Upload
others
View
5
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Trang 1
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh đối với tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Trần Thị Huyền
Giảng viên Khoa Kiểm sát hình sự
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền sở hữu là quyền quan trọng luôn được Nhà nước bảo vệ tránh sự xâm
hại của các hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, hành vi xâm phạm quyền sở hữu, đặc
biệt là tội phạm xâm phạm sở hữu vẫn luôn diễn ra, ảnh hưởng xấu đến trật tự
chung của toàn xã hội. Trong đó, tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản với thủ đoạn
phạm tội ngày càng tinh vi, số lượng tội phạm và người phạm tội có chiều hướng
gia tăng, mức độ thiệt hại ngày càng lớn, nhiều trường hợp giá trị tài sản bị chiếm
đoạt lên đến hàng ngàn tỷ đồng như đại án Huỳnh Thị Huyền Như (TP. Hồ Chí
Minh) hay vụ Vũ Việt Hùng và đồng phạm (Đắk Nông)….
Mặc dù, Bộ luật hình sự Việt Nam (năm 1985, năm 1999 và hiện hành) đã
quy định dấu hiệu đặc trưng cơ bản của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; tuy nhiên
các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi giải quyết các
vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đặc biệt là trong việc định tội.
Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản phân tích tội phạm này dưới góc độ lý luận hình sự và tội phạm học… nhưng
do tình hình kinh tế xã hội trong giai đoạn này đã có nhiều thay đổi, hành vi phạm
tội phong phú và tinh vi hơn, các dấu hiệu đặc trưng của tội phạm này không biểu
hiện rõ ràng, dễ nhầm lẫn với các tội phạm khác hay thậm chí hình sự hóa các quan
hệ dân sự, nhiều trường hợp dẫn đến oan, sai, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, làm giảm uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời
làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm này.
Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, củng cố uy tín của cơ quan
tiến hành tố tụng; đảm bảo hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm này..., điều
kiện tiên quyết và đặc biệt quan trọng đó là hoạt động định tội danh của các cơ
quan tiến hành tố tụng phải thật chính xác. Bởi: "Định tội danh đúng sẽ là tiền đề
Trang 2
cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công
minh, có căn cứ và đúng pháp luật".
Với nhận thức như trên, tác giả cho rằng việc nghiên cứu làm sáng rõ một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo Điều 139 Bộ luật hình sự hiện hành là rất cần thiết. Do đó, tác giả chọn
nghiên cứu đề tài: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh đối với tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản"góp phần nâng cao tính chính xác khi định tội danh,
qua đó tăng cường hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích của đề tài là làm sáng rõ một số vấn đề lý luận về định tội danh
đối với tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 Bộ luật hình sự hiện
hành, Bên cạnh đó, trên cơ sở thực trạng hoạt động định tội danh đối với tội phạm
này, tác giả mạnh dạn đề xuất một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng hoạt
động định tội danh đối với tội phạm này.
Đề tài vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn, góp phần tích cực làm
phong phú thêm lí luận và cơ sở thực tiễn trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở nước ta hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, tác giả đặt cho mình các nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Đánh giá sơ lược về thực trạng định tội đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản qua một số vụ án thực tế.
- Đề xuất một số kiến nghị chủ yếu là về hoàn thiện quy định của pháp luật
về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản góp phần nâng cao hiệu quả của công cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm này.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
+ Phạm vi về nội dung: Người viết chỉ nghiên cứu các quy định về tội "Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản" trong luật hình sự Việt Nam hiện hành mà không nghiên
cứu pháp luật của nước ngoài.
+ Phạm vi về không gian và thời gian: Người viết chỉ sử dụng các số liệu có
liên quan đến đề tài từ năm 2010 đến 06 tháng đầu năm 2014 tại địa bàn tỉnh Cà
Mau.
Trang 3
Trong đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, một số vấn đề lý luận về định tội danh đối với tội
phạm này mà không nghiên cứu về chế tài hình sự đối với người phạm tội này.
Bên cạnh đó, tác giả cũng không đi sâu phân tích toàn bộ thực trạng công tác
đấu tranh, xử lý tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn cả nước mà chỉ đánh
giá sơ lược về thực trạng hoạt động định tội danh tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở
một số địa phương trong những năm gần đây.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin về duy vật biện chứng, chính sách Hình sự của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra,
người viết còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh các quy định của
pháp luật, các quan điểm khoa học khác nhau có liên quan đến tội Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản từ đó, làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
chuyên đề gồm 2 chương:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về định tội danh đối với tội Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
Chƣơng 2: Một số vấn đề thực tiễn về hoạt động định tội danh đối với tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng định tội danh
đối với tội phạm này.
Trang 4
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Một số vấn đề lý luận về định tội danh
1.1.1. Khái niệm “định tội danh”
Về khái niệm định tội danh, có quan điểm cho rằng: "Định tội danh là một
hoạt động tố tụng chỉ của riêng các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS, bằng
phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ của mình để tìm ra và "đặt tên" cho một hành
vi phạm tội". Theo tác giả, nội dung khái niệm này hạn chế về mặt bản chất cũng
như phạm vi các chủ thể có thể tiến hành hoạt động định tội danh khi chỉ thừa nhận
định tội danh là một hoạt động tố tụng do các chủ thể có thẩm quyền tố tụng tiến
hành.
Về bản chất, định tội danh là hoạt động nhận thức có tính logic giữa lý luận
và thực tiễn, là sự xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho
xã hội đã thực hiện trong thực tế khách quan với các dấu hiệu trong cấu thành tội
phạm tương ứng được quy định trong BLHS. Nói cách khác, định tội danh là việc
xác định một hành vi cụ thể đã thực hiện thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm của tội nào trong số các tội phạm đã được quy định trong BLHS.
Trên cơ sở nghiên cứu bản chất của hoạt động định tội danh cũng như các
chủ thể thực hiện hoạt động này, tác giả đưa ra khái niệm về định tội danh như sau:
"Định tội danh là hoạt động nhận thức do các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện
dựa trên sự nghiên cứu, phân tích, đánh giá một hành vi nhằm xác định hành vi đó
có phải là tội phạm hay không, nếu là tội phạm thì tội phạm đó được quy định
trong điều khoản nào của BLHS hiện hành".
Căn cứ vào chủ thể thực hiện việc định tội danh, khoa học luật hình sự chia
định tội danh thành 2 nhóm:
Một là, định tội danh chính thức.
Định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt nhà nước tính chất pháp lý
hình sự của một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể do các chủ thể được Nhà
nước ủy quyền thực hiện bao gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội
thẩm. Những đánh giá, kết luận của chủ thể định tội danh chính thức là cơ sở pháp
lý để khởi tố vụ án, để áp dụng các biện pháp ngăn chặn, là cơ sở để ra Kết luận
điều tra, Quyết định truy tố, Bản án, Quyết định đình chỉ điều tra, Quyết định đình
chỉ vụ án…
Trang 5
Hai là, định tội danh không chính thức.
Định tội danh không chính thức là sự đánh giá không phải về mặt Nhà nước
tính chất pháp lý của một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể. Chủ thể định tội
danh trong trường hợp này có thể là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào quan tâm đến một
vụ án hình sự cụ thể. Định tội danh không chính thức không làm phát sinh quyền
và nghĩa vụ pháp lý của các bên có liên quan trong vụ án mà chỉ là sự thể hiện
nhận thức pháp luật hình sự của cá nhân cũng như ý kiến, quan điểm riêng của các
chủ thể định tội danh.
1.1.2. Ý nghĩa của việc định tội danh
Định tội danh có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Đối với hoạt động định tội danh chính thức, định tội danh ảnh hưởng trực
tiếp đến sinh mạng chính trị của một con người.Định tội danh đúng là tiền đề cho
việc phân hóa trách nhiệm hình sự, cá thể hóa hình phạt một cách công minh, có
căn cứ pháp luật. Định tội danh sai sẽ dẫn đến nhiều hệ quả xấu kéo theo không chỉ
đối với riêng cá nhân người bị kết tội mà còn đối với cả xã hội và ảnh hưởng đến
uy tín của Nhà nước… Chính vì vậy, vai trò của việc định tội danh rất to lớn. Việc
định tội danh cần được thực hiện một cách chính xác trong bất cứ giai đoạn tố tụng
nào, và phải xác định đây là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng để
nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công lý và bảo vệ quyền lợi chính
đáng công dân.
Đối với hoạt động định tội danh không chính thức, việc định tội danh chính
xác giúp cho việc nhận thức pháp luật được thống nhấtvề mặt lý luận, đồng thời là
cơ sở cho việc đưa ra kiến nghị, giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật trong
trường hợp quy định pháp luật chưa chặt chẽ. Ngược lại, định tội danh sai dẫn tới
việc các cá nhân nghiên cứu (chủ yếu là giảng viên, sinh viên luật, cán bộ kiểm sát,
công an, thẩm phán…) mâu thuẫn trong nhận thức pháp luật, thậm chí nhận thức
lệch lạc và hệ quả lớn nhất đó là việc áp dụng pháp luật không chính xác khi vận
dụng vào thực tiễn công tác dẫn đến hệ quả như đã trình bày ở nội dung thứ nhất.
Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn đều đòi hỏi việc định tội danh phải thật
đầy đủ và chính xác.Để có thể thực hiện được điều đó, nhất thiết phải dựa trên yếu
tố cần và đủ của việc định tội danh, đó là cấu thành tội phạm.Về nội dung, cấu
thành tội phạm là các dấu hiệu điển hình nhất, đặc trưng nhất có tính chất lặp lại
trong các hành vi phạm tội cùng loại, nói lên bản chất của tội phạm ấy và được nhà
làm luật pháp điển hóa trong BLHS. Tính chất của cấu thành tội phạm là khuôn
Trang 6
mẫu pháp lý của tội phạm và là cơ sở pháp lý duy nhất cho việc định tội danh. Chỉ
trên cơ sở xác nhận sự phù hợp đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm thì mới
có căn cứ để khẳng định hành vi của một người bị luật hình sự cấm.Do đó, khi
nghiên cứu về việc định tội đối với bất kỳ tội phạm cụ thể, không thể không nghiên
cứu cấu thành tội phạm đó theo quy định của BLHS hiện hành.
Để làm cơ sở cho việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận về định tội đối với
tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ở nội dung tiếp theo, tác giả sẽ trình bày nhận
thức về cấu thành tội phạm này theo quy định của BLHS hiện hành.
1.2. Cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định pháp luật
Việt Nam hiện hành
Tội Lừa đảo chiếm đoạt được quy định tại Điều 139 BLHS hiện hành như
sau:
“1.Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có
giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi
phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng
đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai
năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm
triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy
năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm
triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
Trang 7
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười
hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm
triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
Dựa vào quy định của Điều luật này, có thể hiểu tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản là hành vi chiếm đoạt tài sản người khác bằng thủ đoạn gian dối. Hành vi lừa
đảo chiếm đoạt tài sản cấu thành tội khi thỏa mãn một trong hai trường hợp sau:
a/ Tài sản chiếm đoạt có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên;
b/ Tài sản chiếm đoạt có giá trị dưới 2 triệu đồng nhưng:
- Gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc
- Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt, hoặc
- Đã bị kết án về tội chiếm đoạt và chưa được xóa án tích.
Tương tự như các tội phạm khác, cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
bao gồm bốn yếu tố sau:
1.2.1. Chủ thể
Chủ thể của tội phạm này là cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự (tức là
không bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi), đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và
đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. Cụ thể, người từ đủ 14 tuổi trở
lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ là chủ thể của tội phạm này trong trường hợp rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều khoản 3 và 4 điều 139
BLHS hiện hành. Người từ đủ 16 tuổi trở lên là chủ thể của tất cả trường hợp phạm
tội quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 139 BLHS hiện hành.
1.2.1. Khách thể
Khách thể của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quyền sở hữu của Nhà nước,
cá nhân, tổ chức.Người thực hiện hành vi phạm tội thông qua việc tác động đến đối
tượng là tài sản của người khác đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu.Trong
một số trường hợp, tội phạm này có thể gián tiếp xâm phạm đến quan hệ xã hội
Trang 8
khác như quan hệ nhân thân (tính mạng, sức khỏe) hoặc an ninh, trật tự xã hội1.
Tuy nhiên, do cách thức xâm phạm của tội phạm đến các quan hệ xã hội này mà
các quan hệ này không được xem là khách thể của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Đối tượng tác động của tội phạm này là tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có
giá và các quyền tài sản2. Tác giả thống nhất với quan điểm: Tài sản là đối tượng
tác động của tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải có đặc điểm là còn nằm
trong sự chiếm hữu, sự quản lý của chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản hoặc
đang trong sự chiếm hữu của người phạm tội3. Tài sản đã thoát li khỏi sự chiếm
hữu, sự quản lí của chủ tài sản, người quản lý (tài sản bị thất lạc) thì không còn là
đối tượng của tội phạm này. Bên cạnh đó, một số tài sản đặc biệt cũng không phải
là đối tượng của tội phạm này như: phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên
lạc có liên quan đến an ninh quốc gia, vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân
sự, tài nguyên thiên nhiên, ma túy…
1.2.3. Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội phạm là tổng hợp những biểu hiện bên ngoài của tội
phạm thể hiện qua các yếu tố: hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
và hậu quả… Sau đây, tác giả sẽ lần lượt làm sáng tỏ ba yếu tố này trong mặt
khách quan của cấu thành tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Về hành vi khách quan của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản;
Một trong những đặc trưng cơ bản của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó là
cách thức thực hiện việc chiếm đoạt tài sản. Theo Điều 139 thì hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn
gian dối. Do đó, theo tác giả để nhận thức đúng đắn về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản cần làm rõ 2 yếu tố “thủ đoạn gian dối” và “chiếm đoạt” tài sản.
Theo Từ điển Tiếng Việt, thủ đoạn là cách thức thực hiện công việc thường
là khôn khéo, xảo trá, mờ ám hoặc lén lút, chỉ nhằm đạt được mục đích, bất chấp
các giá trị hay chuẩn mực đã có trong xã hội. Gian dối là dối trá, không thật. “Thủ
đoạn gian dối” có thể hiểu là thực hiện một việc gì đó bằng cách thức dối trá. Thủ
đoạn gian dối của người phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi cố ý đưa ra
thông tin không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật. Trên thực tế,
thủ đoạn gian dối được thể hiện bằng những hành vi khác nhau do người phạm tội
1Trong các trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại Thông
tư liên tịch số 02/2001/TTLT – TANDTC –VKSNDTC – BCA - BTP ngày 25/12/2001. 2 Điều 172 Bộ luật Dân sự năm 1995, Điều 163 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005.
3 Trong trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đáng lẽ phải giao cho người bị lừa
dối. Vì tin vào thông tin gian dối của người phạm tội nên người bị lừa dối đã nhận nhầm tài sản hoặc không nhận.
Trang 9
lựa chọn tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể như: Bằng lời nói dối, giả mạo
giấy tờ, giả danh người có chức vụ quyền hạn, giả danh các cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội để thông qua việc ký kết hợp đồng... nhằm tạo lòng tin nơi chủ sở hữu
hoặc người quản lý tài sản và chiếm đoạt tài sản.
Khác với “thủ đoạn gian dối”, “chiếm đoạt” không phải là đặc trưng riêng
biệt của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà còn là dấu hiệu định tội của nhiều tội
phạm xâm phạm sở hữu khác như: Cướp tài sản (Điều 133), Bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản (Điều 134), Cưỡng đoạt tài sản (Điều 135), Cướp giật tài sản (Điều
136), Công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137), Trộm cắp tài sản (Điều 138) và
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140).
Theo Từ điển tiếng Việt, “chiếm đoạt” là “chiếm của người làm của mình,
bằng cách dựa vào vũ lực, quyền thế”4. Còn theo định nghĩa được ghi nhận tại giáo
trình Luật Hình sự phần 2 của trường Đại học Luật Hà Nội thì: “Chiếm đoạt là
hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài
sản thành tài sản của mình”. Quan điểm này thể hiện được bản chất của khái niệm
chiếm đoạt nhưng đã đồng nhất dấu hiệu chiếm đoạt với hành vi chiếm đoạt mà
không đề cập đến mục đích chiếm đoạt có trong cấu thành một số tội phạm như:
Cướp tài sản (Điều 133), Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134), Cưỡng đoạt
tài sản (Điều 135). Do đó, tác giả thống nhất với ý kiến cho rằng: “Chiếm đoạt là
việc cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lí của chủ sở hữu
thành tài sản của mình. Chúng được biểu hiện dưới dạng hành vi hoặc mục đích
phạm tội”5.
Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy, “chiếm đoạt” là dấu hiệu định tội trong
hành vi khách quan của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ được biểu hiện dưới
dạng hành vi chiếm đoạt. Hành vi này được quyết định bởi ý thức chiếm đoạt của
người phạm tội.
Hành vi chiếm đoạt của người phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được
hiểu là hành vi khách quan làm cho người bị hại mất khả năng thực hiện quyền
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và tạo cho người phạm tội khả
năng thực hiện được việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó một cách trái
pháp luật6.
4Từ điển tiếng Việt -Viện ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên) - Nxb Từ điển Bách Khoa, tr.212;
5 Ths Thái Chí Bình - “Một vài ý kiến về dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt”
6Giáo trình Luật Hình sự phần 2 của trường Đại học Luật Hà Nội, 2006, trang 12
Trang 10
Hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo có hai hình thức thể hiện cụ thể: Nếu
tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của chủ tài sản thì hình thức thể
hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vi nhận tài sản từ người bị lừa dối. Vì
đã tin vào thông tin của người phạm tội nên người bị lừa dối đã giao nhầm tài sản.
Khi nhận được tài sản cũng là lúc người phạm tội làm chủ được tài sản định chiếm
đoạt và người bị lừa dối đã mất khả năng làm chủ tài sản đó trên thực tế. Nếu tài
sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của người phạm tội thì hình thức thể
hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vi giữ lại tài sản đáng lẽ phải giao cho
người bị lừa dối. Vì đã tin vào thông tin của người phạm tội nên người bị lừa dối
đã nhận nhầm tài sản hoặc không nhận. Khi người bị lừa dối nhận nhầm hoặc
không nhận tài sản cũng là lúc người phạm tội lừa đảo đã làm chủ được tài sản bị
chiếm đoạt và người bị lừa dối đã mất tài sản đó.
Cho dù được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào đi nữa thì hành vi chiếm
đoạt chỉ có thể tạo ra cho người phạm tội khả năng xác lập quyền sở hữu một cách
bất hợp pháp đối với tài sản chiếm đoạt được và đây chính là biểu hiện đầu tiên của
hành vi chiếm đoạt. Về pháp lí, hành vi chiếm đoạt không làm cho người bị hại
mất đi các quyền năng thuộc quyền sở hữu mà chỉ làm mất khả năng thực hiện các
quyền năng đó đối với tài sản bị chiếm đoạt.
Như vậy, hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối đặc trưng của tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi cung cấp cho chủ tài sản hoặc
người quản lý tài sản hợp pháp thông tin sai sự thật khiến họ tin tưởng rồi giao tài
sản cho người phạm tội (hoặc người phạm tội không phải giao trả tài sản mà đáng
lẽ phải giao cho người bị lừa dối). Trong đó, hành vi cung cấp cho chủ tài sản hoặc
người quản lý tài sản hợp pháp thông tin sai sự thật là nguyên nhân trực tiếp, quyết
định việc chiếm đoạt của người phạm tội đối với tài sản đó.
Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy giữa “thủ đoạn gian dối” và “hành vi
chiếm đoạt” có quan hệ mật thiết, thống nhất và phụ thuộc một chiều trong đó
“hành vi chiếm đoạt” phụ thuộc tuyệt đối vào “thủ đoạn gian dối”. Sự lệ thuộc của
hành vi chiếm đoạt vào thủ đoạn gian dối thể hiện qua việc hành vi gian dối là cách
thức để người phạm tội chiếm đoạt tài sản và chiếm đoạt tài sản vừa là mục đích
vừa là kết quả của hành vi gian dối. Nếu hành vi chiếm đoạt của người phạm tội
được thực hiện bằng cách thức, thủ đoạn khác không phải là thủ đoạn gian dối thì
chắc chắn không phải là hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngược lại, ngoài việc
có thủ đoạn gian dối, làm cho người khác tin, lầm tưởng những thông tin giả do
Trang 11
ngưởi phạm tội cung cấp là thật và “tự nguyện” giao tài sản, người phạm tội Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản không cần có bất kỳ hành vi hoặc thủ đoạn nào khác (như
giành, giật, lén lút lấy tài sản…) để chiếm đoạt tài sản. Chính mối quan hệ giữa thủ
đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt là dấu hiệu đặc trưng riêng biệt của tội phạm
này. Tuy nhiên, khi định tội danh cần lưu ý, trong một số trường hợp, mặc dù hành
vi chiếm đoạt tài sản và thủ đoạn gian dối của người phạm tội có quan hệ như trên
nhưng không định tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà phải định một tội danh khác
vì khách thể bị xâm phạm không phải là quyền sở hữu. Nội dung này sẽ được phân
tích tại mục 1.3.2.1.
Bên cạnh hành vi khách quan thì hậu quả cũng là một yếu tố của mặt khách
quan của cấu thành tội phạm.
Hậu quả của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể là thiệt hại vật chất: tài
sản, tính mạng, sức khỏe hoặc các thiệt hại phi vật chất7.
Tuy nhiên, thiệt hại thực tế về tài sản (tài sản đã bị chiếm đoạt) không phải
là dấu hiệu bắt buộc để định tội trong cấu thành cơ bản cũng như cấu thành tăng
nặng của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Không xét tới các tình tiết khác, chỉ cần
có căn cứ xác thực về việc một người đã thực hiện hành vi gian dối và hành vi đó
nhằm chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2.000.000đ đến dưới 50.000.000đ nhưng vì
nguyên nhân khách quan mà người đó chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm
đoạt được nhưng giá trị thực tế của tài sản đã chiếm đoạt ít hơn 2.000.000đ thì vẫn
xác định người đó phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 139
BLHS (thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt8).
Ví dụ: Ngày 01/01/2010, A trú tại phường 6, quận 8, TP.H bị xử lý hành
chính về hành vi trộm cắp tài sản. Vào thời điểm đó, phường 6 tiến hành xịt muỗi
chống dịch sốt xuất huyết. Có ý thức chiếm đoạt tài sản của người khác để tiêu xài,
biết gia đình bà B (70 tuổi) không có ai ở nhà nên ngày 01/02/2010, A ăn mặc lịch
sự đến nhà bà B giả làm cán bộ phường đến yêu cầu bà B nộp tiền thuốc xịt muỗi
2.000.000đ. Bà B biết đây là thủ đoạn lừa đảo nên tri hô quần chúng bắt giữ A.
Trong trường hợp này, mặc dù A chưa chiếm đoạt được 2.000.000đ nhưng hành vi
của A đã đủ yếu tố cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại khoản 1
Điều 139 BLHS thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.
7 Tiểu mục 3, Mục I Thông tư liên tích số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP;
8 Tác giả sẽ phân tích cụ thể hơn nội dung này ở mục 1.3.2.3.
Trang 12
Tương tự, nếu xác định được người phạm tội đã thực hiện hành vi lừa đảo
nhằm chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50.000.000đ đến dưới 200.000.000đ hoặc từ
200.000.000đ đến dưới 500.000.000đ hoặc từ 500.000.000đ trở lên nhưng vì
nguyên nhân khách nên nên chưa chiếm đoạt được tài sản có giá trị như ý thức chủ
quan của người phạm tội thì vẫn phải khẳng định người đó phạm tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản theo các khoản 2, 3, 4 của Điều 139 BLHS thuộc trường hợp
phạm tội chưa đạt tương ứng với giá trị tài sản là đối tượng của tội phạm.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 139 BLHS, trong trường hợp tài sản là đối
tượng tác động của tội phạm có giá trị dưới 2.000.000 đồng thì phải kèm theo điều
kiện “gây hậu quả nghiêm trọng”, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi
phạm thì mới cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. “Gây hậu quả nghiêm
trọng” cũng là tính tiết định khung tăng nặng được quy định tại khoản 2 Điều 139
BLHS. Ngoài ra, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu qủa đặc biệt nghiêm
trọng” là những tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại khoản 3, khoản 4
Điều 139BLHS. Những tình tiết này được hiểu là người phạm tội do thực hiện
hành vi phạm tội mà đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về sức khỏe, tính
mạng cho người khác hoặc gây ra các thiệt hại phi vật chất như gây ảnh hưởng xấu
đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang cho nhân dân trong một
địa bàn nhất định9. Khác với thiệt hại về tài sản, các thiệt hại về sức khỏe, tính
mạng và các thiệt hại phi vật chất phải là các thiệt hại xảy ra trên thực tế.
Hai là, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả của tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Trong mặt khách quan của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi chiếm
đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối và thiệt hại về tài sản có mối quan hệ nhân quả
với nhau. Hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối là nguyên nhân trực
tiếp làm phát sinh thiệt hại về tài sản. Thiệt hại về tài sản là hậu quả của việc người
phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bằng cách thức gian dối. Mối quan
hệ giữa hành vi và hậu quả trong trường hợp này còn được thể hiện ở việc người
phạm tội gây ra thiệt hại về tài sản bằng thủ đoạn gian dối và chỉ bằng thủ đoạn
gian dối thì người phạm tội mới chiếm đoạt được tài sản.
9 Tiết 3.4, tiểu mục 3, Mục I Thông tư liên tích số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP.
Trang 13
1.2.4. Mặt chủ quan
Khi nghiên cứu mặt chủ quan của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần nghiên
cứu các yếu tố sau: lỗi, động cơ, mục đích phạm tội.
Lỗi của người phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là lỗi cố ý trực tiếp.
Người phạm tội biết mình có hành vi lừa dối và mong muốn hành vi lừa dối đó có
kết quả để có thể chiếm đoạt được tài sản.
Trong cấu thành tội phạm này, mục đích phạm tội có ý nghĩa rất quan trọng.
Việc xác định chính xác một người có mục đích chiếm đoạt hay không (chủ yếu
dựa vào ý thức của chủ thể10
), nảy sinh tại thời điểm nào (trước, trong hoặc sau khi
có thủ đoạn gian dối) giúp phân định ranh giới giữa tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
một số tội danh khác được quy định trong BLHS cũng như các vi phạm trong thực
hiện hợp đồng dân sự, kinh tế.
Bên cạnh đó, khi nghiên cứu cấu thành tội phạm này, không thể tách rời mục
đích chiếm đoạt với hành vi chiếm đoạt và thủ đoạn gian dối của người phạm tội.
Bởi nếu mục đích chiếm đoạt không gắn liền với hành vi chiếm đoạt và thủ đoạn
gian dối thì dẫn đến một số quan điểm định tội sai lầm sau đây:
- Không cần xác định chủ thể có ý thức chiếm đoạt tài sản hay không, cứ có
thủ đoạn gian dối là coi như phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.Quan điểm này sai
lầm ở chỗ đồng nhất mọi hành vi gian dối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà
không loại trừ vô số các vi phạm quan hệ dân sự, kinh tế đơn thuần. Ví dụ: Một
người có hành vi kê khai gian lận về giá trị tài sản bảo đảm khi làm hồ sơ vay tín
dụng ngân hàng. Hàng tháng, người này vẫn đóng lãi suất đầy đủ cho ngân hàng.
Khi sự việc bị phát hiện, ngân hàng tố cáo người này về hành vi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản. Tuy nhiên, việc gian lận của người nhằm chỉ nhằm vay vốn ngân hàng
mà không nhằm mục đích chiếm đoạt nên không thể xác định người đó phạm tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Nếu một người có mục đích chiếm đoạt tài sản, có thủ đoạn gian dối nhằm
tiếp cận tài sản sau đó lén lút lấy tài sản hoặc giật lấy tài sản và nhanh chóng tẩu
thoát... thì đều coi là phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Quan điểm này sai lầm ở chỗ không xác định được ý nghĩa của thủ đoạn
gian dối đối với việc chiếm đoạt tài sản trong tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản11
.
Trong các trường hợp này cần xác định hành vi nào là hành vi quyết định việc
10
Tác giả phân tích rõ hơn tại mục 1.3.2.1 11
Tác giả đã phân tích nội dung này tại mục 1.2.3.
Trang 14
chiếm đoạt tài sản và đối chiếu hành vi ấy với các hành vi khách quan của các tội
phạm tương ứng được quy định trong BLHS như tội Trộm cắp tài sản hay Cướp
giật tài sản...
Như vậy, qua nghiên cứu các yếu tố cấu thành, tác giả mạnh dạn đưa ra khái
niệm về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội
phạm được quy định tại Điều 139 BLHS, được đặc trưng bởi hành vi chiếm đoạt
tài sản chỉ bằng thủ đoạn gian dối do người đủ tuổi theo quy định pháp luật, có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm quyền sở hữu của
các cá nhân, tổ chức.
Sau khi nghiên cứu về lý luận định tội danh và cấu thành tội Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản như trên, tác giả có nhận thức về một số vấn đề lý luận về định tội đối
với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
1.3. Một số vấn đề lý luận về định tội đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.3.1. Khái niệm định tội danh tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Từ những cơ sở lý luận về định tội danh, căn cứ quy định tại Điều 139 của
BLHS và các dấu hiệu đặc trưng cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tác giả
đưa ra khái niệm về việc định tội danh đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản như
sau: "Định tội danh tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động nhận thức do các
cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện trên cơ sở xem xét, đánh giá, phân tích một
hành vi xem hành vi đó có thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản hay không, nếu có thì nó thuộc điểm, khoản nào của Điều 139
BLHS".
Mặc dù, Điều 139 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ
sung năm 2009) đã quy định cụ thể dấu hiệu đặc trưng cơ bản của tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản tuy nhiên, hành vi phạm tội trên thực tế xảy ra với muôn hình
muôn vẻ, vô cùng đa dạng, phức tạp dẫn đến việc định tội trong nhiều trường hợp
gặp nhiều khó khăn. Sau đây, tác giả xin trình bày một số điều cần lưu ý khi định
tội danh đối với tội phạm này
1.3.2. Một số vấn đề cần lưu ý khi định tội danh đối với tội Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
1.3.2.1. Một số vấn đề cần lưu ý khi định tội danh đối với tội Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản căn cứ vào những yếu tố cấu thành tội phạm
Một là, khi định tội đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần chú ý độ tuổi
của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt. Nếu người phạm tội
Trang 15
thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự thì cần
xác định người phạm tội đủ 14 tuổi là đã phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu
thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự thì
người phạm tội phải đủ 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Hai là, mặc dù tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được đặc trưng bởi hành vi
chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối tuy nhiên không phải cứ có hành vi
chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối là định tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Bởi trong thực tiễn xét xử còn nhiều trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi
chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối như: hành vi làm vé xem bóng đá giả đem bán
lấy tiền, hành vi gian dối trọng việc cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại
hàng... để gây thiệt hại cho khách hàng, hành vi làm hàng giả, buôn bán hàng giả
để đánh lừa người tiêu dùng; hành vi lừa đảo chiếm đoạt các chất ma tuý; hành vi
lừa đảo chiếm đoạt vũ khí, hành vi gian dối trong thương mại điện tử, kinh doanh
tiền tệ, huy động vốn tín dụng, mua bán và thanh toán cổ phiếu qua mạng nhằm
chiếm đoạt tài sản…; những hành vi này đã được Bộ luật hình sự quy định thành
tội phạm độc lập. Do đó, khi định tội cần xác định người đó phạm vào các tội danh
tương ứng khác như: tội Làm vé giả quy định tại Điều 164 Bộ luật hình sự; tội Lừa
dối khách hàng quy định tại Điều 162 Bộ luật hình sự; tội Làm hàng giả, buôn bán
hàng giả quy định tại các Điều 155, 156, 157 và 158 Bộ luật hình sự, tội Chiếm
đoạt chất ma tuý quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự, tội Chiếm đoạt vũ khí quân
dụng quy định tại Điều 230 Bộ luật hình sự, tội Sử dụng mạng máy tính, mạng
viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản quy
định tại Điều 226b Bộ luật hình sự.
Ba là, việc xác định có hay không có ý thức chiếm đoạt tài sản, thời điểm
xuất hiện ý thức chiếm đoạt tài sản có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. Bởi, nếu người phạm tội chỉ có thủ đoạn gian dối nhưng
không có ý định chiếm đoạt tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà
tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người có hành vi bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội sử dụng trái phép tài sản hoặc chỉ là quan hệ dân sự, kinh tế...,trong tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, ý thức chiếm đoạt tài sản có trước khi có việc giao – nhận tài
sản giữa người bị hại với người phạm tội. Chính vì thế mà người phạm tội phải
thực hiện thủ đoạn gian dối để người bị hại tin và giao tài sản. Hay nói cách khác ý
thức chiếm đoạt tài sảncủa người phạm tội bao giờ cũng có trước khi có việc giao –
nhận tài sản giữa người bị hại với người phạm tội thì mới là hành vi lừa đảo chiếm
Trang 16
đoạt tài sản. Nếu ý thức chiếm đoạt tài sản của người phạm tội có sau khi có việc
giao – nhận tài sản giữa người bị hại với người phạm tội thì không phải là lừa đảo
chiếm đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp cụ thể chúng ta có quan điểm định tội
khác tương ứng với hành vi đó.
Tuy nhiên, do ý thức chiếm đoạt là yếu tố thuộc mặt chủ quan của tội phạm,
tức là chúng ẩn bên trong, không biểu hiện ra bên ngoài như mặt khách quan của
tội phạm nên việc đánh giá ý thức chiếm đoạt không hề dễ dàng. Như chúng ta đã
biết, tội phạm là tổng hợp của các yếu tố bên trong (mặt chủ quan) và các yếu tố
bên ngoài (mặt khách quan) cùng với khách thể, chủ thể thực hiện hành viphạm
tội. Do ý thức chiếm đoạt là yếu tố bên trong nên khi thực hiện hoạt động định tội,
để đánh giá người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội có ý thức chiếm đoạt
hay không và có vào lúc nào thì cần phải dựa vào mặt khách quan biểu hiện ra bên
ngoài (đó là hành vi, điều kiện, hoàn cảnh, công cụ, phương tiện phạm tội …) để
đánh giá trong sự kết hợp với ý chí chủ quan của người phạm tội qua sự thừa nhận
của họ.
Bốn là, ý nghĩa của việc xác định ý thức chủ quan của người phạm tội đối
với giá trị tài sản là đối tượng tác động của tội phạm.
Việc xác định ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi lừa đảo đối với
giá trị tài sản là đối tượng của việc chiếm đoạt có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định trường hợp nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trường hợp nào chưa đến
mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như xác định khoản cụ thể của Điều 139
khi định tội. Áp dụng hướng dẫn tại mục 1, 2, 3 và 5 Phần II Thông tư liên tịch số
02/2001/TTLT – TANDTC –VKSNDTC – BCA - BTP ngày 25/12/2001 về việc
hướng dẫn một số quy định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” thì:
- Giá trị tài sản bị chiếm đoạt được xác định theo giá thị trường của tài sản đó
tại địa phương vào thời điểm tài sản bị chiếm đoạt;
- Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi lừa
đảo có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của họ,
thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
có hành vi lừa đảo. Ví dụ: B thấy C đeo một chiếc nhẫn màu vàng. Qua các nguồn
tin, B tưởng đây là nhẫn bằng vàng 9,999, có trọng lượng 2 chỉ, nên đã dùng thủ
đoạn gian dối và đã chiếm đoạt được chiếc nhẫn này. Trong trường hợp này phải
lấy trị giá của một chiếc nhẫn bằng vàng 9,999 với trọng lượng 2 chỉ theo thời giá
Trang 17
tại địa phương vào thời điểm chiếm đoạt để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với B về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".
- Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi lừa
đảo có ý định xâm phạm đến tài sản nhưng không quan tâm đến giá trị tài sản bị
xâm phạm (trị giá bao nhiêu cũng được) thì lấy giá thị trường của tài sản bị xâm
phạm tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm phạm để xem xét việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người đó. Ví dụ: Vì muốn có tiền tiêu xài nên ngày
01.01.2010, A đã có hành vi lừa đảo để chiếm đoạt chiếc xe đạp của B. Sau khi lừa
mượn được xe của B, A bán xe được 300.000đ và đem số tiền này chơi game hết.
Đợi mãi không thấy A trả xe như đã hẹn B báo tin cho công an và bị bắt giữ. Qua
định giá, xác định xe của B trị giá 2.200.000đ. Trong trường hợp này cần xác định
A phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại điều 139BLHS. Nhưng nếu B
xe của B chỉ trị giá 1.200.000đ thì A chỉ bị xử lý hành chính về hành vi này mà
thôi.
- Trong những lần phạm tội mà mỗi lần phạm tội dưới mức tối thiểu để truy
cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS (dưới 2 triệu đồng) và không
thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (gây hậu quả
nghiêm trọng; đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án nhưng chưa được xóa án
tích...) đồng thời trong các hành vi xâm phạm đó chưa có lần nào bị xử phạt hành
chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng giá trị tài sản của các lần
bị xâm phạm bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo
quy định của BLHS, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi lừa đảo phải
bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo tổng
giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm, nếu:
a. Các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện một cách liên tục,
kế tiếp nhau về mặt thời gian.
b. Việc thực hiện các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên
nghiệp, lấy tài sản do việc xâm phạm sở hữu mà có làm nguồn sống chính
c. Với mục đích xâm phạm sở hữu, nhưng do điều kiện, hoàn cảnh khách
quan nên việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải được thực hiện nhiều lần cho nên giá
trị tài sản bị xâm phạm mỗi lần dưới mức 2 triệu đồng.
Trong các trường hợp này nếu chỉ căn cứ vào các hành vi xâm phạm cùng
loại này (lừa đảo chiếm đoạt tài sản) thì không áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm
tội nhiều lần” (Điểm g Khoản 1 Điều 48 BLHS) và cũng không áp dụng tình tiết
Trang 18
định khung hình phạt “có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại khoản 2 của Điều
139 BLHS.
Năm là, việc chuyển giao tài sản trong tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và
trong một số tội phạm khác (trộm cắp, cướp giật, lạm dụng tín nhiệm…)12
.
Về mặt khách quan, Việc chuyển giao tài sản trong tội Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản thỏa mãn các dấu hiệu sau:
- Hành vi chuyển giao tài sản trong tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xuất phát
từ sự tự nguyện của chủ sở hữu tài sản, nghĩa là việc chuyển giao ấy hoàn toàn
không có sự cưỡng ép, không có yếu tố cưỡng bức hoặc sử dụng vũ lực; còn hành
vi chuyển giao tài sản trong mặt khách quan của các tội Trộm cắp tài sản, Cưỡng
đoạt tài sản, Cướp tài sản, Cướp giật tài sản, Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản,
Công nhiên chiếm đoạt tài sản, Chiếm giữ trái phép tài sản thì nằm ngoài ý chí của
chủ sở hữu tài sản, nghĩa là không xuất phát từ sự tự nguyện của họ.
- Chủ sở hữu có thể chuyển giao hoàn toàn quyền sở hữu (từ bỏ quyền sở
hữu) bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt hoặc chỉ chuyển
giao quyền quản lý đối với tài sản cho người phạm tội.
Về mặt chủ quan, người chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền quản lý tài
sản đã tự nguyện từ bỏ (hoặc tạm thời chấm dứt) quyền của mình đối với tài sản,
nghĩa là họ không còn trực tiếp quản lý đối với tài sản nữa. Nếu việc chuyển giao
chỉ là hình thức giao dịch như khách hàng được xem xét hàng hóa trước khi mua
bán rồi lợi dụng các sơ hở của người quản lý tài sản để chiếm đoạt thì sẽ không cấu
thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: A vào tiệm vàng của chị X, yêu cầu
chị lấy cho A xem một sợi dây chuyền vàng để mua. Khi cầm lấy sợi dây chuyền
thì A nhanh chóng lên xe bỏ chạy. Hành vi của A ở đây là hành vi cướp giật tài sản
(nhanh chóng tiếp cận, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản, nhanh chóng tẩu thoát).
Cũng trong tình huống nêu trên, nếu A lợi dụng lúc đông khách, chị X không để ý
bỏ sợi dây chuyền vào túi thì hành vi của A cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Rõ
ràng ở đây có hành vi chiếm đoạt, có thủ đoạn gian dối, ý định chiếm đoạt xuất
hiện trước khi chuyển giao tài sản nhưng lại không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài
sản.Trong trường hợp này, mặc dù có sự chuyển giao tài sản nhưng người quản lý
tài sản không có sự từ bỏ màvẫn tiếp tục thực hiện quyền quản lý tài sản của mình.
12
Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu Một số kỹ năng THQCT, KSĐT, KSXX các vụ án hình sự về các tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,
mạng Internet hoặc thiết bị số để chiếm đoạt tài sản
Trang 19
Nếu chỉ căn cứ vào hành vi chuyển giao tài sản thì trong nhiều trường hợp
không phân định được tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp A mượn xe của B rồi chiếm đoạt, nếu A nảy
sinh ý định chiếm đoạt trước khi mượn xe thì sẽ cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, nhưng nếu A nảy sinh ý định chiếm đoạt sau khi mượn xe thì lại cấu thành
tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Mặc dù cùng một hành vi chuyển giao
tài sản, cùng một ý thức chuyển giao nhưng lại cấu thành hai tội khác nhau. Như
vậy, muốn xác định có lừa đảo hay không còn phải kết hợp với việc xem xét ý định
chiếm đoạt xuất hiện lúc nào.
Một đặc điểm nổi bật của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là khi bị lừa, người
bị hại tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội và họ cho rằng việc giao tài sản
cho người phạm tội như vậy là hoàn toàn hợp pháp. Thực tiễn xét xử có một số
trường hợp bị lừa nhưng người bị hại nhận thức được rằng, việc giao tài sản đó lại
là việc bất hợp pháp, thì người bị lừa có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
hành vi giao tài sản. Ví dụ: Vì muốn con mình được nhẹ tội, nên ông N đã tìm gặp
Hoàng Đình A cán bộ điều tra và nhờ A lo dùm. Tuy là cán bộ điều tra, nhưng A
không có quyền hạn trách nhiệm gì về hành vi phạm tội của con ông N, nhưng A
vẫn hứa sẽ giúp được ông N với điều kiện ông N phải đưa cho A 10.000.000 đồng.
Hành vi giao tiền cho A của ông N là hành vi đưa hối lộ, còn hành vi nhận tiền của
A vẫn là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
1.3.2.2. Một số vấn đề cần lưu ý khi định tội danh đối với tội Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trong một số trường hợp định khung tăng nặng cụ thể
Một là, định tội danh trong vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đồng phạm
Tương tự như các tội phạm khác, Lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng có thể
được thực hiện trong các vụ án có đồng phạm, nghĩa là có hai người trở lên cố ý
cùng thực hiện tội phạm này. Trong các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể
xảy ra các mô hình đồng phạm sau: đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp
(có tổ chức).
Đồng phạm giản đơn thực hiện tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là trường hợp
tất cả những người thực hiện tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản đều là người
thực hành. Ví dụ: Võ Hoàng Bảnh và Lê Thị Hồng mua ba miếng vàng giả rồi đến
huyện Tân Hưng – Long An tìm người có tài sản để lừa đảo. Trên đường đến xã
Vĩnh Bửu thì gặp chị Nguyễn Thị Thu chạy xe đạp có đeo dây chuyền vàng. Bảnh
gọi lại vờ hỏi thăm người quen và nói chuyện mua bán vàng, đôla lãi cao. Chị Thu
Trang 20
ham lời nên đồng ý đổi sợi dây chuyền 4,16 chỉ vàng lấy một miếng vàng giả. Sau
đó gia đình chị Thu phát hiện bị lừa, báo công an truy bắt Bảnh và Hồng.TAND
huyện Tân Hưng (Long An) vừa tuyên phạt bị cáo Võ Hoàng Bảnh (54 tuổi, ngụ
TP Cần Thơ) 5 năm tù giam, bị cáo Lê Thị Hồng (ngụ TP Cần Thơ) 3 năm tù giam
về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản13
.
Khác với trường hợp đồng phạm giản đơn, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài
sản có tổ chức là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với
nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện một tội phạm, dưới sự điều khiển thống nhất
của người cầm đầu (người tổ chức). Trong vụ án đồng phạm có tổ chức tuỳ thuộc
vào quy mô và tính chất mà có thể có những người giữ những vai trò khác nhau
như: Người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên,
không phải vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tổ chức nào cũng có đủ những người
giữ vai trò như trên mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người
thực hành mà không có người xúi giục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải
có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản có tổ chức.
Vai trò của các đồng phạm khác như người cầm đầu, người xúi giục, người
giúp sức trong vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như vai trò của
từng đồng phạm trong lý luận chung nên tác giả không phân tích thêm. Trong
trường hợp hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà người thực hành đã thực hiện và
hậu quả xảy ra đều thỏa mãn ý chí thống nhất của tất cả các đồng phạm thì khi định
tội danh cần xác định tất cả đồng phạm đều phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(có thể không cùng khoản, điểm... vì có thể có mỗi đồng phạm có đặc điểm nhân
thân khác nhau).
Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp có đồng phạm không thực hiện
đúng những hành vi do các đồng phạm khác đặt ra. Vậy cần định tội danh như thế
nào cho phù hợp? Tác giả xin đưa ra quan điểm cá nhân về vấn đề này như sau:
Trong trường hợp các đồng phạm đã chuẩn bị công cụ phạm tội nhưng
người thực hành tự ý không thực hiện hành vi khách quan được quy định trong cấu
thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (có thủ đoạn gian dối, chiếm đoạt tài sản) do
đó tội phạm dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Nếu xác định các đồng phạm
thống nhất về việc phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại khoản 3,
13
Hồ sơ vụ án VKSND huyện Tân Hưng, tỉnh Long An
Trang 21
khoản 4 Điều 139 BLHS thì cần xác định các đồng phạm đều phạm Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản (áp dụng quy định tại Điều 17 và Điều 139 Bộ luật hình sự. Nếu xác
định các đồng phạm thống nhất về việc phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy
định tại khoản 1, khoản 2 Điều 139 BLHS thì cần xác định hành vi của họ không
phải là tội phạm.
Nếu các đồng phạm tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm thì
việc xem xét trách nhiệm hình sự mỗi đồng phạm được thực hiện theo quy định tại
Nghị quyết số 1-89/HĐTP ngày 19/4/1989 hướng dẫn việc áp dụng một số quy
định của bộ luật hình sự. Nội dung của việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
này tác giả sẽ trình bày cụ thể tại mục 1.3.2.2.
Khi định tội đối với các đồng phạm phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
cũng cần lưu ý hai hành vi “xúi giục” và hành vi “giúp sức” của hai loại người
người xúi giục và người giúp sức.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội
phạm, họ có thể cùng hoặc không cùng thực hiện tội phạm với người bị xúi giục.
Hành vi xúi giục phải cụ thể, tức là người xúi giục phải nhằm vào tội phạm cụ thể
và người phạm tội cụ thể. Nếu chỉ có lời nói có tính chất thông báo hoặc gợi ý
chung chung thì không phải là người xúi giục và không phải chịu trách nhiệm hình
sự về hành vi phạm tội của người thực hiện tội phạm.
Nếu xúi giục trẻ em dưới 14 tuổi phạm tội, người không có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện tội phạm, thì hành vi xúi giục được coi là hành vi thực
hành thông qua hành vi của người không chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường
hợp này, người bị xúi giục không phải chịu trách nhiệm hìnhsự về tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản mà người xúi giục phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà
người bị xúi giục đã thực hiện theo sự xúi giục mặc dù người đó không trực tiếp
thực hiện hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Trong vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đồng phạm, vai trò của người
giúp sức cũng rất quan trọng; nếu không có người giúp sức thì người thực hiện tội
phạm sẽ gặp khó khăn. Thông thường, hành vi cả người giúp sức thường được biểu
hiện dưới hình thức “môi giới” cho người phạm tội gặp gỡ, tiếp cận với người bị
hại, làm giả giấy tờ, tài liệu, con dấu… Nếu hành vi giúp sức thỏa mãn cấu thành
tội phạm khác thì khi định tội đối với người đó ngoài tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản cần định thêm các tội danh khác như Làm giả giấy tờ, tài liệu, con dấu…
Hai là, lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp
Trang 22
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có
tính chất chuyên nghiệp quy định trong Bộ luật hình sự, tức là người phạm tội lấy
việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản là phương tiện sinh sống chính của mình. Nói
chung, lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp thường được thực
hiện có tổ chức. Tuy nhiên cũng có trường hợp chỉ một hoặc hai người chuyên lừa
đảo chiếm đoạt tài sản nhưng chỉ là trường hợp đồng phạm thông thường, thậm chí
chỉ có một người chuyên lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chuyên nghiệp được hiểu là người phạm
tội đã năm lần trở lên thực hiện tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không phân biệt đã
bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa
hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xoá án tích và người
phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm
tội làm nguồn sống chính. Nếu phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhiều lần
nhưng họ không lấy việc phạm tội là nghề sinh sống chính thì không coi là có tính
chất chuyên nghiệp mà chỉ là trường hợp phạm tội nhiều lần (tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự). Nếu
người phạm tội tuy có lấy việc phạm tội là nghề sinh sống, nhưng chỉ lừa đảo
chiếm đoạt tài sản một lần còn những lần phạm tội khác không phải là lừa đảo
chiếm đoạt tài sản thì cũng không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất
chuyên nghiệp là tình tiết định khung hình phạt, mà chỉ là tình tiết tăng nặng quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.
Ba là, người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm
Trường hợp phạm tội này lại hoàn toàn giống với tất cả những trường hợp
tái phạm nguy hiểm khác, chỉ cần xác định người phạm tội có đủ các dấu hiệu quy
định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Đây là tình tiết thuộc về nhân thân người
phạm tội, không phụ thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể của tội phạm này hay tội
phạm khác.
Bốn là, lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ
chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do
một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện
một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Nếu
những người này, lợi dụng chức vụ để lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì mới thuộc
trường hợp lợi dụng chức vụ để phạm tội. Ví dụ: A là đại biểu Hội đồng nhân dân
Trang 23
tỉnh X. Do cần tiền để trả nợ, A đã lấy danh nghĩa đại biểu Hội đồng nhân dân và
làm giả hồ sơ quy hoạch của tỉnh X tìm gặp những cá nhân, doanh nghiệp có nhu
cầu đầu tư nhà đất để góp vốn mua những mảnh đất thuộc “quy hoạch”. Do tin vào
tư cách đại biểu Hội đồng nhân dân của A nên các cá nhân đã giao cho A số tiền
30 tỷ đồng. Sau đó, A bị phát hiện, bắt giữ. Trong trường hợp này cần xác định A
phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 139
BLHS. Nếu người có chức vụ, nhưng lại không lợi dụng chức vụ để lừa đảo thì
không gọi là lợi dụng chức vụ lừa đảo. Ví dụ, B là đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh
X. B đã bán một mảnh đất cho nhiều người, chiếm đoạt được số tiền 2 tỷ đồng. Khi
thực hiện hành vi lừa đảo, B không nói mình là đại biểu Hội đồng nhân dân để
những người mua đất tin mà chỉ nói mình có đất cần bán mà thôi.
Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ và do thực
hiện công vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định. Người có quyền hạn thông
thường là người có chức vụ, nhưng cũng có thể là người không có chức vụ nhưng
được giao hoặc được thạm gia thực hiện một công vụ. Ví dụ: B là người chạy xe
ôm cùng tham gia đuổi bắt D là người có hành vi vận chuyển ma tuý. Khi D bị bắt,
B là người được giao chở D về trụ sở Công an; trên đường đi, B gợi ý với D đưa
cho B 5.000.000 đồng, B sẽ lo nhẹ tội cho D. D tưởng B là Công an hình sự nên đã
đưa cho B số tiền trên. Khi sự việc được làm rõ, D mới biết là mình bị lừa.
Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là người phạm tội thông qua cơ quan,
tổ chức mà mình là thành viên để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thông thường, người
phạm tội trường hợp này là thông qua các hợp đồng kinh tế để lừa đảo cơ quan, tổ
chức khác; người bị lừa tưởng nhầm rằng làm ăn với cơ quan, tổ chức thì không sợ
bị lừa. Ví dụ: Bùi Thị H là Giám đốc Công ty kinh doanh tổng hợp thuộc Tổng
công ty X, mặc dù không có cà phê và cũng không thu mua cà phê của bất cứ ai,
nhưng lại ký hợp đồng bán cho Công ty xuất nhập khẩu M 7000 tấn cà phê hạt với
điều kiện Công ty xuất nhập khẩu M phải chuyển trước cho Công ty của H số tiền
mặt bằng 30% giá trị hợp đồng. Sau khi Công ty M đã chuyển vào tài khoản của
Công ty của H số tiền trên, thì H đã rút toàn bộ số tiền đó đem trả Ngân hàng.
Năm là, dùng thủ đoạn xảo quyệt để lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Dùng thủ đoạn xảo quyệt khi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là
người phạm tội có những mánh khoé, cách thức thâm hiểm làm cho người bị hại và
những người khác khó lường trước để đề phòng. Ví dụ: Chị L rất yêu Nguyễn Văn
H, nhưng H chê L xấu gái nên tìm cách lảng tránh.Một lần L đem xe máy đến rủ H
Trang 24
đi chơi, H thấy L có xe máy liền giả vờ đồng ý đi chơi với L. Trong buổi đi chơi, H
tỏ ra chăm sóc, âu yếm L làm cho L tưởng H yêu mình. Sau buổi đi chơi đó, H tìm
cách chiếm đoạt xe máy của L. Để thực hiện ý đồ trên, H nói dối với L mượn xe
máy của L về quê thăm mẹ ốm, L tưởng thật và giao xe và giấy tờ xe cho H. Sau
khi lấy được xe, H bán lấy 30 triệu đồng và bỏ vào miền Nam rồi gọi điện về cho L
là bị mất xe không dám gặp L nữa14
.
1.3.2.3. Một số vấn đề cần lưu ý khi định tội danh đối với tội Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội.
Một là, định tội danh đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội
Dựa vào quy định tại Điều 17 và Điều 139 BLHS hành vi chuẩn bị phạm tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi tìm kiếm, sửa soạn công cụ,
phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để nhằm thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối được quy định tại Điều 139 BLHS. Trong giai
đoạn chuẩn bị phạm tội, người phạm tội chưa bắt tay vào việc thực hiện hành vi
được quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
– hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt. Hành vi thực tế của người phạm tội chưa
xâm phạm đến các quyền sở hữu mà chỉ mới thực hiện những hành vi tạo ra các
điều kiện thuận lợi, cần thiết cho việc thực hiện tội phạm sau đó. Hành vi chuẩn bị
phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể được thể hiện dưới các dạng sau đây:
chuẩn bị kế hoạch phạm tội (bàn bạc cách thức tiếp cận bị hại, cách thức tiêu thụ
tài sản, cách thức che giấu tội phạm, phân công trách nhiệm cho từng đồng
phạm…); thăm dò, tìm kiếm nạn nhân (tiếp cận, dò hỏi thông tin về tài sản của bị
hại…); chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội (chuẩn bị giấy tờ giả, quân phục,
xe hơi đắt tiền để lấy lòng tin của bị hại…).
Theo quy định tại Điều 17 BLHS thì về hậu quả pháp lý, người thực hiện
hành vi trong trường hợp chuẩn bị phạm tội lại không phải chịu trách nhiệm hình
sự (trừ hai trường hợp đặc biệt - khi một người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm
trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng). Do đó, chỉ định tội Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản đối với các chủ thể từ đủ 16 tuổi trở lên trong trường hợp hành vi của họ là
hành vi chuẩn bị phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại khoản 3, khoản
14
Đinh Văn Quế - Bình luận khoa học Bộ luật hình sự tập II;
Trang 25
4 Điều 139 BLHS. Trong các trường hợp còn lại, nếu chủ thể thực hiện hành vi
chuẩn bị phạm tội chưa đủ 16 tuổi hoặc tội họ chuẩn bị phạm được quy định tại
khoản 1, khoản 2 Điều 139 BLHS thì phải xác định là họ không có tội.
Tuy nhiên, cần lưu ý, nếu trong số các hành vi chuẩn bị để thực hiện việc lừa
đảo như làm giấy tờ giả, giả làm cán bộ điều tra.... đã thỏa mãn cấu thành của tội
phạm khác thì cần xác định chủ thể thực hiện còn phạm một tội khác tương ứng
với hành vi đó. Ví dụ: Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 267
BLHS), tội Giả mạo chức vụ, cấp bậc (Điều 265 BLHS)...
Hai là, định tội danh đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong trường
hợp phạm tội chưa đạt
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được
đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Như vậy, phạm
tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa đạt là trường hợp một người đã thực hiện hành
vi khách quan trong cấu thành tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không
thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Đối với tất cả các trường hợp phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa đạt, người
thực hiện hành vi đó đều phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản.
Khoa học pháp lý phân chia phạm tội chia đạt thành 2 loại: phạm tội chưa
đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Thực tế đấu tranh chống
tội phạm cho thấy phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa đạt cũng gồm 2 dạng
trên.
Phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp
người phạm tội vì nguyên nhân khách quan, chưa thực hiện hết các hành vi mà họ
cho là cần thiết để gây ra hậu quả nên hậu quả chưa xảy ra (chưa đạt về hậu quả,
chưa hoàn thành về hành vi). Ví dụ: A có hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tài sản của
B. Khi A đang cung cấp cho những thông tin sai sự thật để lấy lòng tin của B thì bị
phát hiện nên A chưa chiếm đoạt được tài sản.
Phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp
người phạm tội đã thực hiện đầy đủ những hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra
hậu quả, nhưng vì nguyên nhân khách quan, hậu quả đó đã không xảy ra hoặc nếu
có xảy ra nhưng chưa thỏa mãn cấu thành tội phạm được quy định tại điều khoản
tương ứng của Điều 139 BLHS (chưa đạt về hậu quả, hoàn thành về hành vi). Ví
dụ: A đã hành vi cung cấp thông tin sai sự thật để chiếm đoạt tài sản trị giá
Trang 26
300.000.000đ của B nhưng B không có tài sản để giao cho A hoặc B chỉ mới giao
cho A 50.000.000đ thì bị phát hiện, bắt giữ.
Khi định tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong giai đoạn phạm tội chưa đạt
cần lưu ý phải dựa trên ý định thực hiện tội phạm khác nhau của người phạm tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà họ dự định thực hiện được phản ánh trong một cấu
thành tội phạm cụ thể (khoản 1, 2, 3 hay 4 của Điều 139 BLHS) thì việc xác định
giai đoạn thực hiện tội phạm cũng như trách nhiệm hình sự của người phạm tội
mới phù hợp đầy đủ với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà người đó thực
hiện. Tinh thần này được khẳng định tại Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày
04/8/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật Hình
sự 1999 qua các nội dung: “… Cần chú ý là chỉ khi có đầy đủ căn cứ chứng minh
rằng tội phạm mà người phạm tội không thực hiện được đến cùng vì những nguyên
nhân ngoài ý muốn chủ quan của họ thuộc khoản nào của điều luật tương ứng quy
định về tội phạm đó, thì mới áp dụng khoản, điều luật tương ứng đó. Trong trường
hợp không xác định được tội phạm mà họ thực hiện không đạt thuộc khoản tăng
nặng cụ thể nào của điều luật tương ứng quy định về tội phạm đó, thì áp dụng
khoản nhẹ nhất của điều luật tương ứng đó.”
Để làm rõ hơn việc định tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong giai đoạn
phạm tội chưa đạt, tác giả xin đặt ra các tình huống cụ thể như sau:
Theo nhiều nguồn tin, B tin tưởng A đang sử dụng điện thoại Vertu trị giá
220.000.000đ. Vì muốn có tiền trả số nợ 150.000.000đ nên A đã có hành vi gian
dối để chiếm đoạt chiếc điện thoại này của B. Vì nguyên nhân khách quan nên:
(1) Khi A đang có hành vi gian dối thì bị phát hiện do đó chưa chiếm đoạt
được điện thoại này. Điện thoại của B có giá thực tế là 1.500.000đ;
(2) Khi A đang có hành vi gian dối thì bị phát hiện nên chưa chiếm đoạt
được điện thoại này. Điện thoại của B có giá thực tế là 15.000.000đ;
(3) A đã chiếm đoạt được tài sản nhưng giá trị thực tế của điện thoại chỉ là
1.500.000đ;
(4) A đã chiếm đoạt được tài sản nhưng giá trị thực tế của điện thoại chỉ là
15.000.000đ.
Trong 4 tình huống này đều có căn cứ xác thực rằng A thực hiện hành vi lừa
đảo để chiếm đoạt tài sản có giá trị 220.000.000đ (theo ý thức chủ quan của A).
Theo tinh thần tại Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 (như đã nêu trên)
Trang 27
và hướng dẫn tại mục 1 và 2 Phần II Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT –
TANDTC –VKSNDTC – BCA - BTP ngày 25/12/2001 thì không cần quan tâm tới
việc A đã chiếm đoạt được tài sản hay và giá trị thực tế của tài sản là đối tượng
chiếm đoạt, trong cả 4 trường hợp đều phải xác định A phạm tội Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản chưa đạt theo quy định tại khoản 3 Điều 139 BLHS.
Ba là, định tội danh đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong trường hợp
tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tự
mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Như vậy, điều
kiện để được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nói chung và tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng đều phải thỏa
mãn các điều kiện sau:
(1) Việc chấm dứt thực hiện ý dịnh hoặc hành vi phạm tội của người phạm
tội phải “tự nguyện” và “dứt khoát” nghĩa là người đó phải thực sự từ bỏ
ý định phạm tội hoặc hành vi phạm tội của người đó đã thực sự kết thúc;
(2) Việc chấm dứt thực hiện tội phạm phải và chỉ xảy ra trong trường hợp tội
phạm được thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và giai đoạn phạm tội
chưa đạt chưa hoàn thành chứ không thể xảy ra ở giai đoạn phạm tội
chưa đạt đã hoàn thành;
(3) Điều kiện khách quan không có gì ngăn cản việc thực hiện tội phạm; nếu
người phạm tội muốn thực hiện tội phạm, họ hoàn toàn có thể tiến hành
được.
Như vậy, nếu người phạm tội nói chung và phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản nói riêng tự ý nửa chừng chấm dưt việc phạm tội là xuất phát từ ý muốn chủ
quan của bản thân. Họ quyết định không tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nữa
nên ở góc độ nào đó, hành vi này được xem là đã mất tính nguy hiểm cho xã hội.
Do đó, người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình
sự về tội định phạm nếu hành vi của họ không cấu thành tội phạm khác. Còn trong
trường hợp các hành vi mà họ thực hiện đã cấu thành tội phạm khác thì họ phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội danh tương ứng với các hành vi đó. Ví dụ: A làm
giả bảng tên nhân viên thu tiền, biên lai thu tiền và con dấu của trường đại học X
mục đích lừa đảo chiếm đoạt học phí của sinh viên. Sau khi tiếp cận các sinh viên,
A cảm thấy ân hận và không thực hiện hành vi lừa đảo nữa. Tuy nhiên, hành vi của
Trang 28
A vẫn bị phát hiện. Trong trường hợp này, A được miễn truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng vẫn phải bị truy cứu về hành vi làm
giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 267 BLHS).
1.4. Phân biệt tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm xâm
phạm sở hữu khác
Bộ luật Hình sự năm 1999 và sau này đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 là
căn cứ pháp lý quan trọng để định tội danh, đồng thời còn là cơ sở để các cơ quan
pháp luật áp dụng trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và phòng
chống các tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Tuy nhiên, vì những
nguyên nhân khác nhau mà việc định tội danh trong nhiều trường hợp vẫn chưa
thống nhất đặc biệt là khi hành vi khách quan của người phạm tội có “sự ly lai”
giữa tội danh này và tội danh khác. Để góp phần làm sáng tỏ ranh giới định tội
danh trong một số trường hợp có tranh chấp định tội danh giữa tội Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản và một số tội phạm xâm phạm sở hữu khác, tác giả mạnh dạn đưa ra
quan điểm cá nhân như sau:
1.4.1. Dấu hiệu phân biệt tội Cướp giật tài sản và tội Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản
Cướp giật tài sản là tội phạm được quy định tại Điều 136 BLHShiện
hành.Điều văn của điều luật không mô tả hành vi cướp giất tài sản được thực hiện
như thế nào, nhưng căn cứ vào lý luận và thực tiễn xét xử thì cướp giật tài sản là
hành vi công khai, nhanh chóng giật lấy tài sản trong tay người khác hoặc đang
trong sự quản lý của người có trách nhiệm về tài sản rồi tẩu thoát mà không dùng
vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh
thần của người quản lý tài sản. Hiện nay, theo cách hiểu phổ biến được ghi nhận
trong Giáo trình luật Hình sự tập 2 thì “cướp giật tài sản là nhanh chóng giật lấy
tài sản của người khác một cách công khai rồi tìm cách tẩu thoát”.
Mặc dù hành vi khách quan của 2 tội danh Cướp giật tài sản và Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên lý thuyết là hoàn toàn khác nhau nhưng trên thực tế vẫn có
nhiều quan điểm định tội trái ngược nhau giữa 2 tội danh này trong trường hợp kẻ
phạm tội đã có hành vi gian dối trước khi chiếm đoạt tài sản. Vậy, làm thế nào để
phân biệt 2 tội danh này? Theo tác giả, có thể căn cứ vào những cơ sở sau đây để
phân biệt tội Cướp giật tài sản và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Trang 29
Dấu hiệu
phân biệt
Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản Cƣớp giật tài sản
- Ý nghĩa của
thủ đoạn gian
dối đối với
việc chiếm
đoạt tài sản
- Ý thức của
nạn nhân khi
hành vi chiếm
đoạt xảy ra;
-Việc chuyển
giao tài sản
giữa nạn nhân
và người
phạm tội.
- Người phạm tội chỉ chiếm
đoạt được tài sản khi dùng
thủ đoạn gian dối và chỉ
bằng thủ đoạn gian dối mới
chiếm đoạt được tài sản.
- Sau khi người phạm tội
chiếm đoạt tài sản được một
khoảng thời gian nhất định
nạn nhân mới phát hiện
được là mình bị lừa đảo.
- Người bị hại tự nguyện
chuyển giao quyền quản lý
tài sản hoặc chuyển giao
quyền sở hữu về tài sản cho
người thực hiện hành vi lừa
đảo sau khi người phạm tội
thực hiện hành vi gian dối.
Sự tự nguyện này xuất phát
từ niềm tin giả tạo được xây
dựng bằng thủ đoạn gian dối
của người phạm tội.
- Người phạm tội dùng thủ đoạn
gian dối để tiếp cận tài sản hoặc làm
cho chủ sở hữu hoặc người quản lý
sơ hở rồi giật lấy tài sản và nhanh
chóng tầu thoát
- Do người phạm tội chiếm đoạt tài
sản một cách công khai và nhanh
chóng nên ngay tại thời điểm người
phạm tội thực hiện việc chiếm đoạt
thì chủ quản lý tài sản nhận biết
ngay được mình đã bị chiếm đoạt
tài sản.
- Người có tài sản không có hành vi
chuyển giao quyền sở hữu hoặc
chuyển giao quyền quản lý tài sản
cho người phạm tội ngoài phạm vi
kiểm soát của họ. Chỉ có thể xảy ra
khả năng người có tài sản chuyển
giao sự quản lý tài sản tạm thời cho
người phạm tội và họ vẫn kiểm soát
được việc người phạm tội đang
nắm, giữ tài sản đó. Còn người
phạm tội sau khi nắm, giữ được tài
sản thì thực hiện hành vi chiếm đoạt
một cách nhanh chóng.
Trang 30
1.4.2. Dấu hiệu phân biệt tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội Lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Điều 140 BLHS hiện hành quy định tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản như sau:
“1. Người nào có một trong những hành vi sau đây: Chiếm đoạt tài sản của
người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới
bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về
hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án
tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù
từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của
người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn
để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của
người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích
bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản...”
Qua nghiên cứu quy định tại điểm a khoản 1 Điều 140 BLHS hiện hành,
chúng ta dễ nhận thấy một trong những hành vi khách quan của tội Lạm dụng tín
nhiệm cũng có liên quan đến thủ đoạn gian dối, dễ nhầm lẫn với hành vi khách
quan của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, để phân biệt tội 2 tội danh này,
theo tác giả cần quan tâm đến một số nội dung sau:
Dấu hiệu
phân biệt
Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản
Lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản
- Thời điểm người
phạm tội nảy sinh ý
thức chiếm đoạt tài sản
- Ý nghĩa của thủ
đoạn gian dối đối với
- Ý thức chiếm đoạt tài
sản nảy sinh ngay từ đầu
khi trước khi người phạm
tội nhận được tài sản.
- Thủ đoạn gian dối là
cách thức thực hiện việc
chiếm đoạt tài sản. Chiếm
- Ý thức chiếm đoạt tài sản
nảy sinh sau khi ký kết hợp
đồng và nhận được tài sản.
- Thủ đoạn gian dối được sử
dụng để che đậy việc chiếm
Trang 31
việc chiếm đoạt tài sản
- Thời điểm tội phạm
hoàn thành
đoạt tài sản là mục đích
và kết quả của hành vi
gian dối.
- Ngay khi người phạm
tội nhận được tài sản
(trong trường hợp tài sản
bị chiếm đoạt đang trong
sự chiếm hữu của chủ tài
sản) hoặc người bị lừa dối
nhận nhầm hay không
nhận tài sản (trong trường
hợp tài sản bị chiếm đoạt
đang trong sự chiếm hữu
của người phạm tội)
đoạt tài sản.
- Thời điểm phải có nghĩa vụ
trả tài sản theo hợp đồng
nhưng cố ý không trả mà
chiếm đoạt.
1.4.3. Dấu hiệu phân biệt tội Trộm cắp tài sản và tội Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản
Tội Trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 BLHS. Tuy nhiên, điều
văn của Điều luật này lại không mô tả hành vi trộm cắp tài sản được thực hiện như
thế nào, nhưng căn cứ vào lý luận và thực tiễn xét xử thì trộm cắp tài sản là hành vi
lén lút lấy tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản. Hiện
nay, theo cách hiểu phổ biến được ghi nhận thì“Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút
chiếm đoạt tài sản của người khác.
Mặc dù hành vi khách quan của 2 tội danh Cướp giật tài sản và Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên lý thuyết là hoàn toàn khác nhau nhưng trên thực tế vẫn có
nhiều quan điểm định tội trái ngược nhau giữa 2 tội danh này trong trường hợp kẻ
phạm tội đã có hành vi gian dối trước khi chiếm đoạt tài sản. Để minh chứng cho
điều này, tác giả xin đưa ra ví dụ sau:
A là hàng xóm của M, thấy chiếc xe máy để bên hè còn cả chìa khóa xe nên
đã nảy sinh ý định chiếm đoạt (lúc này cả nhà M đi vắng). A vào nhà lấy xe. Khi A
dắt chiếc xe ra đến giữa sân thì bất ngờ bà N (vợ ông M) về nhà, bà N hỏi A: "Sao
chú lại lấy xe máy của nhà tôi". A nói:"tôi đã nói với ông M là cho tôi mượn có tý
việc". Bà N tưởng thật nên để A dắt xe ra ngõ. Lúc này ông M đi chơi về gặp B
Trang 32
đang chuẩn bị nổ máy nên đã giữ xe lại, A xuống xe và nói: "Bà N vừa cho tôi
mượn". Ông M tưởng thật nên để A dắt xe đi. Trường hợp này có 2 quan điểm:
Quan điểm thứ nhất: A lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vì, cho rằng A đã thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản việc chiếm đoạt tài sản bằng việc giả là người
mượn xe vào lấy xe gia đình ông M, bà N (thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản).
Ông M, bà Nnhầm tưởng là vợ hoặc chồng mình đồng ý cho mượn xe nên để A lấy
xe.
Quan điểm thứ hai: A trộm cắp tài sản. Vì A đã có hành vilẻn vào để dắt xe
máy ra, tức là có ý muốn trốn tránh, che giấu hành vi của mình. Tuy nhiên, việc
tình cờ gặp bà N và ông M là ngoài ý muốn và hành vi nói dối chỉ nhằm che đậy
hành vi trộm cắp mà thôi Việc A trả lời ông M và bà N chỉ là hành vi đối phó
nhằm che đậy sự lén lút phạm tội của mình.
Vậy, làm thế nào để phân biệt 2 tội danh này khi người phạm tội đều có thủ
đoạn gian dối trong quá trình thực hiện tội phạm? Theo tác giả, có thể căn cứ vào
những cơ sở sau đây để phân biệt tội Trộm cắp tài sản và tội Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản:
Dấu hiệu
phân biệt
Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản Trộm cắp tài sản
- Ý nghĩa
của thủ đoạn
gian dối đối
với việc chiếm
đoạt tài sản
-Việc chuyển
- Thủ đoạn gian dối có ý
nghĩa quyết định đối với
việc chiếm đoạt tài sản
Người phạm tội chỉ chiếm
đoạt được tài sản khi dùng
thủ đoạn gian dối và chỉ
bằng thủ đoạn gian dối mới
chiếm đoạt được tài sản.
- Người quản lý tài sảntự
nguyện chuyển giao quyền
- Thủ đoạn gian dối không có ý
nghĩa quyết định đối với việc chiếm
đoạt tài sản. Người phạm tội chỉ
dùng thủ đoạn gian dối để tiếp cận
tài sản gần chủ sở hữu hoặc người
quản lý tài sản rồi lén lút lấy tài sản
của nạn nhân. Chính hành vi “lén
lút lấy tài sản” của người phạm tội
mới là hành vi quyết định đối với
việc chiếm đoạt tài sản
- Người quản lý tài sản không có
hành vi tự nguyện chuyển giao tài
sản cho người phạm tội. Nếu có xảy
ra việc chuyển giao tài sản một cách
Trang 33
giao tài sản
giữa người
quản lý tài sản
và người
phạm tội
quản lý tài sản hoặc chuyển
giao quyền sở hữu về tài sản
cho người thực hiện hành vi
lừa đảo sau khi người phạm
tội thực hiện hành vi gian
dối. Sự tự nguyện này xuất
phát từ niềm tin giả tạo được
xây dựng bằng thủ đoạn
gian dối của người phạm tội.
tự nguyện cho người phạm tội thì
việc chuyển giao nàylà hoạt động
thực hiện nghĩa vụ của người quản
lý tài sản một chính đúng đắn, ngay
thẳng, không phải là kết quả của thủ
đoạn gian dối của người phạm tội.
Như vậy, ở tình huống nêu trên, theo quan điểm của tác giảthì hành vi ban
đầu của A là hành vi trộm cắp. Tuy nhiên, do chiếc xe máy vẫn chưa được đưa ra
khỏi nhà của ông M nên tội trộm cắp chưa hoàn thành. Khi bị M, N phát hiện A dắt
xe đi, A đã dùng lời nói dối để khiến cho bà N, ông M tin tưởnglà chồng hoặc vợ
của mình đã cho A mượn xe nên để mặc cho D lấy xe. Lúc này chính lời nói dối
của A mới là yếu tố quyết định hành vi chiếm đoạt của A. Do đó, trường hợp này
cần định tội A phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản mới chính xác.
Trên đây là quan điểm của tác giả về dấu hiệu phân biệt tội Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản và một số tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt khác có thủ
đoạn gian dối mà thực tiễn đã có nhiều ý kiến khác nhau khi định tội.
Như vậy, khi xem xét hành vi của một người có phạm tội Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản hay không nhất thiết phải đối chiếu với bốn yếu tố cấu thành tội phạm
này. Nếu thỏa mãn đầy đủ cả bốn yếu tố khách thể, chủ thể, mặt khách quan, mặt
chủ quan của tội phạm thì mới khẳng định người đó phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản. Tuy nhiên, trong thực tế hành vi phạm tội trên thực tế xảy ra với muôn hình
muôn vẻ, vô cùng đa dạng, phức tạp, đôi khi rất khó đối chiếu với các yếu tố cấu
thành tội phạm đặc biệt là dấu hiệu khách quan và mặt chủ quan của tội phạm dẫn
đến việc các cơ quan tiến hành tố tụng gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi giải
quyết các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Để làm rõ hơn vấn đề này, ở nội dung
tiếp theo, tác giả sẽ nêu ra một số vụ án thực tế mà hành vi của người phạm tội có
sự ly lai giữa tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội phạm khác dẫn đến việc
không thống nhất quan điểm khi định tội thậm chí dẫn đến oan, sai.
Trang 34
CHƢƠNG 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ TRANH CHẤP ĐỊNH TỘI DANH CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN, KIỂN NGHỊ NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI PHẠM NÀY
2.1. Một số vấn đề thực tiễn về tranh chấp định tội danh có liên quan
đến tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Định tội danh là một vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự, là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt
một cách công minh, chính xác, đồng thời làm cơ sở cho việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn, xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến
hành tố tụng... góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, bảo vệ pháp
luật, bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân.
Việc định tội danh sai sẽ dẫn đến hậu quả rất lớn, đặc biệt là không đảm bảo được
tính có căn cứ của hình phạt được tuyên, xét xử không đúng người đúng tội, không
đúng pháp luật. Đây cũng là một nguyên nhân của tình trạng oan, sai đang tồn tại.
Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, hiện tượng tranh chấp định tội danh
giữa tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và một số tội khác, giữa có tội và vô tội còn
khá phổ biến. Để minh chứng cho nội dung này, tác giả xin đưa ra số liệu thực tế
tại địa bàn tỉnh Cà Mau, từ năm 2010 đến 06 tháng đầu năm 2014 như sau15
:
Năm Xét xử
Thay đổi tội danh từ
Điều 139 thành Điều
136, 138, 140 BLHS
Hình sự hóa quan hệ
dân sự thành tội Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản
2010 7 vụ -7 bị cáo 2 vụ - 2 bịc áo Không
2011 8 vụ - 8 bị cáo 1 vụ - 1 bị cáo 1 vụ - 1 bị cáo
2012 10 vụ -10 bị cáo 2 vụ - 2 bị cáo 1 vụ -1 bị cáo
2013 16 vụ -18 bị cáo 3 vụ - 3 bị cáo Không
15
Bộ phận báo cáo thống kê tội phạm Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau
Trang 35
06 tháng đầu
năm 2014 8 vụ -8 bị cáo 3 vụ - 3 bị cáo Không
Dựa vào số liệu thống kê trên đây, có thể thấy số vụ và người phạm tội Lừa
đảo bị đưa ra xét xử gia tăng theo từng năm. Với tình hình gia tăng về số lượng tội
phạm và người phạm tội như vậy, việc đấu tranh, xử lý tội phạm và người phạm
tội này là rất cần thiết, đòi hỏi phải đảm bảo hiệu quả đấu tranh phòng chống tội
phạm, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không để xảy ra oan sai, làm oan
người vô tội. Tuy nhiên, việc định tội danh đối với tội phạm này thực tế còn nhiều
sai sót. Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy tỷ lệ số vụ chuyển tội danh từ tội Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản sang các tội danh khác (tội Cướp giật tài sản, tội Trộm cắp
tài sản, tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản) và hình sự hóa các quan hệ
dân sự thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Cà Mau còn rất cao.
Cụ thể như sau:
Năm
Thay đổi tội danh từ Điều 139
thành Điều 136, 138, 140 BLHS
Hình sự hóa quan hệ dân sự thành
tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tỷ lệ số vụ án Tỷ lệ số bị cáo Tỷ lệ số vụ án Tỷ lệ số bị cáo
2010
28,5%
(2/7 vụ)
28,5%
(2/7 bị cáo)
0%
(0/7 vụ)
0%
(0/7 bị cáo)
2011
12,5%
(1/8 vụ)
12,5%
(1/8 bị cáo)
12,5%
(1/8 vụ)
12,5%
(1/8 bị cáo)
2012
20%
(2/10 vụ )
20%
(2/10 bị cáo)
10%
(1/10 vụ )
10%
(1/10 bị cáo)
2013
18,8%
(3 /16 vụ)
16,7%
(3/8 bị cáo)
0%
(0//16 vụ)
0%
(0/18 bị cáo)
06 tháng
đầu năm
2014
37,5%
(3/8 vụ)
37,5%
(3/8 bị cáo)
0%
(0/8 vụ)
0%
(0//8 bị can)
Mặc dù trên đây chỉ số liệu thống kê về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại 1 địa phương nhưng đã phần nào cho thấy việc
Trang 36
tranh chấp định tội danh có liên quan đến tội phạm này còn rất phổ biến. Để làm rõ
hơn thực trạng này, tác giả xin nêu ra một số ví dụ cụ thể như sau:
2.1.1 Tranh chấp định tội đối giữa tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và một
số tội xâm phạm sở hữu khác có tính chiếm đoạt
Thực tiễn nghiên cứu hình sự và thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy,
các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc
định tội danh nói chung và các tội danh trong nhóm tội xâm phạm sở hữu nói riêng
trong đó có tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản bởi trong nhiều vụ án hành vi phạm tội
của bị can, bị cáo không thể hiện các yếu tố cấu thành tội phạm một cách đặc
trưng, rõ ràng như: tội cướp tài sản thì có yếu tố dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ
lực ngay tức khắc... nhằm chiếm đoạt tài sản; tội cướp giật tài sản thì có yếu tố giật
lấy, giằng lấy...; tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì có yếu tố dùng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt tài sản... mà hành vi của người phạm tội lại có nhiều yếu tố khác nhau
của các tội phạm khác nhau, như vừa có yếu tố gian dối nhưng lại có thêm yếu tố
nhanh chóng, công khai... Sau đây là một số vụ án có tranh chấp trong việc định tội
danh mà tác giả đã ghi nhận được trong thực tiễn.
Vụ án thứ nhất:
Ngày 01/4/2014, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau bắt
quả tang Nguyễn Huy Vũ đến căn nhà cho thuê tháng của bà Vũ Vân Anh ở số
20B, đường Lý Thường Kiệt, khóm 2, phường 6, thành phố Cà Mau để thu
5.000.000 đồng tiền thuê nhà của bà Nguyễn Thị Hoa. Quá trình điều tra, Huy Vũ
khai nhận: Huy Vũ là cháu ruột của bà Vân Anh. Từ đầu năm 2012, vào ngày 01
hàng tháng Huy Vũ chở bà Vân Anh đến căn nhà này để thu tiền thuê nhà của bà
Hoa. Từ ngày 01/01/2014 và 01/02/2014, bà Vân Anh có nhờ Vũ đi thu tiền thuê
nhà trọ dùm bà. Mỗi lần thu tiền, bà Vân Anh cho Vũ 200.000 đồng. Vào ngày
15/02/2014, Huy Vũ có hành vi đánh con ruột của bà Vân Anh là Nguyễn Minh Vy
06 tuổi nhưng không để lại thương tích nên đã bị bà Vân Anh đuổi đi và không còn
liên lạc nữa. Ngày 20/2/2014, bà Vân Anh bị bệnh nặng phải ra nước ngoài điều trị
nhưng bà không nhờ ai quản lý căn nhà này. Ngày 01/3/2014, Vũ lấy danh nghĩa là
bà Vân Anh nhờ đến thu tiền nhà trọ của bà Hoa là 5.000.000 đồng, ngày
01/4/2014, thu tiếp 5.000.000 đồng thì bị bắt quả tang.
Ngày 22/5/2014, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau có bản Cáo
trạng số 105/KSĐT-KT đề nghị truy tố Nguyễn Huy Vũ về tội "Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản". Song tại phiên tòa hình sự sơ thẩm vào ngày 20/6/2014 lại nhận định
Trang 37
rằng: Việc Vũ thu tiền được là do bà Hoa nhầm tưởng Vũ là người được bà Vân
Anh ủy quyền, vì trước đây Vũ đã từng thu tiền thay cho bà Vân Anh. Vì vậy, bà
Hoa vẫn tín nhiệm đưa tiền thuê nhà cho Vũ như trước đây. Vũ không phải dùng
thủ đoạn gian dối để làm cho bà Vân Anh tin mà giao tiền. Việc làm này diễn ra
thường xuyên, liên tục, không phải lén lút. Bà Hoa giao tiền cho Vũ là hoàn toàn
ngay thẳng. Bà Hoa giao tiền cho Vũ mà không biết tài sản của mình đang bị
chiếm đoạt. Đây là dấu hiệu của tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy
đinh tại Điều 140 Bộ luật Hình sự. Bản án hình sự sơ thẩm số 91/HSST ngày
20/6/2014 xác định Nguyễn Huy Vũ phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản .
Theo quan điểm của tác giả, để chiếm đoạt tài sản, Vũ đã có hành vi gian
dối, đưa thông tin đã được bà Vân Anh ủy quyền thu tiền thuê nhà của bà Hoa
(nhưng thực tế không có việc ủy quyền). Vì tin tưởng rằng Vũ đã được bà Anh ủy
quyền thu tiền nên bà Hoa đã đưa tiền cho Vũ và Vũ chiếm đoạt số tiền này. Do
đó, hành vi của Vũ thỏa mãn cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại
Điều 139 Bộ luật Hình sự.
Vụ án thứ hai:
Huỳnh Minh A nhặt được vé giữ xe máy của người khách, biết được xe của
khách đang gửi trong bãi trông giữ xe siêu thị C. A cầm vé gửi xe vào bãi lấy xe,
người giữ xe tưởng A đúng là người đã gửi xe nên trao nhầm xe máy cho A.
Trường hợp này cũng có hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất: A lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vì, cho rằng A đã thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản việc chiếm đoạt tài sản bằng việc giả là người gửi
xe vào lấy xe của mình (thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản). Người trông giữ xe
tưởng là chủ xe nên trao tài sản nhầm (tin nhầm tưởng là người chủ xe thật).
Quan điểm thứ hai: A trộm cắp tài sản. Vì, A đã thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản mà không cần phải sử dụng bất cứ thủ đoạn gian dối nào để lừa người
trông giữ xe, mà việc vào bãi lấy xe của A là công khai ngay thẳng. Người giữ xe
căn cứ vào giấy gửi xe do mình phát hành là đúng nên việc trao xe là đúng đối
tượng có vé gửi xe (vì vậy người giữ xe không bị tin nhầm) nên không phải là
người bị hại. Trường hợp này người bị hại là người gửi xe, A chiếm đoạt bằng thủ
đoạn lén lút, bí mật để tránh sự phát hiện của chủ xe do đó có dấu hiệu trộm cắp tài
sản. Tác giả hoàn toàn thống nhất với quan điểm định tội này.
Vụ án thứ ba:
Trang 38
Có ý định phạm tội từ trước và đã bàn bạc kỹ thủ đoạn gây án, vào khoảng
11 giờ ngày 21/7/2013, Trần Văn Công và Đoàn Thị Lan cùng đi trên một chiếc xe
máy nhãn hiệu Yâmha, loại Novou-LX từ Duyên Hưng (Nam Lợi,Nam Trực, Nam
Định) lên thị trấn Vụ Bản (Lạc Sơn – Hòa Bình). Trước khi đi, biển kiểm soát thật
là 18N-5696 đã được Công thay thế bằng biển kiểm soát giả 18M1-1344. Khi đi
đến khu vực phố Thống Nhất, thị trấn Vụ Bản, thấy cửa hàng vàng bạc Long -
Tuyết đang mở cửa và chỉ có một mình chị Nguyễn Thị Hồng, chủ cửa hàng đang
trông hàng, Công và Lan vào vở hỏi mua dây chuyền vàng, được chị Hồng cho
xem một sợi dây chuyền trọng lượng khoảng 5 chỉ (giá trị tài sản là 16,1 triệu
đồng), Lan liền đeo vào cổ nói là “đeo thử”. Khi thấy Lan đã đeo dây chuyền vào
cổ, Công đi ra ngoài và nói là đi đón hai đứa em mua thêm vàng rồi nổ máy xe
đứng chờ sẵn. Theo đúng kế hoạch đã bàn trước, Lan cầm điện thoại chạy theo nói
với Công: “Anh ơi, cầm điện thoại này” và cả hai lên xe nhanh chóng tẩu thoát .
Đối với vụ án này, có hai quan điểm định tội danh của Công và Lan.
- Quan điểm thứ nhất: Công và Lan phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì
Công và Lan có ý định chiếm đoạt tài sản từ trước nên đã dùng thủ đoạn gian dối
để người bán hàng tin tưởng giao tài sản (dây chuyền) cho Lan. Khi Lan đã nhận
được dây chuyền thì lại tiếp tục có thủ đoạn gian dối (giả vờ ra đưa điện thoại cho
Công) để tẩu thoát cùng tài sản.
- Quan điểm thứ hai: Công và Lan phạm tội Cướp giật tài sản.
Thủ đoạn gian dối của Lan và Công chỉ nhằm tiếp cận tài sản và tạo ra sơ
hở, mất cảnh giác ở người bán hàng nhằm nhanh chóng tẩu thoát (Công và Lan có
ý định chiếm đoạt tài sản từ trước nên đã sử dụng thủ đoạn gian dối khiến người
bán hàng tưởng nhầm Lan là khách mua hàng và giao dây chuyền cho Lan đeo thử.
Khi thấy Lan đã đeo dây chuyền vào cổ, Công đi ra ngoài và nói là đi đón hai đứa
em mua thêm vàng rồi nổ máy xe đứng chờ sẵn. Theo đúng kế hoạch đã bàn trước,
Lan cầm điện thoại chạy theo nói với Công: “Anh ơi, cầm điện thoại này” và cả hai
lên xe nhanh chóng tẩu thoát.”). Nếu không có việc nhanh chóng tẩu thoát cùng
với tài sản thì Công và Lan không thể chiếm đoạt được tài sản chỉ bằng các thủ
đoạn gian dối nói trên vì lúc này người bán hàng vẫn đang quản lý tài sản. Lan và
Công chỉ thực sự thực hiện việc chiếm đoạt tại thời điểm cả hai lên xe nhanh chóng
tẩu thoát. Do đó, hành vi của Công và Lan thỏa mãn tội Cướp giật tài sản. Tác gả
hoàn toàn đồng ý với quan điểm này.
Vụ án thứ tƣ:
Trang 39
Khoảng 21h ngày 24/5/2008, Nguyễn Văn Hiếu (1988) rủ Kiều Quốc Anh
(1990) đi giật điện thoại tại một tiệm điện thoại mà Hiếu đã quan sát, để ý từ lâu.
Hiếu và Quốc Anh thống nhất kế hoạch phạm tội như sau: Quốc Anh chỉ cần điều
khiển xe máy và đứng ngoài đường chờ, còn Hiếu sẽ vào tiệm điện thoại giả vờ
mua điện thoại và lợi dụng chủ tiệm sơ hở và ở bên trong quầy, Hiếu sẽ cướp giật
lấy điện thoại chạy ra thì Quốc Anh sẽ điều khiển xe chở Hiếu bỏ chạy.
Quốc Anh mượn chiếc xe mô tô BKS: 49M1-0487 của anh Hồ Tắt Phát
(1990). Hiếu và Quốc Anh đi trên chiếc xe này đến tiệm “Ngô Gia” của anh Ngô
Văn Chính, dựng xe trước tiệm cả 2 đi vào quán anh Chính. Hiếu hỏi mua và yêu
cầu anh Chính lấy 2 ĐTDĐ hiệu Nokia 6300 và hiệu Samsung ra cho xem. Sau khi
hỏi giá, Hiếu nói lát nữa sẽ quay lại mua và Quốc Anh điều khiển xe 49M1-0487
bỏ đi. Khoảng 15 phút sau, Quốc Anh điều khiển xe máy chở Hiếu quay lại, Quốc
Anh nổ máy xe đứng ngoài đường chờ, Hiếu vào tiệm “Ngô Gia” nói anh Chính
lấy cho xem điện thoại Nokia 6300 cho xem để mua. Khi anh Chính lấy 01 chiếc
điện thoại Nokia 6300 số IMEI 353508028770-571 (trị giá 3.000.000đ) trong tủ
trưng bày để trên mặt kính thì Hiếu cầm điện thoại chạy ra nhảy lên xe Quốc Anh
rồi cả hai bỏ chạy về Bảo Lộc –Lâm Đồng. Sau khi chiếm đoạt được điện thoại di
động trên, Quốc Anh và Hiếu thỏa thuận Quốc Anh sẽ giữ lại chiếc điện thoại di
động để sử dụng và đưa cho Hiếu 1.100.000đ để tiêu xài. Sau đó, ngày 25/5/2008,
Quốc Anh đem cầm cố chiếc điện thoại nói trên cho chị Đoàn Thị Như lấy được
1.300.000đ.
Quá trình tố tụng của vụ án này như sau:
- Ngày 04/6/2008, Công an điều tra huyện Di Linh ra Quyết định khởi tố vụ
án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn Hiếu và Kiều Quốc Anh về tội Cướp giật tài
sản.
- Ngày 28/7/2008, VKSND huyện Di Linh truy tố Nguyễn Văn Hiếu và
Kiều Quốc Anh về tội Cướp giật tài sản.
- Ngày 26/8/2008, TAND huyện Di Linh xét xử Nguyễn Văn Hiếu và Kiều
Quốc Anh về tội Cướp giật tài sản, tuyên phạt Nguyễn Văn Hiếu 18 tháng tù và
Kiều Quốc Anh 12 tháng tù cho hưởng án treo.
- Ngày 04/11/2008, VKSND tỉnh Lâm Đồng có quyết định kháng nghị số
42/KSXXHS/GĐT kháng nghị giám đốc thẩm toàn bộ bản án sơ thẩm số
61/2008/HSST ngày 26/8/2008 của TAND huyện Di Linh đề nghị TAND tỉnh Lâm
Trang 40
Đồng xét xử “Hủy toàn bộ bản án để điều tra, truy tố, xét xử lại về tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản”.
- Ngày 31/3/2009, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm TAND tỉnh Lâm Đồng ra
Quyết định giám đốc thẩm số 03/2009/HS-GĐT hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số
61/2008/HSST ngày 26/8/2008 của TAND huyện Di Linh để điều tra, truy tố, xét
xử lại.
- Ngày 30/5/2009, CQCSĐT Công an huyện Di Linh ra Quyết định thay đởi
Quyết định khởi tố vụ án và Quyết định thay đổi Quyết định khởi tố bị can đối với
Nguyễn Văn Hiếu và Kiều Quốc Anh từ Cướp giật tài sản sang tội Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
- Ngày 21/7/2009, VKSND huyện Di Linh truy tố Nguyễn Văn Hiếu và
Kiều Quốc Anh về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Ngày 10/9/2009, TAND huyện Di Linh xét xử Nguyễn Văn Hiếu và Kiều
Quốc Anh về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tuyên phạt Nguyễn Văn Hiếu 18
tháng tù và Kiều Quốc Anh 12 tháng tù cho hưởng án treo.
Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, Kiều Quốc Anh và Nguyễn Văn Hiếu
không phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bởi những lý do sau:
Thủ đoạn gian dối của Quốc Anh chỉ giúp Quốc Anh tiếp cận tài sản đồng
thời tạo ra sơ hở, mất cảnh giác ở người bán hàng chứ không có ý nghĩa quyết định
đối với việc chiếm đoạt tài sản.
Theo diễn biến thông thường, khi có người hỏi xem hàng để mua, người bán
sẽ đưa hàng cho khách lựa chọn. Khi giao hàng (tài sản) cho Quốc Anh, người bán
vẫn đang quản lý tài sản. Trong khoảng thời gian này, người bán chỉ tạm thời trao
một phần quyền chiếm hữu tài sản (điện thoại) cho khách (khách chỉ có quyền
cầm, nắm điện thoại) và điều này không có nghĩa là người bán hàng tự nguyện giao
tài sản cho khách để tự nguyện từ bỏ sự quản lý đối với tài sản đó. Do đó, vào thời
điểm này, Quốc Anh vẫn chưa thực hiện được hành vi chiếm đoạt tài sản. Hành vi
chiếm đoạt tài sản của Quốc Anh chỉ thật sự diễn ra khi Quốc Anh và Hiếu cầm
điện thoại và rồ ga xe phóng đi.
Nếu chỉ bằng các thủ đoạn gian dối nói trên mà không có việc nhanh chóng
tẩu thoát cùng với tài sản thì Quốc Anh và Hiếu không thể chiếm đoạt được tài sản.
Chính thủ đoạn nhanh chóng chiếm đoạt và nhanh chóng tẩu thoát mới có ý nghĩa
quyết định đối với việc chiếm đoạt tài sản. Do đó, hành vi của Quốc Anh và Hiếu
thỏa mãn tội Cướp giật tài sản.
Trang 41
2.1.2. Hình sự các quan hệ dân sự dưới hình thức tội Lừa đào chiếm đoạt
tài sản
Nghiên cứu lý luận và thực tế, tác giả nhận thấy bản chất vấn đề “chiếm đoạt
tài sản” tới thời điểm này là ổn định, nó vẫn chỉ là việc lấy tài sản của người khác
làm tài sản của mình, tuy nhiên trong điều kiện những mối quan hệ về kinh tế xã
hội rất đa dạng, thay đổi từng ngày từng giờ như hiện nay hành vi chiếm đoạt tài
sản được biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan ngày một phong phú hơn. Vì
vậy, việc đánh giá hành vi như thế nào là chiếm đoạt tài sản không phải dễ dàng.
Trong quá trình điều tra truy tố và xét xử nhiều vụ án xâm phạm sở hữu cũng như
án kinh tế, chức vụ, một trong những vấn đề thường gặp khó khăn và gây tranh cãi
nhiều đó là xác định có hay không yếu tố chiếm đoạt tài sản. Để nhận diện được
yếu tố này cũng còn nhiều quan điểm khác nhau trong giới khoa học pháp lý và
những người làm thực tiễn. Trên thực tế xác định hành vi chiếm đoạt trong tội
phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản rất phức tạp, nhất là khi bọn phạm tội sử dụng
những thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt. Ngoài ra, bên cạnh những sai lầm trong
việc xác định hành vi chiếm đoạt là một trong những nguyên nhân dẫn đến xử lý
hình sự những hành vi không vi phạm pháp luật hoặc chưa đến mức bị xử lý hình
sự hoặc bỏ lọt tội phạm hay còn gọi là “hình sự hóa” hoặc “phi hình sự hóa” các
quan hệ kinh tế, dân sự. Sau đây là một ví dụ thực tế về một trường hợp đã hình sự
hóa quan hệ dân sự dưới hình thức tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Vụ án thứ nhất:
Ngày 28/12/2007, Nguyễn Hoàng Hà ký hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng
lô đất 4.106m2 cho công ty cổ phần Thái Dương do bà Nguyễn Thị Bích Trợ làm
chủ tịch hội đồng quản trị với giá 10.500.000đ/m2 thành tiền 43.113.000.000 đặt
trước 20 tỷ đồng thời hạn hợp đồng kể từ ngày 2 bên giao nhận xong tiền cọc đến
12giờ ngày 2/1/2008
Kể từ ngày ký hợp đồng đặt cọc đến ngày 2/1/2008 bà Trợ 3 lần chuyển cho
Hà 18.600.000.000đ tiền đặt cọc còn lại 1.400.000.000 bà Trợ không chuyển cho
Hà nên bà Trợ vi phạm hợp đồng cọc. Ngày 4/1/2008 (đã hết hạn hợp đồng đặt
cọc) Hà có nhận của bà Trợ 5.600.00.000đ.Số tiền này bà Trợ cho rằng trong đó có
1.400.000.000đ là tiền đặt cọc còn 4.200.000.000đ là tiền chuyển quyền sử dụng
đất. Tuy nhiên Hà cho rằng số tiền 5.600.000.000đ không liên quan đến tiền đặt
cọc ngày 28/12/2007 mà liên quan đến việc mua bán thửa đất 90 Qquang Trung
của Hà với bà Trợ và ông Bùi Quang Phi (ông Phi xác nhận là đúng)
Trang 42
Do bà Trợ vi phạm hợp đồng đặt cọc nên ngày 18/1/2008, Hà có thông báo
số 108 gửi bà Trợ thông báo về việc chấm dứt hợp đồng đặt cọc kể từ 17 giờ ngày
18/1/2008. Mọi tranh chấp được giải quyết trên cơ sở thương lượng.nếu không
thương lượng được thì một trong 2 bên có quyền đưa tranh chấp ra Tòa án có thẩm
quyền giải quyết. Phán quyết của Tòa án là phán quyết cuối cùng bắt buộc 2 bên
phải thi hành.
Bà Trợ cho rằng chính Hà mới là người vi phạm hợp đồng đặt cọc ngày
28/12/2007 nên bà Trợ khởi kiện tranh chấp hợp đồng đặt cọc ra Tòa án nhân dân
quận T. Tòa án nhân dân quạn T đã thụ lý vụ án dân sự vào ngày 30.1.2008 và tiến
hành hòa giải nhưng không thành.
Ngày 19/2/2008, bà Trợ làm đơn gửi CQCSĐT tố cáo Hà lừa đảo chiếm
đoạt của công ty cổ phần Thái Dương 24.200.000.000đ (bao gồm 20.000.000 .000
đặt cọc và 4.200.000.000đ tiền thực hiện hợp đồng mua bán đất.
Ngày 7/3/2008, bà Trợ làm đơn gửi Tòa án nhân dân quận T. yêu cầu tạm đình chỉ
giải quyết tranh chấp hợp đồng đặt cọc. Xét thấy vụ việc đang được cơ quan điều
tra thụ lý giải quyết nên TAND quận T ra quyếtđịnh tạm đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự.
Quá trình giải quyết:
Tại cáo trạng số 9/2009/CT/VKS/P1 ngày 16/6/2009, của VKSND TP D. kết
luận Nguyễn Hoàng Hà lừa đảo chiếm đoạt của công ty cổ phần Thái Dương
24.200.00.000đ đồng thời truy tố Nguyễn Hoàng Hà về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 139 BLHS.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 29/2009/HSST ngày 28/9/2009 của TAND TP
D. kết luận Hội đồng xét xử thấy không có cơ sở, chứng cứ khẳng định Nguyễn
Hoàng Hà đã đưa ra những thông tin giả để nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của
công ty Thái Dương số tiền 24.200.000.000đ dùng đặt cọc để chuyển nhương lô
đất 4.106m2. Vì vậy không có cơ sở đã quy kết Nguyễn Hoàng hà phạm tội Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản như cáo trạng VKSND TP. Đ đã truy tố. Căn cứ khoản 2
Điều 107 BLTTHS tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng Hà không phạm tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.
Ngày 6/10/2009 VKS cấp sơ thẩm kháng nghị phúc thẩm đề nghị Tòa án cấp
phúc thẩm tuyên bố Nguyễn Hoàng Hà phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo
điểm a khoản 4 Điều 139 BLHS.
Trang 43
Nguyên đơn dân sự do bà Nguyễn Thị Bích Trợ đại diện kháng cáo yêu cầu
Tòa án phúc thẩm tuyên hủy toàn bộ án sơ thẩm và kết luận Nguyễn Hoàng Hà
phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đồng thời buộc Nguyễn Hoàng Hà trả lại số
tiền 24.200.000.000đ cho công ty cổ phần Thái Dương.
Theo quan điểm cá nhân, tác giả nhận thấy rằng: Tại hợp đồng đặt cọc ngày
28/12/2007, hai bên đã thỏa thuận tại Điều 5 về phương thức giải quyết tranh chấp.
Mọi tranh chấp phải được giải quyết trên cơ sở thương lượng; nếu không thương
lượng thì 1 trong 2 bên có quyền đưa tranh chấp ra tòa án có thẩm quyền để giải
quyết. Phán quyết của Tòa án là cuối cùng bắt buộc 2 bên phải thi hành. Mặt khác
tại thông báo số 108 ngày 18/1/2008 của Nguyễn Hoàng Hà gửi cho công ty cổ
phần Thái Dương sau khi bà Trợ vi phạm hợp đồng đặt cọc tiền Nguyễn Hoàng Hà
vẫn tiếp tục nhắc lại quyền của các bên được thỏa thuận tại Điều 5 của hợp đồng
đặt cọc.
Căn cứ các nội dung nêu trên đã đủ cơ sở xác định Nguyễn Hoàng Hà không
hề có ý định chiếm đoạt và không có hành vi chiếm đoạt tài sản của công ty cổ
phần Thái Dương. Do đó, Hà không phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Thực tế trước khi vụ án này được CQĐT khởi tố hình sự thì đã được TAND
quận T thụ lý giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự như các bên thỏa thuận tại
Điều 5 hợp đồng đặt cọc ngày 18/12/2007 là đúng pháp luật nhưng sau đó đã hình
sự hóa quan hệ dân sự16
.
Vụ án thứ hai:
Theo hồ sơ vụ án, gia đình Nguyễn Hữu Trí làm nghề kinh doanh xe vận tải
hành khách. Trí làm tài xế lái xe ô tô khách 29 chỗ, BS 93N-2786 cho nhà mình,
chạy tuyến Đồng Xoài - Bến xe Miền Đông. Vì muốn có tiền đánh bạc và trả nợ,
ngày 25/1/2011, Trí thỏa thuận với Lê Minh Thành về việc cầm chiếc ô tô của cha
mẹ và nhận số tiền 100 triệu đồng là giá trị cầm cố chiếc ô tô này.Tuy nhiên, do
muốn có thêm tiền tiêu xài nên Trí viết thêm giấy biên nhận với nội dung là đã cầm
xe với số tiền 300 triệu đồng có xác nhận “đã nhận cầm cố” của Thành. Trí
dặnThành nói dối với mẹ mình (bà Huệ) là đã cầm xe với giá này, đồng thời yêu
cầu Thành đưa tiền chênh lệch 200 triệu đồng cho mình. Sau đó, Trí gọi điện thoại
báo cho bà Huệ rằng mình đã cầm xe và nói cần tiền để chuộc xe. Tin lời con, ba
ngày sau bà Huệ gặp Thành và đưa 309 triệu đồng để con trai mình chuộc xe
(trong đó có 9 triệu đồng tiền lãi).Có tiền trong tay, Trí mang đi trả nợ. Số còn lại,
16
Hồ sơ vụ án lưu tại VKSND thành phố Đ.
Trang 44
Trí sang Campuchia đánh bạc và bị thua hết. Ngày 7/3/2011, Trí tiếp tục lấy xe của
gia đình mang đến cửa khẩu Xa Mát (huyện Tân Biên, Tây Ninh) cầm với giá
25.000 USD (khoảng 550 triệu đồng) để đánh bạc và tiếp tục thua, sau đó thì bỏ
trốn17
. Hoảng vì sợ mất xe, mẹ của Trí đã nộp đơn tố cáo con đến công an để thu
hồi chiếc xe và cho rằng một nửa chiếc xe thuộc sở hữu của con mình. Một tháng
sau, Trí đến công an đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Theo kết quả
định giá, chiếc xe trị giá 773 triệu đồng. VKSND tỉnh Bình Phước đã truy tố Trí về
hai tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS) và Lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản (Điều 140 BLHS).Thành là đồng phạm của Trí trong tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, TAND tỉnh Bình Phước lại nhận định rằng Trí
chỉ phạm một tội Lạm dụng tín nhiệm. Theo tòa, Trí hai lần cầm chiếc xe của cha
mẹ để lấy tiền tiêu xài. Như vậy, đối tượng bị chiếm đoạt là chiếc xe trị giá 773
triệu đồng chứ không phải là số tiền 309 triệu đồng mà bà Huệ đem đi chuộc xe.
Hành vi lừa dối mẹ của Trí về số tiền chuộc xe xuất phát từ việc Lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản đã hoàn thành, không phải là hành vi độc lập. Việc mẹ
Trí bỏ tiền chuộc xe hay không cũng không ảnh hưởng đến vụ án. Đặc biệt, mối
quan hệ ở đây lại là mẹ con.Vì vậy Trí chỉ phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản.Tòa tuyên phạt Trí bảy năm tù. Ngoài ra, theo tòa, do Trí không phạm
tội lừa đảo nên Thành không phải là đồng phạm tội này. Tuy nhiên, Thành vẫn
phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nên bị phạt ba năm tù.
Ngay sau đó, VKSND tỉnh Bình Phước kháng nghị vì không đồng ý với
quan điểm của tòa. Theo Viện, khi được cha mẹ giao xe đi chở khách, vì muốn có
tiền tiêu xài và đánh bạc nên Trí đã đem xe đi cầm. Hành vi này đã cấu thành tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Ngoài việc cầm xe, Trí còn thông đồng với
Thành gian dối mẹ từ 100 thành 300 triệu đồng tiền chuộc xe. Hành vi này của Trí
đã cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt và Thành là đồng phạm giúp sức trong việc
lừa đảo. VKSND tỉnh Bình Phước cho rằng án sơ thẩm tuyên không chính xác.
Ngày 13.6.2013, Tòa phúc thẩm TAND TP.HCM tuyên hủy một bản án sơ
thẩm do TAND tỉnh Bình Phước xử vì "vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng" do
trong hồ sơ vụ án không có bản cáo trạng. Đặc biệt, theo quan điểm của Tòa phúc
thẩm TAND TP.HCM thì với một hành vi Trí và Thành dùng thủ đoạn gian dối để
17
Hồ sơ vụ án tại VKSND tỉnh Bình Phước
Trang 45
chiếm đoạt tài sản của bà Huệ 309 triệu đồng nhưng Viện KSND tỉnh Bình Phước
lại truy tố Nguyễn Hữu Trí hai tội “lừa đảo” chiếm đoạt 209 triệu đồng và “lạm
dụng” chiếm đoạt 100 triệu đồng là không đúng.
Theo quan điểm của tác giả, hành vi của Trí và Thành cần được phân tích cụ
thể như sau:
- Đối với hành vi cầm cố xe ô tô vào ngày 25/01/2011 của Trí: Khi được gia
đình giao cho xe ô tô Trí đã cầm cố xe ô tô này cho Thành với giá 100 triệu đồng.
Vào thời điểm này hành vi của Trí không cấu thành tội phạm mà chỉ mới là quan
hệ dân sự giữa Trí, Thành và gia đình Trí.
- Đối với hành vi viết thêm biên nhận đã cầm cố xe ô tô với giá 300 triệu
(nhưng thực tế giá cầm cố chỉ là 100 triệu đồng) rồi thuyết phục mẹ mình trả tiền
chuộc xe để nhận 309 triệu đồng từ mẹ mình (trong đó 09 triệu đồng là tiền lời cầm
cố trong 03 ngày) của Trí đã thỏa mãn cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vì
muốn có tiền tiêu xài và trả nợ, biết mẹ rất yêu thương mình nên Trí đã dùng thủ
đoạn gian dối, năn nỉ mẹ trả tiền 309 triệu đồng tiền chuộc xe (nhưng thực tế tiền
chuộc xe chỉ có 109 triệu đồng) để chiếm đoạt tiền số tiền 200 triệu của bà Huệ. Ở
tình huống này, Thành có vai trò đồng phạm với Trí (Thành xác nhận vào biên
nhận cầm cố “300 triệu” để “qua mặt” gia đình Trí; Thành trực tiếp nhận 309 triệu
từ bà Huệ sau đó đưa lại cho Trí số tiền 200 triệu để Trí chiếm đoạt số tiền này).
- Đối với hành vi của Trí vào ngày 7/3/2011: Sau khi được gia đình tin
tưởng giao chiếc ô tô thì Trí tiếp tục lấy xe của gia đình mang đến cửa khẩu Xa
Mát (huyện Tân Biên, Tây Ninh) vào ngày 07/3/2011 cầm với giá 25.000 USD
(khoảng 550 triệu đồng) để đánh bạc và tiếp tục thua.
Sau khi được gia đình giao chiếc ô tô, Trí đã đem chiếc xe này mang cầm
với giá 25.000 để sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp (đánh bạc) dẫn đến
không có khả năng trả lại tài sản. Như vậy hành vi này của Trí có dấu hiệu thỏa
mãn cấu thành tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Trên đây là một số những vụ án liên quan đến tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
mà chúng tôi thu thập được có thiếu thống nhất trong việc định tội danh
2.2. Nguyên nhân của tình trạng tranh chấp định tội danh giữa tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản và một số tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt; kiến
nghị nhằm nâng cao chất lƣợng định tội danh đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản
Trang 46
2.2.1. Nguyên nhân của tình trạng tranh chấp định tội danh giữa tội Lừa
đảo chiếm đoat tài sản và một số tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt khác
Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy tình trạng nêu trên có những nguyên
nhân chủ yếu như sau:
Một là, một số tội phạm trong thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt không quy định cụ thể cấu thành tội phạm, đặc biệt là không mô tả
hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm nên đã dẫn đến nhiều trường hợp hiểu
không thống nhất như tội Cướp giật tài sản (Điều 136), tội Trộm cắp tài sản (Điều
138)…
Hai là, hành vi thuộc mặt khách quan của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và
một số tội phạm xâm phạm sở hữu khác chưa được phân biệt rõ ràng, ví dụ: hành
vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 với hành vi Lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 140 BLHS. Với cách quy định như
trong các điều luật này nhiều trường hợp nhầm lẫn, khó phân biệt trong việc định
tội, giải quyết vụ án.
Ba là, năng lực chuyên môn của những người tiến hành tố tụng khi định tội
còn hạn chế. Một số cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Thẩm phán, hội thẩm thiếu tinh
thần trách nhiệm trong công tác, có biểu hiện tiêu cực khi tham gia giải quyết các
vụ án có liên quan đến tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến việc định tội danh không đúng,
không đảm bảo được tính có căn cứ của hình phạt được tuyên, xét xử không đúng
người đúng tội, không đúng pháp luật, là một nguyên nhân của tình trạng oan, sai
đang tồn tại. Xét thấy hiện trạng tồn tại nhiều quan điểm khác nhau trong việc định
tội danh như kể trên xuất phát từ nguyên nhân chủ yếu là sự chưa hoàn thiện của
những quy định pháp luật về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói
chung và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Do đó, s tác giả sẽ đưa ra một số
kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng định tội danh đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, góp phần hạn chế tình trạng tranh chấp định tội danh trên thực tế.
2.2.2. Kiến nghị nhằm nâng cao chất hoàn thiện quy định pháp luật về tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện Bộ luật hình sự để pháp điển hóa về các tội
xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói chung và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
nói riêng từ thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử.
Trang 47
Đối với những quy định về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt mà
xét thấy nếu quy định rõ ràng trong điều luật của BLHS thì không đảm bảo cho
tính ngắn gọn, súc tích của Điều luật hoặc trong trường hợp do công tác xử lý các
tội phạm trên thực tế đòi hỏi phải có những hướng dẫn cụ thể hơn so với những
quy định của BLHS thì nhất thiết cần phải có những văn bản hướng dẫn. Do đó,
yêu cầu đặt ra là phải tăng cường chất lượng các văn bản hướng dẫn về các tội xâm
phạm sở hữu.
Về tình tiết “đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản” trong chương các tội xâm
phạm về sở hữu nói chung, tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, cũng nảy sinh
bất hợp lý, chưa mang tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Vì theo Khoản 1
các Điều 139 Hình sự quy định: Hành vi lừa nếu có giá trị dưới mức định lượng tối
thiểu, thì phải có thêm dấu hiệu: “Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được
xóa án tích, mà còn vi phạm” mới cấu thành tội phạm, nên trong thực tế có người
thực hiện hành vi lừa có giá trị dưới mức tối thiểu, tuy chưa có lần nào bị kết án về
tội chiếm đoạt nhưng lại có nhiều tiền án về các tội đặc biệt nghiêm trọng khác,
như: giết người, hiếp dâm trẻ em, mua bán trái phép chất ma túy,… lại không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngược lại, người có hành vi lừa có giá trị dưới mức
định lượng tối thiểu và bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hay chỉ có một
lần tiền án về tội chiếm đoạt (mặc dù thuộc loại ít nghiêm trọng) vẫn bị coi là tội
phạm. Vì vậy, cần bổ sung thêm vào khoản 1 các Điều 139Bộ luật Hình sự hiện
hành nói riêng, cũng như các tội xâm phạm sở hữu nói chung tình tiết định tội: “Đã
bị kết án về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng” theo hướng:
Điều 139 Bộ luật Hình sự:
"1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có
giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, tội rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm".
Đối với trường hợp người thực hiện nhiều lần hành vi xâm phạm sở hữu,
nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị xâm phạm dưới mức tối thiểu để truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự:
Thứ hai, tăng cường chất lượng các văn bản hướng dẫn về các tội xâm
phạm sở hữu nói chung và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
Trang 48
Theo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-
BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ Công an và Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương
XIV "các tội xâm phạm sở hữu" có một số quy định còn mang tính chung chung và
khó thực hiện, cụ thể:
Tại mục 5 phần II Thông tư hướng dẫn:
"Trong trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm
phạm sở hữu, nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị xâm phạm dưới mức tối thiểu để truy
cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự và không thuộc một
trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (gây hậu quả nghiêm
trọng; đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích…),
đồng thời trong các hành vi xâm phạm đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và
chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm
phạm bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định
của Bộ luật Hình sự, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở
hữu phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo tổng giá trị
tài sản của các lần bị xâm phạm, nếu:
a) Các hành vi xâm phạm sở hữu được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp
nhau về mặt thời gian.
b) Việc thực hiện các hành vi xâm phạm sở hữu có tính chất chuyên nghiệp,
lấy tài sản do việc xâm phạm sở hữu mà có làm nguồn sống chính...
Cần chú ý là trong các trường hợp trên đây nếu chỉ căn cứ vào các hành vi
xâm phạm cùng loại này thì không áp dụng tình tiết tăng nặng "phạm tội nhiều lần"
(Điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự) và cũng không áp dụng tình tiết định
khung hình phạt "có tính chất chuyên nghiệp" quy định tại khoản 2 của điều luật
tương ứng quy định về tội phạm tương ứng đó. Trong trường hợp có tình tiết khác
định khung hình phạt thì áp dụng khoản tương ứng của điều luật tương ứng có quy
định tình tiết định khung hình phạt đó".
Chính quy định này mà thực tiễn xét xử ở một số cơ quan, người tiến hành
tố tụng, chưa nhận thức đúng và áp dụng thống nhất các điều kiện trên, cụ thể:
+ Thế nào là “Hành vi xâm phạm sở hữu được thực hiện một cách liên tục,
kế tiếp nhau về mặt thời gian”. Trong Thông tư liên tịch số 02 có nêu ví dụ: Kẻ
phạm tội liên tục lấy cắp tài sản của nhiều người trong cùng một đêm, thì được
cộng dồn để xử lý. Nếu đặt trường hợp: Ngày 10/8/2014, Nguyễn Văn A lừa đảo
Trang 49
chiếm đoạt tài sản của B số tiền 1.000.000 đồng. Ngày 11 và 12/8/2014, A tiếp tục
lừa đảo chiếm đoạt của C số tiền 500.000 đồng và D số tiền 1.000.000 đồng. Như
vậy, hành vi của A có được xem là thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt
thời gian để cộng dồn giá trị tài sản bị chiếm đoạt để xử lý về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản không.
+ Đối với trường hợp người thực hiện nhiều lần hành vi xâm phạm sở hữu
nhưng không cùng loại đồng thời lại thỏa mãn tất cả những điều kiện nêu trên như
vừa cướp giật tài sản vừa lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản vừa lừa đảo chiếm
đoạt tài sản thì có bị xử lý không, xử lý về tội gì? Theo điểm 5 mục 2 Thông tư liên
tịch số 02/2001 thì không bị xử lý. Đây là điểm bất hợp lý, không đảm bảo sự công
bằng, nghiêm minh của pháp luật. Đòi hỏi cần sửa đổi bổ sung Bộ luật Hình sự
theo hướng quy định người thực hiện nhiều lần hành vi chiếm đoạt tài sản mà giá
trị tài sản của mỗi lần dưới mức tối thiểu, tổng các lần cộng lại bằng hoặc trên mức
tối thiểu thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 của điều luật tương ứng mà
không đòi hỏi các hành vi phải cùng loại. Về định tội danh có thể căn cứ vào dấu
hiệu khách quan của hành vi xâm phạm sở hữu sau cùng trước khi bị phát hiện để
định tội danh.
+ Mặt khác, việc chứng minh người thực hiện hành vi phạm tội có dấu hiệu
“Lấy tài sản do việc xâm phạm sở hữu mà có làm nguồn sống chính” là rất khó
khăn, vì họ thường có nghề nghiệp (tuy không ổn định) và không người phạm tội
nào lại thừa nhận họ sống từ việc phạm tội. Việc kết luận họ có lấy tài sản do việc
xâm phạm sở hữu mà có làm nguồn sống chính hay không chủ yếu dựa vào lời
khai của họ.
Chính vì vậy, các văn bản hướng dẫn cần quy định rõ vấn đề trên để đảm
bảo cho việc xử lý được công bằng, không bỏ lọt tội phạm.
Trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp quy định tại Điều 139
Khoản 2 Điểm d Bộ luật Hình sự được hướng dẫn tại mục 5 Nghị quyết 01 ngày
12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Bộ luật Hình sự như sau:
"5.1. Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" khi có đầy
đủ các điều kiện sau đây:
a) Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt
đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu
chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xoá án tích;
Trang 50
b) Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết
quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
Ví dụ: A là một người không nghề nghiệp, chuyên sống bằng nguồn thu
nhập từ việc phạm tội. Trong một thời gian, A liên tiếp thực hiện năm vụ trộm cắp
tài sản (tài sản chiếm đoạt được trong mỗi vụ có giá trị từ năm trăm ngàn đồng trở
lên). Trong trường hợp này, A bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải bị áp dụng
tình tiết định khung hình phạt "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp".
Khi áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp", cần phân biệt:
a) Đối với trường hợp phạm tội từ năm lần trở lên mà trong đó có lần phạm
tội đã bị kết án, chưa được xoá án tích thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người
phạm tội có thể bị áp dụng cả ba tình tiết là "phạm tội nhiều lần", "tái phạm" (hoặc
"tái phạm nguy hiểm") và "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp".
Ví dụ: B đã bị kết án về tội "trộm cắp tài sản", nhưng chưa chấp hành hình
phạt hoặc sau khi chấp hành xong hình phạt, trong một thời gian, B lại liên tiếp
thực hiện bốn vụ trộm cắp tài sản (tài sản chiếm đoạt được trong mỗi vụ có giá trị
từ năm trăm ngàn đồng trở lên). Trong trường hợp này, B phải bị truy cứu trách
nhiệm hình sự và phải bị áp dụng ba tình tiết tăng nặng là "phạm tội nhiều lần",
"tái phạm" (hoặc "tái phạm nguy hiểm") và "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp".
b) Đối với tội phạm mà trong điều luật có quy định tình tiết "phạm tội có
tính chất chuyên nghiệp" là tình tiết định khung hình phạt thì không được áp dụng
tình tiết đó là tình tiết tăng nặng tương ứng quy định tại Điều 48 của Bộ luật Hình
sự. Trường hợp điều luật không có quy định tình tiết này là tình tiết định khung
hình phạt thì phải áp dụng là tình tiết tăng nặng tương ứng quy định tại Điều 48
của Bộ luật Hình sự".
Quy định như trên là không khách quan, vì nếu một người thực hiện 05 lần
hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng có 01 lần đã bị kết án về tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, có nghĩa là lần truy cứu trách nhiệm hình sự sau, người đó chỉ
phạm tội 04 lần. Nếu căn cứ quy định như trên thì lại làm nảy sinh trường hợp một
hành vi phạm tội lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự hai lần. Lần đầu tiên người đó
thực hiện hành vi phạm tội được xem xét là tình tiết định tội, hành vi này lại tiếp
tục được xem xét là tình tiết định khung tăng nặng "có tính chất chuyên nghiệp"
trong lần xử lý sau. Cùng một hành vi phạm tội lại vừa bị tính phạm tội có tính
chất chuyên nghiệp, tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Trang 51
Như vậy, quy định tại mục 5 Nghị quyết 01 ngày 12/5/2006 có thể sửa lại
như sau:
Chỉ áp dụng tình tiết “Phạm tội có tình tiết chuyên nghiệp” khi có đầy đủ các
điều kiện sau đây:
a. Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm mà chưa bị truy
cứu trách nhiệm hình sự;
b. Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết
quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
Những kiến nghị này có thể được thực hiện thông qua những biện pháp cụ
thể như sau:
- Cần tăng cường vai trò của Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan tư pháp
trung ương trong hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật hình sự, trong đó có các
tội xâm phạm sở hữu; chú trọng hướng dẫn về nghiệp vụ xét xử và giải thích nội
dung, tinh thần của các quy định trong Bộ luật hình sự liên quan đến từng loại tội
phạm nói chung và các tội xâm phạm sở hữu nói riêng.
- Nội dung hướng dẫn, giải thích cần thống nhất, ngắn gọn, rõ ràng, tập
trung vào các vấn đề có liên quan đến hoàn thiện pháp luật về các tội xâm phạm sở
hữu; kịp thời tháo gỡ, đưa ra các giải pháp xử lý cho các vấn đề mới phát sinh, các
vấn đề chưa được quy định rõ hoặc những vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau,
đặc biệt là các vấn đề có liên quan đến định tội danh.
Bên cạnh đó, cần có các biện pháp tăng cường chất lượng đào tạo các chức
danh tư pháp, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm của
đội ngũ cán bộ tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ án hình sự nói chung và các
vụ án có liên quan đến tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng để hạn chế tình
trạng oan, sai như: tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo, nâng cao đời
sống vật chất cho những cán bộ làm công tác tiến hành tố tụng, có biện pháp xử lý
nghiêm những trường hợp cán bộ tiến hành tố tụng thiếu tinh thần trách nhiệm khi
giải quyết các vụ án hình sự... Bên cạnh đó, bản thân những người tiến hành tố
tụng phải không ngừng tự rèn luyện phẩm chất đạo đức chính trị, học tập nâng cao
trình độ chuyên môn, năng lực thực tiễn, có tinh thần trách nhiệm, có lối sống giản
dị, chí công vô tư, cần kiệm liêm chính.
Thiết nghĩ, nếu áp dụng đồng bộ và linh hoạt các biện pháp sẽ góp phần hạn
chế những mâu thuẫn khi định tội cũng như hạn chế sai lầm khi quyết định tội
danh trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự có liên quan đến tội Lừa đảo
Trang 52
chiếm đoạt tài sản, góp phần tích cực vào công tác phòng chống tội phạm của nước
ta trong giai đoạn hiện nay.
KKẾẾTT LLUUẬẬNN
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
diễn biến rất phức tạp, thủ đoạn lừa dối ngày càng đa dạng, tinh vi và xảo quyệt,
nhiều vụ án lừa đảo có quy mô lớn với giá trị tài sản bị chiếm đoạt ngày càng cao,
gây ảnh hưởng trật tự an ninh xã hội. Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, củng cố uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng; đảm bảo hiệu quả đấu tranh
phòng, chống tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng và tội phạm nói
chung..., điều kiện tiên quyết và đặc biệt quan trọng đó là hoạt động định tội danh
của các cơ quan tiến hành tố tụng phải thật chính xác.
Qua đề tài này, tác giả đã chỉ ra dấu hiệu cơ bản, đặc trưng của tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự hiện hành, chỉ ra
ranh giới phân biệt tội phạm này với một số tội xâm phạm sở hữu khác như tội
Trộm cắp tài sản, tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội Cướp giật tài sản
trong trường hợp hành vi phạm tội có sự “ly lai” giữa các tội danh nêu trên cũng
như ranh giới giữa tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các vi phạm pháp luật dân sự,
kinh tế. Bên cạnh đó, qua việc phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động định tội
danh đối với tội phạm nàythông qua những vụ án thực tế, tác giả đãchỉ ra nguyên
nhân của tình trạng tranh chấp định tội danh liên quan đến tội phạm Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản từ đómạnh dạn đề xuất một số kiến nghị như: Tiếp tục hoàn thiện Bộ
luật hình sự để pháp điển hóa về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói
riêng và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Hoàn thiện một số quy phạm định nghĩa về
hành vi xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trong Bộ luật hình sự; Tăng cường
chất lượng các văn bản hướng dẫn về các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
Tác giả hy vọng kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần nâng cao chất
lượng hoạt động định tội danh và hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng và tội phạm nói chung.
Trang 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam 1999 (đã được sửa đổi, bổ
sung năm 2009);
2. Bộ luật tố tụng hình sự nước CHXHCN Việt Nam 2003;
3. Nghị quyết số 1-89/HĐTP ngày 19/4/1989 hướng dẫn việc áp dụng một
số quy định của bộ luật hình sự;
4. Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 hướng dẫn áp dụng một số
quy định trong phần chung của Bộ luật Hình sự 1999;
5. Nghị quyết số 01/2006/NQ - HĐTP hướng dẫn một số quy định của Bộ
luật Hình sự;
6. Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT – TANDTC –VKSNDTC – BCA -
BTP ngày 25/12/2001 về việc hướng dẫn một số quy định tại chương XIV “Các tội
xâm phạm sở hữu”;
7. Thông tư liên tịch số: 21/2004/TTLT - BCA – TANDTC – VKSNDTC -
BTP ngày 23/11/2004 hướng dẫn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi
mua bán, sử dụng trái phép hóa đơn giá trị gia tang;
8. Từ điển Luật học (2006), NXB Từ điển Bách khoa và NXB Tư pháp;
9. Từ điển tiếng Việt (2008), NXB Thanh niên;
10. Giáo trình luật tố tụng hình sự (2009), Trường Đại học Luật Hà Nội,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội (2007);
11. Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu Một số kỹ năng THQCT,
KSĐT, KSXX các vụ án hình sự về các tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,
mạng Internet hoặc thiết bị số để chiếm đoạt tài sản
12. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh;
13. Đinh Văn Quế - Bình luận khoa học Bộ luật hình sựtập II;
14. TS. Cao Thị Oanh - Cấu thành tội phạm và vấn đề xác định giai đoạn
thực hiện tội phạm;
15. Ths. Vũ Trọng Khương và Ths. Trần Văn Tín - Định tội theo bộ luật
hình sự 1999 một số vấn đề lý luận và thực tiễn;
Trang 54
16. Trần Ngọc Đường - Khái niệm Pháp lý trong các văn bản pháp luật,
NXB Tư pháp, Hà Nội, 2007;
17. Trần Mạnh Hà - Tạp chí Luật học số 5/2006, Định tội danh Trộm cắp tài
sản qua một số dấu hiệu đặc trưng;
18. Nguyễn Ngọc Chí - Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở
hữu;
19. VVũ Thiện Kim - Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm tài sản
xã hội chủ nghĩa, tài sản của công dân;
20. Thân Như Thành, Luận văn thạc sĩ luật học: “Đấu tranh phòng chống tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội”;
21. Trịnh Thị Ngọc Giàu, khóa luận tốt nghiệp: "Những vấn đề lý luận và
thực tiễn trong việc phân biệt tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản";
22. http://www.baohoabinh.com.vn;
23. Hồ sơ một số vụ án.