20
| 401 NH HƯỞNG CA CHVIT TI CHIU HƯỚNG VÀ SPHÁT TRIN VĂN HÓA VIT NAM GS. TS Đoàn Thin Thut Đại hc Quc gia Hà Ni 1. Đặt vn đề Trong thành phn văn hóa có văn hc. Tuy nhiên như đầu đề ca báo cáo đã chrõ là vn đề đặt ra chtrong phm vi chviết, nên ni dung bài này chgii hn trong văn hc thành văn và hiu theo nghĩa rng là bao gm nhng văn bn đã được biên son, trong đó đương nhiên văn thơ chiếm tlcao tuyt đối. Điu đó cũng có nghĩa là nhng hình thc chviết sơ khai tbui bình minh ca đất nước này không được đề cp đến mà chxét đến nhng thchtn ti tthi tch, bao gm chHán, chNôm và chQuc ng. Tuy nhiên nhng gì được phn ánh trong văn hc có liên quan đến tư tưởng, như trung quân ái quc quan nim v“nhân”, “duyên”, cái nhàn tn, cái vui vy được gp “tiên”, cho nên nếu mun tìm hiu cho đến ngn ngun thì không thbó hp trong cái gi là “văn hc nghthut” đơn thun, mà phi vượt ra khi khuôn viên y và như thế đã đi sang thành phn khác ca văn hóa như tôn giáo chng hn. Chính vì lđó tác giđành phi dùng tVăn hóa nói chung. Song, người viết luôn luôn ý thc được rng điu quan tâm chyếu ca mình là các văn bn, là thi ca, chkhông phi là tôn giáo. Mt khác, người viết không chchú ý đến chiu hướng mà còn có nhim vchra sphát trin to ln, như thế nào ca văn hc trên cơ schviết đã được sdng. Cui cùng, chính xut phát tchviết, nên chHán được đề cp đến trước, vi nh hưởng ca nó là Nho giáo trước khi nói đến Pht giáo mc

ẢNH HƯỞNG CỦA CHỮ VIẾT TỚI CHIỀU HƯỚNG VÀ SỰ PHÁT …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/11520/1/401_PDFsam_25nam...| 401 ẢNH HƯỞNG CỦA CHỮ VIẾT

  • Upload
    others

  • View
    8

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

| 401

ẢNH HƯỞNG CỦA CHỮ VIẾT TỚI CHIỀU HƯỚNG VÀ SỰ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở VIỆT NAM

GS. TS Đoàn Thiện Thuật

Đại học Quốc gia Hà Nội

1. Đặt vấn đề

Trong thành phần văn hóa có văn học. Tuy nhiên như đầu đề của báo

cáo đã chỉ rõ là vấn đề đặt ra chỉ trong phạm vi chữ viết, nên nội dung bài

này chỉ giới hạn trong văn học thành văn và hiểu theo nghĩa rộng là bao

gồm những văn bản đã được biên soạn, trong đó đương nhiên văn thơ

chiếm tỷ lệ cao tuyệt đối. Điều đó cũng có nghĩa là những hình thức chữ

viết sơ khai từ buổi bình minh của đất nước này không được đề cập đến

mà chỉ xét đến những thứ chữ tồn tại từ thời tự chủ, bao gồm chữ Hán, chữ

Nôm và chữ Quốc ngữ.

Tuy nhiên những gì được phản ánh trong văn học có liên quan đến tư

tưởng, như trung quân ái quốc quan niệm về “nhân”, “duyên”, cái nhàn

tản, cái vui vầy được gặp “tiên”, cho nên nếu muốn tìm hiểu cho đến ngọn

nguồn thì không thể bó hẹp trong cái gọi là “văn học nghệ thuật” đơn

thuần, mà phải vượt ra khỏi khuôn viên ấy và như thế là đã đi sang thành

phần khác của văn hóa như tôn giáo chẳng hạn. Chính vì lẽ đó tác giả đành

phải dùng từ Văn hóa nói chung. Song, người viết luôn luôn ý thức được

rằng điều quan tâm chủ yếu của mình là các văn bản, là thi ca, chứ không

phải là tôn giáo.

Mặt khác, người viết không chỉ chú ý đến chiều hướng mà còn có

nhiệm vụ chỉ ra sự phát triển to lớn, như thế nào của văn học trên cơ sở chữ

viết đã được sử dụng.

Cuối cùng, chính xuất phát từ chữ viết, nên chữ Hán được đề cập đến

trước, với ảnh hưởng của nó là Nho giáo trước khi nói đến Phật giáo mặc

402 |

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

dù như mọi người đều biết trong lịch sử, Phật giáo đã vào Việt Nam khá

sớm và đã ngự trị ở nước ta trước khi Nho giáo vào từ thời Trần.

2. Văn học và những tác phẩm văn hóa1 cổ trung đại với những hệ tư tưởng do chữ Hán đem lại

Từ thời kỳ nước nhà tự chủ chúng ta vẫn học chữ Hán, với cách đọc

từ đời Đường và giữ nguyên cách đọc ấy tới ngày nay và cách đọc ấy gọi là

cách đọc Hán Việt.

Trong thời gian dài qua nhiều thế kỷ người Việt vẫn dùng chữ Hán để

biên soạn, sáng tác. Kể cả ngay khi chữ Nôm được thịnh hành, chữ Hán vẫn

được coi là văn tự quốc gia cho mãi đến cuối triều Nguyễn. Mặt khác, các tác

giả của những thi phẩm hay sách văn hóa viết bằng chữ Nôm đều là những

nhà nho, thông thạo chữ Hán, đã biết đến Tứ thư, Ngũ Kinh. Một số khác biết

chữ Hán đã đọc truyện của Tàu, đọc sách thuốc, Kinh Phật và sách về phong

thủy. Do đó những hệ tư tưởng của Trung Hoa như Nho giáo, Phật giáo, Đạo

giáo có ảnh hưởng đến sáng tác của họ là điều không thể tránh khỏi.

2.1 Trước hết hãy nói về Nho giáo

Học thuyết của Nho giáo được thâu tóm trong Tứ thư, Ngũ kinh.

Tứ thư gồm có Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử, chủ yếu do

các học trò của Khổng Tử ghi chép biên soạn. Mỗi đệ tử có thể đã nhấn mạnh

điểm này, điểm khác, thậm chí bổ sung ý tưởng của thầy mình, song, nói

chung vẫn đảm bảo một hệ tư tưởng của Khổng Tử mà ta sẽ tìm hiểu nội

dung dưới đây. Còn Ngũ Kinh là Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ,

Kinh Xuân Thu, đều đã có từ trước, chủ yếu về lịch sử, văn học dân gian do

chính Khổng Tử sưu tầm, san định, giải thích lại (như Kinh Dịch). Công lao

của người như vậy là rất lớn và tư tưởng của người được truyền bá sâu rộng.

Theo Khổng Tử phải lấy việc tu thân làm chính, mà tu thân là gì? Là

phải sống cho có đạo đức. “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân

dân, tại chỉ ư chí thiện”.

Mà có tu thân thì mới “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Còn Đạo đức là

gì? Đạo là năm mối quan hệ, đạo vua-tôi, đạo cha - con, đạo vợ - chồng, đạo

anh - em, đạo bè bạn, thường được gọi là ngũ luân. Mọi người phải theo

1 Ngoài những thi tập có những bộ sách như Kiến văn tiểu lục, những bộ lịch sử, địa chí nổi tiếng. Chúng tôi gọi đó là những tác phẩm văn hóa.

| 403

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

thứ bậc mà cư xử. Đức là những tố chất của con người, bao gồm nhân, lễ,

nghĩa, trí, tín, còn được gọi là ngũ thường.

Mới xem qua những điều vừa trình bày thì nội dung của Ngũ Kinh

chẳng khác gì sách dạy luân lý. Trong gia đình con phải có hiếu với cha

mẹ, chồng vợ phải chung thủy, anh em phải hòa thuận, ba trong năm cái

của đạo phải được đảm bảo là thuộc phạm vi gia đình. Thực ra đấy là một

đường lối chính trị của Khổng Tử. Người muốn đem mô hình gia đình áp

dụng vào việc trị nước. Đường lối đó được coi là Đức trị (hay Nhân trị theo

cách gọi của một số nhà khoa học). Theo cách này thì mỗi người phải làm

đúng phận sự của mình: vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con,... Trong

luận ngữ ý kiến này được nêu lên rõ ràng và được gọi là thuyết chính danh.

Đương thời Khổng Tử không được trọng dụng, chỉ là vì người kêu gọi vua

các nước phải trung với nhà Chu, trong khi họ đang chỉ muốn đánh đổ nhà

Chu. Tuy nhiên, học thuyết của Khổng Tử được các triều đại phong kiến suy

tôn và duy trì là bởi vì mỗi dòng họ, sau cuộc binh đao để lật đổ dòng họ

trước do vị vua đầu tiên thì các vua sau đều muốn duy trì một sự ổn định

để giữ ngai vàng. Đương nhiên, các vua chúa phong kiến ấy có thực tâm trị

nước như vậy hay chỉ là để mị dân lại là chuyện khác, song có điều rõ ràng

là họ ủng hộ học thuyết của Khổng Tử. Ở Trung Hoa, Hán Cao Tổ đã làm

như vậy. Ở Việt Nam, Lê Lợi, Gia Long đều đề cao Khổng giáo.

Học thuyết của Khổng Tử đến nhà Hán với tư tưởng của Đổng Trọng

Thư đã biến thành những giáo điều, một học thuyết thực hành để thực

hiện trong chính trị và tôn giáo. Khổng giáo hay Nho giáo vào Việt Nam

là Tống Nho, với sự đóng góp của Hàn Dũ và Chu Hy, đại diện cho trào

lưu nhân đạo chủ nghĩa. Sau khi Chu Hy mất, nhà Tống không còn nữa,

nhưng đến nhà Minh lên Chu Hy lại được đề cao, vì Thái Tổ nhà Minh tự

nhận là hậu duệ của Chu Hy. Tống Nho được coi là học thuyết quốc gia.

Sách vở và những lời luận giải của Trình - Chu được in thành sách Ngũ

Kinh đại toàn. Khi nhà Minh đô hộ nước ta, sách đã được phổ biến. Đến

khi giặc Minh bị đánh đuổi, dưới triều Lê Thái Tổ mấy phái đoàn được cử

sang Trung Quốc để xin sách Đại Toàn về truyền bá. Từ thế kỷ XV, các khoa

thi của ta vẫn lấy sách Đại Toàn làm sách chính thức1.

Nho giáo khuyến khích việc học, tôn vinh những người đỗ đạt, bia đá

để danh. Tuy nhiên cái học thiên về tầm chương trích cú. Thông qua nội

1 Theo Trần Đình Hượu tuyển tập Tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.

404 |

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

dung việc thi cử thì đủ biết việc học nhằm đào tạo các quan cai trị cho triều

đình, chứ không nhằm phục vụ sản xuất. Người đỗ đạt thì ra làm quan.

Người không đỗ thì về quê dạy học, bốc thuốc chữa bệnh, được làng xóm

tôn trọng. Ai có việc gì hệ trọng cũng đến xin ý kiến tham vấn. Vì thế vai

trò của nhà nho trong làng xã gần như người “chăn dắt con chiên” trong

đạo Kitô. Có lẽ chính vì vậy mới có cái tên Nho giáo hay Khổng giáo, mặc

dù đây không phải là tôn giáo mà chỉ là một hệ tư tưởng.

Thông qua giáo dục (ngoài Tứ thư, Ngũ Kinh bằng chữ Hán, còn

những bản dịch, như Trung dung diễn ca, Luận ngữ thích nghĩa ca...). Nho

giáo đi sâu vào tâm chí người Việt đến tận hang cùng ngõ hẻm. Các nhà

nghiên cứu như Nguyễn Tài Thư, Trần Đình Hượu, Trần Văn Giàu, Vũ

Minh Tâm, Trần Nguyên Việt, Đỗ Thị Hòa Hới, Nguyễn Thanh Bình….

đều khẳng định ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội, con người Việt Nam

trong lịch sử và hiện nay là hết sức sâu sắc1. Ảnh hưởng ấy có mặt tích cực

và cũng có mặt tiêu cực. Gia đình, hạt nhân của xã hội, ở Việt Nam khác

hẳn với Tây phương, ở đó con chưa đến tuổ i trưở ng thà nh đã ra ở riêng

để đượ c tự do, cá c cụ già cô đơn, vợ chồ ng ly tá n bấ t kỳ lú c nà o,… Tuy

nhiên Nho giá o chủ yế u nhấ n mạ nh mặ t đạ o đứ c, không chú ý đế n sả n

xuấ t, kinh tế . Nho giá o đượ c truyề n từ Trung Hoa sang Nhậ t Bả n, Cao Ly,

Việ t Nam cũ ng do dù ng chữ Há n. Bố n nướ c này đượ c coi là nhữ ng nướ c

đồ ng văn. Sứ thầ n cá c nướ c đã cù ng nhau ngâm vị nh hoặ c đề tự a sá ch cho

nhau. Nhưng Nhậ t Bả n đã sớ m mở cử a trao đổ i kỹ thuậ t, kinh tế vớ i cá c

nướ c phương Tây, thậ m chí rá o riế t họ c tậ p cá c nướ c tiên tiế n về mọ i mặ t,

từ khoa họ c, kỹ thuậ t, đế n cả lố i số ng. Cao Ly2 đi sau mộ t bướ c, nhưng đã

họ c tậ p Nhậ t Bả n, đi theo mô hì nh Nhậ t Bả n, do đó hai nướ c nà y đã có

mộ t tố c độ phá t triể n cao, và cũ ng đừ ng quên là thể chế khá c vớ i Việ t Nam.

Đá ng tiế c ở nướ c ta, vua Thiệ u Trị , Tự Đứ c, vớ i lờ i di huấ n củ a Gia Long

quá cả nh giá c vớ i phương Tây, nên cự tuyệ t quan hệ vớ i họ , mặ c dù , theo

A.B.Woodside3. “So sá nh vớ i triề u đì nh Trung Hoa và o nhữ ng năm 1830

thì triề u đì nh Việ t Nam đượ c thông tin đầ y đủ hơn nhiề u về văn hó a Tây

phương. Triề u đì nh Việ t cũ ng dễ chấ p nhậ n vay mượ n mộ t số điể m mạ nh

về kỹ thuậ t và quân sự hơn triề u đì nh Trung Hoa”. Quả thự c, ta đã bỏ lỡ cơ

1 Đoạn gạch dưới là do tôi nhấn mạnh (Đ.T.T).

2 Cao Ly được dùng để chung cả nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và nước Đại hàn dân quốc. Như vậy tiện lợi hơn.

3 Dẫ n theo Georges Condominas trong Lờ i tự a cuốn sách Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa của Yoshiharu Tsuboi - Ban Khoa học Xã hội Thà nh ủ y Tp Hồ Chí Minh, 1990.

| 405

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

hộ i so vớ i Nhậ t Bả n. Từ ngà y nướ c Cộ ng hò a Xã hộ i Chủ nghĩ a Việ t Nam

thay đổ i chí nh sá ch, bắ t đầ u “mở cử a”, tố c độ phá t triể n củ a Việ t Nam lên

cao rõ rệt. Léon Vandermeersch1 khi bà n đế n Khổ ng giá o không hiể u đượ c

nhữ ng bố i cả nh lị ch sử phá t triể n củ a từ ng nướ c và cho rằ ng Khổ ng giá o đã

tạ o nên tố c độ cao củ a Nhậ t Bả n, Cao Ly, Trung Quố c, Đà i Loan, Singapore,

nhữ ng nướ c đã nổ i lên như nhữ ng “con Rồ ng châu Á ” để cuố i cù ng ông

xế p nhữ ng nướ c nà y và o nhó m cá c nướ c Đông Á , cò n Việ t Nam tuy cũ ng

chị u ả nh hưở ng củ a Khổ ng giá o, nhưng do không phá t huy đượ c mặ t tí ch

cự c củ a nó , nên thuộ c nhó m cá c nướ c ké m phá t triể n, nhó m Đông Nam Á .

Do vị trí đị a lý Việ t Nam có nhiề u đặ c điể m về khí hậ u, cây trồ ng,

thậ m chí cả ngôn ngữ giố ng hoặ c gầ n gũ i vớ i nhiề u nướ c Đông Nam

Á , nhưng về không gian văn hó a, không phả i vì thế mà ta không thuộ c

nhó m cá c nướ c Đông Á . Thế giớ i Âu Mỹ cho rằ ng cù ng mộ t chế độ kinh

tế như họ nhưng ngườ i Nhậ t có đượ c tố c độ tăng trưở ng tố t hơn do ở con

ngườ i củ a Nhậ t Bả n có nhữ ng tố chấ t chị u ả nh hưở ng củ a Nho giá o như

tí nh hiế u họ c, tí nh tiế t kiệ m (biế t để dà nh, không tiêu cả ), tí nh kỷ luậ t

trên dướ i (không tự do, vô chí nh phủ ). Nế u coi nhữ ng đứ c tí nh ấ y là căn

nguyên củ a sự thà nh công và là bắ t nguồ n từ Nho giá o thì con ngườ i Việ t

Nam, nhấ t là ở miề n Bắ c, cho đế n quá nử a đấ t nướ c về phí a Nam đề u có

đủ nhữ ng đứ c tí nh ấ y. Không phả i ngẫ u nhiên ngà y nay khi nói đế n cá c

nướ c Đông Á , ngườ i ta đã kể đế n bố n nướ c trong đó có Việ t Nam. Đương

nhiên, về mặ t liên kế t chí nh trị lạ i là việ c khá c, Việ t Nam đang đứ ng trong

khố i ASEAN.

Nho giá o không phả i chỉ ả nh hưở ng đế n văn họ c cổ trung đạ i mà cả

đế n xã hộ i ta mộ t cá ch sâu sắ c và đế n tậ n ngà y nay. Nhữ ng điề u Hồ Chủ

tị ch căn dặ n cá n bộ phả i rè n luyệ n đạ o đứ c như thế nà o đã thể hiệ n rấ t

rõ đạ o đứ c củ a Nho giá o (trí , tí n, nhân, dũ ng, liêm)2. Trong đờ i số ng hà ng

ngà y, ngay ở nơi công sở , cá c đạ i từ xưng hô trong gia đì nh, đượ c sử dụ ng

thườ ng xuyên giữ a nhân viên và thủ trưở ng đơn vị như “anh - em”, “chú -

cháu”, “bác - cháu”. Xử lý cá c vụ việ c thườ ng theo “tì nh”. Việ c đoà n kế t nộ i

bộ đượ c đặ t lên hà ng đầ u. Nó i chung, giả i quyế t công việ c cò n mang tí nh

“gia đì nh chủ nghĩ a”. Để chố ng lạ i thó i quen ấ y, khẩ u hiệ u “mọ i ngườ i phả i

số ng theo phá p luậ t” trong nhữ ng năm gầ n đây đượ c đề cao.

1 Giáo sư người Pháp rất nổi tiếng, chuyên sâu về Khổng giáo, tác giả cuốn Le nouveau monde sinisé, Paris, PUF, 1986.

2 Xem Lê Văn Quá n “Bướ c đầ u tì m hiể u Bá c Hồ vớ i họ c thuyế t củ a Nho giáo” trong Tạp chí Hán-Nôm số 2 (63) năm 2004.

406 |

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

2.2. Phậ t giá o đế n nướ c ta từ rấ t sớ m, không phả i từ thờ i kỳ tự chủ mà

từ cuố i thế kỷ I trướ c CN1 đã và o nướ c ta qua đườ ng biể n. Dưới thờ i Bắ c

thuộ c, Luy Lâu2 đã từ ng là mộ t trung tâm Phậ t giá o lớ n. Tuy nhiên, Phậ t

giá o cũ ng đượ c nhậ p và o Trung Hoa và từ đó và o Việt Nam vớ i kinh kệ

viế t bằ ng chữ Há n.

Phậ t giá o do Thí ch Ca Mâu Ni lậ p ra. Ngườ i đã suy nghĩ và giả i thí ch

sự tồ n tạ i củ a vạ n vậ t. Tam giớ i nhấ t thiế t duy tâm tạo3. Tam giớ i gồ m có

Dục giới (tứ c vậ t chấ t), Sắc giới (tức vậ t chấ t và tinh thầ n) và Vô sắc giới

(tinh thầ n thuầ n tú y), Vạ n phá p do thứ c biể u hiệ n. Nhữ ng thự c thể vậ t

chấ t mà chú ng ta bắ t gặ p trong đờ i số ng hà ng ngà y rấ t đa dạ ng, nhưng

dướ i cá i nhì n củ a Phậ t, chú ng chỉ là mộ t, khi thì ở dạ ng nà y, khi thì ở dạ ng

khá c, biế n đổ i vô cù ng. Nế u coi dạ ng cũ là “có ” thì khi dạ ng ấ y biế n đổ i

sang dạ ng mớ i, dạ ng cũ không cò n nữ a, bị coi là “không”. Vạ n vậ t là “có ”

mà là “không có ”. Đó là “sắ c sắ c không không”. Câu nà y cũ ng có nghĩ a là

“vô thườ ng” (tứ c luôn luôn biế n đổ i).

Sự biế n đổ i là do Nhân và Duyên, nhưng Nhân là chủ yế u, Duyên là

phụ trợ . Nhân nà o thì quả ấ y. Duyên là điề u kiệ n tạ o cho sự biế n đổ i. Vớ i

thuyế t Nhân-Quả sẽ giả i thí ch đượ c nhữ ng sự việ c hiệ n tạ i liên quan tớ i

quá khứ và tương lai.

Theo đạ o Phậ t cá i “Lợ i” là không có thự c. Đừ ng chạ y theo nó . Cầ n biế t

như vậ y để tiế t chế dụ c vọ ng.

Phậ t giá o đế n Việ t Nam theo đườ ng biể n, và hiệ n nay cò n tồ n tạ i ở

mộ t số nơi ở miề n Nam thuộ c phá i Tiể u thừ a, cò n trên cả nướ c, do họ c chữ

Há n mà thuộ c phá i Đạ i thừ a giố ng như Trung Hoa. Theo Phậ t giá o, đờ i là

bể khổ , chỉ nhữ ng ngườ i đi tu, ở chù a, tuân thủ nhữ ng quy đị nh nghiêm

ngặ t mớ i đượ c cứ u vớ t, và tớ i đượ c cõ i hư vô như Phậ t, đó là quan niệ m

củ a Tiể u thừ a. Trá i vớ i quan nhiệ m nà y là Đạ i thừ a (tứ c Cỗ xe lớ n), theo

đó , đạ i chú ng đề u có thể đượ c cứ u vớ t, miễ n là biế t “tu nhân tí ch đứ c”

chứ không phả i và o tu ở chù a và cuố i cù ng cũ ng sẽ đế n nơi cự c lạ c. Ngườ i

Khmer Nam Bộ theo Tiể u thừ a cò n ngườ i Việ t nó i chung, theo Đạ o thừ a.

1 Theo Nguyễ n Lang, trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam (do Nguyễ n Tà i Thư chủ biên). Việ n Triế t họ c, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nộ i, 1988.

2 Luy Lâu ở xã Thanh Khương, huyệ n Thuậ n Thà nh, tỉ nh Bắ c Ninh, đã từ ng là trung tâm chí nh trị , kinh tế , thương mạ i ở Giao Châu cho đế n thế kỷ III.

3 Đây là mộ t thuyế t khá phổ biế n hiệ n nay. Có thuyế t khá c: “Vạ n vậ t giai không” (tứ c do “không” mà ra).

| 407

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Kinh kệ ở cá c chù a hiệ n nay đề u dị ch từ chữ Há n sang hoặ c lấ y củ a Trung

Hoa là m gố c.

Phậ t giá o và o thờ i Lý , Trầ n đã từ ng đượ c coi là quố c giá o. Trầ n Nhân

Tông (thế kỷ XIII) đã từ bỏ ngai và ng lên tu ở nú i Yên Tử lậ p ra Thiề n phá i

Trú c Lâm. Đế n triề u Lê Phậ t giá o mớ i bị Nho giá o lấ n á t. Phậ t giá o có ả nh

hưở ng lớ n đế n xã hộ i và văn hó a Việ t Nam.

Nế u như Nho giá o chỉ chú ý đế n quan hệ giữ a con ngườ i và con ngườ i.

(Khổ ng Tử trong Luậ n ngữ nó i rằ ng việ c ngườ i số ng cò n chưa biế t thì việ c

ngườ i chế t biế t sao đượ c. Khi đượ c hỏ i về thầ n linh thì ngườ i trả lờ i “kí nh

nhi viễ n chi”) tứ c là mớ i chỉ có nhân sinh quan mà thiế u vũ trụ quan, trá i lạ i

Phậ t giá o đã giả i thí ch đượ c sự tồ n tạ i củ a vạ n vậ t và sự biế n đổ i luân hồ i,

tứ c là có đượ c cá i mà Khổng giáo đang thiếu. Khổng giáo đã bỏ trống trận

địa cho Phật giáo tồn tại và phát triển. Cũng chính vì vậy mà Đạo giáo mới

có chỗ đứng và đó là lý do của tam giáo đồng nguyên ngay từ Trung Hoa,

trong đó Nho giáo là chủ đạo

2.3. Đạo giáo cũng xuất phát từ Trung Hoa từ trước CN. Lão Tử viết

Đạo đức kinh, sau đó Trang Tử viết Nam hoa kinh. Đây cũng là một hệ tư

tưởng triết học được gọi là của các Đạo gia. Chỉ sau đó mấy thế kỷ mới hình

thành những nhóm chủ trương thờ cúng, chữa bệnh, v.v… trở thành tôn

giáo, trên cơ sở lý thuyết của các Đạo gia, và được gọi là Đạo giáo.

Theo tư tưởng Đạo gia thì Đạo là nguyên lý vận động tự nhiên. Đức

là hình thức biểu hiện của Đạo. Đạo đi từ đơn nhất đến Âm - Dương. Âm

dương cùng với Khí tạo nên con người, cũng như muôn loài và vạn vật.

Rồi từ đó vạn vật vận động tuần hoàn tự nhiên, để rồi lại trở về Đạo. Như

vậy đạo của Lão Trang quan tâm đến vũ trụ, vô tận về không gian và thời

gian. Đó là điều mà Nho giáo không có và phải vay mượn. Theo tư tưởng

của Lão Trang thì Sinh, Lão, Bệnh, Tử là quy luật của tự nhiên, vì vậy thái

độ phù hợp của con người là Thanh tịnh vô vi, giữ cho tâm hồn bình yên,

thanh thản. Vô vi không hẳn là chẳng làm gì, nếu có hành động thì hãy

hành động phù hợp với tự nhiên. Lão Trang chống đường lối chính trị -

đạo đức của Khổng Mạnh. Trong văn học, tư tưởng nhàn tản của một số thi

nhân như Nguyễn Bỉnh Khiêm là ảnh hưởng của tư tưởng Đạo gia.

Đạo giáo ở Việt Nam chưa bao giờ là quốc giáo. Nó kết hợp với tín

ngưỡng bản địa, thờ thần linh, như thần núi, thần sông, cây cỏ,… trong khi

ở tư tưởng của Đạo gia là vô thần.

408 |

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Đạo giáo thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, thờ Mẫu (công chúa Liễu Hạnh).

Nếu theo đạo Phật có chùa chiền và các tăng lữ thì trong Đạo giáo cũng

có các đạo quán, với các đạo sĩ. Tuy nhiên, việc thờ cúng, lễ nghi chịu ảnh

hưởng của Phật giáo, thậm chí được thực hiện ngay trong chùa.

Ở một số nơi Đạo giáo thờ cả những thần có công với nước như Trần

Hưng Đạo, gọi là đền, như đền Vạn Kiếp, đền Trấn Vũ. Việc thờ cúng của

Đạo giáo suy vi mang nhiều tính dị đoan, làm bùa chữa bệnh, lên đồng,

hầu bóng, …

Một phái của Đạo giáo ở Trung Hoa muốn trở thành tiên ngay trên

mặt đất này nên thiên về tập luyện (ví dụ khí công) và làm thuốc trường

sinh bất tử.

Xem như vậy Đạo giáo xuất phát từ tư tưởng của Đạo gia đến nay

đang còn ảnh hưởng đến văn hoá, đến xã hội ta mãi đến ngày nay. Mặt

khác, Đạo giáo ở Việt Nam đã hoà nhập cả vào Phật giáo. Hiện tượng tam

giáo đồng nguyên ở Việt Nam là rõ ràng. Nhà vua cũng tế trời đất, cầu cho

mưa thuận gió hoà, vua phong sắc cho các thần, thờ ở các làng. Song tam

giáo đồng nguyên đã có từ Trung Hoa, do Nho giáo chỉ thiên về chính trị -

đạo đức mà không đáp ứng được yêu cầu của mọi người trong quần chúng

nhân dân. Chữ Hán đã đưa Nho giáo vào Việt Nam, đã khiến Phật giáo ta

theo Đại thừa. Qua chữ Hán mà chúng ta biết được tư tưởng Đạo gia và cả

cái gọi là tam giáo đồng nguyên - (Nho, Phật, Đạo) đã chẳng những ảnh

hưởng đến văn học và các tác phẩm văn hoá cổ trung đại của chúng ta mà

ảnh hưởng cả đến xã hội và ảnh hưởng đó còn đến tận ngày nay.

Những hệ tư tưởng của Trung Hoa, ta tiếp thu do học và dùng chữ

Hán. Chúng quyết định chiều hướng văn học và cả xu thế văn hoá của dân

tộc ta. Đương nhiên, khi vào Việt Nam chúng có bị biến dạng hay bị Việt

Nam hoá đi ít nhiều.

Nho giáo, thì khỏi nói, bộc lộ không ở chỗ này thì ở chỗ khác trong

các tác phẩm văn học và tác phẩm văn hoá. Đọc Quân Trung từ mệnh tập,

Ức trai thi tập của Nguyễn Trãi, Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú,

Hồng Đức quốc âm thi tập thì thấy rõ. Kể cả khi chữ Nôm đã được thịnh

hành mà ta còn thấy những bản dịch truyền bá tư tưởng Khổng Mạnh

như Luận ngữ thích nghĩa ca. Trung dung diễn ca của Phạm Đình Toái, Thi

kinh đại toàn diễn nghĩa của Bùi Huy Bích. Còn trong các tác phẩm văn học

thì đâu cũng có, từ Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Chinh phụ

| 409

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

ngâm của Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm đến Kim Vân Kiều tân truyện

của Nguyễn Du.

Phật giáo thịnh hành vào thời Lý, Trần. Có đến 40 vị sư dưới triều Lý

đã từng biên soạn và sáng tác, trong đó nổi bật là Mãn Giác, Viên Chiêu,

Viên Thông, Không Lộ, Quảng Nghiêm,… Đó là những bài kệ, cũng có khi

là những quyển sách trình bày lý thuyết Phật giáo như Khoá hư lục của Trần

Thái Tông, Thiền Uyển tập anh.

Ảnh hưởng của Phật giáo trong thi ca sau này thì đâu cũng có. Tư

tưởng Phật giáo ngay trong Kim Vân Kiều tân truyện (Truyện Kiều) của

Nguyễn Du là một trong những minh chứng rất rõ cho nhận định này.

Còn tư tưởng nhàn tản ảnh hưởng của Đạo gia thì không phải là

không có. Trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ,… đều

có cả. Những truyện Nôm gặp tiên như Bích câu kỳ ngộ, cũng là ảnh hưởng

của Đạo giáo.

Trên đây là nói đến những hệ tư tưởng do chữ Hán mang lại và nó ảnh

hưởng tới chiều hướng văn hoá của ta, nhưng cũng đừng quên rằng chính

chữ Hán được coi là văn tự quốc gia trong nhiều thế kỷ nên nó đã giúp ta

biên soạn, sáng tác được nhiều tác phẩm giá trị. Với Đại Việt sử ký của Lê

Văn Hưu, Sử ký tục biên, Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám

cương mục, Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, rồi hàng loạt sách về địa dư

như Nhất thống dư địa chí, Đại Nam nhất thống chí, Đồng Khánh dư địa chí, Gia

định thống chí, Bắc Thành dư địa chí, Phương Đình địa chí, và nhất là cuốn “từ

điển bách khoa thư” của Phan Huy Chú gọi là Lịch triều hiến chương, ngày

nay ta mới biết được lịch sử, địa lý, văn hoá nước nhà.

Cũng bằng chữ Hán ta đã tạo dựng được một kho tàng văn học phong

phú với số lượng thi tập đáng kể, ngay từ đời Trần đến sau này. Nhiều vua

Trần đã để lại các thi tập như Thái Tông thi tập, Nhân Tông thi tập, Đại hương

hải âm thi tập (Trần Nhân Tông), Minh Tông thi tập, Nghệ Tông thi tập, Thiền

Tông chỉ nam (Trần Thái Tông). Ngoài ra là Lạc đạo tập của Trần Quang Khải,

Bằng hồ ngọc hác tập của Trần Nguyên Đán, Giới hiên thi tập của Nguyễn

Trung Ngạn, Giáp thạch tập của Phạm Sư Mạnh, Ngọc tỉnh liên phú của Mạc

Đĩnh Chi1.

1 Ở đây không kể đến những quyển đã bị thất lạc mà chỉ biết đến tên sách, tên tác giả qua sử sách. Có một số tác giả có sách bị thất truyền nhưng còn lại một số bài như Trần Quang Triều với Cúc đường di cảo.

410 |

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Tiếp đến các thời sau thì số lượng tác phẩm càng phong phú: Ức Trai

thi tập của Nguyễn Trãi, Bạch Vân Am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quế

đường thi tập của Lê Quý Đôn, Bắc hành thi tập của Nguyễn Du, Quế Sơn thi

tập của Nguyễn Khuyến. Về văn xuôi ta có Binh thư yếu lược, Hịch tướng sĩ

của Trần Quốc Tuấn, Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi, Vân đài loại

ngữ, Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn. Về truyện ta có Việt điện u linh tập,

Lĩnh Nam chính quái, Truyền kỳ mạn lục.

Như vậy là chữ Hán đã có ảnh hưởng tích cực đến việc phát triển, đến

sự lớn mạnh của văn học và văn hoá nói chung vào thời kỳ cổ trung đại.

3. Văn học và những tác phẩm văn hoá cổ trung đại với sự ra đời của chữ Nôm

3.1. Trước hết nói về sự ra đời của chữ Nôm

Đây là một sự sáng tạo của người Việt. Trên cơ sở của chữ Hán ta đã tạo

ra được một thứ chữ để ghi âm tiếng Việt.

Chữ Nôm được hình thành trên mô hình và chất liệu của chữ Hán.

Nếu chữ Hán được cấu tạo theo sáu phương thức: 1/ Tượng hình; 2/ Chỉ

sự; 3/ Hội ý; 4/ Hình thanh; 5/ Chuyển chú; 6/ Giả tá (mà Hứa Thận đã tổng

kết trong “Thuyết văn giải tự”) thì chữ Nôm cũng đã sử dụng ba trong số

sáu phương thức cấu tạo ấy. Đó là a/ Hội ý; b/ Giả tá; c/ Hình thanh. Trong

số đó Giả tá và Hình thanh chiếm tuyệt đại đa số trường hợp.

Có một vài chữ dùng hình vẽ để biểu ý, ví dụ “lồi” được ghi bằng 凸

và "lõm" được ghi bằng 凹 . Đó là chữ Nôm tự tạo điển hình. Đôi khi mượn

hẳn một chữ Hán có cách phát âm (đương nhiên là cách phát âm Hán Việt)

na ná với âm của từ Việt muốn ghi. Trong trường hợp từ Hán và từ Việt

không đồng âm hoàn toàn mà chỉ là cận âm, tuỳ theo văn cảnh mà đọc

chệnh đi một chút thì người viết có ghi bên cạnh từ ấy một dấu hiệu để

báo cho người đọc. Dấu hiệu đó có thể là một ký hiệu đơn thuần như "dấu

nháy" <, có thể là một chữ, như chữ "khẩu" 口 hay chữ "cá" 个, chữ "xa" 車,

chữ "ma" 麻, chữ "cự" 巨, chữ "tư" 司.

Có một điều thú vị là đôi khi chữ Nôm mượn nguyên một chữ Hán và

đọc theo nghĩa của chữ ấy bằng âm Việt, ví dụ 內 "nội" đọc ngay là "trong",

少 "thiểu" đọc là "ít, 国 "quốc" đọc là "nước", tuỳ theo văn cảnh.

Chữ Nôm giống chữ Hán ở chỗ mỗi chữ có hình khối vuông, ghi một

âm tiết và có nghĩa, tức là một hình vị hay "ngữ tố".

| 411

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Người Nhật cũng có chữ để ghi âm tiếng Nhật, đó là chữ Katakana

và Hiragana và cũng trên cơ sở chữ Hán. Người Cao Ly cũng có chữ riêng

ghi âm tiếng mình, gọi là chữ Hangul. Tuy nhiên những thứ chữ ấy không

giống với chữ Nôm.

Chữ Katakana (Phiến giả tự) lấy từ chữ Hán nhưng chỉ lấy một "mảnh"

thôi, mảnh đó có thể là phần trên của chữ Hán, có thể là phần dưới hoặc ở

trên, hoặc một góc, ví dụ.

Từ chữ Hán 利 thành chữリdùng để ghi âm “ri” của tiếng Nhật.

Từ chữ Hán 阿 "a" (chữ Hán cổ, "núi nhỏ") -> ghi âm "a" của tiếng Nhật.

Mỗi chữ ghi một âm tiết, ví dụ:

力 (ka) キ(ki) ク(ku) ケ(ke) コ(ko) マ (ma)ミ (mi) 厶 (mu) メ(me) モ (mo)

Chữ Hiragana (Bình giả tự) mượn lối “chữ thảo” của Hán, hoặc đơn

giản hoá đi mà thành, ví dụ:

Từ chữ 寸 viết thành và cuối cùng làす

Từ chữ 女 viết thành và cuối cùng làめ

Từ chữ 天 viết thành và cuối cùng làて

Chữ Katakana dùng để phiên âm tiếng nước ngoài (như tên người hay

địa danh), còn chữ Hiragana dùng để ghi âm các từ tiếng Nhật.

Song song với hai thứ chữ trên người Nhật vẫn dùng cả chữ Hán, gọi

là Kanji. Lấy một câu để minh họa, chẳng hạn “người Mỹ phải không” sẽ

được phát âm và ghi như sau trong tiếng Nhật.

a/ me/ ri/ ka/ jin/ de/ su/ ka/

ア メ リ 力 人 で す か

K a t a k a n a Kanji H i r a g a n a

Chữ Kanji 人 trong trường hợp này đọc là jin (khi đứng một mình)

còn trong trường hợp khác được đọc là "hito". Ví dụ "người đàn ông" được

viết là 男の人 và đọc là "okoto no hito", tức là thành 6 âm tiết. Mỗi âm tiết

không tương đương với một ngữ tố như chữ Nôm.

Chữ Hangul của Cao ly thì không phải là chữ ghi âm tiết mà là chữ ghi

âm vị giống như chữ Quốc ngữ của ta, chỉ khác ở chỗ không ghi nối tiếp

nhau theo chiều ngang mà sắp xếp trên dưới thành một khối vuông. Một

chữ có nhiều thành phần.

412 |

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Ví dụ đọc là "pak" trong đó ghi âm vị /p/, ghi âm /a/ và ghi âm vị /k/.

Ngược lại, nếu đã biết /i/ ghi bằng một nét sổ thẳng và /m/ được ghi bằng

thì ghép lại ta sẽ ghi được âm tiết "kim" hay chữ "kim" .

Tuy nhiên mỗi âm tiết hay mỗi chữ không tương đương với một ngữ tố,

vì bên cạnh một số từ đơn, có nhiều từ đa tiết, ví dụ "ơ-mơ-ni" nghĩa là "mẹ",

"ơn-ni" nghĩa là "chị" (khi em gái gọi chị gái). Tóm lại chữ Katakana, Hiragana

và Hangul là những thứ chữ thuần biểu âm, chứ không có phần biểu ý như

chữ Nôm của Việt Nam và mỗi chữ không tương đương với một ngữ tố.

3.2. Ảnh hưởng của chữ Nôm đối với việc phát triển văn hoá

Sự ra đời của chữ Nôm là một niềm tự hào của dân tộc ta. Nó phù hợp với

bản chất tiếng Việt. Đó là một thắng lợi lớn, vì với thứ chữ này người Việt đã

có thể dùng chính ngôn ngữ của mình trong hoạt động văn hoá. Vì lẽ đó, nếu

như khi nói về chữ Hán ta thấy ảnh hưởng của nó là quyết định chiều hướng

của văn hoá Việt, do nó mà Nho giáo, Phật giáo vào Việt Nam, tồn tại trong

văn hoá và các tác phẩm văn hoá Việt Nam cổ trung đại, thì nay khi nói về

chữ Nôm ta thấy ảnh hưởng của nó là thúc đẩy sự phát triển của văn hoá Việt.

Chữ Nôm trở thành những phương tiện chuyển tải thông tin hữu hiệu

giữa những người lãnh đạo với nhân dân hay quân sĩ trong những cuộc

vận động quần chúng. Đó là những đạo dụ, những bài hịch, như hịch đánh

Trịnh của nghĩa quân Tây Sơn, Thảo bằng quận Nguyễn Hữu Chỉnh hịch,

Dụ bốn phương cần vương thảo Tây Sơn hịch.

Chữ Nôm là cái chìa khoá để mở mang, nâng cao dân trí. Trước kia

chỉ những người học chữ Hán mới biết Tứ thư, Ngũ kinh, nay dân thường

cũng có thể biết qua các bản dịch ra chữ Nôm và phổ cập khắp nơi như

Luận ngữ thích nghĩa ca, Trung dung diễn ca. Nhà nhà đều biết Nhị thập tứ hiếu,

người người đều biết Đại Nam quốc sử diễn ra, biết Gương sử Nam.

Về Phật giáo bằng chữ Nôm có Tây Phương công cứ tiết yếu diễn âm, Phật

thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh. Về đạo giáo có Âm chất văn giải âm, có

Đạo giáo nguyên lưu.

Người ta còn dùng chữ Nôm để phổ biến kiến thức thông thường hữu

dụng hàng ngày như Trị đậu chứng quốc ngữ ca, Thương hàn quốc ngữ ca, Gia

truyền trị bệnh dụng dược ca, Cửu chương lập thành toán pháp1.

1 Theo GS Nguyễn Quang Hồng trong Khái luận văn tự học. Chữ Nôm - Nxb Giáo dục, 2008.

| 413

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Đặc biệt chữ Nôm đã làm cho văn học nở rộ. Ngoài những thi tập là

hàng trăm bài thơ của mấy chục tác giả lớn nhỏ, những ca khúc, những

truyện kể có tác giả xác định và hàng loạt truyện Nôm khuyết danh. Đó

là chưa kể những vở chèo được lưu truyền từ bao giờ không rõ cũng được

ghi chép lại bằng chữ Nôm như Trương Viên diễn ca, Nhị độ mai trò, hiện còn

lưu giữ tại Viện Hán Nôm.

Chữ Nôm được các nhà Nho sử dụng để sáng tác từ rất sớm như Phi

sa tập của Hàn Thuyên, Quốc ngữ thi tập của Chu Văn An, Thơ phú quốc âm

của Nguyễn Sĩ Cố. Đáng tiếc mấy tập này đã bị thất truyền. Những thi tập

còn lại khá nhiều với những xu hướng khác nhau. Có thể kể đến Quốc âm

thi tập của Nguyễn Trãi, Hồng Đức quốc âm thi tập đời Lê Thánh Tông. Với

chữ Nôm, tức tiếng mình, mỗi tác giả tha hồ biểu lộ tâm tư tình cảm của

mình. Nguyễn Bỉnh Khiêm trong Bạch Vân Am thi tập có khoảng 1000 bài

thơ, nay còn độ 800 bài, trong Trình quốc công Bạch Vân quốc ngữ thi tập không

rõ lúc đầu có bao nhiêu bài, nay còn khoảng 180 bài. Tất cả toàn vịnh cảnh

thiên nhiên, nhàn tản, cái thú tiêu dao phóng khoáng. Chu Mạnh Trinh có

xu hướng về tình cảm, say mê Truyện Kiều, nên đã viết Thanh tâm tài nhân

thi tập. Phạm Thái thì viết về cuộc tình trắc trở của ông với Trương Quỳnh

Như. Hồ Xuân Hương, một phụ nữ có số phậm hẩm hiu, có Xuân Hương thi

tập với lời lẽ mỉa mai, chua chát, nhưng chứa chan tình tự. Ở đây tả cảnh,

tả tình thoát hẳn ảnh hưởng thơ của chữ Hán từ trước tới nay. Ngoài ra là

không biết bao nhiêu bài thơ riêng lẻ của những nhà thơ nổi tiếng. Tất cả

đều nói về tình cảm riêng tây, mỗi người một vẻ. Bà Huyện Thanh Quan

tả cảnh, tả tình với lời lẽ đoan trang. Cao Bá Quát một người có tài nhưng

không được trọng dụng, sinh ra chán nản, có lời lẽ căm ghét, bất mãn,

Nguyễn Công Trứ năng nổ, say sưa trong công việc, nhưng khi nghỉ việc

lại thích cảnh an nhàn. Nguyễn Khuyến, sáng tác đủ các thể loại văn Nôm

(thi ca, hát nói, câu đối, văn tế,…) nhưng thường tự vịnh, tự trào, giễu cợt

người đời, đôi lúc khuyên răn, nhưng bao giờ cũng giữ thái độ ung dung tự

tại, lộ rõ phong cách của bậc đại nhân quân tử. Trần Tế Xương, một người

có tài nhưng không làm nên danh phận, lại nghèo, nên thơ ông đầy giọng

mỉa mai. Ông chế giễu những thói rởm, giả dối của người đời.

Trên đây là nói về Thơ. Bên cạnh đó là những khúc ngâm như Chinh

phụ ngâm của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm, Cung oán ngâm khúc của

Nguyễn Gia Thiều và hàng loạt truyện Nôm với độ dài tương tự như Kim

Vân Kiều tân truyện (Truyện Kiều) của Nguyễn Du, Hoa tiên truyện của

414 |

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Nguyễn Huy Tự, Kim Thạch kỳ duyên của Bùi Hữu Nghĩa, Lục Vân Tiên và

Ngư tiền y thuật vấn đáp của Nguyễn Đình Chiểu.

Ngoài ra còn có một số truyện Nôm khác cũng bằng văn vần nhưng

không rõ tác giả là ai, như Bích câu kỳ ngộ, Nhị Độ Mai, Phan Trần, Phạm Công

Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa. Tuỳ theo từng truyện trình độ nghệ thuật có

khác nhau. Bích câu kỳ ngộ và nhất là Hoa tiên truyện có trình độ thơ văn đến

mức điêu luyện, nhiều điển cố, vì vậy chỉ được các học giả thưởng thức,

ít được phổ cập trong quần chúng. Đương nhiên, Truyện Kiều là một tác

phẩm ngoại hạng, vẫn là bông hoa thơm nhất, đẹp nhất trong vườn hoa

nghệ thuật.

Xem như vậy, ảnh hưởng của chữ Nôm tới sự phát triển của văn học và

văn hoá Việt giai đoạn cổ trung đại là một thực tế không thể chối cãi được.

4. Văn học và những tác phẩm văn hoá cận - hiện đại với việc sử dụng chữ Quốc ngữ

4.1. Trước hết nói về việc sử dụng chữ Quốc ngữ

Đây là thứ chữ thuộc hệ thống chữ La-tinh hoàn toàn xa lạ với ông cha

ta. Nó được các giáo sĩ phương Tây sử dụng để học tiếng của dân bản địa

nhằm mục đích truyền giáo. Sau khi Pháp đặt được nền đô hộ ở Việt Nam

thấy cần phải đào tạo những người cộng tác hay đúng hơn là người thừa

hành công việc cai trị của họ, nên muốn dùng chữ Quốc ngữ làm cầu nối

để người Việt học tiếng Pháp. Mặt khác họ muốn xoá đi ảnh hưởng của

văn hoá Trung Hoa và thay thế vào đó “văn minh” Pháp. Họ lần lượt bãi bỏ

các khoa thi chữ Hán, trước hết ở Nam Kỳ (1867), rồi đến Bắc Kỳ (1915) và

Trung Kỳ (1918). Họ mở các trường, lúc đầu dạy cả chữ Hán, chữ Quốc ngữ

và chữ Pháp, sau chỉ dạy hai thứ chữ và bỏ chữ Hán.

Người Việt rất thờ ơ học chữ Quốc ngữ và việc học hoàn toàn là do

Pháp bắt buộc. Nhưng từ đầu thế kỷ XX, sau phong trào Cần Vương và

khởi nghĩa Yên Thế, các sĩ phu yêu nước phát động phong trào Đông Du

cầu học và bắt đầu nhìn thấy ở chữ Quốc ngữ một lợi thế là dễ học và có

thể truyền đạt tư tưởng yêu nước. Các chí sĩ bắt đầu cổ động việc học chữ

Quốc ngữ và thậm chí mở trường dạy chữ Quốc ngữ.

Trường Đông Kinh nghĩa thục được mở ra ở Hà Nội (1907) tạo nên một

phong trào (nhưng chỉ hoạt động được 9 tháng thì bị chính quyền Pháp

đóng cửa). Các lớp học chữ Quốc ngữ của Đảng Cộng sản mở ra ở Vinh và

| 415

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

lan ra một số tỉnh. Hội truyền bá Quốc ngữ (1936 - 1938) và sau Cách mạng

là phong trào Bình dân học vụ.

Như vậy, việc học chữ Quốc ngữ từ chỗ bị áp đặt bởi chính quyền

Pháp vì lợi ích của họ đến tự nguyện, và vận động toàn dân học chữ Quốc

ngữ vì lợi ích của Tổ quốc, và từ sau Cách mạng Tháng Tám (1945), chữ

Quốc ngữ trở thành văn tự quốc gia

4.2. Một nền văn học văn xuôi hình thành

Việc sử dụng chữ Quốc ngữ vào giai đoạn đầu chỉ là để ra các báo và

tạp chí. Trước hết ở Nam kỳ, sau ở Bắc kỳ. Từ Gia Định báo, rồi đến Đại Nam

đồng văn Nhật Báo, Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Đại Việt tân báo, Đăng

cổ tùng báo, Trung Bắc tân văn, Đông Dương tạp chí, Nam phong tạp chí, Hữu

thanh tạp chí, An Nam tạp chí, Tiếng Dân, Phụ nữ tân văn,… rồi càng về sau

mỗi ngành đều có báo và tạp chí riêng, như Học báo, Văn học tạp chí, Khoa

học tạp chí, Khoa học phổ thông, Vệ nông báo, Chớp bóng, Vệ sinh báo v.v… Và từ

1935 có báo hàng ngày cung cấp thông tin về mọi mặt.

Trong số báo chí này đáng lưu ý là Nam Phong tạp chí và Đông Dương

tạp chí.

Trên Nam Phong tạp chí có những bài về học thuật và văn học, Á cũng

như Âu. Bên cạnh những bài về Đại học, Trung Dung, Mạnh Tử, Luận ngữ

có những bài như Phương pháp luận Descartes, Đời đạo lý của Paul Carton

và cả Tuồng Lôi xích (Le Cid) của Corneille, tuồng Hoà Lạc (Horace), kịch

Hâm liệt (Hamlet), kịch Mặc biệt (Mac Beth), đấy là chưa kể An-na-kha-lệ-

ninh (Anna Karenina).

Trên Đông Dương tạp chí thì ngoài kịch như Trưởng giả học làm sang (của

Molière), Bệnh tưởng (Molière), Người biển lận (Molière), còn có truyện, tiểu

thuyết như Tê-lê-mạc phiêu lưu ký (Fénelon), Ba người ngự lâm pháo thủ

(A. Dumas), Miếng da lừa (Balzac), Mai nương lệ cốt (Manon Lescaut - A.

Prévost), Những kẻ khốn nạn (V.Hugo)v.v…

Báo chí đã tập dượt cho cả người đọc lẫn người viết để sau này có

“Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi” (bút ký) của Trương Vĩnh Ký, truyện ngắn

“Thầy Lazarô Phiền” của Nguyễn Trọng Quản và tiếp theo là tiểu thuyết của

Hồ Biểu Chánh, truyện ngắn của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Tản Đà,

Hoàng Ngọc Phách,… Thời gian đầu những sáng tác được đăng trên báo

chí hoặc thành sách mỏng. Sau 1925 sách in đã khá dày: “Quả dưa đỏ” của

416 |

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Nguyễn Trọng Thuật, “Sóng hồ Ba Bể” của Bửu Cầm, “Kim Anh lệ sử” của

Trọng Khiêm, “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách.

Trước kia với chữ Hán, hoặc chữ Nôm chỉ có một hai cuốn viết bằng

văn xuôi còn hầu hết các tác phẩm văn học đều bằng văn vần. Nay với chữ

Quốc ngữ một nền văn học bằng văn xuôi mới thực sự hình thành. Những

truyện dịch, hoặc phỏng tác trên các báo và tạp chí đã xây dựng được những

câu văn xuôi ngắn gọn, mạch lạc. Nhà văn quen với việc mô tả cuộc sống.

Độc giả của báo chí dần dần khắc phục quan điểm thẩm mỹ cũ (lấy từ bóng

bẩy, đối chọi, hay những hình ảnh xáo rỗng, những điều huyền ảo làm tiêu

chí đánh giá văn chương) nay chấp nhận một cuộc sống thực tế trong văn

học. Đó là nguồn gốc, động lực để tiểu thuyết ra đời. Hàng loạt tác giả của

dòng văn học hiện thực còn để lại tên tuổi đến ngày nay như: Nguyễn Công

Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao.

Nhóm “Tây học” viết tiểu thuyết lãng mạn, tình cảm đáp ứng yêu cầu

của thị dân lúc bấy giờ, nhóm Tự lực văn đoàn, không phải là không có

đóng góp nhất định. Họ đã làm cho ngôn ngữ trong sáng hơn, giàu có hơn,

đẩy văn học Việt Nam tiến lên trên con đường hiện đại hoá.

Văn học Việt Nam xây dựng được một nền văn xuôi như thế, mà trước

kia hầu như không có, đó chính là chiều hướng mới, thể hiện sự phát triển

mạnh mẽ do ảnh hưởng của chữ Quốc ngữ.

4.3. Sự xuất hiện của phong trào Thơ Mới

Chữ Quốc ngữ được sử dụng rộng khắp, trường Pháp - Việt thay thế

cho các trường chữ Hán thì đương nhiên tư tưởng phương Tây cũng tràn

vào, “Cái tôi” trở thành trung tâm, nhà văn, nhà thơ muốn nói lên những

tình cảm riêng tây của mình, nhưng là “cái tôi” đầy khát vọng, “cái tôi” lãng

mạn, chứ không như “cái tôi” cô đơn của các nhà nho xưa, và thi ca cũng

không còn muốn “tải đạo” như trước nữa. Mặt khác, nhiều người đã thấy

cái gò bó niêm luật của thơ Đường, vốn đã ngự trị ở nước ta từ nhiều thế

kỷ, muốn phá vỡ cái khuôn khổ cũ, do vậy ngoài một số thanh niên “Tây

học” vốn viết cho báo Phong hoá, Ngày nay, còn có nhóm viết cho Hà Nội báo,

như Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, nhóm viết cho Tiểu

thuyết thứ bảy1 như Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, nhóm Xuân thu nhã tập

với Đoàn Phú Tứ, nhóm Huế với Nam Trân, nhóm Bình Định với Hàn Mạc

1 Tiểu thuyết thứ bảy là tên của báo

| 417

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Tử, Chế Lan Viên... Cả một lực lượng thật hùng hậu với những gương mặt

nổi bật là Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ đã vùng lên làm thay đổi nền văn

vần vốn có từ xưa.

Câu thơ dài ngắn không chừng, nhưng hàm chứa cảm xúc mãnh liệt.

Để minh hoạ ta có thể lấy mấy câu trong bài Vội vàng của Xuân Diệu:

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

………..

Và non nước và mây và cỏ rạng

Cho chếnh choáng mùi hương cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Hỡi Xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.

Có thể kể hàng loạt bài nổi tiếng tương tự của rất nhiều tác giả, như

Nhớ rừng, Cây đàn muôn điệu của Thế Lữ, Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, Đẹp và

thơ của Nam Trân, Thu của Chế Lan Viên, Tiếng địch sông Ô của Huy Thông,

Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, Quê hương của Tế Hanh, Màu thời

gian của Đoàn Phú Tứ, Say đi em của Vũ Hoàng Chương,…

Từ ấy của Tố Hữu cũng mang tính chất của Thơ Mới duy có điều là nội

dung cách mạng. Sau này trong kháng chiến, nhiều nhà thơ cũng làm theo

kiểu ấy: Minh Huệ, Trần Hữu Thung, Hoàng Trung Thông. Tóm lại, phong

trào Thơ Mới lan ra rất nhanh và rộng khắp, làm đảo lộn cả nền văn vần

nước nhà. Nó mang lại cho thơ vần điệu, tiết tấu khác lạ. Nói không quá

đáng, đây là một cuộc “cách mạng” về thơ mà suy cho cùng chính là ảnh

hưởng của chữ Quốc ngữ.

4.4. Sự ra đời của một hình thức nghệ thuật sân khấu mới:

Từ trước đến đầu thế kỷ XX, các hình thức nghệ thuật sân khấu của ta

chỉ có tuồng, chèo, cải lương. Những hình thức này vẫn còn tiếp tục đến

ngày nay. Nhưng như trên đã nói ở các báo đã thấy xuất hiện bản dịch các

vở kịch của Pháp, Anh. Một số là kịch thơ, nhưng một số là kịch nói, tức

bằng văn xuôi. Điều này đã kích thích người Việt sáng tác những vở kịch

tương tự. Đi đầu sáng tác kịch nói là Vũ Đình Long với vở Chén thuốc độc.

Tiếp theo là Toà án lương tâm, Bạn và vợ, Thủ phạm là tôi của Nguyễn Hữu

Kim, Uyên ương, Hoàng Mộng Điệp, Hai tối tân hôn của Vi Huyền Đắc, Ông

tây An Nam, Chàng Ngốc của Nam Xương.

418 |

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Chữ Quốc ngữ làm rộng đường sáng tác đối với tác giả, nội dung dễ

nhớ, dễ tập đối với diễn viên. Vì lẽ đó nó phát triển rất nhanh và trong

kháng chiến kịch nói rất phổ biến. Nó phản ánh nhanh nhạy cuộc sống:

Bửu Tiến viết Trên nớ, Nguyễn Huy Tưởng viết Những người ở lại, Thanh

Tịnh viết Trưng Trắc, Trưng Nhị, Nguyễn Huệ, Văn Cao viết Cái hầm sống,

Học Phi viết Ngày mai, Chị Hoà, Hoàng Sĩ Nguyên viết Hai thái độ, Nguyễn

Lương Ngọc viết Ngọn đèn, Gia đình họ Bạch, Chu Văn Tiến viết Tự vệ kháng

chiến, Đào Mộng Long viết Cái võng v.v… Ngày nay kịch nói cũng đang

phát triển. Một số tác giả và các vở kịch kể ra trên đây chỉ nhằm minh

chứng cho sự phong phú của kho tàng nghệ thuật đang xét. Quả thực, sự

ra đời của kịch nói là một chiều hướng mới trong văn học nghệ thuật của

chúng ta mà đó cũng là do ảnh hưởng của chữ Quốc ngữ.

5. Những điều đã trình bày ở trên về chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ cho thấy

a) Nước ta về địa hình, nằm trong khu vực Đông Nam Á, nếu không bị

chữ Hán lôi kéo, dù từ lâu đã có một nền tự chủ, thì có lẽ ta đã chẳng theo

Nho giáo, mà nếu có theo Phật giáo thì cũng là Tiểu thừa như Campuchia,

Thái Lan, cũng có thể là Hồi giáo như ở Malaysia, Indonesia, chứ chẳng biết

đến Đạo giáo là gì, và nền văn học của ta đã khác nay.

b) Chữ Nôm do người Việt tạo ra, tuy chưa bao giờ được coi là văn tự

quốc gia, nhưng đó là phương tiện để sáng tác thi ca, nâng cao dân trí, xây

dựng nên một nền văn học bằng ngôn ngữ Việt và kho tàng văn học, văn

hoá ấy phong phú, khá tự hào. Nếu không, người Việt vẫn sáng tác văn học

nhưng kho tàng văn học ấy, chắc sẽ nghèo nàn hơn và nhất là không phải

bằng tiếng nước mình. Chúng ta sẽ không có các ca khúc, hàng loạt truyện

Nôm khuyết danh và không có Truyện Kiều.

c) Cuối cùng một giả thuyết đặt ra là nếu ta vẫn tiếp tục sử dụng chữ

Hán và chữ Nôm thì ảnh hưởng của phương Tây chắc khó đến, tôi không

dám nói là không đến, vì vẫn có những phong trào Đông Du cầu học,

nhưng chắc chắn ta không có một nền văn học bằng văn xuôi với báo chí,

tiểu thuyết rầm rộ như đã diễn ra trong giai đoạn văn học cận - hiện đại ở

nước ta. Thơ văn ta sẽ còn đóng khung trong Đường luật, trong “thượng

lục hạ bát”. Đấy là chưa muốn nói rằng nghệ thuật sân khấu của chúng ta

chỉ biết đến tuồng, chèo, cải lương, chứ không bao giờ biết đến kịch nói.

| 419

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Các nhà nghiên cứu lịch sử văn học nước ta, đều biết đến những điều

mà người viết bài này kể ra, đều thấy được những gì mới lạ xuất hiện và

xuất hiện từ bao giờ, song có lẽ chẳng mấy ai đã nghĩ đến nguyên nhân

sâu xa của chúng, tức là vì đâu mà có. Nói đến văn học cận hiện đại, người

ta sẽ nói đến ảnh hưởng của phương Tây, nhưng ngược lên nữa thì không

nói đến.

Xuất phát từ cách nhìn của người nghiên cứu ngôn ngữ, văn tự và ảnh

hưởng của chúng, tôi xin mạnh dạn đề xuất một vài ý nghĩ này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu. Bộ Quốc gia Giáo dục tái bản,

Hà Nội, 1950.

2. Đào Duy Anh, Chữ Nôm. Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, Nxb Khoa học Xã hội, Hà

Nội, 1975.

3. Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1992.

4. Đoàn Thiện Thuật, Ngữ âm tiếng Việt, Nxb Đại học và Trung học Chuyên

nghiệp, Hà Nội, 1977.

5. Đoàn Thiện Thuật, Chữ Quốc ngữ thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2008.

6. Đoàn Thiện Thuật, Kim Ki Tae, Nói tiếng Hàn Quốc, Nxb Samji Books,

Seoul, 1977.

7. Huệ Khải (Dũ Lan, Lê Anh Dũng), The three teachings of Vietnam as an idealogical

precondition for the foundation of Caodaism, Publishing House. San Martin, CA,

USA, 2010.

8. Kim Định. Triết lý an vi, Ra Khơi - An Tiêm - Nguồn sáng, Saigon, 1967 - 1974.

9. Lê Văn Quán, Bước đầu tìm hiểu Bác Hồ với học thuyết Nho gia, Tạp chí Hán

Nôm số 2 (63) 2004.

10. Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, (1-6) Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1992.

11. Nguyễn Quang Hồng, Khái luận văn tự học chữ Nôm, Nxb Giáo dục, 2008.

12. Nguyễn Tài Cẩn, Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội 1979.

13. Nguyễn Tài Cẩn, Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb Đại học và Trung học Chuyên

nghiệp, Hà Nội, 1985.

14. Nguyễn Tài Cẩn, Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo), Nxb Giáo dục, Hà

Nội, 1995.

420 |

25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

15. Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học Xã

hội, 1988.

16. Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà

Nội 1993.

17. Richard Smith, Trevor Hughes Parry, Brian Morean, Japonese - Language and

People A, BBC course in Japonese for Beginners, London, 1992.

18. Trần Đình Hượu, Tuyển tập (tập I), Nxb Giáo dục, 2007.

19. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh, 2000.

20. Trần Quốc Vượng (chủ biên), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1961.

21. Viện Văn học, Vấn đề cải tiến chữ Quốc ngữ, Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1961.

22. Vũ Khiêu, Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991.

23. Léon Vendermeersch, Le nouveau monde sinisé, Paris PUF, 1986.