24
ĐẠI HC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------ TRN THCÚC TƯ TƯỞNG YÊU NƯỚC TTRUNG NGHĨ A SANG DUY T ÂN CUI THKXIX - ĐẦU THKXX QUA TÁC GIPHAN ĐÌNH PHÙNG VÀ PHAN BI CHÂU Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Vit Nam Mã số: 60 22 01 21Người hướng dn khoa hc: TS. Nguyễn Đức Mu Hà Nội 2016 MC LC

TƯ TƯỞ ÊU NƯỚ Ừ ĨA SANG - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/19704/1/02050004390.pdfĐẠi hỌc quỐc gia hÀ nỘi trƯỜng ĐẠi hỌc khoa

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------

TRẦN THỊ CÚC

TƯ TƯỞNG YÊU NƯỚC TỪ TRUNG NGHĨA SANG

DUY TÂN CUỐI THẾ KỶ XIX - ĐẦU THẾ KỶ XX QUA

TÁC GIẢ PHAN ĐÌNH PHÙNG VÀ PHAN BỘI CHÂU

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Đức Mậu

Hà Nội – 2016

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 4

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 4

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 5

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 9

4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 9

5. Cấu trúc đề tài ............................................................................................... 9

Chương 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN DẪN ĐẾN SỰ CHUYỂN ĐỔI TƯ

TƯỞNG TRONG CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ

XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX ............................................................................... 10

1. 1. Thời đại và tương quan lực lượng ........................................................... 10

1.2. Tình hình chính trị - xã hội trong nước. ................................................... 12

1.3. Tình hình văn hóa – tư tưởng. .............................................................. 16

1.3.1. Tình hình văn hóa ................................................................................ 16

1.3.2. Tình hình tư tưởng ................................... Error! Bookmark not defined.

Kết luận chương 1 ........................................................................................... 27

Chương 2. TƯ TƯỞNG YÊU NƯỚC TỪ TRUNG NGHĨA ĐẾN DUY TÂN

CUỐI THẾ KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX ........ Error! Bookmark not defined.

2. 1. Giới thuyết chung về tư tưởng trung nghĩa và tư tưởng duy tân. ............. Error!

Bookmark not defined.

2.1.1. Tư tưởng trung nghĩa và biểu hiện của tư tưởng trung nghĩa trong văn

học nhà Nho ........................................................ Error! Bookmark not defined.

2.1.2. Tư tưởng duy tân và biểu hiện của tư tưởng duy tân trong thơ văn cận,

hiện đại. ............................................................... Error! Bookmark not defined.

2.2. Quá trình vận động tư tưởng yêu nước từ trung nghĩa sang duy tân. ........ Error!

Bookmark not defined.

2.2.1. Chân dung tinh thần của nhà Nho trung nghĩa. ..... Error! Bookmark not

defined.

2.2.2. Bi kịch của Phan Đình Phùng – nhà Nho trung nghĩa. Error! Bookmark

not defined.

2.2.3. Phan Bội Châu và quá trình hình thành tư tưởng duy tân. ............ Error!

Bookmark not defined.

2.2.4. Hình tượng nhà nho kiểu mới. .................. Error! Bookmark not defined.

Kết luận chương 2 ............................................... Error! Bookmark not defined.

Chương 3. SỰ THAY ĐỔI TRONG QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT, SỰ MỞ

RỘNG HỆ THỐNG THỂ LOẠI VÀ SỰ VẬN ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG

HÌNH TƯỢNG .................................................... Error! Bookmark not defined.

3.1. Sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật. ..... Error! Bookmark not defined.

3.2. Sự mở rộng của hệ thống thể loại; ............... Error! Bookmark not defined.

3.3. Sự vận động của hệ thống hình tượng. ........ Error! Bookmark not defined.

Kết luận chương 3 ............................................... Error! Bookmark not defined.

KẾT LUẬN ......................................................... Error! Bookmark not defined.

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 19

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Văn học giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX phản ánh quá trình

đứt gãy của hệ tư tưởng yêu nước trung nghĩa truyền thống, và sự thay thế của hệ

tư tưởng yêu nước duy tân. Điểm đặc biệt và thú vị của Việt Nam trong giai đoạn

này là sự thay thế của hệ tư tưởng cũ – mới không diễn ra bởi cuộc cách mạng giữa

các lực lượng xã hội đối lập mà âm thầm trong chính chủ thể của chế độ cũ – các

nhà nho yêu nước.

Sống ở thời đại lịch sử biến động dữ dội, trước sự kiện thực dân Pháp xâm

lược, vua quan nhà Nguyễn bạc nhược, bù nhìn hoá: “vua là tượng gỗ” khiến nhân

dân khốn khổ, bần cùng: “dân là thân trâu”, tư tưởng trung nghĩa ăn sâu từ ngàn

đời trong tâm thức các nhà Nho chính thống bị lung lay tận gốc, đi vào giai đoạn

khủng hoảng trầm trọng. Phong trào Cần Vương do Phan Đình Phùng lãnh đạo là

cuộc khởi nghĩa lớn đấu tranh nhằm đánh đuổi thực dân, giành lại ngôi vua, bảo vệ

nền hòa bình dân tộc. Dù kéo dài đến mười năm, dù tinh thần chiến đấu của chủ

tướng và nghĩa quân còn hừng hực song phương thức đấu tranh cũ không thể thắng

thế trước loại kẻ thù hiện đại. Cần Vương thất bại cũng là sự đổ vỡ của hệ tư tưởng

yêu nước cũ - tư tưởng trung nghĩa. Để rồi các nhà Nho phải tìm con đường đấu

tranh mới xuất phát từ tư tưởng duy tân hóa. Trong hàng chục năm đầu thế kỉ , bên

cạnh phong trào yêu nước sôi sục là một phong trào văn học cũng sôi nổi và rất

mới. “Khác với thơ văn yêu nước cuối thế kỉ trước, những thơ ca này được viết

hàng loạt, nhằm tuyên truyền cho một chủ trương chung duy tân để cứu nước”.

Quá trình chuyển đổi tư tưởng yêu nước từ trung nghĩa sang duy tân diễn ra mạnh

mẽ tạo nên sự vận động, thay đổi và phát triển của thơ văn yêu nước cuối thế kỉ

XIX –đầu thế kỉ XX.

1.2. Phan Đình Phùng và Phan Bội Châu là hai nhà yêu nước tiêu biểu của

giai đoạn lịch sử đầy biến động này. Nếu Phan Đình Phùng là đại biểu cuối cùng

của thế hệ các nhà nho trung thành với chế độ quân chủ, thì Phan Bội Châu lại là

một vị “huynh trưởng” của phong trào dân chủ tư sản. Thực chất, Phan Châu Trinh

mới là “người thắp ngọn đèn dân chủ”. Nhưng chúng tôi chọn Phan Bội Châu bởi

ở nhà tư tưởng lớn này có sự kế thừa tư tưởng trung quân, cũng là người tiếp thu

và phát triển tư tưởng duy tân mới mẻ. Tư tưởng của ông là một dòng sông bắt

nguồn từ miền đất truyền thống chảy tới miền đất hiện đại, không khỏi mang theo

những phù sa và cả những tạp chất của mảnh đất cũ. Giáo sư Trần Ngọc Vương đã

phát biểu: Phan Bội Châu tiếp xúc với tân thư muộn hơn so với Phan Châu Trinh,

việc hiểu biết các vấn đề của thế giới hiện đại của ông không cập nhật bằng Phan

Châu Trinh. “Cho nên về mặt tinh thần, Phan Bội Châu là "con đẻ" của phòng trào

Cần Vương”. Từ Phan Đình Phùng đến Phan Bội Châu là sự nối tiếp của phương

pháp đấu tranh truyền thống – đấu tranh bạo lực. Cùng một thủ đoạn, cùng một

mục đích, chỉ khi hành động thất bại trong phong trào Đông Du và nhất là khi nhìn

thấy thắng lợi của cách mạng Tân Hợi, Phan Bội Châu mới thực sự gột được tư

tưởng trung nghĩa, nghiêng hẳn sang tư tưởng duy tân. Quá trình chuyển đổi tư

tưởng thật không hề dễ dàng. Việc làm rõ quá trình chuyển biến tư tưởng qua hai

nhà yêu nước tiêu biểu cho hai hệ tư tưởng phong kiến và dân chủ tư sản trên giúp

nhận thức sự vận động, thay đổi của văn học yêu nước dân tộc trong giai đoạn có

tính chất bản lề giữa văn học trung đại và văn học hiện đại. Đến nay, vấn đề này

còn chưa được nhiều nhà nghiên cứu văn học chú ý tới. Do vậy, để góp phần làm

rõ hơn bước chuyển mình của văn học giai đoạn giao thời, người viết xin thực hiện

đề tài: Tư tưởng yêu nước từ trung nghĩa sang duy tân giai đoạn cuối thế kỷ XIX –

đầu thế kỷ XX qua tác giả Phan Đình Phùng và Phan Bội Châu.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Các cuốn sách: Tổng tập văn học Việt Nam đã tập hợp được phần lớn

các tác phẩm của văn học yêu nước của ta trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế

kỷ XX cuốn Thơ văn Phan Đình Phùng, Thơ văn Phan Bội Châu lưu lại nhiều sáng

tác của hai tác giả Phan Đình Phùng và Phan Bội Châu. Chúng tôi khảo sát tư tưởng

yêu nước trong văn học đương thời, tư tưởng yêu nước của hai cụ Phan trên cơ sở các

văn bản trong các cuốn sách trên.

Cuốn Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 – 1930, Nxb Đại học và

trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1998 của tác giả Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng

đã đề cập đến quá trình khủng hoảng về mặt tư tưởng (trung nghĩa) của nhà nho và

văn học nhà nho, sự tác động của Tân thư, các phong trào yêu nước tư tưởng dân

chủ, sự xuất hiện của các nhà nho mang tư tưởng Duy tân để tự cường cùng các

khuynh hướng Duy tân đương thời. Trong đó, giáo sư đã đưa ra cách hiểu - cho

đến nay giới nghiên cứu vẫn cho là đúng đắn về trung nghĩa và duy tân. Kết quả

nghiên cứu của cuốn sách chính là cơ sở lí luận để hình thành đề tài: Tư tưởng yêu

nước từ trung nghĩa đến duy tân qua hai tác giả Phan Đình Phùng và Phan Bội

Châu.

Tác giả Phan Bội Châu được trình bày rải rác trong nhiều công trình nghiên

cứu có giá trị như cuốn:

- Phan Bội Châu – thân thế và thơ văn 1867 – 1940. Thế Nguyên (1956)

- Giảng luận về Phan Bội Châu. Lam Giang (1958).

- Luận đề về Phan Bội Châu. Kiêm Đạt (1959).

- Văn thơ Phan Bội Châu. Đặng Thai Mai (1958).

- Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung. Trần Ngọc Vương

(1999).

- Giáo trình văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX. Trần Ngọc

Vương chủ biên (2010).

Các cuốn sách đã thể hiện những góc nhìn khác nhau, từ đó khẳng định được

vẻ đẹp của con người, tư tưởng và văn thơ Phan Bội Châu.

Đặc biệt cuốn Phan Bội Châu – tác giả, tác phẩm do nhà nghiên cứu

Chương Thâu và Trần Ngọc Vương biên soạn đã tập hợp, trích dẫn, giới thiệu

những công trình, bài viết nhằm khẳng định tầm vóc lớn lao về tư tưởng, hành

động và bầu máu nóng – nhiệt tình cứu nước, sức ảnh hưởng của Phan Bội Châu

trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc giai đoạn đầu thế kỷ XX. Bên cạnh

đó, thông qua các bài viết ghi lại k í ức của nhân dân trong và ngoài nước về cụ

Phan khi còn sống, công trình đã khắc họa dấu ấn đậm nét về một nhà yêu nước,

một nhà tư tưởng, nhà văn lớn của dân tộc.

Cuốn Nghiên cứu Phan Bội Châu của tác giả Chương Thâu thể hiện cái nhìn

sâu sắc về mặt lịch sử tư tưởng của tác giả Phan Bội Châu. Nhà nghiên cứu đã bám

sát tư tưởng, hành động của Phan theo từng giai đoạn hoạt động cách mạng, chỉ ra

những bước tiến, bước lùi, đánh giá những mặt tiến bộ và hạn chế trong tư tưởng

của Phan Bội Châu trong những mốc son chính trị quan trọng. Bên cạnh đó, tác giả

cuốn sách cũng bày tỏ cách nhìn nhận, đánh giá của mình nhằm giới thiệu một số

tác phẩm tiêu biểu như Hồ thượng khóa lư, Bài phú Bái thạch vi huynh, Tuồng

Trưng nữ vương,Tước thái thiền sư, Tái sinh sinh, Chân tướng quân, Trùng quang

tâm sử...và một số bài chuyên khảo về Phan Bội Châu.

Ngoài ra đã có không ít các luận văn nghiên cứu về Phan Bội Châu như:

- Tìm hiểu sự hình thành chủ nghĩa anh hùng cận đại qua thơ văn Nguyễn

Đình Chiểu và Phan Bội Châu. Trịnh Thị Mai Lam.

- Sự chuyển biến tư tưởng yêu nước của Phan Bội Châu qua thơ văn. Trần

Đình Tường.

Các luận văn trên đã nhắc đến tư tưởng yêu nước của Phan Bội Châu trong thơ văn

ông. Mặc dù chưa có điều kiện phân tích sâu song các cuốn khóa luận tốt nghiệp

trên đã có những cái nhìn khách quan, khoa học về tư tưởng của một nhà yêu nước

lớn của Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

Phan Đình Phùng sáng tác không nhiều và các tác phẩm của ông cũng chưa

được các nhà nghiên cứu đi sâu. Hiện nay chúng tôi mới khảo sát về tác giả thông

qua cuốn sách Phan Đình Phùng cuộc đời và sự nghiệp do Đinh Xuân Lâm và

Chương Thâu biên soạn. Cuốn sách này đã tập hợp một số bài viết nhằm khẳng

định vẻ đẹp người lãnh tụ nghĩa quân cùng sự nghiệp Cần Vương, tập hợp các sáng

tác của Phan Đình Phùng, những bài viết về thơ văn Phan Đình Phùng và hình ảnh

ông trong thơ văn. Ở phần phụ lục, cuốn sách tập hợp các tư liệu, văn bản, tác

phẩm liên quan đến Phan Đình Phùng và phong trào Cần Vương. Nhìn chung,

cuốn sách đã mang đến những cái nhìn khái quát nhất về người anh hùng trung

nghĩa Phan Đình Phùng.

Vấn đề về tính phát triển liên tục trong tư tưởng yêu nước giai đoạn cuối thế

kỷ XIX, đầu thế kỷ XX trong văn học Việt Nam đến nay vẫn chưa được khai thác

với tư cách một công trình nghiên cứu chuyên biệt. Do vậy, chúng tôi lựa chọn đề

tài Tư tưởng yêu nước từ trung nghĩa sang duy tân giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu

thế kỷ XX qua tác giả Phan Đình Phùng và Phan Bội Châu với mong muốn đóng

góp một phần nhỏ bé vào công cuộc khai phá một “vùng đất giàu tài nguyên nhưng

cũng đầy sỏi đá” mà chưa thật nhiều nhà nghiên cứu có hứng thú.

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi bám sát cuốn sách Văn học Việt Nam giai

đoạn giao thời 1900 – 1930 của giáo sư Trần Đình Hượu. Đặc biệt là cách hiểu về

tư tưởng trung nghĩa, tư tưởng duy tân của thầy. Từ cơ sở lí luận đó, chúng tôi

khảo sát trên các tác phẩm cụ thể của hai tác giả Phan Đình Phùng và Phan Bội

Châu, hiểu rõ hơn về tư tưởng hai tác giả tiêu biểu này, đồng thời khái quát được

những bậc thang tư tưởng của các thế hệ nhà nho trong giai đoạn văn học cuối thế

kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu: Quá trình vận động tư tưởng trung nghĩa đến tư tưởng

duy tân của văn học giao thời qua tác giả Phan Đình Phùng và Phan Bội Châu.

3.2 . Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là giai đoạn văn học có tính chất bản lề giữa

hai thế kỷ XIX và XX trong đó tập trung vào hai tác giả Phan Đình Phùng và

Phan Bội Châu.

4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp mô tả, phân loại.

4.2. Phương pháp nghiên cứu xã hội – lịch sử

4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu.

4.4. Phương pháp phân tích, thẩm bình.

5. Cấu trúc đề tài

Ngoài các phần mục lục, mở đầu, kết luận nội dung luận văn bao gồm hai

chương sau:

Chương 1: Các điều kiện để chủ nghĩa yêu nước chuyển đổi từ tư tưởng trung

nghĩa sang tư tưởng duy tân trong văn thơ cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX.

Chương 2: Sự vận động tư tưởng yêu nước từ trung nghĩa sang duy tân cuối thế

kỷ XIX - đầu thế kỷ XX qua tác giả Phan Đình Phùng và Phan Bội Châu.

Chương 3: Sự vận động trong quan niệm nghệ thuật và hình thức biểu hiện.

Kết luận

Chương 1.

NHỮNG ĐIỀU KIỆN DẪN ĐẾN SỰ CHUYỂN ĐỔI TƯ TƯỞNG TRONG

CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VIỆT NAM

CUỐI THẾ KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX

1. 1. Thời đại và tương quan lực lượng

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở nước ta cuối thế kỷ XIX

– đầu thế kỷ XX diễn ra trong thời đại chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển biến

mạnh mẽ từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.

Do nhu cầu tìm kiếm thị trường, nguồn nguyên liệu và nhân công rẻ quá lớn mà

chúng tăng cường bành trướng ra khắp thế giới.Các cường quốc đế quốc ra sức

xâm chiếm thuộc địa, bởi vì thuộc địa là nơi bảo đảm nguồn nguyên liệu và thị

trường thường xuyên, là nơi tương đối an toàn trong cạnh tranh, bảo đảm thực hiện

đồng thời những mục đích về kinh tế, quân sự và chính trị. Đến cuối thế kỷ XIX

đầu thế kỷ XX, các nước đế quốc đã hoàn thành việc phân chia lãnh thổ thế giới.

Đế quốc Anh chiếm được nhiều thuộc địa nhất, sau đó đến Nga (Nga Hoàng) và

Pháp. Số dân thuộc địa của Anh nhiều hơn 12 lần số dân thuộc địa của Nga và

bằng 7 lần của Pháp. Số dân thuộc địa của Pháp lại nhiều hơn số dân thuộc địa của

ba nước Đức, Mỹ, Nhật cộng lại. Trong khi đó, Việt Nam vẫn ngủ ngon trong

phương thức sản xuất phong kiến cổ truyền ì ạch. Nhất là khi triều Nguyễn suốt

nhiều năm không biết chăm lo kinh tế, xã hội khiến đất nước vô cùng nghèo nàn,

lạc hậu. Đây thật sự là một thách thức lớn lao đối với dân tộc Việt Nam bởi nước ta

chưa bao giờ chiến đấu với một loại kẻ thù lớn mạnh hơn hẳn với phương thức xã

hội khác biệt hoàn toàn với các loại kẻ thù truyền thống.

Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo cho quân đội Pháp một lực lượng vật

chất hùng hậu, vũ khí hiện đại và phương pháp tác chiến tiến bộ. Còn dưới sự cai

trị của triều Nguyễn, nền kinh tế Việt Nam bình thường vốn đã ốm yếu, khi có

chiến tranh thì nhanh chóng kiệt quệ. Nhân dân Việt Nam giàu lòng yêu nước, dù

sẵn có tinh thần quả cảm, dùkhông tiếc máu xương gìn giữ nền hòa bình dân tộc

song xét về tương quan lực lượng, Việt Nam chỉ có thể dùng lưỡi dao phay, rơm

con cúi, gậy tầm vông để chiến đấu với tàu đồng súng lớn của địch. Vua nhà

Nguyễn mặc dù đã cho tàu ra nước ngoài mua vũ khí chiến đấu song tất cả những

gì mua được đều là những vũ khí lạc hậu, thua kém vũ khí của quân xâm lược đến

cả trăm năm. Sự thật là, trước sự chênh lệch lực lượng quá lớn như vậy, nhân dân

Việt Nam đã đổ không ít máu xương vẫn không giành thắng lợi. Dũng mãnh như

Hoàng Hoa Thám, gan góc như Phan Đình Phùng, tài ba như Cao Thắng cuối cùng

cũng không thoát khỏi cảnh thất bại đau đớn. Có thể nói, sự chênh lệch quá lớn về

vật chất đã khiến triều đình Huế ngã ngửa, choáng váng trước bọn “rợ Tây

phương”. Áp lực trước sự lớn mạnh, hiện đại của lực lượng xâm lược khiến triều

Nguyễn chỉ đủ sức kháng cự cho có trong giai đoạn đầu ngắn ngủi rồi ngay sau đó

đã đầu hàng, làm tay sai, quay trở lại đàn áp phong trào yêu nước của nhân dân.

Cuộc chiến đấu chống kẻ thù lớn mạnh vốn đã khó khăn, nay càng căng thẳng gấp

bội phần.

Cuối thế kỷ XIX, các phong trào yêu nước lần lượt thất bại. Đặc biệt, sau sự

thất bại của phong trào Cần Vương, Pháp ráo riết chuẩn bị cho công cuộc khai thác

thuộc địa tại Việt Nam. Nhân dân còn giữ nguyên một tấm lòng yêu nước song thật

sự khủng hoảng bởi họ nhận ra sự thật rằng đấu tranh theo phương thức cũ chỉ là

con đường chết nhưng nhất thời họ chưa thể tìm ra một con đường khác có vẻ tươi

sáng hơn.

Sang đầu thế kỷ XX, Pháp thực hiện xong công cuộc bình định nước ta,

chính thức đi vào giai đoạn khai thác. Chúng càng có cơ sở vững chắc để tăng

cường bộ máy cai trị, cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc Việt Nam càng khó khăn.

Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận là chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã trở

thành động lực to lớn để ta chiến đấu và chiến thắng không ít kẻ thù. Đây chính là

vũ khí tinh thần giúp ta có thể lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều trong mọi cuộc

chiến tranh tự vệ. Một vấn đề có tính chất thời đại đặt ra với các nhà tư tưởng Việt

Nam đương thời là cần thiết phải đổi mới phương pháp chiến đấu để thích ứng với

kẻ thù hiện đại hơn ta gấp nhiều lần. Sự chuyển biến tư tưởng yêu nước từ trung

nghĩa sang duy tân thực chất là sự chuyển biến trong chủ nghĩa yêu nước do yêu

cầu bức thiết của thời đại.

1.2. Tình hình chính trị - xã hội trong nước.

Bước sang thế kỉ XIX, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến đổi,

triều Nguyễn tuy đã cố gắng nhất định, nhưng trong thực tế chỉ chăm lo củng cố

địa vị cai trị của dòng họ, không bắt kịp với xu thế phát triển và tiến bộ của thời

đại, làm cho đất nước ngày càng lún sâu vào tình trạng trì trệ, lạc hậu, mất dần khả

năng bảo vệ nền độc lập dân tộc trước cuộc tấn công xâm lược của thực dân Pháp.

Nguy cơ xâm lược của thực dân Pháp đối với Việt Nam ở thế kỉ XIX là kết quả tất

yếu của quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa ở các nước phương Tây và trở thành

mối đe dọa lớn đối với nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, nguy cơ xâm

lược đó không phải là tất yếu đưa đến mất nước vào tay Pháp. Dân tộc

ViệtNammất nước vào tay tư bản Pháp ở cuối XIX, trách nhiệm đó thuộc về triều

Nguyễn.

Do những vấn đề nội trị rối loạn, bất lực trong việc ổn định xã hội, chính

sách ngoại giao mù quáng, chính sách tôn giáo sai lầm…ViệtNamgiữa thế kỉ XIX

đối mặt với nguy cơ bị chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm lược.

Ngày 1/9/1858 thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên tại Đà Nẵng mở đầu

công cuộc xâm lược Việt Nam. Quan quân triều đình bắn trả nhưng do vũ khí lạc

hậu và không được luyện tập thường xuyên nên không thể ngăn được quân Pháp.

Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Trung Trực đại diện cho triều đình lãnh đạo nhân

dân ta đấu tranh chống Pháp nhưng đã thất bại.

Sau khi đánh chiếm được Việt Nam, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống

trị thực dân và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột

nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa.

Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần

thứ nhất. Do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh

tế Việt Nam có sự biến đổi: quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành nên

những đô thị mới, những trung tâm kinh tế và tụđiểm cư dân mới. Nhưng thực dân

Pháp không du nhập một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào nước

ta, mà vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến. Chúng kết hợp hai phương thức bóc

lột tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì thế, nước Việt Nam

không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường được, nền kinh tế

Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp.

Về chính trị, chúng tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn

áp nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người

Pháp, từ toàn quyền Đông Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống

sứ Bắc Kỳ, công sứ các tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, toàán...; biến vua

quan Nam triều thànhbù nhìn, tay sai. Chúng thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các

cuộc đấu tranh của dân Việt Nam trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính

sách chia để trị rất thâm độc, chia Việt Nam làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai

trị riêng và nhập ba kỳ đó với nước Lào và nước Campuchia để lập ra liên bang

Đông Dương thuộc Pháp, xóa tên Việt Nam trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ

và thù hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa các tôn giáo, các dân tộc, các địa phương,

thậm chí là giữa các dòng họ; giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo

Đông Dương.

Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽđến tình

hình xã hội Việt Nam. Sự phân hoá giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc hơn.

Giai cấp địa chủ phong kiến đã tồn tại mấy trăm năm. Chủ nghĩa tư bản thực

dân được đưa vào Việt Nam và trở thành yếu tố bao trùm, song không xóa bỏ mà

vẫn bảo tồn và duy trì giai cấp địa chủđể làm cơ sở cho chếđộ thuộc địa. Tuy

nhiên, do chính sách kinh tế và chính trị của thực dân Pháp, giai cấp địa chủ bị

phân hóa thành ba bộ phận khá rõ rệt: tiểu, trung vàđại địa chủ. Có một số địa chủ

bị phá sản. Vốn sinh ra và lớn lên trong một quốc gia dân tộc có truyền thống yêu

nước chống ngoại xâm, lại bị chính sách thống trị tàn bạo về chính trị, chèn ép về

kinh tế, nên một bộ phận không nhỏ tiểu vàtrung địa chủ không chịu nỗi nhục mất

nước, có mâu thuẫn với đế quốc về quyền lợi dân tộc nên đã tham gia đấu tranh

chống thực dân và bọn phản động tay sai.

Tầng lớp nông dân chiếm khoảng 90% dân số. Họ bị đế quốc, phong kiến

địa chủ và tư sản áp bức, bóc lột. Ruộng đất của nông dân đã bị bọn tư bản thực

dân chiếm đoạt. Chính sách độc quyền kinh tế, mua rẻ bán đắt, tô cao, thuế nặng,

chếđộ cho vay nặng lãi... của đế quốc và phong kiến đãđẩy nông dân vào con

đường bần cùng hóa không lối thoát. Một sốít bán sức lao động, làm thuê trong các

nhà máy, hầm mỏ, đồn điền hoặc bị bắt đi làm phu tại các thuộc địa khác của đế

quốc Pháp. Còn số đông vẫn phải gắn vào đồng ruộng và gánh chịu sự bóc lột vô

cùng nặng nề ngay trên mảnh đất mà trước đây là sở hữu của chính họ.

Vì bị mất nước và mất ruộng đất nên nông dân có mâu thuẫn với đế quốc và

phong kiến, đặc biệt sâu sắc nhất với đế quốc và bọn tay sai phản động. Họ vừa có

yêu cầu độc lập dân tộc, lại vừa có yêu cầu ruộng đất, song yêu cầu về độc lập dân

tộc là bức thiết nhất. Giai cấp nông dân có truyền thống đấu tranh kiên cường bất

khuất là lực lượng to lớn nhất, một động lực cách mạng mạnh mẽ.

Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân

Pháp. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Việt Nam mới chỉ là một tầng

lớp nhỏ bé. Sau chiến tranh, tư sản Việt Nam đã hình thành giai cấp rõ rệt. Ra đời

trong điều kiện bị tư bản Pháp chèn ép, cạnh tranh rất gay gắt, nên số lượng tư sản

Việt Nam không nhiều, thế lực kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối.Giai cấp

tư sản dân tộc là một lực lượng cách mạng không thể thiếu trong phong trào cách

mạng giải phóng dân tộc.

Giai cấp tiểu tư sản bao gồm nhiều bộ phận khác nhau: tiểu thương, tiểu chủ,

thợ thủ công, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên và những người làm nghề tự

do. Giữa những bộ phận đó có sự khác nhau về kinh tế và cách sinh hoạt nhưng

nhìn chung, địa vị kinh tế của họ rất bấp bênh, luôn luôn bịđe dọa phá sản, thất

nghiệp. Họ có tinh thần yêu nước nồng nàn, lại bị đế quốc và phong kiến áp bức,

bóc lột và khinh rẻ nên rất hăng hái cách mạng. Đặc biệt tầng lớp trí thức là tầng

lớp rất nhạy cảm với thời cuộc, dễ tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ và canh tân

đất nước, tha thiết bảo vệ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc. Khi

phong trào quần chúng công nông đã thức tỉnh, họ bước vào trận chiến đấu giải

phóng dân tộc ngày một đông đảo vàđóng một vai trò quan trọng trong phong trào

đấu tranh của quần chúng, nhất là ở đô thị. Trong đó, giai cấp tiểu tư sản là một lực

lượng cách mạng quan trọng trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.Giai

cấp công nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của Pháp

và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng do chúng nắm giữ. Lớp công

nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp tiến hành cuộc

khai thác thuộc địa lần thứ nhất ở Việt Nam. Sau này, khi được tổ chức lại và hình

thành được một đảng tiên phong cách mạng được vũ trang bằng một học thuyết

cách mạng triệt để là chủ nghĩa Mác - Lênin thì giai cấp công nhân trở thành người

lãnh đạo cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc. Tuy nhiên, giai đoạn cuối thế

kỷ XIX, những năm đầu thế kỷ XX, giai cấp công nhân còn hết sức non yếu, chưa

thể trở thành động lực cách mạng.

Những năm đầu thế kỷ XX, khi các phong trào yêu nước đang rơi vào cơn

khủng hoảng về đường lối, khi giai cấp tư sản còn yếu ớt, giai cấp công nhân còn

non nớt, tầng lớp nho sĩ sinh ra và lớn lên từ thế kỷ trước đã đứng lên gánh vác

nhiệm vụ cách mạng, phát động phong trào Duy tân cứu nước.

Dưới sự tác động của thực dân Pháp, nước tađã có những biến chuyển sâu

sắc về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần

tuý đã biến thành một xã hội thuộc địa. Mặc dù thực dân còn duy trì một phần tính

chất phong kiến, song khi đã thành thuộc địa thì tất cả các mặt chính trị, kinh tế,

văn hóa, xã hội và giai cấp ở Việt Nam đều bịđặt trong quỹđạo chuyển động của xã

hội đó.

Trong lòng chếđộ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã hình thành

những mâu thuẫn đan xen nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn

giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Sự thống trị, áp

bức và bóc lột càng tăng thì mâu thuẫn đó càng sâu sắc, sự phản kháng vàđấu tranh

vì sự tồn vong của dân tộc càng phát triển mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng

về nội dung và hình thức.

1.3. Tình hình văn hóa – tư tưởng.

1.3.1. Tình hình văn hóa

Trước khi tiếp xúc gặp gỡ văn hóa phương Tây, Việt Nam đã tồn tại và phát

triển một nền văn hóa nông nghiệp với những nét đặc trưng của văn hóa phương

Đông. Đó là nền văn hoá lấy gia tộc làm gốc; lấy tình cảm làm trọng; trông vào

con cháu duy trì nòi giống và nối nghiệp tổ tiên; coi trọng tính trường tồn, đời xưa

sao đời nay thế; ưa chuộng hoà bình, an cư lạc nghiệp. Những đặc trưng này toát

lên tính chất “trọng tình” của văn hóa truyền thống, cốt giữ cho tình cảm nồng hậu,

trọng đạo đức nhân nghĩa, thích yên lặng hoà bình cho cuộc sống. Chủ thể của nền

văn hóa đó gồm các thành tố cơ bản làđịa chủ, nông dân, quan lại, sĩ phu, thợ thủ

công và người buôn bán. Tất cả hợp thành cấu trúc "tứ dân": sĩ, nông, công, cổ.

Trong đó sĩ gồm các quan lại, sĩ phu, loại có nhiều ruộng đất, tiền của vàđặc quyền

đặc lợi trong xã hội phong kiến. Nông, công, cổ là những người lao động nghèo

khổ. Do đó có thể nói chủ thể văn hóa "tứ dân" chỉ có hai bậc người: bậc trên là kẻ

sĩ, bậc dưới là dân thường.

Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX thực dân Pháp đã xác lập nền cai trị của

chúng trên đất nước ta. Xã hội Việt Nam chuyển từ xã hội phong kiến độc lập sang

xã hội phong kiến nửa thuộc địa. Điều đó đã tác động mạnh mẽ đến chủ thể văn

hóa Việt Nam, chủ thể văn hóa truyền thống bị phân hóa, xuất hiện những lớp cư

dân mới ngoài "tứ dân". Cùng với sự du nhập phương thức kinh tế tư bản chủ

nghĩa một lực lượng lao động mới xuất hiện. Họ là những người nông dân, thợ thủ

công thời phong kiến, bị chính sách bần cùng hoá làm phá sản và xô đẩy ra khỏi

làng mạc đến sống tập trung ở các công trường xây dựng, các xí nghiệp, nhà máy,

hầm mỏ, đồn điền, bán sức lao động làm thuê cho tư sản (tư sản Pháp, Hoa, Việt

Nam) và trở thành những người công nhân hiện đại. Đến năm 1906 công nhân Việt

Nam có khoảng 55.000 người, đến trước chiến tranh thế giới thứ nhất tăng lên

khoảng 10 vạn người và thành một giai cấp mới - giai cấp công nhân Việt Nam.

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Pháp đổ xô vào khai thác thuộc địa thì

công nhân Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Đến năm 1929 đã có trên 22 vạn người

làm thuê cho Pháp, khoảng 10 vạn làm thuê cho Việt Nam…

Đây là một lực lượng lao động mới trong dây chuyền sản xuất tư bản, họ

sống, làm việc và quan hệ xã hội đã vượt ra ngoài khuôn khổ làng xã, nông dân và

nông thôn. Họ trở thành một bộ phận mới trong chủ thể Việt Nam. Sự tiếp xúc với

nền kinh tế tư bản đã sản sinh ra những nhà thầu khoán, những nhà làm đại lý cho

giới tư sản Pháp, những nhà kinh doanh công thương nghiệp Việt Nam. Họ là

những người vừa thoát ra từ nền kinh tế phong kiến đang học tư bản để kinh

doanh, quản lý và sản xuất công nghiệp, làm chủ hiệu buôn, chủ nhà máy, xí

nghiệp, đồn điền. Tầng lớp này ngày càng đông hơn và hợp thành giai cấp tư sản

Việt Nam. Họ có địa vị kinh tế và xã hội nhất định, có nhu cầu văn hóa khác các

giai tầng khác và thành một bộ phận mới trong chủ thể văn hóa Việt Nam.

Xã hội thuộc địa còn chứa đựng trong lòng nó hàng vạn công chức làm công

trong guồng máy cai trị của chính quyền thực dân phong kiến. Tầng lớp tiểu tư sản

ra đời và phát triển. Học sinh, sinh viên, giáo viên ngày một đông hơn. Đây là bộ

phận nhạy cảm và năng động nhất trong quá trình hội nhập văn hóa đầu thế kỉ XX.

Họ nhanh chóng nhận ra những yếu tố mới và tiến bộ trong văn hóa nhân loại để

học tập và ứng dụng có chọn lọc vào thực tiễn Việt Nam. Phương thức kinh tế tư

bản du nhập vào Việt Nam đã tác động mạnh vào quá trình đô thị hóa. Phố xá xuất

hiện, các thành phố cận đại ra đời và lớp cư dân đô thị hình thành. Họ là những

người thợ thủ công, những người buôn bán, những người làm thuê trong nhà máy,

xí nghiệp, các bến xe, bến tàu, bến cảng, là những công chức trong guồng máy cai

trị, những nhà tư sản và tiểu tư sản. Lớp cư dân này phát triển nhanh sau chiến

tranh thế giới thứ nhất. Lớp cư dân thành thị sống hoàn toàn khác trước. Họ không

còn là những cư dân nông nghiệp sống tản mạn trong các làng quê yên tĩnh mà trở

thành lớp thị dân sống tập trung ở các thành phố, thị xã, những trung tâm kinh tế

với hoạt động công thương sôi động hàng ngày. Xã hội thuộc địa còn tồn tại một

tầng lớp trí thức Tây học biết tiếng Pháp, hiểu văn hóa Pháp và xuất hiện một lực

lượng sáng tác mới: những người làm báo, viết truyện ngắn, viết kịch, viết tiểu

thuyết, dịch thuật… Văn nghệ sĩ trở thành một chức nghiệp: viết văn bán cho công

chúng, đáp ứng yêu cầu văn hóa của cư dân thành thị. Lớp thị dân trở thành một bộ

phận mới của chủ thể văn hóa Việt Nam.

Chẳng hạn như quan hệ giữa các quan cai trị người Pháp và người Việt trong

bộ máy chính quyền thuộc địa (Hội đồng cơ mật, Hội đồng bảo hộ, Hội đồng thuộc

địa, Hội đồng dân biểu…); quan hệ giữa tư sản nước ngoài với tư sản dân tộc, quan

hệ giữa chủ và thợ, quan hệ giữa tư sản và vô sản, quan hệ giữa thầy và trò trong

hệ thống trường học. Các mối quan hệ này tác động vào chủ thể văn hóa Việt Nam

thúc đẩy quá trình biến đổi chủ thể văn hóa theo hướng văn minh phương Tây.

Trong quá trình tiếp xúc giao thoa văn hóa, chủ thể văn hóa Việt Nam xuất hiện

những thái độ khác nhau đối với văn hóa Đông - Tây. Một số cho rằng cần phải kết

hợp để Âu hóa hoàn toàn. Một bộ phận khác nhìn nhận những mặt trái của văn hóa

phương Tây để phê phán đi theo văn hóa phương Tây là không thỏa đáng. Từ

những thái độ khác nhau với văn hóa Đông - Tây, chủ thể văn hóa Việt Nam phân

hoá thành hai trường phái văn hóa: phái cựu học và phái tân học. Phái cựu học khư

khư bài ngoại, luôn cho mình là văn minh, người nước ngoài là mọi rợ nên không

đề cập đến chính thuật, tài năng của người nước ngoài. Trọng vương, rẻ bá nên

không bàn đến máy móc tinh xảo và sự giàu mạnh của nước ngoài, cái gì cũng cho

là xưa phải nay trái, nên không chịu xem xét, bàn luận chính kiến của người sau .

Họ chống sự xâm lược của thực dân Pháp và chống luôn Âu hóa, coi việc đi làm

cho Pháp, học tiếng Pháp là vong Tổ. Thực ra phái cựu học có cái lý của họ. Bởi sự

tiếp xúc với văn hóa Phương Tây trực diện là chính sách văn hóa nô dịch của chính

quyền thực dân nhằm ngu dân để dễ bề cai trị, một mặt muốn gây ảnh hưởng tinh

thần để nắm lấy trí thức, thanh niên phục vụ nền thống trị thuộc địa lâu dài của

chúng. Nhưng một mặt khác chúng ngăn chặn mọi yếu tố tiến bộ của văn hóa

Phương Tây có thể gây ảnh hưởng tích cực đến tinh thần, tư tưởng người Việt

Nam. Đồng thời nó gieo rắc tư tưởng tự ti dân tộc bằng cách xuyên tạc nguồn gốc

giá trị văn hóa Việt Nam. Họ cho rằng văn hóa Việt Nam bắt nguồn từ Trung Hoa,

Ấn Độ để phủ nhận văn hóa bản địa - nền văn minh Sông Hồng của người Việt.

Bởi thế người Việt Nam trong TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

2. Lại Nguyên Ân (1999), Từ điển văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục. Hà Nội.

3. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia.

4. M Bakhtin (1974), Loại hình học và các mối quan hệ qua lại của các nền văn

học trung đại phương Đông và phươngTây, Nxb Khoa học, Matxcơva.

5. Paul Doumer(2016), Xứ Đông Dương, Nxb Thế giới, Hà Nội.

6. Lê Chí Dũng, Văn chương Phan Bội Châu trên con đường hiện đại hóa văn

học Việt Nam.

www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=13558&rb=0102

7. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí

Dũng, Hà Văn Đức (2010), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

8. Trần Đình Hượu (1988), Lê Chí Dũng. Văn học Việt Nam giai đoạngiao thời

1900 – 1930, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

9. Trần Đình Hượu (1996), Từ hiện đại đến truyền thống, Nxb Văn hóa thông tin

Hà Nội.

10. Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

11. Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Phùng Hữu Phú, Lê Huy Tiêu, Trần Ngọc Vương

(1997), Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

12. Đinh Xuân Lâm, Trương Thâu, Phạm Xanh (2005), Phong trào Đông Du và Phan

Bội Châu, Nxb Nghệ An và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.

13. Mã Giang Lân (2000), Tìm hiểu thơ, Nxb Thông tin, Hà Nội.

14. Mã Giang Lân (2005), Những cuộc tranh luận văn học nửa đầu thế kỷ XX, Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

15. Nguyễn Lộc (2004), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ

XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16. Phương Lựu (1975), Bàn về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

17. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa,

Thành Thế Thái Bình (2006), Lí luận Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

18. Đặng Thai Mai (1958), Văn thơ Phan Bội Châu, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

19. Nguyễn Đức Mậu Trong lịch trình hát nói.

http://www.nghe-online.com/showthread.php?446-H%C3%A1t-n%C3%B3i-

Phan-B%E1%BB%99i-Ch%C3%A2u.

20. Nguyễn Đức Mậu Thể loại hát nói trước sự tác động của tiếp xúc Đông – Tây.

http://www.vienvanhoc.org.vn/reader/?id=73&menu=107

21. Nguyễn Đức Mậu, Thiên hạ vi công: Đọc lại Tân đính giáo khoa thư trên bối cảnh

Đông Á đầu thế kỷ 20.

http://nguyenducmau.blogspot.com/search/label/chuy%E1%BB%83n%20h%C3%B3a

n%20v%C4%83n%20h%C3%B3a.

22. Nguyễn Đức Mậu Tư tưởng dân chủ của các nhà nho duy tân.

http://nguyenducmau.blogspot.com/search/label/d%C3%A2n%20chu%CC%89.

23. Nguyễn Đức Mậu Nho giáo, ảnh hưởng của nó. Vấn đề ngày xưa và ngày nay ở

nước ta.

http://nguyenducmau.blogspot.com/search/label/%E1%BA%A3nh%20h%C6%B0%E

1%BB%9Fng.

24. Nguyễn Đức Mậu Dân trí và dân khí.

http://nguyenducmau.blogspot.com/search/label/d%C3%A2n%20kh%C3%AD.

25. Nguyễn Đức Mậu Đông kinh nghĩa thục và tư trào khải mông đầu thế kỷ XX.

http://nguyenducmau.blogspot.com/search/label/%C4%90%C3%B4ng%20kinh%2

0nghi%CC%83a%20thu%CC%A3c.

26. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên) (2004), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

27. Phan Ngọc, Tiếp xúc văn hóa Việt Nam và Pháp.

http://phebinhvanhoc.com.vn

28. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2006), Thơ ca Việt Nam hình thức vàthể loại,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

29. Vương Trí Nhàn (sưu tầm và biên soạn) (2003), Những lời bàn về tiểuthuyết

trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

30. Vương Trí Nhàn (2005), Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa trong

văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,

Hà Nội.

31. Võ Văn Nhơn (2007), Văn học quốc ngữ trước 1945 ở thành phố Hồ Chí Minh,

Nxb Văn hóa Sài Gòn, Nxb Tổng hợp thành Phố Hồ Chí Minh, tp Hồ Chí

Minh.

32. GN. Pôxpêlốp (chủ biên) (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

33. Vũ Tiến Quỳnh (1998), Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,

Huỳnh Thúc Kháng, Nxb Văn nghệ tp Hồ Chí Minh, tp Hồ Chí Minh.

34. Nguyễn Kim Sơn, Tâm tính học Nho gia với đặc trưng thẩm mỹ của văn

chương nhà Nho.

http://vienvanhoc.org.vn/print/thongtin/87/tam-tinh-nho-gia-voi-dac-trung-

tham-mi-cua-van-chuong-nha-nho.aspx

35. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại ViệtNam, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

36. Bùi Đức Tịnh (2002), Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết,

thơ mới, Nxb TP hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.

37. Phạm Xuân Thạch (1998), Sự hình thành và quá trình định hình thể loại trong

văn xuôi nghệ thuật Việt Nam giai đoạn giao thời, Luận án thạc sĩ khoa học

ngữ văn, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

38. Phạm Xuân Thạch, Giáo dục Pháp Việt –Nhân tố then chốt trong quá trình

hiện đại hóa văn học Việt Nam.

http://vienvanhoc.org.vn/print/thongtin/88/giao-duc-phap-viet---nhan-to-then-

chot-trong-qua-trinh-hien-dai-hoa-van-hoc-viet-nam.aspx

39. Chương Thâu (sưu tầm, biên soạn) (2001), Phan Bội Châu toàn tập, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

40. Chương Thâu (1982), Phan Bội Châu, Con người và sự nghiệp cứu nước, Nxb

Nghệ Tĩnh, Nghệ Tĩnh.

41. Chương Thâu (2000), Phan Bội Châu về một số vấn đề văn hóa – xã hội –

chính trị, Nxb Thuận Hóa, Huế.

42. Chương Thâu (2004), Nghiên cứu Phan Bội Châu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

43. Chương Thâu, Trần Ngọc Vương (2003), Phan Bội Châu về tác giả và tác

phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

44. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên) (1997), Tuyển tập phê bình, nghiên cứu văn

học Việt Nam 1900 – 1945, Nxb Văn học, Hà Nội.

45. Nguyễn Ngọc Thiện (sưu tầm và biên soạn) (2002), Tranh luận văn nghệ thế kỷ

XX, Nxb Lao động, Hà Nội.

46. Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo

dục Việt Nam.

47. Nguyễn Khắc Thuần, Việt sử giai thoại.

http://quehuongonline.vn/viet-su-giai-thoai/ly-thuong-kiet-voi-bai-tho-nam-

quoc-son-ha-10883.htm

48. Trần Ngọc Vương (1999), Loại hình học tác giả văn học, nhà nho tài tử và văn

học Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

49. Trần Ngọc Vương (1999), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồnchung,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

50. Trần Ngọc Vương (chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỷ X – XIX những vấn

đề lí luận và lịch sử, NXB Giáo dục, Hà Nội.

51. Trần Ngọc Vương (chủ biên) (2010), Giáo trình văn học Việt Nam 30 năm đầu thế

kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

52. Phạm Viết Vượng (2004), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.