Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới, ngành lý luận chính trị tập
trung nhiều vào loại hình nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu phát triển.
Điều đó phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn đất nước. Nhưng trải qua hơn 20
năm đổi mới, chúng ta lại đứng trước một mâu thuẫn là thiếu những nghiên
cứu cơ bản trong lý luận chính trị. Vì vậy để lý luận chính trị của chúng ta
tiếp tục phát triển đủ sức giải quyết các vấn đề mà thực tiễn đặt ra cần phải
đầu tư phát triển nghiên cứu cơ bản cho từng bộ môn khoa học trong điều
kiện mới: điều kiện của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại và
quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Trong những năm trước mắt, cần phải đầu
tư xây dựng hệ thống lý thuyết mới phục vụ cho hoạt động lý luận. Hệ
thống lý thuyết này phải dựa vào các nguyên lý của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các thành tựu của khoa học nhân loại từ
cổ đại đến nay và các vấn đề thực tiễn hiện nay. Lý luận đó sẽ làm cơ sở
khoa học, phương pháp luận cho các hoạt động lý luận chính trị của đất
nước.
Để góp phần xây dựng cơ sở lý thuyết cho việc nhận thức các quan hệ
và quy luật kinh tế – xã hội hiện đại, chúng tôi cho rằng, cần phải tìm hiểu
nguồn gốc của các quan hệ và quy luật xã hội. Nó hình thành từ đâu và làm
cách nào để nhận thức đúng các quan hệ và quy luật xã hội. Đây là một vấn
đề rất khó, nhưng nếu giải quyết được thì nó giúp cho chúng ta có được
một công cụ lý thuyết để nhận thức tốt hơn các quan hệ và quy luật xã hội
hiện đại và do đó, chúng ta sẽ có được cách nhìn khoa học hơn về các vấn
đề chính trị. Vì lý do nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề “Cơ chế hình thành
1
và phương pháp nhận thức các quan hệ xã hội” làm đề tài khoa học cấp bộ
của mình. Đây là loại hình nghiên cứu cơ bản có định hướng, nghĩa là
nghiên cứu việc hình thành và phương pháp nhận thức các quan hệ xã hội
khác nhau phục vụ cho ngành khoa học lý luận chính trị ở Việt Nam. Nếu
như chúng ta nắm được cơ chế hình thành các quan hệ và quy luật xã hội
chắc chắn thì việc nhận thức các vấn đề chính trị ở nước ta hiện nay sẽ trở
nên thuận lợi hơn rất nhiều.
2. Tình hình nghiên cứu
Có thể nói, vấn đề về quan hệ xã hội và cơ chế hình thành các quan hệ
xã hội đã được nghiên cứu từ rất sớm.
- Các nhà thông thái phương Tây cổ đại như Platon, Aristôt, … đã
nghiên cứu về quan hệ giữa con người với con người. Theo Aristôt con
người là động vật chính trị, xã hội, tức là loại động vật có quan hệ xã hội.
- Các nhà thông thái phương Đông như Lão Tử, Khổng Tử, Tuân Tử,
Mạnh Tử, Trang Tử cũng đã nghiên cứu rất sâu về mối quan hệ giữa con
người với con người, tức là mối quan hệ xã hội. Họ đã cố gắng đưa ra
những cơ chế nhằm giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa con người với con
người trong xã hội, tức là quan hệ xã hội.
- Các nhà triết học phương Tây từ thời đại Phục Hưng đến G.Hêghen
và Phoiơbắc cũng cố gắng tìm hiểu và giải quyết mối quan hệ giữa con
người với con người. Đặc biệt là Hêghen đã rất chú ý đến việc giải quyết
mối quan hệ con người với con người thông qua việc giải quyết các quan
hệ lợi ích. Tuy vậy, các học giả trước Mác đều chưa nhìn thấy được quan
hệ của con người và con người trong xã hội (tức là quan hệ xã hội) bị chi
phối bởi các quan hệ lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế.
C. Mác và Ph.Ăngghen là những người đặt nền móng thật sự khoa học
2
cho việc nghiên cứu các quan hệ xã hội. Mác cho rằng, tất cả các quan hệ
xã hội đều được hình thành trên cơ sở của các quan hệ kinh tế. Trước khi
con người nghĩ đến việc làm chính trị, pháp luật, khoa học, nghệ thuật…
thì phải thỏa mãn các nhu cầu ăn, mặc, ở… Trong tác phẩm hệ tư tưởng
Đức: Nguồn gốc gia đình và chế độ sở hữu và nhiều tác phẩm khác, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã phân tích các quan hệ xã hội dựa trên sự giải quyết các
vấn đề về lợi ích mà trước hết là lợi ích kinh tế. Trong công trình khoa học
“Con người và phát triển con người trong quan niệm của C.Mác và
Ph.Ăngghen” của Viện nghiên cứu con người do Hồ Sĩ Quý chủ biên đã
tập hợp khá nhiều câu nói nổi tiếng của C.Mác và Ph.Ăngghen về quan hệ
xã hội.
Gần đây đã có rất nhiều công trình bàn về các quan hệ xã hội.
Tạp chí Triết học có rất nhiều bài viết về quan hệ xã hội và cơ chế
hình thành quan hệ xã hội. Hiện nay có rất nhiều học thuyết bàn về con
người và quan hệ xã hội, đáng chú ý nhất là:
- Lý thuyết hành vi: căn cứ vào hành vi để đánh giá bản chất con
người.
- Lý thuyết hành động: đặt người nghiên cứu vào thế giới nội tâm con
người để tìm ra bản chất của nó.
- Lý thuyết hệ thống coi xã hội loài người là một hệ thống phức tạp
gồm nhiều đẳng cấp khác nhau, quốc gia, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, địa
phương, dòng họ, gia đình, …
- Lý thuyết lịch sử nghiên cứu quan hệ xã hội trong lịch sử tự nhiên
của nó.
- Lý thuyết tương tác nghiên cứu hoạt động của con người trong mối
quan hệ cộng đồng.
3
- Lý thuyết chức năng coi sự vận dụng chung của xã hội theo những
chức năng khác nhau, …
Năm 2001, Nxb Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách “Nhân học –
một quan điểm về tình trạng nhân sinh” của Emily A.Schultz và Robert
H.Lavenda do Phan Ngọc Chiến và Hồ Liên biên dịch. Trong cuốn sách
đó, chúng ta thấy rất nhiều điểm mới về quan hệ xã hội. Chúng ta có thể kể
ra rất nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề quan hệ xã hội. Tuy vậy, chúng
tôi chưa tìm được tài liệu nào nghiên cứu sâu và chỉ rõ được cơ chế hình
thành các quan hệ xã hội. Trong quá trình nghiên cứu khoa học của bản
thân, chúng tôi có một ý tưởng là các quan hệ xã hội hình thành theo một
cơ chế sau đây:
Nhu cầu – lợi ích – ước muốn, động cơ - hành vi – xung đột – các
quan hệ xã hội – các quy luật xã hội. Chúng tôi muốn tìm hiểu mối liên hệ
giữa nhu cầu con người với lợi ích và các quan hệ xã hội. Nếu tìm ra mối
liên hệ này sẽ giúp giải quyết tốt hơn các mâu thuẫn và xung đột trong xã
hội. Chúng tôi cho rằng, đây là một ý tưởng khá mới và cần phải nghiên
cứu để làm sáng tỏ. Một số tác giả như Lê Thị Kim Chi, Hà Bá Thâm,
Nguyễn Thị Hương Tràm, Nguyễn Linh Khiếu … đã có những nghiên cứu
về ý tưởng nêu trên, nhưng chưa sâu. Chúng tôi muốn tìm hiểu mối quan
hệ giữa nhu cầu và lợi ích của con người trong xã hội. Đặc biệt khái niệm
lợi ích là khái niệm rất quan trọng, nhưng chưa được nghiên cứu sâu. Đây
là khái niệm công cụ của đề tài này.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm ra mối quan hệ giữa các khái niệm nhu cầu – lợi ích - động cơ -
quan hệ xã hội – quy luật xã hội làm cơ sở khoa học và thực tiễn để nhận
thức và giải quyết các vấn đề xã hội đương đại.
4
4. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Đây là vấn đề phức tạp và nhạy cảm, nên việc nghiên cứu gặp rất
nhiều khó khăn. Do hạn chế về thời gian cũng như năng lực chúng tôi chỉ
mong muốn làm rõ các khái niệm như giá trị, nhu cầu, lợi ích, động cơ,
quan hệ xã hội và quy luật xã hội; đồng thời, cố gắng tìm ra mối liên hệ
giữa các khái niệm này. Mục tiêu là tìm ra được cơ chế hình thành các
quan hệ xã hội và phương pháp nhận thức chúng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở khoa
học để xem xét những vấn đề đặt ra. Khi đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề
cụ thể, chúng tôi sử dụng liên hoàn các phương pháp: trừu tượng hóa, cụ
thể hóa, logic – lịch sử, quy nạp, diễn dịch, phân tích – tổng hợp đối chiếu
– so sánh và các phương pháp nghiên cứu lý thuyết là chính.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Về phương diện lý thuyết: đây là loại hình nghiên cứu cơ bản và có
vai trò làm sáng tỏ mối liên hệ giữa các khái niệm nhu cầu – lợi ích - động
cơ - hành vi và quan hệ xã hội. Nếu kết quả nghiên cứu tốt sẽ góp phần xây
dựng cơ sở lý thuyết để nhận thức tốt hơn các quy luật và quan hệ xã hội.
- Về phương diện thực tiễn: hiện nay lý luận của chúng ta đang đứng
trước những nhiệm vụ to lớn là phải giải thích được các quy luật của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu như không có một hệ
thống lý thuyết khoa học làm cơ sở thì chúng ta rất khó luận giải được các
quy luật ấy. Đề tài này sẽ góp phần xây dựng cơ sở phương pháp luận để
nhận thức các quy luật xã hội hiện đại.
5
Phần 1
CƠ CHẾ HÌNH THÀNH CÁC QUAN HỆ VÀ QUY LUẬT XÃ HỘI
1. Quan hệ và quy luật xã hội hình thành từ hoạt động thực tiễn
của con người
Từ lâu, các nhà thông thái, các nhà khoa học đều tập trung trí tuệ để
cố gắng nhận thức các quy luật xã hội nhằm xây dựng cơ sở khoa học cho
việc ứng xử và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Tuy vậy
cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào trình bày đầy đủ cơ sở lý
luận cho việc giải quyết các mâu thuẫn trong xã hội. Vấn đề là ở chỗ các
quan hệ và quy luật xã hội hình thành từ đầu và chúng ta cần phải nghiên
cứu chúng từ cơ sở nào? Trong công trình khoa học này, chúng tôi cố gắng
đưa ra một cách tiếp cận các quan hệ và quy luật xã hội để góp phần nhỏ bé
xây dựng cơ sở lý luận cho việc giải quyết vấn đề đặt ra.
Qua nghiên cứu của mình, chúng tôi đã rút ra một nhận xét là các
quan hệ xã hội và quy luật xã hội được hình thành trong hoạt động thực
tiễn của loài người. Đó là quá trình con người đi tìm kiếm, sáng tạo, sản
xuất và trao đổi các giá trị vật chất và tinh thần để thỏa mãn các nhu cầu
của mình. Quan hệ xã hội và quy luật xã hội sau khi hình thành mang tính
khách quan, nhưng nó lại được thực hiện thông qua hoạt động chủ quan
của con người. Con người xuất phát từ các nhu cầu của mình mà thực hiện
6
quá trình trao đổi chất với tự nhiên và quá trình chiếm hữu tự nhiên. Trong
quá trình đó, con người tác động vào tự nhiên, hiệp tác với nhau để cải tạo
tự nhiên và từ đó hình thành nên các quan hệ xã hội. Vì vậy, muốn tìm hiểu
cơ chế hình thành các quan hệ xã hội, chúng ta phải bắt đầu nghiên cứu các
khái niệm cơ bản liên quan đến quá trình hình thành chúng như: khái niệm
xã hội, khái niệm giá trị, khái niệm nhu cầu, khái niệm lợi ích, v.v.. Thông
qua việc tìm hiểu các khái niệm này và mối liênh ệ giữa chúng, ta có thể
nhận thức sâu hơn về cơ chế hình thành các quan hệ xã hội.
Trước hết, chúng ta cần thống nhất với nhau về một số khái niệm khoa
học như xã hội, hoạt động thực tiễn, v.v..
2. Các khái niệm công cụ cơ bản
2.1. Khái niệm xã hội
Nói đến xã hội là nói đến một quần thể, bao gồm nhiều nhóm hoặc
nhiều tập hợp cá thể khác nhau. Xã hội loài người chính là một tập hợp bao
gồm nhiều con người, nhiều dân tộc cùng chung sống. Tuy nhiên, xã hội
loài người không đơn thuần chỉ là những con người đơn lẻ, mà nó còn bao
gồm các mối quan hệ xã hội và quy luật của nó, được hình thành và phát
triển song song với xã hội loài người. Có hiểu rõ được vấn đề này, chúng ta
mới có thể giải thích được tại sao lại có sự khác biệt giữa người này với
người kia, có mối quan hệ hình thành giữa nhóm người này với nhóm
người kia, tại sao lại phải hành động như thế này mà không phải như thế
kia… Có thể nói, quan hệ xã hội được hình thành trong hoạt động thực tiễn
của chúng ta và cùng với sự phát triển của xã hội. Do vậy, việc nhận thức
các quan hệ xã hội rất quan trọng đối với mỗi người, bởi nếu chúng ta
không nhận thức tốt được các quan hệ xã hội thì các hoạt động của bản
thân chúng ta chỉ là các hoạt động tự phát mà không phải các hoạt động tự
7
giác. Nhờ có nhận thức tốt về các quy luật và quan hệ xã hội thì chúng ta
mới có thể nâng cao chất lợng cuộc sống.
Tổng hợp rất nhiều định nghĩa khác nhau của các nhà khoa học trong
đó có C.Mác và Ph.Ăngghen có nhiều ý tưởng sáng tạo, chúng tôi cho
rằng, định nghĩa sau đây phản ánh khá đầy đủ nội hàm của khái niệm xã
hội: “Xã hội là một hệ thống nhiều người tác động lẫn nhau qua một quá
trình lịch sử lâu dài của hoạt động theo đổi mục đích của mỗi người và mọi
người”1. Đã có rất nhiều tác giả định nghĩa về khái niệm xã hội, vì vậy
chúng tôi không đi sâu phân tích về khái niệm này mà chỉ nêu một định
nghĩa ước lệ như vậy. Trong xã hội có con người hoạt động theo đuổi
những nguyện vọng và mục đích của mình. Trong khi theo đuổi mục đích
của mình, họ liên kết với nhau, tác động lẫn nhau để hình thành các quan
hệ và quy luật xã hội. Nói tóm lại, quan hệ và quy luật xã hội hình thành ở
bên trong và cùng với sự phát triển xã hội, tất cả là sản phẩm của hoạt động
thực tiễn của con người.
Hoạt động thực tiễn của con người, theo chúng tôi là tất cả những hoạt
động của con người nhằm tìm kiếm các giá trị vật chất và tinh thần để thoả
mãn nhu cầu của mình. Trong quá trình tìm kiếm các giá trị vật chất để thoả
mãn nhu cầu sinh hoạt của mình, con người dựa vào tự nhiên là thiên nhiên
thứ nhất của mình. Tự nhiên cung cấp cho con người thức ãn, không khí
,môi trường để con người tồn tại và phát triển . Nhưng tự nhiên vừa có
những điều kiện cho con người tồn tại và phát triển, vừa tiềm ẩn những lực
lượng phá hoại đe doạ sự tồn tại của con người như: thú dữ, thiên tai, đói,
rách,…Khi các nguồn thực phẩm trong môi trường bị cạn kiệt con người bát
đầu sư dung công cụ lao động để tác động vào tự nhiên thay đổi các hình
thái vật chất của nó tạo thêm thưc ãn cho bản thân. Để khắc phục những lực
1 C.Mác – Ph.Ănghgen, Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H., 1995, tr.141.
8
lượng phá hoại của tự nhiên và nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, con
người biết liên kết với nhau thành một lực lượng mạnh hơn nhiều so với mỗi
cá nhân và đó là cơ sở để hình thành xã hội. Khi xã hội xuất hiện thì nó trở
thành thiên nhiên thứ hai của con người. Trong thiên nhiên thứ hai có những
điều kiện xã hội tốt để con người tồn tại. Như vậy, con người sống trong 2
thiên nhiên: thiên nhiên – tự nhiên và thiên nhiên – văn hóa. Cái thứ nhất
thường là điều kiện chủ yếu để cung cấp cho con người các giá trị vật chất,
cái thứ hai là điều kiện chủ yếu để cung cấp cho con người các giá trị tinh
thần. Con người gắn vào xã hội như thai nhi gắn vào cơ thể mẹ. Tuy vậy,
con người không chỉ biết khai thác các giá trị vật chất và tinh thần trong tự
nhiên và trong xã hội mà còn biết cải tạo, làm phong phú cho cả hai cơ sở
nguồn sống cho bản thân mình. Vì vậy, để hiểu rõ bản chất của quan hệ,
con người và con người chúng ta phải bắt đầu bằng việc làm sáng tỏ các
khái niệm cơ bản như: giá trị, nhu cầu, lợi ích và động lực xã hội, v.v..
2.2. Khái niệm giá trị
Giá trị là một khái niệm rất rộng và rất khó xác định nội hàm của nó.
Đã có rất nhiều tác giả nêu bản chất của khái niệm này. Song, cho đến nay,
cũng như các khái niệm khoa học khác, giá trị vẫn là một khái niệm có
nhiều cách hiểu khác nhau.
Giá trị cần nói ở đây là sự đánh giá của cá nhân hay một cộng đồng
người về những cái mà họ suy tôn và mong muốn có được như: cái đúng,
cái tốt, cái đẹp, cái có ích, v.v.. Ngược lại, những cái mà họ không mong
muốn như: cái sai, cái ác, cái xấu, cái có hại, v.v… được coi là những phản
giá trị. Như vậy, xét về mặt nguyên tắc, giá trị là cái mang tính xã hội, trở
thành đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học như: triết học,
kinh tế học, mỹ học, văn hóa học, xã hội học, v.v..
9
Đề tài khoa học- công nghệ cấp nhà nước KX.07.04 “Những đặc trưng
và xu thế phát triển nhân cách của con người Việt Nam trong sự phát triển
kinh tế – xã hội” do PGS, TS Nguyễn Quang Uẩn làm chủ nhiệm đã hệ
thống hóa được rất nhiều quan điểm, nhận thức về khái niệm giá trị. Chúng
tôi xin tóm lược những nội dung chính của bản Báo cáo tổng quan của đề
tài đó và xin bổ sung thêm một số quan điểm của các học giả khác để làm
nổi bật những khía cạnh khác nhau của khái niệm giá trị như sau:
Quan niệm triết học về giá trị trong lịch sử
Trong lịch sử tư tưởng triết học về bản chất giá trị đã được nghiên
cứu từ rất lâu nhằm giải quyết một số vấn đề phức tạp của triết học có liên
quan đến các quan hệ xã hội.
- Lão Tử đã từng nói: ”Muốn lấy thì cố mà cho” lấy và cho ở đây tức
là việc trao đổi các giá trị, bao hàm cả giá trị vật chất và tinh thần.
- Những học thuyết duy tâm khách quan giải thích giá trị là bản chất
thế giới bên kia, ngoài không gian và thời gian. Đại diện cho phái này là
chủ nghĩa Cant mới, những học giả chủ nghĩa Tomas mới và thuyết trực
giác, v.v..
- Các nhà lý luận duy tâm chủ quan coi giá trị chỉ là hiện tượng của ý
thức, biểu hiện của một trạng thái tâm lý, của thái độ chủ quan của con
người đối với khách thể mà người đó đánh giá. Đại diện phái này có chủ
nghĩa thực chứng lôgic, cảm xúc luận, phân tích ngôn ngữ học trong đạo
đức học.
- Những học thuyết tự nhiên chủ nghĩa về giá trị giải thích: giá trị là
biểu hiện của những nhu cầu tự nhiên của con người hoặc của những quy
luật tự nhiên nói chung. Thuộc về phái này có đạo đức của mục đích luận
vũ trụ, đạo đức học tiến hóa, thuyết lợi ích.
10
Cách hiểu giá trị của nhà triết học cổ điển Đức E.Căng (1724-1804)
như sau: vật nào có thể đem trao đổi được đều có một giá, duy có một số
vật không lấy gì thay thế được thì có một giá trị. Ví dụ như chiếc bàn có
một giá trị còn tình bạn, tình yêu, lòng yêu nước, kiệt tác nghệ thuật, … là
những cái vô giá - tức là những giá trị xã hội.
Một số từ điển trong và ngoài nước ta cho rằng, giá trị được dùng để
chỉ phẩm chất tốt hay xấu, tác dụng lớn hay nhỏ của sự vật hay của con
người, cái làm cho sự vật trở nên có ích, đáng quý, là ý nghĩa tích cực hay
tiêu cực của khách thể đối với con người, v.v. được phản ánh trong các
nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, lý tưởng, tâm thế, mục đích.
Theo tài liệu của Bộ Văn hóa Giáo dục Philippin: một vật có giá trị
khi nó được thừa nhận là cái có ích và cần có. Tiền bạc, nhà cửa có giá trị
vì chúng được công nhận là cái có ích và việc mong muốn có được những
thứ đó đã ảnh hưởng đến thái độ hành vi của con người. Không chỉ có hàng
hóa vật chất mà cả lý tưởng và những khái niệm đều có giá trị như sự vật,
lương thiện và công lý.
Nhà nhân học Hoa Kỳ, C.Cơlắckhôn lại cho rằng: Giá trị mang trong
bản thân nó những khái niệm bộc lộ hay thầm kín về cái ao ước riêng của
một cá nhân hay một nhóm người. Những quan niệm ấy chi phối sự lựa
chọn các phương thức, phương tiện và mục đích khả thi của hành động1.
Cùng với quan điểm trên, Sunesabura Akiguchi, người sáng lập ra Hội
Giáo dục giá trị Nhật Bản đã coi giá trị là sự thể hiện có tính định hướng về
mối quan hệ giữa chủ thể đánh giá và đối tượng của sự đánh giá. Trong khi
đó, hai nhà khoa học người Mỹ, Giêm Piplơ và Garic Balây lại cho rằng:
1 Báo cáo Tổng quan đề tài khoa học – Công nghệ cấp nhà nước KX/07.04 “Những đặc trưng và xu thế phát triển nhân cách của con người Việt Nam trong sự phát triển kinh tế – xã hội” do PGS, TS Nguyễn Quang Uẩn làm Chủ nhiệm.
11
Giá trị là ý tưởng về các mục đích hay lối sống của một cá thể, nó được
chia sẻ trong một nhóm người hay toàn xã hội, được cá thể, nhóm hoặc
toàn xã hội mong muốn hay được coi là cái có nghĩa. Đó là những phẩm
chất cơ bản cần phải có để bảo đảm con đường sống, cái chuẩn mực tối
thượng chỉ đạo mọi hoàn cảnh, thực tiễn.
Như vậy, dưới góc độ của triết học, giá trị là quan niệm về cái được
chia sẻ trong một cộng đồng xã hội, việc nghiên cứu giá trị giúp ta nắm bắt
được những động lực tiềm ẩn trong đời sống xã hội và định hướng cho sự
phát triển xã hội.
Quan điểm văn hóa về giá trị
Nhà văn hóa học Ec-hác-dôn (người Đức) đã đưa ra định nghĩa về giá
trị như sau: Trong sản xuất vật chất cũng như trong sản xuất tinh thần,
trong việc xây dựng các quan hệ xã hội cũng như việc giáo dục và đào tạo
chính bản thân con người, giá trị là tất cả những gì góp phần thúc đẩy sự
phát triển năng lực sản xuất của cá nhân và của xã hội, thúc đẩy hoạt động
tích cực của cá nhân và của xã hội trên lĩnh vực sản xuất vật chất cũng như
trên lĩnh vực xây dựng các quan hệ xã hội, chính trị, nghệ thuật, khoa học
và cả sự nghiệp giáo dục, đào tạo1.
Tại công trình nghiên cứu về giá trị của GS Trần Văn Giàu và GS
Phạm Minh Hạc, dưới góc độ văn hóa đều quan niệm: giá trị là tính có ý
nghĩa tích cực, tốt đẹp, đáng quý và có ích của nhiều đối tượng trong mối
tương quan với các chủ thể2.
Giá trị gắn liền với cái tốt, cái hay, cái đúng, cái đẹp nhưng không nên
và cũng không thể “đạo đức hóa” toàn bộ các giá trị. Bởi lẽ, chỉ riêng cái
1 Giá trị cuộc sống và giá trị văn hóa của Ec-Hác-Dôn (người Đức), Nxb SGK Mác – Lênin, 1982, tr.28.2 Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb thành phố HCM, 1992.
12
tốt đã là thuộc tính của rất nhiều những giá trị khác nhau chứ không đơn
thuần là thuộc tính riêng của đạo đức3.
Quan niệm tâm lý về giá trị
Theo quan điểm của V.Wundt, Ph.Bren-tano, A.Meinong: “Giá trị
được hiểu như bất kỳ một vật nào có ý nghĩa đối với con người”4.
Quan điểm kinh tế về giá trị
Dưới góc độ kinh tế, giá trị là sức mạnh của một lượng hàng hóa này
hay của một vật này có thể tương đương với một lượng hàng hoá khác khi
trao đổi. Nói đến giá trị của hàng hoá là nói đến quan hệ trao đổi.
Giá trị là cơ sở của trao đổi, còn giá trị trao đổi lại là hình thức biểu
hiện của giá trị. Giá trị của hàng hóa biểu hiện mối quan hệ sản xuất giữa
những người sản xuất hàng hóa, nghĩa là giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ
sinh ra và tồn tại trên cơ sở của kinh tế hàng hóa.
Sau khi nghiên cứu rất nhiều định nghĩa về giá trị, chúng ta có thể nêu
một cách khái quát nội hàm của khái niệm này như sau:
Giá trị là thuộc tính của các sự vật hay hiện tượng có khả năng thoả
mãn một đòi hỏi của con người hay của cộng đồng người.
Định nghĩa này giống như định nghĩa của C.Mác về giá trị sử dụng
của hàng hóa trong Bộ Tư bản. C.Mác viết: “Hàng hoá trước hết là vật
dụng bên ngoài, là một vật nhờ có những thuộc tính của nó mà thoả mãn
được một loại nhu cầu nào đó của con người”1, hay “tính có ích của một
vật làm cho vật đó trở thành một giá trị sử dụng”2. Tính hữu ích này, John
3 Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển xã hội – kinh tế, Nxb KH-XH, 1996.4 Nguyễn Huy Hoàng (Viện Văn hóa): Triết học, văn hóa, giá trị và con người, Nxb VH-TT.1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 23, Nxb CTQG. H. 1993, tr.61.2 Như trên, tr.62.
13
Locke gọi là giá trị tự nhiên, C. Mác gọi là giá trị sử dụng, còn theo chúng
tôi nó chính là giá trị của các sự vật hiện tượng, trong đó có hàng hóa. Theo
định nghĩa đó của chúng tôi thì bất cứ một sự vật hay hiện tượng nào đều
được xem là có giá trị, miễn là nó có những thuộc tính có thể thỏa mãn một
đòi hỏi nào đó của con người. Giá trị sử dụng và giá trị trao đổi đều là giá
trị, vì nó thoả mãn đòi hỏi tiêu dùng và nhu cầu trao đổi của con người. Giá
trị của một sự vật hay hiện tượng vừa bị quy định bởi các thuộc tính của
chúng, vừa tồn tại trong mối quan hệ với những đòi hỏi của con người. Một
vật, một hiện tượng có giá trị với người này lại có thể không có giá trị với
người khác , Thậm chí một sự vật hay một hiện tượng lúc này có giá trị đối
với người này hay người khác nhưng sau đó lại không còn giá tri nữa do
nhu cầu đã thay đổi . Tuy vậy, có rất nhiều sự vật và hiện tượng có giá trị
chung cho một cộng đồng người hay cho một xã hội hoặc chung cho toàn
nhân loại. Trong mỗi giá trị đều chứa đựng những yếu tố nhận thức, những
đòi hỏi cá nhân, những tình cảm, những điều kiện khách quan cụ thể. Bản
tính của sự vật tuy là yếu tố cơ bản quy định giá trị của nó, nhưng không
phải quy định một cách hoàn toàn mà giá trị còn tồn tại trong mối quan hệ
của đòi hỏi của con người cụ thể trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Con người để tồn tại và phát triển, luôn luôn cần đến một hệ giá trị.
Hệ giá trị này luôn luôn thay đổi tuỳ theo từng hoàn cảnh nhất định. Trong
một điều kiện xã hội nhất định luôn tồn tại một loạt giá trị cơ bản mà đa số
nhân dân đều mong muốn có được. Những giá trị cơ bản này tạo thành
thang giá trị xã hội như của cải, gia đình, tình yêu, tiền bạc, đất đai, trí tuệ,
đạo đức, danh dự, v.v.. Mặt khác, các thời đại lại có những thang giá trị
khác nhau và vị trí quan trọng của các loại giá trị cơ bản luôn đổi chỗ cho
nhau trong thang giá trị. Người ta đã xác định một người bình thường cần
phải có một số những giá trị cơ bản sau đây: phảI có sưc khoẻ , phảI có
14
việc làm và thu nhập đảm bảo cuộc sống , phảI có máI ấm gia đình , phảI
có tiền dự trữ phòng khi cần , phảI có bạn bè để chia sẻ buồn vui, phảI biết
cách ứnh sử hài hoà với tự nhiên và xã hội …. Để tiện cho việc nghiên
cứu các thang giá trị, các nhà khoa học đã phân loại giá trị theo những tiêu
thức khác nhau. Chúng tôi xin nêu một số cách phân loại giá trị như sau:
- Cách phân loại thứ nhất người ta chia giá trị thành hai loại giá trị
vật chất và giá trị tinh thần. Các giá trị vật chất là những giá trị thoả mãn
chủ yếu nhu cầu sinh học của con người như của cải, nhà cửa, v.v.. Các giá
trị tinh thần thoả mãn những nhu cầu mang tính xã hội của con người. Ví
dụ như tình cảm giữa hai người là một giá trị.
- Cách phân loại thứ hai: giá trị có sẵn và giá trị tạo ra.
+ Giá trị có sẵn là những giá trị đã được tạo ra cho một chủ thể nào đó
mà anh ta không cần phải lao động để tạo ra nó. Ví dụ như: không khí,
cảnh quan thiên nhiên, rừng nguyên sinh, đất đai, v.v..
+ Giá trị tạo ra là những giá trị được hình thành trong quá trình lao
động, sản xuất của con người hay nói một cách khái quát là nó được tạo ra
trong hoạt động thực tiễn của con người. Ví dụ như máy móc, nhà cửa, tiền
bạc, v.v..
Giữa giá trị có sẵn và giá trị tạo ra cũng không có một ranh giới rõ rệt,
vì một giá trị là có sẵn của người này lại là giá trị do người khác tạo ra, giá
trị có sẵn của thế hệ này lại là giá trị do thế hệ trước tạo ra, v.v..
- Cách phân loại thứ ba: giá trị và phản giá trị hay giá trị tích cực và
giá trị tiêu cực.
Giá trị là những điều người ta cần đến như một đòi hỏi như tiền bạc,
của cải, không khí, trí tuệ. Đây là những thuộc tính có tác dụng tích cực đối
với con người.
15
Phản giá trị là những cái người ta không cần hoặc không muốn có
nhưng vẫn phải nhận như cái ác, cái xấu, cái giả, Phản giá trị có tác dụng
tiêu cực đối với con người.
Trong cuộc sống luôn tồn tại giá trị và phản giá trị như chân – giả,
thiện – ác, lợi – hại, đẹp – xấu. Tuy vậy, cũng không có ranh giới rõ ràng
về giá trị và phản giá trị. Chúng cũng thường xuyên chuyển hóa cho nhau.
Có giá trị chuyển hoá thành phản giá trị. Ví dụ: nếu người ta uống rượu
vừa đủ thì ruợu là một giá trị. Ngược lại, nếu người ta uống quá độ thì rượu
lại là phản giá trị.
Các giá trị cần được phân loại theo các tầng nhu cầu của con người
mà chúng ra sẽ xem xét kỹ hơn trong mục tiếp theo.
Cả cuộc đời của một con người là một quá trình theo đuổi, tìm kiếm,
sáng tạo và trao đổi các giá trị. Và do vậy, mỗi người có một hệ các giá trị
cơ bản như: sức khoẻ, việc làm, gia đình, tiền của, trí tuệ, bạn bè, danh dự,
v.v… Chúng ta sống bằng việc tìm kiếm và trao đổi các giá trị.
2.3. Khái niệm nhu cầu
Nhu cầu là những đòi hỏi thường xuyên của mỗi cá nhân, là trạng thái
thấy thiếu thốn ở một số người nào đó. Khi xuất hiện nhu cầu, con người ở
trạng thái đặc biệt, đòi hỏi được đáp ứng bằng vật phẩm hoặc bằng một sản
phẩm tinh thần hoặc bằng một dịch vụ nào đó. Ví dụ, khi đói người ta có
nhu cầu ăn, khi rét người ta có nhu cầu mặc ấm, sưởi ấm… Khi tinh thần
căng thẳng, người ta có nhu cầu được thư giãn bằng việc nghe một bản
nhạc hay tâm tình với những người thân của mình… Khái niệm nhu cầu có
thể đặt đối diện với khái niệm giá trị. Nhu cầu là đòi hỏi của một cá nhân
hay một cộng đồng người nào đấy cần được thoả mãn bằng một giá trị
tương ứng, còn giá trị là thuộc tính của một sự vật hay hiện tượng nào đó
16
có khả năng thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người. Mối quan hệ
giữa nhu cầu và giá trị là mối quan hệ biện chứng.
Con người luôn phải thực hiện các hoạt động trao đổi chất với môi
trường tự nhiên. Để sống và tồn tại, con người phải tiếp nhận năng lượng
từ môi trường, thông qua thức ăn và các nguồn năng lượng khác, đồng thời
con người đào thải những cặn bã trong cơ thể ra ngoài. Đó là mối liên hệ
thường xuyên, tất yếu khách quan giữa con người và tự nhiên. Chúng ta gọi
quá trình trao đổi chất giữa con người và tự nhiên là mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên. Nhu cầu trao đổi chất được coi là nhu cầu sinh học của
con người. Để thực hiện quá trình trao đổi chất đó, trước hết con người
thường tìm kiếm các giá trị có sẵn trong tự nhiên như: trái cây, cá dưới
sông, các loại động vật dễ săn bắt… Tuy vậy, có những thời điểm những
thực phẩm, thức ăn mà tự nhiên ban tặng cho con người không còn đủ đáp
ứng được nhu cầu của nó thì con người đã sử dụng công cụ lao động để tác
động vào tự nhiên, thay đổi các hình thái vật chất của tự nhiên để tạo ra các
sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của mình. Công việc này bắt đầu từ việc dùng
các que củi để khều những trái cây ở cao, chẳng hạn, hoặc hòn đá để đạp
vỡ vỏ một trái cây cứng…
Việc sử dụng những công cụ lao động để tác động vào đối tượng lao
động chính là quá trình lao động. Quá trình này, một mặt đã làm cho thực
phẩm dồi dào hơn, mặt khác, đã gợi mở cho con người bắt đầu tư duy theo
kiểu sáng tạo. Quá trình lao động có một thuộc tính đặc biệt là sáng tạo, tức
là nó luôn hướng tới cái hoàn thiện hơn, cái có hiệu quả hơn, cái có lợi
hơn. Trong quá trình tồn tại, con người luôn gặp trở ngại của tự nhiên và để
vượt qua những trở ngại đó, con người luôn tìm kiếm những công cụ lao
động mới, những vật liệu mới, những cách thức hoạt động mới để tác động
vào tự nhiên, Đó là quá trình con người tự hoàn thiện công nghệ và tự hoàn
17
thiện chính bản thân mình. Khi công cụ lao động phát triển đến một trình
độ nhất định trong quá trình lao động, con người cũng tự nhận ra rằng, nếu
liên kết với nhau, cùng hợp tác thì sẽ tạo ra được nhiều thực phẩm hơn rất
nhiều so với mỗi cá nhân tự làm riêng rẽ. Chẳng hạn, nếu nhiều người cùng
đuổi bắt một con mồi thì dễ hơn là một người tự đuổi bắt hoặc nhiều người
hợp tác với nhau thì sẽ chống lại thú dữ tốt hơn một người. Trong quá trình
liên kết để chinh phục tự nhiên đã làm xuất hiện các quan hệ xã hội và các
nhu cầu mới. Đó là nhu cầu cố kết cộng đồng, nhu cầu tình cảm, nhu cầu
có địa vị trong cộng đồng, nhu cầu tái nhận thức hiện thực theo quy luật
của cái đẹp. Chính quá trình liên kết để cải tạo thiên nhiên, con người đã
tạo ra một thiên nhiên thứ hai, đó là xã hội hay văn hóa. Thiên nhiên thứ
nhất (tự nhiên) cung cấp cho con người các giá trị vật chất để thoả mãn nhu
cầu sống và tồn tại, còn thiên nhiên thứ hai (văn hóa) cung cấp cho con
người những giá trị tinh thần để sống và phát triển. Đó là các giá trị: chân,
thiện, mỹ, ích … Con người sống trong hai thiên nhiên đó thừa hưởng
những giá trị mà chúng mang lại, đồng thời cải tạo hai thiên nhiên đó để
tiếp tục tạo ra các giá trị mới. Thiên nhiên thứ nhất là điều kiện chủ yếu để
tạo ra các giá trị vật chất và các nguồn lực sinh học, còn thiên nhiên thứ hai
(văn hóa) là môi trường để tạo ra các giá trị tinh thần và các nguồn lực tinh
thần cho con người. Khi con người bị cách ly hoàn toàn khỏi một trong hai
môi trường thiên nhiên đó thì con người không còn là một con người nữa.
Như vậy, các nhu cầu của con người, một mặt được tạo ra do những
đòi hỏi bên trong của cơ thể, như đã nói ở trên, mặt khác, được tạo ra trong
những điều kiện nhất định của xã hội, Nhu cầu nào đó thường xuyên xuất
hiện và được thoả mãn thì gọi là thói quen. Con người càng làm chủ được
các nhu cầu của mình thì càng có bản lĩnh hơn và sống tốt đẹp hơn.
Nhu cầu của con người là vô cùng, vô tận, xét cả về tính đa dạng
18
phong phú, cả về trình độ phát triển. Hoàn cảnh bên ngoài nói chung và
quá trình sản xuất vật chất nói riêng không chỉ cung cấp cho con người
những giá trị để thoả mãn các nhu cầu vốn có mà còn làm nảy sinh những
nhu cầu mới. Ví dụ: như chèo đò qua những khúc sông nước chảy xiết,
người ta dùng những câu hò để tạo ra sự nhịp nhàng trong hành động, sau
này nảy sinh nhu cầu hát, hò. Ngoài ra, nhu cầu còn phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố khác nhau như thói quen, phong tục, tập quán và các trạng thái
riêng của từng chủ thể. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu của con người
càng tăng.
Để tiện cho việc nghiên cứu và khảo sát các nhu cầu, người ta chia
chúng thành các nhóm: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần, nhu cầu sáng
suốt và nhu cầu không sáng suốt… Ví dụ, ăn uống để bảo đảm sức khoẻ là
nhu cầu sáng suốt; nghiện ma tuý, uống rượu say, hút thuốc lá… là nhu cầu
không sáng suốt, làm hại đến sức khoẻ, đời sống và tính mạng con người.
Người ta còn chia nhu cầu thành: Nhu cầu cá nhân và nhu cầu cộng đồng,
nhu cầu trước mắt và nhu cầu lâu dài…
Nhà tâm lý học Maxlốp đã chia tổng thể các nhu cầu của con người
thành bảy tầng: nhu cầu sinh học, nhu cầu an sinh, nhu cầu tình cảm, nhu
cầu nhận thức, nhu cầu được kính trọng, nhu cầu được hoạt động thực tiễn
và nhu cầu thẩm mỹ.
Tầng nhu cầu đầu tiên: ăn, ở, mặc, thở, phát triển nòi giống, là những
đòi hỏi bắt buộc đối với mỗi cá thể. Thường thường, khi những nhu cầu
này được đáp ứng ở một mức độ nhất định thì người ta mới chú ý đến nhu
cầu tiếp theo là an sinh. Trừ những nhu cầu về sinh lý ra thì nói chung, nhu
cầu phụ thuộc rất nhiều vào môi trường hoạt động của con người. Đó là các
nhu cầu trao đổi chất của con người với tự nhiên, bao hàm: thở, ăn, uống,
mặc, ngủ, đi lại, bài tiết, duy trì nòi giống… đây là nhu cầu cơ bản, thiết
19
yếu nhất của con người. Nếu như những nhu cầu này không được đáp ứng
ở một mức độ nhất định thì con người sẽ không tồn tại. Vì vậy, trước khi
con người nói đến đạo đức, chính trị, hay thơ ca… thì phải có cái để ăn,
mặc và sống đã. Vì vậy, các vấn đề liên quan đến lương thực thực phẩm và
nhà ở, đi lại là vấn đề quan trọng nhất quyết định các vấn đề xã hội khác.
Không phải ngẫu nhiên mà ông cha ta đã từng nói “nông suy bách nghệ
bại”
- Tầng thứ hai là nhu cầu về an sinh. Con người sống trong tự nhiên và
xã hội luôn có khả năng gặp những rủi ro gây nguy hiểm cho tính mạng và
sự bình yên. Trong tự nhiên, con người có thể gặp thú dữ, thiên tai hoặc
chết đói… Trong xã hội, con người cũng có thể gặp rủi ro trong kinh
doanh, phạm pháp hoặc kẻ xấu gây tai nạn… Vì vậy, trong đời sống mỗi
con người luôn tiềm ẩn những rủi ro có thể gây hại cho anh ta và từ đó xuất
hiện nhu cầu về sự bình yên. Nhu cầu này xuất hiện khi con người đã được
thoả mãn nhu cầu sinh học ở mức độ nhất định. Khi quá đói người ta không
nghĩ đến sự an toàn, bởi vì, đói đã là một nguy cơ dẫn đến cái chết. Khi đã
được ăn no, mặc ấm thì người ta sẽ nghĩ đến ngày mai còn có được ăn no
hay không? Có bị thú dữ đe doạ không? Có còn nhiều tiền của để sống mãi
như ngày hôm nay không? Có ai đe doạ mình không? Bản thân mình và
con cái mình tương lai có được bảo đảm không? … Rất nhiều câu hỏi
tương tự đặt ra cho một con người thể hiện nhu cầu của sự an toàn. Và con
người trong suốt cuộc đời luôn phấn đấu để có được một cuộc sống mà rủi
ro ở mức thấp nhất. Ngay cả những người có tài sản cũng luôn luôn phấn
đấu vì sự an toàn của khối tài sản lớn đó. Lúc này sự quan tâm của họ
không phải là vấn đề cơm ăn, ăn mặc thường ngày mà chính là làm thế nào
để bảo đảm sự an toàn của khối tài sản đó.
- Tầng nhu cầu thứ ba là tình cảm. Nhu cầu tình cảm có từ trong tiềm
20
thức của con người. Một mặt, do bản năng sống của con người với tư cách
là một sinh vật, mặt khác, nó được hình thành từ quá trình cố kết cộng
đồng. Do sự cố kết cộng đồng là một trong những điều kiện sống của con
người, nên dần dần hình thành một thứ nhu cầu được yêu thương, được
đùm bọc giữa những người trong một cộng đồng. Đó là tình yêu thương
trong gia đình, trong cộng đồng và tình yêu quê hương đất nước. Khi con
người được sống trong tình yêu thương cộng đồng nó sẽ cảm thấy thoải
mái, yên tâm và hạnh phúc hơn.
- Tầng thứ tư là nhu cầu nhận thức thế giới. Đây là tầng nhu cầu chỉ có
ở con người mà không có ở các loài động vật. Con người khi sử dụng các
tư liệu lao động để tác động vào tự nhiên thì tự nhiên bộc lộ ra các quy luật
của nó. Nếu nhận thức được các quy luật (từ sơ đẳng đến phức tạp) thì con
người sẽ tìm ra cách ứng xử phù hợp với tự nhiên hơn (bao hàm cả thiên
nhiên thứ hai là văn hóa) và chất lượng cuộc sống được nâng lên. Từ đó
hình thành trong con người nhu cầu nhận thức. Đó là mong muốn khám
phá ra bản chất của các sự vật, hiện tượng và quy luật vận động của chúng
để cải tạo chúng ngày một tốt hơn.
- Tầng thứ năm là nhu cầu được kính trọng. Con người gắn với cộng
đồng như thai gắn với cuống rau. Chính cộng đồng là ngôi nhà chắc chắn
nhất che trở cho mỗi cá nhân, nhưng muốn gắn với cộng đồng con người
phải được sự thừa nhận của cộng đồng. Mức độ thừa nhận thường phụ
thuộc vào sự đóng góp của mỗi cá nhân vào hệ thống giá trị vật chất và tinh
thần của cộng đồng. Nếu ai có nhiều đóng góp các giá trị cho cộng đồng thì
người đó được cộng đồng đánh giá cao hơn và thể hiện sự kính trọng hơn.
Những người được cộng đồng kính trọng sẽ có nhiều khă năng để thoả mãn
các nhu cầu sinh học, nhu cầu an toàn và nhu cầu tình cảm của mình.
Chính vì vậy, ai cũng muốn những người trong cộng đồng, trong xã hội
21
kính trọng mình nhiều hơn. Đó là, một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc
sống của con người trong xã hội – nhu cầu khẳng định mình.
- Nhu cầu được hoạt động xã hội, con người sinh ra và lớn lên nhờ
thừa hưởng những giá trị vật chất và tinh thần do gia đình, bố mẹ, quê
hương, xã hội cung cấp. Cộng đồng không chỉ cung cấp cơm ăn, áo mặc…
mà còn nuôi dưỡng con người bằng các giá trị tinh thần như ngôn ngữ, cao
dao, tục ngữ, lễ hội, nghệ thuật. Vì vậy, trong tiềm thức của con người luôn
có sự gắn bó mật thiết với quê hương, với cộng đồng, với đất nước và ai
cũng có nhu cầu cống hiến cho quê hương. Nhu cầu đó được biểu hiện ra
ngoài bằng nhu cầu hoạt động thực tiễn, nhu cầu được tôn vinh, được cống
hiến. Lãnh tụ Hồ Chí Minh cả đời chỉ có một ham muốn – ham muốn tột
bậc là cống hiến cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Vì vậy, chúng ta có
thể khẳng định nhu cầu hoạt động xã hội cũng là một nhu cầu quan trọng
trong đời sống con người. Tất nhiên nhu cầu này là nhu cầu ở bậc cao của
con người, nó xuất hiện khi những nhu cầu cơ bản được thoả mãn ở mức
độ nhất định.
- Nhu cầu thẩm mỹ. Đây là nhu cầu được thưởng thức, cảm thụ cái
đẹp. Con người gắn với thiên nhiên mà bản thân thiên nhiên luôn có xu
hướng đạt tới sự cân đối hài hoà, uyển chuyển. Khi âm – dương hài hoà là
lúc tự nhiên đạt đến sự hoàn hảo của nó và nó mang đến cảm xúc hạnh
phúc cho con người, vì vậy, trong tiềm thức của con người luôn hướng tới
sự cân đối, hài hoà, uyển chuyển, dịu dàng … Đó là sự hướng tới cái đẹp
và nhu cầu thưởng thức cái đẹp chính là nhu cầu thẩm mỹ của con người.
Tuỳ theo mức độ cảm nhận, cảm thụ khác nhau mà mỗi người đều cảm
thấy hạnh phúc khác nhau khi được tiếp xúc với cái đẹp. Một mùa hè đẹp
báo trước một không gian có nhiều thức ăn và nước uống. Tiếng chim hót
hay báo một cuộc sống êm đẹp. Dòng suối chảy róc rách cũng thể hiện một
22
sự yên bình. Tất cả cái đó là những giá thẩm mỹ, nó giúp cho con người
thư thái hơn trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Các tác phẩm nghệ thuật chính
là sự tổng hợp sự cân đối, hài hòa, nhẹ nhàng, uyển chuyển của tự nhiên,
của xã hội vào trong kết cấu nội dung của nó tạo thành những giá trị thẩm
mỹ phục vụ con người.
Nhu cầu thẩm mỹ là nhu cầu ở tầng bậc cao nhất của con người và nó
cũng chỉ xuất hiện khi các nhu cầu ở tầng cơ bản được thoả mãn. Khi đói
quá thì người ta không thể ngồi ngắm tranh được hoặc khi người ta buồn
thì không thể cảm nhận được vẻ đẹp của tự nhiên như nhà thơ Nguyễn Du
đã viết “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Mặc dù, các nhu cầu ở đây chỉ xuất hiện khi những nhu cầu ở tầng
dưới được thoả mãn ở mức độ nhất định. Các nhu cầu của con người kết
hợp với nhau thành một hệ thống cấu trúc tất phức tạp. Có người thì nặng
về nhu cầu vật chất, có người lại nặng về nhu cầu tinh thần. Có người lại
muốn vươn nhiều hơn tới cái đẹp, cái hoàn thiện. Nhu cầu vừa phụ thuộc
vào tố chất bên trong của con người lại vừa phụ thuộc vào hoàn cảnh bên
ngoài.
Trên đây chúng tôi đã trình bày bản chất của 7 tầng nhu cầu của con
người và nó là cơ sở để hình thành động lực cho con người và xã hội hành
động.
2.4. Khái niệm ước muốn
Nhu cầu là đòi hỏi bên trong của con người, nhưng trên thực tế không
phải bất cứ nhu cầu nào cũng được con người thoả mãn, vì nhu cầu thì có
nhiều mà khả năng thoả mãn thì rất hạn chế. Khi con người ta có một nhu
cầu nào đó và bên cạnh có một giá trị để thoả mãn những giá trị đó có thể
nhìn thấy, cảm thấy mà không thể nhận được. Cũng có trường hợp là nhận
23
giá trị này phải trả giá bằng giá trị khác. Vì vậy, chỉ có một số giá trị mà
con người muốn có được để thoả mãn nhu cầu lúc đó nhu cầu trở thành ước
muốn. Hay nói cách khác, là ước muốn, là nhu cầu muốn được thoả mãn.
Ước muốn hình thành từ nhu cầu sau khi vượt qua được những rào cản của
giáo lý, của quy phạm xã hội, của sự lựa chọn và của nhiều yếu tố khác.
Người ta có thể có rất nhiều nhu cầu nhưng chỉ có thể chọn một số để
tạo ra ước muốn. Cho nên, ước muốn là nhu cầu mong được thoả mãn.
2.5. Khái niệm động cơ
Động cơ là sự thôi thúc bên trong thúc đẩy người ta hành động để tìm
các giá trị để thoả mãn nhu cầu. Nhu cầu lớn thì động cơ lớn, nhu cầu nhỏ
thì động cơ nhỏ. Động cơ tuy xuất phát từ nhu cầu song không hoàn toàn
phụ thuộc vào nhu cầu mà nó còn phụ thuộc vào cá tính của mỗi chủ thể
(cá nhân hay cộng đồng) và các điều kiện xã hội. Khi tuy có nhu cầu nhưng
do những ràng buộc xã hội thì động cơ sẽ giảm đi và không đủ sức để
người ta hành động tìm kiếm các giá trị. Đó là các hoạt động thực tiễn của
xã hội nhằm tìm kiếm, sáng tạo, giành giật, phân chia các giá trị để thoả
mãn các nhu cầu của con người. Động lực là tổng hợp các động cơ, các sức
mạnh nhằm hướng đến việc thực hiện mục tiêu.
Động lực có nhiều loại, nhiều mức độ khác nhau tuỳ theo cách tiếp
cận nghiên cứu. Có động lực bên trong, động lực bên ngoài; có động lực
trực tiếp, động lực gián tiếp; có động lực cá nhân, động lực của tập thể,
động lực xã hội. Động lực thúc đẩy sự cải biến xã hội là những lợi ích vật
chất và tinh thần.
2.6. Khái niệm lợi ích
Khái niệm lợi ích là khái niệm mang tính xã hội, nó khác hẳn với các
khái niệm nhu cầu, giá trị. Theo chúng tôi, nó là cơ sở để hình thành các
24
quan hệ xã hội.Theo Nho giáo, con ngời sống không thể tách rời nhau mà có muôn
ngàn quan hệ gắn bó với nhau trong phạm vi nhữngnhất định. Các cộng đồng đó là nhà
(gia), nớc (quốc) và thiên hạ. Đơng nhiên ngoài phạm vi nhà và từ nhà đến nớc còn có h-
ơng, quận, châu. Nho giáo cố ý đồng nhất ba thực thể nhà, nớc, thiên hạ theo nguyên lý
bao quát. Thiên hạ gốc ở nớc, nớc gốc ở nhà, nhà gốc ở thân mình. Rõ ràng Nho giáo coi
"nớc" chỉ là sự mở rộng của nhà. Do nớc và nhà chung nhau một gốc, cho nên nhiều khi
Nho giáo dùng phạm trù quốc và gia đồng nhất với nhau. Nho giáo coi mối quan hệ ràng
buộc lẫn nhau giữa nhà và nớc là thiêng liêng và sáng tỏ muôn đời. Nói lên mối quan hệ
ấy. Con người ta muốn thoả mãn các nhu cầu (sau đây chúng tôi gọi chung:
nhu cầu và ước muốn là nhu cầu) thì phải tìm kiếm các giá trị trong tự
nhiên và trong xã hội. Trước hết là người ta tìm kiếm các giá trị có sẵn
trong tự nhiên như không khí, trái cây, tôm cá… để thoả mãn nhu cầu sinh
học của mình. Tuy vậy, khi những giá trị vật chất có sẵn dần dần cạn kiệt
thì người ta bắt đầu tác động vào tự nhiên làm thay đổi các hình thái vật
chất của nó để tạo thêm thức ăn cho mình. Rồi con người sáng tạo ra công
cụ lao động để nối dài bàn tay của mình, nâng cao hiệu quả sản xuất. Khi
công cụ lao động phát triển đến một mức độ nào đó, nó đòi hỏi con người
phải liên kết, hợp tác với nhau để tạo ra nhiều giá trị hơn. Con người tìm
cách hiệp tác với nhau để sản xuất ra các giá trị. Tất nhiên sự hợp tác giữa
người với người đòi hỏi phải có sự phân công mỗi người đứng ở một khâu
trong công việc. Các khâu trong dây truyền hợp tác liên hệ với nhau mật
thiết làm cho cả hệ thống trở thành một quá trình lao động hoàn chỉnh. Ví
dụ như những người khoẻ mạnh hoặc đàn ông thì phải làm những phần
việc nặng nhọc, nguy hiểm và cường độ cao, còn phụ nữ thì làm những
công việc đòi hỏi sự khéo léo và kiên trì. Sự phân công như vậy đòi hỏi
cường độ lao động khác nhau và công lao tạo ra sản phẩm cũng khác nhau.
Khi sản phẩm được tạo ra thì lúc đầu mọi người đều được hưởng như nhau,
nhưng đó là sự không công bằng vì như vậy thì người làm việc nặng sẽ
thiệt thòi và những người láu cá sẽ chọn những công việc nhẹ nhàng để
25
làm. Phân phối cào bằng theo cách này sẽ kìm hãm sự phát triển của sản
xuất. Từ đó, người ta phải nghĩ đến việc phân phối sản phẩm theo cường
độ lao động và theo mức độ cống hiến. Ai làm việc nhiều hưởng nhiều, ai
làm ít hưởng ít. Ai làm việc nặng hơn hưởng nhiều hơn, ai làm việc nhẹ
hưởng ít hơn. Ai có công tạo ra nhiều giá trị sẽ được hưởng nhiều hơn…
Theo những nguyên tắc như vậy, nên xuất hiện khái niệm lợi ích.
- Lợi ích xuất hiện khi các giá trị để thỏa mãn đòi hỏi ít hơn nhiều so
với những nhu cầu ngày càng tăng của một cộng đồng người.
- Lợi ích xuất hiện khi xuất hiện những cộng đồng người liên kết với
nhau để tồn tại, phát triển và tạo ra các giá trị.
Nói đến lợi ích là nói đến mối quan hệ giữa con người với con người
trong sự phân chia các giá trị trong xã hội, trong một cộng đồng người.
Trong lý luận, người ta đã bàn rất nhiều về khái niệm lợi ích. Tác giả
Nguyễn Linh Khiếu trong tác phẩm “Lợi ích động lực phát triển xã hội” đã
hệ thống hóa được rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm lợi ích. Sau
khi đã trình bày rát nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm lợi ích, tác giả
viết: “Có rất nhiều ý kiến khác nhau, dưới nhiều khía cạnh khác nhau.
Nhưng chung quy lại có thể nêu hai hướng cơ bản là, một số tác giả quan
niệm lợi ích là sự biểu hiện khác của nhu cầu; nhưng tác giả khác lại trình
bày quan niệm cho rằng, dù gắn bó chặt chẽ với nhu cầu, nhưng lợi ích
mang nội hàm và ngoại diên hoàn toàn mới”1.
Sau khi đã hệ thống hoá rất nhiều quan niệm của các học giả Liên Xô
(cũ) và các học giả Việt Nam, Nguyễn Linh Khiếu đưa ra cách tiếp cận về
khái niệm lợi ích như sau: Ví dụ tác giả viết: “Phân tích quan hệ lợi ích ta
sẽ thấy chúng bao gồm 2 thành tố, đó là các chủ thể tham gia quan hệ lợi
1 Nguyễn Linh Khiếu: Lợi ích động lực phát triển xã hội, Nxb KHXH, H., 1999, tr.13-14.
26
ích và đối tượng của quan hệ lợi ích”2 hay “Có thể nêu quan hệ nhu cầu ở
trạng thái ban đầu là: chủ thể nhu cầu – đối tượng thỏa mãn nhu cầu. Nói
giữa chủ thể nhu cầu và đối tượng thoả mãn nhu cầu là hoạt động thoả mãn
nhu cầu. Còn quan hệ nhu cầu làm nảy sinh quan hệ lợi ích là: chủ thể nhu
cầu – quan hệ lợi ích - đối tượng thoả mãn nhu cầu. Quan hệ lợi ích xuất
hiện trạng thái thoả mãn nhu cầu.
Phân tích quan hệ lợi ích ta sẽ thấy, chúng bao gồm 2 thành tố đó là
các chủ thể tham gia quan hệ lợi ích và đối tượng của quan hệ lợi ích. Với
2 thành tố này cũng đồng thời diễn ra nhiều quan hệ khác nhau, nhưng
chung quy xoay quanh hai quan hệ căn bản: 1) Giữa chủ thể lợi ích và đối
tượng của quan hệ lợi ích; 2) Giữa các chủ thể cũng có đối tượng của quan
hệ lợi ích với nhau trong việc thực hiện các nhu cầu cấp bách của mình.
Ở dạng quan hệ thứ nhất, nhu cầu nói trên, chủ thể lợi ích cũng chính
là chủ thể nhu cầu đang bị thôi thúc và tìm phương thức và phương tiện để
thực hiện nhu cầu của mình. Còn đối tượng của quan hệ lợi ích cũng có thể
là cái để dùng thoả mãn nhu cầu, nhưng thường là cái đạt được nó chủ thể
có điều kiện, cơ cơ hội thuận lợi hơn để thực hiện thoả mãn các nhu cầu
cấp bách của mình. Như vậy, đối với các chủ thể cụ thể đối tượng của quan
hệ lợi ích chính là lợi ích của họ. Dĩ nhiên, lợi ích chỉ có ý nghĩa là lợi ích
trong các quan hệ lợi ích cụ thể. Ngoài quan hệ lợi ích nó không còn là lợi
ích nữa mà chỉ là cái có lợi hay có ích đối với các chủ thể ở một hoàn cảnh
nhất định. Trong trường hợp này, nó cũng giống như các đối tượng thỏa
mãn nhu cầu hoặc chính là các đối tượng thoả mãn nhu cầu. Như thế không
có quan hệ lợi ích thì cũng không có cái gọi là lợi ích. Cho nên khi nói tới
lợi ích là bao giờ cũng nói tới quan hệ lợi ích và ngược lại, khi nói tới quan
hệ lợi ích là nói tới những lợi ích cụ thể1. Có thể nói, tác giả Nguyễn Linh
2 Như trên, tr.48.1 SĐD, tr.48-50
27
Khiếu đã có một cách tiếp cận rất sát với khái niệm lợi ích và ông đã đưa ra
những kiến giải để người ta hiểu nhiều khía cạnh khác nhau của khái niệm
lợi ích. Tuy vậy, khi đưa ra khái niệm lợi ích thì ông lại coi lợi ích là một
“sự vật” hay “hiện tượng” khác với cách kiến giải bên trên của ông. Ông
viết: “Vậy lợi ích là một sự vật hay hiện tượng khách quan biểu hiện những
mối quan hệ tất yếu của con người và dùng để thỏa mãn những nhu cầu cấp
bách của họ trong một hoàn cảnh sinh sống nhất định”2. Với định nghĩa
này, công trình khoa học của tác giả đã dừng lại và những phần trình bày
tiếp theo mang tính giáo điều. Chúng tôi xin trình bày cách tiếp cận của
mình về khái niệm lợi ích như sau:
Con người luôn luôn tìm kiếm các giá trị để thoả mãn nhu cầu của
mình. Khi xuất hiện một nhu cầu nào đó thì người ta sẽ đi tìm các giá trị
thoả mãn bằng lao động, sản xuất, sáng tạo, tìm kiếm… qua hoạt động thực
tiễn. Tuy vậy, trong một cộng đồng xã hội (gia đình, bộ tộc, bộ lạc, đất
nước…) luôn có nhiều giá trị chung mà nhiều người cần đến. Giá trị chung
có 2 loại: một loại thoả mãn nhu cầu chung của mỗi người và ai cũng được
thoả mãn; thứ hai là loại giá trị mà nếu người này thoả mãn được thì sẽ hạn
chế sự thỏa mãn của người khác. Tức là tổng số các nhu cầu, ước muốn lớn
hơn so với tổng số các giá trị mà cộng đồng đang sở hữu. Vậy là xuất hiện
mâu thuẫn trong việc thỏa mãn nhu cầu trong điều kiện các giá trị có sẵn
rất hạn chế. Vấn đề đặt ra là: ai được nhận giá trị này để thoả mãn nhu cầu
của mình. Lúc đó xuất hiện cái mà người ta gọi là khái niệm lợi ích. Vậy
lợi ích là gì?
Lợi ích là sự ngầm định khách quan một chủ thể nào đó được nhận
một hay nhiều giá trị có hạn nào đó trong một cộng đồng người để thoả
mãn các ước muốn của mình trong những điều kiện xã hội nhất định.
2 Như trên, tr.50.
28
Để làm sáng tỏ khái niệm trên, chúng tôi xin nêu mấy đặc điểm của
lợi ích sau đây:
- Lợi ích xuất hiện trong một cộng đồng xã hội và cộng đồng người
này đang chiếm hữu một hay nhiều giá trị vật chất và tinh thần nào đó. Giá
trị này có thể do cộng đồng tạo ra hoặc giá trị có sẵn bị cộng đồng chiếm
hữu. Ở đây chúng ta cũng cần phân biệt hai khái niệm chiếm hữu và sở
hữu. Chiếm hữu là con người tác động vào tự nhiên (thiên nhiên thứ nhất)
hoặc nền văn hóa (thiên nhiên thứ hai của con người) để tạo ra các giá trị
vật chất và tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của mình. Quá trình chiếm hữu
này có thể mang tính cá nhân và có thể mang tính xã hội. Nếu như con
người tự mình làm ra tất cả của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu của mình
như kiểu Robinson thì đó là chiếm hữu mang tính cá nhân. Còn nếu như
con người hiệp tác với nhau để tác động vào tự nhiên và tạo ra các giá trị
thì đó là cách chiếm hữu mang tính cộng đồng, mang tính xã hội.
Sở hữu là nói đến quan hệ giữa con người với con người về một giá trị
đã được chiếm hữu nào đó. Ví dụ như nói cái bút này là của tôi, tức là
khẳng định cái bút này là một giá trị có hạn và nó thuộc quyền sở hữu của
tôi. Tức là tôi có quyền định đoạt, quyền sử dụng và quyền được hưởng lợi
từ cái bút đó. Quan hệ sở hữu là quan hệ giữa con người và con người về
một giá trị có hạn nào đó. Khái niệm lợi ích xuất hiện khi mà chế độ cộng
sản nguyên thuỷ bị tan rã.
- Lợi ích chỉ xuất hiện khi nhu cầu, ước muốn của các chủ thể nhiều hơn
các giá trị có thể thỏa mãn nhu cầu, nếu chủ thể này hưởng thì chủ thể khác
không được hưởng hoặc chủ thể này hưởng nhiều thì chủ thể khác được hưởng
ít.
- Bản chất của lợi ích là sự ngầm định khách quan để cho ai được
29
hưởng một lượng giá trị tương ứng trong xã hội. Sự ngầm định có được
quy định bởi các yếu tố sau: Quá trình con người chiếm hữu tự nhiên như
thế nào sẽ quan hệ với nhau theo một cách tương ứng và tương quan lực
lượng giữa con người và con người. Ai mang lại nhiều giá trị cho người
khác thì sẽ được hưởng nhiều giá trị. Nói đến lợi ích, tức là nói đến sự
xứng đáng một chủ thể nào đó được nhận một giá trị giới hạn nào đó của
cộng đồng để thỏa mãn nhu cầu của mình.
- Lợi ích là sự xứng đáng mà một chủ thể nào đó được nhận một giá
trị có hạn nào đó. Lợi ích nằm giữa hai mối quan hệ sau đây: a) Quan hệ
giữa con người và tự nhiên; b) Quan hệ giữa con người và xã hội. Quan hệ
giữa con người và tự nhiên được thể hiện trong quá trình trao đổi chất giữa
con người với tự nhiên và quá trình chiếm hữu tự nhiên; chiếm hữu nền
văn hóa của con người. Quan hệ giữa con người và con người thể hiện
trong sự sở hữu các giá trị, phân phối, trao đổi và tiêu dùng các giá trị.
Trong đó quan hệ giữa con người và tự nhiên quyết định quan hệ giữa con
người và con người trong xã hội và quan hệ giữa con người và con người
trong xã hội tác động trở lại quan hệ giữa con người và tự nhiên. Tức là
quan hệ trao đổi chất và quan hệ chiếm hữu tự nhiên của con người quyết
định quan hệ lợi ích, quan hệ sở hữu.
Sự ngầm định khách quan đó còn bị chi phối bởi các điều kiện kinh tế,
văn hóa xã hội quy định. Ví dụ như: ai nắm trong tay tư liệu sản xuất sẽ có
được nhiều giá trị hơn, ai nắm quyền lực chính trị sẽ được hưởng nhiều giá
trị hơn hoặc những người có trí tuệ, có văn hóa cũng được hưởng nhiều giá
trị hơn.
Sự ngầm định này là sự ngầm định rất trừu tượng. Chúng ta không nhìn
thấy nó, không sờ thấy nó mà chỉ từ cảm nhận nó thông qua hoạt động thực
tiễn mới nhận ra sự biểu hiện bên ngoài của nó, đó là các quan hệ xã hội.
30
Sự ngầm định này là cơ sở để hình thành cơ chế phân chia các giá trị
vật chất và tinh thần trong xã hội. Đó là sự quy định mang tính khách quan.
Tuy vậy, trong xã hội quá trình phân chia các giá trị thực tế diễn ra lại
không hoàn toàn trùng lặp với sự ngầm định này mà nó chỉ dao động xung
quanh sự ngầm định đó.
Trong lịch sử, sự ngầm định này còn luôn bị vi phạm bởi những người
tham lam và có sức mạnh chèn ép người khác để giành cho mình nhiều giá
trị hơn.
Sự ngầm định này là cơ sở quan trọng để hình thành các quan hệ xã
hội. Song nó chưa phải là quan hệ xã hội. Nó bị chi phối bởi quan hệ giữa
con người và tự nhiên (ở đây được hiểu là môi trường tự nhiên và môi
trường văn hóa).
- Lợi ích chỉ là xu hướng, khả năng và cơ sở để phân chia các giá trị
để thoả mãn nhu cầu chứ chưa phải là sự phân chia cụ thể các giá trị. Sự
phân chia được thực hiện sau khi có sự đấu tranh giữa các chủ thể lợi ích
về một giá trị giới hạn nào đó.
Nói đến lợi ích của ai đó, tức là nói đến sự ngầm định khách quan
người đó được nhận một giá trị giới hạn để thoả mãn nhu cầu của mình
trong một điều kiện xã hội nhất định.
Sự phân chia giá trị đúng theo sự nghầm định khách quan là sự công
bằng, ngược lại, nếu làm khác đi chính là dẫn tới sự không công bằng. Vì
vậy, khái niệm lợi ích và khái niệm công bằng là hai khái niệm có rất nhiều
điểm tương đồng. Nói đến lợi ích là nói đến sự phân chia các giá trị theo sự
ngầm định của các điều kiện tự nhiên và xã hội, còn khi nói đến sự công
bằng là nói đến sự phân chia lợi ích đó đúng như sự ngầm định đó. Tuy
vậy, trên thực tế thì sự ngầm định về phân chia các giá trị chỉ là một xu
31
hướng, một khả năng, một quy luật, còn sự phân chia thực sự lại diễn ra
theo những hoàn cảnh rất khác nhau và biến đổi thường xuyên. Tuy vậy, sự
phân chia giá trị diễn ra trên thực tế cũng không đi quá xa so với sự ngầm
định mà giao động xung quanh trục lợi ích mà theo như giá cả dao động
xung quanh giá trị trao đổi của hàng hóa.
Trong cuộc sống, ai cũng mong muốn giành được nhiều giá trị cho
bản thân mình như nhiều không gian sinh tồn, nhiều tiền của, nhiều danh
vọng, nhiều địa vị, nhiều tình cảm, nhiều ruộng đất… Nhưng do sự ngầm
định về lợi ích mà trong xã hội mỗi người chỉ có thể nhận về mình một
lượng giá trị tương đương với lợi ích của anh ta. Nhiều người tham lam và
vị kỷ mình thường tìm cách vượt qua giới hạn của sự ngầm định về lợi ích
để giành cho được nhiều. Chính vì vậy, đã tạo ra sự mâu thuẫn trong cuộc
sống. Chúng ta ví sự ngầm định như một đường tròn thái dương mà vạch
liền trong vòng trong là ngầm định về lợi ích còn vạch chấm là sự phân
định giá trị trên thực tế [xem hình 1]. Hai người chung một cái chăn ngắn
thì nếu kẻ nào kéo nhiều về phía mình thì kẻ khác sẽ bị rét.
Vì vậy, trong cuộc sống luôn luôn có sự giành giật về lợi ích giữa
những người có chung những giá trị có hạn nào đó. Sự giành giật này xảy
32
ra do hai lý do sau đây:
Lý do thứ nhất, là về nhận thức. Do khái niệm lợi ích là khái niệm trừu
tượng nên không phải ai cũng nhận thức được bản chất và ranh giới của nó.
Vì vậy, người ta thường hiểu không đúng về lợi ích của mình. Ở đây cũng
xuất hiện hai trường hợp:
+ Nếu một người cho rằng, lợi ích của mình ít hơn thực tế của nó thì
người đó chính là người nhường nhịn. Họ không đấu tranh với người khác
để đòi đúng lợi ích của mình và họ nhận cái phần giá trị ít hơn cái mà họ
xứng đáng được hưởng, họ có thể nhận và đáng được nhận.
+ Ngược lại, một người cho rằng, lợi ích của mình phải nhiều hơn cái
mà anh ta xứng đáng được nhận, tức là anh ta muốn nhận nhiều hơn anh ta
có. Đó là người “không biết điều”. Anh ta cho rằng, anh ta phải được nhận
nhiều hơn cái mà anh ta xứng đáng được nhận. Những người như thế
thường hay va chạm với nhiều người xung quanh vì do tính tham lam và
không biết điều của anh ta.
Lý do thứ hai là do lòng tham của con người. Tuy nhận thức được
rằng, mình xứng đáng được nhận một phần giá trị nhất định trong tổng số
giá trị giới hạn, nhưng do tham lam nên anh ta muốn được nhiều hơn và
như thế là anh ta tìm cách giành lấy cái mà anh ta biết là mình không xứng
đáng được nhận. Ví dụ, một vị lãnh đạo tuy biết trình độ của mình hạn chế
không thể lãnh đạo tốt một cơ quan, nhưng do lòng tham anh ta vẫn cố tình
chạy chọt để giành lấy chức vụ cao, gạt người khác ra ngoài. Anh ta biết
như vậy là vi phạm lợi ích người khác, nhưng do ham muốn làm lãnh đạo
đã thôi thúc anh ta giành lấy cái không phải là của mình.
Hai lý do cơ bản trên và nhiều lý do khác đã thúc đẩy mọi người
trong xã hội đấu tranh với nhau để giành lấy lợi ích của mình. Như vậy,
33
trong lòng xã hội luôn diễn ra hai loại hoạt động thực tiễn:
Loại thứ nhất là sáng tạo, sản xuất, tìm kiếm, trao đổi các giá trị từ
thiên nhiên và từ nền văn hóa (giá trị tinh thần). Đây là hoạt động chiếm
hữu tự nhiên. Để thực hiện công cuộc chiếm hữu có hiệu quả thì con người
phải hiệp tác với nhau nhằm nâng cao hiệu quả lao động. Quy luật ở đây là
mọi hoạt động đều hướng vào việc tạo ra giá trị để thoả mãn nhu cầu của
mình. Đây là giá trị chiếm hữu. Quan hệ con người ở đây là quan hệ hiệp
tác, cùng có lợi. Chính sự hiệp tác này làm cho con người có những giá trị
nhân văn tốt đẹp.
Loại thứ hai là sau khi cộng đồng xã hội đã có những giá trị giới hạn
chung thì mỗi người đấu tranh với nhau để phân chia các giá trị theo quy
luật lợi ích. Quy luật ở đây là mọi hành động đều hướng tới việc giành
được nhiều lợi ích để thoả mãn nhu cầu của mình.
Với hai loại hoạt động xã hội này cũng hình thành hai loại quan hệ xã hội.
Một loại quan hệ có tính hiệp tác, liên minh. Để tạo ra nhiều giá trị để tăng
cường sức sản xuất, sức sáng tạo và hiệu quả sản xuất, con người phải liên minh
với nhau, hiệp tác với nhau để tạo ra nhiều giá trị vật chất và tinh thần. Đó là mối
quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người trong xã hội. Xã hội luôn luôn
tồn tại và phát triển là nhờ có những mối quan hệ hiệp tác này.
Loại quan hệ thứ hai là quan hệ đấu tranh, phân chia, giành giật, trao
đổi… các giá trị giữa người này với người khác, giữa cộng động này với
cộng đồng khác. Những người có chung những điều kiện để giành lợi ích
cho mình thường tập hợp lại thành từng nhóm người, nhóm này phát triển
thành tập đoàn làm cơ sở để hình thành các giai cấp. Đây là cuộc đấu tranh
để mọi người có thể giành được cái mà mình mong muốn có và của mình
(theo quan niệm riêng của họ). Kết cục của cuộc đấu tranh này sẽ tạo ra
34
một trật tự xã hội mà ở đó mỗi người sẽ nhận được cái phần của mình
tương ứng nhưng không đồng nhất cái mà họ xứng đáng được hưởng (tức
là lợi ích của họ).
Chính sự hiệp tác với nhau và sự đấu tranh với nhau giữa người với
người đẻ phân chia lợi ích là cơ sở để hình thành các quan hệ xã hội. Sau
đây chúng ta sẽ bàn kỹ hơn về quan hệ xã hội.
2.7. Quan hệ xã hội
Quan hệ xã hội là quan hệ giữa người với người trong xã hội, Quan
hệ đó hình thành do các cá thể liên kết với nhau trong một cộng đồng để
tạo ra các giá trị. Để chiếm hữu từ thiên nhiên, từ nền văn hóa được nhiều
giá trị vật chất và tinh thần thì các cá nhân phải hiệp tác với nhau để tăng
khả năng chiếm hữu tự nhiên, tăng sức sản xuất. Để thực hiện được quá
trình hiệp tác phải có sự phân công mỗi người đứng ở một khâu trong quá
trình tạo ra giá trị. Đó là một loại quan hệ xã hội quan hệ hiệp tác và phân
công để chiếm hữu các giá trị. Nhưng khi đã chiếm hữu được các giá trị thì
có sự đấu tranh để phân chia giá trị. Cuộc đấu tranh đó cũng sẽ dẫn đến
một loại quan hệ, đó là quan hệ lợi ích trong xã hội.
Nhưng để cho sự hiệp tác và sự phân chia được tiến hành thuận lợi và
hạn chế tranh chấp người ta sẽ quy định các mối quan hệ giữa con người
với con người trong hiệp tác và trong phân chia lợi ích. Khi nói đến quan
hệ xã hội là nói đến mối liên quan giữa người này với người khác trong quá
trình chiếm hữu tự nhiên (bao hàm cả thiện nhiên thứ nhất và thiên nhiên
thứ hai –văn hóa) và sở hữu các giá trị. Quan hệ giữa con người với con
người luôn được thể hiện trong quá trình chiếm hữu và sở hữu liên quan
đến quá trình tạo ra giá trị và phân chia giá trị.
Quan hệ xã hội là kết quả của quá trình con người hiệp tác với nhau
35
để chiếm hữu và đấu tranh với nhau để phân chia quyền sở hữu các giá trị.
Nó là quan hệ giữa con người với con người trong việc chiếm hữu và sở
hữu các giá trị chung.
Chúng ta hiểu quyền sở hữu là quyền định đoạt, quyền sử dụng, quyền
được hưởng lợi khi sử dụng. Đến một trạng thái phát triển nhất định của xã
hội sẽ có sự hiệp thương giữa các chủ thể lợi ích trong xã hội để quy định
về các quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội là quan hệ giữa con người với con
người trong hiệp tác sản xuất và trong phân chia các giá trị có hạn. Nó
được hình thành trong quá trình con người chiếm hữu tự nhiên và chiếm
hữu nền văn hóa. Những quan hệ xã hội ổn định, cơ bản, phổ biến và chi
phối phần lớn các hành vi của các thành viên trong xã hội được gọi là quy
phạm xã hội. Quy phạm xã hội được xây dựng để điều hòa các quan hệ lợi
ích trong xã hội. Nó là quy định về các tiêu chuẩn, nguyên tắc hành vi của
mọi người và quy định về các giá trị mà mỗi người có thể nhận được. Quy
phạm xã hội là những hành lang cơ bản nhất để mọi người dựa vào đó để
điều chỉnh các hành vi của mình. Quy phạm xã hội được hình thành từ sự
ngầm định về lợi ích và từ tương quan lực lượng của các chủ thể trong xã
hội. Quy phạm xã hội thường được những nhóm người có thế lực trong xã
hội xây dựng nên để duy trì trật tự xã hội, có lợi cho họ. Tất nhiên là khi
xây dựng các quy phạm xã hội các giai cấp thống trị cũng phải chú ý điều
hòa các quan hệ lợi ích để vừa được lợi nhất cho mình, vừa được các chủ
thể lợi ích khác chấp nhận. Ngược lại, nếu giai cấp nào, dù là giai cấp
thống trị mà xây dựng các quy phạm vi phạm sâu sắc đến lợi ích của chủ
thể khác thì sẽ bị phản kháng theo quy luật có áp bức có đấu tranh.
Theo Giáo sư Lý Cường – Viện Khoa học xã hội – Trường Đại học
Thanh Hoa – Trung Quốc có hai loại quy phạm xã hội. Ông viết “Thông
thường chúng ta chia quy phạm xã hội thành quy phạm xã hội có tính
36
cưỡng chế và quy phạm xã hội có tính phi cưỡng chế. Quy phạm xã hội có
tính cưỡng chế là quy phạm xã hội mà mọi người phải tuân thủ, là quy
phạm có quy định các điều khoản luật pháp, pháp quy rõ ràng mà không
được làm trái. Nếu làm trái thì có thể bị phạt mang tính cưỡng chế, ví dụ
như pháp luật. Quy phạm xã hội có tính phi cưỡng chế cũng rất quan trọng
nhưng sự ước thúc của nó đối với con người không giống như pháp luật
phải tuân thủ. Ví dụ một người không làm trái với pháp luật, chỉ trái với
đạo đức thì anh ta chỉ có thể bị dư luận lên án”1.
Như vậy, quy phạm xã hội là những quan hệ xã hội rất cơ bản được
một cộng đồng, một dân tộc hay một quốc gia thừa nhận. Pháp luật, hương
ước, các quy định về đạo đức … là các quy phạm xã hội. Con người sống
trong một cộng đồng xã hội luôn phải hiểu và tuân theo những quy phạm
nhất định. Làm trái đi sẽ bị cộng đồng phê phán hoặc trừng trị bằng cách
này hay cách khác. Các quy phạm xã hội được xây dựng nên bằng cách
nào? Chính là qua cuộc đấu tranh để giải quyết các vấn đề lợi ích. Khi mà
ai cũng muốn đấu tranh để giành lấy nhiều giá trị để thoả mãn cho nhu cầu
của mình thì sẽ gây rất nhiều tổn hại cho các chủ thể lợi ích. Cuối cùng thì
mọi người cũng phải “hiệp thương” với nhau để đề ra những quy phạm xã
hội. Các nhà chính trị, tư tưởng, lý luận sẽ nêu ra các quy phạm xã hội định
trên các nguyên tắc sau đây:
- Thứ nhất là dựa trên sự công bằng về lợi ích, tức là sáng tạo ra nhiều
giá trị sẽ được nhiều giá trị.
- Ai có sức mạnh hơn thì có thể nhận nhiều giá trị.
- Quan hệ con người với tự nhiên như thế nào thì sẽ điều chỉnh các
1 GS. Lý Cường – Viện Khoa học xã hội – Trường Đại học Thanh Hoa – Trung Quốc, trả lời phỏng vấn Tạp chí “Chủ nghĩa Mác và hiện thực” (Trung Quốc), số41-2005 trích theo “Thông tin những vấn đề lý luận – Phục vụ lãnh đạo – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tr.25.
37
quy phạm xã hội theo.
- Các giai cấp thống trị xã hội bao giờ cũng nêu ra những quy phạm có
lợi cho họ hơn. Như vậy, các quy phạm xã hội là sản phẩm của cuộc đấu
tranh để giải quyết các vấn đề về lợi ích và đến lượt nó lại trở thành
phương tiện, nguyên tắc để giải quyết vấn đề về lợi ích. Có như thế xã hội
vừa lấy những quy phạm cũ để giải quyết các vấn đề lợi ích rồi lại trên cơ
sở thực tiễn giải quyết các vấn đề lợi ích để hoàn thiện các quy phạm cũ và
xây dựng các quy phạm mới. Thông thường những giai cấp, những tầng
lớp xã hội có đặc quyền, đặc lợi, bảo thủ cố gắng bảo vệ những quy phạm
xã hội đã lỗi thời, còn những giai cấp, những tầng lớp nhân dân tiến bộ, đại
diện cho sức sản xuất mới, bao giờ cũng muốn xóa bỏ những quy phạm xã
hội đã lỗi thời và thay thế vào đó những quy phạm xã hội mới tiến bộ hơn
và đặt biệt là phù hợp hơn với những điều kiện xã hội mới. Các tập đoàn
người đấu tranh với nhau một bên là xóa bỏ những quy phạm xã hội đã lỗi
thời, lạc hậu, còn một bên là duy trì các quy phạm đó do lợi ích của mình.
Khi mà những quy phạm cũ quá lạc hậu với sự vận động của quan hệ giữa
con người với tự nhiên thì phải thực hiện một cuộc cách mạng xã hội xoá
đi những quy phạm lỗi thời, xây dựng những quy phạm hoàn toàn mới phù
hợp hơn với sự phát triển của xã hội. Lúc đó người ta đã thực hiện cái mà
ngày nay thường gọi là cách mạng xã hội.
Một số quy phạm xã hội được giai cấp thống trị quy định thành điều
bắt buộc phải chấp hành đó là pháp luật. Pháp luật là khái niệm hẹp hơn
khái niệm quy phạm xã hội. Các quan hệ xã hội phong phú hơn rất nhiều
các quy phạm xã hội nhưng luôn được hình thành trên cơ sở các quy phạm
xã hội. Các quy phạm xã hội phongphú hơn các quan hệ pháp lý nhưng
được hình thành trên cơ sở các quan hệ pháp lý.
2.8. Quy luật xã hội
38
2.8.1. Khái niệm
Nếu quy luật là những mối liên hệ khách quan, tất yếu và phổ biến
giữa các sự vật và hiện tượng thì quy luật xã hội là những mối quan hệ xã
hội thường xuyên, phổ biến, tất yếu, khách quan lặp lại ở nhiều nơi giữa
con người và con người trong xã hội.
Quan hệ xã hội rất đa dạng và phong phú và có rất nhiều quan hệ
mang tính ngẫu nhiên, cá biệt, không bắt buộc. Còn quy luật xã hội là
những quan hệ bắt buộc, tất yếu, khách quan. Ví dụ như giá cả của hàng
hóa phải tương ứng với lượng lao động xã hội bình quân tất yếu kết tinh
trong hàng hóa đó. Nếu như anh A mua hàng của anh B thì quan hệ giữa
anh A và anh B là quan hệ xã hội giữa người mua và người bán. Nhưng
anh A phải trả bao nhiêu tiền cho anh B sau khi nhận món hàng của anh ta
thì phụ thuộc vào giá trị của hàng hóa đang được mua bán, tức là phụ thuộc
vào lượng lao động xã hội bình quân tất yếu, kết tinh trong hàng hóa đó.
Đó là quy luật giá trị. Hoặc nếu như một nhà tư bản bỏ vốn ra để mua tư
liệu sản xuất và thuê công nhân lao động thì sau khi trừ đi các khoản chi
phí, nhà tư bản đó phải thu lại một lượng giá trị mới mà người ta gọi là giá
trị thặng dư. Việc thu giá trị thặng dư là quy luật giá trị thặng dư trong nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Để nhận thức tốt được quy luật xã hội, người ta thường chú ý đến ba
bộ phận: thứ nhất là các chủ thể (ở đây là những con người và cộng đồng
người), thứ hai là quan hệ giữa các chủ thể cấu thành quy luật (mà chủ
yếu là các quan hệ lợi ích), thứ ba là những điều kiện xã hội trong đó các
mối liên hệ phổ biến được hiểu hiện.
2.8.2. Đặc trưng của quy luật xã hội
Quy luật xã hội lấy hoạt động của con người làm tiền đề, nhưng lại
không biểu hiện trực tiếp ở hoạt động của một người, mà là ở hoạt động
39
của một số đông người và chỉ được biểu hiện thông qua hoạt động của họ.
Từ đó, chúng ta có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản của quy luật xã hội.
- Quy luật xã hội là những quy luật khách quan được hình thành thông
qua hoạt động chủ quan của con người.
Mọi người trong xã hội đều chủ động đi tìm kiếm các giá trị để thoả
mãn nhu cầu của mình. Đó là hoạt động mang tính chủ quan, Nhưng trong
quá trình tìm kiếm các giá trị để thỏa mãn nhu cầu của mình xuất hiện rất
nhiều khả năng con người phải hiệp tác với nhau để tạo ra các giá trị, để
mở rộng không gian sinh tồn, để chống lại những lực lượng phá hoại của tự
nhiên… Vì vậy, con người phải hiệp tác với nhau và trong hiệp tác phải có
sự phân công mỗi người làm một việc. Khi đã tạo ra một lượng giá trị nào
đó thì phải phân chia các giá trị đó và phân chia theo một cơ chế nào để
tránh các xung đột. Toàn bộ những điều đó được hình thành bởi một cơ chế
ngầm định nào đó. Chính cơ chế đó gọi là quy luật. Như vậy, vấn đề giữa
tính tự phát và tự giác; tính khách quan và chủ quan trong quan hệ xã hội là
những vấn đề tồn tại thực tế trong phương thức tồn tại và tác động của quy
luật xã hội.
- Tính xu hướng của quy luật xã hội. Quy luật xã hội hoạt động thông
qua hoạt động thực tiễn của con người, nhưng không thể hiện trực tiếp ở
từng cá nhân riêng biệt mà ở hoạt động của một cộng đồng người rộng lớn
– một giai cấp, một dân tộc, trong một nền sản xuất hoặc cả một thời đại.
Nó thể hiện ra như một khuynh hướng phổ biến của nhiều sự kiện. Thời
gian càng dài, không gian càng rộng thì xu hướng chung ấy càng thể hiện
rõ hơn. Quy luật xã hội thể hiện như một xu hướng, tuy không chính xác
như nhau ở từng sự kiện song vẫn mang tính khách quan, tất yếu.
- Quy luật xã hội được hình thành trên cơ sở hiệp tác giữa con người
40
với con người, vừa trên cơ sở đấu tranh để thực hiện lợi ích. Trước hết sự
hiệp tác giữa con người với con người nằm trong tính sáng tạo của quá
trình lao động quy định. Quá trình lao động đã đưa con người đến những
tình huống đòi hỏi phải hiệp tác với nhau. Sự hiệp tác đã mang lại sức
mạnh to lớn cho cộng đồng người và cũng qua đó hình thành các quy luật
xã hội. Mặt khác, do các giá trị mà cộng đồng có ít hơn nhu cầu của các
chủ thể nên có sự đấu tranh để phân chia các giá trị. Lợi ích bị quy định bởi
điều kiện khách quan trong đó con người tồn tại và lợi ích được nhận thức
chuyển thành mục đích động cơ và ý chí để thực hiện mục đích. Cuộc đấu
tranh để giải quyết các vấn đề lợi ích đã tạo ra các quan hệ và quy luật xã
hội mới.
2.9. Xung đột xã hội
2.9.1. Khái niệm
Xung đột xã hội là hiện tượng luôn xảy ra trong đời sống xã hội và là
vấn đề được quan tâm, giải quyết thường xuyên trong suốt chiều dài lịch sử
của nhân loại. Tuy vậy khái niệm xung đột xã hội cho đến nay vẫn chưa
được xác định rõ nội hàm và ít nhất là chưa có sự thống nhất giữa các
trường phái khác nhau.
Vào giữa những năm 60 của thế kỷ 20 nhà xã hội học người Đức
trong tác phẩm "Mô hình xung đột xã hội" đã đưa ra một lý thuyết về xung
đột xã hội. Ông cho rằng, xung đột xã hội là hiện tượng thường xuyên xảy
ra trong những xã hội đang biến đổi và những xích mích, mâu thuẫn, những
va chạm đều có thể dẫn đến xung đột xã hội. Nhà xã hội học người Mỹ
Luixa Kozer coi xung đột xã hội là sự đấu tranh vì những giá trị và những
nỗ lực (cố gắng và hy vọng) đạt được một sự thừa nhận một vị trí xã hội
quyền lực hoặc nguồn lợi. Trong cuộc đấu tranh đó, người ta có trung lập
41
hóa, gây thiệt hại hoặc tiêu diệt đối thủ của mình".
Qua rất nhiều quan niệm khác nhau về xung đột xã hội chúng ta có thể
nêu một khái niệm ước lệ như sau: xung đột xã hội là sự bùng phát của cuộc
đấu tranh giành những giá trị vật chất và tinh thần. Trong cuộc đấu tranh đó
mỗi chủ thể cố gắng giành được những giá trị tốt nhất cho mình và phủ nhận
lợi ích của đối thủ.
Xung đột xã hội thường là hậu quả của cuộc đấu tranh kéo dài để giải
quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích đến những giá trị xã hội mà các bên
quan tâm. Trong xã hội luôn luôn có một hệ thống các giá trị vật chất và
tinh thần. Các chủ thể xã hội (có thể là một cá nhân, một cộng đồng hay
một quốc gia) luôn luôn tìm cách nhận được nhiều giá trị nhất để thỏa mãn
nhu cầu của mình. Sự ngầm định đó do một cơ chế xã hội bên trong quy
định. Đó là lợi ích. Lợi ích do các yếu tố sau đây quy định.
- Quan hệ giữa con người và tự nhiên.
- Quan hệ giữa con người và nền văn hoá.
- Công lao của mỗi người trong quá trình sáng tạo ra các giá trị vật
chất và tinh thần.
- Các quy phạm xã hội do lịch sử để lại.
- Sức mạnh của các chủ thể tham gia quan hệ lợi ích.
- Sự quyết tâm của các chủ thể trong cuộc đấu tranh để giành các giá trị.
Quy định lợi ích là sự quy định mang tính khách quan. Tuy vậy,
trong xã hội không phải các chủ thể lợi ích luôn luôn nhận thức đúng được
quan hệ lợi ích. Sự nhận thức khác nhau về quan hệ lợi ích thường dẫn đến
những mâu thuẫn. Mâu thuẫn xã hội là những yếu tố tiềm ẩn dẫn đến
những xung đột xã hội.Tác giả Đặng Phú Thâu trong luận văn thạc sĩ của
42
mình đã hệ
thống được các vấn đề nguyên nhân dẫn đến xung đột xã hội sau đây:
- Nhận thức khác nhau về lợi ích.
- Những đòi hỏi khó được nhau chấp nhận.
- Sự khác biệt trong đơn vị xã hội trong hệ thống sản xuất xã hội.
- Sự khác biệt trong quan hệ quyền lực.
- Sự nỗ lực bảo vệ các giá trị hay đấu tranh vì những giá trị.
- Sự bác bỏ hay lờ đi những nhu cầu của người khác hay của nhóm
người khác.
- Sự phân biệt về quan điểm, niềm tin tín ngưỡng.
- Sự khác biệt về địa vị xã hội trong hệ thống chính trị.
- Sự hận thù trong quá khứ1.
- Sự hiểu không đúng về nhau do việc phát đi nhận lại những thông
điệp không rõ ràng.
Nguyên nhân căn bản nhất của xung đột xã hội là nhận thức khác
nhau về lợi ích. Lợi ích do các yếu tố khách quan quy định. Có rất nhiều
trường hợp do không nhận thức được các yếu tố khách quan nên các chủ
thể lợi ích thường cho rằng lợi ích của mình bị xâm phạm từ đó dẫn đến
mâu thuẫn, từ mâu thuẫn dẫn đến xung đột. Trong xã hội do các yếu tố
khách quan thay đổi làm cho quan hệ lợi ích cũng thay đổi. Trong rất nhiều
trường hợp tư duy về lợi ích của các chủ thể lợi ích không theo kịp với sự
thay đổi của thực tiễn và do đó dẫn đến nhận thức sai đó càng là nguyên
1 Sách đã dẫn tr.20-21.
43
nhân dẫn đến xung đột.
2.9.2. Các loại hình xung đột xã hội
Xung đột xã hội là một hiện tượng diễn ra thường xuyên và ở nhiều
cấp độ khác nhau. Xung đột cá nhân thường xuyên đối với những người
thân trong một cộng đồng xã hội như gia đình, dòng họ, cơ quan, làng xóm.
Xung đột cộng đồng là xung đột giữa nhóm người này và nhóm người khác
trong xã hội... Chúng ta có thể chỉ ra các loại hình xung đột chính như sau:
- Xung đột cá nhân: Đó là xung đột giữa những người trong một
cộng đồng có chung những giá trị vật chất và tinh thần.
- Xung đột giữa hai cộng đồng dân cư: Thường liên quan đến việc
tranh chấp lãnh thổ, không gian sinh tồn hoặc quan hệ lợi ích.
- Xung đột dân tộc: Đó là những dân tộc tồn tại liền kề nhau có tranh
chấp về các giá trị liên quan đến sự tồn vong của họ.
- Xung đột quốc gia - quốc gia.
- Xung đột sắc tộc.
- Xung đột giai cấp.
- Xung đột tôn giáo.
Xung đột thường diễn theo một quá trình từ ngấm ngầm đến công
khai, từ ôn hòa đến bùng phát. Chúng ta có thể khái quát thành các cấp độ
sau đây:
- Giai đoạn ngấm ngầm: Là những tranh chấp ôn hòa, cục bộ giữa
hai lực lượng đối chọi nhau về quyền lợi. Giai đoạn này mỗi bên còn phải
cố giữ để hạn chế những bột phát có thể gặp rủi ro cho mỗi bên.
- Giai đoạn công khai: Đó là lúc mâu thuẫn tiếp tục không được giải
44
tỏa nên phát triển cao hơn. Hai bên đã không còn giữ trạng thái "bằng mặt
không bằng lòng" nữa. Các bên công khai về thái độ của mình về tình trạng
xung đột. Họ công khai đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình
chống lại phía bên kia.
- Giai đoạn căng thẳng đối đầu, không tương dung. Đây là giai đoạn
đã bùng phát các điểm nóng chính trị - xã hội. Các bên kiên quyết đấu tranh
để giành thắng lợi cho mình. Giai đoạn này sẽ phát triển theo hai xu hướng
hoặc là hủy diệt hoặc là sinh thành phát triển, tùy theo hoàn cảnh lịch sử.
Thường là khi lực lượng xã hội tiến bộ có sức mạnh thì sẽ dẫn đến phát
triển, còn nếu như lực lượng bảo thủ, phản động thắng thế thì sẽ dẫn đến hủy
diệt và khủng bố.
Xung đột xã hội là một hiện tượng thường gây bất ổn trong lòng xã
hội, nhưng không vì thế mà chúng ta luôn coi nó là hiện tượng tiêu cực. Có
những xung đột xã hội mang tính tích cực và nó thúc đẩy sự phát triển.
Vì vậy khi xem xét một sự kiện "xung đột xã hội" nào đó, chúng ta
phải tìm hiểu kỹ và phải có hướng giải quyết để tham gia các mâu thuẫn
theo hướng tích cực.
45
Phần 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN
1. Khoa học xã hội nhân văn và đặc điểm của khoa học xã hội
nhân văn
1.1. Khoa học xã hội nhân văn
Khoa học xã hội nhân văn là khoa học nghiên cứu các vấn đề thuộc
các lĩnh vực xã hội và nhân văn hay khoa học xã hội nhân văn là khoa học
nhận thức về xã hội con người.
Ở đây, trước hết ta cần hiểu rõ:
Khoa học là hệ thống tri thức được rút ra từ thực tiễn và được chứng
minh bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học. Để phân biệt khoa học
với các hình thái ý thức xã hội khác, người ta chia tri thức của loài người
thành ba nhóm sau đây:
- Tri thức thông thường: là toàn bộ hiểu biết của con người về thế giới.
Tri thức thông thường rất rộng và là cơ sở làm nên nền văn hóa của mỗi
người và của mỗi cộng đồng xã hội. Tuy vậy, trong tri thức thông thường
có nhiều cái sai và có nhiều cái không có giá trị (hoặc ít có giá trị hữu ích
đối với con người).
46
- Tri thức tiền khoa học: là những tri thức được con người rút ra từ
thực tiễn, đã qua trải nghiệm thực tế nhưng chưa được chứng minh bằng
các phương pháp nghiên cứu khoa học. Tri thức tiền khoa học phần lớn là
đúng và có giá trị ứng dụng cao. Tuy vậy, cũng có những tri thức tiền khoa
học do một sự ngộ nhận nào đó, nên vẫn sai hoặc chỉ đúng trong một điều
kiện xã hội nhất định.
- Tri thức khoa học: là tri thức đã được chứng minh bằng các phương
pháp nghiên cứu khoa học và được thực tiễn kiểm nghiệm. Đây là loại tri
thức đúng đắn, khách quan và có giá trị hữu ích cao.
Khoa học chia thành nhiều lĩnh vực khác nhau, mỗi lĩnh vực (bộ môn
khoa học) có đối tượng và phương pháp nghiên cứu chuyên sâu riêng biệt
và có những đặc điểm riêng để phân biệt với nhau.
Xã hội là “sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người và người”
dưới bất kỳ hình thức nào. Xã hội được xem xét như một hệ thống bao gồm
4 phân hệ ứng với 4 lĩnh vực (yếu tố) có quan hệ chặt chẽ trong cấu trúc
thống nhất.
- Lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội, tức quan hệ sản xuất là quan hệ
ban đầu cơ bản và quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác.
- Lĩnh vực xã hội là quan hệ gia đình, tầng lớp, giai cấp, dân tộc, trong
đó quan hệ giai cấp đóng vai trò chi phối (trong xã hội có giai cấp).
- Lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội là các tổ chức và thiết chế
quyền lực, hệ thống pháp luật và tư tưởng chính trị (từ khi xuất hiện nhà
nước).
- Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội.
Nhân văn là tổng hoà các yếu tố mang tính “con người” trong xã hội.
47
Nhân văn là một khái niệm rộng, bao hàm nhiều vấn đề như lịch sử, văn
học, nghệ thuật… và bản thân nhân văn cũng phản ánh mối quan hệ người
– người, về truyền thống, văn hóa và đạo đức.
Khoa học xã hội là khoa học về các giá trị nhân văn và các mối quan
hệ xã hội của con người.
Đặc điểm của khoa học xã hội nhân văn
Với ý nghĩa, nội dung trên, khoa học xã hội nhân văn mang những đặc
điểm riêng và có đối tượng và phương pháp nghiên cứu khác khoa học tự
nhiên và khoa học kỹ thuật.
Đối tượng của khoa học xã hội nhân văn là “xã hội - nhân văn” – là
các giá trị nhân văn, các mối quan hệ giữa người với người, các hành vi xã
hội của con người.
Khoa học xã hội nhân văn sử dụng phương pháp phân tích số lớn, tổng
hợp thống kê, giải trình, suy luận và diễn giải để đưa ra kết luận là chủ yếu.
Khoa học xã hội nhân văn bao hàm nhiều bộ môn khoa học chuyên
sâu khác như:
- Kinh tế học nghiên cứu các hiện tượng các quy luật kinh tế trong xã
hội.
- Xã hội học nghiên cứu mối quan hệ giữa con người trong xã hội, các
giá trị nhân văn nghiên cứu các mối quan hệ người – người trong kinh tế,
đó là các quan hệ về kinh tế: các môn học kinh tế (kinh tế vi mô, kinh tế vĩ
mô, kinh tế quốc tế, kinh tế phát triển…), các lĩnh vực có tính chất tổng
hợp (thống kê)…
- Sử học nghiên cứu về lịch sử xã hội loài người, về lịch sử các quốc
gia, dân tộc (khoa học lịch sử).
48
- Văn học nghiên cứu về văn học, nghệ thuật, lịch sử văn học, lịch sử
nghệ thuật (môn văn học, hội hoạ, múa, …).
- Khoa học xã hội nhân văn về các mối quan hệ gia đình, về đạo
đức…
- Nghiên cứu về các vấn đề có tính chất lý luận (triết học), tư tưởng…
- Khoa học xã hội nhân văn có nội dung nghiên cứu là các quan hệ xã
hội loài người, các vấn đề về nhân văn riêng có trong xã hội con người.
Nội dung nghiên cứu của khoa học xã hội nhân văn phản ánh bản chất
“sống” của con người. Trong đó bao gồm các vấn đề về kinh tế, các quy
luật kinh tế, các hiện tượng kinh tế, các vấn đề về đạo đức, các phương
diện nghệ thuật; các hành vi ứng xử của con người trước các vấn đề kinh
tế, đạo đức, nghệ thuật.
Cái làm nên sự khác biệt của khoa học xã hội nhân văn so với các
khoa học khác là nó phản ánh con người trong các hoạt động tương tác với
tự nhiên và xã hội. Các vấn đề nghiên cứu ở đây có yếu tố “người” chứ
không chỉ là các yếu tố khách quan có tính chất tự nhiên như các môn khoa
học khác.
Về kinhh tế, đó là các xu thế vận động của nhu cầu con người, các yếu
tố tác động đến nhu cầu con người, các quy luật kinh tế tự nhiên có tác
động đến con người như thế nào và sự ảnh hưởng trở lại của hành vi của
con người đến các quy luật đó.
Về nghệ thuật, đó là các phương pháp sáng tạo và các sáng tác nghệ
thuật như: thi ca, văn học, hội hoạ và cảm nhận của con người đối với cái
mới, cái đẹp, cái “nghệ thuật”.
Về đạo đức, đó là những mối liên hệ, những biểu hiện “người”. Khoa
49
học xã hội nhân văn nghiên cứu, chỉ ra các cách ứng xử trong quan hệ gia
đình, bạn bè, quan hệ công sở …
- Nội dung chính của khoa học xã hội nhân văn là nghiên cứu các
quan hệ giữa con người và con người và cách ứng xử của con người đối
với tự nhiên và xã hội.
- Khoa học xã hội nhân văn có mục đích rất cụ thể và mục đích ấy
nhằm cải thiện các ứng xử trong quan hệ “người”.
Nghiên cứu về kinh tế, khoa học xã hội nhân văn nhằm đưa ra các giải
pháp hoàn thiện giúp con người có các ứng xử phù hợp trước các vấn đề về
kinh tế. Nghiên cứu khoa học kinh tế giữa con người có thể tự điều chỉnh
hoạt động của mình cho có lợi nhất trong điều kiện kinh tế cụ thể. Theo đó,
bản chất thoả mãn lợi ích cá nhân là bản chất cố hữu trong bất cứ hành vi
ứng xử nào của con người khi “hoạt động kinh tế”.
Nghiên cứu về nghệ thuật, khoa học xã hội nhân văn giúp con người
tiến dần đến cái “đẹp”, hoàn thiện bản thân để tiến đến một con người có
cảm nhận sâu xa về cái đẹp. Nghệ thuật phản ánh cuộc sống, con người
cảm nhận nghệ thuật là cảm nhận chính cuộc sống. Do đó, cách tiếp cận
nghệ thuật thông qua khoa học xã hội nhân văn giúp con người tiếp cận
gần hơn với cuộc sống thực của mình. Nghệ thuật cũng phản ánh ước mơ,
con người cảm nhận nghệ thuật làm cho cuộc sống phong phú và hài hoà
hơn.
Nghiên cứu về đạo đức, khoa học xã hội nhân văn giúp con người có
hành vi “đẹp”. Khoa học xã hội nhân văn đưa ra các chuẩn mực về đạo
đức, về các cách ứng xử trong quan hệ con người. Quy chuẩn đạo đức con
người, khoa học xã hội nhân văn góp phần làm cho xã hội trở nên tốt đẹp
hơn.
50
Trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác, khoa học xã hội nhân văn hầu
hết đều đưa ra giải pháp cho hành động, cho ứng xử của con người. Nói
chung, nội dung chủ yếu của khoa học xã hội nhân văn là “người, xã hội
con người”.
Nói tóm lại, khoa học xã hội nhân văn là khoa học về con người và
các hành vi ứng xử của con người. Khoa học xã hội nhân văn giúp đưa ra
các cách ứng xử cho con người trong mối quan hệ hài hòa với các hiện
tượng, biểu hiện của xã hội người. Khoa học xã hội nhân văn là một bộ
phận của văn hóa nhân loại.
1.2. Điều kiện để nhận thức quan hệ và quy luật xã hội
Muốn xác định đúng phương pháp nghiên cứu trong lĩnh vực các khoa
học xã hội và nhân văn, trước hết cần phân tích để nắm vững những đặc
điểm của quá trình nhận thức xã hội. Đặc điểm của quá trình đó thể hiện ở
những điều kiện và con đường nhận thức các quy luật xã hội.
Nhìn lại lịch sử phát triển của khoa học, người ta dễ dàng nhận thấy
rằng: con người nhận thức được quy luật vận động và phát triển của xã hội
muộn hơn nhiều so với việc nhận thức các quy luật của tự nhiên. Phải trải
qua hàng ngàn năm phát triển, con người mới tự nhận thức được một số
quy luật vận động và phát triển của xã hội. Tính phức tạp đó bắt nguồn từ
sự xuất hiện nhân tố ý thức con người cùng với đặc trưng sáng tạo, năng
động của nó, mà không một lĩnh vực nào khác của thế giới vật chất có thể
sánh nổi. Vận động xã hội bao hàm trong nó vận động lý học, sinh học,
hóa học và vận động của ý thức con người, vì thế, nhận thức xã hội và quy
luật xã hội là một quá trình hết sức khó khăn, phức tạp, lâu dài, đòi hỏi phải
có những điều kiện nhất định.
Điều kiện thứ nhất để nhận thức các quan hệ xã hội và quy luật xã hội
51
là cần phải có một môi trường kinh tế xã hội phát triển đạt đến một trình
độ nhất định
Các quy luật xã hội hình thành cùng với sự hình thành và phát triển xã
hội, vì vậy, khi những điều kiện xã hội đã chín muồi thì các quy luật ấy
mới bộc lộ một cách rõ ràng nhất. Nhiều quy luật chỉ được nhận thức khi
xã hội đạt đến một trình độ phát triển nhất định. Bất kỳ thành tựu khoa học
nào cũng chỉ có thể ra đời trong điều kiện lịch sử xã hội đã chín muồi,
nhưng vai trò của nhân tố chủ quan nhà khoa học, đặc biệt là bản lĩnh chính
của nhà khoa học là nhân tố trực tiếp quyết định sự ra đời của chân lý khoa
học. Điều này là đúng trong khoa học tự nhiên, lại càng đúng và rõ hơn đối
với khoa học xã hội.
Điều kiện thứ hai là tư duy của con người phải đạt đến trình độ trừu
tượng hoá, khái quát hoá
Khi so sánh công việc nghiên cứu của nhà vật lý với nhà kinh tế,
C.Mác nhận xét rằng: “Nhà vật lý học hoặc giả quan sát các quá trình tự
nhiên ở những nơi mà quá trình ấy thực hiện ra dưới một hình thức nổi bật
nhất và ít bị che mờ nhất bởi những ảnh hưởng gây nhiều loạn, hoặc giả
nếu như có thể thì tiến hành thực nghiệm trong những điều kiện bảo đảm
cho quá trình diễn biến dưới một dạng thuần khiết”1. Tuy nhiên, khác với
các nhà vật lý và khoa học tự nhiên, người nghiên cứu xã hội không thể
dùng phương pháp thí nghiệm kiểu khoa học tự nhiên được. “Phân tích
những hình thái kinh tế, người ta không thể dùng kính hiển vi hay những
chất phản ứng hóa học được. Sức trừu tượng hoá phải thay thế cho cả hai
cái đó”2. Vai trò đặc biệt quan trọng của sự trừu tượng hóa là ở chỗ, nó bổ
sung cho khả năng có hạn của thí nghiệm khi nghiên cứu xã hội. Chính nhờ
1 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb CTQG, H., 1993, tr.16.2 Như trên, tr.19.
52
sức mạnh của trừu tượng hóa mà C.Mác đã phát hiện ra những quy luật
chung của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đưa vào sự phân tích
một khối lượng khổng lồ các tài liệu thu được. Thực ra, từ rất sớm loài
người đã biết vận dụng các quy luật của tự nhiên và cả quy luật xã hội
trước khi nhận thức được bản chất của các quy luật đó. Đúng như
Ph.Ăngghen viết: “Từ lâu người ta đã suy nghĩ một cách biện chứng trước
khi biết biện chứng là gì, cũng từ lâu người ta nói theo văn xuôi trước khi
có danh từ và văn xuôi”3. Chỉ có điều sự nhận thức và vận dụng các quy
luật kiểu như vậy mới chỉ là hành động tự phát dựa vào những hiểu biết
kinh nghiệm, chủ yếu là tuân theo những cái bắt buộc mà thôi.
Loài người vẫn giải quyết các quan hệ xã hội qua các thời kỳ lịch sử
kế tiếp nhau, nhưng họ chỉ giải quyết theo cảm nhận trực quan và không
phải lúc nào họ cũng hiểu biết đầy đủ về quy luật xã hội. Cũng như loài
người đã từng thay đổi nhiều lần về quan hệ sản xuất mặc dù họ chưa hiểu
gì quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất. Việc nhận thức bản chất các quan hệ và quy luật xã
hội chỉ có thể thực hiện được khi mà khoa học xã hội nhân văn phát triển
đến một trình độ nhất định. Đó là khi các quan hệ xã hội đã đạt đến trình độ
phát triển cho phép quy luật xã hội bộc lộ một cách rõ ràng nhất và đầy đủ
nhất.
Kết quả nghiên cứu không chỉ do trình độ của chủ thể quy định mà
còn phụ thuộc vào sự vận động của lịch sử trong đó các quy luật được bộc
lộ ra một cách rõ ràng nhất. Chỉ khi đó đối tượng nghiên cứu mới bộc lộ
một cách rõ nét những đặc điểm, nghiên cứu thuộc tính của bản thân mình.
Nhận xét này không đúng cả với đối tượng nghiên cứu là giới tự nhiên, với
các lĩnh vực xã hội.3 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, H.,1994, tr.476.
53
Điều kiện tiếp theo để nhận thức các quan hệ xã hội và các quy luật
của nó là phải có những tiền đề về khoa học mà nhân loại đã tạo ra.
Những tiền đề ấy chính là hệ thống tri thức khoa học phát triển đến độ
chín muồi và một thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn. Nó là cơ sở
lý luận để các nhà nghiên cứu có thể nhận biết rõ hơn các hiện tượng của
đời sống xã hội. Ngày nay điểm tựa chắc chắn và tin cậy cho mọi công
trình nghiên cứu xã hội và quy luật xã hội chính là “chủ nghĩa duy vật lịch
sử”. Việc áp dụng triệt để chủ nghĩa duy vật vào nghiên cứu các hiện
tượng xã hội sẽ khắc phục được những khuyết điểm căn bản của lý luận về
xã hội trước đây.
Lợi ích của chủ thể nghiên cứu là điều kiện thứ tư.
Một bộ phận lớn các quy luật xã hội được hình thành trên cơ sở quan
hệ lợi ích. Có thể nói các quan hệ xã hội đều hình thành và phát triển
thông qua cái trục của cơ chế lợi ích. Nhưng lợi ích lại là một khái niệm rất
trừu tượng và khó nhận biết. Người ta chỉ cảm nhận được thông qua những
cái đã xảy ra. Nhận thức đúng được quan hệ lợi ích đã là việc rất khó. Tuy
vậy, quan hệ lợi ích lại thay đổi cùng với sự thay đổi của tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất. Một quan hệ xã hội được coi là hợp lý nhất ngày
hôm qua có thể hôm nay đã không còn phù hợp nữa. Vì vậy, mâu thuẫn
trong lợi ích là mâu thuẫn thường xuyên, phổ biến, tất yếu và khách quan.
Chính vì mâu thuẫn trong lợi ích dẫn đến mâu thuẫn trong nhận thức về lợi
ích. Thông thường những chủ thể lợi ích bao giờ cũng đúng về phía những
54
điều có lợi cho cá nhân mình, cho cộng đồng mình và cho dân tộc mình để
phát hiện về các quan hệ xã hội. Những quan hệ nào không phản ánh đúng
lợi ích của chủ thể nghiên cứu thường không được tiếp nhận như một chân
lý. Vì vậy, trong khoa học xã hội nhân văn mỗi cá nhân, mỗi giai cấp, mỗi
cộng đồng đều có lập trường riêng của mình về vấn đề lợi ích. Do đó, nó
dẫn đến tính giai cấp trong khoa học này. Các giai cấp, các tầng lớp thường
có thái độ khác nhau đối với sự tác động của quy luật, do đó cũng có thái
độ khác nhau đối với việc nhận thức các quy luật xã hội.
Trường hợp quy luật xã hội trái với những quy phạm xã hội đang có
lợi cho một chủ thể nào đó thì họ rất khó nhận ra quy luật, hoặc nhận thức
được nhưng vì lợi ích nên họ cố tình che đậy hoặc phủ nhận chân lý.
Trường hợp quy luật xã hội phù hợp với những quy phạm xã hội, với
lợi ích của chủ thể nào đó thì chủ thể nhận thức nhanh các quy luật đó và
cố gắng đấu tranh vì lẽ công bằng.
Thường là những cá nhân, tập đoàn đại diện cho sức sản xuất tiên tiến
là những người mong muốn những quy phạm xã hội mới phải phù hợp với
quy luật và họ đấu tranh để bảo vệ sự công bằng bảo vệ chân lý. Những lý
thuyết xã hội thường mang trong mình những hạn chế do khả năng của
người nghiên cứu, môi trường hạn chế của việc nghiên cứu, hạn chế lịch sử
và các giới hạn về không gian và thời gian khác.
Những yếu tố phỏng đoán, suy đoán hình thức hoặc những quan niệm
ngây thơ, viển vông thường đan xen với những phán đoán đúng, thường cùng
tồn tại trong các học thuyết về xã hội, đặc biệt khi nhận định về tương lai.
Như vậy, việc nhận thức các quy luật xã hội chỉ có thể thực hiện được
trong những điều kiện lịch sử nhất định, đó là khi các quan hệ xã hội chứa
đựng nó đã đạt tới một trình độ phát triển cho phép nó thể hiện như là quy
55
luật của chính xã hội đó. Đương nhiên về nhận thức từng lĩnh vực xã hội cụ
thể có thể dễ dàng hơn việc nhận thức quy luật của cả xã hội hay quy luật
của toàn bộ lịch sử nới chung, song nhận thức bất kỳ đối tượng xã hội nào
cũng là có điều kiện. Mặt khác, việc nhận thức các quan hệ và quy luật xã
hội còn bị giới hạn bởi lợi ích của chủ thể nhận thức.
Xã hội vận động và phát triển tự nhiên theo quy luật khách quan
nhưng lại thông qua hoạt động chủ quan của con người. Quy luật xã hội
vận động không phụ thuộc vào nhu cầu, lợi ích và nguyện vọng, ý chí của
bất kỳ một chủ thể nào (cá nhân, tầng lớp hay giai cấp). Nhưng sự tác động
của quy luật xã hội lại trực tiếp liên quan đến lợi ích của các cá nhân, các
giai cấp, các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, các giai cấp, các tầng lớp
thường do địa vị vốn có của mình mà có thái độ khác đối với việc nhận
thức và vận dụng của quy luật. Trên thực tế, họ đều tự phát, hay tự giác
nhận thức các quy luật đó. Nhưng do các lợi ích chi phối cho nên có thể
xảy ra hai trường hợp như sau:
Trường hợp thứ nhất, nếu sự tác động của quy luật làm tổn hại đến lợi
ích của chủ thể nhận thức thì hoặc là do bị “lóa mắt” bởi lợi ích mà họ rất
khó nhận ra quy luật, không nhận thức được quy luật; hoặc là đã nhận thức
được quy luật lợi ích của ai đó. Nếu một định lý hình học mà động chạm
đến lợi ích của kẻ cầm quyền, định lý đó cũng bị bác bỏ (tư tưởng của
T.Hopx – nhà triết học thế kỷ 17), thì những lý thuyết xã hội xâm phạm
đến lợi ích của giới lãnh đạo thượng lưu lại càng nguy hiểm hơn đối với
những người đã phát hiện ra nó.
Ngoài ra, trình độ phát triển kinh tế, trình độ phát triển về khoa học kỹ thuật
của xã hội cũng là điều kiện để các nhà nghiên cứu có được nguồn lực tài chính
và trang bị công cụ hiện đại trợ giúp cho hoạt động sáng tạo của mình.
56
1.3. Con đường nhận thức quy luật xã hội
Vận động xã hội là vận động phức tạp, nó bao hàm vận động cơ học,
lý học, hóa học, sinh học và các hoạt động của tư duy. Vì vậy, phương
pháp để nhận thức quan hệ xã hội và quy luật xã hội khác rất nhiều so với
các phương pháp nghiên cứu khoa học tự nhiên.
Trong tác phẩm Luvich Foiơbắc và sự cáo chung của Triết học cổ điển
Đức, Ph.Ăngghen viết: Nghiên cứu kỹ những nguyên nhân thúc đẩy đã
phản ánh, ở đây, trong đầu óc của quần chúng, trong hoạt động và lãnh tụ
của họ – tức là những người mà người ta gọi là vĩ nhân – với tư cách là
động cơ tự giác, phản ánh một cách rõ ràng hay không rõ ràng, trực tiếp
hay dưới hình thức hệ tư tưởng, thậm chí cả dưới hình thức thần thánh hóa,
đó là con đường duy nhất có thể dẫn tới chỗ nhận thức được các quy luật
chi phối lịch sử nói chung, cũng như chi phối trong các thời kỳ riêng biệt
của lịch sử, hay trong các nước riêng biệt”.
Như vậy, theo Ph.Ăngghen muốn nhận thức các quan hệ và quy luật
xã hội cần phải tìm nguyên nhân thúc đẩy sự vận động và phát triển xã hội
và đó là động cơ. Mà động cơ xuất hiện khi con người có muốn tìm kiếm
một giá trị nào đó để thoả mãn. Do vậy, việc nghiên cứu các quan hệ và
quy luật xã hội phải bắt đầu từ nhu cầu của con người và các giá trị vật chất
và tinh
thần mà con người đang chiếm giữ hoặc đang tìm kiếm.
Khi chúng ta bắt tay vào nghiên cứu một lĩnh vực hay một đối tượng
xã hội nào đó, trước hết chúng ta phải xem các đối tượng liên quan có
những loại nhu cầu gì? Chúng ta cần phải nắm được những nhu cầu cơ bản
nhất của họ càng sâu càng tốt. Có nhu cầu cá nhân, có nhu cầu cộng đồng
57
và nhu cầu cho xã hội. Sau khi đã xem xét kỹ các nhu cầu, chúng ta sẽ xem
xét lại hệ thống các giá trị mà con người đó, cộng đồng đó đang chiếm giữ
hoặc đang tìm kiếm để có được. So sánh giữa nhu cầu và các giá trị, chúng
ta sẽ nhận ra được đối tượng nghiên cứu đang cần loại giá trị nào để thoả
mãn nhu cầu của họ. Sau đó chúng ta xem lại ý thức của họ trong việc
chuyển các nhu cầu thành ước muốn, hoặc thành khát vọng. Khi nhu cầu đã
trở thành ước muốn hoặc khát vọng thì xuất hiện động cơ. Động cơ là cái
thôi thúc con người hành động. Nhưng con người hành động phải tuân theo
hoàn cảnh bên ngoài, nếu không muốn bị đào thảo khỏi dòng chảy lịch sử.
Hoàn cảnh bên ngoài đó là điều kiện địa lý, tự nhiên, kinh tế, xã hội, trình
độ tư duy, trình độ dân chủ của xã hội. Không phải có ước muốn có động
cơ hoặc có khát vọng là con người có thể làm bất cứ việc gì.
Vì vậy, phải xem xét lại các điều kiện tồn tại của con người.
Trước hết, đó là môi trường sống của con người. Đó là nơi cung cấp
những giá trị vật chất cho con người tồn tại như ánh sáng, không khí, thức
ăn và những điều kiện khác. Trước hết, con người phải luôn luôn có mối
quan hệ thường xuyên với môi trường tự nhiên. Chúng ta không thể bỏ qua
mối liên hệ giữa con người và tự nhiên khi nghiên cứu các quan hệ và quy
luật xã hội. Môi trường tự nhiên chi phối rất mạnh các hành vi của con
người và con người muốn tồn tại và phát triển phải ứng xử hài hoà với tự
nhiên.
Trong mối quan hệ với tự nhiên thì trao đổi chất giữa người và tự
nhiên và chiếm hữu các giá trị vật chất để thoả mãn nhu cầu sinh học là hai
nhân tố quan trọng nhất. Công nghệ mà con người sử dụng để cải tạo tự
nhiên là một trong những yếu tố quan trọng trong quan hệ giữa con người
và tự nhiên. Đây là căn cứ quan trọng nhất để chúng ta xác định các quan
hệ xã hội. Công nghệ càng phát triển đòi hỏi sự hiệp tác giữa con người và
58
con người càng sâu rộng và do đó chúng ta có thể nói: quan hệ hợp tác và
phân công giữa con người còn phụ thuộc vào trình độ phát triển công nghệ,
của phương thức mà con người chiếm hữu tự nhiên.
Khi con người hiệp tác với nhau để chiếm hữu tự nhiên trong suốt
chiều dài lịch sử hàng nghìn năm, con người đã tạo ra thiên nhiên thứ hai.
Đó là văn hoa với vất nhiều giá trị tinh thần chân, thiện, mỹ, ích và đến
lượt nó, văn hóa là môi trường để con người khai thác các giá trị tinh thần
để thoả mãn nhu cầu tinh thần. Cũng như với thiên nhiên thứ nhất, thiên
nhiên thứ hai vừa là nơi cung cấp các giá trị tinh thần, vừa bị con người cải
tạo ngày một phong phú hơn, hoàn thiện hơn.
Mỗi người sinh ra đều phải sống trong hai thiên nhiên đó là môi
trường sinh thái và môi trường nhân văn. Đó là sự khác nhau giữa loài
người và loài vật. Loài vật chỉ tồn tại trong môi trường sinh thái. Các quần
thể động vật tuy có dáng dấp như một môi trường nhân văn nhưng chưa
phải là môi trường nhân văn.
Môi trường nhân văn (văn hóa) là sản phẩm hoạt động thực tiễn của
con người trong quá trình cải tạo môi trường sinh thái. Nhưng đến lượt nó,
môi trường nhân văn lại chi phối hoạt động của con người.
Quan hệ lợi ích là nhân tố chi phối sự hình thành môi trường nhân văn
do quá trình cải tạo môi trường sinh thái quy định. Con người cải tạo tự
nhiên như thế nào sẽ tạo ra một môi trường nhân văn tương ứng với quá
trình cải tạo đó. Mỗi một sự thay đổi trong quan hệ trong quá trình chiếm
hữu tự nhiên lại làm cho môi trường nhân văn biến đổi. Con người càng
hoàn thiện mối liên hệ giữa mình và tự nhiên bao nhiều thì càng tự hoàn
thiện mình và môi trường nhân văn bấy nhiêu. Nhưng khi môi trường nhân
văn được hình thành và phát triển, nó lại chi phối các nhu cầu, ước muốn,
59
động cơ, tư tưởng của con người.
Trong môi trường nhân văn, nhân tố chi phối quan trọng nhất là quan
hệ lợi ích. Quan hệ lợi ích phụ thuộc trước hết vào qúa trình con người
chiếm hữu tự nhiên. Người ta dựa vào cách thức chiếm hữu tự nhiên để xác
định cách thức phân chia các giá trị vật chất trong môi trường xã hội. Tuy
bị chi phối bởi cách thức chiếm hữu tự nhiên, song quan hệ xã hội còn bị
chi phối bởi môi trường nhân văn. Môi trường đó bao hàm các khía cạnh
sau: sức mạnh của các chủ thể lợi ích, các loại nhu cầu khác nhau, các quan
hệ truyền thống, các quan niệm, nhận thức về tình cảm và cuối cùng là sự
nỗ lực của các chủ thể lợi ích. Như vậy, quan hệ lợi ích là quan hệ chi phối
trong môi trường nhân văn. Quan hệ này bộc lộ ra trong những mối liên hệ
rất cụ thể giữa cá nhân – cá nhân, cá nhân – cộng đồng, cộng đồng – cộng
đồng, cộng đồng – xã hội… Vì vậy, khi nghiên cứu các quan hệ xã hội và
các quy luật xã hội, chúng ta phải chú ý đến sự ngầm định về lợi ích do
những điều kiện khách quan quy định (đó là quan hệ giữa con người và tự
nhiên và các giá trị tinh thần trong môi trường nhân văn).
Những quan hệ nào phù hợp với sự ngầm định về lợi ích là những
quan hệ xã hội tích cực và nó góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Những
quan hệ xã hội không phù hợp với sự ngầm định về lợi ích, là những quan
hệ cần phải cải tạo. Những quan hệ xã hội ngược với sự ngầm định về lợi
ích sẽ dần dần bị đào thải. Khi nhận thức các quy luật xã hội, chúng ta phải
xuất phát từ những điều kiện tồn tại khách quan của con người, trong đó
quan hệ tương đối giữa con người và tự nhiên là nhân tố cơ bản. trong quan
hệ giữa con người và tự nhiên thì cách thức chiếm hữu tự nhiên là nhân tố
cơ bản và trong phương thức chiếm hữu tự nhiên thì công nghệ là nhân tố
quan trọng nhất. Tất cả những yếu tố này chi phối quan hệ lợi ích. Quan hệ
nào phù hợp với sự ngầm định về lợi ích thì tồn tại lâu dài, tất yếu khách
60
quan và phù hợp với quy luật. Quan hệ nào trái với sự ngầm định về lợi ích
là quan hệ có tính tạm thời ngẫu nhiên và không mang tính quy luật.
Các quan hệ xã hội rất đa dạng và phong phú, nhưng đều phải phù hợp
với sự ngầm định về lợi ích. Có thể nói các quan hệ xã hội là một dao động
hình sin xoay quanh trục toạ độ.
Những quan hệ sát với trục toạ độ là những quan hệ phù hợp với trục
lợi ích. Những quan hệ xã hội dao động xa trục toạ độ là những quan hệ bất
công và không phù hợp với sự ngầm định lợi ích và cần phải hạn chế và
xóa bỏ. Như vậy, chúng ta cần phải khái quát phương thức nhận thức của
các quan hệ xã hội theo công thức sau đây:
- Muốn nhận thức quan hệ và quy luật xã hội trước hết chúng ta phải
nhận thức được phương thức mà con người quan hệ với tự nhiên. Trong
phương thức con người quan hệ với tự nhiên thì phương thức trao đổi chất
giữa con người và tự nhiên và phương thức con người chiếm hữu tự nhiên
là quan trọng nhất. Trong phương thức con người chiếm hữu tự nhiên thì
công cụ sản xuất là quan trọng nhất. Vì vậy, cơ sở quan trọng nhất để nhận
thức quan hệ xã hội và quy luật xã hội là công nghệ mà con người sử dụng
61
để chiếm hữu tự nhiên.
- Tiếp theo là chúng ta phải nhận thức quan hệ của con người và môi
trường nhân văn với tư cách là sản phẩm của quá trình con người chiếm
hữu tự nhiên. Ở đây, chúng ta sẽ thấy hai loại quan hệ: quan hệ hiệp tác và
quan hệ giải quyết lợi ích. Những quan hệ hiệp tác hay quan hệ lợi ích phù
hợp với phương thức con người chiếm hữu tự nhiên là những quan hệ hợp
quy luật. Những quan hệ hiệp tác không phù hợp với phương thức con
người chiếm hữu tự nhiên là quan hệ ngẫu nhiên, không phổ biến và không
hợp quy luật.
- Tiếp theo là chúng ta sẽ khảo sát, nghiên cứu để đánh giá những quy
phạm xã hội đương thời xem có mặt nào phù hợp với sự ngầm định về lợi ích
mặt nào chưa phù hợp để có được bức tranh khái quát về các quan hệ xã hội.
- Tiếp theo là chúng ra sẽ tìm hiểu các nhu cầu, các ước muốn và động
cơ xã hội trên cơ sở khảo sát môi trường nhân văn mà con người tồn tại. So
sánh các nhu cầu với các giá trị trong xã hội, chúng ta sẽ thấy được các
động cơ của con người trong hoạt động thực tiễn.
2. Phương pháp nghiên cứu của các quan hệ và quy luật xã hội
2.1. Phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học
2.1.1. Phương pháp nghiên cứu khoa học
Để tìm hiểu những bản chất và các hiện tượng tự nhiên và xã hội thì
ngoài việc nghiên cứu rất nghiêm túc các hiện tượng, các số liệu, các dữ
liệu, một nhân tố không thể thiếu đó là phải nắm vững phương pháp luận
và sử dụng tốt các phương pháp nghiên cứu khoa học. Phương pháp luận
sai thì không bao giờ cho được những kết quả khả quan. Bản chất của
nghiên cứu khoa học chính là việc con người sử dụng một cách có ý thức
các quy luật vận động của đối tượng như là kim chỉ nam để khám phá ra
62
chính đối tượng đó. Phương pháp là những quy luật bản chất, nội tại của
vận động nhận thức khoa học được chúng ta sử dụng một cách có ý thức để
đạt được những thành tựu tiếp cận chân lý đầy đủ hơn, nhanh hơn, đúng
đắn hơn.
Phương pháp là công nghệ, con đường, cách thức do con người đưa
ra nhằm cải tạo thế giới khách quan trên cơ sở nhận thức được quy luật
khách quan của thế giới đó. Phương pháp nghiên cứu khoa học vừa là công
cụ, vừa là sản phẩm của hoạt động nghiên cứu khoa học, cũng giống như
quá trình sản xuất vừa sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, vừa sản xuất ra công cụ
sản xuất. Công cụ càng sắc bén thì năng xuất lao động càng cao và chất
lượng sản phẩm càng tốt. Vì vậy, một nội dung rất quan trọng trong hoạt
động nghiên cứu khoa học hiện nay là phải tìm được những phương pháp
nghiên cứu khoa học phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Phương pháp có vai trò đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu khoa học
– công nghệ. Nhà bác học R.Dêcác đã từng nói: Thà không đi tìm chân lý
còn hơn đi tìm mà không có phương pháp”. Phương pháp là sản phẩm của
sự nhận thức đúng quy luật vận động và phát triển của đối tượng nghiên
cứu. Tìm hiểu bản chất và đặc điểm của phương pháp, Tô-dô Páp-lốp cho
rằng: Phương pháp khoa học là những quy luật nội tại của sự vận động của
tư duy với tư cách là sự phản ánh chủ quan của thế giới khách quan, là
những quy luật khách quan được “chuyển” và “dịch” trong ý thức con
người và được sử dụng một cách có ý thức và có hệ thống như một phương
tiện để giải thích và cải tạo thế giới. Như vậy, bản chất của phương pháp
nghiên cứu khoa học chính là việc con người sử dụng một cách có ý thức
các quy luật vận động của đối tượng như một phương tiện để khám chính
đối tượng đó.
Theo nghĩa rộng, phương pháp nghiên cứu khoa học bao gồm cả
63
phương pháp lựa chọn đề tài khoa học và tổ chức triển khai đề tài đó,
phương pháp thu thập và xử lý thông tin khoa học. Phương pháp nghiên
cứu khoa học gắn chặt với quá trình sản xuất ra tri thức mới. Với các lĩnh
vực khoa học, ngành, bộ môn cụ thể có phương pháp tiếp cận riêng và cũng
có phương pháp chung cho nhiều lĩnh vực. Khoa học càng phát triển thì
phương pháp càng phong phú, đa dạng. Nếu xét về bản chất, phương pháp
nghiên cứu khoa học, công nghệ nói chung đều là phương pháp nhận thức
thế giới khách quan.
- Phương pháp nghiên cứu là con đường dẫn nhà khoa học đạt tới mục
tiêu sáng tạo. Phân tích sâu sắc cả hai phương diện lý luận và thực tiễn cho
ta thấy các đặc điểm của phương pháp như sau:
- Phương pháp là công cụ thực hiện mục tiêu nghiên cứu. Vì vậy,
phương pháp phải phụ thuộc vào mục tiêu. Mỗi một mục tiêu đề ra cho
phương pháp nghiên cứu khoa học đòi hỏi phải sử dụng những phương
pháp tương ứng. Mục đích là cơ sở khách quan để lựa chọn và sử dụng các
phương pháp tương ứng phù hợp.
- Phương pháp nghiên cứu gắn chặt với đối tượng và nội dung nghiên
cứu. Phương pháp là hình thức vận động của nội dung, nội dung công việc
quy định phương pháp làm việc. Trong mỗi đề tài khoa học có phương
pháp cụ thể, trong mỗi ngành khoa học có một hệ phương pháp đặc trưng.
- Phương pháp là công cụ làm việc của các nhà khoa học và phụ thuộc
vào khả năng sử dụng của chủ thể nghiên cứu khoa học. Phương pháp là
cách làm việc của chủ thể, cho nên nó gắn chặt với chủ thể và phương pháp
có mặt chủ quan. Mặt chủ quan của phương pháp chính là năng lực nhận
thức, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo của chủ thể, thể hiện trong việc ý
thức được các quy luật vận động của đối tượng và sử dụng chúng để khám
64
phá chính đối tượng.
- Phương pháp tuy là cách làm việc của chủ thể nhưng bao giờ cũng
xuất phát từ đặc điểm của đối tượng, phương pháp gắn với đối tượng và
như vậy nó có tính khách quan. Mặt khách quan quy định việc lựa chọn
cách này hay cách kia trong hoạt động của chủ thể. Đặc điểm của đối tượng
chỉ ra cách chọn phương pháp nghiên cứu. Trong nghiên cứu khoa học các
chủ thể phải tuân theo cac đối tượng khách quan. Các quy luật khách quan
tự chúng chưa phải là phương pháp, nhưng nhờ có chúng mà ta phát hiện ra
phương pháp. Ý thức về sự sáng tạo của con người phải tiếp cận các quy
luật khách quan của thế giới.
- Phương pháp nghiên cứu khoa học có một cấu trúc đặc biệt, đó là
một hệ thống các thao tác được sắp xếp theo một chương trình tối ưu. Sự
thành công nhanh chóng hay không của một hoạt động nghiên cứu khoa
học chính là sự phát hiện ra được hay không lôgic tối ưu của các thao tác
hoạt động và sử dụng nó một cách có ý thức. Chương trình hoạt động tối
ưu là một Algorithm để giải bài toán sáng tạo, tìm ra được Algorithm cho
một dạng hoạt động nào đó chính là đạt tới sự hoàn hảo về phương pháp
trong dạng hoạt động đó.
- Phương pháp nghiên cứu khoa học luôn cần có các công cụ hỗ trợ,
cần có các phương tiện hiện đại với độ chính xác cao. Phương tiện và
phương pháp là hai phạm trù khác nhau, nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ
với nhau. Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu mà ta chọn phương pháp
nghiên cứu, theo yêu cầu của phương pháp mà ta chọn các phương tiện phù
hợp và nhiều khi phải tạo ra các công cụ đặc biệt để nghiên cứu một đối
tượng cụ thể nào đó. Chính các phương tiện kỹ thuật hiện đại bảo đảm cho
quá trình nghiên cứu đạt tới độ chính xác cao.
65
2.1.2. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
Phương pháp luận bắt nguồn từ tiếng Hylạp là Methos và logos:
Methos là phương pháp, còn logos là lý thuyết, học thuyết. Như vậy,
phương pháp luận là lý thuyết về phương pháp. Phương pháp luận nghiên
cứu khoa học chính là lý thuyết về phương pháp nghiên cứu khoa học, là lý
thuyết về con đường nhận thức và khám phá thế giới.
Phương pháp luận trước hết là hệ thống các nguyên lý, quan điểm
(trước hết là những nguyên lý, quan điểm liên quan đến thế giới quan) làm
cơ sở và có tác dụng chỉ đạo, xây dựng các phương pháp, xác định phạm
vi, khả năng áp dụng các phương pháp và định hướng cho việc nghiên cứu
tìm tòi cũng như việc lựa chọn, vận dụng phương pháp. Phương pháp luận
bao hàm các yếu tố: thế giới quan, nhân sinh quan của người nghiên cứu;
hệ thống các phương pháp sử dụng. Phương pháp luận được chia thành hai
loại: phương pháp luận bộ môn là phương pháp luận được sử dụng trong
một bộ môn khoa học; phương pháp luận chung được sử dụng cho tất cả
các môn khoa học. Phương pháp luận chung nhất, phổ biến cho hoạt động
nghiên cứu khoa học là triết học. Triết học Mác – Lênin là phương pháp
luận đáp ứng những đòi hỏi của nhận thức khoa học hiện đại cũng như hoạt
động cải tạo và xây dựng thế giới mới.
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học không những nằm trong lôgic
nhận thức mà còn trong cấu trúc nội dung của công trình khoa học. Cho
nên, phương pháp luận nghiên cứu khoa học, một mặt xác định các bước đi
trong tiến trình nghiên cứu của một đề tài, mặt khác, còn tìm ra cấu trúc,
nội dung của công trình khoa học đó. Phương pháp luận nghiên cứu khoa
học cũng chú ý đến phương pháp tổ chức, quản lý nghiên cứu hoạt động
nghiên cứu khoa học và công nghệ, coi đó là một khâu ứng dụng các thành
tựu khoa học nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động xã hội.
66
Tóm lại, phương pháp luận nghiên cứu khoa học là hệ thống lý thuyết
về phương pháp nhận thức khoa học, bao gồm các lý thuyết về cơ chế sáng
tạo, những quan điểm tiếp cận đối tượng khoa học, cùng với hệ thống lý
thuyết về phương pháp, kỹ thuật và lôgic tiến hành nghiên cứu một công
trình khoa học cũng như phương pháp tổ chức quản lý công trình ấy.
2.2. Phân loại các phương pháp nghiên cứu khoa học
Phương pháp nghiên cứu khoa học là một hệ thống phong phú và hệ
thống này luôn được bổ sung cùng với sự phát triển của khoa học. Chính vì
vậy, người ta phân loại chúng để tiện sử dụng hơn. Trong thực tế, có nhiều
cách phân loại phương pháp. Theo phạm vi sử dụng, người ta chia thành
phương pháp chung nhất dùng cho tất cả các lĩnh vực khoa học và phương
pháp đặc thù chỉ dùng cho một lĩnh vực cụ thể. Theo lý thuyết thông tin về
quy trình nghiên cứu một đề tài khoa học, người ta chia phương pháp thành
nhóm phương pháp thu thập thông tin, nhóm phương pháp xử lý thông tin
và nhóm phương pháp trình bày thông tin. Theo tính chất và trình độ
nghiên cứu, người ta chia thành nhóm phương pháp mô tả, nhóm phương
pháp giải thích và nhóm phương pháp phát hiện. Theo trình độ nhận thức
chung của loài người, người ta chia thành nhóm phương pháp nghiên cứu
thực tiễn (phương pháp kinh nghiệm) và phương pháp nghiên cứu lý
thuyết. Việc phân định này tuy có căn cứ nhưng vẫn mang tính ước lệ. Vì
một phương pháp khoa học có thể vừa là phương pháp thực nghiệm, có thể
vừa là phương pháp nghiên cứu lý thuyết. Sau đây chúng tôi sẽ trình bày
hai cách phân loại phương pháp: cách thứ nhất là phân loại phương pháp lý
thuyết và phương pháp thực nghiệm; cách thứ hai là phân loại phương
pháp nghiên cứu định tính và phương pháp định lượng.
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
thực nghiệm
67
* Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Loại phương pháp nghiên cứu lý thuyết bao gồm phương pháp khái
quát hóa, trừu tượng hóa, diễn dịch, quy nạp, phân tích, tổng hợp, hệ thống
hóa… Khác với nghiên cứu thực nghiệm phải sử dụng yếu tố, điều kiện vật
chất tác động vào đối tượng nghiên cứu, trong nghiên cứu lý thuyết quá
trình tìm kiếm, phát hiện diễn ra thông qua tư duy trừu tượng, sử dụng
phương tiện ngôn ngữ, chữ viết, mối liên hệ lôgic… Loại phương pháp này
giữ vị trí rất cơ bản trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn.
Trong nghiên cứu lý thuyết, nền tảng và điểm xuất phát của quá trình
nghiên cứu là tri thức lý luận (các quan điểm, các tiền đề, các lý thuyết…).
Do vậy, điều kiện để áp dụng phương pháp là người nghiên cứu phải nắm
vững hệ thống lý luận nền tảng. nắm vững lý thuyết này là cơ sở hình thành
định hướng trong nghiên cứu lý thuyết. Ví dụ, học thuyết Mác – Lênin là
hệ thống lý luận nền tảng đối với toàn bộ khoa học xã hội ở nước ta. Người
nghiên cứu khoa học xã hội do vậy phải trang bị vững chắc lý luận Mác –
Lênin là cơ sở cho toàn bộ quá trình sáng tạo tiếp theo. Tuy nhiên, cần chú
ý rằng: các quy luật tự nhiên tồn tại một cách lâu dài, còn các quy luật xã
hội tồn tại, vận động trên những điều kiện xã hội nhất định. Do vậy, nếu
thoát ly lịch sử, cụ thể dẫn đến nguy cơ rơi vào tình trạng duy tâm, siêu
hình, bám rễ lấy những nguyên lý, công thức lỗi thời, lạc hậu trở thành giáo
điều kinh viện, kìm hãm khoa học.
Trong phương pháp lý thuyết do đặc tính của quá trình sáng tạo khoa
học diễn ra thông qua tư duy trừu tượng, suy luận, khái quát hóa, lại không
được thực hiện trên một đối tượng cụ thể nên đòi hỏi phải có những lập
luận chặt chẽ và nếu có điều kiện phải đưa ra tri thức mới vào kiểm nghiệm
trong thực tiễn. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết thường được dùng trong
khoa học xã hội nhân văn.
68
* Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm
Thực nghiệm khoa học là phương pháp đặc biệt quan trọng của nghiên
cứu thực tiễn, trong đó các nhà khoa học chủ động tác động vào đối tượng
và quan sát quá trình diễn biến của các sự kiện mà đối tượng bộc lộ ra, để
thực hiện mục tiêu, dự kiến của mình. Thực nghiệm thành công sẽ cho ta
thấy các kết quả khách quan và như vậy mục đích là khám phá khoa học
được thực hiện một cách hoàn toàn chủ động.
Thực nghiệm được coi là phương pháp quan trọng nhất, một phương
pháp chủ công trong nghiên cứu khoa học hiện đại. Trong lịch sử, nhiều thế
kỷ của mình, thực nghiệm tỏ ra có sức sống mãnh liệt. Ngay từ khi xuất
hiện, thực nghiệm đã có ý nghĩa như là một cuộc cách mạng trong nghiên
cứu khoa học, làm đảo lộn tư duy khoa học kiểu cũ và nó được sử dụng
triệt để trong nhiều lĩnh vực khoa học, đặc biệt là các khoa học tự nhiên.
Thực nghiệm đẩy nhanh quá trình nghiên cứu khoa học và tạo khả năng
vận dụng nhanh chóng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất. Một
số bộ môn khoa học tự nhiên được mệnh danh là khoa học thực nghiệm.
Hiệu quả của phương pháp này là làm tăng trình độ kỹ thuật thực hành
hoạt động nghiên cứu khoa học đạt tới mức tinh vi và làm phát triển cả khả
năng tư duy lý thuyết. Ngày nay, thực nghiệm đã được sử dụng cả trong
lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội và đem lại kết quả quan trọng. Nhóm
phương pháp này bao gồm các phương pháp quan sát, thí nghiệm, thực
nghiệm.
Quan sát là phương pháp nghiên cứu để xác định các thuộc tính và
quan hệ của sự vật, hiện tượng riêng lẻ xét trong điều kiện tự nhiên vốn có
của nó nhờ khả năng thụ cảm của các giác quan, khả năng phân tích tổng
hợp, khái quát, trừu tượng hóa.
69
Thực nghiệm, thí nghiệm là việc người nghiên cứu khoa học sử dụng
các phương tiện vật chất tác động lên đối tượng nghiên cứu nhằm kiểm
chứng các giả thuyết, lý thuyết khoa học, chính xác hóa, bổ sung chỉnh lý
các phỏng đoán giả thuyết ban đầu, tức là để xây dựng các giả thuyết, lý
thuyết khoa học mới.
Thực nghiệm, thí nghiệm bao giờ cũng được tiến hành theo sự chỉ đạo
của một ý tưởng khoa học nào đấy. Như vậy, để tiến hành thí nghiệm, thực
nghiệm phải có tri thức khoa học và điều kiện vật chất.
Quá trình thực nghiệm có thể được tiến hành ở nhiều môi trường khác
nhau, tuỳ theo yêu cầu của nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, tại hiện
trường, trong quần thể xã hội. Phương pháp thực nghiệm được chia làm
nhiều loại khác nhau, việc phận loại dựa vào mục đích quan sát, tiến trình
thực nghiệm.
Phương pháp thực nghiệm được áp dụng khá phổ biến trong những
ngành khoa học có khả năng định lượng chính xác, các ngành khoa học tự
nhiên, kỹ thuật, công nghệ. Trong những lĩnh vực này, sự phát triển của
khoa học – công nghệ còn cho phép tạo ra những môi trường nhân tạo,
khác với môi trường bình thường để nghiên cứu sự vận động, biến đổi của
đối tượng.
Các ngành khoa học xã hội là lĩnh vực khó có khả năng tiến hành các
thí nghiệm khoa học, áp dụng phương pháp thử nghiệm. Song thực tiễn là
tiêu chuẩn của chân lý. Mọi khái quát, trừu tượng, mọi lý thuyết nếu không
được thực tiễn chấp nhận đều không có chỗ đứng trong khoa học. Ở đây,
quan sát, tổng kết thực tiễn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong
phương pháp nghiên cứu khoa học. Nhờ quan sát, tổng kết thực tiễn người
nghiên cứu khoa học có khả năng phát hiện được những quy luật xã hội và
70
các mối quan hệ xã hội.
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng
Nghiên cứu các mối quan hệ, các hiện tượng, các quá trình xã hội
ngoài việc chỉ ra những đặc tính, tính chất (hay các khía cạnh định tính)
của chúng, thì việc đưa ra các số liệu, mô tả các chỉ báo của chúng cũng có
một ý nghĩa rất lớn. Chính các số liệu này giúp ta đi đến khẳng định về
mức độ, cường độ của các mối quan hệ, các hiện tượng và các quá trình xã
hội được nghiên cứu. Vì vậy, trong nghiên cứu xã hội học, nghiên cứu định
tính và nghiên cứu định lượng là hai dạng nghiên cứu thường được nhắc
đến khá nhiều và được sử dụng khá phổ biến.
* Nghiên cứu định tính.
Theo nghĩa chung nhất là chỉ ra đặc tính, tính chất của đối tượng cần
được nghiên cứu và trình bày. Phương pháp định tính có thể phân biệt với
các phương pháp định lượng ở chỗ sử dụng lời hoặc bài viết như nguồn dữ
liệu hơn là dùng những con số. Trong đó, trọng tâm cơ bản được thực hiện
trên những nguồn lý thuyết của xã hội học, trên kinh nghiệm cá nhân, sự
quan sát, các phương pháp truyền thông, trên việc phân tích một cách logic
các phạm trù, khái niệm… Theo nghĩa hẹp, đó là tập hợp căn bản các quy
tắc, các phương pháp cho việc xác định và phân tích khía cạnh chất lượng
của các hiện tượng, các quá trình và các hệ thống xã hội. Như vậy, nghiên
cứu định tính là dạng nghiên cứu nhằm tìm hiểu sâu về đặc tính, tính chất,
bản chất của đối tượng nghiên cứu. Trong nghiên cứu xã hội học, nghiên
cứu định tính thường nhằm tìm hiểu sâu các phản ứng từ bên trong các suy
nghĩ, tình cảm của con người đã tạo ra các cách ứng xử khác nhau trong
cuộc sống. Về thực chất, nghiên cứu định tính hướng đến việc xác định các
khía cạnh, các nguyên nhân của thái độ hay phản ứng của người đó.
71
Việc thu thập thông tin của nghiên cứu định tính thường tập trung vào
một số đại diện nhất định của tổng thể nghiên cứu chứ không bao hàm trên
một mẫu lớn như nghiên cứu định lượng. Các phương pháp thu thập thông
tin sử dụng trong những định tính thường là phỏng vấn sâu và phỏng vấn
nhóm tập trung, ngoài ra còn một số phương pháp khác. Việc tiến hành thu
thập thông tin của nghiên cứu định tính cho phép thực hiện một cách linh
động cả về thân thế, vị thế và các nguyên nhân hành vi của con người.
Cũng như vậy, qua nghiên cứu định tính có thể có được các thông tin sâu
về các hiện tượng kinh tế phức tạp, nhất là đối với các nghiên cứu về các
vấn đề tế nhị, nhạy cảm.
Để có được thông tin sâu về đối tượng nghiên cứu, trong các nghiên
cứu định tính thường hướng đến câu hỏi “tại sao”. Nghiên cứu định tính
thường được sử dụng trong những nghiên cứu khám phá, thăm dò hoặc
phát hiện một vấn đề nào đó mới nảy sinh trong thực tế xã hội. Người ta
cũng hay thực hiện nghiên cứu định tính với tư cách là một nghiên cứu sơ
bộ về đối tượng nghiên cứu, nhằm cung cấp các thông tin ban đầu hỗ trợ
cho công tác chuẩn bị của cuộc nghiên cứu định lượng. Mặt khác, các kết
quả thu được từ các nghiên cứu định tính cũng được sử dụng như một
phương tiện hữu ích để làm rõ nguyên nhân, xu hướng của nó.
Vì mục đích của các nghiên cứu định tính là khác nhau, cho nên trong
nhiều nghiên cứu xã hội học, nghiên cứu định tính được tiến hành một cách
mềm dẻo, không nhất thiết phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt tất cả các
quy trình của cuộc nghiên cứu. Vì vậy, việc đánh giá kết quả nghiên cứu
định tính là rất khó, việc xác định mức độ đúng đắn của các kết luận rút ra
cũng rất phức tạp. Tuy vậy, khi sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính,
người nghiên cứu cũng cần chú ý một số hạn chế thường hay gặp như tính
chủ quan do ảnh hưởng của người nghiên cứu, hay cũng có thể vì đây là
72
phương pháp tiến hành nhanh, dễ, nên nghiên cứu định tính cũng hay bị
lạm dụng hoặc để đưa kết luận có tính chủ quan, hoặc trong việc phân tích
thông tin, viết báo cáo lại được xem xét ở khía cạnh định lượng.
* Nghiên cứu định lượng
Cũng có thể coi đây là tập hợp các quy tắc, phương pháp, kỹ thuật
hướng đến phân tích, xem xét khía cạnh lượng của các hiện tượng, các quá
trình và các mối quan hệ xã hội. Sử dụng nghiên cứu định lượng trong
nghiên cứu khoa học xã hội học chứng tỏ sự xâm nhập sâu sắc của toán
học, nhất là toán thống kê vào trong xã hội học. Nghiên cứu định lượng
cho chúng ta biết mức độ tồn tại của đối tượng nghiên cứu, nó hướng đến
tìm hiểu mức độ của các phản ứng, thái độ của con người đối với một vấn
đề nào đó trong những khung cảnh xã hội nhất định.
Trong nghiên cứu định lượng, người ta sử dụng các phương pháp thu
thập thông tin với bảng hỏi được chuẩn bị kỹ từ trước. Trong đó, chủ yếu là
các câu hỏi đóng nhằm thu thập thông tin của số lượng lớn các đơn vị
nghiên cứu trong cơ cấu mẫu của tổng thể nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu định lượng thường là các con số phản ánh những
đặc trưng cần nghiên cứu của đối tượng. Nếu nghiên cứu định tính giúp
người ta hiểu sâu bên trong của đối tượng nghiên cứu thì nghiên cứu định
lượng cho chúng ta cái nhìn chung bao quát về toàn bộ đối tượng nghiên
cứu. Nghiên cứu định lượng hướng để trả lời các câu hỏi “như thế nào”,
“bao nhiêu”. Vì đưa ra được các con số để đo lường các biến số, các chỉ
báo của đối tượng nghiên cứu, nên kết quả của nghiên cứu định lượng
thường có tính khẳng định. Nếu với một nghiên cứu cần thiết phải có được
chứng cứ khách quan giúp ta đi đến khẳng định một cái gì đó thì nghiên
cứu định lượng là hoàn toàn thích hợp. Nghiên cứu định lượng là hướng
73
đến việc đo lường, nên ngay từ khâu chuẩn bị đã cần phải được thực hiện
một cách chi tiết, tỷ mỷ. Việc thu thập và xử lý thông tin cũng cần phả
được thực hiện một cách hoàn hảo. Hay nói cách khác, khi thực hiện một
nghiên cứu định lượng cần phải tuân thủ một cách đầy đủ các bước, các
quy trình, các thủ tục cần thiết của một nghiên cứu xã hội học.
Sự khác biệt giữa nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng đã
được tác giả Tôn Thiên Chiếu khái quát trong bảng so sánh sau:
Nghiên cứu định tính Nghiên cứu định lượng- Cung cấp một sự hiểu biết sâu.
- Trả lời câu hỏi “Tại sao?”.
- Những động cơ, tư tưởng.
- Mang tính chủ quan.
- Tìm kiếm khám phá.
- Tính chất thăm dò.
- Xác định tư tưởng phía sau các
cách ứng xử và các triển vọng của
nó.
- Gắn với quá trình diễn giải.
- Đo mức độ phản ứng xảy ra.
- Trả lời câu hỏi “Có bao nhiều?” và
“Nhiều ít như thế nào?”.
- Nghiên cứu hành động, sự việc.
- Mang tính chất khách quan.
- Cung cấp chứng cứ để chứng minh
kiểm nghiệm.
- Tính chất khẳng định.
- Đo mức độ các hành động.
- Gắn với quá trình mô tả.
Sự khác biệt giữa nghiên cứu định tính và định lượng còn được thể
hiện qua việc sử dụng các phương pháp thu thập thông tin. Chính các
phương pháp thu thập thông tin không những chỉ cung cấp các thông tin có
những đặc tính, chất lượng khác biệt nhau mà cách thức thực hiện, yêu cầu
về chi phí thời gian và kinh phí cho việc thực hiện chúng cũng ở các mức
độ khác nhau. Nghiên cứu định tính thường sử dụng các phương pháp thu
thập thông tin như quan sát, phỏng vấn sâu cá nhân, phỏng vấn nhóm tập
74
trung, nghiên cứu trường hợp, nghiên cứu dân tộc học, phân tích dữ liệu có
sẵn. Trong khi đó, nghiên cứu định lượng thường sử dụng các phương pháp
như phỏng vấn theo bảng hỏi, Anket, quan sát tiêu chuẩn…
Chính yêu cầu về tính mềm dẻo, tính linh động khéo léo của nghiên
cứu định tính đã đưa ra sự đòi hỏi cao hơn với các điều tra viên khi thực
hiện việc thu thập thông tin. Ở đây, các điều tra viên phải có trình độ tay
nghề cao hơn, phải có kiến thức đầy đủ và sâu về vấn đề nghiên cứu. Anh
ta không thể chỉ là người truyền đạt lại các câu hỏi đã được soạn thảo trong
bảng hỏi như trong việc thu thập thông tin của nghiên cứu định lượng.
Cũng như với nghiên cứu mô tả và nghiên cứu giải thích, việc phân
chia ranh giới giữa nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng cũng chỉ
mang tính tương đối. Trong các nghiên cứu xã hội học hiện đại thường sử
dụng các số liệu định lượng nhằm đưa ra các bằng cứ để chứng minh hay
kiểm nghiệm các giả thuyết, nhất là các số liệu thu được qua các cuộc điều
tra chọn mẫu. Tuy nhiên, bản thân các cuộc điều tra đó thường không đủ
khả năng đem lại các dữ liệu định tính cần thiết để giải thích sự phức tạp
nằm bên trong những hiện tượng được khảo sát. Mặt khác, các câu hỏi
đóng được sử dụng để thu thập thông tin định lượng nếu không được thiết
kế và thử nghiệm cẩn thận cũng đưa đến những kết quả sai lệch. Do đó,
nghiên cứu số liệu định lượng rất cần được bổ sung những kỹ thuật định
tính để giúp cho việc xác định để giúp cho việc xác định thông tin cần tốt
hơn.
2.3. Một số phương pháp nghiên cứu quan hệ xã hội và quy luật xã
hội
2.3.1. Phương pháp hệ thống – cấu trúc
Hệ thống là tập hợp các thành tố thành một chỉnh thể trọn vẹn, ổn định
75
và vận động theo quy luật tổng hợp. Các thành tố này tương tác với nhau
tạo cho tập hợp có những tính chất mới không hề có ở các thành tố. Mỗi
thành tố trong một hệ thống lại có thể là một hệ thống nhỏ hơn. Như vậy,
hệ thống nhỏ bao giờ cũng nằm trong một hệ thống lớn đó chính là môi
trường, giữa hệ thống và môi trường có quan hệ tác động hai chiều.
Mỗi thành tố của hệ thống là một bộ phận có vị trí độc lập, có chức
năng riêng và luôn vận động theo quy luật của toàn hệ thống, thành tố của
hệ thống có quan hệ biện chứng với nhau bằng quan hệ vật chất và quan hệ
chức năng. Các thành tố có mối quan hệ, tác động qua lại với nhau tạo
thành một thể thống nhất. Trong mọi lĩnh vực của thực tại, các đối tượng
mà ta nghiên cứu thường tồn tại độc lập với các trình độ khác nhau, nhưng
chúng tồn tại như một hệ thống, theo một cấu trúc nhất định.
Cấu trúc là quan hệ bền vững bên trong của sự vật, quy định đặc điểm
của sự vật và theo nguyên tắc ưu tiên lôgic cái toàn thể đối với cái bộ phận
sao cho không có một yếu tố nào của cấu trúc tách ra ngoài vị trí của chính
nó và sự vật tổng thể. Bất cứ một sự vật, một đối tượng nghiên cứu nào
cũng được coi là một hệ thống, trong đó bao gồm các bộ phận, yếu tố hợp
thành liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau. Nhờ sự tác động của các yếu tố
mà sự vật luôn vận động và phát triển nảy sinh những yếu tố mới, không
chỉ là những số lượng mới mà quan trọng hơn là những chất lượng mới
được tổng hợp thành mỗi yếu tố riêng lẻ vốn không có (hoặc là không hoàn
toàn có). Đó là tính chỉnh thể của hệ thống.
Tính chỉnh thể là thuộc tính tổng hợp của mỗi đối tượng. Phương thức
tác động qua lại giữa các bộ phận trong một hệ thống, đó là mối quan hệ
biện chứng theo quy luật vận động của vật chất vừa bảo đảm việc sản sinh
ra các thuộc tính mới, vừa duy trì trạng thái ổn định bên trong của hệ
thống.
76
Hệ thống hoá là phương pháp tuân theo quan điểm hệ thống – cấu trúc
trong nghiên cứu khoa học. Những thông tin đa dạng thu thập được từ các
nguồn, các tài liệu khác nhau nhờ phương pháp hệ thống hóa mà ta có được
một cách nhìn biện chứng về đối tượng nghiên cứu.
Trong quá trình vận động phát triển của sự vật, người ta chú ý đến
nguyên tắc điều khiển. Điều khiển là làm cho quá trình hoạt động diễn ra
đúng quy luật, đúng nguyên tắc. Trong nghiên cứu, đó là giải quyết một
nhiệm vụ nào đó nhằm đạt đến một mục đích đã định trước theo chương
trình, kế hoạch nhất định. Nguyên tắc điều khiển - đó là tính đặc thù của sự
điều chỉnh các cấu trúc theo thứ bậc. Điều chỉnh là sửa đổi, sắp xếp lại ít
nhiều cho đúng hơn, cân đối hơn. Trên cơ sở của nguyên tắc điều khiển và
hướng đích, phương pháp hệ thống –cấu trúc đòi hỏi người ta phải luôn
quan tâm đến trình độ tự tổ chức, tự điều chỉnh của hệ thống hữu sinh.
Phương pháp hệ thống – cấu trúc chứa đựng hai yếu tố: phân tích và
tổng hợp. Hai yếu tố này không thể thiếu được trong bất kỳ một quy trình
nghiên cứu khoa học nào. Xét trên đối tượng nghiên cứu của khoa học luận
và phương pháp luận nghiên cứu khoa học thì khoa học luận không thể
thiếu phương pháp hệ thống – cấu trúc làm phương pháp nghiên cứu của
mình. Trong khi phải đem lại cho người ta những tri thức cụ thể về các
thành phần, những bộ phận, yếu tố của sự vật trong một hệ thống, đó là cơ
sở để giải thích những thuộc tính của những yếu tố do tri giác ban đầu đem
lại. Nhờ tổng hợp các mối quan hệ, các thuộc tính của các bộ phận, yếu tố
của sự vật mà người ta tìm ra được cấu trúc bên trong, những quy luật vận
động của sự vật ở trình độ trừu tượng hóa và khái quát hoá.
Quan điểm hệ thống cấu trúc là một luận điểm quan trọng của phương
pháp luận, nó yêu cầu phải xem xét các đối tượng một cách toàn diện nhiều
mặt, nhiều mối quan hệ trong trạng thái vận động và phát triển, trong
77
những điều kiện hoàn cảnh cụ thể để tìm ra bản chất và các quy luật vận
động của đối tượng. Quan điểm này chỉ đạo quá trình nghiên cứu các đối
tượng phức tạp bằng phương pháp hệ thống để tìm cấu trúc, phát hện ra
tính hệ thống theo quy luật của cái toàn thể.
Bản chất của quan điểm hệ thống cấu trúc được thể hiện ở các điểm
sau: nghiên cứu đối tượng phức tạp phải xem xét chúng một cách toàn
diện, phải phân tích chúng thành các bộ phận để tìm hiểu một cách sâu sắc;
phải nghiên cứu đầy đủ các mối quan hệ hữu cơ của các thành tố trong hệ
thống để tìm ra quy luật phát triển nội tại của hệ thống; nghiên cứu đối
tượng trong mối quan hệ với môi trường, thấy được mối quan hệ chi phối
giữa đối tượng và môi trường; kết quả nghiên cứu phải được trình bày rõ
ràng khúc chiết, tạo thành một hệ thống chặt chẽ, có tính lôgic cao.
2.3.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp
* Phương pháp phân tích và tổng hợp gồm hai nội dung cơ bản, đó là:
phân tích và tổng hợp.
Phân tích là việc phân chia cái toàn thể của đối tượng nghiên cứu
thành những bộ phận, những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn để
nghiên cứu, từ đó có thể dễ dàng hơn trong việc phát hiện ra thuộc tính và
bản chất của từng bộ phận, từng mặt, từng yếu tố đó, giúp chúng ta hiểu
được đối tượng nghiên cứu một cách mạch lạc, hiểu được cái chung phức
tạp từ những bộ phận, những mặt, những yếu tố cấu thành ấy.
Phân tích và tổng hợp là một phương pháp nghiên cứu khoa học được
sử dụng phổ biến trong thực tế, trong nghiên cứu và trong giảng dạy. Sở dĩ
như vậy là vì: khi chúng ta đứng trước một đối tượng nghiên cứu, chúng ta
cảm giác được nhiều hiện tượng đan xen nhau, chồng chéo làm lu mờ bản
chất của nó. Làm cho chúng ta gặp khó khăn trong việc nghiên cứu, tìm
78
hiểu vấn đề, thậm chí có nhận định sai lầm về bản chất của đối tượng. Để
hiểu được bản chất của đối tượng nghiên cứu, ta phải tiến hành phân chia
nó ra thành những bộ phận, những mặt, những yếu tố nhỏ hơn, đơn giản
hơn để nghiên cứu cụ thể từng bộ phận, từng mặt, từng yếu tố này. Trên cơ
sở kết quả nghiên cứu về các mặt, các bộ phận, các yếu tố cấu thành, sẽ
tiến hành tổng hợp, khái quát hoá để tìm ra cái chung, cái khái quát về đối
tượng nghiên cứu.
Trong quá trình giảng dạy, để giúp cho người đọc dễ dàng nắm bắt
được vấn đề cần truyền đạt nào đó, trước hết giảng viên giới thiệu tổng thể
vấn đề sẽ trình bày cho người học có ý niệm sơ bộ và khái quát về đối
tượng. Sau đó, giảng viên sẽ giới thiệu về từng nội dung cụ thể của vấn đề.
Sau khi đã giới thiệu, truyền đạt cho học viên về các vấn đề cụ thể, giảng
viên sẽ tiến hành tổng hợp, khái quát hóa cho học sinh về toàn bộ vấn
đề giảng dạy.
Quy trình sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp gồm hai bước
công việc chính, đó là phân tích và tổng hợp. Trong đó, trước khi tiến hành
phân tích cần thiết phải lựa chọn tiêu thức phân loại đối tượng nghiên cứu
một cách hợp lý. Đây là công việc có vai trò đặc biệt quan trọng.
Lựa chọn tiêu thức phân loại đối tượng nghiên cứu. Đây là công việc
có tầm quan trọng đặc biệt khi sử dụng phương pháp này. Nếu lựa chọn
được tiêu thức phân chia đối tượng hợp lý sẽ góp phần làm đơn giản hóa,
tiết kiệm thời gian, tiền bạc và nâng cao hiệu quả công việc nghiên cứu.
Việc lựa chọn tiêu thức phân loại phải tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ
thể. Nói chung việc lựa chọn tiêu thức phân chia phải căn cứ vào mục đích
nghiên cứu, đặc điểm cấu trúc của đối tượng nghiên cứu, điều kiện hoàn
79
cảnh nghiên cứu cụ thể và khả năng của chủ thể.
Việc phân loại có thể tiến hành nhiều cấp độ khác nhau với mức độ
chi tiết khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm cấu trúc của đối tượng cũng như
yêu cầu, mục đích nghiên cứu.
Sắp xếp các bộ phận đã được phân chia theo lôgic hợp lý là yêu cầu
thứ hai.
Sử dụng các chỉ tiêu để phân tích các bộ phận đã được phân chia. Căn
cứ tiêu chức đã lựa chọn, tiến hành phân loại đối tượng thành những bộ
phận, những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn để nghiên cứu.
Trên cơ sở phân loại đối tượng, tiến hành nghiên cứu, phát hiện ra từng
thuộc tính và bản chất của từng yếu tố đó, từ đó giúp chúng ta hiểu được
đối tượng nghiên cứu một cách mạch lạc hơn, hiểu được cái chung phức
tạp từ những bộ phận, những mặt, những yếu tố cấu thành ấy.
- Tổng hợp là quá trình ngược với quá trình phân tích, nhưng lại hỗ trợ
đắc lực cho quá trình phân tích để tìm ra cái chung, cái khái quát. Từ
những kết quả nghiên cứu về từng mặt, từng bộ phận, từng yếu tố của đối
tượng, phải tiến hành tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về cái
chung, tìm ra được bản chất, quy luật vận dộng của tổng thể đối tượng
nghiên cứu.
Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp, hai mặt, hai nội dung công
việc khác nhau nhưng lại gắn bó chặt chẽ với nhau, quy định và bổ sung
lẫn nhau. Thông qua phân tích mà hiểu rõ về các mặt, các bộ phận, các yếu
tố cấu thành nên tổng thể và mối liên hệ giữa chúng. Nhưng nếu chỉ thông
qua phân tích thì chưa thấy được cái bản chất và tổng thể của đối tượng
nghiên cứu mà bản chất của đối tượng nghiên cứu được nắm bắt, rút ra từ
việc tổng hợp căn cứ vào kết quả phân tích các mặt, các bộ phận của đối
80
tượng nghiên cứu.
Chẳng hạn, để tìm hiểu, đánh giá về một cán bộ chuẩn bị cất nhắc làm
lãnh đạo, nếu không tiến hành phân loại, xác định các khía cạnh, các tố
chất cần xem xét đánh giá thì sẽ khó khăn trong việc đưa ra ý kiến kết luận
về cán bộ này hoặc nếu có thì đánh giá sẽ thiếu cụ thể, thiếu căn cứ thuyết
phục. Do vậy, khi cân nhắc, xem xét, đánh giá cán bộ này cần tiến hành
như sau:
Trước hết, phải định ra những tiêu chí đánh giá về chính trị, tư tưởng
(trong đó lại có thể cụ thể hoá thêm: lập trường chính trị, đạo đức lối sống…)
và năng lực công tác (trong đó có thể cụ thể hóa thêm năng lực lãnh đạo, năng
lực chuyên môn, quan hệ giao tiếp ứng xử, …). Tiến hành tìm hiểu, đánh giá
về từng tiêu chí của người cán bộ đó khi phân tích đánh giá cần quan tâm
nhiều đến yếu tố nào là yếu tố cơ bản có vai trò quan trọng. Trên cơ sở kết
quả đánh giá về từng tiêu chí của người cán bộ đó, sẽ tiến hành tổng hợp,
đánh giá chung về người cán bộ này, việc tổng hợp đánh giá dựa trên kết quả
của bước phân tích, tuy nhiên để có một kết luận phù hợp, cần thiết phải xác
định được mức độ (hệ số) quan trọng của từng yếu tố.
Trong các ngành khoa học xã hội, sự hạn chế độ chính xác trong phân
tích định lượng làm cho kết quả nghiên cứu lệ thuộc rất nhiều vào tổng
hợp, định tính. Đặc điểm này làm cho kết quả nghiên cứu dễ bị sai lệch do
những sai lầm chủ quan duy ý chí.
Trong bước tổng hợp cần thiết phải đánh giá, xác định được mức độ
quan trọng, ảnh hưởng của từng mặt, yếu tố hay bộ phận đối với tổng thể
đối tượng nghiên cứu (có thể định lượng bằng hệ số quan trọng hoặc định
tính mức độ quan trọng). Có như vậy mới bảo đảm kết luận rút ra phản ánh
đúng bản chất, xu hướng của sự vật và hiện tượng, nhất là trong trường hợp
81
các mặt, các bộ phận, các yếu tố có những điểm không thống nhất thậm chí
ngược chiều nhau.
2.3.3. Phương pháp quy nạp và diễn dịch
Phương pháp quy nạp là một trong những phương pháp rất quan trọng
để khám phá ra các quy luật xã hội. Một quy luật xã hội, một bản chất của
đối tượng nghiên cứu luôn luôn được bộc lộ ra qua rất nhiều hiện tượng,
biểu hiện đan xen, chồng chéo nhau, phủ định lẫn nhau. Nếu không biết
phân biệt đúng sai, chúng ta sẽ dẫn đến những ngộ nhận mang tính chủ
quan. Người nghiên cứu phải thông qua rất nhiều hiện tượng, liên kết
chúng lại với nhau theo một lôgic nội tại nào đó để tìm ra cái bản chất cốt
lõi bên trong - đó là quy nạp. Hay nói cách khác, quy nạp là thông qua các
hiện tượng đơn lẻ, rời rạc, ngẫu nhiên để liên kết chúng lại theo một lôgic
nào đó để tìm ra cái bản chất, cái quy luật, cái xu hướng cốt lõi bên trong
của đối tượng nghiên cứu. Quy nạp tránh cho ta được hạn chế của tính trực
quan trong nghiên cứu. Khi nghiên cứu một đối tượng xã hội chúng đứng
trước rất nhiều biểu hiện bên ngoài của nó. Nếu chỉ dừng lại ở quan sát
cảm tính thì chúng ta sẽ đưa ra những kết luận thiếu căn cứ và nhiều khi là
ngộ nhận. Những hiện tượng làm lu mờ sự thật, che đậy sự thật hoặc na ná
sự thật trong một đối tượng nghiên cứu luôn làm cho chúng ta xác định sai
bản chất của nó. Thông qua quy nạp, chúng ta sẽ loại trừ được những hiện
tượng làm nhiễu quá trình nhận thức để từ đó tìm ra được cái cốt lõi bên
trong. Việc thực hiện phương pháp quy nạp phải chú ý đến những yếu tố
sau:
- Phải lựa chọn được các hiện tượng phản ánh đúng sự thật.
- Phải biết so sánh các hiện tượng với nhau giữa cái đã biết với cái
đang bộc lộ.
82
- Phải xây dựng được một hệ thống các nguyên tắc suy luận lôgic hợp
lý. Đó là những nguyên tắc như: tam đoan luận (A=B, B=C thì A=C),
nguyên tắc ngoại suy tức là loại bỏ những hiện tượng trái với những điều
đã biết, nguyên tắc của điều kiện cần và đủ, …
Có hai loại quy nạp:
- Quy nạp hoàn toàn. Người ta khảo sát tất cả các trường hợp liên
quan đến đối tượng nghiên cứu để khẳng định bản chất của đối tượng. Ví
dụ: khi nghiên cứu tình trạng sử dụng ma tuý của sinh viên một trường đại
học nào đó, người ta thử máu của tất cả các sinh viên học trường đó để đi
đến kết luận mức độ sử dụng ma tuý của sinh viên. Quy nạp hoàn toàn có
ưu điểm là độ chính xác cao, nhưng hạn chế là rất tốn công và trong nhiều
trường hợp không thực hiện được. Ví dụ: nếu số lượng sinh viên quá đông
thì việc thử máu sẽ không thể thực hiện được.
- Quy nạp không hoàn toàn là người ta chỉ chọn những trường hợp
tiêu biểu, điển hình, cá biệt … rồi sau đó người ta dùng những phương
pháp suy luận để rút ra được cái bản chất của sự việc. Ví dụ: khi điều tra
một vụ án, cán bộ điều tra có thể thông qua một số hiện tượng chính để
phát hiện ra thủ phạm bằng các phương pháp suy luận.
Ngược chiều với phương pháp quy nạp và bổ sung cho phương pháp
này là phương pháp diễn dịch. Diễn dịch là thông qua các quy luật, các bản
chất, các nguyên tắc… đã được thừa nhận, khẳng định người ta tìm ra được
những biểu hiện muôn màu, muôn vẻ của đối tượng trong mối liên hệ lôgic
với cái bản chất, cái mang tính quy luật. Ví dụ: khi đã tìm ra quy luật giá trị
thặng dư chúng ta thấy quy luật đó biểu hiện ra muôn hình muôn vẻ thông
qua cái khái niệm như lợi nhuận, địa tô, lợi tức, cổ tức, tư bản, … Diễn
dịch là tìm ra mối liên hệ giữa các hiện tượng và bản chất sau khi bản chất
83
đã được tìm ra.
Quy nạp và diễn dịch là hai xu hướng trái ngược nhau, nhưng lại bổ
sung cho nhau. Nó giúp ta đi từ hiện tượng đến bản chất, rồi lại từ bản chất
đến mối liên hệ lôgic với các hiện tượng đa dạng, phong phú, muôn màu
muôn vẻ của đối tượng nghiên cứu.
2.3.4. Phương pháp trừu tượng hóa - cụ thể hóa
Trừu tượng là cái phổ biến của sự vật, trừu tượng có hai loại: tư duy
trừu tượng là hoạt động của trí tuệ, sau khi loại bỏ được những thuộc tính
phụ, khái quát được những đặc tính căn bản trong mỗi nhóm sự vật. Cái
trừu tượng chính là các khái niệm, phạm trù, quy luật … mà tư duy trừu
tượng đã đạt được trong quá trình nhận thức. Như vậy, khi nghiên cứu một
đối tượng cụ thể đối tượng sẽ bộc lộ rất nhiều thuộc tính, nguyên nhân, mối
liên hệ, hiện tượng. Có nhiều hiện tượng, thuộc tính không quan trọng cần
phải được lược bớt để tập trung vào những nguyên nhân, thuộc tính quan
trọng chi phối để tìm ra bản chất của sự vật - đó chính là phương pháp trừu
tượng hóa.
Cụ thể là cái đơn nhất tồn tại của sự vật, cụ thể có hai loại:
Cụ thể cảm tính là mỗi sự vật tồn tại trong thế giới khách quan mà ta
có thể nhận biết trực tiếp được nhờ các giác quan. Cái cụ thể cảm tính là
điểm xuất phát của mọi nghiên cứu khoa học. Không có cái cụ thể cảm tính
thì không có cảm giác nhận biết sự vật. Cái cụ thể trong tư duy là cái đến
sau những cái trừu tượng trong nghiên cứu khoa học. Khi tìm ra bản chất
của đối tượng, phải đặt đối tượng trong mối liên hệ vận động với các sự
vật, cụ thể khác - đó chính là phương pháp cụ thể hóa.
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội chúng ta không chỉ dừng
lại ở việc quan sát hiện tượng bên ngoài mà còn phải thâm nhập vào bên
84
trong hiện tượng ấy để tìm cho ra cái cốt lõi, cái chung nhất của hiện tượng
để từ đó nhận diện chính xác những mối liên hệ căn bản của hiện tượng.
Vậy bằng con đường nào để vào đến bên trong của đối tượng? Liệu có phải
lúc nào cũng đặt được nó lên kinh hiển vi hay cho qua các phản ứng hóa
học? Trừu tượng hóa lúc này đã cho thấy rõ được tầm quan trọng của nó:
sức mạnh của trừu tượng hoá là ở chỗ nhờ nó mà tư duy khám phá ra được
nguyên nhân bên trong của các hiện tượng, qua đó có thể hiểu thấu đáo các
hiện tượng ấy. Trừu tượng hoá từ chỗ giúp ta nhìn được cái cốt lõi, bản
chất của đối tượng để có cách nhìn không phiến diện, máy móc dễ rơi vào
chủ quan duy ý chí. Khi đã khám phá ra bản chất, cốt lõi của đối tượng thì
cần đặt đối tượng trong mối liên hệ với các đối tượng cụ thể khác có như
vậy chúng ta mới thấy được sự vận động, phát triển liên tục của đối tượng.
Cách nhìn nhận đối tượng như vậy tức là luôn thấy được tính biện chứng
trong sự vận động phát triển của đối tượng. Từ nhận thức đó mà việc lựa
chọn phương pháp nghiên cứu cụ thể hóa và trừu tượng hóa trong nghiên
cứu lý thuyết là tất yếu khách quan.
Khi hiểu được từu tượng hóa - cụ thể hóa như thế nào thì việc nghiên
cứu cách sử dụng phương pháp này cũng hết sức quan trọng.
Như đã biết, trừu tượng hóa và cụ thể hóa là hai phương pháp khác
nhau của nhận thức nhưng chúng có mối liên hệ biện chứng với nhau.
Không có cái cụ thể cảm tính thì không thể có cái trừu tượng. Ngược lại
không có cái trừu tượng thì không thể có cái cụ thể trong tư duy. Quá trình
nhận thức chính là sự thống nhất của cái cụ thể và cái trừu tượng.
Chính vì vậy, khi xem xét các đối tượng không được chỉ nhìn cái thay
đổi bên ngoài hoàn toàn ngẫu nhiên để kết luận thì mọi cái sẽ chẳng có gì
bền bỉ vững vàng. Ví dụ: C.Mác nêu dẫn chứng về không gian. Khi chúng
ta nói về khoảng cách hai vật là chúng ta nói về sự khác nhau của chúng
85
trong không gian. Chúng ta giả định rằng, cả hai vật đều có trong không
gian và đều là những điểm trong không gian. Chúng ta làm cho chúng
giống nhau với tư cách là những bộ phận của không gian và chỉ sau khi
chúng ta làm cho chúng giống nhau trên quan điểm khác nhau của không
gian. Sự thống nhất của chúng là cùng thuộc về không gian. Như vậy,
C.Mác đã khám phá ra cái bền vững trong cái đa dạng, biến đổi mà suy cho
cùng chỉ là những biểu hiện của cùng một bản chất.
Khi sử dụng phương pháp trừu tượng hóa trong nghiên cứu khoa học
là phải biết nhận diện rồi tước bỏ những thuộc tính phụ, những cái không
quan trọng, làm như vậy sẽ giúp ta tinh giản được tới cái cốt lõi của vấn đề
để có thể rút ra được bản chất của đối tượng theo tiêu chí đã chọn. Tuy
nhiên, khi thấy được cái bản chất thì phải đặt cái bản chất ấy trong mối liên
hệ với cái cụ thể. Ví dụ: khi đi xem xét phân tích giá trị trao đổi thì chúng
ta phải thấy được cái hình thái giá trị ban đầu của nó chính là tiền tệ. Từ cái
trừu tượng giá trị để trở về cái cụ thể là giá trị sử dụng hay trở lại tiền tệ.
Hoạt động trừu tượng của tư duy khám phá ra những quá trình sâu xa
không nhìn thấy được trong sự quan sát trực tiếp của cái cụ thể, cho phép
trở lại cái cụ thể.
Như vậy, từ việc xem xét cách sử dụng phương pháp này cần lưu ý ba
điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, khi quan sát một cách trực tiếp hiện thực thì trước mắt ta sẽ
thấy hiện lên một loạt những sự vật riêng lẻ, hỗn độn, rời rạc tưởng chừng
không có mối liên hệ nào. Người làm khoa học phải nhận diện trên tiêu chí
nghiên cứu và đặc điểm đối tượng nghiên cứu của mình đâu là cái chung,
cái riêng, cái đặc thù để loại bỏ hay giữ lại những điểm thiết yếu. Từ đó, sẽ
chỉ ra được mối liên hệ bên trong, sự thống nhất và cái chung giữa chúng.
86
Thứ hai, khi tiếp cận hiện thực bằng cảm tính thì hiện thực sẽ chỉ là
một loạt các hiện tượng ngẫu nhiên và trong sự thay đổi nối tiếp nhau do
những thay đổi nguyên nhân tưởng là ngẫu nhiên ấy, mọi vật chẳng có gì là
bền vững. Chính vì vậy, người nghiên cứu phải biết áp dụng trừu tượng
khoa học làm sao để nhìn cho ra cái tất yếu nằm sau cái ngẫu nhiên, cái
quy luật cho những hiện tượng tưởng như đơn lẻ, rời rạc, phức tạp. Quy
luật ấy chính là sự thống nhất, cái chung mà tư duy bằng cách trừu tượng
hóa tìm ra được. Đó chính là cái tương đối vững vàng, bền bỉ, được bảo tồn
và được thể hiện trong muôn vàn sự vật.
Thứ ba, sau khi sử dụng phương pháp trừu tượng hoá nắm bắt được
cái bản chất và quy luật của đối tượng thì người làm khoa học phải đưa trí
thức mình vừa tìm được vào thực tiễn để xem nó phát triển và thể hiện cụ
thể như thế nào, để thấy được sự phức tạp và tính muôn vẻ của nó. Có như
vậy, tư duy mới sắc sảo hơn, tri thức mới phong phú hơn, chống lại sự tấn
công của những tri thức lạc hậu dốt nát, bảo thủ.
Rõ ràng phương pháp cụ thể hóa – trừu tượng hóa có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn.
Nhờ trừu tượng hoá mà người làm khoa học sẽ nhận được bản chất,
cốt lõi của vấn đề cần nghiên cứu, từ đó sẽ tránh cái nhìn hời hợt, phiến
diện chủ quan, sau đó nhờ cụ thể hóa để xem xét cái trừu tượng trong thực
tiễn cụ thể để càng làm rõ sâu cái bản chất của đối tượng nghiên cứu.
Trong nghiên cứu khoa học xã hội rất cần phải áp dụng phương pháp này
thấy được bản chất của đối tượng nghiên cứu và tránh lan man “cưỡi ngựa
xem hoa” không đi trọng tâm vào vấn đề. Tuy nhiên mức độ trừu tượng
hóa đến độ nào, giữ lại các thuộc tính đồng đẳng, loại bỏ thuộc tính không
đồng đẳng ra sao thì cần phải cân nhắc đòi hỏi người làm công tác nghiên
cứu khoa học phải có kiến thức và trình độ để tránh mắc phải các sai lầm
87
không đáng có. Bởi lẽ nếu loại bỏ cái cốt lõi, cái quan trọng thì sẽ không
thấy được bản chất của đối tượng nghiên cứu.
2.3.5. Phương pháp lịch sử – lôgic
Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic được sử dụng do tính
thống nhất và khác biệt của hai phạm trù lịch sử và lôgic.
Khái niệm lịch sử: lịch sử là tất cả những gì đã hiện ra trong quá khứ.
Lịch sử chính là bản thân cuộc sống.
Khái niệm logic
Thuật ngữ logic bắt nguồn từ thuật ngữ “logos” trong Triết học Hylạp
cổ với các nghĩa là thuật ngữ, tư tưởng, lý tính, quy luật. Logic dùng để chỉ
những thuộc tính khách quan của các quá trình, hiện tượng. Tính tất yếu
khách quan này được con người cảm nhận ở nhiều cấp độ khác nhau. Logic
không phải là sự phản ánh lịch sử một cách đơn thuần, mà là sự phản ánh
đã được uốn nắn lại nhưng uốn nắn theo quy luật mà bản thân quá trình
lịch sử đem lại.
Đến đây, người nghiên cứu sẽ vấp phải một vấn đề có tính chất
phương pháp luận: giải quyết mối quan hệ giữa cái lịch sử và cái logic như
thế nào?
Lịch sử bao hàm những tiến trình tuần tự, những bước nhảy và cả
những ngẫu nhiên. Còn logic là cái được trừu tượng hóa từ lịch sử, thể hiện
những mối quan hệ, liên hệ, tác động lẫn nhau giữa các mặt, các quá trình
lịch sử, với tư cách là những quy luật.
Mối quan hệ giữa cái lịch sử và cái logic là mối quan hệ thống nhất
biện chứng có chứa đựng mâu thuẫn. Sự thống nhất giữa chúng thể hiện ở
chỗ, cái lịch sử luôn hàm chứa cái logic, còn cái logic được chứng minh
88
bằng cái lịch sử. Sự mâu thuẫn giữa chúng thể hiện ở chỗ, cái lịch sử là
những ngẫu nhiên, những quanh co, khúc khuỷu, còn cái logic đã gạt bỏ
những ngẫu nhiên ấy, chỉ còn lại hạt nhân là những quy luật. Theo
Rôdentan, cái logic có hai đặc điểm, mà hai đặc điểm này cũng thể hiện sự
thống nhất với cái lịch sử.
Thứ nhất, logic là sự tái sản sinh cô đặc, vắn tắt của lịch sử, đã tẩy
sạch tất cả những cái ngẫu nhiên và thứ yếu (như cách nói của Hêghen), đã
thoát khỏi hình thức lịch sử cụ thể, là cái đã được cô lại, nhào lại, cải tạo lại
trong lịch sử. Nhưng logic không phải là bản sao đơn giản, “không có linh
hồn”, cứng đờ của quá trình lịch sử, mà là lịch sử được sửa chữa lại, uốn
nắn lại trên tinh thần phù hợp với những quy luật mà bản thân quá trình
lịch sử đã hàm chứa.
Thứ hai, tuy phản ánh lịch sử, nhưng logic là sự tái sản sinh lịch sử ở
một trình độ cao hơn trên cơ sở đạt được của trình độ nhận thức hiện tại
phát triển hơn. Trình độ nhận thức hiện tại là “chòi quan sát” mà ở đó ta có
thể nhìn lại cả một tiến trình dài của lịch sử đã qua cũng như những khuynh
hướng của lịch sử sẽ diễn ra trong thời gian tới. Đây là cơ sở chính cho sự
ra đời “trước hiện thực” của nhiều khái niệm. Về vấn đề này, có thể dẫn
một câu nói nổi tiếng của C.Mác: Giải phẫu con người là chìa khoá đề giải
phẫu con vượn.
Mối quan hệ biện chứng giữa cái lịch sử và cái logic được thể hiện
một cách rõ nét trong khái niệm, bởi vì, khái niệm là sự phản ánh chân thực
lịch sử bằng cách giữ lại cái logic của hiện thực ấy trong tư duy. Nghiên
cứu khái niệm theo lát cắt đồng đại sẽ cho thấy lịch sử được dồn nén trong
nó như thế nào. Còn nghiên cứu khái niệm bắt đầu từ lịch sử, không thoát
ly khỏi lịch sử (theo lịch đại) lại là một nguyên tắc bắt buộc.
89
Xác định nơi bắt đầu của lịch sử để tìm nơi bắt đầu của tư duy, nơi có
thể hình thành nên khái niệm không phải là một vấn đề giản đơn, bởi vì,
bản thân lịch sử cũng có muôn vàn mặt khác nhau và mỗi mặt ấy đều có
thể được coi là khởi điểm.
Nói đến lịch sử là nói đến sự tồn tại khách quan của mọi vật, sự việc
trong diễn biến của thời gian. Đó chính là lịch sử sự hình thành và phát
triển của vấn đề. Lịch sử là phức tạp, là muôn màu muôn vẻ và nhiều ngẫu
nhiên, song vẫn bị chi phối bởi cái tất yếu. Cái tất yếu ấy chính là lôgic
khách quan của sự vật, sự việc. Không chú ý đến tính lịch sử, tức là không
tôn trọng sự hình thành và phát triển tất yếu của sự việc trong một quá
trình, tức là không tôn trọng quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội.
Cho nên, lịch sử chính là lôgic.
Phương pháp lịch sử
Các đối tượng nghiên cứu (sự vật, hiện tượng) đều luôn luôn biến đổi,
phát triển theo những hoàn cảnh của nó, tạo thành lịch sử liên tục được
biểu hiện ra trong sự đa dạng, phức tạp, nhiều hình, nhiều vẻ, có cả tất
nhiên và ngẫu nhiên. Phương pháp lịch sử là phương pháp thông qua miêu
tả, tái hiện hiện thực với sự hỗn độn, lộn xộn, bề ngoài của các yếu tố, sự
kiện kế tiếp nhau, để phản ánh tính quy luật của sự phát triển. Hay nói cách
khác, phương pháp lịch sử là phương pháp nghiên cứu bằng cách đi tìm
nguồn gốc phát sinh quá trình phát triển và biến hóa của đối tượng, để phát
hiện ra bản chất và quy luật của đối tượng.
Không nên hiểu phương pháp lịch sử là sự liệt kê, mô tả một cách giản
đơn các sự kiện chồng chất, bởi nếu như vậy sẽ dẫn tới nhầm lẫn giữa cái
ngẫu nhiên và cái tất nhiên. Điều đó có nghĩa là khi xuất phát từ lịch sử,
phải vạch ra được tính quy luật của những sự kiện, tìm ra được những cái
90
tất nhiên giấu sau những cái ngẫu nhiên. Do đó, phương pháp lịch sử có
những đặc điểm sau:
- Phải đi vào vào tính muôn màu, muôn vẻ của lịch sử, tìm ta cái đặc
thù, cái cá biệt ở trong cái phổ biến. Trên cơ sở nắm được những đặc thù cá
biệt đó mà trình bày thể hiện cái phổ biến của lịch sử.
- Phương pháp lịch sử còn yêu cầu chúng ta phải tìm hiểu cái không
lặp lại bên cái lặp lại. Các hiện tượng lịch sử thường hay tái diễn, nhưng
không bao giờ diễn lại hoàn toàn như cũ. Nghiên cứu các hiện tượng lịch
sử phải chú ý tìm ra cái khác trước, cái không lặp lại để thấy những nét đặc
thù lịch sử.
- Phương pháp lịch sử lại yêu cầu chúng ta phải theo dõi những bước
quanh co, thụt lùi tạm thời của quá trình lịch sử. Bởi vì, lịch sử phát triển
muôn màu, muôn vẻ, có khi cái cũ chưa đi hẳn, cái mới dã nảy sinh. Hoặc
khi cái mới đã chiếm ưu thế, nhưng cái cũ vẫn còn nhu cầu tồn tại trong
một chứng mực nhất định.
- Phương pháp lịch sử yêu cầu chúng ta đi sâu vào ngõ ngách của lịch
sử, đi sâu vào tâm lý, tình cảm của quần chúng, hiểu lịch sử cả về điểm lẫn
về diện, hiểu từ các nhân, sự kiện, hiện tượng đến toàn bộ xã hội.
- Phương pháp lịch sử phải chú ý đến những tên người, tên đất, không
gian, thời gian cụ thể, nhằm dựng lại quá trình lịch sử đúng như nó diễn
biến.
Phương pháp lịch sử yêu cầu làm rõ quá trình phát triển cụ thể của đối
tượng, phải nắm được sự vận động cụ thể trong toàn bộ tính phong phú của
nó, phải bám sát sự vật, theo dõi những bước quanh co, những ngẫu nhiên
của lịch sử, phát hiện sợi dây lịch sử của toàn bộ quá trình phát triển. Từ
lịch sử chúng ta phát hiện ra cái quy luật phát triển của đối tượng. Tức là
91
tìm ra cái logic của lịch sử, đó là mục đích của mọi hoạt động nghiên cứu
khoa học xã hội và nhân văn.
Phương pháp logic.
Nếu phương pháp lịch sử là nhằm tái diễn lại toàn bộ quá trình của
lịch sử thì phương pháp logic nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử,
nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình thức tổng quát, nhằm mục
đích vạch ra bản chất, quy luật, khuynh hướng chung trong sự vận động
của chúng. Do đó, phương pháp logic có những đặc điểm sau:
- Phương pháp logic nhằm đi sâu tìm hiểu cái bản chất, cái phổ biến,
cái lặp lại các hiện tượng. Muốn vậy, nó phải đi vào nhiều hiện tượng, phân
tích, so sánh, tổng hợp để tìm ra bản chất của hiện tượng.
- Nếu phương pháp lịch sử đi sâu vào cả những quanh co, thụt lùi tạm
thời của lịch sử, thì phương pháp logic lại có thể bỏ qua những bước đường
đó, mà chỉ nắm lấy bước phát triển tất yếu của nó, nắm lấy cái xương sống
phát triển của nó, tức là nắm lấy quy luật của nó.
- Khác với phương pháp lịch sử là phải nắm lấy từng sự việc cụ thể,
nắm lại không gian, thời gian, tên người, tên đất… cụ thể, phương pháp
logic lại chỉ cần đi sâu nắm lấy những nhân vật, sự kiện, giai đoạn điển
hình và nắm qua những quy luật phạm trù nhất định.
Nhờ những đặc điểm đó mà phương pháp logic có những khả năng
riêng là:
- Phương pháp logic giúp chúng ta nhìn nhận ra cái mới. Bởi vì, logic
là sự phản ánh của thế giới khách quan vào ý thức con người, mà thế giới
khách quan không ngừng phát triển, cái mới luôn nảy sinh. Do luôn luôn
chú ý đến cái phổ biến, cái bản chất mà tư duy logic dễ nhìn thấy những
bước phát triển nhảy vọt và thấy cái mới đang nảy sinh và phát triển như
92
thế nào. Đặc điểm của cái mới là nó khác về chất với cái cũ. Mặc dù là
hình thức thì chưa thay đổi, nhưng chất mới đã nảy sinh.
- Do thấy được mầm mống của cái mới mà phương pháp logic có thể
giúp ta thấy được hướng đi của lịch sử, nhằm chỉ đạo thực tiễn, cải tạo thế
giới.
- Phương pháp logic còn có ưu điểm là giúp chúng ta tác động tích cực
vào hiện thực, nhằm tái sản sinh ra lịch sử ở một trình độ cao hơn, nghĩa là
chủ động cải tạo, cải biến lịch sử, nhờ đó nắm được quy luật khách quan.
2.3.6. Phương pháp quan sát khoa học
Phương pháp quan sát khoa học là một trong những phương pháp
nghiên cứu khoa học thực nghiệm được sử dụng khá phổ biến.
Phương pháp quan sát là sự theo dõi, xem xét và ghi nhận một cách
đầy đủ và chính xác các hiện tượng như đã xảy ra trong hiện thực khách
quan, nhằm khám phá ra bản chất và quy luật vận động của chúng.
Chúng ta cần phân biệt quan sát thông thường và quan sát khoa học.
Quan sát thông thường chỉ dừng lại ở những gì giác quan thụ cảm được.
Còn quan sát khoa học đòi hỏi còn có sự tham gia của tư duy để cắt nghĩa
sự kiện, tìm ra nguyên nhân và quy luật của nó.
Quan sát khoa học là phương pháp cảm nhận đối tượng một cách có
hệ thống để thu thập thông tin về đối tượng. Đây là một hình thức quan
trọng của nhận thức kinh nghiệm thông tin. Nhờ quan sát mà ta có thông
tin về đối tượng trên cơ sở đó mà ta tiến hành các khám phá và tìm tòi tiếp
theo.
Quan sát khoa học là một hoạt động được tổ chức đặc biệt, có mục
đích, có kế hoạch, có phương tiện để tri giác các đối tượng được lựa chọn
93
điển hình.
Mục đích quan sát là tìm các dấu hiệu đặc trưng hay những quy luật
vận động và phát triển của đối tượng.
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu của đề tài mà quan sát được tiến hành
trong thời gian dài hay ngắn, đối tượng nhiều hay ít, không gian rộng hay
hẹp. Các tài liệu nghiên cứu qua xử lý đặc biệt cho ta những kết luận đầy
đủ, chính xác về đối tượng.
* Các loại quan sát
Quan sát trực tiếp là quan sát trực diện đối tượng đang diễn biến trong
thực tế bằng mắt thường hay bằng các phương tiện kỹ thuật như máy quan
trắc, kính thiên văn, kính hiển vi để thu thập thông tin một cách trực tiếp.
Quan sát gián tiếp là quan sát diễn biến hiệu quả của các tác động
tương tác giữa các đối tượng cần quan sát với các đối tượng khác mà bản
thân đối tượng không thể quan sát trực tiếp. Ví dụ, quan sát các nguyên tử
hoá học, lượng tử …
Các đối tượng nghiên cứu khoa học có thể là đơn lẻ, có thể là số đông.
Các đối tượng đó có thể vận động trong môi trường tự nhiên hay trong môi
trường nhân tại. Người quan sát có thể là nhà khoa học, mà cũng có thể là
cộng tác viên.
* Chức năng của quan sát khoa học
Chức năng thu thập thông tin thực tiễn. Đây là chức năng quan trọng
nhất. Các tài liệu thu thập được qua xử lý cho ta những thông tin có giá trị.
Chức năng kiểm chứng các giả thuyết hay các lý thuyết đã có. Trong
nghiên cứu khoa học, khi cần xác minh tính đúng đắn các giả thuyết hay lý
thuyết nào đó, các nhà khoa học cần thu thập tài liệu từ thực tiễn để kiểm
94
chứng. Qua thực tiễn kiểm nghiệm mới khẳng định được độ tin cậy của lý
thuyết.
Chức năng đối chiếu kết quả nghiên cứu lý thuyết với thực tiễn. Mục
đích là để tìm ra sự sai lệch của chúng, từ đó tìm cách bổ khuyết, hoàn
thiện lý thuyết.
* Quá trình quan sát được tiến hành như sau:
- Xác định đối tượng quan sát trên cơ sở mục đích của đề tài, đồng
thời cần xác định cả các phương tiện cụ thể của đối tượng cần phải quan
sát.
- Lập kế hoạch quan sát: thời gian, địa điểm, số lượng đối tượng,
người quan sát, phương tiện quan sát, các thông số kỹ thuật cần đo đạc
được.
- Lựa chọn phương thức quan sát: quan sát trực tiếp hay gián tiếp,
quan sát bằng mắt thường hay các phương tiện kỹ thuật, quan sát một lần
hay nhiều lần, số người quan sát, địa điểm, thời gian và khoảng cách thời
gian cho mỗi lần quan sát.
- Tiến hành quan sát đối tượng kết sức thận trọng, phải theo dõi từng
diễn biến dù là nhỏ nhất, kể cả ảnh hưởng của những tác động khác từ bên
ngoài tới đối tượng.
- Phải ghi chép mọi diễn biến của đối tượng. Có nhiều cách ghi chép
diễn biến quan sát như ghi theo mẫu phiếu in sẵn, ghi biên bản toàn bộ nội
dung quan sát, ghi nhật ký theo thời gian quy định trong một ngày, một
tuần, một tháng, ghi âm, chụp ảnh, quay phim toàn bộ sự kiện…
- Xử lý tài liệu. Các tài liệu do các cá nhân quan sát được là các tài
liệu cảm tính, mang tính chủ quan chưa phải là tài liệu khoa học. Các tài
95
liệu này cần phải được xử lý thận trọng bằng các cách phân loại hệ thống
hóa, bằng thống kê toán học, bằng máy tính mới đáng tin cậy. Các tài liệu
qua xử lý cho ta thông tin cô đọng và khái quát về đối tượng.
- Để kiểm tra các kết quả quan sát khách quan người ta thường sử
dụng một loạt các biện pháp hỗ trợ khác như trao đổi trực tiếp với nhân
chứng, lặp lại quan sát nhiều lần sử dụng người có trình độ cao hơn để
quan sát lại.
Bất cứ một quan sát nào cũng đều do con người thực hiện, cho nên
phải tính đến các đặc điểm của quá trình quan sát. Vì vậy, để tránh những
sai sót có thể xảy ra khi quan sát cần “lưu ý” một số vấn đề sau:
Thứ nhất. Chủ thể quan sát là con người, do đó bị các quy luật tâm lý
chi phối. Mỗi cá nhân đều có tính chủ quan. Chủ quan ở trình độ kinh
nghiệm, ở thế giới, ở cảm xúc. Quan sát bao giờ cũng thông qua lăng kính
chủ quan, có ‘cái tôi” trong sản phẩm. Cái chủ quan có thể là nguồn gốc
của mọi sai lệch, thậm chí có thể “xuyên tạc” sự thật. Ví dụ: khi ta sử dụng
máy quay phim “vô tư” ta vẫn quay theo góc độ mà ta muốn.
Thứ hai, phải chú ý tới quy luật của cảm giác, tri giác như quy luật lựa
chọn, quy luật thích ứng và cái ảo giác.
Thứ ba, đối tượng quan sát là thế giới phức tạp. Sự chính xác của quan
sát một mặt là do trình độ của con người, mặt khác là do sự bộc lộ của đối
tượng. Đối tượng luôn nằm trong một hệ thống các mối quan hệ phức tạp
với các đối tượng khác, nó lại luôn vận động, phát triển và biến đổi. Cho
nên, việc xác định đúng các chỉ số trọng tâm về đối tượng quan sát là điều
rất quan trọng.
Ta thấy quan sát là một phương pháp nghiên cứu khoa học quan trọng,
tuy nhiên chưa đạt tới trình độ nhận thức bản chất bên trong của đối tượng.
96
Mỗi phương pháp nghiên cứu khoa học có những ưu và khuyết điểm riêng.
Vì vậy, cần phải phối hợp phương pháp quan sát với các phương pháp khác
để đạt kết quả bản chất và khách quan.
Là một phương pháp nghiên cứu khoa học thực nghiệm, phương pháp
quan sát khoa học có vai trò to lớn trong nghiên cứu cũng như giảng dạy.
Phương pháp này giúp các nhà nghiên cứu trong việc thu thập thông tin có
hệ thống về đối tượng nghiên cứu, từ đó, tiến hành các bước tìm tòi khám
phá tiếp theo. Trong công tác giảng dạy, phương pháp quan sát giúp người
thầy kiểm định được phương pháp giảng dạy của mình, từ đó, tìm ra những
mặt chưa được để bổ khuyết, tiến hành đổi mới phương pháp giảng dạy
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, cũng như phát huy tính sáng tạo của
người học. Là người nghiên cứu khoa học, chúng ta thấy được phương
pháp quan sát được kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học
khác sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Trên cơ sở đó mang lại nhiều công
trình nghiên cứu khoa học có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận cũng như xã
hội.
2.3.7. Phương pháp trắc nghiệm
Trắc nghiệm là một phương pháp phi thực nghiệm, trong đó người bị
quan sát được yêu cầu thực hiện một số công việc mà người nghiên cứu
quan tâm, gồm trắc nghiệm tổng hợp, trắc nghiệm phân tích. Trắc nghiệm
là phương pháp đo lường khác nhau những biểu hiện tâm lý và mức độ
nhận thức của một người hoặc một nhóm người được chọn tham gia vào
những nghiên cứu phi thực nghiệm. Công cụ được sử dụng trong nghiên
cứu trắc nghiệm có thể là ngôn ngữ hoặc các công cụ phi ngôn ngữ.
Trắc nghiệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu. Trong
nghiên cứu về giáo dục học, trắc nghiệm là phương pháp có hiệu quả để đo
97
kết quả học tập của học sinh, là phương pháp đánh giá xác thực nhất đối
với việc lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh. Tuỳ thuộc nhu cầu
nghiên cứu, người nghiên cứu có thể sử dụng các loại trắc nghiệm khác
nhau: trắc nghiệm “có – không”; trắc nghiệm với câu hỏi trả lời sẵn; trắc
nghiệm với câu hỏi mở.
Trắc nghiệm là một bài toán khó, muốn giải được cần có trí thông
minh, có kiến thức và có kỹ năng thành thạo. Do vậy, trắc nghiệm là
phương pháp dùng để đo đạc, nghiên cứu trí tuệ và nhân cách con người.
Test là toàn bộ câu hỏi khó nhưng ngắn gọn, đã chuẩn hóa với các câu
trả lời, người được trắc nghiệm phải nghiên cứu, lựa chọn để trả lời một
cách thông minh nhất. Test có độ khách quan, tính ứng nghiệm và kết quả
dễ dàng xử lý bằng các công thức toán thống kê. Trắc nghiệm có thể được
sử dụng để đo trí tuệ của trẻ em và các thành quả học tập của học sinh và
cũng có thể đo các phẩm chất của nhân cách.
2.3.8. Phương pháp chuyên gia
Điều tra qua đánh giá của các chuyên gia ban đầu là phương pháp của
xã hội học, dần dần đã trở thành một phương pháp thu thập xử lý và thông
tin trong hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu. Phương pháp chuyên gia được
chia thành nhiều loại:
Phỏng vấn: Phỏng vấn là đưa ra những câu hỏi với người được hỏi để
thu thập thông tin. Xét về thực chất, phỏng vấn là một phương pháp quan
sát gián tiếp bằng cách “nhờ người khác quan sát họ”. Trước mỗi đối tượng
được chọn để phỏng vấn, người nghiên cứu cần có những cách tiếp cận tâm
lý khác nhau. Chẳng hạn, người có nhiều hiểu biết thường sẵn sàng cộng
tác, dễ dàng tiếp nhận câu hỏi và cho những ý kiến trả lời chính xác. Người
ít hiểu về điều tra thường đưa ra những câu hỏi không thật chính xác.
98
Người nhút nhát thường không dám trả lời. Người có quá khứ phức tạp
thường dè dặt. Người khôi hài thường cho câu hỏi có độ tin cậy thấp.
Người hay ba hoa thường đưa ra vấn đề đi lung tung. Người có bản lĩnh tự
tin thái quá thường rất kín kẽ, biết dấu một cách nhất quán mọi suy nghĩ.
Trong phỏng vấn, người ta chia ra các loại: phỏng vấn có chuẩn bị
trước, phỏng vấn không chuẩn bị trước, trao đổi trực tiếp, trao đổi qua điện
thoại. Vậy, tuỳ vào từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh phỏng vấn khác
nhau, người phỏng vấn sẽ đưa ra các cách phỏng vấn khác để đạt hiệu quả
cao nhất.
2.3.9. Phương pháp hội đồng. Nội dung của phương pháp này là đưa ý
kiến ra trước các nhóm chuyên gia khác nhau để nghe họ tranh luận, phân
tích. Trong phương pháp hội đồng, người ta thường dùng phương pháp tấn
công não, là phương pháp do A.Boborn – người Mỹ khởi xướng. Phương
pháp tấn công não gồm hai giai đoạn tách biệt nhau: giai đoạn một là giai
đoạn phát ý tưởng do một nhóm chuyên gia đề xuất các ý tưởng; giai đoạn
hai là giai đoạn phân tích ý tưởng do nhóm chuyên gia chuyên phân tích
các ý tưởng.
Người tổ chức tấn công não cần tạo bầu không khí tự do tư tưởng,
thoải mái tinh thần, không ai được thể hiện khích lệ, tán thưởng, châm
biếm hoặc chỉ trích. Mọi người phải lắng nghe cho dù là những ý kiến lạc
đề. Có rất nhiều dạng khác nhau của phương pháp hội đồng, ví dụ như tổ
chức lấy ý kiến trong các hội nghị bàn tròn, hội thảo…
2.3.10. Phương pháp điều tra xã hội học
Điều tra xã hội học là điều tra quan điểm, thái độ của quần chúng về
một sự kiện chính trị, xã hội, hiện tượng văn hóa, thị hiếu. Ví dụ, điều tra
nguyện vọng nghề nghiệp của thanh niên, trưng cầu dân ý về bản hiến pháp
99
mới…
Điều tra xã hội học được coi là phương pháp tốt nhất, có tác dụng nhất
trong các phương pháp thực nghiệm, bởi các tài liệu điều tra được sẽ là
những thông tin quan trọng về đối tượng cần cho các quá trình nghiên cứu
và là căn cứ quan trọng để đề xuất các giải pháp khoa học hay giải pháp
thực tiễn. Điều tra xã hội học thường được tiến hành theo các bước như
sau:
- Xây dựng kế hoạch điều tra bao gồm: mục đích, đối tượng, địa bàn,
nhân lực, kinh phí, …
- Xây dựng các mẫu phiếu điều tra với các thông số, các chỉ tiêu cần
làm sáng tỏ.
- Chọn mẫu điều tra đại diện cho số đông, chú ý tới tất cả các đặc
trưng của đối tượng, mặt khác cũng cần lưu ý đến chi phí cho điều tra phải
rẻ, thời gian có thể rút ngắn, nhân lực để điều tra không quá đông. Có thể
kiểm soát tốt mọi khâu điều tra, dự tính được những diễn biến của quá trình
điều tra và các kết quả nghiên cứu đúng mục đích.
Việc chọn mẫu phải bảo đảm vừa mang tính ngẫu nhiên, vừa mang
tính đại diện, tránh chọn mẫu theo định hướng chủ quan của người nghiên
cứu. Theo Sampling Design and Procedures của Cristina P.Parel el al., ông
đã phân tích một số cách chọn mẫu như sau:
Lấy mẫu ngẫu nhiên là quá trình chọn mẫu sao cho mỗi đơn vị lấy
mẫu trong cấu trúc có một cơ hội hiện diện trong mẫu bằng nhau. Kỹ thuật
lấy mẫu này đơn giản, dễ làm nhưng sự biến thiên của đối tượng nghiên
cứu rất rời rạc, những đơn vị lấy mẫu thuộc đối tượng nghiên cứu có thể
trải trên một địa bàn rộng, do vậy, quá trình thu nhập số liệu có thể gặp khó
khăn.
100
Lấy mẫu hệ thống. Một đối tượng gồm nhiều đơn vị được đánh số thứ
tự. Chọn một đơn vị ngẫu nhiên có số thứ tự bất kỳ. Lấy một số bất kỳ làm
khoảng cách mẫu, cộng vào số thứ tự của mẫu đầu tiên. Ví dụ, yêu cầu
người phát phiếu đến từ số nhà 23, sau đó cứ đếm 3 nhà thì vào một nhà để
gửi phiếu điều tra.
Lấy ngẫu nhiên phân tầng. Đối tượng điều tra được cấu tạo bởi nhiều
tập hợp không đồng nhất liên quan đến những thuộc tính cần nghiên cứu.
Trong trường hợp này, đối tượng được chia thành nhiều lớp, mỗi lớp có
những đặc trưng đồng nhất. Như vậy, từ mỗi lớp, người nghiên cứu có thể
thực hiện theo kỹ thuật lấy mẫu ngẫu nhiên. Cách lấy mẫu này cho phép
phân tích số liệu khá toàn diện, nhưng lại có nhược điểm là phải biết trước
những thông tin phân tầng, phải tổ chức cấu trúc riêng biệt trong mỗi lớp.
Lấy mẫu hệ thống phân tầng. Đối tượng điều tra được cấu tạo bởi
nhiều tập hợp không đồng nhất liên quan đến những thuộc tính cần nghiên
cứu. Lấy mẫu được thực hiện trên cơ sở phân tích đối tượng thành nhiều
lớp, có những đặc trưng đồng nhất. Đối với mỗi lớp, người nghiên cứu thực
hiện theo kỹ thuật lấy mẫu hệ thống. Cách lấy mẫu này cho phép áp dụng
trong trường hợp đối tượng có sự phân bố rời rạc, tập trung trên những
điểm nhỏ phân tán. Cách lấy mẫu này đòi hỏi chi phí tốn kém.
Lấy mẫu từng cụm. Đối tượng điều tra được chia thành nhiều cụm
tương tự như chia lớp trong kỹ thuật lấy mẫu phân tầng, chỉ có điều khác là
mỗi cụm không chứa đựng những đơn vị đồng nhất, mà dị biệt. Việc lấy
mẫu được thực hiện trong từng cụm theo cách lấy mẫu ngẫu nhiên hoặc
mẫu hệ thống. Trong cách lấy này, điều tra viên không cần lập danh sách
các đơn vị lấy mẫu, chi phí di chuyển giảm, nhưng quy trình tính toán phức
tạp.
101
Thứ hai, thiết kế bảng hỏi. Có hai nội dung được quan tâm trong khi
thiết kế bảng câu hỏi, các loại câu hỏi, trật tự logic các câu hỏi.
Nội dung thứ nhất, các loại câu hỏi. Các loại câu hỏi phải bảo đảm
khai thác cao nhất ý kiến của cá nhân từng người được hỏi. Tốt nhất, phải
đặt câu hỏi vào những công việc cụ thể liên quan đến cá nhân. Ví dụ, như
“thu nhập của bạn” hoặc “tỷ lệ phần trăm thu nhập dành cho bữa ăn trong
gia đình?”. Tránh đặt những câu hỏi ở tầm khái quát, ví dụ như “Chính
sách sử dụng cán bộ khoa học hiện nay có hợp lý không”. Dưới dây là một
số loại câu hỏi thông dụng trong các cuộc điều tra:
+ Câu hỏi kèm phương án trả lời “có” và “không".
+ Câu hỏi kèm phương án trả lời “đúng” và “sai”.
+ Câu hỏi làm nhiều phương án trả lời để mở rộng khả năng lựa chọn.
+ Câu hỏi kèm phương án trả lời có trọng số để phân biệt mức độ
quan trọng.
+ Những câu hỏi mở, để người điền phiếu trả lời theo ý mình.
2.3.11. Phương pháp đề xuát và kiểm chứng giả thuyết
Giả thuyết nghiên cứu là kết luận mang tính giả định về những thuộc
tính, bản chất của sự vật, hiện tượng hoặc xu hướng vận động và phát triển
của chúng, do nhà nghiên cứu đặt ra để chứng minh trong toàn bộ quá trình
nghiên cứu. Có thể nói rằng, chỉ khi nào đề xuất được giả thuyết thì công
việc nghiên cứu mới thực sự bắt đầu. Việc triển khai một công trình khoa
học, xét đến cùng là quá trình kiểm chứng giả thuyết và cuối cùng, khi giả
thuyết được kiểm chứng, công việc nghiên cứu cơ bản được kết thúc. Như
vậy, ta có thể nhận thấy rõ tầm quan trọng của giả thuyết nghiên cứu trong
lao động của các nhà nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, vì là kết luận giả
102
định, nên giả thuyết được đề xuất có thể phù hợp, cũng có thể không phù
hợp. Để có thể đưa ra những giả thuyết phù hợp với quy luật vận động của
sự vật, hiện tượng được nghiên cứu, cần phải được xây dựng giả thuyết bắt
đầu từ quan sát nghiêm túc các sự kiện trên cơ sở những nền tảng lý thuyết
đúng đắn. Trên cơ sở quan sát những sự kiện, tiến hành các nghiên cứu lý
thuyết đối với các tư liệu, các dữ liệu đã có, phát hiện vấn đề nghiên cứu
nhà khoa học bắt đầu hình thành nên những giả thuyết nhằm có thể làm
sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
Trong quá trình kiểm chứng giả thuyết, người nghiên cứu cần nắm
vững và vận dụng các quy tắc của phép biện chứng. Nội dung cơ bản của
phép chứng minh được vận dụng vào nghiên cứu khoa học, bao gồm: thứ
nhất, giả thuyết phải được trình bày rõ ràng, nhất quán, được giữ vững
trong suốt quá trình nghiên cứu; thứ hai, các căn cứ được sử dụng để chứng
minh cho giả thuyết phải bảo đảm tính chính xác có tính thuyết phục Tính
chính xác của các căn cứ đó có thể đã được người khác thực hiện, cũng có
thể do nhà nghiên cứu tự mình phải thu thập, xử lý thông tin để chứng
minh; thứ ba, các phương pháp, thao tác được sử dụng để liên kết các căn
cứ với giả thuyết, liên kết các căn cứ với nhau cùng chứng minh cho giả
thuyết phải nằm trong một hệ phương pháp chỉnh thể. Chúng phải được bổ
sung hỗ trợ cho nhau. Tuyệt đối tránh các phương pháp chứng minh có thể
dẫn đến hai suy luận có giá trị đối lập triệt tiêu lẫn nhau.
2.3.12. Phương pháp thống kê
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu khoa
học nói chung, trong nghiên cứu khoa học xã hội nói riêng. Phương pháp
này được xác định trên cơ sở định luật số lớn, nghĩa là sự thống kê theo
dãy số phản ánh sự biến thiên về lượng của nhiều hoặc toàn bộ các đơn vị
cá biệt hợp thành sự vật, hiện tượng được nghiên cứu. Phương pháp thống
103
kê thường được tiến hành theo ba giai đoạn:
a) Điều tra thống kê: nhà nghiên cứu tiến hành thu thập các số liệu
phản ánh các mặt, các yếu tố khác nhau có liên quan trực tiếp và phản ánh
sự vận động và biến đổi của sự vật, hiện tượng được nghiên cứu. Nói cách
khác, đó là việc thu thập số liệu theo các tiêu thức và chỉ tiêu thống kê nói
lên sự vận động biến đổi về lượng của các đơn vị hợp thành những dãy số
thống kê được nghiên cứu xác định. Việc điều tra thu thập số liệu thống kê
có thể dựa vào các báo cáo thống kê định kỳ, các điều tra và khảo sát
chuyên môn. Tuỳ theo tính chất mục tiêu của từng công trình, có thể tiến
hành điều tra toàn bộ hay điều tra chọn mẫu. Trong quá trình điều tra thống
kê, nhà nghiên cứu có thể sử dụng nhiều biện pháp cụ thể nhằm thu thập số
liệu thống kê: đăng ký trực tiếp, phỏng vấn, điều tra bằng phiếu hỏi. Dù
tiến hành bằng biện pháp nào cũng cần lưu ý rằng, các số liệu đưa vào
thống kê phải chính xác, khách quan và cập nhật.
b) Tổng hợp thống kê: nhà nghiên cứu phải điều tra, chỉnh lý, hệ thống
hóa các số liệu đã thu thập trong giai đoạn thứ nhất. Sau đó, tiến hành phân
loại các số liệu theo các biến số, các tiêu thức thống kê, tiến hành xây dựng
các bảng thống kê, các sơ đồ, biểu đồ thống kê theo tiến trình thời gian
hoặc giữa các sự vật khác nhau trong cùng một thời điểm thống kê.
c) Phân tích thống kê: đó là việc sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
khoa học kết hợp với các thao tác tư duy nhằm đưa ra những kết luận định
tính về mức độ, xu hướng, tính chất, mối quan hệ giữa các biến số nói lên
bản chất của sự vật, hiện tượng được nghiên cứu. Trong giai đoạn này, nhà
nghiên cứu phải vận dụng nhiều phương pháp cụ thể: tính các giá trị tuyệt
đối, giá trị tương đối, giá trị bình quân phản ánh mặt lượng của một hệ các
biến số; phương pháp dãy số biến động theo thời gian thông qua các bảng,
các sơ đồ, các biểu đồ thống kê; phương pháp phân tích tương tự, so sánh.
104
Các giai đạn của phương pháp thống kê có mối quan hệ mật thiết với
nhau và mỗi giai đoạn có một vị trí, vai trò khác nhau. Sai lầm của bất kỳ
giai đoạn nào cũng có thể dẫn đến những nhận thức không đúng hoặc thiếu
chính xác về sự vật, hiện tượng được nghiên cứu.
2.2.13. Phương pháp so sánh
Phương pháp này có liên quan đến phương pháp thống kê, xác suất,
phương pháp phân tích tổng hợp. Khi so sánh bao giờ cũng có giai đoạn
tổng hợp số liệu sau đó phân tích để hiểu được những đặc điểm bản chất
của đối tượng nghiên cứu, làm dữ liệu cho việc so sánh. Phương pháp so
sánh là cách thức nghiên cứu khoa học thông qua việc tìm ra những sự
tương đồng và khác biệt giữa các đối tượng nghiên cứu hoặc giữa đối
tượng nghiên cứu với các đối tượng khác. Thường ta chỉ so sánh các đối
tượng thuộc cùng một lĩnh vực, còn các đối tượng thuộc các lĩnh vực hoàn
toàn khác nhau thì thường không đặt ra vấn đề so sánh. Tất nhiên việc so
sánh không phải chỉ để mà so sánh, mà so sánh là nhằm tìm ra những ưu
điểm nhất của sự vật hiện tượng và phát huy những ưu điểm ấy; để thấy
được những nhược điểm của đối tượng nghiên cứu mà khắc phục. Đôi khi
việc so sánh còn giúp ta hiểu tại sao mỗi ngành khoa học, mỗi lĩnh vực lại
có sự khác nhau. So sánh cũng giúp ta tìm được sự giống nhau giữa các đối
tượng nghiên cứu để từ đó tìm ra một cách thức chung sử dụng trong nhiều
ngành nhiều lĩnh vực, tiết kiệm được chi phí, thời gian, nhân lực…
Trong ngành luật học, phương pháp so sánh đóng vai trò quan trọng,
có thể nói là không thể thiếu. Khi nghiên cứu một đề tài khoa học trong
lĩnh vực luật pháp, các nhà nghiên cứu luật pháp luôn phải sử dụng đến
phương pháp này. Chính nhờ phương pháp so sánh trong nghiên cứu khoa
học luật mà ta biết được trên thế giới có hai nhánh hệ thống pháp luật lớn
là: hệ thống pháp luật Ănglô-Xăcxông và hệ thống pháp luật châu Âu lục
105
địa với những quốc gia theo hai hệ thống pháp luật này. Trong bối cảnh
nền kinh tế có sự giao lưu giữa các quốc gia như hiện nay, luật pháp của
mỗi quốc gia cũng có sự học hỏi, ảnh hưởng lẫn nhau. Do vậy, phải so
sánh thì ta mới biết đâu là ưu điểm, là thành quả tiến bộ mà ta cần học hỏi;
đâu là cái tiêu cực, cái lạc hậu không phù hợp mà ta phải loại bỏ. Ngay như
trong mỗi ngành luật của hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia cũng có sự
khác nhau. Sự phân định thành các ngành luật là dựa trên những tiêu chí
khác nhau. Nhưng để bảo đảm tính thống nhất của pháp luật, mỗi ngành
luật lại có sự liên kết với nhau, có sự tương đồng ở một mức độ nào đó.
Không ngành luật nào được phép mâu thuẫn, loại trừ các ngành luật khác.
Để xây dựng được một hệ thống pháp luật thống nhất, các nhà nghiên cứu
lập pháp phải phân tích, so sánh để loại trừ sự mâu thuẫn, chồng chéo trong
hệ thống pháp luật.
2.3.14. Phương pháp mô hình hoá
Mô hình hoá là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng khoa học
bằng cách xây dựng các mô hình giả định về đối tượng và dựa trên mô hình
đó để nghiên cứu trở lại đối tượng. Mô hình là hệ thống các yếu tố vật chất
hoặc ý niệm trong tư duy. Hệ thống mô hình được xây dựng gần giống với
đối tượng nghiên cứu, trên cơ sở tái hiện lại những mối liên hệ cơ cấu,
chức năng, mối liên hệ nhân quả của các yếu tố trong đối tượng.
Đặc tính quan trọng của mô hình là sự tương ứng của nó với nguyên
bản, mô hình thay thế đối tượng và bản thân nó lại trở thành đối tượng để
nghiên cứu. Chính mô hình là phương tiện để thu nhận thông tin mới. Mô
hình là sự tái hiện đối tượng nghiên cứu dưới dạng trực quan. Tri thức thu
được từ nghiên cứu các mô hình là cơ sở để chuyển sang nghiên cứu
nguyên bản sinh động, phong phú và phức tạp hơn.
106
Mô hình lý thuyết có nhiệm vụ xây dựng cấu trúc cái mới chưa có
trong hiện thực, tức là mô hình hoá cái chưa biết để nghiên cứu. Như vậy,
mô hình hoá vẫn là cái giả định vì thế nó còn được gọi là mô hình giả
thuyết. Mô hình lý thuyết tổng kết, thường dưới dạng toán học, những mối
liên hệ giữa các biến số. Mô hình hữu ích vì giúp chúng ta lược bỏ những
chi tiết không quan trọng và tập trung nhiều hơn vào các mối liên hệ quan
trọng giữa các sự vật và hiện tượng.
Mô hình có hai loại biến số: biến phụ thuộc (Y) và biến độc lập (X),
mục đích của mô hình là chỉ ra ảnh hưởng của biến độc lập đối với các biến
phụ thuộc.
Tóm lại, mô hình hoá là phương thức chuyển cái trừu tượng thành cái
cụ thể, dùng cái cụ thể để nghiên cứu cái trừu tượng, đó là một phương
pháp nhận thức quan trọng.
2.3.15. Phương pháp hình thức hoá
Hình thức hoá là mô tả chính xác nội dung của nhận thức bằng các
phương pháp hình thức như ngôn ngữ thông thường, ngôn ngữ toán học,
ngôn ngữ lôgic. Có thể nói ngôn ngữ thông thường (tiếng nói, chữ viết) là
loại hình thức hoá đầu tiên. Sự vật, hiện tượng, khi được nói lên, viết lên
thì nội dung (phong phú, phức tạp, muôn vẻ) của nó đã được hình thức hoá
(tức chỉ còn giữ lại dưới dạng chung, trừu tượng, khái quát, đơn giản).
Ngày nay nói đến phương pháp hình thức hoá khoa học, chủ yếu là
nói đến sự tham gia của toán học để mô tả chính xác một nội dung nhận
thức nào đó. Chẳng hạn, R.Đêcác dùng lượng giác học để diễn tả nội dung
quy luật về khúc xạ ánh sáng (sin i = n sin r). G.Galilê dùng đại số học để
diễn tả nội dung quy luật về sự rơi (e=1/2gt2). Như vậy, Đêcác và Galilê đã
hình thức hoá các nội dung trên đây bằng ngôn ngữ toán học. Phương pháp
107
hình thức hoá nội dung nào đó bằng toán học không những được áp dụng
trong khoa học tự nhiên mà cả trong khoa học xã hội nữa.
Ví dụ: Weber và Fechner hình thức hoá mối quan hệ giữa cảm giác và
vật kích thích như sau: “Vật kích thích tăng theo cấp số nhân thì cảm giác
tăng theo cấp số cộng” 1. Binet và Simon mô tả số thương trí tuệ bằng công
thức toán:
QI = AM (tuổi tâm lý) / AR (tuổi thật)
Trong xã hội học, hầu như không thể không lập các bảng thống kê và
sử dụng phép tính xác suất.
Toán học rõ ràng có một công cụ lớn lao đối với các khoa học. Nó là
thứ ngôn ngữ gọn gàng, chính xác để mô tả những mối quan hệ về lượng
của các sự kiện khoa học. Henri Poincare nói: “Tất cả các quy luật ấy cần
phải có một thứ tiếng riêng vì tiếng nói thông thường không thể diễn tả
những mối quan hệ thật chính xác. Đó là lý do cốt yếu khiến cho nhà vật lý
học không thể bỏ qua toán học. Toán học cung cấp cho họ thứ tiếng duy
nhất để nói”. Tuy nhiên, sự áp dụng toán học vào các khoa học khác có
những giới hạn mà ta cần biết rõ:
Một là, mức độ sử dụng và ý nghĩa của toán học không hoàn toàn
giống nhau trong các khoa học khác nhau.
Hai là, đối tượng được nghiên cứu càng phức tạp và đa dạng về chất bao
nhiêu, thì càng khó áp dụng ngôn ngữ toán học để hình thức hoá bấy nhiêu. Vì
lẽ đó, cho đến ngày nay, việc áp dụng toán học vào các khoa học xã hội còn ít
và hạn chế hơn trong các khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật.
2.3.16. Phương pháp khảo sát thực tiễn
Phương pháp này thường được áp dụng với các đề tài mang tính tổng 1 QI (quotient Intellectuel). AM (âge mental). AR (âge rée)
108
kết kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn, nhằm tìm ra các hạt nhân hợp lý của quá
trình phát triển một số lĩnh vực nào đó của xã hội để thực hiện phương
pháp này, người ta phải xác định rõ các vấn đề chung sau đây:
- Mục tiêu khảo sát là gì? Cần phải làm rõ mục tiêu cụ thể với các
mức độ yêu cầu cụ thể, thời gian và địa bàn cụ thể.
- Địa bàn khảo sát ở đâu? Phải cân nhắc các cơ sở điển hình có thể
cung cấp nhiều thông tin tin cậy (kể cả thông tin ngược chiều).
- Nội dung khảo sát là gì? Các vấn đề cần khảo sát nên cụ thể, phù
hợp với thực tiễn; tránh tràn lan; tránh quá trừu tượng, chung chung.
- Đối tượng khảo sát là gì? Tuỳ thuộc vào nội dung nghiên cứu để lựa
chọn thành phần (cán bộ, nhân dân, thanh niên, sinh viên…) hoặc ngành
nghề để trao đổi tìm hiểu nắm bắt tình hình, số liệu hoặc tham quan các cơ
sở sản xuất, phong trào, dự hội nghị.
Tóm lại, đây là phương pháp thông qua thực tiễn để người nghiên cứu
thu thập thông tin hoặc làm nảy sinh các ý tưởng nghiên cứu, có thể đề xuất
sáng kiến phục vụ cho nhiệm vụ phát triển của thực tiễn. Tất nhiên, các kết
quả khảo sát trong thực tiễn thu thập được chưa thể là kết quả của nghiên
cứu khoa học. Nó còn phải trải qua việc phân tích, chọn lọc, xử lý thông tin
có được, đối chiếu với cơ sở lý luận khoa học mà dề tài khoa học đang
nghiên cứu mới hy vọng rút ra được các giá trị khoa học bổ ích và cần thiết
cho bộ môn khoa học và thực tiễn xã hội.
2.3.17. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Tham gia vào lao động sản xuất, sinh hoạt xã hội con người luôn có
khả năng bồi đắp, làm giàu tri thức cho mình bằng chính kinh nghiệm thực
tiễn của mình. Phân tích, tổng kết kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của con
người là một phương pháp nghiên cứu quan trọng giúp con người nhận
109
thức sâu hơn thế giới khách quan.
Có những kinh nghiệm liên quan đến nhận thức của con người với
thiên nhiên. Có những kinh nghiệm thuộc về hiểu biết xã hội gắn chặt với
đời sống cộng đồng. Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn có một ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội. Trong lĩnh
vực tự nhiên, kỹ thuật, kinh nghiệm thực tiễn có ý nghĩa như những dấu
hiệu về tri thức của con người với thế giới khách quan và trên cơ sở đó
người ta sử dụng các lý thuyết, các phương pháp khoa học để tính toán, xác
minh độ tin cậy của những kinh nghiệm ấy. Một kinh nghiệm thực tiễn khi
được khoa học xác minh đủ độ tin cậy có giá trị phổ biến trong chỉ đạo
hoạt động của con người. Trong lĩnh vực xã hội nhân văn, kinh nghiệm
thực tiễn là cơ sở để tổng kết xây dựng thành lý luận, bổ sung làm phong
phú lý luận. Phân tích tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực xã hội
nhân văn thường hướng vào những vấn đề như:
- Phát hiện những nhân tố điển hình tìm ra nguyên nhân thành công
hay thất bại của những nhân tố điển hình.
- Phát hiện bản chất và quy luật phát triển của các sự kiện, tổng kết ra
được những bài học cần thiết cho việc chỉ đạo thực tiễn.
- Phổ biến rộng rãi những kinh nghiệm thành công, những giải pháp
ngăn ngừa sai lầm lặp lại.
2.4. Đề tài khoa học và mô hình luận chứng đề tài khoa học xã hội –
nhân văn
2.4.1. Đề tài khoa học
* Khái niệm
Đề tài khoa học là một phạm vi của hiện thực khách quan cần đặt ra
110
để khám phá, nghiên cứu để tìm hiểu bản chất của nó nhằm cải tạo nó một
cách hiệu quả nhất phục vụ cho nhu cầu con người.
Phạm vi của hiện thực khách quan có thể rất rộng như vũ trụ, đất
nước, con người… cũng có thể là một lĩnh vực, một vấn đề cụ thể, chuyên
sâu, ví như những yếu tố tâm lý, tình cảm, nghệ thuật giao tiếp…
Từ phạm vi của hiện thực khách quan đã xác định, các nhà khoa học
tìm ra các vấn đề cần khám phá, nghiên cứu, để từ đó xác định được bản
chất của vấn đề. Trên cơ sở đó, các nhà khoa học sẽ đưa ra các biện pháp,
cách thức khả thi để cải thiện vấn đề.
Như vậy, một đề tài khoa học chứa đựng cái chưa biết, cái cần phải
biết và cái có thể biết.
* Đặc điểm
Một đề tài khoa học là một vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn hoạt
động của chúng ta cần phải tìm những câu trả lời thỏa đáng nhất cho thực
tiễn đó. Một vấn đề đặt ra trong thực tiễn là đề tài khoa học khi nó chứa
đựng những yếu tố cơ bản sau:
- Tính vấn đề: một lĩnh vực hoạt động thực tiễn có những hiện tượng,
những vấn đề phát sinh cần phải giải quyết trả lời. Các nhà khoa học sẽ đặt
ra câu hỏi “tại sao” và đi tìm câu trả lời cho vấn đề đó.
- Tính thời sự: vấn đề phát sinh trong hoạt động thực tiễn được rất
nhiều người quan tâm, cần phải giải quyết trả lời ngay, nếu không sẽ không
thực hiện được hoặc thực hiện rất khó khăn.
- Tính cấp bách: tức là những vấn đề đặt ra rất cấp thiết mà không giải
quyết về mặt khoa học thì sẽ gây ra những tổn thất lớn cho xã hội và đời
sống như vấn đề phòng và chống tệ nạn xã hội, vấn đề tham nhũng, …
111
- Tính hiện thực: Tính hiện thực thể hiện trên hai khía cạnh: một là, tính
khả thi: khi ta nêu vấn đề ra như một đề tài khoa học thì những tiền đề, những
điều kiện để giải quyết vấn đề đó có sẵn và chúng ta có khả năng để giải
quyết vấn đề đó; Hai là, tính giá trị hữu ích: giải quyết được vấn đề nêu trên
có ý nghĩa trực tiếp hoặc gián tiếp đối với phát triển của một lĩnh vực nào đó
của xã hội, nghĩa là nó có hiệu quả kinh tế và hiệu ứng xã hội nhất định.
* Nguồn đề tài
Đề tài khoa học đến với nghiên cứu bằng hai cách cơ bản:
- Đề tài đặt trước với cán bộ khoa học.
- Đề tài do cán bộ khoa học tự lựa chọn để đăng ký nghiên cứu theo
tài trợ của Nhà nước, theo kế hoạch nghiên cứu khoa học, theo kế hoạch
đào tạo để bảo vệ các luận án khoa học.
Để chọn đề tài cần nghiên cứu nên xuất phát từ các nguồn sau đây:
- Thực tiễn hoạt động nói chung: đây là nguồn đề tài phong phú nhất
vì thực tiễn luôn đặt ra rất nhiều vấn đề lớn đòi hỏi phải tìm ra câu trả lời.
- Theo dõi tổng quát những thành tựu mới, các nguyên lý mới, các
quan điểm mới.
- Theo dõi trên thông tin đại chúng.
- Sự tiếp xúc các cơ sở các nguồn thông tin từ các cán bộ hoạt động
thực tiễn.
- Từ tiếp xúc với quần chúng nhân dân.
- Theo dõi các đề tài hợp tác quốc tế.
* Chọn đề tài
Khi đã có những vấn đề cần nghiên cứu thì công việc tiếp theo là phải
112
lựa chọn một trong những vấn đề phù hợp nhất làm đề tài khoa học. Cụ
thể:
- Chọn những vấn đề cấp thiết nhất.
- Chọn những vấn đề khả thi.
- Chọn đề tài có giá trị hữu ích lâu dài.
- Chọn đề tài sở trường thôi thúc nội tâm.
* Quá trình hình thành đề tài nghiên cứu
Để có một đề tài khoa học, người nghiên cứu cần phải trải qua các
bước sau đây:
- Chọn chủ đề là tìm trong hoạt động thực tiễn những tình huống có
vấn đề để xây dựng thành chủ đề nghiên cứu.
Đây là giai đoạn hết sức quan trọng, người nghiên cứu phải đặt ra
những câu hỏi cần giải đáp trong quá trình nghiên cứu. Khi đặt câu hỏi,
người nghiên cứu cố đi tìm câu trả lời và thông qua đó xác định phương án
nghiên cứu. Công việc này quyết định sự thành bại của một đề tài nghiên
cứu.
Người nghiên cứu nào nhận được nhiều vấn đề nghiên cứu người đó
có nhiều cơ hội bắt đầu được công việc nghiên cứu của mình. Bởi vì, đề tài
nghiên cứu khoa học chính là việc đi tìm lời giải đáp cho những câu hỏi tại
sao về một hiện tượng hay sự vật hoặc giải quyết những vướng mắc trong
hoạt động thực tiễn. Có thể có những phương pháp sau để xác định vấn đề
khoa học:
Thứ nhất, phát hiện những mặt yếu trong nghiên cứu. Đây là việc
nhận ra những nội dung chưa được giải quyết trọn vẹn về mặt khoa học
trong các công trình khoa học đã công bố.
113
Thứ hai, nhận dạng những bất đồng trong tranh luận khoa học, khi
người nghiên cứu có chỗ bất đồng ý kiến thì họ nhận ra mặt yếu của nhau.
Đây là cơ hội thuận lợi cho những người nghiên cứu nhận dạng nghiên cứu
vấn đề mà các đồng nghiệp đã phát hiện của nhau.
Thứ ba, nghĩ ngược lại những quan niệm thông thường.
Thứ tư, nhận dạng những vướng mắc trong hoạt động thực tế.
Thứ năm, lắng nghe những người không am hiểu, bởi vì, đôi khi nhiều
ý tưởng nghiên cứu xuất hiện nhờ sự bắt gặp những phàn nàn của những
người hoàn toàn không am hiểu lĩnh vực người nghiên cứu quan tâm.
Thứ sáu, những câu hỏi bất chợt xuất hiện không phụ thuộc lý do nào.
Đây là những câu hỏi xuất hiện trong đầu người nghiên cứu do bất chợt
quan sát được một sự kiện nào đó, cũng có thể xuất hiện một cách ngẫu
nhiên không phụ thuộc vào bất cứ lý do gì, thời gian nào.
- Xây dựng giả thuyết.
Xây dựng giả thuyết khoa học tức là xây dựng luận đề nghiên cứu.
Đây là những nhận định sơ bộ về một thuộc tính, bản chất, nguyên nhân,
một mối quan hệ nào đó của sự vật do người nghiên cứu đưa ra. Quá trình
nghiên cứu chính là quá trình tìm kiếm luận cứ để chứng minh hoặc bác bỏ
giả thuyết. Hình thành giả thuyết khoa học là một giai đoạn cần thiết, có
tính quy luật trong phát triển tri thức khoa học, mà nội dung của nó là nêu
ra những kết luận trước khi nghiên cứu.
Một giả thuyết được đặt ra dựa trên các tiêu chí sau:
Thứ nhất, người nghiên cứu không thể tự nhiên nghĩ ra một giả thuyết
mà phải trên cơ sở quan sát rất nhiều hiện tượng và sự vật.
Thứ hai, giả thuyết không được trái với những lý thuyết đã được xác
114
định tính đúng đắn về mặt khoa học.
Thứ ba, khi nêu lên một giả thuyết khoa học có nghĩa là nó phải kiểm
chứng được.
- Các thuộc tính cơ bản của giả thuyết
Tính giả định: mặc dù giả thuyết phải được xây dựng dựa trên những
quan sát ban đầu về hiện tượng và sự vật song nó cũng phải được rút ra từ
những suy luận logic dựa trên những lý thuyết khoa học đã được xác nhận.
Tính đa phương án: giả thuyết là câu trả lời vào vấn đề nghiên cứu và
với một vấn đề nghiên cứu không chỉ tồn tại một câu trả lời duy nhất.
Tính dị biến: một giả thuyết có thể nhanh chóng bị xem xét lại ngay
sau khi vừa đặt ra sự phát triển năng động của tri thức.
2.4.2. Mô hình luận chứng đề tài khoa học
Bản đề cương của một đề tài khoa học thường gồm 3 phần:
- Phần mở đầu.
- Phần nội dung.
- Phần tổng kết quả, kết luận và khuyến nghị.
* Phần mở đầu
- Tên đề tài: tên đề tài là một câu nói ngắn gọn, xúc tích nhưng phản
ánh được đối tượng, phạm vi, mục tiêu nghiên cứu.
- Tính cấp thiết của đề tài: tính cấp thiết của đề tài thể hiện ở hiện
trạng thái của vấn đề tức là tính huống tri thức khoa học hiện tại không đủ
hoặc không giải quyết được, hoặc giải quyết chưa phù hợp với những
nhiệm vụ mới đặt ra.
- Tình hình nghiên cứu: tình hình nghiên cứu là thông tin về những tài
115
liệu đã công bố liên quan đến vấn đề chúng ta đang nghiên cứu. Muốn làm
tốt vấn đề này người đọc phải đọc nhiều và phải hệ thống hóa được các
thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Mục tiêu nghiên cứu: mục tiêu nghiên cứu là cái đích mà người
nghiên cứu vạch ra để định hướng nỗ lực tìm kiếm (mục tiêu là sự lựa chọn
mang tính chủ quan của người nghiên cứu). Mục tiêu trả lời cho câu hỏi
“Làm cái gì”. Mục tiêu nghiên cứu phải cụ thể rõ ràng, ngắn gọn, tránh đưa
ra mệnh đề có thể mâu thuẫn nhau. Mục tiêu càng chi tiết thì nhiệm vụ
nghiên cứu càng cụ thể.
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Khi xác định đối tượng nghiên
cứu bao giờ cũng phải đề cập tới hai nội dung: đối tượng nghiên cứu và đối
tượng khảo sát.
+ Đối tượng nghiên cứu của một đề tài là nội dung bản chất cần được
khám phá và làm rõ trong nhiệm vụ nghiên cứu.
+ Khách thể nghiên cứu của đề tài là các giới hạn chứa đựng bản chất
của đề tài nghiên cứu và đối tượng khảo sát.
+ Đối tượng khảo sát là một bộ phận đủ đại diện của khách thể nghiên
cứu được lựa chọn để xem xét. Không bao giờ người nghiên cứu có thể đủ
quỹ thời gian và kinh phí để khảo sát toàn bộ khách thể.
Phạm vi nghiên cứu khoa học được xác định trong phạm vi thời gian,
không gian, những mặt, những chỉ số điều tra, khảo sát, nghiên cứu phát
hiện… Phạm vi nghiên cứu giúp cho việc nghiên cứu đúng trọng tâm,
không bị lệch hướng.
- Phương pháp sử dụng trong quá trình nghiên cứu: nêu rõ các phương
pháp phù hợp với đặc điểm khoa học và yêu cầu nghiên cứu của mình được
sử dụng và phương pháp nào là chủ yếu.
116
- Ý nghĩa khoa học: đề tài nghiên cứu có ý nghĩa như thế nào về mặt
lý thuyết và thực tiễn.
Về mặt lý thuyết: đề tài nêu được tri thức mới gì, có đóng góp gì khoa
học. Về mặt thực tiễn: việc nghiên cứu đề tài góp phần giải quyết được vấn
đề gì cho xã hội.
* Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu (hay kết cấu của vấn đề nghiên cứu) là kết quả
logic mà theo đó phải trình bày theo một mạch lạc nhất định như sau:
Chương 1: Cơ sở khoa học hay cơ sở lý luận của việc giải quyết
vấn đề đặt ra
1.1. Các khái niệm liên quan đến vấn đề đặt ra.
Trong việc xây dựng khái niệm có những nội dung cần thực hiện sau
đây:
- Lựa chọn khái niệm.
- Bổ sung khái niệm.
- Chuẩn xác hóa khái niệm.
- Thống nhất hóa khái niệm trong trường hợp một khái niệm có nhiều
cách hiểu khác nhau.
1.2. Các nhà khoa học đã nghiên cứu vấn đề này như thế nào. Quan
điểm của các nhà khoa học vè vấn đề này ra sao. Còn vấn đề gì chưa được
giải quyết?
1.3. Kinh nghiệm nghiên cứu và giải quyết vấn đề.
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của vấn đề
Nghiên cứu khách thể và đối tượng nghiên cứu, những điều kiện địa lý
117
tự nhiên kinh tế, xã hội đang chi phối vấn đề chúng ta đang nghiên cứu.
2.1. Điều kiện địa lý, tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa tác
động vào đối tượng nghiên cứu như thế nào?
2.2. Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của đối tượng nghiên
cứu.
2.3. Thực trạng của vấn đề:
2.3.1. Quan sát đối tượng.
2.3.2. Phân tích đối tượng.
2.4. Tìm ra nguyên nhân và bản chất của hiện tượng mà ta quan sát
được.
2.5. Nhận xét khái quát và dự báo sự vận động của đối tượng nghiên
cứu.
Chương 3: Những kết luận và giải pháp giải quyết vấn đề
Tác giả trình bày những quan điểm phương hướng, giải pháp để giải
quyết vấn đề như thế nào? ở chương này có thể trình bày các yêu cầu sau
đây:
3.1. Mục tiêu và điều kiện để giải quyết vấn đề đặt ra.
3.2. Các quan điểm cần phân tích, bổ sung hoàn chỉnh hoặc bác bỏ.
3.3. Những giải pháp đưa ra nhằm giải quyết tốt vấn đề đặt ra. Các
giải pháp phải mang tính khả thi và có luận chứng chặt chẽ. Đó là những
giải pháp mới, cách tiếp cận mới hoặc phương pháp mới.
118
KẾT LUẬN
Khoa học xã hội nhân văn là một ngành khoa học có tính trừu tượng
rất cao. Các quan hệ và quy luật xã hội vận động và phát triển trong hệ
thống rất phức tạp và rất khó nhận biết. Các hiện tượng xã hội thể hiện ra
vừa thông qua hoạt động chủ quan của con người, vừa bị chi phối bởi các
quy luật ẩn dấu bên trong nó. Vì vậy, việc nhận thức các quan hệ và quy
luật xã hội gặp rất nhiều khó khăn. Tuy vậy, nếu chúng ta nắm bắt được cơ
chế hình thành của chúng thì việc nhận thức sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Đề
tài khoa học “Cơ chế hình thành và phương pháp nhận thức các quan hệ và
quy luật xã hội” đã cố gắng đưa ra một cách tiếp cận nhận thức các quan hệ
và quy luật xã hội. Mặc dù đã có những phát hiện mới, nhưng do tính chát
của vấn đề nên chúng tôi vẫn chưa tìm cách trình bày một cách đầy đủ và
hệ thống các kết quả nghiên cứu. Chúng tôi hy vọng rằng, những ý tưởng
nêu ra trong đề tài này sẽ góp phần nhỏ bé trong quá trình tìm kiếm các
phương thức nhận thức về xã hội và con người. Trong những công trình
khoa học tiếp theo, chúng tôi sẽ có điều kiện tốt hơn để trình bày vấn đề
này một cách hệ thống hơn và đầy đủ hơn.
119
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
B.Rátxen: Sự nhận thức của con người, M., 1957.
2.
Bàn về các lợi ích kinh tế, Nxb Sự thật, H., 1982.
3.
Vũ Cao Đàm: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học kỹ thuật, H., 1997.
4.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội lần thứ VII.
5.
Đảng Cộng sản Việt Nam - Bộ Chính trị: Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 30-3-1991 về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới.
6.
Đảng Cộng sản Việt Nam - Bộ Chính trị: Nghị quyết số 01/NQ-TW ngày 28-3-1992 về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay.
7.
Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ hai khoá VIII về khoa học và giáo dục.
120
8.
Phạm Văn Đức: Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Triết học số 1-2000.
9.
Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa, Nxb CTQG, H., 2002.
10.
Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
11.
Giá trị cuộc sống và giá trị văn hóa của Éc-hác-Don (người Đức), Nxb Sách giáo khoa Mác – Lênin, 1982.
12.
Trịnh Minh Hỗ: Vài ý kiến về việc sử dụng vai trò của lợi ích trong xây dựng đạo đức mới, Tạp chí Triết học số 3-1998.
13.
Nguyễn Huy Hoàng (Viện Văn hóa): Triết học, văn hóa, giá trị và con người, Nxb Văn hóa – Thông tin.
14.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Cơ chế quản lý nghiên cứu khoa học lý luận Mác – Lênin, H., 1993.
15.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (Vụ Quản lý khoa học): Văn bản quản lý khoa học, H., 1993.
16.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Tài liệu phục vụ Lớp bồi dưỡng về phương pháp nghiên cứu khoa học – Hà Nội, 2003.
121
17.
Khái lược về lịch sử lý luận phát triển khoa học (bản dịch), Nxb KHXH, H., 1974.
18.
Nguyễn Linh Khiếu: Góp phần tìm hiểu sự hình thành quan hệ lợi ích, Tạp chí Triết học số 3-1989.
19.
Nguyễn Linh Khiếu: Lợi ích với tư cách là mối quan hệ xã hội, Tạp chí Triết học số 3-1990.
20.
Nguyễn Linh Khiếu: Mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng trong sự phát triển của xã hội ta hiện nay, Tạp chí Triết học số 1-1994.
21.
Nguyễn Linh Khiếu: Mối quan hệ giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần trong sự phát triển của xã hội ta hiện nay, Tạp chí Triết học số 1-1996.
22.
Nguyễn Linh Khiếu: Về mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài trong sự phát triển của xã hội ta hiện nay, Tạp chí Triết học số 2-1997.
23.
Nguyễn Linh Khiếu: Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích, Nxb CTQG, H., 2002.
24.
Khoa học về khoa học (bản dịch), Nxb Khoa học kỹ thuật, H., 1976.
122
25.
Khoa học và xã hội nhân văn: Mười năm đổi mới và phát triển, Nxb CTGQ, H., 1997.
26.
V.G.Khoros: Tạp chí Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế, số 10-1998 (Thông tin những vấn đề phục vụ cán bộ lãnh đạo số 18 tháng 9-1999), tr.9-10.
27.
Phạm Duy Kỳ: Về mối quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi ích chung trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Tạp chí Triết học số 3-1988.
28.
Lao động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn hiện nay (Báo cáo Tổng quan), H., 2000.
29.
GS. Nguyễn Văn Lê: Phương pháp luận về nghiên cứu khoa học,Nxb Trẻ, H., 1995.
30.
V.I. Lênin, toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ, M., 1981.
31.
V.I. Lênin, toàn tập, tập 17, Nxb Tiến bộ, M., 1979.
32.
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, M., 1981.
3 Giang Linh: Một số ý kiến khác nhau về mối quan hệ giữa nhu cầu và
123
lợi ích, Tạp chí Triết học số 3-1988.
34.
Hoàng Văn Luân: Vấn đề điều chỉnh cơ caúa lợi ích trong sự phát triển xã hội, Tạp chí Triết học, số 113, t.2/2000.
35.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H., 2004.
36.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H., 2004.
37.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H., 2004.
38.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H., 2004.
39.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H., 2004.
40.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H., 2004.
41.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H., 2004.
124
42.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H., 2004.
43.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, H., 2004.
44.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H., 2004.
45.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H., 2004.
46.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H., 2004.
47.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 15, Nxb CTQG, H., 2004.
48.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, H., 2004.
49.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 23, Nxb CTQG, H., 2004.
5 C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 25, Nxb CTQG, H., 2004.
125
51.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 26II, Nxb CTQG, H., 2004.
52.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 26III, Nxb CTQG, H., 2004.
53.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 31, Nxb CTQG, H., 2004.
54.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 42, Nxb CTQG, H., 2004.
55.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 46I, Nxb CTQG, H., 2004.
56.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 46II, Nxb CTQG, H., 2004.
57.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 46III, Nxb CTQG, H., 2004.
58.
Mấy vấn đề về phương pháp luận sử học, Nxb Khoa học xã hội, H., 1970.
126
59.
Hồ Chí Minh: Về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nxb ST, H., 1976.
60.
Một số vấn đề về chính sách phát triển khoa học – công nghệ, Nxb CTQG, H., 1994.
61.
Nguyễn Thế Nghĩa: Vị trí và vai trò của lợi ích trong hoạt động của con người, Tạp chí Triết học, số 3 t.9-1991.
62.
Nghiên cứu khoa học phương pháp luận và thực tiễn, Nxb CTQG, H., 1999.
63.
Nghiên cứu khoa học – công nghẹ (lý luận và phương pháp), Nxb CTQG, H., 1994.
64.
Vũ Hữu Ngoạn – Khổng Doãn Hợi: Về sự kết hợp các lợi ích kinh tế, Nxb Sự thật, H., 1983.
65.
Phân viện Báo chí và Tuyên truyền (bộ môn khoa học luận): 185 danh từ thuật ngữ khoa học và công nghệ.
66.
Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển xã hội – kinh tế, Nxb KH-XH, 1996.
6 Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học lý luận Mác – Lênin, Nxb ST,
127
H., 1992.
68.
PGS, TS Trần Xuân Sầm (chủ biên): Tìm hiểu phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học qua một số tác phẩm kinh điển macxit, Nxb CTQG, H., 2000.
69.
Lê Hữu Tầng: Vị trí nhu cầu và lợi ích trong hệ thống các động lực của sự phát triển xã hội, Tạp chí Triết học số 3-1985.
70.
Lê Hữu Tầng: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam – Vấn đề nguồn gốc và động lực, Nxb Khoa học xã hội, H., 1991.
71.
Lê Hữu Tầng: Vấn đề kích thích tính tích cực của người lao động thông qua sự tác động tới lợi ích, Tạp chí Triết học số 4-1989.
72.
Tạp chí Triết học, số 116. tháng 8-2000.
73.
Tập thể tác giả về lợi ích kinh tế, Nxb Thông tin Lý luận, H., 1982.
74.
Đoàn Khắc Tình: Giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật trong lý thuyết kiến trúc và Design, Nxb Giáo dục, 1999.
75.
Tổ chức quản lý công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật (bản dịch, Nxb Lao động, H., 1992.
128
76.
TS. Lê Ngọc Tòng: Một số nghiên cứu bước đầu về kinh tế học văn hóa, Nxb CTQG, H., 2004.
77.
Phạm Thị Ngọc Trần – Nguyễn Hiền Lương: Về mối quan hệ giữa lợi ích và y đức trong chăm sóc sức khoẻ, Tạp chí Triết học số 3-1997.
78.
Từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ, M., 1975.
79.
Từ điển Kinh tế chính trị học, NXb Sự thật, H., 1987.
80.
Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, H., 2002.
81.
PGS, TS Đỗ Công Tuấn: Phương pháp nghiên cứu khoa học (đề cương bài giảng), H., 1999.
82.
Vai trò động lực của lợi ích trong việc nâng cao tính tích cực của chủ thể, Tạp chí Triết học số 3-1988.
83.
Viện Khoa học xã hội Việt Nam: Thông tin khoa học xã hội, Con người và nguồn lực con người trong phát triển. H., 1995.
8 TS Ngô Đình Xây: Về phương pháp nhận thức khoa học, Nxb CTQG.
129
********************
130
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.......................................................................................................................1Phần 1.....................................................................................................................................6 CƠ CHẾ HÌNH THÀNH CÁC QUAN HỆ VÀ QUY LUẬT XÃ HỘI...............................6
1. Quan hệ và quy luật xã hội hình thành từ hoạt động thực tiễn của con người...............62. Các khái niệm công cụ cơ bản........................................................................................7
2.1. Khái niệm xã hội.....................................................................................................72.2. Khái niệm giá trị......................................................................................................92.3. Khái niệm nhu cầu.................................................................................................162.4. Khái niệm ước muốn ............................................................................................232.5. Khái niệm động cơ................................................................................................242.6. Khái niệm lợi ích...................................................................................................242.7. Quan hệ xã hội.......................................................................................................352.8. Quy luật xã hội......................................................................................................382.9. Xung đột xã hội ....................................................................................................41
Phần 2...................................................................................................................................46 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN............................46
1. Khoa học xã hội nhân văn và đặc điểm của khoa học xã hội nhân văn.......................461.1. Khoa học xã hội nhân văn.....................................................................................461.2. Điều kiện để nhận thức quan hệ và quy luật xã hội..............................................511.3. Con đường nhận thức quy luật xã hội ..................................................................57
2. Phương pháp nghiên cứu của các quan hệ và quy luật xã hội .....................................622.1. Phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học ....................................622.2. Phân loại các phương pháp nghiên cứu khoa học ................................................672.3. Một số phương pháp nghiên cứu quan hệ xã hội và quy luật xã hội.....................752.4. Đề tài khoa học và mô hình luận chứng đề tài khoa học xã hội – nhân văn.......110
KẾT LUẬN........................................................................................................................119
131