240
ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM MAI XUÂN TOÀN CHIẾN TRANH NHÂN DÂN Ở QUẢNG BÌNH TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

MAI XUÂN TOÀN

CHIẾN TRANH NHÂN DÂN Ở QUẢNG BÌNH

TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC

NHỮNG NĂM 1965 - 1973

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

HUẾ, NĂM 2017

Page 2: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

i

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

MAI XUÂN TOÀN

CHIẾN TRANH NHÂN DÂN Ở QUẢNG BÌNH

TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC

NHỮNG NĂM 1965 - 1973

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Mã số: 62.22.03.13

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS. TS. LÊ CUNG

HUẾ, NĂM 2017

Page 3: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các tư liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực,

chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác.

Tác giả Luận án

Mai Xuân Toàn

Page 4: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

iii

LỜI CẢM ƠN

Trân trọng cảm ơn PGS.TS. Lê Cung, người đã định hướng đề tài, tận tâm

hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, học tập và

hoàn thành luận án.

Trân trọng cảm ơn quý thầy, cô Khoa Lịch sử, Phòng Đào tạo Sau đại học,

Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế, Ban Đào tạo – Đại học

Huế, UBND tỉnh Quảng Bình, Lãnh đạo Sở Nội vụ và cán bộ, công chức Ban Thi

đua – Khen thưởng tỉnh Quảng Bình đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá

trình học tập, nghiên cứu.

Xin cảm ơn Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Phòng Tư liệu Quân khu 4,

Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Chi cục Văn thư lưu trữ tỉnh Quảng Bình, Văn

Phòng Tỉnh ủy Quảng Bình, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình, các nhân

chứng lịch sử, … đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được tiếp cận, khai thác các

nguồn tư liệu phục vụ học tập và nghiên cứu.

Cảm ơn gia đình, bạn bè luôn đồng hành, động viên, chia sẻ và hỗ trợ tôi

trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận án.

Huế, tháng 6 năm 2017

Tác giả Luận án

Mai Xuân Toàn

Page 5: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

1

MỤC LỤC

Trang phụ bìa ............................................................................................................. i

Lời cam đoan ............................................................................................................. ii

Lời cảm ơn ............................................................................................................... iii

Mục lục ....................................................................................................................... 1

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 4

1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 4

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 5

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 6

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu......................................................... 7

5. Đóng góp của luận án ......................................................................................... 7

6. Bố cục của luận án .............................................................................................. 8

Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ........................................ 9

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 9

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về chiến tranh nhân dân Việt Nam ................ 9

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về chiến tranh nhân dân chống chiến

tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Quảng Bình ................................................. 16

1.2. Những vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu ....................................................... 24

Chương 2 CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHIẾN

TRANH NHÂN DÂN Ở QUẢNG BÌNH TRONG KHÁNG CHIẾN

CHỐNG MỸ NHỮNG NĂM 1965-1973 ............................................................... 25

2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống yêu nước, cách mạng

của nhân dân Quảng Bình ..................................................................................... 25

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên................................................................................... 25

2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội ....................................................................... 28

2.1.3. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Quảng Bình ......... 32

2.2. Chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Quảng Bình .................................... 34

2.2.1. Phá hoại bằng gián điệp và biệt kích ...................................................... 34

Page 6: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

2

2.2.2. Phá hoại bằng không quân và hải quân .................................................. 38

2.3. Chủ trương của Đảng về chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ......... 48

2.3.1. Chủ trương của Trung ương Đảng và Quân khu 4 ................................. 48

2.3.2. Chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Bình ..................................................... 51

2.4. Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, xây dựng quyết tâm đánh thắng

chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ................................................................... 55

2.5. Chuyển hướng nền kinh tế sang thời chiến, đảm bảo hậu cần tại chỗ cho

chiến tranh nhân dân ............................................................................................. 59

2.5.1. Trong sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp ................................................ 59

2.5.2. Trong sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ............................. 66

2.5.3. Trong lưu thông phân phối ..................................................................... 69

Chương 3 QUÂN DÂN QUẢNG BÌNH TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH

NHÂN DÂN CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ

NHỮNG NĂM 1965-1973 ....................................................................................... 75

3.1. Công tác phòng không nhân dân ................................................................... 75

3.1.1. Công tác phòng tránh tại chỗ .................................................................. 75

3.1.2. Công tác sơ tán, giãn dân ........................................................................ 82

3.2. Chiến đấu chống chiến tranh phá hoại ........................................................... 85

3.2.1. Củng cố và xây dựng lực lượng vũ trang hình thành thế trận chiến

tranh nhân dân .................................................................................................. 85

3.2.2. Đấu tranh chống gián điệp, biệt kích ...................................................... 93

3.2.3. Đánh máy bay và tàu chiến .................................................................... 99

3.3. Đảm bảo giao thông và vận tải chi viện chiến trường ................................. 118

3.3.1. Đảm bảo giao thông .............................................................................. 118

3.2.2. Vận tải chi viện chiến trường ............................................................... 128

Chương 4 ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN Ở QUẢNG BÌNH NHỮNG NĂM 1965-1973 .. 141

4.1. Đặc điểm ...................................................................................................... 141

4.1.1. Đối đầu với cuộc chiến tranh phá hoại kéo dài, liên tục và rất khốc liệt .. 141

Page 7: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

3

4.1.2. Được triển khai trên địa bàn toàn tỉnh, với sự kết hợp chặt chẽ của

nhiều lực lượng ............................................................................................... 147

4.1.3. Diễn ra trên khắp các lĩnh vực, trong đó giao thông vận tải là nóng

bỏng nhất ........................................................................................................ 152

4.1.4. Chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình những năm 1965-1973 phát

triển vượt bậc theo thời gian ........................................................................... 158

4.2. Ý nghĩa lịch sử ............................................................................................. 161

4.2.1. Góp phần quan trọng cùng với miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh

phá hoại của đế quốc Mỹ ................................................................................ 161

4.2.2. Góp phần to lớn để Quảng Bình hoàn thành vai trò hậu phương của

cách mạng miền Nam, trực tiếp là chiến trường Trị - Thiên .......................... 164

4.2.3. Làm dày thêm những giá trị sống của cộng đồng dân cư địa phương

để Quảng Bình (cùng với Vĩnh Linh) thành tuyến đầu của miền Bắc trong

kháng chiến chống Mỹ ................................................................................... 167

4.3. Bài học kinh nghiệm .................................................................................... 171

4.3.1. Chủ động vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân của

Đảng phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương ..................................... 171

4.3.2. Nâng cao tinh thần tự lực, tự cường, chủ động phòng, tránh, đánh trả

trong tình huống có chiến tranh bao vây, cô lập và ngăn chặn ...................... 174

4.3.3. Gắn xây dựng thế trận với củng cố hệ thống chính trị và phát triển

kinh tế - xã hội để đảm bảo hậu cần tại chỗ cho chiến tranh nhân dân .......... 176

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 180

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 184

PHỤ LỤC

Page 8: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

4

MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Quảng Bình (cùng

với Vĩnh Linh) là tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hậu phương cận kề của

cách mạng miền Nam, trực tiếp là chiến trường Trị - Thiên, là điểm khởi đầu và lan

tỏa của tuyến đường Hồ Chí Minh chi viện chiến trường miền Nam và phong trào

kháng chiến chống Mỹ ở địa bàn Nam Lào và Campuchia.

Do Quảng Bình có vị thế chiến lược quan trọng như vậy nên đế quốc Mỹ xem

nơi đây là “yết hầu”, “nút chặn” quyết liệt nhất trong chiến tranh phá hoại miền

Bắc. Mỹ tập trung lực lượng lớn không quân, hải quân kết hợp chiến tranh gián điệp

biệt kích đánh phá Quảng Bình từ ngày 5-8-1964, mở rộng từ ngày 7-2-1965 và kéo

dài cho đến ngày 15-1-1973. Quảng Bình là nơi bị đánh phá dài nhất, quy mô lớn

nhất và mức độ tàn phá nghiêm trọng nhất. Đối với ta, Quảng Bình là nơi thử thách

ác liệt nhất trong chiến tranh phá hoại để mở đường, bảo vệ đường và đảm bảo giao

thông vận tải chi viện chiến trường, bảo vệ tuyến đầu của miền Bắc, đặc biệt là

những thời điểm Mỹ đánh phá ngăn chặn, phong tỏa ác liệt nhất (từ tháng 4 đến

tháng 10-1968 và năm 1972). Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng các cấp, trực tiếp

là Tỉnh ủy Quảng Bình, quân dân địa phương đã thiết lập thế trận chiến tranh nhân

dân rộng khắp, kiên cường bám địa bàn để sản xuất và chiến đấu, lập nên những

chiến công xuất sắc, dẫn đầu miền Bắc về thành tích tiêu diệt máy bay và tàu chiến

Mỹ. Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của cấp ủy Đảng và chính quyền Quảng Bình

trong kháng chiến chống Mỹ là lấy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân để

đánh thắng chiến tranh phá hoại tổng lực của đế quốc Mỹ. Đại tướng Võ Nguyên

Giáp, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, đã khẳng định: “Nếu tổng kết

cuộc chiến tranh phá hoại toàn diện thì cần nghiên cứu ở Quảng Bình, đánh phá

giao thông vận tải phải nghiên cứu ở tuyến đường Hồ Chí Minh và đánh phá đô thị

thì phải tổng kết ở Hà Nội, Hải Phòng” [164, tr. 363]. Do đó, nghiên cứu cuộc

Page 9: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

5

chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những

năm 1965-1973 là việc làm có ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn.

Về ý nghĩa khoa học, thông qua việc tái hiện diễn biến chính của cuộc chiến

tranh nhân dân ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm

1965-1973, luận án phản ánh bức tranh toàn cảnh về cơ sở hình thành và phát triển,

diễn biến chính của chiến tranh nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, được vận

dụng một cách sáng tạo trên địa bàn Quảng Bình. Kết quả nghiên cứu của luận án

minh chứng Quảng Bình là một mẫu hình địa phương về việc kế thừa tri thức và

truyền thống chiến tranh nhân dân chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc, phát huy

thành đỉnh cao trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Qua đó, luận án góp

phần khẳng định Quảng Bình xứng đáng với vị trí tuyến đầu của miền Bắc trong

cuộc đối đầu với đế quốc Mỹ xâm lược.

Về ý nghĩa thực tiễn, luận án góp phần bổ sung nguồn tư liệu lịch sử kháng

chiến chống Mỹ của dân tộc nói chung và của Quảng Bình nói riêng. Luận án rút ra

những bài học kinh nghiệm giúp các nhà chính trị, quân sự nghiên cứu vận dụng để

hoạch định chính sách, đề ra những chủ trương sát đúng phục vụ công cuộc xây

dựng và bảo vệ đất nước hiện nay; luận án còn là tài liệu để giáo dục tinh thần yêu

nước và cách mạng cho các thế hệ nhân dân Quảng Bình, đặc biệt là đối với thế hệ

trẻ, nhằm khơi dậy lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của cha ông, để nỗ lực vươn

lên xây dựng quê hương giàu mạnh, góp phần vào sự nghiệp đổi mới đất nước do

Đảng khởi xướng và lãnh đạo.

Với ý nghĩa đó, chúng tôi chọn vấn đề “Chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình

trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-1973” làm đề tài Luận

án Tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.

2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận án là tái hiện một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về

cuộc chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình giai đoạn chống chiến tranh phá hoại của đế

quốc Mỹ những năm 1965-1973; làm rõ một số đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học

Page 10: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

6

kinh nghiệm trong việc vận dụng đường lối chiến tranh nhân dân vào điều kiện cụ thể

của Quảng Bình. Thông qua đó, khẳng định vị trí chiến lược, vai trò của chiến tranh

nhân dân ở Quảng Bình đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nêu trên, luận án thực hiện:

- Tổng quan tình hình nghiên cứu, đánh giá những vấn đề đã được nghiên cứu,

rút ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.

- Làm rõ cơ sở hình thành và phát triển của cuộc chiến tranh nhân dân ở

Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-1973.

- Những diễn biến chính của cuộc chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-1973 trên các mặt như quá trình

hình thành thế trận chiến tranh nhân dân, sản xuất, phòng tránh, đánh trả, đảm bảo

giao thông vận tải chi viện chiến trường, …

- Rút ra những đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của cuộc

chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những

năm 1965-1973.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu của luận án là chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình

trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-1973, với những cơ sở

hình thành và phát triển, những diễn biến chính trên các lĩnh vực của chiến tranh.

Phạm vi nghiên cứu

Về thời gian, từ ngày 7-2-1965 đến ngày 15-1-1973, tức là thời điểm Mỹ mở

rộng và kết thúc chiến tranh phá hoại miền Bắc và là khung thời gian triển khai thế

trận chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên địa bàn

Quảng Bình.

Về không gian, toàn bộ địa bàn tỉnh Quảng Bình, gồm thị xã Đồng Hới và 6

huyện (Quảng Trạch, Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy, Tuyên Hóa và Minh Hóa)

nhưng tập trung ở những địa bàn, trọng điểm then chốt nhất. Tuy nhiên, trong một

số trường hợp nhất định, để làm rõ hơn nội dung, không gian có thể được mở rộng

Page 11: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

7

ra một số địa phương khác thuộc Quân khu 4 và thời gian có thể đẩy lùi về trước

ngày 7-2-1965 liên quan đến những hành động đánh phá hạn chế của đế quốc Mỹ

cũng như quá trình chuẩn bị cho cuộc chiến đấu của quân dân Quảng Bình.

Về nội dung, luận án tập trung nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển

thế trận chiến tranh nhân dân, chuyển hướng sản xuất sang thời chiến để đảm bảo

hậu cần cho chiến tranh nhân dân, công tác phòng tránh, đánh trả và đảm bảo giao

thông vận tải chi viện chiến trường.

4. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Về nguồn tư liệu

- Các công trình chuyên khảo trong và ngoài nước đã công bố, những bài viết

trên các tạp chí chuyên ngành, liên quan trực tiếp đến đề tài.

- Tài liệu lưu trữ tại Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình, Phòng Lưu trữ -

Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình, Bộ Chỉ huy quân sự Quảng Bình, Phòng Khoa học

quân sự Quân khu 4, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, bao gồm các báo cáo, biên bản,

chỉ thị, nghị quyết, nghị định, thông tư, kế hoạch, ... của Bộ Chính trị, Ban Bí thư,

Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương, Quân khu 4, Tỉnh ủy, Ủy ban Hành chính tỉnh

Quảng Bình, các Ban, ngành, huyện, thị xã thuộc tỉnh Quảng Bình, ...

- Tài liệu điều tra điền dã, hồi kí, những nhân chứng lịch sử, ...

Về phương pháp nghiên cứu

Chủ yếu luận án sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lô-gic để trình

bày các vấn đề theo diễn tiến trình tự thời gian trong mối quan hệ móc xích với nhau.

Các phương pháp như văn bản học, phân tích, so sánh, tổng hợp, … kết hợp phỏng

vấn khai thác tư liệu từ các nhân chứng, phương pháp chuyên gia, ... cũng được lựa

chọn, sử dụng để xử lí tư liệu nhằm tái hiện một cách trung thực nhất diễn biến của

cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Quảng Bình cũng

như rút ra những nhận định khách quan, phù hợp với thực tế lịch sử.

5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN

Một là, luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và tương đối đầy

đủ về chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình những năm

1965-1973.

Page 12: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

8

Hai là, luận án làm rõ những cơ sở hình thành và phát triển, những diễn biến

chính của cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của quân và dân

Quảng Bình trong những năm 1965-1973, thông qua sự sáng tạo của quân dân

Quảng Bình trong việc vận dụng đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng vào thực

tế của địa phương; từ đó rút ra những đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh

nghiệm đóng góp vào kho tàng tri thức và kinh nghiệm lịch sử trong chiến tranh vệ

quốc và chiến tranh giải phóng của dân tộc.

Ba là, luận án cung cấp nguồn tư liệu cho việc nghiên cứu, biên soạn và giảng

dạy lịch sử kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là lịch sử chống chiến tranh phá hoại ở

Quảng Bình; giáo dục truyền thống yêu nước, khơi dậy lòng tự hào và trách nhiệm

của thế hệ trẻ trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay, cũng như góp phần

vào kho tàng tri thức lịch sử chiến tranh cách mạng của dân tộc đồng thời cung cấp

luận cứ khoa học cho việc hoạch định chiến lược và xây dựng lực lượng quốc

phòng toàn dân phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN

Ngoài phần mở đầu (5 trang), kết luận (4 trang), tài liệu tham khảo (21 trang),

nội dung luận án dài 171 trang, chia làm 4 chương:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu (16 trang)

Chương 2. Cơ sở hình thành và phát triển của chiến tranh nhân dân ở Quảng

Bình trong kháng chiến chống Mỹ những năm 1965-1973 (50 trang).

Chương 3. Quân và dân Quảng Bình tiến hành chiến tranh nhân dân chống

chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ những năm 1965-1973 (66 trang).

Chương 4. Đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của chiến tranh

nhân dân ở Quảng Bình những năm 1965-1973 (39 trang).

Page 13: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

9

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Tiếp cận dưới góc độ nghiên cứu chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá

hoại, đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước được công bố, chủ yếu

như sau:

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về chiến tranh nhân dân Việt Nam

1.1.1.1. Ở trong nước

Nghiên cứu về chiến tranh cách mạng nói chung, chiến tranh nhân dân trong

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói riêng đã có rất nhiều công trình:

Võ Nguyên Giáp (1970), Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta, Nxb

Quân đội Nhân dân, Hà Nội; Nắm vững đường lối chiến tranh nhân dân đánh thắng

chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1972), Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội;

Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (1979), Nxb Quân

đội Nhân dân, Hà Nội, ... Với vai trò là Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam,

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, các công trình của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thể

hiện rõ nét những quan điểm về đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và Nhà

nước Việt Nam, như về quá trình hình thành và phát triển đường lối chiến tranh

nhân dân Việt Nam của Đảng, về tư tưởng chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh,

về mục đích, lực lượng, phương thức tiến hành, nghệ thuật quân sự của chiến tranh

nhân dân, nổi bật là tư tưởng toàn dân đánh giặc, cả nước đánh giặc, lấy lực lượng

vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Tác giả khẳng định 1930-1945 là thời kì hình

thành đường lối khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân của Đảng, đi đến hoàn

chỉnh ở thời kì 1945-1954 và được nâng cao trong thời kì 1954-1975. Riêng về

công trình Nắm vững đường lối chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá

hoại của đế quốc Mỹ, gồm 5 bài viết, sau khi tổng kết những thắng lợi hết sức to lớn

mà quân và dân ta đã giành được trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại,

tác giả phân tích tính chất, mục đích thủ đoạn đánh phá cùng những thất bại của đế

Page 14: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

10

quốc Mỹ; nêu bật tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

của quân dân ta, đường lối chiến tranh, đặc biệt là đường lối chiến tranh nhân dân

chống chiến tranh phá hoại, từ đó rút ra những bài học qua 4 năm chống chiến tranh

phá hoại lần thứ nhất (1965-1968), trong đó nhấn mạnh vị trí chiến lược của chiến

tranh nhân dân ở địa phương và của các lực lượng vũ trang địa phương, cũng như

phát huy sức mạnh to lớn của chiến tranh nhân dân trên chiến trường sông biển.

Riêng đối với cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại, tác giả làm rõ

đó là một cuộc chiến đất đối không, đất đối biển, không đối không, không đối biển

và thậm chí là cả đất đối đất, với những nội dung cụ thể là “toàn dân đánh máy bay

và tàu chiến địch, toàn dân làm công tác phòng tránh, toàn dân đảm bảo giao thông

vận tải, kết hợp chặt chẽ giữa chiến đấu và sản xuất, thực hiện chuyển hướng kinh

tế để phục vụ quốc phòng, bảo đảm đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội

ở miền Bắc, tiếp tục làm tròn nhiệm vụ chi viện miền Nam và chi viện quốc tế”

[100, tr. 62].

Văn Tiến Dũng (1979), Chiến tranh nhân dân quốc phòng toàn dân, tập 2,

Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, luận giải nhiều vấn đề mang tính tổng kết về

truyền thống chiến tranh nhân dân trong lịch sử và chiến tranh nhân dân dưới sự

lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc như về nghệ thuật quân sự

trong kháng chiến chống Mỹ, về một số kinh nghiệm trong chiến tranh nhân dân

chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, như đánh giá đúng âm mưu chiến lược và khả

năng hoạt động của địch, có quyết tâm cao đối phó kịp thời và giành thắng lợi, tiến

hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời

ra sức tranh thủ sự viện trợ quốc tế, …

Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1982, 1983), Chiến tranh nhân dân đánh

thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội,

trình bày đặc điểm tình hình và diễn biến của chiến tranh, rút ra 9 bài học kinh

nghiệm về chỉ đạo chiến tranh nhân dân đánh thắng không quân và hải quân Mỹ,

xây dựng lực lượng vũ trang trong chiến tranh, đảm bảo giao thông vận tải, chuyển

Page 15: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

11

hướng kinh tế, tổ chức phòng không nhân dân, … bảo vệ vững chắc hậu phương và

chi viện cho tiền tuyến.

Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết

cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội, trình bày các giai đoạn phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, rút

ra những bài học kinh nghiệm lớn, trong đó có “nghệ thuật tiến hành chiến tranh

nhân dân sáng tạo, tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc”.

Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1995),

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập II (1954-1975), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà

Nội, trong chương X và XI đề cập những diễn biến chính của cuộc chiến đấu của

quân dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của Mỹ.

Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương chiến tranh nhân dân

Việt Nam (1945-1975), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, ngoài đề cập quá trình

xây dựng hậu phương vững mạnh toàn diện, làm chỗ dựa cho cách mạng miền

Nam, công trình dành phần quan trọng trình bày về xây dựng và phát huy tuyến vận

tải chiến lược chi viện cách mạng miền Nam, chủ yếu là qua tuyến đường Trường

Sơn. Công trình cũng rút ra những bài học kinh nghiệm lớn về phát huy vai trò hậu

phương trong chiến tranh nhân dân.

Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến

tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975. Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội, tổng kết nguyên nhân và diễn biến của cuộc chiến tranh cách mạng

30 năm (1945-1975), rút ra những bài học, trong đó có bài học về đường lối kháng

chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh, về hậu phương - căn cứ địa, về

vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến tranh cách mạng giải

phóng dân tộc, …

Bộ Tổng Tham mưu (2001), Tổng kết chiến tranh nhân dân: Chuyên đề chỉ

đạo xây dựng và hoạt động chiến đấu của lực lượng phòng không địa phương

chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc (1954-1975), Nxb. Quân

đội Nhân dân, Hà Nội, làm rõ một số đặc điểm có liên quan đến quá trình chỉ đạo

Page 16: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

12

xây dựng và hoạt động của lực lượng phòng không địa phương, từ đó rút ra 4 bài

học kinh nghiệm, đó là thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, chủ động xây

dựng, phát triển lực lượng phòng không địa phương trong thế trận chiến tranh nhân

dân đối không; Vừa chỉ đạo đánh trả có hiệu quả máy bay địch, vừa chỉ đạo thực

hiện tốt việc sơ tán phòng tránh, khắc phục hậu quả ở địa phương; Quán triệt sâu

sắc tư tưởng, nguyên tắc tác chiến phòng không, vận dụng sáng tạo vào chỉ đạo tác

chiến phòng không địa phương, thực hiện cách đánh thích hợp có hiệu quả, kết hợp

phòng không địa phương với phòng không chủ lực; Phát huy vai trò lãnh đạo của

cấp ủy Đảng, quản lí điều hành của chính quyền, tham gia của các ngành, đoàn thể,

vai trò tham mưu và chỉ huy của cơ quan tham mưu phòng không các cấp.

Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ

cứu nước (1954-1975), xuất bản lần thứ 2, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà

Nội, trong đó về cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của quân dân miền Bắc

được phản ánh trong các tập IV, V, VI, VII.

Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Tổng kết chiến đấu chống đế quốc

Mỹ phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường những năm

1965-1973, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, tái hiện những nét đặc sắc, tiêu biểu

nhất về quá trình lãnh đạo, chỉ huy, tổ chức chiến đấu của quân dân ta, từng bước

đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn đánh phá, phong tỏa bằng vũ khí công nghệ cao hết

sức hiểm độc của đế quốc Mỹ ở trên chiến trường sông biển thuộc quân khu 3 và 4

(gồm các tỉnh ven biển từ Quảng Ninh vào đến Vĩnh Linh), trong đó tập trung chủ

yếu ở một số vùng có ý nghĩa chiến lược như cảng Hải Phòng, cảng Gianh và Nhật

Lệ. Công trình làm rõ những loại vũ khí và thủ đoạn đánh phá, phong tỏa của Mỹ

cùng quá trình quân dân ta đối phó, làm vô hiệu hóa cuộc chiến phong tỏa. Trên cơ

sở đó, công trình rút ra kết quả, ý nghĩa và 7 bài học kinh nghiệm, trong đó có

“quán triệt sâu sắc đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, … Không ngừng xây

dựng và củng cố thế trận chiến tranh nhân dân chống địch đánh phá phong tỏa”

[214, tr. 286, 356].

Page 17: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

13

Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam -

Tập IV: Từ năm 1945 đến năm 1975, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội,

nghiên cứu tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam qua

quá trình lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, trong đó có tư

tưởng tiến hành chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân toàn diện, dựa vào sức

mình là chính, đồng thời tranh thủ viện trợ quốc tế; tư tưởng xây dựng căn cứ địa,

hậu phương chiến tranh; vừa kháng chiến vừa kiến quốc; tư tưởng xây dựng lực

lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân và nền quốc phòng toàn dân ở Việt Nam.

Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam -

Tập V: Tổng luận, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, rút ra những vấn đề

chung nhất, có tính quy luật, xuyên suốt tiến trình lịch sử tư tưởng quân sự Việt

Nam, trong đó có tư tưởng chiến tranh nhân dân và nghệ thuật quân sự Việt Nam;

tư tưởng xây dựng căn cứ địa, hậu phương; tư tưởng xây dựng lực lượng vũ trang;

tư tưởng đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Cùng với những công trình nghiên cứu đã viện dẫn trên đây, trong những thập

kỉ cuối của thế kỉ XX, rất nhiều công trình nghiên cứu về chiến tranh nhân dân đã

được công bố dưới hình thức chuyên khảo của các nhà xuất bản: Chính trị quốc gia,

Quân đội nhân dân, Khoa học xã hội, … và các chuyên luận liên quan đến vấn đề

chiến tranh nhân dân đăng trên các tạp chí: Cộng sản, Lịch sử Đảng, Nghiên cứu

Lịch sử, Lịch sử Quân sự và nhiều tạp chí, nội san của các cơ quan Trung ương và

địa phương.

Nhìn chung, qua các công trình trên đây, vấn đề chiến tranh nhân dân Việt

Nam - lí luận và thực tiễn đã được nghiên cứu kĩ dưới nhiều góc độ khác nhau.

Về lí luận, các công trình công bố đã tổng kết những thuộc tính, đặc điểm

và bài học kinh nghiệm từ truyền thống chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc,

được vận dụng và nâng cao thành lí luận về chiến tranh nhân dân trong thời đại

Hồ Chí Minh.

Về thực tiễn, các công trình đã tái hiện bức tranh toàn cảnh về chiến tranh

nhân dân trong bối cảnh cách mạng Việt Nam, nổi bật là cuộc vận động Cách mạng

Page 18: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

14

tháng Tám năm 1945, cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì chống thực

dân Pháp và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Đó là những nguồn tư liệu quý để chúng tôi kế thừa và làm cơ sở để nghiên

cứu về chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình những năm

1965-1973.

1.1.1.2. Ở ngoài nước

Mc. T. Kahin and John Lewis (1967), The US in Vietnam (Mỹ ở Việt Nam),

Codell Publish, New York, tái hiện quá trình can thiệp của Mỹ vào Việt Nam cùng

tiến trình đi đến ném bom phá hoại miền Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện từ hậu

phương lớn cho cách mạng miền Nam. Từ thực tế của cuộc chiến đấu của nhân dân

miền Bắc chống chiến tranh phá hoại, các tác giả nhận thấy “những cuộc ném bom

của Mỹ không làm nao núng và khủng bố tinh thần dân chúng mà đã kích thích và

hun đúc họ. Ngay từ lúc quả bom Mỹ đầu tiên rơi xuống Bắc Việt Nam, đất nước

này đã kết lại thành một khối không gì lay chuyển được” [222, tr. 231-232]. Thậm

chí còn đi xa hơn, các tác giả khẳng định nếu Mỹ mở cuộc xâm lược miền Bắc sẽ

vấp phải cuộc phản công liên tục của một quân đội chính quy và một quốc gia toàn

du kích, buộc Mỹ cuối cùng phải rút lui.

T. Hoopes (1969), The limits of intervention (Những giới hạn của sự can

thiệp), David Mc. Kay Company, New York, sớm nhận ra việc Mỹ tăng cường ném

bom lại giúp miền Bắc mở rộng hệ thống giao thông vận tải cũng như mở ra những

biện pháp sáng tạo trong công tác phòng tránh, vận chuyển hàng hóa và chi viện

chiến trường miền Nam. Từ đó, tác giả cho rằng sức mạnh can thiệp của Mỹ là có

giới hạn và Nhà Trắng khó có thể đạt được mục đích trong cuộc chiến này khi phải

đối đầu với một dân tộc ngoan cường, đầy sáng tạo.

Jon Vandyke (1972), North’s Vietnam Strategy for survival (Chiến lược để tồn

tại của Bắc Việt Nam), Pacific Books, California, đi sâu nghiên cứu công tác tổ

chức hệ thống giao thông của Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Tác giả nhận ra, để đảm

bảo cho công tác giao thông vận tải, chi viện chiến trường miền Nam, một lực

lượng lớn nhân công được huy động gồm công binh, công nhân giao thông, dân

Page 19: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

15

quân tự vệ, thanh niên xung phong với đủ lứa tuổi, không chỉ là những thanh niên

tuổi từ 15 đến 30 mà còn có cả người già, bà mẹ và thiếu niên. Những lực lượng này

vừa tự sản xuất đảm bảo lương thực vừa làm những công việc như vận chuyển đất

đá sửa đường, xây dựng công sự và hầm trú ẩn, bốc dỡ hàng hóa, di chuyển vũ khí

phòng không và tham gia tháo gỡ bom nổ chậm, … Nhờ đó, hệ thống giao thông

dày đặc gồm đường bộ, đường sắt, đường thủy trên toàn miền Bắc luôn được duy trì

hoạt động với sự nỗ lực tối đa, bất chấp mọi hiểm nguy của những người điều khiển

phương tiện cũng như người làm công tác đảm bảo bằng nhiều biện pháp ngụy

trang khéo léo và những nỗ lực vận chuyển phi thường.

US. Government Printing Office (1973), Causes, Origins and lessons of the

Vietnam War, May, 9, 10 and 11, 1972 (Nguyên nhân, nguồn gốc và bài học trong

chiến tranh Việt Nam), Washington, tập hợp những luận điểm chính của các học giả

và nghị sĩ Mỹ làm rõ nguồn gốc và nguyên nhân của việc Hoa Kỳ can dự vào cuộc

chiến đang diễn ra ở Việt Nam, từ đó rút ra những bài học cần thiết. Một trong

những bài học mà các nhà lập pháp Mỹ phát hiện ra là đánh giá đúng sức mạnh của

dân tộc Việt Nam: “Đối phương đã tìm ra “một chiến lược khôn khéo đến mức

nguy hiểm để đánh bại Mỹ. Chiến lược đó là tiến hành một cuộc chiến tranh giải

phóng dân tộc dựa trên nguyện vọng của nông dân Việt Nam muốn độc lập và công

bằng xã hội. Nước ngoài không bao giờ có thể địch nổi chiến lược đó” [224, tr. 91].

Gabriel Kolko (1985), Anatomy of a War: Vietnam, the United States and the

Modern Historical Experience, New York, The New Press. 1994 (Giải phẫu một

cuộc chiến tranh - Nước Mỹ và kinh nghiệm chiến tranh hiện đại), Người dịch:

Nguyễn Tấn Cưu, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, (2003), phân tích chi tiết, sâu

sắc các đối tượng trong cuộc chiến mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam, gồm Hoa Kỳ, Việt

Nam cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam/Chính phủ Cách

mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ cộng hòa,

đồng thời cảnh báo mọi sự can thiệp của Mỹ trong tương lai chắc chắn sẽ phải chịu

kết quả tai hại như ở Việt Nam, bởi vấp phải một dân tộc luôn lấy dân làm gốc, huy

Page 20: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

16

động được quần chúng nhân dân và lấy chiến tranh nhân dân làm nền tảng trong

công cuộc đấu tranh giành độc lập.

Những công trình đã công bố ở ngoài nước phần lớn đề cập đến chính sách,

âm mưu, thủ đoạn tiến hành chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc

qua đó thấy được mức độ khốc liệt của chiến tranh phá hoại. Đồng thời, thông qua

việc phản ánh phản ứng và đối phó của nhân dân miền Bắc đối với chiến tranh phá

hoại của đế quốc Mỹ, các công trình này cũng thể hiện sự thừa nhận khách quan về

sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân đáp trả chiến tranh phá hoại tổng lực

của Mỹ. Đây là những luận cứ quan trọng để luận án đưa ra những nhận định khách

quan, khoa học.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về chiến tranh nhân dân chống chiến

tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Quảng Bình

1.1.2.1. Ở trong nước

- Những công trình nghiên cứu về chiến tranh nhân dân chống chiến tranh

phá hoại trên địa bàn Quân khu 4, trong đó có Quảng Bình

Bộ Tổng Tham mưu (2001), Tổng kết chiến tranh nhân dân địa phương:

Chuyên đề Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể và cơ

quan quân sự địa phương trên địa bàn Quân khu 4 trong kháng chiến chống thực

dân Pháp và đế quốc Mỹ (1946-1975), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội. Sau khi

khái quát diễn biến về cuộc chiến tranh cách mạng 30 năm ở Quân khu 4, công trình

đã rút ra 5 bài học về việc phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, về xây dựng tổ chức,

nêu cao trách nhiệm và chỉ đạo các lực lượng tiến hành chiến tranh nhân dân trên

địa bàn Quân khu 4 qua hai cuộc kháng chiến.

Quân khu 4 (2001), Mặt trận giao thông vận tải trên địa bàn Quân khu 4

trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, tập

hợp những tham luận từ hội thảo cùng tên, đề cập đến nhiều khía cạnh của cuộc

chiến tranh phá hoại của Mỹ và cuộc chiến đấu của quân dân Quân khu 4 nói chung,

của các tỉnh ở Quân khu 4 nói riêng, trong đó có Quảng Bình, trên mặt trận giao

thông vận tải.

Page 21: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

17

Quân khu 4 (2005), Tổng kết chiến thuật trong kháng chiến chống thực dân

Pháp và đế quốc Mỹ của lực lượng vũ trang Quân khu 4 (1945-1975), Nxb. Quân

đội Nhân dân, Hà Nội, sau khi trình bày những hình thức chiến thuật mà lực lượng

vũ trang Quân khu 4 đã thực hiện trong hai cuộc kháng chiến, công trình rút ra 5 bài

học kinh nghiệm có liên quan đến chiến tranh nhân dân là tăng cường vai trò lãnh

đạo của các cấp ủy Đảng và chỉ huy; chủ động đánh địch bằng mọi lực lượng, mọi

vũ khí, mọi hình thức ở trong mọi điều kiện địa hình và thời tiết; thực hiện ba bám:

bám địch, bám dân, bám đồng bằng trong thế trận chiến tranh nhân dân; kết hợp

chặt chẽ giữa chiến tranh du kích của các lực lượng vũ trang địa phương với chiến

tranh chính quy của bộ đội chủ lực; chú trọng, xây dựng củng cố mối quan hệ với

cách mạng Lào.

Bộ Tư lệnh Quân khu 4 - Cục Hậu cần (2007), Lịch sử hậu cần lực lượng vũ

trang Quân khu 4 (1945-2005), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, đề cập công tác

chuẩn bị về hậu cần cho lực lượng vũ trang trên địa bàn Quân khu 4 trong 2 cuộc

kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc hiện nay. Liên quan đến thời kì kháng chiến chống Mỹ, công trình có đề cập

công tác chi viện chiến trường Trị - Thiên và cũng như việc mở đường vận

chuyển, đảm bảo hậu cần, giải quyết hậu quả các chiến dịch lớn, … của lực lượng

hậu cần Quân khu 4.

Bộ Tư lệnh Quân khu 4 (2012), Lịch sử dân quân tự vệ Quân khu 4 (1945-

2010), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, dành chương II đề cập đến lực lượng dân

quân tự vệ ở Quân khu 4 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), rút ra

những bài học về vai trò của lực lượng dân quân tự vệ trong chiến tranh, về công tác

lãnh đạo chính trị, tư tưởng, tổ chức đối với dân quân tự vệ, về xây dựng thế trận

quốc phòng toàn dân, lấy dân quân tự vệ làm nòng cốt ở cơ sở.

Bộ Tư lệnh Quân khu 4 (2015), Lịch sử Quân khu 4 (1945-2015), tập 2: Thời

kì kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), tái bản bổ sung lần 1, Nxb. Quân

đội Nhân dân, Hà Nội, dành ra 4 chương (III, IV, V và VI) phản ánh cuộc kháng

chiến chống Mỹ của quân dân Quân khu 4, như về bối cảnh lịch sử, một số chủ

Page 22: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

18

trương của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu, trong đó đối với Quảng Bình, những

chiến công tiêu biểu nhất trên lĩnh vực sản xuất và chiến đấu, đảm bảo giao thông

được ghi nhận. Trong chương kết, một trong những bài học kinh nghiệm rút ra từ

thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ trên địa bàn Quân khu 4 là đã động viên

được toàn dân phát huy vai trò chiến tranh nhân dân, góp phần đánh bại các loại hình

chiến tranh xâm lược.

- Những công trình nghiên cứu về công tác mở đường, chiến đấu bảo vệ

đường và đảm bảo vận chuyển trên đường Trường Sơn qua địa bàn Quảng Bình

Trận đồ bát quái xuyên rừng rậm do Cục Chính trị - Tổng cục xây dựng kinh tế

biên soạn năm 1979 trên cơ sở tập hợp những tư liệu của nước ngoài về sự hình thành

và phát triển của hệ thống đường Trường Sơn cùng cuộc chiến tranh ngăn chặn của

đế quốc Mỹ. Đoàn Thị Lợi (2004), Đường Hồ Chí Minh con đường huyền thoại,

Nxb. Quân đội Nhân dân; Phan Hữu Đại - Nguyễn Quốc Dũng (đồng chủ biên),

(1999), Lịch sử Đoàn 559 Bộ đội Trường Sơn đường Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội

Nhân dân, Hà Nội, Nguyễn Thế Kỷ - Nguyễn Sĩ Cứ (chủ biên), (2009), Trường Sơn

đường khát vọng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, … Qua những công trình này,

quá trình xây dựng và chiến đấu, bảo đảm vận chuyển trên đường Trường Sơn trong

tình hình chiến tranh ngăn chặn, phá hoại của đế quốc Mỹ diễn ra ác liệt, được thể

hiện tương đối toàn diện và có hệ thống. Tuy nhiên, Quảng Bình với vị trí là trung

tâm, điểm khởi đầu của hệ thống đường chiến lược này lại chưa được nhấn mạnh nên

các công trình chưa cho thấy điểm khác biệt giữa chiến tranh ngăn chặn, phá hoại của

Mỹ ở Quảng Bình so với những nơi khác trên đường Trường Sơn.

- Những công trình nghiên cứu về Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ

Ban Chấp hành Đảng bộ Quảng Bình (2000), Lịch sử Đảng bộ Quảng Bình,

tập II, 1954-1975, Đồng Hới; Đảng ủy Quân sự tỉnh Quảng Bình (2010), Lịch sử

Đảng bộ Quân sự tỉnh Quảng Bình (1945-2010), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội,

đề cập tình hình, chủ trương của Tỉnh ủy và Đảng ủy Quân sự tỉnh Quảng Bình

trong lãnh đạo, chỉ đạo cùng những diễn biến nổi bật của cuộc kháng chiến chống

Mỹ cứu nước ở địa phương.

Page 23: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

19

Thường vụ Tỉnh ủy - Đảng ủy, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Bình (1994),

Lịch sử Quảng Bình chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, là công trình đề cập khá toàn

diện cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Quảng Bình (1954-1975). Ưu điểm

nổi bật của công trình này là có nguồn tư liệu gốc và nhân chứng phong phú, tái

hiện sinh động công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng quá trình quân dân

Quảng Bình chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, đảm bảo chi viện chiến trường,

làm nghĩa vụ của hậu phương. Luận án kế thừa nhiều tư liệu từ công trình này.

Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2012), Lịch sử hệ thống hành

chính nhà nước cấp tỉnh ở Quảng Bình (1945-2000), dành chương V đề cập công

tác tổ chức các lực lượng, điều hành các hoạt động quản lí xã hội, vừa sản xuất vừa

chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, trong đó nhấn mạnh công tác chỉ đạo chuyển

hướng mọi hoạt động sang thời chiến, thiết lập thế trận chiến tranh nhân dân chống

chiến tranh phá hoại và những thành tích tiêu biểu trong sản xuất và chiến đấu.

Nguyễn Khắc Thái (2014), Lịch sử Quảng Bình, Nxb. Chính trị - Hành

chính, Hà Nội, dành chương 14 đề cập cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân

Quảng Bình, trong đó có những diễn biến chính của cuộc chiến đấu chống chiến

tranh phá hoại.

Về lịch sử các ngành có: Lịch sử phong trào đấu tranh cách mạng Phụ nữ tỉnh

Quảng Bình 1930-1975, sơ thảo, (1995); Lịch sử Y tế Quảng Bình 1945-1995, Đồng

Hới, (1996); Lịch sử phong trào Công nhân và Công đoàn tỉnh Quảng Bình, tập 1

(1885-1975) (1998); Lịch sử Bộ đội biên phòng Quảng Bình, tập 1 (1959-1995),

(1998); Lịch sử Giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình 1885-1999, Nxb. Giao thông

vận tải, Hà Nội, (1999); Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Quảng Ninh - 55 năm

xây dựng - chiến đấu - trưởng thành (1945-2000), (2000); Lịch sử Công an nhân

dân thành phố Đồng Hới 1945-2005, (2005); Những trận đánh tiêu biểu của lực

lượng vũ trang nhân dân tỉnh Quảng Bình, tập 1 (1945-1975), (2005); Lịch sử

Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh Quảng Bình, tập 1 (1946-2005),

(2010); Nghiên cứu mối quan hệ hữu nghị và hợp tác đặc biệt giữa Quảng Bình,

Khăm Muộn và Savannakhet giai đoạn 1954-2000, Sở Ngoại vụ Quảng Bình,

(2011); Ban Tổ chức Tỉnh ủy Quảng Bình 80 năm xây dựng và trưởng thành (1930-

Page 24: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

20

2010), Đồng Hới, (2012); Lịch sử Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và

phong trào thanh thiếu nhi tỉnh Quảng Bình, tập 1 (1930-2000), (2012); Lịch sử

ngành Tuyên giáo Quảng Bình giai đoạn 1930-2010), Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

Quảng Bình, (2013); Lịch sử ngành Kiểm tra Đảng tỉnh Quảng Bình từ năm 1948

đến năm 2013, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Quảng Bình, (2014); Nghiên cứu quá trình

phát triển kinh tế hợp tác xã tỉnh Quảng Bình từ năm 1946 đến nay, Liên minh Hợp

tác xã tỉnh Quảng Bình, (2014); Lịch sử giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình (1945-

2015), Nxb. Giao thông Vận tải, Hà Nội, (2015), … Tiếp cận truyền thống của các

ngành, ở những mức độ đậm nhạt khác nhau, lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ

cứu nước (1954-1975) nói chung và tham gia chiến đấu chống chiến tranh phá hoại

của Mỹ những năm 1965-1973 nói riêng ở Quảng Bình được phản ánh trong sự đa

dạng về lực lượng toàn dân đánh giặc, với sự phong phú về hình thức chiến đấu, …

Về lịch sử Đảng bộ các địa phương có: Lịch sử Đảng bộ huyện Lệ Thủy, tập 2

(1954-1975), (2000); Lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Ninh, tập 2 (1954-1975), Sơ

thảo, (2000); Lịch sử Đảng bộ huyện Bố Trạch, tập 2 (1954-1975), (2005); Lịch sử

Đảng bộ huyện Quảng Trạch, tập 2 (1954-1975), (2005); Lịch sử Đảng bộ huyện

Tuyên Hóa, tập 2 (1954-1975), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, (2006) … đề cập

cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở các địa phương, trong đó có chiến đấu

chống chiến tranh phá hoại, với những sự kiện nổi bật ở cơ sở.

Mặc dù các công trình đã viện dẫn trên đây đều có đề cập đến nội hàm chiến

tranh nhân dân, nhưng mỗi công trình nhìn nhận vấn đề chiến tranh nhân dân ở

những góc nhìn khác nhau, chưa có công trình nào tái hiện đầy đủ bức tranh toàn

cảnh của chiến tranh nhân dân và chưa dành sự đánh giá, nhận định đầy đủ về các

thuộc tính bộc lộ từ cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế

quốc Mỹ trong một thời gian dài từ trước năn 1965 đến năm 1973.

- Những luận án, luận văn đề cập chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong

kháng chiến chống Mỹ

Nguyễn Khắc Thái (1977), Đảng bộ Quảng Bình lãnh đạo công tác xây dựng

lực lượng dân quân tự vệ trong những năm chống Mỹ (1965-1968), Luận án tốt

nghiệp ngành lịch sử Đảng, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, làm rõ quá trình

Page 25: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

21

Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo công tác xây dựng lực lượng dân quân tự vệ làm

nòng cốt cho chiến tranh nhân dân ở cơ sở như về tư tưởng chính trị, về phát triển

lực lượng, về trang bị, về huấn luyện chiến đấu, về xây dựng làng xã chiến đấu, về

những chiến công mà dân quân tự vệ Quảng Bình lập được trong giai đoạn 1965-

1968, … Trên cơ sở đó, tác giả rút ra một số bài học kinh nghiệm như quán triệt

đường lối quốc phòng toàn dân, vũ trang toàn dân và chiến tranh nhân dân của

Đảng, về hình thức tổ chức lực lượng dân quân tự vệ, về mối quan hệ giữa công tác

chính trị với trang bị kĩ thuật, chiến đấu, … Phần phụ lục công phu, cung cấp nhiều

số liệu quan trọng về quá trình phát triển, tổ chức, chiến đấu của dân quân tự vệ

Quảng Bình giai đoạn 1965-1968.

Lê Văn Lợi (1977), Đảng bộ Quảng Bình lãnh đạo quân và dân toàn tỉnh

đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên mặt trận đảm bảo giao thông

vận tải (1965-1968), Luận văn tốt nghiệp ngành lịch sử Đảng, Trường Đại học

Tổng hợp Hà Nội, làm rõ quá trình Đảng bộ Quảng Bình tổ chức, lãnh đạo công tác

đảm bảo giao thông vận tải giai đoạn 1965-1968 như về việc chuyển hướng đảm

bảo giao thông vận tải những năm 1965-1966, tập trung các lực lượng để đảm bảo

giao thông vận tải, đánh bại chiến tranh phá hoại của Mỹ những năm 1966-1968.

Trên cơ sở đó, tác giả rút ra một số suy nghĩ về thành công cơ bản của Đảng bộ

Quảng Bình trong lãnh đạo, chỉ đạo đảm bảo giao thông vận tải như nghiêm chỉnh

chấp hành đường lối chống Mỹ cứu nước của Trung ương Đảng và vận dụng sáng

tạo đường lối đó vào thực tiễn, quá triệt đường lối chiến tranh nhân dân và nêu cao

tinh thần tự lực, dựa vào sức mạnh quần chúng, kết hợp chặt chẽ giữa củng cố quan

hệ sản xuất và tổ chức phân công lao động hợp lí để dành một phần lao động thích

đáng đảm bảo giao thông vận tải. Phần phụ lục cung cấp nhiều số liệu quan trọng về

cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Quảng Bình và những thành tích mà quân dân

Quảng Bình đạt được trên mặt trận giao thông vận tải giai đoạn 1965-1968.

Đinh Phan Thủy Yến (2006), Quảng Bình kháng chiến chống Mỹ cứu nước

trên mặt trận giao thông vận tải (1965-1968), Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại

học Sư phạm Huế; Thái Thị Lợi (2007), Lực lượng thanh niên xung phong tỉnh

Page 26: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

22

Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-1975), Luận văn Thạc sĩ

Sử học, Trường Đại học Sư phạm Huế; Phan Thị Trà Giang (2010), Phong trào

“hai giỏi” ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-

1973, Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Sư phạm Huế, … ở những mức độ

khác nhau lần lượt đề cập đến cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân dân Quảng

Bình trên lĩnh vực giao thông vận tải, xây dựng hậu phương, chi viện chiến trường,

chủ yếu tập trung trong giai đoạn 1965-1968.

Trần Như Hiền (2016), Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ

hậu phương từ năm 1964 đến năm 1975, Luận án Tiến sĩ Lịch sử Đảng, Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, làm rõ những cơ sở để Đảng bộ Quảng

Bình đề ra những chủ trương cùng quá trình lãnh đạo quân dân địa phương thực

hiện nhiệm vụ hậu phương trên các lĩnh vực: Xây dựng tiềm lực hậu phương về

kinh tế - chính trị - văn hóa, xây dựng lực lượng quốc phòng, chiến đấu bảo vệ địa

bàn và đảm bảo giao thông vận tải, chi viện cách mạng miền Nam và cách mạng

Lào trong thời kì 1964-1975, một số bài học về phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng

trong xây dựng hậu phương. Tuy đề cập đến nhiều vấn đề của chiến tranh nhân dân

ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ nhưng dưới góc độ của chuyên ngành

lịch sử Đảng nên nội dung luận án tập trung vào những chủ trương và vai trò lãnh

đạo thực hiện nhiệm vụ hậu phương của Tỉnh ủy Quảng Bình.

Nhìn chung, các công trình chuyên khảo liên quan đến Quảng Bình trong

thời kì kháng chiến chống Mỹ, cứu nước dưới những góc nhìn khác nhau đã ít

nhiều đề cập đến vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền, hoạt động của

lực lượng vũ trang, các lực lượng phục vụ chiến đấu và trực tiếp sản xuất, chiến

đấu trong thời kì kháng chiến chống Mỹ trên địa bàn Quảng Bình. Mặc dù chưa

có công trình nào phản ánh toàn diện các thành tố và thuộc tính của chiến tranh

nhân dân nhưng dưới nhiều góc độ khác nhau, các công trình này đã cung cấp

nguồn tư liệu lí luận và thực tiễn quan trọng để làm cơ sở xây dựng các luận đề

khoa học trong luận án này.

Page 27: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

23

1.1.2.2. Ở ngoài nước

Peter Weiss (1968), Réponse à Johnson sur les bombs ments limités (Trả lời

Johnson về những cuộc ném bom hạn chế), Seuil, Paris; trình bày diễn biến và

những thủ đoạn mà Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình kể từ

ngày 5-8-1964, chỉ ra những thiệt hại to lớn về người và vật chất mà các cuộc ném

bom gây ra, như phá hủy hoàn toàn Đồng Hới, Ba Đồn và các huyện lị trong tỉnh.

Công trình cũng cho thấy trong chiến tranh khốc liệt, công tác phòng tránh và cứu

thương được quân dân Quảng Bình thực hiện rất tốt, đảm bảo cho hoạt động sản

xuất vẫn được duy trì ở tất cả các ngành như nông nghiệp, công nghiệp, thủ công

nghiệp và ngư nghiệp, làm ra những sản phẩm thiết yếu phục vụ cuộc sống cho

nhân dân địa phương cũng như chi viện cho chiến trường.

Alain Wasmes (1976), Vietnam, la feau du pachyderme (Việt Nam, tấm da của

loài thú da dày), Edition Socialies, Paris, khái quát quá trình hình thành và phát

triển của tuyến đường Trường Sơn, cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ,

trong đó đối với Quảng Bình, hậu quả của các trận ném bom tạo nên khung cảnh

như đang ở trên Mặt Trăng với những chết chóc và đổ nát hiện diện khắp mọi nơi,

nhất là ở Đồng Hới. Đồng thời, tác giả chứng kiến nghị lực phi thường của nhân

dân địa phương tham gia công tác sửa chữa đường sá phục vụ chi viện cách mạng

miền Nam.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã viện dẫn trên và hầu hết các công

trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến luận án đã đề cập đến cơ sở hình thành

và những vấn đề lí luận về chiến tranh nhân dân. Dưới nhiều góc độ khác nhau,

những công trình nghiên cứu đã công bố đã đề cập ít nhiều đến diễn tiến cuộc kháng

chiến chống Mỹ, trực tiếp là cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc

Mỹ, trong đó chứa đựng cả nhiệm vụ sản xuất, chiến đấu, đảm bảo giao thông vận

tải và chi viện chiến trường.

Có thể nói rằng, với sự phong phú của các hình thái, thế trận chiến tranh với

sự kết hợp khéo léo, hài hòa và sáng tạo giữa các thành tố làm nên chiến tranh nhân

dân như sản xuất và chiến đấu, phòng tránh với đánh trả, xây dựng hậu phương với

Page 28: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

24

chi viện tiền tuyến, những diễn tiến của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã

được đề cập dưới rất nhiều góc nhìn khác nhau, trên những đối tượng nghiên cứu

khác nhau. Tuy nhiên, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu tương đối đầy đủ

và có hệ thống từ lí luận đến thực tiễn cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh

phá hoại của đế quốc Mỹ ở Quảng Bình những năm 1965-1973, rút ra những đặc

điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ tổ quốc trước mắt và lâu dài.

1.2. Những vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu

Trên cơ sở kế thừa có lựa chọn những công trình nghiên cứu đã có và đặc biệt

là những tài liệu khai thác được, căn cứ diễn biến thực tế của cuộc chiến tranh nhân

dân chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình những năm 1965-1973, luận án tập

trung nghiên cứu những vấn đề chủ yếu sau đây:

- Cơ sở hình thành và phát triển của chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình những

năm 1965-1973.

- Sự hình thành thế trận chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình những năm

1965-1973.

- Công tác chuyển hướng kinh tế và đảm bảo duy trì sản xuất nhằm đảm bảo

hậu cần tại chỗ cho chiến tranh nhân dân và chi viện chiến trường ở Quảng Bình

những năm 1965-1973.

- Công tác đảm bảo giao thông vận tải trên địa bàn Quảng Bình bao gồm các

hoạt động mở đường, chiến đấu bảo vệ đường và vận tải chiến lược chi viện chiến

trường miền Nam.

- Công tác phòng không nhân dân ở Quảng Bình những năm 1965-1973, bao

gồm nội dung phòng tránh và đánh trả.

- Công tác đấu tranh chống gián điệp, biệt kích của Mỹ và chính quyền Sài

Gòn ở Quảng Bình những năm 1965-1973.

- Những đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc

chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Quảng Bình những

năm 1965-1973.

Page 29: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

25

Chương 2

CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN Ở QUẢNG BÌNH

TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ NHỮNG NĂM 1965 - 1973

2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống yêu nước, cách

mạng của nhân dân Quảng Bình

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên

Quảng Bình là tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ, có diện tích 8.065,27 km2, tọa độ

địa lí phần đất liền giới hạn từ 17005,02 đến 18005,12 vĩ độ Bắc, 105036,55 đến

1060059,37 kinh độ Đông. Quảng Bình có chiều ngang hẹp nhất của cả nước (nơi

rộng nhất 94,2km, nơi hẹp nhất 40,5km), phía Đông bờ biển dài 116km, phía Tây có

201,87 km biên giới với Lào, phía Bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh với chiều dài 136,5km và

phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị dài 78,8km. Nhìn chung, địa hình Quảng Bình thấp

dần từ Tây sang Đông và hẹp dần từ Bắc vào Nam, phân thành 4 vùng liên quan với

nhau trong một hình thái địa lí hoàn chỉnh.

Vùng rừng núi ở phía Tây rộng 5.236,16 km2 (chiếm 65% diện tích tự nhiên),

địa hình hiểm trở, nhiều sông suối, bị chia cắt mạnh nên dễ bị đối phương lợi dụng

sơ hở xâm nhập, hoạt động biệt kích ta khó phát hiện, truy lùng. Ngoài ra, Quảng

Bình còn có các dãy núi chạy ra sát biển, như Đèo Ngang và mũi Roòn. Những dãy

núi này có thể xây dựng trận địa phòng thủ, khống chế vùng đồng bằng, tổ chức các

trạm quan sát, trinh sát, cảnh giới trên không, trên biển.

Vùng gò đồi rộng 1.677,95km2 (chiếm 19,7% diện tích tự nhiên), có độ cao từ

50-250m, là vùng đệm tiếp giáp giữa rừng núi và đồng bằng. Vùng này thuận lợi cho

ta triển khai lực lượng, sơ tán giãn dân, làm công trình và các đường vòng tránh.

Vùng đồng bằng rộng 866,9km2 (chiếm 10,95% diện tích tự nhiên), nằm ở hạ

lưu các con sông. Vùng này có nhiều đồng lầy, nhiều cầu phà, tập trung đường sá và

các đầu mối giao thông quan trọng, dân cư đông đúc, thuận lợi cho việc huy động

sức người sức của tương đối lớn để đảm bảo giao thông vận tải, chiến đấu và phục

Page 30: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

26

vụ chiến đấu. Trong chiến tranh phá hoại, khi địch tập trung đánh mạnh, nhất là

bằng máy bay và tàu chiến, ta khó bảo vệ mục tiêu, khó cơ động và triển khai lực

lượng, khó bố trí mạng hỏa lực và phòng vệ có chiều sâu, hỗ trợ nhau đắc lực, khó

cấu trúc công sự vững chắc.

Vùng ven biển ngoài nguồn lợi lớn về thủy hải sản còn có một số cảng như

Roòn, Gianh, Nhật Lệ, ... thuận tiện cho việc phát triển giao thông đường biển, kết

hợp vận chuyển đường biển và đường sông. Tuy nhiên, trong điều kiện hải quân,

không quân và các lực lượng bảo vệ bờ biển chưa lớn mạnh, công tác bố phòng, bảo

vệ và chống địch xâm nhập, đánh phá còn nhiều khó khăn. Mặt khác, các cửa biển

nhỏ, cạn chỉ có thể sử dụng tàu thuyền nhỏ và bị ảnh hưởng bởi mùa mưa bão. Dọc

bờ biển có nhiều cồn cát lớn, địa hình trống trải, khiến địch có thể dùng tàu chiến

vào gần bờ, bắn phá sâu vào đất liền. Ngược lại, do các cồn cát che khuất tầm nhìn

nên chúng phải dùng khí tài quan sát và hiệu chỉnh bắn. Vì vậy, ta có thể bố trí các

trận địa hỏa lực để đánh trả trong điều kiện phải đảm bảo công sự vững chắc và

ngụy trang tốt trận địa.

Vùng biển Quảng Bình mực nước tương đối cạn, ít có điều kiện cho tàu đổ bộ

nhưng các tàu khu trục và tuần dương Mỹ có thể vào cách bờ 5km và tàu biệt kích

là 1-3km. Một số đảo ven bờ như Hòn La, đảo Yến, Hòn Gió, Hòn Nấm, Hòn Cọ

hay các mũi đèo Ngang và Roòn, ta có thể bố trí hỏa lực để khống chế vùng biển và

đặt các trạm quan sát cảnh giới.

Quảng Bình có các con lớn sông là Roòn, Gianh (gồm 4 nguồn: Rào Nậy, Rào

Trổ, Rào Nam và Rào Son), Lý Hòa, Dinh và Nhật Lệ (gồm 2 nguồn: Kiến Giang

và Long Đại), chủ yếu chảy theo hướng Tây - Đông (trừ sông Nhật Lệ chảy hướng

Tây Nam - Đông Bắc). Các sông đều ngắn, dốc nên vào mùa mưa sẽ hứng một

lượng nước khổng lồ từ dãy Trường Sơn đổ xuống, gây nên lũ lụt và tạo thành

chướng ngại thiên nhiên lớn, chia cắt địa hình, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản

xuất và giao thông vận tải. Với đặc điểm đó, trong thời bình việc khắc phục lũ lụt,

lầy úng đã khó thì trong chiến tranh, địch tập trung đánh phá các điểm vượt sông và

các khu vực lầy lội sẽ càng thêm gây khó khăn cho ta. Riêng sông Nhật Lệ, do

Page 31: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

27

hướng chảy của mình lại tạo điều kiện thuận lợi hình thành tuyến vận tải từ cảng

Nhật Lệ đi về phía Nam hoặc đi sâu vào chân dãy Trường Sơn, nơi có các kho hàng

tập kết của Đoàn 559. Tuyến vận tải này đặc biệt phát huy vai trò nhất là vào những

thời điểm Quốc lộ 1 và Đường 15 bị ách tắc.

Thời tiết ở Quảng Bình chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 8 đến tháng

12, mùa khô kéo dài từ đầu năm đến tháng 7. Từ tháng 10 năm trước đến tháng 3

năm sau, Quảng Bình chịu ảnh hưởng mạnh của gió mùa Đông Bắc, có nhiều mưa

phùn và lạnh. Vào tháng 1 và 2 hàng năm, vùng trung du và miền núi có sương mù

từ chiều hôm trước đến giữa sáng hôm sau, khiến tầm nhìn bị hạn chế xuống dưới

1.000m. Điều kiện này vừa có thuận lợi cho ta (như mây mù, mưa phùn hạn chế

hoạt động của máy bay địch) nhưng mặt khác, khi bị đánh phá thì tác hại lại kéo

dài, khó khắc phục. Ở Quảng Bình, mùa mưa bão hàng năm kéo dài từ tháng 9 đến

tháng 12, gây lũ lụt nghiêm trọng. Trong điều kiện này, máy bay và tàu chiến địch

cũng không hoạt động được. Do đó, việc nghiên cứu kĩ yếu tố thời tiết để tìm giải

pháp khắc phục khó khăn và phát huy thuận lợi nhằm hạn chế đến mức tối đa hoạt

động đánh phá của đối phương là vấn đề mang tính thường trực của quân dân

Quảng Bình.

Như vậy, đặc điểm tự nhiên của Quảng Bình vừa có thuận lợi cho việc triển

khai thế trận chiến tranh nhân dân như địa hình nhiều rừng núi, hang động có thể

xây dựng các căn cứ, kho tàng, che dấu lực lượng cũng như nhanh chóng sử dụng

lực lượng tại chỗ cơ động đánh địch xâm nhập, … Trong trường hợp bị chia cắt,

mỗi vùng là một khu phòng thủ hoàn chỉnh. Ở vùng nông thôn đồng bằng, dân cư

sống tập trung ven các trục đường nên dễ huy động được nguồn nhân lực lớn để bảo

đảm giao thông khi cần thiết. Tuy vậy, nhìn chung điều kiện tự nhiên của Quảng

Bình trong chiến tranh khó khăn là cơ bản, trong đó lớn nhất là địa hình bị chia cắt

mạnh nên khó cho việc mở đường mới cũng như sửa chữa khi gặp mưa lũ hoặc bị

địch đánh phá. Do đó, công tác chi viện cách mạng miền Nam sẽ gặp rất nhiều khó

khăn. Địa thế hẹp bề ngang với nhiều cửa sông và mỏm núi ăn ra biển khó cho việc

phòng thủ trước những âm mưu xâm nhập bằng biệt kích hoặc tập kích, đổ bộ của

Page 32: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

28

địch hòng biến thành “nút chặn” con đường chi viện cách mạng miền Nam, chia

cắt, uy hiếp các mục tiêu nội địa.

Với đặc điểm và điều kiện tự nhiên, vị trí địa lí có ý nghĩa chiến lược quan

trọng như vậy, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Quảng

Bình cùng với Vĩnh Linh là tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, là hậu

phương trực tiếp của cách mạng miền Nam, trước hết là đối với Trị - Thiên. Với

tầm nhìn chiến lược, nhận rõ vị trí địa – chính trị, địa - quân sự của Quảng Bình,

ngay từ lần vào thăm (16-6-1957), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Quảng Bình

cùng với Vĩnh Linh ở tuyến đầu miền Bắc, tiếp giáp miền Nam. Mọi việc làm tốt hay

xấu của các cô, các chú ở đây đều có ảnh hưởng nhất định đến cách mạng miền

Nam, đều có ý nghĩa đối với việc bảo vệ miền Bắc. Nếu kẻ địch có hành động gì, thì

Quảng Bình, Vĩnh Linh phải đương đầu với chúng trước hết và phải đánh thắng

chúng trước hết” [40, tr. 278].

2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội

2.1.2.1. Về kinh tế

Cho đến trước cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ (1965), nền kinh tế Quảng

Bình chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Qua cải cách ruộng đất, hợp tác hóa nông

nghiệp và cải tạo xã hội chủ nghĩa, đến năm 1960, có 95% số hộ tham gia hợp tác

xã nông nghiệp, 74% số hộ vào hợp tác xã tín dụng, 66,6% hộ tham gia hợp tác xã

mua bán, 90,6% thợ thủ công tham gia hợp tác xã thủ công nghiệp, 32 hộ tư sản ở

Đồng Hới và Ba Đồn tham gia công tư hợp doanh, thành lập mới 7 xí nghiệp sản

xuất kinh doanh [33, tr. 90]. Nổi bật trong sản xuất nông nghiệp là Hợp tác xã Đại

Phong (Lệ Thủy), ngọn cờ đầu của phong trào hợp tác xã nông nghiệp toàn miền

Bắc. Trong ngư nghiệp, Quang Phú (Đồng Hới) là ngọn cờ đầu của hợp tác xã

nghề cá toàn miền Bắc. Trong những năm 1960-1962, phong trào thi đua “học

tập, tiến kịp và vượt Hợp tác xã Đại Phong” được phát động và dấy lên trong toàn

tỉnh. Kết quả, đến cuối năm 1962 có 200/780 hợp tác xã đạt danh hiệu “Hợp tác

xã Đại Phong”. Cùng với việc đẩy mạnh áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất

nông nghiệp, một loạt công trình thủy lợi được xây dựng như đê Hạc Hải, Rào

Page 33: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

29

Sen, Cẩm Ly (Lệ Thủy), Ba Nương (Tuyên Hóa), Sông Thai, Cự Nẫm (Bố Trạch),

… đã góp phần đưa năng suất lương thực tăng lên. Năm 1962, toàn tỉnh đạt sản

lượng 119.290 tấn, bình quân đầu người là 329kg (so với năm 1960 cao hơn

29.490 tấn và 29kg) [196, tr. 136]. Nhờ vậy, nhiều hợp tác xã trước đây thiếu ăn

nay đã tự túc được lương thực và nhiều hợp tác xã từ tự túc lương thực có dư thừa

bán nghĩa vụ cho nhà nước.

Trên lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, năm 1960, Quảng Bình có 18 xí nghiệp

công nghiệp quốc doanh, 4 xí nghiệp công tư hợp doanh và 2 xí nghiệp hợp tác.

Tỉnh ủy và Ủy ban Hành chính tỉnh có những chính sách và biện pháp chỉ đạo để

phát triển mạnh công nghiệp địa phương một cách vững chắc, xây dựng tiểu thủ

công nghiệp tiến dần lên cơ giới, đảm bảo cung cấp một phần tư liệu sản xuất, vật

phẩm tiêu dùng và vật liệu xây dựng. Kết quả, đến năm 1965, toàn tỉnh có 31 xí

nghiệp quốc doanh, 116 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, trong đó quan trọng và có

quy mô khá như xí nghiệp cơ khí 3-2, xí nghiệp cưa mộc Ba Đồn, xí nghiệp cưa

mộc Trị Thiên, xưởng cưa xẻ Ba Rền, xưởng gạch ngói Phúc Duệ, xí nghiệp đá Bến

Tiêm, xí nghiệp tàu Đồng Hới, xí nghiệp chế biến hải sản Bảo Ninh, xí nghiệp rượu

dâu Đồng Hới, …

Như vậy, phần lớn các xí nghiệp thủ công nghiệp ở Quảng Bình nặng về chế

biến thô từ nguồn tài nguyên tại chỗ của địa phương (gỗ, đá, thủy sản, …) nên trong

điều kiện có chiến tranh, những cơ sở này dễ phân tán và vẫn duy trì được sản xuất

bình thường, đảm bảo cung cấp vật liệu đá và gỗ phục vụ sửa chữa đường sá, xây

dựng hầm hào phòng tránh, … Mặt khác, do sản xuất thuần túy nông nghiệp nên

các mục tiêu kinh tế ở Quảng Bình rất phân tán, hạn chế được thiệt hại bởi các cuộc

đánh phá của đối phương, ngoại trừ những công trình thủy lợi.

Điều quan trọng là việc xây dựng được phong trào hợp tác xã mạnh về nhiều

mặt là điều kiện đảm bảo cho chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình phát huy được ưu

thế của mình như chủ động được việc bố trí, sắp xếp, huy động nhân lực sản xuất,

chiến đấu và phục vụ chiến đấu cũng như làm công tác chi viện cách mạng miền

Nam như tham gia xây dựng, sửa chữa đường sá, vận chuyển hàng hóa và hỗ trợ về

Page 34: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

30

mọi mặt cho chiến trường Trị - Thiên, chiến trường Lào, ngay cả khi có một bộ

phận lớn lực lượng thanh niên đã lên đường nhập ngũ.

2.1.2.2. Về xã hội

Cho đến năm 1965, dân số Quảng Bình có khoảng 41 vạn người, đa số là

người Kinh, nhưng phân bố không đều. Vùng miền núi rộng lớn chỉ có khoảng

4.000 người thuộc các dân tộc như Vân Kiều, Chứt sống rải rác trong các bản cách

nhau hàng ngày đường. Vùng ven biển có khoảng 24.000 người nhưng tập trung

chủ yếu ở các cửa sông. Do vậy, có những quãng biên giới, bờ biển dài 20-30km

không có người ở, dễ bị địch lợi dụng sơ hở để hoạt động gián điệp, biệt kích, xâm

nhập nội địa để chống phá. Trong khi đó, vùng đồng bằng nhỏ hẹp lại tập trung hơn

90% dân số bám theo các trục đường và ven sông [168, tr. 3]. Tuy có thuận lợi là dễ

huy động nguồn nhân lực lớn khi có yêu cầu nhưng với mật độ quá đông trên một

diện hẹp rất khó cho việc tổ chức phòng tránh, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại

về người và tài sản khi bị đánh phá cũng như cơ động lực lượng để đánh trả.

Việc dân số phân bố không đều gây ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã

hội cũng như đảm bảo an ninh, quốc phòng. Vùng miền núi rộng lớn tuy có nhiều

tiềm năng để phát triển nhưng còn quá thưa dân, trình độ nhận thức của đồng bào

dân tộc thiểu số còn hạn chế là khó khăn rất lớn trong việc khai thác tài nguyên

cũng như góp phần đấu tranh chống các hoạt động xâm nhập, phá hoại của địch.

Trong những năm trước chiến tranh, việc khai thác khu vực cận sơn đã được chú ý

bằng việc xây dựng một số nông trường dọc theo Đường 15 như Nông trường 1-5,

Nông trường Việt - Trung, Nông trường Lệ - Ninh, … Đây thực chất là mô hình quân

đội làm kinh tế trong thời bình, góp phần quan trọng thực hiện kinh tế kết hợp với

quốc phòng, hình thành tuyến hậu phương chiến lược trong chiến tranh 1. Tuy nhiên,

những vùng kinh tế mới như trên vẫn còn ít, một mảng lớn núi rừng vẫn còn bỏ trống.

Đây là địa bàn mà đối phương thường xuyên lợi dụng để hoạt động biệt kích. Khi

chiến tranh phá hoại của Mỹ diễn ra, phần lớn các tuyến đường chi viện cách mạng

1. Như Nông trường Việt - Trung có thể sửa chữa lớn 1.000 ô tô/năm, có sức chứa 2 sư đoàn

bộ binh.

Page 35: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

31

miền Nam đều đi qua địa bàn miền núi Quảng Bình nhưng việc huy động nguồn nhân

lực và vật lực tại chỗ để xây dựng, sửa chữa gặp rất nhiều khó khăn, chủ yếu phải đưa

thanh niên xung phong từ đồng bằng hoặc các tỉnh phía Bắc vào thực hiện.

Nhân dân Quảng Bình đa phần theo tín ngưỡng cổ truyền, số ít theo Phật giáo

và Thiên Chúa giáo. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở Quảng Bình không

còn tổ chức giáo hội Phật giáo nên không có những hoạt động phật sự. Thiên Chúa

giáo có khoảng 5 vạn người, tập trung ở Quảng Trạch và một số xã thuộc Tuyên

Hóa, Bố Trạch. Nhìn chung, đồng bào có truyền thống kính Chúa yêu nước, có

những đóng góp nhất định đối với công cuộc kháng chiến, giải phóng dân tộc. Sau

Hiệp định Genève (21-7-1954), bằng các biện pháp tuyên truyền, cưỡng ép và dụ

dỗ, chính quyền Ngô Đình Diệm đã đưa hơn 1 vạn người vào Nam [115, tr. 29],

trong đó phần lớn là đồng bào Thiên Chúa giáo. Thực dân Pháp còn cài lại nhiều

phần tử tay sai nhằm phá hoại công cuộc xây dựng chế độ mới. Mặt khác, khi tiến

hành phá hoại miền Bắc, địch lợi dụng những vùng ven biển và nơi tập trung đồng

bào Thiên Chúa giáo để tung người xâm nhập, tuyên truyền, kích động chống phá

chính quyền và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, song song với ổn định

mọi mặt đời sống xã hội sau chiến tranh, việc đấu tranh nhằm phát hiện, đấu tranh

với những phần tử phản động, làm sạch địa bàn, đảm bảo an toàn cho tuyến đầu

miền Bắc luôn là nhiệm vụ thường trực của quân dân Quảng Bình.

Nhìn chung, cộng đồng cư dân ở Quảng Bình tương đối thuần nhất. Nội bộ

nhân dân đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Nhân dân các dân tộc, tôn giáo

đều một lòng tin tưởng vào đường lối cách mạng của Đảng, cùng chia sẻ những

khó khăn, hỗ trợ nhau trong sản xuất và tích cực đóng góp sức người, sức của cho

sự nghiệp cách mạng nói chung, cho công cuộc bảo vệ quê hương, đất nước nói

riêng. Đây là một thuận lợi cơ bản để cấp ủy Đảng và chính quyền huy động mọi

lực lượng tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống thực dân Pháp và đế quốc

Mỹ xâm lược.

Page 36: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

32

2.1.3. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Quảng Bình

Quảng Bình là vùng đất thụ ứng, tiếp biến và lan tỏa văn hóa cùng với quá

trình mở nước để xác lập chủ quyền trên dải đất Việt Nam hình chữ S và vùng biển

đảo rộng lớn ngày nay. Đây là địa bàn giao thoa của văn minh Ấn Độ - Trung Hoa,

của nền văn hóa Đông Sơn - Sa Huỳnh, của các nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, một

thời biên viễn giữa Đại Việt với Champa, cũng là vùng đất nhiều lần là biên giới

chia cắt quốc gia/ vùng miền. Để sinh tồn, nhân dân Quảng Bình đã tạo lập cho

mình một “sức sống linh hoạt, nội lực thâm hậu, khả năng chịu đựng, hóa giải, gan

góc, nghị lực, bền bỉ và có biệt tài phát huy năng lực ấy, vượt khỏi không gian sinh

tồn nhỏ hẹp vốn có, để trở thành một thành phần quan trọng của sức mạnh quốc

gia” [158, tr. 87].

Từ sau năm 1069, vùng đất Quảng Bình (gồm hai châu Bố Chính và Địa Lý)

trở thành một phần của quốc gia Đại Việt. Cùng với quá trình di cư lập làng, nhân

dân Quảng Bình tham gia tích cực công cuộc khai phá vùng đất mới, cùng với triều

đình giữ yên bờ cõi. Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai chống quân Mông -

Nguyên xâm lược năm 1285, nhân dân Quảng Bình đã phối hợp tích cực với quân

triều đình chặn đánh quyết liệt, làm chậm bước tiến của đạo quân Toa Đô trên

đường từ Chiêm Thành ra Bắc. Nửa đầu thế kỉ XV, nhân dân Quảng Bình đã nhất

loạt nổi dậy phối hợp với nghĩa quân Lam Sơn do Trần Nguyên Hãn từ Nghệ An

kéo vào giải phóng Tân Bình.

Trong phong trào Tây Sơn cuối thế kỉ XVIII, nhân dân Quảng Bình hăng hái

tham gia đại quân của Quang Trung - Nguyễn Huệ, góp phần làm nên đại thắng

Xuân Kỉ Dậu 1789, quét sạch 29 vạn quân Thanh xâm lược ra khỏi đất nước.

Cuối thế kỉ XIX, trong phong trào Cần Vương, triều đình kháng chiến Hàm

Nghi chọn Quảng Bình làm nơi đứng chân. Tại đây, “kẻ có thế, người có tiền, mộ

phu binh lính, đổi nhà làm trường diễn võ, mang cơ nghiệp ra giúp quân lương, bỏ

cày cuốc cầm gươm súng” [119, tr. 21]. Những thủ lĩnh ở địa phương như Nguyễn

Phạm Tuân, Lê Trực, Đoàn Chí Tuân, Mai Lượng, Lê Mô Khởi, Đề Én, Đề Chít,

Hoàng Phúc, ... vốn là những người có uy tín nên khi họ đứng ra mộ quân, tập hợp

Page 37: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

33

lực lượng, đã được đông đảo nhân dân hưởng ứng. Chính những đội nghĩa quân

khắp nơi trong tỉnh đã kết thành một thế trận bao vây quân Pháp, nhiều phen gây

cho chúng những tổn thất lớn. Qua 3 năm kháng chiến anh dũng và sôi nổi của nhân

dân Quảng Bình dưới ngọn cờ Cần Vương (1885-1888), có thể thấy về thực chất

đây là cuộc chiến tranh của nhân dân chống Pháp dưới sự lãnh đạo của những sĩ phu

yêu nước dưới danh nghĩa “Cần Vương” để tập hợp lực lượng. Nguồn gốc sức

mạnh của phong trào ấy chính là của nhân dân, chủ yếu là nông dân Quảng Bình

trong cuộc chiến chống lại thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ xóm làng, quê hương.

Triều đình Hàm Nghi đã dựa vào phong trào mạnh mẽ, rộng lớn của nhân dân mà

tồn tại và phong trào Cần Vương của nhân dân cả nước nói chung, của nhân dân

Minh Hóa, Tuyên Hóa và các địa phương ở Quảng Bình nói riêng chính là gạch nối

để ngọn lửa yêu nước không những không bị gián đoạn mà còn có cơ hội bùng phát

trong thời kì đấu tranh giải phóng dân tộc giai đoạn sau [152].

Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), nhân dân Quảng Bình sớm

theo Đảng làm cách mạng. Trong Cách mạng tháng Tám 1945, khởi nghĩa giành

chính quyền ở Quảng Bình, bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân được biểu

hiện dưới hình thức biểu tình chính trị là chủ yếu và quyết định thắng lợi. Lực

lượng tự vệ vũ trang đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tinh thần đấu tranh

của nhân dân, thị uy và làm áp lực mạnh mẽ cho Ủy ban khởi nghĩa tiến hành thuyết

phục và bắt buộc quan lại Nam triều trao chính quyền cho nhân dân. Tại một số

phủ, huyện như Quảng Ninh, Lệ Thủy và Tuyên Hóa, Ủy ban khởi nghĩa đã dùng

đò, phà chuyên chở tự vệ và quần chúng nhân dân về phủ, huyện lị tiến hành khởi

nghĩa. Hàng trăm quần chúng của phủ Quảng Ninh đã tham gia giành chính quyền ở

thị xã Đồng Hới [116, tr. 511-512].

Từ cuối tháng 3-1947, khi thực dân Pháp tấn công Quảng Bình, quán triệt

đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện” của Đảng, thực hiện khẩu hiệu “mỗi

người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài”, công tác xây dựng làng

chiến đấu được đẩy mạnh khắp các địa phương trong tỉnh. Nhân dân huy động các

loại tre trồng kín quanh làng, làm cổng làng bằng tre gai, tổ chức tuần tra canh gác,

Page 38: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

34

phát hiện và kiểm tra những người lạ mặt vào làng. Hệ thống hầm hào, công sự

được đào đắp từ xóm này sang xóm khác, kết hợp với hầm chông, bãi mìn theo

phương án chiến đấu đánh ngoài làng, đánh trong làng. Một số khu vực trống trải

được cắm chông cao để đề phòng địch đổ bộ đường không, tiêu biểu đầu tiên ở

Quảng Bình trong kháng chiến chống Pháp có thể kể đến như Cự Nẫm (Bố Trạch),

Cảnh Dương (Quảng Trạch), Hoàn Lão (Bố Trạch), Hiển Lộc (Quảng Ninh), Hưng

Đạo (Lệ Thủy), [102, tr. 529].

Với tinh thần “Quảng Bình quật khởi”, làng chiến đấu đã tạo nên thế trận

chiến tranh nhân dân rộng khắp, một “thiên la địa võng” đánh địch mọi nơi mọi

lúc, tạo cơ sở cho lực lượng vũ trang của tỉnh mở những cuộc tấn công lớn. “Các

làng chiến đấu ấy không những chỉ bảo vệ hay che chở cho dân quân, mà còn là lợi

khí của dân quân để giết địch ngay tại chỗ” [105, tr. 54]. Đây là một sáng tạo nổi

bật của chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình, để cùng với quân dân Quảng Trị và

Thừa Thiên Huế làm nên một “Bình Trị Thiên khói lửa”, góp phần đi đến thắng lợi

trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Và truyền thống đó càng được nhân

lên, phát huy mạnh mẽ khi bước vào cuộc đối đầu với chiến tranh phá hoại nhiều

mặt của đế quốc Mỹ trong những năm 1965-1973.

2.2. Chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Quảng Bình

Ngay từ khi thay Pháp ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ nhận thấy miền

Bắc là căn cứ địa cách mạng của cả nước, là hậu phương lớn của tiền tuyến lớn

miền Nam. Vì thế, Mỹ thực hiện phá hoại, ngăn chặn miền Bắc chi viện cho cách

mạng miền Nam. Đối với Quảng Bình, do vị trí chiến lược của mình nên trở thành

một trọng điểm đánh phá của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, trong đó nổi lên hai hình

thức chủ yếu sau.

2.2.1. Phá hoại bằng gián điệp và biệt kích

Thực ra, từ năm 1961, triển khai chiến lược“Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ và

chính quyền Sài Gòn sử dụng gián điệp và biệt kích hòng gây ra “cuộc chiến trong

lòng Cộng sản” và thu thập thông tin chuẩn bị “Bắc tiến”, trong đó Quảng Bình là

một trọng điểm.

Page 39: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

35

Bằng những phương thức khác nhau, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tung người

ra Bắc theo cả đường bộ, đường biển và đường không. Do đặc điểm tự nhiên của

Quảng Bình phần lớn là rừng núi hiểm trở và có bờ biển dài, địa hình phức tạp nên

đối phương lợi dụng để tung gián điệp và biệt kích chủ yếu theo hai tuyến này.

Theo đường bộ, gián điệp xâm nhập qua biên giới Việt - Lào hoặc qua giới tuyến

quân sự tạm thời. Phương thức vượt tuyến của chúng hoặc bí mật hoặc công khai trà

trộn vào trong số người trốn ra Bắc với nhiều lí do, như trốn quân dịch, đầu hàng,

bất mãn, ... để nắm tin tức, móc nối với các tổ chức phản động cũ được cài lại.

Ngoài ra, lợi dụng đêm tối và địa hình phức tạp, đối phương nhiều lần dùng máy

bay thả biệt kích xuống vùng núi. Theo đường biển, chúng thường xâm nhập vào

khu vực Đèo Ngang và cảng Gianh và các bãi ngang ven biển, nơi dân cư thưa thớt,

khó phát hiện.

Hoạt động của gián điệp, biệt kích chủ yếu là điều tra về lực lượng quân đội,

tiềm lực và khả năng quốc phòng, các kho tàng quân sự và đường giao thông chiến

lược quan trọng; về lực lượng an ninh, dân quân tự vệ, thái độ chính trị của nhân

dân đối với Đảng và chính phủ; về mối quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ cộng hòa

với các nước xã hội chủ nghĩa; về các cơ sở kinh tế, phong tục tập quán của địa

phương, mẫu tiền của miền Bắc và các loại giấy tờ tùy thân của nhân dân. Đồng

thời, chúng tìm cách móc nối cơ sở, tăng cường phục kích bắt cóc, ám sát cán bộ,

bộ đội, phá hoại cầu cống, kho tàng, các mục tiêu trọng điểm trên địa bàn, … Trong

vòng 3 năm (từ tháng 6-1961 đến tháng 7-1964), Mỹ và chính quyền Sài Gòn tung

ra địa bàn Quảng Bình 10 toán biệt kích, với gần 100 tên.

Từ năm 1965, Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, hoạt động biệt kích

của chúng có sự thay đổi. Hàng loạt toán biệt kích, thám báo và biệt hải được tung

ra nhằm điều tra, chỉ điểm cho máy bay đánh phá, ngăn chặn các tuyến đường chiến

lược chi viện cách mạng miền Nam. Trên tuyến biên giới Việt - Lào, Mỹ và chính

quyền Sài Gòn sử dụng máy bay lên thẳng để tận dụng yếu tố cơ động cao đánh

nhanh, rút nhanh. Chúng còn tăng cường thả dù thám báo xuống khu vực ngoại

biên, sử dụng đất Lào làm bàn đạp để xâm nhập, phát hiện các tuyến đường vận

Page 40: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

36

chuyển cũng như các kho tàng, binh trạm, … Để tránh bị phát hiện, số này cải trang,

mang trang phục bộ đội và trang bị súng AK.47, … Từ đầu năm 1965 đến cuối năm

1968, chúng đánh xuống khu vực miền núi và ngoại biên Quảng Bình 28 vụ gián

điệp, biệt kích và thám báo.

Trên tuyến biển, một phương thức hoạt động mới là ngoài pháo kích từ các tàu

chiến vào đất liền còn sử dụng tàu biệt kích vào sát bờ và các cửa sông để uy hiếp

ngư dân, ngăn chặn các hoạt động vận chuyển và quan sát tình hình bố phòng của

ta. Thậm chí, liều lĩnh hơn, đối phương còn tập kích một số địa điểm như ngày 23-

1-1965, pháo kích ở Đông Thành (Đồng Hới) theo thủ đoạn: tiếp cận gần, bắn

nhanh, rút nhanh, bắn dồn dập làm cho ta không kịp đối phó [9]. Đối phương còn

vây bắt nhiều thuyền đánh cá, uy hiếp những người bị bắt, buộc họ phải làm việc

cho chúng. Mục đích của chúng bên cạnh ngăn chặn tuyến vận tải trên biển của ta

còn nhằm thu thập tin tức chuẩn bị cho những hoạt động tập kích ở quy mô lớn hơn.

Năm 1965, địch bắt 5 vụ, gồm 6 thuyền với 34 người. Trong số 4 thuyền được thả

ra, ta phát hiện có 7 người được đối phương cài cắm lại để điều tra tình hình và gây

dựng cơ sở.

Bước sang năm 1967-1968, địch tiếp tục tung các toán gián điệp, biệt kích

xuống nhiều địa bàn nội, ngoại biên giới phía Tây. Về đường biển, ngày 14-4-

1967 và 8-1967, biệt kích xâm nhập Thanh Trạch (Bố Trạch), ngày 6-6-1967 lên

Quảng Phúc và 17-7-1967 lên Quảng Đông (Quảng Trạch), 80 lần vây ngư dân,

bắt 267 người đưa vào Nam khai thác (trong đó có thả ra 187 người). Về đường

không, đối phương tung biệt kích bằng trực thăng hoặc nhảy dù xuống đường 12

và 20 nhằm theo dõi sự vận chuyển, phát hiện kho tàng để chỉ điểm cho máy bay

đánh phá và xây dựng cơ sở gián điệp. Ngày 30-10-1967, địch thả 10 tên xuống

Thanh Lạng [59].

Ngoài ra, việc cài cắm gián điệp vẫn được đối phương ráo riết thực hiện dưới

nhiều hình thức như lợi dụng trà trộn vào trong số những người dân ở miền Nam

vượt tuyến ra Bắc. Một thủ đoạn rất nham hiểm của đối phương nữa là dụ dỗ, ép

buộc những người bị tàu biệt kích bắt cung cấp tin tức ở địa phương hoặc làm việc

Page 41: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

37

cho chúng 1. Kết hợp, chiến tranh tâm lí được sử dụng dưới nhiều hình thức như rải

truyền đơn, thả hàng tâm lí chiến, viết thư nặc danh, thả nhiều radio chỉ bắt được 1

kênh đài Sài Gòn, … Năm 1967, chúng thả xuống địa phương 1.000 radio, 33 kiện

hàng, gồm áo quần, bánh kẹo, đồ chơi trẻ em,… [59, tr. 11].

Đến năm 1968, cùng với việc xuống thang chiến tranh, những hoạt động gián

điệp, biệt kích chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Mỹ cũng dừng lại. Tài liệu

của đối phương nói rõ: “Tháng 11-1968, SOG (Nhóm nghiên cứu và quan sát thuộc

Bộ Chỉ huy trợ giúp quân sự Mỹ ở Việt Nam - TG) nhận được một thông báo khẩn

của Washington. Bản thông báo yêu cầu chấm dứt tất cả hoạt động biên kia giới

tuyến. Tại sao điều đó lại xảy ra? Đại tá Cavanaugh, Chỉ huy trưởng của SOG tự

hỏi. Ông nhớ lại: "Không lâu sau khi tôi có mặt tại đó, Washington cho gọi tôi và

hỏi: Anh có toán nào đang hoạt động bên trên giới tuyến không? Tôi có ba toán, và

họ nói “Anh phải đưa họ về ngay lập tức, chúng ta chuẩn bị ngừng ném bom và

tuyên bố chúng ta không có hoạt động gì bên trên giới tuyến. Tôi nhớ kĩ bởi vì mệnh

lệnh này gây ra sự kinh hoàng do không thể có cách nào đưa họ về ngay được. Vì

thế, đó là lần cuối cùng chúng tôi đưa người ra Bắc” [143].

Trên thực tế, hầu hết các toán gián điệp, biệt kích do Mỹ và chính quyền Sài

Gòn cài cắm ra Quảng Bình hoặc bị nhân dân phát hiện và tiêu diệt hoặc bị bao vây,

cô lập, phân tán trong rừng núi, trà trộn vào một số vùng dân cư. Chúng hoàn toàn

không có khả năng trở về miền Nam theo lệnh của Mỹ nên nằm im chờ thời cơ tiếp

tục thực hiện âm mưu phá hoại miền Bắc.

Như vậy, việc xâm nhập phá hoại địa bàn Quảng Bình được đế quốc Mỹ và

chính quyền Sài Gòn coi là một mặt trận quan trọng trong kế hoạch của chiến tranh

phá hoại đối với miền Bắc nói chung. Với việc tiến hành các hoạt động phá hoại bằng

gián điệp, biệt kích thâm nhập sâu vào trong địa bàn, luồn sâu vào trong cộng đồng

dân cư, gây nên những khó khăn không chỉ về mặt vật chất mà còn tác động đến tinh

1. Với thủ đoạn lập một làng kiểu miền Bắc trên đảo Cù Lao Chàm (Quảng Nam) và tuyên

truyền đây là vùng giải phóng của phong trào “Gươm thiêng ái quốc” trong lòng Việt Nam

Dân chủ cộng hòa, địch dùng vật chất để cám dỗ những người bị chúng bắt, biến họ thành

điệp viên, sau đó thả trở lại địa phương. (Xem thêm Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội).

Page 42: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

38

thần của nhân dân. Vì thế, cuộc chiến đấu chống chiến tranh tâm lí, chiến tranh nội

gián và chống phá hoại bằng lực lượng gián điệp biệt kích là một bộ phận hữu cơ

trong thế trận chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

2.2.2. Phá hoại bằng không quân và hải quân

2.2.2.1. Chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (từ 7-2-1965 đến 1-11-1968)

Ngoài chiến tranh tâm lí, nội gián, phá hoại bằng việc xâm nhập gián điệp và

biệt kích …, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đẩy mạnh chiến tranh phá hoại

bằng sức mạnh tổng lực của không quân và hải quân.

Sau khi dựng lên cái gọi là “Sự kiện vịnh Bắc Bộ”, làm nguyên cớ để gây chiến

tranh phá hoại nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, ngày 5-8-1964, Johnson ra lệnh

cho không quân Mỹ đánh phá các căn cứ hải quân ở cửa sông Gianh (Quảng Bình),

Vinh, Bến Thủy (Nghệ An), Lạch Trường (Thanh Hóa) và thị xã Hòn Gai (Quảng

Ninh). Đêm 6-2-1965, quân Giải phóng tấn công một căn cứ Mỹ ở Pleiku. Ngay ngày

hôm sau (7-2-1965) Johnson ra lệnh không quân Mỹ “trả đũa” bằng chiến dịch “Mũi

lao lửa” (Flaming Dart), đánh phá thị xã Đồng Hới và đảo Cồn Cỏ. Tiếp theo, từ

ngày 2-3-1965, Mỹ triển khai chiến dịch Sấm Rền (Operation Rolling Thunder), huy

động một lực lượng không quân rất lớn, với hàng nghìn máy bay tối tân thuộc 50 loại

khác nhau, cùng toàn bộ Hạm đội 7 - hạm đội lớn nhất của Mỹ - thực hiện chiến tranh

phá hoại nhằm “đẩy lùi miền Bắc trở về thời kì đồ đá” [36, tr. 153]. Tổng cộng, từ

ngày 7-2-1965 đến ngày 1-11-1968, không quân Mỹ tiến hành hơn 190.000 trận, ném

hơn 700.000 tấn bom vào các mục tiêu quân sự, đầu mối giao thông, cơ sở kinh tế và

khu dân cư trên khắp miền Bắc. Cùng với việc sử dụng không quân, từ tháng 10-

1966, Mỹ huy động lực lượng lớn hải quân đánh phá ven biển và ngăn chặn tuyến

vận chuyển tiếp tế trên biển từ miền Bắc vào miền Nam.

Để chống lại chiến tranh phá hoại, quân dân miền Bắc xây dựng và phát triển

lực lượng phòng không, phòng thủ bờ biển của ba thứ quân, tổ chức phòng tránh và

đánh trả, bắn rơi 3.243 máy bay (có 6 B.52 và 3 F.111), bắn chìm, bắn cháy 143 tàu

chiến, tàu biệt kích của Mỹ. Bị thất bại trên cả hai miền Nam Bắc Việt Nam, từ

ngày 31-3-1968 Mỹ buộc phải thực hiện ném bom hạn chế từ vĩ tuyến 20 trở vào và

đến ngày 1-11-1968 thì chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc.

Page 43: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

39

Như thế, cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ thực chất là cuộc chiến

tranh xâm lược hạn chế, được tiến hành bằng những phương tiện chiến tranh và vũ

khí hiện đại nhằm phá hoại tiềm lực kinh tế - quốc phòng, ngăn chặn và cắt đứt

nguồn viện trợ quốc tế cho Việt Nam và sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam,

làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, cứu nguy cho sự sụp đổ

của quân đội và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam.

Đối với Quảng Bình, do là trung tâm của tuyến đường chi viện từ hậu phương

miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam nên khi tiến hành chiến tranh phá hoại, đế quốc

Mỹ đánh phá với mức độ ngày càng tăng theo từng bước leo thang chiến tranh cũng

như tỉ lệ thuận với tốc độ chi viện qua địa bàn, nhất là từ sau khi ta mở Mặt trận

đường 9 - Bắc Quảng Trị (6-1966).

Có thể khái quát diễn biến cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ ở

Quảng Bình thành 2 giai đoạn: Giai đoạn “leo thang” (7-2-1965 – 31-3-1968) và

giai đoạn “xuống thang” (từ 1-4 đến 1-11-1968).

Giai đoạn “leo thang” chia làm 3 bước:

Bước 1 (từ 7-2 đến 31-5-1965). Không quân Mỹ đánh phá Quảng Bình 5 đợt,

với thủ đoạn chuyển từ đánh “trả đũa” từng trận vào các mục tiêu quân sự sang

đánh liên tục mang tính tập kích chiến lược nhằm vào từng loại mục tiêu. Cùng thời

gian, tàu chiến Mỹ tuần tiễu ngăn chặn tuyến “đường Hồ Chí Minh trên biển” và

trinh sát dọc bờ biển, đồng thời tàu biệt kích của Việt Nam cộng hòa liên tục quấy

rối, vây bắt ngư dân trên biển, tung biệt kích lên bờ hoặc thả hàng tâm lí chiến tranh

1 và bắn phá một số vùng ven biển.

Mục tiêu đánh phá của không quân Mỹ trước hết là các mục tiêu quân sự theo

thứ tự: sinh lực (doanh trại), kho tàng, trạm ra-đa, các cầu quan trọng sau đó đánh

rộng ra các mục tiêu kinh tế, hành chính, dân cư và mục tiêu giao thông dần trở

thành chủ yếu. Thủ đoạn đánh phá trong từng trận là dùng lực lượng lớn tập trung

vào từng loại mục tiêu (trung bình mỗi trận/1 mục tiêu, Mỹ dùng 30-400 lần chiếc).

1. Chỉ trong năm 1965, Mỹ đã thả 77 triệu tờ truyền đơn và 15.000 gói hàng xuống miền

Bắc [142, tr. 22].

Page 44: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

40

Lượng bom đạn sử dụng cho mỗi trận rất lớn nhằm dứt điểm mục tiêu, như trận

Bang (Lệ Thủy) ngày 2-3-1965 Mỹ thả 120 tấn bom, ở cảng Gianh 70 tấn, ở Mỹ

Đức (19-4-1965) 300 quả bom tạ. Bom đạn sử dụng chủ yếu là bom phá, bom sát

thương loại 250-450kg, rốc-két, napal, bom bi và tên lửa không đối đất.

Bước 2 (từ 2-6-1965 đến 6-1966). Cùng với việc đổ quân vào miền Nam Việt

Nam, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra Bắc vĩ tuyến 20, chuyển hẳn

sang đánh phá mục tiêu giao thông vận tải, đánh cả đường bộ, đường thủy, đường

liên xã, cho đến cầu cống nhỏ phục vụ người đi bộ và gia súc. Chúng còn đánh vào

các phương tiện vận tải từ ô tô, ca nô, tàu thuyền lớn nhỏ, thậm chí cả những đò

ngang, xe bò, xe đạp thồ, … rồi những lực lượng và phương tiện sửa chữa hoặc đảm

bảo vượt sông, kho tàng, bến bãi, … Trên địa bàn Quân khu 4, không gian đánh

chuyển dịch dần từ Nghệ An vào Quảng Bình và từ đầu năm 1966 trở đi, Quảng

Bình là trọng điểm, trong đó tập trung là các đầu mối giao thông, bến bãi trên Quốc

lộ 1, 15, 12. Ác liệt nhất là các đoạn Tú Loan, Khe Nước, Gianh, Roòn, Xuân Sơn,

Quán Hàu, Long Đại, Cà Tang, Ba Đa, Khe Ve, …

Về phương thức đánh phá giao thông của địch lúc này là tập trung trọng điểm,

đồng thời khống chế toàn tuyến. Chúng vừa đánh theo kế hoạch định sẵn vừa kết

hợp với đánh theo mục tiêu do phi công tự chọn trong khi hành tiến. Theo thời gian,

tỉ lệ đánh theo mục tiêu tự chọn càng tăng, diễn ra cả ngày lẫn đêm, tỉ lệ đánh đến

cuối năm 1965 khoảng 15%, những tháng đầu năm 1966 tăng lên 30%.

Về vũ khí, ngoài bom phá, Mỹ sử dụng bom bi và bom nổ chậm. Về bom bi,

Mỹ đánh vào cầu, phà, các đoạn đường lầy, đường hiểm (có nơi bom bi rải dài từ 6

đến 10km, rộng 50 đến 100m), đánh vào lực lượng sửa chữa và các đoàn xe. Về

bom nổ chậm, ngày 22-9-1965, chúng thả ở cầu Bùng (Bố Trạch) và Mường Xén;

ngày 5-3-1966 thả ở Khe Ve; 5-4-1966 thả ở Long Đại, …

Bước 3 (từ 6-1966 đến 31-3-1968). Từ tháng 6-1966, ta mở Mặt trận Đường 9

- Bắc Quảng Trị (B.5). Ban đầu, B.5 đặt Sở Chỉ huy ở chợ Cộn (tây Đồng Hới),

Quảng Bình trở thành hậu phương của B.5, nơi tập kết của các lực lượng trước khi

vào chiến trường và quay ra củng cố sau mỗi chiến dịch. Do đó, thời gian này, Mỹ

Page 45: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

41

vừa tiếp tục đánh phá giao thông vận tải đồng thời vừa đánh hậu phương chiến dịch

của Mặt trận B.5.

Trong bước 3 “leo thang” đánh phá Quảng Bình, đế quốc Mỹ hướng tới tất cả

các mục tiêu quốc phòng và dân sinh, trong đó trọng điểm đánh phá là hệ thống

giao thông và cơ sở hậu phương chiến dịch.

Về đánh giao thông, máy bay Mỹ đánh toàn diện kết hợp đánh trọng điểm

như ở bước 2 nhưng mức độ ác liệt hơn và thủ đoạn nham hiểm hơn. Trọng điểm

đánh phá của Mỹ lúc này là bắc Nghệ An (nhằm ngăn chặn vận chuyển từ Bắc

vào) và Quảng Bình (nhằm ngăn chặn vận chuyển vào Mặt trận B.5). Đồng thời,

Mỹ tăng cường đánh phá các trục đường tây Quảng Bình nhằm ngăn chặn chi viện

vào Nam, tập trung ở các điểm như Làng Ho, Cha Lo, Mụ Dạ, … Ngoài các mục

tiêu cầu phà, địch còn đánh mặt đường, phá hủy từng đoạn dài từ 2-4km nhằm gây

khó khăn cho việc sửa chữa, kéo dài thời gian khắc phục, gây ách tắc hoặc ùn ứ để

phát hiện đánh phá các mục tiêu di động. Thủ đoạn này thường thực hiện trước

mỗi đợt mưa nhằm lợi dụng thời tiết xấu để tăng hiệu quả đánh phá. Ngoài bom

đạn thông thường, thủy lôi, bom nổ chậm, bom cháy, bom bi cũng được sử dụng

kết hợp. Chất độc hóa học và bom B.52 được sử dụng để phát quang hai bên các

trục đường, có những nơi dài từ 20-50km.

Đi đôi với việc đánh phá bằng không quân và hải quân, đế quốc Mỹ và chính

quyền Sài Gòn còn huy động khí tài quân sự tầm xa từ phía Nam vĩ tuyến 17 bắn

ra Quảng Bình, Vĩnh Linh nhằm phá hoại hậu phương chiến dịch. Từ đầu năm

1967, Mỹ tăng cường thêm pháo 175ly ở căn cứ Dốc Miếu bắn đạn pháo nặng tới

68kg, tầm bắn ra đến tận Sen Thủy (Lệ Thủy) có sức công phá không kém một trái

bom và được chúng bắn phá bất kể ngày đêm, trong mọi điều kiện thời tiết đã gây

nên mối nguy hiểm thường xuyên, tạo nên tâm lí căng thẳng đối với nhân dân

những địa phương ở Nam Quảng Bình. Mục đích đánh phá của địch là tiêu hao,

tiêu diệt sinh lực, phá hủy phương tiện chiến đấu và tư liệu sinh hoạt của bộ đội và

nhân dân, phá hủy các vật thể và địa vật mà chúng nghi ngờ, nhằm làm ta mất chỗ

tập kết lực lượng.

Page 46: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

42

Đặc biệt, thời gian này, máy bay Mỹ mở rộng đánh phá các công trình kinh

tế, dân sinh và làng mạc hết sức tàn bạo. Tất cả 68 công trình thủy lợi đều bị đánh

phá hư hỏng nhiều lần, trong đó công trình thủy nông Đá Mài bị phá hoàn toàn,

72km đê ngăn mặn bị cắt từng đoạn khiến nước mặn tràn vào làm hàng ngàn hec-

ta đất không sản xuất được. Những làng mạc gần các đầu mối giao thông quan

trọng đều bị đánh phá như Quy Hậu, Liên Thủy, Mỹ Đức, Nhân Trạch, Phù Hóa,

Chánh Trực, … Thủ đoạn đánh có khi là rải bom bi, rốc-két, pháo 20ly bao quanh

làng rồi thả hàng trăm quả bom tạ, bom napal vào giữa làng để hủy hoại nhà cửa

và nhân dân như ở Liêm Lập và Liêm Bắc (Lệ Thủy); hoặc có khi chúng ném bom

vào giữa làng rồi rải xung quanh không cho dân chạy như ở Thượng Nam và

Thượng Bắc (Ngư Thủy); có làng bị đánh đi đánh lại nhiều lần theo kiểu hủy diệt

như Quảng Phúc và Thanh Trạch.

Gây khó khăn lớn nhất cho ta là việc đối phương đánh khống chế ngăn chặn.

Mục đích là làm trở ngại sự cơ động của ta hoặc làm thiệt hại sinh lực, phương tiện,

vật tư. Mỹ chia làm hai tuyến ngăn chặn, gồm tuyến khống chế gần (Vĩnh Linh) và

tuyến ngăn chặn xa (Quảng Bình), với những trọng điểm như Xuân Sơn, Quán Hàu,

Long Đại. Mục tiêu là nhằm vào các thiết bị cố định như bến phà, cầu phà với thủ

đoạn đánh vài ngày rồi nghỉ kết hợp đánh liên tục ngày đêm không cho ta vượt

sông; đồng thời đánh các đoàn xe, chân hàng, nơi cất dấu xe, phương tiện vận

chuyển, lực lượng và phương tiện sửa chữa, thủ đoạn đánh phá giống như đánh giao

thông vận tải chiến lược, nhưng mức độ tập trung, liên tục và ác liệt hơn. Chẳng

hạn, ở Xuân Sơn, chỉ từ đầu tháng 6 đến cuối tháng 7-1966, Mỹ đánh liên tục 55

ngày đêm. Đồng thời, các đoàn xe, chân hàng, nơi cất dấu xe, lực lượng và phương

tiện sửa chữa cũng bị đánh với mức độ tập trung, liên tục và ác liệt hơn. Trong bước

này, địch bắn phá 18.885 lần, trong đó đánh giao thông 17.359 lần. So với trước khi

ta mở mặt trận B.5, số lần đánh mỗi tháng tăng 4,7 lần, số lần đánh giao thông tăng

5 lần. Số lượng bom đạn cũng tăng lên tương ứng. Đặc biệt, Mỹ sử dụng tới 3.979

quả bom cháy (trước là 122 quả), 4.397 loạt bom bi (trước là 917 loạt). Số lần

Page 47: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

43

đánh/tháng cao nhất thời gian trước là 644, đến bước 3 là 2.656 lần và tăng số lượt

đánh đêm lên 49% [136, tr. 56].

Kết hợp với không quân và pháo binh, từ ngày 14-2-1967, Mỹ sử dụng tàu

chiến thường xuyên pháo kích dọc bờ biển, tập trung đoạn từ Nhật Lệ ra Roòn. Từ

tháng 2 đến tháng 6-1967, thường có 1-2 khu trục hạm vào cách bờ 6-8 hải lí bắn phá

đất liền. Sau do bị bắn trả, gây thiệt hại nên chúng chỉ vào cách bờ 8-12 hải lí và tăng

thêm 3-4 tuần dương hạm để bắn phá. Để đối phó với hỏa lực ta, chúng thay đổi thủ

đoạn như dùng tốc độ nhanh chạy từ ngoài khơi vào hướng mục tiêu rồi rẽ ngang

chạy song song với bờ bắn liên tục 3-5 phút rồi rút hoặc lợi dụng những lúc thời tiết

có nhiều sương mù để tiếp cận bờ bắn phá. Hoặc có lúc chúng dùng khu trục hạm vào

bắn phá nhằm phát hiện trận địa hỏa lực để tuần dương hạm ở phía sau đánh phá hoặc

gọi máy bay đến oanh tạc. Cũng có lúc, bị đánh trả, tàu địch xả khói đen che mục tiêu

rồi rút chạy [59, tr. 10].

Hậu quả là đến tháng 12-1966, đã có gần 1 vạn ngôi nhà ở 5 khu phố thuộc

Đồng Hới, 1 thị trấn (Ba Đồn), 8 xã và 77 làng bị tàn phá hết sức nặng nề. Một số

xã như Cảnh Dương, Đức Trạch, Nhân Trạch, Sơn Trạch, Dân Hóa, Ngư Thủy, …

bị phá hủy gần hết. Ngoài ra, trên hai ngàn con trâu bò bị giết và hàng ngàn thuyền

bè bị phá [18, tr.3].

Giai đoạn “xuống thang” (từ 1-4 đến 1-11-1968), cuộc Tổng tiến công nổi

dậy Xuân 1968 của quân dân ta trên khắp miền Nam cùng việc không đạt mục đích

trong chiến tranh phá hoại miền Bắc đã buộc Nhà Trắng phải “xuống thang”, ném

bom “hạn chế” từ vĩ tuyến 20 trở vào (từ ngày 1-4-1968). Thực chất đây là thủ

đoạn mới nhằm lừa bịp dư luận, bởi chọn khu vực này, Mỹ đã biến Khu 4 thành

“nút chặn” khổng lồ, ngăn chặn toàn bộ các tuyến đường chi viện từ miền Bắc vào.

Cũng với lượng bom đạn như đã sử dụng trước đó ở cả miền Bắc nhưng tập trung

trên một địa bàn hẹp, các mục tiêu tập trung hơn nên quy mô và cường độ đánh phá

vùng “cán soong” tăng gấp nhiều lần, do đó hiệu quả đánh phá cao hơn. Từ tháng 4

đến tháng 10-1968, địch huy động 79.000 lần máy bay chiến thuật và máy bay B.52,

4.596 lần tàu tuần dương, tàu khu trục đánh phá Quảng Bình. Mục tiêu chúng tập

Page 48: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

44

trung đánh là giao thông vận tải, vùng đông dân cư với thủ đoạn đánh điểm kết hợp

khống chế toàn tuyến, thả bom từ trường dày đặc, đánh bổ sung, gối đầu các tuyến

sông, bến vượt, tăng cường máy bay trinh sát sục sạo xăm tìm nơi tập kết xe cộ, cất

giữ hàng hóa để ném bom. Các điểm như Ca Tang, Khe Ve, Xuân Sơn, Long Đại

(Đường 15), La Trọng, Bãi Dinh (Đường 12), cây số 20, cây số 44 đến cây số 48,

cây số 67-68 (Đường 20) trở thành những điểm tắc. Ở mỗi điểm, địch tập trung

đánh phá để cắt đứt, khi ta phát triển đường vòng tránh, địch lại đánh vào điểm mới

ở giữa hai đầu đoạn tắc, do đó các đoạn tắc kéo dài dần, có đoạn dài 2-3km. Chúng

đánh chặn cả đường tránh, làm cho chiều ngang đoạn tắc lên tới 500-700m. Đồng

thời với đánh bít ở điểm mới, địch còn liên tục đánh bổ sung điểm cũ không cho ta

khôi phục. Kết hợp với đánh giao thông, địch còn lùng sục tìm xe và hàng ùn tắc hai

đầu đoạn tắc. Để nâng hiệu quả cắt giao thông, địch kết hợp nhiều thủ đoạn khác

nhau, như ở Ca Tang, trước mùa mưa, địch tập trung đánh liên tục, lợi dụng mưa

làm nhão bùn, gây tắc dài ngày sau khi đánh. Đối với những điểm đi qua vách núi

cao, chúng dùng tên lửa làm đổ đất đá xuống lấp đường, …

Những thủ đoạn đánh phá nói trên của Mỹ đã gây cho ta khó khăn rất lớn.

“Đường 15 từ ngã ba Đồng Lộc vào đèo Đá Đẽo, Xuân Sơn bị tắc liên tục. Nhiều

tháng phương tiện vận tải cơ giới từ nam Hà Tĩnh đến Quảng Bình hầu như ngừng

hoạt động” [84, tr. 303]. Hậu quả là đầu tháng 4-1968, “hàng và xăng không vào

được đã đặt Đoàn 559 trước những thử thách nghiêm trọng. Tư lệnh Đồng Sỹ

Nguyên điện báo cáo về Bộ: do thiếu xăng, xe phải ngừng hoạt động. Nếu không kịp

chuyển xăng vào sẽ có nguy cơ hàng vạn bộ đội bị đói” [84, tr. 305].

2.2.2.2. Giai đoạn ngừng ném bom miền Bắc (từ 1-11-1968 đến 5-4-1972)

Từ ngày 1-11-1968, tuy Nhà Trắng buộc phải chấm dứt chiến tranh phá hoại

miền Bắc nhưng trên địa bàn Quảng Bình, máy bay Mỹ vẫn thường xuyên bay trinh

sát vũ trang và bắn phá các trọng điểm trên Đường 20 và cửa khẩu Cha Lo. Trong

tháng 11-1968, Mỹ sử dụng các loại máy bay RF4C, RF101, F.4, L.19, EC121, U2,

… tiến hành 162 vụ trinh sát các cửa khẩu, dọc đường 12, 16, 18 và 20. Ngày 26 và

27-11-1968, máy bay Mỹ ném bom Đường 20 và Đồng Hới, Quảng Ninh, Minh

Page 49: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

45

Hóa. Trên các cửa khẩu biên giới, máy bay B.52 và AC.130 đánh phá với mức độ

như trước khi tuyên bố ngừng bắn. Trong nửa đầu tháng 12-1968, máy bay Mỹ tiến

hành 270 lần bay trinh sát, 3 tháng đầu năm 1969 lên tới 609 lần. Song song với

trinh sát, từ biên giới Việt - Lào, máy bay địch ném bom lan dần xuống đường 12

và 20, làm 75 người chết, 161 người bị thương, 33 ô tô bị hỏng và một số kho tàng

bị hư hại. Bên cạnh đó, địch đánh vào 22 khu dân cư làm 89 người chết, 143 người

bị thương, nhiều nhà cửa và tài sản của nhân dân bị hư hỏng.

Thời gian này, hoạt động biệt kích và chiến tranh tâm lí của địch cũng tiếp

diễn, nhất là ở khu vực miền núi, với phương thức xâm nhập nhanh, phá hoại nhanh

rồi rút nhanh. Cuối tháng 2-1969, biệt kích Sài Gòn đổ bộ xuống đồi A Chốc đốt

phá một số lán trại của thanh niên xung phong trên đường 16. Lợi dụng điều kiện

sương mù, nhiều toán biệt kích đổ xuống các đỉnh núi thuộc dãy Giăng Màn, sử

dụng súng cối hoặc súng máy tập kích các đoàn xe vận tải trên Đường 12 [129, tr.

635]. Máy bay L.19 nhiều lần xâm nhập vùng trời tây nam Lệ Thủy rải truyền đơn

kêu gọi bộ đội quy thuận. Phối hợp với thủ đoạn đó, trong nội địa, một số phần tử

phản động tung luận điệu Mỹ sẽ đánh phá lại ác liệt hơn, …

Ở trên biển, thường xuyên có 1-2 tàu sân bay hoạt động cách bờ 80-90 hải lí, ở

gần hơn có 3-4 tàu khu trục, có khi chúng vào dưới 20 hải lí để theo dõi, khống chế

các phương tiện vận chuyển ra vào cảng Gianh và Nhật Lệ. Ngoài ra, tàu biệt kích

Sài Gòn vẫn thường xuyên hoạt động, rượt bắt, bắn phá tàu vận tải và thuyền đánh

cá. Có khi, ở khu vực Nhật Lệ - Hòn Gió, chúng vào cách bờ 10-15 hải lí.

Ngày 21-11-1970, máy bay Mỹ đánh phá một số địa phương ở miền Bắc,

trong đó có Quảng Bình 1. Mục tiêu chính vẫn là các trục đường giao thông, các bến

bãi vượt sông và xe vận tải đang chạy trên đường cũng như các chân hàng của Đoàn

559 ở Tuyên Hóa, Minh Hóa, Bố Trạch [165].

Như thế, khác với các địa phương khác trên miền Bắc, tuy “xuống thang”

nhưng trên địa bàn Quảng Bình, Mỹ và chính quyền Sài Gòn vẫn thực hiện những

1. Đây là trận đánh nghi binh nhằm phân tán hỏa lực ta để hỗ trợ cho cuộc tập kích giải

thoát tù binh phi công Mỹ ở nhà tù Sơn Tây (TG).

Page 50: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

46

phi vụ đánh phá nhằm gây mất ổn định hậu phương. Vì thế, trong thời gian này, ở

Quảng Bình, trạng thái hòa bình đan xen chiến tranh vẫn tiếp diễn. Quảng Bình

vẫn chưa có ngày bình yên. Chiến tranh vẫn đe dọa từng ngày, từng giờ trên

không và trên biển.

2.2.2.3. Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai (từ 6-4-1972 đến 15-1-1973)

Cuộc tiến công chiến lược 1972 của quân dân ta đã đẩy chiến lược “Việt Nam

hóa chiến tranh” vào nguy cơ phá sản, buộc Nhà Trắng phải “Mỹ hóa” lại cuộc

chiến tranh. Ngày 6-4-1972, tàu chiến Mỹ bắn phá trên 500 quả đạn pháo dọc bờ

biển Quảng Bình, mở đầu cho cuộc chiến phá hoại miền Bắc có quy mô và cường

độ khốc liệt hơn nhiều những năm trước. Ngay trong tuần đầu tiên, Quốc lộ 1 từ

Đèo Ngang đến Quán Hàu, Tỉnh lộ 1 từ Ba Đồn lên Quảng Trường, Tỉnh lộ 2 từ

Hoàn Lão đến Cự Nẫm, Đường 15 từ Long Đại đến Thạch Bàn và các đầu mối

đường 10, 16, 20, cảng Gianh, cảng Nhật Lệ, Cửa Roòn, … đều bị đánh phá. Từ

tháng 5-1972, đế quốc Mỹ phong tỏa toàn diện đối với Quảng Bình. Tuyến vận tải

đường biển Bến Thủy - Gianh với công suất 4.000 tấn hàng/tháng bị tắc hoàn toàn.

Cùng với phong tỏa, cường độ đánh phá của không quân Mỹ tăng nhanh về mức độ,

phương tiện vũ khí và phương thức tiến hành. Chúng tập trung đánh hủy diệt từ gốc,

nhằm vào các chân hàng là chủ yếu. Trên các tuyến đường bộ, chúng không đánh

phá mặt đường mà tập trung đánh sập các cầu cống trọng yếu nhằm cắt đường.

Những vũ khí mới được đưa ra sử dụng như bom laze, tên lửa có điều khiển đánh

vào những mục tiêu rất nhỏ như khẩu đội 12,7ly, khiến lực lượng phòng không đối

phó hết sức khó khăn. Máy bay ném bom chiến lược B.52 được sử dụng thường

xuyên, với quy mô và cường độ ngày càng cao nhằm chặn đứng tuyến chi viện từ

hậu phương vào chiến trường Quảng Trị. Có ngày, chúng sử dụng tới 700 lượt chiếc

đánh phá đồng loạt tất cả các tuyến giao thông vận tải, trong đó tập trung trên Quốc

lộ 1, Đường 20 và các vùng dân cư. Ở cảng Hòn La, Mỹ đã huy động 1.500 lần máy

bay đánh trên 700 trận, ném xuống gần 1.000 loạt bom phá, 149 loạt bom bi, 540

loạt rốc-két, 6.006 loạt đạn 20ly, 124 quả đạn cối, 149 quả bom từ trường, … [153,

tr. 681]. Cùng lúc, tàu chiến Mỹ hoạt động mạnh, thường xuyên pháo kích các mục

Page 51: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

47

tiêu ven bờ, dọc Quốc lộ 1 và Đường 15. Mức độ và thủ đoạn đánh phá của địch

khiến hệ thống giao thông bị tê liệt. Các xe không có hàng để vận chuyển cũng như

không thể lưu thông trên đường. Hậu quả là khối lượng vật chất từ miền Bắc đưa

vào chỉ đạt 64% kế hoạch.

Qua tháng 6-1972 trở đi, mức độ đánh phá của Mỹ càng tăng. Từ ngày 8-6-

1972, máy bay B.52 ném bom nhiều mục tiêu trên địa bàn. Ngoài đánh những tuyến

vận chuyển, B.52 còn rải thảm các khu dân cư và mục tiêu kinh tế. Mật độ sử dụng

B.52 từ 4-6 tốp lên 10 tốp/ngày đêm. Ở xã Quảng Phúc (Quảng Trạch), Mỹ đánh

đúng lúc bà con giáo dân đang hành lễ. Ở Phúc Trạch, Mỹ đánh liên tiếp 3 trận vào

lúc địa phương đang bị lũ lụt, hầm hào ngập nước, làm chết 57 người. Bệnh viện

Đồng Hới bị bom B.52 làm 33 bệnh nhân và nhân viên y tế chết. Thôn Vĩnh Tuy 5

lần di chuyển chỗ ở, cả 5 lần đều bị đánh, 200/350 nóc nhà bị phá, 30 người chết.

Các cơ sở sản xuất mới được khôi phục như trạm điện Ninh Phước Thượng, Rào

Nan, Quảng Trường, lò vôi Thanh Khê, lò gạch Lộc Đại, … đều bị đánh hỏng. Mức

độ tàn bạo của cuộc chiến tranh phá hoại lần 2 còn được đẩy lên cao hơn khi Mỹ lợi

dụng mùa mưa đánh vào hệ thống thủy lợi nhằm gây tai họa “kép”, uy hiếp cuộc

sống của nhân dân vùng trũng, ...

Cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn

bằng chiến tranh tâm lí, chiến tranh phá hoại bằng gián điệp, biệt kích và đánh phá

bằng không quân và hải quân thực sự là một cuộc chiến tranh tổng lực đã đặt cả dân

tộc Việt Nam trước những thử thách nghiêm trọng. Trong đó, do vị trí chiến lược

quan trọng về nhiều mặt, Quảng Bình trở thành một trọng điểm của cả miền Bắc

trong cuộc đối đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ hậu

phương lớn và đảm bảo chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Để thực hiện nhiệm

vụ đó, nhân dân miền Bắc nói chung, nhân dân Quảng Bình nói riêng đã huy động

toàn bộ sức mạnh tinh thần và vật chất, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân với

những hình thái chiến tranh đa dạng linh hoạt, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh

bại chiến tranh tổng lực của đế quốc Mỹ.

Page 52: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

48

2.3. Chủ trương của Đảng về chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ

2.3.1. Chủ trương của Trung ương Đảng và Quân khu 4

Việt Nam do có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực Đông Nam châu Á nên

thường xuyên phải đối mặt với nạn ngoại xâm từ những thế lực lớn mạnh hơn nhiều

lần. Do đó, ở Việt Nam sớm hình thành nên cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp,

do toàn dân tiến hành một cách toàn diện nhằm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.

Chiến tranh nhân dân Việt Nam kế thừa những tinh hoa quân sự của lịch sử nhân

loại và phát triển sáng tạo thành những truyền thống quân sự độc đáo của dân tộc

mà nổi bật là “cả nước một lòng chung sức đánh giặc”, “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy

ít địch nhiều”, “lấy yếu trị mạnh” ... Trong thế kỉ XX, trên cơ sở kết hợp đúng đắn

học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội với di sản, truyền thống quân sự

của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa chiến tranh

nhân dân phát triển lên một trình độ mới, một chất lượng mới cao hơn, trở thành

cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện. Lực lượng tiến hành chiến tranh nhân dân là

toàn dân đánh giặc, gồm lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt và lực lượng

chính trị quần chúng; lực lượng chính trị quần chúng vừa là cơ sở để xây dựng, phát

triển lực lượng vũ trang, vừa là chỗ dựa vững chắc để lực lượng vũ trang hoạt động

tác chiến, vừa phối hợp với lực lượng vũ trang tiến công, phản công quân địch. Sức

mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam còn được tạo ra bằng sự kết hợp đúng đắn

sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Phương thức tiến hành chiến tranh

nhân dân Việt Nam là cả nước tổ chức thành một mặt trận rộng lớn, mỗi người dân

là một chiến sĩ, mỗi làng, xã, đường phố là một pháo đài, mỗi chi bộ Đảng là một

bộ tham mưu, phát huy sức mạnh tổng hợp của sự kết hợp đấu tranh chính trị với

đấu tranh vũ trang trên cả ba vùng chiến lược, đấu tranh quân sự với đấu tranh chính

trị và binh vận (ba mũi giáp công), kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị với đấu

tranh ngoại giao, kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, kết hợp

tiêu diệt địch với giành và giữ quyền làm chủ, chiến tranh du kích với chiến tranh

chính quy, kết hợp chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các binh

đoàn chủ lực. Toàn dân đánh giặc bằng mọi phương tiện, vũ khí có trong tay, kết

Page 53: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

49

hợp vũ khí thô sơ, tương đối hiện đại và hiện đại, đánh địch bằng nhiều mưu kế

sáng tạo, trong mọi môi trường tác chiến (trên bộ, trên không, trên biển); phát huy

cao độ tư tưởng chiến lược tiến công, luôn tìm cách giành và giữ quyền chủ động

trên chiến trường, đánh lui địch từng bước, đánh đổ địch từng bộ phận, giành thắng

lợi từng phần, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Phát huy chỗ mạnh, khắc phục chỗ

yếu của ta, hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu của đối phương, buộc đối phương

không chỉ đánh với Quân đội nhân dân Việt Nam mà phải đánh với cả dân tộc,

khiến chúng bị căng kéo, chia cắt và vây hãm trong một thế trận hiểm hóc, bị động

đối phó khắp nơi, cuối cùng lực còn nhưng ý chí xâm lược bị suy sụp đành chấp

nhận thất bại [169].

Trong thời kì 1954-1975, cả dân tộc phải đương đầu với cuộc chiến tranh có

quy mô và cường độ ngày càng khốc liệt, diễn ra cả trên bộ, trên không và trên biển,

ở cả thành thị, nông thôn đồng bằng và rừng núi với ưu thế tuyệt đối hỏa lực thuộc

về đối phương. Riêng ở miền Bắc, chiến đấu chống chiến tranh phá hoại thực chất

là sự vận dụng và phát triển đường lối chiến tranh nhân dân một cách sáng tạo trong

điều kiện mới, với những nội dung cụ thể là “toàn dân đánh máy bay và tàu chiến

địch, toàn dân làm công tác phòng tránh, toàn dân đảm bảo giao thông vận tải, kết

hợp chặt chẽ giữa chiến đấu và sản xuất, thực hiện chuyển hướng kinh tế để phục

vụ quốc phòng, bảo đảm đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,

tiếp tục làm tròn nhiệm vụ chi viện miền Nam và chi viện quốc tế” [100, tr. 62].

Vì vậy, dự báo trước âm mưu Mỹ có thể sẽ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc,

ngày 20-9-1963, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị Số 67-CT/TW về công tác

phòng không nhân dân, trong đó yêu cầu toàn thể nhân dân tăng cường cảnh giác,

quán triệt các biện pháp nhằm đối phó với âm mưu dùng chiến tranh phá hoại miền

Bắc của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Ngay sau khi Mỹ bắt đầu “ném bom bí mật”

miền Bắc, ngày 7-8-1964, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 81-CT/TW về tăng cường sẵn

sàng chiến đấu chống mọi âm mưu của địch khiêu khích và phá hoại miền Bắc. Chỉ

thị đề ra những biện pháp đánh địch cho các lực lượng vũ trang và phòng tránh cho

nhân dân: “Cần chấn chỉnh và tăng cường hệ thống phòng không, bảo vệ các mục

Page 54: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

50

tiêu quan trọng đã được quy định. Lấy lực lượng phòng không của quân đội làm

nòng cốt, kết hợp với việc phát động một phong trào rộng rãi tập bắn máy bay địch

bằng mọi thứ súng của bộ binh và của các lực lượng dân quân tự vệ. Về biện pháp

đề phòng và tránh phải kết hợp các mặt: công sự ẩn nấp, ngụy trang, sơ tán, di

chuyển và giữ bí mật” [85, tr. 193].

Để nâng cao hiệu quả đánh địch, Chỉ thị yêu cầu: “Tăng cường chỉ đạo và trang

bị thêm một số vũ khí cho dân quân tự vệ những vùng xung yếu dọc biên giới, giới

tuyến, trên biển, trên đảo, ven biển và trên các tàu, thuyền quốc doanh (vận tải, đánh

cá), để có khả năng tự vệ và tham gia diệt địch. Phải kiên quyết đẩy mạnh phong trào

bảo vệ trị an, phòng và chống gián điệp, biệt kích thành một phong trào quần chúng

mạnh mẽ và rộng khắp … Tăng cường công tác phòng và chống gián điệp, biệt kích,

chủ động truy bắt nhanh gọn các toán gián điệp, biệt kích thâm nhập nội địa, không

để cho chúng kịp phá hoại hoặc lẩn trốn”. Ngoài các lực lượng vũ trang, “phải làm

cho tổ chức các cơ quan, xí nghiệp, công, nông, lâm trường thích ứng dần với yêu

cầu sẵn sàng chiến đấu” [85, tr. 195-198].

Khi Mỹ đã đổ quân vào miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc,

Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3-1965) khẳng định: “Nhiệm vụ cấp bách của ta ở

miền Bắc lúc này là phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng

xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho hợp với tình hình mới và

để cho miền Bắc có đủ sức mạnh nhằm kịp thời đáp ứng yêu cầu bảo vệ miền Bắc,

chống lại các cuộc ném bom bắn phá và phong tỏa của địch; nhằm sẵn sàng đối

phó với khả năng địch mở rộng chiến tranh ở bất cứ mức độ nào ở miền Nam, miền

Bắc cũng như ở Lào; nhằm đáp ứng yêu cầu chi viện to lớn cho cách mạng miền

Nam trong tình hình mới” [86, tr. 102-103].

Ngày 7-5-1965, Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ thị cho các tỉnh Khu 4 “phải

đảm bảo giao thông vận tải trên các trục đường chiến lược, bảo đảm tốt yêu cầu

vận chuyển cho các tỉnh ở Khu 4 ..., Tổ chức các trạm dân quân, các đội thanh niên

xung phong để kịp thời sửa chữa đường sá, làm hầm hào dọc đường để cho người

và xe qua lại an toàn” [86, tr. 170].

Page 55: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

51

Quán triệt chủ trương của Nghị quyết Trung ương 11, Hội nghị Quân khu ủy 4

mở rộng (7 - 8-5-1965) khẳng định quyết tâm “lấy chiến tranh nhân dân đánh bại

chiến tranh phá hoại, bất luận cuộc chiến tranh đó quyết liệt đến mức nào. Làm

tốt nhiệm vụ bảo vệ sản xuất, bảo vệ an ninh, đập tan mọi hoạt động tập kích, biệt

kích, thổ phỉ, làm tốt công tác phòng không nhân dân. Chuyển hướng mọi hoạt

động sản xuất, sinh hoạt của nhà nước, của nhân dân thích hợp với thời chiến,

vừa phục vụ quốc phòng, vừa phục vụ dân sinh, làm cho công cuộc xây dựng chủ

nghĩa xã hội vẫn tiếp tục phát triển ngay trong chiến đấu, càng chiến đấu các mặt

kinh tế, chính trị, quân sự càng phát triển, càng lớn mạnh” [161, tr. 130]. Tiếp theo,

trước tình hình Mỹ bắt đầu chuyển đánh từ các mục tiêu quân sự sang mục tiêu giao

thông nhằm ngăn chặn các tuyến đường chi viện của ta, ngày 31-5 và 1-6-1965, Hội

đồng Quốc phòng Quân khu 4 họp, chủ trương phải “làm cho mọi người hiểu rõ

bảo đảm giao thông vận tải là nhiệm vụ cách mạng của mình, bằng bất cứ giá nào

cũng phải bảo đảm cho được tuyến Quốc lộ 1, Quốc lộ 15, Đường số 8, Quốc lộ 12

thông suốt” [161, tr. 131].

2.3.2. Chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Bình

Ngay từ sau ngày kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,

Quảng Bình được giải phóng nhưng đất nước tạm bị chia cắt làm 2 miền, Đảng bộ

và nhân dân Quảng Bình đã ý thức được vị trí và trách nhiệm của mình trong sự

nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa

xã hội những năm 1954-1965 được tiến hành trong điều kiện luôn đối phó với chiến

tranh phá hoại về nhiều mặt của Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa, đặc biệt là

trong phòng chống gián điệp và biệt kích. Do đó, ngay từ khi Mỹ âm mưu mở rộng

chiến tranh ra miền Bắc, quân dân Quảng Bình đã chuẩn bị mọi khả năng sẵn sàng

đối phó. Ngày 23-7-1964, Tỉnh ủy ra Nghị quyết về tăng cường công tác sẵn sàng

chiến đấu, trong đó chỉ ra những nhiệm vụ cụ thể về tuyên truyền giáo dục làm cho

mọi người nhận thức đúng tình hình, tích cực khẩn trương làm tốt mọi biện pháp

sẵn sàng chiến đấu; tích cực chuẩn bị về tổ chức, chủ động đối phó mọi âm mưu,

Page 56: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

52

sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống; tăng cường công tác bảo vệ trị an, bảo mật

phòng gian trấn áp bọn phản động [7, tr. 6-7].

Sau ngày 5-8-1964, Tỉnh ủy Quảng Bình tổ chức hội nghị đại diện Quân - Dân

- Chính - Đảng, đề ra nhiệm vụ: “Phải tăng cường công tác phòng thủ, trọng tâm là

công tác chống tập kích bờ biển và công tác phòng không nhân dân. Trong công tác

phòng không phải chú ý cả hai mặt: tổ chức lực lượng đánh địch và phòng tránh,

phải phát động phong trào thi đua bắn rơi máy bay Mỹ bằng súng bộ binh khắp các

địa phương. Đặc biệt chú trọng các vùng thị xã, thị trấn, quân cảng, sân bay và các

mục tiêu quân sự khác. Về tư tưởng giáo dục, xây dựng cho lực lượng vũ trang và

quần chúng có quyết tâm cao. Giặc đến, ta chủ động không bị bất ngờ, với tinh thần

dám đánh, quyết đánh, có gì đánh nấy, lấy ít đánh nhiều, lấy thô sơ thắng hiện đại,

quyết đánh thắng giòn giã” [166, tr. 16].

Tháng 10-1964, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 81 chỉ rõ nhiệm vụ của Quảng

Bình và Vĩnh Linh là “phải khẩn trương chuẩn bị đối phó với chiến tranh phá hoại

bằng không quân và hải quân Mỹ. Địch sẽ mở rộng đánh phá miền Bắc và Quảng

Bình, Vĩnh Linh là nơi chúng sẽ đánh phá trước hết” [33, tr. 165]. Thực hiện sự chỉ

đạo đó, Tỉnh ủy Quảng Bình triệu tập hội nghị cán bộ mở rộng để xúc tiến các công

việc chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu theo phương châm chuyển hướng xây dựng và

phát triển kinh tế sang thời chiến nhằm phục vụ đời sống và phòng không chiến

đấu, bố trí lại lực lượng sản xuất theo phương hướng phân tán, sơ tán, chuyển bớt

một bộ phận công nghiệp của tỉnh lên miền trung du và miền núi, đẩy mạnh sản

xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh tăng năng suất ổn định và đảm bảo đời

sống, chi viện cho tiền tuyến. Từ sau hội nghị này, công tác sơ tán được khẩn

trương tiến hành, các kho tàng được phân tán về những vùng an toàn, các lực lượng

vũ trang được triển khai bảo vệ những mục tiêu chủ yếu, bước đầu hình thành thế

trận chiến tranh nhân dân ở địa phương.

Dự báo tình hình Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại, ngày 4-2-1965, Tỉnh ủy

Quảng Bình ra nghị quyết khẳng định quyết tâm: “Dù chiến tranh xẩy ra với hình

thức nào, dù có đổ máu hi sinh, quân dân Quảng Bình cũng quyết đánh, quyết

Page 57: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

53

thắng trận đầu với bất cứ giá nào. Đồng thời vô luận tình huống nào cũng đẩy

mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội, ra sức phát triển kinh tế, văn hóa và bảo đảm

đời sống nhân dân” [26].

Tiếp theo sau đợt đầu chiến đấu chống chiến dịch “Sấm Rền”, ngày 12-3-1965,

Tỉnh ủy họp hội nghị cán bộ mở rộng đánh giá kết quả và bàn kế hoạch đối phó với

địch. Hội nghị dự kiến: “Địch có thể còn đánh lớn hơn, diện rộng hơn, âm mưu thủ

đoạn xảo quyệt hơn, thâm độc hơn. Vì vậy, phải nghiên cứu tổ chức, bố trí lại lực

lượng, chuẩn bị cho cán bộ và nhân dân tư tưởng chiến đấu lâu dài, không sợ hi sinh

gian khổ. Từng bước phát triển lực lượng bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, kiểm

tra, bổ sung các phương án tác chiến. Đề phòng địch tập kích, tăng cường bảo vệ bờ

biển, biên giới và đẩy mạnh công tác trị an nội địa, xây dựng làng chiến đấu và công

tác phòng không nhân dân” [33, tr. 183].

Thực hiện chủ trương trên, Tỉnh ủy Quảng Bình xem việc đảm bảo giao thông

vận tải là nhiệm vụ số một của tỉnh. Tỉnh ủy chủ trương “phải phát động toàn dân

tích cực chống lại, một mặt là căn cứ vào khả năng hỏa lực của ta tập trung vào

một số mục tiêu để bảo vệ đến một chừng mực nào đó, bố trí những tổ dân quân tự

vệ kết hợp với sản xuất và có thể chia nhau thường trực chiến đấu từng thời gian ở

các bến cầu, phà để đánh địch. Mặt khác, phát động toàn dân hễ địch đánh phá

đâu, ta sửa đó, dùng phương tiện cơ giới không đủ thì dùng các loại xe cải tiến, thô

sơ, dùng xe không được thì dùng thuyền, đường bộ gặp trở ngại thì đi đường thủy,

ngày nào không đi được thì đi đêm, nhất thiết phải đảm bảo giao thông vận tải”

[14, tr. 14]. Tỉnh ủy xác định việc tập trung sức bảo vệ và đảm bảo giao thông vận

tải thông suốt trong mọi tình huống “là trách nhiệm, là vinh dự của toàn Đảng bộ

và quân dân trong tỉnh, không phải chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giao thông vận

tải, đòi hỏi mọi người phải sẵn sàng xả thân cứu nước trên mặt trận giao thông vận

tải, nêu cao khí thế cách mạng tiến công, đánh địch mà đi, mở đường mà tiến, vượt

qua thủy lôi, băng qua bom nổ chậm, phát huy truyền thống xe chưa qua nhà không

tiếc, đường không thông không tiếc máu xương, để dù tình huống nào, dù tình hình

ác liệt đến đâu vẫn quyết tâm bảo đảm giao thông vận tải thông suốt, phục vụ đắc

Page 58: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

54

lực chi viện cho tiền tuyến lớn anh hùng đánh thắng địch” [32, tr. 18]. Do đó, “phải

bố trí một mạng lưới giao thông vận tải sâu rộng, toàn diện. Xác định đúng các

tuyến chính, tuyến phụ. Tập trung nhân tài, vật lực và mọi khả năng để bảo vệ cho

được các tuyến đường trọng yếu. Phát triển rộng rãi đường giao thông nông thôn,

nối liền các trục chính, tạo thế chiến lược bảo đảm sự sống còn cho sự nghiệp giao

thông vận tải thời chiến. Đẩy mạnh hơn bao giờ hết việc khai thông đường thủy làm

thế mạnh của các tỉnh trong giai đoạn hiện nay. Tận dụng khả năng tiềm tàng vận

tải trong nhân dân và các hợp tác xã chuyên nghiệp. Tổ chức lực lượng vận tải

quốc doanh đường thủy. Tăng cường khả năng ô tô cho công tư hợp doanh để kịp

thời xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, đảm bảo nhu cầu vận chuyển. Cần xác định

tính chất quyết định của lực lượng vận tải thô sơ cải tiến trong nhân dân, nhất là

đối với thuyền sông, xe đạp thồ” [145, tr. 138-139].

Ngày 29-9-1965, Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh chủ trương phát động chiến tranh

nhân dân sâu rộng, mạnh mẽ hơn nữa, đẩy mạnh chiến đấu và sản xuất quyết tâm

đánh bại chiến tranh phá hoại. Cụ thể:

“- Tiếp tục phát động phong trào bắn máy bay rộng rãi, mạnh mẽ hơn nữa

trong các lực lượng vũ trang.

- Đẩy mạnh công tác phòng không nhân dân, đảm bảo việc phòng tránh thật

tốt, tăng cường bảo mật phòng gian nhằm bảo đảm tính mạng tài sản của nhân dân,

nhà nước, hạn chế đến mức ít nhất thiệt hại của ta.

- Tích cực đảm bảo giao thông vận tải, các bến phà, phương tiện qua sông và

vận chuyển, nhanh chóng sửa chữa những cầu, đoạn đường bị bắn phá, chẳng

những bảo đảm cho việc giao thông được an toàn, nhanh chóng, khối lượng vận

chuyển nhiều hơn.

- Tích cực bảo vệ các đê đập, địch bắn hỏng chỗ nào kịp tu sửa ngay.

- Nhanh chóng tiêu diệt các toán gián điệp biệt kích và tập kích nhỏ, nếu

trường hợp tập kích lớn cũng phải nhanh chóng bao vây tiêu diệt, hoặc tùy tình

hình cụ thể mà chia cắt tiêu diệt đại bộ phận quân địch.

Page 59: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

55

- Đi đôi với việc phòng tránh và đánh tốt, một việc quan trọng trong chống

chiến tranh phá hoại là phải cảnh giác đầy đủ, đánh bại chiến tranh tâm lí,

chiến tranh gián điệp và âm mưu kích bọn phản động nội địa bạo loạn của địch”

[11, tr. 3-4].

Trên đây là những chủ trương chung, có tính chất định hướng và cũng là

phương châm chỉ đạo cho quân dân Quảng Bình trên tuyến đầu miền Bắc khi đứng

trước thử thách khắc nghiệt của cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ, trong đó chủ

trương ngày 29-9-1965 đã bao trùm hầu hết các nội dung mà cuộc chiến tranh nhân

dân ở Quảng Bình phải thực hiện trong chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của

Mỹ. Trong diễn biến của cuộc chiến đấu, tùy tình hình cụ thể, Tỉnh ủy Quảng Bình

có những chỉ đạo riêng đưa cuộc chiến tranh nhân dân ở địa phương từng bước vượt

qua khó khăn để giành thắng lợi.

2.4. Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, xây dựng quyết tâm đánh

thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ

Để giành thắng lợi trước cuộc chiến tranh phá hoại toàn diện, ngày càng leo

thang không ngừng của đế quốc Mỹ, việc xây dựng tiềm lực chiến tranh nhân dân

vững mạnh về mọi mặt là nhiệm vụ tối quan trọng, trong đó công tác chính trị - tư

tưởng phải được đặt lên hàng đầu. Bởi nếu không xây dựng quyết tâm đánh Mỹ và

thắng Mỹ cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ và nhân dân thì Quảng Bình không thể đứng

vững để giành thắng lợi. Ở phương diện này, Quảng Bình đã thành công khi tạo

được thế trận lòng dân vững chắc, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào

thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp cách mạng. Đây chính là cơ sở quan trọng của

cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Quảng Bình.

Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11 (3-1965) khẳng định: “Công tác lãnh

đạo tư tưởng và nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân là cực kì

quan trọng trong lúc này” [86, tr. 92]. Trên cơ sở làm cho toàn Đảng, toàn dân

nhận rõ thức tình hình, thế mạnh của ta và thế yếu của Mỹ, “ra sức xây dựng tư

tưởng phấn khởi và tin tưởng, quyết chiến quyết thắng đế quốc Mỹ và tay sai, tư

tưởng sẵn sàng chiến đấu và công tác bất cứ ở nơi nào theo tiếng gọi của Đảng và

Page 60: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

56

của Tổ quốc, tư tưởng sẵn sàng đánh bại bất cứ loại chiến tranh nào của địch, tư

tưởng sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn gian khổ, tư tưởng sẵn sàng chiến đấu lâu

dài chống Mỹ, tinh thần tự lực cánh sinh cao; chống tư tưởng sợ Mỹ, đánh giá địch

quá cao, hoặc chủ quan khinh địch, tư tưởng hoang mang, dao động, cầu an, tư

tưởng ỷ lại vào sự giúp đỡ của nước ngoài và không tin vào sức mình” [86, tr. 93].

Ngày 2-4-1965, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 94-CT/TW về

công tác tư tưởng trong tình hình trước mắt, chỉ ra những biện pháp cụ thể: “Phải

ra sức làm sáng tỏ quan điểm chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân. Phải

coi trọng công tác chính trị và tư tưởng trong các lực lượng vũ trang, trong thanh

niên và phụ nữ. Phải tuyên truyền giáo dục tập trung hơn nữa những điển hình tiên

tiến trên các mặt sản xuất và các gương chiến đấu dũng cảm của quân và dân ta.

Nêu cao khẩu hiệu: học tập, đuổi kịp và vượt những đơn vị và những người tiên

tiến, học tập và noi gương những người anh hùng” [86, tr. 107].

Quán triệt sự chỉ đạo của Trung ương, Đảng bộ Quảng Bình thường xuyên chú

trọng công tác giáo dục chính trị cho cán bộ và nhân dân nhận thức sâu sắc về sự

nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước, về vai trò và trách nhiệm của địa phương ở

tuyến đầu miền Bắc và hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam, để từ đó

nâng cao ý thức chính trị, củng cố quyết tâm “đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” trong

mọi tình huống.

Ngay sau ngày 7-2-1965, trên cơ sở phát huy những kết quả đạt được của đợt

sinh hoạt “10 năm Quảng Bình giải phóng” 1, Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức hội nghị

cán bộ toàn tỉnh, lấy ý kiến nhân dân về quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. Trong

1. Sau ngày 5-8-1964, Tỉnh ủy tổ chức đợt học tập trong toàn tỉnh với chủ đề “10 năm

Quảng Bình giải phóng”, liên hệ so sánh hai cuộc đời, hai chế độ, hai con đường trước và

sau ngày giải phóng (18-8-1954 - 18-8-1964), để từ đó nêu cao quyết tâm sẵn sàng hi sinh

để bảo vệ những thành quả cách mạng đã giành được. Qua đợt sinh hoạt, Tỉnh ủy khẳng

định: “Trải qua 10 năm xây dựng hậu phương, nhân dân Quảng Bình đã tôi luyện cho

mình sự nhất trí về chính trị và tinh thần, củng cố lòng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, ý

thức căm thù kẻ xâm lược được thể hiện bằng hành động cách mạng cụ thể, bằng khí thế

chiến đấu, phục vụ chiến đấu và đẩy mạnh sản xuất”. Đó chính là sức mạnh để quân dân

Quảng Bình vững tin vào chính mình, sẵn sàng bước vào cuộc đối đầu khốc liệt với đế

quốc Mỹ [14].

Page 61: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

57

báo cáo gửi Trung ương Đảng, Tỉnh ủy khẳng định: “Dù trải qua hi sinh, gian khổ

ác liệt mấy đi nữa, quân và dân Quảng Bình quyết giữ vững tinh thần, phát huy

truyền thống anh hùng, bất khuất của Bình Trị Thiên khói lửa, sẵn sàng trước mọi

thử thách, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” [10, tr. 9].

Ngày 17-7-1965, quân và dân Quảng Bình đạt thành tích bắn rơi 100 máy bay

Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen “tỉnh nhà chiến đấu giỏi, sản xuất cũng

giỏi” [127, tr. 466]. Nhằm chuyển hóa thư khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành

sức mạnh trong thực tiễn, tháng 11-1965, Tỉnh ủy Quảng Bình phát động phong

trào thi đua “Hai giỏi” (Chiến đấu giỏi, Sản xuất giỏi), làm dậy lên khí thế thi đua

cách mạng quần chúng sâu rộng trong mọi tầng lớp, mọi ngành và địa phương.

Bằng cách in thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh phát đến tận từng gia đình và đơn vị để

cho mọi người học tập, viết quyết tâm thư hứa làm theo, với những mục tiêu cụ thể

theo hướng phát huy mặt tốt, khắc phục mặt hạn chế [167, tr. 18], Quảng Bình trở

thành cái nôi của phong trào thi đua “Hai giỏi”, và được nhân rộng thành cao trào

trong cả nước.

Tháng 7-1967, để chuẩn bị tư tưởng và hành động cho quần chúng vượt qua

những thử thách ngày càng khắc nghiệt phía trước, Tỉnh ủy tổ chức đợt học tập “ơn

Đảng nặng, thù giặc sâu”. Qua học tập, toàn Đảng bộ, quân và dân thấy rõ hơn vai

trò của Đảng đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc nói chung và với sự thay đổi

cuộc đời của mỗi gia đình, cá nhân nói riêng, qua đó tăng cường ý chí chiến đấu và

ý thức trách nhiệm đối với quê hương, Tổ quốc và sự nghiệp giải phóng miền Nam.

Tỉnh ủy kêu gọi: “Dù phải ăn cháo, ăn rau, nhân dân Quảng Bình vẫn tiếp tục

nâng cao quyết tâm chi viện cho miền Nam. Dù chiến tranh ác liệt đến đâu, Quảng

Bình cũng kiên quyết giữ vững mạch máu giao thông vận tải nối liền hai miền Nam

Bắc. Ra sức xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh, tăng cường đội ngũ dân quân

du kích, thực sự là lực lượng chiến lược của chiến tranh nhân dân” [21, tr. 15].

Năm 1968, ở thời điểm chiến tranh ác liệt nhất, Tỉnh ủy tổ chức học tập tài

liệu “Vinh dự lớn lao, trách nhiệm nặng nề, sẵn sàng đi trước về sau cho đến thắng

lợi cuối cùng”. Khi cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ kết thúc, một bộ

Page 62: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

58

phận cán bộ và nhân dân không nhận thức hết tình hình, có tư tưởng thỏa mãn thắng

lợi, thiếu tích cực trong sản xuất và tỏ ra chủ quan trước những hoạt động chiến

tranh tiếp diễn của Mỹ. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy tổ chức đợt sinh hoạt chính trị

sâu rộng trong toàn tỉnh. Nội dung và yêu cầu của đợt sinh hoạt này là làm cho mọi

người thấy rõ thắng lợi to lớn của ta, thất bại nặng nề của Mỹ, nhưng phải nhận thức

được bản chất xâm lược của Mỹ, những khó khăn còn phía trước, khi sự nghiệp

thống nhất đất nước vẫn chưa hoàn thành. Trên cơ sở nhận thức đó, “thừa thắng

xông lên, tranh thủ khẩn trương hoàn thành mọi nhiệm vụ trước mắt, đồng thời luôn

luôn đề cao cảnh giác, chống tư tưởng xả hơi” [164, tr. 215]. Sau khi quán triệt cho

đội ngũ cán bộ chủ chốt, đợt sinh hoạt mở rộng ra toàn tỉnh, thu hút sự tham gia của

đông đảo quần chúng, làm dậy lên khí thế tấn công trên tất cả các lĩnh vực sản xuất,

hàn gắn vết thương chiến tranh, sẵn sàng chiến đấu và chi viện chiến trường.

Tháng 9-1969, hưởng ứng đợt sinh hoạt chính trị “Học tập và làm theo Di

chúc của Hồ Chủ tịch” do Bộ Chính trị phát động, Tỉnh ủy chỉ đạo các cấp, các

ngành và các địa phương tổ chức cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ và nhân dân học tập.

Chỉ chưa đầy một tháng, toàn thể nhân dân đã được học tập, giải quyết được những

băn khoăn, lo lắng trong tâm tư quần chúng sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh qua

đời. Phong trào hành động cách mạng “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo

gương Bác Hồ vĩ đại” tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ trong toàn tỉnh.

Nhằm phát hiện, biểu dương những điển hình trong chiến đấu và sản xuất,

công tác bình xét “Hai giỏi” được chú trọng, có tác dụng kích thích, cổ vũ phong

trào thi đua phát triển mạnh mẽ hơn. Kể từ khi phát động phong trào thi đua “Hai

giỏi” (1965), hàng năm Tỉnh ủy đều tổ chức Đại hội tổng kết nhằm biểu dương

những nhân tố tiêu biểu, tìm ra những nguyên nhân thành công, những hạn chế để

có biện pháp khắc phục nhằm đưa phong trào tiến lên. Tỉnh ủy Quảng Bình còn có

sáng kiến kết hợp tổng kết thi đua “Hai giỏi” với công tác xây dựng, củng cố tổ

chức Đảng nhằm nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, thúc đẩy phong trào hành

động cách mạng của quần chúng. Cụ thể, đối tượng kết nạp đảng phải là cá nhân

“Hai giỏi” xuất sắc, đảng viên dự bị không đạt “Hai giỏi” không được xét chuyển

Page 63: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

59

chính thức, các cơ quan lãnh đạo của Đảng và các tổ chức quần chúng phải gồm

những người được lựa chọn trong số đảng viên “Bốn tốt” và cá nhân “Hai giỏi”,

đảng viên nào không đạt tiêu chuẩn “Hai giỏi” thì phải kiểm tra lại tư cách đảng

viên, … [111, tr. 113]. Như năm 1970, toàn tỉnh bình xét được 76.000 cá nhân,

13.000 hộ gia đình đạt danh hiệu “Hai giỏi” (vượt năm 1969 là 9.000 cá nhân và

3.000 gia đình), trong đó lựa chọn được 410 quần chúng ưu tú kết nạp Đảng. Sự

phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu của phong trào thi đua “Hai giỏi” vừa là kết

quả của công tác chính trị - tư tưởng, vừa chứng tỏ sức sống mãnh liệt của một

phong trào cách mạng quần chúng đã ăn sâu, bám rễ bền chặt vào lòng dân, “xây

dựng cho mọi người tinh thần ngoan cường, dũng cảm, xả thân cứu nước, nâng cao

ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, vượt qua mọi thử thách, hi sinh”

[156, tr. 21]. Đó là nguồn gốc tạo nên sức mạnh tổng hợp để quân dân Quảng Bình

vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh nhân dân chống

chiến tranh phá hoại.

2.5. Chuyển hướng nền kinh tế sang thời chiến, đảm bảo hậu cần tại chỗ

cho chiến tranh nhân dân

Thực hiện chủ trương “chuyển hướng nền kinh tế miền Bắc sang thời chiến

bằng việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, công nghiệp địa phương và thủ công

nghiệp kết hợp với việc xây dựng những xí nghiệp vừa và nhỏ” [86, tr. 111] của Hội

nghị Trung ương 12 (12-1965), Tỉnh ủy Quảng Bình có những biện pháp để chuyển

hướng nền kinh tế của địa phương thích ứng với tình hình mới, vừa đảm bảo sản

xuất vừa đảm bảo chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Bởi trong điều kiện của cuộc

chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, đảm bảo sản xuất, ổn định nền kinh tế cũng là

một mặt trận phối hợp với mặt trận quân sự. Sản xuất đã vượt ra khỏi nhiệm vụ đáp

ứng các mục tiêu kinh tế và đời sống thông thường mà trở thành một bộ phận cấu

thành của chiến tranh nhân dân, đó là đảm bảo hậu cần tại chỗ cho tất cả các lực

lượng trong đội hình thực hiện chiến tranh nhân dân.

2.5.1. Trong sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp

Trước việc sản xuất bắt đầu gặp khó khăn trong khi nguồn chi viện từ Trung

ương vào gặp trở ngại do các cuộc đánh phá của Mỹ, vấn đề đảm bảo tự túc lương

Page 64: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

60

thực tại chỗ càng trở nên quan trọng. Ngày 29-6-1965, Ban Bí thư gửi Điện mật số

146/HT cho các tỉnh khu 4 về việc giải quyết lương thực, đẩy mạnh sản xuất. Ban

Bí thư yêu cầu các địa phương “cần thúc đẩy sản xuất tại chỗ, có giải pháp đưa

những thành phần phi sản xuất về nông thôn” [86, 345]. Quán triệt chủ trương đó

của Trung ương, Hội nghị cán bộ toàn tỉnh Quảng Bình (18 – 26-6-1965) đề ra

nhiệm vụ: “Vừa chiến đấu, vừa sẵn sàng chiến đấu, vừa đẩy mạnh sản xuất và tích

cực bảo vệ sản xuất. Ra sức xây dựng tiềm lực kinh tế vững chắc để đáp ứng yêu

cầu chiến đấu, đời sống của nhân dân”. “Trước mắt chuyển hướng xây dựng nền

kinh tế tự túc. Đề cao ý thức tự lực cánh sinh, chỉ yêu cầu Trung ương viện trợ

những thứ địa phương không có khả năng sản xuất và thiếu nó không thể sống

được. Bảo đảm cho dân quân tự vệ đủ sức vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Bồi dưỡng

sức dân để đảm bảo sản xuất, chiến đấu lâu dài với tinh thần triệt để tiết kiệm. Tất

cả 40 vạn nhân dân Quảng Bình cố gắng thắt lưng buộc bụng, sẵn sàng chịu đựng

mọi thiếu thốn, dốc toàn lực xây dựng nền kinh tế tự túc” [10].

Trên tinh thần chỉ đạo của Trung ương và quyết tâm của tỉnh Quảng Bình,

nông nghiệp trong thời kì kháng chiến chống Mỹ tập trung vào 2 mục tiêu lớn nhất

là xây dựng hợp tác xã vững mạnh làm cơ sở cho nền kinh tế thời chiến và tập trung

cao nhất cho sản xuất lương thực, đảm bảo tự túc được lương thực trong mọi hoàn

cảnh, kể cả trong những thời điểm bị địch đánh phá, phong tỏa, bao vây, chia cắt

khỏi sự chi viện của Trung ương.

Về trồng trọt. Để đảm bảo sản xuất nông nghiệp trong thời chiến, biện pháp

quan trọng đầu tiên cần thực hiện là củng cố hợp tác xã vững mạnh. Có như vậy

mới giải quyết được nhân công cho sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu tại chỗ

cũng như chi viện cho các chiến trường trong điều kiện một bộ phận lớn thanh niên

đã, đang và sẽ lên đường chiến đấu. “Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp không phải

chỉ là một tổ chức kinh tế tập thể của nông dân mà còn là nơi động viên tổ chức lực

lượng chiến đấu, sản xuất, phục vụ chiến đấu, nơi giải quyết chính sách, giải quyết

đời sống, đảm bảo chiến đấu và sản xuất” [76, tr. 44-45]. Để hợp tác xã hoàn thành

được sứ mệnh của mình, công tác tổ chức được đặt lên hàng đầu. Từ giữa năm

1966, Ủy ban Hành chính tỉnh chọn huyện Lệ Thủy phát động cải tiến công tác

Page 65: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

61

quản lí hợp tác xã nhằm đảm bảo giữ vững, phát triển quan hệ sản xuất mới và phát

huy được tác dụng của nó trong sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Kinh

nghiệm thực tế rút ra từ đợt phát động này là để vừa đảm bảo phòng không tốt vừa

đảm bảo tăng năng suất lao động, hợp tác xã phải có quy mô lớn, đội sản xuất có

quy mô 40-60 lao động nhưng tổ chức sản xuất hàng ngày lại phải chia nhóm,

khoán nhỏ. Hợp tác xã vừa là cơ sở tổ chức sản xuất vừa là cơ sở chiến đấu, khu

vực chiến đấu. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, Ban quản trị hợp tác xã là tập thể

chịu trách nhiệm về tất cả các mặt sản xuất, tổ chức đời sống, chiến đấu và phục vụ

chiến đấu. Chủ nhiệm và đội trưởng đội sản xuất phụ trách chung kiêm chỉ huy dân

quân, phó chủ nhiệm và đội phó sản xuất phụ trách sản xuất, lao động và đời sống.

Ban quản trị và các đội trưởng sản xuất không những có trách nhiệm chăm lo sản

xuất, tổ chức đời sống, phân công lao động mà còn phải chăm lo việc tổ chức lực

lượng, điều động lực lượng, giải quyết chính sách cho những người tham gia chiến

đấu, phục vụ chiến đấu, đảm bảo giao thông và làm công tác phòng không nhân

dân. Do đó, trong từng hợp tác xã và đội sản xuất, các xã viên vừa sản xuất vừa là

dân quân, trực chiến máy bay hoặc canh gác bờ biển, biên giới, làm hầm hào, cấp

cứu, tải thương, quan sát, báo động, phục vụ giao thông và kể cả là tham gia rà phá

bom mìn khi có yêu cầu, … Ngoài ra, các hợp tác xã còn tổ chức những bộ phận

giúp đỡ các đơn vị chủ lực chiến đấu tại địa phương như tiếp tế, tải thương, tải đạn,

làm trận địa, ngụy trang, kéo pháo, gánh nước, nấu cơm, chăm sóc thương binh, …

Tất cả những việc làm này đều được tính công điểm, trong đó, công tác chiến đấu

và phục vụ giao thông vận tải được tính ngang với những người sản xuất có năng

suất cao nhất.

Từ Lệ Thủy, kinh nghiệm được nhân rộng ra, toàn bộ các hợp tác xã nhỏ ở quy

mô bậc thấp được đưa lên bậc cao, quy mô toàn thôn, có nơi là toàn xã (như Hợp tác

xã Đại Phong). Đến cuối năm 1968, toàn tỉnh có 408 hợp tác xã bậc cao (đạt 100%).

Qua quá trình sáp nhập, năm 1970 còn 238 hợp tác xã. Năm 1968, số hộ vào hợp tác

xã là 97,05%, qua năm 1970 là 98,7% [69, tr. 115]. Thực tiễn của cuộc chiến đấu

chống chiến tranh phá hoại sau đó cho thấy, với hình thức tổ chức như vậy, hợp tác

Page 66: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

62

xã đã phát huy được vai trò của nó đối với sự nghiệp xây dựng và chiến đấu bảo vệ

miền Bắc, chi viện cách mạng miền Nam, luôn đảm bảo được số nhân công cần thiết

để sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu, ngay cả những thời điểm chiến tranh ác

liệt nhất hay khi có yêu cầu nhiệm vụ đột xuất.

Trên cơ sở tổ chức hợp tác xã được củng cố, tư tưởng chỉ đạo sản xuất nông

nghiệp trong thời chiến được xác định là “bám làng mà chiến đấu, bám đồng ruộng

mà sản xuất, bám hố bom mà thâm canh”. Tỉnh ủy đề ra 4 chỉ tiêu: 1 lao động phụ

trách 1 ha đất sản xuất 4 tấn lúa/năm, 7 tấn hoa màu/vụ và 3 con trâu, bò, lợn. Để tổ

chức được sản xuất phải làm tốt công tác phòng tránh từ mỗi hợp tác xã, mỗi thôn,

xóm, mỗi gia đình, hộ xã viên, ... Tỉnh ủy chỉ đạo: “Các tổ sản xuất ra đồng gặt hái

phải phân tán nhỏ, không tập trung. Dọc đường phải có hầm hố. Ở những nơi xung

yếu, dân quân phải chuẩn bị sẵn công sự chiến đấu để vừa tham gia gặt hái, vừa

chủ động đánh địch bảo vệ đồng bào. Lúa đem về kho phải tranh thủ phân phối

dần, không để ứ đọng, phòng khi địch bắn phá, khỏi bị tổn thất” [14, tr. 31]. Ở

những nơi Mỹ đánh phá ác liệt, việc sơ tán dân là cần thiết nhưng những lao động

chính vẫn ở lại, bám trụ sản xuất. Những khẩu hiệu như “vững tay cày, chắc tay

súng”, “địch đến là đánh, địch đi là sản xuất”, “làm ngày không đủ, tranh thủ làm

đêm”, “mất cây này, trồng cây khác”, “trời làm mất, bắt đất bù”, … được các hợp

tác xã quán triệt, làm dậy lên khí thế thi đua sôi nổi trong toàn xã viên.

Trong tổ chức sản xuất, việc thực hiện “3 quản, 3 khoán” 1 được vận dụng

thích hợp. Về quản lí sản xuất, ở những vùng ác liệt, các cấp ủy đảng và chính

quyền dùng nhiều biện pháp giáo dục nhân dân bám chắc quan hệ sản xuất mới,

chống xu hướng làm ăn riêng lẻ, đồng thời đề ra phương hướng, mục tiêu, biện

pháp trồng trọt và chăn nuôi thích hợp với từng vùng, từng thời gian. Trong kế

hoạch sản xuất luôn có 2-3 phương án để khi thực hiện phương án này phải có kế

hoạch dự trù và chuẩn bị vật tư, giống má cho phương án khác. Khi khó khăn hoặc

quá thời vụ, không sản xuất được loại này thì chuyển sang sản xuất loại khác. Về

1. Ba quản: Quản lí sản xuất, quản lí lao động và quản lí tài vụ. Ba khoán: Khoán tập thể,

khoán công điểm và khoán trọng điểm.

Page 67: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

63

quản lí lao động, do lực lượng lao động có nhiều biến động lớn cũng như phải sử

dụng vào những công tác phi sản xuất nên các hợp tác xã chủ động quy hoạch nhân

lực sản xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, đảm bảo giao thông, làm hầm hào, …

Đồng thời, các hợp tác xã dự tính cả việc sử dụng lao động để làm lại những nơi bị

địch phá trên cơ sở phát huy cao nhất năng lực của mỗi xã viên, tích cực động viên

nhiệt tình lao động, phát huy sáng kiến trong sản xuất của tất cả mọi người. Ngoài

ra, ở những nơi ác liệt, các hợp tác xã còn tổ chức những đội xung kích đảm nhận

những công việc nặng nhọc nhất như cày bừa, chăm sóc và thu hoạch. Về quản lí tài

vụ, các hợp tác xã phải coi trọng và có biện pháp quản lí chặt chẽ để tránh tình trạng

tham ô, lãng phí, đồng thời đảm bảo tính công bằng, hợp lí, có tác dụng động viên

sản xuất. Để đảm bảo chắc chắn, tránh địch đánh cháy hỏng và đề phòng nhân viên

tài vụ hi sinh, người sau không nắm được tình hình, nhiều hợp tác xã bố trí hệ thống

quản lí kép (2 người phụ trách, sổ sách có 2-3 bản).

Trong bom đạn của chiến tranh, các phong trào thi đua ngày càng phát triển,

với hàng ngàn tổ, đội, hợp tác xã “Hai giỏi”, trong đó có 6 đội lao động xã hội chủ

nghĩa. Hợp tác xã Đại Phong vẫn duy trì ngọn cờ đầu của sản xuất nông nghiệp,

nhất là trong công tác quản lí, 4 năm liền nhận cờ thi đua xuất sắc toàn diện của tỉnh

và 3 năm liền nhận cờ thi đua của Bộ Nông nghiệp. Thi đua với Đại Phong, Hợp tác

xã Cự Nẫm dẫn đầu trong làm nghĩa vụ lương thực cho nhà nước, bình quân một hộ

đạt 1,3 tấn lúa/năm. Hợp tác xã Đức Phổ chỉ 2 năm (1966-1967) làm thủy lợi đã

bằng 10 năm trước chiến tranh, đưa năng suất lúa vụ 10 lên cao nhất toàn tỉnh, năng

suất khoai từ 40 tạ lên 106 tạ/ha [196, 192-193].

Sau khi Mỹ xuống thang chiến tranh, Ủy ban Hành chính tỉnh chỉ đạo ngành

nông nghiệp các địa phương tập trung khôi phục diện tích canh tác bị phá hoại. Cùng

với khai hoang phục hóa, công tác thủy lợi được đẩy mạnh. Tỉnh huy động lực lượng

dân quân, bộ đội địa phương tham gia khôi phục các công trình thủy lợi Đá Mài, Rào

Nan, Rào Sen, Xuân Bồ, … Nhờ vậy, sản xuất nông nghiệp dần phục hồi.

Về chăn nuôi. Tỉnh chủ trương phát triển mạnh chăn nuôi tập thể nhưng phân

tán chuồng trại về các đội. Công tác phòng không cho trâu bò được chú ý. Trâu bò

Page 68: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

64

được phân tán thành nhóm nhỏ, ở nhà cũng như ra đồng đều có hầm hố để trú ẩn,

giảm tránh thiệt hại do hỏa lực địch. Do đó, so với năm 1964, năm 1965 đàn lợn tăng

45,8%, trâu tăng 1,3%, bò tăng 0,2%, cơ sở chuồng trại tăng 29,9%. Qua năm 1966,

đàn lợn tăng 1,6%, trâu tăng 2,1%, bò tăng 2,6%, đặc biệt lợn tập thể tăng 45,7%,

trâu tập thể tăng 32,9%. Tính bình quân, mỗi ha gieo trồng có 2,54 đầu gia súc.

Về lâm nghiệp. Sản xuất lâm nghiệp gồm hai bộ phận là khai thác và trồng

rừng. Từ trước chiến tranh, công tác trồng rừng đã được triển khai rộng khắp ở vùng

đồng bằng, ven biển, góp phần phủ xanh đồi trọc, chống nạn cát bay, cát lấp, bảo vệ

mùa màng và ngụy trang cho các đơn vị phòng thủ tuyến biển. Ngoài ra, dọc hai

bên đường quốc lộ, tỉnh lộ, nhân dân trồng hàng vạn cây phân tán lấy bóng mát.

Phong trào trồng cây gây rừng đã tạo nên những “vùng xanh” phục vụ nhiệm vụ

quốc phòng, chuẩn bị trước cho việc ẩn giấu bố phòng lực lượng sẵn sàng đánh

địch. Nó không chỉ thể hiện nguyên lí “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây” mà

trong tình hình lúc bấy giờ còn xuất phát từ nhu cầu quốc phòng, để “rừng che bộ

đội” ở những nơi bố trí lực lượng của chiến tranh nhân dân. Từ chỗ diện tích vài

trăm ha trước chiến tranh, đến năm 1972, toàn tỉnh có tới 8.980 ha rừng trồng các

loại cây như thông, bạch đàn, phi lao, trong khi diện tích rừng tự nhiên giảm từ

481.341ha xuống còn 312.480ha [70].

Trong khi đó, công tác khai thác rừng chủ yếu ở miền tây phục vụ xây dựng

nhà cửa, đóng tàu thuyền, sản xuất đồ gia dụng, … Bên cạnh các lâm trường chuyên

khai thác, cung cấp gỗ cho các cơ quan, đơn vị và công trình của nhà nước, hầu hết

các xã đều có đội sơn tràng khai thác gỗ phục vụ nhu cầu của địa phương.

Về ngư nghiệp, sự phong tỏa, đánh phá của các lực lượng hải - không quân Mỹ

và chính quyền Sài Gòn gây nên những thiệt hại lớn cho ngư dân. 80% nhà cửa hư

hại, 117 thuyền và 68 vàm lưới bị hỏng nhưng phong trào “tìm cá mà đánh, lấn

địch mà sản xuất” được phát động và duy trì thường xuyên trong các hợp tác xã.

Khi thuyền giã đôi không hoạt động được, tỉnh chủ trương chuyển sang làm công

tác vận tải và phát triển nghề lộng. Phương thức sản xuất trên biển cũng có sự thay

đổi thích ứng với thời chiến. Khi ra biển, các thuyền phải phân tán nhỏ để đề phòng

Page 69: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

65

địch phát hiện và hạn chế tổn thất khi bị đánh phá. Ngư dân được trang bị phao cứu

sinh, dây phòng hộ để cứu nạn khi cần thiết [182, tr. 20]. Tỉnh thành lập 3 đội

thuyền có trang bị thủ pháo và tiểu liên để vừa đánh cá vừa quan sát hoạt động của

địch trên biển, phối hợp với pháo binh đánh tàu biệt kích. Hàng nghìn xã viên, công

nhân đánh cá quyết tâm bám biển, vượt qua hàng rào thủy lôi, bom từ trường, đạn

pháo, sự uy hiếp, vây bắt, điều kiện thời tiết, … để sản xuất. Năm 1966, sản lượng

đánh bắt được hơn 42.000 tấn cá, năm 1968 đạt 1.700kg/người. Hợp tác xã Quang

Phú vẫn phát huy truyền thống anh hùng, đạt năng suất 5 tấn/người. Đội đánh cá

Minh Khai (xã Bảo Ninh, Đồng Hới) có 6 thuyền với 36 chị em, dưới sự lãnh đạo

của chị Nguyễn Thị Khíu, trong 8 năm đã kiên trì bám biển đánh cá, hoàn thành

vượt mức sản lượng đánh bắt hải sản trong điều kiện bị địch đánh phá khốc liệt.

Mỗi lần bị máy bay Mỹ đánh phá, chị em lặn xuống biển tránh sát thương, 3 năm

liền vượt chỉ tiêu sản lượng 1.

Nhìn chung, trong điều kiện chiến tranh, bằng nhiều biện pháp và sự nỗ lực

vượt bậc của nhân dân, sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp ở Quảng Bình vẫn có

những bước tiến nhất định. Nếu lấy năm 1960 làm mốc (= 100) thì sản lượng lương

thực những năm tiếp theo tăng như sau: năm 1965 là 135 (trồng trọt: 144,8; chăn

nuôi: 97,6), năm 1968 là 112,4 (trồng trọt: 113,1; chăn nuôi: 109,9), năm 1970 là

140,3 (trồng trọt: 142,7; chăn nuôi: 131,4), năm 1971 là 123,2 (trồng trọt: 123,2;

chăn nuôi: 123,6), năm 1972 là 147,7 (trồng trọt: 155,7; chăn nuôi: 120,9), năm

1973 là 121,5 (trồng trọt: 123,1; chăn nuôi: 115,4) [70, tr. 5].

Với kết quả đạt được trên đây, rõ ràng nhân dân Quảng Bình đã cơ bản thực

hiện được chủ trương chuyển hướng kinh tế của Trung ương, duy trì sản xuất và

cung ứng lương thực, thực phẩm tại chỗ, giảm thiểu đến mức tối đa tác động của

cuộc chiến tranh phá hoại, đảm bảo đời sống cho cán bộ và nhân dân tỉnh nhà, làm

nghĩa vụ cho nhà nước và góp phần chi viện tiền tuyến lớn miền Nam. Đảm bảo sản

1. Tại đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ 4 (1967), chị Nguyễn Thị Khíu,

đội trưởng đội đánh cá Minh Khai được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lao động duy

nhất của ngành thủy sản.

Page 70: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

66

xuất và chiến đấu tại chỗ, nông dân Quảng Bình đã góp phần quan trọng vào thắng

lợi chung của cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ.

2.5.2. Trong sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp

Cho đến trước năm 1965, điều kiện để phát triển công nghiệp ở Quảng Bình

chưa có. Thế nhưng, khi chiến tranh bùng nổ, trong tình hình bị Mỹ phong tỏa, bao

vây, chia cắt thì phát triển công nghiệp địa phương trở thành một nhu cầu cấp bách

và nó đã thực sự đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thời chiến và làm nên nét

đặc sắc của chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình. Đó là vấn đề hậu cần tại chỗ cho

chiến tranh.

Chiến tranh làm cho nhu cầu của chiến đấu, sản xuất và đời sống trên địa bàn

Quảng Bình có những thay đổi lớn, nhiều nhu cầu mới phát sinh và phần lớn là

mang tính đột xuất. Số người thoát li sản xuất tăng lên trong khi những thanh niên

trẻ khỏe đều được bổ sung vào lực lượng chiến đấu và phục vụ giao thông vận tải.

Cộng thêm vào đó, các lực lượng vũ trang và giao thông vận tải của Trung ương

đóng trên địa bàn rất lớn. Quảng Bình còn là nơi đứng chân của các lực lượng trước

khi vào Nam chiến đấu và từ chiến trường ra. Hàng vạn gia đình ở thị xã, thị trấn và

vùng xung yếu đi sơ tán hoặc lập làng mới ở những nơi xa, … đòi hỏi cần cung cấp

thiết yếu về sản xuất và đời sống. Tất cả làm cho nhu cầu về hàng hóa tăng lên đột

ngột cả về số lượng và chủng loại. Chẳng hạn như ngoài gạo và muối, đường sữa rất

cần thiết để bồi dưỡng cho các lực lượng chiến đấu hoặc lao động nặng và những

người bị thương. Việc sản xuất vải và áo quần cũng phải có màu sắc phù hợp với

công tác phòng không. Nhiều loại hàng phát sinh như ba lô, bi đông nước, nguyên

vật liệu làm hầm hào, … Chiến tranh càng ác liệt, nhu cầu về thiết yếu phục vụ cấp

cứu chiến thương (như quan tài, vải khâm liệm, rượu cồn, …) tăng lên. Do bị đánh

phá, nên những hàng hóa thông dụng hàng ngày cũng đòi hỏi cao như chăn màn,

chiếu, đèn pin, bát dĩa, soong nồi, … để thay thế. Trong khi đó, nền sản xuất tại chỗ

của Quảng Bình trước chiến tranh vốn đã nhỏ bé nay lại càng khó khăn hơn, nhất là

khi phải đáp ứng nhu cầu tăng lên đột biến, với nhiều mặt hàng phát sinh. Không

chỉ thiếu hàng bách hóa, cung ứng về thực phẩm, nhất là thủy sản cũng gặp khó

Page 71: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

67

khăn do biển bị phong tỏa. Một phần lớn thuyền bè được huy động phục vụ vận tải

quân sự (khoảng 60%) nên sản lượng đánh bắt giảm, khả năng phục vụ lưu thông

hàng hóa nội tỉnh bị hạn chế khi đường bộ bị cắt đứt nhiều nơi, … Trong điều kiện

cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ngày càng leo thang, các cơ sở công nghiệp ở

miền Bắc vốn đã nhỏ bé nay lại bị tàn phá hoặc phải phân tán và sự chi viện từ bên

ngoài vào gặp khó khăn thì sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tại chỗ

càng trở nên quan trọng, nhất là đối với việc cung cấp những hàng hóa thiết yếu cho

nhân dân. Đối với Quảng Bình, tình hình này lại càng khó khăn hơn khi giao thông

từ miền Bắc vào thường xuyên bị ách tắc và hàng hóa từ Trung ương chuyển vào

dành ưu tiên cho hàng quân sự và chi viện cách mạng miền Nam. Vì vậy, công

nghiệp địa phương càng trở nên có vai trò quan trọng trong việc phục vụ sản xuất,

phục vụ chiến đấu, phục vụ đời sống của nhân dân.

Quán triệt chỉ đạo của Hội nghị Trung ương 12 (12-1965): “Ra sức phát triển

nông nghiệp và công nghiệp địa phương, tăng cường năng lực kinh tế do các địa

phương quản lí, cấp bách nhất là các tỉnh Liên khu 4 cũ, nâng cao mức tự cung tự

cấp, hết sức cố gắng giải quyết các nhu cầu về ăn, mặc, trang bị và sửa chữa, nhu

cầu về một số nguyên liệu, vật liệu và các hàng tiêu dùng để đẩy mạnh sản xuất,

chiến đấu và bảo đảm đời sống của nhân dân ở từng tỉnh, từng vùng” [86, tr. 422],

Tỉnh ủy Quảng Bình chủ trương “toàn dân tham gia xây dựng công nghiệp địa

phương” và “tiết kiệm để xây dựng công nghiệp địa phương” [193, tr. 29].

Trước hết, các cơ sở công nghiệp có thể di dời được chuyển về những hang

động ở miền Tây Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hóa và Minh Hóa. Chỉ trong thời

gian ngắn, hàng ngàn tấn thiết bị, máy móc, nguyên nhiên liệu đã được đưa về vùng

an toàn và khẩn trương ổn định, bắt tay ngay vào sản xuất. Mặt khác, để đảm bảo

cung ứng hàng hóa tại chỗ, giảm bớt gánh nặng cho Trung ương, Ủy ban Hành chính

tỉnh liên hệ với Bộ Công nghiệp nhẹ, đề nghị hỗ trợ địa phương xây dựng một số cơ

sở công nghiệp. Tháng 5-1966, Bộ Công nghiệp nhẹ cử đoàn cán bộ vào Quảng Bình

giúp Ty Công nghiệp xây dựng một số nhà máy với phương thức “nhà máy mẹ đẻ xí

nghiệp con”. Các nhà máy diêm, xà phòng, rượu Hà Nội cử chuyên gia, cán bộ kĩ

Page 72: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

68

thuật cùng máy móc, nguyên nhiên liệu vào giúp thành lập xí nghiệp: Diêm Nhật Lệ,

xà phòng sông Gianh, rượu Bồng Lai, đường Trường Sơn, Xí nghiệp bát sứ Văn La,

… Cùng thời gian này, Xí nghiệp nước chấm mari, xì dầu Thanh Hương được xây

dựng tại Quảng Sơn (Quảng Trạch) có công suất 50 tấn xì dầu ép khô/năm.

Trong lĩnh vực công nghiệp cơ khí, ngoài Xí nghiệp Cơ khí 3-2, để đáp ứng

yêu cầu sản xuất phục vụ chiến đấu, phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân,

Tỉnh tiến hành xây dựng thêm một số cơ sở mới như Xí nghiệp Cơ khí 2-9 tại các

hang lèn xóm Hà Lốt (Phúc Trạch, Bố Trạch), Xí nghiệp Sửa chữa ô tô A3, …

Những cơ sở này đã tạo được nhiều mặt hàng phục vụ sản xuất, sửa chữa vũ khí, xe

máy cho các đơn vị pháo cao xạ, ...

Trong 4 năm (1965-1968), mặc dù phải di chuyển và mất nhiều thời gian để

làm công tác phòng tránh nhưng nền công nghiệp địa phương Quảng Bình vẫn có

những bước tiến nhất định, từ 12 xí nghiệp tăng lên 35 xí nghiệp và số lượng công

nhân từ 700 tăng lên gấp 7 lần. Các xí nghiệp được đầu tư, trang bị thiết bị máy móc

khá hiện đại so với thời điểm đó. “Tuy số lượng chưa nhiều nhưng chúng ta cũng

đã củng cố thêm được một số mặt hàng tiêu dùng trong tỉnh mà trước đây phải xin

Trung ương như rượu, xà phòng, bát sứ, diêm, … đã sản xuất thêm những mặt hàng

mới như hàng may mặc sẵn, da cao su, dép lốp, đậu phụ, …” [179, tr. 18].

Ngay sau ngày Mỹ ngừng ném bom miền Bắc, tỉnh có chủ trương chuyển một

số cơ sở về đồng bằng để tập trung đẩy mạnh sản xuất đáp ứng yêu cầu sản xuất và

đời sống trong tình hình mới. Chỉ một thời gian ngắn, cán bộ công nhân của các xí

nghiệp đã tổ chức tháo dỡ, di chuyển máy móc về vị trí mới và lên phương án tổ

chức sản xuất. Nhiều xí nghiệp được trang bị thêm máy móc, cán bộ công nhân tích

cực tham gia phong trào “Sáng kiến, góp công, dốc lòng, hiến kế”, hợp lí hóa sản

xuất giành danh hiệu “Kiện tướng”, “Dũng sĩ” trong lao động sản xuất.

Cùng với công nghiệp, các cơ sở tiểu thủ công nghiệp của hợp tác xã trong

thời gian này cũng phát triển mạnh mẽ, sản xuất được nhiều mặt hàng. Nhiều cơ sở

sản xuất gạch ngói ở các địa phương được xây dựng và đi vào sản xuất ra sản phẩm

phục vụ nhu cầu xây dựng, sửa chữa các công trình nhà nước và nhà ở cho nhân

Page 73: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

69

dân. Các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp ở Đồng Hới với tinh thần tực lực cánh

sinh, tận dụng nguyên liệu sẵn có, tự nghiên cứu lắp ráp máy móc, dây chuyền công

nghệ, trang bị được máy đột dập 35 tấn, máy dập đinh, máy phay, máy tiện, hệ

thống lò hơi máy phát điện 35kw, sản xuất thêm nhiều mặt hàng phục vụ đời sống

như phụ tùng xe đạp, các đồ gia dụng, …

Với kết quả đó, dù còn có hạn chế, công nghiệp địa phương đã trở thành nét

đặc thù trong chính sách kinh tế thời chiến của Quảng Bình, góp phần quan trọng

đảm bảo nguồn lực tại chỗ, giúp quân dân Quảng Bình hoàn thành sứ mệnh bám trụ

địa bàn sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu, chi viện cách mạng miền Nam,

cách mạng Lào.

2.5.3. Trong lưu thông phân phối

Chiến tranh và sự ách tắc giao thông đã làm nguồn hàng từ miền Bắc chuyển

vào Quảng Bình giảm sút, nhất là giai đoạn đế quốc Mỹ tập trung đánh chặn từ vĩ

tuyến 20 trở vào. Trong khi đó, nền sản xuất tại chỗ vốn đã nhỏ bé lại càng khó

khăn hơn trên tất cả các lĩnh vực, khiến cho việc thu mua hàng hóa, cung ứng, lưu

thông gặp rất nhiều phức tạp, tưởng chừng như khó vượt qua. Yêu cầu phải cung

cấp từ cây kim, sợi chỉ cho tới máy móc phục vụ sản xuất, xe cộ, phương tiện,

nguyên vật liệu đảm bảo giao thông và chiến đấu; từ soong nồi, chén bát, chậu giặt

đến những nguyên vật liệu dựng nhà, làm hầm, cây con giống phục vụ sản xuất; từ

chén cơm, hạt muối trong bữa ăn hàng ngày đến đường sữa cho người bị thương,

quan tài - vải - rượu để khâm liệm người chết, … là tất cả những thứ mà ngành

thương nghiệp phải đảm bảo cung ứng cho nhân dân và các lực lượng chiến đấu,

phục vụ chiến đấu, đảm bảo giao thông có mặt trên đất Quảng Bình. Rõ ràng, đó là

một gánh nặng lớn mà ngành thương nghiệp phải thực hiện, góp phần đảm bảo cơ

sở vật chất chiến đấu chống chiến tranh phá hoại.

Trước tình hình đó, Trung ương Đảng, Chính phủ, cấp ủy Đảng và chính

quyền tỉnh Quảng Bình có những chủ trương chỉ đạo kịp thời để phát triển mạng

lưới lưu thông, phân phối, đảm bảo nguồn hàng phục vụ nhân dân, nhất là những

Page 74: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

70

nguồn hàng trực tiếp phục vụ cho sản xuất, chiến đấu và đảm bảo nhu yếu phẩm tối

thiểu cho đời sống của nhân dân.

Ngày 14-6-1965, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100-CT/TW về việc chuyển hướng

công tác tài chính thương nghiệp trong tình hình mới, trong đó chỉ rõ: “Cuộc

chiến tranh nhân dân, nhất là chiến tranh nhân dân dựa trên một nền kinh tế nông

nghiệp đang quá độ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, mạng lưới

giao thông vận tải trong nước và nước ngoài còn non yếu, đòi hỏi trên toàn miền

Bắc, từng vùng, từng tỉnh, thậm chí từng đơn vị sản xuất, đơn vị chiến đấu, phải

ra sức tự giải quyết các nhu cầu về sản xuất, chiến đấu và đời sống trong nước”

[86, tr. 164-165].

Để đảm bảo nguồn hàng và cung ứng tốt cho bộ đội và nhân dân, tháng 4-

1966, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 123 chỉ đạo các cấp tăng cường củng cố hệ thống cửa

hàng mậu dịch, đặc biệt là phát triển hợp tác xã mua bán. Hội nghị cán bộ toàn tỉnh

Quảng Bình (6-1965) chủ trương “phải quản lí chặt chẽ việc cung cấp phân phối

hàng tiêu dùng thiết yếu cho đời sống nhân dân”. Ủy ban Hành chính tỉnh chỉ đạo

ngành thương nghiệp rà soát lại những hàng hóa mà địa phương có thể sản xuất và

cung ứng được, cố gắng đảm bảo lương thực và thực phẩm tại chỗ, tính toán cụ thể

nhu cầu của từng loại hàng, hàng gì cần ưu tiên vận chuyển, … để từ đó có biện

pháp cân đối thích hợp. Tinh thần đề ra là địa phương cố gắng tự túc những thứ có

thể sản xuất hoặc thu mua tại chỗ, còn những thứ thiết yếu sẽ đề nghị Trung ương

chi viện. Hàng hóa tiếp nhận từ Trung ương và thu mua nội tỉnh được phân bố trong

hệ thống kho tàng theo 3 tuyến (trước, giữa và sau). Để bảo vệ hàng hóa, ngay sau

ngày 7-2-1965, tỉnh đã kịp thời chỉ đạo các ngành khẩn trương sơ tán kho tàng về

các vùng an toàn. Có đêm, ta chuyển gần 700 tấn hàng với hơn 2.000 mặt hàng ra

khỏi Đồng Hới. Kho tàng được phân tán mỏng và gửi vào dân để cất giữ; có nơi phải

đưa vào các hang, lèn đá, có thứ hàng phải chôn xuống đất để che mắt địch, … Tổng

cộng có trên 100 điểm cất giữ, hình thành 20 vùng kho, gần 700 kho bố trí theo chùm

và sử dụng 2 loại nhà kho: 200 kho biệt lập và 800 kho nhà dân [180, tr. 21].

Việc phân tán hàng hóa như thế vừa đảm bảo an toàn vừa thuận tiện cho công tác

Page 75: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

71

phân phối đến các cơ quan, đơn vị và nhân dân. Nhờ vậy, trong 4 năm (1965-1968),

máy bay Mỹ đánh phá vùng có kho tàng 3.700 lần, trong đó đánh trúng kho có hàng

197 lần nhưng nhờ sơ tán và cứu chữa kịp thời nên chỉ thiệt hại 998.000 đồng

(chiếm 0,92% tổng giá trị hàng hóa).

Từ giữa năm 1966, do mức độ đánh phá của Mỹ ngày càng ác liệt, nguồn cung

hàng hóa trở nên khan hiếm. Để giải quyết, việc huy động nguồn lực tại chỗ đóng

vai trò quan trọng. Tuy nhiên, công việc này gặp rất nhiều khó khăn do nền sản xuất

của Quảng Bình bị ảnh hưởng lớn bởi chiến tranh. Tỉnh ủy đã kịp thời quy định về

nghĩa vụ bán nông sản, thực phẩm cho nhà nước thành một tiêu chuẩn thi đua “Hai

giỏi”, gắn với tiêu chuẩn đảng viên tốt, gia đình 5 tốt, phụ nữ ba đảm đang, …

Ngành Thương nghiệp đã tập trung nguồn hàng với tinh thần “năng nhặt chặt bị”,

“góp gió thành bão”, thậm chí thu mua cả trâu bò chết vì bom đạn, … Ý thức trách

nhiệm của mình, nhân dân Quảng Bình phát huy tinh thần vượt khó, ăn thêm rau

màu để tiết kiệm thóc làm nghĩa vụ cho nhà nước được 15.000 tấn (bằng năm 1963

là năm huy động cao nhất). Hoặc năm 1968, trước yêu cầu khẩn thiết về lương thực

từ chiến trường Trị - Thiên trong khi hàng từ miền Bắc chưa đưa vào được, Tỉnh ủy

Quảng Bình chủ trương vay gấp gạo của nhân dân để chi viện. Dù đang vào mùa

giáp hạt, lương thực đảm bảo cho đời sống nhân dân và lực lượng vũ trang cũng

đang hết sức căng thẳng nhưng với tinh thần “vì Trị - Thiên không tiếc máu, tiếc

xương”, nhân dân Quảng Bình thực hiện bữa cơm, bữa cháo, “trút gạo trong nồi

cho Trị - Thiên đánh Mỹ”, dành ra 2.600 tấn gạo gửi vào chiến trường 1. Về thực

phẩm, nhân dân tự nguyện bán nông sản và thực phẩm cho nhà nước được 1.100 tấn

thịt, gần 4.000 tấn cá, mắm và nước mắm, hàng ngàn tấn rau dưa, thực phẩm khác,

kể cả đường sữa Trung ương cung cấp theo tiêu chuẩn cho nhân dân nhưng tỉnh

dành ra gần 60% để cung cấp cho tiền tuyến.

1. Đến cuối năm 1968, nhờ chiến dịch vận tải “VT5” tranh thủ lúc địch “xuống thang”

ngừng bắn, một khối lượng hàng hóa lớn được chuyển vào Quảng Bình nên tình hình

lương thực trở lại bình thường, Tỉnh ủy chuẩn bị gạo để trả lại nhân dân. Nhưng do vụ 10

được mùa nên nhiều địa phương viết thư để nghị ủng hộ nhà nước nhưng Chủ tịch Hồ Chí

Minh chỉ đạo phải trả lại cho nhân dân.

Page 76: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

72

Xuất phát từ nhiệm vụ phục vụ sản xuất và chiến đấu, việc phân phối lưu

thông đảm bảo thông suốt, đúng đối tượng, để mọi người yên tâm tập trung thời

gian công tác được chú trọng. Mạng lưới cửa hàng mậu dịch quốc doanh được bố trí

về các vùng có cơ quan, xí nghiệp, công trường sơ tán và theo từng khu vực để rót

hàng xuống cho xã; cửa hàng mua bán các xã được giao thêm nhiệm vụ ngoài phục

vụ nhân dân trong địa phương còn cung cấp hàng hóa cho những người sơ tán và

thực phẩm tươi cho các cơ quan, bộ đội đóng trên địa bàn. Ủy ban Hành chính tỉnh

chủ trương phát triển mạng lưới hợp tác xã mua bán, chọn Lý Ninh làm thí điểm

rồi nhân rộng mô hình hợp tác xã mua bán quy mô toàn xã, tổ chức quầy hàng đến

tận thôn và ủy thác toàn bộ công tác thu mua nông sản, thực phẩm cho các hợp tác

xã. Nhằm đảm bảo an toàn, tránh tập trung đông người tại các cửa hàng mua bán,

ngành thương nghiệp phải phân tán, đưa hàng đến tận trận địa, cơ quan, xí nghiệp,

công trường, đội sản xuất để phục vụ. Lương thực, thực phẩm, công nghệ phẩm

phân phối đúng với các đối tượng, đảm bảo hàng hóa đến tay người tiêu dùng.

Mậu dịch quốc doanh phụ trách phân phối cho khu vực ăn lương và vùng dân tộc

ít người. Hợp tác xã mua bán phụ trách khu vực nông thôn và đồng bào sơ tán.

Vào những thời điểm lễ tết, ngày mùa, hợp tác xã mua bán tổ chức gánh hàng lưu

động đến tận ruộng đồng, nhà kho, nhà đội, sân phơi để phục vụ nhân dân. Những

mặt hàng thuộc về nhu cầu thiết yếu của đời sống như muối, vải, nước mắm,

đường sữa, thịt, … được phân phối theo tiêu chuẩn. Những thứ thiếu được cấp bù

hoặc thay thế thứ khác hoặc tạm hoãn. Những mặt hàng nhu cầu lớn nhưng số

lượng ít như nồi nhôm, chăn chiếu, chén bát, dép lốp, … ưu tiên phân phối cho

những gia đình và cơ quan bị thiệt hại, sau mới đến những người bị thiếu. Những

mặt hàng tuy không thuộc nhu cầu cơ bản nhưng rất cần mà không có nhiều như

máy lửa, đèn pin, đồng hồ, … ưu tiên phân phối cho những người rất cần như y

bác sĩ, công nhân lái xe, giáo viên, các lực lượng trực chiến, cán bộ đi công tác lẻ

hoặc sơ tán ở vùng xa xôi hẻo lánh, …

Cùng với việc hệ thống hợp tác xã mua bán, mạng lưới hợp tác xã tín dụng

cũng được phát triển khắp nơi, ngày càng phát huy tác dụng đối với sản xuất và đời

Page 77: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

73

sống. Ngay cả những vùng bị đánh phá ác liệt, đời sống nhân dân vẫn đảm bảo, mức

thu nhập tăng, số tiền dư gửi tiết kiệm năm 1966 có 47 đồng (cao gấp đôi năm

1965), năm 1967 là 63,6 đồng [18, tr. 7]. Tổng tiền gửi tiết kiệm toàn tỉnh tăng từ

8,4 triệu đồng (năm 1965) lên 30,5 triệu (năm 1972), bình quân đầu người đạt 77,5

đồng (năm 1972) - cao nhất các tỉnh miền Bắc [81, tr. 125].

Song song với tổ chức lại mạng lưới mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua

bán là việc sắp xếp công ăn việc làm cho trên 4.800 tiểu thương bằng cách đưa họ

về vùng kinh tế mới hoặc làm ngành nghề. Sau 4 năm, có 2.018 người (46,3%)

chuyển sang sản xuất, 268 người làm nghề phục vụ sửa chữa, 1.230 người (29,5%)

làm nội trợ hoặc việc khác [180, tr. 28].

Chủ trương chuyển hướng tổ chức đời sống, bồi dưỡng sức dân và các mặt

hoạt động khác sang thời chiến của tỉnh đã tích cực góp phần tổ chức thắng lợi cuộc

chiến đấu chống chiến tranh phá hoại hết sức ác liệt trên địa bàn Quảng Bình. Nhờ

vậy, “nói chung đời sống nhân dân vẫn được đảm bảo, sức dân vẫn được bồi

dưỡng để chiến đấu và sản xuất lâu dài” [180, tr. 36].

Tiểu kết:

Trước khi diễn ra cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Quảng Bình đã

trải qua 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, 10 năm khôi phục, cải

tạo nền kinh tế và xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Với vị trí địa lí có

ý nghĩa chiến lược và điều kiện tự nhiên có nhiều yếu tố đặc thù trong đó có yếu

tố đa dạng địa hình, cùng với những thành tựu trong khôi phục và phát triển kinh

tế, nhất là việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và bước đầu tích lũy

vật chất cho chủ nghĩa xã hội đã hình thành những nhân tố tác động đến quá trình

xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc

Mỹ. Trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), Quảng Bình cùng với Vĩnh Linh

là tuyến đầu miền Bắc, là hậu phương trực tiếp của miền Nam nên trở thành trọng

điểm trong chiến tranh phá hoại nhiều mặt của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài

Gòn kéo dài từ cuối năm 1964 đến năm 1973. Đó là một cuộc chiến tranh tổng lực

Page 78: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

74

bao gồm cả chiến tranh tâm lí, chiến tranh phá hoại trên bộ bằng gián điệp biệt

kích, chiến tranh phá hoại bằng đường không và đường biển, diễn ra dài nhất, với

quy mô lớn và ác liệt nhất, do đó gây ra những hậu quả tàn khốc nhất. Quán triệt

đường lối của Trung ương Đảng và Quân khu 4, Tỉnh ủy Quảng Bình đã lãnh đạo

công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phát huy tinh thần yêu nước và truyền thống

quật cường của dân tộc, xây dựng lòng tin và tinh thần quyết tâm đánh bại cuộc

chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ hậu phương và đảm bảo công tác chi

viện chiến trường trong mọi tầng lớp nhân dân, kịp thời chuyển mọi hoạt động

kinh tế sang điều kiện chiến tranh để xây dựng hậu cần tại chỗ cho chiến tranh

nhân dân, tạo lập được thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, dựa trên sự phối

hợp chặt chẽ của bộ đội địa phương và dân quân du kích với các lực lượng bộ độ i

chủ lực đóng quân trên địa bàn.

Page 79: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

75

Chương 3

QUÂN DÂN QUẢNG BÌNH TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH

NHÂN DÂN CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA

ĐẾ QUỐC MỸ NHỮNG NĂM 1965 - 1973

3.1. Công tác phòng không nhân dân

Để chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, việc triển khai thế trận phòng

không nhân dân nhằm đập tan âm mưu, thủ đoạn của địch, bảo vệ tính mạng, tài sản

của nhà nước và nhân dân luôn được đặt lên hàng đầu. Vị trí chiến lược quan trọng

của Quảng Bình đòi hỏi công tác phòng không nhân dân phải diễn ra đồng bộ, kết

hợp khéo léo giữa việc đưa các kho tàng hàng hóa vào sâu trong làng xóm để che

mắt và phân tán mục tiêu đánh phá của địch với việc xây dựng các tuyến giao thông

xuyên làng, xuyên xã, bám trụ phòng tránh tại chỗ và sơ tán giãn dân, kết hợp tổ

chức đánh địch để ngăn chặn không cho chúng tiếp cận mục tiêu. Chính sự đa dạng

hóa hình thái phòng không nhân dân đã mang lại hiệu quả đáng kể trong việc bảo vệ

nguồn hàng, bảo vệ an toàn cho lực lượng hành tiến chi viện chiến trường và đảm

bảo an toàn, hạn chế tổn thất cho nhân dân.

3.1.1. Công tác phòng tránh tại chỗ

Để đảm bảo an toàn sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu, giảm thiểu tổn

thất về người và dự phòng nguồn lực lâu dài, công tác phòng tránh, sơ tán cho nhân

dân và các lực lượng vũ trang là nhiệm vụ quan trọng, mang tính thường xuyên.

Phòng tránh, sơ tán là một mặt của công tác phòng thủ dân sự, đó là tổng hợp các

hoạt động quân sự và dân sự để đánh trả và phòng tránh máy bay, tàu chiến địch

nhằm giảm thiệt hại cho các khu vực phòng thủ theo phương châm: “Phòng tránh

tích cực”.

Ngay từ khi Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc, đi đôi với việc chuyển mọi hoạt

động sang thời chiến, việc tăng cường công tác phòng không được Bộ Chính trị

(ngày 7-8-1964) xác định “là một nhiệm vụ cấp bách khẩn trương, đòi hỏi phải

Page 80: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

76

chuẩn bị chu đáo, toàn diện và tiến hành tích cực”. Phương châm đề ra là “phải kết

hợp các mặt: công sự ẩn nấp, ngụy trang, sơ tán, di chuyển và giữ bí mật” [85].

Thực hiện chủ trương của Trung ương, chỉ sau thời gian ngắn đụng đầu với cuộc

chiến tranh phá hoại của Mỹ, những biện pháp liên hoàn trong phòng tránh đã được

Hội nghị Quân khu 4 (ngày 7-5-1965) rút ra: Kết hợp phòng tránh với đánh địch; hầm

hào ẩn nấp cho người, gia súc và tài sản; tổ chức tốt quan sát, trinh sát và báo động;

sơ tán và phân tán; ngụy trang và nghi binh; tổ chức huấn luyện tốt các đơn vị đảm

bảo; tổ chức, chỉ huy tốt khi địch đến đánh phá; giải quyết tốt hậu quả chiến đấu [141,

tr. 112]. Qua đầu năm 1966, để đối phó với thủ đoạn đánh phá mới của Mỹ, Ban Bí

thư có Điện mật số 18 (ngày 24-1-1966) chỉ đạo các địa phương “tăng cường công

tác phòng không nhân dân và tiếp tục vận động nhân dân sơ tán khỏi các thành phố,

thị xã, thị trấn và những nơi gần các mục tiêu có thể bị địch đánh phá. Cần kiểm tra

và củng cố các hầm, hào phòng không và vận động nhân dân đào thêm hầm, hào đủ

cho mọi người tránh khi máy bay bắn phá, kể cả ở nông thôn” [87, tr. 37].

Trước mức độ leo thang đánh phá ngày càng ác liệt của Mỹ, ngày 10-3-1967,

Trung ương ra Chỉ thị về việc tổ chức một tháng đẩy mạnh công tác phòng không

nhân dân, trong đó nêu ra các biện pháp cần thực hiện, như xây dựng hầm hào các

loại đúng tiêu chuẩn ở khắp mọi nơi nhằm đảm bảo tính mạng, tài sản của nhân

dân và nhà nước. “Để làm tốt việc này, ngoài việc động viên toàn dân tham gia,

mỗi hợp tác xã, xí nghiệp, cơ quan, ... cần tổ chức một đội (lấy trong dân quân tự

vệ và thanh niên) chuyên môn để làm hầm hào, đào địa đạo ở những nơi công

cộng và giúp đỡ các gia đình làm hầm hào đúng quy cách. Việc đài thọ cho đội

này ở nông thôn, do hợp tác xã giải quyết theo cách tính công điểm, coi như

những ngày sản xuất.

Tùy theo tình hình cụ thể từng nơi mà tổ chức các trạm quan sát để phát hiện

kịp thời và báo cho nhân dân biết có máy bay, tàu chiến của địch bắn phá. Các

trạm quan sát này có nhiệm vụ theo dõi cả máy bay, tàu chiến địch thả thuỷ lôi trên

sông, trên biển để tìm cách phá, hoặc hướng dẫn cho tàu, thuyền vận tải của ta

tránh nơi có thủy lôi” [88, tr. 155-156].

Page 81: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

77

Thực hiện những chỉ đạo nói trên, Ban phòng không nhân dân tỉnh được thành

lập, do Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh làm Trưởng ban. Ngày 7-4-1967, Ủy ban

Hành chính tỉnh ra Chỉ thị số 16-CT/UB về những công tác cấp bách phòng không

nhân dân, trong đó chỉ rõ phương châm là: “Kiên quyết đánh địch đi đôi với tích

cực phòng tránh”, nghĩa là không phòng không một cách bị động, tiêu cực mà phải

phát động lực lượng toàn dân, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt, kiên quyết đánh

trả địch, lấy tiêu diệt địch là mặt tích cực nhất để bảo vệ mình, đồng thời phải coi

trọng công tác phòng tránh nhưng phòng tránh cũng phải trên thế tấn công địch.

Công tác phòng không phải bảo đảm được ba yêu cầu sau: “Bảo đảm tính mạng, tài

sản của nhân dân và của nhà nước; bảo đảm chiến đấu và phục vụ chiến đấu; bảo

đảm sản xuất và các hoạt động khác” [196, tr. 162]. Ban phòng không tỉnh chỉ đạo

ban hành “Nội quy phòng không” cho từng địa phương và đơn vị. Trên cơ sở đó,

từng địa phương, từng cơ quan, từng hợp tác xã đều có nội quy phòng không riêng,

quán triệt đến toàn thể nhân dân để thực hiện đúng.

Ngày 28-6-1967, Tỉnh ủy Quảng Bình ra Chỉ thị về việc tăng cường hơn

nữa công tác chiến đấu và phòng không trong tình hình mới, trong đó yêu cầu

các địa phương, các cơ quan, công nông trường, xí nghiệp tiếp tục phát động

mạnh mẽ sâu rộng phong trào bắn máy bay, nhất là máy bay bay thấp. Chú trọng

xây dựng, củng cố hầm hào cho người, cất dấu lương thực, gia súc, phòng cháy,

vệ sinh phòng bệnh, tránh hội họp đông người (50 người trở lên), đề cao cảnh

giác phòng gian [17].

Vận dụng những chỉ đạo trên, hoạt động phòng tránh được quân dân Quảng

Bình thực hiện với những hình thức sau:

- Chuyển dần mọi hoạt động của nhân dân từ thời bình sang thời chiến theo

hình thức quân sự hóa. Đối với các hợp tác xã cũng như các cơ quan đơn vị, việc tổ

chức sản xuất được gắn liền với chiến đấu. Tổ chức dân quân được lồng vào với tổ

chức của hợp tác xã và cơ quan, tổ sản xuất đồng thời là tổ dân quân, đội sản xuất

đồng thời là trung đội, tiểu đội dân quân, hợp tác xã có thể là 1 trung đội hoặc đại

đội dân quân. Các tổ trưởng, đội trưởng hoặc phụ trách sản xuất đồng thời là người

Page 82: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

78

chỉ huy. Chủ nhiệm hoặc phó chủ nhiệm hợp tác xã đồng thời là trung đội trưởng

hoặc đại đội trưởng dân quân. Bí thư hoặc phó bí thư Đảng ủy xã đồng thời là chính

trị viên xã đội. Thực hiện theo cơ chế này đảm bảo cho các hợp tác xã phát huy hết

khả năng của mình trong việc bố trí lực lượng chiến đấu tại chỗ cũng như huy động

lực lượng tham gia sản xuất, phục vụ chiến đấu, đảm bảo giao thông, …

- Tổ chức quan sát, báo động. Nhằm theo dõi, phát hiện hoạt động của máy

bay, tàu chiến Mỹ, đơn vị trinh sát tỉnh đặt các đài quan sát ở những trọng điểm để

kịp thời báo động sơ tán hoặc kiểm kê số lượng bom đạn chưa nổ sau mỗi trận

đánh. Theo thời gian và quy mô đánh phá của Mỹ, các vọng gác phòng không được

tăng thêm. Ở cơ sở có vọng gác của xã, thôn và trên các cánh đồng đảm bảo cho xã

viên an tâm sản xuất. Công tác canh gác, báo động máy bay, cấp cứu, giải quyết hậu

quả chiến tranh trở thành phong trào tự nguyện, tự giác của quần chúng. Năm 1968,

toàn tỉnh có 692 trạm quan sát báo động (tăng gấp 3 lần năm 1965). Từ năm 1969,

do mức độ đánh phá của Mỹ giảm xuống nên số trạm quan sát cũng được rút bớt.

Toàn tỉnh còn 122 trạm, tổ (366 người hoạt động thường trực). Cùng với những

thông tin từ trên cung cấp, những trạm quan sát này góp phần lớn vào việc phát hiện

địch (máy bay, tàu chiến, biệt kích, bom chưa nổ, …) giúp nhân dân ẩn tránh kịp

thời, hạn chế tổn thất cũng như để các lực lượng đánh trả bảo vệ các mục tiêu.

- Xây dựng hệ thống hầm hào. Để đảm bảo an toàn, bám trụ sản xuất và chiến

đấu, không có cách nào khác, hệ thống hầm hào phải được xây dựng vững chắc và

ngày càng hoàn thiện. Những ngày đầu địch đánh phá, cách làm hầm còn đơn giản,

phần lớn là hầm tròn, hầm ếch, hầm chữ “L”, miệng hầm bằng những tấm phên đan,

đổ đất lên để tránh mảnh bom, mảnh đạn. Qua thực tiễn, kĩ thuật làm hầm ngày

càng cải tiến, nâng cao. Phổ biến nhất là hầm kèo chữ “A”, có lối vào, lối ra, đắp

đất dày, hầm rộng hơn. Để khắc phục về nhân lực, ngoài việc phát động quần chúng

tự làm, kết hợp với sự giúp đỡ của tập thể, các hợp tác xã và xã đã tổ chức các đội

làm hầm chuyên môn (đưa vào dân quân, những người có chuyên môn và biết nghề

mộc), được hướng dẫn thống nhất về kiểu cách làm hầm. Các đội này chịu trách

nhiệm làm hầm ở nơi công cộng của xã và hợp tác xã như trường học, trạm xá, …

Page 83: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

79

hướng dẫn cho các gia đình trong thôn làm đúng quy cách, đồng thời ưu tiên giúp

đỡ những gia đình thương binh, liệt sĩ, bộ đội, … Hầm làm nhiều loại lớn nhỏ, cho

gia đình, cho tập thể; hầm cho gia súc ẩn nấp, hầm bảo vệ tài sản. Về nguyên vật

liệu, dựa vào sự tự lực cánh sinh tại chỗ, tương trợ lẫn nhau giữa các gia đình, nhiều

hộ hạ nhà xuống lấy gỗ làm hầm hoặc các hợp tác xã tổ chức người đi rừng lấy gỗ

hoặc làm lò rèn bu-loong để cung cấp cho nhân dân. Cơ quan lâm nghiệp địa

phương khoanh vùng cho nhân dân khai thác gỗ làm hầm, đồng thời sản xuất để

cung cấp cho các cơ quan. Tiêu biểu như xã Trung Trạch (Bố Trạch) có 870 hộ,

4.150 nhân khẩu, đã tổ chức một bộ phận gồm 34 người đi lấy gỗ, bộ phận cưa có

30-40 cặp, 4 đội làm hầm có 175 người. Xã đã làm 1.131 hầm gia đình, 1.771 hầm

gia súc và cất dấu tài sản, 105 hầm tập thể cho nhà trẻ, lớp mẫu giáo, cửa hàng, trạm

xá, nhà làm việc của ủy ban, hợp tác xã, có 168 hầm của dân quân sẵn sàng chiến

đấu chống địch đổ bộ, … 65km giao thông hào, trên 7.000 hầm cá nhân dọc đường

đi lại hoặc ngoài đồng phục vụ sản xuất và đi lại [139, tr. 128]. Việc toàn dân làm

hầm kết hợp với các tổ chức chuyên môn có tác dụng là hầm hào đúng quy cách,

tiết kiệm được nhân lực, sử dụng hợp lí nguồn nguyên vật liệu và đáp ứng kịp thời

yêu cầu phòng tránh của nhân dân trong điều kiện chiến tranh ngày càng ác liệt. Ở

những nơi Mỹ thường xuyên đánh phá, nhân dân xây dựng thành làng hầm, đưa mọi

sinh hoạt của gia đình xuống lòng đất, thực hiện bám đất, bám làng để chiến đấu,

sản xuất. Từ các làng hầm Ngư Thủy, Long Đại, Trung Trạch, Quảng Thuận, … đã

phát triển rộng ra các địa phương khác, nhất là những vùng gần các trọng điểm giao

thông. Xã Ngư Thủy (Lệ Thủy) đúc kết kinh nghiệm: “Có Đảng, có dân, có hầm,

có hợp (tức là hợp tác xã)” 1. Qua năm 1967-1968, công tác xây dựng hầm hào

phòng tránh cho người và tài sản đối với nhân dân càng được chú trọng hơn trước.

Hầm hào ở vùng nông nghiệp được xây dựng nhiều hơn, với chủng loại phong phú

hơn. Dựa vào hợp tác xã và các đội sản xuất, địa thế của từng thôn, các địa phương

bố trí dân sơ tán phù hợp. Nơi Mỹ đánh phá ác liệt, hầm hào được tổ chức nhiều

1. Khẩu hiệu này xác định nếu có Đảng, có dân, có hợp tác xã là chỗ dựa, có hầm để bảo vệ

tính mạng thì có tất cả.

Page 84: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

80

tuyến, tuyến gần làng, tuyến xa làng. Với khẩu hiệu: “Chưa có hầm chưa cấy, chưa

gặt”, hầm được làm tại ruộng, hào dẫn từ ruộng về nhà. Ở những chỗ ruộng sâu, xã

viên làm hầm lưu động kéo theo để tránh bom bi, …

Số liệu thống kê cụ thể số lượng hầm các loại như sau [151, tr.107 & 196, tr.162]:

Loại hầm 1965 1966 1968

Hầm ẩn nấp công cộng 11.638 96.000 141.898

Hầm gia đình 70.172 168.165 194.565

Hầm cho gia súc 511 9.928 53.141

Hầm cất dấu tài sản của dân 8.434 38.578 58.801

Hầm chiến đấu - - 4.108

Hầm cứu thương - - 903

Hầm sinh hoạt tập thể - - 8.915

Nhà hầm - - 18.453

Hố cá nhân - - 112.706

Về các đội bảo đảm [196, tr. 163]

Loại đội 1965 1966 Ghi chú

Đội cấp cứu, tải thương 559 730 Tăng 30%

Đội chống sập 230 726 Tăng 215%

Đội cứu hỏa 282 818 Tăng 190%

Từ sau năm 1968, tuy Mỹ xuống thang chiến tranh nhưng quân dân Quảng

Bình vẫn tiếp tục hoàn thiện, kiên cố hầm hào. Đến cuối năm 1971, toàn tỉnh có

98.494 hố cá nhân, 77.277 hầm chữ “A” và trên 220km giao thông hào. Qua đầu

năm 1972, hầm chữ “A” tăng lên 240.000 cái, đào thêm 1.700 hố cá nhân và 100km

giao thông hào. Do đó, khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai,

ngoài hầm hào đã có từ trước, các địa phương và đơn vị tăng cường xây dựng hệ

thống trú ẩn. Chỉ trong thời gian ngắn, toàn tỉnh làm thêm 56.000 hầm chéo cho các

hộ gia đình, 2.300 hầm công cộng và hàng trăm km giao thông hào, đưa tổng số

hầm lên 415.235 cái, đạt trung bình 1 hầm/1 người [164, tr. 275]. Có hệ thống hầm

Page 85: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

81

hào vững chắc, nhân dân Quảng Bình hạn chế được tổn thất ngay cả trong những

đợt ném bom rải thảm mang tính hủy diệt của đế quốc Mỹ.

Công tác giải quyết hậu quả sau mỗi trận đánh dần kiện toàn theo phương

châm “lấy tự cứu, tự chữa tại chỗ là chính, có chỉ huy chặt chẽ, chủ động cứu chữa

kịp thời, nhanh chóng kết hợp với sự chi viện của xung quanh”. Đối với những người

ở lại bám trụ sản xuất và chiến đấu, công tác phòng tránh càng yêu cầu cao hơn. Để

tránh tổn thất tính mạng tập trung vào từng gia đình, khi có máy bay và tàu chiến

đánh phá, mỗi gia đình được phân tán ra nhiều hầm để trú ẩn hoặc chia nhỏ thành

viên “ngủ đổi” với những gia đình khác. Nhiều xã xây dựng sơ đồ hầm, hào các gia

đình trong xóm, thôn, khu vực. Sau mỗi trận đánh, căn cứ vào sơ đồ, người ở hầm an

toàn sẽ tổ chức ứng cứu những hầm bị sập một cách nhanh nhất. Từ việc lấy xã và

đơn vị tương đương để tổ chức các đội cấp cứu chuyển sang lấy đội sản xuất, về sau

lấy từng nhóm 5-7 gia đình làm đơn vị. Các đội này được trang bị đầy đủ cuốc xẻng,

khẩu trang, thuốc cấp cứu, que xoi 1, … Đến năm 1968, toàn tỉnh tổ chức 743 đội cấp

cứu, cứu thương, 1.059 đội chống sập hầm, 282 đội chống cháy. Để việc cứu chữa

được kịp thời, tất cả được quy định lấy việc cứu người làm hàng đầu, quy định hiệu

lệnh báo tin an toàn, có thương vong, tự cứu hoặc yêu cầu chi viện. Với tinh thần

“chia nhà, chia cửa, chia lửa, chia máu”, khẩu hiệu “một nhà bị nạn, cả xóm cùng

lo. Một xã bị tàn phá, cả huyện tập trung giúp đỡ” đã trở thành phong trào quần

chúng rộng rãi. Tiêu biểu như khi xã Hoàn Trạch (Bố Trạch) bị B.52 rải thảm hủy

diệt thôn xóm (6-1972), gây nên nhiều tổn thất về tài sản và tính mạng của nhân dân,

các xã và các ngành ở Bố Trạch đều hướng về, góp từng ống thuốc, loong sữa, quả

trứng giúp người bị thương; góp từng cây tre, tấm tranh, cây cột, tấm chăn, manh áo,

nông cụ sản xuất để giúp đỡ những gia đình bị nạn, … Nông trường Việt - Trung bị

đánh gần 1.400 trận, trong đó có trên 50 trận bằng B.52 làm nhiều đội sản xuất không

còn một nóc nhà. Cán bộ và công nhân nông trường đã dành ra gần 27.000 ngày công

để giúp nhau làm hầm trú ẩn, hàng ngàn ngày công và hơn 4.000 tấm tranh, 900 cây

gỗ, 9.000 sợi mây để làm lại nhà, … [195, tr. 29].

1. Trong trường hợp hầm bị sập, người cứu dùng que thọc xuống hầm cho nạn nhân có

không khí để thở, sau đó mới đào hầm để cứu.

Page 86: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

82

Nhờ thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nên tỉ lệ thương vong bởi các đợt đánh

phá của Mỹ giảm xuống. Cụ thể, năm 1965, bình quân một trận đánh, số người chết

chiếm 0,28%, bị thương chiếm 0,54%. Năm 1966, số lần và số bom địch đánh phá

tăng 5 lần (10.184/1.995) nhưng tỉ lệ thương vong giảm xuống, người chết là

0,16%, bị thương 0,33%. Năm 1967, mức độ thương vong tăng lên, bình quân một

trận là 0,27% người chết và 0,43% bị thương. Năm 1968, trong 7 tháng “ném bom

hạn chế” (4 – 10-1968), số lần đánh và khối lượng bom đạn bằng cả 3 năm trước

cộng lại nhưng bình quân một trận chỉ có 0,11% người chết và 0,19% bị thương.

Cuối năm 1971, tỉ lệ này là 0,16% và 0,19% [164, tr. 196, 258]. Xã Ngư Thủy (Lệ

Thủy) 1.046 lần bị Mỹ đánh phá, bình quân mỗi trận đánh chỉ có 0,05% thương

vong. Xã Quảng Thuận (Quảng Trạch) có 824 hộ, 3.427 nhân khẩu, địch đánh phá

4.351 lần, 76 lần tàu chiến Mỹ pháo kích, bình quân mỗi gia đình làm lại nhà 3-4

lần, nhưng tỉ lệ thương vong mỗi lần đánh chỉ 0,06%. Trong 4 năm, (1965-1968)

trong số 198 người bị sập hầm, đã cứu sống được 139 người.

3.1.2. Công tác sơ tán, giãn dân

Để hạn chế mức độ thiệt hại về người và duy trì sản xuất, các địa phương thực

hiện việc phân tán dân cư nhằm giảm mật độ dân số ở những vùng trọng điểm. Việc

phân tán được chia thành 3 hình thức: Sơ tán lâu dài, giãn dân tại chỗ và tạm lánh

khi Mỹ đánh phá.

Sơ tán lâu dài được áp dụng cho thị xã Đồng Hới, các thị trấn và những vùng

nông thôn trọng điểm, nơi Mỹ đánh phá ác liệt có mật độ dân số cao. Việc sơ tán

này kết hợp nhiệm vụ khai hoang gắn với phát triển kinh tế ở những vùng thưa dân.

Thị xã Đồng Hới tổ chức 1.590 hộ với 7.772 nhân khẩu lên miền Tây xã Nghĩa

Ninh lập làng mới. Một số hộ ở xã Hải Trạch (Bố Trạch) lập làng mới ở vùng khai

hoang thuộc xã Phú Trạch; xã Cảnh Dương làm lò ngói ở vùng đất đỏ xã Quảng

Châu. Các xã Quảng Thuận, Quảng Tân, Quảng Hải, Quảng Sơn và Quảng Thủy

vận động hàng trăm hộ lên lập làng mới ở Cao Mại (Tuyên Hóa), …

Giãn dân tại chỗ áp dụng cho các vùng trọng điểm sau khi sơ tán bớt dân hoặc

do yêu cầu chiến đấu và sản xuất mà không thể sơ tán lâu dài. Ở nông thôn, các

Page 87: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

83

công trường, lâm trường, nông trường dựa vào các đội sản xuất để bố trí thành từng

khu ở chỗ tương đối an toàn, gần nơi sản xuất, phân tán hầm hào thưa nhau. Những

xã địa bàn hẹp có thể giãn dân sang xã lân cận. Ở vùng biển, các hợp tác xã phân bố

lại nhân lực, phân chia công cụ sản xuất, sơ tán dọc bờ biển theo hợp tác xã, đội sản

xuất, lập xóm mới để vừa đảm bảo sản xuất vừa tăng thêm lực lượng phòng thủ bờ

biển. Các hợp tác xã đánh cá Nhân Trạch (Bố Trạch), Quang Phú, Lộc Ninh (Quảng

Ninh) đưa các đội vào sản xuất ở Tân Định (Gia Ninh).

Việc tổ chức tạm lánh đối với những người, những bộ phận hoặc những địa

phương không thể sơ tán lâu dài hoặc dãn ra lâu khi Mỹ đánh phá ác liệt được tiến

hành trong từng đợt, trong từng trận đánh hoặc tránh giờ cao điểm trong ngày.

Chẳng hạn như ngày 13-4-1966, lần đầu tiên Mỹ dùng B.52 đánh Đồn công an Cha

Lo và đèo Mụ Dạ trên Đường 12. Rút kinh nghiệm từ trận đánh vào Binh trạm 4

thuộc Đoàn 559 trước đó (ngày 25-3-1966), Đồn công an Cha Lo đã kịp thời sơ tán

kho tàng, giảm bớt người và củng cố hầm hố vững chắc. Do đó, mặc dù lần đầu bị

B.52 đánh phá ác liệt (trung bình 1 quả bom/1m2) nhưng đồn vẫn đảm bảo an toàn

[173]. Cũng từ đây, quy luật hoạt động và đánh phá của B.52 được rút ra, phục vụ

đắc lực cho công tác phòng tránh ở những địa phương khác.

Không chỉ sơ tán tại chỗ, Quảng Bình còn thực hiện và góp phần đảm bảo kế

hoạch K.8 (mật danh của kế hoạch di chuyển con em Quảng Bình, Vĩnh Linh từ vùng

chiến sự ra các tỉnh phía Bắc để sống, học tập, trong điều kiện an toàn hơn).

Từ giữa năm 1966 trở đi, trước mức độ đánh phá ác liệt của các lực lượng hải

lục không quân Mỹ, vấn đề giảm mật độ dân cư trong khu vực chiến sự ở Vĩnh Linh

và Nam Quảng Bình được đặt ra. Lực lượng ở lại bám trụ sản xuất và chiến đấu là

người lớn và người có sức khỏe, còn trẻ nhỏ, người già yếu và mất sức cần có kế

hoạch di chuyển ra các tỉnh phía Bắc, những nơi an toàn đề phòng cuộc chiến tranh

còn kéo dài nhằm đảm bảo việc học tập cho con em và bảo toàn nguồn lực cho lâu

dài, xây dựng lại quê hương sau chiến tranh. Ban Bí thư Trung ương Đảng chủ

trương cho Vĩnh Linh và Quảng Bình thực hiện kế hoạch K.8, sơ tán khoảng 3 vạn

cháu nhỏ, tuổi từ 7 đến 15, ra các tỉnh phía Bắc. Chiến dịch có các bộ: Nội vụ, Giáo

Page 88: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

84

dục, Giao thông, Y tế cùng một số ban ngành và địa phương có liên quan, do Bộ

trưởng, Phủ Thủ tướng Trần Hữu Dực làm Trưởng ban.

Quảng Bình được Chính phủ giao nhiệm vụ: “Phải tận tình giúp đỡ, cùng các

ngành có liên quan giải quyết các khó khăn về mọi nhu cầu thiết yếu của đồng bào

trên các chặng đường theo kế hoạch đưa đi”, do đó, “cần phân công cán bộ có khả

năng và có quyền hạn chuyên trách, theo từng cấp Ủy ban Hành chính cũng như

từng ngành chuyên môn có liên quan tỉnh huyện đến xã trên các tuyến đường có

đồng bào đi qua” [134]. Thực hiện chủ trương trên, Tỉnh cử một số cán bộ tham gia

Ban K.8 như Phó trưởng Ty Giao thông và Ty Giáo dục, Phó Chủ tịch những huyện

và xã có đoàn sơ tán đi qua. Vĩnh Linh và Quảng Bình cùng phối hợp tổ chức thành

3 cung và 4 trạm tiếp nhận, chuyển giao. Ở mỗi cung và trạm, đều có phương án dự

phòng khi có sự cố. Trên đường đi, như lúc qua xã Võ Ninh và Đại Trạch, gặp lúc

máy bay oanh tạc, chị em bảo mẫu kịp thời đưa các cháu vào ẩn nấp trong những

hầm do nhân dân chuẩn bị sẵn. Có bà mẹ đã nhường hầm còn mình ngồi ngoài cửa

để theo dõi bom đạn, che chở cho các cháu. Ở Quảng Trạch, do bị đánh phá, trạm

đón tiếp không nấu cơm được, nhiều bà mẹ đã đưa cơm nhà cho các cháu ăn. Công

ty ô tô Quảng Bình, lái xe Hà Văn Hớn, đêm 22-7-1967 chở 30 cháu qua Ba Trại, bị

máy bay ném bom lân tinh, đã bình tĩnh cởi áo dập tắt lửa, tiếp tục cho xe chạy ra

trạm Mỹ Trạch an toàn.

Gần 1 năm thực hiện kế hoạch K.8, với 2 đợt, đến ngày 10-10-1967, gần 3 vạn

cháu của Vĩnh Linh, Quảng Bình và của 2 huyện Gio Linh, Cam Lộ (chạy ra trong

trận đại càn 17 – 19-5-1967 của Mỹ ở Khu phi quân sự Nam) được sơ tán đến nơi

an toàn. Tổng cộng có 415 giáo viên, gần 2.000 lượt cán bộ hộ tống và hàng vạn

người của 14 huyện thuộc 8 tỉnh có học sinh K8 đi qua hoặc đến ở được huy động

làm nhiệm vụ giao liên, đưa đường, canh gác máy bay, phục vụ cơm nước. 72 người

(chiếm khoảng 0,24%) đã vĩnh viễn nằm lại bởi bom đạn Mỹ (59 học sinh, 6 giáo

viên, 2 cán bộ khu vực, 1 lái xe và 3 người hướng dẫn). Ở Quảng Bình có 3 cán bộ

hi sinh [41].

Page 89: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

85

Thành công trong việc tổ chức phòng tránh không chỉ bảo vệ an toàn tính

mạng và tài sản cho nhân dân mà còn tạo ra nền tảng xã hội ổn định, làm điểm tựa

cho việc triển khai thế trận chiến tranh nhân dân.

3.2. Chiến đấu chống chiến tranh phá hoại

3.2.1. Củng cố và xây dựng lực lượng vũ trang hình thành thế trận chiến

tranh nhân dân

3.2.1.1. Củng cố và xây dựng lực lượng vũ trang

Để đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của Mỹ, sức mạnh toàn

dân phải được huy động, trong đó nòng cốt là bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và

dân quân tự vệ. Tỉnh ủy Quảng Bình xác định: “Phát triển đội ngũ dân quân du

kích, coi đây là lực lượng chiến đấu trong toàn tỉnh. Về lực lượng vũ trang, phải

chú trọng xây dựng lực lượng cơ động của tỉnh mạnh mẽ, bao gồm các binh chủng

bộ binh, pháo binh, cao xạ, công binh, thông tin, … Nhưng đặc biệt chú trọng xây

dựng các đơn vị bộ binh thành lực lượng cơ động trong phạm vi nhất định để sẵn

sàng vận động tiêu diệt địch” [15].

* Lực lượng dân quân tự vệ

Trong những năm hòa bình (1954-1964), nhận thức được vị trí và tầm quan

trọng của một tỉnh đầu cầu miền Bắc, Tỉnh ủy Quảng Bình xác định: “Ra sức xây

dựng lực lượng vũ trang quần chúng lớn mạnh, đặc biệt là ra sức củng cố và phát

triển lực lượng dân quân tự vệ thực sự là lực lượng chủ lực của chiến tranh nhân

dân” [151, tr. 66]. Bởi đây chính là lực lượng nòng cốt của chiến tranh nhân dân ở

địa phương, có nhiệm vụ chiến đấu chống chiến tranh phá hoại và sẵn sàng phòng

thủ địa bàn nếu Mỹ liều lĩnh đưa quân tấn công ra Bắc. Mặt khác, dân quân tự vệ

còn là lực lượng cơ bản thực hiện phòng không nhân dân, bảo vệ trị an ở cơ sở, sản

xuất và bảo vệ sản xuất, tham gia đảm bảo giao thông và chi viện tiền tuyến.

Về tổ chức và biên chế, lực lượng dân quân tự vệ ở Quảng Bình được biên chế

thành các đơn vị thường trực chiến đấu (trực chiến), bán trực chiến (là lực lượng sản

xuất trong các hợp tác xã nhưng được trang bị vũ khí, có thể tham gia chiến đấu và

phục vụ chiến đấu khi có tình huống chiến sự xảy ra) và lực lượng cơ động phục vụ

Page 90: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

86

chiến đấu (bao gồm cả lực lượng thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến phục

vụ chiến trường).

Đến cuối năm 1965, lực lượng dân quân tự vệ đã có 28.243 người (chiếm

khoảng 6,9% dân số), trong đó có 4.781 nữ. Thời gian này, lực lượng dân quân mới

biên chế ở cấp trung đội. Trong khi đó, lực lượng tự vệ đã được biên chế thành 2

tiểu đoàn, 24 đại đội và 103 trung đội. Đến những năm 1967-1968, để phù hợp với

hình thức tổ chức sản xuất quy mô hợp tác xã, trên cơ sở rút ra được những kinh

nghiệm từ trước, lực lượng dân quân được biên chế tới 161 đại đội, trong đó nữ

chiếm tỉ lệ 32,2% [151, tr. 52-53].

Điểm đặc biệt trong xây dựng lực lượng dân quân tự vệ là ở Quảng Bình lần

đầu tiên thành lập đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy (2-11-1967). Đại đội gồm 37

chiến sĩ, chia làm 3 trung đội, trang bị 4 khẩu pháo 85ly. Sự kiện này đánh dấu

bước phát triển vượt bậc của lực lượng dân quân tự vệ, đặc biệt là đối với phụ nữ.

Từ chỗ chị em chỉ sử dụng vũ khí bộ binh thông thường lên chiến đấu bằng pháo

binh - vũ khí chủ yếu dành cho bộ đội chủ lực, chứng tỏ phụ nữ có thể đảm đương

được nhiệm vụ chiến đấu thay cho nam giới, ngay cả ở lĩnh vực phức tạp và đòi hỏi

phải có sức khỏe tốt. Cũng năm này, lực lượng dân quân tự vệ có 54.700 người, gấp

đôi so với hồi đầu chiến tranh, chiếm 13,1% dân số (tỉ lệ nữ đạt 32,6%, tự vệ đạt

65,1% so với tổng số công nhân viên chức). Lực lượng trên phiên chế thành 171 đại

đội, 95 phân đội 12,7ly luôn thường trực chiến đấu, trong đó có 13 phân đội nữ dân

quân, 2 phân đội lão dân quân phòng không và 1 đại đội nữ pháo binh (đại đội Ngư

Thủy) chuyên đánh tàu chiến.

Qua năm 1969, lực lượng dân quân tự vệ tăng hơn 300 người. Về chất lượng,

có 24,1% là đảng viên, 33,1% là đoàn viên, nữ chiếm 34,6%. Trong đội ngũ cán bộ

có hơn 90% xã đội trưởng, tự vệ trưởng là Thường vụ Đảng ủy cơ sở. Cán bộ quân

sự từ tiểu đội đến đại đội có 60,6% là đảng viên.

Đến năm 1971, lực lượng dân quân tự vệ có gần 60.000 người (chiếm 13,4%

dân số). Toàn tỉnh có 82 phân đội trực chiến, mỗi huyện tổ chức từ 1 đến 2 đại đội

dân quân do Huyện đội chỉ huy, làm nhiệm vụ cơ động bảo vệ các trọng điểm.

Page 91: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

87

Về trang bị chiến đấu, lực lượng dân quân tự vệ được trang bị như bộ đội chủ

lực, gồm súng trường K44, tiểu liên K50, trung liên, đại liên K53 và K57, AK,

B.40, B.41, ĐKZ, cối các loại, pháo 85ly, … Số được trang bị vũ khí chiếm 19,8%

lực lượng (và tăng dần trong những năm tiếp theo), trong đó, ưu tiên trang bị cho du

kích và tự vệ chiến đấu (42,1%). Năm 1971, lực lượng dân quân tự vệ được trang bị

hơn 18.000 khẩu súng các loại, đạt trung bình gần 3 người/1 súng. Bình quân mỗi

xã được trang bị 52 khẩu súng các loại (hỏa lực mạnh hơn 1 tiểu đoàn chủ lực thời

kì chống Pháp). Ở những vùng xung yếu, trang bị cho mỗi xã nhiều hơn, 78 súng

các loại. Ngoài vũ khí hiện đại, nhiều địa phương còn vận động nhân dân mỗi gia

đình làm một hầm chông chống Mỹ, như Võ Ninh, Đại Trạch, Nhân Trạch, Quảng

Đông, Ngư Thủy, … [151, tr. 57-58].

Hỏa lực phòng không chủ yếu của dân quân tự vệ là súng 12,7ly, 14,5ly và súng

đại liên, thượng liên, trung liên; một số trọng điểm được trang bị pháo 37ly. Một số

đơn vị được trang bị tốt, gần như bộ đội, tiêu biểu là đại đội dân quân xã Phú Thủy

(Lệ Thủy) có 40 người, trang bị 11 khẩu từ 12,7ly, 14,5ly đến cao xạ 37ly.

Công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu

Đi đôi với xây dựng lực lượng, công tác chỉ huy, huấn luyện chiến đấu được

Tỉnh đội Quảng Bình hết sức chú trọng. Hình thức chiến đấu của dân quân tự vệ, kĩ

- chiến thuật chiến đấu từng trận, xây dựng phương án, bố trí nhân lực, chọn trận

địa, mục tiêu, thời cơ bắn, nghi binh, mai phục đường bay, … được nghiên cứu, phổ

biến cho các đơn vị luyện tập. Lực lượng dân quân tự vệ ở những vùng xung yếu

được trang bị vũ khí, tổ chức các tổ săn máy bay, chuẩn bị sẵn trận địa. Khi đi sản

xuất ngoài đồng ruộng hay làm việc trong các xí nghiệp, vũ khí luôn mang theo

người để có thể đánh địch được mọi nơi, mọi lúc. Những mục tiêu dự kiến Mỹ có

thể đánh phá, cơ quan quân sự tỉnh, huyện đều bố trí sẵn lực lượng đánh trả. Công

tác tổ chức chỉ huy, hệ thống thông tin liên lạc, hợp đồng các ngành phục vụ chiến

đấu được báo động thực tập để vào nề nếp, đồng thời có phương án hướng dẫn nhân

dân phòng tránh.

Page 92: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

88

Bên cạnh sử dụng các vũ khí bộ binh thông thường, dân quân tự vệ tích cực

học tập sử dụng vũ khí hiện đại, nâng cao hiệu suất chiến đấu. Về tổ chức, các

huyện đã hình thành cụm 12,7ly, có hai đến ba xã phối hợp chiến đấu tập trung, chỉ

huy thống nhất, cơ động trong từng địa bàn huyện. Có nơi vào từng thời điểm tổ

chức thành cụm hỗn hợp tạm thời gồm pháo cao xạ, hỏa lực súng máy phòng không

của bộ đội, dân quân, tự vệ để bảo vệ các mục tiêu. Các hình thức nghi binh, lừa

địch, dụ địch và chỗ trống được chú trọng phát triển và nâng cao.

Gắn liền với việc phát triển lực lượng, môi trường hoạt động của dân quân tự

vệ là “làng xã chiến đấu” được xây dựng rộng khắp. Thực hiện Chỉ thị về công tác

xây dựng làng chiến đấu của Quân ủy Trung ương (2-3-1966), Tỉnh ủy Quảng Bình

xác định: “Cần đẩy mạnh xây dựng làng xã chiến đấu, tăng cường hầm hào giao

thông trú ẩn và công sự chiến đấu, thực hiện đúng khẩu hiệu: “mỗi người dân là

một chiến sĩ kiên cường, mỗi thôn xóm là một pháo đài vững chắc” [151, tr. 72].

Xuất phát từ đặc điểm của cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, tất cả các địa

phương trong tỉnh đều phải có trách nhiệm xây dựng trận địa đánh địch, trong đó

tập trung ở những vùng trọng yếu. Trên tuyến biển, các xã Cảnh Dương, Quảng

Phúc, Thanh Trạch, Nhân Trạch, Bảo Ninh và Ngư Thủy được tập trung xây dựng

thành tuyến phòng thủ ở phía Đông. Trên tuyến biên giới, các xã Dân Hóa, Trung

Hóa, Trường Sơn, Ngân Thủy và Kim Thủy được lập thành tuyến phòng thủ phía

Tây. Ở tuyến giữa, các xã Đại Trạch, Lộc Ninh, Cự Nẫm, Tiến Hóa, Đức Ninh,

Phong Thủy và An Thủy được xây dựng thành hệ thống liên hoàn bảo vệ vùng kinh

tế trung tâm của tỉnh. Trong điều kiện chiến tranh ngày càng ác liệt, làng xã chiến

đấu chính là nòng cốt của các hợp tác xã bậc cao quy mô toàn thôn, làm cơ sở đảm

bảo duy trì sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Đi đôi với tăng cường số lượng và chất lượng, công tác huấn luyện, nâng cao

trình độ tác chiến, khả năng sẵn sàng chiến đấu cho các lực lượng vũ trang được

tiến hành thường xuyên. Đầu năm 1969, Tỉnh đội mở các lớp bồi dưỡng ngắn ngày

cho 1.859 cán bộ bộ đội địa phương và 1.526 cán bộ dân quân, tự vệ. 82 xã (100%)

mở lớp bồi dưỡng tại chỗ cho cán bộ mới đề bạt. Việc huấn luyện sử dụng vũ khí

Page 93: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

89

mới cũng được tiến hành. Cụ thể, cơ quan Tỉnh đội mở 2 lớp tập huấn súng cối cho

94 người, 1 lớp súng ĐKZ cho 39 người, súng 12,7ly cho 67 người, … Các huyện

Lệ Thủy, Quảng Trạch và Bố Trạch mở nhiều lớp huấn luyện súng 12,7ly cho các

địa phương và đơn vị trên địa bàn. Các binh chủng như pháo binh, phòng không,

đặc công, quân báo của bộ đội địa phương cũng mở nhiều lớp tập huấn cho 400 cán

bộ cấp khẩu đội đến tiểu đoàn [164, tr. 222].

Như vậy, theo thời gian và “độ nóng” của yêu cầu chiến đấu chống chiến

tranh phá hoại, lực lượng dân quân tự vệ ở Quảng Bình không ngừng được phát

triển về số lượng và chất lượng, tổ chức và trang bị. Đây thực sự là lực lượng chủ

chốt, phân bố đều khắp trên các địa bàn, luôn thường trực sẵn sàng chiến đấu, bảo

vệ những mục tiêu tại chỗ, góp phần to lớn cùng quân dân Quảng Bình nói riêng,

miền Bắc nói chung giành thắng lợi trong cuộc đối đầu với cuộc chiến tranh phá

hoại của Mỹ.

Điểm nổi bật cũng là nét đặc thù của lực lượng dân quân, tự vệ Quảng Bình là

trong điều kiện đối đầu với cuộc chiến tranh phá hoại tổng lực của Mỹ, lực lượng

dân quân tự vệ Quảng Bình đã hội đủ các yếu tố của một lực lượng thường trực

chiến đấu. Đó là những đơn vị dân quân tự vệ xung kích, được trang bị khí tài hiện

đại, được huấn luyện nâng cao trình độ về lí luận quân sự, về kĩ - chiến thuật, có

khả năng cơ động chiến đấu cao, có đủ điều kiện thường trực chiến đấu và có khả

năng hợp đồng tác chiến với các đơn vị bộ đội chủ lực đóng quân ở địa phương

hoặc triển khai đội hình chiến đấu khi hành tiến qua địa bàn. Vì thế, lực lượng dân

quân tự vệ Quảng Bình là bộ phận quan trọng cấu thành thế trận và góp phần quyết

định thắng lợi của chiến tranh nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ.

* Bộ đội địa phương

Về bộ binh, ngày 8-11-1964, Tiểu đoàn 45 bộ binh tỉnh được thành lập, làm

nòng cốt cho lực lượng bộ đội địa phương Quảng Bình. Năm 1965, tỉnh thành lập

Tiểu đoàn 46, năm 1969 thành lập Tiểu đoàn 49. Đến năm 1972, cả 3 tiểu đoàn trên

được hợp nhất thành lập Trung đoàn 185 bộ đội địa phương. Ngoài bộ đội địa

phương tỉnh, các huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, Quảng Trạch mỗi huyện

có 1 đại đội, Minh Hóa và thị xã Đồng Hới mỗi địa phương có 1 trung đội.

Page 94: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

90

Về pháo binh, lực lượng pháo binh địa phương gồm 4 đại đội pháo 85ly (7, 8,

9, 10), đại đội 47 pháo bờ biển 105ly. Năm 1972, Quân khu 4 tăng cường 1 đại đội

pháo tầm xa 130ly có ra-đa chỉ thị phát hiện mục tiêu đánh đêm. Trong từng thời

điểm, Quân khu 4 còn chi viện Trung đoàn pháo binh 164 sát cánh cùng quân dân

Quảng Bình, chưa kể lực lượng pháo thuộc các sư đoàn bộ binh 341 và 325.

Về lực lượng phòng không (pháo cao xạ, tên lửa, ra-đa,…), để làm chủ tình

hình trong mọi tình huống, đi đôi với việc xây dựng và triển khai lực lượng tác

chiến, Bộ Quốc phòng và tỉnh Quảng Bình đã phối hợp triển khai xây dựng hệ

thống ra-đa và mạng lưới phòng không, giám sát vùng trời, vùng biển, kịp thời theo

dõi mọi biến động của địch, thông tin chính xác cho các lực lượng thường trực

chiến đấu và nhân dân, kịp thời tổ chức đánh địch tập kích đường không, đường

biển vào địa bàn.

Tại khu vực Đèo Ngang có trạm ra-đa 503 và 505. Ngoài lực lượng cao xạ của

Tiểu đoàn 9, tỉnh được tăng cường thêm Tiểu đoàn 15, 17 pháo cao xạ 37ly, Tiểu

đoàn 13 súng máy cao xạ 12,7ly. Các địa phương trong tỉnh đều có những trạm

quan sát làm nhiệm vụ theo dõi tình hình, kịp thời báo cáo cho huyện đội, thị đội và

tỉnh đội để cùng Ban chỉ huy các lực lượng của Bộ Quốc phòng đóng quân trên địa

bàn kịp thời có phương án triển khai đánh địch và công tác phòng không nhân dân.

Năm 1972, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh tổ chức thêm 1 tiểu đoàn pháo cao xạ

37ly, một đại đội 14,5ly và 15 phân đội 12,7ly. Cũng ở thời điểm này, Quân khu 4

tăng cường thêm 1 đại đội cao xạ 100ly và 1 phân đội súng máy cao xạ 14,5ly loại 2

nòng, đưa lực lượng phòng không thường trực lên 9 tiểu đoàn pháo cao xạ. Các

phân đội phòng không trực chiến của bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ được bố

trí ở những địa điểm xung yếu, những mục tiêu quan trọng để phục kích đánh máy

bay trinh sát.

Ngoài các lực lượng trên, công an Quảng Bình và Công an nhân dân vũ trang

tỉnh (tương đương 1 tiểu đoàn) cũng được củng cố về tổ chức, tăng cường lực lượng,

chuyển mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến. Cùng với kế hoạch làm trong sạch

địa bàn (quản lí, câu lưu hoặc di chuyển khỏi địa bàn những phần tử nguy hiểm) của

Page 95: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

91

Ty Công an, trên tuyến biên giới và bờ biển, Công an nhân dân vũ trang đào 2.555m

chiến hào, 890m giao thông hào, hàng trăm hố chiến đấu cá nhân [44, tr. 127]. Công

tác tuần tra, huấn luyện, trực chiến sẵn sàng chiến đấu được triển khai trong toàn lực

lượng. Vì vậy, khi cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ diễn ra, lực lượng công an đã

kịp thời sát cánh với các lực lượng vũ trang đánh địch và đấu tranh chống biệt kích

xâm nhập.

Với một địa phương có vị trí chiến lược quan trọng như Quảng Bình trong

cuộc kháng chiến chống Mỹ, Trung ương Đảng và Chính phủ rất chú trọng công tác

bố phòng lực lượng nhằm bảo vệ sự an toàn của tuyến đầu miền Bắc và đảm bảo

thông suốt các đầu mối giao thông trọng yếu của trung tâm đường Trường Sơn. Do

đó, gần như trên đất Quảng Bình có mặt đầy đủ các quân binh chủng chủ lực của Bộ

Quốc phòng và Quân khu 4, chưa kể những đơn vị tập kết tại đây trước khi vào

Nam chiến đấu hoặc rút ra củng cố lực lượng 1, đưa Quảng Bình thành một trong số

ít địa phương thường xuyên có mật độ tập trung quân cao nhất của miền Bắc.

Quảng Bình còn là nơi đặt sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh Mặt trận B.5 (1966-1973), Bộ

Tư lệnh chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (1971), Trị - Thiên (1972), … Với lực

lượng trên đây, Quảng Bình là một trong số ít địa phương có lưới lửa phòng không

dày đặc, gồm nhiều tầng lớp, vừa phân bố đều trên khắp các địa bàn vừa tập trung ở

những trọng điểm, với nhiều loại hỏa lực đảm bảo đánh địch mọi nơi mọi lúc, trên

không và trên biển.

3.2.1.2. Xây dựng các phương án phối hợp chiến đấu, hình thành thế trận

chiến tranh nhân dân

Cùng với xây dựng lực lượng chiến đấu, việc phối trí các đơn vị chủ lực cũng

như bộ đội địa phương và dân quân tự vệ trên địa bàn cũng được tính toán kĩ nhằm

phát huy cao nhất khả năng hiệp đồng tác chiến giữa các lực lượng. Ngoài các đơn vị

cao xạ, tên lửa của Bộ Quốc phòng và Quân khu 4 tác chiến trên địa bàn, các đại đội

của Tiểu đoàn 9 phòng không Quảng Bình được phân tán bố trí ở những mục tiêu

quan trọng để vừa đánh địch vừa làm nòng cốt cho phong trào bắn máy bay ở các địa

1. Xem thêm phụ lục 10.

Page 96: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

92

phương. Đại đội 1 bảo vệ hồ nước Cẩm Ly, Đại đội 2 phụ trách khu vực Đồng Hới,

Đại đội 3 và đại đội 14,5ly cơ động trên khu vực Quán Hàu - Lệ Kỳ - Đồng Hới,

Nam - Bắc sông Gianh, Minh Cầm - Roòn.

Để tập trung hỏa lực và tạo thế bất ngờ, lực lượng phòng không tổ chức thành

từng cụm chốt các bến phà Long Đại, Xuân Sơn, Quán Hàu và sông Gianh. Cụm cơ

động trên tuyến đường 12, 15 và tuyến đường goòng Đò Vàng để bảo vệ các trọng

điểm. Mỗi cụm này thường có sự kết hợp giữa hỏa lực tầm cao (pháo cao xạ hoặc

tên lửa) với hỏa lực tầm thấp (súng cao xạ, súng bộ binh).

Khi Mỹ chuyển sang đánh mạnh vào hệ thống giao thông, Bộ Tư lệnh Quân khu

4 điều một số đơn vị cao xạ tăng cường cho Quảng Bình, phối hợp với Tỉnh ủy hình

thành chủ trương thực hiện thế trận tác chiến “phòng không khu vực”. Cụ thể là giao

nhiệm vụ cho từng trung đoàn phòng không chủ lực làm nòng cốt, phụ trách một

vùng chiến thuật và làm trung tâm chủ trì các đơn vị bạn đánh trên địa bàn phụ trách

để tổ chức chiến đấu bảo vệ giao thông vận tải, bảo vệ hậu phương chiến dịch. Trung

đoàn 218 cao xạ đảm nhiệm nam Quảng Bình và Vĩnh Linh. Trung đoàn 214 cao xạ

đảm nhiệm tứ giác Xuân Sơn - Sông Gianh - Quán Hàu - Long Đại. Một đại đội bộ

đội địa phương tổ chức một tổ hỏa lực trực chiến, số còn lại phối hợp với lực lượng

dân quân tự vệ phục kích đón đánh máy bay địch. Hỏa lực tầm thấp bằng súng bộ

binh của bộ đội địa phương và dân quân tự vệ hình thành hai hình thức tác chiến: trực

chiến và tay cày tay súng, tay búa tay súng, với ba cách đánh: Phục kích chiến đấu ở

một số mục tiêu trọng điểm; cơ động phục kích đánh địch tại địa phương hoặc đến

những mục tiêu gần địa phương mình có máy bay hoạt động; gặp địch đâu đánh đó

theo phương thức chủ động độc lập tác chiến hoặc có tổ chức chỉ huy.

Trên cơ sở bố trí lại lực lượng, thế trận chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình

càng được củng cố, quân dân có niềm tin hơn vào sức mạnh của chính mình, ý thức

hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng ngày càng tăng.

Song song với xây dựng lực lượng, Tỉnh ủy còn chỉ đạo các ban ngành và lực

lượng vũ trang xây dựng phương án sẵn sàng đối phó với tình huống đối phương

liều lĩnh đưa chiến tranh trên bộ ra Bắc. Công tác dự phòng, bố trí lực lượng ở

Page 97: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

93

những nơi hiểm yếu mà địch có thể đổ bộ, phương án bao vây, đánh địch tại chỗ, …

được xây dựng và quán triệt đến các cơ quan đơn vị, lực lượng và địa phương [72].

Phương án chiến đấu cũng được hoàn chỉnh và tiến hành diễn tập ở những khu vực

trọng yếu. Chẳng hạn năm 1970, Tỉnh tổ chức diễn tập quy mô lớn. Tiểu đoàn 45 và

Đại đội 361 diễn tập chiến đấu phối hợp với dân quân các xã Hưng Thủy và Ngư

Thủy ở Lệ Thủy, Tiểu đoàn 46 và Đại đội 362 diễn tập hiệp đồng chiến đấu với lực

lượng các xã Quảng Đông, Quảng Thuận, Bắc Trạch.

Đề phòng trường hợp Mỹ liều lĩnh mở cuộc tiến công trên bộ, năm 1971

Thường vụ Quân khu ủy Khu 4 và tỉnh Quảng Bình nghiên cứu, chia địa bàn các

huyện thị đồng bằng thành 2 khu vực tác chiến: Khu vực nam (Lệ Thủy) bố trí 3

trung đoàn bộ binh, 2 trung đoàn cao xạ, 1 trung đoàn pháo binh, 1 đại đội xe tăng

T76 và Tiểu đoàn 45 bộ đội địa phương. Khu vực Bắc (Gianh - Hoàn Lão - Đồng

Hới) bố trí 3 trung đoàn bộ binh, 2 trung đoàn cao xạ, 1 trung đoàn tên lửa và đại đội

48, 365 địa phương. Các đại đội pháo binh địa phương (8, 9, 10, Ngư Thủy) bố trí

phòng thủ đường biển. Bộ Tư lệnh Hải quân lập khu Hải quân sông Gianh (tương

đương trung đoàn) phòng thủ khu vực biển bắc Quảng Bình. Ngoài ra, Sư đoàn 324

đứng chân trên địa bàn cũng sẵn sàng cơ động. Tiểu đoàn 9 pháo cao xạ và các phân

đội trực chiến của bộ đội địa phương, dân quân tự vệ có kế hoạch hiệp đồng với các

lực lượng chủ lực, nêu cao khẩu hiệu “bắn rơi tại chỗ, bắt sống giặc lái”.

Như vậy, trong suốt cuộc đối đầu với chiến tranh phá hoại của Mỹ, cả Quảng

Bình hình thành thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, gồm nhiều lực lượng: dân

quân tự vệ, bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực, công an vũ trang; nhiều quân binh

chủng: bộ binh, pháo binh, hải quân, phòng không - không quân, công binh, … tạo

thành lưới lửa đối không, đối biển dày đặc, nhiều tầng, nhiều lớp sẵn sàng chiến đấu

và giành chiến thắng.

3.2.2. Đấu tranh chống gián điệp, biệt kích

Trên cơ sở quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương về đấu tranh

chống bọn phản cách mạng, Tỉnh ủy Quảng Bình ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị

tăng cường đấu tranh phòng chống gián điệp, biệt kích trên địa bàn. Trong đó tập

trung các nhiệm vụ:

Page 98: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

94

+ Tăng cường giáo dục cảnh giác cho toàn thể cán bộ, bộ đội và toàn dân

nhất là ngư dân và đồng bào ven núi tích cực phát hiện mọi hiện tượng nghi vấn,

tích cực tham gia vây bắt bọn gián điệp, biệt kích.

+ Tăng cường cảnh giác, cảnh giới, tuần tra và phục kích ban đêm ở bờ biển

và trên mặt biển, phát hiện, bao vây, truy lùng, truy tìm bắt cho kì hết bọn gián

điệp, biệt kích, ngăn chặn mọi hoạt động phá hoại của chúng.

+ Các huyện, thị, Đảng ủy các cấp phải chỉ đạo thống nhất kế hoạch chiến

đấu cho lực lượng dân quân, Công an nhân dân, Công an vũ trang ... có kế hoạch

phòng, chống hoạt động dồn dập, nhiều mặt, nhiều hướng trong một lúc của địch.

+ Lực lượng dân quân, Công an vũ trang phải chịu trách nhiệm về tuần tra,

bố phòng, phục kích trên các điểm xung yếu, đặc biệt là ven biển.

+ Thời gian phải chú ý là tuần đầu và cuối tuần trăng tối, chú ý thời tiết ...,

đặc biệt chú trọng phục kích từ khoảng 22 giờ đêm cho đến 2 giờ sáng.

+ Trong thời gian chúng tích cực hoạt động ven biển, đồng thời chúng có thể

tung biệt kích ở vùng biên giới và thả dù ở vùng núi do đó mà kế hoạch phòng,

chống phải toàn diện để giành thế chủ động [6, tr. 1].

Kế hoạch xây dựng phòng tuyến an ninh nhân dân được triển khai ở hai tuyến

miền núi và miền biển. Ranh giới phụ trách từng tuyến được phân công cụ thể cho

từng địa phương. Dọc bờ biển, các đài quan sát được bố trí ở Ngư Thủy (Lệ Thủy),

Lộc Ninh (Quảng Ninh), Nhân Trạch, Đức Trạch, Hải Trạch (Bố Trạch), Cảnh

Dương (Quảng Trạch). Hàng đêm, phối hợp với công an vũ trang, dân quân các xã

vùng biển tuần tra canh gác, sử dụng mật khẩu thống nhất trên toàn tuyến. Nhờ

những biện pháp như vậy nên lần lượt nhiều toán biệt kích của Mỹ và chính quyền

Sài Gòn tung ra địa bàn Quảng Bình bị ta phát hiện và vô hiệu hóa hoạt động.

Ngày 19-11-1965, SOG dùng trực thăng thả toán Romeo gồm 15 tên xuống

khu vực miền núi Tây Nam Quảng Bình. Nhiệm vụ của toán là “tiến hành trinh sát

địa bàn để thu thập tin tức tình báo; giám sát các tuyến đường; và tiến hành các

hoạt động phá hoại, quấy rối” [143]. Ngày 15-12-1965, tin tức về toán biệt kích

này được báo về Công an nhân dân vũ trang Quảng Bình. Ngày 20-12, một lực

Page 99: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

95

lượng lớn, gồm 120 người, được tung ra để truy tìm. Bằng nhiều biện pháp nghiệp

vụ (vận động quần chúng, tuần tra vũ trang, kiểm soát hành chính, trinh sát bí mật

và thông tin kĩ thuật) kết hợp thiết lập các trạm kiểm soát trên Đường 15 và bến phà

Long Đại, bến phà Quán Hàu, bến đò Trần Xá, ngày 4-1-1966, ta mới phát hiện dấu

vết của chúng. Ngày 11-1-1966, bốn người dân tộc Vân Kiều báo việc bị nhóm

người lạ mặt khống chế bắt họ bán gạo và thực phẩm cho chúng. Phán đoán toán

biệt kích này do hoạt động trong thời gian dài nên hết lương thực, Ban chỉ huy lên

kế hoạch sử dụng những người này dụ toán biệt kích rời nơi ẩn náu để vây bắt. Đến

ngày 13-1-1966, toàn bộ toán biệt kích bị tiêu diệt và bắt sống. “Sử dụng địch để

đánh địch”, ta không công bố công khai việc bắt giữ toán Romeo mà buộc chúng

làm như vẫn hoạt động, cung cấp những tin tức giả về trung tâm. Do đó, “theo tài

liệu của SOG, từ giữa năm 1966 trở đi, kết quả hoạt động của toán là nghèo nàn.

Romeo không cung cấp được tin đáng giá nào trong năm 1967 và 1968” [143]. Như

vậy, với sự vào cuộc nhanh chóng của các lực lượng kết hợp với tinh thần cảnh giác

và dũng cảm cao của quần chúng địa phương, toán gián điệp Romeo bị vô hiệu hóa.

Tiếp theo, ngày 6-3-1966, toán biệt kích có mật hiệu KERN gồm 8 tên xâm

nhập vùng núi Lèn Tinh (Minh Hóa). Ngày 5-4-1966, Bộ Công an thông báo cho

Công an nhân dân vũ trang hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh tổ chức truy tìm.

Được sự giúp đỡ của nhân dân huyện Minh Hóa (Quảng Bình) và Hương Khê (Hà

Tĩnh), các lực lượng truy lùng đã xác định được khu vực hoạt động của chúng.

Sau 3 ngày (25 – 27-5-1966) hợp đồng tác chiến giữa quân và dân hai tỉnh, ta đã

xóa sổ toán biệt kích này (bắt sống 7 tên, 1 tên chết do bị đồng bọn bắn nhầm).

Đến ngày 5-9-1966, sau thời gian điều tra, ta đưa tin công khai trên các phương

tiện thông tin đại chúng, tố cáo âm mưu dùng biệt kích phá hoại miền Bắc của Mỹ

và chính quyền Sài Gòn.

Liên tục trong tháng 9 và 10-1966, Mỹ nhiều lần tung biệt kích xâm nhập. Cụ

thể, về đường không, ngày 29-9 và 4-10, chúng thả 2 toán ở vùng núi Tây Nam Lệ

Thủy. Thủ đoạn hoạt động của biệt kích Sài Gòn vẫn như cũ, sử dụng trang phục

của bộ đội hoặc nhân dân miền Bắc, đi dép cao su, mang theo nhiều loại tiền của

Page 100: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

96

Việt Nam Dân chủ cộng hòa, tiền Sài Gòn và cả bạc nén. Tất cả các toán đều có bản

đồ chi tiết của vùng xâm nhập để dễ dàng hoạt động hoặc tìm đường rút lui khi bị

phát hiện.

Tổng cộng, trong năm 1966, trên địa bàn Quảng Bình, Mỹ đã tung 9 toán gián

điệp, biệt kích, trong đó có 4 toán nhảy dù. Ta đã bắt sống và tiêu diệt 45 tên, thu 10

tấn trang thiết bị, lương thực và thuốc men.

Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số vụ biệt kích đột

nhập bờ biển nhưng ta chưa phát hiện được như vụ đêm 7-9-1967. Phát hiện 3 tàu

chiến Mỹ hoạt động ngoài biển xã Thanh Trạch (Bố Trạch), Đồn công an Thanh

Khê đã báo cáo lên trên và lên kế hoạch vây bắt biệt kích. Huyện đội Bố Trạch tăng

cường lực lượng hỗ trợ. Đến nửa đêm, khi ta phán đoán địch đang đột nhập bờ biển

và tung lực lượng truy tìm thì phát hiện dấu vết địch đã lên bờ, rải truyền đơn và rút

lui an toàn. Việc để địch thực hiện trót lọt âm mưu rải truyền đơn là do “tư tưởng

tiến công, quyết tâm tiêu diệt địch chưa cao, nhận định về địch không đầy đủ, bố trí

lực lượng khi địch xâm nhập địa bàn không đúng trọng điểm. Việc hiệp đồng tác

chiến giữa lực lượng công an nhân dân vũ trang và dân quân, bộ đội địa phương

chưa chặt chẽ, ngay trong trận đánh, sự hiệp đồng giữa các bộ phận thiếu linh

hoạt, tổ chức thông tin không kịp thời” [44, tr. 175]. Hoặc từ ngày 10 đến ngày 18-

10, nhiều lần tàu biệt kích xâm nhập và tung được 1 toán lên cửa sông Dinh nhưng

lực lượng ta chỉ phát hiện và thu giữ được bình dưỡng khí và mái chèo do chúng

chôn giấu [174].

Hạn chế này được Tỉnh ủy Quảng Bình (2-12-1967) chỉ ra: “Về mặt bể là nơi

lực lượng ta được tăng cường nhưng lại là nơi có nhiều sơ hở nhất. Các vụ đột

nhập bờ bể đều bỏ lọt. Hầu hết các vụ biệt kích ở miền núi đều phát hiện chậm và

bắt không gọn” [20, tr. 1]. Nguyên nhân một phần do vùng miền núi quá rộng, dân

cư thưa thớt, thậm chí nhiều vùng không có người ở, vùng biển cũng vậy. Trong khi

đó, máy bay và tàu chiến của Mỹ hoạt động thường xuyên, khó phân biệt là đánh

phá hay thả biệt kích. Nguyên nhân chủ quan là do ta chưa nhận thức hết âm mưu

thủ đoạn của địch nên chưa có quyết tâm đầy đủ, tinh thần cảnh giác và sẵn sàng

Page 101: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

97

chiến đấu chưa cao, có nơi do phi pháo địch thường xuyên nên chểnh mảng tuần tra

canh gác [20, tr. 1-2]. Tỉnh ủy yêu cầu ở miền núi, các cơ quan quân sự và công an

vũ trang nắm chắc tình hình nội địa và ngoại biên để sớm phát hiện địch, huy động

lực lượng tiêu diệt. Ở miền biển, tăng cường tuần tra canh gác, phát hiện địch lợi

dụng sơ hở hoạt động đổ bộ đường biển, đường không. Trong nội địa, chú ý chống

gián điệp lẻ và gián điệp ẩn nấp bằng 3 biện pháp: quần chúng, quản lí hành chính

và trinh sát bí mật. Lực lượng chủ yếu để phòng và chống gián điệp biệt kích ở từng

địa phương là lực lượng dân quân du kích của địa phương đó nhưng các đơn vị vũ

trang khác như công an vũ trang, bộ đội địa phương đóng ở địa phương nào đều có

nhiệm vụ phối hợp với dân quân để tuần tra canh gác, phát hiện và kịp thời bao vây

tiêu diệt địch nhanh gọn [20, tr. 3-4].

Chủ trương trên đây của Tỉnh ủy Quảng Bình đã giúp cho việc đối phó với

địch có hiệu quả hơn, trong tình hình chúng có nhiều điểm thay đổi về phương thức

tổ chức, trang bị và thủ đoạn hoạt động. Ngày 19-12-1967, Mỹ thả một toán biệt

kích gồm 11 tên xuống khu vực biên giới giáp ranh giữa 2 huyện Quảng Ninh và Bố

Trạch nhằm điều tra tình hình vận chuyển trên Đường 20. Nhận được tin báo, Công

an tỉnh chỉ đạo đồn Cà Roòng và Làng Mô, công an huyện Quảng Ninh và Bố

Trạch, phối hợp với Binh trạm 14 và bộ đội, dân quân huyện Bunlapha (tỉnh Khăm

Muộn, Lào) truy tìm. Đến ngày 15-1-1968, ta vây bắt hoàn toàn toán biệt kích này.

Tiếp theo, trước việc nhiều đoàn xe vận chuyển trên Đường 12 thường xuyên

bị tập kích một cách chính xác, ta phán đoán địch có thể đã sử dụng biệt kích chỉ

điểm hoạt động trên dãy núi Giăng Màn. Kế hoạch triệt phá được đề ra. Đầu năm

1968, một phân đội hỗn hợp gồm Công an tỉnh và Công an nhân dân vũ trang đồn

Cha Lo được giao nhiệm vụ truy tìm. Ngày 12-3-1968, tại Cao điểm 1.115, phát

hiện 2 tên biệt kích đang chuẩn bị pháo bắn vào đoàn xe vận tải từ Bãi Dinh đi lên,

đội nổ súng tiêu diệt tại chỗ. Qua ngày hôm sau, mở rộng truy lùng, đội bắt được 2

tên khác. Qua khai thác, chúng khai nơi ẩn nấp là Cao điểm 1.137. Tiếp cận vị trí

này, đội phát hiện có 4 lán chứa lương thực phẩm nhưng không có người. Phán

đoán đây là vị trí biệt kích dùng để hoạt động trong từng thời gian ngắn nên đội tổ

Page 102: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

98

chức mai phục tại chỗ. Ngày 16-3, 6 tên biệt kích quay lại lán bị tiêu diệt. Ngay sau

đó, đội tiến lên đỉnh Phù Ác, điểm cao nhất của dãy núi Giăng Màn. Lúc này, Mỹ

đang dùng trực thăng đổ quân. Phát hiện địch, đội triển khai bao vây. Đến ngày 19-

3-1968, đội tiêu diệt được 6 tên biệt kích, số còn lại được trực thăng cứu thoát

[107, tr. 61]. Ta làm phá sản kế hoạch dùng biệt kích của địch trên Đường 12, góp

phần bảo đảm an toàn cho những chuyến xe qua địa bàn.

Ngày 14-5-1968, Mỹ tung toán biệt kích Strata 120 gồm 6 tên xuống khu vực

Đồi 766, trên địa bàn Đồn công an Làng Mô (Quảng Ninh). Toán này được trang bị

phương tiện thông tin liên lạc hiện đại, sử dụng quân phục, mũ tai bèo và súng AK

như bộ đội. Nhiệm vụ của toán là điều tra, nắm tình hình đường mòn từ Làng Mô

qua Lào, các mục tiêu quân sự, kho tàng, binh trạm, thuyền bè trên sông Long Đại

và Cổ Tràng, bắt cóc cán bộ và nhân dân để khai thác tin tức, … Phát hiện địch đổ

quân, 2 chiến sĩ đồn Làng Mô đang công tác ở cơ sở đã kịp thời báo về Ban chỉ huy.

Ngày 18-5-1968, ta tổ chức 3 mũi truy lùng. Đến 13 giờ, ta phát hiện địch, tiêu diệt

1 tên, thu một số điện đài. Đêm 18-5, Ban chỉ huy đồn, Đảng ủy, Ủy ban Hành

chính xã, xã đội và Ban giám đốc Xí nghiệp Đường Trường Sơn họp thành Ban chỉ

huy chung, huy động lực lượng tự vệ tham gia cùng công an bao vây các hướng.

Đến trưa ngày 23-5-1968, một mũi truy lùng của ta nghe tiếng súng nổ trên đồi

cùng lúc có máy bay T28 đi qua. Nhận định địch bắn pháo hiệu kêu cứu, ta tổ chức

bao vây, diệt được thêm 1 tên. Ngày 27-5, ta bắt được 2 tên, thu 1 súng AK. Qua sơ

cung, chúng khai có 6 tên, toán trưởng bị chết từ đầu. Đến ngày 9-6, ta bắt 2 tên còn

lại. Tài liệu Mỹ thừa nhận đến ngày 26-5-1968, “toán Strata coi như mất tích”

[107, tr. 62]. Như vậy, sau gần một tháng hoạt động, toán biệt kích Sài Gòn bị ta

xóa sổ. Đó là kết quả của sự phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng công an nhân dân vũ

trang với dân quân, tự vệ trên địa bàn.

Từ sau vụ này, cùng với việc đi đến chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc,

hoạt động gián điệp, biệt kích của Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũng dừng lại. Nhìn

tổng thể, hầu hết các vụ tung biệt kích của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên địa bàn

Quảng Bình đều không đạt được mục đích. Nhiều toán bị bắt ngay khi vừa đặt chân

Page 103: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

99

xuống đất, chưa kịp hoạt động. Thắng lợi đó có tác động tích cực trong việc bảo vệ

Đảng, chính quyền, những cơ sở trọng yếu về quốc phòng, kinh tế; là nguồn cổ vũ,

động viên, khích lệ lớn cho các tầng lớp nhân dân yên tâm lao động sản xuất, tập

trung sức người, sức của chi viện cách mạng miền Nam và cách mạng Lào.

3.2.3. Đánh máy bay và tàu chiến

Qua 8 năm (1965-1973) chống chiến tranh phá hoại, quân dân Quảng Bình đã

chiến đấu hàng nghìn trận với các lực lượng không quân và hải quân Mỹ. Theo

thống kê, toàn tỉnh đã bắn rơi 704 máy bay, bắn chìm, bắn cháy 86 tàu chiến và tàu

biệt kích. Lập chiến công có lực lượng tên lửa, không quân, pháo cao xạ, pháo binh,

súng cao xạ, súng bộ binh, … của các đơn vị thuộc binh chủng phòng không không

quân, hải quân, công binh, pháo binh, bộ đội Trường Sơn, bộ đội địa phương, dân

quân tự vệ, Công an nhân dân vũ trang, thanh niên xung phong, … Do đó, để tái

hiện đầy đủ bức tranh chiến đấu chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình đòi hỏi

cả chuyên luận dài. Trong giới hạn của chủ đề, luận án chỉ tập trung vào một số trận

chiến tiêu biểu nhất, thể hiện rõ nét thế trận “toàn dân đánh giặc”.

3.2.3.1. Ở những mục tiêu trọng yếu

* Những trận đầu đánh Mỹ (2-1965)

Sau ngày 5-8-1964, để đối phó với các cuộc tập kích của không quân Mỹ trên

tuyến đường Trường Sơn, lực lượng phòng không được dịch chuyển lên miền Tây.

Cụ thể, ở Đồng Hới có 1 tiểu đoàn cao xạ 37ly, ở Bang: 1 tiểu đoàn cao xạ 37ly và

1 đại đội 12,7ly, Đường 12: Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 14/Sư đoàn 325,

Đường 15 (đoạn Cà Tang - Khe Ve): Tiểu đoàn 6/Sư đoàn 341 (thiếu 1 đại đội)

[150, tr. 38]. Đến ngày 4-2-1965, lực lượng phòng không trên các địa bàn còn lại

khá mỏng. Cụ thể, tại Đồng Hới chỉ có 1 đại đội cao xạ 37ly (4 khẩu)/Sư đoàn 325,

2 tàu 161 và 171 hải quân. Rộng ra toàn tỉnh có 74 tổ bắn máy bay gồm 628 người,

trang bị 72 trung liên, 46 đại liên, 323 súng trường cùng lực lượng dân quân tự vệ

được bố trí ở những điểm trọng yếu, hình thành thế trận vững chắc, sẵn sàng ứng

phó với mọi tình huống bất trắc xảy ra [164, tr. 93]. Do đó, trưa ngày 7-2-1965 (tức

mồng 6 Tết), mặc dù bị bất ngờ nhưng khi máy bay Mỹ vừa xuất hiện trên không

Page 104: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

100

phận vùng biển Quảng Bình, lệnh báo động đã được phát đi. Nhận được tín hiệu,

các trận địa pháo cao xạ, hai tàu 161 và 171, các trận địa súng máy, súng trường ở

thị xã và các vùng phụ cận đều báo động chiến đấu và đánh trả kịp thời. 4 máy bay

bị bắn rơi, bắn cháy. Trong trận đầu, cùng các lực lượng vũ trang, hình ảnh toàn dân

đánh giặc đã xuất hiện nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm như Lê Ngọc Lễ (Bí

thư Chi bộ thôn Phú Xá, Lộc Ninh, Quảng Ninh), Phạm Tín (dân quân xã Thanh

Trạch, Bố Trạch), hạ sĩ Nguyễn Tiến Đưng (công an nhân dân vũ trang) lấy thân mình

làm giá súng. Bà mẹ Nguyễn Thị Suốt (Đồng Hới) không quản bom đạn chèo đò chở

bộ đội qua sông, dân quân Nguyễn Văn Tới và thiếu nhi Bảo Ninh (Đồng Hới)

dũng cảm tiếp đạn cho tàu hải quân, …

Tiếp theo, tối ngày 10-2-1965, nhận tin báo của trên về khả năng Mỹ sẽ đánh

lớn Đồng Hới, Thường vụ Tỉnh ủy đã quyết định sơ tán ngay trong đêm hơn 7.000

dân và 40 cơ quan ra khỏi thị xã. 13 giờ trưa 11-2, 60 máy bay ập vào đánh phá

Đồng Hới và vùng phụ cận. Các lực lượng kiên cường đánh trả. Tại sân bay Đồng

Hới, đại đội cơ động Công an nhân dân vũ trang bất chấp mưa bom, bám trận địa

đánh trả, bắn rơi 1 máy bay, bắt sống phi công vũ trụ Robert Schumacher. Tại cảng

Gianh, Đại đội 54, các phân đội súng máy của hải quân, tự vệ ngư trường sông

Gianh và dân quân hai bên bờ sông bắn rơi 2 máy bay. Tổng cộng, trong trận này,

quân dân Quảng Bình bắn rơi 6 máy bay Mỹ.

Những trận đánh trên mở đầu cho hình thức chiến đấu hợp đồng của bộ đội

chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, công an nhân dân vũ trang, hải quân

cùng với sự hỗ trợ của các tầng lớp nhân dân, góp phần khẳng định Quảng Bình có

thể tiến hành chiến tranh nhân dân và giành chiến thắng trước cuộc chiến tranh phá

hoại của Mỹ.

* Trận bảo vệ hồ Cẩm Ly - Lệ Thủy (20-4-1965)

Hồ Cẩm Ly là công trình đại thủy nông đầu tiên của Quảng Bình, được đưa

vào sử dụng tháng 9-1964, đảm bảo nước tưới cho 4.500ha ruộng ở Quảng Ninh,

Nông trường Lệ - Ninh và một phần Lệ Thủy. Do đó, hồ Cẩm Ly trở thành một

trong những mục tiêu đánh phá đầu tiên của không quân Mỹ. Tại đây, ta bố trí Đại

Page 105: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

101

đội 3/Tiểu đoàn 9 cao xạ bảo vệ. Ngày 20-4-1965, 18 máy bay Mỹ tập trung đánh

phá trận địa. Với khẩu hiệu: “Trận địa là nhà, dòng nước Cẩm Ly là sữa mẹ”, các

chiến sĩ Đại đội 3 kiên cường đánh trả. Trong chiến đấu, có thời điểm pháo bị trúng

bom, cả 5 pháo thủ bị thương. Khẩu đội trưởng Lê Viết Xưởng bị thương ở tay phải,

tự mình cắt miếng da còn lại để chuyển cờ sang tay trái tiếp tục chỉ huy khẩu đội

đánh địch. Đại đội trưởng Nguyễn Viết Năm bị thương vào mặt, một tay cầm còi,

một tay cầm cờ vẫn giữ vững vị trí chỉ huy. Pháo thủ Phan Khắc Trừu bị mảnh bom

cắm vào chân vẫn nén đau bám mục tiêu. Pháo thủ Nguyễn Hữu Ngoãn 5 lần bị

thương vẫn cố gắng chịu đựng đạp cò pháo. Nguyễn Trường Cự làm nhiệm vụ nối

dây điện thoại giữa trận địa với cấp trên 4 lần bị thương, đến lần thứ 5 ruột lòi ra

ngoài, hi sinh. Phối hợp với Đại đội 3, tự vệ Nông trường Lệ Ninh và hồ Cẩm Ly

tham gia chiến đấu, tiếp đạn, tải thương. Kết quả, có 14 pháo thủ hi sinh, 32 chiến sĩ

bị thương. Đại đội 3 bắn rơi 2 máy bay, tổ tự vệ hồ Cẩm Ly bắn rơi 1 chiếc AD6 -

đây là chiếc máy bay đầu tiên bị súng bộ binh của dân quân tự vệ bắn rơi ban đêm

trên bầu trời miền Bắc [164, tr. 110-111]. Nó chứng minh không chỉ các loại vũ khí

cao xạ mà ngay cả súng bộ binh, dù chỉ nằm trong tay lực lượng dân quân tự vệ, vẫn

có thể hạ được máy bay Mỹ. Do đó, kết quả này càng làm tăng niềm tin của lực lượng

dân quân tự vệ vào chính mình trong cuộc đối đầu với “sức mạnh không thể tưởng

tượng nổi” của không lực Hoa Kỳ.

* Những trận đánh của hải quân căn cứ sông Gianh (1965)

Ngày 2-3-1965, 160 lần máy bay Mỹ các loại tấn công căn cứ sông Gianh.

Chiến thuật đánh phá lần này của địch có nhiều thay đổi. Từ bổ nhào hàng dọc theo

một hướng, máy bay Mỹ chia thành nhiều tốp, đánh nhiều hướng, bổ nhào góc hẹp,

hoặc chiếc đi đầu lao xuống nghiêng cánh đánh lừa nhằm thu hút hỏa lực ta để

những chiếc sau lao xuống bắn phá rồi lao ra phía biển, sau đó chấn chỉnh đội hình

quay trở lại đánh tiếp. Thời gian máy bay ném bom, bắn phá cũng kéo dài hơn,

nhằm tiêu hao sinh lực, đạn dược của ta, cuối cùng dùng lực lượng đông đánh phá

bằng bom bi và bom phá. Trước sự thay đổi chiến thuật của Mỹ, các đơn vị bảo vệ

căn cứ gồm 5 tàu 171, 173, 177 (phân đội 6), 161, 167 (phân đội 5), đại đội 24 pháo

Page 106: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

102

cao xạ 37ly, phân đội súng 14,5ly (đại đội 47), trung đội tự vệ ngư trường Thanh

Khê và một số trận địa của dân quân hai xã Quảng Phúc và Thanh Trạch đã đánh trả

quyết liệt, bắn rơi máy bay ngay từ những loạt đạn đầu, làm rối loạn đội hình tiến

công, buộc chúng phải nâng độ cao để công kích. Trung úy phân đội trưởng Đàm

Cần hai lần bị thương vào đùi và tay, gác chân bị thương lên ghế chịu đựng, tiếp tục

chỉ huy phân đội chiến đấu. Thiếu úy Nguyễn Duy Khiêm từng chỉ huy tàu 161 bắn

rơi máy bay Mỹ ở thị xã Đồng Hới, thấy tàu 167 gặp khó khăn đã chủ động cử

người tới hỗ trợ. Chiến sĩ báo vụ Hồ Lý Tân tàu 167 lấy thân mình làm giá súng để

đồng đội kịp nổ súng đánh máy bay địch đang lao xuống bắn phá, được anh em tặng

danh hiệu “Bế Văn Đàn của hải quân”. Hạ sĩ Trần Gia Tuệ tàu 177 là pháo thủ

14,5ly, giữa trận chiến đấu bị thương ở chân vẫn kiên cường nhằm thẳng máy bay

bắn trả. Rất nhiều cán bộ, chiến sĩ trên các tàu, các trận địa pháo trên bờ như

Trương Minh Vấn, Nguyễn Văn Đáp, Tạ Mai Huyền, ... bị thương nặng vẫn không

rời vị trí. Tự vệ ngư trường Thanh Khê và các trận địa súng bộ binh của dân quân

hai xã Quảng Phúc và Thanh Trạch luôn sát cánh cùng hải quân phối hợp chiến đấu

nhịp nhàng. Giữa bom đạn ác liệt, hơn chục cán bộ, chiến sĩ đã dũng cảm bơi qua

sông sang cứu doanh trại bộ đội. Thấy kho đạn của hải quân bốc cháy, các thầy giáo

và học sinh xóm Quán bất chấp nguy hiểm xông vào dập lửa, cứu đạn. Nhiều bà con

dùng thuyền tiếp tế đạn cho các tàu và chuyên chở thương binh vào nơi an toàn.

Đáp lại sự đùm bọc, che chở, giúp đỡ tận tình của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ hải

quân dũng cảm đánh trả, làm thất bại trận tập kích lớn của Mỹ. Nhờ đó, mặc dù máy

bay Mỹ trút hơn 100 tấn bom đạn nhưng căn cứ hải quân sông Gianh thiệt hại

không đáng kể. Ngược lại, ta bắn rơi 7 máy bay phản lực, trong đó các tàu bắn rơi 3

chiếc; đại đội 24, trung đội súng máy cảnh vệ và đại đội pháo bờ biển bắn rơi 3

chiếc; trung đội tự vệ ngư trường Thanh Khê bắn rơi 1 chiếc.

Sau trận đánh này, nhận thấy các lực lượng bố trí ở cảng gần biển, công tác

phòng thủ căn cứ gặp nhiều khó khăn (kể cả phòng không và phòng tàu chiến địch),

nên ta triệt để sơ tán, chỉ để một bộ phận lực lượng cao xạ bố trí vòng ngoài sẵn sàng

đánh máy bay. Tàu chiến phân tán giấu ở các lèn đá trên thượng lưu sông Gianh. Sau

Page 107: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

103

nhiều lần trinh sát, Mỹ phát hiện được khu tàu trú đậu. Ngày 28-4-1965, chúng huy

động 80 lần chiếc máy bay đánh phá kéo dài suốt từ sáng đến tối khiến cả 4 tàu (173,

126, 163, 165) đều bị hư hỏng, một số chiến sĩ hi sinh. Các tàu vừa đánh địch vừa cơ

động về cảng để phối hợp với các đơn vị cao xạ trên bờ chiến đấu, với quyết tâm

“còn người còn tàu, còn một người còn chiến đấu”. Thiếu úy Đàm Đức Thạch,

thuyền phó tàu 173 đang ốm nằm trên bờ chuẩn bị đi bệnh viện, khi biết thuyền

trưởng bị thương đã xung phong xuống tàu thay thế, chỉ huy đến lúc bị thương nặng

mới chịu rời đài chỉ huy lên bờ. Các chiến sĩ Ngô Quang Hạ (tàu 175), Đỗ Ngọc Mai

(tàu 126), Nguyễn Tế Nhi (tàu 161) dũng cảm dùng bình bọt lao vào dập những đám

lửa, khi bị thương vẫn cùng đồng đội cứu tàu. Cùng lúc, hàng chục chiến sĩ trên bờ

được lệnh nhanh chóng cơ động xuống tàu tăng cường lực lượng chiến đấu. Tự vệ

ngư trường sông Gianh, Đồn công an vũ trang 122 cùng nhân dân hai bên bờ sông

phối hợp với các tàu chiến đấu và phục vụ chiến đấu như chèo đò tiếp đạn, tiếp cơm,

lá ngụy trang, tải thương, … Nhiều tấm gương xuất hiện như ông Lê Văn Phương, Bí

thư Đảng ủy xã Văn Hóa, dù đang ốm vẫn dẫn hơn 100 dân quân phục vụ chiến đấu.

Hai em Phương Liên và Minh Thục (xã Cảnh Hóa) chèo đò ra tàu để tải thương. Cụ

Lê Văn Hiến (xã Quảng Phúc) cùng dân quân lội ra sông đưa thương binh vào bờ, …

Kết thúc trận đánh, ta bắn rơi 5 máy bay Mỹ nhưng cũng chịu tổn thất nặng: 3 tàu bị

chìm, 2 tàu hỏng nặng, 37 chiến sĩ hi sinh và 73 người khác bị thương [64, tr. 225].

Đây là trận đánh mà thế trận “chiến tranh nhân dân” được thể hiện rõ nhất cho đến

thời điểm này.

Không thụ động chờ địch đến mới đánh trả, ta còn chủ động tạo thế trận nghi

binh, thu hút máy bay Mỹ đến để tiêu diệt. Từ đêm 9-7-1965, thực hiện ý định của

Bộ Tư lệnh Hải quân và mệnh lệnh của Khu tuần phòng 2, các đơn vị bố trí một số

tàu ngụy trang giả pháo vươn nòng và hình nộm người dọc sông Gianh. Trên bờ, 6

đại đội pháo kết hợp với các trận địa của dân quân sẵn sàng. Ngày 13-7, một máy

bay Mỹ vào trinh sát “mục tiêu”. 6 giờ ngày 14-7, 2 chiếc AD6 vào trinh sát. 7 giờ

15 phút, 2 chiếc AD6 lao đến công kích vào “tàu giả”. Cùng lúc, các đơn vị nổ

súng mãnh liệt, bắn rơi 1 chiếc, bắn bị thương 1 chiếc khác [64, tr. 235].

Page 108: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

104

Như vậy, chỉ sau một thời gian rất ngắn đụng đầu với không quân Hoa Kỳ, lực

lượng ta đã có sự trưởng thành nhanh chóng, biết tìm ra cách đánh thích hợp, đạt

hiệu suất chiến đấu cao, khi các đơn vị hải quân đã thực hiện thành công ý định

nghi binh, phục kích, bắn cháy và bắn bị thương máy bay Mỹ.

* Trận đánh máy bay RF4C của nữ dân quân xã Hưng Thủy, Lệ Thủy (27-

7-1967)

Để phát hiện mục tiêu vào ban đêm và kiểm tra kết quả đánh phá, Mỹ đưa vào

sử dụng máy bay trinh sát điện tử RF4C, có trang bị máy chụp ảnh cực nhanh bằng

tia hồng ngoại. Xuất phát từ các tàu sân bay, RF4C bay thấp bất ngờ đột nhập chụp

ảnh rồi thoát li nhanh ra biển. Từ giữa năm 1967, những hoạt động trong đêm (hành

quân, vận chuyển, mở đường, sửa chữa đường, sản xuất, …) đều bị không quân Mỹ

phát hiện, đánh phá, trong đó Dốc Sỏi (Lệ Thủy) trở thành “tọa độ lửa” trên Quốc lộ

1 từ Quảng Bình vào Vĩnh Linh. Không để RF4C tự do hoành hành, dân quân xã

Hưng Thủy quyết tâm đánh cho bằng được loại máy bay nguy hiểm này. Sau thời

gian chuẩn bị trận địa và lực lượng, theo dõi nắm bắt quy luật hoạt động của kẻ

“chụp ảnh đêm”, dưới sự chỉ huy của Xã đội phó Nguyễn Thị Triển, 2 giờ ngày 27-

7-1967, chỉ với 2 loạt đại liên K57, dân quân Hưng Thủy đã bắn cháy một máy bay

RF4C. Lần đầu tiên trên bầu trời miền Bắc, chiếc máy bay trinh sát điện tử hiện đại

của Mỹ bị bắn hạ bởi súng bộ binh của lực lượng dân quân Quảng Bình [52, tr. 80].

Chiến công này chứng minh khả năng sáng tạo, mưu trí của chị em phụ nữ trong

chiến đấu cũng như một lần nữa khẳng định bất cứ loại phương tiện chiến tranh hiện

đại nào của Mỹ cũng có thể bị đánh bại bởi bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam.

* Trận đánh máy bay F4H của trung đội nữ dân quân xã Võ Ninh, Quảng

Ninh (10-11-1967)

Võ Ninh nằm bờ nam phà Quán Hàu, là một trọng điểm đánh phá của không

quân và hải quân Mỹ. Tại đây, bên cạnh lực lượng phòng không của bộ đội chủ

lực, tháng 3-1967, Đảng ủy xã thành lập Phân đội nữ dân quân gồm 26 người,

trang bị 3 súng 12,7ly, biên chế thành 6 khẩu đội, chia làm 2 kíp luân phiên nhau

trực chiến bảo vệ phà và các đoàn xe phân tán giấu trên địa bàn xã. Được sự huấn

Page 109: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

105

luyện của cơ quan quân sự tỉnh và huyện, chỉ sau thời gian ngắn, chị em đã thành

thạo các kĩ năng sử dụng súng, cách bố trí trận địa, phương thức phục kích, … Để

đảm bảo chiến đấu lâu dài, ngoài cung cấp của nhân dân, xã còn cấp cho phân đội

5 sào ruộng để tự sản xuất. Có thể nói, đây là hình mẫu về sự kết hợp giữa nhiệm

vụ sản xuất và chiến đấu của địa phương. Hỗ trợ cho phân đội còn có lực lượng

dân quân toàn xã và chi đoàn thanh niên khi xây dựng - di chuyển trận địa, tiếp

đạn, cứu thương, …

Ngày 11-10-1967, một tốp 3 máy bay F4H của Mỹ từ biển bay vào định đánh

phá phà Quán Hàu, dưới sự chỉ huy của Xã đội phó Phạm Thị Phú, cả 3 khẩu 12,7ly

đồng loạt nhả đạn bắn rơi tại chỗ 1 chiếc, bắt sống 2 phi công. Hai chiếc còn lại trút

bom bừa xuống rồi thoát ra biển [52, tr. 85-86].

Đây là chiến công đầu tiên của đơn vị nữ dân quân Quảng Bình độc lập tác

chiến bắn rơi máy bay chiến đấu Mỹ. Kết quả này phản ánh khả năng vươn lên làm

chủ vũ khí, trình độ chiến đấu, quyết tâm dám đánh và đánh thắng của lực lượng nữ

dân quân trước máy bay hiện đại Mỹ. Nó góp phần khẳng định không chỉ bộ đội

chủ lực mà ngay cả nữ dân quân, khi có quyết tâm và phương pháp chiến đấu đúng,

cũng có thể đánh thắng được bất cứ phương tiện chiến tranh hiện đại mà Mỹ sử

dụng trong cuộc chiến tranh phá hoại.

* Trận đánh máy bay trên lèn cao của nữ dân quân xã Tiến Hóa, Tuyên Hóa

(14-8-1968)

Xã Tiến Hóa nằm ở thượng nguồn sông Gianh, địa hình bao bọc bởi các dãy

núi đá vôi, thuận lợi cho việc ẩn nấp của tàu hải quân và lập các kho hàng của Đoàn

559 trước khi nhập Đường 12 chuyển vào chiến trường. Tuy nhiên, điều kiện địa

hình cũng gây bất lợi khi tầm quan sát bị che khuất, máy bay Mỹ thường lợi dụng

bay tầm thấp, men theo các hẻm núi để trinh sát phát hiện tàu thuyền trên sông hay

đang trú đậu để đánh phá rồi theo triền sông Gianh thoát li nhanh ra biển. Mức độ

hoạt động của máy bay Mỹ cực kì ác liệt, nhất là từ sau ngày 31-3-1968, nhằm chặn

đứng tuyến vận tải từ sông Gianh lên Đường 12. Do đó, tìm ra phương thức đối phó

Page 110: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

106

với máy bay Mỹ để bảo vệ các mục tiêu trên địa bàn là nhiệm vụ nặng nề đặt ra đối

với quân dân xã Tiến Hóa.

Cũng như nhiều địa phương khác ở Quảng Bình, do điều kiện phần lớn thanh

niên lên đường nhập ngũ nên cuối năm 1967, Đảng ủy xã Tiến Hóa thành lập phân

đội nữ dân quân 12,7ly gồm 10 người để đảm đương nhiệm vụ chiến đấu. Được sự

huấn luyện của Huyện đội Tuyên Hóa, chỉ sau thời gian ngắn, chị em đã thông

thạo kĩ năng sử dụng súng, nắm bắt các thủ đoạn đánh phá của máy bay trinh sát,

máy bay tầm thấp, máy bay cường kích của địch để sẵn sàng nhận nhiệm vụ.

Nghiên cứu quy luật hoạt động của máy bay Mỹ, Đảng ủy xã quyết định đưa phân

đội lên bố trí trận địa ở các điểm cao (nhằm để vừa dễ dàng phát hiện máy bay vừa

nối thêm tầm bắn). Được sự hỗ trợ của lực lượng dân quân và thanh niên xã, tháng

8-1968, các súng 12,7ly được bí mật đưa lên lập trận địa ở cao điểm 180 (thường

gọi là Lèn Bảng).

Sáng sớm ngày 15-8-1968, một tốp 3 máy bay F4H từ biển theo sông Gianh

bay tầm thấp vào định tấn công tàu hải quân đang đậu dưới chân Lèn Bảng. 2 chiếc

đi đầu dùng thủ đoạn giả vờ bổ nhào cắt bom và bắn rốc két nhằm phát hiện hỏa lực

ta nhưng dưới sự chỉ huy của Phân đội trưởng Nguyễn Thị Bích Hội, toàn phân đội

bình tĩnh không nổ súng để giữ bí mật trận địa. Đợi chiếc thứ 3 lao xuống cắt bom

lọt vào tầm bắn, cả 3 khẩu 12,7ly đồng loạt nổ súng. Chiếc máy bay trúng đạn bốc

cháy rơi xuống tại chỗ, 2 phi công Mỹ không kịp nhảy dù. Hai chiếc còn lại vội

quay đầu tháo ra biển [52, tr. 101-102].

Chiến công trên thể hiện sự dũng cảm, mưu trí và sáng tạo của phân đội nữ

dân quân xã Tiến Hóa. Việc đưa súng lên điểm cao nhằm nới thêm tầm bắn đã

khắc phục được điều kiện bất lợi của địa hình, tạo nên sự bất ngờ cho đối phương.

Trong diễn biến trận đánh, toàn phân đội đã bình tĩnh và sáng suốt, không bị mắc

mưu bởi các thủ đoạn thăm dò của địch để giữ bí mật trận địa, kiên trì chờ và chọn

đúng thời cơ để nổ súng, tiêu diệt tại chỗ máy bay Mỹ. Nó chứng minh chị em phụ

nữ có khả năng độc lập tác chiến cũng như có thể thay thế được nhiệm vụ chiến

đấu của thanh niên, đồng thời góp phần làm phong phú kho tàng nghệ thuật chiến

tranh nhân dân Việt Nam.

Page 111: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

107

* Trận phục kích F.111A 1 của dân quân xã Phú Trạch, Bố Trạch (7-11-1972)

Từ giữa năm 1972, Mỹ sử dụng loại máy bay F.111A “cánh cụp cánh xòe”

trên đất Quảng Bình. Sử dụng lối tập kích, bay thấp men theo triền sông, sườn núi,

thả loạt bom tọa độ với khối lượng lớn rồi thoát li nhanh ra biển, F.111A trở thành

“con ngoáo ộp” của không lực Hoa Kỳ. Nhiều chân hàng, bến vượt bị đánh, nhiều

đoạn đường bị tắc bởi những loạt bom tọa độ của F.111A. Sau thời gian nghiên cứu

quy luật hoạt động của F.111A, Tỉnh đội trưởng Trần Sự quyết định sử dụng hỏa

lực tầm thấp để tiêu diệt. Dưới sự chỉ đạo của Ban tác chiến, Ban cao xạ, các địa

phương đưa phân đội 12,7ly, 14,5ly, … xây dựng trận địa phục kích ở những nơi

mà F.111A thường xuyên bay qua. Về cách đánh, mỗi súng chỉ bố trí một xạ thủ

phụ trách. Những người này được lệnh ngày ngủ, đêm thức trực chiến, hướng nòng

về phía tây, tay đặt cò súng để sẵn sàng nghe tiếng máy bay là bắn, bắn kiểu vãi đạn

(còn gọi là bắn “đại hội”).

Đêm 5-11-1972, phân đội trực chiến dân quân xã Phú Trạch (Bố Trạch) bố trí

trận địa tại lòi Làng Hỷ Duyệt. Dưới sự chỉ huy của Xã đội trưởng Nguyễn Thắng, 2

khẩu 12,7ly sẵn sàng. Lúc 0 giờ ngày 7-11, vừa nghe tiếng máy bay từ phía tây, cả 2

khẩu 12,7ly đồng loạt nhả đạn. Chiếc F.111A bị hạ gục, rơi xuống cửa biển Lý Hòa.

Đây chính là chiếc máy bay “cánh cụp cánh xòe” đầu tiên bị hỏa lực tầm thấp của

dân quân miền Bắc trừng trị [163, tr. 306-307]. Chiến công này chứng tỏ bước

trưởng thành vượt bậc về trình độ chỉ huy, nghệ thuật tác chiến, khả năng chiến đấu

của các lực lượng vũ trang Quảng Bình khi đối đầu với phương tiện chiến tranh

hiện đại nhất của Mỹ vào thời điểm đó.

3.2.3.2. Trên các tuyến đường bộ

Để bảo vệ các tuyến đường, Tỉnh ủy tập trung nhân lực, vật lực và phương

tiện cho đường 12 và 15, còn Quốc lộ 1 giao cho các địa phương chịu trách

1. Đây là một loại máy bay ném bom chiến lược tầm trung, có thể trinh sát và chiến đấu.

Nó là thành tựu kĩ thuật mới nhất của Mỹ vào thời điểm đó, như cánh có thể thay đổi (cụp

lại hoặc xòe ra), có ra-đa theo dõi địa hình để bay nhanh ở tầm thấp. F.111A có tốc độ gấp

2,5 lần tốc độ âm thanh, hoạt động ở tầm cao 17km (súng phòng không thông thường

không với đến) hoặc rất thấp (ra-đa mặt đất không thể phát hiện). Không kể các loại tên lửa

đối không, đối đất, F.111A có thể mang khối lượng bom tới 14,3 tấn [229].

Page 112: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

108

nhiệm. Ban chỉ huy đảm bảo giao thông vận tải tỉnh và các huyện, thị xã được

thành lập. Để thông tuyến, một số biện pháp cụ thể được đề ra như các địa

phương, cơ quan và đơn vị tổ chức, huấn luyện và trang bị cho dân quân tự vệ

những kĩ năng về sửa chữa đường, cứu xe, cứu hàng, gỡ bom nổ chậm, canh gác

phòng không ban đêm, … để cầu đường hỏng ở đâu thì đây là lực lượng đầu tiên

có mặt ứng cứu. Về phương thức hoạt động, các lực lượng này thực hiện triệt để

hỏng đâu sửa đó, hỏng lúc nào sửa lúc đó, xe đến lúc nào đi ngay lúc đó, có

đường - phà - cầu dự bị; tổ chức bảo vệ, báo động phòng không dọc đường, tổ

chức các tổ điều chỉnh giao thông trên các trục đường, tổ chức lực lượng bốc dỡ

ở các cầu phà, người và xe có bến riêng, bảo đảm vận chuyển hành khách và

hàng hóa trong bất cứ tình huống nào.

* Trên Quốc lộ 1. Ngày 4-4-1965, máy bay Mỹ đánh phá cầu Dài (Đồng Hới).

Tiểu đoàn 9 cùng dân quân tự vệ Phú Hải đánh trả. Sau đó, ta điều Tiểu đoàn 9 về

cầu Lý Hòa. Tại đây, trong hai ngày 7 và 13-4-1965, Tiểu đoàn 9 tuy hạ được một

số máy bay 1 nhưng việc bảo vệ mục tiêu không hoàn thành. Tiếp theo, Tiểu đoàn 9

được điều về cầu Mỹ Đức. Rút kinh nghiệm từ 2 trận chiến trước, ngày 24-4-1965,

khi máy bay Mỹ tấn công, các lực lượng tại chỗ đã lập trận địa giả, nghi binh lừa

địch, bắn rơi một số máy bay.

Trong khi đó, công tác ngụy trang nghi binh để bảo vệ các mục tiêu chính thực

sự là cuộc đấu trí quyết liệt giữa ta và địch. Trên các tuyến luồng và phương tiện

vận tải đều xây dựng phương án dự phòng nhằm xử lí có hiệu quả những tình huống

phát sinh trong thực tế chiến đấu. Đối với những mục tiêu như cầu cống, công nhân

tìm cách ngụy trang. Như khi cầu Chánh Hòa tuy bị đánh nhưng chưa sập, xe vẫn

còn qua lại được, ban ngày anh em công nhân lấy cái nong lớn trát nhựa đường và

đổ nước vào đem đặt trên cầu. Từ trên cao, máy bay trinh sát chụp ảnh hoặc các loại

máy bay trinh sát vũ trang thấy cây cầu đã bị đánh thủng nên không đánh phá nữa.

Tối đến, công nhân cất nong cho xe qua lại bình thường được thêm một thời gian.

1. Theo “Dự thảo tổng kết chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế

quốc Mỹ (1965-1968)”, tổng số máy bay Mỹ bị bắn rơi trong các trận đánh trên là 26

chiếc. Con số này có lẽ quá cao so với thực tế.

Page 113: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

109

Tại cầu Khe Chay, do bị địch đánh sập hoàn toàn nên Hạt Giao thông Quảng Trạch

làm một cầu ngầm sát cầu cũ. Để nghi binh, đơn vị mở con đường giả chạy sát chân

núi, cắm cả cọc tiêu quét vôi trắng để thu hút địch. Máy bay Mỹ tưởng ta mở đường

mới tránh cầu Khe Chay nên tập trung phá con đường giả đó. Ở cầu Khe Giao và

cầu Hiểm, công nhân dùng cách khác. Thân cầu được lao những dầm dọc và dùng

ván lát ngang cầu. Ban đêm, xe qua lại bình thường, đến sáng ván được tháo cất.

Máy bay Mỹ trinh sát chỉ thấy cầu bị đánh hỏng. Ở cầu Lệ Kỳ, khi bị đánh sập,

công nhân làm cầu mới dưới mặt nước 30 phân khiến địch không thể phát hiện. Tối

đến, công nhân giăng dây hai bên để xe qua lại. Tuy nhiên, do đảm bảo bí mật,

không sử dụng đèn nên một số xe lao xuống ruộng. Để khắc phục, công nhân rải

một vệt cát trắng giữa tim đường. Dựa vào dấu hiệu này, xe qua lại dễ dàng hơn.

Đối với những xe đang hành quân phải đỗ lại dọc đường khi trời sáng, yêu cầu ngụy

trang kín được đặt lên hàng đầu. Do xe nhiều, các thôn xóm dọc hai bên đường bị

đánh phá nhiều, không có đủ lá ngụy trang. Sở Giao thông Quảng Bình vận động

nhân dân làm nhiều hầm, ụ ven đường để giấu xe. Không có lá tươi, bà con dùng lá

khô kết lại phủ kín xe. Gần sáng, xe được giấu vào hầm, tối lại chạy. Vận dụng kinh

nghiệm này, công nhân lái máy cày cũng làm những tấm phên tranh tre để che máy.

Khi máy bay Mỹ đến, máy cày dừng lại, trông giống như những túp lều giữa đồng

khiến địch không phát hiện ra. Máy bay đi, hoạt động sản xuất trở lại bình thường.

* Trên Đường 12A, thường xuyên có trên 500 thanh niên xung phong của

Quảng Bình, Thanh Hóa và Nghệ An, trong đó đơn vị C.759 thuộc Đội Thanh niên

xung phong N.75 1 Quảng Bình là lực lượng chính, chốt những trọng điểm như Khe

Tang, Khe Ve, Bãi Dinh, Cha Lo, Cổng Trời, Mụ Dạ, … Đơn vị thường xuyên đối

đầu với những đợt oanh tạc ác liệt của máy bay Mỹ. “Đến cuối tháng 10-1966, chúng

đã đánh vào đoạn đường C.759 phụ trách 445 trận với 4.095 quả bom, tính ra mỗi

người chịu 32 quả” [123, tr. 87].

1. Được thành lập ngày 15-5-1965, N.75 gồm các đơn vị: C.751, C.755 (Bố Trạch), C.752, 753

(Quảng Trạch), C.754 (Quảng Ninh), C.757 (Lệ Thủy), C.758 (Minh Hóa) và C.759 (Tuyên

Hóa).

Page 114: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

110

Đối mặt với bom đạn ác liệt, lực lượng C.759 vẫn giữ quyết tâm: “Máu 759 có

thể đổ - Đường 759 không bao giờ tắc”. Tại những trọng điểm thường xuyên bị

đánh phá, C.759 phải chia tổ, nhóm bất kể ngày đêm và hiểm nguy nhằm nhanh

chóng thông đường. Nhiều tấm gương dũng cảm xuất hiện, như chiến sĩ Trần Đức

Hè, người lăn quả bom nổ chậm đầu tiên ra khỏi lòng đường; C phó Trần Thị

Thành, đứng ngay trên bom nổ chậm cho anh em yên tâm làm đường. Song song

với nhiệm vụ chiến đấu để thông đường và thông tuyến, công nhân Công trường

12A còn thường xuyên luyện tập quân sự, sẵn sàng chiến đấu. Ngày 14-4-1965,

trong trận chiến đấu bảo vệ cầu Cà Tang, công nhân giao thông Hạt 4 tham gia tiếp

đạn cho đơn vị pháo bảo vệ cầu, khi bộ đội bị thương nặng, đội viên Đinh Thị Thu

Ngà đã nhảy lên mâm pháo làm pháo thủ bắn trả máy bay Mỹ.

Để hoàn thành nhiệm vụ, lực lượng N.75 không tránh khỏi những tổn thất to

lớn, như C.756 có 21 chiến sĩ hi sinh hoặc trong trận Mỹ ném bom khu vực núi Y

Leng (ngày 3-7-1966), 8 đội viên C.759 cùng 11 chiến sĩ công binh C.2 bị vùi sâu

trong lòng đất 1.

* Trên Đường 15, Mỹ tập trung đánh phá dữ dội, chia cắt từng khúc, “từ

Thanh Lạng, Khe Tang, Khe Ve lên đường chiến lược 12 không ngớt tiếng bom nổ.

Phà Xuân Sơn trở thành ‘túi bom’. Đoạn đường từ Đá Đẽo qua Troóc vượt phà

‘Nguyễn Văn Trỗi’ đến cây số không (km 0) mỗi ngày có tới 12 đến 16 tốp máy bay

đánh phá” [33, tr. 245]. Nhiều trọng điểm trên Đường 15 đã ghi vào lịch sử giao

thông Quảng Bình với những chiến công hiển hách, trong đó có đoạn Khe Rinh là

một địa danh bất tử. Cuối tháng 8-1966, sau 7 ngày đánh ngầm 510 không có kết

quả, Mỹ chuyển sang đánh ngầm Khe Rinh. Ở đoạn này, Đường 15 đi qua vùng núi

đá vôi hiểm trở nên Khe Rinh chịu tác động trực tiếp các cơn lũ thượng nguồn vào

mùa mưa, lũ mở rất rộng, lưu tốc tăng đột ngột có thể phá vỡ, cuốn trôi cả đoạn

đường. Ban đầu, Mỹ đánh bom tọa độ ngày 3 lần, bước qua tháng 9 chúng đánh cả

ngày lẫn đêm, trung bình 10 trận mỗi ngày và kéo dài liên tục suốt 75 ngày đêm

1. Với những thành tích trên, C.759 thuộc đội Thanh niên xung phong N.75 Quảng Bình và

A trưởng Nguyễn Thị Kim Huế đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng.

Page 115: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

111

[145, tr.159-160]. Bom đạn và mưa lũ đã phá hủy một đoạn đường dài 500m, gây

tắc hàng tuần lễ. Công trường 050 (đơn vị giao thông chủ chốt của tỉnh Quảng

Bình) từ Đường 12B được điều về ứng cứu. Do địa hình không thể mở đường tránh

nên các lực lượng trên công trường phải bảo vệ tuyến đường chính bằng mọi giá.

Phương pháp tối ưu đó là ép lèn để dịch đường vào. Máy gạt C100 và một tiểu đoàn

bộ đội chủ lực được điều đến hỗ trợ nhưng gặp tổn thất lớn phải rút về tuyến sau. 3

đại đội C1, C3 và C8 của Công trường 050 gồm 480 công nhân ở lại bám trụ mặt

đường. Do máy bay Mỹ đánh phá liên tục nên lực lượng chốt chỉ kịp khai thác đủ số

lượng đá để sửa chữa tại chỗ. Công trường quyết định thành lập “Trung đội quyết

tử”, gồm 30 đảng viên và đoàn viên thanh niên ưu tú bám trụ tại trọng điểm để sản

xuất đá ngay trên trận địa. Trung đội C đóng chốt trong hang lèn, dùng mìn phá đá

dịch đường, dự trữ sẵn một khối lượng lớn đá hộc, sau mỗi lần địch đánh phá là

phải có vật liệu xử lí ngay. Với tinh thần quyết tử của các lực lượng công binh và

thanh niên xung phong, qua 75 ngày đêm, trọng điểm Khe Rinh được thông xe.

Cùng với Khe Rinh, trên Đường 15 còn có nhiều trọng điểm ác liệt khác như

phà Xuân Sơn, Long Đại, … là những “túi bom”,”chảo lửa”. Các lực lượng đảm

bảo giao thông vận tải của Trung ương, của Quân khu 4 và của địa phương tại

những trọng điểm Xuân Sơn và Long Đại đã vượt lên thử thách khốc liệt gian khổ

hi sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ bến phà, tuyến đường, đảm bảo sự chi

viện của hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Khẩu hiệu hành động

xuyên suốt “đầu đội bom, chân bám phà, tay lái, tay súng, miệng hát bài ca chiến

thắng”, “đường, ngầm, sông, bến phà là trận địa” đã trở thành phong trào cách

mạng của toàn đơn vị.

* Trên Đường 20. Ngay khi vừa hoàn thành, Mỹ bắt đầu đánh phá ngăn chặn

tại đèo Pu La Nhích, đèo Cô Pông La và ngầm Ta Lê. Mức độ đánh phá trên dưới

10 lần một ngày [145, tr. 136]. Để cắt đường, chặn xe vận chuyển, Mỹ tập trung

đánh vào các điểm vượt sông, đèo cao vách đứng, nơi tập trung nhiều đầu mối giao

thông như điểm vượt sông Son, ngầm Bùng, vách đá ở Km12 Trà Ang, ngầm Cà

Roòng, đường chữ chi ở Km32 và dốc Km68, khu vượt sông Ta Lê, khu vực đầu

Page 116: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

112

mối đường Chà Là. Địch đánh dai dẳng quyết liệt nhất là khu vực vượt sông Ta Lê

bao gồm ngầm A, ngầm B, ngầm C, đỉnh đường Đ, cua chữ A, vách đá 85. Đến

năm 1970, Mỹ chuyển ra đánh khu vực Chà Là. Có ngày tại đây có tới 15-20

lần/chiếc B.52 rải thảm và trên 40 lần/chiếc cường kích đánh bổ sung, với nhiều loại

bom như bom phá nổ ngay, bom từ trường, bom bi nổ ngay và nổ chậm, bom cam,

bom đinh, mìn vướng, rốc-két, tên lửa điều khiển loại lớn, chất độc hóa học diệt cây

cỏ, ... Ở ngầm 20A, Mỹ dùng cả bom dẫn bằng laze 1.

Bất chấp bom đạn ác liệt, các lực lượng trên Đường 20 lần lượt người trước

ngã, người sau thay thế với quyết tâm: “Sống bám cầu đường, chết kiên cường dũng

cảm”, “Địch phá, ta sửa, ta đi”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt! Tất cả để chiến

thắng!”, mở nhiều đường vòng tránh các trọng điểm, nhiều bến vượt sông, như

vượt sông Son bằng 3 bến phà; vượt ngầm Bùng bằng 3 bến, 1 ngầm và 2 phà; vòng

tránh trọng điểm K.68 bằng Đường 20E từ Km65 bắt vào Km2 Đường 20Đ; vượt

khu vực Ta Lê, ngoài tuyến chính 20A, còn mở thêm các tuyến phụ 20B, 20C, 20D

dài 30km, để luôn đảm bảo con đường được thông suốt.

Trong tổng số hơn 8.000 lượt cán bộ, công nhân, thanh niên xung phong, bộ

đội tham gia xây dựng, chiến đấu trên Đường 20, có 1.088 liệt sĩ và hàng trăm

thương binh. Riêng ngày 14-11-1972, tại Km16, 8 thanh niên xung phong và 5 bộ

đội pháo binh vào trong một hang núi ngay bên cạnh đường để tránh bom đã bị một

khối đá lớn đánh sập che lấp cửa hang, không thể giải cứu. Sự hi sinh đó là minh

chứng về tính chất ác liệt của mặt trận giao thông vận tải chống Mỹ, cứu nước vừa

là biểu hiện ý chí kiên cường và thông minh sáng tạo của tập thể cán bộ và chiến sĩ

giao thông - công binh trên dãy Trường Sơn và là biểu tượng sáng chói chủ nghĩa

anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam, xứng đáng với đánh giá của Đại tướng

Võ Nguyên Giáp khi vào thăm và kiểm tra trận địa cuối năm 1970: “Đường 20 -

Quyết Thắng là một kì công, kì tích, kì quan do ý chí vì độc lập tự do của chiến sĩ và

thanh niên xung phong làm nên” [43, tr. 19-20].

1. Do đó, Đường 20 được mệnh danh là “tọa độ lửa”, “cánh cửa thép”, “cửa tử vượt Trường

Sơn”.

Page 117: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

113

3.2.3.3. Trên tuyến biển

* Những trận đánh tàu biệt kích (1965-1966)

Để bảo vệ vùng biển, ngoài pháo binh Sư đoàn 341 phụ trách bờ biển Quảng

Bình và Vĩnh Linh, trong đó tập trung các trọng điểm Gianh, Đồng Hới, Ngư

Thủy, Quân khu 4 tăng cường cho tỉnh 4 đại đội pháo 85ly, 4 đại đội 57ly. Phương

châm đánh là tranh thủ đánh tiêu diệt, không có điều kiện thì kiên quyết đánh đuổi

không cho địch tự do đánh phá. Trong cách đánh, nhấn mạnh yếu tố bí mật, bất

ngờ, lấy đánh ở cự ly gần làm chính, tập trung hỏa lực đánh chìm từng chiếc, kết

hợp phục kích tại chỗ với cơ động đón đánh địch, lực lượng sử dụng từng trung

đội, đại đội.

Đêm 22-4-1966, bốn tàu biệt kích hoạt động ở vùng biển xã Quảng Đông

(Quảng Trạch) cách bờ khoảng 8-10km. Chúng cho 2 tên biệt hải đột nhập vào bờ

nhưng bị đài quan sát của Đại đội 10 pháo binh phát hiện. 3 tàu đi theo hộ tống tiến

vào gần bờ, bắn yểm trợ cho đồng bọn rút. Kết hợp thông tin của trạm ra-đa 505 với

của phân đội trinh sát, Đại đội 10 giao hội ngay được mục tiêu. Sau 3 loạt bắn, tiếng

máy nổ của tàu tắt ngấm. 4 giờ 30 phút sáng 23-4, lúc khẩu đội 2 đang di chuyển

trận địa, trạm ra-đa 505 thông báo có 2 tàu địch xuất hiện. Khẳng định đó là hai tàu

còn lại, đại đội trưởng hạ lệnh khẩu đội 1 ở lại trận địa ngắm bắn trực tiếp vào mục

tiêu. Chỉ với 2 phát đạn, tàu địch bốc cháy. Khẩu đội chuyển sang mục tiêu thứ 2.

Sau 3 phát đạn, tàu địch bị bắn cháy. Đây là trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao.

Nhờ công tác hợp đồng chiến đấu chặt chẽ với trạm ra-đa hải quân và dân quân địa

phương, chỉ trong 1 đêm, Đại đội 10 pháo binh đã diệt gọn cả 3 chiếc tàu biệt kích

trong khi ta vẫn đảm bảo an toàn.

* Trận đánh tàu Mỹ của cụm pháo binh Tỉnh đội Quảng Bình (17-5-1967)

Để tập trung hỏa lực nhằm đánh địch đạt hiệu suất cao nhất, Tỉnh đội Quảng

Bình chủ trương xây dựng phương án cụm pháo ở thôn Tân Định, xã Gia Ninh,

huyện Quảng Ninh. Đây là vùng đồi cát, không có đường ngang từ Quốc lộ 1 ra

biển và ta chưa có trận địa nên tàu chiến Mỹ thường xuyên vào gần bờ pháo kích.

Hai đại đội 85ly, hai đại đội cao xạ của Tiểu đoàn 9, 12 khẩu 12,7ly của bộ đội địa

Page 118: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

114

phương và dân quân Quảng Ninh được điều đến bố trí đội hình chiến đấu. Tỉnh huy

động 1.925 dân quân các xã Gia Ninh, Võ Ninh, Hàm Ninh và lực lượng của Hạt

giao thông Quảng Ninh, Lệ Thủy chặt hàng ngàn gánh bổi, đưa củi, ván, ri sắt làm

vật liệu chống lún mở đường. Sau 2 ngày, các lực lượng đã làm xong 7km đường,

đưa pháo vào chiếm lĩnh trận địa. Ngày 17-5-1967, khi trận địa vừa bố trí xong, một

tốp 3 tàu chiến đi vào khu vực ta lựa chọn. Đợi mục tiêu vào tầm bắn, các khẩu

pháo đồng loạt phát hỏa vào khu trục hạm số 29. Tàu Mỹ bốc cháy dữ dội, rồi nhích

dần ra khỏi tầm pháo [52, tr. 65-74]. Đối phương lập tức phản pháo, máy bay được

điều tới ném bom. Trận địa cao xạ và 12,7ly nổ súng bảo vệ pháo binh, đẩy lùi cuộc

phản kích của địch. Đến đêm 17-5, các lực lượng ta rút lui an toàn.

Thành công của trận đánh là kết quả của sự chuẩn bị tổng hợp của nhiều lực

lượng: pháo binh, pháo cao xạ, dân quân, công binh, … thể hiện tính toàn dân sâu

sắc. Nếu không có lực lượng to lớn (gần 2.000 người) của dân quân, tự vệ cùng sự

chuẩn bị vật liệu lót đường cũng như xóa dấu vết di chuyển của pháo sau khi vào

trận địa thì không thể có trận đánh. Rồi việc đảm bảo hậu cần cho số lượng người

đông đảo đó đòi hỏi nỗ lực rất lớn của chính quyền và nhân dân các địa phương liên

quan. Kết quả trận đánh mở ra cho pháo binh địa phương về cách đánh tập trung và

cơ động trên toàn tuyến biển, tạo nên dọc bờ biển Quảng Bình, nơi nào tàu chiến

Mỹ cũng có thể bị trừng trị, đẩy lùi tàu Mỹ ra xa, mở rộng khu sản xuất cũng như

góp phần hạn chế việc tàu địch pháo kích vào các mục tiêu ven biển và hệ thống

giao thông.

* Trận đánh tàu Mỹ của đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy (8-2-1968)

Sau khi thành lập (27-11-1967), đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy được tập

trung huấn luyện bắn mục tiêu di động trên biển. Sau hơn 2 tháng, đại đội được

phân công thay thế Đại đội 9/Tiểu đoàn 11 bảo vệ bờ biển quê hương.

Ngày 5-2-1968, Xã đội Ngư Thủy bố trí trận địa chính gồm cả 4 khẩu pháo

85ly, đài quan sát, trận địa phòng không (3 khẩu 12,7ly) để bảo vệ pháo và trận địa

giả để nghi binh. Hỗ trợ cho trận đánh còn có đại đội dân quân Lệ Bình và xe kéo

pháo để sẵn sàng di chuyển trận địa khi bị địch phản kích. Sáng 7-2-1968, hai tàu

Page 119: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

115

chiến Mỹ xâm nhập vùng biển Ngư Thủy, bắn phá đất liền. Ở khoảng cách 9.000m,

ta quyết định đánh. Cả 4 khẩu pháo đồng loạt nhả đạn, bắn cháy chiến hạm số 013.

Tàu Mỹ phản pháo làm 2 chiến sĩ bị thương. Sau đó, máy bay được điều tới dò xét

nhưng không phát hiện được trận địa [52, tr. 95-96].

Trận đầu ra quân, đại đội nữ pháo binh dân quân Ngư Thủy đã lập nên chiến

công xuất sắc, bắn cháy tàu chiến Mỹ. Cũng là lần đầu tiên, tàu chiến Mỹ bị bắn

cháy bởi lực lượng nữ dân quân địa phương. Để có kết quả trên đây trước hết là tầm

nhìn của Ban Chỉ huy Tỉnh đội Quảng Bình khi quyết định thành lập đại đội nữ

pháo binh dân quân - việc chưa từng có trong lịch sử chiến tranh cho đến thời điểm

đó. Nó thể hiện niềm tin của các cấp vào khả năng của chị em phụ nữ có thể gánh

vác được những công việc mà bình thường chỉ do nam giới đảm nhiệm. Đó là nỗ

lực vượt bậc, dũng cảm quên mình của những chiến sĩ nữ dân quân Ngư Thủy trong

huấn luyện và chiến đấu. Để đi đến trận đánh là sự kết hợp của nhiều lực lượng như

pháo binh, phòng không, thông tin và bảo đảm. Điều đó làm cho những nữ dân quân

Ngư Thủy ra trận chính ngay trên mảnh đất quê hương mình, với quyết tâm “đánh

cháy tàu chiến Mỹ”, hoàn toàn yên tâm tập trung vào nhiệm vụ, khi có lực lượng

phòng không bảo vệ, có dân quân sẵn sàng hỗ trợ bất cứ lúc nào.

* Dùng không quân tập kích chiến hạm Mỹ (19-4-1972)

Vùng biển ngoài khơi Quảng Bình luôn có 2-3 tốp tàu chiến Mỹ thường trực.

Tuy nhiên, rút kinh nghiệm từ nhiều lần bị pháo binh ta bắn trúng nên tàu Mỹ

không vào sát bờ như trước. Dựa vào ưu thế về hỏa lực và tầm bắn 1, hải quân Mỹ

phong tỏa bờ biển, liên tục pháo kích vào đất liền mà pháo bờ biển của ta không thể

1. So sánh hỏa lực pháo bờ biển Việt Nam và pháo trên tàu chiến Mỹ [231].

Page 120: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

116

bắn với tới được. Trước tình hình đó, Quân ủy Trung ương và Bộ Tư lệnh quân

chủng Phòng không Không quân quyết định dùng máy bay đẩy lùi tàu chiến Mỹ ra

xa để vô hiệu hóa một lực lượng nguy hiểm, không cho chúng dùng pháo lớn bắn

phá đất liền.

Từ tháng 9-1971, công tác xây dựng sân bay dã chiến Khe Gát ở xã Xuân

Trạch, huyện Bố Trạch được triển khai. Để đảm bảo bí mật, những thiết bị phương

tiện chuyên dụng để xây dựng sân bay như xe lu, xe cẩu, máy húc, xe gạt đều được

tháo rời ra từng bộ phận chở từ Hà Nội vào đến nơi rồi lắp lại sử dụng. Trong điều

kiện máy bay trinh sát và biệt kích, thám báo Mỹ vẫn thường xuyên hoạt động, công

tác thi công được giữ bí mật tuyệt đối, hoàn toàn tiến hành vào ban đêm và trước

khi trời sáng phải dọn dẹp hiện trường, thu giấu máy móc, ngụy trang công trường,

phân tán lực lượng, bố trí canh phòng. Sau hơn 7 tháng thi công, sân bay mới hoàn

thành bằng đất nện, như một đoạn đường thẳng rộng 18m, dài 1.800m, được ngụy

trang kín bằng việc thay lá thường xuyên. Do đó, tuy gần bờ biển, máy bay Mỹ

trinh sát thường xuyên nhưng vẫn không phát hiện được.

Chuẩn bị cho trận đánh, Phó Tư lệnh Binh chủng Nguyễn Phúc Trạch được

phân công vào Quảng Bình, lập Sở Chỉ huy tiền phương. Trung đoàn không quân 923

tổ chức Sở chỉ huy trực tiếp ở Đồng Hới. Binh chủng bố trí một tổ chỉ huy hỗ trợ tại

Sở chỉ huy hải quân, gồm một đài quan sát tại cửa Dinh, một trạm ra-đa đối hải 403 ở

cửa Nhật Lệ, nhằm thu tập tin tức. Hệ thống chỉ huy tập trung nghiên cứu hoạt động

của không quân và hải quân địch, đặc biệt nắm chắc quy luật hoạt động bắn phá của

các tàu khu trục, sự yểm hộ và hoạt động của không quân Mỹ. Khi nắm rõ tình hình

đối phương, cấp trên quyết định đưa máy bay vào sân bay Khe Gát. Ngày 10-4-1972,

3 phi công (Lê Xuân Dị, Nguyễn Văn Bảy và Nguyễn Văn Lục) cùng một số thợ máy

C12, Trung đoàn 923 hành quân theo đường bộ vào sân bay Gát, chuẩn bị phương án

chiến đấu. Vào lúc 15 giờ 45 phút ngày 18-4-1972, hai phi công Lê Hồng Điệp và Từ

Để lái hai chiếc Mig 17 từ sân bay Kép và sân bay Gia Lâm vào sân bay Vinh. Từ

Vinh, sở chỉ huy dẫn đường cho từng chiếc một bay vào Khe Gát. Chiếc thứ nhất hạ

cánh an toàn thì chiếc thứ hai được lệnh cất cánh.

Page 121: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

117

Từ 23 giờ đến 23 giờ 50 phút đêm 18-4-1972, bốn tàu khu trục của Mỹ tiến

vào biển Quảng Bình, pháo kích làng Quảng Xá và làng Lý Nhân Nam. Hoạt động

của địch chứng tỏ chúng chưa phát hiện di chuyển của không quân Việt Nam. Vào

lúc 16 giờ ngày 19-4-1972, Trạm ra-đa 403 phát hiện một tốp 2 tàu Mỹ xuất hiện

cách cửa biển Nhật Lệ về phía đông 18km. Biên đội được lệnh xuất kích. Ở độ cao

50m so với mặt biển, Lê Xuân Dị đánh trúng tháp pháo tàu khu trục USS Higbee,

còn Nguyễn Văn Bảy đánh trúng tàu tuần dương USS Oklahoma City [103].

Về trận đánh này, ngày 20-4-1972, Hãng thông tấn AP (Mỹ) đưa tin: “Khoảng

6 giờ tàu Higbee cùng liên đội đảm nhiệm của Hạm đội 7 hoạt động ở vùng biển

tỉnh Quảng Bình, Bắc Việt Nam. Higbee là khu trực hạm vừa được Tổng thống

Nixon tuyên dương vì đã vào gần vùng biển Hải Phòng cứu các phi công Mỹ bị bắn

rơi ngày 16-4-1972. Chiếc Higbee đang pháo kích thì Mig bay tới ... 2 quả bom

đánh trúng tàu, boong sau của hạm đội bốc cháy, một đoạn lớn của hông bị phá

toang, ụ súng chứa đầy đạn nổ tung, tiếng la hét, kêu cứu thất thanh, quang cảnh

thật buồn thảm, các khẩu pháo lớn vỡ toác như cái loa kèn. Cuộc tấn công này thật

nghiêm trọng vì đây là lần đầu tiên Bắc Việt Nam dùng Mig tấn công Hạm đội 7

của Mỹ. Tin về cuộc tấn công này được loan truyền nhanh chóng trong Quốc hội

Mỹ giữa lúc các nghị sĩ Mỹ đang tranh cãi về những bất đồng trong cuộc chiến

tranh ở Việt Nam” [228].

Thắng lợi của trận đánh là kết quả của ý tưởng táo bạo (dùng máy bay tiêm

kích để ném bom tàu chiến), quá trình chuẩn bị công phu (kéo dài hơn 7 tháng), sự

kết hợp nhiều lực lượng (không quân, công binh, hải quân), hỗ trợ của nhân dân

làng Gát (tham gia xây dựng và ngụy trang sân bay hàng ngày), lối đánh bất ngờ

(đánh ban ngày ở khu vực mà không quân và hải quân Mỹ tưởng chừng như làm

chủ hoàn toàn), tinh thần chiến đấu dũng cảm của các phi công (bay đánh ở độ cao

rất thấp so với mực nước biển trong điều kiện đối phương có ưu thế về hỏa lực trên

không và trên biển). Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ II, đây là lần đầu tiên tàu

chiến Mỹ bị ném bom. Đô đốc Hạm đội Thái Bình Dương phải lệnh cho các tàu lùi

ra xa, tạm dừng pháo kích, để tìm cách đối phó. Tranh thủ thời gian này, các tuyến

Page 122: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

118

vận tải của ta tăng cường công suất hoạt động, đưa các lực lượng vào chiến trường,

góp phần đi đến giải phóng tỉnh Quảng Trị (1-5-1972).

3.3. Đảm bảo giao thông và vận tải chi viện chiến trường

3.3.1. Đảm bảo giao thông

Ngoài Quốc lộ 1 xuyên suốt địa phương là tuyến đường đã có sẵn, trong quá

trình mở rộng quy mô chi viện cách mạng miền Nam, ở Quảng Bình lần lượt nhiều

tuyến đường dọc, ngang được mở sang Tây Trường Sơn nối xuống Trung và Hạ

Lào. Từ năm 1958, việc chuẩn bị mở đường chi viện cách mạng miền Nam đã được

bí mật triển khai, cụ thể là Đường 16. Nguyên là con đường mòn xuất phát từ Thạch

Bàn (Lệ Thủy) rẽ về phía Tây đến bản Cha Lỳ (Hướng Lập - Vĩnh Linh), Trung

ương đã mở rộng thành Đường 16 dài 67km (gồm 64km tuyến chính và 3km đường

tránh), đoạn từ Thạch Bàn đến Làng Ho dài 40km sử dụng cho xe cơ giới, còn từ

Làng Ho lên Cha Lỳ (Hướng Lập) phải gánh bộ để giữ bí mật. Tiếp đó, đường được

mở thông tuyến vượt đỉnh 1001 vào Cù Bai (thuộc Hướng Lập, ở ngã ba biên giới

Lào và Nam - Bắc Việt Nam). Từ tháng 5-1959, khi mở đường Trường Sơn, Khe

Hó (xã Vĩnh Hà - Khu vực Vĩnh Linh), cách giới tuyến quân sự tạm thời chưa đầy

2km, được Đoàn 559 lựa chọn làm điểm xuất phát. Ở phía Bắc giới tuyến, việc vận

chuyển được thực hiện trên một phần trên Đường 16. Từ tháng 10-1959, trước việc

chính quyền Sài Gòn phát hiện ra tuyến đường và tăng cường lực lượng kiểm soát

chặt chẽ dọc Đường 9, Đoàn 559 lùi Sở Chỉ huy ra Làng Ho (Quảng Bình). Từ

tháng 6-1961, Đoàn lật cánh sang Tây Trường Sơn. Tuyến đường cũ chỉ còn một bộ

phận nhỏ làm nhiệm vụ liên lạc. Từ đây, Quảng Bình trở thành điểm cuối của con

đường chi viện từ miền Bắc trước khi vào chiến trường, đồng thời là điểm khởi đầu

của tuyến đường quốc tế, qua Lào, vào Campuchia 1.

Để chuẩn bị cho việc lật cánh sang Tây, từ năm 1961, Trung ương quyết định

xây dựng Đường 15 từ tỉnh Hòa Bình vào đến Bến Quan (Vĩnh Linh). Đoạn qua

1. Cùng thời gian này, việc nghiên cứu tiếp tế bằng đường biển cũng được đặt ra. Cảng

Thanh Khê (gần cửa Gianh) được chọn làm nơi xuất phát. Tuy nhiên, sau chuyến đi đầu

không thành công (1-1960), Tiểu đoàn 603 dừng hoạt động và sau đó nhập chung vào Đoàn

559.

Page 123: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

119

Quảng Bình dài 214km, có 3 bến phà (Xuân Sơn, Long Đại, Thác Cóc), 39 cầu

cống và 37 ngầm. Tiếp theo, năm 1962, Đường 12A được khôi phục 1, nối với

Đường 12B trên đất Lào vào ngã ba Lằng Khằng.

Kết nối những trục đường chiến lược nói trên có hệ thống đường nấc thang.

Đó là tỉnh lộ 1 dài 83km nối ngã ba Ba Đồn (Quảng Trạch) lên ngã ba Pheo (Minh

Hóa), tỉnh lộ 2 dài 20km từ Hoàn Lão lên cầu Bùng (Bố Trạch), đường Chánh Hòa -

Đá Mài dài 11km, đường Đồng Phú - Phú Quý dài 11km, đường Đồng Hới - Cộn

dài 7km, đường Thuận Lý - Cộn dài 7km, đường Quán Hàu - Vĩnh Tuy dài 4km,

đường Phú Thiết (Hưng Thủy) đi Ngư Thủy (Lệ Thủy) dài 7km, … Những tuyến

đường này thuận lợi trong việc cơ động lực lượng trong phạm vi hẹp hoặc chuyển

đổi vị trí chiến đấu từ nơi này sang nơi khác.

Ngoài ra, ở Quảng Bình còn hình thành 3 tuyến đường liên thôn kết nối các

xóm làng:

- Tuyến một: Từ Kỳ Lạc (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) băng qua Rõi, Bưởi (xã Quảng

Hợp, Quảng Trạch) vào Quảng Thạch, Quảng Lưu về Quảng Phong qua đò Phù

Trịch, vượt sông Gianh men theo đồi núi qua Rào Trù, Rào Đá vào nông trường Lệ

- Ninh, vào phía Nam.

- Tuyến hai: Từ Quy Đạt (Minh Hóa) vào Cao Mại (Cao Quảng, Tuyên Hóa)

băng qua Troóc (Phúc Trạch, Bố Trạch) về Gia Hưng, Cự Nẫm, Ba Lòi (xã Tây

Trạch), Sao Đa, Ba Đông (Nam Trạch, Bố Trạch). Đường từ Phú Hữu (Liên Trạch),

Gia Hưng-Vạn Trạch, Phú Vinh (Nghĩa Ninh) lên Đồng Trạng (nơi sơ tán của nhân

dân thị xã Đồng Hới).

- Tuyến ba: từ Cổ Hiền (Hiền Ninh, Quảng Ninh) vào Xuân Ninh, Vạn Ninh,

Hoa Thủy, Sơn Thủy, vào Bang, Vít Thù Lù, …

Những tuyến đường này dù chỉ đắp bằng đất nhưng dọc ngang chằng chịt, có

thể đi lại vào bất cứ thời gian nào, được sử dụng chủ yếu cho những đơn vị hành

quân bộ. Tuy nhỏ hẹp nhưng lại trải rộng trên khắp địa bàn toàn tỉnh nên trong từng

1. Đường 12A có từ trước năm 1945, từ Tân Ấp lên Mụ Dạ giáp biên giới Việt-Lào, dài

74km.

Page 124: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

120

thời điểm, tuyến đường liên thôn còn được sử dụng cho xe ô tô vòng tránh các trọng

điểm ác liệt hoặc phân tán hàng hóa giấu trong dân, … khiến hỏa lực đối phương

khó ngăn chặn.

Khi Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, Đường 12A bị tập trung

đánh phá nên việc phá bỏ thế độc đạo là yêu cầu cấp thiết. Trung ương chỉ đạo

khẩn trương mở cửa khẩu thứ hai vượt đỉnh Trường Sơn nhằm rút ngắn cung độ đi

xuống Đường 9. Tháng 5-1965, Quảng Bình được Trung ương giao nhiệm vụ

thành lập đội khảo sát mở Đường 20 từ Phong Nha đến Cà Roòng, nối với Đường

129. Trung ương dồn hàng chục chiếc xe máy, hàng trăm tấn bộc phá và điều động

5.000 thanh niên xung phong các tỉnh phía Bắc, kết hợp với bộ đội Trường Sơn,

với trên 8.000 người gấp rút xẻ núi mở đường. Ngày 5-5-1966, Đường 20 1 hoàn

thành, dài 82km có thể phục vụ xe cơ giới vận tải và được bàn giao cho Ban 67 2

thuộc Đoàn 559 phụ trách.

Sau khi Đường 20 ra đời, Mỹ phát hiện và đánh phá ác liệt làm nhiều trọng

điểm bị tắc, nhất là về mùa mưa lũ. Tháng 9-1967, Trung ương quyết định mở

Đường 10 nối Đường 15 từ ngã ba Áng Sơn (huyện Quảng Ninh) vào đến Đường 9,

dài 74km. Nhiệm vụ đặt ra hết sức khẩn trương trong điều kiện địa hình phức tạp,

việc chuẩn bị cơ sở vật chất cho thi công hầu như con số không. Trung ương điều

hơn 6.000 thanh niên xung phong của các tỉnh phía Bắc và một khối lượng lớn

phương tiện máy móc và trang thiết bị từ Hà Nội vào. Đảm bảo hậu cần cho thi

công Đường 10 do Quảng Bình chịu trách nhiệm. Trong điều kiện chiến tranh phá

hoại của Mỹ diễn ra ác liệt, sản xuất gặp khó khăn, việc đảm bảo đời sống nhân dân

và chi viện chiến trường đã khó, lại thêm chăm lo cuộc sống cho hàng ngàn người

tham gia mở đường hơn một năm trời là nỗ lực rất lớn của địa phương. Đầu năm

1969, Đường 10 hoàn thành và được bàn giao cho Ban 67. Lực lượng trên đường

1. Đường 20 còn gọi là “Con đường Tuổi Hai mươi”, “Đường Quyết thắng”. 2. Ngày 23-4-1967, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải quyết định thành lập Ban Xây dựng

67 bên cạnh Tổng cục Tiền phương với nhiệm vụ tiếp nhận toàn bộ lực lượng công nhân,

thanh niên xung phong trên các tuyến 12, 15, 16 và cơ quan Công trường 20 - Quyết

Thắng.

Page 125: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

121

còn hai đội Thanh niên xung phong N.39 và N.44 của các tỉnh phía Bắc cùng Đội

công nhân quốc phòng số 2. Đến năm 1971, Đường 10 được nâng cấp, rải nhựa mặt

đường và đổ bê-tông cống ngầm. Lực lượng được điều động gồm 3.000 thanh niên

xung phong (Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Thái Bình), 3.000 công nhân hỏa tuyến (Nghệ

An, Hà Tĩnh, Quảng Bình) và 1.000 công nhân giao thông, công nhân quốc phòng.

Từ Km45 Đường 10, phải làm thêm 32km, gọi là Đường 18. Đến tháng 12-1972, cả

Đường 10 và Đường 18 được bàn giao cho Đoàn 559.

Năm 1968, để phục vụ chiến dịch giải phóng Khe Sanh, Đường 16 được khôi

phục. Đội Thanh niên xung phong Quyết Thắng (Quảng Bình) và Đội Thanh niên

xung phong Cù Chính Lan (Nghệ An) được giao nhiệm vụ mở rộng đoạn từ Vít

Thù Lù đến Làng Ho, rồi lấn dần vào Dốc Khỉ, sử dụng cho xe cơ giới. Tỉnh ủy

Quảng Bình thành lập Công trường Thống Nhất A, điều Tiểu đoàn 45 và đại đội

363, 365 bộ đội địa phương, đội thanh niên xung phong Quyết Thắng, đội xung

phong Cù Chính Lan và 180 công nhân Công trường 12A thi công. Đoạn từ Vít

Thù Lù đến Làng Ho vào Dốc Khỉ dài 44km, được mở rộng, sử dụng cho xe cơ

giới. Từ Dốc Khỉ, ta mở 40km đường gùi thồ vươn đến bắc sông Sê Păng Hiêng.

Tiếp theo, tỉnh huy động Tiểu đoàn 70 hỏa tuyến tham gia mở tuyến Thống Nhất

B ở nam Sê Păng Hiêng, nối liền hậu phương Quảng Bình với tiền tuyến Trị -

Thiên. Con đường này đã góp phần to lớn trong việc chuyển quân thực hiện chiến

dịch giải phóng Khe Sanh 1968.

Việc mở được những con đường này là một kì công, với bao mồ hôi, công sức,

vật lực và máu nhưng việc đảm bảo cho nó luôn được lưu thông là nhiệm vụ rất

nặng nề, mang tính thường trực của các lực lượng trên đường cũng như trách nhiệm

của các cấp ủy Đảng, chính quyền, quân và dân Quảng Bình. Hàng hóa và nhân lực

từ miền Bắc chi viện cách mạng miền Nam vào đến Quảng Bình sẽ theo những

tuyến đường ngang này sang Lào, sau đó được chuyển tiếp đến các chiến trường.

Như vậy, mặc dù không phải là điểm mở đầu nhưng Quảng Bình dần trở thành

trung tâm của tuyến đường Trường Sơn, là “trạm dừng chân”, “kho trung chuyển”

chi viện sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc trước khi vào chiến trường

Page 126: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

122

miền Nam, đồng thời là điểm khởi đầu của tuyến đường “quốc tế hóa” qua Lào và

Campuchia. Mặt khác, Quảng Bình còn đóng vai trò là hậu cứ, nơi dừng chân, trú

quân của nhiều đơn vị chủ lực trước khi hành quân vào chiến trường hoặc rút ra để

nghỉ ngơi, củng cố lực lượng sau mỗi chiến dịch. Thương - bệnh binh, những người

có sức khỏe yếu từ chiến trường ra hoặc chuyển công tác về hậu phương, đều lưu lại

ở Quảng Bình một thời gian trước khi chuyển ra Bắc.

Ngoài các tuyến đường bộ nói trên, từ giữa năm 1968, Quảng Bình tham

gia phục vụ thi công tuyến đường ống xăng dầu vượt sông Gianh, theo Đường 12

qua Lào, vào đến Bắc Đường 9 (tuyến Vinh - Ka Vát). Nhờ vậy, việc cung cấp

xăng dầu cho Đoàn 559 ở Tây Trường Sơn ổn định với khối lượng lớn, mỗi ngày

từ 200 đến 300 tấn (trong khi trước đó, muốn đưa 100 tấn xăng dầu từ Vinh vào

Ka Vát phải sử dụng 30-35 xe ô tô, cả đi lẫn về mất 12-15 ngày, chưa kể tổn

thất) [110, tr. 28].

Trên địa bàn Quảng Bình, hệ thống sông ngòi khá dày đặc, chủ yếu chảy theo

hướng Tây - Đông, tạo ra sự chia cắt địa hình, gây trở ngại cho công tác vượt sông,

nhất là trong điều kiện mưa lũ, địch đánh phá ác liệt. Tuy nhiên, khắc phục bất lợi

và tận dụng, phát huy yếu tố thuận lợi của điều kiện tự nhiên cũng được quân dân

Quảng Bình tính đến. Một số đoạn sông được khảo sát sử dụng làm tuyến vận tải

như thượng nguồn sông Gianh và sông Nhật Lệ nhằm tăng khối lượng hàng hóa vận

chuyển nhưng giảm được công sức và chi phí xây dựng hoặc sửa chữa. Cụ thể, năm

1968, Đoàn 559 sử dụng nhánh sông Son để vận chuyển xăng từ sông Gianh lên

Đường 20 rồi chuyển tiếp vào chiến trường. Hoặc năm 1972, khi đèo Ngang bị

phong tỏa, nhánh sông Rào Trổ được sử dụng để thả trôi hàng từ Kỳ Thượng (Kỳ

Anh, Hà Tĩnh) về Minh Cầm (Tuyên Hóa). Riêng sông Nhật Lệ được sử dụng để

vận chuyển hàng từ cảng Nhật Lệ đưa vào phía Nam tỉnh (đi theo nhánh Kiến

Giang) hoặc theo nhánh Long Đại đi sâu vào vùng núi phía tây nam, nơi có các

chân hàng của Đoàn 559. Tuyến đường thủy này đặc biệt phát huy hiệu quả vận

chuyển, nhất là vào những thời điểm Quốc lộ 1 và Đường 15 bị tắc.

Page 127: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

123

Về cuối năm 1965, mức độ đánh phá của Mỹ tăng lên, các bến phà Roòn,

Gianh, Xuân Sơn, Quán Hàu và Long Đại đều bị phong tỏa. Hơn 2.800 phương tiện

vận tải thủy của các hợp tác xã Cảnh Dương (Quảng Trạch), Lý Hòa, Thanh Trạch

(Bố Trạch), Hồng Vận (Đồng Hới), … bị phá hủy hoàn toàn. Hệ thống vận tải

đường thủy bị tê liệt. Hàng hóa từ miền Bắc vào có khi ách tắc hàng tuần lễ.

Trước tình hình đó, Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Bình chủ trương: “Việc rà phá

bom mìn phải trên cơ sở phát động quần chúng tham gia, lấy lực lượng vũ trang

làm nòng cốt, có sự hướng dẫn của cán bộ chuyên môn kĩ thuật. Các cấp các ngành

tăng cường chỉ đạo chặt chẽ, bám sát cơ sở. Dù trong tình huống nào, địch tập

trung đánh phá ác liệt đến đâu vẫn phải đảm bảo đường sá, phương tiện, hàng hóa

thông suốt. Kết hợp chặt chẽ các lực lượng, động viên khả năng của toàn dân, phát

huy tính tích cực vai trò xung kích của các đội chuyên trách chủ lực, hiệp đồng giữa

các tuyến, sẵn sàng chuẩn bị tuyến này tắc có tuyến khác hoạt động …. Tập trung

trong một thời gian ngắn, các nhóm đan thuyền nan, thuyền gỗ buộc mây hoặc đóng

đinh nhôm, đinh đồng để giải quyết công tác vận chuyển” [166].

Thực hiện chủ trương trên, chỉ trong thời gian ngắn, lực lượng rà phá bom

mìn được tổ chức, huấn luyện. Mỗi xã thành lập một đội chuyên trách, mỗi

huyện có một đội chủ lực phụ trách các trọng điểm và ứng cứu các xã. Hệ thống

đài quan sát bom từ trường được thiết lập ở bến phà, cửa sông, ngã ba sông. Ở

những trọng điểm, lực lượng rà phá phối hợp với các đơn vị công binh của Bộ và

Quân khu, tiến hành bằng phương pháp thô sơ là chủ yếu như dùng nam châm

khung điện, bộc phá, ca nô lắp máy phóng từ kích nổ, … Trong đó nổi lên là

hoạt động của đội rà phá bom mìn Thị xã Đồng Hới, có đợt phá được 300 quả

bom từ trường, dân quân các xã hai bên sông Gianh bất chấp nguy hiểm, lập đài

quan sát để đánh dấu bom từ trường, chỉ điểm cho lực lượng chuyên trách rà phá

có hiệu quả. Các xã Đồng Trạch, Sơn Trạch, Hưng Trạch, Bắc Trạch (Bố Trạch),

Bảo Ninh (Đồng Hới), Vĩnh Ninh (Quảng Ninh) thực hiện “3 nhất”: Nghiên cứu

tìm tòi nhiều biện pháp phá bom hiệu quả nhất, giải phóng đường nhanh nhất,

bảo đảm an toàn nhất [164, tr.163], …

Page 128: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

124

Thời gian đầu, mỗi khi cầu bị đánh sập là ta khẩn trương tìm cách để bắc lại.

Tuy nhiên, cách làm này vừa tốn kém về thời gian và nhân lực nhưng lại không đảm

bảo bởi có lúc chưa kịp hoàn thành thì lại bị đánh sập tiếp. Ngày 25-11-1965, Liên

bộ Quốc phòng và Giao thông có chủ trương quân sự hóa khâu vượt sông. Đối với

cầu lớn, ta chuyển thành phà, những cầu nhỏ chuyển thành ngầm và bố trí lực lượng

pháo cao xạ nhất định để bảo vệ. Trên các đường phải có sẵn phà dự phòng để cầu

hỏng có phà đưa vào sử dụng ngay. Nhờ đó, sau thời gian đầu lúng túng vì không

kịp thời sửa chữa, cầu không còn là vấn đề lớn đối với công tác vận chuyển mà lúc

này quan trọng hơn là việc vượt sông như thế nào cho có hiệu quả. Quảng Bình

thành lập Tổng đội vượt sông bên cạnh Ty Giao thông để chỉ huy các bến phà. Các

bến phà được tổ chức quân sự hóa, mỗi huyện đội phụ trách một vài bến hoặc cầu

quan trọng 1. Để có thể vượt sông trong mọi tình huống, mỗi bến phà có 2 bến chính

và 2 đến 3 bến phụ (riêng bến phà Roòn lúc cao điểm có tới 4 bến).

Để thay thế phà chính bị đánh hỏng, chưa kịp sửa chữa hoặc thay thế, quân

dân Quảng Bình có sáng kiến dùng 2 thuyền đánh cá ghép lại thành một chiếc phà

gỗ, ban ngày tháo rời đem cất dấu, ban đêm ghép lại làm phà. Ở phà Gianh có sáng

kiến làm “phà dìm”. Trên phà có cơ cấu một hệ thống nước ra vào được, ban ngày

bơm nước vào dìm xuống dưới mặt nước, ban đêm tháo nước ra đưa phà nổi lên

hoạt động. Phà Quán Hàu dùng 6 mảng cầu phao ghép lại thành phà, gọi là phà càng

cua, ban đêm chở xe qua, ban ngày tháo rời đem cất giấu. Ở phà Long Đại, xí

nghiệp X200 đóng thuyền theo kiểu làm hai mảng dọc, tối ghép lại cho xe qua, ban

ngày tháo ra cất. Ở Xuân Sơn, phà được ghép làm cầu phao quân sự, ban ngày kéo

vào động Phong Nha cất giữ. Ngoài ra, tại các bến luôn dự trữ các phương tiện như

phà, ca nô; vật liệu như đất, đá, gỗ; bố trí lực lượng gồm nhân công sửa chữa và đội

quan sát, rà phá bom nổ chậm, bom từ trường. Do đó, sau mỗi trận đánh, công tác

khắc phục hậu quả cũng như kịp thời phát hiện, xử lí các loại bom chưa nổ dần đi

vào nề nếp.

1. Huyện đội Quảng Trạch phụ trách bến Roòn, sông Gianh. Huyện đội Bố Trạch phụ trách

bến phà Xuân Sơn, Lý Hòa. Thị đội Đồng Hới phụ trách cầu Dài. Huyện đội Quảng Ninh

phụ trách bến Long Đại, Quán Hàu. Huyện đội Lệ Thủy phụ trách bến phà Thác Cóc.

Page 129: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

125

Để đối phó với mức độ đánh phá ngày càng tăng, nhất là khi Mỹ sử dụng thủy

lôi và bom từ trường phong tỏa cửa sông, bến phà, các địa phương đã tổ chức đội rà

phá bom, đội trinh sát, tổ liên lạc để phát hiện thủy lôi. Đầu năm 1967, Tỉnh Quảng

Bình lập Đội công binh 73 (thuộc Thị đội Đồng Hới), Đội công binh 74 (Lệ Thủy),

75 (Bố Trạch), 76 (Quảng Trạch). Đến tháng 3-1967, 4 đội trên được nhập lại một,

lấy tên là Đội rà phá bom mìn Tỉnh đội Quảng Bình, gồm 57 người, chia làm 7 tiểu

đội, bố trí đều trên 7 huyện, thị.

Trong năm 1968, Mỹ thả trên 4.000 quả bom từ trường xuống sông Gianh và

sông Nhật Lệ. Có những đoạn, thủy lôi dày đặc, không thể phá hết được. Lực lượng

tại chỗ chỉ có thể rà phá một luồng rộng khoảng 30m để ca nô và thuyền vận tải đi

được. Tại cồn La Hà (Quảng Văn), công nhân Công ty vận tải thủy phải thường

xuyên dắt thuyền đi vòng vèo để tránh bom từ trường. Ở Minh Lệ, ta sử dụng ca nô

vận tốc cao chạy qua các bãi bom để kích nổ. Nhiều người đã hi sinh. Cách phá

bom đơn giản mà hiệu quả nhất là do chính Mỹ tạo ra, như ở cửa Nhật Lệ, bom từ

trường dày đặc mà ta chưa tìm ra cách phá hết, khi pháo từ Hạm đội 7 từ khơi bắn

vào đã kích nổ nhiều bom. Phát hiện điều này, Tỉnh đội Quảng Bình đã đưa cối

120ly đặt trên bờ bắn xuống kích bom nổ. Các đội công binh 49, 73, 74, 75 và dân

quân các xã Quảng Minh, Quảng Văn, Quảng Lộc, … nêu khẩu hiệu “phá được một

quả bom là diệt một tên Mỹ, dọn được một bãi bom là thắng một trận”, đã sáng tạo

ra nhiều cách phá bom táo bạo. Ban đầu, quân dân tại chỗ mò mẫm nghiên cứu cách

vô hiệu hóa các loại bom này bằng cách sử dụng mọi thứ phương tiện sẵn có như

lưỡi cày, lưỡi cuốc, thỏi sắt, mảnh bom, thùng phuy, … để phá bom. Qua năm 1968,

Bộ Giao thông và Cục Công binh phổ biến nguyên lí phá bom, việc chế ngự các loại

bom này dễ dàng hơn. Tỉnh thành lập các đội rà phá bom từ trường và thủy lôi, lấy

tên là “Đội F73”. Đội được huấn luyện kĩ về kĩ thuật, trang bị dụng cụ phá bom

tương đối hiện đại do ta chế tạo như khung dây BĐ67, PB1/5, PC, AR, … Đội được

chuẩn bị tốt về tư tưởng, mạnh về tổ chức và số lượng đủ đáp ứng yêu cầu nhiệm

vụ. Để rà phá bom từ trường ở những khu vực trọng điểm, công tác tổ chức hiệp

đồng lực lượng rất chặt chẽ, có bộ phận rà phá bom, bộ phận lấp hố bom và sửa

Page 130: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

126

chữa đường cũ, có bộ phận làm đường mới, đường vòng tránh, có bộ phận ngụy

trang và nghi binh, có bộ phận điều chỉnh giao thông và chỉ huy xe vượt trọng điểm.

Đội được bố trí gần trọng điểm, có công sự hầm hào tốt để có thể thường xuyên

bám bến, bám đường, kịp thời ứng cứu, sửa chữa khi địch đánh phá. Với nhiều biện

pháp như vậy, bom từ trường Mỹ dần bị vô hiệu hóa.

Tuy nhiên, từ tháng 5-1972, khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần

thứ hai, gần như toàn bộ tuyến đường thủy ở Quảng Bình bị phong tỏa. Hàng hóa

vào chiến trường chỉ đạt 64% kế hoạch. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Quảng Bình ra

Nghị quyết số 09 xác định “giao thông vận tải trở thành công tác trung tâm đột

xuất. Vô luận trong tình hình thế nào cũng phải tập trung sức lực hoàn thành nhiệm

vụ chi viện cho tiền tuyến” [163, tr. 283]. Để thực hiện, Tỉnh ủy chủ trương “phát

động chiến tranh nhân dân tập trung dồn sức vào mặt trận giao thông vận tải, lấy

chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại giao thông vận tải của địch.

Phải quân sự hóa lực lượng và bộ máy đảm bảo giao thông vận tải từ trên xuống

tận cơ sở” [32, tr. 4]. Để tăng cường thống nhất chỉ đạo giữa địa phương với Đoàn

559 nhằm kịp thời huy động lực lượng, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định thành lập Sư

đoàn hậu cứ 571, cử ông Trần Sự (Chỉ huy trưởng quân sự tỉnh Quảng Bình) tham gia

giữ chức vụ Phó Tư lệnh. Đồng thời, Thường vụ Tỉnh ủy thành lập Ban Cán sự đảm

bảo giao thông vận tải, do ông Trần Sự làm Trưởng ban, ông Phan Khắc Hy (Tư lệnh

Sư đoàn 571) làm Phó ban, bổ sung cho mỗi binh trạm của Sư đoàn 571 một Phó Ty

Giao thông vận tải, đưa các lực lượng vận tải của địa phương kết hợp với các binh

trạm theo hướng quân sự hóa.

Ngoài các đơn vị đảm bảo giao thông chủ lực, “từng địa phương từng huyện,

từng xã chịu trách nhiệm đảm bảo từng đoạn đường, khúc sông trong phạm vi địa

phương mình, tổ chức các đội công binh trong dân quân để canh gác, rà thủy lôi,

phá bom nổ chậm, hướng dẫn luồng lạch, tuyến đường cho tàu xe qua lại thông

suốt, nhanh chóng chuẩn bị sẵn nguyên vật liệu dự trữ để khi cầu đường hư hỏng

kịp thời sửa chữa thông đường thông tuyến” [32, tr. 6]. Tất cả các lực lượng ở

Quảng Bình được huy động cùng lực lượng giao thông, bộ đội công binh, các binh

Page 131: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

127

trạm của Sư đoàn 571 dồn sức sửa cầu, làm ngầm, mở đường vòng tránh, nới rộng

các đoạn đường hẹp để thông tuyến. Nhằm tránh tập trung lực lượng và phương tiện

vào một điểm, các địa phương mở thêm nhiều bến đò ngang. Phà Gianh mở thêm

hai bến từ Hạ Trạch sang Quảng Thuận, Mỹ Trung đi Cồn Nâm. Phà Quán Hàu có

bến Phú Bình - Hữu Thiệp và Vĩnh Tuy - Diên Trường. Bến Roòn di chuyển lên

Lèn Sơn (Quảng Phú - Quảng Trường). Phà Long Đại mở thêm bến Long Đại -

Đồng Tư, … Để thống nhất chỉ huy, đảm bảo kịp thời ứng phó với tình hình, các địa

phương phân công một Phó chủ tịch và một cán bộ huyện đội chuyên trách công tác

đảm bảo giao thông, đồng thời giao cho cơ quan quân sự chịu trách nhiệm theo dõi,

chỉ huy ứng cứu giao thông trên địa bàn mình. Mỗi địa phương tổ chức một đội

vận tải thủy, gồm những dân quân, xã viên có kinh nghiệm sông nước, do cán bộ

quân sự chỉ huy. Xí nghiệp tàu thuyền Đồng Hới chuyển sang sản xuất phà, phao,

thuyền vận tải. Xí nghiệp đánh cá Nhật Lệ chuyển các đội thuyền máy sang làm

nhiệm vụ vận tải.

Để đảm bảo cho Quảng Bình hoàn thành trọng trách nặng nề, Trung ương đã

hỗ trợ tối đa và kịp thời các lực lượng cũng như phương tiện cần thiết. Sát cánh

cùng nhân dân địa phương, ngày 18-5-1972, công binh khu vực hải quân sông

Gianh mở thông luồng Gianh - Hòn La lần thứ nhất, tạo điều kiện chuyển tải

nhanh chóng hàng chi viện từ tàu Trung Quốc đang đậu ở cảng Hòn La. Khi Mỹ

thả thủy lôi MK42, công binh hải quân đã nghiên cứu các thiết bị phóng từ làm vô

hiệu hóa “kẻ hủy diệt” nguy hiểm này. Các trung đoàn công binh 299 cầu đường

và 269 vượt sông đảm bảo hoạt động trên Đường 15, … Các đơn vị thanh niên

xung phong 12/9, 235, 241 của Nghệ An, C235 của Thanh Hóa, Công trường 71D

của Hà Tây, … ngày đêm bám trụ, sát cánh cùng nhân dân Quảng Bình đảm bảo

giao thông được thông suốt.

Như vậy, theo thời gian, hệ thống giao thông chiến lược phục vụ công tác chi

viện chiến trường miền Nam trên đất Quảng Bình ngày càng mở rộng, hình thành

nên mạng lưới thủy bộ hoàn chỉnh, với nhiều cấp độ đường bổ sung cho nhau nhằm

thực hiện mục tiêu cao nhất là luôn đảm bảo chuyển tải sức mạnh từ hậu phương

lớn miền Bắc vào tiền tuyến lớn miền Nam một cách thông suốt.

Page 132: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

128

3.2.2. Vận tải chi viện chiến trường

Do vị thế Quảng Bình án ngữ điểm hiểm yếu nhất của tuyến vận tải chiến

lược chi viện chiến trường miền Nam nên việc vận tải không chỉ là nhiệm vụ của

các đơn vị vận tải chuyên trách mà nó được cấu thành một cách liên hoàn từ lực

lượng chiến đấu bảo vệ kho hàng, bến bãi, bảo vệ tuyến đường đến các lực lượng

xung kích hợp đồng thực hiện công tác vận tải. Đó cũng chính là các lực lượng

đang tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân và là bộ phận cấu thành của chiến tranh

nhân dân.

Đối với công tác chi viện chiến trường miền Nam, Hội nghị liên tịch Bộ Tư

lệnh Quân khu 4 (đầu tháng 5-1965) nhấn mạnh: “Tận dụng khả năng tiềm tàng vận

tải trong nhân dân và các hợp tác xã chuyên nghiệp. Tổ chức lực lượng vận tải

quốc doanh đường thủy. Tăng cường khả năng ô tô cho công tư hợp doanh để kịp

thời xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, đảm bảo nhu cầu vận chuyển. Cần xác định

tính chất quyết định của lực lượng vận tải thô sơ cải tiến trong nhân dân, nhất là

đối với thuyền sông, xe đạp thồ” [145, tr. 139].

Nghị quyết của Tỉnh ủy Quảng Bình (cuối tháng 5-1965) chỉ rõ: “Chi viện cho

miền Nam là nhiệm vụ hàng đầu của tỉnh ta, là trách nhiệm và là vinh dự chung của

cả miền Bắc, hậu phương lớn của tiền tuyến lớn. Nhưng riêng với tỉnh ta, ở vào vị trí

tiếp giáp của chiến trường miền Nam, là địa bàn để chuyển tiếp mọi chi viện của

miền Bắc cho miền Nam, cho nên tỉnh ta có nghĩa vụ không những phải trực tiếp góp

phần của cả miền Bắc cho miền Nam, mà còn có trách nhiệm nặng nề to lớn phải

đảm bảo mọi vận chuyển vào miền Nam được thông suốt, nhanh chóng, an toàn” [13,

tr. 13]. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng đó, sức mạnh toàn dân phải được phát

huy cao độ bởi “giao thông vận tải thời chiến là giao thông vận tải của nhân dân,

phải dựa hẳn vào dân, phát động quần chúng rộng lớn tham gia, trong đó các lực

lượng của ngành giao thông vận tải và các lực lượng vũ trang ở địa phương làm

nòng cốt” [145, tr. 141].

Tháng 10-1965, Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Ban điều hòa vận

tải Trung ương do Phó Thủ tướng Đỗ Mười làm Trưởng ban, chỉ đạo công tác chi

Page 133: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

129

viện tiền tuyến. Ban đảm bảo giao thông tỉnh Quảng Bình do Phó Chủ tịch Ủy ban

Hành chính tỉnh Nguyễn Hữu Duật làm Trưởng ban; Trưởng ty Giao thông vận tải,

Tỉnh đội phó, Phó trưởng ty Công an, Trưởng ty Bưu điện và cán bộ Ủy ban Kế

hoạch, Thương nghiệp, Tỉnh đoàn thanh niên là ủy viên. Từ đây, các ngành có liên

quan chuyển phương thức hoạt động phù hợp, đáp ứng yêu cầu của chiến trường.

Về phương tiện vận chuyển đường bộ, ngoài phương tiện của Bộ Quốc phòng,

các lực lượng giao thông và nhân dân Quảng Bình đảm nhiệm phần lớn công tác

vận chuyển chiến lược. Tháng 10-1965, Bộ Giao thông vận tải chuyển Xí nghiệp

Công tư hợp doanh ô tô thành Công ty ô tô quốc doanh Quảng Bình và tăng cường

cho công ty mỗi năm 20-50 xe các loại. Năm 1971, công ty có 150 xe và qua năm

1972 lên đến 270 xe. Với số lượng xe không ngừng tăng đó, ngoài tiếp nhận hàng từ

các đầu mối ở miền Bắc chuyển về địa phương, Công ty cơ bản đảm nhiệm phần

lớn chuyên chở hàng hóa qua địa bàn. Phối hợp với Quảng Bình, Bộ Giao thông vận

tải còn thành lập Công ty ô tô số 8 chuyên hoạt động từ nam Gianh trở vào, vận

chuyển gạo và hàng hóa vào các cửa khẩu giao cho Đoàn 559. Ở phía nam Quảng

Bình còn có Công ty ô tô Vĩnh Linh tham gia vận chuyển. Ngoài ra, khi có những

chiến dịch đột xuất, Bộ tăng cường thêm công ty vận tải ô tô số 16, 32, … tham gia.

Ban đầu, do bố trí phương tiện không hợp lí nên xe chuyển thường chạy một

mạch từ Trung ương vào giao hàng tại các kho của Đoàn 559. Vì phải chạy trên

quãng đường dài nên khi bị ứ đọng, không giải phóng được, xe phải nằm chờ 2-3

ngày, nhất là khi đường bị ách tắc thì phải nằm chờ hàng tuần. Để nhanh chóng đưa

hàng đến đích, đúng và đủ số lượng, đảm bảo ít bị thiệt hại, nhiều sáng kiến được

đưa ra, trong đó có việc bố trí lại, phân công địa bàn và trách nhiệm cụ thể cho từng

đơn vị vận tải, từng công ty sắp xếp lại tổ chức phù hợp với thời chiến, chia làm

nhiều tổ lái xe, phân tán nhiều nơi, triển khai nhiều hướng. Để đảm bảo chuyên chở

hàng hóa qua các bến phà nhưng vẫn giữ được an toàn, thay vì đưa nguyên xe hàng

qua sông thì dùng thuyền chuyên chở hàng, ô tô chỉ hoạt động theo cung độ giữa hai

bến phà với khẩu hiệu: “Chuẩn bị phía trước, rước hàng phía sau”, “với về sau,

lao mau về phía trước”. Xe của Trung ương chỉ chuyển hàng đến địa phương còn

Page 134: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

130

địa phương đảm bảo việc trung chuyển. Khi gặp ách tắc chỗ nào thì sẽ thả hàng tại

đó, giao cho địa phương bảo quản và tận dụng các phương tiện khác để chuyển đi,

còn xe quay đầu thực hiện chuyến hàng khác. Như vậy, hàng sẽ không bị ứ đọng và

số lần quay đầu xe nhanh hơn.

Đảm bảo cho phương tiện hoạt động có các xưởng sửa chữa. Về Bộ Quốc

phòng có xưởng A1, Bộ Giao thông vận tải có xưởng A2, tỉnh Quảng Bình tổ chức

xưởng A3. Mỗi khi có xe hỏng ở đâu, lực lượng sửa chữa kịp thời được điều động

đến khắc phục. Tỉnh gấp rút mở lớp đào tạo lái xe để bổ sung cho số bị thương

hoặc hi sinh.

Trong một số trường hợp, khi yêu cầu khẩn cấp mà đường sá bị đánh hỏng, ô tô

không di chuyển được, tỉnh huy động nhiều phương tiện thô sơ tham gia vận chuyển,

như xe đạp, xe cải tiến, xe cút kít, … Năm 1968, khi Mỹ “xuống thang”, tập trung

đánh phá vùng “cán soong”, có thời điểm hầu như các tuyến đường ở Quảng Bình

đều bị tắc, xe ô tô không thể hoạt động được. Trước tình hình đó, tỉnh chủ trương mở

tuyến xe đạp thồ để chuyển tải hàng hóa từ nam Gianh vào Đồng Hới và Lệ Thủy.

Ban Chỉ huy đảm bảo giao thông vận tải tổ chức hơn 600 cán bộ, công nhân viên

thành 2 tiểu đoàn xe đạp thồ vận chuyển trên hai tuyến nam Gianh - kho Mỹ Trạch -

Vĩnh Tuy và nam Long Đại - Mỹ Đức. Phương tiện vận tải của chiến thắng Điện

Biên Phủ tưởng như “hết thời” nay lại tiếp tục phát huy hiệu quả. Mỗi chuyến xe thồ

chở trung bình 1 tạ gạo, men theo các đường liên thôn, liên xã trong một thời gian

ngắn chuyển tải vào chiến trường hơn 2.000 tấn gạo.

Về phương tiện vận chuyển đường thủy. Xuất phát từ đặc điểm sông ngòi

Quảng Bình, bên cạnh các tuyến đường bộ, vận chuyển bằng đường thủy được chú

trọng. Trước hết, để san sẻ gánh nặng với tuyến đường bộ và trong điều kiện đường

biển bị phong tỏa, tàu lớn không vào được, tháng 9-1965, tỉnh thành lập Công ty

vận tải biển và Công ty vận tải sông Quảng Bình. Thủy thủ của 2 công ty được

tuyển chọn từ những xã viên hợp tác xã ngư nghiệp và phương tiện vận chuyển là

các thuyền giã đôi được cải hoán lại. Qua năm 1967, do các thuyền giã đôi bị đánh

phá gần hết nên tỉnh sáp nhập hai công ty lại thành Công ty vận tải thủy. Phương

Page 135: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

131

tiện vận tải phải chuyển sang đóng loại thuyền 5-7 tấn, trang bị thêm ca nô để lai

dắt. Phạm vi hoạt động chủ yếu của công ty là từ bắc qua nam sông Gianh và từ

Đồng Hới theo sông Nhật Lệ đến nam Long Đại.

Sát cánh với Công ty vận tải thủy còn có lực lượng vận tải của các hợp tác xã.

Về đường biển có hợp tác xã Cảnh Dương, Hồng Phúc (Quảng Trạch), Hồng

Quang, Hồng Hải (Bố Trạch), Hồng Vận (Đồng Hới). Về đường sông có hợp tác xã

Thanh Châu (Tuyên Hóa), Thái Hòa (Quảng Trạch), Liên Hồng (Đồng Hới), Bình

Minh (Quảng Ninh), Liên Giang (Lệ Thủy). Với tinh thần “chân đạp thủy lôi, đầu

đội bom tọa độ”, xã viên các hợp tác xã này dũng cảm bất chấp bom đạn Mỹ, tham

gia vận chuyển hàng hóa từ các tỉnh phía ngoài vào Quảng Bình rồi chuyển tiếp đi

các nơi trong tỉnh, trong đó nổi bật là sự tham gia của các hợp tác xã Cảnh Dương,

Bình Minh và Hồng Vận. Nhiều xã viên đã hi sinh trong khi làm nhiệm vụ. Từ

tháng 10-1966, khi Mỹ thực hiện chiến dịch Rồng Biển, nhiều thuyền đánh cá bị

bắn hỏng, nhiều ngư dân bị bắt hoặc thương vong, Tỉnh chủ trương tạm dừng đánh

bắt cá trên biển, chuyển ngư dân sang làm nhiệm vụ vận tải. Những thuyền đánh cá

có trọng lượng 3-4 tấn dễ ngụy trang và hoạt động trong các luồng lạch. Hưởng ứng

chủ trương trên, bà con ngư dân đã tích cực tham gia. Toàn tỉnh huy động được 698

thuyền các loại (trong đó: Quảng Trạch: 179 chiếc, Bố Trạch: 326 chiếc, Quảng

Ninh: 102 chiếc, Đồng Hới: 91 chiếc) tham gia vận chuyển hàng hóa từ cảng Gianh

và Đồng Hới lên cửa khẩu Đường 10 và Đường 20.

Về phương thức vận chuyển. Để tiếp nhận và trung chuyển phần lớn hàng hóa

từ miền Bắc vào chiến trường, ở Quảng Bình, Đoàn 559 thành lập Tổng kho R

(765) ở khu vực Hóa Tiến (Minh Hóa); Tổng kho NH ở khu vực Phong Nha - Xuân

Sơn (Bố Trạch) và Tổng kho HC ở khu vực Xuân Bồ (Lệ Thủy). Quảng Bình chia 4

cung đoạn vận chuyển: Từ Đèo Ngang đến phía Bắc sông Gianh, từ phía nam sông

Gianh đến Quán Hàu và Long Đại, từ đây hàng theo Quốc lộ 1A vào Hạ Cờ (Bắc

Vĩnh Linh) và theo Đường 15 chuyển lên Đường 10 và Đường 16.

Page 136: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

132

Ngoài các kho hàng chính, hầu như địa phương nào ở Quảng Bình cũng là địa

điểm cất giấu hàng hóa. Xe chỉ chở hàng vào đến sông Gianh trút xuống bờ Bắc, lực

lượng tại chỗ dùng thuyền chở tiếp qua bờ Nam. Nhiều đêm trên các bến bãi, gạo,

vải, phuy xăng, hòm đạn chất thành đống, dễ trở thành mục tiêu của máy bay Mỹ.

Để nhanh chóng giải tỏa và đảm bảo an toàn cho hàng trước khi trời sáng, Huyện ủy

Quảng Trạch đề ra nguyên tắc quản lí: “Đảng ủy xã là chủ hàng, dân quân là công

nhân bốc xếp, nền nhà dân là kho tàng”. Trong thời chiến gian khổ, thiếu thốn đủ

bề nhưng người dân Quảng Bình luôn giữ được phẩm chất cao quý: “Cho không

lấy, thấy không xin, của công giữ gìn, của rơi trả lại”. Nhờ vậy, hàng chi viện chiến

trường không bao giờ bị thất thoát. Những hành động cách mạng đó không chỉ xuất

hiện trong một xã, một huyện mà nhanh chóng lan rộng thành phong trào quần

chúng trong tỉnh. Ở Bắc sông Gianh có xã Quảng Thuận là nơi đầu mối chuyển tải,

tất cả nhà dân, lùm cây, bờ rào là kho bãi chứa hàng. Các xã như Quảng Phúc,

Quảng Phong, Quảng Trường, Cảnh Hóa, ... cũng tương tự. Bất luận là hàng gì từ

miền Bắc đưa vào (như lương thực, thực phẩm, quân trang, vũ khí, thuốc men, …),

đều được phân tán rải rác trong nhân dân nhưng không hề bị mất mát.

Từ trong việc đảm bảo chi viện chiến trường xuất hiện những tấm gương về sự

hi sinh cao cả. Tháng 7-1966, 10 xe vận tải trên đường qua Võ Ninh (Quảng Ninh)

thì bị máy bay Mỹ đánh chặn khiến đường hỏng nặng. Xe phải sơ tán trong dân.

Đảng ủy xã Võ Ninh huy động nhân dân ngụy trang xe và họp phiên bất thường bàn

cách thông đường. Tư tưởng chỉ đạo mà Đảng ủy xã đưa ra là “xe chưa qua, nhà

không tiếc”. Tối hôm đó, Đảng ủy kêu gọi các gia đình có phương tiện hay vật liệu

gì thì đưa ra cứu đường. Bí thư Đảng ủy Phạm Đình Dương đã tự tay dỡ nhà mình

đầu tiên, lấy vật liệu lót đường. Chị Trần Thị Mai ở thôn Trúc Ly tuy có chồng đi

chiến trường B cũng tự nguyện tháo nhà lấp hố bom. Từ chỗ “đảng viên đi trước,

làng nước theo sau”, nhiều gia đình xung phong hiến nhà cho việc giải phóng mặt

đường. Đảng ủy và Ủy ban xã phải hội ý và chọn ra 37 gia đình để tháo dỡ nhà. Sau

một đêm lao động khẩn trương, đường được thông. Từ Võ Ninh, khẩu hiệu hành

động “xe chưa qua nhà không tiếc” lan nhanh ra Quảng Bình và các địa phương

Page 137: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

133

khác trên miền Bắc. Mẹ Trần Thị Choàng (xã Quảng Thuận) cho dân quân dỡ nhà

lấy vật liệu lót đường. Trên 150 gia đình ở xã Đức Trạch và Hải Trạch (Bố Trạch)

tình nguyện dỡ nhà lấy vật liệu đảm bảo thông xe ở hai đầu cầu Lý Hòa.

Từ tháng 4-1968, Mỹ tập trung đánh phá vùng “cán soong”, khiến có thời

điểm các đầu mối, chân hàng, cửa khẩu và xe bị tắc. Lực lượng thanh niên xung

phong lúng túng trong việc xử lí thông tuyến như ở các ngầm Trà Ang, Chà Là, Ca

Tang, Bãi Dinh, ... Trước tình hình đó, nhiệm vụ đảm bảo giao thông vận tải tăng

cường chi viện tiền tuyến trở thành nhiệm vụ chiến lược của toàn dân và càng trở

nên cấp bách, ngày 12-4-1968, Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình ban hành 12

điều kỉ luật trong việc thực hiện nhiệm vụ giao thông vận tải, trong đó coi “tham

gia công tác giao thông vận tải là nghĩa vụ và trách nhiệm của toàn dân” [192].

Ngày 21-7-1968, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Quân khu

4: “Đảm bảo giao thông vận tải là công tác trung tâm đột xuất lúc này. Trên địa bàn

Quân khu 4, công tác ấy càng trở nên cực kỳ quan trọng. Bằng mọi cách cần phải cố

gắng vượt bậc, tranh thủ từng ngày, từng giờ đảm bảo cho kỳ được giao thông thông

suốt để khỏi ảnh hưởng đến nhiệm vụ của tiền phương” [57, tr. 235]. Ngày 2-8-1968,

Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải ở Khu 4. Ở

các tỉnh có Ban bảo đảm giao thông vận tải. Bộ và các ban này có nhiệm vụ “tổ chức

và chỉ huy toàn bộ công tác bảo đảm bảo giao thông và vận tải thời chiến trong khu

vực Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Vĩnh Linh nhằm bảo đảm vận chuyển tiếp tế

cho tiền tuyến” và “chỉ đạo công tác đánh địch, điều chỉnh các lực lượng phòng

không để hạn chế phá hoại của máy bay địch. Bảo vệ các trọng điểm giao thông vận

tải, bảo vệ tốt các nơi cất giấu phương tiện vận tải, phương tiện vượt sông, các kho

chân hàng, bảo vệ đường sá và cầu cống” [89, tr. 246].

Quán triệt chỉ đạo của Trung ương và Bộ Quốc phòng, Quảng Bình đẩy mạnh

“Tranh thủ thời cơ vận tải” phục vụ chiến trường. Trên các tuyến phía Đông, Tỉnh

ủy thành lập Ban đảm bảo giao thông vận tải từ tỉnh xuống đến cấp xã, chỉ đạo huy

động toàn dân bảo vệ cầu đường, khúc sông, bến cảng thông suốt trong mọi tình

huống, chuyển tải hàng hóa lên cho các binh trạm tiền phương.

Page 138: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

134

Ngoài vận chuyển thường xuyên, quân dân Quảng Bình còn tham gia phục vụ

những chiến dịch đột xuất.

Vận chuyển vũ khí cho chiến trường đông Quảng Trị (1968). Trong cuộc Tổng

tiến công và nổi dậy Xuân 1968, để kịp thời chi viện vũ khí cho các lực lượng đang

tham chiến trên mặt trận phía đông Quảng Trị, việc tiếp tế bằng con đường biển được

đặt ra (bởi đây là con đường ngắn nhất nối Quảng Bình với mặt trận trong bối cảnh

đường bộ vào Vĩnh Linh đã bị bom đạn Mỹ phá hủy). Hợp tác xã Ngư nghiệp Cảnh

Dương (Quảng Trạch) được giao nhiệm vụ này. 72 người được lựa chọn trong số hơn

100 xã viên xung phong. Hội Phụ nữ huy động chị em góp vải may buồm, Thợ mộc

được huy động chế tạo thuyền theo kiểu thuyền đánh cá của Quảng Trị. Sau khi tập

huấn, làm công tác tư tưởng, đoàn vận tải được chia thành 12 thuyền, trọng tải mỗi

thuyền từ 2 đến 3 tấn, có trang bị súng B.40, B.41, AK.

Ngày 26-2-1968, đoàn vào Quang Phú (Lộc Ninh, Quảng Ninh) nhận vũ khí.

Đêm 1-3-1968, 10 thuyền lên đường vào Mũi Si (Vĩnh Thạch - Vĩnh Linh). Dù đã

ngụy trang kĩ nhưng đoàn thuyền vẫn bị máy bay Mỹ phát hiện, kết hợp với tàu

chiến đánh chìm 1 chiếc và làm hỏng 1 chiếc. Đêm 2-3-1968, đoàn thuyền tiếp tục

lên đường. Vừa vượt qua vĩ tuyến 17 đến Cát Sơn (Nam Cửa Tùng), đoàn bị máy

bay Mỹ phát hiện và bao vây. 3 thuyền chạy dạt vào bờ, 1 thuyền bị bắt, 4 thuyền

vượt qua được vòng vây đưa hàng đến nơi quy định. Chuyến đi này dù có những

tổn thất lớn nhưng kịp thời tiếp tế vũ khí cho các lực lượng tham chiến trên chiến

trường đông Quảng Trị thực hiện nhiệm vụ chặn đứt tuyến vận chuyển Cửa Việt -

Đông Hà chi viện tập đoàn cứ điểm Khe Sanh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Chiến dịch VT5 (Vận tải tranh thủ tụt thang, 1968). Nắm bắt thời cơ Mỹ

ngừng bắn phá miền Bắc (11-1968), Trung ương chủ trương mở một chiến dịch vận

tải đặc biệt, nhằm đáp ứng yêu cầu chi viện vật lực cho tiền tuyến, nhất là đối với

chiến trường Trị - Thiên. Theo chỉ đạo của Trung ương, chiến dịch mang mật danh

VT5 được tiến hành trong 3 tháng, mục tiêu đặt ra là phải vận chuyển một khối

lượng hàng hóa lớn bằng một năm trước đây, cụ thể là “kế hoạch VT5 sẽ đưa vào

Quảng Bình 12 vạn tấn hàng để chuyển tiếp vào các chiến trường, phải làm cho tốt,

…” [144, tr. 122].

Page 139: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

135

Để thực hiện kế hoạch VT5, Tỉnh ủy Quảng Bình bổ sung thành viên Ban đảm

bảo giao thông vận tải, đồng thời thành lập 2 trạm tiếp nhận hàng hóa: Trạm Bắc

tiếp nhận hàng vận chuyển vào bắc sông Gianh, cảng Gianh và trạm Nam tiếp nhận

hàng vận chuyển vào Nhật Lệ, Đồng Hới. Từ đây, hàng được chuyển tiếp vào

Đường 16, 20 và Vĩnh Linh. Khu vực tiếp nhận hàng được phân công cụ thể: phía

Đông do lực lượng của tỉnh Quảng Bình đảm nhiệm, phía Tây thuộc trách nhiệm

của các Binh trạm 12, 14, 16.

Ngày 1-11-1968, chiến dịch VT5 bắt đầu. Hàng vạn cán bộ, công nhân viên

chức, học sinh của các cơ quan, xí nghiệp, trường học và nhân dân trong tỉnh tổ

chức thành các đội chuyên trách bốc vác, chuyển tải, sửa chữa và làm mới, mở

rộng kho tàng, bến bãi. Cùng với quân dân Quảng Bình, các lực lượng của Tổng

cục Hậu cần, Đoàn 559 và Quân khu 4 đều đồng loạt ra quân. Cả tỉnh Quảng Bình

như một cỗ máy lớn vận hành hết công suất suốt ngày đêm, bất chấp thời tiết. Kết

thúc chiến dịch, toàn tỉnh huy động được 6 vạn ngày công, hầu hết các loại

phương tiện vận tải, tiếp nhận và chuyển giao được 13,2 vạn tấn hàng hóa, vượt

chỉ tiêu so với Trung ương giao hơn một vạn tấn [124, tr. 144]. Trong thành tích

chung của Quảng Bình nổi lên chiến công của quân dân xã Hải Trạch (Bố Trạch).

Được giao nhiệm vụ lấp sông Lý Hòa làm ngầm cho xe qua, với tinh thần “Xe

chưa qua, nhà không tiếc”, “Đường chưa thông, không tiếc máu tiếc xương”,

Đảng ủy và Ủy ban hành chính xã vận động nhân dân tháo dỡ đình làng, chùa làng

và trên 700 ngôi nhà, lấy 1.200m3 gạch đá và huy động 26 thuyền đánh cá cùng

hàng trăm xã viên, đoàn viên thanh niên vận chuyển. Chưa đầy 1 ngày, quân dân

Hải Trạch, cùng với sự hỗ trợ của công binh và nhân dân các xã lân cận, đã rà phá

bom từ trường, bom nổ chậm, chuyển trên 3.000 gánh bổi (cây nhỏ chặt ngắn),

hơn 2.000 cọc gỗ và 1.500m3 gạch đá lấp sông Lý Hòa, tạo thành ngầm vượt sông

dài 100m, đảm bảo cho xe qua lại. Hoặc tại cảng Gianh, cảng Nhật Lệ và khu vực

kho tiếp nhận của hai trạm Bắc - Nam, hàng hóa bốc dỡ không đủ chỗ chứa, Tỉnh

ủy Quảng Bình vận động nhân dân nhận tạm bảo quản trong một thời gian. Nhân

dân Bố Trạch đã nhận giữ 11.000 tấn hàng. Nhân dân các xã Hiền Ninh, Tân Ninh,

Page 140: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

136

Duy Ninh, Hàm Ninh nhận bảo quản mỗi nơi từ 900 đến 1.000 tấn. Ngoài ra, nhân

dân còn tự giác giúp đỡ giặt giũ, khâu vá bao bì, lấy gạo khô của gia đình đổi lấy

gạo ướt của nhà nước về ăn [164, tr. 213].

* Chiến dịch Hòn La (1972). Ngày 30-3-1972, cuộc tiến công chiến lược, lấy

Quảng Trị làm điểm mở đầu rồi nhanh chóng lan rộng ra Tây Nguyên và Đông Nam

Bộ, bắt đầu. Ngày 1-5-1972, tỉnh Quảng Trị được giải phóng. Yêu cầu chi viện từ

miền Bắc cho vùng mới giải phóng tăng đột biến, vừa để đáp ứng cuộc chiến đấu

chống địch phản công tái chiếm Quảng Trị. Do đó, ở Quảng Bình, từ tháng 5-1972,

cảng Hòn La 1 trở thành nơi tiếp nhận các tàu vận tải lớn chở hàng chi viện Việt

Nam của nhân dân Trung Quốc (tàu Hồng Kì). Từ đây, hàng hóa sẽ được chuyển

thẳng vào Quảng Trị, với cung đường ngắn nhất, trong thời gian nhanh nhất. Kế

hoạch nhận gạo từ tàu Hồng Kì tại Hòn La được lấy tên là “Chiến dịch Hòn La”,

mật hiệu là R1. Tỉnh ủy Quảng Bình xác định nhiệm vụ này “có ý nghĩa chính trị

rất lớn, không những để giải quyết một phần khó khăn của ta trong tình hình mới

mà còn nhằm đảm bảo được uy tín của cả nước ta trong quan hệ hợp đồng với nước

bạn, góp phần phát huy được yêu cầu tranh thủ sự chi viện của các nước anh em

đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của ta” [32, tr. 7]. Tỉnh thành lập

“Ban chỉ đạo R1”, dựa vào hai huyện Quảng Trạch và Bố Trạch huy động dân quân

và công nhân cảng Gianh làm lực lượng chủ lực chốt trên bờ; Ty Giao thông vận tải

bảo đảm phương tiện; Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh bố trí lực lượng phòng không bảo

vệ. Yêu cầu đặt ra là ‘dù khó khăn ác liệt đến mấy, cũng phải tìm đủ mọi biện pháp

giải phóng nhanh các tàu bạn chuyển hàng cho ta. Phải có tổ chức chặt chẽ, kết

hợp đánh địch và tổ chức bốc rót khẩn trương, linh hoạt, hạn chế được tổn thất cho

ta và không trở ngại cho bạn. Phải tổ chức các đội xung kích, cảm tử dám băng qua

thủy lôi, bom đạn quyết tâm giải phóng hàng hóa trên tàu” [32, tr. 7].

Ngày 31-5-1972, chuyến tàu Hồng Kì đầu tiên mang số hiệu 150 vào cảng.

Sau khi tàu thả neo, máy bay và tàu chiến Mỹ đã ập đến bao vây phong tỏa cảng.

1. Cảng Hòn La ở vịnh Hòn Chùa, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Cảng nằm giữa 3

đảo Hòn Cỏ, Hòn Chùa và Hòn La, cách đất liền hơn 1km.

Page 141: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

137

Pháo các loại từ hạm tàu đậu ngoài biển liên tiếp bắn vào tạo hàng rào lửa ngăn

chặn không cho ta tiếp cận. Các đơn vị pháo binh, phòng không quanh cảng đã đánh

trả quyết liệt làm cho máy bay, tàu chiến Mỹ hoạt động hạn chế hơn. Ngày 3-6-

1972, để bịt chặt mọi con đường từ bờ ra, Mỹ đã thả nhiều thủy lôi phong tỏa dày

đặc quanh khu vực tàu 150, chỉ để một lối cho tàu quay ra. Liên lạc giữa tàu và đất

liền bị gián đoạn. Trước tình hình đó, Trạm kiểm soát 305 Hòn La có sáng kiến

dùng thuyền thúng, thuyền nan vượt qua khu vực từ trường của thủy lôi để vận

chuyển hàng vào đất liền. Tỉnh ủy Quảng Bình phát động quân dân dùng thuyền

nan, thuyền thúng thực hiện “Chiến dịch vận chuyển Hòn La thắng Mỹ”. Nhiều đội

thuyền thúng, thuyền nan được nhanh chóng thành lập. Chỉ trong một thời gian

ngắn sử dụng các phương tiện thô sơ, ta đã chuyển được 500 tấn gạo vào bờ.

Phát hiện ta chuyển tải được hàng, Mỹ phong tỏa cảng quyết liệt hơn. Có lúc,

địch cho 5 tàu vào gần cảng, uy hiếp các hoạt động của ta. Ban lãnh đạo cảng lại

thay đổi cách vận chuyển bằng cáp tời hàng trên mặt nước. Một tổ công nhân lên

tàu 150 dỡ và buộc hàng vào một đầu cáp, thả xuống nước. Một tổ khác ở trong bờ

để dỡ và vận chuyển khi hàng tới bờ. Do mức độ đánh phá của máy bay và tàu

chiến Mỹ nên một số công nhân cảng hi sinh. Cán bộ chiến sĩ trạm 305 nghĩ ra cách

dùng một chiếc bao tải buộc vào tời ở phía trước kiện hàng một khoảng cách bằng

đoạn từ mép nước vào hầm trú ẩn của công nhân trên bờ để báo hiệu khi hàng đã

vào tới bờ. Lúc đó, công nhân mới vận động ra bốc hàng vào kho, giảm bớt được sự

nguy hiểm phải chịu đựng phi pháo địch ở nơi không có công sự, hầm hào. Sáng

kiến đơn giản, nhưng có tác dụng hạn chế thương vong rất rõ rệt. Tuy nhiên sau đó,

phát hiện được, Mỹ tập trung đánh phá ác liệt hai thôn Thọ Sơn và Vĩnh Sơn (xã

Quảng Đông) buộc ta phải ngừng phương thức này.

Không chịu bó tay, để vượt qua bãi thủy lôi, phương án thuyền nan được đưa

ra. Cách làm này đòi hỏi một lượng nhân công lớn và tốn khá nhiều thời gian bởi

công suất một chuyến chỉ đạt 1,5-2 tạ gạo, chưa kể người tham gia phải chấp nhận

sự hi sinh bất cứ lúc nào. Từ xã Cảnh Dương, toàn bộ thuyền nan của ngư dân 11

xã vùng biển Quảng Trạch, Bố Trạch được huy động bất chấp sự đánh phá ngày

Page 142: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

138

đêm của máy bay và tàu chiến Mỹ. Kết quả, ta đưa vào bờ được hơn 5.000 tấn gạo

(còn 1.000 tấn tàu đưa trở lại Trung Quốc), trong đó do thuyền nan chuyên chở

1.750 tấn.

Ở chuyến thứ 2 do tàu Hồng Kì 152 thực hiện, để hạn chế tổn thất về người

nhưng vẫn đảm bảo hiệu suất chuyển tải, phương án mới được đưa ra là “thả gạo tự

trôi”. Gạo được đóng thành bao bọc kín bằng 4 lớp vải nhựa để khỏi thấm nước.

Các xã ven biển Quảng Bình và Vĩnh Linh được thông báo để tổ chức lực lượng

trực chiến thu gom khi gạo vào bờ. Nhờ vậy, chỉ trong 2 tuần, 6.000 tấn gạo của tàu

Hồng Kì 152 được thả hết, ta thu được 5.000 tấn.

Phát huy phương án “thả gạo tự trôi”, từ tháng 9-1972 đến tháng 1-1973, các

chuyến tàu tiếp theo (162A, 162B) lần lượt vào cảng Hòn La, trong đó tàu 162A thả

đủ 6.000 tấn, tàu 162B mới thả được 250 tấn thì ngày 16-1-1973, Mỹ chấm dứt ném

bom miền Bắc, toàn bộ số gạo còn lại được ta chuyển vào bờ an toàn.

Tổng cộng, từ tháng 5-1972 đến tháng 1-1973, có 4 tàu Hồng Kì 1 (150, 152,

162A, 162B) cập cảng Hòn La. Ta tiếp nhận hơn 21.000 tấn gạo (tàu 150, 152,

162A mỗi tàu 5.000 tấn và tàu 162B 6.000 tấn), góp phần kịp thời chi viện các lực

lượng trên chiến trường Quảng Trị giữ vững vùng giải phóng trước sức phản kích

quyết liệt của Mỹ và quân đội Việt Nam cộng hòa. Cái giá của từng hạt gạo đến

chiến trường phải trả bằng biết bao công sức và máu. Trong chiến dịch này, 10 cán

bộ, chiến sĩ của Tiểu đoàn 45, đại đội 363, 365, dân quân xã Cảnh Dương, Nhân

Trạch đã ngã xuống và hàng trăm ngư dân, công nhân, chiến sĩ khác bị thương.

Cùng với “Kế hoạch R1”, ta mở thêm tuyến thứ hai với tên gọi “Kế hoạch

R2” vận chuyển bằng ô tô từ Hà Tĩnh vào Bắc Gianh bằng đường 22, bốc xuống

Quảng Trường, Ba Đồn để chuyển tải hàng qua Nam Gianh.

1. Nhiều tài liệu (Lịch sử Đảng bộ Quảng Bình, Quảng Bình kháng chiến chống Mỹ cứu

nước, Lịch sử Bộ đội biên phòng Quảng Bình, … ) ghi nhận có 5 tàu Hồng Kì đến cảng

Hòn La (thêm tàu 135) và số gạo ta tiếp nhận được cũng là 21.000 tấn. Tuy nhiên, theo các

tác giả cuốn Lịch sử Giao thông vận tải Quảng Bình, chỉ có 4 tàu Hồng Kì, với trọng tải

6.000 tấn/1 chiếc vào Hòn La. Ngoài 1.000 tấn do tàu phải đem trở về, 2.000 tấn bị mất

trên biển do phương án thả trôi, số gạo còn lại 21.000 tấn là hợp lí.

Page 143: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

139

Tuyến thứ ba (“Kế hoạch R3”) vận chuyển bằng phương thức thả trôi theo

đường sông Rào Trổ từ xã Kỳ Thượng (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) về Minh Cầm (Tuyên

Hóa). Tuyến này vận chuyển được 700 tấn gạo.

Tuyến thứ tư (“Kế hoạch R4”), do ngành đường sắt phụ trách, sử dụng đường

goòng, vận chuyển hàng từ ga Chu Lễ (Hà Tĩnh) vào ga Đò Vàng và kéo vào tận ga

Lệ Sơn. Từ đây, hàng được ô tô vận chuyển về ga Minh Lệ và tiếp tục vận tải bằng

đường sông lên Khương Hà bàn giao cho Binh trạm 14 (Đoàn 559) tiếp nhận

chuyển tiếp vào chiến trường. Bất chấp sự đánh phá của máy bay Mỹ, quân dân các

địa phương có đường sắt đi qua của Tuyên Hóa nêu cao khẩu hiệu “nghiêng lưng

cho đường goòng dựa”, sát cánh cùng công nhân tập trung cứu hàng, sửa chữa

đường sau mỗi lần bị đánh phá, góp phần đưa 1.500 tấn gạo và hàng nghìn tấn hàng

quân sự vào nam Gianh.

Ngày 22-10-1972, Mỹ ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra. Và cũng như

năm 1968, khối lượng bom đạn lại được “tập trung” về mảnh đất hẹp Quảng Bình.

Do đó, một lần nữa, mặt trận giao thông vận tải được tiếp tục xác định là “nhiệm vụ

trung tâm số một” của Đảng bộ và nhân dân Quảng Bình. Tỉnh chủ trương tập trung

cao nhất sự lãnh - chỉ đạo của các cấp ủy Đảng cho nhiệm vụ đảm bảo giao thông

và phát động toàn dân thực hiện khẩu hiệu: “Đường có tắc nhưng hàng không tắc”.

Trợ lực cho Quảng Bình, Trung ương chi viện 9.000 thanh niên xung phong của

tỉnh Thái Bình và thành phố Hải Phòng. Tỉnh thành lập Công trường kết nghĩa 1A,

1B để đảm bảo giao thông đoạn Long Đại - Đá Mài - Xuân Sơn. Để phá thế “độc

tuyến”, lực lượng địa phương cùng Sư đoàn 571 mở đường 15C, cùng Công binh

Quân khu 4 mở các tuyến ngang Kỳ Lạc - Troóc, Ba Rền - Bến Tiêm - Đường 10.

Các lực lượng công binh của Sư đoàn 571, Quân khu 4 và địa phương tập trung sửa

chữa cầu hỏng, sản xuất cầu phụ, cầu vượt ngầm, cầu vẹt chống lầy trên các tuyến

đường bộ, … Nhờ đó, những điểm ách tắc do bom đạn Mỹ nhanh chóng được khắc

phục, dòng hàng hóa chi viện không ngừng được vận chuyển về phía trước, giúp

các lực lượng trên chiến trường Quảng Trị giữ vững vùng giải phóng, góp phần

cùng cả nước buộc Mỹ phải đi đến chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình (1-1973).

Page 144: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

140

Tiểu kết

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp, xuyên suốt cuộc chiến

đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ (1965-1973), Quảng Bình đã nhanh chóng

thực hiện nhiệm vụ phòng không nhân dân, đảm bảo vừa sản xuất vừa chiến đấu và

phục vụ chiến đấu và đảm bảo giao thông vận tải chi viện chiến trường miền Nam.

Để chuẩn bị thực lực cho chiến đấu đánh trả chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,

Đảng bộ và chính quyền tỉnh Quảng Bình đã tập trung xây dựng lực lượng vũ trang

địa phương gồm hai lực lượng bộ đội địa phương và dân quân tự vệ với sự hợp

đồng chặt chẽ của bộ đội chủ lực đóng quân trên địa bàn để hình thành thế trận

chiến tranh nhân dân. Trong chiến đấu, quân dân Quảng Bình, từ dân quân đến bộ

đội địa phương, bộ đội chủ lực, lập nhiều thành tích xuất sắc bắn rơi, bắn cháy máy

bay và tàu chiến Mỹ, bắt nhiều toán biệt kích.

Nét nổi bật của hình thái chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình chính là thế trận

toàn dân với sự tham gia của bộ đội chủ lực làm nhiệm vụ trên địa bàn, các đơn vị

chủ lực trên đường hành tiến ra chiến trường tham gia vào đội hình chiến đấu, các

lực lượng bộ đội địa phương, các lực lượng bán vũ trang nhưng làm nhiệm vụ

thường trực chiến đấu, các đơn vị dân quân, tự vệ vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa

làm nhiệm vụ phòng tránh cho nhân dân, các lực lượng chuyên trách giao thông,

thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến làm nhiệm vụ chi viện chiến trường tạo

nên mặt trận phối hợp của chiến tranh nhân dân, các tầng lớp nhân dân làm nhiệm

vụ đảm bảo hậu cần tại chỗ cho chiến tranh nhân dân và sẵn sàng tham gia chiến

đấu khi cần thiết. Đó chính là những thành tố hội tụ và làm nên sức mạnh cho thế

trận chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình cùng cả nước đánh thắng chiến tranh phá

hoại đế quốc Mỹ.

Trong phục vụ chiến đấu, quân dân Quảng Bình từng bước vượt qua mặt trận

nóng bỏng nhất là giao thông vận tải để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đảm bảo sự

thông suốt của các tuyến đường chiến lược, đưa hàng triệu tấn hàng hóa chi viện

cách mạng miền Nam. Tuyến đầu của miền Bắc đứng vững đã giúp cho Quảng Bình

làm tròn nhiệm vụ hậu phương, có những đóng góp lớn về sức người, sức của cho

chiến trường Trị - Thiên và cách mạng Lào.

Page 145: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

141

Chương 4

ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN Ở QUẢNG BÌNH

NHỮNG NĂM 1965-1973

4.1. Đặc điểm

4.1.1. Đối đầu với cuộc chiến tranh phá hoại kéo dài, liên tục và rất khốc

liệt

Trong lịch sử chiến tranh thế giới, nhân loại chưa từng chứng kiến một cuộc

chiến tranh phá hoại đơn phương và tổng lực như chiến tranh phá hoại của đế quốc

Mỹ đối với miền Bắc Việt Nam nói chung và Quảng Bình nói riêng. Mỹ đã huy động

toàn bộ bộ máy chiến tranh khổng lồ của Mỹ, các nước đồng minh và bộ máy chính

quyền, quân đội Việt Nam Cộng hòa để tiến hành chiến tranh phá hoại trên cả 3

phương diện chính trị, kinh tế và quân sự nhằm phá hủy toàn bộ nguồn lực tinh thần

và vật chất của miền Bắc, cắt đứt mọi khả năng chi viện của miền Bắc cho cách mạng

miền Nam, mưu toan giành lại thế chủ động trên chiến trường miền Nam. Mỹ xem

Quảng Bình là “chốt chặn” trên hành lang chi viện chiến trường nên cuộc chiến tranh

phá hoại ở đây diễn ra khốc liệt chưa từng thấy.

Khi nói đến phương thức chiến tranh bằng đường không, thế giới thường nhắc

đến cuộc chiến tranh bằng đường không lớn nhất của Đức đối với Anh trong Thế

chiến thứ II, kéo dài từ ngày 10-7 đến ngày 31-10-1940. Đó là cuộc chiến giữa hai

nước có trình độ phát triển và lực lượng không quân tương đương nhau. Không

quân Đức không áp đảo được không quân Anh. Đức có 2.550 máy bay trong khi

con số này của Anh là 1.963 chiếc [231]. Không quân Anh chiến đấu ngay trên bầu

trời của mình trong khi máy bay Đức phải trải qua chặng đường dài vượt biển

Manche trước khi đánh phá các mục tiêu trên đất Anh, với thời gian hoạt động còn

lại trên không không dài. Thời điểm đó, tầm hoạt động và lượng bom máy bay Đức

mang theo còn rất hạn chế so với Mỹ sau này, thế nhưng, quân Đức đã gây nên

Page 146: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

142

những tổn thất kinh hoàng cho quân Anh, phải một thời gian sau đó, quân Anh mới

bổ sung lại lực lượng để tổ chức phản công.

25 năm sau (1940-1965), thế giới lại chứng kiến cuộc chiến tranh phá hoại của

Mỹ đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng đường không, đường biển quy mô

nhất và kéo dài nhất cho đến thời điểm đó, với ưu thế vượt trội về tiềm lực cả trên

không, trên biển của phía gây chiến, lại có sự kết hợp giữa tấn công quân sự tổng

lực với chiến tranh tâm lí và phá hoại bằng hoạt động biệt kích, với nhiều âm mưu,

thủ đoạn, biến hóa khôn lường.

Các hình thức tiến hành chiến tranh phá hoại đã được đế quốc Mỹ thực hiện ở

hầu hết các địa phương trên miền Bắc nhưng do vị trí Quảng Bình có ý nghĩa chiến

lược quan trọng, quyết định thắng lợi của công cuộc chi viện chiến trường miền Nam

nên mức độ khốc liệt của chiến tranh phá hoại cao hơn các địa phương khác.

Về thời gian, cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ diễn ra liên tục từ năm 1965

đến 1973, trong đó tập trung ác liệt nhất là các năm 1965-1968 và 1972. Từ ngày 5-

8-1964, Quảng Bình đã là một trong 5 mục tiêu (cùng Vinh - Bến Thủy, Lạch

Trường và thị xã Hòn Gai) đánh phá của không quân Mỹ. Từ ngày 7-2-1965, trong

chiến dịch “Mũi lao lửa”, thị xã Đồng Hới là một trong hai mục tiêu (cùng với đảo

Cồn Cỏ). Tiếp theo, từ ngày 2-3-1965 – 6-1965, Mỹ triển khai chiến dịch “Sấm

Rền”, Quảng Bình (cùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Vĩnh Linh) là vùng bị

tập trung đánh phá. Đến khi “xuống thang” (1-4-1968 – 1-11-1968), Mỹ tập trung

đánh phá từ vĩ tuyến 20 trở vào, Quảng Bình lại là một trọng điểm. Như vậy, trong

cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, Quảng Bình (và Vĩnh Linh) là địa

phương bị đánh phá đầu tiên và kết thúc sau cùng.

Từ ngày 1-11-1968, tuy Nhà Trắng buộc phải chấm dứt chiến tranh phá hoại

miền Bắc nhưng trên địa bàn Quảng Bình, máy bay Mỹ vẫn thường xuyên bay trinh

sát vũ trang, bắn phá các trọng điểm trên đường Trường Sơn và ngoài biển, 2-3 tàu

chiến thường xuyên hoạt động. Như thế, trạng thái hòa bình đan xen chiến tranh vẫn

tiếp diễn. Chiến tranh vẫn đe dọa từng ngày, từng giờ trên không và trên biển.

Page 147: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

143

Có thể nói, đối với Quảng Bình, không có sự gián đoạn giữa hai giai đoạn của

chiến tranh phá hoại (1965-1968 và 1972) như các địa phương phía Bắc (kể cả các

địa phương trong địa bàn Bắc Trung bộ như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) mà

diễn ra liên tục, không ngưng nghỉ, nối thông từ trước năm 1965 đến năm 1973.

Ngày 5-4-1972, tàu chiến Mỹ bắn phá trên 500 quả đạn pháo dọc bờ biển

Quảng Bình, mở đầu cho cuộc chiến phá hoại miền Bắc lần thứ hai. Qua đầu tháng

5-1972, đế quốc Mỹ phong tỏa toàn diện đối với Quảng Bình. Đến khi thất bại trong

cuộc tập kích chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương khác, ngày

30-12-1972, Mỹ phải tuyên bố dừng mọi hoạt động chống phá Việt Nam Dân chủ

cộng hòa ở phía bắc vĩ tuyến 20 và đến ngày 15-1-1973 thì chấm dứt hẳn. Các tỉnh

khu 4, trong đó có Quảng Bình, lại trở thành “túi bom, chảo lửa”, hứng chịu mức

độ đánh phá dữ dội nhất của Mỹ. Cũng như trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất,

Quảng Bình là nơi đầu tiên bị đánh và kết thúc sau cùng. Rộng ra là trong khoảng

thời gian 1965-1973, Quảng Bình luôn là mục tiêu trọng điểm trong bất cứ chiến

dịch quân sự nào của Mỹ; Quảng Bình là nơi đầu tiên và kết thúc cuối cùng của

cuộc chiến tranh phá hoại. Thời gian bị đánh phá dài hơn bất cứ địa phương nào

trên miền Bắc.

Về cường độ và tần suất đánh phá, có thể nói, Quảng Bình là địa bàn hứng

chịu chiến tranh phá hoại khốc liệt nhất nhìn từ phương thức, cường độ và tần suất

đánh phá của đế quốc Mỹ.

Trước hết là không quân Mỹ huy động hầu hết những loại máy bay mà không

lực Hoa Kỳ có cho đến thời điểm đó, với hàng nghìn máy bay tối tân thuộc 16 loại,

hơn 60 kiểu khác nhau, từ chiến đấu như AD6, F.4, F.8, F.105, AC.130, F.111A,

B.52, … đến trinh sát như L.19, máy bay không người lái QH50C, OV10, máy bay

trinh sát điện tử EB66, RF4C, SR71, U2, … Thời điểm cao nhất, Mỹ huy động

31,5% lực lượng máy bay chiến thuật, 37,5% máy bay chiến lược B.52, 42,8% tàu

sân bay, trong đó không quân Mỹ sử dụng hơn 54.000 lần chiếc máy bay (có 3.280

lần chiếc B.52) [184]. Nếu như trong Chiến tranh thế giới thứ 2 (1939-1945), máy

bay B.17 mới đạt tốc độ 400km/h và bay ở độ cao 4.000m, đến cuộc chiến tranh

Page 148: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

144

Triều Tiên (1950-1953), máy bay F.86 tốc độ gấp đôi B.17 và bay cao 5.000m

nhưng chỉ hơn 10 năm sau, khi chiến tranh phá hoại miền Bắc, máy bay F.4 có tốc

độ gấp 3 lần F.86 (2.400km/h) và độ cao gấp 4 lần (20km) [219, tr. 340-341]. Theo

thời gian, vũ khí và phương tiện chiến tranh được cải tiến, hiện đại hóa nhanh

chóng với tốc độ nhanh, độ chính xác cao, sức công phá lớn, độ sát thương cao, do

đó hiệu quả đánh phá ngày càng cao, như khi phía Việt Nam Dân chủ cộng hòa

đưa vào sử dụng tên lửa SAM, lập tức Mỹ trang bị tên lửa không đối đất Shrike để

phá hủy ra-đa hoặc để tránh hỏa lực mặt đất, tăng độ chính xác đánh phá mục tiêu,

Mỹ sử dụng bom dẫn bằng tia laze, … Với cải tiến đó, không chỉ cầu cống mà

những mục tiêu rất nhỏ, như súng 12,7ly, máy bay Mỹ cũng phát hiện ra để tấn

công chính xác.

Hầu hết các phương tiện chiến tranh này được triển khai đầu tiên trên địa

bàn Quảng Bình trước khi mở rộng áp dụng ra toàn miền Bắc. Đặc biệt, Quảng

Bình còn là nơi đầu tiên Mỹ sử dụng các phương tiện chiến tranh huỷ diệt có

mức độ tàn phá khủng khiếp như máy bay F.111A “cánh cụp cánh xòe” và đặc

biệt là “siêu pháo đài bay” B.52 (12-4-1966), sử dụng khí tài laze dẫn đường

cho máy bay ném bom, đưa máy bay trinh sát L.19, khí tài thu thập thông tin

“cây nhiệt đới” vốn chỉ sử dụng trong chiến trường miền Nam ra áp dụng trên

địa bàn Quảng Bình. Hiện tượng này không xuất hiện hoặc xuất hiện không đáng

kể ở các địa bàn khác trên miền Bắc.

Do vị trí ở tuyến đầu miền Bắc, giáp giới miền Nam nên Quảng Bình còn

nằm trong tầm khống chế đánh phá của các căn cứ không quân lớn của Mỹ và

Việt Nam cộng hòa như Phú Bài và Đà Nẵng chỉ cách Đồng Hới trong bán kính

lần lượt 150-250km. Xuất phát từ 2 căn cứ này, nhiều lần không lực Việt Nam

cộng hòa tấn công các mục tiêu ở Quảng Bình. Chính yếu tố này cũng đặt nhân

dân Quảng Bình vào tâm thế sẵn sàng đối phó với khả năng đổ bộ đường không

của quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Khả năng này ở địa bàn Quảng Bình,

Vĩnh Linh cao nhất so với cả nước.

Page 149: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

145

Về hải quân, tùy từng thời điểm, thường trực chiến đấu trên vịnh Bắc Bộ luôn

có trên 20 tàu các loại, trong đó có 2-3 tàu sân bay, chiếm xấp xỉ 50% Hạm đội 7;

thời điểm cao nhất (8-1972) có trên 50 chiếc, 4-5 tàu sân bay (chiếm 60% Hạm đội

7) [37, tr. 510-511]. Tàu chiến Mỹ sử dụng pháo lớn (cỡ nòng 187-406 ly) bắn hơn

500.000 quả đạn vào các trận địa pháo bờ biển, trọng điểm giao thông đường bộ

(chủ yếu là Quốc lộ 1) và cả khu dân cư. Thường trực trên vùng biển Quảng Bình

có 2-3 tốp tàu chiến các loại, đặc biệt có Tuần dương hạm USS New Jersey là một

trong năm thiết giáp hạm lớn nhất của Mỹ lúc bấy giờ. Do địa thế hẹp bề ngang của

Quảng Bình, có nơi Quốc lộ 1 chạy sát biển như đèo Lý Hòa, Mỹ chỉ cần sử dụng

một tàu bắn cầm canh là đủ khống chế tuyến vận tải quan trọng nhất này. Như vậy,

do địa bàn hẹp (chiều ngang từ biển đến biên giới Việt Lào bình quân 70km, nơi

hẹp nhất dưới 50km), chỉ kéo dài trên 1 vĩ độ (từ 17o05 đến 18o05) nên pháo hạm

của Hải quân Mỹ có đủ tầm khống chế toàn bộ địa bàn Quảng Bình. Đây là điểm

khác biệt của địa bàn Quảng Bình so với các địa phương từ Hà Tĩnh trở ra.

Không phận trên biển Quảng Bình còn là “khu chờ”, nơi tập trung đội hình

của các phi đội máy bay hải quân khi xuất kích, bởi Mỹ xem đây là khu vực an

toàn, cách xa tầm hoạt động của lực lượng không quân Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa, có thể nhanh chóng đột nhập đánh phá nhưng cũng thuận tiện và nhanh chóng

rút về Hạm đội 7 và các căn cứ ở khu vực Trị Thiên, Đà Nẵng.

Về phương thức đánh phá, nhìn chung khi tiến hành chiến tranh phá hoại, Mỹ

nhằm vào 4 loại mục tiêu (quân sự, giao thông, dân cư, kinh tế), trong đó do tầm

chiến lược quan trọng của Quảng Bình, giao thông vận tải là mục tiêu số 1, với

40.149 lần bị đánh phá (trong khi quân sự: 5.252 lần, dân cư: 22.379 lần, kinh tế:

4.015 lần) [164, tr. 380]. Mục đích đánh từ chỗ ngăn chặn giao thông đến tiến hành

ngăn chặn và phong tỏa quy mô toàn diện. Phương thức tác chiến từ leo thang từng

bước trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất chuyển sang đánh ồ ạt trong thời gian

ngắn ở cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai. Từ tháng 2 đến tháng 5-1965, Mỹ chủ

yếu đánh kiểu “trả đũa” tương ứng với mỗi khi ta tấn công ở miền Nam, đồng thời

để thăm dò phản ứng của ta và dư luận thế giới. Từ tháng 6-1965, Mỹ mới thực hiện

Page 150: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

146

mở rộng mục tiêu, đánh phá cùng lúc nhiều nơi. Hình thức đánh phá từ không quân

sang kết hợp không quân với hải quân, bởi đến tận tháng 10-1966, với chiến dịch

Rồng Biển, hải quân Mỹ mới chính thức tham chiến, đánh phá đất liền và phong tỏa

bờ biển. Tuy nhiên, đến cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai, Mỹ kết hợp cùng lúc

không quân và hải quân đánh phá ồ ạt. Chỉ trong 2 ngày (5 và 6-4-1972), máy bay

Mỹ đánh 49 điểm toàn tỉnh. Từ đêm 5 đến 11-4, tàu chiến Mỹ liên tục pháo kích

vào 103 điểm. Ngày 25-4-1972, máy bay và tàu chiến Mỹ đánh trên 500 trận vào

360 mục tiêu trên khắp Quảng Bình. Ngày 9-5, chúng thả thủy lôi phong tỏa cửa

Nhật Lệ và trong tháng 6-1972, Mỹ hoàn thành phong tỏa 43 trọng điểm ở Roòn,

Quán Hàu, Xuân Sơn, Long Đại và ven biển.

Với lực lượng lớn không quân, hải quân được huy động cùng với nhiều thủ

đoạn tác chiến, trong 8 năm, Mỹ đã ném bom Quảng Bình 71.825 lần (có 34.796 lần

đánh đêm), trung bình 748 lần/tháng, 25 lần/ngày, trong đó có 736 lần đánh phá

bằng B.52 với 2.427 lần chiếc, 127 lần bằng F.111A. Tàu chiến Mỹ thực hiện 2.554

lần bắn phá (có 1.524 lần đánh đêm) bằng các loại đại bác từ 76ly đến 406ly. Tổng

cộng, trên mảnh đất hẹp Quảng Bình, Mỹ đã trút xuống 1.557.417 quả bom và đạn

pháo các loại, trung bình 1 km2 chịu 158 quả bom, 16 quả đạn pháo, 3 loạt rốc-két;

1 người dân chịu 574kg bom, 10 người dân chịu 3,5 quả đạn pháo lớn 1. Do quy mô

đánh phá đó, hầu như không có địa phương nào ở Quảng Bình không phải hứng

chịu bom đạn Mỹ, với những hậu quả vô cùng tàn khốc. Toàn bộ 133 xã, 459 thôn

xóm bị đánh phá; 1 thị xã, 1 thị trấn, 31 xã và 252 thôn xóm bị hủy diệt, 93.712 nhà

dân bị phá hủy, 5.394ha đất trồng trọt bị hoang hóa, 13.786 người bị chết, 22.456

người bị thương [164, tr. 380].

Kết hợp với không quân và hải quân, Mỹ còn dùng pháo 175ly - “vua chiến

trường” từ Nam vĩ tuyến 17 bắn ra đến tận nam Quảng Bình đồng thời thực hiện

cuộc chiến bí mật bằng gián điệp, biệt kích nhằm thu thập tin tức, phát hiện mục

tiêu đánh phá và cuộc chiến tranh tâm lí nhằm lung lạc ý chí kháng chiến của nhân

1. Mật độ bom đạn Mỹ ở Quảng Bình chỉ xếp sau Vĩnh Linh - nơi trung bình mỗi người

dân chịu 7,8 tấn bom và 10 quả đạn pháo.

Page 151: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

147

dân ta. Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa coi chiến tranh tâm lí, hoạt động

gián điệp, biệt kích là một mặt trận trên bộ nhằm phối hợp với mặt trận trên không

và trên biển để tạo sức ép tổng lực lên miền Bắc, tập trung cao nhất vào địa bàn

Quảng Bình. Chính vì vậy, từ sau năm 1954 đến khi kết thúc chiến tranh, đặc biệt là

trong những năm 1960-1968, chúng đã tung vào địa bàn Quảng Bình 41 toán biệt

kích trên bộ và người nhái trên biển (nhiều nhất trong các tỉnh ở miền Bắc).

Điểm khác biệt trong phương thức đánh phá của đế quốc Mỹ đối với Quảng

Bình là cách duy trì tình trạng chiến tranh liên tục. Nếu ở các địa phương khác trên

miền Bắc, Mỹ có thể có thời gian cao điểm đánh phá xen lẫn thời gian ngưng nghỉ

thì ở Quảng Bình chúng chỉ thay đổi tần suất chứ không thay đổi mục tiêu đánh phá

thường xuyên. Chính điều này khiến địa bàn Quảng Bình luôn luôn ở trong tình

trạng chiến tranh cường độ cao, gây nên sự căng thẳng cả về tâm lí và thế trận.

Có thể nói, không chỉ đơn thuần là cuộc chiến tranh phá hoại mà Mỹ đã tiến

hành một cuộc chiến tranh tổng lực thực sự. Rõ ràng, Quảng Bình là nơi “tụ hội”

những mục tiêu, phương thức tiến hành, những lực lượng không quân và hải quân,

những loại vũ khí hiện đại nhất của Mỹ nhằm thực hiện cuộc chiến tranh ngăn chặn

và phong tỏa nhằm hủy diệt và cắt đứt đầu mối của những tuyến đường chiến lược

chi viện cách mạng miền Nam. Do đó, thử thách của lịch sử đặt lên vai quân dân

Quảng Bình một trọng trách hết sức nặng nề để vừa đứng vững làm trọn nhiệm vụ

của hậu phương, vừa phải hoàn thành công tác đảm bảo vận chuyển chiến lược chi

viện các chiến trường.

4.1.2. Được triển khai trên địa bàn toàn tỉnh, với sự kết hợp chặt chẽ của

nhiều lực lượng

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, là vùng tạm chiếm nhưng ở

Quảng Bình chiến sự diễn ra chủ yếu ở dải đồng bằng ven biển, trong đó tập trung

dọc Quốc lộ 1, còn vùng trung du và miền núi rộng lớn phía Tây hoàn toàn do ta

làm chủ. Tuy nhiên, bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế

quốc Mỹ, dù là hậu phương nhưng do vị trí chiến lược của Quảng Bình đối với sự

nghiệp thống nhất đất nước nên các lực lượng hải lục không quân Mỹ tập trung

Page 152: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

148

đánh phá ác liệt khiến trên mảnh đất hẹp này, hầu như nơi nào cũng là trọng điểm,

là “tọa độ lửa”. Từ đồng ruộng đến nhà máy, xí nghiệp; từ miền biển đến miền núi;

từ cảng Gianh, Nhật Lệ và đảo Hòn La đến các cửa khẩu vượt Trường Sơn; từ nông

thôn, đồng bằng đến thị xã, thị trấn; từ Đèo Ngang đến Dốc Sỏi (Lệ Thủy); từ

những cung đường, cầu cống, tuyến sông, bến phà, cảng biển, đến khu dân cư, trung

tâm chính trị, kinh tế, công trình quân sự, doanh trại quân đội, kho tàng, … ở đâu

cũng có thể là mục tiêu đánh phá của biệt kích, máy bay, tàu chiến Mỹ nhưng đồng

thời đó cũng là trận địa để ta đánh trả.

Nét nổi bật và cũng là đặc thù của địa bàn Quảng Bình là địa hình không phân

vùng rõ rệt. Nếu các địa phương từ Hà Tĩnh trở ra có sự phân lập giữa vùng đồi núi,

đồng bằng và ven biển, lại có địa phương chủ yếu là vùng núi, ngược lại có địa

phương phần lớn là đồng bằng thì ở Quảng Bình, địa hình bị chia cắt mạnh bởi

những con sông từ Trường Sơn đổ ra biển cắt ngang địa hình và nhiều hãy núi chạy

ra sát biển tạo ra sự đa dạng địa hình xen kẽ nhau. Trên không gian đa dạng địa hình

đó, việc triển khai thế trận chiến tranh nhân dân hết sức phong phú, linh hoạt, nhằm

phát huy cao nhất lợi thế địa hình, tạo thuận lợi cho ta, gây khó khăn cho địch.

Chính khai thác yếu tố này mà chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình có đánh địch

mọi nơi, mọi lúc, mọi địa hình, mọi lực lượng và không phân định chiến tuyến, tạo

sức mạnh từ sự bất ngờ.

Làm nòng cốt cho thế trận quân sự là Sư đoàn 325 và một phần Sư đoàn 341

đứng chân trên địa bàn. Để phối hợp với bộ đội chủ lực của Trung ương và Quân khu

4 và sẵn sàng thay thế nhiệm vụ của các đơn vị chủ lực khi các đơn vị này được điều

động tăng cường cho chiến trường miền Nam, tỉnh Quảng Bình đã tăng cường lực

lượng vũ trang địa phương. Ở cấp tỉnh, từ chỗ chỉ có một tiểu đoàn bộ đội địa phương

(Tiểu đoàn 45) trước chiến tranh, đến năm 1972 đã phát triển lên thành một trung

đoàn (Trung đoàn 185). Ở cấp huyện, từ chỗ mỗi huyện xây dựng một đại đội du

kích, cơ động trên địa bàn khi có chiến sự (năm 1962), chỉ sau một thời gian ngắn

tiến lên xây dựng thành đại đội bộ đội địa phương. Huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố

Trạch và Quảng Trạch có 1 đại đội, Minh Hóa và Thị xã Đồng Hới có 1 trung đội.

Page 153: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

149

Có thể nói Quảng Bình là nơi tập trung đầy đủ các lực lượng hải, lục, không

quân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Về pháo binh, có của tỉnh, quân khu và các

sư đoàn chủ lực đóng trên địa bàn. Về lực lượng phòng không (pháo cao xạ, tên lửa,

ra-đa,…), từ chỗ mới có Tiểu đoàn 9 cao xạ kết hợp súng bộ binh lúc bắt đầu chiến

tranh đến năm 1972 phát triển lên thành Bộ Tư lệnh 375 (quy mô trên một sư đoàn

phòng không) được bố trí khắp nơi trong tỉnh, vừa bề rộng lại có chiều sâu, tập

trung có trọng điểm, kết hợp cùng hỏa lực tại chỗ tạo nên lưới lửa tầm thấp, tầm cao

dày đặc, có thể đánh trả máy bay Mỹ vào bất cứ lúc nào, ở bất cứ mục tiêu nào.

Cùng với trạm ra-đa Lộc Ninh ở sân bay Đồng Hới và trạm 505 ở Đèo Ngang, các

đài quan sát của bộ đội địa phương và của tất cả các địa phương trong tỉnh đảm bảo

phát hiện máy bay, tàu chiến Mỹ từ xa, để kịp thời báo động cho nhân dân ẩn tránh

cũng như chỉ dẫn mục tiêu chính xác cho các lực lượng phòng không đánh trả. Về

hải quân, các tàu chiến thuộc căn cứ sông Gianh dù số lượng ít, hỏa lực yếu nhưng

đã tích cực tham gia đánh địch bảo vệ vùng trời và vùng biển Quảng Bình vừa làm

công tác chi viện cho đảo Cồn Cỏ khi có yêu cầu. Về không quân, khi sân bay Đồng

Hới bị phá hủy, quân dân Quảng Bình phối hợp với lực lượng công binh và Phòng

không Không quân thiết lập sân bay dã chiến Gát để sử dụng máy bay tiêm kích

Mig 17 đánh tàu chiến Mỹ. Về công binh, có các đơn vị của Bộ và Quân khu kết

hợp với lực lượng tại chỗ của địa phương thực hiện công tác rà phá bom mìn, xây

dựng, sửa chữa đường sá, đảm bảo phương tiện vượt sông, qua phà, …

Ngoài ra, đặc biệt tại Quảng Bình còn là nơi Bộ Tư lệnh Trường Sơn đặt các

sở chỉ huy, thành lập các binh trạm và kho bãi để tiếp nhận, chuyên chở hàng hóa

chi viện cách mạng miền Nam, cùng các đơn vị phòng không, công binh, thông tin,

bộ binh, …

Để bảo đảm an toàn trên tuyến biên giới và bờ biển còn có lực lượng công an

nhân dân vũ trang. Đây là lực lượng nòng cốt trong việc phát hiện, truy bắt những

toán biệt kích của Mỹ và chính quyền Sài Gòn xâm nhập địa bàn và luôn sẵn sàng

sát cánh cùng các lực lượng vũ trang đánh trả máy bay Mỹ.

Page 154: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

150

Với quan điểm “phát triển lực lượng dân quân tự vệ thực sự là lực lượng chủ

lực của chiến tranh nhân dân” [151, tr. 66], từ chỗ 28.243 người, chiếm khoảng

6,9% dân số (năm 1965), đến năm 1971, lực lượng dân quân tự vệ có gần 60.000

người (chiếm 13,4% dân số), được trang bị hơn 18.000 khẩu súng các loại, với hình

thức tổ chức từ phân đội đến đại đội, tiểu đoàn, đặc biệt là có đại đội nữ pháo binh

duy nhất của miền Bắc (đại đội Ngư Thủy). Tham gia dân quân tự vệ có thanh niên,

phụ nữ, phụ lão, công nhân, nông dân, cán bộ viên chức …, không phân biệt tôn

giáo, dân tộc.

Với phương châm “lấy ít địch nhiều”, “lấy thô sơ thắng hiện đại”, Quảng

Bình phát động phong trào bắn máy bay khắp toàn tỉnh, kết hợp ba thứ quân, tạo

lưới lửa phòng không nhiều tầng, nhiều lớp. Mối quan hệ, hiệp đồng huấn luyện,

chiến đấu chặt chẽ giữa ba thứ quân được xây dựng vững chắc. Dân quân giúp bộ

đội tiếp lương, tải đạn, xây dựng trận địa, giải quyết thương binh, tử sĩ; ngược lại bộ

đội chủ lực giúp dân quân tự vệ huấn luyện chiến đấu, sử dụng những phương tiện

và vũ khí mới, tiến tới đưa dân quân dần thay thế chủ lực một số nhiệm vụ, như

trường hợp đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy thay thế Đại đội 9 bộ đội tỉnh chiến đấu

bảo vệ vùng biển nam Quảng Bình.

Gắn liền với môi trường hoạt động của lực lượng dân quân, hệ thống làng xã

chiến đấu ra đời từ thời kì kháng chiến chống Pháp, được phát triển lên quy mô

mới, với sự tham gia rộng rãi của toàn dân. Những cụm chiến đấu liên hoàn của các

làng xã hình thành và không ngừng củng cố. Công tác tổ chức tại những làng xã

chiến đấu rất chặt chẽ, có lực lượng trực chiến, lực lượng đảm bảo giao thông, có

đội làm hầm, đội chống sập, tổ cứu thương, … Thực tế chiến đấu đã cho thấy ở địa

phương nào, lãnh đạo và chính quyền quan tâm xây dựng lực lượng bộ đội địa

phương và dân quân tự vệ đồng thời tổ chức tốt hệ thống làng xã chiến đấu, ở đó

vừa sản xuất tốt, vừa chiến đấu đạt hiệu suất cao.

Tóm lại, với lực lượng đông đảo gồm ba thứ quân như trên, Quảng Bình đã

hình thành thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp. Trong khi lực lượng dân quân

tự vệ có mặt ở khắp các địa bàn trong tỉnh, chiến đấu bảo vệ các mục tiêu tại chỗ,

Page 155: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

151

lực lượng chủ lực và bộ đội địa phương vừa phân tán kết hợp với dân quân tự vệ,

vừa tập trung có trọng điểm như ở tứ giác sông Gianh - Xuân Sơn - Quán Hàu -

Long Đại, các đầu mối giao thông trọng yếu (trên đường số 1, 10, 12, 15, 16, 20),

công trình kinh tế, vùng đông dân cư, … Sự đan xen chiến đấu giữa các lực lượng

tạo nên thế trận phòng thủ vừa có bề rộng, vừa có chiều sâu, dựng lên lưới lửa

phòng không nhiều tầng lớp với nhiều loại hỏa lực từ thô sơ đến hiện đại cũng như

tạo thế đánh tàu biệt kích Sài Gòn và tàu chiến Mỹ ở bất cứ địa điểm nào ven biển.

Trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, nổi lên là sự phối hợp của nhiều lực

lượng trong cùng một trận đánh như trận đầu đánh máy bay Mỹ (2-1965) của hải

quân sông Gianh và các lực lượng trên bờ (28-4-1965), trận đánh tàu chiến Mỹ của

pháo binh (17-5-1967), … Để giành được thắng lợi của mỗi trận đánh, đặc biệt là

của bộ đội tên lửa, pháo binh phải có sự hiệp đồng của nhiều lực lượng. Chẳng hạn,

để đưa pháo hoặc tên lửa vào trận địa phải có dân quân tham gia xây dựng công sự,

cùng công binh đảm bảo đường sá, ngụy trang, có bộ phận cảnh giới phát hiện địch

từ xa; khi vào trận, tên lửa đánh địch ở tầm cao phải có cao xạ và súng bộ binh đánh

địch ở tầm thấp, phải có bộ phận tiếp đạn, tiếp lương, cứu thương, phải có trận địa

giả để đánh lừa địch, sau mỗi trận đánh phải cơ động lực lượng đến vị trí mới để

tránh bị đối phương phát hiện, …; khi pháo binh đánh tàu chiến cũng phải có sự

hiệp đồng lực lượng như vậy.

Với đông đảo các lực lượng vũ trang, bán vũ trang và nhân dân tham gia chiến

đấu trên địa bàn Quảng Bình, hình thái chiến tranh nhân dân được bố trí một cách

khoa học, vừa đảm bảo phát huy sức mạnh và lợi thế của các quân, binh chủng và

lực lượng phối hợp, vừa tạo thuận lợi cơ động chiến đấu để hỗ trợ chi viện lẫn nhau,

đảm bảo cho tất cả các lực lượng tham gia chiến đấu đều phát huy mọi khả năng

đánh địch và giành thắng lợi. Về cơ bản, lực lượng bộ đội chủ lực của Trung ương

và Quân khu 4 được bố trí ở những địa bàn có các tuyến vận tải chi viện chiến lược

cho chiến trường, các khu vực tập trung tiềm lực quân sự và kinh tế, kho tàng, bến

bãi, cầu phà, đặc biệt là tuyến vận tải đường Hồ Chí Minh, kết hợp với việc bảo vệ

các cơ quan Nhà nước và các khu dân cư. Các đơn vị chủ lực chịu trách nhiệm đánh

Page 156: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

152

địch tầm cao, tầm xa và hỗ trợ lực lượng bán vũ trang đánh địch ở tầm thấp, tầm

gần, sẵn sàng phối hợp đánh địch khi có tình huống đổ bộ đường không và đường

biển, truy bắt gián điệp, biệt kích. Các lực lượng vũ trang địa phương và bán vũ

trang được bố trí xen kẽ trên tất cả các địa bàn sản xuất và sinh sống của nhân dân.

Các đơn vị trực chiến của lực lượng bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ cùng

nhân dân triển khai xây dựng phòng tuyến chiến đấu, hệ thống trận địa liên hoàn với

các mục tiêu bảo vệ của bộ đội chủ lực nhằm triển khai hợp đồng chiến đấu chi viện

và chia lửa lẫn nhau khi chiến sự xảy ra. Dân quân tự vệ không biên chế thường

trực chiến đấu vẫn được trang bị vũ khí để vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Khi có

chiến sự, lực lượng này hướng dẫn các tổ xung kích trong nhân dân làm nhiệm vụ

cung ứng hậu cần, tiếp đạn, cứu hộ thương binh, sẵn sàng bổ sung đội hình chiến

đấu trong tình huống cần thiêt. Các điểm cao như núi đồi, lèn đá, những địa hình có

tầm quan sát rộng và tất cả những nơi có thể phát huy các khí tài quân sự để đánh

địch đều được xây dựng công sự để cơ động chiến đấu. Tất cả các làng mạc đều

được kết nối liên hoàn bằng hệ thống các hào giao thông để triển khai đội hình

chiến đấu và sơ tán dân ra khỏi vùng chiến sự.

Như vậy, hình thế chiến trận của chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình rất đa

dạng, phong phú, nhiều tầng, nhiều lớp nhưng vẫn phân định rõ các tuyến và các

khu vực trọng điểm, kết nối liên hoàn trong một địa bàn đa dạng địa hình, vừa phát

huy lợi thế của các lực lượng chiến đấu, vừa hạn chế khả năng đánh phá của địch.

4.1.3. Diễn ra trên khắp các lĩnh vực, trong đó giao thông vận tải là nóng

bỏng nhất

Bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, quân dân Quảng Bình

phải thực hiện cả 4 nhiệm vụ hết sức quan trọng là tổ chức sản xuất, đảm bảo đời

sống nhân dân và tăng cường tiềm lực cho cuộc chiến đấu; tổ chức đảm bảo

mạch máu giao thông vận tải, giữ vững tốc độ và yêu cầu chi viện chiến trường;

Tổ chức lực lượng cơ động đánh địch trên chiến trường miền Nam, cùng chia lửa

với đồng bào Trị - Thiên; tổ chức đánh địch và thắng địch tại chỗ trên đất

Quảng Bình [33, tr. 389].

Page 157: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

153

Trong điều kiện bình thường, sản xuất là hoạt động tất yếu của bất cứ nền kinh

tế nào nhưng đối với Quảng Bình, yêu cầu của sản xuất còn cao hơn thế, đó là một

mặt trận thực sự, khi chính nó phải đương đầu với bom đạn Mỹ để đảm bảo những

nhu cầu tối thiểu tại chỗ cho lực lượng ngày càng đông đảo trong điều kiện đường

chi viện từ Trung ương thường xuyên bị gián đoạn. Ở góc độ này, việc sản xuất tại

chỗ của Quảng Bình nhằm thay thế nguồn hàng từ Trung ương, để ưu tiên dành cho

quân sự và chi viện chiến trường còn gián tiếp góp phần đánh Mỹ. Nhìn từ góc độ

chiến tranh nhân dân thì sản xuất đảm nhận nhiệm vụ rất quan trọng, đó là xây dựng

hậu cần tại chỗ cho các lực lượng tham gia thế trận chiến tranh nhân dân.

Ngay khi có chủ trương chuyển hướng xây dựng kinh tế của Trung ương, Tỉnh

ủy Quảng Bình chỉ đạo các địa phương và đơn vị nhanh chóng đưa mọi hoạt động

sang thời chiến, theo nề nếp quân sự hóa. Để đảm bảo duy trì ổn định sản xuất, đòi

hỏi mỗi người phải phấn đấu gắng sức làm việc bằng hai, Tỉnh ủy phát động phong

trào “Hai giỏi”, khơi dậy trong toàn dân khí thế thi đua sôi nổi, quyết tâm hoàn

thành mọi nhiệm vụ với kết quả cao. Trong 8 năm chiến tranh, nền kinh tế Quảng

Bình không những không bị tàn lụi như ý đồ của Nhà Trắng mà trong chừng mực

còn có những bước tiến nhất định, trong đó thành công lớn nhất là tự túc được

lương thực và một số nhu yếu phẩm cần thiết trong điều kiện bị Mỹ bao vây, chia

cắt và cô lập.

Một nhiệm vụ quan trọng, vô cùng cấp bách nhằm bảo toàn lực lượng, bảo vệ

sinh mạng quần chúng là công tác phòng không nhân dân. Ngay từ đầu, song song

với đánh trả máy bay và tàu chiến Mỹ, các ngành và địa phương đặc biệt chú trọng

công tác phòng không nhân dân, coi đó là một bộ phận của cuộc chiến tranh nhân

dân, một mặt tích cực để đánh thắng chiến tranh phá hoại. Việc xây dựng hầm hào,

sơ tán, canh gác, báo động, tổ chức cấp cứu, giải quyết hậu quả chiến tranh, ...

nhanh chóng được tổ chức quy củ. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền nên quần

chúng thấu hiểu đặc điểm địa hình của tỉnh, đất hẹp nhưng hệ thống giao thông

chằng chịt, dân cư tập trung ven sông và các tuyến đường, dễ thiệt hại khi bị đánh

phá nên phương án tốt nhất để có thể trụ lại địa bàn, chiến đấu là phải bám đất, bám

Page 158: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

154

ruộng để sản xuất và chiến đấu với phương châm “nhà che nắng che mưa, hầm che

xương che thịt”. Kinh nghiệm của xã Ngư Thủy “có Đảng, có dân, có hầm, có

hợp” 1 được nhân rộng ra toàn tỉnh nên dù Mỹ có đánh phá ác liệt đến đâu cũng

không thể làm lay chuyển ý chí chiến đấu của quân dân Quảng Bình.

Trong sơ tán, ở Quảng Bình có nhiều hình thức như sơ tán - dãn dân tại chỗ,

phân tán mỏng dân số, di chuyển đến địa điểm khác, nơi vùng trung du, bán sơn địa

để xây dựng làng mới nhưng vẫn đảm bảo sản xuất và chiến đấu lâu dài như thị xã

Đồng Hới, một số xã ven biển, … Việc làm này góp phần khai hoang vùng gò đồi,

kết hợp xây dựng kinh tế với quốc phòng, đáp ứng nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ

chiến đấu và phát triển lâu dài. Ngoài ra, Quảng Bình còn thực hiện nhiệm vụ đặc

biệt là góp phần quan trọng đảm bảo an toàn cho hàng vạn người dân Vĩnh Linh và

Quảng Trị sơ tán ra các tỉnh phía Bắc trong kế hoạch K8, K10.

Trong chiến đấu, quân dân Quảng Bình đã đánh trả hàng ngàn trận với máy bay,

hàng trăm trận với tàu chiến và hàng chục trận với biệt kích Mỹ và chính quyền Sài

Gòn. Với tinh thần “nhằm thẳng quân thù mà bắn”, mãi đi vào lịch sử là những

chiến công xuất sắc “lần đầu tiên” của quân dân Quảng Bình như đội tự vệ hồ nước

Cẩm Ly hạ được máy bay AD6 bằng súng bộ binh vào ban đêm (20-4-1965), nữ dân

quân Hưng Thủy hạ máy bay trinh sát điện tử RF4C (27-7-1967), trung đội nữ dân

quân xã Võ Ninh lần đầu tiên độc lập tác chiến bắn rơi máy bay chiến đấu F4H (11-

10-1967), nữ dân quân xã Tiến Hóa có sáng kiến lập trận địa trên lèn cao bắn rơi máy

bay (14-8-1968), dân quân xã Phú Trạch dùng hỏa lực tầm thấp hạ được máy bay

F.111A (7-11-1972), … Quảng Bình cũng là địa phương duy nhất của miền Bắc bắt

sống được phi công vũ trụ Mỹ (Schumacher). Với thành tích hạ 704 máy bay Mỹ,

Quảng Bình là ngọn cờ đầu của miền Bắc, nhiều lần được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi

thư khen ngợi, Đảng và Chính phủ biểu dương. Trên mặt biển, những chiến công như

chỉ trong một đêm, Đại đội 10 pháo binh tỉnh bắn cháy 3 tàu biệt kích Sài Gòn (22-4-

1. “Hợp” là Hợp tác xã. Trong chiến tranh thì hợp tác xã là tế bào kinh tế đảm bảo cho nhân

dân ổn định đời sống và hỗ trợ nhân dân vượt qua khó khăn trong điều kiện chiến tranh.

Page 159: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

155

1966), của đại đội nữ dân quân pháo binh duy nhất của miền Bắc (Ngư Thủy) 5 lần

lập công bắn cháy tàu chiến Mỹ hay đặc biệt kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai,

trên vùng biển Quảng Bình, lực lượng không quân nhân dân Việt Nam tập kích thành

công, đánh bị thương 2 tuần dương hạm Mỹ (19-4-1972), … Ở cả tuyến biên giới và

bờ biển, phần lớn những toán biệt kích xâm nhập đều bị phát hiện và vô hiệu hóa, góp

phần đập tan ý đồ thu thập tin tức phục vụ cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ.

Trong việc chuyển tiếp sức mạnh của hậu phương miền Bắc vào chiến trường

miền Nam, căn bản và cấp thiết trước hết là đảm bảo huyết mạch giao thông vận tải.

Do vị trí chiến lược của Quảng Bình nên đảm bảo giao thông vận tải là mặt trận

nóng bỏng nhất, diễn ra xuyên suốt, với nhiều công việc đan xen nhau như giữa mở

đường mới, chiến đấu bảo vệ đường, sửa chữa, vận chuyển, …

Nhiệm vụ đảm bảo giao thông vận tải để phuc vụ sản xuất và chiến đấu, đặc

biệt là đảm bảo thông suốt cho tuyến chi viện chiến lược từ hậu phương lớn miền

Bắc vào tiền tuyến lớn miền Nam là nhiệm vụ nóng bỏng không chỉ riêng Quảng

Bình mà là của toàn miền Bắc trong thời kì này. Tuy nhiên, với vị thế là tuyến đầu

của miền Bắc, là điểm cuối trên hành trình chi viện tới cửa ngõ chiến trường thì việc

đảm bảo giao thông, chi viện chiến trường tại địa bàn Quảng Bình có ý nghĩa đặc

biệt, quyết định thành bại của công cuộc chi viện này cho nên mặt trận giao thông

vận tải ở Quảng Bình là nóng bỏng nhất. Thực tiễn này đã được chiến tranh nhân

dân ở Quảng Bình xác chứng:

Thứ nhất, tính chất nóng bỏng trên mặt trận đảm bảo giao thông vận tải do vị

thế Quảng Bình là nút thắt của toàn tuyến chi viện từ miền Bắc vào. Hàng chiến

lược có thể vận chuyển qua nhiều địa phương, kể cả địa bàn ác liệt Thanh Hóa,

Nghệ An, Hà Tĩnh và một số địa phương khác, có nguồn lực dự trữ, bổ sung nhưng

khi vào đến Quảng Bình thì trở thành nguồn lực duy nhất để đưa vào chiến trường.

Nếu bị chặn đứng ở Quảng Bình thì chắc chắn chiến trường miền Nam sẽ khó khăn.

Do đó đảm bảo giao thông vận tải phải được thực hiện bằng mọi giá.

Thứ hai, chỉ có từ Quảng Bình, hàng chi viện cho chiến trường mới có cơ hội

lan tỏa qua tuyến đường Trường Sơn vào thẳng chiến trường Trị Thiên, Nam Trung

Page 160: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

156

Bộ và vượt biên giới qua Lào, Campuchia để vừa chi viện cách mạng Lào,

Campuchia, và từ đó chuyển tiếp vào Nam Bộ.

Thứ ba, địa bàn Quảng Bình với địa hình bị chia cắt hiểm trở bởi Đèo Ngang,

đèo Lý Hòa, sông Gianh, sông Lý Hòa, sông Dinh, sông Nhật Lệ, … trở thành

những điểm huyệt cho chiến tranh bao vây, ngăn chặn của đế quốc Mỹ. Vì thế, vào

một số thời điểm, Quảng Bình bị cô lập, phải vận dụng sức mạnh của nhân dân làm

hậu thuẫn cho công tác đảm bảo giao thông chi viện chiến trường. Chính điều đó

làm tăng thêm tính nóng bỏng của mặt trận giao thông vận tải.

Với mạng lưới dọc ngang, trên tất cả các tuyến đường biển, đường sông,

đường bộ, đường goòng, kể cả đường không, chằng chịt như “trận đồ bát quái”,

trải rộng ở tất cả các địa phương; gần như tất cả các tuyến đường, đầu mối giao

thông ở Quảng Bình đều là trọng điểm đánh phá, ngăn chặn của các lực lượng

không quân, hải quân Mỹ. Do đó, đảm bảo giao thông vận tải không còn đơn thuần

là nhiệm vụ của ngành giao thông mà là nhiệm vụ chung của tất cả các lực lượng

theo tinh thần “toàn dân đảm bảo giao thông vận tải”. Có thể khẳng định rằng đảm

bảo giao thông vận tải chính là nơi sức mạnh của toàn dân được thể hiện cao nhất.

Tham gia xây dựng và sửa chữa đường sá, ngoài công binh của Đoàn 559, công

binh Quân khu 4, bộ đội Sư đoàn 325 và công nhân ngành giao thông Quảng Bình,

một lực lượng lớn thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến của địa phương và

các tỉnh phía Bắc được huy động như Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Thái Bình, …

sát cánh cùng nhân dân địa phương.

Quảng Bình là nơi đặt các chân hàng, kho hàng, cất giữ, bảo vệ, bảo quản

hàng. Ngoài các kho hàng chính (3 tổng kho của các binh trạm 12, 14 và 16 thuộc

Đoàn 559), hầu như địa phương nào cũng là nơi cất giấu hàng hóa. Hàng vào đến

sông Gianh được bốc xếp xuống bến bãi bờ Bắc, lực lượng tại chỗ có nhiệm vụ

chuyển tiếp sang bờ Nam trước khi trời sáng. Xác định rõ trách nhiệm, Huyện ủy

Quảng Trạch đề ra nguyên tắc quản lí “Đảng ủy xã là chủ hàng, dân quân là công

nhân bốc xếp, nền nhà dân là kho hàng”, ở Quảng Ninh, “Chủ tịch là chủ hàng,

phụ lão giao lương, bà mẹ phơi phóng, toàn dân bảo quản”. Mỗi người dân ở

Page 161: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

157

Quảng Bình xem việc tham gia đảm bảo giao thông vận tải là trách nhiệm của chính

mình, là nhiệm vụ mang tính thường trực. Họ tự xác định và hình thành thói quen:

“Cho không lấy, thấy không xin, của công giữ gìn, của rơi trả lại”. Từ Võ Ninh,

Quảng Thuận, Đức Trạch, Hải Trạch, với quyết tâm“Đường chưa thông, không tiếc

máu xương”, “Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến!”, “Nhường nhà để hàng,

nhường làng dấu xe”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, … trở thành phương châm

hành động chung của tất cả mọi người. Tham gia vận chuyển, bất cứ người dân nào

cũng là người bốc dỡ, bất cứ phương tiện nào cũng có thể tham gia. Về vận tải thủy

có tàu biển, sà lan, phà, thuyền buồm, thuyền giã đôi, thuyền trọng tải nhỏ, thuyền

nan, … Về vận tải bộ có goòng, ô tô, xe đạp, xe cút kít, xe trâu, gánh bộ, gùi thồ, …

Những chiến dịch vận chuyển lớn, hầu như tất cả quần chúng được huy động như

bộ đội, cán bộ công nhân viên các cơ quan xí nghiệp, dân quân tự vệ, học sinh,

người già, phụ nữ, trẻ em, …

Để giữ vững giao thông, đảm bảo thông tuyến, các địa phương đưa ra nhiều

biện pháp, áp dụng nhiều sáng kiến. Đó là tổ chức, động viên các thôn, xã, xí

nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường huấn luyện cho dân quân, tự vệ và

thanh niên kĩ năng đơn giản về chữa đường, cứu sập hầm, cứu xe, cứu hàng, gỡ

bom nổ chậm; chuẩn bị các điểm tránh đường, các điểm theo dõi, báo động phòng

không; chuẩn bị phương tiện, công cụ (cầu/phà); xác lập các phương án dự phòng

sẵn sàng thay thế, … Mỗi tuyến đường lại có cách riêng tự bảo vệ/bảo đảm giao

thông. Như ở Lệ Thủy, mỗi gia đình ở hai bên Quốc lộ 1 và Đường 15 luôn chuẩn

bị sẵn 1-2 gánh bổi, 2-3 bao hoặc rổ đất đá để sẵn sàng lấp hố bom, thông đường

thông xe [2, tr. 185-186].

Chiến đấu để bảo vệ đường là công việc xuyên suốt, liên tục, thường xuyên

đối phó với cái chết ngày đêm rình rập từng giờ từng phút của các lực lượng đảm

bảo giao thông. Đó là cuộc chiến để vượt lên chính mình, là nơi thể hiện khả năng

sáng tạo vô bờ bến của quần chúng nhân dân. Để các tuyến đường được thông suốt,

họ phải chịu đựng khó khăn gian khổ ác liệt gấp bội bởi không chỉ đạn bom, mà

thiếu thốn trăm bề về vật chất và đời sống tinh thần, bệnh tật nơi rừng sâu nước độc.

Page 162: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

158

Ở vùng đồng bằng đông dân dù khó khăn nhưng vẫn còn thuận lợi hơn những trọng

điểm ở miền Tây luôn chịu cảnh trên bom dưới đạn, thiên tai hoành hành nhiều lúc

làm mọi người dễ nản lòng như vừa đào đắp vá sửa đường xong, bom đạn Mỹ lại

phá cày xới hoặc mưa rừng bão lũ cuốn bay tất cả công sức xuống suối, xuống vực.

Lao động, chiến đấu cực kì vất vả trong điều kiện thiếu lương thực, thực phẩm,

thuốc chữa bệnh, … nhưng bằng ý chí và niềm tin vào thắng lợi, tất cả đều vượt

qua. Trên Quốc lộ 1, Đường 15 và tuyến đường Trường Sơn, “Bám đường, mặt

đường mà chiến đấu”, “địch đánh rừng già ta ra rừng non. Địch đánh rừng non ta

ra đồi trọc”, “Máu 759 có thể đổ. Đường 759 không bao giờ tắc”, … trở thành

khẩu hiệu hành động của lực lượng thanh niên xung phong, công nhân giao thông,

công binh Trường Sơn, Ban 67, … bám trụ công trường để hoàn thành nhiệm vụ.

Để đảm bảo giao thông vận tải qua địa bàn, vì lợi ích chung của cả dân tộc, vì

sự nghiệp thống nhất đất nước, người dân Quảng Bình đã không tiếc máu xương và

tài sản của mình, góp trên ba triệu ngày công đào hầm, làm trận địa phục vụ chiến

đấu, trên ba triệu ngày công phục vụ bốc dỡ, vận chuyển, … phục vụ giao thông vận

tải, chuyển hơn 1,7 triệu tấn hàng giao cho các binh trạm của Đoàn 559 đưa vào

chiến trường. Trong quá trình lao động và chiến đấu mở và bảo vệ đường, bảo đảm

giao thông thông suốt, từ tinh thần yêu quê hương đất nước sâu sắc và nồng nàn,

Quảng Bình lại sáng lên tấm gương tập thể, cả tỉnh/toàn thể cộng đồng các dân tộc

anh em về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhiều tên đất, tên người mãi khắc ghi

dấu ấn của cả một thế hệ luôn sẵn sàng hết mình vì Tổ quốc. Đó là những địa danh

dọc theo các đường Quốc lộ 1, 10, 12A, 20, 15: phà Gianh, Quán Hàu, Long Đại,

Xuân Sơn, Khe Rinh, Cổng Trời, đèo Mụ Dạ, A-T-P, hang Tám Cô, Cự Nẫm,

Thanh Khê, Mỹ Đức…; những đơn vị, tên người như các phân đội nữ dân quân trực

chiến Ngư Thủy, Võ Ninh, Phong Thủy, Tiến Hóa …, rồi mẹ Suốt, chiến sĩ Trần

Đức Hè, đại đội phó Trần Thị Tình, đội viên Đinh Thị Thu Ngà, Nguyễn Thị Kim

Huế, Nguyễn Thị Nậy, …

4.1.4. Chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình những năm 1965-1973 phát

triển vượt bậc theo thời gian

Page 163: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

159

Với thế trận chiến tranh nhân dân đã được bố trí một cách khoa học và luôn ở

trong tư thế chủ động, sẵn sàng nên khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại

ở Quảng Bình, chúng vấp phải lưới lửa phòng không rộng khắp, chịu những tổn thất

lớn ngay từ trận đầu. Liên tục trong các ngày 7, 8 và 11-2-1965, 13 máy bay Mỹ bị

bắn rơi và các phi công bị bắt. Phát huy thắng lợi, khắp nơi trong tỉnh bừng lên

“quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Nắm bắt tình hình, Tỉnh ủy Quảng Bình

đã có những chủ trương sát đúng, phát hiện và nâng tầm những khẩu hiệu sáng tạo

của quần chúng, làm dậy lên khí thế thi đua sôi nổi trong tất cả các địa phương, các

ngành, các đơn vị. Do đó, một điều dường như nghịch lí là chiến tranh dù có gây ra

những mất mát và hi sinh nhưng không làm cho Quảng Bình yếu đi mà trái lại, theo

thời gian, cuộc chiến đấu của quân dân Quảng Bình ngày càng có những bước tiến

vững chắc, càng đánh càng mạnh.

Trong chiến đấu, từ những lúng túng ban đầu bởi thiếu kinh nghiệm và vũ khí,

các lực lượng vũ trang và nhân dân Quảng Bình có bước tiến vượt bậc, nhanh chóng

thích ứng, tìm ra phương cách đối phó có hiệu quả với vũ khí và thủ đoạn chiến

tranh mới của Mỹ. Như về chống biệt kích, từ chỗ có lúc để chúng xâm nhập, không

phát hiện được hoặc phát hiện nhưng không kịp huy động lực lượng để chúng gây

thiệt hại cho người và tài sản đến chỗ vô hiệu hóa toàn bộ; phối hợp với các lực

lượng bạn chủ động đánh địch từ xa, ngay trên vùng ngoại biên, tiến tới thực hiện

“gậy ông đập lưng ông”, sử dụng chính những tên biệt kích bị bắt để đánh lại địch.

Trong đánh máy bay, về tư tưởng, ban đầu nhiều nơi không tin súng bộ binh,

súng trường có thể hạ được máy bay Mỹ nên khi bị đánh phá không dám bắn trả.

Qua thực tế, một số máy bay bị bắn rơi có vết đạn của súng trường, lúc này Tỉnh ủy

Quảng Bình có cơ sở để tiến hành làm công tác tư tưởng trong toàn thể lực lượng,

quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, phát động phong trào dùng

súng bộ binh bắn máy bay Mỹ [14, tr. 16]. Từ đó, tinh thần của các lực lượng vũ

trang, nhất là đối với dân quân tự vệ, mới có những chuyển biến tích cực. Từ phong

trào “tay cày tay súng”, “tay súng tay búa”, dân quân tự vệ tiến lên tổ chức trực

Page 164: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

160

chiến có trọng điểm, kết hợp với các đơn vị chủ lực đánh địch quy mô lớn, với

nhiều trận hiệp đồng đa lực lượng.

Về vũ khí, đối phó với sự cải tiến nhanh chóng của vũ khí Mỹ, từ chỗ ban đầu

chỉ chủ yếu có súng bộ binh của lực lượng dân quân tự vệ, súng 12,7ly của bộ đội

địa phương và cao nhất chỉ có 4 khẩu pháo cao xạ 37ly của Sư đoàn 325 trong trận

mở đầu (ngày 7-2-1965), đến chỗ tăng cường dần nhiều trung đoàn cao xạ, bộ đội

tên lửa và không quân, tiến tới lập Bộ Tư lệnh phòng không với quy mô trên sư

đoàn phòng không hỗn hợp, tạo nên sự hiệp đồng binh chủng quy mô lớn ngay trên

đất Quảng Bình, …

Việc mạnh dạn trang bị những vũ khí hiện đại như B.40, B.41, ĐKZ, súng cối,

cao xạ 12,7ly, pháo 85ly, 100ly cho bộ đội địa phương và dân quân thể hiện sự

trưởng thành về trình độ, khả năng chiến đấu của lực lượng vũ trang Quảng Bình.

Đưa lực lượng dân quân gánh vác trọng trách bảo vệ vùng biển trong điều kiện bờ

biển dài nhưng lực lượng pháo binh mỏng, không đủ sức bao phủ phòng thủ toàn

tuyến, với hiệu suất cao như đại đội pháo binh nữ Ngư Thủy là nét nổi bật. Dù tính

năng còn hạn chế nhưng nằm trong tay các chiến sĩ dân quân tự vệ, bộ đội địa

phương Quảng Bình, nhiều loại vũ khí đã phát huy hiệu lực, lập nên những chiến

công xuất sắc như hạ gục những thế hệ máy bay hiện đại nhất của Mỹ bằng súng bộ

binh: F111A, máy bay trinh sát điện tử, …

Nghệ thuật quân sự cũng có những bước tiến vượt bậc, nhất là trong đối phó

với máy bay và tàu chiến, nhiều trận đạt hiệu suất chiến đấu cao. Từ chỗ đánh địch

bằng những vũ khí thông thường, tiến tới sử dụng lực lượng tên lửa, không quân

hiệp đồng đánh địch; Từ chỗ thụ động chờ địch đến mới đánh trả đến xây dựng trận

địa giả, chủ động nghi binh lừa địch đến để đánh hoặc bố trí chọn đường bay mai

phục đón đánh hoặc xây dựng trận địa ở những nơi địch không ngờ đến (đưa trận

địa lên lèn cao) hoặc lập trận địa pháo ở nơi địch chủ quan (trận 17-5-1967 hoặc của

dân quân Ngư Thủy) thậm chí dùng máy bay tiêm kích chủ động đánh địch ngoài

khơi xa ở nơi chúng cho là an toàn khiến địch không kịp trở tay. Việc đẩy tàu chiến

Mỹ ra xa đã mở rộng khu sản xuất trên biển và hạn chế mức độ bắn phá đất liền của

Page 165: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

161

chúng. Hoặc ban đầu sự phối hợp chiến đấu giữa hải quân và các lực lượng khác

trên bờ chưa tốt. Bộ đội hải quân còn tâm lí chủ quan, khinh địch, mặc dù Tỉnh ủy

Quảng Bình đã đề nghị phân công hải quân tập trung chống biệt kích trên biển, còn

đối với máy bay Mỹ cần quán triệt phòng tránh là chính, đồng thời phải xây dựng

công sự để sẵn sàng chiến đấu khi bị đối phương phát hiện [14, tr. 12]. Tuy nhiên,

đề xuất này chậm được hải quân khắc phục nên dẫn đến tổn thất lớn trong trận chiến

ngày 28-4-1965. Nhưng chưa đầy 3 tháng sau, ngày 13-7, hải quân và các lực lượng

phối hợp đã thiết lập trận địa giả, dụ máy bay Mỹ đến để tiêu diệt.

Như vậy, nhờ chủ động xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, quân và dân

Quảng Bình ra quân trận đầu đã giành được chiến thắng giòn dã, càng đánh càng

mạnh, phát triển vượt bậc về mọi mặt. Đó là đã nâng cao được tri thức quân sự, trình

độ kĩ - chiến thuật, vận dụng nghệ thuật chiến tranh nhân dân để phát huy sức mạnh

của các lực lượng chiến đấu, khai thác điểm yếu của kẻ thù, giành thắng lợi cả về

chính trị, kinh tế và quân sự. Đó chính là nhân tố cơ bản nhất, quyết định thắng lợi

trước cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đúng như lời khen ngợi của Chủ

tịch Hồ Chí Minh: “Quảng Bình càng đánh càng thắng, càng đánh càng mạnh”

[127, tr. 350].

4.2. Ý nghĩa lịch sử

4.2.1. Góp phần quan trọng cùng với miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh

phá hoại của đế quốc Mỹ

Thực hiện cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân chống Việt Nam

Dân chủ cộng hòa, đế quốc Mỹ nhằm phá hoại tiềm lực kinh tế và công cuộc xây

dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, qua đó hạn chế sự chi viện của miền Bắc cho

cách mạng miền Nam, nhằm tiến tới kết thúc chiến tranh trên thế mạnh. Với ý đồ

đó, kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, Nhà Trắng đã huy động một lực lượng

máy bay, tàu chiến hùng hậu thực hiện cuộc tấn công chiến tranh tổng lực nhằm vào

một quốc gia nhỏ bé vừa giành được độc lập, có tiềm lực thua kém Mỹ về mọi mặt

rất nhiều lần. Giới chức Mỹ tưởng rằng, sức mạnh “không thể tưởng tượng được”

Page 166: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

162

đó sẽ buộc Việt Nam Dân chủ cộng hòa nếu không “trở lùi về thời kì đồ đá” thì

cũng nhanh chóng bị đo ván.

Nhưng Nhà Trắng đã tính nhầm!

Đối mặt với chiến tranh tổng lực là một thế trận chiến tranh nhân dân được

hình thành trên cơ sở sức mạnh tổng hợp và chính nhờ sức mạnh tổng hợp của chiến

tranh nhân dân mà quân dân miền Bắc đã chế ngự được chiến tranh tổng lực của đế

quốc Mỹ. Nơi đối đầu quyết liệt nhất chính là Quảng Bình.

Mặc dù phải tung hết tất cả các loại vũ khí hiện đại nhất (trừ bom nguyên tử), kể

cả “con át chủ bài” B.52 và phần lớn lực lượng của Hạm đội 7 “Chúa tể đại

dương”, vào cuộc chiến tranh leo thang kéo dài nhưng vấp phải lưới lửa phòng

không thuộc hàng “dày đặc nhất thế giới” của quân dân miền Bắc, cuối cùng Hoa

Kỳ phải chấp nhận thất bại, kí kết Hiệp định Paris rút quân về nước sau khi bị đánh

bại bởi trận “Điện Biên Phủ trên không” cuối năm 1972. Mỹ phải trả giá rất đắt,

3.978 máy bay các loại bị bắn hạ, 268 tàu chiến, tàu biệt kích bị bắn cháy, bắn chìm.

Thiệt hại lớn hơn đó là uy thế của không lực Hoa Kỳ bị đập tan bởi cuộc chiến tranh

nhân dân mà quân dân miền Bắc đã thực hiện. Đứng về phương diện ngăn chặn, rõ

ràng Mỹ đã thất bại hoàn toàn. Trong hai lần Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại

(1965-1968 và 1972-1973), dòng chi viện từ miền Bắc cho cách mạng miền Nam

không ngừng gia tăng, năm sau cao hơn năm trước. Nếu lấy năm 1965 làm mốc (=

1) thì khối lượng chi viện tiền tuyến những năm tiếp theo như sau: năm 1966 là 2,4;

năm 1967 là 4,4; năm 1968 là 8,0; năm 1969 là 7,6; năm 1970 là 9,4, năm 1971 là

9,0 và năm 1972 là 15,6 [36, tr. 569].

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá: “Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu

nước, nếu tổng kết cuộc chiến tranh phá hoại toàn diện thì cần nghiên cứu ở Quảng

Bình”. Do vị trí chiến lược của Quảng Bình đối với công tác chi viện cách mạng

miền Nam nên trong chiến lược ngăn chặn và phá hoại tuyến đầu miền Bắc,

Washington đã “ưu tiên” cho mảnh đất hẹp này tất cả những gì nổi trội nhất của

nền khoa học - quân sự khổng lồ Mỹ. Quảng Bình là địa bàn đầu tiên mà Mỹ thực

Page 167: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

163

hiện đánh “trả đũa” và từng bước leo thang để thăm dò phản ứng từ miền Bắc và

dư luận thế giới, đưa vào thử nghiệm những vũ khí mới nhất. Ngược lại, đối với ta,

Quảng Bình là điểm nút có ý nghĩa chiến lược đối với công tác chi viện cách mạng

miền Nam, lại là hậu phương trực tiếp của chiến trường Trị - Thiên nên Trung ương

dành cho địa phương sự quan tâm lớn về mọi mặt, đảm bảo cho quân dân Quảng

Bình có thể đứng vững và chiến thắng cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ. Do đó,

Quảng Bình còn là nơi thử lửa quan trọng để tìm ra những phương thức đánh bại

các thủ đoạn và phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ. Quảng Bình trở thành nơi

đụng đầu lịch sử giữa quân dân miền Bắc với các lực lượng không quân và hải quân

Mỹ trong những năm 1965-1973.

Trong chiến thắng chung của quân dân ta trong cuộc chiến đấu chống chiến

tranh phá hoại của Mỹ, quân dân Quảng Bình dẫn đầu miền Bắc về thành tích chiến

đấu, với 704 lần lập công bắn rơi máy bay, bắn cháy 86 tàu chiến và tàu biệt kích,

trong đó có những chiến công mang tính mở đầu và duy nhất. Từ Quảng Bình,

những kinh nghiệm tác chiến của Trung đoàn tên lửa 238 và 361 được đúc kết thành

tập tài liệu nổi tiếng “Cách đánh B.52”, phục vụ đắc lực cho các đơn vị ở miền Bắc

đánh bại cuộc tập kích chiến lược của Mỹ cuối năm 1972.

Trong khốc liệt của chiến tranh, ở nơi “túi bom chảo lửa”, Quảng Bình không

những đứng vững mà còn đảm bảo duy trì, phát triển sản xuất về mọi mặt, góp phần

giảm bớt sự chi viện từ Trung ương, để dành ưu tiên vận chuyển hàng quân sự và

chi viện chiến trường. Ở góc độ này, có thể nói Quảng Bình đã góp phần chia sẻ

gánh nặng cho miền Bắc, để dồn mọi nỗ lực đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của

Mỹ và chi viện chiến trường miền Nam.

Như vậy, về mặt quân sự, quân và dân Quảng Bình đã đóng góp vào thắng

lợi chung của miền Bắc trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại không

chỉ bằng những chiến công xuất sắc bắn rơi nhiều máy bay nhất, bắn cháy nhiều

tàu chiến nhất, tiêu diệt và bắt sống nhiều toán gián điệp biệt kích nhất mà quan

trọng hơn nữa là đã nêu một điển hình về việc xây dựng một thế trận chiến tranh

Page 168: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

164

nhân dân, chủ động, mưu trí, sáng tạo đánh địch, đồng thời đảm bảo sản xuất, ổn

định đời sống và chi viện cao nhất cho chiến trường trong mọi tình huống. Từ thực

tế Quảng Bình đã đóng góp nhiều kinh nghiệm quý báu cho nhân dân miền Bắc

trong việc xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại

của đế quốc Mỹ.

Như thế, quân dân Quảng Bình đã góp phần to lớn, cùng miền Bắc đánh bại

cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ.

4.2.2. Góp phần quan trọng để Quảng Bình hoàn thành vai trò hậu phương

của cách mạng miền Nam, trực tiếp là chiến trường Trị - Thiên

Xuất phát từ vị trí chiến lược của Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ

nên cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình không chỉ

để bảo vệ tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa mà còn để thực hiện nhiệm vụ

hậu phương của cách mạng miền Nam, trực tiếp là chiến trường Trị - Thiên. Cả hai

nhiệm vụ đó đan xen trên cùng một địa bàn, có tác dụng hỗ trợ cho nhau.

Chiến đấu chống máy bay, tàu chiến và biệt kích là để bảo vệ tính mạng, tài

sản của nhân dân và nhà nước, bảo vệ những thành quả của hơn 10 năm xây dựng

chủ nghĩa xã hội trước đó, bảo vệ sản xuất, bảo đảm công tác chi viện cách mạng

miền Nam. Công tác phòng tránh tốt mới đảm bảo an toàn nhân lực để sản xuất,

chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Mặt khác, ở Quảng Bình có duy trì và mở rộng sản

xuất mới có thể tự đảm bảo tự cung cấp cho mình và có để chi viện chiến trường.

Như vậy, chiến đấu, phục vụ chiến đấu và sản xuất tại Quảng Bình là nhằm để bảo

vệ hậu phương. Hậu phương có vững mạnh mới có điều kiện để chi viện chiến

trường ngày càng lớn.

Sứ mệnh hậu phương của Quảng Bình ngoài những nét chung còn có những

khác biệt so với những địa phương khác trên miền Bắc, tất cả đều mang tính trực

tiếp, bởi chính vị trí tiếp giáp với chiến trường. Trước hết, công tác đảm bảo giao

thông ở Quảng Bình, đặc biệt là mở các tuyến đường ngang vượt Trường Sơn và

vận chuyển chiến lược là mang tính chi viện trực tiếp. Các tuyến đường, đặc biệt là

Page 169: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

165

Đường 16 từ Lệ Thủy vào Khe Sanh, chính là con đường nối hậu phương với tiền

tuyến theo đúng nghĩa đen và nghĩa bóng. Chính thông qua các con đường này,

nhân tài và vật lực từ hậu phương miền Bắc mới được chuyển tải vào với cách

mạng miền Nam cũng như đến với cách mạng Lào. Có thể nói, trong suốt cả hai lần

chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, giao thông vận tải ở Khu 4 nói chung đã ác liệt

nhưng đặc biệt Quảng Bình nói riêng càng ác liệt hơn, bởi có vượt qua được “nút cổ

chai” tại mảnh đất hẹp nhất nước này, hàng hóa chi viện mới có thể vào được chiến

trường. Tiếp theo, không chỉ đảm bảo vai trò hậu phương tại chỗ, Quảng Bình còn

chi viện nhiều mặt cho chiến trường. Về vật chất, ngoài nghĩa vụ đóng góp như

những địa phương khác, những thời điểm chiến trường yêu cầu đột xuất, Quảng

Bình luôn sẵn sàng đáp ứng, như năm 1968, dù vào vụ giáp hạt nhưng trước yêu cầu

khẩn thiết của chiến trường, nhân dân Quảng Bình đã “trút gạo trong nồi giúp Trị -

Thiên đánh Mỹ” được 2.600 tấn gạo. Hoặc cũng năm 1968, đáp ứng yêu cầu chi

viện vũ khí của chiến trường Trị - Thiên, Quảng Bình trích một nửa cơ số đạn dự

trữ của địa phương, gồm súng đạn cối 81, 82 ly, B.40, B.41 và ĐKZ (khoảng 30

tấn), do dân quân hợp tác xã Cảnh Dương vận chuyển vào [149, tr. 186-187]. Về

nhân lực, ngoài lực lượng thanh niên xung tham gia xây dựng, sửa chữa đường sá

(9.359 lượt người), Quảng Bình còn huy động một lực lượng lớn dân công hỏa

tuyến vào phục vụ chiến trường (11.455 lượt người). Dân công Quảng Bình luôn có

mặt ở những nơi chiến sự diễn ra ác liệt nhất, phục vụ bộ đội chủ lực vận chuyển

lương thực, đạn dược, giải quyết tử sĩ, thương binh, … Có đơn vị hoàn thành nhiệm

vụ vẫn tình nguyện kéo dài công tác, nhất là vào những thời điểm mà cách mạng

miền Nam gặp khó khăn nhất như những năm 1968-1969. Cùng với bộ đội chủ lực,

bộ đội địa phương và dân quân Quảng Bình nhiều lần vào tăng viện, chiến đấu trên

chiến trường Trị - Thiên, góp phần hỗ trợ phong trào cách mạng ở hai tỉnh này vượt

qua những thời điểm khó khăn, ghìm chân địch tại chỗ, không cho chúng mở rộng

chiến tranh trên bộ ra Bắc, mà trong trường hợp này Quảng Bình sẽ là một chiến

trường trọng điểm. Khi đó, Quảng Bình không chỉ đối phó với cuộc chiến tranh phá

hoại bằng không quân, hải quân và pháo binh mà còn đối mặt với lục quân Mỹ.

Page 170: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

166

Chiến tranh sẽ khốc liệt hơn và hậu quả chắc chắn sẽ tàn khốc hơn. Mặt khác, việc

tác chiến trên chiến trường Trị - Thiên sẽ góp phần rút ra những kinh nghiệm giúp

cho công tác bố phòng cũng như chiến đấu trong trường hợp chiến tranh trên bộ lan

rộng. Hỗ trợ chiến đấu, lực lượng an ninh của công an nhân dân vũ trang Quảng

Bình cũng sớm có mặt trên chiến trường Trị - Thiên, cùng lực lượng tại chỗ làm

sạch địa bàn, phục vụ có hiệu quả cuộc tiến công giải phóng Quảng Trị năm 1972.

Tổng cộng, có 18.686 bộ đội (735 nữ), 9.359 thanh niên xung phong, 11.455 dân

công hỏa tuyến có 39.500 người (có 7.904 nữ), chiếm 10,9% dân số. Tổng số lượt

bộ đội và dân quân tham gia chiến đấu ở chiến trường Trị - Thiên và Lào là 38.715

người (chiếm gần 10% dân số).

Quảng Bình còn là địa phương có những đóng góp có ý nghĩa quyết định trong

công cuộc chi viện chiến lược cho chiến trường. Quảng Bình là trung tâm, trạm

trung chuyển lớn nhất sức người và sức của từ miền Bắc chi viện cách mạng miền

Nam. Đảm bảo sự thông suốt của các tuyến đường vận chuyển là trách nhiệm nặng

nề của quân dân Quảng Bình. Trên thực tế, mọi sự chi viện của nhân dân miền Bắc,

của lực lượng tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới cho sự nghiệp giải phóng

miền Nam, chỉ khi vượt qua được cửa ngõ yết hầu của địa bàn Quảng Bình mới

thực sự đến với chiến trường. Vì vậy, đóng góp của quân và dân Quảng Bình trên

mặt trận đảm bảo giao thông chi viện chiến trường là rất quan trọng. Với sự hỗ trợ

của Trung ương và các địa phương miền Bắc, các lực lượng tại chỗ đã đảm bảo

nguồn chi viện được đưa vào chiến trường với số lượng ngày càng lớn như đã nói ở

trên. Hậu phương Quảng Bình vững mạnh về mọi mặt còn làm chỗ dựa và hậu cứ

cho phong trào cách mạng hai tỉnh Trị - Thiên. Những đơn vị chiến đấu trên chiến

trường lấy Quảng Bình làm địa bàn tập kết lực lượng trước khi xuất phát cũng như

rút ra để củng cố lực lượng. Khi các vùng ở Trị - Thiên được giải phóng, để đảm

bảo an toàn, bà con lại được sơ tán ra Quảng Bình, như vào các năm 1967 và 1972.

Hoặc những lúc cách mạng ở Trị - Thiên gặp khó khăn, như sau Tết Mậu Thân

1968, Quảng Bình là địa bàn “tập kết” của nhiều cơ quan Dân - Chính - Đảng của

hai tỉnh. Ngoài ra, Quảng Bình còn thường xuyên làm nhiệm vụ thu dung, nơi chăm

Page 171: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

167

sóc sức khỏe ban đầu cho những cán bộ và chiến sĩ từ chiến trường ra, chuẩn bị

nhân sự bộ máy chính quyền cho hai tỉnh sau ngày giải phóng, …

Với khối lượng công việc đồ sộ đó, có thể khẳng định rằng, trong những năm

1965-1973, quân dân Quảng Bình hoàn thành sứ mệnh hậu phương của mình đối

với cách mạng miền Nam, trực tiếp là chiến trường Trị - Thiên.

4.2.3. Làm dày thêm những giá trị sống của cộng đồng dân cư địa phương,

để Quảng Bình (cùng với Vĩnh Linh) thành tuyến đầu của miền Bắc trong kháng

chiến chống Mỹ

Từ trong chiều dài của lịch sử, Quảng Bình nhiều lần là miền đất biên viễn,

của cắt chia và đối đầu khốc liệt. Thế nhưng, ở miền đất tưởng chừng như bất lợi

cho sự phát triển đó lại tạo dựng nên những con người có những phẩm chất đáng tự

hào về năng lực sinh tồn trong cuộc đấu tranh với tự nhiên và xã hội, đúng như nhận

định của sử gia người Anh, Arnold Tonybee: “Những xứ nằm ở vùng biên viễn đều

có sinh lực mạnh mẽ” [153, tr. 775]. Có lẽ tồn tại và phát triển trong điều kiện khắc

nghiệt đó nên điều đáng ngạc nhiên nhưng dễ hiểu, Quảng Bình là nơi xuất thân

hoặc là nơi làm nên tên tuổi của hàng loạt nhà quân sự lớn của đất nước, từ Lý

Thường Kiệt, Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Cảnh, Hoàng Kế Viêm,

Võ Xuân Cẩn, Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân … đến Võ Nguyên Giáp, Hoàng Sâm,

Đồng Sỹ Nguyên, … của thời hiện đại.

Trong những năm 1965-1973, trước khốc liệt của chiến tranh, nếu không

muốn nói là sự khốc liệt nhất và kéo dài nhất, thật khó lí giải vì sao Quảng Bình có

thể đứng vững và chiến thắng cuộc chiến tranh phá hoại quy mô lớn của Mỹ nếu

không xét từ nguồn cội của nó là lòng dân, là truyền thống yêu nước của nhân dân

địa phương được khơi dậy, tập hợp và phát huy cao độ. Nếu như Nguyễn Trãi từng

tổng kết: “Nâng thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân” thì Đảng bộ xã

Nhân Trạch (huyện Bố Trạch) khái quát rất đơn giản những đã gói trọn sức mạnh

nhân dân, được đúc kết từ kinh nghiệm lịch sử: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu.

Page 172: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

168

Khó vạn lần dân liệu cũng xong” 1. Có lẽ, sinh tồn dưới áp lực khắc nghiệt của lịch

sử vùng biên đã tạo lập cho người Quảng Bình một khát vọng sống, một khả năng

ứng biến với mọi hoàn cảnh. Những giá trị của sự sinh tồn đó đã được tiếp nối và

làm dày thêm trong tình hình mới, khi chưa bao giờ mà ranh giới giữa cái sống và

cái chết lại mong manh đến vậy. Nhưng cũng chưa bao giờ mà việc chấp nhận hi

sinh lại nhẹ nhàng đến thế. Đó cũng không phải là một vài cá nhân đơn lẻ mà trở

thành lẽ sống và phương châm hành động của cả một thế hệ. Đó là hình ảnh của

Đinh Thị Thu Ngà, từ vị trí tiếp đạn đã nhảy lên mâm pháo bắn trả máy bay Mỹ dù

biết hành động như vậy là sẽ hút hỏa lực đối phương vào mình; là Nguyễn Thị Nậy

dũng cảm ngồi trên bom nổ chậm để đồng đội yên tâm làm việc; là Trần Chí Thành

bật đèn pha xe chạy hướng khác để thu hút hỏa lực địch cứu đoàn xe chở học sinh

đi K.8; với khẩu hiệu “xe chưa qua, nhà không tiếc”, không chỉ một cá nhân mẹ

Trần Thị Choàng mà có tới 320 gia đình hiến nhà để cứu đường; là 150 gia đình ở

Võ Ninh, Hải Trạch, Đức Trạch dỡ 700m tường nhà lấy gạch đá lấp ngầm lót đường

cho xe qua; là những bà mẹ nhường hầm cho người đi sơ tán theo kế hoạch K.8,

K10; là những dân công hỏa tuyến lấy thân mình che chở thương binh; là những

trường hợp nhường nhau sự sống, tranh lấy nơi hiểm nguy về mình, như Võ Xuân

Nở lăn bom nổ chậm; là đội “quyết tử” Khe Rinh gồm 30 người luôn phải làm lễ

truy điệu sống trước mỗi lần vào trận giải phóng mặt đường; là Hà Văn Cách đội

trưởng rà phá bom mìn xã Võ Ninh tháo gỡ 49 quả bom chưa nổ các loại, để rồi hi

sinh cùng quả thứ 50; là chiến sĩ tự vệ Nguyễn Xảo (Võ Ninh) xung phong dùng

thuyền gắn máy chạy phá gần 100 bom từ trường; là những dân quân xã Cảnh

Dương sẵn sàng chấp nhận hi sinh để đưa vũ khí tiếp tế chiến trường Trị - Thiên

1968; là dân quân 11 xã vùng biển Quảng Trạch, Bố Trạch ròng rã trong 8 tháng

trời vượt qua phong tỏa ác liệt của của máy bay, tàu chiến Mỹ để tiếp nhận gạo trên

Vịnh Hòn La, … Hoặc như những trường hợp các địa phương có tuyến đường

Trường Sơn đi qua, nhân dân sẵn sàng dời nhà để làm đường hoặc chấp nhận những

1. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong” nguyên là câu ca

dao kháng chiến của Thanh Tịnh, được Đảng bộ và nhân dân xã Nhân Trạch vận dụng để

phát động phong trào quần chúng, được Bác Hồ khen ngợi và phát động cả nước học tập.

Page 173: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

169

tổn thất hi sinh trong trường hợp cho xe vận tải trú ẩn trong làng. Đại tá Nguyễn

Dân, Chính ủy các binh trạm 14, 26, 16 kể lại: “Thực tế cho thấy nếu chính quyền

các cấp tỉnh, huyện, xã và nhân dân địa phương nơi tuyến đường đi qua không tạo

điều kiện giúp đỡ thì dù cho bộ đội vận tải có đông đảo đến mấy cũng không thể

đưa quân, đưa hàng lên phía trước được nhiều như vậy. Thôn Cù Lạc thuộc xã Sơn

Trạch, ven đường 20 bị máy bay Mỹ ném bom đốt cháy, san thành bình địa bốn lần,

hàng trăm người bị chết, nhưng sau mỗi lần như vậy, dân làng lại dựng nhà, bám

trụ, làm bến, kho nhận chuyển hàng giúp đỡ bộ đội hết sức mình … Suốt 10 năm,

gần như ngày nào cũng như vậy, từ 1 giờ đến 3 giờ sáng, các gia đình lại đón khách

bộ đội, dành cho cán bộ, chiến sĩ chỗ ăn, chỗ ngủ” [131, tr. 455-456]. Đó chỉ là một

trong hàng trăm ngôi làng như thế ở Quảng Bình. Càng gian nguy thử thách, càng

chịu nhiều tổn thất lớn, khí phách và bản lĩnh của quân dân Quảng Bình càng được

thể hiện nơi tuyến lửa ác liệt nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Hoặc là đang vào vụ mùa giáp hạt nhưng trước lời kêu gọi của chiến trường, nhân

dân Quảng Bình trút những hạt gạo cuối cùng trong nồi ra để giúp Trị - Thiên đánh

Mỹ và sẵn sàng không nhận khi Trung ương hoàn lại, … Không chỉ quần chúng hay

các chiến sĩ mà ngay cả những người lãnh đạo cao nhất của tỉnh cũng để lại những

tấm gương về sự quên mình vì nhiệm vụ, như Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Tư Thoan

thường có mặt ở những trọng điểm đánh phá để cùng cán bộ, chiến sĩ thanh niên

xung phong, dân công hỏa tuyến làm nhiệm vụ thông đường cho xe vào mặt trận

[157, tr. 214-215]; như các cán bộ, chiến sĩ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, luôn có mặt ở

các trận địa với tinh thần “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”, sẵn sàng lên đường vào

tham chiến trên chiến trường miền Nam, …

Chưa bao giờ mà mục tiêu và lí tưởng sống vì cộng đồng, vì lợi ích dân tộc lại

hiển hiện ở khắp mọi nơi, trở thành lẽ sống của tất cả mọi người như thế. Chưa bao

giờ những mục tiêu tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội lại cụ thể và tưởng chừng như gần

đạt đến như thế. Chưa bao giờ khối đại đoàn kết toàn dân lại chặt chẽ như thế. Cũng

chưa bao giờ mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng lại gắn bó máu thịt, gần gũi và

mật thiết như thế.

Page 174: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

170

Lao động và chiến đấu trong chiến tranh cách mạng, vì sự nghiệp cách mạng

bảo vệ Tổ quốc và giải phóng dân tộc, người Quảng Bình đề ra những khẩu hiệu

thấm đẫm tư tưởng cách mạng tiến công, chỉ dẫn hoạt động trong kháng chiến và ẩn

chứa triết lí sống trong tương lai, vì sự nghiệp chính nghĩa, vì dân, vì nước. Đó là

“Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến!”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc, đường

không thông, không tiếc máu xương”, “Nhường nhà để hàng, nhường làng dấu xe”,

… Những khẩu hiệu ra đời từ thực tiễn chiến đấu của các ngành, các đơn vị và địa

phương đã đi vào các Nghị quyết của cấp ủy một cách trang trọng, trách nhiệm.

Qua thực tiễn lao động và chiến đấu, Quảng Bình tôi luyện nên lớp người mới,

cách mạng trong tư tưởng, khoa học trong tư duy và phong cách lao động, công tác.

Đây chính là thành quả quý giá trong giáo dục con người, trao truyền mãi về sau.

Báo cáo Tổng kết trong Hội nghị Tỉnh ủy ngày 20-3-1967 viết: “Trải qua 10 năm

xây dựng … nhân dân Quảng Bình đã tôi luyện cho mình sự nhất trí về chính trị và

tinh thần, củng cố lòng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội … thể hiện bằng hoạt

động cách mạng cụ thể, bằng khí thế chiến đấu, phục vụ chiến đấu và đẩy mạnh sản

xuất” [18].

Và cái đạt được lớn nhất là qua thử thách của chiến tranh không phải là những

con số khô khan về thành tích đánh địch, hạ được bao nhiêu máy bay và tàu chiến, về

khối lượng hàng hóa chuyển tải được, về xây dựng được bao nhiêu km hầm hào, …

mà đó là bản lĩnh và ý chí của người Quảng Bình được tôi luyện, thử thách, hình

thành nên một lối tư duy, một nếp sống mới của thời đại, luôn vì mọi người, có khả

năng sáng tạo vô bờ bến, sẵn sàng ứng phó có hiệu quả với mọi thách thức. Đấy mới

chính là cội nguồn tạo nên sức mạnh và thắng lợi của cuộc chiến tranh nhân dân

chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình. Chính yếu tố đó đã làm cho Quảng Bình

đứng vững trước cuộc chiến tranh phá hoại khốc liệt của đế quốc Mỹ, hoàn thành

nhiệm vụ hậu phương của mình, để cùng với Vĩnh Linh trở thành tuyến đầu của miền

Bắc xã hội chủ nghĩa.

Page 175: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

171

4.3. Bài học kinh nghiệm

Chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình những năm

1965-1973 diễn ra hết sức phong phú, chứa đựng trong đó sự đúc kết cả trên

phương diện lí luận và thực tiễn. Dưới đây là một số bài học kinh nghiệm nổi bật:

4.3.1. Chủ động vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân của

Đảng phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương

Đường lối chiến tranh nhân dân được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết

từ truyền thống chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc, vận dụng trong thời đại cách

mạng vô sản, từng bước hoàn chỉnh qua cuộc vận động cách mạng tháng Tám năm

1945, trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954). Đường lối đó được vận

dụng và phát triển lên trình độ cao hơn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ trên cả

hai miền Bắc Nam nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả

nước, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến

lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, vạch ra đường lối tiến hành chiến tranh nhân dân đúng

đắn, sáng tạo và phát động, tổ chức toàn dân kháng chiến, cả nước đánh giặc là một

cống hiến to lớn của Đảng trong thời đại mới và cũng là yếu tố quyết định nhất đưa

cuộc chiến tranh cách mạng 30 năm (1945-1975) đi đến thắng lợi. “Có lẽ hiếm có ở

đâu, chiến tranh nhân dân trong thực tế lại đúng với tên gọi của nó như vậy, thực

sự sâu rộng trong nhân dân, và thực sự vô địch như nhân dân” [96, tr. 32].

Thắng lợi của cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở Quảng

Bình những năm 1965-1973 là kết quả của sự chủ động vận dụng sáng tạo đường

lối chiến tranh nhân dân của Đảng vào địa bàn Quảng Bình.

Trước hết, đó là quán triệt sâu sắc phương châm lãnh đạo và chỉ đạo của

Trung ương Đảng về nhiệm vụ cách mạng hai miền Nam Bắc, xác định cho cán

bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân nhận thức rõ vị thế chính trị của Quảng Bình

trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ

quốc. Nhiệm vụ đó được cụ thể hóa trong điều kiện thực tế của Quảng Bình là địa

phương ở vị trí tuyến đầu miền Bắc, hậu phương trực tiếp của miền Nam. Để hoàn

thành sứ mệnh lịch sử đó, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Quảng Bình đã giáo dục

Page 176: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

172

cho cán bộ, đảng viên và nhân dân tinh thần sẵn sàng đương đầu với khó khăn,

gian khổ, hi sinh, phát huy truyền thống yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách

mạng để làm tròn vị thế là địa bàn có ý nghĩa chiến lược trong cuộc chiến tranh

với tinh thần “xả thân vì nước”.

Thứ hai, huy động sự tham gia của toàn dân vào việc xây dựng thế trận. Thực

tế cho thấy, quần chúng nhân dân là lực lượng đông đảo nhất, có vai trò tuyệt đối

quan trọng trong việc phát hiện, hỗ trợ lực lượng vũ trang tiêu diệt các toán gián

điệp, biệt kích xâm nhập. Trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống máy bay và

tàu chiến Mỹ, quần chúng tại chỗ tham gia tiếp tế lương thực, đạn dược, xây dựng

trận địa, cứu chữa thương binh, xây dựng cầu đường, thông tin liên lạc, … Trong

lực lượng quốc phòng toàn dân, chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba

thứ quân đủ về số lượng và đảm bảo vệ chất lượng vì nó là công cụ chủ yếu để tiến

hành chiến tranh nhân dân và làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc.

Trong hình thái chiến tranh diễn ra trên miền Bắc thì Quảng Bình là địa bàn có

sự triển khai đầy đủ nhất các quân, binh chủng của bộ đội chủ lực. Trên địa bàn này

không chỉ có các đơn vị chủ lực trên đường hành tiến vào chiến trường đã dừng

chân và triển khai đội hình chiến đấu khi có chiến sự xảy ra mà còn có các đơn vị

chủ lực được giao nhiệm vụ đóng chốt bảo vệ địa bàn với đầy đủ các quân, binh

chủng như phòng không, không quân, pháo binh, hải quân, bộ binh. Hình thế đó đòi

hỏi phải có sự phối hợp của lực lượng vũ trang địa phương (bao gồm bộ đội địa

phương và dân quân, tự vệ), đòi hỏi lực lượng vũ trang địa phương phải phát triển

và được nâng cao trình độ cả về tầm nhìn chiến lược, chiến thuật và năng lực chiến

đấu mới có thể hiệp đồng với quân chủ lực trên địa bàn để hình thành thế trận chung

cho cả 3 lực lượng.

Thứ ba, thường xuyên tổ chức huấn luyện, trang bị nâng cao trình độ chiến đấu

cho các lực lượng vũ trang, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc trang bị đủ khí tài

quân sự và nâng cao trình độ chiến thuật, kĩ thuật cho bộ đội địa phương để lực lượng

này đủ khả năng hợp đồng tác chiến với bộ đội chủ lực trong một thế trận chung

Page 177: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

173

Thực tế cho thấy, đối mặt với cuộc chiến tranh phá hoại quy mô của Mỹ trong

thế chênh lệch lớn về tương quan lực lượng và trình độ vũ khí, nhờ làm tốt công tác

huấn luyện, dự bị động viên, thường xuyên diễn tập những trường hợp giả định nên

quân dân Quảng Bình nhanh chóng tìm ra phương thức đối phó với những thủ đoạn

chiến tranh của Mỹ. Do Mỹ bắt đầu đánh phá và đưa vào sử dụng ở Quảng Bình

nhiều loại vũ khí mới nên để tìm ra cách đối phó, lần lượt nhiều đơn vị chủ lực của

phòng không - không quân được đưa vào đây chiến đấu. Quảng Bình trở thành nơi

thử nghiệm những vũ khí và phương thức đánh phá mới của Mỹ, đồng thời cũng là

nơi để ta tìm ra phương án đối phó hiệu quả nhất, phục vụ công tác bố phòng ở

miền Bắc sau đó, tiêu biểu là tài liệu “Cách đánh B.52”. Từ những vũ khí bộ binh

ban đầu, dần dần lực lượng dân quân tự vệ được trang bị những vũ khí của bộ đội

chủ lực, như B.40, B.41, DKZ, 12,7ly và cao hơn là pháo 85ly. Việc lực lượng dân

quân tự vệ được trang bị và sử dụng có hiệu quả những loại vũ khí mới này trong

bắn máy bay và tàu chiến Mỹ chứng tỏ bước trưởng thành vượt bậc về trình độ tác

chiến, đủ sức san sẻ và gánh vác trách nhiệm chiến đấu với bộ đội chủ lực. Do đó,

đi đôi với tăng cường số lượng, công tác huấn luyện nâng cao trình độ chiến đấu

cho các lực lượng, nhất là đối với dân quân tự vệ là rất cần thiết.

Thứ tư, thiết lập thế trận quốc phòng toàn dân, bảo đảm thế liên hoàn, vững

chắc, kết hợp thế trận tại chỗ với thế cơ động, thế trận rộng khắp với xây dựng thế

trận có trọng điểm, tập trung cho hướng, khu vực, mục tiêu chủ yếu, địa bàn chiến

lược. Trong điều kiện địa hình ở Quảng Bình bị chia cắt mạnh, ta đã tập trung xây

dựng mỗi khu vực thành một khu vực phòng thủ vững chắc, đảm bảo chiến đấu và

phục vụ chiến đấu tại chỗ tốt, như bắc sông Gianh, tứ giác sông Gianh - Xuân Sơn -

Long Đại - Quán Hàu, hoặc tập trung lực lượng cho các trọng điểm trên đường

Trường Sơn, … Trong lúc đó, công tác sản xuất, củng cố hậu phương tại chỗ được

đẩy mạnh trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, đảm bảo cho quân dân Quảng Bình có thể

chiến đấu lâu dài trong điều kiện nguồn chi viện từ Trung ương giảm hoặc có lúc bị

tắc. Thực tế cho thấy, với thế trận phòng thủ tại chỗ, với sự hiệp đồng tác chiến chặt

Page 178: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

174

chẽ của nhiều lực lượng, vũ trang và phi vũ trang, ta không những đánh bại các thủ

đoạn đánh phá ngăn chặn, phong tỏa của Mỹ mà còn đạt hiệu suất chiến đấu cao,

tiêu diệt được nhiều máy bay và tàu chiến. Nhìn rộng ra, trên cơ sở điều chỉnh thế

bố trí chiến lược của nền kinh tế trên phạm vi cả nước, Nhà nước cần tăng cường

đầu tư xây dựng từng tỉnh, thành phố thành các khu vực phòng thủ vững chắc, bảo

đảm trong thời bình có khả năng tự lực giải quyết những tình huống khẩn cấp tại

chỗ; khi xảy ra chiến tranh thì chủ động đánh địch ngay từ đầu, tiêu hao, tiêu diệt

sinh lực địch và đẩy quân địch vào thế bị động, sa lầy, tạo thời cơ và phối hợp chặt

chẽ với các binh đoàn chủ lực tiêu diệt địch. Việc xây dựng cơ sở thôn, bản, xã,

phường, các vùng biên giới, hải đảo và các địa bàn trọng yếu vững mạnh toàn diện

được đặc biệt coi trọng.

Cùng với xây dựng khu vực phòng thủ, thế bố trí của các lực lượng vũ trang

điều chỉnh trên từng hướng chiến lược và trên phạm vi cả nước, hình thành thế trận

vững chắc và có tính cơ động cao sẵn sàng đáp ứng yêu cầu khi xử lí các tình

huống. Các lực lượng bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương được bố trí

hợp lí, kết hợp chặt chẽ với xây dựng hệ thống phòng thủ tạo thành thế liên hoàn,

vững chắc, hiểm hóc của thế trận quân sự trên các khu vực trọng điểm, bảo đảm khả

năng tác chiến của lực lượng vũ trang cả trên bộ, trên không, trên biển, đảo. Hậu

phương chiến lược, căn cứ hậu phương chiến lược, căn cứ hậu cần kĩ thuật của từng

vùng, từng hướng được xây dựng nhằm bảo đảm hoạt động cho nhân dân và lực

lượng vũ trang trong điều kiện chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao, ... trong đó

khả năng độc lập, tự lực được quan tâm đúng mức.

4.3.2. Nâng cao tinh thần tự lực, tự cường, chủ động phòng, tránh, đánh trả

trong tình huống có chiến tranh bao vây, cô lập và ngăn chặn

Trong chiến tranh hiện đại, các nước có nền kinh tế - quốc phòng phát triển

như Mỹ và các nước Tây Âu thường sử dụng tổng lực các binh chủng hợp thành,

trong đó nòng cốt là lực lượng không quân và hải quân. Dựa trên thành tựu của nền

khoa học kĩ thuật đang phát triển như vũ bão, nhiều nước nhanh chóng sản xuất

Page 179: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

175

hàng loạt vũ khí hiện đại, đa dạng hóa phương tiện chiến tranh. Thực tế một số cuộc

chiến tranh trong những thập kỉ gần đây (Iraq năm 1991 và 2003, Kosovo năm

1999, Apganixtan năm 2001, …) cho thấy, ngoài việc sử dụng những căn cứ không

quân ở các nước láng giềng, áp sát gần các mục tiêu (như đối với Việt Nam Dân chủ

cộng hòa trong chiến tranh phá hoại của Mỹ), sự kết hợp giữa máy bay ném bom

tầm xa với tên lửa hành trình phóng từ các tàu chiến ngoài khơi, tàu ngầm dưới biển

là xu thế phổ biến của chiến tranh hiện đại. Như ở Iraq, ngay từ đầu hệ thống phòng

không bị tê liệt, dẫn đến việc lực lượng liên quân do Mỹ đứng đầu chiếm ưu thế,

hoàn toàn làm chủ trên không, nhanh chóng đi đến kết thúc chiến tranh.

Ở Quảng Bình, từ trước ngày 7-2-1965, nhờ làm tốt công tác dự báo nên trong

cả hai nhiệm vụ phòng tránh và đánh trả đều luôn giành thế chủ động.

Trong phòng tránh, ngay từ cuối năm 1964, nhận định tình hình địch có khả

năng mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, cấp ủy Đảng và chính quyền tỉnh Quảng Bình

đã triển khai ngay nhiệm vụ chủ động phòng tránh. Tỉnh đã chủ động tổ chức sơ tán

toàn bộ thị xã Đồng Hới về miền Tây, vừa để giãn dân vào những địa hình an toàn,

vừa có điều kiện đảm bảo cuộc sống thời chiến. Ở tất cả các địa bàn trong tỉnh đều

xây dựng các phương án phòng tránh nhiều tuyến, vừa sơ tán, giãn dân, vừa xây dựng

hệ thống hầm hào, giao thông, đưa toàn bộ cuộc sống xuống dưới mặt đất, kết hợp

liên hoàn giữa hệ thống các hầm trú ẩn cá nhân, hầm chữ A, nhà hầm, với các công

sự chiến đấu của các lực lượng vũ trang và bán vũ trang. Đó là hình thức phòng ngự

tích cực, vừa phòng tránh, vừa đánh địch.

Trong chiến đấu, để giành thế chủ động mọi nơi, mọi lúc, mọi tình huống,

việc xây dựng lực lượng, sẵn sàng chiến đấu luôn đặt trong tình trạng báo động cao.

Do đó, dù Mỹ lợi dụng thời điểm trưa chủ nhật sau tết để tấn công nhưng quân dân

Quảng Bình không bị bất ngờ, kịp thời giáng trả, hạ nhiều máy bay và bắt sống

được phi công Mỹ, bảo vệ an toàn các trận địa. Rồi trong suốt diễn biến của cuộc

chiến đấu, nhờ làm tốt công tác ngụy trang, xây dựng trận địa nên tổn thất về lực

lượng phòng không thấp, bảo đảm cho lực lượng có thể chiến đấu lâu dài. Mặt khác,

từ các hoạt động tác chiến biển - đất liền của Mỹ trong chiến tranh phá hoại, có thể

Page 180: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

176

tìm thấy được những bài học có giá trị về hệ thống phòng thủ bờ biển, hải đảo, từ đó

hình thành thế trận phòng ngự bờ biển hải đảo, cũng như thế trận của chiến tranh

nhân dân nhằm bẻ gẫy và đánh bại mọi ý đồ sử dụng công nghệ hiện đại để tiến

hành chiến tranh xâm lược, xung đột khu vực, … Thực tế cho thấy, trong tương

quan lực lượng với ưu thế nghiêng hẳn về hải quân Mỹ như số lượng tàu chiến, hỏa

lực và tầm xa của pháo trên tàu, nhưng để đánh địch, ở Quảng Bình có sự hiệp đồng

rộng lớn của pháo binh bờ biển của bộ đội tỉnh, pháo của dân quân Ngư Thủy, pháo

nòng dài của Quân khu 4 và sử dụng cả không quân. Nhờ vậy, Quảng Bình trở

thành địa phương dẫn đầu miền Bắc về thành tích bắn cháy, bắn chìm tàu chiến Mỹ.

Trong tình hình biển Đông đang nóng bỏng hiện nay, nguy cơ uy hiếp từ phía biển

bởi những hành động như sử dụng đội tàu đánh cá hùng hậu tràn ngập ngư trường,

giàn khoan khổng lồ xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế, lực lượng bán vũ trang

nhiều lần tấn công tàu cá Việt Nam, hành động bồi đắp đảo nhân tạo, … Quảng

Bình do địa thế hẹp sẽ dễ trở thành mục tiêu đánh phá, uy hiếp, chia cắt nếu xảy ra

chiến sự. Do đó, đi đôi với công tác tình báo chiến lược, tình báo quân sự, tình báo

kinh tế, khả năng dự báo xu thế phát triển của vũ khí, năng lực quân sự các đối thủ

tiềm năng, kế hoạch xây dựng và bố trí lực lượng phòng thủ tại chỗ đủ sức đánh trả

và giành thắng lợi trước các cuộc tấn công từ trên không, trên biển phù hợp là hết

sức cấp thiết.

4.3.3. Gắn xây dựng thế trận với củng cố hệ thống chính trị và phát triển

kinh tế - xã hội để đảm bảo hậu cần tại chỗ cho chiến tranh nhân dân

Một trong những thành công của cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh

phá hoại ở Quảng Bình những năm 1965-1973 đó là xây dựng được một hệ thống

chính trị vững mạnh và năng động, tạo dựng được mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa

Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị, xã hội và quần chúng nhân dân. Đảng dựa

vào dân và dân tin ở Đảng. Nổi lên trong tập thể lãnh đạo địa phương là tinh thần

gương mẫu, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hết lòng vì sự nghiệp chung. Đảng bộ

cơ sở có nhiều sáng kiến, vận dụng sáng tạo đường lối của Trung ương sát hợp với

đặc điểm của địa phương, để dấy lên những khẩu hiệu và phong trào thi đua nổi

Page 181: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

177

tiếng, có tác dụng thúc đẩy các ngành, các địa phương và đơn vị hết mình vì sự

nghiệp chung giải phóng dân tộc. Chính đây là cơ sở để Quảng Bình đề xướng và

phát động phong trào thi đua “Hai giỏi”, có tiếng vang trong nước, trở thành điểm

khởi đầu, nhân rộng ra toàn quốc. Quảng Bình vinh dự được tôn vinh là quê hương

của phong trào “Hai giỏi”.

Phương châm “đâu khó có chỉ huy, đâu gian nguy có lãnh đạo” đã biểu hiện

rõ nét phẩm chất tiên phong, gương mẫu của người cán bộ, đảng viên Quảng Bình

trong những năm đánh Mỹ. Thực tiễn cho thấy, lòng tin của quần chúng vào Đảng

luôn được thể hiện bằng sự nhìn nhận những hành động cụ thể của cán bộ, đảng

viên ở cơ sở. Trong lãnh đạo và chiến đấu, hình ảnh của Bí thư Tỉnh ủy luôn có mặt

ở những “điểm nóng” để chỉ đạo các lực lượng ứng trực; các vị chỉ huy trong Ban

chỉ huy Tỉnh đội luôn có mặt tại các trận địa đánh máy bay và tàu chiến, trực tiếp

đưa các đơn vị vào chiến trường tham chiến. Trên mặt trận giao thông vận tải, các

thành viên trong Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Ủy ban Hành chính tỉnh luôn

“miệng nói tay làm”, bám sát cơ sở, xông xáo trong chiến đấu. Chính vì thế, nhân

dân có niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng sống chết vì Đảng, vì

sự nghiệp cách mạng. Như năm 1972, khi máy bay B.52 vào xã Sen Thủy, lãnh đạo

địa phương đặt vấn đề nên sơ tán để bảo vệ dân hay tổ chức trụ lại? Trước cân nhắc

đó, nhân dân Sen Thủy trả lời: Đi đâu cũng phải có Đảng, Đảng ở lại thì dân ở lại.

Có Đảng thì dù B.52 hay B.56 gì cũng không sợ [164, tr. 276]. Đây là một nguyên

nhân quan trọng để Đảng bộ địa phương tập hợp được sức mạnh của toàn dân, trụ

vững trong chiến tranh ác liệt, làm tròn sứ mệnh của mình trong sự nghiệp kháng

chiến. Tập thể lãnh đạo các cấp của tỉnh Quảng Bình hoàn toàn xứng đáng với lời

khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vừa qua sở dĩ tỉnh Quảng Bình trong hoàn cảnh

có khó khăn mà đã đạt được những kết quả tốt về sản xuất và chiến đấu, chủ yếu là

do cấp uỷ và cán bộ, đảng viên đã biết đi sát dân, mọi việc đều xuất phát từ lợi ích

của nhân dân, dựa vào dân và bàn bạc với dân. Các nơi khác cũng có thể làm tốt

được như tỉnh Quảng Bình, nếu biết đi đúng đường lối quần chúng, biết giáo dục,

Page 182: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

178

động viên và tổ chức quần chúng thực hiện đúng các chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước” [86, tr. 630-631].

Những thành công của Quảng Bình trong việc xây dựng hệ thống chính trị đã

tạo ra nền tảng xã hội vững chắc cho chiến tranh nhân dân. Chính hệ thống chính trị

vừa là người tổ chức ra thế trận chiến tranh nhân dân, vừa là nơi cung cấp sức mạnh

vật chất và tinh thần cho chiến tranh nhân dân và chính cũng là người vận hành,

phát huy sức mạnh tổng hợp của thế trận chiến tranh nhân dân trong chiến đấu,

đánh bại chiến tranh phá hoại tổng lực của đế quốc Mỹ.

Trong kháng chiến chống Mỹ, ở Quảng Bình khẩu hiệu “có Đảng, có dân, có

hầm, có hợp là có tất cả” thể hiện vai trò quyết định của thể chế và thiết chế chính

trị đảm bảo cho thắng lợi (nghĩa là có sự lãnh đạo của Đảng, có sức mạnh đoàn kết

toàn dân, có cơ sở quốc phòng được chuẩn bị sẵn sàng và có kinh tế hợp tác xã là có

thể đảm bảo thắng lợi).

Trên cơ sở hệ thống chính trị vững mạnh, Quảng Bình đã đứng vững trong cơn

thử thách hiểm nghèo khi xây dựng được hậu phương tại chỗ, với nền sản xuất đa

dạng và ngày càng phát triển trong điều kiện chiến tranh. Trong 8 năm tiến hành

cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, đế quốc Mỹ không chỉ đánh phá

thường xuyên trên diện rộng mà còn tập trung đánh điểm, đánh khu vực, tập trung

đánh phá có giới hạn từ vĩ tuyến 20, vĩ tuyến 18 trở vào. Chính vì vậy, có những

thời gian, nhiều địa bàn ở Quảng Bình tạm thời bị cô lập, sự chi viện về nguồn lực

hậu cần của Trung ương cho Quảng Bình có lúc không vào đến và chỉ vào đến

Quảng Bình một khối lượng không đủ cung ứng cho các lực lượng thường trực

chiến đấu. Thực tế đó đặt ra nhiệm vụ phải giành thế chủ động về nguồn lực hậu

cần quân đội và đời sống nhân dân bằng việc xây dựng hậu cần tại chỗ. Trong bối

cảnh đó, Quảng Bình đã chủ trương xây dựng nền kinh tế thời chiến với 3 nhiệm vụ

chủ yếu: dù chiến tranh ác liệt đến mấy cũng quyết tâm duy trì sản xuất nông

nghiệp, giữ vững các chỉ tiêu sản xuất về diện tích, năng suất, sản lượng, trong đó

quyết tâm sản xuất lương thực bằng mọi giá để đảm bảo tự túc lương thực; phát

triển công nghiệp địa phương với 2 nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất nông, công cụ và

Page 183: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

179

sản xuất hàng hóa thiết yếu cung cấp cho nhân dân; huy động mọi nguồn lực đảm

bảo lưu thông phân phối để cân bằng cuộc sống của nhân dân và cung ứng cho lực

lượng chiến đấu. Mọi hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu trên dựa trên sức

mạnh của kinh tế tập thể mà hợp tác xã là nòng cốt.

Trên lĩnh vực nông nghiệp, thực hiện chủ trương xây dựng hậu cần tại chỗ cho

chiến tranh nhân dân, trong suốt 8 năm diễn ra cuộc chiến tranh phá hoại, hầu như

mặt trận sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp luôn nóng bỏng. Phong trào thi đua với

Hợp tác xã Đại Phong có từ trước chiến tranh đã được đẩy lên đỉnh cao mới, xuất

hiện những điển hình mới. Hợp tác xã Cự Nẫm, đơn vị anh hùng ngành nông

nghiệp, Hợp tác xã Quang Phú, đơn vị anh hùng ngành thủy sản, các hợp tác xã

Phúc Lý, Xuân Trung, Lộc An, ... và nhiều điển hình sản xuất nông, lâm, ngư

nghiệp khác dù bị địch đánh phá thường xuyên và ác liệt vẫn tổ chức thâm canh sản

xuất, khai hoang, phục hóa, xây dựng những mô hình kinh tế thời chiến năng động,

đảm bảo đạt diện tích, năng suất và sản lượng, vừa tự túc được lương thực, thực

phẩm cho nhân dân, vừa cung ứng cho các lực lượng chiến đấu.

Từ nền kinh tế thuần nông, qua 8 năm chiến tranh, Quảng Bình xây dựng được

cơ cấu kinh tế đa dạng, trong đó nổi bật nhất là sự phát triển của công nghiệp địa

phương. Từ chỗ hầu như chưa có gì đáng kể, với sự hỗ trợ lớn từ Trung ương và các

bộ ngành, Quảng Bình xây dựng được 35 nhà máy các loại, đưa số công nhân tăng

gấp 7 lần so với trước chiến tranh, đảm bảo sản xuất được những mặt hàng thiết yếu

phục vụ sản xuất, chiến đấu và đời sống nhân dân. Thực tế đó cho thấy rằng, trong

mọi hoàn cảnh, việc đẩy mạnh phát triển kinh tế địa phương toàn diện, không chỉ để

nâng cao đời sống nhân dân, góp phần vào sự nghiệp “dân giàu nước mạnh” mà

sâu xa hơn là còn để có tiềm lực sẵn sàng cho những tình huống bất trắc xảy ra, địa

phương vẫn có thể tự đứng vững.

Page 184: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

180

KẾT LUẬN

1. Từ đầu những năm 1960, đế quốc Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa

đã có nhiều hoạt động công khai và ngấm ngầm, đặc biệt là gây ra sự kiện vịnh Bắc

Bộ (8-1964) để lấy cớ gây chiến tranh chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng

2-1965, đế quốc Mỹ chính thức mở rộng chiến tranh bằng cách tấn công tổng lực cả

đường không và đường biển. Quảng Bình có vị trí chiến lược về nhiều mặt, đã cùng

với Vĩnh Linh gánh vác sứ mệnh là tuyến đầu miền Bắc, hậu phương lớn của cách

mạng miền Nam, trực tiếp là chiến trường Trị - Thiên, vừa trung tâm đầu mối của

tất cả các tuyến đường chi viện chiến trường miền Nam, Lào và Campuchia. Do đó,

đế quốc Mỹ chọn nơi đây làm trọng điểm ngăn chặn có tính chiến lược. Quảng Bình

là nơi “tụ hội” những mục tiêu, phương thức tiến hành, những lực lượng không

quân và hải quân, những loại vũ khí hiện đại nhất của cuộc chiến tranh ngăn chặn

và phong tỏa nhằm hủy diệt và cắt đứt đầu mối của những tuyến đường chiến lược

chi viện cách mạng miền Nam. Mỹ đã huy động một lực lượng máy bay, tàu chiến

hùng hậu ngày càng hiện đại kết hợp với thủ đoạn chiến tranh tâm lí và hoạt động

biệt kích để chống lại một quốc gia có chủ quyền. Liên tục gần ba ngàn ngày đêm

(7-2-1965 - 15-1-1973), trên diện tích hơn 8.000 km2, hơn 1 triệu tấn bom đạn đã

trút xuống tàn phá toàn bộ 133 xã phường, 459 thôn, trong đó có 31 xã và 252 thôn

bị hủy diệt, thị xã Đồng Hới và thị trấn Ba Đồn bị san phẳng. Với quy mô và mức

độ đánh phá đó, thật khó hình dung làm thế nào để quân dân Quảng Bình có thể

vượt qua, tồn tại và chiến thắng, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Thực tế

đã cho thấy vùng đất Quảng Bình là nơi chiến tranh diễn ra khốc liệt nhất, đặt nhân

dân Quảng Bình trước những thử thách lớn lao nhất.

2. Để hoàn thành sứ mệnh và trọng trách lịch sử, nhân dân Quảng Bình đã

phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vận dụng sáng tạo đường lối quân

sự của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa phương để hình thành thế trận chiến tranh

nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế

quốc Mỹ. Thế trận đó được xây dựng trên ba nền tảng xã hội là sự lãnh đạo của các

Page 185: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

181

tổ chức Đảng, vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang và sự tham gia của các tầng

lớp nhân dân, với 3 nhiệm vụ cơ bản là sản xuất để đảm bảo tiềm lực mọi mặt cho

chiến tranh, chiến đấu để đập tan mọi phiêu lưu quân sự của kẻ thù và đảm bảo

tuyến chi viện chiến lược cho chiến trường miền Nam. Cả ba nhiệm vụ cơ bản đó

tạo nên một chính thể của thế trận chiến tranh nhân dân đối đầu với chiến tranh phá

hoạt tổng lực và nhiều mặt của đế quốc Mỹ.

Về mặt kinh tế, với phương châm xây dựng hậu cần tại chỗ cho chiến tranh

nhân dân trong điều kiện đế quốc Mỹ đánh phá, chia cắt và phong tỏa, nhân dân

Quảng Bình vẫn kiên trì “bám hố bom sản xuất, bám hố bom thâm canh”, quyết

tâm sản xuất đủ lương thực đảm bảo đời sống nhân dân, cung ứng kịp thời cho các

đơn vị chiến đấu trên địa bàn và chi viện cho chiến trường với tinh thần “bát cơm

xẻ nửa, hạt gạo chia ba” 1.

Về mặt quân sự, dựa trên cơ sở lực lượng vũ trang ba thứ quân, nhất là lực

lượng dân quân tự vệ tại chỗ được xây dựng ngày càng đông về số lượng và tăng

cao về chất lượng, với sự hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ của bộ đội chủ lực và độ đội

địa phương, Quảng Bình nhanh chóng chuyển mọi hoạt động sản xuất và sinh hoạt

sang thời chiến, đẩy mạnh công tác phòng không nhân dân, tiến hành sơ tán - giãn

dân và phòng tránh tại chỗ nhằm đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản của nhà nước

và nhân dân. Thế trận chiến tranh nhân dân thiết lập trên 3 nhiệm vụ xây dựng hậu

cần tại chỗ, phòng tránh, đánh địch và đảm bảo giao thông chi viện chiến trường,

trên cả 3 mặt trận đánh địch trên bộ, đánh địch trên không và trên biển. Đội hình

chiến đấu trong thế trận chiến tranh nhân dân rất đa dạng, bao gồm bộ đội chủ lực

làm nhiệm vụ bảo vệ địa bàn, bộ đội chủ lực trên đường hành tiến vào chiến trường,

bộ đội chủ lực Quân khu 4, dân quân tự vệ làm nhiệm vụ thường trực chiến đấu, các

đơn vị bán vũ trang cơ động chiến đấu, thanh niên xung phong và dân công hỏa

tuyến vừa làm nhiệm vụ chi viện chiến trường vừa hiệp đồng chiến đấu, các tầng

lớp nhân dân vừa đảm trách hậu cần cho chiến tranh nhân dân, vừa trực tiếp đánh

1. Nửa cho hậu phương, nửa cho chiến trường. Chia ba chiến trường Việt Nam, Lào và

Campuchia.

Page 186: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

182

địch. Tất cả đều nhằm mục đích cao nhất là đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của

Mỹ, đảm bảo công tác vận tải chi viện chiến trường được thông suốt. Do đó, cuộc

chiến để mở đường, bảo vệ đường và sửa chữa thông đường diễn ra hết sức ác liệt.

Hàng triệu ngày công và biết bao xương máu đã đổ xuống để các tuyến đường luôn

được lưu thông, phá tan âm mưu ngăn chặn, phong tỏa của đế quốc Mỹ. 704 máy

bay và 86 tàu chiến Mỹ bị tiêu diệt là câu trả lời đích đáng của quân dân Quảng

Bình dành cho kẻ xâm lược. Trong khi cuộc chiến đấu tại chỗ đang diễn ra quyết

liệt như thế, nhân dân Quảng Bình còn làm tốt nghĩa vụ hậu phương, nỗ lực tối đa

chi viện sức người, sức của cho chiến trường Trị - Thiên và hỗ trợ cách mạng Lào

phát triển, góp phần đi đến giải phóng và giữ vững vùng giải phóng Quảng Trị năm

1972. Có thể khẳng định, với tất cả những gì đã làm được trong cuộc chiến tranh

nhân dân chống chiến tranh phá hoại những năm 1965-1973, quân và dân Quảng

Bình đã vươn đến đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Từ trong chiến

tranh, nhiều cá nhân và tập thể, nhiều khẩu hiệu và phong trào thi đua sản xuất,

chiến đấu và phục vụ chiến đấu của Quảng Bình trở thành hình mẫu và lí tưởng

sống của cả dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vừa qua.

3. Thắng lợi của cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở

Quảng Bình những năm 1965-1973 là kết quả hợp thành của nhiều nhân tố. Đó là,

đường lối lãnh đạo của Trung ương Đảng và sự quan tâm sâu sát của Trung ương,

Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Quảng Bình; sự vận dụng sáng tạo của

các cấp uỷ Đảng, chính quyền tỉnh Quảng Bình vào điều kiện cụ thể của địa

phương, sự chi viện hết lòng về sức người, sức của từ hậu phương miền Bắc; truyền

thống đấu tranh anh dũng của vùng đất được phát huy, nâng lên thành chủ nghĩa

anh hùng cách mạng với tinh thần vượt khó, sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân vì độc

lập dân tộc cùng khả năng sáng tạo độc đáo của quần chúng nhân dân.

Điểm nổi bật trong thế trận chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình chính là sự

kết hợp khéo léo và phát huy tối đa các nguồn lực kinh tế và quốc phòng, nguồn lực

trung ương và địa phương, nguồn lực tại chỗ và nguồn lực chi viện, ... tạo nên sức

mạnh tổng hợp để huy động cao nhất vào cuộc chiến đấu đánh thắng chiến tranh

Page 187: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

183

phá hoại của đế quốc Mỹ. Vì thế, có thể nhìn thấy trong thế trận của chiến tranh

nhân dân ở Quảng Bình hình ảnh thu nhỏ của cả nước đang vào trận. Thế trận chiến

tranh nhân dân ở Quảng Bình là mẫu hình thực tiễn sinh động, tiêu biểu, ở đó,

đường lối và nghệ thuật quân sự của Đảng, truyền thống và tri thức quân sự của dân

tộc được khai thác và vận dụng trong mọi hoạt động thực tiễn để tạo lập thế trận

chiến tranh nhân dân đánh thắng quân thù.

4. Từ cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình có

thể rút ra nhiều bài học có giá trị thực tiễn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc, nhất là trong tình hình hiện nay chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời,

vùng biển đang bị xâm phạm nghiêm trọng. Cùng với việc tập trung phát triển kinh

tế để tạo sức mạnh quốc gia, bên cạnh tăng cường lực lượng quân sự ngày càng hiện

đại nhằm đối phó với những hình thức chiến tranh công nghệ cao có thể xảy ra,

quan trọng hơn đó là thế trận quốc phòng toàn dân cần được củng cố hơn nữa.

Muốn vậy, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nhằm thắt chặt hơn nữa niềm tin

của quần chúng nhân dân vào người cầm quyền, để Đảng xứng tầm với vai trò lãnh

đạo của mình cần được đẩy mạnh và thực chất hơn. Thực tế lịch sử đã cho thấy: Khi

cả dân tộc cùng nhìn về một hướng, không một thế lực nào có thể áp đảo được

người Việt Nam.

Cuộc chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ

ở miền Bắc nói chung, trên địa bàn Quảng Bình nói riêng đã khép lại hơn 4 thập kỉ

nhưng những chiến công và kì tích của nhân dân Quảng Bình trong kháng chiến

chống Mỹ, đặc biệt là những thành công trong việc xây dựng thế trận chiến tranh

nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đã, đang và mãi mãi sẽ là

bài học quý báu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay cũng như cả

trong tương lai.

Page 188: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

184

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Bố Trạch (2005), Lịch sử Đảng bộ huyện Bố

Trạch, tập 2 (1954-1975), Xí nghiệp in Quảng Bình.

2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Lệ Thủy (2000), Lịch sử Đảng bộ huyện Lệ

Thủy, tập 2 (1954-1975), Xí nghiệp in Quảng Bình.

3. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quảng Ninh (2001), Lịch sử Đảng bộ huyện

Quảng Ninh, tập 2 (1954-1975), Sơ thảo, Xí nghiệp in Quảng Bình.

4. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quảng Trạch (2005), Lịch sử Đảng bộ huyện

Quảng Trạch, tập 2 (1954-1975), Xí nghiệp in Quảng Bình.

5. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Tuyên Hóa (2006), Lịch sử Đảng bộ huyện

Tuyên Hóa, tập 2 (1954-1975), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1964), Chỉ thị tăng cường cảnh

giác, tích cực phòng, chống hoạt động gián điệp biệt kích xâm nhập phá hoại

vùng ven biển và biên giới tỉnh ta, số 5 CT/TV, ngày 20-3-1964, Phòng Lưu

trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

7. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1964), Nghị quyết về tăng cường

công tác sẵn sàng chiến đấu, số 5/NQ/TV.TU, ngày 23-7-1964, Phòng Lưu

trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

8. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1964), Báo cáo quá trình thực hiện

chỉ thị của Trung ương về tăng cường sẵn sàng chiến đấu chống mọi âm mưu

của địch khiêu khích phá hoại miền Bắc, số 142BC/TU, ngày 23-8-1964,

Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

9. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1965), Thông tri bổ sung một số

điểm về nội quy phòng thủ, số 2 TT/TU.QB, ngày 25-1-1965, Phòng Lưu trữ,

Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

10. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1965), Nghị quyết số 5/NQ-QB về

tình hình và nhiệm vụ trước mắt, ngày 28-6-1965, Phòng Lưu trữ, Văn phòng

Tỉnh ủy Quảng Bình.

Page 189: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

185

11. Ban Chấp hành Tỉnh Đảng bộ Quảng Bình (1965), Biên bản hội nghị Ban quân

sự Tỉnh ủy, ngày 29-9-1965, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

12. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1965), Báo cáo tình hình 3 tháng 7,

8, 9-1965, số 17/BC-QB, ngày 13-10-1965, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh

ủy Quảng Bình.

13. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1965), Nghị quyết của Tỉnh ủy về

những chuyển biến mới của tình hình trong 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ

trước mắt của tỉnh ta, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

14. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1965), Báo cáo công tác trong năm

1965, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

15. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1966), Đẩy mạnh cao trào thi đua

chống Mỹ cứu nước, ra sức xây dựng tiềm lực kinh tế và quốc phòng tỉnh ta

lớn mạnh về mọi mặt, cố gắng làm tròn trách nhiệm của mình đối với sự

nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Báo cáo

công tác tại Hội nghị cán bộ toàn tỉnh ngày 12-3-1966, Phòng Lưu trữ, Văn

phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

16. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1966), Nghị quyết của Hội nghị

Thường vụ về việc chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, ngày 6-8-1966, Phòng Lưu

trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

17. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1966), Báo cáo tình hình tháng 10-

1966, số 11-BC/QB, ngày 3-11-1966, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy

Quảng Bình.

18. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1967), Báo cáo tổng kết năm 1966

trong hội nghị Tỉnh ủy ngày 20-3-1967, số 04BC/QB, Phòng Lưu trữ, Văn

phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

19. Ban Chấp hành Tỉnh ủy Quảng Bình (1967), Chỉ thị về việc tăng cường hơn

nữa công tác chiến đấu và phòng không trong tình hình mới, số 06-CT/QB,

ngày 28-6-1967, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

Page 190: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

186

20. Ban Chấp hành Tỉnh ủy Quảng Bình (1967), Chỉ thị về việc tăng cường công

tác phòng chống gián điệp biệt kích và khẩn trương chuẩn bị đầy đủ nhất về

mọi mặt chủ động đánh bại mọi cuộc tập kích đổ bộ của địch, số 12CT/QB,

ngày 2-12-1967, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

21. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1967), Nghị quyết của Thường vụ

Tỉnh ủy về đảm bảo giao thông vận tải trong tình hình mới, số 01 NQ/QB,

ngày 7-12-1967, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

22. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1968), Thắng lợi to lớn trong ba

năm chống Mỹ cứu nước và nhiệm vụ trước mắt của tỉnh ta, số 01BC/QB. Báo

cáo tổng kết công tác trong kì họp 1 - 5-4-1968, Phòng Lưu trữ, Văn phòng

Tỉnh ủy Quảng Bình.

23. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1968), Vinh dự to lớn và trách

nhiệm nặng nề (Báo cáo của Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình trong Đại hội mừng

công ngày 2-9-1968), Ty Thông tin Quảng Bình xuất bản.

24. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1968), Nghị quyết của Tỉnh ủy

Quảng Bình, số 07/TU-QB, ngày 13-11-1968, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh

ủy Quảng Bình.

25. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1969), Thông báo của Tỉnh ủy

Quảng Bình về tình hình tháng 1-1969, số 01/TB-TU, tháng 1-1969, Phòng

Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

26. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1969), Nghị quyết đánh giá tình

hình 4 năm chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt là năm 1968 và phương hướng

nhiệm vụ năm 1969, số 01, ngày 19-3-1969, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh

uỷ Quảng Bình.

27. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1969), Thông báo của Tỉnh ủy

Quảng Bình về “Tình hình quý I-1969”, số 05/TB-TU, ngày 12-4-1969, Phòng

Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

Page 191: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

187

28. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1969), Báo cáo của Tỉnh ủy Quảng

Bình về tình hình Quý III-1969, số 14/BC-TU, ngày 05-10-1969, Phòng Lưu

trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

29. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1969), Báo cáo của Tỉnh ủy Quảng

Bình, số 497/BC-TU, ngày 15-11-1969, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy

Quảng Bình.

30. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1970), Nghị quyết của Tỉnh ủy

Quảng Bình về tình hình 6 tháng đầu năm 1970, số 05/NQ-TU, ngày 15-7-

1970, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

31. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1972), Thông báo của Tỉnh ủy

Quảng Bình, số 41/TB-TU, ngày 3-5-1972, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh

ủy Quảng Bình.

32. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình, Dự thảo Nghị quyết số 12 của

Thường vụ Tỉnh ủy về việc tập trung lực lượng, tăng cường lãnh đạo, quyết

tâm bảo vệ và đảm bảo giao thông vận tải trong tình hình mới, ngày 21-6-

1972, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

33. Ban Chấp hành Đảng bộ Quảng Bình (2000), Lịch sử Đảng bộ Quảng Bình,

tập II, 1954-1975, Đồng Hới.

34. Ban Chấp hành Đảng bộ khối cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh Quảng Bình

(2010), Lịch sử Đảng bộ khối cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh Quảng Bình, tập

1 (1946-2005), Đồng Hới.

35. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (1965), Chỉ thị về việc

tích cực đối phó với âm mưu tung gián điệp biệt kích hàng loạt, tập kích, kích

động gây bạo loạn phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ và tay sai, Phòng Lưu

trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.

36. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết

cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

Page 192: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

188

37. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh

cách mạng Việt Nam 1945-1975. Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

38. Ban Điều tra tội ác chiến tranh tỉnh Quảng Bình (1975), Thống kê khối lượng

bom đạn của máy bay các loại và tàu chiến của đế quốc Mỹ đã dội xuống Quảng

Bình từ 5-8-1964 đến 1-11-1973, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

39. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Quảng Bình (1975), Quảng Bình ơn Bác,

Xưởng in Quảng Bình.

40. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng và Ty Thông tin - Văn hóa Bình - Trị - Thiên

(1977), Bác Hồ với Bình - Trị - Thiên, Nxb Thuận Hóa, Huế.

41. Ban Phụ trách Kế hoạch 8 Trung ương, Báo cáo sơ kết việc thực hiện Kế

hoạch 8, ngày 15-11-1967, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Hà Nội. Phông

Phủ Thủ tướng, hộp số 614, hồ sơ số 14.730.

42. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Quảng Bình (2012), Ban Tổ chức Tỉnh ủy Quảng Bình

80 năm xây dựng và trưởng thành (1930-2010), Đồng Hới.

43. Ban 67 (Tổng Công ty Xây dựng Công trình 5) (2001), Cùng năm tháng với

những con đường, Nxb Đà Nẵng.

44. Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng Quảng Bình (1998), Lịch sử Bộ đội biên phòng

Quảng Bình, tập 1 (1959-1995), Xưởng in Quảng Bình.

45. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình (1969), Báo cáo tại Đại hội quyết thắng

1965-1968, Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.

46. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình (1972), Nhật ký trực ban tác chiến năm

1972, Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.

47. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình (1973), Nhật ký trực ban tác chiến

tháng 1-1973, Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.

48. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình (1973), Nhật ký trực ban tác chiến năm

1972-1973, Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.

Page 193: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

189

49. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình (1975), Báo cáo tổng kết Đại hội mừng

công 10 năm thắng Mỹ của lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Bình (1965-1975),

Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.

50. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình (2003), Hồ sơ Hội thảo nhân chứng lịch

sử Quảng Bình chống Mỹ cứu nước do Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Bình

tổ chức ngày 19-2-1993, Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.

51. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình (2004), Lịch sử lực lượng vũ trang nhân

dân tỉnh Quảng Bình (1945-1975), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

52. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Bình (2005), Những trận đánh tiêu biểu của

lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Quảng Bình 1945-1975, tập 1.

53. Bộ Giao thông vận tải (1968), Quyết định bổ sung Trạm vận tải thống nhất

Vĩnh - Bình vào Ty Giao thông vận tải Quảng Bình, Chi cục Văn thư Lưu trữ

tỉnh Quảng Bình.

54. Bộ Giao thông vận tải (2002), Lịch sử Giao thông vận tải Việt Nam, Nxb.

Giao thông vận tải, Hà Nội.

55. Bộ Lao động (1966), V/v phổ biến kinh nghiệm lái xe an toàn trong tình hình

địch bắn phá, số 06/LĐ-BH, ngày 6-1-1966, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh

Quảng Bình.

56. Bộ Quốc phòng (1991), Lịch sử Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam

1945-1975, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

57. Bộ Quốc phòng (1992), Lịch sử vận tải Quân đội nhân dân Việt Nam (1945-

1975), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

58. Bộ Quốc phòng (2009), Quốc phòng Việt Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

59. Bộ Tham mưu Quân khu 4 – Phòng Quân báo (1967), Báo cáo tình hình địch

năm 1967, số 35, ngày 5-12-1967, Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh

Quảng Bình.

60. Bộ Tổng Tham mưu (1964), Dự thảo nguyên tắc chiến đấu cơ bản của dân

quân du kích ở làng chiến đấu, số 148/G7, ngày 25-6-1964, Phòng lưu trữ Bộ

Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.

Page 194: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

190

61. Bộ Tổng tham mưu (1974), Tổng kết cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến

tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh

Quảng Bình.

62. Bộ Tổng Tham mưu (2001), Tổng kết chiến tranh nhân dân: Chuyên đề chỉ

đạo xây dựng và hoạt động chiến đấu của lực lượng phòng không địa phương

chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc (1954-1975), Nxb.

Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

63. Bộ Tổng Tham mưu (2001), Tổng kết chiến tranh nhân dân địa phương:

Chuyên đề Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể và

cơ quan quân sự địa phương trên địa bàn Quân khu 4 trong kháng chiến

chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1946-1975), Nxb. Quân đội Nhân dân,

Hà Nội.

64. Bộ Tư lệnh Hải quân (2005), Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam 1955-

2005, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

65. Bộ Tư lệnh Quân khu 4 - Cục Hậu cần (2007), Lịch sử hậu cần lực lượng vũ

trang Quân khu 4 (1945-2005), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

66. Bộ Tư lệnh Quân khu 4 (2012), Lịch sử dân quân tự vệ Quân khu 4 (1945-

2010), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

67. Bộ Tư lệnh Quân khu 4 (2015), Lịch sử Quân khu 4 (1945-2015), tập 2: Thời

kì kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), tái bản bổ sung lần 1, Nxb.

Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

68. Trần Bội (1965), Báo cáo tại đại hội thi đua “chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi”,

ngày 6 - 9-11-1965, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

69. Chi cục Thống kê Quảng Bình (1973), Số liệu thống kê tình hình phát triển

kinh tế - văn hóa tỉnh Quảng Bình, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

70. Chi cục Thống kê Quảng Bình (1974), 18 năm xây dựng nền kinh tế Quảng

Bình (số liệu tóm tắt), Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

Page 195: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

191

71. Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1968), Phát huy cao độ chủ

nghĩa anh hùng cách mạng, đẩy mạnh cao trào thi đua chống Mỹ, cứu nước,

hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống. Báo cáo tại Đại hội

thi đua “Chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi” lần thứ ba, từ ngày 7 đến ngày 14-4-

1968, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

72. Công an nhân dân vũ trang tỉnh Quảng Bình (1965), Phương án đề phòng khả

năng địch đánh lớn ra tỉnh Quảng Bình (trong tình huống II), số 281/BCH,

ngày 14-9-1965, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

73. Công an nhân dân vũ trang Quảng Bình (1967), Báo cáo số 131/TN, ngày 22-

11-1967. Phòng Lưu trữ Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng.

74. Công an nhân dân vũ trang tỉnh Quảng Bình (1967), Tổng kết phong trào thi

đua năm 1967, số 429/CT, ngày 22-12-1967, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh

Quảng Bình.

75. Công an Quảng Bình (2010), Âm vang chiến công, Đồng Hới.

76. Cục Chính trị Quân khu 4, Tổng kết công tác chính trị trong thời kì chống

chiến tranh phá hoại của các lực lượng vũ trang Quân khu 4, Phòng lưu trữ

Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.

77. Cục Chính trị Quân khu 4 (1974), Chiến tranh nhân dân đánh thắng hai thời

kì chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên địa bàn Quân khu 4 và những bài

học kinh nghiệm chủ yếu về công tác chính trị, Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy

Quân sự tỉnh Quảng Bình.

78. Cục Dân quân (1970), Dự thảo một số vấn đề chủ yếu về chiến tranh nhân dân

và công tác quân sự ở cơ sở, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

79. Cục Chính trị - Tổng cục xây dựng kinh tế (1979), Trận đồ bát quái xuyên

rừng rậm.

80. Lê Duẩn (2013), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa

xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh.

81. Lê Trọng Duận (2014), Nghiên cứu quá trình phát triển kinh tế hợp tác xã tỉnh

Quảng Bình từ năm 1946 đến nay, Liên minh hợp tác xã tỉnh Quảng Bình.

Page 196: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

192

82. Văn Tiến Dũng (1979), Chiến tranh nhân dân quốc phòng toàn dân, tập 2,

Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

83. Cảnh Dương, Đông A (2007), Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào

Bắc Việt Nam, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội.

84. Phan Hữu Đại - Nguyễn Quốc Dũng (đồng chủ biên), (1999), Lịch sử Đoàn 559

Bộ đội Trường Sơn đường Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

85. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 25 (1964),

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

86. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 26 (1965),

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

87. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 27 (1966),

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

88. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 28 (1967),

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

89. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 29 (1968),

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

90. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 30 (1969),

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

91. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 31 (1970),

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

92. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 32 (1971),

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

93. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 33 (1972),

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

94. Đảng ủy - Ban Chỉ huy Công an thành phố Đồng Hới (2005), Lịch sử Công an

nhân dân thành phố Đồng Hới 1945-2005, Xưởng in Quảng Bình.

95. Đảng ủy quân sự tỉnh Quảng Bình (2010), Lịch sử Đảng bộ quân sự tỉnh

Quảng Bình (1945-2010), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

Page 197: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

193

96. Phạm Văn Đồng (1990), Hồ Chí Minh - một con người, một dân tộc, một thời

đại, Nxb. Sự Thật, Hà Nội.

97. Phan Thị Trà Giang (2010), Phong trào “hai giỏi” ở Quảng Bình trong kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-1973, Luận văn Thạc sĩ Sử học,

Trường Đại học Sư phạm Huế.

98. Võ Nguyên Giáp (1970), Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta, Nxb.

Sự Thật, Hà Nội.

99. Võ Nguyên Giáp (1972), Nắm vững đường lối chiến tranh nhân dân đánh

thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Nxb. Sự Thật, Hà Nội.

100. Võ Nguyên Giáp (1979), Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo

vệ Tổ quốc Nxb. Sự Thật, Hà Nội.

101. Võ Nguyên Giáp (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng

Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

102. Trịnh Thị Lệ Hà (2014), “Phong trào xây dựng làng chiến đấu và những làng

chiến đấu tiêu biểu ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Pháp”, in trong

Báo cáo khoa học Hội thảo quốc gia về Quảng Bình 410 năm hình thành và

phát triển, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

103. Lê Hải (2004), Phi công tiêm kích, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

104. Trần Như Hiền (2016), Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ

hậu phương từ năm 1964 đến năm 1975, Luận án Tiến sĩ Lịch sử Đảng, Học

viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

105. Vũ Quang Hiển (2000), “Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở đồng bằng

Bắc Bộ trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954)”, Luận án Tiến sĩ Sử học,

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

106. Hoàng Chí Hiếu - Phạm Phúc Vĩnh (2013), “Đôi điều về Quảng Bình qua một

kế hoạch đặc biệt trong kháng chiến chống Mỹ”, in trong Kỉ yếu Hội thảo

quốc gia Danh nhân Quảng Bình, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

107. Vũ Đình Hiếu (2011), (lược dịch), Cuộc chiến bí mật, hồ sơ lực lượng biệt

quân ngụy, Nxb. Thời đại, Hà Nội.

Page 198: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

194

108. Nguyễn Huy Hiệu (2010), Một số vấn đề nghệ thuật quân sự trong chiến tranh

bảo vệ Tổ quốc, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

109. Lê Quang Hòa (1971), Mấy kinh nghiệm công tác quân sự địa phương ở Quân

khu 4, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

110. Vương Văn Hòa, “Đường ống xăng dầu Vinh - Ka Vát với tuyến vận tải chiến

lược ở Tây Trường Sơn”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 5-2009.

111. Đặng Văn Hoàn (2013), Lịch sử ngành tuyên giáo Quảng Bình giai đoạn

1930-2010, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Bình.

112. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Quảng Bình (1968), Báo cáo tổng kết phong trào

“3 đảm đang” trong 4 năm chống Mỹ cứu nước, Phòng Lưu trữ, Văn phòng

Tỉnh ủy Quảng Bình.

113. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Quảng Bình (1995), Lịch sử phong trào

đấu tranh cách mạng phụ nữ tỉnh Quảng Bình 1930-1975, sơ thảo.

114. Trịnh Vương Hồng - Hoàng Chí Hiếu (2014), “Quảng Bình với công tác đảm

bảo huyết mạch giao thông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, in

trong Báo cáo khoa học Hội thảo quốc gia về Quảng Bình 410 năm hình thành

và phát triển, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

115. Trần Thị Hương (2007), Đấu tranh chống chính sách di cư của Mỹ - Diệm

ở Quảng Bình (1954-1957), Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Sư

phạm Huế.

116. Đỗ Mạnh Hùng (2014), “Đặc điểm Cách mạng tháng Tám ở Quảng Bình”, in

trong Báo cáo khoa học Hội thảo quốc gia về Quảng Bình 410 năm hình thành

và phát triển, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

117. Gabriel Kolko (2003), Giải phẫu một cuộc chiến tranh - nước Mỹ và kinh

nghiệm chiến tranh hiện đại), Người dịch: Nguyễn Tấn Cưu, Nxb. Quân đội

Nhân dân, Hà Nội.

118. Nguyễn Thế Kỷ - Nguyễn Sĩ Cứ (chủ biên), (2009), Trường Sơn đường khát

vọng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

119. Đinh Xuân Lâm (1992), “Lịch sử Việt Nam 1858-1945”, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

Page 199: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

195

120. Liên đoàn Lao động tỉnh Quảng Bình (1998), Lịch sử phong trào công nhân

và công đoàn tỉnh Quảng Bình, tập 1 (1885-1975), Đồng Hới.

121. Đoàn Thị Lợi (2004), Đường Hồ Chí Minh con đường huyền thoại, Nxb. Quân

đội Nhân dân, Hà Nội.

122. Lê Văn Lợi (1977), Đảng bộ Quảng Bình lãnh đạo quân và dân toàn tỉnh

đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên mặt trận đảm bảo giao

thông vận tải (1965-1968), Luận văn tốt nghiệp ngành lịch sử Đảng, Trường

Đại học Tổng hợp Hà Nội.

123. Thái Thị Lợi (2007), Lực lượng thanh niên xung phong tỉnh Quảng Bình trong

kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-1975), Luận văn Thạc sĩ Sử học,

Trường Đại học Sư phạm Huế.

124. Lại Văn Ly (1993), Tuyến lửa những năm tháng sôi động, Sở Giao thông Vận

tải Quảng Bình xuất bản.

125. Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, … (1966), Bàn về chiến tranh nhân

dân và lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội

126. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6 (1950-1952), Xuất bản lần thứ hai, Nxb.

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

127. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11 (1963-1966), Xuất bản lần thứ hai,

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

128. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12 (1966-1969), Xuất bản lần thứ hai,

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

129. Nxb. Chính trị Quốc gia (2008), Chiến tranh Việt Nam là thế đó những năm

1965-1973, Hà Nội.

130. Nxb. Quân đội Nhân dân (1976), Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về chiến tranh

và quân đội, Hà Nội.

131. Nxb. Quân đội Nhân dân (2001), Mặt trận giao thông vận tải trên địa bàn

Quân khu 4 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hà Nội.

132. Nhiều tác giả (1999), Đường 20 quyết thắng, Nxb. Giao thông vận tải, Hà Nội.

Page 200: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

196

133. Đồng Sỹ Nguyên (1999), Đường xuyên Trường Sơn, Nxb Quân đội nhân dân,

Hà Nội.

134. Phủ Thủ tướng, Công văn tuyệt mật số 230 NN/TM về vấn đề đưa một số đồng

bào giới tuyến Vĩnh Linh ra, gửi các tỉnh từ Nghệ An vào Vĩnh Linh và một số

bộ ngành Trung ương, ngày 4-10-1967, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Hà

Nội, Phông Phủ Thủ tướng, hộp số 614, hồ sơ số 14. 730.

135. Phủ Thủ tướng (1972), Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thống

nhất chỉ huy công tác giao thông vận tải ở khu 4 cũ chi viện tiền tuyến theo

hướng quân sự hóa những khâu tổ chức và công tác cần thiết, số 303-Ttg,

ngày 30-11-1972, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

136. Quân khu 4 (1972), Dự thảo tổng kết chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến

tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1965-1968), Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh

Quảng Bình.

137. Quân khu 4 (2005), Tổng kết chiến thuật trong kháng chiến chống thực dân

Pháp và đế quốc Mỹ của lực lượng vũ trang Quân khu 4 (1945-1975), Nxb.

Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

138. Quân khu ủy Quân khu 4 (1965), Nghị quyết của Quân khu ủy về tình hình và

nhiệm vụ của quân khu để đảm bảo chuyển các lực lượng vũ trang sang thời

chiến, số 234/NQ, ngày 22-5-1965, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

139. Quân khu ủy 4 (1975), Dự thảo tổng kết chiến tranh nhân dân đánh thắng

chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên chiến trường Quân khu 4 1965-

1972, số 729, ngày 7-10-1975, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

140. Quân ủy Trung ương (1965), Tình hình quân sự 6 tháng qua và chủ trương

trong thời gian tới, số 103/QU, ngày 30-7-1965, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh

Quảng Bình.

141. Quân ủy Trung ương (1966), Chỉ thị về công tác xây dựng làng chiến đấu ở

đồng bằng, bản chiến đấu ở miền núi, khu phố chiến đấu và hải đảo chiến

đấu, ngày 25-3-1966, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

Page 201: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

197

142. G. Sharp (1970), Báo cáo về những chiến dịch đánh phá miền Bắc Việt Nam

bằng không quân, hải quân và sự yểm trợ của Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương

(6-1964 – 7-1968). Ban biên tập sách kinh nghiệm phòng không - không quân

dịch và xuất bản.

143. Richard H.Shultz (2002), Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội, Dịch giả: Hoàng

Anh Tuyên, Hiệu đính: Anh Thái, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

144. Hùng Sơn - Lê Khai (chủ biên) (1992), Đường Hồ Chí Minh qua Bình Trị

Thiên, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

145. Sở Giao thông Vận tải tỉnh Quảng Bình (1999), Lịch sử Giao thông vận tải

tỉnh Quảng Bình 1885-1999, Nxb. Giao thông Vận tải, Hà Nội.

146. Sở Giao thông Vận tải Quảng Bình (2015), Lịch sử Giao thông vận tải tỉnh

Quảng Bình (1945-2015), Nxb. Giao thông Vận tải, Hà Nội.

147. Sở Y tế Quảng Bình (1996), Lịch sử Y tế Quảng Bình 1945-1995, Đồng Hới.

148. Nguyễn Công Sự (2014), Lịch sử ngành Kiểm tra Đảng tỉnh Quảng Bình từ

năm 1948 đến năm 2013, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Quảng Bình.

149. Trần Sự (2008), Tháng ngày chưa xa, hồi ức, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

150. Chu Văn Tấn (1969), Chỉ đạo tốt chiến tranh nhân dân ở địa phương trong sự

nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Dân tộc, Việt Bắc.

151. Nguyễn Khắc Thái (1977), Đảng bộ Quảng Bình lãnh đạo công tác xây dựng

lực lượng dân quân tự vệ trong những năm chống Mỹ (1965-1968), Luận án

tốt nghiệp ngành Lịch sử Đảng, Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội.

152. Nguyễn Khắc Thái (2014), Lịch sử Quảng Bình, Nxb. Chính trị - Hành chính,

Hà Nội.

153. Nguyễn Khắc Thái (2015), “Sơn triều trong lòng dân”, Tạp chí Lịch sử Quân

sự, số 7.

154. Hoàng Minh Thảo (2004), Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong chiến tranh

giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

155. Nguyễn Tư Thoan (1965), Mấy kinh nghiệm vừa sản xuất vừa chiến đấu của

Quảng Bình, Nxb. Sự Thật, Hà Nội.

Page 202: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

198

156. Nguyễn Tư Thoan (1969), Bài nói chuyện trong Đại hội thi đua “chiến đấu

giỏi, sản xuất giỏi” của quân và dân toàn tỉnh, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh

Quảng Bình.

157. Hữu Thọ - Nguyễn Sinh (2015), “Công bằng cho một người đáng tin yêu, kính

trọng”, in trong Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình thời đất lửa, tái bản có bổ sung,

Nxb. Thuận Hóa, Huế.

158. Nguyễn Hữu Thông (2014), “Biên lực trong sinh tồn”, Kỉ yếu Hội thảo Quốc

gia Danh nhân Quảng Bình, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

159. Ngô Đình Thủ (1972), “Đường 050 - đường chiến thắng”, Báo Quảng Bình, số

845 (3-6-1972), số 846 (4-7-1972).

160. Nguyễn Trung Thực (2011), Nghiên cứu mối quan hệ hữu nghị và hợp tác đặc

biệt giữa Quảng Bình, Khăm Muộn và Savanakhet giai đoạn 1954-2000, Sở

Ngoại vụ Quảng Bình.

161. Thường vụ Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 4 (1994), Quân khu 4 Lịch sử kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

162. Thường vụ Huyện ủy, Đảng ủy - Ban Chỉ huy Quân sự huyện Quảng Ninh

(2000), Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Quảng Ninh - 55 năm xây dựng -

chiến đấu - trưởng thành (1945-2000), Xí nghiệp in Quảng Bình.

163. Thường vụ Huyện ủy Vĩnh Linh (1994), Lịch sử Đảng bộ và nhân dân Vĩnh

Linh (1930-1975), sơ thảo.

164. Thường vụ Tỉnh ủy - Đảng ủy, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh (1994), Lịch sử

Quảng Bình chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, Đồng Hới.

165. Tỉnh đội Quảng Bình (1970), Công văn số 697/TĐ của Thủ trưởng Tỉnh đội

Quảng Bình gửi các đơn vị trong tỉnh, ngày 22-11-1970, Phòng lưu trữ Bộ Chỉ

huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.

166. Tỉnh đội Quảng Bình (1972), Quá trình diễn biến cuộc chiến đấu của quân và

dân Quảng Bình trong 8 năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ

(1965-1972), Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.

Page 203: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

199

167. Tỉnh ủy Quảng Bình (1969), Nghị quyết số 04, 4-1969, Phòng Lưu trữ Tỉnh ủy

Quảng Bình.

168. Tỉnh ủy Quảng Bình (1969), Báo cáo tổng kết tình hình 4 năm chống Mỹ cứu

nước, ngày 10-5-1969, Phòng Lưu trữ Tỉnh ủy Quảng Bình.

169. Trung tâm từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Từ điển bách khoa quân sự

Việt Nam, bản điện tử.

170. Ty Công an Quảng Bình (1965), Báo cáo tình hình và công tác năm 1965, số

1.258, ngày 13-12-1965, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

171. Ty Công an Quảng Bình (1966), Dự thảo nghị quyết công tác công an năm

1966, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

172. Ty Công an Quảng Bình (1966), Thông báo về hoạt động máy bay địch và

công tác phòng không nhân dân, số 141VP/M, ngày 14-2-1966, Chi cục Văn

thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

173. Ty Công an Quảng Bình (1966), Báo cáo tình hình máy bay B.52 ném bom ở

đường 12 khu vực Cha Lo-Mụ Dạ, số 121/TM, ngày 4-5-1966, Chi cục Văn

thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

174. Ty Công an Quảng Bình (1966), Công văn số 1334 gửi Thủ trưởng Ủy ban

tỉnh Quảng Bình, ngày 22-10-1966, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

175. Ty Công an Quảng Bình (1969), Báo cáo tổng kết phong trào bảo vệ trị an 4

năm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược 1965-1968, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh

Quảng Bình.

176. Ty Giao thông vận tải Quảng Bình (1967), Báo cáo tình hình thiệt hại chiến

tranh năm 1967, số 143, ngày 14-2-1968, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh

Quảng Bình.

177. Ty Lao động Quảng Bình (1969), Báo cáo tổng kết thi đua năm 1968, Chi cục

Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

178. Ty Thông tin Quảng Bình (1968), Cả nước động viên cổ vũ chúng ta, Xưởng

in Quảng Bình.

Page 204: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

200

179. Ty Thương nghiệp Quảng Bình (1968), Báo cáo tổng kết phong trào thi đua

năm 1967 và 6 tháng đầu năm 1968, ngày 20-8-1968, Chi cục Văn thư Lưu

trữ tỉnh Quảng Bình.

180. Ty Thương nghiệp Quảng Bình (1969), Báo cáo tổng kết công tác thương

nghiệp Quảng Bình trong 4 năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,

Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

181. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1965), Chỉ thị về tổ chức Ban chỉ huy

bảo đảm giao thông vận tải của huyện và xã, số 39 VP-CN, ngày 29-5-1965,

Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

182. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1965), Chỉ thị về việc huy động thuyền

đánh cá của các hợp tác xã Ngư nghiệp phục vụ nhu cầu vận tải cấp thiết, số

54 VP-NC, ngày 05-9-1965, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

183. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1966), Chỉ thị về công tác thiết kế và xây

dựng các công trình dân dụng và giao thông nông thôn trong thời chiến, số 07

VP-UB, ngày 28-1-1966, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

184. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1966), Chỉ thị về việc tăng cường chỉ

đạo công tác phòng không nhân dân trong tình hình khẩn trương hiện nay, số

29 TK-NC, ngày 22-4-1966, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

185. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1966), Phương án sắp xếp lại địa điểm

sơ tán của cơ quan, xí nghiệp cấp tỉnh, số 30 TK-NC, ngày 28-5-1966, Chi

cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

186. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1967), Thông tư về việc tăng cường tu

sửa, làm thêm hầm hào công trình sinh hoạt và làm việc trong tình hình địch

đánh phá ác liệt hiện nay, số 57 VP/UB, ngày 20-8-1967, Chi cục Văn thư

Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

187. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1967), Chỉ thị về công tác phòng không

nhân dân trong chiến dịch bảo vệ mùa thu hoạch vụ chiêm năm 1967, số 25

VP-UB, ngày 04-5-1967, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

Page 205: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

201

188. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1967), Chỉ thị bổ sung điều phòng không

nhân dân năm 1967, số 27 PK/ND, ngày 05-5-1967, Chi cục Văn thư Lưu trữ

tỉnh Quảng Bình.

189. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1967), Chỉ thị về việc tăng cường tu sửa,

làm thêm hầm hào và một số điểm khác về công tác phòng không nhân dân

trong tình hình địch đánh phá ác liệt, số 48 VP/UB, ngày 13-7-1967, Chi cục

Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

190. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1967), Chỉ thị về việc củng cố Ban

phòng không nhân dân các cấp, số 49 VP/UB, ngày 13-7-1967, Chi cục Văn

thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

191. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1967), Chỉ thị về việc tổ chức đời sống

của cán bộ, nhân dân trong tình hình mới, số 56 TK/KT, ngày 11-8-1967, Chi

cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

192. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1968), Mười hai điều kỉ luật trong việc

thực hiện nhiệm vụ giao thông vận tải, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

193. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1969), Báo cáo tại đại hội thi đua

“chiến đấu giỏi sản xuất giỏi” bốn năm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược (1965-

1968), ngày 22 – 28-2-1969, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

194. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1969), Báo cáo tổng kết 4 năm chuyển

hướng xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kì chống chiến tranh phá hoại

của đế quốc Mỹ, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

195. Ủy ban hành chính tỉnh Quảng Bình (1973), Phấn khởi tự hào trước thắng lợi

vĩ đại của dân tộc, quân và dân tỉnh Quảng Bình hãy phát huy cao độ chủ

nghĩa anh hùng cách mạng, đẩy mạnh phong trào thi đua “2 giỏi” với khí thế

sôi nổi, liên tục hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong thời kì mới. Báo cáo

tại đại hội thi đua “Chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi” toàn tỉnh Quảng Bình năm

1972, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.

196. Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2012), Lịch sử hệ thống hành

chính nhà nước cấp tỉnh ở Quảng Bình (1945-2000), Đồng Hới.

Page 206: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

202

197. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1982), Chiến tranh nhân dân đánh thắng

chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tập 1, Nxb. Quân đội Nhân dân.

198. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1983), Chiến tranh nhân dân đánh thắng

chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tập 2, Nxb. Quân đội Nhân dân.

199. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương chiến tranh nhân dân

Việt Nam (1945-1975), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

200. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ

cứu nước (1954-1975), tập IV, xuất bản lần thứ 2, Nxb. Chính trị Quốc gia -

Sự Thật, Hà Nội.

211. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ

cứu nước (1954-1975), tập V, xuất bản lần thứ 2, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự

Thật, Hà Nội.

212. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ

cứu nước (1954-1975), tập VI, xuất bản lần thứ 2, Nxb. Chính trị Quốc gia -

Sự Thật, Hà Nội.

213. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ

cứu nước (1954-1975), tập VII, xuất bản lần thứ 2, Nxb. Chính trị Quốc gia -

Sự Thật, Hà Nội.

214. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Tổng kết chiến đấu chống đế quốc Mỹ

phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường những năm

1965-1973, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

215. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Lịch sử Tư tưởng quân sự Việt Nam -

Tập IV: Từ năm 1945 đến năm 1975, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội.

216. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Lịch sử Tư tưởng quân sự Việt Nam -

Tập V: Tổng luận, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội.

217. Viện Mác - Lênin trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản

Việt Nam (1987), Trường Chinh Tuyển tập, Tập 1 (1937-1954), Nxb. Sự

Thật, Hà Nội.

Page 207: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

203

218. Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1995),

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập II (154-1975), Nxb. Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

219. Viện Sử học (1985), Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ

cứu nước, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

220. Đinh Phan Thủy Yến (2006), Quảng Bình kháng chiến chống Mỹ cứu nước

trên mặt trận giao thông vận tải (1965-1968), Luận văn Thạc sĩ Sử học,

Trường Đại học Sư phạm Huế.

Tiếng Anh

221. T. Hoopes (1969), The limits of intervention (Những giới hạn của sự can

thiệp), David Mc. Kay Company, N.Y,

222. Mc. T. Kahin and John Lewis (1967), The US in Vietnam (Mỹ ở Việt Nam),

Codell Publish, N.Y,

223. Jon VanDyke (1972), North’s Vietnam Strategy for survival (Chiến lược để tồn

tại của Bắc Việt Nam), Pacific Books, California

224. U.S Government Printing Office (1973), Causes, Origins, and lessons of the

Vietnam War, May, 9, 10 and 11, 1972 (Nguyên nhân, nguồn gốc và bài học

trong chiến tranh Việt Nam), Washington.

Tiếng Pháp

225. Peter Weiss (1968), Rè ponse à Johnson sor les bombs ments limités (Trả lời

Johnson về những cuộc ném bom hạn chế), Seuil, Paris.

226. Alain Wasmes (1976), Vietnam, la feau du pachyderme (Việt Nam, tấm da của

loài thú da dày), Edition Socialies, Paris.

Page 208: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

204

Trang web

227. Dotsenko Vitalii Dmitrievich (2001), “Флоты в локальных конфликтах

второй половины XX века” (Các hạm đội trong những cuộc xung đột cục bộ

nửa sau thế kỉ 20), Nxb AST; Saint Petersbourg: Terra Fantaslica. Bản dịch tại

http://www .vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=24544.0.

228. http://thethaovanhoa.vn/xa-hoi/tran-dau-mig17-tan-cong-ham-doi-7-cua-my-n

2012 0326101437128.htm. Truy cập ngày 31-7-2016.

229. https://vi.wikipedia.org/wiki/General_Dynamics_F-111_Aardvark. Truy cập

ngày 30-7-2016.

230. https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%B4ng_chi%E1%BA%BFn_t%E1%B

A%A1i Anh_Qu%E1%BB%91c. Truy cập ngày 22-8-2016.

231. http://soha.vn/quan-su/bi-mat-ve-tran-dau-cua-phao-binh-viet-nam-voi-hai-

quan-my-20140423084630146.htm. Truy cập ngày 31-7-2016.

NHÂN CHỨNG

1. Bà Nguyễn Thị Kim Huế, Anh hùng Lao động, nguyên Tiểu đội trưởng đơn

vị Thanh niên xung phong C759, Công trường 12A. Địa chỉ: Thôn Ngọa Cương, xã

Cảnh Hóa, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

2. Ông Lại Văn Ly, nguyên Trưởng Ty Giao thông Vận tải tỉnh Quảng Bình

giai đoạn 1965-1973.

3. Ông Trần Sự, nguyên Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Quảng Bình, giai đoạn 1965-

1973. Địa chỉ: Số 45, đường Lý Thường Kiệt, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

4. Ông Cao Ngọc Tành, Chủ tịch Hội Cựu Thanh niên Xung phong tỉnh

Quảng Bình.

5. Bà Ngô Thị The, nguyên Đại đội trưởng Đại đội pháo binh Ngư Thủy. Địa

chỉ: Thôn Thượng Bắc, xã Ngư Thủy Trung, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.

Page 209: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

205

BÀI BÁO LIÊN QUAN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ

1. (2008), "Đường Hồ Chí Minh trên đất Quảng Bình với Di sản thiên nhiên Thế

giới Phong Nha - Kẻ Bàng", Kỉ yếu Hội thảo khoa học, Sở Khoa học và Công

nghệ Quảng Bình.

2. (2009), "Hoạt động chi viện chiến lược trên tuyến đường Hồ Chí Minh ở Quảng

Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1959-1975)", Tạp chí Văn hóa

Quảng Bình, số 1, 2.

3. (2009), "Quảng Bình với tuyến vận tải chiến lược Đường Hồ Chí Minh", Tạp

chí Lịch sử Quân sự, số 2.

4. (2014), "Thế trận chiến tranh nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ ở Quảng

Bình", Kỉ yếu Hội thảo quốc gia về Quảng Bình 410 năm hình thành và phát triển

do UBND tỉnh Quảng Bình và Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đồng tổ chức.

5. (2016), "Đấu tranh chống biệt kích ở Quảng Bình những năm 1965-1968", Tạp

chí Lịch sử Quân sự, số 8.

6. (2016), "Đặc điểm chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong kháng chiến chống

Mỹ", Tạp chí Khoa học và Công nghệ Quảng Bình, số 12.

7. (2017), "Phong trào thi đua "Hai giỏi" ở Quảng Bình trong những năm kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước", Tạp chí Thi đua Khen thưởng, số 201.

8. (2017), "Hậu phương Quảng Bình với chiến trường Trị - Thiên trong kháng

chiến chống Mỹ (giai đoạn 1966-1972)", Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân

văn, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, tập 126, S.6.

Page 210: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

PHỤ LỤC

Page 211: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.1

Phụ lục 1. Bản đồ hành chính tỉnh Quảng Bình (p.1)

Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình

Page 212: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.2

Phụ lục 2. Bản đồ hệ thống giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình (p.2)

Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình

Page 213: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.3

Phụ lục 3. Thư khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp quân dân Quảng Bình bắn

rơi 100 máy bay Mĩ (p.3).

Nguồn: Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11 (1963-1966), Xuất bản lần thứ hai,

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 466.

THƯ KHEN ĐỒNG BÀO, BỘ ĐỘI VÀ CÁN BỘ QUẢNG BÌNH

BẮN RƠI 100 MÁY BAY MỸ

Thân ái gửi đồng bào, bộ đội và cán bộ Quảng Bình,

Bác rất vui lòng thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ khen ngợi

đồng bào, bộ đội và cán bộ Quảng Bình đã bắn rơi l00 máy bay Mỹ, vừa

qua lại thu hoạch vụ chiêm rất tốt. Như vậy là tỉnh nhà chiến đấu giỏi, sản

xuất cũng giỏi. Các tỉnh khác hãy ra sức thi đua với Quảng Bình. Các chú bộ

đội, cán bộ và đồng bào tỉnh nhà hãy phát huy thắng lợi, nêu cao truyền

thống anh hùng của quân và dân ta, đoàn kết chặt chẽ, luôn luôn cảnh

giác, quyết giành nhiều thành tích to lớn hơn nữa, cùng đồng bào cả nước

quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược cho đến thắng lợi hoàn toàn!

Chào thân ái và quyết thắng

Hà Nội, ngày 17 tháng 7 năm 1965

HỒ CHÍ MINH

Báo Nhân dân, số 4124, ngày 19-7-1965.

Page 214: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.4

Phụ lục 4: Nghị quyết của Quân khu ủy 4 về tình hình và nhiệm vụ của Quân khu

để đảm bảo chuyển các lực lượng vũ trang sang thời chiến, ngày 22-5-1965 (p.4)

Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình

Page 215: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.5

Phụ lục 5: Biên bản Hội nghị Ban quân sự Tỉnh ủy Quảng Bình ngày 29-9-1965 (p.5)

Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình

Page 216: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.6

Phụ lục 6: Phương án đề phòng khả năng địch đánh lớn ra tỉnh Quảng Bình của

Công an nhân dân vũ trang tỉnh Quảng Bình, ngày 14-10-1965 (p.6)

Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình

Page 217: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.7

Phụ lục 7: Chỉ thị về công tác xây dựng làng chiến đấu của Quân ủy Trung ương,

ngày 25-5-1966 (p.7)

Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình

Page 218: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.8

Phụ lục 8: Nghị quyết của Thường vụ Tỉnh ủy về việc tập trung lực lượng, tăng

cường lãnh đạo và chỉ đạo, quyết tâm bảo vệ và đảm bảo giao thông vận tải trong

tình hình mới, ngày 21-6-1972 (p.8).

Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình

Page 219: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.9

Phụ lục 9: Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thống nhất chỉ huy công

tác giao thông vận tải ở khu 4 cũ chi viện tiền tuyến theo hướng quân sự hóa những

khâu tổ chức và công tác cần thiết, ngày 30-11-1972 (p.9).

Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình

Page 220: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.10

Phụ lục 10: LỰC LƯỢNG BỘ ĐỘI CHỦ LỰC TRÊN ĐẤT QUẢNG BÌNH

TRONG THỜI KÌ CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI (1965-1973)

(Tổng hợp từ các tài liệu tham khảo)

Về bộ binh, có Sư đoàn 325 và một phần Sư đoàn 341. Trong từng thời điểm

cụ thể, Quảng Bình còn là hậu cứ, nơi củng cố lực lượng của một số đơn vị như Sư

đoàn 324 (sau năm 1968), Sư đoàn 2/Quân khu 5 (năm 1970), … Các đơn vị này

vừa củng cố lực lượng vừa diễn tập thực binh, sẵn sàng cùng các lực lượng tại chỗ

đánh địch khi tình huống xảy ra. Ngoài ra, Quảng Bình còn được đặt sở chỉ huy

nhiều chiến dịch tại đây như Bộ Tư lệnh Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị (1966-

1973), Bộ Tư lệnh chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào (1971), Chiến dịch Trị

- Thiên (1972), … Trong quá trình phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, hầu

hết các đơn vị chủ lực của Bộ Quốc phòng và Quân khu trên đường chi viện cách

mạng miền Nam đều dừng chân tập kết ở Quảng Bình trước khi vào chiến trường

như các sư đoàn 304, 308, 312, 316, 320, ...

Về pháo binh, trong từng thời điểm, Quân khu 4 còn chi viện Trung đoàn

pháo binh 164 sát cánh cùng quân dân Quảng Bình, chưa kể lực lượng pháo thuộc

các sư đoàn bộ binh 341 và 325.

Về lực lượng phòng không, Bộ Quốc phòng và Quân khu 4 điều Trung đoàn

152 cao xạ phụ trách đường 12. Một tiểu đoàn của Trung đoàn 280 cao xạ 85ly bố

trí ở khu vực Đá Mài; Trung đoàn 214 cao xạ 57ly, 37ly cơ động ở Bố Trạch. Tiểu

đoàn 14 Nguyễn Viết Xuân (pháo cao xạ 57ly, 37ly) bố trí ở Roòn (Quảng Trạch).

Đầu năm 1967, Bộ Quốc phòng tăng cường cho Quảng Bình một số đơn vị

phòng không tầm trung và tầm cao. Cụ thể gồm Trung đoàn 218 pháo cao xạ 85ly

và 37ly phụ trách tuyến đường 15, 16 và miền Tây Lệ Thủy. Trung đoàn 238 tên lửa

bố trí ở Nông trường Việt - Trung và Thọ Lộc (Bố Trạch). Tháng 10-1967, Bộ

Quốc phòng đưa thêm Trung đoàn 284 tên lửa vào Quảng Bình. Đến cuối năm

1967, các đơn vị trên được hợp thành Sư đoàn phòng không 375, gồm 3 trung đoàn:

284, 214 và 238.

Page 221: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.11

Sau ngày 31-3-1968, để đối phó với sự gia tăng mức độ đánh phá của đối

phương trong thời kì “ném bom hạn chế”, bảo đảm giao thông chi viện chiến

trường, Quân khu 4 chuyển dần lực lượng phòng không vào phía Nam, thành lập Bộ

Tư lệnh 375 (trên cơ sở Sư đoàn phòng không 375). Một lực lượng phòng không

lớn được bố trí dày đặc trên đất Quảng Bình gồm: Trung đoàn 218 phụ trách nam

Quảng Bình và Vĩnh Linh, Trung đoàn 282 phụ trách nam Long Đại, Trung đoàn

214 cơ động trong tứ giác Xuân Sơn - Gianh - Quán Hàu - Long Đại, Trung đoàn

284 phụ trách bắc sông Gianh và nam Hà Tĩnh, Trung đoàn 280 hoạt động ở Xuân

Sơn (Đường 20) và Khe Ve (Đường 12), Trung đoàn 238 tên lửa hoạt động cùng địa

bàn của Trung đoàn 214 và Trung đoàn 218. Ngoài ra, Quân khu còn điều động các

tiểu đoàn cao xạ bổ sung cho các đơn vị trên: Tiểu đoàn 14 pháo 37ly hoạt động độc

lập ở Gianh, sau cùng Tiểu đoàn 15 tăng cường cho Trung đoàn 214, Tiểu đoàn 10

tăng cường cho Trung đoàn 218.

Từ giữa năm 1972, trước tình hình chiến tranh phá hoại của Mỹ tái diễn,

công tác tái phối trí lại lực lượng báo động, phòng không trên địa bàn Quảng Bình

khẩn trương được thực hiện. Để chủ động đánh địch, bảo vệ các chân hàng và tuyến

đường Trường Sơn, Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân điều Sư đoàn phòng

không 367 vào miền Tây Quảng Bình và Vĩnh Linh.

Về hải quân, quân cảng Sông Gianh được khởi công xây dựng đầu năm 1960

và hoàn thành năm 1964, là khu vực quan trọng ở phía Nam Quân khu 4, được

Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Hải quân tăng cường chỉ đạo về mọi mặt. Sau ngày 5-8-

1964, Ban Chỉ huy khu Sông Gianh được thành lập. Ban Tham mưu được tăng

cường nhiều cán bộ có năng lực chỉ huy tác chiến. Tại đây, thường xuyên có 4 đến 6

tàu tuần tiễu loại 79 tấn thuộc phân đội 5, 6 và 7 Đoàn 135 hải quân, 3 tàu phóng

ngư lôi, 1 đại đội pháo cao xạ 37ly, 2 phân đội súng máy cao xạ 14,5ly (6 khẩu) do

đại đội 37ly pháo bờ biển và trung đội cảnh vệ phụ trách để bảo vệ cảng và tàu.

Về không quân, ngoài sân bay Đồng Hới có thể sử dụng cho mục đích quân

sự, cùng với các lực lượng trên mặt đất, để tham gia đánh tàu chiến Mỹ, ngày 18-4-

1972, Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân điều một biên đội máy bay Mig 17 (2

Page 222: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.12

chiếc) thuộc Trung đoàn không quân 923 vào sân bay dã chiến ở Gát (xã Xuân

Trạch, Bố Trạch). Máy bay và các khí tài chiến đấu của không quân đã được vận

chuyển theo đường bộ, qua hệ thống hỗ trợ vận tải của lực lượng Bộ Quốc phòng có

sự hợp tác của nhân dân, được đảm bảo tuyệt đối bí mật để gây yếu tố bất ngờ.

Ngay hôm sau, biên đội xuất kích đánh hỏng tàu khu trục USS Higbee và tàu tuần

dương USS Oklahoma City trên vùng biển Quảng Bình.

Về Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn. Từ tháng 10-1959, Quảng Bình trở thành

đầu mối, trung tâm của tuyến đường vận tải chiến lược chi viện cách mạng miền

Nam - Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh. Tại đây, Bộ Tư lệnh Bộ đội

Trường Sơn đặt các sở chỉ huy (sở chỉ huy cơ bản, sở chỉ huy tiền phương và sở chỉ

huy lâm thời). Về mặt tổ chức, Đoàn 559 thành lập Binh trạm 12 chốt trên Đường

12, Binh trạm 14 chốt ở Đường 20, Binh trạm 16 chốt ở Đường 10. Ngoài hàng

trăm kho hàng hóa gửi trong nhà dân, có 3 tổng kho chính của các Binh trạm 12, 14,

16 (Đoàn 559) được bố trí trên đất Quảng Bình: Đó là Tổng kho R (765) ở khu vực

Hóa Tiến (Minh Hóa); Tổng kho NH ở khu vực Phong Nha - Xuân Sơn (Bố Trạch)

và Tổng kho HC ở khu vực Xuân Bồ (Lệ Thủy). Bảo vệ cho các tuyến đường, kho

hàng và binh trạm là các đơn vị phòng không, công binh, thông tin, bộ binh thuộc

Đoàn 559. Quảng Bình trở thành chiến trường trong chiến trường trọng yếu -

Trường Sơn.

Page 223: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.13

Phụ lục 11. Thư chúc mừng của Thành hội Phụ nữ Hà Nội nhân Quảng Bình bắn

rơi chiếc máy bay thứ 3.000 của miền Bắc, ngày 27-6-1968 (p.13)

Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình

Page 224: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.14

Phụ lục 12: Thư chúc mừng của cán bộ, chiến sĩ Ty Công an Thái Bình nhân

Quảng Bình bắn rơi chiếc máy bay thứ 3.000 của miền Bắc, ngày 29-6-1968 (p.14)

Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình

Page 225: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.15

Phụ lục 13: Thư chúc mừng của cán bộ, nhân dân huyện Tứ Kỳ (Hải Hưng) nhân

Quảng Bình bắn rơi chiếc máy bay thứ 3.000 của miền Bắc, ngày 1-7-1968 (p. 15-16)

Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình

Page 226: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.16

Page 227: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.17

Phụ lục 14: Bệnh viện Đồng Hới bị bom Mỹ đánh phá năm 1966 (p.17)

Nguồn: Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Bình

Phụ lục 15: Thị trấn Ba Đồn bị bom Mỹ hủy diệt năm 1967 (p.17)

Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình

Page 228: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.18

Phụ lục 16: Tiểu đoàn 9 pháo cao xạ Quảng Bình (p. 18)

Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình

Phụ lục 17: Đại đội nữ dân quân pháo binh Ngư Thủy, Lệ Thủy (p. 18)

Nguồn: Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Bình

Page 229: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.19

Phụ lục 18: Nữ dân quân Võ Ninh, Quảng Ninh (p.19)

Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình

Phụ lục 19: Lão dân quân Đức Ninh, Quảng Ninh (p.19)

Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình

Page 230: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.20

Phụ lục 20: Đội thiếu niên Quảng Đông, Quảng Trạch (p. 20)

Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình

Phụ lục 21: Đưa xe qua sông Gianh (p.20)

Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình

Page 231: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.21

Phụ lục 22: Chiến dịch VT5 ở Nhật Lệ năm 1968 (p.21)

Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình

Phụ lục 23: Máy bay Mỹ bị bắn rơi ở Lý Trạch năm 1967 (p.21)

Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình

Page 232: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.22

Phụ lục 24. Danh sách tập thể, cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và

Anh hùng lao động của tỉnh Quảng Bình được phong tặng, truy tặng trong cuộc

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Nguồn: Sở Lao động – Thương binh – Xã hội tỉnh Quảng Bình

I. TẬP THỂ ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

1. Trung đội dân quân thôn Tây, xã Ngư Thủy, huyện Lệ Thủy

2. Đồn Cha Lo (111) Công an nhân dân vũ trang Quảng Bình

3. Dân quân du kích xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh

4. Dân quân du kích xã Quảng Phúc, huyện Quảng Trạch

5. Đội dân quân gái Ngư Thủy, huyện Lệ Thủy

6. Đồn Roòn (120) Công an nhân dân vũ trang Quảng Bình

7. Đồn Ngư Thủy (132) Công an nhân dân vũ trang Quảng Bình

8. Dân quân du kích xã Tiến Hóa, huyện Tuyên Hóa

9. Đại đội Pháo binh 85 ly Bộ đội địa phương Quảng Bình

10. Dân quân du kích xã Lộc Ninh, thị xã Đồng Hới

11. Đại đội 10 Pháo binh, Tiểu đoàn 14, Bộ đội địa phương Quảng Bình

12. Dân quân du kích xã Phong Thủy, huyện Lệ Thủy

13. Trạm Cảng Sông gianh (305) Công an nhân dân vũ trang Quảng Bình

14. Đại đội 3, Pháo cao xạ 37 ly Tiểu đoàn 9, Bộ đội địa phương Quảng Bình

15. Dân quân du kích xã Trung Trạch, huyện Bố Trạch

16. Dân quân du kích xã Đức Ninh, thị xã Đồng Hới

17. Đồn làng Ho (119) Công an nhân dân vũ trang Quảng Bình

18. Đại đội 2, Công an nhân dân vũ trang Quảng Bình

19. Dân quân du kích xã Cảnh Dương, huyện Quảng Trạch

20. Dân quân du kích xã Phú Thủy, huyện Lệ Thủy

21. Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Quảng Bình

22. Nhân dân và LLVT nhân dân thị xã Đồng Hới

23. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Dân Hóa, huyện Minh Hóa

Page 233: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.23

24. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Đồng Hóa, huyện Tuyên Hóa

25. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch

26. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Ngư Thủy, huyện Lệ Thủy

27. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh

28. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Thuận, huyện Quảng Trạch

29. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Vĩnh Ninh, huyện Quảng Ninh

30. Nhân dân và LLVT nhân dân huyện Bố Trạch

31. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh

32. Nhân dân và LLVT nhân dân huyện Lệ Thủy

33. Nhân dân và LLVT nhân dân huyện Quảng Ninh

34. Nhân dân và LLVT nhân dân huyện Quảng Trạch

35. Nhân dân và LLVT nhân dân huyện Tuyên Hóa

36. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Lê Hóa, huyện Tuyên Hóa

37. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch

38. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Cự Nẫm, huyện Bố Trạch

39. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Thanh Thủy, huyện Lệ Thủy

40. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Tân Thủy, huyện Lệ Thủy

41. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh

42. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch

43. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Thọ, huyện Quảng Trạch

44. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Thanh Hóa, huyện Tuyên Hóa

45. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Văn Hóa, huyện Tuyên Hóa

46. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Trung Hóa, huyện Minh Hóa

47. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Thanh Trạch, huyện Bố Trạch

48. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hưng Trạch, huyện Bố Trạch

49. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Thái Thủy, huyện Lệ Thủy

50. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Mai Thủy, huyện Lệ Thủy

51. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy

52. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Nghĩa Ninh, thị xã Đồng Hới

Page 234: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.24

53. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Bảo Ninh, thị xã Đồng Hới

54. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Lý Ninh, thị xã Đồng Hới

55. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Phú, huyện Quảng Trạch

56. Nhân dân và LLVT nhân dân thị trấn Ba Đồn, huyện Quảng Trạch

57. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Sơn, huyện Quảng Trạch

58. Cán bộ, công nhân viên và lực lượng tự vệ bến phà Gianh

59. Cán bộ, công nhân viên và lực lượng tự vệ Ty Bưu điện tỉnh Quảng Bình

60. Nhân dân và LLVT nhân dân huyện Minh Hóa

61. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch

62. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Vạn Trạch, huyện Bố Trạch

63. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Đại Trạch, huyện Bố Trạch

64. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Bắc Trạch, huyện Bố Trạch

65. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Xuân, huyện Quảng Trạch

66. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Tùng, huyện Quảng Trạch

67. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Lưu, huyện Quảng Trạch

68. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hóa Thanh, huyện Minh Hóa

69. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hóa Tiến, huyện Minh Hóa

70. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Thạch Hóa, huyện Tuyên Hóa

71. Nhân dân và LLVT nhân dân phường Đồng Phú, thị xã Đồng Hới

72. Nhân dân và LLVT nhân dân phường Đồng Sơn, thị xã Đồng Hới

73. Nhân dân và LLVT nhân dân phường Hải Thành, thị xã Đồng Hới

74. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Xuân Ninh, huyện Quảng Ninh

75. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Duy Ninh, huyện Quảng Ninh

76. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Trường Thủy, huyện Lệ Thủy

77. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Cam Thủy, huyện Lệ Thủy

78. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Dương Thủy, huyện Lệ Thủy

79. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Sơn Thủy, huyện Lệ Thủy

80. Cán bộ, công nhân viên và lực lượng tự vệ Ty Giao thông vận tải Quảng Bình

81. Nhân dân và LLVT nhân dân xã An Thủy, huyện Lệ Thủy

Page 235: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.25

82. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Xuân Thủy, huyện Lệ Thủy

83. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy

84. Nhân dân và LLVT nhân dân phường Phú Hải, thị xã Đồng Hới

85. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Văn, huyện Quảng Trạch

86. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Long, huyện Quảng Trạch

87. Cán bộ, công nhân viên và lực lượng tự vệ Nông trường Việt Trung

88. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Phong Hóa, huyện Tuyên Hóa

89. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Đức Hóa, huyện Tuyên Hóa

90. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa

91. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Tân Hóa, huyện Minh Hóa

92. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Cảnh Hóa, huyện Quảng Trạch

93. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Trung, huyện Quảng Trạch

94. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Phúc Trạch, huyện Bố Trạch

95. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Gia Ninh, huyện Quảng Ninh

96. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hồng Thủy, huyện Lệ Thủy

97. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hoa Thủy, huyện Lệ Thủy

98. Lực lượng tự vệ Phà Long Đại

99. Nhân dân và Công an thị xã Đồng Hới

100. Nhân dân và Công an huyện Quảng Ninh

101. Nhân dân và Công an huyện Bố Trạch

102. Phòng bảo vệ chính trị, Công an tỉnh Quảng Bình

103. Đồn 84, Công an vũ trang nhân dân (tuyến Thống Nhất)

104. Trạm Cảnh sát giao thông 64

105. Đội phòng cháy chữa cháy

106. Đội cảnh vệ

107. Ban Công an xã Đại Trạch, huyện Bố Trạch

108. Ban Công an xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh

109. Đồn cảng Gianh, Bộ đội Biên phòng Quảng Bình

110. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Mỹ Thủy, huyện Lệ Thủy

Page 236: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.26

111. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Liên, huyện Quảng Trạch

112. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Phong, huyện Quảng Trạch

113. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hóa Hợp, huyện Minh Hóa

114. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Yên Hóa, huyện Minh Hóa

115. Cán bộ, công nhân viên và lực lượng tự vệ Ty Y tế Quảng Bình

116. Cán bộ, công nhân viên và lực lượng tự vệ Công ty Vật tư tổng hợp Quảng Bình

117. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Sen Thủy, huyện Lệ Thủy

118. Nhân dân và LLVT nhân dân xã An Ninh, huyện Quảng Ninh

119. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hải Trạch, huyện Bố Trạch

120. Công ty Vận tải ô tô Quảng Bình

121. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Lộc, huyện Quảng Trạch

122. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Hợp, huyện Quảng Trạch

123. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Hải, huyện Quảng Trạch

124. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Thanh, huyện Quảng Trạch

125. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Hòa, huyện Quảng Trạch

126. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch

127. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Phương, huyện Quảng Trạch

128. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Tiên, huyện Quảng Trạch

129. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Mai Hóa, huyện Tuyên Hóa

130. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hương Hóa, huyện Tuyên Hóa

131. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hưng Thủy, huyện Lệ Thủy

132. Cán bộ, công nhân viên và lực lượng tự vệ Ty Công nghiệp Quảng Bình

133. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Châu Hóa, huyện Tuyên Hóa

134. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Châu, huyện Quảng Trạch

135. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Thạch, huyện Quảng Trạch

136. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Hưng, huyện Quảng Trạch

137. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Kim, huyện Quảng Trạch

138. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Thủy, huyện Quảng Trạch

139. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Phù Hóa, huyện Quảng Trạch

Page 237: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.27

140. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Trường, huyện Quảng Trạch

141. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Lâm Hóa, huyện Tuyên Hóa

142. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Kim Hóa, huyện Tuyên Hóa

143. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Minh Hóa, huyện Minh Hóa

144. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Xuân Hóa, huyện Minh Hóa

145. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quy Hóa, huyện Minh Hóa

146. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hoàn Trạch, huyện Bố Trạch

147. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Tây Trạch, huyện Bố Trạch

148. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hàm Ninh, huyện Quảng Ninh

149. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Tân Ninh, huyện Quảng Ninh

150. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Đức Trạch huyện Bố Trạch

151. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Phú Trạch huyện Bố Trạch

152. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Lý Trạch huyện Bố Trạch

153. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Mỹ Trạch huyện Bố Trạch

154. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Ngân Thủy, huyện Lệ Thủy

155. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy

156. Cán bộ, nhân viên lực lượng tự vệ Lâm trường Nam, Ty Lâm nghiệp Quảng Bình

157. Đồn Biên phòng 597 thuộc Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh

158. Lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước tỉnh Quảng Bình

159. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Liên Trạch, huyện Bố Trạch

160. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Đồng Trạch, huyện Bố Trạch

161. Bệnh viện huyện Quảng Ninh

162. Cảng Quảng Bình

163. Tập thể 8 Liệt sĩ TNXP thuộc Đại đội 217, Ban xây dựng 67, Đoàn 559

164. Tiểu đội 1, Trung đội 1, Đại đội TNXP 759, Đội TNXP N75, Đoàn 559

Page 238: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.28

II. TẬP THỂ ANH HÙNG LAO ĐỘNG

1. Hợp tác xã Đại Phong, huyện Lệ Thủy

2. Hợp tác xã Cự Nẫm, huyện Bố Trạch

3. Bệnh viện huyện Quảng Trạch

4. Đội chiếu bóng 11

5. C.759 Thanh niên xung phong

6. Công trường 050 – Giao thông

7. Hợp tác xã Quang Phú, thị xã Đồng Hới

III. CÁ NHÂN ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

1. Thái Văn A

2. Nguyễn Văn Mật

3. Nguyễn Hữu Ngoãn

4. Trần Thị Lý

5. Nguyễn Tri Phương

6. Phạm Bá Hạt

7. Cao Lương Bằng

8. Trịnh Xuân Bảng

9. Hồ Phòm

10. Lê Văn Hiến

11. Hồ Bá Thọ

12. Nguyễn Văn Tương

13. Trần Phước Yên

14. Hoàng Hữu Nờ

15. Phạm Văn Lái

16. Nguyễn Xuân Giang

17. Nguyễn Viết Cù

18. Trần Thế Lại

19. Nguyễn Văn Tấn

20. Phùng Hồng Lãm

Page 239: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.29

21. Hà Văn Cách

22. Nguyễn Văn Huệ

23. Trương Pháp

24. Lê Văn Mục

25. Võ Ngọc Chước

26. Nguyễn Xảo

27. Đặng Y

28. Nguyễn Thị Nậy

29. Trần Đức Hè

IV. CÁ NHÂN ANH HÙNG LAO ĐỘNG

1. Ngô Mốc

2. Nguyễn Ngọc Ánh

3. Hoàng Trung Vinh

4. Lê Trạm

5. Trương Thị Diên

6. Nguyễn Thị Khíu

7. Nguyễn Thị Suốt

8. Võ Xuân Khuể

9. Võ Xuân Nở

10. Đinh Thị Thu Hiệp

11. Nguyễn Thị Kim Huế

Page 240: LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC - hueuni.edu.vn · TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1965 - 1973 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ, NĂM 2017. i

P.30

Tác giả và ông Trần Sự,

nguyên Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội

Quảng Bình những năm 1965-1973

Tác giả và ông Cao Ngọc Tành,

Nguyên Đại đội trưởng đơn vị Thanh

niên xung phong C.759, Quảng Bình