26
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI QUỐC HÀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015

LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

BÙI QUỐC HÀ

ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN

THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 60 38 01 04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015

Page 2: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

Công trình được hoàn thành tại

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT

Phản biện 1: ........................................................................

Phản biện 2: ........................................................................

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2015

Có thể tìm hiểu luận văn tại

Trung tâm tư liệu Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội

Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội

Page 3: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

1

MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các bảng

Danh mục các biểu đồ

MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH

ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM ..................................................................................... 10

1.1. KHÁI NIỆM, CĂN CỨ PHÁP LÝ VÀ CĂN CỨ KHOA HỌC

CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ....................................................... 10

1.1.1. Khái niệm định tội danh .................................................................. 10

1.1.2. Căn cứ pháp lý của việc định tội danh ............................................ 18

1.1.3. Căn cứ khoa học của việc định tội danh ......................................... 20

1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI

DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN......................................... 24

1.2.1. Khái niệm định tội danh đối với tội cướp tài sản ............................ 24

1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản ..... 25

1.3. Ý NGHĨA VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM CHO VIỆC

ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN ...................... 27

1.3.1. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản ................. 27

1.3.2. Những điều kiện bảo đảm cho việc định tội danh đối với tội

cướp tài sản ...................................................................................... 29

Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI

CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ............... 42

2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LƯU Ý TRONG VIỆC ĐỊNH TỘI DANH

ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN ..................................................... 42

2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự .......................................................... 42

2.1.2. Hình phạt ......................................................................................... 47

2.1.3. Một số vấn đề khác cần lưu ý trong việc định tội danh đối với

tội cướp tài sản ................................................................................ 50

Page 4: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

2

2.2. THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI

SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ...................................... 53

2.2.1. Khái quát điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… trên

địa bàn tỉnh Đắk Lắk ....................................................................... 53

2.2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội cướp tài sản của Tòa án

nhân dân tỉnh Đắk Lắk .................................................................... 57

Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA

VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN ...... 80

3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC

ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN ...................... 80

3.1.1. Về phương diện chính trị - xã hội ................................................... 80

3.1.2. Về phương diện lý luận và thực tiễn ............................................... 82

3.1.3. Về phương diện lập pháp hình sự ................................................... 84

3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT

NAM NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐỊNH

TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN .................................. 85

3.2.1. Nhận xét chung ................................................................................ 85

3.2.2. Những đề xuất sửa đổi, bổ sung cụ thể ........................................... 88

3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP KHÁC NHẰM NÂNG CAO HIỆU

QUẢ CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP

TÀI SẢN ......................................................................................... 94

3.3.1. Giải pháp nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ..................... 94

3.3.2. Giải pháp về công tác tổ chức, cán bộ ............................................ 96

3.2.3. Các giải pháp khác ........................................................................ 103

KẾT LUẬN ............................................................................................. 108

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................. 111

Page 5: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

3

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Pháp luật hình sự Việt Nam là một trong những công cụ sắc bén và

hữu hiệu của Đảng và Nhà nước trong công tác đấu tranh phòng, chống tội

phạm nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập chủ quyền và

toàn vẹn lãnh thổ, quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các

dân tộc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, duy trì trật tự, an

toàn xã hội, đồng thời pháp luật hình sự còn góp phần chống lại mọi hành

vi phạm tội, giáo dục mọi người ý thức chấp hành và tuân theo pháp luật.

Hiến pháp Việt Nam năm 2013 vừa được Quốc hội thông qua và có

hiệu lực từ ngày 01/01/2014 mang đậm những tư tưởng tiến bộ, nhân văn và

bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều 31

đã quy định: “1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi

được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã

có hiệu lực pháp luật...”. Vì vậy, để có một bản án công minh, khách quan,

toàn diện và đúng pháp luật đòi hỏi việc định tội danh và quyết định hình

phạt phải thực sự đúng đắn, có như vậy mới bảo vệ các quyền, lợi ích và tự

do của con người, thậm chí tính mạng con người. Ngoài ra, cũng chỉ có Tòa

án mới có quyền định tội danh và quyết định hình phạt chính thức đối với

một người, trong đó hoạt động định tội danh nhằm xác định một người có

tội hay không có tội, nếu họ có tội thì tên tội mà họ đã phạm là tội gì căn cứ

vào các quy định của Bộ luật hình sự để có hình phạt tương xứng.

Do đó, định tội danh đúng, chuẩn xác không những góp phần quyết

định hình phạt công minh và đúng pháp luật, mà còn phân hóa trách nhiệm

hình sự và cá thể hóa hình phạt chính xác, qua đó bảo vệ các quyền và lợi

ích hợp pháp của công dân trong tư pháp hình sự. Ngược lại, nếu định tội

danh sai đương nhiên sẽ dẫn đến một loạt hậu quả tiêu cực như: không bảo

đảm được tính công minh và đúng pháp luật của hình phạt do Tòa án quyết

định, dẫn đến truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, bỏ lọt

người phạm tội, thậm chí xâm phạm thô bạo đến danh dự, nhân phẩm, các

quyền và tự do của công dân…, làm giảm uy tín và hiệu lực của các cơ

quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng

và chống tội phạm.

Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy, hiện nay, các cơ quan

tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc định tội

danh, nhất là đối với các tội xâm phạm sở hữu nói chung, riêng tội cướp tài

sản nói riêng. Thời gian gần đây, tội phạm này đang có diễn biến phức tạp,

đặc biệt là trong lĩnh vực đòi nợ, xiết nợ do chủ tài sản không trả nên nhiều

Page 6: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

4

người đã manh động, tìm đến việc dùng vũ lực để đòi nợ; hoặc còn có sự

nhầm lẫn giữa tội cướp tài sản với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản hay

tội cưỡng đoạt tài sản; hoặc trong trường hợp phạm nhiều tội nhưng lại

định tội danh là một tội; v.v… từ đó dẫn đến việc áp dụng mức và loại

hình phạt không đúng, qua đó gây dư luận không tốt và làm giảm hiệu quả

công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Nhận thức và xem xét vấn đề quan trọng đó, Tòa án nhân dân tỉnh

Đắk Lắk không ngừng đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng giải quyết,

xét xử các loại vụ án, phấn đấu không để xảy ra việc kết án oan người

không có tội và bỏ lọt tội phạm, hạn chế tới mức thấp nhất các bản án,

quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán, bảo đảm các quyết

định của Tòa án đúng pháp luật, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, có sức thuyết

phục cao, có tính khả thi và được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ. Chẳng

hạn, năm 2009, tổng số vụ án và bị cáo phạm tội cướp tài sản cả ở cấp sơ

thẩm và phúc thẩm như sau: 48 vụ án và 131 bị cáo; năm 2010 có 39 vụ án

và 93 bị cáo; năm 2011 có 30 vụ án và 78 bị cáo; năm 2012 có 32 vụ án và

82 bị cáo và năm 2013 có 42 vụ án và 137 bị cáo. Về cơ bản, Tòa án cấp

sơ thẩm và phúc thẩm của tỉnh Đắk Lắk đã định tội danh đúng và quyết

định hình phạt chính xác, nhưng vẫn còn một vài trường hợp áp dụng

không đúng, chưa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ phạm tội nên dẫn đến

việc định tội danh còn thiếu chính xác, nhầm lẫn, sửa án, hủy án, hoặc

phân hóa trách nhiệm hình sự chưa chính xác, qua đó, ít nhiều đã làm giảm

hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội cướp tài

sản nói riêng, giảm uy tín của Tòa án cũng như chưa bảo đảm các quyền

và lợi ích của người phạm tội.

Với lý do nêu trên, để khắc phục tình trạng này, đồng thời phục vụ

trực tiếp cho công tác thực tiễn xét xử, là thẩm phán Tòa án nhân dân cấp

huyện của tỉnh Đắk Lắk, học viên quyết định lựa chọn đề tài: “ nh ội

danh ối ới ội cướp i sản heo h nh s iệ a n c s số

iệ h c i n a b n nh k k ”.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Định tội danh đúng, chính xác có ý nghĩa rất to lớn về mặt chính trị -

xã hội, đạo đức và pháp luật, được dư luận xã hội và nhân dân ủng hộ,

đồng tình, trật tự pháp luật được ổn định, uy tín của các cơ quan bảo vệ

pháp luật và Tòa án được nâng cao. Vì vậy, dưới góc độ khoa học bước

đầu đã có một số công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, ngoài một số công

trình do các nhà khoa học Liên bang Nga biên soạn mà trong cuốn sách

Định tội danh (Lý luận, Lời giải mẫu và 500 bài tập thực hành), Nxb. Đại

học Quốc gia Hà Nội, 2011 của GS.TSKH. Lê Văn Cảm và PGS.TS. Trịnh

Page 7: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

5

Quốc Toản dẫn ra có một số công trình về lý luận định tội danh mà không

có công trình nào định tội danh đối với một hoặc một nhóm tội phạm cụ

thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.

Còn trong sách báo pháp lý trong nước, chúng tôi chia thành các

nhóm vấn đề sau:

* Dưới góc độ giáo trình, sách chuyên khảo, sách tham khảo liên

quan đến vấn đề định tội danh và tội cướp tài sản, có thể kể đến các công

trình sau: 1) GS.TSKH. Lê Văn Cảm và PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Định

tội danh (Lý luận, Lời giải mẫu và 500 bài tập thực hành), Nxb. Đại học

Quốc gia Hà Nội, 2011; 2) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề lý

luận về định tội danh và hướng dẫn giải bài tập về định tội danh, Nxb. Đại

học Quốc gia Hà Nội, 1999; 3) PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, Chương VI -

Các tội xâm phạm sở hữu, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam

(Phần các tội phạm), Tập thể tác giả do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003, 2007; 4) GS.TS. Võ

Khánh Vinh, Giáo trình Lý luận chung về Định tội danh, Nxb. Công an

nhân dân, Hà Nội, 1999 và tái bản năm 2010; 5) PGS. TS. Lê Văn Đệ,

Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb.

Công an nhân dân, Hà Nội, 2005; 6) ThS. Đoàn Tấn Minh, Phương pháp

định tội danh và hướng dẫn định tội danh đối với các tội phạm trong Bộ

luật hình sự hiện hành, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010; 7) ThS. Đinh Văn

Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm, Tập II - Các

tội xâm phạm sở hữu, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2002; v.v...

* Dưới góc độ luận văn, luận án tiến sĩ luật học, nói chung, chỉ có

một số công trình đề cập riêng rẽ đến vấn đề định tội danh hoặc về tội

cướp tài sản hoặc đấu tranh phòng, chống tội phạm này như: 1) Đỗ Kim

Tuyến, Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn Hà Nội,

Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; 2) Võ Minh

Tiến, Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng

Ngãi, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006; 3)

Nguyễn Thị Ngọc Hoa, Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa

bàn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà

Nội, 2007; 4) Trần Thị Phường, Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm

sở hữu trên địa bàn tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-2010, Luận văn thạc sĩ

luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; 5) Nguyễn Thanh

Dung, Định tội danh đối với các tội phạm về ma túy, Luận văn thạc sĩ luật

học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012; v.v...

* Dưới góc độ bài viết, đề tài khoa học, hiện nay, trên Tạp chí Tòa án

nhân dân và một số tạp chí khác cũng đăng nhưng chỉ mang tính chất đơn lẻ

Page 8: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

6

và phân tích các dấu hiệu pháp lý giữa các tội phạm, cũng như định tội danh

đối với từng vụ án cụ thể, ví dụ: 1) TS. Phan Anh Tuấn, Định tội danh trong

trường hợp một hành vi thỏa mãn dấu hiệu của nhiều cấu thành tội phạm,

Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2001; 2) Đặng Văn Phượng, Một số trường

hợp sử dụng vũ khí, phương tiện nguy hiểm trong tội cướp tài sản, Tạp chí

Tòa án nhân dân, số 17(9)/2008; 3) TS. Mai Bộ, Tội cướp tài sản, Tạp chí

Tòa án nhân dân, số 3/2007; 4) ThS. Phạm Văn Báu, Tội cướp tài sản trong

luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 10/2010; 5) TS. Phạm Văn Beo,

Về dấu hiệu hậu quả chết người ở tội cướp tài sản trong Bộ luật hình sự hiện

hành, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 14(7)/2013; v.v...

Như vậy, những bài nghiên cứu hoặc một số công trình sách báo đã

nêu mới chỉ khái quát được một số vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động

định tội danh và thực tiễn định tội danh; phân tích, đánh giá, nhận định

một số vấn đề liên quan đến yếu tố định tội danh, đồng thời phân biệt tội

cướp tài sản với một số tội phạm trong Bộ luật hình sự hoặc nghiên cứu

trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu; v.v… Tuy nhiên,

hiện nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề định tội danh

đối với tội cướp tài sản và trên một địa bàn cụ thể là tỉnh Đắk Lắk.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục ích nghi n cứ

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để

làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung

và định tội danh đối với tội cướp tài sản nói riêng trên địa bàn tỉnh Đắk

Lắk, chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản. Trên cơ sở

đó, đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối

với tội cướp tài sản, qua đó hạn chế oan, sai và vi phạm pháp luật trong

thực tiễn xét xử.

3.2. hiệ ụ nghi n cứ

Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ

nghiên cứu cụ thể như sau:

1) Xây dựng khái niệm định tội danh, phân tích căn cứ pháp lý và

căn cứ khoa học của việc định tội danh;

2) Xây dựng khái niệm và phân tích những đặc điểm của việc định

tội danh đối với tội cướp tài sản;

3) Làm sáng tỏ ý nghĩa và những điều kiện bảo đảm cho việc việc

định tội danh đối với tội cướp tài sản;

4) Đánh giá thực trạng định tội danh đối với tội cướp tài sản trên địa

bàn tỉnh Đắk Lắk của Tòa án nhân dân, từ đó chỉ ra các tồn tại, hạn chế và

một số nguyên nhân cơ bản;

Page 9: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

7

5) Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc định tội danh

đối với tội cướp tài sản trên địa bàn Đắk Lắk nói riêng, cả nước nói chung.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. ối ượng nghi n cứ

Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Định

tội danh đối với tội cướp tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số

liệu thực ti n địa bàn tỉnh Đắk Lắk).

4.2. Phạ i nghi n cứ

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội

danh đối với tội cướp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, đánh giá thực

tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk của Tòa án nhân dân trong giai đoạn 05 năm

(2009-2013), trên cơ sở đó, chỉ ra những tồn tại, hạn chế và một số nguyên

nhân cơ bản, từ đó luận chứng và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao

hiệu quả của việc định tội danh đối với tội phạm này.

5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu

5.1. C s ý n

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng về chính sách

hình sự; quan điểm, đường lối xử lý các tội xâm phạm sở hữu nói chung,

tội cướp tài sản nói riêng.

5.2. Các phư ng pháp nghi n cứ

Luận văn sử dụng các phương pháp đặc thù của khoa học luật hình sự

như: phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số liệu dựa trên những

bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân

tối cao và Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk để phân tích các tri thức khoa học

luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu.

6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn

6.1. Ý nghĩa khoa học

Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà

nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân, cũng như phục vụ

Hiến pháp năm 2013 và các văn kiện của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XI, việc nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và

thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội cướp tài

sản nói riêng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk góp phần bổ sung vào kho tàng lý

luận về định tội danh trong pháp luật hình sự Việt Nam nói chung, lý luận

về định tội danh đối với một tội phạm cụ thể - tội cướp tài sản nói riêng,

qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội

phạm nói chung và bảo vệ quyền con người, cũng như bảo đảm trật tự, an

toàn xã hội nói riêng.

Page 10: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

8

6.2. Ý nghĩa h c i n

Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng đặc

biệt là Tòa án trong việc định tội danh giải quyết vụ án hình sự được khách

quan, có căn cứ và đúng pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn là cơ sở để đưa

ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến

định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội cướp tài sản nói riêng

tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk, qua đó, nâng cao hiệu quả công

tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, việc bảo vệ các quyền và

tự do của con người nói riêng, cũng như phòng, chống oan, sai và vi phạm

pháp luật trong giải quyết vụ án hình sự. Đặc biệt, luận văn còn là tài liệu

tham khảo cho các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên

ngành luật hình sự và tội phạm học tại các cơ sở đào tạo luật trên cả nước.

7. Những điểm mới về mặt khoa học của luận văn

Đề tài phân tích dựa trên những bản án, quyết định, báo cáo công tác

ngành Tòa án nhân dân tại tỉnh Đắk Lắk - đó là những số liệu thực tế góp

phần làm rõ hơn thực trạng về định tội danh trên địa bàn đã nêu. Do đó,

những điểm mới cơ bản của luận văn như sau:

1) Xây dựng khái niệm và phân tích các đặc điểm cơ bản của việc

định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luật hình sự Việt Nam;

2) Làm sáng tỏ ý nghĩa và những điều kiện bảo đảm cho việc việc

định tội danh đối với tội cướp tài sản;

3) Đánh giá, phân tích thực trạng định tội danh đối với tội cướp tài

sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk của Tòa án nhân dân;

4) Chỉ ra những tồn tại, hạn chế và một số nguyên nhân cơ bản trong

thực tiễn định tội danh đối với tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk;

5) Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc định

tội danh đối với tội cướp tài sản trên địa bàn Đắk Lắk nói riêng, cả nước

nói chung.

8. Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm ba chương với tên gọi như sau:

Chương 1: Một số vấn đề chung về định tội danh đối với tội cướp

tài sản theo luật hình sự Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng định tội danh đối với tội cướp tài sản trên địa

bàn tỉnh Đắk Lắk.

Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc định tội

danh đối với tội cướp tài sản.

Page 11: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

9

Chư ng 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH

ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM, CĂN CỨ PHÁP LÝ VÀ CĂN CỨ KHOA HỌC

CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH

1.1.1. Khái niệm định tội danh

Hiến pháp Việt Nam năm 2013 vừa được Quốc hội thông qua và có

hiệu lực từ ngày 01/01/2014 mang đậm những tư tưởng tiến bộ, nhân văn

và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Điều 31 đã quy định: “1.

Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh

theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực

pháp luật...”. Cho nên, để có một bản án công minh, khách quan, toàn

diện và đúng pháp luật đòi hỏi việc định tội danh và quyết định hình phạt

phải thực sự đúng đắn, có như vậy mới bảo vệ các quyền và tự do của con

người. Do đó, hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt chính thức

đối với một người chỉ do duy nhất một cơ quan có thẩm quyền quyết định

là Tòa án, trong đó, bản án của Tòa án nhằm xác định một người có tội

hay không có tội và nếu có tội thì tên tội là tội gì... sau đó, tội gì sẽ có

hình phạt tương xứng.

Hiện nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, xung quanh khái

niệm định tội danh và các vấn đề lý luận của nó đã được một số nhà khoa

học - luật gia nghiên cứu (mặc dù chưa nhiều), tuy nhiên, các quan điểm

đều thống nhất nội hàm của khái niệm đang nghiên cứu. Tuy nhiên, dưới

góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, khái niệm đang nghiên cứu được

định nghĩa như sau: Định tội danh là một dạng của hoạt động thực ti n áp

dụng pháp luật hình sự do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện bằng

cách - trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết

khách quan của vụ án hình sự đối chiếu, kiểm tra để xác định sự phù hợp

giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các

dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng trong Phần các tội phạm

Bộ luật hình sự quy định thể hiện thông qua một văn bản áp dụng pháp luật.

1.1.2. Căn cứ pháp lý của việc định tội danh

Việc tìm ra căn cứ pháp lý của việc định tội danh có ý nghĩa lý luận,

thực tiễn và pháp lý quan trọng. Bởi lẽ, đây chính là căn cứ mà phải dựa

vào đó mới đặt ra tội danh đối với một người đã thực hiện hành vi nguy

hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm. Do đó, trên cơ

này, có thể kết luận rằng - Bộ luật hình sự - cơ sở pháp lý trực tiếp của

việc định tội danh.

Page 12: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

10

1.1.3. Căn cứ khoa học của việc định tội danh

Hiện nay, trong các sách báo pháp lý hình sự đều thống nhất cho

rằng, cấu thành tội phạm chính là căn cứ khoa học của việc định tội danh.

1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI

DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN

1.2.1. Khái niệm định tội danh đối với tội cướp tài sản

Khái niệm định tội danh nêu trên là chỉ việc định tội danh trong hoạt

động tố tụng nói chung, mang ý nghĩa khoa học áp dụng cho toàn bộ các

loại tội phạm. Còn đối với việc định tội danh tội cướp tài sản là một hoạt

động tố tụng cụ thể của các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến

hành tố tụng thực hiện, mang ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng. Như vậy,

dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, theo chúng tôi khái niệm

đang nghiên cứu được định nghĩa như sau: Định tội danh đối với tội cướp

tài sản là một trong những dạng hoạt động thực ti n áp dụng pháp luật

hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền theo quy định

pháp luật để xem xét, đánh giá, phân tích một hành vi phạm tội có thỏa

mãn những dấu hiệu của cấu thành tội cướp tài sản hay không, nếu đúng

thì nó thuộc điểm, khoản nào của Điều 133 Bộ luật hình sự và đưa ra kết

luận bằng một văn bản pháp luật.

1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của việc định tội danh đối với tội

cướp tài sản

Từ khái niệm đã nêu, theo chúng tôi, việc định tội danh đối với tội

cướp tài sản ngoài có những đặc điểm chung của việc định tội danh, nó

còn phản ánh đặc điểm cơ bản riêng như sau:

Thứ nhất, định tội danh đối với tội cướp tài sản là một trong những

dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự.

Thứ hai, hoạt động thực tiễn này do các cơ quan tiến hành tố tụng có

thẩm quyền - Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án theo quy định và

trình tự của pháp luật thực hiện và trong bản án của Tòa án, tội danh mang

giá trị cao nhất - chính thức;

Thứ ba, định tội danh đối với tội cướp tài sản được tiến hành bằng

cách - trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết

khách quan của vụ án hình sự (vụ án cướp tài sản) để đối chiếu, so sánh và

kiểm tra để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm

cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm quy

định tại Điều 133 Bộ luật hình sự;

Thứ tư, căn cứ pháp lý của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản

chính là Bộ luật hình sự (Điều 133) và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Page 13: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

11

Căn cứ khoa học của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản chính là

cấu thành tội phạm này;

Thứ năm, kết quả của quá trình định tội danh đối với tội cướp tài sản

thể hiện thông qua một văn bản áp dụng pháp luật và bởi cơ quan, chủ thể

có thẩm quyền do pháp luật quy định;

Thứ sáu, từ văn bản áp dụng pháp luật đó, sẽ phát sinh các hậu quả

mà người phạm tội phải gánh chịu.

1.3. Ý NGHĨA VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM CHO VIỆC

ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN

1.3.1. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản

Việc định tội danh đúng đối với tội phạm này có ý nghĩa như sau:

Một là, làm tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể

hóa hình phạt đối với người phạm tội có căn cứ và đúng pháp luật.

Hai là, việc định tội danh đối với tội cướp tài sản có căn cứ và đúng

sẽ góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ và các chức năng của Bộ luật hình sự

Ba là, việc định tội danh đối với tội cướp tài sản có căn cứ và đúng để

áp dụng chính xác và đúng đắn các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

1.3.2. Những điều kiện bảo đảm cho việc định tội danh đối với tội

cướp tài sản

Trên cơ sở những điều kiện bảo đảm chung cho việc định tội danh

đối với các tội phạm, định tội danh đối với tội cướp cụ thể đương nhiên

cũng phải bảo đảm các điều kiện này, bao gồm những điều kiện sau đây:

- Năng lực, trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ của người định tội danh;

- Đạo đức, lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp của người định tội danh;

- Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam chặt chẽ và hệ thống văn

bản hướng dẫn thi hành đầy đủ.

Chư ng 2

THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI

TỘI CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK

2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LƯU Ý TRONG VIỆC ĐỊNH TỘI DANH

ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Để định tội danh chính xác đối với tội cướp tài sản đòi hỏi cần nắm

vững các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt, cũng như các điểm lưu ý

khi định tội danh đối với tội phạm này.

2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự

Như vậy, các dấu hiệu pháp lý hình sự đối với tội cướp tài sản cần

Page 14: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

12

lưu ý trong việc định tội danh như sau: Khách thể của tội cướp tài sản; mặt

khách quan của tội cướp tài sản; chủ thể của tội cướp tài sản và mặt chủ

quan của tội cướp tài sản.

2.1.2. Hình phạt

Thực hiện hành vi cướp tài sản người phạm tội đã gây nguy hại lớn

cho xã hội, không những trực tiếp gây hại cho quan hệ sở hữu, quan hệ

nhân thân mà còn gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Điều 133 Bộ

luật hình sự quy định hình phạt nghiêm khắc nhất áp dụng đối với người

phạm tội là tử hình.

2.1.3. Một số vấn đề khác cần lưu ý trong việc định tội danh đối

với tội cướp tài sản

Như vậy, bên cạnh việc nắm rõ các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình

phạt về tội cướp tài sản thì trong việc định tội danh cũng cần lưu ý một số

vấn đề khác để bảo đảm định tội danh đúng.

2.2. THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI

SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮKLẮK

2.2.1. Khái quát điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…

trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Trong mục này, tác giả khái quát điều kiện chính trị, kinh tế, văn

hóa, xã hội… trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, trên cơ sở đó để xem xét tình hình

tội phạm cướp tài sản và việc định tội danh đối với tội phạm này.

2.2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội cướp tài sản của Tòa án

nhân dân tỉnh Đắk Lắk

Trong thời gian vừa qua, tình hình tội phạm cướp tài sản trên địa bàn

tỉnh Đắk Lắk nói chung vẫn diễn biến phức tạp.

* Tổng số ụ án ổng số b cáo b Tòa án nhân dân nh k

k xé xử ề ội cướp i sản các ội phạ khác xâ phạ s hữ

ong hời gian 05 nă 2009-2013)

Bảng 2.3. Tổng số vụ án và số bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

đưa ra xét xử về tội cướp tài sản trong thời gian 05 năm (2009-2013)

Năm

Tội cướp tài sản

Số ụ án Số b cáo

2009 48 131

2010 39 93

2011 30 78

2012 32 82

2013 42 137

Tổng cộng: 191 vụ án 521 bị cáo

(Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk)

Page 15: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

13

0

20

40

60

80

100

120

140

2009 2010 2011 2012 2013

Tổng số vụ án

Tổng số bị cáo

Biểu 2.1. Tổng số vụ án và số bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

đưa ra xét xử về tội cướp tài sản trong thời gian 05 năm (2009-2013) (Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk)

Cụ thể, tương quan tổng số vụ án về tội cướp tài sản và các tội phạm

khác trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk

Lắk đưa ra xét xử trong thời gian 05 năm (2009-2013) như sau:

Bảng 2.4. Tổng số vụ án về tội cướp tài sản và các tội phạm khác

trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk

Lắk đưa ra xét xử trong thời gian 05 năm (2009-2013)

TT Năm

2009 2010 2011 2012 2013

Bình

quân

Các loại tội phạm Năm

1 Cướp tài sản 48 39 30 32 42 38,2

2 Cưỡng đoạt tài sản 19 09 14 07 12 12,2

3 Cướp giật tài sản 26 22 23 26 24 24,2

4 Trộm cắp tài sản 357 284 306 376 379 340,4

5 Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 35 38 47 48 46 42,8

6 Lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản 29 31 36 29 12 27,4

7 Hủy hoại tài sản hoặc cố ý

làm hư hỏng tài sản 29 32 12 25 31 25,8

Tổng cộng 543 455 468 543 546

(Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk)

Ngoài ra, tương quan tổng số bị cáo bị xét xử về tội cướp tài sản và các

tội phạm khác trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu bị Tòa án nhân dân tỉnh

Đắk Lắk đưa ra xét xử trong thời gian 05 năm (2009-2013) như sau:

Page 16: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

14

Bảng 2.5. Tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử về tội cướp tài sản và các tội

phạm khác trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu bị Tòa án nhân dân

tỉnh Đắk Lắk trong thời gian 05 năm (2009-2013)

TT Năm

2009 2010 2011 2012 2013

Bình

quân

Các loại tội phạm Năm

1 Cướp tài sản 131 93 78 82 137 104,2

2 Cưỡng đoạt tài sản 37 21 25 10 29 24,4

3 Cướp giật tài sản 52 40 50 67 45 50,8

4 Trộm cắp tài sản 620 460 513 662 702 591,4

5 Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 49 46 58 60 68 56,2

6 Lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản 29 36 47 30 13 31

7 Hủy hoại tài sản hoặc cố ý

làm hư hỏng tài sản 65 76 20 79 74 62,8

Tổng cộng 983 772 791 990 1.068

(Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk)

Như vậy, bình quân một năm trong thời gian 05 năm (2009-2013),

Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử 38,3 vụ án và 104,2 bị cáo, cao thứ

hai trong số vụ án và số bị cáo của các tội phạm khác xâm phạm sở hữu,

cao nhất là tổng số vụ án và tổng số bị cáo bị xét xử về tội trộm cắp tài sản,

trung bình là 340,4 vụ án và 591,4 bị cáo/năm. Năm 2009 và năm 2013, tỷ

lệ này đối với tội cướp tài sản là tương đối cao.

* Tổng số ụ án ổng số b cáo phạ ội cướp i sản b hay ổi

ch yển ội danh của Tòa án nhân dân nh k k ong hời gian 05

nă 2009-2013)

Trung bình một năm trong thời gian 05 năm (2009-2013), Tòa án

nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử 38,3 vụ án và 104,2 bị cáo về tội cướp tài

sản. Tuy nhiên, căn cứ vào nội dung và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ

vụ án, về cơ bản Tòa án các cấp đã xét xử đúng người, đúng pháp luật và

đúng tội danh. Tuy nhiên, trong 05 năm này, việc thay đổi tội danh có 02

vụ án và 05 bị cáo, chiếm tỷ lệ tương đối ít là 0,92 % số vụ án và 0,83 %

số bị cáo, cụ thể như sau:

Page 17: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

15

Bảng 2.6. Tổng số vụ án và tổng số bị cáo phạm tội cướp tài sản bị

thay đổi tội danh của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

trong thời gian 05 năm (2009-2013)

Năm Tội cướp tài sản Giữ nguyên tội danh Chuyển tội danh

Số ụ Số b cáo Số ụ Số b cáo Số ụ Số b cáo

2009 48 131 48 131 0 0

2010 39 93 39 93 0 0

2011 30 78 30 78 0 0

2012 32 82 31 79 01 03

2013 42 137 41 135 01 02

Tổng số: 217 596 215 591 02 05

(Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk)

0

20

40

60

80

100

120

140

2009 2010 2011 2012 2013

Tổng số vụ án

Tổng số vụ án chuyển tội danh

Tổng số bị cáo

Tổng số bị cáo chuyển tội danh

Biểu 2.2. Tổng số vụ án và tổng số bị cáo phạm tội cướp tài sản bị thay

đổi tội danh của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

trong thời gian 05 năm (2009-2013)

(Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk)

Nguyên nhân của việc chuyển tội danh là do: a) Xác định sai tội

danh: 01 vụ án và 03 bị cáo; b) Năng lực, chuyên môn của cán bộ còn hạn

chế: 0; c) Quy định của hệ thống pháp hình sự chưa rõ ràng: 0; d) Tình tiết,

nội dung vụ án khó, chưa rõ ràng: 01 vụ án và 02 bị cáo.

Như vậy, tổng hợp nguyên nhân thay đổi tội danh đối với các vụ án

phạm tội cướp tài sản của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong thời gian 05

năm (2009-2013) như sau:

Page 18: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

16

Bảng 2.7. Nguyên nhân thay đổi danh đối với các vụ án phạm tội cướp

tài sản của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

trong thời gian 05 năm (2009-2013)

Năm

Xác định

không đúng

tội danh

Năng lực,

chuyên môn

cán bộ hạn chế

Quy định

pháp luật hình

sự chưa rõ ràng

Tình tiết

nội dung vụ án

chưa rõ ràng

Số ụ Tỷ ệ Số ụ Tỷ ệ Số ụ Tỷ ệ Số ụ Tỷ ệ

2009 0 0 0 0 0 0 0 0

2010 0 0 0 0 0 0 0 0

2011 0 0 0 0 0 0 0 0

2012 01 3,12 % 0 0 0 0 0 0

2013 0 0 0 0 0 0 01 2,38 %

Tổng số 01 0,46 % 0 0 0 0 01 0,46 %

(Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk)

Xác định sai tội danh

Năng lực, chuyên môn hạn chế

Quy định của pháp luật hình sự chưa rõ

Tình tiết, nội dung vụ án khó

Biểu 2.3. Nguyên nhân thay đổi danh đối với các vụ án phạm tội cướp

tài sản của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

trong thời gian 05 năm (2009-2013) (Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk)

Đặc biệt, cũng qua khảo sát, nghiên cứu thực tiễn xét xử các vụ án

cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk cho thấy không có sai sót, nhầm lẫn

trong việc đánh giá, định tội danh đối với tội phạm này. Về cơ bản, Tòa án

nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử là đúng người, đúng pháp luật và đúng tội

danh. Tuy nhiên, trong tổng số 191 vụ án và 521 bị cáo bị xét xử về tội cướp

tài sản cho thấy vẫn còn 02 vụ án việc định tội danh còn chưa chính xác và

05 bị cáo (chiếm tỷ lệ là 0,92 % số vụ án và 0,83 % số bị cáo/05 năm).

Riêng năm 2014 cũng có 01 vụ án và 02 bị cáo cũng bị thay đổi tội

danh từ tội cướp tài sản sang tội chống người thi hành công vụ. Đó là bản án

hình sự phúc thẩm số 11/2014/HSPT ngày 15/07/2014 của Tòa án nhân dân

tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm vụ án hình sự số 167/2014/HSPT ngày

06/5/2014 đối với bị cáo Hồ Minh Hải về tội cướp tài sản. Nguyên nhân là

Page 19: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

17

do nhận thức không đúng về các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm của

tội phạm cụ thể về sở hữu được quy định trong Bộ luật hình sự, áp dụng văn

bản hướng dẫn chưa đầy đủ và do đánh giá không đúng các tình tiết vụ án, từ

đó dẫn đến xác định không đúng tội danh thể hiện ở những dạng sau đây:

- Tòa án cấp sơ thẩm xác định tội cưỡng đoạt tài sản, nhưng Tòa án

cấp phúc thẩm xác định là tội cướp tài sản;

- Viện kiểm sát truy tố về tội cướp tài sản, nhưng sau đó thay đổi quyết

định truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm xác định là tội cưỡng đoạt tài sản;

- Tòa án cấp sơ thẩm xác định là tội cướp tài sản, Tòa án cấp phúc

thẩm xác định là tội chống người thi hành công vụ;

- Có vụ án tình tiết chưa rõ ràng dẫn đến không thống nhất giữa

trường hợp phạm tội cướp tài sản với trường hợp không phạm tội.

* Một số nguyên nhân cơ bản

- Hệ thống pháp luật hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật

hình sự Việt Nam chưa đầy đủ, từ đó dẫn đến xác định không chính xác tội danh.

Hai là, do một số ít cán bộ, thẩm phán có chuyên môn, nghiệp vụ

chưa vững nên nhận thức còn chưa chính xác về các dấu hiệu pháp lý của

cấu thành tội phạm của tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự.

Ba là, do vụ án có những tình tiết phức tạp, không rõ ràng, không có

nhân chứng nên đã giải quyết chưa chính xác.

Chư ng 3

NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA

VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN

3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC

ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN

3.1.1. Về phương diện chính trị - xã hội

Nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản chính

là để thực hiện tốt các văn bản trên (Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI của Đảng Cộng sản năm 2011; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày

02/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”; Nghị quyết số

48-NQ/TW ngày 24/5/2005 “Về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”; v.v...)

3.1.2. Về phương diện lý luận và thực tiễn

Từ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm sở hữu nói

chung, tội cướp tài sản nói riêng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk của Tòa án

nhân dân, đặc biệt là trong việc định tội danh và quyết định hình phạt cho

Page 20: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

18

thấy, tình hình tội phạm nói chung (trong đó có tội cướp tài sản) vẫn diễn

biến phức tạp, gây thiệt hại về số người và tài sản mà Phòng PC45 Công

an tỉnh Đắk Lắk đã thống kê như sau:

Bảng 3.1. Tình hình tội phạm hình sự xảy ra trên địa bàn

tỉnh Đắk Lắk từ năm 2009 đến năm 2013

Năm Số vụ Thiệt hại

gười chế B hư ng Tiền ỷ ồng

2009 1.134 45 412 13.79

2010 1.068 41 319 31.33

2011 1.201 60 507 15.77

2012 1.268 34 516 17.26

2013 1.300 44 489 208.1

Tổng 5.971 224 2.243 286.25

(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của lực lượng Cảnh sát Điều tra tội phạm

về trật tự xã hội Công an tỉnh Đắk Lắk).

Bên cạnh đó, mặc dù không có nhiều tồn tại, hạn chế trong việc định

tội danh của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk (đã phân tích trong Chương 2

luận văn này) và việc thực hiện triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 và

Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 là yêu cầu cấp bách.

3.1.3. Về phương diện lập pháp hình sự

Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về định tội danh và tội cướp

tài sản chính là từng bước khắc phục hết một số tồn tại trong việc định tội

danh đối với tội cướp tài sản của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, từ đó

nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác định tội danh.

3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT

NAM NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH

ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN

3.2.1. Nhận xét chung

Việc đề ra những kiến nghị để nâng cao hiệu quả của việc định tội

danh nói chung và hoạt động định tội danh đối với tội cướp tài sản nói riêng

là điều cần thiết và mang tính chất lâu dài, không chỉ phục vụ cho công tác

xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, mà còn phục vụ cho cả nước, đặc

biệt thực hiện tốt quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án

nhân dân quy định tại Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

3.2.2. Những đề xuất sửa đổi, bổ sung cụ thể

Một là, Chương VII - “Quyết định hình phạt” của Bộ luật hình sự

Việt Nam cần sửa đổi, bổ sung như sau:

- Sửa tên gọi “Quyết định hình phạt” là “Định tội danh và quyết định

hình phạt” cho bao quát hoạt động của Tòa án. Hơn nữa, chỉ khi Tòa án

Page 21: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

19

định tội danh đúng thì mới quyết định hình phạt chính xác được. Hai hoạt

động này có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động của Tòa án;

- Bổ sung Điều 44a về “Định tội danh” trong đó nêu khái niệm, căn

cứ pháp lý của việc định tội danh cho người tiến hành tố tụng là cơ sở để

vận dụng chính xác các quy định của Phần các tội phạm Bộ luật hình sự.

Như vậy, những sửa đổi, bổ sung sẽ như sau:

Bộ luật hình sự hiện hành Kiến nghị sửa đổi, bổ sung

Chương VII. Quyết định hình phạt Chương VII. nh ội danh và quyết

định hình phạt

Chưa quy định. iề 44a. nh ội danh

1. nh tội danh là hoạ ộng th c

ti n áp dụng pháp lu t hình s nhằm

ối chiếu và kiể a ể xác nh s

phù hợp giữa các dấu hiệu của hành

vi nguy hiểm cho xã hội ược th c

hiện với các dấu hiệu của cấu thành

tội phạm cụ thể để xác định một người

có tội hay không và nếu có thì phạm

tội gì trong Phần các tội phạm Bộ lu t

hình s .

2. Căn cứ pháp ý của iệc nh ội

danh Bộ h nh s .

Hai là, Điều 133 Bộ luật hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản cần

sửa đổi, bổ sung như sau:

- Để bảo đảm tương xứng trong tương quan với tội hiếp dâm (Điều

111) với các dạng hành vi “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức

khắc…”, cũng như bảo đảm sự gối khung giữa các khung hình phạt của

Điều 133 Bộ luật hình sư, do đó, cần sửa khoản 1 “thì bị phạt tù từ ba năm

đến bảy năm” (trước là đến mười năm); còn khoản 2 là “từ bảy năm đến

mười lăm năm”;

- Khoản 2 nên bổ sung thêm tình tiết tăng nặng định khung hình phạt

“Đối với trẻ em” để tăng cường đấu tranh và xử lý nghiêm minh, kịp thời

hành vi cướp tài sản đối với người bị hại (nạn nhân) là trẻ em. Chẳng hạn,

vừa qua, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã có một số vụ án cướp tài sản của trẻ

em năm 2012 và năm 2013.

- Điểm a khoản 1 Điều 104 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác quy định tình tiết “Dùng hung khí nguy

hiểm...”; còn điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự về tội cướp tài sản

lại quy định tình tiết “Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy

hiểm khác”. Theo Đại từ điển tiếng Việt, “dùng” được hiểu là: “sử dụng,

Page 22: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

20

đem ra để làm gì”. Do đó, cần thống nhất là “Dùng vũ khí, phương tiện

hoặc thủ đoạn nguy hiểm” trong điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự

để xử lý răn đe các trường hợp phạm tội.

- Bổ sung cụm từ “khác” sau hàng loạt các tình tiết định khung “Gây

hậu quả nghiêm trọng” (điểm g khoản 2); “Gây hậu quả rất nghiêm trọng”

(điểm c khoản 3) và “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” (điểm c khoản 4

Điều 133 Bộ luật hình sự. Bởi lẽ, cụ thể hóa các hậu quả đã được ghi nhận

trong các tình tiết định khung hình phạt tương ứng (về tài sản, về thương

tật hoặc chết người), còn hậu quả nghiêm trọng hay rất nghiêm trọng, đặc

biệt nghiêm trọng ở đây là khác với các thiệt hại đã nêu, đó là về chính

sách, đường lối, dư luận xã hội, hậu quả xấu về an ninh, trật tự xã hội...

Như vậy, những sửa đổi, bổ sung sẽ như sau:

Bộ luật hình sự hiện hành Kiến nghị sửa đổi, bổ sung

Điều 133. Tội cướp tài sản

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng

vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi

khác làm cho người bị tấn công lâm vào

tình trạng không thể chống cự được

nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù

từ ba năm đến mười năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường

hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm

đến mười lăm năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc

thủ đoạn nguy hiểm khác;

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ

thương tật từ 11% đến 30 %;

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm

mươi triệu đồng đến dưới hai năm

triệu đồng;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường

hợp sau đây, thì bị phạt tù mười hai

năm đến hai mươi năm:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại

Điều 133. Tội cướp tài sản

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa

dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có

hành vi khác làm cho người bị tấn công

lâm vào tình trạng không thể chống

cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì

bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các

trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

bảy năm đến mười lăm năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Dùng vũ khí, phương tiện hoặc thủ

đoạn nguy hiểm khác;

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ

thương tật từ 11% đến 30 %;

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ

năm mươi triệu đồng đến dưới hai

năm triệu đồng;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.

h ối ới ẻ e .

3. Phạm tội thuộc một trong các

trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

ười ă năm đến hai mươi năm:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại

Page 23: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

21

cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ

thương tật từ 31 % đến 60 %;

b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai

trăm triệu đồng đến dưới năm trăm

triệu đồng;

c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường

hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười tám

năm đến hai mươi năm, tù chung thân

hoặc tử hình:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ

thương tật từ 61 % trở lên hoặc làm

chết người;

b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm

trăm triệu đồng trở lên;

c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5...

......

cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ

thương tật từ 31 % đến 60 %;

b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai

trăm triệu đồng đến dưới năm trăm

triệu đồng;

c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.

4. Phạm tội thuộc một trong các

trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

mười tám năm đến hai mươi năm, tù

chung thân hoặc tử hình:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ

thương tật từ 61 % trở lên hoặc làm

chết người;

b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm

trăm triệu đồng trở lên;

c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng

khác.

5...

......

Ba là, Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-

BCA-BTP ngày 25/2/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân

dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định

trong Chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm 1999

đã được ban hành từ rất lâu vẫn chưa có văn bản thay thế; trong đó hàng loạt

các dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng” (điểm g khoản 2); “gây hậu quả

rất nghiêm trọng” (điểm c khoản 3); “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”

(điểm c khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự) đòi hỏi có hướng dẫn cụ thể hơn.

Do đó, theo chúng tôi, trước hết cần giải thích thống nhất như sau:

- “Gây hậu quả nghiêm trọng” (điểm g khoản 2 Điều 133 Bộ luật

hình sự) được hiểu như sau: Đây là hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, có

mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và nhân quả. Hậu quả nghiêm

trọng được hiểu là thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới

500 triệu đồng. Hậu quả là gây thiệt hại về tài sản nhưng không phải là giá

trị tài sản bị chiếm đoạt mà là những thiệt hại về tài sản xảy ra ngoài giá trị

tài sản bị chiếm đoạt. Hoặc gây hậu quả phi vật chất như: gây hậu quả xấu

đối với việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây

ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội.

- “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” (điểm c khoản 3 Điều 133 Bộ luật

hình sự) được hiểu như sau: Đây là hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, có

Page 24: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

22

mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và nhân quả. Hậu quả nghiêm

trọng được hiểu là thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới

500 triệu đồng. Hậu quả là gây thiệt hại về tài sản nhưng không phải là giá

trị tài sản bị chiếm đoạt mà là những thiệt hại về tài sản xảy ra ngoài giá trị

tài sản bị chiếm đoạt. Hoặc gây hậu quả phi vật chất như: gây hậu quả xấu

đối với việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây

ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội.

- “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” (điểm c khoản 4 Điều 133

Bộ luật hình sự) được hiểu như sau: Đây là trường hợp gây thiệt hại về tài

sản có giá trị từ một tỷ 500 triệu đồng trở lên. Hậu quả là gây thiệt hại về

tài sản nhưng không phải là giá trị tài sản bị chiếm đoạt mà là những thiệt

hại về tài sản xảy ra ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Hoặc gây hậu quả

phi vật chất như gây hậu quả đặc biệt xấu đối với việc thực hiện đường

lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu

đến an ninh trật tự an toàn xã hội.

3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP KHÁC NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ

CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Như vậy, bên cạnh kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về

định tội danh và tội cướp tài sản, theo chúng tôi, để nâng cao chất lượng và

hiệu quả của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk

Lắk nói riêng và cả nước nói chung, cần có những kiến nghị khác như sau:

3.3.1. Giải pháp nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ

Con người luôn là trung tâm của mọi mối quan hệ xã hội, là chủ thể

xây dựng pháp luật và cũng là chủ thể áp dụng áp dụng pháp luật nói

chung, trong đó có pháp luật hình sự. Do đó, cần xây dựng một đội ngũ

cán bộ tư pháp nói chung, đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, đặc biệt là

Thẩm phán và Hội thẩm càng đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn, nghiệp

vụ vững vàng, có kinh nghiệm và có bản lĩnh chính trị vững vàng để đáp

ứng được yêu cầu đặt ra đó.

3.3.2. Giải pháp về công tác tổ chức, cán bộ

Song song với giải pháp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đòi hỏi

cần phải tuyển chọn đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, đặc biệt là đội

ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, vì đội ngũ này có vai trò, ý nghĩa

quyết định trong việc xử lý các vụ án.

3.2.3. Các giải pháp khác

Bên cạnh hai nhóm giải pháp chính đã nêu, để nâng cao chất lượng

và hiệu quả của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản, cần có nhóm

các giải pháp khác nữa sau đây:

Page 25: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

23

- Khẩn trương tuyển dụng và tuyển chọn đủ biên chế cán bộ, Thẩm

phán Tòa án các cấp;

- Tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực về an

ninh trật tự;

- Nâng cao vai trò của nhân dân trong phòng ngừa tội cướp tài sản;

- Xử lý nghiêm minh khi xét xử, vận dụng các tình tiết liên quan đến

việc định tội danh cũng như việc xác định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự;

- Nâng cao chất lượng phối hợp giữa Cơ quan Điều tra, Viện kiểm

sát và Tòa án trong giải quyết các vụ án cướp tài sản.

KẾT LUẬN

Tóm lại, qua nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ luật học: “ nh ội danh

ối ới ội cướp i sản heo h nh s iệ a n c s số iệ h c

i n a b n nh k k ” cho phép rút ra các kết luận chung như sau:

1. Định tội danh đúng, chuẩn xác không những góp phần quyết định

hình phạt công minh và đúng pháp luật, mà còn phân hóa trách nhiệm hình

sự và cá thể hóa hình phạt chính xác, qua đó bảo vệ các quyền và lợi ích

hợp pháp của công dân trong tư pháp hình sự. Nâng cao hiệu quả và chất

lượng của việc định tội danh và quyết định hình phạt là một trong những

chủ trương để bảo đảm tốt nguyên tắc xử lý đúng người, đúng tội và đúng

pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, tránh làm oan người vô tội.

2. Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy, hiện nay, các cơ quan

tiến hành tố tụng còn gặp khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh,

trong đó có tội cướp tài sản (tuy không nhiều). Tuy nhiên, thời gian gần

đây, tội phạm này đang có diễn biến phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực

đòi nợ, xiết nợ do chủ tài sản không trả nên nhiều người đã manh động,

tìm đến việc dùng vũ lực để đòi nợ; hoặc còn có sự nhầm lẫn giữa tội cướp

tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản, trong việc chuyển hóa tội phạm hay với

tội chống người thi hành công vụ; giáp ranh giữa trường hợp có tội với

không phạm tội; v.v… từ đó dẫn đến việc áp dụng mức và loại hình phạt

không đúng, qua đó gây dư luận không tốt và làm giảm hiệu quả công tác

đấu tranh phòng, chống tội phạm.

3. Nhận thức và xem xét vấn đề quan trọng đó, Tòa án nhân dân tỉnh

Đắk Lắk không ngừng đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng giải quyết,

xét xử các loại vụ án, phấn đấu không để xảy ra việc kết án oan người

không có tội và bỏ lọt tội phạm, hạn chế tới mức thấp nhất các bản án, quyết

định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán, bảo đảm các quyết định

Page 26: LHS-Bùi Quốc Hà-Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo pháp luật

24

của Tòa án đúng pháp luật, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, có sức thuyết phục cao,

có tính khả thi và được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ. Năm 2009, tổng

số vụ án và bị cáo phạm tội cướp tài sản cả ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm như

sau: 48 vụ án và 131 bị cáo; năm 2010 có 39 vụ án và 93 bị cáo; năm 2011

có 30 vụ án và 78 bị cáo; năm 2012 có 32 vụ án và 82 bị cáo và năm 2013

có 42 vụ án và 137 bị cáo. Về cơ bản, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm của

tỉnh Đắk Lắk đã định tội danh đúng và quyết định hình phạt chính xác,

nhưng vẫn còn một số ít trường hợp áp dụng không đúng, chưa xem xét đầy

đủ tính chất, mức độ phạm tội nên dẫn đến việc định tội danh còn thiếu

chính xác, nhầm lẫn, sửa án, qua đó, ít nhiều đã làm giảm hiệu quả công tác

đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội cướp tài sản nói riêng, giảm

uy tín của Tòa án cũng như chưa bảo đảm quyền và lợi ích của người phạm

tội. Trung bình một năm trong thời gian 05 năm (2009-2013), Tòa án nhân

dân tỉnh Đắk Lắk xét xử 38,3 vụ án và 104,2 bị cáo về tội cướp tài sản. Căn

cứ vào nội dung và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, về cơ bản Tòa

án các cấp đã xét xử đúng người, đúng pháp luật và đúng tội danh. Do đó,

trong 05 năm này, việc thay đổi tội danh có 02 vụ án và 05 bị cáo, chiếm tỷ

lệ tương đối ít, chiếm tỷ lệ là 0,92 % số vụ án và 0,83 % số bị cáo.

4. Tỉnh Đắk Lắk nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên. Trong những

năm gần đây, dân số của Đắk Lắk có biến động do tăng cơ học, chủ yếu là

di dân tự do, điều này đã gây nên sức ép lớn cho tỉnh về giải quyết đất ở,

đất sản xuất và các vấn đề đời sống xã hội, an ninh trật tự và môi trường

sinh thái, trong đó có vấn đề tội phạm và đặc biệt các vụ án cướp tài sản.

Vì vậy, yêu cầu tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về định tội

danh và tội cướp tài sản với tư cách là căn cứ pháp lý phục vụ việc đấu

tranh phòng, chống tội phạm là rất cần thiết.

5. Tóm lại, bên cạnh giải pháp pháp luật hình sự Việt Nam về định

tội danh và tội cướp tài sản, thì từ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội

phạm xâm phạm sở hữu nói chung, tội cướp tài sản nói riêng trên địa bàn

tỉnh Đắk Lắk của Tòa án nhân dân, đặc biệt là trong việc định tội danh và

quyết định hình phạt, đòi hỏi phải có những giải pháp, kiến nghị khác để

nâng cao chất lượng của việc định tội danh để góp phần thực hiện tốt Hiến

pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân, cũng như tiếp tục

thực hiện Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Do đó, luận văn đã chỉ

ra những giải pháp về nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; về công

tác tổ chức, cán bộ và các giải pháp khác, qua đó góp phần nâng cao hiệu

quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội cướp tài sản

nói riêng, nâng cao uy tín và vị thế của ngành Tòa án nhân dân nói chung,

Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk nói riêng.