Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐAI HOC KHOA HOC
QUẢNG VĂN NGỌC
ĐẶC ĐIỂM LOẠI HÌNH
TRUYỆN TRUYỀN KỲ VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
HUẾ - 2020
QU
ẢN
G V
ĂN
NG
ỌC
L
UẬ
N Á
N T
IẾN
SĨ V
ĂN
HỌ
C V
IỆT
NA
M
HU
Ế - 2
020
10bìa/170tr
ĐẠI HỌC HUÊ
TRƯƠNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
QUẢNG VĂN NGỌC
ĐĂC ĐIÊM LOẠI HINH
TRUYÊN TRUYÊN KY VIÊT NAM
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIÊT NAM
Mã số: 9220121
LUẬN AN TIÊN SĨ VĂN HỌC VIÊT NAM
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. NGUYỄN PHONG NAM
2. TS. HA NGỌC HOA
HUÊ - 2020
LƠI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây la công trình nghiên cưu cua riêng tôi. Cac kêt qua nêu
trong luân an la trung thưc, đam bao đô chinh xac cao nhât. Cac tai liêu tham khao
trich dân co xuât xư ro rang. Tôi hoan toan chiu trach nhiêm vê công trình nghiên
cưu cua mình.
Tac gia
Quang Văn Ngọc
CHỮ VIÊT TẮT TÊN TAC PHẨM TRONG LUẬN AN
-----
CDTK : Công dư tiệp ký
DS : Dã sử
HĐTD : Hát đông thư dị
LNCQL : Lĩnh Nam chích quái lục
LTKVL : Lan Trì kiến văn lục
MHTL : Mẫn Hiên thuyết loại
NOML : Nam Ông mộng lục
NTTDT : Nam thiên trân dị tập
SCTT : Sơn cư tạp thuật
TTTL : Tam tổ thực lục
TTKL : Tân truyền kỳ lục
TVDL : Thính văn dị lục
TKML : Truyền kỳ mạn lục
TKTP : Truyền kỳ tân phả
TTDT : Thánh Tông di thảo
TTNL : Tang thương ngẫu lục
TUTANL : Thiền uyển tập anh ngữ lục
TTK : Tục truyền kỳ
TVDL : Thính văn dị lục
VĐULT : Việt điện u linh tập
VNKPSL : Việt Nam kỳ phùng sự lục
VNTS : Vân nang tiểu sử
MỤC LỤC
Trang
MƠ ĐÂU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đê tai ................................................................................................ 1
2. Mục đich va nhiêm vụ nghiên cưu ...................................................................... 2
3. Đối tượng va phạm vi nghiên cưu ...................................................................... 3
4. Phương phap nghiên cưu .................................................................................... 5
5. Đong gop mới cua luân an .................................................................................. 6
6. Bố cục cua luân an .............................................................................................. 7
Chương 1. TÔNG QUAN TINH HINH NGHIÊN CỨU ....................................... 8
1.1. Tình hình nghiên cưu truyên truyên kỳ noi chung .......................................... 8
1.1.1. Vân đê văn ban truyên truyên kỳ .............................................................. 8
1.1.2. Vân đê nghiên cưu so sanh truyên truyên kỳ ......................................... 13
1.2. Những vân đê nghiên cưu liên quan đê tai luân an ........................................ 17
1.2.1. Vê nguồn gốc va tiêu chi xêp loại truyên truyên kỳ ............................... 17
1.2.2. Vê nôi dung, ý nghĩa cua truyên truyên kỳ Viêt Nam ............................ 19
1.2.3. Vê đặc điểm nghê thuât cua truyên truyên kỳ Viêt Nam ....................... 21
1.3. Đanh gia vê tình hình nghiên cưu va vân đê đặt ra cua luân an .................... 23
1.3.1. Môt số nhân đinh chung vê tình hình nghiên cưu .................................. 23
1.3.2. Những vân đê đặt ra cua luân an ............................................................ 25
Chương 2. LOẠI HINH TRUYÊN TRUYÊN KY VIÊT NAM - QUA TRINH
VẬN ĐỘNG VA PHAT TRIÊN ............................................................................ 26
2.1. Truyên truyên kỳ - môt loại hình văn học ..................................................... 26
2.1.1. Cơ sở lý thuyêt vê “loại hình”, “loại hình truyên truyên kỳ” ................. 26
2.1.2. Nguồn gốc va gia tri cua truyên truyên kỳ Viêt Nam ............................ 35
2.2. Qua trình vân đông cua truyên truyên kỳ viêt nam xét trên phương diên
loại hình ................................................................................................................ 46
2.2.1. Từ thê kỷ XIII đên thê kỷ XIV - truyên truyên kỳ trong mối tương quan
với văn học chưc năng, nghi lễ, tôn giao .......................................................... 47
2.2.2. Từ thê kỷ XV đên thê kỷ XVIII - qua trình hoan thiên truyên truyên kỳ
trên con đường tiêp thu, tiêp biên cac gia tri văn hoa, văn học ........................ 50
2.2.3. Từ thê kỷ XIX đên đầu thê kỷ XX - qua trình chuyển hoa va kêt thúc
loại hình truyên truyên kỳ ................................................................................. 56
TIỂU KẾT ............................................................................................................. 59
Chương 3. LOẠI HINH TRUYÊN TRUYÊN KY VIÊT NAM - NHỮNG GIA
TRỊ VĂN HÓA, LỊCH SỬ ..................................................................................... 61
3.1. Ký ưc lich sử, văn hoa cua dân tôc trong truyên truyên kỳ ........................... 61
3.1.1. Truyên truyên kỳ - môt lối “sử trong truyên” ........................................ 61
3.1.2. Truyên truyên kỳ va cac gia tri văn hoa Viêt Nam ................................ 82
3.2. Thê giới “linh”, “di” trong truyên truyên kỳ ................................................. 92
3.2.1. Truyên “di nhân”, “quai sư” ................................................................... 93
3.2.2. Truyên “nhân - qua”, “bao ưng” ........................................................... 101
TIỂU KẾT ........................................................................................................... 105
Chương 4. ĐĂC ĐIÊM LOẠI HINH TRUYÊN TRUYÊN KY VIÊT NAM -
TỪ PHƯƠNG THỨC THÊ HIÊN ...................................................................... 107
4.1. Cốt truyên va phương thưc tổ chưc cốt truyên truyên truyên kỳ ................. 107
4.1.1. Đặc điểm cốt truyên truyên truyên kỳ .................................................. 107
4.1.2. Phương thưc tổ chưc cốt truyên truyên truyên kỳ ................................ 112
4.2. Phương thưc xây dưng hình tượng nghê thuât trong truyên truyên kỳ ........ 114
4.2.1. Hình tượng nhân vât trong truyên truyên kỳ ........................................ 114
4.2.2. Hình tượng không gian, thời gian trong truyên truyên kỳ .................... 119
4.3. Lời văn trong truyên truyên kỳ .................................................................... 125
4.3.1. Lối văn “truyên kể” trong truyên truyên kỳ ......................................... 125
4.3.2. Sư đa dạng cua văn ban truyên truyên kỳ............................................. 131
TIỂU KẾT ........................................................................................................... 134
KÊT LUẬN ............................................................................................................ 137
TAI LIÊU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
MƠ ĐÂU
1. LÝ DO CHỌN ĐÊ TAI
Trong số những thanh tưu cua văn học Viêt Nam thời trung đại, truyên
truyên kỳ la môt trường hợp hêt sưc đôc đao. No không chỉ co gia tri lớn lao vê mặt
văn chương ma còn chưa đưng nhiêu gia tri khac như văn hoa, lich sử, tôn giao, tin
ngưỡng… Ẩn chưa dưới hình thưc những chuyên quai lạ, di thường, truyên truyên
kỳ la môt phương thưc lưu giữ ký ưc công đồng rât bên bỉ, hiêu qua. Theo môt cach
thưc riêng, no không chỉ phan anh hiên thưc đời sống đương thời ma còn chuyển tai
những thông điêp quan trọng vê lich sử, văn hoa dân tôc cho cac thê hê tiêp nối.
Xét trên phương diên văn học sử, truyên truyên kỳ la bằng chưng sinh đông
cho quy luât tiêp biên thể loại, vốn la môt trong những điểm đặc trưng cua văn học
trung đại Viêt Nam. Truyên truyên kỳ được hình thanh dưa trên nhiêu yêu tố. Môt mặt,
no la kêt qua cua qua trình tiêp thu, tiêp biên những mâu hình cơ ban trong lối truyên
“chi quai”, “chi di” cua văn học cổ điển Trung Hoa; mặt khac, la kêt qua do chinh sư
vân đông cua văn học dân tôc, đặc biêt la qua trình “thư tich hoa” cac truyên thuyêt,
giai thoại văn học dân gian. Điêu nay đã gop phần tạo nên bước đôt pha cua văn xuôi
tư sư giai đoạn thê kỷ XVII - XIX. Không những thê, chinh những ang văn xuôi mâu
mưc như Lĩnh Nam chích quái lục, Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục, Truyền kỳ
tân phả, Lan Trì kiến văn lục… còn anh hưởng, tac đông đên qua trình hiên đại hoa văn
học dân tôc. Sư nở rô cua lối truyên “phỏng truyên kỳ”, “truyên đường rừng” trong văn
xuôi quốc ngữ đầu thê kỷ XX đã chưng minh điêu đo.
Với vai trò, vi tri như thê, không co gì kho hiểu khi truyên truyên kỳ Viêt
Nam trở thanh đối tượng thu hút mạnh mẽ sư chú ý cua giới chuyên môn từ rât sớm.
Nhiêu kêt qua nghiên cưu vê truyên truyên kỳ đã được công bố trên cac diễn đan
khoa học trong nước va nước ngoai. Tuy nhiên, với môt đối tượng như truyên
truyên kỳ, vân còn nhiêu vân đê chưa được giai quyêt môt cach triêt để. Chẳng hạn,
những vân đê co tinh “lý thuyêt” như đặc điểm truyên truyên kỳ, nguồn gốc va qua
trình vân đông cua no; những vân đê cụ thể, như sư khac biêt cua truyên truyên kỳ
Viêt Nam so với truyên “chi quai”, “chi di” cua cac nước thuôc nhom “đồng văn”
2
(Trung Quốc - Nhât Ban - Triêu Tiên), hoặc vai trò cua truyên truyên kỳ trong đời
sống tinh thần người Viêt… Chinh vì vây, viêc tiêp tục nghiên cưu truyên truyên kỳ
theo những cach thưc, phương phap khac, với mong muốn gop phần nhân thưc thâu
đao, đầy đu hơn vê đối tượng nay la điêu rât cần thiêt.
Nhìn môt cach tổng thể, co thể thây nguyên nhân cua những vướng mắc ở
môt số công trình nghiên cưu vê truyên truyên kỳ từ trước tới nay thường la do cach
thưc tiêp cân. Truyên truyên kỳ, với tư cach môt đối tượng cua hoạt đông nghiên
cưu văn học, luôn được mặc định la môt yêu tố/ bô phân cua văn xuôi trung đại va
được gọi la thể loại (hoặc “tiểu loại”). Quan niêm như thê it nhiêu cũng tạo ra
những điểm bât câp; anh hưởng đên viêc nhân thưc môt cach đầy đu vê đối tượng.
So với cac thể loại khac (như truyên ma, truyên kinh di, truyên chi quai…),
điểm đặc biêt cua truyên truyên kỳ Viêt Nam nằm ở phương thưc hình thanh va gia tri
cốt loi cua no. Co thể noi, truyên truyên kỳ Viêt Nam la môt hiên tượng văn hoa - văn
học đặc thù. Nêu nhìn no dưới quan điểm thể loại thì phai noi rằng truyên truyên kỳ la
môt “siêu thể loại”; tưc la môt “thể loại” được hình thanh trên cơ sở hỗn dung nhiêu
(thể loại) khac nhau. Sư trùng lặp, chồng chéo nay không chỉ gây kho khăn trong diễn
đạt, trình bay kêt qua nghiên cưu ma còn anh hưởng đên qua trình nhân thưc. Để khắc
phục tình trạng trên, truyên truyên kỳ cần được mở rông hướng tiêp cân; đối tượng sẽ
được nhìn nhân theo môt nhãn quan khac. Ở luân an nay, chúng tôi xem no như môt
loại hình văn học. Co thể xem đây la môt sư bổ sung vê mặt phương phap luân trong
qua trình nghiên cưu truyên truyên kỳ Viêt Nam.
Đây cũng la những lý do cơ ban để chúng tôi chọn đê tai “Đặc điểm loại
hình truyện truyền kỳ Việt Nam” lam nôi dung nghiên cưu cua luân an nay.
2. MỤC ĐÍCH VA NHIÊM VỤ NGHIÊN CỨU
Mục tiêu chu yêu cua luân an nay la hướng đên viêc lam ro những đặc điểm
cua truyên truyên kỳ Viêt Nam trong vi thê môt loại hình văn học. Điêu đo được thể
hiên qua cac vân đê chu yêu như quy luât vân đông, cac đặc điểm thuôc phương
diên nôi dung va nghê thuât cua loại hình truyên truyên kỳ.
Trên cơ sở mục tiêu tổng thể đã được xac đinh như vây, luân an sẽ tâp trung
giai quyêt những nhiêm vụ cụ thể sau đây:
3
- Thứ nhất, trình bay môt cai nhìn tổng quat, co hê thống vê lich sử cua
truyên truyên kỳ, từ qua trình hình thanh, con đường vân đông, cac giai đoạn phat
triển… đồng thời phac thao diên mạo cua loại hình văn học nay.
- Thứ hai, phân tich những điểm đặc trưng cua truyên truyên kỳ Viêt Nam
thông qua viêc phat hiên, đanh gia cac yêu tố cụ thể thuôc vê nôi dung va hình thưc
nghê thuât (như hê thống chu đê, đê tai, thê giới hình tượng, tổ chưc tac phẩm, cac
phương thưc trần thuât…) trong cac tac phẩm.
- Thứ ba, tìm hiểu mối quan hê giữa truyên truyên kỳ với văn hoa - văn học dân
gian; vai trò truyên truyên kỳ đối với tiên trình văn học trung đại Viêt Nam.
Luân an cũng xem xét hiên tượng tương tac cua truyên truyên kỳ Viêt Nam
trong tương quan truyên truyên kỳ khu vưc.
Ngoai những điểm chinh như đã nêu trên, môt số vân đê khac co liên quan
đên phương diên lý thuyêt, lý luân vê loại hình truyên truyên kỳ cũng được chúng
tôi đê câp va cố gắng giai quyêt phần nao trong luân an.
3. ĐỐI TƯỢNG VA PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cưu cua luân an la truyên truyên kỳ Viêt Nam. Khai niêm
truyện truyền kỳ ma chúng tôi sử dụng trong luân an nay được hiểu la một kiểu
truyện ký viết bằng chữ Hán, được hình thành trên cơ sở tiếp thu, tiếp biến từ nhiều
nguồn, chủ yếu là từ văn học dân gian; nội dung là những câu chuyện kỳ - lạ về
nhân vật, sự vật, sự việc ở nước ta; qua đó bổ khuyết, bảo tồn và xiển dương các
giá trị lịch sử, văn hóa Việt Nam. Noi cụ thể hơn, đo la những truyên ký Han văn
lây yêu tố kỳ ao, di thường lam phương tiên để bổ sung vao Viêt sử những gì không
được ghi biên môt cach chinh thưc, với mục tiêu khẳng đinh tinh đôc lâp, đôc đao
cua văn hiên dân tôc.
Truyên truyên kỳ Viêt Nam co qua trình hình thanh va phat triển rât dai,
khoang từ thê kỷ XIII đên đầu thê kỷ XX. Loại hình nay co nhiêu đặc điểm, tinh
chât riêng, không giống với cac thể loại văn xuôi trung đại khac như: truyên, ký,
tiểu thuyêt... Sư khac biêt thể hiên rât ro ở nhiêu phương diên, từ phương thưc hình
thanh, gia tri nôi dung, hình thưc nghê thuât, cho đên hình thai văn ban, chưc năng
4
sử dụng... Nhìn chung, đo la con đường “bac học hoa” hay la “thư tich hoa” cac yêu
tố văn học dân gian. No cũng không giống lối “phỏng truyên kỳ” (mô phỏng tac
phẩm truyên kỳ) dưới dạng “yêu ngôn”, “truyên kinh di”, “truyên đường rừng”…
trong văn xuôi quốc ngữ chặng đầu thê kỷ XX. Co thể noi vê thưc chât, truyên
truyên kỳ la kêt qua cua qua trình “nâng câp”, “chuẩn hoa” cac giai thoại, truyên kể,
truyên thuyêt, thần tich, chuyên lạ… thuôc phạm trù văn hoa dân gian, theo những
thu phap, phương phap nghê thuât đặc thù.
Luân an sẽ tiêp cân để lam ro những đặc điểm cua truyên truyên kỳ trên môt
số phương diên chu yêu như qua trình hình thanh va phat triển, những gia tri cốt loi
thuôc vê nôi dung cũng như hình thưc cua loại hình văn học nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong luân an nay, gia tri văn hoa - lich sử va gia tri nghê thuât cua loại hình
truyên truyên kỳ Viêt Nam sẽ la những vân đê được tâp trung nghiên cưu. Vì lý do
khach quan va chu quan, chúng tôi chỉ co thể tiên hanh khao sat môt số tac phẩm
tiêu biểu, co gia tri nhât, mang tinh chât đại diên, điển hình.
Đối với truyên truyên kỳ Viêt Nam, văn ban tac phẩm vốn la vân đê rât phưc
tạp, gây nhiêu tranh cãi từ xưa đên nay. Để phù hợp với mục tiêu, nhiêm vụ nghiên
cưu, trong luân an nay, chúng tôi sẽ không đi sâu vao lĩnh vưc văn ban học ma chu
yêu dưa vao những văn ban đã tương đối ổn đinh, lây đo lam cơ sở cư liêu để khao
sat. Đo la cac văn ban Việt điện u linh tập cua Lý Tê Xuyên (Trinh Đình Rư phiên
dich, Đinh Gia Khanh giới thiêu, hiêu đinh, 2012), Nxb Hồng Bang, (tai ban); Lĩnh
Nam chích quái lục cua Trần Thê Phap (Vũ Quỳnh - Kiêu Phú nhuân chinh, Đinh
Gia Khanh va Nguyễn Ngọc San phiên dich, 2013), Nxb Trẻ (tai ban); Nam Ông
mộng lục cua Hồ Nguyên Trừng (Ưu Đam - La Sơn soạn, dich va chú giai, Nguyễn
Đăng Na giới thiêu, 1999), Nxb Văn học; Thánh Tông di thảo (khuyêt danh,
Nguyễn Bich Ngô dich va chú thich, Phạm Văn Thắm giới thiêu, 2001), Nxb Văn
học; Truyền kỳ mạn lục cua Nguyễn Dữ (Trúc Khê dich, 2016), Nxb Hôi Nha văn
(tai ban); Truyền kỳ tân phả cua Đoan Thi Điểm (Ngô Lâp Chi, Trần Văn Giap dich
va chú thich, Phạm Văn Thắm giới thiêu, 2001), Nxb Văn học; Mẫn Hiên thuyết
loại cua Cao Ba Quat - Trương Quốc Dụng (Hoang Văn Lâu dich va giới thiêu,
2004), Nxb Ha Nôi; Vũ trung tuỳ bút cua Phạm Đình Hổ (Đông Châu Nguyễn Hữu
5
Tiên dich, 1998), Nxb Văn nghê Tp. Hồ Chi Minh; Tang thương ngẫu lục cua Phạm
Đình Hổ - Nguyễn Án (Trúc Khê - Ngô Văn Triên dich, Trương Chinh giới thiêu,
chú thich, 2012), Nxb Hồng Bang; Công dư tiệp ký cua Vũ Phương Đê, 3 tâp (Tô
Nam Nguyễn Đình Diêm dich chú, 1961), Bô Quốc gia Giao dục xuât ban, Sai Gòn;
Tục biên Công dư tiệp kí cua Trần Trợ (Nguyễn Đăng Na, Nguyễn Thanh Chung
dich, Nguyễn Đăng Na chú giai va giới thiêu, 2008), Nxb Văn học; Lan Trì kiến văn
lục cua Vũ Trinh (Hoang Văn Lâu dich chú va giới thiêu, 2013), Nxb Hồng Bang;
Tân truyền kỳ lục cua Phạm Quý Thich (Ha Ngọc Xuyên dich, chú thich, 1969),
Trung tâm học liêu xuât ban; Việt Nam kỳ phùng sự lục (Khuyêt danh, Phan Văn
Cac dich, chú thich, 2008), Nxb Văn học; va môt số tac phẩm khac.
4. PHƯƠNG PHAP NGHIÊN CỨU
Do tinh chât đặc thù cua đối tượng nghiên cưu (truyên truyên kỳ) vì thê trong
qua trình triển khai đê tai luân an, chúng tôi đã sử dụng nhiêu phương phap nghiên
cưu. Môt số phương phap tiêp cân chu yêu gồm:
4.1. Phương phap nghiên cứu loại hình
Phương phap nghiên cưu loại hình thường được vân dụng để nhân thưc,
kham pha những đối tượng co hình thai đa dạng, phong phú, co số lượng lớn va quy
mô khac nhau.
Truyên truyên kỳ Viêt Nam la môt hiên tượng văn học rât phưc tạp, không
chỉ ở gia tri nôi dung, hình thưc nghê thuât, nguồn gốc xuât xư ma ca vê văn ban tac
phẩm, phương thưc lưu hanh… No vừa co đặc điểm, tinh chât cua văn xuôi bac học,
văn học thanh văn, đồng thời cũng mang đâm dâu ân cua văn học truyên khẩu, cua
truyên kể dân gian. Sư đa dạng vê mặt hình thưc, nguồn gốc, chưc năng cua đối
tượng đòi hỏi phai co phương phap tiêp cân thich hợp. Phương phap loại hình co thể
giúp nhân diên, phân loại, đanh gia truyên truyên kỳ môt cach thuân lợi, hiêu qua.
4.2. Phương phap nghiên cứu điển hình/ trường hợp (case study)
Phương phap nghiên cưu “điển hình”/ “trường hợp” (case study) la cach
nhân thưc dưa trên kêt qua khao sat đối tượng được lưa chọn co chu ý. Do đặc trưng
cua loại hình truyên truyên kỳ Viêt Nam, chúng tôi sẽ đanh gia đặc điểm cua no trên
cơ sở cac “mâu” hay “trường hợp” co tinh điển hình (những tac phẩm mang tinh đại
diên). Sử dụng phương phap điển hình, luân an sẽ không tiên hanh nghiên cưu toan
bô ma chỉ chọn môt số trường hợp tiêu biểu.
6
Kêt qua khao sat cac “mâu” sẽ la những căn cư để từ đo khai quat nên đặc
điểm va tinh chât chung cua truyên truyên kỳ.
4.3. Phương phap phân tích, tổng hợp
Phân tich, tổng hợp thường được xem la những phương phap (hoặc thao tac)
phổ biên trong qua trình nhân thưc. Đây la hai cach thưc tiêp cân đối tượng nghiên cưu
khac nhau. Trong khi phân tích la chia tach, phân xuât đối tượng thanh cac yêu tố, bô
phân riêng lẻ, thì tổng hợp lại được thưc hiên theo xu hướng ngược lại. Ở đê tai nay,
khi đi sâu tìm hiểu đặc điểm nôi dung va nghê thuât cua cac tac phẩm, chúng tôi tiên
hanh phân tich - tổng hợp đối tượng môt cach linh hoạt; nghĩa la tuỳ vao tinh chât, đặc
điểm cua tac phẩm để lưa chọn cach tiêp cân hợp lý nhât.
4.4. Phương phap so sanh, đối chiếu
Mục tiêu cua so sanh, đối chiêu la tìm ra những nét tương đồng va di biêt
giữa cac đối tượng. Ở luân an nay, phương phap/ thao tac so sanh, đối chiêu được
thưc hiên ở cac câp đô khac nhau: so sanh tac phẩm với tac phẩm, so sanh cac nhom
truyên truyên kỳ với nhau, so sanh truyên truyên kỳ với cac thể loại/ loại hình khac;
va trong môt chừng mưc nhât đinh, chúng tôi còn tiên hanh viêc so sanh truyên
truyên kỳ Viêt Nam va truyên cua môt số nên văn học trong khu vưc. Qua so sanh
đối chiêu trên nhiêu “câp đô” như vây, diên mạo va đặc điểm truyên truyên kỳ Viêt
Nam sẽ được bôc lô môt cach ro rang, cụ thể hơn.
5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN AN
Nghiên cưu đặc điểm loại hình truyên truyên kỳ Viêt Nam, công trình cua
chúng tôi co môt số đong gop mới, cụ thể như sau:
- Nhân diên, mô ta loại hình truyên truyên kỳ Viêt Nam; phân tich cac nhom
truyên truyên kỳ theo môt quan niêm mới.
- Đưa ra môt cach nhìn khac vê lich sử loại hình truyên truyên kỳ Viêt Nam;
trình bay qua trình hình thanh, phương thưc tiêp thu, tiêp biên cua loại hình, qua đo
nêu bât vi thê văn học sử cũng như quy luât vân đông cua no trong tiên trình lich sử
cua văn học dân tôc.
- Lam ro gia tri văn hoa - lich sử cua truyên truyên kỳ; chỉ ra vai trò, ý nghĩa
cua no trong đời sống tinh thần cua người Viêt Nam.
7
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN AN
Ngoai phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo va Phụ lục, nôi dung cơ
ban cua luân an được triển khai thanh cac chương cụ thể như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong chương nay chúng tôi đê câp đên tình hình nghiên cưu liên quan đên
đê tai trên cac vân đê cụ thể như: văn ban, đặc điểm vê nôi dung, nghê thuât cua loại
hình truyên truyên kỳ noi chung va truyên truyên kỳ Viêt Nam noi riêng.
Trên cơ sở những tư liêu đã thu thâp được, chúng tôi đưa ra những nhân đinh
sơ bô, mang tinh khai quat để đinh hướng nghiên cưu trong cac chương tiêp theo
cua luân an.
Chương 2. Loại hình truyện truyền kỳ Việt Nam - quá trình vận động và phát
triển. Trong chương nay, những vân đê chinh được chúng tôi tâp trung giai quyêt
gồm: môt số vân đê co tinh chât lý thuyêt vê loại hình truyên truyên kỳ; nguồn gốc,
lý do xuât hiên, qua trình vân đông cua loại hình truyên truyên kỳ. Thông qua đo,
luân an phân tich những nguyên nhân, điêu kiên cụ thể như: hoan canh lich sử, môi
trường xã hôi, tâm thưc văn hoa, điêu kiên sống cua công đồng… những yêu tố chu
yêu chi phối đên qua trình hình thanh va phat triển cua truyên truyên kỳ Viêt Nam.
Chương 3. Đặc điểm loại hình truyện truyền kỳ Việt Nam - những giá trị văn
hóa, lịch sử. Chương nay đi sâu phân tich cac gia tri cốt loi cua loại hình truyên
truyên kỳ. Đo la ký ưc cua công đồng vê những nhân vât, sư kiên lich sử, những gia
tri văn hoa, những vân đê liên quan đên đời sống tôn giao, tin ngưỡng… được lưu
giữ, thể hiên qua cac thiên truyên cụ thể.
Chương 4. Đặc điểm loại hình truyện truyền kỳ Việt Nam - từ phương thức
thể hiện. Chương nay tâp trung khao sat những đặc trưng nghê thuât cua truyên
truyên kỳ qua cac yêu tố, phương thưc thể hiên: đặc điểm cốt truyên, nghê thuât trần
thuât, thê giới hình tượng, đặc điểm lời văn truyên truyên kỳ...
Luân an cũng danh môt phần co tinh chât phụ lục để bổ sung, lam ro thêm
môt số thông tin cần thiêt liên quan đên nôi dung luân an.
8
Chương 1
TÔNG QUAN TINH HINH NGHIÊN CỨU
Truyên truyên kỳ Viêt Nam la đối tượng được giới chuyên môn tiên hanh
nghiên cưu từ rât sớm, cac vân đê được quan tâm tìm hiểu cũng hêt sưc đa dạng.
Rât nhiêu công trình dưới dạng bai bao, tham luân, sach, luân văn, luân an… liên
tục được công bố trong suốt thời gian dai. Nhìn chung, cac nha nghiên cưu đã
tiêp cân truyên truyên kỳ môt cach toan diên, từ những vân đê chung đên những
vân đê cụ thể.
Để co cơ sở triển khai nhiêm vụ nghiên cưu, ở chương nay, chúng tôi sẽ phac
thao lich sử vân đê qua hai điểm chinh. Thư nhât, trình bay tình hình nghiên cưu
truyên truyên kỳ Viêt Nam noi chung va thư hai, mô ta, ban luân vê những công
trình nghiên cưu co liên quan trưc tiêp đên đê tai. Trên nên tang nay, chúng tôi sẽ
đưa ra những nhân đinh, đanh gia; đồng thời, nêu vân đê va hướng giai quyêt cụ thể
cua luân an.
1.1. TINH HINH NGHIÊN CỨU TRUYÊN TRUYÊN KY NÓI CHUNG
1.1.1. Vấn đề văn ban truyện truyền kỳ
Nhìn vao thư mục nghiên cưu truyên truyên kỳ, co thể noi từ trước đên nay,
trong lĩnh vưc nghiên cưu vê truyên truyên kỳ Viêt Nam, văn ban tac phẩm la vân đê
thu hút sư chú ý cua giới chuyên môn sớm nhât va cũng la mang đạt những kêt qua
cụ thể, ro rang hơn ca. Co rât nhiêu phương diên liên quan đên vân đê văn ban đã
được giai quyêt. Chẳng hạn công bố những tac phẩm mới phat hiên, giới thiêu ban
dich, hiêu đinh văn ban, trao đổi, tranh luân vê cac chi tiêt, cac từ ngữ cụ thể… Điêu
nay thưc ra cũng không co gì kho hiểu bởi vì văn ban chinh la “chât liêu”, “đầu mối”
cua mọi hoạt đông nghiên cưu văn học, nhât la đối với văn học trung đại. Không co
văn ban đang tin cây thì mọi bình tan, suy luân vê đối tượng đêu vô nghĩa.
Thời trung đại, công viêc trước thuât ở nước ta nhìn chung la rât hạn chê.
Những người co điêu kiên tham gia vao viêc sưu tâp, san đinh, bình chú… văn
chương không phai la qua nhiêu; số lượng, kiểu loại công trình cũng it va quy mô
hầu hêt đêu nhỏ lẻ.
9
Trên cai nên chung còn nhiêu điểm hạn chê như vây, thanh tưu nghiên cưu
văn ban tac phẩm truyên truyên kỳ tât nhiên cũng không qua nhiêu. Suốt từ thê kỷ
XV đên thê kỷ XIX, nổi bât la ý kiên cua cac nha Nho như Nguyễn Văn Chât, Vũ
Quỳnh, Kiêu Phú, Lê Tư Chi, Nguyễn Hãng, Lê Quý Đôn, Lê Hữu Hỷ, Vũ Khâm
Lân, Gia Cat Thi, Cao Huy Diêu, Cao Ba Quat… Tuy vây, những nghiên cưu, ban
luân vê truyên truyên kỳ noi chung, văn ban noi riêng thường chỉ giới hạn trong môt
số tac phẩm cụ thể va phần nhiêu đêu la những lời đanh gia mang tinh khai quat,
khuôn mâu.
Bước sang thời hiên đại, viêc nghiên cưu văn ban truyên truyên kỳ mới được
chú ý nhiêu hơn. Nha thư tich học Trần Văn Giap la môt trong số những người gop
nhiêu công sưc cho lĩnh vưc nay. Công trình Lược truyện các tác gia Việt Nam (2
tâp, tâp I xuât ban vao năm 1962, tâp 2 vao năm 1972) cua ông đã giới thiêu môt
cach co hê thống, đầy đu vê cac tac gia, tac phẩm văn chương trung đại Viêt Nam,
trong đo co mang văn học truyên kỳ. Tuy nhiên, vì đây la sach thuôc dạng “lược
truyên”, tưc la giới thiêu tom tắt. Những thông tin vê tac gia, tac phẩm chỉ ở mưc sơ
lược. Do đo ma sach cũng không thể đê câp sâu đên lĩnh vưc văn ban. Dù sao thì
Lược truyện các tác gia Việt Nam cũng la môt tac phẩm co ý nghĩa rât quan trọng
đối với giới nghiên cưu văn học dân tôc noi chung, truyên truyên kỳ noi riêng.
Cũng nghiên cưu vê văn chương cổ điển, co thể kể thêm cuốn Văn xuôi tự sự
Việt Nam thời trung đại gồm 3 tâp, day trên hai nghìn trang cua Nguyễn Đăng Na,
được công bố vao năm 2002. Xét trên phương diên khao cưu thì đây la bô sach công
phu, bê thê hơn ca trong số cac chuyên khao vê văn xuôi trung đại kể từ trước cho
đên lúc nay. Công trình co phần nghiên cưu văn ban truyên truyên kỳ rât đang chú
ý. Nhiêu văn ban được tac gia trich tuyển giới thiêu môt cach chi tiêt, cụ thể. Nha
nghiên cưu đã hiêu đinh hoặc dich lại môt số truyên truyên kỳ trong cac sach Việt
điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái lục, Truyền kỳ mạn lục… rât công phu, tỉ mỉ;
đồng thời cũng đưa ra những ý kiên biên giai co sưc thuyêt phục cao.
Ngoai hai công trình mang tinh tổng hợp như vừa kể, vân đê văn ban truyên
truyên kỳ chu yêu được đê câp trong cac bai nghiên cưu riêng vê từng tac phẩm cụ
thể. Cac trường hợp được ban thao nhiêu nhât la văn ban Thiền uyển tập anh ngữ
10
lục, Việt điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái lục, Nam Ông mộng lục, Truyền kỳ
mạn lục, Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ tân phả.
Văn ban Việt điện u linh tập được giới nghiên cưu chú ý rât nhiêu vì tinh
chât quan trọng cua tac phẩm. Đúng như Nguyễn Đăng Na nhân đinh (trong bai
“Quan điểm va phương phap biên soạn Việt điện u linh tập cua Lý Tê Xuyên”, Tạp
chí văn học, số 1/ 1986; in lại trong Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam,
2006), qua trình hoan thiên văn ban Việt điện u linh tập la môt sư tiêp nối liên tục,
kéo dai suốt từ thê kỷ XV đên đầu thê kỷ XX: “Từ khi ra đời - thê kỷ XIV đên đầu
thê kỷ XX, tac phẩm luôn luôn la đối tượng quan tâm cua cac thê hê. Chẳng hạn
Nguyễn Văn Chât (thê kỷ XV), Lê Tư Chi va Nguyễn Hãng (thê kỷ XVI), Lê Hữu
Hỉ, Vũ Khâm Lân va Gia Cat Thi (thê kỷ XVIII), Cao Huy Diêu (thê kỷ XIX), Ngô
Giap Đâu (thê kỷ XX)… đã kê tục nhau sưu tầm, tục biên, tục bổ, tăng bổ, trùng bổ,
tân đinh hiêu bình, tiêm bình” [93, tr.114].
Từ giữa thê kỷ XX vê sau, văn ban Việt điện u linh tập vân tiêp tục được nghiên
cưu để hoan thiên. Điêu nay thể hiên qua khâu hiêu chỉnh văn ban ở cac lần xuât ban
khac nhau: ban Việt điện u linh tập (Nxb Văn học, 1960) do Trinh Đình Rư dich, Đinh
Gia Khanh giới thiêu; Việt điện u linh tập (Nxb Khai Tri, 1961) do Lê Hữu Mục dich
va giới thiêu; Việt điện u linh tập (Nxb Sống Mới, 1974) do Ngọc Hồ dich va giới
thiêu… Trong số cac văn ban Việt điện u linh tập hiên co, ban được nha văn Ngô Giap
Đâu (tac gia bô tiểu thuyêt Hoàng Việt long hưng chí) chọn va viêt Trùng bổ, Bạt trùng
(năm 1919) co lẽ la văn ban đang tin cây hơn ca.
Bên cạnh Việt điện u linh tập, trường hợp văn ban Lĩnh Nam chích quái lục
cũng hêt sưc phưc tạp. Kể từ khi xuât hiên (thê kỷ XV) cho đên nay, Lĩnh Nam chích
quái lục đã được cac thê hê học gia ban thao, bình luân, đanh gia vê nhiêu phương
diên. Tuy nhiên vân đê văn ban tac phẩm Lĩnh Nam chích quái lục vân còn môt số
vân đê chưa được giai quyêt ổn thỏa. Cac câu hỏi như sach nay co mây thiên(?) gồm
những thiên nao(?) luôn được quan tâm thao luân. Ý kiên cua cac nha nghiên cưu
cũng không thât thống nhât. Co thể kể đên Nguyễn Đăng Na trong Con đường giải
mã văn học trung đại Việt Nam (2006), Nguyễn Huê Chi trong bai “Trên đường đi
tìm môt văn ban cổ Lĩnh Nam chích quái”, (Tạp chí Văn học, số 6, 1974), Thơ văn Lý
11
Trần, tâp 2 (cũng cua Nguyễn Huê Chi, 1978); Đinh Gia Khanh, Nguyễn Ngọc San
trong “Lời noi đầu” sach Lĩnh Nam chích quái (1990); Nguyễn Thi Oanh trong bai
“Môt số vân đê liên quan đên văn ban Lĩnh Nam chích quái”, (Thông báo Hán Nôm
học, 2001); “Vê qua trình lưu truyên cac loại văn ban Lĩnh Nam chích quái”, Tạp chí
Hán Nôm, số 3 (48), 2001)…
Đối với vân đê văn ban Truyền kỳ mạn lục, điêu được quan tâm hơn ca chinh
la số lượng truyên/ thiên trong tac phẩm nay. Trên thưc tê, dưa vao điêu kiên thư
tich hiên co, số truyên trong Truyền kỳ mạn lục co đên 3 kha năng (la 20 thiên, 21
thiên hoặc 22 thiên). Co thể noi, viêc minh đinh môt cach dưt khoat số thiên/ truyên
ở đây la rât kho khăn. Nha nghiên cưu Nguyễn Đăng Na, tac gia cua nhiêu bai viêt
ban sâu đên tình trạng văn ban tac phẩm nay cũng chỉ nhân xét môt cach chung
chung la: “xét vê phương diên chu đê cũng như những đặc trưng xã hôi - thẩm mĩ,
hai truyên Bổ va Phụ truyền kỳ co nhiêu nét gần gũi với Truyền kỳ mạn lục. Từ đo
ta co thể nghĩ rằng, chúng chinh la hai truyên được tăng bổ trong Truyền kỳ mạn lục
chăng? Vây con số 21 hoặc 22 ma cac ban trong Lịch triều hiến chương loại chí ghi
nhân kia co ý nghĩa riêng cua no. Tuy nhiên, để đi đên khẳng đinh rằng, truyên Bổ
và Phụ truyền kỳ chắc chắn cua Truyền kỳ mạn lục thì cần phai thêm tư liêu va
nghiên cưu môt cach tỉ mỉ hơn” [93, tr.199].
Liên quan đên vân đê văn ban Truyền kỳ mạn lục còn co cac bai viêt cua
Trần Trọng Dương trong bai “Vai ý kiên vê cach đọc môt số chữ Nôm trong Truyền
kỳ mạn lục giải âm”, (Thông báo Hán Nôm học, 2002); Hoang Hồng Cẩm co bai
“Nghiêp oan nang họ Đao, ban dich Nôm cua Nguyễn Thê Nghi”, (Thông báo Hán
Nôm học, 1997)…
Vê văn ban sach Thánh Tông di thảo, luân điểm cua nha nghiên cưu Trần Ba
Chi la rât đang chú ý. Trong bai “Vê sach Thánh Tông di thảo”, (Tạp chí Hán Nôm,
số 5 (78) 2006) tac gia cho rằng, co cơ sở để xem cac truyên “Yêu nữ Mai Châu”,
“Bai ký dòng doi con thiêm thừ”, “Hai Phât cãi nhau”, “Bưc thư cua con Muỗi”,
“Lời phân xử cua anh điêc anh mù”, “Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc”, “Bai ki giâc mông”,
“Tinh chuôt” la cua Lê Thanh Tông. Còn cac truyên khac thì ông cho rằng co thể do
người sống ở thời Lê Thanh Tông biên soạn. Chẳng hạn như truyên “Hai thần hiêu
12
đễ” co thể “do Nguyễn Nhân Bi hoặc Nguyễn Xung Xac (hôi viên Tao Đan) hoặc
do môt trong những người họ Nguyễn ở lang Kim Đôi sang tac. (…) Thê hê sau la
những tac gia được tiêp cân để bao tồn Thánh Tông di thảo. Di thao bi rach, bi nat
họ tìm cach bổ cưu, sửa chữa, nhuân sắc, viêt tưa, viêt lời ban; họ sang tac thêm
những truyên truyên kỳ ma họ biêt được, thây được, nghe được. (…) Họ la những
văn nhân sống vao khoang thời Lê mạt Nguyễn sơ” [26, tr. 33-39].
Cũng theo quan niêm cua Trần Ba Chi thì cac văn nhân tai tử ẩn danh nay co
vai trò rât đang kể trong viêc hoan thiên tac phẩm cua tiên nhân. Những kẻ tai hoa
lãng tử đo đã nhuân chinh, bổ chú, thâm chi bổ sung thêm tac phẩm. “Họ đọc nhiêu
hiểu rông, đam mê loại truyên thần tiên va họ đu tai viêt nên những truyên truyên
kỳ. Họ đã đọc truyên Truyền kỳ mạn lục cua Nguyễn Dữ va viêt lời tưa để bao tồn
di thao. Đối với Thánh Tông di thảo cũng vây, họ cũng đã đọc kỹ, viêt lời ban, lời
tưa với ý thưc hoan thiên, bao tồn di thao” [26, tr. 21-26].
Co thể noi đối với viêc nghiên cưu văn ban truyên truyên kỳ, thanh tưu đạt
được la rât nhiêu, song vân đê cần tiêp tục tìm hiểu, xử lý cũng không it. Hầu như
mọi tac phẩm đêu co những vướng mắc nhât đinh. Không chỉ văn ban Việt điện u
linh tập, Lĩnh Nam chích quái lục, Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục… ma
còn rât nhiêu trường hợp khac nữa. Co thể kể đên bai cua Lê Mạnh That trong
“Nghiên cưu vê Thiền uyển tập anh”, (Tu thư Phât học Vạn Hạnh, Sai Gòn, 1976);
hoặc bai cua Trần Nghĩa, “Gop phần giai quyêt những vân đê văn ban học đang đặt
ra đối với Công dư tiệp ký”, (Tạp chí Hán Nôm, số 4, 1996); Phạm Đưc Duât trong
bai “Sư tich Không Lô Minh Không qua quyển sach chữ Han mới sưu tầm”, (Tạp
chí Hán Nôm, số 1, 1984)…
Môt số nha nghiên cưu người nước ngoai, với những cach nhìn khac nhau
cũng co nhiêu công trình ban luân vê văn ban truyên truyên kỳ Viêt Nam rât đang
chú ý. Co thể kể đên cac bai bao, sach cua Lưu Ngân Xuân, Vương Tiểu Thuân,
Trần Ích Nguyên (2000; 2009); Niculin, N.I (2009); Riftin, B. (2006); Tkachev, M.
(2006), Jeon Hye Kyung (2004)…
13
1.1.2. Vấn đề nghiên cứu so sanh truyện truyền kỳ
Môt vân đê khac cũng được giới chuyên môn ban luân nhiêu la mối quan hê
giữa truyên truyên kỳ Viêt Nam va truyên truyên kỳ cac nước trong khu vưc, đặc
biêt la Trung Quốc, Triêu Tiên, Nhât Ban. Tuy nhiên, viêc nghiên cưu so sanh nay
chu yêu chỉ tâp trung vao trường hợp Truyền kỳ mạn lục (Viêt Nam), Tiễn đăng
tân thoại (Trung Quốc), Kim Ngao tân thoại (Han Quốc), Vũ nguyệt vật ngữ (Nhât
Ban). Co thể xem đây la lối so sanh dưa theo phương phap nghiên cưu trường hợp
điển hình (case study) vốn rât phổ biên trong cac lĩnh vưc khoa học khac.
Đối tượng so sanh ở đây kha đa dạng. Chẳng hạn so sanh trên phương diên
gia tri văn hoa, văn học noi chung. Điêu nay được thể hiên trong công bố cua nhiêu
tac gia: Trần Đình Sử trong bai “So sanh văn học va văn hoa - Nguyễn Dữ va tiên
thoại Trung Quốc qua truyên Từ Thức lấy vợ tiên”, (Tạp chí Văn học số 5, năm
2000); Jeon Hye Kyung trong bai “Ý nghĩa văn học sử cua tiểu thuyêt truyên kỳ
Han - Trung - Viêt”, (Tạp chí Nghiên cứu văn học số 12, năm 2006)…
Tac gia Đinh Thi Khang trong bai “So sanh chuyên tình giữa người va hồn
ma trong Tiễn đăng tân thoại va Truyền kỳ mạn lục” tiên hanh lý giai hiên tượng
gần gũi, thâm chi co ca tình trạng trùng lặp giữa cac mô tip nghê thuât trong tac
phẩm cua Cù Hưu (Trung Quốc) va Nguyễn Dữ (Viêt Nam). Tac gia đã phân tich
kha kỹ lưỡng mô tip tình ai giữa hồn ma va người trong hai tac phẩm. Từ kêt qua
so sanh những tình tiêt, chi tiêt giống/ tương đồng giữa hai tac phẩm, tac gia Đinh
Thi Khang kêt luân rằng chinh nguyên nhân lich sử - văn hoa đã tạo nên sư giống
nhau vê những mô tip, chu đê, thu phap nghê thuât ở Tiễn đăng tân thoại va
Truyền kỳ mạn lục.
Nha nghiên cưu Nguyễn Hữu Sơn, trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 6, năm
2008 co bai “So sanh kiểu truyên “người lạc coi tiên” trong văn học Viêt Nam với tiểu
thuyêt Cửu Vân Mộng (Han Quốc)”. Thông qua viêc khao sat hai tac phẩm truyên kỳ
tiêu biểu cua Viêt Nam la Truyền kỳ mạn lục cua Nguyễn Dữ, Truyền kỳ tân phả cua
Đoan Thi Điểm va môt tac phẩm cua Han Quốc (Cửu Vân Mộng), tac gia cho rằng: “Đặt
trong phối canh rông lớn cua truyên thống văn hoa phương Đông co thể nhân thây mâu
hình nhân vât “người lạc coi tiên” co nguồn gốc từ kho văn liêu cổ Trung Hoa va hê
14
thống văn học dân gian cua cac nước trong khu vưc. Khao sat riêng trong nên văn học
trung đại sẽ thây những điểm tương đồng va khac biêt ở kiểu nhân vât cũng như hình
thưc thể loại. (…) Mặc dù co sư khac biêt vê quy mô va mưc đô nhưng co thể thây ro
những tương đồng vê sư chi phối cua tư tưởng Nho - Phât - Đạo va hình thưc cac chuyên
viễn du đên coi tiên, thuy cung, đia ngục va những miên đât lạ khac. Đây cũng chinh la
những đặc điểm cơ ban mang tinh công đồng cua môt bô phân văn xuôi Han Quốc va
Viêt Nam thời trung đại vốn cùng nằm trong quỹ đạo văn hoa Han” [127, tr. 78-86].
Ở bình diên rông hơn, tac gia Jeon Hye Kyung tiên hanh so sanh 3 tac phẩm:
Kim Ngao tân thoại (Han Quốc), Tiễn đăng tân thoại (Trung Quốc), Truyền kỳ mạn
lục (Viêt Nam) với nhau. Bai viêt “Ý nghĩa văn học sử cua tiểu thuyêt truyên kỳ
Han - Trung - Viêt” công bố trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 12/2006 chú ý
nhiêu đên tinh chât loại hình cua truyên truyên kỳ va đông cơ cua cac tac gia trong
qua trình sang tac. Theo nha nghiên cưu thì Kim Ngao tân thoại (Han Quốc), Tiễn
đăng tân thoại (Trung Quốc), Truyền kỳ mạn lục (Viêt Nam) la cac trường hợp tiêu
biểu nhât cho văn học truyên kỳ cua ba nên văn học co liên quan với nhau. Qua so
sanh, tac gia đã đưa ra những nhân đinh đang chú ý vê đặc điểm, mục đich sang tac
va tinh chât loại hình cua từng tac phẩm: “Kim Ngao ngoai chu đê diễm tình, kỳ
quai còn thể hiên ý đồ sang tac cua tac gia như giai mối hân không thi thố được tai
năng va không nhân được chưc quan gì ở thê giới hiên thưc (cac nha nghiên cưu
Han Quốc cho rằng điêu nay đã ngầm thể hiên lòng trung thanh cua tac gia đối với
nha vua trước đo). Truyên kỳ ngoai chu đê diễm tình, kỳ quai còn thể hiên ý đồ
sang tac cua tac gia như nêu cao lòng yêu nước, diêt trừ yêu quai, giao huân con
người, nêu cao trinh tiêt cua người phụ nữ, phê phan hiên thưc. Tiễn đăng đã xây
dưng được nhân vât, bối canh, cốt truyên rât đa dạng nhưng không thây những nét
khắc họa sâu sắc để ngụ ý ý đồ sang tac cua tac gia giống như Kim ngao. Vì vây, ta
co thể noi rằng Tiễn đăng được sang tac nhằm mục đich gây nhiêu hưng thú va giao
huân cho đôc gia. (…) Tac gia truyên kỳ đã tiêp nhân anh hưởng phương thưc sang
tac cua Tiễn đăng để rồi sang tac nên tac phẩm trên cơ sở truyên cổ dân gian kỳ lạ
cua Viêt Nam. Qua đo, ta co thể thây truyên kỳ co hình thai cua thể loại tiểu thuyêt
truyên kỳ đầu tiên. Đồng thời, ta co thể noi rằng Tiễn đăng được sang tac nhằm mục
15
đich gây nhiêu hưng thú va giao huân cho đôc gia va đã được tac gia kêt hợp môt
cach tư nhiên giữa yêu tố truyên cổ va yêu tố tiểu thuyêt” [65, tr. 95-104].
Trên Tạp chi Nghiên cứu Văn học số 1/2010, tac gia Đoan Lê Giang công bố
tiểu luân rât đang chú ý “Vũ nguyệt vật ngữ cua Ueda Akinari va Truyền kỳ mạn lục
cua Nguyễn Dữ”. Đây la môt trong những công trình so sanh thể loại truyên truyên
kỳ Viêt - Nhât công phu hơn ca trong khoang mươi năm trở lại. Tac gia đã tiên hanh
đối chiêu môt số truyên cụ thể trong Vũ nguyệt vật ngữ (Ueda Akinari) va Truyền kỳ
mạn lục (Nguyễn Dữ) - hai tac phẩm truyên kỳ tiêu biểu nhât cua văn học trung đại
Nhât Ban va Viêt Nam. Đoan Lê Giang cho rằng: “Trong 9 truyên cua Vũ nguyệt
vật ngữ, co 3 truyên chiu anh hưởng từ Tiễn đăng tân thoại va ba truyên nay cũng
co những liên quan tương ưng với Truyền kỳ mạn lục” [39, tr. 41-55].
Trong số cac công trình nghiên cưu vê truyên truyên kỳ cua học gia người
nước ngoai, ý kiên cua Trần Ích Nguyên (Đai Loan - Trung Quốc) cũng thu hút sư
quan tâm cua giới chuyên môn. Trong môt công bố co tiêu đê “Nghiên cưu so sanh
Tiễn đăng tân thoại va Truyền kỳ mạn lục” (ban dich cua Phạm Tú Châu, Trần Thi
Băng Thanh, Nguyễn Thi Ngân, 2000), Trần Ích Nguyên khẳng đinh Truyền kỳ mạn
lục cua Nguyễn Dữ la sư mô phỏng tac phẩm Tiễn đăng tân thoại cua Cù Hưu. Va
không chỉ co Nguyễn Dữ ma còn nhiêu tac gia khac nữa: “Tiểu thuyêt văn ngôn
Tiễn đăng tân thoại…, phia Nam thì truyên ba đên Viêt Nam (anh hưởng đên
Truyền kỳ mạn lục cua Nguyễn Dữ). Truyền kỳ mạn lục đã mô phỏng kỹ xao nghê
thuât cua Tiễn đăng tân thoại, lần đầu tiên khơi nguồn sang tac tiểu thuyêt truyên kỳ
văn ngôn Viêt Nam vao khoang những năm ba mươi cua thê kỷ XVI. No co anh
hưởng nhiêu mặt đên tiểu thuyêt truyên kỳ Viêt Nam (Truyền kỳ tân phả cua Đoan
Thi Điểm, Truyền kỳ tân phả cua Nguyễn Diễn Trai, Tân truyền kỳ lục cua Phạm
Quý Thich), đên diễn nghĩa lich sử (Hoàng Việt xuân thu), đên tin ngưỡng dân gian
(Hoàng Sơn chân nhân, Giáng Hương tiên tử, Vũ Thị liệt nữ) đêu đã san sinh nhiêu
anh hưởng cụ thể” [110, tr. 14-15].
Ý tưởng cua Trần Ích Nguyên cũng được Nguyễn Phúc An nhắc lại trong bai
viêt “Từ truyên kỳ Trung Quốc đên truyên kỳ Viêt Nam” (Tạp chí Hán Nôm, số 6,
2015). Tac gia cho rằng: “So sanh tiên trình tiểu thuyêt truyên kỳ giữa Viêt Nam va
Trung Quốc, chúng ta phat hiên diễn biên truyên kỳ Viêt Nam tuy co ngắn hơn vê
16
mặt thời gian nhưng no cũng đi từng bước qua cac giai đoạn như tiên trình truyên
truyên kỳ Trung Quốc, nhìn từ tổng thể la như nhau, cũng đi từ thần thoại, truyên
thuyêt chi quai rồi đên truyên kỳ” [2, tr. 70].
Thưc ra luân điểm cua Trần Ích Nguyên, Nguyễn Phúc An không hoan toan
mới. Trước đo, môt số học gia Trung Quốc va Viêt Nam cũng từng thể hiên quan
niêm tương tư. Những ý kiên như vây dường như đã co tac dụng “kich hoạt” loạt bai
tranh biên, phan bac xuât hiên với tần suât kha day trên cac tạp chi, tâp san khoa học
ở Viêt Nam trong khoang thời gian cuối thê kỷ XX, đầu thê kỷ XXI. Chẳng hạn bai
viêt cua cac tac gia Nguyễn Đăng Na, Nguyễn Phong Nam, Nguyễn Thi Oanh, Phạm
Tú Châu, Trần Thi Băng Thanh, Đinh Phan Cẩm Vân…
Co thể noi, nghiên cưu vê thê giới nghê thuât cua truyên truyên kỳ, vê những
gia tri văn hoa, văn học bằng cach đặt chúng trong mối tương quan văn hoa, văn học
khu vưc, nhât la cac nước “đồng văn” la môt hướng tiêp cân rât hiêu qua. Qua so sanh
như vây, môt mặt hiên tượng tiêp biên ở truyên truyên kỳ trong văn học cổ điển ở Viêt
Nam, Trung Quốc, Han Quốc, Nhât Ban được trình bay môt cach ro rang, mặt khac nét
đôc đao, đặc sắc cua mỗi tac phẩm, mỗi kiểu dạng truyên truyên kỳ cũng được chưng
minh môt cach khoa học, co sưc thuyêt phục lớn hơn.
Liên quan đên vân đê nay, còn co thể kể thêm công trình cua cac nha nghiên
cưu khac như Toan Huê Khanh (“Nghiên cưu so sanh tiểu thuyêt truyên kỳ trong Kim
ngao tân thoại (Han Quốc), Truyền kỳ mạn lục (Viêt Nam) va Tiễn đăng tân thoại
(Trung Quốc)”, (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2, 2006); Nguyễn Hùng Vĩ trong
“Lĩnh Nam chích quái - từ điểm nhìn văn hoa”, (Tạp chí Nghiên cứu Văn học số
8/2006); Phạm Tuân Vũ với bai “Sư khac biêt cua nhân vât nữ trong Truyền kỳ mạn
lục so với nhân vât nữ trong Tiễn đăng tân thoại”, (Tạp chí Văn học nước ngoài, số 5,
2012); Phạm Tú Châu với bai “Vê mối quan hê giữa Tiễn đăng tân thoại va Truyền
kỳ mạn lục”, (Tạp chí Văn học, số 3, 1987); Trần Nghĩa co bai “Thử so sanh Truyền
kỳ mạn lục với Tiễn đăng tân thoại”, (Tạp chí Hán Nôm, số 1+2, 1987); Nguyễn Thi
Oanh bai “Ca tì tử (Otogiboco) va Vũ nguyệt vật ngữ (Ugrtsumonogatasi) với Truyền
kỳ mạn lục”, (Tạp chí Hán Nôm số 4, 1997); Riftin, B. (“Thử so sanh Tiễn đăng tân
thoại cua Cù Hưu (Trung Quốc) với Kim Ngao tân thoại cua Kim Thời Tâp (Triêu
Tiên), Truyền kỳ mạn lục cua Nguyễn Dữ (Viêt Nam) va Cà tỳ tử cua Asai Rey (Nhât
17
Ban)”, (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 12, 2006); Đinh Phan Cẩm Vân co bai “Gop
thêm vai suy nghĩ vê vê mối quan hê giữa Chuyện cây gạo va truyên Chiếc đèn mẫu
đơn”, (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 6, 2005); Phạm Tuân Vũ với bai “Sư khac
biêt cua nhân vât nữ trong Truyền kỳ mạn lục so với nhân vât nữ trong Tiễn đăng tân
thoại”, (Tạp chí Văn học nước ngoài, số 5, 2012); nhom tac gia Phan Thi Thu Hiên,
Lý Xuân Chung, Nguyễn Hữu Sơn, Đoan Lê Giang, Nguyễn Thi Diêu Linh trong
công trình Chuyện tình ma nữ trong truyền kỳ Đông A Trung Quôc, Nhật Bản, Hàn
Quôc, Việt Nam được xuât ban năm 2017…
1.2. NHỮNG VẤN ĐÊ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐÊ TAI LUẬN AN
1.2.1. Về nguồn gốc và tiêu chí xếp loại truyện truyền kỳ
Xung quanh vân đê nguồn gốc va tiêu chi để nhân diên - noi cach khac,
quan niêm thê nao la truyên truyên kỳ, ý kiên cua giới chuyên môn vốn không
thống nhât. Mặc dù vân đê nay được đặt ra từ rât sớm, tuy vây vì nhiêu nguyên
do khac nhau, no vân chưa được giai quyêt môt cach đầy đu, thâu đao. Chinh vì
thê ma từ trước tới nay, tên gọi “truyên truyên kỳ” tuy được dùng rông rãi, rât
phổ biên trong cac công trình, bai viêt… song nôi ham cua khai niêm cũng như
nhân đinh vê qua trình sinh thanh, phat triển cua loại hình văn học nay vân kha
mông lung.
Ban vê qua trình hình thanh, xuât xư, nguồn gốc cua truyên truyên kỳ Viêt
Nam, nhiêu người cho rằng no co nguồn từ Trung Quốc; hoặc môt cach cụ thể hơn,
từ tac phẩm co tên gọi la “truyên kỳ” cua Bùi Hinh, thời nha Đường. Quan niêm
nay vốn bắt nguồn chinh từ cac văn nhân Viêt Nam thời trung đại. Cac nha Nho coi
văn học Trung Quốc như môt khuôn mâu để học hỏi; truyên truyên kỳ Viêt Nam la
kêt qua cua sư mô phỏng, học tâp từ truyên quai di cua Trung Quốc. Điêu nay được
bôc lô kha ro qua lời ban cua cac văn nhân như Đại An Ha Thiên Han, Vũ Quỳnh,
Kiêu Phú, Huyên Trai Ngô Hoang…
Tiên sĩ Vũ Quỳnh, trong lời đê tưa Lĩnh Nam chích quái lục nhân xét sach
cua Trần Thê Phap la “giống sach Sưu thần tự cua người Tân va sach U quái lục
cua người Đường” [119, tr. 31]. Tât nhiên, nhắc đên hai tac phẩm cua người Trung
Hoa, môt kể chuyên thần tiên (Sưu thần tự/ Sưu thần ký, tac gia la Can Bao) va môt
18
kể chuyên thần quai (U quái lục, không ro tac gia), Vũ Quỳnh chu yêu muốn đê câp
đên điểm tương đồng trên phương diên đê tai, chu đê cua chúng. Cũng ở bai Tựa
nay, Vũ Quỳnh đã chỉ ro điêu khac biêt rât quan trọng nêu so sanh Lĩnh Nam chích
quái lục với sach Sưu thần tự, U quái lục. Đo la gia tri “truyên tụng” lich sử dân
tôc, la những thư “quan hê đên cương thường, phong hoa” cua “coi Lĩnh Nam”,
điêu ma truyên thần quái Trung Hoa không co.
Cũng trong xu hướng thừa nhân anh hưởng cua văn học truyên kỳ Trung Hoa
đối với truyên truyên kỳ Viêt Nam, còn co thể kể thêm ý kiên cua Ha Thiên Han,
Ngô Hoang. Đanh gia Truyền kỳ mạn lục cua Nguyễn Dữ, Đại An Ha thiên Han coi
đây la môt “thiên cổ kỳ bút”, no co thể sanh được với truyên cua người Trung Hoa;
Ngô Hoang đanh gia cao Lan Trì kiến văn lục, nhưng cũng nhân mạnh la “Sach nay
vê phép ghi chép thì cũng giống như Sưu thần, Tề Hài, còn vê nôi dung thì co ngụ
bút cua Thai Sử Công” [163, tr. 12].
Viêc coi Sưu thần ký cua Can Bao (đời Tống), U quái lục (đời Đường) va Tề
Hài ký (Trang Tử) như la những tac phẩm “chuẩn” để đanh gia truyên cua Nguyễn
Dữ va Vũ Trinh, gợi lên nhiêu điêu. Hai nha Nho Viêt Nam sống ở hai thời điểm rât
xa nhau (Đại An sống vao thời Hồng Đưc còn Ngô Hoang sống thời Gia Long) đêu
dưa trên khuôn mâu, điển phạm Trung Quốc để ban vê truyên truyên kỳ Viêt Nam
cho thây nguyên tắc “nê cổ”, “hâu cổ bạc kim” đã thâm rât sâu vao nhân thưc cua
văn nhân, Nho sĩ.
Co thể noi rằng lối tư duy, đanh gia văn học dân tôc như vây ro rang la
không thoa đang, nhiêu điểm bât câp. Bởi thưc ra, “truyên truyên kỳ” la môt khai
niêm chưa đưng nôi ham rât rông; hơn nữa, cach hiểu cua người Trung Quốc vê
truyên “thần”, “quai”, “kỳ” không hoan toan trùng hợp với quan niêm “truyên
truyên kỳ” cua người Viêt Nam.
Trong khoang thời gian trên dưới nửa thê kỷ lại nay, khai niêm truyên truyên
kỳ được hiểu rât khac nhau. Với môt số người, truyên truyên kỳ chỉ dùng theo nghĩa
rât hạn chê. Theo đo, chỉ những tac phẩm ma tac gia gọi đich danh la truyên truyên
kỳ (như Truyền kỳ mạn lục, Truyền kỳ tân phả, Tân truyền kỳ lục…) thì mới được
xêp vao nhom nay. Nhưng cũng co cach hiểu khac, theo nghĩa rông rãi hơn. Tât ca
19
những tac phẩm co nôi dung liên quan đên những điêu khac lạ, linh thiêng, kỳ quai
(chẳng hạn Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, Nam hải dị nhân liệt truyện…)
đêu được xêp vao truyên truyên kỳ, bât kể tiêu đê cua truyên co gợi nhắc đên điêu
kỳ lạ hay không.
Co môt thưc tê la khi ban sâu vao đặc trưng cua truyên truyên kỳ thì quan
niêm cua cac nha nghiên cưu thường không giống nhau ở nhiêu điểm. Chẳng hạn
nha nghiên cưu Đoan Lê Giang cho rằng giữa truyên truyên kỳ va truyên chi quai,
chi di tuy co chỗ giống nhau, song không phai la môt. Để phân biêt những điểm
khac biêt giữa chúng, theo quan niêm cua ông thì điêu quan trọng nhât la cần dưa
vao yêu tố “kỹ thuât”, hay “chât văn” cua tac phẩm. Chinh những yêu tố trên mới
lam nên sư khac biêt giữa truyên chi quai chi di với thể loại truyên truyên kỳ, cho
dù ranh giới kha mong manh.
Quan niêm cua Nguyễn Huê Chi, Nguyễn Đăng Na, Nguyễn Phạm Hùng…
thì lại nhân mạnh đên yêu tố quai lạ, khac thường ở truyên truyên kỳ, hoặc la chú
trọng vao thể tài cua chúng. Nguyễn Đăng Na cho rằng: “truyên kỳ” nêu đưng
riêng, la môt thể tai cua truyên ngắn trung đại. Do cac nhân vât, tình tiêt, kêt
câu… cua truyên phần lớn la lạ kỳ, đặc biêt, nên người ta gọi chúng la truyên kỳ.
Nhìn chung, quan niêm vê truyên truyên kỳ cua cac nha nghiên cưu tuy co
chỗ thống nhât nhưng cũng còn nhiêu điểm khac nhau. Co thể noi rằng, đây la môt
trong những vân đê quan trọng trong qua trình nhân thưc vê đối tượng nay cần được
tiêp tục lam sang tỏ.
1.2.2. Về nội dung, ý nghĩa của truyện truyền kỳ Việt Nam
Gia tri truyên truyên kỳ chinh la điểm nổi bât nhât trong số cac vân đê
nghiên cưu vê đối tượng nay. Đã co hang trăm bai viêt, công trình đê câp đên gia tri
nôi dung, gia tri nghê thuât, gia tri xã hôi… cua loại hình truyên truyên kỳ được
công bố. Điêu đang chú ý ở đây la cach thưc giới chuyên môn tiêp cân đối tượng
nay thường co sư thay đổi vao cac thời điểm, giai đoạn khac nhau.
Vao quãng giữa thê kỷ XX trở vê trước, vân đê được quan tâm nhiêu nhât la gia
tri phan anh cua truyên truyên kỳ. Cac vân đê như hiên thưc xã hôi, gia tri lich sử trong
tac phẩm… luôn được đê cao. Xu hướng nay đã co từ rât lâu. Vao thê kỷ XV, khi nhân
20
đinh vê cuốn Lĩnh Nam chích quái lục, Kiêu Phú coi đo la những “sư tich đời xưa cua
nước Viêt ta”; Trần Thê Phap thì xem những truyên trong đo la loại sử “không được
tạc vao đa, khắc vao van ma vân lưu hanh ở lòng người, ở bia miêng” [161, tr. 44]; còn
Vũ Quỳnh cho rằng, sach nay đich thi la môt lối sử cua người Viêt: “ở đây co những
chuyên huyễn hoặc, hay những câu noi quai lạ. Nhưng nêu cho đo la không, cũng vi tât
đã la không ma cho đo la co, cũng vi tât đã la co. Co thể noi, no chỉ ở cai khoang không
không co co ma thôi” [161, tr. 38].
Nha nghiên cưu Bùi Duy Tân trong Giáo trình văn học Việt Nam (từ thê kỷ X
đên giữa thê kỷ XVIII), cũng coi gia tri vượt trôi ở Truyền kỳ mạn lục, tac phẩm tiêu
biểu nhât cho loại truyên nay chinh la “tinh hiên thưc”. Ông viêt: “Với ưu thê cua thể
truyên kỳ, Nguyễn Dữ trong Truyền kỳ mạn lục đã miêu ta hiên thưc môt cach co ý
thưc, đã phê phan tê hại cua nha nước phong kiên môt cach sâu sắc. Xã hôi trong tac
phẩm la môt xã hôi đầy biên đông “binh lửa rối ren” (Truyên người nghĩa phụ Khoai
Châu), “người chêt choc nhiêu, những oan hồn không chỗ nương tưa, thường họp lại
từng đoan, từng lũ” (Truyên tướng Dạ xoa), trôm cướp hoanh hanh khắp nơi. (…)
Theo lời kể cua Nguyễn Dữ thì đây chỉ la những chuyên ngay xưa, nhưng thưc ra thì
lại la phan anh hiên thưc ma ông đang sống. Những đoạn văn trên đây ro rang la
những ban cao trạng đanh thép đối với nha nước phong kiên bạo tan va bât lưc ngay ở
thời đại tac gia” [134, tr. 102].
Môt phương diên khac cua truyên truyên kỳ cũng được cac nha nghiên
cưu chú ý, đo la những gia tri văn hoa, gia tri lich sử cua no. Ngay từ thời trung
đại, cac nha Nho đã trình bay vân đê nay kha ranh mạch. Bước sang thời hiên
đại, gia tri văn hoa lich sử cua truyên truyên kỳ được nghiên cưu môt cach đầy
đu, sâu sắc hơn. Trong môt chuyên luân co tiêu đê Truyện truyền kỳ Việt Nam,
đặc điểm hình thái, văn hoá & lịch sử (2015), nha nghiên cưu Nguyễn Phong
Nam cho rằng truyên truyên kỳ Viêt Nam “vừa co tinh chât cua tac phẩm văn
học viêt (hình thai văn xuôi), lại vừa co tinh chât cua văn học noi (hình thai
truyên kể). No la thư văn chương được nay sinh từ rât nhiêu nguồn (va hê qua sẽ
la hiên tượng đa tạp vê phong cach nghê thuât)”. Truyên truyên kỳ la “môt kiểu
truyên ký văn xuôi được viêt bằng chữ Han, kể những câu chuyên kỳ - lạ, bắt
21
nguồn từ công đồng nhằm để bổ khuyêt lich sử va nhằm xiển dương những gia
tri văn hoa Viêt” [101, tr. 28].
Gia tri, ý nghĩa cua truyên truyên kỳ còn được thể hiên trên nhiêu phương diên
qua cac bai viêt, công trình khac; chẳng hạn nghiên cưu vê “Thê giới nhân sinh trong
thể loại truyên truyên kỳ” (Hoang Hồng Cẩm, 1996); “Con người ca nhân trong Việt
điện u linh, Lĩnh Nam chích quái va Truyền kỳ mạn lục” (Trần Đình Sử, 1997); Thần,
người và đất Việt (Tạ Chi Đại Trường, 1989); “Truyên truyên kỳ Viêt Nam: sư kêt
hợp giữa văn hoa bac học va truyên thống bình dân” (Nguyễn Ngọc Hiêp, 2007),
“Những biên đổi cua yêu tố kỳ va thưc trong truyên truyên kỳ Viêt Nam” (Vũ Thanh,
1994); “Lĩnh Nam chích quái - từ điểm nhìn văn hoa” (Nguyễn Hùng Vĩ, 2006),
“Folklore và văn học Viết - Nghiên cứu từ góc độ “dịch chuyển không gian” trong
truyện cổ tích và truyện truyền kỳ” (Nguyễn Thi Kim Ngân, 2017)…
1.2.3. Về đặc điểm nghệ thuật của truyện truyền kỳ Việt Nam
Đặc điểm nghê thuât cua truyên truyên kỳ cũng la môt phương diên được
nhiêu nha nghiên cưu quan tâm. Khi đê câp đên nghê thuât, thi phap truyên truyên kỳ,
cac tac gia thường nhân mạnh đên môt số phương diên cụ thể. Chẳng hạn Lê Tri Viễn
trong sach Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam chú ý nhiêu đên phương diên kêt
câu. Ông viêt: “Tom lại, kêt câu truyên ký từ Việt điện u linh đên Truyền kỳ mạn lục
tuy xuât phat thường từ ý thưc tôn thờ những người anh hùng co công lớn đối với đât
nước, kể ca cac vi thần ma tin ngưỡng nhân dân tin la sưc đô trì cho nước bên vững,
ban mưa moc, phước lanh cho nhân dân lúc hoạn nạn, cũng co khi dưa vao truyên kể
nước ngoai, hoặc tư mình đặt thêm, nhưng tât ca cac tac gia (dù đã xac đinh hoặc
chưa) đêu tỏ ra nghiêm túc khi cầm bút va đã đặt những viên gạch vững chắc cho
nên văn chương tư sư văn xuôi chữ Han cua nước nha từng bước tiên lên. Bằng tham
khao sach vở, nghe ngong lời kể trong nhân dân, bằng hư câu, sắp xêp, chọn lưa thêu
dêt sư kiên, tuân thu những lê lối kể chuyên cổ tich, theo doi nghê thuât viêt truyên
kỳ, quai lục cua tac gia phương Bắc, trau dồi lời văn, phat biểu cam tưởng cua mình,
họ đã đạt tới nghê thuât truyên ký tầm cỡ ngang truyên ngắn đich thưc ở tac phẩm mở
đầu cho môt giai đoạn văn học mới la công trình đang trân trọng cua Nguyễn Dữ”
[174, tr. 251].
22
Khi đê câp đên nghê thuât truyên truyên kỳ, cac nha nghiên cưu thường chỉ
hướng đên những tac phẩm riêng lẻ, rât it công trình co tinh chât khai quat vê phương
diên nay. Tuy nhiên, qua viêc đanh gia cac tac phẩm co tinh chât điển hình, đặc điểm
nghê thuât cua truyên truyên kỳ noi chung cũng được bôc lô. Chẳng hạn vê Thiền
uyển tập anh, nha nghiên cưu Nguyễn Hữu Sơn cho rằng: “Khi phac hoạ hanh trạng
cuôc đời cac thiên sư, cùng với viêc gắn sư ra đời với cac hiên tượng lạ còn la viêc
chọn lưa cac chi tiêt tạo ân tượng vừa lạ hoa vừa ao hoa, co phần cach điêu so với con
người va cuôc sống trần tục (…) chinh vì những lẽ đo ma cac tiểu truyên tuy không
sang tac theo đinh hướng hư câu, tưởng tượng vân bôc lô ro nét xu thê ngưỡng vọng,
kỳ vĩ hoa, siêu nhiên hoa cac hình tượng danh nhân theo cac thao tac tư duy dân gian
ma truyên thuyêt dân gian thường co” [126, tr. 9]. Cũng vê tac phẩm nay, tac gia
Nguyễn Công Lý, trong sach Văn học Phật giáo thời Lý - Trần - diện mạo và đặc
điểm, đưa ra nhân xét: “Thông qua viêc chép tiểu sử, hanh trạng cùng lời giang
thuyêt, cac đoạn ngữ lục cua cac vi cao tăng với cac đê tử, Thiền uyển tập anh vô tình
đã co môt gia tri thi ca rât lớn. Dường như đây la môt trong vai tai liêu rât hiêm giúp
cho người đời sau biêt được môt số lớn tac phẩm văn học đời Lý. (…) Qua những chi
tiêt đo, người chép truyên với môt bút phap gia dặn, bình tĩnh va sắc sao, ngôn ngữ
trong sang, linh hoạt đã khắc hoạ được tâm lý va chân dung nhân vât thông qua
những tình tiêt diễn biên theo trình tư thời gian tuyên tinh nên câu chuyên lôi cuốn,
hâp dân người đọc chẳng khac nao truyên ngắn đời nay” [84, tr. 489-494].
Nha nghiên cưu Vũ Thanh, khi ban đên đặc điểm nghê thuât thể loại truyên
truyên kỳ lại nhân mạnh đên tầm quan trọng cua yêu tố kỳ lạ, kỳ quai. Theo ông, nét
đặc sắc cua truyên truyên kỳ Viêt Nam chinh la cach thưc sử dụng yêu tố “kỳ” trong
cac tac phẩm. Trong bai “Những biên đổi cua yêu tố kỳ va thưc trong truyên ngắn
truyên kỳ Viêt Nam”, Vũ Thanh cho rằng cac tac gia đã đưa yêu tố nay vao truyên
“không phai chỉ với chưc năng la vỏ bọc che dâu dụng ý sâu xa cua nha văn ma còn
với tư cach môt bút phap nghê thuât mang tinh đặc trưng cua thể loại. Cac tac gia
phan anh hiên thưc qua cai kỳ lạ.” [146, tr. 25]. Chinh yêu tố nay đã tạo nên sư khac
biêt giữa truyên truyên kỳ cua Viêt Nam so với thể loại truyên ngắn ở phương Tây.
Cai “kỳ” trong truyên truyên kỳ Viêt không bât biên ma vân đông, phat triển. Đo la
23
môt qua trình tiêp thu, tiêp biên nghê thuât theo quy luât “từ thụ đông đên ý thưc.
Từ cai “kỳ” mang nặng anh hưởng trưc tiêp cua văn học dân gian, sử ký va tôn giao
đên cai “kỳ” được nha văn sử dụng môt cach co ý thưc như môt thu phap nghê
thuât, như môt hạt nhân tư sư quan trọng trong kêt câu tac phẩm” [146, tr. 26].
Ngoai ra, cũng từ cach quan sat vê cai “kỳ”, vê qua trình hoan thiên cua
truyên truyên kỳ xét trên phương diên nghê thuât, Vũ Thanh còn co môt nhân đinh
rât đang lưu ý. Theo ông, từ những tac phẩm co tinh chât điển lễ, tôn giao buổi đầu
cho đên những tac phẩm đỉnh cao như Truyền kỳ mạn lục, Thánh Tông di thảo,
truyên truyên kỳ Viêt Nam đã co những bước tiên mang tinh “nhay vọt” vê chât
lượng nghê thuât. No tạo nên hiên tượng ma tac gia bai viêt gọi la sư “đưt quãng”
vê thu phap, thi phap, phương thưc nghê thuât trong tiên trình vân đông cua thể loại.
Chinh vì thê ma tac gia bai viêt co cơ sở để đặt ra nghi vân: phai chăng la còn co
những tac phẩm truyên kỳ khac ma vì những lý do bi ẩn nao đo, cho đên nay chúng
ta chưa phat hiên ra(?).
Co thể noi rằng, đối với kiểu loại truyên kỳ, giới chuyên môn đã co môt qua
trình tìm hiểu, nghiên cưu từ rât sớm. Số lượng cac công trình đã được công bố rât lớn
va cach thưc tiêp cân, đanh gia vê truyên truyên kỳ Viêt Nam rât phong phú, đa dạng.
1.3. ĐANH GIA VÊ TINH HINH NGHIÊN CỨU VA VẤN ĐÊ ĐĂT RA CỦA
LUẬN AN
1.3.1. Một số nhận định chung về tình hình nghiên cứu
Trên cơ sở những nôi dung đã trình bay, co thể thây rằng truyên truyên kỳ
la đối tượng được nghiên cưu từ rât sớm. Nhiêu vân đê đã được xem xét, ban
luân kha kỹ lưỡng. Quãng thời gian từ cuối thê kỷ XX trở đi, tình hình nghiên
cưu truyên truyên kỳ Viêt Nam đã co những bước thay đổi quan trọng. Đối tượng
nay được chú ý tìm hiểu môt cach toan diên hơn. Những vân đê chung như lý
thuyêt loại hình, cac vân đê liên quan đên thi phap, đặc trưng nghê thuât… cho
đên cac phương diên tư tưởng, nôi dung, ý nghĩa xã hôi cua tac phẩm đêu được
tâp trung kham pha. Không gian nghiên cưu được mở rông. Truyên truyên kỳ
Viêt Nam được soi chiêu qua những bối canh văn hoa, văn học rông hơn.
Phương phap tiêp cân đa dạng nhờ sư vân dụng lý thuyêt hiên đại vao viêc nhân
24
thưc đối tượng. Điêu đo đã khiên cho viêc nghiên cưu truyên truyên kỳ đạt được
nhiêu thanh tưu quan trọng.
Trong tât ca cac vân đê thu hút sư chú ý cua giới chuyên môn, vân đê văn ban,
so sanh loại hình va những gia tri cua văn học truyên kỳ được chú trọng hơn ca. Co thể
noi, vân đê văn ban la môt trong những điểm gay cân nhât ma giới chuyên môn phai
giai quyêt trong qua trình nghiên cưu truyên truyên kỳ. Trên thưc tê, hiên tượng co
nhiêu di ban, sư sai khac, lân lôn ở truyên truyên kỳ Viêt Nam kha phổ biên. Đối với
những truyên xuât hiên sớm như Thiền uyển tập anh ngữ lục, Việt điện u linh tập, Lĩnh
Nam chích quái lục, Truyền kỳ mạn lục… viêc xử lý để tìm ra văn ban “chuẩn”, hợp lý
nhât qua la môt thử thach rât lớn đối với cac nha nghiên cưu. Qua qua trình khao cưu
công phu, nghiêm túc cua cac thê hê học gia, co thể noi vê cơ ban, vân đê văn ban
truyên truyên kỳ Viêt Nam đã được giai quyêt.
Đối với vân đê nguồn gốc, qua trình vân đông cua truyên truyên kỳ Viêt
Nam va mối quan hê giữa truyên truyên kỳ Viêt Nam với truyên truyên kỳ môt số
nước trong khu vưc cũng được giới chuyên môn ban thao sâu rông. Nhiêu ý kiên
cho rằng truyên truyên kỳ vốn bắt nguồn từ cac loại truyên kể dân gian; cũng do
vây, viêc khao sat qua trình hình thanh va phat triển cua no từ côi nguồn dân gian la
hướng nghiên cưu được nhiêu người quan tâm. Đây cũng la hướng nghiên cưu co
nhiêu kêt qua kha quan. Trong qua trình tìm hiểu côi nguồn truyên truyên kỳ, giới
chuyên môn còn hướng đên mối quan hê tương tac, anh hưởng qua lại giữa truyên
truyên kỳ Viêt Nam va khu vưc. Rât nhiêu tac gia đi sâu lý giai, so sanh truyên
truyên kỳ Viêt Nam với truyên truyên kỳ cac nước Trung Quốc, Triêu Tiên, Nhât
Ban... từ goc nhìn so sanh. Cac nha chuyên môn đã nhân thây mối quan hê sâu sắc
giữa truyên truyên kỳ Viêt Nam với truyên cua cac nước nay. Noi đúng hơn, truyên
truyên kỳ Viêt Nam không tồn tại môt cach cô lâp ma tiêp thu va cai biên truyên
truyên kỳ cac nước trong khu vưc để vân đông, phat triển, hoan thiên.
Tuy nhiên, cũng dễ nhân thây truyên truyên kỳ Viêt Nam, trên thưc tê vân la
môt đối tượng còn nhiêu vân đê chưa được nghiên cưu môt cach thâu đao, đầy đu.
Qua lich sử nghiên cưu truyên truyên kỳ ma chúng tôi đã lược thuât ở trên, nhiêu
câu hỏi vân còn để ngỏ. Chẳng hạn cach hiểu khai niêm “truyên truyên kỳ” hay viêc
25
phân loại, xac đinh nguồn gốc cua đối tượng nay vân rât khac nhau. Đây vừa la
những trở ngại nhưng đồng thời cũng la “cơ hôi” để tac gia luân an co điêu kiên tiên
hanh nghiên cưu đê tai.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra của luận an
Như đã noi, mặc dù đã co nhiêu thanh tưu, tuy vây cần thây rằng trong lĩnh
vưc nghiên cưu truyên truyên kỳ, vân còn nhiêu khoang trống chưa được san lâp,
nhiêu câu hỏi chưa co lời giai đap. Cho đên nay, ngoại trừ môt số chuyên luân vê
Thiền uyển tập anh ngữ lục, Truyền kỳ mạn lục, trên thưc tê, những công trình
nghiên cưu môt cach bao quat, đầy đu vê truyên truyên kỳ Viêt Nam la không
nhiêu. Do vây, viêc khao cưu môt cach toan diên, co hê thống đối với loại hình
truyên truyên kỳ vân rât cần thiêt.
Luân an nay sẽ gop phần lam ro những đặc điểm cua truyên truyên kỳ Viêt
Nam, môt trong những bô phân quan trọng nhât cua văn học dân tôc. Tât nhiên viêc
tìm hiểu đặc điểm loại hình văn học nay không phai cho đên bây giờ mới đặt ra,
nhưng trước môt đối tượng phưc tạp như truyên truyên kỳ thì những gì ma cac nha
nghiên cưu đi trước đã thưc hiên la chưa đu. Chúng tôi sẽ thưc hiên nhiêm vụ cua
mình theo môt cach nhìn mới - xem no như môt hiên tượng văn hoa hoặc la môt
loại hình văn học đặc thù cua dân tôc. Vì la hiên tượng văn hoa, đối tượng sẽ chu
yêu được quan sat, đanh gia dưa trên cac tiêu chi, thước đo la giá trị. Trên tinh thần
đo, đặc điểm loại hình truyên truyên kỳ sẽ được xem xét qua cac bình diên như: quy
luât sinh thanh va qua trình vân đông, cac đặc điểm thuôc phương diên nôi dung,
phương thưc thể hiên cua truyên truyên kỳ.
26
Chương 2
LOẠI HINH TRUYÊN TRUYÊN KY VIÊT NAM - QUA TRINH VẬN ĐỘNG
VA PHAT TRIÊN
Truyên truyên kỳ hiên hữu trong văn học trung đại Viêt Nam với môt quãng
thời gian trên dưới sau thê kỷ. Đây la môt hiên tượng văn hoa - văn học đôc đao, co
vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần cua dân tôc ta. Chương nay co nhiêm vụ
trình bay môt cach cụ thể diên mạo cua loại hình văn học truyên kỳ, đồng thời phac
thao sơ lược qua trình hình thanh, con đường vân đông va phat triển cua no.
2.1. TRUYÊN TRUYÊN KY - MỘT LOẠI HINH VĂN HỌC
2.1.1. Cơ sở lý thuyết về “loại hình”, “loại hình truyện truyền kỳ”
2.1.1.1. Khái niệm “loại hình”, “loại hình văn học”
Trong cac công trình nghiên cưu văn học, “loại hình” (typologie) la môt khai
niêm được dùng kha phổ biên. Tuy vây, với tư cach môt thuât ngữ nghiên cưu khoa
học văn học, giữa cac nha chuyên môn, cach hiểu, cach dùng cũng không hoan toan
giống nhau.
Chẳng hạn A. Gurevich, môt nha nghiên cưu rât uyên bac, nổi tiêng với
những công trình vê cac cac phạm trù văn hoa, văn học thời trung cổ, quan niêm
loại hình văn học chinh la “kiểu văn học giống nhau co tinh chât tiêu biểu đối với
môt thời đại lich sử” [41, tr. 324]. Theo tac gia nay, loại hình văn học chinh la môt
kiểu/ dạng văn học mang những nét đặc trưng cua môt thời đại, môt nên văn hoa cụ
thể nao đo.
Học gia người Nga V.Ja. Propp, trong công trình nghiên cưu co tinh chât
kinh điển với tên gọi Hình thái học truyện cổ tích, xuât ban năm 1928 thì xem “loại
hình” như môt thư khuôn mâu để phân xuât, sắp xêp cac truyên kể dân gian. Trước
đối tượng vốn rât phong phú va đa dạng vê số lượng, tinh chât cũng như hình thai
tac phẩm truyên cổ tich, Propp đã gặp phai môt vân đê nan giai la lam sao để phân
loại chúng môt cach hợp lý nhât. Ông viêt: “Bởi vì truyên cổ tich la vô cùng đa
dạng va vì vây không thể nao nghiên cưu ngay lâp tưc toan bô nôi dung cua no, tưc
la ta phai phân chia tai liêu ra từng bô phân, tưc la phai phân loại tai liêu. Phân loại
27
đúng la môt trong những bước đầu tiên cua phương phap miêu ta khoa học. Vân đê
phân loại đúng la điêu kiên để co thể nghiên cưu đúng” [121, tr. 20].
Trước công trình cua Propp, cũng đã co nhiêu công trình nghiên cưu truyên
cổ tich với những cach phân loại khac nhau. Chẳng hạn phân chia truyên cổ tich
theo “tiểu loại” (tiêu biểu la W. Wundt), phân chia theo “đê tai” (tiêu biểu la V.
Aphanaxiep), theo kiểu “đanh số” (tiêu biểu la A. Aurue), theo kiểu “đia lý - dân
tôc” (tiêu biểu la A. Aarne), phân loại theo “mô tip” (tiêu biểu la A. Veselopski)…
Mỗi cach phân loại như vây được dưa trên những tiêu chi riêng (cach gọi tên đã
phần nao cho thây điêu đo). Propp đã tiên hanh phân tich, đanh gia va chỉ ra những
hạn chê cua cac cach phân loại đương thời. “Khi ma cac nha khoa học vât lý - toan
học đã co được môt cach phân loại cân đối, môt hê thống thuât ngữ duy nhât được
những đại hôi chuyên môn châp nhân, môt phương phap mới hoan thiên bởi sư kê
thừa từ thầy đên trò thì chúng ta hoan toan không co điêu đo. Tinh chât sặc sỡ va
tinh chât đa dạng đu mau sắc cua tai liêu cổ tich đã dân đên tình hình la sư sang ro,
sư chinh xac trong viêc nêu vân đê va giai quyêt cac vân đê la hêt sưc vât va” [121,
tr. 19]. Ông muốn thoat khỏi tình trạng bê tắc vê phương phap nghiên cưu cua khoa
học ngữ văn bằng viêc tiêp cân đối tượng dưới quan điểm loại hình.
V. Propp đã chọn truyên cổ tich thần kỳ Nga lam trường hợp điển hình để
khao sat. Xuât phat từ quan điểm hình thức luận (formalism), tâp trung vao kết cấu
va chức năng cua cac tac phẩm, coi đo như những tiêu chi căn ban, ông đã tiên hanh
“phân xuât” đối tượng (truyên cổ tich thần kỳ) thanh môt “loại hình” văn học đặc
thù. Propp giai thich vê loại hình (truyên cổ tich thần kỳ) như sau: “…Nêu như cac
chức năng (những chỗ in xiên do NCS nhấn mạnh) được phân xuât thì ta co thể tìm
thây những truyên cổ tich co những chưc năng như nhau co thể gọi la cùng loại
hình. Trên cơ sở nay co thể xây dưng được danh sach liêt kê cac loại hình, danh
sach nay không phai được xây dưng trên những đê tai mơ hồ va tan mạn ma xây
dưng trên những tiêu chi chinh xac” [121, tr. 44].
Dưa trên sư tương hợp vê chưc năng cũng như câu trúc cua cac yêu tố trong
loại hình, Propp còn tiêp tục phân xuât thanh “đơn vi” nhỏ hơn nữa, được gọi la
“loại hình con”. Ông giai thich cụ thể hơn: “Chúng đêu cùng môt loại hình, nhưng
28
sư hợp nhât ma chúng ta đã noi trên kia lam thanh những loại hình con. Mới thoạt
nhìn kêt luân nay co vẻ ngu ngốc, thâm chi thô bạo nhưng no co thể kiểm tra môt
cach hêt sưc chinh xac” [121, tr. 45].
Co thể thây điêu cốt loi trong quan niêm cua Propp vê loại hình (cụ thể ở đây
la loại hình truyên cổ tich thần kỳ Nga) la “cơ câu”. Ông cho rằng chinh “cơ câu
quy đinh cai loại cua no” [121, tr. 22]. Sư phân xuât đối tượng dưa vao chưc năng
va câu trúc tạo nên sơ đồ co tinh chât tầng bâc vê loại hình/ loại hình trong loại
hình (Propp gọi la “loại hình” va “loại hình con”) la môt cach tiêp cân va xử lý vân
đê rât mới mẻ, đôc đao.
Mặc dù đối tượng nghiên cưu ở công trình cua Propp chỉ giới hạn trong
phạm vi truyên cổ tich thần kỳ Nga, tuy vây sư gợi mở vê phương phap nhân thưc ở
đây la rât lớn. Thưc tê cho thây, lý thuyêt cua Propp đã anh hưởng rât sâu rông đối
với giới nghiên cưu văn học, nhât la văn học dân gian, văn học trung đại, không chỉ
ở Nga ma ca ở nhiêu quốc gia khac trên thê giới.
Trong lĩnh vưc nghiên cưu loại hình học, phương phap tiêp cân cua M.
Cagan cũng cũng kha giống với Propp. Kho khăn ma Cagan gặp phai khi nghiên
cưu cac hình thai nghê thuât cũng chinh la viêc phân chia, xêp loại. Để giai quyêt
vân đê nay, Cagan tìm đên “phương phap tư duy loại hình”. Trong công trình co tên
Hình thái học của nghệ thuật, ở chương X (ban vê “cac loại hình nghê thuât va cac
biên thể cua no”), ông viêt: “Loại hình nghê thuât la cai phương thưc cụ thể cua sư
chiêm hữu thê giới bằng nghê thuât ở đây môt kiểu tin hiêu nghê thuât nao đo (miêu
ta, không miêu ta, pha trôn) được thể hiên va được khúc xạ trên cai cơ sở bao hiêu,
cơ sở nay la bi quy đinh bởi tinh chât cua những đặc điểm vât lý cua cai tai liêu
được sử dụng (hay cua nhom tai liêu cùng loại). Bởi vì thê, trong những giới hạn
nay, thường thường người ta sử dụng những tai liêu khac nhau va những biên phap
xây dưng hình thưc khac nhau, cho nên loại hình nghê thuât co thể chia nhỏ thanh
những biên thể va những nhanh ở đây cac phẩm chât chu yêu cua no la khac nhau”
[7, tr. 440].
Theo M. Cagan, vân đê mâu chốt cua cac loại hình nghê thuât nằm ở chât
liêu va phương thưc thể hiên. Chinh chât liêu được sử dụng để kiên tạo nên tac
29
phẩm cùng cach thưc, biên phap trình bay, thể hiên (liên quan tới phương thưc tiêp
nhân) tạo nên sư khac biêt cua cac loại hình nghê thuât. Với cơ sở nhân thưc như
vây, Cagan chia nghê thuât thanh ba “lớp”/ “nhom” (gồm 1/. Cac loại hình va biên
thể cua nghê thuât miêu ta; 2/. Cac loại hình sang tạo cua diễn viên; 3/. Cac loại
hình va cac biên thể cua sư sang tạo ngôn ngữ). Trong lớp “nghê thuât ngôn ngữ”,
theo phân loại cua Cagan, co 3 loại hình la “văn học truyên miêng”, “văn học viêt”
va “nghê thuât lời noi thanh tiêng”. Tiêp tục phân chia, sẽ co cac loại hình khac
được tich hợp trong từng loại hình đo. Chẳng hạn, trong loại hình “văn học chữ
viêt” (thuật ngữ của Cagan), ông còn chia ra cac “loại hình con” như loại hình “hư
câu”, loại hình “phi hư câu”, loại hình “dich”…
Cach thưc phân loại như vây đã giúp Cagan mô ta đối tượng vốn rât phưc tạp
trở nên mạch lạc, dễ hình dung va quan trọng hơn, no tỏ ra chặt chẽ vê mặt hê
thống, co tinh khoa học hơn. Viêc phân chia nghê thuât thanh cac lớp, cac bậc như
cach ma Cagan đã thưc hiên la rât co ý nghĩa vê phương phap nhân thưc.
Môt tac gia khac, I. M. Lotman, khi phân chia văn ban truyên kể, cũng dùng
khai niêm “loại hình”. Theo Lotman thì điêu đặc biêt quan trọng đối với “loại hình”
văn ban tac phẩm chinh la “thiêt chê” tạo nên no. Trong sach Ký hiệu học văn hóa,
ở phần “Nguồn gốc truyên kể dưới sư soi sang cua loại hình học”, ông cho rằng nêu
coi truyên kể la những “văn ban co tổ chưc”, tưc la tac phẩm được đinh hình theo
những dạng thưc cụ thể nao đo, thì căn cư vao “tổ chưc nôi tại” cua chúng, người ta
co thể chỉ ra cac loại hình khac nhau. Lotman viêt: “Cac văn ban được sinh ra bởi
thiêt chê kiên tạo văn ban trung tâm co vai trò phân loại, phân tầng va chỉnh đốn.
Chúng quy thê giới hỗn đôn, vô thường vây quanh con người vê thê giới cua quy
cach va tổ chưc (…) Với tư cach la cơ chê - đối tac, no cần môt thiêt chê kiên tạo
văn ban được tổ chưc phù hợp với sư vân đông cua thời gian tuyên tinh va ghi nhân
cai bât thường chư không phai cac quy luât. Những truyên truyên miêng vê cac biên
cố, cac “tin bao”, vê chuyên hỗn loạn cua những cai họa, phúc khac nhau la thiêt
chê như vây” [80, tr. 304].
Như vây, theo quan niêm cua Lotman thì vân đê cốt tử ở “loại hình” chinh la
sư tương đồng/ thống nhât (cua văn ban) vê mặt câu trúc/ “thiêt chê”. Va cũng vì
30
“thiêt chê” giữ vai trò quyêt đinh đên viêc kiên tạo cho nên văn ban truyên kể luôn
nay sinh hiên tượng chuyển dich, thay đổi. Cac loại hình (văn ban) không bât biên
ma “vân đông”. Tac gia viêt tiêp: “Nhưng, như đã biêt, trong văn ban nghê thuât lại
luôn xay ra môt sư trao đổi thường xuyên; những gì trong ngôn ngữ đã mât đi gia tri
ngữ nghĩa đôc lâp thì no lại được ngữ nghĩa hoa lần thư hai va ngược lại. (…) Cac
hê thống xung đôt không thay thê lân nhau ma nhâp vao những quan hê câu trúc để
sinh ra môt loại hình trật tự kiểu mới” [80, tr. 322 ].
Vân đê loại hình văn ban còn được Lotman triển khai, mở rông thêm ở
những công trình nghiên cưu khac. Ông phân tich những bât câp trong cach hiểu
thông thường vê loại hình văn ban. Theo tac gia thì nguyên nhân la do người ta
thường dưa vao cac tiêu chi cụ thể như: “thông điêp riêng lẻ”, “tinh phân khúc”,
“cam nhân tương đối ro rêt bằng trưc giac”, “co mở đầu va kêt thúc”, “co nôi dung
xac đinh… ma ra. Ông cho rằng, điêu quan trọng nhât cua văn ban không nằm ở
những dâu hiêu đo. Vân đê co tinh chât quyêt đinh cua văn ban la do “hanh chưc”,
“câu trúc”, “thiêt chê” cua no.
Qua môt số trường hợp vừa nêu, co thể nhân thây dù lĩnh vưc nghiên cưu rât
khac nhau (folklore, mỹ học, ngôn ngữ…) nhưng đêu co môt điểm chung rât cơ ban
đo la sư gặp gỡ vê phương phap nhân thưc. Trước những đối tượng nghiên cưu
phưc tạp, cac nha khoa học đã tư duy theo mô thưc loại hình; phân xuât đối tượng
thanh cac thứ/ lớp/ nhóm/ loại… dưa trên những đặc điểm mang tinh cốt loi, ổn
đinh, xuyên suốt. Tât nhiên, đặc điểm cua cac “loại hình” không giống nhau vê tinh
chât, hình thai, vì no tùy thuôc vao đối tượng. Chẳng hạn, đặc điểm cua loại hình
truyên cổ tich thần kỳ, theo Propp la “chưc năng”, “câu trúc”; đặc điểm văn ban
truyên kể, theo Lotman la “thiêt chê”; đặc điểm loại hình nghê thuât, theo Cagan la
“chât liêu”, “phương thưc thể hiên”… Tư tưởng, thao tac nghiên cưu cua cac học
gia đã gợi ý cho chúng tôi đường hướng, cach thưc tiêp cân truyên truyên kỳ Viêt
Nam trong vi thê môt loại hình văn học.
Truyên truyên kỳ Viêt Nam la môt hiên tượng văn học rât đa dạng. Ranh giới
giữa no với những tac phẩm thuôc dạng truyên yêu ma, truyên chi quai chi di,
truyên huyễn tưởng, kinh di… trên môt số phương diên cụ thể qua la không thât sư
31
ro rang. Luôn co sư đan xen, xâm lân giữa chúng vê mặt hình thưc, chưc năng, gia
tri, nguồn gốc… với những mưc đô nhiêu it khac nhau. Nhưng muốn tìm hiểu,
nghiên cưu truyên truyên kỳ thì không thể không nhân diên, phân xuât, mô hình
hoa… đối tượng. Vì vây, vân dụng phương phap “tư duy loại hình” để giai quyêt
vân đê đặt đặt ra, theo chúng tôi la môt hướng tiêp cân thich hợp.
2.1.1.2. Loại hình truyện truyền kỳ
Lâu nay, khi noi vê truyên truyên kỳ, đa số cac nha nghiên cưu đêu coi đo la
môt thể loại văn học. Khai niêm “thể loại truyên truyên kỳ” xuât hiên trong hầu hêt
cac công trình văn học sử, được sử dụng thống nhât trong cac bô từ điển văn học,
sach giao khoa, tai liêu dùng cho giang dạy, nghiên cưu, học tâp trong nha trường,
từ bâc phổ thông cho đên bâc đại học. Tuy vây, nêu suy xét kỹ sẽ thây quan niêm
nay co những điểm bât câp, không thỏa đang.
Trước tiên cần thây rằng, ngay ban thân khai niêm “thể loại văn học” vốn đã
không thât sư ro rang; viêc xac đinh nôi ham cua no cũng rât kho khăn. Trong tiêng
Viêt, từ “thể loại”, được cho la môt “hình thưc sang tac văn học, nghê thuât, phân
chia theo phương thưc phan anh hiên thưc, vân dụng ngôn ngữ” [172, tr. 900]. Tât
nhiên, hiểu ý nghĩa từ “thể loại” như vây không co gì sai, nhưng no mới chỉ dừng ở
mưc đô gọi la “nôm na”, “phổ thông”, chư chưa thể bao quat đầy đu mọi phương
diên, mọi sắc thai.
Trên thưc tê, quan niêm cua giới nghiên cưu vê thuât ngữ “thể loại văn
học” cũng rât khac nhau. Người ta co thể tach “thể” va “loại” thanh cac yêu tố
riêng biêt; co khi “thể loại” lại được thay thê bằng khai niêm “thể tai”, hoặc thâm
chi không thừa nhân “thể loại”… Trong Từ điển thuật ngữ văn học, khai niêm thể
loại được cac nha biên soạn giai thich la “Dạng thưc cua tac phẩm văn học, được
hình thanh va tồn tại tương đối ổn đinh trong qua trình phat triển cua lich sử văn
học, thể hiên ở sư giống nhau vê cach thưc tổ chưc tac phẩm, vê đặc điểm cua cac
loại hiên tượng đời sống được miêu ta va vê tinh chât cua mối quan hê cua nha
văn với cac hiên tượng đời sống ây. (…) Người ta co thể tâp hợp thanh từng nhom
những tac phẩm văn học giống nhau vê phương thưc miêu ta va hình thưc tồn tại
chỉnh thể ây. Đo la cơ sở khach quan cua sư tồn tại thể loại văn học va cũng la
32
điêu xuât phat để xây dưng nguyên tắc phân chia thể loại văn học. (…) Lý luân
văn học dưa vao cac yêu tố ổn đinh ma chia tac phẩm thanh cac loại va cac thể
(hoặc thể loại, thể tai). Loại rông hơn thể nằm trong loại. Bât kỳ tac phẩm nao
cũng thuôc môt loại nhât đinh va quan trọng hơn la co môt hình thưc thể nao đo”
[42, tr. 203-204]. Cach diễn giang cua Từ điển thuật ngữ văn học ma chúng tôi
vừa dân tuy đầy đu, chi tiêt song kha phưc tạp va cũng không thưc sư ranh mạch.
Bởi vì, nêu đã coi “thể” nằm trong “loại”, “thể” la môt yêu tố thuôc vê “loại”, vây
thì cach gọi chung chung (“thể loại”) ro rang la không hợp lý, không đam bao tinh
hê thống khi phân loại tac phẩm văn học.
Giới thuyêt, tạo lâp hê thống cac thuât ngữ vốn la công viêc hêt sưc kho khăn
đối với cac nha nghiên cưu lý thuyêt, lý luân văn học từ xưa đên nay. Tuy nhiên, ở luân
an nay, viêc phân xuât truyên truyên kỳ với tư cach môt yêu tố cua văn học trung đại
Viêt Nam la điêu bắt buôc, không thể né tranh. Môt khi khai niêm “thể loại” tỏ ra
không phù hợp để “đinh danh” đối tượng (truyên truyên kỳ) như đã noi, thì cần phai co
giai phap khac để thay thê. Trong bối canh như vây, chúng tôi dùng khai niêm loại hình
truyện truyền kỳ để gọi tên đối tượng nghiên cưu cua mình.
Như đã trình bay ở trên, khai niêm “loại hình” vốn được dùng để chỉ môt tâp
hợp cac sư vât, hiên tượng cùng co chung những đặc điểm cơ ban nao đo. Theo
quan niêm truyên thống (từ thời Aristote), cac nha nghiên cưu thường dùng khai
niêm “loại hình” để chỉ những hình thưc nghê thuât khac nhau, được phân biêt bởi
“đặc điểm cua đối tượng miêu ta, phương thưc tai hiên, nhiêm vụ nghê thuât va bởi
ca những phương tiên vât chât chu yêu tạo nên hình tượng nghê thuât” [42, tr. 127].
Dưa trên cơ sở nay, người ta chia tac phẩm thanh cac loại hình nghệ thuật cụ thể
như điêu khắc, kiến trúc, hội họa, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, nhiếp ảnh, văn
học… Quan niêm như thê vê “loại hình” được thể hiên môt cach ổn đinh, thống
nhât trong công trình cua cac nha nghiên cưu. Điểm mâu chốt trong cach hiểu khai
niêm “loại hình” theo lối “truyên thống” nay chinh la tinh chât phưc hợp, bao quat,
ôm trùm cua no. Noi đên “loại hình” cũng co nghĩa la thừa nhân tinh đa dạng, đa
tạp cua môt hiên tượng văn học, nghê thuât bât kỳ. Cac yêu tố trong môt loại hình
nao đo liên quan với nhau chu yêu ở chât liêu dùng để sang tac, phương thưc thể
33
hiên, nguyên tắc tiêp nhân… Tuy nhiên nêu chỉ dừng ở đây, “loại hình nghê thuât”
xem ra lại không co gì qua khac biêt so với “phạm trù nghê thuât”.
Quan niêm “loại hình nghê thuât” như vây chỉ phù hợp với qua khư. Ngay
nay, khi ma cac nganh (hay hiên tượng/ lĩnh vưc) nghê thuât đang vân đông theo xu
hướng “tich hợp” với tốc đô cưc kỳ nhanh chong, thì quan niêm “loại hình” như
môt “phạm trù” la không còn hợp lý nữa. Loại hình nghê thuât cần được hiểu la môt
“siêu hê thống”, điêu ma cac nha lý thuyêt hang đầu như V. Propp, I. Lotman, M.
Cagan… đã trình bay rât thuyêt phục trong công trình cua họ. No gồm nhiêu yêu tố
được tổ chưc theo nguyên tắc tầng bâc, lồng ghép, bao trùm lên nhau. Môt loại hình
nghê thuât cụ thể nao đo la môt yêu tố nằm trong “hê thống” bao trùm (hình thai ý
thưc thuôc thượng tầng kiên trúc) nhưng ban thân no cũng đồng thời la môt hê
thống (con) khac.
Môt quan niêm như thê vê “loại hình” la cơ sở để chúng tôi phân xuât
truyên truyên kỳ - đối tượng nghiên cưu ở luân an nay. Truyên truyên kỳ la môt
yêu tố nằm trong hê thống lớn (văn học trung đại) nhưng ban thân no cũng la môt
hê thống, gồm nhiêu yêu tố liên quan đên nhau. Noi môt cach hình anh thì đo la
“loại hình trong loại hình”. Dùng “loại hình” để đinh vi truyên truyên kỳ theo
chúng tôi la phù hợp. Cach hình dung như thê vê truyên truyên kỳ sẽ giúp thao gỡ
những bât hợp lý trong hoạt đông nghiên cưu cac hiên tượng văn hoa - văn học
phưc tạp như truyên truyên kỳ.
Quan niêm truyên truyên kỳ Viêt Nam la môt loại hình văn học được nha
nghiên cưu Nguyễn Phong Nam đê xuât trong môt số công trình, tâp trung nhât la ở
chuyên luân Truyện truyền kỳ Việt Nam - đặc điểm hình thái, văn hóa & lịch sử
(2015). Ông cho rằng, do tinh chât đặc thù cua truyên truyên kỳ Viêt Nam, không nên
coi đo la môt thể loại văn học. Theo tac gia thì trên thưc tê, những gì chưa đưng trong
cac tac phẩm va liên quan đên “truyên truyên kỳ” la qua đa dạng, phưc tạp. Trước
tiên, xét vê cach thưc biểu hiên, truyên truyên kỳ vừa co tinh chât cua tac phẩm văn
học viêt (văn xuôi), lại vừa co tinh chât cua văn học truyên miêng (hình thai truyên
kể); noi cach khac, đây la môt san phẩm được “lai tạo” giữa văn học truyên khẩu với
văn học thanh văn. Trên phương diên phong cach nghê thuât, truyên truyên kỳ la thư
34
văn chương được kêt hợp bởi nhiêu nguồn, vì thê cũng la lối văn chương đa tạp vê
phong cach. Hơn nữa, nêu như xét vê tinh năng, công dụng thì hiên tượng văn học
nay thuôc dạng dung hợp; không chỉ “văn - triêt - sử” ma còn la tôn giao, tin ngưỡng,
đia chi, phong tục... Thưc chât no la dạng folklore được “tân biên” thanh môt thư văn
chương bac học. Thê cho nên muốn đinh danh môt cach hợp lý, thay vì gọi la thể
loại, thể tài, tac gia đê xuât khai niêm loại hình văn học (typology of literature). Quan
niêm nay cua tac gia la hợp lý.
Trong nghiên cưu văn học, nhât la với đối tượng văn học truyên thống, tiêp
cân đối tượng bằng tư duy loại hình la môt trong những hướng tiêp cân toan diên,
co kha năng bao quat được cùng lúc nhiêu vân đê phưc tạp. No giúp cho người
nghiên cưu co thể lĩnh hôi, phân tich, so sanh va đối chiêu cac giac đô cua tac phẩm
môt cach hợp lý va sâu sắc. Thao tac so sanh, nhât la so sanh loại hình, cho phép
người nghiên cưu nhân ra những điểm tương đồng, những điểm khac biêt, qua trình
biên đổi cùng cac nguyên nhân, ý nghĩa cua từng kiểu loại khac nhau trong môt hê
thống văn học.
Xét toan bô tiên trình lich sử văn chương cổ điển Viêt Nam, truyên truyên kỳ
la môt thanh tưu lớn, môt chỉ dâu vê sư phat triển vượt bâc ca vê tư tưởng, tư duy va
nghê thuât. No không đơn thuần la kêt qua từ qua trình “văn xuôi hoa”, “bac học
hoa” cac truyên kể dân gian ma la ca môt di san văn hoa - văn học đặc sắc. Những
câu chuyên co vẻ huyễn hoặc kho tin đo thưc chât la những tac phẩm kêt tinh cac
gia tri văn hoa - lich sử được hình thanh qua hang ngan năm dưng nước va giữ
nước. No cũng la kêt qua từ qua trình giao lưu, tiêp xúc với cac nên văn học trong
khu vưc. Vì thê, truyên truyên kỳ mang đâm dâu ân tâm thưc văn hoa, tôn giao, tin
ngưỡng cua công đồng dân tôc Viêt.
Tóm lại, truyện truyền kỳ Việt Nam la những tac phẩm tư sư được viêt bằng
chữ Han, chu yêu noi đên những điêu liên quan đên văn hoa, lich sử Viêt Nam,
xoay quanh cac chu đê quen thuôc như “kỳ nhân”, “linh đia”, “quai sư”… No hình
thanh chu yêu theo phương thưc “tân biên” cac giai thoại, truyên thuyêt, truyên kể
từng được lưu giữ trong công đồng, hoặc co thể la sư mô phỏng, phong tac, hư câu
theo lối môt lối riêng. Tuy cũng sử dụng yêu tố kỳ ao, di thường lam phương tiên,
35
phương thưc thể hiên nhưng loại hình nay lại rât khac so với cac loại truyên ma mi,
quỷ quai (co người gọi la “dã sử”), nêu xét vê mục đich, gia tri chu yêu. Truyên
truyên kỳ lây viêc bổ khuyêt, bổ sung cac sư kiên, nhân vât lich sử va xiển dương
cac gia tri văn hoa Viêt lam mục tiêu. Thanh thử điêu phi thường, kỳ di hiên hữu
trong truyên truyên kỳ không phai để đap ưng tinh hiêu kỳ, chuông lạ ma đong vai
trò môt hình tượng nghê thuât, co chưc năng biểu đạt, truyên tai những thông điêp
quan trọng. Noi như Huyên Trai Ngô Hoang, truyên truyên kỳ thể hiên “lòng ưu
thời mân thê, ý tưởng giữ gìn truyên thống, sửa sang phong tục (…) co noi đên viêc
quai di nhưng không thoat ly đạo thường, co kể vê điêu biên hoa nhưng không mât
đi lẽ chinh, đại để la ngụ ý khuyên răn va canh cao sâu xa để người xem sau nay
thây điêu hay thì bắt chước, thây điêu dở thì phòng ngừa, thưc co ich rât nhiêu cho
thê giao” [163, tr. 11].
Truyên truyên kỳ cũng rât khac so với lối truyên “phỏng truyên kỳ” (cac truyên
được gọi la “yêu ngôn”, “truyên kinh di”, “truyên đường rừng”… trong văn xuôi quốc
ngữ chặng đầu thê kỷ XX. Điêu nay it nhiêu đã thể hiên ngay ở tên gọi (“phỏng” co
nghĩa la tac phẩm được mô phỏng, dưa theo truyên truyên kỳ). Sư khac biêt không chỉ
ở dâu hiêu dễ thây nhât la văn tư, văn ban (môt đằng la chữ Han, môt đằng la chữ quốc
ngữ) ma còn ở nhiêu phương diên như phương thưc hình thanh, gia tri nôi dung, thu
phap nghê thuât, va ca chưc năng sử dụng, tâm lý tiêp nhân... Vân đê nay sẽ còn được
chúng tôi triển khai tiêp tục ở chương 3 cua luân an.
2.1.2. Nguồn gốc và gia trị của truyện truyền kỳ Việt Nam
2.1.2.1. Nguồn gốc truyện truyền kỳ
Cũng giống như cac thanh tưu văn hoa, văn học khac, sư xuât hiên cua
truyên truyên kỳ Viêt Nam la do đòi hỏi cua đời sống, do nhu cầu thưc tê cua công
đồng. Tuy nhiên, đo la noi vê mặt nguyên lý, nguyên tắc. Trên thưc tê, để chỉ ra môt
cach cụ thể những lý do ra đời cua truyên truyên kỳ la điêu hêt sưc kho khăn. Từ
hang thâp kỷ qua, cac nha nghiên cưu trong nước va nước ngoai đã cố gắng để tìm
hiểu điêu nay va đã đưa ra những nhân đinh rât khac nhau. Tưu trung, co hai xu
hướng chinh. Môt xu hướng cho rằng truyên truyên kỳ Viêt Nam bắt nguồn từ
truyên “chi quai chi di” cua Trung Hoa va môt xu hướng khac, khẳng đinh loại hình
36
văn học nay la thanh tưu co tinh tổng hợp cua qua trình tiêp biên, sang tạo lâu dai
cua cac nha Nho Viêt Nam trên nên tang văn hoa, văn học dân gian ban đia.
Cach lý giai truyên truyên kỳ Viêt la phiên ban truyên “kỳ”, “quai” cua
Trung Quốc vốn được môt số nha Nho nêu ra từ nhiêu thê kỷ trước. Quan niêm nay
xuât phat từ chỗ coi văn học Trung Quốc la “nguồn”/ “trung tâm”, co vai trò chi
phối đối với văn học Viêt Nam. Luân điểm nay tồn tại rât dai dẳng trong giới
nghiên cưu; được kha nhiêu nha chuyên môn trong nước va nước ngoai lưa chọn
lam cơ sở nhân thưc.
Tac gia Trần Ích Nguyên (陳益源) la môt vi dụ. Vi học gia người Đai Loan
(Trung Quốc) nay công bố nhiêu công trình nghiên cưu truyên truyên kỳ, trong đo
co ban cụ thể vê nguồn gốc truyên truyên kỳ Viêt Nam. Theo tac gia thì kiểu truyên
như thê nay co nguồn gốc từ Trung Quốc va no được hình thanh từ nhiêu nguồn
khac nhau. Đo la mô phỏng truyên thần thoại, truyên chi quai trên cac phương diên
đê tai, cốt truyên, kêt câu, hình tượng… (từ văn học Lục triêu); hoặc xuât phat từ
thơ văn, truyên ký trong văn học cổ điển Trung Hoa (với cac ngữ liêu, điển cố rât
phổ biên trong cac tac phẩm văn học); cũng co thể từ những ghi chép, thư tich hoa
cac truyên thuyêt dân gian… Tât nhiên, không loại trừ kha năng sang tạo, hư câu
cua cac tac gia. Noi chung, thể loại truyên truyên kỳ đã co mầm mống từ thời Han,
Ngụy, Lục triêu. Tên gọi cua no cũng co nhiêu sư thay đổi. Lúc đầu dạng truyên
nay được gọi theo nhiêu tên như truyện chí nhân/ chí quái/ chí dị… Đên thời vãn
Đường no được gọi la truyện truyền kỳ va trở thanh tên gọi chinh thưc. Truyên
truyên kỳ Trung Quốc co tầm quan trọng rât lớn đối với viêc hình thanh truyên cũng
như giữ vai trò dân dắt, chi phối văn học truyên kỳ cua môt số nước ở khu vưc
Đông Á (như Nhât Ban, Triêu Tiên) va Đông Nam Á (chu yêu la Viêt Nam). Với
quan niêm như vây, qua nghiên cưu so sanh hai tac phẩm Tiễn đăng tân thoại va
Truyền kỳ mạn lục như cac trường hợp tiêu biểu, tac gia đưa ra luân điểm truyên
truyên kỳ Viêt Nam được bắt nguồn từ văn học Trung Quốc, la môt “nhanh” phai
sinh từ văn học Trung Quốc.
Lâp luân cua học gia Trần Ích Nguyên vê nguồn gốc truyên truyên kỳ Viêt
Nam không phai la không co cơ sở. Luân điểm đo vê cơ ban được triển khai trên
37
nên tang quan niêm “dĩ Trung vi ban” (以中為本) trong nghiên cưu văn hoa Đông
Phương. Khi tìm hiểu, đanh gia cac nên văn hoa, văn học khac trong khu vưc Đông
Á, Đông Nam Á, người ta thường lây Trung Hoa như la căn cư (“gốc”) để lam hê
quy chiêu. Do văn học Trung Hoa xuât hiên từ rât sớm, co qua trình phat triển lâu
đời, nhiêu thanh tưu vượt trôi cho nên tầm anh hưởng, sưc hâp dân cua no đối với
văn học khu vưc la điêu hiển nhiên. Bên cạnh đo, sư chi phối cua cac yêu tố ngoai
văn học đối với cac nên văn học bi lê thuôc cũng rât đang kể. Chẳng hạn sư tương
đồng vê mô thưc chinh tri, xã hôi; anh hưởng cua phương thưc thi cử, tuyển trạch
nhân tai; tac đông cua chinh sach đồng hoa, Han hoa… Những yêu tố ây đã tạo ap
lưc, tuy gian tiêp, nhưng rât lớn, khiên cho văn học cac nước lân bang kho cưỡng
lại, kho thoat ra khỏi quỹ đạo cua văn học “thiên triêu”. Cho nên viêc cac nha Nho
Viêt Nam học tâp, mô phỏng, sử dụng khuôn mâu, điển phạm văn chương Trung
Hoa để xây dưng nên văn học dân tôc cũng la lẽ thường.
Tuy nhiên, nêu chỉ dưa trên cơ sở như vây để rồi khai quat rằng văn học Viêt
Nam la “ban sao” cua văn học Trung Hoa, truyên truyên kỳ cua người Viêt co
nguồn gốc Trung Hoa thì lại không thỏa đang. Thâm chi với môt trường hợp cụ thể
như Truyền kỳ mạn lục ma coi la “phiên ban” cua Tiễn đăng tân thoại thì ro rang la
không đúng. Bởi vì văn hoa, văn học cua cac dân tôc, cac công đồng luôn tồn tại va
phat triển trong sư tương tac, giao lưu với nhau. Không phai đên thời hiên đại ma
ngay từ thời trung đại đã như thê, dù mưc đô co khac nhau it nhiêu. Mối quan hê
cua chúng diễn tiên rât phưc tạp chư không đơn gian theo lối phát tán - tiếp thu giữa
nên văn học “lớn” va “bé”, “cưu” va “tân”... Đưa ra kêt luân mang tinh khai quat
như thê vê môt thể loại, môt loại hình đã rât kho thuyêt phục ma mở rông đên ca
nên văn học thì cang kho tranh khỏi sai lầm. Đo la chưa tinh đên viêc coi “truyên
truyên kỳ” chỉ la cac tac phẩm co yêu tố “kỳ”/ “quai”/ “di” thì trước đối tượng
truyên truyên kỳ Viêt Nam, viêc nhân thưc sẽ rât kho khăn. Điêu nay đã được chúng
tôi trình bay ở phần trước.
Không thể phu nhân hiên tượng “tương thich”, “tương đồng” cua hai nên văn
học Viêt - Trung trên nhiêu phương diên, cũng không thể không nhân thây bong
dang, anh hưởng cua truyên truyên kỳ Trung Hoa đối với truyên truyên kỳ Viêt Nam.
38
Tâm lý ngưỡng mô, thai đô khiêm tốn, cầu thi đối với cac trường hợp cụ thể cua văn
học Trung Hoa, coi đo la những mâu mưc ma giới văn nhân người Viêt hướng đên la
co thât. Song bât châp tât ca những biểu hiên đo, văn hoa - văn học Viêt noi chung,
truyên truyên kỳ noi riêng vân hanh theo quy luât đặc thù chư không phai la ban sao
cua văn chương Trung Quốc. Đúng như phân tich cua Nguyễn Phong Nam: “… Ngay
từ trong căn cốt, ban chât cua văn học Viêt đã “thoat Han” rồi; no co vay mượn, mô
phỏng nhưng xu thê la vượt thoat, chống “Han hoa” chư không phai lặp lại, râp theo.
Tuy nhiên, với tư cach môt nên văn học ra đời muôn hơn, lại rơi vao tương quan “bât
đối xưng” trong qua trình tiêp xúc, nên văn học Viêt, môt cach tư nhiên, luôn bi “hút”
vê phia “khuôn mâu Trung Quốc”. Hiên tượng nay diễn ra vừa rông khắp, trên “toan
tuyên” cua “mặt trân” văn học, vừa len lỏi vao trong từng bô phân, từng loại hình,
từng thể loại cụ thể. Tât nhiên la không đồng đêu, mưc đô đâm nhạt co khac nhau tùy
theo đặc điểm cua mỗi kiểu dạng văn học. Truyên truyên kỳ Viêt Nam như đã noi,
ban thân no la môt tâp hợp rât đa dạng nhiêu kiểu loại với những hình thai rât khac
nhau. Sư khac biêt nay bắt nguồn từ hoan canh ra đời, từ mục đich, từ chưc năng…
va ca sư lưa chọn cua chinh tac gia vê mô hình tac phẩm” [101, tr. 127-128].
Co thể chỉ ra những điểm di biêt giữa loại hình truyên truyên kỳ Viêt Nam so
với truyên (kỳ, quai, di) Trung Quốc trên cac phương diên chu yêu như nôi dung,
gia tri, tinh năng… môt cach dễ dang. Chẳng hạn, trong văn học Trung Quốc,
những nôi dung mang tinh lich sử vê cơ ban, không phai la nhiêm vụ chinh cua
truyên truyên kỳ ma thường được thể hiên bằng cac tac phẩm thuôc phạm trù văn
học chưc năng khac. Hoặc để phan anh thê giới thần linh thì đã co hê thống cac
truyên thần thoại, những thư khac hẳn so với “truyên kỳ”, “chi quai”, “chi di”. Noi
cach khac, trong văn học truyên thống, văn học cổ điển Trung Quốc, tinh chuyên
biêt cua thể loại rât cao, chưc năng rât ro rang. Trong khi đối với văn học Viêt Nam
thì đặc điểm dễ nhân thây lại la tinh dung hợp, “đa năng”, “đa dụng”…
Ro rang luân điểm coi truyên truyên kỳ Viêt Nam bắt nguồn từ văn học
truyên kỳ Trung Quốc la sơ lược, phiên diên. Truyên truyên kỳ Viêt Nam tuy gần
gũi với cac truyên kể vê những điêu kỳ lạ, di thường, quai đan… nhưng no la loại
hình văn học với những đặc điểm riêng trên nhiêu phương diên như nôi dung, hình
39
thưc, gia tri... Nguồn gốc sinh thanh, con đường vân đông, phat triển cua no do vây
cũng co những nét đặc thù.
Nguồn gốc truyên truyên kỳ cua người Viêt chu yêu dưa trên nên tang văn
hoa ban đia. Đây la cac tac phẩm văn xuôi tư sư được nha Nho tiêp thu va nâng cao
từ cac dạng thưc truyên kể dân gian. Tuy co phần chiu anh hưởng văn học cổ điển
Trung Hoa, nhưng qua trình hình thanh, phat triển truyên truyên kỳ luôn gắn liên
với hiên thưc cua xã hôi Viêt Nam, với nên văn học dân tôc. Mối quan hê giữa
truyên truyên kỳ (môt bô phân cua văn học trung đại) va văn hoa dân gian, noi như
Nguyễn Đăng Na, “môt mặt kê thừa cac gia tri tinh thần thiêng liêng trong văn học
dân gian, mặt khac phan anh toan diên tư duy, quan niêm cua con người Viêt Nam
trong suốt mười thê kỷ tồn tại xã hôi phong kiên (…) tạo nên mau sắc dân tôc đâm
đa cua no, lam cho truyên truyên kỳ Viêt Nam khac với truyên truyên kỳ cua cac
nước trong khu vưc như Trung Quốc, Triêu Tiên, Nhât Ban, Han Quốc” [91, tr. 45].
Do tiêp thu, tiêp biên nguồn mạch dân gian cho nên sư tương đồng trên môt
mưc đô nao đo giữa truyên truyên kỳ Viêt Nam với truyên Trung Quốc cũng la điêu
tât yêu. Bởi vì niêm tin vao thê giới “bên kia”, nơi cac vi thần linh cùng ma quỷ đang
tồn tại song song với thê giới thưc tại, vốn la tin ngưỡng phổ biên cua nhân loại chư
không riêng dân tôc nao. Những truyên xoay quanh mối quan hê đời thường, thê sư
giữa con người với thần tiên, ma quỷ môt mặt bôc lô quan niêm cua người Viêt vê
môt thê giới khac, coi khac; mặt khac, no cũng thể hiên môt cach sinh đông, cụ thể
nguyên tắc ưng xử cua họ với những thê lưc đặc biêt nay.
Xem xét cac tac phẩm truyên kỳ Viêt Nam co thể nhân thây “chât” dân gian
trong đo rât đâm nét. Điêu nay thể hiên qua cac yêu tố như đê tai, chu đê, cốt
truyên, mô tip... Rât nhiêu truyên truyên kỳ lây đê tai, chu đê, sư tich từ cổ tich,
truyên thuyêt, dã sử, giai thoại dân gian... Chuyên hôn phối giữa người với vât như
ca, coc, khỉ, vượn… trong cổ tich chẳng hạn, được lặp lại kha day đặc trong truyên
truyên kỳ. Co thể kể đên cac truyên “Tân Lang truyên”, “Tây qua truyên”, “Kim
Quy truyên”, “Tan Viên sơn truyên”, “Ha Ô Lôi truyên” (trong Lĩnh Nam chích
quái lục), “Truyên Từ Thưc” (trong Truyền kỳ mạn lục), “Dương phu truyên” (trong
Thánh Tông di thảo)...
40
Tât nhiên, từ cốt truyên cổ tich đên truyên truyên kỳ la môt bước phat triển
dai vê tư duy nghê thuât va kéo theo la sư thay đổi vê gia tri, ý nghĩa cua tac phẩm.
Vi như “Dương phu truyên” (“Truyên chồng dê” trong Thánh Tông di thảo), tuy
cũng noi chuyên hôn nhân người - vât như trong cổ tich, song tư tưởng, triêt lý cua
hai truyên rât khac nhau. Điểm khac biêt quan trọng nằm ở chỗ “Dương phu truyên”
thể hiên ca tinh sang tạo, quan niêm nghê thuât cua ca nhân, trong khi truyên dân
gian la sư đúc kêt, minh triêt tư tưởng “ở hiên gặp lanh” cua công đồng. Noi chung,
câu chuyên người vợ xinh đẹp, tai giỏi lây chồng (la cac con vât, đồ vât như coc, ca,
sọ dừa…) trong truyên kể dân gian chu yêu minh họa cho triêt lý “nhân - qua” mang
tinh phổ quat, trong khi kiểu tac phẩm như “Dương phu truyên” hướng nhiêu hơn
đên chu nghĩa nhân văn, tinh thần lãng mạn qua cach nhìn, cach tư duy co tinh chât
riêng tư cua tac gia. Hơn nữa, giữa câu chuyên “Lây chồng dê” trong văn học dân
gian va “Dương phu truyên” trong Thánh Tông di thảo còn co sư khac biêt kha ro
vê nhiêu điểm, nhât la ở phương thưc thể hiên, thu phap nghê thuât.
Cũng noi vê mối liên quan giữa truyên cổ tich va truyên truyên kỳ, co thể
dân thêm cac trường hợp khac như “Tiên ăn may”, “Sống lại” trong Lan Trì kiến
văn lục cua Vũ Trinh. So sanh truyên cua Vũ Trinh va truyên kể dân gian, co thể
thây nhân vât, sư kiên vê cơ ban la giống nhau. Đây la cac truyên được tac gia “tân
biên” trên cơ sở truyên cổ tich “Hai anh em”, “Anh chang họ Đao” (truyên do
Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, đặt tên).
Như chúng tôi đã trình bay, tư tưởng, triêt lý ở truyên kể dân gian va truyên
truyên kỳ thường la khac nhau, dù cac yêu tố thuôc cốt truyên (nhân vât, sư kiên) co
vẻ giống nhau. Nêu như truyên kể dân gian chu yêu hướng đên mục tiêu “khuyên
thiên trừng ac”, coi trọng chưc năng giao huân đạo lý, hoặc nhằm giai thich cac hiên
tượng tư nhiên, xã hôi… thì nhiêm vụ cua truyên truyên kỳ khac hẳn. Viêc trình bay
nguồn gốc, lai lich môt di tich, môt sư kiên, môt đia danh… không phai la mục đich
chinh cua truyên truyên kỳ; gia tri chu yêu cua no cũng không phai chỗ đo.
Mối liên hê mang tinh chât nguồn côi giữa truyên truyên kỳ va văn học dân
gian còn thể hiên qua cach thưc sử dụng cac mô tip phổ biên. Chẳng hạn mô tip
tiên nữ ẩn mình trong đồ vât (bưc họa), vê sau hoan nguyên rồi kêt duyên với
người trần trong “Bich Câu kỳ ngô” (Truyền kỳ tân phả) vốn co ở truyên kể dân
41
gian, được tai tạo lại. Co điêu truyên truyên kỳ không giữ nguyên ma luôn “lam
mới”, cac mô tip đo.
Từ những điểm vừa được chúng tôi trình bay trên, co thể noi, nguồn gốc, con
đường hình thanh truyên truyên kỳ Viêt Nam co những đặc điểm riêng. No co thể
hình thanh theo phương thưc cai biên cac giai thoại, truyên thuyêt, truyên kể dân
gian; co thể theo hình thưc “văn ban hoa” cac yêu tố folklore, tôn giao, tin ngưỡng,
hoặc chuyển thể cac tac phẩm văn học Trung Quốc. No cũng co thể được tạo ra theo
phương thưc mô phỏng hoặc hư câu, sang tạo theo những thu phap, phương phap
nghê thuât đặc thù. Tât ca những biểu hiên đo cho thây tinh chât đa tạp, sinh đông
cua truyên truyên kỳ Viêt Nam.
2.1.2.2. Giá trị, ý nghĩa của truyện truyền kỳ
Xét vê tinh chât, gia tri cua truyên truyên kỳ Viêt Nam, co thể thây hai điêu
đặc biêt nổi bât. Đo la gia tri văn hiên va ý nghĩa lich sử. Từ văn hiến (文獻) ở đây
được dùng theo nghĩa rông; đo la văn hoa (văn chương, phong tục) va hiên nhân,
những nhân vât kiêt xuât, thần tượng cua công đồng. Truyên truyên kỳ chú trọng
đên điêu nay vì ban thân no cũng la môt biểu tượng văn hoa, môt yêu tố cua văn
hiên Viêt Nam.
Trong cac thể loại văn học trung đại, truyên truyên kỳ la loại hình gắn bo, gần
gũi với văn hoa dân gian hơn hêt. No được công chúng đặc biêt yêu thich, được phổ
biên rông rãi trong mọi điêu kiên không gian, thời gian. Đối với người Viêt Nam,
truyên truyên kỳ môt mặt đong vai trò lưu giữ ký ưc công đồng, mặt khac co kha năng
tuyêt vời trong viêc khuêch trương gia tri cua cac công trình văn hoa, từ danh lam,
thắng tich, đên miêu cho đên canh quan tư nhiên, thiên tạo. Những gia tri văn hoa to
lớn được gửi gắm vao truyên truyên kỳ đã gop phần lam phong phú đời sống tinh thần
cua nhân dân, đồng thời duy trì nguồn mạch văn hoa, lưu giữ truyên thống tốt đẹp cua
dân tôc từ đời nay sang đời khac môt cach bên vững. Đo la lý do khiên mọi danh lam
thắng đia ở Viêt Nam đêu liên quan đên môt số “tich” (chuyên) nao đo va đa phần đêu
gắn với nôi dung truyên truyên kỳ. Hầu như mọi di tich văn hoa, mọi canh vât đặc sắc
trên đât nước nay đêu được “bao trợ” bởi cac đâng “thần nhân”, “hiên nhân” va điêu đo
gop phần không nhỏ đối với viêc xac lâp gia tri cua no.
42
Trong đời sống tâm linh, tin ngưỡng cua người Viêt, cac vi thanh thần (bao
gồm ca “nhiên thần” va “nhân thần”) luôn được ca công đồng sùng bai. Người dân
xem trọng va tôn thờ thanh thần bằng cach sang tạo ra những hình tượng gắn với
cac thưc thể thuôc tư nhiên, thiên nhiên. Đo la Thần Rừng/ Thần Núi (ngư tri tại cac
khu rừng/ đỉnh núi), Thần Sông/ Thần Biển (cai quan cac dòng sông, cửa vinh); cac
vi Thanh Thần đo trân nhâm cac khu vưc, vùng miên, đia phương khac nhau trong
toan nước Viêt. Cac đâng bâc nay được coi la thê lưc siêu pham, không chỉ bao hô,
che chở cho mọi người, ban cho họ cuôc sống âm no hạnh phúc, ma thâm chi còn
co thể trừng phạt những lỗi lầm, điêu sai trai do chinh họ gây ra. Quần chúng không
chỉ đê cao, thờ phụng, tin tưởng vao chư vi phúc thần ma còn coi đo la niêm tư hao,
vinh dư cua đia phương, cua công đồng. Đây la những tin ngưỡng lâu đời, la nét
văn hoa tâm linh đang quý trong đời sống cua người Viêt. Tât ca được thể hiên môt
cach sinh đông, đầy sưc thuyêt phục trong cac truyên truyên kỳ.
Môt trong những đặc điểm cua cac truyên kể vê cac vùng đât la đia danh
luôn được “thiêng hoa” bởi tên tuổi, hanh trạng cua cac vi thần thanh, kỳ nhân.
Chinh sư hiên diên cua cac yêu tố co tinh chât huyên thoại như thê đã lam cho cac
vùng đât trở nên huyên bi. Sông Tô Lich do co môt vi thần sông cai quan cho nên
no không còn la môt con sông bình thường ma thanh “linh giang” (dòng sông
thiêng); núi Tan Viên không đơn thuần la môt ngọn núi ma la nơi trú ngụ cua Tan
Viên Sơn Thần, cho nên hoa thanh “linh sơn”. Không những thê, do no liên quan
đên Sơn Tinh, vì vây Tan Viên co vi thê cua vùng Đât Tổ, trở thanh biểu tượng
cho sư vững chãi trường tồn cua dân tôc. Noi chung, trong cac truyên truyên kỳ,
chuyên vê thần nhân va đât đai phong thổ luôn hòa quyên với nhau. Đo la môt thê
giới kỳ lạ, vừa hư ao vừa hiên thưc, đầy mau sắc, rât đa dạng va phong phú.
Trong thê giới truyên truyên kỳ, bên cạnh những câu chuyên vê ma, quai,
thần, tiên rât linh di còn co những sư tich noi vê ý thưc quât cường cua người Viêt
trước kẻ thù xâm lược qua cac thời đại. Ở đây, dâu ân lich sử đâu tranh sinh tồn cua
người Viêt được thể hiên rât cụ thể. Chẳng hạn trong Lĩnh Nam chích quái lục (Trần
Thê Phap) co ca môt nhom tac phẩm riêng thể hiên vê chu đê nay: Chuyên Soc
Thiên Vương chống nha Ân (“Đổng Thiên Vương truyên”), chuyên Thần sông Tô
43
Lich - Long Đỗ chống gian tê nha Đường (“Truyên sông Tô Lich”), chuyên Trương
Hống - Trương Hat pha giặc Tống (“Truyên hai vi thần Long Nhãn, Như
Nguyêt”)… Trong cac tac phẩm vê chu đê nay, cac vi thanh thần được xem la biểu
tượng cho hồn thiêng cua giang sơn đât nước. Thần thanh không bi hiểm, đang sợ
ma gần gũi, đang tin cây. Hơn thê, thần sông thần núi trở thanh chỗ dưa tinh thần
cho công đồng. Lúc đât nước lâm nguy vì giặc giã, chinh họ đưng vê phia nhân dân,
ra tay giúp đỡ để bao vê đât nước.
Co môt điêu rât đặc biêt luôn hiên hữu, xuyên suốt trong truyên truyên kỳ
Viêt Nam, đo la tinh thần tư tôn dân tôc. Dù noi vê những sư tich kỳ lạ, khac
thường nhưng cai loi trong cac câu chuyên bao giờ cũng liên quan đên sư thât
lich sử, văn hiên dân tôc. Truyên truyên kỳ luôn nhắc đên điêu linh di, thiêng
liêng cua đât đai cương thổ, thường xuyên khẳng đinh non sông đât nước Viêt
Nam không phai tư dưng ma co. No được hình thanh nhờ công sưc cua tiên nhân,
được tổ tiên phù trợ.
Tinh thần dân tôc, dâu ân lich sử đã gop phần tạo nên nét đặc trưng cua truyên
truyên kỳ Viêt Nam. Điêu nay được thể hiên ro nhât ở Việt điện u linh tập cua Lý Tê
Xuyên va Lĩnh Nam chích quái lục cua Trần Thê Phap. Tac phẩm cua Lý Tê Xuyên
không chỉ la sư bổ sung những khuyêt điểm cua chinh sử ma còn thể hiên môt diên
mạo khac cua lich sử dân tôc. Đo không chỉ la cac sư kiên chinh tri xã hôi ma còn la
lich sử dân tôc qua hanh tich, công trạng cua cac thần nhân, kỳ nhân người Viêt. Lê
Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục, đã đanh gia vê Lý Tê Xuyên va ý nghĩa cua Lĩnh
Nam chích quái lục rât đúng. Ông coi Lý Tê Xuyên la môt sử gia co thưc tai (nguyên
văn “Lương sử tai dã”). Những ghi chép cua Lý Tê Xuyên vê cac vi thần co công
trạng lớn lao “hô quốc tý dân”, thưc chât la môt công trình mang gia tri lich sử. Tac
phẩm nay vừa xiển dương công trạng thần nhân, đồng thời thể hiên lòng tư hao vê
cac nhân vât tiêu biểu cua dân tôc.
Dân tôc Viêt Nam đã trai qua hang nghìn năm sống dưới ach thống tri cua cac
thê lưc ngoại xâm từ phương Bắc. Trong cuôc đâu tranh lâu dai để bao vê va xây dưng
đât nước cua nhân dân ta, đã xuât hiên những nhân vât kiêt xuât, những bâc vĩ nhân,
anh hùng cai thê. Những con người đo đã để lại dâu ân sâu đâm trong truyên truyên
kỳ. Chẳng hạn Lý Thường Kiêt trong “Thai úy trung phụ dũng vũ uy thắng công” (Việt
44
điện u linh tập) la môt nhân vât lich sử nhưng cũng la nhân vât cua giai thoại. Ông đã
thưc hiên xuât sắc nhiêm vụ được vua giao khi “nước Chiêm Thanh trễ nai viêc triêu
cống, nha vua thân chinh đi dẹp. Ông vâng mênh lĩnh chưc đại tướng, sung lam tiên
phong, bắt được chúa Chiêm Thanh la Chê Cu” [92, tr. 62] hoặc khi nghe tin người
Tống co ý dòm ngo, xâm lược nước ta, ông bèn lâp tưc tâu vua: “Ngồi đợi kẻ đich đên,
sao bằng đanh trước để bẻ gãy mũi nhọn cua no”. Lý Thường Kiêt không chỉ dũng cam
chống giặc ngoại xâm ma ông còn thông minh, sang suốt khi dâng kê tân công trước để
“bẻ gãy mũi nhọn” cua giặc. Hoặc nhân vât Trưng Trắc, Trưng Nhi trong “Nhi Trưng
phu nhân” (Lĩnh Nam chích quái lục), vi nữ vương đầu tiên cua người Viêt, người vê
sau trở thanh phúc thần bao trợ cho nhân dân. Đo la những nhân vât lich sử, những
người sinh thời la anh hùng, danh nhân, khi thac thì trở thanh thần nhân. Tuy thể phach
đã vê coi âm nhưng hương hồn cua họ vân gắn bo với công đồng. Mỗi khi co giặc
ngoại xâm, họ lại hiển linh giữa nơi trân mạc để “hô quốc tý dân”, phù trợ con chau.
Thưc ra thì cac nhân vât lich sử không phai la đối tượng cua riêng truyên
truyên kỳ. Trong cac truyên kể dân gian (truyên thuyêt, cổ tich, giai thoại…) cũng
co kha nhiêu truyên đê câp đên nhân vât, sư kiên lich sử (hoặc liên quan đên lich
sử), co điêu những nhân vât đo khi hoa thân vao truyên truyên kỳ thì tinh chât đã
thay đổi nhiêu. Truyên thuyêt, giai thoại thiên vê giai thich, đanh gia, thể hiên thai
đô cua công đồng đối với (cac yêu tố) lich sử; trong khi truyên truyên kỳ lại chú
trọng đên mục tiêu “thiêng hoa” cac đối tượng nay.
Hãy phân tich môt số trường hợp cụ thể. Chẳng hạn cac truyên “Hai khẩu linh
từ”, “Vân Cat thần nữ”, “An Ấp liêt nữ” (trong Truyền kỳ tân phả - Đoan Thi Điểm).
Vân đê mâu chốt ở đây không phai la nhắc lại sư kiên, kể lại hanh trạng nhân vât như
môt sư ghi nhân (đã được thưc hiên bởi cac dạng truyên kể dân gian). Điêu quan
trọng trong cac truyên truyên kỳ nêu trên la tạo ra thê giới “u linh”, la thể hiên hiêu
ưng ngưỡng vọng cua quần chúng đối với thần tượng. Truyên “Hai khẩu linh từ” kể
vê cung phi Nguyễn Cơ (tên tư Bich Châu) đời Trần Duê Tông. Đây la môt bâc nữ
lưu, đu đưc trung trinh tiêt liêt; dam dâng lời can gian nha vua, dũng cam quyên sinh
vì viêc lớn. Từ môt nhân vât lich sử, nang Bich Châu đã bước vao thê giới truyên kỳ,
trở thanh nhân vât truyên truyên kỳ. Hanh vi tư nguyên hiên mình cho Đô đốc Nam
Hai dưới thuy phu để cưu chiên thuyên cua vua, rồi viêc hiển linh bao mông cho vua
45
Lê cua nhân vât Bich Châu mang đâm chât truyên kỳ. Tuy vây, hê qua cua hanh vi đo
thì rât hiên thưc: nhờ cac hanh vi, sư viêc đo ma nỗi oan cua nang được giai, ngôi đên
thiêng nơi cửa biển được lâp để dân chúng thờ phụng.
Truyên “An Ấp liêt nữ lục” (Truyền kỳ tân phả) kể vê cuôc đời va phẩm
hạnh người vợ thư cua Đinh Nho Hoan, môt vi quan nổi tiêng dưới thời vua Lê Dụ
Tông. Khi phu quân mât trên đường công can (đi sư) Trung Quốc, Ba giữ tiêt thao
bằng cach tư tử theo chồng. Môt truyên khac, cũng trong sach cua Đoan Thi Điểm
la “Vân Cat thần nữ lục” lại co những dâu ân cua truyên thuyêt vê Ba chúa Liễu
Hạnh được lưu truyên sâu rông trong dân gian… Thuât lại những sư kiên xoay
quanh cuôc đời cua cac nhân vât nay với nhiêu chi tiêt giau chât lãng mạn, bay
bổng, tac gia Truyền kỳ tân phả đã khẳng đinh sư bât tử, sư trường tồn cua cac nhân
vât lich sử trong tâm thưc người Viêt Nam. Truyên truyên kỳ thể hiên môt thai đô
trân trọng, ngưỡng mô đặc biêt đối với những vi anh hùng thuôc nữ giới. Họ la
những bâc “liêt nữ”, những nhân vât đẹp ca vê nhan sắc lân tâm hồn, không chỉ co
tai năng vượt trôi ma khi phach cũng rât hao hùng.
Ro rang chinh yêu tố lich sử, tinh chât lich sử đã gop phần tạo nên nét đặc
sắc cua truyên truyên kỳ Viêt Nam. Qua tìm hiểu, chúng tôi nhân thây truyên truyên
kỳ cua nhiêu quốc gia trong khu vưc như Trung Quốc, Han Quốc, Nhât Ban… chu
yêu đi vao những câu chuyên ma quai, kỳ lạ, thiên vê lối “truyên kinh di” (horror
story). Trên thưc tê thì lối “truyên ma quỷ” (ghosh and devil) hay “truyên kinh di”
rât phổ biên trên toan thê giới. Tuy thê, khi đặt bên cạnh truyên truyên kỳ Viêt Nam
thì co thể nhân ra sư khac biêt rât ro. Trong khi “truyên ma quỷ”, “truyên kinh di”
Phương Tây tâp trung vao viêc tạo nên hiêu ưng từ “nỗi sợ hãi”, trở thanh điểm then
chốt cua tac phẩm thì ở Viêt Nam, lối truyên truyên kỳ chu đê lich sử (pha trôn yêu
tố hiên thưc với yêu tố kỳ ao) lại rât phat triển. Những mô tip kiểu như “Hồng Bang
Thi truyên”, “An Dương Vương”, “Tan Viên Sơn truyên”, “Phù Đổng Thiên
Vương”… thưc sư la hêt sưc quan trọng đối với người Viêt xét trên nhiêu phương
diên. Câu chuyên vê Hùng Vương chẳng hạn, la môt sư chắp nối, phối ghép cai loi
lich sử với thần thoại để kiên tạo nên tính chất riêng cua truyên truyên kỳ. No
không chỉ hướng đên nhu cầu thẩm mỹ, giai tri ma còn gop phần kiên giai vê nguồn
gốc, tổ tiên…
46
Cũng cần lưu ý la gia tri lich sử cua truyên truyên kỳ không chỉ thu hẹp trong
hình tượng người anh hùng hoặc nhân vât, sư kiên lich sử. Diên mạo lich sử trong
truyên truyên kỳ còn được mở sang phia đời thường, thông tục. Bởi vì lich sử không
chỉ co vĩ nhân, anh hùng ma còn nhắc đên “bỉ nhân”, “gian hùng”. Vì thê ma truyên
truyên kỳ luôn mang dâu ân hiên thưc xã hôi kha ro nét, môt thư “hiên thưc” được khúc
xạ qua “lăng kinh loại hình”. Cac nha văn đã đê câp kha đầy đu những vân đê cơ ban
cua xã hôi, đồng thời qua đo bay tỏ quan điểm cua mình. Họ phê phan, tố cao, phơi bay
những cai xâu xa cua xã hôi, phu đinh triêu đại mục nat đương thời; biểu dương, cổ
xúy điêu tốt đẹp, gìn giữ thuần phong mỹ tục, đạo lý đạo đưc… Tât nhiên, do chỗ tac
gia truyên truyên kỳ la cac nha Nho, những môn đê trung thanh cua Khổng giao, cho
nên tư tưởng chu đạo trong truyên cơ ban phai la tư tưởng Nho gia. Thông qua cac câu
chuyên truyên kỳ, nha văn đê cao đạo quân thần, biểu dương những gương trung hiêu,
tiêt nghĩa, nhân hâu, thuy chung.
2.2. QUA TRINH VẬN ĐỘNG CỦA TRUYÊN TRUYÊN KY VIÊT NAM
XÉT TRÊN PHƯƠNG DIÊN LOẠI HINH
Phac thao diên mạo truyên truyên kỳ la viêc lam kho khăn, nhưng trình bay
qua trình vân đông cua no cũng không hê dễ dang. Bởi cho đên nay, xung quanh
vân đê văn ban truyên truyên kỳ vân còn những điểm đang bỏ ngỏ, chưa co câu tra
lời dưt khoat. Lẽ thường, môt khi chưa biêt đich xac, đầy đu vê lai lich tac phẩm,
thông tin cụ thể vê thời điểm xuât hiên lần đầu tiên, qua trình lưu hanh từng tac
phẩm còn nhiêu chỗ tồn nghi… thì viêc hình dung tiên trình lich sử cua no cũng sẽ
gặp những kho khăn nhât đinh.
Noi đên qua trình hình thanh va bước đường phat triển cua loại hình truyên
truyên kỳ, trên đại thể, co thể hình dung theo 3 giai đoạn, với cac mốc thời gian từ
thê kỷ XIII đên thê kỷ XIV; giai đoạn tiêp theo, từ thê kỷ XV đên thê kỷ XVIII va
giai đoạn cuối, thê kỷ XIX va những năm đầu thê kỷ XX. Cơ sở để chúng tôi tiên
hanh phân chia cac giai đoạn chu yêu dưa vao tính liên thông, liên tục, sự tương
đồng về nội dung và thi pháp cua cac tac phẩm.
Đặt trong mạch thời gian, những truyên thuôc môt giai đoạn phai co những
điểm chung dễ nhân biêt. Tât nhiên, nêu ra tiêu chi như vây cũng chỉ la môt giai
phap co tinh chât tạm thời, đúng hơn la lưa chọn thao tac lam viêc trong tình huống
cụ thể, kêt qua cua sư phân xuât nay cũng mang ý nghĩa tương đối.
47
2.2.1. Từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XIV - truyện truyền kỳ trong mối tương quan
với văn học chức năng, nghi lễ, tôn giao
Ở Viêt Nam, chữ “truyên kỳ” (傳奇) liên quan đên môt tac phẩm văn học cụ
thể vốn xuât hiên rât muôn. Người đầu tiên sử dụng chữ nay để đặt tên tac phẩm la
Nguyễn Dữ (sach Truyền kỳ mạn lục) lại la môt tac gia sống vao khoang thê kỷ
XVI. Những tac gia khac cũng dùng chữ “truyên kỳ” để đặt tên cho tac phẩm cua
mình như Đoan Thi Điểm (Truyền kỳ tân phả), Đặng Trần Côn (Tục truyền kỳ),
Phạm Quý Thich (Tân truyền kỳ lục) đêu sống vao thê kỷ XVIII. Như vây, kể từ thê
kỷ XIII, thời điểm xuât hiên những tac phẩm văn xuôi, theo cư liêu hiên nay, cho
đên khi Nguyễn Dữ hoan thanh sach cua mình (thê kỷ XVI), không co tac phẩm văn
xuôi nao được gọi la “truyên kỳ”. Dù vây, trên thưc tê, cac tac phẩm thuôc loại hình
truyên truyên kỳ đã xuât hiên. Chúng tôi tan đồng với quan niêm cho rằng cac sach
Việt điện u linh tập, Tam tổ thực lục, Thiền uyển tập anh ngữ lục thuôc dạng “đa
chưc năng”; vì thê, hoan toan co cơ sở để xêp chúng vao nhom truyện truyền kỳ.
Sach Việt điện u linh tập cua Lý Tê Xuyên ghi chép sư tich, công trạng cua
27 vi được nha nước phong kiên (thời Lý, Trần) sắc phong va đưa vao thờ tư trong
cac đên miêu. Đo la cac bâc “nhân quân”, “phụ thần”, “anh linh” được mọi người
ngưỡng vọng bởi “co công âm phù” cho nước, cho dân. Tât nhiên, với môt cuốn
sach “đa chưc năng” như Việt điện u linh tập, no co thể được coi la tac phẩm “lễ
nghi tôn giao”, co thể coi la sach ghi chép điển chê thờ tư cua triêu đình, hoặc môt
dạng thư tich lich sử… nhưng no cũng hoan toan đu tư cach để gop mặt vao loại
hình truyên truyên kỳ. Ở đây, cac nhân vât được đặt trong bầu “khi quyển” kỳ ao,
mang tinh huyên thoại. Nhân vât Bố Cai Đại Vương chẳng hạn, ro rang la nhân
vât truyên kỳ: Vương co sưc khỏe, đanh được Hổ, vât được Trâu. Sau khi mât,
Vương rât hiển linh, giúp Ngô Quyên đanh thắng quân Nam Han trên sông Bạch
Đằng. “Dân cac lang thường nghe tiêng xe, ngưa đi ầm ầm trên cac noc nha hoặc
trên cac cây cổ thụ, trông lên thường thây trong đam mây năm sắc co cờ, kiêu rưc
rỡ, lại co tiêng đan sao văng vẳng trên không” [182, tr. 13-14]. Bâc Đại Vương
nay gần gũi với nhân quần nhưng vân la nhân vât co voc dang siêu nhiên, kỳ vĩ
cua thần thoại, cổ tich. Truyên “Bố Cai Đại Vương” được hình thanh trong sư gắn
48
kêt ý thưc vê côi nguồn dân tôc với tin ngưỡng dân gian va được ký chép dưới
dạng truyên ký Han văn, đúng theo tiêu chi cua truyên truyên kỳ.
Cùng mạch truyên ký chép vê cac bâc kỳ nhân trong Việt điện u linh tập còn
co Thiền uyển tập anh ngữ lục. Tuy nhiên, đối tượng cua Thiền uyển tập anh ngữ
lục không phai nhân quân, phụ thần ma la cac nhà sư, những người được coi la tinh
túy trong vườn Thiên. Vê thời điểm ra đời cụ thể cũng như tac gia cua sach nay cho
đên bây giờ vân chưa thể xac đinh chắc chắn. Chỉ biêt la nằm trong khoang giữa thê
kỷ XIV, tưc không qua xa so với thời điểm Việt điện u linh tập xuât hiên. Thiền
uyển tập anh ngữ lục vê cơ ban la môt kiểu truyên danh nhân - tiểu sử, tiểu truyên
vê hanh trạng cua 68 vi thiên sư. Đo la môt sư pha trôn, kêt hợp giữa cac dữ kiên
xac đinh như: xuât xư, nơi tu hanh, sư trạng… cua cac bâc cao tăng va những yêu tố
mang tinh huyên thoại, như qua trình sinh xuât kỳ lạ, hiên tượng viên tich khac
thường cua họ. Noi chung, tac phẩm co nhiêu tình tiêt mang mau sắc kỳ ao, hoang
đường. Hầu hêt cac thiên sư khi ra đời đêu gắn với hiên tượng lạ, điêm lạ, giâc mơ
lạ; còn hanh trạng cua cac vi thì thường co nhiêu chuyên phi thường, huyễn hoặc;
cho đên khi tich diêt cũng co đầy phép lạ.
Chẳng hạn chuyên vê thiên sư Tinh Giới co phép lạ “hang long, phục hổ”,
cam hoa thần thông, nửa đêm thắp hương đưng giữa sân chùa tụng niêm cầu khân,
trời bèn đổ mưa; chuyên vê thiên sư Đạo Huê “tinh thông phép Tam quan Tam ma
đia, học trò đông đên hơn môt nghìn người. Tiêng sư tụng kinh ngay đêm cam hoa
ca khỉ vượn trong núi, khiên chúng kéo từng đan đên chùa nghe kinh” [91, tr. 64].
Cũng trong sach nay còn co chuyên vê nguồn gốc ra đời cua thiên sư Ngô Ẩn. Sach
chép rằng mẹ ông họ Cù, nha ở gần rừng, “môt hôm ba đang ngồi dêt vai thì co con
Khỉ lớn từ trong rừng chạy ra ôm lây lưng ba ca ngay mới bỏ đi. Sau đo ba biêt
mình co mang” [91, tr. 66]....
Sach Tam tổ thực lục viêt vê cuôc đời cua ba vi tổ sư phai Trúc Lâm la Trần
Nhân Tông, Phap Loa va Huyên Quang. Đây cũng la tac phẩm chưc năng tôn giao
được viêt theo tinh thần truyên ký, tưc la ghi chép, phan anh sư thât. Nhưng đây la
sach “thưc lục” theo lối truyên kỳ chư không phai sach lich sử. Vì thê ma ca ba
nhân vât đêu được xây dưng theo mô thưc đặc biêt - nhân vât lich sử được huyên
49
thoại hoa bằng nhiêu yêu tố kỳ ao. Ở truyên Tổ gia thực lục, ba mẹ sư tổ mang thai
đên mười thang ma chưa sinh nở. Lạ hơn nữa, “Ngay sư tổ ra đời co anh hao quang
rưc rỡ, hương thơm tỏa ngao ngạt” [91, tr. 99]. Phương thưc huyên thoại hoa nhân
vât lich sử ở Thiền uyển tập anh ngữ lục, Tam tổ thực lục rât giống với Việt điện u
linh tập, tuy mưc đô đâm nhạt co khac nhau.
Sư xuât hiên cua sach Lĩnh Nam chích quái lục khiên cho con đường phat
triển cua truyên truyên kỳ ở giai đoạn đầu nay trở nên ro rang, khởi sắc hơn. Tac
phẩm nay được cho la cua Trần Thê Phap, thê nhưng vân còn nhiêu hồ nghi. Căn cư
để xac đinh tac gia Lĩnh Nam chích quái lục chu yêu dưa vao nhân đinh co phần
thiêu dưt khoat cua Lê Quý Đôn (trong Kiến văn tiểu lục). Lê Quý Đôn viêt trong
sach nay như sau: “Sach Lĩnh Nam chích quái lục, tục truyên la do Trần Thê Phap
viêt. Chúng ta không ro Thê Phap người ở đâu. Hiên nay chỉ thây bai noi đầu cua
Vũ Quỳnh” [119, tr. 9].
Với Lĩnh Nam chích quái lục, co thể noi truyên truyên kỳ đã co bước tiên rât
quan trọng. Tac phẩm nay được phat triển trên nên tang, chât liêu cua cac truyên kể
dân gian. Trong lời Tựa sach nay, Vũ Quỳnh cho rằng tac gia Lĩnh Nam chích quái
lục đã “sưu tầm những truyên dân gian co quan hê đên cương thường va phong hoa
với mục đich khuyên thiên, trừng ac, bỏ ngụy theo chân”. Trên thưc tê, Trần Thê
Phap không chỉ đơn thuần lam công viêc sưu tầm, ghi chép. Đây thưc sư la hoạt
đông sang tac, theo lối “tân biên” cac truyên kể dân gian. Đọc cac truyên “Rùa
vang”, “Man Nương”, “Nam Chiêu”, “Sông Tô Lich”, “Thần núi Tan Viên”, “Nhi
Trưng phu nhân”… ta thây cac yêu tố đặc trưng cua truyên truyên kỳ xuât hiên đâm
đặc, khac hẳn với truyên cổ tich, truyên thuyêt dân gian.
Ro rang la với nhom tac phẩm vừa đê câp, hình hai, diên mạo cua truyên
truyên kỳ trong giai đoạn co tinh chât mở đầu, thử nghiêm đã được ổn đinh. Từ Việt
điện u linh tập cho đên Lĩnh Nam chích quái lục, truyên truyên kỳ đã co những
bước tiên đang kể. Sư hoan thiên cua lối truyên truyên kỳ chưc năng đã tạo tiên đê
cho sư bưt pha quan trọng ở giai đoạn kê tiêp.
50
2.2.2. Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII - qua trình hoàn thiện truyện truyền kỳ
trên con đường tiếp thu, tiếp biến cac gia trị văn hóa, văn học
Từ thê kỷ XV trở đi, văn học Viêt Nam chưng kiên sư phat triển nhanh
chong cua văn xuôi chữ Han, trong đo thanh tưu đang kể nhât chinh la truyên truyên
kỳ. Trong khoang thời gian trên dưới bốn thê kỷ, với sư xuât hiên cua môt loạt cac
tac phẩm như: Nam Ông mộng lục, Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục, Tân
truyền kỳ lục, Truyền kỳ tân phả, Công dư tiệp ký, Sơn cư tạp thuật, Tang thương
ngẫu lục… văn xuôi tư sư trung đại noi chung, truyên truyên kỳ noi riêng đã co
những bước chuyển biên mang tinh đôt pha. Diên mạo loại hình truyên truyên kỳ
Viêt Nam đã trở nên hoan thiên, đạt đên đỉnh cao.
Bô sach Thánh Tông di thảo la môt trong số những thanh tưu tiêu biểu cho
loại hình truyên truyên kỳ. Tuy vây, vân đê văn ban, lai lich tac gia ở trường hợp
nay cũng rât phưc tạp. Mặc dù tên sach la Thánh Tông di thảo (được hiểu la văn
ban/ ban thao còn lại cua Thanh Tông), nhưng Thanh Tông la ai(?) thì rât kho khẳng
đinh. Thanh Tông ở đây co thể la vua Lê Thanh Tông. Nêu suy luân từ những điêu
liên quan đên thân thê, năng lưc văn chương cua vi hoang đê triêu Lê được sử sach
ghi chép lại thì hiểu như thê không phai hoan toan vô căn cư. Nhưng cũng co nhiêu
dâu hiêu cho thây sach nay la sư tâp hợp truyên từ nhiêu tac gia khac nhau chư
không chỉ riêng vua Lê Thanh Tông. Điêu nay không hẳn do sư lâp lửng trong tiêu
đê tac phẩm ma còn bởi những cư liêu ngôn ngữ học, sử học, văn hoa học… gợi ra.
Nghi vân Thánh Tông di thảo không phai do Lê Thanh Tông la co lý bởi vì trong
tac phẩm nay co nhiêu tình tiêt, sư kiên cho thây no thuôc vê triêu đại khac. Chẳng
hạn ở môt số truyên co nhắc đên cac đia danh ma phai đên thời Nguyễn mới được
sử dụng chư thời Lê chưa co. Hơn nữa, thời phong kiên ở nước ta, niên hiêu Thanh
Tông không chỉ triêu Lê mới dùng. Vây nên câu hỏi: sach Thánh Tông di thảo la
cua (những) ai? No xuât hiên lúc nao?… qua không dễ tra lời. Thâm chi, số lượng
truyên trong sach nay la bao nhiêu (20 hay 22 truyên?) cũng gây nhiêu tranh cãi.
Với Thánh Tông di thảo, co thể khẳng đinh loại hình truyên truyên kỳ Viêt
Nam đã co môt bước tiên dai, ca trên phương diên tư tưởng nghê thuât, cũng như
hình thưc nghê thuât. Nêu như Việt điện u linh tập, Thiền uyển tập anh ngữ lục, Lĩnh
51
Nam chích quái lục… những tac phẩm thuôc giai đoạn khởi đầu, đang trong qua trình
đinh hình, thử nghiêm thì Thánh Tông di thảo đã hoan thiên hơn rât nhiêu. Đây ro
rang la tac phẩm văn chương giau tinh hình tượng, được sang tạo với mục đich nghê
thuât rât ro chư không phai những ghi chép mang tinh chât “chưc năng”. Yêu tố kỳ lạ,
kỳ ao trong Thánh Tông di thảo được sử dụng với vai trò phương tiên nghê thuât để
chuyển tai nôi dung. Đặc biêt, sư thay đổi vê kiểu đê tai, mâu hình nhân vât, thâm chi
ca yêu tố “thời sư” xuât hiên trong Thánh Tông di thảo… cũng rât đang lưu ý. Chẳng
hạn trong những truyên “Mai Châu yêu nữ truyên”, “Nhi nữ thần truyên”, “Lãng Bạc
phùng tiên”… ta thây xuât hiên cac “nguyên mâu” được lây từ thưc tê. Đo la cac
nhân vât, sư kiên, đia danh lich sử liên quan đên cuôc khang chiên chống giặc Minh,
liên quan đên xã hôi thời Lê…
Nêu như truyên truyên kỳ giai đoạn trước đê câp nhiêu đên cac “vĩ nhân”,
cac sư kiên co tầm voc lớn lao trong lich sử công đồng, dân tôc thì Thánh Tông di
thảo lại co thiên hướng khai thac những sư viêc hang ngay, những chuyên nhỏ nhặt,
tiểu tiêt trong đời sống. Tac gia chú ý nhiêu đên phương diên “đời thường” cua
nhân vât, quan tâm đên những con người thuôc tầng lớp bình dân, nhât la người phụ
nữ… Đo cũng la những bằng chưng sinh đông vê sư thay đổi, dich chuyển trong
quan niêm nghê thuât cua tac gia. Thánh Tông di thảo cũng cho thây nỗ lưc để thoat
dần lối văn chưc năng, hướng đên lời văn trần thuât mang tinh nghê thuât. Chẳng
hạn lời kể cua nhân vât xưng la “Ta” trong cac truyên “Lãng Bạc phùng tiên”, “Thử
tinh truyên”, “Mông ký”… rât sinh đông. No it nhiêu đã co dâu ân cua “lời noi
thường”, cua tiểu thuyêt, khac hẳn lối văn “thưc lục” liên quan đên vua chúa hoặc
những truyên biên chép thần tich, tin ngưỡng ma chúng tôi đã nêu ở giai đoạn trước.
Giai đoạn thê kỷ XV - XVIII la chặng đường phat triển vượt bâc cua truyên
truyên kỳ Viêt Nam. Trong đo, Truyền kỳ mạn lục cua Nguyễn Dữ la đỉnh cao cua
loại hình văn học nay. No được coi la môt kiêt tac, kêt tinh thanh tưu mây trăm năm
cua loại hình truyên truyên kỳ Viêt Nam. Xét vê mặt văn ban, tuy vân tồn tại những
điểm còn ý kiên khac nhau, song co thể thống nhât tâp sach nay do Nguyễn Dữ (văn
ban chữ Han viêt 阮嶼 nên cũng co thể đọc la Nguyễn Tự) sang tac vao khoang
giữa thê kỷ XVI, toan bô co 20 truyên.
52
Như đã trình bay sơ bô ở chương Tổng quan, xung quanh cuôc đời, sư
nghiêp cua Nguyễn Dữ, cũng như viêc đanh gia nôi dung, ý nghĩa, gia tri cua tac
phẩm Truyền kỳ mạn lục vốn co rât nhiêu ý kiên khac nhau. Trong đo nổi bât hai
vân đê. Thư nhât la mối quan hê giữa Truyền kỳ mạn lục va Tiễn đăng tân thoại (Cù
Hưu); thư hai la viêc tiêp thu, tiêp biên văn học truyên kỳ Trung Quốc đã được
Nguyễn Dữ xử lý như thê nao để co thể tạo ra thiên “kỳ bút” nay.
Tuy co nhiêu khac biêt trong viêc đanh gia Truyền kỳ mạn lục, nhưng riêng vê
vai trò định vị loại hình cua no thì hầu như không ai ban cãi gì. Với tac phẩm nay,
những đặc điểm cơ ban cua loại hình truyên truyên kỳ Viêt Nam đã được thể hiên
môt cach ro rang. Nguyễn Dữ đã lam được điêu ma chỉ co bâc tai năng xuât sắc mới
lam được, đo la tạo ra môt hình mâu cho loại hình văn học nay; đồng thời đưa truyên
truyên kỳ đạt đên đỉnh cao, đên đô cổ điển, mâu mưc. Qua trình đưa truyên truyên kỳ
thoat khỏi sư niu kéo cua văn xuôi co tinh chât nhât dụng, chưc năng đã được Nguyễn
Dữ thưc hiên môt cach thanh thoat, tai tình.
Tac phẩm cua Nguyễn Dữ đã tạo môt khoang cach kha xa so với cac tâp
truyên truyên kỳ ở giai đoạn trước (thê kỷ XIII - XIV) trên nhiêu phương diên. Chỉ
noi riêng vê đối tượng phan anh, Truyền kỳ mạn lục đã bao quat môt phạm vi đời
sống, hiên thưc xã hôi sâu rông hơn hẳn.
Xã hôi Viêt Nam trong Truyền kỳ mạn lục đầy rây những canh loạn lạc, biên
đông. Đây la lúc mâu thuân giai câp, xung đôt giữa cac tâp đoan quyên lưc bùng phat,
vỡ lở. Đỉnh điểm la cuôc nôi chiên Lê - Mạc kéo dai trên nửa thê kỷ (từ 1533 cho đên
1592); rồi cuôc phân tranh Trinh - Nguyễn (1627 - 1672) cũng dai dẳng trong môt
khoang thời gian tương tư. Trong hoan canh lich sử xã hôi khung hoang, suy thoai toan
diên bởi nôi chiên, vân đê số phân, thân phân, hạnh phúc va quyên sống cua con người
cũng như phê phan cai xâu xa, vô đạo, phan nhân văn… đã trở thanh vân đê chinh yêu
cua môt số xu hướng văn học, trong đo co truyên truyên kỳ. Đo qua thât la môt bước
tiên rât quan trọng cua loại hình văn học nay.
Co thể noi, Truyền kỳ mạn lục đã mở rông tầm anh hưởng cua tac phẩm văn
học đối với đời sống. No phan anh những mâu thuân gay gắt cua xã hôi đương thời;
đã tạo ra nhiêu gia tri, nhiêu chưc năng hơn so với truyên truyên kỳ trước đo.
Nguyễn Dữ rât tinh tê trong viêc kêt hợp chât liêu thưc tê, lich sử với yêu tố kỳ ao,
quai lạ để sang tạo nên môt thê giới nghê thuât vừa lạ lùng vừa gần gũi, chân thưc.
53
Trong Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã sử dụng cai “kỳ” như môt thu phap nghê
thuât để chuyển tai nôi dung hiên thưc. Cai “kỳ” nay co sư thống nhât, quan hê biên
chưng với cai “thưc”. Truyền kỳ mạn lục hâp dân người đọc bởi lối kể chuyên vừa
thưc, vừa hư, co thần tiên ma quỷ, nhưng chu yêu la để noi chuyên cua con người
trần thê, chuyên thưc tê ở coi pham...
Như đã noi, môt trong những vân đê liên quan đên Truyền kỳ mạn lục được
tranh cãi nhiêu nhât đo la anh hưởng cua tac phẩm Tiễn đăng tân thoại (Cù Hưu,
Trung Quốc) đối với truyên cua Nguyễn Dữ như thê nao? Đặc biêt, truyên “Chiêc
đèn mâu đơn” (Cù Hưu) va truyên “Cây gạo” (Nguyễn Dữ) được so sanh nhiêu
nhât, ý kiên cũng rât khac nhau.
Vê vân đê nay, ngay từ thê kỷ XVI, Ha Thiên Han trong lời Tựa Truyền kỳ
mạn lục đã nêu nhân xét la, “xem văn từ thì không vượt ra ngoai phên giâu cua
Tông Cat” (tưc Cù Hưu). Co thể hiểu đây chinh la lời khen ngợi cua Ha Thiên Han
đối với Truyền kỳ mạn lục chư không phai ham ý chê bai. Ha Thiên Han đã dưa trên
nguyên tắc tư duy nghê thuât thời trung đại, coi tiên nhân la khuôn mâu, theo
nguyên lý “Hâu cổ bạc kim” (trọng cai đã thanh điển phạm, không khuyên khich tạo
ra cai mới), hoặc “Thuât nhi bât tac” (nhắc lại, dưa theo chư không pha bỏ quy
phạm). Noi cach khac, co thể hiểu họ Ha đê cao lối văn cua Nguyễn Dữ, tưc la cho
rằng tac phẩm cua Nguyễn Dữ đã đạt đên tầm cổ điển, chuẩn mưc, quy phạm.
Cũng co ý kiên cho rằng Nguyễn Dữ đã dưa vao sach cua Cù Hưu để lam ra
tac phẩm cua mình. Lý do la vì sach cua Nguyễn Dữ được viêt sau Cù Hưu khoang
môt thê kỷ, trong khi giữa hai tac phẩm lại co môt số mô tip truyên giống nhau. Tuy
vây, nêu căn cư vao đây để noi Truyền kỳ mạn lục mô phỏng Tiễn đăng tân thoại thì
lại co phần phiên diên, không thỏa đang. Vê vân đê nay, chúng tôi cho rằng giai
thich như nha nghiên cưu Nguyễn Đăng Na (trong bai “Truyền kỳ mạn lục dưới goc
đô so sanh văn học” [93, tr. 210] la co tinh thuyêt phục hơn ca.
Co môt điêu đang lưu ý la sau Truyền kỳ mạn lục cua Nguyễn Dữ, xuât hiên
môt số tac phẩm truyên kỳ khac, lây cam hưng từ cuốn sach nay. Đo la Tân truyền
kỳ lục, Truyền kỳ tân phả va Tục truyền kỳ, những tac phẩm ma tiêu đê cho thây
người đời sau đã tiêp thu, kê thừa “phong cach truyên truyên kỳ” từ tac phẩm cua
Nguyễn Dữ rât ro rang.
54
Vê tac phẩm Truyền kỳ tân phả va Tục truyền kỳ, hiên tại giới chuyên môn
vân chưa thống nhât đo la môt hay hai tac phẩm khac nhau. Ngay từ thê kỷ XIX,
theo quan niêm cua Phan Huy Chú thì đây la hai tên gọi khac nhau cua môt tac
phẩm. Thông tin trong sach Lịch triều hiến chương loại chí (phần Văn tịch chí)
cho thây Truyền kỳ tân phả la cua Đoan Thi Điểm. Sach gồm co 6 truyên văn xuôi
viêt bằng chữ Han la: 1/. “Truyên đên thiêng cửa biển” (Hai khẩu linh từ lục); 2/.
“Truyên thần nữ Vân Cat” (Vân Cat thần nữ truyên); 3/. “Truyên người liêt nữ ở
An Ấp” (An Ấp liêt nữ lục); 4/. “Cuôc gặp gỡ kỳ lạ ở Bich câu” (Bich Câu kỳ ngô
ký); 5/. “Cho khôn chiu nhin mèo” (Nghĩa khuyển khuât miêu); 6/. “Cuôc cờ tiên
trên núi Hoanh Sơn” (Hoanh Sơn tiên cục). Nhưng cũng co quan niêm khac cho
rằng Truyền kỳ tân phả chỉ co 3 truyên la “Hai khẩu linh từ lục”, “An Ấp liêt nữ
lục” va “Vân Cat thần nữ truyên” còn những truyên khac la cua Đặng Trần Côn
(dưới tên gọi Tục truyền kỳ). Nhìn chung, xung quanh văn ban Truyền kỳ tân phả -
Tục truyền kỳ cho đên nay vân đang tồn tại những quan niêm khac nhau, chưa thể
khẳng đinh dưt khoat.
Trong Truyền kỳ tân phả - Tục truyền kỳ, co thể thây đa số cac truyên/ thiên
đêu co cốt truyên xuât phat từ cac giai thoại, truyên thuyêt dân gian. Môt điêu đang
lưu ý nữa la truyên đêu gắn với cac đia danh thưc tê, hoặc cac danh nhân văn hoa,
danh nhân lich sử nước nha. Chẳng hạn như truyên “Hai khẩu linh từ lục”, “An Ấp
liêt nữ lục”, “Vân Cat thần nữ truyên”, “Bich câu kỳ ngô ký”.
Truyên “Hai khẩu linh từ lục” (Truyền kỳ tân phả) noi vê ngôi đên thiêng nơi
cửa biển Kỳ Hoa (Ha Tĩnh). Đên nay được lâp ra để thờ ba Nguyễn Cơ, cung nữ cua
vua Trần Duê Tông. Ba Nguyễn Cơ la vi phúc thần được đưa vao điển lễ cua nha nước.
Bô quốc sử Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép môt cach ro rang hanh tich cua ba. Đây la
môt nhân vât lich sử, được huyên thoại hoa, thanh nhân vât truyên thuyêt/ truyên kỳ va
sau đo được “tục truyên kỳ”, tiêp nối mạch truyên truyên kỳ.
Truyên “An Ấp liêt nữ lục” (Truyền kỳ tân phả) cũng kể vê môt nhân vât co
nguyên mâu thưc tê. Nhân vât nay la ba vợ thư cua Lại bô Hữu thi lang, Tiên sĩ
Đinh Nho Hoan, môt nhân vât lich sử, quê ở xã An Ấp (cũ), thuôc huyên Hương
Sơn, tỉnh Ha Tĩnh. Đinh Nho Hoan đỗ Hoang giap khoa Canh Thìn (1700), được
55
triêu đình cử lam Pho sư trong đoan sư bô sang nha Thanh năm 1716. Ông bi lâm
bênh rồi mât khi đang trên đường đi sư. Do qua đau buồn vì cai chêt cua người
chồng cho nên ba phu nhân đã tuân tiêt, dù gia đình đã tìm mọi cach ngăn trở. Dưới
thời nha Lê, triêu đình sắc phong ba la “Trinh liêt phu nhân”, đồng thời cho lâp đên
thờ phụng mãi đên sau nay.
Nhân vât chinh trong truyên “Vân Cat thần nữ truyên” (Truyền kỳ tân phả) co
nguyên mâu la nang Giang Tiên, con gai Thai Công ở thôn Vân Cat. Thưc ra, mối liên
quan giữa cốt truyên “Vân Cat thần nữ” với cac giai thoại, truyên thuyêt dân gian vốn
rât phưc tạp. Xuât phat từ những “manh sư tich” rời rạc, quần chúng đã chắp nối thanh
môt câu chuyên hoan chỉnh dưới dạng truyên khẩu, mang đâm tinh chât tôn giao - tin
ngưỡng công đồng; vê sau đã được tạo tac thanh môt truyên truyên kỳ hâp dân.
Tac phẩm Tân truyền kỳ lục cua Phạm Quý Thich, gồm 3 truyên: 1/. “Bần
gia nghĩa khuyển truyên” (Truyên con cho nha nghèo co nghĩa); 2/. “Vũ trùng giốc
thắng” (Cuôc đâu giữa ve sầu va nhặng xanh); 3/. “Khuyển miêu đối thoại” (Cuôc đối
thoại giữa cho va mèo). Dưa vao niên biểu nha văn (ông sinh năm 1759, mât năm
1825) cũng như những nôi dung được đê câp trong tâp sach, co thể dư đoan Tân
truyền kỳ lục xuât hiên trong khoang thời gian cuối đời nha Lê, đầu đời nha Nguyễn.
Tân truyền kỳ lục cua Phạm Quý Thich vừa co tinh chât cua truyên ngụ ngôn,
tưc la những lời răn, những bai học (luân lý, triêt lý, đạo lý…) được “gửi” (ngụ) qua
những mẩu chuyên, lời noi (ngôn) lại vừa co tinh chât cua môt truyên truyên kỳ.
Trong trường hợp Tân truyền kỳ lục, ngụ ngôn co thể coi la môt kiểu dạng tac phẩm
(co khi được gọi la “loại”, “thể”, “thể tai”…) dùng cac đồ - vật thay thê cho con
người. Chinh tac gia cũng đã xêp truyên cua mình vao nhom truyên truyên kỳ, dù la
Tân truyền kỳ lục (truyên truyên kỳ theo lối mới). No co đầy đu những đặc điểm,
tinh chât cua lối truyên theo “phong cach Nguyễn Dữ”.
Cần lưu ý môt điêu, trong giai đoạn nay (cũng như giai đoạn trước va sau đo)
còn rât nhiêu tac phẩm tuy không được gọi la “truyên kỳ”/ “tân truyên kỳ”/ “tục
truyên kỳ” nhưng chúng vân thuôc vê loại hình nay. Chẳng hạn Nam Ông mộng lục,
Công dư tiệp ký, Sơn cư tạp thuật, Tang thương ngẫu lục… Những thiên truyên đo
cho dù được gọi la lục, ký, thuật… thì thưc chât chúng đêu la truyên truyên kỳ vì co
đầy đu tiêu chi, đặc trưng cua loại hình văn học nay.
56
Qua những tac phẩm ma chúng tôi vừa trình bay, co thể noi khoang thời gian
từ thê kỷ XV - XVIII la giai đoạn phat triển, hoan thiên trên mọi phương diên cua
loại hình truyên truyên kỳ Viêt Nam. Cac nha văn đã co ý thưc tiêp thu môt cach
sang tạo những yêu tố cần thiêt từ nguồn mạch, chât liêu văn học dân gian cũng như
yêu tố văn học nước ngoai để tạo ra những tac phẩm truyên kỳ co gia tri cao ca vê
nôi dung lân hình thưc nghê thuât.
2.2.3. Từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX - qua trình chuyển hóa và kết thúc loại
hình truyện truyền kỳ
Sau giai đoạn đỉnh cao, truyên truyên kỳ Viêt Nam thê kỷ XIX, đầu thê kỷ XX
vân tiêp tục con đường vân đông, phat triển liên tục cua no. So với chặng trước đo, số
lượng truyên truyên kỳ không hê suy giam, trai lại, rât phong phú va đa dạng. Co thể
kể đên cac tac phẩm tiêu biểu như Mẫn Hiên thuyết loại (Cao Ba Quat - Trương Quốc
Dụng), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh), Bích Châu du tiên mạn ký (Nguyễn Huy Hổ),
Việt Nam kỳ phùng sự lục (khuyêt danh), Vân nang tiểu sử (Phạm Đình Dục), Thính
văn dị lục (khuyêt danh), Nam thiên trân dị tập (khuyêt danh), Dã sử (khuyêt danh),
Hát đông thư dị (Nguyễn Thượng Hiên)… Tuy vây, trong qua trình phat triển cua
loại hình truyên truyên kỳ, đã diễn ra những thay đổi quan trọng vê phương diên nôi
dung, hình thưc cũng như phương thưc hình thanh. Đanh gia môt cach tổng thể, co
thể thây truyên truyên kỳ giai đoạn nay vân đông theo xu hướng khac. Đo la cac
truyên được trình bay theo hình thưc tiểu phẩm, tốc ký những điêu “kiên văn”, “thinh
văn” cac “tiểu sử”, “dã sử”, “liêt truyên”. Nôi dung thiên hẳn vê lối truyên “kỳ nhân”,
“di nhân”, “di lục”… Đang chú ý la đã bắt đầu xuât hiên lối truyên truyên kỳ viêt
bằng chữ quốc ngữ, chuẩn bi cho sư hình thanh xu hướng “phỏng truyên kỳ” cua văn
xuôi hiên đại trong giai đoạn đầu thê kỷ XX.
Co thể coi lối “tiểu truyên”, “tiểu phẩm” la môt đặc điểm cua truyên truyên
kỳ giai đoạn nay. Chẳng hạn Mẫn Hiên thuyết loại co đên 232 tiểu truyên, tiểu
phẩm. Đây la bô sach được thưc hiên bởi Cao Ba Quat (1809 - 1854) va Trương
Quốc Dụng (1797 - 1864). Nôi dung Mẫn Hiên thuyết loại được chia thanh 3
phần. Phần đầu (10 thiên) la những truyên ký vê cac nhân vât lich sử sống vao
quãng thời gian cuối triêu Lê, đầu triêu Nguyễn. Phần hai (176 thiên) đê câp đên
cac danh lam thắng tich, hang đông, thanh lũy, chùa chiên… với tiêu đê chung la
57
Cổ tích; Phần ba (46 thiên) co tiêu đê Nhân phẩm, ghi chép thông tin vê cac danh
nhân lich sử.
Trong 232 thiên cua Mẫn Hiên thuyết loại thì 10 thiên đầu la phần cua riêng
Cao Ba Quat, 222 thiên còn lại do hai người soạn chung. Cac thiên trong phần đầu đêu
co tiêu đê riêng: 1/. “Vụ an trôm trưng ga” (Kê tử đạo an), 2/. “Vụ an mạng ở Từ Sơn”
(Từ Sơn mênh bao), 3/. “Truyên cũ thượng thư họ Trinh” (Trinh thượng thư di sư), 4/.
“Truyên cũ Phương Am tiên sinh” (Phương Am tiên sinh di sư), 5/. “Cha con Nguyễn
Ba” (Nguyễn Ba phụ tử), 6/. “Tiên sĩ họ Trần vâng mênh đi sư” (Trần tiên sĩ phụng
sư), 7/. “Ông Ba Bach trung nghĩa” (Bach Tam Lang trung nghĩa), 8/. “Ngô Lâm chửi
giặc” (Ngô Lâm mạ tặc), 9/. Họ Vũ ở Trạm Điên (Trạm Điên Vũ tôc), 10/. “Anh em
Phan Văn Phụng” (Phan Văn Phụng huynh đê)… Chinh tiêu đê nay cũng phần nao thể
hiên được nôi dung, chu đê cac truyên.
So với Mẫn Hiên thuyết loại, sach Lan Trì kiến văn lục cua Vũ Trinh (1759
- 1828) co it truyên hơn (45 truyên, được chia lam 3 tâp), dù số trang cũng xâp xỉ
nhau. Phần lớn dung lượng truyên đêu ngắn, thường goi gọn trong vai trang, chỉ
co dăm truyên đạt đô dai tới ba bốn trang. Tâp sach nay đã tạo được dâu ân rât sâu
sắc đối với giới nho sĩ, tri thưc thê kỷ XIX. Điêu nay được thể hiên qua 4 bai đê
tưa cua Huyên Trai Ngô Hoang (tưc Ngô Thì Hoang), Tin Như Thi. Những người
đê tưa đã đanh gia rât cao lối văn, gia tri cua Lan Trì kiến văn lục, coi đo như môt
tac phẩm mâu mưc “cũng giống như Sưu thần, Tề Hài, còn vê nôi dung thì co ngụ
bút cua Thai sử công (…) đại để la ngụ ý khuyên răn va canh cao sâu xa, để người
sau xem sach nay thây điêu hay thì bắt chước thây điêu dở thì phòng ngừa, thât co
ich rât nhiêu cho thê giao, lam sao co thể coi la loại dã sử cua cac vi quan xoang!”
[163, tr. 12].
Bô sach Thính văn dị lục cũng la môt tâp truyên gồm nhiêu thiên/ tiểu truyên
đôc lâp. Cho đên nay, Thính văn dị lục do ai viêt vân chưa ro; tac phẩm được viêt
vao thời điểm nao cũng chưa thể xac đinh. Hơn nữa, vì co đên hai văn ban (viêt tay)
ma số truyên lại rât chênh lêch (37 truyên va 52 truyên) thanh thử rât kho khẳng
đinh đâu la ban chinh, đâu la ban được tục biên/ tân biên. Tuy vây, dưa trên những
thông tin co trong cac truyên, co thể suy đoan tac phẩm được hình thanh trong
khoang thê kỷ XVIII, XIX. Nôi dung cua Thính văn dị lục kể vê những chuyên lạ
58
liên quan đên nhân vât văn hoa, lich sử; chuyên kỳ quai, thâm chi huyễn hoặc vốn
lưu truyên trong dân gian…
Tac phẩm Vân nang tiểu sử cua Phạm Đình Dục la bô sach co đên 86 truyên.
Nôi dung chưa đưng những chuyên kỳ lạ trong coi nhân gian. Đo co thể la hanh tich
kỳ lạ cua con người co phẩm chât, năng lưc khac thường (người tiêt nghĩa, trung
trinh, cao tăng, đạo sĩ, thầy phap…), chuyên yêu tinh ma quỷ hiên hình (hồ ly, bùa
ngai…), cho đên cac vât loại đang sợ (cọp, beo, rắn, rêt…).
Hát đông thư dị cua Nguyễn Thượng Hiên (1868 - 1925), gồm 66 truyên.
Đây la tâp sach vê những chuyên lạ lùng, bi hiểm xay ra chinh nơi quê hương cua
Nguyễn Thượng Hiên. Môt số truyên trong tâp nay lại la dạng rút gọn, tom lược từ
sach Công dư tiệp ký cua Vũ Phương Đê.
Trong giai đoạn nay co điêu đang lưu ý la hiên tượng “cai biên” cac bô
truyên truyên kỳ vốn lưu hanh từ trước. Cac bô sach nay xuât hiên dưới dạng tom
lược, tom tắt lại để thanh cac tuyển tâp. Trong số đo, tiêu biểu la Nam thiên trân dị
tập va Nam hải dị nhân liệt truyện.
Vê nôi dung, Nam thiên trân dị tập được biên soạn lại trên cơ sở cac bô
sach Công dư tiệp ký, Thính văn dị lục, Lĩnh Nam chích quái lục…Cho đên hiên
nay vân chưa ro ai la người đã biên soạn sach nay. Bô sach gồm 2 tâp, co đên 138
truyên. Cũng vì sach được xây dưng trên cơ sở tâp hợp từ nhiêu nguồn, do đo kha
ôm đồm, đa tạp.
Riêng Nam hải dị nhân liệt truyện cua Phan Kê Binh (1875 - 1921) thì co thể
coi la môt trường hợp mang tinh ngoại lê. Điêu khac biêt cua tac phẩm nay so với
cac tâp truyên truyên kỳ khac la ở hình thưc văn ban. Phan Kê Binh viêt cuốn sach
nay không phai bằng chữ Han ma la quốc ngữ, xuât ban vao năm 1909, thời điểm
ma chữ va văn quốc ngữ đã trở nên chiêm ưu thê.
Tac phẩm Nam hải dị nhân liệt truyện được chia thanh 7 chương với cac nhom
truyên theo những chu đê khac nhau: Các bậc anh kiệt (Trưng Vương, Bố Cai Đại
Vương, Đinh Tiên Hoang…); Các bậc danh nhân (Lý Thường Kiêt, Tô Hiên Thanh,
Hưng Đạo Đại Vương, Nguyễn Trãi…); Các bậc danh nhân (Mạc Đỉnh Chi, Chu
Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đặng Đình Tướng); Các bậc văn tài (Nguyễn Hiển,
Lương Thê Vinh, Vũ Công Duê, Giap Hai, Đỗ Uông…); Các bậc mãnh tướng (Lê
Phụng Hiểu, Đoan Thượng, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Xi, Phạm Tử Nghi…); Các vị
59
thần linh ứng (Sử (sic) Đồng Tử, Phù Đổng Thiên Vương, Tan Viên Sơn Thần, Lý
Ông Trọng, Tô Lich Giang Thần…); Các vị tiên tích (Từ Thưc, Tú Uyên, Phạm Viên,
Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không…); Các người danh tiếng (Ngô Soạn, Nhi
Khanh, Ta Ao, Nguyễn Thi Điểm). Với những nôi dung như thê, không kho để nhân
ra nguồn gốc Nam hải dị nhân liệt truyện chinh la hình thưc “tân biên” cac truyên
truyên kỳ tiêu biểu suốt ca thời kỳ trung đại.
Co thể coi Nam thiên trân dị tập va Nam hải dị nhân liệt truyện la những tac
phẩm cuối cùng cua truyên truyên kỳ Viêt Nam. Đên đây số phân lich sử cua no đã
được đinh đoạt. Đặc biêt la trường hợp Nam hải dị nhân liệt truyện, biểu hiên ro nét
nhât cho qua trình chuyển hoa từ truyên truyên kỳ chữ Han sang môt kiểu loại văn
học mới, tạm gọi la “phỏng truyên kỳ”. Đã gọi “phỏng truyên kỳ” thì ro rang la
không phai (truyên kỳ) nhưng cũng chưa phai đã đoạn tuyêt hoan toan. Tuy nhiên,
đây la lúc văn học dân tôc bước sang môt thời kỳ mới va truyên truyên kỳ đã châm
dưt vai trò cũng như qua trình lich sử cua mình.
TIÊU KÊT
Loại hình truyên truyên kỳ Viêt Nam la môt hiên tượng văn hoa - văn học
hêt sưc đa dạng, phong phú. Xét vê cach thưc biểu hiên, no la môt san phẩm được
“lai tạo” giữa văn học truyên khẩu với văn học thanh văn, la thư văn chương đa tạp
vê phong cach do được kêt hợp bởi nhiêu nguồn. Xét vê tinh năng, công dụng, no
mang tinh chât dung hợp, không chỉ “văn - triêt - sử” ma còn gồm tôn giao, tin
ngưỡng, đia chi, phong tục... Truyên truyên kỳ la môt thanh tưu lớn, môt chỉ dâu vê
sư phat triển vượt bâc ca vê tư tưởng, tư duy va nghê thuât. No kêt tinh cac gia tri
văn hoa - lich sử được hình thanh qua hang ngan năm dưng nước va giữ nước. No
cũng la kêt qua từ qua trình giao lưu, tiêp xúc với cac nên văn học trong khu vưc. Vì
thê, truyên truyên kỳ mang đâm dâu ân tâm thưc văn hoa, tôn giao, tin ngưỡng cua
công đồng dân tôc Viêt. Đo la môt dạng folklore được “tân biên” thanh môt thư văn
chương bac học.
Truyên truyên kỳ Viêt Nam co nguồn gốc đa nguyên va mang gia tri văn hoa -
lich sử sâu sắc. Xét vê nguồn gốc, no được phat triển từ nhiêu nguồn. Loại hình văn
học nay được hình thanh va vân đông theo những quy luât riêng. Con đường cua no la
cai biên cac giai thoại, truyên thuyêt, truyên kể dân gian, hay la “văn ban hoa” cac yêu
60
tố folklore, tôn giao, tin ngưỡng, hoặc chuyển thể cac tac phẩm văn học Trung Quốc;
va cũng được tạo ra theo phương thưc hư câu… Tât ca những biểu hiên đo cho thây
tinh chât đa tạp, sinh đông cua truyên truyên kỳ Viêt Nam.
Xét vê mặt gia tri, truyên truyên kỳ co hai điêu đặc biêt nổi bât. Đo la gia tri
văn hiên va ý nghĩa lich sử. Đây la phương tiên lưu giữ ký ưc văn hoa, ký ưc lich sử
cua công đồng người Viêt qua hang ngan năm. Truyên truyên kỳ mang những gia tri
tinh thần cua người Viêt, mặt khac, ban thân no cũng la môt biểu tượng cho văn
hiên Viêt Nam.
Qua trình vân đông cua loại hình truyên truyên kỳ Viêt Nam gồm 3 giai đoạn.
Giai đoạn thư nhât, khoang từ thê kỷ XIII - XIV; giai đoạn thư hai từ thê kỷ XV -
XVIII; giai đoạn thư ba từ thê kỷ XIX đên đầu thê kỷ XX. Ở giai đoạn khởi đầu,
truyên truyên kỳ chu yêu mang chưc năng tôn giao, tin ngưỡng, lễ nghi. Con đường
phat triển cua no la từ văn học chưc năng tiên gần hơn tới văn học hình tượng, tạo
tiên đê cho sư phat triển vượt bâc ở giai đoạn kê tiêp. Giai đoạn thư hai được coi la
giai đoạn phat triển, hoan thiên cua truyên truyên kỳ Viêt Nam. Cac nha văn đã tiêp
thu môt cach sang tạo những yêu tố cần thiêt từ văn học dân gian va văn học nước
ngoai để tạo ra những tac phẩm truyên kỳ co gia tri cao. Trong khoang thời gian trên
dưới bốn thê kỷ, đã co rât nhiêu tac phẩm truyên kỳ xuât hiên đanh dâu bước chuyển
biên mang tinh đôt pha cua loại hình văn học nay. Diên mạo loại hình truyên truyên
kỳ Viêt Nam đên đây đã trở nên hoan thiên.
Sau giai đoạn đỉnh cao, truyên truyên kỳ Viêt Nam vân tiêp tục con đường vân
đông, phat triển liên tục cua no. Tuy vây, đên đây no bắt đầu co những thay đổi quan
trọng. Cac truyên được trình bay theo hình thưc tiểu phẩm, tốc ký; nôi dung thiên hẳn
vê lối truyên “kỳ nhân”, “di nhân”, “di lục”… Đặc biêt, đã bắt đầu xuât hiên những yêu
tố mới, gop phần chuẩn bi cho sư phat triển cua văn xuôi hiên đại.
61
Chương 3
LOẠI HINH TRUYÊN TRUYÊN KY VIÊT NAM - NHỮNG GIA TRỊ
VĂN HÓA, LỊCH SỬ
Tiêp tục kham pha truyên truyên kỳ Viêt Nam trong tư cach môt loại hình
văn học, nhiêm vụ chương nay la tìm hiểu những điểm nổi bât cua đối tượng trên
phương diên nôi dung tac phẩm. Điêu nay được bôc lô chu yêu qua những gia tri
văn hoa, lich sử cua truyên truyên kỳ.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “nôi dung” cua môt tac phẩm “la hiên thưc
cuôc sống được phan anh trong sư cam nhân, suy ngâm va đanh gia cua nha văn. Đo
la môt hê thống gồm nhiêu yêu tố khach quan va chu quan xuyên thâm vao nhau”
[42, tr. 167]. No được biểu hiên qua đề tài, chủ đề, tư tưởng, cảm hứng chủ đạo…
Noi chung la co rât nhiêu yêu tố trong tac phẩm “chưa đưng” nôi dung. Tuy nhiên,
ở đây chúng tôi sẽ tâp trung vao hai điểm chu yêu, co tinh đặc thù cua truyên truyên
kỳ: ký ưc lich sử, văn hoa cua dân tôc va thê giới linh di trong truyên truyên kỳ.
3.1. KÝ ỨC LỊCH SỬ, VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC TRONG TRUYÊN
TRUYÊN KY
3.1.1. Truyện truyền kỳ - một lối “sử trong truyện”
3.1.1.1. Hạo khí giang sơn và cội nguồn dân tộc
Ở giai đoạn mở đầu loại hình truyên truyên kỳ, co môt điêu rât dễ nhân thây
đo la “tinh thần lich sử” bao trùm, xuyên thâm trong hầu hêt cac tac phẩm. Chu đê
thường trưc ở đây la đê cao tinh thần dân tôc bằng cac câu chuyên liên quan đên côi
nguồn, hạo khi cua giang sơn đât nước. Tiêu biểu nhât cho mạch truyên nay la Việt
điện u linh tập va Lĩnh Nam chích quái lục. Co thể xem đây la những câu chuyên vê
con đường hình thanh dân tôc, đât nước hoặc cũng co thể noi đo la lịch sử quá trình
kiến tạo dân tộc.
Sach Việt điện u linh tập cua Lý Tê Xuyên được coi la môt trong những tac
phẩm ra đời sớm nhât. Tac phẩm nay gồm 27 truyên, được chia lam 3 phần. Âm
hưởng chu đạo cua no la ca tụng cac bâc “đê vương”, cac vi “phụ thần” va cac đâng
“anh linh”, đồng thời ghi lại thời điểm triêu đình sắc phong thần. Đúng như tiêu đê
62
cua bô sach, đây la “bang phong thần” danh cho những người co công mở nước, kiên
tạo nên giang sơn nước Viêt. Nôi dung nay được tac gia trình bay rât ro rang trong
bai Tựa: “Thanh nhân xưa noi: “Thông minh chinh trưc mới đang gọi la thần, ta ma
quỷ quai ma lạm gọi la thần được đâu”. Trong nước Hoang Viêt ta, cac thần thờ ở
đên miêu xưa nay rât nhiêu, nhưng ma công tich to lớn ro rêt, cưu giúp sinh linh thì
co được mây đâu? Tuy nhiên, cac thần vốn co phẩm loại không ngang nhau, co vi la
tinh túy cua núi sông, co vi la nhân vât kiêt linh, khi thê rừng rưc lúc đương thời, anh
linh tỏa rông đên đời sau” [161, tr. 9].
Trong quan niêm cua Lý Tê Xuyên, dù chư vi thần linh co xuât xư, hanh
trạng khac nhau, song tât ca đêu la “tinh túy cua núi sông”, “nhân vât kiêt linh” cua
nước Viêt. Viêt Việt điện u linh tập la nhằm để “ghi chép”, “phân loại” vê cac vi
thần vốn được thờ phụng trong dân gian, la để lưu truyên cho hâu thê muôn đời vê
côi nguồn va truyên thống lich sử cua dân tôc. Cũng chinh vì thê ma tac gia đặt tên
sach la Việt điện u linh tập. Tiêu đê ẩn chưa thông điêp dưt khoat vê môt nước
Hoang Viêt dồi dao văn hiên, co nguồn mạch sâu xa, hạo khi bao trùm. Chữ u linh
(幽 靈) ở đây vừa chỉ sư linh thiêng, vừa chỉ hanh trạng bi ẩn cac bâc thần linh, cua
tổ tiên người Viêt.
Điêu cốt yêu cua những câu chuyên linh di xư Viêt trong sach nay la sư
ngưỡng vọng cua công đồng đối với những con người, sư vât, sư viêc cụ thể, vốn
xay ra trong qua khư xa xăm, được ký chép lại để truyên đời. Mạch hạo khí nước
Viêt được sinh xuât, được xây đắp va lưu giữ, tiêp nối qua nhiêu ngạch bâc, thê hê
khac nhau, trai qua thời gian đằng đẵng hang ngan năm.
Đo la cac bâc vốn đã hiển thanh, hoa thần như: Thần Xã Tắc, Thần Đồng Cổ,
Thần Long Đô, Thần Phù Đổng, Thần Tan Viên, Thần Bạch Hạc… Những bâc
thanh thần đo, trong quan niêm cua công đồng, chinh la những đâng bâc đong vai
trò kiên tạo, khởi nguyên. Họ kiên tạo nên hình hai đât nước va khơi nguồn linh khi
cho giang sơn. Danh sach cac đâng bâc kiên tạo còn co những vi đã xưng đê, xưng
vương như: Sĩ Nhiêp, Phùng Hưng, Trưng Trắc, Triêu Quang Phục, Lý Phât Tử…
Đây la lớp người dưng nghiêp, tư mình tạo ra cac triêu đại, hoặc mở ra cac thời đại
lich sử hiển hach. Chinh xac hơn, đây la cac bâc “thần đê”, “thần vương” - tưc
63
những bâc đê vương đã nhâp vao coi cua cac đẳng thần. Tiêp theo danh sach “nhân
quân” la Lý Hoang, Lý Ông Trọng, Lý Thường Kiêt, Phạm Cư Lượng, Lê Phụng
Hiểu, Mục Thân, Trương Hống, Trương Hat… Đo la cac bâc hiên tai, những nhân
vât lây lừng từ cổ sơ cho đên đương triêu (Trần). Tât ca, từ cac đâng bâc “anh linh”,
chư vi “nhân quân”, cho đên cac “phụ thần” đêu hoa vao coi u linh để phù trì cho
đât nước, công đồng.
Cần lưu ý la cac sư kiên, nhân vât trong Việt điện u linh tập dù đầy rây chi
tiêt hư huyễn, phi thường nhưng luôn được trưng dân đầy đu gốc tich, sở cư - môt
trong những tinh chât quan trọng cua thể tai “sử truyên”. Lý Tê Xuyên rât chú ý đên
viêc dân xuât căn nguyên, nguồn côi cac vi thần thanh hoặc những nhân vât mang
phẩm chât thần thanh. Ông muốn tạo dưng cho hâu thê niêm tin vao tinh xac thưc
cua câu chuyên va dùng hình thưc truyên kỳ để lưu chuyển cac thông tin lich sử.
Chẳng hạn ông dân nguồn từ cac sach Tam quôc chí cua Trần Thọ; Giao Châu ký
cua Triêu Công; Giao Châu ký cua Tăng Công; Sử ký cua Đỗ Thiên; Báo cực
truyện; Việt sử bổ di… để “bao chưng” cho những điêu mình ký chép trong sach.
Lý Tê Xuyên còn dân ca những giai thoại dân gian ma tac gia gọi chung la “tục
truyên”, như cac truyên “Lý Đô Úy”, “Cao Lỗ”, truyên “Nam Hai Long Vương”…
Chinh điêu nay đã gop phần tô đâm tinh chât “sử thiêng”, “sử truyên kỳ” cua Việt
điện u linh tập.
Cùng với Việt điện u linh tập, sach Lĩnh Nam chích quái lục cũng thể hiên rât
ro “tinh thần lich sử” như vây. Đây la môt trong những đặc điểm quan trọng cua
truyên truyên kỳ. Tac phẩm nay còn co tiêu đê khac la Lĩnh Nam chích quái liệt
truyện, được biên soạn bởi Trần Thê Phap. Co thể noi rằng, “ký ưc lich sử, văn hoa”
trong Lĩnh Nam chích quái la điêu ma nhiêu người đã nhân thây từ rât sớm, ngay từ
thê kỷ XV.
Dòng mạch “Viêt sử” ở Lĩnh Nam chích quái lục hoan toan trùng khớp, noi
đúng hơn la cùng chung nguồn mạch với những gì đã được thể hiên trong sach Việt
điện u linh tập cua Lý Tê Xuyên, dù hình thưc, lối trình bay co chỗ khac nhau. Gốc
tich, côi nguồn đât nước, dân tôc Viêt Nam được lý giai qua loạt cac truyên thuyêt, thần
thoại, cổ tich rât đôc đao. Theo đo, đât nước Viêt Nam vốn không phai tư dưng ma co.
64
No được kiên tạo nên bởi lớp lớp Thần - Nhân. Sư trường cửu cua dân tôc cũng không
phai ngâu nhiên ma co; no được đắp bồi bởi rât nhiêu thê hê người Viêt.
Trong nhãn quan cua tac gia truyên truyên kỳ, đât nước Viêt Nam không đơn
thuần la vân đê cương vưc, đia lý ma còn la “hồn thiêng” cua no. Chinh vì vây ma
mọi lòng sông thê núi, chằm hồ gò bãi nước ta bao giờ cũng được bao hô bởi cac thần
thanh liên quan. Hình hai đât nước đã được hình tượng hoa, chuyển hoa vao cac chân
dung thần thanh. Đo chinh la tinh thần lich sử ẩn tang trong truyên truyên kỳ. Chinh
Trần Thê Phap đã diễn giai rât mạch lạc trong bai Cổ thuyết tựa dẫn. Ông viêt: “Như
truyên “Họ Hồng Bang” noi ro thời xây dưng nước Viêt. Truyên “Dạ Xoa” noi lên
buổi đầu hình thanh nước Chiêm Thanh, truyên “Bạch trĩ” noi vê họ Viêt Thường,
truyên “Rùa Vang” chép vê An Dương Vương. (…) Cac truyên “Đổng Thiên Vương”
dẹp giặc Ân, “Lý Ông Trọng” diêt Hung Nô la để đời biêt nước Nam co người nổi
tiêng. (…) Cac truyên Ngư tinh, Hồ tinh noi chuyên diêt trừ yêu quai ma công đưc
cua Long Quân không thể quên. Truyên anh em họ Trương trung nghĩa chêt lam thổ
thần, được ban cờ biểu dương, ai bao không nên? Truyên Tan Viên thiêng liêng, bai
trừ thuy tôc, viêc lam rạng rỡ, ai bao không phai? Ôi! đên như truyên Nam Chiêu la
con chau Triêu Vũ Đê, tuy nước mât ma vân phục thù” [119, tr. 44]. Quan niêm nay
còn được khẳng đinh thêm qua ý kiên cua Vũ Quỳnh (Tựa, Tựa thuyết), Kiêu Phú
(Tựa dẫn).
Nôi dung Lĩnh Nam chích quái đê câp đên những điêu huyên hoặc, kho tin
nhưng tac gia lại cho rằng “Viêc tuy quai gở ma không dối tra, văn tuy lạ lùng ma
không ghê rợn”. Điêu nay co ý nghĩa rât quan trọng bởi vì những câu chuyên được
kể trong sach tuy không hoan toan la sư thât (lich sử), nhưng no lại liên quan chặt
chẽ tới lich sử. Noi đúng hơn, trong cac truyên quai lạ được tâp hợp lại ở đây, với
những mưc đô đâm nhạt khac nhau, chúng đêu thuôc phạm trù lich sử (cho dù la dã
sử, dật sử chư chưa phai la chinh sử).
Những yêu tố bi coi la “quai đan” hiên diên trong cac truyên cua Trần Thê
Phap luôn được đặt trong tương quan với lich sử dân tôc. No gop phần tô đâm tâm
thưc lich sử - văn hoa cua công đồng. Điêu ma Kiêu Phú đã viêt trong Tựa dẫn: “bô
sach nay cố gắng truyên lại những điêu nghe rông thây nhiêu cho đầy đu đên cac đời
65
sau, để giúp đời sau hiểu được đời trước, từ đo hiểu được sư tich đời xưa cua nước
Viêt ta, xem cho được tinh tường, không sai môt sợi toc” [161, tr. 41].
Cũng cần noi thêm la chúng tôi đã trình bay Việt điện u linh tập va Lĩnh Nam
chích quái lục như những trường hợp điển hình vê mối quan hê sâu sắc giữa truyên
truyên kỳ với lich sử dân tôc. Như vây, không co nghĩa cai gọi la “ký ưc lich sử” chỉ
xuât hiên ở hai tac phẩm nay. Trai lại, yêu tố lich sử, tinh thần lich sử hiên hữu ở rât
nhiêu tâp truyên truyên kỳ: Mẫn Hiên thuyết loại, Tang thương ngẫu lục, Vũ trung
tùy bút... Tuy mưc đô đâm nhạt co thể khac nhau, hình thưc thể hiên co thể khac
nhau, nhưng những câu chuyên co nôi dung tương tư, mang chỉ dâu vê lich sử dân
tôc thì hoan toan thống nhât.
Dâu ân lich sử ở cac truyên “Hai khẩu linh từ lục”, “An âp liêt nữ lục” trong
Truyền kỳ tân phả chẳng hạn, lại theo môt dạng thưc khac so với Việt điện u linh
tập hay Lĩnh Nam chích quái lục. Trong hai truyên nay, diên mạo lich sử không thể
hiên ở hanh trạng cua cac nhân vât phi thường hay sư tich kỳ vĩ kiểu “khai thiên lâp
đia” ma theo môt lối riêng. No chú trọng đên những biểu hiên cụ thể, những đông
tĩnh trong đời sống hang ngay cua cac bâc vua chúa, phi tần, mênh phụ, phu nhân…
chốn cung đình. Thông qua những phép tắc, nên nêp sinh hoạt, cung cach ưng xử
giữa cac nhân vât trong truyên truyên kỳ, môt “chiêu kich” khac cua cac nhân vât
lich sử được hiển lô.
Truyên “Hai khẩu linh từ lục” hé mở cho người đọc những chi tiêt liên quan
đên đời sống vua Lê Dụ Tông va vương triêu cua ông. Đo la sinh hoạt văn nghê,
xướng họa thi văn giữa vua va phi tần; sư tham gia cua nang Bich Châu vao chinh
sư (dâng Kê minh thập sách cho vua, can ngăn viêc đanh Chiêm Thanh). Đặc biêt
“Hai khẩu linh từ” còn trình bay kha ro rang diễn biên cuôc chinh phạt vương quốc
Phù Nam cua Lê Dụ Tông vao năm Long Khanh thư tư (1376). Truyên cho biêt,
nguyên nhân vua Lê khởi binh la bởi người Chiêm Thanh gây hân, xâm lân biên
cương nước Hoang Viêt trước. Vì thê ma nha vua mới đông binh nhằm “ra uy” với
“phiên bang”. Tuy nhiên, chu trương nay đã gặp phai sư phan đối cua môt số quần
thần (tiêu biểu la Bich Châu va quan Ngư sử trung tan Lê Tich). Như vây, co thể noi
cuôc viễn chình nay đã bât ổn ngay từ đầu. Tiêp đên la những trở ngại do thời tiêt,
66
những bât lợi trong qua trình thuy quân di chuyển từ Thăng Long vao tân xư Chiêm
Thanh xa xôi va cuối cùng la môt kêt cục bi tham. Trên đường đi, đôi quân cua vua
Dụ Tông gặp nhiêu trở ngại, co lúc không thể tiên được. Môt số tình tiêt đã được
thuât lại rât cụ thể. Trước cai chêt cua Bich Cơ, “Vua va cac phi tần kinh hoang
luống cuống, ai cũng thương khoc”. Tiêp đên vua sai lam lễ tê trọng thể. “Tê xong,
văn vũ tam quân đêu khoc sướt mướt. Vua lâp tưc hạ lênh tiên quân, tiên sâu vao
cửa đông Ỷ Mang, trúng phai quỷ kê cua Ba Ma, toan quân nha vua bi hãm ở trong
đông ây” [33, tr. 51]. Những tình tiêt liên quan đên lich sử kiểu như vây không dễ
gặp trong cac bô sử sach chinh thưc, chinh thống. Đây cũng la môt trong những nét
đôc đao cua “lich sử” ở truyên truyên kỳ.
Tưu trung lại, co thể noi rằng truyên truyên kỳ Viêt Nam la môt sư bổ cưu,
bổ sung cần thiêt vao những chỗ khiêm khuyêt, những “goc khuât” cua chinh sử.
Với những câu chuyên mang nhiêu yêu tố kỳ quai, huyễn hoặc nay, môt mặt, ký ưc
lich sử cua công đồng được lưu giữ, truyên tai thuân lợi, mặt khac, tinh thần dân tôc
cũng được khuêch trương môt cach khéo léo, phù hợp với hoan canh cua người Viêt
thời trung đại. Truyên truyên kỳ - lối “sử trong truyên” như cach gọi cua Trần Thê
Phap, đã khắc phục được phần nao tình canh “nước Viêt ta từ xưa bi liêt vao theo
chê đô yêu phục, hoang phục nên viêc ghi chép rât sơ sai”. Noi cach khac, lối truyên
mang nhiêu tinh chât điển lê, chưc năng như Việt điện u linh tập, Lĩnh Nam chích
quái lục hoặc theo lối thưc lục, đời thường như Truyền kỳ mạn lục, Truyền kỳ tân
phả, Lan Trì kiến văn lục… sẽ la nguồn bổ sung, thâm chi la chỗ dưa quan trọng
cho lich sử dân tôc thời xa xưa. Điêu đo cũng hoan toan phù hợp với nhân đinh cua
Vũ Quỳnh khi ông cho rằng đây la môt lối “truyên trong sử ký” (Tưa Lĩnh Nam
chích quái lục).
3.1.1.2. Chân dung các bậc tuấn kiệt, hiền tài nước Việt
Trong thê giới nhân vât truyên truyên kỳ, đối tượng đặc biêt đông đao,
được nhắc đên thường xuyên nhât la cac bâc tuân kiêt, hiên tai. Hiên tai, tuân
kiêt la những người nổi tiêng, co phẩm chât, hanh trạng khac thường. Tên tuổi,
sư nghiêp cua họ được truyên tụng, trở thanh niêm tư hao cua ca công đồng. Bâc
tuân kiêt, hiên tai hiên diên trong truyên truyên kỳ với nhiêu danh vi, chưc phân
67
khac nhau. Đo la cac bâc đê vương, vo tướng, văn thần, anh hùng, liêt nữ, Nho sĩ
tri thưc…
Khac với cac bâc thần thanh co công kiên tạo xã tắc, giữ vai trò “ti quốc hô
dân”, kẻ tuân kiêt, hiên tai vốn la thanh viên cua công đồng, xuât thân từ quần
chúng. Họ cũng co gốc gac, lai lich, đời sống riêng tư giống như mọi ca nhân bât kỳ
khac. Điểm khac biêt chỉ la ở tai năng vượt trôi, thâm chi co ca những biểu hiên phi
pham, gần với thần thanh hơn la người bình thường.
Tuy nhiên, cần lưu ý la cac bâc tuân kiêt, nhân tai xuât hiên trong truyên
truyên kỳ không hoan toan giống như nhân vât cua chinh sử. Tac gia truyên truyên
kỳ không hướng đên mục tiêu ký chép “người thât viêc thât” như công viêc cua sử
gia. Sư khac biêt nay kha tinh tê, rât mong manh, nhưng đo chinh la điểm mâu chốt
để tạo ra sư khac biêt giữa văn học truyên kỳ va “sử”. Nhân vât trong truyên truyên
kỳ không sống đời sống lich sử, không hanh xử như những gì được ghi trong sử
sach (chinh sử, sử truyên). Cai ma cac tac gia truyên truyên kỳ quan tâm la “vầng
hao quang” cua những con người đặc biêt nay.
Trong cac truyên truyên kỳ, nguyên mâu lich sử sẽ được nha văn nhao nặn,
chê tac để thanh nhân vât gọi la tuấn kiệt, hiền tài theo nguyên tắc riêng cua loại
hình văn học nay. Nêu như trong sử sach (chinh thống), chân dung, hanh trạng nhân
vât được giữ nguyên vẹn, thì trong truyên truyên kỳ no đã bi khúc xạ, bi biên dạng,
tưc la đã được “lạ hoa” đi. Nhưng nhân vât truyên kỳ cũng không giống nhân vât
trong “tiểu thuyêt lich sử” nêu xét vê mục đich va ý nghĩa. No không phai la môt
hình tượng nghệ thuật được hư câu hoặc mô phỏng nhằm mục đich biểu đạt tư
tưởng. Vê ban chât, nhân vât tuân kiêt, hiên tai trong truyên truyên kỳ la những con
người co thât, được huyên thoại hoa theo những mưc đô khac nhau để thanh biểu
tượng cho tai năng, phẩm gia, sư tinh anh cua người Viêt Nam. Bởi vây co thể coi
truyên truyên kỳ vê cac danh nhân chinh la biểu hiên sinh đông cho nguyên vọng,
nhân thưc cua quần chúng.
Đưng đầu danh sach “người Viêt tinh anh” trong truyên truyên kỳ hẳn nhiên
phai la cac bâc đê vương. Gọi cac bâc đê vương la người ưu tú nhât không co gì sai
bởi họ đại diên, tiêu biểu cho công đồng vê mọi phương diên: tri tuê, tai đưc, công
68
trạng… Tât nhiên, không phai mọi đê vương đêu co tai năng va đưc đô vượt trôi.
Trên thưc tê cũng co những kẻ hôn quân bạo chúa, ich kỷ tầm thường. Song điêu lý
thú la những kẻ như vây hầu như không xuât hiên, “không co chỗ” trong thê giới
truyên truyên kỳ.
Ở đây cũng co điêu cần lưu ý la ngoại trừ cac bâc vua chúa vốn được xêp
thanh môt “hạng” riêng, (được gọi la “nhân quân” như trong Việt điện u linh tập),
thì hạng người tuân kiêt la đê vương trong truyên truyên kỳ thường được mô ta theo
môt nguyên tắc khac với sử ký. Nêu trong sử ký, cac bâc đê vương được khắc họa
với lối văn cung kinh, nghiêm cẩn, lễ nghi thì ở truyên truyên kỳ, dù vân thể hiên sư
ngưỡng mô sâu sắc, song cac nhân vât nay lại được nhìn nhân dưới môt nhãn quan
khac hẳn. Thai đô, giọng điêu ở truyên truyên kỳ toat lên sư thân mât, suồng sã,
thâm chi hai hước rât đặc trưng cua văn học dân gian. Điêu nay được thể hiên rât ro
qua những thiên truyên vê Đinh Bô Lĩnh, Hồ Quý Ly, Lê Lợi, Nguyễn Ánh… Co
thể noi, truyên truyên kỳ đã phac thao môt diên mạo rât khac vê cac bâc vua chúa -
nhân vât quan trọng cua mọi giai đoạn lich sử.
Trong Công dư tiệp ký cua Vũ Phương Đê co truyên vê nhân vât Đinh Bô Lĩnh.
Ở truyên nay, thân thê sư nghiêp cua vi hoang đê họ Đinh không phai la qua trình dưng
nghiêp đê từ hai tay trắng, ma la huyên thoại “Chôn xương bụng ngưa” (nguyên văn la
“Tang thần mã Đinh Thi dĩ khắc thắng nhât dư đồ”. Truyên truyên kỳ chỉ quan tâm tới
sư lạ khi noi vê Đinh Bô Lĩnh. Do đo ma hoan canh xuât thân cua ngai cũng khac hẳn
những điêu được chép trong chinh sử. Theo đo, phụ thân cua hoang đê không phai la
Thư sử Đinh Công Trư ma la môt con rai ca trong cai đầm sâu ở đông Hoa Lư. Do bẩm
sinh co tai bơi lặn, lại thông minh lanh lợi, Đinh Bô Lĩnh biêt được huyêt đât thiêng
trong đầm va lén chôn bô xương rai ca (hai cốt bố đẻ) vao đây, vì thê ma được âm phù.
Viêc thu phục, đanh dẹp cac sư quân để nhât thống nước Viêt cua Ông vê sau được giai
thich la do biêt lợi dụng long mạch đât đai từ bé. Truyên viêt, “Đinh được nhiêu người
tin phục va tôn lam thu lĩnh. Khi ở sach Đao Úc, từng co lần đanh nhau với người chú,
phai chạy qua đầm, cầu gãy bi té nhao xuống nước. Chú chạy lại toan lây giao đâm,
bỗng nhiên co hai con rồng vang bay xuống che chở cho Đinh. Chú sợ bỏ chạy. Vì thê
người theo vê ngay cang nhiêu” [23, tr. 68].
69
Đinh Bô Lĩnh vê sau bi sat hại bởi nghich thần. Đo la thưc tê lich sử. Nhưng
truyên truyên kỳ thì giai thich theo môt cach khac, đầy vẻ bi hiểm. Ông thanh công
la do được âm phù va chêt vì bi người Tau trân yểm. Truyên viêt tiêp, “Từ đo, Đinh
trăm trân trăm thắng, được gọi la Vạn Thắng Vương. Chang dẹp được mười hai sư
quân, thống nhât dư đồ, lam Đinh Tiên Hoang. Nhưng chỉ mới ở ngôi mười hai năm
thì bi nôi nhân la Đỗ Thich am sat, ca con la Đinh Liễn cũng bi giêt. Vì bi người
khach dùng kê đanh lừa, đặt gươm vao đầu ngưa, cho nên mang vạ vây” [23, tr. 68].
Trong số cac nhân vât đê vương xuât hiên trong truyên truyên kỳ thì Lê Lợi
la trường hợp được nhắc đên nhiêu nhât. Điêu nay vì nhiêu lý do khac nhau. Trước
hêt, ban thân vi hoang đê khai sang triêu Lê, vương triêu dai nhât trong lich sử thời
phong kiên co vai trò đặc biêt quan trọng; hơn nữa sư xuât hiên cua Lê Lợi lại đúng
vao giai đoạn phat triển mạnh mẽ cua truyên truyên kỳ… Thê nên từ cuôc đời, sư
nghiêp chinh tri lây lừng nhưng cũng lắm gian truân cua Lê Thai Tổ, hang loạt giai
thoại, truyên thuyêt, truyên ngôn… vê ông đã xuât hiên. Đo la cơ sở để cac nha Nho
biên soạn thanh những truyên truyên kỳ đặc sắc.
Trong tac phẩm Vũ trung tùy bút cua Phạm Đình Hổ co hai thiên truyên đêu
noi vê Lê Lợi. Truyên thư nhât co đoạn: “Vua Lê Lợi khi còn ở núi Lam Sơn đanh
nhau với quân Minh bi thua, quân tướng bỏ chạy tan loạn ca. Lúc đang chạy qua
khoang đồng, thây môt ông gia đang cùng người vợ lom khom tat nước bắt ca bên
bờ ruông, vua liên chạy lại, cởi ngay ao, xuống ruông bắt ca với hai ông ba gia.
Quân Minh đuổi đên nơi, hỏi hai ông ba lão rằng: Có thấy Lê Lợi chạy qua đây
không? Ông lão đap: Không thấy. Nha vua nganh tai lên nghe, ông lão liên mắng:
Thằng này sao không bắt cá đi, việc gì đến mày! Quân Minh không nghi hoặc gì ca,
bỏ đi. Đên tối, ông lão mời vua vê nha ngu. Trong nha co nuôi môt con hầu (khỉ),
ông lão bèn giêt đi để lam cơm. Lúc bưng lên chỉ co ca diêc nướng va bat canh thit
hầu, nhưng ý tư rât cung kinh. Vê sau, những khi nha Thai miêu lam lễ tê, thì co để
hai ông ba gia ây vao phối hưởng, tục vân gọi la ông hầu, ba hầu. Cỗ hưởng cua hai
ông ba gia ây, ngoai những thưc tam sinh ra, thê nao cũng lam môt đĩa ca nướng va
bat canh thit hầu, giống như bữa ăn khi xưa đã dâng vua, để ghi nhớ cai công lúc
ây” [91, tr. 554].
70
Truyên thư hai kể chuyên vua Lê Lợi được môt ma nữ hoa thân thanh Hồ ly
cưu nạn. Trong môt lần bi giặc Minh truy đuổi, Lê Lợi phai chạy trốn, di chuyển qua
nhiêu nơi. Cuối cùng ông lẩn vao trong bụi cây râm rạp, ẩn mình ở đo. Giặc Minh
dùng cho săn đi tìm, lần theo dâu vêt va phat hiên ra vùng cây co người trốn. Quân
giặc bua vây va dùng giao đâm vao bụi, trúng đùi vua. Lê Lợi nhanh tri liên dùng ao
lau đầu ngọn giao để khi chúng rút giao ra thì không thây vêt mau. Tuy vây, cho săn
vân hướng vao bụi cây sua mãi không dưt. Đang lúc quân giặc hồ nghi chưa biêt nên
xử lý thê nao thì từ trong bụi râm co vât lao vụt ra. Vât đo co hình dang rât lạ, đầu
người, thân hồ ly. Lũ cho săn lâp tưc đuổi theo vât nay va vì thê quân giặc cũng
không thể đưng ở chỗ cũ được mãi. Chinh nhờ vây ma Lê Lợi thoat nạn trong gang
tâc. Vât đầu người mình hồ ly xuât hiên kip thời đo chinh la hiên thân cua kẻ từng
chiu ơn vua bây giờ bao đap. Trước đo, đương lúc chạy trốn, Lê Lợi gặp môt người
nữ chêt bên đường, không ai chôn lâp. Cam thương kẻ phân bạc, dù trong canh nguy
nan nhưng ngai cũng không đanh bỏ đi nên đã bỏ công đao huyêt, đắp điêm lam
phúc. Vì thê ma khi vua lâm nạn, hồn người chêt hiển linh đanh lạc hướng giặc để
đên đap ơn nghĩa. Chinh những manh sư tich nay đã gop phần lam ro hơn, sinh đông
hơn chân dung thu lĩnh Lam Sơn. Đây la vi anh hùng được nhân dân cùng thần linh
phù trì, ung hô.
Nhìn chung, truyên truyên kỳ mô ta chân dung cac bâc đê vương co rât nhiêu
điểm khac lạ so với những gì được ký chép trong sử sach chinh thống. Không chỉ
Đinh Tiên Hoang, Lê Lợi ma cac trường hợp khac, từ cac vua Trần (như Trần Nhân
Tông, Trần Dụ Tông…), cac vua Lê, đên cac vua Nguyễn (đặc biêt la vua Gia
Long)… đêu như vây.
*
Hạng người thư hai, cũng thuôc hang “tuân kiêt” la cac văn thần vo tướng,
cac nha khoa bang, bâc anh tai trên nhiêu phương diên. Đây la những gương mặt
xuât chúng ở những lĩnh vưc cụ thể cua đời sống. Tuy nhiên, truyên truyên kỳ chú ý
nhiêu đên họ như môt hiên tượng lạ, quái, kỳ. Chẳng hạn trường hợp Nguyễn Trãi.
Trong lich sử dân tôc, đây la môt gương mặt tri thưc tiêu biểu, môt bê tôi thuôc
hang lương đống, la đại công thần khai quốc triêu Lê; Nguyễn Trãi còn la môt tai
71
năng văn chương xuât sắc, “viêt thư thao hich tai giỏi hơn hêt môt thời”, người mở
ra môt thời đại mới cho thơ ca dân tôc (chữ Nôm)… Noi chung, ông la môt vĩ nhân
hoan toan xưng đang để được dân tôc va ca nhân loại tôn vinh. Thê nhưng trong
Tang thương ngẫu lục cua Phạm Đình Hổ, khi kể chuyên “Ông Lê Trãi”, tac gia
không nhắc nhiêu đên thân thê Ức Trai, không lặp lại những gì đã co trong Đại Việt
sử ký toàn thư hoặc cac thư tich quan trọng khac. Lai lich, gốc gac cua nhân vât đặc
biêt nay được Phạm Đình Hổ nêu kha sơ sai: “Ông Lê Trãi thuở tiên triêu, hiêu la
Ức Trai, nguyên họ Nguyễn. Cha la ông Phi Khanh lam chưc Tư khanh, người
huyên Phượng Nhãn, thich phong thuy, nhân dời mồ ma tổ tiên đên tang ở lang Nhi
Khê, huyên Thượng Phúc rồi lam nha ở đây. Ông đỗ tiên sĩ đời nha Hồ, lam quan
đên chưc Ngư sử đai chanh chưởng. Nha Hồ mât, ông theo ông Tư khanh tranh loạn
ở Côn Sơn, co câu thơ Dạ y Ngưu Đẩu vọng trung nguyên (Đêm lần theo sao Ngưu
sao Đẩu trông vê đât nước). Tâm lòng ưu thời mân thê thường lô ra ở những câu thơ
vinh” [48, tr. 116]. Điêu Phạm Đình Hổ chú trọng trong truyên “Ông Lê Trãi” la
những tình tiêt, sư kiên ly kỳ, khac lạ. Chẳng hạn tình tiêt Trần Nguyên Hãn kêt
thân với Nguyễn Trãi mưu sư phục quốc. Truyên kể rằng Trần Nguyên Hãn sau nay
lam tôi nha Lê, thuôc hang “khai quốc công thần” nhưng xuât thân tiểu thương;
hang ngay dạo qua cac lang ban dầu kiêm sống. Môt lần khi đi qua lang Thụy
Hương, vì lỡ đường nên ông ghé vao ngôi đên thờ Hy Khang Đại Vương Lý Ông
Trạng (sic) tìm chỗ ngu. Đên khuya nghe co tiêng trò chuyên nên ông tỉnh giâc,
nằm yên lắng nghe. Hoa ra la vi thần lang bên đên ru vi thần chu nha cùng lên chầu
Ngọc Hoang Thượng đê. Thần chu nha từ chối, không thể đi vì mình đang co khach.
Thần còn noi ro, khach la môt vi “quốc công” đang ngu trọ ở đây. Đên ga gay thì vi
thần lang bên trở vê từ cuôc chầu. Qua đối đap giữa hai vi thần, Trần Nguyên Hãn
biêt được thiên cơ. Theo đo, Thượng đê đã “chỉ đinh” hai nhân vât xuât sắc cua
nước Nam (la Lê Lợi va Lê Trãi) sẽ đam trach viêc lớn. Hôm sau tỉnh dây, Trần
Nguyên Hãn gac bỏ chuyên buôn ban, đanh đường đi dò tìm va gặp được Ức Trai.
Ban đầu ca Trần Nguyên Hãn va Ức Trai đêu trù trừ chưa quyêt. Khi Trần Nguyên
Hãn trở lại đên để hỏi thêm thì được Đại vương bao mông cho biêt: “Viêc thiên
đình, không dam tiêt lô”, đồng thời chỉ đường sang gặp ba Tiên Dung. Họ Trần lại
72
tìm đên ba Tiên Dung, mang theo lễ hâu để hỏi sư tình. Đên đây, cũng qua lời bao
mông, ba Tiên Dung khẳng đinh: “Lê Lợi lam vua, Lê Trãi lam tôi, nha người còn
chưa biêt ư? Hỏi kỹ thì noi Lê Lợi người Lam Sơn, đât Thanh Hoa” [48, tr. 117].
Môt loạt tình tiêt đầy vẻ huyên hoặc, phi lý liên quan đên sư xuât hiên cua
Nguyễn Trãi ở Lam Sơn khiên cho câu chuyên trở nên đặc biêt hâp dân. Thưc ra
nêu so với sư thât lich sử thì điêu cốt loi ở đây cũng không phai la bia đặt hoan
toan. Chuyên Nguyễn Trãi từ Thăng Long tìm đên gia nhâp nghĩa quân Lam Sơn,
phò ta Lê Lợi la sư thât. Con đường Nguyễn Trãi đên với Lê Lợi vốn không suôn
sẻ, nhiêu trăn trở ngại ngần cũng la thưc tê. Bởi thân thê Nguyễn Trãi khac hẳn
Trần Nguyễn Hãn. Ban thân ông gắn bo nhiêu với tiên triêu (nha Trần, nha Hồ)
cho nên viêc dưt bỏ mọi rang buôc để đên với chu mới la không hê dễ dang. Trong
truyên “Ông Lê Trãi”, tât ca những điêu đo được ẩn giâu đằng sau những tình tiêt
mang đâm chât truyên kỳ.
Số phân kỳ lạ cua danh nhân Nguyễn Trãi tiêp tục được lý giai qua chuyên
đặt sai mô phần tiên nhân. Phạm Đình Hổ kể rằng mồ ma tổ tiên cua Nguyễn Trãi
vốn ở nơi khac, vê sau lại được dời đên cai tang tại lang Nhi Khê. Chinh viêc cai
tang hai cốt tổ tiên vao huyêt đât đo đã anh hưởng đên con chau. Tham họa Lê Chi
Viên ma Nguyễn Trãi va dòng họ gặp phai co nguyên nhân từ viêc nay. Tac gia
viêt: “Nay xét mồ ma nha ông ở Nhi Khê, huyêt tang ở ruông bằng phẳng, người
thì cho la kiểu tướng quân mở cờ, người thì cho la kiểu tướng quân cụt đầu. Vê
phương Mùi, co cai gò Rùa, đuôi phan lại. Trong ban Kiểm kỳ cua Hoang Phúc noi
rằng: “Nhi đê mạch đoan, họa tham tru di” chinh la chỉ vao đây” [48, tr. 125].
Truyên “Ông Lê Trãi” nhắc đên cac tình tiêt mang tinh huyễn hoặc như ma
rắn hiên thanh mỹ nữ để bao oan; ba trang sach thâm mau rắn ưng với điêm bao “ba
họ” (tam tôc) nha Ức Trai sẽ bi “tru di”; hoặc chuyên Lê Quý Đôn chê thơ Lê Trãi
liên bi trach phạt vì tôi loạn ngôn… Nêu tìm trong nguồn tai liêu co tinh chât chinh
thống, chinh thưc, thì những chuyên huyễn hoặc như vây hoan toan không thây.
Nhưng đây la những chi tiêt, tình tiêt rât co ý nghĩa trong viêc tạo dưng nên “chât
truyên kỳ” trong truyên “Ông Lê Trãi”. Tac phẩm kể vê môt nhân vât lich sử co tầm
voc lớn lao song đây hoan toan không phai la truyên ký lich sử. Co thể thây,“Ông
73
Lê Trãi” la môt sư sang tạo rât khéo léo cua Phạm Đình Hổ… Nha văn đã tạo nên
môt chân dung Nguyễn Trãi rât lạ, theo đúng mô thưc cac giai thoại, truyên thuyêt
dân gian. Trong tac phẩm cua mình, Phạm Đình Hổ đã mở rông chiêu kich không
gian, nâng tầm voc người anh hùng dân tôc lên môt tầng bâc mới.
Truyên truyên kỳ rât chú trọng đên những tình tiêt đặc thù, tạm gọi la tình
tiêt “ngoại sử”, vốn liên quan nhiêu đên sở thich, ca tinh, “tai” va “tât” cua cac bâc
danh thần. Chẳng hạn trường hợp “Tham hoa Nguyễn Đăng Cao” trong Công dư
tiệp ký cua Vũ Phương Đê. Theo truyên kể thì ông rât mưc thông minh, lúc còn trẻ
đã bôc lô la người co tai lạ, đầy ca tinh. Nguyễn Đăng Cao la môt nhân vât nổi tiêng
ngang tang, phong đãng, không kiêng sợ bât cư thư gì, cho dù la yêu ma quỷ quai.
Hanh tich đang kể nhât cua Nguyễn Đăng Cao chinh la viêc ưng đối với sư gia nước
Tau. Truyên kể, “Bây giờ nha Thanh đã lam vua Trung Quốc, sai sư đem chiêu sang
bắt dân ta phai cạo đầu gioc toc. Đưc vua lây lam lo, bèn sai ông lên Nam Quan tiêp
đon sư gia. Ông lam môt bai “Giai chư hầu hoặc” đọc lên. Người Thanh bèn cho bãi
bỏ lênh cắt toc ây. Ông lại tư tay viêt tặng sư Thanh bô sach Đại học đẹp như khắc
ban. Sư Thanh rât lây lam kỳ, co ra cho ông môt vê đối rằng: “Lão khuyển lạc mao,
do hướng đình tiên phê nguyêt” (Cho gia rụng lông còn ra trước sân sua trăng). Ông
đối lại “Tiểu oa đoan canh, mạn cư tỉnh để khuy thiên” (Ếch con ngắn cổ, chỉ ngồi
đay giêng nhìn trời). Sư Thanh rât khen phục” [23, tr. 86].
Tât nhiên không phai những gì được kể trong “Tham hoa Nguyễn Đăng
Cao” đêu la sư thât. Nhưng tai ưng biên, tinh cach cương trưc, khi khai cua vi
tham hoa người xã Hoai Bão, huyên Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh nay thì đã được ghi
chép ro rang trong thư tich. Chẳng hạn như tai ưng pho cua ông khiên sư thần
ngoại quốc phai khâm phục; ông dam bay tỏ chinh kiên, dùng lời noi thẳng thắn
can gian nha vua mặc dù hiểu ro la rât co thể sẽ bi bãi chưc quan vì “trưc ngôn”…
Tât ca những điêu đo chưng tỏ tinh cach, sĩ khi nha Nho cua ông hơn đời.
Môt nhân vât khac la Đỗ Uông (trong truyên “Thượng thư họ Đỗ”, Lan Trì
kiến văn lục). Ông la người học giỏi, đỗ đạt cao, lam quan đên chưc Thượng thư lục
bô, tước Thiêu bao quân công thời Lê trung hưng. Tuy nhiên, cũng như cac trường
hợp khac, đối với truyên truyên kỳ, những tình tiêt di thường trong cuôc sống cua
74
con người nay mới la yêu tố quan trọng hơn ca. Vũ Trinh viêt như sau: “Thượng thư
họ Đỗ, tên húy la Uông, người huyên Gia Phúc, thuở nhỏ thông minh dĩnh ngô, đọc
sach mây dòng môt mạch, lại can đam, bạo dạn”. Sư can đam khac người cua ông
được chưng minh bằng môt tình tiêt rât đôc đao. Vao môt đêm mưa to gio lớn, trời
tối đen như mưc, ông nhân lời thach đố cua bạn học, đên cây đa ngoai thôn, nơi
ngay thường không ai dam lai vãng, để lây vang mã người ta đặt cúng mang vê.
“Cây đa nay co con ma, thường hay hiên hình giữa ban ngay, biên hoa khôn lường.
Những ai đụng đên no, liên bi bênh tât hoặc chêt ngay (…) ông đôi non ra cửa. Đên
chỗ cach cây đa hơn chừng mười thước, cúi nhìn thì thây môt người con gai mặc ao
trắng quần đen, đang ngồi xoã toc ở dưới gốc đa. Ông ron rén bước tới lừa lúc cô
gai không đê phòng, bât ngờ xô tới ôm chặt cô gai vao lòng” [163, tr. 89-90]. Sau
đo thì ma va người trò chuyên tới khuya như những người bạn. Cuôc trò chuyên
giữa chang thư sinh họ Đỗ va ma nữ kéo dai “đên canh năm, quên ca mêt nên đên
khuya mới vê”.
Trường hợp Nguyễn Văn Giai trong Tang thương ngẫu lục cũng vây. Ông
đỗ đầu khoa thi Hôi năm Canh Thìn (1580), lam quan trai qua ba triêu; từng giữ
chưc Tham tụng, Thượng thư bô Lại, giữ quyên lục bô, kiêm đô ngư sử, Thiêu
bao, rồi chưc Thai bao… Co thể noi ông la môt danh sĩ, học vi, phẩm ham, uy
danh bao trùm thiên hạ. Tuy thê, truyên vê ông Phạm Đình Hổ chỉ tâp trung vao
những tình tiêt co tinh đời thường, những chuyên vặt vãnh, nhỏ nhặt khi xử an.
Truyên viêt, Nguyễn Văn Giai la “quan Tể tướng co tiêng đời Trung hưng, giữ
mình ngay thẳng va khéo xoay đổi được ý cua vua chúa”, gỡ được tôi cho nhiêu
người dân, can ngăn chúa khỏi vòng sắc tình nhục dục… Những gì gọi la tốt đẹp,
tươi sang trong cuôc đời cua nhân vât được thể hiên qua những tình tiêt chân thưc,
gian di. Giữa thời buổi “tang thương dâu bể” (vua Lê chúa Trinh), kể chuyên nhân
cach cua cac bâc danh thần qua truyên truyên kỳ co vẻ la môt dụng ý sâu xa cua
nha văn. Mô tip xử an lạ lùng ở truyên “Ông Nguyễn Văn Giai” co phần giống
môt truyên khac, noi vê Ông Nguyễn Duy Thì (cũng trong Tang thương ngẫu lục).
Thưc ra, những điêu tưởng la tiểu tiêt đo trong truyên truyên kỳ co vai trò rât quan
trọng. No gop phần tô điểm cho chân dung cua danh nhân thêm ân tượng.
75
Cac nhân vât thuôc loại danh nhân trong truyên truyên kỳ thường được đặt
vao những hoan canh, không gian rông lớn, khoang đạt. Do danh nhân la người xuât
chúng cho nên phạm vi hoạt đông cua họ cũng it bi bo buôc. Không gian thường
được mở ra ở phạm vi vùng miên, ở tầm quốc gia hoặc “xuyên quốc gia”, thâm chi
la không gian huyên thoại.
Chẳng hạn chuyên vê Quân công họ Điên trong “Thần miêu Kim Tung”
(sach Công dư tiệp ký cua Vũ Phương Đê). Ông lĩnh mênh vua đi tri thuy, han khẩu
chỗ đê bi nước đanh vỡ ở xã Thọ Triên, huyên Đại An. Tại đây, ông phai đọ tai đọ
tri với đam yêu quai, thuy thần ở miêu Kim Tung trong hơn nửa thang trời. Công
viêc rât kho khăn, mãi ma không thanh công. Điên Quân công chêt trong khi công
viêc tri thuy đang dở dang. Nhưng ngay ca khi không còn tồn tại trên dương thê thì
vi Quân công nay cũng không từ tỏ trach nhiêm cua mình. Tinh anh hồn phach Điên
Quân công vân tiêp tục chống lại yêu quai. “Ngay hôm sau, khúc sông ở vùng ây
nước chay cuồn cuôn, song vỗ ầm ầm, như muôn ngưa chạy. Đưng trên bờ nghe
như co tiêng gươm đao xô xat. Ca mú chêt nổi lên nhiêu không kể xiêt. Bao mâu
được tin, đoan rằng Điên Quân công đã giao chiên với thuy thân” [23, tr.59]. Cuôc
chiên vô cùng khốc liêt với cac thê lưc ở “thê giới khac” kêt thúc, phần thắng thuôc
vê kẻ tuân kiêt họ Điên.
Môt nhân vât khac la Lê Như Hổ trong truyên “Tiên sĩ ăn khỏe” (Công dư tiệp
ký). Tầm anh hưởng, danh tiêng cua ông không chỉ thể hiên trong phạm vi công đồng,
quốc gia ma ca nước ngoai. Sở dĩ nhân vât co tên gọi thê la vì sưc khỏe, voc dang (như
hổ), khac người thường. Lê Như Hổ “sinh ra đã rât trac viêt. Lớn lên thân thể to lớn
hơn người, cao năm thước năm tâc, lưng rông môt thước năm tâc, nha nghèo nhưng rât
chăm học lại ăn khỏe. Bố mẹ thường thổi nồi bay cơm cho ông ăn, ma bữa nao cũng ăn
hêt veo”. Con người “di hình di tướng như vây” lam viêc gì cũng khac thường. Ông đi
lam đồng, phat cỏ ruông thì “Chỉ trong nhay mắt mây mâu ruông cỏ đêu quang đãng.
Ca chạy không kip, chêt nổi đầy mặt nước, vớt được không biêt bao nhiêu ma kể; gặt
lúa thì “Chỉ trong hơn nửa ngay, ông gặt được hai mâu lúa, bo lam bốn ganh ganh vê”;
khoa cử thì “thi môt lần, đỗ ngay tiên sĩ”… Đên khi lĩnh mênh vua đi sư, ông cũng lam
kinh đông ca Thiên triêu. Chuyên kể, “đên Yên Kinh, người Bắc nghe ông ăn khỏe,
76
liên lam ngay môt mâm cỗ mười tam tầng, mời ông đên dư yên, lúc ăn phai bắc thang.
Hễ ông ăn hêt tầng nao, liên đem bat đĩa vưt xuống đât. Ăn đên tầng cuối cùng, thây co
môt cai đầu người, ông dùng ngay hai chiêc đũa xâu vao hai mắt giơ cao lên. Những
người đưng xung quanh đêu phai che mặt, không dam nhìn (…) Cai đầu ây vốn la đầu
ca nhân ngư, không khac gì đầu người, la loại ca it thây hang ngay. Vì thê họ cố tình
đem ra để “trô” ông. Nay ông không sợ, ma lại noi những lời hơi xược bèn cho mang
đầu ca đi liên” [23, tr. 39-41]. Truyên còn co nhiêu tình tiêt liên quan đên “tai lạ” cua
Lê Như Hổ, chẳng hạn kha năng nhân biêt đường đi (dù bi sơn bit hai mắt), tai đoan
thời tiêt nắng mưa (nhờ quan sat thưc vât), tai ưng tac xướng họa thơ văn với văn nhân
(cac nước khac)… Kể vê con người kỳ di như thê, Vũ Phương Đê môt mặt thừa nhân
rằng “môt vai viêc xem ra co phần ngoa truyên” song lại noi la đã “tham bac với lời kể
cua cac cụ gia cac thôn âp lân cân cũng không co gì trai ngược”. Lối kể chuyên hư hư
thưc thưc như vây la môt nét riêng cua truyên truyên kỳ.
Noi chung, danh thần, danh nhân la những người co phẩm chât đặc biêt, đưc
hạnh, tai năng vượt trôi. Họ hoạt đông trong môt thê giới khoang đạt, với những
chiêu kich rông lớn, khac thường.
*
Môt nôi dung quan trọng khac được đê câp rât nhiêu trong truyên truyên kỳ
đo la chuyên vê nữ giới. Co hai dạng người thuôc phai nữ xuât hiên thường xuyên
va cũng gây nhiêu hưng thú nhât cho người đọc la “liêt phụ” va “kỳ nữ”. Đây la hai
“phân manh” trai ngược nhau cua hình tượng người nữ va đêu co vai trò đặc biêt
quan trọng trong thê giới truyên kỳ.
Trước hêt, noi vê hình tượng nhân vât “liêt phụ”. Thời trung đại, ở Viêt
Nam, xã hôi đôc tôn Nho giao, môt học thuyêt co tinh kỳ thi đối với nữ giới rât ro.
Chinh vì thê ma vi thê xã hôi cua phụ nữ cũng bi hạ thâp. Nhưng co điêu hêt sưc lý
thú la trong truyên truyên kỳ Viêt Nam, tinh thần “bình đẳng giới” lại rât cao. So
với nam giới, vai trò người nữ trên mọi phương diên đời sống đêu không thua kém,
thâm chi co mặt vượt trôi. Gương “liêt phụ” trong thê giới nhân vât truyên kỳ la môt
bằng chưng hiển nhiên.
77
Xét vê phẩm chât, “liêt phụ” la những người phụ nữ co đưc hạnh cao ca, co
hanh đông qua cam, can trường vượt lên trên thoi thường. Trong truyên truyên kỳ,
người “liêt phụ” luôn gắn với những giai thoại chưa đưng nhiêu yêu tố linh di, phi
thường… Họ trở thanh những nhân vât điển hình, lam gương sang cho muôn đời soi
chung, không chỉ cho riêng nữ giới ma ca cac bâc nam tử. Tât nhiên, khi đã hiên
diên trong tac phẩm truyên kỳ, cũng co nghĩa cac “liêt phụ” đã thuôc vê môt “phạm
trù” khac. Lúc nay họ trở thanh thanh viên cua thê giới linh di, được người dân tôn
lâp, thờ phụng hêt đời nay qua đời khac. Nhiêu người trong số đo còn được triêu
đình sắc phong, ban tước hiêu…
Trong truyên “Hai khẩu linh từ” (Truyền kỳ tân phả) cua Đoan Thi Điểm,
nhân vât Nguyễn Cơ (còn gọi Bich Châu) la môt “liêt phụ”. Ba la ai phi cua vua
Trần Duê Tông. Sở dĩ Nguyễn Cơ được xêp vao hang đặc biêt như thê bởi vì những
viêc ba lam đã vượt qua bổn phân “nữ nhi thường tình”. Nêu môt người nữ vốn chỉ
lo sao cho chu toan “tư đưc” thì Nguyễn Cơ, ngoai bổn phân đo, còn la môt “lương
thần” bên cạnh nha vua. Ba đã tư mình soạn Kê minh thập sách - mười kê sach
nhằm chân hưng quốc gia, dâng lên vua để tỏ lòng trung quân. Hanh vi nay kha lạ
lùng vì “tri quân trạch dân” vốn được mặc đinh la bổn phân cua bâc lương tướng,
trung thần chư không phai cua người phụ nữ đẹp. Không chỉ co thê, khi biêt vua
Trần Duê Tông chuẩn bi xuât binh chinh phạt Chiêm Thanh, ba lại soạn lời can
gian, phân tich thiêt hơn. Cho đên khi thây không thể thuyêt phục được nha vua đổi
ý, ba xin được đi theo hầu cân va được vua châp thuân. Trong qua trình hanh quân
bằng đường biển, đạo quân cua vua Trần gặp bão ở cửa biển Kỳ Anh (tỉnh Ha
Tĩnh). Nghĩ la bi hai thần can trở, Nguyễn Cơ đã tư nguyên nhay xuống biển lam
vât tê thần; mong lây cai chêt cua ban thân để cưu đoan chiên thuyên cua triêu đình
đang nguy câp. Lời trăn trối cua Nguyễn Cơ trước khi tư trầm va canh tượng người
nữ liêu thân thât la bi trang: “Sau khi thiêp chêt, xin bê hạ sửa văn, nghi vo, kén
dùng người hiên lam điêu nhân nghĩa như đê vương, dưng chước dai lâu cho nước
nha. Được như thê thì u hồn thiêp co thể ngâm cười nơi chin suối vây”. Noi xong
liên nhay xuống biển. Trong tiêng gio gao song cuôn, còn nghe văng vẳng tiêng
noi” [33, tr. 50].
78
Trong truyên truyên kỳ, mô tip người nữ tuân tiêt như trường hợp ba phi
Bich Châu trong truyên “Hai khẩu linh từ” vừa nêu trên không phai la hiêm. Co thể
kể ra rât nhiêu những người lâm liêt, khi tiêt như vây. Chẳng hạn Ba phu nhân cua
tiên sĩ Đinh Nho Hoan, môt nhân vât khac, cũng trong Truyền kỳ tân phả. Tên thât
cua ba la gì thì truyên không noi ro, chỉ thây noi la “con gai nha quan”. “Ba vợ nay
nghi dung nhan nhã, ăn noi đoan trang, thêu thùa khâu va rât lanh nghê, lại co tai
thơ văn nổi tiêng” [33, tr. 64]. Sau cai chêt cua Đinh Nho Hoan ở nơi đât khach, Ba
phu nhân vì qua xot thương chồng nên đã tư tử. Tuy nhiên, dù chêt nhưng tinh anh
vân còn, vân tiêp tục thờ kinh chồng như khi hãy còn sống. Phần tiêp theo cua
truyên “An Ấp liêt nữ lục” kể vê cuôc gặp gỡ cua nho sinh họ Ha với Phu nhân ở
ngay đên “Trinh liêt phu nhân từ”, tưc nơi thờ phụng ba. Ha Sinh còn trẻ tuổi,
ngông nghênh cây tai, môt buổi vì co hơi men đã lam bai thơ đê lên tường, lời lẽ bât
kinh với Đinh Nho Hoan. Chinh vì hanh vi nay ma Ha Sinh bi Phu nhân quở trach
nặng nê. Bai thuyêt giao cua Phu nhân rât đanh thép, chặt chẽ vừa phê phan kẻ hâu
sinh, vừa đê cao, ca tụng tai đưc cua phu quân. “Ha Sinh nghe phu nhân noi xong,
bỗng tỉnh ngô, vôi vang đưng dây, tạ rằng: Tiểu sinh ham chơi phong thuy, thich
uống rượu ngâm thơ, nhân lúc say sưa, phong bút viêt bây, thât sư biêt đắc tôi rât
nặng với bâc tôn linh, nay tình nguyên nối lại nguyên văn để chuôc cai lỗi noi can.
(…) Ha Sinh đưng dây vâng mênh lui ra, bỗng thây mây lanh bao phu, gio thoang
thoang, phu nhân bước lên xe loan đi như bay, Sinh co ý muốn theo thì chợt nghe
tiêng ga gay, trở mình thưc dây hoa ra môt giâc mông. Liên tắm gôi sạch sẽ, đên
đên Liêt nữ lam tiêp tục bai thơ” [33, tr. 92]. Như vây, ngay ca khi đã sang coi khac,
người thiêu phụ ở An Ấp vân giữ đưc hy sinh, lòng trung trung trinh với chồng vân
nguyên vẹn như khi còn tại thê.
Ta còn gặp những bâc liêt phụ, liêt nữ khac như Ba phu nhân họ Đoan trong
Tang thương ngẫu lục, Ba phu nhân Mi Ê trong Tân đính Lĩnh Nam chích quái va đặc
biêt la ba Trưng Vương trong Lĩnh Nam chích quái lục cua Trần Thê Phap:
“Theo sach Sử ký thì Hai Ba Trưng vốn dòng họ Hùng, chi tên la Trắc, em
tên la Nhi, người ở huyên Mê Linh, đât Phong Châu, con gai quan Hùng tướng đât
Giao Châu. Xưa Trắc lây Thi Sach người huyên Chu Diên. Ba rât co tiêt nghĩa, tinh
79
khi hùng dũng co tri quyêt đoan sang suốt. Thời ây, Tô Đinh ở Giao Châu vô cùng
tham bạo, nhân dân hêt sưc khổ sở. Trắc thù Đinh giêt chồng mình, bèn cùng em la
Nhi dây binh đanh Đinh, vây hãm Giao Châu; cac quân Cửu Chân, Nhât Nam, Hợp
Phố đêu hưởng ưng, hai chi em bèn bình đinh được sau mươi lăm thanh ở Lĩnh
Ngoại tư lâp lam vua, xưng hiêu la Trưng Vương, đong đô ở thanh Ô Diên. (…)
Viên đem quân đên đanh, bô hạ Ba Trưng đêu bỏ chạy. Ba thê cô, bi hại trong trân.
Co chỗ noi rằng ba lên núi Hy Sơn rồi không biêt đi đâu mât. Người trong châu
thương cam, lâp miêu ở cửa sông Hat Giang để phụng thờ. Pham những người gặp
tai nạn đên cầu đao đêu ưng nghiêm. (…) Vê sau hai ba lại thac mông cho vua xin
lâp đên ở bãi Đồng Nhân. Vua nghe theo, sắc phong lam Trinh linh nhị phu nhân.
Triêu Trần lại gia phong cho mỹ tư la Hiền Liệt Chế Thắng Thuần Bảo Thuận. Cho
đên nay vân được bao phong đời đời, lửa hương không dưt” [119, tr. 82-84]. Câu
chuyên vê Ba Trưng được lâp đên thờ phụng, khoi hương, ngoai thai đô ngưỡng
mô, tôn trọng ra, còn la biểu hiên sư thương cam, an ui sâu sắc cua công đồng đối
với người phụ nữ tiêt liêt.
Ngoai những gương phụ nữ được đê cao phẩm hạnh, khi phach như trên,
truyên truyên kỳ còn đê câp đên môt mâu nhân vât nữ khac cũng rât đặc biêt. Đo la
“kỳ nữ” - những người nữ co hanh trạng lạ thường, liên quan đên những điêu quai
di. Thông thường, cac “liêt phụ” đêu được triêu sắc phong, ban hiêu va đêu “hiển
thanh”, được đưa vao thờ phụng trong cac đên miêu, còn kỳ nữ thì không được vinh
danh theo cach đo. Cac “kỳ nữ” chỉ hiển linh trong những hoan canh cụ thể va theo
lối kỳ bi, ao diêu.
Trong Lan Trì kiến văn lục cua Vũ Trinh, co rât nhiêu truyên vê chu đê “kỳ
nữ”. Nhân vât nữ ở cac thiên “Ca kỹ họ Nguyễn”; “Phu nhân Lan Quân công”;
“Người con gai trinh liêt ở Cổ Trâu”; “Người đan ba trinh tiêt ở Thạch Than”; “Liên
Hồ Quân quân”... đêu co cuôc đời, hanh trạng khac thường. Đúng như lời bình cua
Tin Như Thi trong Lời tựa, sach nay la nhằm để “biểu dương tiêt lớn cua bâc quần
thoa”. Truyên “Ca kỹ họ Nguyễn” kể chuyên người đao hat ở huyên Chương Đưc,
xư Sơn Nam. Người nay vốn rât nổi tiêng vê nhan sắc va tai năng. Do cam thương
hoan canh cua Vũ Khâm Lân thuở nhỏ nghèo kho, thân phân mồ côi, nang tân tình
80
giúp đỡ tiên bạc, đông viên chang. Nang noi ro ý nguyên cua mình cho họ Vũ biêt:
“Nêu thiêp dâm đãng thì thiên hạ thiêu gì bọn đan ông? Thiêp tư biêt mình la phân
con hat, sợ lây phai người chẳng xưng đôi, nên cố tìm tòi trong chốn trần ai. Nêu
may ma ngay sau chang không nỡ phụ thì được trọn đời nương tưa. Còn như xem
nhau la tuồng liễu ngo hoa tường thì xin vĩnh biêt từ nay” [163, tr. 62]. Vê sau
nay, Vũ Khâm Lân thi đỗ tiên sĩ, lam quan đên bâc tể tướng, hiển đạt tôt bâc. Tình
cờ họ Vũ gặp lại cô gai cùng người mẹ gia, khi đo đã lâm vao hoan canh bât hạnh,
đang thương. Chang tìm cach bao đap, đon ca hai mẹ con vê môt nơi ở riêng, chu
câp đầy đu. “Hơn môt năm sau, mẹ cô gai mât. Ông lo chôn cât chu đao. Tang ma
cho mẹ xong, cô gai từ biêt ra đi, ông giữ lại không được, hâu tặng tiên bạc, cô
cũng không nhân. Ông cố ép, thì cô noi: “Thiêp không co phúc được lam vợ chang
thì những tiên bạc nay đâu co phúc để tiêu ma nhân?”. Qua la môt người phụ nữ
đặc biêt, tai sắc vẹn toai, đưc hạnh kiêm đu ma khi khai hơn người. Đúng như lời
ban cua Lan Trì Ngư Gia: “Trai tim kiên trinh, khi tiêt hao hiêp, con mắt tinh đời,
cô gai trong truyên trên đây đêu co ca. Vô luân trong đam quần thoa hay bâc may
râu cũng không co nhiêu” [163, tr. 64].
Nhân vât kỳ nữ trong Truyền kỳ mạn lục cua Nguyễn Dữ cũng rât phong phú.
Đo la nang Nhi Khanh trong “Chuyên người nghĩa phụ ở Khoai Châu”; người nữ
trong “Chuyên Lê Nương” va đặc biêt la Vũ Thi Thiêt trong “Nam Xương nữ tử
truyên”. Nhân vât Vũ Thi Thiêt qua mô ta cua tac gia la môt thiêu phụ “người đã
thùy mi, nêt na, lại thêm co tư dung tốt đẹp”. Cuôc sống gia đình tuy không thât
hạnh phúc vì người chồng la Trương Sinh “co tinh hay ghen, đối với vợ đê phòng
thai qua”, nhưng nang luôn biêt cach “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nao
vợ chồng phai đên thât hòa”. Khi Trương Sinh đăng linh, nang ở nha đam đang,
nuôi con nhỏ, phụng dưỡng mẹ chồng chu đao. Khi mẹ chồng chêt, “nang hêt lòng
thương xot, pham viêc ma chay tê lễ, lo liêu như đối với cha mẹ sinh ra”. Khi
Trương Sinh mãn hạn đi linh trở vê, do ghen tuông mù quang nên luôn tìm cớ đanh
mắng, ngược đãi vợ. Bi kich xay đên khi Vũ Thi Thiêt không thể chiu đưng nỗi oan
ưc, phai tìm đên cai chêt. Truyên viêt, “Đoạn rồi nang tắm gôi chay sạch, ra bên
Hoang Giang, ngửa mặt lên trời ma than: Kẻ bạc mênh nay duyên phân hẩm hiu,
81
chồng con rây bỏ, điêu đâu bay buôc, tiêng chiu nhuốc nhơ. Thần sông co linh, xin
ngai chưng giam. Thiêp nêu đoan trang giữ tiêt, trinh bạch gìn lòng, vao nước xin
lam ngọc Mỵ Nương, xuống đât xin lam cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ ca,
lừa chồng dối con, dưới xin lam mồi cho ca tôm, trên xin lam cơm cho diêu quạ,
chẳng những la chiu khắp mọi người phỉ nhổ” [91, tr. 280 ]. Noi xong nang gieo
mình xuống sông ma chêt.
Điêu đặc biêt ở hình tượng nhân vât nay la no được xây dưng dưa trên
những căn cư co thât. Vũ Thi Thiêt vốn được sinh ra trong môt gia đình ở thôn Vũ
Điên, Nam Xương (hay Nam Xang, thuôc huyên Lý Nhân, tỉnh Ha Nam). Đên khi
trưởng thanh, nang lây chồng, sinh con, nghĩa la co cuôc sống bình thường như
mọi phụ nữ khac trên đời. Vê sau ba chêt, trở thanh Vũ Nương Công Chúa; rồi
được công đồng tôn thờ, dần dần chuyển hoa thanh hình tượng Ba Vũ. Co thể noi
cuôc đời cua nữ nhân vât nay từ đời thường bước vao thê giới truyên kỳ la môt
qua trình “huyên thoại hoa” liên tục. Đo la qua trình kêt nối, xâu chuỗi môt loạt
cac tich truyên, cac giai thoại: cuôc hôn nhân đầy bi kich giữa Vũ Thi Thiêt với
chang Trương Sinh; chuyên Ba Vũ cưu người dân bi nạn đuối nước; chuyên Ba
Vũ giúp dân quê chống chọi với thiên tai, lũ lụt… Những tình tiêt nay được ghi
chép lại trong ngọc pha gia tôc họ Vũ ở Nam Xang đồng thời được truyên tụng
rông rãi trong dân chúng qua nhiêu đời… Môt số sư tich khac, vừa được truyên
khẩu trong dân gian vừa được ghi chép qua thơ văn, thư tich cac triêu đại. Chẳng
hạn sư kiên vua Lê Thanh Tông trên đường kinh lý, khi thuyên rồng đi qua đoạn
sông Hoang Giang thì gặp trở ngại, không thể đi được. Hỏi chuyên phụ lão ven bờ
mới biêt sư tich Ba Vũ. Vua phai sai lam lễ tạ mới được yên. Chinh Ba Vũ đã giúp
vua Lê vượt qua gio to song ca để tuần du. Vê sau vua cho tôn tạo miêu thờ Ba,
câp tư điên để lo giỗ hâu. Không chỉ thê, do cam khai trước sư tich vê Ba, vua còn
lam thơ vinh miêu “vợ chang Trương” chép vao tâp “ngư chê”.
Tât nhiên Vũ Thi Thiêt không phai la nhân vât lich sử. Cuôc đời cua người
nữ Nam Xương thuôc vê thê giới truyên truyên kỳ. Trong truyên cua Nguyễn Dữ,
sau khi tư trâm mình, Vũ Thi Thiêt không “chêt” ma được thu nạp vao Thuy cung.
Nang vân lưu luyên coi trần, thương nhớ quê nha va không trach cư chang Trương.
82
Vũ Thi Thiêt xưng đang đưng trong lớp người được gọi la “kỳ nữ” vì đưc hy sinh,
lòng vi tha. Cho dù co chiu thiêt thòi thì nang vân không oan giân ma luôn tha thư.
3.1.2. Truyện truyền kỳ và cac gia trị văn hóa Việt Nam
Trong truyên truyên kỳ Viêt Nam, bên cạnh vân đê lich sử, môt nôi dung rât
quan trọng khac cũng thường xuyên được đê câp. Đây la những vân đê thuôc lĩnh
vưc văn hoa. Thưc ra, văn hoa la môt khai niêm co nôi ham rât rông va cũng rât kho
đinh nghĩa môt cach thât ranh mạch. Tuy nhiên, trong những bối canh cụ thể, vân co
thể giới hạn ý nghĩa cua no ở những phạm vi hẹp. Trong luân an nay, chúng tôi chỉ
đê câp đên môt vai phương diên điển hình cua văn hoa trong truyên truyên kỳ,
những điêu liên quan trưc tiêp đên di san văn hoa, đời sống tâm linh, tâm thưc văn
hoa… cua công đồng.
3.1.2.1. Truyện về các miền đất linh thiêng
Từ xưa đên nay, trong quan niêm cua người Viêt Nam, con người va đât đai
luôn liên quan hô ưng với nhau. Đât đai thổ trạch cũng la thư “hữu linh”, cũng co
linh hồn. Vì thê, “đia linh” luôn gắn kêt với “nhân kiêt” môt cach chặt chẽ. Môt
mặt, đât đai phong thổ chinh la đât nước, tổ quốc theo nghĩa đen, la gốc tich để
lam nơi sinh xuât, lam điểm tưa cho “nhân kiêt” nhưng mặt khac, ban thân con
người cũng lam cho đât đai trở nên linh diêu. Chinh vì vây ma truyên vê cac miên
đât va chuyên vê nhân vât luôn đi kèm với nhau va chiêm vi tri quan trọng trong
truyên truyên kỳ.
Trong loại hình truyên kỳ, truyên vê cac miên đât linh thiêng cũng kha đa
dạng. Nổi bât la nhom truyên kể vê cac miên “đât tổ”, nơi phat tich cua cac đời, cac
thê hê; lại co nhom truyên vê cac miên đât gắn với danh nhân hoặc sư kiên cụ thể.
Trong Lĩnh Nam chích quái lục cua Trần Thê Phap co rât nhiêu truyên vê cac đia
chỉ linh di cua “miên Ngũ Lĩnh”, tưc nước Viêt. Chẳng hạn như “Truyên Nhât Dạ
Trạch”, “Truyên Giêng Viêt”, “Truyên Sông Tô Lich”, “Truyên núi Tan Viên”...
Đây la những nơi linh đia cua quốc gia, xã tắc. Mục đich chinh cua Trần Thê Phap
khi soạn cac truyên nay không phai để khao cưu cac miên đât, cac đia danh đia
điểm theo lối “dư đia chi”, hay la giai thich nguồn gốc sông hồ theo lối truyên
thuyêt, cổ tich. Mặc dù cac truyên nay cũng được dưa trên “nên” truyên thuyêt, cổ
83
tich song điêu tối quan trọng ở cac thiên truyên nay la tac gia muốn qua đây để nêu
cao “hạo khi” cua núi sông nước Viêt. Cac truyên vê sông (Tô Lich), núi (Tan
Viên), giêng (Viêt Tỉnh), chằm/ đầm (Dạ Trạch)… la môt cach biểu đạt bằng hình
tượng vê quê hương đât nước. Hình sông thê núi đo không gì khac la môt biểu
tượng vê sư bên vững, linh thiêng, trường tồn cua đât nước. Tât ca những núi sông
đo chinh la hình anh cụ thể cua “Nam quốc sơn ha”.
“Tan Viên sơn truyên” la tac phẩm chưa đưng nhiêu ý nghĩa. Môt số điểm
chúng tôi đã đê câp trong phần trước, khi noi vê cac bâc anh linh, nhân thần qua
hình tượng thần Tan Viên. Ở đây chúng tôi muốn noi đên gia tri văn hoa, văn vât
cua câu chuyên. Miên đât thiêng nay, theo mô ta cua Trần Thê Phap la nơi vi đê
nhât phúc thần Đại Viêt, Tan Viên Sơn Thần cai quan. Sach viêt như sau: “Núi
Tan Viên ở phia tây kinh thanh Thăng Long nước Viêt Nam. Núi cao môt vạn hai
nghìn ba trăm trượng, chu vi chin vạn tam nghìn sau trăm vạn (sic). Ba núi đưng
xêp hang, đỉnh tròn như cai tan cho nên co tên ây. Theo sach Ai Giao châu tự cua
Đường Tăng thì đại vương núi nay la Sơn Tinh họ Nguyễn, vô cùng linh ưng. Khi
hạn han, lúc lụt lôi cầu đao để phòng tai trừ hoạn lâp tưc co ưng nghiêm. Kẻ thờ
cúng hêt lòng thanh kinh. Thường thường, vao những ngay quang đãng như co
bong cờ xi thâp thoang trong hang núi. Dân trong vùng noi rằng đo la Sơn Thần
hiển hiên. Khi Cao Biên nha Đường ở An Nam muốn yểm những nơi linh tich bèn
mổ bụng con gai chưa chồng mười bay tuổi, vưt ruôt đi, nhồi cỏ bâc vao bụng,
mặc ao quần vao rồi đặt ngồi trên ngai tê bằng trâu bò, hễ thây cử đông thì vung
kiêm ma chém đầu. Pham muốn đanh lừa cac thần đêu dùng thuât đo. Biên đem
thuât đo để tiên đại vương núi Tan Viên, thây Vương cưỡi ngưa trắng ở trên mây
nhổ nước bọt vao ma bỏ đi. Biên than rằng: Linh khí ở phương Nam không thể
lường được. Cái vượng khí đời nào hết được! Sư linh ưng đã hiển hiên ra như vây
đo.” [119, tr. 93]. “Tan Viên sơn truyên” rât tiêu biểu cho lối truyên vê cac miên
đât thiêng. Ở đo, vừa co đu thông tin vê đia lý, đia vưc, vừa noi đên “sư linh ưng”,
“vượng khi” cua sông núi Đại Viêt. Đặc biêt, no gắn với câu chuyên “Lạc Long
Quân va Âu Cơ sinh môt bọc trăm trưng”, truyên Sơn Thần khinh bỉ, pha bỏ phép
trân yểm cua Cao Biên.
84
Truyên thuyêt Âu - Lạc cũng được ghép vao đây với mục đich la để noi vê
côi nguồn dân tôc. Còn chuyên Sơn Thần Tan Viên dùng uy linh cua mình loại bỏ
trò trân yểm cua Cao Biên, hòng triêt tiêu hạo khi miên đât nay la nhằm thể hiên
tinh thần giữ nước cua người Viêt. Đây la môt mô tip rât đôc đao được thể hiên
nhiêu trong truyên truyên kỳ.
Cùng chu đê sông núi linh thiêng, trong tâp sach cua Trần Thê Phap còn co
“Truyên sông Tô Lich”. Truyên cũng nhắc đên sư tich Thần sông Tô Lich pha bùa
phép nham hiểm cua Cao Biên dùng để trân yểm long mạch. Sông Tô Lich được coi
la nơi ngư cua Long Đỗ, vi thần đưng đầu cac chốn đia linh. Tac gia kể lại cuôc đối
đap rât thú vi giữa Thần sông va Cao Biên trong lần đối mặt nhau: “Biên cưỡi thuyên
nhẹ thuân dòng vao tiểu giang đi khoang môt dặm bỗng thây môt cụ gia râu toc bạc
phơ, dung mạo kỳ di, tắm giữa lòng sông, cười noi tư nhiên. Biên hỏi họ tên. Đap: Ta
họ Tô tên Lịch. Biên lại hỏi: Nhà ở đâu? Đap: Nha ở sông nay. Dưt lời, lây tay đâp
nước bắn tung mù mit, bỗng nhiên không thây đâu nữa. (…) Môt buổi sớm khac,
Biên ra đưng ở bờ sông Lô Giang, phia đông thanh Đại La, thây trân gio lớn nổi lên,
song nước cuồn cuôn, mây trời mờ mit, co môt di nhân đưng trên mặt nước, cao hơn
hai trượng, mình mặc ao vang, đầu đôi mũ tim, tay cầm hốt bạc rưc rỡ môt quãng
trời. Mặt trời cao ba con sao, khi mây hãy còn mù mit, Biên rât kinh di muốn yểm
thần. Đêm nằm mông thây thần nhân tới noi rằng: Chớ yểm ta, ta la tinh Long Đỗ,
đưng đầu cac đia linh, ông xây thanh ở đây, ta chưa được gặp, nên tới xem đo thôi, ta
co sợ gì bùa phép” [119, tr. 91]. Viêc trân yểm long mạch để lam tuyêt linh khi xư An
Nam cua Cao Biên bi thần Long Đỗ pha tan; ban thân y sau thât bại đo cũng bi vua
Đường triêu hồi va bi giêt chêt.
Những tac phẩm co nôi dung kể vê cac miên đât, vê sông núi linh di thiêng
liêng trong truyên truyên kỳ luôn gắn với cac vi thần thanh, kỳ nhân. Điêu đo cang
khiên cho cac đia danh trở nên huyên bi. Thần nhân, con người va đia vưc, phong
thổ, đât đai hòa quyên để tạo nên môt thê giới kỳ lạ, vừa hư vừa thưc, rât đặc trưng
cua truyên truyên kỳ.
Cac truyên noi vê đât đai phong thổ trong Lĩnh Nam chích quái lục tuy co noi
đên những chuyên di thường quai đan nhưng mục đich chu yêu la muốn nhân mạnh,
85
tô đâm chât “thiêng liêng”, “linh ưng” cua xư Lĩnh Nam. Điêu nay rât cần thiêt đối
với người Viêt. Không phai ngâu nhiên ma mô tip thần nhân Viêt hoa giai cac chiêu
trò trân yểm cua cac thầy đia lý, phù thuy đên từ phương Bắc luôn lặp đi lặp lại trong
Lĩnh Nam chích quái lục (va ở nhiêu tac phẩm khac). Hiên tượng nay cho thây môt sư
thât. Trong tâm thưc người Viêt, viêc chống đỡ cac mưu mô thâm hiểm kẻ thù
phương Bắc la nỗi am anh thường trưc. No đòi hỏi cần co phương sach hữu hiêu,
tương thich để chống lại. Những câu chuyên vê sông núi linh thiêng la môt cach để
vừa nuôi dưỡng, khuêch trương tinh thần dân tôc vừa đap tra đòn phép cua kẻ thù. No
chưng tỏ “Dâu ân lich sử qua trình đâu tranh sinh tồn cua người Viêt trong truyên
truyên kỳ “linh đia” rât cụ thể. (…) Tac gia qua đây còn muốn khẳng đinh rằng sư
linh thiêng cua nước non nay không phai bỗng dưng ma co, không phai sinh xuât từ
hư vô ma được hun đúc từ hồn via, cốt nhục tổ tiên; “đia linh” thưc chât la sư hiên
hữu cua tiên nhân, la sư che chở phù trì, ca sư âu lo cua họ đối với vân mênh cua đât
nước, giống nòi” [101, tr. 100].
Cac miên đât thiêng trong truyên truyên kỳ còn được nhắc đên trong nhom
truyên vê canh tri thiên tạo gồm những bãi biển, núi non, sông suối, đầm pha, hồ
vinh…Đo la những nơi ma đia danh gắn với sư tich kỳ lạ, bât thường.
Tuy cùng noi vê môt đia điểm, môt đia danh nhưng truyên truyên kỳ lại co
điểm khac biêt quan trọng so với truyên cổ tich, truyên thuyêt. Truyên truyên kỳ
chu yêu noi vê những điêu kỳ di, bi hiểm, những điêu đặc biêt, không thể giai thich
cua cac nơi chốn được coi la thiêng, lạ, kỳ. Chẳng hạn cac truyên vê sông: “Sông
Đôc”, “Sông Dùng” (trong Tang thương ngẫu lục cua Nguyễn Án va Phạm Đình
Hổ)… Cac chuyên vê núi: “Núi Đông Liêt”, “Núi Rêt”, “Núi Dục Thúy” (trong
Tang thương ngẫu lục cua Nguyễn Án va Phạm Đình Hổ); “Núi Vũ Môn”, “Núi
Đồng Cổ”, “Núi Thât Diêu”, “Núi Phât Tich”, “Núi Yên Tử”, “Núi Phượng
Hoang”, “Núi Hiên”, “Núi Án Đĩnh” (trong Mẫn Hiên thuyết loại cua Cao Ba Quat
va Trương Quốc Dụng)… Cac chuyên vê hồ: “Hồ gươm” (trong Tang thương ngẫu
lục); “Hồ Ba Bể” (trong Mẫn Hiên thuyết loại)… Rồi chuyên vê suối: “Suối rắn”
(trong Công dư tiệp ký cua Vũ Phương Đê); “Lôi tuyên” (trong Mẫn Hiên thuyết
loại); Cac chuyên vê đầm, pha: “Đầm Dạ Trạch”, “Pha Tam Giang”, “Cửa Cờn”…
86
Đây la những thắng canh, hoặc những đia danh không chỉ nổi tiêng bởi canh quan
đặc sắc ma còn vì sư kỳ quai, đầy biên ao, huyên hoặc cua no.
Chẳng hạn truyên “Suối rắn” (Xa tuyên ký), môt thiên trong Công dư tiệp ký
cua Vũ Phương Đê. Tac gia cho biêt dòng suối nay ở xã Hòa Lạc, huyên Hữu Lũng.
Đia phương nay vốn la miên đât thuôc Châu Ôn xư Lạng Sơn, đên năm Giap Dần
mới cắt vê Kinh Bắc. Trước đây co môt dai suối nước rât lạnh từ trong núi xã Ỷ
Tich chay ra, đi qua phia trai cua xã ây, rồi mới chay vao sông Hoa. Trong suối co
môt cai vưc sâu, “ở dưới co nhiêu giao long đi lại, người đi đường thường bi hại,
nên gọi đo la Xa Tuyên (tục gọi la suối rắn)”. Con suối nay trở nên nổi tiêng bởi
môt sư tich rât ly kỳ vê hai cha con ở gần đo. Khi đưa con gai bi giao long hại chêt,
người cha đã tìm kê tra thù. Kêt qua, ông đã tiêu diêt hêt cac giống quai vât dưới
suối, đưa lại bình yên cho mọi người. Suối đã thiêng lại cang thiêng vì co uy linh
cua con người bao trợ: “Người cha hiên nay la đại thần cua ban thổ, hiêu la Ngọc
Tư Đại Vương, còn người con gai cũng rât linh ưng. Nhân bên núi co đa, người
trong âp đục lom vao lam đên thờ. Dưới núi co phiên đa phẳng như chiêc chiêu,
vuông vưc va nhẵn nhụi, như tư trời lam cho. Người ta co viêc gì tranh châp, đên
đây để thê, kẻ gian tât bi lô, người ngay nhân bồi thường rồi vê. Bên đường co môt
cai miêu, hanh khach qua lại, nhiêu người dâng cúng vang bạc. Xe kiêu đi qua, tât
phai dừng lại, xuống đi bô” [23, tr. 66].
Co thể thây, đặc điểm chung cua truyên kể vê cac miên đât thiêng trong loại
hình truyên kỳ la sư hòa quyên giữa Thần - Người - Đât. Đia “linh” la bởi co cac
sư tich, tình tiêt “kỳ”, di” cua thần, nhân gop vao. Đo la mô thưc kha thống nhât
cho truyên kể vê cac miên đât, từ sông, suối, chằm, vinh cho đên núi đồi, gò bãi…
3.1.2.2. Truyện về các “danh lam cổ tự”
Trong tiêng Viêt, “danh lam cổ tư” co thể hiểu theo nghĩa rông hay hẹp
tùy hoan canh. Ở đây chúng tôi dùng no như môt thanh ngữ, môt cach biểu đạt
bao quat, mang tinh ẩn dụ vê mọi công trình kiên trúc, thanh tưu lao đông cua
con người. Noi “danh lam cổ tư” hẳn nhiên phai la ngôi chùa nổi danh, ngôi
chùa xưa cũ nhưng rông hơn la để chỉ chung mọi thư đên miêu, chùa chiên,
thanh lũy… nổi tiêng.
87
Mang truyên truyên kỳ chu đê “danh lam cổ tư” cũng phong phú không kém
chuyên “đia linh nhân kiêt”. Co thể kể ra hang loạt tên truyên thuôc chu đê nay.
Chẳng hạn, vê chùa: co “Chùa Tiên Tich”, “Chùa Sùng Phúc”,“Chùa Thiên Mụ”,
“Chùa Kim Liên” trong Tang thương ngẫu lục cua Nguyễn Án va Phạm Đình Hổ;
“Chùa Phap Vân” trong Mẫn Hiên thuyết loại cua Cao Ba Quat va Trương Quốc
Dụng; “Chùa Quang Minh ở Hâu Bổng” trong Công dư tiệp ký cua Vũ Phương
Đê… Đên miêu: “Đên Trân Vo”, “Đên Linh Lang” trong Tang thương ngẫu lục;
“Đên Bạch Mã”, “Đên Trân Thiên Chân Vũ”, “Chùa Phap Vân”, “Đên Phạm Sư
Quân”, “Đên Từ tiêt phụ” trong Mẫn Hiên thuyết loại… Rồi những “Thanh cũ Triêu
Khẩu”, “Thap Tụ Chang”… Co thể noi rằng, co ca môt “mạch” truyên truyên kỳ
theo chu đê danh lam cổ tư với những tinh chât, đặc điểm riêng. Cũng giống như
mang truyên vê cac miên đât thiêng, truyên vê cac di tich, danh lam cổ tư đặc sắc ở
gia tri tinh thần. Đo la môt sư kêt hợp rât đôc đao giữa gia tri canh quan, gia tri kiên
trúc với những điêu kỳ lạ, huyên diêu, mang đâm yêu tố tâm linh ở cac thưc thể văn
hoa nay. Sư gắn kêt đo chặt chẽ đên mưc không thể tach bạch cac gia tri cua di san
vât thể va “phi vât thể” môt cach rạch ròi được.
Truyên “Chùa Sùng Phúc” trong Mẫn Hiên thuyết loại cua Cao Ba Quat va
Trương Quốc Dụng kể lai lich môt ngôi chùa, trong đo co đồ vât thiêng la qua
chuông đồng. Co điêu lạ la hằng đêm, qua chuông bay xuống đầm nước bên cạnh
ngôi chùa để đanh nhau với môt con rồng. Cuôc đâu rât dữ dôi, “con rồng quân lây
chuông, thoắt chìm, thoắt nổi, nước đầm sôi sục”. Cuôc đâu giữa đồ vật va con vật
liên tục như vây sau tam, chin ngay thì qua chuông bỗng nhiên biên mât va người ta
cũng không thây bong dang con rồng ở trong đầm nữa. Cũng vì sư tich đo ma đầm
được gọi la Đầm Chuông. Vê sau co người lai buôn từ châu Thai Bình (Trung
Quốc) sang ta buôn ban cho biêt qua chuông chùa Sùng Phúc không mât ma trôi
ngược theo sông Long Châu, lên đên bãi Hắc Ha, thuôc châu Thai Bình thì dừng lại.
Viên quan châu “sai thợ pha qua chuông ây đi, thì thây trên thân chuông mồ hôi
thoat ra như mưa, tiêng kêu như sâm. Người ta sợ không dam pha chuông nữa, đem
treo ở đên khac. Dân đia phương đên tân nơi để nhân chuông, thì đúng la qua
chuông chùa Sùng Khanh” [122, tr. 123]. Như vây, ngôi chùa Sùng Phúc trở nên
linh diêu la bởi liên quan đên sư tich môt sự vật (qua chuông) đặc biêt.
88
Cũng co nhiêu trường hợp di tich trở nên nổi tiêng không phai do vât linh ma
vì liên quan đên con người. Chẳng hạn truyên “Thap Bao Ân” trong Lan Trì kiến văn
lục. “Thap ở xã Bình Quân huyên Cẩm Giang. Quanh thap không co chùa quan, chân
thap không co bi ký, không thể khao xét dâu vêt chân thưc cua thap” [163, tr. 140].
Tuy vây, ngôi thap nay lại rât nổi tiêng bởi no liên quan đên môt cuôc tình đầy ngang
trai giữa cô gai mắc bênh hui va người học trò Kinh Môn. Tình tiêt đặc sắc cua truyên
chinh la viêc chang Sinh được lây đỗ, dù bai thi cua chang rât kém. Sở dĩ chang đỗ la
vì vi quan nôi han châm thi không thể bỏ qua lời cầu xin thống thiêt cua môt người
nữ không hê quen biêt luôn am anh ông trong thời gian châm thi. Sau ngay thi đỗ,
chang Sinh đã đên đap ân nghĩa bằng cach xây ngôi thap. Đo cũng la chưng tich vê
lòng biêt ơn cua chang đối với người nữ bạc mênh nhưng giau lòng trắc ẩn.
Ro rang la danh tiêng cua môt di tich (ở đây la đên thap, miêu chùa) luôn
được sư công hưởng từ huyên thoại, truyên thuyêt. Noi cach khac, chinh man sương
khoi vừa hư vừa thưc cua cac câu chuyên vê nhân, thần đã gop phần tạo ra gia tri
văn hoa cua danh lam thắng tich. Rât nhiêu trường hợp, chinh cai phần huyễn hoặc
đo mới thưc sư la điêu quan trọng, lam nên sư nổi danh chư không phai phần “vât
thể” cua di tich. Công trình kiên trúc co thể không nguy nga đường bê, không thât
tinh xao cầu kỳ, thê nhưng chinh huyên thoại sẽ bù đắp vao, lam tăng gia tri “phi
vât thể” cua no.
Chuyên vê cac công trình mang tinh tin ngưỡng, tôn giao va cac nha tu hanh
nổi tiêng la môt mang đê tai rât phong phú va cũng rât đôc đao cua loại hình truyên
truyên kỳ. Tiêu biểu nhât la cac truyên trong hai bô sach Thiền uyển tập anh ngữ lục
va Tam tổ thực lục.
Thưc tê la nêu xét riêng vê nhân vât thì chuyên vê cac nha tu hanh hoan
toan co thể xêp vao mục “danh nhân”. Bởi trong giới thiên sư co rât nhiêu vi xuât
sắc, nưc tiêng muôn đời nêu kể vê tai năng, phẩm hạnh. Tuy nhiên cuôc đời cua
họ thường bo hẹp trong môi trường sống đặc thù, chu yêu giới hạn trong phạm vi
chốn thiên môn. Không chỉ lúc sống ma ca khi đã viên tich, thân xac họ cũng
thuôc vê coi thiên. Hơn nữa, như đã noi ở trên, danh lam cổ tư va sư tich thiên sư
la hai yêu tố luôn liên quan với nhau. Chuyên sinh xuât, đạo hạnh, phép thuât,
ngôn hanh, tich diêt kỳ lạ cua môt vi cao tăng không bao giờ tach bạch khỏi nơi
89
chốn tu hanh cụ thể cua người đo. Chinh vì thê ma chúng tôi sẽ kêt hợp đê câp đên
nhân vât nha sư ở mục nay.
Sach Thiền uyển tập anh ngữ lục la môt bưc tranh sinh đông va tiêu biểu hơn
ca vê giới thiên sư. Đây la những người đặc biêt, xuât sắc trong “vườn thiên” (thiên
uyển), la cac bâc “danh công, thạc đưc”, được coi la “phú bẩm anh di, tri kiên siêu
quần”. Môt sư hôi tụ tât ca tinh hoa Phât giao Viêt Nam mây trăm năm trên nên
tang văn hiên Đại Viêt.
Do đặc điểm lich sử Viêt Nam, suốt ca thời kỳ đầu dưng nước va qua trình
giữ nước hang nghìn năm, giới sư sãi, tăng lữ ở nước ta luôn đong vai trò quan
trọng trong đời sống công đồng. Trong tâm thưc cua người Viêt, Phât giao la tôn
giao rât được coi trọng. Dưới thời Lý - Trần, đã co những thời điểm tôn giao nay
được xem la “quốc giao” (tôn giao chinh thống, chinh thưc cua quốc gia); co những
vi thiên sư được triêu đình tôn la “quốc sư”. Hầu như cac công trình kiên trúc mang
tinh tôn giao đêu gắn liên với những giai thoại, truyên thuyêt vê cac nha sư. Những
câu chuyên co yêu tố lạ lùng, kỳ bi liên quan đên nha sư luôn co sưc cuốn hút mạnh
mẽ đối với mọi người. Sư tich vê cac bâc cao tăng như “Đại sư Khuông Viêt”,
“Thiên sư Đạo Hạnh”, “Thiên sư Đạo Huê”, “Thiên sư Tinh Giới”, “Thiên sư Vạn
Hạnh”, “Thiên sư Ngô Ấn”… trở thanh chât liêu căn ban để nha văn tạo nên cac
truyên truyên kỳ.
Điểm chung trong cac truyên truyên kỳ chu đê thiên sư ở Thiền uyển tập anh
ngữ lục la sư ổn đinh cua thông tin qua từng câu chuyên. Co thể noi, cac truyên trong
sach nay được quy thanh công thưc: thông tin về ngôi chùa + ba điều kỳ lạ của nhà sư.
“Ba điêu lạ” la sinh xuât kỳ lạ, hanh trạng kỳ lạ va tich diêt kỳ lạ.
Trước hêt noi đên thông tin vê ngôi chùa. Mỗi môt truyên trong Thiền uyển
tập anh ngữ lục luôn được bắt đầu bằng viêc giới thiêu khai quat vê nguồn gốc, lai
lich cua công trình. Phần mở đầu nay thường ngắn gọn nhưng đầy đu tên chùa, đia
điểm rât ro rang. Chẳng hạn:
- Chùa Phât Đa, hương Cat Ly, huyên Thường Lạc (truyên “Đại sư Khuông Viêt”).
- Chùa Minh Quang, núi Thiên Phúc, huyên Tiên Du (truyên “Thiên sư
Đạo Huê”).
- Chùa Long An, Ninh Sơn, phu Ứng Thiên (truyên “Thiên sư Ngô Ấn”).
90
- Chùa Quốc Thanh, núi Bi Linh, phu Nghê An (co thuyêt noi chùa Quốc
Thanh ở phu Trường An - truyên “Thiên sư Tinh Giới”).
- Chùa Tinh Qua, hương Trung Thụy, huyên Trương Canh (truyên “Thiên sư
Quang Nghiêm”)…
Sau khi đã giới thiêu khai quat vê chùa, tac gia kể vê lai lich, công đưc cua
người dưng chùa. Cac nha sư ở trong sach nay không phai Tiên Phât ma la những
nhân vât co thât, lai lich nhân thân ro rang. Tuy thê, đây la những người co phẩm
chât, ban lĩnh kỳ lạ, khac thường. Ban lĩnh cua họ được giai thich la do nhiêu
nguyên nhân khac nhau: do thiên phú, do tu luyên, do được chân truyên… Họ co
thể lam được những điêu ma người thường không thể thưc hiên được. Đại sư
Khuông Viêt chẳng hạn, co tai sai khiên điêu khiển vạn vât va đặc biêt la Ngai còn
dùng tai tri, phép thuât cua mình vao viêc chống giặc dữ, yên viêc nước: “Năm
Thiên Phúc thư nhât (981), quân Tống sang xâm lược nước ta. Trước đo, vua đã biêt
viêc nay, bèn sai sư đên đên cầu xin thần phù hô. Quân giặc kinh sợ lui vê giữ sông
Hữu Ninh. Đên đây, bọn chúng lại thây song gio nổi lên ùn ùn, giao long nhay tung
lên mặt nước, quân giặc sợ hãi tan chạy” [91, tr. 62]. Thiên sư Tinh Giới la người
“co phép lạ hang long phục hổ, cam hoa thần thông”, ngoai ra, Ngai còn co tai tụng
niêm đao vũ, cầu mưa gọi gio dễ dang cho nên được gọi la Vũ Sư. Môt vi khac la
Thiên sư Đạo Huê lại co kha năng cam hoa muôn loai: “Tiêng sư tụng kinh ngay
đêm cam hoa ca khỉ vượn trong núi, khiên chúng kéo từng đoan đên chùa nghe
kinh. Vì thê danh tiêng cua sư vang truyên đên kinh đô. Năm Đại Đinh thư 20 (1159
đời Lý Anh Tông) hoang phi Thụy Minh bi ốm, vua sai sư vời sư đên xem bênh.
Ngay sư lên đường, khỉ vượn gao khoc quyên luyên. Khi sư vao cung, vừa đên cửa
phòng cua hoang phi thì bênh cua phi bèn khỏi” [91, tr. 64]. Thiên sư Vạn Hạnh thì
rât giỏi tiên tri, đoan viêc trước sau nhât nhât đêu ưng nghiêm, không sai chút nao,
khiên cho thiên hạ vô cùng nể phục… Tât nhiên, ngôi chùa co những bâc thiên sư
như vây trụ trì thì tiêng tăm cũng do vây ma vang xa.
Sach Tam tổ thực lục, cũng la môt bô sach thuôc nhom “truyên thiên sư”, noi
vê 3 vi sư tổ cua thiên phai Trúc Lâm Thiên Tông Yên Tử. Đây la môt phai tu hanh
rât đôc đao cua Phât giao Viêt Nam. Ba vi tổ sư trư danh đưng đầu Trúc Lâm phai
la Giac Hoang Điêu Ngư Trần Nhân Tông, Phap Loa Tôn Gia Đồng Kiên Cường va
91
Huyên Quang Tôn Gia Lý Đạo Tai. Ca ba vi tổ sư nay đêu được sinh ra môt cach kỳ
lạ, khac hẳn người thường. Trần Nhân Tông, ông Phât hoang (vua Phât) nay đầu
thai vao Nguyên Thanh Hoang Hâu theo ý trời. Ba hoang hâu được thần nhân bao
mông, co thai sinh ra quý tử, tưc Trần Nhân Tông sau nay. Trần Nhân Tông lúc mới
ra đời đã co “mau da như vang ròng”, “vai trai co nốt ruồi đen như hạt đâu lớn”, tưc
đã hiển lô quý tướng cua bâc đê vương. Với lai lich như thê, Ngai được tiên đoan
chắc chắn sẽ “ganh vac viêc lớn”.
Qua trình sinh xuât cua Phap Loa va Huyên Quang cũng đúng theo mô tip
như vây. Ba Vũ Thi, mẹ cua Phap Loa thì co môt đêm nằm mông, thây di nhân trao
kiêm thần, ba vui mừng ôm vao lòng, “đên khi thưc giâc ba biêt co thai”. Ba Lê Thi,
mẹ cua sư Huyên Quang thì nhân môt hôm đi hai thuốc trên rừng, do mỏi mêt nên
ba tìm nơi ngồi nghỉ rồi chợp mắt, thiêp đi. Trong cơn mơ, ba thây “môt con khỉ
lớn, đầu đôi mũ triêu thiên, mình mặc ao hoang bao, ôm mặt trời hồng ném vao
lòng ba. Lê Thi kinh hãi thưc giâc, thây lòng rung đông (…) Ngay Sư Tổ ra đời, co
anh hao quang rưc rỡ, hương thơm tỏa ngao ngạt, người ta gọi ngai la Thanh Tinh
Hương Hai Đồng (…) Sư Tổ học môt biêt mười, tai hoa như Á thanh Nhan Tử, cha
mẹ đặt tên cho la Tai Đạo. Năm hai mười tuổi, Sư Tổ thi hương trúng cach, mọi
người đêu mong Sư Tổ sẽ đỗ đại khoa. Năm sau thi Hôi, qua nhiên Sư Tổ đỗ khôi
nguyên” [91, tr. 98-100].
Trong thưc tê, Trần Nhân Tông, Phap Loa, Huyên Quang la những nhân vât
nổi tiêng vê đạo cao đưc trọng, công nghiêp cao day. Giac Hoang Điêu Ngư Trần
Nhân Tông la người dam từ bỏ tât ca, ngôi bau, triêu đình, sư nghiêp… tu luyên để
trở thanh vi Tổ Nhât Trúc Lâm Phai. Ngai quan niêm rằng ngôi vua “chỉ như chiêc
dép rach”. Môt người co thể nhẹ nhang chối bỏ vinh hoa, từ bỏ đia vi tôn quý tôt
bâc để theo Phât thì qua la phi thường. Đại đê tử cua Trần Nhân Tông, Phap Loa
Tôn Gia Đồng Kiên Cường cũng la người siêu viêt. Ông truyên đạo cho hang nghìn
môn đê, gop phần xây dưng chùa thap khắp coi Đại Viêt (co sach noi con số di tich
lên tới hang nghìn). Công trạng mở mang anh hưởng Phât giao ở nước ta cua Phap
Loa, vi tổ thư hai Trúc Lâm phai rât lớn.
Cuôc đời cua Huyên Quang Tôn Gia Lý Đạo Tai cũng hêt sưc ly kỳ, quai lạ.
Ngai co quyên phép sai khiên, “hô phong hoan vũ” theo ý mình: “Nha sư được vua
92
triêu vê, lâp tưc đên ngay kinh đô yêt kiên. Sang sớm hôm sau sư lên đan hanh lễ.
Bốn bên đan đêu căng lụa vang, phô ra đu cac loại tạp vât, đèn nhang cua sau lễ
cũng được bay biên sẵn. Sư vốn đã biêt viêc ngay nọ cung nữ đên thử, bèn ngẩng
mặt lên trời than thở. Ngai bước lên đan ba lần, bước xuống đan ba lần, rồi đưng
yên giữa đan môt mình, vọng bai hiên thanh mười phương, tay phai cầm bình ngọc
trắng, tay trai cầm canh liễu xanh, miêng lầm rầm niêm chú. Xong ngai ray nước
tưới rửa khắp chốn trên dưới trong ngoai đan hôi. Bỗng môt đam mây đen hiên ra ở
Phương Nam, gio thổi cat bụi tung bay mờ mit bầu trời, môt lat thì tan hêt; tât ca
cac tạp vât đêu bay đi, chỉ còn lại đèn nhang cua sau lễ. Cac đạo trang va mọi người
xem hôi, ai nây đêu thât sắc” [91, tr. 106].
Truyên vê cac ngôi chùa va nhân vât thiên sư còn rai rac trong rât nhiêu tac
phẩm truyên kỳ khac. Chẳng hạn chùa Thiên Phúc, núi Phât Tich trong “Truyên Từ
Đạo Hạnh va Nguyễn Minh Không”; chùa Nghiêm Quang huyên Hai Thanh trong
“Truyên Dương Không lô va Nguyễn Giac Hai” (Lĩnh Nam chích quái lục); chùa
Không Lô ở hương Giao Thuy trong “Minh Không thần di” (Nam Ông mộng lục);
chùa Quang Minh, xã Hâu Bổng, huyên Gia Phúc trong truyên “Kiêp sau cua sư Bât
Sô” (Công dư tiệp ký) …
Co thể thây những ngôi chùa co bâc thiên sư đạo cao đưc trọng trụ trì thì
danh tiêng cũng nhờ đo ma được lưu truyên rông rãi. Chuyên kể vê cac danh lam cổ
tư va sư tich kỳ lạ vê cac nhân vât tu hanh đã gop phần lam đầy đặn thêm diên mạo
“đia linh” nước Viêt.
3.2. THÊ GIỚI “LINH”, “DỊ” TRONG TRUYÊN TRUYÊN KY
Đặc trưng cua thê giới truyên kỳ la những thư khac thường, quai di. Ở đây
không co chỗ cho tư duy logic. Noi cach khac, “logic” cua thê giới truyên kỳ chinh la
sư phi thường. Bởi thê cho nên, không cư thần thanh, ma quỷ ma ca con người, đồ vât,
súc vât… đêu it nhiêu co tinh quai di. Như vây cũng co nghĩa la trên thưc tê, gần như
không thể vạch môt ranh giới thât dưt khoat giữa cac đối tượng được gọi la “danh
nhân” với “kỳ nhân”, “di nhân” trong thê giới truyên truyên kỳ.
Tuy nhiên, để thuân lợi cho viêc khao sat đặc điểm nôi dung cua truyên
truyên kỳ, trong những trường hợp cần thiêt, chúng tôi tạm tach bạch môt số đối
93
tượng vốn rât gần nhau vê tinh chât, thâm chi cùng thuôc môt nhom. Vì lý do đo,
trong mục nay chúng tôi sẽ tâp trung vao hai chu đê: dị nhân, quái sự va chu đê linh
thiêng, báo ứng…
3.2.1. Truyện “dị nhân”, “quai sự”
3.2.1.1. Chủ đề “kỳ nhân”, “dị nhân”
Chữ “kỳ”, “di” ma chúng tôi dùng ở đây tuy co liên quan đên hiên tượng “di
tướng”, “di hình”, nhưng chu yêu để chỉ những phẩm chât, năng lưc cua những
nhân vât đặc biêt trong thê giới truyên kỳ. So với những đối tượng được gọi la
“danh nhân”, kẻ “di nhân”, “kỳ nhân” co môt số điểm khac biêt. Nêu danh nhân la
những “người hiên”, những người co uy vọng trong xã hôi, được coi la “nguyên khi
quốc gia”, thì “kỳ nhân”, “di nhân”, chỉ la sư khac lạ, siêu pham.
Sư kỳ dị cua nhân vât kiểu nay rât đa dạng. Trong Truyền kỳ mạn lục cua
Nguyễn Dữ co truyên “Cuôc đối đap cua người tiêu phu núi Nưa”. Đo la môt truyên
ham ẩn nhiêu ý nghĩa, nhiêu tầng ẩn dụ sâu sắc, tuy nhiên ở đây chúng tôi chỉ chú ý
vê phương diên nhân vât chinh (người tiêu phu) - môt “kỳ nhân”. Truyên cho biêt:
“Đât Thanh Hoa phần nhiêu la núi, bat ngat bao la đên mây nghìn dặm. Trong đo co
môt ngọn núi cao chot vot, tên gọi la núi Na. Núi co cai đông, dai ma hẹp, hiểm trở
ma quạnh hiu, bụi trần không bén tới, chân người không bước tới. Hang ngay, trong
đông co người tiêu phu ganh cui đi ra, đem đổi lây ca va rượu, cốt được no say chư
không lây môt đồng tiên nao. Hễ gặp ông gia, trẻ con dưới đồng bằng lại noi những
chuyên trồng dâu, trồng gai môt cach vui vẻ. Ai hỏi họ tên, nha cửa, tiêu phu chỉ
cười không tra lời. Mặt trời ngâm núi, lại thung thỉnh vê đông” [29, tr. 63]. Tuy la
kẻ lanh đời, lam nghê hai cui song người đo co kiên văn cua bâc cao sĩ. Ông Tiêu đã
chưng minh điêu nay bằng hanh vi cua mình va nhât la lời phân tich thời thê, biên
luân chinh sư cưc kỳ sắc sao: “Tai ta tuy kém, so với người xưa chẳng bằng được,
nhưng may lại giau hơn Kiêm Lâu, thọ hơn Vê Giới, no hơn Viên Tinh, đạt hơn
Phụng Thiên, kể thì cũng đã được trời đât ban cho kha nhiêu. Nêu lại còn tham cầu
những cai ở ngoai phân mình, len lỏi vao đường lam quan, chẳng những xâu hổ với
cac bâc tiên hiên, lại còn phụ bạc với vượn hạc ở trong núi.(…) Ta tuy chân không
bước đên thi thanh, mình không vao đên cung đình, nhưng vân thường được nghe
94
tiêng ông vua bây giờ la người thê nao” [29, tr. 65 ]. Ông “Tiêu Phu Di Nhân” nay
đã bong gio lên an sư mục ruỗng cua vương triêu va bay tỏ niêm thât vọng sâu sắc
đối với chinh trường. Lời biên luân cua ông chỉ ro từng người, từ vua cho đên quần
thần đương triêu, đêu la những người tai mọn đưc kém. Những kẻ đo hoan toan
không xưng ở ngôi vi cua mình. Ông thẳng thừng từ chối lời cầu hiên, chỉ lam kẻ
tiêu phu vô danh ở núi Nưa Thanh Hoa chư không mang danh lợi.
Di nhân cũng co thể la những đạo sĩ, người tu luyên thanh tai. Chẳng hạn
nhân vât Phạm Viên trong Lan Trì kiến văn lục. Ông nay người huyên Đông Thanh,
tỉnh Nghê An, con ca cua tiên sĩ Phạm Chât. “Viên sinh ra tuân tú thông minh, đọc
sach môt lần la thuôc. Ông thường đọc Liệt tiên truyện, trong lòng hâm mô cac bâc
tiên thanh, liên bỏ ca sach vở, chuyên luyên thuât tu tiên. Lâu dần, ông học được
phép tiên” [163, tr. 34]. Phạm Viên mồ côi cha khi mới hơn mười tuổi. Sau khi lo
liêu tang ma cho cha xong, ông đi môt mình vao núi va không bao giờ trở vê nha
nữa. “Từ đo, co khi ông thac hình du ngoạn. Nhưng dung tich rât bi mât, co khi đi
rồi mới biêt, co khi vừa nhìn thây trước mắt đã không biêt đi đâu” [163, tr. 34].
Hanh trạng cua họ Phạm cưc kỳ bi ẩn. Ông thường xuât hiên để truyên dạy, giúp đỡ
cho môn sinh cua mình. Khi thôn dân bi nạn hỏa tai, giặc giã, Phạm Viên dùng phép
thuât cưu giúp rât linh nghiêm. Cũng vì thê ông được nhân dân kinh trọng, tôn thờ.
Phạm Viên la bâc sư phụ co nhiêu môn sinh thụ giao, trong số đo co Thanh
Đạo Tử. Trong Tang thương ngẫu lục, Phạm Đình Hổ va Nguyễn Án co nhắc đên
ông nay. Thanh Đạo Tử quê ở Sơn Tây, lúc trẻ tuổi cũng co đi học, đi thi nhưng chỉ
đỗ hương tiên. Noi chung cử nghiêp đối với ông không phai la điêu quan trọng, hưng
thú. Thanh Đạo Tử chan viêc bút nghiên, không ham rèn dũa văn thơ, chỉ thich du
ngoạn, thăm viêng khắp nơi, không quan xa xôi cach trở. Trên con đường lãng du,
ông gặp Phạm Viên, được vi chân nhân nay thu nhân lam đồ đê. Từ đo hai thầy trò
vân du quanh năm suốt thang, “vêt chân trai khắp sông to núi đẹp” [50, tr. 51]. Sư di
thường cua Thanh Đạo Tử la ở chỗ ham xê dich va thưc hanh những điêu ngâu hưng
bât ngờ. Ông đi chơi trên biển, bi lạc trong đao vắng xa lạ, không co chút dâu vêt nao
cua người trần thê. Ở đao, ông diên kiên bâc “chân nhân”, được ẩm tửu với “kỳ
nhân”, lại còn được truyên sach quý. Cuốn sach quý gia nay đã khai mở cho ông
95
nhiêu điêu. Đên khi trở vê lại đât liên, ông tiêp tục “đi phong lãng khắp nơi sơn
thuy”. Tuy nhiên lần nay, thú xê dich không còn la mục đich chinh. Ông dùng tai lạ
cua mình để ra tay tê đô nhân gian, giúp đỡ người kho khăn, cưu chữa kẻ lâm trọng
bênh. Ông cưu giúp người không vụ lợi, không nhân lễ tạ. Thanh Đạo Tử từng đi lạc
vao coi khac, mât tăm tich. Người nha tưởng ông đã chêt, để tang trở gần môt năm,
thì lại thây ông trở vê.
Kỳ nhân cũng co thể la người tai giỏi trong lĩnh vưc bốc đôn, boi toan. Trong
Lan Trì kiến văn lục co chuyên “Ba đồng”, kể vê môt người đan ba lam nghê đồng
cốt. Người nay co kha năng thâu thi tương lai, nhờ xem cây lôc ma biêt nhiêu
chuyên. Với cach boi đoan nay, ba co thể lam được điêu không thể tin được. Chẳng
hạn, ba co thể “nhìn” thây va lén đọc được (trong coi mông, hư vô) “danh sach”
niêm yêt những người đỗ đạt trong khoa thi… sắp đên. Câu chuyên đầy vẻ hoang
đường nay được tac gia cam đoan la nghe người cha kể lại: “Hồi cha tôi chưa thi đỗ,
trọ học ở ngoai cửa Nam Kinh đô. Môt đêm nọ, nghe tiêng go cửa rât gâp, cha tôi
mở cửa ra xem thì thây bạn thân người la ông Phạm ở Đông Bình đên chơi” [163,
tr. 80]. Sở dĩ ông họ Phạm kia phai đên lam khach trong tình thê oai oăm như vây la
vì muốn thông bao môt tin cưc kỳ quan trọng liên quan chu nha. Khach thuât lại lời
cua ba đồng, bao rằng chu nha sẽ đỗ trong kỳ thi ây. Chu nha nhât quyêt không tin
vì nghĩ rằng đo chẳng qua la chuyên quang xiên mê sang cua kẻ đồng cốt. Thê
nhưng vê sau thì mọi thư đúng y như lời ba đồng. Kêt qua khoa trường năm ây, so
với lời ba đồng thì ưng nghiêm đên kinh ngạc. “Năm ây thi Hôi, đúng la co 13
người đỗ. Cha tôi đỗ đầu, tât ca đêu phù hợp với lời ba đồng” [163, tr. 81].
Mô tip người thâu thi tương lai, nhìn được những chuyên diễn ra ở “coi
khac” được nhắc đên kha nhiêu trong truyên truyên kỳ. Những kỳ nhân ây thường
được công đồng tôn xưng la “thầy”. Co “thầy” năng lưc siêu pham đên mưc chỉ cần
nhìn qua tướng mạo la đã co thể “đọc” thây hâu vân mây chục năm sau cua người
ta. Chẳng hạn ông thầy tướng đoan được hâu vân cua Nguyễn Phan trong truyên
“Thầy tướng” (Lan Trì kiến văn lục). Theo như trong truyên thì ông Quân công
Nguyễn Phan quê ở Ha Dương, huyên Hoằng Hoa vốn la kẻ nuôi ngưa cho đô đốc
họ Đinh trân Sơn Nam. Từ thân phân môt kẻ nô bôc, tướng mạo tầm thường, vê sau
96
trở thanh môt vi Quân công quyên uy nghiêng trời lêch đât. Sư thăng tiên ây qua la
điêu không ai co thể tưởng tượng nổi. Thê ma co viên thầy tướng nhân ra, noi trước
được điêu đo. Tac gia kể rằng khi ông “thầy” được mời đên dinh quan đốc, mới
nhìn qua tướng mạo cua cac thanh viên trong gia đình liên bao ngay la không co gì
để noi ca. Lúc đo kẻ gia nô Nguyễn Phan tình cờ mang cỏ cho ngưa đi ngang qua.
Ông thầy tướng mới thoang nhìn đã khẳng đinh ngay đây la kẻ sẽ co tương lai cưc
kỳ san lạn. Mọi người không tin, cho la thầy noi điêu. Thê nhưng vê sau thời thê
thay đổi, phân người cũng đổi thay. Nguyễn Phan theo quan đốc đanh dẹp lâp được
công lớn, trở thanh vi chiên tướng giỏi bâc nhât thời bây giờ. Hơn mười năm sau,
Nguyễn được bổ nhiêm quan chưc, trông coi công viêc ca xư. Mây người con cua
Nguyễn Phan cũng đêu nắm binh quyên. Môt nha vinh hiển. Ông hưởng thọ ngoai
bay mươi tuổi. Sư viêc nay xay ra đúng như lời thầy tướng phan năm xưa.
Cũng co kiểu nhân vât được xem la kỳ lạ do lòng can đam, gan dạ đặc biêt.
Đây la những người không biêt kinh sợ điêu gì, cho dù la ma quỷ. Chẳng hạn nhân
vât Nguyễn Hãn, môt nông dân ở huyên Thanh Trì. Công viêc cua Hãn thường ở
ngoai đồng, ban ngay khơi nước vao ruông, tưới tắm cho lúa mau, còn ban đêm thì
đặt đó để bắt ca. Tuy vât va nhưng nhiêu đêm chang chẳng bắt được gì. Chẳng
những thê, đó dùng bắt ca còn bi kẻ lạ pha hỏng hoặc vưt đi nơi khac. Chang không
biêt phai lam sao. Qua nhiêu phen rình râp, môt đêm Hãn phat hiên ra kẻ gian. Hắn
cư chờ khi chang đặt đo xong môt lúc la đên trôm ca. Tưc giân, chang xông tới
dùng gây đanh túi bụi vao kẻ cao lớn kênh cang. Kẻ kia cũng đanh lại rât hăng. Ca
hai quần thao cho đên tân lúc ga gay sang thì kẻ gian thât thê, bỏ chạy. Hãn vân
đuổi theo, quyêt truy đên cùng. Khi kẻ kia trúng đòn hiểm, kêu rống lên, ngã lăn ra
rồi vụt biên đâu mât chang mới hay la mình vừa giao chiên tân lưc với ma. Tuy vây,
chang chẳng hê sợ hãi chút nao, bình than cầm gây trở vê nha, coi như không co
chuyên gì xay ra. Hôm sau, chang quay lại hiên trường “nhìn chỗ ma ngã thì chẳng
thây gì, chỉ thây nhiêu manh sang rach, chổi rach va những manh quần ao rach
bươm vưt bừa bãi ở đo. Hãn nhặt nhạnh những thư đo đem đốt đi, không biêt đo la
loại ma quai gì” [163, tr. 104].
97
Co thể noi rằng “kỳ nhân”, “di nhân” la chu đê rât đang lưu ý trong loại hình
truyên truyên kỳ. Đây la những nét bổ sung cần thiêt để bưc chân dung “người Viêt
tai tri” trở nên sinh đông, đầy đu hơn.
3.2.1.2. Chủ đề “quái sự”
Chữ “quai sư” (怪事) vốn rât hay xuât hiên trong cac truyên truyên kỳ. No
thường được dùng để chỉ những sự lạ, bao gồm ca sự việc kỳ lạ va sự vật kỳ lạ.
Truyên truyên kỳ “quai sư” rât phong phú, đa dạng; kho co thể trình bay đầy đu,
trọn vẹn chỉ trong phạm vi môt mục nhỏ cua luân an. Ở đây chúng tôi chỉ tâp trung
vao hai hiên tượng nổi bât nhât, đo la chuyên kỳ ngộ va chuyên yêu ma.
Trước hêt la chuyên “kỳ ngô”. Noi kỳ ngộ la noi đên những cuôc gặp gỡ lạ
lùng, ly kỳ ngoai sưc tưởng tượng. Đây la những cuôc tiêp xúc giữa người bình
thường với cac đối tượng “phi thường”. Đối tượng đo co thể la thanh thần, tiên
Phât, ma quỷ… Cuôc gặp diễn ra trong những hoan canh đặc biêt, những không
gian, thời gian phi thưc tê; chẳng hạn như thiên đình, địa phủ, thủy cung hoặc thời
quá khứ, tiền thân, hậu thân cua kiêp người... Những cuôc gặp như vây tât yêu sẽ
nay sinh những điêu kỳ lạ, những kêt qua khac thường: đầu thai, tái sinh, thành đạt
bất ngờ…
Đang chú ý nhât ở mang truyên “kỳ ngô” la những cuôc tình duyên đôi lưa,
hôn nhân với kẻ khac loai. Cac mối “duyên kỳ ngô” trong Thánh Tông di thảo
chẳng hạn, thường diễn ra giữa trai pham tục va thần nữ, tiên nữ hoặc yêu nữ.
Truyên “Hoa quốc kỳ duyên”, kể vê cuôc nhân duyên kỳ lạ giữa chang Chu Sinh
người đông Sơn La, tỉnh Hưng Hoa với công chúa Mông Trang xư Hoa Quốc. Câu
chuyên tình giữa môt người trần va yêu quai (tinh loai bướm) nay tât éo le, rât lãng
mạn va cũng ly kỳ, hâp dân. Môt truyên khac, “Ngư gia chi di” kể vê mối duyên lạ
giữa chang Thúc Ngư, con nha thuyên chai với nang Ngọa Vân, con gai thư tam
mươi chin cua môt vi thần ở Long Cung. Cuôc gặp gỡ đúng la “chi di” va kêt thúc
la môt tham kich.
Truyên “Bich câu kỳ ngô” trong Truyền kỳ tân phả (Đoan Thi Điểm) cũng la
môt thiên tình sử nay sinh do “kỳ ngô”. Chuyên bắt đầu từ chuyên du ngoạn nhân
hôi Vô Gia ở chùa Ngọc Hồ cua chang thư sinh Tú Uyên. Tại đây Tú Uyên gặp
98
Giang Kiêu va si mê ngay từ lần gặp đầu tiên. Người đẹp Giang Kiêu vốn la tiên nữ,
đã được ký thac hình hai vao bưc họa chân dung để thử thach tình cam cua Tú
Uyên. Khi đã ro tâm lòng chân thanh cua chang, Giang Kiêu hiển hiên thanh người
va chung sống với nhau. Thê nhưng cuôc hôn nhân từ duyên kỳ ngô nay vê sau đổ
vỡ vì lỗi cua Tú Uyên, dù Giang Kiêu đã tìm cach cưu vãn.
Tiêu biểu cho lối truyên kỳ ngô nên duyên nay phai kể đên truyên “Từ Thưc
lây vợ tiên” trong Truyền kỳ mạn lục. Truyên được cho la xay ra vao năm Quang
Thai, đời nha Trần. Nhân vât chinh trong truyên la chang Từ Thưc, lam tri huyên
Tiên Du. Viên quan người Hoa Châu nay tình cờ gặp nang Giang Hương trong ngay
hôi chùa. Giang Hương vốn la tiên nữ trên thượng giới, gia dạng người trần dư hôi
Vô Gia. Do sơ ý, nang vin gãy canh hoa quý cua nha chùa, bi bắt đên. Từ Thưc biêt
được sư tình, muốn cưu giúp người đẹp nhưng không sẵn tiên, đanh cởi ao quý đang
mặc ra gan cho nha chùa để đên bù thay. Hanh vi nghĩa hiêp đo gây ân tượng mạnh
đối với tiên nữ Giang Hương. Vê sau, co lần Từ Thưc đi du ngoạn bi lạc đường đên
tân Phù Lai Tiên Canh, lại gặp Giang Hương. Thê rồi do co mối manh từ trước, Tú
Uyên được sắp xêp kêt duyên với Giang Hương. Tuy nhiên thời gian hạnh phúc đối
với Từ Thưc cũng không được lâu vì sống ở coi tiên nhưng chang không dưt được
mối tục lụy. Buồn nhớ canh quê nha, chang xin được rời tiên canh, môt mình trở lại
cố hương. Nhưng vê coi trần, Từ Thưc lại cam thây lạc long, buồn chan. Mọi thư giờ
đã biên đổi qua nhiêu, không giống với những gì ký ưc chang còn lưu giữ. Ở quê
không ai biêt gì vê thân thê Từ Thưc ngay trước. Chang cưc kỳ thât vọng, muốn quay
trở lại Bồng Lai để đoan tụ với Giang Hương nhưng mọi chuyên đã qua trễ. Bây giờ
chang mới “hâm hưc bùi ngùi; muốn lại lên xe mây để đi, nhưng xe đã hoa lam môt
con chim loan ma bay mât. Mở thư ra đọc (…) mới biêt la Giang Hương đã noi trước
với mình những lời ly biêt. Chang bèn mặc ao cừu nhẹ, đôi non la ngắn, vao núi
Hoanh Sơn, rồi sau không biêt đi đâu mât” [91, tr. 260].
Truyên “Từ Thưc lây vợ tiên” la môt câu chuyên ham chưa nhiêu ý nghĩa,
giau chât triêt lý. Hình tượng nhân vât Từ Thưc chinh la biểu hiên sinh đông cho sư
mâu thuân trong tư tưởng con người. Đo cũng la môt thư bi kich ma con người
không sao cởi bỏ được trong qua trình theo đuổi hạnh phúc cua mình.
99
Chu đê “kỳ ngô” không chỉ co chuyên gặp gỡ nên duyên ma còn nhiêu dạng
khac, thường dân đên những kêt cục co hâu như: được báo đáp, ân trả oán đền,
được hé lộ thiên cơ để thoát cảnh hiểm nghèo, hoặc là qua đó kết giao bằng hữu…
Đo co thể xem la những biểu hiên cho ước mơ, khat vọng muốn vượt lên những giới
hạn trong đời sống cua con người.
*
Môt phương diên khac cua chu đê quai sư la chuyên ma quai. Truyên truyên
kỳ co rât nhiêu loại ma, mi, quỷ, quai, yêu, tinh... “Đây la nhom truyên bôc lô ro
rang quan niêm cua người Viêt vê thê giới (hữu linh); no thể hiên môt cach sinh
đông phép ưng xử cua con người trước những “đối tac” bi hiểm (kiểu “thần cây đa,
ma cây gạo, cú cao cây đê”); va qua đây cũng phần nao hé lô vê côi rễ tin ngưỡng
cua người Viêt thời trung đại” [101, tr. 109]. Tât ca cac truyên vê yêu quai đêu co
điểm chung la khiên cho người nghe phai kinh sợ. Va đo cũng la chỗ hâp dân cua
mang truyên nay. Để dễ hình dung, co thể tạm chia truyên ma quai thanh hai nhom:
truyện yêu ma va truyện thú loại.
Nhom truyên yêu tinh, ma mi rât phổ biên trong loại hình truyên truyên kỳ.
Đo la cac thư vât loại tồn tại qua lâu ngay đã hoa thanh tinh hoặc hồn người chêt
hoa thanh ma: “Ngư tinh”, Hồ tinh”, “Môc tinh” (trong Lĩnh Nam chích quái lục);
“Thử tinh” (Tinh chuôt -Thánh Tông di thảo); “Ma trơi”, “Ma cổ thụ” (Lan Trì kiến
văn lục); “Ma Đồng Xuân”, “Thơ ma”, “Mẹ ranh can sat” (Tang thương ngẫu lục);
“Ma tranh”, “Ma thắt cổ” (Vân nang tiểu sử); “Quỷ núi” (Hát Đông thư dị); “Yêu
quai ở Xương Giang” (Truyền kỳ mạn lục)…
Hiên tượng ma quỷ trong cac truyên nay la những thế lực thuôc vê coi âm, la
những thư bi hiểm. Ma quỷ, yêu quai đồng nghĩa với cai xâu, cai ac. Thê lưc nay
đang sợ vì hầu như chỉ gây hại, tan pha, uy hiêp con người. Chẳng hạn giống “Ngư
tinh” trong Lĩnh Nam chích quái lục chinh la con ngư xa tinh ngoai biển. Thân hình
cua no được ta la “dai hơn năm mươi trượng, chân nhiêu như chân rêt, biên hoa vạn
trạng, linh di khôn lường, khi đi thì ầm ầm như mưa, lại ăn được thit người nên ai
cũng sợ”. Còn “Hồ tinh” la loai cao chin đuôi “sống hơn ngan năm, co thể biên hoa
thanh yêu quai, thanh người hoặc thanh quỷ, đi khắp dân gian” để gây hại cho
100
người. Còn giống “Môc tinh” vốn la môt cây chiên đan “cao hơn ngan trượng canh
la sum sê… trai qua hang mây ngan năm khô héo ma biên thanh yêu tinh, thường
thay đổi hình dạng, rât dũng mãnh, co thể giêt người hại vât… nay đây mai đo,
thường ăn thit người” [119, tr. 55].
Cũng trong nhom truyên “quai sư”, “quai vât” còn co truyên vê cac giống ngư,
trùng, thú, điểu… những thú vât co tâp tinh, kha năng phi thường. Tuy vây, phong phú
nhât la cac truyên vê hổ. Trong Vân nang tiểu sử cua Phạm Đình Dục co nhiêu chuyên
hổ. Nhưng Hổ nay khac thường ở chỗ chúng biêt giao hoa con người, biêt thưc hanh
viêc nghĩa như người. Truyên “Cọp dạy” kể chuyên anh chang Ất, vốn không biêt nghe
lời dạy dỗ cua phụ huynh, trưởng lão. Đây la kẻ lêu lổng, bât tri, đên nỗi gia đình, lang
xom không muốn dung nạp anh ta nữa. Người lang trừng phạt Ất bằng cach phục rượu
say, troi lại, đem bỏ trong rừng để hổ ăn thit cho khuât mắt. Thê nhưng điêu kỳ lạ đã
xay đên với Ất. Anh ta không những sống sot trở vê nha ma còn thay tâm đổi tinh hoan
toan nhờ bai học nhớ đời do cọp “dạy”. Ất trở nên lương thiên sau môt đêm kinh hãi
trong rừng vì bi hổ liêm sạch toc trên đầu.
Ngoai “Cọp dạy”, trong sach cua Phạm Đình Dục còn nhiêu truyên khac kể
vê loai thú vât đang sợ nay. Cac con Hổ cua Phạm Đình Dục rât đôc đao, đặc sắc
khi xuât hiên trong truyên truyên kỳ như “Cọp giữ bình hồ”, “Tay luồn miêng cọp”,
“Chúa sơn lâm ướm sưc”, “Cọp lam lý trưởng”… Những câu chuyên vê hổ cua ông
rât ly kỳ, rât lý thú bởi chúng mang tâm đưc con người.
Trong Lan Trì kiến văn lục cua Vũ Trinh co “Con hổ co nghĩa”, “Con hổ hao
hiêp”, “Con hổ nhân đưc”… Đây không phai ma quai di dạng di hình. Chúng lạ kỳ
bởi không sinh hoạt theo tâp tinh vốn co. Hổ trong tac phẩm cua Vũ Trinh rât lạ vì
giống vât nay co “lương tri”, “lương năng”. Chẳng hạn truyên “Hổ co nghĩa” kể vê
hai con hổ biêt tra ơn cho người giúp mình. Con thư nhât tra ơn cho ba đỡ họ Trần ở
Đông Triêu đã giúp hổ cai sinh nở. Mặc dù la dã thú nhưng sau khi ba Trần xong
viêc, Hổ vân biêt cach thể hiên lòng biêt ơn. No tặng bạc cho ba, dân ba ra khỏi
rừng để vê nha. Cai đôc đao cua Hổ đưc ở truyên nay la sư chu đao. Khi tiễn ba đỡ
ra khỏi rừng, “Hổ bai tạ quay vê, nhưng vân còn cúi đầu vây đuôi, lam ra vẻ tiễn
biêt. Ba đỡ đi kha xa, hổ liên gầm lên môt tiêng rồi bỏ đi” [163, tr. 42]. Con hổ thư
hai lại liên quan đên người tiêu phu huyên Lạng Giang. Ông Tiêu nay tình cờ chưng
101
kiên môt con hổ bi hoc xương. Hổ vùng vây suốt buổi ma không sao tư giai thoat
được. Khi con hổ đang tuyêt vọng thì được ông Tiêu liêu mạng giúp no. Hổ thoat
khỏi vụ hoc xương va mang ơn ông tiêu phu giau lòng trắc ẩn nay. Thê rồi no tra ơn
ông bằng muông thú bắt được. Đên khi ông tiêu phu chêt, Hổ bôc lô cam xúc hêt
như cach người co lễ nghĩa đối đãi với ân nhân cua mình. Truyên kể la ngay an tang
người tiêu phu, con mãnh hổ tới trước mô phu phục vât vã, ra chiêu thương xot lắm.
Thâm chi người ta còn thây hổ dùng đầu dụi vao quan tai, gầm rống, chạy quanh
mô vai vòng rồi mới chiu bỏ vao rừng sâu. “Từ đo vê sau, mỗi dip giỗ bac tiêu, hổ
lại đưa dê hoặc lợn đên để ở ngoai cửa nha bac trước hôm giỗ” [163, tr. 43]. Tac gia
đặt tên truyên “Hổ co nghĩa” la vì hổ cũng biêt lễ nghĩa, biêt ân oan rạch ròi.
Nhìn chung, xét vê mặt nôi dung tac phẩm, truyên quai sư ở đây kha gần gũi với
môt thể tai thường được gọi la “chi quai, chi di” trong truyên ký trung đại. Noi cach
khac, sư phân biêt ở đây cũng chỉ tương đối. Tuy vây, truyên chi quai, chi di va truyên
truyên kỳ chu đê quai sư noi riêng, vân la những hiên tượng văn học khac nhau nêu xét
vê phương thưc hình thanh, vê ý nghĩa, gia tri cua tac phẩm.
3.2.2. Truyện “nhân - qua”, “bao ứng”
Trong đời sống con người co nhiêu hiên tượng rât kho hoặc không thể giai
thich được bằng tư duy lý tinh. Cuôc sống nhiêu khi bi chi phối, bi xui khiên bởi
những điêu không đâu, rât phi logic. Vì không thể nhân thưc được bằng lý tri, người
ta chuyển sang phạm trù tâm linh. Điêu nay được thể hiên rât sinh đông trong truyên
truyên kỳ. Co vô số trường hợp liên quan đên số phân cua môt con người, môt dòng
họ, thâm chi la môt đia phương, được lý giai la do “linh ưng”, “bao ưng”.
Ở mục nay chúng tôi chỉ xin đê câp đên chu đê bao ưng, linh thiêng qua
những câu chuyên vê nhân - qua, vê mồ ma, cat trạch. Tât nhiên, trong thê giới
truyên kỳ, những điêu nay không hoan toan tach biêt, đôc lâp với nhau, trai lại,
chúng luôn đan xen, lồng ghép với nhau.
Hiên tượng nhân - quả thường được mọi người coi la môt quy luât trong đời
sống. Khi thể hiên vao tac phẩm văn học, mối quan hê giữa nguyên nhân va kêt qua
được thể hiên qua nhiêu cach thưc khac nhau. Tuy vây, nguyên tắc chung vân la
“thiên gia thiên bao, ac gia ac bao”; người lam viêc thiên sẽ được đên đap, kẻ gây
điêu xâu sẽ bi trừng phạt.
102
Truyên “Ca thần” trong Lan Trì kiến văn lục la môt vi dụ sinh đông cho
quy luât nhân - qua ở đời. Truyên kể vê hai nhân vât, môt anh lai buôn va môt tay
chu thuyên. Tinh cach, lối hanh xử cua hai con người nay đối nghich nhau va kêt
cục số phân cũng khac nhau. Người lai buôn giau co quê ở xư Quang Nam ưa lam
điêu thiên, hay giúp đỡ người khac. Kẻ kia lam chu thuyên chạy khach từ Gia
Đinh đi Thuân Hoa nhưng ban chât la môt tên cướp biển. Co lần người lai buôn ra
Bắc trên thuyên cua kẻ kia. Biêt người khach co cua, tên chu thuyên kẻ cướp nay
nổi lòng tham. Nhân đêm tối, hắn đẩy khach xuống biển để chiêm tai san. Nhưng
người khach lại được cưu sống môt cach thần kỳ nhờ bam được vao “Ca Ông”.
Người lai buôn được ca thần “nổi lên mặt nước, rẽ song, lao như tên bắn. Con ca
dai chừng hơn trăm trượng. Nửa đêm, thây no nghiêng mình nằm nghỉ, người lai
buôn đưa mắt nhìn ra xa thì đã thây bờ Đông Hai” [163, tr. 70]. Người khach buôn
được cưu môt cach thần tình bao nhiêu thì kẻ ac bi trừng phạt cũng ly kỳ không
kém. Sau khi đoạt tiên vang cua người khach, y tiêp tục dong buồm ra Bắc. Đên
Đông Hai y lại chạm mặt nạn nhân ở ngay đồn trạm canh gac cửa biển. Tại đây, y
bi tố giac, bi quan quân bắt giữ. Trước nhân chưng vât chưng ranh ranh, kẻ ac phai
nhân tôi va bi trừng phạt.
Truyên “Ác bao” (Công dư tiệp ký) kể vê kẻ du thu du thưc ở huyên Thât, xư
Hai Dương. Người vợ cua y lỡ tay lam chêt con ga chọi vốn được y quý hơn hêt
mọi thư. Biêt tinh y hung hãn, người mẹ nhân lỗi thay cho con dâu. Tuy nhiên, vì la
kẻ côn đồ cho nên ngay ca mẹ đẻ thì y cũng không nể. Đưa con bât hiêu đo đã trừng
phạt mẹ bằng cach đưa mẹ ra đồng để chôn sống. Khi đang đao huyêt thì y “bỗng
nhiên lăn đùng ra đât. Mẹ sờ đên, thì chân tay đã lạnh ngắt ca rồi” [23, tr. 47]. Cai
chêt ngỡ như bi hiểm cua đưa con vô đạo co nguyên nhân la do y bi (trời) trừng
phạt. Kẻ lam viêc thât đưc thì phai nhân kêt qua tồi tê.
Chuyên người tốt được hưởng phúc, kẻ xâu bi qua bao vốn la môt mô tip rât ổn
đinh trong truyên kể dân gian, nhât la thể loại truyên thuyêt, cổ tich. Truyên truyên kỳ
đã phat triển mô tip nay va hoan thiên theo những cach thưc riêng cua loại hình.
*
103
Hiên tượng linh ưng do mồ ma (thường được gọi la “đông” hoặc “phat”)
thưc ra cũng la môt biểu hiên cua chu đê “nhân qua”. Đây la môt dòng mạch xuyên
suốt, nhât quan trong truyên truyên kỳ Viêt Nam ma điểm cốt loi la sư linh thiêng,
linh ưng cua đât đai thổ trạch. Chỉ co điêu, ở phạm vi công đồng, dân tôc thì biểu
hiên cua no la khi thiêng sông núi, hoa vao hình tượng thổ đia thổ thần để “hô
quốc”, còn ở phạm vi nhỏ hẹp (ca nhân, gia đình) thì biểu hiên thanh chuyên tổ tiên
phù trì cho dòng tôc, con chau.
Chuyên bao ưng không phai la hiên tượng ca biêt, chỉ co trong văn học Viêt
Nam. Mô tip nay rât phổ biên trong văn học cua hầu hêt mọi dân tôc trên thê giới, đặc
biêt la văn học truyên khẩu. Đo la mô thưc chung, mang tầm nhân loại. Tuy nhiên, mỗi
công đồng, khi thể hiên tư tưởng bao ưng, quy luât nhân - qua lại co những nét riêng.
Đối với truyên truyên kỳ Viêt Nam, điểm đôc đao cua hiên tượng “linh ưng” la ở đôi
tượng, hâu qua va cách thức được bao đap trong đo.
Co rât nhiêu truyên truyên kỳ noi vê hiên tượng “ma phat”, tưc la nhờ (mồ
ma) tổ tiên phù trì ma con chau bỗng nhiên gặp may mắn lạ lùng. Trong Tang
thương ngẫu lục cua Phạm Đình Hổ va Nguyễn Án, co cac truyên “Ma mẹ Đao
Khan”, “Ma tổ Quân Bằng”, “Ta Ao tiên sinh”, “Ma tổ họ Nguyễn lang Quê Ổ”…
Trong Công dư tiệp ký cua Vũ Phương Đê co cac truyên “Ngân khach tầm đia bao
hiêu tâm nhân”, kể chuyên dòng họ Nguyễn ở Vinh Kiêu phat vê đường khoa cử do
xương cốt ông cha được tang đúng huyêt đât tốt. Truyên “Tang thần mã Đinh Thi dĩ
khắc thắng nhât dư đồ” noi chuyên Đinh Bô Lĩnh lam vua nhờ đặt hai cốt bố vao
ham ngưa đa dưới vưc Hoang Long. Đặc biêt la truyên “Đồng khi tương cầu, Giap
Trạng nguyên vãng Văn Giang nhân mâu”, kể vê cuôc đời Trạng nguyên Giap Hai.
Nhân vât Giap Hai la môt danh sĩ đât Bắc, rât nổi tiêng trong sử sach. Ông
được sinh ra ở xã Dĩnh Kê, huyên Phượng Nhãn (Bắc Giang). Giap Hai thi đỗ Trạng
nguyên (Đê nhât giap, đê nhât danh, tiên sĩ câp đê) vao năm 1538; ông được bổ lam
quan, thăng đên chưc Lại bô Thượng thư, kiêm Đông cac, tước Sach quân công.
Truyên vê Giap Hai cho thây môt điêu: cuôc đời con người ta qua la vô thường, điêu
gì cũng co thể xay ra, phúc va họa đêu kho tranh va no thường đên môt cach không
104
thể ngờ được. Chuyên kể rằng, ba mẹ cua Giap Hai la người giau lòng nhân ai. Co lần
môt người khach buôn lỡ đường được ba cho trú nhờ; khach bỏ quên kim ngân khi ra
đi đã được ba giao tra. Người khach, vì cam ơn nghĩa đo nên tìm cach đên đap, chỉ
cho ba ngôi đât tốt. Theo đo, nêu chôn xương cốt tổ phụ vao ngôi đât nay thì con
chau nhât đinh sẽ phat đạt vê sau.
Giap Hai ra đời la kêt qua cuôc gặp gỡ bât ngờ giữa ba mẹ va môt người lam
thuê, tình cờ nghỉ lại lêu quan vao môt đêm mưa bão. Lên bốn tuổi, Giap Hai bi môt
phú gia lang bên bắt coc vê lam con nuôi. Vê sau ông thi đỗ Trạng nguyên, ra lam
quan. Giap Hai tìm hiểu thân thê cua mình va nhân ra mẹ đẻ để đưa vê phụng
dưỡng. Sư thanh đạt cua ông co nguyên nhân la do xương cốt cua người đan ông
xâu số (bố Giap Hai) được chôn đúng huyêt đât quý. Vì “ma phat”, co quý nhân phù
trợ cho nên sư nghiêp khoa trường, hoạn lô cua ông mới hanh thông như vây.
Tuy nhiên, chinh Giap Hai cũng phai nêm trai nhiêu bât hạnh. Nguyên nhân
cũng la do bi “bao ưng”. Tai họa bắt nguồn từ viêc ông xử oan môt nghi phạm con
nha đôc đinh trong khoa thi Hương ở Sơn Nam. Mặc dù người học trò cố van nai
song ông không thay đổi an tử cho người đo. Qua bao xay đên với ông tưc thì. Bay
người con cua ông đêu bât đắc kỳ tử không ro lý do. Con ca cua ông, tiên sĩ Giap
Phong đang lam quan ở han lâm viên đôt tử khi mới ba mươi tuổi; bốn người con
trai khac cùng hai người con gai cua ông cũng chêt sau đo. Cuối đời Giap Hai ngô
ra “mon nợ oan gia va cai thuyêt bao ưng cua nha Phât không phai la hư truyên.
Ông bèn cho tìm thân nhân cua người học trò bi giêt ngay trước, gọi đên chu câp
cho tiên bạc, để lâp đan sam hối giai oan cho anh ta. Từ đo nha ông không xay ra tai
ương gì nữa” [23, tr. 30].
Những vi dụ vừa dân la cac trường hợp tiêu biểu cho chu đê bao đap đên ơn
cũng như oan gia tương bao. Chuyên “cat trạch linh ưng” trong truyên kỳ Viêt Nam,
tuy cũng tương đồng với triêt lý nhân - quả noi chung nhưng vân mang ý vi, ban sắc
riêng. Cach thưc bao bổ, trừng phạt… thể hiên rât ro điêu kiên sống, hoan canh xã
hôi, môi trường tư nhiên va tâm thưc văn hoa cua người Viêt Nam.
105
TIÊU KÊT
Truyên truyên kỳ Viêt Nam, nhât la cac tac phẩm xuât hiên ở giai đoạn đầu,
thường được coi la môt lối “sử trong truyên”. Môt điêu rât dễ nhân thây trong cac
tac phẩm đo la “tinh thần lich sử” luôn xuyên thâm trong hầu hêt mọi hình tượng.
Truyên truyên kỳ đã đưa ra môt cach nhìn đôc đao vê côi nguồn dân tôc, hạo khi
cua đât nước. Trong nhãn quan cua tac gia truyên truyên kỳ, đât nước không chỉ la
cương vưc, đia lý ma còn la “hồn thiêng”, “linh khi” cua vạn vât; dân tôc không chỉ
co con người ma còn co ca thê lưc siêu nhiên. Chinh vì vây ma mọi thư luôn được
bao hô bởi cac thần, thanh, tiên, tinh, mâu… No cho thây con đường hình thanh dân
tôc, đât nước la môt qua trình kiên tạo đầy kho khăn. Giang sơn, tổ quốc, sư trường
cửu cua dân tôc la công nghiêp cua lớp lớp Thần - Nhân. Hình hai đât nước đã được
hình tượng hoa, chuyển hoa vao cac kiểu chân dung người, thần, vât linh diêu. Đo
cũng chinh la tinh thần lich sử ẩn tang trong truyên truyên kỳ.
Tinh thần lich sử cua truyên truyên kỳ được bôc lô rât ro qua chân dung cac
bâc tuân kiêt, hiên tai nước Viêt. Đây la những ca nhân ưu tú, những con người tiêu
biểu cho tai tri, khi phach dân tôc. Họ hiên diên trong truyên truyên kỳ với nhiêu
danh phân khac nhau: đê vương, vo tướng, văn thần, anh hùng, liêt nữ, Nho sĩ tri thưc,
người tu hanh… Cac bâc tuân kiêt, nhân tai xuât hiên trong đo không phai la nhân vât
cua chinh sử ma được nhao nặn, chê tac thanh hình tượng văn học theo lối truyên kỳ.
Chân dung, hanh trạng cua họ đã bi khúc xạ, được lạ hoa theo môt phương thưc đặc.
Họ la niêm tư hao chung, la biểu tượng cho sư tinh anh cua công đồng.
Bên cạnh vân đê lich sử, môt nôi dung rât quan trọng khac trong cac truyên
truyên kỳ la vân đê văn hoa, tâm linh. Trong thê giới truyên kỳ, chu đê “đia linh” co
vi tri rât quan trọng va gắn bo chặt chẽ với chu đê “nhân kiêt”. Điêu nay xuât phat
từ quan niêm cua người Viêt vê mối quan hê giữa con người va đât đai, vât loại.
Đia linh la gốc tich để lam nơi sinh xuât, lam điểm tưa cho “nhân kiêt”; mặt
khac, chinh con người cũng lam cho đât đai trở nên linh diêu. Mọi canh tri thiên tạo
qua nhãn quan truyên kỳ đêu trở thanh “đia linh”, gắn với chuyên kỳ lạ, sư bât
thường. Cac công trình kiên trúc, thanh tưu lao đông cua con người như đên miêu,
chùa chiên, thanh lũy… với sư công hưởng từ huyên thoại, truyên thuyêt cũng la
106
đối tượng cua truyên truyên kỳ linh đia. Đặc điểm chung cua truyên kể vê cac miên
đât thiêng, nơi linh đia trong loại hình truyên kỳ la sư hòa quyên giữa Thần - Người
- Đât. Đia “linh” la bởi co cac sư tich, tình tiêt “kỳ”, “di” cua thần, nhân gop vao.
Môt chu đê khac cũng rât được chú trọng trong truyên truyên kỳ la hiên
tượng hiển linh, bao đap. Đo la sư linh ưng cua quy luât nhân qua, sư ưng nghiêm
từ những mối quan hê với “thê giới bên kia”, với coi âm. Hiên tượng linh ưng do
mồ ma, thổ trạch tạo thanh môt dòng mạch xuyên suốt, rât nhât quan trong truyên
truyên kỳ Viêt Nam. Ở phạm vi công đồng, dân tôc thì biểu hiên cua linh đia la khi
thiêng sông núi, hoa vao hình tượng thổ đia thổ thần “hô quốc”; ở phạm vi ca nhân,
gia đình thì biểu hiên thanh chuyên mồ ma phù trì cho gia tôc, con chau.
Co thể noi, điểm đặc trưng cua truyên truyên kỳ la những thư khac thường,
quai di; thê giới truyên kỳ chinh la sư phi thường, kỳ lạ. Trong thê giới đo, không
cư thần thanh, ma quỷ ma ca con người, đồ vât, súc vât… đêu it nhiêu co tinh quai
đan, di thường. Đây cũng chinh la môt trong những nguyên nhân lam nên sưc hâp
dân cua loại hình văn học nay.
107
Chương 4
ĐĂC ĐIÊM LOẠI HINH TRUYÊN TRUYÊN KY
VIÊT NAM - TỪ PHƯƠNG THỨC THÊ HIÊN
Truyên truyên kỳ Viêt Nam, như đã trình bay ở cac chương trước, la môt hiên
tượng văn học rât phưc tạp. Sư phưc tạp đo bắt nguồn từ qua trình hình thanh, con
đường vân đông, nôi dung tư tưởng, chưc năng cua no. Cũng vì thê, phương thưc thể
hiên cua truyên truyên kỳ lẽ dĩ nhiên cũng rât đa dạng, phong phú.
Noi đên phương thức thể hiện cua truyên truyên kỳ thưc chât la đê câp đên
môt loạt cac vân đê như phương phap, cach thưc, thao tac… ma nha văn đã vân
dụng để tạo nên tac phẩm. Phương thưc thể hiên sẽ được cụ thể hoa qua cac yêu tố
hình thưc cua tac phẩm, để hình thanh môt chỉnh thể nghê thuât. Tuy nhiên ở
chương nay chúng tôi chỉ tâp trung vao môt số yêu tố co vai trò quan trọng nhât
trong viêc bôc lô đặc điểm cua truyên truyên kỳ. Đo la vân đê cốt truyên, hình
tượng va lời văn cua loại hình văn học nay.
4.1. CỐT TRUYÊN VA PHƯƠNG THỨC TÔ CHỨC CỐT TRUYÊN
TRUYÊN TRUYÊN KY
4.1.1. Đặc điểm cốt truyện truyện truyền kỳ
Cốt truyên la khai niêm vốn rât quen thuôc đối với người nghiên cưu văn
học. Tuy vây trên thưc tê, no lại được hiểu theo những cach rât khac nhau. Điêu nay
chắc chắn sẽ gây nên những kho khăn nhât đinh cho viêc tìm hiểu đặc điểm cốt
truyên ở loại hình văn học nay. Chinh vì thê ma trước khi ban vê đặc điểm cốt
truyên cua tac phẩm truyên kỳ, viêc giới thuyêt môt cach hiểu thich hợp vê khai
niêm la điêu cần thiêt.
Trong lĩnh vưc nghiên cưu văn học, khai niêm “cốt truyên” được sử dụng từ
rât sớm. Theo cac tai liêu hiên co, Aristote la người đầu tiên đã dùng khai niêm nay
trong tac phẩm Nghệ thuật thi ca. Trên đại thể, ông cho rằng cốt truyên (phiên âm từ
tiêng Hy Lạp la fabula) la hê thống cac sư kiên va nhân vât (tac gia gọi la “tính
cách”), được tổ chưc môt cach chặt chẽ trong tac phẩm. Theo Aristote, cốt truyên
chinh la yêu tố quan trọng nhât cua môt tac phẩm “thi ca” va viêc tạo ra cốt truyên
108
cũng kho nhât trong hoạt đông sang tạo cua nha văn. Đây la cach hiểu cổ xưa nhât,
được coi la quan niêm mang tinh truyên thống vê cốt truyên.
Trai qua qua trình phat triển lâu dai cua lý thuyêt, lý luân văn học, đên nay
nôi ham khai niêm cốt truyên cũng được bổ sung thêm hoặc điêu chỉnh vê cach
hiểu. Môt số học gia theo trường phai “hình thưc luân” thâm chi còn đê xuât những
cach hiểu khac hẳn so với quan niêm cua Aristote. Tuy nhiên, quan niêm mang tinh
truyên thống, kê thừa tinh thần Aristote vân được phần lớn cac nha chuyên môn
thừa nhân. Trong Từ điển thuật ngữ văn học, cac tac gia đã đưa ra đinh nghĩa vê cốt
truyên ma theo chúng tôi la hợp lý. Theo đo, cốt truyên la “Hê thống sư kiên cụ thể,
được tổ chưc theo yêu cầu tư tưởng va nghê thuât nhât đinh, tạo thanh bô phân cơ
ban, quan trọng nhât cua tac phẩm văn học thuôc cac loại tư sư va kich (…) Co thể
tìm thây qua cốt truyên hai phương diên gắn bo hữu cơ, môt mặt, cốt truyên la môt
phương tiên bôc lô tinh cach, nhờ cốt truyên, nha văn thể hiên sư tac đông qua lại
giữa cac tinh cach; mặt khac, cốt truyên còn la phương tiên để nha văn tai hiên cac
xung đôt xã hôi.” [42, tr. 71].
Môt đinh nghĩa như vây vừa cho thây vai trò quan trọng cua cốt truyên trong
viêc hình thanh tac phẩm, vừa thể hiên tinh chât phưc tạp cua viêc sang tạo nên cốt
truyên. Noi như Aristote, tât ca tai năng sang tạo cua “nha thơ”, suy cho cùng đêu quy
vê chỗ tạo ra cốt truyên. Ban chât công viêc cua nha nghê sĩ ngôn từ la kể chuyên,
cho nên điêu kho khăn trước hêt (va lớn hơn hêt) ma kẻ đo phai trai qua không phai
điêu gì khac hơn ngoai viêc tạo ra cốt truyên, cai được dùng để “kể”. Tât nhiên, điêu
nay sẽ không thể thuyêt phục được cac nha phê bình hiên đại/ hâu hiên đại - những
người coi cốt truyên thuần túy chỉ la “phương an kể” hay “cach kể”. Nhưng vì đối
tượng nghiên cưu ở luân an nay la truyên truyên kỳ, môt loại hình văn học trung đại,
thê nên môt quan niêm truyên thống vê cốt truyên như vừa nêu trên, theo chúng tôi sẽ
hợp lý va cũng thuân lợi hơn cho viêc nghiên cưu.
Quan sat diên mạo, hình thai cua truyên truyên kỳ Viêt Nam, co thể thây đo
la môt tâp hợp rât nhiêu kiểu dạng tac phẩm khac nhau. Sư đa dạng vê dung lượng,
vê văn thể la rât ro rang. Co những truyên dai đên hang chục trang, đô dai mang
dang dâp môt truyên vừa hoặc môt tiểu thuyêt. Nhưng cũng lại co tac phẩm chỉ mây
109
trăm chữ, chưa đên môt trang in. Rât nhiêu tac phẩm truyên kỳ chỉ la môt “tiểu
phẩm”, môt đoạn đối thoại, thâm chi chỉ la môt ban tom lược tiểu sử nhân vât.
Không it tac phẩm la cac văn ban nặng tinh chưc năng, nhưng cũng co nhiêu truyên
la môt sư kêt hợp, dung hợp cac thể văn, thơ khac nhau…
Tuy nhiên, dù dung lượng dai ngắn khac nhau, dù sư kêt hợp cac thể cach co
đa dạng đên mây thì vân co môt điểm chung rât dễ nhân thây ở truyên truyên kỳ xét
trên phương diên hình thưc nghê thuât, đo la tính chất truyện kể cua no. Điêu nay
anh hưởng rât lớn đên viêc xây dưng cốt truyên va đo cũng la đặc điểm nổi bât nhât
cua cốt truyên truyên kỳ. Tinh chât truyên kể cua tac phẩm truyên kỳ thể hiên ở mô
hình cốt truyên va nhât la kha năng “co thể đem kể lại” cua no. Noi cach khac, cốt
truyên truyên kỳ rât khac với cốt truyên ở cac thể loại tư sư hiên đại; ở đo đặc điểm
nổi bât nhât la “sư trần thuât” (narration), tưc la “giới thiêu, khai quat, thuyêt minh,
mô ta đối với nhân vât, sư kiên, hoan canh, sư vât theo cach nhìn cua người trần
thuât nhât đinh” [42, tr. 247].
Tinh chât truyên kể khiên cho cốt truyên truyên kỳ nhìn chung hêt sưc đơn
gian, thâm chi co thể gọi la “tối gian”. Số lượng nhân vât, sư kiên luôn ở mưc tối
thiểu; cũng vì thê dung lượng tac phẩm thường ngắn, thâm chi rât ngắn. Nhiêu tac
phẩm, đô dai văn ban hầu như trùng khit với cốt truyên, nghĩa la phần “dư” rât it.
Hiên tượng tiểu truyên - tiểu phẩm - giai thoại trong loại hình truyên kỳ không hiêm.
Chẳng hạn môt truyên trong Sơn cư tạp thuật co tiêu đê la “Đạo sĩ trạng
nguyên” rât gọn, chữ chưa kin môt trang. Nguyên văn truyên như sau: “Lê Ích Môc
người Thanh Lãng, huyên Thuy Đường, mây lần đi thi không đỗ Tiên sĩ, liên xuât
gia lam đạo sĩ. Môt hôm co nha sư biêt phong thuy đên vùng Thanh Lãng, thây thê
đât tốt hình sao Văn, năm nay tang năm sau phat trạng nguyên. Nha sư muốn tìm
người để cho. Hỏi người trong thôn, co người đùa chỉ Ích Môc. Nha sư am tường
thuât phong thuy vui vẻ đên nha Ích, noi nguyên cớ, Ích Môc noi: “Sach vở bỏ đã
lâu, bút nguyên vưt xo, gia sử trên trời co trạng nguyên rơi xuống cũng chẳng đên
đầu tôi”. Nha sư noi: “Đừng ngại. Nhưng sach vở bo lại để lên gac cao thì mới co
thể thanh công được”. Ích Môc cho la chuyên viễn vông, miễn cưỡng nghe theo.
Tang mô xong, Ích Môc vân sống bình than như trước, duy chỉ đọc kinh Phât còn
110
sach vở nha Nho thì không để mắt tới. Năm sau, Nhâm Tuât (1502) niên hiêu Canh
Thống, Ích Môc thi Hôi đỗ tiên sĩ. Hôm thi Đình người giữ sach mang hòm đưng
sach đên trước điên mở ra xem thì toan kinh Phât. Người giữ sach đinh đem đi đổi,
vua noi: “Trạng nguyên thì sach gì ma chẳng đọc được”. Rồi cho lây kinh Phât để ra
đê thi. Ích Môc gặp những điêu đã đọc, đầu đuôi thuôc lau nên hạ bút thanh văn,
ranh rẽ tường tân. Nhờ đo trúng đê nhât giap đê nhât danh. Sau lam quan đên chưc
Ta thi lang” [23, tr. 191].
Nhân vât Lê Ích Môc trong thưc tê la môt danh Nho rât nổi tiêng thời Lê. Ông
thi đỗ đê nhât giap đê nhât danh (Trạng nguyên) khoa Nhâm Tuât (1502). Trong dân
gian thường lưu truyên nhiêu giai thoại vê ông, trong đo co những tình tiêt liên quan
chuyên học hanh, khoa cử rât đôc đao. Ở đây tac gia truyên truyên kỳ chỉ “lẩy” ra
môt “mẩu” để tạo thanh môt truyên đôc lâp. Dung lượng văn ban ở mưc tối thiểu (ở
ban dich chỉ co 266 chữ). Chinh vì thê ma cốt truyên hầu như cũng la môt “ban tom
tắt” tac phẩm, không thể “rút gọn” hơn được nữa. No chỉ co nhân vât, sư kiên, không
bình luân giang giai, không mô ta dai dòng, rât thuân lợi cho viêc “kể lại”.
Cốt truyên “Đạo sĩ trạng nguyên”, vi dụ ma chúng tôi dân ở đây rât tiêu biểu
cho mô hình cốt truyên truyên kỳ noi chung. Đo la sư đơn gian va thống nhât vê
nguyên tắc kêt câu cua một câu chuyện. Mỗi môt tac phẩm như vây thường co số
lượng nhân vật, sự kiện rât it, chỉ ở mưc tối thiểu; tình tiêt không qua phưc tạp. Cac
yêu tố tham gia câu thanh cốt truyên luôn nằm trong mạch nguyên nhân - kêt qua.
Tât ca mọi thư ở đây đêu nhằm phục vụ cho mối quan hê nay, hầu như không co
(hoặc rât it) yêu tố nằm ngoai. Quy mô tac phẩm rât hạn chê, kêt câu cua no cũng
hêt sưc chặt chẽ. Tinh chât trọn vẹn, hoan chỉnh cua môt cốt truyên dưa trên quy
luât nhân - quả ở đây rât ro.
Môt truyên khac, “Áp Lãng Chân Nhân” (trong Nam Ông mộng lục cua Hồ
Nguyên Trừng). Truyên nay cũng rât ngắn, ban dich ra quốc ngữ chỉ co 319 chữ.
Truyên như sau: “Thời Tống Nhân Tông, Lý Vương nước An Nam thân hanh đem
thuy quân đi chinh phạt Chiêm Thanh. Khi Vương đên cửa biển Thần Đầu, song gio
liên nổi lên, không thể đi được. Nghe noi, gần núi co vi đạo sĩ, sống môt mình trong
am, Vương bèn vời đên, xin lam lễ cầu đao cho. Đạo sĩ noi: Vương tự có sự trợ giúp
của thần thánh. Thần đảm bảo rằng không có gì phải lo. Ngày mai cứ khởi hành,
111
chớ có ngại ngần lo lắng. Nửa đêm gio ngừng. Mờ sang, khi thuyên ra đên biển khơi,
vọng nhìn song gio xa xa, ngọn cao như núi. Nhưng khi thuyên quân đi đên đâu thì
đêu gio yên song lặng, lại thây vi đạo sĩ ây đi bô trên mặt biển, lúc ở phia trước, khi ở
phia sau, nhip nhang va ro rang, nhưng người ta không thể tới gần được. Ngay thuyên
quân trở vê, đi đên núi Thần Đầu, đạo sĩ ra đon va yêt kiên. Đạo sĩ noi: Thần biết
phúc phận của Vương rất lớn, cho nên không có gì lo lắng. Đấy là thần linh giúp
Vương chứ không phải do kẻ hạ thần này. Khi hỏi vê đạo sĩ, người lang đap: Từ thuở
ây, đạo sĩ đi hai thuốc, đã lâu không ngồi trong am. Vương lây lam lạ lắm, phong cho
đạo sĩ la Áp Lãng Chân Nhân, khi thưởng cho vang lụa, đạo sĩ đêu không nhân. Sau
Chân Nhân vao núi rồi không biêt đi đâu. Chân Nhân họ La, không co tên, người ta
đêu gọi ngai la Áp Lãng. Từ khi còn trẻ, ngai đã từ bỏ vợ con theo học đạo. Hâu duê
cua ngai co La Tu, đỗ Tiên sĩ, lam quan thời Trần Nghê Vương, tới chưc Thẩm hình
viên ty, rồi mât. Chinh tôi biêt người nay” [91, tr. 148-149].
Với mô hình như vây, truyên truyên kỳ rât thuân lợi cho viêc ký chép, kể lại
sư vât, sư viêc liên quan đên môt vai nhân vât. Tac gia thường chú ý trước hêt đên
yêu cầu ghi lại sư viêc, sư vât, hiên tượng trong trạng thai “môc”, hạn chê ở mưc tối
thiểu những tình tiêt liên quan co thể mở rông phạm vi câu chuyên. Không kho để
nhân ra chu ý cua tac gia la lam sao thể hiên được tinh “nguyên sơ” cua sư vât, sư
viêc. Vì vây ma mọi yêu tố trong truyên truyên kỳ phai hêt sưc đơn gian: it nhân
vât, sư kiên tối thiểu, dung lượng ngắn.
Tuy vây, trên thưc tê vân co những truyên truyên kỳ co dung lượng tương
đối lớn, ca biêt co truyên dai trên dưới vai chục trang. Thê nhưng số truyên co dung
lượng như vây rât hiêm hoi. Hơn nữa, dù dung lượng ngắn hay dai, chu đê co theo
hướng nao đi nữa thì mô hình cốt truyên nhìn chung vân ổn đinh, thống nhât. Noi môt
cach khai quat thì đo la dạng cốt truyên thể hiên một hiện tượng, một sự kiện tư nhiên,
xã hôi… theo quy luât nhân - qua. Va với nôi dung như thê, ro rang la quy mô cua no
cần phai hêt sưc ngắn gọn chư không thể dai dòng được.
Tât nhiên cũng cần thây rằng, đối với truyên truyên kỳ, sư ngắn gọn, đơn
gian cua cốt truyên (theo lối truyên kể dân gian) mới chỉ la xét trên phương diên
hình thưc, mang tinh trưc quan. Điêu chu yêu, quan trọng hơn ca cua cốt truyên
truyên kỳ la phai chưa đưng yêu tố khac thường, quai lạ. Không co nhân vât/ sư vât/
112
tình tiêt/ sư kiên… kỳ lạ thì sẽ không thanh truyên truyên kỳ. Chinh yêu tố mang
tinh chât kỳ lạ, khac thường đo mới lam nên đặc điểm, tinh khu biêt cua loại hình
văn học nay.
4.1.2. Phương thức tổ chức cốt truyện truyện truyền kỳ
Xem xét cốt truyên truyên truyên kỳ, co thể dễ dang nhân thây phương thưc tổ
chưc cốt truyên không thưc sư đa dạng. Noi đúng hơn, cach thưc thể hiên cốt truyên ở
đây kha đơn điêu. Trên đại thể, đo chỉ la sư sắp xêp cac mô tip theo quy luât nhân -
qua hoặc ghép nối mô tip theo chuỗi liên hoan để thanh cốt truyên hoan chỉnh. Đây
co thể coi la môt đặc điểm chung cua loại hình truyên truyên kỳ.
Cach thưc tổ chưc hê thống nhân vât, sư vât, sư kiên, tình huống… theo quy
luât nhân - qua vốn la môt mô hình rât quen thuôc ở cac dạng truyên kể trong văn
học truyên khẩu dân gian, tiêu biểu la thần thoại, truyên thuyêt, cổ tich. Nguyên tắc
nay chú trọng đên trât tư tuyên tinh cua cac sư kiên xét vê mặt thời gian. Nghĩa la
tât ca cac yêu tố đêu được sắp xêp lam sao để co thể đam bao được trình tư diễn tiên
theo thứ tự trước - sau, với môt lô gic nhât đinh.
Như chúng tôi đã trình bay ở phần trên, môt trong những đặc điểm nổi bât
cua cốt truyên truyên kỳ la hê thống nhân vât, sư kiên chỉ được hiên diên với quy
mô tối thiểu va sắp xêp theo quy luât nhân quả. Điêu nay đòi hỏi tac gia phai co
môt phương thưc phù hợp để tổ chưc, sử dụng cac yêu tố sao cho hợp lý, hiêu qua
nhât. Noi cach khac, cốt truyên truyên truyên kỳ đòi hỏi môt phương thưc xây dưng
riêng, theo môt nguyên tắc co tinh đặc thù.
Để thây ro hơn điêu nay, cần xem xét môt vai truyên cụ thể. Xin được trở lại với
truyên “Trạng nguyên đạo sĩ” ma chúng tôi vừa dân ở mục trước. Đây la truyên mang
tinh điển hình cho sư tối gian vê số lượng nhân vât, sư kiên va cũng điển hình cho mô
thưc nhân quả đặc trưng cua truyên truyên kỳ. Với đô dai rât hạn chê, truyên chỉ co hai
nhân vât la Lê Ích Môc va vi đạo sĩ bi ẩn, đồng thời tình tiêt, sư kiên cũng hêt sưc đơn
gian. Tât ca nhân vât va sư kiên ở đây được tổ chưc theo môt qua trình từ “nguyên
nhân” ban đầu (tang hai cốt người thân vao huyêt đât quý) cho nên mới dân đên “kêt
qua” (đỗ Tiên sĩ môt cach không thể kỳ lạ hơn). Cac yêu tố co tinh “chât liêu” ở đây
tuy it ỏi như vây nhưng đo lại la những thư rât giau tiêm năng để mở rông quy mô tac
phẩm. Từ những chât liêu cơ ban như thê, truyên “Trạng nguyên đạo sĩ” hoan toan co
113
thể phat triển thanh môt tac phẩm tiểu thuyêt quy mô lớn hơn rât nhiêu lần, theo lối
“đoan thiên”, thâm chi la “trung thiên”…
Hoặc truyên “Minh Không thần di” (trong Nam Ông mộng lục), cũng co cốt
truyên rât đơn gian. Truyên noi vê những viêc lam kỳ di, huyên hoặc cua Nguyễn
Minh Không, môt vi thiên sư thời nha Lý. Nôi dung truyên bôc lô ro ngay từ tiêu đê
“Minh Không thần di”. Phần mở chỉ vai dòng, danh cho viêc giới thiêu thân thê cua
Minh Không: “Hương Giao Thuy ở Giao Chỉ co chùa Không Lô. Trước đây nha sư
họ Nguyễn, tên la Minh Không đên dưng nghiêp, rồi xuât gia, ngụ ở chùa nay. Nha
sư la người co đưc hạnh rât nổi tiêng” [91, tr. 144]. Sau lời mở đầu ngắn ngui như
vây, truyên đưa ra cac tình tiêt, tât ca đêu sắp xêp theo trình tư thời gian từ trước
đên sau. 1/. Tình tiêt Minh Không bi nha sư trẻ cùng phòng gia lam hổ để dọa khiên
Minh Không sợ hãi, không hai lòng; 2/. Minh Không dùng niêu cơm kỳ lạ để đãi
những người linh chèo thuyên do vua phai đên đon mình; 3/. Minh Không lam phép
“đằng vân” để đên kinh thanh; 4/. Minh Không lam phép chữa bênh cho thê tử; 5/.
Minh Không từ chối ân huê do vua ban thưởng, trở vê quê. Ca 5 tình tiêt nay được
kể theo đúng trình tư thời gian thưc tê, không co sư thay đổi, xao trôn nao.
Đên đoạn kêt, tac gia viêt như sau: “Minh Không bèn đi trên không ma trở
vê, nha vua ban thưởng không nhân. Vương phong cho hiêu la Thần Tăng, nhân đây
lây chữ Không Lô ma đặt tên cho chùa đo. Sau nay, thê tử lam vua gọi la Thần
vương” [91, tr. 145]. Đặt trong toan bô văn ban tac phẩm, đây la môt cai kêt cân
đối, co tac dụng “hô ưng” với phần mở đầu truyên.
Môt vi dụ khac, truyên “Tinh chuôt” trong Thánh Tông di thảo. Truyên nay
tuy quy mô co lớn hơn (nhân vât, sư kiên nhiêu hơn) nhưng mô hình thì cũng tương
tư như “Minh Không thần di”. Truyên “Tinh chuôt” mở đầu bằng lời giới thiêu ngắn
gọn vê nhân vât chinh: “Co anh con trai môt nha giau nọ được cha mẹ cưới vợ cho
vao năm hai mươi tuổi. Vợ co nhan sắc, anh rât yêu” [91, tr. 156]. Sau đo la môt loạt
cac tình tiêt được trình bay tiêp nối nhau co tac dụng lam ro “nguyên nhân” cua câu
chuyên chuôt thanh tinh lam hại người: 1/. Người chồng từ biêt gia đình đi học xa; 2/.
Yêu tinh chuôt tra hình thanh người chồng để hang đêm tư thông với vợ anh học trò;
3/. Người vợ lâm bênh, cha mẹ viêt thư gọi con trai trở vê; 4/. Mâu thuân vợ chồng
114
nay sinh khiên người vợ uât ưc muốn tư tử; 5/. Gia đình chồng lâp kê bắt kẻ gian phu
(yêu tinh chuôt); 6/. Xét xử vụ kỳ an vê hai người đan ông giống hêt nhau đêu nhân la
chồng, gianh người vợ. Kêt thúc truyên la phiên toa kỳ di: Quan tòa chung thẩm vụ
nay la Ta (vua) phai dùng nhiêu cach buôc yêu tinh lô nguyên hình la “môt con chuôt
khổng lồ” va bi trừng phạt. Truyên “Tinh chuôt” kha nhiêu tình tiêt, sư kiên, song tât
ca đêu diễn tiên môt mạch liên tục, tuần tư theo thời gian thưc tê. Cach tổ chưc cac
yêu tố cốt truyên như vây tuy đơn gian, song tinh mạch lạc cua câu chuyên lại được
đam bao; người đọc dễ theo doi diễn tiên câu chuyên.
Bên cạnh cach tổ chưc cốt truyên ở cac vi dụ như “Trạng nguyên đạo sĩ”,
“Minh Không thần di”, “Tinh chuôt”… ma chúng tôi vừa trình bay, truyên truyên
kỳ lại co môt cach tổ chưc khac, quy mô lớn hơn. Đo la hiên tượng ghép nối cac cốt
truyên đơn lẻ lại thanh môt chỉnh thể mới.
Chẳng hạn cac truyên “Con hổ co nghĩa” trong Lan Trì kiến văn lục cua
Vũ Trinh. Đây co thể xem la môt vi dụ tiêu biểu cho lối “ghép nối” cốt truyên.
Vê thưc chât, tac phẩm nay co đên hai cốt truyên, tương ưng hai phần. Phần thư
nhât la viêc ba họ Trần đỡ đẻ cho hổ cai (ở Đông Triêu); phần thư hai la viêc
người tiêu phu giúp con hổ khỏi hoc xương (ở Lạng Giang). Hai cốt truyên nay
hoan toan khac nhau va chúng chỉ liên quan ở chu đê “nghĩa hổ”, hổ biêt lễ nghĩa
như người.
Co thể noi, xét vê phương diên tổ chưc cốt truyên, giữa truyên truyên kỳ va
truyên kể trong văn học dân gian co sư tương đồng kha ro rang. Điêu nay cho thây
giữa truyên truyên kỳ, môt bô phân quan trọng cua văn xuôi trung đại va văn học
dân gian co mối liên quan chặt chẽ.
4.2. PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG HINH TƯỢNG NGHÊ THUẬT TRONG
TRUYÊN TRUYÊN KY
4.2.1. Hình tượng nhân vật trong truyện truyền kỳ
Phân tich, tìm hiểu để khai quat nên quy tắc xây dưng hình tượng nhân vât
trong truyên truyên kỳ la điêu hêt sưc kho khăn. Bởi đây la môt tâp hợp nhiêu kiểu
dạng tac phẩm khac nhau; co tac phẩm thuôc văn học chưc năng, co tac phẩm hư
câu, co tac phẩm phi hư câu… Mỗi kiểu dạng như thê, tac gia thường sử dụng
115
những nguyên tắc, thu phap, kỹ thuât xây dưng hình tượng nhân vât riêng. Hơn
nữa, số lượng, chung loại nhân - vât trong loại hình truyên truyên kỳ rât nhiêu, cho
nên thât kho để co thể phac vẽ ra môt diên mạo nhân vât chung. Tuy nhiên, qua
khao sat cụ thể, chúng tôi nhân thây dù số lượng phong phú, tinh cach đa dạng như
vây, nhưng nhân vât trong truyên truyên kỳ lại được mô ta theo môt số mô thưc,
khuôn mâu nhât đinh, tùy thuôc nguồn gốc va hoạt đông cua chúng. Điêu đo cho
phép người nghiên cưu co thể đê câp đên đặc điểm hình tượng nhân vât trong truyên
truyên kỳ bằng cach phân chia thanh từng nhom.
Trước tiên, xin được noi đên cac vi Thần, Thanh, Tiên, Đạo sĩ… (gọi chung
la “nhân vât Thần Tiên”) trong truyên truyên kỳ. Đã la Thần Tiên thì đương nhiên
nhân vât phai khac thường, phi thường. Tuy vây điêu lý thú ở đây la chúng được
xây dưng trên nguyên tắc “phỏng” theo con người chư không phai tùy hưng, tùy
tiên. Thanh thử chân dung cua Thần Tiên luôn luôn được mô ta dưới hình dang con
người va hanh vi cua họ cũng mang đặc tinh cua con người. Chẳng hạn cac vi thần,
thanh trong Lĩnh Nam chích quái lục đêu co diên mạo va cach hanh xử y hêt người
pham trần. Thần sông Tô Lich co dạng hình môt “cụ gia râu toc bạc phơ, dung mạo
di kỳ”; hanh vi cua Thần cũng bình di, “tắm ở giữa dòng sông, cười noi tư nhiên”.
Thần Kim Quy (trong truyên “Rùa vang”) cũng la môt cụ gia. Thần núi Tan Viên lại
hoa thân trong hình dạng môt chang trai tuân tú (đi cầu hôn con gai vua Hùng)…
Trong Lan Trì kiến văn lục, nhân vât Tiên Ông trên đao ở châu Vạn Ninh, Quang
Yên la “hai cụ gia đang đanh cờ” trên môt phiên đa rông rãi. Bên cạnh hai vi la
“đưa hầu nhỏ pha tra” (đương nhiên cũng la Tiên - Tiên Đồng). Nhân vât Tiên Ăn
May (trong truyên cùng tên) la môt người “gia nua gầy còm, mặt đầy dỉ mắt dỉ mũi,
người tanh tưởi hôi ham, nhớt dãi nhổ đầy, đang nằm còng queo trước nha”. Truyên
“Ông Sư Tiên núi Nưa” trong Sơn cư tạp thuật cũng kể vê môt ông tiên nhưng trong
vai môt nha sư. Vì la nha sư cho nên y phục cũng gian di, di chuyển trên đường núi
rât vât va, “người bê bêt bùn đât”… như mọi ông sư bình thường khac.
Khi noi thần tiên trong truyên truyên kỳ luôn mang diên mạo cua người
thường thì đo chỉ la cach noi co tinh khai quat, như môt sư mặc đinh vê đặc điểm
nhân vât. Bởi vì nhìn chung thì cac nhân vât trong nhom nay hầu như không được mô
116
ta ro rang; chân dung nhân vât thường được phac thao hêt sưc sơ sai như môt số vi dụ
vừa dân ở trên. Nhiêu nhân vât chỉ co tên gọi (Tiên Ông), môt lối đinh danh mang
tinh chât phiêm chỉ chư hoan toan không co đường nét cụ thể va tac gia cũng không
thêm chi tiêt ngoại mạo nao. Chẳng hạn cac nhân vât trong truyên “Ông Tiên Đông
Thanh” (Thoái thực ký văn, Trương Quốc Dụng), “Chân nhân Phạm Viên” (Nam
thiên trân dị tập, Khuyêt danh)… Nhân vât chỉ mang môt cai tên chung chung la
Tiên, Đạo sĩ, ngoai ra không co bât cư lời mô ta nao kèm theo.
Tuy nhiên, co điêu đang lưu ý la nêu nhân vât thần tiên thuôc phai nữ thì cac
tac gia truyên truyên kỳ lại co phương thưc xử lý hoan toan khac. Hầu hêt cac nhân
vât tiên nữ đêu được mô ta dung nhan với những đường nét, những chi tiêt cụ thể
hơn. Chẳng hạn, Giang Kiêu trong “Bich Câu kỳ ngô” (Truyền kỳ tân phả) được mô
ta ro rang: “người trạc đô mười bay mười tam tuổi, may la liễu, ma hoa đao, ăn mặc
gọn gang (…) cốt cach như ngọc, da dẻ trắng ngần, vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng
thanh” [33, tr. 143]. Nhân vât Giang Hương trong truyên “Từ Thưc lây vợ tiên”
(Truyền kỳ mạn lục) cũng vây. Tuy tac gia chỉ ta ngắn gọn la “cô con gai, tuổi đô
15, 16 phân son điểm phớt, nhan sắc xinh đẹp tuyêt vời, đên hôi ây xem hoa” song
suốt toan truyên, chân dung nang còn tiêp tục được diễn ta bằng cac chi tiêt từ cac
bai thơ xướng họa vê canh tri coi tiên bổ trợ thêm. Cach thưc mô ta tiên nữ như vây
không phai ngâu nhiên ma co lý do. Nhan sắc cua họ cũng la môt yêu tố quan trọng,
thâm chi nhiêu khi co ý nghĩa quyêt đinh tới cac diễn biên trong truyên.
Môt kiểu nhân vât quan trọng khac trong truyên truyên kỳ la yêu quai. So với
kiểu nhân vât thần tiên, nhân vât yêu quai được mô ta theo môt nguyên tắc khac. Đa
số nhân vât yêu tinh, quỷ quai đêu hiên hình dưới dạng nữ nhân va thường la trẻ
tuổi. Chân dung kiểu nhân vât nay được mô ta bằng nhiêu chi tiêt, hanh vi cũng rât
cụ thể va luôn biên ao kho lường. Chẳng hạn nhân vât Ma Nữ trong truyên “Ma cổ
thụ” (Lan Trì kiến văn lục) hiên lên trong chân dung môt thiêu phụ “ăn mặc lông
lây, nhan sắc xinh tươi”. Nhân vât yêu nữ ở truyên “Yêu quai Xương Giang” (trong
Truyền kỳ mạn lục), co dang vẻ lạ lùng va hanh tich khac thường: “Bây giờ trăng tỏ
sao thưa, bốn bê im lặng, chợt nghe thây ở mỏm bãi cat đang phia đông nam, co
tiêng khoc rât ai oan. Chèo thuyên đên xem, thây môt người con gai tuổi mười bay,
117
mười tam, mặc môt cai ao lụa đỏ, đang ngồi trên nêm cỏ” [91, tr. 261]; nhân vât ma
nữ trong “Truyên Cây gạo” cũng la môt “người con gai xinh đẹp”; rồi cac nữ nhân
vât trong “Cuôc kỳ ngô ở Trại Tây” với những nang Đao, nang Liễu vốn la yêu tinh
do cac giống hoa hoa thân ma thanh cho nên rât xinh đẹp; cac yêu nữ nay luôn tìm
tìm cach quyên rũ chang học trò. Đặc biêt, Công chúa Mông Trang trong truyên
“Hoa quốc kỳ duyên” (Thành Tông di thảo), vốn la yêu tinh (loai bươm bướm)
được mô ta kha kỹ, với rât nhiêu chi tiêt: “tuyêt hờn thua trắng ngọc thẹn kém
trong, ngon tay bút măng thon thon, ham răng hạt bầu nho nhỏ. Nêu không la gai
dưới trăng Dao Đai thì cũng la tiên trên núi Quần Ngọc, trần gian lam gì co người
như vây. Song nhìn kỹ, sau lần ao lot mình, Sinh thây ở bụng Mông Trang co nhiêu
ngân ngang, co điêu đây la hơi lạ” [91, tr. 168]. Cac yêu nữ, ma nữ đêu được mô ta
la những nữ nhân xinh đẹp, đai cac. Dường như lối mô ta nay cũng co ẩn ý vê sư
che đây cai xâu, cai ac dưới lốt vỏ mê hoặc vân thường xay ra ở cuôc đời thưc.
Trong khi nhân vât Thần Tiên được nha văn thể hiên “như con người” thì đối
với nhân vât vốn la kẻ sinh ở coi trần trong truyên truyên kỳ (cac “kỳ nhân”, “danh
nhân”) lại được mô ta theo môt thu phap hoan toan khac. Cac danh nhân lich sử,
danh nhân văn hoa thường xuât hiên với điểm phi pham, khac lạ so với đồng loại.
Mọi nhân vât truyên kỳ, từ vua chúa, anh hùng, hao kiêt cho đên nho sĩ tri thưc,
tăng lữ… đêu co những điểm gì đo khac biêt. Chẳng hạn được sinh xuât môt cach
kỳ lạ, hình tướng lạ, năng lưc siêu pham… Nhân vât Phùng Hưng (Việt điện u linh
tập), người được triêu Trần sach phong Phu Hưu Đại Vương, được mô ta: “Vương
giau co, tinh kiêu dũng, sưc co thể bắt cọp, vât trâu”…
Không chỉ đê vương ma ngay ca hình tượng nha Nho cũng được tac gia chú
trọng khai thac những tình tiêt khac lạ. Chẳng hạn Thượng thư Lê Hữu Khanh
(trong tâp Công dư tiệp ký), môt tri thưc rât nổi tiêng dưới thời Lê, được mô ta như
sau: “Hữu Khanh mười ba tuổi đã biêt lam văn, lớn lên ăn rât khỏe, mỗi bữa ăn gâp
mây người thường, mẹ đanh phai nhin đoi để cho con được no (…) Ông ngồi ở chỗ
mũi thuyên ăn ngay môt lúc hêt luôn ca sau bay chục phẩm, khiên những người
cùng thuyên ai cũng kinh ngạc (…) Ông vac ngay con dao lớn xuống ruông, phat
lây phat để, chưa tới giờ ngọ ma năm mâu ruông đêu đã sạch quang. Rồi ông lên
118
chỗ gốc cây đanh môt giâc, ngay vang như sâm. Giữa lúc ây thì ba lão va người nha
cũng vừa ganh cơm ra tới, đanh thưc ông dây. Ông ngồi lên ăn liên môt lúc hêt ca
ganh cơm” [23, tr. 20-21]. Những tình tiêt liên quan đên nêt ăn phi pham cua Lê
Hữu Khanh cũng kha giống với nhân vât Lê Như Hổ. Noi chung, tac gia truyên
truyên kỳ rât chú ý đên những chi tiêt lạ lùng như vây va luôn “đặc ta” kỹ lưỡng. Lê
Như Hổ nha nghèo không đu cơm ăn đanh phai đi gửi rể. Ở nha vợ, ông không chiu
học hanh, không chiu lam viêc gì vì họ không biêt tinh nêt chang rể nên cho ăn
không đu no. Chỉ đên khi nha vợ dò biêt sư tình, thay đổi chê đô ăn uống thì mọi
chuyên khac hẳn. Được ăn uống thỏa thich, ông học thâu đêm. Ban ngay ra đồng,
ông lam viêc bằng ca tốp người lam mướn. Ông đên lam khach nha bạn, môt mình
ăn hêt ba nồi cơm va bốn năm mâm thưc ăn danh cho ba mươi người...
Những tình tiêt kỳ di như vừa kể, ro rang không thể co ở người bình thường.
Tuy nhiên, chinh sư phi pham nhiêu khi đên mưc phi lý như vây lại la điêu cần thiêt
trong viêc mô ta nhân vât truyên kỳ. Đây la thu phap nhằm để “lạ hoa” những nhân vât
vốn xuât thân từ quần chúng. Co thể noi hầu hêt mọi nhân vât đêu được mô ta theo
“quy tắc” như vây. Nhât la đối với cac nhân vât thiên sư, người tu hanh thì viêc sử
dụng yêu tố linh di, khac thường để mô ta đã trở thanh công thưc.
Khi mô ta nhân vât thiên sư, tac gia truyên truyên kỳ luôn tuân thu công thưc
“3 điêu kỳ lạ”. Đo la sinh ra kỳ lạ - hành động kỳ lạ - viên tịch kỳ lạ. Chẳng hạn
trong truyên Thiên sư Ngô Ấn, viêc ông ra đời thât lạ. Mẹ ông ngồi dêt vai thì co
con khỉ lớn từ trong rừng ra ôm lưng suốt môt ngay rồi bỏ đi, sau đo ba co mang
sinh ra ông. Lúc ông chao đời, tướng mạo xâu xi. Người mẹ đưa bỏ trong rừng. Nhờ
co nha sư Chiêm Thanh nuôi dưỡng, ông mới nên người. Lớn lên, sư Ngô Ấn la
người cưc kỳ thông minh, học rông biêt nhiêu, tinh thông Phât giao, biêt nhiêu thư
tiêng. Cai chêt cua sư cũng rât khac thường. Truyên viêt, “Ngay 14 thang 6 năm
Quang Hưu thư tư (1088), khi sắp thi tich, sư đọc lời kê (…) Đọc xong sư thanh
than qua đời, thọ 69 tuổi” [91, tr. 67]. Cac nha tu hanh trong Thiền uyển tập anh
ngữ lục, Tam Tổ thực lục vốn la người thuôc coi trần nhưng luôn được tac gia mô ta
bằng những chi tiêt, tình tiêt đặc biêt như vây.
119
Nhìn chung, cach thưc xây dưng hình tượng nhân vât trong truyên truyên kỳ
đã được cac tac gia thưc hiên theo những nguyên tắc thống nhât. Tuy nhiên mỗi
nhom nhân vât lại co những đặc điểm riêng. Miêu ta Thần Tiên khac với kỳ nhân, di
nhân, lại cũng khac cach mô ta vê yêu tinh, ma quỷ… Điêu đo tạo nên nét đặc sắc
cua hình tượng nhân vât trong loại hình truyên truyên kỳ.
4.2.2. Hình tượng không gian, thời gian trong truyện truyền kỳ
Không gian va thời gian la những phương diên tồn tại thưc tê cua hiên thưc
khach quan. No được cac nha văn mô ta, phan anh va tạo thanh thê giới nghê thuât.
Noi đúng hơn, đo la môt hình tượng văn học, môt sư mô phỏng, phong chiêu thê
giới thưc tê vao trong tac phẩm. Không gian va thời gian nghê thuât thể hiên nguyên
tắc cơ ban cua phương thưc tổ chưc tac phẩm. Đây la “mô hình nghê thuât vê cai
thê giới ma con người đang sống, đang cam thây vi tri, số phân cua mình trong đo.
Không co hình tượng nghê thuât nao không co không gian, không co nhân vât nao
không co môt nên canh nao đo” [42, tr. 160].
Do đặc trưng cua truyên truyên kỳ la sư đan xen giữa yêu tố kỳ lạ, phi
thường va yêu tố đời thường, vì vây không gian va thời gian nghê thuât cũng mang
những nét riêng. Đo vừa la không gian đia lý cụ thể, thời gian mang tinh lich sử, lại
vừa la không gian, thời gian co nhiêu yêu tố lạ kỳ, hoang đường. Cac yêu tố kỳ lạ,
phi thường đã gop phần tạo nên môt thê giới được bao phu bởi môt lớp sương khoi
linh diêu, huyên ao cuốn hút người đọc.
4.2.2.1. Hình tượng không gian
Đặc điểm quan trọng nhât cua không gian truyên truyên kỳ la sư pha
trôn, hỗn dung cac “dạng thưc” thê giới khac nhau. Không gian đo co đu ba
“coi”/ “giới” cơ ban la “trần giới”, “tiên giới”, “âm giới”. Chúng không tồn tại
tach biêt ma gôp lại để lam nơi cư ngụ cùng lúc cua ba giống loai: thần tiên,
người vât va yêu ma.
Cũng cần lưu ý rằng, không gian trong truyên truyên kỳ la nơi dung chưa rât
nhiêu gia tri văn hoa dân gian. Điêu nay la co lý do. Truyên truyên kỳ Viêt Nam
vốn co côi nguồn từ văn hoa dân gian. Cac truyên kể, giai thoại đâm sắc mau cua
thần thoại, truyên thuyêt chinh la nơi cung câp chât liêu quan trọng cho truyên
120
truyên kỳ. Chinh vì thê ma văn hoa truyên thống, phong tục, tâp tục, tôn giao, tin
ngưỡng… cua người Viêt luôn hiên diên với mưc đô đâm đặc trong truyên truyên
kỳ. Trong tac phẩm Lĩnh Nam chích quái lục chẳng hạn, không gian văn hoa cua
người Viêt được thể hiên hêt sưc ro nét. Truyên “Họ Hồng Bang” kể vê côi nguồn
Tiên Rồng cua dân tôc Viêt. Không gian côi nguồn ở đây la đât Phong Châu. Miên
đât nay la nơi 50 người con trai theo Âu Cơ đên lâp nghiêp. Buổi đầu cua cuôc sống
ban sơ, họ đã tạo dưng môt không gian công đồng đặc sắc: “lây vỏ cây lam ao, dêt
cỏ gianh lam chiêu, lây nước cốt gạo lam rượu, lây cây quang lang, cây tung đồ lam
cơm, lây cầm thú, ca, ba ba lam mắm, lây rễ gừng lam muối, phat nương đốt rây.
Đât san xuât được nhiêu gạo nêp, lây ống tre ma thổi cơm. Bắt cây lam nha để tranh
hổ soi. Cắt toc ngắn để dễ đi lại trong rừng rú” [119, tr. 172].
Không gian hiên thưc trong truyên truyên kỳ được cac tac gia mô ta kha kỹ
lưỡng. Lối sống, lễ tục, phong tục tâp quan qua cac thời đại được nha văn tai hiên
kha cụ thể, sinh đông. Tât nhiên, những tri thưc văn hoa nay được thể hiên theo đặc
điểm, cach thưc riêng cua nghê thuât truyên kỳ. Ở đây không gian “hiên thưc” không
phai la điêu quan trọng nhât. Kiểu không gian kỳ ao, không gian đâm chât hoang
đường mới la nét đặc biêt cua loại hình văn học nay. Đây la thê giới cua bụt, tiên, ma,
quỷ, yêu tinh va cua những con người với phẩm chât, năng lưc khac thường.
Không gian kỳ lạ, huyên ao trong truyên truyên kỳ kha đa dạng. Đo co thể la
chốn Bồng Lai tiên canh, la nơi xa xăm huyên bi với những đâng bâc thần tiên co
đời sống trường sinh bât diêt; la nơi ma nhân loại bao đời luôn khao khat muốn đặt
chân đên. Nhưng không gian truyên kỳ không chỉ co “coi cưc lạc”, ma còn la miên
tăm tối với canh đia phu, âm ty, thuy cung… Thê giới coi âm la nơi cư ngụ cua ma
quỷ, yêu tinh, hồ ly... Tât nhiên, cho dù ở coi nao thì hình tượng không gian trong
truyên truyên kỳ cũng đêu mang bong dang trần thê. Mọi không gian ở đây suy cho
cùng đêu la không gian hư câu, được hình thanh qua tri tưởng tượng cua tac gia.
Trong cac tac phẩm như Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục, Truyền kỳ tân
phả… không gian tiên canh chiêm ưu thê. Chẳng hạn nhân vât Phạm Tử Hư trong
truyên “Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tao” (Truyền kỳ mạn lục) may mắn được lọt
vao chốn Thiên Tao. Canh vât nơi đây rât đặc biêt. Nhân vât “thây môt khu co
121
những bưc tường bạc bao quanh, cai cửa lớn kham trai lông lây, hai bên co những
toa lầu châu điên ngọc, vằng vặc sang như ban ngay, sông Ngân biển sao, ôm âp lây
đằng trước, gio thơm phưng phưc, đượm ngat quanh hiên, hơi lạnh thâu da, anh
sang choi mắt, trông xuống coi trần, thây mọi canh vât đêu bé nhỏ tun mun” [91, tr.
274]. Môt canh tượng như thê ro rang la chỉ co ở coi cua thần tiên, hoan toan khac
biêt với coi trần.
Hoặc môt canh tri khac, vân la coi tiên, trong truyên “Bich câu kỳ ngô”
(Truyền kỳ tân phả): “Nha cửa đêu như gâm như ngọc, hạnh đỏ đao tươi, canh giới
khac như trần thê… Cac vi tiên đêu co ca chim nhạn lạc, trăng nau hoa đưa…” [33,
tr. 165]. Trong “Vân Cat thần nữ” (Truyền kỳ tân phả), canh tiên cũng được miêu ta
vô cùng đẹp đẽ: “Thanh vang đưng vững, cửa ngọc mở toang… liêc trông lên đam
hồng vân thây co môt vi vương gia đôi mũ miên, hai bên co sau người thi nữ mặc ao
mau tia đỏ đưng hầu, lại co hang trăm người cầm hốt, cầm phach, tâu nhạc “quân
thiêu” va múa điêu “nghê thường”. Trên ban lưu ly để qua đao vương mâu, trong
bầu mã não đưng thuốc tiên “lãi quân”… cac thưc vât kỳ lạ chốn nhân gian chưa
từng co” [33, tr. 95].
Nhưng không gian coi tiên tuy hoang đường kỳ ao đên mây thì vân mang
bong dang cua coi nhân gian. Nhân vât ở đo cũng đầy khat vọng vê tình yêu như
con người. Vì thê ma cac nang tiên thường tìm cach xuống coi trần để được yêu
đương. Qua cac mối tình giữa người trần với tiên nữ trong cac truyên “Từ Thưc lây
vợ tiên” (Truyền kỳ mạn lục), “Bich câu kỳ ngô” (Truyền kỳ tân phả)… co thể thây
những ẩn ý ma tac gia đã gửi gắm trong đo. Chỉ co tình yêu nơi trần thê mới la tình
yêu lý tưởng cua con người. Noi cach khac thì tình yêu lý tưởng chỉ co ở trong đời
sống hiên thưc, chỉ duy nhât nơi trần thê chư không thể ở môt coi nao khac.
Coi tiên khac biêt với coi trần không chỉ canh tri ma còn ở sư tư do, tư tại, vô
biên, không co bât công, nghèo đoi, bênh tât. Co thể noi, với tri tưởng tượng đặc
biêt bay bổng, cac tac gia truyên kỳ đã xây dưng không gian thần tiên môt cach vừa
thưc tê, vừa hư ao. Chuyên xay ra ở coi tiên đã phan anh môt cach sâu sắc ước mơ,
khat vọng cua công đồng.
122
Đối lâp với không gian tiên giới la không gian coi âm, nơi cư ngụ cua ma quỷ,
yêu quai. Coi âm gắn với sư lạnh lẽo, chêt choc ghê sợ. Không gian trong “Chuyên
cây gạo” (Truyền kỳ mạn lục) đầy rây cac giống yêu ma quỷ quai trú ẩn. Canh tượng
nơi trú cua hồn ma Nhi Khanh qua mắt nhìn cua Trình Trung Ngô, được tac gia ta
như sau: “Trình cúi đầu qua dưới mai gianh, vao tạm ngồi ở chỗ bờ cửa. Thỉnh
thoang co cơn gio thổi, chang thoang thây môt mùi tanh thối kho chiu. Đương kinh
ngạc không biêt mùi gì, bỗng trong nha co đèn sang. Chang trông vao thây ở gian bên
phia ta kê môt chiêc giường mây nhỏ, trên giường để môt cổ ao quan sơn son, trên
quan phu môt tâm the hồng, dùng ngân sa đê vao mây chữ “linh cữu cua Nhi Khanh”,
cạnh cữu co người con gai nặn bằng đât, tay ôm cây hồ cầm đưng hầu” [91, tr. 288].
Hoặc môt canh tượng ghê sợ chốn âm ty đia phu trong “Chuyên chưc phan sư ở đên
Tan Viên” (Truyền kỳ mạn lục) với hình anh con sông lớn, gio tanh song xam, hơi
lạnh thâu xương, trên sông la môt cai cầu dai ước hơn nghìn bước… Ro rang đây la
môt không gian u am, đầy tử khi; không gian cua tôi ac va sư trừng phạt. Sư kêt hợp
giữa bút phap ta thưc va kỳ ao hoang đường đã tạo cho truyên truyên môt kỳ sưc hâp
dân đặc biêt.
4.2.2.2. Hình tượng thời gian
Thời gian nghê thuât chinh la môt hình tượng được sang tạo nên trong tac
phẩm nghê thuât. No la môt phương tiên để phan anh đời sống va no co những đặc
điểm khac biêt so với thời gian thưc tê, thời gian vât lý. Thời gian nghê thuât “la
môt biểu tượng, môt tượng trưng, thể hiên môt quan niêm cua nha văn vê cuôc đời
va con người”. Như vây co thể noi, “thời gian trong văn học không còn gian đơn la
cai dung chưa cac qua trình đời sống ma la môt yêu tố nôi dung tich cưc, môt kẻ
tham gia đôc lâp vao hanh đông nghê thuât” [131, tr. 63].
Môt trong những dạng thời gian nghê thuât kha nổi bât trong truyên truyên
kỳ la thời gian mang tinh lich sử. Gọi la “tinh lich sử” bởi vì no liên quan đên nhân
vât lich sử, sư kiên lich sử song no không phai la sử liêu; thông tin cua no chỉ mang
tinh ước lê. Chẳng hạn truyên cua Lý Tê Xuyên, Trần Thê Phap… tuy co nhắc đên
những thời điểm xac đinh, song đo chỉ la những truyên thuyêt. Những mốc lich sử
nay chỉ co tac dụng nhằm lam tăng thêm sưc thuyêt phục va tạo cam giac tin cây
123
cho câu chuyên chư không phai la những thông tin co thể kiểm chưng được. Ngay
ca những tac phẩm truyên kỳ ở giai đoạn sau như Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ
mạn lục, Truyền kỳ tân phả… cũng vây. Cac mốc thời gian nêu trong đo thoạt nhìn
co vẻ cụ thể song thưc ra cũng chỉ mang tinh ước lê, phiêm chỉ. Những câu chuyên
với mốc thời gian, triêu đại… cụ thể đo chỉ la “tâm bình phong” che đây dụng ý cua
tac gia muốn am chỉ hiên thưc xã hôi đương thời. Noi chuyên đã xay ra nhưng kỳ
thưc đo la những chuyên co tinh chât thời sư. Đo không phai chuyên cua qua khư
ma la chuyên hiên tại.
Kiểu thời gian nghê thuât phổ biên va cũng đang chú ý hơn ca trong truyên
truyên kỳ chinh la kiểu thời gian kỳ ao, hoang đường. Thời gian kỳ ao hòa trôn với
không gian hoang đường trở thanh nét riêng cua thê giới truyên kỳ. Đặc trưng cua
thời gian kỳ ao la sư vĩnh hằng ở coi tiên. Ở đo thời gian không biên đổi, không vân
đông vì thê chư tiên cũng trẻ mãi không gia. Quy luât chuyển vân cua thời gian tiên
canh hoan toan khac so với thời gian trần thê. Nhân vât Từ Thưc (trong “Từ Thưc
lây vợ Tiên”, Truyền kỳ mạn lục) chỉ sống môt năm ở coi tiên, nhưng đên khi trở lại
quê nha thì hoa ra thời gian đã trôi đi hơn tam mươi năm, trai qua ba đời vua Lê rồi.
Điêu nay phù hợp với quan niêm “Coi trần nhỏ hẹp, kiêp trần ngắn ngui” cua tac
gia. Trong cac truyên “Vân Cat thần nữ” va “Bich câu kỳ ngô”(Truyền kỳ tân phả),
nhân vât phai đầu thai, sống kiêp sau thì mới tương thich với thời gian bong chớp,
chong vanh ở coi trần. Noi chung, coi trần thì luôn tạm bợ, ngắn ngui, chỉ co coi
tiên thì mới trường cửu, mới vĩnh hằng.
Cùng với thời gian coi tiên, trong truyên truyên kỳ còn xuât hiên những mô
tip thời gian coi âm, tưc la thời gian gắn với sư hiên hình cua cac giống quỷ quai,
yêu tinh, ma mi. Cac nhân vât ma quỷ thường xuât hiên vao những thời điểm anh
sang thiêu hoặc yêu như ban đêm, lúc mờ sang, khoang châp tối. Trong “Truyên
chồng dê” (Thánh Tông di thảo), thời điểm nhân vât Dê (người chồng/ súc vât) xuât
hiên chu yêu vao hai thời điểm la ban đêm va sáng mai. Ban đêm - Dê hoa thân lam
người chồng, nhưng sang mai Dê trở lại la con vât quen thuôc. Ban đêm - cô gai va
“người chồng dê” chung sống như mọi kẻ khac, nhưng sang mai người chồng trở lại
đôi lốt la dê trắng.
124
Trong Truyền kỳ mạn lục cua Nguyễn Dữ thì hầu hêt những cuôc tình giữa
người trần va ma nữ cũng thường diễn ra vao những thời khắc “tối sang hỗn đôn” như
vây. Cac cuôc gặp gỡ, thù tạc, thê nguyên, chung đụng…rât hiêm khi xay ra vao ban
ngay ma thường la vao ban đêm hoặc mờ sang hôm sau. Giống như môt quy luât, cư
vao ban đêm thì người va ma tụ họp, để đên sang mai vôi vã chia tay. Co thể thây anh
sang la điêu tối kỵ đối với những cặp đôi người - ma. Vì sợ anh dương cho nên nêu
co gặp nhau vao ban ngay thì cuôc gặp cũng sẽ chỉ diễn ra vao nơi khuât lâp, tăm tối,
mờ ao. Trong truyên truyên kỳ thì nhờ bong tối ma quỷ quai ta ma mới co thể tiêp
xúc với người, cũng vì thê ma chuyên kỳ lạ mới xay đên được.
Trong “Truyên Cây gạo” (Truyền kỳ mạn lục), thời điểm ma hồn ma Nhi
Khanh va chang Trình Trung Ngô gặp nhau la vao môt đêm tối trời. Bối canh người
va ma chuyên trò cùng nhau la ở nhip cầu Liễu Khê thanh vắng, u tich. Vì Nhi Khanh
la ma nữ cho nên phai chờ đên đêm tối nhân vât nay mới co thể xuât hiên “để dạo
bước nhan du, gay đan hồ cầm tìm kẻ tri âm”. Còn chang Trình Trung Ngô vì ham
mê sắc đẹp nên cũng không quan công chờ đợi, dò tìm va châp nhân gặp gỡ Nhi
Khanh trong môt khung canh đang ngờ như vây. Không gian va thời gian như thê rât
phù hợp với mối tình kỳ lạ. “Từ đo, Trình Trung Ngô cư chờ đên đêm để được gặp
Nhi Khanh, còn Nhi Khanh thì cư hằng đêm đên chỗ hẹn, trời gần sang lại từ biêt ra
vê”. Cho đên cai chêt bi hiểm cua nhân vât Trình Trung Ngô cũng được phat giac vao
ban đêm: “Môt đêm người trong thuyên ngu say, đên sang thì thây mât Trình Trung
Ngô. Họ vôi đên Đông thôn tìm thây chang đã nằm ôm quan tai ma chêt, bèn phai thu
liêm va chôn ngay ở đây. Từ đo vê sau, pham những đêm tối giời, người ta thây hai
người dắt tay nhau đi đôi khi thì hat, khi thì khoc, thường bắt người ta phai khân cầu
lễ bai” [29, tr. 287].
Tât nhiên, không phai ban đêm lúc nao cũng la thời khắc gắn với chuyên ghê
sợ, huyên hoặc. Ban đêm trong cac truyên truyên kỳ cũng còn la thời điểm xay ra
những câu chuyên lãng mạn, đầy tinh nhân văn. Nhiêu canh sum vầy, tai hợp lưa đôi;
nhiêu cặp vợ chồng vốn âm dương cach biêt lại được tai ngô trong đêm. Trong
“Truyên Lê Nương” (Truyền kỳ mạn lục), nang Lê Nương tiêt liêt phai chêt oan vì
“không muốn lam cô hồn nơi đât Bắc”, khi chêt đi nang mang theo mối tình đầu trong
125
sang với chang Phât Sinh. Hai người sau nay gặp nhau trong bối canh ly kỳ nhưng rât
cam đông. Chang Phât Sinh cư đên khuya ra mô Lê Nương ngu va khân nguyên gặp
nang để rạng ngay lại buồn bã chia tay hồn ma cua vợ.
Thưc ra thì mô tip người - ma gặp gỡ trong bối canh coi âm va coi dương giao
hoa không phai chỉ co trong truyên truyên kỳ Viêt Nam. Đo la môt hiên tượng phổ
biên ma A. Gurevich đã nhân xét rât đúng rằng: đối với người trung đại, thê giới ma
va người “chỉ la môt thê giới thống nhât, trong đo, qua khư, hiên tại va tương lai được
sắp đặt bên nhau, cùng tồn tại với nhau môt cach thưc tại” [41, tr. 126].
Suy cho cùng thì thê giới “coi âm” hay “coi tiên” cũng chinh la bong dang
cua thê giới thưc tại. Đo cũng la biểu hiên cua phạm trù thời gian vĩnh cửu, la ý
niêm vê môt “thê giới khac” cua con người. Thời gian nghê thuât trong cac truyên
truyên kỳ vừa mang tinh chât cua thời gian lich sử, vừa co tinh chât kỳ ao, đâm chât
hoang đường.
4.3. LƠI VĂN TRONG TRUYÊN TRUYÊN KY
Noi đên phương thưc thể hiên qua lời văn trong tac phẩm văn xuôi la đê câp
đên môt khai niêm co nôi ham rât rông. No bao gồm lời noi cua cac chu thể phat
ngôn khac nhau trong tac phẩm (như lời cua người kể chuyên, lời cua nhân vât, lời
dân cua tac gia…) được thể hiên qua cac dạng thưc, chẳng hạn lời trần thuât, lời
trưc tiêp, lời nửa trưc tiêp, lời gian tiêp… Hơn nữa, tac phẩm văn học la thư nghê
thuât được tạo nên bằng chât liêu ngôn từ, do đo dù co xem xét bât kỳ yêu tố nao thì
suy cho cùng cũng không ngoai “lời văn”. Bởi vây co thể noi rằng, mọi hoạt đông
nghiên cưu văn học rút cuôc đêu la nghiên cưu lời văn nghê thuât. Trên thưc tê, khi
nghiên cưu cac phương diên cụ thể cua truyên truyên kỳ như cốt truyên, hình tượng
nhân vât, hình tượng không gian, hình tượng thời gian… thì ban chât công viêc ma
chúng tôi đã tiên hanh cũng chu yêu la ban vê cach tac gia sang tạo lời văn. Cũng vì
thê ma để tranh trùng lặp, ở mục nay chúng tôi chỉ xem xét phương thưc dùng lời
qua hai yêu tố la lối văn “truyên kể” va viêc tổ chưc văn ban trong truyên truyên kỳ.
4.3.1. Lối văn “truyện kể” trong truyện truyền kỳ
Đặc điểm dễ nhân thây nhât cua lời văn truyên truyên kỳ la tinh chât khuôn
mâu theo lối “truyên kể” truyên khẩu dân gian. Mặc dù đây la truyên bằng văn xuôi,
được trình bay dưới dạng thưc văn ban viêt, tuy vây dâu ân truyên kể dân gian lại
126
rât ro. Từ cach mở đầu, chuyển đoạn, kêt thúc… cho đên viêc sắp xêp, trình bay văn
ban, tât ca đêu theo môt số khuôn mâu quen thuôc.
Cach mở đầu cac truyên truyên kỳ thường được trình bay theo môt kiểu
rât ổn đinh. Truyên truyên kỳ rât it nhân vât. Noi đúng hơn, đây la chuyên vê
môt vai nhân vât cụ thể, cho nên mở đầu bao giờ cũng phai giới thiêu tên cua
người (hoặc vât) đo. Sau khi đã “xướng danh” nhân vât la đên phần lai lich, gốc
tich rồi cac yêu tố khac như thời gian, đia điểm xay ra sư kiên, nguồn gốc, xuât
xư cua câu chuyên... Co thể thây đây la môt thư “quy phạm”, môt nguyên tắc
chung va được vân dụng thống nhât, rât it ngoại lê. Công thưc “Ai/ Cái gì - Ở
đâu - Lúc nào” trong phần mở đầu truyên truyên kỳ cũng la môt trong những chỉ
dâu vê mối liên hê giữa loại hình nay va truyên kể dân gian. Dễ dang nhân thây
mục đich cua người lam truyên ở đây la cố gắng cung câp những thông tin cơ
ban nhât bằng môt diễn ngôn đơn gian, tối thiểu.
Trong Lan Trì kiến văn lục, phần mở đầu cac truyên luôn rât ngắn gọn, chỉ
co mây dòng nhưng vân đu cac yêu tố cơ ban. Truyên “Đưa con cua rắn” mở đầu
chỉ hai câu: “Huyên Sơn Vi co người đan ba họ Nguyễn, cùng chồng lam nha bên
sườn núi để ở. Một hôm người vợ đi kiếm củi dưới chân núi rất lâu không trở về”
[163, tr. 27]. Cac truyên khac cũng chỉ vai ba câu mở đầu. Chẳng hạn truyên “Tiên
trên đao” mở đầu: “Người Thanh Trì la ông Nguyễn Lôc, kêt bạn vai mươi người,
thuê môt chiêc thuyên đi biển ra châu Vạn Ninh, Quang Yên buôn ban, mỗi năm vai
bân đi vê. Một hôm thuyền bị bão đánh dạt vào một hòn đảo giữa biển” [163, tr.
29]. Truyên “Nguyễn Quỳnh” cũng tương tư: “Nguyễn Quỳnh người xã Bôt
Thượng, huyên Hoằng Hoa. Năm 20 tuổi đỗ thi hương, văn chương nổi tiêng, tinh
phong túng. Ông thường luyên văn ở nha Quốc học, luôn được xêp hạng ưu, nên rât
tư đắc. Một hôm, vào dịp luyện văn đầu tháng” [163, tr. 31]. Truyên “Tiên ăn may”
viêt: “Người trong thôn la Nguyễn Ất, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phai sống với anh…
Một hôm Ất đi làm về muộn” [163, tr. 38]. Truyên “Sống lại”: “Đao Sinh la con môt
người nông dân ở huyên Đông Sơn, rât đẹp trai. Cha mẹ cho đi học, Sinh học rât
thông minh. Năm mười bay tuổi, Sinh đu tai theo đòi khoa cử… Một đêm nọ, Sinh
đang ngồi đọc sách, nghe bên buồng cô gái có tiếng thoi dệt vải”…
127
Lối mở đầu truyên cô đọng, dưa theo phong cach khẩu ngữ như vây không
phai chỉ xuât hiên ở cac truyên co dung lượng ngắn như Lan Trì kiến văn lục, Thiền
uyển tập anh ngữ lục, Tang thương ngẫu lục, Mẫn Hiên thuyết loại, Công dư tiệp
ký…ma trong cac tac phẩm co dung lượng lớn hơn như Truyền kỳ mạn lục, Bích
Châu du tiên mạn ký, Việt Nam kỳ phùng sự lục, Truyền kỳ tân phả... cũng tương tư
như thê. Chẳng hạn, “Chuyên Cây gạo” trong Truyền kỳ mạn lục mở đầu như sau:
“Trình Trung Ngô la môt chang trai đẹp ở đât Bắc Ha, nha rât giau, thuê thuyên
xuống vùng nam buôn ban. Chang thường đỗ thuyên ở dưới cầu Liễu Khê rồi đi lại vao
chợ Nam Xang. Dọc đường, hay gặp môt người con gai xinh đẹp, từ Đông thôn đi ra,
đằng sau co môt a thi nữ theo hầu. Chang liêc mắt trông, thây la môt giai nhân tuyêt
sắc. Song đât lạ quê người, biêt đâu dò hỏi, chỉ mang môt mối tình u uât trong lòng.
Môt hôm khac, chang cũng gặp lại, muốn kiêm môt lời noi kin đao để thử khêu gợi,
nhưng người con gai đã xốc xiêm rao bước” [91, tr. 284]. Hoặc đoạn mở đầu trong
“Chuyên kỳ ngô ở trại Tây”: “Ha Nhân, người học trò quê ở Thiên Trường, khoang
năm Thiêu Bình ngụ ở kinh sư để tòng học cụ Ức Trai. Mỗi buổi đi học, đường tât phai
qua phường Khúc Giang. Trong phường co cai trại, gọi la trại Tây, dinh cơ cũ cua quan
Thai sư triêu Trần. Ngay ngay đi qua, Ha Nhân thường thây hai người con gai đưng ở
bên trong bưc tường đổ nhi nhoẻn cười đùa, hoặc hai những qua ngon, bẻ bông hoa đẹp
ma ném cho Ha Nhân nữa. Lâu lâu như thê Ha Nhân không lam ngơ được, môt hôm
mới đưng lại trò chuyên lân la” [91, tr. 215]. “Chuyên nghiêp oan cua Đao Thi” cũng
như thê: “Ả danh kỹ ở Từ Sơn la Đao Thi, tiểu tư Han Than, thông hiểu âm luât va chữ
nghĩa. Niên hiêu Thiêu Phong thư năm (1345) đời nha Trần, nang được tuyển sung vao
lam cung nhân, hằng ngay chầu vua ở tiêc rượu hay ở chiêu bạc. Môt hôm vua tha
thuyên chơi trên sông Nhi, rồi đi lần xuống tân bên Đông Bô Đầu” [91, tr. 226]. Cac
truyên khac trong sach cua Nguyễn Dữ như “Chuyên chưc phan sư đên Tan Viên”,
“Từ Thưc lây vợ tiên”, “Yêu quai ở Xương Giang”… đêu được mở đầu theo đúng mô
thưc như vây.
Trong Bích Châu du tiên mạn ký cua Nguyễn Huy Hổ, đoạn mở đầu như sau:
“Dưới chân núi Trâu Sơn xư Kinh Bắc co gia đình hai mẹ con môt ba cụ gia ở đây.
Người ta không biêt tung tich cua họ ở đâu, chỉ biêt sau mây năm liên trong nước bi
đoi kém, ba cụ đên đây xin lang cho ở ngụ. Người con gai tên la Hoan Châu, khoang
128
mười lăm, mười sau tuổi, dang người xinh đẹp, thùy mi, hang ngay tần tao lam ăn
nuôi mẹ (…) Môt hôm vao têt Nguyên tiêu…” [23, tr. 345].
Tac phẩm Việt Nam kỳ phùng sự lục (chưa ro tac gia la ai) cũng vây: “Vao
thời nha Lê co Ngô Kiêu Nương ở xã Phú Ninh, huyên Tiên Du, la con gai tri phu
họ Ngô. Khi trước ba mẹ đi chợ vê muôn, nghỉ ngơi môt lat dưới gốc đa vùng
Dương Húc, bỗng nhiên tâm thần cam đông, bât giac mang thai, đu ngay thang thì
sinh hạ được nang (…) Đêm ây nang nằm mông thây môt đồng nữ mặc xiêm ao
mau rang chiêu rưc rỡ, lưng đeo đai ngọc long lanh, tay cầm giây ngọc bước vao
phòng” [23, tr. 367].
Trong phần mở đầu cua truyên truyên kỳ, co môt điểm rât đang lưu ý, đo la
sư xuât hiên cua từ “Một hôm”. Đây cũng la thu phap dùng từ rât quen thuôc trong
truyên cổ tich - môt cach mở đầu tối ưu để co thể kể những câu chuyên thuôc vê qua
khư. Dùng từ ngữ mô ta thời gian co tinh phiêm chỉ như thê nay đã trở thanh môt
thao tac rât ổn đinh, luôn lặp lại trong truyên truyên kỳ. No co ý nghĩa quan trọng
trong viêc chuyển tiêp sang phần chinh cua câu chuyên, cho dù phần chinh cua
truyên gồm môt chuỗi nhiêu biên cố.
Trong Truyền kỳ tân phả, Thánh Tông di thảo chẳng hạn, mặc dù mỗi truyên
đêu co rât nhiêu sư kiên, dung lượng cũng vượt trôi so với mặt bằng chung, thê nhưng
sư kiên/ tình tiêt đầu tiên đêu được bắt đầu bằng từ “môt hôm”. Cach mô ta, trần thuât
luôn theo môt công thưc: “Một hôm, gặp tiêt trung thu…” (“Hai khẩu linh từ” -
Truyền kỳ tân phả); “Nhớ lại co một hôm vao mùa xuân ông ngu dây muôn” (“An Ấp
liêt nữ lục”- Truyền kỳ tân phả); “Một hôm, gặp đêm trung thu, trăng sang như vẽ”
(“Vân Cat thần nữ lục” - Truyền kỳ tân phả)”; “Thình lình một hôm, co người ao quần
môc mạc, hình dung tiêu tụy, đên nha hat” (“Mai Châu yêu nữ truyên” - Thánh Tông
di thảo); “Bỗng một hôm co hai người đan ba đên ngồi trong chợ để xem boi va đoan
số” (“Nhi nữ thần truyên” - Thánh Tông di thảo); “Một hôm cha ôn tồn hỏi chang
rằng” (“Ngư gia chi di” - Thánh Tông di thảo); “Một hôm gặp mưa to, đong lại trên
hồ Trúc Bạch ở Mỏ Phượng” (“Mông ký” - Thánh Tông di thảo); “Bỗng một đêm đã
khuya, vợ thây chồng trèo tường vê, vao ngay trong buồng” (“Thử tinh truyên” -
Thánh Tông di thảo)…
129
Trong cac truyên truyên kỳ, tương ưng với phần mở đầu co tinh chât “hồi
ưc” như vây la lối kêt thúc bằng môt đoạn “nối thêm” cuối truyên. Phần nay cũng
rât ổn đinh. Đo thường la môt tình tiêt đơn gian hoặc thâm chi chỉ môt lời bình luân
theo công thưc: về sau hoặc từ đó… Lối kêt truyên theo công thưc như thê cũng rât
phổ biên ở truyên kể dân gian. Chỉ co điêu ý nghĩa cua lối kêt nay trong truyên
truyên kỳ va truyên kể dân gian co khac nhau. Cach thưc nay ở truyên truyên kỳ
không nhằm để “giai thich” ma đơn gian chỉ la nhân mạnh tinh chât lạ thường cua
sư kiên vừa trình bay. No cũng đồng thời thông bao vê sư hoan thanh, hoan chỉnh
cua câu chuyên tac gia vừa kể.
Hầu hêt cac truyên trong Công dư tiệp ký đêu co đoạn kêt theo kiểu “từ đo/
vê sau” như đã nêu. Chẳng hạn: “Về sau, co môt viên Giam sinh vao tỉnh thi, đên
kỳ đê tư không lam được bai, bèn viêt những câu văn chữ Nôm tan mạn đem nôp.
Cac quan châm thi cho la vô hạnh, đinh truât ca Giam sinh, sau kêu nai mãi mới
tha. Viêc ây để lam răn cho những người khac” [23, tr. 14]. “Về sau ông lâp được
nhiêu công lớn, được xêp vao hang danh thần trung hưng va lam đên chưc Thượng
thư bô binh, ngay nay dòng doi vân còn thinh vượng” [23, tr. 25]. “Về sau họ Mạc
mât, triêu ta trung hưng. Uông ra đầu thú, rồi lam đên Hô bô Thượng thư, được
phong lam phúc thần” [23, tr. 36]. “Sau ông lam đên Thượng thư, tước Xuân
giang hầu, rồi được phong Thiêu bao, Lữ Quân công vê tri sĩ” [23, tr. 43]. “Từ đó,
khúc sông trong vùng không còn xay ra viêc gì nữa” [23, tr. 60]. “Từ đó, Đinh
trăm trân trăm thắng, được gọi la Vạn Thắng Vương” [23, tr. 68]… Cac truyên
trong Tang thương ngẫu lục cũng vây: “Từ đấy, đi xuôi ngược giang hồ, đêu
không gặp rui ro gì ca” [48, tr. 104]; “Từ đấy, không còn con quai ây nữa. Núi nay
thanh môt nơi danh thắng…” [48, tr. 107].
Phong cach ngôn ngữ truyên kể trong tac phẩm truyên kỳ còn được thể hiên qua
cach tổ chưc lời thoại. Nêu quan sat kỹ, co thể noi ở truyên truyên kỳ không co cac
cuôc đối thoại lân đôc thoại đúng nghĩa. Cai gọi la “đối thoại” ở đây không phai la lời
đối đap trưc tiêp giữa cac nhân vât với nhau ma chỉ la lời kể cua tac gia vê cuôc đối
thoại đã xay ra từ trước đo, thường la rât lâu rồi. Còn “đôc thoại” thì cũng không phai
lời cua nhân vât ma thưc chât la lời cua tac gia. Vì la lời (thuât/ kể) cua tac gia cho nên
lời thoại ở đây không co “ca tinh”, không mang mau sắc ca nhân riêng biêt. Noi đúng
130
hơn thì lời thoại trong truyên truyên kỳ mang phong cach ngôn ngữ cua chinh tac gia.
Chẳng hạn, môt vai đoạn trong “Chuyên kỳ ngô ở trại Tây” (Truyền kỳ mạn lục). Ha
Sinh noi với cha mẹ: “Sinh con trai muôn cho có vợ, sinh con gái muôn cho có chồng,
đó vẫn là lòng của cha mẹ mà cũng là phúc của gia đình. Song con nghĩ mình dòng dõi
tấn thân, mà sự học hành chưa thành danh gì cả. Nếu nay có vợ, e không khỏi vui bề
chăn gôi mà lãng việc sách đèn. Chi bằng việc cưới xin hãy tạm hoãn, đợi khi con
đường mây nhẹ gót, thỏa nguyện bình sinh, bấy giờ hãy tìm đến tưởng cũng chưa
muộn” [91, tr. 221]. “Chúng em không may đều mắc bệnh gió sương, khí xuân chưa về,
mặt hoa dễ héo, thuôc thang khó tìm, hương hồn một mảnh, chưa biết rồi sẽ trôi dạt
đến nơi nào. Sinh kinh ngạc: Anh cùng với hai em, duyên không môi lái nghĩa kết keo
sơn. Cớ sao các em vội nói đến chuyện lìa tan, khiến anh lo sợ như là con chim sợ cung
vậy. Nang Liễu noi: Ham vui ân ái, ai ai chẳng lòng, nhưng sô trời đã định kỳ về đến
nơi, biết làm sao được. Rồi đây cánh rã trong bùn, hương rơi mặt đất, ba xuân cảnh
sắc, thú vui biết sẽ thuộc về đâu. Sinh ngao ngan buồn rầu, không sao rưt được. Nang
Đao noi: Người sinh ở đời như cái hoa trên cây, tươi héo có kỳ, không thể nào gượng
được dù trong chôc lát. Chỉ xin chàng từ đây bồi dưỡng thân thể, chăm chỉ bút nghiên,
ghép liễu thành công, xem hoa thỏa nguyện, thì chúng em dù vùi thân trong chỗ ngòi
lạch cũng chẳng chút phàn nàn. Sinh noi: Vậy thế cái kỳ tan tác còn chừng bao lâu
nữa? Chỉ nội đêm nay thôi. Hễ lúc nào có trận gió dông nổi lên là lúc chúng em thác
hóa. Chàng nếu nghĩ tình ân ái cũ, quá bộ đến trại Tây thăm viếng chúng em sẽ được
ngậm cười mà về chôn suôi vàng. Sinh khoc ma rằng: Sự thể cấp bách như vậy, cũng
chẳng biết làm sao được nữa, song anh ở đất khách quê người, lưng không, túi rỗng,
biết lấy gì mà đắp điếm cho hai em. Hai nang noi: Thân mệnh của chúng em lả lướt
như tơ, mong manh tựa lá. Sau khi thác hóa, đã có mây làm tàn, có lôc làm xe, sương
trắng làm ngọc đeo, cỏ xanh làm nệm rải, than khóc đã oanh già thỏ thẻ, viếng thăm
đã bướm héo vật vờ, chôn vùi có lớp rêu phong, đưa tiễn có dòng nước chảy, khói tan
gió bôc không phiền phải đắp điếm gì cả. Đoạn rồi mỗi người để đôi hai cườm lại
tặng sinh va noi: Mất người còn chút của tin, gọi có vật này để tặng nhau trong lúc
sinh ly tử biệt, sau này khi chàng ướm thử, sẽ như là chúng em còn ấp yêu ở dưới
chân chàng” [91, tr. 223]. Đoạn văn nay cho thây cac nhân vât không hê “đối đap”
131
với nhau theo lối giao tiêp thông thường. Đây la lời noi cua nhân vât đã được tac gia
“kể” lại. Vì thê ma tât ca đêu theo môt khuôn mâu, giống nhau vê giọng điêu, không
co sắc thai riêng cua từng ca nhân. Ca nhom đêu noi hêt nhau, không phân biêt Nho
sinh hay yêu nữ. Câu văn đầy điển cố điển tich, dân dụ rườm ra. Tinh chât đăng đối,
hô ưng chặt chẽ cua câu văn biên ngâu hoan toan xa lạ với “lời noi thường”. Trong
giao tiêp hang ngay không ai phat ngôn hoa mỹ rắc rối như thê ca. Đây la những đoạn
văn với nhiêu chưc năng chư không phai la đối thoại đúng nghĩa.
4.3.2. Sự đa dạng của văn ban truyện truyền kỳ
Quan sat văn ban loại hình truyên truyên kỳ, rât dễ nhân thât môt trong
những đặc điểm cua no la sư đa tạp, phong phú. Đặc điểm nay thể hiên ro nhât ở
quy mô, đô dai ngắn cua mỗi truyên, ở cach trình bay hình thưc văn ban, cũng như
ở sư kêt hợp cac thể văn trong đo.
Xét vê quy mô, co thể thây truyên truyên kỳ kha đa dạng, ngắn dai rât khac
nhau. Chẳng hạn cac truyên trong Việt điện u linh tập, Thiền uyển tập anh ngữ lục,
Công dư tiệp ký, Lan Trì kiến văn lục, Dã sử, Vân nang tiểu sử… rât ngắn gọn, bình
quân chỉ từ 2 - 3 trang (ban dich). Cac tac phẩm Hát đông thư dị cua Nguyễn
Thượng Hiên, Tang thương ngẫu lục cua Phạm Đình Hổ bình quân chưa đên 2
trang; nhiêu truyên dung lượng chưa tới môt trang. Những truyên nay mang diên
mạo cua cac “tiểu truyên”, “tiểu phẩm”. Tuy vây, lại cũng co nhiêu truyên dung
lượng kha lớn. Chẳng hạn truyên “Bich Câu kỳ ngô” trong Truyền kỳ tân phả dai 60
trang, “Cuôc gặp gỡ kỳ lạ” trong Việt Nam kỳ phùng sự lục dai 62 trang, Bích Châu
du tiên mạn ký cua Nguyễn Huy Hổ dai đên 73 trang... Với những tac phẩm như thê
thì không còn “truyên ngắn” nữa ma thuôc dạng “truyên vừa” hoặc “tiểu thuyêt”.
Trên phương diên “chưc năng”, môt số truyên truyên kỳ vốn la những phần
ghi chép lai lich, công trạng cua ca nhân trong gia đình, gia tôc, công đồng… No
thường mang dang dâp cua những văn ban chưc năng như gia pha, thần tich, bi
văn… Vì thê truyên được trình bay theo những mô hình kha ổn đinh. Những tac
phẩm như vây luôn co bố cục chặt chẽ, tinh quy phạm rât ro.
Chẳng hạn, văn ban cac truyên trong Việt điện u linh tập đêu thống nhât vê cach
thưc trình bay, vê lối văn. Từ mở đầu, sư tich nhân vât cho đên kêt thúc đêu theo khuôn
132
mâu. Truyên “Bố Cai, Phu Hưu, Chương Tin, Sùng Nghĩa đại vương” được bắt đầu
bằng câu viên dân sử sach: “Theo Giao Châu ký cua Triêu Công, vương họ Phùng, tên
la Hưng, đời đời lam tù trưởng nơi biên khố cua châu Đường Lâm, gọi la Quan lang”.
Kêt thúc truyên la qua trình sach phong cua triêu đình danh cho nhân vât: “Năm đầu
niên hiêu Trùng Hưng cua Hoang triêu, sach phong vương la Phu Hưu đại vương. Đên
năm thư tư gia phong thêm hai chữ Chương Tin. Năm thư 21 niên hiêu Hưng Long gia
phong thêm hai chữ Sùng Nghĩa vì vương co công âm phù vây” [91, tr. 51-52]; Hoặc
môt truyên khac, cũng trong sach nay la “Bao Quốc, Trân Linh, Đinh Bang, Quốc Đô
Thanh hoang đại vương”, mở đầu cũng theo cach thưc như thê: “Theo Sử va Giao
Châu ký ma Báo cực truyện dân thì vương vốn họ Tô, tên Lich, lam quan lênh tại Long
Đô, đời đời ở bên Thuy Giang, hương Bôn Đô”; văn ban kêt thúc như sau: “Hoang
triêu, niên hiêu Trùng Hưng nguyên niên sắc phong cho vương hai chữ Bao Quốc; năm
thư tư phong thêm hai chữ Trân Linh; đên năm thư 21 niên hiêu Hưng Long lại gia
phong thêm hai chữ Đinh Bang vì co công âm phù vây” [91, tr. 53-54].
Tương tư la cac truyên trong Thiền uyển tập anh ngữ lục. Đây la môt tac
phẩm văn học chưc năng tôn giao, gồm 67 thiên, ghi chép sư tich 68 vi thiên sư.
Mỗi thiên đêu co câu trúc theo 3 viêc “lạ”, “kỳ” la “sinh xuât lạ kỳ”, “tu luyên phép
thuât lạ kỳ”, “tich diêt lạ kỳ”. Hình thưc văn ban được trình bay rât thống nhât. Mở
đầu mỗi truyên la những thông tin khai quat vê danh hiêu, quê quan, nơi tu hanh cua
nha sư; tiêp theo la kể vê qua trình tu luyên, những kỳ tich va kêt thúc la châm ngôn
di huân cùng sư tich diêt lạ lùng cua người đo. Xin nêu môt vai vi dụ cụ thể.
Truyên “Thiên sư Quang Nghiêm” được mở đầu như sau: “Chùa Tinh Qua,
hương Trung Thụy, huyên Trương Canh. Thiên sư họ Nguyễn, người Đan Phượng,
từ nhỏ mồ côi cha, theo hầu câu la Bao Nhạc, được khai tâm học đạo. Sau khi câu
mât, ông hanh cước khắp nơi để tham vân thiên học. Nghe tiêng sư Thiên Tri thuyêt
phap giang hoa ở chùa Phúc Thanh, hương Điên Lãnh, sư tìm đên xin lam đê tử”
[91, tr. 73]. Tiêp đo, văn ban thuât lại cac buổi thuyêt phap, đối thoại vê Phât phap,
vê triêt lý nha Phât rât đặc sắc cua nha sư. Đoạn kêt: “Ngay 15 thang 2 năm Canh
Tuât niên hiêu Thiên Tư Gia Thụy thư năm (1190) sư lâm bênh, gọi đê tử đên đọc
bai kê rằng: Ly tich phương ngôn tich liêt khư/ Sinh vô sinh hâu thuyêt vô sinh/
133
Nam nhi tư hữu xung thiên chi/ Hưu hướng Như Lai hanh xư hanh (Thoát tịch diệt
xong, bàn tịch diệt/ Sau vô sinh hãy nói vô sinh/ Làm trai lập chí xông trời thẳm/
Theo gót Như Lai luông nhọc mình). Đọc xong sư chắp tay thanh than ma qua đời,
thọ 69 tuổi, Thượng thư Phùng Giang Tường lam lễ hỏa thiêu, xây thap phụng thờ”
[91, tr. 75].
Môt truyên khac, “Thiên sư Vạn Hạnh”. Đoạn mở đầu: “Chùa Lục Tổ,
hương Dich Bang, phu Thiên Đưc. Thiên sư họ Nguyễn, người hương Cổ Phap. Gia
đình đã mây đời thờ Phât. Thuở nhỏ thông minh khac thường, học thông ba giao,
đọc kỹ trăm nha, nhưng coi khinh công danh phú quý… Năm 21 tuổi xuât gia cùng
Đinh Huê theo học đạo với Thiên Ông Đạo Gia ở chùa Lục Tổ. Những khi công
viêc rỗi rãi, sư chăm chỉ học hỏi không biêt mêt” [91, tr. 79]. Đoạn tiêp theo kể vê
những sư kiên trọng đại trong cuôc đời nha sư. Đoạn kêt như sau: “Ngay 15 thang 5
năm Thuân Thiên thư chin (1018), sư không bênh, gọi tăng chúng đên đọc bai kê:
Thân như bóng chớp có rồi không/ Cây côi xuân tươi thu não nùng/ Mặc cuộc thịnh
suy đừng sợ hãi/ Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương trong. Sư lại bao cac đê tử: Cac người
muốn ta đi đâu? Ta không lây chỗ trụ ma trụ, cũng chẳng dưa chỗ vô trụ ma trụ.
Môt lat sau sư qua đời” [91, tr. 81].
Co thể thây trong qua trình vân đông, phat triển cua loại hình truyên truyên kỳ,
mỗi giai đoạn thường co môt vai kiểu dạng tac phẩm được sử dụng nhiêu hơn hẳn.
Chẳng hạn những tac phẩm xuât hiên ở giai đoạn sơ khởi cua loại hình truyên truyên
kỳ như Việt điện u linh tập, Thiền uyển tập anh ngữ lục thường co dạng thưc cua văn
ban chưc năng, nhât dụng, điển chê như chúng tôi vừa trình bay. Nhưng cang vê sau,
cac thể khac như truyên, ký, lục… cac thể văn co nhiêu tinh nghê thuât lại chiêm ưu
thê. Chẳng hạn cac tac phẩm theo lối (thể) truyện (“Mai Châu yêu nữ truyên”, “Phú
cai truyên”, “Nhi nữ thần truyên”); ký (“Pha ký sơn quân”, “Mông ký”, “Thiêm thừ
miêu duê ký”, “Lưỡng Phât đâu thuyêt ký”)… Sư khac nhau nay thể hiên ở dung
lượng tac phẩm, hình thưc trình bay…
Sư đa dạng vê mặt văn ban còn được thể hiên ở phương thưc phối hợp nhiêu thể
văn trong môt tac phẩm. Phổ biên nhât la đưa cac thể thơ, văn khac vao trong từng tac
phẩm; những yêu tố nay thường được gọi la phần “xen”, tưc phần mở rông, thêm vao.
134
Không chỉ đối với truyên co dung lượng lớn, ngay cac truyên dung lượng ngắn cũng co
hiên tượng nay. Chẳng hạn cac phần “xen” như câu đối, thơ, văn tê, văn bia, bai kê…
thường xuyên xuât hiên trong Thiền uyển tập anh ngữ lục, Mẫn Hiên thuyết loại, Tang
thương ngẫu lục… Viêc gia tăng cac kiểu dạng, cac thể văn khac vao truyên truyên kỳ
la môt thao tac co chu ý cua tac gia. No không chỉ chuyển tai thông tin ma còn co tac
dụng lam cho tac phẩm thêm hâp dân.
Chẳng hạn trong Truyền kỳ mạn lục, hầu như tât ca cac truyên đêu co thơ ca
xuât hiên. Co truyên như “Tây viên kỳ ngô ký”, phần “chêm”, “xen” day đặc; số
dòng thơ, ca còn nhiêu hơn số câu văn xuôi dùng để trần thuât. Trong Truyền kỳ tân
phả cũng vây, cac nhân vât “noi” với nhau chu yêu bằng thơ ca. Ca biêt truyên “Bich
Câu kỳ ngô”, phần thơ ma cac nhân vât thay nhau xướng họa lên đên 32 bai; chưa kể
cac đoạn thơ lẻ rai rac khac nữa. Hầu hêt thơ được lam theo thể thât ngôn bat cú; co
môt bai trường thiên, dai tới sau mươi vần. Đối với môt tac phẩm tư sư quy mô như
“Bich Câu kỳ ngô”, tỷ lê thơ ca được sử dụng như thê la rât cao.
Nhìn chung, văn ban loại hình truyên truyên kỳ kha đa dạng vê mặt hình thai.
Điêu nay co nguyên nhân từ sư kêt hợp, dung hợp nhiêu nhom truyên với những
chưc năng, tinh chât khac nhau ma thanh.
TIÊU KÊT
Khao sat phương thưc thể hiên cua loại hình truyên truyên kỳ, co thể thây nổi
bât ba yêu tố chu yêu. Đo la cốt truyên, hình tượng va lời văn. Đặc điểm nghê thuât
cua loại hình truyên truyên kỳ đã được bôc lô môt cach đầy đu, cụ thể qua cac yêu
tố hình thưc nay.
Vê cốt truyên, loại hình truyên truyên kỳ co cốt truyên rât đơn gian. Số
lượng nhân vât, sư kiên luôn ở mưc tối thiểu. Phần lớn tac phẩm truyên kỳ co
dung lượng rât hạn chê, chu yêu dưới dạng tiểu truyên, tiểu phẩm, giai thoại.
Truyên truyên kỳ la kiểu truyên kể vê môt nhân vât, môt hiên tượng, môt sư kiên
tư nhiên, xã hôi… Phương thưc tổ chưc cốt truyên ở đây chu yêu la sư sắp xêp cac
mô tip theo trât tư nhân - qua, hoặc ghép nối mô tip theo chuỗi liên hoan. Nguyên
tắc nay chú trọng đên trât tư tuyên tinh cua cac sư kiên xét vê mặt thời gian.
135
Vê nghê thuât xây dưng hình tượng, co hai hình tượng nổi bât trong truyên
truyên kỳ la hình tượng nhân vât va hình tượng không gian, thời gian. Đối với hình
tượng nhân vât, mặc dù số lượng phong phú, tinh cach đa dạng nhưng chu yêu gồm
ba nhom la “Thần Tiên”, “người trần” va “yêu quai”. Tât ca đêu được mô ta theo môt
số mô thưc, khuôn mâu nhât đinh, tùy thuôc nguồn gốc va hoạt đông cua chúng. Đối
với nhân vât “Thần Tiên”, chân dung va hanh vi được mô phỏng như người thường.
Đa số nhân vât yêu quai hiên hình dưới dạng nữ nhân với nhiêu chi tiêt cụ thể, hanh
vi cua chúng biên ao kho lường. Hình tượng “con người” được mô ta theo từng nhom
như “ra đời kỳ lạ”, “hình tướng di thường”, “năng lưc siêu pham”…
Không gian va thời gian nghê thuât truyên truyên kỳ cũng co đặc trưng riêng.
Đo la sư dung hòa, dung hợp giữa không gian va thời gian, giữa tinh chât hiên thưc
va tinh chât kỳ lạ, hoang đường để tạo nên thê giới nghê thuât đôc đao.
Đặc điểm quan trọng nhât cua không gian truyên truyên kỳ la sư pha trôn cac
dạng thê giới khac nhau. Không gian đo co đu ba “coi” la “coi trần”, “coi tiên”, “coi
âm”. Chúng không tồn tại tach biêt ma liên thông với nhau va la nơi cư ngụ cùng
lúc cua ba giống loai la thần tiên, người vât va yêu ma. Cac dạng thưc không gian
thưc tê lân không gian huyên ao đêu được mô ta kha kỹ lưỡng. Không gian thưc tê
gắn với lối sống, lễ tục, phong tục tâp quan cua công đồng. Không gian kỳ ao, đâm
chât hoang đường la thê giới cua bụt, tiên, ma, quỷ, yêu tinh va những con người co
phẩm chât, năng lưc khac thường. Đối với thời gian truyên truyên kỳ, đặc điểm nổi
bât cua hình tượng nay la sư kêt hợp giữa thời gian cụ thể va thời gian kỳ ao. Thời
gian cụ thể với cac điểm mốc, cac niên đại xac đinh đã gop phần tạo nên gia tri lich
sử cua truyên truyên kỳ. Thời gian kỳ ao cũng la yêu tố rât quan trọng trong thê giới
truyên kỳ. No lam nên nét đặc thù cua cac “coi” khac, nơi ma mọi thư không biên
đổi, không giới hạn va hoan toan không giống trần thê.
Vê lời văn, đặc điểm dễ nhân thây nhât cua lời văn truyên truyên kỳ la tinh
chât “truyên kể” va tinh quy phạm. Mặc dù đây la truyên ký bằng văn xuôi, được
trình bay dưới dạng thưc văn ban viêt, tuy vây dâu ân truyên kể dân gian lại rât ro.
Từ cach mở đầu, chuyển đoạn, kêt thúc… cho đên viêc sắp xêp, trình bay văn ban,
tât ca đêu theo môt số khuôn mâu nhât đinh. Phần mở đầu luôn theo môt công thưc
136
ổn đinh, nhằm kể lại môt câu chuyên thuôc vê qua khư. Tương ưng với phần mở
đầu co tinh chât “hồi ưc” la lối kêt truyên mang tinh công thưc. Đặc trưng ngôn ngữ
truyên kể trong tac phẩm truyên kỳ còn được thể hiên qua cach tổ chưc trần thuât,
lời thoại va văn ban. Noi chung, tât ca mọi yêu tố ngôn ngữ truyên truyên kỳ đêu
được hiển lô qua lời kể cua tac gia. Không chỉ mô ta sư kiên, biên cố, chân dung
nhân vât, hình tượng thê giới… ma ca những cuôc đối thoại cũng đêu mang phong
cach ngôn ngữ cua tac gia.
137
KÊT LUẬN
Nghiên cưu đặc điểm loại hình truyên truyên kỳ la môt công viêc rât kho
khăn. Để đạt mục đich nghiên cưu, chúng tôi đã mạnh dạn đưa ra môt quan niêm
riêng vê truyên truyên kỳ, coi đo la môt loại hình văn học. Qua khao sat cac phương
diên nguồn gốc, qua trình vân đông, đặc điểm nôi dung va phương thưc thể hiên cua
truyên truyên kỳ, những vân đê co thể rút ra vê đối tượng nay la:
1. Loại hình truyên truyên kỳ Viêt Nam la môt hiên tượng văn hoa - văn học
hêt sưc đa dạng, phưc tạp. Xét vê cach thưc biểu hiên, no la môt san phẩm được “lai
tạo” giữa văn học truyên khẩu với văn học thanh văn, la thư văn chương mang tinh
chât dung hợp, không chỉ “văn - triêt - sử” ma còn gồm tôn giao, tin ngưỡng, đia chi,
phong tục... No mang đâm dâu ân tâm thưc văn hoa, tôn giao, tin ngưỡng cua công
đồng dân tôc Viêt, la môt dạng folklore được “tân biên” thanh văn chương bac học.
Truyên truyên kỳ Viêt Nam co nguồn gốc đa nguyên va mang gia tri văn hoa
- lich sử sâu sắc. No vừa phat triển theo phương thưc cai biên cac giai thoại, truyên
thuyêt, truyên kể dân gian vừa hình thanh theo hình thưc “văn ban hoa” cac yêu tố
folklore, tôn giao, tin ngưỡng, hoặc chuyển thể cac tac phẩm văn học Trung Quốc
va ca theo phương thưc hư câu… Tât ca những biểu hiên đo cho thây tinh chât đa
tạp, sinh đông cua truyên truyên kỳ Viêt Nam.
Xét vê mặt gia tri, truyên truyên kỳ co hai điểm nổi bât. Đo la gia tri văn hiên
va ý nghĩa lich sử. Truyên truyên kỳ la phương tiên lưu giữ ký ưc văn hoa, ký ưc
lich sử cua công đồng người Viêt qua hang ngan năm. No vừa kêt tinh trong đo
những gia tri tinh thần cua người Viêt, vừa la môt biểu tượng cho văn hiên Viêt
Nam. Qua trình vân đông cua loại hình văn học nay gồm 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn
co những đặc điểm riêng. Giai đoạn từ thê kỷ XIII - XIV, la giai đoạn khởi đầu. Tac
phẩm giai đoạn nay chu yêu mang chưc năng tôn giao, tin ngưỡng, lễ nghi. Từ thê
kỷ XV đên thê kỷ XVIII la giai đoạn phat triển, hoan thiên. Cac nha văn đã co ý
thưc tiêp thu môt cach sang tạo những yêu tố cần thiêt từ nguồn mạch, chât liêu văn
học dân gian cũng như yêu tố văn học nước ngoai để tạo ra những tac phẩm truyên
kỳ co gia tri cao, ca vê nôi dung lân hình thưc nghê thuât. Diên mạo loại hình truyên
138
truyên kỳ Viêt Nam lúc nay đã trở nên hoan thiên. Giai đoạn cuối cùng la từ thê kỷ
XIX đên đầu thê kỷ XX. Đây la thời điểm co những thay đổi quan trọng vê nôi dung,
hình thưc cũng như phương thưc hình thanh truyên truyên kỳ. No bắt đầu vân đông
theo xu hướng khac. Cac truyên được trình bay theo hình thưc tiểu phẩm, tốc ký
những điêu “kiên văn”, “thinh văn” cac “tiểu sử”, “dã sử”, “liêt truyên”. Nôi dung
thiên hẳn vê lối truyên “kỳ nhân”, “di nhân”, “di lục”… Trong giai đoạn nay co điêu
đang lưu ý la hiên tượng “cai biên” cac bô truyên truyên kỳ vốn lưu hanh từ trước.
2. Trên phương diên nôi dung, truyên truyên kỳ Viêt Nam được coi la môt
dạng ký ưc lich sử, văn hoa cua dân tôc va mô ta thê giới “linh”, “di” ở đât nước ta.
Cac tac phẩm xuât hiên ở giai đoạn đầu, thường được coi la môt lối “sử trong
truyên”. Tinh thần lich sử luôn xuyên thâm trong hầu hêt mọi hình tượng. Truyên
truyên kỳ đã đưa ra môt cach nhìn đôc đao vê côi nguồn dân tôc, hạo khi cua non
sông… Trong nhãn quan cua tac gia truyên truyên kỳ, đât nước không chỉ la cương
vưc, đia lý ma còn la “hồn thiêng”, “linh khi” cua vạn vât; dân tôc không chỉ co con
người ma còn la nơi cư ngụ cua những thê lưc siêu nhiên. Hình hai đât nước đã
được hình tượng hoa, chuyển hoa vao cac kiểu chân dung người, thần, vât linh diêu.
Tinh thần lich sử cua truyên truyên kỳ được bôc lô rât ro qua chân dung cac
bâc tuân kiêt, hiên tai, những ca nhân ưu tú, tiêu biểu cho tai tri, khi phach dân tôc.
Họ hiên diên trong truyên truyên kỳ với nhiêu danh phân khac nhau: đê vương, vo
tướng, văn thần, anh hùng, liêt nữ, Nho sĩ tri thưc, người tu hanh… Mặc dù co gốc
tich từ quần chúng, nhưng kẻ hiên tai lại co tai năng vượt trôi, thâm chi co ca những
biểu hiên phi pham, rât gần với thần thanh. Đo la những ca nhân ma chân dung,
hanh trạng đã bi khúc xạ, bi “lạ hoa” theo môt phương thưc đặc thù để thanh biểu
tượng cho sư tinh anh cua công đồng. Đo cũng chinh la tinh thần lich sử ẩn tang
trong truyên truyên kỳ.
Trong thê giới truyên kỳ, chu đê “đia linh” co vi tri rât quan trọng va gắn bo
chặt chẽ với chu đê “nhân kiêt”. Điêu nay xuât phat từ quan niêm cua người Viêt vê
mối quan hê giữa con người va đât đai, vât loại. Đia linh la gốc tich để lam nơi sinh
xuât, lam điểm tưa cho “nhân kiêt”. Mặt khac, chinh con người cũng lam cho đât đai
trở nên linh diêu. Mọi canh tri thiên tạo như bãi biển, núi non, gò đồi, sông suối, đầm
139
pha, hồ vinh…qua nhãn quan truyên kỳ đêu trở thanh “đia linh”, gắn với chuyên kỳ lạ,
sư bât thường. Co thể thây, đặc điểm chung cua truyên kể vê cac miên đât thiêng la sư
hòa quyên giữa Thần - Người - Đât. Đia “linh” la bởi co cac sư tich, tình tiêt “kỳ”, “di”
cua thần, nhân gop vao. Hiên tượng linh ưng do mồ ma, thổ trạch thưc chât cũng la môt
biểu hiên khac cua chu đê “linh đia”. Đây la môt dòng mạch xuyên suốt, rât nhât quan
trong truyên truyên kỳ Viêt Nam với cac biểu hiên khac nhau.
3. Truyên truyên kỳ Viêt Nam la môt hiên tượng văn học phưc tạp. Điêu đo
xuât phat từ nguồn gốc, từ nôi dung tư tưởng, từ chưc năng va vì thê, phương thưc thể
hiên cua no cũng không đơn gian. Phương thưc thể hiên cua truyên truyên kỳ gồm
nhiêu yêu tố được nha văn vân dụng để tạo nên tac phẩm. No được cụ thể hoa qua cac
yêu tố hình thưc. Trong đo nổi bât la vân đê cốt truyên, hình tượng va lời văn.
Vê cốt truyên, đặc điểm rât dễ nhân thây ở truyên truyên kỳ la tính chất
truyện kể, thể hiên ở mô hình va kha năng “co thể đem kể lại” cua no. Tinh chât
truyên kể khiên cho cốt truyên truyên kỳ rât đơn gian. Số lượng nhân vât, sư kiên
luôn ở mưc tối thiểu. Noi chung, đo la dạng cốt truyên thể hiên môt nhân vât, môt
hiên tượng, môt sư kiên tư nhiên, xã hôi… theo quy luât nhân - quả. Cốt truyên
truyên kỳ chu yêu được tổ chưc theo trât tư nhân - quả hoặc ghép nối mô tip theo
chuỗi liên hoàn để thanh cốt truyên hoan chỉnh. Nguyên tắc nay chú trọng đên trât
tư tuyên tinh cua cac sư kiên xét vê mặt thời gian. Tât ca cac yêu tố đêu được sắp
xêp lam sao để co thể đam bao được trình tư diễn tiên theo thư tư trước - sau, theo
môt lô gic nhât đinh.
Nghê thuât xây dưng hình tượng trong truyên truyên kỳ được thể hiên ro
nhât qua viêc mô ta hình tượng nhân vât va hình tượng không gian, thời gian.
Hình tượng nhân vât thường được trình bay theo ba nhom la “Thần Tiên”, “người
trần” va “yêu quai”. Tât ca đêu được mô ta theo môt số mô thưc, khuôn mâu nhât
đinh, tùy thuôc nguồn gốc va hoạt đông cua chúng. Cac “nhân vât” thần tiên, ma
quai tuy thuôc thê giới phi pham nhưng hình dang va hanh vi lại mô phỏng theo
con người bình thường. Hình tượng người trần thê cũng được mô ta theo những
cach thưc riêng. Cac danh nhân lich sử, danh nhân văn hoa thường được mô ta la
người co điểm phi pham, khac lạ so với đồng bao. Những tình tiêt kỳ di như thê la
140
điêu cần thiêt va co vai trò quan trọng trong viêc thể hiên tinh chât cua truyên
truyên kỳ.
Do tinh chât đan xen giữa chuyên lạ kỳ với chuyên đời thường trong thê giới
truyên kỳ nên không gian va thời gian nghê thuât ở đây cũng mang những đặc trưng
riêng. Đo vừa la không gian, thời gian thưc tê vừa co nhiêu yêu tố lạ kỳ, thâm chi
hoang đường. No la sư pha trôn, hỗn dung cac dạng thê giới khac nhau. Không gian
đo dung hợp ca ba “coi” va la nơi cư ngụ cùng lúc cua thần tiên, người vât va yêu ma.
Đối với thời gian truyên truyên kỳ, đặc điểm nổi bât cua hình tượng nay la sư
kêt hợp giữa thời gian cụ thể va thời gian kỳ ao. Thời gian cụ thể với cac điểm mốc,
cac niên đại xac đinh đã gop phần tạo nên gia tri lich sử cua truyên truyên kỳ. Thời
gian kỳ ao cũng la yêu tố rât quan trọng trong thê giới truyên kỳ. No lam nên nét
đặc thù cua cac “coi” khac, nơi ma mọi thư không biên đổi, không giới hạn va hoan
toan không giống trần thê.
Lời văn trong truyên truyên kỳ thể hiên rât ro tinh khuôn mâu va chât
“truyên kể”. Từ cach mở đầu, chuyển đoạn, kêt thúc… cho đên viêc sắp xêp, trình
bay văn ban, tât ca đêu theo những quy cach ổn đinh, thống nhât. Đặc trưng ngôn
ngữ truyên kể trong tac phẩm truyên kỳ còn được thể hiên qua cach tổ chưc trần
thuât, lời thoại va văn ban. Noi chung, tât ca mọi yêu tố ngôn ngữ truyên truyên kỳ
đêu được bôc lô bằng lời kể cua tac gia.
4. Qua cac chương cua luân an, co thể noi cac mục tiêu chu yêu ma chúng tôi
đặt ra vê cơ ban đã được thưc hiên. Luân an đã đưa ra môt cai nhìn tổng quat, co hê
thống vê lich sử cua truyên truyên kỳ, từ qua trình hình thanh, con đường vân đông,
cac giai đoạn phat triển… đồng thời phac thao diên mạo cua loại hình văn học nay.
Luân an đã chỉ ra những điểm đặc trưng cua truyên truyên kỳ Viêt Nam thông qua
viêc phat hiên, đanh gia cac yêu tố cụ thể liên quan đên nôi dung va hình thưc nghê
thuât (như hê thống chu đê, đê tai, thê giới hình tượng, tổ chưc tac phẩm, cac
phương thưc trần thuât…) trong cac tac phẩm. Luân an còn khao sat mối quan hê
giữa truyên truyên kỳ với văn hoa - văn học dân gian, vai trò cua no đối với tiên
trình văn học dân tôc. Ngoai ra, sư tương tac cua loại hình truyên truyên kỳ Viêt
Nam với văn học môt số nước trong khu vưc cũng được xem xét.
141
Luân an cua chúng tôi đã co môt số đong gop mới vê phương diên lich sử
văn học, cũng như lý thuyêt nghiên cưu văn học. Luân an đã đưa ra môt cach nhìn
mới vê lich sử va diên mạo truyên truyên kỳ Viêt Nam, qua đo lam ro vi thê văn
học sử cũng như quy luât vân đông cua loại hình nay trong tiên trình lich sử cua
văn học dân tôc.
Nghiên cưu truyên truyên kỳ từ phương diên loại hình la môt hướng tiêp cân
co nhiêu triển vọng. Tuy nhiên, đây cũng la công viêc không dễ dang. Vân còn
những vân đê khac cua loại hình văn học nay cần tiêp tục nghiên cưu. Đo la những
nhiêm vụ ma chúng tôi sẽ thưc hiên trong những công trình khac./.
DANH MỤC
CAC BAI BAO KHOA HỌC ĐA CÔNG BỐ
-----
1. Quang Văn Ngọc (2018), “Dữ liêu lich sử trong truyên truyên kỳ trung đại Viêt Nam”,
Tạp chí Khoa học Đại học Huế, số 6C, tr. 5 - 13 (ISSN 2588 - 1213).
2. Quang Văn Ngọc (2017), “Nét đặc sắc trong thu phap kể chuyên cua Vũ Trinh
qua Lan Trì kiến văn lục”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục (Đại học Sư phạm Đa
Nẵng), số 15, tr. 63 - 66 (ISSN 1859 - 4603).
3. Nguyễn Phong Nam, Quang Văn Ngọc (2017), “Đặc trưng truyên truyên kỳ Viêt
Nam (trong mối quan hê với văn học Trung Quốc)”, Ky yếu Hội thảo Khoa học
Văn học Việt Nam trong xu hướng toàn cầu hóa, (Đại học Sư phạm Đa Nẵng),
tr. 236 - 245 (ISBN:978-604-80-2164-1).
4. Quang Văn Ngọc (2017), “Thể loại truyên truyên kỳ trong tiên trình phat triển
cua truyên ngắn trung đại Viêt Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ (Đại học
Khoa học Huê), số 2, tr. 51 - 60 (ISSN 2354 - 0850).
5. Quang Văn Ngọc (2013), “Truyền kỳ mạn lục - Áng thiên cổ kỳ bút trong
nên văn xuôi trung đại Viêt Nam”, Tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 182,
tr. 13 - 15.
6. Quang Văn Ngọc (2013), “Yêu tố “kỳ” va “thưc” trong Lan trì kiến văn lục cua
Vũ Trinh”, Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Năng, số 64, tr. 64 - 67 (ISSN
1859 - 3437).
7. Quang Văn Ngọc (2013), “Lý tưởng nhân văn va khat vọng cai tạo xã hôi trong
Truyền kỳ mạn lục - Nguyễn Dữ”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng
Nam, số 124, tr. 11 - 14 (ISSN 1859 - 0322).
TAI LIÊU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Aristote (Nhữ Thanh dich, 2007), Nghệ thuật thơ ca, Nxb Lao đông, Ha Nôi.
2. Nguyễn Phúc An (2015), “Từ truyên truyên kỳ Trung Quốc đên truyên truyên
kỳ Viêt Nam”, Tạp chí Hán Nôm (6), tr.52 - 72.
3. Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường (2005), Từ điển văn học Việt Nam (Từ
nguồn gốc đên hêt thê kỷ XIX), Nxb Đại học Quốc gia Ha Nôi.
4. Nhan Bao (Trần Hai Yên dich, 2004), “Ảnh hưởng cua tiểu thuyêt Trung Quốc
đối với văn học Viêt Nam”, Tiểu thuyết truyền thông Trung Quôc ở châu A
(Từ thê kỷ XVII - thê kỷ XX), Nxb Khoa học Xã hôi, Ha Nôi.
5. Nguyễn Chi Bên, Thạch Phương, Mai Hương (sưu tầm, 2015), Kho tàng
truyện trạng Việt Nam, tâp 1 & 2, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chi Minh.
6. Phan Kê Binh (2013), Nam hải dị nhân liệt truyện, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chi Minh.
7. Cagan, M. (Phan Ngọc dich, 2004), Hình thái học của nghệ thuật, Nxb Hôi
nha văn, Ha Nôi.
8. Phan Văn Cac (Hoang Đưc Quang, Nguyễn Văn Sĩ, Phạm Văn Thắm dich ra
tiêng Phap; Hoang Hữu Xưng, Philippe Papin hiêu đinh, 1994), Truyền kỳ mạn
lục - Vaste recueil de la transmission des merveilles, Nxb Thê giới, Ha Nôi.
9. Hoang Hồng Cẩm (1996), “Tac phẩm Tân biên Truyên kỳ mạn lục với văn học
dân gian Viêt Nam”, Tạp chi Nghiên cứu văn học dân gian (10), tr.42 - 44.
10. Hoang Hồng Cẩm (1996), “Thê giới nhân sinh trong thể loại truyên truyên
kỳ”, Tạp chi Văn hóa nghệ thuật (1), tr.42 - 44.
11. Hoang Hồng Cẩm (1996), “Truyên kỳ mạn lục - tiêp cân từ hướng văn hoa
học”, Tạp chi Văn hóa nghệ thuật (3), tr.43 - 49.
12. Hoang Hồng Cẩm (1999), Tân biên truyền kỳ mạn lục - Nghiên cứu văn bản
và vấn đề dịch Nôm, Nxb Văn hoa Dân tôc, Ha Nôi.
13. Lê Nguyên Cẩn (2014), Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hoá, Nxb Đại học
Quốc gia Ha Nôi.
14. Chevelier, J. - Gheebrant, A. (Phạm Vĩnh Cư dich, 1997), Từ điển biểu tượng
văn hoá thế giới, Nxb Đa Nẵng.
15. Phạm Tú Châu (1987), “Vê mối quan hê giữa Tiễn đăng tân thoại va Truyên
kỳ mạn lục”, Tạp chí Văn học (3), tr.71 - 78.
16. Phạm Tú Châu (1995), “Tiểu thuyêt cổ điển Triêu Tiên qua cach nhìn cua B.
L. Riftin”, Tạp chí Văn học (10), tr.60 - 61.
17. Phạm Tú Châu (1996), “Truyên kỳ chữ Han ở Han Quốc va Viêt Nam”, Tạp
chí Văn học (10), tr.36 - 40.
18. Phạm Tú Châu (1997), “Nha Đông phương học B. L. Riftin va văn học cổ điển
Viêt Nam”, Tạp chí Văn học (6), tr.48 - 50.
19. Anh Chi (2005), “Vũ Trinh va bước phat triển mới cua truyên truyên kỳ Viêt
Nam”, Tạp chí Văn nghệ (32), tr.5 - 8.
20. Nguyễn Đổng Chi (1967), Việt Nam cổ văn học sử, Bô Giao dục - Nha văn
hoa xuât ban, Sai Gòn.
21. Nguyễn Đổng Chi (2015), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (Quyển 1, 2), Nxb Trẻ.
22. Nguyễn Huê Chi (chu biên, 1988), Thơ văn Lý Trần (tâp 2), Nxb Khoa học Xã
hôi, Ha Nôi.
23. Nguyễn Huê Chi (chu biên, 1999), Truyện truyền kỳ Việt Nam (Quyển 2, 3),
Nxb Giao dục, Ha Nôi.
24. Nguyễn Huê Chi (Đặng Thi Hao tuyển chọn, 2013), Văn học cổ cận đại Việt -
Từ góc nhìn văn hoá đến các mã nghệ thuật, Nxb Giao dục, Ha Nôi.
25. Trương Văn Chi (Nguyễn Thi Thao dich, giới thiêu, 2008), Điểu thám kỳ án,
Nxb Văn học, Ha Nôi.
26. Trần Ba Chi (2006), “Vê sach Thanh Tông di thao”, Tạp chí Hán Nôm (3),
tr.33 - 39.
27. Trần Bằng Cư (2008), “Con đường thoat ly cua người tri thưc qua Truyên kỳ
mạn lục”, Ky yếu khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Ha Nôi.
28. Diêm Ái Dân (Cao Tư Thanh dich, 2001), Gia giáo Trung Quôc cổ, Nxb Trẻ.
29. Nguyễn Dữ (Trúc Khê dich, 2016), Truyền kỳ mạn lục, Nxb Hôi Nha văn, Ha Nôi.
30. Ưu Đam (Nguyễn Đăng Na, 1996), “Truyên văn xuôi chữ Han”, Tạp chí Tác
phẩm mới (8), tr.65 - 67.
31. Nguyễn Đưc Đan (1957), “Vai nét vê Nguyễn Dữ va Truyên kỳ mạn lục”,
Nghiên cứu Văn - Sử - Địa (24), tr.31 - 39.
32. Vũ Phương Đê (Tô Nam Nguyễn Đình Diêm dich, 1961), Công dư tiệp ký, Bô
Quốc gia Giao dục xuât ban, Sai Gòn.
33. Đoan Thi Điểm (Ngô Lâp Chi, Trần Văn Giap dich chú, Phạm Văn Thắm giới
thiêu, 2001), Truyền kỳ tân phả, Nxb Văn học, Ha Nôi.
34. Biên Minh Điên (2015), Loại hình văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Vinh.
35. Phạm Văn Đưc, Hwang Eui Dong, Kim Sea Jeong (2015), Trách nhiệm xã hội của
Nho giáo trong lịch sử Việt Nam và Hàn Quôc, Nxb Khoa học Xã hôi, Ha Nôi.
36. Lâm Ngữ Đường (Nguyễn Quốc Đoan dich, 1994), Truyện truyền kỳ Trung
Quôc, Nxb Văn hoa Thông tin, Ha Nôi.
37. Gurevich, A. Ja. (Hoang Ngọc Hiên dich, 1996), Các phạm trù văn hóa trung
cổ, NXB Giao dục, Ha Nôi.
38. Đoan Lê Giang (2000), “Thần” trong tư tưởng nghê thuât cổ Trung Hoa va
Viêt Nam”, Tạp chí Văn học (3), tr.43 - 45.
39. Đoan Lê Giang (2010), “Vũ nguyêt vât ngữ cua Ueda Akinari va Truyên kỳ
mạn lục cua Nguyễn Dữ”, Nghiên cứu văn học (1), tr.41 - 55.
40. Trần Văn Giap (2004), Lược truyện các tác gia Việt Nam, Nxb Khoa học Xã
hôi, Ha Nôi.
41. Gurevich, A. (Hoang Ngọc Hiên dich, 1998), Các phạm trù văn hoá trung cổ,
Nxb Giao dục, Ha Nôi.
42. Lê Ba Han, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Giao dục, Ha Nôi.
43. Phạm Thi Hao (2008), Khái niệm và thuật ngữ Lý luận văn học Trung Quôc,
Nxb Văn học, Ha Nôi.
44. Phan Thi Thu Hiên (chu biên, 2017) va Lý Xuân Chung, Nguyễn Hữu Sơn,
Đoan Lê Giang, Nguyễn Thi Diêu Linh), Chuyện tình ma nữ trong truyền kỳ
Đông A (Trung Quôc, Hàn Quôc, Việt Nam, Nhật Bản), Nxb Văn hoa văn
nghê, Tp. Hồ Chi Minh.
45. Đỗ Đưc Hiểu (chu biên, 2007), Từ điển Văn học (bô mới), Nxb Thê giới, Ha Nôi.
46. Nguyễn Ngọc Hiêp (2007), “Truyên truyên kỳ Viêt Nam: sư kêt hợp giữa văn
hoa bac học va truyên thống bình dân”, Văn hóa dân gian (2), tr. 43 - 50.
47. Nguyễn Duy Hinh (1986), “Vân đê Từ Thưc”, Tạp chí Văn học (5), tr.102 - 106.
48. Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án (Trúc Khê – Ngô Văn Triên dich, Trương Chinh
giới thiêu va chú thich, 2012), Tang thương ngẫu lục, Nxb Hồng Bang.
49. Phạm Đình Hổ (Đông Châu Nguyễn Hữu Tiên dich chú, 1998), Vũ trung tuỳ
bút, Nxb Văn nghê Tp. Hồ Chi Minh.
50. Phạm Đình Hổ - Nguyễn Án (Trúc Khê dich, 2010), Tang thương ngẫu lục,
Nxb Hồng Bang.
51. Dương Thi Diên Hồng (1999), “Đôi điêu suy nghĩ vê khai niêm “truyên kỳ”
trong văn học phương Đông”, Ky yếu Khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư
phạm Tp. Hồ Chi Minh, tr.71 - 74.
52. Nguyễn Phạm Hùng (1987), “Tìm hiểu khuynh hướng sang tac trong Truyên
kỳ mạn lục”, Tạp chí Văn học (2), tr.65 - 76.
53. Nguyễn Phạm Hùng (1999), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb Khoa học
Xã hôi, Ha Nôi.
54. Lại Văn Hùng (2002), “Ban thêm vê vân đê tac gia - tac phẩm Truyên kỳ mạn
lục”, Tạp chí Văn học (10), tr.49 - 60.
55. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham
chiếu, Nxb Văn học, Ha Nôi.
56. Mai Thu Huyên (2015), “Phê bình văn học Viêt Nam thời trung đại: môt cai
nhìn khai quat”, Lý luận phê bình văn học, nghệ thuật (40), tr. 26 - 37.
57. Nguyễn Văn Huyên (1991), “Tân truyên kỳ lục va Phạm Quý Thich”, Tạp chí
Văn học (1), tr.48 - 54.
58. Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và văn học trung cận đại Việt Nam, Nxb
Giao dục, Ha Nôi.
59. Trần Đình Hượu (Lại Nguyên Ân biên soạn, 2007), Các bài giảng về tư tưởng
phương Đông, Nxb Đại học Quốc gia Ha Nôi.
60. Khoa Ngữ văn va Bao chi (2007), Huyền thoại và văn học, Nxb Đại học Quốc
gia Tp. Hồ Chi Minh.
61. Khuyêt danh (Nguyễn Thuý Nga, Ngô Đưc Thọ dich, 1999), Thiền uyển tập
anh, Nxb Khoa học Xã hôi, Ha Nôi.
62. Khuyêt danh (Nguyễn Bich Ngô dich, Phạm Văn Thắm giới thiêu, 2001),
Thánh tông di thảo, Nxb Văn học, Ha Nôi.
63. Khuyêt danh (Phan Văn Cac dich), Việt Nam kỳ phùng sự lục, 2008), Nxb Văn
học, Ha Nôi.
64. Jeon Hye Kyung (1995), “So sanh thể loại tiểu thuyêt truyên kỳ Han Quốc,
Trung Quốc va Viêt Nam (Qua ba tac phẩm Kim Ngao tân thoại, Tiễn đăng
tân thoại va Truyên kỳ mạn lục)”, Tạp chí Văn học (5), tr.52 - 59.
65. Jeon Hye Kyung (2004), Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ Hàn Quôc -
Trung Quôc - Việt Nam thông qua Kim Ngao tân thoại, Tiễn đăng tân thoại,
Truyền kỳ mạn lục, Nxb Đại học Quốc gia Ha Nôi.
66. Jeon Hye Kyung (2005), “Nghiên cưu so sanh tiểu thuyêt truyên kỳ trong Kim
ngao tân thoại (Han Quốc), Truyên Kỳ mạn lục (Viêt Nam) va Tiễn đăng tân
thoại (Trung Quốc)”, Nghiên cứu văn học (2), tr.95 - 104.
67. Jeon Hye Kyung (2006), “Ý nghĩa văn học sử cua tiểu thuyêt truyên kỳ Han -
Trung - Viêt”, Nghiên cứu văn học (12), tr.59 - 74.
68. Han Triêu Kỳ (Cao Tư Thanh dich, 2001), Ẩn sĩ Trung Hoa, Nxb Trẻ.
69. Đinh Thi Khang (2007), “So sanh truyên tình giữa người va hồn ma trong Tiễn
đăng tân thoại va Truyên kỳ mạn lục”, Nghiên cứu văn học (4), tr.62 - 72.
70. Đinh Gia Khanh, Bùi Duy Tân (1964), Văn học cổ Việt Nam, Nxb Giao dục,
Ha Nôi.
71. Đinh Gia Khanh (1980), “Truyên kỳ mạn lục va những thanh tưu cua văn
xuôi Viêt Han”, Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hôi, Ha Nôi.
72. Đinh Gia Khanh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (1999), Văn học Việt Nam từ
thể ky X đến nửa đầu thế ky XVIII, Nxb Giao dục, Ha Nôi.
73. Vũ Ngọc Khanh, Nguyễn Quang Ân (2007), Kho tàng truyện truyền kỳ Việt
Nam, Nxb Văn học, Ha Nôi.
74. Nguyễn Ba Lăng (1965), “Sắc thai kiên trúc Phât giao Viêt Nam (qua môt số
thơ văn trong Truyên kỳ mạn lục”, Tạp chí Vạn Hạnh (2+3+4), Sai Gòn, tr.50
- 58; 41 - 50; 47 - 54.
75. Thanh Lãng (1969), Văn học Việt Nam - Đôi kháng Trung Hoa (từ đầu đến
1428), Phong trao Văn hoa xuât ban, Sai Gòn.
76. Thanh Lãng (1969), Văn học Việt Nam - Thế hệ dấn thân yêu đời (từ năm
1428 đến 1505), Phong trao Văn hoa xuât ban, Sai Gòn.
77. Ngô Sĩ Liên (1999), Đại Việt sử ký toàn thư (tâp 3), Nxb Khoa học Xã hôi,
Ha Nôi.
78. Trần Thi Hồng Liễu (2015), “Hai đặc điểm nghê thuât cua mang sang tac Tân
truyên kỳ trong văn học Viêt Nam năm 1930 - 1945”, Lý luận phê bình văn
học, nghệ thuật (34), tr.44 - 49.
79. Lê Nguyên Long (2006), “Vê khai niêm cai kỳ ao va văn học kỳ ao trong
nghiên cưu văn học”, Nghiên cứu văn học (9), tr. 20 - 40.
80. Lotman, IU. M. (Lã Nguyên, Đỗ Hai Phong, Trần Đình Sử dich, 2015),
“Nguồn gốc truyên kể dưới sư soi sang cua loại hình học”, Ký hiệu học văn
hóa, Nxb Đại học quốc gia Ha Nôi.
81. Phạm Luân (2006), “Ban thêm cach gọi tên tac gia va tac phẩm Truyên kỳ
mạn lục”, Nghiên cứu văn học (3), tr.132 - 136.
82. Vũ Bình Lục (2005), “Chi tiêt trong tac phẩm tư sư”, Văn học trong nhà trường
(Nghĩ thêm và bình luận), Nxb Văn hoa dân tôc, Ha Nôi, tr.149 - 154.
83. Phương Lưu (1997), Góp phần xác lập hệ thông quan niệm văn học trung đại
Việt Nam, Nxb Giao dục, Ha Nôi.
84. Nguyễn Công Lý (2016), Văn học Phật giáo thời Lý - Trần - diện mạo và đặc
điểm, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chi Minh.
85. Meletinsky, E. M. (Trần Nho Thìn, Song Môc dich, 2004), Thi pháp của huyền
thoại, Nxb Đại học Quốc gia, Ha Nôi.
86. Hoang Trọng Miên (1959), Việt Nam văn học toàn thư (tâp 1), Văn Hữu Á
Châu va Kim Lai ân quan xuât ban.
87. Lê Hữu Mục (1959), Khảo luận Việt điện u linh, Nha sach Khai Tri xuât ban,
Sai Gòn.
88. Lê Hữu Mục (1959), Khảo luận Lĩnh Nam chích quái, Nha sach Khai Tri xuât
ban, Sai Gòn.
89. Nguyễn Đăng Na (1986), “Tìm hiểu quan điểm biên soạn va phương phap biên
soạn Viêt điên u linh cua Lý Tê Xuyên”, Tạp chí Văn học (1), tr.130 - 143.
90. Nguyễn Đăng Na (1998), “Nam Ông mộng lục - Vân đê dich ban, văn ban, tac
gia va tac phẩm”, Tạp chí Văn học, số (7), tr.41 - 53.
91. Nguyễn Đăng Na (2000), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại (tâp 1
Truyên ngắn), Nxb Giao dục, Ha Nôi.
92. Nguyễn Đăng Na (2000), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại (tâp 2, Ký),
Nxb Giao dục, Ha Nôi.
93. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam,
Nxb Giao dục, Ha Nôi.
94. Nguyễn Đăng Na (2007), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại - Những vấn
đề văn xuôi tự sự (tai ban), Nxb Giao dục, Ha Nôi.
95. Nguyễn Nam (1998), “Tai tử thư ở Viêt Nam”, Tạp chí Hán Nôm (4), tr.15 - 28.
96. Nguyễn Nam (2000), “Qua trình truyên nhâp va lưu hanh Tiễn đăng tân thoại
ở Viêt Nam”, Tạp chí Hán Nôm (4), tr.22 - 29.
97. Nguyễn Nam (2000), “Tình sử loại lược - lưu truyên va anh hưởng ở Viêt
Nam”, Tạp chí Hán Nôm (1), tr.41 - 56.
98. Nguyễn Nam (2001), “Phiên dich học va văn học so sanh: Môt hướng tiêp cân
văn học Viêt Nam”, Tạp chí Văn học (9), tr.61 - 72.
99. Nguyễn Nam (2002), Phiên dịch học lịch sử - văn hóa: trường hợp Truyền kỳ mạn
lục, Nxb Đại học Quốc gia thanh phố Hồ Chi Minh, 2002.
100. Nguyễn Phong Nam (2012), “Nghê thuât trần thuât truyên truyên kỳ Viêt
Nam”, Tạp chí Khoa học và công nghệ, Đại học Đa Nẵng, số 7(48).
101. Nguyễn Phong Nam (2015), Truyện truyền kỳ Việt Nam: Đặc điểm hình thái -
văn hoá lịch sử, Nxb Văn học, Ha Nôi.
102. Nguyễn Phong Nam (2016), “Ban vê quan điểm tiêp cân Nam Xương nữ tử
truyên cua Nguyễn Dữ”, Tạp chí Khoa học & Giáo dục, số 2.
103. Nekhliudov, S. Iu. (Phạm Vĩnh Cư dich, 2007), “Những anh hưởng cua thê
giới bên kia trong tin ngưỡng dân gian va văn chương cổ truyên”, Nghiên cứu
văn học (11),tr.79 - 101.
104. Niculin, N. I. (Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn va giới thiêu, 2000), Văn học Việt
Nam và giao lưu quôc tế, Nxb Giao dục, Ha Nôi.
105. Trần Nghĩa (1987), “Thử so sanh Truyên kỳ mạn lục với Tiễn đăng tân thoại”,
Tạp chí Hán Nôm (1+2), tr.15 - 21.
106. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyêt chữ Han Viêt Nam, danh mục va phân loại”,
Tạp chí Hán Nôm (3), tr. 26 - 32.
107. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyêt chữ Han Viêt Nam, nôi dung va nghê thuât”,
Tạp chí Hán Nôm (4), tr. 33 - 42.
108. Trần Nghĩa (2000), “Ảnh hưởng cua Đạo giao đối với tiểu thuyêt chữ Han
Viêt Nam”, Đạo gia và văn hóa, Nxb Văn hoa - Thông tin, Ha Nôi.
109. Phạm Thê Ngũ (1961), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (3 tâp). Quốc
học tùng thư xuât ban, Sai Gòn.
110. Trần Ích Nguyên (Phạm Tú Châu, Trần Thi Băng Thanh, Nguyễn Thi Ngân
dich, Phạm Tú Châu chỉnh lý va hiêu đinh, 2000), Nghiên cứu so sánh Tiễn
đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, Nxb Văn học, Ha Nôi.
111. Trần Ích Nguyên (Phạm Tú Châu - Phạm Ngọc Lan dich, Phạm Tú Châu chỉnh
lý, 2009), Nghiên cứu tiểu thuyết Hán văn Trung - Việt, Nxb Khoa học Xã hôi,
Ha Nôi.
112. Bùi Văn Nguyên (1968), “Ban vê yêu tố văn học dân gian trong Truyên kỳ
mạn lục cua Nguyễn Dữ”, Tạp chí Văn học (11), tr.52 - 64
113. Lê Thi Hồng Nhạn (2011), “Hiêu qua yêu tố kỳ trong Chuyên chưc Phan sư
đên Tan Viên”, Nghiên cứu văn học (4), tr.105 - 113.
114. Thọ Nhân (1999), “Môt công trình văn ban học rât co gia tri: Truyên kỳ mạn
lục san ban khao”, Tạp chí Hán Nôm (2), tr.36 - 45.
115. Lê Lưu Oanh (2012), Văn học và các loại hình nghệ thuật, Nxb Đại học Sư
phạm Ha Nôi.
116. Nguyễn Thi Oanh (1997), “Ca tì tử (Otogiboco) va Vũ nguyêt vât ngữ
(Ugrtsumonogatasi) với Truyên kỳ mạn lục”, Tạp chí Hán Nôm (4),tr. 14 - 25.
117. Nguyễn Thi Oanh (1997), “Nhât Ban linh di ký (Nihonryoiki): tac phẩm mở
đầu dòng văn học truyên kỳ ở xư sở mặt trời mọc”, Tạp chí Hán Nôm (1),
tr. 12 - 19.
118. Nguyễn Thi Oanh (2001), “Vê qua trình lưu truyên cac loại văn ban Lĩnh Nam
chich quai”, Tạp chí Hán Nôm (3), tr.21 - 31.
119. Trần Thê Phap (2011, Đinh Gia Khanh, Nguyễn Ngọc San dich), Lĩnh Nam
chích quái, Nxb Trẻ.
120. Vũ Tiên Phúc (1974), Việt Nam văn học giảng minh, Nxb Sống Mới, Sai Gòn.
121. Propp, V. Ia. (Chu Xuân Diên, Phạm Lan Hương, Nguyễn Kim Loan, Phạm
Bich Ngọc, Trần Minh Tâm, Đỗ Đưc Thinh, Đỗ Lai Thúy dich, 2003), Tuyển
tập, tâp 1, Nxb Văn hoa dân tôc, Ha Nôi.
122. Cao Ba Quat (Hoang Văn Lâu dich va giới thiêu, 2004), Mẫn Hiên thuyết loại,
Nxb Ha Nôi.
123. Riftin, B.( Phạm Tú Châu dich, 2006), “Thử so sanh Tiễn đăng tân thoại cua
Cù Hưu (Trung Quốc) với Kim Ngao tân thoại cua Kim Thời Tâp (Triêu
Tiên), Truyên kỳ mạn lục cua Nguyễn Dữ (Viêt Nam) va Ca tỳ tử cua Asai
Rey (Nhât Ban)”, Nghiên cứu văn học (12), tr.46 - 58.
124. Kim Seona (1995), “Đê tai tinh yêu trong Kim Ngao tân thoại cua Han Quốc (so
sanh với Truyên kỳ mạn lục cua Viêt Nam)”, Tạp chí Văn học (10), tr.33 - 35.
125. Nguyễn Hữu Sơn (1988), “Đặc điểm văn học Viêt Nam thê kỷ XVI - cac bước
tiêp nối va phat triển”, Tạp chí Văn học (5+6), tr.69 - 83.
126. Nguyễn Hữu Sơn (2003), Loại hình tác phẩm Thiền uyển tập anh, Nxb Khoa
học xã hôi, Ha Nôi.
127. Nguyễn Hữu Sơn (2008), “So sanh kiểu truyên “người lạc coi tiên” trong văn
học Viêt Nam với tiểu thuyêt Cửu vân mông (Han Quốc)”, Nghiên cứu văn
học (6), tr.78 - 86.
128. Nguyễn Hữu Sơn (2009), “Tac phẩm Truyên kỳ mạn lục - từ điểm nhìn văn
học so sanh, ban vê mối quan hê giữa truyên thống va giao lưu, hôi nhâp
văn hoa”, Ky yếu Hội thảo Khoa học 50 năm Trường Đại học Vinh (tâp 2),
tr.105 - 210.
129. Nguyễn Hữu Sơn (2010), “Tương đồng mô hình cốt truyên dân gian va những
sang tạo trong Truyên kỳ mạn lục cua Nguyễn Dữ”, Nghiên cứu văn học (1),
tr.30 - 40.
130. Trần Đình Sử (1997), “Con người ca nhân trong Viêt điên u linh, Lĩnh Nam
chich quai va Truyên kỳ mạn lục”, Về con người cá nhân trong văn học cổ
Việt Nam, Nxb Giao dục, Ha Nôi.
131. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb
Giao dục, Ha Nôi.
132. Trần Đình Sử (2000), “So sanh văn học va văn hoa - Nguyễn Dữ va tiên thoại
Trung Quốc qua truyên Từ Thưc lây vợ tiên”, Tạp chí Văn học (5), tr.21 - 26.
133. Bùi Duy Tân (1997), Giáo trình văn học Việt Nam từ thế ky X đến giữa thế ky
XVIII, Nxb Giao dục, Ha Nôi.
134. Bùi Duy Tân (2007), Tuyển tập, Nxb Giao dục, Ha Nôi.
135. Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong (1961), Lịch sử văn học Việt Nam sơ giản, Nxb
Sử học, Ha Nôi.
136. Lê Văn Tân (2009), Văn học Việt Nam đôi điều suy ngẫm, Nxb Lao đông, Ha Nôi.
137. Lê Văn Tân, Nguyễn Thi Hưởng (2013), Hành trình nghiên cứu Ngữ văn, Nxb
Khoa học Xã hôi, Ha Nôi.
138. Lê Văn Tân (2013), Tác giả nhà Nho ẩn dật và văn học trung đại Việt Nam,
Nxb Khoa học Xã hôi, Ha Nôi.
139. Lỗ Tân (1997, Nguyễn Xuân Tao dich), Truyện truyền kỳ Trung Quôc, Nxb
Văn học, Ha Nôi.
140. Lỗ Tân (Lương Duy Tâm, Lương Duy Thư dich chú, 1998), Hán văn học sử
cương yếu, Nxb Văn nghê Tp. Hồ Chi Minh.
141. Lỗ Tân (Lương Duy Tâm, Lương Duy Thư dich chú, 2002), Lịch sử tiểu thuyết
Trung Quôc, Nxb Đại học Quốc gia, Ha Nôi.
142. Nguyễn Thi Tinh (2007), “Truyên kỳ mạn lục - bước tiên trong viêc sử dụng yêu
tố kỳ ao”, Ky yếu Hội nghị Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Ha Nôi II.
143. Tkachev, M. (Trương Văn Vĩ, Nguyễn Nam dich, 2002), “Bâc thầy cua những
chuyên kỳ diêu sang tạo từ đât Hai Dương”, Tạp chí Văn học (11), tr.51 - 68.
144. Tkachev, M. (2006), “Văn xuôi Viêt Nam thời trung đại”, Marian Tkachev -
người bạn tài hoa và chí tình, Nxb Khoa học Xã hôi, Ha Nôi.
145. Khâu Chân Thanh (2001), Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quôc,
Nxb Văn học, Ha Nôi.
146. Vũ Thanh (1994), “Những biên đổi cua yêu tố kỳ va thưc trong truyên truyên
kỳ Viêt Nam”, Tạp chí Văn học (6), tr.25 - 46.
147. Vũ Thanh (2007), “Truyên kỳ mạn lục”, Truyện ngắn Việt Nam: Lịch sử - Thi
pháp - Chân dung, Nxb Giao dục, Ha Nôi.
148. Vũ Thanh (2009), “Thể loại truyên ngắn kỳ ao Viêt Nam trung đại: Qua trình
nay sinh va phat triển đên đỉnh điểm”, Văn học Việt Nam thế ky X - XIX -
Những vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Giao dục, Ha Nôi.
149. Trinh Văn Thao (2014), Xã hội Nho giáo Việt Nam dưới nhãn quan của xã hội
học lịch sử, Nxb Tri thưc, Ha Nôi.
150. Phạm Văn Thắm (1996), Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại truyền kỳ
viết bằng chữ Hán ở Việt Nam thời trung đại, Luân an Tiên sĩ Ngữ văn, Viên
Nghiên cưu Han Nôm.
151. Phạm Văn Thắm (1997), “Truyên kỳ mạn lục - Giới thiêu văn ban”, Tổng tập tiểu
thuyết chữ Hán Việt Nam, tâp 1, Nxb Thê giới, Ha Nôi.
152. Phạm Quý Thich (Ha Ngọc Xuyên dich, 1969), Tân truyền kì lục, Trung tâm
học liêu xuât ban, Sai Gòn.
153. Lã Nhâm Thìn (2009), Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc
nhìn thể loại, Nxb Giao dục, Ha Nôi.
154. Lã Nhân Thìn, Vũ Thanh (2015, đồng chu biên), Giáo trình Văn học trung đại
Việt Nam, tâp 1, 2, Nxb Giao dục Viêt Nam, Ha Nôi.
155. Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa,
Nxb Giao dục, Ha Nôi.
156. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế ky X đến hết thế ky XIX, Nxb
Giao dục Viêt Nam, Ha Nôi.
157. Ha Thu (1996), “Bút phap mông ao va Đạo sĩ núi Lao Sơn”, Văn hóa dân gian
(3), tr.73 - 75.
158. Nguyễn Cẩm Thúy (1983), “Vũ Trinh va Kiên văn lục”, Tạp chí Văn học (3),
tr.49 - 56.
159. Nguyễn Thi Thu Thuỷ (2016), Điểm nhìn và ngôn ngữ trong truyện kể, Nxb
Đại học Quốc gia Ha Nôi.
160. Lương Duy Thư, Đặng Đưc Siêu, Nguyễn Khắc Phi (Tuyển dich, 1992), Truyện
chí quái, chí nhân, chí dị Trung Hoa, Nxb Văn hoa Thể thao, Ha Nôi.
161. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Vũ Thanh, Trần Nho Thìn (Sưu tầm, tuyển
chọn va giới thiêu, 2007), 10 thế ky bàn luận về văn chương (Từ thê kỷ X đên
nửa đầu thê kỷ XX), 2 tâp, Nxb Giao dục, Ha Nôi.
162. Bùi Xuân Trang (1970), “Lời dich gia”, Tân biên Truyền kỳ mạn lục, Trung
tâm học liêu xuât ban, Sai Gòn.
163. Vũ Trinh (Hoang Văn Lâu dich, 2004), Lan Trì kiến văn lục, Nxb Thuân
Hoa, Huê.
164. Trần Trợ (Nguyễn Đăng Na, Nguyễn Thanh Chung dich va giới thiêu, 2008),
Tục biên Công dư tiệp ký, Nxb Văn học, Ha Nôi.
165. Hồ Nguyên Trừng (Ưu Đam, La Sơn dich, Nguyễn Đăng Na giới thiêu, 1999),
Nam Ông mộng lục, Nxb Văn học, Ha Nôi.
166. Tạ Chi Đại Trường (1989), Thần, người và đất Việt, Văn nghê xuât ban,
California.
167. Đinh Phan Cẩm Vân (2000), “Cai “kỳ” trong tiểu thuyêt truyên kỳ”, Tạp chí
Văn học (10), tr.48 - 53.
168. Đinh Phan Cẩm Vân (2005), “Gop thêm vai suy nghĩ vê vê mối quan hê giữa
Chuyên cây gạo va truyên Chiêc đèn mâu đơn”, Nghiên cứu văn học (6), tr.50 - 55.
169. Đinh Phan Cẩm Vân (2011), Tiếp cận thể loại văn học cổ Trung Quôc, Nxb
Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chi Minh.
170. Đoan Thi Thu Vân (2007), Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kỳ
trung đại, Nxb Giao dục, Ha Nôi.
171. Nguyễn Hùng Vĩ (2006), “Lĩnh Nam chich quai - từ điểm nhìn văn hoa”, Tạp
chí Văn học (8), tr.98 - 112.
172. Viên ngôn ngữ học (Hoang Phê chu biên va nhom biên soạn, 1998), Từ điển
tiếng Việt, Nxb Đa Nẵng – Trung tâm từ điển học, Ha Nôi.
173. Lê Tri Viễn (1998), Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Giao
dục, Ha Nôi.
174. Lê Tri Viễn (2001), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Văn nghê Tp.
Hồ Chi Minh.
175. Phạm Tuân Vũ (2005), Tìm hiểu văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc
gia Ha Nôi.
176. Phạm Tuân Vũ (2007), Văn học trung đại Việt Nam trong nhà trường, Nxb
Giao dục, Ha Nôi.
177. Phạm Tuân Vũ (2011), Về một sô vấn đề tác giả, tác phẩm văn chương, Nxb
Văn học - Trung tâm văn hoa Ngôn ngữ Đông Tây, Ha Nôi.
178. Phạm Tuân Vũ (2012), Văn chính luận Việt Nam thời trung đại, Nxb Lao
đông, Ha Nôi.
179. Phạm Tuân Vũ (2012), “Sư khac biêt cua nhân vât nữ trong Truyên kỳ mạn
lục so với nhân vât nữ trong Tiễn đăng tân thoại”, Văn học nước ngoài (5)
tr.116 - 122.
180. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học: Nhà Nho tài tử và
văn học Việt Nam, Nxb Giao dục, Ha Nôi.
181. Trần Ngọc Vương (1997), Văn học Việt Nam - dòng riêng giữa nguồn chung,
Nxb Giao dục, Ha Nôi.
182. Lý Tê Xuyên (Trinh Đình Rư dich, Đinh Gia Khanh giới thiêu, 2012), Việt
điện u linh, Nxb Hồng Bang, Ha Nôi.
183. Hoang Hữu Yên, Nguyễn Lôc (1962), Văn học Việt Nam (thế ky XVIII, nửa
đầu thế ky XIX), Nxb Giao dục, Ha Nôi.
184. Hoang Hữu Yên (1996), “Liêt nữ ở An Ấp la người nao?”, Tạp chí Hán Nôm
(4), tr. 26 - 38.
185. Hoang Hữu Yên (2012), Đọc và nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, Nxb
Đại học Sư phạm Ha Nôi.
186. Lê Thu Yên (chu biên, 2015), Văn học trung đại Việt Nam và những vấn đề
tâm linh, Nxb Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chi Minh.
Tiếng nước ngoài
1. 清平 (1963), 成語故事, 香港偉青書店出版, 中國香港.
2. 趙錫如 (1968), 辭海, 中華書局, 台彎.
3. 張元濟 (1978), 康熙字典 (節本), 中華書局, 台彎.
4. 陳慶浩, 鄭阿財, 陳義 (主編) (1992), 越南漢文小說叢刊 (第一,二 ,
共八册),法國遠東學院出版 - 臺彎學生書局印行, 臺彎.
5. 楊琳 (1996), 漢語詞滙與華夏文, 語文出版社, 北京.
6. 楊寬 (1997), 戰國史, 上海人民出版社, 中國上海.
7. 謝光輝(2000), 漢語字源字典, 上海人民出版社,中國上海.
8. 朱淵清(2001),中國出土文獻與傳統學術, 華東師范出版社.
9. 玉貴(2001),中國風俗通史, 上海文藝出版社, 中國上海.
10. 劉綱紀, 范明華(2002),周易與美學, 國文史出版社, 北京.
11. 劉春銀,王小盾,陳義(2002),越南漢喃文獻目錄題要,中央研究院中國研究所
編印,臺彎.
12. 賴力行,李清良(2003), 中國文學批平史, 湖南教育出版社.
13. 商務印書舘編輯部 (2004) 辭源 (修訂本- 上下册), 商務印書舘出版
14. 劉春銀,林慶彰,陳義(2002),越南漢喃文獻目錄題要(補遺)
(上下),中央研究院亞太區域研究專题中心,臺彎臺北.
15. 王秀梅 (2006), 詩經評註, 中華書局, 台彎
16. 韓兆琦 (2006), 史記, 中華書局, 台彎
17. 云中天 (2006), 禮儀, 百花洲文藝出版社, 中國北京
18. 毛慶耆 (2006), 中國文學通義, 岳麓書社, 中國湖南
19. 新勳 (2007), 成語典, 幼福文出版社, 台彎
20. 李道湘,于銘松(2007),原始宗教與神話,上海三聯出版社,中國上海
21. 蘇洲虞(2008,編文)(2008),中國古代神怪大觀,玉樹圖書印刷有限公司出版,
臺彎臺.
22. 程裕禎 (2008), 中國文要略, 京書店出版社.
23. 張豈之 (2009), 中國傳統文, 高等教育出版社, 中國北京
24. 玉貴(2009),中國風俗通史(唐五代卷), 上海文藝出版社.
25. 郭箴一 (2009), 中國小說史, 啓業書局印行.
26. 周苓仲,何澤人(2009), 典故百則, 靈活文化事業有限公司.
27. 侯外庐, 趙紀彬, 杜國庠, 邱漢生(2011),中国思想通史, 人民出版社.
28. 葉郞 (2011), 中國美學曆史大綱, 人民出版社.
29. 張荣明(2011),道佛儒思想與中國傳統文, 上海人民出版社.
PHỤ LỤC
DANH MỤC TRUYÊN TRUYÊN KY TRONG LUẬN AN
1. Ác bao (CDTK)
2. An Ấp liêt nữ (TKTP)
3. An Dương Vương (LNCQL)
4. Anh em Phan Văn Phụng (MHTL).
5. Ba đồng (LTKVL)
6. Bich Châu du tiên mạn ký (TKTP)
7. Bố Cai Đại Vương (VĐULT)
8. Bich câu kỳ ngô (TKTP)
9. Ca kỹ họ Nguyễn(LTKVL)
10. Ca thần (LTKVL)
11. Cây gạo (TKML)
12. Cha con Nguyễn Ba (MHTL)
13. Chiêc đèn mâu đơn (CH)
14. Chôn xương bụng ngưa (CDTK)
15. Chúa sơn lâm ướm sưc (VNTS)
16. Chùa Tiên Tich (TTNL)
17. Chùa Sùng Phúc(TTNL)
18. Chùa Thiên Mụ (TTNL)
19. Chùa Kim Liên(TTNL)
20. Chùa Phap Vân(MHTL)
21. Chùa Quang Minh ở Hâu Bổng (MHTL)
22. Chuyên Lê Nương(TKML)
23. Chuyên kỳ ngô ở trại Tây (TKML)
24. Chuyên nghiêp oan Đao Thi (TKML)
25. Chuyên chưc phan sư đên Tan Viên (TKML)
26. Chuyên người nghĩa phụ ở Khoai Châu (TKML)
27. Cọp dạy (VNTS)
28. Cọp giữ bình hồ (VNTS)
29. Cọp lam lý trưởng (VNTS)
30. Con hổ co nghĩa (LTKVL)
31. Con hổ hao hiêp (LTKVL)
32. Con nghĩa nhân đưc (LTKVL)
33. Cuôc đối đap cua người tiêu phu núi Nưa (TKML)
34. Cửa Cờn(MHTL)
35. Đại sư Khuông Viêt (TUTANL)
36. Đạo sĩ trạng nguyên (SCTT)
37. Đên Trân Vo(TTNL)
38. Đên Linh Lang(TTNL)
39. Đên Bạch Mã(MHTL)
40. Đên Trần Thiên Chân Vũ (MHTL)
41. Đên Phạm Sư Quân(MHTL)
42. Đên Từ tiêt phụ(MHTL)
43. Đổng Thiên Vương truyên (LNCQL)
44. Đưa con cua rắn (LTKVL)
45. Hai khẩu linh từ (TKTP)
46. Hồng Bang Thi truyên (LNCQL)
47. Hồ gươm (MHTL)
48. Hồ Ba Bể (MHTL)
49. Hoa quốc kỳ duyên (TTDT)
50. Hồ tinh (LNCQL)
51. Khỉ (LTKVL)
52. Kiêp sau cua sư Bât Sô (CDTK)
53. Lãng Bạc phùng tiên (TTDT)
54. Liên Hồ quân quân(LTKVL)
55. Lôi tuyên(MHTL)
56. Lưỡng Phât đâu thuyêt ký (TKML)
57. Ma trơi (LTKVL)
58. Môc tinh (LNCQL)
59. Ma cổ thụ (LTKVL)
60. Ma Đồng Xuân (TTNL)
61. Ma tranh (VNTS)
62. Ma thắt cổ (TTNL)
63. Ma mẹ Đao Khan (TTNL)
64. Ma tổ Quân Bằng (TTNL)
65. Ma tổ họ Nguyễn lang Quê Ổ (TTNL)
66. Mai Châu yêu nữ truyên (TTDT)
67. Man Nương (LNCQL)
68. Mẹ ranh can sat (TTNL)
69. Minh Không thần di (NOML)
70. Mông ký (TTDT)
71. Nam Xương nữ tử truyên (TKML)
72. Nam Chiêu (LNCQL)
73. Ngân khach tầm đia bao hiêu tâm nhân (CDTK)
74. Ngô Lâm chửi giặc (MHTL)
75. Nghiêp oan cua Đao Thi (TKML)
76. Người con gai trinh liêt ở cổ Trâu(LTKVL)
77. Người đan ba trinh tiêt ở Thạch Than(LTKVL)
78. Ngư gia chi di (TTDT)
79. Ngư tinh (LNCQL)
80. Nguyễn Quỳnh (LTKVL)
81. Nhi nữ thần truyên (TKML)
82. Nhi Trưng phu nhân (LNCQL)
83. Nhi nữ thần truyên (TTDT)
84. Núi Đông Liêt (LTKVL)
85. Núi Rêt (LTKVL)
86. Núi Dục Thúy (MHTL)
87. Núi Vũ Môn (MHTL)
88. Núi Đồng Cổ (MHTL)
89. Núi Thât Diêu (MHTL)
90. Núi Phât Tich (MHTL)
100. Núi Yên Tử (MHTL)
101. Núi Phượng Hoang (MHTL)
102. Núi Hiên (MHTL)
103. Núi Án Đĩnh (MHTL)
104. Ông Trạng họ Nguyễn (LTKVL)
105. Ông Nguyễn Duy Thì (TTNL)
106. Ông Ba Bach trung nghĩa (MHTL)
107. Ông Lê Trãi (TTNL)
108. Pha Tam Giang (MHTL)
109. Pha ký sơn quân (TTDT)
110. Phù Đổng Thiên Vương (LNCQL)
111. Phu nhân Lan quân công(LTKVL)
112. Quỷ núi (H ĐTD)
113. Rùa vang (LNCQL)
114. Sông Đôc (LTKVL)
115. Sông Dùng (LTKVL)
116. Sống lại (LTKVL)
118. Sông Tô Lich (LNCQL)
119. Suối rắn (CDTK)
120. Ta Ao tiên sinh (TTNL)
121. Tan Viên Sơn truyên (LNCQL)
123. Tay luồn miêng cọp (VNTS)
124. Tân truyên kỳ lục
126. Tiên trên đao (LTKVL)
127. Tiên ăn may (LTKVL)
128. Tiên sĩ họ Trần vâng mênh đi sư (MHTL)
129. Tinh chuôt (TTDT)
130. Tham hoa Nguyễn Đăng Cao (TTNL)
132. Thanh cũ Triêu Khẩu(TTNL)
133. Thai úy trung phụ dũng vũ uy thắng công (VĐULT)
134. Thap Bao Ân (LTKVL)
135. Thap Tụ Chang(MHTL)
136. Thần miêu Kim Tung (TTNL)
137. Thần núi Tan Viên (LNCQL)
138. Thầy tướng (LTKVL)
139. Thiêm thừ miêu duê ký (TTDT)
140. Thiên sư Đạo Hạnh (TUTANL)
141. Thiên sư Đạo Huê (TUTANL)
142. Thiên sư Tinh Giới (TUTANL)
143. Thiên sư Vạn Hạnh (TUTANL)
144. Thiên sư Ngô Ấn (TUTANL)
145. Thơ ma (MHTL)
146. Tổ gia thưc lục (TTTL)
147. Truyên sông Tô Lich (LNCQL)
148. Truyên hai vi thần Long Nhãn, Như Nguyêt (LNCQL)
149. Truyên cũ thượng thư họ Trinh (MHTL)
150. Truyên cũ Phương Am tiên sinh (MHTL)
151. Truyên Từ Đạo Hạnh va Nguyễn Minh Không (LNCQL)
152. Truyên Dương Không lô va Nguyễn Giac Hai (LNCQL)
153. Truyên Nhât Dạ Trạch (LNCQL)
154. Truyên Giêng Viêt (LNCQL)
155. Truyên Sông Tô Lich (LNCQL)
156. Truyên núi Tan Viên (LNCQL)