nó là một đại lượng nhỏ tùy ý. Đó là câu trả

lời cho câu hỏi vì sao chỉ cần điều tra một số đơn vị mà kết quả lại có thể suy ra cho

toàn bộ tổng thể.

Tổng thể chung: là tập hợp tất cả các đơn vị thuộc đối tượng nghiên cứu.

Tổng thể mẫu: là bộ phận của tổng thể chung gồm những đơn vị được

chọn ra theo một số thủ tục nào đó để thu thập thông tin trong cuộc điều tra mẫu.

Các đơn vị được chọn ra trong quá trình lấy mẫu được gọi là các đơn vị mẫu. Số

lượng các đơn vị được chọn ra trong mẫu được gọi là quy mô mẫu.

Page 4: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

Dàn mẫu: Để sử dụng phương pháp điều tra mẫu trong thu thập số liệu

thống kê, cần phải có một bảng liệt kê tất cả các đơn vị của tổng thể điều tra, bảng

liệt kê này gọi là dàn mẫu.

1.2. Đặc điểm của điều tra chọn mẫu

So với điều tra tổng thể, điểu tra chọn mẫu có những ưu điểm vượt trội mà ta

có thể liệt kê dưới đây:

Tính kịp thời cao

Điều tra chọn mẫu thường nhanh hơn rất nhiều so với điều tra toàn bộ bởi điều

tra ít đơn vị hơn nên công việc chuẩn bị sẽ gọn hơn, số lượng tài liệu ghi chép sẽ

giảm đi, do đó thời gian điều tra, thời gian tổng hợp, phân tích sẽ được rút ngắn.

Điều này làm cho điều tra chọn mẫu có tính kịp thời cao, đáp ứng được yêu cầu sử

dụng thông tin, kết quả nghiên cứu đó của những người ra quyết định.

Tiết kiệm chi phí

Do số đơn vị điều tra ít hơn nên số nhân viên cần sử dụng để thu thập, tổng

hợp, phân tích... sẽ ít đi, đồng thời những chi phí kèm theo cũng sẽ giảm. Vì vậy,

điều tra chọn mẫu tiết kiệm khá nhiều sức người, vật tư và tiên của.

Thông tin sâu hơn

Do số đơn vị được điều tra ít hơn so với điều tra tổng thể nên ta có thể thu thập

được nhiều nội dung thông tin phức tạp, mở rộng nội dung điều tra, đi sâu vào để

nghiên cứu nhiều mặt cụ thể của hiện tượng cần nghiên cứu để từ đó có thể đưa ra

những kết luận xác đáng và sâu sắc hơn.

Độ chính xác cao

Khi quy mô điều tra quá lớn mà trình độ tổ chức nghiên cứu còn hạn chế thì

tổng điều tra sẽ dẫn đến nhiều sai sót trong quá trình thu thập thông tin ban đầu, hạn

chế độ chính xác của kết quả phân tích. Trong trường hợp điều tra mẫu, khối lượng

công việc giảm đáng kể, cho phép sử dụng những người thu thập và xử lý thông tin

có trình độ, thời gian dành cho một đơn vị điều tra nhiều hơn,việc điều tra số liệu

cũng được tiến hành tỷ mỷ, chi tiết hơn, tập trung hơn, giảm những sai số do ghi

chép, tạo điều kiện cho người cung cấp thông tin trả lời chính xác hơn nên chất

lượng thu thập số liệu sẽ được nâng cao từ đó đảm bảo tính chính xác khi phân tích

kết quả. Hơn thế nữa, vì số nhân viên điều tra cần ít nên có thể chọn được những

Page 5: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

người có kinh nghiệm, có trình độ nghiệp vụ cao, như thế thì tài liệu thu được trong

điều tra chọn mẫu sẽ có độ chính xác cao.

Không đòi hỏi một tổ chức lớn

Điều tra chọn mẫu không đòi hỏi sự thực hiện của một tổ chức lớn như là điều

tra toàn bộ, một cơ quan nhỏ cũng có thể tiến hành điều tra chọn mẫu theo nhu cầu

của mình.

Chính vì những ưu điểm trên mà điều tra chọn mẫu được sử dụng rất nhiều

trong thực tế với những mục đích khác nhau:

Điều tra chọn mẫu dùng để thay thế điều tra toàn bộ tùy thuộc vào từng

đối tượng nghiên cứu. Khi đối tượng nghiên cứu cho phép có thể điều tra toàn bộ

hoặc điều tra chọn mẫu thì các nhà nghiên cứu thường tiến hành điều tra chọn mẫu

để thu được kết quả nhanh, kịp thời và điều quan trọng là tiết kiệm được chi phí và

nguồn nhân lực. Tuy nhiên đối với những hiện tượng phức tạp, những hiện tượng

khi điều tra có liên quan đến việc phá hủy sản phẩm thì không thể sử dụng điều tra

toàn bộ được mà phải dùng đến điều tra chọn mẫu.

Điều tra chọn mẫu có thể kết hợp với điều tra toàn bộ để mở rộng nội

dung điều tra và đánh giá kết quả điều tra tòan bộ (thường áp dụng trong tổng điều

tra dân số).

Điều tra chọn mẫu thường được dùng để tổng hợp nhanh tài liệu điều

tra tòan bộ.

Khi muốn so sánh các hiện tượng với nhau mà chưa có được những

thông tin cụ thể hoặc chỉ muốn kiểm định lại giả thuyết đã đặt ra người ta cũng sử

dụng điều tra chọn mẫu để thu thập tài liệu.

1.3. Các loại sai số trong điều tra chọn mẫu

Trong điều tra thống kê thường xảy ra hai loại sai số:

Sai số chọn mẫu: chỉ xảy ra trong điều tra chọn mẫu do chỉ dùng số liệu

điều tra của một bộ phận các đơn vị trong tổng thể để suy rộng cho tổng thể. Sai số

này phụ thuộc vào cỡ mẫu, độ đồng đều của tổng thể và phương pháp chọn mẫu.

Sai số phi chọn mẫu: xuất hiện cả trong điều tra chọn mẫu và điều tra toàn

bộ. Sai số phi chọn mẫu cũng phụ thuộc vào cỡ mẫu, khi cỡ mẫu tăng lên thì sai số

phi chọn mẫu cũng tăng. Sai số này xuất hiện do những nguyên nhân sau:

Page 6: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

Số liệu thu thập được không đầy đủ hay không phù hợp với mục tiêu

điều tra.

Bỏ qua một số đơn vị hay do xác định không chính xác số đơn vị mẫu

hay phương pháp đếm, đo lường sai

Thiếu các chuyên gia có kinh nghiệm

Thiếu sự kiểm tra đối với quá trình thu thập số liệu ban đầu

Sai số trong quá trình xử lý như mã hoá, phân loại

Sai số trong quá trình in ấn các kết quả hay tổng hợp số liệu

1.4. Các phương pháp tổ chức chọn mẫu thường dùng

1.4.1. Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản

Đây là phương pháp tổ chức chọn mẫu từ tổng thể chung một cách hết sức

ngẫu nhiên không qua một sự sắp xếp nào. Các nhà nghiên cứu phải lần lượt chọn

ra từng đơn vị bằng cách rút thăm, quay số hoặc theo bảng số ngẫu nhiên. Mỗi đơn

vị tổng thể chung có thể được chọn một lần (chọn không hoàn lại) hoặc chọn nhiều

lần (chọn hoàn lại).

Phương pháp chọn ngẫu nhiên đơn giản có thể cho kết quả tốt nếu giữa các

đơn vị của tổng thể chung không có gì khác biệt nhau nhiều, tức là tổng thể chung

khá đồng nhất. Nếu tổng thể chung có kết cấu phức tạp thì sử dụng phương pháp

này sẽ khó đảm bảo tính đại biểu, tức là những mẫu chọn ra sẽ không mang tính đặc

trưng cho tổng thể, như vậy thì kết quả nghiên cứu sẽ không phản ánh đúng bản

chất của tổng thể chung. Mặt khác, đối với các tổng thể lớn có hàng ngàn đơn vị thì

việc lập số rút thăm và đặt số hiệu cho từng đơn vị cũng gặp khó khăn.

1.4.2. Chọn mẫu máy móc (chọn hệ thống)

Trong phương pháp chọn mẫu máy móc thì các đơn vị mẫu được chọn ra từ

tổng thể chung theo khoảng cách thời gian, không gian hoặc theo thứ hạng bằng

nhau.

Chọn mẫu máy móc khác với chọn mẫu ngẫu nhiên ở chỗ: mỗi đơn vị đều có

khả năng được chọn như nhau nhưng mỗi mẫu lại không có cơ hội được chọn như

nhau.

Chọn mẫu máy móc có ưu điểm là thủ tục tiến hành đơn giản nên rút ngắn

được thời gian và giảm bớt được chi phí. Hơn thế nữa, do số đơn vị mẫu được phân

Page 7: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

phối rải đều trong tổng thể chung nên tính đại biểu của mẫu cao, kết quả nghiên cứu

sẽ thể hiện được bản chất của tổng thể chung. Tuy nhiên phương pháp này cũng có

nhược điểm là có khả năng xuất hiện sai số hệ thống.

1.4.3. Chọn mẫu phân loại (phân tổ)

Để thực hiện chọn mẫu phân loại, trước hết cần phải phân chia tổng thể nghiên

cứu thành các tổ (các nhóm) có độ thuần nhất cao, sau đó chọn các đơn vị đại diện

cho từng tổ theo cách chọn ngẫu nhiên đơn giản hoặc máy móc. Số đơn vị được

chọn từ mỗi tổ có thể tương ứng với tỷ trọng của tổ đó trong tổng thể chung, gọi là

chọn phân loại theo tỷ lệ hoặc có thể không tương ứng với tỷ trọng đó.

Phương pháp chọn mẫu phân loại thường được dùng để điều tra các hiện tượng

kinh tế xã hội phức tạp bao gồm nhiều loại hình khác nhau. Đối với những hiện

tượng phức tạp này, các đặc điểm, bản chất của tổng thể được thể hiện ở những mức

độ, khía cạnh khác nhau, do đó nếu sử dụng những phương pháp chọn mẫu khác

(như chọn mẫu ngẫu nhiên, chọn mẫu hệ thống...) thì những đơn vị mẫu được chọn

có thể sẽ không mang tính đặc trưng cho tổng thể, khi đó kết quả nghiên cứu trên

mẫu khi được suy rộng ra cho toàn bộ tổng thể sẽ không thể hiện được những đặc

trưng, những đặc điểm của tổng thể, dẫn đến sự sai lệch giữa thực tế và kết quả

nghiên cứu. Tuy nhiên đối với phương pháp chọn mẫu phân loại thì khi phân tổ ta

đã phân chia riêng rẽ được các loại hình khác nhau đó, vì vậy trong từng tổ các đơn

vị tương đối thuần nhất. Nếu chọn mẫu phân loại theo tỷ lệ thì ta lại có được mẫu có

kết cấu gần giống với kết cấu của tổng thể chung nên tính đại biểu là cao hơn. Muốn

cho tính đại biểu của mẫu cao hơn nữa, người ta còn có thể rút mẫu tối ưu tức là số

đơn vị mẫu chọn ra ở mỗi tổ không những tỷ lệ với tỷ trọng của tổ đó chiếm trong

tổng thế mà còn tương ứng với độ biến thiên tiêu thức ở mỗi tổ.

1.4.4. Chọn mẫu cả khối (mẫu chùm)

Chọn mẫu cả khối là phương pháp tổ chức chọn mẫu trong đó số đơn vị mẫu

được rút ra để điều tra không phải là từng đơn vị lẻ tẻ mà là từng khối (chùm) đơn

vị. Như vậy, trước hết tổng thể chung phải được chia thành các khối , sau đó chọn

ngẫu nhiên một số khối để điều tra.

Page 8: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

Phương pháp này có ưu điểm là tổ chức gọn nhẹ, giảm được chi phí. Tuy nhiên

vì số đơn vị được chọn chỉ tập trung vào một số khối nên có thể dẫn đến sai số lớn

nếu giữa các khối không có sự khác biệt nhiều.

Do đó, muốn phát huy những ưu điểm của phương pháp này thì ta nên sử dụng

nó trong trường hợp giữa các khối có sự tương đồng về bản chất nhưng giữa các

đơn vị của mỗi khối lại có sự khác biệt khá rõ ràng.

1.4.5. Chọn mẫu nhiều cấp

Trong trường hợp các đơn vị của tổng thể phân tán quá rộng và ta không thu

thập được đầy đủ thông tin về chúng thì các nhà nghiên cứu thường sử dụng phương

pháp chọn mẫu nhiều cấp. Khi chọn mẫu nhiều cấp, ta có các loại đơn vị chọn mẫu

ở mỗi cấp khác nhau thường được gọi là đơn vị chọn mẫu cấp 1, cấp 2... Để chọn

mẫu ở mỗi cấp, ta chỉ cần thu thập những thông tin về các đơn vị ở cấp đó là đủ.

Việc chọn mẫu ở mỗi cấp có thể tiến hành theo phương pháp chọn mẫu ngẫu

nhiên đơn giản, máy móc hay phân loại...

Page 9: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

CHƯƠNG 2

ỨNG DỤNG KỸ THUẬT

CHỌN MẪU TRONG KIỂM TOÁN

2.1. Những vấn đề cơ bản về chọn mẫu kiểm toán

2.1.1. Vị trí của chọn mẫu kiểm toán trong kiểm toán

Kiểm toán tài chính nói riêng hay kiểm toán nói chung chính là quá trình các

kiểm toán viên thực hiện các công việc khác nhau để tìm kiếm bằng chứng kiểm

toán giúp cho họ đưa ra các ý kiến về đối tượng được kiểm toán. Trong kiểm toán

tài chính, kiểm toán viên phải thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp phục vụ cho

kết luận về tính trung thực và khách quan của những thông tin có trong báo cáo tài

chính của doanh nghiệp. Như vậy, nhiệm vụ của các kiểm toán viên là phải làm thế

nào để thu thập được đầy đủ các bằng chứng kiểm toán một cách hiệu quả nhất. Tuy

nhiên, chúng ta cũng biết rằng mỗi cuộc kiểm toán đều bị giới hạn về thời gian, chi

phí..., do đó mà việc thu thập bằng chứng kiểm toán của các kiểm toán viên cũng bị

ảnh hưởng. Số lượng tài liệu cần kiểm tra của các doanh nghiệp là rất lớn, nếu ta

tiến hành kiểm tra tòan bộ chúng thì chi phí cho việc kiểm tra này sẽ rất lớn, thời

gian của cuộc kiểm toán sẽ kéo dài. Hơn thế nữa, ngay cả khi các kiểm toán viên

kiểm tra toàn bộ các tài liệu cần kiểm tra ở doanh nghiệp thì họ cũng không thể

khẳng định chắc chắn rằng đã phát hiện ra tất cả các sai phạm đã xảy ra và nằm trên

các tài liệu đó. Vì vậy, các kiểm toán viên sẽ phải thực hiện chọn một mẫu mang

tính đại diện cho tổng thể toàn bộ các tài liệu đã được phân loại nhằm giảm thiểu rủi

ro trong quá trình suy rộng kết quả kiểm tra từ mẫu đã lựa chọn cho tổng thể.

Có thể nói, trong mọi cuộc kiểm toán, kỹ thuật chọn mẫu đều sử dụng như là

một trong những kỹ thuật cơ bản nhất. Khi đánh giá tính hiệu quả của các thủ tục

kiểm soát, vấn đề đối với cuộc kiểm toán là phải thu thập đủ bằng chứng tin cậy về

khả năng ngăn chặn và phát hiện những sai phạm trong bất cứ nghiệp vụ phát sinh

nào của hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. Khi đó, tập hợp những nghiệp

vụ phát sinh sẽ hình thành tổng thể được kiểm tra và các kiểm toán viên sẽ phải lựa

chọn ra những đơn vị mẫu mang tính đặc trưng của cả tổng thể đó để thu thập bằng

chứng nhằm giúp cho họ không đưa ra những kết luận sai về tổng thể.

Page 10: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

Vì vậy, xét trên nhiều khía cạnh thì áp dụng kỹ thuật chọn mẫu tỏ ra khá hiệu

quả vì với số lượng thích hợp, với tính đại diện cao của mẫu chọn, kiểm toán viên

hoàn toàn có thể đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán với chi phí thấp hơn nhiều

so với kiểm tra toàn bộ. Do đó, kỹ thuật chọn mẫu kiểm toán có vai trò ngày càng

quan trọng và giành được nhiều sự quan tâm đặc biệt của kiểm toán hiện đại.

2.1.2. Những khái niệm cơ bản về chọn mẫu kiểm toán

Về kỹ thuật chọn mẫu kiểm toán, ta có khá nhiều định nghĩa khác nhau.

Nhưng trước hết ta phải kể đến khái niệm về chọn mẫu kiểm toán được nhắc đến

trong giáo trình "Lý thuyết Kiểm toán" của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, theo

đó thì "Chọn mẫu kiểm toán là quá trình chọn một nhóm các khoản mục hoặc đơn

vị (gọi là mẫu) từ một tập hợp các khoản mục hoặc đơn vị lớn (gọi là tổng thể) và

sử dụng các đặc trưng của mẫu để suy rộng cho đặc trưng của toàn bộ tổng thể."

Cũng theo chuẩn mực kiểm toán số 530 về "Lấy mẫu kiểm toán và các thủ tục

lựa chọn khác" thì chọn mẫu kiểm toán được định nghĩa như sau: " Lấy mẫu kiểm

toán (gọi tắt là lấy mẫu): Là áp dụng các thủ tục kiểm toán trên số phần tử ít hơn

100% tổng số phần từ của một số tài khoản hay một loại nghiệp vụ, sao cho mọi

phần tử đều có cơ hội để được chọn. Lấy mẫu sẽ giúp kiểm toán viên thu thập và

đánh giá bằng chứng kiểm toán về các đặc trưng của các phần tử được chọn, nhằm

hình thành hay củng cố kết luận về tổng thể. Lấy mẫu có thể tiến hành theo phương

pháp thống kê và phi thống kê."

Còn theo định nghĩa trong sách "Kiểm toán-Lý thuyết và Thực hành" của

Ths.Phan Trung Kiên thì: "Chọn mẫu kiểm toán chính là việc áp dụng các thủ tục

kiểm toán đối với dưới 100% các phần tử trong tổng thể (thuộc đối tượng kiểm

toán) nhằm dự đoán về những đặc trưng của toàn bộ tổng thể ấy. Nói cách khác,

chọn mẫu kiểm toán là việc thực hiện kiểm tra đối với một nhóm nhỏ các phần tử

sau đó suy rộng kết quả kiểm tra cho toàn bộ đối tượng được kiểm toán."

Và theo cách định nghĩa trong cuốn "Kiểm toán và các dịch vụ bảo đảm ở

Australia thì: "Chọn mẫu kiểm toán là áp dụng thủ tục kiểm toán trên nhỏ hơn 100

số đơn vị trong tổng thể để thu thập bằng chứng kiểm toán về các đặc trưng riêng

biệt của tổng thể. Bằng việc thực hiện các thử nghiệm trên các phần tử được chọn,

Page 11: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

kiểm toán viên có thể đưa ra kết luận về các số dư hay các nghiệp vụ cấu thành tổng

thể."

Tuy mỗi định nghĩa được phát biểu có phần khác nhau nhưng xét về bản chất

thì chúng đều nói lên rằng chọn mẫu kiểm toán là một kỹ thuật lấy ra một số các

đơn vị mẫu từ tổng thể để áp dụng các thủ tục kiểm toán nhằm dự đoán những đặc

trưng của toàn bộ tổng thể.

2.1.3. Những khái niệm có liên quan đến chọn mẫu kiểm toán

Để đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu và hiểu rõ hơn về chọn mẫu kiểm toán,

trước hết ta cần nắm được một số thuật ngữ sau:

Tổng thể: Là toàn bộ dữ liệu mà từ đó kiểm toán viên lấy mẫu để có thể đi

đến một kết luận.

Ví dụ: Tất cả các phần tử trong một số tài khoản hay một loại nghiệp vụ cấu

thành một tổng thể. Một tổng thể có thể được chia thành các nhóm hoặc các tổng

thể con và mỗi nhóm được kiểm tra riêng. Trong trường hợp này, thuật ngữ “tổng

thể” bao hàm cả thuật ngữ “nhóm”.

Đơn vị tổng thể: Là mỗi phần tử trong tổng thể đó.

Đơn vị mẫu: Là một phần tử được các kiểm toán viên chọn ra khi tiến hành

kỹ thuật chọn mẫu.

Mẫu: Là tất cả các đơn vị mẫu được chọn. Mẫu được chọn ra từ tổng thể,

áp dụng các thủ tục kiểm toán để đánh giá trên mẫu rồi suy rộng và kết luận cho

toàn bộ tổng thể là mẫu kiểm toán. Có 2 loại mẫu kiểm toán như sau:

Mẫu thống kê: Là mẫu chọn được do áp dụng các phương pháp toán

học đặc biệt là phương pháp thống kê để tính toán và định lượng các yếu tố rủi ro

cũng như phạm vi cần thiết để hạn chế rủi ro một cách hệ thống. Vì vậy, chọn mẫu

thống kê cho phép kiểm toán viên tính toán các khả năng rủi ro và xác định kích cỡ

mẫu phù hợp để hạn chế rủi ro ở mức cho phép.

Mẫu thống kê mang những đặc điểm cơ bản sau:

Các phần tử trong mẫu được lựa chọn một cách ngẫu nhiên.

Mẫu thống kê là kết quả của việc sử dụng lý thuyết xác suất thống

kê bao gồm cả đánh giá kết quả mẫu và định hướng lượng rủi ro.

Page 12: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

Với những đặc điểm trên mà mẫu thống kê được sử dụng trong

trường hợp số lượng đơn vị trong tổng thể lớn và thường được hỗ trợ bởi các phần

mềm chọn mẫu có chứa các phép toán thống kê.

Mẫu phi thống kê: Là kết quả của quá trình chọn mẫu trong đó hoàn

toàn không sử dụng phương pháp toán học mà áp dụng xét đoán của kiểm toán viên.

Do đó, các kiểm toán viên không thể định lượng được rủi ro của việc chọn mẫu mà

việc đánh giá kết quả hoàn toàn dựa trên phán đoán của kiểm toán viên.

2.1.4. Mẫu đại diện, rủi ro chọn mẫu và rủi ro không do chọn mẫu:

Mẫu đại diện: Là mẫu mang những đặc trưng của tổng thể mà mẫu được

chọn ra.

Bất cứ khi nào kiểm toán viên chọn một mẫu từ tổng thể, mục tiêu cũng là để

có một mẫu đại diện. Nhưng có một vấn đề đặt ra là trên thực tế các kiểm toán viên

lại không thể biết mẫu có tính đại diện hay không, dù sau đó tất cả quá trình khảo

sát được hoàn tất. Tuy vậy, kiểm toán viên có thể tăng khả năng đại diện của mẫu

bằng cách thận trọng khi thiết kế, lựa chọn và đánh giá nó.

Hai vấn đề có thể khiến cho một mẫu không có tính đại diện là do sai số không

chọn mẫu và sai số chọn mẫu. Rủi ro của sự phát sinh này được gọi là rủi ro không

chọn mẫu và rủi ro chọn mẫu và cả hai đều có thể kiểm soát được.

Rủi ro chọn mẫu

Bất cứ khi nào chọn mẫu, rủi ro chọn mẫu cũng phát sinh. Rủi ro chọn mẫu là

khả năng mà kết luận của kiểm toán viên dựa trên mẫu sai lệch so với kết luận mà

kiểm toán viên cũng dùng thử nghiệm tương tự áp dụng đối với toàn bộ tổng thể.

Hay nói cách khác thì rủi ro chọn mẫu là sự sai khác giữa kết quả mẫu chọn với kết

quả thực tế.

Ví dụ: Khi kiểm tra chọn mẫu các phiếu xuất kho để kiểm tra về thủ tục kiểm

soát, cụ thể là các phiếu xuất kho có được đi kèm với các lệnh xuất kho hay không?

Sau khi kiểm tra, kiểm toán viên xác nhận rằng có 10% số phiếu xuất kho không có

lệnh xuất kho đi kèm nhưng trên thực tế nếu kiểm tra toàn bộ thì có đến 15% số

phiếu xuất kho bị thiếu lệnh xuất. Như vậy. sai lệch giữa tỷ lệ thực tế (15%) với tỷ

lệ theo kiểm tra chọn mẫu (10%) chính là sai số chọn mẫu (5%).

Page 13: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

Rủi ro chọn mẫu sẽ được giảm đi nếu ta tăng kích cỡ của mẫu chọn. Ta cứ tăng

dần kích cỡ mẫu chọn để kiểm tra cho tới khi bằng toàn bộ tổng thể thì rủi ro chọn

mẫu khi đó sẽ bằng không. Nhưng nếu xét về khía cạnh kinh tế thì khi kích cỡ mẫu

tăng lên sẽ kéo theo chi phí cho cuộc kiểm toán cũng tăng lên. Do đó, muốn chọn

mẫu kiểm toán một cách hiệu quả thì các kiểm toán viên cần phải cân đối giữa rủi

ro chọn mẫu với chi phí do chọn mẫu có kích cỡ lớn.

Rủi ro không do chọn mẫu

Bên cạnh rủi ro chọn mẫu, các kiểm toán viên cũng có thể đưa ra những kết

luận sai lầm không phải do lỗi chọn mẫu mà do các yếu tố không liên quan trực tiếp

đến việc chọn mẫu. Rủi ro này được gọi là rủi ro không do chọn mẫu. Rủi ro không

do chọn mẫu xảy ra khi các khảo sát kiểm toán không phát hiện ra các ngoại lệ có

tồn tại trong mẫu; kiểm toán viên có thể sử dụng thủ tục kiểm toán không phù hợp

với mục tiêu kiểm toán hoặc sử dụng đúng thủ tục nhưng không phát hiện ra sai

phạm trong mẫu đã chọn do thiếu thận trọng.

Có 3 trường hợp chủ yếu dẫn đến rủi ro không do chọn mẫu:

Đánh giá rủi ro tiềm tàng không đúng

Kiểm toán viên có thể đã có những đánh giá sai lầm về rủi ro tiềm tàng trong

đối tượng kiểm toán. Có thể kiểm toán viên vì mệt mỏi, chán nản hoặc thiếu hiểu

biết về cái phải tìm nên đã cho rằng có ít sai phạm trọng yếu tồn tại trong đối tượng

kiểm toán hay không thể nhận biết được các ngoại lệ nên họ có xu hướng giảm quy

mô công việc cần thực hiện nên không phát hiện được cái sai.

Đánh giá không dúng về rủi ro kiểm toán

Kiểm toán viên có thể quá lạc quan tin tưởng vào hiệu quả hoạt động của hệ

thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp trong việc ngăn chặn, phát hiện và sửa

chữa kịp thời các sai phạm nên họ có thể đã giảm khối lượng công việc cần thiết

nên khó lòng phát hiện hết các sai phạm.

Lựa chọn các thủ tục kiểm toán không thích hợp và thực hiện công việc

kiểm toán không hợp lý

Tức là các kiểm toán viên có thể chọn các thử nghiệm kiểm toán không phù

hợp với mục tiêu kiểm toán hay đã chọn được các thủ tục thích hợp nhưng lại mắc

phải những sai sót khi triển khai những thủ tục đó. Ví dụ như một thủ tục kiểm toán

Page 14: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

hiệu quả của các điều ngoại lệ đang nghi vấn có thể phải kiểm tra một mẫu gồm các

chứng từ vận chuyển và xác định xem mỗi chứng từ có đính kèm vào một bản sao

hóa đơn vận tải hay không, thay vì kiểm tra một mẫu các bản sao hóa đơn bán hàng.

Tuy nhiên, rủi ro không do chọn mẫu này hoàn toàn có thể kiểm soát được và

các kiểm toán viên cũng có thể làm giảm rủi ro loại này tới mức có thể chấp nhận

được nếu thiết kế một cách thận trọng các thủ tục kiểm toán, giám sát đúng đắn và

có hướng dẫn trong việc chọn mẫu và tiến hành kiểm tra mẫu chọn.

2.2. Các phương pháp chọn mẫu trong kiểm toán

2.2.1. Chọn mẫu ngẫu nhiên

Chọn mẫu ngẫu nhiên chỉ là môt phương pháp chọn các phần tử vào mẫu với

nguyên tắc chọn mẫu là mỗi phân tử trong tổng thể đều có cơ hội như nhau được

chọn vào mẫu. Mẫu ngẫu nhiên là mẫu mà trong đó mọi sự kết hợp khả dĩ của các

phần tử trong tổng thể đều có cơ hội tạo thành mẫu như nhau. Cách duy nhất mà

kiểm toán viên có thể tin rằng có một mẫu ngẫu nhiên đã được thành lập là chấp

nhận một phương pháp luận mang tính hệ thống được thiết kế để thực hiện điều

này. Trong chọn mẫu ngẫu nhiên, 3 phương pháp được đề cập, đó là: Chọn mẫu

dựa vào bảng số ngẫu nhiên, Chọn mẫu theo chương trình máy vi tính và Chọn

mẫu hệ thống.

2.2.1.1. Chọn mẫu dựa vào Bảng số ngẫu nhiên

Bảng số ngẫu nhiên là một bảng liệt kê ngẫu nhiên các chữ số độc lập, được

sắp xếp một cách thuận lợi dưới dạng bảng biểu để làm dễ dàng cho việc chọn các

số ngẫu nhiên có nhiều chữ số. Công dụng đích thực của bảng số ngẫu nhiên là rất

quan trọng nhằm đảm bảo cho quá trình chọn lựa một mẫu vô tư.

Khi sử dụng bảng số ngẫu nhiên để chọn mẫu, có thể có những phần tử xuất

hiện nhiều hơn một lần. Nếu kiểm toán vien không chấp nhận lần xuất hiện thứ 2

trở đi thì cách chọn đó được gọi là chọn mẫu không lặp lại (chọn mẫu không thay

thế). Ngược lại, chọn mẫu lặp lại (hay chọn mẫu thay thế) là cách chọn mà một số

phần tử trong tổng thể có thể được chọn vào mẫu nhiều hơn một lần. Trong phần

lớn các trường hợp thì kiểm toán viên thường loại bỏ những phần tử trùng lặp, tức

là thường sử dụng chọn mẫu không thay thế bởi độ tin cậy của mẫu chọn trong chọn

Page 15: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

mẫu thay thế không cao do số lượng phàn tử mẫu thực tế khảo sát giảm đi nên chọn

mẫu thay thế ít được sử dụng hơn. Có 4 bước được dùng khi sử dụng bảng này:

Xây dựng một hệ thống đánh số cho tổng thể

Trước khi một tập hợp các số ngẫu nhiên có thể được chọn từ bảng, mỗi phần

tử trong tổng thể phải được nhận diện qua một con số riêng. Điều này thường không

phải là một vấn đề vì rất nhiều tổng thể mà kiểm toán viên muốn một mẫu ngẫu

nhiên gồm các chứng từ được đánh số trước. Khi tài liệu đánh số trước không được

sử dụng thì phải triển khai một số hệ thống đánh số. Rất hiếm trường hợp cần đánh

số lại toàn bộ tổng thể nhưng thường chỉ cần xây dựng một cách làm đơn giản là đã

thỏa mãn mục tiêu này.

Ví dụ: Quá trình chọn mẫu ngẫu nhiên gồm các khoản phải thu của quá trình

xác nhận từ một bảng cân đối thử gồm 45 trang và mỗi trang chỉ lấy 70 dòng. Mỗi

phần tử là một dòng trên bảng liệt kê với số dư còn hiệu lực. Sự kết hợp của số của

trang và các số dòng cung cấp một số nhận diện duy nhất cho từng phần tử trong

tổng thể đó.

Xây dựng quan hệ giữa bảng số ngẫu nhiên với tổng thể

Một khi hệ thống đánh số đã được xây dựng cho tổng thể, mối quan hệ được

thành lập bằng việc quyết định số các chữ số phải sử dụng trong bảng số ngẫu nhiên

và sự liên kết của chúng với hệ thống đánh số tổng thể.Có 3 trường hợp có thể xảy

ra:

Trường hợp 1: Các con số định lượng của đối tượng kiểm toán cũng gồm 5

chữ số như các con số ngẫu nhiên trong Bảng số ngẫu nhiên. Khi đó có quan hệ

tương quan 1-1 giữa định lượng đối tượng kiểm toán với các số ngẫu nhiên trong

bảng tự nó đã được xác lập.

Trường hợp 2: Các con số định lượng của đối tượng kiểm toán gồm số lượng

chữ số ít hơn 5 chữ số.

Ví dụ: Kiểm toán viên cần chọn ra một 150 hóa đơn trong tổng số 2000 hóa

đơn bán hàng được đánh số từ 0001 đến 2000, như vậy các số này chỉ gồm 4 chữ

số.

Trong trường hợp này, kiểm toán viên có thể xây dựng mối quan hệ với Bảng

ngẫu nhiên bằng cách lấy 4 chữ số đầu hoặc cuối của số ngẫu nhiên trong bảng. Nếu

Page 16: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

trường hợp số định lượng còn ít chữ số hơn nữa thì có thể lấy chữ số giữa trong số

ngẫu nhiên.

Trường hợp 3: Các số định lượng của đối tượng kiểm toán có số chữ số lớn

hơn 5 chữ số. Khi đó đòi hỏi kiểm toán viên phải xác định lấy cột nào trong Bảng

làm cột chủ và chọn thêm những hàng số ở các cột phụ của bảng.

Xây dựng một hướng sử dụng bảng

Đây là bước lập hành trình sử dụng Bảng tức là hướng đường đi của các chữ

số kiểm toán viên sẽ sử dụng trong một bảng. Hướng đi có thể là dọc (theo cột) hay

ngang (theo hàng), có thể là xuôi (từ trên xuống) hay ngược (từ dưới lên). Việc xác

định hướng sử dụng này thuộc quyền quyết định của kiểm toán viên nhưng phải

được xây dựng từ trước và phải được tuân theo một cách nhất quán trong toàn bộ

quá trình chọn mẫu. Đồng thời, lộ trình chọn mẫu này phải được ghi chép đầy đủ

trong hồ sơ kiểm toán để khi một kiểm toán viên khác có kiểm tra lại việc chọn mẫu

thì cũng sẽ chọn được mẫu tương tự.

Chọn điểm bắt đầu

Việc chọn ngẫu nhiên điểm bắt đầu trên bảng chỉ cần để loại trừ khả năng có

thể đoán trước mẫu. Nếu một nhân viên của công ty khách hàng có một bản sao

bảng số ngẫu nhiên được dùng để chọn các số ngẫu nhiên và biết điểm bắt đầu của

quá trình lựa chọn mẫu thì người nhân viên đó hoàn toàn có khả năng để xác định

được những phần tử mà kiểm toán viên sẽ khảo sát. Chọn một điểm bắt đầu chỉ

bằng cách dùng bút chì chấm đại một điểm lên bảng cũng được chấp nhận. Số mà

được đánh dấu chính là phần tử đầu tiên được đưa vào mẫu và là chỗ mà từ đó

hướng làm được bắt đầu.

2.2.1.2. Chọn mẫu ngẫu nhiên theo chương trình máy tính

Ngày nay hầu hết các công ty kiểm toán đều thuê mướn hoặc có sự giúp đỡ

của các thiết bị máy tính được lập trình sẵn các chương trình để chọn lựa các số

ngẫu nhiên. Ưu điểm của phương pháp này so với phương pháp chọn mẫu dựa trên

các bảng số ngẫu nhiên là ở chỗ nó tiết kiệm thời gian hơn, làm giảm khả năng sai

sót của kiểm toán viên khi lựa chọn các con số và tài liệu chứng minh tự động.

Khi sử dụng máy tính, mỗi phần tử của tổng thể cần phải có một số hiệu riêng

và mối quan hệ phải được xây dựng giữa các con số của tổng thể với các con số

Page 17: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

ngẫu nhiên được tạo thành từ máy. Không nhất thiết phải quan tâm đến các số loại

khi xây dựng mối quan hệ này vì máy tính có thể loại trừ các loại số loại.

Đối với một chương trình máy tính điển hình, các kiểm toán viên cần phải đưa

vào máy các con số lớn nhất và nhỏ nhất trong chuỗi tổng thể., số lượng các con số

ngẫu nhiên mong muốn và trong một số trường hợp cần đưa vào một con số ngẫu

nhiên để bắt đầu chương trình. Ngoài ra, kiểm toán viên cũng có quyền lựa chọn

hay lấy danh sách các con số ngẫu nhiên trong một lệnh lựa chọn,hay trong một

chuỗi các con số tăng dần hoặc cả hai. Khi đó đầu ra của chương trình chọn mẫu

qua máy tính là các bảng kê số ngẫu nhiên. Phương pháp này cũng rất hữu ích bởi

nó có thể loại bỏ các số không thích hợp, tự động loại bỏ những phần tử bị trùng lặp

và tự động phản ánh kết quả vào giấy tờ làm việc.

2.2.1.3. Chọn mẫu ngẫu nhiên theo hệ thống

Chọn mẫu hệ thống là cách chọn để sao cho chọn được các phần tử trong tổng

thể có khoảng cách đều nhau (khoảng cách mẫu). Trong quá trình chọn mẫu có hệ

thống, kiểm toán viên tính một khoảng cách rồi sau đó chọn lựa tuần tự các phần tử

của mẫu dựa trên độ lớn của khoảng cách đó. Khoảng cách này được xác định bằng

cách chia dung lượng của tổng thể đó cho số lượng phần tử mong muốn trong mẫu.

Đơn vị mẫu đầu tiên được chọn ngẫu nhiên nên mỗi đơn vị tổng thể ban đầu có cơ

hội được chọn ngang nhau. Tuy nhiên, sau khi đơn vị mẫu đầu tiên được chọn, mỗi

đơn vị về sau lại không có cơ hội ngang nhau để được chọn vào mẫu .

Ví dụ: Nếu một tổng thể gồm các hóa đơn bán hàng được đánh số từ 221 đến

1604 và dung lượng mẫu mong muốn là 211 thì khoảng cách sẽ là (1604-221)/211=

7. Khi đó kiểm toán viên phải chọn một số ngẫu nhiên giữa 0 và 6 để xác định điểm

bắt đầu của mẫu. Giả sử kiểm toán viên chọn số 6 thì phần tử đầu tiên của mẫu là

hóa đơn số 227 (=221+6), tiếp theo là hóa đơn số 233 (=227+6)...và cứ thế tiếp tục

cho đến phần tử cuối cùng.

Ưu điểm của việc chọn mẫu theo hệ thống là rất đơn giản, dễ làm và dễ sử

dụng. Trong hầu hết các tổng thể, mẫu được chọn một cách hệ thống có thể được

thực hiện nhanh chóng và cách làm này tự động chọn các con số theo một thứ tự

liên tục, do đó việc chứng minh bằng chứng từ được dễ dàng.

Page 18: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

Vấn đề chính đặt ra cho việc áp dụng quá trình chọn mẫu hệ thống là khả năng

xảy ra sự thiên vị. Ta có thể trong cách mà mẫu được chọn, một khi mà phần tử đầu

tiên của mẫu được chọn thì tất cả các phần tử khác sẽ được chọn theo một cách tự

động. Điều này sẽ hoàn toàn bình thường nếu những đặc điểm mà chúng ta quan

tâm được phân bố ngẫu nhiên trong toàn bộ tổng thể, tuy nhiên trong nhiều trường

hợp thì điều này là không xảy ra. Chẳng hạn, ta lấy một ví dụ cụ thể như sau: Giả sử

chúng ta đang muốn tìm hiều về tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nhưng ta lại

tiến hành khảo sát vào những thời điểm nhất định như một ngày nào đó trong tháng

với một số loại chứng từ nhất định thì mẫu mà ta đã chọn theo hệ thống đó có nhiều

khả năng không mang tính đại diện. Chính vì nhược điểm này mà có một số công ty

kiểm toán không áp dụng phương pháp chọn mẫu hệ thống, còn những công ty còn

lại thì yêu cầu một sự xem xét kỹ lưỡng cách tổng thể được liệt kê để đánh giá khả

năng sai sót có hệ thống. Và cũng chính vì nhược điểm này mà một số tác giả của

nhiều cuốn sách về kiểm toán đã cho rằng việc sử dụng cách chọn mẫu có hệ thống

là không hợp lý trừ phi hai phương pháp trên không thực hiện được.

Để hạn chế nhược điểm trên, các kiểm toán viên đã sắp xếp tổng thể theo một

thứ tự ngẫu nhiên để tăng tính đại diện cho mẫu và đồng thời cũng dùng nhiều điểm

xuất phát hơn. Kinh nghiệm của các kiểm toán viên đã chỉ ra rằng khi ứng dụng

phương pháp chọn mẫu hệ thống thì cần phải sử dụng ít nhất 5 điểm xuất phát. Khi

sử dụng nhiều điểm xuất phát thì khoảng cách mẫu phải được điều chỉnh bằng cách

lấy khoảng cách mẫu hiện tại nhân với số điểm xuất phát ngẫu nhiên cần thiết.

2.2.2. Chọn mẫu phi xác suất

Phương pháp chọn mẫu phi xác suất là phương pháp mà trong đó không sử

dụng lý thuyết xác suất thống kê để đánh giá kết quả mẫu hay đánh giá rủi ro lấy

mẫu.Với phương pháp này, các phần tử không có cơ hội như nhau để có mặt trong

mẫu và phương pháp này chỉ được áp dụng trong chọn mẫu phi thống kê và không

dùng được trong chọn mẫu thống kê. Kinh nghiệm thực tế của nhiều kiểm toán viên

cho thấy không phải trong bất kỳ trường hợp nào thì sai sót trọng yếu cũng phân tán

đều trong tổng thể mà có thể lại tập trung thành nhiều khối thì lúc đó việc áp dụng

chọn mẫu xác suất sẽ không phát huy được tác dụng. Vì vậy, bằng khả năng nghề

Page 19: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

nghiệp và óc xét đoán của mình trong những trường hợp cụ thể, kiểm toán viên sẽ

áp dụng chọn mẫu phi thống kê có thể mang lại hiệu quả hơn.

Ba kỹ thuật chọn mẫu không xác suất phổ biến là Phương pháp chọn mẫu

theo lô, Chọn mẫu bất kỳ và Chọn mẫu xét đoán.

2.2.2.1. Chọn mẫu theo lô

Chọn mẫu theo lô là việc chọn một tập hợp các đơn vị kế tiếp nhau trong một

tổng thể. Một khi phần tử đầu tiên của lô đã được chọn thì phần còn lại của lô sẽ tự

động được chọn.

Ví dụ: Chọn một chuỗi liên tiếp gồm 100 nghiệp vụ tiêu thụ từ sổ nhật ký của

tuần lễ thứ nhất của tháng 11.

Việc chọn mẫu theo lô đối với các cuộc khảo sát nghiệp vụ chỉ được chấp nhận

nếu số lượng lô là hợp lý. Nếu quá ít lô thì khả năng có một mẫu không có tính đại

diện rất lớn, có xét đến khả năng những của những việc như sự thay đồi của hệ

thống kế toán và bản chất thời vụ của rất nhiều ngành kinh doanh. Số lượng chính

xác không được định cụ thể theo nghề nghiệp nhưng con số hợp lý của hầu hết tình

huống có lẽ ít nhất là 9 lô lấy từ 9 tháng khác nhau. Đặc biệt là trong việc thực hiện

kiểm toán các nghiệp vụ, tài sản hay các khoản mục...thì việc chọn mẫu theo lô chỉ

được thực hiện khi kiểm toán viên đã nắm chắc tình hình của đơn vị được kiểm

toán. Phương pháp này phù hợp trong điều kiện tình hình doanh nghiệp trong năm

ổn định và không có biến động lớn.

2.2.2.2. Chọn mẫu bất kỳ

Khi kiểm toán viên nghiên cứu một tổng thể và chọn lựa các phần tử của mẫu

mà không xét đến quy mô, nguồn gốc hay các đặc điểm phân biệt khác của chúng

thì kiểm toán viên đang cố gắng chọn lựa một cách vô tư. Sự lựa chọn này được gọi

là chọn mẫu bất kỳ. Đây là phương pháp chọn mẫu hoàn toàn vô tư và tất cả các

phần tử không kể bản chất, quy mô, thời điểm đều có cơ hội được chọn.

Nhược điểm nghiêm trọng nhất của chọn mẫu bất kỳ là rất khó để hoàn toàn

vô tư khi chọn lựa các phần tử mẫu. Đối với các kiểm toán viên, sẽ có một số phần

tử nhất định trong một tổng thể có nhiều khả năng hơn để được chọn vào mẫu so

với các phần tử khác, chẳng hạn như: đối với một số kiểm toán viên, doanh thu của

một số khách hàng nhất định nào đó và các bút toán trên đầu trang ở sổ nhật ký bán

Page 20: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

hàng có nhiều khả năng để được chọn vào mẫu hơn là doanh thu của các khách

hàng không quen thuộc và các bút toán được ghi chép ở giữa trang...và cũng với

một số kiểm toán khác thì họ lại chú ý hơn đến các bút toán ở giữa trang hay những

bút toán có số tiền lớn. Bởi vậy, để tiến hành được phương pháp này thì các kiểm

toán viên phải hoàn toàn khách quan và không để cho thói quen của mình làm ảnh

hưởng đến sự khách quan đó.

2.2.2.3. Chọn mẫu xét đoán

Trong nhiều trường hợp, đặc biệt khi có kích cỡ mẫu nhỏ hay có các yếu tố bất

thường thì rất nhiều kiểm toán viên tin rằng nên sử dụng óc phán xét nghề nghiệp

khi chọn lựa các phần tử của mẫu trong các cuộc khảo sát nghiệp vụ. Để cải thiện

khả năng tính đại diện của phương pháp chọn mẫu xét đoán cảu cuộc khảo sát

nghiệp vụ, kiểm toán viên phải luôn ghi nhớ những điều sau đây:

Khi chọn phần tử để kiểm tra thì mỗi loại nghiệp vụ chủ yếu trong chu kỳ

phải được chọn.

Khi có nhiều người khác nhau có trách nhiệm xử lý các nghiệp vụ trong kỳ

kế toán thì phải khảo sát nghiệp vụ người thực hiện bởi nếu có một sự thay đổi về

nhân sự trong năm hay các nghiệp vụ ở các vị trí khác nhau lại được quản lý khác

nhau thì khả năng mẫu không có tính đại diện là rất cao.

Khi kiểm toán viên khảo sát các sai số trong số tiền thì các phần tử của

tổng thể có số dư lớn sẽ được khảo sát kỹ hơn những phần tử có số dư nhỏ. Trong

các cuộc khảo sát kiểm soát, kiểm toán viên quan tâm đến tính đầy đủ của các quá

trình kiểm soát nhưng đối với những cuộc khảo sát chính thức thì trọng tâm lại là

khảo sát các số dư bằng tiền lớn hơn vì chúng thường có khả năng chứa chấp sai số

trọng yếu nhiều hơn.

2.2.3. Kỹ thuật phân tầng (phân tổ) trong chọn mẫu kiểm toán

Trong một tổng thể lớn luôn bao gồm rất nhiều các phần tử có sự khác biệt về

đặc điểm này và đặc điểm khác. Tổng thể càng lớn, số lượng phần tử càng nhiều thì

sự khác biệt giữa các phần tử càng lớn. Do đó, kiểm toán viên phải sử dụng kỹ thuật

phân tầng để giảm bớt sự khác biệt nhằm giúp cho quá trình chọn mẫu được chính

xác hơn, tức là kiểm toán viên sẽ phân tổng thể thành các tầng trước khi xác định

quy mô mẫu cũng như thực hiện chọn mẫu.

Page 21: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

Phân tầng (phân tổ) là kỹ thuật phân chia một tổng thể thành nhiều nhóm nhỏ

hơn (gọi là tầng hay tổ) mà các đơn vị trong cùng một nhóm có những đặc tính khá

tương đồng nhau. Vì vậy, các tổng thể con có tính ổn định và đồng nhất hơn so với

tổng thể lớn và khi áp dụng chọn mẫu kiểm toán có thể áp dụng trên các tổng thể

con đó để giảm bớt kích cỡ mẫu đồng thời giảm rủi ro chọn mẫu xuống mức có thể

chấp nhận được.

Kỹ thuật phân tầng sẽ giúp nâng cao tính đại diện cho mẫu được chọn , làm

giảm sự khác biệt trong cùng một tầng (tổ) và giúp kiểm toán viên tập trung vào

những bộ phận chứa đựng nhiều khả năng sai phạm làm tăng hiệu quả chọn mẫu vì

giảm được quy mô mẫu chọn.

2.2.4. Chọn mẫu thuộc tính

Chọn mẫu thuộc tính là một phương pháp chọn mẫu thống kê được dùng để

ước tính tỷ lệ của các phần tử trong một tổng thể có chứa một đặc điểm hoặc một

thuộc tính được quan tâm. Tỷ lệ này được gọi là tần số xuất hiện và là tỷ số của các

phần tử có chứa thuộc tính đặc thù so với tổng số phần tử trong tổng thể. Tần số

xuất hiện thường được biểu diễn bằng số tỷ lệ. Kiểm toán viên thường quan tâm đến

sự xuất hiện của các ngoại lệ các tổng thể và xem tần số xuất hiện là tần số lệch lạc

hay tần số sai số. Một ngoại lệ trong việc chọn mẫu thuộc tính có thể là cuộc khảo

sát sự lệch lạc của quá trình kiểm soát hay sai số về tiền tệ, tùy thuộc vào đó là một

cuộc khảo sát kiểm soát hay một cuộc khảo sát chính thức nghiệp vụ.

Chọn mẫu thuộc tính được sử dụng rộng rãi đối với thử nghiệm kiểm soát khi

mà kiểm toán viên muốn ước lượng tỷ lệ sai lệch của các hoạt động kiểm soát so

với thiết kế nhằm xác định mức đánh giá thích hợp của rủi ro kiểm soát. Thử

nghiệm kiểm soát được thiết kế và thực hiện nhằm giúp kiểm toán viên bảo đảm

rằng tỷ lệ sai lệch không vượt quá mức độ cho phép. Do vậy kiểm toán viên chỉ

quan tam tới tỷ lệ sai lệch trên đối với ước đoán từ mẫu. Trong thử nghiệm kiểm

soát, tỷ lệ sai lệch trên được gọi là tỷ lệ sai lệch cho phép. Ngoài ra, chọn mẫu thuộc

tính cũng được các kiểm toán viên sử dụng cho các khảo sát chính thức nghiệp vụ,

nhất là khi các cuộc khảo sát kiểm soát và khảo sát chính thức nghiệp vụ được thực

hiện đồng thời.

Page 22: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

Trong thực hiện chọn mẫu thuộc tính cho kiểm tra hệ thống kiểm soát nội bộ,

kiểm toán viên thường thực hiện theo trình tự 10 bước công việc sau đây:

Xác định mục tiêu của thử nghiệm

Mục tiêu của thử nghiệm kiểm soát là nhằm thu thập các bằng chứng về sự

thiết kế và hoạt động hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ. Chẳng hạn, trong

cuộc khảo sát chu kỳ bán hàng và thu tiền thì mục tiêu chung thường là khảo sát

tính hiệu quả của các quá trình kiểm soát nội bộ của doanh số hoặc các khoản thu

tiền mặt. Kiểm toán viên thực hiện các thử nghiệm kiểm soát để khẳng định mức rủi

ro kiểm soát đã được họ đánh giá trong khâu lập kế hoạch. Vì vậy, mục tiêu của lấy

mẫu thuộc tính khi áp dụng cho kiểm tra hệ thống kiểm soát là để đánh giá tính hiệu

quả của hệ thống kiểm soát nội bộ được quy định, đây là cơ sở mà kiểm toán viên

có thể dựa vào để giảm rủi ro kiểm soát xuống dưới mức tối đa nên kiểm toán viên

vẫn luôn cố gắng đánh giá tỷ lệ sai lệch tồn tại cho mỗi hoạt động kiểm soát được

lựa chọn cho kiểm tra. Như vây, việc chọn mẫu thuộc tính để kiểm tra sẽ cung cấp

cho kiểm toán viên những bằng chứng rằng một hoạt động kiểm soát cụ thể đang

hoạt động hữu hiệu và thích đáng nhằm khẳng định mức rủi ro kiểm soát đã được

đánh giá sơ bộ trong khâu lập kế hoạch. Lẫy mẫu kiểm tóan cho kiểm tra hệ thống

kiểm soát thường được sử dụng trong những trường hợp hoạt động kiểm soát không

có các bằng chứng tài liệu.

Xác định các thuộc tính và điều kiện sai lệch

Đối với việc kiểm tra hệ thống kiểm soát, một sự sai lệch xảy ra xuất phát từ

quá trình thực hiện hoạt động kiểm soát nội bộ đã được quy định trước. Điều này rất

quan trọng đối với kiểm toán viên để xác định cái gì sẽ được xem xét là sai lệch.

Khi đó, kiểm toán viên phải định nghĩa một cách tỉ mỉ các đặc điểm (hay các thuộc

tính) đang được khảo sát và các tình trạng lệch lạc bất cứ khi nào quá trình chọn

mẫu thuộc tính được sử dụng. Trừ phi có một bảng kê chính xác về điều cấu thành

thuộc tính đã lập từ trước, đội ngũ nhân viên thực thi thể thức kiểm toán sẽ không

có một hướng dẫn nào để nhận diện các lệch lạc.

Ví dụ: Những thuộc tính và những lệch lạc tương ứng trên thực tế

Thuộc tính Tình trạng lệch lạc

1. Bản sao hóa đơn bán hàng được Không có những chữ ký tắt chỉ rõ

Page 23: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

phê chuẩn việc bán chịu sự phê chuẩn việc bán chịu

2. Một bản sao của chứng từ vận

chuyển được đính kèm với bản sao hóa

đơn bán hàng

Chứng từ vận chuyển không được

đính kèm với bản sao hóa đơn bán hàng

3. Số hiệu của tài khoản được tính

tiền được ghi trên bản sao của hóa đơn

bán hàng

Số hiệu của tài khoản không được

ghi vào bản sao hóa đơn bán hàng

4. Một bản sao hóa đơn bán hàng

có thật cho từng chứng từ vận chuyển

Bản sao hóa đơn bán hàng không

có thật cho từng chứng từ vận chuyển

5. Số lượng trên hóa đơn bán hàng

giống như số lượng trên chứng từ vận

chuyển

Số lượng trên chứng từ vận chuyển

và bản sao hóa đơn bán hàng khác nhau.

Xác định tổng thể

Tổng thể là tập hợp các dữ kiện mà kiểm toán viên muốn khái quát chúng. Các

khoản mục cấu thành số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ tạo nên tổng thể. Vì

từ kết quả chọn mẫu ta có thể suy rộng ra cả tổng thể nên kiểm toán viên cần xác

định rõ tổng thể mà từ tổng thể này thì mẫu được chọn ra là phù hợp với mục tiêu

kiểm toán cụ thể.

Ví dụ: Kiểm toán viên cần kiểm tra tính hiệu lực của hoạt động kiểm soát

được thiết kế khẳng định rằng tất cả các hóa đơn mua hàng đã được ghi chép đầy đủ

trong sổ sách. Để phục vụ cho mục tiêu này, kiểm toán viên sẽ không chọn một mẫu

từ nhật ký mua hàng vì tổng thể không bao gồm những hóa đơn mua hàng chưa

được ghi sổ mà họ sẽ chọn một tổng thể phù hợp hơn như tập hồ sơ lưu các hóa đơn

mua hàng.

Xác định đơn vị mẫu

Những cá thể trong tổng thể gọi là đơn vị mẫu. Một đơn vị mẫu có thể là một

văn bản, một nghiệp vụ hay thậm chí là có thể là một khoản mục trên một dòng.

Mỗi đơn vị mẫu tạo nên một phần tử của tổng thể ấy. Đơn vị mẫu này thường được

xác định trong quan hệ với hoạt động kiểm soát đang được kiểm tra. Quá trình xem

xét chính khi xác định đơn vị chọn mẫu là làm cho nó phù hợp với các mục tiêu của

Page 24: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

các cuộc khảo sát kiểm toán. Như vậy, việc xác định tổng thể và các thể thức kiểm

toán kế hoạch thường quyết định đơn vị chọn mẫu thích hợp.

Ví dụ: Nếu kiểm toán viên muốn xác định mức độ thường xuyên mà doanh

nghiệp không đáp ứng đơn đặt hàng của khách thì đơn vị chọn mẫu phải được khái

niệm là đơn đặt hàng của khách hàng. Nhưng nếu mục tiêu là nhằm xác định liệu có

khối lượng hàng hóa được mô tả trên đơn đặt hàng của khách có đúng được đem

giao và tính tiền hay không thì đơn vị chọn mẫu có thể là đơn đặt hàng của khách,

chứng từ vận chuyển hoặc bản sao hóa đơn bán hàng.

Xác định kích cỡ mẫu

Trong khi kiểm toán viên sử dụng phương pháp lấy mẫu thống kê, kiểm toán

viên phải xem xét đến 4 nhân tố ảnh hưởng để xác định kích cỡ mẫu phù hợp sau

đây:

Rủi ro chấp nhận trong đánh giá rủi ro kiểm soát là quá thấp

Đây là khả năng mà tỷ lệ sai lệch thực tế lớn hơn so với tỷ lệ sai lệch cho

phép. Các kiểm toán viên sẽ đánh giá mức rủi ro này dựa trên nhận định nghề

nghiệp, rủi ro này ảnh hưởng đến tính hiệu lực (hay hiệu năng) của cuộc kiểm toán.

Tỷ lệ sai lệch cho phép

Kiểm toán viên xác định tỷ lệ này dựa trên 2 yếu tố:

Mức rủi ro kiểm soát đã đánh giá theo kế hoạch: Khi yếu tố này càng

thấp thì tỷ lệ sai lệch cho phép càng thấp.

Mức độ tin cậy dựa vào kết quả đánh giá từ mẫu: Khi yếu tố này càng

cao thì tỷ lệ sai lệch cho phép càng thấp.

Tỷ lệ sai lệch tổng thể mong muốn

Đây cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới quy mô mẫu chọn trong chọn mẫu

thuộc tính. Tỷ lệ sai lệch có thể của tổng thể rất quan trọng vì nó đại diện cho tỉ lệ

sai lệch mà kiểm toán viên dự kiến sẽ tìm thấy trong mẫu mà họ đã chọn ra từ tổng

thể. Tỷ lệ này có thể được ước đoán bằng cách sử dụng kết quả mẫu từ năm trước

được lưu trong hồ sơ kiểm toán hoặc dựa vào kinh nghiệm của kiểm toán viên từ

các thử nghiệm tương tự được thực hiện ở các cuộc kiểm toán khác.

Ảnh hưởng của quy mô tổng thẻ

Page 25: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

Quy mô tổng thể thường có ảnh hưởng nhỏ hoặc không có ảnh hưởng đến kích

cỡ mẫu chọn. Nếu tổng thể chứa đựng hơn 5000 đơn vị thì ảnh hưởng của quy mô

tổng thể là không đáng kể. Lý thuyết thống kê đã chứng minh rằng trong hầu hết

các dạng tổng thể mà được ứng dụng cách chọn mẫu thuộc tính, quy mô của tổng

thể là một sự suy xét nhỏ trong quá trình quyết định dung lượng mẫu. Điều này

đúng vì tính đại diện được củng cố bởi quá trình chọn lựa ngẫu nhiên. Một khi đã

chọn được mẫu gồm các phần tử tốt thì không cần bổ sung thêm phần tử nào nữa.

Lựa chọn ngẫu nhiên các phần tử mẫu

Sau khi kiểm toán viên đã tính dung lượng mẫu ban đầu của quá trình chọn

mẫu thuộc tính, kiểm toán viên phải chọn các phần tử cá biệt trong tổng thể để đưa

vào mẫu. Điều cơ bản là quá trình chọn lựa phải là chọn ngẫu nhiên vào bất cứ lúc

nào sử dụng chọn mẫu thống kê. Kiểm toán viên thường sử dụng cách lấy mẫu ngẫu

nhiên không giới hạn (không thay thế) trong khi lấy mẫu kiểm toán. Điều này có

nghĩa là một khoản mục được chọn, phần tử này được loại khỏi “giới hạn lấy mẫu”

và không được chọn lần 2. Với mục tiêu của kiểm toán viên nhất định, điều này

dường như phụ thuộc vào xét đoán của kiểm toán viên để quyết định chọn khoản

mục ấy vào mẫu. Để tạo ra cách chọn ngẫu nhiên, kiểm toán viên có thể sử dụng

các bảng số ngẫu nhiên hoặc máy tính.

Thực hiện các thủ tục kiểm toán

Sau khi những khoản mục trong mẫu được lựa chọn, kiểm toán viên thực hiện

các thủ tục kiểm toán đã được xây dựng. Các thủ tục kiểm toán được thực hiện

giống nhau theo cùng cách thức khi chọn mẫu thống kê và chọn mẫu không thống

kê. Kiểm toán viên kiểm tra từng phần tử trong mẫu để xác định xem liệu nó có phù

hợp với định nghĩa của thuộc tính hay không và duy trì sự ghi chép về tất cả các

lệch lạc tìm được.

Khi các thủ tục kiểm soát đã được hoàn tất cho một ứng dụng chọn mãu thuộc

tính thì sẽ có một dung lượng mẫu và số lượng các lệch lạc của từng thuộc tính.

Trong quá trình thực hiện các thủ tục kiểm toán để kiểm tra hệ thống kiểm

soát, kiểm toán viên có thể gặp phải những tình huống sau:

Kiểm toán viên có thể lựa chọn những tài liệu không có giá trị nào trong

mẫu chọn.

Page 26: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

Các tài liệu chưa biết hoặc không thể sử dụng được. Đôi khi một khoản

mục được lựa chọn không phù hợp với việc xác định hoạt động kiểm soát.

Các tài liệu bị thất lạc.

Kết thúc kiểm tra trước khi hoàn thành.

Tính toán kết quả chọn mẫu

Sau khi hoàn thành các thủ tục kiểm toán, kiểm toán viên sẽ tổng hợp sự lệch

theo các thủ tục đã được kiểm tra và đánh giá kết quả. Xác định các kết quả chọn

mẫu đối với việc áp dụng phương pháp chọn mẫu thuộc tính có thể được thực hiện

bằng chương trình máy tính hay các bảng chọn mẫu thuộc tính. Kiểm toán viên tính

độ sai lệch mẫu và tỷ lệ sai lệch cao nhất đã tính toán. Tỷ lệ sai lệch mẫu chọn phản

ánh ước lượng tốt nhất của kiểm toán viên về tỷ lệ sai lệch tổng thể.Vì kết quả này

dựa trên một mẫu chọn nên kiểm toán viên buộc phải quan tâm đến rủi ro chọn

mẫu. Tỷ lệ sai lệch cao nhất đã tính toán thể hiện giới hạn phía trên cho tỷ lệ sai

lệch tổng thể được dựa trên kích cỡ mẫu , số lượng sai lệch và mức rủi ro theo kế

hoạch trong đánh giá rủi ro kiểm soát là quá thấp.

Thực hiện phân tích sai sót

Kiểm toán viên nên đánh giá những khía cạnh chất lượng của các sai lệch được

nhận diện. Điều này có liên quan tới hai vấn đề cần xem xét, đó là bản chất, nguyên

nhân của sai lệch và những ảnh hưởng của nó tới những giai đoạn kiểm toán khác.

Đưa ra kết luận cuối cùng

Trong kết luận về việc ứng dụng lấy mẫu thống kê trong thực hiện thử nghiệm

kiểm soát, kiểm toán viên so sánh tỷ lệ sai lệch có thể chấp nhận được với tỷ lệ sai

lệch thấp nhất theo tính toán. Nếu tỷ lệ sai lệch cao nhất theo tính toán thấp hơn tỷ

lệ sai lệch có thể chấp nhận được thì kiểm toán viên sẽ đưa ra kết luận là có thể tin

tưởng và dựa vào những kết luận đánh giá của hệ thống kiểm soát. Ngược lại, nếu

tỷ lệ sai lệch cao nhất theo tính toán lại cao hơn tỷ lệ sai lệch có thể chấp nhận được

thì kiểm toán viên sẽ đưa ra kết luận rằng hệ thống kiểm soát hoạt động không hiệu

quả và không thể dựa vào những đánh giá của hệ thống kiểm soát đó.

Page 27: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

CHƯƠNG 3

NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN KỸ THUẬT CHỌN

MẪU TRONG KIỂM TOÁN

3.1. Nhận xét về kỹ thuật chọn mẫu và việc áp dụng kỹ thuật chọn mẫu

3.1.1. Ưu điểm

Hiện nay các phương pháp chọn mẫu được áp dụng tại các công ty kiểm

toán rất đa dạng. Mỗi phương pháp chọn mẫu đều mang những đặc điểm riêng phục

vụ cho từng trường hợp, từng tổng thể khác nhau. Chúng ta có bao nhiêu doanh

nghiệp thì có bấy nhiêu loại hình tổ chức hoạt động, có bấy nhiêu hệ thống tổ chức

hạch toán kế toán khác nhau với những đặc điểm riêng biệt. Đối với từng hệ thống

kế toán đó, ta cần phải có những phương pháp chọn mẫu thích hợp.

Các kiểm toán viên trong các công ty kiểm toán cũng đã rất linh hoạt trong

việc vận dụng các phương pháp chọn mẫu trong từng tình huống cụ thể. Trong quá

trình kiểm tra không thể nào tránh được các tình huống khó khăn phát sinh mà

những phương pháp chọn mẫu trước đó không thể giải quyết tốt được, khi đó nhờ

khả năng sáng tạo và óc xét đoán của các kiểm toán viên mà các phương pháp chọn

mẫu không chỉ được thực hiện riêng rẽ mà còn được kết hợp với nhau để mang lại

hiệu quả kỉểm tra cao nhất, hạn chế được rủi ro chọn mẫu.

Hiện nay khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì các kỹ thuật chọn

mẫu kiểm toán cũng nhận được sự hỗ trợ rất lớn bởi công nghệ thông tin mà cụ thể

là các phần mềm chọn mẫu. Khi việc chọn mẫu được thực hiện bởi phần mềm sẽ

tiết kiệm được chi phí và sức lao động mà các kiểm toán viên trước kia phải bỏ ra

mà vẫn đảm bảo độ chính xác và hiệu quả. Với một khối lượng tài liệu lớn cần phải

kiểm tra như vậy mà được sự hỗ trợ của công nghệ thì các kiểm toán viên sẽ tiết

kiệm được thời gian để tập trung vào việc xét đoán và phân tích những nghiệp vụ

mà theo kiểm toán viên là chứa đựng nhiều rủi ro. Hơn thế nữa đặc biệt là với

phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, sự hỗ trợ của phần mềm sẽ giúp cho việc thực

hiện chọn mẫu diễn ra một cách khách quan hơn tránh sự thiên vị từ phía kiểm toán

viên...

3.1.2. Hạn chế

Page 28: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

Hiện nay phần lớn các công ty kiểm toán là công ty nước ngoài vì vậy có

một hạn chế nổi bật đó chính là sự thống nhất trong cách phân loại phương pháp

chọn mẫu giữa chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và của các công ty dẫn đến sự

không thống nhất giữa những người hành nghề kiểm toán và văn bản pháp quy

hướng dẫn.

Ví dụ: Tại công ty kiểm toán Deloitte Vietnam chọn mẫu ngẫu nhiên được

xem là chọn mẫu phi thống kê nhưng trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 530

thì lại được xem là chọn mẫu thống kê.

Việc áp dụng khoa học công nghệ vào việc chọn mẫu cũng là một ưu điểm

nhưng nếu xét trên một khía cạnh khác thì nó cũng lại là một hạn chế của chọn mẫu

kiểm toán bởi với sự tham gia của phần mềm, máy móc, nhiều kiểm toán viên đã

không hiểu được bản chất của việc chọn mẫu nên họ chỉ quan tâm đến những

nghiệp vụ mà họ cho rằng có rủi ro tiềm ẩn...nếu trong một tổng thể có số lượng

đơn vị nhỏ thì sẽ rất hiệu quả nhưng đối với những tổng thể có số lượng phần tử lớn

thì các kiểm toán viên sẽ gặp không ít khó khăn trong việc tổng hợp và phân tích.

Nếu không hiểu rõ bản chất của phần mềm chọn mẫu, các kiểm toán viên

sẽ không biết được rằng cách chọn mẫu như vậy đã đủ chưa để tiến hành thực hiện

các phương pháp khác để bổ sung, bên cạnh đó cũng có những kiểm toán viên nhận

thức được điều đó nhưng có thể là vì khối lượng công việc quá nhiều không thể

kiểm soát được hay vì thói quen mà họ vẫn mặc nhiên sử dụng những phần mềm

đó.

Ví dụ: Tại một số công ty kiểm toán có sử dụng phần mềm CMA hay TS để

chọn mẫu thống kê mặc dù biết rằng có thể dẫn đến thiếu mẫu khiến các kết luận

trong những trường hợp đó không được đảm bảo...nhưng họ vẫn thừa nhận tình

trạng này và cho rằng việc sử dụng những phần mềm này là hoàn toàn yên tâm về

chất lượng

Một số kiểm toán viên đã chủ quan không thực hiện phép so sánh về tính

hiệu quả mà phương pháp chọn mẫu mang lại với các phương pháp khác mà lao

ngay vào áp dụng chọn mẫu trong khi kết quả thu được chưa chắc đã tốt bằng việc

áp dụng những phương pháp khác.

Page 29: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

Mỗi cuộc kiểm toán đều bị giới hạn bởi chi phí và thời gian kiểm toán. Xét

cho cùng thì các công ty kiểm toán cũng là những đơn vị kinh doanh cung cấp dịch

vụ vì vậy việc tiết kiệm chi phí cũng là một điều dễ hiểu. Và để tiết kiệm chi phí và

thời gian, nhiều công ty kiểm toán đã bỏ qua không thực hiện quá trình đánh giá kết

quả chọn mẫu và rủi ro chọn mẫu đã thực hiện. Đồng thời họ cũng bỏ qua luôn một

số thủ tục cần thiết trong quy trình chọn mẫu kiểm toán để đảm bảo chất lượng.

Điều này là rất nguy hiểm cho các công ty kiểm toán bởi họ có thể sẽ bị gặp rắc rối

khi những vấn đề, những sai sót, gian lận mà các kiểm toán viên không thể phát

hiện được lại bị những người sử dụng báo cáo kiểm toán phát hiện ra.

3.2. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện kỹ thuật chọn mẫu trong

kiểm toán

Giúp cho các kiểm toán viên hiểu rõ được bản chất của từng phương pháp

chọn mẫu để có thể biết cách để mà áp dụng các phương pháp chọn mẫu khác nhau

trong từng trường hợp và một khi đã hiểu được bản chất của các phương pháp đó thì

trong từng trường hợp kiểm toán viên có thể vận dụng kết hợp các phương pháp để

bổ sung cho nhau để tăng tính đại diện của mẫu...

Xây dựng hệ thống định nghĩa, lý luận của công ty phải làm sao cho có sự

thống nhất với các văn bản quy phạm mà các kiểm toán viên phải tuân theo như các

chuẩn mực, các thông tư, hướng dẫn...tạo nên một cơ sở nhất quán cho các kiểm

toán viên an tâm và có cơ sở để làm việc.

Các công ty cần phải tăng cường sự giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện

kiểm toán nói chung và quy trình chọn mẫu nói riêng, mà cụ thể là phân công các

kiểm toán viên có kinh nghiệm và lâu năm trong nghề thường xuyên kiểm tra, giám

sát công việc của các nhân viên đặc biệt là những người mới làm việc để có thể góp

ý kịp thời những sai sót, những công việc, phương pháp chọn mẫu không hợp lý.

Các công ty phải tổ chức được quy trình đánh giá và xem xét lại kết quả

của công việc chọn mẫu và những rủi ro chọn mẫu có thể có nhằm giúp cho các

kiểm toán viên có dịp nhìn lại những gì mình đã làm để rút kinh nghiệm và đánh giá

tính hiệu quả của phương pháp chọn mẫu đã sử dụng để ngày càng hiểu rõ hơn về

phương pháp đó.

Page 30: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

Các kiểm toán viên trong khi thực hiện các phương pháp chọn mẫu cũng

phải biết sáng tạo và để xuất ra những phương án phù hợp hơn để có kết quả chọn

mẫu tốt nhất.

Trong quá trình lên kế hoạch kiểm toán cũng như kế hoạch thực hiện chọn

mẫu, các kiểm toán viên nên cân nhắc kết quả thu được và tham khảo ý kiến của các

kiểm toán viên cấp cao khi muốn chọn một phương pháp chọn mẫu nào đó để xem

liệu phương án đó có đem lại hiệu quả tốt nhất hay không?

Page 31: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

KẾT LUẬN

Trong mỗi cuộc kiểm toán, việc làm chủ yếu của các kiểm toán viên chính là

việc thu thập các bằng chứng kiểm toán có hiệu lực để làm căn cứ cho việc đưa ra

các ý kiến trên báo cáo kiểm toán. Nhưng hiện nay đi cùng với xu hướng sáp nhập,

các công ty có quy mô tài sản, quy mô hoạt động tài chính ngày càng mở rộng nên

quy mô của đối tượng kiểm toán ngày càng lớn. Vậy vấn đề đặt ra cho mỗi kiểm

toán viên là phải làm sao để có được một chương trình kiểm toán nhằm đạt được

mục tiêu trên một cách hiệu quả. Để xây dựng một chương trình kiểm toán, kiểm

toán viên phải quyết định các vấn đề về nội dung, thời gian và quy mô của các thủ

tục kiểm soát. Và một trong những cách hiệu quả giúp cho kiểm toán viên thu thập

được những bằng chứng kiểm toán cần thiết một cách nhanh nhất, đó chính là chọn

mẫu kiểm toán.

Xét trên nhiều khía cạnh thì áp dụng kỹ thuật chọn mẫu tỏ ra khá hiệu quả vì

với số lượng thích hợp, với tính đại diện cao của mẫu chọn, kiểm toán viên hoàn

toàn có thể đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán với chi phí thấp hơn và thời

gian ngắn hơn nhiều so với kiểm tra toàn bộ. Có thể nói, kỹ thuật chọn mẫu kiểm

toán có vai trò ngày càng quan trọng và nó ngày càng dành được nhiều sự quan tâm

đặc biệt trong kiểm toán hiện đại.

Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quá trình kiểm toán, bên

cạnh những ưu điểm đã đạt được, việc vận dụng các phương pháp chọn mẫu kiểm

toán ở các công ty kiểm toán vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần được nhanh chóng

sửa đổi và hoàn thiện nhằm nâng cao tính đại diện của mẫu đồng thời giảm rủi ro

chọn mẫu để đảm bảo cho những kết luận của kiểm toán viên về tổng thể. Có như

vậy, chọn mẫu kiểm toán mới có thể trở nên ngày càng hoàn thiện hơn giúp cho các

cuộc kiểm toán được thực hiện một cách có hiệu quả vừa tiết kiệm được chi phí,

vừa tiết kiệm được thời gian mà vẫn mang lại kết quả tốt nhất.

Page 32: Lý thuyết chọn mẫu và ứng dụng chọn mẫu trong kiểm toáns1.downloadmienphi.net/file/downloadfile8/212/1365593.pdf · kiến thức cơ bản về lý thuyết chọn

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1....................................................................................................... 3

1.1. Những khái niệm cơ bản về lý thuyết điều tra chọn mẫu..................... 3

1.2. Đặc điểm của điều tra chọn mẫu ........................................................... 4

1.3. Các loại sai số trong điều tra chọn mẫu ............................................... 5

1.4. Các phương pháp tổ chức chọn mẫu thường dùng .............................. 6

1.4.1. Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản ...................................................... 6

1.4.2. Chọn mẫu máy móc (chọn hệ thống) ............................................... 6

1.4.3. Chọn mẫu phân loại (phân tổ) ......................................................... 7

1.4.4. Chọn mẫu cả khối (mẫu chùm) ........................................................ 7

1.4.5. Chọn mẫu nhiều cấp ........................................................................ 8

CHƯƠNG 2....................................................................................................... 9

2.1. Những vấn đề cơ bản về chọn mẫu kiểm toán ...................................... 9

2.1.1. Vị trí của chọn mẫu kiểm toán trong kiểm toán ............................... 9

2.1.2. Những khái niệm cơ bản về chọn mẫu kiểm toán .......................... 10

2.1.3. Những khái niệm có liên quan đến chọn mẫu kiểm toán .............. 11

2.1.4. Mẫu đại diện, rủi ro chọn mẫu và rủi ro không do chọn mẫu: ...... 12

2.2. Các phương pháp chọn mẫu trong kiểm toán .................................... 14

2.2.1. Chọn mẫu ngẫu nhiên .................................................................... 14

2.2.2. Chọn mẫu phi xác suất ................................................................... 18

2.2.3. Kỹ thuật phân tầng (phân tổ) trong chọn mẫu kiểm toán .............. 20

2.2.4. Chọn mẫu thuộc tính...................................................................... 21

CHƯƠNG 3......................................................................................................27

3.1. Nhận xét về kỹ thuật chọn mẫu và việc áp dụng kỹ thuật chọn mẫu 27

3.1.1. Ưu điểm .......................................................................................... 27

3.1.2. Hạn chế .......................................................................................... 27

3.2. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện kỹ thuật chọn mẫu trong

kiểm toán ..................................................................................................... 29

KẾT LUẬN ......................................................................................................31