25
Phbiến, giáo dc pháp lut van toàn giao thông, qua thc tin tnh Qung Bình Đặng Quang Tuân Khoa Lut Luận văn ThS ngành: Lý lun vlch snhà nước và pháp lut; Mã s: 60 38 01 Người hướng dn: GS. TS Hoàng ThKim Quế Năm bảo v: 2012 Abstract: Trình bày cơ sở khoa hc, vtrí, vai trò, mục đích của phbiến giáo dc Lut trt tan toàn giao thông (TTATGT). Khái quát tình hình phbiến giáo dc Lut TTATGT nước ta hin nay. Phân tích thc trng phbiến giáo dc Lut trt t an toàn giao thông, qua thc ti ễn tĩnh Quảng Bình. Đề xut mt sgi i pháp cho phbiến, giáo dc Lut trt tan toàn giao thông: Phát trin các ngun nhân lc (nhân lc và tài chính); Tăng cường squan tâm, chđạo quyết lit ca các cấp lãnh đạo, chính quyền địa phương; Nâng cao nhn thc và ý thc chp hành pháp lut van toàn giao thông (ATGT); Kin toàn tchc ca Hội đồng phi hp công tác phbi ến, giáo dc pháp lut và nâng cao vai trò của cơ quan tư pháp; Đổi mi hình thức cũng như nội dung phbiến, giáo dc; tùy t ừng đối tượng để có ni dung phù hp; Xây dựng văn hóa giao thông; Tăng cường xphạt, cưỡng chế đối vi các hành vi vi phm trt t an toàn giao thông; Tăng cường phbiến giáo dc ATGT cho thanh thiếu niên; Trách nhim của người dân khi tham gia giao thông. Keywords: Giáo dc pháp lut; Lch snhà nước; Giao thông; Pháp lut Vi t Nam; Qung Bình Content MỞ ĐẦU 1. Tính cp thiết của đề tài Trung bình, mi ngày trên cnước có 30 người chết do tai nn giao thông (TNGT), cng li mỗi năm có trên 1 vạn người chết và vài chục ngàn người bthương vì lý do không đáng có này. Tính sơ qua, số người chết do TNGT một năm ở nước ta bng sngười chết trong 120 cơn bão l n, gp gn 3 l n hu qucuc chi ến kéo dài 7 năm ở I rc. Trong nhiu nguyên nhân dẫn đến TNGT như: cơ sở htầng chưa đáp ứng yêu cầu, lưu lượng phương tiện tham gia ln..., thì có mt nguyên nhân chquan hết sc quan trọng, đó là ý thức tham gia giao thông, cao hơn có thể nói, văn hoá giao thông của chúng ta đang có vấn đề!

ận văn ThS ngành: nhà nướ Người hướ Năm bảrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/6703/1/00050002003.pdf · Điều này được chứng minh bởi tình trạng

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao

thông, qua thực tiễn tỉnh Quảng Bình

Đặng Quang Tuân

Khoa Luật

Luận văn ThS ngành: Lý luận về lịch sử nhà nước và pháp luật; Mã số: 60 38 01

Người hướng dẫn: GS. TS Hoàng Thị Kim Quế

Năm bảo vệ: 2012

Abstract: Trình bày cơ sở khoa học, vị trí, vai trò, mục đích của phố biến giáo dục Luật

trật tự an toàn giao thông (TTATGT). Khái quát tình hình phổ biến giáo dục Luật

TTATGT ở nước ta hiện nay. Phân tích thực trạng phổ biến giáo dục Luật trật tự an toàn

giao thông, qua thực tiễn tĩnh Quảng Bình. Đề xuất một số giải pháp cho phố biến, giáo

dục Luật trật tự an toàn giao thông: Phát triển các nguồn nhân lực (nhân lực và tài chính);

Tăng cường sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt của các cấp lãnh đạo, chính quyền địa

phương; Nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về an toàn giao thông

(ATGT); Kiện toàn tổ chức của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

và nâng cao vai trò của cơ quan tư pháp; Đổi mới hình thức cũng như nội dung phổ biến,

giáo dục; tùy từng đối tượng để có nội dung phù hợp; Xây dựng văn hóa giao thông;

Tăng cường xử phạt, cưỡng chế đối với các hành vi vi phạm trật tự an toàn giao thông;

Tăng cường phổ biến giáo dục ATGT cho thanh thiếu niên; Trách nhiệm của người dân

khi tham gia giao thông.

Keywords: Giáo dục pháp luật; Lịch sử nhà nước; Giao thông; Pháp luật Việt Nam;

Quảng Bình

Content

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trung bình, mỗi ngày trên cả nước có 30 người chết do tai nạn giao thông (TNGT), cộng

lại mỗi năm có trên 1 vạn người chết và vài chục ngàn người bị thương vì lý do không đáng có

này.

Tính sơ qua, số người chết do TNGT một năm ở nước ta bằng số người chết trong 120 cơn

bão lớn, gấp gần 3 lần hậu quả cuộc chiến kéo dài 7 năm ở I rắc.

Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến TNGT như: cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu, lưu

lượng phương tiện tham gia lớn..., thì có một nguyên nhân chủ quan hết sức quan trọng, đó là ý

thức tham gia giao thông, cao hơn có thể nói, văn hoá giao thông của chúng ta đang có vấn đề!

Điều này được chứng minh bởi tình trạng vi phạm Luật Giao thông đường bộ gia tăng với các

hành vi như: chạy quá tốc độ, sử dụng rượu, bia, vượt đèn đỏ, không đội mũ bảo hiểm...

Năm nay, năm 2012. Được ủy ban an toàn quốc gia chọn làm “năm an toàn giao thông”,

với chủ đề: “ Thiết lập kỷ cương trật tự an toàn giao thông trong phạm vi cả nước và chông ùn

tắc giao thông ở các tỉnh thành phố lớn. Đồng thời, phát động mạnh mẽ phong trào toàn dân

tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông, khắc phục ùn tắc giao thông và xây dựng văn hóa

giao thông đến từng phường xã, khu dân cư”.

Thời gian qua, cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp đã nêu cao vai trò trách nhiệm

lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện quyết liệt nhiều biện pháp bảo đảm trật tự an toan giao

thông, nên tình hình trật tự an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực, tai

nan giao thông được kiềm chế, giảm cả về số vụ số người chết và bị thương.

Ý thức được sự nóng bỏng của vấn đề TTATGT và vai trò vô cùng quan trọng của công tác

tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông ở nước ta nói chung cũng như ở

Quảng Bình nói riêng. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang có sự chuyển

mình đáng kể về kinh tế xã hội và cùng với nó là đời sống giao thông vô cùng phức tạp, ngày

ngày đang là bài toán nan giải cho nước nhà và cũng như ở Quảng Bình.

Mặt khác, để góp phần nhỏ vào sự nghiệp xây dựng văn hóa giao thông, đưa đời sống giao

thông nước nhà và khu vực tỉnh nhà đi vào ổn định. Tôi đã lựa chọn nội dung: “ Phổ biến, giáo

dục pháp luật an toàn giao thông, qua thực tiễn ở Tỉnh Quảng Bình” làm đề tài Luận văn tốt

nghiệp cho mình.

2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Khi nghiên cứu đề tài, nhất là qua việc phân tích thực trạng công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật về giao thông, từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo

dục pháp luật giao thông trên phạm vi cả nước nói chung và cụ thể ở Tỉnh Quang Bình nói riêng.

Qua đó góp phần xây dựng lối sống văn hóa giao thông tiên tiến, văn minh, cùng với cả nước phát

triển một cách toàn diện và bền vững.

Ngoài ra, khi nghiên cứu đề tài. Giúp cho chính bản thân Tôi và những người có quan tâm

về vấn đề trật tự an toan giao thông và văn hóa giao thông hiểu thêm về tầm quan trọng của phổ

biến giáo dục pháp luật giao thông. Nó thực sự là một nhân tố thiết yếu ảnh hướng tới hạnh phúc

của mọi người, mọi nhà và góp phần ổn định kinh tế - xã hội- chính trị quốc gia. Từ đó mối

chúng ta sẽ có cách ứng sứ phù hợp, tốt đẹp khi tham gia giao thông, từng bước xây dựng nền

văn hóa giao thông tiến bộ văn minh phù hợp với xu thế thời đại và văn minh nhân loại.

Đối với địa phương Tỉnh Quảng Bình, một vùng đất ở miền Trung đang từng ngày đối

mới, là một trong những Tỉnh có đường Quốc Lộ 1A chạy qua với chiều dài lớn nhất trong

nước.Đây cũng là khu vực có đời sống giao thông phức tạp nhất, là điểm nóng về trật tự an toàn

giao thông trong những năm gần đây. . Bởi vậy, khi nghiên cứu đề tài không có mục đích gì khác

là tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự

an toàn giao thông của Tỉnh nhà, qua đó đúc rút những kinh nghiệm và đưa ra giải pháp nhằm

nâng cao ý thức của người dân khi tham gia giao thông và từng bước đưa giao thông Tỉnh nhà đi

vào nề nếp ổn định, bảo đám hạnh phúc mọi nhà.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.

Đề tài tập trung nghiên cứu vào đối tượng là hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật giao

thông trên địa bàn Tỉnh Quảng Bình và một vài địa phương khác trên cả nước, từ đó tìm ra

những cái làm được và những hạn chế của công tác phố biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao

thông. Cuối cùng là rút ra những bài học kinh nghiệm và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả của công tác tuyên truyên, phổ biến, giáo dục pháp luật giao thông của Tỉnh cũng như cả

nước.

Về phạm vi nghiên cứu: đề tài chú yếu nghiên cứu vần đề phổ biến, giáo dục pháp luật về

an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn Tỉnh Quảng Bình. Cụ thể là thực trạng của công tác

này ở các Huyện, thành phố Đồng Hới Quảng bình trong những năm gần đây.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài.

- Phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê so sánh.

- Phương pháp định tính: nhận định và giả thuyết về tình hình phổ biến, giáo dục pháp luật

về trật tự an toàn giao thông.

- Phương pháp thống kê xã hội học: Điều tra, thu thập và xử lí số liệu qua phiếu thăm dò

thông tin.

5. Nội dung và kết cấu đề tài

Đề tài được chia làm 3 chương như sau:

Chương 1. Cơ sở khoa học, vị trí, vai trò, mục đích của phố biến giáo dục Luật trật tự an toàn

giao thông.

Chương 2. Thực trạng phổ biến giáo dục Luật trật tự an toàn giao thông, qua thực tiễn tĩnh

Quảng Bình.

Chương 3. Một số giải pháp cho phố biến, giáo dục Luật trật tự an toàn giao thông.

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP

LUẬT ATGT

1.1.Cơ sở lý luận của phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông

1.1.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông

“Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động do tổ chức, cá nhân thực hiện thông qua các

hình thức nhất định nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật cho tổ chức,

cá nhân được phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà

nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.

Cả cụm từ phổ biến, giáo dục pháp luật có hai nghĩa:

(i) Nghĩa hẹp: Là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức, tình cảm,

niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp

hành pháp luật của đối tượng.

(ii) Nghĩa rộng: Là công tác, lĩnh vực, ngạch (theo nghĩa thông thường mà không phải

nghĩa trong pháp luật về cán bộ, công chức) phổ biến, giáo dục pháp luật bao gồm tất cả các

công đoạn phục vụ cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật: Định hướng công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật; Lập chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật; Áp dụng các hình

thức phổ biến, giáo dục pháp luật; Triển khai chương trình kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp

luật; Kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, rút kinh nghiệm,

nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ lý luận…về phổ biến, giáo dục pháp luật.

Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông về cơ bản cũng giống với phổ

biến giáo dục pháp luật nói chung nhưng khác chăng ở phạm vi hoạt động được giới hạn ở lĩnh

vực giao thông vận tải. Có thể hiểu phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành giao thông vận tải

nói chung và phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông nói riêng là công tác giáo dục

chính trị, tư tưởng, góp phần tăng cường công tác quản lý nhà nước về giao thông vận tải, đóng

vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức, viên

chức, người lao động trong ngành giao thông vận tải cũng như người tham gia giao thông nhằm

bảo đảm trật tự an toàn giao thông, từng bước kiềm chế, giảm thiểu tai nạn giao thông.

1.1.2. Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật

Trong phổ biến, giáo dục pháp luật vấn đề quan trọng và cơ bản nhất đó là xác định được

mục đích là gì? Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật là những gì mà chủ thể phổ biến, giáo

dục pháp luật đặt ra khi thực hiện và mục đích chính là một trong những yếu tố tạo nên cấu trúc

bên trong của phổ biến, giáo dục pháp luật. Có thể khái quát các mục đích chính của giáo dục

pháp luật bao gồm:

- Hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ thống tri thức pháp luật cho đối tượng.

- Hình thành, bồi dưỡng, phát triển niềm tin pháp luật cho đối tượng

- Giáo dục ý thức nhân cách, rèn luyện thói quen, hành vi tuân thủ pháp luậ cho đối tượng.

1.1.3. Vai trò của phổ biến, giáo dục pháp luật

Phổ biến, giáo dục pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng, thể hiện rõ nét trên hai khía cạnh

sau:

Thứ nhất, Phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà

nước, quản lý xã hội. Vai trò này bắt nguồn từ vai trò và giá trị xã hội của pháp luật.

Thứ hai, phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần nâng cao ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý

của mọi thành viên trong xã hội .

1.1.4. Đặc điểm phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông

1.1.4.1. Đặc điểm về đối tƣợng và chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao

thông

Chủ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông: Đối với công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông, các cán bộ làm công tác phổ biến, tuyên truyền,

giáo dục pháp luật về an toàn giao thông có thể kể đến là Cảnh sát giao thông, Thanh tra giao

thông, giáo viên giảng dạy pháp luật trong các nhà trường, phóng viên, biên tập viên chuyên

mục an toàn giao thông của các báo, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, các luật gia đang công tác

tại cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Tư pháp, các tổ chức nghề nghiệp (Hội luật gia, Đoàn luật sư, Tư

vấn pháp lý...).

Khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật: ở đây có thể là cá nhân, những nhóm cộng đồng

xã hội, đó có thể là cán bộ, công chức, viên chức; công nhân lao động; nông dân, học sinh sinh

viên, thanh niên và thậm chí là cả những người tham gia đảm bảo an toàn giao thông như lực

lượng công an, thanh tra… Xét trong mối quan hệ này thì họ là đối tượng được giáo dục pháp

luật, trong mối quan hệ khác họ có thể trở thành các chủ thể giáo dục pháp luật.

1.1.2.3. Đặc điểm về nội dung và hình thức

Đặc điểm về nội dung: Nội dung phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về an toàn giao

thông phải bao gồm đầy đủ các thông tin pháp luật về an toàn giao thông (bao gồm cả kiến thức

pháp luật cơ bản về các văn bản pháp luật thực định); các thông tin về việc thực hiện pháp luật

trong lĩnh vực an toàn giao thông; thông tin hướng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân

(quyền, nghĩa vụ pháp luật các quy trình, thủ tục để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp)...

Phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông hiện nay bao gồm: Luật Giao thông

đường bộ năm 2008, Nghị định 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 của Chính phủ về xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ; Luật Giao thông đường thuỷ nội địa và

văn bản hướng dẫn thi hành; Luật đường sắt, Pháp lệnh Bảo vệ công trình giao thông... Tuyên

truyền về tình hình, kết quả công tác bảo đảm an toàn giao thông, những tấm gương tập thể, cá

nhân có cách làm hay, hiệu quả, những khó khăn vướng mắc từ thực tế, biện pháp tháo gỡ...Tuyên

truyền về hậu quả của tai nạn giao thông đối với xã hội, gia đình và mỗi cá nhân làm bài học cho mọi

người.

Đặc điểm về hình thức:

- Phổ biến giáo dục pháp luật về an toàn giao thông thông qua các phương tiện thông tin

đại chúng

-Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua tổ chức cuộc thi tìm hiểu về an toàn giao thông

Phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông thông qua hoạt động giáo dục pháp luật trong

nhà trường

-Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các loại hình văn hoá, văn nghệ

- Phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông thông qua hoạt động của đội ngũ cán

bộ nòng cốt tại xã, phường, thị trấn

1.1.5.Quan niệm về hiệu quả PBGDPL và các tiêu chí đánh giá hiệu quả PBGDPL

Hiệu quả của phổ biến, giáo dục pháp luật là kết quả đạt được theo đúng yêu cầu, mục đích

của các quy định pháp luật tương ứng và các lợi ích xã hội được đem lại với chi phí về vật chất,

tinh thần thấp nhất.

Về hiệu quả PBGDPL xét trên phương diện thực hiện đúng các yêu cầu, mục đích của các

quy định pháp luật tương ứng. Hiệu quả PBGDPL cần được đánh giá trên từng mục đích cơ bản

của PBGDPL: mục đích nhận thức, mục đích thái độ, tình cảm, niềm tin pháp luật và mục đích

hành vi phù hợp pháp luật. Đây chính là “bộ ba mục đích“ của PBGDPL. Như vậy mới thật sự

khách quan, toàn diện và công bằng đối với hoạt động PBGDPL. Theo đó, có các tiêu chí sau:

Tiêu chí 1: đạt được mục đích nhận thức pháp luật;

Tiêu chí 2: đạt được mục đích thái độ, tình cảm, niềm tin pháp luật;

Tiêu chí 3: đạt được mục đích hành vi phù hợp pháp luật.

Hiểu một cách cụ thể hơn, hiệu qủa PBGDPL được đánh giá thông qua các tiêu chí cơ bản

sau đây:

Tiêu chí thứ nhất: về trạng thái tri thức ban đầu của đối tượng PBGDPL khi chưa được phổ

biến, giáo dục pháp luật.

Tiêu chí thứ hai: về trạng thái thái độ, tình cảm pháp luật ở đối tượng phổ biến,giáo dục

pháp luật trước khi được phổ biến,giáo dục pháp luật nhằm xây dựng, củng cố niềm tin vào pháp

luật.

Tiêu chí thứ ba: về trạng thái của động cơ và hành vi tích cực pháp luật ở đối tượng phổ

biến, giáo dục pháp luật. Hiệu quả của hoạt động PBGDPL được đánh giá

1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài

1.2.1. Chủ trƣơng của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc về công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật an toàn giao thông.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giao thông đường bộ tuy còn đơn giản nhưng

cũng đã có đóng góp vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi tham gia giao thông, cụ thể

như:

- Về bảo đảm an toàn giao thông có Chỉ thị số 317/TTg ngày 26/05/1995 của Thủ tướng

Chính phủ về tăng cường công tác quản lý trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn

giao thông đô thị, Nghị định số 36/CP ngày 29/5/1995 của Chính phủ về bảo đảm an toàn giao

thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị.

- Về kết cấu hạ tầng giao thông có Pháp lệnh Bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông, Nghị định

số 172/1999/NĐ-CP ngày 07/12/1999 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ

công trình giao thông đối với công trình giao thông đường bộ

- Về xử phạt vi phạm hành chính có Nghị định số 49/CP ngày 26/7/1995 quy định xử phạt

hành chính về hành vi vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông

đô thị.

- Về hệ thống hóa, pháp điển hóa các quy định pháp luật về giao thông đường bộ: ngày

29/6/2001 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X kỳ họp thứ 9 đã thông

qua Luật Giao thông đường bộ. Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2002. Đây là

Luật đầu tiên về lĩnh vực giao thông đường bộ, được đúc kết sau một quá trình thực hiện các

Pháp lệnh, Nghị định, Quyết định, Thông tư liên quan..

Ngay sau khi Luật có hiệu lực, Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải và và các Bộ, ngành có

liên quan đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thực hiện. Chỉ tính trong

6 năm (từ năm 2001 đến năm 2007) để triển khai thực hiện Luật đã có tới 190 văn bản được ban

hành, trong đó Chính phủ ban hành 14 Nghị định và 02 Nghị quyết, Thủ tướng Chính phủ ban

hành 09 Quyết định và 05 Chỉ thị; Bộ Giao thông vận tải ban hành 93 Quyết định, 11 Thông tư

và 09 Chỉ thị; Bộ Công an ban hành 10 Quyết định, 13 Thông tư, 02 Chỉ thị; Bộ Tài chính ban

hành 02 Quyết định và 11 Thông tư; Bộ Y tế ban hành 01 Quyết định và các Bộ ban hành 08

Thông tư liên tịch.

Song song với những kết quả đạt được từ khi luật 2001 có hiệu lực thì bản thân luật 2001

vẫn bộc lộ những hạn chế. Chính vì vậy luật giao thông đường bộ 2008 đã được ban hành với

nhiều điểm mới, tiến bộ và phù hợp với sự phát triểu của đất nước. Bên cạnh đó còn có nhiều chỉ

thị hướng dẫn thi hành luật 2008 và đưa luật mới vào nhân dân. Chỉ thị 07/2008/CT-BGTVT về

tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về giao thông vận tải giai đoạn

2008_ 2012 do Bộ trưởng bộ giao thông vận tải ban hành.

1.2.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông là yêu cầu cấp bách hiện nay

Giao thông đường bộ là một lĩnh vực mang tính xã hội cao, đối tượng tham gia giao thông

đa dạng về thành phần, lứa tuổi, trình độ văn hoá. Trong khi đó, công tác tuyên truyền, phổ biến,

giáo dục pháp luật về giao thông đường bộ chưa sâu và chưa thường xuyên, nội dung và hình

thức chưa thực sự phù hợp với từng vùng, từng đối tượng, nhất là đồng bào ở nông thôn, vùng

sâu vùng xa. Việc tổ chức dạy Luật Giao thông đường bộ trong các trường học còn ít; Chương

trình truyền hình đưa tin về trật tự an toàn giao thông trong Bản tin “Chào buổi sáng” nhiều

thông tin chưa được chọn lọc, kiểm chứng nên có nhiều tin chưa chính xác và thời gian đưa tin

chỉ phù hợp đối tượng cán bộ công chức làm giờ hành chính, cán bộ hưu trí, còn ít tác dụng đối

với viên chức, công nhân làm việc ca kíp, học sinh, sinh viên, người làm nghề tự do và người lao

động ở khu vực nông thôn. Công tác tuyên truyền mới tập trung thực hiện ở các Bộ, ngành chức

năng và một số cơ quan thông tin đại chúng, chưa có sự tham gia tích cực của các tổ chức xã hội.

Tại nhiều địa phương, việc tuyên truyền chủ yếu ở UBND cấp tỉnh do Ban An toàn giao thông,

Sở Giao thông vận tải, Công an tỉnh thực hiện; UBND cấp huyện, cấp xã chưa quan tâm đúng

mức nên chưa phát huy được sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội tham gia.

Nếu xét từ góc độ quyền về sức khỏe, tính mạng, quyền sống của con người thì hoàn toàn

có thể nói rằng, đảm bảo an toàn, trật tự giao thông còn nóng bỏng hơn, bức xúc hơn so với các

vấn đề xã hội khác. PBGDPL trong lĩnh vực này thực sự là vấn đề đặc biệt cấp bách hiện nay.

Không nên tiết kiệm vào việc huy động trí tuệ, công sức, thời gian để tìm ra những biện pháp

quyết liệt, hợp lý, khả thi hơn thì mới có thể cải thiện được tình hình chấp hành pháp luật về trật

tự an toàn giao thông, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản

của người dân

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN GIÁO DỤC LUẬT ATGT, QUA THỰC TIỄN

TỈNH QUẢNG BÌNH.

2.1. Khái quát tình hình phổ biến giáo dục Luật TTATGT ở nƣớc ta

Trong những năm gần đây, tình hình trật tự an toàn giao thông ở nước ta có nhiều diễn biến

phức tạp, đặc biệt là trên lĩnh vực giao thông đường bộ. Mỗi ngày, các phương tiện thông tin đại

chúng đều có bản tin về số lượng các vụ tai nạn giao thông xảy ra trên các địa bàn cả nước. Đáng

báo động, tính chất các vụ tai nạn ngày càng nghiêm trọng, thể hiện qua số người chết tăng mạnh

Trước thực trạng đáng bức xúc trên , Đảng và Nhà nước ta phải tăng cường công tác phổ

biến, giáo dục ý thức chấp hành luật lệ giao thông.

- Công tác phổ biến, giáo dục luật trật tự an toàn giao thông được thực hiện đồng bộ kết

hợp giữa các cơ quan, ban ngành từ trung ương đến địa phương.

- Phổ biến, giáo dục luật TTATGT cho mọi đối tượng và ở mọi nơi

-Đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

2.2. Thực trạng phổ biến an toàn giao thông tỉnh Quảng Bình

Quảng Bình (các tên gọi cũ khu vực này gồm: Lâm Bình, Tiên Bình, Tân Bình) là một tỉnh

duyên hải thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam, nằm ở nơi hẹp nhất theo chiều Đông-Tây của dải

đất hình chữ S của Việt Nam (50 km theo đường ngắn nhất tính từ biên giới Lào ra biển Đông).

Tỉnh giáp Hà Tĩnh về phía bắc với dãy Hoành Sơn là ranh giới tự nhiên; giáp Quảng Trị về phía

nam; giáp Biển Đông về phía đông; phía tây là tỉnh Khăm Muộn của Lào với dãy Trường Sơn là

biên giới tự nhiên.Diện tích tự nhiên của Quảng Bình là 8.065,27 km² trong đó 85% Tổng diện

tích tự nhiên là đồi núi.

Tên Diện tích Dân số Mật độ

Đồng Hới 156 112.517 721

Minh Hóa 1.413 47.083 33

Tuyên Hóa 1.151 77.700 68

Bố Trạch 2.124 178.460 84

Quảng Ninh 1.191 86.845 73

Lệ Thủy 1.416 140.527 99

Quảng Trạch 614 206.139 336

Đơn vị diện tích: km²; mật độ: người/km²

(Nguồn: Niên giám thống kê Quảng Bình năm 2010)

Bảng 2.1. Các đơn vị hành chính cấp huyện thuộc Quảng Bình

Dải đất Quảng Bình như một bức tranh hoành tráng, có rừng, có biển với nhiều cảnh quan thiên

nhiên đẹp, thắng cảnh nổi tiếng: đèo Ngang, đèo Lý Hòa, cửa bãi biển Nhật Lệ, phá Hạc Hải,

Cổng Trời… và Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng được công nhận là Di sản thiên nhiên thế

giới đây cũng được công nhận là khu du lịch quốc gia Việt Nam.

2.2.1. Thực trạng giao thông trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

2.2.1.1. Hệ thống giao thông tỉnh Quảng Bình

Hệ thống đường bộ của tỉnh bao gồm:

-Quốc lộ: Quốc lộ 1A, Đường Hồ Chí Minh nhánh Đông, Đường Hồ Chí Minh phía Tây,

Quốc lộ 15 dài 69 km, Quốc lộ 12A từ Ba Đồn đến Mụ Dạ

- Hệ thống tỉnh lộ: Gồm 14 tuyến, có tổng chiều dài 364 km, có 29 cầu các loại với tổng

chiều dài là 401m, 3 ngầm có chiều dài 205 m.

- Đường nội thị: có 34 km, nền dường rộng từ 6m dến 34 m, mặt đường rộng từ 4m đến

22,5m.

- Đường huyện xã có: 744 km đường huyện và 2.647 km đường xã,

2.2.1.2. Tình hình Tai nạn giao thông đƣờng bộ qua các năm

Năm Số vụ Tăng, giảm Người chết Tăng, giảm Bị thương Tăng, giảm

01-07/2012 75 -33%(*)

80 -30%(*)

27 -48%(*)

2011 208 -9,6% 205 -13,6% 97 -16,5%

2010 228 -4% 233 -22,7% 113 -23,9%

2009 237 -3% 286 20,2% 140 -33,5%

2008 244 -6% 228 -11,8% 187 -23%

2007 260 255 230

(*): so với cùng kỳ năm 2011

Bảng 2.2. Tai nạn giao thông đường bộ qua các năm

Qua bảng số liệu cho thấy tai nạn giao thông giảm cả trên 3 mặt: số vụ, số người chết và bị

thương. Tuy vậy, so với yêu cầu, tỷ lệ giảm chưa nhiều, số vụ và số người chết vẫn còn cao. Đặc

biệt là giai đoạn 2008-2009, số người chết vì tai nạn giao thông năm 2009 lên đến 286 tăng

20,2% so với năm 2008; và giai đoạn này Quảng Bình là tỉnh có tỉ suất tử vong trung bình do tai

nạn giao thông cao nhất (38,9 người tử vong/100.000 dân.

2.2.1.3. Tình hình vi phạm trật tự an toàn giao thông

Tình hình TTATGT ở địa bàn tỉnhh diễn biến khá phức tạp ở các các huyện, thành phố

thuộc tỉnh trong các năm qua.

Thực hiện Tháng ATGT năm 2011, lực lượng CSGT, CSTT Công an thành phố Đồng Hới

đã tăng cường công tác tuần tra kiểm soát tại các “điểm đen” như ngã tư Bưu điện tỉnh, ngã 3

Bắc Lý, đường Trương Pháp, đường Trần Hưng Đạo... và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm

ATGT. Kết quả lực lượng CSGT đã thực hiện 30 ca tuần tra kiểm soát, với 136 lượt cán bộ chiến

sĩ tham gia, phát hiện được 421 trường hợp vi phạm (trong đó ô tô 25 trường hợp, mô tô 396

trường hợp), xử phạt 317 trường hợp, nộp Kho bạc Nha nươc 105.345.000 đồng và tước quyền

sử dụng giấy phép lái xe có thời hạn của 9 trường hợp vi phạm. Trên các tuyến đường thủy nội

địa, lực lượng CSGT Công an thành phố đã phối hợp với Công an xã Bảo Ninh kiểm tra hoạt

động của các bến đò khách ngang sông Nhật Lệ, yêu cầu công an xã kiểm tra tất cả các chuyến

đò trước khi xuất bến.

Thực hiện năm An toàn giao thông (ATGT) 2012, ngay từ những ngày đầu năm, lãnh đạo

Công an huyện Minh Hóa đã chỉ đạo Đội CSGT chủ động nắm chắc tình hình, tăng cường tuần

tra, kiểm soát, xử lý kiên quyết những trường hợp vi phạm nhằm lập lại trật tự ATGT trên địa

bàn. Ngay từ đầu năm, lực lượng Cảnh sát giao thông Công an huyện đã tổ chức 162 ca tuần tra,

kiểm soát với 486 lượt cán bộ chiến sỹ tham gia. Thông qua công tác tuần tra, kiểm soát đã phát

hiện, lập biên bản 180 trường hợp vi phạm, tạm giữ 47 phương tiện, trong đó có 6 xe ô tô, 41 xe

mô tô và 133 giấy tờ; không đội mũ bảo hiểm 50 trường hợp...

Để giảm thiểu tối đa các vụ vi phạm giao thông trong thời gian tới, lực lượng CSGT huyện

Minh Hóa tiếp tục tăng cường hơn nữa công tác tuần tra kiểm soát, xử lý kiên quyết các hành vi

vi phạm; tổ chức tuần tra lưu động, khép kín địa bàn, đảm bảo lực lượng CSGT liên tục có mặt

trên đường; đặc biệt, tập trung theo từng chuyên đề xử lý các đối tượng điều khiển mô tô, xe máy

lạng lách, đánh võng, sử dụng rượu, bia quá nồng độ quy định, phóng nhanh vượt ẩu, đón trả

khách không đúng nơi quy định...

Đội Cảnh sát giao thông - trật tự và Cơ động Công an huyện Quảng Ninh đã tổ chức 830 ca

tuần tra, kiểm soát, phát hiện 2.886 trường hợp vi phạm, trong đó lập biên bản 1.967 trường hợp,

tạm giữ 396 phương tiện và xử lý tại chỗ 523 trường hợp với số tiền trên 47 triệu đồng; xử lý tại

trụ sở 2.708 trường hợp, phạt tiền 728 triệu đồng, tước Giấy phép lái xe có thời hạn 15 trường

hợp... Ngoài ra, Ban Chỉ đạo An toàn giao thông huyện cũng thường xuyên kiểm tra việc đảm

bảo hành lang an toàn giao thông tại các ngã ba, ngã tư và những điểm thường xảy ra tai nạn giao

thông. Các xã, thị trấn đã chủ động kiểm tra, ngăn chặn tình trạng cơi nới trái phép để bán hàng

hóa, nguyên - vật liệu hai bên lề đường.

Đối với người đi bộ, những lỗi thường vi phạm là: Đi bộ dưới lòng đường, Băng qua

đường không đúng vạch quy định, Băng qua đường không đúng đèn giao thông . Nguyên nhân là

do vỉa hè bị lấn chiếm . “Vỉa hè dành cho người đi bộ”, nhưng ở Tp. Đồng Hới và một số thị trấn

của tỉnh Quảng Bình thực tế không phải như vậy.Tình trạng chiếm dụng vỉa hè xảy ra phổ biến

trên các tuyến đường thị trấn Ba Đồn.

Câu chuyện chiếm dụng vỉa hè, lòng lề đường có nhiều nguyên nhân nhưng vẫn là ý thức

của người dân chưa cao, việc xử lý của các cơ quan chức năng không nghiêm và thường xuyên.

Bởi vậy, việc lấn chiếm vỉa hè, lòng lề đường vẫn tái diễn liên tục.

2.2.1.4. Các nguyên nhân gây tai nạn giao thông ở Quảng bình

Có nhiều nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông ở Quảng Bình, nhưng các nguyên nhân chính

gây nên tai nạn giao thông ở nước ta nói chung và Quảng Bình nói riêng có thể kể đến:

- Cơ sở hạ tầng, phương tiện giao thông không đảm bảo điều kiện an toàn

- Trách nhiệm, năng lực quản lý của cơ quan giao thông chưa tốt

- Ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông còn kém

2.2.2. Tình hình phổ biến, giáo dục luật an toàn giao thông tại Quảng Bình

Xác định công tác tuyên truyền là biện pháp trọng tâm trong việc nâng cao nhận thức, ý

thức tự giác chấp hành của người tham gia lưu thông và là biện pháp quyết định hiệu quả trong

công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông, trật tự đô thị trên địa bàn, các ban ngành, đoàn thể

tỉnh Quảng Bình đã phối hợp chặt chẽ cùng thực hiện tốt chủ đề “Năm An toàn giao thông

2012”.

2.2.2.1. Các hoạt động phổ biến, giáo dục luật an toàn giao thông tại Quảng Bình .

Xác định công tác tuyên truyền là biện pháp trọng tâm trong việc nâng cao nhận thức, ý

thức tự giác chấp hành của người tham gia lưu thông và là biện pháp quyết định hiệu quả trong

công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông, trật tự đô thị trên địa bàn, các ban ngành, đoàn thể

tỉnh Quảng Bình đã phối hợp chặt chẽ cùng thực hiện tốt chủ đề “Năm An toàn giao thông

2012”.

- Hưởng ứng các hoạt động phổ năm an toàn giao thông. Nâng cao ý thức chấp hành luật lệ

ATGT trong đoàn viên thanh niên. Hưởng ứng Năm An toàn giao thông 2012, Tỉnh đoàn đã tổ

chức nhiều hoạt động sôi nổi trong đoàn viên thanh niên, hội thảo với chủ đề “Thanh niên với

văn hóa giao thông”, “Thanh niên công nhân với văn hóa giao thông”, “Hiểm họa bia rượu và tai

nạn giao thông”, “Thanh niên học sinh, sinh viên với vấn đề đội mũ bảo hiểm”. Theo đó, nội

dung tham gia bảo đảm trật tự an toàn giao thông được xác định là tiêu chí thi đua hàng năm của

các cấp bộ Đoàn trong tỉnh, góp phần tích cực trong việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật

giao thông trong các tầng lớp nhân dân nói chung và thanh, thiếu niên nói riêng

- Mở rộng phạm vi tuyên tuyên truyền từ cụm dân cư, khu phố đến nông thôn.

Phòng Cảnh sát giao thông, Công an tỉnh Quảng Bình triển khai mô hình điểm "Thôn văn

hoá giao thông" ở thôn Phúc Tự Đông, xã Đại Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình. Được biết,

đây là mô hình điểm về an toàn giao thông đầu tiên trên toàn quốc được triển khai. Mô hình

“Thôn văn hóa giao thông” với đối tượng tham gia là tất cả cán bộ, đảng viên, công nhân viên,

học sinh và quần chúng nhân dân trên địa bàn. “Thôn văn hoá giao thông” thống nhất đưa ra 3

nội dung hoạt động như: Không lấn chiếm hành lang an toàn đường bộ, đường sắt, đường thuỷ;

không sử dụng vỉa hè, lòng đường làm nơi buôn bán; phê phán, ngăn chặn các hành vi gây nguy

hiểm cho người tham gia giao thông như rải đinh; ném đất, đá lên tàu hoả, xả rác thải ra đường...

Tôn trọng, nhường nhịn người khác khi tham gia giao thông. Tự giác chấp hành nghiêm chỉnh

các quy định pháp luật về đảm bảo TTATGT. Sau khi thí điểm mô hình "thôn văn hoá giao

thông" có kết quả tốt, Ban ATGT tỉnh Quảng Bình sẽ nhân rộng mô hình ra tất cả các địa phương

khác trong tỉnh.

- Tuyên truyền an toàn giao thông trong trường học luôn được chú trọng.

Tai nạn giao thông luôn là nỗi lo, mối quan tâm thường trực của các ngành chức năng, của

những người tham gia giao thông nói chung và đối với ngành Giáo dục-Đào tạo nói riêng. Để

góp phần giảm thiểu tối đa tai nạn giao thông của học sinh, sinh viên trên địa bàn tỉnh, thời gian

qua, Sở Giáo dục-Đào tạo(GDĐT) đã phối hợp với Ban An toàn giao thông tỉnh và Tỉnh đoàn

thường xuyên tổ chức tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật về giao thông cho học sinh,

sinh viên thông qua những buổi sinh hoạt, học tập kiến thức giao thông ngoại khóa....

“Để hưởng ứng “Tháng AT-GT” do Sở GD-ĐT phát động, ban giám hiệu nhà trường đã tổ

chức các hội thi cho học sinh tham gia như: các cuộc thi viết, thi báo tường, thi sáng tác ca khúc,

tranh, ảnh, tranh biếm họa, hội diễn sân khấu kịch ngắn và tấu hài có nội dung giáo dục, tuyên

truyền về việc chấp hành pháp luật khi tham gia giao thông, chú ý nhấn mạnh thái độ ứng xử,

hành vi của người tham gia giao thôn

Công an huyện Minh Hóa phối hợp với Trường Dân tộc nội trú huyện tổ chức tuyên truyền

Luật Giao thông đường bộ cho gần 250 học sinh cùng toàn thể cán bộ, giáo viên nhà trường.

Quảng Ninh với công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông. Xác định công tác đảm bảo

trật tự an toàn giao thông là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách hàng đầu nên thời

gian qua, Ban Chỉ đạo An toàn giao thông huyện Quảng Ninh đã phối hợp với các cấp, các

ngành, cơ quan, đoàn thể tổ chức nhiều đợt truyên truyền an toàn giao thông cho trên 5.000 lượt

giáo viên, học sinh của các trường THCS, THPT; thuyền thông Luật Giao thông đường sắt,

đường thủy nội địa và các văn bản pháp luật liên quan cho hàng ngàn lượt người

2.2.2.2. Hiệu quả công tác tuyên truyền ở Quảng bình

Trong những năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp và các sở, ban, ngành liên

quan đã chỉ đạo triển khai thực hiện quyết liệt nhiều nhiệm vụ, giải pháp mạnh về bảo đảm trật tự

ATGT, cùng với sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể và sự đồng

thuận của nhân dân, trong đó phải kể đến những kết quả tích cực của công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật TTATGT.

Với những kiến thức về TTATGT được giáo dục trong nhà trường cũng như qua các

phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương thì đoàn học sinh Quảng Bình đã đạt thành tích

cao tại hội thi "An toàn giao thông" cấp quốc gia. Kết quả 1 giải nhất và hai giải ba có thể nói là

những “con số sống” ghi nhận sự nỗ lực của các cấp, các ngành trong công tác giáo dục, phổ

biến luật TTATGT.

Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, tại Quảng Bình, đã có

5.755 hộ dân tự nguyện hiến gần 500.000m2 đất với giá trị ước lên đến hàng chục tỷ đồng. Tại

huyện Quảng Trạch, người dân hiến trên 86.000m2, nhiều nhất tỉnh, tiếp đến là các huyện: Bố

Trạch trên 55.252m2, Tuyên Hoá trên 257.380m2. Cùng với việc hiến đất, người dân Quảng

Bình còn tự giác tháo dỡ gần 2.000.000m hàng rào, 187 trụ cổng, hiến trên 100.000 cây cối các

loại, với tổng giá trị ước tính gần 20 tỷ đồng để mở rộng đường giao thông, dành đất xây dựng

công trình thuỷ lợi, xây dựng nhà văn hoá, chợ nông thôn

Và Quảng Bình là một trong 10 địa phương được Thủ tướng Chính biểu dương trong việc

phấn đấu giảm nhiều người chết do tai nạn giao thông trong năm 2010 và năm 2011.10 địa

phương được Thủ tướng biểu dương gồm: Đắk Nông, Hải Dương, Hà Nam, Lào Cai, Phú Thọ,

Quảng Bình, Đắk Lắk, Nghệ An, thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

Để tìm hiểu nhận thức của người dân Quảng Bình về TTATGT, tôi đã tiến hành khảo sát ý

kiến người dân dưới hình thức phiếu khảo sát với các câu hỏi liên quan đến nhận thức của người

dân về luật Giao thông đường bộ, sự quan tâm của người dân về các chương trình tuyên truyền

về ATGT của tỉnh. Qua đó làm thước đo cho công tác tuyên truyền, phổ biến luật TTATGT của

tỉnh.

Tỉ lệ %

1.Khi tham gia giao thông, bạn có

tuân thủ theo những biển báo có

trên đường?

Không để ý

42,5

Không hiểu nội dung của biển báo 31,6

Có 25,9

2.Theo bạn, đảm bảo trật tự an

toàn giao thông đường bộ là trách

nhiệm của ai?

CSGT 39,3

Ngành GTVT và công an 20,1

Cá nhân và tổ chức 40,6

3.Bạn có tham gia giao thông sau

khi đã uống rượu bia quá mức cho

phép không?

Thỉnh thoảng 37,4

Không 8,8

Có 53,8

4.Bạn đã có giấy phép lái xe môtô

chưa?

Chưa 20,5

Có 79,5

5. Tốc độ tối đa bạn thường chạy

khoảng bao biêu?

30-40km/h 31,2

Trên 40-50km/h 46,0

Trên 50km/h 22,8

6. Bạn có thường đi bộ dưới lòng

đường hay không?

Thỉnh thoảng 49,7

Có 28,5

Không 21,8

Bảng 2.3. Thống kê nhận thức của người dân về Luật ATGT

Qua bảng thống kê số liệu từ phiếu đánh giá có thể nhận thấy rằng tình hình nhận thức về

luật lệ an toàn giao thông của người dân địa phương còn ở mức tương đối thấp. Mặc dù số lượng

người dân có giấy phép lái xe chiếm một tỉ lệ khá cao (79,5%), thế nhưng các hành vi vi phạm

ATGT đường bộ vẫn thường xuyên xảy ra:

-Không tuân thủ những biển báo có trên đường: 74,1%

-Tham gia giao thông khi đã uống rượu bia:91,2%

-Chạy vượt quá tốc độ quy định: 68,8%

-Đi không đúng làn đường quy định

Điều đó cho thấy Công tác đào tạo sát hạch cấp giấy phép lái xe còn một số tồn tại, việc quản lý,

giáo dục lái xe chưa được coi trọng đúng mức. Trình độ quản lý, năng lực đội ngũ giáo viên dạy

lái xe chưa đồng đều, nhiều nơi công tác quản lý chưa tốt.

Trong công tác sát hạch, việc sát hạch lái xe môtô làm thủ công, phân tán, chất lượng không

đồng đều, ở một số nơi chất lượng thấp, có nơi xảy ra tiêu cực. thông qua việc tìm hiểu nhận

thức về luật an toàn giao thông của người dân có thể nhận thấy công tác tuyên truyền, phổ biến,

giáo dục pháp luật về giao thông đường bộ ở địa phương chưa đạt hiệu quả, việc tuyên truyền,

phổ biến, giáo dục pháp luật mới đạt yêu cầu về diện, thiếu chiều sâu, còn mang tính hình thức,

chưa phù hợp với đặc điểm từng đối tượng nên chất lượng, hiệu quả còn hạn chế.

Tỉ lệ %

1. bạn có thường xuyên theo

dõi các chương trình về ATGT

trên truyền hình tỉnh hay

không?

Không

49,8

Thỉnh thoảng 27,9

Có 22,3

2.Những nguồn nào sẽ giúp

bạn nhận được các thông tin về

ATGT một cách dễ dàng và

nhanh chóng nhất

Phương tiện thông tin đại chúng(báo nói,

báo viết, báo đài…) 49,6

Các buổi vận động, tuyên truyền 24,3

Gia đình và bạn bè 26,1

3.các chương trình an toàn giao

thông trên truyền hình như thế

nào

Hấp dẫn 3,7

Bình thường 32,0

Không thu thút 64,3

Bảng 2.4. Thống kê sự quan tâm của người dân về các chương trình tuyên truyền ATGT của tỉnh

Khi khảo sát về mức độ thường xuyên theo dõi các chương trình về an toàn giao thông trên

truyền hình thì có 49,8 % ý kiến không theo dõi, 27,9% thỉnh thoảng theo dõi và chỉ có 22,3% ý

kiến chọn có. Như vậy công tác tuyên truyền giáo dục phổ biến luật an toàn giao thông thông qua

các chương trình truyền hình chưa thực sự phát huy được hiệu quả và có lẽ nguyên nhân chính

tạo nên khoảng cách giữa các chương trình truyền về an toàn giao thông và người dân là nội

dung và hình thức chương trình, đa số người dân ý kiến rằng các chương trình về an toàn giao

thông không thu hút(64,3%), chỉ có 3,7% đồng ý là chương trình an toàn giao thông trên tuyền

hình là hấp dẫn, những con số này cũng lý giải cho nguyên nhân vì sao các chương trình truyền

hình giáo dục tuyên truyền an toàn giao thông cho người dân chưa đạt hiệu quả. Và cần nhận

thấy rằng kênh thông tin về an toàn giao thông giúp người dân tiếp cận một cách nhanh chóng và

dễ dàng nhất là các phương tiện thông tin đại chúng(báo nói, báo viết, báo đài…)(49,6%); 24,3

% ý kiến đồng ý các buổi nói chuyện, tuyên truyền cũng là một kênh truyền thông đơn giản,tiết

kiệm nhưng lại gần gũi quen thuộc với người dân, ngoài ra gia đình chính là một kênh truyền

thông quan trọng trong công tác tuyên truyền, gia đình là công cụ tuyên truyền tiền đề quan trọng

để có được một xã hội có văn hóa giao thông sau này.

2.2.2.3.Đánh giá chung về kết quả thực hiện (những mặt đƣợc, mặt chƣa đƣợc) và các tồn

tại, khó khăn cần khắc phục trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật an toàn giao thông

Những mặt được:

Về cơ bản công tác PBGDPL về GTVT nói chung và ATGT đã góp phần nâng cao nhận

thức và ý thức chấp hành pháp luật về ATGT ở đại đa số cán bộ, công chức, viên chức, người lao

động trong ngành GTVT và một bộ phận không nhỏ người tham gia giao thông.

Qua công tác PBGDPL về ATGT đã thu được những kết quả với hiệu quả và chất lượng

nhất định: góp phần giảm tai nạn giao thông và vi phạm pháp luật về ATGT.

Những mặt chưa được:

Công tác TTPBGDPL về ATGT cũng còn một số hạn chế, khiếm khuyết, chất lượng và

hiệu quả chưa đạt được như mong muốn như sau:

- Một số nội dung tuyên truyền còn chung chung, chưa sát với thực tế địa phương, đối

tượng được tuyên truyền;

- Công tác tuyên truyên, phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn giao thông còn

hình thức, chưa hiệu quả, chưa gắn với trách nhiệm của chính quyến các cấp, người đứng đầu cơ

quan, tổ chức, doanh nghiệp, của nhà trường, … .

- Nội dung và biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGT chưa làm

cho từng người dân nhận thức được việc chấp hành pháp luật về bảo đảm TTATGT. Nội dung

tuyên truyền chưa sâu, phương pháp tuyên truyền chưa thực sự phù hợp với từng vùng, từng loại

đối tượng, nhất là đồng bào nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.

- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGT chưa được duy trì

thuờng xuyên, còn thiên về tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, chưa chú ý

đúng mức việc phổ biến, hướng dẫn, giáo dục pháp luật trong nhà trường, tại cơ sở nơi người dân

cư trú và làm việc, nhất là ít tập trung vào đối tượng là chủ doanh ngiệp (chủ xe, chủ phương

tiện), vùng sâu, vùng xa.

Các tồn tại, khó khăn

- Nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật khi tham gia giao thông của một bộ phận không

nhỏ người tham gia giao thông còn thiếu tự giác, mang tính đối phó hoặc có thái độ “coi thường

luật”.

- Việc tổ chức dạy và học kiến thức về an toàn giao thông trong nhà trường vẫn còn nhiều

bất cập.

- Phạm vi tuyên truyền rộng

- Đối tượng tuyên truyền, một bộ phận không nhỏ người tham gia giao thông có trình độ

dân trí thấp hoặc không có điều kiện tiếp cận với các quy định về ATGT nên nhận thức và ý thức

chấp hành pháp luật về ATGT chưa cao.

- Đội ngũ thực hiện công tác PBGDPL (báo cáo viên, tuyên truyền viên, cán bộ, công chức

liên quan đến công tác này) số lượng quá ít, kiêm nhiệm, không ổn định, ít được tập huấn bài bản

về nghiệp vụ PBGDPL về ATGT

- Việc ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật mới về ATGT trong những năm gần

đây, trong số đó vẫn còn hiện tượng “chồng chéo”, “mâu thuẫn” hoặc thiếu tính khả thi

- Phương tiện, công cụ, tài liệu, sách báo, ... có nơi còn chưa được cung cấp, trang bị đầy

đủ.

- Cơ chế, thể chế còn chưa rõ ràng, nguồn kinh phí còn rất hạn hẹp, ngân sách nhà nước bố

trí cho công tác này rất ít. Cơ chế phân bổ tài chính còn vướng mắc, mức chi cụ thể cho từng

hạng mục tuyên truyền còn rất thấp so với mặt bằng giá cả.

- Bên cạnh đó, khối doanh nghiệp, tổng công ty còn gặp một số khó khăn như thiếu cán bộ

làm công tác tuyên truyền, PBGDPL, phương tiện, thiết bị, người lao động ở các công trường

còn phân tán ở nhiều vùng, nhiều địa phương nên việc tuyên truyền đến những người lao động ở

đây không dễ dàng.

CHƢƠNG 3.:MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC LUẬT AN

TOÀN GIAO THÔNG Ở TỈNH QUẢNG BÌNH

3.1. Các nguyên tắc chỉ đạo nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác phổ biến giáo dục

pháp luật về an toàn giao thông

- Cần xác định công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến về trật tự an toàn giao thông có vị

trí, vai trò đặc biệt quan trọng.

- Hiệu quả của công tác phổ biến giáo dục pháp luật về ATGT chính là việc nâng cao nhận

thức, ý thức chấp hành pháp luật về ATGT của các cơ quan, đơn vị, người thi hành công vụ, của

cộng đồng, doanh nghiệp, người tham gia giao thông.

- Chú trọng nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền,

phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông

- Xây dựng các biện pháp đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền,

phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông nhằm nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành

pháp luật về an toàn giao thông đối với các đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức, người lao

động trong ngành giao thông vận tải, thanh niên, học sinh, sinh viên các trường đào tạo, huấn

luyện thuộc Bộ giao thông vận tải.

- Phổ biến, giáo dục pháp luật về ATGT là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và

người tham gia giao thông;

-Xác định Ủy ban an toàn giao thông quốc gua, các Bộ, Sở: GTVT, Công an là những cơ

quan nòng cốt trong công tác chỉ đạo và định hướng

-Các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cần

phải tập trung nhằm nâng cao ý thức, hiểu biết và chấp hành pháp luật về ATGT của các cơ

quan, đơn vị, người thi hành công vụ, của cộng đồng, doanh nghiệp, nhân dân … những người

trực tiếp tham gia giao thông và khai thác giao thông.

-Phổ biến giáo dục pháp luật về ATGT cần được thực hiện thường xuyên, liên tục cho các

đối tượng liên quan.

-Cần có sự phối kết hợp chặt chẽ và có hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật với

các hoạt động và nội dung công tác bảo đảm an toàn giao thông của ngành giao thông vận tải

-Phổ biến, giáo dục pháp luật về ATGT đòi hỏi phải có sự tham gia của các lực lượng xã

hội, các ban, ngành, đoàn thể; huy động các phương tiện truyền thông đại chúng

-Các giải pháp nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải tổng thể và toàn

diện và mang tính chiến lược.

-Tính đồng bộ và chiến lược của các giải pháp về công tác tuyên truyền tập trung vào hai

nội dung cơ bản:Các giải pháp liên quan đến củng cố và tăng cường tổ chức và thể chế về

TTPBGDPL về ATGT; Các nội dung/biện pháp liên quan trực tiếp đến công tác TTPBGDPL về

ATGT

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông

ở tỉnh Quảng Bình

3.2.1. Phát triển các nguồn nhân lực (nhân lực và tài chính)

3.2.1.1. Tăng cƣờng công tác đào tạo, bồi dƣỡng về pháp luật an toàn giao thông cho

các báo cáo viên- chủ thể của hoạt động phổ biến, giáo dục

Để hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đưa lại hiệu quả cao, bên cạnh việc chọn những

người có đầy đủ phẩm chất năng lực để kết nạp vào đội ngũ báo cáo viên pháp luật thì công tác

đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho họ cũng là một việc làm rất cần thiết.

- Cần bồi dưỡng và định hướng nội dung tuyên truyền an toàn giao thông thường xuyên

cho đội ngũ báo cáo viên

- UBND cấp tỉnh và cấp huyện (trên cơ sở tham mưu của Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp)

rà soát lại đội ngũ báo cáo viên pháp luật hiện có, trên cơ sở phân loại trình độ đã được đào tạo

của đội ngũ này để từ đó có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với từng đối tượng.

- Việc bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ báo cáo viên pháp luật bên cạnh chú ý nội dung,

cần chú ý bồi dưỡng cả cách thức, phương pháp truyền đạt

3.2.1.2. Bảo đảm kinh phí cho các hoạt động phổ biến, giáo dục an toàn giao thông trên

địa bàn tỉnh

Hiện nay chưa có một đánh giá cụ thể về một kế hoạch, chương trình tuyên truyền, phổ

biến, giáo dục pháp luật, sử dụng một lượng kinh phí bao nhiêu thì kế hoạch, chương trình đó có

thể thực hiện được khả thi, hiệu quả và tiết kiệm.

Do vậy trong thời gian tới, để đảm bảo hoạt động giáo dục pháp luật đạt hiệu quả cao, cần

đầu tư hơn nữa kinh phí cho hoạt động này, cụ thể, phải triển khai sớm Thông tư số 63/2005/TT-

BTC ngày 05/8/2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn về lập dự toán kinh phí phổ biến, giáo dục

pháp luật.

Cần đầu tư kinh phí nhằm đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên pháp luật.

Đảm bảo kinh phí để in ấn các tài liệu cần thiết, các văn bản pháp luật mới về an toàn giao

thông, làm phong phú hơn tủ sách pháp luật về an toàn giao thông cho địa bàn tỉnh.

Uỷ ban nhân dân tỉnh cần dành một khoản kinh phí cần thiết, từng bước trang bị các

phương tiện cho hệ thống cơ sở kỹ thuật về an toàn giao thông bao gồm: hệ thống tín hiệu giao

thông, hệ thống các biển báo giao thông ở các huyện, xã, đặc biệt là ở các tuyến đường quốc lộ,

các tuyến đường hay xảy ra tai nạn giao thông.

3.2.2.Tăng cƣờng sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt của các cấp lãnh đạo, chính quyền địa

phƣơng

Cấp ủy Đảng các cấp, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị, các đoàn thể cần quan tâm, chỉ đạo

quyết liệt, thường xuyên và có sự hiểu biết nhất định các nguyên tắc nội dung các giải pháp

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và cam kết thực hiện các giải pháp. Quán triệt và

nghiêm túc thực hiện văn bản chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,

UBATGTQG, Bộ GTVT, UBND, Sở GTVT về công tác TTPBGDPL nói chung và ATGT nói

riêng.

3.2.3. Nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về ATGT

Đây là giải pháp tổng thể tập trung vào các nội dung liên quan đến việc xây dựng và thực

hiện một kế hoạch chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật về giao thông vận tải và bao gồm

các nội dung cụ thể như sau:

- Xây dựng chương trình/kế hoạch thực hiện TTPBGDPL theo cách lồng ghép

- Xây dựng tài liệu TTPBGDPL cho các đối tượng được tuyên truyền khác nhau

- Triển khai thực hiện các chiến dịch mang tính quốc gia thông qua hệ thống truyền thông

đại chúng

- Củng cố công tác theo dõi, kiểm tra, đánh giá và tổng kết rút kinh nghiệm

3.2.4. Kiện toàn tổ chức của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và

nâng cao vai trò của cơ quan tƣ pháp

Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là cơ quan tham mưu cho UBND,

với nhiệm vụ là đề ra các kế hoạch phối hợp, phổ biến, giáo dục hàng quý, hàng năm để các

ngành, các cấp phối hợp thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; kiểm tra đôn đốc các

cấp, các ngành thực hiện kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật; phối hợp xây dựng lực lượng

báo cáo viên của ngành; định kỳ sơ kết, tổng kết công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Do vậy,

việc củng cố và kiện toàn hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong

những yếu tố quan trọng tạo điều kiện để hoạt động giáo dục pháp luật nói chung và an toàn giao

thông nói riêng hiệu quả tốt. Vì vậy:

-Cần gấp rút việc xây dựng quy chế hoạt động cho hội đồng phối hợp công tác. Bên cạnh

đó, cần quy định và phân công trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên trong Hội đồng, tăng

cường trách nhiệm của cơ quan thường trực, phát huy vai trò của hội đồng phối hợp công tác phổ

biến giáo dục pháp luật các cấp trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật, đặc biệt là an toàn giao thông.

-Cần củng cố và kiện toàn hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở các

huyện và thành phố. Cần tuyển chọn những cán bộ có trình độ, phẩm chất, năng lực, nhiệt tình để

bổ sung, thay thế những thành viên trong Hội đồng đã chuyển công tác hoặc đã nghỉ việc.

-Cần tăng cường hơn nữa vai trò chỉ đạo, hướng dẫn của hội đồng phối hợp công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật cấp tỉnh đối với hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

các huyện và thành phố.

3.2.5. Đổi mới hình thức cũng nhƣ nội dung phổ biến, giáo dục; tùy từng đối tƣợng để có

nội dung phù hợp

Tuyên truyền theo từng điểm: Áp dụng với khu vực đông dân cư trên các trục quốc lộ,

đường đô thị có mật độ phương tiện tham gia giao thông cao. Các tụ điểm phức tạp về trật tự An

toàn giao thông, các tuyến đường thường xảy ra tai nạn giao thông; các khu công nghiệp, trường

học, các nơi công cộng nhà ga, bến xe ... Các cơ quan truyền thông (Báo, Đài truyền hình, phát

thanh) khai thác và truyên truyền các nội dung được cung cấp cho bạn đọc, xã hội.

- Tuyên truyền nội dung theo đối tượng: Tuỳ từng đối tượng cần có nội dung và biện pháp

tuyên truyền phù hợp: Đối với cán bộ, công chức, viên chức tập trung phổ biến các quy định về

quy tắc giao thông, điều kiện của phương tiện tham gia giao thông, người điều khiển phương tiện

giao thông.... Với học sinh, sinh viên: Tăng cường chất lượng giờ học môn Giáo dục công dân,

môn học pháp luật, các hoạt động ngoại khoá, tập trung phổ biến về quy tắc giao thông, điều kiện

đối với người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đặc biệt là về độ tuổi. Với thanh niên:

Tập trung giới thiệu các quy định về quy tắc giao thông, các hành vi bị nghiêm cấm và hình thức

xử phạt nếu vi phạm. Đối với nông dân: Quy tắc giao thông, người điều khiển phương tiện giao

thông, các quy định về kết cấu hạ tầng giao thông, hành vi vi phạm và mức xử phạt. Đối với

những người tham gia đảm bảo an toàn giao lưu thông như lực lượng công an, thanh tra giao

thông: Phải nắm rõ các quy định của pháp luật về an toàn giao thông, quy định về quy trình tuần

tra, kiểm soát, phát hiện xử lý vi phạm nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, đơn vị và của các cá

nhân có thẩm quyền(ATGT).

- Đổi mới hình thức và nội dung tuyên truyền:

+ Tuyên truyền trên phương tiện thông tin đại chúng

+ Tuyên truyền trực quan

+ Tuyên truyền bằng tờ rơi

+ Tổ chức các buổi tọa đàm nói chuyên về an toàn giao thông ủy

+ Tổ chức các cuộc thi về an toàn giao thông

3.2.6. Xây dựng văn hóa giao thông

VHGT không phải cái gì cao xa, trừu tượng hay mang tính hình thức, trái lại, là những vấn

đề rất thiết thực, cụ thể, có thể nhìn thấy được, nghe thấy được, cảm nhận được. Đó chính là một

tổ hợp các yếu tố: tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, ý thức trách nhiệm, đạo đức và ý thức pháp

luật của những người tham gia giao thông và của các nhà quản lý. VHGT thể hiện các giá trị

chân, thiện, mỹ và ích. Xây dựng VHGT cũng chính là xây dựng ý thức và thái độ về an toàn đối

với tất cả mọi người.

Bên cạnh các giải pháp pháp lý chủ yếu mà lâu nay chúng ta đã và đang nỗ lực thực hiện,

có thể kể đến các biện pháp sau:

Sự “quyết liệt” nhằm thiết lập, đảm bảo trật tự, an toàn giao thông

Sự “quyết liệt” phải mang tính toàn diện, đồng bộ và hệ thống. Cần phải áp dụng đồng bộ

các biện pháp pháp lý, đạo đức, văn hoá, tâm lý, kỹ thuật và công nghệ, thực hiện thường xuyên,

mọi nơi, mọi lúc chứ không nên chỉ dừng lại ở các đợt ra quân rầm rộ, các “tháng an toàn giao

thông” hay “tuần lễ an toàn giao thông”. Đồng thời, các biện pháp cần đi thẳng vào các nguyên

nhân chủ yếu nhất trong việc gây ra các vụ tai nạn - đó chính là lỗi của người tham gia giao

thông: chạy quá tốc độ, phóng nhanh, giành đường, vượt ẩu và chủ yếu là do các đối tượng trẻ tuổi

là nam giới gây nên.

Về các phương tiện băng rôn, khẩu hiệu

Trong lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông, các băng rôn, khẩu hiệu có vai trò to lớn góp

phần hình thành thái độ đúng đắn và các thói quen chấp hành pháp luật. Vấn đề là nội dung, địa

điểm, cách thức treo chúng như thế nào để có hiệu quả và tác dụng thiết thực nhất. Nội dung ghi

trên các băng rôn, khẩu hiệu nên cụ thể, thiết thực, cụ thể như: “Gặp đèn đỏ phải dừng lại, kể cả

khi không có cảnh sát giao thông”, “Tai nạn giao thông không phải là Định mệnh”, “Chắc chắn

bạn không muốn gây tai nạn cho người khác và cho chính mình”...

Tính cách con người, thói quen, tập quán, nếp sống và vấn đề văn hoá pháp luật giao

thông

Một trong những đặc trưng của VHGT là sự hiện hữu của các yếu tố phi kinh tế, chủ quan

bao gồm: tính cách, tập quán, nếp sống, thói quen; tố chất đạo đức, cách cư xử của các cá nhân.

Những yếu tố này có ảnh hướng mạnh mẽ đến ý thức và hành vi pháp luật, đạo đức của những

người tham gia giao thông và kể cả của những nhà quản lý.

Giáo dục, tuyên truyền, kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm pháp luật giao thông, xây

dựng văn hoá pháp luật giao thông

Con người và Con đường trong trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt nói riêng

VHPLGT như vậy cần phải được nhìn nhận từ hai phía – những người tham gia giao thông

và các nhà quản lý. Hai yếu tố cơ bản hợp thành: Con người và Con đường cùng với những hành

vi tương ứng của các cá nhân tham gia giao thông và của các cán bộ nhà nước có trách nhiệm

điều hành, quản lý. Ở đây, chúng ta muốn nói đến việc phải đầu tư thực sự, phải “quyết liệt” hơn

nữa về phương diện quản lý nhà nước, quản lý xã hội, pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật.

Tăng cường năng lực điều hành, năng lực kiểm soát, xử lý, ban hành quy định pháp luật, huy

động dư luận xã hội, trí tuệ xã hội nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn giao thông và ách tắc

giao thông, trong đó, vi phạm dẫn đến tai nạn giao thông phải đặt lên hành đầu để tìm các liều

“vắc xin” đặc trị.

3.2.7. Tăng cƣờng xử phạt, cƣỡng chế

Đối với những hành vi cố ý vi phạm pháp luật về an toàn giao thông, cần sử dụng các biện

pháp giáo dục có tính chất cưỡng chế. Bổ sung các quy định tăng mức xử phạt vi phạm hành

chính, áp dụng hình thức xử phạt bổ sung đối với một số hành vi cố ý vi phạm;

Sử dụng các biện pháp xử phạt, cưỡng chế mạnh là một trong các biện pháp tuyên truyền,

giáo dục hiệu quả đặc biệt đối với các đối tượng cố ý vi phạm, đồng thời có tác dụng tuyên

truyền, răn đe nhiều đối tượng khác. Kịp thời đưa tin các vụ việc này lên các phương tiện thông

tin đại chúng. Đặc biệt, việc xây dựng kế hoạch truyên truyền hoặc các chiến dịch về tuyên

truyền cần phải gắn kết chặt chẽ với công tác tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm, điều tra xử lý tai

nạn giao thông với mục đích tuyên truyền hỗ trợ các hoạt động cưỡng chế và ngược lại. Đồng

thời, thực hiện xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải bảo đảm nghiêm

minh, đúng pháp luật.

Khi tiến hành xử phạt vi phạm hành chính, các lực lượng chức năng cũng tuyên truyền,

giải thích cho đối tượng vi phạm là người tham gia giao thông biết các quy định pháp luật để

không tái phạm.

3.2.8. Tăng cƣờng phổ biến giáo dục ATGT cho thanh thiếu niên

3.2.8.1. Phổ biến giáo dục ATGT đƣờng bộ cho thanh thiếu niên trong trƣờng học

Công tác giáo dục ý thức chấp hành pháp luật về TTATGT cần đặc biệt coi trọng giáo dục

và tạo sự chuyển biến trong hành động đối với học sinh, sinh viên, phát huy tác dụng trước mắt

và lâu dài để từ đó hành thành một thế hệ mới có văn hóa giao thông, có nếp sống văn minh,

công nghiệp.

Thanh niên, học sinh, sinh viên là những đối tượng dễ bị tác động, tuyên truyền. Các đối

tượng này có thể là những tuyên truyền viên rất tốt nếu như các em chia sẻ với gia đình và cộng

đồng về những điều đã học được ở trường về ATGT.

3.2.8.2. Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông cho thanh thiếu niên

đang làm nghề tự do ở các địa bàn dân cƣ

Song song với các biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải có các biện pháp hỗ trợ

hiệu quả như hướng nghiệp, dạy nghề, giải quyết việc làm cho thanh thiếu niên, đặc biệt là thanh

niên nông thôn, không để tình trạng “nhàn cư vi bất thiện”. Có như thế mới thu hút được thanh

thiếu niên làm nghề tự do ở các địa bàn dân cư tham gia nghe phổ biến pháp luật nói chung và an

toàn giao thông nói riêng.

- Các cấp bộ Đoàn cần tiếp tục tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn lồng ghép phổ

biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông với thực hiện các cuộc vận động, phong trào, chương

trình, kế hoạch, tháng hành động của Đoàn, Đội

3.2.8.3. Kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho thanh thiếu niên

Chúng ta đã biết, cả pháp luật và đạo đức đều góp phần bảo vệ các giá trị chân chính, đều

liên quan đến hành vi đến lợi ích của con người và xã hội. Tuy nhiên đạo đức và pháp luật có

những đặc điểm và tính chất khác nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi của con người:Đạo

đức và pháp luật khác nhau về phương thức điều chỉnh hành vi con người; Đạo đức thì tình cảm

mềm dẻo, pháp luật thì bắt buộc và cứng rắn; Đạo đức mang tính chung, định hướng. Pháp luật

thì cụ thể và rõ ràng; Đạo đức đạt được kết quả là một quá trình. Pháp luật đạt được kết quả ngay

tức thì; Đạo đức là kết quả tự thân, bền vững. Pháp luật là kết quả tác động từ bên ngoài, chưa

bền vững. Để nâng cao vai trò và phát triển ý thức đạo đức, ngoài các biện pháp tích cực khác,

thì không thể thiếu vai trò của pháp luật và ý thức pháp quyền. Pháp luật càng chặt chẽ, càng đầy

đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được đề cao, khả năng điều chỉnh và giáo

dục của đạo đức càng được mở rộng và ảnh hưởng một cách toàn diện, tích cực đến mọi hành vi,

mọi mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội

3.2.9. Trách nhiệm của ngƣời dân khi tham gia giao thông

Nâng cao hiệu quả của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về giao thông không chỉ là

trách nhiệm của các cơ quan chức năng, Đảng- nhà nước mà đó là nhiệm vụ của toàn dân. Mọi

người dân là một mắt xích quan trọng quyết định cho thành công của công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật giao thông, xây dựng thành công nếp sông văn hóa giao thông.

Trách nhiệm của người dân thể hiện ở các khía cạnh sau đây:

- Mỗi người dân phải có thái độ tôn trọng pháp luật về giao thông.

- Mỗi người dân phải có thái độ tích cực ủng hộ, tham gia vào công tác tuyên truyền, phổ

biên giáo dục pháp luật giao thông.

- Mỗi người dân phải kiên quyết trong việc đấu tranh chống lại các hành vi vi phạm pháp

luật giao thông.

- Mỗi người dân chúng ta hãy là một kênh thông tin về an toàn giao thông.

- Hãy bỏ những thói quen xấu:

- Gia đình là cái nối giáo dục đầu tiên trực tiếp cho mỗi con người chúng ta.

KẾT LUẬN

Giao thông được ví như mạch máu trong cơ thể con người, huyết mạch có lưu thông tốt

không tắc nghẹn, thì cơ thể mới tồn tại và phát triển được, giao thông cũng vậy. Xã hội muốn tồn

tại phát triển thì nhất thiết phải có một hệ thông giao thông thông suốt đảm bảo sự vận hành của

một cơ thể sống khổng lồ đó là xã hội loài người. Nói như vậy để thấy được tầm quan trọng của

giao thông và nhất là giao thông đường bộ.

Thế nhưng, thực trạng giao thông Việt nam thì sao. Hàng năm chúng ta đang phải gánh

chịu những thiệt hại quá lớn về người và tài sản do tai nạn giao thông đem lại, đất nước phải bỏ

ra những khoản tiền không nhở chút nào để giải quyết gánh nặng xã hội về giao thông.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nan giải của giao thông Việt Nam thì có nhiều như do chất

lượng kết cấu hạ tầng yếu kém, phương tiện tham gia giao thông quá đa dạng và phong phú, do

luật đến với người dân còn quá chậm, và nhất là do ý thức của người dân quá thấp khi tham gia

giao thông… đặc biệt nhất chúng ta cũng có thể thấy là chất lượng của công tác tuyên truyền phổ

biến, giáo dục pháp luật về giao thông chưa đạt hiệu quả cao.

Phổ biến giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về giao thông nói riêng là cầu nối trực

tiếp nhất để đưa kiến thức giao thông đến với người dân qua đó nâng cao ý thức người dân khi

tham gia giao thông và cao hơn nữa là góp phần xây dựng văn hóa giao thông. Đó là nền tảng

quan trọng cho chúng ta phát triển mọi mặt của xã hội (kinh tể xã hội, an ninh quốc phòng…)

đảm bảo hạnh phúc cho mọi nhà mọi người. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, đất nước đang tập

trung cho công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa – nhà nước quản lý xã hội

bằng pháp luật. vì vậy, xây dựng nếp sống văn hóa giao thông cũng chính là thực hiện mục tiêu

của nhà nước pháp quyền. Đó là chưa kể đến, chúng ta đang sống trong thời đại kinh tế mở toàn

cầu hóa. Vài trò của văn hóa pháp lý rất cao, nếu văn hóa pháp lý nói chung và văn hóa giao

thông nói riêng yếu kém thì chúng ta rất khó hội nhập cùng sự phát triển của nhân loại. Bởi vậy,

vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về giao thông càng có vai trò vô cùng quan

trọng.

Tuy vậy, công tác này ở nước ta nói chung và ở địa phương Quảng Bình nói riêng hiệu quả

còn rất thấp. Chúng ta làm rất nhiều nhưng kết quả thì chẳng được là bao, như đã phân tích ở

phần trên. Nguyên nhân dân đến kết quả không như mong muốn thì cũng có rất nhiều nhưng có

thể liệt kê một vài ý như: chúng ta làm theo phong trào, coi trọng hình thức, quản lý còn mang

tính quan liêu, báo cáo dựa trên giấy tờ sổ sách ; công tác phổ biến không thường xuyên mà theo

mùa vụ, chưa sáng tạo trong hoạt động tuyên truyền, chưa khai thác được sức mạnh toàn dân

trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giao thông; đặc biệt là ý thức người dân còn hời hợt

với công tác này.

Ở địa phương Quảng Bình, ngoài những nguyên nhân nói trên thì còn có một số nguyên

nhân đặc thù khác nữa đó là: Quảng Bình là vùng đất có điều kiện kinh tế xã hội tương đối khó

khăn so với cả nước, có tất cả 7 huyện, thành phố, trong đó có một số huyện lũy địa hình đồi núi

xa xôi hiểm trở như huyện Minh Hóa, Tuyên Hóa… điều kiện về mọi mặt của các huyện này vô

cùng khó khăn. Vì vậy công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung là rất hạn chế. Đó là chưa

kể đến nền tảng văn hóa học vấn của người dân những vùng này lại con quá thấp.

Vì những lý do đó, khi nghiên cứu đề tài. Chúng tôi ngoài việc tìm hiểu về thực trạng công

tác phổ biến giao dục pháp luật giao thông ở tỉnh Quảng Bình và đưa ra những giải pháp để nâng

cao hiệu quả công tác này, thì còn mong rằng Đảng - nhà nước sẽ quan tâm hơn nữa đối với Tỉnh

nhà và một số tỉnh thành khác có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn như Quảng Bình. Để góp

phần nâng cao ý thức, trạch nhiệm của người dân khi tham gia giao thông, qua đó đưa lại cho

Quảng Bình một đời sống giao thông ổn định lành mạnh tạo tiền đề cho sự phát triển mọi mặt

một cách bền vững.

References

1. Ban Bí thư (2003), Chỉ thị số 32/CT-TW về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân,

Hà Nội.

2. Bộ Tài chính (2005), Thông tư số 63/2005/TT-BTC hướng dẫn việc quản lý và sử dụng

kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

3. Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp(2010), Thông tư số 73/2010/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn việc

lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật;

4. Bộ trưởng Bộ GTVT(2008), Chỉ thị số 07/2008/CT-BGTVT việc tăng cường công tác

phổ biến, giáo dục pháp luật về giao thông vận tải giai đoạn 2008 – 2012;

5. Bộ Tư pháp (2003), Thông tư số 01/2003/TT-BTP ngày 14/3/2003 hướng dẫn thực hiện

Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17/1/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương

trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2003 đến 2007, Hà Nội.

6. Bộ Tư pháp ( 2004), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Chương trình quốc gia

về phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn tới, Đề tài khoa học cấp Bộ,Hà Nội.

7. Bộ Tư pháp(2012), Đề án tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh,

thiếu niên giai đoạn 2011 - 2015

8. Chỉ thị số 317/TTg ngày 26/05/1995 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác

quản lý trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị, Nghị định số

36/CP ngày 29/5/1995 của Chính phủ về bảo đảm an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn

giao thông đô thị.

9. Chính phủ(1999), Nghị định số 172/1999/NĐ- quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo

vệ công trình giao thông đối với công trình giao thông đường bộ.

10. Chính phủ(2008), Nghị định số 51/2008/NĐ-CP về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Giao thông vận tải.

11. Chính phủ (2007),Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-

CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của

cán bộ, nhân dân;

12. Cục Thống Kê Quảng Bình (2004), Niên giám thống kê tỉnh Quảng Bình, Nxb ThốngKê,

Hà Nội.

13. Phạm Thị Kim Dung - Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp(2011), “Phổ biến,

giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh viên trong các nhà trường thuộc hệ thống giáo dục quốc

dân”, Đặc san tuyên truyền pháp luật,(3),

14. Đỗ Văn Dương (2002), Giáo dục pháp luật cho cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Đắc

Lắc hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

15. Trần Ngọc Đường, Dương Thanh Mai (1995), Bàn về giáo dục pháp luật, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

16. Cao Thị Hà (2003), “Gắn giáo dục pháp luật với giáo dục đạo đức đối với công chức”,

Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (7), tr. 14-16.

17. Nguyễn Minh Hải (2004), Nâng cao chất lượng giảng dạy pháp luật trong các trường

đào tạo sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viên

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

18. Đặng Ngọc Hoàng (2000), Thực trạng và phương hướng đổi mới giáo dục pháp luật hệ

đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

19. Hồ Viết Hiệp (2000),Xã hội hóa” công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong tìnhhình

mới”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (9), tr. 19-24.

20. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Nhà nước-Pháp luật (1999), Đổi mới

giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị của nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp

Bộ 1997-1999, Hà Nội.

21. Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL của Chính phủ (2003), Báo cáo Tổng kết 5 năm

thực hiện Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg và Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg ngày 07/1/1998 của

Thủ tướng Chính phủ về định hướng triển khai công tác phổ biến giáo dục pháp luật thời gian

tới, Hà Nội.

22. Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL của Chính phủ (2004), Báo cáo kết quả công tác

năm 2003 và phương hướng hoạt động năm 2004, Hà Nội.

23. Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2004), Báo cáo

công tác phổ biến giáo dục pháp luật năm 2003 và định hướng triển khai công tác phổ biến, giáo

dục pháp luật năm 2004, Quảng Bình.

24. Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2005), Báo cáo

công tác phổ biến giáo dục pháp luật năm 2004 và phương hướng hoạt động năm 2005, Quảng

Bình.

25. Hoàng Thị Kim Quế (2003), “Bàn về ý thức pháp luật”, Tạp chí Luật học,(1), tr.40-41.

26. Hoàng Thị Kim Quế (2010), “Văn hoá pháp luật giao thông - các giá trị chân, thiện, mỹ,

ích”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (3)

27. Hoàng Thị Kim Quế (2011), “Bàn về hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật ở nước ta

hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (4), tr.4-7

28. Nghị quyết số 16/2008/NQ-CP về từng bước khắc phục ùn tắc giao thông tại hai thành

phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh

29. Nghị quyết số 88/NQ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2011 về tăng cường thực hiện các biện

pháp trọng tâm bảo đảm trật tự an toàn giao thông.

30. Sở Tư pháp Quảng Bình (2002), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện công tác phổ biến giáo

dục pháp luật (1998 - 2002), Quảng Bình.

31. Sở Tư pháp Quảng Bình (2005), Báo cáo tổng kết năm, Quảng Bình.

32. Lê Minh Tâm (1998), “Vấn đề văn hoá pháp luật nước ta trong giai đoạn hiện nay”,Tạp

chí Luật học,(5), tr.17-24.

33. Tỉnh uỷ Quảng Bình (2004), Kế hoạch thực hiện Chỉ thị 32/CT-TW ngày 09/12/2003 của

Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo

dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, Quảng Bình.

34. Hoàng Trung Thành (2004), Giáo dục pháp luật cho nông dân tỉnh Thái Bình trong giai

đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

35. Đinh Xuân Thảo (1996), Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên

nghiệp và dạy nghề (không chuyên lụât) ở nước ta hiện nay, Luận án TS Luật học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

36. Thông tấn xã Việt Nam (2012), Hội nghị “Chiến lược bảo đảm trật tự an toàn giao thông

đường bộ quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn 2030"

37. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg ngày 07/01/1998 về việc

triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội

đồng phổ biến, giáo dục pháp luật, Hà Nội.

38. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình

phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012;

39. Thủ tướng Chính phủ(2009), Quyết định số 1928/QĐ-TTg phê duyệt Đề án nâng cao chất

lượng công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong nhà trường.

40. Thủ tướng Chính phu (2004), Chỉ thị số 01/2004/CT-TTg về việc chấn chỉnh hoạt động

vận tải khách liên tỉnh bằng ô tô.

41. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định 1856/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch lập lại trật tự

hành lang an toàn đường bộ, đường sắt

42. Thủ tướng Chính phủ (2002), Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg về việc triển khai thực hiện

43. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17/01/2003 phê

duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2003 đến năm 2007, Hà Nội.

44. Thủ tướng Chính phủ (2004), Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg ngày 16/12/2004 Phê

duyệt Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp

hành pháp luật cho cán bộ nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010, Hà Nội.

45. Trần Văn Trầm (2002), Giáo dục pháp luật cho cán bộ và công chức trên địa bàn tỉnh

Bình Định - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

46. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (1998), Quyết định số 42/1998/QĐ-UB ngày

47. 09/7/1998 về việc ban hành kế hoạch triển khai công tác phổ biến giáo dục pháp luật năm

1998, những năm tiếp theo và thành lập HĐPHCT phổ biến giáo dục pháp luật, Quảng Bình.

48. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (1998), Chỉ thị số 28/1998/CT-UB ngày 03/8/1998 về

việc đẩy mạnh công tác phổ biến giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh, Quảng Bình.

49. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2001), Quyết định số 2523/QĐ-UB ngày 10/12/2001

về việc công nhận Báo cáo viên pháp luật, Quảng Bình.

50. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2002), Báo cáo sơ kết 4 năm thực hiện Chỉ thị số

02/1998/CT-TTg và Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật, Quảng Bình.

51. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2003), Quyết định số 3226/QĐ-UB ngày 10/10/2003

về việc công nhận Báo cáo viên pháp luật, Quảng Bình.

52. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2003), Quyết định số 07/2003/QĐ-UB ngày

53. 05/3/2003 về việc ban hành kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ

năm 2003 đến năm 2007, Quảng Bình.

54. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2005), Chỉ thị số 08/2005/CT-UB về việc đẩymạnh

và tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh, Quảng Bình.

55. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2010), chỉ thị Số 02/2010/CT-UBND Về việc tiếp tục

thực hiện các giải pháp cấp bách nhằm hạn chế tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh, Quảng Bình

56. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2011), Quyết định Số 982/QĐ-UBND về việc Ban

hành Kế hoạch thực hiện công tác phổ biến giáo dục pháp luật giai đoạn 2011 – 2015, Quảng

Bình

57. Viện ngôn ngữ học (1997), Từ điển Tiếng việt, Trung tâm Từ điển học, Đà Nẵng.

58. Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1998), Nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật, Nxb

Thanh niên, Hà Nội.

59. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1995), Một số vấn đề lý luận và thực

tiễn về phổ biến giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới, Nxb Thanh niên, Hà Nội.