Upload
others
View
10
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ
HUYỀN THOẠI GIÁNG
SINH
Charlie Nguyễn
Trải qua 20 thế kỷ, tất cả những gì chúng ta biết về con ngƣời Jesus – đƣợc
mệnh danh là Chúa Cứu Thế hoặc Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm ngƣời –
đều do 4 cuốn sách mỏng đƣợc viết bằng tiếng Hy Lạp trong thế kỷ I gọi là
Phúc Âm (Gospels = Tin Mừng). Nhƣng trong số 4 cuốn sách đó thì chỉ có hai
cuốn của Matthew và của Luke viết về sự ra đời của Jesus mà thôi. Sách của
Matthew đƣợc viết vào đầu thập niên 80, sách của Luke đƣợc viết sau đó
khoảng 10 năm. Nhƣ vậy, cả hai sách Phúc Âm viết về sinh nhật của Jesus đều
đã đƣợc viết ra sau khi Jesus đã sinh ra 80 – 90 năm. Điều đó cho thấy các sự
kiện liên quan đến sự ra đời của Jesus đều đã do các tác giả Phúc âm bịa đặt
hoặc chỉ ghi lại theo các lời tuyền khẩu vô căn cứ mà thôi. Điều đáng chú ý là
cả hai sách Phúc âm này đã đƣa ra những chi tiết về năm sinh, nơi sinh của
Jesus và các sự kiện liên hệ mâu thuẫn nhau, nhƣng ngƣời ta đã tổng hợp tất cả
các mâu thuẫn đó để tạo nên huyền thoại Giáng Sinh nhƣ ta thấy hiện nay.
Hàng năm, trong phần lớn các nƣớc Âu Mỹ, ngƣời ta kỷ niệm "Mùa Giáng
Sinh" trong 40 ngày, kéo dài từ 20 ngày trƣớc đến 20 ngày sau 25 tháng 12. Họ
thƣờng bày cây thông trong nhà, làm giả hang đá Bethlehem bằng giấy bồi và
đặt ở trong đó bộ tƣợng Sinh Nhật gồm có máng cỏ với Chúa Hài Đồng, bà
Maria và ông Joseph chắp tay quì lạy đứa con mới sinh của mình. Sát cạnh hang
đá có vài con bò và lừa đang hà hơi sƣởi ấm cho Chúa. Ngoài cửa hang đá lấp ló
3 ông vua phƣơng Đông đến thờ lạy Ngài. Trên không trung lúc ấy có nhiều
thiên thần ca hát: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dƣới thế cho ngƣời
thiện tâm"...
Đó là đại cƣơng về những hoạt cảnh thƣờng thấy trong dịp lễ Giáng Sinh của
Chúa Ki-tô (Christmas). Chúa theo niềm tin của ngƣời Công giáo chính là vị
Thƣợng đế đã tạo dựng vũ trụ, nhƣng vì quá thƣơng loài ngƣời nên Ngài đã hạ
mình xuống thế mặc xác phàm để chịu chết chuộc tội thiên hạ. Có thể coi những
điều này là bản tóm tắt về "Niềm tin Ki-tô" (Christian faith).
Vào đầu thế kỷ 20, thi sĩ Anh giáo Sir John Betjeman đã làm bài thơ
"Christmas", trong đó có những câu nói lên nỗi thắc mắc của ông đối với niềm
tin truyền thống này:
And is it true? And is it true?
This most tremendous tale of all
Seen in a stained – glass window‟s hue
A baby in an ox‟s stall
The Maker of stars anh sea
Become a child on earth for me?
(The Oxford Book of prayer)
Xin tạm dịch:
Có thật không? Có thật không?
Đây là chuyện đáng sợ vô cùng
Tôi thấy hình trên kính cửa nhà chung.
Một chú bé trong chuồng bò máng cỏ
Là ngƣời sinh ra sao trên trời và biển cả mênh mông
Chú nhóc cũng chuộc tội tổ tông cho tôi hả?
Các tín đồ Ki-tô giáo trong đế quốc La mã bắt đầu làm lễ kỷ niệm Sinh Nhật
của Chúa từ năm 336 do lệnh của hoàng đế Constantine. Hoàng đế đã thống
nhất các giáo phái Ki-tô thời đó để lập ra đạo Công giaó nhƣng chính hoàng đế
không tin đạo. Bản thân hoàng đế là giáo chủ của Đa Thần Giáo La mã (Roman
Paganism). Ông ấn định ngày lễ Noel là 25 tháng 12 vì ngày này là ngày mừng
Sinh nhật Thần Mặt Trời Vạn Thắng của Đa Thần Giáo La mã.
Ngày nay, các tín đồ Ki-tô (Công giáo, Tin Lành, Chính thống giáo) kỷ niệm
sinh nhật của Chúa Jesus thực chất là kỷ niệm sinh nhật thần Mặt Trời Vạn
Thắng của Đa Thần Giáo La mã (The Explorer‟s Guide to Chiristianity – by
Marcus Braybrooke – London 1998 - p. 36).
Qua hơn một ngàn năm sống dƣới ách thống trị của đế quốc La mã và đế quốc
Vatican, hầu hết dân chúng các nƣớc Âu châu đã mặc nhiên chấp nhận những
ngày lễ của Ki-tô Giáo nhƣ những tục lệ xã hội. Từ đầu thế kỷ 16 đến đầu thế
kỷ 20, Âu châu bành trƣớng thế lực ra khắp thế giới qua chủ nghĩa thực dân đế
quốc. Ảnh hƣởng văn hóa của họ cũng nhờ đó đã chiếm đƣợc một địa vị trên thế
giới. Dù tin hay không tin Jesus, hiện nay hầu hết các dân tộc trên thế giới đều
xử dụng Dƣơng lịch đƣợc san định bởi tu sĩ Công giaó Dionysius Exiguus vào
thế kỷ 6. Năm sinh của Jesus là cái mốc của Dƣơng lịch. Năm 2000 đã đƣợc cả
thế giới tƣng bừng đón chào nhƣ buổi bình minh của thiên niên kỷ thứ ba. Tất
nhiên đó chỉ là một điều qui ƣớc. Nói đúng hơn thì đó chỉ là một hành vi bá
quyền văn hóa của Tây phƣơng (a function of Western cultural hegemony).
Nhân dịp lễ Noel năm nay, chúng ta thử đem ra bàn luận một số vấn đề liên
quan đến thân thế của Jesus. Vấn đề ngôi sao lạ xuất hiện trong đêm Noel đầu
tiên có thật không? Đa số dân Mỹ hiện nay nghĩ gì về Noel? Những biểu tƣợng
về lễ Noel từ xƣa đến nay đã biến chuyển nhƣ thế nào?
Về thân thế của Jusus, hai vấn đền đƣợc nêu lên là Jesus đã thật sự sinh ra năm
nào và tại đâu.
Theo phúc âm của Matthew thì Jesus sinh ra hai năm trƣớc khi vua Herod qua
đời (Matt 2:15). Sử sách Do Thái ghi nhận vua Herod băng hà năm 4 TCN. Nhƣ
vậy, Jesus đã sinh ra năm 6 trƣớc Công Nguyên. Trái lại, Phúc âm của Luke
viết: Jusus đã sinh vào năm có cuộc điều tra dân số và đúng vào thời Qurinius
làm quan toàn quyền ở xứ Syria (Luke 2:2). Sử gia Do Thái sống trong thế kỷ I
là Josephus đã ghi nhận hai sự kiện nêu trên xảy ra năm thứ 7 sau Công
Nguyên. Hai sách Phúc âm đƣa ra hai năm sinh khác nhau của Chúa cách nhau
13 năm. Vì thế ngày nay chúng ta không thể nào quyết đoán đƣợc năm sinh thật
của Ngài. Do đó, năm 2001 không có nghĩa là năm Jesus 2001 tuổi!
Vấn đề thứ hai về thân thế là Jesus đã sinh ra tại đâu? Matthew viết: Chúa đã
đƣợc sinh ra trong nhà (in the house). Ngôi sao lạ đã dẫn đƣờng cho ba vua
phƣơng Đông đến thờ lạy Ngài tại căn nhà này ở Nazareth.
Phúc âm của Luke viết: Chúa sinh ra trong máng cỏ nuôi súc vật (manger) ở
hang núi Bethlehem. Từ Nazareth đến Bethlehem cách nhau 90 dặm (tƣơng
đƣơng 135 km). Luke không nói gì tới ngôi sao lạ và ba vua phƣơng Đông!
Hiện tƣợng Ngôi Sao lạ đêm Noel đƣợc khoa học giải thích nhƣ thế nào?
Năm 1606, nhà thiên văn học trứ danh Johannes Kepler đã trình bày hiện tƣợng
3 hành tinh gồm Sao Thổ (Saturn) Sao Mộc (Jupiter) và Sao Hỏa (Mars) nằm
trên một đƣờng thẳng với trái đất. Hiện tƣợng này bắt đầu từ tháng 5 đến tháng
12 năm 7 trƣớc Công Nguyên. Chu kỳ của hiện tƣợng thiên văn này (The
threefold conjunction of planets) là một lần trong 805 năm. Vì cả 3 hành tinh
nằm trên một đƣờng thẳng với trái đất nên từ trái đất nhìn lên bầu trời ta có cảm
tƣởng cả ba sao là một. Do ánh sáng tỏa chiếu khiến sự tụ hội của ba vì sao đã
tạo thành một khối sáng lớn lạ thƣờng trên bầu trời. Lịch sử Ba Tƣ ghi nhận: Sự
kiện "sao lạ" này đã khiến cho dân chúng khắp nơi xôn xao lo sợ vì họ cho đó là
dấu hiệu của ngày tận thế.
Matthew thấy chuyện "Sao lạ" hấp dẫn nên đem vào Phúc âm để biến sự ra đời
tầm thƣờng của Jesus thành sự giáng sinh của một vị "thần thánh siêu phàm".
Cũng nhờ cái tài phịa chuyện của Matthew nên ngày nay ngƣời ta thƣờng làm
đèn ngôi sao nơi hang đá Noel hoặc giăng đủ thứ đèn màu ở quanh nhà trong
mùa Giáng Sinh (Christmas season).
Đa số ngƣời Mỹ hiện nay nghĩ gì về sự ra đời của Jesus?
Có lẽ phần đông chúng ta nghĩ rằng dân Mỹ là những ngƣời có tinh thần thực
dụng nhất thế giới, nhƣng trong thực tế thì đa số dân Mỹ hiện nay vẫn còn tin
vào Phúc âm (Thánh kinh Tân ƣớc). Đối với các tín đồ Phật Giáo thì sự đản
sinh của Đức Phật chỉ đơn thuần có nghĩa là sự ra đời của Đức Thích Ca mà
thôi. Trái lại, đối với tín đồ Ki-tô giáo – kể cả Công giáo lẫn Chính thống và Tin
Lành – thì sự ra đời của Chúa Jesus chỉ là bƣớc đầu trong chƣơng trình thiêng
liêng của Thiên Chúa. Bƣớc thứ hai là sự tái lâm (sinh ra lại) của Chúa Jesus
trong ngày tận thế, rồi sau đó Nƣớc Chúa sẽ "trị đến" trên toàn địa cầu cho đến
muôn đời.
Để trình bày vấn đề này, tôi xin mƣợn ý và tài liệu trong bài viết nhan đề "Sự
Giao Ƣớc trong lễ Giáng Sinh" (The Christmas Covenant) đăng trên tạp chí US
News & World Report, December 19-1994 pages 62-71). Ý niệm về "Sự Giao
Ƣớc" giữa Thiên Chúa và loài ngƣời là một ý niệm đặc biệt của Do Thái giáo và
Ki-tô giáo.
Khoảng năm 1250 TCN, Moises lập đạo Do Thái đã đặt đạo này trên căn bản
một giao ƣớc giữa dân tộc và Thiên Chúa: "Dân tộc Do Thái chỉ tôn thờ một
Thiên Chúa là Jehovah. Ngƣợc lại Jehovah sẽ chọn Do Thái làm dân riêng của
Ngài". Khi Ki-tô giáo đƣợc hình thành vào thế kỷ I, những ngƣời sáng lập đã
đƣa ra một giao ƣớc bịa đặt mới giữa toàn thể loài ngƣời và Thiên Chúa: "Chúa
Jesus là con một của Thiên Chúa xuống thế làm ngƣời và chịu chết chuộc tội
thiên hạ. Ai tin Ngài sẽ đƣợc cứu rỗi, ai không tin sẽ bị sa hỏa ngục đời đời".
Ngƣời Ki-tô giáo gọi sự giao ƣớc của đạo Do Thái là Cựu Ƣớc (Old Covenant/
Old Testament) và gọi giao ƣớc mới của đạo Ki-tô là Tân Ƣớc (New Covenant/
New Testament).
Ngƣời Mỹ da trắng đều có nguồn gốc Âu châu, có lẽ vì vậy đa số dân Mỹ đã bị
ảnh hƣởng văn hóa Ki-tô giáo từ lâu đời. Theo báo US News anh World Report
thì hiện nay có tới 61% dân Mỹ tin rằng: Sự giáng sinh của Chúa Ki-tô gắn liền
với lời tiên tri huyền nhiệm, đó là sự phục lâm của Chúa Ki-tô. Đây chính là
biến cố của ngày tận thế và mở đầu cho Nƣớc Chúa trên trái đất này. (61% of
Americans believe that Jesus Christ will return to earth... The comforting
images of the Christmas season are linked to another more mysterious
prophecy: that of the apocalyptic Second Coming of Christ, a cataclysmic event
that will end history and inaugurate a divine kingdom on Earth – page 62).
Vào năm 1000, toàn thế giới Ki-tô giáo sống trong hồi hộp lo sợ vì đa số tín đồ
tin rằng ngày Phục lâm của Chúa Ki-tô đã đến. Sử gia Henri Focillon viết rằng:
hầu nhƣ mọi sinh hoạt ở Âu châu bị ngƣng lại vào cuối năm 999 vì mọi ngƣời
nghĩ rằng mình đang sống trong "buổi chiều của thế giới" (an evening of the
World). Điều đáng ghi nhận là ngày 1-1-1000 toàn thể dân chúng trên đảo
Ieeland vì sợ ngày tận thế đã kéo nhau xin rửa tội theo đạo hết.
Trong những năm cuối thế kỷ 20, rất nhiều giáo phái Ki-tô lại ồn ào tuyên
truyền về ngày tận thế vì ngày tận thế gắn liền với sự phục lâm của Jesus và
niềm hy vọng về "Nƣớc Chúa trị đến".
Giáo phái cuồng tín nhất là The Seventh – Day Adventists (Giáo phái Cơ Đốc
Phục lâm). Những vụ tự sát tập thể ở Waco Texas, Hoa Kỳ của nhóm Branch
Davidians năm 1993, nhóm Solar Temple ở Thụy Sĩ và Canada năm 1994 và
nhóm Heaven Gate ở San Diego California, Hoa Kỳ... đều có liên quan đến giáo
phái Cơ Đốc Phục lâm nói trên.
Rất nhiều giáo sĩ thuộc các giáo phái Ki-tô viết sách, viết báo hoặc rao giảng tại
nhà thờ để tiên đoán về ngày tận thế. Tất cả đều đã bị thất bại ê chề nhục nhã vì
ngày tận thế mà họ ồn ào rao giảng và quả quyết đã không xảy ra. Tuy vậy, giáo
lý về sự Phục lâm của Chúa Ki-tô vẫn là một niềm tin quan trọng trong đạo
Công giaó cũng nhƣ trong các giáo phái Tin Lành.
Trong tác phẩm Deceptions and Myths of the Bible (p. 423), Sử gia Mỹ Lloyd
M. Graham đã phải than rằng: "Trải qua 2000 năm, ngƣời Tây phƣơng vẫn chƣa
có đủ sự hiểu biết thực tế để nhận ra niềm tin của mình là sai trái"(For two
thousand years, Western man has not sufficient knowledge of reality to know
that it is false).
Đó cũng là một điều lạ nhƣng có thực đối với một quốc gia đƣợc gọi là văn
minh.
Ngay cả sau ngày New York và Ngũ Giác Đài bị khủng bố, bà H. Clinton, vợ
của cựu tổng thống Bill Clinton hát bài God Bless America (Chúa ban phúc
lành cho nƣớc Mỹ). Chúa ban phúc lành cách sao mà Chúa không cứu đƣợc, để
hai tòa lâu đài và lầu Năm Góc bị khủng bố làm sập và nhiều ngàn ngƣời vô tội
chết.
Những biểu tƣợng của ngày lễ Giáng sinh đã biến chuyển nhƣ thế nào?
Mặc dầu hiện nay sống trong thời đại văn minh nhƣng vẫn còn tới 61% dân Mỹ
có niềm tin Ki-tô (*) . Báo West Coast Times, California. 24-5-1996, ký giả
Paul Recer tƣờng thuật, "cuộc thăm dò căn bản về khoa học, cho thấy rằng 75%
dân Hoa Kỳ dốt nát về khoa học và tài chánh, không quá 50% lớp tuổi trƣởng
thành biết rằng quả đất quay quanh mặt trời hằng năm" (75% get dunce caps in
US, quizzoes on science, finance, by Paul Recer, Washington. Less than half of
American adults understand that the earth or bits the sun yearly, according to a
basic science survey).
Vào thời kỳ nƣớc Mỹ lập quốc cách đây trên 200 năm, chắc chắn số dân Mỹ có
niềm tin Ki-tô còn cao hơn nhiều. Nhƣng không phải vì thế mà nƣớc Mỹ lọt vào
tay các nhà lãnh đạo cuồng tín. Từ vị tổng thống tiên khởi là Washington đến
nay, hầu hết các vị lãnh đạo tối cao của nƣớc Mỹ đều là hội viên bí mật của Hội
Tam Điểm (Free Masonry). Chủ trƣơng của hội này là Chủ nghĩa Nhân Đạo
Thế Tục (Human Secularism) hoặc còn gọi là chủ nghĩa Nhân Đạo Tự Do
(Liberal Humanism). Những ngƣời lãnh đạo Hoa Kỳ thấm nhuần tƣ tƣởng của
các triết gia thuộc Phong Trào khai sáng (Enlightenment) thế kỷ 18 ở Âu Châu
và kinh nghiệm đau thƣơng về các cuộc chiến tranh tôn giáo trên thế giới nên đã
áp dụng chính sách tách rời tôn giáo ra khỏi chính trị. Điều này đƣợc ghi rõ
trong Tu Chính Án 1 và 14. Chính quyền Mỹ không cấm đạo, nhƣng họ khôn
khéo giáo dục và chuyển hóa tâm lý quần chúng bằng nhiều phƣơng cách hòa
bình. Ngày nay, thay vì đi nhà thờ mừng lễ Phục Sinh (Easter), ngƣời ta chỉ cần
bày trƣớc cửa nhà mấy trái trứng nhuộm đủ màu. Thay vì nộp tiền cho Cha cố
để xin lễ cầu hồn trong dịp Lễ Các Thánh và Lễ Các Linh Hồn (31/10 và 1/11),
ngƣời ta chỉ cần trƣng bày vài trái bí đỏ (pumpskin) hay treo vài cái màng nhện,
vài bộ xƣơng ngƣời giả trƣớc cửa nhà cho vui.
Ở các nƣớc Công giáo nghèo và lạc hậu, biểu tƣợng của ngày lễ Noel thƣờng là
đèn ngôi sao và hang đá Noel làm bằng giấy bồi có bộ tƣợng Noel.
Ở nƣớc Mỹ này chúng ta không thấy đèn ngôi sao và hang đá Noel làm bằng
giấy bồi với những bộ tƣợng sinh nhật trong dịp lễ Noel. Đi đâu chúng ta cũng
chỉ thấy những cây thông thật và giả, những con nai giả kéo xe trƣợt tuyết và
những ông già Noel bụng phệ... Tất cả những thứ này chẳng có liên hệ gì đến
Jesus. Cũng nhƣ ở các nhà thờ Mỹ chúng ta không thấy hang núi đá Lộ Đức vì
hang đá này là biểu tƣợng cho hai tín điều Công giáo: "Tín Điều Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội" và "Tín Điều Giáo Hoàng không thể sai lầm"! Nhƣng hai
tín điều này chỉ còn là niềm tin mà thôi. Còn thực tế thì đã có quá sai lạc, tôi sẽ
trình bày trong một dịp khác.
Biểu tƣợng thật sự cho Lễ Giáng Sinh ở Mỹ là mùa thu hoạch lợi tức của giới
thƣơng gia (businessmen‟s harverst), là kỳ nghỉ dài ngày để những ngƣời đi làm
xa về thăm gia đình hoặc để vui chơi trong các cuộc truy hoan say sƣa túy lúy.
Nói rõ hơn Noel hay lễ Giáng sinh chỉ là một ngày lễ truyền thống và mùa Tết
đƣợc nghĩ nhiều ngày, hơn là mang ý nghĩa tôn giáo.
Tại nhiều quốc gia khác cũng thế, ngay cả Nhật Bản nơi chỉ có 1% Tin Lành,
Công giáo không đáng kể, số còn lại là Phật giáo nhƣng họ cũng tổ chức mùa
Noel rầm rộ để bán hàng.
Còn tại Việt Nam, thanh niên nam nữ cũng có dịp đổ ra đƣờng trƣớc đêm Noel
để vui chơi, và trong các vùng có nhiều tín đồ Công giáo thì đó là ngày đau khổ
nhất cho loài chó, vì bị giết để ăn tiệc (reveillon).
Một điều không ai muốn nhƣng vẫn luôn luôn xảy ra là trong dịp lễ tạ ơn
(Thanksgiving) của Mỹ là ngày đau thƣơng nhất cho hàng chục triệu con gà tây
bị giết và dịp lễ Giáng sinh là hàng ngàn tai nạn lƣu thông với nhiều xác ngƣời
trên xa lộ. Phải chăng đó là một biểu tƣợng thực tế của mùa Giáng sinh tại đất
nƣớc văn minh số một của thế giới?
Charlie Nguyễn
(*) Tại Anh Quốc, cuộc thăm dò (năm 2000) của tiến sĩ Peter Brieley về tín đồ
Công giáo và Tin Lành hằng năm đi lễ nhà thờ (Church Attendance Survey) chỉ
còn 7.5%. Ông tiên đoán khoảng 40 năm nữa con số này chỉ còn 0.5% nghĩa là
Công giáo và Tin Lành không còn hiện hữu ở Anh Quốc
IN GOD WE TRUST
Charlie Nguyễn
Theo bản tin đăng trên Giao Điểm số 42 (trang 77-79) thì vụ biến động của
ngƣời Thƣợng ở Pleiku đầu năm 2001 cho thấy có âm mƣu ngoại bang xử dụng
chiêu bài tôn giáo phá hoại an ninh xã hội và sự vẹn toàn lãnh thổ nƣớc ta.
Những ngƣời Thƣợng Tin Lành nổi loạn này hầu nhƣ không màng tới việc làm
ăn mà chỉ lo sẵn sàng khăn gói để chờ một thế lực nào đó từ Mỹ sẽ đến bốc họ
đi, rồi sau đó sẽ đƣa họ về giải phóng quê hƣơng miền cao để thành lập một
Quốc Gia Tin Lành!
Sau khi đọc bản tin này, tôi không khỏi lo ngại liên tƣởng đến những vụ nội
chiến vì lý do tôn giáo ở Đông Timor thuộc Indonesia và Basilan thuộc
Philipines.
Indonesia, còn gọi là Nam Dƣơng, có 228 triệu dân, khoảng 91% theo đạo Hồi
và khoảng 9% (tức 20 triệu dân) theo đạo Công giáo La Mã. Đầu thế kỷ XVI,
song song với ngƣời Tây Ban Nha giảng đạo ở Việt Nam thì ngƣời Bồ Đào Nha
vào giảng đạo ở Nam Dƣơng. Đa số tín đồ Công giáo định cƣ ở phía đông đảo
Timor. Sau khi Nam Dƣơng trở thành một nƣớc độc lập vào năm 1945, những
ngƣời Công giáo ở Đông Timor bắt đầu nổi dậy và phát động một cuộc nội
chiến đẫm máu chống chính quyền trung ƣơng Hồi giáo. Sau hơn 40 năm chiến
tranh gây thiệt mạng cho trên một triệu binh sĩ và dân lành, cuối cùng chính phủ
Nam Dƣơng đã phải chấp thuận cho Đông Timor tách rời để trở thành một nƣớc
độc lập từ tháng 8/99 vừa qua.
Trƣờng hợp của Philippines thì ngƣợc lại: Philippines có 74 triệu dân. Khoảng
92% theo đạo Công giáo La Mã, khoảng 6 triệu dân theo đạo Hồi, qui tụ tại đảo
Mindanao và đảo Basilan. Những ngƣời Phi này có tổ tiên theo đạo Hồi từ thế
kỷ XIV, tức hai thế kỷ trƣớc khi đạo Công giáo xâm nhập nƣớc này. Trải qua
nhiều thế kỷ bị đàn áp tàn bạo bởi chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha và giáo
quyền Công giáo La Mã, những ngƣời Phi Hồi giáo đã kiên cƣờng bảo vệ tôn
giáo của họ cho tới ngày nay. Cuộc chiến tranh đòi tự trị của những ngƣời Phi
Hồi giáo chống chính phủ đã khởi đầu từ nhiều chục năm qua đến nay vẫn tiếp
diễn. Để đạt những mục tiêu chính trị, những ngƣời Phi Hồi giáo đã áp dụng
chiến thuật du kích, phá hoại và khủng bố, đặc biệt là họ thƣờng bắt cóc con tin.
Tôn giáo là một sản phẩm văn hóa. Khi xâm nhập một lãnh thổ nào đó nó
thƣờng bƣớc vào bằng những bƣớc đi nhẹ nhàng êm ái. Nhƣng khi số tín đồ của
tôn giáo đạt tới mức có thể tạo thành một lực lƣợng chính trị áp đảo thì hậu quả
của nó thật khó lƣờng.
Chỉ với mấy cuốn sách Thánh Kinh, Vatican đã trải rộng đế quốc của nó gần
khắp thế giới với hơn một tỷ tín đồ và đã duy trì đế quốc của nó gần 2000 năm.
Với cuốn Thánh Kinh Koran, những đoàn quân Hồi giáo Ả Rập đã chiếm toàn
bộ bán đảo Ả Rập rộng lớn, chiếm Irag, Syria, Palestine, Ai Cập và Iran vỏn
vẹn trong vòng 10 năm. Một thế kỷ sau khi giáo chủ Mohamét qua đời, Hồi
giáo trở thành một đế quốc trải dài từ Bắc Phi, qua Cận Đông, miền Nam châu
Âu qua Trung Á đến Bắc Ấn.
Đầu thế kỷ IV, đế quốc La Mã có tham vọng dùng Công giáo để chinh phục
toàn cầu. Đế quốc La Mã không ngờ đạo Hồi xuất hiện vào giữa thế kỷ thứ VII
với Thánh Kinh Koran đã phá tan tham vọng toàn cầu của họ. Số tín đồ đạo Hồi
ngày nay lên tới 1 tỷ 200 triệu, vƣợt trội số tín đồ Công giáo La Mã (khoảng 1
tỷ).
Mặc dầu Hồi giáo và Ki-tô giáo đều có chung cội nguồn là Kinh Thánh Cựu
Ƣớc Do Thái, cùng chung ông tổ Abraham và cùng thờ một Thiên Chúa (God)
nhƣng hai đạo này đã quan niệm về Thiên Chúa hoàn toàn khác nhau.
Ki-tô giáo tin Thiên Chúa có ba ngôi. Thiên Chúa Cha sinh ra Thiên Chúa Con
(Jesus). Jesus là ngƣời thƣờng lại đƣợc Ki-tô giáo suy tôn làm Thiên Chúa. Bà
Maria, mẹ của Jesus, đƣợc Ki-tô giáo tôn lên làm Mẹ Thiên Chúa!
Tất cả các giáo lý nói trên đều bị kinh Koran thẳng thừng bác bỏ.
Kinh Koran ghi rõ: “Bà Maira chẳng bao giờ nhận rằng bà ta là Mẹ Thiên Chúa
hoặc con của bà ta là Chúa”. (She never claimed she was Mother of God or her
son was God – Koran 5:75). Kinh Koran kết án những ngƣời Ki-tô giáo là nhục
mạ Thiên Chúa khi nói Thiên Chúa chỉ là một trong ba ngôi. (They do
blaspheme who say God is one of three – Koran 5:75) “Thiên Chúa là một ngôi
duy nhất. Thiên Chúa chẳng sinh ra đứa con nào và cũng chẳng do ai sinh ra”.
(God is one. He begot none nor was he begotten – Koran 112:1-4). Khi trình
bày những điều nói trên, tôi không có ý bài bác những giáo lý Ki-tô giáo. Tôi
chỉ có ý làm sáng tỏ một sự thật lịch sử: không phải sức mạnh quân sự của Hồi
giáo đã chận đứng khả năng bành trƣớng của Ki-tô giáo mà chính sức mạnh văn
hóa của Hồi giáo đã phá tan mộng ƣớc toàn cầu hóa của đạo Ki-tô. Một bài học
lịch sử khác đã chứng tỏ rằng: Sức mạnh quân sự thuần túy nếu không kèm theo
sức mạnh văn hóa hỗ trợ thì sớm muộn sẽ bị tiêu diệt. Đó là trƣờng hợp Mông
Cổ.
Đầu thế kỷ XIII, Genghis Khan thống nhất các bộ lạc Mông Cổ rồi xua quân đi
chinh phục thế giới. Chỉ trong mấy năm, quân Mông Cổ đã tạo nên một đế quốc
rộng lớn bao gồm Trung Quốc, qua Trung Á và phía Nam nƣớc Nga, qua Thổ
Nhĩ Kỳ tới các nƣớc Cận Đông. Nhƣng quân Mông Cổ hoàn toàn chỉ có sức
mạnh quân sự chứ không có một sản phẩm văn hóa nào. Kết quả là chỉ sau vài
thế hệ, đoàn quân chiến thắng Mông Cổ ở Trung Quốc đã bị Hán hóa. Cuối thế
kỷ XIII, những vua chúa Mông Cổ ở Bắc Ấn đã theo đạo hồi và tạo nên các
triều đại Hồi giáo Mughul (do chữ Mongol mà ra). Dần dần, các ngƣời Mông
Cổ đã bị hoàn toàn đồng hóa vào dân địa phƣơng.
Những ngƣời Tây-phƣơng trƣớc đây đã hiểu rõ sức mạnh của văn hóa nên họ đã
xâm lăng nƣớc ta bằng văn hóa Ki-tô trƣớc rồi mới xâm lăng bằng súng đạn
sau.
Ngày nay, mặc dầu không còn bóng quân xâm lƣợc trên lãnh thổ Việt Nam
nhƣng vẫn còn tồn tại một đạo quân thứ năm không nhỏ của địch, dƣới hình
thức một giáo hội nô lệ ngoại bang nằm vùng thƣờng trực trong lòng dân tộc.
Đại họa này chƣa dứt thì một đại họa khác đang nhen nhúm trên miền cao
nguyên Trung Phần Việt Nam. Đó là những hành động đầy tham vọng của một
số những giáo phái Tin Lành lớn tại Mỹ đang muốn trở thành những thế lực của
chủ nghĩa đế quốc tinh thần (spiritual imperialism). Những nhóm này hoạt động
ráo riết từ giữa thế kỷ XX đến nay trên phạm vi toàn thế giới. Giáo phái Baptist
đã tung ra trên 3000 nhân viên truyền giáo hoạt động trong 94 quốc gia. Tổ
Chức Thanh Niên Tin Lành (International Youth for a Mission) hiện có trên
12.000 nhân viên giảng đạo trên khắp thế giới. Tổ Chức Thập Tự Quân Tin
Lành (The Giant Campus Crusade) có nhiều ngàn nhân viên truyền giáo hoạt
động trên 130 quốc gia từ 1960. Hầu hết mọi quốc gia trên thế giới đều bị các
toán quân truyền đạo Tin Lành xâm nhập từ lâu. Riêng nƣớc Nga, sau khi mở
cửa tự do năm 1991, chẳng những bị xâm nhập bởi nhiều đoàn truyền giáo Tin
Lành mà còn tiếp nhận 232 tấn sách Thánh Kinh Tin Lành bằng Nga ngữ in tại
Hoa Kỳ! Trên đây chỉ là hoạt động truyền giáo của một số ít giáo phái Tin Lành
tiêu biểu, ngoài ra còn nhiều giáo phái khác cũng rất lƣu tâm đến việc truyền
giáo để bành trƣớng thế lực của họ.
Qua những hiện tƣợng tôn giáo ở Đông Timor và Mindanao (Philippines) chúng
ta nhận thấy ở những vùng đảo này có nhiều sắc dân và nhiều thổ ngữ khác
nhau. Nhƣng cuối cùng họ đã liên kết với nhau thành một khối duy nhất rất chặt
chẽ trong niềm tin tôn giáo. Những dân tộc thiểu số ở Cao Nguyên Trung Phần
cũng tƣơng tự nhƣ vậy. Mặc dầu họ thuộc nhiều sắc tộc và ngôn ngữ khác nhau,
nhƣng một khi đa số cùng theo một tôn giáo thì họ sẽ liên kết thành một khối và
tình trạng nội chiến sẽ rất có thể xảy ra nhƣ ở Đông Tomor hay Mindanao!
Vấn đề đặt ra hiện nay là chúng ta phải lo phòng bệnh hơn chữa bệnh. Nếu thiếu
cảnh giác để nhúm lửa đó bốc lên thành đám cháy lớn e rằng sau này dù cho có
dập tắt đƣợc đám cháy thì nhà cửa cũng tan hoang! Vậy chúng ta hãy thử tìm
hiểu xem những ngƣời truyền giáo đã dùng cách nào để dụ dỗ những ngƣời
Thƣợng và cả ngƣời Kinh theo đạo Tin Lành? Thông thƣờng, họ luôn luôn
tuyên truyền rằng nƣớc Mỹ giàu mạnh nhất thế giới và Tin Lành là quốc giáo
của nƣớc Mỹ. Do đó, ai chịu cải đạo theo Tin Lành chắc chắn sẽ đƣợc giúp đỡ
về mọi mặt, tinh thần cũng nhƣ vật chất, nhất là sẽ đƣợc dễ dàng nhập cƣ Hoa
Kỳ để sống một cuộc đời giàu sang hạnh phúc...!
Nhiều ngƣời nhẹ dạ và hám lợi dễ dàng nghe lời dụ dỗ đã trở thành những tín
đồ Tin Lành. Một số không lo làm ăn mà chỉ ngóng trông các đồng đạo Tin
Lành Hoa Kỳ đến bốc họ sang Mỹ!
Thật ra, tất cả các luận điệu tuyên truyền nói trên đều là lừa dối bịp bợm vì từ
xƣa đến nay Hoa Kỳ chƣa từng có quốc giáo (national religion). Nhất là Tin
Lành lại càng không thể là một quốc giáo vì Tin Lành không phải là một tôn
giáo thuần nhất. Hiện nay tại Mỹ khoảng 200 giáo phái Tin Lành lớn nhỏ không
đều nhau. Vậy chẳng lẽ Hoa Kỳ có 200 quốc giáo Tin Lành sao?
Ngoài 200 giáo phái Tin Lành, Hoa Kỳ hiện có khoảng 53 triệu ngƣời Công
giáo, 7 triệu ngƣời Hồi giáo, 5 triệu ngƣời Do Thái giáo, vài triệu ngƣời Anh
giáo. Xét theo danh xƣng thì có nhiều tôn giáo khác nhau, nhƣng thực ra đều là
các đạo độc thần, tức thờ cùng một Chúa (monotheistic religions) và cùng
chung ông tổ Abraham (Abrahamic religions). Do đó, mặc dầu khác tôn giáo về
danh xƣng nhƣng tất cả đều đồng ý tôn vinh Thƣợng đế (hoặc Thiên Chúa) mà
họ gọi là GOD. Bài ca phổ thông nhất là “God bless America”. Tòa án Tối Cao
Pháp Viện khai mạc phiên họp với lời cầu nguyện “Xin Chúa cứu nƣớc Mỹ và
tòa án này” (God saves the United States and the honorable court). Từ năm
1950, do nhu cầu chống lại chủ thuyết vô thần của Cộng sản, nƣớc Mỹ có thêm
lời Tuyên Thệ Trung Thành với Quốc Gia, trong đó có cụm từ “một quốc gia
dƣới sự che chở của Chúa” (a nation under God). Mặc dù cùng nói đến God
nhƣng mỗi tôn giáo nghĩ về God theo một cách khác nhau, chẳng ai giống ai.
Một điều rất cần phải nêu lên ở đây là những ngƣời Việt Nam ở Mỹ - Công giáo
cũng nhƣ Tin Lành - cứ tƣởng rằng chữ “God” mà ngƣời Mỹ thƣờng nhắc tới là
Thiên Chúa của Ki-tô giáo (Christian God). Sự thật không phải nhƣ vậy. Chúng
ta hãy lấy tờ One Dollar ra coi sẽ thấy: Kim tự tháp tƣợng trƣng cho Trật Tự
Thế Tục Mới (Novus Ordo Seclorum). Trên đỉnh Kim tự tháp là Con Mặt
Thƣợng đế (All-seeing Deity) tƣợng trƣng cho Đấng Toàn Năng của Lý Trí
(God of Reason) hoặc còn đƣợc gọi là Thƣợng Đế của Tự Nhiên (Nature‟s
God). Bên phải huy hiệu Kim tự tháp là hàng chữ IN GOD WE TRUST biểu lộ
lòng tin tƣởng của giới lãnh đạo Hoa Kỳ vào Lý Trí để xây dựng một trật tự xã
hội thế tục. Trong xã hội thế tục, con ngƣời là trung tâm phục vụ chứ không
phải là Thiên Chúa. Con ngƣời không có bổn phận phải tôn thờ Thiên Chúa trên
hết mọi sự. Lòng sùng tín tôn giáo là sự một đạo riêng tƣ (Religion is private
devotion) không thể đƣợc coi là khuôn vàng thƣớc ngọc để áp đặt lên cả quốc
gia đƣợc.
Một số trí thức Công giáo thuộc xu hƣớng “Khôi phục tinh thần Ngô Đình
Diệm” thƣờng hay giảng thuyết trên báo chí hay trên đài phát thanh luận điệu
tuyên truyền rằng: Sở dĩ ngƣời Mỹ trở nên văn minh giàu có là nhờ họ biết đặt
lòng tin nơi Thiên Chúa (Ý muốn nói Thiên Chúa Ba Ngôi của Công giáo).
Phần lớn ngƣời Mỹ đặt nền tảng đời sống đạo đức của họ trên Kinh Thánh Tân
Ƣớc và Cựu Ƣớc. Điều này có thể đúng về phƣơng diện biểu kiến, vì quả thực
đại đa số dân Mỹ là những ngƣời Ki-tô hữu (Christians). Tuy nhiên, hoàn cảnh
của nƣớc Mỹ rất đặc biệt là ngay từ những ngày đầu lập quốc đến nay, những vị
lập quốc và những vị thật sự lãnh đạo nƣớc Mỹ lại không hẳn là những ngƣời
Ki-tô hữu. Trái lại, họ là những ngƣời có tinh thần khai sáng và thuần lý
(enlightened and reasonable men), hậu duệ của John Locke, Voltaire, Jean
Jacques Rousseau, Thomas Paine... Đó là những ngƣời công khai phủ nhận giáo
lý Ki-tô giáo. Dƣới sự lãnh đạo khôn khéo và kín đáo của họ, Ki-tô giáo chẳng
những không bao giờ trở thành quốc giáo mà trái lại đang đi vào con đƣờng mỗi
ngày một suy thoái. Bề ngoài có vẻ nhƣ hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa thay
đổi nhau lên nắm chính quyền cai trị đất nƣớc. Trong thực tế, luôn luôn có một
siêu-quyền-lực bao trùm trên cả hai đảng. Siêu-quyền-lực này làm trọng tài cho
mọi tranh chấp chính trị và giữ cho đƣờng lối chính sách của Hoa Kỳ có tính
nhất quán trải qua các giai đoạn lịch sử.
Cũng trên phƣơng diện hình thức, nƣớc Mỹ theo đuổi chính sách đa văn hóa
(multicultural) nhƣng trên thực tế thì chủ nghĩa nhân đạo thế tục (secular
humanisme) mới thật sự chi phối đời sống văn hóa chính trị của mọi ngƣời dân
Hoa Kỳ.
Trên khắp nƣớc Mỹ, đi đâu chúng ta cũng thấy san sát những giáo đƣờng lớn
nhỏ và ở mọi nơi mọi lúc ngƣời ta thƣờng nói nhiều đến Thƣợng Đế (GOD).
Nhƣng vấn đề quan trọng không phải ở số đông. Vấn đề chủ yếu là những ngƣời
lãnh đạo ở thƣợng tầng nƣớc Mỹ quan niệm thế nào về Thƣợng Đế. Đó là
những vấn đề chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây:
I. Là một quốc gia đa-văn-hóa (multicultura) Hoa Kỳ không bao giờ chấp nhận
một quốc giáo.
Đầu thế kỷ XVI, những ngƣời đầu tiên đến Mỹ là những kẻ có óc phiêu lƣu làm
giầu. Sau đó là những làn sóng ngƣời tỵ nạn tôn giáo: Những ngƣời Puritams
(Thanh giáo) và Quakers bị ngƣợc đãi tại Anh quốc, những ngƣời Tin Lành nhƣ
Lutherans, Calvinists bị Công giáo bách hại tại Âu châu. Cho đến khi Hoa Kỳ
tuyên bố độc lập năm 1776, dân số Mỹ là 2 triệu rƣỡi, 60% là ngƣời Anh – đa
số theo tin lành, còn lại là Anh giáo – 12% là những ngƣời Tô Cách Lan, Hòa
Lan và Đức, đa số cũng theo Tin Lành – 28% còn lại là những ngƣời nô lệ da
đen, không có quyền công dân. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX,
nhiều làn sóng di dân từ Đông và Nam Âu Châu sang Mỹ, đa số là Công giáo và
Do Thái. Dân Mỹ Tin Lành phản đối bằng cách lập ra đảng khủng bố Ku-Klux-
Klan nhắm vào Do Thái, Công giáo và ngƣời da đen. Nhiều nhà thờ Công giáo
và Do Thái bị đốt, nhiều ngƣời da đen bị sát hại. Chính quyền trung ƣơng chủ
trƣơng theo đuổi chính sách đa văn hóa nên đã áp dụng chính sách trấn áp đảng
khủng bố Ku-Klux-Klan. Trong thập niên 1870, chính phủ Mỹ cho nhập cƣ rất
nhiều dân các nƣớc Ả Rập theo đạo Hồi và trong thập niên 1960 cho nhập cƣ ồ
ạt các di dân thuộc Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh, đa số theo đạo Hồi. Hiện
nay, số tín đồ Hồi giáo tại Mỹ lên tới 7 triệu ngƣời.
Trƣớc đây, ngƣời Mỹ thƣờng tự nhận nền văn minh của họ có truyền thống Do
Thái – Ki-tô (Judeo – Christian tradition). Trong dịp lễ nhậm chức của tân tổng
thống Bush vào đầu năm 2001, giáo sƣ Stephen Prothero thuộc Đại Học Boston
đã đề nghị sửa lại cho đúng với thực tế là “Judeo-Christian – Islamic tradition”
vì công dân Mỹ theo đạo Hồi hiện nay đông hơn ngƣời Mỹ Do Thái giáo! Ngoài
ra, nƣớc Mỹ hiện có đủ các sắc dân trên thế giới với đủ mọi tôn giáo thuộc mọi
nguồn gốc văn hóa. Do đặc tính đa chủng và đa văn hóa, xã hội Mỹ không thể
có một sự đồng thuận để chấp nhận bất cứ một tôn giáo nào là tôn giáo chính
thức của quốc gia. Các giáo phái Tin Lành, mặc dầu đã chiếm đa số từ ngày lập
quốc đến nay, vẫn chƣa bao giờ và sẽ không bao giờ trở thành quốc giáo tại Hoa
Kỳ.
II. Chủ nghĩa nhân đạo thế tục (Secular Humanism) luôn luôn thống lãnh đời
sống văn hóa chính trị Hoa Kỳ.
Các nhà lập quốc Hoa Kỳ là những bộ óc sáng suốt thấu triệt những hậu quả tai
hại của tôn giáo tại Âu châu. Do đó, ngay từ đầu họ đã theo đuổi chủ nghĩa nhân
đạo thế tục mà yếu tố chủ chốt là sự phân chia rõ rệt giữa tôn giáo và nhà nƣớc
(Strict separation of religion and government). Đó chính là nguyên tắc bảo đảm
không cho phép bất cứ một tôn giáo nào có thể áp đặt giáo điều của mình lên
đời sống toàn dân. Đó cũng là nguyên tắc chiến đấu cho con ngƣời đƣợc tự do
sử dụng lý trí của mình để hƣớng dẫn cuộc sống của chính mình và chống lại
bọn cuồng tín làm công cụ cho các thế lực thần quyền đen tối.
Chính vì vậy, Hiến pháp Hoa Kỳ và Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền đã minh thị
ngăn cấm chính quyền thiết lập một quốc giáo và ngăn cấm tôn giáo xen vào
chính trị. Từ ngày lập quốc đến nay đã hơn hai thế kỷ, nƣớc Mỹ vẫn luôn luôn
trung thành với chủ nghĩa Nhân Đạo Thế Tục. Đó là chủ nghĩa coi trọng những
lợi ích, ƣớc vọng và giá trị của con ngƣời hơn là niềm tin tôn giáo. (Secular
humanism = A philosophy that elevates human interests, desires and values over
religious beliefs). Trong ý nghĩa đó, quyền tự do ngôn luận (Freedom of speech)
và quyền tự do báo chí (Freedom of Press) đƣợc coi trọng hơn tự do tín ngƣỡng
(Religious Freedom) nhƣ ta thấy trong vụ phim The last Temptation of Christ
(Cơn cám dỗ cuối cùng của chúa Ki-tô). Cuốn phim này đƣợc mô phỏng theo
cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Hy Lạp Nikos Kazantzaki, xuất bản năm
1951. Nhà đạo diễn Mỹ Martin Scarsese dựng thành phim năm 1988. Theo giáo
lý Ki-tô thì Jesus có hai bản tính: bản tính con ngƣời và bản tính Thiên Chúa.
Tác giả cốt truyện cũng nhƣ nhà làm phim bỏ qua tính Thiên Chúa của Jesus để
chỉ mô tả về tính “ngƣời” của Jusus mà thôi. Tất nhiên, với tƣ cách là con
ngƣời, Jesus cũng có những đau khổ, những thèm muốn và cũng bị cám dỗ nhƣ
mọi ngƣời chúng ta. Đó cũng là lẽ thƣờng trong đời sống thật của Jesus. Tuy
nhiên, những ngƣời cuồng tín Công giáo cũng nhƣ Tin Lành đều không muốn
nhìn thấy sự thật vì nó làm giảm đi sự kính trọng của họ đối với Jesus vốn đã
đƣợc thần thánh hóa quá mức. Tài tử Willem Dafoe đóng vai Jesus. Cuốn phim
đã làm cho những ngƣời Ki-tô giáo tức giận vì đã mô tả giấc mơ của Jesus khi
Ngài bị treo trên thập giá. Trong cơn đau đớn cùng cực, Jesus ƣớc muốn đƣợc
làm một ngƣời bình thƣờng chứ không muốn làm đấng cứu thế. Jesus muốn trở
về đời thƣờng, cƣới Mary Magdelene làm vợ và có con với nàng. Magdelene
nguyên là một cô gái điếm nhƣng đã tha thiết yêu Jesus từ lâu. Hầu nhƣ Jesus đi
đâu cũng có mặt nàng ở đó. Nàng luôn luôn chăm sóc Jesus nhƣ một ngƣời vợ
đảm đang yêu chồng. Trong cơn hấp hối, Jesus cảm thấy yêu nàng vô cùng.
Jesus chẳng tha thiết gì với cái trò cứu chuộc và cũng chẳng màng tới việc trở
về với Đức Chúa Cha nhƣ ngƣời ta gán ép. Niềm khát khao lớn nhất của Jesus
là làm tình với Magdelene. Cuốn phim trình bày cảnh Jesus làm tình với
Magdelene nhƣ một cặp vợ chồng bình thƣờng.
Nhiều ngƣời Ki-tô giáo bảo thủ kịch liệt kết án cuốn phim là nhục mạ Thiên
Chúa của họ. Các rạp chiếu bóng trên khắp nƣớc Mỹ bị những ngƣời biểu tình
bao vây ngăn chặn không cho khán giả vào rạp coi phim “The last Temptation
of Christ”. Nhiều tổ chức Ki-tô giáo vận động với chính quyền tiểu bang hay
thành phố ra lệnh cấm lƣu hành cuốn phim này. Nội vụ đƣợc đƣa lên Tối Cao
Pháp Viện. Kết quả, Tối Cao Pháp Viện xác định quyền làm phim là quyền tự
do phát biểu tƣ tƣởng (freedom of expression), do đó mọi việc ngăn cản chiếu
phim nói trên đều vi hiến.
Tu chính án 14 còn đi xa hơn nữa: chính sách của chính phủ phải theo đuổi mục
tiêu thế tục hoặc vô tôn giáo (a government policy must have a secular or non –
religious purpose). Do đó, trong thập niên 1960, Tối Cao Pháp Viện Mỹ đã cấm
các trƣờng công lập không đƣợc tổ chức đọc kinh cầu nguyện và không đƣợc
đọc Thánh kinh trong trƣờng. Ngoài ra, Tu Chính án 14 còn ngăn cấm các cơ
quan chính quyền không đƣợc hỗ trợ một tôn giáo nào (A government policy
must neither inhibit nor advance religion to any significant degree). Do những
qui định của luật pháp và hiến pháp Hoa Kỳ rất chặt chẽ nhằm ngăn chặn mọi
sự lạm dụng của tôn giáo, thiết tƣởng những hoạt động truyền giáo Tin Lành
hiện nay ở Việt Nam chỉ là những hoạt động tƣ nhân mà thôi. Nếu phát hiện có
một cơ quan nào của chính phủ hỗ trợ cho các việc truyền giáo nói trên ở Việt
Nam hiện nay, chúng ta cần lên tiếng tố cáo trƣớc dƣ luận . Những cơ quan đó
có thể bị truy tố vì họ đã vi phạm Hiến pháp và luật pháp Hoa Kỳ.
III. Ý nghĩa đích thực của phƣơng châm “IN GOD WE TRUST”
Năm 1814, Francis Scott Key sáng tác bài thơ “The Star-sprangled Banner”.
Câu thứ tƣ của bài thơ này là: “In God is our trust”. Năm 1864, Bộ Trƣởng
Ngân Khố Salmon P. Chase sửa lại thành IN GOD WE TRUST và xin chính
phủ cho phép in câu này trên các đồng coins (tiền kẽm). Chính phủ chấp thuận
nên câu này đƣợc in trên các đồng coins từ đó. Năm 1956, Quốc hội Mỹ công
nhận câu “IN GOD WE TRUST” là phƣơng châm chính thức của nƣớc Mỹ (the
US Motto) và phƣơng châm này đƣợc in trên các đồng tiền giấy cũng nhƣ các
đồng coins của Mỹ.
Nhân tiện cũng xin nói thêm về tiền giấy của Mỹ: Mặc dầu gọi là tiền giấy
(paper money) nhƣng thực sự là vải, vì nó gồm có: 75% bông, 20% nylon-
polyester và 5% hóa chất. Công ty CRANE độc quyền chế tạo tiền có nam châm
(magnetic ink) đƣợc chế tạo theo một công thức bí mật của Bureau of
Engraving and Printing ở Washington D.C. Hình thức và khuôn khổ của tờ giấy
bạc Mỹ nhƣ ta thấy hiện nay đã bắt đầu từ 1862.
Nhƣ ta đã biết, trên tờ giấy bạc và đồng coins nào cũng có phƣơng châm IN
GOD WE TRUST, nhƣng chỉ trên tờ ONE DOLLAR mới có sự giải thích ý
nghĩa của nó mà thôi.
Kim Tự Tháp là biểu tƣợng cho nền tảng vững chắc của sự phát triển nƣớc Mỹ
trong tƣơng lai (the strong base of future growth). Kim tự tháp chƣa có đỉnh
hàm ý sự kiến tạo chƣa hoàn thành. Chân kim tự tháp có hàng số La mã
MDCCLXXBVI (1776) mang ý nghĩa đời sống chính trị văn hóa và sự phát
triển nƣớc Mỹ đặt trên căn bản là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm
1776. Jefferson là ngƣời soạn thảo Bản Tuyên Ngôn Độc Lập và đóng vai trò
trọng yếu trong thời kỳ Cách Mạng Hoa Kỳ. Quan điểm triết học và chính trị
của Jefferson chịu ảnh hƣởng sâu đậm tác phẩm Law of Nature (Luật Thiên
Nhiên) của triết gia Anh Quốc John Locke (1632-1704), tƣ tƣởng của Locke đã
đi vào Bản Tuyên Ngôn Độc Lập và đã trở thành yếu tố quan trọng trong truyền
thống trí thức (the inellectual tradition) của giới lãnh đạo Mỹ. Locke quan niệm
Thƣợng Đế là Thiên Nhiên (God is Nature‟s God). Luật của Thiên Nhiên là luật
của Thƣợng Đế. Trong tác phẩm Essays On The Law and Nature xuất bản năm
1663, Locke viết: “Trong trạng thái tự nhiên, tất cả mọi ngƣời đều tự do và bình
đẳng” (In a state of Nature, all men are free and equal). Tƣ tƣởng trên của
Locke đã gợi ý cho Jefferson viết một câu nổi tiếng thế giới trong Bản Tuyên
Ngôn Độc Lập: “Mọi ngƣời sinh ra bình đẳng và đƣợc Tạo Hóa [1] phú cho
những quyền không thể chuyển nhƣợng, đó là quyền sống, quyền tự do và
quyền theo đuổi hạnh phúc” (All men are created equal that they are endowed
by the creator (Nature) with certain inalienable rights, among these are life,
liberty and the persuit of happiness).
Sau John Loke là các triết gia thuộc phong trào khai sáng ở Pháp nhƣ J.J.
Rousseau, Voltaire và Montesquieu. Các triết gia này đều nổi tiếng là những
ngƣời chống Ki-tô giáo và đều có ảnh hƣởng sâu đậm đến tƣ tƣởng của
Jefferson. Trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập, Jeffuson viết: “Mọi ngƣời đƣợc tự
do bày tỏ và bằng sự tranh luận để duy trì ý kiến của mình về tôn giáo (All men
shall be free to profess and by argument to maintain their opinions of religion)”.
Riêng về Thánh Kinh Ki-tô giáo, Jefferson đã phê phán nhƣ sau: “Tôi đọc sách
Khải Huyền của Tân Ƣớc và tôi coi nó chỉ là những lời điên dại của kẻ mất trí”
(I read the Apocalypse and I then considered it merely the ravings of a maniac).
Sau hết, ngƣời có ảnh hƣởng lớn và trực tiếp đến Jefferson cùng những nhà lập
quốc Hoa Kỳ là Thomas Paine (1737-1809) với tác phẩm Common Sense xuất
bản tháng 1/1776 với 120.000 bản. Đây cũng là một tác phẩm kịch liệt chống
Ki-tô giáo.
Tất cả những điều trình bày trên chứng tỏ rằng: trật tự thế tục của xã hội Mỹ
đƣợc đặt trên nền tảng của bản Tuyên Ngôn Độc Lập 1776, trong đó có nói tới
Tạo Hóa nhƣng đó là Tạo Hóa Thiên Nhiên chứ tuyệt đối không có nghĩa là
Thƣợng Đế của Ki-tô giáo.
Mặt trƣớc của tờ One Dollar là hình vị tổng thống tiên khởi George
Washington. Ông không thuộc một đảng hoặc một giáo phái nào. Khi ông lãnh
đạo nƣớc Mỹ dành độc lập từ tay ngƣời Anh thì ông là thủ lãnh của Hội Tam
Điểm Mỹ (trụ sở đặt tại Alexandria thuộc tiểu bang Virginia). Mặc dầu lúc đầu
lập quốc, tuyệt đại đa số dân chúng Mỹ theo đạo Tin Lành nhƣng đạo này đã
không thể trở thành quốc giáo. Cũng nhƣ trong hơn hai thế kỷ qua, hai đảng
Dân Chủ và Cộng Hòa luân phiên nhau lãnh đạo nƣớc Mỹ nhƣng không một
đảng nào có thể đi tới độc tài. Đó là nhờ Hội Tam Điểm có những bậc minh triết
(dấu mặt) điều khiển nƣớc Mỹ nhƣ một siêu chính phủ (Super-government).
Hội Tam Điểm (Freemasonry) là một hội huynh đệ (fraternal order) lâu đời nhất
và lớn nhất thế giới. Hội này xuất phát từ những nghiệp đoàn các thợ xây đá
(unions of stone masons) là những ngƣời thợ nề chuyên xây các đại thánh
đƣờng và các dinh thự lâu đài khắp Âu châu trong thời Trung cổ. Ngày xƣa, họ
đã đem hết tài năng trí tuệ để dựng nên những thánh đƣờng vĩ đại và những dinh
thự nguy nga tráng lệ. Ngày nay họ quyết tâm xây dựng những giá trị luân lý và
đạo đức ở tầm mức cao nhất. Họ là những ngƣời thấu triệt các thủ đoạn nham
hiểm và các tội ác kinh khủng của Giáo hội Công giáo và những chế độ chính trị
phi nhân bản. Ngày nay họ quyết tâm xây dựng một Trật Tự Thế Tục Mới.
(NOVUS ORDO SECLORUM). Những hội viên Tam Điểm đƣợc tự do di
chuyển khắp nơi trên thế giới (to travel freely), do đó chữ FREE đƣợc dùng làm
tiếp đầu ngữ trƣớc chữ MASON để trở thành FREE MASON (Hội viên Tam
Điểm).
Hội đƣợc thành lập vào thế kỷ XVI với quy định đầu tiên là chỉ thu nhận những
ngƣời thợ xây đá (stone mason). Từ đầu thế kỷ XVII, hội thu nhận những ngƣời
ƣu tú xuất sắc trong xã hội, không phân biệt quốc tịch và nghề nghiệp. Hội chú
trọng huấn luyện hội viên về triết lý đạo đức (normal philosophy) hơn là về kỹ
thuật. Hội xác nhận không phải là một tôn giáo và không thuộc tôn giáo nào.
Hội xác nhận Công giáo là thù địch.
Theo đặc san “Avoice Crying In The Wilderness” số 2 của Tu viện Thánh Gia
thuộc Giáo Phận New York (4425 Sneider Road, Fillmore NY14735) thì các
thủ lãnh Tam Điểm đã vạch ra đƣờng lối để tiêu diệt giáo hội Công giáo từ năm
1819 (P. 43).
Phần lớn các tổng thống Mỹ từ trƣớc đến nay là hội viên Tam Điểm. Phần lớn
các nhà lập quốc ký tên trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập và Bản Tuyên Ngôn
Nhân Quyền đều là Hội Viên Tam Điểm.
Thiên tài âm nhạc Áo quốc Mozart (1756-1791) cũng là hội viên Tam Điểm, đã
sáng tác bản đại nhạc kịch Tiếng Sáo Thần (The Magic Flute) mô tả nữ thần của
màn đêm – tƣợng trƣng cho các thế lực đen tối của tội ác – sẽ bị đánh bại và
biến mất trên thế gian. Sau đó, hoàng tử của Công lý sẽ xuất hiện để báo hiệu sự
hình thành của một Trật Tự Thế Tục Mới (Novus ordo seclorum).
Cũng theo đặc san của Tu Viện Thánh Gia New York thì giáo hoàng Gioan
XXIII, Giáo hoàng Paul VI và giáo hoàng John Paul II đều là những ngƣời của
Tam Điểm cài vào để phá giáo hội Công giáo.
Ngày 25/9/59, Giáo hoàng Gioan XXIII triệu tập cộng đồng Vatican II để khởi
đầu cuộc hủy diệt hoàn toàn giáo hội Công giáo. Từ sau Vatican II, giáo hội chỉ
còn cái vẻ bề ngoài đồ sộ, thật sự bên trong đã bị sụp đổ tan hoang vì nạn mất
đức tin. Giáo hoàng Paul VI nhiều lần công khai tự nhận là bạn của Tam Điểm.
Giáo hoàng John Paul II công khai nhìn nhận thuyết Big Bang, tức đã mặc
nhiên phủ nhận việc Chúa dựng nên vũ trụ trong 7 ngày. Ngài công nhận thuyết
Darwin tức đã mặc nhiên phủ nhận Adam-Eve là tổ tiên loài ngƣời, phủ nhận tội
tổ tông và Chúa chẳng còn lý do gì để xuống thế cứu chuộc. Điều quan trọng
hơn cả là Giáo hoàng John Paul II phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Đàng và
Hỏa Ngục. Nhƣ vậy, việc các linh mục nhận tiền xin lễ của giáo dân đã trở
thành một chuyện lừa bịp vì làm sao có thể cầu nguyện cho linh hồn thân nhân
giáo dân lên thiên đàng khi giáo chủ đã xác nhận thiên đàng không có?
Xét cho kỹ, chúng ta nhận thấy cái công phá đạo của Giáo hoàng Paul II không
phải là nhỏ và sự tố giác của Tu Viện Thánh Gia New York (Most Holy Family
Monastery) không phải là điều vô căn cứ.
Cái Kim Tự Tháp NOVUS ORDO SECLORUM hiện chƣa hoàn thành vì nó
chƣa có đỉnh. Chúng ta tự hỏi một khi cái kim tự tháp đó hoàn thành thì liệu cái
sào huyệt tội ác lớn nhất của loài ngƣời là Vatican có còn không? Câu trả lời
khẳng định là KHÔNG!
Có lẽ những ngƣời Hồi giáo cực đoan đã hiểu rõ nƣớc Mỹ không có quốc giáo
và Đấng Toàn Năng Lý Trí (GOD của Mỹ không phải là Allah. Chính vì vậy
mà Osama Bin Laden đã gọi nƣớc Mỹ là “vô thần”. Thật sự, Hoa Kỳ là một
nƣớc Cộng Hòa đầu tiên trên thế giới thế tục hóa. Sự thế tục hóa đƣợc thể hiện
bằng những điều khoản phân định rõ rệt giữa thần quyền tôn giáo và thế quyền
chính trị trong hiến pháp. Sự thế tục hóa là một nỗ lực của giới lãnh đạo Hoa Kỳ
chủ yếu nhằm chống lại những áp lực của Ki-tô giáo. Do đó, “God” trong
phƣơng châm “In God We Trust” dứt khoát không phải là “Christian God” tức
Thiên Chúa Ba Ngôi của đạo Ki-tô.
Giáo lý Thiên Chúa Ba Ngôi của đạo Ki-tô chẳng những là một quái thai tƣ
tƣởng, một quái vật ba đầu (gồm có đầu bò El, đầu ngƣời Jesus và đầu chim bồ
câu) mà còn là một thứ Thiên Chúa loạn luân mất nết. Trong cuốn sách “Chứng
Nhân Hy Vọng”, trang 293, tác giả là Hồng Y Nguyễn Văn Thuận viết: “Là nữ
tử của Thiên Chúa Cha, Đức Mẹ Maria trở thành mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể và
hiền thê của Chúa Thánh Thần”.
Chúng ta đã biết giáo lý Ki-tô giáo dạy rằng cả ba ngôi Thiên Chúa là một Đức
Chúa Trời. Nhƣ vậy, Đức Mẹ Maria cùng một lúc vừa là nữ tử vừa là hiền thê
của một Thiên Chúa. Rõ ràng là Thiên Chúa Cha đã làm cho nữ tử kiêm hiền
thê mang bầu vào lúc nàng 16 tuổi để đẻ ra Chúa Con là Jesus! Tính chất loạn
luân của Thiên Chúa Ba Ngôi là điều không thể chối cãi đƣợc. Thƣợng Đế Lý
Trí (God of Reason) của những bậc đại trí nhƣ John Locke, Voltaire, J.J.
Rousseau, Jefferson, Thomas Paine, Washington... hiển nhiên không phải là thứ
Thiên Chúa quái thai loạn luân bệnh hoạn mà Nguyễn Văn Thuận tôn thờ. God
trong châm ngôn IN GOD WE TRUST cũng dứt khoát không phải là Thiên
Chúa của Ki-tô giáo bao gồm Công giáo và các giáo phái Tin Lành. God trong
châm ngôn của Mỹ tƣơng tự nhƣ quan niệm về ĐẠO của Lão Tử hoặc quan
niệm về Thƣợng Đế của Spinoza (1631-1677). Học giả Stephen Mitchell viết về
Thƣợng Đế của Spinoza nhƣ sau: “Thƣợng Đế là tổng thể của mọi vật hiện hữu
trong thời gian và không gian hoặc nhƣ chúng ta có thể nói tại Huê Kỳ ngày
nay: Đó là Đạo” (God is the totality of all things that exist in time space... or as
we might say today in America: The Tao – The Enlightened Minds – page 142).
PHẦN KẾT
Qua tất cả những điều đã trình bày ở trên, chúng ta nhận thấy nền trật tự xã hội
thế tục có tính chất biến định đã không cho phép chính phủ Hoa Kỳ hình thành
một quốc giáo và mọi hành vi của chính phủ nhằm hỗ trợ cho công cuộc truyền
giáo ở nƣớc ngoài đều là bất hợp pháp. Tất cả các giáo hội Tin Lành dù lớn đến
đâu thì cũng chỉ là những hiệp hội tƣ nhân mà thôi.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhận rõ một điều là tại Hoa Kỳ có nhiều hiệp hội
tƣ nhân rất giầu và hoạt động rất mạnh. Một số giáo phái Tin Lành tuy hoạt
động trong lãnh vực tƣ nhân nhƣng cũng có tham vọng rất lớn. Chẳng hạn nhƣ
tổ chức Tin Lành TBN, do mục sƣ Pat Roberson lãnh đạo, có tham vọng dùng
hệ thống truyền thanh và truyền hình giảng đạo bằng đủ mọi ngôn ngữ và rộng
khắp hoàn cầu trong một kế hoạch mệnh danh là: “Chƣơng trình Thay Đổi Thế
Giới” (Programs to Change the World). Từ nhiều năm qua, các hệ thống truyền
thanh và truyền hình của tổ chức này đã chủ yếu nhắm vào Trung Quốc và Nhật
Bản. Hiện nay, trong 10 tỉnh miền Hoa Nam (Trung Quốc) đã có 16 giáo hội
Tin Lành đang hoạt động. Ở Nhật trong mấy thập niên qua đã mọc lên hàng
trăm nhà thờ Tin Lành (xin đọc Salvation For Sale của Gerard Thomas Straub –
Prometheus Book 1986).
Một số giáo phái Tin Lành khác nhƣ Episcopal, nhân chứng Jehorah, Mormon
đã đào tạo nhiều mục sƣ ngƣời Việt và đồng thời huấn luyện nhiều nhân viên
truyền giáo ngƣời Mỹ trẻ tuổi nói thông thạo tiếng Việt. Phải chăng họ đã chuẩn
bị cho công cuộc truyền giáo Tin Lành vào Việt Nam trong giai đoạn sắp tới?
Xét về bản chất, Tin Lành cũng nhƣ Công giáo đều là những sản phẩm của nền
văn hóa du mục Ả Rập, Do Thái. Cả hai cùng thuộc Ki-tô giáo và đều không
phù hợp với truyền thống văn hóa nhân bản Việt Nam. Trong hiện tình Việt
Nam, nếu chúng ta để cho Tin Lành tự do truyền đạo trên miền Cao Nguyên
chắc chắn sẽ bị bọn chính trị lƣu manh lợi dụng để gây thêm phe cánh. Nếu
không kịp thời ngăn chặn, một khi số tín đồ Tin Lành trở thành một lực lƣợng
chính trị đông đảo thì nguy cơ nội chiến theo kiểu Đông Timor sẽ có thể xảy ra.
Để đối phó với những làn sóng truyền đạo Tin Lành vào Việt Nam, thiết tƣởng
chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của các nƣớc:
1/ Bài học sáng giá nhất về việc này có lẽ là bài học Do Thái. Năm 1978, Quốc
Hội Do Thái (The Israel Knesset) đã ban hành Luật Cấm Truyền Giáo (Anti-
missionary Laws). Theo luật này thì bất cứ ai đến Do Thái truyền đạo Tin Lành
sẽ bị tòa án tuyên phạt 5 năm tù và 3200 đô la Mỹ.
2/ Bài học thứ hai ít nghiêm khắc hơn nhƣng xét ra cũng rất hữu hiệu. Đó là bài
học của Indonesia. Chính phủ Indonesia buộc mọi ngƣời ngoại quốc nhập cảnh
Indonesia đều phải khai báo về nghề truyền giáo (Missionary). Nếu khai là
ngƣời truyền giáo thì họ chỉ đƣợc sở ngoại vụ cấp phép di trú không quá 6
tháng. Thời gian 6 tháng này thiết nghĩ quá lâu. Đề nghị chỉ nên cho phép
những ngƣời truyền đạo lƣu trú tại Việt Nam không quá một tháng và ít nhất
phải 3 năm sau mới đƣợc trở lại Việt Nam.
3/ Bài học của Nga có tính cách quyết liệt đối với cả Công giáo lẫn Tin Lành.
Tháng 8/1997, Quốc Hội Nga đã biểu quyết luật về Tự Do Tôn Giáo. Theo luật
này thì mọi tôn giáo – kể cả đạo Phật, đạo Hồi, đạo Bà-la-môn – đều đƣợc tự do
truyền đạo và hành đạo. Ngoại trừ Công giáo và Tin Lành bị đặt ra ngoài vòng
pháp luật và bị cấm hoạt động tại Nga. Đây một là một gƣơng can đảm và sáng
suốt của những ngƣời đã có kinh nghiệm xƣơng máu với các tà đạo Ki-tô. Ƣớc
mong rằng những đạo luật có nội dung tƣơng tự sẽ đƣợc hình thành trên đất
nƣớc Việt Nam thân yêu của chúng ta.
Charlie Nguyễn
[1] chữ Tạo Hóa ở đây có nghĩa là Thiên Nhiên (Nature) chứ không có nghĩa là
God (Thƣợng Đế) nhƣ bị lạm dụng.
Quan niệm “Ông Trời” của ngƣời Việt
Charlie Nguyễn (Bùi văn Chấn)
Từ ngàn xƣa, dân tộc Việt Nam đã có nhiều ý niệm về “Ông Trời”. Những ý
niệm đó đã đƣợc bộc lộ qua các câu ca dao tục ngữ hoặc trong thi phú của giới
trí thức nho học uyên thâm mà ta thƣờng gọi là “văn chƣơng bác học”. Tuy
nhiên, muốn hiểu ý nghĩa thật sự của Ông Trời Việt Nam chúng ta cần phải
khảo sát văn chƣơng bình dân vì chỉ trong văn chƣơng bình dân tâm hồn chất
phác của nông dân Việt Nam mới đƣợc thể hiện trọn vẹn và trung thực. Đối với
các nhà nho chịu ảnh hƣởng văn hóa Trung quốc thì Ông Trời là “Ngọc Hoàng
Thƣợng Đế” mà ngƣời Hoa thƣờng lập bàn thờ để thờ, hoặc có thể là “Hoàng
Thiên” nhƣ trong câu “Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân”. Điểm khác biệt giữa
quan niệm của ngƣời Tàu về Ngọc hoàng Thƣợng đế (hoặc Hoàng Thiên) với
quan niệm về “Ông Trời” của ngƣời Việt Nam là ngƣời Việt không tôn trọng
Ông Trời. Ngay cách gọi Trời bằng “Ông” cũng đã là một cách diễu cợt. Ngƣời
Việt Nam coi Trời không hơn ông hàng xóm: “Bắc thang lên hỏi ông trời!”.
Có lẽ chỉ có ngƣời Việt nam “dám” gọi Trời bằng Ông mà thôi vì chúng ta
không hề thấy một cách gọi tƣơng đƣơng trong các ngôn ngữ khác. Chúng ta
không hề thấy ngƣời Tàu gọi “Ngọc hoàng Thƣợng đế” là Ngọc hoàng tiên sinh,
Thƣợng đế tiên sinh hoặc Hoàng thiên tiên sinh.... Chúng ta cũng không hề thấy
ngƣời Anh hoặc ngƣời Pháp gọi Thiên Chúa là Mr. God! Monsieur Dieu!....
Hơn thế nữa, ngƣời Việt Nam còn tỏ thái độ xem thƣờng ông Trời qua cách gọi
Trời là “Con Tạo” hoặc “Trẻ Tạo Hóa”, thậm chí còn gọi con cóc là cậu ông
trời!
- “Con cóc là cậu ông trời
Hễ ai đánh nó thì trời đánh cho” (Ca dao)
- “Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán” (Nhị Độ Mai)
- “Đố kỵ sá chi con tạo
Nợ tang bồng quyết trả cho xong” (Nguyễn Công Trứ)
Đối với ngƣời Việt Nam bình dân, “Ông Trời” cũng tƣơng tự nhƣ “Ông Trăng”
“Ông Sao” mà thôi, tuyệt nhiên không hề có ý nghĩa là Đấng Tối Cao hoặc
Đấng Toàn Năng theo quan điểm của Kitô giáo.
Một sĩ phu nổi tiếng trong Phong trào Cần Vƣơng là Trần cao Vân đã lột tả
quan niệm của ông về “Ba Ngôi” trong vũ trụ là: Trời, Đất, Ngƣời (Thiên - Địa
–Nhân) có mối tƣơng quan đồng cảm và đồng dẳng qua bài thơ sau đây:
Trời đất sinh ta có ý không?
Chƣa sinh trời đất, có Ta trong
Ta cùng Trời Đất, ba Ngôi sánh
Trời đất sinh ta một chữ Đồng
Đất nứt ta ra, Trời chuyển động
Ta thay trời mở đất mênh mông
Trời che đất chở, ta thong thả
Trời, Đất, ta đây đủ hóa công.
Đối với Hồi giáo, Do thái giáo và Ki tô giáo, các tín đồ đều đƣợc gọi là “những
kẻ kính sợ Chúa” (God-fearers). Trái lại, ngƣời Việt Nam bình dân không hề
“sợ Trời”. Họ tin rằng nếu con ngƣời cố gắng phấn đấu cũng có thể “thắng trời”
nhƣ thƣờng:
- Xƣa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều!
hoặc cứ liều làm theo ý mình và mặc cho trời muốn làm gì thì làm:
- Cũng liều nhắm mắt đƣa chân
Thử xem Con tạo xoay vần đến đâu. (Nguyễn Du)
Ý niệm thông thƣờng nhất của ngƣời Việt Nam về “Ông Trời” chính là bầu trời
xanh vật chất ở trên đầu chúng ta. Đó là môi trƣờng thiên nhiên của mọi biến
chuyển về thời tiết nhƣ mƣa nắng, gió bão v.v... thể hiện nổi bật ý niệm này là
bài thơ “Vịnh Ông Trời” của Nguyễn Khuyến (1835-1909):
Cao cao muôn trƣợng ấy là Tao
Dẫu pháo thăng thiên chẳng tới nào
Nhắn bảo dƣới trần cho chúng biết
Tháng ba, tháng tám tớ mƣa rào.
Khi ngƣời Việt nam nói “trời mƣa”, “trời nắng” thì chỉ có nghĩa là thời tiết mƣa
hay nắng chứ không hề có nghĩa là “Đức Chúa Trời mƣa” hay “Đức Chúa Trời
nắng”!
Nguyễn Bính có hai câu thơ rất hay:
Nắng mƣa là bệnh của trời
Tƣơng tƣ là bệnh của tôi yêu nàng
Trời của Nguyễn Bính trong câu thơ trên cũng chỉ là thời tiết mà thôi. Trong
những trƣờng hợp khác, Trời đƣợc hiểu là Luật thiên nhiên trong vũ trụ nhƣ:
- Cha mẹ sinh con, trời sinh tính
- Trời sinh, trời dƣỡng
- Trời sinh voi, trời sinh cỏ
Ngƣời Việt nam bình dân cũng quan niệm “Ông Trời” nhƣ số mệnh của con
ngƣời hoặc số phận đƣợc quyết định bởi những yếu tố vuợt quá tầm kiểm soát
của con ngƣời, chẳng hạn nhƣ:
Ngẫm hay muôn sự tại trời (số mệnh !)
Trời kia đã bắt làm ngƣời có thân
Bắt phong trần phải phong tràn
Cho thanh cao mới đƣợc phần thanh cao
Nguyễn Du
hay:
Trời sao ăn ở chẳng cân
Kẻ ăn không hết, ngƣời lần chẳng ra
Ông Trời cũng có thể đƣợc hiểu là luật Nhân Quả, nếu ta cố gắng tu thân và có
lòng nhân ái, chắc chắn sẽ gặt kết quả tốt:
Trời sinh, trời ắt đã dành phần
Tu hãy cho bền, dạ có nhân
Nguyễn Bỉnh Khiêm
- Có trời mà cũng có ta
Tu là cõi phúc, tình là dây oan (Nguyễn Du)
Trên đây là những ý niệm của ngƣời Việt nam về ông Trời đã đƣợc thể hiện qua
ca dao, tục ngữ và văn chƣơng bác học, tuyệt nhiên không có ý nghĩa là Đấng
Tòan Năng hoặc Thiên Chúa của đạo Kitô. Ông Trời trong tâm thức của ngƣời
Việt nam luôn luôn chân chất hồn nhiên và rất hiền hòa, hòan tòan trái ngƣợc
với Thiên Chúa trong Kinh thánh Cựu ƣớc là một ác thần hay đúng hơn là một
ác quỷ.
Vả lại, nƣớc ta vốn là một nƣớc nông nghiệp, truyền thống dân giả Việt nam
vốn tin vào Trời nhƣ sự tuần hoàn tự nhiên của vũ trụ thiên nhiên. Ngƣời nông
dân luôn luôn phải quan sát thiên nhiên để đoán trƣớc các biến chuyển về thời
tiết hầu ứng dụng vào công cuộc trồng cấy:
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mƣa, trông gió, trông ngày trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời êm bể lặng mới yên tấm lòng
Khi thấy ngƣời dân Việt nam hay nói đến Trời, các mục sƣ Tin lành và các tu sĩ
Công giáo mừng khấp khởi nhƣ bắt đƣợc vàng. Các vị này đã hết sức trổ tài
hùng biện để chứng minh rằng: Mỗi khi ngƣời Việt nam kêu “Trời ơi!” chính là
lúc họ kêu cứu một đấng Thiên Chúa đang làm chủ trên vòm trời xanh!
Họ trí trá ca ngợi cái kho tàng bốn ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt nam có
một giá trị cao quí nhất là niềm tin vào ông Trời. Các mục sƣ Tin lành và các
linh mục Công giáo truyền đạo ra sức gò ép ý niệm Ông Trời Việt nam vào ý
niệm Thiên Chúa của đạo Kitô. Đây là một thủ đoạn gian trá nhằm vào mục
đích xiềng xích trì trệ chất phác của ngƣời dân quê Việt nam vào những cái
khung cứng ngắc của niềm tin giả tạo vào Thiên Chúa của họ.
Những hành động này hoàn toàn tƣơng phản với tâm hồn chất phác của ngƣời
dân Việt vốn chỉ tin tƣởng vào Thiên Nhiên và Định Mệnh con ngƣời mà thôi.
Có nhiều trí thức và tu sĩ Công giáo khai thác ý niệm Ông Trời Việt nam để
truyền đạo. Chúng ta có thể nêu lên một số trƣờng hợp điển hình sau đây:
1. Linh mục (Lm) Trần cao Tƣờng: Trên báo “Thế kỷ 21” số 125 tháng 9/99 có
đăng bài “Đạo kính tổ tiên, điểm gặp gỡ chung cho các tín ngƣỡng Việt” của
Lm Trần cao Tƣờng. Trong bài này, Lm Tƣờng cố ý xuyên tạc đạo hiếu và Ông
Trời để phục vụ cho mục tiêu truyền đạo. Lm Tƣờng viết: “Có thể nói, niềm tin
vào ông Trời đã có sẵng trong tâm thức ngƣời Việt trƣớc cả khi các tôn giáo du
nhập...” Cuối cùng, Lm Tƣờng cố ý gán ghép ý niệm Ông Trời (tức Thiên
Nhiên) của dân tộc Việt với ý niệm Thiên Chúa của đạo Kitô (The Christian
God). Khi gán ghép nhƣ vậy, Lm Tƣờng đã tự tố cáo sự hiểu biết nông cạn của
mình vì thực sự ông ta không hiểu gì về sự khác biệt nhƣ nƣớc với lửa giữa Ông
Trời Việt nam và Thiên Chúa ba ngôi của đạo Kitô. Tôi sẽ phân tích rõ về sự
khác biệt ở phần cuối bài này.
2. Trí thức Công giáo Nguyễn huy Lai: Ông lai là một trí thức Công giáo sinh
trƣởng tại Hà nội. Cuối thập niên 1920 ông du học tại Paris và đậu tiến sĩ luật
năm 1935. Trong đầu thập niên 1930, ông viết sách “La Tradition Religieuse
Spirituelle Sociale au Vietnam” (Truyền thống Tôn giáo Tâm linh Xã hội tại
Việt nam) nhƣng đến năm 1981 sách này mới đƣợc xuất bản lần đầu tại Pháp.
Ông Lai qua đời năm 1992 tại VN, thọ 84 tuổi.
Báo Đất mẹ (số 103, tháng 2/2003, trang 23) trích dịch một phần sách của ông
Lai, trong đó có đoạn viết: “Ông Trời đƣợc ngƣời Việt nam tôn kính không phải
là một ông thần hộ mệnh mà là một Thiên Chúa Ngôi vị (Dieu personnel / Thiên
Chúa Ba ngôi) ngự trị trên các tầng trời”. Trƣờng hợp của trí thức Công giáo
Nguyễn huy Lai cũng nhƣ Linh mục Trần cao Tƣờng nói trên, cả hai đều không
nhận ra sự khác biệt sâu xa giữa Ông Trời Việt nam và Thiên Chúa của đạo
Kitô (tức Thiên Chúa Ba ngôi). Đây là sự khác biệt nhƣ hai thái cực tƣơng phản
khiến cho không một ai có thể đồng hóa đƣợc.
3. Linh mục Giuse Trƣơng đức Kỷ tức Cao phƣơng Kỷ, giáo sƣ môn thần học
tại nhiều chủng viện Việt nam và Hoa kỳ, tác giả sách “Thiên Chúa giáo và
Tam giáo”, 536 trang, xuất bản tại Mỹ năm 2000. Đây là một cuốn sách triệt để
khai thác và xuyên tạc ý niệm Ông Trời để phục vụ cho nhu cầu truyền đạo
Kitô.
Trong Lời giới thiệu, Lm Trần công Nghị (thuộc Hội đồng Chỉ đạo Liên tôn) đã
viết về tác giả của cuốn sách nhƣ sau: “Sọan giả nêu ra những chân lý chung
làm nền tảng mà bất cứ giáo phái nào cũng công nhận... mẫu số chung cho các
tín ngƣỡng của ngƣời Việt nam là niềm tin ở Ông Trời, tức Đấng Siêu Việt”.
Rõ ràng một điều là cả Lm Trần công Nghị lẫn Lm Cao phƣơng Kỷ đã cƣơng ẩu
vì trong ca dao tục ngữ cũng nhƣ trong thi phú Việt nam chẳng có câu nào ca
ngợi Ông Trời là “Đấng Siêu Việt” cả. Ngay danh xƣng “Ông Trời” cũng đã
hàm ý - phủ nhận cái ý nghĩa “Đấng Siêu Việt” rồi, vì liệu Lm Cao phƣơng Kỷ
có thể gọi Đấng Siêu Việt là “Ông Siêu Việt” đƣợc không? Nếu coi Trời là
Đấng Siêu Việt thì tại sao ngƣời Việt nam lại gọi Trời là Con Tạo, Trẻ Tạo Hóa,
con cóc là cậu ông Trời? Chẳng lẽ con cóc là cậu của Đấng Siêu Việt?
Nơi trang 4 sách dẫn chiếu, Lm Cao phƣơng Kỷ ca ngợi cố đạo Alexandre de
Rhodes là ngƣời am trƣờng tín ngƣỡng đặc biệt của Việt nam: “Cha Đắc Lộ đề
cao niếm tin cổ truyền ở một Vị Thần Siêu Việt mà dân chúng thƣờng kêu xin là
Ông Trời.”
Quả thật, Đắc Lộ đã sáng tác ra danh từ “Đức Chúa Trời” và y là ngƣời đầu tiên
xử dụng danh từ này trong nhiều trƣờng hợp:
- Đắc Lộ lập ra hội “Nhà Đức Chúa Trời” có mục tiêu đào tạo các thầy giảng
cho giáo hội Việt nam.
- Đắc Lộ dịch sách giáo lý bằng tiếng La-tinh “Cathéhismes” ra tiếng Việt, đó là
sách “Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội mà vào đạo thánh
Đức Chúa Trời.”
- Đắc Lộ thay thế tiếng “Chúa Dêu” phiên âm từ tiếng La-tinh “DEUS” bằng
danh từ “Đức Chúa Trời” trong các bài kinh nguyện của Việt nam. Thí dụ nhƣ
kinh Kính Mừng trƣớc kia đƣợc phiên âm từ tiếng La-tinh nhƣ sau: “Ave Maria,
đầy ga-ra-xi-a, Đức Chúa Dều ở cùng bà...”.
Đắc Lộ là ngƣời đầu tiên đƣa đạo Công giáo hội nhập vào văn hóa Việt nam
bằng cách mô phỏng danh từ “Ông Trời” để sáng chế ra danh từ “Đức Chúa
Trời” đã trở thành rất thông dụng trong quần chúng Công giáo Việt. Nhƣng Đắc
Lộ đã thất bại khi gò ép chứng minh Ông Trời là “Vị Thần Siêu Việt” mà Linh
mục Cao phƣơng Kỷ muốn chúng ta hiểu là Thiên Chúa của đạo Kitô (Christian
God).
Trong thực tế, Matteo Ricci ở Trung-Quốc và cố đạo Đắc Lộ tại Việt nam đều
không dám đề cập đến Thiên Chúa của đạo Kitô là Thiên Chúa Ba ngôi
(Christian Gos is Trinity God) trong các sách giáo lý của họ. Bởi lẽ Thiên Chúa
Ba ngôi là một thứ “toán học kỳ quặc”: Ba là Một, Một là Ba. Jesus là Ngôi Hai
Thiên Chúa xuống thế làm ngƣời, đồng thời cũng là Đức Chúa Cha tạo thành vũ
trụ vạn vật và cũng là Đức Chúa Thánh thần, chồng của mẹ ông. Nói đúng hơn,
Thiên Chúa Ba ngôi là một quái thai tƣ tƣởng mà bản thân Matteo Rici và
Alexandre de Rhodes cũng không hiểu nổi và cũng không thể giảng giải cho
ngƣời khác hiểu đƣợc. Vì thế họ đành phải câm miệng. tuy nhiên, Alexandre de
Rhodes nhận thấy ngƣời Việt có phong tục ăn mừng suốt ba ngày trong dịp tết
Nguyên đán nên y thực hiện quỉ kế là khuyên giáo dân dành ba ngày tết để tôn
thờ Thiên Chúa Ba ngôi: Ngày mồng một tết tôn thờ Đức Chúa Cha, ngày mồng
hai tôn thờ Đức Chúa Con (tức Jeus) và ngày mồng ba tôn thờ Đức Chúa Thánh
thần. Trải qua trên ba thế kỷ, nhiều giáo xứ Công giáo Việt nam hiện vẫn còn
giữ tập tục tôn thờ Thiên Chúa Ba ngôi trong ba ngày tết. Hành động này đã
khiến cho giáo dân Việt nam mặc nhiên chấp nhập tín điều Thiên Chúa Ba ngôi
mà không cần phải dùng lý trí để phân biệt đúng sai.
Tiếp tục tán láo trong chiều hƣớng gò ép nhằm cƣỡng chế ngƣời đọc phải hiểu
Ông Trời là Thiên Chúa, Linh mục Cao phƣơng Kỷ viết: “Theo truyền thống cố
hữu của dân tộc Việt nam thì niềm tin vào một Đấng Bề Trên đã đƣợc biểu lộ
trong nghi lễ tế tự, ca dao tục ngữ, văn thơ và đặc biệt trong lời kêu cứu cầu xin
chân thành đặt hết ƣớc vọng của cuộc đời vào sự quan phòng của Ông Trời
(sđd, Thiên Chúa giáo và Tam giáo, trang 387); “con ngƣời hƣớng tâm linh lên
một Quyền lực Thiêng liêng làm chủ tể muôn loài.... đầy tình thƣơng xót, có thể
lắng nghe những lời cầu kinh:
Lạy Trời mƣa xuống
Lấy nƣớc tôi uống
Lấy ruộng tôi cầy
Lấy dầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp.”
(sđd, trang 392)
Linh mục Cao phƣơng Kỷ đã trắng trợn cƣỡng đoạt bài ca dao Việt nam “Lạy
Trời mƣa xuống” và biến nó thành một bài kinh nguyện (prayer) của đạo Công
giáo!
Linh mục Kỷ nên nhớ rằng: tuyệt đại đa số dân Việt là những nhà nông, chuyện
nắng mƣa là vấn đề sinh tử đối với họ. Bài ca dao nói trên chỉ mô tả ƣớc vọng
của nông dân Việt nam mong sao cho mƣa thuận gió hòa để họ đƣợc mùa và có
gạo mà ăn. Đơn giản chỉ có vậy thôi! Khi ngƣời nông dân Việt nam nói: “Lạy
Trời mƣa xuống, lấy nƣớc tôi uống, lấy ruộng tôi cày...” họ không hề quì gối
chấp tay với nét mặt thẩn thờ mất trí nhƣ khi ngƣời Công giáo đọc kinh cầu
Chúa. Vậy không thể nói ngƣời nông dân Việt nam “cầu kinh” với ông Trời!
Trong suốt cuốn sách dầy trên 500 trang, Linh mục Cao phƣơng Kỷ luôn luôn
bẻ cong ngòi bút để viết những lời cƣờng điệu thô bỉ khiến ngƣời đọc phải “lợm
giọng”. Tôi thật sự phải “lợm giọng” khi đọc những dòng sau đây:
“Lịch sử của vũ trụ, của nhân loại cũng là lịch sử Cứu Độ, vì tất cả mọi sự hiện
hữu đều do Đấng Cứu Thế (Jesus) mà có. Không có Đấng Cứu Thế thì không có
vũ trụ, không có lịch sử, không có nhân loại, nhân sinh.” (Sách đã dẫn, trang
113)
Tôi không biết trình độ trí thức của Linh mục Cao phƣơng Kỷ tới mức nào mà
viết lời ca ngợi Jesus nhƣ lời của một kẻ mê sảng: “Tất cả mọi sự hiện hữu đều
do Jesus mà có”. nếu quả thật nhƣ vậy thì chuyện Jesus chết trên thập giá chỉ là
một trò hề vì cây thập giá và đoàn quân La mã đóng đinh y trên núi Sọ đều là
những sản phẩm do y tạo ra, tất cả đều do Jesus sinh ra và do y hoàn toàn làm
chủ. Vậy làm sao y có thể là một nạn nhân phải chịu cực hình để chuộc tội thiên
hạ? Ngay cả mẹ của Jesus cũng do Jesus đẻ ra hay sao?
Tôi mong Linh mục Cao phƣơng Kỷ và Linh mục Trần công Nghị (cả hai đều là
tiến sĩ thần học) hãy bình tâm coi lại Thánh kinh Tân ƣớc, chỉ cần tìm ra vài câu
nói điển hình của Jesus cũng đủ thấy Jesus là một kẻ khùng:
Nếu không phải là kẻ khùng thì tại sao Jesus lại dạy tín đồ: “Phúc cho ai không
thấy mà tin”? Cái giá trị cao nhất khiến con ngƣời “linh ƣ vạn vật” là trí tuệ,
vậy muốn xứng đáng làm ngƣời thì phải biết xử dụng trí tuệ suy xét mọi việc
trƣớc khi tin vào bất cứ điều gì. Jesus dạy tín đồ vứt bỏ cái giá trị quí báu nơi
con ngƣời là trí tuệ để nhắm mắt tin bừa vào những điều y nói. Vậy y chẳng
phải là một kẻ khùng hay sao?
Phải chăng hai tiến sĩ thần học Cao phƣơng Kỷ và Trần công Nghị đã vâng theo
“Lời u mê” mà vất bỏ trí tuệ của mình để viết nên cuốn sách “Thiên Chúa giáo
và Tam giáo” và viết lời giới thiệu cho cuốn sách “cỏ rác” này?
Truyền thống cao quí của dân tộc Việt nam từ xƣa đến nay là Đạo Hiếu. Nói
đúng hơn, đó là truyền thống biết ơn các đấng sinh thành, các bậc tổ tiên và còn
nới rộng ra tới các vị anh hùng dân tộc nữa. Vì thế mới có bàn thờ gia tiên trong
mỗi gia đình, có đền thờ tổ, đền thờ Hai Bà Trƣng, đền thờ Đức Thánh Trần
v.v... Nhƣng Jesus hoàn toàn không biết đến đạo hiếu là gì. Jesus đã công khai
dạy các tín đồ của y nhƣ sau: “Bất cứ kẻ nào đến với ta mà không thù ghét cha
mẹ vợ con và anh chị em, thậm chí không ghét bỏ cuộc sống của chính nó, thì
không thể là môn đệ ta” (If any man comes to me and hate not his father, and
mother, and wife, and children, and brother, and sisters, yea, even his own life,
he can not be my discipline – Luke 14:26).
Vậy những kẻ tự xƣng là tín đồ đạo Kitô (Christians) phải là những kẻ đại bất
hiếu vì nếu không thù ghét cha mẹ thì không thể là môn đệ của Jesus! Chẳng
những thế, họ còn phải thù ghét vợ con (bất nghĩa) và ghét cả anh chị em họ
hàng (bất nhân) nữa! Thiên Chúa của đạo Kitô dạy các tín đồ những điều vô
giáo dục nhƣ vậy sao? Vậy chính Jesus là tác giả của lời dạy đó là ngƣời nhƣ
thế nào, nếu không phải là một ngƣời vô giáo dục? Theo tôi, nếu Jesus quả thực
đã thốt ra những lời nhƣ vậy thì ông là một kẻ khốn nạn.
Ngoài ra, Jesus còn tuyên bố: “Ta không đem hòa bình cho thế gian nhƣng chỉ
mang gƣơm giáo mà thôi” (I came not to send peace to the world, but a sword –
Revelation 22:11). Riêng về điều này thì Jesus nói đúng vì từ ngày có đạo Kitô
đến nay, trên 200 triệu ngƣời đã bị giết chết bởi những dàn hỏa, các cuộc thập
tự chinh và các cuộc chiến tranh do Kitô giáo trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra
(Deceptions and Myth of the Bible – Lloyd M. Graham, p. 463).
Jesus đã hiển nhiên là một kẻ khùng, và là một kẻ gieo tai họa cho nhân loại nhƣ
lời tự thú của chính hắn. Vậy Jesus có đáng đƣợc chúng ta tôn thờ hay chỉ đáng
cho chúng ta “phỉ nhổ”?
Tôi yêu cầu Linh mục Cao phƣơng Kỷ hãy lên tiếng trả lời câu hỏi này. Nếu
linh mục khẳng định “Jesus đáng cho chúng ta tôn thờ” thì ông là một ngƣời đã
mất hết lý trí và niềm tin của ông chỉ là một đức tin mù (a blind faith) ! Thật sự
ông chỉ là một kẻ đáng thƣơng hại mà thôi. Dầu sao chăng nữa tôi cũng nhận
thấy Lm Cao phƣơng Kỷ là một “trí thức” rất thông thạo Anh ngữ vì ông đã
từng là giáo sƣ thần học tại nhiều chủng viện Công giáo Hoa kỳ nên tôi khuyên
ông hãy tìm đọc cuốn sách best-seller của sử gia nổi tiếng Lloyd M. Graham, đó
là cuốn Deceptions and Myths of the Bible. Mong ông hãy bình tâm suy nghĩ về
những lời khuyên chí lý và chí tình của tác giả:
- “Hiểu đúng là do biết đúng chứ không do lòng tin” (Right understanding
comes from knowing, not just believing. Page 419).
- “Cái gọi là Đức Tin chỉ là niềm tin vào cái không biết. Cái không biết cũng là
cái không có thật. Đức tin vào cái không biết và không thật là sự điên rồ. Đó chỉ
là niềm tin vào những sự phỏng đoán ngu ngốc của kẻ khác” (Faith is belief in
the unknown. But since the unknown is likely the unreal also. Faith in the
unknown is foolishness, only belief in other believers‟ ignorant asumptions –
page 413).
Nếu ông còn chút lƣơng tri, chắc chắn ông sẽ nhận ra Lloyd M. Graham là vị
thầy dạy về Đức Tin Thông Minh (Intelligent Faith) còn Jesus là một “kẻ khốn
nạn” đã dậy các tín đồ và tông đồ của nó một thứ Đức Tin Mù (Blind Faith):
“Phúc cho ai không thấy mà tin”!
(Web GĐ lƣợc bỏ hai trang viết tay, độc giả có thể tìm đọc trong bài viết Công
giáo là Đạo Thờ Bò Cải Biến trong cuốn “ Thực Chất Đạo Công giáo và các
Đạo Chúa” do GĐ xuất bản, Xuân 2003 - từ các trang 89-111; hoặc trên
websites GĐ trong tháng 6/2003 -Giao Điểm).
Lịch sử đã chứng minh: Thiên Chúa Ba Ngôi là sản phẩm của công đồng Nicea
nhằm tôn Jesus lên làm Ngôi Hai Thiên Chúa. Chính cái tín điều quái gở này đã
phát sinh ra hai hệ quả sau đây:
1. Về ngoại hình, Thiên Chúa là một “quái vật ba đầu” gồm có đầu bò El (Chúa
Cha) đều Jesus (Chúa Con) và đầu con chim bồ câu (Chúa Thánh Thần).
2. Về đức hạnh, tín điều Thiên Chúa Ba ngôi đã biến Jesus thành một đứa con
loạn luân với mẹ ruột y. Chẳng cần phải tìm bằng cớ ở đâu xa: Trong sách
Chứng nhân Hy Vọng (trang 293) tác giả là Hồng y Nguyễn Văn Thuận đã viết
về mối tƣơng quan giữa bà Maria với ba ngôi Thiên Chúa nhƣ sau:
“Là nữ tử của Thiên Chúa Cha, Đức Mẹ đã trở thành mẹ của Ngôi Lời Nhập
Thể (Jesus / Chúa Con) và là hiền thê của Chúa Thánh Thần”. Vì cả ba ngôi chỉ
là một Thiên Chúa Duy Nhất (Tam Vị Nhất Thể) nên cùng một lúc bà Maria là
con gái, mẹ, và vợ của Jesus. Ngƣợc lại Jesus cùng một lúc vừa là Cha, là Con
và là chồng của bà Maria. Nếu đã tin vào tín điều Thiên Chúa Ba ngôi thì đƣơng
nhiên phải tin Jesus là một thằng con mất dạy vì y đã loạn luân với mẹ ruột của
y. Tôi thách đố toàn giáo hội Công giáo Việt nam phản bác lại điều này.
Ngoài ra, theo đúng tinh thần của Cựu ƣớc thì Chúa Cứu Thế phải là ngƣời
thuộc dòng dõi của vua David. Nếu Jesus là Chúa Cứu Thế thuộc dòng dõi
David thì không thể là Con của Chúa Thánh Thần. Nếu thuộc dòng dõi vua
David thì Jesus phải là con ruột của Giuse và nhƣ vậy thì bà Maria đã bị mất
“chữ trinh đáng giá ngàn vàng” !
Ngƣợc lại, nếu Jesus là con của Chúa Thánh Thần thì y không thể là Chúa Cứu
Thế vì y không thuộc dòng David. Và nhƣ vậy Jesus cũng chẳng phải là Thiên
Chúa mà chỉ là ngƣời thƣờng nhƣ chúng ta. Vậy tại sao phải tôn thờ Jesus?
Tục ngữ Việt nam có câu “dấu đầu hở đuôi” để lột tả cái hậu quả đƣơng nhiên
của những kẻ chuyên môn dối trá bịp bợm. Dù sớm hay muộn, những điều dối
trá cuối cùng cũng bị lật tẩy mà thôi.
Công cuộc lật tẩy mọi dối trá bịp bợm của Kitô giáo - gồm cả Công giáo lẫn Tin
lành – là nhiệm vụ hàng đầu của mọi chiến sĩ văn hóa chân chính của dân tộc
Việt nam trong giai đoạn hiện tại. Phơi bày bộ mặt thật, bỉ ối của Kitô giáo
trƣớc công luận rộng rãi trong và ngoài nƣớc là một phƣơng cách hữu hiệu để
cứu nguy dân tộc và bảo vệ tiền đồ văn hóa của Tổ quốc.
Một trong những thái độ cần thiết của ngƣời chiến sĩ văn hóa là phải tự coi mình
nhƣ một ngƣời lính gác giặc, luôn luôn đề cao cảnh giác để kịp thời phát hiện
mọi tên gián điệp văn hóa của địch. Trong số các chiến sĩ văn hóa hàng đầu
trong lãnh vực này, chúng ta phải kể đến nhà nghiên cứu văn hóa chính trị Lê
trọng Văn qua nhiều tác phẩm của ông, đặc biệt là cuốn “Lột Mặt Nạ Những
Con Thò Lò Chính Trị”, 455 trang, do tác giả xuất bản tại hải ngoại năm 1991.
Tác giả đã dành ra 100 trang sách để lột mặt nạ tên gián điệp đội lốt thầy tu là
Linh mục Lƣơng kim Định trong nhiệm vụ thực hiện y khuôn sách lƣợc lừa bịp
của Vatican. Tác giả đã chỉ cho chúng ta thấy rõ cái thủ đoạn rất quen thuộc của
bọn gián điệp là “tìm cách hòa đồng để rồi đồng hóa”. Điểm mặt những tên gián
điệp văn hóa theo những tiêu chuẩn nói trên, tôi nhận thấy có hai tên đáng chú ý
là:
1. Linh mục Cao phƣơng Kỷ thuộc Dòng Đồng Công ở Carthage, bang
Missouri, Mỹ, tác giả cuốn “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo” mà tôi đã trình bày
sơ lƣợc ở phần trên của bài viết này. Nhân tiện tôi cũng xin nói thêm vài điều về
Dòng Đồng Công. Dòng tu này đƣợc thành lập tại Bùi Chu vào đầu thập niên
1940 do lệnh của Giáo hoàng Pio XII. Chúng ta đã biết Pio XII đã nối tiếng là
tên tội phạm chiến tranh đứng hàng thứ hai sau Hitler. Tên giáo hoàng phát xít
này rất muốn công bố tín điều: “Đức Mẹ Đồng Công cứu cuộc” (the dogma of
Co-Redemtrix) nhƣng y đã không thực hiện đƣợc vì gặp phải những phản ứng
mãnh liệt của Anh giáo, Chính thống giáo và các giáo phái Tin lành. Họ lý luận
rằng: Chỉ một mình Jesus Christ có tƣ cách Thiên Chúa cứu chuộc loài ngƣời và
Chúa không cần tới sự cộng tác của bất cứ ai, kể cả bà Maria, để hoàn thành
công cuộc Cứu độ. Tín điều “Đức Mẹ Đồng Công cứu chuộc” đã làm hạ giá
Chúa Jesus và là “chiếc đinh cuối cùng đậy nắp hòm của sự hòa giải giữa các
giáo phái Kitô” (Newsweek số ra ngày 25-8-1997).
Do đó, Vatican đã phải tạm hoãn việc công bố tín điều Đức Mẹ Đồng Công
nhƣng đồng thời tìm nhiều phƣơng cách chuận bị dƣ luận để sẽ công bố tín điều
đó khi có cơ hội. Một trong những phƣơng cách chuẩn bị dƣ luận là Vatican chỉ
thị cho địa phận Bùi Chu lập ra dòng tu mang danh hiệu “Đức Mẹ Đồng Công
Cứu chuộc”, gọi tắt là dòng Đồng Công – Pio XII và đồng bọn tại Vatican trong
thời kỳ Đệ nhị Thế chiến đa số là ngƣời Đức rất hiếu chiến và cuồng tín cực
đoan.
Tập đoàn phe cực đoan của Pio XII đã bị Gioan XXIII loại trừ khỏi giai cấp
lãnh đạo chóp bu ở Vatican trong Công đồng Vaticano II năm 1962. Dòng Đồng
Công là cặn bã của phe Pio XII còn rơi rớt lại đến ngày nay. Mặc dầu nhƣ rắn
mất đầu nhƣng những thày tu của dòng này vẫn giữ nguyên bản chất cuồn tín
cực đoan rất nguy hiểm trong nghề gián điệp văn hóa. Tôi thiết nghĩ việc loại
trừ mọi sinh hoạt của dòng Đồng Công dƣới bất cứ hình thức nào tại Việt nam
là điều cần thiết. Cuốn sách “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo” của Cao phƣơng
Kỷ là một sản phẩm văn hóa của dòng tu phản động này.
2. Linh mục Trần công Nghị là ngƣời viết Lời giới thiệu cho cuốn sách của Cao
phƣơng Kỷ nói trên. Nghị sinh tại Phát Diệm, đƣợc gửi đi du học tại Rome năm
1967, thụ phong linh mục năm 1971 cũng tại Rome và đƣợc gửi đi du học tiếp
tại Mỹ, sau đó trở lại Rome để lấy bằng Tiến sĩ Thần học. Trong thập niên
1990, Lm Nghị đƣợc cử làm đại diện cộng đồng Công giáo Việt nam tại địa
phận Los Angeles. Từ 1997, Lm Nghị trở thành chủ nhiệm báo Dân Chúa kiêm
Giám đốc VietCatholic Network (vietcatholic.net) với sự cộng tác của trên 200
linh mục và trí thức Công giáo (báo Công giáo Viet Tide số 55 tháng 8/2002,
trang 20).
Để kết thúc bài viết này, tôi xin minh xác với quí vị độc giả về ba điều sau đây:
Điều thứ nhất: Xác định vấn đề ngôn từ và sự thật
Nhƣ đã nói ở đoạn trên, chiến sĩ văn hóa Lê trọng Văn đã chỉ cho chúng ta thấy
thủ đoạn quen thuộc của bọn gián điệp văn hóa của Vatican là “Tìm Cách Hòa
Đồng Để Rồi Đồng Hóa”. Linh mục Cao phƣơng Kỷ đã áp dụng đúng thủ đoạn
này trong cuốn sách “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo” của y: Trƣớc hết, y vận
dụng và xuyên tạc ca dao tục ngữ Việt nam để ngụy biện cho rằng Ông Trời
Việt nam là Đấng Siêu Việt. Bƣớc kế tiếp, y xử dụng môn thần học nhảm nhí
của Vatican để chứng minh Jesus chính là Đấng Siêu Việt đó:
- “Tất cả vạn sự vạn vật đều vận chuyển theo một chiều hƣớng là quy tụ lại nơi
Chúa Cứu Thế (tức Jesus) nhƣ tâm điểm và tuyệt đỉnh của vũ trụ”, trang 168.
- “Chỉ nhờ vào đời sống và sự chết của Chúa Jesus mà nhân loại đƣợc tha tội và
hy vọng đƣợc hƣởng phúc trƣờng sinh”, trang 171.
- “Nhân loại và vũ trụ đang biến hóa theo chiều bản vị hóa và đang đồng qui
vào ngôi Vị Tối Cao, chính là Chúa Cứu thế (tức Jesus)”, trang 351.
- “Lịch sử của vũ trụ, của nhân loại cũng là lịch sử cứu độ vì tất cả mọi sự hiện
hữu đều do Đấng Cứu Thế (Jesus) mà có. Không có Đấng Cứu Thế (tức không
có Jesus) thì không có vũ trụ, không có lịch sử, không có nhân loại”, trang 113.
Tất cả những lý luận thần học ngu xuẩn nói trên chỉ là những lời nói vu vơ và
hoàn toàn rỗng tuếch vì không có một cơ sở lý luận nào cả và tuyệt nhiên không
có bằng cớ nào để chứng minh.
Có gì chứng minh là “vạn sự vạn vật đều qui tụ vào Chúa Cứu Thế Jesus nhƣ
tuyệt đỉnh của vũ trụ”? Liệu có gì chứng minh là Jesus hiện đang còn sống để
cho “vạn vật qui tụ” vào y nhƣ tâm điểm? Lịch sử khách quan chứng minh rằng:
Tất cả các tử tội do La mã xử tử bằng cách đóng đinh trên thập giá đều bị vứt
xác cho kên kên, ác thú và chó rừng ăn thịt. Tuyệt đối không có một xác tử tội
nào đƣợc trao cho ngƣời nhà đem về chôn. Việc chôn xác Jesus trong hang đá
rồi sau đó vài ngày Jesus sống lại lên trời để rồi sẽ xuống thế gian lần thứ hai
trong ngày tận thế ... là chuyện hoang đƣờng tồi tệ và khốn nạn nhất trong lịch
sử văn hóa của nhân loại.
Cái tƣ tƣởng ngu xuẩn cho rằng “vạn vật đều qui tụ vào Jesus nhƣ tâm điểm vũ
trụ” hoặc “nhân loại và vũ trụ đang biến hóa theo chiều bản-vị-hóa và đang
đồng qui vào Ngội Vị Tối Cao, chính là Chúa Cứu Thế Jesu”.... chỉ có thể có
trong những đầu óc thần học nhƣ Cao phƣơng Kỷ, Trần công Nghị. Đầu của
bọn ngu xuẩn này chẳng khác gì đầu tôm vì không có óc mà chỉ có phân mà
thôi.
Bọn gián điệp ngu xuẩn này chẳng có một mục tiêu nào khác hơn là xử dụng
các ngôn từ thần học hoang tƣởng nhằm lƣờng gạt những đồng bào ngờ nghệch
dại khờ để xiềng xích trí tuệ của họ vào niềm tin Jesus là Đấng Siêu Việt và
cũng là Ông Trời Việt nam.
Để đập tan luận điệu thần học vu vơ hoang tƣởng của tên gián điệp Cao phƣơng
Kỷ, tôi đã chứng minh ca dao tục ngữ Việt nam không có một câu nào nói Ông
Trời là “Đấng Siêu Việt”. Đồng thời tôi cũng chứng minh rằng: Jesus chẳng bao
giờ là Đấng Siêu Việt, trái lại Jesus chỉ là một kẻ khùng, một kẻ khốn nạn, một
kẻ mất dạy loạn luân với mẹ của y, một kẻ ngu nhƣ bò và y cũng là một kẻ gieo
tai họa lớn nhất cho nhân loại.
Bọn linh mục ngu xuẩn làm gián điệp văn hóa cho Vatican xử dụng tòan những
ngôn từ trống rỗng và vô nghĩa để lừa gạt những ngƣời nhẹ dạ cả tin. Trái lại,
tôi xử dụng những ngôn từ thoạt đầu nghe chói tai nhƣng nghĩ cho kỹ sẽ thấy
những ngôn từ đó phản ảnh sự thật:
- Phúc âm Tân ƣớc Mattew 1:18-24 nói về thiên thần Gabriel đến báo tin về
việc giáng sinh của Jesus: “Này, một trinh nữ sẽ mang thai và sẽ sinh ra một con
trai và sẽ đƣợc đặt tên là Emmanu-El” (Behold, a vurgin shall be with child and
shall bring forth a son and they shall call his name Emmanuel).
Theo ngôn ngữ tiếng Hebrew thì Emmanuel có nghĩa là “Con bò El ở cùng
chúng ta” (El with us – xin đọc thêm “Công giáo là đạo thờ bò cải biến” trên
trang nhà GĐ tháng 6/2003). Chính Kinh thánh của đạo Kitô đã xác nhận Jesus
là một con bò . Dù là bò đực, bò cái, bò mộng hay bò thần thì cũng là bò. Vậy
tôi nói “Jesus là một thằng ngu „nhƣ bò‟ vẫn còn nhẹ hơn là „một con bò ở cùng
chúng ta : Emmanu-El)!
- Khi trình bày về mối tƣơng quan giữa bà Maria và Thiên Chúa Ba ngôi ở đoạn
trên, chúng ta đã thấy Jesus cùng một lúc vừa là cha, vừa là con và cũng là
chồng của bà Maria! Vậy, theo đúng giáo lý Kitô giáo, Jesus đích thị là một
đứa mất dạy loạn luân với mẹ. Nếu tín đồ Kitô giáo nào muốn phủ nhận cái sự
thật đáng xấu hổ này thì họ chỉ có một con đƣờng duy nhất là phủ nhận Thiên
Chúa giáo ba ngôi và phủ nhận tính cách Thiên Chúa của Jesus, ngoài ra họ
không còn con đƣờng nào khác!
- Tôi đã căn cứ vào những lời của Jesus ghi trong Tân ƣớc nhƣ: “Phúc cho ai
không thấy mà tin”, “Ai không thù ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em mình thì
không xứng đáng là môn đệ ta....” Tôi khẳng định những lời trên đây đã thốt ra
từ một thằng khốn nạn, một đứa vô giáo dục hoặc nhẹ nhất là thằng khùng! Tôi
thách thức bất cứ ai không đồng ý với những ngôn từ tôi xử dụng để phản ảnh
những thuộc tính của Jesus theo “Thánh kinh” hoặc giáo lý của đạo Kitô... thì
xin hãy lên tiếng. Tôi thật sự cầu mong có một cuộc tranh luận rộng rãi về vấn
đề này để mọi sự thật về Kitô giáo, cũng nhƣ về cá nhân Jesus, sẽ đƣợc sáng tỏ
hơn nữa trong dƣ luận quần chúng trong và ngoài nƣớc.
Điều thứ hai: Xác định giới hạn cho công việc truyền đạo của các ngƣời truyền
giáo Kitô.
Khi nói “các ngƣời truyền giáo Kitô” là tôi muốn nói đến tất cả các tu sĩ Công
giáo, các mục sƣ và các ngƣời làm công tác truyền giáo của đạo Tin lành
(missionaries). Chúng ta cần nói cho họ biết: mọi ngƣời đều có quyền tự do tín
ngƣỡng nghĩa là muốn tôn thờ ai thì thờ, nhƣng tự do tín ngƣỡng không có
nghĩa là tự do truyền đạo. Rất nhiều nƣớc đã ban hành những đạo luật nhằm hạn
chế việc truyền đạo, nhất là đối với Công giáo và Tin lành. Chẳng hạn nhƣ ở
Nga thời Yelsin đã có đạo luật cấm truyền đạo Công giáo và Tin lành. Do thái
cấm truyền đạo Kitô với hình phạt dành cho ngƣời vi phạm là 5 năm tù và 4200
đôla tiền phạt. Mới đây nhất, tại Ấn độ là nƣớc có đa số dân theo Ấn giáo, mới
ban hành đạo luật cấm cải đạo sang Kitô giáo (New anti-conversion laws in
Hindu – majority India – Houston Chronicle, Saturday April 19, 2003, page
6E).
Các ngƣời Công giáo hay Tin lành muốn đƣa Jesus lên Ngôi Hai Thiên Chúa
hoặc đấng Siêu Việt, đấng Toàn Năng v.v... là quyền của họ. Nhƣng những
ngƣời truyền đạo Ktiô không có quyền bóp méo, xuyên tạc ý niệm Ông Trời của
ngƣời Việt nam để cuối cùng gán ghép Ông Trời với Thiên Chúa Siệu Việt của
đạo Kitô. Các ngƣời không đƣợc phép xử dụng những ngôn từ thần học mập
mờ, huênh hoang, lƣơn lẹo để lừa gạt đồng bào và lôi kéo họ vào bóng tối tâm
linh để cuối cùng biến họ thành tay sai mù quáng cho ngoại bang. Tất cả các âm
mƣu đen tối của các ngƣời đều sẽ bị các chiến văn hóa yêu nƣớc theo dõi, phát
hiện và sẽ giáng trả bằng những đòn đích đáng.
Điếu thứ ba: Xác định thái độ kiên quyết, không khoan nhƣợng đối với bọn gián
điệp văn hóa lƣu manh và ngoan cố.
Luôn luôn đề cao cảnh giác để sớm phát hiện những âm mƣu phá hoại của bọn
gián điệp là điều cần thiết tiên quyết nhƣng sau đó chúng ta lại ngập ngừng hay
e dè chẳng làm gì cả hoặc chỉ hành động hời hợt thì kết quả cũng chỉ là con số
không. Chúng ta cần phải khẳng định rằng: bọn gián điệp văn hóa của Vatican
hay của đế quốc Tin lành đều là bọn Việt gian cuồng tín, vọng ngoại, chuyên
dùng các thủ đoạn lƣu manh lừa gạt đồng bào để mở rộng nƣớc Chúa, thực chất
là mở rộng lãnh thổ của đế quốc. Bọn chúng đều là những kẻ thù nguy hiểm của
dân tộc Việt nam. Do đó, thái độ thích hợp nhất đối với kẻ thù là chúng ta phải
đấu tranh với chúng một cách kiên quyết không khoan nhƣợng nhằm mục đích
cuối cùng là loại trừ hết mọi thứ “độc tố văn hóa” mà bọn chúng đã gieo rắc
trên đất nƣớc ta từ trƣớc tới nay.
Chúng ta không nên nhẹ tay đối với bọn gián điệp văn hóa, bởi lẽ chúng tuy rất
lƣu manh trong hành động nhƣng lại là những kẻ ngủ mê trên phƣơng diện tâm
linh. Nếu chúng ta đối xử với chúng bằng thái độ lịch sự nhẹ nhàng thì chẳng
khác nào gãi ngứa cho chúng và chúng sẽ ngủ mê hơn nữa. Muốn đánh thức
chúng dậy trong cơn ngủ mê chúng ta phải xối một thùng nƣớc lạnh vào mặt
chúng hoặc đập vào ngƣời chúng một cú thật mạnh nhƣ trời giáng thì may ra
chúng mới tỉnh ngủ để nhìn thấy sự thật dƣới ánh sáng mặt trời.
Câu hỏi trƣớc nhất đƣợc đặt ra là: Làm thế nào để nhận diện một tên gián điệp
văn hóa lƣu manh và nguy hiểm? Đó là những tên đã đƣợc bọn đại lƣu manh
quốc tế ở Rome huấn luyện nhồi sọ và cấp cho học vị “tiến sĩ thần học”. Điển
hình là những tên nhƣ Linh mục Cao phƣơng Kỷ và Lm Trần công Nghị. Bọn
này thực hiện đúng theo sách lƣợc xâm lăng văn hóa Á châu của Vatican (Tông
huấn Ecclesia in Asia của John Paul II).
Trong sách “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo”, Cao phƣơng Kỷ lƣơn lẹo ca ngợi
Ông Trời là Đấng Siêu Việt, và dùng lý luận thần học nhảm nhí chứng minh
Đấng Siêu Việt đó là Thiên Chúa Ba ngôi của đạo Kitô. Mục tiêu cuối cùng của
họ là tạo cho đồng bào nhẹ dạ có ảo tƣởng rằng: Thiên Chúa của đạo Kitô chẳng
phải là ai xa lạ mà chính là “Ông Trời Siêu Việt” của mình và Đạo Kitô cũng
không phải là một món hàng ngoại nhập mà là một niềm tin đã tiềm ẩn từ lâu
đời trong lòng dân tộc Việt nam.
Đây là một thủ đoạn vô cùng thâm độc của Vatican do bọn tham mƣu đại lƣu
manh nghiên cứu từ lâu và chỉ thị cho bọn gián điệp văn hóa thi hành.
Ngoài việc khai thác ý niệm Ông Trời phục vụ cho nhu cầu truyền đạo, Cao
phƣơng Kỷ còn xuyên tạc Tam giáo (Phật, Khổng, Lão) là các đạo đều có niềm
tin vào Đấng Tối Cao nhƣ Kitô giáo. Việc đánh lận con đen Tam giáo với Kitô
giáo là một chuyện hàm hồ đáng bị vạch mặt: Trƣớc hết, cả ba đạo Phật,
Khổng, Lão đều là những đạo của lý trí, nói đúng hơn thì đó là ba triết lý sống
hoặc ba cách sống (ways of life). Cả ba không hẳn là ba tôn giáo vì không có
giáo hội, không có giáo đồ và nhất là không có giáo điều (tín điều). Cả ba đạo
Phật, Khổng, Lão đều coi trọng lý trí và khuyên mọi ngƣời phải vận dụng lý trí
để suy xét mọi điều trƣớc khi tin vào điều đó. Sở dĩ có “tam giáo đồng lƣu” tại
nƣớc ta vì ngƣời dân Việt nam đã vận dụng lý trí để phân biệt những giá trị
chung của cả ba tôn giáo để dung nạp vào văn hóa dân tộc và để cuối cùng làm
thăng hoa đời sống của dân tộc.
Khác hẳn với đặc tính căn bản của Kitô giáo là loại bỏ lý trí (Phúc cho ai không
thấy mà tin - lời của Jesus).
Toàn bộ hệ thống giáo lý của Kitô giáo là hàng loạt các tín điều đƣợc đƣa ra để
buộc các tín đồ phải chấp nhận vô điều kiện. Do đó, cái gọi là Đức Tin Kitô
hoàn toàn chỉ là Đức Tin Mù. Trái hẳn với đức tin Tam giáo là đức tin sáng suốt
vì là sản phẩm của lý trí.
Hậu quả của đức tin mù là các tín đồ Kitô luôn luôn phải sống trong mặc cảm
tội lỗi, luôn luôn tự xƣng là kẻ có tội nên cần có Chúa và bọn tu sĩ lƣu manh
cứu giúp!
Bọn lãnh đạo Kitô giáo trở thành những kẻ ngạo mạn kiêu căng, lúc nào cũng
nghĩ rằng tôn giáo của mình là độc tôn và là duy nhất đúng. Điều này hàm ý
rằng các tôn giáo khác với mình đều phải chết.
Trong thực tế của lịch sử dân tộc, Tam giáo đã góp phần củng cố nền độc lập
của nƣớc nhà, trong khi đó Kitô giáo đã đƣa dân tộc vào vòng nô lệ thực dân
Pháp hơn 80 năm và hiện nay một bộ phận của dân tộc (Công giáo) vẫn là
những kẻ nô lệ tinh thần của đế quốc Vatican. Các vụ nổi loạn của những ngƣời
thiểu số Tin lành ở miền cao nguyên chứng tỏ những tín đồ Kitô giáo luôn luôn
làm nội tuyến cho ngoại bang và đi ngƣợc lại quyền lợi thiêng liêng của tổ quốc.
Tất cả những tai họa đó đều do bọn gián điệp văn hóa gây ra. Cho nên thái độ
cần thiết và cấp bách của các chiến sĩ văn hóa yêu nƣớc là phải cƣơng quyết
chiếm lãnh thế chủ động trên diễn đàn văn hóa để giáng trả bọn kẻ thù của dân
tộc những đòn đích đáng, buộc chúng phải câm miệng, cúi mặt gục đầu và
không dám ngóc đầu dậy.
Charlie Nguyễn
Tháng 6.2003
MÀN KỊCH BỊP BỢM “PHÉP LẠ LỘ ĐỨC” DO VATICAN VÀ HOÀNG
GIA PHÁP DÀN DỰNG NĂM 1858 ĐÃ NÔ LỆ HÓA NHỮNG LINH HỒN
MÊ MUỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM
Charlie Nguyễn
Để trình bày chuyện bịp “hang đá Lộ Đức” một cách rành rẽ và để qúi vị độc
giả dễ nắm bắt các tình tiết hết sức phức tạp của câu chuyện này, tôi phải bắt
đầu kể chuyện hầu qúi vị bằng những khám phá mới nhất của Nhân Chủng Học
(Anthropology) mới đƣợc công bố và đƣợc các tuần báo lớn nhất của Mỹ loan
báo trong tháng 6-2003 vừa qua. Sau đó tôi sẽ đối chiếu với khoa thần học
hoang tƣởng của St. Augustine để tố cáo thủ đoạn lừa bịp của Vatican qua các
tín điều do họ công bố nhằm mục đích đầu độc và nô lệ hóa con ngƣời. Cuối
cùng là vạch trần âm mƣu của Vatican cấu kết với chính quyền hoàng gia Pháp
giữa thế kỷ 19 trong việc dàn dựng màn kịch bịp bợm “hang đá Lộ Đức” nhƣ
thế nào. Từ đó chúng ta sẽ thấy rõ tinh thần nô lệ đáng xấu hổ của giáo hội
Công giáo Việt Nam là giáo hội luôn luôn chỉ biết cúi đầu vâng phục Vatican
một cách mù quáng hèn hạ nên đã đạt kỷ lục xây cất nhiều “hang đá Lộ Đức”
vƣợt trội tất cả các giáo hôi công giáo khác trên khắp thế giới !
Đây là một hiện tƣợng bất bình thƣờng trong sinh hoạt chung của cộng đồng
Công Giáo hoàn vũ. Hiện tƣợng bất thƣờng này đã vô tình hé mở cánh cửa bí
mật của lịch sử để chúng ta thấy đƣợc một phần nào của sự thật đã bị che khuất
về vai trò gián điệp của nhân vật Nguyễn Trƣờng Tộ. Có một điều mà toàn dân
Việt Nam nên nhớ: Cả hai soạn giả kiêm đạo diễn của vở kịch bịp bợm “Phép lạ
Lộ Đức” là Giáo Hoàng Pio IX và hoàng đế Pháp Napoléon III đã luôn luôn sát
cánh với nhau trong chủ trƣơng xâm chiếm Đông Dƣơng để mở rộng thuộc địa
và nƣớc Chúa. Cả hai nhân vật chóp bu về thần quyền và thế quyền này đều có
quan hệ mật thiết với các giáo sĩ Pháp nổi tiếng ở Việt Nam thời đó là giám mục
Pellerin, giám mục Puginier, linh mục Huc, giám mục Gauthier và “gián
điệp”Nguyễn Trƣờng Tộ. Giám mục Gauthier là thầy dậy của Nguyễn Trƣờng
Tộ trong 10 năm. Nguyễn Trƣờng Tộ luôn luôn tỏ ra trung thành với các giám
mục Pháp, hết lòng tuân phục Giáo Hoàng và tuyệt đối trung thành với Tòa
Thánh Vatican.
Tóm lại màn bịp bợm “Phép lạ Lộ Đức” chẳng những là một biến cố thần học
trong nội bộ giáo hội Công Giáo. Đồng thời về mặt chính trị, “Phép lạ Lộ Đức”
cũng có những hệ lụy oan trái in hằn lên vận mệnh đau thƣơng của dân tộc Việt
Nam trong giai đoạn đầu của lịch sử mất nƣớc hồi hậu bán thế kỷ 19. Đây là
một vấn đề nhức nhối dễ gây tranh cãi và dù sao cũng còn là một nghi vấn lịch
sử cần đƣợc các sử gia làm sáng tỏ thêm. Do đó, tôi xin dành vấn đề này lại để
trình bày trong một bài viết riêng. Sau đây, tôi chỉ xin đề cập đến những vấn đề
liên quan trực tiếp đến “Phép lạ Lộ Đức” mà thôi.
I.- Nhân chủng học đối diện với lịch sử qua bằng chứng cụ thể về “Bà Evà
thật”.
Tuần báo Newsweek, số ra ngày 23-6-2003 (trang 14) có đăng bài “Nhân
chủng học đối diện với lịch sử” (Anthropology in the face of History). Kèm
theo bài báo là hình ảnh chiếc sọ hóa thạch của một phụ nữ, bên dƣới có ghi
chú: “Tất cả sự thật về Bà Evà: Tấm ảnh chụp sọ ngƣời cổ xƣa nhất đã đƣợc tìm
thấy tại Phi Châu” (All about Eve: Portrait of the oldest human from Africa).
Tác giả bài báo Mary Carmichael viết: “Đối với họa sĩ Michael Angelo thì bà
Evà là một phụ nữ da nâu, mắt đen dễ thƣơng. Đối với họa sĩ Pháp Rodin thì bà
Evà là một phụ nữ đầy cám dỗ nhục dục. Đối với các nhà khoa học, khuôn mặt
thật của bà tổ nhân loại thật khó nắm bắt (the human matriarch‟s face has
always been elusive). Tuy nhiên vào năm 1987, các nhà di truyền học
(geneticists) đã kết luận rằng: Bà Evà Phi Châu (có hình sọ kèm theo bài báo)
đã sống trên mặt đất 160,000 năm trƣớc đây là “bà tổ cuối cùng” của toàn thể
loài ngƣời (The African Eve who lived 160,000 years ago, was the last ancestor
of all humans). Đó là sọ hóa thạch của con ngƣời khôn ngoan (Homo Spiens) cổ
nhất nhân loại đã đƣợc tìm thấy. Gọi là “tổ tiên cuối cùng” vì con ngƣời khôn
ngoan (Homo Sapiens) là loại ngƣời xuất hiện trong giai đoạn chót của quá trình
tiến hoá của nhân loại.
Các cuộc khảo cứu tổng hợp của các nhà khoa học khảo cổ, nhân chủng học, di
truyền học và cổ sinh vật học đã đi đến hai kết luận :
1.- Nguồn gốc con ngƣời xuất phát từ Phi Châu, từ đó con ngƣời di chuyển đến
các lục địa khác trên thế giới.
2.- Điều đặc biệt đáng chú ý là từ xƣa đến nay ngƣời ta chỉ tìm thấy các sọ
ngƣời hóa thạch một cách riêng rẽ và chƣa bao giờ tìm thấy sọ cùng với xƣơng
thân mình và xƣơng chân ở một chỗ. Đây là bằng chứng cụ thể về thói tục ăn
thịt ngƣời (cannibalism) trong sinh hoạt thƣờng ngày của loài ngƣời Homo
Sapiens. Trƣớc khi bị ăn thịt, đầu của nạn nhân luôn luôn đƣợc chặt ra để vứt
bỏ, thân mình và tay chân của nạn nhân đƣợc nƣớng chín trên đống lửa hoặc
đƣợc nấu chín. Do đó, chỉ có xƣơng sọ là còn tồn tại đến ngày nay, còn các
xƣơng mình và tay chân đều đã bị hủy hoại và bị vứt bỏ riêng rẽ cách xa xƣơng
đầu.
Tuần báo Time, số ra ngày 23 tháng 6-2003, hai tác giả Lemonick và Dorfman
cho chúng ta biết thêm nhiều chi tiết về “bà Evà thật của nhân loại” (trang 56-
58) nhƣ sau: “Ngƣời khôn ngoan đầu tiên của nhân loại có hình hài nhƣ chúng
ta, đi đứng nhƣ chúng ta và trong một số phƣơng cách nào đó, họ cƣ xử nhƣ
chúng ta” (The first Homo Sapiens look like us, walked like us and in some
ways acted like us as well).
Sở dĩ sọ ngƣời phụ nữ có hình in trên báo Newsweek đƣợc coi là “Bà Evà của
khoa học” vì đó là sọ ngƣời khôn ngoan (homo spiens) cổ nhất. “Ngƣời khôn
ngoan” là loại ngƣời xuất hiện trong giai đoạn chót của quá trình tiến hóa của
nhân loại. Nếu con ngƣời bị coi là bắt đầu biết phạm tội thì chỉ có thể phạm tội
khi bắt đầu có trí khôn mà thôi. Ngƣời đàn bà đầu tiên của “loài ngƣời đứng
thẳng” (Homo Erectus) cách chúng ta 2 triệu năm không đƣợc coi là “bà tổ
Evà” của nhân loại vì “bà tổ” (matriarch) này giồng vƣợn nhiều hơn giống
chúng ta !
Sọ ngƣời đàn bà Homo Sapiens cổ nhất đã đƣợc tìm thấy tại miền Herto thuộc
nƣớc Ethiopia do một sự tình cờ vào năm 1987. Vào dịp đó, một cơn bão làm
nƣớc biển dâng lên tràn ngập miền Herto làm trơ ra rất nhiều xƣơng hóa thạch
đã từng bị chôn vùi nhiều ngàn năm dƣới những lớp đất sâu.
Sọ của “bà Evà thật” đƣợc phát hiện cùng một lúc với nhiều bộ xƣơng hóa thạch
của hà mã, cá sấu, sƣ tử, ngựa vằn và chó rừng. Tất cả các hóa thạch này đều có
chung một niên đại là 160,000 năm. Điều đó cho thấy các tổ tiên xa xƣa của
chúng ta đã phải chiến đấu rất gay go để tồn tại giữa một môi trƣờng đầy thú dữ
và với đồng loại thích ăn thịt đồng loại.
Cuộc khảo sát “sọ bà Evà Homo Sapien” là một công trình khoa học quốc tế,
đƣợc đặt dƣới sự điều khiển của giáo sƣ Tim White thuộc đại học Berkeley tiểu
bang California. Đầu tháng 6-2003, ủy ban khoa học này công bố kết quả
nghiên cứu trƣớc báo chí: “Sọ ngƣời khôn ngoan đầu tiên đƣợc xác định niên
đại 160,000 năm” (The very first true Homo Sapien dated 160,000 years ago).
Trong khi đó “Bà Evà của Thánh Kinh Cựu Ƣớc Do Thái” tính tới nay mới có 6
ngàn năm mà thôi. Điều này cho thấy bà Evà của huyền thoại tôn giáo “trẻ” hơn
bà Evà của khoa học tới 154,000 năm.
Trong quá trình tiến hóa hai triệu năm từ “loài ngƣời đứng thẳng” (homo
erectus) đến loài ngƣời khôn ngoan (homo sapiens) có những giống ngƣời khác
xuất hiện. Đáng kể nhất là giống ngƣời Neanderthals. Giống ngƣời này xuất
hiện tại Phi Châu 500,000 năm trƣớc đây, sau đó họ di chuyển qua Âu Châu và
bị hoàn toàn diệt chủng vào 30,000 trƣớc. Giống ngƣời này đƣợc coi là một
nhân chủng ngoại tộc (a side branch) không thuộc dòng tiến hóa của loài ngƣời
hiện đại của chúng ta.
Những kết qủa nghiên cứu về sọ hóa thạch của “bà Evà Phi Châu” mới đƣợc Ủy
Ban Khoa Học Quốc Tế công bố trong tháng 6, 2003 là những kiến thức khoa
học giá trị dung để cập nhật hóa sự hiểu biết của chúng ta về nhân chủng học.
Qua đó, chúng ta nhận thức đƣợc một điếu rất rõ rệt là: Trí óc của con ngƣời đã
tiến triển hết sức chậm chạp. Từ trí óc của loại “vƣợn ngƣời đứng thẳng”
(Homo Erectus) đến trí óc của loại ngƣời Homo Sapiens đòi hỏi một thời gian
tiến triển tới 2 triệu năm! Trí óc của “bà Evà Phi Châu” cách đây 160,000 năm
thực sự cũng chỉ ở trình độ trí óc một em bé sơ sinh ngày nay mà thôi. Từ trí óc
“sơ sinh” đó đến trí óc “trƣởng thành” của nhân loại ngày nay đòi hỏi một thời
gian 160,000 năm !
Đó là sự thật không thể chối cãi về qúa trình tiến hóa của tâm linh và trí tuệ loài
ngƣời. Sự thật khoa học đó xác định rằng: Không thể bỗng dƣng có ngay một bà
Evà hoàn chỉnh đƣợc Thiên Chúa tạo nên từ một khúc xƣơng sƣờn cụt của
Adam!. Cách đây 6000 năm, ngay từ lúc vừa mới đƣợc tạo thành, bà Evà đã có
đủ trí khôn phân biệt thiện ác, và có đủ “ý chí tự do” để quyết tâm chống lại
Thiên Chúa bằng cách xúi chồng ăn trái cấm để phạm cái tội tày trời là TỘI TỔ
TÔNG!
Thần thuyết “Tội Tổ Tông” là nền tảng của Ki Tô Giáo (gồm cả Công Giáo –
Tin Lành) đã hoàn toàn bị sụp đổ trƣớc các bằng cớ xác thực của khoa học và
lƣơng tri con ngƣời. Các thần thuyết khác nhƣ Sự Cứu Chuộc của Jesus, Phép
Rửa Tội, các tín điều về Đức Mẹ, v.v… đếu là những chuyện ngụy tạo vì tất cả
đều đã đƣợc suy luận ra từ thần thuyết Tội Tổ Tông.
II.- St. Augustine và học thuyết Tội Tổ Tông.
St. Augustine sinh năm 354 tại Algeria, cha là ngƣời ngoại đạo, mẹ là tín đồ
Kitô Giáo. Khi Augustine lên 16 tuổi đƣợc mẹ dẫn qua Ý và đến thăm thành
phố Milan. Tại đây, Augustine có dịp nghe giám mục Ambrose thuyết giảng về
Thiên Chúa Ba Ngôi, tội Tổ Tông và nhiều điều về bà Maria. Khi trở lại
Algeria, Augustine say mê nghiên cứu Kitô giáo và viết sách liền trong 34 năm,
tạo dựng nên cả một tòa lâu đài đồ sộ về thần học Kitô giáo. Do công trình vĩ
đại về thần học, Augustine đƣợc cử làm giám mục địa phận Hippo ở Algeria. Y
chết năm 430, thọ 76 tuổi. Augustine đƣợc các triết gia Tây Phƣơng coi nhƣ
ngƣời thứ hai sáng lập đạo Kitô sau PhaoLồ và là bậc thầy tƣ tƣởng Tây Phƣơng
thời Trung Cổ.
Chỉ tiếc một điều là Augustine đã xây dựng cả một nền thần học Kitô giáo đồ sộ
trên đống cát, đó là huyền thoại Vƣờn Địa Đàng của Babylon (The Garden of
Eden). Huyền thoại Vƣờn Địa Đàng nguyên là sản phẩm tƣởng tƣợng của dân
Babylon từ 5000 năm trƣớc Công Nguyên. Trong thế kỷ 10 đến thế kỷ 6 TCN,
những ngƣời viết Kinh Thánh Cựu Ƣớc Do Thái đã vay mƣợn chuyện Vƣờn
Địa Đàng để phịa ra chuyện ông Adam và bà Evà tổ tông của loài ngƣời ăn trái
cấm nên đã phạm tội tổ tông di hại cho cả loài ngƣời tới ngày nay !
Căn cứ vào huyền thoại Vƣờn Địa Đàng, Augustine đã xây dựng các học thuyết
thần học hão huyền cho Kitô giáo. Quan trọng hơn hết là học thuyết về Tội Tổ
Tông, vì đây là học thuyết căn bản và tử đó đẻ ra các học thuyết khác của Kitô
Giáo :
Học thuyết Tội Tổ Tông : Augustine giải thích nguồn gốc mọi đau khổ của nhân
loại đều bắt nguồn từ tội lỗi “ăn trái cấm” của tổ tiên loài ngƣời là Adam và
Evà. Tội này đƣợc gọi là “Tội Tổ Tông” hay “Nguyên Tội” vì đây là tội đầu tiên
của loài ngƣời chống lại Thiên Chúa (The Original Sin). Tội Tổ Tông đƣợc di
truyền cho con cháu muôn đời do sự giao cấu tội lỗi của cha mẹ. Dù là sự giao
cấu hợp pháp giữa vợ chồng cũng là điều tội lỗi vì hành động giao cấu đã bị ô
nhiễm do sự thúc đẩy của sự ham muốn nhục dục (The inherited guilt was
passed on to all his descendants through the sexual act which was polluted by
what is called concupiscene).
Dựa vào lý luận này, Augustine viết thêm cuốn “On Female Dress” để nguyền
rủa phụ nữ. Augustine gọi mỗi ngƣời phụ nữ trên thế gian là một Evà, kẻ đồng
lõa với ma qủi và luôn luôn xúi giục đàn ông chống lại Thiên Chúa. Chính vì tội
lỗi xấu xa bắt nguồn từ phụ nữ mà chúa Jesus là con một (the only son) của
Thiên Chúa đã phải chết. Đàn ông là hình ảnh của Thiên Chúa (vì Thiên Chúa
là Đàn ông Toàn Năng – The Male Almighty), còn đàn bà là cửa hỏa ngục (the
devil‟s gate). Chính Augustine là ngƣời đã đem lại cho những ngƣời Công giáo
niềm tin rằng chỉ có Đức Mẹ Maria là ngƣời duy nhất trên thế gian không mắc
tội Tổ Tông. Vì thế Đức Mẹ đƣợc tôn xƣng là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội!
Chỉ có một phụ nữ duy nhất trên thế gian không bị Augustine nhục mạ, đó chính
là đức mẹ Maria. Đức Mẹ trở thành một biệt lệ vĩ đại !
Mọi ngƣời Việt Nam bình thƣờng chúng ta khi nghe nói đền chuyện Adam Evà
trong Vƣờn Địa Đàng đều hiểu rằng đó chỉ là một chuyện thần thoại để kể cho
con nít nghe chơi mà thôi. Còn chúng ta có nghe ai thuyết giảng về “Tội Tổ
Tông” chắc chắn đa số chúng ta chỉ mỉm cƣời nghe qua rồi bỏ. Nhƣng chúng ta
không thể tƣởng tƣợng nổi là cái chuyện hoang đƣờng Adam Evà ăn trái cấm đã
khống chế tâm linh Âu Châu suốt 16 thế kỷ qua do những học thuyết thần học
hoang tƣởng của Augustine!
Học thuyết “Tội Tổ Tông” của Augustine đã trở thành hòn đá tảng vĩ đại của
nền văn hóa Kitô giáo Tây Phƣơng và là nền tảng giáo lý cho tất cả các đạo Kitô
gồm có Công Giáo, Tin Lành, Anh Giáo và Chính Thống Giáo. Các đạo Kitô bề
ngoài có vẻ khác nhau, nhƣng thực sự chỉ khác nhau về tổ chức và về một số
nghi lễ mà thôi. Nội dung chính yếu về giáo lý của Công Giáo, Tin Lành, Anh
Giáo và Chính Thống Giáo đều đồng nhất nhƣ sau :
“Tất cả mọi ngƣời đều sinh ra trong tội lỗi (born in sin) và bị Thiên Chúa ruồng
bỏ vì Tội Tổ Tông. Chỉ vì Tội Tổ Tông mà con ngƣời phải đau khổ và phải chết.
Không một ai có thể tự cứu mình khỏi tội Tổ Tông, chỉ có một con đƣờng cứu
rỗi duy nhất là tin thờ Chúa Jesus là Chúa Cứu Thế mà thôi”.
Chính vì tin vào thuyết Tội Tổ Tông nhƣ trên nên các đạo Kitô đều coi trọng
Phép Rửa Tội (Baptism). Nhiều ngƣời nghĩ rằng Phép Rửa Tội là một hình
thức cải đạo cho những ngƣời tân tòng nhập đạo Kitô hoặc là một “phép bí tích”
để cho một đứa bé sơ sinh nhập đạo Chúa một cách long trọng chính thức. Thực
sự không phải vậy. Chính vì các ngƣời Kitô giáo tin rằng mọi ngƣời sinh ra đều
nhiễm tội Tổ Tông, cho nên các đứa trẻ mới đƣợc sinh ra cũng cần phải đƣợc
rửa tội để nó đƣợc lãnh nhận ơn cứu chuộc của chúa Jesus! Mặc dầu đứa bé sơ
sinh hoàn toàn vô tội về phần nó, nhƣng nó đã bị nhiễm tội Tổ Tông do Adam
và Evà truyền lại qua sự giao cấu tội lỗi của cha mẹ nó. Đó là lý do chính yếu
dẫn đến sự rửa tội cho mọi đứa bé mới sinh theo học thuyết của Augustine (The
inherited guilt was passed on to all his descendants through the sexual act of
their parents).
Nhƣng nếu chúng ta suy nghĩ kỹ sẽ nhận ra một điều mâu thuẫn là khi hai ngƣời
nam và nữ làm đám cƣới tại nhà thờ là đã “thánh hóa” bởi phép “bí tích hôn
phối”. Vậy chẳng lẽ “phép bí tích hôn phối” của Chúa lập ra không có khả năng
“thánh hóa” việc chăn gối của vợ chồng bắt buộc phải có để sinh con hay sao?
Vậy vợ chồng làm phép hôn phối theo đúng luật đạo để làm gì khi hành động
giao cấu giữa vợ chồng rất tự nhiên và hợp pháp ấy vẫn cứ truyền tội Tổ Tông
cho đến muôn đời?
Thật sự ngày nay chẳng còn mấy tín đồ Kitô giáo tin vào tội Tổ Tông, nhƣng
ngƣời ta vẫn cứ mang các đứa bé sơ sinh đến nhà thờ rửa tội theo truyền thống
lâu đời của gia tộc. Giáo hội cũng biết chẳng làm gì có tội tổ tông, nhƣng vẫn cứ
để nguyên cho các linh mục có công việc làm để kiếm ăn và giáo hội vẫn tiếp
tục tồn tại trong bình an vô sự. Chẳng những thế, hầu hết những ngƣời ngoại
đạo muốn lấy vợ hay chồng theo Kitô giáo đều phải cam kết cho phép các con
sẽ sinh ra sau này đƣợc chịu phép rửa tội. Đây chỉ là một mánh lới lƣu manh
của các giới lãnh đạo Kitô giáo dùng để dành dựt tín đồ qua đƣờng hôn nhân mà
thôi. Việc rửa tội cho các đứa bé sơ sinh là một hình thức vi phạm quyền tự do
tín ngƣỡng của đứa bé một cách thô bạo và trắng trợn. Muốn tôn trọng quyền tự
do tín ngƣỡng thật sự, ngƣời lớn phải đợi đến khi đứa bé lớn khôn để tự nó chọn
lựa tín ngƣỡng cho riêng mình.
Cái gọi là “Phép Bí Tích Rửa Tội” (Baptism) hoàn toàn dựa trên thuyết thần học
hoang tƣởng của Augustine về Tội Tổ Tông. Những khám phá của khoa học
hiện đại đã hoàn toàn phủ bác sự hiện hữu của “bà Evà xúi chồng ăn trái cấm”
nhƣ đƣợc kể trong Kinh Thánh Cựu Ƣớc. Do đó chúng ta có thể khẳng định
rằng: Tội Tổ Tông là chuyện hoàn toàn hoang đƣờng và ấu trĩ. Cả loài ngƣời
chúng ta sinh ra hoàn toàn vô tội, do đó chúng ta chẳng cần phải “chịu phép rửa
tội” để tẩy xóa bất cứ một thứ dấu vết tội lỗi nào mà chúng ta không hề có.
Nhân tiện, tôi có vài điều muốn nói với ông Đỗ Mạnh Trí, tác giả cuốn “Ngón
Tay và Mặt Trăng”. Nơi trang 55 và 62, ông Trí viết: “Nhiều bạn nhắc tới ý
niệm tội và tội tổ tông trong Kitô giáo một cách miả mai, thậm chí phẫn nộ”.
Trần Văn Kha trích Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ: “Adam Evà không phải thủy tổ
loài ngƣời vì con ngƣời đại khái đã xuất hiện cách đây khoảng nhiều triệu năm.
- Nếu Adam Evà không phải thủy tổ loài ngƣời thì làm gì có tội tổ tông? - Nếu
không có tội tổ tông thì làm gì có chuyện Chúa phải giáng trần để cứu chuộc?
Vậy Kinh Thánh hoàn toàn huyền hoặc, phi lý và “đạo Thiên Chúa hoàn toàn đã
đƣợc xây dựng trên những ảo tƣởng” nhƣ lời của Nguyễn Văn Thọ trên kia?”
Nơi trang 63-64, ông Đỗ Mạnh Trí xác nhận: “Truyện Adam Evà ăn trái cấm rồi
bị Giavê phạt, chẳng phải là nhà kinh-thánh-học ta cũng có thể tƣởng đó là một
huyền thoại”. Sau khi đã thú nhận chuyện Adam-Evà ăn trái cấm chỉ là một
huyền thoại (myth), ông Trí đã tìm cách lý luận vu vơ và hoàn toàn lạc đề để
cuối cùng tránh né không dám trả lời thẳng hai câu hỏi của ông Nguyễn Văn
Thọ đã nêu.
Vậy ông nêu lên vấn đề tội tổ tông trong sách “Ngón Tay và Mặt Trăng” (từ
trang 55 dến trang 68) để làm gì? Một khi ông đã dám nhìn nhận chuyện Adam
Evà ăn trái cấm là một huyền thoại (myth )tức là một chuyện phịa (a fictious
story) thì với lƣơng tâm tối thiểu của một ngƣời trí thức lƣơng thiện ông cần
phải đi tiếp vài bƣớc: - Nếu chuyện Adam Evà ăn trái cấm là chuyện phịa thì
“tội tổ tông”là chuyện hoang đƣờng không có thật. – Vì không có tội tổ tông,
nên cũng chẳng cần Chúa phải mất công giáng trần để cứu chuộc, vì con ngƣời
chẳng cần phải cứu chuộc để làm sạch cái tội mà họ không hề có. - Vì không
có tội tổ tông nên không riêng một mình bà Maria là “Đấng Vô Nhiễm Nguyên
Tội” mà tất cả mọi ngƣời chúng ta đều là “các dấng vô nhiễm nguyên tội” cả !
Ông Đỗ Mạnh Trí có dám nhìn nhận những sự thật hiển nhiên đó không? Ông
hãy can đảm lên tiếng trả lời để xứng đáng là một ngƣời biết trọng danh dự và lẽ
phải.
III. Từ học thuyết hoang đƣờng về Tội Tổ Tông dẫn đến tín điều “Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội” do Giáo Hoàng Pio IX công bố năm 1854.
Augustine nguyên là một thanh niên phóng đãng trụy lạc nhiều năm trƣớc khi y
trở thành giám mục của địa phận Hippo (Algeria). Do đó, về phƣơng diện sinh
lý, Augustine là một ngƣời bất bình thƣờng. Y có rất nhiều quan niệm lệch lạc
về sinh lý, và những bệnh hoạn sinh lý của y đã có ảnh hƣởng lớn đến khoa thần
học của Kitô giáo (Công giáo, Tin Lành, Anh giáo, Chính Thống giáo).
Căn cứ trên nền tảng giáo lý xuất phát từ huyền thoại về Tội Tổ Tông,
Augustine nêu lên học thuyết “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” (The Virgin of
the Immaculate Conception) qua lăng kính méo mó về sinh lý của y nhƣ sau :
Đức Mẹ không sinh ra Chúa Jesus do sự giao cấu với chồng là ông Joseph nên
Đức Mẹ vẫn còn đồng trinh. Chúa Jesus sinh ra do phép của Chúa Thánh Thần
và Đức Mẹ Đồng Trinh nên Chúa hoàn toàn không bị nhiễm tội tổ tông
(sinless/immaculate conception).
Những lý luận lẩm cẩm về thần học của Augustine đã thống trị linh hồn Kitô
Giáo Âu Châu liên tục trên một ngàn năm ! Mãi đến giữa thế kỷ 16 mới có một
số trí thức Âu Châu dám viết sách báo lên tiếng đả kích những thuyết thần học
của Augustine về một số điểm quan trọng sau đây :
- Trƣớc hết, họ chê Augustine đã thổi phồng quá đáng việc bà Evà xúi
chồng ăn trái táo ở vƣờn địa đàng. Chuyện đó chẳng qua chỉ là chuyện quá nhỏ,
không thể khiến cho con một của Thiên Chúa phải xuống thế làm ngƣời và chịu
chết để cứu chuộc. Nếu chuyện đó là thật thì ngƣời đáng trách không phải là bà
Evà mà là Chúa Cha lẫn Chúa Con đều ngu quá vì đã không tìm ra đƣợc
phƣơng cách nào đơn giản hơn để giải quyết cái vụ ăn trái táo của Adam – Evà !
- Khi có cơ hội thƣ thả tinh thần, đọc lại chuyện Adam-Evà, ngƣời ta mới
khám phá ra rằng: ông bà tổ tiên loài ngƣời không có con gái. Adam-Evà chỉ có
hai ngƣời con trai là Cain và Abel. Abel bị Cain giết chết nên trên thế gian lúc
đó chỉ có hai ngƣời đàn ông là Adam và Cain. Từ đầu đến cuối chuyện chỉ có
một mình Evà là phụ nữ duy nhất trên thế gian mà thôi. Vậy ai là vợ của Cain?
Chẳng lẽ Cain lấy mẹ mình là bà Evà để sinh ra loài ngƣời hay sao? Chuyện
Adam-Evà là tổ tiên loài ngƣời đã đi vào ngõ cụt !
- Cũng theo thần học của Augustine thì sau khi Adam – Evà phạm tội, loài
ngƣời bị Thiên Chúa tƣớc đoạt nhiều ân sủng nên mọi ngƣời đều phải chết, đàn
ông phải làm việc cực nhọc mới có miếng ăn, đàn bà phải mang nặng đẻ đau
mới có con. Nhƣng sau khi Jesus phải chết trên thập giá để “chuộc tội tổ tông”
thì mọi hậu quả của tội tổ tông trên số phận loài ngƣời cũng vẫn còn y nguyên:
con ngƣời vẫn phải chết, đàn ông vẫn phải vất vả mới có ăn, đàn bà vẫn mang
nặng đẻ đau nhƣ lúc Jesus chƣa cứu chuộc. Vậy cái gọi là công ơn cứu chuộc
của Chúa chỉ là chuyện xảo trá bịp bợm và hoàn toàn vô ích (salvation for
nothing).
Phe cấp tiến Âu Châu dùng lý luận của Augustine phá học thuyết “Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội” để đạt mục tiêu cuối cùng của họ là “hạ bệ Jesus”. Họ lý
luận rằng: Nếu Jesus sinh ra thuộc dòng David thì Jesus phải là con của Joseph
và bà Maria, vậy bà Maria không thể đồng trinh và Jesus cũng có 100% tội tổ
tông vì cả Joseph và Maria là cha mẹ ruột của Jesus đã đƣợc sinh ra do sự giao
cấu của cha mẹ họ.
Nếu Jesus là con của Chúa Thánh Thần thì Jesus chỉ đƣợc miễn nhiễm 50% tội
tổ tông mà thôi vì bà Maria đã nhiễm tội tổ tông do sự giao cấu tội lỗi của cha
mẹ là ông Joachim và bà Anna. Vậy Jesus đã bị nhiễm 50% tội tổ tông do bà
Maria truyền qua nên Jesus không thể đƣợc coi là đấng chí thánh, và do đó,
Jesus không thể là Thiên Chúa !
Cuộc bút chiến giữa các phe thần học Âu Châu chung quanh vấn đề “Đức Mẹ
Vô Nhiễm Nguyên Tội” kéo dài tới 30 năm trong thế kỷ 16. Tòa Thánh La Mã
không thể dùng lý luận để dập tắt cuộc bút chiến này nên đã phải vận dụng đến
biện pháp mạnh của các tòa án dị giáo để đƣa nhiều ngàn ngƣời lên dàn hỏa.
Nhờ đó, cơn sóng gió về thần học đã lắng xuống và tòa lâu đài thần học đồ sộ
của Augustine vẫn còn đứng vững thêm vài thế kỷ !
Đúng 300 năm sau, tức vào giữa thế kỷ 19, quyền uy của tòa thánh La Mã đã bị
sút giảm nhiều trƣớc cao trào dân chủ lớn mạnh ở Âu Châu. Các tòa án dị giáo
bị dẹp bỏ. Cuộc bút chiến vể những học thuyết thần học lại có cơ hội bùng lên.
Những vấn đề đƣợc nêu lên chung quanh học thuyết “Đức Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội” có nguy cơ phá sập thanh thế của chúa Jesus và uy tín của giáo hội
Công Giáo La Mã. Vatican lúc đó đã bị dồn vào thế đƣờng cùng nên buộc lòng
Giáo Hoàng Pio IX phải công bố tín điều “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội”
ngày 8-12-1854.
Bằng cách xử dụng quyền uy tối thƣợng của ngƣời đại diện Chúa Kitô (Vicar of
Christ), giáo hoàng buộc toàn thể giáo hội Công Giáo tin rằng: Đức Mẹ là một
ngoại lệ đặc biệt do quyền phép của Thiên Chúa ban cho là “không hề mắc tội
tổ tông”. Do đó, Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Jesus hoàn toàn vô tội (sinless) nên
Chúa là đấng chí thánh và cực thanh cực sạch vô cùng !
IV – “Phép lạ Lộ Đức” là màn kịch bịp bợm của Vatican và chính quyền hoàng
gia Pháp năm 1858:
Tác phẩm “The Great Apparitions of Mary” của Ingo Swann (The Crossroad
Publishing Co., NY 1996) kể chuyện Phép Lạ Lộ-Đức ở Pháp năm 1958 (trang
69-84) nhƣ sau :
Lourdes (Lộ Đức) là một thị trấn nhỏ trên sƣờn núi phía bắc của dẫy Pyrénées.
Vào giữa thế kỷ 19 thì thị trấn này chỉ có khoảng 300 dân, hầu hết đều nghèo
khổ vì thị trấn này không có một nguồn lợi kinh tế nào cả. Các thị trấn lân cận
đều khá vì có nhiều suối nƣớc nóng thu hút du khách và kiếm lời do việc khai
thác kỹ nghệ nƣớc suối có muối kháng (mineral waters). Tại Lộ Đức có một
vách đá dốc đứng cao nhƣ ngọn tháp (a towering rock cliff) có tên là
Massabielle, trong vách đá có một cái hang lớn (a grotto). Chính nơi đây đã
đƣợc Vatican tuyển chọn để diễn màn kịch bịp bợm.
Nhân vật chính của màn kịch này là cô bé Bernadette. Cô sinh năm 1844, là con
gái đầu của 8 anh chị em. Cha mẹ là ông Fracois và bà Louise Soubirous. Khi
cô bé Bernadette lên 8 tuổi thì cha bị tai nạn mù mắt trái và bị thất nghiệp. Cả
gia đình lâm vào cảnh sống cùng quẫn. Khi cô bé lên 11 tuổi thì cô bị bệnh thổ
tả và bệnh suyễn trầm trọng. Cha cô bị bắt về tội trộm. Em trai cô tên Jean
Marie đói quá nên chạy đến nhà thờ ăn cắp cây đèn cầy bằng sáp để ăn, chẳng
may bị cha xứ bắt gặp và bị cha hăm bỏ tù. Vào đầu tháng 2 năm 1858, lúc gia
đình cô sắp chết đói thì mẹ cô đƣợc một bà nhà giàu mƣớn làm đầy tớ (a
servant). Do sự xếp đặt của bà chủ nhà giầu này, với sự đồng ý của cha mẹ, cô
bé đƣợc chỉ dẫn đến hang đá Massabielle. Lúc này cô bé lên 14 tuổi, nhƣng mù
chữ vì chƣa đƣợc đi học ngày nào.
Ngày 11 tháng 2 năm 1858, cô Bernadette cùng với một đứa em gái và một đứa
bạn tên Jeanne Abadie đến hang đá Massabielle. Một mình cô đến qùi trƣớc cửa
hang một lúc rồi cô nói cho em gái và đứa bạn biết là cô đã nhìn thấy “một cô
gái đẹp trong ánh sáng mờ” (a beautiful girl appeared in the soft glow).
Sau khi trở về nhà, em của Bernadette kể chuyện cho mẹ, còn cô bạn Jeanne
Abadie đi khắp thị trấn loan tin Bernadette đã nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra tại
hang Massabielle. Chỉ hai tuần sau, cả thị trấn Lourdes qui tụ một đám đông tín
đồ Công Giáo lên tới 8,000 ngƣời và họ rủ Bernadette cùng đi với họ đến hang
đá Massabielle. Khi tới nơi, chỉ có một mình Bernadette nói là có nhìn thấy
“một cô gái đẹp” còn tất cả mọi ngƣời khác đều không thấy gì cả ! Mặc dầu
vậy, tin đồn về chuyện Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức đã lan nhanh khắp nơi nhƣ
một đám cháy rừng.
Ngày 25 tháng 3 năm 1858, vào lúc 5 giờ sáng, cha mẹ Bernadette đánh thức
con gái dậy để cùng đi với một đám đông tín đồ đến hang đá Massabielle. Sau
khi qùi một mình trƣớc hang đá một lúc, cô bé Bernadette dõng dạc tuyên bố
với mọi ngƣời : Cô bé đã hỏi “cô gái đẹp” là ai, thì cô gái đẹp đó trả lời: “Ta là
Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” (I am the Immaculate Conception). Kể từ đó,
hàng ngày có nhiều tín đồ Công Giáo đến hang đá Massbielle để lần chuỗi Mân
Côi. Sau đó, có khoảng 50 ngƣời tự nhận là có nhìn thấy “Đức Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội” ở trong hang, nhƣng không một ai đƣa ra bằng chứng nào cả !
Vì lý do những sinh hoạt bất thƣờng của đám đông giáo dân ở Lourdes có thể
gây nhiều chuyện bất an ninh, nên cảnh sát địa phƣơng đã làm hàng rào cản
không cho giáo dân kéo đến Massabielle mỗi ngày mỗi đông. Sự việc này đƣợc
báo cáo lên hoàng đế Napoléon III. Nhà vua đã đích thân ra lệnh cho cảnh sát ở
Lourdes phải rỡ bỏ tất cả các rào cản đó để cho các tín đồ đƣợc tự do đến viếng
hang đá Massabielle.
Năm 1862, giám mục Laurance cai quản địa phận Tabres chính thức công bố
thƣ luân lƣu xác nhận “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” là Mẹ Chúa Trời đã
thực sự hiện ra với Bernadette Soubirous ngày 11 tháng 2 năm 1858 và những
lần kế tiếp, tổng cộng 18 lần cả thảy. Tòa Giám Mục cho phép sự tôn thờ “Đức
Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” tại hang đá Lộ Đức trong địa phận (The Virgin
Mary Immaculate, Mother of God, really appeared to Bernadette Soubirous on
11 February 1858 and on subsequent days, eighteen times in all. We authorize
the cult of our Lady of the Grotto of Lourdes in our diocese). Từ 1858, mọi
phƣơng tiện truyền thông của nƣớc Pháp đƣợc vận dụng tối đa để quảng bá
khắp nơi về “phép lạ” Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức. Song song với mọi nỗ lực
tuyên truyền và quảng cáo, cựu bộ trƣởng tài chánh Pháp là Achille Toul vận
động với hãng xe lửa Southern Railway Company làm đƣờng xe lửa nối liền
thành phố Tarbes với Lourdes. Các công ty xây dựng đổ xô đến Lourdes xây
cất rất nhiều khách sạn, nhà hàng và các phƣơng tiện du lịch.
Năm 1906, hang đá Lộ Đức và nhà thờ lớn tại đây thuộc về tài sản quốc gia
Pháp. Nhƣng từ 1910, quyền sở hữu này lại đƣợc chuyển về cho thị trấn
Lourdes. Kể từ năm 1990, thị trấn Lourdes tuy nhỏ nhƣng có tới 400 khách sạn,
hàng trăm restaurants, hàng ngàn gift shops và một phi trƣờng quốc tế. Hàng
năm, số khách hành hƣơng từ khắp nơi trên thế giới kéo về hang đá Lộ Đức đã
cung cấp cho số dân ở thị trấn nhỏ bé này một khoản tiền là 400 triệu đôla!
(Looking for a Miracle, by Joe Nickell, Prometheus Book 1993 – page 152). Lộ
Đức (Lourdes) đã trở thành một “con gà đẻ trứng vàng” của nền kinh tế Pháp.
Những tín đồ cuồng tín luôn luôn tung tin đồn rằng Đức Mẹ Lộ Đức đã chữa
cho nhiều ngƣời khỏi bệnh khi họ đến nơi đây cầu khấn với Đức Mẹ. Tuy nhiên,
họ đều không biết rằng: nhân vật chính của “phép lạ Lộ Đức” là cô bé
Bernadette đã chết lúc 32 tuổi (16-4-1879) vì bệnh suyễn, bệnh sƣng phổi và lao
xƣơng. Nếu Đức Mẹ có quyền năng làm phép lạ chữa bệnh cho nhiều ngƣời, tại
sao Đức Mẹ không chữa bệnh cho ngƣời có công nhất với Đức Mẹ trong việc
tuyên xƣng Ngƣời là “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” ? Một điều mỉa mai ai
cũng thấy là ở Lộ Đức ngƣời ta treo đầy những chiếc nạng của những ngƣời què
(giả vờ), nhƣng tuyệt nhiên chƣa từng có một ngƣời cụt tay, cụt chân nào đƣợc
Đức Mẹ chữa lành cả !
Sau khi giáo hoàng Pio IX công bố tín điều “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội”
năm 1854, Vatican đã cấu kết với hoàng gia Pháp dựng lên màn kịch “Phép lạ
Lộ Đức” với tin đồn Đức Mẹ đã đích thân hiện ra và tự xƣng mình là “Đức
Trinh Nữ vô nhiễm nguyên tội”. Trò bịp này đã củng cố niềm tin của đại đa số
tín đồ dân quê chất phác thời đó tại Âu Châu. Tuy nhiên, giới báo chí đã lớn
tiếng tố cáo trƣớc dƣ luận : Trong vụ “Phép lạ Lộ Đức”, Vatican đã giúp Pháp
có thêm một trung tâm hành hƣơng với số lợi thu hàng năm không phải là nhỏ.
Ngƣợc lại, Pháp giúp cho Vatican có cơ hội củng cố niềm tin của tín đồ Công
giáo đối với uy quyền của Tòa Thánh. Đây chẳng qua là chuyện cộng tác thực
hiện một âm mƣu nhằm phục vụ quyền lợi của cả hai bên mà thôi. Dƣ luận báo
chí đã khiến cho tinh thần của nhiều giáo dân chao đảo và đƣa họ đến chỗ nghi
ngờ về thẩm quyền của giáo hoàng trong việc công bố các tín điều. Họ lập luận
rằng : dù cho ở chức vụ đứng đầu giáo hội, giáo hoàng cũng vẫn chỉ là một con
ngƣời, nghĩa là vẫn có thể có những sai lầm trong quyết định của mình. Vậy
giáo hoàng không thể có quyền độc đoán buộc mọi tín đồ phải tin theo những
quyết định riêng của giáo hoàng, dù cho quyết định riêng đó là một tín điều
(dogma).
Trƣớc áp lực của báo chí và dƣ luận bất lợi của giáo dân Âu Châu, giáo hoàng
Pio IX đã phải triệu tập Công Đồng Vatican I vào năm 1869. Để cứu vãn sự
sinh tồn của Tòa Thánh, phần đông các hồng y và giám mục tham dự Công
Đồng I đã bỏ phiếu tán thành một tín điều mới, đó là tín điều “Giáo Hoàng
không thể sai lầm” (The dogma of Papal Infallibility) buộc mọi tín đồ Công
giáo phải tin tƣởng vào huấn quyền tuyệt đối của Tòa Thánh và phải tin Giáo
Hoàng là ngƣời duy nhất trên thế gian có thẩm quyền xác nhận hay phủ nhận
chân lý. Ngƣời Mỹ chế diễu đức tin Công Giáo theo kiểu này là “Đức tin
Shotgun” (Shotgun faith)!.
Sau khi Công Đồng Vatican I bế mạc, Tòa Thánh ra lệnh cho các giáo hội Công
Giáo trên khắp thế giới phải xây thêm tại khuôn viên nhà thờ một “hang đá Lộ
Đức” để nhắc nhở toàn thể giáo dân về hai tín điều là “Đức Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội” và “Giáo Hoàng không thể sai lầm”. Đó là tất cả ý nghĩa của cái
gọi là “hang đá Lộ Đức” ! Nhƣ chúng ta đã biết, tín điều “Đức Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội” là một học thuyết của Augustine dựa trên huyền thoại bà Evà xúi
chồng ăn trái cấm trong vƣờn Địa Đàng. Đây là một chuyện hoàn toàn hoang
đƣờng về tội Tổ Tông đã bị các ngành khoa học hiện đại bác bỏ. Vậy, tín điều
“Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” đã trở thành vô nghĩa vì nguyên tội (tức tội tổ
tong) không hề có, nên chẳng có một ai bị nhiễm cả, không riêng gì một mình
bà Maria. Ngày nay, tín điều “Giáo Hoàng không thể sai lầm” thực sự chẳng
thuyết phục đƣợc ai, nó chỉ càng làm cho mọi ngƣời thấy rõ hơn cái bản chất
ngoan cố bất lƣơng của Vatican mà thôi.
V.- Tinh thần nô lệ đáng xấu hổ của Công Giáo Việt Nam :
Bất cứ ai đã từng sống trên đất Mỹ cũng nhận thấy một sự khác biệt rất rõ rệt
giữa Công Giáo Mỹ và Công Giáo Việt Nam là : không một giáo xứ Công Giáo
Mỹ nào xây hang đá Lộ Đức trong khuôn viên nhà thờ thuộc giáo xứ họ. Trái
lại, tại Việt Nam, các giáo xứ từ Bắc vào Nam đều xây bên cạnh nhà thờ một
hang đá gọi là “hang đá Lộ Đức” ! Điều đó đủ cho thấy giáo hội Công giáo
Việt Nam đã thi hành triệt để mọi mệnh lệnh của Vatican một cách hết sức mù
quáng. Đối với Vatican, hàng giáo phẩm VN luôn luôn có thái độ khúm núm sợ
sệt chẳng khác nào những tên nô lệ đối với chủ của chúng vậy. Mặc dầu cũng là
những tín đồ Công giáo, nhƣng Công giáo Mỹ tỏ ra độc lập và tự trọng đối với
Vatican, chứ không đến nỗi lệ thuộc quá đáng nhƣ Công giáo VN. Sự khác biệt
này đã đƣợc trình bày khá rõ rệt trong tác phẩm “How to Save the Catholic
Church” của linh mục tiến sĩ Andrew Greenley và nữ tu sĩ tiến sĩ Mary Dukin,
Viking Penguin xuất bản tại Canada 1984.
Hai tác giả đều là tu sĩ Công giáo viết : Trình độ trí thức của giáo dân Mỹ da
trắng càng cao bao nhiêu thì giáo hội Công giáo Mỹ càng xuống dốc bấy nhiêu.
Từ thập niên 1960, một nửa giáo hội Mỹ là di dân vừa nghèo vừa dốt (By
1960‟s, half of the American Catholics were poor and uneducated immigrants –
page 11). Những cái gì xấu xa do ngƣời Mỹ trắng thải ra đều đƣợc chuyển qua
đám di dân Công giáo da màu. Điển hình là vụ hang đá “Đức Mẹ Sầu Bi” ở
Portland thuộc tiểu bang Oregon. Hang đá này đã bị Công giáo Mỹ phế bỏ
thành một cái hang “khỉ ho cò gáy” từ nhiều thập niên qua. Vậy mà đám giáo
dân Công giáo Việt Nam qua Mỹ sau 1975 đã khôi phục nó thành một trung tâm
hành hƣơng sầm uất thu hút hàng chục ngàn ngƣời (toàn là Việt!). Đó là việc
mà hàng giáo phẩm Mỹ đã không làm nổi. Nhƣng đám tu sĩ Công giáo Việt
Nam đã làm đƣợc, không phải vì tu sĩ Công giáo Việt Nam tài giỏi mà vì số
giáo dân Việt Nam mê muội tại hải ngoại còn đông quá !
Hai tác giả tu sĩ Mỹ còn cho biết : Hầu hết các mệnh lệnh của Vatican đều đƣợc
hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ duyệt xét lại và sửa đổi trƣớc khi phổ biến đến
toàn thể giáo dân. Trong thực tế, giáo hội Công giáo Mỹ là một giáo hội tự trị
(American Catholic Church became a Do-It-Yourself Catholicism – page 8).
Nay xin điểm qua tình hình Công giáo Á Châu, tờ Asia Week số ra ngày 19-12-
1997 tƣờng thuật nhƣ sau :
Sri-Lanka (Tích Lan) là một đảo quốc có 15 triệu dân, đại đa số theo đạo Phật,
8% (tức 1.2 triệu) theo đạo Công giáo. Linh mục Tissa Balasuriya (tốt nghiệp
thần học và thụ phong linh mục tại Rome trong thập niên 1940) thuộc giáo hội
Công giáo Sri-Lanka đã viết sách bằng Anh ngữ tựa đề “Mary and Human
Liberation” chống lại Tòa Thánh vào thập niên 1990. Sách này đƣợc dịch sang
tiếng Pháp để phổ biến tại Âu Châu dƣới tựa đề “Marie ou la libération
humaine”. Linh mục Tissa đƣa ra quan điểm của ông về “Đức Mẹ thật” là một
phụ nữ thất học và nghèo khổ tại Do Thái. Đức Mẹ không thể đồng trinh vì có
nhiều con và điều này đã đƣợc xác nhận trong Tân Ƣớc. Tội tổ tông là một
huyền thoại, nên các tín điều “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” là vô nghĩa. Tất
cả các tín điều về Đức Mẹ đều là những sản phẩm của môn thần học kỳ quặc,
không phù hợp với não trạng của ngƣời Á Châu. Muốn giải phóng tƣ tƣởng
ngƣời Công giáo thì cần phải bỏ các tín điều đó và bỏ luôn tín điều “Giáo hoàng
không thể sai lầm”.
Cuốn sách “thần học cách mạng” của linh mục Tissa đã bị Hồng Y Ratzinger,
bộ trƣởng Bộ Giáo Lý của Vatican, hạch tội tỷ mỉ trong một bản phúc trình 55
trang đệ trình giáo hoàng John Paul II ngày 2-1-1997. Giáo hoàng đã đích thân
tuyên phạt linh mục Tissa án phạt tuyệt thông và trục xuất ông ra khỏi giáo hội.
Lý do đƣợc nêu lên là linh mục Tissa đã dám chống lại huấn quyền tuyệt đối
của Tòa Thánh.
Trong tháng 10 – 1997, Bộ Giáo Lý Vatican cũng ra lệnh cho hội đồng Giám
Mục Hàn Quốc cấm các linh mục thần học Kong Soel, Yangmo và Re Jemin
không đƣợc viết sách báo chống Tòa Thánh. Hội đồng Giám Mục Nhật Bản lên
tiếng chỉ trích Tòa Thánh là “chẳng hiều gì về văn hóa Á Châu” cả!
Các bản tin ngắn nói trên đủ cho ta thấy nhiều giáo hội Công giáo Á Châu
không đến nỗi hèn vì họ vẫn có thái độ khảng khái nói lên quan điểm của họ
chống đối Vatican.
Là một ngƣời Việt Nam, chúng ta phải đau lòng công nhận một sự thật không
thể chối cãi là Công Giáo Việt Nam có một tâm cảm nô lệ hết sức mù quáng đối
với Tòa Thánh La Mã. Thậm chí có ngƣời đã mỉa mai nói rằng: “Dù cho Tòa
Thánh đánh rắm, Công Giáo Việt Nam cũng khen thơm”. Thật qủa đúng vậy.
Cái tín điều nhảm nhí “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” chỉ là một cái rắm thối
của giáo hoàng Pio IX năm 1854 đã đƣợc cả giáo hội Công Giáo Việt Nam vừa
hít vừa rối rít khen thơm. Trƣớc 1954, cái danh hiệu “Đức Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội” đã đƣợc địa phận Bùi Chu tôn vinh làm Thánh Bổn Mạng của địa
phận. Mới đây, vào đầu năm 2003, giáo xứ Đức Mẹ Lộ Đức là một giáo xứ lớn
của Việt kiều tại thành phố Houston đã xây một “Hang Đá Lộ Đức” tại khuôn
viên nhà thờ của giáo xứ với tổn phí 800,000 đôla !
Ngày nay, ngƣời Công giáo Việt Nam có đầu óc chẳng còn mấy ai tin vào
chuyện Adam-Evà ăn trái cấm và do đó họ cũng nghi ngờ phần nào về cái tín
điều “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” và tín điều “Giáo Hoàng không thể sai
lầm”. Nhƣng vì truyền thống lâu đời của gia tộc họ vẫn tiếp tục duy trì thói quen
là cầu nguyện trƣớc hang đá Lộ Đức sau khi xem lễ xong tại nhà thờ. Họ thích
đứng trƣớc Hang Đá Lộ Đức để cầu nguyện riêng với Đức Mẹ mà họ yêu mến
hơn yêu Chúa. Đối với họ, Thiên Chúa cao xa qúa nên rất khó gần gũi thân mật.
Chỉ có Đức Mẹ là Mẹ dịu hiền và Mẹ có đầy quyền uy trƣớc mặt Chúa. Đức Mẹ
xin Chúa điều gì cũng đƣợc, nên họ thích cầu nguyện với Đức Mẹ để xin Mẹ
ban cho họ mọi thứ mà họ muốn. Niềm tin đó còn khi ngƣời Công giáo VN
chƣa tỉnh ngộ thì các Hang Đá Lộ Đức vẫn tồn tại.
Nhƣng thực tế hiển nhiên đã chứng tỏ rằng: màn kịch “hang đá Lộ Đức” là biểu
tƣợng cho hai tín điều bịp bợm: “Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội” và “Giáo
Hoàng Không Thể Sai Lầm” do Pio IX và Napoléon III âm mƣu dựng lên để lừa
gạt đồng bào Công giáo Việt Nam đã trên một thế kỷ qua. Nay đã đến lúc đồng
bào Công giáo Việt Nam nên bình tĩnh dùng lý trí xét lại những giáo điều mà
Vatican đã áp đặt lên giáo hội Công giáo Việt Nam. Các hang đá Lộ Đức thật sự
chỉ là một hình thức của nhiều công cụ tâm lý nhằm đầu độc và nô lệ hóa các
tín đồ nhẹ dạ dễ tin. Xin đồng bào Công giáo Việt Nam đừng để những trò lừa
bịp đó giam hãm qúy vị trong ngục tù tƣ tƣỏng của chính mình và đừng để hành
động mù quáng tuân phục Vatican làm tổn hại đến quyền lợi của dân tộc.
Charlie Nguyễn
Tháng 7-2003
Trở Lại Vấn Đề: Alexandre de Rhôdes và Chữ Quốc Ngữ
(Riêng tặng tập thể Thánh Gia Ninh Cƣờng - Bùi Chu)
Charlie Nguyễn
Mấy điều sơ lƣợc về lịch sử chữ viết và nguồn gốc chữ quốc ngữ
Các nhà nhân chủng học cho biết loài ngƣời đứng thẳng (homo erectus) đã có
mặt trên trái đất từ 2 triệu năm trƣớc. Loài ngƣời khôn ngoan (homo sapiens)
mới xuất hiện 160 ngàn năm và tiến hóa thành loài ngƣời chúng ta hiện đại.
Chắc chắn là loài ngƣời khôn ngoan (homo sapiens) đã biết dùng tiếng nói để
thông tin với nhau từ nhiều chục ngàn năm trƣớc, nhƣng chữ viết của loài ngƣời
thì chỉ mới đƣợc phát minh cách đây hơn 5000 năm mà thôi.
Theo các nhà khảo cổ thì chữ viết đầu tiên của loài ngƣời là chữ viết của dân tộc
Sumer ở Babylon (phía nam Iraq ngày nay) đƣợc phát minh năm 3150 TCN ,
tức cách đây 5153 năm. Thoạt đầu, ngƣời Sumerians phát minh ra loại chữ
tƣợng hình (pictographic / giống nhƣ chữ Hán) nhƣng họ chỉ dùng loại chữ này
một thời gian ngắn rồi bỏ đi vì loại chữ này bất tiện, khó nhớ, học chữ nào biết
chữ đó nên mất rất nhiều thời gian học đọc và học viết. Họ sáng chế ra 18 ký
hiệu thay cho 18 âm căn bản, rồi dùng các ký hiệu đó để ghi âm cho mọi tiếng
khác. Các ký hiệu này trông giống nhƣ nêm cối (cunei) nên họ gọi loại chữ này
là cuneiform (chữ viết hình nêm cối). Sự xuất hiện loại chữ Cuneiform năm
3150 TCN trở thành một dấu mốc quan trọng của lịch sử nhân loại, bởi vì tất cả
những gì xảy ra trƣớc năm 3150 TCN đều đƣợc gọi là thời tiền sử (prehistoric).
Những ngƣời viết sử Sumerians là những ngƣời viết sử đầu tiên trên thế giới.
Các tu sĩ Sumerians thu thập các chuyện thần thoại dân gian, viết thành sách,
trong đó có các chuyện về Vƣờn Địa Đàng Gan-Eden (Archeology in the Land
of the Bible – Abraham Negrey Shoken Books, NY 1977). .Trong nhiều thế kỷ
trƣớc Công nguyên, chữ Cuneiform và ngôn ngữ Sumerian trở thành ngôn ngữ
giao dịch trong toàn vùng Trung Đông và Cận Đông, nền văn hóa của dân tộc
Sumer đƣợc nhiều dân tộc quanh vùng theo Điển hình là đạo thờ bò El
(Elohim) của Abraham (sinh trƣởng tại UR thuộc Babylon) trở nên một tôn giáo
phổ biến ở Do Thái và các nƣớc Ả Rập. Câu chuyện thần thoại Vƣờn Địa Đàng
của ngƣời Sumer trở thành rƣờng cột của đạo Kitô và từ đó phát sinh ra lý
thuyết về Tội Tổ Tông, về ơn cứu chuộc của chúa Kitô, về tín điều Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội, vân vân và vân vân…Chuyện thần thoại Tamuz của
Babylon là cha đẻ ra ý niệm về Chúa Cứu Thế của đạo Kitô (Babylon Mystery
Religion – Ancient and Modern – Ralph Woodrow Evangelistic Association –
Riverside, CA). Sự phát minh ra chữ viết là một biến cố vô cùng quan trọng
trong lịch sử văn hóa nhân loại. Chữ viết là phƣơng tiện chuyển tải phổ biến tƣ
tƣờng tới mọi ngƣời và lƣu truyền tƣ tƣởng qua nhiều ngàn năm. Nếu không có
chữ viết, loài ngƣời sẽ không có lịch sử, không có văn hóa, không có triết học,
khoa học, không có tiến bộ và thế giới ngày nay hoàn toàn khác ! Hơn 14 thế
kỷ sau, đến đời nhà Thang (1700 TCN), ngƣời Trung Hoa phát minh ra chữ viết
tƣợng hình, hình tròn, sau đó đƣợc đổi sang hình vuông và đƣợc hoàn chỉnh
(thành chữ viết thông dụng ngày nay) trong thời nhà Hán (206 TCN – 220 sau
CN), do đó đƣợc gọi là chữ Hán (Hán tự)
Năm 1600 TCN, ngƣời Hy Lạp phát minh ra một hệ thống ký hiệu ghi âm (a
phonetic system of writing). Một thế kỳ sau, vào năm 1500 TCN, ngƣời Latinh
(tức ngƣời La Mả cổ) mô phỏng ký hiệu ghi âm của Hy Lạp để sáng chế ra mẫu
tự A,B,C,D,… (ta gọi là mẫu tự la tinh).
Những ngƣời đầu tiên có ý nghĩ la-tinh-hóa ngôn ngữ Á châu (gồm có tiếng
Nhật, tiếng Tàu và tiếng Việt) là các tu sỉ dòng Tên (Jesuists) Bồ Đào Nha
giảng đạo tại Á châu trong thề kỷ 17. Đây là một sự thật lịch sử hiển nhiên mà
hầu nhƣ các nhà nghiên cứu văn hóa và giáo hội Công giáo Việt Nam, cũng nhƣ
các giới chức thực dân Pháp (trƣớc 1945) đã vô tình hay cố ý bỏ quên để chỉ đề
cao một mình Alexandre de Rhôde nhƣ vị thánh tổ duy nhất đã sáng tạo ra chữ
quốc ngữ.
Ngày nay, nếu chúng ta chịu khó sƣu tầm các tài liệu còn lƣu trữ tại văn khố
Dòng Tên tại La Mã, Madrid, Lisbone (“Nguồn Gốc Chữ Quốc Ngữ” – trang 21
của Huỳnh Ái Tông – so sánh các bản lƣu trữ mới thấy Alexandre de Rhôde
chƣa định chuẩn đƣợc cách phiên âm tiếng Việt. Các tài liệu khác của các bậc
thầy Bồ Đào Nha của Alexandre de Rhôde nhƣ Christoforo Baris, Jao Ruiz,
Gaspa Louis, Antonio de Fontes, Gasparo d‟Amiral mới thấy phiên âm tiếng
Việt của họ đã định chuẩn nhƣ chúng ta viết ngày nay – www.saomai.org).
Nhƣ vậy, việc tôn vinh Alexandre de Rhôde lên tận mây xanh hoàn toàn là một
chuyện thần thoại hoang đƣờng. Chữ quốc ngữ Việt Nam cũng không phải là
chữ duy nhất “la tinh hóa” tại Á Châu ngày nay. Chữ Mã Lai và Indonesia
(Nam Dƣơng) cũng đƣợc La Tinh hóa trong thời kỳ thuộc địa. Tiếng Tagalog là
một trong 168 ngôn ngữ của ngƣời Phi Luật Tân đã đƣợc la-tinh-hóa. Điều
đáng chú ý là các chữ quốc ngữ la-tinh-hóa của Mã Lai, Nam Dƣơng và
Tagalog đều không có dấu rắc rối nhƣ chữ quốc ngữ của ta.
Vấn đề chữ quốc ngữ Việt Nam, các nhà văn hóa Việt Nam thực sự chƣa thống
nhất quan điểm xác nhận ai là tác giả đã phát minh ra nó. Ngoài ra còn một vấn
đề khác không kém quan trọng, đó là: chữ quốc ngữ là một món quà tặng của
ngoại nhân cho dân tộc Việt Nam hay chỉ là một chiến lợi phẩm do ta tịch thu
của địch ?
Tôi đã viết bài bày tỏ ý kiến của tôi về những vấn đề trên dƣới tựa đề “Dòng
Tên, thánh Phanxico Xavier, cố đạo Đắc Lộ và chữ Quốc Ngữ”, tức chƣơng 2,
phần III trong cuốn “Công Giáo - Huyền Thoại và Tội Ác” của Charlie Nguyễn
– Giao Điểm xuất bản Hè 2001 (trang 297-320). Phần cuối của bài viết này (từ
đoạn viết về Phanxico Xavier) đã đƣợc đăng trong cuốn “Alexandre de Rhôde,
ngƣời đầu tiên vận động Pháp chiếm Việt Nam và chữ Quốc Ngữ” gồm 9 tác
giả - Giao Điểm xuất bản năm 1998 (trang 160-166).
Tôi thiết nghĩ những điều trình bày trong các bài viết trên đã biểu lộ trọn vẹn
quan điểm của tôi về chữ quốc ngữ, nên tôi tự thấy không còn điều gì để nói
thêm về vấn đề này nữa. Tuy nhiên, gần đây có hai sự việc vừa mới xuất hiện
trong giới gọi là “trí thức” Việt Nam làm tôi phải buộc lòng trở lại với vấn đề
“Alexandre de Rhôde và chữ Quốc Ngữ”:
I.- Vấn đề thứ Nhất : Phải chăng các giáo sĩ thừa sai và các học sĩ Tống Nho là
những ngƣời có công lớn với văn hóa Việt Nam ?
Houston, thành thố lớn thứ tƣ tại Hoa Kỳ, với trên 100 ngàn ngƣời Việt định cƣ,
ngày 15 tháng 6 năm 2003 vừa qua, tại nhà hàng Ocean Palace, một tổ chức
mệnh danh là “Trung Tâm Văn Hóa Việt Nam – Houston” long trọng tổ chức
buổi lễ “VINH QUI” theo nghi lễ cổ truyền Việt Nam, để vinh danh 58 sinh
viên nam nữ Việt Nam cƣ ngụ tại Houston đã tốt nghiệp trong năm 2003 tại các
trƣờng đại học Mỹ ( gồm đủ các phân khoa các ngành và thuộc các trƣờng đại
học ở khắp các tiểu bang Hoa Kỳ).
Điểm danh 58 tân khoa có hình in trên từng trang của tập kỷ yếu “VINH QUI –
Vietnamese Traditional Ceremony Honoring Graduates 2003” (dày 114 trang
khổ lớn, in trên giấy láng đẹp ngày 15-6-2003), tôi nhận thấy phần lớn là những
thanh niên nam nữ trẻ tuổi, nét mặt khôi ngô rạng rỡ tƣơi vui với tinh thần lạc
quan hƣớng về tƣơng lai. Phần lớn họ đã tốt nghiệp thành bác sĩ y khoa, tiến sĩ
dƣợc khoa, kỹ sƣ các ngành, tiến sĩ âm nhạc. tiến sĩ sinh vật học, tiến sĩ sử
học,… Nhiều ngƣời khác đậu bằng BBS, BBA về quản trị tài chánh, ngân hàng,
v.v…
Nói chung, họ là những ngƣời đáng đƣợc cộng đồng chúng ta vinh danh. Tuy
nhiên, trong số họ có một tên bất xứng lộn sòng không đáng vinh danh chút nào,
đó là tên linh mục Đỗ Văn Lực, tốt nghiệp tiến sĩ thần học (PhD of Theology –
2003 - tại trƣờng Houston Graduate School of Theology).
Tên Đỗ Văn Lực hiện đang hành nghề linh mục tại giáo xứ Đức Mẹ La Vang tại
Houston. Thần học Công Giáo một môn học đáng khinh bỉ dựa trên một thần
thuyết loạn luân cực kỳ ngu xuẩn, phản khoa học. Vậy việc vinh danh tên linh
mục “tiến sĩ thần học” Đỗ Văn Lực thuộc giáo xứ La Vang trong lễ Vinh Qui
ngày 15-6-2003 vừa qua của TTVHVN-Houston phải đƣợc coi là một sự lầm
lẫn đáng tiếc. Đó là một vết đen văn hóa của cái tổ chức tự xƣng là TTVHVN-
Houston, nhƣng thật sự nó đang nhằm phá hoại văn hóa Việt Nam.
Hành vi phá hoại văn hóa Việt Nam thứ hai là thuyết trình viên của TTVHVN-
Houston đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong buổi lễ là: “Các giáo sĩ thừa sai và
các học sĩ Nho học là những ngƣời có công với văn hóa Việt Nam !!!”
A.- Các giáo sĩ thừa sai là ai ? TTVHVN-Houston hết lời ca ngợi những giáo sĩ
thừa sai dã sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Thật sự qúi vị đã nghiên cứu về chữ quốc
ngữ rất phiến diện. Qúi vị đã không suy xét rốt ráo về tội ác của bọn giáo sĩ thừa
sai là phá hủy văn hóa cổ truyền Việt Nam để thay bằng văn hóa Công giáo độc
tôn. Linh mục Trần Thái Đỉnh đã đƣa ra một nhận định rất sáng suốt nhƣ sau:
“Tiêu diệt các tôn giáo khác để tôn giáo mình độc trị, tiêu diệt văn hóa bản địa
cho văn hóa Công giáo độc diễn, tiêu diệt sinh lực của các dân tộc chậm tiến để
các thế lực đế quốc thực dân xâm lăng. Đó là truyền thống của Vatican” (Xin
đọc “Cái nhìn về Phật Giáo trong Phép Giảng Tám Ngày” – Kitô giáo từ thực
chất đến huyền thoại - nhiều tác giả, nxb Văn Hóa – USA 1996)
Nghiên cứu lịch sử thế giới, học giả Mac Kher đã viết : “Sự tiến tới của Kitô
giáo tại Âu Châu, Mỹ Châu, Öc Châu và phần lớn Phi Châu luôn luôn dẫn tới sự
tiêu diệt hoàn toàn các tôn giáo đa thần và các nền văn hóa tiền-kitô” (The
advent of Christianity in Europe, America, Australia and large parts of Africa
always led to the elimination of the pre-Christian polytheistic religions and
cultures)
Bọn truyền giáo Tây Ba Nha là thủ phạm tiêu diệt các nền văn hóa Aztec, Inca
của ngƣời Da Đỏ tại Mỹ Châu trong thế kỷ 16 và 17.
Tội ác lớn nhất về văn hóa của giáo hội Công giáo La Mã là đã hủy diệt toàn bộ
các sách khoa học, triết học, toán học rất tiến bộ của Hy Lạp trong các thế kỷ
3~5 khiến cho nền văn minh của nhân loại bị lùi lại 10 thế kỷ (Deceptions and
Myths of the Bible – by Lloyd Graham – A Citadel Press Book 1991 - pp. 294,
448, 450).
Riêng đối với lịch sử Việt Nam, Alexandre de Rhôde phải đƣợc coi là kẻ thù số
một vì chính y là kẻ đầu tiên có sáng kiến lập ra hội Thừa Sai Paris và cũng là
ngƣời đầu tiên vận động Pháp chiếm Việt Nam. Sử gia Pháp là ông Bonifacy,
tác giả cuốn “Les Debuts du Christianisme en Annam” xuất bản tại Hà Nội năm
1930 đã viết: “Vai trò của Alexandre de Rhôde trong việc thành lập hội Thừa
Sai Paris đã đƣa giáo hội Công giáo Đàng Trong và Đàng Ngoài ra khỏi vòng
kiểm soát của ngƣời Bồ Đào Nha, đã đem lại cho ngƣời Pháp vai trò quan trọng
nhất ở bán đảo Đông Dƣơng – pages 16-17. (“Sự Du Nhập đạo Thiên Chúa vào
Việt Nam từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19” của giáo sƣ Nguyễn Văn Kiệm - Hội
Khoa Học Lịch Sử Việt Nam – Hà Nội 2000 – trang 123). Phê bình về
Alexandre de Rhôde và các giáo sĩ thừa sai, giáo sƣ Kiệm (sách dẫn chiếu, trang
300-301) viết: “Các giáo sĩ thừa sai, trong đó có Alexandre de Rhôde, dẵ gây
nên một cú sốc lớn đối với đời sống tâm linh và văn hóa của dân tộc ta… làm
băng hoại nền tảng của cộng đồng. Họ mang mặc cảm tự cao cho rằng Cơ Đốc
giáo là tôn giáo hoàn vũ, cao siêu hơn bầt cứ tôn giáo nào khác …. Do đó, họ
coi các tôn giáo truyền thống bản địa đều là thấp kém, man muội cần phải xóa
sạch để thay thế bằng Cơ Đốc giáo. Sự cấm đạo của nhà cầm quyền Việt Nam
và tâm lý bất hòa giữa lƣơng giáo trong dân chúng còn kéo dài đến ngày nay
chính là những phản ứng tất nhiên chống lại sự xúc phạm đó và đồng thời là
một hành động tự vệ chính đáng của một dân tộc đã có một nền văn hóa định
hình và một ý thức tự tôn dân tộc cao.
Trên đây chỉ là mấy nét đại cƣơng về tội ác của bọn giáo sĩ Tây phƣơng đối với
dân tộc Việt Nam nói chung, và đối với văn hóa của dân tộc ta nói riêng. Xin
đọc thêm tác phẩm “Alexandre de Rhôde, ngƣời đầu tiên vận động Pháp chiếm
Việt Nam và chữ Quốc Ngữ” 9 tác giả - Gia Điểm xuất bản 1998 – và bài viết
“Hồ Sơ Tội Ác của hội Thừa Sai Paris và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trong
lịch sử mất nƣớc hồi cuối thế kỷ 19” của Charlie Nguyễn - tháng 8, 2003
(www.giaodiem.com).
B.- Các Học Sĩ là ai ? Học sĩ là những ngƣời đỗ đạt những bằng cấp Hán học
ngày xƣa tại nƣớc ta, thịnh hành từ đời Hậu Lê (1428-1527). Kể tử thời Hậu Lê,
chính sách của triều đình Việt Nam là loại bỏ tinh thần “tam giáo” để chỉ đề cao
vai trò độc tôn của Nho giáo và Hán học mà thôi. Do chính sách đó, xã hội Việt
Nam xuất hiện một giai cấp trí thức Hán học đƣợc gọi là Học sĩ. Họ trở thành
những phần tử trí thức với tinh thần vọng ngoại, luôn luôn coi các bậc thầy
Trung Quốc là những khuôn vàng thƣớc ngọc cho mọi vấn đề trong cuốc sống
của họ. Từ tinh thần vọng ngoại, họ rất dễ dàng trở thành những kẻ “ỷ ngoại”,
thích dựa vào sức mạnh của ngoại bang và cuối cùng họ đã đi theo giặc phản
bội tổ quốc (trƣờng hợp Lê Chiêu Thống). Chính sách sai lầm về văn hóa của
thời Hậu Lê đã mau chóng đƣa dân tộc ta đến chỗ suy tàn. Đó chính là quốc nạn
“Trịnh Nguyễn phân tranh” kéo dài 259 năm (1527-1786) đƣa đất nƣớc đến gần
thảm họa diệt vong với bao cảnh điêu linh loạn lạc, với núi xƣơng sông máu của
thảm cảnh nồi da sáo thịt.
Giới học sĩ Tống nho tiếp tục là một giai cấp trí thức rƣờng cột của các triều
đình nhà Nguyễn. Chế độ độc tài văn hóa và tƣ tƣởng giáo điều gò bó của tầng
lớp học sĩ thống trị xã hội Việt Nam từ thời Gia Long, qua Minh Mạng, Thiệu
Trị, Tự Đức cho đến Bảo Đại. Chính sách này đã tạo ra những bọn “học sĩ bán
nƣớc” nhƣ cha con Ngô Đình Khả, Ngô Đình Diệm. Họ đều là những quan đại
thần của nhà Nguyễn rất nặng đầu óc Tống nho cổ hủ, lại cộng thêm tinh thần
giáo điều độc tôn của Công giáo thời Trung Cổ. Cho nên chính sách của Diệm
(1954-1963) là chính sách độc tài, phi nhân và phi dân tộc.
Tinh thần học sĩ Tống Nho là tinh thần nô lệ tƣ tƣởng ngoại lai. Từ “vọng
ngoại” đến “sợ ngoại” và cuối cùng là đem mạng sống toàn dân trao cho ngoại
bang. Ngày 18-12-1960, Hội đồng Giám mục Việt Nam và toàn thể chính phủ
Việt Nam Cộng Hòa do Ngô Đình Diệm cầm đầu đã long trọng tổ chức Lễ
“Dâng Tổ Quốc Việt Nam cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ”, thực
chất là dâng tổ quốc Việt Nam cho Vatican, con bạch tuộc của chủ nghĩa Đế
Quốc Tinh Thần. Một việc làm thật ngu xuẩn của nhà Ngô và Hội đồng Giám
mục Việt Nam, mặc dầu họ biết rõ là hơn 90% dân chúng không theo tôn giáo
của họ.
Ngày nay, ông Nguyễn Trần Qúi, tổng thƣ ký và nhóm chủ trƣơng “Trung Tâm
Văn Hóa Việt Nam” (gồm 13 ngƣời tại Houston) đã lƣu manh núp dƣới danh
nghĩa Văn Hóa Việt Nam để phá hoại Văn Hóa Việt Nam bằng cách đầu độc
tinh thần giới trẻ Việt Nam trong buổi lễ Vinh Qui vừa qua bằng cách gieo vào
đầu óc họ cái ý tƣởng sai lầm nguy hiểm: “Giáo sĩ thừa sai và học sĩ Tống Nho
là những ngƣời có công với văn hóa Việt Nam”. Điều đáng buồn là trong danh
sách Ban Cố Vấn của TTVHVN-Houston có tên: bác sĩ Hoàng Xuân Chỉnh, cựu
giáo sƣ Đại Học Y Khoa Saigon và Huế; giáo sƣ Mai Văn Lễ, cựu giáo sƣ Đại
Học Luật Khoa Saigon và Huế; nhà văn Doãn Quốc Sỹ, cựu giáo sƣ Đại Học
Văn Khoa Saigon.
Qúi vị đều là những khuôn mặt văn hóa nổi tiếng tại Việt Nam trƣớc 1975 và tại
hải ngoại sau này. Nhƣng điều đáng tiếc là qúi vị đã vì cả nể nên đã bị đám học
trò bất lƣơng lợi dụng danh nghĩa qúi vị và đem qúi vị ra làm bình phong che
đậy hành động bất chính của chúng.
Tôi cũng tự hỏi: Phải chăng ông Tổng Thƣ Ký Nguyễn Trần Qúi và đa số trong
thành phần của nhóm chủ trƣơng là những tín đồ Công giáo cuồng tín … nên
mới có những hành động phá hoại văn hóa Việt Nam một cách mù quáng nhƣ
vậy. Thật đáng tiếc !
II.- Vấn đề kế tiếp : Phải chăng chữ Quốc Ngữ là sự đóng góp vô cùng lớn lao
của Giáo hội Công giáo Việt Nam cho dân tộc Việt Nam và chúng ta phải biết
ơn GHCGVN là ngƣời đã sáng tạo ra nó ?
Trong “Thánh Gia Bản Tin” số 41 và trên trang nhà của Tập Thể Thánh Gia
(www.angelfire.com/rnb/thanhgia) có đăng bài “Cảm Ơn Chữ Quốc Ngữ” của
một thành viên Thánh Gia là anh Nguyễn Dƣơng An ở Việt Nam. Nguyên văn
nhƣ sau :
Cảm ơn chữ Quốc Ngữ !
Tôi đã đọc nhiều tài liệu chống đối và bài bác Giáo Hội Công Giáo VN, và gần
đây, tôi cũng đọc đƣợc những bài nhƣ vậy trên trang web của Giao Ðiểm. Theo
các tác giả đó, Giáo Hội Công Giáo VN không đem lại cho dân tộc VN một lợi
ích gì, ngƣợc lại, còn làm hại cho nền văn hóa, cho phong tục, cho đời sống xã
hội của dân tộc VN, tóm lại, chỉ làm hại mà thôi..
Có một điều làm tôi rất ngạc nhiên : tất cả những bài đó đều viết bằng chữ Quốc
Ngữ, là thứ chữ do một linh mục Công Giáo sáng lập từ mẫu tự Latin. Chính
nhờ có thứ chữ Quốc Ngũ này mà những tác giả đó có thể viết bài chống đối
GHCGVN, cũng nhƣ dùng chữ Quốc Ngữ này để truyền bá tƣ tƣởng của mình
đến cho đồng bào VN. Những tác giả này đang tận dụng một trong những ích
lợi lớn lao mà GHCGVN đem lại cho dân tộc VN. Thế mà họ dám lớn tiếng phủ
nhận sự đóng góp của GHCGVN cho dân tộc VN !!! Phải chăng những tác giả
này không biết nguồn gốc của chữ Quốc Ngữ ? Do đó, họ đã tự mâu thuẫn với
họ. Nếu đúng nhƣ vậy thì kiến thức của họ còn non dại quá ! Mỉa mai thay !
Mỗi khi anh viết một chữ Quốc Ngữ là anh đã nhắc lại sự đóng góp vô cùng quý
báu của GHCGVN cho dân tộc VN, anh không biết điều đó sao ?
Nếu muốn phủ nhận những đóng góp của GHCGVN cho dân tộc VN thì các tác
giả đó đừng dùng chữ Quốc Ngữ nữa, hãy dùng một thứ chữ khác. Bắt chƣớc
các vua nhà Nguyễn, các chiếu chỉ cấm Ðạo đều đƣợc viết bằng chữ Hán (cũng
gọi là chữ Nho), không có cái nào viết bằng chữ Quốc Ngữ ! Có làm đƣợc nhƣ
vậy không ? Tôi mong chờ sự “hiểu biết” một cách hợp lý của các tác giả đó !
Nguyễn Dƣơng An
Chúng ta thƣờng nói “cám ơn Trời Phật”, “cám ơn Chúa”, hoặc cám ơn ngƣời
này ngƣời khác, chứ không bao giờ lại nói cám ơn một vật vô tri vô giác nhƣ
“cám ơn chữ Quốc Ngữ” ! Đáng lý phải nói là cám ơn ngƣời đã sáng tạo ra chữ
Quốc Ngữ thì mới có ý nghĩa.
Theo Nguyễn Dƣơng An thì chữ Quốc Ngữ là thứ chữ do một một linh mục
Công giáo sáng lập từ mẫu tự la-tinh. Hẳn ý bạn muốn nói đến linh mục
Alexandre de Rhôde là ngƣời đã sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ. Nhƣng rõ ràng
Alaxandre de Rhôde là một ngƣời Pháp, chứ có phải là một ngƣời Công giáo
Việt Nam đâu, mà anh dám nói chữ Quốc Ngữ là công lao của Giáo hội Công
giáo Việt Nam đóng góp cho dân tộc Việt Nam ?
III.- Chữ Quốc Ngữ đã đƣợc sáng tạo trong khuôn khổ chiến lƣợc xâm lăng Á
Châu của Bồ Đào Nha trong thế kỷ 17.
Từ thế kỷ 15, kỹ nghệ đóng tầu của Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha đã đạt đƣợc
nhiều tiến bộ mới. Nhờ có súng hỏa mai và kỹ thuật hàng hải, nhiều nhà thám
hiểm Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha đã thực hiện đƣợc những cuộc viễn du làm
thay đổi lịch sử nhân loại:
1.- Christopher Columbus tìm ra Châu Mỹ năm 1492
2.- Vasco de Gama là ngƣời đầu tiên vƣợt mũi Hảo Vọng ở cực Nam châu Phi
tới Ấn Độ năm 1497.
3.- Alvarez Cavral vƣợt qua Đại Tây Dƣơng tìm ra Brazil năm 1500.
4. Alfonso de Albuquerque vƣợt qua Ấn Độ Dƣơng năm 1503, chiếm tỉnh Goa
của Ấn năm 1510, chiếm Malacca năm 1511 để mở đƣờng cho Bồ Đào Nha tiến
vào Trung Quốc và Nhật Bản. Chính sự kiện này đã làm nảy sinh tham vọng
của Bồ Đào Nha là xâm lăng toàn bộ Á Châu.
Chiến lƣợc của Bồ Đào Nha trong thế kỷ 16 là trƣớc hết phải chiếm Trung Hoa
và Nhật Bản làm thuộc địa, đồng thời biến hai nƣớc này thành hai nƣớc Công
giáo, để từ đó sẽ chinh phục toàn Á Châu theo thế cờ domino. Do đó, vào cuối
năm 1511, hạm đội Bồ Đào Nha đã rời Malacca tiến lên phía Bắc gần Macao để
yểm trợ cho các nhà truyền giáo thuộc dòng Tên Bồ Đào Nha đang hoạt động
tại Nhật và Trung Quốc. Tuy nhiên, chiến lƣợc xâm lăng và truyền đạo của Bồ
Đào Nha tại Á Châu trong thế kỷ 16 và 17 đã không thành công vì không có
một ông vua Nhật hay Tàu nào chịu theo đạo cả. Năm 1638, ngƣời Nhật đã
thẳng tay tàn sát một lúc 37000 giáo dân tại Nagasaki và đánh đuổi ngƣời Bồ
Đào Nha ra khỏi nƣớc Nhật. Mọi ảnh hƣởng của Bồ Đào Nha tại Nhật đến đây
là chấm dứt.
Nhƣ chúng ta đã biết, từ giữa thế kỷ 15, hai nƣớc Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha
đã dẫn đầu các cuộc thám hiểm đất mới để xâm chiếm thuộc địa và truyền đạo.
Do các tranh chấp về đất đai và quyền lợi, Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha có thể
trở thành hai quốc gia thù địch. Do đó hai nƣớc đã thỏa thuận với nhau đƣa vụ
tranh chấp này ra trƣớc toà Thánh Vatican để giáo hoàng Alexander VI phân
xử. Do sắc chỉ Inter Coetera năm 1493, giáo hoàng Alexander VI chia thế giới
làm hai phần qua đƣờng ranh tƣởng tƣợng chạy từ Bắc cực xuống Nam cực
chạy qua quần đảo Acores. Phía Tây của đƣờng ranh này thuộc độc quyền xâm
lăng và truyền đạo của Tây Ban Nha. Phía Đông đƣờng ranh này bao gồm toàn
vùng Á Châu thuộc độc quyền xâm lăng và truyền đạo của Bồ Đào Nha. Trong
thực tế, kể từ năm 1615, mọi công cuộc truyền đạo tại Việt Nam thuộc quyền
điều động của dòng Tên Bồ Đào Nha, có trụ sở tại Nhật Bản, với sự phối hợp
của tòa Giám Mục Bồ Đào Nha tại Macao.
Cũng do độc quyền truyền giáo mà Tòa Thánh đã dành riêng cho Bồ Đào Nha
tại Á Châu, nên suốt trong các thế kỷ 15 và 16, các nhà truyền giáo Pháp hoàn
toàn vắng bóng tại Viễn Đông. Năm 1619, Alaxandre De Rhôde lên tàu từ thủ
đô Lisbone của Bồ Đào Nha để đến giảng đạo tại Việt Nam, không phải với tƣ
cách là một giáo sĩ Pháp, mà là một giáo sĩ đặt dƣới quyền bảo trợ của triều đình
Bồ Đào Nha. Trong khuôn khổ chiến lƣợc xâm lăng và truyền giáo tại Á Châu,
Bồ Đào Nha chú ý đến việc phiên âm theo mẫu tự la-tinh ƣu tiên là tiếng Tàu,
tiếng Nhật, và sau đó là tiếng Việt. Cuốn từ vựng Bồ-Hoa đƣợc soạn thảo sớm
nhất vào năm 1584. Tự điển La-Bồ-Nhật đƣợc hoàn thành năm 1595. Cuốn giáo
lý tiếng Nhật đƣợc la-tinh-hóa năm 1592. Tất cả các kinh nghiệm về việc la-
tinh-hóa chữ Nhật và chữ Tàu nói trên đều rất hữu ích cho việc phát minh chữ
Quốc Ngữ của Việt Nam sau này.
IV.- Các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha ở Đàng Trong (Quảng Nam) là những
ngƣời đã thật sự sáng tạo chữ Quốc Ngữ trong các năm 1617-1622.
Các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha bắt đầu truyền đạo ở Đàng Trong từ 1615. Từ
1617 họ khởi công la-tinh-hóa tiếng Việt. Ngƣời có công đầu trong việc này là
linh mục Francis de Pina. Ông sinh tại Bồ Đào Nha năm 1585, đến giảng đạo tại
Đàng Trong năm 1617 và sinh sống tại Việt Nam liền trong 8 năm. Lúc này, trụ
sở của dòng Tên Bồ Đào Nha đặt tại Thanh Chiêm là dinh trấn của Nguyễn
Phƣớc Nguyên, nay là huyện Điện Bàn, Quảng Nam. Bề trên của nhà dòng là
linh mục Buzomi cũng là một nhà ngôn ngữ học, và chình ông đã sáng tác một
hệ thống văn phạm tiếng Việt.
Năm 1618, linh mục Francis de Pina là ngƣời đầu tiên dịch các kinh la-tinh sang
tiếng Việt. Đó là kinh Lạy Cha (Pater Noster), kinh Kính Mừng (Ave Maria).
Kinh Tin Kính (Credo), kinh Sáng Danh (Gloria), ….
Đến năm 1622, linh mục Francis de Pina hoàn thành một hệ thống ghi âm theo
mẫu tự la-tinh thích hợp với lối phát âm và thanh điệu tiếng Việt. Năm 1624,
linh mục Pina mở trƣờng dạy nói tiếng Việt và dạy viết chữ quốc ngữ tại Thanh
Chiêm để dạy các giáo sĩ mới đến giảng đạo tại Việt Nam, trong số đó có
Alexandre de Rhôde và Antonio de Fontes.
Alexandre de Rhôde đƣợc linh mục Pina dạy tiếng Việt từ 1624 đến cuối năm
1625 thì chẳng may linh mục Pina bị tai nạn chết đuối tại bến cảng Đà Nẵng.
Linh mục Pina đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tạo chữ quốc ngữ, nhƣng
ông không phải là ngƣời duy nhất, vì có nhiều ngƣời khác đã đóng góp những
nỗ lực của họ trong việc phân tích văn phạm, phân tích ngữ âm và thanh điệu
của tiếng Việt. Do đó, công trình sáng tạo chữ quốc ngữ là một công trình tập
thể của các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha giảng đạo tại Á Châu trong thế kỷ 17.
Nhiều ngƣời thƣờng căn cứ vào việc xuất bản cuốn tự điển Việt-Bồ-La tại
Rome năm 1651 để xác quyết Alexandre de Rhôde là tác giả đã phát minh ra
chữ quốc ngữ. Sự thật Alexandre de Rhôde không phải là tác giả của cuốn tự
điển này. Ông chỉ là ngƣời viết thêm vào tự điển phần la-tinh mà thôi. Hai phần
quan trọng liên quan đến chữ quốc ngữ là tự điển Việt-Bồ thuộc công lao của
linh mục Bồ Đào Nha Gaspar de Amaral và tự điển Bồ-Việt của linh mục Bồ
Đào Nha Antonio de Barbose. Alexandre de Rhôde chỉ là một biên tập viên chứ
không phải là tác giả của cuốn tự điển quan trọng này, nhất là vể phần Việt ngữ,
nên ông ta không thể đƣợc coi là cha đẻ của chữ quốc ngữ đƣợc
Nhƣng dù cho chữ quốc ngữ đã đƣợc phát minh do Alexandre de Rhôde hay do
các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha trong thế kỷ 17 thì bản chất của nó vẫn không
thay đổi: Chữ Quốc Ngữ không phải là một món quà tặng do ngoại nhân có
lòng tốt đem lại cho chúng ta. Nó thực sự chỉ là một thứ vũ khí do địch sáng chế
để truyền vào dân tộc ta một thứ tôn giáo phi nhân, nhằm mục đích nô dịch
nhân dân ta và đƣa tổ quốc ta vào vòng nô lệ của chúng.
Nay chúng ta dung chính vũ khí đó của địch để đánh địch và tay sai. Đó là công
việc mà các tác giả Giao Điểm đang làm. Các tác giả Giao Điểm đang noi
gƣơng tiền nhân dùng đòn “gậy ông đập lƣng ông” trong mục tiêu xây dựng đất
nƣớc và bảo vệ văn hóa dân tộc: Noi gƣơng Lý Thƣờng Kiệt xƣa kia dùng chữ
Hán để viết “Nam Quốc Sơn Hà, Nam Đế Cƣ” để xác nhận chủ quyền của tổ
quốc. Trần Hƣng Đạo dùng chữ Hán để viết “Hịch Tƣớng Sĩ” động viên toàn
dân chống quân Nguyên. Nguyễn Trãi dùng chữ Hán viết “Bình Ngô Đại Cáo”.
Trong thập niên 1930, các nhà cách mạng yêu nƣớc Phan Chu Trinh và Phan
Bội Châu đã cổ súy việc học chữ quốc ngữ để mở mang dân trí và phổ biến tƣ
tƣởng cách mạng nhằm đánh đuổi thực dân Pháp. Đòn “gây ông đập lƣng ông”
là một chiến thuật lâu đời trong truyền thống chiến đấu bảo vệ tổ quốc của nhân
dân ta.
Để cụ thể hóa thái độ của chúng ta đối với bọn giáo sĩ đã sáng tạo ra chữ quốc
ngữ, chúng ta hãy hình dung một tên cƣớp đột nhập vào nhà chúng ta với một
con dao. Khi bị cảnh sát rƣợt đuổi, tên cƣớp đã vứt bỏ lại con dao tang vật.
Hành động đúng nhất là chúng ta hãy sử dụng con dao tang vật vào những việc
hữu ích, nhƣ cắt rau, thái thịt, v.v… Chạy theo tên cƣớp để cám ơn nó đã để lại
con dao rõ ràng là một hành vi ngu xuẩn. Hô hào mọi ngƣời phải cám ơn bọn
giáo sĩ đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ cũng là một hành vi ngu xuẩn tƣơng tự.
Charlie Nguyễn
Sept 2003
TRỞ LẠI TRANG CHÍNH
Vào phần Mục Lục
Hồ Sơ Tộc Ác của Hội Thừa Sai Paris và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trong
lịch sử mất nƣớc hồi cuối thế kỷ 19
Charlie Nguyễn
Nếu lấy năm 1533 làm cái mốc đầu tiên về sự có mặt của đạo Công giáo trên
đất nƣớc Việt Nam thì tới nay (2003), Giáo hội Công giáo Việt Nam đã có 470
năm lịch sử. Trong chiều dài thời gian gần 5 thế kỷ có khoảng hơn bốn thập
niên trong nửa cuối thế kỷ 19 (1852-1884) là thời gian thăng trầm, phức tạp và
ô nhục nhất trong giáo sử Công giáo Việt Nam. Đó chính là thời gian các giáo sĩ
trong Hội Thừa Sai Paris và khoảng 600,000 giáo dân đã tích cực giúp cho thực
dân Pháp hoàn thành dễ dàng cuộc xâm chiếm Việt Nam và mau chóng bình
định lãnh thổ để áp đặt nền thống trị lên dân tộc Việt Nam trong hơn 80 năm.
Những gì đã xảy ra trƣớc và trong quá trình xâm lƣợc Việt Nam của thực dân
Pháp đã khẳng định rằng: các giáo sĩ trong Hội Thừa Sai Paris đã chủ động tạo
ra cớ cho cuộc can thiệp võ trang của Pháp vào Việt Nam. Sử gia Pháp Georges
Coulet đã viết trong tác phẩm của ông Cultes et Religions de l‟Indochine
Annamite (Saigon, p. 99) nhƣ sau: “ Thiên Chúa giáo đã mở cửa cho quân đội
Pháp và đã là nguyên nhân trực tiếp của cuộc xâm lƣợc đất nƣớc này”.
Suốt thời gian giặc Pháp đô hộ, danh dự của tổ quốc Việt Nam đã bị xỉ nhục
nặng nề, sinh mạng và tài sản của nhân dân bị quân địch xâm phạm nghiêm
trọng. Đây là những vết hằn lịch sử khó có thể xóa mờ trong ký ức của mọi
ngƣời Việt yêu nƣớc. Lịch sử mất nƣớc của dân tộc Việt Nam vào cuối thế kỷ
19 gắn liền với sự có mặt của Hội Thừa Sai Paris - một công cụ mở rộng nƣớc
Chúa của Vatican, đồng thời cũng là một công cụ mở rộng thuộc địa của thực
dân Pháp. Sát cánh với Hội Thừa Sai Paris là Giáo Hội Công Giáo Việt Nam
vào thời điểm đó đã hiện nguyên hình là một tập đoàn Việt gian bán nƣớc theo
giặc, trắng trợn phản bội Tổ Quốc.
Việc dựng lại một cách chân xác giai đoạn thăng trầm của lịch sử mất nƣớc ô
nhục đó không phải là chuyện dễ dàng vì các sử liệu về giáo sử Công giáo Việt
Nam còn lƣu lại ở Việt Nam rất hiếm hoi. Nhƣng một sự may mắn đã đến với
chúng ta là sử gia Patrick J.N. Tuck, ngƣời Ấn Độ, giáo sƣ sử học tại đại học
Liverpool (Anh Quốc) đã bỏ ra nhiều công sức sƣu tầm các tƣ liệu liên quan đến
các hoạt động của các giáo sĩ thừa sai Pháp và các chính sách của đế quốc tại
Việt Nam từ 1857 đến 1914.
Tất cả các tài liệu lịch sử quí giá này đều là những tài liệu do chính văn khố của
Hội Thừa Sai Paris cung cấp. Đây là một món quà tinh thần quí giá cho những
ai hằng thao thức tìm hiểu giáo sử Công giáo Việt Nam. Bộ sƣu tập tài liệu về
Hội Thừa Sai Paris của sử gia Patrick J.N. Tuck đƣợc viết bằng Anh ngữ dƣới
tựa đề “French Catholic Missionaries and the Politics of Imperialism in Vietnam
1857-1914” do Liverpool University Press xuất bản tại Anh Quốc năm 1987.
Bản dịch Việt ngữ do UBĐKCGYNVN/TP.HCM thực hiện và phổ biến năm
1989 dƣới tựa đề: “Thừa Sai Công Giáo Pháp và các chính sách của dế quốc tại
Việt Nam 1857-1914”. (Mỗi khi trích dẫn tài liệu này, chúng tôi xin ghi tắt
TSCG) . Ngoài tƣ liệu của Patrick Tuck, chúng tôi còn tham khảo thêm sách
“Sự Du Nhập của Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19”
của giáo sƣ Nguyễn Văn Kiệm với sự hợp tác của Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo
và Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam (mỗi khi trích dẫn sách này, chúng tôi xin
ghi vắn tắt SDN/TCG).
Cả hai cuốn sách nói trên cung cấp cho chúng ta rất nhiều bằng chứng lịch sử về
các hoạt động đầy tội ác của các giáo sĩ thuộc Hội Thừa Sai Paris trong nỗ lực
vận động Vatican và hoàng gia Pháp (Napoleon III) xâm chiến Việt Nam hầu
thực hiện hai mục tiêu vừa truyền giáo vừa xâm chiếm thuộc địa.
I. Sự thành lập hội Thừa Sai Paris và tiến trình tội ác của hội này đối
với dân tộc Viêt Nam.
Sáng kiến đầu tiên đƣa đến việc thành lập hội Thừa Sai Paris là do Alexandre de
Rhôde. Vào năm 1652 và 1653, Alexandre de Rhôde về Âu châu vận động
Vatican và Pháp thành lập hội Thừa Sai gồm toàn giáo sĩ ngƣời Pháp để gửi
sang Viễn Đông truyền đạo và mở rộng ảnh hƣởng của Pháp tại vùng này. Tuy
nhiên, vào thời điểm đó, ảnh hƣởng của Bồ Đào Nha tại Á Châu còn mạnh. Đại
sứ Bồ Đào Nha bên cạnh Vatican cực lực phản đối việc thành lập Hội Thừa Sai
Pháp và hăm dọa sẽ bắt bỏ tù các giáo sĩ đến Á Châu mà không có phép của
hoàng gia Bồ. Phải đợi đến năm 1658, khi hoàng gia Bồ suy yếu mọi mặt và
không còn đủ sức tài trợ cho cuộc truyền giáo tại Á Châu, nên đã bị Tòa Thánh
chính thức thu hồi “độc quyền truyền giáo” (Padroado).
Hội Thừa Sai Paris đƣợc chính thức thành lập năm 1663 gồm toàn các giáo sĩ
ngƣời Pháp thuộc ngành triều (secular), tức là các tu sĩ chuyên việc trông coi
giáo dân tại các giáo xứ. Kể từ đó, mỗi khi thiết lập một giáo phận mới tại Á
Châu, Vatican đều giao các giáo phận mới cho các giáo sĩ thừa sai Pháp cai
quản. Mặc dầu hoạt động của các thừa sai đều thuộc về tôn giáo, nhƣng chính
quyền Pháp đã ra lệnh cho bộ Ngoại Giao, bộ Thƣơng Mại và nhất là bộ Hải
Quân và Thuộc Địa phải tích cực yểm trợ cho các giáo sĩ thừa sai (TSCG, trang
27). Ông Bonifacy, tác giả cuốn “Les Debuts du Christianisme en Annam” xuất
bản tại Hà-Nội năm 1930 đã viết: “Vai trò của Alexandre de Rhôde trong việc
thành lập hội Thừa Sai Paris đã đƣa giáo hội Công giáo Đàng Trong và Đàng
Ngoài ra khỏi vòng kiểm soát của ngƣời Bồ Đào Nha, và đem lại cho ngƣời
Pháp vai trò quan trọng nhất ở bán đảo Đông Dƣơng” p. 16-17 (SDN/TCG,
trang 123).
Việc thành lập hội Thừa Sai Paris năm 1663 không phải là một hành vi tôn giáo
thuần túy mà là một nhu cầu cần thiết của chủ nghĩa thực dân Pháp thời đó, vì
hội này do chính phủ Pháp thành lập và tài trợ để làm công cụ thực hiện tham
vọng bành trƣớng thuộc địa ở Viễn Đông. Danh từ “giáo sĩ thừa sai”
(missionaries) đƣợc định nghĩa là ngƣời đƣợc cử ra nƣớc ngoài để thực hiện
những công việc do cấp trên sai phái. Cấp trên ở đây không hẳn chỉ là Toà
Thánh La Mã mà chủ yếu là quốc gia đã lập ra hội Thừa Sai. Tự Điển Bách
Khoa Hoàn Vũ (Encyclopedia Universallis) của Pháp xuất bản năm 1990 cũng
thêm định nghĩa Hội Thừa Sai (Mission) nhƣ sau: “Hội Thừa Sai cũng tiến
hành nhiệm vụ thực dân, cũng chinh phục và tiêu diệt, tham gia các cuộc chinh
phạt để đoạt lấy quyền uy vinh quang và lợi tức. Điều quan trọng nhất của Hội
Thừa Sai là đồng hóa văn hóa của các xứ bản địa” (SDN/TCG, trang 302).
Gần hai thế kỷ sau ngày thành lập, đến đầu thế kỷ 19 có 3 biến cố xảy ra làm
cho Hội Thừa Sai Paris trở thành hội Truyền Giáo mạnh nhất của Giáo hội
Công giáo:
- Biến cố 1: Vào năm 1822, các nhà tƣ bản Pháp thành lập tại Lyon một tổ
chức lấy tên là “Hội Truyền Bá Đức Tin”.Đây là một trung tâm tài chánh lớn
lao yểm trợ các hoạt động của các giáo sĩ thừa sai tại Viễn Đông. Năm 1839,
quĩ của hội lên tới hai triệu francs.
- Biến cố 2: Năm 1839, giáo hoàng Gregory XVI chính thức thừa nhận hội
Thừa Sai Paris là cơ quan truyền giáo chủ lực tại Viễn Đông. Tuy nhiên, trọng
tâm trách nhiệm của Hội là Việt Nam.
- Biến cố 3: Cuộc đảo chánh do các giáo sĩ Pháp chủ trƣơng năm 1851 đã
đƣa Louis Napoleon lên ngôi hoàng đế (tức Napoleon III). Sự kiện này đƣa đến
sự liên kết mật thiết giữa hoàng gia Pháp và Vatican. Điển hình là vụ Vatican và
Pháp dàn dựng màn kịch bịp bợm “Phép lạ Lộ Đức” năm 1858 (xin đọc
webpage Giao Điểm tháng 8, 2003).
A.- Các giáo sĩ thừa sai tích cực vận động Vatican và chính quyền Pháp xâm
chiếm Việt Nam.
- Các giáo sĩ thừa sai Paris giao du thân mật với hoàng hậu Eugénie, họ đã
lợi dụng hoàng hậu xúi giục Napoleon III xâm chiếm Việt Nam từ năm 1852.
Do đó, Napoleon III đã đích thân ra lệnh cho phái bộ ngoại giao Pháp tại Trung
Quốc phải thâu thập các tài liệu về công cuộc truyền giáo tại Đông Dƣơng
(TSCGP, trang 53).
- Đầu tháng 5/1857, giám mục Pellerin và linh mục Huc đến Paris trình
bày kế hoạch đánh chiếm Đông Dƣơng tại Ủy Ban Thuộc Địa Pháp. Ngày 21-5-
1857, giám mục Pellerin và linh mục Huc đƣợc Napoleon III tiếp kiến tại hoàng
cung. Sau đó, vào tháng 6 và tháng 8 năm 1857, Pellerin và Huc lại đƣợc
Napoleon tiếp kiến thêm hai lần nữa. Toàn bộ kế hoạch xâm lƣợc Việt Nam do
hai giáo sĩ thừa sai này đề nghị đều đƣợc giáo hoàng Pio IX và Napoleon III tán
thành (TSCGP, trang 554).
Giám mục Pellerin sinh tại Pháp năm 1813, đƣợc cử làm giám mục tại Saigon
năm 1844. Năm 1857, y về Pháp vận động chiếm Việt Nam. Năm 1859, Pellerin
trở lại Việt Nam trên chiếm hạm của Rigault de Genouilly, nhân dịp này, y xúi
giục đô đốc Genouilly đánh chiếm Đà Nẵng, nhƣng Genouilly không chịu vì y
muốn chiếm Saigon trƣớc đã. Sau đó, Pellerin đƣợc hội Thừa Sai đổi về Penang
dạy học, y chết tại đó năm 1862, thọ 49 tuổi (TSCGP, trang 554).
Linh mục Huc sinh tại Pháp năm 1814. Trong các năm 1844-1846, linh mục
Huc mạo hiểm đến giảng đạo tại Tây Tạng và miền Tân Cƣơng (Trung Quốc).
Năm 1850, linh mục Huc xuất bản mấy cuốn sách kể chuyện mạo hiểm giảng
đạo tại các xứ huyền bí Á Châu, đồng thời viết sách kêu gọi chính quyền Pháp
xâm chiếm Triều Tiên, Madagascar và Việt Nam làm thuộc địa. Napoleon III đã
đọc và rất chú ý đến các sách của linh mục Huc. Do đó, sau khi tiếp xúc với linh
mục Huc năm 1857 tại hoàng cung, Napoleon II đã cho thành lập “Ủy Ban
Brenier” để nghiên cứu đề nghị của linh mục Huc. Trong khi đó, giám mục
Pellerin đến thuyết giảng tại nhà thờ Notre Dame de Paris và vận động tờ báo
L‟Univers ủng hộ việc xâm chiếm Việt Nam làm thuộc địa.
Tháng 5/1857, ủy ban Brenier lập bản phúc trình đề nghị hoàng đế Napoleon III
áp đặt chế độ bảo hộ lên Việt Nam để phục vụ lợi ích của nƣớc Pháp. Ủy ban
này đề nghị thực hiện một cuộc viễn chinh với một hạm đội gồm 6 tàu chiến và
2600 thủy quân, kinh phí 4 triệu quan. Quân viễn chinh sẽ đƣợc sự yểm trợ của
hải quân Pháp đang đóng tại Trung Quốc và sự hỗ trợ tích cực của 600,000 giáo
dân công giáo bản địa.
Hoàng đế Napoleon III chấp thuận đề nghị của ủy ban Brenier ngày 21-9-1857.
Mấy tháng sau, Napoleon III giao nhiệm vụ cụ thể cho đô đốc Rigoult de
Genouilly để thực hiện cuộc bảo hộ của Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam
(TSCGP, trang 57-61). Cuộc chiến tranh xâm lƣợc kéo dài từ cuối 1857 đến
tháng 2/1861, Pháp chiếm trọn Côn Đảo, Biên Hòa, Bà Rịa, Vĩnh Long và toàn
miền Đông Nam Kỳ.
B. – Quân dội viễn chinh Pháp và các giáo sĩ thừa sai tại Việt Nam có cùng mục
tiêu chung.
- Cơ quan tối cao điều hành cuộc viễn chinh xâm lƣợc Việt Nam là bộ Hải
Quân và Thuộc Địa Pháp, trụ sở tại Paris, do Chasseloup Laubat làm bộ trƣởng.
Chasseloup Laubat công khai tuyên bố phải biến xứ Nam Kỳ thành một
Philippines thứ hai tại Á Châu. Nói cách khác, biến Nam Kỳ thành một xứ Công
giáo là một giải pháp tốt nhất để ổn định thuộc địa một cách lâu dài.
Nhƣ vậy rõ ràng là quan điểm của bộ Hải Quân và Thuộc Địa của chính quyền
Pháp coi việc Công giáo hóa Nam Kỳ là một nhu cầu chính trị (TSCGP, trang
123). Để thực hiện mục tiêu này, bộ Hải Quân và Thuộc Địa Pháp đã đƣa ra hai
quyết định sau đây:
1. Chính quyền Hải Quân Pháp nhận trách nhiệm thành lập một hệ thống các
giáo xứ Công Giáo tại Nam Kỳ.
2. Các giáo sĩ thừa sai Pháp đƣợc coi là những công chức phục vụ nhà nƣớc
nên họ đƣợc hƣởng lƣơng hàng năm. Năm 1864, nhà nƣớc thuộc địa Pháp đã trả
cho các giáo sĩ thừa sai 40,000 Francs; năm 1879 tăng lên 145,000 Francs.
(TSCGP, trang 134-135).
C.- Các giáo sĩ thừa sai tích cực giúp thực dân Pháp mau chóng bình định lãnh
thổ thuộc địa.
1.- Giám mục Puginier (1835-1892): Dựa vào thế lực mạnh của hội Thừa Sai
Paris đối với chính quyền Pháp, giám mục Puginier đã tỏ thái độ coi thƣờng các
quan chức thuộc địa tại Việt Nam. Vào tháng 7-1874, giám mục Puginier viết
thƣ mắng đô đốc Dupré đã để cho thuộc hạ là Francis Garnier rút quân khỏi Bắc
Việt. Tháng 8-1885, giám mục Puginier đòi tƣớng Courcy phải bắt Nguyễn Văn
Tƣờng bỏ tù. Giám mục Puginier đƣa ra chủ trƣơng ổn định thuộc địa bằng cách
Công giáo hoá thuộc địa. Y tuyên bố: “ Khi nào Bắc Kỳ biến thành một xứ
Công giáo thì nó sẽ là một nƣớc Pháp nhỏ” (TSCGP, trang 560-562)
Puginier đòi hỏi chính quyền thuộc địa Pháp phải tiêu diệt giới nho sĩ Việt Nam
(Văn Thân) vì họ đƣợc dân chúng kính trọng, họ không chấp nhận sự đô hộ của
Pháp và chẳng ai trong số họ chịu theo đạo.
Năm 1886, giám mục Puginier ra lệnh cho linh mục Trần Lục ở Phát Diệm tăng
viện cho Pháp 5,000 giáo dân binh để phá chiến lũy Ba Đình của Đinh Công
Tráng.
Giám mục Puginier là ngƣời đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trên chính sách
bình định Việt Nam của thực dân Pháp. Chính ông ta đã cung cấp cho Pháp rất
nhiều tin tức tình báo do giáo dân khắp nơi thu thập báo cáo về các cuộc phản
công của triều đình Huế và các cuộc binh biến của quân kháng chiến.
Puginier chết tại Hà Nội năm 1892. Hắn đƣợc chính phủ Pháp truy tặng Bảo
Quốc Huân Chƣơng và truy phong Sĩ Quan Danh Dự của quân đội Pháp để xác
nhận công lao to lớn của giáo sĩ thừa sai này trong việc Pháp đánh chiếm Bắc
Kỳ hồi cuối thế kỷ 19.
2.- Giám mục Gauthier (1810-1877) : Gauthier lấy tên Việt là Ngô Gia Hậu,
đƣợc cử làm giám mục Nam Đàng Ngoài từ năm 1846, có 66,350 giáo dân rải
rác trong 346 xứ dạo (TSCGP, trg 528-530).
Trong bức thƣ gửi đô đốc Dupré ngày 15-1-1874, giám mục Gauthier và
Puginier đã thúc giục chính quyền thuộc địa Pháp thiết lập một chính phủ Công
giáo tại Bắc Việt (theo “Christianisme et Colonialisme au Vietnam 1857-1914
par Cao Huy Thuần – Paris 1960, p. 306).
Năm 1874, Gauthier khuyến khích các làng Công giáo tổ chức các đội dân quân
võ trang, sau đó ra lệnh cho họ kéo quân đi đánh phá các làng bên lƣơng ở Nghệ
An và Hà Tĩnh.
Giám mục Gauthier và Puginier có nhiều tên đệ tử trung thành xuất sắc, trong
số đó có Nguyễn Trƣờng Tộ (theo hầu Gauthier 10 năm) và hai linh mục
Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều.
II. Tội Ác bán nƣớc theo giặc của Giáo hội Công giáo Việt Nam trong nửa cuối
thế kỷ 19.
Vào nửa cuối thế kỷ 19, có khoảng 600,000 ngƣời Việt Nam đã mù quáng đi
theo tôn giáo lạ mang tính chất vong bản. Họ đã dễ dàng lìa bỏ nếp sống văn
hóa truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, trƣớc khi Pháp đổ quân xâm chiếm
Việt Nam, những ngƣời Công giáo đƣợc coi là những công dân lầm lạc vì nhẹ
dạ và ngu dốt nên Triều Đình và nhân dân Việt Nam không nỡ ra tay tiêu diệt
họ. Nhƣng kể từ khi Pháp chiếm Đà Nẵng năm 1856, đa số giáo dân Công giáo
đã trắng trợn ra mặt theo giặc và phản bội Tổ Quốc.
Hiện tƣợng đầu tiên là nhiều ngàn giáo dân rời bỏ Bắc Kỳ kéo vào Đà Nẵng xin
đi lính tập cho Pháp. Đô đốc Rigault de Genouilly tiếp nhận họ tại Sơn Trà và
huấn luyện họ tại đây. Sau đó, Genouilly đã tuyển chọn 6000 ngƣời trong số họ
để nhập vào liên quân Pháp-Tây Ba Nha đánh chiếm Saigon.
Trong công cuộc xâm chiếm và bình định Việt Nam, thực dân Pháp đã đƣợc
giáo hội Công giáo Việt Nam hỗ trợ tích cực mọi mặt. Trong số các tín đồ Việt
gian, có những nhân vật rất nổi tiếng sau đây :
Tổng Đốc Phƣơng, tức Đỗ hữu Phƣơng, sinh năm 1844 tại Saigon, nguyên
chủng sinh tại Penang, thông thạo tiếng Pháp, đƣợc Pháp chọn tham gia phái
đoàn của Pháp trong cuộc thƣơng lƣợng với triều đình Huế năm 1868. Sau đó
Phƣơng tham gia các cuộc tảo thanh chống Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá.
Năm 1872, Phƣơng đƣợc Pháp thăng chức tổng đốc Saigon.
Trần Bá Lộc, sinh năm 1834 trong một gia đình Công giáo tại Long Xuyên. Lộc
xin vào đoàn quân Công giáo do Charner tổ chức chuyên việc lùng quét các
nhóm quân kháng chiến. Sau khi tham gia nhiều trận đánh tái chiếm Rạch Giá,
Lộc đƣợc Pháp phong chức tổng đốc Rạch Giá. Y là tên đại Việt gian đƣợc
Pháp tín nhiệm trao nhiệm vụ triệt hạ phong trào kháng chiến từ Quảng Nam
đến Phan Thiết. Với nhiệm vụ này, Trần Bá Lộc đã giết hại khoảng 25 ngàn
ngƣời Việt yêu nƣớc.
Trần Tử Ca, nguyên là một ngƣời bên lƣơng, sinh trƣởng tại Gò Vấp. Lúc đầu y
đi theo kháng chiến, nhƣng sau đó y theo đạo, rời bỏ hàng ngũ kháng chiến theo
giặc chống lại Tổ Quốc. Năm 1862, Ca đƣợc Pháp bổ làm tri huyện Hóc Môn.
Năm 1865, y đi theo quân đội Pháp càn quét các tỉnh miền Tây. Đêm 9-2-1885,
Ca bị nghĩa quân giết chết .
Huỳnh Công Tấn là một ngƣời Công giáo trong hàng ngũ nghĩa quân của
Trƣơng Công Định từ 1861. Ngày 20-8-1864, Tấn phản bội, bất thần phục kích
giết chết Trƣơng Định tại Gò Công. Ngày 19-9-1868, Huỳnh Công Tấn cùng
với 127 lính tập Công giáo vây bắt Nguyễn Trung Trực tại đảo Phú Quốc. Nhƣ
vậy, riêng một mình y đã sát hại đƣợc hai nhà cách mạng kháng chiến nổi tiếng
tại Nam Kỳ. Y đƣợc Pháp trao tặng Bắc Đẩu Bội Tinh cho hai chiến công lớn
này !
Tạ Văn Phụng, tức Phêrô Lê Duy Phụng, nguyên chủng sinh tại Penang, lấy
danh nghĩa là con cháu nhà Lê dấy binh khởi nghĩa tại Bắc Kỳ chống triều đình
Huế năm 1858. Tạ Văn Phụng nhờ các giáo sĩ liên lạc với chính phủ Pháp để
xin giúp đỡ. Napoleon III đồng ý, và cử tên gián điệp Duval sang Việt Nam
giúp Phụng với mục đích biến Bắc Kỳ thành một xứ Công giáo với một chính
quyền Công giáo. Duval đi Macao mua vũ khí và giúp Phụng thành lập những
đoàn quân gồm đa số là giáo dân. Trong các tháng 6 và 7-1863, Phụng khởi
quân đánh chiếm một vùng rộng lớn ở đồng bằng Bắc Bộ gồn 3 tỉnh Quảng
Yên, Hải Dƣơng và Nam Định.Triều đình Huế cử Nguyễn Tri Phƣơng đem
quân ra Bắc dẹp loạn. Tạ Văn Phụng bị bắt đem về Huế xử tử.
Vài điều trình bày trên đây chỉ là bản phác họa một cách trung thực những giai
đoạn của Việt Nam vong quốc sử hồi nửa cuối thế kỷ 19. Đây là điều cần thiết
để nhắc nhở toàn dân Việt Nam phải luôn luôn đề cao cảnh giác phòng ngừa
những thế lực ngoại bang cùng tay sai bản địa lấy danh nghĩa tôn giáo để xâm
lăng chủ quyền và phá hoại nền văn hóa cổ truyền của dân tộc.
Riêng đối với Vatican và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, hai tổ chức này không
thể phủ nhận trách nhiệm trong việc họ đã cấu kết với thực dân Pháp chống lại
nƣớc Việt Nam gần một thế kỷ (từ giữa tk 19 dến gần giữa tk 20). Gần đây,
Giáo Hoàng đã thú nhận những tội lỗi của Vatican đối với nhiều quốc gia và
dân tộc trên thế giới. Còn bao giờ thì Giáo hội Công giáo Việt Nam mới lên
tiếng tạ tội với dân tộc về những lỗi lầm trong quá khứ đối với Tổ Quốc ?
Các bạn Công giáo Việt Nam: để tỏ tình dân tộc, các bạn cần áp lực Giáo Hội
Công Giáo Việt Nam tách hẳn khỏi ảnh hƣởng của Vatican (nhƣ Anh Quốc đã
làm trƣớc đây, và Trung Quốc đang làm). Tại sao các bạn không thể “hiệp
thông thẳng với Chúa” mà không cần trung gian của Vatican hay cái giáo hội
tay sai của Vatican ?
Charlie Nguyễn
Sept 2003
Con Đƣờng Cụt Của Vatican Trên Lộ Trình Xâm Lăng Văn Hóa Á Châu
Charlie Nguyễn
Từ đầu thập niên 1990 đến nay, do sự thức tỉnh tâm linh, phần đông ngƣời Tây
phƣơng đã nhận ra thực chất của đạo Công giáo La mã chỉ là một thứ “tà đạo
khuyển sinh”. Do đó, con số giáo dân tại các nƣớc Âu Mỹ ngày càng suy giảm
mau chóng khiến cho nhiều giáo phận bị phá sản, nhiều nhà thờ bị phát mại
hoặc đóng cửa vô thời hạn. Công giáo La mã đã trở thành một thứ cặn bã văn
hóa mà ngƣời Tây phƣơng muốn tống xuất ra khỏi cơ thể của họ.
Đứng trƣớc nguy cơ không còn tìm đất sống tại các nuớc Âu Mỹ, Vatican phải
tìm đất sống mới tại Á châu, nơi có khối lƣợng khổng lồ về dân số là 3 tỉ 300
triệu ngƣời (chiếm một nửa tổng số nhân loại). Tuy nhiên Vatican cũng không
thể mù quáng để quá lạc quan nhìn về tƣơng lai vì quá khứ đã chứng minh rằng:
Tuyệt đại đa số dân Á châu rất hờ hững với Kitô giáo nói chung và Công giáo
La mã nói riêng. Từ thế kỷ 16 đến nay, tuy đã hơn 4 thế kỷ qua, các cố đạo Tây
phƣơng đã dầy công truyền đạo tại lục địa này, nhƣng số giáo dân Á châu chƣa
bao giờ vƣợt qua đƣợc con số tỉ lệ hết sức nhỏ bé là 1%!
Kết quả thê thảm đó là một thực tế đắng cay đối với tham vọng quá lớn của
Vatican. Thực tế dạy cho Vatican một bài học: Á châu hoàn toàn khác châu Mỹ
La tinh và cũng không phải là cái sân sau của chủ nghĩa đế quốc Tây phƣơng để
họ mặc sức tung hoành. Trong thực tế, Á châu là một lục địa có nhiều nền văn
hoá giá trị từ lâu đời nên ngƣời dân Á châu không dễ gì bị mê hoặc hay bị lừa
gạt bởi một thứ tôn giáo hạ cấp đã sinh ra từ đạo thờ bò nhƣ Công giáo La mã.
Xét về giá trị thực chất, Công giáo là thứ đạo vô luân, hạ đẳng chỉ để dành riêng
cho những hạng ngƣời thấp kém, không muốn đứng thẳng (homo erectus) mà
chỉ muốn cúi xuống làm bầy súc vật cho ngoại nhân chăn dắt mà thôi.
Mặc dầu đã ý thức đƣợc thực trạng văn hóa Á châu hiển hách nhƣ vậy, nhƣng
Vatican vẫn nuôi ảo tƣởng sẽ tạo ra một cơ hội mới tại lục địa Á châu trong
thiên niên kỷ thứ ba. Trong chuyến công du tại Philippines năm 1996, giáo
hoàng Gioan Phaolồ II đã bộc lộ tham vọng của y nhƣ sau: “Tƣơng lai của giáo
hội Công giáo La mã nằm tại Á châu.”
Ba năm sau, trong chuyến công du Ấn độ vào tháng 11-1999, giáo hoàng Gioan
Phaolồ II công bố tông huấn của y mang tên “Giáo hội tại Á châu” (Ecclesia in
Asia). Nội dung chính của tông huấn này là Giáo hoàng chỉ thị cho các Hội
đồng Giám mục Á châu phải cải đạo những ngƣời ngoại giáo Á châu theo
cung cách của ngƣời châu Á. Giáo hội phải tìm mọi cách để hòa nhập (giả vờ)
vào đời sống của ngƣời bản địa để cuối cùng sẽ Công giáo hoá họ và gia đình
họ. Đặc biệt, giáo hội Á châu phải chú ý đến giới phụ nữ và giới ngƣời nghèo
là hai giới mà từ xƣa đến nay giáo hội thƣờng kỳ thị và ruồng bỏ. (Báo Dấn
Thân của Phong trào Giáo dân Houston, số 35, tháng 3-2002).
Từ ngày 3 đến ngày 13 tháng Giêng năm 2000, hội đồng Giám mục Á châu đã
tổ chức cuộc họp tại thành phố Sanphran (Thái Lan) để học tập và nghiên cứu
ngõ hầu thi hành tông huấn này. Sau cuộc họp, các giám mục trở về nƣớc đã chỉ
thị cho các tu sĩ và giáo dân dƣới quyền tham gia công cuộc truyền đạo theo
sách lƣợc của giáo hoàng đã vạch ra trong tông huấn, với tất cả các phƣơng tiện
truyền thông hiện đại gồm các sách báo, truyền thanh, truyền hình và nhất là
Mạng lƣới Tin học toàn cầu (Internet).
Trong tất cả các cộng đồng Công giáo Á châu, có lẽ có cộng đồng Công giáo
Việt Nam tại Hoa Kỳ là hoạt động tích cực nhất. Ồn ào nhất là hệ thống Radio
Bolsa, phát thanh đồng loạt tại Washington DC., Houston, Orange County và
San Jose. Phƣơng tiện truyền thông hiện đại qua Internet cũng đƣợc triệt để khai
thác cho việc truyền đạo, đáng kể nhất là mạng lƣới Vietcatholic.net do linh
mục Trần Công Nghị, tiến sĩ thần học tại Roma, làm giám đốc với sự cộng tác
của trên 200 linh mục và trí thức Công giáo (báo Viet Tide số 55, 8/8/2002,
trang 20).
Tuy nhiên, mặc dầu tông huấn của giáo hoàng tung ra nhiều độc chiêu nham
hiểm để xâm lăng văn hoá Á châu và bọn lâu la gián điệp ra sức thực hiện các
kế hoạch của giáo hoàng, nhƣng tất cả sẽ chẳng thâu lƣợm đƣợc một kết quả
nào. Cuối cùng bản tông huấn của giáo hoàng sẽ đƣa Công giáo Á châu đi vào
con đƣờng bế tắc, không lối thoát.
Sau đây là một số những lý do chính yếu khiến cho ảo vọng của Vatican về
“một vụ gặt lớn tại Á châu” tan thành mây khói và riêng giáo hội Công giáo
Việt Nam sẽ thấy hiện ra trƣớc mặt một tƣơng lai đen tối không thể tránh khỏi.
Nguyên nhân 1: Tông huấn của Gioan Phaolồ II không đƣa ra một điều gì mới,
sẽ chỉ đƣa Công giáo La mã Á châu vào con đƣờng cụt.
So sánh với các sách lƣợc truyền đạo của các cố đạo Tây phƣơng tại Á châu
trong những thế kỷ trƣớc, ta thấy tông huấn của Gioan Phaolồ II chẳng có điều
gì mới lạ, ngoại trừ một số danh từ mị dân rẻ tiền: “Chúa Giêsu mang hình hài
ngƣời Á châu”, “Công giáo La mã là đạo của ngƣời Á châu”, “Thiên Chúa đã
chọn Á châu để khởi sự kế hoạch cứu độ của Ngài” v.v...
Những lời mị dân đó chẳng lừa bịp đƣợc ai vì trình độ hiểu biết của ngƣời Á
châu đã khác xƣa. Ngƣời Á châu biết phân biệt hai Giêsu: một Giêsu thật (the
real Jesus) và một Giêsu của sự thờ phƣợng (the cultic Jesus). Giêsu thật là một
ngƣời Do thái đã sinh ra trên phần đất ngày xƣa là thuộc địa của đế quốc La mã
và ngày nay thuộc lãnh thổ Á châu. Giêsu thật có hành vi chống đế quốc La mã
và ngày nay thuộc lãnh thổ Á châu. Giêsu thật có hành vi chống đế quốc La mã
và đã bị La mã giết chết bằng cách đóng đinh trên thập giá. “Giêsu thật” đã chết
với tƣ cách là một công dân Do thái yêu nƣớc. “Giêsu thật” là một nhân vật có
thật trong lịch sử nên còn đƣợc gọi là “Giêsu lịch sử” (the historical Jesus). Trái
lại “Giêsu của sự thờ phƣợng” là một sản phẩm giả tạo đã đƣợc tạo ra bởi
những kẻ chủ mƣu lập đạo Kitô gồm có Phaolồ, Constantine và Augustine. Bọn
này đã thần thánh hoá Giêsu bằng huyền thoại Chúa Cứu Thế của Do thái, bằng
thần thoại “Ngôi lời Nhập thể” của Hy lạp và bằng môn thần học hoang tƣởng
của Augustine. Vì thế “Giêsu của sự thờ phƣợng” còn đƣợc gọi là “Giêsu thần
học” (the theological Jesus = the cultic Jesus). Ngƣời Á châu có thể chấp nhận
Giêsu là một ngƣời Á châu, có thể có cảm tình tốt với Giêsu vì ông ta cũng có
tinh thần yêu nƣớc chống đế quốc. Nhƣng ngƣời Á châu nhất định không chấp
nhận “Giêsu thần học” vì nó chỉ là sản phẩm giả tạo do đế quốc La mã dựng lên
để làm công cụ xâm lƣợc và nô lệ hoá con ngƣời.
Chẳng khác nào dân Do thái trong hai ngàn năm qua vẫn công nhận “Giêsu
thật” tức là “Giêsu lịch sử” là một công dân Do thái,nhƣng họ dứt khoát từ chối
không chấp nhận “Giêsu của sự thờ phƣợng” là một Chúa Cứu thế (Messiah)
hoặc là “Con trai duy nhất của Thiên Chúa” xuống thế làm ngƣời...!
Thực tế văn hoá Á châu đã quyết liệt phủ nhận “Giêsu thần học” và sẽ phủ nhận
quyết liệt hơn nữa trong tƣơng lai. Bất chấp thực tế phũ phàng đó, giáo hoàng
Gioan Phaolồ II vẫn đƣa ra một lời tuyên bố ảo tƣởng: “Trong thiên niên kỷ thứ
ba, giáo hội sẽ gặt hái đƣợc một mùa gặt lớn trên lục địa rộng lớn và tràn trề sức
sống này.” Chẳng bao lâu nữa, thực tế sẽ dạy cho Vatican thấy rằng : Á châu là
một „bức tƣờng lửa văn hoá‟ sẽ thiêu rụi mọi tín điều nhảm nhí của Kitô giáo
nói chung và của Công giáo La mã nói riêng.
Điều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên vì đã nhiều thế kỷ trôi qua, các giáo hoàng
và ban tham mƣu của họ ở Vatican đã không tìm ra đƣợc một phƣơng cách nào
mới hữu hiệu ngoài những cách đã cũ rích “Hòa để Hóa” đã không thành công
trong sách lƣợc truyền đạo ở Á châu.
Ngƣời đầu tiên áp dụng sách lƣợc “Hòa để Hóa” trong mục tiêu truyền đạo là
linh mục dòng tên gốc Ý rất nổi tiếng Matteo Ricci. Ông ta đặt chân lên đất
Trung hoa năm 1583, lúc 32 tuổi, tự đổi tên thành Mã-Lợi-Đậu, ăn mặc và sinh
hoạt hoàn toàn nhƣ một ngƣời Trung hoa. Sau 13 năm học và nói thông thạo
nhiều thổ ngữ Trung hoa, đọc và viết thông thạo chữ Hán, linh mục Matteo
Ricci đã viết sách “Thiên Chủ Thực Nghĩa”. Xuất bản tại Bắc kinh năm 1603
với nội dung chủ yếu là “Hội nhập Thiên Chúa giáo vào văn hoá Trung quốc”.
Cuốn sách của Matteo Ricci trở thành sách gối đầu giƣờng cho các giáo sĩ ngoại
quốc đến truyền đạo tại Trung Hoa từ thế kỷ 16 về sau, và cho các giáo sĩ đến
truyền đạo tại Việt Nam trong thế kỷ 17. Cuốn sách đó đặc biệt có ảnh hƣởng
sâu đậm đến cố đạo Đắc Lộ vì Matteo Ricci là ngƣời đầu tiên đƣa vào ngôn ngữ
Trung Hoa những danh từ Kitô giáo dƣới dạng chữ Hán nhƣ: Thiên chủ, Thiên
chủ giáo, Thiên đàng, Hỏa ngục, Linh hồn, Thánh thần (Holy ghost) v.v... Từ
những danh từ chữ Hán đó, Đắc Lộ đã dịch sang tiếng Việt và tìm cách “Hội
nhập Thiên Chúa giáo vào văn hóa Việt Nam”. Đắc Lộ đã phát sinh ra danh từ
“Đức Chúa Trời”, “Chúa Thánh thần” để giảng đạo.
Matteo Ricci và Đắc Lộ đƣợc coi là hai giáo sĩ truyền đạo xuất sắc, cả hai đều
thuộc dòng Tên là dòng tu nổi tiếng trí thức nhất của giáo hội Công giáo La mã,
cả hai đều đƣợc coi là những ngƣời đã khai sáng ra sách lƣợc truyền giáo bằng
cách “hòa nhập vào văn hóa bản địa” rồi sau đó “Công giáo hóa ngƣời bản xứ”
tại Á châu.
Tuy nhiên cả hai đều thất bại trong việc thuyết phục ngƣời Á châu tin vào tín
điều “Thiên Chúa Ba Ngôi” nên cả hai đều đã tránh đề cập đến vấn đề này, mặc
dầu Chúa Ba Ngôi là vấn đề tâm điểm của Kitô giáo. Từ ngày Matteo Ricci đặt
chân lên đất Trung Hoa năm 1583 cho đến 160 năm sau, số tín đồ Công giáo
Trung Hoa đã tăng lên con số khoảng 3 triệu ngƣời. Nhƣng một biến cố nghiêm
trọng xẩy ra là việc giáo hoàng Benoit XIV công bố đạo luật “Bulle Ex Quo
Singular” năm 1742 cấm ngƣời Á châu không đựợc thờ cúng tổ tiên. Đạo luật
này đã làm cho các tín đồ Công giáo Trung Hoa bất mãn tức giận nên họ đã bỏ
đạo gần hết. Chỉ còn lại một số rất ít tiếp tục theo Công giáo La mã mà thôi.
Bản chất của ngƣời Trung Hoa rất tôn trọng đạo Hiếu. Giáo hoàng Benoit đã
hành động một cách hết sức dại dột là cấm họ thờ cúng tổ tiên, chẳng khác nào
xối một thùng nƣớc lạnh lên đầu họ. Họ nhìn đạo Công giáo La mã nhƣ một thứ
đạo dành riêng cho những kẻ bất hiếu đáng khinh bỉ và họ đã bỏ đạo không
luyến tiếc.
Theo thống kê năm 1980 thì dân số Trung quốc trên 1 tỉ ngƣời, số tín đồ Công
giáo La mã cũng vẫn là 3 triệu ngƣời, tức là chƣa đến 3 phần ngàn (0.3%).
Trong khi đó số tín đồ Tin Lành là 7 triệu, mặc dầu Tin Lành mới đƣợc truyền
vào Trung quốc từ đầu thế kỷ 20. (Theo nguyệt san Công giáo và Dân tộc, số
22, tháng 10/1996).
Tỉ lệ Công giáo La mã Việt Nam là khoảng 7% dân số toàn quốc, so với Trung
quốc chỉ có 0.3% thì tổng số Công giáo La mã Việt Nam rất cao. Tuy nhiên, tỉ
lệ cao này không phải là kết quả của sách lƣợc “Hòa để Hóa” mà là kết quả của
80 năm Pháp cai trị Việt Nam và 21 năm nhà Ngô cai trị miền Nam Việt Nam.
Dƣới hai chế độ Việt Nam Cộng hòa (1954-1975) bọn gián điệp văn hóa mặc áo
thầy tu đã ra sức tung hoành và xuyên tạc phá hoại văn hóa nƣớc nhà để quảng
bá nền văn hóa phi nhân và nô dịch của đạo Công giáo La mã. Tên gián điệp
văn hóa điển hình thuộc loại này là cố linh mục Lƣơng Kim Định đã bị nhà
nghiên cứu văn hóa Lê Trọng Văn vạch trần trong tác phẩm “Lột Mặt Nạ
Những Con Thò Lò Chính Trị” do tác giả xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1991, trang
334-455. Tác giả Lê Trọng Văn đã nêu lên một nhận xét hết sức chính xác nhƣ
sau: “Nho cũng nhƣ Thích, Lão đều là những thứ keo sơn gắn bó giữa các giai
tầng trong xã hội của các nƣớc châu Á... phá Nho không phải là một điều dễ
làm nếu không muốn nói đó chỉ là chuyện mộng du... giai cấp Nho sĩ Việt Nam
không phải hèn từ trong quá khứ xa xƣa, và trong hiện tại đã góp phần khá lớn
cho chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 vang lừng thế giới... Công giáo La mã
không thể đánh phá Nho bằng bạo lực thì phải tìm cách Hòa để Đồng Hóa dần
bằng kinh tế và và Đức Tin dƣới hình thức giả bộ đề cao Nho” (trang 352-353).
Lm. Lƣơng Kim Định đã bỏ ra nhiều công sức để “hòa nhập” vào đạo Nho bằng
cách nghiên cứu và viết nhiều sách về Nho giáo, đến nỗi học giả Nguyễn Hiến
Lê phải tuyên bố : “Thật lạ lùng! Ngƣời có công nghiên cứu đạo Khổng nhất, đề
cao Khổng nhất ở nƣớc ta từ trƣớc đến nay lại là một ngƣời Công giáo: giáo sƣ
Lƣơng Kim Định” (sách đã dẫn, trang 267).
Lm. Lƣơng Kim Định viết: “Cái nền tảng giáo lý Khổng Mạnh đã là công cụ
thống trị bóc lột của bọn vua chúa phong kiến Hán tộc và đã bị nhân dân tại nơi
sinh ra nó phế thải... Điều đó nói lên tính lỗi thời của giáo lý Khổng Mạnh”
(sách đã dẫn, trang 403).
Lm. Lƣơng Kim Định cũng viết nhiều về lịch sử Việt Nam và gây ấn tƣợng tác
giả đã thật sự “tìm về dân tộc”, nhƣng Lƣơng Kim Định chỉ nhắm xuyên tạc lịch
sử Việt Nam để xóa bỏ triều đại Hùng Vƣơng và thay thế bằng huyền thoại Bàn
Cổ của Trung quốc. (Sách đã dẫn, trang 362).
Nhà nghiên cứu văn hóa Lê Trọng Văn kết luận: “Những tác phẩm của linh mục
Lƣơng Kim Định đã thành công trên mặt giảng đạo... bằng lừa lọc công luận,
tạo điều kiện áp đặt văn hóa Kitô lên truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc.”
(sách đã dẫn, trang 371).
Nói tóm lại, sau hơn 4 thế kỷ truyền đạo tại Á châu với sách lƣợc “hòa để hóa”,
Vatican chẳng bao giờ có nổi „một vụ gặt bội thu‟ nhƣ mong ƣớc. Trái lại, tỉ số
chƣa đến 1% tín đồ đã nói lên sự thất bại nặng nề trong sách lƣợc truyền đạo
của Vatican. Ngày nay, nội dung chính yếu của bản tông huấn „Giáo hội tại Á
châu‟ vẫn là: “truyền đạo cho ngƣời Á châu với cung cách của ngƣời châu Á và
tạo cho ngƣời châu Á có cảm tƣởng Công giáo La mã là đạo của ngƣời châu Á
chứ không phải là đạo ngoại lai” v.v... Ngôn từ tuy có khác nhƣng ý chính vẫn
là “hòa để hóa”, vẫn chỉ là „bình cũ rƣợu mới‟, tất cả vẫn là tiếp tục đi trên con
đƣờng mòn thất bại. Con số tín đồ Công giáo La mã châu Á sẽ chẳng bao giờ
vƣợt quá tỉ lệ 1%!
Bản tông huấn của Gioan Phaolồ II không phải là một phép mầu của Chúa
Thánh Thần có thể đƣa giáo hội Công giáo Á châu ra khỏi con đƣờng bế tắc
hiện nay.
Nguyên nhân 2: Giáo hội La mã là một dị vật không thể hoà nhập vào văn hóa
Á châu.
Ba tôn giáo quan trọng tại Trung quốc, Nhật Bản và Việt Nam là đạo Phật, đạo
Lão và đạo Khổng. Cả ba đạo đều xuất phát từ những nhu cầu của xã hội và của
con ngƣời. Cả ba đạo đều nhằm một mục đích chung là phục vụ lợi ích thiết
thực của con ngƣời trong đời sống này. Cả ba tôn giáo đã tạo nên nét đặc thù
của văn hóa Việt Nam.
Đạo Phật: Phát sinh từ nhận thức cuộc đời đau khổ nhƣ một giòng sông, bên này
sông là “bến mê”, bên kia sông là “bờ giác”. Phật giáo vạch ra một „con đƣờng‟
để đƣa con ngƣời đến giác ngộ, hay nói cụ thể hơn là cung cấp cho con ngƣời
một cái bè qua sông không phải là „đức tin‟ mà là trí tuệ và tinh thần tự giác để
tự cứu. Đạo Phật không bắt buộc con ngƣời phải tôn thờ hoặc phải sợ hãi một
thần linh nào, không hăm dọa đầy đọa con ngƣời đời đời trong hỏa ngục và
không xiềng xích tín đồ vào những tín điều vô lí, phản lý trí và phản khoa học
nhƣ đạo Kitô.
Đạo Khổng: Xuất hiện tại Trung quốc trong thế kỷ 5 TCN. mục tiêu chính của
đạo Khổng là dạy con ngƣời cách xử thế:
- Hiếu: tỏ lòng thành kính biết ơn cha mẹ, tổ tiên.
- Đễ: thuận thảo với anh em.
- Trung: trung thành với quốc gia dân tộc.
- Thứ: cƣ xử với mọi ngƣời cho hợp lẽ.
Đạo Khổng đã góp phần quan trọng trong việc tạo thành một nếp sống văn hóa
lành mạnh trong xã hội Việt Nam, nhờ đó mọi ngƣời biết dùng lễ nghĩa cƣ xử
với nhau, tạo thành một thứ xã hội an bình, trên thuận dƣời hòa.
Đạo Khổng đề cao tinh thần thực tế, khiến cho mọi ngƣời chú tâm xây dựng
cuộc sống hiện tại. Khổng Tử nói: “vị tri sinh, an tri tử”, có nghĩa là „chúng ta
chƣa biết hết mọi chuyện của cuộc sống này thì đừng nên bận tâm về những gì
xảy ra sau khi chết.‟ Chúng ta không cần phải lo sau khi chết sẽ đi về đâu,
thiên đàng hay hỏa ngục? Cũng chẳng cần thắc mắc là ở trên có Thiên Chúa
hay không? Thiên Chúa có mấy ngôi? Chúa Cha có mấy con? Chúa sai đứa
nào xuống thế làm ngƣời hay làm con bò (Emmanu-el = the bull EL with us)?
Tinh thần thực tiễn của đạo Khổng đã tránh cho chúng ta khỏi rơi vào cái bẫy
của thần học hoang tƣởng Kitô giáo, một môn học chuyên đoán mò những
chuyện huyền hoặc nhảm nhí và phản khoa học. Đạo Khổng hoàn toàn không
có một tín điều nào và không dùng “đức tin” để cải tạo xã hội, đạo Khổng chỉ
tin tƣởng vào kết quả của sự giáo dục : Các công phu giáo huấn sẽ làm thay đổi
tƣ cách con ngƣời, từ đó xã hội sẽ đƣợc cải thiện để phục vụ con ngƣời. Con
ngƣời là cứu cánh phục vụ của đạo Khổng vậy.
Đạo Lão: Lão tử cùng thời với Khổng tử, tức là vào thế kỷ thứ 5 TCN. Tinh
thần của Lão tử rất cao siêu, tuy nhiên phần đông ngƣời Việt cũng thấm nhuần
đƣợc cái tinh thần thanh thoát bình thản của đạo Lão qua hơn hai ngàn năm đạo
này tồn tại trên đất nƣớc ta. Cái tinh thần bình thản đó là do hiểu đƣợc nguyên
lý tƣơng đối trong vũ trụ: Trong âm có dƣơng, trong dƣơng có âm. Khi gặp điều
may không vội mừng vì trong phúc có họa. Khi gặp điều dữ không buồn lo vì
trong họa có phúc. Lẽ tƣơng đối trong vũ trụ giúp ta hiểu đƣợc cả những điều
siêu hình: trong âm có dƣơng và trong dƣơng có âm, trong thiện có ác. Vậy
không thể có Đấng Toàn Thiện (Thiên Chúa). Ngƣợc lại, trong ác có thiện, vậy
cũng không thể có kẻ chỉ ác (Quỉ Satan). Thiên Chúa và Satan chỉ là sản phẩm
của óc tƣởng tƣợng.
Lão tử giải thích căn nguyên vũ trụ là Đạo: Đó chính là nguyên lý của thiên
nhiên vô hình vô sắc đã sinh ra âm dƣơng tƣơng khắc tƣơng sinh tạo thành vũ
trụ vạn vật. Dân tộc Việt Nam không đón nhận ba đạo Phật, Khổng, Lão bằng
niềm tin mù quáng nhƣng đã dùng lý trí chắt lọc tinh tuý chung của cả ba đạo
(tam giáo) để phục vụ đời sống của toàn dân. Cả ba đạo cùng sống trong lòng
dân tộc nhƣ một dòng chảy văn hóa duy nhất, đó chính là Tam giáo Đồng lƣu.
Ngoài những nét đặc thù của tam giáo, dân tộc Việt Nam còn có một đặc tính
văn hóa “cha mẹ hiền lành để đức cho con”. Học giả Đào Duy Anh, trong sách
„Việt Nam Văn Hóa Sử Cƣơng‟, gọi đặc tính ấy là „Nhân sinh quan lƣu ấm‟.
Học giả Đào Duy Anh đã nhận xét : Sau khi tam giáo đã bắt rễ trong xã hội, cả
ba đạo tuy khác nhau nhƣng chỉ có một đƣờng là chỉ dạy cho dân tộc ta ăn ở
hiền lành để tránh tai họa cho bản thân và để đức lại cho con cái. Nhân sinh
quan „lƣu ấm‟ là kết quả của sự tổng hợp tinh tuý của tam giáo, đã tạo nên một
đặc tính văn hóa rất cảm động của dân tộc ta.
Cây xanh thì lá cũng xanh
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Ai ai cũng không dám làm điều ác, không phải vì sợ Chúa phạt xuống hỏa ngục
mà chỉ sợ „đời cha ăn mặn, đời con khát nuớc‟, „Ác giả ác báo‟ theo luật nhân
quả! Mỗi khi gặp điều gì may mắn thì cho đó là „phúc đức của tổ tiên để lại.‟
Mỗi khi con cái khôn hơn mình, giỏi hơn mình thì vui mừng cho đó là cái phúc
của gia đình mình : „Con hơn cha là nhà có phúc‟!
Tam giáo đã tạo nên tinh thần gắn bó giữa tổ tiên và chúng ta, sau đó là mối liên
kết kế tục giữa chúng ta và con cháu đời sau. Dòng chảy thiêng liêng từ tổ tiên
đến con cháu muôn đời là ĐỨC. Đức đƣợc tạo thành do sự ăn ở hiền lành ngay
thẳng hợp với đạo làm ngƣời một cách tự nhiên theo lƣơng tâm hoặc theo Phật
tính sẵn có trong lòng mỗi ngƣời. Tam giáo đã đem đến cho dân tộc ta một triết
lý sống rất thực tiễn nhƣng cũng rất cao đẹp. Điều mà dân tộc ta tôn quí nhất là
Đức hiền lành (hiền đức)!
Ngƣời trồng cây hạnh ngƣời chơi
Ta trồng cây Đức cho đời mai sau!
Trong khi đó thì Giêsu trắng trợn dạy tín đồ “đạo bất hiếu” có ghi rành rành
trong Phúc âm Luke 14:20: “Bất cứ ai đến với ta mà không thù ghét cha mẹ, vợ
con và anh chị em mình thì không thể là tín đồ của ta.” Do lời dạy khốn nạn đó
của Giêsu nên giáo hoàng Clément XI đã ban hành sắc luật ngày 20/11/1704
cấm tín đồ Công giáo La mã không đƣợc thờ cúng tổ tiên, cấm đặt bài vị hoặc
hình ảnh của ngƣời quá cố trên bàn thờ. Giáo hoàng Nenoit XIV nhắc lại luật
cấm thờ tổ tiên năm 1742. Do luật cấm thờ tổ tiên ngu xuẩn của các giáo hoàng
La mã mà hầu hết giáo dân Trung Hoa đã bỏ đạo trong thế kỷ 18.
Mãi đến năm 1939, giáo hoàng Piô XII mới ban hành đạo luật „Plane
Compertum Est‟ cho phép giáo dân Trung Hoa thờ cúng tổ tiên nhƣ xƣa. Sau
Công đồng Vatican II năm 1964, bãi bỏ lệnh cấm thờ tổ tiên nên giáo dân Việt
Nam mới đƣợc phép tiến hành dâng hƣơng trƣớc bàn thờ gia tiên trong dịp cƣới
hỏi hoặc ngày giỗ v.v...
Mục đích chính của Vatican khi ra lệnh cấm thờ cúng tổ tiên cốt ý dành sự tôn
thờ cho một Thiên Chúa mà thôi. Ngoài Thiên Chúa ra, các tín đồ không đƣợc
tôn thờ một ai khác, dù ngƣời đó là cha mẹ tổ tiên của mình.
Qua những sự việc trên chúng ta thấy các tín đồ Công giáo La mã thật tội
nghiệp đáng thƣơng. Họ là một bầy nô lệ đã bị Vatican tƣớc đoạt hết quyền tự
do và nhân phẩm do sự ngu dốt của họ. Bọn lƣu manh khốn nạn ở Vatican đã
dành toàn quyền quyết định hoặc tƣớc đoạt hoặc cho phép họ đƣợc thờ cúng tổ
tiên của mình. Thật ra sự thờ cúng tổ tiên chẳng phải là một tôn giáo, ta quen
gọi là đạo ông bà, chỉ là một cách biểu lộ tình cảm gia đình đối với ngƣời thân
đã khuất mà chúng ta vẫn tha thiết chẳng muốn xa lìa quên lãng. Việc cúng giỗ
là một hình thức kỷ niệm để tỏ lòng biết ơn theo tinh thần “uống nƣớc nhớ
nguồn”. Bọn giáo hoàng ở Vatican cấm ngƣời Á châu thờ cúng tổ tiên là bọn
chúng đã ngang nhiên nhục mạ văn hóa Á châu và xúc phạm nặng nề đến tâm tƣ
tình cảm của ngƣời châu Á. Bọn lãnh đạo giáo hội Công giáo La mã sẽ phải trả
những giá rất đắt cho những hành động láo xƣợc và ngu xuẩn của chúng.
Tổng kết lại, chúng ta thấy Kitô giáo (gồm cả Công giáo và Tin lành) không thể
hòa nhập vào văn hóa Á châu, nhất là văn hóa Trung quốc, Nhật bản và Việt
Nam, do hai mặt đối lập chính yếu sau đây:
1.Tam giáo đƣợc xây dựng trên nền tảng nhân bản, trong khi đó Kitô giáo là
một tôn giáo hoàn toàn phi nhân (inhuman).
Nhƣ đã trình bày: Tam giáo xuất phát từ nhu cầu phục vụ con ngƣời chứ không
phục vụ một thần linh nào. Tam giáo không đặt vấn đề thờ phƣợng Thƣợng đế
mà chỉ chú trọng đến cái Tâm của con ngƣời: Con ngƣời đau khổ do mê muội
và dục vọng. Con ngƣời có thể tự cứu mà không cần phải cầu cứu hay ỷ lại vào
một thần thánh nào. Đó là tính nhân bản của Tam giáo. Trái lại, nền tảng các
đạo độc thần (Do thái, Kitô, Hồi) đều đặt trên niềm tin vào Thiên Chúa và phải
tôn thờ Thiên Chúa trên hết mọi sự. Tiêu biểu tinh thần cho các đạo Chúa là
chuyện Abraham dám giết ngƣời mà ông ta yêu thƣơng nhất để tế Chúa thì tất
nhiên ông ta cũng không ngần ngại giết bất cứ ai hoặc giết vô số ngƣời khác để
phục vụ tinh thần hiếu sát vô độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa thực sự là một ác
thần khát máu và các tín đồ thờ đạo Chúa đều là những kẻ hiếu chiến, hiếu sát.
Đó là một đặc tính phi nhân (hoặc vô nhân đạo) của các đạo Chúa nói chung và
của Kitô giáo nói riêng, không thể nào hòa nhập vào đời sống ngƣời Á châu vốn
thấm nhuần triết lý nhân bản của tam giáo.
2.Cả ba đạo Phật, Khổng, Lão thật sự là ba triết thuyết đƣợc xây dựng trên căn
bản lý trí, trái với Kitô giáo là một tôn giáo thần bí dựa trên những tín điều do
kẻ lập đạo tự ý đặt ra để bắt các tín đồ phải tin theo. Các tín dồ không có quyền
dùng lý trí để phê phán các tín diều dù cho họ nhận thức đƣợc các tín điều đó là
vô lý.
Họ chỉ có một con đƣờng duy nhất để trở thành tín đồ Kitô giáo là hoàn toàn
chấp nhận vô điều kiện toàn bộ các tín điều của đạo Kitô theo đúng lời dạy ngu
xuẩn của Giêsu : “Phúc cho những ai không thấy mà tin”!
Kitô giáo là một tôn giáo hoàn toàn xây dựng trên niềm tin và phủ nhận lý trí.
Điều đó đủ cho thấy mọi tín đồ Kitô giáo (Công giáo, Tin lành) đều là những kẻ
vô minh mê muội. Kitô giáo chẳng khác nào bóng tối, khi nó đến gần Tam giáo
nó sẽ bị ánh sáng trí tuệ của Tam giáo làm cho nó tiêu tan. Kitô giáo chẳng bao
giờ có khả năng hòa nhập vào Tam giáo vì nó đã bị hoàn toàn tiêu tan trƣớc khi
nó có thể hoà nhập. Chính vì vậy, trong hai ngàn năm qua, trong lòng dân tộc
Việt Nam luôn luôn tồn tại Tam giáo Đồng lƣu, nhƣng sẽ không bao giờ có sự
hòa nhập của Kitô giáo để biến thành “tứ giáo đồng nguyên”. Điều quái đản này
sẽ chẳng xẩy ra trên đất nƣớc Việt Nam.
Nguyên nhân 3: Thái độ kiêu căng láo xƣợc của Vatican đã đẩy các dân tộc Á
châu vào thế đối đầu và dẫn đến sự thất bại nhục nhã của đạo Công giáo La mã.
Đã hai ngàn năm qua, ba đạo Phật-Khổng-Lão sống chung hòa bình trong lòng
dân tộc Việt Nam, không một lần gây xáo trộn xã hội và cũng không một lần
đƣa dân tộc vào vòng nô lệ ngoại bang. Cả ba đạo đều tỏ thái độ tƣơng thân
tƣơng kính, hòa nhã khiêm cung đúng nhƣ tƣ cách của ngƣời quân tử. Thái độ
này hoàn toàn phù hợp với tinh thần hòa nhã nhún nhƣờng cố hữu của ngƣời
Việt Nam:
Ai nhất thì tôi thứ nhì
Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba.
Trái lại, thái độ của Công giáo La mã (mà đại diện của nó là Vatican) luôn luôn
trịch thƣợng, hung hăng, láo xƣợc. Công giáo luôn kiêu hãnh tự cho mình ngôi
vị độc tôn và lên mặt coi thƣờng tất cả các tôn giáo khác trên thế giới.
Trong bản tông huấn “Giáo hội Á châu”, giáo hoàng Gioan Phaolồ II viết: “Đức
Giêsu Kitô là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài ngƣời. Ngài đã là
Đấng Cứu độ duy nhất cho toàn thể loài ngƣời.... khác hẳn với các vị sáng lập
các tôn giáo khác.” Giáo hoàng Goan Phaolồ II muốn đề cao Giêsu trên các
giáo chủ khác vì hai lý do hoàn toàn giả tạo.
Thiên Chúa là sản phẩm của tƣởng tƣợng nên hoàn toàn không có thật, do đó
chẳng làm gì có chuyện Giêsu là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài
ngƣời. Dân Á châu đi tìm sự cứu độ tự bản thân mình, chứ không tìm sự cứu độ
từ bên ngoài, do đó cái huyền thoại cứu độ của Giêsu chỉ là một món hàng thừa
thãi vô dụng chỉ đáng vứt xuống hố rác mà thôi. Cũng vì thế, mặc dầu Giêsu đã
sinh ra trên lục địa Á châu từ hai ngàn năm qua nhƣng y vẫn là kẻ vô danh trên
lục địa này.
Trong một đoạn khác của bản tông huấn, Gioan Phaolồ II còn nhục mạ các tôn
giáo Á châu một cách nặng nề hơn nữa : “Các tôn giáo Á châu nhƣ Do thái
giáo, Hồi giáo, Ấn độ giáo, Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo, Hỏa giáo, đạo
Sikh và Thần đạo... các giá trị tôn giáo mà các đạo ấy giảng dạy đang chờ đƣợc
hoàn thành trong đức Giêsu Kitô.” Đây là một luận điệu láo xƣợc đến độ trâng
tráo lố bịch ngoài sức tƣởng tƣợng của mọi ngƣời. Gioan Phaolồ II tuyên bố
nhƣ trên nhằm xuyên tạc và hạ bệ tất cả các giáo chủ khác xuống thành những
“công cụ dọn đƣờng” cho Giêsu vì Giêsu là giáo chủ cuối cùng và cao nhất có
sứ mạng hoàn thành chân lý?
Chúng ta hãy tự hỏi Giêsu thật sự là ai? Và đạo Công giáo La mã thật sự là đạo
gì? Lịch sử và khoa học khảo cổ đã chứng minh Công giáo chỉ là đạo thờ bò cải
biến. Giáo lý Kitô giáo chứng minh Giêsu là một đứa con mất dạy loạn luân với
mẹ. Sách Tân ƣớc Mathew 1:23 ghi nhận Giêsu là một con bò: “Này, trinh nữ sẽ
mang thai và sinh ra một đứa con trai, nó sẽ đƣợc đặt tên là Emmanu-EL.”
(Behold, a virgin shall be with child and shall bring forth a son and they shall
call his name Emmanu-EL). Theo nguyên nghĩa tiếng Hebrew, Emmanu-EL có
nghĩa là con bò EL ở cùng chúng ta. (The bull EL among us).
Phải chăng các giáo thuyết mà đức Phật Thích Ca, đức Khổng tử, Lão tử giảng
dạy đều thiếu sót và cần phải đợi con bò Giêsu hoặc đứa con loạn luân với mẹ
để hoàn thành hay sao?
Thái độ trịch thƣợng và láo xƣợc của Gioan Phaolồ II và Vatican đã đẩy các tôn
giáo và các dân tộc Á châu vào thế đối đầu. Bọn chúng quên rằng các tôn giáo
và các dân tộc Á châu có dƣ khả năng khai tử Công giáo La mã trên lục địa này.
Với thái độ kiêu căng ngạo mạn, khinh thƣờng các tôn giáo Á châu, bọn tu sĩ
Công giáo La mã đang tự đào hố chôn mình. Bản chất phi nhân và phản lý trí
của Kitô giáo (gồm cả Công giáo và Tin lành) không cho phép Kitô giáo có thể
hòa đồng với thực tại văn hóa tam giáo của Việt Nam nói riêng và của các nƣớc
Trung Hoa-Nhật Bản-Việt Nam nói chung. Kitô giáo sẽ mãi mãi là một dị vật
văn hóa và sẽ bị đào thải. Với thái độ trịch thƣợng láo xƣợc của đại đa số tu sĩ
Công giáo La mã, bọn chúng không chỉ đƣa Giáo hội Công giáo tới ngõ cụt mà
là tới tử địa trên mảnh đất quê hƣơng Việt Nam của chúng ta.
Charlie Nguyễn
Tháng 7-2003
Việt Nam Cần Thƣc Hiện Những Biện Pháp Mạnh Để Đối Phó Với Quốc Nạn
Công Giáo – Tin Lành.
(Để riêng tặng hai ngƣời đã gợi ý cho tôi viết bài này: TG., Öc châu và HNL.,
Thụy sĩ)
Charlie Nguyễn
Tại các nƣớc Tây phƣơng hiện nay, những công trình nghiên cứu về Kitô
giáo (gồm chung cả Công giáo lẫn Tin lành) có thể đã lên tới hàng chục ngàn
tác phẩm. Đây chính là những sản phẩm tim óc của những ngƣời trí thức Tây
phƣơng thuộc đủ mọi ngành kiến thức và đặc biệt là của những tu sĩ cao cấp
tỉnh ngộ. Những công trình nghiên cứu của họ đã phơi bày thực chất xấu xa tội
lỗi của Kitô giáo nói chung và đặc biệt là của Giáo hội Công giáo mà cơ quan
lãnh đạo tối cao của nó là Tòa thánh Vatican. Nhờ đó, ngày 12.3.2000, Vatican
đã phải làm lễ long trọng thú tội trƣớc nhân loại và cũng nhờ đó mọi ngƣời đã
nhận ra rằng: Công giáo La mã không phải là một tôn giáo chân chính mà thực
chất chỉ là một thứ đế quốc trá hình.
Đạo Công giáo La mã (Roman catholic) nhƣ ta thấy hiện nay hoàn toàn
khác hẳn với đạo Kitô nguyên thủy (The Early Christianity). Tôi đã trình bày
vấn đề này trong Chƣơng I sách “Thực Chất Đạo Công giáo và Các Đạo Chúa”,
GĐ xuất bản Xuân 2003, dƣới tiểu đề “Thập Giá và Lƣỡi Gƣơm của Đại Đế
Constantine”. Thật vậy, đạo Công giáo La mã chẳng phải do Jesus lập ra nhƣ
nhiều ngƣời lầm tƣởng. Chính hoàng đế La mã Constantine với chủ tâm biến
Kitô giáo thành công cụ xâm lƣợc và thống nhất toàn đế quốc nên y đã đích
thân đạo diễn lập nên các công đồng (Councils) để từ đó đẻ ra các tín điều, giáo
lý và định chế căn bản cho giáo hội Công giáo. Tất cả các bản chính của các
sách Thánh kinh Tân ƣớc của Kitô giáo Nguyên thủy đều bị sửa đổi theo ý của
Constantine và các di tích thật của Jesus ở Jerusalem đều bị phá hủy. Công giáo
La mã đã đƣợc xây dựng trên nền tảng của những mƣu mô bịp bợm và ngụy tạo
để phục vụ cho những tham vọng đen tối của chủ nghĩa đế quốc.
Bề ngoài, các tín đồ Công giáo – Tin lành đều suy tôn Jesus lên làm Thiên
Chúa toàn năng, nhƣng bọn lãnh đạo tối cao của các tín đồ đáng thƣơng đó thật
sự chỉ coi Jesus nhƣ một hình nộm. Nói đúng hơn, Jesus chỉ là một tấm bình
phong do bọn đế quốc dựng lên để chúng núp phía sau lợi dụng trong mƣu đồ
thâu đoạt quyền lực và của cải vật chất. Trong các thế kỷ từ 4 đến 7, đế quốc La
mã Byzantine đã xử dụng Jesus và cây thập giá của ông ta làm lá cờ xâm lƣợc
Âu châu và Bắc Phi. Trong những thế kỷ kế tiếp, các bạo chúa Công giáo nhƣ
Clovis, Charlemagne đã dùng bạo lực để ép buộc các nƣớc Âu châu phải theo
đạo. Bất cứ ai bất tuân lệnh đều bị tàn sát dã man. Chính vì thế mà nhiều nƣớc
Âu châu đã trở thành những nƣớc toàn tòng Công giáo. Tuy nhiên, bắt đầu từ
cuối thế kỷ 18 với sự xuất hiện của Phong trào Soi sáng (Enlightenment
Movement) các nƣớc Tây phƣơng bắt đầu tỉnh ngộ và đạo Công giáo cũng bắt
đầu đi vào con đƣờng suy thoái. Tới nay, sự suy thoái của Công giáo tại các
nƣớc Tây phƣơng đã trở nên hết sức trầm trọng đến nỗi Vatican đã phải tìm đất
sống tại Á châu với ảo vọng sẽ cải đạo cho khối ngƣời khổng lồ của lục địa này
là 3.5 tỷ ngƣời!
Với bản chất đế quốc bất biến, Vatican không bao giờ từ bỏ tham vọng xâm
lƣợc văn hóa và chính trị nƣớc ta.Vatican luôn luôn tỏ thái độ xấc xƣợc ngạo
mạn và bọn Việt gian làm nhiệm vụ gián điệp cho Vatican vẫn đã và đang ra
sức phá hoại nền văn hóa Việt Nam. Bảy triệu tín đồ Công giáo hầu hết vẫn giữ
nguyên bản chất phản quốc cố hữu và họ chỉ chờ có cơ hội sẽ vùng dậy để thực
hiện khẩu hiệu “Phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm”!
Bảy triệu tín đồ Công giáo tại quốc nội là đạo quân thứ năm bản địa dƣới sự
lãnh đạo của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Hội đồng này do Vatican tuyển
chọn và phong chức nên. Hội đồng Giám mục Việt Nam hiện nay gồm toàn
những cán bộ tuyệt đối trung thành với Vatican. Họ sẵn sàng phản bội tổ quốc
Việt Nam vì tổ quốc thật của họ là “nƣớc Chúa Vatican”!.
Tại miền Nam Việt Nam dƣới thời Nguyễn văn Thiệu, Công giáo chỉ chiếm
khoảng 7% dân số nhƣng tại quốc hội của miền Nam thời đó Công giáo đã
chiếm tới 2/3 tổng số các dân biểu nghị sĩ! Điều đó cho thấy khối lƣợng 7 triệu
giáo dân là một lực lƣợng chính trị quan trọng không thể xem thƣờng. Khi có
biến động, lực lƣợng chính trị này rất dễ dàng biến thành lực lƣợng quân sự nhƣ
đã từng xảy ra tại Bùi Chu, Phát Diệm dƣới sự lãnh đạo của Giám mục Phạm
ngọc Chi và Giám mục Lê hữu Từ, hoặc tại Kiến Hòa, Vĩnh Long dƣới sự lãnh
đạo của đại tá Le Roy trong những năm 1949-1954.
Một khi có biến động xảy ra, lực lƣợng Công giáo tiềm ẩn trong nƣớc sẽ
đƣợc sự hỗ trợ mạnh mẽ của trên 200.000 ngƣời Việt Công giáo tại hải ngoại để
tạo nên thế “nội công ngoại kích” ngoạn mục, ấy là chƣa kể đến sự trợ lực của
các “đồng minh quốc tế” !
Bên cạnh hiểm họa Công giáo còn có một hiểm họa khác không kém phần
nghiêm trọng, đó là hiểm họa Tin lành. Mặc dầu Tin lành không phải là một
giáo hội thuần nhất nhƣ Công giáo (hiện nay trên thế giới có khoảng 300 giáo
phái Tin lành khác nhau) nhƣng có một số giáo phái Tin lành hiện nay đã phát
triển thành những tổ chức tôn giáo rất lớn với số tín đồ đông đảo lên tới hàng
chục triệu ngƣời. Các giáo phái này có tổ chức qui mô và có tài sản khổng lồ do
sự đóng góp của các tín đồ từ 2 đến 10% tổng số lợi tức hàng năm. Đáng kể
nhất là giáo phái Tin lành Baptist, giáo phái Cơ đốc Phục lâm và nhân chứng
Jehovah.
Trong thập niên 1980, giáo phái Baptist đã có 3000 nhân viên hoạt động
truyền giáo trong 94 quốc gia. Tổ chức Tin lành “Thanh niên Truyền giáo Quốc
tế” (International Youth for a Mission) có 12.500 nhân viên truyền giáo hoạt
động tại 130 quốc gia. Tham vọng xâm lƣợc văn hóa chính trị của các giáo phái
Tin lành qua con đƣờng truyền giáo rất hung hãn không kém gì tham vọng của
Vatican. Từ thập niên 1980, tổ chức Tin lành của mục sƣ Pat Robertson đã đƣa
ra một khẩu hiệu hết sức kiêu ngạo là “Chƣơng trình Thay đổi Thế giới”
(Program to change the World). Họ chủ trƣơng dùng các phƣơng tiện truyền
thanh và truyền hình để giảng đạo bằng nhiều thứ tiếng, ƣu tiên hàng đầu nhắm
vào Trung quốc và Nhật bản.
Năm 1991, sau khi nƣớc Nga mở cửa tự do và công bố chính sách tự do tôn
giáo, một tổ chức Tin lành tại tiểu bang Texas đã dùng một chiếc tàu lớn để chở
232 tấn Kinh thánh Tin lành bằng Nga ngữ để xâm nhập nƣớc Nga. (Tất cả số
liệu này đều đƣợc rút ra từ tác phẩm “Salvation for Sale” của Gerard Thomas
Straub, Prometheus Book xuất bản năm 1996).
Công giáo và Tin lành hoạt động riêng biệt và có những mục tiêu riêng
nhƣng cả hai đều là những hiểm họa cho sinh mệnh của dân tộc. Tất cả đều đƣa
đến một hậu quả là làm phân tán đại khối dân tộc, phá nát truyền thống văn hóa
nhân bản lâu đời của tộc Việt và nhất là làm suy yếu tiềm lực quốc gia trong
mọi nỗ lực dựng nƣớc và giữ nƣớc.
Mọi ngƣời Việt Nam yêu nƣớc, dù đang sống tại quốc nội hay tại hải ngoại
và dù cho xu hƣớng chính trị khác biệt nhau ra sao, cũng cần phải cảnh giác
trƣớc thứ vũ khí văn hóa hiểm độc của chủ nghĩa đế quốc đội lốt tôn giáo (Công
giáo, Tin lành).
Dân tộc Việt Nam đã từng đánh thắng nhiều tên xâm lƣợc lớn mạnh hơn
mình gấp nhiều lần về mặt quân sự, nhƣng dân tộc ta đã “thất trận” khi địch
xâm lƣợc nƣớc ta bằng thứ vũ khí văn hóa đội lốt tôn giáo! Chúng ta đã thất bại
chủ yếu do những đoàn quân thứ năm hùng hậu làm nội ứng cho địch. Cũng
chính đạo quân thứ năm này đã là con bài chủ lực trong chính sách “chia để trị”
để kéo dài sự thống trị của chúng.
Từ đầu năm 2001 đến nay, những biến động xảy ra do ngƣời Thƣợng Tin
lành ở Pleiku và ở miền thƣợng du Việt Bắc đã thực sự là những hồi chuông báo
động về mối hiểm họa Tin lành. Kinh nghiệm Trung quốc cho thấy Công giáo
phát triển rất chậm so với Tin lành: Sau nhiều thế kỷ truyền đạo tới năm 1982
số tín đồ Công giáo Trung quốc chỉ có 3 triệu ngƣời trên 900 triệu dân. Trong
khi đó, Tin lành mới xâm nhập vào Trung quốc từ đầu thế kỷ 20, nhƣng đến
năm 1982 số tín đồ Tin lành là 7 triệu ngƣời, tức gấp hơn hai lần tín đồ Công
giáo!
Hƣớng về tổ quốc Việt Nam, giới trí thức hải ngoại nặng tình dân tộc không
khỏi lo ngại trƣớc tình hình hiện nay: Dƣờng nhƣ ngƣời Việt trong nƣớc chƣa
đánh giá đúng mức mối hiểm họa Công giáo – Tin lành. Có thể còn nhiều ngƣời
vẫn lầm tƣởng Công giáo – Tin lành đồng nghĩa với “văn minh Tây phƣơng”.
Thực sự Công giáo là thủ phạm đã tiêu diệt nền văn minh khoa học của Hy lạp
trong thế kỷ 5, đàn áp các phong trào tƣ tƣởng tiến bộ tại Âu châu trong nhiều
thế kỷ khiến cho nền văn minh chung của nhân loại đã bị thụt lùi tới hơn một
ngàn năm! Công giáo không phải chỉ là kẻ thù của dân tộc Việt Nam mà còn là
kẻ thù chung của cả loài ngƣời chúng ta.
Tổng số ngƣời Việt ở hải ngoại hiện nay khoảng trên hai triệu ngƣời. Số
ngƣời Việt Công giáo chỉ có khoảng 200.000 ngƣời nhƣng là sở hữu chủ của
phần lớn các cơ sở báo chí và truyền thanh truyền hình. Ngƣời Việt Công giáo
hải ngoại luôn luôn lớn tiếng kết tội những ngƣời “Cộng sản vô thần” vi phạm
đủ thứ nhân quyền và đặc biệt là đàn áp tôn giáo. Nhƣng trong thực tế chính họ
là những ngƣời về thăm Việt Nam nhiều nhất và mang tiền về xây nhà thờ, nhà
xứ nhiều nhất. Hiện nay có nhiều ngƣời về thăm quê hƣơng đã phải sửng sốt
ngạc nhiên thấy những thánh đƣờng và nhà xứ nguy nga lộng lẫy đƣợc xây cất
sau 1975!
Nếu chính quyền Việt Nam đàn áp tôn giáo, tại sao Công giáo có thể tổ chức
“Lễ hội La vang” qui tụ trên một trăm ngàn tín đồ trong năm 1999? và tại sao
các giám mục và linh mục đƣợc phép xuất ngoại nƣờm nƣợp nhƣ đi chợ?
Phải chăng chính quyền Việt Nam đã quá tin tƣởng vào sự phản tỉnh dân tộc của
7 triệu tín đồ Công giáo nên đã quá lơ là cảnh giác và quá buông lỏng dễ dãi với
họ?
Trên trang nhà Giao Điểm (giaodiem.com và giaodiem.net) tháng 3-2003 có
đăng bài viết tựa đề: “Việt Nam phải cẩn thận về một tập đoàn cực kỳ hiếu
chiến”, hai tác giả của bài viết này là Đào duy Toàn và Hồng Hà Lý trọng Võ đã
khẩn thiết lên tiếng kêu gọi chính quyền Việt Nam cần đặc biệt quan tâm đến
vấn đề cấp bách là phải diệt trừ tham nhũng để không cho đạo quân thứ năm của
địch xâm nhập các cơ cấu chính quyền để lũng đoạn. Hai tác giả bày tỏ nỗi
niềm tha thiết của mình đối với mối lo chung của cả dân tộc: “Đây là lời cảnh
báo chí tình của những ngƣời Việt xa quê!”.
Trong tháng 2/2003, trang nhà Giao Điểm có đăng bài tham luận rất giá trị
mang tựa đề: “Đối trị với sách lƣợc của Vatican” của Nhật Nam và Phạm phú
Bổn. Hai tác giả nhấn mạnh đến tính chất đế quốc bất biến của Vatican là luôn
luôn xâm lăng văn hóa chính trị trên toàn cầu và Việt Nam là kẻ thù lịch sử của
Vatican.
Theo hai tác giả thì Giáo hội Công giáo có bốn thuộc tính:
1. Luôn luôn khống chế thế quyền để phát triển giáo quyền.
2. Tu sĩ cũng nhƣ giáo dân Công giáo luôn luôn tìm cách “mở mang nƣớc
Chúa” dù phạm tội ác.
3. Trong hiện tại, Công giáo VN có thể lợi dụng các cánh tay nối dài của Tây
phƣơng (nhƣ Kinh tế thị trƣờng, thông tin đại chúng) để khuynh loát chính
quyền nhằm tạo lợi thế.
4. Giáo hội Công giáo VN là đạo quân thứ năm (của Vatican) có tính chất
chuyên nghiệp, bản địa. Đây là một lực lƣợng chính trị quần chúng có tổ chức
chặt chẽ và có lãnh đạo quy mô. Trong trƣờng hợp có biến động, lực lƣợng tiềm
ẩn này sẽ nối kết chặt chẽ với Công giáo VN hải ngoại thành một thế “nội công
ngoại kích” nguy hiểm.
Để kết thúc bài tham luận trên, hai tác giả đƣa ra một số biện pháp để đối trị với
sách lƣợc của Vatican, tôi đặc biệt quan tâm và nhiệt liệt tán thành hai biện
pháp sau đây:
Thứ nhất: Trong đoản kỳ, chúng ta chấp nhận sự hiện diện của Giáo hội Công
giáo VN nhƣ một thành phần dân tộc. Nhƣng chúng ta cần phải ý thức dứt khoát
rằng: Bảy triệu tín đồ Công giáo VN là một loại ung thƣ cực kỳ nguy hiểm trên
cơ thể quốc gia, do đó cần phải tìm cách cô lập chặt chẽ để giới hạn tối đa sức
bành trƣớng của nó và hạn chế tối đa sức công phá để kéo dài cuộc sống của nó.
Thứ hai: Cần có một chính sách thích đáng đối với Công giáo VN đặt trên cơ sở
giáo dục nhằm giúp họ phản tỉnh để sớm trở về với dân tộc. Đồng thời cần phải
giới hạn tối đa mọi liên hệ giữa họ với Vatican để dần dần đi tới sự hình thành
giáo hội Công giáo VN tự trị.
Hai điều nói trên rất xác đáng nhƣng đã đƣợc nêu lên nhƣ những nguyên tắc
tổng quát có tính cách chỉ đạo. Tôi viết bài viết này với mục đích đề xuất một số
đề nghị cụ thể và chi tiết để góp ý với các giới chức có trách nhiệm về tôn giáo
ở Việt Nam trong vấn đề khó khăn hiện nay là vừa phải đối phó với sách luợc
của Vatican, vừa phải đối phó với những cụ biến loạn do những ngƣời Tin lành
gây ra.
Những biện pháp tôi đề xuất chủ yếu nhằm thực hiện sự cô lập chặt chẽ để
giới hạn tối đa sức bành trƣớng của Công giáo và Tin lành, chú trọng công tác
giáo dục qua sách báo để giúp họ phản tỉnh và sau hết là tạo mọi điều kiện để
sớm hoàn thành một giáo hội Công giáo tự trị của ngƣời Việt Nam. Đó là một
giáo hội Công giáo độc lập, tự quản và hoàn toàn tách rời khỏi sự thống trị độc
đoán của bọn lƣu manh quốc tế đội lốt thày tu ở Vatican.
Trƣớc khi đi vào vấn đề chính yếu này, chúng ta hãy dành một ít thời gian
để duyệt qua bài học kinh nghiệm của Trung quốc trong việc đối phó với sách
lƣợc của Vatican trong hơn nửa thế kỷ qua. Những bài học quí giá của Trung
quốc chắc chắn sẽ đem lại cho chúng ta nhiều điều bổ ích.
Những kinh nghiệm quí giá của Trung quốc từ 1949 đến nay:
Giáo sƣ sử học Michael Mi Chengfeng, thuộc trƣờng Đại học Nhân dân Bắc
kinh, đã viết một bài đặc biệt về “Quan hệ ngoại giao Trung quốc – Vatican”.
Bài viết bằng Anh ngữ đựơc đăng trên tờ Tripod tháng 10-1996, đƣợc dịch sang
Pháp ngữ đăng trên tạp chí Giáo hội tại Á châu (Église de l‟Asie). Bản dịch Việt
ngữ đƣợc đăng trên Nguyệt san “Công giáo và Dân tộc” (không rõ số báo và
ngày tháng phát hành).
Tác giả điểm qua vài nét chính của lịch sử giáo hội Công giáo tại Trung
quốc: Đạo Công giáo đã có mặt rất sớm tại Mông cổ từ cuối thế kỷ 13. Tại lục
địa Trung quốc, công cuộc truyền giáo thực thụ đƣợc xác định là năm 1583 khi
linh mục dòng Tên ngƣời Ý Matteo Ricci đặt chân lên đất nƣớc này. Matteo
Ricci tự ý đổi tên thành Mã Lợi Đậu, ăn mặc theo kiểu Trung quốc, giảng đạo
bằng ngôn ngữ địa phƣơng và viết nhiều sách bằng chữ Hán. Ricci sống liên tục
tại Trung quốc đề giảng đạo trong 27 năm, gây đƣợc nhiều ảnh hƣởng lớn tại
triều đình Trung quốc và trong giới nho sĩ. Khi qua đời vào năm 1610, Ricci đã
đƣợc triều đình Trung quốc làm lễ quốc táng.
Đầu thế kỷ 18, tức cuối đời nhà Minh, Trung quốc có 1 triệu tín đồ Công
giáo. Luo Wenzao là ngƣời Hoa đầu tiên đƣợc Vatican phong chức giám mục
cai quản giáo phận Nam Kinh.
Năm 1949, Chủ nghĩa Cộng sản chiến thắng và nắm quyền cai trị toàn lục
địa Trung hoa. Vào thời điểm đó giáo hội Công giáo Trung quốc có 3 triệu tín
đồ, chiếm tỷ lệ 0.58% dân số toàn quốc. Tuy tỉ số giáo dân rất nhỏ nhoi nhƣng
giáo hội Công giáo Trung quốc là sở hữu chủ của nhiều trƣờng đại học và học
viện và bệnh viện rải rác khắp nơi trong nƣớc.
Ngày 30.11.1949, giáo hội Công giáo Trung quốc tuyên bố cắt đứt quan hệ với
Vatican để biến thành Giáo hội Tự trị với khẩu hiệu “Tam Tự”:
1. Tự chủ về lãnh đạo (hoàn toàn độc lập với Vatican)
2. Tự chủ về quản trị tài chánh
3. Tự chủ về nhân sự và họat động (không cần thừa sai và các tu sĩ nam nữ
ngoại quốc).
Ngày 4-9-1951, chính phủ Trung quốc trục xuất khâm sứ Tòa thánh Antonio
Riberi, chính thức chấm dứt mọi quan hệ ngoại giao với Vatican.
Năm 1955, chính phủ Trung quốc trục xuất tất cả các tu sĩ ngoại quốc (bao
gồm 1/3 tổng số nữ tu, ½ tổng số linh mục và 4/5 tổng số giám mục). Trong
biến cố này chúng ta cần đặc biệt lƣu ý đến Hội đồng Giám mục Trung quốc.
Hội đồng này đƣợc Vatican thiết lập ngày 11-4-1946 gồm có 3/4 giám mục là
ngƣời ngoại quốc và chỉ có 1/5 là ngƣời Trung quốc mà thôi. Việc trục xuất các
giám mục ngoại quốc năm 1955 trong thực tế chính là sự giải tán Hội đồng
Giám mục Trung quốc do Vatican lập nên. Kể từ 1955 đến 1958, chính phủ
Trung quốc tuyển chọn và phong chức cho 13 giám mục mới không cần sự ƣng
thuận của Vatican. Đến năm 1962, tổng số giám mục đƣợc tấn phong lên tới 42
ngƣời. Năm 1980, chính phủ Trung quốc chính thức lập ra hai tổ chức cho giáo
hội Công giáo:
1. Hội đồng Giám mục Trung quốc chuyên lo việc đạo
2. Ủy ban Hành chánh Công giáo Trung quốc đảm trách việc liên lạc giữa giáo
hội Công giáo với chính quyền.
Năm 1982, Hiến pháp mới của Trung quốc có điều khoản: “Trung quốc
chống lại sự thống trị của bên ngoài đối với các giáo hội trong nƣớc”.
Trong đầu thập niên 1980, giáo hoàng John Paul II đã nhiều lần lên tiếng
“hòa giải‟ với Trung quốc, tuy nhiên chính quyền Trung quốc đã đáp lại bằng
“Văn bản số 3” của Hội đồng Nhà nƣớc trong tháng 2-1989 với tựa đề “Chỉ thị
của Đảng về cách thế điều hành giáo hội Công giáo trong tình hình mới” :
Ngƣời Công giáo Trung quốc có thể nhìn nhận giáo hoàng là thủ lãnh tinh thần
của mình nhƣng tu sĩ và tín đồ Công giáo Trung quốc không đƣợc phép trực
tiếp liên hệ với Vatican và giáo hội Trung quốc vẫn tiếp tục lựa chọn và tấn
phong các giám mục của mình. Giáo hội Trung quốc không thể bị đặt dƣới
quyền cai trị của bất cứ tổ chức hay cá nhân nào ở ngoài Trung quốc. Trung
quốc không chấp nhận việc ngƣời nƣớc ngoài thao túng chủ quyền Trung quốc
hặoc thực thi một hình thức kiểm soát hành chánh nào trên lãnh thổ Trung quốc.
Đề nghị một số biện pháp cụ thể để cứu nguy dân tộc khỏi nạn Công giáo –
Tin lành.
Biện pháp một: Trƣớc hết, chúng ta cần có một Tu chính Hiến Pháp xác định
chủ quyền quốc gia là chủ quyền tối thƣợng. Mọi sự thống trị của bên ngoài đối
với giáo hội trong nƣớc đều là những hình thức xâm phạm chủ quyền tối thƣợng
của quốc gia. Giáo hội Công giáo VN và các tổ chức “Hội thánh Tin lành”
không thể bị đặt dƣới quyền cai trị hoặc khống chế bời một tổ chức hay cá nhân
nào ngoài Việt Nam.
Tu chính án hiến pháp sẽ là một điều khoản luật pháp tối cao nhƣ ngọn lửa
hải đăng hƣớng dẫn và điều chỉnh mọi văn kiện luật pháp cũng nhƣ mọi định
chế của tôn giáo hay của chính phủ nầu không phù hợp sẽ đều phải đƣợc điều
chỉnh lại. Tinh thần của Tu chính án Hiến pháp nói trên sẽ đƣợc đƣa đến hệ quả
trực tiếp là phải đƣa Giáo hội Công giáo VN ra khỏi sự thống trị của Vatican
nhƣ hiện nay để tiến tới sự hình thành một “Giáo hội Công giáo VN Tự trị”.
Vatican là một tên đế quốc đầu sỏ lâu đời nhất và nguy hiểm nhất. Nó đã đƣợc
giới học giả Tây phƣơng gọi là “Con Bạch tuộc của Đức Chúa Trời” (Octopus
Dei). Về thần quyền nó là thủ đô tinh thần của gần một tỉ thần dân là các tín đồ
Công giáo trên khắp thế giới. Về thế quyền, nó là một quốc gia riêng biệt, có
lãnh thổ riêng, quốc kỳ, quốc ca riêng. Giáo hoàng là quốc trƣởng đứng đầu một
nội các gồm có nhiều bộ. Quốc gia Vatican có quan hện ngoại giao với hầu hết
các quốc gia trên thế giới trên cấp bậc đại sứ. Chúng ta nên theo gƣơng Trung
quốc cắt đứt mọi liên hệ ngoại giao với tên đế quốc đầu sỏ này. Cái đầu của con
Bạch tuộc đế quốc ở tại Rome, nhƣng mỗi cái vòi của nó chính là giáo hội công
giáo tại mỗi quốc gia. Giáo hội Công giáo VN hiện nay rất trung thành và tuyệt
đối vâng lời Vatican. Tập thể bảy triệu tín đồ Công giáo VN là một cái vòi lớn
của con Bạch tuộc Công giáo La mã . Nói cách khác, đó chính là đạo quân thứ
năm của chủ nghĩa đế quốc nằm vùng thƣờng trực trong lòng dân tộc VN.
Muốn bảo vệ sinh mạng dân tộc, chúng ta không có cách nào khác hơn là phải
cô lập hoàn toàn tâp thể tín đồ Công giáo VN với Vatican. Cần có một đạo luật
xác định: không một tu sĩ hay giáo dân nào đƣợc phép liên hệ trực tiếp với
Vatican (tƣơng tự nhƣ Văn bản số 3 của Hội đồng Nhà nƣớc Trung quốc tháng
2-1989). Về điểm này có một điều đáng chú ý là tỉ số giáo dân Trung quốc chỉ
có 0.58% so với dân số cả nƣớc. Tại VN, tỉ số giáo dân Công giáo rất cao
khoảng 7%, tức tỉ số giáo dân Vn cao gấp trên 10 lần tỉ số giáo dân Trung quốc
nhƣng luật pháp Việt Nam hiện nay gần nhƣ thả nổi đối với Công giáo và Tin
lành. Điều đó chứng tỏ Việt Nam chƣa đánh giá đúng mức sự nguy hiểm của
con Bạch tuộc Công giáo La mã. Hiến pháp và luật pháp của Trung quốc đối
với Công giáo trong hơn nửa thế kỷ qua thật sự là một tấm gƣơng sáng đáng cho
chúng ta học hỏi.
Biện pháp hai: Việc cấp thiết cần đƣợc thực hiện một cách kiên quyết là giải tán
Hội đồng Giám mục VN. Hội đồng này đƣợc thành lập do Sắc chỉ ngày 24-11-
1960 của Giáo hoàng Gioan XXIII. Ngày 18-12-1960, HĐGMVN và toàn bộ
các thành viên chính phủ Việt Nam Cộng hòa do Ngô đình Diệm lãnh đạo đã tổ
chức lễ tạ ơn Tòa thánh tại Vƣơng cung Thánh đƣờng Sài gòn. Tại buồi lễ này,
Hội đồng Giám mục và chính phủ Diệm đã long trọng làm lễ “Dâng Tổ quốc
Việt Nam cho Đức Mẹ Maria”. Trong thực tế bè lũ Việt gian vong bản đã dâng
tổ quốc Việt Nam cho đế quốc Vatican!
Hội đồng Giám mục hiện nay gồm các hồng y, tổng giám mục và giám mục do
Vatican tuyển chọn kỹ càng. Hội đồng này là cơ quan lãnh đạo đầu não của giáo
hội Công giáo VN, đồng thời cũng là ban tham mƣu tối cao của đạo quân thứ
năm nằm vùng trong nƣớc, luôn luôn sẵn sàng tuân hành mọi chỉ thị phát ra từ
Vatican.
Muốn vô hiệu hóa cái vòi xâm lƣợc của con Bạch tuộc vatican, việc cần thiết
phải thực hiện là giải tán Hội đồng Giám mục VN. Tất cả các hồng y, tổng giám
mục và giám mục đều phải bị cƣỡng bách cởi bỏ áo dòng để trở về cuộc sống
thế tục. Toàn bộ tài sản và cơ sở của các giám mục phải đƣợc tịch thu. Tất cả
các hồng y, tổng giám mục và giám mục hoàn tục có thể làm lễ trong phòng
riêng một mình nhƣng không đƣợc phép làm lễ cho giáo dân coi.
Giải tán Hội đồng Giám mục là bƣớc đầu tiên phải có trƣớc khi tiến tới việc
thành lập Giáo hội Công giáo VN tự trị. Nói cách khác, Giáo hội Công giáo
Việt Nam tự trị sẽ trở nên vô nghĩa khi Hội đồng Giám mục do Vatican lập nên
vẫn còn tồn tại và vẫn tiếp tục lãnh đạo giáo hội. Giải tán Hội đồng Giám mục
chính là một hành động thực tiễn phá bỏ cái mắt xích trọng yếu trong guồng
máy xâm lƣợc của Vatican để bảo tồn sinh mạng dân tộc Việt Nam.
Giáo hội Công giáo VN từ xƣa đến nay chƣa bao giờ từ bỏ truyền thống phản
quốc cố hữu của họ. Đúng nhƣ hai tác giả Nhật Nam và Hồng Hà LTV nhận xét
trong các bài tham luận nói trên : “Bảy triệu tín đồ Công giáo là một loại ung
thƣ cực kỳ nguy hiểm trên cơ thể quốc gia, do đó cần phải tìm cách cô lập chặt
chẽ để giời hạn tối đa sức bành trƣớng của nó”. Đúng vậy, nếu không có
phƣơng cách ngăn chận sự bành trƣớng của căn bệnh ung thƣ Công giáo và Tin
lành thì căn bệnh nguy hiểm này có thể gây tử vong cho Tổ quốc Việt Nam.
Phƣơng cách tốt nhất để cô lập hóa giáo hội Công giáo VN với Vatican gồm có
hai bƣớc:
- Bƣớc thứ nhất là giải tán Hội đồng Giám mục hiện nay.
- Bƣớc thứ hai là mỗi giáo phận Công giáo sẽ triệu tập một hội nghị các linh
mục trong giáo phận để tuyển chọn một tân giám mục thay thế giám mục trƣớc
đây do Vatican bổ nhiệm. Khi các địa phận đã bầu xong các tân giám mục,
chúng ta sẽ có một Hội đồng Giám mục mới của một Giáo hội Công giáo VN tự
trị. Việc điều hành giáo hội của Hội đồng Giám mục này ra sao và các sinh hoạt
của giáo hội tự trị nhƣ thế nào v.v.... thiết tƣởng về những vấn đề này chúng ta
có thể học hỏi nhiều điều cụ thể và hữu ích từ những bài học kinh nghiệm quí
giá của Trung quốc.
Đối với Tin lành, biện pháp cần thiết để ngăn chận sức bành trƣớng của nó là
phải ngăn chận sự xâm nhập của bọn truyền giáo. Về điểm này, chúng ta có thể
áp dụng những biện pháp của Do thái và Nam dƣơng :
- Năm 1978, quốc hội và chính phủ Do thái đã ban hành đạo luật “Chống
Truyền giáo” (Anti-Missionary Law). Luật này qui định mọi cuộc truyền đạo
Kitô tại Do thái là bất hợp pháp. Ngƣời truyền giáo sẽ bị phạt 5 năm tù và bị
phạt tiền tƣơng đƣơng 3.200 Mỹ kim.
- Tại Nam dƣơng, luật pháp buộc mọi ngƣời truyền giáo nhập cảnh Nam dƣơng
phải khai báo nghề nghiệp của mình. Nếu khai nghề nghiệp truyền giáo thì Sở
Ngoại vụ Nam dƣơng cho phép họ đƣợc lƣu trú tối đa 6 tháng. Trong trƣờng
hợp không khai báo mà hành nghề truyền giáo tại Nam dƣơng bất hợp pháp,
ngƣời vi phạm sẽ bị án tù hoặc trục xuất.
Biện Pháp ba: Cần đặt nặng vấn đề giáo dục để cải hóa 7 triệu tín đồ Công giáo
VN nhằm giúp họ phản tỉnh trở về với dân tộc.
Đây là một công tác có ý nghĩa hết sức cao cả và đầy tính nhân đạo vì công tác
này đƣợc xử dụng để thay thế cho biện pháp tiêu diệt đẫm máu. Tuy nhiên, giáo
dục để cải hóa 7 triệu tín đồ Công giáo không phải là việc đơn giản. Công tác
này đòi hỏi chính quyền phải sáng suốt và có quyết tâm cao, đồng thời cần có sự
cộng tác của mọi tầng lớp nhân dân, nhất là giới trí thức yêu nƣớc, bằng cách
đóng góp công sức và những sản phẩm tim óc của mình vào công cuộc giáo dục
này.
Muốn cho công cuộc giáo dục đạt hiệu quả cao, chính quyền cần ban hành một
số văn bản luật pháp để loại bỏ những hiện tƣợng tiêu cực còn tồn đọng:
1. Loại bỏ những bài kinh nguyện (prayers) có nội dung phản quốc nhƣ “Kính
dân đất nƣớc Việt Nam cho Trái tim Chúa”, “Kinh cầu cho kẻ ngoại” hoặc có
nội dung nhục mạ Phật giáo nhƣ “Kinh cầu ông Thánh Phanxicô” hoặc nhục mạ
92% dân tộc Việt Nam không-Công-giáo-La-mã: “Kẻ dữ là kẻ chẳng có đạo”
(Kinh Bổn).
2. Chấm dứt tình trạng thả lỏng hiện nay để cho các tu sĩ Công giáo tự do thuyết
giảng ở nhà thờ. Hiện tƣợng này có thể sẽ vô hiệu hóa mọi kết quả của công tác
giáo dục. Cần có điều luật buộc mọi tu sĩ phải nạp bản thuyết giảng cho cơ quan
hữu trách trƣớc vài ngày thuyết giảng và chỉ đƣợc phép nói với giáo dân những
điều đã đƣợc cho phép mà thôi.
3. Chấm dứt các lễ hội lớn đƣợc tổ chức trên qui mô toàn quốc nhƣ “Lễ hội La
vang” năm 1998. Các lễ hội này thực chất chỉ là những cuộc xuống đƣờng trá
hình để biểu dƣơng lực lƣợng và uy hiếp chính quyền. Tác dụng tiệu cực của
các lễ hội này là lòng mê tín của quần chúng tín đồ đƣợc kích thích cao độ.
4. Các tu sĩ Công giáo và các ngƣời truyền giáo Tin lành phải bị cấm dạy học
hoặc mở trƣờng học.
5. Đóng cửa các dòng tu nam nữ vì sự tồn tại của các dòng tu này là những cản
trở lớn cho sự giáo dục. Hầu hết các dòng tu đều có nhiệm vụ chính yếu là
truyền giáo nhƣng mỗi dòng tu đều có một tôn chỉ riêng và phƣơng cách truyền
đạo riêng. Các dòng tu nam quan trọng là dòng Tên (Dominician / Nhà thờ Ba
Chuông), dòng Chúa Cứu Thế, dòng Đồng Công, dòng Phanxicô, Antôn, Don
Bosco, Phƣớc Sơn... Các dong nữ tu quan trọng là dòng Mến Thánh Giá, dòng
Saint Paul, dòng Tu Kín....
Toàn bộ công cuộc giáo dục cần phải qui hoặch để đạt đƣợc 3 mục tiêu sau đây:
- Mục tiêu thứ nhất: Xét theo bề ngoài thì 7 triệu đồng bào Công giáo không
khác gì với những ngƣời Việt Nam bình thƣờng khác. Nhƣng thật sự 7 triệu
ngƣời Công giáo hiện đang sống trong tình trạng hết sức mọi rợ về tâm linh.
Trƣớc hết, họ luôn luôn mang tâm cảm là một bày súc vật thuộc quyền chăn dắt
tuyệt đối của các vị chủ chăn ở Vatican. Ngƣời Công giáo thƣờng hay kết án
chính quyền Việt Nam vi phạm nhân quyền, nhƣng trong thực tế chính họ đã tự
rứt bỏ quyền làm ngƣời của họ để xin đƣợc làm một bày súc vật của ngoại bang.
Trong kinh „Dâng cõi Đông Dƣơng cho Đức Nữ Đồng Trinh Maria‟ có câu: “Vì
công nghiệp Đức Mẹ chuyển cần, xin cho dân cõi Đông Dƣơng nhờ có máu
châu báu của con Đức Mẹ đã đổ ra mà cứu chuộc, thảy đều nên một ràn cùng
một kẻ chăn” (kinh Nhựt khóa trang 172). Danh từ “một ràn” trong bài kinh có
nghĩa là một bày súc vật (cừu non / con chiên) và danh từ “một kẻ chăn” chính
là giáo hoàng ở Rome! Trong các sách kinh Công giáo không thiếu gì những lời
kinh tƣơng tự, hậu quả tai hại là Giáo hội Công giáo VN đã tự biến mình thành
một giáo hội súc vật hèn hạ. Cho nên, mục tiêu thứ nhất của công cuộc giáo dục
phải đạt tới là giải cứu bảy triệu đồng bào Công giáo thóat khỏi cái “mặc cảm
súc vật” để từ đó họ tự khôi phục nhân phẩm và quyền làm ngƣời của chính họ.
Sự giáo dục tạo cơ hội cho ngƣời Công giáo trải qua một quá trình khó khăn
nhất là quá trình tiến từ súc vật trở thành ngƣời (human being)!
- Mục tiêu thứ hai: Ngƣời Công giáo có một thói tật rất xấu xa và ngu xuẩn, đó
chính là thói tật thích “ăn thịt uống máu Chúa!” Dù chỉ là ăn thịt uống máu
tƣởng tƣợng một cách ngớ ngẩn qua cái nghi lễ quái đản đƣợc gọi là “Phép bí
tích Mình Thánh Chúa”, nhƣng trong đáy sâu tâm hồn họ đích thực là một lũ
mọi ăn thịt ngƣời (Cannibals). Dù bề ngoài, ngƣời Công giáo có thể có dáng vẻ
học thức văn minh sang trọng, nhƣng xét về bản chất tâm linh họ vẫn là những
tên mọi ăn thịt ngƣời man rợ thuộc thời kỳ bán khai của dòng tiến hóa nhân loại.
Công cuộc giáo dục phải đạt tới mục tiêu cải biến bảy triệu tên “mọi ăn thịt
ngƣời” trở thành bảy triệu ngƣời bình thƣờng.
- Mục tiêu thứ ba: Trong sách “Thực chất đạo Công giáo và các đạo Chúa” do
GĐ xuất bản Xuân 2003, trong chƣơng 5 phần I, dƣới tựa đề “Vai trò Chính
quyền trong tƣơng quan Công giáo – Dân tộc” (50 trang) tôi đã trình bày cặn kẽ
hai vấn đề:
1. Ngƣời Công giáo không thể cùng một lúc vừa trung thành với Vatican vừa
trung thành với Tổ quốc. Bất cứ một tín đồ nào trung thành với Vatican đều
đƣơng nhiên trở thành kẻ phản quốc. Đây là một sự thật hiển nhiên có thể đƣợc
kiểm chứng dễ dàng bằng lịch sử thế giới và bằng lịch sử Việt Nam.
2. Bất cứ ai có lòng yêu nƣớc thật sự và có tinh thần tự trọng dân tộc đều không
thể chấp nhận sự cai trị của Vatican đối với một thành phần dân tộc Việt Nam.
Lịch sử Việt Nam đã chứng minh từ xƣa đến nay cộng đồng Công giáo VN luôn
luôn hành động nhằm phục vụ “nƣớc Chúa” Vatican và hoàn toàn đi ngƣợc lại
quyền lợi của dân tộc. Có thể nói, giáo hội Công giáo VN là một tập thể Việt
gian lớn nhất trong lịch sử dân tộc và có truyền thống phản quốc lâu đời nhất từ
trƣớc đến nay.
Mục tiêu thứ ba của công cuộc giáo dục là phải nhằm cải tạo tƣ tƣởng để
biến bảy triệu tên Việt gian nằm vùng hiện nay trở thành bảy triệu công dân
lƣơng thiện trong lòng dân tộc.
Trong hiện tại, giáo hội Công giáo VN vẫn thống thuộc sự lãnh đạo của
Vatican thông qua Hội đồng Giám mục do chính bọn chúng tuyển chọn và
phong chức. Giáo hội Công giáo VN hiện nay vẫn giữ nguyên vẹn các đặc tính
cố hữu là một giáo hội súc vật, một bộ lạc của lũ mọi ăn thịt ngƣời và vẫn là bảy
triệu tên Việt gian chính hiệu nằm vùng trong đạo quân thứ năm của chủ nghĩa
đế quốc.
Tôi rất ngạc nhiên trƣớc sự liện mới đây nhà nƣớc VN cho phép Công giáo
tổ chức “Đại hội những ngƣời Công giáo VN xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trong khi đó Tổng Giám mục Mẫn vẫn ca ngợi nền thần học dối trá bịp bợm
của Công giáo và vẫn xác nhận thái độ của Công giáo VN là “quên mình trong
vâng phục Vatican”! Bảy triệu ngƣời Công giáo hiện nay chƣa đƣợc giáo dục
và chƣa đƣợc chuẩn bị tâm tƣ đầy đủ để tham gia công cuộc “xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc”. Tôi đề nghị chính quyền VN hãy tạm thời hủy bỏ “Đại hội những
ngƣời Công giáo VN xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Hoàn cảnh thích hợp nhất
để tổ chức những đại hội này chỉ có thể có sau khi Hội đồng Giám mục VN hiện
nay bị giải tán để hình thành Giáo hội Công giáo VN Tự trị.
Biện pháp bốn: Nhằm mục tiêu hạn chế tối đa sức bành trƣớng của giáo hội
Công giáo hiện nay và để thúc đẩy nhanh việc thành lập Giáo hội Công giáo VN
tự trị, chính quyền cần sớm ban hành quyết định tịch thu toàn bộ tài sản của
giáo hội Công giáo.
Sau khi Hội đồng Giám mục hiện hữu đã bị giải tán, chính quyền sẽ dần dần
trả lại tài sản cho “Giáo hội Công giáo VN tự trị” chiếu theo các nhu cầu chính
đáng của từng giáo xứ hoặc tùy theo các sinh hoạt cần thiết của giáo hội.
Tuy nhiên, đối với các tài sản của giáo hội có nguồn gốc thủ đắc bất chính
hoặc đã là cơ sở gây tội ác đối với dân tộc thì cần phải đƣợc tịch thu vĩnh viễn,
không hoàn trả. Trong số các nhà thờ nổi tiếng nhƣ nhà thờ Lớn Hà nội, nhà thờ
Đức Bà Sài gòn và nhà thờ La vang đều là những tài sản ăn cƣớp của nhà chùa
Phật giáo từ cuối thế kỷ 19. Tên Huyện Sĩ dựa vào thế lực của Pháp cƣớp đất
của đồng bào miền Nam trở thành đại điền chủ hết sức giàu có. Tên Việt gian
Công giáo này đã dùng một phần tài sản ăn cƣớp đi xây nhà thờ Huyện Sĩ. Do
đó, nhà thờ Huyện Sĩ cần đƣợc tịch thu để biến thành một cơ sở phục vụ công
ích, chẳng hạn nhƣ biến nhà thờ Huyện Sĩ thành một viện bảo tàng triển lãm tội
ác của Công giáo từ xƣa đến nay.
Nhà thờ Phát Diệm là sào huyệt của bọn Việt gian trải qua nhiều thế hệ: khởi
đầu từ Trần Lục, qua Nguyễn bá Tòng, Lê hữu Từ đến Hoàng Quỳnh. Chính
quyền nên tịch thu nhà thờ Phát Diệm nhƣ một hình thức trừng phạt bọn Việt
gian này.
Tất cả những điều trình bày ở trên đây chỉ là những ý kiến cá nhân, chắc chắn
không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót do chủ quan và do sự hiểu biết hạn hẹp của
ngƣời viết. Rất mong nhận đƣợc sự chỉ giáo của các bậc thức giả cùng có nỗi ƣu
tƣ về quốc nạn Công giáo - Tin lành. Tôi xin chân thành cảm tạ.
Charlie Nguyễn
Tháng 4.2003
Độc Thần Giáo
(MonoTheism)
Charlie Nguyễn
Từ thế kỷ 2 (sau công nguyên), ông Sỹ Nhiếp (137-226) đã khai mở kỷ nguyên
Tam Giáo (Phật-Khổng-Lão) ở Việt Nam. Song song với Tam Giáo đồng lƣu,
phần đông ngƣời Việt chúng ta theo đạo “Thờ Cúng Ông Bà”. Nhƣ vậy, trong
suốt hơn 13 thế kỷ, dân tộc Việt Nam đã theo và thực hành 4 đạo (nếu coi tín
ngƣỡng thờ cúng tổ tiên nhƣ một tôn giáo), nhƣng chẳng có đạo nào thờ Thần
(God) và hầu nhƣ cả 4 đạo chỉ là 4 “triết lý sống” hơn là 4 tôn giáo.
Mãi đến đầu thế kỷ 16, khoảng vào năm 1533, lần đầu tiên có một đạo “độc
thần” thuộc văn hóa du mục Tây Phƣơng (Do Thái-Ả Rập) là đạo Công Giáo La
Mã (Roman Catholicism) đã xâm nhập vào vùng Bùi Chu-Phát Diệm thuộc
miền duyên hải Bắc Việt. Vì bản chất của đạo này hoàn toàn trái ngƣợc với bản
chất văn hóa “nông nghiệp nhân bản” của dân tộc nên đạo này đã gây nên nhiều
“va chạm đột ngột” (shocks) về tâm lý cũng nhƣ về sinh hoạt xã hội. Nó đã gây
phân hóa dân tộc, biến 7-8% thành phần dân tộc thành những phần tử tách rời
và luôn luôn đối kháng với quyền lợi dân tộc. Cuối cùng họ đã đƣa dân tộc vào
vòng nô lệ ngoại bang và tới nay những hệ lụy tai hại của nó cũng vẫn còn tồn
tại.
Từ đầu thế kỷ 20, một loạt các đạo “độc thần” thuộc KiTô giáo là các giáo phái
Tin Lành đã xâm phạm nƣớc ta. Họ đã lập đƣợc nhiều cơ sở tôn giáo hoạt động
tại khắp Trung-Nam-Bắc Việt Nam trong suốt thời Pháp thuộc. Trong cuộc
chiến Việt-Mỹ (1964-1975), nhiều giáo phái Tin Lành Mỹ đã lợi dụng ƣu thế
quân sự và tiền bạc để dụ dỗ mua chuộc những ngƣời Thƣợng nhẹ dạ lập nên
những “Hội Thánh Tin Lành” tại miền Cao Nguyên ở Trung và Bắc Việt. Ngày
nay, những “Hội Thánh” này đã trở thành những ung nhọt nhức nhối cho dân
tộc Việt Nam.
Mặc dầu KiTô giáo (Công giáo và Tin Lành) có mặt tại nƣớc ta đã mấy trăm
năm, nhƣng nó vẫn là một thứ sản phẩm văn hóa xa lạ đối với tuyệt đại đa số
dân tộc Việt Nam. Cho đến nay, vẫn có nhiều ngƣời Việt Nam lầm lẫn về các
danh xƣng tôn giáo này của Tây Phƣong. Điều này dễ hiểu vì hai hệ thống tôn
giáo của Tây Phƣơng và Đông Phƣơng hoàn toàn khác biệt nhau. Trải qua nhiều
thế kỷ, các tôn giáo Tây Phƣơng bị phân hóa thành rất nhiều giáo phái
(denominations) khác nhau, với tên gọi khác nhau, làm cho chúng ta nhìn vào
cái khối tôn giáo phức tạp này phải rối mắt và rất khó phân biệt.
Điều lầm lẫn lớn nhất và đáng nói nhất là nhiều ngƣời Việt đã lầm lẫn gọi KiTô
giáo hoặc Công giáo La Mã là “Thiên Chúa Giáo”, vì trong thế giới Tây
Phƣơng không hề có danh từ “Thiên Chúa Giáo”. Chúng ta đã biết các tôn giáo
thờ Chúa đều đã xuất phát và thịnh hành trong các nền văn hóa Tây phƣơng
(bao gồm các nƣớc Âu Mỹ, Do Thái, Ả Rập) Quan niệm về Chúa hay Thần
(God) và cách đặt tên hoặc phân loại các tôn giáo của họ hoàn toàn khác biệt
với quan niệm của chúng ta. Do đó, muốn xử dụng đúng các danh từ tôn giáo
Tây phƣơng, chúng ta phải hiểu rõ cách suy nghĩ và quan niệm của họ về tôn
giáo. Đồng thời chúng ta cũng cần phải hiểu ngƣời Á Đông, nhất là các tín đồ
Phật giáo Việt Nam quan niệm về “tôn giáo” nhƣ thế nào.
Trong bài viết “Vô Ngã” đăng trong tạp chí Hoa Sen, số 46, ngày 15-5-2002,
giáo sƣ Trần Trung Ngọc đã giải thích hết sức rõ ràng và dễ hiểu về sự khác biệt
trong quan niện về tôn giáo giữa ngƣời Tây phƣơng và ngƣời Phật tử nhƣ sau
(trang 70-71):
“ Phật giáo không phải là một tôn giáo theo nghĩa của ngƣời Tây phƣơng
thƣờng hiểu, nghĩa là một tôn giáo trong đó các tín đồ tin rằng có một vị Thần
(hoặc Thiên Chúa/Thƣợng Đế) có khả năng sáng tạo ra vũ trụ muôn loài, có
quyền thƣởng phạt con ngƣời. Do đó con ngƣời sợ hãi và cầu nguyện để xin vị
Thần đó ban ân huệ cho mình và nhất là ban cho mình có sự sống đời đời sau
khi chết. Phật giáo quan niệm một tâm cảnh nhƣ trên làm mất phẩm giá con
ngƣời, vì nhƣ vậy là con ngƣời tự buộc mình vào mớ xiềng xích nô lệ. Nô lệ vật
chất hay nô lệ tôn giáo tâm linh cũng đều là nô lệ. Do đó, nếu chúng ta coi Phật
giáo là một tôn giáo thì chúng ta cần phải hiểu đó là một tôn giáo nhân bản và
nhân chủ. Nhân bản là đặt căn bản trên con ngƣời. Nhân chủ là con ngƣời tự
làm chủ mình, tự mình tu tập để đi đến giải thoát, chứ không trông ngóng ở bất
cứ một thứ Thần quyền nào”.
Hoàn toàn tƣơng phản với quan niệm về tôn giáo nói trên của Phật giáo, trong
mọi tôn giáo của Tây phƣơng luôn luôn phải có sự hiện diện của một vị Thần
(God). Tiếng Hy Lạp gọi Thần (God) là “Theo”. Từ căn ngữ “Theo”, ngƣời Tây
phƣơng đã sáng tạo các danh từ về tôn giáo của họ.Tỷ dụ :
- Theology : khoa thần học
- Theism : hữu thần
- Atheism : vô thần
- Polytheism : đa thần giáo (đạo thờ nhiều Thần nhƣ Đa Thần giáo La
Mã hay Hy Lạp)
- Monotheism : độc thần giáo (nhƣ các dạo thờ Chúa – God)
- Non-theism : phi thần giáo (nhƣ Phật giáo đặt trọng tâm vào con
ngƣời, chứ không vào một vị thần nào cả)
Danh Từ “Độc Thần Giáo” (Monotheism) đƣợc hình thành bởi hai chữ: “Mono”
có nghĩa là Một (duy nhất) và “Theism” (Theo=God). Nhƣ vậy, Độc Thần giáo
có nghĩa là niềm tin tôn giáo vào một vị thần duy nhất (Monotheism is the belief
in only one God).
Ngƣời Tây phƣơng dùng danh từ Độc Thần giáo (Monotheism) để gọi chung 3
tôn giáo thuộc hệ thống “độc thần” là: Do Thái giáo, Ki Tô giáo và Hồi giáo
(the three related monotheist faiths of Judaism, Christianity and Islam). Cả ba
tôn giáo này đều thờ chung một Chúa (God) nhƣng ngƣời ta đã không gọi
những tôn giáo này là Thiên Chúa Giáo. Chỉ có một danh từ chung cho các đạo
thờ Chúa là “Độc Thần Giáo” mà thôi. Chúng ta sẽ lần lƣợt nghiên cứu về ba
tôn giáo độc thần này :
1. Do Thái Giáo (Judaism) : Riêng cái tên “Do Thái giáo” cũng đã đủ nói lên
cái ý nghĩa hạn chế của nó: đó là đạo của một dân tộc (a religion limited to one
people). Tín đồ Do Thái giáo chính là công dân Do Thái. Hiện nay số tín đồ Do
Thái giáo khoảng 12 triệu ngƣời (ở Mỹ 5.8 triệu; ở Israel 4.6 triệu, ở các nơi
khác trên thế giới 1.6 triệu).
Do Thái là một dân tộc nhỏ bé, nhƣng ảnh hƣởng văn hóa của nó đối với Tây
phƣơng thật là lớn lao: Ít nhất là 1/3 nền văn minh Tây phƣơng mang dấu ấn
của các tổ tiên Do Thái: Adam Smith, Noah Webster, Abraham Lincoln, Isaac
Newton, Rebecca West, Sara Teasdale, Michaelangelo, và nhiều nữa.
Bản kinh Mƣời Điều Răn (The Ten Commandments) đƣợc toàn thế giới Kitô
giáo và Hồi giáo (gồm quá nửa tổng số nhân loại) tuân theo. Chính nó đã tạo
nền tảng tinh thần (moral foundation) cho thế giới Tây phƣơng. Những điều răn
: “Thou shalt not murder, Thou shalt not commit adultery, Thou shalt not steal,
.....” tiếp tục có tác dụng từ 3000 năm trƣớc cho đến nay.
Tuy nhiên, ảnh hƣởng lớn lao nhất của dân tộc Do Thái đến với thế giới chính là
đạo Do Thái: từ 5000 năm qua, các dân tộc Babylon, Ai Cập, Syria và các dân
tộc khác ở Âu Châu và Địa Trung Hải đều vẫn nghĩ rằng mỗi một năng lực
thiên nhiên đều đƣợc cai quản bởi một vị thần riêng biệt: bão tố có Thần Bão
Tố, sấm sét có Thần Sấm Sét, ... rồi Thần Biển, Thần Mặt Trăng, Thần Mặt
Trời, Thần Núi, Thần Sông, v.v.... Nhƣng riêng dân tộc Do Thái, suốt 5000 năm
qua, chỉ có một quan niệm hết sức rõ rệt là “một Thiên Chúa đơn thuần cho
muôn loài” (A single Lord of all being). Rõ ràng là các nƣớc Trung Đông cổ
xƣa theo Đa Thần giáo (Polytheism), trong khi Do Thái là nƣớc duy nhất theo
Độc Thần. Kinh thánh Cựu Ƣớc Do Thái xác định Thiên Chúa Yahweh là Thiên
Chúa duy nhất đƣợc tôn thờ bởi dân tộc Do Thái. Vì thế Yahweh là Thiên Chúa
(Thần) của Israel (God of Israel). Nhƣ vậy, ngay từ ngày đầu có lịch sử Do
Thái, những ngƣời Do Thái đã tự khẳng định bản thân mình là những ngƣời độc
thần (monotheists). Sách Cựu Ƣớc Deuteronomy (6:4) tạo nền tảng “độc thần”
cho dân tộc Do Thái: “Dân tộc Do Thái, hãy nghe đây, Chúa của chúng ta, Chúa
là Một” (hear, O Israel, the Lord is our God, the Lord is One). Đạo Do Thái trở
thành khởi điểm của Độc Thần giáo (The point of departure of Monotheism)
hay nói đúng hơn, Do Thái giáo là “Mẹ” của các đạo Độc Thần (the mother of
all monotheist religions).
2. Ki Tô Giáo (Christianity) : KiTô giáo là đứa con đầu lòng của Do Thái giáo.
KiTô giáo sau vài thế kỷ phát triển, nhất là từ sau thế kỷ 4 do đƣợc sự công
nhận là “quốc giáo” cho toàn thể đế quốc La Mã của hoàng đế Constantine,
KiTô giáo đã trở thành một tôn giáo phổ biến rộng rãi khắp thề giới. Ngày nay,
tổng số tín đồ KiTô giáo lên tới 2 tỷ 100 triệu, tức khoảng 1/3 tổng số nhân loại
!
KiTô giáo là tôn giáo lớn nhất thế giới, nhƣng đã bị chia thành 3 khối chính
(three major divisions):
a. Công giáo La Mã (Catholicism)
b. Chính Thống giáo Đông phƣơng (Eastyern Orthodox)
c. Tin Lành (Protestantism)
Dù bị chia ra nhiều giáo phái nhỏ, tất cả các tín đổ KiTô giáo đều thống nhất ở
một điểm là tôn thờ Jesus Christ. Chúng ta có thể phân biệt hai Jesus: một
“Jesus của lịch sử” (Jesus of History) và một “Jesus của niềm tin” (the Jesus of
Faith)
- Về “Jesus của lịch sử” , chúng ta biết rất ít về Ngài. Thậm chí ngƣời ta cho
rằng chỉ có 20% các lời nói của Jesus trong các sách Tân Ƣớc là đúng thật của
Jesus, 80% còn lại là những lời bịa đặt do ngƣời ta gán cho Ngài mà thôi.. Jesus
chƣa bao giờ bƣớc chân ra khỏi sinh quán xa tới 90 dậm ! Không hề đƣợc bƣớc
chân tới trƣờng học ngày nào, nên ông ta là một kẻ hoàn toàn mù chữ và thất
học.
Tuy nhiên, do những hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử, “Jesus của lịch sử” đã biến
thành “Jesus của niềm tin” (The Christ of Faith):
- Trƣớc hết, những ngƣời Do Thái mến mộ Jesus ở thủ đô Jerusalem trong đầu
thế kỷ 1 đã trở thành những tín dồ KiTô giáo đầu tiên (Jewish Christians). Họ
không nghĩ là một tôn giáo mới đã đƣợc hình thành mà chỉ nghĩ rằng: Jesus là
một tín đồ của đạo Do Thái và chính họ cũng vẫn là những tín đồ Do Thái giáo.
- Từ sau thế kỷ 4, KiTô giáo đƣợc công nhận là quốc giáo của đế quốc La Mã,
các tín đồ KiTô giáo gốc La Mã (Roman Christians) đã đem vào KiTô giáo rất
nhiều nghi lễ và tập tục của Đa Thần giáo La Mã: nhận ngày sinh của Jesus là
25 tháng 12 dƣơng lịch, đi lễ ngày chủ nhật (sunday). Những ngày này thật ra là
những ngày tế thần Mặt Trời của Đa Thần giáo La Mã. Giáo hoàng đầu tiên của
KiTô giáo là Miltiades (giám mục thứ 32 ở Rome) đƣợc hoàng đế Constantine
phong là “Pontifex Maximus”. Đó chính là chức vị của ngƣời đứng đầu Đa
Thần giáo của đế quốc La Mã. Có lẽ biến cố quan trọng nhất trong lịch sử KiTô
giáo là vào năm 325, hoàng đế Constantine triệu tập công đồng Nicaea với sự
tham dự của trên 300 giám mục (gồm hầu hết các giám mục trong toàn đế quốc
hồi đó) để bỏ phiếu quyết định về bản chất của Jesus. Kết quả là do quyền lực
của hoàng đế, các giám mục đã quyết định chiều theo ý nhà vua là “Christ có
cùng bản chất với Chúa Cha” (Christ was of one substance with Father). Nhƣ
thế là chỉ trong một sớm một chiều, Jesus từ một ngƣời thƣờng (a man) bỗng
nhiên trở thành “Thiên Chúa xuống thế làm ngƣời” (a God-man) Yahweh của
Israel trở thành Chúa Cha (God the Father) và Jesus thành Chúa Con (God the
Son). Jesus đƣợc gọi là “Chúa Hóa Thân” (God Incarnate). Đó là nguồn gốc của
“The Incarnation of God” !
Quyết định của công đồng Nicaea do Constantine triệu tập năm 325 thật sự đã
lập ra một tôn giáo mới là Ki Tô giáo. Cái cốt lõi của KiTô giáo là: Ta có thể
biến một ngƣời tầm thƣờng thành Thiên Chúa Toàn Năng để tôn thờ, miễn là
điều này đƣợc một công đồng nhƣ công đồng Nicaea quyết định ! Công đồng
Nicaea là sản phẩm quyền lực của Constantine và chính Constantine mới thực
sự là cha đẻ của đạo Ki Tô.
Qua nhiều thế kỷ kế tiếp, nhất là sau “thánh Augustine” thuộc thế kỷ 4, nhiều
nhà thần học KiTô giáo đã “thêm mắm thêm muối” hoặc “tô son trát phấn” cho
Jesus bằng những thần thuyết nhảm nhí để biến ông ta thành “Đấng Tạo Hóa
Toàn Năng”. Họ dùng thần thoại Hy Lạp “The Logos” (tiếng Anh dịch là
“Word”) có nghĩa là “Lời Nói của Thiên Chúa”. Họ gán cho Jesus là Logos đã
cùng với Thiên Chúa sáng tạo ra vũ trụ vạn vật. Sách Tân Ƣớc của John xác
định về Jesus: The Word (Jesus) had been with God in the beginning. Through
Him all things came to be”.
Cuối cùng, đối với các tín đồ KiTô giáo (Christians), Jesus là Thiên Chúa, là
chính đấng tạo hóa toàn năng tạo thành vũ trụ, là Chúa Cứu Thế (Savior) chuộc
tội thiên hạ. Tóm lại, Jesus là “Chúa Ki Tô của niềm tin” (The Christ of Faith).
Cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, Jesus kết hợp với hai ngƣời kia tạo
thành Thiên Chúa Ba Ngôi (Holy Trinity). Cả ba ngƣời là Một Thiên Chúa. Với
lý luận nhƣ vậy về “Thiên Chúa của đạo Ki Tô” (The Christian God), KiTô giáo
tự xác định tôn giáo của mình là Độc Thần giáo thứ hai sau đạo Do Thái.
Nhƣ trên đã nói, KiTô giáo bị phân hóa thành 3 khối tôn giáo riêng biệt và luôn
luôn xung đột với nhau, rất nhiều lần trong lịch sử, họ đã đi đến nhiều cuộc
xung đột đẫm máu. Chúng ta sẽ lần lƣợt xét về ba ngành (divisions) này của
KiTô giáo :
Công Giáo La Mã (Roman Catholicism) :
KiTô giáo là một hiện tƣợng phức tạp ( a complex phenomenon), vì mỗi khi
chúng ta đƣa ra một vấn đề chung của KiTô giáo không có nghĩa là mọi ngƣời
KiTô giáo (Christians) sẽ đồng ý với chúng ta. Giáo Hội của Chúa Jesus vẫn
đƣợc coi là chính thân thể của Ngài (the Church is the Body of Christ) đã bị vỡ
thành 3 mảnh lớn. Thế giới KiTô giáo (the Christendom/the Christian World) đã
bị phân ra 3 vùng trên 3 khu vực của thế giới :
(1) Công Giáo La Mã thống trị vùng Trung và Nam Âu Châu, Ái Nhĩ Lan, các
nƣớc Trung và Nam Mỹ. Mọi tín điều và mọi thứ biệt lệ đều đƣợc ban ra từ
trung tâm chỉ huy tối cao là Vatican ở Rome.
(2) Chính Thống giáo Đông Phƣơng (Eastern Orthodoxy) chi phối toàn miền
đông Âu Châu: Hy Lạp, các dân tộc thuộc giống Slavic (Bạch Nga, Bảo Gia
Lợi, Tiệp Khắc, Macedonia, Serbia, Croatia, Ukraine, Slovakia,...) và vùng lãnh
thổ Liên Xô cũ.
(3) Các giáo phái Tin Lành thống trị miền Bắc Âu Châu (Na Uy, Thụy Điển),
Anh Quốc, Tô Cách Lan, và Bắc Mỹ (Mỹ và Canada).
Năm 380, KiTô giáo đƣợc công nhận là một tôn giáo chính thức (the official
religion) của toàn đế quốc La Mã. Tất nhiên, vào thời điểm đó, KiTô giáo là
một khối tôn giáo thống nhất (a united body). Cái khối thống nhất vĩ đại này chỉ
tồn tại đến năm 1054. Nói một cách khác, “cái thân thể của chúa KiTô” (the
body of God) do hoàng đế Constantine dựng lên chỉ giữ đƣợc cái hình hài của
nó nguyên vẹn trong 674 năm mà thôi. Năm 1054 là cái mốc lớn đánh dấu sự
rạn nứt đầu tiên, vĩ đại nhất và đau đớn nhất của KiTô giáo. Sự rạn nứt này đã
kéo dài gần 10 thế kỷ qua và không có một dấu hiệu nào về sự hiệp thông cả. Sự
phân cách giữ Đông (Chính Thống giáo Đông phƣơng) và Tây (Công giáo La
Mã) đã trở thành vĩnh viễn và vô phƣơng cứu chữa.
Cái nguyên do chính yếu đƣa đến đổ vỡ giữa hai giáo hội Đông và Tây của
KiTô giáo chính là thái độ hống hách láo xƣợc của Vatican đối với giáo hội
Đông Phƣơng: Vatican dành toàn quyền giáo huấn các tín đồ (teaching
authority) và củng cố quyền hành bằng tín điều do họ tự ý đặt ra là “giáo hoàng
không thể sai lầm” (the doctrine of papal infallibility). Vatican tự nhận mình là
“hòn đá tảng” duy nhất do Chúa chọn để xây dựng giáo hội: “Trên viên đá này
ta xây giáo hội” (On this rock, I build my Church). Điều quan trọng hơn hết là
Vatican gom hết mọi quyền năng thiêng liêng cao cả của Chúa thành quyền
năng của mình: Nắm giữ các chìa khóa của Thiên Đàng (all the keys of the
Kingdom of Heaven). Mọi ngƣời đƣợc cứu rỗi linh hồn hay không đều do
Vatican quyết định: “Bất cứ điều gì con buộc ở dƣới đất, điều đó sẽ bị buộc ở
trên trời. Bất cứ điều gì con tha ở dƣới đất, điều đó sẽ đƣợc tha ở trên trời !”
Một thế kỷ sau biến cố rạn nứt giữa hai giáo hội Đông Tây của đạo KiTô, tức là
từ đầu thế kỳ 12, giáo hội Công giáo La Mã đƣa ra một ý tƣởng trung tâm của
giáo hội (the central idea to the Church): Giáo hội Công giáo là “đại diện” của
Chúa trên trái đất, một cơ quan duy nhất có quyền ban phát mọi phép bí tích
(sacraments) cho con ngƣời. Giáo hội Công giáo ấn định có 7 phép bí tích. Bảy
phép bí tích này chi phối cả cuộc đời của mọi tín đồ Công giáo:
- Khi mới sinh, đứa con nít phải đƣợc đƣa đến nhà thờ chịu phép rửa tội
(Baptism) để xin Chúa tha cho nó cái “tội tổ tông”. Khi nó lớn lên 12-13 tuổi,
nó cần đƣợc chịu phép thêm sức (Confirmation). Thêm vài tuổi nữa nó sẽ đƣợc
hƣớng dẫn để đi xƣng tội (confession) và quan trọng hơn cả là phép mình Thánh
Chúa (the Holy Eucharist) trong các lễ Misa. Lễ Misa là nghi lễ kỷ niệm bữa
tiệc cuối cùng (The Last Supper) của Jesus với các môn đệ, trong đó có bánh và
rƣợu. Trong lễ Misa ngày nay, các linh mục Công giáo có “quyền năng” biến
thể bánh thành thịt thật và rƣợu thành máu thật của Jesus. Tất cả các tín đồ đều
nghiêm chỉnh “ăn thịt sống và uống máu tƣơi của Chúa”. Tất cả các tín đồ đều
quên rằng họ đã trở nên những kẻ ăn thịt ngƣời (cannibals) man rợ! Đây là
“phép bí tích” mọi rợ độc đáo của giáo hội Công giáo La Mã.
Chính Thống Giáo Đông Phƣơng (Eastern Orthodoxy):
Chính Thống giáo Đông Phƣơng tách khỏi giáo hội Công giáo La Mã để lập
thành một giáo hội riêng biệt mà họ tin rằng chính họ đã tách ra khỏi “tà đạo
Công giáo” để trở về với đạo KiTô chân chính theo truyền thống của Chúa
KiTô (the traditional Christianity). Ngày nay, Chính Thống giáo Đông Phƣơng
có 250 triệu tín đồ. Về phƣơng diện nghi lễ, Chính Thống giáo Đông Phƣơng
rất gần gũi với Công giáo La Mã: cả hai đều rất tôn sùng đức Bà Maria. Đại
biệt là cả hai đều thờ chung một ảnh về Đức Bà, đó là ảnh “Đức Mẹ Hằng Cứu
Giúp” (tranh vẽ vào thế kỷ 14 của Hy Lạp).
Giáo hội Chính Thống giáo cử hành 7 phép bí tích giống hệt nhƣ Công giáo La
Mã. Về các tín điều khác, họ cho rằng Công giáo La Mã chỉ có quyền giải thích
các điều đã nói trong Thánh kinh mà thôi, và không có quyền “phát minh” ra
những tín điều mới. (The Church can interpret doctrines, but cannot initiate
them). Do đó, họ không công nhận những tín điều mà Công giáo La Mã đã tự ý
phịa ra mà không có căn bản Thánh kinh. Đó là các tín điều “Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội” (The Immaculate Conception), “Đức Mẹ Hồn Xác Lên
Trời” (Assumption of Mary). Chính Thống giáo phủ nhận sự hiện diện của
“Luyện Ngục” (Purgatory), phủ nhận tín điều “Giáo hoàng không thể sai lầm”
và các “Ơn Toàn Xá”, “Ơn Đại Xá”, “Ơn Tiểu Xá” mà Vatican dành quyền ban
cho các linh hồn bị giam ở Luyện Ngục. Hầu hết các ơn này (indulgences) đều
đã đƣợc Vatican và các tu sĩ Công giáo bán lấy tiền. Đây là một hình thức lừa
bịp giáo dân một cách hết sức bỉ ổi do Vatican phát minh vì trong Kinh Thánh
chỉ nói đến Thiên Đàng và Hỏa Ngục mà thôi. Lò Luyện Ngục (Purgatory) là
một sự sáng tạo độc quyền của Vatican. Chính Thống giáo mỉa mai gọi nó và
các tín điều bịa đặt của Vatican hoàn toàn là những “sáng kiến” (innovations),
có nghĩa là hoàn toàn do Vatican tự ý bịa ra, chứ không hề đƣợc nói đến trong
Thánh Kinh.
Các tu sĩ Chính Thống giáo Đông Phƣơng không nhất thiết phải sống độc thân.
Ngƣời đứng đầu giáo hội là Thƣợng phụ tại Constantinople (The Patriarch of
Constantinople) cũng có gia đình.
Đạo Tin Lành (Protestantism) và tín dồ (protestants/protesters) :
Tôi rất thắc mắc không biết tại sao cái giáo phái KiTô Tây Phƣơng nổi tiếng
“chống đối” (to protest) lại đƣợc ngƣời Việt Nam gọi là “Đạo Tin Lành”. Tôi đã
cố gắng rất nhiều để xem trong các tự điển Anh-Pháp văn xem có tôn giáo nào
có tên gọi là “Tin Lành” không, nhƣng không hề thấy. Quả thật, không hề có
một tôn giáo nào đƣợc gọi là “The religion of Good News” cả !
Mặc dầu các cuốn kinh thánh Tân Ƣớc của đạo KiTô đƣợc gọi là “Sách Tin
Mừng”, dịch từ tiếng Hy Lạp “Gospel”, có nghĩa là “Good News”. Đạo Tin
Lành lấy “Gospel” làm nền tảng chính yếu cho niềm tin của mình, nhƣng
không thể vì thế mà có thể tự đặt tên cho niềm tin của mình là “Đạo Tin Lành”,
vì Công giáo La Mã cũng nhƣ Chính Thống giáo cũng coi trọng Gospel không
kém gì “Tin Lành” ! Danh từ “Đạo Tin Lành” có lẽ dã xuất hiện tại Việt Nam
từ đầu thế kỷ 20, khi tôn giáo này mới du nhập vào nƣớc ta. Tôi tin rằng các
mục sƣ Tin Lành Việt Nam đã cố tình dịch sai danh từ “Protestatism” để đem
lại cho cái giáo phái KiTô này một cái tên “quá đẹp” trong Việt ngữ của chúng
ta. Tôi thực tình tin rằng cái bản chất của tôn giáo này không phải là “Tin Lành”
mà là “Tin Dữ”, “Tin Buồn” cho dân tộc Việt Nam chúng ta. Cụ thể là nó đang
gây chia rẽ giữa ngƣời Kinh và ngƣời Thƣợng, nó đang xúi dục các lực lƣợng
dân tộc thiểu số ly khai Fulro chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của
Tổ Quốc Việt Nam.
Tôi tin rằng danh từ “Protestatism” và “Protestant” đƣợc định nghĩa trong các tự
điển Webster hoặc Bách Khoa tự điển Anh ngữ (Encycloepedia) là chính xác
nhất. Cái ý nghĩa chính yếu của danh từ “Protestatism” là căn ngữ “to protest”
(chống lại). Ở đây chỉ có nghĩa là chống giáo hội Công giáo La Mã. Tự điển
The American Heritage College Dictionary định nghĩa “Protestatism”: The
religion and religious belief fostered by the Protestant movement in the Western
Church. The faith is the principles of the Protestant Reformation (Protestatism
là một tôn giáo hay một niềm tin đƣợc phát sinh bởi một phong trào chống đối
trong giáo hội KiTô giáo Tây Phƣơng. Đó là một niềm tin đƣợc tạo thành trên
căn bản những nguyên tắc của cuộc Cải Cách Giáo Hội).
Protestant (tín đồ Tin Lành) đƣợc các tự điển Anh ngữ định nghĩa: “Protestant
is one who supported the Protestation presented by the German Lutheran states
against the revocation of the decree The Diet of Sprayers of the Holy Roman
Empire in 1529”. Danh từ “tín đồ Tin Lành” (Protestant) đƣợc định nghĩa khá
dài dòng và phức tạp. Trong thế kỷ 16, giáo hội Công Giáo La Mã tự xƣng là
“Đế Quốc La Mã Thánh Thiện” (The Holy Roman Empire), nhƣng bị nhiều
quốc gia khác bất phục tòng, trong số đó có các quốc gia thuộc bộ lạc Đức theo
phái Lutheran. Những quốc gia này (the German Lutheran states) đã nộp thƣ
phản kháng (The Protestation) chống đối giáo hội Công giáo La Mã vào năm
1529. Sau đó, trong toàn thế giới KiTô giáo Tây Phƣơng, bất cứ tín đồ KiTô
giáo (Christians) nào tự ý tuyên bố ủng hộ “Thƣ Phản Kháng” nói trên đều đƣợc
gọi là “ngƣời chống đối” (Protestant) tức là họ đã mặc nhiên trở thành “tín đồ
Tinh Lành” !
Tóm lại, theo các định nghĩa của các tự điển lớn hoặc các sách Bách Khoa tự
điển Tây Phƣơng, chúng ta thấy danh từ Protestatism không hề có nghĩa là “Tin
Lành” mà chỉ có nghĩa là “Phản Kháng” hoặc “Phản Đối” mà thôi. Vì vậy, xin
đề nghị đồng bào Việt Nam hủy bỏ danh từ vô lý “đạo Tin Lành” để thay thế
bằng danh từ “Thệ Phản Giáo”. Danh từ này đã có thời đƣợc nhiều ngƣời xử
dụng ở Việt Nam. Điều đáng chú ý là danh từ “Thệ Phản giáo” đã nói lên đƣợc
phần nào cái ý nghĩa chính yếu là “phản kháng” (to protest) trong danh từ
Protestatism. Theo tôi, danh từ “Thệ Phản Giáo” là danh từ thích hợp nhất để
gọi cái tôn giáo mà chúng ta đã sai lầm gọi là đạo Tin Lành !
3. Độc Thần Giáo thứ Ba : Hồi Giáo (Islam)
Trong tác phẩm best-seller “A History of God”, nơi trang 141, tác giả là bà
Karen Amstrong đã viết: “Muhammed không cần phải chứng minh sự hiện hữu
của Thiên chúa (Allah) cho bộ lạc Quraysh (bộ lạc tổ tiên của Muhammad) vì
họ đã tin và thờ Allah một cách mặc nhiên. Họ tin Allah là Đấng Tạo Hóa đã
dựng nên trời đất và mọi sinh vật. Họ tin rằng Allah chính là vị Thiên Chúa đã
đƣợc tôn thờ từ lâu bởi ngƣời Do Thái và KiTô giáo. Muhammad xác nhận:
kinh Koran không dạy điều gì mới mà chỉ nhắc lại những điều đã đƣợc biết (the
Koran was not teaching anything new, it claims to be a reminder of things
known already) p.142. Tuy nhiên, Muhammad và kinh Koran kết án nặng nề
KiTô giáo vì tôn giáo này tin Thiên Chúa có ba ngôi, tin Jesus là con của Thiên
Chúa (the only son of God) và là Thiên Chúa Hóa Thân (God Incarnate),....
Muhammad coi các tín điều của KiTô giáo này đều có tính “phỉ báng” Thiên
Chúa (blasphemy) !
Muhammad và đạo Hồi kịch liệt chống đối sự thờ ảnh tƣợng của Công giáo La
Mã (Idolatry) và gọi đó là tội lớn nhất trong đạo Hồi (the greatest sin of Islam).
Ngƣời KiTô giáo nhấn mạnh đến sự cứu chuộc của “Thiên Chúa Hóa Thân
Thành Ngƣời” (God Incarnate) tức Jesus, nhƣng kinh Koran khẳng định: Không
có một Thiên Chúa nào khác ngoài Allah là đấng Tạo Hóa đả tạo thành trời đất,
muôn vật, chỉ có một mình Allah có thể cứu chuộc con ngƣời (There is no Diety
but Allah, the Creator of heaven and earth, who alone can save man – p.149).
Muhammad là ngƣời độc thần đầu tiên nhận ra sự đồng nhất trong việc thờ
Thiên Chúa Duy Nhất của ba tôn giáo Do Thái, Ki Tô và Hồi. Do đó,
Muhammad đã sáng tạo ra những danh từ để gọi chung cho cả ba “niềm tin độc
thần” (the three related monotheist faiths).
1). Trƣớc hết, Muhammad gọi các sách Thánh Kinh của cả ba đạo độc thần (Do
Thái, Ki Tô và Hồi) là các “sách mặc khải” (Books of Revelation). Sự “mặc
khải” là nét đặc thù quan trọng của cả 3 tôn giáo độc thần. Danh từ “Revelation”
do căn ngữ “to reveal” là “tiết lộ”. Mặc Khải là hành động Thiên Chúa tự tiết lộ
những bí mật của mình cho một “tiên tri” nào đó. Sau đó, vị tiên tri “tiết lộ” lại
với các tín đồ để họ có thể hiểu đƣợc “ý Chúa” và các mệnh lệnh của Ngài.
Trong thực tế, chắc chắn một điều là chẳng bao giờ có chuyện Chúa và ngƣời
nói chuyện mặt đối mặt để Chúa tiết lộ mọi mệnh lệnh và những bí mật của
Ngài cho nhân loại biết qua các vị tiên tri. Các điều đƣợc gán cho là Chúa đã
“mặc khải” cho các tiên tri nhƣ Abraham, Moses, Isaiah (Cựu Ƣớc) hoặc các
“thánh sử” nhƣ Matthew, Luke, John và kể cả việc thiên thần Gabriel đƣợc
Allah mặc khải rồi “kể lại” cho Muhammad nghe để rồi viết thành kinh Koran.
Tất cả chỉ là chuyện bịp! Thật sự, Chúa là đấng vô hình, hoàn toàn im lặng,
Chúa chẳng tiết lộ (mặc khải) điều gì cho con ngƣời. Tất cả những điều đƣợc
các đạo Độc Thần gọi là “sự mặc khải” chỉ là những ý kiến riêng của Abraham,
Moses, Matthew, John, Luke và Muhammad. Tất cả các điều đƣợc ghi chép
trong các sách mặc khải chỉ là “lời của ngƣời phàm” và không có một lời nào có
thể gọi là “Lời Chúa”!
Lý do đơn giản là Chúa không biết nói và cũng chẳng nói bao giờ, nên từ xƣa
tới nay không một ai có thể nghe thấy để có thể ghi chép đƣợc “lời Chúa”.Tất
cả các sách mặc khải (Cựu Ƣớc, Tân Ƣớc, Koran) đều chỉ là những sách bịp
bợm ghi chép các lời bịa đặt đƣợc gán cho các nhân vật (đƣợc gọi là tiên tri)
nhƣ Abraham, Moses, Gioan Baotixita, Jesus, Muhammad.
2). Muhammad gọi chung các tín đồ của ba đạo độc thần bằng danh từ chung
“những ngƣời của các sách mặc khải” (The People of the Books – tiếng Ả Rập
gọi là “Dhimmis”) hoặc gọi họ bằng một danh từ đơn giản hơn là “những kẻ
biết kính sợ Đức Chúa Trời” (God fearers).
Trong Lời Nói Đầu viết cho tác phẩm “Why I am not a Muslim” của Ibn
Warraq, giáo sƣ Joseph Hoffman thuộc đại học Westminster, Oxford, đã viết:
“KiTô giáo và Hồi giáo đã nổi bật lên là những phong trào cải cách tôn giáo độc
thần. Cả hai đều tự cho là mình tôn thờ “Thiên Chúa Thật” và đồng thời đề cao
lòng bác ái , nhất là lòng từ bi khoan dung tha thứ. Nhƣng cả hai đều tuyên
truyền tƣ tƣởng và mở rộng “Nƣớc Chúa” bằng bạo lực. Thế giới KiTô giáo
thƣờng đƣợc gọi là Christemdom (The Christian World) hoặc “Vƣơng Quốc của
Chuá Ki Tô” (The Kingdom of Christ), so sánh với “Dar-Al-Islam (The World
of Islam – Thế Giới Hồi Giáo) là hai anh em sinh đôi trong 12 thế kỷ qua.
(Christianity and Islam arose as monotheistic reform movements. Both
proclaimed the true God, the importance of charity, the quality of mercy. Yet
both were inclined to propagate their ideals and to enlarge the Kingdom of God
by force. The Dar-Al-Islam (The World of Islam) and the Kingdom of Christ,
once called Christiandom, were twins for the better part of twelve centuries).
Điều nguy hiểm là Hồi giáo đã không gọi những vùng không theo Hồi giáo là
“vùng ngoại đạo” mà lại gọi là “vùng chiến tranh” (tiếng Ả Rạp: Dar-Al-Harb –
Realm of War). Đó là vùng đất mà ngƣời Hồi giáo sẽ quyết dùng chiến tranh để
thanh toán những kẻ không tin (unbelievers) để mở rộng nƣớc Chúa !
Nói chung, các tín đồ độc thần giáo (monotheists) dù thuộc đạo Do Thái, đạo
KiTô hay Hồi giáo đều giống nhau ở điểm là đa số cuồng tín, tự cao tự đại về
tôn giáo của mình và nhất là luôn luôn tự cho rằng chỉ có tôn giáo của mình là
nắm chân lý tuyệt đối mà thôi (absolute truth claim). Do lòng tự tôn mù quáng,
những ngƣời độc thần đã gọi những ngƣời ngoại đạo là “heathen” với ý khinh
bỉ. Các tự điển Webster hoặc The American Heritage định nghĩa “Heathen” nhƣ
sau: “One who adheres to a religion that doesnot acknowledge the God of
Judaism, Christianity or Islam. One who is regarded as irreligious and
uncivilized” (Ngƣời “ngoại đạo” là những ngƣời theo một tôn giáo không công
nhận Thiên Chúa của Do Thái giáo, KiTô giáo và Hồi giáo. Ngƣời “ngoại đạo”
bị coi là vô tôn giáo và kém văn minh!).
Trong lịch sử nhân loại, tính ra có hàng trăm triệu ngƣời đã bị chết vì sự cuồng
tín của các tín đồ tôn giáo độc thần (KiTô và Hồi giáo). Họ có thể mù quáng tin
là “giết” ngƣời (ngoại đạo) là không hề vi phạm điều dạy của Chúa “thou shalt
not kill”, mà lại là hợp với ý của Chúa và đƣợc thƣởng “lên Thiên Đàng” !
Cũng vì tinh thần cuồng tín này mà ngay những ngƣời cùng đạo “độc thần”
cũng hăng hái giết nhau, chỉ vì lời giải thích khác nhau của cuốn thánh kinh hay
lời dạy của ông giáo chủ ! Không biết các ông giáo chủ các đạo độc thần này có
biết đến hậu quả tai hại cho nhân loại của những lời giảng dạy của mình không
?
Những ngƣời cổ Hy Lạp theo Đa Thần giáo (Polytheism). Họ tôn thờ rất nhiều
thần. Họ tạc các hình tƣợng Thần bằng đá hoa cƣơng với thân hình rất đẹp. Họ
sẵn sàng tiếp nhận những vị thần của các dân tộc khác mà không cần phải loại
trừ một Thần nào ra khỏi đền thờ. Họ gọi đền thờ là “Pantheon”, thƣờng đƣợc
xây cất theo hình vòng tròn (circular temple). Đền thờ cổ Hy Lạp chẳng những
có các tƣợng Thần mà còn có tƣợng các vị anh hùng dân tộc, cả nam lẫn nữ.
Các vị thần linh cũng nhƣ các nhân thần đều đƣợc coi là các vị thần của dân tộc
(Gods of the people).
Với tinh thần đa tôn giáo, đa văn hóa, chấp nhận mọi tƣ tƣởng và niềm tin dị
biệt, những ngƣời Hy Lạp “đa thần” rất cởi mở và sống hòa hợp với mọi ngƣời.
Họ đã tạo nên một nền văn minh sáng chói từ thế kỷ 16 trƣớc Công Nguyên
(Điển hình là họ đã chế đƣợc dụng cụ và vũ khí bằng đồng, đã chiến thắng vẻ
vang trong chuyện “Con Ngựa thành Troy” tk 16 TCN). Có lẽ từ thế kỷ 2 TCN,
ngƣời La Mã đã đón nhận nền văn minh Hy Lạp và tiếp nhận Đa Thần giáo.
Hiện nay tại Rome còn tồn tại một đền thờ Pantheon do ngƣời La Mã xây năm
27 TCN. Trong đền có rất nhiều tƣợng các vị thần. Hầu hết là các vị thần Hy
Lạp, nhƣng đƣợc đổi tên thành thần La Mã: thần Zeus của Hy Lạp thành thần
Jupiter trong đa thần giáo La Mã.
Một điều đáng chú ý là các đạo độc thần (Do Thái, Ki Tô và Hồi) đều thờ Thiên
Chúa thuộc nam giới. Đức Chúa Trời là một thứ “Đàn Ông Toàn Năng”. Trong
các đạo độc thần, tuyệt đối không có đấng tối cao là phụ nữ. Trái lại trong Đa
Thần giáo có rất nhiều “Chúa Mẹ” (Mother Goddess) nhƣ: Turm, Hera, Juno,
Mercury,...
Đa Thần giáo tôn thờ các vị anh hùng với bản chất con ngƣời nên có thể nói là
Đa Thần giáo là một loại tôn giáo vô hại cho nhân loại. Trái lại, các đạo độc
thần đều có sẵn trong bản chất của nó rất nhiều tiềm năng gây đại họa chống lại
sự sống còn của nhân loại và phá hoại nền hòa bình thế giới (Tôi sẽ viết một bài
riêng về vấn đề này).
Con số tín đồ của các đạo độc thần càng lớn bao nhiêu thì tiềm năng gây tội ác
chống nhân loại của nó càng khủng khiếp bấy nhiêu.
Để dễ hình dung con số tín đồ các đạo độc thần trên thế giới hiện nay, tôi xin
ghi lại những số liệu rút ra từ The World Almanac 2004 :
1. Do Thái giáo : 14,500,000
2. Ki Tô Giáo : 2,039,000,000
a) Công Giáo La Mã : 1,076,000,000
b) Chính Thống Giáo: 250,000,000
c) Anh Giáo: 81,663,000
d) Tin Lành : 350,000,000
e) Các giáo phái độc lập: 81,000,000
3. Hồi Giáo : 1,226,000,000
Nhìn vào hai đạo độc thần lớn nhất thế giới là Ki Tô giáo và Hồi giáo, ta thấy
tổng số tín đồ của hai đạo này là 3 tỷ 165 triệu (chiếm ½ tổng số nhân loại).
Nếu không có sự giáo dục qui mô trên toàn thế giới để giúp cho khối lƣợng trên
3 tỷ tín đồ đó bớt cuồng tín và nếu không có sự vận dụng các phƣơng tiện
truyền thông để thông tin cho toàn thế giới biết để đề cao cảnh giác trƣớc các
âm mƣu khủng bố và phá hoại của các tôn giáo độc thần cực đoan thì số phận
sinh tồn của nhân loại thật là mỏng manh.
Xin mọi ngƣời chẳng nên lo lắng về cái chết của các Thiên Chúa hoặc các Thần
(God) mà hãy lo cho cái chết của loài ngƣời chúng ta do những cuộc chiến
tranh “tôn giáo” đƣợc gây ra bởi những kẻ cuồng tín cực đoan , lúc nào cũng tự
cho mình là kẻ duy nhất nắm độc quyền chân lý tuyệt đối, bất cứ ai nghĩ khác
họ đều phải bị tiêu diệt !
Charlie Nguyễn
February 2004
Từ thái độ khinh miệt chà đạp phụ nữ của các đạo Độc Thần đến thái độ tôn
trọng và ca ngợi phụ nữ trong văn chƣơng bình dân Việt Nam
Charlie Nguyễn
Nói một cách công bình và khách quan thì trong hầu hết các nền văn hóa, Đông
cũng nhƣ Tây, ngƣời phụ nữ luôn luôn bị đối xử một cách bất bình đẳng. Có lẽ
vì bản chất của phụ nữ là “chân yếu, tay mềm” “liễu yếu đào tơ” nên cần đƣợc
phái nam (đƣợc mệnh danh là phái mạnh) che chở bao bọc. Từ đó, phụ nữ bị
phái nam lấn lƣớt dành quyền ƣu thắng trong mọi sinh hoạt xã hội. Vì vậy,
trong mọi xã hội thuộc đủ mọi nền văn hóa, quyền bình đẳng của phụ nữ không
ít thì nhiều cũng luôn luôn bị xâm phạm.
Có lẽ các xã hội Phật giáo ít bị mang tiếng nhất về vấn đề nữ quyền. Phật giáo
phát khởi trong bối cảnh Ấn giáo, nhƣng Đức Phật đã đƣa ra nhiều quyết định
sáng suốt để tránh cho Phật giáo những khuyết điểm đáng tiếc :
- Đức Phật không chấp nhận những nghi lễ của Ấn giáo đặt trên nền tảng
giai cấp phi nhân, vô lý và bất công.
- Đức Phật luôn luôn xác định phụ nữ có khả năng tâm linh cũng nhƣ nam
giới.
- Đức Phật kịch liệt phản đối tập tục “Sati” là một tập tục dã man vẫn tồn
tại trong Ấn giáo cho đến gần đây. Đó là tục ngƣời vợ bị buộc phải lên dàn hỏa
để đƣợc thiêu với ngƣời chồng quá cố. Ngƣời đã chết không cón sợ hãi hay đau
đớn, nhƣng ngƣời vợ còn sống sẽ phải trải qua những cơn đau đớn kinh hoàng!
Trong bài “Đạo Phật và vấn đề phụ nữ”, tác giả là bà Thái Kim Lan cho biết:
Nhà nghiên cứu ngƣời Đức là ông Kurt Schmidt, chuyên nghiên cứu về đạo
Phật từ thập niên 1920 đã dịch từ tiếng Trung Hoa một số câu kệ của 42 bài
kinh nguyên tác bằng tiếng Sankrit. Bản kệ nói trên có đoạn viết lời Đức Phật
nói về phụ nữ nhƣ sau : “Khi nói chuyện với phụ nữ, hãy nói với sự trong sáng
của con tim. Nếu ngƣời phụ nữ là một ngƣời già nua, hãy xem họ nhƣ mẹ. Nếu
ngƣời đó là một chủ nhân đáng kính, hãy đối xử nhƣ một bà chị. Nếu ngƣời đó
xuất thân thấp kém, hãy xem họ nhƣ em gái. Nếu ngƣời ấy còn thơ ngây, hãy
đối xử tế nhị và lịch sự”. (Bà Thái Kim Lan nguyên là một Phật tử ở Huế. Bà
đã du học ở Đức từ thập niên 1970 và trở thành giáo sƣ đại học ở Đức từ đó đến
nay. Bà đã chuyển ngữ đoạn văn trên từ Đức ngữ sang tiếng Việt. Theo bà, dù
không đúng từng chữ, nhƣng những lời nói trên phản ảnh trung thực tinh thần
những lời giảng dạy đích thực của Đức Phật).
Nhƣ trên đã trình bày, trong mọi xã hội thuộc mọi nền văn hóa đều có nạn kỳ thị
phụ nữ với những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, một sự thật hiển nhiên là
không nó một nền văn hóa nào khinh miệt và chà đạp phụ nữ bằng nền văn hóa
Độc thần giáo. Đó là nền văn hóa của ba đạo độc thần : đạo Do Thái, đạo Ki Tô
và đạo Hồi.
I.- Quan niệm về phụ nữ của đạo Do Thái và đạo Ki Tô.
Đạo KiTô phát sinh từ đạo Do Thái, do đó mọi quan niệm chính yếu liên quan
đến niềm tin tôn giáo của đạo KiTô đều đƣợc rập khuôn theo đạo Do Thái. Câu
chuyện thần thoại Vƣờn Địa Đàng (Gan-Eden) của ngƣời Sumerians ở Babylon
đã có từ 3000 năm trƣớc Công Nguyên, không ngờ đã trở thành nồng cốt cho
niềm tin của cả Do Thái giáo, KiTô giáo và cho cả Hồi giáo sau này.
Chuyện Vƣờn Địa Đàng kể rằng : trƣớc hết, Thiên Chúa dựng nên tổ tiên loài
ngƣời là Adam bằng đất sét. Sau đó, Chúa thấy Adam sống cô đơn buồn bã, nên
Ngài rút một khúc xƣơng sƣờn cụt của Adam để tạo ra bà Evà. Evà bị con rắn
nói tiếng ngƣời dụ dỗ ăn trái cấm. Evà dụ dỗ chồng là Adam phạm tội chống
Chúa, nên cả hai đã trở thành những kẻ đầu tiên phạm tội. Tội này đƣợc gọi là
“nguyên tội” (the original sin) và là tội đầu tiên của loài ngƣời, và đặc điểm của
tội này là di truyền cho con cháu loài ngƣời đến muôn đời.
Câu chuyện thần thoại Vƣờn Địa Đàng đã đƣợc ông thánh Augustine khai thác
tạo thành một gia tài giáo lý, biến Công giáo La Mã thành một tôn giáo nổi
tiếng về óc kỳ thị phụ nữ.
Augustine viết: Mỗi ngƣời đàn bà là một Evà. Sự kết án của Thiên Chúa không
phải trên cá nhân Evà, mà là trên phái tính của các ngƣời. Các ngƣời là hình ảnh
của qủi dữ, vì các ngƣời phá hoại đàn ông là hình ảnh của Thiên Chúa. Đàn bà
là cửa hỏa ngục. Chỉ vì tội lỗi của các ngƣời mà con của Thiên Chúa phải chết
.....
Câu chuyện thần thoại Vƣờn Địa Đàng đƣa đến nhiều hậu quả bất lợi cho phụ
nữ:
Trƣớc hết, đàn bà phải phụ thuộc đàn ông vì “đàn bà chỉ là một cái xƣơng sƣờn
cụt của đàn ông mà thôi”! Chúa dựng nên Eva trực tiếp từ một cái xƣơng sƣờn
cụt thành một ngƣời đàn bà hoàn chỉnh. Cho nên Eva không đƣợc sinh ra bởi
cha mẹ, không đƣợc cƣu mang trong bụng mẹ ngày nào, do đó Eva không đƣợc
sinh ra từ bụng mẹ, không đƣợc cắt rốn, và Eva trở thành ngƣời duy nhất trên
thế giới không có lỗ rốn!
Một trong những lý thuyết quan trọng nhất của Augustine là “tội tổ tông” đƣợc
di truyền cho con cháu muôn đời là do hành vi giao cấu tội lỗi của cha mẹ.
Augustine quan niệm dù là hành vi giao cấu giữa vợ chồng là hợp pháp, nhƣng
động lực chính yếu vẫn là sự ham muốn dâm dục. Vì vậy hành vi giao cấu của
cha mẹ vẫn cấu thành hành vi tội lỗi và làm cho Tội Tổ Tông (Nguyên Tội)
đƣợc di truyền liên tục muôn đời.
Bà Maria có cha mẹ là ông Joachim và bà Anna. Bà Maria đã đƣợc sinh ra bởi
cha mẹ. Bà Maria đã đƣợc sinh ra từ bụng mẹ, có cắt rốn cho nên bà Maria phải
có lỗ rốn. Cái lỗ rốn của bà Maria là bằng cớ hùng hồn chứng tỏ là bà ta đã mắc
tội tổ tông, vì (theo lý thuyết của Augustine) bà ta đã sinh ra do sự giao cấu của
cha mẹ là ông Joachim và bà Anna.
Một khi bà Maria đã bị “nhiễm tội tổ tông”, thì bà ta sẽ truyền tội cho thằng con
trai của bà là Jesus, và biến Jesus thành kẻ có tội (a sinner). Hậu qủa cuối cùng
là Jesus không thể vừa là một tội nhân lại vừa là Đấng Chí Thánh! Jesus phải
hiện nguyên hình là một ngƣời thƣờng (a man), chứ không thể là một thứ quái
thai nửa ngƣời nửa Thiên Chúa (half-man, half-god). Cái lỗ rốn của bà Maria,
không ít thì nhiều, cũng làm tổn hại đến thằng con trai của bà.
Tội Ác Dã Man đối với Phụ Nữ của Công Giáo La Mã và Thệ Phản Giáo dƣới
chiêu bài Diệt Nạn Phù Thủy.
Tác phẩm “Búa Phù Thủy”, do bác sĩ Trần Qúi Nhu dịch, Giao Điểm xuất bản
Hè 2003. Nguyên tác bằng tiếng la-tinh “Malleus Maleficarum” của hai linh
mục “quan án đạo” là Heinrich Kramer và James Sprenger. Tác phẩm đƣợc xuất
bản lần đầu vào năm 1486 để làm tài liệu chính thức cho các quan tòa án đạo
xử dụng.
Mấy trang đầu sách có in sắc lệnh 1482 của giáo hoàng Innocent VIII. Sắc lệnh
của giáo hoàng là văn kiện luật pháp tối cao chỉ đạo công cuộc diệt phù thủy.
Đây là chứng tích không thể chối cãi về một thời kỳ kinh hoàng cho phụ nữ kéo
dài 300 năm (1450-1750). Bất cứ một phụ nữ nào cũng có thể dễ dàng bị ghép
vào tội phù thủy. Ngƣời phụ nữ có thể bị ngƣời hàng xóm thù ghét vu cáo cho
tội đã dùng bùa phép làm chết con bò hay con ngựa của hắn ta. Thế là ngƣời
phụ nữ đó có thể bị truy tố ra Tòa Án Đạo và bị kết tội phù thủy. Một phụ nữ
bỗng nhiên bị nổi ở trên mặt một vài cái nốt ruồi hay mụn cơm có hình thù đặc
biệt khiến cho kẻ mê tín tin đó là dấu hiệu của ma qủi. Ngƣời phụ nữ đó có thể
bị kết án về tội phù thủy.
Vào đầu thế kỷ 15, các tu sĩ dòng Đa Minh (Dominicans) đƣợc giáo hoàng cử
làm các quan án xử tội phù thủy. Trong hai thế kỷ 15 và 16, riêng tại Đức có
100,000 ngƣời bị giết bằng cách thiêu sống trên dàn hỏa.
Năm 1572, tại Saxony, phe Thệ Phản giáo (Tin Lành) tỏ ra còn khắc khe với
phù thủy hơn cả công giáo La Mã. Cuối thế kỷ 16, phe Thệ Phản giáo thiêu
sống 20,000 ngƣời riêng tại Saxony. Từ 1615-1635, hơn 5,000 ngƣời bị đƣa lên
dàn hỏa về tội phù thủy tại miền Strasburg.
Sắc lệnh 9-12-1482 của giáo hoàng Innocent VIII
Sắc lệnh của giáo hoàng đƣa ra nhiều “kiến thức lạ lùng” về phù thủy,thầy pháp,
bói toán, ... Giáo hoàng cũng đƣa ra nhiều “niềm tin mê tín” của riệng ông ta để
dạy dỗ các quan án :
- Các phù thủy có thể thông đồng với “qủi đực, qủi cái” để gây ra bão táp
phá hoại mùa màng, giết hại súc vật.
- Bọn phù thủy đã lạc ra ngoài đức tin Công giáo, sa vào tay qủi dữ và có
khả năng xử dụng tà thuật , phù phép, bùa ngải để làm các việc ác.
- Phù thủy có khả năng vận dụng sự di chuyển các ngôi sao để gây ra bệnh
hoạn. Họ kết ƣớc với ma qủi để có thể biết trƣớc tƣơng lai bằng cách đoán
mộng.
Đó là tiêu biểu những “kiến thức” của giáo hoàng về phù thủy. Giáo hoàng đã
tán bậy theo sự suy tƣởng ngu xuẩn của hắn. Chủ trƣơng diệt phù thủy thực sự
đã bắt nguồn từ Cựu Ƣớc, ít nhất từ 3000 năm trƣớc CN:
- Deut. 7:16 (Sách Phục Luật) “ Ngƣơi phải diệt các dân tộc mà Thiên
Chúa của ngƣơi đã giao cho ngƣơi”.
- Deuteromy 18:10 “Phải giết hết các thầy pháp và các thầy bùa ngải”.
- Leviticus 19:26 “Thiên Chúa sẽ đối mặt với các kẻ làm thầy pháp và giết
hết bọn này trƣớc mặt dân chúng”.
- Levi. 20:26-27 “Những kẻ làm phù thủy hoặc bói toán phải đƣợc đem ra
giết hết”.
Giáo hoàng và bọn quan án đạo đã vận dụng cái ngu và cái ác của Thiên Chúa
trong Kinh Thánh hợp với cái ngu và lòng mê tín ác nghiệt của chúng để tạo
thành một căn bản luật pháp tôn giáo. Bọn chúng đã dám dựa vào cái lòng tin
ngu xuẩn của chúng để ra lệnh tàn sát bao nhiêu ngàn sinh linh! Trong 300
năm, từ 1450 đến 1750, ít nhất cũng có 200,000 phụ nữ bị thiêu sống dƣới cái
tội danh “phù thủy” vu vơ, không có thật. Tội danh này thật sự đã đƣợc tạo ra
do sự tƣởng tƣợng của những kẻ nặng đầu óc mê tín mà thôi.
II. Quan Niệm của đạo Hồi về Phụ Nữ.
Số tín đồ Hồi giáo hiện nay trên 1 tỷ 200 triệu, trải rộng khắp các lục địa gồm
nhiều quốc gia dân tộc với những tục lệ và luật pháp khác nhau. Do đó, số phận
của phụ nữ mỗi nơi một khác. Tuy nhiên, vƣợt lên trên mọi dị biệt của địa
phƣơng, kinh thánh Koran và “thánh luật” Sharia là hai bộ sách luật pháp tối
cao quyết định phần lớn số phận của ngƣời phụ nữ Hồi giáo.
- Koran 33:53 “Phụ nữ phải mặc kín đáo hoàn toàn, không đƣợc để lộ
phần nào của cơ thể trƣớc mặt bất cứ một ngƣời đàn ông nào, bao gồm cả mặt
và tay”.
- Koran 4:34 “Đàn ông có thẩm quyền trên ngƣời đàn bà. Chúa sinh ra đàn
ông cao qúi hơn đàn bà. Đối với phụ nữ không biết vâng lời, đàn ông có quyền
ruồng bỏ và đánh đập”.
- Koran 2:22 “Đàn bà là “cánh đồng lạc thú”, đàn ông có quyền chủ động
bƣớc vào nếu muốn”.
Các thánh tử đạo lên thiên đàng đƣợc chúa Allah cấp cho mỗi ngƣời 72 trinh
nữ để hƣởng lạc suốt đời. Kinh Koran coi “Thiên Đƣờng là khu vƣờn của lạc
thú nhục dục muôn đời”.
Đàn ông không có tội “ngoại tình” vì có quyền lấy nhiều vợ. Đàn bà không
đƣợc lấy ngƣời thứ hai ngoài chồng. Khi bị buộc vào tội ngoại tình thì ngƣời
đàn bà phải bị đƣa ra cho công chúng ném đá cho đền chết.
Tại Afganistan, phụ nữ không đƣợc đi học. Các cán bộ tôn giáo có nhiệm vụ
nhƣ cảnh sát. Họ đƣợc trang bị một cái roi dài, quấn dây cáp bằng thép, dùng để
đánh bất cứ một phụ nữ nào trên đƣờng phố mà mặc y phục không đúng qui
định, nhƣ mặc quần áo bó sát thân hình, để lộ vớ trắng ở bàn chân, đeo nữ trang,
đi giầy gây tiếng kêu. Phụ nữ bị cấm đi học, cấm làm việc, cấm đi xe đạp, v.v...
Tuy nhiên, mọi sự cấm đoán vô lý và quá đáng cuối cùng sẽ bị phản ứng ngƣợc
lại. Xƣa kia, trong thế giới Hồi giáo ít có ai dám viết sách chống lại đạo Hồi.
Cách đây vài thập niên, nhà văn Anh gốc Ấn rất nổi tiếng là Salmon Rushdie đã
dám viết tiểu thuyết “Satanic Verses” chống đạo Hồi và bị giáo chủ Khomeni
lên án tử hình. Nhƣng ngày nay, ngƣời ta thấy có nhiều sách do chính các tín đồ
Hồi giáo viết để lên án Hồi giáo và kêu gọi cải tổ. Chẳng hạn nhƣ tác phẩm “Tại
sao tôi không theo đạo Hồi” (Why I am not a Muslim) của Ign Warra
(Prometheus Books xuất bản năm 2003). Ngay ở trang đầu cuốn sách, tác giả đã
trích dẫn câu nói rất nổi tiếng của triết gia kiêm sử gia Pháp Joseph Ernest
Renan (1823-1892): “Những tín đồ Hồi giáo là những nạn nhân đầu tiên của
đạo Hồi. Rất nhiều lần trong các cuộc du lịch của tôi tại phƣơng Đông, tôi thấy
sự cuồng tín của một nhóm ít ngƣời nguy hiểm đã buộc ngƣời khác phải theo
đạo bằng cách khủng bố. Giải phóng tín đồ Hồi giáo thoát ra khỏi tôn giáo của
họ là việc làm tốt nhất mà chúng ta có thể làm cho họ” (Muslims are the fisrt
victims of Islam. Many times I have observed in my travels in the Orient, that
fanatism comes from a small number of dangerous men who maintain the others
in the practice of religion by terror. To liberate the Muslim from his religion is
the best service that one can render him).
Điều làm tôi cảm thấy vui là mới đây xuất hiện một cuốn sách tựa đề “Chuyện
rắc rối với đạo Hồi” (The Trouble with Islam) của Irshad Manjii, một nữ tín đồ
Hồi giáo ở Đông-Phi (East Africa), Random House, Canada xuất bản 2003. Tác
giả tố cáo các chính quyền Hồi giáo trên khắp thế giới xâm phạm nữ quyền và
kêu gọi toàn toàn thế giới can thiệp để cải tổ đạo Hồi :
- Tại Nigeria, một cô gái 17 tuổi bị các bạn của cha cô hiếp dâm; có 7 nhân
chứng, nhƣng cô ta vẫn bị tòa án Hồi giáo phạt đánh 180 roi.
- Tại Pakistan, hiện nay mỗi ngày có ít nhất 2 phụ nữ bị giết vì “honor
killing”
- Tại Tunisia và Algéria, phụ nữ Hồi không đƣợc lấy chồng ngoài đạo Hồi.
- Cảnh sát Saudi Arabia bắt giam các phụ nữ mua hoa, quà tặng, hay mặc
áo đỏ trong dịp lễ Valentine.
- Khi vào đền thờ Hồi giáo, đàn ông và đàn bà đi vào bằng các cửa khác
nhau. Đàn bà đứng sau đàn ông, do đó đàn bà có thể nhìn thấy đàn ông, nhƣng
đàn ông không nhìn thấy đàn bà. Trong đền thờ, chỉ đàn ông có quyền điều
khiển các buổi đọc kinh. Đàn bà bị cấm triệt để, vì kinh Koran đã qui định rõ
nhƣ vậy : “Girls can‟t lead prayer. They are not permitted”.
Irshad Manjii là một phụ nữ Hồi giáo trẻ tuổi đã khám phá ra một điều mà tác
giả cho là mới mẻ và đáng ngạc nhiên. Trƣớc đó, Manjii nghĩ Hồi giáo là một
tôn giáo riêng biệt, nhƣng sau đó Manjii mới biết Hồi giáo đã phát sinh từ
truyền thống Do Thái – Kitô giáo (Islam comes from Judae-Christian
traditions). Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo là ba đạo độc thần, đều là con
cháu của một ông tổ chung là Abraham. Hồi giáo là món quà tặng từ Do Thái
giáo (Islam is a gift of the Jews). Vấn đề đƣợc đặt ra là tại sao Hồi giáo, Do
Thái giáo và Kitô giáo lại căm thù nhau, chem giết nhau không nƣơng tay.
Đáng lẽ cả ba đạo phải thân thiết nhau mới phải, vì cả hai đều thờ chung một
Chúa và cùng một gốc Abraham! Lý do đơn giản là bản chất của độc thần giáo
là tự cho đạo của mình có độc quyền chân lý, là “chánh đạo” còn tất cả những ai
có ý nghĩ khác họ là “tà đạo”.
III. Thái độ tôn trọng và ca ngợi phụ nữ trong văn chƣơng bình dân Việt Nam.
Dân tộc chúng ta theo truyền thống thờ cúng Tổ Tiên, nên rất tôn kính Ông Bà,
Cha Mẹ. Chúng ta coi cha mẹ ngang nhau :
Công cha nhƣ núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ nhƣ nƣớc trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con.
Cha mẹ là hình ảnh của vợ chồng vì phải là vợ chồng rồi mới thành cha mẹ. Vợ
chồng là đầu mối của gia đình, gia tộc và dân tộc. Vì tầm mức quan trọng của
mối liên hệ vợ chồng nhƣ vậy, nên dân tộc ta đã đƣa mối liên hệ vợ chồng thành
“Đạo Vợ Chông”, đặt trên căn bản kết ƣớc lâu dài trọn cuộc đời :
Đạo vợ chồng khó lắm anh ơi
Không nhƣ ong bƣớm đậu rồi lại đi.
Vợ chồng bình đẳng và lo giúp đỡ nhau tác động hai chiều:
Xét ra trong đạo vợ chồng
Cùng nhau nƣơng cậy để phòng nắng mƣa.
Đôi ta nhƣ rắn liu điu
Nƣớc chảy mặc nƣớc, ta đìu lấy nhau.
Đạo vợ chồng đừng có đổi thay
Làm nên danh vọng hay ăn mày cũng theo.
Thuận vợ, thuận chồng
Tát bể Đông cũng cạn.
Trong đời sống gia đình Việt Nam, ngƣời phụ nữ luôn luôn đóng vai chính, biểu
lộ lòng yêu thƣơng và hy sinh cho gia đình, luôn luôn cần cù siêng năng, chịu
khó chịu khổ, tự lực tự cƣờng, chỉ biết trông cậy vào sức mình để lo bản thân,
cho gia đình, cho con cái, cho dòng tộc và luôn cho cả đất nƣớc. Phụ nữ Việt
Nam giống nhƣ hình ảnh con cò trên đồng ruộng :
Trời sinh mẹ đẻ tay không
Nên tôi bay khắp tây đông kiếm mồi
Trƣớc là nuôi cái thân tôi
Sau nuôi đàn trẻ nên đời cò con
Một mai khôn lớn vuông tròn
Rủ nhay bay khắp nƣớc non xa gần.
Nhà thơ Tú Xƣơng ví vợ của ông nhƣ con cò ở ven sông :
Thân cò lặn lội bờ sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lịch sử Việt Nam cho thấy nhiều phụ nữ là những anh thƣ liệt sĩ, nhƣ bà Triệu,
bà Trƣng, Nguyễn thị Xuân :
Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh.
Ghé vai gánh vác sơn hà
Làm cho rõ mặt đàn bà nƣớc Nam.
Phụ nữ Việt còn biểu lộ đức tính tự trọng, và hiên ngang lên tiếng chống lại
cƣờng quyền. Dƣới thời nhà Nguyễn, nhiều nhà nho bị hủ hóa vì tƣ tƣởng Tống
Nho, khinh thƣờng văn hóa nƣớc nhà :
“Nôm na là cha mách qué”
coi các nguyên tắc cứng ngắc của Khổng Mạnh nhƣ những khuôn vàng thƣớc
ngọc. Bà vợ Việt Nam chống lại ông chồng hủ nho chỉ biết trọng cái vỏ hƣ danh
bề ngoài mà không biết lo thực tế :
Ra ngoài làm dáng anh đồ
Về nhà hỏi vợ: “Cám khô đâu mày?”
Cám khô tao để cối xay
Chó mà ăn hết thì mày đừng ăn.
Ngày 6-3-1828, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm phụ nữ không đƣợc mặc váy.
Phụ nữ dám dùng lời mỉa mai châm biếm chống lại triều đình :
Chiếu Vua mồng sáu tháng ba,
Cấm quần không đáy ngƣời ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Đi thì bắt lột quần chồng sao đang!
Có một đức tính rất đặc biệt ở ngƣời phụ nữ Việt Nam mà ít có phụ nữ của một
nƣớc nào khác có thể có đƣợc. Đó là đức tính nhẫn nhịn :
Một câu nhịn, chín câu lành.
Chữ “Nhẫn” là chữ tƣợng vàng,
Ai mà nhẫn đƣợc thì càng sống lâu.
Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi nhỏ lửa thì đời nào khê.
Nói đây cho chị em nhà
Còn dăm bát gạo, còn vài lạng bông
Bán đi trả nợ cho chồng
Còn ăn, hết nhịn, bằng lòng chồng con
Đắng cay ngậm quả bồ hòn.
Vì có nhiều đức tính cao qúi nên phụ nữ Việt Nam đƣợc tôn trọng từ trong gia
đình đến ngoài xã hội. Trong một số trƣờng hợp, ý kiến của phụ nữ còn đƣợc
tôn trọng hơn ý kiến của chồng :
Lệnh ông không bằng cồng bà
Có một câu nói phổ biến trong dân gian, câu nói đó không vần không điệu
nhƣng cũng rất thông thƣờng trên cửa miệng nhiều ngƣời đàn ông Việt Nam.
Đó là câu “Nhất Vợ, nhì Trời”.
Dù cho câu nói này chỉ là một câu nói đùa, nhƣng nó vẫn là một câu nói độc
đáo, vì trong các nền văn hóa độc thần không thể nào có một câu nói tƣơng tự.
Những câu nói nhƣ “Con cóc là cậu ông Trời” chỉ có thể có trong văn hóa Việt
Nam, vì đại đa số dân tộc Việt Nam , tuy hay nói tới “Ông Trời”, nhƣng không
bao giờ họ tin rằng Ông Trời là Đấng Tối Cao hay Đấng Tạo Hóa Toàn Năng.
Các linh mục Công giáo và các mục sƣ Tin Lành luôn luôn viết sách, viết báo,
giảng đạo trên đài phát thanh hay trong các giáo đƣờng, cố gắng đồng hóa “ông
Trời” của văn hóa Việt với “Đức Chúa Trời” của đạo KiTô. Họ hí hửng tin
rằng: hề ngƣời Việt Nam tin có “ông Trời” sẽ đƣơng nhiên tin có “Đức Chúa
Trời” mà họ tôn thờ. Thực sự, đối với ngƣời Việt Nam, “ông Trời” chỉ là bầu
trời xanh, là năng lực thiên nhiên, là sự vận hành của vũ trụ, ... Thế còn sao lại
gọi Trời bằng “ông”. Thƣa rằng ngƣòi Việt chúng tôi còn gọi nhiều “vật” bằng
“ông” lắm, nhƣ “ông bình vôi”, “ông ba mƣơi”, v.v... Khi ngƣời bình dân Việt
nói “Nhất Vợ Nhì Trời” là họ thật sự đặt các bà xã của họ ngồi lên đầu “Ông
Trời” đó. Tôi khuyên các linh mục Công giáo và các mục sƣ Thệ Phản giáo
không nên ví “ông Trời” của văn hóa Việt với Chúa Trời của các ông, kẻo bị
hiểu nhầm là các bà xã ở nhà đƣợc ngồi trên đầu Chúa!
Charlie Nguyễn
Lập Xuân 2004
Các Hoạt Động Chính Trị Quân Sự và Tâm Lý Chiến của “Đạo Quân Thứ Năm
Công Giáo” nhằm yểm trợ thực dân Pháp trở lại tái chiếm thuộc địa Đông-
Dƣơng
(1947-1954)
Charlie Nguyễn
I. Hoạt động chính trị quân sự của Công Giáo miền Nam Việt Nam.
(a) Tiểu sử đại tá Jean LeRoy : Ông là nhân vật chủ yếu trong các hoạt động
của Công Giáo miền Nam trong giai đoạn lịch sử 1947-54. LeRoy sinh năm
1920 tại xã Bình Đại, tỉnh Bến Tre, gia nhập trƣờng sĩ quan Tông (Sơn Tây) và
ra trƣờng với cấp chuẩn úy năm 1940. Năm 1943, y đƣợc cử làm tiểu đoàn
trƣởng tiểu đoàn lính Raddhé ở Thủ Đầu Một. Cuối năm 1945, LeRoy cùng với
quân đội Pháp tái chiếm Saigon; kế đến y thành lập những đơn vị partisans (biệt
động quân) đánh chiếm Mỹ Tho, Cái Răng, Bình Thủy, Cái Vồn, Phụng Hiệp
và nhiều quận lỵ Nam Kỳ. Năm 1950, chính phủ Nguyễn Văn Thinh cử y làm
tỉnh trƣởng Bến Tre
.
(b) Lực lƣợng võ trang UMDC (Các đơn vị lƣu động bảo vệ tín đồ KiTô
Giáo) : Vào tháng 7-1947, Tƣ Lệnh Quân Đội Pháp tại Đông Dƣơng là tƣớng
De Latour cho phép Jean LeRoy thành lập 3 Chiến Đoàn Lƣu Động Công Giáo
để bảo vệ Bến Tre. Lực lƣợng võ trang này mang tên “Unités Mobiles de
Défense des Chrétiens”, viết tắt là UMDC, do LeRoy làm Thanh Tra với cấp
bậc đại úy. Năm 1948, lực lƣợng võ trang này đổi thành “Tiểu Đoàn Phụ Lực
Quân” (Forces Suppletifs) thuộc quân đội viễn chinh Pháp do LeRoy chỉ huy
với cấp bậc Trung Tá. Năm 1950, Leroy đƣợc thăng cấp Đại Tá.
Điều khôi hài là đạo quân của LeRoy đƣợc tổ chức giống nhƣ một doàn “Thập
Tự Quân” (the Crusade): Phù hiệu và quân kỳ của UMDC là hình Thập Giá mầu
xanh lơ (blue) trên nền cờ vàng có thêu 4 chữ La Tinh “PRO DEO ET
PATRIA” (Vì Chúa và Tổ Quốc). Khẩu hiệu “Vì Chúa” có thể chấp nhận đƣợc
vì mục tiêu của đạo quân này là “bảo vệ Đạo”; nhƣng khẩu hiệu “vì Tổ Quốc”
thì cần phải đặt vấn đề: LeRoy là một sĩ quan Pháp, UMDC lúc này đã trở thành
một lực lƣợng phụ lực của quân đội viễn chinh Pháp. Nhƣ vậy, khẩu hiệu “Vì
Tổ Quốc” phải đƣợc hiểu là “Tổ Quốc Pháp” chứ không phải là “Tổ Quốc Việt
Nam”.
Trong mấy năm kế tiếp, UMDC đƣợc tổ chức thành 88 đơn vị, mỗi đơn vỉ có 71
ngƣời (60 binh sĩ, 1 sĩ quan, 1 thƣợng sĩ, 3 trung sĩ và 6 hạ sĩ). Tổng số quân
gồm có khoảng 6,200 ngƣời. Đoàn quân này mở các cuộc hành quân từ Saigon -
Chợ Lớn đến Biên Hòa, Long An, Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre, Long Xuyên,
Sóc Trang, Bạc Liêu, Trà Vinh, ....
(c) Đảng “Dân Chủ Thiên Chúa Giáo Việt Nam” : Sau khi Vatican lên tiếng
kết án chủ nghĩa Cộng Sản, tòa ổng Giám Mục Saigon tích cực ủng hộ LeRoy
và một số nhân sĩ Công Giáo nhƣ Jean Baptist Đôn và Huỳnh Công Hậu đứng
ra lập “Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo”. Mục tiêu của đảng này là bảo vệ Đạo,
ủng hộ Bảo Đại nắm chính quyền và thiết lập chế độ quân chủ lập hiến, ủng hộ
giải pháp Việt Nam gồm có 3 kỳ phân lập và Nam Kỳ tự trị. Năm 1952, lực
lƣợng UMDC bị sát nhập vào Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Từ 1954, LeRoy
định cƣ tại Pháp và không bao giờ trở lại Việt Nam nữa.
II. Hoạt động chính trị quân sự của Công Giáo miền Bắc Việt Nam.
1. Phong Trào Quốc Gia Tự Vệ : Phát Diệm là tên của một làng Công Giáo
thuộc huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Bùi Chu là tên một xã Công Giáo thuộc
huyện Xuân Trƣờng, tỉnh Nam Định. Từ 1945, Phát Diệm thành trụ sở Tòa
Giám Mục Phát Diệm dƣới quyền cai quản của giám mục Lê Hữu Từ. Từ 1950,
Bùi Chu thành Tòa Giám Mục địa phận Bùi Chu dƣới quyền của giám mục
Phạm Ngọc Chi.
Sau khi Nhật đảo chánh năm 1945, linh mục Hoàng Quỳnh, lúc đó là Tổng
Tuyên Öy đoàn thanh niên Công Giáo Phát Diệm, đã lập chiến khu tại Chi Nê
và võ trang Đoàn Thanh Niên Công Giáo thành Lực Lƣợng Tự Vệ.
Đêm 20-8-1945, Hoàng Quỳnh mang quân từ chiến khu Chi Nê về cƣớp chính
quyền tại huyện Kim Sơn, Yên Khánh, Nho Quan và Thƣờng Tín.
Năm 1949, quân Pháp chiếm Bùi Chu và Phát Diệm, Lực Lƣợng Tự Vệ Công
Giáo đổi tên thành “Phong Trào Quốc Gia Tự Vệ” liên lạc trực tiếp với quốc
trƣởng Bảo Đại.
2. Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam : đƣợc thành lập do nghị định của Bộ
Trƣởng Nội Vụ Huỳnh Thúc Kháng, thuộc Chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến
cho phép. Liên Đoàn Công Giáo có mục đích tập họp tất cả các hội đoàn Công
giáo thành một khối chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi của giáo hội, gây tình thân
thiện giữa đồng bào Lƣơng-Giáo, v.v... Đây là một tổ chức hữu danh vô thực.
3. Khu an toàn của nhữngh ngƣời “quốc gia” : Giám mục Lê Hữu Từ đƣợc
chủ tịch Hồ Chí Minh cho giữ chức “Cố Vấn Tối Cao” trong Chính Phủ Liên
Hiệp Kháng Chiến. Lợi dụng chức vụ này, giám mục Lê Hữu Từ đã tránh cho
Phát Diêm không bị “tiêu thổ kháng chiến” và tản cƣ. Ngoài ra, vào tháng 9-
1947, chính phủ Hồ Chí Minh đã cử một phái đoàn về Phát Diệm để trao cho
“cố vấn tối cao” Lê Hữu Từ một văn thƣ trong có đoạn nhƣ sau : “ ... Tôi muốn
san sẻ một phần trách nhiệm bằng cách nhƣờng hẳn quyền cai trị toàn quận Kim
Sơn gồm 40 xã ấp (trong đó có 32 giáo xứ) với khoảng 150,000 dân. Các cơ
quan hành chánh và quân sự của chính quyền sẽ rút đi hết để Cố Vấn toàn
quyền tổ chức....”.
Từ đó xuất hiện “Khu An Toàn Phát Diệm”. Các cán bộ chính quyền phải rút ra
hết và không đƣợc phép xâm nhập trở lại. Phát Diệm trở thành “Đất Thánh” an
toàn cho 60,000 ngƣời tỵ nạn từ các nơi đổ về, hầu hất đều là những thành phần
đảng phái chồng Cộng, các ngƣời hoạt động chính trị bị Việt Minh truy nã,
trong số đó có vợ chồng Trần Văn Chƣơng, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Diệm.
4, Lực Lƣợng Tự Vệ Công Giáo Bùi Chu – Phát Diệm trở thành phụ lực quân
cho quân đội Pháp : Bùi Chu – Phát Diệm là khu tự trị trực thuộc quốc trƣởng
Bảo Đại. Sĩ quan Pháp không có quyền ra lệnh cho quân nhân Việt Nam. Tuy
nhiên, giữa quân đội Pháp và lực lƣợng Tự Vệ Công Giáo có một qui ƣớc về
hệ thống đóng quân theo hình Tam Giác: một đồn binh Pháp đóng ở giữa, thì
có 3 đồn Tự Vệ Công Giáo đóng ở 3 góc, với đƣờng kính 10 km.
Quân đội Pháp có nhiệm vụ bao bọc che chở cho các đồn Tự Vệ Công Giáo
bằng các loại vũ khí nặng. Trƣớc khi hành quân, quân đội Pháp phải mở những
cuộc tảo thanh mở đƣờng.
III. Hoạt động chiến tranh tâm lý hiểm độc của các giám mục Việt-Pháp họp tại
Hà Nội ngày 9-11-1951
Từ năm 1948, thực dân Pháp bị quân kháng chiến Việt Nam đánh trả rất ác liệt
trên khắp các mặt trận khiến cho chúng lâm vào tình trạng lúng túng và lo sợ.
Các giáo dân hoang mang chỉ sợ Pháp thua bỏ chạy thì họ sẽ bị bỏ lại và lâm
vào tình trạng nguy hiểm vì sẽ bị “Việt Minh trả thù” !
Vào cuối năm 1951, tình trạng Công Giáo Việt Nam thật bi đát vì “sự hỗn loạn
xao xuyến đang đè nặng trên tâm hồn giáo dân” nên các giám mục (9 Pháp, 5
Việt) thuộc các hội Truyền Giáo tại Việt Nam, đã họp tại Hà Nội để soạn thảo
và công bố Thƣ Chung của các Giám Mục họp tại Hà Nội ngày 9-11-1951 (bản
chánh bằng tiếng Pháp).
Phân tích bức thƣ chung này, chúng ta sẽ thấy các giám mục đã đƣa ra những
đón tâm lý chiến rất thâm hiểm. Họ thừa biết cuộc tái chiếm thuộc địa của thực
dân Pháp là không có chính nghĩa, nên sẽ bị mọi ngƣời Việt Nam yêu nƣớc, dù
là Cộng Sản hay không Cộng Sản, chống trả mãnh liệt. Do đó, họ khôn khéo lái
“tình yêu Tổ Quốc” theo một hƣớng khác. Các giám mục lý luận: “Ý niệm Ki
Tô Giáo về Tổ Quốc không loại trừ những quốc gia khác mà chúng ta cũng phải
yêu mến bởi vì tất cả chúng ta đều là con của cùng một Chúa. (La notion
chrétienne de Patrie n‟exclut pas les autres nations que nous devons aimer aussi
par ce que nous sommes tous fils du même Dieu). Điều này có nghĩa rằng: “các
giáo dân Việt Nam cũng phải yêu nƣớc Pháp và ngƣời Pháp vì họ và ta đều là
con một Chúa !”
Đa số các giáo dân quê mùa đã nghe theo những lời nói trên của các giám mục,
vì là “những anh em con cùng một Chúa” (fils du même Dieu) . Mỗi khi bọn
lính Pháp bị tử trận, các xác chết đƣợc họ coi bọn giặc Pháp đồng đạo đƣa vào
nhà thờ để cho cha xứ “làm phép xác” và làm lễ cầu hồn cho chúng. Mấy bà già
thấy bọn lính Pháp chết đã tỏ ra thƣơng xót, có ngƣời còn lấy tràng hạt của họ
đeo vào cổ xác lính tây.
Trái lại, sau mỗi lần hành quân tại mấy làng lân cận, bọn lính tự vệ Công giáo
bắt những ngƣời lƣơng mà chúng nghi là “Việt Minh”. Bọn chúng trói những
ngƣòi đó và giải lên đồn Tây. Khi tiếp nhận những ngƣời này, bọn lính Pháp có
thói quen dùng báng súng đập thằng vào ngực vào mặt các nạn nhân khiến cho
họ vung máu tung tóe. Bọn lính tự vệ Công giáo không hề cảm thấy thƣơng xót
đồng bào mình, trái lại dù cho chúng bắn giết họ chăng nữa, chúng cũng không
hề hối hận, vì chúng đã nghe theo bọn giám mục coi những ngƣời kháng chiến
là “Cộng Sản vô thần”, là “con cái ma qủi” hoặc “kẻ thù của Thiên Chúa” (des
enemis de Dieu). Giết “Cộng Sản Vô Thần”, cũng nhƣ giết “con cái ma qủi”
hoặc “kẻ thù của Thiên Chúa” chẳng khác nào giết một con rắn độc, chẳng
những không có tội mà còn có công trƣớc mặt Chúa và giáo hội nữa ! Do đó,
bọn vệ sĩ Công giáo tha hồ giết ngƣời và gây tội ác mà không phải ăn năn hối
hận gì cả !
Bọn giám mục không có một lý luận chính đáng nào để có thể biện minh cho sự
có mặt của những đoàn quân viễn chinh Pháp tại Việt Nam. Bọn Pháp trở lại
Việt Nam chỉ có một mục tiêu duy nhất là tái chiếm thuộc địa Đông Dƣơng mà
chúng đã bị mất sau 1945. Trong thƣ chung ngày 9-11-51, các giám mục không
hề đả động tới vấn đề xung đột Pháp-Việt mà chỉ đề cập đến vấn đề xung đột
giữa giáo hội Công giáo và Cộng Sản: giáo hoàng Pio XII đã tuyên bố: Không
một ai có thể cùng một lúc vừa là Công giáo vừa là Cộng sản. Ngƣời Công giáo
gia nhập đảng Cộng Sản là phản bội giáo hội. Các giáo dân đều bị cấm không
đƣợc theo Cộng Sản, và không đƣợc làm bất cứ điều gì có thể giúp Cộng sản lên
nắm chính quyền...
Bọn giám mục nói quá nhiều về Cộng Sản làm cho giáo dân Việt Nam quên mất
hành động quân Pháp trở lại xâm lăng Việt Nam và do đó họ quên mất nghĩa vụ
của ngƣời công dân là kháng chiến chống Pháp để cứu nƣớc !
Cuối cùng, các giám mục hô hào giáo dân hãy “kháng chiến” , nhƣng không
phải là kháng chiến chống Pháp mà là “kháng chiến chống Cộng Sản” và “trung
thành với Chúa” (Alors résistez, très cher frères, soyez fidèles à notre Dieu).
Thƣ chung của các giám mục viết tại Hà Nội ngày 9-11-1951 (nguyên văn bằng
tiếng Pháp) đƣợc tất cả các linh mục thuộc các giáo xứ trên toàn quốc Việt Nam
đọc tại nhà thờ và đƣợc nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các bài giảng để phổ
biến đến toàn thể giáo dân Việt Nam. Đây chỉ là một trong nhiều bằng chứng cụ
thể vể hoạt động chiến tranh tâm lý của hàng ngũ giám mục Việt cũng nhƣ
Pháp.
Cũng xin nói ở đây là “Hội Đồng Giám Mục Việt Nam” (HĐGMVN) hiện nay
đã đƣợc thành lập do sắc chỉ ngày 24-11-1960 của giáo hoàng Gioan XXIII.
Thƣ chung ngày 9-11-1951 nói trên đây không phải là sản phẩm của
HĐGMVN mà là của 14 giám mục (9 Pháp, 5 Việt) thuộc các Hội Truyền Giáo
tại Việt Nam. (Les ordinaires des Missions du Vietnam).
Mặc dù danh xƣng có khác, nhƣng bản chất đầu óc nô lệ và truyền thống bán
nƣớc của bọn giám mục trẻ hiện nay so với bọn giám mục già xƣa kia (Nguyễn
Bá Tòng, Ngô Đình Thục, Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, Hoàng Văn Đoàn,
Trịnh Nhƣ Khuê) chắc chắn chẳng có gì khác nhau. Muốn vô hiệu hóa sự tác
hại của đạo quân thứ năm Công giáo, tôi thiết nghĩ việc tiên quyết là phải giải
tán HĐGMVN. HĐGMVN là cơ quan chỉ huy tối cao của giáo hội Công giáo
Việt Nam (chiếm 7 – 8% dân số) . Chính quyền cần phải chú ý theo dõi nội
dung các Thƣ Luân Lƣu hoặc Thông Cáo của HĐGM, bởi vì các thƣ này
thƣờng có tác dụng rất lớn về tâm lý đối với toàn khối 7 triệu giáo dân, và do đó
sẽ có tác dụng đối với vận mệnh của Tổ Quốc.
Charlie Nguyễn
5/2004
Dƣới đây là nguyên bản Thƣ Chung bằng tiếng Pháp và bản dịch Việt ngữ của
Guse Phạm Hữu Tạo :
Lettre Commune Des Ordinaires Réunis A Hanoi
(texte original en francais)
9 novembre 1951
Nos bien chèrs frères,
Les ordinaires des Missions du Vietnam réunis à Hanoi sous la présidence de
son Excellence Monseîgneur le Délégué apostolique, ont jugé qu'il est de leur
devoir de coordonner leurs efforts en vue de coopérer plus efficatement à
l'oeuvre de pacification des coeurs et restauration chrétienne qui s'impose à
l'heure actuelle.
Les Êvêques du Viêtnam, émus de la confusion qui règne dans les esprits,
croient de leur devoir de préciser la notion de la Patrie. Le Patriotisme, c'est
l'amour de la Patrie, et la Patrie étymologiquement, c'est la terre des ancêtres.
La Patrie, c'est donc une extension de la famille, l'une comme l'autre se
rattachent à la vertu de piété, et par conséquent nous ne pouvons que
l'encourager et le développer au même titre que les autres vertus chrétiennes. La
notion chrétienne de Patrie n'exclut pas les autres nations que nous devons
aimer aussi parce que nous sommes tous fils du même Dieu.
Animé par le sentiment de notre grave responsabilité devant Dieu et d'une
grande affection pour vous tous, nos très chers frères, nous estimons qu'il est de
notre devoir de vous mettre en garde contre le très grand danger du
communisme athée, qui est le plus grand danger existant de nos jours. Le
communisme est la négation de Dieu, la négation de toute religion, la négation
de l'existence d'une âme immortelle, la négation des droits de la personne
humaine et de la famille. Il y a la plus entière opposition entre l‟Église
Catholique et le communisme à tel point que notre Saint Père le pape a déclaré
qu'il est absolument impossible d'être à la fois communiste et catholique et que
tout catholique qui adhère au parti communiste est par le fait même séparé de
L‟Église. Non seulement, il vous est interdit d'adhérer au Parti Communiste,
mais vous ne pouvez pas coopérer avec lui ou faire quoi que ce soit qui puisse
de quelque facon amener le Parti Communiste au pouvoir.
Le danger est si grave et les conséquences possibles si terribles que nous nous
sentons obligés de vous mettre en garde aussi contre les détours et les ruses
employés par les communistes pour tromper le peuple, ruses qui ne servent que
les seules fins des communistes.
En premier lieu, ils font preuve d'un grand zèle pour les réformes sociales et
mettent en avant leur doctrine comme un remède aux maux sociaux de nos
jours. Ils se cachent aussi sous le masque du patriotisme et cherchent par leur
prétendu zèle pour le bien être de leurs compatriotes à rallier le peuple sous leur
bannière. Mais ce ne sont là que des moyens pour atteindre leurs fins inavoués
et une fois au pouvoir, ils installent une dictature impitoyable. Ce ne sont plus
les intérêts des pauvres et des ouvriers, ni les intérêts de la Patrie qui comptent,
ce sont uniquement les intérêts du communisme. Ainsi dans les pays sous le
joug communiste, règnent la suppression de tout les biens et la persécution des
milliers de nos frères catholiques, ces derniers vivent dans la terreur, ils
dépérissent en prison, payant même de leur sang leur fidélité à la foi.
Alors résistez, très chers frères, ne vous laissez pas tromper, soyez fidèles à
notre Dieu. Veuillez, soyez vigilants, restez ferme dans la foi.
Et vous, chers prêtres, enseignez la doctrine sociale de l'Église, instruisez les
peuples des vertus chrétiennes de charité et de justice. Prêtres et fidèles, vivez
intensément votre vie chrétienne selon les maximes de L'Évangile. La charité
des premiers chrétiens a amené la conversion du monde: la charité, c'est à dire
supporter son prochain, lui pardonner, lui vouloir et réellement lui faire du bien.
L'amour du Christ a vaincu la haine, votre charité vaincra la haine des enemis
de Dieu. Que voire voie soit toujours un témoignage pour Dieu, le Christ et
l‟Église.
Pour conclure, nous vous répétons encore avec saint Paul: “Veillez, restez ferme
dans la foi, soyez vigilants, soyez forts, tout ce que vous faites, faites-le dans la
charité” (I Cor. XVI, 13-14).
Nous demandons à nos prêtres de lire la présente lettre dans les Églises et leurs
Oratoires. A tous, prêtres et fidèles, nous donnons de tout coeur notre
bénédiction paternelle. Grace et paix vous soit données de la part de Dieu, notre
Père, et du Signeur Jésus Christ.
Hanoi, le 9 novembre 1951
- John Dooley, Délégué apostolique en Indochine.
- Jean Baptiste Chaballier, Vicaire apostolique de Phnom-Penh.
- Pierre Ngô Đình Thục, Vicaire apostolique de Vĩnh Long.
- Jean Cassaigne (Sanh) - de Saigon.
- Marcel Piquet (Lợi) - de Qui Nhơn.
- Jean Marie Maze (Kim) - de Hƣng Hóa.
- Anselme Tadée Lê Hữu Từ - de Phát Diêm.
- Jean Baptiste Urritia - de Huế.
- Pierre Marie Phạm Ngọc Chi - de Bùi Chu.
- Domonique Hoàng Văn Đoàn - de Bắc Ninh.
- Joseph Maide Trịnh Nhƣ Khuê - de Hanoi.
- Fr. Félice Pérez (Hiên) - Provicaire apostolique de Haiphong.
- Bernard Illomera (Yên) - Provocaim apostoloque de Thái Bình.
- Paul Renaud (Ái) - Provicaire apostolique de Kontum.
Thƣ Chung Của Các Giám Mục Công Giáo La Mã Họp tại Hà Nội
ngày 9 tháng 11 năm 1951
(bản dịch của Guse Phạm Hữu Tạo)
Anh em thân mến,
Chúng tôi, những giám mục của Hội Truyền Giáo tại Việt Nam họp tại Hanoi,
dƣới quyền chủ tọa của Đức Ông Khâm Mạng Tòa Thánh, đã thấy bổn phận của
chúng tôi là phải kết hợp những nỗ lực để công tác hữu hiệu trong sự mƣu tìm
an bình cho lòng ngƣời và phục hoạt đạo Chúa hiện nay.
Là những giám mục tại Việt Nam, xao xuyến trƣớc sự hỗn loạn đang đè nặng
trên tâm hồn giáo dân, nghĩ rằng bổn phận của chúng tôi là phải xác định rõ
ràng ý niệm Tổ Quốc! Ái quốc là tình yêu dành cho Tổ quốc, tổ quốc theo ngữ
học là mảnh đất của tổ tiên. Vì vậy, tổ quốc chính là sự nối tiếp của gia đình, cả
hai ràng buộc với nhau trong sự sùng kính, nên chúng tôi phải khuyến khích sự
phát triển ngang nhau với những lẽ đạo khác. Ý niệm của đạo về Tổ Quốc
không hề bỏ ra ngoài các quốc gia khác mà chúng ta phải yêu mến vì thất cả
chúng ta đều là con cái Chúa!
Tác động bởi trách nhiệm nặng nề của chúng tôi trƣớc Chúa và với một tình yêu
lớn dành cho anh em, chúng tôi thấy cần phải nhắc nhở các anh em hãy cảnh
giác trƣớc hiểm họa Cộng sản vô thần là một hiểm họa lớn nhất trong thời đại
chúng ta, Cộng sản chối bỏ Chúa, chối bỏ tín ngƣỡng, chối bỏ linh hồn bất diệt,
chối bỏ nhân quyền và gia đình. Lại còn có sự chống đối toàn diện ác liệt giữa
Cộng sản và giáo hội, đến nỗi đức thánh Cha đã phải tuyên bố quyết liệt rằng
không thể nào có thể vừa là Công giáo vừa là Cộng sản. Và ngƣời Công giáo
khi gia nhập đảng Cộng sản, bằng hành vi ấy đã xa lìa giáo hội. Không những
anh em bị cấm không đƣợc gia nhập đảng Cộng sản, mà anh em còn không
đƣợc cộng tác để làm bất cứ điều gì để có thể đƣa đảng ấy lên cầm quyền. Hiểm
họa quá lớn và những hậu qủa rất ghê sợ, nên chúng tôi cũng buộc lòng phải
cảnh giác anh em trƣớc những lèo lái hay xảo thuật Cộng sản đã dùng để lừa bịp
dân chúng chỉ nhằm chiếm đoạt đƣợc mục tiêu của họ.
Trƣớc hết, họ đã chứng tỏ có nhiều nhiệt tình để cải cách xã hội và đề ra lý
thuyết nhƣ là phƣơng thuốc chữa trị những tệ đoan xã hội. Họ không che dấu
mặt nạ yêu nƣớc và cũng tìm cách đặt ra sự nhiệt tình làm nhƣ lo cho hạnh phúc
đồng bào để quy tụ dân chúng dƣới mầu cờ của họ. Nhƣng đó chỉ là những
phƣơng tiện nhắm đạt tới những mục tiêu không tƣởng của họ và khi cầm quyền
rồi, họ áp đặt một nền độc tài tàn nhẫn. Không còn nữa những phúc lợi của
ngƣời nghèo hay của giới công nhân lao động, cũng chẳng còn quyền lợi gì của
tổ quốc nữa, mà chỉ còn quyền lợi của Cộng sản thôi. Bởi vậy, ngự trị trong các
nƣớc Cộng sản là sự tƣớc bỏ mọi phúc lợi và sự đàn áp hàng ngàn anh em Công
giáo, những ngƣời này phải sống trong sợ hãi, chết rũ trong tù ngục, phải đổ
máu ra để bảo vệ đức tin.
Vậy xin anh em hãy chống cự, đừng bị mắc lừa, hãy trung thành với Chúa! Xin
hãy thức tỉnh và sống mạnh bằng đức tin. Và qúy vị, những linh mục, hãy giảng
dậy học thuyết xã hội Công giáo, dậy cho giáo dân những đức tính Công giáo về
bác ái và công bình. Linh mục và giáo dân hãy sống đạo theo đúng với những
lời dậy trong Thánh kinh. Đức bác ái của những ngƣời Công giáo đầu tiên là
hoán cải thế giới. Đức bác ái là giúp đỡ đồng loại, tha thứ cho họ và thực sự làm
những điều tốt cho họ. Tình yêu của đấng Ki-tô đã thắng hận thù, tình yêu của
anh em cũng sẽ thắng kẻ thù của Chúa. Ƣớc gì con đƣờng anh em đi là sự làm
chứng cho Chúa, đấng Cứu Thế và Giáo hội.
Để kết thúc, chúng tôi xin nhắc lại với anh em lời nói của thánh Phao-lồ:”Xin
hãy vững mạnh trong đức tin, hãy thức tỉnh và hãy mạnh dạn trong mọi việc của
anh em làm trong tình bác ái!”
Chúng tôi xin các linh mục đọc thƣ này trong các nhà thờ và nhắc nhở trong bài
giảng. Với các linh mục và các anh em, chúng tôi ban phép lành thần phụ của
chúng tôi. Xin Chúa Trời là Cha của chúng ta, và đấng KiTô ban ơn sủng và sự
bình an cho các anh em.
Hanoi, ngày 9-11-1951
ký tên : 14 giám mục (9 gốc Pháp, 5 gốc Việt)
Trả lời bốn câu hỏi của Giao Điểm về việc Giáo hội Phật giáo Quảng Trị đòi lại
đất bị nhà thờ La Vang chiếm đoạt (*)
Nguyễn Chấn (Charlie Nguyễn) Houston, Texas, USA
1. Chúng ta có thể trƣng ra nhiều bằng cớ lịch sử về việc ngƣời Công giáo cậy
quyền thế của bọn Pháp xâm lƣợc đánh phá nhiều chùa trên khắp các miền đất
nƣớc để cƣớp đất xây nhà thờ và nhà xứ của họ. Riêng về vụ Giám mục Sohier
(cai quản giáo phận Huế) xúi giục tín đồ đánh phá chùa Lá Vàng của đồng bào
Phật giáo Quảng Trị năm 1886 để cƣớp đất xây nhà thờ La Vang sau này, ngoài
những bằng cớ lịch sử chúng ta còn có một bằng cớ khác đó là bài vè của giáo
dân La Vang sáng tác từ cuối thế kỷ 19 còn lƣu truyền đến ngày nay. Bài vè khá
dài đã tƣờng thuật vụ phá chùa Lá Vàng với nhiều chi tiết nhƣ:
“bao nhiêu Thần Phật đều tung ra ngoài...”
“Lƣ hƣơng bát đất đền đài đều hƣ...”
Linh mục Xitanio Nguyễn Văn Ngọc đã sƣu tầm bài vè này qua lời thuật lại của
giáo dân La Vang và ghi lại đầy đủ trong cuốn sách của ông mang tựa đề “Linh
địa La Vang”, xuất bản lần đầu tiên tại Việt Nam với sự phê chuẩn của Tòa
Giám mục Huế ngày 13.4.1970 và đƣợc tái bản nhiều lần tại Hoa Kỳ sau 1975
do Nguyệt san „Trái Tim Đức Mẹ‟, cơ quan ngôn luận chính yếu của Dòng
Đồng Công ở bang Missouri phát hành. Căn cứ vào sử liệu của Công giáo và
bài vè truyền khẩu, Linh mục Xitanio Nguyễn Văn Ngọc viết: “Ngôi chùa đã
đƣợc biến thành nhà thờ Công giáo từ đó – 1886” (trang 44 sách „Linh địa La
Vang‟).
Theo thƣờng luật (common law) mọi ngƣời bị thiệt hại đều có quyền đòi hỏi can
thiệp để buộc kẻ gây thiệt hại phải bồi thƣờng. Nay, Giáo hội Phật giáo Quảng
Trị nhân danh đồng bào Phật tử Quảng Trị là những ngƣời bị thiệt hại đòi hỏi
pháp luật can thiệp để buộc giáo hội Công giáo phải bồi thƣờng thiệt hại hoặc
phải trả lại đất đã ăn cƣớp trƣớc đây. Việc này hoàn toàn hợp lẽ công bằng theo
thƣờng luật. Ngoài những bằng cớ lịch sử, vụ cƣớp phá chùa Lá Vàng còn đƣợc
xác nhận bởi bài vè của giáo dân La Vang sáng tác từ cuối thế kỷ 19 và những
lời vô tình thú tội khác của những giới chức Công giáo trong sách „Linh Địa La
Vang‟ của Linh mục Xitanio Nguyễn Văn Ngọc. Việc GHPG Quảng Trị đòi lại
đất chùa Lá Vàng đặt trên căn bản pháp lý vững chắc với những bằng cớ xác
thực, thiết tƣởng đây là một việc làm chính đáng không ai có thể phủ nhận
đƣợc.
2. Tôi không biết luật pháp của Việt Nam hiện nay ra sao. Luật của Miền Nam
trƣớc 4/1975 là luật của Pháp canh cải, theo đó thì mọi án phạt hình sự đều có
thời hạn triệt tiêu : 5 năm đối với tội tiểu hình và 10 năm đối với tội đại hình.
Vụ giáo dân phá chùa Lá Vàng cƣớp đất xây nhà thờ năm 1886, đến nay đã 117
năm. Tất nhiên chúng ta không thể đề cập đến tính cách hình sự của vụ án này.
Việc GHPG Quảng Trị đòi lại đất bị cƣớp hoàn toàn thuộc lãnh vực hộ sự (dân
luật), theo thiển ý của tôi vụ này không bị ràng buộc vào các luật thời tiêu của
hình luật.
Đối với việc tịch thu một phần hoặc tịch thu toàn bộ tài sản của Giáo hội Công
giáo là một việc hoàn toàn tùy thuộc vào luật pháp nhà nƣớc và tùy theo nhu
cầu của từng giai đoạn lịch sử. Chính quyền Cách mạng Pháp 1789 và chính
quyền Cách mạng Mexico 1857 đều đã từng ra lệnh tịch thu toàn bộ tài sản của
giáo hội Công giáo tại đất nƣớc của họ.
Đối với Giáo hội Công giáo Việt Nam hiện nay, nếu chính quyền nhận thấy họ
chỉ là một đạo quân thứ Năm của địch nằm vùng thƣờng trực trong lòng dân tộc
và truyền thống phản quốc của họ là không thể thay đổi đƣợc... thì việc tịch thu
toàn bộ tài sản của giáo hội Công giáo là một việc làm chính đáng và cần thiết.
3. Lập trƣờng của Giao Điểm là lập trƣờng Dân tộc. Các tác giả Giao Điểm cực
lực tố cáo bọn Việt gian núp bóng tôn giáo với âm mƣu “Phục hồi tinh thần Ngô
đình Diệm” tại Việt Nam, cực lực tố cáo âm mƣu chia cắt Tây Nguyên và Cao
nguyên Bắc Việt của bọn Tin Lành. Các tác giả Giao Điểm không đánh phá tôn
giáo để gây chia rẽ nhƣng quyết tâm vạch mặt bọn phản quốc đội lốt tôn giáo và
cố gắng gióng lên một lời báo động về mối nguy cơ có thật của đạo quân thứ
Năm đối với vận mệnh đất nƣớc.
Theo thiển ý của tôi, chúng ta không lo ngại về âm mƣu của bọn Việt gian tại
hải ngoại lợi dụng tôn giáo để phá rối trị an tại quốc nội. Về bọn chúng rất dễ bị
nhận diện và âm mƣu của chúng cũng dễ bị phát hiện. Điều mà mọi ngƣời Việt
yêu nƣớc tại hải ngoại quan tâm là tệ nạn tham nhũng ở trong nƣớc. Đó chính là
môi trƣờng tốt nhất cho bọn Việt gian đội lốt tôn giáo mua chuộc lợi dụng để
củng cố các cơ sở phá hoại của chúng.
4. Nhiệm vụ của chính quyền là bảo vệ an ninh xã hội và quyền lợi chính đáng
của toàn dân, bảo vệ nền trật tự công bình và thực hiện công lý cho mọi ngƣời.
Chúng tôi yêu cầu chính quyền Việt Nam đƣa vụ ngƣời Công giáo đánh phá
chùa Lá Vàng đã cƣớp đất xây nhà thờ La Vang ra xét xử, để cho thế giới thấy
đƣợc nền công lý của Việt Nam hiện nay nhƣ thế nào. Đồng thời, việc đƣa vụ
này ra xét xử cũng là một hình thức dằn mặt bọn Việt gian vong bản và “chủ
chăn” của chúng là Vatican để buộc chúng phải tôn trọng chủ quyền và danh dự
của dân tộc Việt Nam.
(*) Vì ý kiến của ông Nguyễn Chấn rất chi tiết và có đề cập đến những vấn đề
thuộc lãnh vực chuyên môn của ông là luật pháp, nên chúng tôi tách riêng ra để
lƣu ý cùng đồng bào trong và ngoài nƣớc..
Vài nhận xét về “Thƣ Góp Ý Pháp Lệnh Tôn Giáo” của ông Phan Đình Diệm,
chủ quản Học hội Giêsu giáo.
Charlie Nguyễn
Ngày 5-8-2003 vừa qua, ông Phan Đình Diệm với tƣ cách là chủ quản Học hội
Giêsu giáo ở Houston, đã gửi một bản góp ý vào dự thảo “Pháp lệnh Tôn giáo”
của Quốc hội Việt Nam.
Trong phần mở đầu, ông Diệm đã nêu lên nhiều nhận xét rất đúng về giáo hội
Công giáo Rôma. Ông viết: “Giáo hội Công giáo Rôma là một thành phần nằm
trong quần thể các giáo hội Thiên Chúa giáo của các sắc dân du mục ở Trung
Cận Đông. Thần tổ của các sắc dân này 5000 năm trƣớc ở Babylon là thần bò
ER... thánh tổ ngành tƣ tế thờ cúng bò vàng là Aaron, ngƣời anh em của
Maisen, ngƣời sáng lập Maisen giáo (Do Thái giáo). Hai đạo thối thân của Do
Thái giáo là Công giáo Rôma và Hồi giáo Mecca. Tất cả cùng chung một tổ phụ
Abraham (và cùng là những biến dạng của đạo thờ bò)” ; “Giáo hội Công giáo
Rôma là một tổ chức tôn giáo đế quốc, có chính quyền trung ƣơng tập quyền và
độc tài giáo phiệt. Giáo hội Công giáo Rôma tại Việt Nam chỉ là một chƣ hầu,
một giáo phái ngoại nhập đặt dƣới quyền chỉ huy trói buộc nghiêm nhặt của
giáo hoàng tại Rôma.”
Ngoài những ƣu điểm nói trên, trong phần sau của bản góp ý vào Pháp Lệnh
Tôn Giáo, ông Diệm đã nêu lên nhiều nhận định sai lầm nghiêm trọng khiến
chúng tôi buộc lòng phải lên tiếng để thảo luận với ông. Chúng tôi sẽ lần lƣợt
nêu lên 4 vấn đề chúng tôi không đồng ý với ông nhƣ sau:
Thứ nhất. Ông viết: “Đức Giêsu là vị giáo chủ của đạo lý nhân bản thế tục, của
chủ nghĩa nhân văn thế tục. Đạo lý chính dòng Giêsu tựu trung là đạo nhân
nghĩa chia cơm xẻ áo rất chi là “xã hội nhân bản chủ nghĩa”!”
Ông đã viết những dòng chữ trên để ca ngợi Giêsu. Trong khi đó, con ngƣời ích
kỷ hợm hĩnh và ác độc của Giêsu lại đƣợc ghi chép đầy đủ trong Tân Ƣớc. Ông
hãy đọc kỹ những lời nói của Giêsu để biết con ngƣời thật của ông ta “nhân
bản” nhƣ thế nào?
- “Nếu ngƣơi không tin Ta là Con của Thiên Chúa, ngƣơi sẽ chết trong tội lỗi
của ngƣơi” (I said therefore unto you, that ye shall die in your sin for if you
believe not that I am He – Son of God – ye shall die in your sin, John 8:24)
- “Hãy lôi những kẻ thù của Ta ra đây, đó là những kẻ không muốn Ta ngự trị
trên họ, hãy giết chúng trƣớc mặt Ta” (But those mine enemies which would not
that I should reign over them, bring hither and slay them before me, Luke
19:27).
Giêsu chỉ ƣớc mong đƣợc mọi ngƣời tôn thờ y. Những ai không tôn thờ y đều bị
y coi là kẻ thù và y sẵn sàng giết những ngƣời đó không hề thƣơng tiếc. Vậy rõ
ràng Giêsu là một kẻ hoàn toàn phi nhân (inhuman). Có lẽ nào ông có thể ca
ngợi Giêsu là vị giáo chủ của đạo lý nhân bản đƣợc?
Thứ hai . Ông dùng danh xƣng “Giêsu giáo” để gọi Công giáo là điều không
thích hợp vì nhiều lý do:
- Trong ngôn ngữ thế giới không hề có danh từ Giêsu giáo (Jesusism!). Chúng
ta đều biết rằng Kitô giáo phát xuất từ Tây phƣơng, vậy chúng ta phải gọi tên
của tôn giáo này theo quan niệm của họ. Họ phân biệt Giêsu và Kitô. Giêsu là
ngƣời thật còn Kitô là tƣớc hiệu của đấng Cứu thế (a messianic title). Đấng Cứu
thế là Con của Thiên Chúa (Son of God) cũng là Thiên Chúa. Sở dĩ Giêsu đƣợc
tôn thờ vì “Giêsu đƣợc Kitô hóa” (Jesus was Christed). Do đó, ngƣời Tây
phƣơng không gọi đạo thờ Giêsu là “Giêsu giáo” (Jesusism) mà gọi là Kitô giáo
(Christinanity).
Ngƣời Hoa phiên âm danh từ Hy lạp Christos thành Cơ đốc và phiên âm tên
Giêsu thành Gia-tô. ngƣời Hoa gọi đạo thờ Giêsu là Cơ đốc giáo chứ không
phải là Gia tô giáo!
Gọi đạo thờ Giêsu là “Giêsu giáo” là hoàn toàn đi ngƣợc lại truyền thống từ xƣa
đến nay trong ngôn ngữ thế giới. Vả lại, nếu hiểu “Giêsu giáo” là đạo thờ Giêsu
thì Anh giáo, Chính thống giáo và Tin lành cũng là Giêsu giáo, đâu có riêng gì
Công giáo Rôma mới là “Giêsu giáo” ? Vậy việc xử sụng danh từ “Giêsu giáo”
để gọi giáo hội Công giáo Rôma là hoàn toàn không thích hợp.
Thứ ba. Sau khi ông Diệm (PĐ) tự động đổi tên Giáo hội Công giáo Rôma Việt
Nam thành “Giêsu giáo của Hội đồng Giám mục VN”, ông đề nghị Quốc hội
VN “nâng Giêsu giáo của Hội đồng Giám mục VN lên cấp bậc “Tôn giáo Dân
tộc” ngang cấp bậc với Khổng giáo, Phật giáo và Lão giáo thành “Tứ giáo Đồng
lƣu” trên đất nƣớc Việt Nam.”
Ba đạo Phật-Khổng-Lão đã trở thành “Tam giáo Đồng lƣu” trong lòng dân tộc
Việt Nam hoàn toàn do tự nhiên mà thành. Cả ba đạo đều xuất phát từ con
ngƣời và đều có mục tiêu chính yếu là phục vụ con ngƣời chứ không phục vụ
một thần linh (hay Thiên Chúa) nào cả. Đó là tính chất nhân bản của Tam giáo,
vì thế Tam giáo đã có thể hòa đồng với nhau trong tâm hồn của ngƣời Việt
Nam.
Trái lại, Công giáo Rôma cũng nhƣ quần thể các tôn giáo độc thần (Do thái ,
Kitô, Hồi giáo) đều tôn thờ một Thiên Chúa tối cao trên hết mọi sự. Tiêu biểu
cho tinh thần cực đoan của các đạo Chúa là chuyện Abraham giết đứa con trai
duy nhất của mình để tế Chúa. Đó là đặc tính phi nhân của các đạo Chúa. Với
bản chất phi nhân, Công giáo Rôma vẫn giữ nguyên trạng là một tôn giáo thuộc
đức tin Abraham (Abraham faith), vẫn là một tôn giáo thấp kém mọi rợ ăn thịt
uống máu ngƣời. Một tôn giáo phi nhân hạ đẳng nhƣ vậy làm sao có thể hòa
đồng với triết lý nhân bản cao cả của Tam giáo đƣợc? Hơn nữa, Công giáo
Rôma hoàn toàn đƣợc xây dựng trên nền tảng của niềm tin mù quáng. “Phúc
cho ai không thấy mà tin!” Trong khi đó Tam giáo đƣợc xây dựng trên nền tảng
của ánh sáng trí tuệ. Do đó, Công giáo Rôma không có khả năng hòa nhập vào
Tam giáo vì nó đã bị ánh sáng Tam giáo tiêu diệt trƣớc khi có thể hòa nhập.
Chính vì thế, trong hai ngàn năm qua, trong lòng dân tộc Việt Nam chỉ tồn tại
“Tam giáo Đồng lƣu” mà thôi. Do bản chất khác biệt và do giá trị quá thấp kém,
Công giáo Rôma sẽ không bao giờ có khả năng hòa nhập vào tam giáo để trở
thành “Tứ giáo đồng nguyên”. Đây là một điều quái đản, nhất định sẽ không
bao giờ xảy ra trên đất nƣớc Việt Nam!
Thứ tƣ. Ông Diệm đã xử dụng những ngôn từ lố lăng, đao to búa lớn, để tâng
bốc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Ông viết: “Đỉnh cao của cuộc cách mạng
văn hóa tái sinh trong Hội đồng Giám mục Việt Nam là thƣ chung 1980 - Hịch
Yêu Nƣớc Yêu Nhà Việt Nam – hoàn tất tiến trình dẫn đƣa 7 triệu đồng bào
Việt Nam từ trong chuồng chiên vĩ đại của Giáo hội Công giáo Rôma quay
ngƣợc về Nhà Việt Nam.”
Ông Diệm liệt kê một số thành tích của HĐGMVN:
a) Thông cáo ngày 14/6/1965 cho phép giáo dân có quyền tự do tôn kính ông bà
tổ tiên và đƣợc bày bàn thờ gia tiên trong nhà. Điều này thật ra chẳng có gì là
“cách mạng” ghê gớm vì đó chính là điều Công đồng Vatican 1962-1965 cho
phép trƣớc rồi. HĐGMVN chỉ dám làm cái việc nhắc lại cái điều đã đƣợc
Vatican cho phép chứ có dám làm điều gì ngƣợc lại với Vatican?
b) Nghị quyết ngày 14/11/1974 cho phép giáo dân tham dự đề nghị tôn kính vị
thành hoàng tại đình làng. Đây là một việc bình thƣờng nhƣ tham dự hội hè,
không có gì quan trọng.
c) Trong thƣ chung năm 1980, HĐGMVN kêu gọi : “Chúng ta phải là Hội
Thánh của Đức Giêsu Kitô trong lòng dân tộc Việt Nam”, nghĩa là phải sống
gắn bó với quê hƣơng, hòa mình vào cuộc sống của đất nƣớc và diễn tả đức tin
phù hợp với truyền thống dân tộc. Thực sự đây chỉ là một thủ đoạn giả vờ “trở
về với Dân tộc”. HĐGMVN do Vatican thành lập do sắc chỉ ngày 24/11/1960
của GH Gioan XXIII. Các giám mục đều do Vatican tuyển lựa kỹ càng, căn cứ
vào lòng trung thành tuyệt đối đối với Tòa Thánh. Vatican xử dụng HĐGMVN
nhƣ một ban tham mƣu tối cao bản địa cho đạo quân thứ năm của họ tại Việt
Nam. Các thành phần trong HĐGMVN đều là những kẻ “bán linh hồn cho quỉ”
vì họ luôn tâm niệm “thà mất nƣớc chứ không thà mất Vatican!”.
Muốn thực sự đƣa 7 triệu đồng bào Công giáo trở về với dân tộc chỉ có một con
đƣờng duy nhất là: giải tán HĐGMVN do Vatican lập nên và sau đó là thiết lập
một giáo hội Công giáo VN tự trị (hoàn toàn tách biệt khỏi sự kiềm tỏa của
Vatican).
Trong tình trạng hiện nay, mối liên hệ giữa Công giáo VN và Vatican đúng nhƣ
ông PĐ Diệm đã trình bày ở phần đầu: “Giáo hội Công giáo Rôma là một tổ
chức tôn giáo đế quốc và toàn cầu hóa, có một chính quyền trung ƣơng tập
quyền và độc tài quân phiệt theo mô hình của các hoàng đế Casear mà Giáo hội
Công giáo Rôma tại Việt Nam chỉ là một chƣ hầu, một giáo phái ngoại nhập,
đặt dƣới quyền chỉ huy trói buộc nghiêm nhặt của giáo hoàng tại Rome.
Vậy, HĐGMVN hiện nay chỉ là một công cụ của Vatican - một tên đế quốc xảo
quyệt nhất thế giới - để nô lệ hóa một thành phần dân tộc VN gồm 7 triệu tín đồ
Công giáo. Thực chất HĐGMVN là một tập hợp Việt gian phản quốc núp dƣới
danh nghĩa tôn giáo để công khai nằm vùng trong lòng dân tộc. Tôi không biết
ông Diệm đã căn cứ vào đâu mà ca ngợi HĐGMVN lên tận mây xanh: “ngàn
năm không phai nhòa hình ảnh hào hùng bất khuất của những Giám mục Kẻ Sĩ
Việt Nam cuối thiên niên kỷ II”?
Theo tôi, với tƣ cách là một công cụ của đế quốc Vatican, các thành phần trong
HĐGMVN không xứng đáng đƣợc gọi là kẻ sĩ Việt Nam đƣợc.
tháng Mƣời 2003,
Charlie Nguyễn
Hai Quan Điểm về Charlie Nguyễn
HAI LÁ THƢ (TỪ ÖC CHÂU) – HAI QUAN ĐIỂM
1. Lá thƣ của một ngƣời bạn cùng lớp tại Chủng viện Thánh Gia Ninh Cƣờng
(1950-1952)
Charlie Nguyễn: Cái Ung Nhọt Gây Nhức Nhối Cho Thánh Gia Chúng Ta
Các bạn TG thân mến,
Từ một nơi xứ Öc châu xa xôi, tôi vẫn theo dõi những họat động của anh em
Thánh Gia trên khắp mặt địa cầu, là một thành viên của TG khi thấy những gì
liên quan đến tập thể TG dù lành hay dữ tôi thấy có bổn phận phải lên tiếng
cũng nhƣ thông báo cho chủ biên Thánh Gia Bản Tin cũng nhƣ các bạn TG trên
toàn thế giới biết để tùy nghi ứng phó hoặc để ngăn trừ. Về vấn đề niềm tin vào
Đấng Thiêng Liêng tối cao, tức là đức tin của mỗi ngƣời chúng ta, tôi không đặt
ra đây, vừa rồi tôi đã đọc thấy những sự cổ võ một cách trâng tráo của BVC đƣa
ra ý kiến một cách điên rồ bệnh hoạn, tôi xin đƣợc trích đoạn mà BVC tức
Charlie Nguyễn viết nhƣ sau:
"Hƣớng về Tổ quốc Việt Nam, tôi ƣớc mong tới một ngày nào đó Quốc hội
và Chính phủ Việt Nam sẽ can đảm nhận trách nhiệm can thiệp vào tiến trình
đổi mới Giáo hội Công giáo Việt Nam . Theo thiển ý của tôi, những việc cần
thiết nhất để tách rời Giáo hội Công giáo Việt Nam ra khỏi quĩ đạo nô lệ
Vatican là:
- Giải tán Hội đồng Giám mục Việt Nam, vì Hội đồng này do Vatican lập nên
và hoàn toàn khống chế để làm công cụ tay sai cho chủ nghĩa đế quốc.
- Giải tán tất cả các dòng tu (nam và nữ), vì các dòng tu ở Việt Nam chỉ là
những nhánh nhỏ của những dòng tu lớn có gốc ở La mã hoặc ở Pháp hay Tây-
ban-nha. Các dòng tu này đều có hiến chƣơng đƣợc Vatican duyệt y và cho
phép hoạt động để phục vụ cho những mục tiêu bành trƣớng đế quốc của
Vatican.
- Tịch thu toàn bộ bất động sản của Giáo hội Công giáo Việt Nam
Ƣu tiên tịch thu các nhà thờ đã đƣợc xây cất trên các khu đất ăn cƣớp của nhà
Chùa (nhƣ nhà thờ La Vang, nhà thờ Đức Bà, nhà thờ Phú Cam ...). Nhà thờ
đƣợc xây dựng do tiền ăn cƣớp của bọn cƣờng hào ác bá dựa vào thế lực của
đạo và của thực dân Pháp nhƣ nhà thờ Huyện Sĩ cũng cần đƣợc ƣu tiên tịch thu.
Tƣợng Đức Mẹ “Nũ Vƣơng Hòa Bình” là của riêng Công giáo không có tƣ cách
quốc gia để đƣợc dựng lên tại Công trƣờng Hòa Bình. Bức tƣợng này cần phải
đƣợc dỡ bỏ. Ngay cả cái tên “Công trƣờng Hòa bình” cũng không thích hợp cho
một công viên của thành phố vì nó đã đƣợc đặt tên theo danh hiệu “Nữ Vƣơng
Hòa Bình” (Regina Pacis) của Vatican.
- Tuyệt đối cấm các tu sĩ không đƣợc dạy học hoặc mở trƣờng học.
- Kiểm duyệt toàn bộ các sách Kinh Nguyện (Prayer Books) và các sách giáo lý
(Catechism). Xóa bỏ tất cả các bài kinh, bài giảng nhục mạ dân tộc hoặc các tôn
giáo khác.
- Cấm chỉ những cuộc hành hƣơng có mục tiêu phô trƣơng thanh thế cho
Vatican, biểu dƣơng lực lƣợng của Công giáo Việt Nam để uy hiếp chính quyền
hoặc có mục tiêu kích động tâm lý quần chúng tín đồ trên phạm vi lớn. Cuộc
hành hƣơng tiêu biểu thuộc loại này chính là cái đƣợc gọi là “Lễ hội La Vang”
đƣợc tổ chức rầm rộ trong năm 1999 với sự tham dự của trên một trăm ngàn tín
đồ. Báo chí ngoại quốc đã tƣờng thuật nhƣ sau : “Lễ hội La vang là một cuộc
biểu dƣơng niềm tin lớn lao nhất tại miền Nam kể từ sau ngày cộng sản xâm
chiếm miền Nam” (Công giáo Trên Bờ Vực Thẳm, Charlie Nguyễn, trang
217). Bề ngoài cuộc hành hƣơng La Vang là một lễ hội tôn giáo, song thực chất
là một cuộc biểu tình chính trị trá hình. Theo thiển ý của tôi, những cuộc biểu
tình trá hình núp dƣới chiêu bài tôn giáo cần phải đƣợc chấm dứt.
- Một khi những biện pháp nói trên đƣợc thực hiện chắc chắn sẽ nổ ra những
đợt phản kháng của những tín đồ cuồng tín. Do đó cần phải có sự đáp ứng hữu
hiệu và kịp thời.
Ngoài những lực lƣợng Cảnh sát Dã chiến sẵn có để dẹp các cuộc biểu tình bạo
động, chính quyền Việt Nam cần có một hệ thống Tòa Án Đặc biệt chuyên xét
xử các vụ vi phạm Luật Tôn giáo. Ít nhất tại mỗi miền (Bắc, Nam, Trung) có
một hoặc hai tòa án đặc biệt. Các tòa này cần có tính cách lƣu động để xét xử
các vụ vi phạm tại chỗ. Thủ tục tố tụng đơn giản nhanh chóng. Các phán quyết
của tòa án đặc biệt này đều có tính cách chung thẩm (không tái thẩm, không phá
án).
Trong trƣờng hợp có án tử hình thì tử tội nên đƣợc xử bắn tại pháp trƣờng dã
chiến đƣợc thiết lập ngay tại địa phƣơng nơi tử tội phạm pháp. Những biện pháp
này nhằm mục đích giúp chính quyền kịp thời đối phó với mọi phản ứng bạo
động của bọn cuồng tín có thể xảy ra tại bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam.
Đối với những ai chƣa thông suốt những bài học đắt giá về hiểm họa Công giáo
có thể không đồng ý với những biện pháp nói trên. Ngƣợc lại, đối với những ai
đã từng có những quan tâm đặc biệt về lịch sử sẽ nhận thấy các biện pháp trên là
cần thiết để bảo tồn sinh mạng của dân tộc.
Trong thế giới Âu Mỹ, Công giáo bị coi là một sản phẩm văn hóa phi nhân và
lỗi thời, hiện đang bị xã hội Tây phƣơng tẩy chay và phế thải. Đối với dân tộc
Việt Nam, ngoài tính chất lỗi thời lạc hậu, Công giáo còn là một tàn tích nô lệ
của thực dân để lại. Cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam chƣa trọn vẹn vì chúng
ta mới chỉ đánh đuổi bọn giặc ra khỏi bờ cõi nhƣng chƣa quét sạch những rác
rƣởi văn hóa mà bọn giặc đã cố tình để lại ở phía sau lƣng.
Khi nêu lên khẩu hiệu quen thuộc “Đại đoàn kết dân tộc” chúng ta cũng nên
thận trọng vì khẩu hiệu này không phải luôn luôn hợp lý trong mọi trƣờng hợp.
Chúng ta chỉ có thể “đại đoàn hết” với những phần tử còn có lòng yêu nƣớc, yêu
dân tộc mà thôi. Làm sao có thể đại đoàn kết với những ngƣời luôn luôn phủ
nhận Tổ quốc vì họ luôn rêu rao “Thiên Chúa Trên Hết” nhƣng trong thực tế là
“Vatican trên hết” ! Họ đã nhiều lần xác định lập trƣờng “Thà mất nƣớc không
thà mất Chúa”. Đọc lại lịch sử Việt Nam cận đại chỉ thấy đầy rẫy những thành
tích bán nƣớc hại dân của ngƣời Công giáo chứ có thấy một thành tích yêu nƣớc
nào đâu ? Có thể đi tới kết luận rằng : Bất cứ ai chủ trƣơng nhu hòa hoặc vì nhát
sợ mà trở nên thụ động, nêu lên khẩu hiệu đại đoàn kết với những kẻ vong bản
thì chính họ là những kẻ đầy ảo vọng, nếu không muốn nói là điên rồ. Thử hỏi
đại đoàn kết với những Lê chiêu Thống, Trần ích Tắc, Trần Lục v.v... để cứu
nƣớc chẳng phải là chuyện điên rồ hay sao ?
Cuối cùng, xin hãy bỏ ngoài tai mọi đòi hỏi “Tự do tôn giáo” của đủ thứ uỷ ban,
Đảng phái, Hội đoàn v.v... vì tất cả chỉ là những hình nộm hữu danh vô thực.
Bản thân Công giáo đã là một tên thủ phạm lớn nhất chống mọi thứ tự do và
nhân quyền của nhân loại. Vậy, Công giáo còn tƣ cách gì để đòi hỏi những thứ
mà chính nó đã phủ nhận ? Thay vì đòi hỏi này nọ, giáo hội Công giáo Việt
Nam hãy cúi đầu đấm ngực xám hối để xin nhân dân Việt Nam tha tội.
Vatican đã làm lễ thú tội trƣớc toàn thế giới ngày 12-3-2000, các giáo hội Công
giáo Pháp và Đức cũng đã làm lễ thú tội với đồng bào của họ. Biết đến bao giờ
mới có lễ xƣng thú tội lỗi của giáo hội Công giáo Việt Nam nếu không có một
hành động can thiệp nào đó của chính quyền ?
“Charlie Nguyễn" (Trích từ Thánh Gia Bản Tin)
2. Lá thƣ từ Öc châu của một ngƣời bạn mà Charlie Nguyễn chƣa một lần gặp
mặt:
Charlie Nguyễn : Một Con Sâu Hóa Bƣớm
Charlie Nguyễn, ngƣời đã vƣợt qua đƣợc sông Mê, suối Ảo.
Charlie Nguyễn, ngƣời can đảm đứng dậy và tiến lên sau khi đã ngã quỵ vì một
hôm chợt nhận ra những tín lý mình chấp nhận trƣớc nay không còn đứng vững
trƣớc những tra vấn của lý trí.
Charlie Nguyễn, một Lazarô trong sách tân ƣớc Luca, một kẻ đã chết sống lại,
không phải để tiếp tục theo ngụy tín, nhƣng để bắt đầu sống cho quyền tự do tƣ
tƣởng và quyền bình đẳng suy tƣ.
Charlie Nguyễn, ngƣời đã một hôm, phá bỏ hết những hình thức tín ngƣỡng
huyễn mị để nói nhƣ Giê-Su trong sách tân ƣớc Mathiơ rằng: Một ngày kia
ngƣời ta sẽ không thờ cha tao trên núi này hay trên núi kia mà thờ trong lòng.
Trong chiều hƣớng tín ngƣỡng nhƣ anh, và trƣớc hay đồng thời với anh, hẳn
không thiếu gì kẻ cũng từng đắng cay chua xót vì thấy mình lầm, nhƣ Soren
Kierkegaard và Martin Luther, những nhân vật thệ phản đầu đàn của thần học
và tôn giáo phƣơng Tây. Kierkegaard gọi tâm cảnh đắng cay chua xót ấy là ấy
là “ớn da gà” khi ngƣời ta phải nhận những điềuphi lý là chân lý. Martin Luther
tố cáo cái gọi là Hội Thánh thực sự chỉ là một guồng máy bức hiếp lý trí, chà
đạp tâm linh. Nhƣng anh khác những nhân vật đó ở chỗ họ biết mình ngụy tín
nhƣng không dám đoạn lìa ngụy tín, và tiếp tục để ngụy tín nhiễm độc tâm đạo
và để ngôn từ áp chế tâm linh.
Tất cả mọi chế độ độc tài - kể cả độc tài tôn giáo - đều khống chế con ngƣời
bằng tín lý, bằng cách bắt ngƣời ta phải nhận những điều phí lý, không kiểm
chứng là chân lý. Thấy đƣợc mình đi sai đƣờng là điều ai cũng có thể làm đƣợc,
nhƣng công khai thừa nhận mình đã đi sai đƣờng là điều không dễ gì mấy ngƣời
làm nổi. Charlie Nguyễn đã làm đƣợc, đã nói cho thiên hạ biết đó là điều có thể
làm đƣợc, đó là điều cần làm, vì nhân cách của chính mình, và vì hạnh phúc an
lạc giữa đồng bào với đồng bào, đồng loại với đồng loại.
Có ngƣời đã chôn vùi nỗi niềm đắng cay thất vọng về đức tin của mình trong im
lặng. Có ngƣời muốn trả thù bằng nổi loạn, bằng trác táng truy hoan trụy lạc, vì
“Thƣợng Đế chết rồi, ai muốn làm gì cũng đƣợc”. Charlie Nguyễn thì không.
Anh biến những đắng cay thất vọng của mình thành món ăn tinh thần cảnh tỉnh
đồng bào, đồng đạo anh em. Anh mời gọi họ suy nghĩ lại, vì danh dự, an lạc của
chính họ, của gia đình họ, của đồng bào và đồng loại. Anh đã thiết tha nói với
họ rằng mọi ngƣời đều không chỉ bình đẳng trong đọa đày đau khổ, mọi ngƣời
còn bình đẳng trong suy tƣ và giác ngộ, trong an lạc của tâm linh. Đó là giá trị
tinh anh của những điều anh viết. Giá trị của một đứa con dám bỏ nhà “đi
hoang”.
Trong chiều hƣớng giải hoặc tôn giáo trên đất nƣớc mình, có thể một vài ngƣời
đã viết những điều nhƣ anh viết. Nhƣng nếu họ không phải là ngƣời đứng từ
một quan điểm một chính kiến nào sẵn có, thì họ cũng chỉ là những kẻ đứng
ngoài nhìn vào. Nhƣ ngƣời làm vƣờn chỉ điểm hay bứt những cành lá bị sâu ăn.
Còn anh, anh là con sâu đã hóa bƣớm và anh nói cho mọi ngƣời biết con sâu
chƣa thành bƣớm có thể tàn hại hoa lá nhƣ thế nào. Đất nƣớc từ nửa thế kỷ qua
có không ít cơ duyên cho những con sâu hóa bƣớm. Nhƣng không phải ai cũng
can trƣờng, thẳng thắn và minh bạch nhƣ anh khi trả lời câu hỏi “Tại sao tôi
phải bỏ đạo?” Thực tế, Charlie Nguyễn chỉ làm điều đƣơng kim Giáo Hoàng đã
làm, đó là thừa nhận thiên đàng hỏa ngục chỉ tồn tại trong tâm, nghĩa là Thƣợng
Đế nếu có cũng chỉ là Thƣợng Đế tại tâm. Thực tế, Charlie Nguyễn chỉ làm điều
đƣơng kim Giáo Hoàng đã nói : Đừng sợ!
Ly khai với niềm tin cố hữu là một dứt lìa đòi đoạn. Cho nên có nhiều ngƣời
thấy đó là ngụy tín, là sai, nhƣng đành ngậm miệng, nhắm mắt âm thầm dứt lìa.
Trong sinh hoạt tôn giáo tại phƣơng Tây, càng ngày ngƣời ta càng ân ần đến với
đạo chỉ bằng xe - xe nôi, xe hoa và xe tang. Bình thƣờng tôn giáo không có một
tác dụng nào hay chỉ có những tác dụng tai hại. Hiện tƣợng chợ chiều này đang
lây lan vào những môi trƣờng của đồng hƣơng tỵ nạn. Nơi mà tôn giáo, tín
ngƣỡng, tín lý, thiên đàng hỏa ngục đã bị lợi dụng nhƣ những công cụ để lừa
dối mình và lừa dối kẻ khác.
Thánh tử đạo là kẻ đã thà chết chứ không thà từ bỏ tín lý. Cho nên, thách thức
với đức tin của chính mình là một thách thức còn nghiêm trọng hơn là thách
thức với sống chết. Charlie Nguyễn đã và đang sống với điều gọi là “Đừng sợ!”
Bởi khi đã không sợ sống thì cũng chẳng còn lý do gì để sợ chết. Charlie
Nguyễn đã vƣợt lên trên cả sống và chết. Anh trở thành bất tử trong quyết tâm
sống trọn vẹn cho quyền tự do tƣ tƣởng và quyền bình đẳng suy tƣ thiết cốt của
mỗi ngƣời. Anh là hiện thân của một kẻ sĩ giác ngộ can trƣờng.
Chúng tôi tâm phục anh, nguyện cầu anh thƣờng tinh tấn và an lạc.
Sydney 26.4.2003
Vĩnh Biệt Thánh Gia
Houston 27 tháng 2, 2003
Cùng các bạn Thánh Gia,
Trƣớc khi vĩnh viễn chia tay, tôi muốn nói với các bạn, trƣớc là để chúng ta giải
quyết một số vấn đề và sau đó là để tôi đƣợc thanh thản khi phải từ giã các bạn.
Trên phƣơng diện tình cảm thuần túy, tôi xin xác quyết với các bạn rằng trong
lòng tôi không có một chút oán hận nào đối với các bạn. Phần lớn các bạn là
những ngƣời bạn tốt của tôi. Ngay lúc viết thƣ này tôi thật sự đau lòng khi phải
nói lên lời từ biệt với những bạn tôi đã hết lòng quý mến bấy lâu. Đó là các bạn
Nguyễn Dƣơng An, Tạ Xuân Thạc, Võ Tiến Thăng (Thăng Đen), Nguyễn Văn
Thuyên, Đinh Quang Khánh, Phạm Văn Thuần (Phạm Quang Khanh), Vũ
Thanh Phát và một số bạn khác tôi không nêu tên. Dù cho lúc này tình cảm của
các bạn đối với tôi ra sao chăng nữa, tôi vẫn giữ mãi ấn tƣợng tốt đẹp về các bạn
trong ký ức và tâm hồn tôi.
Sau đây tôi xin gởi đến các bạn hai lời yêu cầu và tôi mong các bạn sẽ giúp tôi
thực hiện :
Thứ nhất : Chắc các bạn cũng đồng ý với tôi một điều là giữa chúng ta tuyệt đối
không có một sự xích mích cá nhân nào cả. Tất cả cái nguyên nhân dẫn đến sự
đổ vỡ tình bạn chỉ vì lập trƣờng chống đạo dứt khóat và quyết liệt của tôi. Tôi
mong các bạn hiểu cho rằng: không phải chỉ có tập thể Thánh Gia là tín đồ
“Công giáo” duy nhất ở Việt-nam. Tổ tiên ông bà cha mẹ anh chị em chú bác cô
dì và vợ con tôi cũng đều là những ngƣời Công giáo sùng đạo không kém gì các
bạn. Tôi “chống đạo” nhƣng không có nghĩa là tôi chống mọi ngƣời thân của
mình. Tôi quan niệm chống đạo (thực ra là chống những cái sai lầm của đạo) là
một việc không có liên quan gì đến tình cảm và bổn phận của tôi đối với mọi
ngƣời thân.
Cách đây trên ba năm, chỉ vì muốn giữ sự trung tín đối với bạn bè vì đã là bạn
thì phải bày tỏ chứ không dấu diếm điều gì nên tôi đã tự ý tiết lộ với các bạn
Anvideo, Tạ Thạc và Thăng Đen tôi là Charlie Nguyễn, tác giả của một số bài
báo chống đạo đƣợc viết từ năm 1996. Nếu tôi không tự ý tiết lộ thì đến nay sẽ
chẳng có ai biết bí mật đó. Tôi đã tiết lộ bí mật chỉ vì tôi muốn sống thành thật
với mình và với mọi ngƣời, nhất là với các bạn thân của mình.
Một điều khác tôi muốn thƣa với các bạn là nếu tôi sống tại một nƣớc Hồi giáo
mà chống lại đạo Hồi (cũng là một đạo Thiên Chúa) thì chắc tôi đã bị xử tử tức
khắc. Nhƣng sống trên đất Mỹ dân chủ thì mọi ngƣời đều có quyền tự do phát
biểu ý kiến về chính trị và tôn giáo. Đây là quyền tự do đƣợc bảo đảm bởi Hiến
pháp và Bản Tuyên Ngôn Nhân quyền. Nếu tôi thấy có kẻ nào mƣu toan ám hại
tôi vì lý do tôn giáo thì tôi sẽ lập tức thông báo cảnh sát và Cơ quan FBI để họ
theo dõi hoặc điều tra. Sinh mạng và quyền tự do của tôi đƣợc tôn trọng và đƣợc
bảo vệ bởi luật pháp nghiêm minh của nƣớc Mỹ.
Con đƣờng duy nhất hợp pháp để chống lại tôi là các bạn hãy viết sách hoặc viết
những bài đăng báo hoặc đƣa lên Internet để phản bác lại tôi bằng lý luận và
phải chứng minh bằng những chứng cớ lịch sử và khoa học đàng hoàng. Các
độc giả sẽ là trọng tài phân xử chúng ta. Nếu bạn nào thay vì làm nhƣ trên lại
quay ra bịa chuyện hoặc xuyên tạc đời tƣ của tôi để kiếm cớ giả tạo nhục mạ tôi
nặng nề nhƣ Hoàng Ngọc Lễ đã làm trƣớc đây thì chính ngƣời đó đã tự tố cáo
sự thiếu hiểu biết và thiếu tƣ cách của họ. Tôi không hề dùng lời thô bỉ để nhục
mạ họ thì họ không có lý do gì để nhục mạ tôi.
Thứ hai : Tôi nhận thấy quan điểm tôn giáo của chúng ta hoàn toàn khác biệt và
các bạn cũng nhƣ tôi vẫn kiên quyết đi theo con đƣờng của mình. Nếu tôi ở lại
trong tập thể Thánh Gia thì mối xung đột càng ngày càng trầm trọng hơn. Do
đó, kể từ hôm nay tôi xin các bạn hãy xóa tên tôi khỏi danh sách TG, xé bỏ bài
viết và hình ảnh của tôi trong tập Hồi ký, tốt nhất là các bạn hãy quên tôi đi và
đừng nói gì đến tôi dƣới bất cứ hình thức nào.
Nói tóm lại, xin các bạn hãy coi nhƣ tôi chƣa từng bao giờ có mặt trong tập thể
Thánh Gia.
Vĩnh biệt chào các bạn,
Dominic” Bùi Văn Chấn
(Charlie Nguyễn)
Trả Lời của Charlie Nguyễn
Tôi, Bùi Văn Chấn, tức Charlie Nguyễn, nguyên chủng sinh Thánh Gia (trƣờng
đầu đời của các linh mục Bùi Chu), xin trả lời một số đồng môn TG có tên trong
bài viết dƣới đây, đƣợc đƣa lên webpage của tập đoàn Thánh Gia
(www.angelfire.com/rnb/thanhgia) :
BẠN LÀ KẺ LỘI NGƢỢC DÕNG THÌ TÔI VỚI BẠN CHUNG LÕNG
ÐƢỢC SAO ?
Các bạn TG hoàn vũ thân mến,
Trƣớc khi mời các bạn đọc các ý kiến tiêu biểu của các bạn ở khắp nơi gửi đến
liên quan đến Bùi Văn Chấn (Charlie Nguyễn). Xin các bạn TG đọc vài lời
dƣới đây của Chủ Biên:
Tạ Thạc là Chủ Biên TGBT vẫn thƣờng đƣa tất cả các tin tức của Làng TG dù
tin ấy lành hay dữ, hay hoặc dở nhƣ mám thối cũng cho cả làng biết một các
trung thực không thiên vị.
Khi BVC viết bài “Giã Từ TG” lúc đó Bản Tin đăng lên để các bạn biết kể từ
lúc đó BVC không còn là thành viên TG nữa. Và chấm dứt giữa TG và thành
viên TG/BVC không còn gì thắc mắc nữa.
Nhƣng khi BVC báo tin cho Chủ Bỉên TGBT biết rằng hắn vừa ở Memorial
Hermann Hospital về sau khi nằm bệnh viên đƣợc 10 ngày vì bị lâm vào chứng
bệnh nan y “ Ung Thƣ Phổi, Ðộc Tố Ðã Khuyếch Tán tới Óc và Tuỷ Sống” BS
nói là thời gian sống trên dƣơng thế của hắn chỉ còn khoảng sáu tháng nữa!
Lớp TG vẫn có truyền thống là thấy ai quen thân hay sơ nào mà lâm họạn nan
đều lấy tình tƣơng thân tƣơng ái, trợ giúp ngƣời đó bằng những lời an ủi, hoặc
bằng những lời nguyện cầu.
Bởi thế nên khi biết tin Tạ Thạc liền thông báo bằng điện thƣ, email đi cho TG
khắp thế giới biết, mục đích để các bạn TG hoàn vũ tuỳ theo phƣơng tiện mình
có an ủi, thăm viếng kẻ chẳng gặp may theo truyền thống đã có từ lâu.
Vừa đƣợc tin, anh em đã xúm lại an ủi hỏi han BVC mà điển hình nhất có bạn
Hà Bá từ Vevey, Switzeland (Thụy Sĩ) chẳng quản ngại tốn thì giờ và tổ phí
longdistance gọi phone qua thăm BVC, còn xoá hết những tỵ hiềm “Ðào Mả
Bố” trên website thì đủ hiểu bạn HB có lòng từ bi xả kỷ biết chừng nào!
Không những chỉ mình HB đối xử tử tế nhƣ thế với BVC mà còn nhiều bạn
khác nữa nhƣ hai bạn Phát Cúc (Lão Ðầu Bạc) từ New Orleans đã không quản
ngại đƣờng xá xa xôi đến Houston để thăm BVC.
Rồi cặp “uyên ƣơng già” Thái Phong –Thanh Hƣơng từ Vancouver Canada
cũng bay qua Houston thăm BVC, tâm sự đến nửa đêm mà không biết mệt.
Nhƣ vậy chứng tỏ tình bạn TG vô cùng cao quý, tiền bạc không mua đƣợc
Nay có những anh em TG tìm biết đƣợc trên một website nọ, BVC đã đang và
vẫn còn có những bài chống báng đạo Công Giáo, mà tập thể TG hết lòng tôn
kính.
Theo lời Nguyễn Dƣơng An nói :” Bây giờ BVC hắn đang chủi “CHA MẸ”
chúng ta; chửi ÐỨC MẸ, chửi GIÁO HỘI, chửi cả CHÖA nữa. Chúng ta mà
còn chơi với hắn thì chúng ta cũng giống thằng con mất dậy kia thôi!”
Ðể các bạn tiện theo dõi, Chủ biên TGBT xin trích nguyên văn một số email
phản ứng của các bạn TG trên khắp mặt địa cầu với “ ngƣời bạn ” BVC:
Chủ biên TGBT
TẠ XUÂN THẠC
Thƣ của ban Nguyễn Dƣơng An (viết từ Biên Hoà, Việt Nam):
Theo An nghĩ thì rất có thể không phải BVC viết (ý AN nói về bài đả kích Ðức
Mẹ Lộ Ðức), mà do phe của hắn viết, vì họ thấy hắn có vẻ “thức tỉnh”, và nhất
là thấy hắn liên lạc thƣờng xuyên với anh em TG, họ sợ hắn sẽ trở về, nên viết
để gây bất bình với những ngƣời bạn của hắn (TG)
Ðề nghị Thạc xác minh xem có phải hắn viết hay không?
Thân ái,
AN
Thƣ của Tạ Thạc (viết từ Houston USA), theo lời đề nghị của AN:
Bạn An thân,
Thạc đã hỏi BVC lúc 4giờ 30 chiều Chúa nhật ngày 17.08..2003. Chấn đã xác
nhận bài “đả kích Ðức Mẹ Lộ Ðức” là do chính hắn viết, Thạc cho Chấn biết
rằng nhiều anh em TG không hài lòng về việc làm của hắn!
Hắn đáp lại rằng công phu lắm mới viết xong bài đó vì lẽ phải đem nhiều dẫn
chứng… Hắn còn nói ai không hài lòng thì viết bài phản báclại. . .Hắn còn khoe
rằng chẳng chỉ bài đó thôi đâu mà còn nhiều bài khác nữa hắn sẽ cho post net
vào các tháng kế tiếp. . . .
Hỏi thêm rằng hắn hay ngƣời khác đánh máy, thì hắn trả lời rằng hắn viết tay
rồi ngƣời khác đánh máy rồi post lên net.
Vậy, theo đề nghị của An, Thạc đã làm tròn nhiệm vụ nên báo về cho bạn biết.
Thân mến
Thạc
Thƣ của Dƣơng An (viết từ Biên Hoà, Việt nam) gửi cho các bạn TG hoàn vũ
Các bạn thân mến,
Chúng ta dều có con lớn rồi, nếu có một thằng khốn nạn nào đó suốt ngày chửi
chúng ta, mà con chúng ta cứ chơi với thằng đó, thì chúng ta nghĩ sao? Nếu có
thằng con nào nhƣ vậy thì đó chính là thằng con mất dậy, không đáng đƣợc nuôi
trong nhà nữa.
Bây giờ BVC hắn đang chửi “CHA MẸ” chúng ta; chửi ÐỨC MẸ, chửi GIÁO
HỘI, chửi cà CHÖA nữa. Chúng ta mà còn chơi với hắn thì chúng ta cũng
giống thằng con mất dậy kia thôi!
Từ trƣớc đến giờ, tôi vẫn cố gắng giữ BVC lại với TG, vì nghĩ hắn sẽ “nghĩ lại”.
Bây giờ thì tôi thất vọng hoàn toàn vì thấy hắn “hết thuốc chữa”. Tôi rất tiếc
một ngƣời bạn, vì tôi thân với hắn lắm, nhƣng tôi không tiếc một kẻ phản
nghịch. Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến của anh Khải , đề nghị với các bạn từ
nay chúng ta giữ thái độ nhƣ anh Khải đã đƣa ra.
Yêu cầu anh Thạc thông báo cho anh em TGHN biết về điều này.
AN
Thƣ của bạn Khải Lƣu (viết từ Irvine, California USA):
Anh Thạc thân mến,
Tôi đã đọc nhiều lần những tin tức liên quan đến anh BVC, sau đây là ý kiến
của tôi:
Tôi muốn từ nay trở về sau, chúng ta không đả động gì đến BVC nữa, mọi
chuyện đã đi qua cho qua luôn. Nếu các bạn nào muốn liên lạc thì xin liên lạc
với tƣ cách cá nhân là tốt nhất, không dung danh nghĩa TG nữa.
Xin chào anh.
Khải Lƣu
Thƣ của bạn Hà Bá ( viết từ Vevey, Swistzeland (Thụy Sỹ)
Hoàn toàn đồng ý với các bạn. Cám ơn Tạ Thạc và phụ tá Thăng Ðen. Hà Bá
tuy nguội lạnh nhƣng vẫn tin vào bàn tay rộng mở của Mẹ Maria
Hà Bá
Thƣ của TG Öc Châu (viết từ Sydney Australia)
“ Một con sâu bỏ rầu nồi canh” Bùi Văn Chấn hay Charlie Nguyễn là kẻ phản
nghịch, chống lại lý tƣởng cao đẹp của chúng ta thì nên vứt bỏ quách nó đi cho
xong.
Hãy coi lại có những kẻ có chức có quyền trƣớc đây đã viết rất nhiều sách
chống lại Thiên Chúa mà còn chƣa làm nên trò trống gì, xá chi một tên vô danh
tiểu tốt nhƣ Bùi Văn Chấn thì thử hỏi hắn làm đƣợc cái gì? Chúa phán “ Hỡi
Phê Rô con là đá, ta xây giáo hội trên đá này, quỷ hoả ngục cũng khôn phá nổi”
Chúng ta hạy tin nhƣ vậy.
Tiện đây tôi có một ý kiến chuyến VỀ NGUỒN 50 :
Hãy gạch bỏ tên Bùi Văn Chấn ra khỏi danh sách, không cho hắn nhập đoàn
VN50 để trừ hậu hoạ. Vì TG sẽ đi đến những nơi tôn nghiêm của Giáo Hội hoặc
thăm viếng các vi lãnh đao cao cấp của Giáo quyền (Ðức Hồng Y, các Ðức
Giám Mục của các giáo phận)
Những hình ảnh, những cuộc tiếp xúc có thể là những tài liệu quý báu cho kẻ
phản nghịch, lúc đó chúng ta có hối cũng không kịp.
Vài dòng thô thiển gửi đến anh Tạ Thạc Chủ Biên TGBT để nhờ anh phổ biến
đến anh chị em TG hoàn vũ.
Một lần nữa thăm anh và gia đình, mong anh bình phục hoàn toàn để xả thân vì
anh em nhƣ anh đã làm.
Chúc Ban Biên Tập TGBT vững tiến
Thân mến
Một TG Öc Châu
Trả Lời :
Cùng các bạn Thánh Gia thân mến,
Tôi đã đọc kỹ các ý kiến trên của các bạn. Trƣớc hết, tôi muốn minh xác là trên
phƣơng diện cá nhân, tôi không có một ý nào chống đối các bạn. Từ trƣớc đến
nay, tôi vẫn một lòng qúi mến các bạn, vì các bạn là những ngƣời bạn thân của
tôi từ tuổi ấu thơ. Dù cho các bạn nghĩ gì về tôi, nhƣng tôi vẫn trân trọng nghĩ
tới tình bạn thắm thiết ngày xƣa.
Nay các bạn (hy vọng chỉ có một số mà thôi) muốn loại trừ tôi ra khỏi tập thể
Thánh Gia chỉ vì một lý do duy nhất là tôi đã viết sách báo tố cáo các tội ác và
các trò bịp bợm của giáo hội Công Giáo từ xƣa đến nay, nhất là các tội ác của
giáo hội Công Giáo Việt Nam đối với Tổ Quốc. Tôi viết với đầy đủ tài liệu dẫn
chứng xác thực khiến không ai có thể phản bác đƣợc.
Các bạn gọi tôi là “kẻ lội ngƣợc dòng”, ám chỉ tôi không đi xuôi theo “dòng”
của các bạn. Tôi xin cám ơn các bạn vì tôi rất lấy làm hãnh diện về danh xƣng
này. Tôi đã thật sự lội ngƣợc dòng của đạo Công Giáo, và nhất là của mấy chục
thành viên Thánh Gia, để tôi đƣợc trở về với con đƣờng (đạo) của hơn 70 triệu
ngƣời Việt Nam, và theo dòng tiến hoá nhân bản của nhân loại.
Bùi Văn Chấn
23 August 2003