38
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HỌC VIỆN NGÂN HÀNG KHOA NGÂN HÀNG MÔN: THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ ĐỀ TÀI : LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : Cô Thân Thị Vi Linh LỚP : TTTT ca 4 chiều thứ 2

LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

HỌC VIỆN NGÂN HÀNGKHOA NGÂN HÀNG

MÔN: THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ

ĐỀ TÀI: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC

ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

Page 2: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : Cô Thân Thị Vi Linh LỚP : TTTT ca 4 chiều thứ 2

THÀNH VIÊN NHÓM

TRẦN XUÂN QUẢN (CAP)

LÊ HUY NHẤT

CHU DUY KHÁNH

PHẠM TRUNG HIẾU

ĐỐ VĂN THƯ

NGUYỄN DUY MINH

VŨ QUANG SÁNG

PHẠM ANH TUẤN

NGUYỄN TRỌNG ĐỨC

HOÀNG XUÂN TRƯỜNG

LÊ QUANG TRUNG

LỚP TTQTC K11

2

Page 3: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

LỜI NÓI ĐẦU

Chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam có vai trò quan

trọng trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng, kìm chế lạm phát, ổn định giá trị

đồng tiền. Chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong những

năm gần đây đã có sự phát triển đúng hướng và phù hợp với chính sách kinh tế vĩ

mô. Tuy nhiên, bên cạnh đó việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia còn nhiều

bất cập, hạn chế, chưa tỏ ra nhạy bén và các chính sách của Ngân hàng nhà nước

chưa linh thoạt. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế ngày càng sôi động thì việc

điều hành chính sách tiền tệ từ các công cụ trực tiếp chuyển sang các công cụ

gián tiếp trong đó có việc áp dụng nghiệp vụ thị trường mở ngày càng trở nên cấp

bách. Điều này là phù hợp với quá trình cải cách hệ thống Ngân hàng, với việc

hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ trong giai đoạn mới.

Chính vì những lý do trên mà chúng tôi đã chọn đề tài “lý thuyết chung về

nghiệp vụ thị trường mở và thực tế một số hình thức áp dụng và hiệu quả tại

Việt Nam” với mong muốn đóng góp tiếng nói của mình vào việc sử dụng

Nghiệp vụ thị trường mở để ngày càng hoàn thiện chính sách tiền tệ quốc gia.

Trong quá trình tìm hiểu không thể tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế,

chúng tôi mong được sự giúp đỡ chỉ bảo của các thầy cô.

3

Page 4: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

I. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ.

1. Lịch sử ra đời của nghiệp cụ thị trường mở. (NVTTM)

Khi FED được thành lập trước đây, thì việc thay đổi lãi suất chiết khấu là

công cụ đầu tiên của chính sách tiền tệ. Khi đó FED chưa phát hiện ra NVTTM là

một công cụ đầy sức mạnh để ảnh hưởng đến cung ứng tiền tệ, và đạo luật về dự

trữ liên bang đã không có điều quy định nào về việc thay đổi dự trữ bắt buộc.

Nguyên tắc chỉ đạo cho việc tiến hành chính sách tiền tệ là khi nào các khoản cho

vay còn được cấp cho những mục đích sản xuất, nghĩa là để nâng đỡ hàng hoá và

dịch vụ, thì việc cung cấp dự trữ cho hệ thống ngân hàng để nó cấp các khoản

vay đó chắc là không có lạm phát. Trong thực tiễn, nó có nghĩa là FED cho các

NHTM thành viên vay khi họ đến cửa sổ chiết khấu xuất trình các phiếu chiết

khấu. Vào cuối cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, chính sách của FED tái

chiết khấu các phiếu chiết khấu được và duy trì ở mức lãi suất thấp để cho kho

bạc tài trợ chiến tranh đã đưa đến một cuộc lạm phát dữ dội. Trong năm 1919 và

1920, tỉ lệ lạm phát bình quân là 14%. FED quyết định sẽ không tiếp tục theo

đuổi chính sách bị động theo học thuyết tín phiếu thực tế, bởi vì nó không phù

hợp mục tiêu ổn định giá cả, và lần đầu tiên từ khi được thành lập, FED chấp

nhận trách nhiệm đóng một vai trò chủ động để ảnh hưởng đến nền kinh tế.

Vào những năm 1920, xảy ra một sự kiện đặc biệt quan trọng – FED phát hiện

ra NVTTM. Khi FED được thành lập, nguồn thu nhập của nó hoàn toàn chỉ là từ lãi

4

Page 5: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

thu được của những khoản tín dung cấp cho các ngân hàng thành viên. Sau cuộc suy

thoái 1920-1921, khối lượng vay chiết khấu giảm sút nghiêm trọng và FED rất túng

tiền. Nó giải quyết vấn đề này bằng cách mua các chứng khoán sinh lãi. Khi làm

như vậy, FED phát hiện ra rằng, dự trữ trong hệ thống NHTM tăng lên và những

khoản cho vay và tiền gửi ngân hàng tăng lên gấp bội. Kết quả đó ngày nay đối với

chúng ta rất hiển nhiên nhưng đối với FED lúc bấy giờ là một phát hiện. Một công

cụ mới của chính sách tiền tệ ra đời, và vào cuối những năm 1920, đó là một vũ khí

quan trọng nhất trong kho vũ khí của FED.

2. Định nghĩa NVTTM.

NVTTM là hoạt động NHTW mua vào hoặc bán ra những GTCG của chính

phủ trên thị trường. Thông qua hoạt động mua bán GTCG, NHTW tác động trực

tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng cung

ứng tiền tệ và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường.

NVTTM là một trong các công cụ được NHNN sử dụng để thực thi chính

sách tiền tệ quốc gia.

3. Cơ chế tác động của NVTTM.

Thông qua hoạt động mua, bán các GTCG trên thị trường mở, NHTW đã tác

động trực tiếp đến dự trữ của các ngân hàng và ảnh hưởng gián tiếp đến các mức

lãi suất trên thị trường, từ đó tác động trực tiếp đến các mục tiêu của chính sách

tiền tệ cả về mặt giá và mặt lượng.

3.1. Về mặt lượng - Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng.

Hành vi mua bán các GTCG trên thị trường mở của NHTW có khả năng tác

động ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các NHTM thông qua ảnh hưởng đến

tiền gửi của các ngân hàng tại NHTW (nếu các NHTM là đối tác tham gia OMO)

và tiền gửi của khách hàng tại hệ thống ngân hàng (nếu các khách hàng là đối tác

tham gia OMO).

5

Page 6: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

Sơ đồ 1.1. Cơ chế tác động của OMO tới dự trữ ngân hàng

Khi NHTW thực hiện bán GTCG cho các ngân hàng thì tiền gửi của ngân

hàng tại NHTW sẽ giảm xuống tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán

ra. Trường hợp người mua là các khách hàng của ngân hàng thì số tiền mua

GTCG sẽ làm giảm số dư tiền gửi của họ tại hệ thống ngân hàng. Kết quả là dự

trữ của hệ thống ngân hàng giảm sút tương ứng với khối lượng GTCG mà

NHTW bán ra. Sự giảm sút dự trữ của hệ thống ngân hàng sẽ làm giảm khả năng

cho vay của ngân hàng và vì thế khối lượng tín dụng giảm dẫn đến cung tiền sẽ

giảm. Ngược lại, khi NHTW thực hiện mua GTCG trên thị trường mở, kết quả

làm dự trữ của các ngân hàng tăng lên. Như vậy, khi NHTW thực hiện nghiệp vụ

thị trường nó sẽ tác động đến dự trữ của các ngân hàng, làm ảnh hưởng đến khối

lượng tín dụng, từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.

3.2. Về mặt giá - Tác động qua lãi suất.

Hành vi mua bán GTCG của NHTW trên thị trường mở có thể ảnh hưởng

gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường sau:

Thứ nhất, khi dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng sẽ tác động đến cung cầu

vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu tiền

trung ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi

suất ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage

về lãi suất, sẽ truyền tác động tới các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường

tài chính. Tại một mức lãi suất thị trường xác định, tổng cầu AD của nền kinh tế,

và do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết định.

Sơ đồ 1.2. Cơ chế tác động của OMO qua lãi suất

6

NHTW bán

GTCG

Dự trữ NH

giảm

Dự trữ mở rộng cho vay giảm

Khối lượng TD

giảm

MS giảm

Cung TPKB tăng

NHTW bán TPKB

Dự trữ NH giảm

Đầu tư giảm

Cung của quỹ cho vay giảm

Lãi suất ngắn hạn tăng

Lãi suất thị trường tăng

Giá TPKB giảm

LS thị trường tăngtăng

Page 7: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

Thứ hai, việc mua bán GTCG sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu

về loại GTCG đó trên thị trường và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi,

tỷ lệ sinh lời của chúng cũng thay đổi. Nếu khối lượng chứng khoán này chiếm tỷ

trọng lớn trong các giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời

của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường, và vì thế mà tác động đến tổng cầu

AD và sản lượng.

Khi NHTW bán tín phiếu kho bạc sẽ làm giảm dự trữ của hệ thống ngân

hàng. Điều này làm giảm cung quỹ cho vay và sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn

hạn, làm lãi suất ngắn hạn có xu hướng tăng lên và tác động vào làm tăng các lãi

suất thị trường. Bên cạnh đó khi NHTW thực hiện bán tín phiếu kho bạc trên thị

trường mở sẽ làm tăng cung tín phiếu kho bạc trên thị trường, từ đó làm giảm giá

của tín phiếu kho bạc. Điều này làm ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của tín phiếu

kho bạc theo hướng tăng lên, dẫn đến sự chuyển dịch vốn đầu tư sang tín phiếu

kho bạc. Để cân bằng lãi suất và hạn chế sự dịch chuyển vốn đầu tư, lãi suất thị

trường sẽ tăng lên. Khi lãi suất thị trường tăng lên thì hoạt động đầu tư của các

chủ thể đối với nền kinh tế sẽ giảm xuống do tỷ suất sinh lời giảm. Từ đó tổng

cầu trên thị trường giảm xuống và góp phần làm giảm sản lượng, ảnh hưởng đến

lượng tiền cung ứng.

4. Hàng hóa trên thị trường mở.

4.1. Tín phiếu kho bạc.

Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do Chính phủ phát hành để bù đắp thiếu

hụt tạm thời của ngân sách trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu kho bạc

7

Page 8: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

thường ngắn, dưới 12 tháng. Đây là công cụ chủ yếu của NVTTM của hấu hết

NHTW các nước vì :

- Tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao

- Được phát hành định kỳ với khối lượng lớn và vì thế có thể thoả mãn nhu

cầu can thiệp của NHTW với liều lượng khác nhau. Bộ tài chính là người có vai

trò quan trọng trong việc xác định khối lượng phát hành, thanh toán lãi và gốc

của tín phiếu. Tín phiếu Kho bạc được phát hành hàng tuần để chi trả các khoản

nợ ngắn hạn của Chính phủ. Vì vậy, khối lượng tín phiếu này thay đổi tuỳ theo

nhu cầu vay mượn của Chính phủ.

4.2. Tín phiếu NHTW.

Tín phiếu NHTW là loại GTCG ngắn hạn do NHTW phát hành để làm công

cụ cho OMO. Việc sử dụng tín phiếu NHTW làm hàng hoá trên thị trường mở có

một số ưu điểm như tăng cường tính độc lập của NHTW trong việc thực thi

CSTT và là công cụ linh hoạt cho việc quản lý vốn khả dụng

Tuy nhiên, việc phát hành tín phiếu NHTW để thực thi CSTT sẽ làm cho chi

phí hoạt động của NHTW tăng lên, mặc dù NHTW hoạt động không vì mục tiêu

lợi nhuận. Việc sử dụng tín phiếu NHTW đòi hỏi phải có sự phối hợp nhất định

với Bộ Tài chính. Khi NHTW và Bộ Tài chính đồng thời phát hành tín phiếu

NHTW và tín phiếu kho bạc, nếu lãi suất chênh lệch thì các đối tác trên thị

trường mở sẽ tập trung mua loại tín phiếu có lãi suất cao hơn. Khi đó sẽ có sự

phân khúc giữa thị trường tín phiếu kho bạc và thị trường tín phiếu NHTW, làm

cho mục đích phát hành các GTCG này không đạt được và có thể làm giảm hiệu

quả tác động của 2 loại hàng hoá này.

4.3. Chứng chỉ tiền gửi.

Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của ngân hàng hay các định chế tài chính

phi ngân hàng phát hành. Xác nhận một món tiền đã được gửi vào ngân hàng trong

một thời gian nhất định với một mức lãi xuất định trước. Thời hạn của chứng chỉ

8

Page 9: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

tiền gửi thường là ngắn hạn (cũng có trường hợp thời hạn lên tới 3-5 năm). Sự ra

đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự thay đổi căn bản trong cơ chế quản lý ngân

hàng: Chuyển từ quản lý tài sản nợ sang quản lý tài sản có vì nó cung cấp một hình

thức huy động vốn chủ động cho ngân hàng thay vì phải phụ thuộc vào người gửi

tiền. Tính ưu việt của chứng chỉ tiền gửi chính là sức sống của nó, và do đó nó

được sử dụng như là hàng hoá phổ biến trong nghiệp vụ thị trường mở.

4.4. Thương phiếu.

Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam

kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian xác định.

Đây là giấy nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ sung nhu cầu

vốn ngắn hạn. Luật và pháp lệnh thương phiếu ở các nước đảm bảo tính chất an toàn

cho công cụ này bằng các quy định về điều kiện được phép phát hành thương phiếu.

Thương phiếu là tài sản có đối với người sở hữu; Có thể là ngân hàng (thông qua các

hành vi chiết khấu hoặc cho vay có bảo đảm bằng thương phiếu) hoặc các tổ chức

phi ngân hàng trong quan hệ thanh toán trực tiếp (cơ chế bảo lãnh của ngân hàng

làm cho thương phiếu có tính chuyển nhượng cao và vì thế được chấp nhận dễ dàng

trong thanh toán của các tổ chức này). Vì vậy, việc mua bán thương phiếu của Ngân

hàng Trung ương sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự trữ của các ngân hàng hoặc tiền gửi

của các khách hàng tại ngân hàng thương mại.

4.5. Trái phiếu chính phủ.

Trái phiếu chính phủ là giấy nhận nợ dài hạn do Chính phủ phát hành nhằm

mục đích huy động vốn cho ngân sách. Mặc dù là GTCG dài hạn có thời hạn lên đến

10-30 năm nhưng trái phiếu Chính phủ được sử dụng khá rộng rãi trong các giao

dịch OMO ở một số nước bởi tính an toàn, ổn định trong phát hành và khối lượng

phát hành thường lớn, có khả năng tác động trực tiếp giá cả trên thị trường tài chính.

4.6. Trái phiếu chính quyền địa phương.

Tương tự như trái phiếu Chính phủ, nhưng trái phiếu chính quyền địa

phương khác thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu. Thông

9

Page 10: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

thường người sở hữu trái phiếu của chính quyền địa phương được hưởng ưu đãi

về thuế thu nhập trái phiếu. Sự can thiệp của NHTW qua việc mua bán trái phiếu

loại này cũng tương tự như trái phiếu Chính phủ. Chính quyền địa phương phát

hành trái phiếu là để tài trợ cho chi tiêu của họ và thường chỉ có chính quyền địa

phương lớn phát hành. Loại chứng khoán này được các nhà đầu tư ưa chuộng và

các NHTM thường dùng loại chứng khoán này tái chiết khấu tại NHTW.

5. Các NVTTM.

5.1. Nghiệp vụ giao dich chứng từ có giá.

a. Giao dịch không hoàn lại (Các giao dịch mua đứt bán đoạn).

Các giao dịch không hoàn lại bao gồm các nghiệp vụ mua, bán chứng khoán

của NHTW theo các phương thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị trường.

Hình thức giao dịch này làm chuyển hẳn quyền sở hữu đối với các chứng khoán

là đối tượng giao dịch. Vì vậy ảnh hưởng của nó đối với dự trữ của các ngân hàng

là dài hạn.

b. Giao dịch có hoàn lại (Giao dịch có kỳ hạn).

Hình thức này chủ yếu sử dụng cho mục đích giao dịch tạm thời là các hợp

đồng mua lại (Repor). Hợp đồng mua lại, sử dụng khi NHTW thực hiện một giao

dịch theo hợp đồng mua lại, có nghĩa là mua chứng khoán từ người môi giới trên

thị trường, người đồng ý sẽ mua lại vào một ngày xác định trong tương lai. Hợp

đồng mua lại đảo ngược được áp dụng khi NHTW muốn rút bớt dự trữ của hệ

thống ngân hàng. Để đạt được mục đích này, NHTW bán chứng khoán cho người

giao dịch, người đồng ý sẽ bán lại vào một ngày xác định trong tương lai. Sự

chênh lệch giá bán chứng khoán tại thời điểm t = 0 và thời điểm t = T là lãi suất

của khoản vay Repor. Nói chung, hợp đồng mua lại được sử dụng trong một thời

gian rất ngắn, thường là hợp đồng qua đêm với t = 1 ngày. Tuy nhiên cũng có

hợp đồng mua lại dài hơn với t > 1 ngày, đựoc gọi là Repor có thời hạn. Với loại

Repor mở, thời hạn t không được xác định trước mà 2 bên thoả thuận lại vào mỗi

10

Page 11: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

ngày. Giao dịch theo hợp đồng Repor thực chất là một khoản cho vay có đảm bảo

bằng các chứng khoán có tính thị trường cao.

Các giao dịch có hoàn lại được sử dụng chủ yếu trong nghiệp vụ thị trường

mở vì những lý do sau:

Thứ nhất, đây là một công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu

những ảnh hưởng không dự tính trước đến dự trữ của các ngân hàng.

Thứ hai, chi phí giao dịch cho một hợp đồng mua lại rẻ hơn so với các hợp

đồng mua đứt bán đoạn.

Thứ ba, Thích hợp trong trường hợp các định hướng chính sách tiền tệ

không hoàn hảo dẫn đến việc sử dụng các giải pháp khắc phục.

Thứ tư, làm bớt thời gian thông báo, do đó mà giảm bớt biến động của thị

trường trước các quyết định hàng ngày của NHTW.

5.2. Nghiệp vụ giao dịch hoán đổi ngoại tệ.

Trong nghiệp vụ này khi tham gia giao dịch thi NHTW đồng thời ký hai hợp

đồng và lấy ngoại tệ làm đối tượng trao đổi .

Hợp đồng 1: Mua bán ngoại tệ với tỷ gia giao ngay

Hợp đồng 2: Bán hoặc mua ngoại tệ với tỷ giá co ky hạn

Ngoài ra, một loạt các nghiệp vụ khác cũng được NHTW sử dụng trong

NVTTM như: Phát hành chứng chỉ nợ của NHTW; Giao dịch hoán đổi các chứng

khoán đến hạn.

6. Phương thức hoạt động của NVTTM.

6.1. Giao dịch song phương.

Là phương thức mà NHTW với người giao dịch giao dịch thẳng với nhau

hoặc giao dịch thông qua nhà môi giới hoặc đại lý chứng khoán mà không mua

bán thông qua hình thức đấu thầu.

11

Page 12: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

Giao dịch song phương thường không được thông báo trước, ngày can thiệp

tùy thuộc vào quyết định của NHTW.

6.1. Giao dịch theo phương thức đấu thầu.

a. Phương thức đấu thầu khối lượng.

Là việc xác định khối lượng trúng thầu của các tổ chức tín dụng tham gia

nghiệp vụ TTM trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng, khối

lượng GTCG mua hoặc bán và lãi suất do NHTW thông báo cụ thể như sau :

- NHTW thông báo cho các TCTD mức lãi suất và khối lượng các loại

GTCG cần mua hoặc cần bán (NHTW có thể không thông báo khối lượng cần

mua hoặc cần bán).

- Các đơn vị thành viên tham gia dự thầu khối lượng các loại giấy tờ cần

mua hoặc cần bán theo mức lãi suất do NHTW công bố

Sau khi mở thầu, NHTW xác định khối lượng trúng thầu của các đơn vị

tham gia dự thầu theo nguyên tắc sau :

+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD bằng hoặc thấp hơn khối

lượng NHTW cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của đơn vị chính

là khồi lượng dự thầu.

+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD lớn hơn khối lượng NHTW

cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của các TCTD sẽ được phân bổ

theo tỷ lệ thuận với khối lượng dự thầu của các TCTD.

b. .Phương thức đấu thầu lãi suất

Là việc xác định lãi suất trúng thầu của các TCTD tham gia NVTTM trên cơ

sở khối lượng dự thầu của các TCTD, khối lượng GTCG mà NHTW cần mua

hoặc cần bán.

- NHTW có thể công bố hoặc không công bố khối lượng GTCG cần mua

hoặc cần bán.

12

Page 13: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

- Các đơn vị thành viên dự thầu theo mức lãi suất và khối lượng GTCG cần

mua hoặc cần bán ứng với mức lãi suất đó. Lãi suất dự thầu được tính theo tỷ lệ

phần trăm và được làm tròn đến hai con số sau dấu phẩy. Lãi suất sẽ được sắp

xếp theo thứ tự lãi suất dự thầu giảm dần, nếu NHTW là người mua và ngược lại

lãi suất sẽ được sắp xếp theo thứ tự tăng dần nếu NHTW là người bán.

- Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu cao nhất (trường hợp NHTW bán) và

lãi suất dự thầu thấp nhất (trường hợp NHTW mua) mà tại đó đạt được khối

lượng GTCG NHTW cần mua hoặc cần bán.

Có hai phương thức xét thầu theo lãi suất là xét thầu theo lãi suất thống nhất

hoặc theo lãi suất riêng lẻ:

+ Lãi suất thống nhất: là toàn bộ khối lượng trúng thầu được tính theo một

mức lãi suất trúng thầu để tính số tiền phải thanh toán.

+ Lãi suất riêng lẻ: khối lượng trúng thầu được tính tương ứng với từng mức

lãi suất dự thầu được công bố trúng thầu để tính số tiền thanh toán.

Khối lượng trúng thầu được tính theo nguyên tắc :

+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD nhỏ hơn hoặc bằng khối

lượng mà NHTW cần mua hoặc cần bán thì khôí lượng dự thầu chính là khối

lượng trúng thầu.

+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD lớn hơn khối lượng mà

NHTW cần mua hoặc cần bán thì khôí lượng trúng thầu của các TCTD được tính

tỷ lệ thuận với khối lượng dự thầu của các TCTD đó.

7. Ưu nhược điểm của NVTTM.

7.1. Ưu điểm.

Có thể khái quát một số ưu điểm điểm của NVTTM như sau:

- NVTTM là công cụ chính sách tiền tệ chủ động: Thông qua NVTTM,

NHTW có thể tạo ra những biến động có tính chất cung cấp tín hiệu cho thị

trường theo mục tiêu chính sách tiền tệ và tác động vào xu hướng trên thị trường.

13

Page 14: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

NVTTM do NHTW khởi xướng khác với các nghiệp vụ cho vay hỗ trợ vốn khác

của NHTW (chẳng hạn như cho vay cầm cố bằng GTCG, cho vay tái chiết khấu)

do các ngân hàng có nhu cầu vay vốn chủ động khởi xướng. NHTW có thể thực

hiện nghiệp vụ theo định kỳ hoặc vào các thời điểm cần thiết.

- NVTTM do các ngân hàng tự nguyện thực hiện theo các nguyên tắc thị

trường, không có tính chất bắt buộc như công cụ dự trữ bắt buộc.

- NVTTM có thể thực hiện linh hoạt xét trên góc độ về khối lượng cũng như

thời hạn giao dịch, NHTW có thể điều chỉnh vốn khả dụng của các ngân hàng với

quy mô vốn lớn-nhỏ với thời gian dài hay ngắn tuỳ theo quyết định mua bán là

ngắn hay dài. Tính linh hoạt của NVTTM còn thể hiện là khi thực hiện NVTTM

có một quyết định sai lầm nào đó thì NHTW có thể đảo ngược lại ngay tình

huống đó. Ví dụ như NHTW thấy rằng lượng tiền cung ứng tăng nhanh do

NHTW mua GTCG trên thị trường quá nhiều, thì NHTW có thể sửa chữa bằng

cách thực hiện giao dịch bán GTCG trên thị trường mở để giảm bớt cung tiền

trong nền kinh tế. Các giao dịch có kỳ hạn cho phép điều chỉnh các biến động

không dự đoán trước có ảnh hưởng đến dự trữ của các ngân hàng hoặc các diến

động quá mức dự tính với chi phí thấp và hiệu quả cao. Đặc biệt, thông qua

NVTTM NHTW có thể điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng

theo hai chiều bơm - hút (trong khi công cụ tái cấp vốn, tái chiết khấu chỉ nhằm

mục đích bơm thêm vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng).

- NVTTM có thể được thực hiện nhanh chóng, chính xác, không gây chậm

trễ về mặt hành chính. NVTTM có tính an toàn cao: Giao dịch trên thị trường mở

hầu như không gặp rủi ro, xét trên góc độ của NHTW và các tổ chức tín dụng

tham gia vì hàng hoá giao dịch trên thị trường mở là những GTCG, có tính thanh

khoản cao.

- NHTW có thể thực hiện NVTTM trên cả thị trường sơ cấp và thứ cấp.

NVTTM được thực hiện trên thị trường sơ cấp chỉ các giao dịch phát hành lần

đầu GTCG của NHTW và thanh toán các GTCG đến hạn. Trong khi đó, NVTTM

trên thị trường thứ cấp thực hiện trên cơ sở các giao dịch mua bán hẳn, mua - bán

14

Page 15: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

có kỳ hạn các GTCG đã phát hành. Ở hầu hết các nước thì hàng hoá chủ yếu trên

thị trường mở là các chứng khoán Chính phủ vì các chứng khoán này có độ an

toàn cao, phát hành với khối lượng lớn, định kỳ khá thường xuyên.

7.2. Hạn chế.

Ngoài những ưu điểm chủ yếu trên, thị trường mở cũng có những điểm hạn

chế nhất đinh:

- Các tác động của NVTTM đến lượng tiền cơ sở bị triệt tiêu bởi các tác động

ngược chiều làm cho dự trữ của hệ thống ngân hàng không tăng hoặc giảm tương

ứng theo ý muốn của NHTW khi thực hiện mua bán GTCG trên thị trường mở. Trên

thực tế, các hoạt động mua bán GTCG của NHTW nhằm bơm thêm vốn khả dụng

có thể bị triệt tiêu một phần hay toàn bộ do mất cân đối trong cán cân thanh toán

hoặc một số dư tiền gửi ở NHTW tăng lên.

- Khả năng phát huy hiệu quả NVTTM không chỉ phụ thuộc vào NHTW mà

còn bị chi phối bở môi trường kinh tế vĩ mô, hành vi của công chúng và các quyết

định của các NHTM. Chẳng hạn như khi lãi suất thị trường giảm xuống như là

kết quả tất yếu của sự tăng lên của lượng tiền cơ bản, không phải lúc nào tín dụng

cho nền kinh tế cũng tăng lên tương ứng. Điều này còn phụ thuộc vào khả năng

hấp thụ vốn của nền kinh tế, mức độ rủi ro và sự ổn định môi trường đầu tư. Việc

sử dụng lượng dự trữ dư thừa cho mục tiêu mở rộng tín dụng không chỉ phụ

thuộc vào quyết định của các ngân hàng mà còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác.

II. MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ

VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA.

1. Trong năm 2008.

Năm 2008 Sở Giao dịch NHNNVN đã tổ chức 402 phiên giao dịch TTM,

tăng 47 phiên so với năm 2007. Mua GTCG chiếm đến 64,67% tổng phiên giao

dịch với doanh số trúng thầu chiếm 91,42%. Không chỉ tăng số phiên giao dịch,

doanh số giao dịch cũng tăng kỷ lục so với năm 2007, trong đó chủ yếu là giao

15

Page 16: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

dịch mua có kỳ hạn (tăng gấp 15 lần so với năm 2007). Trong khi đó, giao dịch

bán hẳn chỉ còn 76.837 tỷ đồng, giảm 4,6 lần so với 2007.

NVTTM được NHNNVN điều hành linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với các

công cụ CSTT khác để điều tiết vốn khả dụng cho các TCTD ở mức hợp lí, góp

phần ổn định thị trường tiền tệ. Ví dụ như năm 2008, đối mặt với diễn biến kinh

tế bất thường: lạm phát ở mức 19,98% nhưng tốc độ tăng có xu hướng giảm từ

tháng 7 và chuyển sang âm trong tháng 10, tháng 11, NHNNVN đã kết hợp linh

hoạt, hiệu quả NVTTM với các công cụ khác của CSTT, góp phần kiềm chế lạm

phát. Kết quả giao dịch NVTTM năm 2008 như sau:

Bảng 2.6: Kết quả giao dịch NVTTM năm 2008

Loại giao dịch Tổng số dự kiến Khối lượng

đăng ký

Khối lượng

trúng thầu

Lãi suất trúng

thầu bình quân

Mua có kỳ hạn (260

phiên)

979.800 3.883.098 947.205 12,92

Bán hẳn (133 phiên) 368.000 135.553 76.837 4,6

Bán có kỳ hạn (9

phiên)

12.022 12.022 12.022 14,91

Tổng số 1.359.822 1.030.673 1.036.066  

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Năm 2008, NVTTM đảo chiều so với năm 2007 với tổng số phiên giao dịch là 402

phiên, tăng 47 phiên so với năm 2007; doanh số giao dịch đạt 1.036.066 tỷ đồng, tăng

148% so với năm 2007, trong đó doanh số mua chiếm 91,42% và gấp 15 lần so với năm

2007, doanh số bán giảm 4,6%. Đặc biệt, mức lãi suất đặt thầu trong một số phiên mua

kỳ hạn trong quý I/2008 ở mức rất cao, có lúc lên tới 40%/năm vì vậy NHNNVN đã áp

dụng phương thức đấu thầu khối lượng, lãi suất thống nhất cho tất cả các kỳ hạn giao

dịch (từ 9-15%/năm) để ổn định lãi suất thị trường. Diễn biến này phản ánh những biến

động bất thường của thị trường tiền tệ năm 2008 và khó khăn về thanh khoản của các

TCTD. Kết quả giao dịch cụ thể của từng quý thể hiện như sau:

16

Page 17: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

Bảng 2.7: Diễn biến giao dịch năm 2008 theo từng quý

 

Giao dịch

Quý I Quý II Quý III Quý IV

LS (%) KL (tỷ) LS (%) KL tỷ) LS (%) KL tỷ) LS (%) KL(tỷ)

Mua có kỳ hạn 12,18 190.214 11,88 445.000 15 283.100 13,6 28.891

Bán hẳn 8,5 1.867 7,75 1.578 4,5 74.986

Bán có kỳ hạn 14,91 12.022            

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Trong Quý I, trên thị trường mở diễn ra cả hai loại giao dịch mua và bán

nhưng kết quả mua là chủ yếu (khoảng 93%) và áp dụng cả hai phương pháp đấu

thầu là đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng, thời hạn giao dịch phổ biến là 07

và 14 ngày trong nghiệp vụ Mua kỳ hạn trên TTM. Từ tháng 2/2008, do tình hình

lãi suất đặt thầu và thắng thầu tăng cao, NHNNVN bắt đầu thắt chặt chính sách

tiền tệ, chỉ sử dụng phương pháp đấu thầu khối lượng, mức lãi suất thống nhất

được sử dụng trong tuần đầu tiên là 15% nhằm tạo định hướng cho thị trường,

trong các tuần tiếp theo lãi suất được điều chỉnh giảm xuống 14%, 13%, 10% và

9% cho phù hợp với lãi suất cơ bản do NHNNVN công bố.

Ngày 13/02/2008, NHNN ban hành Quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc

phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc với tổng giá trị tín phiếu phát hành là 20.300

tỷ đồng, kỳ hạn 364 ngày, lãi suất 7,8%/năm, ngày phát hành 17/03/2008. Tín

phiếu NHNN được phân bổ cho 41 NHTM theo quy mô tỷ trọng vốn huy động

bằng đồng Việt Nam (4 NHTM Nhà nước, 28 NHTM cổ phần, 7 chi nhánh Ngân

hàng nước ngoài, 2 Ngân hàng liên doanh và công ty tài chính dầu khí). Đó là

những Ngân hàng vẫn còn khá dồi dào nguồn vốn. Như vậy, để thực hiện chính

sách thắt chặt tiền tệ, NHNN đã chủ động phát hành tín phiếu NHNN nhằm thu

bớt tiền trong lưu thông với mục đích ổn định tiền tệ.

Sang quý II, để đảm bảo tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, NHNNVN

một mặt áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ nhưng mặt khác vẫn hỗ trợ thanh khoản

cho các TCTD qua NVTTM. Lượng vốn bơm ra thị trường trong thòi kỳ này đạt

mức kỷ lục là 445.000 tỷ đồng, chiếm 99,65% tổng khối lượng giao dịch NVTTM

17

Page 18: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

trong Quý II. NHNNVN tiếp tục áp dụng hình thức đấu thầu khối lượng với mức lãi

suất thống nhất được điều chỉnh tăng dần từ 9% lên 12%/năm.

Mục tiêu trong quý 2 là tăng tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Để làm

được điều này, NHTW thực hiện NVTTM theo hướng mua các GTCG và cung tiền

ra thị trường. Để mua được các GTCG, NHTW phải tăng mức lãi suất từ 9 % lên

đến 12% để hấp dẫn các ngân hàng bán GTCG cho mình, từ đó làm tăng dự trữ của

hệ thống ngân hàng, cung vốn khả dụng tăng, trong điều kiện nhu cầu vốn khả dụng

không đổi, từ đó làm giảm lãi suất liên ngân hàng, làm giảm lãi suất nói chung.

Mặt khác, cung GTCG giảm, giá của chúng tăng, tỷ suất sinh lời giảm, thị

trường GTCG trở lên kém hấp dẫn, các ngân hàng thích cung vốn trên thị trường

tiền tệ liên ngân hàng hơn là đầu tư vào các GTCG, tính thanh khoản của các

ngân hàng tăng do cung vốn khả dung tăng, cung vốn khả dụng tăng, lãi suất liên

ngân hàng giảm, lãi suất nói chung giảm. Nói chung, NHTW đạt được mục tiêu

đã đề ra bên trên.

Quý III, tình hình vốn trên thị trường đã bớt căng thẳng. NHNNVN tiếp tục

tổ chức mua kỳ hạn trên thị trường mơ và duy trì hình thức đấu thầu khối lượng

với mức lãi suất được điều chỉnh tăng lên 15%/năm cho phù hợp với định hướng

điều hành lãi suất và kiềm chế lạm phát của NHNNVN.

Bước sang Quý IV, lạm phát đã được kiềm chế và Chính phủ ưu tiên cho

mục tiêu chống suy giảm kinh tế, nguồn vốn khả dụng của các TCTD đã được cải

thiện đáng kể. NHNNVN đã tổ chức cả hai loại giao dịch mua và bán; trong đó

giao dịch mua vẫn áp dụng hình thức đấu thầu khối lượng nhưng lãi suất đấu thầu

được điều chỉnh giảm dần từ 15% xuống 9%/năm. Kết quả, lượng vốn đưa ra qua

kênh mua chỉ bằng 38,53% so với lượng vốn hút về qua kênh bán. 

Với hiệu quả rõ rệt của NVTTM, số lượng thành viên tham ra nghiệp vụ này

đã tăng từ mức 44 TCTD trong năm 2007 lên mức 56 TCTD trong năm 2008, tỷ

lệ thành viên tham gia giao dịch cũng tăng từ mức 21 TCTD lên mức 35 TCTD.

18

Page 19: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

Kể từ ngày 1/10/2008, NHNN đã có quyết định cho phép tín phiếu NHNN

bắt buộc phát hành từ tháng 3/2008 được điều chỉnh bổ sung là được phép cầm cố

để vay vốn, chiết khấu tại NHNN, được sử dụng làm công cụ cho NVTTM của

NHNN. Và từ ngày 21/10/2008, NHNN thực hiện trả trước hạn tín phiếu này

theo yêu cầu của các TCTD. (Quyết định của NHNN số 2317/QĐ-NHNN ngày

20/10/2008).

Việc bắt buộc mua tín phiếu NHNN như trên là không hợp lý bởi về nguyên

tắc, tín phiếu do NHTM tự nguyện mua, trên cơ sở tính toán nguồn vốn của mình

và có thời hạn dưới 12 tháng. Trường hợp cần thiết, NHTM có thể bán lại tín

phiếu cho NHNN để lấy tiền về. Thế nhưng với 20.300 tỷ đồng tín phiếu mà

NHNN phát hành lại không có tính tự nguyện, NHTM buộc phải mua theo số

lượng đã được NHNN ấn định. Như vậy, 20.300 tỷ đồng này khá giống với dự

trữ bắt buộc, có khác là NHTM được trả lãi với lãi suất 7,8%/năm. Một điểm nữa

là tín phiếu bắt buộc này lại rất giống trái phiếu. Theo quy định, tín phiếu có thời

hạn dưới 12 tháng còn thời hạn của trái phiếu là trên 12 tháng. Tín phiếu bắt buộc

thuộc loại “già tín phiếu nhưng non trái phiếu” khi có thời hạn 364 ngày, tức là

chỉ thiếu đúng một ngày là được gọi là trái phiếu. Vì lý do trên mà hầu hết các

NHTM không mặn mà đối với nghiệp vụ này.

Như trên đã phân tích, hoạt động thị trường mở có vai trò rất quan trọng

trong điều hành chính sách tiền tệ. Song tiền đề cho sự hoạt động hiệu quả của thị

trường này chính là thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc Nhà nước. Bởi vì

NHTM có sở hữu tín phiếu kho bạc Nhà nước và một số loại GTCG khác thì mới

có điều kiện tham gia thị trường mở của NHNN.

Trong hơn 9 tháng đầu năm 2008, do khó khăn về thanh khoản NHTM, nên

trong khi thị trường mở rất sôi động thì thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc

trầm lắng, các phiên đấu thầu không được tổ chức. Thực tế chỉ có 2 phiên được tổ

chức vào cuối tháng 1 và cuối tháng 3/2008 nhưng không có thành viên nào tham

gia dự thầu. Qúy II/2008, không tổ chức được phiên nào, quý III tổ chức được 3

phiên. Thị trường này hoạt động nhộn nhịp trở lại từ đầu tháng 10/2008, khi

19

Page 20: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

NHNN đã tăng tần suất giao dịch từ 1 phiên/tuần lên 2 phiên/tuần, có 24 phiên

được tổ chức vào quý IV/2008. Tính tổng cộng đến ngày 25/12/2008, NHNN tổ

chức được 34 phiên, giảm 9 phiên so với kết quả 43 phiên được tổ chức trong

năm 2007[24,44]. Diễn biến này cùng phù hợp với 4 giai đoạn khác nhau trong

điều hành chính sách tiền tệ năm 2008 của NHNN. Thông qua đó, thị trường này

có tác dụng rất quan trọng trong can thiệp vốn khả dụng của NHTM, cũng như

tạo công cụ phòng ngừa rủi ro thanh khoản của NHTM, nâng cao hiệu quả điều

hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu đã đề ra của NHNN.

Mặc dù có những hạn chế nhưng NVTTM Việt Nam năm 2008 cũng đạt

được 1 số thành tựu nhất định như đã phát huy vai trò tích cực trong việc thực thi

CSTT, góp phần kiểm soát lạm phát, đảm bảo khả năng thanh khoản cho các

TCTD, giữ vững tính an toàn và bền vững của hệ thống Ngân hàng.

Thành viên tham gia thị trường mở ngày càng được tăng cường. Việc

NHNNVN điều hành linh hoạt NVTTM với các quy trình thủ tục thuận lợi đã

ngày càng thu hút sự quan tâm của các TCTD. Đến nay, các thành viên tham gia

thường xuyên vào thị trường mở không chỉ có các NHTM Nhà nước mà còn có

các NHTM cổ phần, NHTM liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài như

NHTM cổ phần Hà Nội, NHTM cổ phần Kỹ Thương,Citibank, v.v…

2. Trong năm 2009.

Trong năm 2009, NVTTM được điều hành linh hoạt, bám sát với diễn biến cung

cầu vốn khả dụng của các tổ chức tính dụng. Các giao dịch NVTTM được thực hiện

hàng ngày, chủ yếu là các giao dịch mua GTCG với lỳ hạn ngắn (7, 14 ngày); phương

thức đấu thầu khối lượng, công bố lãi suất và khối lượng nhằm ổn định thị trường; lãi

suất được điều chỉnh theo mục tiêu điều hành và phát tín hiệu điều hành của NHNN,

khối lượng chào mua phù hợp với mục tiêu điều tiết linh hoạt vốn khả dụng, hỗ trợ

thanh khoản, đảm bảo khả năng thanh toán.

Nửa đầu năm 2009, NHNN thực hiện các phiên chào mua kỳ hạnh 14 ngày, lãi

suất giảm dần từ 9% xuống 7% để cung ứng vốn ngắn hạn cho nền kinh tế, tạo điều

20

Page 21: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

kiện cho các TCTD đáp ứng nhu cầu vốn cho các chương trình kích thích tăng trưởng

kinh tế. Tuy nhiên, chương trình kích thích tăng trưởng kinh tế đang ở giai đoạn đầu,

nhu cầu vốn của nền kinh tế chưa cao, nguồn vốn của các TCTD vẫn dư thừa nên nhu

cầu tham gia các phiên chào mua NVTTM không cao với doanh số trúng thầu chỉ đạt

74 % so với lượng tiền chào mua của NHNN. Khối lượng trúng thầu bình quân mỗi

phiên đạt khoảng 1000 tỷ đồng mỗi phiên.

Nửa cuối năm 2009, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của các TCTD có xu hướng

tăng cao theo các chương trình kích cầu của Chính phủ, NHNN đã tăng khối lượng

chào mua qua NVTTM, khối lượng trúng thầu bình quân các phiên chào mua tăng

mạnh, đạt 95 % khối lượng chào mua của NHNN và đạt khoảng 6000 tỷ đồng/phiên,

gấp 6 lần so với mức 6 tháng đầu năm. Đặc biệt trong nửa đầu tháng 12, NHNN đã

chào mua qua kênh NVTTM với khối lượng bình quân xấp xỉ 15000 tỷ đồng/phiên để

hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD do nhu cầu thanh toán tăng cao trong dịp tết dương

lịch. Kỳ hạn chào mua được thực hiện linh hoạt giữa 7 ngày và 14 ngày với lãi suất

chào mua tương ứng là 7 % năm và 14 % năm. Đồng thời để chủ động kiểm soát lạm

phát và điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của TCTD trong hệ thống. NHNN đã thực

hiện chào bán tín phiếu NHNN với định kỳ 3 phiên/tuần với định kỳ 3 tháng và 6

tháng. Phương thức đấu thầu lãi suất, xét thầu thống nhất, nhưng trong số 68 phiên

đấu thầu tín phiếu NHNN chỉ có 2 phiên bán trúng thầu với doanh số 102 tỷ đồng.

Cùng với việc điều hành linh hoạt và thận trọng các công cụ chính sách tiền

tệ khác, NVTTM đã góp phần ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo an toàn thanh

toán hệ thống các TCTD, đồng thời lãi suất giao dịch trên thị trường liên ngân

hàng có xu hướng xoay quanh lãi suất chào mua qua NVTTM .

Trong NVTTM 2009, NHNN thực hiện hoán đổi ngoại tệ với các TCTD gặp

khó khăn tạm thời về nguồn vốn VND, tạo điều kiện cho các TCTD cân đối giữa

nguồn vốn và sử dụng VND và ngoại tệ, góp phần ổn định thị trường tiền tệ và

tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. Kỳ hạn giao dịch hoán đổi ngoại tệ được thực

hiện là 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng với lãi suất tương ứng là 6%; 6.25%; 6,5%/

21

Page 22: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

năm. Đến cuối 2009 NHNN chỉ thực hiện giao dịch với kỳ hạn 3 tháng và 6 tháng

với lãi suất điều chỉnh là 7,75% và 8%/ năm.

3. Trong năm 2010.

Trong quý I, báo cáo của NHNN cho biết, để đảm bảo ổn định thị trường và hoạt

động của hệ thống trong thời gian trên, cơ quan này đã tăng cường hỗ trợ vốn cho các

tổ chức tín dụng thông qua NVTTM với 2 phiên giao dịch/ngày, kỳ hạn 7 ngày và 28

ngày bắt đầu từ ngày 23/12/2009; thực hiện tái cấp vốn và nghiệp vụ Swap với khối

lượng lớn và kỳ hạn hợp lý cho các tổ chức tín dụng để đảm bảo thanh khoản; bổ

sung GTCG được phép tham gia giao dịch NVTTM và tái cấp vốn. Tính đến ngày

12/2/2010, lượng tiền cung ứng thực tế tiếp tục tăng ở mức cao so với cùng kỳ các

năm gần đây.

Trong tháng 2/2010, lượng vốn mỗi ngày NHNN hỗ trợ qua thị trường mở

có từ 12.000 – 15.000 tỷ đồng; NVTTM được tăng cường 2 phiên/ngày. Và với

diễn biến thuận lợi hơn về nguồn tiền gửi và tình hình vốn khả dụng, trong ngày

3/3 vừa qua, kết quả đấu thầu cũng lên tới 10.005 tỷ đồng qua 2 phiên.

Tuy nhiên, kể từ sau ngày 4/3, lượng tiền “bơm” qua thị trường mở đã giảm

mạnh và hiện chỉ còn duy trì mỗi ngày 1 phiên. Cụ thể, khối lượng trúng thầu

ngày 4/3 chỉ có 3.200 tỷ đồng, đến ngày 10/3 là 2.983 tỷ đồng; đặc biệt trong các

ngày 11, 12 và 15/3, lượng tiền chỉ còn tương ứng 796, 454 và 742 tỷ đồng.

Lãi suất hình thành qua nhưng phiên đầu thầu vừa qua ổn định ở 8%/năm,

bằng với lãi suất tái cấp vốn hiện hành, tập trung chủ yếu ở kỳ hạn 14 ngày.

Trong những thời điểm căng thẳng về vốn khả dụng, lãi suất hình thành qua đấu

thầu có thể cao hơn lãi suất tái cấp vốn.

Thống đốc NHNN cho biết trong quý I/2010, tổng phương tiện thanh toán và

tín dụng có xu hướng tăng dần, tín dụng tăng 3,34%. Huy động vốn đang có xu

hướng tăng trở lại, đến cuối tháng 3 tăng 3,8% so với cuối năm 2009, đặc biệt là

tiền gửi của dân cư tăng 9,2%.

Trong quý II, III:

22

Page 23: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

Dựa vào số liệu dưới và biểu đồ trên đây ta thấy trong quý 2 năm 2010 có thể

thấy chính phủ đang sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng nhưng không hoàn toàn ,

cụ thể trong tuần kết thúc vào ngày 28/5, lượng vốn bơm qua OMO là -7.275 tỷ

đồng; tượng tự các tuần kết thúc vào các ngày 4/6 là 5.783 tỷ đồng, ngày 11/6 là

113 tỷ đồng, ngày 18/6 là -1.556 tỷ đồng, ngày 25/6 là 5.142 tỷ đồng. Ngày 28/5

và ngày 18/6 lượng vốn bơm qua OMO lần lượt là -7.275 và -1.556 tỷ đồng chứng

tỏ NHTW đã rút vốn trên thị trường mở qua việc bán các GTCG, cùng trong quý

ngày 4/6 và 11/6 , 25/6 lượng vồn bơm qua OMO lần lượt là 5.783 và 113, 5142

tỷ đồng chứng tỏ NHTW đã bơm tiền qua thị trường mở qua việc mua các GTCG ,

tuy vậy trong quý II thì tổng số tiền cung ứng ra khoảng 2207 tỷ đồng. Trong tình

hình nền kinh tế đang tăng trưởng mạnh, tăng 6.2% trong nửa đầu năm 2010, riêng

quý II tăng 6.4% so với mức 4.5% cùng kỳ năm 2009 , tuy nhiên quý II vần chưa

đạt được mục tiêu đề ra là 6.5%.

Như ta thấy trên biểu đồ tháng 7 năm 2010 có thể thấy chính phủ đang sử

dụng chính sách tiền tệ mở rộng, Cụ thể là gày 2/7 là 1.554 tỷ đồng, ngày 9/7 là

1.849 tỷ đồng, ngày 16/7 là -278 tỷ đồng và tuần gần nhất kết thúc vào ngày 23/7

23

Page 24: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

là 5.597 tỷ đồng chứng tỏ NHTW đã bơm tiền qua thị trường mở qua việc mua

các GTCG ở 3 ngày 2/7, 9/7, 23/7 và rút vốn trên thị trường mở ngày 16/7.

Trong tình hình nên kinh tế đang thiếu vốn thì việc NHTW tăng chi bơm tiền

ra OMO bằng cách mua các gtcg ,sẽ đáp ứng được các nhu cầu sản xuất , nâng cao

sảng lượng, đồng thời đáp ứng đủ nguồn vốn lưu động cho các chủ thể kinh tế và

vốn khả dụng cho NHTM. Tuy vậy trong quý II NHTW không chỉ bơm tiền liên

tục vào OMO mà còn các hoạt động hút tiền từ OMO, bởi vì việc bơm tiền ra liên

tục tuy đáp ứng nhu cầu vốn của các tổ chức kinh tế lẫn vốn khả dụng của

NHTM nhưng cũng làm lạm phát gia tăng nên bên cạnh việc bơm tiền ồ ạt,

NHTW cũng tiến hành việc hút các khoản vốn tropng nền kinh tế nhằm giảm lạm

phát việc vừa bơm tiền vừa hút tiền của NHTW trong từng thời điểm nhằm mang

lại nhiều hiệu quả vừa thúc đẩy nền kinh tế tế phát triển đồng thời kiềm chế lạm

phát

Trong cùng cuối quý II, và nửa đầu quý III NHTW sử dụng việc hút và bơm

tiền ra nền kinh tế nên coi NHTW sử dụng liên tiếp các chính sách tiền tệ thắt

chặt và mở rộng liên tục cụ thể như :

Ngày 28/5, 18/6 và 16/7 NHTW thực hiện chính sách tiền thệ thắt chặt à

NHTW bán các GTCG có thể là tín phiếu kho bạc cho các tổ chức tín dụng à

giảm dự trữ trong hệ thống ngân hàng à cung vốn khả dụng giảm . trong khi đó

điều kiện nhu cầu vốn khả dụng không thay đổi à tăng lãi suất liên ngân hàng .

mặt khác cung tín phiếu kho bạc tăng à giá tín phiếu giảm à tỷ suất sinh lời

tăng à thị trường tín phiếu kho bạc trở nên hấp dẫn với các tổ chức tín dụng thừa

vốn à chuyể sang thị trường tín dụng kho bạc à giảm cung vốn khả dụng trên

thị trường tiền tệ liên ngân hàng và đẩy lãi suất liên ngân hàng lên phù hợp với

mục tiêu của NHTW.

Ngày 4/6, 11/6, 25/6, 2/7, 9/7 và 23/7 có thể coi NHTW thực hiện chính

sách tiền tệ mở rộng à NHTW mua các GTCG có thể là tín phiếu kho bạc cho

các tổ chức tín dụng à tăng dự trữ trong hệ thống ngân hàng à cung vốn khả

dụng tăng . trong khi đó điều kiện nhu cầu vốn khả dụng không thay đổi à giảm

24

Page 25: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

lãi suất liên ngân hàng . mặt khác cung tín phiếu kho bạc giảm à giá tín phiếu

tăng à tỷ suất sinh lời giảm à thị trường tín phiếu kho bạc trở nên kém hấp dẫn

với các tổ chức tín dụng thừa vốn àrút vốn từ thị trường tín dụng kho bạc à

tăng cung vốn khả dụng trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng và giảm lãi suất

liên ngân hàng xuống phù hợp với mục tiêu của NHTW.

Tuy vậy NHTW đã đạt được một số kết quả nhất định , lượng tiền “bơm”

qua thị trường mở đã giảm mạnh và hiện chỉ còn duy trì mỗi ngày 1 phiên .Việc

nới lỏng tiền tệ trong thời gian gần đây được thấy rõ hơn qua việc NHNN đang

bơm tiền vào hệ thống ngân hàng thông qua OMO. Mức bơm ròng trong tháng 5

là 19 nghìn tỷ, tháng 6 là 9 nghìn tỷ và 3 tuần đầu tháng 7 là xấp xỉ 10 nghìn tỷ.

Trong các tuần kết thúc vào các ngày 13/8 và 20/8, nhu cầu vay vốn trên thị

trường mở đột ngột giảm mạnh, thể hiện qua lượng đăng ký đấu thầu và khối

lượng trúng thầu. Đặc biệt trong tuần kết thúc ngày 20/8, khối lượng đăng ký và

trúng thầu chỉ ở mức 7.718 tỷ đồng; trong khi nhiều tuần liên tiếp trước đó ghi

nhận các con số có từ 45.000 đến trên 90.000 tỷ đồng đăng ký và từ 20.000 đến

56.000 tỷ đồng trúng thầu.

25

Page 26: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

Tuy nhiên vào các ngày 27/8, 1/9 và 10/9, quy mô các phiên đấu thầu đã

tăng mạnh trở lại, đặc biệt là ở lượng đăng ký. Cụ thể, lượng đăng ký lần lượt qua

các tuần nói trên là 43.982 tỷ đồng, 43.218 tỷ đồng và tuần kết thúc ngày 10/9

vừa qua lên tới 90.950 tỷ đồng. Tương tự, khối lượng trúng thầu lần lượt là

36.110 tỷ đồng, 23.000 tỷ đồng và 46.179 tỷ đồng.

Trên đây là dữ liệu giao dịch trên OMO được Công ty Cổ phần Chứng khoán

Thăng Long (TLS) tập hợp trong bản tin hỗ trợ nhà đầu tư cập nhật ngày 15/9.

Bản tin cũng cho biết, khối lượng bơm ròng trên thị trường mở cũng vừa có

tuần ở mức cao, đạt tới 8.020 tỷ đồng, sau khi hút ròng -2.502 tỷ đồng tuần trước

đó và chỉ bơm ròng 1.269 tỷ đồng ở tuần liền trước.

Tình hình quý IV:

Sau một thời gian dài ổn định các kỳ hạn, điều chỉnh mới đây của NHNN

trên thị trường mở thu hút sự chú ý của một số nhà đầu tư. Cụ thể, từ ngày 15/10

trở lại đây, các phiên đấu thầu GTCG trên thị trường này được ấn định ở hai kỳ

hạn: 28 ngày và 7 ngày. Đây là thay đổi đáng chú ý khi một thời gian dài trước

đó NHNN gần như cố định hai kỳ hạn 28 ngày và 14 ngày. Việc thay kỳ hạn 14

ngày bằng 7 ngày có thể là một tín hiệu thắt chặt tiền tệ. Theo đó, có thể hiểu

NHNN đã giảm bớt sự hỗ trợ vốn ở kỳ hạn dài hơn (14 ngày), thay bằng kỳ hạn

ngắn (7 ngày).

Bình luận trên được đặt trong bối cảnh Thủ tướng Chính phủ vừa có chỉ thị

yêu cầu NHNN nghiên cứu để có chính sách, cơ chế phù hợp cho phép các

NHTM có thể rút nhanh tiền ra khỏi lưu thông để giảm bớt áp lực tăng giá; hay

“yêu cầu” hạn chế cung tiền khi lạm phát đã có xu hướng tăng mạnh trở lại…

Trên thực tế, theo dữ liệu cập nhật từ NHNN, trong những phiên đấu thầu từ

15/10, bên cạnh kỳ hạn 7 ngày, NHNN vẫn duy trì kỳ hạn 28 ngày. Việc duy trì hai

kỳ hạn này cũng đã từng kéo dài trong suốt tháng 4 và 5/2010, sau khi cơ quan này

quyết định tăng phiên cho thị trường lên 2 phiên/ngày để tăng cường hỗ trợ các

NHTM (vào đầu tháng 4/2010).

26

Page 27: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

Và sau một tháng gián đoạn (từ các phiên ngày 22/9), chiều 25/10, kết quả

đấu thầu trên thị trường mở cũng đã được NHNN cập nhật trở lại. Kết quả công

bố cho thấy, những tháng gần đây và cho đến hai phiên của ngày 22/10, lãi suất

kỳ hạn 28 ngày vẫn được giữ nguyên 8%/năm; ở kỳ hạn “mới”, 7 ngày, lãi suất là

7%/năm - mức đã từng xác định trong tháng 4 và 5/2010.

Cuối tháng 12, kết quả của phiên đấu thầu gần nhất dừng lại ở ngày

26/11/2010, phiên thứ 441 với 11 thành viên dự thầu, mua GTCG kỳ hạn 7 ngày,

khối lượng trúng thầu 2.148 tỷ đồng và lãi suất trúng thầu là 8,75%/năm.

Trạng thái “đóng băng” của việc cập nhập kết quản đâu thầu trong tháng và kết

quả gần nhất nói trên không phản ánh đúng tình hình hoạt động của thị trường trong

khoảng một tháng trở lại. Đặc biệt là lãi suất chào mua đã có một bước tăng mạnh.

Thông tin vừa cập nhật từ một kênh khác của NHNN cho biết, lãi suất chào

mua NVTTM kỳ hạn 7 ngày đã lên 10%/năm, tăng mạnh so với mức 8,75%/năm

theo kết quả đấu thầu được cập nhật cuối tháng 11 vừa qua. Đó cũng là sự gia

tăng đáng chú ý khi lãi suất này ở kỳ hạn 7 ngày thời điểm đầu năm chỉ ở mức

7%/năm, rồi lên 8%/năm và qua lần tăng đồng loạt các lãi suất chủ chốt của

NHNN (từ ngày 5/11/2010) lên 8,75%/năm, hiện đã lên 10%/năm.

Bên cạnh lãi suất, thời gian qua một số tổ chức đầu tư đưa ra thông tin tham

khảo là NHNN đã nối lại kỳ hạn 14 ngày trên thị trường mở. Tuy nhiên, kết quả

cập nhật chính thống hiện chưa khẳng định điểm này, ngoài trạng thái duy nhất 1

kỳ hạn là 7 ngày.

III. KẾT LUẬN.

Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ gián tiếp linh hoạt và hữu hiệu trong

thực thi CSTT. Tại các nước phát triển, OMO có ý nghĩa hết sức quan trọng và được

sử dụng chủ yếu trong điều tiết lượng tiền cung ứng và lãi suất thị trường. Ở các

nước đang phát triển, OMO ngày càng trở nên cần thiết và quan trọng khi các điều

kiện thực hiện đã và đang chín muồi. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và hoàn thiện

công cụ OMO có ý nghĩa thực tiễn tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

27

Page 28: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

28