Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
MỞ ĐẦU Bệnh Chikungunya (CHIK) hiện nay đang là vấn đề y tế công cộng quan
trọng trên toàn cầu do khả năng lây lan nhanh chóng của dịch bệnh trong
những năm gần đây[9],[20],[22],[25]. Đây là bệnh nhiễm vi rút cấp tính do
muỗi truyền và có thể chuyển thành dịch lớn. Trong những năm gần đây bệnh
dịch xuất hiện tại rất nhiều quốc gia/lãnh thổ trên thế giới đặc biệt là khu vực
Châu Á. Tại Ấn Độ, chỉ trong giai đoạn ngắn từ năm 2005-2007 đã ghi nhận
hơn 1,3 triệu người bị mắc loại dịch bệnh này. Bệnh còn ghi nhận nhiều tại
các vùng dân cư sống trên các hòn đảo tại Ấn Độ Dương như La Réunion,
Seychelles, Mauritius, Mayotte, Comoros và Madagascar. Trong những năm
gần đây, các nước thuộc khu vực Đông Nam Á và láng giềng quanh Việt Nam
như: Malaysia, Singapore, Thái Lan, Lào và Campuchia đều đã ghi nhận các
vụ dịch vừa và nhỏ[7],[10],[12],[13],[23],[26].
Trên thế giới, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng có 2 loài muỗi quan trọng
truyền bệnh là muỗi Ae. aegypti và muỗi Ae. albopictus. Muỗi Ae. aegypti
phân bố trong vùng nhiệt đới và ôn đới của các châu lục, giữa 45o vĩ tuyến
Bắc và 35o vĩ tuyến Nam, trong khoảng nhiệt từ 100C trở lên và ở độ cao từ 0
- 1200 mét. Muỗi Ae. albopictus phân bố rộng ở nhiều châu lục, giữa 35o vĩ
tuyến Bắc và 35o vĩ tuyến Nam, cũng trong khoảng nhiệt từ 100C trở lên. Hiện
nay việc phòng chống Chikungunya trên thế giới là vô cùng khó khăn vì chưa
có vắc xin phòng bệnh cũng như chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Biện pháp
phòng chống chủ yếu và có hiệu quả là dựa vào kiểm soát véc tơ truyền bệnh.
Do muỗi Ae. aegypti và Ae. albopictus có các đặc điểm sinh học, dân cư và
tập tính rất khác nhau, muỗi Ae. aegypti ưa sống trong nhà, trong khi đó Ae.
albopictus lại ưa sống ngoài nhà ở các bụi cây nên các biện pháp và chiến
lược phòng chống hai loài muỗi này cũng phải có những đặc thù riêng thì mới
đạt được hiệu quả.
2
Cho đến thời điểm này, tại Việt Nam chưa có ghi nhận nào về ca bệnh
Chikungunya trên người. Bên cạnh đó các nghiên cứu về vai trò của các loại
muỗi trong việc duy trì và lan truyền bệnh dịch này cũng chưa được thực
hiện. Tuy nhiên với mức độ du lịch, giao thông đi lại, thương mại giữa các
quốc gia hiện nay là rất lớn thì khả năng xâm nhập vi rút Chikungunya vào
Việt Nam là hoàn toàn có thể xảy ra, nhất là tại các khu vực vùng biên giới
giáp với Lào, Campuchia và Trung Quốc. Vì vậy, việc xác định quần thể véc
tơ truyền bệnh, sự có mặt của vi rút cũng như đã thực sự có bệnh nhân hay
chưa là những vấn đề cần phải được tìm hiểu. Nghiên cứu về sự có mặt của vi
rút Chikungunya trên người cũng như véc tơ truyền bệnh là hết sức quan
trọng và cần thiết để giúp các nhà quản lý và các nhà chuyên môn trong việc
chỉ đạo, lập kế hoạch phòng chống dịch bệnh nguy hiểm này trên người trong
thời gian tới ở nước ta. Chính vì những lý do trên, chúng tôi đề xuất đề tài
nghiên cứu khoa học: "Đánh giá quần thể véc tơ và sự có mặt của vi rút
Chikungunya ở muỗi và người tại một số địa phương có biên giới với Lào và
Campuchia, 2012-2014"
Nghiên cứu có các mục tiêu sau:
1. Mô tả sự phân bố quần thể của hai loài Aedes aegypti và Aedes
albopictus tại các điểm nghiên cứu.
2. Xác định sự có mặt của vi rút Chikungunya trên quần thể muỗi Aedes
aegypti và Aedes albopictus thu được từ các điểm nghiên cứu.
3. Xác định sự có mặt của vi rút Chikungunya trên bệnh nhân nghi mắc
tại các điểm nghiên cứu.
3
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU Bệnh Chikungunya (CHIK) là các bệnh nhiễm vi rút cấp tính do muỗi
truyền, có thể gây thành dịch lớn và có triệu chứng lâm sàng tương đối giống
nhau. Bệnh sốt xuất huyết là bệnh lưu hành địa phương ở Việt Nam, nhất là ở
các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng Bắc bộ và vùng ven biển miền
Trung. Trong khi đó chưa có bằng chứng đáng tin cậy nào xác nhận việc vi
rút Chikungunya đã lưu hành tại Việt Nam. Bệnh CHIK không lây truyền trực
tiếp từ người sang người mà lây truyền qua véc tơ là muỗi. Hai loài muỗi
được ghi nhận có vai trò trong dịch bệnh này là muỗi Aedes aegypti và Aedes
albopictus. Đến nay,bệnh CHIK chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và chưa có
vắc xin phòng bệnh, vì vậy diệt véc tơ đặc biệt là diệt bọ gậy (lăng quăng) với
sự tham gia tích cực của từng hộ gia đình và cả cộng đồng là biện pháp hiệu
quả trong phòng chống dịch.
1. Tình hình dịch bệnh Chikungunya trên thế giới
Ổ dịch Chikungunya đầu tiên đã được ghi nhận tại cao nguyên Makonde,
dọc theo biên giới giữa Tanzania (trước đây là Tanganyika) và Mozambique,
trong 1952-1953. Nghiên cứu sau này đã chứng minh nó như là một loại vi rút
mới mà đã tồn tại ở Đông Phi và duy trì trong một chu kì loài linh trưởng -
muỗi Aedes truyền bệnh - con người[1],[24]. Nhiều nghiên cứu hồi cứu sau
này đã khẳng định rằng dịch bệnh Chikungunya xảy ra vào đầu năm 1779
nhưng đã không được ghi nhận mà thông báo như dịch sốt xuất huyết dengue
(WHO, 2006). Sau khi dịch bùng nổ vào năm 1952-1953, vi rút này đã phổ
biến rộng rãi trên toàn châu Phi cận sa mặc Sahara, Ấn Độ và các nước Đông
Nam Á, dẫn đến nhiều dịch bệnh trong những năm tiếp theo. Sau đó vi rút
này đã trở thành đại dịch ở châu Phi bằng chứng là sự bùng phát dịch thường
xuyên ở Tanzania, Uganda, Zimbabwe, Nam Phi, Senegal, Nigeria, Cộng hòa
4
Trung Phi và Cộng hòa Dân chủ Congo. Dịch bệnh tái xuất hiện gần đây nhất
được ghi nhận năm 1999-2000 ở Kinshasa. Tại châu Á, dịch bệnh được ghi
nhận lần đầu tiên tại Thái Lan vào năm 1958, sau đó các nước khác thuộc khu
vực này như Campuchia, Lào, Myanmar, Malaysia, Philippines và Indonesia
đã báo cáo có dịch. Dịch bệnh tái xuất hiện tại châu Phi và châu Á, với
khoảng thời gian 7 đến đến 20 năm hoặc nhiều hơn nữa không ghi nhận ca
bệnh nào. Kể từ cuối năm 2004, virus Chikungunya đã tấn công các đảo của
Ấn Độ Dương như, Comoros, Mayotte, Seychelles, La Réunion, Mauritius và
Madagascar. Hòn đảo bị ảnh hưởng nhất là La Réunion, với gần một phần ba
tổng dân số báo cáo bị bệnh Chikungunya. Bệnh cũng đã được ghi nhận ở
một số nước châu Âu (Pháp, Đức, Ý, Thụy Sĩ và Na Uy). Năm 2006, một ổ
dịch Chikungunya được báo cáo ở Malaysia[8],[12],[14],[19],[21],[23],[26].
Dịch đầu tiên của Chikungunya ở Ấn Độ đã được báo cáo từ Kolkatta
(trước đó Calcutta), tây Bengal vào năm 1963 với gần 200 bệnh nhân (chủ
yếu là trẻ em). Năm 1965 tại các tỉnh Pondicherr, Tamil Nadu, Rajahmundry,
Visakhapatnam, Kakinada, Andhra Pradesh và Maharashtra. Các vi rút
Chikungunya phân lập từ Calcutta có liên quan chặt chẽ với chủng vi rút
Chikungunya ở Thái Lan hơn là chủng vi rút Chikungunya ở Châu Phi, điều
này cho thấy nguồn gốc của nó từ Đông Nam. Sau 3 thập kỷ không xuất hiện
bệnh, vào năm 2006, dịch Chikungunya đã được báo cáo ở Ấn Độ. Phân tích
kiểu gen cho phát sinh loài cho thấy tất vi rút có nguồn gốc từ châu Á và châu
Phi. Đa số các ca bệnh được ghi nhận từ các bang Andhra Pradesh,
Karnataka, Kerala, Tamil Nadu, Gujarat, Madhya Pradesh và Maharashtra.
Tổng số 1958 ca đã được báo cáo từ 13 bang ở Ấn Độ trong thời gian 2006-
2007, không có tử vong liên quan trực tiếp đến Chikungunya[20],[22].
5
Bảng 1.1: Sự phân bố ca bệnh Chikungunya trên thế giới giai đoạn 2005 -
2006
Địa điểm Số ca bệnh
Ca lâm sàng (S)/ xác định (C) Thời gian
Ấn Độ Dương và Châu á
La Réunion 255.000 S 28/2/2005 - 30/4/2006
Seychelles 8.976 S 1/1 - 2/4/2006
Mauritius 6.000 4.800S/1.200C 1/1 - 5/3/2006
Mayotte 5.834 S 1/1 - 16/4/2006
Comoros 8 S 20 - 26/3/2006
Madagascar 2 C 6 - 12/3/2006
Ấn Độ > 1.300.000 S/1.958C Sau 17/1/2007
Malaysia 200 S 1/1 - 21/4/2006
Châu âu (ca bệnh xâm nhập)
Pháp 307 C 1/4/2005 - 28/2/2006
Đức 17 C 1/1 - 21/4/2006
Bỉ 12 C 12/2005 - 26/4/2006
Vương quốc Anh 9 7S/2C 1/12/2005 - 20/4/2006
Cộng Hòa Séc 1 C 1/1/2006 - 20/4/2006
Na Uy 1 C 1/1 - 19/4/2006
Nguồn: WHO in India, 2007.
2. Tình hình bệnh Chikungunya tại Việt Nam
Vào những năm 1958 có thông tin cho rằng tại 1 số nước trong khu vực
Đông Nam Á như Thái Lan, Campuchia, Lào, Myanmar, Malaysia,
Philippines, Indonesia và Việt Nam đã có dịch bệnh
Chikungunya[7],[8],[12],[13],[23],[26]. Tuy nhiên không có bằng chứng về
dịch tễ học cũng như vi rút học nào để minh chứng cho nhận định này. Từ đó
đến nay Việt Nam chưa ghi nhận một trường hợp mắc bệnh Chikungunya nào
mà có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm. Tuy nhiên bệnh SXH do vi rút
6
Dengue và bệnh SXH do vi rút Chikungunya có bệnh cảnh lâm sàng tương
đối giống nhau và rất khó có thể phân biệt trên lâm sàng. Cả 2 bệnh này đều
có cùng véc tơ chính truyền bệnh là Ae. aegypti và Ae. albopictus. Tại Việt
Nam bệnh SXHD đã trở thành lưu hành địa phương và những năm gần đây
đang nổi lên là vấn đề y tễ công cộng lớn, số mắc lâm sàng trung bình ghi
nhận hàng năm trong giai đoạn 10 năm từ 2001 - 2010 là 75.952 ca và tử
vong là 79 ca (Dự án SXHD quốc gia). Với bệnh cảnh lâm sàng rất giống với
bệnh SXHD nhiều nhà khoa học đã nghi rằng một số các trường hợp mắc
bệnh mà xét nghiệm âm tính với vi rút Dengue liệu có thể là Chikungunya
hay không? Chính vì vậy mà hiện nay tại Việt Nam SXH do Chikugunya
cũng đang là vấn đề được các nhà khoa học rất quan tâm và có những nghiên
cứu ban đầu. Năm 2008-2009, phòng thí nghiệm các virut Arbo- Khoa virut -
Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung Ương (VSDTTW) đã tiến hành xét nghiệm tìm
kháng thể của CHIKV bằng kỹ thuật Mac-Elisa trên 1080 mẫu huyết thanh
bệnh nhân nghi mắc SXHD ở các tỉnh thành phía Bắc, Việt Nam, đã phát hiện
78/1080 (7.22%) mẫu có phản ứng dương tính với kháng thể của CHIKV
[58]. Nhưng kết quả phân lập vi rút và xét nghiệm PCR sau đó đều âm tính
với virút Chikungunya, như vậy vẫn không thể khẳng định được sự có mặt
của vi rút Chikungunya trong các mẫu huyết thanh trên. Ngoài ra, trong một
nghiên cứu khác của Vũ Xuân Nghĩa và cộng sự khi phân tích các mẫu huyết
thanh của bệnh nhân nghi mắc sốt xuất huyết điều trị tại Học Viện Quân Y
năm 2009 đã phát hiện 4/50 (8%) mẫu dương tính bằng phương pháp RT-
PCR [59], tuy nhiên kết quả này sau đó vẫn chưa được kiểm chứng lại và
chưa được công nhận chính thức của các cơ quan có thẩm quyền và của Bộ Y
tế. Như vậy với những kết quả ban đầu này cho thấy nhiều khả năng vi rút
Chikungunya đã quay trở lại Việt Nam. Tuy nhiên đến thời điểm này vẫn
chưa khẳng định sự có mặt của vi rút Chikungunya trên các bệnh nhân nghi
ngờ.
7
3. Tình hình dịch bệnh Chikungunya tại một số nước lân cận Việt nam
Bệnh Chikungunya được ghi nhận rõ tại khu vực Đông Nam Á vào cuối
những năm 1950 và 1960 với phân lập ca bệnh đầu tiên tại Thái Lan vào năm
1958 và trong những năm gần đây các vụ dịch do Chikungunya ngày càng
được phát hiện nhiều hơn quy mô lớn hơn, nó thực sự trở thành vấn đề y tế
công cộng lớn ở khu vực này.
3.1. Tại Malaysia
Trong vòng 15 năm qua, Malaysia có các vụ dịch Chikungunya gây ra bởi
cả hai chủng vi rút châu Á và chủng thuộc dòng ECSA. Một đợt bùng
phát dịch trong năm 1998 đã được ghi nhận tại khu Klang, cách thủ
đô Kuala Lumpur 30 km, ghi nhận 51 ca bệnh. Một ổ dịch thứ hai của
Chikungunya được ghi nhận giữa tháng 3 và 4/2006 tại Bagan Panchor,
Perak, đã được ghi nhận lên tới hơn 200 ca. Trong vụ dịch thứ 2 này, cùng
lúc với đỉnh cao của sự bùng nổ 2005- 2006 trên đảo La Reunion và với sự
bắt đầu của hàng loạt vụ dịch tại Ấn Độ Dương các nhà khoa học đã chứng
minh được vi rút Chikungunya thuộc dòng Châu Á. Vụ dịch thứ 3 xảy ra tại
Malaysia vào tháng 12 năm 2006 tại Ipoh, Perak, chủng vi rút thuộc nguồn
gốc từ Ấn Độ. Cho đến năm 2008 dịch Chikungunya bắt đầu bùng phát lớn từ
tháng 4/2008, lan rộng đến 14 trong 15 tiểu bang thuộc Malaysia[7].
3.2. Tại Singapore
Singapore là một nước nhỏ nằm ở cuối phía nam của bán đảo Malaysia và
các chủng vi rút thường xuyên xâm nhập vào nước này. Các trường
hợp đầu tiên của dịch bệnh được báo cáo từ ngày 14/1/2008 cho đến
21/2/2008 với tổng số 13 bệnh nhân. Sau đó còn có 02 vụ dịch xảy ra tại
Malaysia với số lượng ca bệnh được ghi nhận không nhiều. Phân tích vi rút
học cho thấy ngồn gốc của các chủng vi rút gây bệnh ở đây có nguồn gốc từ
Ấn Độ, Malaysia và Sri Lanka. Các vụ dịch tại đây do cả 02 loài muỗi Ae.
aegypti và Ae. albopictus gây ra[17],[18].
8
3.3. Tại Thái Lan
Thái Lan là quốc gia phải chịu nhiều đợt bùng phát của dịch bệnh
Chikungunya, trường hợp mắc đầu tiên được báo cáo đầu tiên vào năm 1960,
và các vụ dịch khác ở tỉnh Prachinburi năm 1976, tỉnh Surin năm 1988,
tỉnh Khon Kaen năm 1991, tỉnh Loei và Phayao năm 1993, tỉnh
Nakhon Si Thammarat và tỉnh Nong Khai năm 1995. Vụ dịch gần đây nhất là
tại các tỉnh miền Nam Thái Lan vào các năm 2008 và 2009 với 22.000 trường
hợp Chikungunya mắc trong chỉ 5 tháng đầu năm 2009. Kết quả phân tích cho
thấy chủng vi rút thuộc dòng Châu Á. Năm 2008 tại tỉnh Narathiwat, một
trong cực Nam tỉnh của Thái Lan và tiếp giáp với tiểu bang của Malaysia
(Kelantan). Phân tích trình tự cho thấy vi rút thuộc dòng ECSA có nguồn gốc
từ Malaysia. Tháng 12/2009 bệnh Chikungunya đã được báo cáo ở 43/75 tỉnh
của Thái Lan với hơn 46.000 trường hợp. Chủng vi rút được phân lập và cho
thấy có nguồn gốc từ Singapore, Malaysia, và Sri Lanka[11],[16].
3.4. Tại Lào và Campuchia
Lào, Campuchia là hai quốc gia có chung đường biên giới với Việt Nam,
hàng năm tại hai quốc gia này ghi nhận số lượng lớn các trường hợp mắc sốt
xuất huyết Dengue (SXHD) lâm sàng. Bên cạnh bệnh SXHD, những năm gần
đây tổ chức y tế thế giới cũng đã đưa Lào và Campuchia là 2 trong số các
quốc gia nằm trong vùng có sự xâm nhập của vi rút Chikungunya [Hình 1].
Có thể do những vấn đề trong hệ thống giám sát, báo cáo và hệ thống xét
nghiệm mà cho tới thời điểm này những số liệu chính xác về dịch
Chikungunya tại các nước này còn chưa sáng tỏ. Năm 2013, Lào đã khẳng
định vai trò của 2 loại muỗi Aedes đối với bệnh Chikungunya[16],[21],[23].
9
Hình 1.1: Sự lưu hành vi rút Chikungunya trên thế giới, 2010 (nguồn CDC)
4. Véc tơ truyền bệnh chikungunya.
Các nhà khoa học trên thế giới đã chứng minh 2 loài muỗi chính là muỗi
Aedes agypti và muỗi Aedes albopictus lây truyền vi rút chikungunya từ
người bệnh sang người lành qua vết đốt. Sau đây là các đặc điểm khác nhau
về 2 loài muỗi này.
4.1. Muỗi Aedes aegypti.
4.1.1. Vài nét về sự phân bố của loài muỗi Aedes aegypti.
Ae. aegypti phân bố trong vùng nhiệt đới và ôn đới của các châu lục (giữa
450 vĩ tuyến Bắc và 350 vĩ tuyến Nam) giới hạn bằng đường đẳng nhiệt 100C,
về độ cao có mặt từ 0 đến 1200 m, một ít quần thể có mặt đến độ cao 1800 m
(ở Ấn Độ). Tại Việt Nam, phân ở hầu hết các tỉnh/thành phố, tuy nhiên mật
độ cao và chiếm ưu thế hơn ở các tỉnh Miền Nam, Miền Trung và Tây
nguyên. Tại Miền Bắc Ae. aegypti chủ yếu tập trung ở thành phố, rồi đến các
đồng bằng ven biển và các làng mạc gần đường giao thông. Đó là những nơi
có dân cư đông đúc, có nhiều dụng cụ chứa nước và các phương tiện giao
thông thường xuyên qua lại; hiện nay kinh tế phát triển (rác thải bia, đồ
hộp...) và việc đô thị hóa nhanh chóng nhưng không đồng bộ (cấp thoát nước
10
chưa đầy đủ, vệ sinh môi trường kém), sự thờ ơ của một số người dân với
giáo dục sức khỏe cho cộng đồng, làm cho vùng phân bố của Aedes aegypti
ngày càng mở rộng.
Hiện nay trên thế giới đã ghi nhận 2 loài muỗi có khả năng truyền bệnh
SXHD và bệnh chikungunya đó là muỗi Ae. aegypti và Ae. albopictus. Tuy
nhiên, chúng lại có những đặc điểm tương đối khác nhau về hình thái học,
sinh thái học, sự phân bố và khả năng truyền các loại bệnh trên.
4.1.2. Đặc điểm nhận dạng muỗi Aedes aegypti trưởng thành.
Hình thái muỗi Ae. aegypti trưởng thành rất dễ nhận biết, với kích thước
trung bình, chân và bụng có các khoang đen trắng rõ rệt. Thân có nhiều vẩy
trắng bạc tập trung thành từng cụm hay từng đường trên mình muỗi. Vòi
không có băng trắng, đỉnh pan trắng. Trên mặt lưng ngực có hai đường vẩy
màu trắng bạc phình ra, như hai nửa vòng cung ôm hai bên lưng nên gọi là
hình đàn (Harwood và James, 1979; WHO, 1995; Vũ Đức Hương, 1997).
Trên mặt lưng bụng ở gốc các đốt II đến VIII đều có những đường vẩy ngang
từng đốt, gốc các đốt bàn chân sau có những khoang trắng, riêng đốt bàn chân
thứ V trắng hoàn toàn, cho nên muỗi còn có tên gọi là muỗi vằn (Hình 7).
Muỗi Ae. aegypti có kích thước trung bình. Độ dài của sải cánh khoảng 4,5 -
5mm. Muỗi thường có màu đen điểm vẩy bạc, cho nên còn được gọi là muỗi
vằn. Cơ thể muỗi chia làm ba phần: đầu, ngực và bụng.
- Phần đầu có dạng hình cầu; phía trước đầu là trán, dưới trán là tấm
gốc môi, trên trán là đỉnh, dưới đỉnh là gáy. Trên đầu phủ nhiều vảy với hình
dáng khác nhau, hình dẹt rộng hay hẹp, hình cong lưỡi liềm hay hình đinh vít
v.v… Hai bên đầu có đôi mắt kép lớn. Giữa hai mắt kép là vòi. Hai bên vòi là
pan, hai bên pan là râu. Râu gồm 14 - 15 đốt. Đốt I dẹt khó thấy. Đốt II được
gọi là đốt gốc râu hình quả táo, không có lông, đôi khi được phủ vảy. Từ đốt
III trở đi là những đốt roi có dạng hình trụ, xung quanh mang lông phụ râu.
Lông phụ râu ở con đực rậm hơn con cái rất nhiều. Vòi có kích thước gần
11
bằng nửa thân, hình dáng thon dài. Trên vòi thường phủ vẩy màu đen, đôi khi
lẫn những vảy bạc. Vòi của muỗi có cấu tạo dạng chích hút của côn trùng.
Pan gồm 5 đốt. Ở muỗi đực pan dài hơn vòi, còn muỗi cái pan ngắn hơn vòi.
Trên pan thường phủ vảy đen, đôi khi xen lẫn những cụm vẩy trắng. Ở một số
loài những cụm vảy trắng tập trung ở đỉnh làm cho pan có màu trắng.
- Phần ngực gồm ba đốt: ngực trước (Pronotum), ngực giữa
(Mesonotum) và đốt ngực sau (Metanotum). Mỗi đốt ngực được giới hạn bởi
tấm lưng, hai tấm bên và tấm bụng. Trên tấm lưng ngực trước tiêu giảm, chỉ
còn hai ụ nhỏ ở hai bên tấm lưng của đốt ngực giữa. Tấm lưng của đốt ngực
giữa lớn nhất và chia làm hai phần, scutum ở phía trước và scutellum ở phía
sau. Giống như các muỗi khác scutellum có ba thùy. Tấm lưng của đốt ngực
sau nhỏ và trơn. Tấm bên của mỗi đốt chia làm hai thùy, thùy trước và thùy
sau. Thùy mesoepisternum lớn nhất mang lỗ thở ngực trước ở phía trên. Phần
trên của thùy mesoepimerum mang gốc cánh. Lỗ thở ngực sau nằm ở
metapleurum. Trên tấm lưng và tấm bên của ngực có phủ nhiều vẩy và lông
cứng. Các vẩy thường có màu đen, màu nâu hay màu bạc. Đặc điểm nổi bật
để xác định loài muỗi Ae. aegypti là các vẩy bạc ở mặt lưng ngực
(mesonotum) tập trung thành hình giống như hình vỏ đàn và trên tấm bên
ngực giữa không có lông lỗ thở mà chỉ có lông sau lỗ thở. Phần ngực mang
một đôi cánh và ba đôi chân. Đôi cánh bám vào đốt ngực giữa. Ở gần gốc
cánh, về phía sau có hai thùy nhỏ là alula và squama. Cấu tạo của cánh gồm
màng cánh và hệ thống gân cánh. Khác với gân cánh, màng cánh không phủ
vẩy mà chỉ có những lông nhỏ li ti. Vẩy trên các gân cánh đều màu đen,
không tập trung thành đốm như giống muỗi Anopheles. Hệ thống gân của
cánh gồm các gân dọc và gân ngang. Ở muỗi Ae. aegypti gân dọc 6 vượt quá
chỗ chia nhánh của gân dọc 5. Bàn chân có 5 đốt, đốt cuối bàn có mang một
đôi vuốt trơn hay có có răng. Trên các phần của chân có phủ vẩy màu đen hay
màu trắng bạc tập trung thành những điểm hay khoang trắng.
12
- Phần bụng gồm 10 đốt, có dạng hình ống thon dài. Đốt IX và đốt X
tiêu giảm, tham gia vào cấu tạo của cơ quan giao phối. Từ đốt I đến đốt VIII
có cấu tạo giống nhau. Ở mỗi đốt có tấm lưng và tấm bụng. Giữa tấm lưng và
tấm bụng được liên kết với nhau bởi một màng mỏng đàn hồi. Trên tấm lưng
và tấm bụng thường được phủ vẩy màu đen hay trắng. Ở đầu và cuối các đốt
bụng, các cụm vẩy màu trắng thường được tập trung thành các băng ngang
hình chữ nhật hay hình elip. Đốt VIII mang cơ quan giao phối. Cơ quan giao
phối ở con đực và con cái có cấu tạo khác nhau. Cơ quan giao phối ở con đực
có cấu tạo phức tạp. Hai bên cơ quan này có đôi càng lớn, cấu tạo bởi hai đốt.
Đốt I hay đốt gốc là phần lớn nhất, hình dáng thay đổi và được phủ bằng lông
hoặc vẩy. Ở gần gốc và đỉnh của đốt I có thùy gốc và thùy đỉnh mang nhiều
lông cứng. Đốt II gắn vào đốt I như con dao díp và thường có dạng hình chữ
nhật. Cơ quan giao phối của con cái có cấu tạo đơn giản, gồm một đôi cerci
nằm ở ngay sau đốt bụng VIII.
Cũng giống như nhiều giống và loài muỗi khác, muỗi Ae. aegypti có sự
khác nhau giữa con đực và con cái về đặc điểm dinh dưỡng. Để sống và phát
triển con cái phải hút máu (người, động vật); còn con đực không hút máu mà
chỉ hút nước, nhựa cây hay dịch hoa quả để tồn tại và phát triển.
Hình 1.2. Muỗi Aedes aegypti
13
4.1.3. Đặc điểm sinh học Aedes aegypti.
Vòng đời của Ae. aegypti có 4 giai đoạn: Trứng - Bọ gậy - Quăng - Muỗi
trưởng thành. Trong đó 3 giai đoạn đầu thì sống trong nước, chỉ có giai đoạn
muỗi trưởng thành sống trên cạn. Khi muỗi đẻ trứng trong điều kiện thời tiết
không thuận lợi, trứng có thể tồn tại được 6 tháng hoặc lâu hơn nữa. Muỗi
cái cần đốt máu để phát triển trứng, trứng thường được đẻ trước khi đốt máu
lần sau, tuy nhiên nếu quá trình đốt máu bị gián đoạn thì muỗi tiếp tục đốt
và hình thành các chu kỳ sinh thực trong đời sống của muỗi. Muỗi cái đẻ
trứng trong suốt đời sống của nó khoảng 6 - 7 lần, mỗi lần khoảng 60 - 100
trứng, tuy nhiên trong điều kiện phòng thí nghiệm muỗi có thể đẻ đến 13
lần. Muỗi Ae. aegypti nghiên cứu trong phòng thí nghiệm trung bình sống từ
20 - 40 ngày (WHO, 1995). Như vậy về mặt lý thuyết, mỗi muỗi Ae. aegypti
cái có thể đẻ 4 lần.
Thời gian phát triển của các pha trước trưởng thành (từ trứng đến quăng)
trung bình 7 ngày, bọ gậy và quăng sống trong môi trường nước, thời gian từ
quăng đến muỗi trưởng thành khoảng 2 đến 3 ngày, muỗi sống trên cạn, sau
khi nở muỗi trú đậu trên thành vật chứa khoảng vài giờ, sau đó muỗi bay phát
tán cách xa khoảng 200 mét, muỗi cái trưởng thành giao phối và thực hiện đốt
hút máu lần đầu vào khoảng 48 giờ sau khi nở, thường muỗi đốt hút máu ban
ngày hoạt động mạnh nhất vào lúc sáng sớm và lúc hoàng hôn, thời gian tiêu
sinh của muỗi khoảng 5 ngày, trường hợp đốt hút máu người có chứa vi rút
Dengue thời gian ủ bệnh trong muỗi cái thường 8 - 10 ngày, lúc này trong
tuyến nước bọt của muỗi có vi rút nhân lên và truyền vi rút sang người khác
khi chúng đốt hút máu. Muỗi cái sống từ 20 đến 40 ngày, muỗi đực sống ngắn
hơn từ 9 đến 12 ngày. Muỗi cái mỗi lần đẻ từ 60-100 trứng, trứng muỗi mới
đẻ có màu trắng sau đó chuyển dần có màu đen, riêng rẽ từng quả một đính
vào thành vật chứa hay chìm xuống nước, điều kiện thuận lợi trứng muỗi có
thể tồn tại đến 6 tháng. Trong quá trình sống muỗi đực hút mật hoa để sống,
14
còn muỗi cái ngoài hút mật hoa như muỗi đực còn đốt hút máu động vật có vú
để phát triển trứng (có thể vài lần đốt hút máu trong một đợt phát triển trứng),
chúng phát hiện vật chủ dựa vào các hợp chất hóa học: NH3, CO2, axít lactic
và Octenol tiết ra từ vật chủ.
4.1.4. Nơi trú đậu và sinh sản của muỗi.
Ae. aegypti sống trong nhà gần người, thường trú đậu nơi có ánh sáng yếu
và có độ cao từ 2 mét trở xuống như: Trên các vật dụng vải: Quần áo, màn
ngủ, ri do, túi xách…, trên các vật dụng cứng: Gầm bàn có người thường làm
việc, ghế tiếp khách, giường, tủ để gần tường. Theo thống kê của văn phòng
SXHD khu vực Miền Bắc, 71% số muỗi thu thập được đậu trên các vật dụng
được làm từ vải, 7% ngay tại ổ bọ gậy nguồn, 7% ở vật dụng làm từ gỗ, 6% ở
dây phơi, còn lại rất hiếm khi muỗi Ae. aegypti trú ngụ tại các vật dụng như
vách tường, sắt, nhựa và đồ sành.
Ae. aegypti thường đẻ trứng ở những nơi nước sạch chứa trong lu vại, bể,
lọ hoa, phuy nước, chậu cây cảnh, chai lọ, vỏ dừa, lốp ô tô cũ, máng nước, đôi
khi có ở hốc cây, kẽ lá (dừa, chuối, bẹ khoai)…ở trong và quanh nhà những
nơi râm mát, bọ gậy ưa nước có độ pH hơi axít, nhất là nước mưa.
4.2. Muỗi Aedes albopictus.
4.2.1. Phân bố của loài muỗi Aedes albopictus.
Loài muỗi Ae. albopictus hiện nay được xếp vào loài muỗi xâm lấn bậc nhất
trên thế giới, chúng phân bố ở nhiều châu lục: Châu Á, châu Mỹ, châu Âu,
châu Phi. Loài muỗi này phân bố rộng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới của
các châu lục chủ yếu từ 350 vĩ độ Bắc đến 350 vĩ độ Nam và còn phân bố đến
450 vĩ tuyến Bắc, giới hạn bằng đường đẳng nhiệt 10oC. Ở Việt Nam phân bố
chủ yếu ở vùng nông thôn, miền núi, thành phố có núi đồi hay có nhiều khu
vực cây cối um tùm.
15
4.2.2. Đặc điểm nhận dạng muỗi Aedes albopictus trưởng thành.
Muỗi có kích thước trung bình, màu đen nâu, có nhiều đốm trắng bạc ở
ngực. Trên mesonotum có 1 đường vẩy nhỏ màu trắng bạc. Trên 6 đốt đầu có
băng ngang vẩy màu trắng bạc. Muỗi Ae. albopictus là loài muỗi nhỏ con, có
sọc trắng chạy dài từ đầu dọc theo lưng và ra tận phía sau chân, thân muỗi có
các khoang vằn.
Muỗi Ae. albopictus rất giống Ae. aegypti tuy nhiên ở trên mặt lưng của
ngực chỉ có 1 đường vảy trắng bạc giữa lưng.
Hình 1.3. Muỗi Aedes albopictus
4.2.3. Đặc điểm sinh học Aedes albopictus.
Ae. albopictus đẻ trứng rời từng chiếc ở nơi ẩm ướt, ngay trên hoặc gần sát
với mặt nước, nơi có nước lên xuống. Trứng chịu được độ khô trong nhiều
tháng và chỉ nở khi bị ngập nước. Trứng có thể tồn tại qua mùa đông lạnh.
Ae. albopictus là trung gian truyền bệnh Dengue. Đặc điểm của loài muỗi
này là thích sống ở các bụi cây, đám cỏ, chủ yếu ở vùng nông thôn, chúng đẻ
trứng rời từng chiếc trên những diện tích ẩm ướt, ngay trên thành hoặc gần sát
với mặt nước, trong những dụng cụ chứa nước tạm thời nhưng nó vẫn ưa đẻ
trứng tự nhiên ở trong rừng, trong vườn tại các hốc cây, kẽ lá, vũng nước dưới
đất, vỏ dừa....
16
Cũng giống như muỗi Ae. aegypti, loại muỗi này cũng có thể truyền bệnh
sốt xuất huyết cho người. Một số nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những nơi nào
có muỗi Aedes albopictus thì tỉ lệ mắc SXHD thấp hơn nơi muỗi Ae. aegypti
sinh sống. Hơn nữa, muỗi Ae. albopictus có đặc điểm sống ngoài trời, không
thường xuyên tiếp cận với con người chứ không giống như muỗi Ae. aegypti
sống trong nhà, tiếp cận với người thường xuyên hơn, cho nên vai trò truyền
bệnh của nó ít hơn muỗi Ae. aegypti.
Muỗi Ae. albopictus có khả năng phát tán xa hơn so với Ae. aegypti. Phát
tán trung bình của muỗi cái trưởng thành Ae. aegypti và Ae. albopictus tương
ứng là 35,3m và 50,6m từ điểm phóng thả trong vòng 7 ngày. Khả năng phát
tán tối đa trung bình trong nhiều nghiên cứu cho thấy muỗi cái trưởng
thành Ae. aegypti và Ae. albopictus tương ứng là 100m và 180m.
4.2.4. Nơi trú đậu và sinh sản của muỗi Aedes albopictus.
Ae. albopictus đẻ trứng rời từng chiếc ở nơi ẩm ướt, ngay trên hoặc gần sát
với mặt nước, nơi có nước lên xuống. Trứng chịu được độ khô trong nhiều
tháng và chỉ nở khi bị ngập nước. Trứng có thể tồn tại qua mùa đông lạnh.
Ae. albopictus là trung gian truyền bệnh dengue. Đặc điểm của loài muỗi này
là thích sống ở các bụi cây, đám cỏ, chủ yếu ở vùng nông thôn, chúng đẻ
trứng rời từng chiếc trên những diện tích ẩm ướt, ngay trên thành hoặc gần sát
với mặt nước, trong những dụng cụ chứa nước tạm thời nhưng nó vẫn ưa đẻ
trứng tự nhiên ở trong rừng, trong vườn tại các hốc cây, kẽ lá, vũng nước dưới
đất, vỏ dừa....
Cũng giống như muỗi Ae. aegypti, loại muỗi này cũng có thể truyền bệnh
sốt xuất huyết cho người. Một số nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những nơi nào
có muỗi Ae. albopictus thì tỉ lệ mắc SXHD thấp hơn nơi muỗi Ae. aegypti
sinh sống. Hơn nữa, muỗi Ae. albopictus có đặc điểm sống ngoài trời, không
thường xuyên tiếp cận với con người chứ không giống như muỗi Ae. aegypti
17
sống trong nhà, tiếp cận với người thường xuyên hơn, cho nên vai trò truyền
bệnh của nó ít hơn muỗi Ae. aegypti.
Muỗi Ae. albopictus có khả năng phát tán xa hơn so với Ae. aegypti. Phát
tán trung bình của muỗi cái trưởng thành Ae. aegypti và Ae. albopictus tương
ứng là 35,3m và 50,6m từ điểm phóng thả trong vòng 7 ngày. Khả năng phát
tán tối đa trung bình trong nhiều nghiên cứu cho thấy muỗi cái trưởng
thành Ae. aegypti và Ae. albopictus tương ứng là 100m và 180m.
Ae. albopictus thường đẻ trứng ở những nơi nước sạch ngoài tự nhiên như:
hốc cây, kẽ lá… đôi khi có ở các vật chứa nhân tạo: lu vại, bể, chậu cây cảnh,
chai lọ, vỏ dừa, lốp ô tô cũ, máng nước… ở ngoài nhà những nơi râm mát.
5. Nghiên cứu về vai trò của muỗi Aedes aegypti và Aedes albopictus và sự
lan truyền vi rút Chikungunya trên thế giới.
Rất nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng Ae. aegypti là loại muỗi
gần gũi với con người, đồng thời là véc tơ chủ yếu của bệnh Chik và đã được
phân lập nhiều lần từ các vùng có dịch ở Tanganyika, Thái Lan và Calcutta
(Shah và cs 1964; Pavri và cs 1964). Sau đó, vào thập niên 50-60 của thế kỷ
19, loài muỗi này cũng nhanh chóng được xác định mang vi rút và lan truyền
dịch bệnh tại Ấn Độ và các quốc gia Đông Nam Á (Pavri và cs 1964; Rao
1964; Yergolkar và cs 2006; Bonilauri và cs 2008; Sang và cs 2008). Ngoài ra
vai trò chuyền bệnh của Ae. aegypti với bệnh CHIK đã được chứng minh một
cách thuyết phục bởi các nghiên cứu thực nghiệm trong phòng thí nghiệm
(Rao và cs 1964; Shah và cs 1964; Soekiman 1987). Tuy nhiên, thật bất ngờ,
trong thời gian 2005-06 dịch Chik ở một số quần đảo Ấn Độ Dương và
Kerala và Ấn Độ, muỗi Ae. albopictus lại nổi lên và đóng một vai trò chính
trong viện lan truyền dịch bệnh (Schuffenecker và cs 2006; Santosh và cs
2008). Sau đó nghiên cứu trong phòng thí nghiệm của nghiên cứu thực
nghiệm của Reiskind và cs (2008); Tsetsarkin và cs (2007) đã làm rõ vai trò
của Ae. albopictus. Việc duy trì véc tơ CHIK tại châu Á và Châu Phi rất khác
18
nhau. Ở châu Á CHIKV được duy trì trong một chu kỳ muỗi-con người-muỗi
,trong khi ở châu Phi vi rút được duy trì trong các động vật linh trưởng và
(McIntosh và cs 1977; Diallo và cs 1999).
Với việc vi rút Chik dễ dàng xâm nhập vào các nước khác nhau thông qua
hoạt động của muỗi, nhất là muỗi Ae. albopictus – hiện nay đang lấn át trên
khắp các châu lục, thì dịch bệnh Chik là một trong những dịch bệnh đáng báo
động, cũng như các biện pháp phòng, trừ muỗi muỗi Ae. aegypti và Ae.
albopictus là rất cần thiết để kiểm soát dịch bệnh này.
6. Nghiên cứu về sự phân bố và vai trò của muỗi Aedes aegypti và Aedes
albopictus tại Việt Nam.
Theo kết quả giám sát bọ gậy từ chương trình phòng chống SXHD quốc
gia, muỗi Aedes có mặt ở khắp mọi vùng miền trên lãnh thổ đất nước ta. Tuy
nhiên phân bố cụ thể của 2 loài muỗi Ae. aegypti và Ae. albopictus tương đối
khác nhau tại các vùng miền khác nhau. Higa và cộng sự đã tiến hành điều
tra muỗi Aedes dọc trên quốc lộ 1A (không điều tra trong nhà) từ Lạng Sơn
đến Cà Mau năm 2008. Kết quả cho thấy tại khu vực Miền Bắc muỗi Ae.
albopictus trội hơn so với muỗi Ae. aegypti, tuy nhiên kết quả lại ngược lại
đối với khu vực Miền Nam, Miền Trung và Tây Nguyên muỗi Ae. aegypti lại
trội hơn so với muỗi Ae. albopictus. Tại một số tỉnh thành phố của khu vực
Miền Bắc như Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Bắc Giang, Quảng Ninh và
Bắc Ninh muỗi Ae. aegypti tập trung nhiều tại trung tâm tỉnh/thành phố, nơi
tập trung đông người và bên cạnh đó muỗi Ae. albopictus có xu hướng lan tới
các vùng xa trung tâm như nông thôn và vùng núi.
Trong hoạt động giám sát và phòng chống véc tơ là muỗi Aedes truyền tại
Việt Nam mới chỉ tập trung vào hộ gia đình ở 5% - 10% các xã, phường trọng
điểm mà chưa chú trọng giám sát tại các điểm công cộng, nơi tập trung đông
người và mật độ muỗi Aedes cũng rất cao. Có thể chính các điểm công cộng
này là nguồn cung cấp véc tơ thường xuyên ra cộng đồng. Chính vì thế, để
19
xác định sự phân bố của muỗi Aedes một cách đồng bộ trên diện rộng, cần có
các nghiên cứu tiến hành trên các điểm như trường học, chùa/đình, công viên
và chợ. Nghiên cứu của Trần Văn Tiến và cs (2003) cho thấy muỗi Ae.
albopictus lưu hành rộng rãi ở nhiều địa phương và các vùng sinh thái khác
nhau nhất là khu vực ngoại thành nơi có nhiều cây xanh bao phủ, ổ bọ gậy
của loài muỗi này ghi nhận chủ yếu từ các dụng cụ chứa nước tự nhiên, phong
phú về chủng loại. Trong khi ấy muỗi Ae. aegypti thường xuất hiện ở khu vực
đô thị hóa và nội thành - nơi có mật độ dân cư đông và ổ bọ gậy nguồn được
tìm thấy thường là các loại dụng cụ chứa nước nhân tạo. Tuy nhiên cho tới
thời điểm hiện tại, ở Việt Nam chưa có bất kì một nghiên cứu nào xác định
vai trò của muỗi Ae. aegypti và Ae. albopictus đối với bệnh Chikungunya.
20
CHƯƠNG II
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Do 3 mục tiêu trong đề tài nghiên cứu này có đối tượng và phương pháp
nghiên cứu khác nhau, nên chúng tôi trình bầy phương pháp nghiên cứu theo
từng mục tiêu.
Mục tiêu 1: Mô tả sự phân bố quần thể của hai loài Aedes aegypti và Aedes
albopictus tại các điểm nghiên cứu.
1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
2. Địa điểm và cách chọn:
Địa điểm nghiên cứu được chọn theo tiêu chuẩn sau đây:
2.1. Chọn tỉnh và chọn huyện:
Chọn có chủ đích 5 tỉnh, mỗi tỉnh chọn ra 1 huyện vào nghiên cứu với các
tiêu chuẩn sau:
- Tỉnh/huyện biên giới có cửa khẩu với Lào hoặc Campuchia (hoặc có
đường biên giới kéo dài)
- Có ghi nhận các ca sốt với với biểu hiện xuất huyết trong những năm gần
đây
- Có hệ thống y tế mạnh, cán bộ nhiệt tình, có thể đáp ứng đủ các điều kiện
cho nghiên cứu
Với các tiêu chuẩn trên thì 5 tỉnh và 5 huyện được chọn vào nghiên cứu như
sau:
STT Tỉnh Huyện
1 Hà Tĩnh Hương Khê
2 Quảng Trị Hướng Hoá
3 Thừa Thiên Huế Nam Đông
4 Đắc Nông Đắc Min
5 Long An Mộc Hoá
21
2.2. Chọn xã:
Tại mỗi huyện chọn có chủ đích 4 xã là nơi có các tiêu chuẩn sau:
- Có ghi nhận các ca sốt với với biểu hiện xuất huyết.
- Có hệ thống y tế vững mạnh, cán bộ nhiệt tình, có thể đáp ứng đủ các
điều kiện cho nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Muỗi và bọ gậy
4. Thời gian nghiên cứu:
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 9/2012 – tháng 9/2014
5. Cỡ mẫu và chọn mẫu:
Tại mỗi xã, tiến hành điều tra cắt ngang về côn trùng học 2 lần/1 năm (vào
mùa mưa và mùa khô), trong 2 năm liên tiếp.
Cỡ mẫu là cỡ mẫu toàn bộ: Muỗi và bọ gậy được thu thập ở 30 hộ gia đình
cho một xã trong một lần điều tra theo đúng phương pháp giám sát thường
quy của chương trình phòng chống Sốt xuất huyết quốc gia. Các hộ gia đình
được chọn theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên.
6. Phương pháp thu thập mẫu:
- Thu thập mẫu muỗi: Bằng phương pháp soi muỗi đậu nghỉ trong nhà bằng
ống tuýp, máy hút cầm tay và máy hút đeo vai. Muỗi được thu thập từ ống
tuýp, máy hút cầm tay sẽ được tính phân tích và tính làm chỉ số véc tơ. Muỗi
thu thập từ máy hút đeo vai sẽ được giữ lại để phân lập vi rút sau này (Mục
tiêu 2). Người điều tra chia thành nhóm, mỗi nhóm hai người soi bắt muỗi cái
đậu nghỉ trên quần áo, chăn màn, các đồ vật trong nhà vào buổi sáng. Mỗi hộ
gia đình thu thập muỗi trong nhà với thời gian 15 phút vào ban ngày bằng ống
tuýp, kết quả thu thập muỗi từ ống tuýp này được tính vào chỉ số muỗi trưởng
thành. Sau đó dùng máy hút cầm tay và máy hút đeo vai để thu thập muỗi cả
trong và ngoài nhà (khu vực sân vườn). Muỗi sau khi bắt được mang về
TYTDP tỉnh trong vòng 24 giờ. Tại đây muỗi được cho vào tủ lạnh 2 - 8 độ
22
để gây chết lâm sàng, định loại loài và cho vào ống eppendorf (theo loài) ghi
nhãn theo loài, địa điểm, thời gian... và bảo quản ở tủ lạnh -20oC đến -80oC,
sau đó vận chuyển về phòng thí nghiệm Côn trùng- Viện Vệ sinh Dịch tễ
Trung ương theo yêu cầu của nghiên cứu.
- Thu thập bọ gậy: Sử dụng bộ dụng cụ điều tra côn trùng chuẩn của Tổ chức
Y tế Thế giới để thu thập bọ gậy Aedes trong tất cả các dụng cụ chứa nước
của hộ gia đình điều tra. Bọ gậy sau khi thu thập được định loại loài và ghi
nhận vào phiếu điều tra.
7. Phân tích định loại và các chỉ số côn trùng học:
7.1. Định loại muỗi thu thập từ thực địa: Theo khóa định loại muỗi ở Việt
Nam của Chester J. Stojanovich và Harold Georye Scott.
7.2. Phân tích chỉ số bọ gậy: Chỉ số bọ gậy mỗi loài được phân tích theo
hướng dẫn của WHO và Bộ Y tế, cụ thể như sau:
- Chỉ số nhà có bọ gậy (CSNBG) là tỷ lệ phần trăm nhà có bọ gậy
trên số nhà điều tra.
- Chỉ số dụng cụ chứa nước có bọ gậy (CSDCBG) là tỷ lệ phần trăm
dụng cụ chứa nước có bọ gậy trên số dụng cụ chứa nước điều tra.
- Chỉ số Breteau (BI) là số dụng cụ chứa nước có bọ gậy trên số nhà
điều tra.
- Chỉ số mật độ bọ gậy (CSMDBG) là số lượng bọ gậy trung bình cho
1 hộ gia đình điều tra, chỉ số này được tính bằng số bọ gậy thu được trên số
nhà điều tra.
7.3. Phân tích chỉ số muỗi trưởng thành: Chỉ số muỗi trưởng thành mỗi loài
được phân tích theo hướng dẫn của WHO và Bộ Y tế, cụ thể như sau:
- Chỉ số mật độ muỗi (CSMD) là số muỗi cái trung bình trong 1 gia
đình điều tra và được tính bằng số muỗi cái bắt được trên số nhà điều tra.
- Chỉ số nhà có muỗi (CSNCM) là là tỷ lệ phần trăm nhà có muỗi cái
trưởng thành và được tính bằng số nhà có muỗi cái trên số nhà điều tra.
23
8. Phân tích số liệu và viết báo cáo:
Số liệu được làm sạch và phân tích dựa trên các phần mềm máy tính MS
Excel và STATA 10.0 để nhập và phân tích dữ liệu. Kết quả được trình bày
dưới dạng các bảng, biểu đồ, bản đồ. Viết báo cáo theo mẫu quy định.
Mục tiêu 2: Xác định sự có mặt của vi rút Chikungunya trên quần thể muỗi
Aedes aegypti và Aedes albopictus thu được từ các điểm nghiên cứu.
1. Thiết kế nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang và phân tích phòng thí nghiệm.
2. Địa điểm nghiên cứu:
- Tại các xã nghiên cứu trong điều tra cắt ngang thuộc mục tiêu 1
- Tại khu vực nhà có bệnh nhân nghi mắc Chikungunya tại các huyện nghiên
cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Muỗi thu thập được trong các đợt điều tra cắt ngang (trong mục tiêu 1)
- Muỗi thu thập được từ khu vực nhà có bệnh nhân nghi mắc Chikungunya
(định nghĩa ca nghi mắc Chikungunya được trình bày ở mục tiêu 3).
4. Thời gian nghiên cứu:
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 9/2012 – tháng 9/2014
5. Phương pháp thu thập muỗi và kỹ thuật xét nghiệm trong phòng thí
nghiệm:
5.1. Phương pháp thu thập muỗi:
a) Thu thập muỗi trong các điểm điều tra cắt ngang (đã mô tả chi tiết tại mục
tiêu 1).
b) Thu thập muỗi tại khu vực nhà có bệnh nhân nghi mắc Chikungunya
- Hàng năm mỗi tỉnh sẽ chọn ra 10 khu vực có bệnh nhân nghi mắc
Chikungunya để tiến hành thu thập muỗi để xác định vi rút Chikungunya trên
muỗi.
24
- Cách thức tiến hành thu thập muỗi: Ngay khi phát hiện bệnh nhân nghi ngờ
mắc Chikungunya, tiến hành thu thập muỗi tại nhà bệnh nhân và 30 hộ gia
đình xung quanh. Sử dụng máy hút Aspirator và máy hút đeo vai để thu thập
muỗi tại các hộ gia đình. Mỗi hộ gia đình thu thập muỗi trong nhà với thời
gian 15 phút vào ban ngày. Muỗi sau khi bắt được mang về TYTDP tỉnh
trong vòng 24 giờ. Tại đây muỗi được cho vào tủ lạnh 2 - 8 độ để gây chết
lâm sàng, định loại loài và cho vào ống eppendorf (theo loài) ghi nhãn theo
loài, địa điểm, thời gian... và bảo quản ở tủ lạnh -40oC đến -80oC, vận chuyển
về phòng thí nghiệm Côn trùng- Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương theo yêu
cầu của nghiên cứu. Toàn bộ mẫu muỗi sau đó được chuyển đến và thực hiện
xét nghiệm tại phòng thí nghiệm tương tác tế bào vật chủ - vi rút, trung tâm
nghiên cứu công nghệ sinh học về mầm bệnh, trung tâm quốc gia nghiên cứu
khoa học Monpellier - Cộng Hòa Pháp.
- Định loại muỗi thu thập từ thực địa: Theo khóa định loại muỗi ở Việt Nam
của Chester J. Stojanovich và Harold Georye Scott.
5.2. Phương pháp xét nghiệm:
Vi rút Chikungunya được xác định trên muỗi bằng phương pháp sau:
a) Phân lập vi rút.
25
Virút được phân lập trên dòng tế bào C6/36 và được quan sát sự có mặt của
virút trong tế bào dựa trên phản ứng IFA, RT-PCR và phương pháp giải trình
tự. Phân lập vi rút dựa theo tiêu chuẩn chẩn đoán của CDC.
*)Loại mẫu
Mẫu muỗi được nghiền pha loãng
*)Phân lập trên tế bào
- Chuẩn bị týp tế bào nuôi cấy
- Kiểm tra tế bào C6/36 trên kính hiển vi lộn ngược ở độ phóng đại 40x
- Rửa tế bào 2 lần với PBS (-) và 1 lần với D-MEM 10% FBS
- Nuôi cấy trên típ tế bào nuôi cấy.
Cấy 10 µl mẫu muỗi được nghiền trong dịch dung dịch pha loãng vào týp tế
bào C6/36 mọc 1 lớp. Ủ 60 phút nhiệt độ phòng, hoặc tủ ấm 280C. Thêm 3m -
5ml môi trường duy trì D-MEM 2% Bovine serum albumin. Quan sát sự thay
đổi của tế bào hàng ngày dưới kính hiển vi trong 7-14 ngày.
- Đọc kết quả và biện luận:
Thu chủng sau 7-14 ngày có thể lấy nước nổi nuôi cấy bằng cách ly tâm
tuýp tế bào trong 10 phút ở tốc độ 2000rpm.
Lấy 500µl mẫu nước nổi để thực hiện phản ứng RT- PCR, IFA, hoặc giải
trình tự. Mẫu dương tính được thu giữ để cất – 800C.
b) Phương pháp PCR (chi tiết tại phụ lục).
c) Xác định vai trò đồng nhiễm/nhiễm của vi rút Dengue
Các mẫu muỗi thu thập được ngoài xét nghiệm tìm vi rút Chik còn được
xét nghiệm tìm vi rút Dengue bằng xét nghiệm RT-PCR.
6. Phân tích số liệu và viết báo cáo:
Sử dụng MS Excel, STATA 10.0 để nhập và phân tích dữ liệu.
Mục tiêu 3: Xác định sự có mặt của vi rút Chikungunya trên bệnh
nhân nghi mắc tại các điểm nghiên cứu.
1. Thiết kế nghiên cứu:
26
Nghiên cứu mô tả cắt ngang và phân tích phòng thí nghiệm
2. Địa điểm nghiên cứu:
- Tại trạm y tế của các xã được chọn trong nghiên cứu
- Tại bệnh viện huyện của các huyện được chọn trong nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu:
Các trường hợp nghi mắc Chikungunya được giám sát, phát hiện, lấy mẫu và
báo cáo theo định nghĩa ca bệnh như sau:
3.1. Ca bệnh nghi mắc Chikungunya (ca lâm sàng):
Các bệnh nhân có biểu hiện:
+ Sốt đột ngột
+ Biểu hiện xuất huyết đa dạng: chấm xuất huyết, mảng xuất huyết dưới da,
chảy máu chân răng…
+ Đau xương khớp
3.2. Ca bệnh xác định: Là ca bệnh lâm sàng có xét nghiệm dương tính với vi
rút Chikungunya bằng 1 trong các phương pháp sau:
(1) Phân lập được vi rút Chinungunya
(2) Phát hiện được đoạn gen đặc hiệu của vi rút Chikunginya bằng phương
pháp PCR.
Kết quả dương tính ở các phương pháp này tiếp tục được giải trình tự gen
bằng phương pháp Sequencing để khẳng định.
4. Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 9/2012 – tháng
9/2014
5. Cỡ mẫu và chọn mẫu:
Chọn mẫu toàn bộ: tất cả các bệnh nhân nghi mắc Chikungunya theo đúng
định nghĩa ca bệnh được phát hiện tại 20 trạm y tế xã và 5 bệnh viện đa khoa
huyện được chọn trong nghiên cứu đều được đưa vào điều tra và lấy mẫu.
6. Phương pháp thu thập bệnh phẩm và kỹ thuật xét nghiệm:
6.1. Phương pháp thu thập và vận chuyển bệnh phẩm:
27
a) Máu toàn phần và huyết thanh (để phân lập vi rút và PCR): được thu thập ở
bệnh nhân có sốt trong vòng 5 ngày đầu.
Lấy máu tĩnh mạch từ 1 - 5ml theo quy trình lấy mẫu máu của phòng thí
nghiệm. Mẫu máu sau khi đã được tách huyết thanh, bảo quản lạnh từ -40oC
đến -80oC và sau đó được vận chuyển về phòng thí nghiệm và thực hiện xét
nghiệm tại la bo vi rút Arbo - Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương.
Huyết thanh đã được tách từ mẫu máu toàn phần ở bước, bảo quản huyết
thanh ở 4oC trong vòng 24 - 48h, sau đó cất giữ tại -20oC hoặc -400C. Nếu
máu được lấy tại trạm y tế xã thì cần chuyển đến bệnh viện huyện để tách
chiết. Nếu lưu giữ huyết thanh lâu cần phải bảo quản ở tủ lạnh -20oC hoặc -
80oC.
b) Vận chuyển mẫu và bảo quản mẫu
- Đóng gói bệnh phẩm
Sau khi lấy bệnh phẩm, kiểm tra chắc chắn bệnh phẩm đã được đánh dấu trên
tuýp chứa bệnh phẩm:
+ Tên bệnh nhân.
+ Tuổi (ghi trên tuýp) hoặc ngày/tháng/năm sinh (trên phiếu điều tra)
+ Phải ghi ngày lấy mẫu trên tuýp
+ Đóng chặt tuýp bệnh phẩm
+ Bọc từng tuýp bệnh phẩm bằng giấy thấm và đặt trong túi nilon kín.
+ Đảm bảo các thông tin về bệnh nhân đã được điền đủ và đúng trong
các phiếu điều tra.
+ Bảo quản phiếu điều tra, giấy yêu cầu xét nghiệm trong một túi nilon
khác – không để chung với bệnh phẩm.
- Vận chuyển bệnh phẩm
28
+ Báo trước cho phòng thí nghiệm biết kế hoạch và thời gian chuyển
bệnh phẩm (thời gian xuất phát, thời gian đến ước tính).
+ Sử dụng túi lạnh đã được làm lạnh tại -80oC, sử dụng khoảng 10 túi
giữ lạnh cho 1 thùng xốp cỡ 450x290x330mm (hoặc tương đương),
đảm bảo bệnh phẩm vẫn trong trạng thái đông, tránh tình trạng đông
tan băng trong quá trình vận chuyển làm ảnh hưởng đến chất lượng
bệnh phẩm và kết quả nghiên cứu.
+ Khi vận chuyển qua đường bưu điện hoặc công ty chuyển phát, tuân
thủ nghiêm ngặt quy trình đóng gói bệnh phẩm, tránh va đập đổ vỡ
trong quá trình vận chuyển.
- Quy định về thời điểm chuyển mẫu giữa các tuyến
Các mẫu bệnh phẩm này đều phải được chuyển về Trung tâm YTDP tỉnh rồi
tới phòng thí nghiệm Arbo của Viện Vệ sinh Dịch tễ theo tuần hoặc tháng, tùy
thuộc yêu cầu của nghiên cứu.
Tóm tắt sơ đồ vận chuyển và bảo quản mẫu máu
6.2. Phương pháp xét nghiệm:
Vi rút Chikungunya được xác định bằng phương pháp sau:
- 6.2.1 Phân lập vi rút Chikungunya:
29
Dung dịch máu toàn phần của bệnh nhân nghi mắc Chikungunya được
dùng để phân lập vi rút (Kỹ thuật và các bước tiến hành như mô tả tại
mục tiêu 2).
- 6.2.2 Kỹ thuật PCR:
Huyết thanh của bệnh nhân nghi mắc Chikungunya được dùng để làm
xét nghiệm PCR (Kỹ thuật và các bước tiến hành như mô tả tại mục
tiêu 2).
7. Phân tích số liệu và viết báo cáo:
Số liệu được làm sạch và phân tích dựa trên các phần mềm máy tính MS
Excel và STATA 10.0 để nhập và phân tích dữ liệu. Kết quả được trình bày
dưới dạng các bảng, biểu đồ, bản đồ. Viết báo cáo theo mẫu quy định.
30
CHƯƠNG III
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Mô tả sự phân bố quần thể của hai loài Aedes aegypti và Aedes
albopictus tại các điểm nghiên cứu.
Bảng 3.1. Một số thông tin cơ bản tại các điểm nghiên cứu
Stt Tỉnh Huyện Xã Số DCCN/nhà
Nhân khẩu mỗi gia đình
Diện tích nhà
vườn (m2)
1 Hà Tĩnh Huyện Hương Khê
-TT Hương Khê -Phú Phong -Hương Vịnh -Gia Phố
1,8 4 453
2 Quảng Trị
Huyện Hướng Hóa
-Tân Thành -TT Lao Bảo -Tân Long -Xã Thuận
2,0 4 528
3 Thừa Thiên Huế
Huyện Nam Đông
-Khe tre -Hương Hòa -Hương Phú -Hương Lộc
2,1 4 1089
4 Đắk Nông
Đắk Min -TT Đắk Min -Đắk Lao -Đắk Rla -Đức Mạnh
1,3 4 557
5 Long An Mộc Hóa -Bình Hòa Tây -Bình Hiệp -Thạnh Trị -Bình Tân
5,1 5 397
Để thực hiện mục tiêu 1, nhóm nghiên cứu đã tiến hành điều tra định kỳ
về côn trùng học tại 20 xã thuộc 5 tỉnh có biên giới với Lào và Cam Pu Chia
(Bảng 3.1). Kết quả điều tra của 4 đợt định kì trong 2 năm cho thấy có sự
khác biệt rất nhiều về số dụng cụ chứa nước trung bình giữa các tỉnh nghiên
cứu. Đặc biệt là Long An, số dụng cụ chứa nước (DCCN) trung bình bình
trong một gia đình khá lớn so với các địa bàn khác (5,1 dụng cụ/nhà) có thể
giải thích là do người dân có tập quán tích trữ nước trong nhiều chum vại, đây
31
chính là điều kiện cho muỗi phát triển. Điều này cũng phù hợp với mật độ
muỗi và bọ gậy tương đối cao tại Long An. Không có sự khác biệt về nhân
khẩu của mỗi gia đình tại các tỉnh này. Tuy nhiên, diện tích nhà và vườn lại
khá khác biệt (rộng nhất là Huế: 1089m2/nhà và chật nhất là Long An:
397m2/nhà).
3.1.1. Phân bố chung tỷ lệ muỗi Ae. aegypti và Ae. albopictus tại các điểm
nghiên cứu.
Hình 3.1. Phân bố tỷ lệ muỗi Ae. aegypti và Ae. albopictus tại các điểm
nghiên cứu, 2011-2013
Hình 3.1 ở trên cho thấy, tại các điểm nghiên cứu có sự hiện diện của cả 2
loài muỗi Ae. aegypti và Ae. albopictus. Tỷ lệ phân bố chung muỗi Ae.
aegypti và Ae. albopictus tại cả 5 tỉnh tương ứng là 96,2% và 3,8%. Như vậy
tính chung trên các địa bàn được chọn trong nghiên cứu này, tỷ lệ muỗi Ae.
aegypti ghi nhận cao hơn hẳn so với muỗi Ae. albopictus.
32
3.1.2. Phân bố riêng tỷ lệ muỗi Ae. aegypti và Ae. albopictus tại các điểm
nghiên cứu.
Chỉ số muỗi, bọ gậy hai loài Ae. aegypti và Ae. albopictus ở các tỉnh tham
gia nghiên cứu qua các đợt điều tra cắt ngang được phân tích trong các bảng
sau:
Bảng 3.2. Chỉ số loài muỗi Ae. aegypti tại các tỉnh 2012-2013
Chỉ số muỗi, bọ
gậy và DCCN
Ae. aegypti
Hà Tĩnh Quảng
Trị Huế Đắc Nông Long An
Muỗi
HI
(CI=95%)
21,4
(16-25,7)
15,7
(10,5-19,7)
7,61
(3,6-12,7)
53,6
(41-61,2)
47,3
(32,1-66,7)
DI
(CI=95%)
0,23
(0,12-0,4)
0,19
(0,13-0,25)
0,085
(0,04-0,15)
0,84
(0,34-1,19)
0,87
(0,45-1,25)
Bọ
gậy
CSNBG
(CI=95%)
46,6
(35,7-57,8)
14,9
(7,2-27,4)
12,5
(5,2-21,4)
8,1
(4,3-13,7)
49,3
(31,2-67,4)
CSMĐBG
(CI=95%)
4,76
(3,5-7,92)
3,2
(2,7-5,0)
3,0
(2,5-6,1)
1,6
(0,9-3,1)
13,3
(7,5-19,0)
DC
CN
CSDCBG
(CI=95%)
15,7
(12,3-19,6)
34,2
(30,3-38,9)
33,1
(26,5-38,1)
29,5
(23,4-34,5)
34,2
(30,3-38,9)
BI
(CI=95%)
46
(17-67)
34
(15-622)
18
(11-27)
136
(101-154)
183
(145-221)
Ghi chú: HI = chỉ số nhà có muỗi; DI = chỉ số mật độ muỗi; CSNBG = chỉ số nhà có bọ
gậy; CSMĐBG = chỉ số mật độ bọ gậy; CSDCBG = chỉ số dụng cụ chứa nước có bọ gậy;
BI = chỉ số Breteau.
Kết quả ở bảng 3.2 cho thấy tại tất cả các điểm dân cư thuộc 5 tỉnh đều có
sự hiện diện của loài muỗi Ae. aegypti. Chỉ số DI và HI ghi nhận cao nhất tại
Long An và Đăk Nông (lần lượt là 0,87 con/nhà; 47,3% và 0,84con/nhà;
53,6%). Kế sau đó là DI và HI của các tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Trị (lần lượt là
33
0,23 con/nhà; 21,4% và 0,19 con/nhà; 15,7%). DI và HI ghi nhận ít nhất ở
Thừa Thiên Huế với lần lượt là 0,085 con/nhà và 7,61%. Chỉ số CSMĐBG và
CSNBG ghi nhận cao nhất tại Long An và Hà Tĩnh (lần lượt là 13,3 con/nhà;
49,3% và 4,76 con/nhà; 46,6%). Kế sau đó là CSMĐBG và CSNBG của các
tỉnh Quảng Trị (3,2 con/nhà; 14,9%), Huế (3 con/nhà; 12,5%) và Đắc Nông
(1,6 con/nhà; 8,1%). Chỉ số BI ghi nhận cao nhất tại Long An và Đăk Nông
lần lượt là 183 và 136. Kế sau đó là chỉ số BI của Hà Tĩnh và Quảng Trị lần
lượt là 46 và 34, ghi nhận BI thấp nhất tại Huế 18.
Bảng 3.3. Chỉ số loài muỗi Ae. albopictus tại các tỉnh 2012-2013
Chỉ số muỗi, bọ
gậy và DCCN
Ae. albopictus
Hà Tĩnh Quảng
Trị Huế Đắc Nông Long An
Muỗi
HI
(CI=95%)
8,4
(6,1-12,7)
5,7
(3,2-9,3)
12,1
(6,3-17,7)
9,7
(4,1-16,2)
3,2
(2,5-6,4)
DI
(CI=95%)
0,1
(0,06-0,18)
0,05
(0,03-0,2)
0,17
(0,11-0,21)
0,08
(0,02-0,12)
0,02
(0,01-0,05)
Bọ
gậy
CSNBG
(CI=95%)
16,6
(10,7-27,8)
6,9
(2,7-12,4)
10,5
(5,8-17,4)
4,1
(2,3-9,7)
3,5
(1,2-7,4)
CSMĐBG
(CI=95%)
1,01
(0,6-1,92)
1,4
(0,7-1,5)
2,81
(1,5-3,1)
0,05
(0,02-1,1)
0,2
(0,15-0,28)
DC
CN
CSDCBG
(CI=95%)
34,2
(23,1-59,6)
19,8
(10,3-28,9)
23,4
(10,3-38,9)
9,4
(6,4-14,5)
4,7
(3,1-8,9)
BI
(CI=95%)
12
(17-67)
15
(15-622)
8
(11-27)
5
(101-154)
4
(145-221)
Ghi chú: HI = chỉ số nhà có muỗi; DI = chỉ số mật độ muỗi; CSNBG = chỉ số nhà có bọ
gậy; CSMĐBG = chỉ số mật độ bọ gậy; CSDCBG = chỉ số dụng cụ chứa nước có bọ gậy;
BI = chỉ số Breteau.
Kết quả ở bảng 3.3 cho thấy các tỉnh điều tra trong 2 năm đều ghi nhận
được sự hiện diện của loài muỗi Ae. albopictus, tuy nhiên một số tỉnh ghi
34
nhân tỷ lệ rất thấp. Chỉ số DI và HI ghi nhận cao nhất tại Huế và Hà Tĩnh ông
(lần lượt là 0,17 con/nhà; 12,1% và 0,1 con/nhà; 8,4%). Kế sau đó là DI và HI
của các tỉnh Đắk Nông và Quảng Trị (lần lượt là 0,08 con/nhà; 9,7% và 0,05
con/nhà; 5,7%). DI và HI ghi nhận ít nhất ở Long An với lần lượt là 0,02
con/nhà và 3,2%. Chỉ số CSMĐBG và CSNBG ghi nhận cao nhất tại Huế và
Hà Tĩnh (lần lượt là 2,81con/nhà; 10,5% và 1,01 con/nhà; 16,6%). Chi nhận
chỉ số CSMĐBG và CSNBG thấp nhất tại Đăk Nông lần lượt là 0,05 con/nhà
và 4,1%. Chỉ số BI ghi nhận cao nhất tại Quảng Trị và Hà Tĩnh lần lượt là 15
và 12. Kế sau đó là chỉ số BI của Huế và Đăk Nông lần lượt là 8 và 5, ghi
nhận BI thấp nhất tại Long An là 4.
3.1.3. Bản đồ phân bố 2 loại bọ gậy Aedes tại các điểm nghiên cứu.
35
63%
37%
Hà Tĩnh (n=68)
89%
11%
Hà Tĩnh (n=28)
80%
20%
Quảng Trị (n=50)
87%
13%
Quảng Trị (n=31)
37%
63%
Huế (n=63)
76
%
24
%
Huế (n=29)
92%
8%
Đăk Nông (n=181)
78%
22%
Đăk Nông (n=64)
99%
1%
Long An (n=205)
99%
1%
Long An (n=163)
2012 - 2013 2013 - 2014
Chúgiải:
Ae.aegypti
Ae. albopictus
Hình 3.2. Phân bố và tỷ trọng 2 loài muỗi Ae. aegypti và Ae. albopictus
theo 2 giai đoạn 2012-2013 và 2013-2014
Tại cả 5 tỉnh, loài muỗi Ae.aegypti đề chiếm ưu thế hơn hẳn loài muỗi
Aedes albopictus (Hình 3.2) mặc dù các điểm điều tra có thể khác nhau về
sinh thái từ thị trấn đến nông thôn vùng biên giới phía tây. Duy nhất trong đợt
điều tra đầu tiên vào mùa mưa, do các ổ chứa nước tự nhiên vốn thích hợp với
36
tập tính sinh sản của loài muỗi Aedes albopictus nên loài này có mật độ quần
thể địa phương (0,29 con/nhà) cao hơn Ae.aegypti (0,14 con/nhà).
3.1.3. Phân tích yếu tố liên quan tại các điểm nghiên cứu tới mật độ của 2
loài bọ gậy Ae. aegypti và Ae. albopictus.
3.1.3.1. Phân tích yếu tố liên quan từ các DCCN tới mật độ của 2 loài bọ
gậy Ae. aegypti và Ae. albopictus.
Bảng 3.4. Sự hiện diện 2 loại bọ gậy Aedes và nguy cơ đến từ các chủng loại
DCCN tại các điểm nghiên cứu.
DCCN Số
lượng
Ae. aegypti
(p<0.001 )
Ae. albopictus
(p= 0.002)
Đồng nhiễm
(p= 0.01)
Số lượng /
%
OR
(CI=95%)
Số lượng /
%
OR
(CI=95%)
Số lượng
/ %
OR
(CI=95%)
Bể nước 787 1006 (10,5%)
1,9 (1,4-2,3)
150
(6,1%)
1,2
(0,9-1,4)
161
(1,3%)
1,5
(1,2-2,0)
Bể cá 287 114
(1,2%)
1,58
(1,23-1,82)
40
(1,6%)
1,8
(1,5-2,4)
0
(0%)
ND
Phế thải 1331 1245
(13%)
0,33
(0,11-0,6)
725
(29,6%)
3,2
(2,7-3,8)
900
(7,5%)
2,4
(1,9-2,8)
Chậu
cảnh
316 246
(2,6%)
0,65
(0,2-0,8)
100
(4%)
0,6
(0,3-0,9)
104
(0,9%)
0,7
(0,4-1,1)
Lu/vại 3494 4046
(42,2%)
3,6
(2,9-4,5)
425
(17,3%)
1,6
(1,1-2,1)
465
(3,9%)
1,9
(1,4-2,5)
Lốp xe 178 384
(4%)
1,3
(0,9-1,7)
46
(1,9%)
2,7
(2,1-3,3)
102
(0,8%)
1,7
(1,3-2,3)
Xô/thùng 900 926 (9,7%)
0,99
(0,71-1,3)
330
(13,5%)
1,1
(0,7-1,5)
185
(1,5%)
1,5
(1,1-2,2)
Lọ hoa 178 54
(0,56%)
0,13
(0,09-0,21)
110
(4,5%)
0,63
(0,4-0,9)
104
(0,86%)
0,32
(0,12-0,47)
Thùng
Phi
10 574
(6%)
2,2
(1,7-2,8)
109
(4,4%)
1,2
(0,8-1,7)
41
(0,3%)
1,6
(1,2-2,3)
Bể cầu 233 33
(0,3%)
ND 0
(0%)
ND 0
(0%)
ND
Khác 653 959
(10%)
1,3
(0,9-1,6)
418
(17%)
1,4
(1,1-1,7)
790
(6,6%)
1,4
(0,9-1,7)
Total 6367 9588
(100%)
2453
(100%)
2852
(100%)
37
Qua phân tích ở bảng trên cho thấy các dung cụ làm tăng khả năng có bọ
gậy Ae. aegypti nói chung trên các đại bàn nghiên cứu là tại bể nước bể cá,
lu/vại, lốp xe, thùng phi (P<0,001, OR>1). Các dung cụ làm tăng khả năng có
bọ gậy Ae. albopictus nói chung trên các địa bàn nghiên cứu là tại phế thải,
lu/vại, lốp xe, bể cá (P=0,002, OR>1). Các dung cụ làm tăng khả năng có cả 2
loài bọ gậy Aedes nói chung trên các đại bàn nghiên cứu là tại phế thải, thùng
phi (P=0,01 OR>1).
3.1.3.2. Phân tích yếu tố liên quan từ mùa vụ tới sự có mặt của của 2 loài
bọ gậy Aedes.
Bảng 3.5. Liên quan qua lại giữa bọ gậy Aedes trong các chủng loại DCCN,
2012-2013
Mùa vụ DCCN %
DCCN
%
DCCN
(+)
Nhà có
bọ gậy
(+)
OR
(CI=95%) p-value
Mùa hanh,
khô 1038 12,4% 28,3 18,7%
0,8
(0,56-1,04)
=0,3
Mùa nóng,
ẩm 7341 87,6 % 15,6 57,3%
17,5
(11,3-23,6) <0,001
Vào mùa nóng ẩm là yếu tố làm tăng khả năng để bọ gậy phát triển và
nguy cơ số nhà có bọ gậy của muỗi Aedes vào mùa này gấp 17,5 lần so với
mùa hanh, khô (p < 0,001).
3.1.4. Phân bố độ tập trung của bọ gậy theo dụng cụ chứa nước
Để đánh giá độ tập trung của bọ gậy tại các điểm nghiên cứu, chúng tôi
tiến hành điều tra vào mùa mưa với mỗi xã là 30 hộ gia đình, mỗi tỉnh điều tra
4 xã. Bọ gậy bắt được của từng loại DCCN được đếm và tính ra phần trăm
trong từng chủng loại. Độ tập trung bọ gậy theo dụng cụ chứa nước chính là ổ
bọ gậy của hai loài muỗi Aedes aegypti và Aedes albopictus.
38
Bảng 3.6. Độ tập trung bọ gậy Aedes trong các chủng loại DCCN tại Hà
Tĩnh, 2012-2013
Dụng cụ chứa nước Bọ gậy
Quăng Aedes Ae. aegypti Ae. albopictus
Chủng loại Số
lượng %
Số lượng
% Số
lượng %
Số lượng
%
Bể nước 34 12,3 4 0,4 9 4,8 1 1,6
Bể cá cảnh 12 0,7 0 0,0 0 0,0 0 0,0
Phế thải 52 18,8 108 10,1 5 2,6 6 9,5
Chậu cây
cảnh 1 0,4 0 0,0 0 0,0 0 0,0
Chum/vại 93 33,7 206 19,3 45 23,8 15 23,8
Lốp xe 6 2,2 115 10,8 2 1,1 0 0,0
Xô/thùng 28 10,1 122 11,4 49 25,9 0 0,0
Lọ hoa 4 1,4 0 0,0 5 2,6 0 0,0
Bể cầu 0 0,0
0,0
0,0
0,0
Phuy 2 0,7 0 0,0 0 0,0 0 0,0
Khác 54 19,6 512 48,0 74 39,2 41 65,1
Tổng cộng
Tại Hà Tĩnh, có đến 11 chủng loại DCCN được ghi nhận, phong phú về
chủng loại và đa dạng về kích cỡ. Tuy nhiên số lượng DCCN ghi nhận nhiều
nhất tại đây là chum vại (33,7%), phế thải (18,8%), bể nước (12,3%),
xô/thùng (10,1%).
39
Ae. aegypti Ae. albopictus
Hình 3.3. Ổ bọ gậy nguồn Hà Tĩnh, 2012 - 2013
Tại Hà Tĩnh, bọ gậy Ae. aegypti tập trung chủ yếu các loại DCCN như
chum/vại (19,3%), phế thải (10,1%), lốp xe (10,8%), xô/thùng (9%) và các
loại DCCN khác. Ghi nhận bọ gậy Ae. albopictus tập trung tại nhiều chủng
loại hơn so với bọ Ae. aegypti, chủ yếu tại các DCCN như xô/thùng (25,9%),
chum/vại (23,8%), phế thải (2,6%), lọ hoa (2,6%) và các loại DCCN khác.
Bảng 3.7. Độ tập trung bọ gậy Aedes trong các chủng loại DCCN tại Quảng
Trị, 2012-2013
Dụng cụ chứa nước Bọ gậy
Quăng Aedes Ae. aegypti Ae. albopictus
Chủng loại Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng %
Bể nước 49 22,1 96 18,6 14 5,3 3 8,8
Bể cá cảnh 7 0,9 0 0,0 18 6,8 0 0,0
Phế thải 76 34,2 179 34,8 44 16,5 21 61,8 Chậu cây cảnh
15 6,8 17 3,3 9 3,4 0 0,0 Chum/vại
14 6,3 120 23,3 45 16,9 0 0,0 Lốp xe
9 4,1 49 9,5 3 1,1 4 11,8 Xô/thùng
22 9,9 35 6,8 20 7,5 5 14,7 Lọ hoa 9 4,1 0 0,0 32 12,0 1 2,9 Bể cầu
2 0,9 0 0,0 0 0,0 0 0,0 Phuy
3 1,4 0 0,0 0 0,0 0 0,0 Khác
21 9,5 19 3,7 81 30,5 0 0,0
Tổng cộng 222 100,0 515 100,0 266 100,0 34 100,0
40
Tại Quảng Trị, cũng có đến 11 chủng loại DCCN được ghi nhận, phong
phú về chủng loại và đa dạng về kích cỡ. Tuy nhiên số lượng DCCN ghi nhận
nhiều nhất tại đây là phế thải (34,2%), bể nước (22,1%), xô/thùng (9,9%),
chậu cây cảnh (6,8%) và chum vại (6,3%).
Ae. aegypti Ae. albopictus
Hình 3.4. Ổ bọ gậy nguồn Quảng Trị, 2012 - 2013
Tại Quảng Trị, bọ gậy Ae. aegypti tập trung chủ yếu các loại DCCN như
phế thải (34,8%), chum/vại (23,3%), bể nước (18,6%), lốp xe (9,5%),
xô/thùng (9%) và các loại DCCN khác. Ghi nhận bọ gậy Ae. albopictus tập
trung tại nhiều chủng loại hơn so với bọ Ae. aegypti, chủ yếu tại các DCCN
như chum/vại (16,9%), phế thải (16,5%), xô/thùng (9%), lọ hoa (12%) và các
loại DCCN khác.
41
Bảng 3.8. Độ tập trung bọ gậy Aedes trên các chủng loại DCCN tại Huế,
2012-2013
Dụng cụ chứa nước Bọ gậy
Quăng Aedes Ae. aegypti Ae. albopictus
Chủng loại Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng %
Bể nước 50 16,4 28 12,3 10 1,3 4 2,7
Bể cá cảnh 17 3,9 7 3,1 0 0,0 0 0,0
Phế thải 73 24,0 52 22,8 470 59,7 75 51,4
Chậu cây cảnh 40 13,2 8 3,5 82 10,4 31 21,2
Chum/vại 30 9,9 40 17,5 9 1,1 0 0,0
Lốp xe 8 2,6 27 11,8 23 2,9 5 3,4 Xô/thùng
50 16,4 40 17,5 100 12,7 7 4,8 Lọ hoa
15 4,9 4 1,8 23 2,9 2 1,4 Bể cầu 0 0,0 0 0,0 0 0,0 0 0,0 Phuy
3 1,0 0 0,0 0 0,0 0 0,0 Khác 23 7,6 22 9,6 70 8,9 22 15,1
Tổng cộng 304 100,0 228 100,0 787 100,0 146 100,0 Tại Huế DCCN được ghi nhận phong phú về chủng loại và đa dạng về kích
cỡ. Số lượng DCCN ghi nhận nhiều nhất tại đây là phế thải (24%), xô/thùng
(16,4%), bể nước (16,4%), chậu cây cảnh (13,2%) và bể cá cảnh (3,9%).
Ae. aegypti Ae. albopictus
Hình 3.5. Ổ bọ gậy nguồn Huế, 2012 - 2013
42
Tại Huế, bọ gậy Ae. aegypti tập trung chủ yếu các loại DCCN như phế thải
(22,8%), chum/vại (23,3%), bể nước (18,6%), lốp xe (9,5%), xô/thùng (9%)
và các loại DCCN khác. Ghi nhận bọ gậy Ae. albopictus tập trung tại nhiều
chủng loại hơn so với bọ Ae. aegypti, chủ yếu tại các DCCN như chum/vại
(16,9%), phế thải (16,5%), xô/thùng (9%), lọ hoa (12%) và các loại DCCN
khác.
Bảng 3.9. Độ tập trung bọ gậy Aedes trên các chủng loại DCCN tại Đắk
Nông, 2012-2013
Dụng cụ chứa nước Bọ gậy
Quăng Aedes Ae. aegypti Ae. albopictus
Chủng loại Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng %
Bể nước 24 11,2 2 2,0 0 0,0 0 0,0
Bể cá cảnh 20 0,9 0 0,0 0 0,0 0 0,0 Phế thải
52 24,3 14 14,3 0 0,0 38 25,3 Chậu cây cảnh
5 2,3 0 0,0 0 0,0 0 0,0 Chum/vại
14 6,5 23 23,5 0 0,0 23 15,3 Lốp xe
8 3,7 0 0,0 5 62,5 0 0,0 Xô/thùng 53 24,8 9 9,2 0 0,0 10 6,7 Lọ hoa
5 2,3 0 0,0 0 0,0 0 0,0 Bể cầu
0 0,0 0,0 0,0 0,0 Phuy 30 14,0 39 39,8 2 25,0 51 34,0 Khác
21 9,8 11 11,2 1 12,5 28 18,7
Tổng cộng 214 100,0 98 100,0 8 100,0 150 100,0
Tại Đăk Nông, có 11 chủng loại DCCN được tìm thấy tại các điểm điều tra,
trong đó chủng loại nhiều nhất là xô/thùng (24,8%), phế thải (24,3%), phuy
(14%), bể nước (11,2%) và chum/vại (6,5%).
43
Ae. aegypti Ae. albopictus
Hình 3.6. Ổ bọ gậy nguồn Đắk Nông, 2012 - 2013
Tại Đắc Nông, bọ gậy Ae. aegypti tập trung chủ yếu các loại DCCN như
phuy (40%), chum/vại (24%), phế thải (14%), xô/thùng (9%) và các loại
DCCN khác. Ghi nhận bọ gậy Ae. albopictus tập trung tại nhiều chủng loại
hơn so với bọ Ae. aegypti, chủ yếu tại các DCCN như lốp xe (63%), phuy
(25%) và các loại DCCN khác.
44
Bảng 3.10. Độ tập trung bọ gậy Aedes trên các chủng loại DCCN tại Long
An, 2012-2013
Dụng cụ chứa nước Bọ gậy
Quăng Aedes Ae. aegypti Ae. albopictus
Chủng loại Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng %
Bể nước 2 0,3 0 0,0 0 0,0 0 0,0
Bể cá cảnh 2 0,3 0 0,0 0 0,0 0 0,0
Phế thải 16 2,5 28 1,0 0 0,0 5 6,7
Chậu cây cảnh 3 0,5 9 0,3 0 0,0 1 1,3
Chum/vại 555 87,1 2433 87,4 0 0,0 31 41,3
Lốp xe 5 0,8 21 0,8 0 0,0 6 8,0 Xô/thùng
29 4,6 250 9,0 0 0,0 16 21,3 Lọ hoa
3 0,5 3 0,1 0 0,0 0 0,0 Bể cầu
0 0,0 0,0 0,0 0,0 Phuy
9 1,4 38 1,4 0 0,0 16 21,3 Khác 13 2,0 2 0,1 0 0,0 0 0,0
Tổng cộng 637 100,0 2784 100,0 0 0,0 75 100,0 Tại Long An, chum vại là loại DCCN được tìm thấy nhiều nhất tại các điểm
điều tra chiếm 87,1%, ít hơn là các loại DCCN khác như xô/thùng 4,6%, phế
thải (2,5%), phuy (1,4%) và các loại DCCN khác.
Ae. aegypti Ae. albopictus
0
Hình 3.7. Ổ bọ gậy nguồn Long An, 2012 - 2013
45
Tại Long An, chỉ ghi nhận có mặt của bọ gậy Ae. aegypti, loại bọ gậy này
tại đây tập trung chủ yếu các loại DCCN như chum/vại (87,4%), thùng (9%),
phế thải (1%) và phuy (1%).
3.2. Xác định sự có mặt của vi rút Chikungunya trên quần thể muỗi
Aedes aegypti và Aedes albopictus thu được từ các điểm nghiên cứu.
3.2. 1. Kết quả xét nghiệm xác định sự có mặt của vi rút Chikungunya
trên quần thể muỗi Aedes aegypti thu được từ các điểm nghiên cứu.
3.2. 1.1. Kết quả xét nghiệm.
Bảng 3.11. Phân bố muỗi Ae. aegypti theo địa bàn nghiên cứu, 2012-2013
Khu vực Tỉnh Huyện
Số lượng
muỗi
Ae. aeg
Phía Bắc Hà Tĩnh Hương Khê 55
Miền Trung Huế A lưới 7
Quảng Trị Hướng Hóa 64
Tây Nguyên Đắk Nông Đắc Min 285
Miền Nam Long an Mộc Hóa 580
Tổng cộng 991
Tổng cộng có 991 cá thể muỗi Aedes aegypti thu thập trên thực địa để xác
định sự có mặt của vi rút Chikungunya trong thời gian nghiên cứu. Số lượng
muỗi thu thập được nhiều nhất tại huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An 580 con Ae.
aegypti. Kế đến là số lượng muỗi thu được tại Đắc Min, Đắk Nông 285 con
Ae. aegypti, các tỉnh còn lại là Huế, Quảng Trị, Hà Tĩnh và Huế ghi nhận số
muỗi Ae. aegypti lần lượt là 64, 55 và 7 con.
46
Bảng 3.12. Xác định sự có mặt của vi rút Chikungunya trên quần thể muỗi
Ae. aegypti bằng phương pháp xét nghiệm RT-PCR theo địa bàn nghiên cứu,
2012-2013
Tỉnh Huyện Xã
Số lượng
muỗi
Mẫu muỗi (+)
CHIKV bằng
RT-PCR
Ae.
aegypti
Ae.
aegypti
Hà Tĩnh Hương Khê -TT Hương Khê -Phú Phong -Hương Vịnh -Gia Phố
55 0
Huế A lưới -Tân Thành -TT Lao Bảo -Tân Long -Xã Thuận
7 0
Quảng Trị Hướng Hóa -Khe tre -Hương Hòa -Hương Phú -Hương Lộc
64 0
Đắk Nông Đắc Min -TT Đắk Min -Đắk Lao -Đắk Rla -Đức Mạnh
285
1- Đắk Lao
Long an Mộc Hóa -Bình Hòa Tây -Bình Hiệp -Thạnh Trị -Bình Tân
580
1 -Thạnh Trị
Tổng cộng 991 2
47
Hình 3.8. Hình ảnh mẫu muỗi Ae. aegypti dương tính bằng phương pháp xét
nghiệm Real time PCR
Sử dụng phương pháp xét nghiệm RT-PCR, toàn bộ 991 cá thể muỗi Ae.
aegypti thu thập trong quá trình điều tra đã được xét nghiệm tại phòng thí
nghiệm tương tác tế bào vật chủ - vi rút, trung tâm nghiên cứu công nghệ sinh
học về mầm bệnh, trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học Monpellier-Cộng
Hòa Pháp. Kết quả cho thấy đã xác định được 2 cá thể muỗi (+) với vi rút
Chikungunya tại tỉnh Đắc Nông và Long An, các mẫu còn lại đều âm tính với
vi rút này. Để khẳng định chắc chắn kết quả phát hiện được, hai mẫu dương
tính bằng phương pháp RT-PCR tiếp tục được xét nghiệm bằng phương pháp
realtime PCR cũng tại phòng thí nghiệm trên và kết quả một lần nữa khẳng
định sự có mặt của vi rút chikungunya ở hai cá thể muỗi này (Hình 3.8).
48
3.2. 1.2. Một số thông tin chi tiết có lien quan đến các mẫu muỗi Ae.
aegypti (+) với Chikungunya.
Vị trí địa lý trên bản đồ:
Hình 3.9. Bản đồ địa lý điểm thu thập mẫu muỗi Ae. aegypti dương tính
Hình 3.9 cho thấy 2 cá thể muỗi Ae. aegypti dương tính với vi rút
Chikungunya thu thập được trong nghiên cứu này nằm tại 2 điểm thuộc 2 xã
biên giới giữa Việt Nam và Campuchia thuộc tỉnh Long An và Đắc Nông.
Các thông tin có liên quan cụ thể như sau:
a) Thông tin liên quan đến mẫu số 1:
- Ngày thu thập mẫu: 15/11/2012
- Địa điểm thu thập: Xã Đắk Lao, huyện Đăk Min, tỉnh Đăk Nông (Hình 3.9).
- Người thu thập mẫu: cán bộ Viện Vệ sinh tễ Trung ương và Trung tâm Y tế
Dự phòng tỉnh Đắc Nông
49
- Một vài đặc điểm về địa lý nơi thu thập được mẫu Ae. aegypti (+) với vi rút
Chikungunya:
Điểm thu thập nằm về phía Đông Bắc của tỉnh Đăk Nông, cách Thị xã Gia
Nghĩa 60 km theo đường quốc lộ 14. Phía bắc giáp huyện Cư Jút; Đông giáp
huyện Krông Nô; phía Nam giáp huyện Đăk Song; Tây giáp tỉnh Muldulkiri;
Vương quốc Campuchia. Tại đây chủ yếu là đất đỏ badan, thích hợp với cây
cà phê, hồ tiêu và nhiều loại cây nông, công nghiệp khác. Tại đây có 19 dân
tộc khác nhau, trong đó dân tộc chiếm 80,08% dân số toàn huyện, dân tộc
thiểu số phần lớn là dân tộc M’Nông, dân tộc Ê đê, Mạ, Tày, Nùng, Dao, H’
Mông…và dân tộc thiểu số khác. Đăk Mil là huyện có vị trí quan trọng về
kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng an ninh của tỉnh Đăk Nông. Hàng
năm, huyện Đak Mil có ghi nhận ca bệnh SXHD, trung bình khoảng 100
ca/năm. Riêng tại xã Đắk Lao, trung bình số ca mắc SXHD lâm sàng trong
giai đoạn 5 năm gần đây khoảng 6,7 ca/năm, không ghi nhận ổ dịch SXHD
lớn mang tính tập trung.
- Tình hình dịch bệnh tại thời điểm thu thập muỗi:
Đây là đợt thu thập mẫu muỗi định kì trong năm của đề tài vào tháng
11/2012. Tại thời điểm thu thập mẫu không có ca bệnh nghi ngờ
SXHD/chikunngunya hoặc dịch bệnh truyền nhiễm nào được phát hiện và báo
cáo. Thu thập muỗi ngẫu nhiên tại 30 hộ gia đình trong xã. Các nhóm điều tra
thu thập bằng máy hút đeo vai.
- Thời tiết lúc thu thập muỗi: Khí hậu tại đây phân hóa thành 2 mùa rõ rệt
là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa thường kéo dài từ tháng 4 đến hết tháng
11, tập trung trên 90% lượng mưa cả năm, lượng mưa trung bình năm
2.513 mm. Như vậy vào thời điểm thu thập muỗi vào tháng 11 là cuối mùa
mưa.
b) Mẫu 2:
50
- Ngày thu thập: 21/11/2012
- Địa điểm thu thập: Xã Thạnh Trị, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An (Hình 3.9)
- Người thu thập mẫu: cán bộ Viện Vệ sinh tễ Trung ương và Trung tâm Y tế
Dự phòng tỉnh Đắc Nông
- Một vài đặc điểm về địa lý nơi thu thập được mẫu Ae. aegypti (+) với vi rút
Chikungunya:
Điểm thu thập được mẫu Ae. aegypti dương tính với vi rút Chikungunya
nằm cách thành phố Tân An, Long An khoảng 70 km, là huyện thuộc vùng
Đồng Tháp Mười, hàng năm chịu ảnh hưởng của lũ lụt. Ngày 18 tháng
3 năm 2013, một phần diện tích và dân số của huyện Mộc Hóa bao gồm thị
trấn Mộc Hóa và một số xã lân cận được tách ra để thành lập mới thị Kiến
Tường trực thuộc tỉnh Long An. Trên bản đồ hiện tại Mộc Hoá nằm về phía
bắc tỉnh Long An có đường biên giới giáp Campuchia dài 39 km. Mộc Hóa
từng là tỉnh lỵ của tỉnh Kiến Tường cũ trong giai đoạn 1956-1975 dưới
thời Việt Nam Cộng hòa (tỉnh lỵ có tên là "Mộc Hóa"). Năm 1976, tỉnh Kiến
Tường bị giải thể và sáp nhập vào tỉnh Long An. Sau 37 năm bị mất tên gọi
hoàn toàn, vào năm 2013, địa danh Kiến Tường giờ đây xuất hiện trở lại khi
trở thành tên gọi của một thị xã mới được thành lập của tỉnh Long An: thị xã
Kiến Tường. Hàng năm, huyện Mộc Hóa có ghi nhận ca bệnh SXHD, trung
bình khoảng 160-204 ca/năm. Riêng tại xã Thạnh Trị, trung bình số ca mắc
SXHD lâm sàng trong giai đoạn 5 năm gần đây khoảng 15,9 ca/năm, không
ghi nhận ổ dịch SXHD lớn mang tính tập trung.
- Tình hình dịch bệnh tại thời điểm thu thập muỗi:
Đây là đợt thu thập mẫu muỗi định kì trong năm của đề tài vào tháng
11/2012. Tại thời điểm thu thập mẫu không có ca bệnh nghi ngờ
SXHD/chikunngunya hoặc dịch bệnh truyền nhiễm nào được phát hiện và báo
51
cáo. Thu thập muỗi ngẫu nhiên tại 30 hộ gia đình trong xã. Các nhóm điều tra
thu thập bằng máy hút đeo vai.
- Thời tiết vào lúc thu muỗi: Khí hậu tại đây phân hóa thành 2 mùa rõ rệt
là mùa mưa và mùa khô. Mùa khô thường kéo dài từ 4 đến hết 11, còn lại là
mùa mưa. Như vậy vào thời điểm thu thập muỗi là cuối mùa khô.
3.2. 2. Kết quả xét nghiệm xác định sự có mặt của vi rút Chikungunya
trên quần thể muỗi Aedes albopictus thu được từ các điểm nghiên cứu.
Bảng 3.13. Phân bố muỗi Ae. albopictus theo địa bàn nghiên cứu, 2012-2013
Khu vực Tỉnh Huyện
Số lượng
muỗi
Ae. alb
Phía Bắc Hà Tĩnh Hương Khê 19
Miền Trung Huế A lưới 85
Quảng Trị Hướng Hóa 6
Tây Nguyên Đắk Nông Đắc Min 3
Miền Nam Long an Mộc Hóa 0
Tổng cộng 113
Tổng cộng có 113 cá thể muỗi Aedes albopictus thu thập trên thực địa để xác
định sự có mặt của vi rút Chikungunya trong thời gian nghiên cứu. Số lượng
muỗi thu thập được nhiều nhất tại huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế 85 con. Kế
đến là số lượng muỗi thu được tại Hương Khê, Hà Tĩnh 19 con, các tỉnh còn
lại là Quảng Trị, Đăk Nông ghi nhận số muỗi Ae. aegypti lần lượt là 6 và 3
con. Không ghi nhận sự có mặt của muỗi Ae. agypti tại Long An vào thời
điểm nghiên cứu.
52
Bảng 3.14. Xác định sự có mặt của vi rút Chikungunya trên quần thể muỗi
Ae. albopictus theo địa bàn nghiên cứu, 2012-2013
Tỉnh Huyện Xã
Số lượng
muỗi
Mẫu muỗi
(+) CHIKV
(%)
Ae.
albopictus
Ae.
albopictus
Hà Tĩnh Hương Khê -TT Hương Khê -Phú Phong -Hương Vịnh -Gia Phố
19 0
Huế A lưới -Tân Thành -TT Lao Bảo -Tân Long -Xã Thuận
85 0
Quảng Trị Hướng Hóa -Khe tre -Hương Hòa -Hương Phú -Hương Lộc
6 0
Đắk Nông Đắc Min -TT Đắk Min -Đắk Lao -Đắk Rla -Đức Mạnh
3 0
Long an Mộc Hóa -Bình Hòa Tây -Bình Hiệp -Thạnh Trị -Bình Tân
0 0
Tổng cộng 113 0
Không ghi nhận được cá thể muỗi Ae. albopictus nào (+) với vi rút Chik
bằng các xét nghiệm PCR và Real time PCR (Bảng 3.14).
53
3.2. 3. Kết quả xét nghiệm xác định sự có mặt của vi rút Dengue trên
quần thể muỗi Aedes thu được từ các điểm nghiên cứu.
Bảng 3.15. Xác định sự có mặt của vi rút Dengue trên quần thể muỗi Aedes
theo địa bàn nghiên cứu, 2012-2013
Khu vực Tỉnh Huyện
Số lượng
muỗi
Mẫu muỗi (+)
DENV (%)
Ae.
aeg
Ae.
Alb
Ae.
aeg
Ae.
alb
Phía Bắc Hà Tĩnh Hương Khê 55 19 1D1
Miền
Trung
Huế A lưới 7 85
Quảng Trị Hướng Hóa 64 6 2D1
Tây
Nguyên
Đắk Nông Đắc Min 285 3 1 D1
1 D4
Miền Nam Long an Mộc Hóa 580 0 3 D2
1D4
Tổng cộng 991 113 6 3
Ngoài ra nhóm nghiên cứu còn xác đinh sự có mặt của vi rút Dengue từ
các mẫu muỗi Aedes đã thu thập được. Kết quả cho thấy đã tìm thấy vi rút
Dengue típ 1,2 và 4 trên muỗi Ae. aegypti. Và đăcn biệt hơn đã xác định được
vi rút Dengue típ 1 từ mẫu muỗi Ae. albopictus tại Hà Tĩnh và Quảng Trị.
3.3. Xác định sự có mặt của vi rút Chikungunya trên bệnh nhân nghi
mắc tại các điểm nghiên cứu.
3.3.1. Một số đặc điểm dịch tễ học của bệnh nhân nghi mắc Chikungunya
tại các điểm nghiên cứu (n=558).
3.3.1.1. Phân bố theo địa bàn nghiên cứu (n=558).
54
Bảng 3.16. Phân bố ca bệnh nghi mắc Chikungunya theo địa điểm nghiên
cứu, 2012-2013
Stt Địa điểm theo
tỉnh Năm 2012 Năm 2013 Tổng số
1 Hà Tĩnh 51 49 100
2 Quảng Trị 46 51 97
3 Thừa Thiên Huế 48 43 91
4 Đắc Nông 67 61 128
5 Long An 74 68 142
Tổng cộng 286 272 558
Trong hai năm 2012 - 2013, nhóm nghiên cứu đã lấy và tiến hành xét
nghiệm 558 mẫu máu nghi mắc bệnh Chikungunya bằng phương pháp PCR,
trong đó năm 2012 xét nghiệm 286 mẫu và năm 2013 xét nghiệm 272 mẫu.
Tuy nhiên tất cả các trường hợp trên đều cho kết quả âm tính với vi rút Chik.
3.3.1.2. Phân bố theo giới (n=558).
Biểu đồ 3.10. Tỷ lệ ca bệnh nghi mắc Chikungunya theo giới (n=213)
55
Nhìn vào biểu đồ ta thấy chỉ có sự chênh lệnh nhỏ về tỷ lệ bệnh nhân nghi
mắc bệnh được tiến hành điều tra dịch tễ học giữa 2 giới. Trong đó nam giới
có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn nữ giới, với 54,6% ở nam và 45,4% ở nữ.
3.3.1.3. Phân bố theo tuổi (n=558).
Biểu đồ 3.11. Phân bố ca bệnh theo nhóm tuổi
Biểu đồ cho thấy số ca nghi mắc bệnh Chikungunya gặp ở tất cả các nhóm
tuổi, trong đó phần lớn các ca tập trung ở lứa tuổi từ 15 trở lên (với 89,9%).
Trong số các nhóm tuổi ở trên thì nhóm tuổi từ 30 đến 34 tuổi là nhóm có số
ca mắc cao nhất, với 76 ca bệnh, chiếm 13,6% tổng số ca. Nhóm tuổi từ 0 đến
4 tuổi nhóm tuổi có số ca mắc thấp nhất, mỗi nhóm chỉ có 8 trường hợp
bệnh, chiếm 1,43%.
Nhóm tuổi
Ca bệnh
56
3.3.2. Kết quả xác định vi rút Chikungunya trên các mẫu huyết thanh
của bệnh nhân nghi mắc Chikungunya
Bảng 3.17. Kết quả xét nghiệm xác định vi rút Chikungunya trên mẫu huyết
thanh bệnh nhân nghi mắc, 2012-2013
STT Địa điểm theo tỉnh Số mẫu Kết quả xét
nghiệm Chik
1 Hà Tĩnh 100 (-)
2 Quảng Trị 97 (-)
3 Thừa Thiên Huế 91 (-)
4 Đắc Nông 128 (-)
5 Long An 142 (-)
Tổng cộng 558
Các mẫu xét nghiệm được tiến hành bằng phương pháp PCR tại phòng thí
nghiệm của trường đại học Monperllier- Cộng Hòa Pháp. Trong cả 558 mẫu
huyết thanh được xét nghiệm, tất cả đều âm tính vi rút Chikungunya.
57
CHƯƠNG IV
BÀN LUẬN
4.1. Phân bố quần thể muỗi Ae. aegypti và Ae. albopictus.
Nghiên cứu này đã cho thấy sự có mặt của cả hai loài muỗi Ae. aegypti và
Ae. albopictus tại các thực địa nghiên cứu (trừ Long An không bắt được muỗi
Ae. albopictus). Tuy nhiên phân bố của chúng không tương đồng tại các điểm
dân cư khác nhau trong nghiên cứu. Đã có một số nghiên cứu tại các khu vực
phía Nam, Miền Trung, Tây nguyên và Miền Bắc xác định phân bố véc tơ
muỗi Aedes [2],[3],[4],[5],[6]. Các nghiên cứu đều có nhận định chung là loài
muỗi Ae. aegypti thường ưa trú đậu trong nhà và sinh sản tại các dụng cụ
chứa nước (DCCN) nhân tạo (lọ hoa, bể nước, chum vại, chậu cây cảnh...)
gần gũi với con người vì thế thường có mặt tại các khu vực nội đô thì muỗi
Ae. albopictus lại trú đậu ngoài nhà và sinh sản trong các DCCN nhân tạo
(hốc cây, phế thải, kẽ lá đọng nước...) vì thế thường có mặt tại các khu ngoại
thành - nơi có thảm thực vật đa dạng và phong phú. Một điều tra cắt ngang
khác tại Lào Cai, Cao Bằng, Phú Thọ, Hoà Bình, Hà Giang, Tuyên Quang
được tiến hành bởi văn khoa côn trùng và động vật Y học – Nihe cho thấy
trong nhiều năm gần đây sự lưu hành của muỗi Ae. albopictus với mật độ cao
và lấn át hoàn toàn mật độ muỗi Ae. aegypti. Ngoài ra, tại rất nhiều tỉnh hiện
nay, muỗi Ae. albopictus có phân bố rộng và có xu hướng lan tới các vùng
bán nội và ngoại thành. Nghiên cứu của Trần Văn Tiến và cs (2003) cho thấy
muỗi Ae. albopictus lưu hành rộng rãi ở nhiều địa phương và các vùng dân cư
khác nhau nhất là khu vực ngoại thành nơi có nhiều cây xanh bao phủ, ổ bọ
gậy của loài muỗi này ghi nhận chủ yếu từ các dụng cụ chứa nước tự nhiên,
phong phú về chủng loài. Trong khi ấy muỗi Ae. aegypti thường xuất hiện ở
khu vực đô thị hóa và nội thành - nơi có mật độ dân cư đông và ổ bọ gậy
nguồn được tìm thấy thường là các loài dụng cụ chứa nước nhân tạo. Kết quả
58
của nghiên cứu này cũng giống với nhận định của các nhà khoa học trước đây
trên thế giới và phù hợp với kết quả của một số nghiên cứu trước đó tại Việt
Nam. Đó là có sự hiện diện của 2 loài muỗi Ae. aegypti và Ae. albopictus và
quần thể muỗi Ae. albopictus đang có xu hướng trội hơn quần thể Ae. aegypti
tại nhiều khu vực dân cư khác nhau, nhất là khu vực nông thôn. Tại thành thị,
mật độ muỗi (DI) Ae. aegypti (0,21 con/nhà) cao hơn DI của vùng đệm (0,13)
và ngoại thành (0,03). Nếu chỉ tính riêng chỉ số DI của muỗi Ae. aegypti này,
thì tại một số điểm trong nghiên cứu này vẫn chưa phải là cao. Tuy nhiên, xác
định DI của muỗi Ae. albopictus lại thấy rất cao, DI của Ae. albpictus cao
nhất tại ngoại thành (0,36 con/nhà), tiếp đó là nội thành (0,3 con/nhà) và vùng
đệm (0,27 con/nhà).
Trong các điểm dân cư khác nhau được tiến hành nghiên cứu, khu vực
thành thị và nông thôn ghi nhận DI và nhà có muỗi (HI) trung bình cho cả hai
loài Aedes tương đối cao so với khu vực vùng đệm. Điều này có thể lý giải
rằng khu nội thành dân cư đông đúc, chật hẹp, thiếu ánh sáng và nhiều DCCN
nhân tạo là điều kiện thích hợp cho đàn muỗi Aedes phát triển. Khu vực ngoại
thành dân cư thưa thớt nhưng hệ thống cung cấp nước sinh hoạt nghèo nàn,
người dân vẫn phải tàng trữ nước trong bể lớn, chum, vại... cũng là điều kiện
cho đàn muỗi phát triển. Tại ngoại thành ở rất nhiều thời điểm điều tra cắt
ngang không ghi nhận sự có mặt của muỗi Ae. aegypti tuy nhiên DI Ae.
albopictus lại rất cao. Bên cạnh đó, nghiên cứu này còn cho thấy DI Ae.
albopictus không chỉ cao ở khu vực ngoại thành phố, vùng đệm nơi mà thảm
thực vật phong phú, mà còn vào nhiều quý muỗi Ae. albopictus được ghi nhận
có mật độ tương đối cao tại khu vực nội thành. Điều này có thể giải thích
bằng việc khả năng thích nghi tuyệt vời của muỗi Ae. albopictus trong nhiều
khu vực dân cư, môi trường khác nhau.
Hiện nay, mật độ muỗi Aedes tại thực địa là một trong các chỉ số chính
đánh giá nguy cơ bùng phát dịch bệnh sốt xuất huyết Dengue, tuy nhiên việc
59
xác định ngưỡng này là bao nhiêu đang gặp rất nhiều trở ngại bởi khả năng
lây truyền bệnh này ngoài mật độ muỗi nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
khác nữa như: khu vực dân cư khác nhau, yếu tố khí hậu, thời tiết, nhóm
người điều tra và tỷ lệ có kháng thể vi rút Dengue của cộng đồng. Vì vậy,
việc sử dụng ngưỡng nguy cơ bằng chỉ số MDM Aedes của từng quốc gia,
từng địa phương vẫn chỉ là con số tương đối và còn đang được tranh luận. Do
chỉ số muỗi như DI và HI phụ thuộc vào nhiều yếu tố như vậy nên nhiều quốc
gia lại sử dụng BI, CSNBG và CSDCBG để xác định ngưỡng nguy cơ lan
truyền dịch bệnh CHIK. Tuy nhiên, việc sử dụng chỉ số muỗi trưởng thành
hay chỉ số bọ gậy thì việc xác định ngưỡng cũng đều rất khó khăn, nhưng nó
vẫn là chỉ số có ý nghĩa cho việc cảnh báo sớm, để đưa ra hoạt động phòng
chống chủ động ngay trước mùa dịch, nếu như ta loại bỏ được một số yếu tố
tác động vào làm sai lệch kết quả trong quá trình điều tra. Một số nước trong
khu vực lấy chỉ số nhà có muỗi (HI) ≤ 1% xem như là ngưỡng an toàn để
ngăn chặn dịch bệnh. Tuy nhiên, ngưỡng chỉ số véc tơ nguy cơ lan truyền
dịch bệnh chỉ là một mắt xích trong cơ chế lây truyền bệnh, ngoài muỗi
truyền thì dịch bệnh xảy ra hay không còn phụ thuộc vào nguồn vi rút
Dengue. Tại Singapore, dịch xảy ra khi chỉ số nhà có muỗi (HI) xuống dưới
1%, ngược lại các nhà nghiên cứu từ Fortaleza, Brazil, chỉ ra rằng dịch SXHD
chưa bao giờ xảy ra khi chỉ số nhà có muỗi ở dưới ngưỡng 1%.
Khí hậu tại Việt Nam rất khác biệt giữa các vùng miền, với đặc điểm của
khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, mưa nhiều vào mùa hè và lạnh, khô vào
mùa đông. Điều kiện thuận lợi nhất cho muỗi phát triển là từ tháng 5 đến cuối
tháng 10 tại khu vực Miền Bắc, tại khu vực Miền Nam, Tây nguyên và Miền
Trung hoạt động của muỗi dài hơn do không có mùa đông. Đây cũng là
những tháng mà khả năng bùng nổ của dịch bệnh do muỗi Aedes truyền cao
nếu không giám sát đầy đủ và đưa ra những cảnh báo kịp thời trên địa bàn
Thành phố. Kết quả của nghiên cứu cho thấy chỉ số muỗi cao tại các điểm
60
nghiên cứu cao vào mùa mưa (P<0,001) so với mùa hanh, khô. Các nhà khoa
học trên thế giới đã chứng minh rằng có một mối tương quan giữa mật độ
muỗi Aedes cao và sự bùng phát dịch do muỗi truyền sau đó. Chẳng hạn như
dịch bệnh SXHD, khi mật độ muỗi tăng lên cao thì khoảng 3-4 tuần sau đó sự
ghi nhận ca bệnh cũng tăng lên. Ở khu vực Miền Bắc chúng ta có thể thấy ca
bệnh ghi nhận vẫn còn tương đối cao vào đầu quý IV mặc dù thời tiết đã mát
mẻ và khô hơn, tuy nhiên đó là hệ quả của sự phát triển đàn muỗi véc tơ trước
đó. Điều này có thể giải thích rằng, tại Viêt Nam các quý II và III khí hậu
nóng và mưa nhiều phù hợp với sự phát triển và sinh sôi của đàn muỗi hơn so
với quý I và IV. Từ đó kết quả thu được cũng đồng nghĩa với số lượng muỗi
thu được từ mùa mưa nhiều hơn so với mùa khô tại đa số các điểm nghiên
cứu.
Xác định ổ bọ gậy nguồn là xác định những DCCN nào cung cấp nhiều bọ
gậy Aedes nhất để ưu tiên tiến hành xử lý trước trong vụ dịch là việc làm rất
quan trọng trong bối cảnh nguồn nhân lực và vật lực của chương trình phòng
chống SXHD quốc gia còn hạn hẹp. Trong nghiên cứu này chỉ ra rằng, mỗi
một vùng dân cư khác nhau sẽ có một vài chủng loại DCCN là nơi cung cấp
nhiều bọ gậy nhất. Tại Miền Nam, người dân có thói quen sử dụng lu/khạp
tích trữ nước ăn và sinh hoạt, do vậy số DCCN ghi nhận tại Long An là rất
lớn và chủ yếu là lu/khạp. Xuyên suốt cả 2 mùa thời tiết khác nhau và một số
điểm dân cư cho thấy lu/khạp, phế thải là DCCN quan trọng, cung cấp số
lượng bọ gậy nhiều nhất. Ngoài ra còn có những loại DCCN khác cũng là
OBGN quan trọng như khu vực ngoại thành là bể nước sinh hoạt; thùng phuy
và chậu cây cảnh. Trước đó Phong và cộng sự điều tra tại Hà Nội (1999) đã
đưa ra kết quả, OBGN quan trọng của muỗi Aedes ở phía đông của Hà Nội là
bể nước sinh hoạt, tuy nhiên ở phía nam của Hà Nội lại là lọ hoa. Tại Thừa
Thiên Huế (1996), OBGN phân bố khá đều ở nhiều chủng loại DCCN khác
nhau như bẫy kiến (35%), bể (21%), lu khạp (14%), thùng (9%) và giếng
61
(9%). Tại xã Minh Thuận, Nam Định (2007), OBGN của các loài Aedes tập
trung chủ yếu tại chum/vại, phế thải và bể nước > 500 lít. Qua đây và các
nghiên cứu trước thấy rằng OBGN thay đổi theo mùa và các điểm dân cư
khác nhau. Mùa mưa bọ gậy tập trung nhiều ở phế thải, chậu cây cảnh; mùa
khô chủ yếu trong các DCCN gần nhà để tàng trữ nước sinh hoạt như bể nước
sinh hoạt, bể cảnh. Chiến lược và phương pháp diệt trừ bọ gậy Aedes phải dựa
trên kết quả điều tra OBGN gần nhất và hướng các hoạt động tập trung vào
các nơi sinh sản ra bọ gậy nhiều nhất. Nếu bọ gậy tập trung chủ yếu trong
dụng cụ chứa nước sinh hoạt như chum vại, bể nước mưa, cây cảnh... sẽ dùng
các biện pháp ngăn ngừa muỗi sinh đẻ (có nắp đậy thật kín, thả cá...); nếu
DCCN là phế thải như lốp xe hỏng, vật dụng gia đình bỏ không... sẽ phải thu
dọn và phá huỷ; nếu là các hốc chứa nước tự nhiên như hốc cây, kẽ lá, gốc tre
nứa... sẽ phải loại bỏ, lấp kín hoặc chọc thủng chúng.
4.2. Xác định vi rút Chikungunya trong huyết thanh của bệnh nhân
nghi mắc và trên muỗi Aedes thu thập được từ thực địa.
Nghiên cứu này đã tiến hành điều tra thu thập các mẫu huyết thanh tại các
địa điểm nghiên cứu trong 2 năm liên tiếp từ năm 2012-2014, đã điều tra thu
thập tổng cộng 558 mẫu huyết thanh. Tuy nhiên chưa xác định được mẫu
huyết nào dương tính với vi rút Chikungunya bằng phương pháp xét nghiệm
PCR. Việc nghiên cứu này hiện nay chưa thực sự tìm thấy vi rút trong mẫu
huyết thanh của bệnh nhân nghi mắc bệnh sẽ phải lý giải bằng rất nhiều cách
khác nhau. Một là, vi rút đã thực sự lưu hành tại Việt Nam, tuy nhiên trong
nghiên cứu này vì cỡ mẫu hạn hẹp và thời gian nghiên cứu ngắn nên chưa xác
định được vi rút. Hai là, vi rút chưa lưu hành tại Việt Nam vào thời điểm
nghiên cứu. Chỉ mãi gần đây, Singapore, Malaysia và Lào mới công bố có sự
lưu hành của vi rút Chikungunya.
62
Tuy nhiên có một điểm hết sức quan trọng trong nghiên cứu này là xét
nghiệm đã xác định được 2 cá thể muỗi Ae. aegypti (+) với vi rút CHIK bằng
xét nghiệm RT-PCR và Real time PCR. Trên thế giới đã chứng minh rằng, vi
rút Chikungunya (CHIKV) là một arbo vi rút mới nổi và các vụ dịch vào
trước năm 2005-2006 thường ban đầu là muỗi Ae. aegypti, tuy nhiên sau đó
với một đột biến ở gen trên vỏ protein (E1-A226V), vi rút này đã trở nên đặc
biệt phù hợp khi thâm nhập và phát triển trên muỗi Ae. albopictus. Từ đó
muỗi Ae. albopictus trở thành véc tơ chính lan truyền dịch bệnh này trong các
vụ dịch ở Ấn Độ và trên đảo La Reunion. Vậy tại Việt Nam, liệu có thể có
những vụ dịch CHIK mà muỗi véc tơ là Ae. albopictus sau này hay không?
Đây là câu hỏi khó có thể trả lới, tuy nhiên vấn đề nguy hiểm là dịch bệnh có
thể lan rộng sang các vùng khác khi mà các điều kiện giao lưu giữa các nước
đang rất mở rộng và tại Việt Nam thì sự xâm lấn của muỗi Ae. albopictus
ngày một mạnh mẽ hơn.
Tác giả Michelle M. Thiboutot và cs cũng đã chứng minh rằng Ae.
aegypti, là véc tơ truyền vi rút trong các vụ dịch tại Kenya, Comoros và
Seychelles. Tuy nhiên khi mà vi rút đột biến protein alanine ở vị trí 226 của
gen E1 (E1-A226) thì khả năng xâm nhập của vi rút CHIK vào muỗi Ae.
albopictus đã mạnh hơn trước rất nhiều. Thực tế cho thấy chỉ sau 1 năm, khi
các vụ dịch trên xảy ra, thì những đột biến trên trên E1-A226V của vi rút đã
xuất hiện tại đảo Reunion, và muỗi Ae. albopictus đã làm cho vi rút CHIK lan
truyền dịch khiến 34% dân số trên đảo nhiễm vi rút này.
Gần đây một số nước láng giềng với Việt Nam đã phân lập được vi rút
Chikungunya trên muỗi như Lào, Singapore và Malaysia. Ngoài ra nó được
chứng minh tại nhiều quốc gia trên thế giới. Muỗi Ae. aegypti là véc tơ truyền
vi rút Chikungunya đã được phân lập từ muỗi này từ vùng dịch ở Tanganyika,
Thái Lan và Calcutta. Đồng thời nó cũng chính là véc tơ truyền bệnh trong tất
63
cả các vụ dịch ở Ấn Độ và các nước Đông Nam Á khác trong khoảng thời
gian này. Đây là véc tơ truyền bệnh Chikungunya mà các nhà khoa học đã
chứng minh và phân lập được trên muỗi từ vùng dịch ở Tanganyika, Thái Lan
và Calcutta (Shah và cộng sự năm, 1964; Pavri và cộng sự, 1964). Ngoài ra
muỗi Ae. aegypti cũng đã được là thủ phạm truyền vi rút chính trong hầu hết
các vụ dịch Chikungunya ở Ấn Độ và các nước Đông Nam Á khác (Pavri và
cộng sự, 1964; Rao và cộng sự, 1964; Yergolkar và cộng sự, 2006; Bonilauri
và cộng sự năm, 2008; Sang và cộng sự, 2008). Khả năng truyền bệnh của Ae.
aegypti trong phòng thí nghiệm qua việc gây nhiễm CHIKV đã được chứng
minh và kết luận của các nghiên cứu (Rao và cộng sự, 1964; Shah và cộng sự
năm, 1964; Soekiman và cộng sự, 1987).
Muỗi Ae. albopictus là véc tơ truyền bệnh chikungunya mà các nhà khoa
học đã chứng minh và phân lập được trên muỗi trong thời gian 2005-2006
dịch bệnh Chikungunya bùng phát trong một số quần đảo của Ấn Độ Dương
và bang Kerala của Ấn Độ. Tại đây muỗi Ae. albopictus lại đóng vai trò là
véc tơ truyền bệnh chính nhờ vào quá trình đột biến mà càng ngày khả năng
nhân lên của CHIKV trên muỗi Ae. albopictus càng tốt hơn so với muỗi Ae.
aegypti (Schuffenecker và cộng sự, 2006; Santosh và cộng sự, 2008). Bằng
cách gây nhiễm trong phòng thí nghiệm các nhà khoa học đã xác định được tỷ
lệ nhiễm, nồng độ nhiễm của vi rút chikungunya trên muỗi Ae. albopictus, từ
đó cho thấy khả năng truyền vi rút của muỗi Ae. albopictus (Reiskind và cộng
sự, 2008; Tsetsarkin và cộng sự ,2007). Nghiên cứu của Viện Pasteur Paris tại
Gabo cho thấy muỗi Ae. albopictus nhậy cảm cao với virút chikungunya
(66.7-86%) và thấp với Dengue (13-21.4%). Theo một nghiên cứu khác của
Marie và TropJ năm 2008 chỉ ra rằng rằng muỗi Ae. albopictus nhạy cảm với
virút chikungunya hơn Ae. aegypti. Reiskind và cộng sự năm 2008, đã gây
nhiễm vi rút chikungunya trên muỗi Ae. albopictus và thấy rằng tỷ lệ nhiễm,
nồng độ nhiễm của nó đều ở mức cao. McIntosh và cộng sự 1977 cho rằng, ở
64
châu Á vi rút chikungunya được duy trì trong một chu kỳ muỗi - con người -
muỗi trong khi ở châu Phi vi rút chikungunya được duy trì trong một chu kỳ
là muỗi Aedes rừng - linh trưởng.
Với những dẫn chứng ở trên có thể thấy rằng vi rút CHIK hoàn toàn có thể
phát tán từ nước này qua nước khác. Tại các nước đông Nam Á, Lào và
Campuchia là 2 quốc gia gần đây đã thông báo có xác định được ca bệnh
ChIK và phân lập được vi rút CHIK ở trên muỗi. Với mức độ đi lại như hiện
nay, vi rút CHIK đã thâm nhập vào nước ta từ các nước láng giềng là hoàn
toàn có cơ sở. Như nghiên cứu này, chúng tôi đã xác định được 2 cá thể muỗi
Ae. aegypti, 1 cá thể tại xã Thạnh Trị, Mộc Hóa, Long An và 1 cá thể tại xã
Đắk Lao, Đắk Mil, Đắk Nông cho kết quả dương tính với vi rút CHIK. Đến
đây có thể giải thích rằng, vi rút đã thực sự lưu hành tại Việt Nam, tuy nhiên
vì mức độ ổ dịch không lớn do đó đã không kịp thời điều tra muỗi tại hộ gia
đình này. Các mẫu muỗi Ae. aegypti dương tính với vi rút CHIK đều được thu
thập trong các đợt điều tra cắt ngang ngẫu nhiên. Do vậy kết quả xét nghiệm
mẫu muỗi dương tính trong khi mẫu máu âm tính có thể được hiểu như cách
bàn luận bên trên. Từ đó cho thấy đây là những bằng chứng ban đầu hết sức
quan trọng cho thấy sự có mặt của vi rút Chikungunya tại Việt Nam, mặc dù
chưa tìm được bằng chứng về sự lưu hành của vi rút trên người.
65
CHƯƠNG V
KẾT LUẬN
5.1. Sự phân bố của hai loại muỗi Aedes aegypti và Aedes albopcitus - Ghi nhận sự có mặt của cả 2 loài muỗi Aedes aegypti và Aedes albopcitus tại
các điểm điều tra, trừ điểm nghiên cứu lại Long An chỉ ghi nhận sự có mặt
của muỗi Aedes aegypti.
- Mật độ quần thể muỗi và bọ gậy Aedes aegypti cao hơn và chiếm ưu thế so
với Aedes albopictus, nhất là các tỉnh thuộc khu vực Miền Nam, Trung và
Tây Nguyên.
- Chỉ số mật độ muỗi và bọ gậy Aedes ghi nhận cao vào mùa nóng ẩm và thấp
hơn vào mùa khô.
- Ổ bọ gậy của hai loài muỗi này đều rất đa dạng như chum vại, phế thải, bể
nước sinh hoạt, chậu cây cảnh... và thay đổi theo thời gian.
5.2. Sự có mặt của vi rút Chikungunya trên muỗi tại các điểm nghiên
cứu
- Đã phát hiện được vi rút Chikugunya trên 2 cá thể muỗi Aedes aegypti tại
2 xã biên giới với Campuchia, cụ thể là: xã Đăk Lao, huyện Đăk Mil, tỉnh
Đak Nông và xã Thạnh Trị, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An. Không phát hiện
được vi rút Chikugunya trên muỗi Aedes aegypti ở các điểm nghiên cứu khác.
- Chưa phát hiện được vi rút Chikungynya trên muỗi Aedes albopictus ở tất cả
các điểm nghiên cứu.
5.3. Sự có mặt của vi rút Chikungunya trên người tại các điểm nghiên
cứu
Không phát hiện vi rút Chikugunya trên tất cả mẫu huyết thanh của các bệnh
nhân nghi mắc tại địa điểm nghiên cứu (0/558 mẫu)
66
KIẾN NGHỊ
- Cần tiếp tục tăng cường công tác giám sát, theo dõi và xác định sự xuất hiện
của dịch bệnh Chikungunya trên người tại Việt Nam, đặc biệt tại các địa
phương có đường biên giới trong đó có Long An và Đăk Nông.
- Đề nghị tiếp tục nghiên cứu để xác định vai trò thực sự của muỗi Aedes với
bệnh Chikungunya tại Việt Nam, từ đó đưa ra các chiến lược giám sát và
phòng chống loại dịch bệnh này.
- Đề nghị Cục y tế Dự phòng có định hướng trong xây dựng kế hoạch phòng
chống dịch Chikungunya tại Việt Nam.
67
67
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Michelle M. Thiboutot Senthil Kannan, Omkar U. Kawalekar, Devon J. Shedlock (2010), "Chikungunya: A Potentially Emerging Epidemic?" PLoS Negl Trop Dis, 4(4), pp. 1-8.
2. Dự án phòng chống SXHD quốc gia (1999-2012), "Báo cáo công tác phòng chống SXHD các năm, giai đoạn 1999 - 2012".
3. Nguyễn Thanh Long Trần Thanh Dương, Nguyễn Hoàng Long và Trần Thị Oanh (2012), "Phân tích đặc điểm bệnh sốt xuất huyết dengue giai đoạn 2009 - 2011 tại Việt Nam", Tạp chí Y học Dự phòng Việt Nam, 8(XXII), pp. 106-113.
4. Phan Trọng Lân Nguyễn Văn Bình, Phạm Hùng và Nguyễn Thị Kim Tiến (2011), "Một số đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt Dengue/sốt xuất huyết Dengue giai đoạn 2006 -2010 tại Việt Nam", Tạp chí Y học dự phòng Việt Nam, 1(XIX), pp. 56-60.
5. Tiến Đỗ Quang Hà và Trần Văn (1984), "Dịch SXH Dengue xuất hiện tại Việt Nam từ 1975-1983", Tạp chí Y học Dự phòng Việt Nam, 7(3), pp. 28-40.
6. Võ Thị Hường Hoàng Anh Vường và Ngô Thị Chi (2005), "Một số đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết Dengue ở Tây Nguyên (1998-2004)", Tạp chí Y học dự
phòng Việt Nam, 5(XV), pp. 57-61. 7. Apandi Y., S. K. Lau, N. Izmawati, N. M. Amal, Y. Faudzi, W. Mansor, et al.
(2009), "Identification of Chikungunya virus strains circulating in Kelantan, Malaysia in 2009", Southeast Asian J Trop Med Public Health, 41(6), pp. 1374-1380.
8. Auksornkitti V., P. Pongsiri, A. Theamboonlers, P. Rianthavorn, Y. Poovorawan, K. Manujum, et al. (2010), "Whole-genome characterisation of Chikungunya virus from Aedes albopictus collected in Thailand", Ann Trop Med Parasitol, 104(3), pp. 265-269.
9. Cha G. W., J. E. Cho, E. J. Lee, Y. R. Ju, M. G. Han, C. Park, et al. (2013), "Travel-Associated Chikungunya Cases in South Korea during 2009-2010", Osong
Public Health Res Perspect, 4(3), pp. 170-175. 10. Chew L. P. and H. H. Chua (2009), "Outbreak of chikungunya in Johor Bahru,
Malaysia: clinical and laboratory features of hospitalized patients", Med J
Malaysia, 64(3), pp. 220-222. 11. Chusri S., P. Siripaitoon, S. Hirunpat and K. Silpapojakul (2011), "Case reports of
neuro-Chikungunya in southern Thailand", Am J Trop Med Hyg, 85(2), pp. 386-389.
12. Duong V., A. C. Andries, C. Ngan, T. Sok, B. Richner, N. Asgari-Jirhandeh, et al. (2012), "Reemergence of Chikungunya virus in Cambodia", Emerg Infect Dis, 18(12), pp. 2066-2069.
13. Kosasih H., Q. de Mast, S. Widjaja, P. Sudjana, U. Antonjaya, C. Ma'roef, et al. (2013), "Evidence for endemic chikungunya virus infections in Bandung, Indonesia", PLoS Negl Trop Dis, 7(10), pp. e2483.
14. Lertanekawattana S., S. Anantapreecha, C. Jiraphongsa, P. Duan-ngern, S. Potjalongsin, W. Wiittayabamrung, et al. (2013), "Prevalence and characteristics of dengue and chikungunya infections among acute febrile patients in Nong Khai Province, Thailand", Southeast Asian J Trop Med Public Health, 44(5), pp. 780-790.
68
68
15. Michelle M Thiboutot., Senthil Kannan., Kawalekar. Omkar U and Shedlock. Devon J (2010), "Chikungunya: A Potentially Emerging Epidemic?" PLoS Negl
Trop Dis, 4(4), pp. 1-8. 16. Nakgoi K., N. Nitatpattana, W. Wajjwalku, P. Pongsopawijit, S. Kaewchot, S.
Yoksan, et al. (2013), "Dengue, Japanese encephalitis and Chikungunya virus antibody prevalence among captive monkey (Macaca nemestrina) colonies of Northern Thailand", Am J Primatol, 76(1), pp. 97-102.
17. Ng K. W., A. Chow, M. K. Win, F. Dimatatac, H. Y. Neo, D. C. Lye, et al. (2009), "Clinical features and epidemiology of chikungunya infection in Singapore", Singapore Med J, 50(8), pp. 785-790.
18. Ng L. C., L. K. Tan, C. H. Tan, S. S. Tan, H. C. Hapuarachchi, K. Y. Pok, et al. (2009), "Entomologic and virologic investigation of Chikungunya, Singapore", Emerg Infect Dis, 15(8), pp. 1243-1249.
19. Rathore A. P., T. Haystead, P. K. Das, A. Merits, M. L. Ng and S. G. Vasudevan (2013), "Chikungunya virus nsP3 & nsP4 interacts with HSP-90 to promote virus replication: HSP-90 inhibitors reduce CHIKV infection and inflammation in vivo", Antiviral Res, 103, pp. 7-16.
20. Reller M. E., U. Akoroda, A. Nagahawatte, V. Devasiri, W. Kodikaarachchi, J. J. Strouse, et al. (2013), "Chikungunya as a cause of acute febrile illness in southern Sri Lanka", PLoS One, 8(12), pp. e82259.
21. Rep MMWR Morb Mortal Wkly (2012), "Chikungunya outbreak--Cambodia, February-March 2012", MMWR Morb Mortal Wkly Rep, 61, pp. 737-740.
22. Soni M., A. K. Singh, S. Sharma, A. Agarwal, N. Gopalan, P. V. Rao, et al. (2013), "Molecular and virological investigation of a focal chikungunya outbreak in northern India", ScientificWorldJournal, 2013, pp. 367382.
23. Soulaphy C., P. Souliphone, K. Phanthavong, D. Phonekeo, S. Phimmasine, B. Khamphaphongphane, et al. (2012), "Emergence of Chikungunya in Moonlapamok and Khong Districts, Champassak Province,the Lao People's Democratic Republic, May to September 2012", Western Pac Surveill Response J, 4(1), pp. 46-50.
24. Staples. J. Erin, Breiman. Robert F and Powers. and Ann M (2009), "Chikungunya Fever: An Epidemiological Review
of a Re-Emerging Infectious Disease", EMERGING INFECTIONS, 49, pp. 942-948. 25. Sun Y., J. Yan, H. Mao, L. Zhang, Q. Lyu, Z. Wu, et al. (2013), "Characterization
of the complete genome of chikungunya in Zhejiang, China, using a modified virus discovery method based on cDNA-AFLP", PLoS One, 8(12), pp. e83014.
26. Thavara U., A. Tawatsin, T. Pengsakul, P. Bhakdeenuan, S. Chanama, S. Anantapreecha, et al. (2009), "Outbreak of chikungunya fever in Thailand and virus detection in field population of vector mosquitoes, Aedes aegypti (L.) and Aedes albopictus Skuse (Diptera: Culicidae)", Southeast Asian J Trop Med Public
Health, 40(5), pp. 951-962.