Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ:
Đánh giá tình hình sốt rét, thành phần loài và vai trò truyền bệnh của véc
tơ sốt rét, sự biến đổi sinh địa cảnh, khí hậu khu vực thủy điện sông sê san
và krông pa liên quan đến bệnh sốt rét tại tỉnh gia lai
16/9/2016
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam, khu vực miền Trung-Tây Nguyên (MT-TN) là vùng có sốt
rét lưu hành cao nhất toàn quốc: hàng năm số bệnh nhân sốt rét (BNSR) chiếm
gần 50%, ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) chiếm 75%, số bệnh nhân sốt rét ác
tính và tử vong do sốt rét chiếm trên 80% tổng số của cả nước. Tỉnh Gia Lai là trọng điểm sốt rét của khu vực miền Trung-Tây Nguyên,
phần lớn các cộng đồng dân cư sinh sống trong khu vực thủy điện thuộc vùng
sốt rét lưu hành nặng. Việc làm nhiều công trình thủy điện đã làm cho diện mạo
cảnh quan thay đổi, điều này tất yếu tác động đến các quần thể muỗi Anopheles
ở đây, dẫn đến ảnh hưởng rất lớn tình hình mắc sốt rét trong các cộng đồng dân
cư sinh sống trong khu vực; cho đến nay, với thực tế có công trình thủy điện
đang thi công và nhiều công trình thủy điện đã hoàn thành cả chục năm nay.
Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có đề tài nghiên cứu một cách hoàn chỉnh về
bệnh sốt rét nói chung và muỗi truyền sốt rét nói riêng ở đây. Theo số liệu
thống kê năm 2012 so với cùng kỳ 2011, BNSR tỉnh Gia Lai tăng 31,67%
(4.794/3.641), KSTSR tăng 42.71% (4.167/2.920) tập trung chủ yếu ở các
huyện Krông Pa, Konchro, Đức Cơ, Chưprông, Iagrai là các vùng có liên quan
đến thủy điện, thủy lợi.
Trong bối cảnh này, nghiên cứu toàn diện, đầy đủ về muỗi truyền sốt rét,
đánh giá nguy cơ cũng như mức độ lưu hành và đề xuất những biện pháp phòng
chống véc tơ sốt rét thích hợp cho các đối tượng nguy cơ, giúp phối hợp tốt giữa
việc xây dựng thủy lợi, thủy điện, phát triển kinh tế với phòng chống sốt rét
1
(PCSR), bảo vệ sức khỏe cho người dân trong khu vực. Việc nghiên cứu muỗi
truyền bệnh sốt rét và tình hình mắc sốt rét trong các cộng đồng dân cư sinh
sống tại các khu vực thủy điện và thủy lợi, không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa
lý thuyết cơ bản về biến động các quần thể muỗi Anopheles mà còn nhằm có
những cơ sở khoa học chính xác để có đề xuất các biện pháp PCSR hữu hiệu
cho các cộng đồng dân cư sinh sống ở đây, cũng như ở những vùng có điều kiện
môi trường tương tự.
Đề tài “Đánh giá tình hình sốt rét, thành phần loài và vai trò truyền bệnh
của véc tơ sốt rét, sự biến đổi sinh địa cảnh, khí hậu khu vực thủy điện sông Sê
San và Krông Pa liên quan đến bệnh sốt rét tại tỉnh Gia Lai” được thực hiện
với các mục tiêu:
1) Đánh giá tình hình sốt rét và các chỉ số sốt rét hiện mắc ở cộng đồng dân
cư thuộc khu vực thủy điện sông Sê San và Krông Pa.
2) Xác định thành phần loài và vai trò truyền bệnh của véc tơ truyền bệnh
sốt rét tại hồ thủy điện sông Sê San và Krông Pa.
3) Đánh giá sự biến đổi sinh địa cảnh, khí hậu của khu vực hồ thủy điện liên
quan đến bệnh sốt rét tại địa phương.
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Đến cuối thế kỷ 19, con người mới biết đến nguyên nhân gây bệnh sốt
rét, cơ chế truyền KSTSR và chu kỳ phát triển KSTSR trong cơ thể muỗi. Năm
1880, Laveran, người Pháp, lần đầu tiên đã phát hiện và mô tả KSTSR thể giao
bào trong hồng cầu ở người tại Algeria. Năm 1897, Ronald Ross đã khám phá
nang bào (Oocyte) trong cơ thể muỗi tại Ấn Độ. Năm 1898, Grass, Bigmani và
Bastianelli đã chứng minh hoàn toàn chu kỳ phát triển KSTSR ở muỗi
Anopheles và người. Năm 1900, Mansen bằng những thực nghiệm trên cơ thể
của những người tình nguyện, đã khẳng định muỗi Anopheles là véc tơ truyền
KSTSR (theo Vũ Thị Phan, 1996). Những kết quả nghiên cứu này đã mở đầu
cho một thời kỳ mới trong việc nghiên cứu về muỗi sốt rét cũng như các biện
pháp PCSR. Đến nay, người ta đã xác định sự lan truyền bệnh sốt rét là mối
quan hệ của ba yếu tố: KSTSR, muỗi truyền bệnh và con người diễn ra trong
một môi trường phù hợp, quan hệ tương hỗ với các điều kiện của môi trường
(Gilles, 1993; Nguyễn Tuyên Quang, 1996).
1.1. Các yếu tố đảm bảo cho sự lan truyền tự nhiên bệnh sốt rét
Sự lan truyền tự nhiên bệnh sốt rét phụ thuộc vào 3 yếu tố: trung gian
truyền bệnh (muỗi Anopheles), tác nhân gây bệnh (ký sinh trùng sốt rét) và khối
cảm thụ (con người) được đặt trong mối quan hệ hỗ tương với các môi trường
(vật lý, sinh học, kinh tế-xã hội) theo sơ đồ dưới đây. Véc tơ truyền bệnh sốt rét,
nguồn bệnh sốt rét và khối cảm thụ là 3 yếu tố cơ bản trong quá trình lây truyền
bệnh sốt rét, hay nói cách khác là đảm bảo cho bệnh sốt rét lưu hành tại một địa
phương. Muỗi Anopheles phải đốt người có giao bào của ký sinh trùng sốt rét
trong máu, phải sống đủ lâu để những giao bào đó phát triển thành thoa trùng và
cuối cùng phải đốt được một hay nhiều người chưa có miễn dịch hoặc có miễn
dịch sốt rét nhưng thấp thì mới có lây truyền sốt rét.
3
Hình 1.1. Mối quan hệ của các yếu tố lan truyền tự nhiên bệnh sốt rét
1.1.1. Véc tơ truyền bệnh sốt rét
Bệnh sốt rét ở người được truyền bởi muỗi Anopheles, có 422 giống
Anopheles trên toàn cầu nhưng chỉ có 70 giống có khả năng truyền bệnh tùy
theo điều kiện tự nhiên. Tính đến 2005, Việt Nam xác định 65 loài Anopheles,
trong đó các véc tơ chính An. minimus, An. dirus, An. sundaicus; các véc tơ phụ
An. jeyporiensis, An. subpictus, An. maculatus, An. aconitus, An. sinensis, An.
vagus và An. indefinitus; các véc tơ nghi ngờ An. splendidus, An. campestris,
An. culicifacies, An. baezai, An. lesteri, An. interruptus. Phân bố theo khu vực
miền Bắc (33 loài), miền Nam (44 loài) và miền Trung-Tây Nguyên (45 loài)
Anopheles. Các véc tơ chính ưa đốt người (70-80% có máu người trong dạ dày),
các véc tơ phụ ưa đốt gia súc hơn, nhưng khi ít gia súc thì tập trung đốt người.
- An. minimus phân bố rộng ở vùng rừng và bìa rừng, thích đẻ ở những nơi
nước chảy chậm, phát triển quanh năm, có 2 đỉnh cao liên quan đến mùa
mưa vào các tháng 3-4 và 8-9, đốt người trong nhà và gia súc hầu như suốt
đêm, cao điểm từ 20 giờ đến 2 giờ sáng hôm sau.
- An. dirus chủ yếu ở vùng rừng rậm, thích đẻ ở những vũng nước tù đọng,
chỉ có mặt vào một số thời điểm trong năm, đốt người ngoài nhà và tiêu máu
4
Trung gian truyền bệnh(Anopheles)
Ngườicho
Ngườinhận
Tác nhân gây bệnh (KSTSR)
Môi trường
Vật lý Sinh học
Kinh tế- Xã hội
Khối cảm thụ (con người)
ngoài nhà, liên tục từ 22 giờ đến 3 giờ sáng hôm sau, cao điểm từ 21-24 giờ
và đốt gia súc từ 19-20 giờ.
1.1.2. Tác nhân gây bệnh và nguồn bệnh sốt rét
1.1.2.1. Tác nhân gây bệnh (Ký sinh trùng sốt rét)
Ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) thuộc ngành động vật gồm 4 loài có khả
năng gây bệnh cho người là Plasmodium. falciparum, P. vivax, P. malariae và
P. ovale. Tại Việt Nam, cơ cấu của KSTSR thay đổi theo từng vùng, từng mùa
và cũng thay đổi dưới sức ép của các biện pháp phòng chống sốt rét (PCSR)
trong đó ở các tỉnh phía Nam P. falciparum chiếm ưu thế tuyệt đối (80-85%), P.
vivax (15-20%), P. malariae (1-2%), P. ovale (không có ở Việt Nam).
Một trong những khó khăn trong PCSR hiện nay là chủng P. falciparum
đã kháng với hầu hết các thuốc chống sốt rét hiện hành chloroquine,
sulfadoxine-pyrimethamine (SP), mefloquine ở nhiều nước trên thế giới như
Nam Mỹ, Châu Phi, Châu Á và các nước Đông Nam Á. Việt Nam là một trong
những nước xuất hiện KSTSR kháng thuốc sớm trên thế giới; từ một trường
hợp P. falciparum kháng chloroquine đầu tiên được phát hiện ở Khánh Hòa
năm 1961 đến nay đã lan rộng ra 100% vùng sốt rét ở các tỉnh miền Nam và
nhiều tỉnh miền Bắc. Tỷ lệ kháng cao với chloroquine ở các tỉnh miền Trung-
Tây Nguyên: 30-55% (1976-1984), 55-90% (1985-1995); kháng amodiaquine
36,5% in vivo, 50% in vitro; kháng fansidar in vivo 45-50%. P. falciparum còn
là loài ký sinh trùng duy nhất có khả năng gây sốt rét ác tính (SRAT) và tử
vong, chiếm ưu thế tuyệt đối trong cơ cấu chủng loại KSTSR cùng với sự kháng
cao trên diện rộng với nhiều loại thuốc chống sốt rét là một khó khăn cho việc
điều trị và quản lý bệnh nhân.
1.1.2.2. Nguồn bệnh sốt rét (Bệnh nhân sốt rét):
Là bệnh nhân sốt rét hoặc người mang ký sinh trùng sốt rét không triệu
chứng. Bệnh nhân xác định là sốt rét là có KSTSR thể vô tính trong máu, xét
nghiệm phương pháp giem sa dương tính hoặc thử test (que thử) chẩn đoán
nhanh dương tính; bao gồm sốt rét thường, sốt rét ác tính, ký sinh trùng lạnh
5
(hiện tại không sốt và không có sốt trong 3 ngày gần đây). Bệnh nhân sốt rét
lâm sàng là các trường hợp không được xét nghiệm máu, hoặc xét nghiệm máu
âm tính hoặc chưa có kết quả xét nghiệm và có 4 đặc điểm: đang sốt (nhiệt độ
3705C) hoặc có sốt trong vòng 3 ngày gần đây, không giải thích được các
nguyên nhân gây sốt khác, đang ở hoặc qua lại vùng sốt rét trong vòng 6 tháng
gần đây, điều trị bằng thuốc sốt rét có đáp ứng tốt trong vòng 3 ngày.
1.1.3. Khối cảm thụ (người lành)
Để một người bị mắc bệnh sốt rét đòi hỏi người đó phải bị muỗi có thoa
trùng đốt, hay nói cách khác, người đó phải có cơ hội tiếp xúc với muỗi truyền
bệnh sốt rét. Một khi đã mắc sốt rét, biểu hiện nặng hay nhẹ của bệnh sốt rét lại
còn tùy thuộc vào tình trạng miễn dịch với sốt rét ở người đó nữa.
Sự tiếp xúc giữa muỗi Anopheles và người tùy thuộc vào nghề nghiệp và
các hoạt động kinh tế. Các nghề khai thác lâm thổ sản, xây dựng các công trình
thủy lợi, thủy điện, xí nghiệp, nhà máy tại các vùng SRLH... làm tăng nguy cơ
tiếp xúc giữa con người và véc tơ truyền bệnh; nhà cửa, cấu trúc nhà sẽ ảnh
hưởng đến việc trú đậu của muỗi sốt rét. Nhà cửa của các đồng bào dân tộc ít
người, của những người đi kinh tế mới, lán trại của công nhân thường rất tạm
bợ là điều kiện gia tăng tiếp xúc với muỗi sốt rét; chiến tranh làm thay đổi cảnh
quan, gia súc chết nhiều dẫn đến thay đổi ái tính của muỗi đưa đến tăng đốt
người.
Tình trạng miễn dịch: người có miễn dịch tự nhiên với các loài
Plasmodium của chim, bò sát và gặm nhấm; một số người mang hemoglobin S
cũng có miễn dịch tự nhiên với P. falciparum, các hemoglobin F, hemoglobin C
đồng hợp tử cũng dự phần vào miễn dịch tự nhiên này. Người có nhóm máu
Duffy không bị nhiễm P. vivax mà chỉ nhiễm P .falciparum. Miễn dịch mắc
phải trong sốt rét được hình thành do cơ chế tế bào và cơ chế thể dịch, đặc hiệu
với từng giai đoạn phát triển của KSTSR trong cơ thể người và muỗi như thoa
trùng, thể vô tính trong máu, thể hữu tính. Miễn dịch tăng dần theo tuổi và
6
không có tính bền vững, điều này giải thích một phần tính chu kỳ của các vụ
dịch sốt rét hay các đợt sốt rét quay trở lại ở một vùng SRLH nào đó.
1.1.4. Ảnh hưởng của điều kiện môi trường đến việc lây truyền sốt rét
Mức độ lan truyền của bệnh sốt rét ở bất kỳ vùng nào đều được quyết
định bởi các yếu tố liên quan nội tại bao gồm tỷ lệ hiện mắc sốt rét ở người và
số mắc mới theo mùa; loài Anopheles với mật độ, thói quen hút máu, trú đậu,
khả năng bị nhiễm KSTSR và sự hiện diện của quần thể nhạy cảm; các điều
kiện khí hậu: lượng mưa, nhiệt độ, độ ẩm và những khung cảnh môi trường ảnh
hưởng đến sự sinh sản của muỗi Anopheles.
1.1.4.1. Khí hậu: bao gồm nhiệt độ, độ ẩm và lượng mưa
- Nhiệt độ vừa ảnh hưởng đến sự sinh sản và tuổi thọ của Anopheles, vừa ảnh
hưởng đến sự tiếp xúc giữa muỗi Anopheles và người, đến sự phát triển của
KSTSR trong cơ thể muỗi.
- Độ ẩm tương đối ít ảnh hưởng đến KSTSR nhưng rất ảnh hưởng đến tuổi thọ
và hoạt động của Anopheles, chúng sống lâu và hoạt động mạnh khi độ ẩm
tương đối cao ( 60%).
- Lượng mưa và mùa mưa ảnh hưởng đến sự phát triển của muỗi Anopheles,
đến mật độ muỗi và qua đó đến mùa truyền bệnh sốt rét.
Mỗi loại khí hậu thuận lợi cho sự phát triển của từng loại KSTSR: vùng
nhiệt đới thuận lợi cho cả P. falciparum, P. vivax, P. ovale và P. malariae; vùng
cận nhiệt đới thuận lợi cho P. falciparum và P. vivax; vùng ôn đới thì P. vivax
nhiều hơn, các loài kia hầu như không có.
1.1.4.2. Sinh địa cảnh
Sinh địa cảnh vừa ảnh hưởng đến véc tơ truyền bệnh vừa ảnh hưởng đến
lối sống của nhân dân là yếu tố quan trọng trong việc phân vùng sốt rét và
nghiên cứu mùa bệnh sốt rét.
1.1.4.3. Môi trường sinh học
Môi trường sinh học gồm những sinh vật: động vật rừng, động vật nuôi,
thuỷ sinh. Tuỳ nơi, tuỳ lúc động vật có tác dụng là mồi thu hút Anopheles đến
7
đốt, do đó làm giảm số lượng muỗi đến đốt người. Nhiều loài thuỷ sinh ăn bọ
gậy Anopheles và có thể dùng làm phương tiện sinh học để chống muỗi.
1.1.4.4. Môi trường kinh tế xã hội
Các hoạt động kinh tế của con người ảnh hưởng đến cả 3 khâu của quá
trình lây truyền bệnh sốt rét, những hoạt động trong vùng sốt rét (làm rẫy, buôn
bán, khai khoáng, khai thác lâm thổ sản...) làm tăng nguy cơ sốt rét do tăng diện
tiếp xúc với muỗi sốt rét; lao động quá mức, sinh hoạt tạm bợ làm giảm sức đề
kháng của cơ thể; di biến động vào vùng sốt rét có tổ chức hay không có tổ
chức có thể gây dịch sốt rét với qui mô khác nhau làm cho bối cảnh sốt rét thêm
trầm trọng. Ngoài ra sốt rét còn ảnh hưởng đến kinh tế do làm mất người và mất
sức lao động, tốn tiền điều trị sốt rét... Ngược lại, hoạt động kinh tế của con
người có thể làm giảm nguy cơ sốt rét như khai thông mương máng, nắn suối,
lấp ao hồ, phát quang quanh nhà để làm vườn, tăng đàn gia súc, thả cá, nâng cao
mức sống, xây dựng y tế và PCSR. Các yếu tố xã hội có thể ảnh hưởng hai
chiều đến lây truyền bệnh sốt rét.
Nghề nghiệp có những nghề làm cho nguy cơ bị sốt rét tăng lên nhiều
như nghề đi rừng, khai thác lâm thổ sản, làm rẫy, trồng cà phê... Mức sống: có
ảnh hưởng trực tiếp đến sốt rét. Nhà cửa, chăn màn, áo quần ảnh hưởng đến
việc tiếp xúc với muỗi và đến công tác phòng chống muỗi. Mức ăn ảnh hưởng
đến sức đề kháng của cơ thể. Trình độ văn hoá có liên quan đến nhận thức về
sốt rét và PCSR, cũng như ý thức tự nguyện tham gia PCSR trong cộng đồng.
Một số phong tục tập quán như du canh du cư, định canh du cư, kiêng mắc màn
trong nhà, cúng bái để chữa bệnh... cũng gây nhiều khó khăn cho công tác
PCSR. Những vùng sốt rét nặng là những vùng xa xôi hẻo lánh, giao thông liên
lạc khó khăn, thường xuyên thiếu đói, làm không đủ sống, đất rộng người thưa,
tỉ lệ người không biết chữ và không đi học còn cao, y tế cơ sở yếu và thiếu,
nhận thức về y tế và PCSR chưa đầy đủ.
Sự phát triển các khu vực kinh tế, đặc biệt là thủy điện và thủy lợi ở Gia
Lai cũng như các tỉnh Tây Nguyên đã làm diện tích rừng tự nhiên bị thu hẹp,
8
diện mạo sinh cảnh sốt rét có nhiều thay đổi so với trước đây đã ảnh hưởng đến
thành phần loài muỗi Anopheles và chi phối tình hình sốt rét địa phương.
1.2. Tổng quan nghiên cứu sốt rét với sự thay đổi môi trường sinh thái
1.2.1. Trên thế giới
Môi trường có vai trò chi phối các yếu tố lan truyền bệnh và quyết định
sự hình thành các vùng dịch tễ sốt rét, trên thế giới hiện nay điều kiện môi
trường sinh thái có nhiều thay đổi, đặc biệt là biến đổi khí hậu toàn cầu ảnh
hưởng đến sự phát triển của khu hệ côn trùng nói chung và quần thể Anopheles
nói riêng. Theo các chuyên gia quản lý môi trường, nguyên nhân của sự biến
đổi này chủ yếu là do tác động của con người đến sinh cảnh tự nhiên như ngăn
đập xây dựng hồ thủy điện và các hệ thống tưới tiêu, phát triển các rừng cây
công nghiệp (cao su, cà phê, chè, hồ tiêu…) cùng với tình trạng khai thác lâm
sản không được kiểm soát đã làm tăng không gian sống của các loài côn trùng
cũng như làm thay đổi các đặc điểm sinh học, sinh thái và vai trò truyền bệnh
của chúng dẫn đến những vụ dịch nghiêm trọng, nhất là đối với bệnh sốt rét.
Trên thế giới, nhiều công trình nghiên cứu về điều tra cơ bản, mô tả hình
thái, khu hệ, phân loại, đặc tính sinh học, sinh lý, sinh thái, vai trò truyền bệnh
của muỗi sốt rét, cũng như các nghiên cứu về các biện pháp tiêu diệt muỗi và
phòng chống muỗi đốt đã được tiến hành ở nhiều nơi. Việc nghiên cứu về muỗi
Anopheles và bệnh sốt rét liên quan đến yếu tố môi trường do làm các công
trình thủy điện có Peter Zeilhofer và cộng sự (2007) nghiên cứu môi trường
xung quanh nhà máy thủy điện ở bang Mato Grosso (Brazil), chỉ ra môi trường
sống ở đây phù hợp An. darlingi, cho thấy mối quan hệ đáng kể giữa môi
trường và sự hiện diện của An. darlingi, sự hiện diện véc tơ được tăng lên đáng
kể trong các khu vực rừng gần hồ chứa nước của thủy điện [23]; Delenasaw
Yewhalaw và cs (2009) nghiên cứu tác động của đập thủy điện Gilgel-Gibe ở
châu Phi về truyền bệnh sốt rét, từ 1.855 trẻ em (905 nữ và 950 trẻ em trai) cho
thấy: tổng cộng 194 (10,5%) trẻ em mắc sốt rét, trong đó 117 (60,3%) nhiễm ký
sinh trùng P. vivax, 76 (39,2%) nhiễm P. falciparum và (0,5%) nhiễm phối hợp
9
cả P. vivax và P. falciparum; trẻ em cư trú ở các làng gần thủy điện có nhiều
khả năng nhiễm P. vivax cao hơn so với khu vực ở xa (OR= 1,63, 95%) và
nhiễm P. falciparum cao hơn so với trẻ em ở khu vực áp dụng biện pháp phòng
chống sốt rét nhưng điều này là không đáng kể, cho rằng mối quan hệ giữa đập
và bệnh sốt rét là quan hệ nhân quả, 43% của bệnh sốt rét xảy ra ở trẻ em là do
sống gần đập. Bruce-Chwatt (1966) cho rằng nguyên nhân kìm hãm chương
trình phòng chống sốt rét ở những quốc gia nhiệt đới đang phát triển là không
kiểm soát được sự phát triển của các hệ thống thuỷ lợi và trồng lại rừng; Najera
(1989) cũng đã tổng kết có 7 loại hình sốt rét thường gặp ở Châu Phi và Đông
Nam Á liên quan đến sinh cảnh và sự thay đổi cảnh quan do tác động của con
người: Sốt rét bìa rừng; Sốt rét kinh tế khai hoang nông nghiệp vùng rừng núi;
Sốt rét khai thác mỏ, đá quí trong rừng; Sốt rét dân địa phương vùng rừng núi
du canh, du cư thành lập những tập thể ở phân tán; Sốt rét vùng có công trình
thuỷ lợi lớn làm tăng cường nguy cơ sốt rét; Sốt rét vùng trồng bông phải dùng
nhiều thuốc trừ sâu và nhân công từ vùng không có sốt rét đến; Sốt rét vùng
chính trị, xã hội, quân sự không ổn định, có biến động dân cư và y tế kém; Sinh
cảnh là yếu tố ảnh hưởng đến sốt rét, Beklemisev (1944); Quản lý tốt môi
trường có thể làm giảm sốt rét, Vinod P.Sharma (1991), Shresta S.L. (1993); Độ
cao của cảnh quan môi trường quanh con người ảnh hưởng đến mật độ An.
albimanus, M.H. Rodriguez (1997); Ảnh hưởng của sinh cảnh và khí hậu đến
phân bố quần thể muỗi, A.A. Sharkov (1997); Hệ sinh thái liên quan đến lan
truyền sốt rét, Reisen W.K. (1999); Lưu hành sốt rét theo mùa cũng như tập tính
đốt người trong nhà gắn liền với hệ sinh thái rừng bị phá huỷ, Chand S.K.
(1994)…
Nghiên cứu về đặc điểm sinh thái, phân bố của véc tơ sốt rét có Baimai
V., Udom Kijichalao, Phom Sawadwongporni và Green C.A (1984) đã nghiên
cứu sự phân bố và tập tính đốt máu của An. dirus ở Thái Lan đã chỉ ra rằng:
An.dirus phát triển liên quan chặt chẽ với rừng, sự vắng mặt của chúng khi rừng
bị tàn phá, xuất hiện trở lại ở những vùng trồng cao su đã khép tán của Thái
10
Lan. Kondrashin, Jung R.K., Akiyama J (1991) nghiên cứu đặc điểm sinh thái
của sốt rét rừng ở Nam Á cho rằng diện bao phủ của rừng ở Thái Lan bị thu hẹp
lại làm cho các quần thể An. dirus ở đây cũng co cụm lại.. Valérie Obbsomer,
Pierre Defourny và Marc Coosemans (2007) cho rằng sự đa dạng của An. dirus
làm cho sốt rét lưu hành nặng khu vực rừng châu Á, những nghiên cứu về sự
khác nhau một số tập tính sinh học của nhóm loài An. dirus đã cho thấy ảnh
hưởng của môi trường, sự biến đổi tập tính có thể xác định khả năng thích nghi
của véc tơ với môi trường đang thay đổi, điều này rất cần thiết để phòng chống
véc tơ trong sự biến đổi phức tập của môi trường. Nghiên cứu vai trò của các
véc tơ sốt rét có một số công trình như Prakash A, Bhattacharyya DR,
Mohapatra PK và Mahanta J (2001) đã nghiên cứu vai trò véc tơ sốt rét của An.
dirus ở sinh cảnh bìa rừng tại Assam (Ấn Độ), cho thấy An. dirus là nhân tố
chính cho sự lan truyền sốt rét ở đây (Vùng rừng nhiệt đới mưa nhiều), sự lan
truyền sốt rét trong vùng bắt đầu từ tháng 3, có điểm đỉnh là tháng 7 và tháng 8.
Sự nhiễm thoa trùng của An. dirus: cao vào các tháng mùa mưa và nóng (tháng
6 đến tháng 9), giảm bớt trong mùa mưa và ôn hòa (tháng 10 và tháng 11), thấp
nhất trong mùa lạnh và khô (tháng 12 đến tháng 2), sự nhiễm tăng dần khi khí hậu
ấm dần (tháng 3 đến tháng 5). Còn nghiên cứu của Thin Thin OO, Storch
Volker và Becker Norbert (2003) đã nghiên cứu muỗi An. dirus và vai trò của
chúng trong lan truyền sốt rét ở Myanma, đã cho rằng An. dirus là véc tơ chính
nhiễm Plasmodium falciparum cao, nó làm cho sốt rét ở đây trầm trọng, nghiên
cứu tập tính sinh học của An. dirus trưởng thành và mối quan hệ với mùa truyền
bệnh giúp phòng chống sốt rét cho những vùng có sinh cảnh đặc biệt khác nhau.
Các nghiên cứu đã chỉ rõ An. dirus là véc tơ chính trong lan truyền sốt rét ở
vùng rừng núi, có mật độ cao ở trong rừng, hiện nay có xu hướng thu hẹp phạm
vi phân bố.
Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu đã chỉ rõ các mối quan hệ lẫn nhau
giữa các yếu tố trong quá trình lan truyền bệnh sốt rét, trong đó các yếu tố môi
11
trường đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các vùng dịch tễ sốt rét
khác nhau và ảnh hưởng lớn đến các quần thể muỗi sốt rét.
1.2.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, từ lâu đã có nhiều công trình nghiên cứu về muỗi, điều tra
cơ bản có Borel E. (1930), Galliard H. và Đặng Văn Ngữ (1947), gần đây có
Trần Đức Hinh, Nguyễn Đức Mạnh và cộng sự (1997) đã xác định có 59 loài và
phân loài, có 2 loài mới cho khoa học. Nghiên cứu về muỗi có: Trần Đức Hinh
và ctv (1997) nghiên cứu Quần thể Anopheles sp.p trong quá trình thanh toán
sốt rét ở Việt Nam (1991-1995); Lê Khánh Thuận (1988) nghiên cứu về muỗi
sốt rét ở miền Trung; Nguyễn Đức Mạnh (1988) nghiên cứu về muỗi sốt rét ở
Tây Nguyên; Trương Văn Có (1996) nghiên cứu về muỗi sốt rét ở Trung-
Trung bộ và Tây nguyên. Lê Khánh Thuận, Trương Văn Có và ctv (2002)
nghiên cứu về muỗi ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên đã xác định có 48
loài Anopheles trên khu vực nghiên cứu này.
Việc nghiên cứu các tác động của con người làm thay đổi môi trường do
làm các công trình thủy điện ảnh hưởng đến véc tơ sốt rét có: Nguyễn Xuân
Quang và cs (2002) nghiên cứu các quần thể muỗi Anopheles trên các khu vực
hệ thống thủy lợi, thủy điện và vùng cây công nghiệp ở Tây Nguyên cho thấy:
Ở hệ thống thủy lợi Đắc Uy (Kon Tum) có 18 loài Anopheles trong đó có véc tơ
chính An. minimus và một số véc tơ phụ, số lượng loài Anopheles và mật độ của
các véc tơ sốt rét giảm dần từ khu vực thượng nguồn xuống các vùng được tưới
tiêu. Ở khu vực thủy điện Ialy (Kon Tum) có 13 loài Anopheles trong đó có 2
véc tơ sốt rét chính An. dirus, An. minimus và một số véc tơ phụ khác ở thượng
nguồn và xung quanh lòng hồ thủy điện với mật độ thấp. Ở vùng cây cao su
EaHleo (Đắc Lắc) có 7 loài Anopheles trong đó có mặt một số véc tơ phụ.
Lê Xuân Hợi, Nguyễn Khắc Chính và cs (2011) đã nghiên cứu diễn biến
thành phần loài, đặc điểm sinh thái học một số loài muỗi Anopheles và An.
minimus trong quá trình thay đổi sinh thái khu vực thủy điện Tuyên Quang từ
năm 2006 đến năm 2008 cho thấy: Thành phần loài Anopheles ở khu vực này
12
tương đối phong phú có 18 loài chiếm 47,2% tổng số loài Anopheles ở vùng đồi
núi miền Bắc Việt Nam, chiếm 27,4% so với cả nước, trong đó có An. minimus
là véc tơ truyền sốt rét chính, còn có các véc tơ phụ: An. aconitus, An.
jeyporiensis, An. maculatus. So sánh thành phần loài, mật độ của một số loài
muỗi Anopheles và An. minimus vùng trên đập, dưới đập; trước và sau khi đóng
đập mực nước dâng cao 100 mét chưa có diễn biến gì đáng kể, do thời gian
đóng đập ngăn nước đến thời điểm kết thúc nghiên cứu còn ngắn (26 tháng) nên
chưa có sự thay đối về sinh cảnh, môi trường, thảm thực vật … Quần thể muỗi
An. minimus sống trong nhà, chủ yếu đốt máu trâu bò, mật độ đốt người cả
trong và ngoài nhà đều thấp, đặc điểm sinh thái của An. minimus ở khu vực
nghiên cứu vẫn mang tập tính cũ (trú đậu trong nhà, đốt máu người và gia súc,
nhưng đốt máu trâu bò là chính).
Nghiên cứu muỗi truyền bệnh sốt rét ở vùng khai hoang xây dựng kinh tế
mới ở Đac Uy-Kon Tum, 1985 (Lê Văn Sắc, Trần Đức Hinh); sự liên quan
giữa côn trùng và vấn đề thủy lợi ở miền Trung-Tây Nguyên, 1982-1994 (Bùi
Đình Bái, Lê Khánh Thuận, Trương Văn Có); nghiên cứu các quần thể muỗi
Anopheles trên các khu vực hệ thống thủy lợi, thủy điện và vùng cây công
nghiệp ở Tây Nguyên (Nguyễn Xuân Quang và ctv, 2002 ); nghiên cứu sự liên
quan giữa hai véc tơ An. dirus v An. minimus với sinh cảnh rừng tự nhiên và cây
công nghiệp ở huyện Chư sê, Gia Lai (Nguyễn Xuân Quang, Lê Hữu Cầu và
ctv, 2003); nghiên cứu sự liên quan giữa sinh cảnh và khu hệ Anopheles (Bùi
Duy Quang (1973); nghiên cứu sự liên quan giữa An. subpictus, độ mặn và bệnh
sốt rét ở miền Bắc Việt Nam (Vũ Thị Phan, Lê Văn Ước, Trần Đức Hinh,
Nguyễn Thọ Viễn, 1973); nghiên cứu sự liên quan giữa sinh cảnh và khu hệ
Anopheles ở vùng Quỳnh Thắng, Nghệ An (Nguyễn Tuyên Quang, 1996);
nghiên cứu về muỗi sốt rét và các yếu tố môi trường ảnh hưởng tới tình hình
bệnh sốt rét ở Vân Canh, Bình Định; nghiên cứu sinh thái của véc tơ và vai trò
truyền bệnh sốt rét (Lê Khánh Thuận, Trương Văn Có và cộng sự, 2002);
nghiên cứu sự thay đổi sinh thái của véc tơ và mùa lan truyền sốt rét đề xuất
13
phân vùng dịch tễ sốt rét ở miền Trung-Tây Nguyên (Trương Văn Có và cộng
sự, 2000) nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của véc tơ, yếu tố thời tiết (nhiệt
độ, ẩm độ, lương mưa) liên quan đến lan truyền của các véc tơ sốt rét ở 3 điểm
nghiên cứu IaKo-Gia Lai, Vân Canh-Bình Định, Khánh Phú-Khánh Hòa.
Vũ Đức Chính và cộng sự (2006) nghiên cứu sự phân bố Anopheles và
các véc tơ sốt rét ở một số sinh cảnh rừng hiện nay ở miền Bắc Việt Nam xác
định véc tơ chính An. minimus có mặt ở các sinh cảnh: rừng rậm nguyên sinh,
rừng rậm thứ sinh và rừng thưa, cây bụi; còn An. dirus trước đây đóng vai trò
chính trong lan truyền sốt rét ở một số địa phương khu vực Bắc Trường Sơn,
hiện nay mật độ rất thấp và phân bố trong phạm vi hẹp. Trương Văn Có,
Nguyễn Xuân Quang, Đỗ Công Tấn và cs (2008) đã nghiên cứu các quần thể
muỗi Anopheles, một số đặc điểm sinh học và vai trò truyền bệnh của các véc
tơ sốt rét ở các khu bảo tồn Yok Đôn (Đắc Lắc) và rừng đặc dụng Đak Hà (Kon
Tum) xác định An. minimus đóng vai trò chính trong lan truyền sốt rét tại chỗ ở
tại 2 điểm nghiên cứu, An. dirus đóng vai trò chính trong lan truyền sốt rét ở
Yok Đôn, có mật độ cao ở trong rừng, nhưng ở vùng đệm cách bìa rừng khoảng
3-5 km không thu thập được.
Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ sốt rét và biện pháp PCSR ứng dụng cho
vùng phát triển công trình thủy điện Sơn La (Lê Đình Công, Trần Quốc Túy và
ctv, 2001); nghiên cứu đặc điểm dịch tễ sốt rét và áp dụng các biện pháp PCSR
cho công nhân vùng trồng cao su tại khu vực Tây Nguyên và Đông Nam bộ (Lê
Đình Công, Lý Văn Ngọ và ctv, 2001); nghiên cứu các biện pháp phòng chống
véc tơ bảo vệ vùng dâu tằm tại Lâm Đồng (Trần Đức Hinh và ctv, 2001). Các
nghiên cứu này đã chỉ ra mối liên quan giữa các sinh cảnh với muỗi Anopheles,
cũng như mức độ lan truyền bệnh sốt rét thay đổi ở những vùng sinh cảnh biến
đổi do các tác động của con người, và đề xuất các giải pháp phòng chống sốt rét
thích hợp cho từng vùng cụ thể. Nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu
lên quần thể An. minimus tại Khánh Phú, các tác giả Nguyễn Tuyên Quang,
Marchand R.P, Nguyễn Thọ Viễn (2002) nhận định: Khoảng nhiệt độ để quần
14
thể An. minimus tồn tại và phát triển > 180C và < 330C cùng với khoảng độ ẩm
tương ứng là > 81% và < 90%.
Theo thống kê mới nhất của Hồ Đình Trung (2005), Việt Nam có 15 loài
Anopheles là những véc tơ sốt rét chính, phụ và nghi ngờ. Trong đó véc tơ
chính: vùng đồi-núi-rừng toàn quốc: An. minimus; vùng núi rừng từ 20o vĩ Bắc
vào Nam: An. dirus; vùng nước lợ ven biển Nam Bộ: An. epiroticus. Véc tơ
phụ: vùng núi rừng toàn quốc: An. aconitus, An. jeyporiensis, An. maculatus;
vùng ven biển miền Bắc: An. subpictus, An. sinensis, An. vagus, An. indefinitus;
vùng ven biển miền Nam: An. subpictus, An. sinensis, An. campestris. Véc tơ
nghi ngờ: vùng núi rừng miền Bắc, MT-TN: An. culicifacies; vùng núi rừng
Đông Nam Bộ: An. interruptus; vùng ven biển miền Bắc: An. lesteri.
Từ những kết quả nghiên cứu về vai trò truyền bệnh sốt rét của các loài
Anopheles nêu trên, có thể xác định được những véc tơ sốt rét ở khu vực Tây
Nguyên: các véc tơ truyền bệnh chính là An. dirus và An. minimus; các véc tơ
phụ là An. aconitus, An. jeyporiensis và An. maculatus. Nguyễn Xuân Quang và
ctv (2012) nghiên cứu muỗi Anopheles ở các VQG Chư Mom Ray, VQG Kon
Ka Kinh và Khu BTTN Ea Sô đã chỉ ra vai trò của các véc tơ sốt rét; cung cấp
một số dẫn liệu về sinh thái học và tập tính của các loài véc tơ, gắn với vai trò
truyền bệnh của chúng; hiện trạng mắc sốt rét ở cộng đồng 3 khu vực nghiên
cứu, đặc biệt là mối liên quan với tập quán đi rừng, ngủ rẫy của đồng bào.
1.3. Tổng quan về các yếu tố ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, môi trường
sinh thái khu vực thủy điện đến lan truyền sốt rét ở Gia Lai
1.3.1. Thủy điện Sê San
Thủy điện Sê San là tập hợp gồm 7 công trình thủy điện nằm trên sông Sê
San (phía Tây Bắc tỉnh Gia Lai). Sông Sê San là một trong các nhánh lớn của
lưu vực hạ du sông Mê Kong trên lãnh thổ Việt Nam, được hợp thành bởi hai
nhánh chính là sông Đakbla và sông Krôngpoko, chảy từ hướng Đông Bắc sang
Tây Nam dãy Trường Sơn, qua địa phận hai tỉnh Gia Lai, Kon Tum và biên giới
Cambodia với tổng chiều dài 237km, diện tích lưu vực 11.450 km2. Phần
15
thượng lưu, thung lũng sông nằm trong vùng đồi núi thấp, độ dốc địa hình trung
bình, có nhiều dân cư sinh sống tập trung ven sông; phần phía hạ lưu, thung
lũng sông nằm trong các hẻm sâu của các dãy núi cao, độ dốc địa hình khá lớn,
hầu như không có dân cư sinh sống ven sông. Đặc điểm tự nhiên khác nhau
giữa các vùng đã tạo nên các hình thái thủy điện khác nhau, vùng thượng lưu
xây dựng các hồ chứa lớn, đóng vai trò quyết định cho việc điều tiết dòng chảy
cho các dự án thủy điện phía hạ lưu. Với những lợi thế tự nhiên, bậc thang thủy
điện sông Sê San gồm 7 công trình với tổng công suất 1.831 MW là
Thượng Kon Tum (2009-2014) đang xây dựng và Pleikrông (2002-2007) thuộc
tỉnh Kon Tum; Yaly (1993-2003) nằm giữa 2 huyện Chưpăh (Gia Lai) và Sa
Thầy (Kon Tum); Sê San 3 (2002-2006) thuộc địa phận xã Iamnông, huyện Chư
Păh (Gia Lai) và Ialy, huyện Sa Thầy (Kon Tum); 3A (2003-2006) thuộc địa
phận xã Moray, huyện Sa Thầy (Kon Tum) và Iakhai, huyện Iagrai (Gia Lai);
Sê San 4 (2008-2010) và 4A (2008-2011) là công trình cuối cùng của bậc thang
thủy điện trên sông Sê San được xây dựng tại xã IaO (huyện Iagrai).
Hình 1.2. Hệ thống nhà máy thủy điện trên sông Sê San
16
Sê San 4A
Nếu xét về tiềm năng thủy điện thì Sê San đứng ở vị trí thứ 3, sau thủy
điện sông Đà và sông Đồng Nai; nhưng về góc độ ảnh hưởng do biến đổi khí
hậu, môi trường sinh thái khu vực thủy điện đến sự lan truyền bệnh dịch thì hệ
thống thủy điện này tác động không nhỏ đến thành phần loài và vai trò của véc
tơ truyền bệnh, đặc biệt là véc tơ sốt rét tại địa phương. Quy mô rộng lớn của
thủy điện Sê San đã làm thay đổi hoàn toàn sinh cảnh ban đầu với hơn 2248,78
ha rừng và 4000 ha đất trồng bị chìm ngập trong lòng hồ, 70km dòng chảy tự
nhiên theo đường chim bay chuyển thành hồ chứa hoặc dòng chảy qua cống;
các điểm dân cư sinh sống ở khu lòng hồ, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số
được di dời đến vùng phụ cận, cùng với hàng ngàn công nhân là các đối tượng
chịu ảnh hưởng trực tiếp tác động của các công trình thủy điện. Ngoài ra, tỉnh
Gia Lai còn rất nhiều các thủy điện, thủy lợi ở hầu khắp các địa bàn huyện góp
phần làm môi trường sinh thái bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Điều lưu ý là bệnh
sốt rét ở khu vực thủy điện Sê San có xu hướng giảm thấp trong vài năm gần
đây, nhưng nguy cơ bùng nổ sốt rét vẫn còn cao do tác động của các yếu tố biến
đổi khí hậu và môi trường sinh thái đến sự lan truyền bệnh sốt rét, đặc biệt là
khu hệ Anopheles, trong đó đáng lưu ý là một số công trình thủy điện sau đây:
1.3.1.1.Thủy điện Yaly
Với chiều cao đập 60 m, dung tích hồ chứa nước hơn 1 tỷ m3 bao phủ
trên 20km2; diện tích hồ chứa mực nước dâng 64,5 km2, mực nước chết 17,2
km2, mặt hồ 31km2 từ dạng dòng chảy của sông tự nhiên thành dạng nước tù ít
lưu thông làm thay đổi môi trường sinh thái và các khu hệ động vật cũng như
thực vật. Điển hình là năm 2005, Hệ thống Bảo vệ Sê San (Sesan Protection
Network) đã thông báo nhiều trận lũ lụt liên tiếp xảy ra dọc theo sông Sê San
thuộc tỉnh Ratanakiri của Cambodia gây thiệt hại nghiêm trọng cho người dân
trong vùng, phát xuất từ việc điều hành Đập thủy điện Yali ở Việt Nam. Trong
một nghiên cứu ảnh hưởng xã hội và môi trường dự án Thủy điện Sê San 3 do
Ngân hàng Phát triển Á Châu (ADB) tài trợ, được công bố năm 2000, Công ty
Cố vấn Worley WLT LTD của Australia đã kết luận rằng “Lượng định Ảnh
17
hưởng Môi trường (Environmental Impact Assessment (EIA) của dự án Thủy
điện Yali đã không được thực hiện một cách đúng đắn và việc tích trữ nước hồ
chứa Yali và vận hành các máy phát điện đã có ảnh hưởng không thể chấp nhận
được ở hạ lưu. Việc điều hành Đập thủy điện Yali theo dự trù sẽ tiếp tục gây
ảnh hưởng nghiêm trọng ở hạ lưu.” Công ty Worley khuyến cáo Điện lực Việt
Nam nên điều hành Đập thủy điện Yali một cách an toàn hơn, có trách nhiệm
hơn, và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế. Công ty Worley đề nghị Điện lực Việt
Nam nên (1) thay đổi lối điều hành Đập thủy điện Yali dựa theo lưu lượng tự
nhiên của sông Sê San cho đến khi lối điều hành tối ưu được Việt Nam và
Cambodia thỏa thuận, (2) lượng định các thiệt hại do việc xả nước từ hồ Yali
gây ra từ năm 1999 cho đến khi chúng được giảm thiểu với sự đồng ý của đại
diện cư dân Việt Nam và Cambodia ở hạ lưu (3) bồi thường cho bất cứ ai bị
thiệt hại tài sản, thương tật, di dời nhà cửa, thất mùa, bất tiện (4) thiết lập một
hệ thống báo động việc xả nước từ hồ Yali để tránh thảm cảnh tương tự xảy ra
trong tương lai. Tuy nhiên, theo hướng dẫn của cơ quan tài chính quốc tế Ngân
hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Á Châu (ADB), năm 2009 Tổng công ty
thủy điện sông Đà đã đánh giá tác động của thủy điện Yali đến môi trường với
kết quả là hồ chứa không có tác động đáng kể vào khí hậu lưu vực, nhưng có
làm thay đổi đến vùng khí hậu xung quanh hồ, chủ yếu tăng độ ẩm, dòng chảy
thường xuyên nhỏ luôn giữ những vũng nước tồn quanh năm. Thủy điện Yali
làm ngập 272 ha rừng với 111 ha rừng gỗ, 161 ha rừng le, diện tích rừng giảm
rất cao, 4,3% gây biến động mạnh về sinh thái. Hồ chứa làm ngập 6.450 ha đất
trong đó có 1933 ha đất canh tác. Trong 26 làng nằm trong vùng chịu ảnh
hưởng của hồ chứa Yali thì 14 làng 1.195 hộ và 5.577 khẩu chủ yếu là đồng bào
dân tộc thiểu số (Ba Na, Rơ Ngao, Jarai) phải di chuyển sang nơi ở mới quanh
bờ hồ thủy điện Yaly thuộc huyện Chư Pảh (Gia Lai), huyện Sa Thầy và một
phần thị xã Kon Tum (Kon Tum). Việc thiết lập các khu tái định cư cùng với sự
khai thác gỗ và chặt phá rừng trong quá trình vận hành xây dựng thủy điện đã
làm thay đổi môi trường chủ yếu làm thoái hóa đất nông nghiệp và đất rừng.
18
Vấn đề nổi bật trong khu vực thủy điện Yali, là sự gia tăng các vật chủ
trung gian truyền bệnh, nhất là quần thể muỗi Anopheles và các vec tơ chính
truyền bệnh sốt rét (An.minimus, An.dirus) có nguy cơ hoạt động thường xuyên
hơn sau khi đập được xây dựng; thực tế cho thấy bệnh sốt rét rất phổ biến, 90%
trường hợp nhiễm KSTSR do các nguyên nhân:
- Môi trường sinh thái thay đổi do xây dựng đập có thể là nguyên nhân chủ
yếu cho sự xâm nhập các bệnh truyền nhiễm như sốt rét, sốt xuất huyết.
- Một số lượng lớn người sẽ định cư đến vùng để xây dựng- đây thuộc dân di
biến động có thể sẻ mang các bệnh mới đến và có nguy cơ nhiễm bệnh cao
trong điều kiện sống mới và quá đông đúc của công trường.
- Phần lớn đồng bào tái định cư và số người không tái định cư đều chịu ảnh
hưởng của sự thay đổi điều kiện sống, trong khi các cơ sở y tế còn yếu kém.
1.3.1.2. Thủy điện Sê San 3 và 3A
Được xây dựng trên sông Sê San thuộc địa phận xã Yali, huyện sa thầy
(tỉnh Kon Tum) và Iamơnông, huyện ChưPăh (tỉnh Gia Lai) với tổng diện tích
mặt bằng thi công 53,65 ha, diện tích rừng bị ngập trong lòng hồ 157,5 ha; tổng
diện tích lưu vực sông Sê San trên đất Việt Nam là 11.450km2, trong đó thủy
điện Sê San 3 là 7.788km2 chiếm 68% toàn lưu vực, độ dài sông tính đến tuyến
công trình là 198km. Thủy điện Sê san 3 có công suất 260MW theo hình thức
đắp đập dâng tạo cột nước, sử dụng lưu lượng dòng chảy của sông Sê San đã
được điều tiết qua hồ chứa Yali ở phía thượng lưu. Nguồn nước cung cấp cho
Sê San 3 là nước từ Yali xả xuống, dung tích toàn bộ hồ chứa là 92 triệu km2
liên quan đến chế độ vận hành của thủy điện Yali. Ảnh hưởng môi trường tự
nhiên và xã hội vùng hồ thủy điện bao gồm các xã Iamơnong nằm bên bờ trái
của sông Sê San thuộc huyện Chư pảh (Gia Lai) có 9 bản với 867 hộ và 4350
nhân khẩu chủ yếu là người dân tộc Giarai; trong đó các bản Doch1, Doch 2 và
Dip nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Sê San 3 nằm ở phía hạ lưu công trình
thuộc vùng sâu, vùng xa thuộc quy hoạch lòng hồ Sê San 3A nên sẽ di cư đến
vùng Bằng Lăng là khu tái định cư của dự án.
19
Theo thiết kế, khi làm thủy điện Sê San 3 đến Sê San 4 khoảng 30km
(dọc triền sông) sẽ đẩy cột nước dâng cao và phải xây dựng một đập dâng cao
tương ứng tại Sê San 4 rất tốn kém, thi công khó khăn và hiệu quả thấp nên
thủy điện Sê San 3A có công suất 108MW được xây dựng nằm giữa Sê San 3
và 4 thuộc địa phận xã Iakhai, huyện Iagrai (tỉnh Gia Lai) và MoRay, huyện Sa
Thầy (tỉnh Kon Tum) với chiều cao đập 35 m, dung tích hồ chứa 80,6 triệu m3
nước nên độ bao phủ của hồ chiếm diện tích tự nhiên lớn, làm ảnh hưởng môi
trường sinh thái tự nhiện cũng như xã hội trong vùng. Cũng như hồ thủy điện
Yali, các vùng bị ngập nước thuộc hồ thủy điện Sê San 3 và 3A cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến môi trường sinh thái và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của các khu hệ véc tơ truyền bệnh, đặc biệt là quần thể muỗi Anopheles.
1.3.1.3. Thủy điện Sê San 4 và 4A
Là bậc thang cuối cùng trên sông Sê San gần biên giới Việt Nam-
Cambodia thuộc địa phận xã IaO và Iakhai, huyện Iagrai (tỉnh Gia Lai) và
Moray, huyện Sa thầy (tỉnh Kon Tum) với dung tích 264,16 triệu m3. Diện tích
đất đai bị ngập là 5.841 ha, trong đó có 537,47 ha đất nông nghiệp; diện tích đất
rừng bị ngập là 1699,28 ha, diện tích bị ngập còn lại thuộc vùng đồi núi. Lưu
lượng nước điều tiết xả về hạ lưu của Sê San 4 là 195,1m3/s, lưu lượng xả lớn
nhất là 719m3/s; mực nước xả cao nhất 155,2m và thấp nhất 150m. Sự tồn tại
của các hồ chứa lớn làm thay đổi đáng kể chế độ dòng chảy của sông Sê San,
dòng chảy mùa lũ được giảm bớt, dòng chảy mùa kiệt được tăng lên so với khi
chưa có hồ chứa. Khi nhà máy phát điện với công suất cao, lưu lượng xả lớn
gấp 2 lần lưu lượng trung bình năm và gấp 6-7 lần lưu lượng mùa kiệt trong
sông thiên nhiên. Sự thay đổi dòng chảy do hoạt động của thủy điện và xả lũ
gây nhiều ảnh hưởng tới các yếu tố môi truờng, xã hội chủ yếu ở 3 xã IaO,
Iakhai (huyện Iagrai, Gia Lai) và Moray (huyện Sa Thầy, Kon Tum), dân tái
định cư trên trục tỉnh lộ nối với các công trình thủy điện, điều kiện kinh tế khó
khăn, cuộc sống và nghề nghiệp chưa ổn định, thường gặp bệnh sốt rét và sốt
xuất huyết.
20
1.3.2. Thủy điện Krông Pa
Huyện Krông Pa nằm ở phía Đông Nam tỉnh Gia Lai, phía Đông giáp
huyện Sơn Hòa (tỉnh Phú Yên), phía Nam giáp huyện Eahleo (tỉnh Đăk Lăk),
Phía Bắc giáp huyện Ia Pa và Tây giáp thị xã Ayun Pa (tỉnh Gia lai) với 14 xã,
132 thôn, 14.530 hộ và 78.070 dân; trong đó người dân tộc thiểu số chủ yếu là
Jarai chiếm 70,8%, người Kinh chiếm 29,2%. Đặc điểm địa bàn huyện nằm giữa
hai dãy núi chạy từ Tây bắc đến Đông Nam, là bậc thềm nối tiếp giữa đồng bằng
và miền núi; vùng châu thổ sông Ba có cấu trúc bậc thềm rõ nét, được bồi đắp
hàng năm tạo cho Krông Pa có địa hình ngày càng đa dạng, cao nhất là đỉnh núi
ChưJing 1229m, thấp nhất có độ cao 90m so với mực nước biển. Toàn bộ địa hình
huyện Krông Pacó thể chia làm 4 dạng: địa hình thung lũng bậc thềm thấp gồm
các bải bồi ven sông Ba, Krông năng, Miah, suối Ba; địa hình đồng bằng có độ
dốc từ 0-80, chiếm khoảng 60% với diện tích tự nhiên toàn huyện, chủ yếu sử
dụng để trồng lúa, các loại cây hoa màu ngắn ngày và khu vực dân cư sinh
sống; địa hình đồi núi thấp có độ dốc từ 8-150, chiếm khoảng 30%, chủ yếu sử
dụng trồng cây hàng năm và một phần diện tích đưa vào trồng rừng; địa hình
đồi núi cao dốc chiếm phần lớn diện tích của huyện, trong đó khoảng10% rừng
tự nhiên, rừng trồng và một phần đồi núi trọc. Về khí hậu, thuỷ văn huyện
Krông Pa có nhiệt độ trung bình năm 25,50C, độ ẩm trung bình năm 82,0%,
lượng mưa trung bình năm 1.231,8 mm, mùa mưa kéo dài 5 tháng thường bắt
đầu muộn và kết thúc sớm do chịu ảnh hưởng khí hậu của các tỉnh duyên hải
miền Trung nên khí hậu khác với các vùng Tây Nguyên (thường sau và trước
một tháng). Do đặc điểm nằm ở thung lũng dọc theo sông Ba tiếp giáp với Phú
Yên, độ cao so với mặt biển thấp hơn so với các huyện khác thuộc tỉnh Gia Lai
tạo nên vùng khí hậu khác biệt với nhiệt độ, ẩm độ và lượng mưa trung bình
năm thuận lợi cho điều kiện phát triển của ký sinh trùng sốt rét và muỗi truyền
bệnh sốt rét.
Huyện Krông Pa có hệ thống thủy điện sông Ba Hạ (800 hecta), Đăk Song
3A (123 hecta), Đăk Song 3B (112 hecta); thủy lợi Ia H’Dréh (135,5 hecta), Ia
21
Mlăh (410 hecta), Phú Cần (15,5 hecta) và có dòng sông Ba chảy dọc địa bàn
huyện với tổng diện tích mặt nước tự nhiên (3.592 hecta) và tổng diện tích mặt
nước khi có các công trình thủy lợi, thủy điện (1.616,2 hecta). Từ vị trí địa lý
như vậy, toàn bộ các xã thuộc huyện krông Pa chịu sự tác động không nhỏ từ hệ
thống thủy điện và thủy lợi bao quanh như thủy điện sông Ba hạ (thuộc địa
phận tỉnh Phú Yên), thủy điện Đakrong 3 & 4 (đang xây dựng), hồ thủy lợi
Tăng Túc và thủy lợi Iahdré; đặc biệt là hệ thống kênh mương dẫn nước từ các
hồ thủy lợi này cung cấp cho phần lớn các xã trong huyện cùng với dòng sông
Ba (khu vực trung lưu) chảy qua tạo môi trường thuận lợi cho bệnh sốt rét phát
triển. Cũng như hệ thống thủy điện Sê San, quy mô xây dựng các hồ thủy điện,
thủy lợi hầu khắp địa bàn huyện đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo sinh cảnh
ban đầu của huyện Krông Pa tạo nên các sinh cảnh đặc trưng như khu dân cư
chủ yếu là trồng điều và cây ăn trái thay thế rừng tự nhiên ít phát hiện được véc
tơ truyền bệnh sốt rét; khu rừng sâu có dân làm rẫy, ngủ rẫy dài ngày tỷ lệ phơi
nhiễm sốt rét cao; vùng đệm giữa khu dân cư và rừng rẫy, gần các hồ thủy điện,
thủy lợi và lưu vực sông Ba thường hiện diện các véc tơ truyền bệnh, dễ phơi
nhiễm sốt rét.
1.3.2.1. Hệ thống thủy điện
- Thủy điện Sông Ba Hạ: nằm trên sông Ba thuộc địa phận 2 huyện Sơn
Hòa (tỉnh Phú Yên) và Krông Pa (tỉnh Gia Lai), có công suất 220 MW và cấp
cho lưới điện quốc gia với sản lượng điện trung bình hàng năm trên 825 triệu
kWh với đập chính chắn con sông lớn nhất Nam Trung bộ tạo thành hồ chứa
phía thượng lưu rộng hơn 54 km2. Ngoài mục tiêu cấp điện, thủy điện Sông Ba
Hạ còn là công trình cung cấp nước tưới cho gần 3.000 ha vùng đất quanh hồ,
nuôi trồng thủy sản, cải tạo môi trường điều hòa khí hậu trong vùng và tham gia
cắt lũ cho vùng hạ du. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành do xả lũ không đúng quy
trình vào mùa mưa gây ảnh hưởng đến đời sống bình thường của người dân
vùng hạ lưu, đặc biệt là tình trạng sa mạc hóa sông Ba do nguồn nước bị cạn
kiệt, ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái, sự sinh sản bình thường của các loài
22
thủy sản. Vào mùa khô hầu các hết trạm bơm, giếng nước dọc sông Ba phía
dưới nhà máy thủy điện đều bị khô cạn, người dân bị thiếu nước sinh hoạt trầm
trọng, điều chưa từng xảy ra trước đây.
- Thủy điện Đăk Song 3a: mực nước chứa 5,9 triệu m3; diện tích bị ngập
sau khi đắp đập chắn dòng 123,2 hecta, mực nước hạ lưu sau khi chắn đập cao
trình: 138 m và mức độ thu hẹp của lưu vực dòng sông sau chắn đập: 150 m.
- Thủy điện Đăk Song 3b: mực nước chứa 3,89 triệu m3; diện tích bị ngập
sau khi đắp đập chắn dòng 112 hecta, mực nước hạ lưu sau khi chắn đập cao
trình 129 m và mức độ thu hẹp của lưu vực dòng sông sau chắn đập: 100 m.
1.3.2.2. Hệ thống thủy lợi
- Thủy lợi Ia Mlăh: là công trình thuỷ lợi lớn thứ 2 của tỉnh Gia Lai có
tổng mức đầu tư hơn 724 tỷ đồng, được thi công xây dựng từ năm 2005 và đưa
vào sử dụng năm 2010. Mức nước lúc cao điểm (54,8 triệu m3), lúc thấp nước
(2 triệu m3), diện tích mặt hồ lúc tích nước nhiều 420 hecta, lúc thấp nhất 13
hecta, có khả năng tưới cho gần 5.200ha cây trồng, cung cấp nước sinh hoạt cho
khoảng 36.000 hộ dân (hơn 70% là người DTTS) ở 5 xã Ia Mlah, Đất Bằng,
Chư Gu, Chư Ngọc, Phú Cần và thị trấn Phú Túc. Thời điểm xả lũ từ tháng 9
đến 12 hàng năm; tổng chiều dài kênh mương 138 km, phân bổ ở các xã Ia
Mlăh, Đất Bằng, Phú Túc, Phú Cần, Chư Gu, Chư Ngọc. Tốc độ dòng chảy lúc
nước lớn 4, 13 m/s, lúc mực nước thấp: 0 m/s, tốc độ trung bình 2,5 m/s. Với hệ
thống kênh mương dẫn nước dài hàng trăm cây số từ hồ chứa thuộc vùng sốt rét
lưu hành đến các điểm dân cư trong huyện sẽ là điều kiện phát tán bọ gậy
Anopheles nếu không có kế hoạch theo dõi và kiểm soát chặt chẽ.
- Thủy lợi Ia H’ Dréh: mức nước lúc cao điểm 5,3 triệu m3, lúc thấp nước
464 ngàn m3, diện tích mặt hồ lúc tích nước nhiều 135,5 hecta, lúc thấp nhất 2,4
hecta. Thời điểm xả lũ trong năm, tháng 9 đến 12; tổng chiều dài kênh mương
25,9 Km, phân bổ ở các xã Ia Rmok. Tốc độ dòng chảy lúc nước lớn 2,5 m/s,
lúc mực nước thấp: 0 m/s, tốc độ trung bình 0 m/s.
23
- Thủy lợi Phú Cần: mức nước lúc cao điểm: 952.161 m3, lúc thấp nước
45.540 m3, diện tích mặt hồ lúc tích nước nhiều 35.130 m2, lúc thấp nhất 5.700
m2. Thời điểm xả lũ trong năm, tháng 9 đến 12; tổng chiều dài kênh mương
2.524 m, phân bổ ở các xã Phú Cần. Tốc độ dòng chảy lúc nước lớn 1,7 m/s, lúc
mực nước thấp: 0 m/s, tốc độ trung bình 0 m/s.
- Các kênh thủy lợi khác: Thủy lợi Uar có chiều dài kênh mương 21.014
m, tốc độ dòng chảy 2,5 m/s; Trạm bơm Chư Gu có chiều dài kênh mương
7.412m, thời điểm bơm nước Tháng 7 đến tháng 12, 6; Trạm bơm Ia Rmok có
chiều dài kênh mương 5.239m, thời điểm bơm nước Tháng 7 đến tháng 12.
1.3.2.3. Đặc điểm dân cư và nghề nghiệp dễ nhiễm sốt rét
Đối tượng dễ phơi nhiễm sốt rét ở đây tập trung chủ yếu ở các nhóm dân
di biến động khó kiểm soát (dân di cư tự do, dân ngủ rẫy, đi rừng, khai thác lâm
thổ sản). Trong đó khu vực canh tác của dân di cư tự do, số lượng người 25
hộ/54 khẩu, giáp huyện Krông Năng của tỉnh Đăk Lăk. Số xã có dân xâm canh
nhiều và ngủ tại rẩy ít nhất 3 tháng/ năm, khu vực nào có số lượng nhà rẩy
nhiều: Buôn Du, Buôn H’ Lang (Chư Rcăm), Buôn Jú (Krông Năng); Buôn
Tang (Phú Cần) 5 đến 10 hộ, Buôn Thiêm, Buôn Bluk (Phú Cần) 25 đến 30 hộ,
Buôn Sai (Chư Ngọc) 15 đến 20 hộ, Buôn Nung, Tập đoàn 6, 7, 8 (Chư Gu) 40
đến 50 hộ, Buôn Ơi Nu A, Ơi Nu B (Ia Siơm) 25 đến 30 hộ, Buôn Tieng (Uar)
15 đến 20 hộ, Buôn H’ Mung (Chưu Drăng) 40 đến 50 hộ, Buôn Chai (Chư
Drăng) 20 đến 25 hộ. Ước lượng mỗi khu vực có bao nhiêu hộ 5 đến 7 hộ/ cụm,
các nhà rẩy có phân tán không tập trung; các buôn thuộc xã Chư Gu, Chư
Drăng thường ở phân tán làm rẫy đầu nguồn suối Uar, suối Ea Jip của xã Chư
Drăng; các hộ thuộc xã Phú Cần, cư ngụ và làm rẫy tại xã Ia Mlăh; các hộ xã
Chư Ngọc làm rẫy khu núi Chư Mkia (Ia H’ Dréh); các hộ buôn Nu A, Nu B (Ia
Siơm) cư trú và làm rẫy khu vực suối Ré (Ia Siơm). Ngoài các yếu tố do làm
rẫy, ngũ rẫy trong thời gian qua công tác quản lý bảo vệ rừng chưa được triệt
để, hiện tượng khai thác lâm sản trái phép, đã có một số lượng lớn thanh niên
vào rừng, cưa gỗ, đào gốc gỗ Trắc, gỗ Hương thường ở lại trong rừng từ 2 đến 5
24
ngày. Đối với các công trình thủy điện đã tạo ra một số vị trí mặt sông khô cạn
hoặc hố nước đọng, hóc đá dài ngày trên dòng sông Ba như khu vực hạ lưu của
thuỷ điện Đăk Song 3A và 3B đến khu vực sông Krông Năng).
Theo số liệu thống kê năm 2012 của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn và
Trung tâm PCSR tỉnh Gia Lai so với cùng kỳ 2011, BNSR ở huyện Krông Pa
tăng 113,89% (1.786/835), KSTSR tăng 130,32% (1.765/766) và có 2 trường
hợp SRAT đe dọa tử vong. Đây cũng là huyện có tình hình sốt rét nặng nhất
chiếm 37,25% (1.786/4.794) số BNSR và 42,35% (1.765/766) số KSTSR so với
toàn tỉnh Gia Lai. Nguyên nhân sốt rét gia tăng thường xuyên tại khu vực này là
do dân đi rừng, ngủ rẫy và làm ăn theo mùa vụ trong các vùng SRLH. Các xã có
KSTSR tăng cao năm 2012 là Chư Rcăm (301), Chư Gu (298), Đất Bằng (213),
Ia dreh (149), Ia Mlah (129), Ia Rmok (108), Phú Cần (107), Phú Túc (89), Ia
Rsai (79), Ia Rsiêm (73) và các xã còn lại từ 38-64 ca). Tuy nhiên, kết quả điều
tra dịch tễ lại chưa phát hiện được các véc tơ truyền bệnh chính (An.minimus,
An.dirus) nên việc chỉ định các biện pháp PCSR ưu tiên gặp nhiều khó khăn;
nghiên cứu tình hình biến động sốt rét, đặc biệt là sự thay đổi thành phần loài và
véc tơ truyền bệnh liên quan đến biến đổi khí hậu, môi trường sinh thái khu vực
thủy điện, thủy lợi thuộc huyện Krông Pa sẽ góp phần tích cực đề xuất các biện
pháp phòng chống có hiệu quả, ngăn chặn sự gia tăng sốt rét tại địa phương.
1.4. Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến quần thể Anopheles
Việc xây dựng nhiều công trình thủy điện, thủy lợi ở tỉnh Gia Lai làm
thay đổi môi trường sinh thái, tác động đến các quần thể muỗi Anopheles và
tình hình mắc sốt rét ở cộng đồng sinh sống khu vực hồ, tuy nhiên cho đến nay
rất ít công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Phạm vi thủy điện, thủy lợi
tỉnh Gia Lai bao phủ một số huyện trọng điểm sốt rét nguy cơ bùng nổ sốt rét
rất cao. Việc nghiên cứu véc tơ truyền bệnh sốt rét, tình hình sốt rét và các biện
pháp can thiệp khu vực hồ thủy điện sẽ mang lại những cơ sở khoa học chính
xác để đề xuất biện pháp phòng chống sốt rét có hiệu quả, góp phần bảo vệ sức
khỏe cộng đồng ở các vùng có phơi nhiễm sốt rét cao.
25
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Muỗi Anopheles (Diptera: Culicidae);
- Ký sinh trùng sốt rét.
- Cộng đồng dân cư ở các công trình thủy điện.
- Các yếu tố sinh cảnh, khí hậu.
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 5/2013 đến tháng 12/2014
2.2.2. Địa điểm nghiên cứu
Chọn 2 khu vực thủy điện ảnh hưởng đến tình hình sốt rét tại tỉnh Gia Lai
là thủy điện Sê San (phía Tây Bắc tỉnh Gia Lai) và thủy điện Krông Pa (phía
Đông Nam tỉnh Gia Lai). Mỗi thủy điện điều tra 6 điểm tại 2 xã được chọn theo
3 sinh cảnh: trong rừng (có dân hoạt động), vùng đệm (trung gian giữa rừng và
khu dân cư, gần thủy điện) và khu dân cư. Như vậy tại 2 khu vực thủy điện này
sẽ lựa chọn 4 xã với 12 điểm điều tra đại diện cho 3 vùng sinh cảnh.
- Thủy điện Sê San (huyện Ia Grai, Gia Lai): chọn 2 xã IaO và Ia Chía, mỗi xã
điều tra 3 vùng sinh cảnh × 2 xã = 6 điểm điều tra;
- Thủy điện Krông Pa (huyện Krông Pa, Gia Lai): chọn 2 xã Ia Sươm và Chư
R Căm, mỗi xã điều tra 3 vùng sinh cảnh × 2 xã = 6 điểm điều tra.
3.3. Thiết kế nghiên cứu
- Thiết kế mô tả hồi cứu:
Thu thập số liệu về BNSR, KSTSR; nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa. Số liệu
BNSR được thu thập từ khoa Dịch tễ của Viện và từ Trung tâm Y tế các huyện
Ia Grai, Krông Pa; được phân tích hồi cứu theo hai khu vực thủy điện và theo
03 giai đoạn (2000-2004; 2005-2009 và 2010-2014), việc phân chia này theo xu
thế tăng hoặc giảm của tỷ lệ mắc bệnh sốt rét. Số liệu khí tượng được thu thập
trong thời gian từ 2005-2014 từ các niên giám thống kê của tỉnh Gia Lai. Qua
26
đó, phân tích những thay đổi về khí hậu liên quan đến những thay đổi về tình
hình sốt rét ở các khu vực thủy điện.
- Thiết kế nghiên cứu cắt ngang theo dõi dọc:
Tiến hành các điều tra về tỷ lệ mắc bệnh sốt rét, véc tơ truyền bệnh sốt rét
theo các thời điểm mùa khô, đầu, giữa và cuối mùa mưa, điều tra được lặp lại
trong 02 năm nhằm theo dõi diễn biến của bệnh sốt rét và các véc tơ sốt rét ở
các sinh cảnh đặc trưng hiện nay tại các khu vực thủy điện do sự xây dựng và
vận hành của các nhà máy thủy điện tạo ra. Qua đó đánh giá sự thay đổi của các
véc tơ sốt rét và bệnh sốt rét ở các vùng sinh địa cảnh hiện nay tại các khu vực
thủy điện.
Các đợt điều tra cắt ngang theo dõi dọc được thực hiện với cỡ mẫu được
tính toán trước theo các thiết kế nghiên cứu để đảm bảo cỡ mẫu tối thiểu cần
đưa vào điều tra.
Các kỹ thuật phòng thí nghiệm PCR và ELISA được thực hiện nhằm hỗ
trợ xác định các thành viên trong các nhóm loài đồng hình Dirus và Minimus và
xác định tỷ lệ nhiễm KSTSR, vai trò truyền bệnh của các véc tơ.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Nghiên cứu đánh giá tình hình sốt rét và các chỉ số sốt rét hiện mắc ở
cộng đồng dân cư thuộc khu vực thủy điện sông Sê San và Krông Pa
3.4.1.1.Hồi cứu tình hình sốt rét tại các điểm nghiên cứu giai đoạn 2000-2014
Thu thập số liệu về BNSR, KSTSR từ khoa Dịch tễ của Viện và từ Trung
tâm Y tế các huyện Ia Grai, Krông Pa; số liệu được phân tích hồi cứu theo hai
khu vực thủy điện và theo 03 giai đoạn (2000-2004; 2005-2009 và 2010-2014),
việc phân chia này theo xu thế tăng hoặc giảm của tỷ lệ mắc bệnh sốt rét. Qua
đó, phân tích những thay đổi về số lượng BNSR diễn biến mùa truyền bệnh sốt
rét theo các giai đoạn ở các khu vực thủy điện.
3.4.1.2. Điều tra các chỉ số sốt rét hiện mắc ở các khu vực thủy điện
a. Cỡ mẫu điều tra cắt ngang dịch tễ sốt rét
27
Sốt rét là một bệnh diễn biến theo mùa trong năm, nên các đợt điều tra về
tỷ lệ mắc bệnh sốt rét tiến hành theo các thời điểm mùa khô, đầu, giữa và cuối
mùa mưa, điều tra được lặp lại trong 02 năm nhằm theo dõi diễn biến của bệnh
sốt rét.
Mỗi điểm tiến hành các đợt điều tra các chỉ số mắc sốt rét cắt ngang vào
các thời điểm điều tra côn trùng, với cỡ mẫu tính theo mẫu điều tra ngang:
Z2(1/2) pq
N = × k d2
Với: Z(1/2) là giá trị Z thu được từ Bảng Z ứng với giá trị của .P : là tỷ lệ KSTSR theo các điều tra trước cho từng vùng dịch tễ.
q = 1 p ; d : độ chính xác ; k : là hiệu lực thiết kế.
Chọn P = 5% = 0,05 ; Z = 1,96 ; d = 0,03 và k = 2
Ta có: N = 406 400 người/ điểm nghiên cứu/đợt.
Phương pháp thu mẫu theo qui trình thường qui: khám phát hiện sốt rét
lâm sàng, lấy lam máu xét nghiệm tìm KSTSR và khám lách.
b. Các kỹ thuật trong nghiên cứu
* Kỹ thuật khám lâm sàng
- Khám lâm sàng phát hiện sốt và bệnh nhân sốt rét.
- Cặp nhiệt độ hố nách nếu nhiệt độ cơ thể đối tượng nghiên cứu
37,50C được chẩn đoán là có sốt.
Để chẩn đoán 1 bệnh nhân SRLS cần căn cứ vào 4 đặc điểm sau đây:
+ Hiện đang sốt ( 37,50C) hoặc có sốt trong 3 ngày gần đây
+ Không giải thích được các nguyên nhân gây sốt khác
+ Đang ở hoặc qua lại vùng sốt rét trong vòng 9 tháng gần đây
+ Điều trị bằng thuốc sốt rét có đáp ứng tốt trong vòng 3 ngày.
* Kỹ thuật xét nghiệm máu tìm KSTSR
28
Kỹ thuật lấy máu được thực hiện bằng cách lấy máu ngoại vi ở đầu ngón
tay áp út để làm giọt dày trên lam kính sạch. Sau khi giọt máu khô, sử dụng
dung dịch giêm sa 3% được pha với dung dịch đệm (pH=7,2) để nhuộm giọt
máu trong thời gian 30-45 phút. Soi lam và đọc kết quả dưới vật kính dầu của
kính hiển vi quang học. Soi và đếm mật độ KSTSR (theo phương pháp định
lượng và định tính). Mật độ KSTSR sẽ được ước tính dựa trên số lượng thẻ vô
tính và giao bào trên 200 tế bào bạch cầu với giả định số lượng bạch cầu trung
bình là 8.000/µl máu. Kết quả có thể biểu thị bằng hệ thống dấu (+). Khi kết
luận một lam có kết quả âm tính cần phải soi ít nhất 100 vi trường (mỗi vi
trường chuẩn có 15-20 bạch cầu) mà không tìm thấy KSTSR.
c. Các chỉ số trong nghiên cứu
- Tỷ lệ SRLS: Là tỷ lệ % số ca SRLS trên tổng số người khám.
- Tỷ lệ lam dương tính (Slide Positive Rate-SPR): Là tỷ lệ % lam có
KSTSR(+) trên tổng số lam xét nghiệm.
Tổng số lam dương tínhTỷ lệ lam dương tính (SPR) (+) = ----------------------------- x 100
Tổng số lam xét nghiệm
- Cơ cấu ký sinh trùng : Là tỷ lệ % từng loại KST trên tổng số KST.
Số lượng từng loại KST% loại KST = ----------------------------- x 100
Tổng số KST- Tỷ lệ giao bào : Là tỷ lệ % số giao bào trên tổng số người được xét
nghiệm. Tổng số giao bào
Tỷ lệ giao bào = ------------------------------- x 100 Tổng số người xét nghiệm
Các tỷ lệ này sẽ được phân tích theo các điểm điều tra, theo nhóm tuổi…
3.4.1.3. Điều tra xã hội học và kiến thức, thái độ, thực hành PCSR của cộng
đồng dân cư các khu vực thủy điện
29
- Phỏng vấn (theo mẫu Bộ câu hỏi thiết kế sẵn) người dân sinh sống ở các
điểm nghiên cứu về dân tộc, nghề nghiệp, tập quán, kinh tế, các yếu tố nguy cơ
mắc sốt rét; cũng như kiến thức, thái độ và thực hành PCSR... hiện tại.
Cỡ mẫu tiến hành phỏng vấn là 100 người (từ 15 tuổi trở lên) tại mỗi xã
(thuộc 02 khu vực thủy điện). Mỗi hộ sẽ chọn 1 người đại diện tham gia phỏng
vấn. Danh sách các hộ được chọn ngẫu nhiên từ danh sách của địa phương.
3.4.2. Nghiên cứu xác định thành phần loài và vai trò truyền bệnh của véc
tơ truyền bệnh sốt rét tại hồ thủy điện sông Sê San và Krông Pa
3.4.2.1. Cỡ mẫu và chọn mẫu
Các đợt điều tra côn trùng sốt rét được thực hiện tại các xã đã chọn vào
các thời điểm khác nhau trong năm: mùa khô, đầu mùa mưa, giữa mùa mưa và
cuối mùa mưa, điều tra được lặp lại trong 02 năm.
Các phương pháp thu thập muỗi và bọ gậy theo quy trình của Tổ chức Y
tế thế giới (1994) và của Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương (2011), bao gồm
những phương pháp sau (được thực hiện giống nhau trong mỗi đợt điều tra và
tại các điểm điều tra):
- Bắt muỗi bằng mồi người trong nhà rẫy ban đêm: Một người điều tra
trong nhà từ 18 giờ đến 6 giờ sáng ngày hôm sau trong 4 đêm liền tại 4 nhà rẫy
khác nhau.
- Bắt muỗi bằng mồi người ngoài nhà rẫy ban đêm: Một người điều tra
ngoài nhà rẫy từ 18 giờ đến 6 giờ sáng ngày hôm sau trong 4 đêm liền tại 4 nhà
rẫy khác nhau.
- Bắt muỗi trú đậu rình mồi trên tường vách nhà rẫy ban đêm: Một người
thực hiện suốt đêm tại 4 nhà rẫy.
- Bắt muỗi trú đậu tiêu máu trong nhà rẫy ban ngày: thực hiện bắt muỗi
tại 10 nhà trong mỗi đợt điều tra ở mỗi điểm nghiên cứu.
- Bắt muỗi bằng bẫy đèn trong nhà rẫy ban đêm: Đặt 2 bẫy đèn trong nhà
rẫy trong 2 đêm từ 18 giờ đến 6 giờ sáng.
30
- Bắt muỗi bằng bẫy đèn ngoài nhà rẫy ban đêm: Đặt 2 bẫy đèn ngoài
nhà tại 2 nhà rẫy trong 2 đêm từ 18 giờ đến 6 giờ sáng.
- Bắt muỗi ở chuồng gia súc ban đêm (nếu ở nhà rẫy có chuồng gia súc
hoặc có trâu, bò): Treo 01 bẫy đèn ở chuồng gia súc hoặc gần nơi trâu, bò nằm
để bắt muỗi suốt đêm từ 18 giờ đến 6 giờ sáng.
- Bắt bọ gậy trên các thủy vực: Mỗi thủy vực điều tra 100 bát. Ở những
loại thủy vực nhỏ (ổ nước nhỏ), bắt tất cả bọ gậy có trong đó.
Cỡ mẫu để xác định thành phần loài Anopheles: tất cả các cá thể muỗi
trưởng thành và bọ gậy Anopheles thu thập được qua các phương pháp đều được
định loại để xác định thành phần loài Anopheles tại các điểm nghiên cứu.
Cỡ mẫu cho kỹ thuật mổ muỗi: tất cả các cá thể muỗi trưởng thành còn
sống của các loài trong danh sách véc tơ chính và phụ vùng rừng núi gồm: An.
dirus, An. minimus, An. aconitus, An. jeyporiensis và An. maculatus đều được mổ
và soi buồng trứng để xác định tỷ lệ đẻ của mỗi loài.
Cỡ mẫu cho kỹ thuật ELISA xác định vai trò truyền bệnh: tất cả các cá thể
muỗi trưởng thành đã chết của các loài trong danh sách véc tơ chính và phụ vùng
rừng núi: An. dirus, An. minimus, An. aconitus, An. jeyporiensis và An. maculatus
và xác muỗi đã mổ sẽ được phơi khô, bảo quản trong tuýp Eppendoft để xét
nghiệm ELISA tại phòng thí nghiệm của Viện nhằm xác định tỷ lệ nhiễm
KSTSR của các véc tơ.
3.4.2.2. Các kỹ thuật trong nghiên cứu
a. Kỹ thuật điều tra muỗi và bọ gậy Anopheles
- Phương pháp bắt muỗi bằng mồi người trong và ngoài nhà rẫy ban đêm
Người mồi muỗi thường mặc quần cộc hoặc vén quần lên để chân ra thu hút
muỗi. Vị trí mồi có thể ở trong nhà, ngoài sân hay ngoài rẫy. Người mồi muỗi
ngồi yên, chờ cho muỗi đến đốt máu thì soi đèn pin, dùng tube bằng thuỷ tinh có
thủng hai đầu để để bắt. Dùng bông không thấm nước để đậy miệng tube.
Khoảng 2 - 3 phút phải bật đèn lên để kiểm tra, không chiếu đèn trực tiếp vào
31
muỗi vì ánh sáng kích thích làm muỗi bay mất. Ghi lại giờ bắt muỗi, nơi bắt
muỗi.
- Phương pháp bắt muỗi trú đậu trong nhà ban ngày
Thời gian điều tra: Tiến hành vào buổi sáng từ 6 -10 giờ ở trong nhà. Chú
ý tìm những nơi có ít ánh sáng, kín gió, độ cao từ 2 mét trở xuống, muỗi thường
đậu trên quần áo, chăn màn, trong các đồ dùng gia đình như xoong nồi, chum
vại …Khi thấy muỗi úp nhanh ống nghiệm lên muỗi, di động qua lại cho muỗi
bay vào ống, dùng bông nút ống lại. Ghi vào nhãn : địa điểm thu thập muỗi,
huyện, xã, số nhà, nơi đậu, độ cao so với sàn nhà của từng con, số sella của
muỗi.
- Phương pháp bắt muỗi trú đậu rình mồi trên tường vách ban đêm
Thời gian điều tra: Tiến hành theo giờ mồi muỗi ban đêm, mỗi giờ soi 10
phút trên tường, mái nhà thấp, trên màn… những nơi mà muỗi có thể đậu để
rình mồi.
- Phương pháp thu thập muỗi bằng bẫy đèn trong và ngoài nhà ban đêm
Bẫy đèn trong nhà được treo trong nhà rẫy cách sàn nhà khoảng 1-1,5 m.
Bẫy đèn ngoài nhà rẫy được treo cách nhà rẫy từ 50-100 m.
- Phương pháp thu thập muỗi chuồng gia súc ban đêm
Tìm bắt muỗi đang đốt máu trâu bò, đang đậu trên tường hay trên các đám
cỏ, bụi cây gần chuồng. Dùng tube bằng thuỷ tinh có thủng hai đầu để bắt muỗi.
Dùng bông không thấm nước để đậy miệng tube. Ghi lại giờ bắt muỗi, nơi bắt
muỗi. Bên cạnh đó, treo 01 bẫy đèn CDC ở chuồng gia súc hoặc gần nơi trâu,
bò nằm để bắt muỗi suốt đêm từ 18 giờ đến 6 giờ sáng.
- Kỹ thuật điều tra bọ gậy
Thu thập bọ gậy trên các thủy vực: suối nước chảy chậm, vũng nước ở hai
bên bờ suối, vũng nước đọng, vũng nước ở trong rừng. Dùng bát khoảng 200 ml
hớt nhẹ nước trên bề mặt các thủy vực, đổ vào khay men trắng, dùng ống hút
bắt bọ gậy cho vào lọ.
b. Kỹ thuật định loại hình thái muỗi và bọ gậy Anopheles
32
Sử dụng bảng định loại Anopheles của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn
trùng Trung ương (2008).
- Cho muỗi ra đĩa petri, dùng kim mổ cắm vào ngực muỗi, giữa đôi chân
thứ hai, chếch về phía sau cho 2 cánh muỗi xoè ra.
- Quan sát muỗi bằng lúp tay có độ phóng đại 10x, hoặc lúp hai mắt có
độ phóng đại 20x sơ bộ nhận xét các đặc điểm sau: muỗi đực hay muỗi cái,
Anophelinae hay Culicinae, cánh có điểm trắng đen hay đồng màu, chân có hoa
hay đen tuyền, các đốt bàn chân có băng trắng hay không có băng trắng. Sau
khi có khái niệm chung, dùng lúp tay quan sát chi tiết, so sánh các đặc điểm đó
với bảng định loại và xác định loài.
c. Kỹ thuật PCR xác định các thành viên trong các nhóm loài đồng hình
Xác định các thành viên của các phức hợp loài Dirus theo Ngô Thị
Hương và cs. (2001); xác định thành viên của các phức hợp loài Minimus theo
Hoàng Kim Phúc và cs. (2003).
c.1. Kỹ thuật PCR xác định phức hợp loài Minimus
Phương pháp tách chiết ADN tổng số (phương pháp tách thô)
Cho 50l 1X PCR Buffer vào tube có chứa mẫu. Dùng chày nhựa vô
trùng nghiền mẫu cho đến khi thành dung dịch đồng nhất. Đun cách thủy 1000C
10 phút. Làm lạnh nhanh trên đá 5 phút. Ly tâm 10.000 vòng/ phút để lắng cặn.
Dịch nổi ở trên có chứa DNA tổng số, dùng làm khuôn để tiến hành PCR.
Phương pháp tiến hành phản ứng PCR
Phản ứng PCR được thực hiện trên máy 2720 Thermal Cycler, Applied
Biosystem. Sử dụng các cặp mồi xác định phức hợp loài theo Hoàng Kim Phúc
và cs (2003). Thành phần, hoá chất chủ yếu sử dụng trong phản ứng PCR:
Primer, Taq DNA polymerase, dNTPs, Reaction buffer, DNA khuôn.
Chu trình nhiệt của phản ứng PCR gồm các bước như sau
940C - 5 phút
940C - 1 phút
600C - 1 phút 30 chu kỳ
33
720C - 1 phút 30giây
720C - 5 phút
Kiểm tra sản phẩm PCR
Sản phẩm PCR được kiểm tra bằng điện di trên gel agarose 1,5% với
120V/ 60 phút, nhuộm bằng Ethidium Bromide và sau đó quan sát sản phẩm
trên máy soi gel, ghi hình vào máy tính.
c.2. Kỹ thuật PCR xác định phức hợp loài Dirus
Phương pháp tách chiết ADN tổng số (phương pháp tách thô)
Cho 50l 1X PCR Buffer vào tube có chứa mẫu. Dùng chày nhựa vô
trùng nghiền mẫu cho đến khi thành dung dịch đồng nhất. Đun cách thủy 1000C
10 phút. Làm lạnh nhanh trên đá 5 phút. Ly tâm 10.000 vòng/ phút để lắng cặn.
Dịch nổi ở trên có chứa DNA tổng số, dùng làm khuôn để tiến hành PCR.
Phương pháp tiến hành phản ứng PCR
Phản ứng PCR được thực hiện trên máy 2720 Thermal Cycler, Applied
Biosystem. Sử dụng các cặp mồi xác định phức hợp loài theo Ngô Thị Hương
và cs (2001). Thành phần, hoá chất chủ yếu sử dụng trong phản ứng PCR:
Primer, Taq DNA polymerase, dNTPs, Reaction buffer, DNA khuôn.
Chu trình nhiệt của phản ứng PCR gồm các bước như sau
940C - 2 phút
940C - 30 giây
580C - 30 giây 30 chu kỳ
720C - 30 giây
720C - 10 phút
Kiểm tra sản phẩm PCR
Sản phẩm PCR được kiểm tra bằng điện di trên gel agarose 1,8% với
120V/ 60 phút, nhuộm bằng Ethidium Bromide và sau đó quan sát sản phẩm
trên máy soi gel, ghi hình vào máy tính.
d. Kỹ thuật mổ muỗi và quan sát buồng trứng
34
Số muỗi còn sống sẽ được tiến hành mổ và soi buồng trứng để xác định
muỗi đã đẻ hay chưa đẻ theo qui trình kỹ thuật của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO,1991) và của Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương (2011).
Kỹ thuật mổ muỗi
Gây mê muỗi bằng ether hay chloroform, dùng kính lúp định loại muỗi,
xác định sella muỗi. Dùng kéo cắt chân, cánh, đầu muỗi.
Cho lên lam kính 3 giọt nước muối sinh lý, mỗi giọt cách nhau 1,5 cm.
Đưa lam kính vào kính lúp 2 mắt, muỗi được đặt vào giọt nước ở giữa, đầu
muỗi hướng về phía bên phải, bụng muỗi hướng về phía người mổ.
Dùng kim xé rách một ít kitin ở đốt cuối (đốt 7 và 8). Đặt kim phải lên trên
ngực muỗi, kim trái lên đốt cuối cùng và kéo dần kim sang phía trái cho đến khi
dạ dày và 2 buồng trứng được lôi ra khỏi bụng muỗi. Vớt xác muỗi ra khỏi lam
kính. Tách 2 buồng trứng sang giọt nước bên trái, dạ dày vẫn giữ nguyên ở giọt
nước giữa.
Phương pháp soi khí quản buồng trứng để xác định muỗi đã đẻ hay chưa
Sau khi mổ lấy buồng trứng, dùng kim mổ vớt buồng trứng đặt lên giọt
nước cất trên một cái lam sạch. Để nước cất khô tự nhiên. Soi buồng trứng dưới
kính hiển vi, độ phóng đại 10x, 40x, muỗi chưa đẻ khí quản của buồng trứng
xoắn lại, muỗi đã đẻ khí quản buồng trứng dãn ra.
e. Kỹ thuật ELISA xác định muỗi nhiễm KSTSR
Kỹ thuật ELISA phát hiện ký sinh trùng SR trong cơ thể muỗi (theo Cẩm
nang kỹ thuật phòng chống bệnh sốt rét của Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương,
2011).
Sau khi thu thập muỗi ở thực địa, số muỗi chết, xác muỗi sau khi mổ được
phơi khô, sẽ được bảo quản trong tuýp Eppendorf và cho vào hộp có chứa silicagel
sử dụng cho thử nghiệm ELISA để xác định KSTSR trong cơ thể véc tơ sốt rét tại
phòng thí nghiệm của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn.
Nguyên lý:
ELISA (Thử nghiệm miễn dịch hấp phụ liên kết Enzym - Enzym Linked
Immunosorbent Assay) dựa trên nguyên lý kết hợp giữa kháng nguyên bề mặt
35
của thoa trùng sốt rét trong muỗi với các kháng thể đơn dòng có gắn các chất
oxi hóa để giúp hiện màu. Phản ứng xảy ra có thể tóm tắt như sau: kháng thể +
kháng nguyên (từ mẫu vật) + kháng thể có gắn chất oxi hóa + chất hiện màu =
màu dương tính.
Hóa chất và dụng cụ:
Hóa chất:
Kháng thể đơn dòng của Plasmodium falciparum (P.f Mabs)
Kháng thể đơn dòng của Plasmodium falciparum có gắn peroxidase
Đối chứng dương Plasmodium falciparum
Kháng thể đơn dòng của Plasmodium vivax 210 (P.v 210 Mabs)
Kháng thể đơn dòng của Plasmodium vivax 210 có gắn peroxidase
Đối chứng dương Plasmodium vivax 210.
Kháng thể đơn dòng của Plasmodium vivax 247 (P.v 247 Mabs)
Kháng thể đơn dòng của Plasmodium vivax 247 có gắn peroxidase
Đối chứng dương Plasmodium vivax 247.
Phức hợp hiện màu ABTS và Peroxidase; Sodium chloride (NaCl)
Hydrochloric acid 1N (HCl)
Di-sodium hydrogen phosphate dihydrate (Na2HPO4.2H2O)
Sodium hydrogen phosphate dihydrate (NaH2PO4.2H2O)
Sodium hydroxide (NaOH); Đỏ phenol; Casein; Nonidet P-40 (NP-40)
Tween – 20 (Tw-20); Phức hợp hiện màu ABTS và Peroxidase
Bộ Kit ELISA của Plasmodium falciparum (P.f Mabs), Plasmodium vivax
210 (P.v 210 Mabs), Plasmodium vivax 247 (P.v 247 Mabs) được sử dụng trong
thí nghiệm là do CDC Entomology Branch, Atlanta, Hoa Kỳ cung cấp.
Dụng cụ:
Ống eppendorf 1,5ml; Đĩa ELISA 96 lỗ đáy tròn
Chày nghiền chuyên dụng; Bộ micropipet; Micropipet 8 đầu 10µl - 200µl;
Các máng để pha dung dịch; Đầu rửa 8 giếng;
Các giá 96 lỗ để đựng ống eppendorf
36
Cân điện từ; Máy khuấy từ có đun nóng; Các Micropipette
Pipette 8 đầu; Đầu rửa 8 đầu; Máy đọc ELISE
Muỗi khô từ thực địa về được tiến hành xác định kí sinh trùng bằng ELISA
theo phương pháp của Wirtz, R.A., (1987).
Các bước tiến hành:
Muỗi khô mang về từ thực địa tiến hành định loại hình thái. Tách phần đầu
và ngực của muỗi cho vào ồng eppendorf (mỗi mẫu một ống)
Sắp xếp các ống eppendorf vào giá theo trình tự sau:
Bảng 2.1. Trình tự sắp xếp mẫu trong thử nghiệm ELISAA1 A2 A3 A4 A5 A6 A7 A8 A9 A10 A11 A12
B1 B2 B3 B4 B5 B6 B7 B8 B9 B10 B11 B12
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 C12
D1 D2 D3 D4 D5 D6 D7 D8 D9 D10 D11 D12
E1 E2 E3 E4 E5 E6 E7 E8 E9 E10 E11 E12
F1 F2 F3 F4 F5 F6 F7 F8 F9 F10 F11 F12
G1 G2 G3 G4 G5 G6 G7 G8 G9 G10 G11 G12
H1 H2 H3 H4 H5 H6 H7 H8 H9 H10 H11 H12
Giếng A1 đến H1: đối chứng trắng (hoàn toàn là hóa chất không có mẫu
muỗi)
Giếng A2: đối chứng dương
Giếng B2 đến H2: đối chứng âm (muỗi phòng thí nghiệm không có thoa
trùng)
Giếng B3 đến H12: mẫu
Cho vào mỗi ống 50µl dung dịch đệm BB-NP40
Sử dụng chày nghiền muỗi thành một khối dịch đồng nhất
Rửa chày 2 lần bằng dung dịch BB mỗi lần 75µl
Ủ ít nhất 1 giờ hoặc qua đêm
Pha 10 µl đến 40 µl kháng thể đơn dòng của KST (tùy loại KST) vào 5ml
dung dịch PBS
37
Nhỏ vào mỗi giếng của đĩa 96 lỗ 50 µl dung dịch vừa pha trên.
Ủ 1 giờ ở 370C
Sau 1 giờ loại bỏ dịch trên làm khô
Thêm vào mỗi giếng 50 µl dung dịch đối chứng trắng, đối chứng dương,
đối chứng âm và mẫu theo mô tả phía trên
Ủ 2 giờ ở 370C
Sau 2 giờ loại bỏ dịch trên làm khô
Rửa 2 lần bằng PBS-Tween 20
Pha 10 µl kháng thể đơn dòng có gắn peroxidase của KST vào máng có
chứa 10 ml dung dịch BB
Cho vào mỗi giếng 100 µl dung dịch trên
Ủ 1 giờ và làm khô
Sau đó rửa 3 lần bằng dụng dịch PBS-Tween 20
Pha hỗn hợp hiện màu theo tỷ lệ 1:1 (5 ml dung dịch ABTS: 5 ml dung
dịch peroxidase). Nhỏ vào mỗi giếng 100 µl dung dịch trên
Đọc kết quả sau 15 đến 20 phút trên máy đọc ELISA với bước sóng 405-
414nm
Những mẫu có kết quả OD ≥ 3 lần trung bình cộng của chứng âm được coi
là dương tính
Ghi kết quả ELISA dọc bằng mắt thường (khi không có máy đọc ELISA)
Khi nhỏ hỗn hộp hiện màu vào thì các mẫu dương tính sẽ chuyển sang màu
xanh, sau 30 phút đọc kết quả và ghi mức độ hiện màu xanh như sau:
+ xanh nhạt; ++xanh vừa phải ; +++ xanh đen
3.4.2.3. Các chỉ số trong nghiên cứu muỗi Anopheles
Mật độ (con/ giờ/ người ) =Số muỗi bắt được của một véc tơSố người bắt x Số giờ bắt
- Muỗi Anopheles thu thập bằng bẫy đèn được tính mật độ theo công thức:
Mật độ (con/ đèn/ đêm ) = Tổng số muỗi cái thu thập
38
Số bẩy đèn x Số đêm
- Bọ gậy Anopheles thu thập tại các thủy vực được tính theo công thức:
Mật độ (con/bát ) =Tổng số bọ gậy thu thập 100 bát
+ Tỷ lệ muỗi nhiễm KSTSR (S) bằng ELISA được tính theo công thức:
Tổng số muỗi có ký sinh trùngTỷ lệ muỗi nhiễm (S) = 100.
(%) Tổng số muỗi thử ELISA- Tỷ lệ muỗi đã đẻ được tính theo công thức:
Tổng số muỗi đẻ rồiTỷ lệ muỗi đã đẻ = 100.
(%) Tổng số buồng trứng được quan sát+ Mật độ muỗi đốt người (ma) được tính bằng công thức:
Tổng số muỗi bắt bằng mồi người ma = 12.
(con/người/đêm) Tổng số giờ bắt bằng mồi người12: Số giờ hoạt động của muỗi trong 1 đêm.+ Thời gian chu kỳ tiêu sinh l (ngày), (Beklemishev, 1940):
l = + 1
Trong đó:
t là nhiệt độ trung bình của môi trường hàng ngày.
37 là tổng lượng nhiệt hữu hiệu
9 là nhiệt độ tối thiểu cho muỗi phát triển.
1 là khoảng thời gian 1 ngày để cho muỗi tìm nơi đẻ trứng và tìm mồi đốt
+ Xác xuất sống sót hàng ngày P (%) (Theo WHO 1975):
P =
Trong đó: Pa: số muỗi đã đẻ (parous) ; NP: số muỗi chưa đẻ
(nulliparous)
- Tuổi thọ trung bình của quần thể Le (ngày).
39
Le =
+ Chỉ số truyền nhiễm: h = ma.S (theo Ross, 1911).
3.4.3. Nghiên cứu đánh giá sự biến đổi sinh địa cảnh, khí hậu của khu vực
thủy điện liên quan đến bệnh sốt rét tại địa phương
3.4.3.1. Đánh giá sự biến đổi sinh địa cảnh liên quan đến bệnh sốt rét
Việc sự xây dựng và vận hành của các nhà máy thủy điện tạo ra những
thay đổi về sinh địa cảnh, sự xáo trộn các khu dân cư trong khu vực, tạo nên các
sinh địa cảnh đặc trưng hiện nay ở các khu vực tủy điện là:
+ Sinh cảnh trong rừng: do đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, đã có một
số lượng người dân tộc tại chỗ phải đi xa hơn, vào rừng để khai hoang làm rẫy,
cất nhà rẫy để chứa vật liệu, vật tư sản xuất, nông sản phẩm và đẻ ngủ lại rẫy.
Điều này đã tạo nên hình thái lan truyền sốt rét tại khu vực nhà rẫy ở sinh cảnh
trong rừng.
+ Sinh cảnh bìa rừng: Đây là sinh cảnh thuộc vùng đệm, ở gần các đạp
thủy điện và nằm giữa các khu dân cư cố định với rừng tự nhiên. Ở sinh cảnh
này thảm thực vật không liên hoàn, có thể có rừng trồng công nghiệp như cao
su, điều, cà phê… có khoảng cách đến các khu dân cư trung tâm từ 5-10 km.
+ Sinh cảnh trong làng: ở các khu dân cư cố định. Ở đây là những khu tái
định cư, được quy hoạch khi xây dựng thủy điện. Vì vậy, ở sinh cảnh này
thường gần trục đường và xa rừng tự nhiên.
Tiến hành các điều tra về thành phần loài muỗi Anopheles, vai trò truyền
bệnh của các véc tơ sốt rét ở 03 sinh cảnh như trên tại mỗi điểm nghiên cứu.
theo các thời điểm mùa khô, đầu, giữa và cuối mùa mưa, điều tra được lặp lại
trong 02 năm nhằm theo dõi sự khác nhau về thành phần loài Anopheles, diễn
biến của mật độ véc tơ sốt rét, vai trò truyền bệnh của các véc tơ ở các sinh
cảnh đặc trưng hiện nay tại các khu vực thủy điện. Qua đó đánh giá sự thay đổi
của các véc tơ sốt rét ở các vùng sinh địa cảnh hiện nay tại các khu vực thủy
điện.
40
3.4.3.2. Đánh giá sự biến đổi khí hậu liên quan đến bệnh sốt rét
- Hồi cứu thu thập số liệu về BNSR, KSTSR (như mục tiêu 1); số liệu
BNSR được thu thập từ khoa Dịch tễ của Viện và từ Trung tâm Y tế các huyện
Ia Grai, Krông Pa; được phân tích hồi cứu theo hai khu vực thủy điện và theo
03 giai đoạn (2000-2004; 2005-2009 và 2010-2014), việc phân chia này theo xu
thế tăng hoặc giảm của tỷ lệ mắc bệnh sốt rét theo diễn biến khí hậu và các yếu
tố khi tượng trong các giai đoạn tương ứng.
- Thu thập các đặc điểm khí hậu trước đây ở Gia Lai và hiện nay: theo tài
liệu “Khí hậu Việt Nam” của Phạm Ngọc Toàn và Phan Tất Đắc (1978) và tài
liệu mô tả đặc điểm kinh tế xã hội và tự nhiên của tỉnh Gia Lai, các huyện Ia
Grai và Krông Pa.
- Thu thập số liệu khí tượng: nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa. Số liệu khí
tượng được thu thập trong thời gian từ 2005-2014 từ các niên giám thống kê của
tỉnh Gia Lai.
Qua đó, phân tích những thay đổi về khí hậu liên quan đến những thay
đổi về tình hình sốt rét ở các khu vực thủy điện.
3.5. Đạo đức trong nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tuân thủ theo các yêu cầu về đạo đức
trong nghiên cứu y sinh của Bộ Y tế, Bộ Khoa học và Công nghệ.
Các số liệu chỉ nhằm mục đích phục vụ cho nghiên cứu. Các kết quả nghiên
cứu, ý kiến đề xuất được sử dụng vào mục đích phục vụ sức khoẻ nhân dân ngoài
ra không cho mục đích nào khác.
Đối tượng nghiên cứu được biết trước về mục đích yêu cầu của đề tài, được
giải thích cặn kẻ, giải đáp những thắc mắc. Sẵn sàng, tự nguyện tham gia vào đối
tượng nghiên cứu.
Vẫn duy trì bình thường các hoạt động PCSR của Chương trình PCSR
Quốc gia tại các điểm nghiên cứu. Bệnh nhân sốt rét, ký sinh trùng sốt rét phát
hiện trong các cuộc điều tra nghiên cứu được điều trị theo phác đồ quy định của
41
Bộ Y tế và lập danh sách gửi về quản lý tại tuyến y tế cơ sở (Trung tâm y tế
huyện, Trạm y tế xã). Phương pháp mồi người bắt muỗi (bắt muỗi đậu trên
người) trong nghiên cứu véc tơ truyền bệnh, sử dụng biện pháp bắt muỗi ngay
khi vừa đậu trên người. Người tham gia mồi người bắt muỗi sẽ được cấp thuốc
tự điều trị nếu bị mắc bệnh theo hướng dẫn điều trị sốt rét của Bộ Y tế.
Tất cả các kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu tại thực địa tuân thủ theo
các quy định về khám chữa bệnh do Bộ Y tế, chương trình quốc gia phòng
chống sốt rét ban hành. Đảm bảo nguyên tắc vô trùng tuyệt đối nhằm đề phòng
các bệnh lây nhiễm qua đường máu khi lấy các đối tượng tham gia nghiên cứu.
Giữ bí mật tuyệt đối về tình trạng sức khỏe, thông tin cá nhân của người tham
gia nghiên cứu.Các bệnh nhân SR dược điều trị bằng thuốc đặc hiệu và chăm
sóc tận tình.
42
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Tình hình sốt rét và các chỉ số hiện mắc sốt rét ở cộng đồng dân cư khu
vực thủy điện
3.1.1. Tình hình sốt rét tại các khu vực nghiên cứu giai đoạn 2000-2014
3.1.1.1 Tình hình BNSR ở huyện Ia Grai
Bảng 3.1. Phân tích hồi cứu số liệu BNSR tại Ia Grai giai đoạn 2000-2004Chỉ số T1* T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
Trung bình
BNSR 74,2 73,4 51,0 79,0 65,
2 84,4 104,0
117,0
149,6
200,4
188,6
120,6
SD 28,9 28,2 7,1 30,8 17,0 32,1 36,0 46,4 36,7 76,7 100,
4 51,2Mean+2SD 131,
9129,
865,2
140,5
99,2
148,5
176,0
209,9
223,0
353,9
389,5
222,9
* Ghi chú: T: Tháng
Nhận xét:
Số liệu BNSR trong 5 năm giai đoạn 2000-2004: tổng số BNSR ở Ia Grai
là 6.458 ca với số người mắc sốt rét xảy ra ở tất cả các tháng trong năm. Số
lượng BNSR trung bình tháng dao động từ 51-200,4 ca và đỉnh cao nhất là các
tháng 10-11 (188,6-200,4 BNSR).
Bảng 3.2. Phân tích hồi cứu số liệu BNSR tại Ia Grai giai đoạn 2005-2009Chỉ số T1* T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
Trung bình
BNSR35,0
30,8
24,4
27,0
23,2
25,0
32,4 48,8 92,0 88,4 93,6 44,4
SD 16,7
12,1
14,4
15,0
16,1
12,4
22,4 25,9 94,4 67,5 55,5 28,1
Mean+2SD 68,4
54,9
53,3
57,0
55,4
49,9
77,2
100,7
280,8
223,4
204,6
100,5
* Ghi chú: T: Tháng
Nhận xét:
Số liệu BNSR 5 năm giai đoạn 2005-2009 cho thấy: tổng số BNSR ở Ia
Grai 2.825 ca và số người mắc sốt rét cũng xảy ra ở tất cả các tháng trong năm.
Số lượng BNSR trung bình tháng dao động từ 23,2-93,6 ca và đỉnh cao nhất là
từ tháng 9-11 (92-93,6 BNSR).
43
Bảng 3.3. Phân tích hồi cứu số liệu BNSR tại Ia Grai giai đoạn 2010-2014Chỉ số T1* T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
Trung bình
BNSR39,4 22 11,
816,8 16 13,
2 42,8 19,8
32,6
34,6 55,8 48,6
SD 20,2
11,0 8,4 15,
0 9,7 10,8 69,1 8,6 10,
218,3 35,7 29,1
Mean+2SD 79,7
44,0
28,7
46,9
35,4
34,7
181,0
37,1
53,0
71,2
127,3
106,9
* Ghi chú: T: Tháng
Nhận xét:
Số liệu BNSR 5 năm giai đoạn 2010-2014 cho thấy: tổng số BNSR ở Ia
Grai 1.767 ca và số người mắc sốt rét cũng xảy ra ở tất cả các tháng trong năm.
Số lượng BNSR trung bình tháng dao động từ 11,8-55,8 và đỉnh cao nhất là
tháng 9-12 (32,6-55,8 BNSR).
Hình 3.1. So sánh BNSR ở Ia Grai qua các giai đoạn từ 2000-2014.
Nhận xét:
Tổng số BNSR giảm dần qua các giai đoạn (2000-2004: 6.458 ca > 2005-
2009: 2.825 ca > 2010-2014: 1.767 ca); 2000-2004: BNSR đỉnh cao nhất là các
tháng 10-11 (188,6-200,4 ca); 2005-2009: BNSR đỉnh cao nhất là từ tháng 9-11
44
(92-93,6 BNSR); 2010-2014: BNSR đỉnh cao nhất là tháng 9-12 (32,6-55,8
BNSR).
3.1.1.2 Tình hình BNSR ở huyện Krông Pa
Bảng 3.4. Phân tích hồi cứu số liệu BNSR tại Krông Pa giai đoạn 2000-2004Chỉ số T1* T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
Trung bình
BNSR108,
2 75,2 63,0 81,8 58,5 78,4 79,6 109,8
139,8
337,4
353,2
250,0
SD 45,2 52,4 31,4 43,2 42,4 51,6 47,9 49,7 66,2 113,3
196,9 85,8
Mean+2SD 198,6
180,1
125,9
168,2
143,2
181,5
175,3
209,3
272,1
564,0
747,0
421,6
* Ghi chú: T: Tháng
Nhận xét:
Tổng số BNSR ở Krông Pa 8.616 ca và số người mắc sốt rét cũng xảy ra
ở tất cả các tháng trong năm. Số lượng BNSR tập trung cao nhất (> 100 BNSR)
vào các tháng từ tháng 1, tháng 8-12, đỉnh cao nhất là tháng 10-12 (337,4 -
353,2 - 250 BNSR tương ứng).
Bảng 3.5. Phân tích hồi cứu số liệu BNSR tại Krông Pa giai đoạn 2005-2009Chỉ số T1* T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
Trung bình
BNSR 52,6 40,8 26 18,6 18,4 21,4 29,4 40 98,4 121,
8166,
4 83,8
SD 38,7 22,5
24,6 14,5 10,5 8,4 14,7 19,1 79,8 76,5 69,8 32,2
Mean+2SD 130,0
85,8
75,2 47,6 39,4 38,2 58,7 78,2 257,
9274,
7306,
0148,
2* Ghi chú: T: Tháng
Nhận xét:
Số liệu BNSR 2005-2009: tổng số BNSR ở Krông Pa 3.588 ca và số
người mắc sốt rét cũng xảy ra ở tất cả các tháng trong năm. Số lượng BNSR
đỉnh cao nhất là tháng 10-11 (121,8-166,4 BNSR tương ứng).
Bảng 3.6. Phân tích hồi cứu số liệu BNSR tại Krông Pa giai đoạn 2010-2014Chỉ số T1* T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
Trung bình
BNSR122,
8 85 52,8 38,2 40,8 58,6 183,
4 90,6 192 220 259,2
260,4
SD 74,8 41,5 21,1 15,4 17,1 38,2 279,
3 66,6 154,5
118,7
128,8
172,2
45
Mean+2SD 272,5
168,0
95,1 69,1 74,9 135,
0742,
1223,
8500,
9457,
4516,
8604,
8* Ghi chú: T: Tháng
Nhận xét:
Số liệu BNSR giai đoạn 2010-2014: tổng số BNSR ở Krông Pa 8.019 ca
và số người mắc sốt rét cũng xảy ra ở tất cả các tháng trong năm. Số lượng
BNSR đỉnh cao nhất là tháng 10-12 (220 - 259,2 – 260,4 BNSR tương ứng).
Hình 3.2. So sánh BNSR ở Krông Pa qua các giai đoạn từ 2000-2014.
Như vậy, số BNSR có sự biến đổi qua các giai đoạn: 2000-2004 có 8.616
ca, 2005-2009 giảm xuống còn 3.588 ca và 2010-2014 lại tăng lên lại 8.019 ca.
Các đỉnh bệnh cũng đã có những sự xê dịch qua các giai đoạn: 2000-2004:
BNSR đỉnh cao nhất là tháng 10-12; 2005-2009 đỉnh cao nhất là tháng 10-11;
2010-2014: BNSR đỉnh cao nhất là tháng 10-12.
3.1.2. Đánh giá các chỉ số sốt rét hiện mắc ở các khu vực thủy điện
3.1.2.1. Các chỉ số sốt rét hiện mắc ở khu vực thủy điện Ia Grai
a. Các chỉ số mắc sốt rét tại xã Ia O
- Vào mùa khô (tháng 4): các chỉ số mắc sốt rét ở đây đều âm;
- Đầu mùa mưa (tháng 6): tỷ lệ BNSR là 4% và tỷ lệ KSTSR là 0,5-1,75%, tỷ
lệ các ca dương tính với KSTSR có giao bào là 90%. BNSR và KSTSR tập
46
trung ở các nhóm > 5 tuổi và cao nhất là ở nhóm > 16 tuổi (5,35 % BNSR và
2,06 % KSTSR).
- Giữa mùa mưa (tháng 8): tỷ lệ BNSR là 0,5-2,75% và tỷ lệ KSTSR là 0,25-
0,5%, tỷ lệ ca dương tính với KSTSR có giao bào là 50%. BNSR và KSTSR
cũng nằm ở các nhóm > 5 tuổi và cao nhất là ở nhóm > 16 tuổi (3,09 %
BNSR và 0,77 % KSTSR).
Bảng 3.7. Các chỉ số mắc sốt rét qua các đợt điều tra tại xã Ia O, Ia GraiThời điểm
điều tra
Chỉ số sốt rét
NHÓM TUỔI
<1 1 – 5 >5 – 8 9 – 16 >16 TS chung
Tháng 6/ 2013
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 3 4,77 0 0 13 5,35 16 4,0KSTSR 0 0 0 0 2 3,17 0 0 5 2,06 7 1,75Giao bào 0 0 0 0 2 100 0 0 5 100 7 100Số khám 1 25 63 68 243 400
Tháng 8/ 2013
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 2 4,0 1 2,63 8 3,09 11 2,75KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 2 0,77 2 0,5Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 2 100 2 100Số khám 0 53 50 38 259 400
Tháng 10/
2013
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 2 2,27 6 2,75 8 2,0KSTSR 0 0 0 0 0 0 4 4,55 6 2,75 10 2,5Giao bào 0 0 0 0 0 0 2 50,0 4 6,7 6 60,0Lách sưng 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0,46 1 0,25Số khám 0 52 42 88 218 400
Tháng 4/ 2014
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Số khám 1 85 25 42 247 400
Tháng 6/ 2014
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 2 0,85 2 0,5Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 1 50,0 1 50,0Số khám 0 50 47 67 236 400
Tháng 8/ 2014
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 0 0 2 0,77 2 0,5KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0,38 1 0,25Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Số khám 0 80 32 27 261 400
Tháng 10/
2014
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
47
Số khám 0 48 94 70 188 400
- Cuối mùa mưa (tháng 10): tỷ lệ BNSR là 2,0% và tỷ lệ KSTSR là 2,5%, tỷ lệ
ca dương tính với KSTSR có giao bào là 60%. BNSR và KSTSR nằm ở các
nhóm > 9 tuổi (2,27-2,75 % BNSR và 2,75-4,55 % KSTSR).
Hình 3.3. Tỷ lệ mắc sốt rét theo nhóm tuổi ở Ia O.
b. Các chỉ số mắc sốt rét tại xã Ia Chía
- Vào mùa khô (tháng 4): tỷ lệ mắc sốt rét rất thấp (BNSR 0,25%, không phát
hiện KSTSR) và BNSR cũng thuộc nhóm > 16 tuổi.
- Đầu mùa mưa (tháng 6): tỷ lệ BNSR là 2,61% và không phát hiện ca nhiễm
KSTSR nào. BNSR tập trung ở các nhóm ≥ 9 tuổi và cao nhất là ở nhóm > 16
tuổi (3,14 %).
- Giữa mùa mưa (tháng 8): tỷ lệ BNSR là 1,25% và tỷ lệ KSTSR là 0,25%, tỷ
lệ ca dương tính với KSTSR có giao bào là 100%. BNSR và KSTSR cũng
nằm ở các nhóm ≥ 9 tuổi và cao nhất là ở nhóm 9-16 tuổi (2,0 % BNSR và
2,63 % KSTSR).
- Cuối mùa mưa (tháng 10): tỷ lệ BNSR là 0,5% và không phát hiện ca nhiễm
KSTSR nào. BNSR tập trung ở các nhóm > 16 tuổi (0,76 %).
48
Bảng 3.8. Các chỉ số mắc sốt rét qua các đợt điều tra tại xã Ia Chía, Ia Grai.
Thời điểm
điều tra
Chỉ số sốt rét
NHÓM TUỔI<1 1 – 5 >5 – 8 9 – 16 >16 TS chung
SL % SL % SL % SL % SL % SL %
Tháng 6/ 2013
BNSR 0 0 0 0 0 0 1 1,72 10 3,14 11 2,61KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Số khám 1 23 21 58 318 421
Tháng 8/ 2013
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 1 2,0 4 1,44 5 1,25KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Số khám 0 37 35 50 278 400
Tháng 10/
2013
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 0 0 2 0,76 2 0,5KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Số khám 0 51 33 54 262 400
Tháng 4/ 2014
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0,37 1 0,25KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Số khám 2 45 31 54 268 400
Tháng 6/ 2014
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Số khám 0 23 15 52 310 400
Tháng 8/ 2014
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0KSTSR 0 0 0 0 0 0 1 2,63 0 0 1 0,25Giao bào 0 0 0 0 0 0 1 100 0 0 1 100Số khám 0 25 17 38 320 400
Tháng 10/
2014
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
49
Số khám 0 37 21 34 308 400
Hình 3.4. Tỷ lệ mắc sốt rét theo nhóm tuổi ở Ia Chía.
3.1.2.2. Các chỉ số sốt rét hiện mắc ở khu vực thủy điện Krông Pa
a. Các chỉ số mắc sốt rét tại xã Ia Sươm
- Vào mùa khô (tháng 4): các chỉ số mắc sốt rét ở đây đều âm;
- Đầu mùa mưa (tháng 6): tỷ lệ BNSR là 0,5-4,75% và tỷ lệ KSTSR là 0,25-
1,75%, tỷ lệ các ca dương tính với KSTSR có giao bào là 87,5%. BNSR và
KSTSR tập trung ở các nhóm > 5 tuổi và cao nhất là ở nhóm 9-16 tuổi (8,82
% BNSR và 2,94 % KSTSR).
- Giữa mùa mưa (tháng 8): tỷ lệ BNSR là 0,25-2,0% và không phát hiện ca
nhiễm KSTSR nào. BNSR cũng nằm ở các nhóm > 5 tuổi và cao nhất là ở
nhóm 5-16 tuổi (4,9-5,9 % BNSR).
- Cuối mùa mưa (tháng 10): tỷ lệ BNSR là 0,75-1,5% và tỷ lệ KSTSR là 0,75-
2,25%, tỷ lệ ca dương tính với KSTSR có giao bào là 33,3-55,6%. BNSR và
KSTSR nằm ở các nhóm > 9 tuổi (0,96-1,45 % BNSR và 0,17-2,88 %
KSTSR).
50
Bảng 3.9. Các chỉ số mắc sốt rét qua các đợt điều tra tại xã Ia Sươm, Krông Pa.
Thời điểm
điều tra
Chỉ số sốt rét
NHÓM TUỔI
<1 1 – 5 >5 – 8 9 – 16 >16 TS chung
Tháng 6/ 2013
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 2 13,3 3 8,82 14 4,1 19 4,75KSTSR 0 0 0 0 0 0 1 2,94 7 2,05 8 1,75Giao bào 0 0 0 0 0 0 1 100 6 85,7 7 87,5Số khám 0 10 15 34 341 400
Tháng 8/ 2013
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 2 5,9 2 4,9 4 1,25 8 2,0KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Số khám 0 5 34 41 320 400
Tháng 10/
2013
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 0 0 3 0,96 3 0,75KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 9 2,88 9 2,25Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 5 55,6 5 55,6Số khám 3 21 19 45 312 400
Tháng 4/ 2014
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Số khám 0 13 22 47 318 400
Tháng 6/ 2014
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 0 0 2 0,65 2 0,5KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0,33 1 0,25Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Số khám 3 3 17 69 307 400
Tháng 8/ 2014
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 1 2,13 0 0 1 0,25KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Số khám 0 1 22 47 320 400
51
Tháng 10/
2014
SL % SL % SL % SL % SL % SL %
BNSR 0 0 0 0 0 0 1 0,17 5 1,45 6 1,5KSTSR 0 0 0 0 0 0 1 0,17 2 0,58 3 0,75Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 1 50,0 1 33,3Số khám 2 27 8 17 346 400
Hình 3.5. Tỷ lệ mắc sốt rét theo nhóm tuổi ở Ia Sươm
b. Các chỉ số mắc sốt rét tại xã Chư R căm
- Vào mùa khô (tháng 4): chỉ phát hiện tỷ lệ KSTSR 0,25%.
- Đầu mùa mưa (tháng 6): tỷ lệ BNSR là 3,25% và tỷ lệ KSTSR là 0,5-1,5%,
tỷ lệ các ca dương tính với KSTSR có giao bào là 50-100%. BNSR và
KSTSR tập trung ở các nhóm > 5 tuổi và cao nhất là ở nhóm >16 tuổi (3,64
% BNSR và 1,25 % KSTSR).
- Giữa mùa mưa (tháng 8): tỷ lệ BNSR là 0,75-2,0%, tỷ lệ KSTSR là 1,0%; tỷ
lệ ca dương tính với KSTSR có giao bào là 25%. BNSR và KSTSR cũng
nằm ở các nhóm > 5 tuổi và cao nhất là ở nhóm 9-16 tuổi (2,6 % BNSR) và ở
nhóm 5-8 tuổi là 2,63 % KSTSR).
- Cuối mùa mưa (tháng 10): tỷ lệ BNSR là 0,25-0,5% và tỷ lệ KSTSR là 0,75-
4,75%, tỷ lệ ca dương tính với KSTSR có giao bào là 66,7-73,7%. BNSR và
52
KSTSR nằm ở các nhóm > 5 tuổi và cao nhất là ở nhóm > 9 tuổi (0,67 %
BNSR và 5,0 % KSTSR).
Bảng 3.10. Các chỉ số mắc sốt rét qua điều tra ở xã Chư R Căm, Krông Pa.Thời điểm
điều tra
Chỉ số sốt rét
NHÓM TUỔI
<1 1 – 5 >5 – 8 9 – 16 >16 TS chung
Tháng 6/ 2013
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 1 1,21 11 3,64 13 3,25KSTSR 0 0 0 0 0 0 1 1,21 5 1,25 6 1,5Giao bào 0 0 0 0 0 0 1 100 5 100 6 100Số khám 1 1 14 82 302 400
Tháng 8/ 2013
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 0 0 8 2,6 8 2,0KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0Số khám 0 8 26 59 307 400
Tháng 10/
2013
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 0 0 2 0,67 2 0,5KSTSR 0 0 1 10 1 3,7 2 3,39 15 5,0 19 4,75Giao bào 0 0 0 0 1 100 1 50,0 12 80,0 14 73,7Số khám 0 14 27 59 300 400
Tháng 4/ 2014
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0,36 1 0,25Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 1 100 1 100Số khám 1 25 48 48 278 400
Tháng 6/ 2014
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0KSTSR 0 0 0 0 0 0 0 0 2 0,67 2 0,5Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 1 50,0 1 50,0Số khám 0 2 32 69 297 400
Tháng 8/ 2014
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 0 0 3 1,0 3 0,75KSTSR 0 0 0 0 1 2,63 0 0 3 1,0 4 1,0
53
Giao bào 0 0 0 0 0 0 0 0 1 33,3 1 25,0Số khám 0 15 38 47 300 400
Tháng 10/
2014
SL % SL % SL % SL % SL % SL %BNSR 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0,33 1 0,25KSTSR 0 0 0 0 1 2,78 0 0 2 0,66 3 0,75Giao bào 0 0 0 0 1 100 0 0 1 50,0 2 66,7Số khám 1 23 36 38 302 400
Hình 3.6. Tỷ lệ mắc sốt rét theo nhóm tuổi ở Chư R Căm
3.1.2.3. So sánh các chỉ số mắc sốt rét ở 02 khu vực thủy điện
54
Hình 3.7. So sánh tỷ lệ BNSR theo mùa ở các điểm nghiên cứu.
Hình 3.8. So sánh tỷ lệ KSTSR theo mùa ở các điểm nghiên cứu.
Ở khu vực thủy điện Krông Pa, các tỷ lệ BNSR và KSTSR ở các điểm
nghiên cứu cao hơn ở khu vực thủy điện Sê San. Trong đó, tỷ lệ BNSR ở cả hai
khu vực thủy điện tập trung chủ yếu vào mùa mưa, đặc biệt vào giữa và cuối
mùa mưa BNSR chiếm tỷ lệ cao. Tương tự, tỷ lệ KSTSR ở các điểm nghiên cứu
cũng tập trung chủ yếu trong mùa mưa và cao nhất là vào cuối mùa mưa: Chư R
Căm 5,5%, Ia Sươm 3%, Ia O 3%.
Như vậy, trong giai đoạn 2013-2014, tỷ lệ BNSR và KSTSR ở các điểm
nghiên cứu khu vực thủy điện Krông Pa cao hơn ở khu vực thủy điện Sê San.
Các chỉ số mắc sốt rét đều tập trung chủ yếu vào giữa và cuối mùa mưa.
3.1.3. Đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành PCSR, đặc điểm sống, dân
tộc, nghề nghiệp và tập quán của người dân ở các khu vực thủy điện
3.1.3.1. Một số đặc điểm của các cộng đồng dân cư khu vực thủy điện
55
Nội dung phỏng vấn
Ia O(n = 100)
Ia Chía(n = 100)
I Sươm (n = 100)
ChưrCăm(n = 100)
Sốlượng
Tỷ lệ(%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Giới tính - Nam - Nữ
5248
5248
4753
4753
5545
5545
4357
4357
Nghề nghiệp- Nông- Cán bộ- Công nhân- Học sinh
94213
94213
90244
90244
96103
96103
93106
93106
Dân tộc- Giarai - Kinh- Thái
9613
9613
9910
9910
9820
9820
10000
10000
Trình độ- Mù chữ- Cấp 1- Cấp 2- Cấp 3- Sau cấp 3
0623431
0623431
6493672
6493672
304017121
304017121
113733145
113733145
Tiếng kinh- Thông thạo- Biết ít- Không biết
45550
45550
51472
51472
274825
274825
34597
34597
Bảng 3.11. Kết quả điều tra xã hội học ở cộng đồng dân cư khu vực thủy điện.
56
Bảng 3.12. Tình hình người dân ngủ rẫy ở các khu vực thủy điện.
Nội dung phỏng vấn
Ia O(n = 100)
Ia Chía(n = 100)
I Sươm (n = 100)
ChưrCăm(n = 100)
Sốlượng
Tỷ lệ(%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Nghề- Làm rẫy- Làm ruộng- Khác
9406
9406
900
10
90010
9604
9604
9307
9307
Thời gian đi vào rẫy- Theo tháng- Thường xuyên- Không ổn định
39952
39952
331255
331255
20872
208
72
483715
483715
Thời điểm đi vào rẫy- Mùa mưa- Mùa khô- Cả năm
503911
503911
543610
543610
66304
66304
335215
335215
Ngủ lại trong rẫy - Thường xuyên- Thỉnh thoảng- Không ngủ lại
143848
143848
83854
83854
62866
62866
204733
204733
Bảng 3.13. Đặc điểm nhà cửa của người dân ở khu dân cư.
Nội dung phỏng vấn
Ia O(n = 100)
Ia Chía(n = 100)
I Sươm (n = 100)
ChưrCăm(n = 100)
Sốlượng
Tỷ lệ(%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Loại nhà- Sàn- Trệt
1486
1486
1486
1486
5644
5644
5644
5644
Vách - Tre - Gỗ- Đất- Gạch
329266
3292
66
210187
2101
87
673021
6730
21
659035
6590
35Gần rừng
- < 100 m- 100-500 m- > 500 m
3790
37
90
0397
03
97
00
100
00
100
5194
51
94
57
Tại các điểm nghiên cứu có một tỷ lệ khá cao là người dân đi làm rẫy
và ngủ lại trong rẫy.
Nội dung phỏng vấn
Ia O(n = 100)
Ia Chía(n = 100)
Ia Sươm (n = 100)
ChưrCăm(n = 100)
Sốlượng
Tỷ lệ(%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Loại nhà rẫy- Sàn- Trệt
3169
3169
1585
1585
7426
7426
5644
5644
Tường vách- Tre nứa- Đất- Gỗ
36829
36829
28810
28810
62173
62173
63559
63559
Khoảng cách từ nhà đến rẫy
- < 1 km- 1-3 km- > 3 km
2890
2890
9388
9388
2098
2098
0199
01
99
Khoảng cách từ rẫy đến rừng
- < 100 m- 100-500 m- > 500 m
3790
3790
0397
0397
00
100
00
100
5194
51
94Bảng 3.14. Đặc điểm nhà rẫy của các cộng đồng dân cư khu vực thủy điện.
3.1.3.2. Kiến thức, thái độ, thực hành PCSR của cộng đồng khu vực thủy điện
58
Nội dung phỏng vấn
Ia O(n = 100)
Ia Chía(n = 100)
I Sươm (n = 100)
ChưrCăm(n = 100)
Sốlượng
Tỷ lệ(%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Đã mắc sốt rét- Chưa - 1 lần- Nhiều lần
571033
571033
621127
621127
66428
66428
71919
71919
Biểu hiện bệnh sốt rét- Nóng sốt- Rét run- Vã mồ hôi- Đau đầu- Đau khắp người- Biểu hiện khác
21195202449
21195202449
16248191949
16248191949
121111281553
121111281553
192313222546
192313222546
Làm gì khi mắc sốt rét- Đến trạm y tế xã,
bệnh viện- Tự điều trị- Không làm gì
85
141
85
141
60
355
60
355
39
5110
39
5110
50
464
50
464
Lây truyền- Ruồi- Nước độc- Muỗi- Ma quỷ- Không biết
2132064
2132064
0137062
0137062
2127366
2127366
1242055
1242055
Bảng 3.15. Tình hình PCSR ở các cộng đồng dân cư khu vực thủy điện.
Bảng 3.16. Tình hình PCSR của người dân khi đi ngủ rẫy.
59
Nội dung phỏng vấn Ia O(n = 100)
Ia Chía(n = 100)
I Sươm (n = 100)
ChưrCăm(n = 100)
Sốlượng
Tỷ lệ(%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Biện pháp PCSR khi ngủ rẫy
- Mang theo màn- Mang theo thuốc SR- Mang võng, bọc
võng- Không làm gì
274069
2740
69
342064
3420
64
248068
2480
68
5931010
59310
10
Đề nghị biện pháp PCSR khi ngủ rẫy
- Mang theo màn- Tẩm màn mang theo- Mang theo võng, bọc
võng tẩm hóa chất- Mang theo thuốc SR- Không đề nghị gì
331
390
331
390
520
192
520
192
321
193
321
193
212
788
212
788
Ngủ màn tẩm- Có- Không - Không biết
51841
518
41
50248
502
48
31663
316
63
42058
420
58Phun hóa chất
- Có- Không- Không biết
39853
398
53
42058
420
58
361153
361153
40060
400
60Thời gian vào ngủ màn
- 18-20- 20-22- Sau 22
10845
10845
8866
8866
48312
48312
37819
37819
Giặt màn sau tẩm- Có- Không
650
650
947
947
1810
1810
6034
6034
60
3.2. Thành phần loài Anopheles và tập tính của véc tơ sốt rét ở các điểm
nghiên cứu
3.2.1. Kết quả phân loại các thành viên trong hai phức hợp loài Dirus và
Minimus bằng kỹ thuật sinh học phân tử
Bảng 3.17. Kết quả xác định các thành viên 2 nhóm loài Minimus và Dirus.
TTNhóm
loàiĐịa điểm
Số
mẫu
Kết quả PCR
An. dirus An. harrisoni An. minimus1
DirusChưRCăm 113 113 - -
Ia Sươm 241 241 - -
IaO 246 246 - -
Cộng 600 600 - -
2Minimus
ChưRCăm 2 - 0 2
Ia Sươm 40 - 0 40
Ia O 21 - 0 21Cộng 63 - 0 63
Trong tổng số 663 cá thể muỗi thuộc 2 nhóm loài Dirus và Minimus được
định loại bằng kỹ thuật PCR. Những cá thể nhóm loài Dirus thu thập từ các
điểm ở Ia O, Ia Sươm và Chư R Căm đều có kết quả xác định là loài An. dirus,
còn các cá thể trong nhóm loài Minimus cũng thu thập được ở các điểm Ia O, Ia
Sươm và Chư R Căm cho kết quả là loài An. minimus.
3.2.1.1. Kết quả xác định nhóm loài Dirus
Phân tích 600 mẫu thuộc nhóm loài Dirus thu thập tại các khu vực nghiên
cứu, tất cả đều thu được sản phẩm PCR đơn băng có kích thước 120bp, đặc
trưng cho kiểu hình An. dirus A ở cả 2 trường hợp dùng mồi riêng biệt và hỗn
hợp mồi. Kết quả này cho thấy tất cả mẫu thu được là kiểu hình An. dirus A và
kiểu hình này chính là loài đã được đặt tên khoa học là An. dirus Peyton et
Harrison, 1979.
61
Hình 3.9. Kết quả điện di sản phẩm ADN của An. dirus
M: DNA marker 100bp ; (-): chứng âm; Giếng 1 chứng dương An.
dirus, 120bp; Giếng 2-11: An. dirus, 120bp.
3.2.1.2. Kết quả xác định nhóm loài Minimus
Hình 3.10. Kết quả điện di sản phẩm ADN của An. minimus A
Ghi chú: Giếng 1: chứng âm; Giếng 2-7: An. minimus, 185bp; Giếng 8:
Chứng (+) An. minimus, 185bp; Giếng 9: Chứng (+) An. harrisoni, 509bp;
Giếng 10: Ladder 100bp.
Kết quả phân tích 63 mẫu thuộc nhóm loài Minimus đều cho ra kiểu hình
An. minimus A, kiểu hình này có sản phẩm PCR đặc trưng đơn băng, kích thước
185 bp. Kiểu hình An. minimus A là loài An. minimus Theobald, 1901.
Như vậy, tại khu vực nghiên cứu trong những năm điều tra (2013-2014)
chỉ ghi nhận được một loài trong nhóm loài đồng hình Minimus là An. minimus.
62
H×nh 6:
120bp
(-) 1 2 3 4 5 6 M 7 8 9 10 11
(-) 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
3.2.2. Thành phần loài Anopheles ở các điểm nghiên cứu
3.2.2.1. Thành phần loài và phân bố Anopheles ở thủy điện Sê San
Bảng 3.18. Thành phần loài Anopheles tại thủy điện Sê San (2013-2014)
TT Thành phần loàiXã Ia O Xã Ia Chía
Sốlượng
Tỷ lệ(%)
Sốlượng
Tỷ lệ(%)
1 An. aconitus 171 2,37 110 1,72
2 An. annularis 412 5,70 584 9,15
3 An. barbirostris 284 3,93 113 1,77
4 An. crawfordi 268 3,71 281 4,40
5 An. dirus 70 0,97 0 0
6 An. jamesi 315 4,36 339 5,31
7 An. jeyporiensis 217 3,00 75 1,17
8 An. karwari 255 3,53 384 6,02
9 An. kochi 47 0,65 0 0
10 An. maculatus 193 2,67 84 1,32
11 An. minimus 12 0,17 0 0
12 An. monstrosus 0 0 1 0,02
13 An. nitidus 0 0 58 0,91
14 An. nivipes 149 2,06 146 2,29
15 An. notanandai 2 0,03 1 0,02
16 An. peditaeniatus 972 13,44 912 14,29
17 An. philippinensis 738 10,21 675 10,57
18 An. sinensis 986 13,64 829 12,99
19 An. splendidus 816 11,29 760 11,90
20 An. tessellatus 30 0,41 42 0,66
21 An. vagus 1.293 17,88 990 15,51
Tổng cộng 7.230 100 6.384 100
Tổng số loài Anopheles thu thập được ở 02 điểm nghiên cứu tại khu vực
thủy điện Sê San là 21 loài. Trong đó ở Ia O thu thập được số loài Anopheles
cao nhất là 19 loài và ở Ia Chía thu thập được 18 loài. Trong 21 loài Anopheles
63
ở khu vực thủy điện Sê San, có mặt 5 loài trong danh sách các loài véc tơ sốt rét
chính và phụ ở vùng rừng núi Việt Nam là: hai véc tơ sốt rét chính là An. dirus
và An. minimus (phát hiện được ở Ia O). Bên cạnh đó có mặt 3 loài véc tơ phụ
vùng rừng núi là: An. aconitus, An. jeyporiensis và An. maculatus có mặt ở cả Ia
O và Ia Chía. Chiếm tỷ lệ cao nhất trong thành phần loài là các loài An. vagus
(15,5-17,9%), An. sinensis (13-13,6%), An. peditaeniatus (13,4-14,3%).
3.2.2.2. Thành phần loài và phân bố Anopheles ở thủy điện Krông Pa
Bảng 3.19. Thành phần loài Anopheles tại thủy điện Krông Pa (2013-2014)
TT Thành phần loàiXã Chư R căm Xã Ia Sươm
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
1 An. aconitus 217 3,27 152 2,46
2 An. annularis 209 3,15 606 9,82
3 An. barbirostris 255 3,84 150 2,43
4 An. dirus 116 1,75 52 0,84
5 An. jamesi 60 0,9 0 0
6 An. jeyporiensis 131 1,97 94 1,52
7 An. kochi 116 1,75 140 2,27
8 An. maculatus 229 3,45 135 2,19
9 An. minimus 7 0,11 9 0,15
10 An. monstrosus 12 0,18 9 0,15
11 An. peditaeniatus 1.154 17,39 1.182 19,15
12 An. philippinensis 931 14,03 512 8,3
13 An. sinensis 1.135 17,1 1.255 20,34
14 An. splendidus 818 12,33 757 12,27
15 An. tessellatus 42 0,63 0 0
16 An. vagus 1.203 18,13 1.118 18,12
Tổng cộng 6.635 100 6.171 100
Tổng số loài Anopheles thu thập được ở 02 điểm nghiên cứu tại khu vực
thủy điện Krông Pa là 16 loài. Trong đó ở Chư R Căm thu thập được số loài
64
Anopheles 16 loài và ở Ia Sươm chỉ thu thập được 14 loài. Có mặt 5 loài trong
danh sách các loài véc tơ sốt rét chính và phụ ở vùng rừng núi Việt Nam là: hai
véc tơ sốt rét chính là An. dirus và An. minimus; bên cạnh đó có mặt 3 loài véc
tơ phụ vùng rừng núi là: An. aconitus, An. jeyporiensis và An. maculatus.
3.2.3. Phân bố Anopheles theo sinh cảnh ở các điểm nghiên cứu
3.2.3.1. Phân bố Anopheles theo sinh cảnh ở thủy điện Sê San
a. Xã Ia O
Bảng 3.20. Sự phân bố muỗi Anopheles ở các sinh cảnh Ia O.
TT Tên loài
Trong rừng Bìa rừng Trong làng
SL % SL % SL %
1 An. aconitus 6 1,73 94 3,39 71 1,73
2 An. annularis 0 0 55 1,98 357 8,69
3 An. barbirostris 5 1,44 72 2,60 207 5,04
4 An. crawfordi 0 0 105 3,79 163 3,97
5 An. dirus 70 20,17 0 0 0 0
6 An. jamesi 0 0 101 3,64 214 5,21
7 An. jeyporiensis 72 20,75 90 3,24 55 1,34
8 An. karwari 0 0 134 4,83 121 2,94
9 An. kochi 0 0 47 1,69 0 0
10 An. maculatus 70 20,17 85 3,06 38 0,92
11 An. minimus 8 2,31 4 1,04 0 0
12 An. nivipes 0 0 61 2,20 88 2,14
13 An. notanandai 0 0 1 0,04 1 0,02
14 An. peditaeniatus 47 13,54 320 11,54 605 14,72
15 An. philippinensis 0 0 394 14,20 344 8,37
16 An. sinensis 50 14,41 387 13,95 549 13,36
17 An. splendidus 19 5,48 340 12,26 457 11,12
18 An. tessellatus 0 0 30 1,08 0 0
19 An. vagus 0 0 454 16,37 839 20,42
Tổng cộng 347 100 2.774 100 4.109 100
65
Ở Ia O, tại sinh cảnh trong rừng số lượng loài Aopheles thấp nhất (10
loài) nhưng có mặt cả 05 véc tơ sốt rét chính, phụ với tỷ lệ của véc tơ chính An.
dirus chiếm rất cao (20,2%); tại sinh cảnh bìa rừng số lượng loài Aopheles cao
nhất trong 03 sinh cảnh (18 loài), có mặt cả 04 véc tơ sốt rét chính, phụ với tỷ lệ
thấp và không có mặt véc tơ chính An. dirus; tại sinh cảnh trong làng, số lượng
loài Aopheles 15 loài, nhưng chỉ có mặt các véc tơ sốt rét phụ với tỷ lệ thấp và
không có mặt 02 véc tơ chính An. minimus, An. dirus.
b. Xã Ia Chía
Bảng 3.21. Sự phân bố muỗi Anopheles ở các sinh cảnh Ia Chía.
TT Tên loài
Trong rừng Bìa rừng Trong làng
SL % SL % SL %
1 An. aconitus 13 6,19 46 1,87 51 1,37
2 An. annularis 0 0 220 8,95 364 9,80
3 An. barbirostris 0 0 0 0 113 3,04
4 An. crawfordi 8 3,81 88 3,58 185 4,98
5 An. jamesi 12 5,71 103 4,19 224 6,03
6 An. jeyporiensis 25 11,90 25 1,02 25 0,67
7 An. karwari 5 2,38 160 6,51 219 5,89
8 An. maculatus 29 13,81 45 1,83 10 0,27
9 An. monstrosus 0 0 0 0 1 0,03
10 An. nitidus 0 0 0 0 58 1,56
11 An. nivipes 0 0 0 0 146 3,93
12 An. notanandai 0 0 1 0,04 0 0
13 An. peditaeniatus 49 23,33 367 14,93 496 13,35
14 An. philippinensis 5 2,28 293 11,92 377 10,15
15 An. sinensis 40 19,05 354 14,40 435 11,71
16 An. splendidus 24 11,43 317 12,90 419 11,28
17 An. tessellatus 0 0 42 1,71 0 0
18 An. vagus 0 0 397 16,15 593 15,96
Tổng cộng 210 100 2.458 100 3.716 100
66
Ở Ia Chía, sinh cảnh trong rừng số lượng loài Anopheles thấp nhất (10
loài) có mặt 3 véc tơ phụ với tỷ lệ cao; sinh cảnh bìa rừng số lượng loài
Aopheles là 14 loài, có mặt 3 véc tơ phụ với tỷ lệ thấp và tại sinh cảnh trong
làng, số lượng loài Aopheles là 15 loài, các véc tơ sốt rét phụ chiếm tỷ lệ thấp.
3.2.3.2. Phân bố Anopheles theo sinh cảnh ở thủy điện ở Krông Pa
a. Chư R Căm
Bảng 3.22. Sự phân bố muỗi Anopheles theo các sinh cảnh ở Chư R Căm.
TT Tên loài
Trong rừng Bìa rừng Trong làng
SL % SL % SL %
1 An. aconitus 11 2,73 129 3,91 77 2,60
2 An. annularis 0 0 110 3,36 99 3,34
3 An. barbirostris 15 3,72 142 4,34 98 3,31
4 An. dirus 108 26,80 8 0,24 0 0
5 An. jamesi 0 0 60 1,83 0 0
6 An. jeyporiensis 33 8,19 98 3,00 0 0
7 An. kochi 0 0 116 3,55 0 0
8 An. maculatus 65 16,13 70 2,14 94 3,18
9 An. minimus 3 0,74 4 0,12 0 0
10 An. monstrosus 0 0 12 0,37 0 0
11 An. peditaeniatus 69 17,12 426 13,02 659 22,26
12 An. philippinensis 13 3,23 472 14,43 446 15,07
13 An. sinensis 61 15,14 666 20,35 408 13,78
14 An. splendidus 25 6,20 381 11,64 412 13,92
15 An. tessellatus 0 0 42 1,28 0 0
16 An. vagus 0 0 536 16,38 667 22,53
Tổng cộng 403 100 3.272 100 2.960 100
Ở Chư R Căm, tại sinh cảnh trong rừng số lượng loài Aopheles 11 loài,
có mặt cả 05 véc tơ sốt rét chính, phụ với tỷ lệ của véc tơ chính An. dirus chiếm
rất cao (26,8%); tại sinh cảnh bìa rừng số lượng loài Aopheles cao nhất trong 03
sinh cảnh (16 loài), có mặt cả 05 véc tơ sốt rét chính, phụ với tỷ lệ thấp; tại sinh
67
cảnh trong làng, số lượng loài Aopheles thấp 09 loài, và chỉ có mặt 02 véc tơ
sốt rét phụ với tỷ lệ thấp và không có mặt 02 véc tơ chính An. minimus, An.
dirus.
b. Ia Sươm
Bảng 3.23. Sự phân bố muỗi Anopheles theo các sinh cảnh ở Ia Sươm
TT Tên loài Trong rừng Bìa rừng Trong làng
SL % SL % SL %
1 An. aconitus 27 8,82 58 2,04 67 2,21
2 An. annularis 0 0 147 5,18 459 15,17
3 An. barbirostris 4 1,31 25 0,88 121 4,00
4 An. dirus 52 16,99 0 0 0 0
5 An. jeyporiensis 24 7,84 32 1,13 38 1,26
6 An. kochi 0 0 140 4,93 0 0
7 An. maculatus 58 18,95 77 2,71 0 0
8 An. minimus 4 1,31 5 0,18 0 0
9 An. monstrosus 0 0 9 0,32 0 0
10 An. peditaeniatus 67 21,9 520 18,32 595 19,66
11 An. philippinensis 5 1,63 346 12,19 161 5,32
12 An. sinensis 46 15,03 569 20,04 640 21,15
13 An. splendidus 19 6,21 365 12,86 373 12,33
14 An. vagus 0 0 546 19,23 572 18,90
Tổng cộng 306 100 2.839 100 3.026 100
Ở Ia sươm, tại sinh cảnh trong rừng số lượng loài Anopheles 11 loài, có
mặt cả 05 véc tơ sốt rét chính, phụ với tỷ lệ của véc tơ chính An. dirus chiếm rất
cao (17,0%); tại sinh cảnh bìa rừng số lượng loài Anopheles cao nhất trong 03
sinh cảnh (13 loài), có mặt 04 véc tơ sốt rét chính, phụ với tỷ lệ thấp, không có
mặt An. dirus; tại sinh cảnh trong làng, số lượng loài Anopheles thấp 09 loài, và
chỉ có mặt 02 véc tơ sốt rét phụ với tỷ lệ thấp và không có mặt 02 véc tơ chính
An. minimus, An. dirus.
68
3.2.4. Mật độ và tập tính của các véc tơ sốt rét ở các điểm nghiên cứu
3.2.4.1. Mật độ và tập tính của các véc tơ sốt rét ở thủy điện Sê San
a. Sinh cảnh trong rừng
Bảng 3.24. Mật độ các véc tơ sốt rét ở trong rừng tại thủy điện Sê San
TT Loài
Phương pháp thu thậpBĐT
N(c/đ/đ)
BĐNN
(c/đ/đ)
MNTN
(c/n/đ)
MNNN
(c/n/đ)
SGS(c/g/n)
Bọ gậy(c/b)
SNN(c/g/n)
SNĐ(c/g/n)
MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ
1 An. aconitus 0,07 0,01 0,11 0,11 0 0,01 0 0
2 An. barbirostris 0 0,02 0,02 0,04 0 0 0 0
3 An. crawfordi 0,01 0,04 0,02 0,05 0 0,01 0 0
4 An. dirus 0,33 0,01 0,27 0,46 0 0 0 0
5 An. jamesi 0,02 0,04 0,02 0,11 0 0 0 0
6 An. jeyporiensis 0,52 0,11 0,34 0,45 0 0,01 0 0
7 An. karwari 0,01 0,02 0,02 0,02 0 0 0 0
8 An. maculatus 0,38 0,21 0,30 0,57 0 0,03 0 0
9 An. minimus 0,05 0,01 0,02 0,04 0 0 0 0
10 An. peditaeniatus 0,37 0,16 0,32 0,61 0 0,06 0 0
11 An. philippinensis 0,04 0 0,02 0,02 0 0 0 0
12 An. sinensis 0,41 0,17 0,29 0,46 0 0,09 0 0
13 An. splendidus 0,19 0,12 0,11 0,20 0 0 0 0
Ghi chú: BĐNN: bẫy đèn ngoài nhà (c/đ/đ: con/đèn/đêm); BĐTN: bẫy đèn trong nhà;
MNTN: mồi người trong nhà (c/n/đ: con/người/đêm); MNNN: mồi người ngoài nhà;
SNN: soi nhà ngày (c/g/n: con/giờ/người); SNĐ: soi nhà đêm; SGS: soi gia súc; BG:
bọ gậy (c/b: con/bát).
Tại thủy điện Sê San, ở sinh cảnh trong rừng, mật độ của các véc tơ sốt
rét ở bẫy đèn trong nhà cao hơn ngoài nhà, nhưng ngược lại mật độ muỗi đốt
người ở ngoài nhà lại cao hơn ở trong nhà, trong đó An. dirus có mật độ đốt
người ngoài nhà cao nhất.
69
b. Sinh cảnh bìa rừng
Bảng 3.25. Mật độ các véc tơ sốt rét ở bìa rừng tại thủy điện Sê San
TT Loài
Phương pháp thu thậpBĐT
N(c/đ/đ)
BĐNN
(c/đ/đ)
MNTN(c/n/đ)
MNNN(c/n/đ)
SGS(c/g/n)
Bọ gậy(c/b)
SNN(c/g/n)
SNĐ(c/g/n)
MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ
1 An. aconitus 0,24 0,10 0,39 0,18 1,43 0,02 0 0
2 An. annularis 0,06 0,12 0,14 0,09 4,41 0,03 0 0
3 An. barbirostris 0,02 0,02 0,05 0,05 1,11 0,04 0 0
4 An. crawfordi 0,07 0,10 0,05 0,11 3,04 0,01 0 0
5 An. jamesi 0,19 0,17 0,16 0,38 2,57 0 0 0
6 An. jeyporiensis 0,45 0,17 0,25 0,30 0,57 0,01 0 0
7 An. karwari 0,21 0,23 0,20 0,34 4,05 0 0 0
8 An. kochi 0,04 0 0 0 0,79 0 0 0
9 An. maculatus 0,37 0,23 0,36 0,36 0,71 0,03 0 0
10 An. minimus 0,05 0 0 0 0 0 0 0
11 An. nivipes 0,08 0,05 0,09 0,13 0,68 0 0 0
12 An. notanandai 0,01 0 0 0,02 0 0 0 0
13 An. peditaeniatus 0,35 0,18 0,43 0,50 10,55 0,17 0 0
14 An. philippinensis 0,26 0,48 0,11 0,27 10,79 0,01 0 0
15 An. sinensis 0,41 0,14 0,30 0,50 11,61 0,18 0 0
16 An. splendidus 0,26 0,16 0,09 0,41 10,61 0 0 0
17 An. tessellatus 0,01 0,01 0 0 1,25 0 0 0
18 An. vagus 0,14 0,11 0,11 0,45 14,27 0,32 0 0
Ghi chú: BĐNN: bẫy đèn ngoài nhà (c/đ/đ: con/đèn/đêm); BĐTN: bẫy đèn trong nhà;
MNTN: mồi người trong nhà (c/n/đ: con/người/đêm); MNNN: mồi người ngoài nhà;
SNN: soi nhà ngày (c/g/n: con/giờ/người); SNĐ: soi nhà đêm; SGS: soi gia súc; BG:
bọ gậy (c/b: con/bát).
70
Ở sinh cảnh bìa rừng, mật độ của các véc tơ sốt rét ở bẫy đèn trong nhà
cao hơn ngoài nhà, tuy nhiên chỉ có 03 loài véc tơ phụ đốt người và mật độ đốt
người ở ngoài nhà và trong nhà khác nhau tùy từng loài véc tơ sốt rét.
c. Sinh cảnh trong làng
Bảng 3.26. Mật độ các véc tơ sốt rét ở trong làng tại thủy điện Sê San
TT Loài
Phương pháp thu thậpBĐT
N(c/đ/đ)
BĐNN
(c/đ/đ)
MNTN(c/n/đ)
MNNN(c/n/đ)
SGS(c/g/n)
Bọ gậy(c/b)
SNN(c/g/n)
SNĐ(c/g/n)
MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ
1 An. aconitus 0,20 0,06 0,23 0,21 1,34 0,01 0 0
2 An. annularis 0,10 0,08 0,05 0,13 12,43 0,01 0 0
3 An. barbirostris 0,10 0,04 0,04 0,13 5,36 0,16 0 0
4 An. crawfordi 0,08 0,10 0,02 0,09 5,84 0,02 0 0
5 An. jamesi 0,12 0,24 0,09 0,23 6,96 0 0 0
6 An. jeyporiensis 0,08 0,05 0,07 0,07 1,09 0 0 0
7 An. karwari 0,23 0,19 0,18 0,21 5,05 0 0 0
8 An. maculatus 0,04 0,05 0,04 0,11 0,59 0,01 0 0
9 An. monstrosus 0 0 0 0 0,02 0 0 0
10 An. nitidus 0 0,02 0 0 1,00 0 0 0
11 An. nivipes 0,13 0,21 0,11 0,13 3,43 0 0 0
12 An. notanandai 0,01 0 0 0 0 0 0 0
13 An. peditaeniatus 0,85 0,54 0,59 1,13 15,88 0,20 0 0
14 An. philippinensis 0,12 0,20 0,07 0,18 12,14 0,02 0 0
15 An. sinensis 0,70 0,36 0,66 1,27 14,05 0,21 0 0
16 An. splendidus 0,20 0,29 0,14 0,55 14,21 0 0 0
17 An. vagus 0,20 0,29 0,23 0,50 24,11 0,32 0 0
Ghi chú: BĐNN: bẫy đèn ngoài nhà (c/đ/đ: con/đèn/đêm); BĐTN: bẫy đèn trong nhà;
MNTN: mồi người trong nhà (c/n/đ: con/người/đêm); MNNN: mồi người ngoài nhà;
SNN: soi nhà ngày (c/g/n: con/giờ/người); SNĐ: soi nhà đêm; SGS: soi gia súc; BG:
bọ gậy (c/b: con/bát).
71
Ở sinh cảnh trong làng, chỉ phát hiện 03 loài véc tơ phụ và mật độ của
các véc tơ sốt rét ở bẫy đèn cũng như mật độ véc tơ đốt người trong nhà và
ngoài nhà khác nhau tùy từng loài véc tơ sốt rét.
3.2.4.2. Mật độ của các véc tơ sốt rét ở thủy điện Krông Pa
a. Sinh cảnh trong rừng
Bảng 3.27. Mật độ các véc tơ sốt rét ở trong rừng tại thủy điện Krông Pa
TT Loài
Phương pháp thu thậpBĐT
N(c/đ/đ)
BĐNN
(c/đ/đ)
MNTN(c/n/đ)
MNNN(c/n/đ)
SGS(c/g/n)
Bọ gậy(c/b)
SNN(c/g/n)
SNĐ(c/g/n)
MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ
1 An. aconitus 0,16 0,02 0,20 0,21 0 0,01 0 0
2 An. barbirostris 0,04 0,01 0,09 0,18 0 0,01 0 0
3 An. dirus 1,00 0,20 0,46 0,59 0 0 0 0
4 An. jeyporiensis 0,26 0,10 0,21 0,27 0 0 0 0
5 An. maculatus 0,77 0,21 0,29 0,43 0 0,02 0 0
6 An. minimus 0,08 0 0 0 0 0 0 0
7 An. peditaeniatus 0,46 0,45 0,32 0,73 0 0,06 0 0
8 An. philippinensis 0,01 0,06 0,05 0,16 0 0 0 0
9 An. sinensis 0,31 0,14 0,43 0,80 0 0,05 0 0
10 An. splendidus 0,14 0,14 0,05 0,30 0 0 0 0
Ghi chú: BĐNN: bẫy đèn ngoài nhà (c/đ/đ: con/đèn/đêm); BĐTN: bẫy đèn trong nhà;
MNTN: mồi người trong nhà (c/n/đ: con/người/đêm); MNNN: mồi người ngoài nhà;
SNN: soi nhà ngày (c/g/n: con/giờ/người); SNĐ: soi nhà đêm; SGS: soi gia súc; BG:
bọ gậy (c/b: con/bát).
Tại thủy điện Krông Pa, ở sinh cảnh trong rừng, mật độ của các véc tơ sốt
rét ở bẫy đèn trong nhà cao hơn ngoài nhà, nhưng ngược lại mật độ muỗi đốt
72
người ở ngoài nhà lại cao hơn ở trong nhà, trong đó An. dirus có mật độ đốt
người ngoài nhà cao nhất.
b. Sinh cảnh bìa rừng
Bảng 3.28. Mật độ các véc tơ sốt rét ở bìa rừng tại thủy điện Krông Pa
TT Loài
Phương pháp thu thập
BĐTN(c/đ/đ)
BĐNN(c/đ/đ)
MNTN
(c/n/đ)
MNNN(c/n/đ)
SGS(c/g/n)
Bọ gậy(c/b)
SNN(c/g/n)
SNĐ(c/g/n)
MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ
1 An. aconitus 0,19 0,17 0,29 0,29 2,25 0,03 0 0
2 An. annularis 0,04 0,02 0 0 4,50 0,04 0 0
3 An. barbirostris 0,01 0,02 0,02 0,11 2,80 0,01 0 0
4 An. dirus 0,05 0 0,02 0,05 0 0 0 0
5 An. jamesi 0 0,06 0 0 0,98 0 0 0
6 An. jeyporiensis 0,23 0,08 0,13 0,18 1,55 0 0 0
7 An. kochi 0,04 0,08 0 0 4,39 0 0 0
8 An. maculatus 0,38 0,23 0,21 0,27 1,23 0,02 0 0
9 An. minimus 0,07 0,01 0 0,04 0 0 0 0
10 An. monstrosus 0 0,05 0 0 0,30 0 0 0
11 An. peditaeniatus 0,51 0,46 0,34 0,66 14,43 0,13 0 0
12
An. philippinensis 0,14 0,33 0,11 0,27 13,52 0 0 0
13 An. sinensis 0,29 0,27 0,48 0,88 19,86 0,20 0 0
14 An. splendidus 0,17 0,32 0,11 0,41 12,07 0 0 0
15 An. tessellatus 0 0 0 0 0,75 0 0 0
73
16 An. vagus 0,38 0,30 0,14 0,29 17,80 0,27 0,07 0
Ghi chú: BĐNN: bẫy đèn ngoài nhà (c/đ/đ: con/đèn/đêm); BĐTN: bẫy đèn trong nhà;
MNTN: mồi người trong nhà (c/n/đ: con/người/đêm); MNNN: mồi người ngoài nhà;
SNN: soi nhà ngày (c/g/n: con/giờ/người); SNĐ: soi nhà đêm; SGS: soi gia súc; BG:
bọ gậy (c/b: con/bát).
Ở sinh cảnh bìa rừng, mật độ của các véc tơ sốt rét ở bẫy đèn trong nhà
cao hơn ngoài nhà, nhưng ngược lại mật độ muỗi đốt người ở ngoài nhà lại cao
hơn ở trong nhà.
c. Sinh cảnh trong làng
Bảng 3.29. Mật độ các véc tơ sốt rét ở trong làng tại thủy điện Krông Pa
TT Loài
Phương pháp thu thậpBĐT
N(c/đ/đ)
BĐNN(c/đ/đ)
MNTN
(c/n/đ)
MNNN(c/n/đ)
SGS(c/g/n)
Bọ gậy(c/b)
SNN(c/g/n)
SNĐ(c/g/n)
MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ MĐ
1 An. aconitus 0,32 0,17 0,34 0,46 1,04 0 0 0
2 An. annularis 0,06 0,13 0,07 0,07 9,54 0 0 0
3 An. barbirostris 0 0 0 0,07 3,84 0,14 0 0
4 An. jeyporiensis 0,06 0,07 0,07 0,14 0,27 0 0 0
5 An. maculatus 0,21 0,14 0,25 0,39 0,50 0,01 0 0
6 An. peditaeniatus 0,80 0,45 0,96 1,55 18,0 0,19 0 0
7 An. philippinensis 0,08 0,24 0,13 0,43 9,80 0 0 0
8 An. sinensis 0,93 0,27 0,84 1,30 14,77 0,22 0 0
9 An. splendidus 0,21 0,38 0,21 0,98 11,93 0 0 0
10 An. vagus 0,32 0,16 0,07 0,34 20,84 0,36 0,16 0
Ghi chú: BĐNN: bẫy đèn ngoài nhà (c/đ/đ: con/đèn/đêm); BĐTN: bẫy đèn trong nhà;
MNTN: mồi người trong nhà (c/n/đ: con/người/đêm); MNNN: mồi người ngoài nhà;
74
SNN: soi nhà ngày (c/g/n: con/giờ/người); SNĐ: soi nhà đêm; SGS: soi gia súc; BG:
bọ gậy (c/b: con/bát).
Ở sinh cảnh trong làng, chỉ phát hiện 03 loài véc tơ phụ và mật độ của
các véc tơ sốt rét ở bẫy đèn cũng như mật độ véc tơ đốt người trong nhà và
ngoài nhà khác nhau tùy từng loài véc tơ sốt rét.
3.3. Vai trò truyền bệnh của các véc tơ sốt rét ở các điểm nghiên cứu
3.3.1. Tuổi thọ trung bình của quần thể véc tơ
3.3.1.1. Tuổi thọ trung bình của quần thể véc tơ ở thủy điện Sê San
Tuổi thọ trung bình quần thể chung của các véc tơ sốt rét ở 02 điểm nghiên
cứu ở thủy điện Sê San là 7,5 ngày. Ở khu vực này, An. dirus có tuổi thọ trung
bình quần thể cao nhất trong các véc tơ là 9,5 ngày, An. minimus là 7,7 ngày; An.
aconitus là 9,1 ngày; An. jeyporiensis là 6,5 ngày và An. maculatus là 6,8 ngày.
Bảng 3.30. Tuổi thọ trung bình của các quần thể véc tơ sốt rét ở Sê San
Địa điểm Loài
Số muỗi mổ
Tỷ lệ muỗi đẻ (%)
Xác suất sống sót
hàng ngày P
Tuổi thọ trung bình quần thể
Le (ngày)Ia O An. aconitus 66 68,2 0,90 7,3
An. dirus 52 69,2 0,90 9,5
An. jeyporiensis 106 58,5 0,86 7,2
An. maculatus 99 59,6 0,86 6,7
An. minimus 11 63,6 0,88 7,7
Σ: 334 TB: 62,6 TB: 0,87 TB: 7,3
Ia Chía
An. aconitus 50 54,0 0,84 5,7
An. jeyporiensis 29 72,4 0,91 10,8
An. maculatus 31 58,1 0,86 6,4
Σ: 110 TB: 60,0 TB: 0,86 TB: 6,9Chung An. aconitus 116 62,1 0,90 9,1
An. dirus 52 69,2 0,90 9,5
An. jeyporiensis 135 61,5 0,86 6,5
75
An. maculatus 130 59,2 0,86 6,8
An. minimus 11 63,6 0,88 7,7
Σ: 444 TB: 61,9 TB: 0,87 TB: 7,5
Ghi chú: Σ: tổng; TB: Trung bình
3.3.1.2. Tuổi thọ trung bình của quần thể véc tơ ở thủy điện Krông Pa
Tuổi thọ trung bình quần thể chung của các véc tơ sốt rét ở 02 điểm nghiên
cứu ở thủy điện Krông Pa là 6,4 ngày. Ở khu vực này, An. dirus cũng có tuổi thọ
trung bình quần thể cao nhất trong các véc tơ là 9,5 ngày, An. minimus là 6,6 ngày;
An. aconitus là 5,9 ngày; An. jeyporiensis là 7,2 ngày và An. maculatus là 5,1
ngày.
Bảng 3.31. Tuổi thọ trung bình của các quần thể véc tơ sốt rét ở Krông Pa
Địa điểm Loài
Số muỗi mổ
Tỷ lệ muỗi đẻ (%)
Xác xuất sống sót
hàng ngày P
Tuổi thọ trung bình quần thể
Le (ngày)Chư R Căm
An. aconitus 79 53,2 0,83 5,5
An. dirus 108 70,4 0,90 10,0
An. jeyporiensis 75 68,0 0,90 9,1
An. maculatus 148 56,1 0,85 6,1
An. minimus 7 57,1 0,85 6,3
Σ: 417 TB: 61,4 TB: 0,87 TB: 7,17
Ia Sươm
An. aconitus 77 57,1 0,85 6,3
An. dirus 48 66,7 0,89 8,6
An. jeyporiensis 55 52,7 0,83 5,5
An. maculatus 86 40,7 0,77 3,9
An. minimus 10 60,0 0,86 6,9
Σ: 276 TB: 52,9 TB: 0,83 TB: 5,5
76
Chung An. aconitus 156 55,1 0,84 5,9
An. dirus 156 69,2 0,90 9,5
An. jeyporiensis 130 61,5 0,87 7,2
An. maculatus 234 50,4 0,82 5,1
An. minimus 17 58,8 0,86 6,6
Σ: 693 TB: 58,0 TB: 0,86 TB: 6,4
Ghi chú: Σ: tổng; TB: Trung bình
3.3.2. Tỷ lệ muỗi nhiễm KSTSR ở các điểm nghiên cứu
Các véc tơ phụ An. aconitus, an. Jeyporiensis, An. maculatus và An.
harrisoni chưa phát hiện nhiễm với KSTSR; trong khi đó, hai véc tơ sốt rét
chính là An. dirus và An. minimus đều dương tính ELISA với với cả 02 loài
KSTSR là P. falciparum và P. vivax.
Bảng 3.32. Số lượng muỗi nhiễm KSTSR chung ở các điểm nghiên cứu
TT Loài Số lượng KSTSR Cộng (+)(-) (+)Pf (+)Pv210 (+)Pv247
1An. aconitus 60 60 - - - 0
2An. dirus 600 598 - 1 1 2
3An. jeyporiensis 35 35 - - - 0
4An. maculatus 443 443 - - - 0
5An. minimus 63 63 4 - - 4
Cộng 1.201 1.195 4 1 1 6
3.3.2.1. Tỷ lệ muỗi nhiễm KSTSR ở thủy điện Sê San
Bảng 3.33. Tỷ lệ muỗi nhiễm KSTSR ở thủy điện Sê San
TT Địa điểm Loài Số muỗi (+) P.f Tỷ lệ
(%) (+) P.v Tỷ lệ (%)
1 Ia Chía An. maculatus 16 0 0 0 02 Ia O An. aconitus 52 0 0 0 0
77
An. harrisoni 2 0 0 0 0
An. jeyporiensis 25 0 0 0 0
An. maculatus 155 0 0 0 0
An. minimus 21 1 5,26 0 0
Cộng: 515 1 0,19 0 0
Kết quả xét nghiệm ELISA 515 các thể muỗi ở thủy điện Sê San gồm cả
các loài véc tơ sốt rét chính và phụ có tỷ lệ nhiễm KSTSR chung là 0,19%,
trong đó chỉ có An. minimus tại Ia O nhiễm KSTSR P. falciparum với tỷ lệ là
5,26%; còn các loài véc tơ khác chưa phát hiện thấy nhiễm KSTSR.
3.3.2.2. Tỷ lệ muỗi nhiễm KSTSR ở thủy điện Krông Pa
Kết quả xét nghiệm ELISA 686 các thể muỗi ở thủy điện Krông Pa gồm
cả các loài véc tơ sốt rét chính và phụ có tỷ lệ nhiễm KSTSR chung là 0,73%,
trong đó An. minimus tại Ia Sươm nhiễm KSTSR P. falciparum với tỷ lệ rất cao
là 10,0%; An. dirus tại Ia Sươm nhiễm KSTSR P. vivax với tỷ lệ là 0,83%; còn
các loài véc tơ khác chưa phát hiện thấy nhiễm KSTSR.
Bảng 3.34. Tỷ lệ muỗi nhiễm KSTSR ở thủy điện Krông Pa
TT Địa điểm Loài Số muỗi (+) P.f Tỷ lệ
(%) (+) P.v Tỷ lệ (%)
1Chư R
Căm
An. aconitus 1 0 0 0 0
An. dirus 113 0 0 0 0
An. maculatus 129 0 0 0 0
An. minimus 2 0 0 0 0
2 Ia Sươm
An. aconitus 7 0 0 0 0
An. dirus 241 0 0 2 0,83
An. jeyporiensis 10 0 0 0 0
An. maculatus 143 0 0 0 0
An. minimus 40 3 7,5 0 0
Cộng: 686 3 0,44 2 0,29
3.3.3. Chỉ số lan truyền của các véc tơ sốt rét ở các điểm nghiên cứu
Bảng 3.35. Chỉ số lan truyền của các véc tơ tại các điểm nghiên cứu
Chỉ số Sê San Krông Pa
78
LoàiTrong rừng Bìa rừng Trong rừng Bìa rừng
An. dirus Mật độ (c/n/đ) 0,73 - 1,05 0,07
Tỷ lệ nhiễm KSTSR (%) - - 0,83 0,83
Chỉ số lan truyền (H) - - 0,87 0,06
An. minimus Mật độ (c/n/đ) 0,06 - - 0,04
Tỷ lệ nhiễm KSTSR (%) 5,26 - - 7,5
Chỉ số lan truyền (H) 0,32 - - 0,30
Tổng chỉ số lan truyền (H) 0,32 - 0,87 0,36
Như vậy, tại thủy điện Sê San tổng chỉ số lan truyền của các véc tơ sốt
rét là H = 0,32, trong đó chỉ xác định được chỉ số lan truyền của 01 véc tơ sốt
rét chính An. minimus có chỉ số lan truyền ở sinh cảnh trong rừng là H = 0,32.
Tại thủy điện Krông Pa, tổng chỉ số lan truyền của các véc tơ sốt rét là: ở trong
rừng H = 0,32 và ở bìa rừng H = 0,36; trong đó xác định được An. dirus có chỉ
số lan truyền ở cả 02 sinh cảnh trong rừng (H = 0,87) và bìa rừng (H = 0,06);
còn An. minimus chỉ xác định được ở bìa rừng có chỉ số lan truyền là H = 0,4.
3.4. Đánh giá sự biến đổi khí hậu của khu vực thủy điện liên quan đến bệnh
sốt rét tại địa phương
3.4.1. Sự biến đổi khí hậu ở Gia Lai
Gia Lai có khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên, trong năm chia làm hai
mùa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm 220 – 250C. Vùng tây Trường Sơn có
lượng mưa trung bình năm từ 2.200 - 2.500 mm, vùng đông Trường Sơn từ
1.200 -1.750 mm.
Bảng 3.36. So sánh một số số liệu khí tượng trước đây và hiện nay ở Gia Lai.
Chỉ số khí tượng Phạm Ngọc Toàn và Giai đoạn
79
Phan Tất Đắc (1978) 2005-2014Nhiệt độ trung bình năm 23,70C 24,00C
Độ ẩm trung bình năm 77% 81%
Lượng mưa trung bình năm 2.447 mm 1.757 mm.
Lượng mưa năm cực đại 2.693 mm 1.998 mm
Lượng mưa năm cực tiểu 1.514 mm 1.538 mm
Nhiệt độ trung bình năm đã tăng lên 0,30C, ẩm độ trung bình năm tăng
4%, trong khi đó lượng mưa trung bình năm giảm đáng kể, chỉ còn 1.757 mm,
lượng mưa năm cực đại (2013: 1.998 mm) vẫn thấp hơn lượng mưa trung bình
năm trước đây (2.447 mm) và lượng mưa trung bình năm cực tiểu (2006) chỉ có
1.538 mm.
3.4.2. Sự liên quan giữa khí hậu và bệnh sốt rét ở Ia Grai
3.4.2.1. Khí hậu ở Ia Grai giai đoạn 2005-2014
Không có biến đổi về mùa mưa và mùa khô, trong năm chia hai mùa rõ
rệt, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô bắt đầu từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau. Nhưng có sự thay đổi nhỏ là ở giai đoạn 2005-2009 có
lượng mưa trung bình trong tháng cao nhất (tháng 8) lên đến trên 500 mm và
tháng 6 là tháng có lượng mưa trung bình thấp nhất (150 mm), trong khi đó ở
giai đoạn 2010-2014 lượng mưa trung bình trong tháng cao nhất (tháng 8) chỉ
trên 400 mm và ở những tháng đầu (tháng 5) và cuối mùa mưa (tháng 10) là
những tháng có lượng mưa trung bình tháng thấp nhất.
80
Hình 3.11. Giản đồ vũ nhiệt Gausen-Walter ở Ia Grai giai đoạn 2005-2009.
Hình 3.12. Giản đồ vũ nhiệt Gausen-Walter ở Ia Grai giai đoạn 2010-2014.
3.4.2.2. Khí hậu ở Krông Pa giai đoạn 2005-2014
81
Hình 3.13. Giản đồ vũ nhiệt Gausen-Walter ở Krông Pa giai đoạn 2005-2009.
Hình 3.14. Giản đồ vũ nhiệt Gausen-Walter ở Krông Pa giai đoạn 2010-2014.
Cả 02 giai đoạn đều không có biến đổi về mùa mưa và mùa khô, trong
năm chia hai mùa rõ rệt, mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11 và mùa khô
bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Tuy nhiên, ở đây cũng có sự thay đổi
nhỏ là ở giai đoạn 2005-2009 có lượng mưa trung bình trong tháng cao nhất
(tháng 9) chỉ co 300 mm và tháng 6 là tháng có lượng mưa trung bình thấp nhất
(50 mm), trong khi đó ở giai đoạn 2010-2014 lượng mưa trung bình trong tháng
82
cao nhất (tháng 9) chỉ khoảng 250 mm và ở những tháng đầu (tháng 5), cuối
mùa mưa (tháng 10) và tháng 6 là những tháng có lượng mưa trung bình tháng
thấp nhất.
3.4.3. Mối liên quan của khí hậu và bệnh sốt rét ở các khu vực thủy điện
3.4.3.1. Mối liên quan của khí hậu và bệnh sốt rét ở thủy điện Sê San
Kết quả phân tích sự liên quan giữa lượng mưa và số lượng BNSR ở
huyện Ia Grai qua các năm trong giai đoạn 2005-2013 (hình 3.15), bằng trực
quan cho thấy: từ năm 2007 đến nay, số lượng BNSR ở đây tăng giảm theo tổng
lượng mưa trong năm.
0
500
1.000
1.500
2.000
2.500
3.000
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Năm
Lượn
g m
ưa (m
m)
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
1000
BNSR
Lượng mưa BNSR
Hình 3. 15. Mối liên quan giữa lượng mưa và BNSR ở Ia Grai (2005 – 2013).
83
0
100
200
300
400
500
600
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12Tháng
Lượn
g m
ưa -
Nhiệ
t độ
0,0
50,0
100,0
150,0
200,0
250,0
300,0
BNSR
Lượng mưa Nhiệt độ BNSR
Hình 3. 16. Mối liên quan giữa lượng mưa, nhiệt độ và BNSR theo tháng trong
năm ở Ia Grai giai đoạn 2005 – 2009.
0
50
100
150
200
250
300
350
400
450
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Tháng
Lượn
g m
ưa -
Nhiệ
t độ
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
BNSR
Nhiệt độ Lượng mưa BNSR
Hình 3. 17. Mối liên quan giữa lượng mưa, nhiệt độ và BNSR theo tháng trong
năm ở Ia Grai giai đoạn 2010 – 2014.
Ở Ia Grai, đã có sự thay đổi về đỉnh bệnh sốt rét, giai đoạn 2005-2009, số
mắc sốt rét ổn định trong mùa khô và đầu mùa mưa, tăng từ giữa mùa mưa, đạt
đỉnh bệnh trong các tháng 9-11 (giữa và cuối mùa mưa) và bắt đầu giảm xuống
84
ở tháng 12 (mùa khô). 2010-2014, tuy số ca mắc giảm có 02 đỉnh bệnh: đỉnh
thứ nhất thấp hơn là vào tháng 7, đỉnh bệnh cao hơn vào cuối mùa mưa và duy
trì số mắc sốt rét vẫn duy trì ở mức độ cao ở các tháng đầu mùa khô.
3.4.3.2. Mối liên quan của khí hậu và bệnh sốt rét ở thủy điện Krông Pa
0
500
1000
1500
2000
2500
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013Năm
Lượn
g m
ưa (m
m)
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
BNSR
Lượng mưa BNSR
Hình 3.18. Mối liên quan giữa lượng mưa và BNSR ở Krông Pa (2005 – 2013).
0
50
100
150
200
250
300
350
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12Tháng
Lượn
g m
ưa -
Nhiệ
t độ
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
BNSR
Nhiệt độ Lượng mưa BNSR
Hình 3. 19. Mối liên quan giữa lượng mưa, nhiệt độ và BNSR theo tháng trong
năm ở Krông Pa giai đoạn 2005 – 2009.
85
0
50
100
150
200
250
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12Tháng
Lượn
g m
ưa -
Nhiệ
t độ
0
50
100
150
200
250
300
BNSR
Nhiệt độ Lượng mưa BNSR
Hình 3. 20. Mối liên quan giữa lượng mưa, nhiệt độ và BNSR theo tháng trong
năm ở Krông Pa giai đoạn 2010 – 2014.
Ở Krông Pa cũng đã có sự thay đổi về đỉnh bệnh sốt rét, trong giai đoạn
2005-2009 số ca mắc sốt rét giảm dần từ đầu mùa khô (tháng 12-tháng 01) cho
đến cuối mùa khô (tháng 4), bắt đầu tăng vào đầu mùa mưa (tháng 5-6), tăng
mạnh từ tháng 9 (giữa mùa mưa), đạt đỉnh bệnh cao nhất là vào tháng 11 (cuối
mùa mưa) và bắt đầu giảm xuống ở tháng 12 (mùa khô). Nhưng đến giai đoạn
2010-2014, số BNSR tăng hơn nhiều so với trước và đỉnh bệnh thay đổi so với
trước: số ca mắc sốt rét giảm dần từ đầu mùa khô (tháng 12-tháng 01) cho đến
cuối mùa khô (tháng 4); có 02 đỉnh bệnh vào mùa mưa: đỉnh thứ nhất thấp hơn
là vào tháng 7 (đầu mùa mưa), sau đó số ca mắc sốt rét giảm ở giữa mùa mưa
(tháng 8), nhưng nhanh chóng tăng trở lại từ tháng 9 và đạt đỉnh cao nhất vào
cuối mùa mưa (tháng 11). Đặc biệt, số ca mắc sốt rét vẫn duy trì ở mức độ cao ở
trong tháng 12, tháng 01 là những tháng đầu mùa khô.
Các kết quả phân tích trên với các số liệu điều tra trong 2 năm 2013-
2014: tỷ lệ BNSR và KSTSR ở các điểm nghiên cứu khu vực thủy điện Krông
Pa cao hơn ở khu vực thủy điện Sê San. Các chỉ số mắc sốt rét đều tập trung
chủ yếu vào giữa và cuối mùa mưa.
86
CHƯƠNG 4
BÀN LUẬN
1. Tình hình sốt rét và các chỉ số hiện mắc sốt rét ở cộng đồng dân cư khu
vực thủy điện
Việc xây dựng và đưa vào hoạt động các hệ thống thủy điện đã thiết lập
các khu tái định cư cùng với sự khai thác gỗ và chặt phá rừng trong quá trình
vận hành xây dựng thủy điện đã làm thay đổi môi trường. Đối với sốt rét, vấn đề nổi bật trong khu vực thủy điện, là sự gia tăng các vật chủ trung gian
truyền bệnh, nhất là quần thể muỗi Anopheles và các véc tơ chính truyền bệnh
sốt rét (An. minimus, An. dirus) có nguy cơ hoạt động thường xuyên hơn sau khi
đập được xây dựng; thực tế cho thấy bệnh sốt rét rất phổ biến, 90% trường hợp
nhiễm KSTSR do các nguyên nhân:
- Môi trường sinh thái thay đổi do xây dựng đập có thể là nguyên nhân chủ
yếu cho sự xâm nhập các bệnh truyền nhiễm như sốt rét. Tạo ra các sinh
cảnh thuận lợi cho muỗi sốt rét duy trì và phát triển.
- Phần lớn đồng bào tái định cư và số người không tái định cư đều chịu ảnh
hưởng của sự thay đổi điều kiện sống, trong khi các cơ sở y tế còn yếu kém.
Diện tích đất canh tác bị thu hẹp, người dân địa phương phải đi xa hơn, vào
rừng để làm nương rẫy, làm gia tăng nguy cơ mắc sốt rét…
Bên cạnh đó, việc biến đổi khí hậu: nhiệt độ và ẩm độ tăng lên, sự thay
đổi về lượng mưa và mùa mưa có thể làm tăng mật độ và tuổi thọ của các quần
thể véc tơ, và làm thay đổi vai trò truyền bệnh cũng như mùa truyền bệnh sốt
rét.
Với những giả thuyết đó, đề tài nghiên cứu đã được ở 04 xã thuộc 02
thủy điện: xã Ia O, Ia Chía thuộc thủy điện Sê San; xã Ia Sươm, Chư R Căm
thuộc thủy điện Krông Pa là những nơi có tình hình sốt rét cao hiện nay ở Gia
Lai. Tại các điểm nghiên cứu tiến hành hồi cứu số liệu về BNSR và số liệu khí
tượng và nghiên cứu ngang mô tả theo dõi dọc về mắc sốt rét và muỗi sốt rét
87
vào các mùa: mùa khô, đầu mùa mưa, giữa mùa mưa và cuối mùa mưa, và kết
quả cho thấy:
Số lượng BNSR ở Ia Grai qua 3 giai đoạn 5 năm biến đổi: tổng số
BNSR giảm dần qua các giai đoạn (2000-2004: 6.458 ca > 2005-2009: 2.825
ca > 2010-2014: 1.767 ca); số lượng BNSR trung bình qua các tháng cũng
giảm đều ở các tháng, cả ở những tháng cao nhất và thấp nhất trong năm
(2000-2004: 51-200,4 ca > 2005-2009: 23,2-93,6 ca > 2010-2014: 11,8-55,8
ca). Tuy nhiên, các đỉnh bệnh cũng đã có những sự xê dịch qua các giai đoạn:
2000-2004: BNSR tập trung cao nhất vào các tháng từ tháng 7-12, trong đó
đỉnh cao nhất là các tháng 10-11 (188,6-200,4 ca); 2005-2009: BNSR tập
trung cao nhất (≥ 50 BNSR) vào các tháng từ tháng 8-12, trong đó đỉnh cao
nhất là từ tháng 9-11 (92-93,6 BNSR); 2010-2014: BNSR tập trung cao nhất
(> 30 BNSR) vào các tháng từ tháng 1, 7, tháng 9-12, trong đó đỉnh cao nhất là
tháng 9-12 (32,6-55,8 BNSR).
Số lượng BNSR ở Krông Pa qua 3 giai đoạn 5 năm có những biến đổi:
tổng số BNSR có sự biến đổi qua các giai đoạn: 2000-2004 có 8.616 ca, 2005-
2009 giảm xuống còn 3.588 ca và 2010-2014 lại tăng lên lại 8.019 ca. Số
lượng BNSR trung bình qua các tháng cũng cũng biến đổi tương tự qua các
giai đoạn, cả ở những tháng cao nhất và thấp nhất trong năm: 2000-2004 là
dao động từ 51-200,4 ca, 2005-2009 giảm xuống chỉ còn dao động từ 23,2-
93,6 ca và tăng lên trở lại trong giai đoạn 2010-2014: 11,8-55,8 ca. Các đỉnh
bệnh cũng đã có những sự xê dịch qua các giai đoạn: 2000-2004: BNSR tập
trung cao nhất (> 100 BNSR) vào các tháng từ tháng 1, tháng 8-12, trong đó
đỉnh cao nhất là tháng 10-12 (337,4 - 353,2 - 250 BNSR tương ứng); 2005-
2009: BNSR tập trung cao nhất (≈/> 50 BNSR) vào các tháng từ tháng 1,
tháng 9-12, trong đó đỉnh cao nhất là tháng 10-11 (121,8-166,4 BNSR tương
ứng); 2010-2014: BNSR tập trung cao nhất (≈/> 100 BNSR) vào các tháng từ
tháng 1, tháng 7, tháng 9-12, trong đó đỉnh cao nhất là tháng 10-12 (220 -
259,2 – 260,4 BNSR tương ứng).
88
Kết quả điều tra cắt ngang theo dõi dọc trong 2 năm 2013-2014, tại xã Ia
O, huyện Ia Grai đã tiến hành 07 đợt điều tra cắt ngang các chỉ số mắc sốt rét tại
các cộng đồng dân cư xung quanh khu vực thủy điện, vào các thời điểm: mùa
khô (tháng 4), đầu mùa mưa (tháng 6), giữa mùa mưa (tháng 8) và cuối mùa
mưa (tháng 10). Kết quả điều tra ở 02 điểm nghiên cứu Ia O (bảng 3.7) và Ia
Chía (bảng 3.8) của thủy điện Sê San cho thấy:
Ở Ia O: BNSR và KSTSR đều nằm ở nhóm tuổi > 5 tuổi, trong đó:
- Vào mùa khô (tháng 4): các chỉ số mắc sốt rét ở đây đều âm;
- Đầu mùa mưa (tháng 6): tỷ lệ BNSR là 4% và tỷ lệ KSTSR là 0,5-1,75%, tỷ
lệ các ca dương tính với KSTSR có giao bào là 90%. BNSR và KSTSR tập
trung ở các nhóm > 5 tuổi và cao nhất là ở nhóm > 16 tuổi (5,35 % BNSR và
2,06 % KSTSR).
- Giữa mùa mưa (tháng 8): tỷ lệ BNSR là 0,5-2,75% và tỷ lệ KSTSR là 0,25-
0,5%, tỷ lệ ca dương tính với KSTSR có giao bào là 50%. BNSR và KSTSR
cũng nằm ở các nhóm > 5 tuổi và cao nhất là ở nhóm > 16 tuổi (3,09 %
BNSR và 0,77 % KSTSR).
- Cuối mùa mưa (tháng 10): tỷ lệ BNSR là 2,0% và tỷ lệ KSTSR là 2,5%, tỷ lệ
ca dương tính với KSTSR có giao bào là 60%. BNSR và KSTSR nằm ở các
nhóm > 9 tuổi (2,27-2,75 % BNSR và 2,75-4,55 % KSTSR).
Ở Ia Chía: BNSR và KSTSR đều nằm ở nhóm tuổi ≥ 9 tuổi, trong đó:
- Vào mùa khô (tháng 4): tỷ lệ mắc sốt rét rất thấp (BNSR 0,25%, không phát
hiện KSTSR) và BNSR cũng thuộc nhóm > 16 tuổi.
- Đầu mùa mưa (tháng 6): tỷ lệ BNSR là 2,61% và không phát hiện ca nhiễm
KSTSR nào. BNSR tập trung ở các nhóm ≥ 9 tuổi và cao nhất là ở nhóm > 16
tuổi (3,14 %).
- Giữa mùa mưa (tháng 8): tỷ lệ BNSR là 1,25% và tỷ lệ KSTSR là 0,25%, tỷ
lệ ca dương tính với KSTSR có giao bào là 100%. BNSR và KSTSR cũng
nằm ở các nhóm ≥ 9 tuổi và cao nhất là ở nhóm 9-16 tuổi (2,0 % BNSR và
2,63 % KSTSR).
89
- Cuối mùa mưa (tháng 10): tỷ lệ BNSR là 0,5% và không phát hiện ca nhiễm
KSTSR nào. BNSR tập trung ở các nhóm > 16 tuổi (0,76 %).
Nội dung điều tra được thực hiện tương tự tại hai điểm nghiên cứu của
thủy điện Krông Pa là: Ia Sươm và Chư R Căm, kết quả cho thấy:
Ở Ia Sươm (bảng 3.9): BNSR và KSTSR đều nằm ở nhóm tuổi > 5 tuổi,
trong đó:
- Vào mùa khô (tháng 4): các chỉ số mắc sốt rét ở đây đều âm;
- Đầu mùa mưa (tháng 6): tỷ lệ BNSR là 0,5-4,75% và tỷ lệ KSTSR là 0,25-
1,75%, tỷ lệ các ca dương tính với KSTSR có giao bào là 87,5%. BNSR và
KSTSR tập trung ở các nhóm > 5 tuổi và cao nhất là ở nhóm 9-16 tuổi (8,82
% BNSR và 2,94 % KSTSR).
- Giữa mùa mưa (tháng 8): tỷ lệ BNSR là 0,25-2,0% và không phát hiện ca
nhiễm KSTSR nào. BNSR cũng nằm ở các nhóm > 5 tuổi và cao nhất là ở
nhóm 5-16 tuổi (4,9-5,9 % BNSR).
- Cuối mùa mưa (tháng 10): tỷ lệ BNSR là 0,75-1,5% và tỷ lệ KSTSR là 0,75-
2,25%, tỷ lệ ca dương tính với KSTSR có giao bào là 33,3-55,6%. BNSR và
KSTSR nằm ở các nhóm > 9 tuổi (0,96-1,45 % BNSR và 0,17-2,88 %
KSTSR).
Ở Chư R Căm (bảng 3.10): BNSR và KSTSR đều nằm ở nhóm tuổi > 5
tuổi, trong đó:
- Vào mùa khô (tháng 4): chỉ phát hiện tỷ lệ KSTSR 0,25%.
- Đầu mùa mưa (tháng 6): tỷ lệ BNSR là 3,25% và tỷ lệ KSTSR là 0,5-1,5%,
tỷ lệ các ca dương tính với KSTSR có giao bào là 50-100%. BNSR và
KSTSR tập trung ở các nhóm > 5 tuổi và cao nhất là ở nhóm >16 tuổi (3,64
% BNSR và 1,25 % KSTSR).
- Giữa mùa mưa (tháng 8): tỷ lệ BNSR là 0,75-2,0%, tỷ lệ KSTSR là 1,0%; tỷ
lệ ca dương tính với KSTSR có giao bào là 25%. BNSR và KSTSR cũng
nằm ở các nhóm > 5 tuổi và cao nhất là ở nhóm 9-16 tuổi (2,6 % BNSR) và ở
nhóm 5-8 tuổi là 2,63 % KSTSR).
90
- Cuối mùa mưa (tháng 10): tỷ lệ BNSR là 0,25-0,5% và tỷ lệ KSTSR là 0,75-
4,75%, tỷ lệ ca dương tính với KSTSR có giao bào là 66,7-73,7%. BNSR và
KSTSR nằm ở các nhóm > 5 tuổi và cao nhất là ở nhóm > 9 tuổi (0,67 %
BNSR và 5,0 % KSTSR).
So sánh các chỉ số mắc sốt rét ở 02 khu vực thủy điện: Qua các đợt điều
tra cắt ngang tại các thời điểm khác nhau trong năm 2013-2014, kết quả phân
tích tỷ lệ BNSR ở các điểm nghiên cứu theo mùa (Hình 3.3) cho thấy: ở khu
vực thủy điện Krông Pa, các tỷ lệ BNSR và KSTSR ở các điểm nghiên cứu cao
hơn ở khu vực thủy điện Sê San. Trong đó, tỷ lệ BNSR ở cả hai khu vực thủy
điện tập trung chủ yếu vào mùa mưa, đặc biệt vào giữa và cuối mùa mưa BNSR
chiếm tỷ lệ cao. Tương tự, tỷ lệ KSTSR ở các điểm nghiên cứu cũng tập trung
chủ yếu trong mùa mưa và cao nhất là vào cuối mùa mưa: Chư R Căm 5,5%, Ia
Sươm 3%, Ia O 3%.
Như vậy, trong giai đoạn 2013-2014, tỷ lệ BNSR và KSTSR ở các điểm
nghiên cứu khu vực thủy điện Krông Pa cao hơn ở khu vực thủy điện Sê San.
Các chỉ số mắc sốt rét đều tập trung chủ yếu vào giữa và cuối mùa mưa.
Một số đặc điểm của các cộng đồng dân cư khu vực thủy điện
Nhằm đánh giá một số đặc điểm xã hội và PCSR của người dân ở các
khu vực thủy điện; tiến hành điều tra những người từ 15 tuổi trở lên, mỗi hộ
chọn 1 đại diện với cỡ mẫu tối thiểu 100 người / xã được chọn để phỏng vấn.
Kết quả (Bảng 3.11) phỏng vấn được 197 nam và 203 nữ, trong đó hầu
hết là người dân tộc Gia rai (98-100%). Nghề nghiệp chủ yếu là làm nông,
ngoài ra có 1 số ít là cán bộ, công nhân và học sinh. Ở cả 4 điểm nghiên cứu,
trình độ học vấn cấp 1 chiếm đa số (37-62%), cấp 2 chiếm tỷ lệ ít hơn (17-
36%); tuy nhiên cá biệt có nơi vẫn có 1 tỷ lệ khá cao số người mù chữ như Ia
Sươm 30%, Chư R căm 11%. Biết tiếng kinh thông thạo chiếm từ 27-51%; biết
ít tiếng kinh chiếm đa số (47-59%) và có nơi tỷ lệ người dân không biết tiếng
kinh vẫn còn cao như ở Chư R Căm chiếm 25%.
91
Kết quả điều tra tình hình người dân ngủ rẫy ở các khu vực thủy điện
(Bảng 3.12) cho thấy: tương ứng với tỷ lệ cao người dân có nghề nghiệp làm
nông (93-96%) thì trong đó hầu hết là người dân làm rẫy (90-96%). Tần suất
người dân vào rẫy thay đổi khác nhau ở các điểm nghiên cứu, trong đó người
dân vào rẫy theo tháng chiếm tỷ lệ trung bình (20-39%), cá biệt ở Chư R Căm
chiếm đến 48%. Người dân đi rẫy không ổn định, tùy vào mùa vụ chiếm tỷ lệ
cao nhất (55-72%), riêng ở Chư R Căm chỉ có 15%; và người dân thường xuyên
vào rẫy chiếm tỷ lệ thấp nhất (8-12%), riêng Chư R Căm tới 37%. Đặc biệt ở cả
4 điểm nghiên cứu, có 1 tỷ lệ người dân thường xuyên ngủ lại rẫy (6-20%),
thỉnh thoảng ngủ lại rẫy (tùy vào mùa vụ) dao động từ 28-47%.
Như vậy, tại các điểm nghiên cứu có một tỷ lệ khá cao là người dân đi
làm rẫy và ngủ lại trong rẫy.
Kết quả điều tra tình hình người dân ngủ rẫy ở các khu vực thủy điện
(Bảng 3.12) cho thấy: tương ứng với tỷ lệ cao người dân có nghề nghiệp làm
nông (93-96%) thì trong đó hầu hết là người dân làm rẫy (90-96%). Tần suất
người dân vào rẫy thay đổi khác nhau ở các điểm nghiên cứu, trong đó người
dân vào rẫy theo tháng chiếm tỷ lệ trung bình (20-39%), cá biệt ở Chư R Căm
chiếm đến 48%. Người dân đi rẫy không ổn định, tùy vào mùa vụ chiếm tỷ lệ
cao nhất (55-72%), riêng ở Chư R Căm chỉ có 15%; và người dân thường xuyên
vào rẫy chiếm tỷ lệ thấp nhất (8-12%), riêng Chư R Căm tới 37%. Đặc biệt ở cả
4 điểm nghiên cứu, có 1 tỷ lệ người dân thường xuyên ngủ lại rẫy (6-20%),
thỉnh thoảng ngủ lại rẫy (tùy vào mùa vụ) dao động từ 28-47%.
Như vậy, tại các điểm nghiên cứu có một tỷ lệ khá cao là người dân đi
làm rẫy và ngủ lại trong rẫy.
Trong đó tường vách che kín nhà đều chiếm đa số (62-91%) ở cả 4 điểm
nghiên cứu. Bên cạnh đó, số hộ có chăn nuôi trâu, bò cũng chiếm đa số (74-
91%) ở cả 4 điểm. Đặc biệt, khoảng cách từ nhà ở (khu dân cư) đến rừng ở tất
92
cả các điểm nghiên cứu đều có khoảng cách khá xa (> 500 mét chiếm 94-100%)
và khoảng cách từ nhà ở đến suối > 500 mét cũng chiếm tỷ lệ cao (92-98%).
Về đặc điểm nhà rẫy của các cộng đồng dân cư khu vực thủy điện, kết
quả ở bảng 4.14 cho thấy: hình thái nhà rẫy của người dân tại các điểm nghiên
cứu tập trung vào 02 loại là nhà sàn và nhà trệt; ở các cộng đồng dân đi rẫy ở 4
điểm đều có 02 loại nhà này, tuy nhiên tỷ lệ là khác nhau: Ở khu vực thủy điện
Ia Grai tỷ lệ nhà trệt chiếm cao hơn (IaO 69% và Ia Chía 85%), trong khi đó ở
Krông Pa thì tỷ lệ nhà sàn chiếm cao hơn (Ia Sươm 74% và Chư R căm 56%).
Cấu trúc tường vách nhà rẫy cũng thay đổi khác nhau ở mỗi nơi: ở khu
vực thủy điện Ia Grai thì tường vách nhà rẫy bằng đất chiếm đa số (IaO 68% và
Ia Chía 88%), trong khi đó ở Krông Pa thì tỷ lệ tường gỗ chiếm cao hơn (Ia
Sươm 73% và Chư R căm 59%). Đặc biệt, khoảng cách từ nhà ở (khu dân cư)
đến rẫy ở các điểm đều có khoảng cách khá xa (>3 km chiếm 88-99%) và
khoảng cách từ rẫy đến rừng > 500 mét cũng chiếm tỷ lệ cao (90-100%).
Theo kết quả điều tra (Bảng 3.15) có một tỷ lệ (29-43%) những người
dân sống ở đây đều đã từng mắc sốt rét 1 lần hoặc nhiều lần và người dân cũng
đã mô tả được các triệu chứng điển hình của bệnh sốt rét như: nóng sốt, rét run,
vã mồ hôi, đau đầu, đau khắp người. Có 1 tỷ lệ người dân biết đường lây truyền
bệnh sốt rét là do muỗi (27-42%), nhưng bên cạnh đó tỷ lệ không biết cũng rất
cao (55-66%). Việc điều trị bệnh khi mắc sốt rét thì khác nhau ở các điểm
nghiên cứu: ở khu vực thủy điện Ia Grai thì người dân đến trạm y tế, bệnh viện
khi mắc sốt rét chiếm đa số (IaO 85% và Ia Chía 60%), trong khi đó ở Krông Pa
thì tỷ lệ người dân tự điều trị khi mắc sốt rét chiếm tỷ lệ cao (Ia Sươm 51% và
Chư R Căm 46%).
Trong khi đó các biện pháp PCSR mà người dân sử dụng khi ngủ rẫy:
mang theo màn chống muỗi đốt chiếm tỷ lệ 24-34%, cao nhất là ở Chư R Căm
59%; số người dân có mang theo thuốc sốt rét tự điều trị rất thấp (2-8%), chỉ
riêng ở Chư R Căm có tỷ lệ cao 31%. Và ngược lại, tỷ lệ người dân không làm
gì để bảo vệ bản thân và gia đình PCSR chiếm tỷ lệ cao (64-69%), riêng ở Chư
93
R Căm chỉ là 10%. Tương tự, khi được hỏi về việc có đề nghị gì để được hỗ trợ
PCSR khi đi ngủ rẫy thì tỷ lệ người dân đề nghị cấp màn, võng, bọc võng, thuốc
sốt rét rất thấp (≤ 5 %), trong khi không có đề nghị gì chiếm tỷ lệ rất cao (88-
93%).
Tỷ lệ người dân sử dụng màn tẩm thấp (31-51%) và phun hóa chất nhà
cửa cũng rất thấp (36-42%). Đặc biệt tỷ lệ người dân sử dụng màn có thời gian
vào màn ngủ từ 8-10 giờ tối chiếm tỷ lệ cao (78-86%) và bên cạnh đó cũng có 1
tỷ lệ giặt màn sau khi tẩm (6-18%), riêng ở Chư R căm là khá cao (60%).
Như vậy, người dân ở các vùng thủy điện Sê San và Krông Pa có nghề
nghiệp chủ yếu là làm nông và hầu hết làm rẫy (90-96%). Ở khu vực thủy điện
Sê San tỷ lệ nhà trệt chiếm cao hơn, còn ở Krông Pa thì tỷ lệ nhà sàn chiếm
cao hơn. Khoảng cách từ nhà ở khu dân cư đến rẫy ở tất cả các điểm nghiên
cứu đều khá xa. Người dân đi rẫy không ổn định, tùy vào mùa vụ và có tỷ khá
cao lệ người dân thường xuyên ngủ lại rẫy nhưng tỷ lệ sử dụng màn tẩm thấp.
Như vậy, khi đi làm và ngủ lại rẫy, nguy cơ mắc sốt rét của người dân
tăng cao.
2. Thành phần loài, tập tính vai trò truyền bệnh của véc tơ sốt rét
Các loài muỗi Anopheles ở Đông Nam Á có tính đa dạng cao và các loài
là véc tơ truyền bệnh sốt rét như An. dirus và An. minimus nằm trong các phức
hợp loài khó hoặc không thể phân biệt được bằng hình thái do sự chồng chéo về
các đặc điểm. Khi đó, các kỹ thuật sinh học phân tử được sử dụng và đã xác định
được nhiều loài khác nhau nằm trong các phức hợp loài trên. Sự xác định chính xác
loài có ý nghĩa quan trọng cho các nghiên cứu tiếp theo về sinh học, sinh thái, tập
tính của muỗi; đặc biệt trong việc xác định đúng đối tượng để phòng chống. Cho
đến nay, ở các nước Đông Nam Á đã xác định phức hợp loài Dirus gồm 7 loài;
phức hợp loài Minimus gồm có 2 loài đã được định danh và 1 loài có tên gọi
chưa chính thức.
Phức hợp Dirus bao gồm 7 loài khác nhau, từ những loài là véc tơ truyền
bệnh sốt rét đến những loài không có khả năng truyền bệnh sốt rét ở người,
94
gồm: An. dirus (= kiểu hình An. dirus A theo phân tích DNA), An. cracens (=
An. dirus B), An. scanloni (= An. dirus C), An. baimaii (= An. dirus D), An.
elegans (= An. dirus E), An. nemophilous (= An. dirus F) và An. takasagoensis.
(Sallum và cs., 2005).
Phức hợp Minimus bao gồm 2 loài có tên chính thức là An. minimus (kiểu
hình An. minimus A theo phân tích DNA) và An. harrisoni (kiểu hình An.
minimus C theo phân tích DNA) (Harbach và cs., 2007) và một loài chưa định
danh, được gọi là An. minimus E.
Các nhà khoa học Việt Nam, bằng kỹ thuật sinh học phân tử, cũng đã
phát hiện ở Việt Nam nhóm Dirus chỉ có mặt loài An. dirus (An. dirus A) và
trong nhóm Minimus có mặt cả 2 loài An. minimus (An. minimus A) và An.
harrisoni (An. minimus C) (Ngô Thị Hương, 2004).
Trong quá trình nghiên cứu muỗi Anopheles ở hai khu vực nghiên cứu,
một bộ phận các cá thể muỗi thuộc 2 nhóm loài Dirus và Minimus đã được ứng
dụng kỹ thuật PCR để xác định chính xác các loài thành viên, tỷ lệ của chúng
cũng như phân bố của chúng ở các điểm nghiên cứu.
Trong tổng số 663 cá thể muỗi thuộc 2 nhóm loài Dirus và Minimus được định
loại bằng kỹ thuật PCR. Những cá thể nhóm loài Dirus thu thập từ các điểm ở Ia
O, Ia Sươm và Chư R Căm đều có kết quả xác định là loài An. dirus, còn các cá
thể trong nhóm loài Minimus cũng thu thập được ở các điểm Ia O, Ia Sươm và
Chư R Căm cho kết quả là loài An. minimus.
Phân tích 600 mẫu thuộc nhóm loài Dirus thu thập tại các khu vực nghiên
cứu, tất cả đều thu được sản phẩm PCR đơn băng có kích thước 120bp, đặc
trưng cho kiểu hình An. dirus A ở cả 2 trường hợp dùng mồi riêng biệt và hỗn
hợp mồi. Kết quả này cho thấy tất cả mẫu thu được là kiểu hình An. dirus A và
kiểu hình này chính là loài đã được đặt tên khoa học là An. dirus Peyton et
Harrison, 1979.
Kết quả phân tích 63 mẫu thuộc nhóm loài Minimus thu thập cho thấy có
tất cả đều cho ra kiểu hình An. minimus A, kiểu hình này có sản phẩm PCR đặc
95
trưng đơn băng, kích thước 185 bp. Kiểu hình An. minimus A chính là loài đã
được đặt tên khoa học là An. minimus Theobald, 1901.
Kết quả này cũng phù hợp với những nghiên cứu tương tự trước đây ở
trên khu vực nghiên cứu thủy điện Sê San và Krông Pa.
Như vậy, tại khu vực nghiên cứu trong những năm điều tra (2013-2014)
chỉ ghi nhận được một loài trong nhóm loài đồng hình Minimus là An. minimus.
Thành phần loài Anopheles ở các điểm nghiên cứu
Để đánh giá thành phần loài Anopheles tại các điểm nghiên cứu, các đợt điều
tra với những kỹ thuật, phương pháp theo quy trình thường quy của Viện Sốt rét-
KST-CT Trung ương (2011) và WHO đã được thực hiện tương tự nhau tại cả bốn
khu vực nghiên cứu trong các năm 2013-2014. Với tổng số muỗi và bọ gậy thu thập
được là 26.420 cá thể, bằng phương pháp phân loại hình thái, kết hợp kỹ thuật sinh
học phân tử được sử dụng hỗ trợ để xác định các loài trong các phức hợp loài đồng
hình, đã ghi nhận được sự có mặt của 21 loài thuộc giống Anopheles tại các điểm
điều tra ở các khu vực nghiên cứu.
Tổng số loài Anopheles thu thập được ở 02 điểm nghiên cứu tại khu vực
thủy điện Sê San là 21 loài. Trong đó ở Ia O thu thập được số loài Anopheles
cao nhất là 19 loài và ở Ia Chía thu thập được 18 loài. Trong 21 loài Anopheles
ở khu vực thủy điện Sê San, có mặt 5 loài trong danh sách các loài véc tơ sốt rét
chính và phụ ở vùng rừng núi Việt Nam là: hai véc tơ sốt rét chính là An. dirus
và An. minimus (phát hiện được ở Ia O). Bên cạnh đó có mặt 3 loài véc tơ phụ
vùng rừng núi là: An. aconitus, An. jeyporiensis và An. maculatus có mặt ở cả Ia
O và Ia Chía. Chiếm tỷ lệ cao nhất trong thành phần loài là các loài An. vagus
(15,5-17,9%), An. sinensis (13-13,6%), An. peditaeniatus (13,4-14,3%).
Kết quả điều tra muỗi tại Krông Pa (Bảng 3.19) cho thấy: tổng số loài
Anopheles thu thập được ở 02 điểm nghiên cứu tại khu vực thủy điện Krông Pa
là 16 loài. Trong đó ở Chư R Căm thu thập được số loài Anopheles 16 loài và ở
Ia Sươm chỉ thu thập được 14 loài. Trong 16 loài Anopheles ở khu vực thủy
điện Krông Pa, có mặt 5 loài trong danh sách các loài véc tơ sốt rét chính và
96
phụ ở vùng rừng núi Việt Nam là: hai véc tơ sốt rét chính là An. dirus và An.
Minimus; bên cạnh đó có mặt 3 loài véc tơ phụ vùng rừng núi là: An. aconitus,
An. jeyporiensis và An. maculatus; 05 loài véc tơ chính và phụ này có mặt ở cả
Chư R Căm và Ia Sươm. Trong thành phần loài ở đây, chiếm tỷ lệ cao nhất là
An. vagus (18,1%), An. sinensis (17,1-20,3%), An. peditaeniatus (17,4-19,2%).
So với danh sách các loài muỗi Anopheles đã ghi nhận ở Tây Nguyên, thì
ở ba khu vực nghiên cứu không phát hiện được các loài muỗi phân bố ở rừng
sâu và núi cao; hầu hết chúng thuộc phân giống Anopheles Meigen, 1818 như:
An. aberrans Harrison & Scanlon, 1975; An. barbumbrosus Stricklandi &
Chowdhury, 1927; An. bengalensis Puri, 1930; An. campestris Reid, 1962; An.
gigas Giles, 1901; An. insulaeflorum (Swellengrebel & S. de graaf, 1920); An.
interruptus Puri, 1929; An. monstrosus Nguyen, Tran, Nguyen & Vu, 1991; An.
nigerrimus Giles, 1900; An. nitidus Harrison, Scanlon & Reid, 1973; An.
palmatus (Rodenwaldt, 1926); An. sintonoides Ho, 1938; An. vietnamensis
Nguyen, Tran & Nguyen, 1993 và An. baileyi Edwards, 1929. Cũng thuộc phân
giống này, chúng tôi không thu được mẫu loài An. lesteri Baisas & Hu, 1936; là
loài chủ yếu phân bố ở ven biển (Trần Đức Hinh, 1996).
Ngoài ra, còn có một số loài muỗi thuộc phân giống Cellia Theobald,
1902 như cũng chưa ghi nhận được tại các điểm nghiên cứu của chúng tôi như:
An. pampanai Buttiker & Beales, 1959 - một loài rất hiếm gặp ở Tây Nguyên;
An. culicifacies Giles, 1901 - loài được đưa vào danh sách véc tơ nghi ngờ (Hồ
Đình Trung, 2005); An. indefinitus (Ludlow, 1904) - loài muỗi phân bố chủ yếu
ở vùng ven biển và vùng núi chỉ phát hiện ở Lâm Đồng; và An. stephensi
Liston, 1901 - ở Tây Nguyên bắt gặp với mật độ rất thấp (Nguyễn Đức Mạnh,
1988), thậm chí những năm sau này không còn phát hiện thấy ở MT-TN.
Tại mỗi điểm nghiên cứu, các véc tơ sốt rét được điều tra và thu thập ở
03 sinh cảnh: trong rừng, bìa rừng và trong làng. Tại 03 sinh cảnh này, tất cả
các phương pháp điều tra muỗi đều được thực hiện ở những nơi gần gũi và có
sự có mặt của con người.
97
Kết quả điều tra muỗi sốt rét tại Ia O (bảng 3.20) cho thấy: ở đây đã phát
hiện 19 loài Anopheles, trong đó:
+ Tại sinh cảnh trong rừng: chỉ có 10 loài Anopheles với sự có mặt của
cả 05 véc tơ sốt rét vùng rừng núi, gồm hai véc tơ sốt rét chính An. minimus
(2,3%) và An. dirus (chiếm tỷ lệ rất cao 20,2%), và 03 véc tơ phụ là An.
aconitus (1,7%), An. jeyporiensis (chiếm tỷ lệ cao nhất 20,8%) và An.
maculatus (chiếm tỷ lệ rất cao 20,2%).
+ Tại sinh cảnh bìa rừng: có mặt 18 loài Anopheles với sự có mặt của 04
véc tơ sốt rét vùng rừng núi, gồm véc tơ sốt rét chính An. minimus (1,0%) và 03
véc tơ phụ là An. aconitus (3,4%), An. jeyporiensis (3,2%), An. maculatus
(3,1%). Ở sinh cảnh bìa rừng không phát hiện An. dirus. Các loài Anopheles
chiếm tỷ lệ cao là: An. vagus (16,4%), An. sinensis (14,0%).
+ Tại sinh cảnh trong làng: có mặt 15 loài Anopheles với sự có mặt của
03 véc tơ sốt rét phụ vùng rừng núi cới tỷ lệ thấp là An. aconitus (1,7%), An.
jeyporiensis (1,3%) và An. maculatus (0,9%). Ở sinh cảnh trong làng ở Ia O
không phát hiện An. minimus và An. dirus. Các loài Anopheles chiếm tỷ lệ cao
là: An. vagus (20,4%), An. sinensis (13,4%).
Như vậy, ở Ia O, tại sinh cảnh trong rừng số lượng loài Aopheles thấp
nhất (10 loài) nhưng có mặt cả 05 véc tơ sốt rét chính, phụ với tỷ lệ của véc tơ
chính An. dirus chiếm rất cao (20,2%); tại sinh cảnh bìa rừng số lượng loài
Aopheles cao nhất trong 03 sinh cảnh (18 loài), có mặt cả 04 véc tơ sốt rét
chính, phụ với tỷ lệ thấp và không có mặt véc tơ chính An. dirus; tại sinh cảnh
trong làng, số lượng loài Aopheles 15 loài, nhưng chỉ có mặt các véc tơ sốt rét
phụ với tỷ lệ thấp và không có mặt 02 véc tơ chính An. minimus, An. dirus.
Kết quả điều tra muỗi sốt rét tại Ia Chía (bảng 3.21) cho thấy: ở đây đã
phát hiện 18 loài Anopheles, không có mặt 02 loài 02 véc tơ chính An. minimus,
An. dirus; trong đó:
+ Sinh cảnh trong rừng: cũng chỉ có 10 loài Anopheles với sự có mặt của
cả 03 véc tơ sốt rét phụ vùng rừng núi là An. aconitus (6,2%), An. jeyporiensis
98
(chiếm tỷ lệ cao 11,9%) và An. maculatus (chiếm tỷ lệ rất cao 13,8%). Các loài
Anopheles chiếm tỷ lệ cao là: An. vagus (16,2%), An. sinensis (19,1%).
+ Sinh cảnh bìa rừng: có mặt 14 loài Anopheles với sự có mặt của cả 03
véc tơ sốt rét phụ vùng rừng núi nhưng với tỷ lệ thấp là An. aconitus (1,9%),
An. jeyporiensis (1,0%) và An. maculatus (1,8%). Các loài Anopheles chiếm tỷ
lệ cao là: An. vagus (16,2%), An. sinensis (14,4%).
+ Sinh cảnh trong làng: có mặt số loài Anopheles cao nhất 15 loài, với sự
có mặt của 03 véc tơ sốt rét phụ vùng rừng núi cới tỷ lệ rất thấp là An. aconitus
(1,4%), An. jeyporiensis (0,7%) và An. maculatus (0,3%). Các loài Anopheles
chiếm tỷ lệ cao là: An. vagus (16,0%), An. sinensis (11,7%).
Như vậy ở Ia Chía, sinh cảnh trong rừng số lượng loài Anopheles thấp
nhất (10 loài) có mặt 3 véc tơ phụ với tỷ lệ cao; sinh cảnh bìa rừng số lượng loài
Aopheles là 14 loài, có mặt 3 véc tơ phụ với tỷ lệ thấp và tại sinh cảnh trong
làng, số lượng loài Aopheles là 15 loài, các véc tơ sốt rét phụ chiếm tỷ lệ thấp.
Ở khu vực thủy điện Krông Pa, kết quả điều tra muỗi sốt rét tại Chư R
Căm (bảng 3.22) cho thấy: ở đây đã phát hiện 16 loài Anopheles, trong đó:
+ Sinh cảnh trong rừng: chỉ có 11 loài Anopheles với sự có mặt của cả 05
véc tơ sốt rét vùng rừng núi, gồm hai véc tơ sốt rét chính An. minimus (0,74%)
và An. dirus (chiếm tỷ lệ rất cao 26,8%), và 03 véc tơ phụ là An. aconitus
(2,7%), An. jeyporiensis (8,2%) và An. maculatus (chiếm tỷ lệ rất cao 16,1%).
+ Sinh cảnh bìa rừng: có mặt 16 loài Anopheles cũng với sự có mặt của
cả 05 véc tơ sốt rét vùng rừng núi, gồm hai véc tơ sốt rét chính An. minimus
(0,12%) và An. dirus (0,24%), và 03 véc tơ phụ là An. aconitus (3,9%), An.
jeyporiensis (3,0%) và An. maculatus (2,1%). Các loài Anopheles chiếm tỷ lệ
cao là: An. vagus (16,4%), An. sinensis (20,4%).
+ Sinh cảnh trong làng: chỉ có mặt 09 loài Anopheles và chỉ có mặt của
02 véc tơ sốt rét phụ vùng rừng núi cới tỷ lệ thấp là An. aconitus (2,6%) và An.
maculatus (3,2%). Ở sinh cảnh trong làng ở Chư R Căm không phát hiện An.
99
minimus và An. dirus. Các loài Anopheles chiếm tỷ lệ cao là: An. vagus
(22,5%), An. sinensis (13,8%).
Như vậy, ở Chư R Căm, tại sinh cảnh trong rừng số lượng loài Aopheles
11 loài, có mặt cả 05 véc tơ sốt rét chính, phụ với tỷ lệ của véc tơ chính An.
dirus chiếm rất cao (26,8%); tại sinh cảnh bìa rừng số lượng loài Aopheles cao
nhất trong 03 sinh cảnh (16 loài), có mặt cả 05 véc tơ sốt rét chính, phụ với tỷ lệ
thấp; tại sinh cảnh trong làng, số lượng loài Aopheles thấp 09 loài, và chỉ có
mặt 02 véc tơ sốt rét phụ với tỷ lệ thấp và không có mặt 02 véc tơ chính An.
minimus, An. dirus.
Kết quả điều tra muỗi sốt rét tại Ia Sươm (bảng 3.23) cho thấy: ở đây đã
phát hiện 14 loài Anopheles, trong đó:
+ Tại sinh cảnh trong rừng: chỉ có 11 loài Anopheles với sự có mặt của
cả 05 véc tơ sốt rét vùng rừng núi, gồm hai véc tơ sốt rét chính An. minimus
(1,3%) và An. dirus (chiếm tỷ lệ rất cao 17,0%), và 03 véc tơ phụ là An.
aconitus (8,8%), An. jeyporiensis (7,8%) và An. maculatus (chiếm tỷ lệ rất cao
19,0%).
+ Tại sinh cảnh bìa rừng: có mặt 13 loài Anopheles cũng với sự có mặt
của 04 véc tơ sốt rét vùng rừng núi với tỷ lệ thấp, gồm véc tơ sốt rét chính An.
minimus (0,2%) và 03 véc tơ phụ là An. aconitus (2,04%), An. jeyporiensis
(1,13%), An. maculatus (2,7%). Ở sinh cảnh bìa rừng không phát hiện An.
dirus. Các loài Anopheles chiếm tỷ lệ cao là: An. vagus (19,2%), An. sinensis
(20,04%).
+ Tại sinh cảnh trong làng: chỉ có mặt 09 loài Anopheles và chỉ có mặt
của 02 véc tơ sốt rét phụ vùng rừng núi cới tỷ lệ thấp là An. aconitus (2,2%) và
An. jeyporiensis (1,3%). Ở sinh cảnh trong làng ở Ia Sươm cũng không phát
hiện An. minimus và An. dirus. Các loài Anopheles chiếm tỷ lệ cao là: An.
vagus (18,9%), An. sinensis (21,2%).
Như vậy, ở Ia sươm, tại sinh cảnh trong rừng số lượng loài Aopheles 11
loài, có mặt cả 05 véc tơ sốt rét chính, phụ với tỷ lệ của véc tơ chính An. dirus
100
chiếm rất cao (17,0%); tại sinh cảnh bìa rừng số lượng loài Aopheles cao nhất
trong 03 sinh cảnh (13 loài), có mặt 04 véc tơ sốt rét chính, phụ với tỷ lệ thấp,
không có mặt An. dirus; tại sinh cảnh trong làng, số lượng loài Aopheles thấp
09 loài, và chỉ có mặt 02 véc tơ sốt rét phụ với tỷ lệ thấp và không có mặt 02
véc tơ chính An. minimus, An. dirus.
Mật độ của các véc tơ sốt rét ở thủy điện Sê San
Tại thủy điện Sê San, ở sinh cảnh trong rừng (bảng 3.24), chỉ có các
phương pháp bẫy đèn trong và ngoài nhà, phương pháp mồi người trong và
ngoài nhà thu thập được muỗi Anopheles. Ở trong rừng, người dân không nuôi
trâu, bò nên không thực hiện phương pháp bắt muỗi chuồng gia súc.
Kết quả thu thập muỗi ở phương pháp bẫy đèn cho thấy: mật độ của các
véc tơ sốt rét chính và phụ ở bẫy đèn trong nhà đều cao hơn ngoài nhà, như: An.
dirus (trong nhà: 0,33 c/đ/đ cao hơn nhiều so với ở ngoài nhà: 0,01 c/đ/đ); An.
minimus (trong nhà: 0,05 c/đ/đ > ngoài nhà: 0,01 c/đ/đ); An. aconitus (trong
nhà: 0,07 c/đ/đ > ngoài nhà: 0,01 c/đ/đ); An. jeyporiensis (trong nhà: 0,52 c/đ/đ
> ngoài nhà: 0,11 c/đ/đ) và An. maculatus (trong nhà: 0,38 c/đ/đ > ngoài nhà:
0,21 c/đ/đ).
Ngược lại, ở phương pháp mồi người, kết quả thu thập muỗi cho thấy ở
sinh cảnh trong rừng, mật độ muỗi đốt người ngoài nhà cao hơn trong nhà, như:
An. dirus (ngoài nhà: 0,46 c/n/đ cao hơn gần hai lần so với ở trong nhà: 0,27
c/n/đ); An. minimus (ngoài nhà: 0,04 c/n/đ > trong nhà: 0,02 c/n/đ); An. aconitus
(ngoài nhà: 0,1 c/n/đ = ngoài nhà: 0,1 c/n/đ); An. jeyporiensis (trong nhà: 0,45
c/n/đ > trong nhà: 0,34 c/n/đ) và An. maculatus (ngoài nhà: 0,57 c/n/đ > trong
nhà: 0,3 c/đ/đ).
Ở phương pháp điều tra bọ gậy, tại sinh cảnh trong rừng đã bắt gặp 06
loài Anopheles, trong đó có 03 loài véc tơ sốt rét phụ, chưa phát hiện thấy bọ
gậy của các loài véc tơ sốt rét chính.
Như vậy, tại thủy điện Sê San, ở sinh cảnh trong rừng, mật độ của các
véc tơ sốt rét ở bẫy đèn trong nhà cao hơn ngoài nhà, nhưng ngược lại mật độ
101
muỗi đốt người ở ngoài nhà lại cao hơn ở trong nhà, trong đó An. dirus có mật
độ đốt người ngoài nhà cao nhất.
Ở sinh cảnh bìa rừng (bảng 3.25), bên cạnh các phương pháp bẫy đèn
trong và ngoài nhà, phương pháp mồi người trong và ngoài nhà, thì người dân ở
đây có hoạt động chăn nuôi gia súc và phương pháp bắt muỗi ở chuồng gia súc
cũng đã thu thập được muỗi Anopheles.
Kết quả thu thập muỗi ở phương pháp bẫy đèn cho thấy: chỉ có mặt 04
véc tơ sốt rét, chưa phát hiện thấy An. dirus ở đây và mật độ của các véc tơ sốt
rét ở bẫy đèn trong nhà cũng đều cao hơn ngoài nhà, như: An. minimus (trong
nhà: 0,05 c/đ/đ > ngoài nhà: 0); An. aconitus (trong nhà: 0,24 c/đ/đ > ngoài nhà:
0,1 c/đ/đ); An. jeyporiensis (trong nhà: 0,45 c/đ/đ > ngoài nhà: 0,17 c/đ/đ) và
An. maculatus (trong nhà: 0,37 c/đ/đ > ngoài nhà: 0,23 c/đ/đ).
Tuy nhiên, ở phương pháp mồi người, kết quả thu thập muỗi cho thấy ở
sinh cảnh bìa rừng chỉ phát hiện 03 loài véc tơ phụ đốt người và mật độ đốt
người trong nhà và ngoài nhà khác nhau tùy theo mỗi véc tơ như: An. aconitus
(ngoài nhà: 0,39 c/n/đ cao hơn gấp đôi ngoài nhà: 0,18 c/n/đ); An. jeyporiensis
(trong nhà: 0,25 c/n/đ lại thấp hơn trong nhà: 0,30 c/n/đ) và An. maculatus
(ngoài nhà: 0,36 c/n/đ = trong nhà: 0,36 c/đ/đ).
Ở phương pháp điều tra bọ gậy, tại sinh cảnh bìa rừng đã bắt gặp 10 loài
Anopheles, trong đó có 03 loài véc tơ sốt rét phụ, chưa phát hiện thấy bọ gậy
của các loài véc tơ sốt rét chính.
Như vậy, tại thủy điện Sê San, ở sinh cảnh bìa rừng, mật độ của các véc
tơ sốt rét ở bẫy đèn trong nhà cao hơn ngoài nhà, tuy nhiên chỉ có 03 loài véc tơ
phụ đốt người và mật độ đốt người ở ngoài nhà và trong nhà khác nhau tùy từng
loài véc tơ sốt rét.
Ở sinh cảnh trong làng (bảng 3.26), bên cạnh các phương pháp bẫy đèn
trong và ngoài nhà, phương pháp mồi người trong và ngoài nhà, thì người dân ở
đây cũng có hoạt động chăn nuôi gia súc và phương pháp bắt muỗi ở chuồng
gia súc cũng đã thu thập được muỗi Anopheles.
102
Ở sinh cảnh này chỉ bắt gặp 03 loài véc tơ sốt rét phụ, trong đó kết quả
thu thập muỗi ở phương pháp bẫy đèn cho thấy: mật độ của các véc tơ ở bẫy
đèn trong nhà và ngoài nhà khác nhau tùy theo mỗi véc tơ như: An. aconitus
(ngoài nhà: 0,2 c/đ/đ cao hơn ngoài nhà: 0,06 c/đ/đ); An. jeyporiensis (trong
nhà: 0,08 c/đ/đ lại thấp hơn trong nhà: 0,1 c/đ/đ) và An. maculatus (ngoài nhà:
0,04 c/đ/đ < trong nhà: 0,05 c/đ/đ).
Tương tự, ở phương pháp mồi người, kết quả thu thập muỗi cho thấy ở
sinh cảnh trong làng cũng chỉ phát hiện 03 loài véc tơ phụ đốt người và mật độ
đốt người trong nhà và ngoài nhà khác nhau tùy theo mỗi véc tơ như: An.
aconitus (trong nhà: 0,23 c/n/đ ≈ ngoài nhà: 0,21 c/n/đ); An. jeyporiensis (trong
nhà: 0,71 c/n/đ = ngoài nhà: 0,71 c/n/đ) và An. maculatus (ngoài nhà: 0,04 c/n/đ
< trong nhà: 0,11 c/đ/đ).
Ở phương pháp điều tra bọ gậy, tại sinh cảnh bìa rừng đã bắt gặp 09 loài
Anopheles, trong đó có 02 loài véc tơ sốt rét phụ là An. aconitus và An.
maculatus, chưa phát hiện thấy bọ gậy của các loài véc tơ sốt rét chính.
Như vậy, tại thủy điện Sê San, ở sinh cảnh trong làng, chỉ phát hiện 03
loài véc tơ phụ và mật độ của các véc tơ sốt rét ở bẫy đèn cũng như mật độ véc
tơ đốt người trong nhà và ngoài nhà khác nhau tùy từng loài véc tơ sốt rét.
Mật độ của các véc tơ sốt rét ở thủy điện Krông Pa
Tại thủy điện Krông Pa, ở sinh cảnh trong rừng (bảng 3.27), chỉ có các
phương pháp bẫy đèn trong và ngoài nhà, phương pháp mồi người trong và
ngoài nhà thu thập được muỗi Anopheles. Ở đây, người dân cũng không nuôi
trâu, bò trong rừng nên không thực hiện phương pháp bắt muỗi chuồng gia súc.
Kết quả thu thập muỗi ở phương pháp bẫy đèn cho thấy: mật độ của các
véc tơ sốt rét chính và phụ ở bẫy đèn trong nhà đều cao hơn ngoài nhà, như: An.
dirus (trong nhà: 1,0 c/đ/đ cao hơn nhiều so với ở ngoài nhà: 0,2 c/đ/đ); An.
minimus (trong nhà: 0,08 c/đ/đ > ngoài nhà: 0); An. aconitus (trong nhà: 0,16
c/đ/đ > ngoài nhà: 0,02 c/đ/đ); An. jeyporiensis (trong nhà: 0,26 c/đ/đ > ngoài
103
nhà: 0,10 c/đ/đ) và An. maculatus (trong nhà: 0,77 c/đ/đ > ngoài nhà: 0,21
c/đ/đ).
Ngược lại, ở phương pháp mồi người, kết quả thu thập muỗi cho thấy ở
sinh cảnh trong rừng, mật độ muỗi đốt người ngoài nhà cao hơn trong nhà, như:
An. dirus (ngoài nhà: 0,60 c/n/đ cao hơn ở trong nhà: 0,46 c/n/đ); An. aconitus
(ngoài nhà: 0,21 c/n/đ ≈ trong nhà: 0,20 c/n/đ); An. jeyporiensis (ngoài nhà:
0,27 c/n/đ > trong nhà: 0,21 c/n/đ) và An. maculatus (ngoài nhà: 0,43 c/n/đ >
trong nhà: 0,29 c/đ/đ); ở đây không phát hiện có An. minimus đốt người.
Ở phương pháp điều tra bọ gậy, tại sinh cảnh trong rừng đã bắt gặp 05
loài Anopheles, trong đó có 02 loài véc tơ sốt rét phụ, chưa phát hiện thấy bọ
gậy của các loài véc tơ sốt rét chính.
Như vậy, tại thủy điện Krông Pa, ở sinh cảnh trong rừng, mật độ của các
véc tơ sốt rét ở bẫy đèn trong nhà cao hơn ngoài nhà, nhưng ngược lại mật độ
muỗi đốt người ở ngoài nhà lại cao hơn ở trong nhà, trong đó An. dirus có mật
độ đốt người ngoài nhà cao nhất.
Ở sinh cảnh bìa rừng tại thủy điện Krông Pa (bảng 4.28), bên cạnh các
phương pháp bẫy đèn trong và ngoài nhà, phương pháp mồi người trong và
ngoài nhà, thì người dân ở đây có hoạt động chăn nuôi gia súc và phương pháp
bắt muỗi ở chuồng gia súc cũng đã thu thập được muỗi Anopheles. Ngoài ra, ở
phương pháp soi nhà ban ngày cũng đã phát hiện loài An. vagus trú đậu tiêu
máu trong nhà.
Kết quả thu thập muỗi ở phương pháp bẫy đèn cho thấy: mật độ của các
véc tơ sốt rét ở bẫy đèn trong nhà cũng đều cao hơn ngoài nhà, như: An. dirus
(trong nhà: 0,05 c/đ/đ > ngoài nhà: 0); An. minimus (trong nhà: 0,07 c/đ/đ >
ngoài nhà: 0,01 c/đ/đ); An. aconitus (trong nhà: 0,19 c/đ/đ > ngoài nhà: 0,17
c/đ/đ); An. jeyporiensis (trong nhà: 0,23 c/đ/đ > ngoài nhà: 0,08 c/đ/đ) và An.
maculatus (trong nhà: 0,38 c/đ/đ > ngoài nhà: 0,23 c/đ/đ).
Ngược lại, ở phương pháp mồi người, kết quả thu thập muỗi cho thấy ở
sinh cảnh bìa rừng, mật độ muỗi đốt người ngoài nhà cao hơn trong nhà, như:
104
An. dirus (ngoài nhà: 0,05 c/n/đ cao hơn hai lần ở trong nhà: 0,02 c/n/đ); An.
minimus (ngoài nhà: 0,04 > ở trong nhà: 0); An. aconitus (ngoài nhà: 0,27 c/n/đ
≈ trong nhà: 0,29 c/n/đ); An. jeyporiensis (ngoài nhà: 0,18 c/n/đ > trong nhà:
0,13 c/n/đ) và An. maculatus (ngoài nhà: 0,27 c/n/đ > trong nhà: 0,21 c/đ/đ).
Ở phương pháp điều tra bọ gậy, tại sinh cảnh trong rừng đã bắt gặp 07
loài Anopheles, trong đó có 02 loài véc tơ sốt rét phụ, chưa phát hiện thấy bọ
gậy của các loài véc tơ sốt rét chính.
Như vậy, tại thủy điện Krông Pa, ở sinh cảnh bìa rừng, mật độ của các
véc tơ sốt rét ở bẫy đèn trong nhà cao hơn ngoài nhà, nhưng ngược lại mật độ
muỗi đốt người ở ngoài nhà lại cao hơn ở trong nhà.
Ở sinh cảnh trong làng (bảng 3.29), bên cạnh các phương pháp bẫy đèn
trong và ngoài nhà, phương pháp mồi người trong và ngoài nhà, thì người dân ở
đây cũng có hoạt động chăn nuôi gia súc và phương pháp bắt muỗi ở chuồng
gia súc cũng đã thu thập được muỗi Anopheles. Ngoài ra, ở phương pháp soi
nhà ban ngày cũng đã phát hiện loài An. vagus trú đậu tiêu máu trong nhà.
Ở sinh cảnh này chỉ bắt gặp 03 loài véc tơ sốt rét phụ, trong đó kết quả
thu thập muỗi ở phương pháp bẫy đèn cho thấy: mật độ của các véc tơ ở bẫy
đèn trong nhà và ngoài nhà khác nhau tùy theo mỗi véc tơ như: An. aconitus
(ngoài nhà: 0,32 c/đ/đ cao hơn ngoài nhà: 0,17 c/đ/đ); An. jeyporiensis (trong
nhà: 0,06 c/đ/đ ≈ trong nhà: 0,07 c/đ/đ) và An. maculatus (ngoài nhà: 0,14 c/đ/đ
< trong nhà: 0,21 c/đ/đ).
Tuy nhiên, ở phương pháp mồi người, kết quả thu thập muỗi cho thấy ở
sinh cảnh trong làng cũng chỉ phát hiện 03 loài véc tơ phụ đốt người và mật độ
đốt người ngoài nhà cao hơn trong nhà, như: An. aconitus (ngoài nhà: 0,46 c/n/đ
> trong nhà: 0,34 c/n/đ); An. jeyporiensis (trong nhà: 0,14 c/n/đ > trong nhà:
0,07 c/n/đ) và An. maculatus (ngoài nhà: 0,39 c/n/đ > trong nhà: 0,25 c/đ/đ).
Ở phương pháp điều tra bọ gậy, tại sinh cảnh bìa rừng đã bắt gặp 05 loài
Anopheles, trong đó chỉ có 01 loài véc tơ sốt rét phụ là An. maculatus, chưa
phát hiện thấy bọ gậy của các loài véc tơ sốt rét chính.
105
Tại thủy điện Krông Pa, ở sinh cảnh trong làng, chỉ phát hiện 03 loài véc
tơ phụ và mật độ của các véc tơ sốt rét ở bẫy đèn cũng như mật độ véc tơ đốt
người trong nhà và ngoài nhà khác nhau tùy từng loài véc tơ sốt rét.
Như vậy, tại cả 02 khu vực thủy điện Sê San và Krông Pa, ở sinh cảnh
trong rừng, mật độ muỗi đốt người ở ngoài nhà cao hơn ở trong nhà, trong đó
An. dirus có mật độ đốt người ngoài nhà cao nhất. Sự có mặt và mật độ của các
véc tơ sốt rét giảm dần ở các sinh cảnh bìa rừng và đến trong làng.
Vai trò truyền bệnh của các véc tơ sốt rét ở các điểm nghiên cứu
Một phần các cá thể muỗi trưởng thành thu thập từ phương pháp bẫy đèn
và mồi người, thuộc các loài véc tơ sốt rét (còn sống sau thu thập), được mổ để
đánh giá tuổi thọ quần thể bằng tỷ lệ muỗi đã đẻ. Ngoài ra, các thể véc tơ chết
và xác muỗi mổ được thử nghiệm ELISA để xác định KSTSR trong cơ thể
muỗi. Trong 02 năm 2013-2014, tại 4 điểm nghiên cứu đã tiến hành mổ được
1.137 cá thể muỗi của các loài véc tơ sốt rét. Từ công thức tính toán chu kỳ tiêu
sinh của muỗi Anopheles (l = + 1) thông qua nhiệt độ trung bình hàng
ngày, ta thấy ở miền Trung và Tây Nguyên với nhiệt độ trung bình năm là 230C
muỗi thực hiện chu kỳ tiêu sinh khoảng 3,5 ngày. Từ chu kỳ tiêu sinh, tỷ lệ
muỗi đẻ, ta tính được xác xuất sống sót hàng ngày ( ) và tuổi thọ trung
bình các quần thể muỗi Anopheles ( ) như bảng 3.13.
Tuổi thọ trung bình quần thể chung của các véc tơ sốt rét ở 02 điểm nghiên
cứu ở thủy điện Sê San là 7,5 ngày. Ở khu vực này, An. dirus có tuổi thọ trung
bình quần thể cao nhất trong các véc tơ là 9,5 ngày, An. minimus là 7,7 ngày; An.
aconitus là 9,1 ngày; An. jeyporiensis là 6,5 ngày và An. maculatus là 6,8 ngày.
Tuổi thọ trung bình quần thể chung của các véc tơ sốt rét ở 02 điểm nghiên
cứu ở thủy điện Krông Pa là 6,4 ngày. Ở khu vực này, An. dirus cũng có tuổi thọ
trung bình quần thể cao nhất trong các véc tơ là 9,5 ngày, An. minimus là 6,6 ngày;
An. aconitus là 5,9 ngày; An. jeyporiensis là 7,2 ngày và An. maculatus là 5,1
ngày.
106
Có 1.201 cá thể muỗi của 06 loài An. aconitus, An. dirus, An. harrisoni,
An. jeyporiensis, An. maculatus và An. minimus thu thập từ các điểm nghiên
cứu được tiến hành xét nghiệm ELISA để phát hiện muỗi nhiễm KSTSR. Kết
quả xét nghiệm (bảng 3.30) cho thấy: các véc tơ phụ An. aconitus, an.
Jeyporiensis, An. maculatus và An. harrisoni chưa phát hiện nhiễm với KSTSR;
trong khi đó, hai véc tơ sốt rét chính là An. dirus và An. minimus đều dương tính
ELISA với với cả 02 loài KSTSR là P. falciparum và P. vivax.
Kết quả xét nghiệm ELISA 515 các thể muỗi ở thủy điện Sê San gồm cả
các loài véc tơ sốt rét chính và phụ có tỷ lệ nhiễm KSTSR chung là 0,19%,
trong đó chỉ có An. minimus tại Ia O nhiễm KSTSR P. falciparum với tỷ lệ là
5,26%; còn các loài véc tơ khác chưa phát hiện thấy nhiễm KSTSR.
Kết quả xét nghiệm ELISA 686 các thể muỗi ở thủy điện Krông Pa gồm
cả các loài véc tơ sốt rét chính và phụ có tỷ lệ nhiễm KSTSR chung là 0,73%,
trong đó An. minimus tại Ia Sươm nhiễm KSTSR P. falciparum với tỷ lệ rất cao
là 10,0%; An. dirus tại Ia Sươm nhiễm KSTSR P. vivax với tỷ lệ là 0,83%; còn
các loài véc tơ khác chưa phát hiện thấy nhiễm KSTSR.
Các nghiên cứu trước đây cho thấy ở khu vực Tây Nguyên, tỷ lệ nhiễm
KSTSR của An. minimus là 2,19% và của An. dirus là 3,26%, ở Diên Khánh,
Khánh Hòa tỷ lệ nhiễm của An. dirus là 2,24%. Như vậy các kết quả trong
nghiên cứu này, 2 loài An. minimus và An. dirus vẫn là 02 loài có vai trò truyền
bệnh sốt rét quan trọng ở khu vực MT-TN. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu
này cho thấy hiện nay tỷ lệ An. minimus nhiễm KSTSR cao hơn An. dirus.
Để đánh giá khả năng truyền bệnh của các véc tơ, chỉ số lan truyền (H)
của véc tơ truyền bệnh sốt rét: H = ma.S. (ma - mật độ đốt người trung bình; S
- chỉ số muỗi KSTSR) đã được áp dụng. Với mật độ ma là con/người/đêm và S
là tỷ lệ (%) muỗi nhiễm KSTSR thi chỉ số H có nghĩa là mật độ muỗi có nhiễm
KSTSR đốt 01 người trong 01 đêm tại điểm nghiên cứu.
Như trên, tại 4 điểm nghiên cứu chỉ có 2 véc tơ được phát hiện nhiễm với
KSTSR là An. minimus và An. dirus. Kết quả phân tích (bảng 3.35) cho thấy:
107
+ Ở khu vực thủy điện Sê San, tuy có mặt cả 02 véc tơ sốt rét chính đốt
người, nhưng kết quả ELISA chỉ xác định được An. minimus nhiễm KSTSR và
kết quả tính toán chỉ số lan truyền của véc tơ An. minimus ở sinh cảnh trong
rừng là H = 0,32.
+ Ở khu vực thủy điện Krông Pa, có mặt cả 02 véc tơ sốt rét chính An.
minimus và An. dirus đốt người và kết quả ELISA cũng đã xác định được cả 02
loài này đều nhiễm KSTSR. Kết quả tính toán chỉ số lan truyền của véc tơ An.
minimus thu được là: ở sinh cảnh bìa rừng H = 0,4; chỉ số lan truyền của An.
dirus ở sinh cảnh trong rừng là H = 0,87 và ở sinh cảnh trong rừng là H = 0,06.
Như vậy, tại thủy điện Sê San tổng chỉ số lan truyền của các véc tơ sốt
rét là H = 0,32, trong đó chỉ xác định được chỉ số lan truyền của 01 véc tơ sốt
rét chính An. minimus có chỉ số lan truyền ở sinh cảnh trong rừng là H = 0,32.
Tại thủy điện Krông Pa, tổng chỉ số lan truyền của các véc tơ sốt rét là: ở trong
rừng H = 0,32 và ở bìa rừng H = 0,36; trong đó xác định được An. dirus có chỉ
số lan truyền ở cả 02 sinh cảnh trong rừng (H = 0,87) và bìa rừng (H = 0,06);
còn An. minimus chỉ xác định được ở bìa rừng có chỉ số lan truyền là H = 0,4.
3. Sự biến đổi khí hậu của khu vực thủy điện liên quan đến bệnh sốt rét
Gia Lai có khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên, trong năm chia làm hai
mùa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm 220 – 250C. Vùng tây Trường Sơn có
lượng mưa trung bình năm từ 2.200 - 2.500 mm, vùng đông Trường Sơn từ
1.200 -1.750 mm.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng số liệu quan trắc từ 30 năm đến 33 năm
(1979 -2008), trong phạm vi kinh độ 107.41 - 108.39 và vĩ độ 11.32-11.58, để
tính toán, phân tích. So với thập niên 1979 -1988, nhiệt độ không khí trung bình
thập niên 1999 - 2008 cao hơn rõ rệt, nhất là vào các tháng mùa Đông và trên
độ cao từ 100 mét đến 800 mét. Nhiệt độ trung bình năm phổ biến cao hơn từ
0,5 0 C đến 0,8 0 C; riêng Kon Tum, cao hơn 1 0 C. Trong khi đó nhiệt độ trung bình
năm ở Việt Nam tăng khoảng 0,5 0 C đến 0,7 0 C. Nhiệt độ trung bình các tháng
108
mùa Đông cao hơn hẳn so với các thời kỳ khác, tiêu biểu là tháng 1, phổ biến
cao hơn từ 0,8 0 C đến 1,5 0 C, cá biệt có trạm ở Kon Tum cao hơn 1,7 0 C. Trong 3
tháng chính Đông, nhiệt độ trung bình phổ biến cao hơn từ 0,8 0 C đến 1,4 0 C;
riêng thành phố Pleiku cao hơn 1,76 0 C; trong các tháng mùa hè, nhiệt độ trung
bình phổ biến cao hơn 0,23 0 C đến 0,7 0 C. Điều này khẳng định ở khu vực Tây
Nguyên, sự tăng của nhiệt độ xảy ra ở tất cả các trạm và nhiệt độ mùa Đông
tăng nhanh hơn mùa Hè rõ rệt. Năm 2009, 2010 nhiệt độ càng cao hơn các năm
trước, nắng nóng kéo dài làm khô hạn rất nhiều nơi trên khu vực Tây Nguyên
nói chung và Gia Lai nói riêng. ( Biến đổi khí hậu và sản xuất nông nghiệp vùng
Tây Nguyên, Trương Hồng, 2013 )
So sánh số liệu số liệu khí hậu tỉnh Gia Lai trước đây của Phạm Ngọc
Toàn, Phan Tất Đắc (1978) và số liệu khí tượng thủy văn ở Gia Lai đo đạc tại
các Trạm khí tượng thủy văn Plei Ku, AyunPa và An Khê giai đoạn 2005-2014
(bảng 3.36) cho thấy: Nhiệt độ trung bình năm đã tăng lên 0,30C, ẩm độ trung
bình năm tăng 4%, trong khi đó lượng mưa trung bình năm giảm đáng kể, chỉ
còn 1.757 mm, lượng mưa năm cực đại (2013: 1.998 mm) vẫn thấp hơn lượng
mưa trung bình năm trước đây (2.447 mm) và lượng mưa trung bình năm cực
tiểu (2006) chỉ có 1.538 mm.
Phân tích số liệu khí tượng của trạm khí tương thủy văn Pleiku qua hai
giai đoạn: giai đoạn 2005-2009 (hình 3.11) và giai đoạn 2010-2014 (hình 3.12),
cho thấy: cả 02 giai đoạn đều không có biến đổi về mùa mưa và mùa khô, trong
năm chia hai mùa rõ rệt, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô
bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Tuy nhiên, có sự thay đổi nhỏ là ở giai
đoạn 2005-2009 có lượng mưa trung bình trong tháng cao nhất (tháng 8) lên
đến trên 500 mm và tháng 6 là tháng có lượng mưa trung bình thấp nhất (150
mm), trong khi đó ở giai đoạn 2010-2014 lượng mưa trung bình trong tháng cao
nhất (tháng 8) chỉ trên 400 mm và ở những tháng đầu (tháng 5) và cuối mùa
mưa (tháng 10) là những tháng có lượng mưa trung bình tháng thấp nhất.
109
Phân tích số liệu khí tượng của trạm khí tương thủy văn Ayunpa qua hai
giai đoạn: giai đoạn 2005-2009 (hình 3.13) và giai đoạn 2010-2014 (hình 3.14),
cho thấy: cả 02 giai đoạn đều không có biến đổi về mùa mưa và mùa khô, trong
năm chia hai mùa rõ rệt, mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11 và mùa khô
bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Tuy nhiên, ở đây cũng có sự thay đổi
nhỏ là ở giai đoạn 2005-2009 có lượng mưa trung bình trong tháng cao nhất
(tháng 9) chỉ co 300 mm và tháng 6 là tháng có lượng mưa trung bình thấp nhất
(50 mm), trong khi đó ở giai đoạn 2010-2014 lượng mưa trung bình trong tháng
cao nhất (tháng 9) chỉ khoảng 250 mm và ở những tháng đầu (tháng 5), cuối
mùa mưa (tháng 10) và tháng 6 là những tháng có lượng mưa trung bình tháng
thấp nhất.
Như vậy, ở Ia Grai, mùa mưa kéo dài 6 tháng, bắt đầu từ tháng 5 đến
tháng 10 và mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau; còn ở Krông Pa,
mùa mưa kéo dài hơn, bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11 và thời gian mùa khô
ngắn hơn, bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình qua
các tháng ở Ia Grai cao hơn ở Krông Pa và tháng có lượng mưa trung bình cao
nhất ở Ia Grai là tháng 8 (400-500 mm), còn ở Krông Pa tháng có lượng mưa
trung bình cao nhất là tháng 9 (chỉ từ 250-300 mm).
Theo nhận định của nhiều tác giả nghiên cứu về mối tương quan giữa các
yếu tố khí tượng với bệnh sốt rét trước đây thì nhiệt độ và lương mưa có vai trò
quan trọng quyết định mùa phát triển trong năm của muỗi Anopheles. Kết quả
nghiên của tại Khánh Phú, Khánh Hòa đã cho thấy sự liên quan của hai yếu tố
khí hậu là nhiệt độ và độ ẩm tương đối của không khí vơi số lượng cá thể của
véc tơ sốt rét và sự thay đổi chế độ mưa trong năm có tác động đến quần thể
muỗi lớn hơn. Việc tăng lượng mưa quá mức bình thường ở những tháng khô
hạn là yếu tố quan trọng nhất làm giảm số lượng cá thể véc tơ. Sự biến động
này kéo dài trong vài năm liên tiếp đã hạn chế khả năng phục hồi của các quần
thể véc tơ (Nguyễn Tuyên Quang, 2002).
110
Kết quả phân tích sự liên quan giữa lượng mưa và số lượng BNSR ở
huyện Ia Grai qua các năm trong giai đoạn 2005-2013 (hình 4.15), bằng trực
quan cho thấy: từ năm 2007 đến nay, số lượng BNSR ở đây tăng giảm theo tổng
lượng mưa trong năm.
Phân tích mối liên quan của 02 yếu tố lượng mưa và nhiệt độ trung bình
tháng và số lượng BNSR trung bình tháng ở Ia Grai giai đoạn 2005-2009 (hình
3.16) cho thấy trong giai đoạn này số ca mắc sốt rét ổn định trong suốt mùa khô
và đầu mùa mưa, nhưng bắt đầu gia tăng từ tháng 8 (giữa mùa mưa), đạt đỉnh
bệnh trong các tháng 9-11 (giữa và cuối mùa mưa) và bắt đầu giảm xuống ở
tháng 12 (mùa khô).
Nhưng gần đây, giai đoạn 2010-2014, số BNSR ở Ia Grai giảm hơn so
với giai đoạn trước và diễn biến số mắc sốt rét theo các tháng trong năm thay
đổi so với trước. Theo kết quả phân tích ở hình 4.17, trong năm có 02 đỉnh
bệnh: đỉnh thứ nhất thấp hơn là vào tháng 7 (đầu mùa mưa), sau đó số ca mắc
sốt rét giảm ở giữa mùa mưa (các tháng 8-9) và tăng trở lại với đỉnh bệnh cao
hơn vào cuối mùa mưa (tháng 11). Số ca mắc sốt rét vẫn duy trì ở mức độ cao ở
các tháng 12, tháng 01 là những tháng đầu mùa khô.
Như vậy, ở Ia Grai, đã có sự thay đổi về đỉnh bệnh sốt rét, trong giai đoạn
2005-2009, số ca mắc sốt rét ổn định trong suốt mùa khô và đầu mùa mưa, bắt
đầu gia tăng từ tháng 8 (giữa mùa mưa), đạt đỉnh bệnh trong các tháng 9-11
(giữa và cuối mùa mưa) và bắt đầu giảm xuống ở tháng 12 (mùa khô). Trong
giai đoạn sau (2010-2014), tuy số ca mắc giảm, nhưng trong năm có 02 đỉnh
bệnh: đỉnh thứ nhất thấp hơn là vào tháng 7 (đầu mùa mưa), sau đó số ca mắc
sốt rét giảm ở giữa mùa mưa (các tháng 8-9), tăng trở lại với đỉnh bệnh cao hơn
vào cuối mùa mưa (tháng 11) và duy trì số mắc sốt rét vẫn duy trì ở mức độ cao
ở các tháng đầu mùa khô (tháng 12-01).
Ở Krông Pa, kết quả phân tích sự liên quan giữa lượng mưa và số lượng
BNSR qua các năm trong giai đoạn 2005-2013 (hình 3.14), bằng trực quan cho
111
thấy: số lượng BNSR ở đây tăng, giảm ngược với sự tăng, giảm của lượng mưa
trong năm.
Phân tích mối liên quan của 02 yếu tố lượng mưa và nhiệt độ trung bình
tháng và số lượng BNSR trung bình tháng ở Krông Pa giai đoạn 2005-2009
(hình 3.18) cho thấy trong giai đoạn này số ca mắc sốt rét giảm dần từ đầu mùa
khô (tháng 12-tháng 01) cho đến cuối mùa khô (tháng 4), bắt đầu tăng vào đầu
mùa mưa (tháng 5-6), tăng mạnh từ tháng 9 (giữa mùa mưa), đạt đỉnh bệnh cao
nhất là vào tháng 11 (cuối mùa mưa) và bắt đầu giảm xuống ở tháng 12 (mùa
khô).
Tại Krông Pa, giai đoạn gần đây 2010-2014, số BNSR tăng hơn nhiều so
với giai đoạn trước và diễn biến số mắc sốt rét theo các tháng trong năm cũng
tương tự như ở Ia Grai, thay đổi so với trước. Theo kết quả phân tích ở hình
3.19, số ca mắc sốt rét giảm dần từ đầu mùa khô (tháng 12-tháng 01) cho đến
cuối mùa khô (tháng 4); trong năm cũng có 02 đỉnh bệnh: đỉnh thứ nhất thấp
hơn là vào tháng 7 (đầu mùa mưa), sau đó số ca mắc sốt rét giảm ở giữa mùa
mưa (tháng 8), nhưng nhanh chóng tăng trở lại từ tháng 9 với đỉnh bệnh cao
hơn vào cuối mùa mưa (tháng 11). Đặc biệt, số ca mắc sốt rét vẫn duy trì ở mức
độ cao ở trong tháng 12, tháng 01 là những tháng đầu mùa khô.
Như vậy, tương tự như ở Ia Grai, ở Krông Pa cũng đã có sự thay đổi về
đỉnh bệnh sốt rét, trong giai đoạn 2005-2009 số ca mắc sốt rét giảm dần từ đầu
mùa khô (tháng 12-tháng 01) cho đến cuối mùa khô (tháng 4), bắt đầu tăng vào
đầu mùa mưa (tháng 5-6), tăng mạnh từ tháng 9 (giữa mùa mưa), đạt đỉnh bệnh
cao nhất là vào tháng 11 (cuối mùa mưa) và bắt đầu giảm xuống ở tháng 12
(mùa khô). Nhưng đến giai đoạn 2010-2014, số BNSR tăng hơn nhiều so với
trước và đỉnh bệnh thay đổi so với trước: số ca mắc sốt rét giảm dần từ đầu mùa
khô (tháng 12-tháng 01) cho đến cuối mùa khô (tháng 4); có 02 đỉnh bệnh vào
mùa mưa: đỉnh thứ nhất thấp hơn là vào tháng 7 (đầu mùa mưa), sau đó số ca
mắc sốt rét giảm ở giữa mùa mưa (tháng 8), nhưng nhanh chóng tăng trở lại từ
tháng 9 và đạt đỉnh cao nhất vào cuối mùa mưa (tháng 11). Đặc biệt, số ca mắc
112
sốt rét vẫn duy trì ở mức độ cao ở trong tháng 12, tháng 01 là những tháng đầu
mùa khô.
Các kết quả phân tích trên với các số liệu điều tra trong 2 năm 2013-
2014: tỷ lệ BNSR và KSTSR ở các điểm nghiên cứu khu vực thủy điện Krông
Pa cao hơn ở khu vực thủy điện Sê San. Các chỉ số mắc sốt rét đều tập trung
chủ yếu vào giữa và cuối mùa mưa.
113
KẾT LUẬN
1. Tình hình sốt rét và các chỉ số hiện mắc sốt rét ở cộng đồng dân cư khu
vực thủy điện
- Ở Ia Grai số BNSR giảm dần qua các giai đoạn. Các đỉnh bệnh đã có những
thay đổi: 2000-2004: tháng 10-11; 2005-2009: tháng 9-11; 2010-2014: tháng
9-12. Ở Krông Pa, số BNSR có sự biến đổi qua các gia đoạn. Các đỉnh bệnh
cũng đã có những thay đổi: 2000-2004: tháng 10-12; 2005-2009: tháng 10-
11; 2010-2014: tháng 10-12.
- 2013-2014: % BNSR và KSTSR ở thủy điện Krông Pa cao hơn Sê San. Các
chỉ số mắc sốt rét chủ yếu vào giữa và cuối mùa mưa.
2. Thành phần loài, tập tính vai trò truyền bệnh của véc tơ sốt rét
- Tổng số loài Anopheles là 21 loài. Ở Sê San 21 loài, Krông Pa 16 loài. Có 5
véc tơ chính và phụ: An. dirus và An. minimus; An. aconitus, An. jeyporiensis
và An. maculatus. Ở Sê San, trong rừng, số loài Anopheles thấp, có 05 véc tơ
với An. dirus chiếm tỷ lệ rất cao; tại bìa rừng số loài cao nhất (18 loài), có 04
véc tơ với tỷ lệ thấp; ở trong làng có 15 loài, chỉ có véc tơ phụ.
- Ở Krông Pa, ở trong rừng có 11 loài Anopheles, có 05 véc tơ với An. dirus tỷ
lệ rất cao (26,8%); ở bìa rừng số loài cao nhất (16 loài), có 05 véc tơ với tỷ lệ
thấp; ở trong làng, số loài thấp 09 loài, và chỉ có 02 véc tơ phụ.
- Sự có mặt và mật độ của véc tơ giảm dần từ trong rừng, đến bìa rừng và đến
trong làng. Tại Sê San tổng H = 0,32, An. minimus ở trong rừng H = 0,32.
Tại Krông Pa, tổng H của các véc tơ là: ở trong rừng H = 0,32 và ở bìa rừng
H = 0,46; trong đó An. dirus ở sinh cảnh trong rừng (H = 0,87) và bìa rừng
(H = 0,06); còn An. minimus ở bìa rừng H = 0,4.
3. Sự biến đổi khí hậu của khu vực thủy điện liên quan đến bệnh sốt rét
- Nhiệt độ trung bình năm đã tăng lên 0,30C, ẩm độ trung bình năm tăng 4%;
lượng mưa trung bình năm giảm đáng kể, chỉ còn 1.757 mm, lượng mưa năm
cực đại (2013: 1.998 mm) vẫn thấp hơn lượng mưa trung bình năm trước đây
(2.447 mm) và lượng mưa năm cực tiểu (2006) chỉ 1.538 mm.
114
- Ở Ia Grai, đã có sự thay đổi về đỉnh bệnh sốt rét: 2005-2009, số ca mắc sốt
rét ổn định trong suốt mùa khô và đầu mùa mưa, bắt đầu gia tăng từ tháng 8
(giữa mùa mưa), đạt đỉnh bệnh trong các tháng 9-11 (giữa và cuối mùa mưa)
và bắt đầu giảm xuống ở tháng 12 (mùa khô). Trong giai đoạn sau (2010-
2014), số ca mắc giảm, có 02 đỉnh bệnh: đỉnh 1 (thấp hơn) là vào tháng 7
(đầu mùa mưa), sau đó số ca mắc sốt rét giảm ở giữa mùa mưa (các tháng 8-
9), tăng trở lại với đỉnh bệnh cao hơn vào cuối mùa mưa (tháng 11) và duy trì
số mắc SR ở mức cao ở các tháng đầu mùa khô (tháng 12-01).
- Ở Krông Pa cũng đã có sự thay đổi về đỉnh bệnh sốt rét: 2005-2009: số ca
mắc sốt rét giảm dần từ đầu mùa khô (tháng 12-tháng 01) cho đến cuối mùa
khô (tháng 4), bắt đầu tăng vào đầu mùa mưa (tháng 5-6), tăng mạnh từ tháng
9 (giữa mùa mưa), đạt đỉnh bệnh cao nhất là vào tháng 11 (cuối mùa mưa) và
bắt đầu giảm xuống ở tháng 12 (mùa khô). 2010-2014, số BNSR tăng hơn
nhiều và đỉnh bệnh thay đổi so với trước: số BNSR giảm dần từ đầu mùa khô
đến cuối mùa khô (tháng 4); có 02 đỉnh bệnh vào mùa mưa: đỉnh thứ nhất
thấp hơn là vào tháng 7 (đầu mùa mưa), sau đó giảm ở giữa mùa mưa (tháng
8), nhưng tăng nhanh trở lại từ tháng 9 và đạt đỉnh cao nhất vào cuối mùa
mưa (tháng 11). Đặc biệt, số ca mắc sốt rét vẫn duy trì ở mức cao ở trong
tháng 12, tháng 01 (đầu mùa khô).
115
KHUYẾN NGHỊ
- Nghiên cứu triển khai biện pháp phòng chống véc tơ sốt rét bằng màn
tồn lưu lâu cho những người dân ngủ rẫy ở khu vực thủy điện, giúp họ tự bảo vệ
cá nhân và gia đình mình khi đi làm và ngủ lại rẫy; đồng thời là cũng bảo vệ
cho cộng đồng dân cư nơi họ sinh sống vì đã làm giảm nguồn bệnh.
- Tăng cường truyền thông, giáo dục sức khỏe cho cộng đồng.
- Đề nghị các Ban quản lý thủy điện xây dựng đề án phát triển kinh tế, tạo
việc làm ổn định cho người dân có công việc làm tại chỗ, giảm tình trạng phá
rừng làm nương rẫy, gia tăng nguy cơ mắc sốt rét ở những khu vực trong rừng.
116