Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
MAI DIỆU ANH
¶NH H¦ëNG CñA TÝN NG¦ìNG TRUYÒN THèNG VIÖT NAM §ÕN §êI SèNG §¹O CñA NG¦êI C¤NG GI¸O
ë GI¸O PHËN BïI CHU – NAM §ÞNH HIÖN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC CHUYÊN NGÀNH : CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62 22 03 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1.GS.TS. Nguyễn Hùng Hậu
2. PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương
HÀ NỘI – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực.
Những kết luận của luận án chưa từng được công bố trong bất
cứ công trình nào.
Tác giả luận án
Mai Diệu Anh
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 7
1.1. Những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng truyền thống Việt Nam và
đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định 7
1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng ảnh hưởng của tín
ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công
giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay 16
1.3. Những công trình nghiên cứu về giải pháp chung và giải pháp cụ
thể nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của
người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu 25
1.4. Những vấn đề mà luận án kế thừa và những vấn đề nghiên cứu đặt ra 28 Chương 2: TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM VÀ ĐỜI SỐNG ĐẠO
CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO PHẬN BÙI CHU - NAM ĐỊNH -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 31
2.1. Tín ngưỡng truyền thống Việt Nam và tín ngưỡng truyền thống
Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định 31
2.2. Công giáo và đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi
Chu - Nam Định 50 Chương 3: ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
ĐẾN ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO PHẬN
BÙI CHU - NAM ĐỊNH - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 68
3.1. Thực trạng ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời
sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định 68
3.2. Nguyên nhân của thực trạng 102
Chương 4: DỰ BÁO XU HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN
PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG
TIÊU CỰC CỦA TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM ĐẾN
ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO PHẬN BÙI
CHU - NAM ĐỊNH 113
4.1. Dự báo xu hướng ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt
Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu
- Nam Định 113
4.2. Một số giải pháp nhằm góp phần phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế
ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời
sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định 119
KẾT LUẬN 140 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 143
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 144 PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ
Chính trị quốc gia
Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Hà Nội
Hội đồng nhân dân
Nhà xuất bản
Trang
Ủy ban nhân dân
Viết tắt
CTQG
CNDVBC
CNDVLS
HN
HĐND
Nxb
Tr.
UBND
1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Việt Nam là đất nước thuộc loại hình văn hóa nông nghiệp. Trong lịch
sử hình thành và phát triển, do hoàn cảnh địa lý - lịch sử khá đặc biệt, nước ta
thường xuyên bị xâm lược bởi các cường quốc như Trung Hoa, Mông Cổ,
Pháp, Mỹ cũng như tiếp nhận rất nhiều nền văn hóa ngoại lai. Một điều lạ
lùng là nước Việt Nam nhỏ bé lại không hề bị đồng hóa bởi bất cứ một nền
văn hóa nào khác. Điều này chỉ có thể được lý giải bởi một đặc trưng cơ bản
của văn hóa Việt Nam, đó là tính dung hợp - sự tổng hợp nhiều yếu tố khác
nhau và biến đổi linh hoạt để tạo nên cái mới. Vì thế, các hiện tượng văn hóa
ngoại lai khi du nhập vào Việt Nam thường bị biến đổi sao cho phù hợp với
văn hóa truyền thống. Công giáo ở Việt Nam cũng là một hiện tượng như vậy.
Lịch sử Công giáo ở Việt Nam đã thừa nhận giáo phận Bùi Chu - Nam
Định là điểm đến đầu tiên của các giáo sĩ phương Tây nhằm truyền bá tôn
giáo này. Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục đã viết “Gia
Tô: Theo sách Dã lục (một loại dã sử), thì ngày 1 tháng 3 năm Nguyên Hòa
thứ nhất (1533), đời Lê Trang Tông người Tây Dương tên là Ynêkhu lén lút
đến xã Ninh Cường, xã Quần Anh huyện Nam Chân và xã Trà Lũ huyện Giao
Thủy ngấm ngầm truyền giáo về tà đạo Gia Tô” [150, tr.301]. Do vậy, năm
1533 được giáo sử Công giáo lấy làm thời điểm đánh dấu hoạt động truyền
giáo ở Việt Nam. Cũng từ đó, Công giáo phát triển lan rộng toàn đất nước
Việt Nam, mở đầu cho sự giao lưu giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa
phương Tây nói chung, văn hóa Công giáo nói riêng.
Công giáo là một tôn giáo mang đậm tính khuôn mẫu, lý tính của
truyền thống văn hóa phương Tây, vì vậy trong một thời gian dài, về mặt quan
phương, tôn giáo này không thể hòa đồng với văn hóa Việt Nam. Sự xung đột
giữa Công giáo với văn hóa truyền thống, đặc biệt là với tín ngưỡng thờ cúng
Tổ tiên người Việt đã gây nên bao trăn trở với các tín đồ Công giáo.
2
Với Công đồng Vatican II (1962 - 1965), lịch sử Giáo hội đã bước sang
một trang mới. Sau Công đồng Vatican II, tinh thần Canh tân và Thích nghi đã
được Giáo hội Công giáo Việt Nam tiếp nhận, triển khai từng bước nhằm đưa
Công giáo hoà hợp với văn hoá dân tộc, khắc phục những xung đột của đời
sống đạo Công giáo đối với văn hóa truyền thống. Tinh thần Canh tân và
Thích nghi của Công đồng Vatican II phù hợp với đường lối, chủ trương nhất
quán mà Đảng và Nhà nước ta đưa ra, đó là tôn trọng tự do tôn giáo nói chung,
Công giáo nói riêng, giữ gìn và trân trọng những giá trị văn hoá tốt đẹp của
Công giáo, đảm bảo sự tự do sinh hoạt tôn giáo cho các tín đồ.
Tuy nhiên, bối cảnh thế giới và trong nước đang diễn biến hết sức phức
tạp. Trong sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, xu thế hòa
bình, hợp tác, phát triển vẫn là một xu thế lớn. Xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến
tranh cục bộ, can thiệp, khủng bố diễn ra gay gắt. Vì vậy, đối với tín ngưỡng,
tôn giáo, Đảng ta xác định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất
nước; tôn trọng những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo; động
viên chức sắc, tín đồ, các tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng
góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. [52, tr.51].
Trước tác động của hội nhập, của kinh tế thị trường, đời sống đạo của
người Công giáo Việt Nam có những biểu hiện phức tạp. Trong bối cảnh đó,
phát triển môi trường sinh hoạt tôn giáo tự do, lành mạnh để các tín đồ thực
hiện tốt phương châm “Sống tốt đời, đẹp đạo”, phát huy những giá trị văn hóa,
đạo đức tốt đẹp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Thiết nghĩ vấn đề
đó sẽ được giải quyết một cách hiệu quả nếu tập trung nghiên cứu trước hết vào
vùng đất mà các giáo sỹ truyền đạo đặt chân đầu tiên tới Việt Nam, nơi khởi
nguồn cho sự hình thành và phát triển Công giáo ở Việt Nam - giáo phận Bùi
Chu - Nam Định. Ở nơi đây, ảnh hưởng của văn hóa truyền thống, đặc biệt là
3
tín ngưỡng truyền thống đến đời sống đạo của người Công giáo đang diễn ra
sôi động, nhiều màu sắc. Tuy chỉ nghiên cứu về một giáo phận cụ thể nhưng
luận án phần nào cho thấy bức tranh ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống
Việt Nam tới đời sống đạo của người Công giáo ở Việt Nam nói chung.
Với những lý do trên, đề tài “Ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống
Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam
Định hiện nay” có tính lý luận và thực tiễn cấp thiết. 2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Mục đích của luận án Luận án tập trung làm rõ thực trạng ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền
thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu -
Nam Định hiện nay, nguyên nhân của thực trạng; đưa ra dự báo xu hướng, từ
đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn
chế những ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời
sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận án Để thực hiện mục đích trên, luận án thực hiện một số nhiệm vụ như sau:
- Khái quát tín ngưỡng truyền thống Việt Nam vùng đồng bằng Bắc bộ,
tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định.
- Khái lược vài nét về Công giáo, lịch sử giáo phận Bùi Chu.
Làm rõ khái niệm đời sống đạo, đời sống đạo của người Công giáo, từ
đó chỉ rõ những nét đặc thù trong đời sống đạo của người Công giáo ở giáo
phận Bùi Chu - Nam Định.
- Làm rõ thực trạng ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của tín ngưỡng truyền
thống Việt Nam đến đời sống đạo Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam
Định hiện nay, nguyên nhân của thực trạng.
- Dự báo xu hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những
ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng
4
truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận
Bùi Chu - Nam Định hiện nay. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu đời sống đạo của người Công giáo dưới ảnh
hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Luận án nghiên cứu trong phạm vi
giáo phận Bùi Chu - Nam Định, thời gian tập trung vào giai đoạn từ sau Công đồng Vatican II (1962 - 1965) đến nay.
Tuy rằng tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là khá đa dạng, nhưng trong khuôn khổ luận án, nghiên cứu sinh chỉ tập trung vào 3 loại hình tín ngưỡng: tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng Thành Hoàng làng và tín ngưỡng thờ Mẫu. Đồng thời, luận án chỉ nghiên cứu ảnh hưởng một chiều: tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ảnh hưởng đến đời sống đạo của người Công giáo Bùi Chu - Nam Định ra sao.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Cơ sở lý luận Luận án sử dụng cơ sở lý luận là CNDVBC và CNDVLS, quan điểm
của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo.
Ngoài ra, luận án còn dựa vào các văn kiện Đại hội Đảng, các nghị quyết của Trung ương, tài liệu của các cấp ủy đảng và chính quyền ở tỉnh Nam Định và các địa phương nằm trong khu vực giáo phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp với các phương pháp cụ thể như phương pháp triết học tôn giáo, phương pháp phân tích - tổng hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp điều tra phỏng vấn sâu, phương pháp điền dã
5
dân tộc học và quan sát tham dự… Ngoài ra, phương pháp chuyên gia cũng được đề tài áp dụng nhằm tranh thủ ý kiến của các nhà nghiên cứu chuyên gia và các nhà hoạt động quản lý thực tiễn trong lĩnh vực nghiên cứu.
5. ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN ÁN
- Luận án khái quát đặc trưng các tín ngưỡng truyền thống Việt Nam,
và đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định.
- Luận án làm rõ thực trạng những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực và
những nguyên nhân ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời
sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay.
- Luận án đưa ra dự báo về xu hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm
phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tín
ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo
phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay. 6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN
- Ý nghĩa khoa học: Đề tài luận án được thực hiện để góp thêm sự nhận
biết về ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo
của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định, đem lại những giá trị
văn hóa với tính cách là nền tảng tinh thần cho người Công giáo ở giáo phận
Bùi Chu - Nam Định.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án đưa ra xu hướng và đề xuất một số giải
pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tín
ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo
phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay.
Sản phẩm của luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho các cơ quan, cá nhân
nghiên cứu, giảng dạy về tôn giáo, các cơ quan chức năng làm công tác tôn giáo. 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, danh mục tài liệu tham
khảo, luận án gồm 4 chương, 10 tiết:
6
Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án.
Chương 2: Tín ngưỡng truyền thống Việt Nam và đời sống đạo của
người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định - Một số vấn đề lý luận.
Chương 3: Ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời
sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay -
Thực trạng và nguyên nhân.
Chương 4: Dự báo xu hướng và một số giải pháp nhằm góp phần phát
huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng truyền
thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu -
Nam Định.
7
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM VÀ ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO PHẬN BÙI CHU - NAM ĐỊNH
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng truyền thống Việt Nam và tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định
1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng truyền thống Việt Nam
Trước hết, phải kể đến cuốn sách “Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay” do nhà nghiên cứu Đặng Nghiêm Vạn chủ biên [194]. Cuốn sách này đề cập tới thờ cúng Tổ tiên ở ba cấp độ: quốc gia: thờ Vua Hùng; làng: thờ thần Thành Hoàng; dòng họ, gia đình: thờ tổ tiên. Nhà nghiên cứu Đặng Nghiêm Vạn khẳng định thờ cúng Tổ tiên là một bộ phận văn hóa dân tộc, là tâm linh của cả cộng đồng Việt Nam. Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu Lê Trung Vũ đề cập tới các phong tục trong vòng đời người Việt truyền thống như các lễ tiết trong năm (Tết Nguyên đán, tết Thượng nguyên, tết mồng 3 tháng 3...), các nghi lễ nông nghiệp; các lễ thức đời thường (sinh con, hôn lễ, lễ tang...).
Trong cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” [158], tác giả Trần Ngọc Thêm miêu tả khái quát các loại hình tín ngưỡng Việt Nam như tín ngưỡng Phồn thực (thờ sinh thực khí và thờ hành vi giao phối), tín ngưỡng sùng bái tự nhiên (thờ Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước; thờ động vật và thực vật), tín ngưỡng sùng bái con người (thờ Thổ Công, thờ thần Thành Hoàng, Tứ bất tử). Tác giả chỉ rõ các loại hình tín ngưỡng trên cũng như những bộ phận khác của văn hóa, là tấm gương phản ánh trung thành những đặc trưng nông nghiệp lúa nước, biểu hiện sự tôn trọng và gắn bó mật thiết với thiên nhiên, nguyên lý âm dương, khuynh hướng đề cao nữ tính, tính đa thần…
8
Cuốn sách “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam” của
Nguyễn Đức Lữ [131] đề cập đến các loại hình tín ngưỡng dân gian Việt Nam
như tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Anh hùng dân tộc, tín
ngưỡng Thành Hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng Phồn thực. Tác giả
cuốn sách chỉ rõ các loại hình tín ngưỡng dân gian trên phản ánh rõ nét đặc
trưng của văn hóa dân tộc, thể hiện rõ nét tinh thần uống nước nhớ nguồn
nhưng bản thân nó cũng chứa đựng khả năng dẫn đến hiện tượng phản giá trị,
biểu hiện mê tín dị đoan cần phải bị phê phán, tẩy trừ.
Cuốn sách “Các hình thái tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam” của
Nguyễn Đăng Duy [25] dành nhiều sự quan tâm tới các tín ngưỡng truyền
thống ở Việt Nam như: tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thần,
tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng ở các dân tộc ít người. Theo tác giả, tín
ngưỡng không phải là một bộ phận của tôn giáo mà tồn tại với tư cách một
hình thái ý thức xã hội bên cạnh tôn giáo, không phải tồn tại với ý nghĩa
niềm tin nhằm cứu cánh cho cái chết như tôn giáo mà là niềm tin cầu mong
cho hiện thực cuộc sống.
Cuốn sách “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” do Ngô Đức
Thịnh chủ biên [161] nghiên cứu sáu loại hình tín ngưỡng dân gian: thờ cúng Tổ
tiên, thờ Thành Hoàng làng, thờ Chử Đồng Tử, thờ Đức Thánh Trần, tín ngưỡng
nghề nghiệp và đạo Mẫu. Ngoài ra, một số hình thức văn hóa nghệ thuật dân gian
có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo như múa, nhạc, tranh tượng thờ, văn học
dân gian, các sinh hoạt văn hóa cộng đồng cũng được tác giả đề cập.
Ngoài ra còn rất nhiều công trình về tín ngưỡng truyền thống Việt Nam,
phong tục tập quán truyền thống do các học giả trong nước nghiên cứu như: “Việt
Nam văn hóa sử cương” của Đào Duy Anh [1]; “Lĩnh Nam chích quái” của Vũ
Quỳnh [152]; “Tín ngưỡng làng xã” của Vũ Ngọc Khánh [118]; “Việt Nam phong
tục” của Phan Kế Bính [14]; “Phong tục thờ cúng trong gia đình người Việt” của
Toan Ánh [5]; “Văn hóa tâm linh” của Nguyễn Đăng Duy [26]…
9
Có thể thấy rằng các tài liệu nghiên cứu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam khá phong phú, nhưng nghiên cứu tín ngưỡng truyền thống dưới góc độ triết học thì số lượng còn hạn chế. Trong đó, tiêu biểu là công trình “Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay” của Trần Đăng Sinh [155] đã trình bày những khía cạnh triết học của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, minh chứng rõ cơ sở hình thành, tồn tại, những yếu tố tích cực và tiêu cực, thực trạng và xu hướng vận động của nó, từ đó nhằm định hướng đúng đắn cho hoạt động thờ cúng tổ tiên ở nước ta hiện nay. Trong bối cảnh hoạt động thờ cúng tổ tiên trong các gia đình, dòng họ, trong các lễ hội diễn ra khá phổ biến ở khắp các địa phương trong cả nước, việc nghiên cứu trên là cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn cấp thiết.
Cũng tiếp cận dưới góc độ triết học, Luận án Tiến sỹ Triết học của Nguyễn Hữu Thụ “Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [165] lại tập trung nghiên cứu cơ sở hình thành, lịch sử phát triển, điện thờ, một số nghi lễ cơ bản của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Từ đó, tác giả phân tích quan niệm về con người và tự nhiên trong tín ngưỡng thờ Mẫu, chỉ rõ xu hướng vận động cùng những kiến nghị nhằm phát huy những giá trị tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ trong giai đoạn hiện nay.
Thông qua các tài liệu nghiên cứu về tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, đặc biệt là các tài liệu tiếp cận tín ngưỡng dưới góc độ triết học, tác giả có sự kế thừa nhằm luận chứng cơ sở kinh tế - xã hội làm nảy sinh quan niệm của người Việt truyền thống trong các tín ngưỡng, từ đó chi phối các nghi lễ thực hành tín ngưỡng. Đây là cơ sở khoa học quan trọng giúp tác giả phân tích ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam tới đời sống đạo của người Công giáo vùng giáo phận Bùi Chu - khu vực ghi dấu ấn đậm nét của các tín ngưỡng truyền thống - trong chương 3 của luận án.
10
1.1.1.2. Những công trình liên quan đến tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định
Cuốn sách “Địa chí Hải Hậu” của Huyện ủy - UBND huyện Hải Hậu,
tỉnh Nam Định [81], từ trang 560 đến trang 615 đề cập đến vấn đề phong
tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo vùng đất Hải Hậu, Nam Định được hình
thành từ điều kiện tự nhiên khá đặc thù. Cuốn sách đã chỉ ra Nam Định là
một địa phương có địa bàn trọng yếu, vị thế đặc biệt, một vùng kinh tế xã
hội với bản sắc riêng, trong đó có các tín ngưỡng truyền thống Việt Nam.
Cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Xuân Trường 1930 - 2000” của Ban
Chấp hành Đảng bộ huyện Xuân Trường [7], từ trang 19 đến trang 24 đề cập
tới tín ngưỡng, văn hóa của vùng đất này.
Một cách tổng quát, cuốn sách “Địa chí Nam Định” của Tỉnh ủy -
HĐND - UBND tỉnh Nam Định [168], từ trang 659 đến trang 687 khái quát
đặc trưng phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo tỉnh Nam Định.
Đây là những tài liệu có giá trị, được nghiên cứu sinh kế thừa để đưa vào
xây dựng đặc điểm tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu -
Nam Định có những nét đặc thù, trong đó phải kể đến hai huyện Hải Hậu và
Xuân Trường là nơi có người Công giáo sinh sống đông đảo. Tuy nhiên, phải
nói là các công trình này trình bày còn sơ lược về tín ngưỡng truyền thống
Việt Nam, vì thế luận án sẽ cụ thể hơn phần nội dung này.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về đời sống đạo Công giáo
1.1.2.1. Những công trình nghiên cứu của Giáo hội Công giáo Đó là “Kinh Thánh (trọn 2 bộ Cựu ước và Tân ước)” [122]; Giáo lý Hội
thánh Công giáo của Ủy ban Giáo lý Đức tin - Hội đồng Giám mục Việt Nam
[200]; các văn kiện của Công đồng Vatican II (1962-1965) như “Công đồng
Vatican II, Hiến chế - Tuyên ngôn - Sắc lệnh - Sứ điệp - Thông điệp” [19]; “Bộ
Giáo luật năm 1983” của Hội đồng giám mục Việt Nam [70]. Công trình nghiên
cứu của Giáo hội thì phong phú, nhưng nổi bật có các công trình sau:
11
Thứ nhất, văn kiện của Công đồng Vatican II. Trong 16 văn kiện của
Công đồng Vatican II, 4 Hiến chế giữ vai trò trọng yếu, đáng chú ý là 2
Hiến chế liên quan đến đời sống đạo, đó là Hiến chế mục vụ về Giáo hội
trong thế giới ngày nay và Hiến chế phụng vụ Thánh. Trong Hiến chế mục
vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, Giáo hội đề ra đường hướng cho
các thành phần dân Chúa là đi chung một hành trình với nhân loại và cùng
chia sẻ số phận trần gian với thế giới. Hiến chế nhấn mạnh đến chủ đề về
văn hóa, về đời sống kinh tế xã hội , hôn nhân và gia đình, về cộng đồng
chính trị, về hòa bình cần thiết cho những thành phần dân Chúa trong việc
sống đạo và sống đời. Hiến chế về phụng vụ Thánh cho phép Hội đồng
Giám mục từng quốc gia được cải tiến các nghi lễ, đặc biệt là phải biết vận
dụng những cái hay, cái đẹp của các nền văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
khác nhau trong việc sống đạo.
Thứ hai, Tóm lược Học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo. Công
trình này đề cập nhiều vấn đề, trong đó nhấn mạnh đến vai trò, chức năng của
tín hữu trong xã hội đương đại: thái độ đối với môi trường, hòa bình, chiến
tranh, đặc biệt là thái độ với đồng loại.
Về phía Giáo hội Công giáo Việt Nam có các sách, ghi chép, tường trình,
thư từ của các giáo sỹ trong quá trình truyền giáo ở Việt Nam có thể kể đến
“Kinh cầu cho các linh hồn” của Tòa tổng giám mục Hà Nội [169]; ““Các thư
chung” của các giám mục Việt Nam [17]. Luận án chú ý đến Thư chung của
Hội đồng Giám mục Việt Nam như Thư chung 1980, 1988, 1992, 2001. Toát
yếu các Thư chung là muốn xây dựng nền thần học Công giáo Việt Nam của
người Việt Nam, hòa nhập được với phong tục, tập quán, văn hóa Việt Nam
vốn có truyền thống lâu đời. Tuy Thư chung không nhấn mạnh đến ba nội
dung mà luận án đề cập, trong đó nội dung chính là đề cập tới phong tục, tập
quán, văn hóa nói chung. Thư chung 1980 đưa ra Đường hướng xây dựng
12
trong Hội thánh một nếp sống, một lối diễn tả đức tin về truyền thống dân tộc.
Thư chung 1992 đề cập đến việc xây dựng một nếp sống, một lối diễn tả đức
tin có bản sắc dân tộc hơn. Thư chung 1998 yêu cầu trình bày về giáo lý và
thực hành mục vụ theo chiều hướng hội nhập với văn hóa dân tộc. Thư mục
vụ năm 2000 là sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng theo cung cách Việt
Nam. Thư chung 2010 cho rằng: “Nền văn hóa Việt Nam mang nhiều giá trị
đáng trân trọng, có thể trở thành những nẻo đường thuận tiện để Giáo hội tại
Việt Nam tiến bước trong sứ vụ loan báo Tin Mừng”. Tuy nhiên, các Thư
chung này đã đưa ra những định hướng để giáo phận Bùi Chu dựa vào đó mà
thực hiện, làm cho đời sống đạo của người Công giáo trở nên phong phú
nhưng gần với những giá trị tín ngưỡng truyền thống.
Cuốn “Giáo hội Công giáo Việt Nam - Niên giám 2004” của Văn
phòng Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam [195] giúp cho những
ai quan tâm tới Giáo hội Công giáo sẽ có cái nhìn toàn diện về sự hình
thành, phát triển của Giáo hội Công giáo toàn cầu và Giáo hội Công giáo
Việt Nam.
1.1.2.2. Công trình của các nhà nghiên cứu ngoài Công giáo
Xoay quanh vấn đề nghi lễ, thánh lễ Công giáo, cuốn sách “Một số
tôn giáo ở Việt Nam” của Nguyễn Thanh Xuân [205] nêu một số đặc điểm
về luật lệ, lễ nghi Công giáo như: Mười điều răn của Thiên chúa, Bảy phép
bí tích; nêu những ngày lễ của đạo Công giáo như: những lễ quan trọng (Lễ
Noel, Lễ Phục Sinh, Lễ Đức Bà Maria hồn và xác lên trời, Lễ Các thánh…),
các lễ thông thường (Lễ Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội, Lễ Tro, Lễ Lá,
Tuần Thánh…). Công trình trên còn đề cập việc Giáo hội chia một năm
thành từng tháng, từng mùa làm chủ đích cho các sinh hoạt tôn giáo và các
hoạt động của tín đồ, như tháng 3 là Tháng Kính Thánh cả Giuse, tháng 5
là Tháng Dâng hoa kính Đức bà Maria, tháng 6 là Tháng Kính Trái tim của
13
Chúa Giêsu, tháng 11 là Tháng Cầu nguyện cho các linh hồn, tháng 10 là
Tháng Mân Côi Đức Mẹ; Mùa Giáng sinh, Mùa Thương khó, Mùa Phục
sinh, Mùa vọng…
Bên cạnh đó, tác giả Đỗ Quang Hưng có các bài viết khác có liên quan
tới Công giáo như: “Công giáo thế kỷ XX: vài khía cạnh tiến triển của thần
học” [86]; “Vấn đề Công giáo với số phận Lê Văn Duyệt” [90]; “Những
người Cộng sản Việt Nam với đường hướng “Đồng hành cùng dân tộc” và Ủy
ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam” [89].
Các công trình của Giáo hội Công giáo và của các nhà nghiên cứu
ngoài Công giáo ở trên là nguồn tư liệu quý báu, giúp nghiên cứu sinh có cơ
sở để xây dựng nội dung lý luận về Công giáo và Công giáo ở Việt Nam ở
chương 2 của luận án.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về đời sống đạo Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định
1.1.3.1. Tài liệu, công trình nghiên cứu của người Công giáo Tài liệu, công trình nghiên cứu về Công giáo ở Việt Nam có một phần
liên quan đến đời sống đạo Công giáo ở giáo phận Bùi Chu Về lịch sử Công giáo ở Việt Nam, đáng chú ý có các công trình của các
linh mục đã được công bố như: Lm. Hồng Lam với “Lịch sử đạo Thiên Chúa
ở Việt Nam” [123]; Lm. Nguyễn Hồng có “Lịch sử truyền giáo ở Việt
Nam”(1959) [75]; Lm. Phan Phát Huồn viết Việt Nam giáo sử quyển I [78],
quyển II [79]. Lm. Trần Tam Tỉnh với công trình “Thập giá và lưỡi gươm”
(1988) [167]. Đáng chú ý có Lm. Trương Bá Cần với cuốn “Công giáo Việt
Nam sau quá trình 50 năm 1945 – 1995” [18] đã thống kê và ca ngợi sự phát
triển của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Ngoài ra phải kể đến những bài viết
của các nhà nghiên cứu người Công giáo đăng trên báo Người Công giáo Việt
Nam của Ủy ban đoàn kết Công giáo Việt Nam, nguyệt san Công giáo và dân
tộc của Ủy ban đoàn kết Công giáo thành phố Hồ Chí Minh.
14
Tài liệu, công trình nghiên cứu có đề cập hoặc đề cập trực tiếp đến đời
sống đạo Công giáo ở giáo phận Bùi Chu Về lịch sử giáo phận Bùi Chu, đáng chú ý có cuốn “Sử ký Địa phận
Trung” [140] được thừa sai Manuel Moreno dòng Đa Minh Tây Ban Nha biên
soạn năm 1916. Cuốn sách giới thiệu 52 xứ đạo, 741 họ đạo, trong đó Nam
Định 27 xứ đạo, Thái Bình 19 xứ và Hưng Yên 6 xứ, giới thiệu các hội đoàn,
sinh hoạt tôn giáo, tổ chức Nhà Chung và các cơ sở xã hội, y tế, giáo dục. Tuy
nhiên cuốn sách này mới chỉ nghiên cứu địa phận Bùi Chu đến năm 1916 và
chỉ tập trung cơ cấu tổ chức xứ họ đạo mà chưa đi sâu phân tích đời sống đạo
của người Công giáo ở đây.
Cuốn “Lịch sử địa phận Bùi Chu” của Lm. Trần Đức Huynh [84] là
một công trình nghiên cứu công phu về lịch sử vùng địa phận Bùi Chu. Từ
những đặc điểm về xuất xứ, vị trí, địa thế, khí hậu, sông ngòi, dân số, tổ
chức hành chính, kinh tế ở đây, tác giả nghiên cứu vùng địa phận Bùi Chu
qua các giai đoạn lịch sử: Địa phận Đàng Trong và Địa phận Đàng Ngoài
(khảo cứu từ năm 1533 - 1679), Địa phận Đông Đàng Ngoài (1679 - 1848),
Địa phận Trung (1848 - 1936), Địa phận Bùi Chu từ 1936 - 1999. Trong
công trình này, các sinh hoạt tôn giáo sống động vùng địa phận Bùi Chu
cũng được đề cập trong 1 chương (chương bảy), với những dịp lễ trọng như
Tuần Thánh, Lễ đầu dòng, Lễ Đức Mẹ Vô nhiễm, Lễ Đức Mẹ Mân côi....
Tuy nhiên, do thời điểm khảo cứu chỉ từ năm 1533 đến hết năm 1999, cho
nên những nét đặc sắc và những biến đổi trong đời sống đạo của người
Công giáo trước xu thế thời đại ở địa phận Bùi Chu hiện nay không được
đề cập tới.
1.1.3.2. Tài liệu, công trình nghiên cứu của người ngoài Công giáo
Về mảng lịch sử Công giáo ở Việt Nam, tác phẩm trong bộ lịch sử, địa
chí như Khâm Định Việt sử thông giám cương mục [150]… cho thấy cách
15
nhìn nhận cũng như thái độ của các vương triều phong kiến Việt Nam vào thế
kỷ XVII - XIX đối với Công giáo - một tôn giáo vốn được xem là “tả đạo”.
Đáng chú ý có công trình “Sự du nhập đạo Thiên Chúa vào Việt Nam
cho đến thế kỷ XIX” của Nguyễn Văn Kiệm [120]. Tập trung vào thời kỳ
nhạy cảm nhất trong lịch sử truyền giáo, nhà nghiên cứu Nguyễn Quang
Hưng cho xuất bản cuốn “Công giáo Việt Nam thời kỳ triều Nguyễn (1802 -
1883)” [92] viết về giai đoạn triều Nguyễn, làm rõ những khía cạnh văn hóa -
chính trị trong quan hệ của triều Nguyễn với Công giáo, truyền tải nội dung
các chỉ dụ cấm đạo, phân tích lý do và hệ quả chính sách của các vị vua triều
Nguyễn đối với Công giáo.
Có thể nói rằng, các công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra những đặc
điểm cơ bản của quá trình truyền bá Công giáo vào Việt Nam và các giai đoạn
phát triển của nó. Tuy nhiên, do đây là những nghiên cứu về Công giáo trong
tiến trình lịch sử, vì thế mặc dù các tư liệu về lịch sử Công giáo ở Việt Nam
tương đối phong phú nhưng còn một số điểm chưa thống nhất giữa những tác
giả là người Công giáo với những tác giả ngoài Công giáo khi cùng nhận định
về một chủ đề lịch sử, tiêu biểu là vấn đề chính sách cấm đạo triều Nguyễn.
Các tài liệu này dùng để tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử Công giáo ở
Việt Nam nói chung, lịch sử giáo phận Bùi Chu nói riêng, cung cấp cho tác
giả cơ sở lý luận của đề tài luận án.
Về đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam
Định có các cuốn sách “Địa chí Nam Định” [181], cuốn sách “Địa chí Hải
Hậu” [92], cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Xuân Trường 1930 – 2000” [6] ...
Những cuốn sách này cung cấp cho nghiên cứu sinh tư liệu có giá trị về đời
sống kinh tế, xã hội, văn hóa... của người dân thuộc vùng giáo phận Bùi
Chu nói chung, đời sống đạo của người Công giáo Bùi Chu nói riêng làm
cơ sở xây dựng nội dung vấn đề đời sống đạo của người Công giáo ở Bùi
Chu - Nam Định.
16
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG
CỦA TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM ĐẾN ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA
NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO PHẬN BÙI CHU – NAM ĐỊNH HIỆN NAY
1.2.1. Những công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của văn hóa dân
tộc đến đời sống đạo của người Công giáo ở Việt Nam Quá trình ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời
sống đạo của người Công giáo Việt Nam nói chung, ở giáo phận Bùi Chu –
Nam Định nói riêng thực chất gắn liền với quá trình ảnh hưởng của văn hóa
dân tộc Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở Việt Nam. Vì thế,
để có được những lập luận vững vàng về vấn đề này, cần có sự kế thừa những
công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của văn hóa dân tộc đến đời sống đạo
của người Công giáo ở Việt Nam.
Về quá trình ảnh hưởng của văn hóa truyền thống Việt Nam đến đời
sống đạo của người Công giáo, có thể thấy, nét đẹp trong đời sống đạo Công
giáo được phản ánh qua các cuốn sách “Tìm hiểu nét đẹp văn hóa Thiên Chúa
giáo” của Hà Huy Tú [177]. Tác giả đã trình bày kết quả quá trình thích nghi
của Công giáo vào đời sống tinh thần dân tộc Việt Nam biểu hiện qua nét đẹp
của đời sống đạo Công giáo trong thờ cúng tổ tiên, lễ hội và tết...
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Dương cũng có nhiều công trình nghiên
cứu về Công giáo ở Việt Nam như Luận án Tiến sỹ với đề tài “Làng Công
giáo Lưu Phương (Ninh Bình) từ 1929 đến năm 1945” [37]. Các cuốn sách:
“Tôn giáo trong mối quan hệ văn hoá và phát triển ở Việt Nam” [48]; “Linh
mục Phạm Bá Trực và đường hướng Công giáo đồng hành cùng dân tộc trong
thời kỳ chống thực dân Pháp (1946-1954)” [39].
Đi sâu vào những biểu hiện cụ thể của sự ảnh hưởng qua lại giữa văn
hóa Việt Nam với nghi lễ Công giáo, cuốn sách “Nghi lễ và lối sống Công
giáo trong văn hóa Việt Nam” của nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Dương [42]
đã tìm đến sự thích nghi của nghi lễ Công giáo với văn hóa dân tộc biểu hiện
17
trong nghi lễ hát Thánh kinh, đọc sách, đọc kinh, múa hát dâng hoa, lễ kỷ
niệm Thánh quan thày xứ đạo, nghi lễ đón tết Nguyên đán và tục thờ cúng Tổ
tiên của người Công giáo Việt Nam. Đó còn là những tác động nhất định của
lối sống Công giáo tới văn hóa Việt Nam, từ niềm tin và thực hành nghi lễ
Công giáo cho đến thờ phụng thánh Tông đồ và các thánh, thờ phụng Đức
Maria… đều giúp tạo nên một diện mạo mới trong đời sống sinh hoạt tinh
thần của các tín đồ người Việt. Phải nói rằng, công trình “Nghi lễ và lối sống
Công giáo trong văn hóa Việt Nam” là một bức tranh phong phú, đặc sắc mô
tả đời sống sinh hoạt tôn giáo của đồng bào Công giáo Việt Nam với nét đẹp
văn hóa dân tộc hòa trộn cùng nét đẹp trong nghi lễ Công giáo.
Nhà nghiên cứu này còn có các bài báo đăng trên tạp chí như “Bước
đường hội nhập văn hóa dân tộc của Công giáo Việt Nam” [28]; Công đồng
Vatican II ở Việt Nam (nhìn từ góc độ lý luận về hội nhập văn hóa) [29]; “Mối
quan hệ giữa Giáo hội Công giáo Việt Nam với Giáo hội Công giáo Rôma”
[40]; “Quá trình nhận thức của Đảng về vấn đề tôn giáo, công tác tôn giáo và
chính sách tôn giáo qua cương lĩnh, văn kiện, nghị quyết từ Đổi mới đến nay”
[44]; Hậu Công đồng Vatican II - Những vấn đề Giáo hội Công giáo đang
phải đối diện [33].
Trong cuốn sách “Nếp sống đạo của người Công giáo Việt Nam”,
Nguyễn Hồng Dương chủ biên [43], Trần Công có bài viết “Một số nét về nếp
sống gia đình Công giáo Việt Nam” khẳng định nếp sống gia đình Công giáo
mang đậm nét truyền thống gia đình người Việt với tính cộng đồng, đạo hiếu
và tục thờ cúng Tổ tiên. Tác giả Nguyễn Quang Khải có bài viết “Những ảnh
hưởng của truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo đối
với nếp sống đạo của giáo dân ở giáo xứ Tử Nê” nêu bật những nét đẹp trong
nếp sống của giáo dân giáo xứ Tử Nê (Bắc Ninh) như ảnh hưởng của truyền
thống hiếu học; phong tục trọng thầy, trọng lão, trọng bề trên; phong tục hiếu
18
đễ, hòa mục; phong tục hành thiện; ngoài ra còn các phong tục trong cưới hỏi;
hoạt động rước xách, tế lễ, đọc kinh, kể hạnh… trong nếp sống đạo giáo dân
giáo xứ Tử Nê.
Về mối quan hệ giữa nghi lễ Công giáo và văn hóa dân tộc, tác giả
Phạm Huy Thông trong cuốn sách “Ảnh hưởng qua lại giữa đạo Công giáo và
văn hóa Việt Nam” [163] đã trình bày dấu ấn của đạo Công giáo trong văn hóa
Việt Nam, bao gồm cả những đóng góp tích cực (sáng tạo ra chữ Quốc ngữ;
góp phần phong phú văn hóa Việt qua lễ hội, văn học, nghệ thuật, báo chí Công
giáo; góp phần xây dựng lối sống lành mạnh trong xã hội) và những ảnh hưởng
tiêu cực của đạo Công giáo với văn hóa Việt Nam (khiến người Công giáo khó
khăn trong thể hiện lòng yêu nước và thực thi pháp luật; cản trở người Công
giáo hòa nhập với văn hóa cộng đồng). Tác giả cũng phân tích những tác động
trở lại của văn hóa Việt Nam với đạo Công giáo ở nước ta. Từ đây, tác giả vạch
ra xu hướng phát triển của mối quan hệ giữa đạo Công giáo và văn hóa dân tộc
trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay và đề xuất một số giải
pháp nhằm thúc đẩy tiến trình “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc”.
Quá trình ảnh hưởng của văn hóa truyền thống đến nghi lễ và đời
sống đạo Công giáo còn được mô tả qua cuốn sách “Tổ chức xứ, họ đạo
Công giáo ở Việt Nam: Lịch sử - hiện tại và những vấn đề đặt ra” của
Nguyễn Hồng Dương [50]. Có thể kể đến một số lễ trọng được ông phân
tích tỉ mỉ: lễ Thánh quan thày đầu dòng, tháng Hoa Đức Mẹ; các tục lệ của
người Công giáo vùng đồng bằng Bắc Bộ: tục lệ đón tết Nguyên đán, Tục
thờ thần (bao gồm thờ Mẫu, thờ thần, thánh), thờ cúng Tổ tiên. Vấn đề thờ
cúng Tổ tiên của người Công giáo được nhà nghiên cứu này đặc biệt quan
tâm và tiếp cận với hai nội dung: nhìn nhận và ứng xử của Công giáo về
việc thờ cúng tổ tiên trước và sau Công đồng Vatican II (1962 - 1965).
Trước Công đồng Vatican II, Tòa thánh Lamã và các đoàn truyền giáo có
19
sự cấm đoán nghiêm ngặt với tín đồ Công giáo, nhằm loại bỏ tín ngưỡng
thờ cúng Tổ tiên khỏi đời sống đạo Công giáo. Tuy vậy, thờ cúng tổ tiên
vẫn ảnh hưởng sâu đậm trong tâm thức các tín đồ và họ vẫn tham gia nghi
lễ thờ cúng tổ tiên theo từng cấp độ, mức độ khác nhau. Sau Công đồng
Vatican II, Tòa thánh cho phép các tín đồ thực hiện nghi lễ tôn kính tổ tiên
và sự trở lại với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên này được Nguyễn Hồng
Dương đánh giá giống như một sự thức tỉnh. Qua phân tích của nhà nghiên
cứu này có thể thấy việc tôn trọng và cho phép các tín đồ tôn kính tổ tiên là
biểu hiện đầu tiên của mong muốn hội nhập sâu sắc nghi lễ Công giáo vào
đời sống văn hóa tinh thần người Việt của Tòa thánh Lamã.
Ảnh hưởng tín ngưỡng truyền thống tới nghi lễ Công giáo trong đời
sống đạo người Công giáo còn được đề cập trong các công trình nghiên
cứu về hương ước các làng Công giáo. Cũng trong cuốn sách “Tổ chức xứ,
họ đạo Công giáo ở Việt Nam: Lịch sử - hiện tại và những vấn đề đặt ra”
của nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Dương [50], vấn đề Hương ước cũng
được đề cập. Tác giả khẳng định: dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về
hương ước làng Việt cổ truyền vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhưng nghiên cứu
về hương ước của làng Công giáo mới chỉ có kết quả bước đầu. Hương
ước làng Công giáo chủ yếu được soạn từ đầu thế kỷ XX, có tuổi đời
muộn hơn rất nhiều so với hương ước làng Việt cổ truyền không theo
Công giáo. Do làng Công giáo được hình thành trên cơ sở làng Việt cổ
truyền, hương ước của làng Công giáo trước hết vẫn là hương ước của
một làng Việt, nhưng bên cạnh đó còn có những nội dung đặc thù do tính
chất tôn giáo - đạo Công giáo quy định. Đó là những đặc thù về tế tự, về
tục lệ (cưới xin, tang chế, khao vọng, việc học hành), về phong hóa và về
ruộng đất. Từ đó có thể thấy hương ước làng Công giáo là biểu hiện đặc
thù của làng Công giáo, và dù tuổi đời muộn nhưng nó vẫn mãi là di sản
văn hóa dân tộc cần được bảo vệ.
20
Trong cuốn sách “Nếp sống đạo của người Công giáo Việt Nam”
[43], nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Quế Hương khẳng định làng Công giáo
được hình thành trên cơ sở của làng Việt, nên hương ước làng Công giáo
cũng có những quy định chung như hương ước của các làng Việt và nét
đặc thù là thuần phong tục, trong đó ghi chép lại những lễ nghi Công
giáo bên cạnh những tập tục, lễ nghi truyền thống của người Việt. Hương
ước làng Công giáo có nội dung đặc thù, phản ánh hệ thống thờ tự,
phụng tự Thiên Chúa và các vị thần của người dân trong hệ thống làng
Công giáo. Theo đó có thể thấy việc tôn thờ các vị thánh, thần của từng
làng Công giáo nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh của cộng đồng, đồng
thời đáp ứng mục đích về kinh tế - xã hội của các tổ chức thiết chế đó
thông qua các ngày lễ của làng. Những quy định về nếp sống cổ truyền,
những lề thói, gia phong trong mỗi làng quê Việt Nam trong đó có các
làng Công giáo luôn được mỗi người Công giáo thực hiện đúng và đầy
đủ với trách nhiệm, ý thức của mình. Đó là sự hòa nhập giữa lối sống
của người Việt và lối sống của người Công giáo, giữa truyền thống và
hiện đại trong làng quê Việt Nam.
Nhiều tác giả cũng có các bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu tôn
giáo như: “Thư chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam - một dấu mốc
quan trọng trên con đường Công giáo đồng hành cùng dân tộc” của Nguyễn
Đức Lữ [132]; “40 năm Công đồng Vatican II: Mười việc còn dang dở” của
Mai Thanh Hải [59]; “Hội nhập văn hóa: vấn đề hay màu nhiệm” của Thế
Tâm - Nguyễn Khắc Dương [157]; “Ảnh hưởng của Thư chung 1980 trong
việc xây dựng đời sống văn hóa làng Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng
qua hương ước của Nguyễn Thị Quế Hương” [93]; “Lối sống của người Công
giáo Việt Nam” của Phạm Huy Thông [162]; “Quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng và công tác tôn giáo trong thời kỳ
đổi mới” của Nguyễn Phú Lợi [129]…
21
Nghiên cứu đời sống tín ngưỡng, tôn giáo tại một địa phương cụ thể,
các nhà nghiên cứu thường bao quát những đặc trưng, nét đặc thù xoay quanh
hai khu vực chính: đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Về
những nghiên cứu tại vùng đồng bằng sông Cửu Long có thể kể đến một số
bài viết, công trình như: “Tìm hiểu quá trình truyền bá Kitô giáo vào các dân
tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long
và Đông Nam Bộ” của Nguyễn Văn Diệu [21]; “Tìm hiểu tổ chức xứ, họ đạo
Công giáo Nam Bộ (đến đầu thế kỷ XX)” của Nguyễn Hồng Dương [47];
“Đặc điểm tín ngưỡng và tôn giáo ở Nam Bộ theo cách tiếp cận dân tộc học
tôn giáo của Mạc Đường” [56].
Công trình “Cộng đồng người Việt Công giáo ở đồng bằng sông Cửu
Long” của Trần Hữu Hợp [77] nghiên cứu sự hình thành và phát triển của
cộng đồng người Việt Công giáo cùng các tộc người Khmer, Hoa, Chăm trên
vùng đất đồng bằng sông Cửu Long - vùng đất mới được khai mở hơn 300
năm nay. Luận án tập trung nghiên cứu việc thực hành đức tin, vấn đề bảo lưu
và hội nhập văn hóa của người Việt Công giáo thể hiện trong nghi lễ, âm nhạc,
hôn nhân, tang lễ, kiến trúc, điêu khắc và truyền thống yêu nước của người
Việt Công giáo trên vùng đất này.
Đối với vùng đồng bằng sông Hồng, có một số bài viết, công trình như:
Luận án Tiến sỹ Triết học của Nguyễn Thị Quế Hương: “Hương ước làng
Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng” [94]. Các bài viết: “Về tổ chức ban
hành giáo xứ, họ đạo ở Giáo phận Phát Diệm” của Lê Văn Thơ [164]; “Một
số chính sách của các vua đầu triều Nguyễn đối với tín ngưỡng thờ thần ở
làng xã Bắc Bộ” của Trần Đăng Sinh [154]; “Tang thức người Việt theo Công
giáo, Phật giáo và theo phong tục, tín ngưỡng truyền thống ở vùng đồng bằng
Bắc Bộ” của Nguyễn Tất Đạt [54]; “Hệ quả quá trình tiếp xúc giữa Công giáo
với tín ngưỡng bản địa của người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ” của
Nguyễn Hồng Dương [34].
22
1.2.2. Những công trình nghiên cứu về vấn đề ảnh hưởng của tín
ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu – Nam Định
1.2.2.1. Tài liệu về vấn đề ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định trước Công đồng Vatican II
Đó trước hết là hệ thống hương ước làng Công giáo thuộc giáo phận
Bùi Chu - Nam Định. Qua một số điều khoản quy định, các hương ước ít
nhiều cho thấy ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời
sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu giai đoạn trước Công
đồng Vatican II. Trong đó phải kể đến các hương ước như “Hương ước làng
Trung Lao, tổng Thần Lộ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định” [110]; “Hương
ước làng Phú Nhai, tổng Phú Nhai, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định” [117];
“Hương ước làng Du Hiếu, tổng Hoành Thu, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam
Định” [98]; “Hương ước làng Đại Đê, tổng Duyên Hưng Hạ, huyện Trực
Ninh, tỉnh Nam Định” [99]; “Hương ước làng Lạc Đạo, tổng Sĩ Lâm, phủ
Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định” [101]; “ Hương ước làng Vĩnh Trị, xã Đại An,
phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định” [113]…
Hương ước làng Công giáo ở Bùi Chu có kết cấu như sau:
Những người tham gia lập hương ước: là những người có chức quyền
trong làng như chức dịch, hương lý, lý trưởng hoặc những người lớn tuổi,
người có trình độ học vấn cao…
Lý do lập hương ước: trình bày về việc cần thiết phải soạn thảo bản
hương ước
Nội dung hương ước: phần này ghi lại các điều quy định từng vấn đề cụ
thể của làng Công giáo như: hội đồng tộc biểu; các chức dịch làng xã; lương
bổng và phụ cấp cho các chức dịch; sửa sang đường sá, cầu cống, đê điều; tế
lễ, phong hóa…
23
Ngày tháng lập hương ước
Họ và tên chức tước của triều quan, quan viên, chữ ký văn thuộc tác giả
của bản hương ước và đóng dấu.
Các hương ước đề cập khá nhiều đến lệ tục, phong hóa của các làng
Công giáo ở Bùi Chu. Qua hương ước làng Công giáo thuộc giáo phận Bùi
Chu, đời sống đạo của người Công giáo Bùi Chu - Nam Định với các lễ nghi
và thực hành các nghi lễ Công giáo, sự hội nhập văn hóa Công giáo trong nền
văn hóa Việt Nam cũng được bộc lộ rõ nét.
1.2.2.2. Tài liệu về thực trạng ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định từ sau Công đồng Vatican II đến nay
Thực trạng đời sống đạo của cộng đồng người Công giáo ở Bùi Chu
cũng được đề cập đến trong một số bài viết, công trình của các nhà nghiên
cứu trong và ngoài nước như: “Ảnh hưởng của giáo lý, giáo luật và tổ chức
giáo hội cơ sở của Công giáo đến hành vi sinh sản của giáo dân (qua nghiên
cứu cộng đồng Công giáo xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam
Định)” của Phạm Quyết [161]; “Công tác giữ gìn an ninh trật tự trong dịp
“Năm thánh ban ơn toàn xá 1998” tổ chức tại địa phận Bùi Chu, Nam Định”
của Mai Quang Hiện [64].
Trong “Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hóa Việt Nam” của
Nguyễn Hồng Dương [42], lễ kỷ niệm Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội - thánh
quan thày địa phận xứ đạo Phú Nhai được trình bày tỷ mỷ, chi tiết.
Trong cuốn “Nếp sống đạo của người Công giáo Việt Nam” [43],
nhà nghiên cứu Mai Thanh Hải có quan tâm tới vấn đề sống đạo tại giáo
xứ Trung Lao. Ông mô tả những nét truyền thống tại làng quê, vẻ đẹp
những người con gái vùng Trung Lao, những náo nhiệt, sôi động dịp
Tháng Hoa Đức Mẹ, cuộc rước tượng Chúa vào thứ sáu Tuần Thánh, tục
lệ cưới xin...
24
Luận văn “Đấu tranh với hoạt động tôn giáo trái pháp luật trên địa
bàn tỉnh Nam Định trong tình hình hiện nay” của Ngô Anh Sáng [153] và
Luận văn “Quản lý Nhà nước về an ninh, trật tự đối với hoạt động của đạo
Thiên Chúa trên địa bàn huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định” của Trần
Văn Toàn [172] đề cập tới đời sống đạo của người Công giáo tại giáo phận
Bùi Chu nhưng tập trung vào khía cạnh liên quan tới an ninh trật tự, quan
tâm tới những hoạt động trái pháp luật như hoạt động xây dựng, sửa chữa
cơ sở vật chất trái phép, khiếu kiện đất đai,… Đây là nguồn tài liệu cung
cấp cho tác giả cái nhìn đa chiều về đời sống đạo của người Công giáo ở
Bùi Chu, thấy rõ những hiện tượng tiêu cực vẫn còn tồn tại ở đây cần phải
được khắc phục, giải quyết.
1.2.2.3. Tư liệu thu thập qua thực tế
Nguồn tư liệu điền dã được tổng hợp trong suốt quá trình tác giả luận
án khảo sát tại địa bàn nghiên cứu - giáo phận Bùi Chu - Nam Định. Theo đặc
điểm địa lý - hành chính, vùng giáo phận Bùi Chu bao gồm các huyện Hải
Hậu, Xuân Trường, Giao Thủy, Trực Ninh, Nghĩa Hưng và một phần thành
phố Nam Định. Trong đó, tác giả tập trung khảo sát ở giáo xứ Giáp Nam
huyện Hải Hậu, giáo xứ Phú Nhai, giáo xứ Bùi Chu, huyện Xuân Trường, là
những địa phương có đông đảo người Công giáo nên được chọn làm đại diện
cho mẫu nghiên cứu.
Tư liệu phỏng vấn định lượng: Đây là tư liệu được tổng hợp từ các
phiếu điều tra xã hội học bằng bảng hỏi về ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền
thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo Bùi Chu - Nam Định
(300 phiếu )
Tư liệu phỏng vấn sâu: Đây là nguồn tài liệu được tác giả thu thập được
khi tiến hành phỏng vấn trực tiếp một số đối tượng người Công giáo như linh
mục, trùm chánh, cán bộ, thân nhân liệt sỹ, nông dân, những người làm nghề
25
tự do. Tác giả sử dụng tư liệu phỏng vấn sâu để làm rõ một số nội dung trong
phỏng vấn định lượng như: quan niệm về việc lựa chọn thờ phụng một số
thánh quan thày, cách thức cử hành tôn kính tổ tiên, lễ kính thánh Đa Minh,
Lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội...
Tư liệu ảnh, phim video: tập hợp các hình ảnh, phim tư liệu về đám
tang, đám cưới, Đại lễ kính Thánh Đa Minh, Lễ kính Đức Mẹ vô nhiễm
nguyên tội, Thứ Sáu Tuần thánh... được tác giả thu thập trong suốt quá trình
điền dã. 1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ GIẢI PHÁP CHUNG VÀ
GIẢI PHÁP CỤ THỂ NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ
ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
ĐẾN ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO PHẬN BÙI CHU
1.3.1. Những công trình nghiên cứu về giải pháp chung cho tôn giáo
ở Việt Nam, trong đó có đề cập đến Công giáo
Giải quyết các vấn đề liên quan tới tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay trước hết cần xuất phát từ quan điểm Mác - Lênin về tín ngưỡng,
tôn giáo. Những quan điểm này được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu. Trong cuốn “Vấn đề về tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng
Cộng sản Việt Nam” của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương[13] , vấn đề
bản chất tôn giáo và nguồn gốc của tôn giáo được phân tích theo đúng quan
điểm macxit. Bản chất tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn
tại xã hội, nó có nguồn gốc kinh tế - xã hội, nguồn gốc nhận thức và nguồn
gốc tâm lý.
Cuốn sách “Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam - lý luận và
thực tiễn” của Đỗ Quang Hưng [91] đã nêu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với nhận thức lý luận của Đảng Cộng sản
Việt Nam về tôn giáo; nêu quá trình phát sinh, phát triển tư duy lý luận của
Đảng ta về tôn giáo và vấn đề tôn giáo; quá trình Đảng và Nhà nước ta đã
26
xây dựng, phát triển và hoàn thiện đường lối, chính sách tôn giáo ngày càng
đúng đắn, hiệu quả qua các giai đoạn lịch sử, chủ yếu từ sau Cách mạng
tháng Tám đến nay.
Cuốn sách “Tôn giáo - Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt
Nam hiện nay” của Nguyễn Đức Lữ [133] khẳng định tôn giáo không chỉ là vấn
đề tinh thần, tâm linh mà còn có quan hệ đến các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội như: chính trị, đạo đức, văn hóa… Mỗi tôn giáo lại có lịch sử hình thành, du
nhập, đặc điểm giáo lý và tổ chức… với những đặc trưng riêng, vì thế nhìn nhận,
đánh giá tôn giáo phải theo quan điểm toàn diện và lịch sử - cụ thể. Cuốn sách
phân tích nhận thức của Đảng ta qua những giai đoạn lịch sử như giai đoạn
1930-1945, 1945-1975, 1975-1986 và giai đoạn đổi mới để rút ra bài học nhằm
tiếp tục đổi mới tư duy trên lĩnh vực tôn giáo trong tình hình hiện nay.
Cuốn sách “Tôn giáo trong văn hóa Việt Nam” của nhà nghiên cứu
Nguyễn Hồng Dương [49] có đề cập vấn đề: chính sách văn hóa đối với tôn
giáo. Trong đó tác giả đúc kết một số quan điểm cốt yếu như: tôn trọng tự
do tín ngưỡng tôn giáo, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tiến trình cách mạng
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; Đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước đảm bảo cho các tôn giáo SỐNG TỐT ĐỜI,
ĐẸP ĐẠO; Xây dựng môi trường văn hóa, thực hiện lành mạnh hóa các
hoạt động tôn giáo.
Trong cuốn “Quan điểm đường lối của Đảng về tôn giáo và những vấn
đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” [45], nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Dương
đã khái quát được tình hình đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam, khái quát kinh
nghiệm giải quyết vấn đề tôn giáo ở một số quốc gia: Trung Quốc, Thái Lan,
Singapore, chỉ rõ một số vấn đề đặt ra trong tình hình hiện nay. Từ đó, nhà
nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị như: tiếp tục đổi mới nhận thức về
công tác tôn giáo, đổi mới về quản lý tôn giáo; tiếp tục hoàn thiện chính sách,
27
pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng và công
ước quốc tế; quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo
hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng
quy định của pháp luật; Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh chống
những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại
khối đoàn kết dân tộc.
Đây là nguồn tài liệu có giá trị, làm căn cứ để tác giả luận án đề xuất
kiến nghị theo mục tiêu mà đề tài đặt ra. Tuy nhiên, các tác giả công trình nói
trên mới đề cập tới giải pháp chung nhất, còn giải pháp cụ thể liên quan đến
ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người
Công giáo ở giáo phận Bùi Chu thì rất ít được đề cập tới.
1.3.2. Những văn bản về giải pháp cụ thể
Trong quá trình đi khảo sát thực tế đề tài luận án, tác giả đã có sự tổng
hợp các báo cáo tổng kết, các văn bản ở địa phương. Cụ thể là :
Báo cáo tóm tắt đề án “Một số giải pháp tăng cường hệ thống chính trị
vùng có đông đồng bào theo đạo Công giáo nhằm đảm bảo ổn định chính trị -
xã hội trên địa bàn huyện Xuân Trường - tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện
nay” của Huyện ủy - UBND huyện Xuân Trường [82] .
“UBND huyện phối hợp Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện trong phong
trào thi đua xây dựng khu dân cư tiên tiến, khu dân cư văn hóa; xây dựng xã,
thị trấn tiên tiến, văn hóa” của UBND huyện Hải Hậu [184].
“:Báo cáo kết quả triển khai thực hiện Chỉ thị 1940/2008/CT-TTg của Thủ
tướng chính phủ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo” của UBND tỉnh Nam Định [186].
“Người Công giáo tỉnh Nam Định phát huy truyền thống yêu nước,
đoàn kết để là người Công giáo tốt cũng là người công dân tốt góp phần xây
dựng quê hương giầu đẹp, văn minh” của Ủy ban đoàn kết Công giáo Việt
Nam tỉnh Nam Định [181].
28
“Báo cáo chuyên đề Công giáo tại tỉnh Nam Định gắn bó, đồng hành
cùng dân tộc, những khó khăn, thuận lợi. Kiến nghị chủ trương và giải pháp”,
Ban tôn giáo, Sở Nội Vụ tỉnh Nam Định [12].
“Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2012,
phương hướng nhiệm vụ năm 2013”, UBND xã Xuân Phương [188].
Đây là những luận cứ quan trọng để tác giả xây dựng các giải pháp cho
vấn đề ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam tới đời sống đạo của
người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu, bất cứ giải pháp đưa ra đều phải dựa
trên quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về công tác tôn
giáo. Qua một số báo cáo ở địa phương, nghiên cứu sinh thấy rằng, trong xây
dựng văn hóa mới, các báo cáo có nói đến lễ hội truyền thống dưới góc cạnh
khác nhau, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đưa ra các giải pháp nhằm duy trì tín
ngưỡng truyền thống theo đúng hướng tích cực, từ đó mà ảnh hưởng tích cực
đến đời sống đạo của người Công giáo Bùi Chu khi kế thừa những giá trị của
tín ngưỡng truyền thống Việt Nam. 1.4. NHỮNG VẤN ĐỀ MÀ LUẬN ÁN KẾ THỪA VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU ĐẶT RA
1.4.1. Những vấn đề mà luận án kế thừa Từ những vấn đề đã trình bày của các nhà nghiên cứu với các công
trình, tài liệu kể trên, có thể thấy vấn đề ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền
thống Việt Nam tới đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu -
Nam Định đã được giải quyết một phần. Có thể khái quát lại như sau:
Một là, các nhà nghiên cứu đã trình bày tổng quát các loại hình tín
ngưỡng truyền thống Việt Nam như tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng
thờ Mẫu, thờ Thành Hoàng làng, tín ngưỡng Phồn thực…
Hai là, các tài liệu, văn bản, các công trình nghiên cứu đã chỉ ra đặc
điểm Công giáo về giáo luật, lễ nghi, cơ cấu phẩm trật, tổ chức cũng như lịch
sử Công giáo ở Việt Nam nói chung, ở Bùi Chu nói riêng.
29
Ba là, các công trình trên thể hiện rõ nét đời sống đạo của giáo dân có
chịu ảnh hưởng bởi các tín ngưỡng truyền thống Việt Nam.
Bốn là, các công trình cũng phân tích các giải pháp cho việc xây dựng
đời sống “tốt đời, đẹp đạo” của giáo dân, hướng đến tinh thần Người Công
giáo tốt cũng là người công dân tốt.
Các công trình trên rõ ràng là nguồn tư liệu, tài liệu có giá trị giúp tác
giả luận án có cái nhìn khoa học, hệ thống để khảo cứu tình hình tín ngưỡng,
tôn giáo cũng như ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam tới đời
sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định.
Tuy nhiên, nhiều vấn đề có liên quan tới đề tài nghiên cứu chỉ được đề
cập tới ở mức độ hạn chế. Những công trình khảo cứu mối quan hệ, ảnh
hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam với đời sống đạo của người
Công giáo dưới góc độ triết học là rất ít ỏi. Thêm nữa, những bài viết, công
trình quan tâm tới quá trình ảnh hưởng này ở một địa danh cụ thể, nhất là ở
giáo phận Bùi Chu - Nam Định là vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ.
1.4.2. Những vấn đề nghiên cứu đặt ra Một là, luận án chỉ rõ một số vấn đề lý luận của tín ngưỡng truyền
thống Việt Nam và Công giáo, ở đó khái quát lại những đặc điểm của tín
ngưỡng truyền thống Việt Nam, nhấn mạnh tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên là cốt
lõi của hệ thống tín ngưỡng; đặc điểm của Công giáo và Công giáo ở Việt
Nam; đặc điểm của giáo phận Bùi Chu về điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa
có liên quan tới vấn đề nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho vấn đề
ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người
Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định.
Hai là, luận án thông qua việc phân tích thực trạng ảnh hưởng của tín
ngưỡng truyền thống tới đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi
Chu với thực hành lễ nghi của thờ cúng tổ tiên, lễ kỷ niệm Thánh quan thày
đầu dòng, tôn kính Đức Maria, Tết Nguyên đán… Từ đó chỉ rõ những ảnh
30
hưởng tích cực và tiêu cực của tín ngưỡng truyền thống tới đời sống đạo của
người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định.
Ba là, luận án dựa trên cơ sở những vấn đề đặt ra trên đây, đề xuất một
số giải pháp nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực, phát huy những ảnh
hưởng tích cực của tín ngưỡng truyền thống tới đời sống đạo của người Công
giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định, góp phần xây dựng nếp sống văn hóa
cho người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu.
Vấn đề ảnh hưởng văn hóa dân tộc với đời sống đạo của người Công
giáo Việt Nam là mảng đề tài mà nghiên cứu sinh đã trăn trở trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu từ bậc đại học, cao học và đến nay nghiên cứu
sinh nhận thấy vấn đề này vẫn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Vì thế
nghiên cứu sinh có mong muốn được tiếp tục nghiên cứu vấn đề này theo
phương diện ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống đến đời sống đạo của
người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định.
31
Chương 2
TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
VÀ ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO PHẬN
BÙI CHU - NAM ĐỊNH - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM VÀ TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM Ở GIÁO PHẬN BÙI CHU – NAM ĐỊNH
2.1.1. Tín ngưỡng truyền thống Việt Nam Từ tâm thức sùng bái, trong đời sống cộng đồng hình thành các tín
ngưỡng. Mỗi loại tín ngưỡng đều có nguồn gốc sâu xa từ quan hệ giữa con người với các đối tượng siêu nhiên nhất định, từ đó hình thành các phong tục tập quán và nghi lễ trong các tín ngưỡng.
Cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa tương đối hoàn chỉnh về khái niệm tín ngưỡng truyền thống. Tuy nhiên, có thể hiểu rằng, tín ngưỡng truyền thống là loại hình tín ngưỡng do chính nhân dân - trước hết, những người lao động - sáng tạo ra trên cơ sở những tri thức được phản ánh và trải nghiệm cảm tính thuộc đời sống tâm linh của bản thân mỗi người và cộng đồng.
Tín ngưỡng truyền thống chủ yếu chỉ có niềm tin, nó nằm trong tâm thức của con người trong sinh hoạt dân dã và được biểu hiện ra chủ yếu trong phong tục, tập quán sinh hoạt. Nó không mang tính triết lý nhân sinh hoàn chỉnh, chưa có tính hệ thống, và cũng chưa hình thành giáo luật.
Cộng đồng người Việt cũng có hệ thống các tín ngưỡng truyền thống. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã đưa ra khái niệm hoạt động tín ngưỡng:
Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần, thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội. [190]
Như vậy, có thể hiểu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là loại hình tín
ngưỡng do cư dân Việt truyền thống sáng tạo nên trong quá trình lao động sinh hoạt.
32
Có nhiều cách phân loại các tín ngưỡng truyền thống Việt Nam. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm trong cuốn sách “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” [158] đã phân chia các tín ngưỡng truyền thống Việt Nam thành ba loại: Sùng bái sự sinh sôi nảy nở của tự nhiên và con người: tín ngưỡng Phồn thực; tín ngưỡng sùng bái tự nhiên (thờ động vật và thực vật); tín ngưỡng sùng bái con người (tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ Thổ công, tín ngưỡng thờ thần Thành Hoàng, thờ vua tổ, thờ Tứ bất tử).
Trong cuốn “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam”, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Lữ cho rằng tín ngưỡng dân gian - một trong những loại hình tín ngưỡng phản ánh rõ nét đặc trưng của văn hóa dân tộc [131, tr.5]. Như vậy, nhà nghiên cứu này đã đồng nhất tín ngưỡng dân gian với tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, qua đó đã đề cập đến một số tín ngưỡng điển hình như tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc, tín ngưỡng Thành Hoàng làng, tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng Phồn thực.
Như vậy, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam và hoạt động tín ngưỡng ở Việt Nam hết sức phong phú, có nhiều cách phân loại các loại hình, nhưng trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận án chỉ đề cập tới tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thành Hoàng làng và tín ngưỡng thờ Mẫu - những tín ngưỡng điển hình của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ có liên quan trực tiếp tới đời sống tinh thần cư dân vùng giáo phận Bùi Chu - Nam Định.
2.1.2. Tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định
2.1.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở vùng giáo phận Bùi Chu - Nam Định
Điều kiện tự nhiên Giáo phận Bùi Chu - Nam Định ở phía đông nam đồng bằng Bắc Bộ và
giáp với biển. Đồng bằng Bắc Bộ là một vùng châu thổ nằm quanh khu vực hạ lưu sông Hồng, vì thế còn được gọi là đồng bằng sông Hồng.
33
Về hành chính, hiện nay đồng bằng Bắc Bộ bao gồm 10 tỉnh và thành
phố: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Hải
Phòng, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình.
Đồng bằng Bắc Bộ là khu vực có một nền văn hoá đặc sắc và độc đáo, là
cái nôi của nhiều nền văn hoá nổi tiếng trải suốt tiến trình lịch sử văn minh Việt
Nam với các trung tâm tiêu biểu: Bạch Hạc, Cổ Loa, Thăng Long - Hà Nội.
Trong suốt một nghìn năm Bắc thuộc và thời kỳ đầu độc lập, người Việt
đã phải sống tập trung trong một không gian cực kỳ chật hẹp ở vùng châu thổ
sông Hồng, cố kết với nhau trong cộng đồng làng xóm để quai đê lấn biển,
khai phá rừng rậm mở rộng khu vực sinh sống và chống trả trước sự xâm lược
áp bức và âm mưu đồng hoá của kẻ thù - một âm mưu thâm độc mang ý nghĩa
sống còn đối với dân tộc Việt Nam.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ
hiện nay bao gồm 38/54 dân tộc cùng sinh sống và làm việc, trong đó người
Việt chiếm đại đa số (chiếm hơn 99%). Chính vì thế, trong sinh hoạt tâm linh,
tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt giữ vai trò trung tâm và là yếu tố chủ đạo
của khu vực này. Đồng bằng Bắc Bộ có thể xem là một vùng đặc thù của Việt
Nam, có những đặc trưng mà những vùng khác không có hoặc không đậm nét.
Người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ sống chủ yếu bằng nông nghiệp,
điều đó dẫn đến hệ thống tín ngưỡng của họ bao gồm thờ cúng tổ tiên, thờ
cúng thần linh bảo vệ dòng họ, làng xóm, lao động sản xuất và thờ Mẫu.
Thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, giáo phận Bùi Chu hiện nay nằm
gọn trong 6 huyện của tỉnh Nam Định, bao gồm các huyện Xuân Trường,
Giao Thuỷ, Hải Hậu, Nam Trực, Trực Ninh, Nghĩa Hưng và khu vực xứ
Khoái Đồng, thành phố Nam Định, phía Đông Bắc giáp giáo phận Thái
Bình, phía Tây Bắc là sông Đào nối sông Hồng với sông Đáy phân ranh
giới với giáo phận Hà Nội, phía Tây Nam là giáo phận Phát Diệm, phía
Đông Nam là biển Đông.
34
Khu vực giáo phận Bùi Chu được bao bọc bởi hai con sông lớn là sông
Hồng và sông Đáy, hai con sông cung cấp nước, phù sa tạo nên những cánh
đồng màu mỡ, phì nhiêu. Tốc độ tiến ra biển hàng trăm mét mỗi năm khiến
Nam Định có tiềm năng đất đai phục vụ phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế
nông nghiệp. Ngoài ra, phải kể đến sông Ninh Cơ - một nhánh sông Hồng -
nằm giữa giáo phận không chỉ mang nước, phù sa tới cho các huyện mà còn là
trục giao thông thuận tiện. Nhờ đặc điểm sông ngòi, bờ biển trên, trong lịch
sử Công giáo ở Việt Nam, các thừa sai không ngần ngại lựa chọn khu vực này
làm nơi truyền giáo và dễ dàng đặt chân đến đây, cũng như rất thuận tiện
trong việc dùng thuyền để đi rao giảng Tin Mừng.
Không chỉ giao thông bằng đường sông, đường biển thuận tiện mà ở
Bùi Chu, giao thông đường bộ cũng rất thuận tiện. Nhờ vậy, cứ dịp lễ trọng,
người Bùi Chu đi làm ăn xa ở khắp nơi lại tề tựu đông đủ, bày tỏ niềm tin tôn
giáo đầy nhiệt huyết của mình.
Ở vùng đất này, phù sa sông Hồng bồi đắp rất màu mỡ, thuận lợi cho
việc phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, cũng như một số tỉnh ven biển vùng
đồng bằng Bắc Bộ, cư dân nơi đây luôn phải chống chọi với bão gió, lụt lội.
Chính điều kiện tự nhiên này khiến người dân hình thành nên đời sống tín
ngưỡng đa dạng, vừa mang những sắc thái chung của đồng bằng Bắc Bộ vừa
có những nét đặc thù.
Vùng đất thuộc giáo phận Bùi Chu là vùng đất có lịch sử khá lâu
đời. Ngoài một số xã ven biển là Nghĩa Hưng, Hải Hậu, Giao Thủy tồn tại
từ giai đoạn cuối triều nhà Lê. Dựa trên các kết quả nghiên cứu khoa học
từ đầu thế kỷ XX đến nay đã khẳng định khu vực thuộc giáo phận Bùi
Chu là khu vực từ sớm đã có con người cư trú và khẩn hoang, mở rộng đất
đai. Có thể khẳng định, từ thời Lý - Trần đến thời Lê, vùng đất thuộc giáo
phận Bùi Chu được khai phá khá mạnh mẽ. Các làng xã thuộc các huyện ở
35
phía nam như Trực Ninh, Xuân Trường, Hải Hậu, Giao Thủy, Nghĩa Hưng
đều được hình thành là sản phẩm của quá trình khai hoang. Như vậy, đây
chủ yếu là vùng đất cổ, hình thành nhiều làng Việt truyền thống như làng
Đào Khê, làng Hải Lạng Thượng, làng Lộng Điền (phủ Nghĩa Hưng); làng
Bách Tính, làng Thượng Nông, làng Sĩ Quan, làng Ngọc Tỉnh, làng Thạch
Cầu, làng Đồng Quỹ, làng Xối Tây (huyện Nam Trực); làng Kiên Lao
(phủ Xuân Trường).
Trong các làng xã cổ xuất hiện hương ước, trong đó quy định một cách
chặt chẽ về đời sống sản xuất, tổ chức và quản lý xã hội, sinh hoạt tinh thần
và văn hóa của cư dân trong làng xã ấy.
Cùng với nghề trồng lúa nước truyền thống, ở các làng cổ vùng đất Bùi
Chu có sự ổn định về tín ngưỡng truyền thống, trong đó nổi lên tín ngưỡng
thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng Thành Hoàng làng và tín ngưỡng thờ Mẫu, là nơi
bảo tồn những di sản văn hóa truyền thống dân tộc.
Điều kiện kinh tế - xã hội
Điều kiện tự nhiên ở Bùi Chu tạo nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế -
xã hội toàn diện. Vùng đất này có nhiều đặc sản nổi tiếng như: Tám xoan Hải
Hậu, Nếp Bắc Hải Hậu... Ngoài trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản rất phát triển,
vùng đất Bùi Chu còn nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp chế biến như:
xay xát gạo đặc sản, chế biến nước mắm, bột cá, chế biến thịt lợn, gia cầm,
thức ăn gia súc... Bên cạnh đó, Bùi Chu còn có nhiều tiềm năng để phát triển
công nghiệp vật liệu xây dựng và hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ tiêu dùng
cũng như xuất khẩu đồ gỗ dân dụng, đồ thủ công mỹ nghệ từ mây, tre... Từ
phát triển công nông nghiệp, Bùi Chu có lợi thế trong phát triển giao thông,
vận tải, xuất khẩu, dịch vụ và du lịch.
Ở giáo phận Bùi Chu thì dân tộc Kinh là chủ yếu. Giáo dân Bùi Chu
sinh đẻ nhiều, vì thế số người Công giáo ở đây khá đông đảo. Cho nên, dù chỉ
với diện tích nhỏ bé nhưng giáo phận Bùi Chu lại có số lượng giáo dân đông
36
thứ 4 trên tổng số 26 giáo phận của Giáo hội Việt Nam. Những đặc điểm này
khiến Công giáo nơi đây phát triển nhanh, thuận lợi cho các giám mục, linh
mục lãnh đạo, quản lý.
Các huyện thuộc giáo phận Bùi Chu là những đầu mối giao thông quan
trọng nối biển với thành phố Nam Định, có vị trí chiến lược về kinh tế, chính
trị và an ninh quốc phòng. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển đời sống về
mọi mặt cho nhân dân các huyện nói chung, đồng bào theo đạo nói riêng,
đồng thời cũng là nhân tố tích cực góp phần xây dựng nếp sống văn hóa tốt
đẹp cho người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước, các huyện thuộc
khu vực giáo phận Bùi Chu đã phấn đấu giành được những kết quả quan
trọng và toàn diện, đời sống nhân dân ổn định và từng bước được cải thiện.
Y tế được tăng cường cả về tổ chức và trang thiết bị. Các hoạt động văn
hóa, văn nghệ, thông tin truyền thông, thể dục thể thao... đã có nhiều đổi
mới tích cực cả về nội dung và hình thức, góp phần quan trọng động viên
nhân dân đoàn kết tham gia xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. [7].
Có thể nói, giáo phận Bùi Chu là một trung tâm lớn của Công giáo ở
Việt Nam. Diện tích giáo phận khá nhỏ bé nhưng là một trong những giáo
phận có số lượng giáo sỹ, tín đồ thuộc vào loại đông nhất giáo hội Công
giáo ở Việt Nam, cũng là giáo phận có hệ thống cơ sở vật chất rất lớn so
với các giáo phận khác trong cả nước. Hơn nữa, về mặt địa lý, đây là nơi có
vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng nên rất được giáo
hội Công giáo quan tâm phát triển. Chính vì thế, trong số 26 giáo phận, nếu
giáo phận Phát Diệm được xem là “Vatican” của giáo hội Công giáo ở Việt
Nam thì giáo phận Bùi Chu được Tòa thánh xem là “viên ngọc” của Tòa
thánh ở châu Á.
37
Trong Giáo luật, xứ đạo là một bậc trong hệ thống hành chính giáo
của Giáo hội, là đơn vị hạt nhân của Giáo hội. Do điều kiện lịch sử, địa lý,
xứ đạo thành lập thường theo địa dư hành chính của thôn, làng, xã. Họ đạo
có thể gắn với thôn làng, nhưng thông thường gắn với xóm là đơn vị của
làng xã. Vì thế, xứ đạo với làng xã ở Bùi Chu nói riêng, vùng đồng bằng
Bắc Bộ nói chung gắn bó rất chặt chẽ với nhau. Địa dư của xứ, họ đạo
trùng với địa dư của làng, tên làng được đặt cho tên xứ, họ đạo. Ruộng đất,
ao hồ của làng cũng được xem là của xứ, họ đạo.
Vì được hình thành trên cơ sở làng xã truyền thống, làng Công giáo Bùi
Chu vốn là làng Việt truyền thống, chỉ khác là ở đó sinh hoạt tôn giáo - Công
giáo giữ vai trò chủ đạo. Cũng bởi hình thành từ các làng Việt truyền thống,
trong đời sống tinh thần của cư dân Bùi Chu có sự hiện diện đậm nét của các
tín ngưỡng truyền thống Việt Nam.
2.1.2.2. Tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu -
Nam Định
Tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định là
hệ thống tín ngưỡng với những niềm tin thiêng liêng vào các vị thần thánh,
được hình thành trong đời sống lao động, sinh hoạt của người Bùi Chu - Nam
Định, biểu hiện niềm tin thiêng liêng của người Bùi Chu - Nam Định trong
đời sống lao động, sinh hoạt ấy.
Tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định
chịu ảnh hưởng quyết định từ điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội vùng Bùi
Chu - Nam Định. Khẳng định vai trò quyết định của đời sống vật chất, điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đến đời sống tinh thần của con người, trong đó
có tín ngưỡng, C.Mác đã khẳng định trong tác phẩm kinh điển “Bản thảo kinh
tế - triết học năm 1844” như sau:
38
Về mặt thể xác, thì con người cũng giống như con vật, đời sống có
tính loài là ở chỗ con người (cũng như con vật) sống bằng giới tự
nhiên vô cơ, (...). Cũng như về mặt lý luận, thực vật, động vật, đá,
không khí, ánh sáng... là một bộ phận của ý thức con người, một
phần với tính cách là đối tượng của khoa học tự nhiên, một phần
với tính cách là đối tượng của nghệ thuật, là giới tự nhiên tinh thần
vô cơ của con người, là món ăn mà con người phải chuẩn bị trước
rồi mới ăn và tiêu hóa được, - về mặt thực tiễn, những cái đó cũng
là một bộ phận của đời sống con người và của hoạt động con người.
Về thể xác, con người chỉ sống bằng những sản phẩm tự nhiên ấy,
dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên liệu, áo quần, nhà ở... Về mặt
thực tiễn, tính phổ biến của con người biểu hiện ra chính ở cái tính
phổ biến biến toàn bộ giới tự nhiên thành thân thể vô cơ của con
người, vì thứ nhất, giới tự nhiên là tư liệu sinh sống trực tiếp đối với
con người, và thứ hai giới tự nhiên là vật liệu, đối tượng, và công cụ
của hoạt động sinh sống của con người [139, tr.134-135]. Như vậy là, đời sống vật chất, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội mà
con người đang sống là cơ sở làm hình thành đời sống tinh thần, đời sống tín
ngưỡng của những con người đó. Vì thế, nằm ở đồng bằng Bắc Bộ, tín
ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu – Nam Định cũng mang
đầy đủ những đặc trưng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam vùng đồng
bằng Bắc Bộ, trong đó nổi bật là tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng
Thành Hoàng làng và tín ngưỡng thờ Mẫu, nhưng bên cạnh đó, các tín
ngưỡng này còn mang nét khác biệt với các vùng khác của đồng bằng Bắc Bộ,
phản ánh nét đặc thù của chính khu vực đó.
Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên
Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên có ảnh hưởng khá đậm nét trong đời sống tâm linh các cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tín ngưỡng này có cơ sở tồn tại
39
vững chắc trong xã hội Việt Nam truyền thống, đặc biệt là ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thờ cúng Tổ tiên dần được mở rộng theo các quan niệm:
Tổ tiên là những người trực hệ (gia tiên) Tổ tiên theo dòng họ (tổ họ) Tổ tiên theo làng xã (tổ làng) với các nghi thức về thành hoàng sẽ được
trình bày ở phần sau. Tổ nước, theo GS. Đặng Nghiêm Vạn là Hùng Vương. Có thể khẳng định, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên đã được hình thành rất
lâu đời trong đời sống người Việt truyền thống vùng đồng bằng Bắc Bộ. Từ thời Hùng Vương, người ta đã tìm thấy nhiều mộ táng, cho thấy lúc này con người đã có ý thức về cội nguồn, tổ tiên, về thế giới bên kia. Sau này, khi Nho giáo du nhập vào nước ta, với sự hình thành các nhà nước phong kiến, thờ cúng tổ tiên ngày càng phát triển và dần được hoàn thiện, được chuẩn hóa và đưa vào cuốn Thọ Mai Gia lễ. Cùng với thời gian, quan niệm về thờ cúng tổ tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ nói chung, người Bùi Chu nói riêng dần được thể hiện rõ nét qua các nội dung: quan niệm về cái chết, tang chế, các hình thức cúng, lễ vật.
Quan niệm về cái chết và niềm tin về linh hồn bất tử. “Chết” hàm chỉ một số nghĩa: mất khả năng sống, không còn biểu hiện
sự sống; mất khả năng hoạt động do hư hỏng; mất tác dụng do đã biến chất; (trạng thái hoặc hoạt động) đạt đến mức độ quá lắm, như không thể chịu hơn được nữa [202, tr.161].
Người Việt truyền thống thường tránh dùng từ này, nhằm làm vơi bớt nỗi thương tiếc, xót xa của người thân thì họ sử dụng một số từ đồng nghĩa như "qua đời", "khuất núi", "qui tiên".
Qua đó, có thể thấy rằng người Việt truyền thống quan niệm về cái chết còn khá mơ hồ, nhưng khẳng định chết không phải là hết, chỉ giống như một chuyến đi xa, sự kết thúc một chặng đường ngắn ngủi để bước sang chặng đường khác...
40
Quan niệm về cái chết của người Việt gắn với quan niệm về linh hồn.
Người Việt cho rằng trong con người tồn tại hai phần: thể xác và linh hồn.
Thể xác chỉ phần thân thể vật chất của con người.
Linh hồn là thực thể tinh thần đối lập với thể xác.
Người Việt truyền thống cho rằng chết là về "thế giới bên kia", về "nơi chín
suối", muốn tới đó phải đi bằng thuyền. Ở nhiều nơi thuộc đồng bằng Bắc bộ vẫn
còn giữ nghi lễ "chèo đưa linh" để tiễn đưa linh hồn về nơi chín suối.
Chính niềm tin rằng chết là về nơi chín suối với tổ tiên, “sống gửi thác
về”, và dù ở nơi đó, ông bà tổ tiên vẫn đi về thăm nom, phù hộ cho con cháu,
từ đó hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Tổ tiên tuy đã chết nhưng linh hồn vẫn sống và thường hiện diện trong
gia đình, ngự trên bàn thờ của gia đình. Ý thức tôn thờ tổ tiên của người Việt
là thể hiện đạo hiếu "Uống nước nhớ nguồn", "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" của
con cháu, là sự mong muốn tổ tiên sẽ "phù hộ độ trì" cho con cháu ăn nên làm
ra, bảo vệ con cháu không bị ai làm hại.
Về bản chất của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, có thể hiểu tín
ngưỡng thờ cúng Tổ tiên theo nghĩa như sau: Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên
là một bộ phận của ý thức xã hội, là một loại hình tín ngưỡng dân gian
được hình thành từ thời nguyên thuỷ với niềm tin thiêng liêng rằng, tổ
tiên đã chết sẽ che chở, phù giúp cho con cháu, được thể hiện thông qua lễ
nghi thờ phụng. Nó là sự phản ánh hoang đường quyền hành của người
đứng đầu thị tộc phụ hệ, gia đình phụ quyền được duy trì và phát triển
trong xã hội có giai cấp sau này, là sự biết ơn, tưởng nhớ và tôn thờ những
người có công sinh thành, tạo dựng, bảo vệ cuộc sống như kỵ, cụ, ông bà,
cha mẹ…
Như vậy, theo quan niệm của người Việt truyền thống, chết là kết
thúc đối với cuộc đời thế tục, là sự chia lìa của người sống với người chết.
Cho nên, trong lễ tang, không khí đau thương, xót xa bao trùm tất cả. Về
41
tang chế, theo tổng kết của Thọ Mai gia lễ, gồm nhiều nghi lễ, từ giờ phút
lâm chung đến chuẩn bị quan tài, phát tang, chuyển cữu, trị huyệt, hạ
huyệt... Tang ma dù là việc của từng gia đình, nhưng tính cộng đồng, làng
xã biểu hiện rất rõ nét. Việc đỡ đần, chia sẻ trong lúc tang gia bối rối trở
thành một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người Việt. Hương ước
của một số làng Việt truyền thống vùng Bùi Chu thế kỷ XVII đến cuối thế
kỷ XIX đã thể hiện điều đó,
Lệ vùng Cát Chử (Trực Ninh) để làng đưa tang thì phải nạp một số tiền,
hoặc làm cỗ đãi đưa tang. Giá tiền đầu thế kỷ XX là: lễ ở giữa đường 2.000
đồng, lễ lúc lên xe là 1.000 đồng, chỉ có lễ an táng thì 800 đồng.
Lệ ở Thanh Trà, tổng Quế Hải (Hải Hậu): mỗi khi có việc tang, chỉ nộp
30 quan xã sẽ đốc người lo tất cả các việc từ kèn trống, lễ bái, chôn cất. Ai vì
tham ăn sách nhiễu, xã sẽ phạt ba quan và một mâm xôi gà lễ “tạ quá” ở miếu
thành hoàng. Nếu gia chủ biếu xôi thịt còn nóng xin chia, xã sẽ bớt đi 5 đến
10 quan hoặc hơn, xã không yêu cầu lễ biếu.
Lệ của làng Vị Khê (Nam Trực) có bốn hạng: hạng nhất nộp 12 đồng,
gấp hai lần hạng nhì, bằng bốn lần hạng ba và bằng 12 lần hạng tư,
v.v...[181, tr. 665].
Các hình thức cúng, lễ vật.
Bàn thờ tổ tiên được coi là một yếu tố không thể thiếu trong tín ngưỡng
thờ cúng Tổ tiên. Thông thường, bàn thờ tổ tiên chiếm một khoảng không
gian nhất định trong nhà, có thể ở gian giữa hoặc gian đầu.
Gian thờ được chia làm ba lớp:
Lớp ngoài cùng là chiếc phản để làm lễ, có thể để trống bày chiếu hay
bàn ghế thay thế.
Lớp thứ hai để hương án, trên có đặt đồ tam sự (ngũ sự) (lư hương, đôi
hạc, đôi nến, hai đài đặt hai chén nước thờ bằng đồng, lọ độc bình, đèn…
42
Lớp trong cùng là bàn thờ.
Bàn thờ tổ tiên thường được sắp xếp như sau: trên cao nhất được gọi là
giường hành (ngũ hành) có đặt cỗ ngai (còn gọi là ỷ), trong ngai đặt bài vị
Thuỷ tổ hoặc Tiên tổ chi chủ; phía dưới đặt bài vị kỵ ông, kỵ bà, rồi cụ ông,
cụ bà, ông bà, cha mẹ.; tiếp xuống bày bộ Ngũ sự (Bát hương, đèn, lọ độc
bình, mâm bồng nếp ngũ quả, bộ đài đặt chén nước hoặc rượu).
Lễ vật cúng Tổ tiên thường không có gì qui định bắt buộc. Tổ tiên lúc
còn sống ăn uống thứ gì thì cúng giỗ Tổ tiên có thể lấy đó làm lễ vật.
Đặc biệt, không chỉ ở vùng đồng bằng sông Hồng mà ở bất cứ vùng nào
thuộc Bắc, Trung, Nam, trong các gia đình người Việt, lễ vật cúng giỗ tổ tiên bao
giờ cũng phải có quả trứng luộc bóc vỏ. Quả trứng đó là thể hiện lòng nhớ ơn về
cội nguồn Tổ tiên theo sự tích bà Âu Cơ sinh trăm trứng nở trăm con. Quả trứng
cũng là lễ vật nguyên vẹn nhất bởi không có ai có thể nếm vào đấy. Ngoài ra,
trong ngày tết Nguyên đán, bàn thờ Tổ tiên thường có dựng bên cạnh vài ba cây
mía để cả ngọn. Ý nghĩa của lễ vật này là cây mía có nhiều đốt, biểu hiện những
nấc thang phát triển. Cây mía được coi là cây bất tử bởi ngọn mía lại sinh ra các
bụi cây mía mới. Nó thể hiện mong muốn cho vũ trụ được sinh sôi phát triển.
Ở những dòng họ lớn, con cháu còn chung nhau làm nhà thờ họ tộc để
thờ vị thuỷ tổ của dòng họ mình. Cách bài trí ở nhà thờ họ tộc cũng giống
cách bài trí ở bàn thờ tổ tiên nhưng do ông trưởng họ trông nom, đến ngày giỗ
thuỷ tổ, mọi người trong họ mới tụ tập, mang cỗ bàn hương hoa đến lễ.
Ngày giỗ là ngày kỷ niệm người mất trong gia đình, gồm có giỗ lớn và
giỗ mọn.
Theo quy định, ngày giỗ phải được tổ chức vào những dịp sau: cúng 3
ngày, cúng thất tuần, giỗ đầu (tiểu tường), giỗ năm thứ hai (đại tường), ngày
trừ phục (giỗ hết khó), và giỗ cát kỵ (giỗ lành).
Việc cúng Tổ tiên quan trọng nhất là vào ngày giỗ - ngày mà cha mẹ,
ông bà, Tổ tiên qua đời. Cho nên dù thờ cúng Tổ tiên thuộc về con trai cả
43
dòng đích nhưng con gái cũng phải theo giỗ. Lúc đó các con cháu sẽ góp giỗ,
tụ hội về nhà trưởng đích, sắp cỗ bàn cúng gia tiên rồi hưởng lễ ăn uống. Con
cháu ngồi kể lại chuyện cha mẹ, ông bà, tổ tiên mình ngày xưa ra sao, tính nết,
hình ảnh, cách cư xử thế nào để thể hiện lòng hiếu thảo của mình. Ngoài ngày
giỗ, con cháu còn cúng tổ tiên vào các ngày tết trong năm, đặc biệt là Tết
Nguyên đán, ba ngày tết sẽ thắp đèn hương thờ cúng.
Có thể nói rằng, ngoài tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, ý thức về cội nguồn
được thể hiện khá đậm nét trong đời sống tâm linh của các cư dân vùng đồng
bằng Bắc Bộ. Bàn thờ tổ tiên là không thể thiếu đối với gia đình cư dân nơi
đây, bên cạnh đó, dòng họ có Tổ đường, làng xóm thờ Thành hoàng làng, thần
làng ở đình, đền, nước thờ Lạc Long Quân, Âu Cơ, vua Hùng…
Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên không chỉ thể hiện không gian riêng trong
việc cúng bái giỗ chạp, mà còn biểu hiện trong mọi phong tục liên quan đến
những thời điểm quan trọng nhất của chu kỳ đời sống một con người: sinh đẻ,
hôn nhân, ma chay; cũng như sau khi đã khuất; săn sóc phần mộ, lo lắng cho
“cuộc sống” bên kia thế giới.
Người dân ở các huyện nằm trong giáo phận Bùi Chu đều thực hành tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Việc thực hành vẫn giữ nguyên nghi lễ, phong tục
trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt truyền thống vùng đồng
bằng Bắc Bộ. Cái chết theo cư dân nơi đây cũng giống người Việt truyền
thống. Chết là mất (về mặt thể xác), là về với tổ tiên, ông bà. Lễ tang của cư
dân nơi đây cũng bao gồm hàng loạt nghi lễ: từ phút lâm chung (đặt tên hèm,
hú hồn, tắm rửa, thay y phục, ngậm gạo, tiền), chuẩn bị quan tài, phát tang
đến chuyển cữu, hạ huyệt... Việc tang ma vốn được coi là gia lễ, nhưng thực
tế thì không thể thoát ly khỏi cộng đồng làng xã bởi làng xã sẽ cắt cử người
trong làng giúp dựng rạp, sửa đường, bắc cầu... để việc thực hiện các nghi lễ
đưa tang được thuận lợi.
44
Trong phạm vi dòng họ, nghi lễ thờ cúng tổ tiên được thực hiện bằng
một loạt các hoạt động tập thể của gia đình, thành viên trong dòng họ về giỗ tổ,
tảo mộ. Địa điểm diễn ra nghi lễ thường ở nhà trưởng họ hoặc nhà thờ họ.
Những năm gần đây, khi đời sống vật chất và tinh thần của người dân được
nâng cao, nhà thờ các họ tộc lớn đều được xây lại, xây mới to đẹp, hoành tráng.
Tín ngưỡng Thành Hoàng làng
Người Việt cổ khi tiến xuống đồng bằng Bắc Bộ, họ tụ cư thành những
xóm làng ổn định. Làng người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ có cấu trúc chặt
chẽ, được coi là những đơn vị kinh tế - xã hội - quân sự và văn hóa hoàn
chỉnh. Đình chùa, am, miếu, nhà thờ, từ đường... là những trung tâm thờ tự
công cộng của làng xã. Nhờ đó, làng xã có vai trò quan trọng, là cái nôi hình
thành, nuôi dưỡng và bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống.
Thời điểm ban đầu người Việt tiến xuống đồng bằng, trình độ kỹ
thuật còn hết sức hạn chế. Để trồng trọt đạt năng suất cao, họ phải nắm
được những nét đặc trưng, quy luật sinh trưởng và thao tác thuần thục cho
từng giống cây trồng. Do vậy, điều quan trọng là người lao động phải biết
học hỏi những người đi trước, có kinh nghiệm, từ đây hình thành trong tâm
thức họ tâm lý sùng bái già làng, vốn là những người nhiều kiến thức, kinh
nghiệm trong sản xuất.
Làm nông nghiệp lúa nước thì vấn đề thủy lợi trở nên trọng yếu đối với
cư dân Việt cổ vùng đồng bằng Bắc bộ. Tuy nhiên, do cấu tạo địa hình, nơi
đây diễn ra nạn lũ lụt hàng năm, vì thế, trị thủy trở thành mối quan tâm dai
dẳng trong đời sống vật chất và tinh thần của những con người nơi đây. Mặc
dù làm nghề nông là chủ yếu nhưng người Việt ở vùng đồng bằng Bắc bộ
không thuần nông. Nhiều làng nghề truyền thống xuất hiện. Chính cơ sở kinh
tế xã hội trên làm hình thành tín ngưỡng thành hoàng làng của người Việt ở
vùng đồng bằng Bắc bộ.
45
Tín ngưỡng Thành Hoàng làng vốn có nguồn gốc từ Trung Quốc. Trong
sách Từ nguyên có ghi “Thành hoàng: do ngôn thành trì. Dịch: thành phục vụ
hoàng”, có nghĩa là vị thần bảo vệ cho thành trì. Đa số những người được
triều đình phong Thành Hoàng đều là trung thần, nghĩa sĩ, dũng tướng...
Từ "thành hoàng” trong tín ngưỡng Thành Hoàng làng vốn là từ Hán
Việt được hiểu theo nghĩa: “thành” là cái thành, còn “hoàng” là cái hào đào
sâu bao quanh thành. Sau khi được du nhập sang Việt Nam, “Thành Hoàng”
ban đầu cũng được dùng để chỉ các vị thần bảo vệ các tòa thành. Chẳng hạn
Tô Lịch năm 823 được Lý Nguyên Gia phong làm Thành Hoàng, dựng đền
thờ. Năm 866, ông được phong làm Đô phủ Thành Hoàng thần quân Đại
vương. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ phong Tô Lịch làm Quốc đô Thăng Long
Thành Hoàng đại vương. Có thể nói, ở nước ta tồn tại một loại Thành Hoàng
giống với ý nghĩa của Thành Hoàng bên Trung Quốc - thần của thành trì.
Tuy nhiên, nói tới Thành Hoàng ở Việt Nam lại phải nói tới loại Thành
Hoàng thứ hai - thần của các làng, được gọi là Thành Hoàng làng. Thành
Hoàng làng là tên gọi cho vị thần cai quản, che chở, định phúc họa cho dân
làng đó. Mỗi làng xã đều có Thành Hoàng làng. Và dù xuất thân thế nào, nghề
nghiệp ra sao, có được vua phong hay không, thì một khi được làng xã tôn
vinh là Thành Hoàng, vị thần đó sẽ được cả dân làng sùng kính. Như vậy,
“Thành Hoàng làng” trong tín ngưỡng Thành Hoàng làng là một khái niệm đã
được Việt hóa, không còn giống với nghĩa gốc bên Trung Quốc. Đúng như
Nguyễn Duy Hinh đã nhận xét:
Rõ ràng trong Thành Hoàng Việt Nam có hai dòng riêng biệt.
Một dòng: mang đậm gần nguyên xi mô hình Đường - Minh: Hệ thống
Thành Hoàng cả nước, tỉnh, huyện: đó là những vi thần vô danh tối linh,
không có thần tích, nhân bản, thậm chí cũng không phải là một thiên
thần... Dòng thứ hai là Thành Hoàng - Làng. Đó mới là dòng chủ thể
phản ánh bản chất tư duy tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam [66, tr.97].
46
Các Thành Hoàng thường ngự trị ở ngôi đình của làng, tuy nhiên, ở nhiều
nơi Thành Hoàng ngự ở Nghè vào dịp kỷ niệm mới được rước ra đình, sau đó lại
trở về Nghè. Ngôi đình trở thành vùng đất thiêng, không gian thiêng và có cả
thời gian thiêng (vào dịp đình đám của làng). Đình làng tuy xuất hiện từ lâu và
đã tồn tại qua nhiều thế kỷ, song phải đến cuối thế kỷ XVI về sau vị trí của ngôi
đình làng mới thực sự được đề cao trong đời sống vật chất và tinh thần của cộng
đồng làng xã. Dù được xây dựng cách xa khu dân cư, ngôi đình vẫn là trung tâm
của đời sống cộng đồng dân làng, nơi giải quyết các vấn đề hành chính trong
làng, và giữ đúng chức năng của nó là nơi tiến hành các nghi lễ thờ cúng Thành
Hoàng - vị thần bảo hộ của cộng đồng làng.
Cùng với tục cúng Thành Hoàng, tín ngưỡng này còn được thực
hành thông qua việc tổ chức lễ hội. Vào dịp lễ hội, tùy thân thế, thần tích,
nguồn gốc của thành hoàng mà có những nghi thức được tổ chức cho phù
hợp. Nếu thành hoàng là anh hùng chống ngoại xâm thì diễn xướng sẽ
mô tả cảnh đánh giặc, giữ nước. Thành Hoàng là thần mây, mưa, sấm,
chớp… lễ hội nhất định sẽ diễn ra cảnh cầu cho mưa thuận gió hòa để
mùa màng tươi tốt.
Tín ngưỡng Thành Hoàng làng đã trở thành biểu tượng cho tính cố kết
cộng đồng, có vai trò then chốt trong đời sống tâm linh của cư dân làng xã
Việt Nam.
Cư dân thuộc 6 huyện nằm trong giáo phận Bùi Chu cũng tin và thực
hành nghi lễ cúng tín ngưỡng Thành Hoàng làng. Tín ngưỡng này tồn tại
rất phổ biến ở vùng đất này. Vì thế, tổ tiên những người dân nơi đây khi
khai hoang lập ấp đã cố gắng duy trì tín ngưỡng đó cho các thế hệ con cháu
tới tận ngày nay. Hệ thống đền, miếu được lập ở khắp nơi trong vùng, tiêu
biểu có đền Hưng Đạo Vương, đền thờ Triệu Quang Phục, Đền liệt sỹ Hải
Hậu, Phủ Thiên Tiên,...
47
Các vị thần cũng được chia ra một cách cụ thể, như các vị thần là tiền hiền,
khai khẩn, mở đất thiết lập làng xã, có thể kể đến Trần Vu, Vũ Chi, Hoàng Gia, Vũ
Duy Hòa, Phạm Cập (Hải Anh, Hải Hậu), Phạm Văn Nghị, Nguyễn Điển, Phạm
Thanh (Hải Lạng, Nghĩa Hưng), Ngô Miễn (An Cư, Xuân Trường)... Cũng có
những vị là tổ nghề như Lục vị tổ sư (Vân Chàng, Nam Trực), Tô Trung Tự làm
nghề trồng hoa (Vị Khê, Nam Trực)... Còn có những vị là trạng nguyên, tiến sĩ...
tạo truyền thống khoa bảng của làng, của họ, gây dựng danh tiếng cho làng, cho
họ, như Phạm Bảo, Phạm Đạo Phú (Dương Phạm, Nghĩa Hưng)...
Khi nhắc đến tín ngưỡng Thành Hoàng làng của người Nam Định nói
chung, người Bùi Chu nói riêng, không thể không nhắc đến một vị anh hùng
dân tộc, một nhân vật lịch sử vĩ đại, đó là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc
Tuấn (1232 - 1300). Ngay từ khi lúc sinh thời, Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn đã trở thành Đức Thánh Trần trong lòng người dân Nam Định và lan
rộng ảnh hưởng ra toàn quốc. Ở các làng xã có nhiều địa điểm (từ đền, điện,
phủ, miếu, đình, chùa) được dùng để thờ Đức Thánh Trần.
Tín ngưỡng thờ Mẫu
Gắn liền với cuộc sống nông nghiệp với âm tính dẫn đến trong quan hệ xã
hội ở người Việt truyền thống là lối sống thiên về tình cảm, trọng phụ nữ, biểu
hiện về mặt tín ngưỡng là khuynh hướng đề cao nữ tính với một loạt các nữ thần
như Bà Trời, Mẹ Đất, Bà Thủy, Bà Hỏa, các nữ thần Mây - Mưa - Sấm - Chớp,
đạo thờ Tam Phủ, Tứ Phủ; 12 bà mụ… Vì thế việc thờ Mẫu ở Việt Nam rất mạnh,
được xem như một thứ tín ngưỡng truyền thống của dân tộc.
Từ “Mẫu” có gốc Hán - Việt, được hiểu là Mẹ, là tiếng xưng hô của
người con đối với người phụ nữ đã sinh ra mình. Hiểu rộng ra, “mẫu” còn
được dùng để chỉ sự sinh sôi nảy nở, sinh hóa không ngừng.
Với ý nghĩa đó, tín ngưỡng thờ Mẫu là loại hình tín ngưỡng truyền
thống Việt Nam nhằm tôn vinh, tôn quý, tôn quyền một người phụ nữ nào đó,
48
thông qua các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng để con người khi tham gia có
được sự che chở, giúp đỡ của các bậc Mẫu.
Tín ngưỡng thờ Mẫu xuất phát từ việc thờ Nữ thần. Mẫu là nữ thần,
nhưng nữ thần thì không phải tất cả đều là Mẫu, bởi chỉ có những nữ thần gắn
với sự sinh sôi, nảy nở, bao bọc, che chở cho cuộc sống cư dân mới được coi
là Mẫu. Qua một quá trình phát triển từ thấp lên cao, từ chưa hoàn thiện đến
tương đối hoàn thiện, tín ngưỡng thờ Mẫu được hình thành và hoàn thiện, xét
trên phương diện các lớp thờ thì có thờ Nữ thần, Mẫu thần, Tam phủ - Tứ phủ,
còn xét ở phương diện các vị thần thì có Bà mẹ núi rừng, Mẫu Âu Cơ, Mẫu
Man Nương, Mẫu Liễu Hạnh.
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam có tính đa dạng, phong phú, bao gồm
cả việc thờ Mẫu thần và Mẫu Tứ phủ.
Mẫu thần là những vị nữ thần (cả nhiên thần và nhân thần) được phong
các tước hiệu như Vương Mẫu (như Bà mẹ Thánh Gióng, tước hiệu Thiên
thần Vương Mẫu, đền thờ đặt ở xã Thị Cầu, thị xã Bắc Ninh); Quốc Mẫu (Mẹ
Âu Cơ), Thánh Mẫu (Linh Sơn thánh Mẫu, thờ ở núi Bà Đen, Tây Ninh).
Ngoài thờ Mẫu thần, ở Việt Nam còn tồn tại một loại hình thờ Mẫu
khác là thờ Mẫu Tứ Phủ. Tứ phủ chỉ bốn vùng khác nhau trong vũ trụ: thiên
phủ (trời), địa phủ (đất), nhạc phủ (rừng núi), thoải phủ (sông biển). Đứng đầu
mỗi phủ có một vị thánh Mẫu tương ứng là Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Địa,
Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải. Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ thờ cúng các
vị thánh Mẫu nói trên.
Về nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu, phải nói rằng, trong hệ thống tín
ngưỡng truyền thống Việt Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu có hệ thống lễ nghi và lễ
hội rất phong phú, đa dạng, thể hiện tính dân tộc độc đáo. Các nghi lễ đặc
trưng của tín ngưỡng này là Lễ tôn nhang (lễ đội bát nhang); lễ hầu bóng; lễ
dâng hoa… mà nghi lễ tiêu biểu nhất phải nói đến là lễ hầu bóng (hầu đồng).
49
Đây là nghi lễ nhập hồn của các vị thánh tứ phủ vào các thân xác ông (bà)
Đồng, tái hiện lại hình ảnh các vị thánh, nhằm phán truyền, chữa bệnh, ban
phúc lộc cho các tín đồ của tín ngưỡng thờ Mẫu.
Ở Nam Định, đặc biệt là vùng giáo phận Bùi Chu với các huyện ven
biển như Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Giao Thủy,... gắn liền chặt chẽ với tín
ngưỡng thờ Mẫu (mẫu Thoải, mẫu Thủy). Tâm thức thờ Mẫu lan tỏa tất cả
các địa phương thuộc tỉnh Nam Định, đi sâu vào đời sống tinh thần của cư
dân vùng này, trong đó có cả khu vực giáo phận Bùi Chu, bởi lẽ “những
điều kiện tự nhiên - xã hội, nông dân - nông nghiệp, xóm làng khá điển
hình cho nền văn hóa lúa nước - yếu tố Nước, yếu tố Mẹ, sinh sôi, che chở
- cơ sở đầu tiên, nền tảng, thường xuyên và quan trọng của sự ra đời của tín
ngưỡng thờ Mẫu”. [168, tr.673]. Có thể khẳng định, Nam Định là cái nôi của tín ngưỡng thờ Mẫu với lễ
hội Phủ Giầy nổi tiếng. Trong hội Phủ Giầy còn diễn ra hình thức hầu bóng -
một chuỗi lễ tiết do ông đồng, bà đồng tiến hành.
Ngoài ra cũng phải kể đến hội rước Mẫu đi thỉnh kinh (Chùa Tiên
Linh, chùa Linh Sơn). Còn có hội Hoa Trượng tiến hành xếp chữ với các
chữ thường được Mẫu “chọn” là “Quốc thái dân an”, “Thiên hạ thái
bình”, “Mẫu nghi thiên hạ”... Hiện nay, các chữ xếp thường là do ban tổ
chức lựa chọn.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt giá trị, các tín ngưỡng truyền thống còn tồn tại
một số mặt phản giá trị. Đối với tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên vẫn còn có những
hệ lụy cần khắc phục như: việc phô trương về tiền tài, danh vọng, địa vị, gây
chia rẽ bè phái, cục bộ trong cộng đồng… Điều này gây ra ít nhiều sự lãng phí,
phiền toái đối với nhiều người, làm biến dạng ý nghĩa nhân văn sâu sắc của tín
ngưỡng này. Có thể thấy tồn tại yếu tố mê tín dị đoan ở đây. Vì thế, thờ cúng
Tổ tiên ở nhiều nơi chịu sự chi phối bởi tư tưởng cơ hội, trục lợi của một số kẻ
tán dương với mục đích buôn thần bán thánh.
50
Trong khi đó, ở tín ngưỡng thờ Mẫu với những nét sinh hoạt đặc thù,
càng tạo nhiều cơ hội để sinh hoạt này đi quá đà. Niềm tin vượt quá giới hạn
trở thành niềm tin mù quáng, khiến con người dễ dàng đi đến những hành
động thiếu sáng suốt. Thực tế đã xảy ra không ít trường hợp có người dám bỏ
ra hàng triệu đồng để thực hiện việc hầu đồng, lên đồng cầu thánh thần giải
trừ tai ương, bệnh tật. Có người bỏ hàng trăm, thậm chí hàng triệu đồng mua
sắm vàng mã, hương khói. Có người ốm đau, bệnh tật không đến bác sỹ, bệnh
viện để chữa bệnh lại chạy theo việc giải hạn, trừ ma, tuân theo những lời chỉ
bảo của những kẻ “buôn thần bán thánh”, dẫn đến kết quả tiền mất, tật
mang… Cũng có một bộ phận người lợi dụng niềm tin của dân chúng vào
thần thánh, lợi dụng các sinh hoạt tín ngưỡng của dân chúng để làm điều bất
chính, trục lợi cho cá nhân. Thực trạng đó cho thấy không thể để các sinh hoạt
tín ngưỡng diễn ra một cách tự phát, cần có sự điều chỉnh, định hướng, quản
lý của các cơ quan chức năng. 2.2. CÔNG GIÁO VÀ ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO
PHẬN BÙI CHU - NAM ĐỊNH
2.2.1. Khái lược về Công giáo
Kitô giáo là đạo do Đức Kitô Giêsu (người làng Nazareth, xứ Palestina,
nay thuộc Israel) sáng lập, đặt nền tảng trên cuộc sống, lời rao giảng, sự chết
và sự sống lại của Người.
Công giáo là một bộ phận của Kitô giáo được tách ra. Công: phổ quát;
giáo: đạo. Công giáo: (đạo) có tính phổ quát. Công giáo là một loại hình tôn
giáo có cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh.
2.2.1.1. Giáo lý của Công giáo Giáo lý của Công giáo nằm trong Kinh Thánh gồm hai bộ: Cựu ước (46
quyển) và Tân Ước (27 quyển). Sách Cựu Ước, vốn là sách của đạo Do Thái,
trình thuật về Thiên Chúa với công việc sáng tạo ra vũ trụ và con người, kể về
những phong tục tập quán của người Do Thái và loan báo, chuẩn bị cho sự
51
xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Sách Tân Ước tiếp nối Sách Cựu Ước, kể về
cuộc đời, sự nghiệp của Chúa Giêsu Kitô - Đấng cứu thế, về quá trình hoạt
động của các tông đồ và những lời dạy bảo của Chúa Giêsu và các tông đồ về
con người.
Với tín đồ Công giáo, tín điều cơ bản đầu tiên chính là đức tin vào
Thiên Chúa, vào sự mầu nhiệm của Thiên Chúa. Đây thực chất là lời đáp
trả lại của con người đối với Thiên Chúa bởi con người khao khát có Thiên
Chúa không chỉ vì họ nhờ có Thiên Chúa mới được tạo thành mà còn vì ở
nơi Chúa, con người mới có được hạnh phúc, đạt tới được chân lý mà họ
đang kiếm tìm. Bằng những năng lực của mình, con người có khả năng
nhận ra được Thiên Chúa từ những gì Người tạo nên, và Thiên Chúa cũng
tự ban chính mình cho con người, "mặc khải" tình yêu thương, phép màu
nhiệm của mình cho con người thông qua việc cử Đức Giêsu Kitô và Thánh
thần đến với con người.
Qua đó, tín đồ Công giáo tin rằng Chúa có ba ngôi: Cha - Tạo dựng,
Con - Cứu chuộc, Thánh thần - Thánh hoá. Họ cũng tin Thiên Chúa đã tạo ra
con người gồm hai phần: thể xác và linh hồn, sau khi chết đi, thể xác sẽ trở về
với cát bụi nhưng linh hồn thì tồn tại vĩnh viễn. Con người do trí khôn, lương
tâm nên làm chủ thế giới muôn loài nhưng do tính phàm tục nên mắc nhiều
tội lỗi. Thiên Chúa đã trừng phạt con người vì những lỗi lầm của họ, nhưng
sai Chúa Giêsu xuống cứu chuộc cho con người. Chúa Giêsu được sinh ra từ
Đức Mẹ Maria bằng phép màu nhiệm của Thiên Chúa. Cái chết của Chúa
Giêsu - bị đóng đinh trên cây Thánh giá, sự sống lại và về trời chính là biểu
hiện cho tình thương yêu, đức hy sinh và cuộc sống vĩnh hằng nơi Thiên Chúa.
2.2.1.2. Giáo luật của Công giáo Giáo luật của Công giáo qui định nhiều điều, trong đó đáng chú ý có
"Thập giới" - 10 điều răn mà Thiên Chúa đòi hỏi nhằm giúp con người được
cứu rỗi. Đó là:
52
1. Phải thờ phụng và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự
2. Không được đưa danh Thiên Chúa vào việc phàm tục tầm thường
3. Dành ngày Chủ nhật để thờ phụng Thiên Chúa
4. Thảo kính cha mẹ
5. Không được giết người
6. Không được dâm dục
7. Không được gian tham
8. Không được làm chứng dối
9. Không được ham muốn vợ (chồng) người khác
10. Không được ham muốn của trái lễ
Mười điều răn này hợp thành một thể thống nhất, qui thành hai điều tôn
chỉ: Kính Chúa và Yêu Người.
Giáo luật Công giáo quy định các tín đồ không ai được quyền vi phạm
một trong mười điều răn trên, bởi chỉ cần phạm vào một điều là phạm tới tất
cả những điều răn còn lại. Điều này là tất yếu, bởi không thể tôn trọng người
khác mà không chúc tụng Thiên Chúa - Đấng sáng tạo ra họ, lại càng không
thể chỉ tôn thờ Thiên Chúa mà không yêu thương những con người vốn là sản
phẩm của Thiên Chúa tạo ra.
2.2.1.3. Nghi lễ Công giáo
Nghi lễ Công giáo, nhằm phân biệt với các nghi lễ khác của Kitô
giáo như nghi lễ Byzantin (Hội thánh Côngxtantinốp), nghi lễ Syria
(được người Công giáo và Kitô hữu Đông phương ly khai sử dụng), được
gọi là nghi lễ Roma. Một cách tổng quát nhất, nghi lễ Công giáo (nghi lễ
Rôma) có thể định nghĩa như sau: "Nghi lễ Rôma là thể thức cử hành
thánh lễ, cử hành bí tích và á bí tích, đọc kinh thần vụ và làm các việc
khác của hội thánh như đã được phép làm ở thành phố và các giáo phận
Roma" [42, tr.41-42].
53
Nghi lễ Công giáo gồm hai phần: Phụng vụ lời Chúa - đọc sách thánh,
những bài ca vịnh và bài giảng - và Phụng vụ Thánh thể - hiến tế và thực hiện
các bí tích.
Việc cử hành các bí tích trong nghi lễ có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Việc thi hành các bí tích diễn ra trong năm phụng vụ. Trong chu kỳ một năm,
Giáo hội sẽ chia theo các mùa để diễn giải toàn bộ màu nhiệm Chúa Kitô (kể
từ lúc sinh ra cho đến lúc truyền đạo, lập giáo hội, chịu chết, phục sinh và trở
về trời), gồm có: Tam nhật vượt qua, Mùa Phục sinh, Mùa Chay, Mùa Giáng
sinh, Mùa Vọng, Mùa Thường niên.
Trong mỗi mùa, giáo hội lại chia thành những Chúa nhật và mỗi Chúa
nhật chia thành ngày phụng vụ. Ngày phụng vụ gồm có Chúa nhật (ngày đầu
mỗi tuần), các ngày lễ trọng, lễ kính, lễ nhớ và các ngày khác trong tuần (sau
ngày Chúa nhật mỗi tuần).
Ngoài ra còn có các ngày cầu mưa và bốn mùa nhằm để tín đồ cầu xin
Thiên Chúa ban cho những nhu cầu khác như ruộng đất sinh hoa, quả, con
người ăn nên làm ra.
Bên cạnh đó, cũng phải kể đến những á bí tích do Hội thánh thiết lập, là
vật hay việc làm được giáo hội dùng theo kiểu các bí tích để có một hiệu quả,
chủ yếu là những hiệu quả thiêng liêng nhờ công trạng của tín hữu ví dụ như
làm phép mồ, phép xác, phép nhà thờ [42, tr.60].
Tuần Thánh
Tuần Thánh được coi là tuần trọng nhất trong Năm phụng vụ, tuần Mẹ
của các tuần lễ. Trong Tuần Thánh, Giáo hội cử hành các mầu nhiệm cứu
chuộc đã được Chúa Kitô hoàn tất trong những ngày cuối đời ở trần thế.
Tuần Thánh bắt đầu từ Chúa Nhật Lễ Lá và kéo dài tới Chúa Nhật Phục
sinh, gồm hai phần: Chúa Nhật Lễ Lá, thứ hai, thứ ba và thứ tư và sáng thứ
năm Tuần thánh và Tam nhật thánh.
54
Thứ sáu Tuần Thánh: Giáo hội tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa
Kitô, tưởng niệm Chúa hiến tế trên thập giá vì nhân loại, qua việc đọc Lời
Chúa và tôn vinh Thánh giá. Đồng thời Giáo hội cũng tưởng nhớ nguồn gốc
của mình phát sinh từ cạnh sườn Chúa Kitô chết trên thập giá.
Đại lễ Kính thánh Đa Minh
Đa Minh sinh năm 1170 tại Caleruega, Tây Ban Nha, thuộc dòng tộc
Guzman. Đa Minh đã có thể trở thành một người có công danh, địa vị trong
xã hội, tuy nhiên, ngay từ nhỏ Thánh Ða Minh đã biết dung hòa việc học với
đời cầu nguyện và các bổn phận tông đồ. Là người cương trực, thẳng thắn,
ông luôn chú tâm tới việc trau dồi kiến thức, văn hóa để thực hiện chí hướng.
Ông theo học ở Valencia, và có lẽ được thụ phong linh mục trong khi còn đi
học, và được bổ nhiệm là kinh sĩ ở Osma năm 1199. Ông là người có nhiều
công lao trong giữ và phát triển đạo.
Trong Công Ðồng Latêranô lần thứ tư năm 1215, Thánh Ða Minh thất bại
trong việc xin phê chuẩn tu hội, nhưng được Giáo hoàng Honorius III chuẩn y vào
năm tiếp đó, và Dòng Thuyết giảng (các tu sĩ dòng Ða Minh) được thành lập.
Thánh Đa Minh qua đời ngày 8/8/1221 và 13 năm sau, năm 1234 Giáo
hội đã phong thánh cho ông.
Hiện nay, dòng Đa Minh truyền giáo vẫn luôn là một dòng mạnh và ảnh
hưởng nhiều nhất về truyền giáo trong giáo hội. Để ghi nhớ công lao thiết lập
dòng Đa Minh, người ta gọi ông là Thánh tổ phụ và lấy ngày 8/8 để tưởng
nhớ ông, gọi là Đại lễ kính Thánh Đa Minh. Đại lễ này chỉ có ở những giáo
phận trước đây thuộc dòng Đa Minh cai quản như các giáo phận: Bùi Chu,
Thái Bình, Hải Phòng, Bắc Ninh, Lạng Sơn ngày nay.
Thờ phụng Thánh quan thầy
Thánh quan thầy theo quan niệm Công giáo là hiệp thông trong các sự
thánh (hiệp thông trong đức tin, trong bí tích, trong đức ái, và trong sự cầu
55
nguyện…) và hiệp thông giữa những người thánh (trong ba giáo hội hàng dọc
và hàng ngang theo hình thánh giá).
Thánh quan thày được Công giáo quan niệm là người bảo trợ cho cộng
đồng và cho mỗi cá nhân. Cộng động có thể là Giáo hội mỗi nước, mỗi giáo
phận, giáo hạt, giáo xứ, giáo họ, hội đoàn.
Mỗi người Công giáo đều tự chọn (hoặc cha mẹ chọn) những vị thánh
quan thầy khi chịu phép rửa tội và thêm sức để để làm gương sáng và cầu bầu
cho họ trước mặt Chúa.
Lễ kính Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội
Theo quan điểm Công giáo, trinh nữ Maria còn được gọi là Đức Mẹ vô
nhiễm thai, hay Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội, do đặc ân Thiên Chúa giữ gìn,
không bao giờ nhiễm lây vết nhơ nguyên tội, nhưng luôn luôn thánh thiện và
vô nhiễm. Giáo hội luôn tin tưởng Đức Mẹ là Nữ nhân toàn thắng ma quỷ và
tội lỗi. Theo Kinh Thánh, Người đã đạp giập đầu con rắn hỏa ngục như lời
Chúa đã phán hứa (Gen.3-15). Kinh Thánh đã nói đến việc Mẹ Maria được
coi là Tân Eva. Bà Eva là mẹ tín đồ, vì nghe lời con Rắn hỏa ngục đã phạm
lỗi giới răn Thiên Chúa ăn trái cấm và rủ ông Adam cùng ăn. Đức Trinh Nữ
Maria là Tân Eva, cũng là mẹ chúng sinh, vì nghe theo Thiên sứ, xin vâng lời
Thiên Chúa dấn thân vào sứ mạng cùng Chúa Cứu thế cứu thoát loài người
khỏi tội lỗi. Như vậy, nếu bà Eva đã bị con rắn đánh thảm bại, thì Tân Eva đã
đạp nát đầu rắn, chiến thắng nó một cách vẻ vang, mà chiến thắng đầu tiên là
được đặc ân Vô nhiễm.
Giáo hội đặt lễ kính mừng Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội, nhưng lại
chưa tuyên bố đó là tín điều buộc giáo dân phải tin. Chỉ đến khi nghiên cứu
Thánh kinh và Lời truyền tụng một cách cẩn thận, tỷ mỷ, ngày 8/12/1854,
Giáo hoàng Piô IX mới tuyên bố tín điều đó, buộc các tín đồ phải tin theo. Vì
thế, ngày 8/12 hàng năm, giáo hội các địa phương đều hân hoan tổ chức lễ
kính Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội.
56
Tháng Mân Côi
Lịch sử phụng vụ ghi lại: sau cuộc chiến thắng quân Hồi giáo Thổ Nhĩ
Kỳ tại vịnh Lépante ngày 7-10-1571, nhờ ơn lạ đặc biệt của Đức Mẹ Rất
Thánh Mân Côi, Giáo hoàng Piô V đã truyền dạy các tín đồ rước kiệu Mẹ
trọng thể và lấy ngày mùng 7 tháng 10 làm ngày lễ Mẹ Thắng Trận để ghi ơn
Đức Mẹ. Đến đời Giáo hoàng Grêgôriô XIII, theo lời dòng Đa Minh tâu xin,
ngày 1-4-1574, Giáo hoàng Grôgôriô XIII đổi lại là lễ Mẹ Mân Côi được
mừng vào Chúa nhật đầu tiên của tháng 10 hàng năm tại các nhà thờ tôn kính
Mẹ Mân Côi.
Năm 1671, lễ này cũng được Giáo hoàng Clementê X ban phép mừng
khắp Giáo hội Tây ban nha. Năm 1716, sau những chiến thắng quân Thổ Nhĩ
Kỳ tại Temeswar và Corfu ở ven biển Hy Lạp, các tín đồ gọi Mẹ là Mẹ chiến
thắng và Giáo hoàng Clêmentê XI truyền cho khắp Giáo hội đặc biệt mừng lễ
Mẹ Mân Côi hàng năm. Ngày 11-9-1887, Giáo hoàng nâng lễ Mẹ Mân Côi lên
bậc nhì với kinh lễ và kinh Phụng vụ theo phụng vụ dòng Đa Minh. Giáo
hoàng Piô X ấn định mừng lễ Mẹ Mân Côi vào ngày mồng 7 tháng 10.
Tháng Hoa Đức Mẹ
Tháng Hoa đối với Giáo hội Công Giáo mang một ý nghĩa đặc biệt vì
nó được dành riêng để tôn vinh Mẹ Chúa Trời.
Vào những thế kỷ đầu, hàng năm, khi tháng Năm về, người Rôma tôn
kính sự thức giấc sau mùa đông dài của thiên nhiên bằng những ngày lễ tôn
kính Hoa là Nữ thần mùa Xuân. Người Công giáo trong các xứ đạo đã thánh
hóa tập tục trên. Họ tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho
mùa màng phong phú.
Đức Mẹ Maria được ví như bông hoa thơm ngát trước tòa Chúa. Nhờ
ơn Chúa, Đức Mẹ đã trở nên đóa hoa kiệt tác như: ơn vô nhiễm nguyên tội,
ơn đồng trinh trọn đời, Mẹ Thiên Chúa, Hồn xác lên trời và Mẹ như "hoa
hường mầu nhiệm vậy".
57
Các nhà thờ thường hay tổ chức dâng hoa kính Mẹ, lúc này, mỗi màu
hoa lại tượng trung cho một nỗi lòng của con cái muốn dâng lên Mẹ, hay ca
ngợi một nhân đức nào đó của Mẹ. Như vậy, Hoa biểu trưng cho lòng Mẹ và
cũng là biểu trưng của lòng người.
2.2.1.4. Đường hướng của Giáo hội Công giáo sau Công đồng
Vatican II ảnh hưởng tới đời sống đạo của người Công giáo
- Đường hướng của Giáo hội Công giáo Rôma ảnh hưởng tới đời sống
đạo của người Công giáo ở Việt Nam sau Công đồng Vatican II
Nghiên cứu về ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống đến đời sống
đạo của người Công giáo Việt Nam nói chung, người Công giáo ở giáo phận
Bùi Chu nói riêng không thể không nghiên cứu về đường hướng của Giáo hội
Công giáo Rôma qua Công đồng Vatican II.
Công đồng Vatican II diễn ra từ năm 1962 đến năm 1965 với tinh thần
canh tân và thích nghi. Công đồng lần thứ 21 này được đánh giá là một bước
ngoặt quan trọng trong tiến trình lịch sử của Giáo hội Công giáo.
Công đồng Vatican II đã cho ra đời 16 văn kiện bao gồm:
Bốn hiến chế: Hiến chế về giáo hội, Hiến chế về Thiên Chúa mặc khải,
Hiến chế phụng vụ và Hiến chế về giáo hội trong thế giới hiện đại.
Chín sắc lệnh: Sắc lệnh về chức vụ giám mục, Sắc lệnh về chức vụ linh
mục, Sắc lệnh về đào tạo linh mục, Sắc lệnh về cải tiến dòng tu, Sắc lệnh về
tông đồ giáo dân, Sắc lệnh về các hoạt động truyền giáo hiện nay, Sắc lệnh về
hiệp nhất, Sắc lệnh về giáo hội Công giáo phương Đông, Sắc lệnh về những
phương tiện truyền thông.
Ba tuyên ngôn: Tuyên ngôn về thái độ của Giáo hội với những tôn giáo ngoài
Kitô giáo, Tuyên ngôn về tự do tôn giáo và Tuyên ngôn về giáo dục Kitô giáo.
Tư tưởng xuyên suốt của Công đồng này là Canh tân và Thích nghi.
Nội dung quan trọng là chủ trương hội nhập với văn hóa các dân tộc trên thế
58
giới. Tuy nhiên, dù hướng đến mục tiêu đó, Giáo hội Công giáo vẫn chủ
trương: phải trở về với nền tảng Phúc âm, bởi có hội nhập văn hóa đến đâu
chăng nữa thì tất cả đều phải vì lợi ích và giá trị của Hội thánh “Kinh nghiệm
của những thế kỷ qua, tiến bộ khoa học, những kho tàng dấu ẩn trong nền văn
hóa nhân loại khác nhau khả dĩ cho phép hiểu biết con người hơn và khai mở
những con đường đi đến sự thật: Tất cả đều là những giá trị quí báu và lợi ích
của Hội thánh” [19, tr.204].
Xác định mục tiêu như vậy, Giáo hội cũng đưa ra phương thức hội nhập
phù hợp để tăng thêm số lượng tín đồ, tăng đức tin của họ đối với Thiên Chúa.
Giáo hội chủ trương sẽ tùy theo mỗi dân tộc với những nền văn hóa riêng, lối
sống riêng mà đưa ra những phương thức riêng: “Hội thánh đã nỗ lực để làm
sáng tỏ sứ điệp của Chúa Kitô nhờ sự khôn ngoan của các triết gia, và làm
như thế là để thích ứng Phúc âm đến mức tối đa cho hợp khả năng riêng để
trình bày sứ điệp của Chúa Kitô, nhờ đó có sự phát triển do cuộc trao đổi sống
động giữa Hội thánh với nhiều nền văn minh khác nhau” (Hiến chương Hội
thánh 13) [19, tr.204].
Tinh thần Công đồng Vatican II là đường hướng mục vụ hiện hành của
Giáo hội Công giáo hoàn vũ, thể hiện rõ nét xu hướng canh tân, thích nghi,
làm nền tảng để Giáo hội Công giáo Việt Nam đề ra đường hướng mục vụ của
mình qua các thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam.
- Ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Việt Nam tới đời sống đạo của
người Công giáo ở Việt Nam sau Công đồng Vatican II
Thư chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam được coi là cái mốc
quan trọng ghi nhận đường hướng hội nhập văn hoá dân tộc của Giáo hội
Công giáo Việt Nam, là sự vận dụng thực hiện tinh thần “sám hối”, “canh tân”,
“hòa giải” của Công đồng Vatican II vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Thư
chung này đã đề ra đường hướng "Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc để phục
59
vụ hạnh phúc của đồng bào", trong đó có đoạn ghi rằng: Là Hội thánh trong
lòng dân tộc Việt Nam chúng ta quyết tâm gắn bó với vận mệnh quê hương,
noi theo truyền thống dân tộc, hoà mình vào cuộc sống hiện tại của đất nước.
Công đồng dạy Hội thánh phải đồng tiến tới toàn thể nhân loại và cùng chia
sẻ một số phận trần gian với thế giới. Vậy chúng ta phải đồng hành với dân
tộc mình, vì quê hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi làm con
của Người.
Theo Thư chung, Giáo hội sẽ có những thay đổi để nhằm thực hiện hai
nhiệm vụ cụ thể: đó là "Tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ và
xây dựng Tổ quốc" và "Xây dựng trong Hội thánh một nếp sống và một lối
diễn tả đức tin phù hợp với truyền thống Dân tộc".
Phải nói rằng, đường hướng mục vụ của Thư chung năm 1980 là một
đường hướng tiến bộ, phù hợp với xu thế thời đại và ở Việt Nam. Nó đặt dấu
chấm hết cho giai đoạn người Công giáo Việt Nam phải đứng trước sự lựa
chọn nghiệt ngã: Tổ quốc hay Hội thánh và mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ
mà người Công giáo Việt Nam vừa làm người tín hữu trung thành của Hội
thánh Chúa Kitô, vừa làm người công dân tốt của Tổ quốc. Thư chung năm
1980 tạo cơ sở để quá trình ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam
đến đời sống đạo của người Công giáo Việt Nam nói chung, người Công giáo
Bùi Chu - Nam Định nói riêng diễn ra sôi động, sâu sắc hơn.
2.2.2. Lịch sử giáo phận Bùi Chu - Nam Định
Bùi Chu như đã nói ở trên, cho đến bây giờ vẫn được coi là nơi đầu tiên
giáo sĩ Công giáo đến truyền đạo tại Việt Nam. Có thể tóm lược lịch sử giáo
phận Bùi Chu như sau:
2.2.2.1. Giai đoạn từ buổi đầu đến 1679 Năm 1659, Tòa Thánh chính thức thành lập hai giáo phận tông tòa tại
Việt Nam. Giám mục Francois Pallu được cử làm Giám mục hiệu tòa
Heliopolis, đại diện tông tòa địa phận Đàng Ngoài. Giám mục Lambert de la
60
Motte được bổ nhiệm làm giám mục hiệu tòa Berythe, đại diện tông tòa địa
phận Đàng Trong. Lúc đó, vùng đất Bùi Chu đã có đông giáo hữu thuộc giáo
phận Ðàng Ngoài do các thừa sai dòng Tên phục vụ, và từ năm 1676 thì có
thêm các thừa sai Ða Minh. Ranh giới địa phận Đàng Ngoài là từ sông Gianh
gần Quảng Bình trở ra hết miền Bắc.
Năm 1668, Giám mục Pierre Lambert de la Motte đã truyền chức linh
mục cho hai thày giảng người Việt đầu tiên tại Xiêm (Thái Lan) là Benedicto
Hiền và Gioan Huệ. Linh mục Gioan Huệ (1668-1671) được cử về phục vụ ở
Kiên Lao giáo phận Bùi Chu. Ngày 19-2-1670, Giám mục làm chủ lễ khấn
dòng cho hai nữ tu đầu tiên là Phaolô (Paola) và Anê tại họ Bắc Câu, xứ Kiên
Lao. Cũng vào năm này, giáo xứ Kiên Lao là giáo xứ có đông giáo hữu nhất
trong giáo phận Ðàng Ngoài. Linh mục Simon Kiên - một trong bảy linh mục
thuộc lớp người Việt thứ hai được truyền chức tại công đồng Phố Hiến (Hưng
Yên) - đã làm việc và rồi qua đời tại đây (1670 - 1684).
Năm 1679, địa phận Đàng Ngoài được phân thành giáo phận Đông
Đàng Ngoài và Tây Đàng Ngoài. Linh mục Jacques de Bourges được phong
làm giám mục hiệu tòa Auren, coi sóc giáo phận Tây Đàng Ngoài, còn linh
mục F. Deydier Phan được cử làm giám mục hiệu tòa Ascalon, coi sóc giáo
phận Đông Đàng Ngoài. Giáo phận Bùi Chu thuộc địa phận Đông, ranh giới ở
tả ngạn sông Lô và sông Hồng tới vịnh Bắc Việt. Trong suốt khoảng thời gian
1679 - 1848, Tòa giám mục thường được đặt tại Lục Thuỷ Hạ (nay là Liên
Thủy), Trà Lũ, Trung Linh và Bùi Chu.
2.2.2.2. Giai đoạn từ 1679 đến năm 1924 Từ năm 1757, Giáo phận Đông được Tòa thánh giao cho các giáo sĩ
dòng Đa Minh cai quản và đảm nhiệm việc truyền giáo. Từ đây, Bùi Chu và
các giáo phận tách ra từ giáo phận Đông được gọi là Giáo phận Dòng. Cũng
vì thế, giáo phận Bùi Chu nhận thánh Đa Minh là quan thầy đệ nhị, được kính
mừng vào ngày 8/8 gọi là Lễ Đầu Dòng.
61
Ngày 5-9-1848 với Sắc lệnh Apostolatus Officium, Giáo Hoàng Piô IX
công bố chia giáo phận Ðông Ðàng Ngoài thành hai: một phần mang tên cũ là
giáo phận Đông, một phần là giáo phận Trung (Bùi Chu) gồm hai tỉnh Hưng Yên,
Thái Bình và 6 huyện của tỉnh Nam Ðịnh (do Giám mục Domingo Marti Gia coi
sóc). Giáo phận Bùi Chu lúc này được gọi là giáo phận Trung vì giáo phận này
nằm giữa giáo phận Ðông và Tây. Giáo phận mới tuy diện tích nhỏ hẹp nhưng số
giáo dân có tới 139.000 (nhiều gấp ba lần giáo phận Đông – 45.000 giáo dân).
Trong khoảng thời gian này, việc truyền đạo và giữ đạo tại Việt Nam
gặp rất nhiều khó khăn, thử thách bởi các sắc lệnh cấm đạo của các vị vua
triều Nguyễn, đặc biệt là các vị vua Minh Mạng, Tự Đức.
Ngày 3/2/1858, các linh mục Berriochoa Vinh và Riano Hòa tới Việt
Nam, hai linh mục này là cột trụ của giáo phận Trung trong giai đoạn lịch sử
bi thương của Công giáo Việt Nam với những biện pháp cấm đạo như:
Đầu tháng 5 năm 1858, Tổng đốc Nam Định cho đặt Thánh giá ở các
lối đi ra vào làng, bắt mọi người khi vào phải bước qua.
Ngày 5/8/1861, Vua Tự Đức công bố chiếu chỉ “Phân tháp” áp dụng trên
toàn quốc. Thêm vào đó, Tổng đốc tỉnh Nam Định là Nguyễn Đình Tân - người
thực hiện nghiêm ngặt lệnh triều đình đã lùng bắt giáo dân dữ dội. Nhằm củng cố
niềm tin cho giáo dân giữ đạo trong lúc bị chính quyền Tự Đức thực hiện chỉ dụ
gắt gao, Giám mục Valentinô Berrio - Ochoa Vinh, Giám mục Bùi Chu cùng với
linh mục chính địa phận, Emmanuel Rianô Hòa tuyên bố phó trao toàn Giáo phận
cho Đức Mẹ, với lời hứa sẽ nhận Đức Mẹ Vô Nhiễm làm quan thày địa phận và
xây một Thánh đường xứng đáng để tôn kính Đức Mẹ. Việc làm đó tác động rất
quan trọng đến tinh thần giáo sĩ và giáo dân trong việc giữ đạo.
Năm 1862, vua Tự Đức ban hành sắc chỉ tha đạo, Địa phận Bùi Chu từ
đó bình yên. Đến 100 năm sau, vào năm 1960, Giáo phận Bùi Chu có ba
Giám mục bản quốc và được nâng lên hàng Giáo phận chính tòa. Linh mục
62
chính Emmanuel Riano Hòa giữ lời khấn hứa năm nào với Đức Mẹ, năm
1866, ông đã tìm một nơi nhằm thực hiện việc khởi công xây dựng đền thánh
đầu tiên và đã chọn làng Phú Nhai.
Khi tuyên bố nhận Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội làm Quan thày địa
phận, Linh mục chính Hòa cũng là người đầu tiên đưa sáng kiến: hàng năm
lấy ngày 8/12 tổ chức trọng thể lễ Đức Mẹ Vô nhiễm, mời tất cả các linh mục,
tu sĩ nam nữ, giáo dân trong Giáo phận về Phú Nhai mừng lễ Tạ ơn Đức Mẹ.
Nhà thờ trở thành Đền Thánh - hiện thân cho lời khấn hứa năm nào, là chứng
tích lòng biết ơn của Giáo phận Bùi Chu.
Năm 1924, Giáo Hoàng Piô XI đã đổi tên giáo phận Trung thành Bùi
Chu do Giám mục Pedro Munagorri Trung coi sóc, giáo phận Ðông thành Hải
Phòng, giáo phận Tây thành Hà Nội.
2.2.2.3. Giai đoạn từ năm 1924 đến nay
Giáo phận Bùi Chu dần phát triển mạnh mẽ với đông đảo giáo dân. Ngày 9
tháng 3 năm 1936, Giáo hoàng Pio XI ban thêm sắc lệnh Proecipuas Inter
Apostolicas quyết định tách giáo phận Bùi Chu thành hai: một giữ tên cũ Bùi Chu
(do Giám mục Ðôminicô Hồ Ngọc Cẩn coi sóc), một lấy tên giáo phận Thái Bình
(địa giới hai tỉnh Thái Bình, Hưng Yên) do các thừa sai dòng Đa Minh cai quản.
Đến năm 1954, Giáo phận Bùi Chu đã có những bước đi khá vững chắc.
Tuy nhiên, biến cố ngày 20/7/1954 hiệp định Genève chia đôi đất nước, với
chiêu bài “Chúa vào Nam”, giáo dân, linh mục và tu sỹ di cư vào miền Nam
với số lượng lớn ( giáo phận Bùi Chu năm 1954 còn lại 36 linh mục chủ yếu
là linh mục cao tuổi, số này đến năm 1975 chỉ còn lại 6 người). Giáo phận rơi
vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Trước tình hình đó, linh mục Giuse Phạm Năng Tĩnh được cử về miền Bắc với tư cách là đại diện tông tòa, rồi giám quản Giáo phận và được tấn phong làm giám mục vào ngày 10/11/1960. Ngày 24 tháng 11 năm 1960, giáo phận tông tòa Bùi Chu được nâng lên giáo phận chính tòa do Giám mục Giuse
63
Phạm Năng Tĩnh coi sóc. Dưới sự dẫn dắt của vị giám mục này, giáo phận dần bước qua giai đoạn khó khăn. Ngày 8/12/1963, trong đại lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, giám mục đã truyền chức linh mục cho 29 vị tại đền thánh Phú Nhai. Đây được coi là điểm mốc của sự phục hồi giáo phận sau một thời gian nhiều giáo xứ nơi đây không có người chăn dắt. Giáo phận từ đó phát triển cho đến ngày hôm nay. Tuy nhiên, cũng phải nói đến sự kiện năm 1975, sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, số linh mục và giáo dân di cư năm 1954 tiếp tục di cư ra nước ngoài, chính lực lượng này đến nay đang tác động trở lại tới hoạt động của đạo Công giáo trên địa bàn.
Tòa giám mục Bùi Chu được đặt tại thôn Bùi Chu, xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, là trung tâm chỉ đạo mọi hoạt động tôn giáo.
Từ năm 1976 đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tôn giáo, đời sống của đồng bào giáo dân ngày càng được cải thiện. Đồng bào giáo dân ở Bùi Chu rất phấn khởi đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.2.3. Đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định
Đời sống hay lối sống, nếp sống hiểu theo nghĩa thông thường là cách sống, tức cách thức tồn tại và tư duy của một người hay một nhóm cá nhân.
Nói về lối sống chính là nói về những cách ứng xử hằng ngày hay cách sống được hình thành dựa trên một số quan niệm và giá trị nhất định. Trên bình diện xã hội học, lối sống hay cách sống bao hàm những dạng quan hệ xã hội, những cách tiêu dùng, cách giải trí hay cách ăn mặc, v.v…, đặc trưng cho nó. Một lối sống cũng có nghĩa là thái độ của một con người hay một nhóm người, những giá trị và cách nhìn về cái thế giới mà nó sống ở đó. Vì thế, một lối sống đặc thù ám chỉ một sự lựa chọn, có ý thức hoặc vô thức, giữa những hành vi ứng xử khác nhau. [43, tr.83].
64
Đời sống đạo (còn gọi là đời sống tôn giáo), theo nhà nghiên cứu Đỗ
Quang Hưng khẳng định “Ngày nay đời sống tôn giáo không chỉ là việc người
tín hữu lo chu toàn với riêng sự ân sủng của Thiên Chúa, mà nó còn đòi hỏi
người ta phải sống đầy đủ, trọn vẹn với những hành động thực tế cho chính
con người của thời đại chúng ta” [43, tr.10].
Như vậy, có thể hiểu đời sống đạo là một phức hợp thể hiện việc thực
hành tín lý, giáo lý, giáo luật, lễ nghi của tôn giáo và sự vận dụng tất cả điều
đó vào đời sống xã hội hay đời sống trần thế.
Từ đó, đời sống đạo của người Công giáo “là toàn bộ những ứng xử đối với
đời sống tâm linh và xã hội được hình thành trong tiến trình lịch sử truyền giáo,
phát triển đạo Công giáo ở Việt Nam dựa trên nền tảng của Kinh thánh, của triết lý
Công giáo, Giáo luật, giới răn và bị chi phối bởi lối sống, phong tục, tập quán và
tâm linh tôn giáo - văn hóa truyền thống của người Việt” [43, tr.287-288].
Như vậy, đời sống đạo của người Công giáo được hình thành trên cơ sở
giao thoa giữa niềm tin tôn giáo và văn hóa truyền thống dân tộc. Theo nhà
nghiên cứu Nguyễn Thị Quế Hương, đời sống đạo hay nếp sống đạo của
người Công giáo Việt Nam “được biểu hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau,
qua các mối quan hệ khác nhau trong đời sống tôn giáo và đời sống xã hội
qua cách ứng xử với tín ngưỡng, phong tục cổ truyền và đặc biệt qua việc
thực hành những lễ nghi Công giáo và lễ nghi ngoài Công giáo” [43, tr.243].
Đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định
cũng dựa trên cơ sở giao thoa giữa tín lý và những nét văn hóa đặc thù của
vùng Bùi Chu - Nam Định.
Có thể khái quát một số nét đặc thù trong đời sống đạo của người Công
giáo ở Bùi Chu như sau:
Thứ nhất, giáo phận Bùi Chu nằm gọn trong tỉnh Nam Định, thuộc vùng
đồng bằng Bắc Bộ với sự tồn tại của nhiều làng cổ, nơi lưu giữ các tín ngưỡng
65
truyền thống Việt Nam với ba tín ngưỡng ghi dấu ấn đậm nét là tín ngưỡng thờ
cúng Tổ tiên, tín ngưỡng Thành Hoàng làng và tín ngưỡng thờ Mẫu.
Thứ hai, giáo phận Bùi Chu thuộc dòng truyền giáo Đa Minh. Dòng
thánh Đa Minh truyền giáo luôn là một dòng mạnh cũng như có ảnh hưởng
lớn về truyền giáo của giáo hội. Ở Việt Nam, ngày 9 tháng 9 năm 1659,
Tòa thánh Lamã ban hành sắc chỉ thành lập hai địa phận đầu tiên ở Việt
Nam: địa phận Đàng Trong và địa phận Đàng Ngoài theo ranh giới Trịnh
Nguyễn phân tranh. Giám mục địa phận Đàng Ngoài Francisco Pallu đã
mời giáo sĩ dòng Đa Minh ở Manila (Philippin đến Đàng Ngoài truyền
giáo). Năm 1676, giáo sĩ Juan de Santa Cruz và giáo sĩ Juan Arjona đã
được cử đến Phố Hiến (Hưng Yên), đánh dấu sự có mặt của các giáo sĩ
dòng Đa Minh trên địa phận Đàng Ngoài.
Năm 1679, Tòa Thánh chia giáo phận Đàng Ngoài thành Tây Đàng
Ngoài và Đông Đàng Ngoài theo địa giới sông Hồng và sông Lô. Địa phận
Đông Đàng Ngoài - một vùng rộng lớn, bao gồm các địa phận sau này tách ra
thành: Bùi Chu (1848), Bắc Ninh (1885), Hải Phòng (1924), Thái Bình (1936),
Lạng Sơn (1915, 1939) - được giao cho dòng Đa Minh quản lý, giáo sĩ
Deydier làm đại diện Tông tòa. Năm 1848, Tòa Thánh chia đôi giáo phận
Đông Đàng Ngoài: một giữ tên cũ giáo phận Đông, một lấy tên giáo phận
Trung do Đức cha Domingo Marti Gia coi sóc. Ngày 3/12/1924, tất cả các
giáo phận ở Việt Nam đều được Tòa Thánh đổi tên theo địa hạt hành chính
nơi đặt tòa giám mục, nên giáo phận Trung được đổi thành giáo phận Bùi Chu
do Đức cha Pedro Munoagorri Trung coi sóc. Địa phận Bùi Chu là địa phận
đại diện cho các địa phận có dòng Đa Minh quản lý. Chính vì thế, ở Bùi Chu,
ngày Đại lễ kính thánh Đa Minh là ngày lễ trọng trong năm, được tổ chức với
quy mô lớn và hết sức sôi nổi. Điều này khác hẳn với các giáo phận do dòng
MEP quản lý thì không có thánh quan thày và Đại lễ kính thánh Đa Minh
cũng không phải là ngày lễ trọng.
66
Thứ ba, giáo phận Bùi Chu là giáo phận sùng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm
nguyên tội. Có thể nói rằng, giáo hội Công giáo Việt Nam rất đề cao Đức Mẹ
Vô Nhiễm nguyên tội, nhưng giáo phận Bùi Chu do dòng Đa Minh quản lý lại
sùng kính Đức Mẹ có những đặc thù riêng.
Có thể thấy, đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu -
Nam Định cũng bao gồm nhiều yếu tố, nhưng trong khuôn khổ luận án, đời
sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định được nghiên
cứu trên hai phương diện: niềm tin và thực hành nghi lễ Công giáo.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 Vùng đất thuộc giáo phận Bùi Chu nằm ở phia Nam đồng bằng Bắc Bộ
nên là nơi lưu giữ các tín ngưỡng truyền thống Việt Nam điển hình, mà tiêu
biểu nhất là tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng Thành Hoàng làng và tín
ngưỡng thờ Mẫu.
Đối với tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng này đã được hình
thành từ rất lâu đời trong đời sống người Việt truyền thống vùng đồng bằng
Bắc Bộ nói chung, vùng Bùi Chu nói riêng, thể hiện qua một số hương ước ở
các làng Việt truyền thống vùng Bùi Chu thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX
như lệ vùng Cát Chử (Trực Ninh); lệ ở Thanh Trà, tổng Quế Hải (Hải Hậu); lệ
của làng Vị Khê (Nam Trực).
Đối với tín ngưỡng Thành Hoàng làng - biểu tượng của tính cố kết
cộng đồng, là tín ngưỡng đóng vai trò then chốt trong đời sống tâm linh
của cư dân làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ, cư dân thuộc sáu huyện nằm
trong vùng giáo phận Bùi Chu cũng tin và thực hành nghi lễ của tín
ngưỡng Thành Hoàng làng. Phải nói rằng, tín ngưỡng Thành Hoàng làng
tồn tại rất phổ biến ở vùng đất này. Chính vì sự tồn tại phổ biến của tín
ngưỡng Thành Hoàng làng ở vùng Bùi Chu, tâm thức thờ Thành Hoàng
làng và thực hành nghi lễ của tín ngưỡng Thành Hoàng làng in đậm trong
đời sống người dân nơi đây.
67
Đối với tín ngưỡng thờ Mẫu - một hình thức tín ngưỡng in đậm dấu ấn
văn hóa nông nghiệp lúa nước, gắn với lối sống thiên về tình cảm, trọng phụ
nữ của người Việt truyền thống, vùng giáo phận Bùi Chu với các huyện ven
biển như Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Giao Thủy... gắn liền với loại hình tín
ngưỡng này (mẫu Thoải, mẫu Thủy).
Đây cũng là vùng đất thường xuyên tổ chức các lễ hội dân gian náo
nhiệt. Công giáo – một tôn giáo lớn của thế giới - khi du nhập vào Việt Nam
đã chọn vùng đất Bùi Chu là một trong những điểm đặt chân đầu tiên. Đời
sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu – Nam Định vì thế cũng
có những nét đặc thù. Dựa trên cơ sở giao thoa giữa tín lý và những nét văn
hóa đặc thù của vùng Bùi Chu – Nam Định, đời sống đạo của người Công
giáo ở Bùi Chu có thể khái quát:
Giáo phận Bùi Chu nằm gọn trong tỉnh Nam Định, nơi tồn tại nhiều
làng cổ, lưu giữ đậm nét ba tín ngưỡng điển hình là tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên, tín ngưỡng Thành Hoàng làng và tín ngưỡng thờ Mẫu.
Giáo phận Bùi Chu thuộc dòng truyền giáo Đa Minh. Cũng vì lẽ đó, ở
Bùi Chu, ngày Đại lễ kính thánh Đa Minh là ngày lễ trọng của năm, được tổ
chức với quy mô lớn và hết sức sôi nổi.
Giáo phận Bùi Chu là giáo phận sùng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên
tội và sùng kính Đức Mẹ với những đặc thù riêng.
68
Chương 3
ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
ĐẾN ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO PHẬN
BÙI CHU - NAM ĐỊNH - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
3.1. THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG
VIỆT NAM ĐẾN ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO PHẬN BÙI CHU - NAM ĐỊNH
Trước Công đồng Vatican II, Giáo hội bắt buộc các tín đồ không được thực hành tín ngưỡng truyền thống vì sợ rối đạo. Tuy nhiên, do tín ngưỡng truyền thống in sâu trong tâm thức các tín đồ người Việt nên ở các làng Công giáo vùng đất Bùi Chu, người dân nơi đây vẫn thực hiện hầu hết các tín ngưỡng truyền thống dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Trải qua thời gian, tín ngưỡng truyền thống, trong đó có tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng Thành Hoàng làng và tín ngưỡng thờ Mẫu có những ảnh hưởng đáng kể đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu.
3.1.1. Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên 3.1.1.1. Trước Công đồng Vatican II Quan niệm của Công giáo về cái chết Chết, sống lại (phục sinh) là một trong những màu nhiệm cơ bản nhất
của niềm tin Công giáo. Màu nhiệm phục sinh thể hiện trước hết ở sự kiện Chúa Giêsu chịu đóng đinh đến chết trên cây Thập giá, được táng xác trong mồ, ngày thứ ba sống lại (phục sinh), linh hồn và xác lại được hợp cùng nhau. Sau 40 ngày Chúa Giêsu sống cùng môn đệ của mình, Người “lấy phép riêng mà lên trời”.
Theo Công giáo, con người do Chúa Trời sinh ra từ cát bụi, chết đi lại trở về với cát bụi. Cuộc sống trần thế là tạm thời, ngắn ngủi, chỉ có cuộc sống sau khi qua đời được lên Thiên đàng mới là cuộc sống vĩnh hằng. Như vậy, chết nơi trần thế là điểm khởi đầu cho một cuộc sống mới nơi Thiên đàng.
69
Công giáo quan niệm khi chết, hồn lìa khỏi xác, việc chôn cất người
qua đời gọi là đưa xác (người Việt không Công giáo gọi việc đưa người chết
ra nghĩa địa là đưa ma, ngoài đưa xác còn phải đưa hồn cùng đi, sau lễ an táng
mới đưa linh hồn trở lại nhà thân chủ để thờ cúng). Người Công giáo qua đời
được đưa vào nhà thờ để làm phép xác.
Theo quan niệm của Công giáo, thế giới của người qua đời gồm 3 tầng: thiên
đàng, luyện ngục, địa ngục. Thiên đàng dành cho những người sạch tội hay đã đền
tội đầy đủ, luyện ngục là nơi giam giữ những người lành nhưng còn mắc tội mọn
hoặc đền tội chưa đủ. Địa ngục là nơi giam giữ những người phạm tội trọng.
Quan niệm về mối quan hệ giữa người sống và người chết theo Công
giáo hết sức lỏng lẻo. Người đang sống muốn cứu vớt linh hồn người thân nơi
luyện ngục phải luôn cầu nguyện, ăn chay, nhất là xin lễ cho linh hồn ấy.
Ngược lại, người qua đời không thể giáng phúc, giáng họa cho người thân
đang sống, vì thế không có nghi lễ cầu cúng và cầu xin. Ngày người thân qua
đời hàng năm, hình thức chỉ là tưởng niệm, xin kinh hoặc đọc kinh (tại gia
hoặc nhà thờ). Trong khi đó, người Việt không Công giáo tin tưởng rằng
người thân qua đời có thể “phù hộ độ trì” cho người đang sống, từ đó họ có
nghi thức cầu cúng, có bàn thờ gia tiên, từ đường dòng họ…
Quan niệm về cái chết qui định thái độ của người Công giáo trong thực hành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Trong các tín ngưỡng truyền thống ở Việt Nam, Giáo hội không chấp nhận
tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên một cách kiên quyết. Nghiêm cấm thờ cúng Tổ tiên
được một số Giáo hoàng hết sức quan tâm. Giáo hoàng Clemente XI (1700 -
1721) đã tổ chức hội nghị, đưa ra nghị quyết của Toà Điều tra với 4 nội dung:
1. Cấm dùng chữ Thiên hoặc Thượng đế để chỉ Thiên Chúa.
2. Cấm treo trong thánh đường những tấm bảng có ghi hai chữ Kính Thiên.
3. Cấm cúng tế Khổng Tử, ông bà, cha mẹ.
4. Cấm đặt bài vị trong nhà riêng.
70
Nghị quyết này được Giáo hoàng chấp nhận trong Tông hiến đề ngày
20/11/1704. Giáo hoàng buộc các giám mục, linh mục ở các dòng truyền giáo
đều phải tuân theo, không được có bất kỳ sự khiếu nại nào.
Sự ngăn cấm của Giáo hội với tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên gây nên sự
trăn trở, day dứt của các tín đồ, nhất là các tân tòng. Bởi lẽ trong văn hóa
truyền thống Việt Nam, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên là một trong những yếu
tố quan trọng và nền tảng, biểu hiện rõ nét đạo hiếu, lòng hiếu thảo hay tinh
thần uống nước nhớ nguồn đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên. Quá trình ảnh
hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người
Công giáo Việt Nam nói chung, người Công giáo Bùi Chu nói riêng, vì thế, có
thể khẳng định xuất phát từ nền tảng là tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên.
Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên với giáo lý Công giáo về lòng hiếu thảo
với cha mẹ có những điểm tương đồng. Điểm tương đồng đó là sự phù hợp
giữa sứ điệp Công giáo và tín ngưỡng Việt Nam trong chủ trương thảo hiếu
với cha mẹ. Đạo hiếu trong Công giáo được quy định rõ ràng:
Trước hết, đạo hiếu nằm trong thập giới (10 điều răn), là căn bản của
giáo lý Công giáo. Thập giới của Công giáo gồm 2 phần: Kính Chúa và yêu
người. Trong đó 3 giới đầu liên quan đến Thiên Chúa, 7 giới sau liên quan đến
vấn đề yêu người. Giới thứ 4, “Thảo kính cha mẹ” là giới đứng đầu nhóm sau,
điều đó có nghĩa: “Thảo kính cha mẹ” là giới luật quan trọng nhất trong các
giới liên quan đến yêu người.
Thứ hai, trong các văn bản Kinh Thánh (cả Cựu Ước và Tân Ước) có
rất nhiều câu và đoạn văn khuyến khích lòng hiếu thảo của con cái đối với cha
mẹ, nhất là trong sách Châm Ngôn và Huấn Ca.
Thứ ba, dân tộc Việt Nam không chỉ đặt nặng đạo hiếu đối với cha mẹ
hay ông bà tổ tiên ruột thịt của mình, bên cạnh đó, họ còn có bổn phận đối với
cha mẹ ở cấp độ cao hơn - cha mẹ ở trên trời, hay cha mẹ tạo dựng nên vũ trụ
71
vạn vật. Niềm tin có Trời là Đấng tạo dựng vũ trụ rất phù hợp với niềm tin
chung thờ Trời (Thiên) của người Việt. Đây cũng là điểm thuận lợi trong quá
trình ảnh hưởng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tới đời sống đạo của người Công
giáo Việt Nam. Giáo hội (Tòa thánh và các đoàn truyền giáo) và giáo dân có
những ứng xử tích cực với tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên nói riêng, các tín
ngưỡng truyền thống nói chung, là bước đầu góp phần quan trọng tới đường
hướng hội nhập của Công đồng Vatican II sau này.
Trước hết phải kể đến Huấn thị của Bộ Truyền bá đức tin có tên
Monita ad Missinarios (Nhắn nhủ các Thừa sai) được ban hành năm 1659
“Chư huynh đừng bao giờ muốn sửa đổi, đừng tìm lý lẽ nào để buộc dân
chúng sửa đổi những phép xã giao, tập tục, phong hóa của họ trừ khi nó
hiển nhiên mâu thuẫn với đạo thánh và luân lý. Có gì vô lý, bỉ ổi hơn mang
theo cả nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý hay bất cứ nước nào khác bên trời Âu
sang cho dân Á đông chăng? Không phải mang thứ ấy đến cho họ mà là
mang chân lý đức tin, một chân lý không loại trừ nghi lễ và tập tục của bất
cứ một dân tộc nào, cũng không xúc phạm đến lễ nghi tập tục ấy, miễn là
chúng không xấu; ngược lại, chân lý ấy muốn cho người ta bảo tồn và duy
trì chúng là đằng khác”. [173, tr.208-210].
Càng về sau, nhất là từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, vấn đề thờ cúng
Tổ tiên của người Công giáo đã được một số Giáo hoàng đưa ra những quy định
cởi mở hơn, theo đó, tín đồ Công giáo Việt Nam được thực hiện một số nghi lễ
truyền thống của người Việt đối với người qua đời và tưởng niệm tổ tiên.
Về phía giáo dân, tuy không thực hành nghi lễ thờ cúng theo truyền
thống người Việt nhưng họ vẫn có những hình thức tưởng niệm riêng.
Thông qua hệ thống hương ước làng Công giáo Bùi Chu - Nam Định,
chúng ta có thể hiểu được phần nào việc thực hành tín ngưỡng thờ cúng
Tổ tiên của họ.
72
Hương ước làng Trung Linh (Nam Định) đã ghi nhận rằng: “Làng
chúng tôi toàn tòng đạo Thiên Chúa trong một năm có hai kỳ làm lễ… Lễ Kỳ
hồn, cầu cho Tiên tổ và viếng mộ” [111].
Có thể thấy các hình thức tôn kính Tổ tiên này đã được các tín đồ Công
giáo dựa trên tập tục cổ truyền, nhưng đưa nội dung Công giáo vào. Công
giáo quan niệm, con người do Chúa Trời sinh ra, chết ở nơi trần thế lại là sự
bắt đầu của một đời sống mới nơi Thiên Đàng.
Đối với người qua đời là tín đồ Công giáo, tang lễ ngoài một số lễ
nghi Công giáo, người dân còn thực hành một số lễ nghi như những người
không theo đạo Công giáo. Tuy nhiên, người Công giáo không tiếp thu một
cách rập khuôn máy móc mà có sự giản tiện và phù hợp với cuộc sống
đương thời hơn.
Người Công giáo không theo nghi tục “cha đưa, mẹ đón”, khóc lóc, lăn
đường, lạy xác, cắt tóc… như người Việt truyền thống. Bởi theo họ, đó là biểu
hiện bề ngoài thái quá và không cần thiết.
Nhiều yếu tố của tang ma bên Công giáo giản lược hơn so với truyền thống,
chẳng hạn người chết được ba ngày: đi thăm mộ, cầu kinh; 49, 100 ngày, giỗ đầu
(tiểu tường), giỗ hết (đại tường): xin lễ và đọc kinh cầu nguyện. Ngày giỗ thân chủ
người qua đời hàng năm có hai hình thức tưởng niệm chính: xin lễ bàn thờ hoặc
xin lễ mồ. Ngoài ra, thân chủ người qua đời còn tổ chức tưởng niệm tại gia với
hình thức có thể làm cỗ bàn mời anh em họ hàng đến tham dự.
Giáo luật buộc vào các ngày chủ nhật mùa vọng, mùa chay, Phục sinh,
thứ Tư lễ Tro và Tam nhật vượt qua không được làm lễ an táng người qua đời
mà phải đổi sang ngày khác.
Sống trong môi trường làng xã mà vấn đề ngôi thứ luôn được đặt ra
ngay cả với người qua đời, người Công giáo theo đó cũng có những quy định
thứ hạng mà thân chủ người qua đời nộp tiền cho làng/ xứ đạo để được làng/
73
xứ đạo lo tang ma theo thứ bậc. Hương ước ấp Thủy Nhai (Nam Định) tại
điều 116 đến điều 118 có ghi lại như sau:
Khi có người vọng ở 5 hạng trên thì trích 1/5 để sửa lễ phúng, còn
thì sung quỹ công. Khi đi phúng thì người vọng hạng nhất làng cử
những người đã có vị thế từ hạng nhất đến hạng ba, mỗi hạng 3
người; khi người vọng hạng nhì thì làng cử những người có vị thế
từ hạng hai trở xuống… nhà chủ bất cứ đã nộp lệ hạng nào chỉ phải
tiếp người đi đưa cùng phu phen bằng giầu nước thôi, không phải
cơm rượu [107].
Hương ước làng Lạc Đạo quy định: việc hiếu tùy tang chủ không bắt
buộc, nhưng ai nộp lệ hạng nhất (40 đồng) sẽ đưa đòn lớn, có 12 viên huynh
thứ thượng hạng chức sắc hương lý kỳ cựu, mặc áo dài trắng đi đưa ma, có 5
lá cờ trắng, chiêng, trống cái, mã la, trống bé, kèn và trống cà rùng đi đưa, còn
phường nhạc Tây tùy hiếu chủ. Ai nộp lệ hạng nhì (30 đồng) có 8 viên trung
hạng như phó hội, phó lý tân cựu, cũng mặc áo dài trắng, dùng đòn lớn và có
3 lá cờ trắng, trống cái, mã la, trống bé, kèn Nam đi đưa. Ai nộp lệ hạng ba
(20 đồng) dùng đòn bé, người trong hội đồng, như thủ quỹ, thư ký, tộc biểu
cũng mặc áo dài trắng hộ tống, đồ đưa đám có trống cái, mã la, kèn trống đi
đưa. Người nào không có tiền nộp lệ cho làng, thì chỉ có người nhà, họ hàng
con cháu đi đưa. Không có huynh thứ và kèn trống của làng đi đưa [112].
Lễ giỗ hậu - một hình thức lễ tổ tiên được mở rộng dần từ gia đình đến
làng xã. Tục lệ này thực chất bắt nguồn từ tục gửi hậu của người Việt truyền
thống, đây là một phong tục đẹp của những người làm từ thiện (bằng tiền hay
ruộng đất hiến cho làng), đối với hậu chết dân làng nhớ đến công ơn, tổ chức
cúng giỗ, đối với hậu sống dân làng dùng chi việc công. Người Công giáo
Việt Nam đã lưu giữ tục lệ này trong đời sống sinh hoạt tinh thần của mình.
Tuy nhiên, tục lệ này lại chủ yếu được thực hiện ở các làng xôi đỗ, có ghi
trong hương ước, còn ở các làng toàn tòng thì ít thấy đề cập tới.
74
Tựu chung lại, thực hành vấn đề tang ma của người Công giáo vẫn là đề
cao chữ Hiếu trong gia đình người Công giáo Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu
nói riêng, người Việt nói chung. Tuy nhiên, có thể thấy trong thực hành vấn
đề tang ma của người Công giáo phần nào giản đơn hơn ở làng Việt truyền
thống, rõ ràng nhất là việc không bày tiệc gây tốn kém kinh tế, gây phiền
nhiễu cho tang chủ.
Vấn đề đạo Hiếu không chỉ được thể hiện đối với những người đã khuất
mà còn phải thể hiện trong cách ứng xử giữa con cái đối với ông bà, cha mẹ
trong gia đình khi họ còn sống. Điều 109 và 110, Khoản 18, Hương ước làng
Phú Nhai (Nam Định) qui định rõ: “Người nào trong làng tình cảnh không
phải vất vả mà để ông bà, cha mẹ rách rưới, khổ sở, Hương hội sẽ cho tìm con
cháu ra khuyên bảo, nếu không tuân sẽ cho là tội bất hiếu, Hương hội sẽ phạt
truất ngôi thứ cho đến khi biết hối cải” [117].
Ngoài ra, theo chu kỳ hàng năm, người Việt có nhiều Tết (Lễ tiết) cổ
truyền theo Âm lịch: Tết Thượng nguyên (15/1), Tết Thanh minh, Hàn thực
(3/3), Tết Đoan ngọ (5/5), Tết Trung nguyên (15/7), Tết Trung thu (15/8),
Hạ nguyên (15/10)… Dù rằng những dịp Tết trên đều mang tính toàn quốc,
nhưng lại không có Tết nào được mong đợi và được sửa soạn chu đáo như
Tết Nguyên đán. Tết Nguyên đán là tết mở đầu năm mới, là Tết Cả. Tết Cả
được hiểu theo nhiều nghĩa: Tết quan trọng hàng đầu, tết lớn nhất, tết có
mục đích sâu xa, toàn diện và có nhiều ý nghĩa với đời sống con người cá
thể và toàn thể cộng đồng nhất. Tết Cả có nguồn gốc sâu xa từ tín ngưỡng
Thờ cúng Tổ tiên.
Với người Việt tiểu nông lấy đơn vị gốc của tổ chức xã hội là gia đình
nhỏ phụ quyền, thì mối quan hệ đầu tiên được nhắc tới là gia đình phổ biến ba
thế hệ: ông bà - cha mẹ - con cháu. Tiếp đến là gia tộc. Quan hệ huyết thống
ràng buộc các gia đình với nhau. Cho nên Tết là dịp đoàn tụ gia đình, đoàn tụ
75
để bày tỏ mối giao cảm hai chiều: ông bà, bố mẹ và con cháu; và ngược lại
con cháu với bố mẹ, ông bà. Đó cũng là mối giao cảm hai chiều giữa tổ tiên
đã khuất với con cháu hiện diện hôm nay. Tết hướng về gia đình, tổ tiên chính
là hướng về sức mạnh truyền thống của gia đình, gia tộc.
Tết cũng là ngày đoàn tụ với những người đã mất. Từ bữa cơm đêm 30,
trước giao thừa, các gia đình đều thắp hương mời hương hồn ông bà tổ tiên,
những người thân đã qua đời về “hiến hưởng”, vui Tết với con cháu (cúng gia
tiên). Trong mỗi gia đình Việt Nam, bàn thờ gia tiên có một vị trí rất quan
trọng. Bàn thờ gia tiên ngày Tết là sự thể hiện lòng tưởng nhớ, kính trọng của
người Việt đối với tổ tiên, người thân đã khuất với những mâm ngũ quả được
lựa chọn kỹ lưỡng; mâm cỗ với nhiều món ngon hay những món ăn quen
thuộc của người đã mất.
Trong ba ngày Tết, khói hương trên bàn thờ gia tiên quyện với không
khí thiêng liêng của sự giao hòa vũ trụ làm cho con người trở nên gắn bó với
gia đình của mình hơn bao giờ hết. Để rồi sau dịp Tết Nguyên Đán, cuộc sống
lại bắt đầu một chu trình mới của một năm. Mọi người trở về với công việc
thường nhật của mình, mang theo những tình cảm gia đình đầm ấm có được
trong những ngày Tết để hướng đến những niềm vui trong cuộc sống và
những thành công mới trong tương lai.
Nghi lễ đón Tết Nguyên đán của người Công giáo Việt Nam được thực
hiện vẫn giữ lại những nét đặc thù như của người Việt truyền thống. Người
Công giáo ở các làng Công giáo vẫn hết sức coi trọng dịp Tết Nguyên đán,
coi đó là dịp để người Công giáo thăm hỏi lẫn nhau và cầu nguyện cho Thiên
Chúa và tổ tiên. Hương ước làng Phú Nhai, điều 119 có viết: “Làng ta có dự
trong sổ công tiêu về các tết Nguyên đán,... mỗi tiết là 5đ,00 để sửa lễ, huynh
thứ thưởng tiết” [117]. Hương ước ấp Thủy Nhai quy định “... làng có lệ
mồng 2 tháng Giêng ta có lệ Nguyên đán khai cổ (trống) thì đã có sổ công
76
tiêu hàng xã dự” [107]. Trong Hương ước làng Lục Thủy (Nam Định), Điều
118 cũng đề cập: “Làng ta toàn tòng đạo Công giáo... đầu năm ra có lệ mồng
4 khai trống, Nguyên đán, v.v... Tiền chi các tiết ấy đều trích ở công quỹ hàng
xã, đệ niên đã dự trong sổ chi thu của làng” [114].
Như vậy, trước Công đồng Vatican II, các tín đồ vẫn sống đạo với tâm
thức người Việt truyền thống thông qua hàng loạt nghi lễ như: tôn kính tổ tiên,
lễ tiên nhân… Tuy nhiên, các giáo sĩ hạn chế và kiểm soát chặt chẽ những
hoạt động trên. Đặc biệt, việc thờ thần thánh bị cấm ngặt.
Trước Công đồng Vatican II, hệ thống hương ước làng Công giáo có vai
trò quan trọng để duy trì sự ổn định, trật tự, kỷ cương làng xã, tạo nền nếp gia
phong từ cá nhân, gia đình đến cộng đồng trong làng Công giáo Bùi Chu nói
riêng, làng Công giáo đồng bằng Bắc Bộ nói chung. Với tư cách là công cụ
quản lý, hương ước thể hiện tính tự chủ, tự quản của nhân dân lao động ở làng
Công giáo Việt Nam thời phong kiến.
3.1.1.2. Sau Công đồng Vatican II
Sau Công đồng Vatican II, cơ cấu cổ truyền làng xã không còn nữa,
hương ước - linh hồn của làng xã - cũng mất dần vai trò quan trọng của nó,
tuy nhiên, nó không mất hẳn đi bởi chính những qui định từ lệ làng thành văn
đó đã ăn sâu trong tâm trí mỗi người dân, từ đó sự hồi sinh các giá trị truyền
thống trong hương ước được thể hiện qua việc duy trì các tín ngưỡng truyền
thống trong đời sống đạo của giáo dân.
- Ảnh hưởng tích cực
Quan niệm về thờ cúng tổ tiên sau Công đồng Vatican II (1962-1965)
Quá trình ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam tới đời
sống đạo của giáo dân Bùi Chu thể hiện từ cội rễ là đạo hiếu, hay tinh thần
hiếu thảo đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên. Vì người Việt cũng như các dân tộc
vùng Á Đông luôn đặt nặng tinh thần hiếu thảo đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên.
77
Từ nguồn cội, đạo hiếu luôn là một nền tảng căn bản cho đạo làm người của
người Việt, và nằm trong bản chất văn hóa của người Việt. Vì thế, ảnh hưởng
của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam tới đời sống đạo của người Công giáo
Bùi Chu - Nam Định khởi đầu từ đạo hiếu, và lấy đạo hiếu làm nền tảng. Như
phần trên chỉ ra, giữa sứ điệp Công giáo và văn hóa Việt Nam trong chủ
trương thảo hiếu với cha mẹ, tổ tiên có sự phù hợp.
Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt vốn mang hai yếu tố: yếu
tố niềm tin vào sự phù hộ của linh hồn đối với người sống và yếu tố văn hóa
phản ánh lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà, cha mẹ đã mất của mình.
Khi theo Công giáo, quan niệm cái chết của người Công giáo Bùi Chu có sự
khác biệt với người Việt truyền thống. Theo kết quả điều tra xã hội học về
quan niệm cái chết của người Công giáo Bùi Chu hiện nay, 56,5% người
Công giáo được hỏi đặt niềm tin rằng sau khi chết sẽ về với Chúa, 27,8%
người Công giáo cho rằng sau khi chết sẽ ở 1 trong 3 trạng thái: thiên đàng,
luyện ngục, hỏa ngục; 8,1% cho rằng chết là hết, 7,8% cho rằng sau khi chết
sẽ về với thế giới bên kia, giống thế giới ta đang sống [Bảng 2].
Như vậy, người Công giáo Bùi Chu một mặt tin theo giáo lý Công
giáo là khi chết sẽ được về với Thiên Chúa, nhưng mặt khác vẫn tồn tại niềm
tin rằng sau khi chết sẽ về thế giới bên kia. Điều này chi phối đến thái độ, tình
cảm đối với tổ tiên của người Công giáo.
Theo kết quả điều tra xã hội học, 66,5 % người Công giáo cho rằng
thờ cúng tổ tiên là để bày tỏ lòng thành kính, hiếu thảo với ông bà tổ tiên,
27,8% người Công giáo cho rằng thờ cúng tổ tiên để cầu mong tổ tiên ''phù hộ
độ trì'', 4,8% cho rằng thờ cúng tổ tiên là để cầu cho tổ tiên được cứu rỗi linh
hồn, 1% chọn ý kiến khác [Bảng 3]. Vì vậy, người Công giáo dùng danh xưng
“tôn kính tổ tiên” (không phải “thờ cúng tổ tiên”) để nhấn mạnh yếu tố văn
hóa trong tục thờ cúng Tổ tiên của người Việt. Tuy nhiên, với 27,8% người
Công giáo ở giáo phận Bùi Chu được phỏng vấn vẫn tin rằng Tổ tiên của họ
78
có được quyền năng “phù hộ, độ trì” cho họ. Đó chính là quan niệm truyền
thống của người Việt ảnh hưởng đến tâm thức của người Công giáo.
Với quan niệm trên, nghi lễ tôn kính Tổ tiên của người Công giáo về
cơ bản vẫn mang đặc trưng truyền thống của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên. Vì
kính trọng tổ tiên, người Việt coi việc tang ma là trọng sự, gắn liền với việc
tôn kính tổ tiên.
Về phong tục tang ma, khi tín đồ sắp qua đời, linh mục được mời
đến làm lễ và xức dầu bệnh nhân. Đối với người hấp hối, thân nhân và bà
con láng giềng thường tụ tập nhau đọc kinh “Kinh cầu cho những người
hấp hối mong sinh thì”.
Người qua đời được đặt nằm trên giường, xung quanh có thể rắc hoa
tươi. Khi có tín đồ qua đời, người thân phải báo linh mục chính xứ và ban
Hành giáo xứ, họ đạo. Nhà thờ rung chuông gọi là chuông sầu, chuông tử
hay chuông rình sinh thì. Đối với nam giới, ở nhiều giáo xứ, người ta kéo
chuông ngân bảy tiếng rời và ba hồi nhịp ba, đối với nữ giới, chuông ngân
chín tiếng rời và ba hồi nhịp ba buồn tẻ. Khi nghe chuông sầu, tín đồ ngừng
việc đang làm hướng về phía nhà thờ đọc Kinh Lạy Cha, tỏ lòng thương
tiếc người đồng đạo.
Vào một thời điểm thích hợp, người thân làm lễ tẩm liệm, nhập quan.
Người Công giáo không có quan niệm chết vào giờ lành hay giờ dữ, không
chọn ngày, giờ tốt đưa tang; không thiết hồn bạch, làm nhà táng, minh tinh,
không có kiệu hay xe (linh xa) đưa rước linh hồn người qua đời. Người Công
giáo Bùi Chu không dùng vàng mã để đốt cho người thân đã mất, 0% người
Công giáo thường xuyên dùng vàng mã, 94,2% người Công giáo được hỏi
chưa bao giờ dùng vàng mã để đốt, chỉ 5,8 % người Công giáo được hỏi thỉnh
thoảng có dùng [Bảng 5].
Trong lễ đưa tang, cũng giống với người Việt truyền thống, con cái
người Công giáo đã chết mặc áo xô, mang khăn trắng đưa cha (mẹ). Ảnh của
79
người chết được đặt nghiêm trang trên bàn thờ, phía trước là Thánh giá. Quan
tài được đặt ngay ngắn, phía đầu quan tài được khắc hình thánh giá. Những
người đến viếng đặt lễ và thắp hương cho người quá cố. Khi viếng người đã
mất, cả người Công giáo và không Công giáo đều đốt nén hương cho người
mất, sau đó vái lạy (1 hay 3 lạy) và cắm vào bát hương. Thắp hương xong họ
kiêng không thổi mà dùng tay phẩy đến khi tắt lửa. Từng đoàn đến viếng đều
gửi tới bức trướng hoặc vòng hoa như trong những đám viếng truyền thống,
tuy nhiên có nhiều vòng hoa kết hình thánh giá.
Trước khi đưa ra nghĩa địa mà người Công giáo gọi là Vườn Thánh,
quan tài người qua đời được đưa vào trong nhà thờ làm phép xác. Khi đưa ra
Vườn Thánh, đi đầu đoàn đưa là Thánh giá nến cao, có thể có bát âm được
biểu diễn trực tiếp hoặc qua băng đĩa, sau đó đến ảnh người quá cố, một số
vòng hoa, rồi đến quan tài được phủ hoa lên trên, theo sau là người đưa viếng.
Tang chủ và người thân đều khóc bởi lòng tiếc thương người đã mất, nhưng
tuyệt nhiên không có hiện tượng khóc thuê, lăn đường như đám tang người
Việt truyền thống. Từng đoàn người đi đưa tiễn thường khoanh tay trước ngực,
rất nghiêm trang. Nếu xứ, họ đạo nào không có nghĩa địa riêng, gia chủ phải
mời linh mục đến làm phép huyệt. Ngoài ra người Công giáo Bùi Chu không
cho phép đóng cá ván bởi có thể có người chết lâm sàng, có thể sống lại. Điều
đó cho thấy người Công giáo cẩn thận, suy xét bằng lý trí nhiều hơn niềm tin
và mang tính khoa học nhiều hơn.
Khi thăm gia đình có người mới qua đời, mọi người đều đến trước bàn
thờ người mất để thắp hương và vái lạy. Khi viếng mộ người mới chết, người
thân có thể đem hoa, quả, nến, hương, đồ ăn mà người đã mất khi còn sống
thích và đặt lên mộ.
Với người đã mất, thân nhân người Công giáo vẫn giữ phong tục 3
ngày, 49 ngày, 100 ngày, giỗ đầu (tiểu tường), giỗ hết (đại tường). Các hình
thức tưởng niệm trong những ngày này đều dựa trên phong tục truyền thống
80
nhưng có đan xen với nghi lễ Công giáo: 3 ngày - đi thăm mộ, cầu kinh; 49
ngày - lễ và đọc kinh cầu nguyện; 100 ngày - lễ và đọc kinh cầu nguyện; giỗ
đầu (tiểu tường) - đọc kinh cầu nguyện; giỗ hết (đại tường) - đọc kinh cầu
nguyện. Tuy nhiên, khác với người Việt truyền thống coi trọng 49 ngày,
người Công giáo Bùi Chu trọng 100 ngày bởi quan niệm đến 100 ngày xác
mới bị phân hủy.
Theo kết quả điều tra xã hội học, có 28,7 % người Công giáo được hỏi
có tổ chức tưởng niệm người thân đã mất trong dịp 3 ngày, 25,8% người Công
giáo tưởng niệm người thân đã mất trong dịp 49 ngày, 86,5 % người Công giáo
tổ chức tưởng niệm người thân đã mất trong dịp 100 ngày, 100% tổ chức tưởng
niệm người thân đã mất vào giỗ đầu và giỗ những năm tiếp sau [Bảng 5].
Hàng năm, cứ đến ngày giỗ người qua đời, người thân tổ chức tưởng
niệm xin lễ nhà thờ: gần ngày giỗ, người thân gặp linh mục xin lễ, trước
thánh lễ, tên thánh của người quá cố được viết vào một tấm bảng để tín đồ đi
dự lễ biết. Đến cuối Thánh lễ, linh mục rao lại cho mọi người thực hành đọc
kinh cầu nguyện. Trong ngày giỗ, nhiều gia đình có làm cỗ, tổ chức thắp
hương, lễ bái mời bà con ruột thịt, bạn bè, ngoài ra có thể mời người ngoài
Công giáo tham dự. Tuy nhiên, khác với người Việt không Công giáo, người
Công giáo Bùi Chu thường làm cỗ đơn giản ( 72,3%), 16,5% người Công
giáo làm cỗ to mời nhiều người, 11,2 % người Công giáo chỉ ăn uống đơn
giản như thường ngày [Bảng 5].
Khi thăm mộ người qua đời, con cháu có thể thắp hương, có thể
thắp nến và đọc kinh cầu nguyện cho người đó. Mộ người thân đã mất của
người Công giáo thường xây đơn giản. Theo kết quả điều tra xã hội học,
37,7% xây đơn giản, 9,7% xây to đẹp, không xem hướng, 52,6 % xây to
đẹp có xem hướng [Bảng 5].
Theo kết quả phỏng vấn sâu, khi xem hướng, phần đông người Công
giáo theo quan niệm đầu đội sơn, chân đạp biển, hoặc hướng về phía nhà thờ.
81
Gia đình Công giáo nói chung đều đặt bàn thờ tổ tiên, dù là cố định
hay tạm thời. Bàn thờ tổ tiên có thể đặt chung hoặc tách ra với bàn thờ Chúa.
Thông thường, bàn thờ tổ tiên bày hai bên hai chân nến, một đèn dầu nhỏ,
một bình hoa, một đĩa (đặt bánh, trái cây), phía trên có treo ảnh người qua đời
(cha mẹ, ông bà…). Nếu để chung với bàn thờ Chúa thì tượng (ảnh) Chúa
được đặt lên trên cao nhất, bên dưới là ảnh người thân đã mất và các vật thờ
như đã trình bày.
Theo kết quả điều tra xã hội học, có 57,1% người Công giáo đặt
hương hoa, oản quả lên bàn thờ tổ tiên vào dịp giỗ người thân, 21,6 % người
Công giáo đặt hương hoa oản quả lên bàn thờ vào dịp lễ trọng, 16% người
Công giáo đặt lên bàn thờ trong những dịp quan trọng của gia đình, 5,2%
người Công giáo chọn ý kiến khác [Bảng 4].
Như vậy, trong tâm thức người Công giáo Bùi Chu, mối liên hệ gắn
kết với tổ tiên đã mất của họ hết sức bền chặt.
Về việc khấn nguyện với tổ tiên và các đấng linh hồn, các tín đồ
không chỉ cầu nguyện cho linh hồn ông bà, cha mẹ mau được về với Thiên
Chúa mà còn có thể khẩn cầu với họ “cầu thay nguyện giúp cho mình trước
tòa Thiên Chúa”. Người Công giáo không đặt tổ tiên lên trên hay ngang hàng
với Chúa mà xác tin rằng tổ tiên sẽ thấu hiểu hoàn cảnh, ước nguyện của con
cháu, sẵn sàng quan tâm giúp đỡ và bầu chủ cho con cháu trước mặt Thiên
Chúa, giữ trọn tình nghĩa máu mủ, tình cảm gia đình không hề bị chia cắt,
phai nhạt. Đây là xác tín niềm tin của người Công giáo trong tôn kính tổ tiên:
Thiên Chúa là “nguồn mạch mọi tình yêu” và mọi tình yêu xuất phát từ tình
yêu của Thiên Chúa đều là vĩnh cửu. Tuy nhiên, theo kết quả điều tra xã hội
học, khi thắp hương ở bàn thờ tổ tiên, người Công giáo Bùi Chu có đến 51%
cầu xin sự bình yên, 22,9% cầu xin tài lộc, giàu có, 7,7 % cầu xin may mắn,
8,3% cầu xin hạnh phúc, 0,1% cầu xin tất cả những điều trên [Bảng 4].
82
Không chỉ cho phép các tín đồ thực hiện nghi lễ tôn kính tổ tiên, nghi
lễ Công giáo cũng chịu ảnh hưởng phần nào của tín ngưỡng quen thuộc này.
Đó là việc dùng hương trong phụng vụ.
Người Việt Nam luôn giữ thói quen vào mỗi dịp lễ tết, mỗi khi đi xa
về, họ đến bên bàn thờ tổ tiên, thắp cho tổ tiên một nén nhang thơm, bày tỏ
lòng thành kính của mình. Việc đốt hương (hay xông hương) trong cử hành
phụng vụ nhằm diễn tả hai điều chính yếu: lòng tôn kính và lời cầu nguyện
giống như hương trầm bay trước dung nhan Thiên Chúa.
Trong quá trình hội nhập, việc dùng hương cũng chịu ảnh hưởng của
việc dùng lư hương trong nghi lễ thờ cúng Tổ tiên người Việt không Công
giáo. Hội đồng Giám mục đã qui định cho phép dùng lư hương và dâng
hương thay cho bình hương hay xông hương. Từ đó, người ta được phép chọn
một trong hai cách: hoặc dâng (vái) hương hoặc xông hương.
Nghi thức thờ cúng Tổ tiên thực hiện trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh
Trong Tuần Thánh, ngày thứ Sáu là ngày mà người Công giáo tưởng
niệm Chúa Giêsu chịu chết và làm lễ táng xác. Trong ngày này, ngoài Thánh
lễ được tổ chức trang trọng trong nhà thờ, người Công giáo Bùi Chu còn có
hình thức tưởng niệm theo nghi thức thờ cúng Tổ tiên của người Việt truyền
thống. Sau khi thánh hóa tượng Chúa chịu nạn trong nhà thờ, đoàn rước bắt
đầu đi từ nhà thờ ra ngoài. Đoàn rước gồm có các hội đoàn, bát âm, đội kèn
đồng đi trước, sau đó là tượng Chúa Giêsu đầu đội mão gai, vai vác cây thánh
giá, tay đeo xiềng xích, tiếp đến là tượng Đức Mẹ với khuôn mặt xót thương,
trên tay cầm khăn tang trắng và cuối cùng là đoàn người đi theo quan tài. Tất
cả đều mặc áo xô trắng đeo khăn tang, bày tỏ lòng xúc động xót thương Chúa
Giêsu. Sau khi đi vòng quanh nhà thờ, đoàn rước kết thúc trong nhà thờ.
Sau khi ngắm, kể lại 15 sự thương khó của Chúa, khoảng 12 giờ đêm
có các “tông đồ” mặc đồ tang, đeo khăn tang, tay mang búa, vai mang thang
83
trèo lên tháo xác Chúa đã bị đóng đinh trên cây Thánh giá. Xác Chúa được
đặt trong quan tài trên một cỗ đòn trang trí sơn son thiếp vàng rất đẹp, trên có
để hàng nến đang cháy. Quan tài được đặt trên kiệu gọi là kiệu xác Chúa.
Cuộc táng xác Chúa ở một vài địa phương được rước quanh làng trên con
đường chính, cuối cùng Chúa sẽ được táng xác trong hang đá. Tuy nhiên, nhìn
chung cuộc táng xác chỉ đưa từ trong nhà thờ ra táng trong hang đá, bởi nhà
thờ Công giáo nào cũng đều có hang đá.
Nghi lễ tưởng niệm cái chết của Chúa biểu hiện tất cả tình yêu bao
la của Thiên Chúa khi sai Chúa Giêsu xuống cứu nạn cho con người, từ đó
góp phần làm nên thành công của Tuần Thánh. Để rồi Tuần Thánh này qua
đi, các tín đồ lại mong chờ năm phụng vụ sau, một Tuần Thánh khác lại
đến, lại được chứng kiến những nghi lễ tổ chức hết sức đặc sắc, không chỉ
là nghi lễ Công giáo mà đan xen với tín ngưỡng dân gian làm nên sinh hoạt
văn hóa độc đáo.
Nghi thức gia tiên
Theo quan niệm Công giáo, chế độ hôn nhân của nhân loại là chế độ
hôn nhân một vợ một chồng, và hôn nhân là do Thiên Chúa tác hợp.
Hôn nhân được đạo Công giáo nâng lên thành Bí tích Hôn phối.
Hôn nhân của người Công giáo Bùi Chu vừa theo phong tục truyền
thống của người Việt, vừa theo quy định của giáo luật. Họ thực hiện theo các
bước, như lễ dạm, ăn hỏi, lễ cưới, lại mặt.
Trong hôn lễ, đáng chú ý là việc thực hiện nghi thức gia tiên. Nghi
thức này chỉ được Giáo hội Công giáo xem xét, cho phép bởi Thông báo
của Hội đồng Giám mục Việt Nam ngày 14/01/1974. Điều 4 của Thông
báo quy định: “Trong hôn lễ, dâu rể được làm lễ tổ, lễ gia tiên ở trước bàn
thờ, giường thờ tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình
diện với ông bà.
84
Nghi thức gia tiên thường gồm ba mục: cảm tạ Thiên Chúa - Kính nhớ
Tổ tiên - Chúc mừng ông bà, cha mẹ còn sống.
Tạ ơn Thiên Chúa.
Xuất phát từ quan niệm Thiên Chúa là nguồn mọi tình phụ tử trên trời
dưới đất. Nhờ Thiên Chúa mà các tín đồ có cha có mẹ, ông bà, tổ tiên. Vì thế,
cô dâu, chú rể đến trước bàn thờ Thiên Chúa, thắp hương và dâng lời cảm tạ
lên Thiên Chúa.
Kính nhớ Tổ tiên:
Sau nghi lễ tạ ơn Thiên Chúa là nghi lễ kính nhớ tổ tiên
Sách Huấn ca (Hc 44,10-45) dạy rằng : “Hãy ca tụng bậc cha ông đã
sống qua các thời đại, công đức các ngài không chìm vào dĩ vãng, gia tài của
các ngài là lũ cháu đàn con”.
Nghi thức này bắt nguồn từ quan niệm của người Việt truyền thống
rằng: tổ tiên dù đã mất nhưng vẫn hiện diện trong gia đình và sống cùng con
cái, cháu chắt. Vì thế, vào ngày cưới, cô dâu, chú rể được dẫn tới bàn thờ Tổ
tiên (thường được đặt dưới bàn thờ Thiên Chúa hoặc một nơi khác trong nhà,
trên có trưng bày di ảnh, hoa nến, mâm ngũ quả,...) làm lễ để ra mắt tổ tiên
gia tộc, bày tỏ lòng thành kính biết ơn, thể hiện đúng truyền thống “Ăn quả
nhớ kẻ trồng cây” rồi cắm hương vào lư đồng hoặc bát hương theo đúng nghi
lễ truyền thống dân tộc.
Mừng ông bà, cha mẹ còn sống.
Xuất phát từ quan niệm cha mẹ là người sinh thành, yêu thương và tốn
bao tâm huyết trong nuôi dạy con cái. Công ơn cưu mang, nuôi nấng, dạy dỗ,
nay con cái đã bước vào tuổi trưởng thành, đến ngày lập gia thất, đồng thời
cũng nhờ cha mẹ sắp đặt mà đôi trai gái có được ngày vui này. Vì thế đôi
uyên ương cần phải đến trước cha mẹ mà bày tỏ lòng biết ơn với các đấng
sinh thành.
85
Nghi thức gia tiên được tổ chức ở cả hai bên nhà gái và nhà trai.
Một điểm khác biệt với đám cưới truyền thống người Việt là khi đưa
dâu theo truyền thống thường rải tiền khi qua cầu, điều này bị cấm ngặt ở bên
Công giáo.
Có thể thấy, các bước cưới xin của người Công giáo kế thừa lễ cưới truyền
thống của người Việt nhưng giản tiện hơn và theo quy định của giáo luật.
Ngoài ra, trong đời sống sinh hoạt tinh thần của người theo và không
theo Công giáo có sự giao thoa, biểu hiện ở thói quen thăm hỏi nhau những
khi gia đình có đám hỷ, đám hiếu; giúp đỡ đùm bọc nhau trong lúc khó khăn.
Đám hiếu, hỷ của người không Công giáo, một số làng/xứ họ đạo Công giáo
còn đưa bộ kèn đồng vào phục vụ.
Như vậy, sau Công đồng Vatican II, thực hiện chủ trương nhìn
nhận và coi trọng những đặc điểm tâm lý, lối sống, phong tục, tập quán
và tín ngưỡng truyền thống của các dân tộc, các hình thức trên không
còn bị cấm đoán như trước, thậm chí một số việc còn được khuyến khích
thực hiện như việc lập bàn thờ ông bà, thắp hương trước bàn thờ ông
bà… Song, tín lý Công giáo quan niệm đây chỉ là sự thay đổi về mặt
hình thức biểu hiện, còn nội dung vẫn không thay đổi, có nghĩa là tín đồ
Công giáo lập bàn thờ ông bà, tổ tiên là để thể hiện lòng kính nhớ, biết
ơn và sự hiếu thảo, hoàn toàn không “thờ” ông bà bởi người Công giáo
chỉ thờ duy nhất Thiên Chúa.
Ảnh hưởng của thờ cúng tổ tiên đến đời sống đạo của người Công giáo
Bùi Chu còn được thể hiện trong dịp tết Nguyên đán - tết cổ truyền dân tộc.
Nội dung này được luận án trình bày ở phần trên. Ở đây chỉ xin nhấn mạnh
một số khía cạnh. Về phía Giáo hội Công giáo Việt Nam, ba ngày Tết cổ
truyền, thánh lễ ở các nhà thờ Công giáo thường theo ba chủ đề, mỗi chủ đề
cho một ngày tết.
86
Mùng 1 cầu cho Thiên Chúa Ba ngôi Mùng 2 cầu cho Giáo hội Công giáo Việt Nam Mùng 3 kính nhớ ông bà tổ tiên Vào đêm 30 âm lịch, các giáo xứ ở Bùi Chu đều tổ chức lễ giao thừa,
cầu thuận hòa, bình an. Một số giáo xứ tổ chức “hái hoa”. Đó là những câu được trích từ trong Phúc âm, với những nội dung ca ngợi Thiên Chúa, xác tín tín lý, lối sống theo mẫu gương Thiên Chúa v.v... Người tham dự “hái” được nội dung nào thì trong năm lấy đó làm chiêm niệm, học hỏi. Đây là một hình thức sáng tạo nơi nhà thờ Công giáo ở giáo phận Bùi Chu.
Sáng mùng một, người Công giáo Bùi Chu tổ chức đi lễ nhà thờ để chúc tuổi nhau. Mùng hai tết, các gia đình Công giáo thường đi du xuân chúc tết các linh mục, họ hàng, thăm mộ tổ tiên. Tết cũng là dịp con cháu trong gia đình họp mặt, nhận biết anh em và cúng bái tổ tiên.
- Ảnh hưởng tiêu cực Sau khi được Giáo hội cho phép, người Công giáo Bùi Chu đã thực hiện
tốt tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên. Song cùng với thời gian, việc thực hành tín ngưỡng này đã và đang bộc lộ một số vấn đề như: đã có hiện tượng người qua đời để ở nhà lâu ngày gây ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường. Do chú trọng đến việc đưa di hài người qua đời đến nhà thờ làm phép xác, người ta đã không ngần ngại đưa cả những người qua đời do bệnh dịch nguy hiểm lẽ ra cần phải có hình thức an táng riêng để tránh lây lan bệnh dịch. Đã và đang xuất hiện hiện tượng một số gia đình Công giáo làm cỗ bàn dịp ma chay hoành tráng và tốn kém, nặng về khoe khoang hình thức. Ở một số làng/ xứ đạo Công giáo còn thấy có những ngôi mộ được xây dựng cao to tốn kém hàng chục triệu đồng.
3.1.2. Ảnh hưởng của tín ngưỡng Thành Hoàng làng 3.1.2.1. Trước Công đồng Vatican II Quan niệm về Thành Hoàng làng Có thể nói, ở Việt Nam, tín ngưỡng bản địa là một bộ phận cấu thành
văn hóa dân tộc, và làng xã là nơi nuôi dưỡng, bảo vệ những giá trị văn hóa ấy.
87
Đồng bằng Bắc Bộ nói chung, giáo phận Bùi Chu nói riêng lại vốn là địa bàn
mà ở đó tín ngưỡng bản địa của người Việt mang tính tiêu biểu. Một trong
những tín ngưỡng điển hình ở các làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ phải kể
đến tín ngưỡng Thành Hoàng làng. Mỗi làng xã truyền thống Việt Nam đều có
Thành Hoàng làng.
Truyền bá Công giáo vào Việt Nam, các giáo sỹ Công giáo chọn làng
làm nơi thành lập xứ, họ đạo, biến làng thành xứ, họ đạo. Trải qua thời gian
xuất hiện các làng mà ở đó toàn bộ hay phần lớn cư dân gia nhập Công giáo
được gọi là làng Công giáo toàn tòng.
Theo quan niệm Công giáo, thánh quan thày là vị thánh bảo trợ, coi sóc
hay quan phòng đời sống của một tín đồ hay một cộng đồng tín đồ. Với làng
Công giáo toàn tòng, xứ, họ đạo gắn liền với làng về địa giới, về tên gọi, và
toàn bộ cư dân trong làng cũng đồng thời là tín đồ. Vì thế, thánh quan thày
của xứ, họ đạo được đồng nghĩa với thánh quan thày làng đạo và thánh quan
thày làng đạo trong tâm thức các tín đồ Công giáo lại được coi như Thành
Hoàng làng. Người Công giáo nhận ra rằng Thành Hoàng làng Việt về chức
năng cơ bản là giống chức năng thánh quan thày xứ, họ đạo, vì thế việc
chuyển đổi này không những không làm mất đi quyền năng của các vị thánh
Công giáo mà còn làm các vị thánh thêm gần gũi với đời sống tâm linh các tín
đồ vốn in đậm dấu ấn văn hóa tín ngưỡng bản địa. Nếu như ở làng xã của
người không Công giáo, ngôi đình làng là nơi tưởng niệm thần Thành Hoàng,
là nơi diễn ra lễ hội làng thì ở làng Công giáo, lễ thánh quan thày xứ đạo
(Thành Hoàng làng giáo) được diễn ra trong khuôn viên nhà xứ, nhà thờ giáo
xứ là trung tâm điểm lễ hội. Hình thức tổ chức lễ thánh quan thày giống như
một ngày hội làng. Với giáo dân ở giáo phận Bùi Chu, dòng Đa Minh có công
ơn rất lớn. Thánh Đa Minh được dòng qui định là Thánh Quan thày đầu dòng.
Vì thế, nghi thức kỷ niệm Thánh Quan thày đầu dòng được tổ chức hoành
tráng vào ngày 8/8 hàng năm tại Giáo xứ chính tòa Bùi Chu.
88
Như vậy, với người Công giáo Bùi Chu có hai hình thức kỷ niệm
Thánh Quan thày. Đó là kỷ niệm thánh quan thày xứ đạo và kỷ niệm thánh
quan thày đầu dòng. Nếu như kỷ niệm thánh quan thày xứ đạo là ngày hội
của làng với quan niệm Thánh quan thày xứ, họ đạo là Thành Hoàng làng
đạo thì kỷ niệm Thánh quan thày đầu dòng là ngày hội của một vùng rộng
lớn (giáo phận), và do vậy, Thánh quan thày đầu dòng trở thành Thành
Hoàng của một vùng rộng lớn. Điều này có thể thấy trong lễ hội làng, lễ
hội vùng của cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, chẳng hạn lễ hội 5 làng
Mọc (nay thuộc quận Thanh Xuân, Hà Nội).
Lễ Thánh quan thày đầu dòng được tiến hành rầm rộ với quy mô lớn
từ bao giờ, theo những người cao tuổi kể lại đã có cả trăm năm nay. Nếu
như nghi thức diễn ra trong Thánh lễ ít có sự thay đổi theo thời gian thì
những hình thức thể hiện bề ngoài lại luôn có sự thay đổi. Để tránh trùng
lặp, Lễ Thánh quan thày đầu dòng sẽ được luận án trình bày ở phần sau
Công đồng Vatican II.
Ảnh hưởng của tín ngưỡng Thành hoàng làng đến đời sống đạo của
người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định được thể hiện trong lễ tiên
nhân. Lễ tiên nhân là lễ cầu cho những người lập làng hoặc những người có
công với dân làng, còn gọi là lễ Kỳ (cầu) hồn. Điều 26 Hương ước làng Vĩnh
Trị (Nam Định) có đề cập đến như sau: “Làng toàn Công giáo có một ngôi
nhà thờ và 4 nhà nguyện của 4 giáp... Tại nhà thờ chính: Lễ cầu cho tiên nhân
làng, 3đ,00, Lễ Thánh Quan thày, 3đ,00” [113].
Ảnh hưởng từ tín ngưỡng Thành Hoàng làng, lễ hội làng cũng hiện diện
trong đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu. Lễ hội làng ở
các làng Công giáo thường được tổ chức vào ngày Lễ Thánh Quan thày mà
thông qua hệ thống hương ước các làng Công giáo, điều này được thể hiện
khá rõ ràng. Điều 94 Hương ước ấp Thủy Nhai (Nam Định) quy định: “Hàng
89
năm cứ ngày 12 tháng 9 tây lại mở Lễ Thánh Quan thày long trọng thì phải
phí tổn và tiền lễ thì làng dự sổ công tiêu trích tiền công quỹ là 30đ,00 để chi
phí việc lễ ấp cho long trọng” [96].
3.1.2.2. Sau Công đồng Vatican II - Ảnh hưởng tích cực
Dưới tác động của Công đồng Vatican II, sau ngày đất nước Việt Nam độc
lập thống nhất, đặc biệt là sau khi nước ta bước vào công cuộc đổi mới toàn diện,
trong đó có đổi mới về công tác tôn giáo để phát triển đất nước, lễ hội làng Công
giáo ở giáo phận Bùi Chu có dịp được phục hồi và phát triển. Trước hết là lễ hội
tưởng niệm Thánh quan thày đầu dòng. Như phần trên đề cập, Đại lễ Kính thánh
Đa Minh ở Bùi Chu được tổ chức rầm rộ tại nhà thờ chính tòa, được coi như đại lễ
tưởng niệm Thành Hoàng làng của một vùng rộng lớn mà người tham gia là tất cả
người Công giáo ở các làng quê xứ đạo giáo phận Bùi Chu. Đại lễ này khiến ta
liên tưởng tới lễ hội vùng của người không Công giáo, như lễ hội 5 làng Mọc quận
Thanh Xuân - Hà Nội nhưng quy mô thì lớn hơn nhiều.
Trước ngày lễ, các tín đồ lo chuẩn bị rất chu đáo từ việc sửa sang
đường xá, nhà xứ, nhà thờ đến dựng cổng chào, chăng hoa, kết đèn, trang
hoàng nhà thờ, nhà xứ, tập dượt văn nghệ, hội kèn, hội trống, các nghi thức
sẽ diễn ra trong ngày lễ.
Ngay từ chiều ngày 7/3, giáo dân đã đổ về nhà thờ Chính tòa dự Thánh
lễ khai mạc. Lễ rước thánh quan thày diễn ra quanh khuôn viên nhà thờ, bắt
đầu là đi từ trong nhà thờ và kết thúc cũng được đưa vào nhà thờ. Đi trước
đoàn rước có các ban nhạc Tây (đội kèn đồng) và cả ban nhạc Nam (bát âm)
tấu nhạc cổ truyền. Do là đại lễ vùng nên có nhiều ban nhạc Tây của một số
giáo xứ cùng tham gia. Ngoài nghi thức rước thường thấy nơi nhà thờ Công
giáo, trong Đại lễ Thánh Đa Minh còn thấy một đoàn gồm 6 người, ăn mặc
trang phục như binh lính thời phong kiến, cầm gươm đao múa. Tiếp theo là
một chiếc trống đại đặt trên xe kéo. Người đánh trống vừa đánh vừa nhảy múa
90
hết sức vui nhộn, khiến cho cuộc đi rước mang đậm nét truyền thống. Sau các
ban nhạc là kiệu thánh Đa Minh. Kiệu được sơn son thiếp vàng, trên đó đặt
tượng thánh Đa Minh, xung quanh được tết hoa lá. Đoàn lễ nghi gồm Giám
mục chính Giáo phận chủ sự, hợp cùng các linh mục trong Giáo phận đứng
vào hàng và cung nghinh Thánh quan thày.
Trong Đại lễ kính thánh Đa Minh, bên cạnh nghi lễ được tổ chức trọng
thể theo đúng thể thức nghi lễ Rôma, có thể thấy những hình thức diễn xướng,
âm nhạc truyền thống được dùng trong đại lễ có nguồn gốc lễ hội Việt Nam
truyền thống, dựa trên văn hóa tín ngưỡng dân gian truyền thống.
Đại lễ diễn ra vào buổi sáng nhưng trước và sau đại lễ, hai buổi tối
đều tổ chức các hình thức văn nghệ. Diễn viên là những người Công giáo.
Nội dung thường được lấy trong Kinh Thánh, cũng có khi là hạnh tích
Thánh Đa Minh, ngoài ra còn có thể là các bài ca điệu múa mang nội dung
và âm hưởng nhà đạo.
Vì là lễ hội vùng nên để tham dự buổi lễ, người Công giáo nhiều nơi
phải đi từ sáng sớm, có khi phải đi từ nửa đêm. Ngày trước đi lại khó khăn,
người Công giáo nơi xa phải cơm đùm cơm nắm đi từ hôm trước đến và ở trọ
lại. Trước, trong và sau Thánh lễ, người Công giáo thường vào nhà thờ cầu
nguyện, xin ơn.
Đại lễ là nơi người Công giáo của giáo phận có điều kiện gặp gỡ, giao
lưu chia sẻ để lối sống đạo, đời, tình người thêm gắn bó, là dịp nam thanh nữ
tú gặp gỡ giao duyên.
Với văn hóa bản địa, lễ thường đi liền với hội, trong đó hội thường
được coi trọng, có sự gắn kết cộng đồng. Công giáo lại coi trọng phần lễ, còn
phần hội được gọi là rước. Ở giáo phận Bùi Chu, đặc trưng của vùng giáo này
là sự đa dạng về nhiều loại rước như rước chầu, rước hoa, rước chiên, rước
thánh thể… Rước là một loại hình nghệ thuật văn hóa tiêu biểu nhất ở Bùi
91
Chu, nếu đến nhà thờ Quần Phương hay như bất cứ một nhà thờ nào ở Bùi
Chu để xem rước. Trong Đại lễ Kính Thánh Đa Minh cũng diễn ra cuộc rước.
Trong đoàn rước ấy, ở văn hóa bản địa thì đi đầu là con công, hình nộm sa
tăng, chú tễu đi dẹp đám thì người Công giáo không dùng hình nộm mà lại
dùng hội trống. Đoàn rước được xếp theo một thứ tự nhất định, đi đầu là một
hội trống khoảng 30 người thanh niên to khỏe với một quả trống cái dẫn đầu.
Hội trống này gọi là hội trống cà rùng (khác với văn hóa bản địa, trống chỉ
đánh xụp, đánh xòe, âm thanh khá nhẹ nhàng thì ở Công giáo du nhập hội
trống ở Tây Ban Nha vũ điệu mạnh gọi là trống cà rùng). Như vậy là hình
thức của trống cũng được cải biên. Hội trống đánh mạnh, múa trống xoay, nổi
lên dồn dập, âm vang rộn ràng, náo nhiệt một vùng tạo nên sự hưng phấn cho
người tham dự.
Tiếp sau hội trống là Thánh giá. Ở châu Âu người ta sử dụng cây
thánh giá bằng đồng hoặc sắt, khi sang Việt Nam thánh giá nến cao được
làm bằng gỗ, chạm trổ sơn thiếp đẹp đẽ. Đi sau là đoàn nghĩa binh, các
em thiên thần, đội trắc, giới trẻ, hiền mẫu, đoàn con Đức Mẹ, huynh đoàn,
gia trưởng, ca đoàn, đội kèn tây, đoàn lễ nghi… Cuối cùng là kiệu vàng
cũng là kiệu chính. Ở châu Âu, các kiệu thường đơn sơ, nhẹ nhàng nhưng
sang Việt Nam kiệu trở thành kiệu bát cống – một loại kiệu truyền thống
được mua lại hay chế tác theo kiểu truyền thống. Trên kiệu có tượng Đức
Mẹ, tượng các Thánh… Điều đặc biệt là các tượng ở đây thường được
mặc trang phục truyền thống, có bố trí các nô tỳ đi theo phục vụ để tăng
thêm phần tôn kính. Người châu Âu nhận xét đây là niềm tin trội vượt của
tín đồ người Việt.
Cần nói thêm rằng, ở một số giáo xứ như giáo xứ Trung Lao còn có cả
ban nhạc Tây và ban nhạc Nam. Ban nhạc Nam gồm các loại nhạc cụ như sáo,
nhị, đàn tranh, trống.
92
- Ảnh hưởng tiêu cực
Do tâm lý người Việt khi tổ chức và tham gia lễ hội thường chú
trọng phần hội hơn phần lễ. Trong lễ hội, phần lễ thường diễn ra ở những
nơi trang nghiêm như trước cửa đình, chùa… với mục đích là giao tiếp
với thần linh để cầu xin và tạ ơn thần linh bảo trợ cho cuộc sống của
cộng đồng; phần hội diễn ra nhằm thỏa mãn nhu cầu vui chơi, giải trí của
con người thông qua các trò chơi dân gian, địa điểm diễn ra ở những bãi
đất trống, rộng rãi, xuất phát từ những ước vọng thiêng liêng của cư dân
nông nghiệp. Khi trở thành tín đồ Công giáo, phần hội (các cuộc rước)
cũng chịu ảnh hưởng bởi tâm lý trên của người Việt nên diễn ra khá
rườm rà, mất nhiều thời gian. Mỗi cuộc rước có thể kéo dài vài tiếng
đồng hồ, những người tham gia thường phải mặc các trang phục bắt mắt,
đặc biệt ở Bùi Chu số lượng các cuộc rước là dày đặc khiến họ mất rất
nhiều thời gian để chuẩn bị cũng như tham gia. Trong điều kiện nền kinh
tế thị trường, con người luôn bị áp lực về thời gian, việc tham gia các
cuộc rước ảnh hưởng đến thời gian người Công giáo Bùi Chu thực hiện
các công việc và các hình thức giải trí khác. Theo kết quả điều tra xã hội
học, một lượng đáng kể người được phỏng vấn cho rằng các cuộc đi kiệu
trong dịp Đại lễ Kính thánh Đa Minh nên tổ chức giản tiện ngắn gọn hơn
(38,4%), 1,9% cho rằng không cần thiết phải tổ chức đi kiệu, 59,7%
người Công giáo được hỏi thì đồng ý với nhận định vẫn nên giữ nguyên
theo truyền thống [Bảng 6].
Cũng vì niềm tin sâu sắc mà không ít người Công giáo đã có những tư
tưởng thái quá. Ở vùng giáo phận Bùi Chu đã từng tung tin về hiện tượng
xương thánh tử đạo chảy máu ở xứ Lác Môn (xã Trực Hùng, huyện Trực
Ninh) khiến hàng nghìn người đổ về đó “xin ơn”, gây mất trật tự an ninh
trên địa bàn.
93
3.1.3. Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu
3.1.3.1. Trước Công đồng Vatican II
Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đến đời sống đạo của người Công
giáo ở giáo phận Bùi Chu mang tính liên tục. Với loại hình tín ngưỡng này,
việc chia thành hai giai đoạn trước và sau Công đồng Vatican II là mang tính
ước lệ. Ngay từ trước Công đồng Vatican II, qua hệ thống hương ước làng
Công giáo đã đề cập tới. Khoản thứ 19, hương ước ấp Sa Châu (Nam Định)
viết: “Làng ta có 2 ngôi nhà thờ, 2 đền thờ ấy để thờ đức Thánh Mẫu. Hai
đền thờ ấy theo tục làng đến ngày kính Thánh Mẫu bổ mỗi đinh 0đ, 10 xin lễ
và dầu nến. Các ngày chủ nhật ai cũng phải đi chầu lễ. Hằng năm cứ đến
ngày kính Thánh Mẫu rước Cụ về làm lễ tại đền thờ ấy” [120]. Đây là một ví
dụ có tính điển hình. Để tránh việc trùng lặp trong trình bày ảnh hưởng của
tín ngưỡng này, luận án đưa toàn bộ phần trình bày vào giai đoạn sau Công
đồng Vatican II.
3.1.3.2. Sau Công đồng Vatican II
- Ảnh hưởng tích cực
Quan niệm về thờ Mẫu
Đặc điểm chung của tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam là tôn thờ yếu tố nữ.
Đối với người Việt Nam, vai trò của người phụ nữ không bị hạ thấp, khinh
miệt như quan niệm Nho giáo truyền thống mà được đặc biệt coi trọng.
Yếu tố nữ, âm tính rất sâu đậm trong tình cảm và tiềm thức người Việt.
Do đó, hình tượng nữ xâm nhập vào hầu hết các tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam, trong đó có Công giáo. Vai trò của các thánh mẫu được coi trọng và
giành được nhiều tình cảm. Trong lòng đạo đức bình dân của các tín đồ
Công giáo, Đức Mẹ Maria nhiều khi gần gũi hơn Chúa Giêsu. Theo kết quả
điều tra xã hội học mà luận án tiến hành cho thấy 83,5% người Công giáo
thường xuyên cầu nguyện trước ảnh (tượng) Đức Mẹ, 10,3% người Công
94
giáo thỉnh thoảng cầu nguyện và chỉ có 5,5% người Công giáo hiếm khi cầu
nguyện trước ảnh (tượng) Đức Mẹ [Bảng 8].
Về phương diện giáo lý, Đức Mẹ Maria chỉ được cầu bầu mà không được
ban ơn nhưng trên thực tế, người Công giáo đã coi bà như thánh mẫu với khả
năng che chở, ban ơn, sinh sôi. Cũng theo kết quả điều tra xã hội học, 48,4%
người Công giáo cầu xin Đức Mẹ ban phát sự bình yên; 16,8% người Công giáo
cầu xin tài lộc, sự giàu có; 7,1% người Công giáo cầu xin may mắn; 14,8%
người Công giáo cầu xin hạnh phúc và 12,9% người Công giáo cầu xin trước
ảnh (tượng) Đức Mẹ những điều tốt lành cho con cái mình [Bảng 8].
Quan niệm về thờ Mẫu ảnh hưởng tới việc thực hành nghi lễ trong dịp
Lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm.
Có thể nói rằng, giáo phận Bùi Chu là Giáo phận riêng của Mẹ Vô
nhiễm, giáo phận Bùi Chu nhận Mẹ Vô nhiễm làm Quan thầy đệ nhất bởi
quan niệm đã nhận được sự ban ơn, che chở từ Đức Mẹ.
Lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm
Lòng sùng kính Đức Mẹ trải qua năm tháng trở thành một nếp sống đạo
bình dân đối với giáo dân ở Giáo phận Bùi Chu. Lễ kính Đức Mẹ Vô nhiễm
hàng năm vẫn luôn được tổ chức là đại lễ long trọng và sầm uất nhất ở Giáo
phận. Lễ kính Đức Mẹ được cử hành vào 8/12 hàng năm, một ngày không xa
trước Lễ Giáng sinh. Người Công giáo giáo phận Bùi Chu lưu truyền câu:
“Dù ai đến mãi nơi đâu,
Nhớ ngày kính Mẹ rủ nhau đi về”.
Dịp lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm hàng năm ở Đền Thánh Phú Nhai là dịp
gợi nhớ về một lịch sử mà theo quan niệm của người Công giáo Bùi Chu, họ
nhận được sự ban ơn, che chở của Đức Mẹ cho Giáo phận trước chính sách
cấm đạo của các vị vua triều Nguyễn và cũng gợi nhớ về lời hứa của linh mục
chính Hòa năm nào sẽ phó dâng giáo phận cho Đức Mẹ.
95
Lễ kính Đức Mẹ Vô nhiễm ở giáo phận Bùi Chu được tổ chức long
trọng tại giáo xứ Phú Nhai (xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường bây giờ).
Vào mỗi dịp lễ Thánh Quan thày, người dân Phú Nhai chuẩn bị rất chu đáo từ
việc sửa sang đường xá, nhà xứ, nhà thờ đến tập dượt văn nghệ, hội kèn, hội
trống, các nghi thức, nghi lễ sẽ diễn ra trong ngày lễ và trang hoàng Đền
Thánh. Con đường chính từ cổng làng Phú Nhai vào nhà thờ được trang trí
bằng rất nhiều cờ và đèn điện. Hàng trăm cây cột được sơn trắng, cắm cờ màu
xanh trắng (cờ Đức Mẹ) và cờ mầu vàng trắng (cờ Tòa thánh Vatican) xung
quanh Đền Thánh.
Vào buổi chiều sớm ngày 7/12, các giáo lý viên từ các giáo hạt trong
giáo phận quy tụ khá đông đủ tại quảng trường Đền Thánh Phú Nhai, sau đó
họ sinh hoạt theo các giáo hạt và chuẩn bị cho Thánh lễ.
Trong giờ cung nghinh Thánh thể, kiệu Đức Mẹ được rước đi xung
quanh Thánh đường. Đây là cuộc rước đầy trang nghiêm và long trọng. Đi
đầu cuộc đi kiệu là các đoàn giáo lý viên các giáo hạt đi rước. Mỗi đoàn đều
mặc đồng phục theo quy định từng giáo hạt.
Đi sau là ban nhạc Tây với đội kèn, trống, rồi đến 12 vị “Thánh Tông
đồ” trong trang phục truyền thống do 12 giáo dân đạo đức được tuyển chọn
đóng, tiếp theo là Hội Bắc nhạc, ngay sau đó là kiệu Đức Mẹ vô nhiễm với
khoảng hơn chục người khiêng. Trên kiệu là tượng Đức Maria mặc trang phục
Á Đông, trên đầu là 12 ngôi sao sáng, tượng trưng cho 12 nhân đức đang
chiếu soi mà mọi tín đồ cần noi theo. Chân tượng đạp đầu con rắn, tượng
trưng cho tấm gương mời gọi mỗi tín đồ kinh biệt tội lỗi, đam mê, ham muốn
xấu xa để luôn được sống trong sạch.
Tiếp theo là đội trống, trong đó có những chiếc trống cái rất to (trống
đại), được đặt trên xe có bánh lăn hình chiếc thuyền, thường do nam giới
trung tuổi, có sức khỏe đảm nhiệm. Ngoài trống cái là những đội trống nhỏ.
96
Khi đánh, người đánh trống còn nhảy múa. Có lúc, họ đưa dùi trống lên quá
đầu trước khi gõ vào trống, khi họ lại luồn qua khuỷu chân rồi mới gõ. Người
đánh trống khi nhảy phía trước, lúc nhảy lùi phía sau hoặc nhảy qua phải, qua
trái theo nhịp điệu. Một số người gọi đó là đánh trống nhảy, thực chất đây là
múa trống. Sau những hồi trống rộn ràng, đội trống xếp hàng đi rước đoàn
nghi lễ. Sau đội trống thuộc ban nhạc nam là đội trống thiếu nhi. Các cháu
mặc trang phục dân tộc mau mắn đi rước đoàn nghi lễ. Giám mục Giáo phận
đương nhiệm và các linh mục mặc quần trắng, áo dài vàng khoác bên ngoài
cũng góp vào rước đoàn nghi lễ một cách trọng thể.
Vào ngày lễ chính tiệc, từ sáng sớm, ở khắp các ngả đường gần Đền
Thánh chật kín người đi bộ, đi xe đạp, xe máy, ô tô nô nức hướng về Đền
Thánh Phú Nhai. Người tham dự ngoài giáo dân Bùi Chu còn có giáo dân đến
từ giáo phận Thái Bình và các giáo phận bạn.
Giáo dân tập hợp đông đảo, ổn định trật tự để đón đoàn lễ nghi đi ra lễ
đài cử hành Thánh lễ trọng thể kính Đức Mẹ. Đoàn Nam nhạc toàn xứ xếp
hàng danh dự đón đoàn lễ nghi. Ca đoàn hát lễ và đội kèn đồng toàn xứ phục
vụ Thánh lễ tạo nên không khí rộn ràng cho buổi lễ.
Đi đầu đoàn lễ nghi là các đại chủng sinh của đại chủng viện Đức Mẹ
Maria Vô nhiễm nguyên tội, sau đó là sự hiện diện của hầu hết các linh
mục trong Giáo phận và Giám mục giáo phận. Ngoài sự tham dự của các
giáo lý viên các giáo hạt đã đến từ hôm trước, giờ đây vài chục ngàn giáo
dân cũng chăm chú theo dõi diễn biến Thánh lễ được thực hành đầy nghiêm
trang (xem trực tiếp ngoài quảng trường Đền thánh và xem trong nhà thờ
qua màn hình chiếu). Kết thúc buổi lễ, giáo dân ra về trong sự hứng khởi,
sùng kính Đức Mẹ Maria. Dịp lễ kính Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội năm
nào cũng đón nhận hàng nghìn giáo dân Bùi Chu đi làm ăn xa trở về, cho
thấy lòng sùng kính Đức Mẹ Maria đã và đang và vẫn sẽ là một nếp sống
đạo của người dân Giáo phận.
97
Tháng Hoa Đức Mẹ
Theo quan niệm của người Công giáo, Đức Mẹ và các Thánh giữ vai trò
“cầu bầu mà xin ơn Đức Chúa Trời”, chỉ được thờ kính, không được ban ơn.
Khi Công giáo du nhập vào Việt Nam, việc thờ kính Đức Maria dần chịu ảnh
hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu ở các khía cạnh: cách gọi tên, quan niệm về
quyền năng, nghi thức thờ cúng.
Cách gọi tên: Đức Maria được tôn xưng là Đức Mẹ, hay còn gọi là Đức Bà,
Thánh Mẫu.
Quan niệm về quyền năng:
Tín ngưỡng truyền thống Việt Nam coi trọng việc tôn thờ Mẹ. Mẹ là
sinh sôi, nảy nở, Mẹ là khoan dung, che chở (phù hộ, hộ mệnh). Vai trò mẹ,
yếu tố nữ xâm nhập vào hầu hết các tôn giáo truyền thống. Khi tôn xưng Đức
Maria lên hàng Thánh Mẫu và chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu, tín đồ
Công giáo ở Bùi Chu đã tôn quyền Thánh nữ Maria. Các quyền năng thể hiện
ba đặc trưng: Che chở, ban ơn, sinh sôi.
Che chở
Trong cuộc sống nhiều lúc không tránh khỏi khó khăn, hoạn nạn, đau
khổ, ốm đau bệnh tật, khi đó, người tín đồ lại tìm đến Đức Mẹ để quỳ lạy, cầu
nguyện sự che chở từ Đức Mẹ để tai qua nạn khỏi.
Có thể nói rằng, giáo phận Bùi Chu là giáo phận riêng của Mẹ Vô
nhiễm, giáo phận Bùi Chu nhận Mẹ Vô nhiễm làm Quan thầy đệ nhất bởi
quan niệm đã nhận được sự che chở từ Đức Mẹ. Vì là giáo phận chịu sự cấm
đạo gắt gao dưới triều Nguyễn và Tổng đốc Nam Định là Nguyễn Đình Tân
nên giáo phận lúc đó có tên là Giáo phận Trung chịu nhiều tổn thất. Trong cơn
nguy khốn, với niềm tin vào Đức Mẹ Maria, một số giáo sĩ đứng đầu giáo
phận đã đến xin ơn Đức Mẹ Vô Nhiễm và hứa, sau cơn bách đạo sẽ có những
hình thức tạ ơn xứng đáng: Nếu Đức Mẹ thương ban bình an Giáo phận sẽ
98
tôn nhận Đức Mẹ vô nhiễm làm Quan thầy Địa phận và xây một Thánh đường
xứng đáng tôn kính Đức Mẹ”. Việc làm đó tác động rất quan trọng đến tinh
thần giáo sĩ và giáo dân trong việc giữ đạo.
Năm 1862, vua Tự Đức ban hành sắc chỉ tha đạo. Linh mục chính
Emmanuel Riano Hòa giữ lời khấn hứa năm nào với Đức Mẹ, năm 1866, ông
đã tìm một nơi nhằm thực hiện việc khởi công xây dựng đền thánh đầu tiên và
đã chọn làng Phú Nhai (nay thuộc xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường, tỉnh
Nam Định).
Ban ơn
Tín đồ Công giáo nói chung, giáo dân Bùi Chu nói riêng tìm đến Đức
Maria để xin được ban ơn toại nguyện trong cuộc sống hàng ngày: No đủ,
buôn may bán đắt, bình an, đi lại an toàn, tình duyên suôn sẻ…
Một ví dụ về việc cầu xin đức Maria ban ơn được thể hiện trong Ca vè
xây cất đền thánh Phú Nhai (1916-1924) với nhiều câu nhắc đến sự phù trì,
ban ơn.
Bạc tiền chưa có là gì
Chỉ trông Đức Mẹ phù trì khi nay
…
Mọi người vui vẻ ra đi
Cậy trông Đức Mẹ phù trì khi nay
…
Vì ơn Đức Mẹ nhiệm mầu
Khắp hòa trên dưới cùng nhau một lòng
…
Ắt là Đức Mẹ mở lòng.
Ban ơn giúp sức ta trong hội này
Sinh sôi
99
Hình tượng về mẹ trong nền văn minh lúa nước là hình tượng của sự
sinh sôi nảy nở.
Ở giáo phận Bùi Chu nói riêng, đồng bằng Bắc Bộ nói chung, Đức
Maria cũng được các tín đồ Công giáo tin vào chức năng “quan phòng” trên.
Những người muộn mằn về đường con cái tìm đến Đức Maria - MẸ - cầu xin
cho được sinh con đẻ cái. Con trẻ sinh ra khó nuôi, nhiều gia đình giáo phận
Bùi Chu đã đem “bán” con trẻ cho MẸ. Khi trẻ 13 tuổi thì làm lễ, xin về. Đây
chính là hình thức “bán khoán” trẻ cho đền phủ hoặc cho chùa (Phật) vẫn
thường thấy ở người Việt truyền thống. Tập tục này vẫn được duy trì cho đến
ngày nay ở giáo phận Bùi Chu.
Từ việc chuyển hóa niềm tin, giáo dân Bùi Chu đã chuyển hóa sự tôn
thờ Đức Maria. Người Việt có truyền thống dâng hoa/ múa hoa dâng lên thần
thánh, nhất là dâng lên Mẫu để tỏ lòng thành kính và niềm mong ước. Hoa là
biểu tượng của sự thơm tho tinh khiết. Sắc mầu của hoa còn được dân gian
quan niệm là một trong những đặc tính của thánh thần, mẫu. Chẳng hạn màu
trắng thể hiện sự trắng trong tinh khiết. Mầu đỏ tượng trưng cho chiến thắng.
Mầu tím là thủy chung.
Nghi thức dâng hoa, múa hoa có ảnh hưởng sâu sắc đến người Công
giáo Việt nam nói chung, người Công giáo giáo phận Bùi Chu nói riêng trong
việc tiếp nhận và cải biến để trở thành nghi thức Múa hát dâng hoa nơi nhà
thờ Công giáo.
Ở Việt Nam nói chung, giáo phận Bùi Chu nói riêng, cứ vào dịp tháng
Năm hàng năm, các cuộc múa hát dâng hoa diễn ra trọng thể ở các xứ đạo
vùng đồng bằng Bắc Bộ, vừa vui tươi, rộn rã mà vẫn trang nghiêm. Giai điệu
là hát vãn được cải biên từ những làn điệu dân ca truyền thống.
Tại các xứ họ đạo ở giáo phận Bùi Chu nói riêng, các xứ họ đạo miền Bắc
đều có hội hát và hội dâng hoa thực hiện múa hát dâng hoa trong tháng Hoa. Đạo
cụ phục vụ cho múa hát chỉ đơn giản như quạt giấy, trống chầu và hoa.
100
Bốn chủ nhật của tháng Hoa các xứ đạo ở giáo phận Bùi Chu đều tổ
chức rước kiệu hoa và múa hát dâng hoa. Trước buổi lễ, kiệu hoa được đưa
vào trong nhà thờ để linh mục làm phép thánh.
Tại giáo xứ Phú Nhai, 4 giáp trong Giáo họ nhà xứ được phân công
đảm nhiệm việc rước hoa. Cuộc rước bắt đầu cử hành trong thánh đường,
đi vòng quanh khuôn viên nhà xứ, sau đó trở về với thánh đường. Đi đầu
trong đoàn rước là hai lá cờ đầu, một là cờ của Tòa Thánh Vatican, một là
cờ Đức Mẹ, rồi đến hội Nam nhạc (hội trống), ba vị cầm Thánh giá nến
cao, rồi đến hội tiến hoa, kiệu hoa, 12 vị Tông đồ giáo xứ, hội trắc, kiệu
Đức mẹ và vị cha xứ chủ tế. Sau cuộc rước kiệu là đến nghi lễ múa hát,
dâng hoa.
Màn múa hát dâng hoa tập thể được tổ chức trong nhà thờ, thể hiện
tinh thần đoàn kết và tấm lòng các tín đồ hướng về Đức Mẹ mỗi khi tháng
Hoa về. Sau đó là màn múa hát dâng hoa của đội Tiến hoa. Đi liền hát dâng
hoa là múa dâng hoa. Các em trong đội Tiến hoa mặc áo dài thướt tha, khi
dâng hoa tay cầm hoa, vừa đi vừa múa từ dưới nhà thờ lên khu vực dâng
hoa, đặt hoa tại đó rồi lại đi xuống, các động tác được thực hiện nhịp nhàng,
uyển chuyển, thành thục.
Trung Lao - một làng Công giáo toàn tòng - cũng tổ chức tháng Hoa
Đức Mẹ rất rầm rộ, tưng bừng. Trong dịp tháng Hoa Đức Mẹ, các ngả đường
vào nhà thờ đều dựng cột cờ, kết hoa, dựng cổng chào. Lễ rước bắt đầu với
đám trẻ vác các cây cờ đuôi nheo sặc sỡ, sau đó là đến đoàn các bà, các chị,
hai tay khoanh chặt trước ngực, vừa bước chậm rãi, vừa đọc kinh lúc trầm lúc
bổng với lòng sùng kính. Tiếp đến là đoàn nhạc Tây, mặc đồng phục, mang
theo dàn kèn trống sáng loáng, sau đó là đến kiệu hoa được tạo kiểu một cách
tinh tế. Sau kiệu là đến phường trống với đủ kích cỡ. Đội trống là những
thanh niên vừa gõ trống vừa nhảy múa nhộn nhịp. Theo sau là đoàn xướng ca,
101
hội bát âm và cuối cùng là linh mục chính xứ và hai phó tế. Đám rước đi từ
trong nhà thờ, vòng quanh khuôn viên nhà thờ xứ rồi trở vào nhà thờ, lúc đó
có Hội tiến hoa mặc áo dài hoặc các loại quần áo thêu thùa nhiều màu sắc tiến
lên bàn thờ múa và xướng bản dâng hoa kính Đức Mẹ.
Phải nói rằng múa hát dâng hoa trong tháng Hoa là một nghi lễ Công
giáo gắn với văn hóa tín ngưỡng truyền thống Việt Nam. Lời hát là những vãn
hoa ca ngợi công lao, đức độ Thánh nữ. Giai điệu hát vãn dựa trên những làn
điệu dân ca truyền thống các miền: chèo, trống quân, hát xoan, hát quan họ và
hát ca trù. Trong khi đó múa dâng hoa cũng được biên đạo từ những điệu múa
dân gian của người Việt, thường là điệu múa trong hát chèo.
Trong hội làng truyền thống của người Việt có trò chơi kéo chữ, còn
trong múa hát dâng hoa của Công giáo thì đội hình được di chuyển, sắp xếp
theo biểu tượng thập giá, hình mặt trăng, ngôi sao (Đức Mẹ là mặt trăng, là
ngôi sao biển), hình mỏ neo (Đức Mẹ là niềm trông cậy) hay hình triều thiên.
Đội hình múa hát dâng hoa cũng có thể xếp theo chứ A và M (chữ đầu của
Ave Maria - Kính mừng Maria)…
Chính vì thế, múa hát dâng hoa trong tháng Hoa vừa mang yếu tố nghi
lễ Công giáo, vừa thấm đượm yếu tố văn hóa tín ngưỡng cổ truyền. Các tín đồ
không chỉ dâng hoa tươi mà còn dâng cả những đóa hoa lòng về sự hiệp nhất
đức tin, đức cậy và đức mến.
Trong tháng Hoa, ngoài múa hát dâng hoa, các tín đồ còn tổ chức tế hoa.
Tế hoa cũng là lễ nghi Công giáo mang đậm màu sắc văn hóa tín ngưỡng
truyền thống Việt Nam, có sự kết hợp hài hòa lễ điệu, nhạc điệu và lời ca.
Hàng năm vào ngày 1-5 đền thánh Sa Châu tổ chức rước hoa rất lớn
có tới khoảng 14-15 kiệu hoa lớn nhỏ được trang trí bằng những bông hoa
rực rỡ dâng kính Đức Mẹ, cá biệt như ở nhà thờ Trung Lao hay Ninh
Cường có tới 17-18 kiệu rồng, ở Lạc Đạo, Liễu Đề có tới 10 kiệu, ở Thức
Hóa, Đại Đồng, Quất Lâm cũng không phải là ít. Sau buổi rước là màn
102
dâng hoa đồng tiến ở cuối nhà thờ như Quất Lâm, Trung Linh, Trung Lao,
Báo Đáp, Ninh Cường, Đại Đồng hoặc ở các nơi khác thì dâng hoa theo
từng họ, từng xóm hay từng hội.
- Ảnh hưởng tiêu cực Giám mục Hồ Ngọc Cẩn cho rằng người Bùi Chu sùng đạo “Đàng
Ngoài” tức rất ồn ào, náo nhiệt và mang tính bề ngoài. Song đó chỉ là một
nhận xét. Với Đức Maria, người Công giáo giáo phận Bùi Chu luôn thể hiện
niềm tin sâu sắc với những nghi lễ ngoài thánh lễ đa dạng mà luận án đã trình
bày. Do bị chi phối bởi niềm tin sâu sắc mà có một bộ phận có những biểu
hiện thái quá.
Theo báo cáo Tổng kết công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo năm
2008, từ ngày 15/09 đến ngày 30/10/2008 trên địa bàn xuất hiện tin đồn có
Đức Mẹ hiện ra ở giáo xứ Xuân Dục (xã Xuân Ninh), xã Xuân Tiến huyện
Xuân Trường và giáo xứ Tang Điền ( xã Hải Chính, huyện Hải Hậu).
Hiện nay vẫn còn diễn ra tình trạng người Công giáo ném tiền
xuống chân Đức Mẹ, đặt hòm tiền dưới chân Đức Mẹ để các tín đồ đóng
góp, ném tiền xu xuống ao hồ, xin sớ rồi đem “hóa” trước chân tượng đài
Đức Maria... Cũng có người đem chai nước đặt dưới chân Đức Mẹ để cầu
xin với hy vọng khi uống nước đó sẽ được khỏi bệnh mà không phải chạy
chữa tốn kém... 3.2. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG
Tác giả luận án tập trung nghiên cứu những nguyên nhân của ảnh
hưởng tiêu cực.
3.2.1. Nguyên nhân từ phía Công giáo
3.2.1.1. Nguyên nhân từ phía Giáo hội Công giáo Những ảnh hưởng tiêu cực của ba loại hình tín ngưỡng truyền thống
đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu mà luận án chỉ ra
ở phần trên cho thấy trước hết xuất phát từ phía chủ quan.
103
Với một giáo phận mà “lòng đạo đức bình dân” được người Công giáo
thực hiện với nhiều biểu hiện phong phú thì sự kiểm soát từ phía giáo hội là
rất khó thực hiện.
Tài liệu thu thập điền dã cho thấy trước đây có một vài linh mục có
chủ trương giảm thiểu một số sinh hoạt cộng đồng ngoài Thánh lễ, chú
trọng đến đời sống nội tâm đã bị dư luận người Công giáo phản ứng. Họ
dựa trên nguyên tắc từ xưa đến nay cha ông họ vẫn có những hình thức
sinh hoạt cộng đồng ngoài Thánh lễ mà Đạo Chúa ở giáo xứ, giáo phận vẫn
được duy trì tới ngày nay. Chẳng những thế, chính nhờ những sinh hoạt
cộng đồng ngoài Thánh lễ như vậy mà giáo xứ, giáo phận mới có dịp để
củng cố, phát triển.
Hơn nữa, đến nay vẫn chưa thấy có một tài liệu quan phương nào từ
phía giáo phận Bùi Chu đề cập đến những quy định hay hướng dẫn cụ thể về
những chuẩn tắc khi người Công giáo thực hiện “lòng đạo đức bình dân”.
Về phía giáo hội là vậy, phía giáo xứ cũng chưa thấy có những quy
định nào. Được biết trước một số việc làm thái quá của một số người Công
giáo, linh mục chính xứ có nhắc nhở trong Thánh lễ nhưng chỉ chung
chung, chưa có trường hợp nào linh mục trực tiếp hoặc giao cho ban hành
giáo (hội đồng giáo xứ” nhắc nhở. Chủ yếu hình thức vẫn là khuyên ngăn,
còn việc người Công giáo thực hiện đến đâu lại phụ thuộc vào ý thức tự
giác của từng cá nhân.
3.2.1.2. Nguyên nhân từ phía người Công giáo Trước hết, người Công giáo thực hiện “lòng đạo đức bình dân”qua
những nghi thức: thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng Thành Hoàng làng, tín ngưỡng
thờ Mẫu là do truyền thống từ phía cha ông họ. Đời cha ông truyền lại, đời
cháu con làm theo. Do không phải là những nghi lễ được quy định chặt chẽ,
được hướng dẫn tỉ mỉ nên “truyền thống” cùng với năm tháng phát sinh thêm
những biểu hiện lệch lạc. Đó là điều khó có thể tránh khỏi.
104
Người Công giáo giáo phận Bùi Chu thực hiện “lòng đạo đức bình dân”
bởi tình cảm tự nhiên vốn có của họ. Mỗi người Công giáo tùy theo niềm tin,
tùy theo cảm xúc, nhiều khi do cả hoàn cảnh để biểu thị niềm tin của mình.
Đôi khi do mất kiểm soát, do có những hành động thái quá đã khiến những
người đó vượt ra khỏi những tín lý Công giáo – điều mà tôn giáo này luôn
quan ngại.
Khi mà nền kinh tế thị trường phát triển, sự phân hóa giàu nghèo diễn
ra sâu sắc thì việc ảnh hưởng của kinh tế đến niềm tin và thực hành niềm tin
tôn giáo là khó tránh khỏi. Một bộ phận người Công giáo giàu có, thích phô
bày qua việc tổ chức tang lễ sầm uất, ăn uống náo nhiệt, mồ mả ông bà được
xây cất cao, ngạo nghễ trong Vườn thánh.
Trong lễ hội thánh quan thày nhất là lễ hội thánh quan thày đầu dòng tổ
chức ngày 8/8 và lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội 8/12, một số người xả rác
bừa bãi rất thiếu ý thức. Đây cũng là dịp những người ăn xin nhiều nơi trong
vùng đổ về. Lễ hội là nơi một số con bạc tìm về sát phạt nhau với đủ các hình
thức từ “cua, cá”, lý bát, xóc đĩa, vui chơi có thưởng. Đã có hiện tượng đua xe
trái phép, hiện tượng một số thanh niên tụ tập uống rượu say, đánh nhau vào
đêm trước lễ hội. Vì vậy, việc giáo dục, nâng cao ý thức của mỗi người dân
Công giáo về trách nhiệm công dân của họ là hết sức cần thiết. Thật đáng tiếc,
vấn đề này hiện vẫn đang bị buông lỏng.
3.2.2. Nguyên nhân từ phía tín ngưỡng truyền thống Việt Nam
3.2.2.1. Sự phục hồi nhanh chóng của các loại hình tín ngưỡng dân
gian trên địa bàn giáo phận Bùi Chu trong điều kiện nền kinh tế thị trường
phát sinh nhiều mặt trái, tiêu cực
Bước vào công cuộc đổi mới, trong đó có đổi mới về công tác tôn giáo,
nhờ có quan điểm, chính sách cởi mở của Đảng và Nhà nước đối với công tác
tôn giáo mà tín ngưỡng dân gian của cả nước nói chung và ở địa bàn giáo
105
phận Bùi Chu nói riêng có sự phục hồi nhanh chóng. Sự phục hồi đó, xem xét
một cách tổng thể đã làm sống dậy “một mảng hồn văn hóa tâm linh”. Có
những hình thức tín ngưỡng, những hình thức diễn xướng dân gian trải thời
gian có nguy cơ bị tàn lụi, nay đã sống dậy.
Trong thực hành tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, ngày càng xuất hiện
nhiều mặt trái, mặt tiêu cực. Dòng họ được củng cố, cố kết tâm thức một
công đồng cùng huyết thống giúp đỡ, yêu thương và đùm bọc nhau. Xuất
hiện những dòng họ khuyến học, khuyến tài... Tuy nhiên, sự cố kết dòng họ
một số nơi kéo theo hệ lụy dòng họ lớn chèn ép dòng họ nhỏ. Các dòng họ
đua nhau xây cất từ đường, nhà thờ họ, xây mộ tổ nhiều gây tốn kém một
cách không cần thiết.
Ngày càng xuất hiện những ngôi mộ được xây cất công phu, giá cả
có thể lên đến hàng trăm triệu đồng. Đã có những gia đình giàu có còn lo
“sinh tử” cho mình khi độ tuổi vừa mới chớm già, thậm chí chưa hết tuổi
trung niên.
Hội làng gắn với kỷ niệm Thành Hoàng làng được khôi phục. Không
ít hội làng cùng với việc phục hoạt các nét cổ xưa còn đưa những nghi lễ
mới với sự “tân cổ giao duyên” khập khiễng nửa mới, nửa cũ. Ở những hội
làng lớn, tổ chức dài ngày, người ta tiến hành “đấu thầu”. Người trúng thầu
là người “bỏ thầu cao”. Để thu hồi vốn và có lãi, người trúng thầu buộc
phải nâng cao giá dịch vụ chặt chém túi tiền của những Thiện Nam, Tín Nữ.
Trong lễ hội làng xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực, cò quay, cờ bạc, ăn
xin... Có nơi qua mấy ngày lễ hội, môi trường quanh khu di tích bị tàn phá
nặng nề.
Tín ngưỡng thờ Mẫu hiện ăn sâu vào hoạt động dịch vụ hầu đồng. Bên
cạnh chùa làng nào cũng xây gian thờ Mẫu. Ngày tuần, tiết, vía, đản đặc biệt
là tháng Ba, tháng Tám với quan niệm “Tháng Tám giỗ Cha, tháng ba giỗ
106
Mẹ”, nơi thờ Mẫu thường xập xình các giá đồng, đèn nến sáng lung linh.
Thanh đồng tùy theo giá mà khăn chầu, áo lượt nhảy nhót, lắc lư. Rồi “cô”
phán chứng bệnh tật, xoay hướng cổng, đội bát hương, lập đền phủ bởi căn nọ,
quả kia... Vì vậy không ít giá trị đời thường bị đảo lộn.
Tất cả những tiêu cực trên đều tác động đến nghi thức thực hành tín
ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng Thành Hoàng làng và tín ngưỡng thờ
Mẫu của người Công giáo, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống đạo của người
Công giáo ở giáo phận Bùi Chu.
3.2.2.2. Cán bộ làm công tác văn hóa từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở còn
yếu, thiếu nhạy bén.
Cán bộ chuyên trách, cán bộ không chuyên trách làm công tác văn hóa
từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở là những người phải thực hiện các nhiệm vụ quản lý
nhà nước. Đây là lực lượng cán bộ có vai trò quan trọng trong xây dựng và
phát triển đời sống vật chất và tinh thần ở địa phương. Những cán bộ này có
một khối lượng công việc lớn với nhiều kỹ năng tác nghiệp khác nhau từ quản
lý, chuyên môn, phong trào văn hóa, văn nghệ... từ đó họ phải có khối kiến
thức vững vàng về pháp luật, quản lý nhà nước, văn hóa, xã hội, tôn giáo, vừa
phải có kỹ năng liên quan đến công tác dân vận, tâm lý... phù hợp với nhiều
nhóm dân cư khác nhau ở địa phương.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy những cán bộ làm công tác văn hóa từ
cấp tỉnh đến cấp cơ sở thuộc địa bàn giáo phận Bùi Chu - Nam Định còn
yếu kém về trình độ nghiệp vụ, năng lực công tác. Việc xây dựng nguồn
lực cán bộ văn hóa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là việc làm cần thiết, nhưng
từ cấp cơ sở đến cấp tỉnh tại địa bàn giáo phận Bùi Chu còn chưa được
quan tâm đúng mức. Nhiều người được đưa sang đảm nhiệm vị trí cán bộ
văn hóa để nhằm lấp chỗ trống, là tạm thời. Chính vì thế, đời sống văn
hóa của người Công giáo ở vùng giáo phận Bùi Chu chưa thực sự cao,
107
chưa thực sự được quan tâm đầy đủ và được định hướng để đời sống đạo
giữ được nhiều nét đẹp có giá trị, phát huy ảnh hưởng tích cực của tín
ngưỡng truyền thống.
3.2.2.3. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
ở khu dân cư ở địa bàn giáo phận Bùi Chu chưa được duy trì thường
xuyên, thiếu các hình thức sinh động để thu hút
Bản chất của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa” là nhằm giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp trong
văn hóa dân tộc, xây dựng nếp sống văn minh, chấp hành kỷ luật, kỷ
cương, xây dựng môi trường văn hóa sạch - đẹp - an toàn, làm cho phong
trào lan tỏa, thấm sâu tới từng gia đình cho tới toàn xã hội, hướng tới
một xã hội văn minh, tác động tích cực tới sự nghiệp phát triển kinh tế -
văn hóa - xã hội của tỉnh.
Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo và chính quyền địa
phương, cùng với sự hưởng ứng nhiệt tình từ người dân vùng giáo phận
Bùi Chu, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
trong những năm qua đạt được những chuyển biến tích cực, góp phần
quan trọng vào việc đẩy mạnh phát triển toàn diện kinh tế - văn hóa – xã
hội và nâng cao chất lượng về mọi mặt trong đời sống của nhân dân trên
toàn tỉnh Nam Định. Cư dân vùng giáo phận Bùi Chu ngày càng nhận
thức đúng đắn hơn trong việc giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc, thực
hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và tổ chức, tham gia
lễ hội. Tuy nhiên, việc triển khai và tham gia phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa” ở khu dân cư ở địa bàn giáo phận Bùi
Chu chưa được duy trì thường xuyên và còn thiếu các hình thức sinh
động để thu hút người dân. Từ đó khiến cho việc tham gia phong trào ở
người Công giáo nói riêng, người dân vùng giáo phận Bùi Chu nói chung
108
còn hời hợt, phó mặc cho cán bộ làm công tác văn hóa, làm cho hiệu quả
và sức lan tỏa của phong trào chưa cao. Việc gìn giữ, phát huy những giá
trị và nét đẹp trong tín ngưỡng truyền thống vì thế chưa được thực hiện
triệt để.
3.2.2.4. Chưa có hệ thống văn bản đồng bộ với việc quản lý các loại hình tín ngưỡng truyền thống. Chế tài còn thấp và khó thực hiện.
Những quy định của Pháp lệnh, Nghị định về quản lý các loại hình tín
ngưỡng truyền thống còn thiếu cụ thể, chưa có chế tài xử phạt, nếu có thì chế
tài còn thấp và khó thực hiện, hay còn tình trạng thiếu đồng bộ với các văn
bản quy phạm khác, chưa thể hiện đầy đủ, sâu sắc tinh thần đổi mới của Đảng
và Nhà nước về công tác tín ngưỡng, tôn giáo và yêu cầu cải cách nền hành
chính quốc gia. Một số quy định còn chưa phù hợp với thực tiễn hoặc đến nay
không còn phù hợp. Một số vấn đề mới phát sinh liên quan đến việc quản lý
các loại hình tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống còn chưa được điều chỉnh
trong Pháp lệnh. Vì vậy, khi tình hình có những vấn đề phức tạp nảy sinh, các
văn bản chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 Giáo phận Bùi Chu về vị trí địa – văn hóa là giáo phận thuộc về vùng
đất mà ở đó có truyền thống văn hóa Việt tồn tại lâu đời. Đây là vùng đất “dầy
đặc” những hình thức tín ngưỡng dân gian trong đó nổi lên là ba loại hình tín
ngưỡng – tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng Thành Hoàng làng và tín
ngưỡng thờ Mẫu.
Một điều thú vị ở vùng đất địa – văn hóa ấy, một bộ phận dân cư gia
nhập Công giáo đặt dưới sự cai quản của dòng truyền giáo Đa Minh. Đây là
dòng truyền giáo mà các giáo sĩ có xu hướng ủng hộ những sinh hoạt tôn giáo
cộng đồng thông qua những cuộc rước, những sinh hoạt hội hè và những nghi
thức ngoài Thánh lễ khác.
109
Người Công giáo đón nhận ba loại hình tín ngưỡng – tín ngưỡng thờ
cúng Tổ tiên, tín ngưỡng Thành Hoàng làng và tín ngưỡng thờ Mẫu – nhưng
không phải là sự đón nhận nguyên xi mà có kế thừa, chọn lọc. Nhờ vậy khi ba
loại hình tín ngưỡng xâm nhập vào làng quê/ xứ đạo trải qua thời gian đã có
ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống đạo của cư dân nơi đây.
Với thờ cúng Tổ tiên: từ trước khi Giáo hội cho phép người Công
giáo thực hiện tôn kính tổ tiên, người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu đã có
những hình thức khác nhau của việc thực hành tín ngưỡng này... Tín
ngưỡng thờ cúng Tổ tiên bổ sung thêm giá trị đạo hiếu trong đời sống đạo
của người Công giáo Bùi Chu, làm cho đạo hiếu của người Công giáo trở
nên sống động, đa dạng và có chiều sâu về văn hóa tâm linh. Ở đó còn là sự
tri ân công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, là hoài niệm, kính nhớ
công ơn trời biển của cha mẹ. Hiếu đễ của người Công giáo giáo phận Bùi
Chu vì vâỵ mà đa chiều cạnh hơn.
Tín lý Công giáo quy định tín đồ chỉ tôn thờ duy nhất một Thiên Chúa
ba ngôi nên với tổ tiên chỉ là thờ kính. Đây là hình thức nặng về văn hóa tâm
linh. Song qua điều tra xã hội học mà luận án thực hiện cho thấy người Công
giáo ở giáo phận Bùi Chu một mặt vẫn giữ nghiêm tín lý cũng như qui định
của Giáo hội, mặt khác do bị chi phối bởi tâm thức đa thần, người Công giáo
Bùi Chu với thờ kính tổ tiên không chỉ để tỏ lòng hiếu đễ mà còn để cầu xin
tổ tiên phù hộ độ trì cho mình trong cuộc sống.
Tôn kính Tổ tiên của người Công giáo chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng
truyền thống, từ ẩm thủy tư nguyên (Uống nước nhớ nguồn), một cách khái
quát là đạo lý ấy thể hiện sự biết ơn, trân trọng của mỗi người con Việt với
những giá trị vật chất và tinh thần mà các thế hệ cha ông dày công đắp bùi
bằng mồ hôi, xương máu và trí tuệ. Cụ thể ở đây, sự tri ân công lao dưỡng dục
đã tác động tới người Công giáo, bởi theo Công giáo đạo lý uống nước nhớ
110
nguồn dựa trên nền tảng từ ơn cứu độ của Thiên Chúa và sống có trách nhiệm
với Thiên Chúa. Nhưng với người Việt Nam, ngoài trách nhiệm với Thiên
Chúa, quan trọng không kém là trách nhiệm với những người thân yêu của
mình (tổ tiên, ông bà, cha mẹ). Do vậy mà người Công giáo đã sống theo đạo
hiếu truyền thống. Tôn kính Tổ tiên ở đây có sự đan xen, dung hợp giữa đạo
lý truyền thống và đời sống đạo. Nếu muốn bày tỏ lòng biết ơn với đấng sinh
thành đồng nghĩa với việc phải lo giữ đạo. Trong tang ma, người Công giáo
ngoài theo phong tục truyền thống còn theo đạo: chẳng hạn như trong giờ
phút lâm chung, dù mưa gió, bão lụt... thì người thân vẫn phải bằng mọi cách
mời cho được vị linh mục đến làm phép kẻ liệt cho người chết được thống hối,
làm phép mình thánh, con cái quây quần đọc kinh cầu nguyện để người chết
được tìm về nhà Cha; đưa ông bà, bố mẹ vừa qua đời đến nhà thờ làm phép
xác, an táng trong nghĩa địa của người Công giáo (còn gọi là Vườn thánh),
những nơi không có nghĩa địa riêng phải mời linh mục đến làm phép huyệt...
Tôn kính tổ tiên của người Công giáo cũng được mở rộng, đó là sự tôn vinh
các thánh tử đạo – những người chịu chết để giữ tôn giáo (nhất là vào thời nhà
Lê, nhà Nguyễn) - như người Việt truyền thống thờ các vị anh hùng tiên liệt.
Có thể xem đây là một trong những chiều kích mà tín ngưỡng thờ cúng
Tổ tiên ảnh hưởng đến đời sống đạo của người Công giáo Bùi Chu.
Với tín ngưỡng Thành Hoàng làng: Việc quan niệm Thánh quan thày
như một vị Thành Hoàng, ngày kỷ niệm Thánh quan thày là ngày “giỗ” của
làng nên ngày này dần trở thành ngày hội làng/xứ đạo của người Công giáo ở
giáo phận Bùi Chu. Sự chuyển đổi này làm phong phú thêm đời sống văn hóa
tâm linh của người Công giáo. Khi gia nhập Công giáo, buổi đầu do sự cấm
đạo ngặt nghèo từ phía Giáo hội, người Công giáo vẫn buộc phải từ bỏ nhiều
nét văn hóa sinh hoạt cộng đồng. Nếu chỉ với Thánh lễ diễn ra trong nhà thờ,
ắt hẳn sẽ không đáp ứng được cho tâm thức vốn sống trong đa dạng văn hóa,
111
vốn ưa đình đám hội hè... Điều này thức tỉnh người Công giáo trở về với
những nét đẹp văn hóa truyền thống, nét đẹp của sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Và do vậy, tín ngưỡng Thành Hoàng làng trở lại với họ nhưng được chuyển
dời qua hình thức tưởng niệm Thánh quan thày. Ngoài phần nghi lễ (Thánh lễ)
là những sinh hoạt văn hóa công đồng vốn tiềm ẩn trong tâm thức của họ
được thức tỉnh. Nhờ hình thức sinh hoạt này mà đời sống đạo của người Công
giáo Bùi Chu trở nên phong phú, theo thời gian tạo lập thành các giá trị góp
vào nền văn hóa dân tộc. Đây có thể xem là ảnh hưởng qua lại giữa văn hóa,
tín ngưỡng truyền thống với văn hóa Công giáo.
Có thể xem đây là ảnh hưởng quan trọng thứ hai của tín ngưỡng truyền
thống đến đời sống đạo của cộng đồng Công giáo Giáo phận Bùi Chu.
Với tín ngưỡng thờ Mẫu: tâm thức coi trọng Mẫu, đề cao những quyền
năng của Mẫu, của truyền thống dân gian đã tác động không nhỏ đến tâm thức
thờ Mẫu của người Công giáo. Tâm thức này tập trung vào việc tôn thờ Đức
Maria Mẹ Thiên Chúa nhưng cụ thể hơn là “Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội”,
một ngôi vị được tín lý Công giáo vinh danh. Với tín lý Công giáo, Đức
Maria chỉ là Thánh nữ, là người không có quyền ban ân, phạt vạ, mà chỉ là
“đấng trung gian” “cầu bầu” nghĩa là người chuyển lời cầu xin của tín đồ lên
Thiên Chúa. Song do ảnh hưởng bởi quyền năng của mẫu trong tín ngưỡng
dân gian, Mẫu - Đức Maria được người Công giáo Bùi Chu tôn quyền. Họ xin
“Mẹ” chở che, cứu khổ, cứu nạn, xin Mẹ được sinh sôi con cái. Với họ không
phải họ bất chấp tín lý, bất chấp giáo quyền mà chính là qua những việc làm
của họ để “tỏ bày”, để “mong ước” được toại nguyện nhu cầu thường nhật.
Bởi với họ Chúa thật cao sang, trong khi Mẹ lại gần gũi, yêu thương.
Ảnh hưởng từ tín ngưỡng thờ Mẫu truyền thống đến tâm thức thờ lạy
Đức Maria tạo nên sự chuyển đổi tự nhiên để cộng đồng này sống vững vàng
hơn trong mầu nhiệm tôn giáo.
112
Như vậy, tín ngưỡng truyền thống đã có những ảnh hưởng sâu đậm theo
các chiều kích khác nhau đến đời sống đạo của người Công giáo Bùi Chu. Nói
một cách khác, người Công giáo Bùi Chu đã sống đạo không chỉ trong văn
hóa Công giáo mà còn sống đạo với những hàm lượng của văn hóa truyền
thống dân tộc mà tín ngưỡng truyền thống là một nội dung quan trọng.
113
Chương 4
DỰ BÁO XU HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM GÓP PHẦN PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ
ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG
VIỆT NAM ĐẾN ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO
Ở GIÁO PHẬN BÙI CHU - NAM ĐỊNH
4.1. DỰ BÁO XU HƯỚNG ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG TRUYỀN
THỐNG VIỆT NAM ĐẾN ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO
PHẬN BÙI CHU – NAM ĐỊNH
4.1.1. Xu hướng tích cực
- Xu hướng tăng cường bảo tồn phát huy những giá trị của tín ngưỡng
truyền thống
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với những phức tạp trong mối quan
hệ xã hội, khi mà biến đổi về giai cấp, tầng lớp xã hội, phân hóa giàu nghèo đang
diễn ra hàng ngày, hàng giờ, thì xu hướng kết nối với nhau lại càng mạnh mẽ.
Với các gia đình, con cháu phải xa quê hương để làm kinh tế thì ngày giỗ tổ tiên,
lễ tết lại là dịp quan trọng để sum họp, tận hưởng không khí gia đình đầm ấm,
vui vẻ. Với cộng đồng làng xã, các lễ hội truyền thống là dịp gắn kết con người
gần nhau, xua đi những vất vả, cực nhọc trong công việc. Chính vì thế, trong
thời gian sắp tới, xu hướng tăng cường bảo tồn phát huy những giá trị của tín
ngưỡng truyền thống Việt Nam sẽ là xu hướng căn bản. Trong các loại hình tín
ngưỡng dân gian, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên sẽ nổi lên, tác động mạnh mẽ tới
một số lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Dương đã
đánh giá: “thế mạnh của tín ngưỡng là ở thế “chân vạc” vừa mang yếu tố văn
hóa truyền thống, văn hóa tâm linh, lại mang yếu tố tôn giáo” [45].
Như vậy, nhờ sự khẳng định bản sắc văn hoá dân tộc qua các tín
ngưỡng truyền thống, các tín ngưỡng càng ngày càng đóng vai trò động lực
114
phát triển đất nước, đồng thời, trong quá trình hội nhập chúng ta sẽ không chỉ
tiếp nhận những giá trị văn hoá mới mà còn mang những nét độc đáo của nền
văn hoá nước ta tới các bạn bè khắp năm châu. Đời sống đạo của cộng đồng
giáo dân Bùi Chu cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
- Xu hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
Trong vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, Đảng ta khẳng định "Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan
điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước; tôn trọng những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo; động viên chức sắc, tín đồ, các
tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [52, tr.51]. Tôn trọng tín ngưỡng,
tôn giáo nhưng phải tôn trọng pháp luật, quan điểm của Đảng cũng rất kiên
quyết khi khẳng định: "Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân” [52, tr.81].
Như vậy, dưới sự định hướng của Đảng và Nhà nước ta, tín ngưỡng, tôn
giáo (trong đó có Công giáo) đã, đang và sẽ được phát triển tự do nhưng trên
cơ sở không vi phạm pháp luật, không cấu kết với các thế lực phản động thực
hiện mưu đồ chính trị phá hoại nước ta.
Luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo cũng sẽ dần được lập ra, giúp cho
công tác quản lý hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được cụ thể, sát sao và chặt
chẽ hơn, trừng trị đích đáng những kẻ lợi dụng chiêu bài tín ngưỡng tôn giáo
vào mục đích xấu. Hệ thống các văn bản về đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước và chính quyền thuộc vùng giáo phận Bùi Chu - Nam
Định về đạo Công giáo sẽ có nhiều đổi mới theo hướng quan tâm tới các hoạt
động đạo Công giáo. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để chính quyền các
115
cấp, các cơ quan chức năng vận dụng quản lý, giải quyết các vấn đề liên quan
đến đạo Công giáo được sát sao và hiệu quả.
Hơn nữa, trình độ dân trí, nhận thức của các giáo dân vùng giáo phận
Bùi Chu - Nam Định sẽ ngày càng được nâng cao, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc nhận thức tốt hơn về đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước, thấy rõ hơn trách nhiệm, nghĩa vụ công dân của mình và cũng phân biệt
được rõ ràng hơn hoạt động tôn giáo thuần túy và hoạt động tôn giáo đã bị lợi
dụng, trái pháp luật. Đây là những nhân tố hết sức thuận lợi cho việc thực
hiện công tác vận động quần chúng tín đồ tham gia phong trào toàn dân xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Xu hướng chịu ảnh hưởng từ tín ngưỡng truyền thống Việt Nam và
đồng hành cùng dân tộc Trong thời gian tới, giáo hội Công giáo tiếp tục có những hoạt động nhằm
rút ngắn khoảng cách giữa văn hóa Công giáo và tín ngưỡng truyền thống ở giáo
phận Bùi Chu - Nam Định bởi đây là vùng đất giàu truyền thống văn hóa với
nhiều tín ngưỡng dân gian đa dạng. Để củng cố đức tin trong lòng tín đồ, giáo
hội sẽ tăng cường củng cố, tổ chức các buổi lễ long trọng, hoành tráng với hình
thức ngày càng gần gũi với các lễ hội tín ngưỡng dân gian để thu hút tín đồ Bùi
Chu và các nơi khác về dự. Bên cạnh việc hành đạo, các giáo sĩ, giáo dân cũng
tích cực tham gia các hoạt động xã hội như: tham gia vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân; giữ các chức vụ trong hệ thống chính trị của Đảng, chính quyền ở địa
phương; tham gia các hoạt động y tế - giáo dục, các chương trình nhân đạo, từ
thiện, xóa đói giảm nghèo... Xu hướng thế tục hóa phát triển ở giáo phận Bùi
Chu cũng có nghĩa là các giáo sỹ, giáo dân sẽ quan tâm nhiều hơn đến hoạt động
xã hội, “việc đạo” được lồng ghép với “việc đời”.
4.1.2. Xu hướng tiêu cực Những tiêu cực nảy sinh trong thực hành tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín
ngưỡng Thành Hoàng làng và tín ngưỡng thờ Mẫu sẽ diễn biến phức tạp hơn.
116
Trong thực hành tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên.
Với thờ cúng Tổ tiên, không ít người Công giáo đua nhau xây những
ngôi mộ cao to. Những người có điều kiện kinh tế khấm khá lên muốn khẳng
định mình, ngay cả những người kinh tế bậc trung, thậm chí khá eo hẹp, túng
thiếu vẫn đua nhau chạy theo phong trào để rồi rơi vào cảnh nợ nần. Xu
hướng làm cỗ bàn to đãi họ hàng, bạn bè... đã và đang xuất hiện ngày càng
nhiều. Điều này trái với nét đẹp truyền thống vốn có của người Công giáo khi
thực hiện đạo hiếu với người đã khuất với hình thức cầu nguyện, mang nặng
yếu tố tâm linh.
Trong thực hành tín ngưỡng Thành Hoàng làng. Cùng với việc xuất hiện tin đồn về phép lạ, về Đức Mẹ hiện ra và
những việc làm thái quá trong cầu xin Đức Mẹ còn có việc tung tin phép
lạ từ các thánh tử đạo. Ở giáo phận Bùi Chu xuất hiện việc phát lộ thi hài
thánh tử đạo khi người dân đào đất lên. Theo đó, có nhiều tin đồn được
tung ra. Khi thì Thánh xương thịt còn nguyên, nét mặt tươi tỉnh, lúc lại
nước trong quan tài có mầu đỏ như máu, hay ai đến viếng, đến xin ơn đều
được toại nguyện. Đã có người Công giáo mang chai lọ đến xin nước
trong quan tài về uống để chữa bệnh. Trong thời gian tới, xu hướng này
rất có thể sẽ vẫn tiếp tục diễn ra. Bởi với người Công giáo Bùi Chu nói
riêng, người Công giáo Việt Nam nói chung luôn tôn kính Thánh tử đạo.
Trong tiềm thức của họ, Thánh tử đạo là những người có phép lạ, và chính
họ cũng có thể ban ơn.
Ở một số xứ, họ đạo thấy có hiện tượng đề cao Thánh tử đạo.
Người ta xây phòng truyền thống, thu thập những tài liệu về Thánh tử
đạo. Đặc biệt, người ta truyền nhau về phép lạ của Thánh tử đạo. Cùng
với thời gian, câu chuyện thường được thêm thắt trở nên huyền bí xoay
quanh một vị thánh tử đạo nào đó, nhất là vị thánh tử đạo đã sinh ra, lớn
lên ở xứ, họ đạo đó.
117
Trong thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu.
Một số vụ việc phức tạp vẫn tiếp tục nảy sinh, có thể còn trầm trọng
hơn như Đức Mẹ hiện ra, phép lạ từ các thánh tử đạo...
Do có niềm tin sâu sắc và tình cảm đặc biệt đối với Đức Mẹ Maria,
người Công giáo Bùi Chu nói riêng, người Công giáo Việt Nam nói chung rất
dễ đón nhận tin phép lạ của Đức Maria, về việc Đức Mẹ hiện ra.
Ở phần trên, luận án có dịp đề cập, vào năm 2008, trên địa bàn giáo
phận Bùi Chu xuất hiện tin đồn Đức Mẹ hiện ra ở giáo xứ Xuân Dục (xã
Xuân Ninh) và xã Xuân Tiến (huyện Xuân Trường) và giáo xứ Tang Điền (xã
Hải Chính, huyện Hải Hậu).
Khi người Công giáo Bùi Chu nói riêng, người Công giáo Việt Nam
nói chung đa số cư trú ở vùng nông thôn nghèo, một bộ phận dân trí chưa
cao, điều kiện chữa bệnh chăm lo sức khỏe còn hạn chế thì việc người
Công giáo tin vào sức mạnh kỳ diệu, vào sự chở che, cứu khổ cứu nạn của
Đức Maria là không thể tránh khỏi. Tài liệu điền dã cho thấy có không ít
người, nhất là những người Công giáo bị mắc trọng bệnh, một mặt do kinh
tế eo hẹp, mặt khác do niềm tin vào sự “quan phòng” của Đức Mẹ đã
không đến bệnh viện chỉ chuyên tâm vào việc cầu nguyện mong Đức Mẹ
ban ơn. Hễ nghe tin Đức Mẹ ở giáo xứ nào, họ sẽ lặn lội tìm đến cầu
nguyện. Niềm tin vào Đức Mẹ khiến hàng năm ở giáo phận Bùi Chu dịp lễ
Đức Mẹ La Vang tổ chức ở Quảng Trị hàng ngàn người lũ lượt kéo về vừa
để tham dự Thánh lễ, vừa để xin ơn. Tại La Vang, người hành hương có rất
nhiều cử chỉ để xin ơn Đức Mẹ. Ngoài việc cầu nguyện, còn thấy không ít
người miết tay vào tà áo Đức Mẹ rồi xoa vào mặt, vào cổ cho mình và cho
con trẻ đi cùng. Người ta mang những toa thuốc, những chai nước đặt dưới
chân Đức Mẹ để Mẹ ban ơn, để toa thuốc, chai nước đó linh nghiệm hơn,
giúp họ uống vào sẽ khỏi bệnh.
118
Từ sau khi lễ hội La Vang (nơi tương truyền Đức Maria hiện ra cứu
giúp tín đồ bị nạn thời vua Quang Trung) được phục hồi, tài liệu điền dã mà
nghiên cứu sinh có được cho thấy các xứ đạo đều dựng tượng Đức Mẹ La
Vang với những nét đặc thù: là hình dáng người phụ nữ Việt Nam, đầu đội
khăn vành, trang phục đại trào, chân đi hài, phía sau là mô hình cây đa
(tương truyền Đức Maria hiện ra ở gốc cây đa). Dưới chân tượng là một tập
giấy, trên đó in sẵn lời cầu xin Đức Mẹ ban ơn, phần tên tuổi, nơi cư trú của
người cầu xin bỏ trống để người đến xin ơn điền vào đó. Bên dưới chân
tượng thường là hòm công đức. Người Công giáo tùy tâm bỏ tiền vào hòm
trước hoặc sau khi cầu xin. Tờ giấy ghi ơn sau đó được “hóa” dưới chân
tượng. Ở một số giáo xứ, nếu tượng đài Đức Mẹ được dựng giữa hồ nước,
người đến xin ơn ngoài việc cho tiền vào hòm công đức còn ném cả tiền
xuống hồ. Một số cây cảnh quanh tượng đài còn thấy viết những lời cầu xin
trên lá, đôi khi còn viết trên thân cây.
Vào dịp lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội hay Đức Mẹ La Vang, một số giáo
xứ, giáo họ, linh mục quản xứ cổ vũ lòng sùng kính Đức Mẹ bằng cách tổ chức
rước ảnh (tượng) Đức Mẹ luân chuyển đến từng nhà, cũng có thể là nhiều hộ gia
đình người Công giáo lân cận theo ngày giờ qui định cùng kéo đến hiệp nguyện.
Việc dựng tượng Đức Mẹ không chỉ ở nhà thờ giáo xứ, giáo họ mà
không ít người Công giáo Bùi Chu còn dựng ở gia đình. Hình thức dựng
tượng khá đa dạng. Có người “dinh” tượng lên đặt trên mái bằng nhà, có
người dựng tượng trong khuôn viên trước cửa hay những nơi trang trọng, có
người đặt tượng nhỏ nơi bàn thờ Chúa hoặc tạo ra những vòm trong căn nhà
rồi đặt tượng Đức Mẹ ở đó để tiện cho việc cầu nguyện và xin ơn.
Dựng tượng, cầu xin Đức Mẹ là niềm tin tôn giáo mà người Công gióa
có quyền thực hiện. Tuy nhiên, nếu đau ốm mà không dùng thuốc, chỉ xin Mẹ
gia ơn, tung tin Đức Mẹ hiện ra, Đức Mẹ ban phép lạ để người Công giáo bỏ
sản xuất, lũ lượt kéo đến xin ơn lại là một việc bất bình thường. Đã có những
119
trường hợp lợi dụng niềm tin vào Đức Mẹ của người Công giáo, một số người
xấu tung tin Đức Mẹ khóc, Đức Mẹ chiếu rọi hào quang... để tín đồ đổ về, lấy
đó làm điều kiện để kinh doanh kiếm lời. 4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG
TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÍN NGƯỠNG TRUYỀN
THỐNG VIỆT NAM ĐẾN ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO PHẬN BÙI CHU – NAM ĐỊNH
Căn cứ vào thực trạng ảnh hưởng tín ngưỡng truyền thống Việt Nam tới
đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định, xuất phát
từ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, để tín ngưỡng, lễ hội Công giáo phát huy hết tính
tích cực, mặt giá trị ở Việt Nam nói chung, ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định nói
riêng cần tới một hệ thống giải pháp có tính cơ bản và toàn diện, bao gồm các
giải pháp kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Trong phạm vi luận án, nghiên cứu
sinh xin đề xuất một số giải pháp cơ bản như sau:
4.2.1. Bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa Công giáo Các công trình kiến trúc Công giáo như nhà thờ, nhà nguyện, tu
viện… chính là những giá trị văn hóa vật thể cần được bảo tồn, giữ gìn,
phát huy. Đối với vấn đề này, Điều 29 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo của
Ủy ban thường vụ Quốc hội năm 2004 đã quy định: “Hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo tại cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam
thắng cảnh được bảo đảm bình thường như các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo
khác”, “Việc quản lý, sử dụng, cải tạo, nâng cấp công trình thuộc cơ sở tín
ngưỡng, tôn giáo là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh thực hiện
theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa và pháp luật có liên quan”
[190]; Điều 31: “Việc di dời các công trình thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn
giáo do yêu cầu của quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải được trao đổi
trước với người đại diện của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo và thực
hiện đền bù theo quy định của pháp luật”. [190].
120
Nghị quyết số 25 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về
công tác tôn giáo đã chỉ rõ: “Thống nhất chủ trương xử lý vấn đề nhà, đất sử
dụng vào mục đích tôn giáo hoặc có liên quan đến tôn giáo: Đối với đất đai,
thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành. Đối với việc khiếu kiện liên
quan đến nhà và cơ sở tôn giáo đã chuyển giao cho chính quyền hoặc đoàn thể
sử dụng: về nguyên tắc, xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành; riêng
đối với những trường hợp nhà, đất do tôn giáo đã hiến tặng có văn bản xác
nhận thì không đặt vấn đề trả lại”. [9].
Cần thiết phải khắc phục tư tưởng cho rằng văn hóa Công giáo là văn
hóa phương Tây, là sự nhập cảnh cứng nhắc nên đóng góp vào nền văn hóa
Việt Nam là không đáng kể.
Công giáo có mặt ở Việt Nam nói chung, ở Bùi Chu nói riêng đến nay đã có
lịch sử trên dưới 400 năm. Trải qua thời gian, văn hóa Công giáo dần dần có sự
hội nhập với văn hóa truyền thống Việt Nam, rõ nét nhất ở sự ảnh hưởng của ba
hình thức tín ngưỡng truyền thống: tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng
Thành Hoàng làng và tín ngưỡng thờ Mẫu mà luận án đã trình bày ở phần trên.
Trước Công đồng Vatican II (1962-1965), sự ảnh hưởng hay là việc
đón nhận ba hình thức tín ngưỡng chủ đạo trên và một số hình thức tín
ngưỡng truyền thống khác của người Công giáo giáo phận Bùi Chu là đi
theo con đường phi quan phương, nghĩa là người Công giáo ở các làng/ xứ,
họ đạo tự giác tiếp thu, thực hiện. Do là con đường phi quan phương nên
việc thực hiện ở mỗi làng/ xứ, họ đạo có sự đậm, nhạt khác nhau nhưng cốt
lõi về cơ bản là giống nhau.
Sự tiếp nhận ảnh hưởng theo con đường phi quan phương một mặt làm
cho đời sống đạo của người Công giáo trở nên phong phú, họ không bị mặc
cảm bởi một cộng đồng tôn giáo xa lạ đoạn từ với nền văn hóa truyền thống.
Mặt khác, do sự tiếp nhận ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống một cách
121
sáng tạo, cùng với thời gian, những giá trị văn hóa mới được đơm hoa kết trái.
Ở đó vừa có hàm lượng văn hóa Công giáo, vừa có hàm lượng văn hóa tín
ngưỡng truyền thống Việt Nam.
Vì vậy, việc bảo tồn, phát huy những giá trị di sản văn hóa Công giáo
trong giai đoạn mới của cách mạng là hết sức cần thiết. Việc bảo tồn phát huy
những giá trị văn hóa Công giáo trước hết là sự nhìn nhận những giá trị di sản
văn hóa Công giáo. Những giá trị này từ sau Công đồng Vatican II đã và đang
được giáo hội Công giáo Việt Nam nói chung và giáo phận Bùi Chu nói riêng
bồi đắp. Đồng thời, chính quyền các cấp cần thiết phải có những qui định cụ
thể để phát huy những giá trị tốt đẹp, đẩy lùi những tiêu cực.
4.2.2. Giải pháp về nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào
người Công giáo Bùi Chu
Các nhà kinh điển Mác - Lênin đã khẳng định tôn giáo vốn là hiện
tượng xã hội phản ánh hiện thực xã hội một cách hư ảo vào đầu óc con người.
Cho nên muốn xóa bỏ hạnh phúc hư ảo, phải xây dựng một xã hội hiện thực
tốt đẹp cho đồng bào người Công giáo.
Người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu hầu hết đều là người dân lao
động, nhìn chung đời sống vật chất còn gặp nhiều khó khăn, trình độ văn hóa
và đời sống tinh thần của giáo dân còn thấp. Phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa,
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho quần chúng giáo
dân ở giáo phận Bùi Chu là đòi hỏi tất yếu, đồng thời cũng là biện pháp nhằm
từng bước xây dựng “thiên đường” ở trần thế, tạo niềm tin sâu sắc của giáo
dân vào Đảng, Nhà nước. Vì thế, các cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận, các
đoàn thể cần có kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và thực
hiện hiệu quả ở giáo phận Bùi Chu.
Từng bước nâng cao đời sống vật chất của người Công giáo trước hết
đảm bảo các nhu cầu ăn, ở, đi lại, việc làm cho người dân. Đầu tư xây dựng
122
cơ sở hạ tầng, đưa vào thực hiện các dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội;
giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, đẩy mạnh phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, phát triển giáo dục và công tác chăm
sóc sức khỏe cho nhân dân; coi trọng việc củng cố mối quan hệ xã hội trong
cộng đồng các tôn giáo và giữa các tôn giáo với toàn thể xã hội; thường xuyên
tiến hành công tác giáo dục chính trị tư tưởng, truyền bá tri thức khoa học,
kinh tế cho giáo dân.
Giáo phận Bùi Chu nằm ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ, nơi có
những đồng ruộng màu mỡ, đội ngũ lao động đông đảo… nên là vùng đất
rất thuận lợi để có thể áp dụng các chính sách thúc đẩy sản xuất, phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, xây dựng thành vùng kinh tế công -
nông nghiệp hiện đại. Với một vùng đất mà nghề nông là chủ yếu thì cần
thiết phải tập trung chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo
hướng thâm canh, tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả. Từng bước
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ
trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Ngoài ra, cũng cần thiết
phải tăng cường dạy nghề, nhất là các ngành nghề truyền thống ở địa
phương cho giáo dân như cơ khí, chế biến lâm sản, dệt chiếu, làm thảm
cói, trồng cây cảnh... Bên cạnh đó, các địa phương vùng có giáo dân cần
đẩy mạnh chính sách đầu tư phát triển, nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn
về giao thông, thủy lợi, điện, trường học, trạm y tế xã... Đặc biệt tiếp tục
mở rộng và nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân
dân. Kiểm soát chặt chẽ tình hình dịch bệnh, tăng cường phòng bệnh.
Củng cố và nâng cao năng lực hoạt động của mạng lưới y tế, nhất là y tế ở
những nơi có đông đồng bào theo Công giáo. Chỉ có như vậy, người Công
giáo nơi đây mới bớt dần tư tưởng trông chờ vào phép lạ, vào sự “cứu độ”
của Thiên Chúa để có một cuộc sống no đủ. Khi mạng lưới y tế nâng cao
123
năng lực chữa bệnh, khi người nghèo được quan tâm chăm sóc sức khỏe,
tất nhiên họ sẽ không cần phải cầu nguyện, xin ơn từ Đức Mẹ, từ các
thánh trong đó có thánh tử đạo ban phép lạ để họ được khỏi bệnh.
Từ phát triển đời sống vật chất, các cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận,
các đoàn thể cần chú trọng phát triển văn hóa, xã hội để nâng cao đời sống
tinh thần của đồng bào giáo dân. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục,
phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Chất lượng giáo dục được đảm bảo, trình độ dân trí của giáo dân
được nâng cao, nhận thức về các vấn đề tự nhiên, xã hội và con người càng
mang tính khoa học thì niềm tin tôn giáo không trở thành mê tín, mù quáng,
giáo dân không bị lợi dụng vào các hoạt động trái pháp luật.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Tập trung phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, thông tin,
thể dục thể thao. Nâng cao chất lượng các buổi phát sóng của hệ thống đài
phát thanh và truyền hình xã, huyện, tỉnh. Tăng thời lượng phát sóng, đưa tin
về gương người tốt, việc tốt hay những phong trào thi đua điển hình của
người dân theo Công giáo trong và ngoài giáo phận Bùi Chu nhằm động viên,
khuyến khích đồng bào có đạo noi theo. Trên tinh thần phát huy những giá trị
tốt đẹp từ các tín ngưỡng truyền thống, từ Công giáo, cần xây dựng đời sống
tinh thần lành mạnh, phong phú, đẩy mạnh thực hiện phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, làm tốt công tác thông tin phổ biến
pháp luật đến nhân dân, đặc biệt là giáo dân.
Vấn đề tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng rất cần thiết, nhưng để
mang ý nghĩa thực tiễn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì cần đến
một chính sách xã hội có khả năng thu hút đồng bào theo các tín ngưỡng, tôn
giáo tích cực tham gia mọi mặt hoạt động của xã hội. Vấn đề này hết sức quan
trọng, xuất phát từ đánh giá vị trí xã hội và sức mạnh to lớn của tín ngưỡng,
tôn giáo trong sự nghiệp chung.
124
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở vùng
đồng bào Công giáo sống tập trung cần thiết phải được tiến hành thường
xuyên, liên tục. Phong trào nên đa dạng hóa các hình thức sinh hoạt, nhất là
sinh hoạt cộng đồng. Mục tiêu mà phong trào hướng tới cần hết sức cụ thể, sát
hợp với tình hình. Ở mỗi thời điểm khác nhau, tùy theo vấn đề phức tạp ở mỗi
địa phương, xứ, họ đạo mà mục tiêu đặt ra cũng phải khác nhau.
Chính quyền các cấp cần kết hợp với Giáo hội địa phương (giáo
phận) và giáo hội cơ sở (giáo xứ) và Ủy ban đoàn kết Công giáo của giáo
phận thực hiện tốt phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”. Ở vùng giáo, giám mục, linh mục có vai trò vô cùng quan trọng
không chỉ về mặt tôn giáo mà còn cả trên lĩnh vực đời sống. Vì vậy, chính
quyền các cấp hết sức tranh thủ giáo sĩ, “lôi kéo” họ vào cuộc. Khi đời
sống văn hóa vùng giáo, nhất là việc thực hiện thờ cúng tổ tiên, lễ hội, cầu
nguyện Đức Maria “có vấn đề” đi ngược lại phong hóa hoặc bị lợi dụng
vào mục đích phi tôn giáo, phản văn hóa thì sự “vào cuộc” của hàng ngũ
giáo sĩ là hết sức quan trọng và cần thiết.
Khi vụ việc xảy ra, chẳng hạn người Công giáo tụ tập đông đảo tại một
địa điểm mà ở đó có tin đồn Đức Mẹ hiện ra hoặc Đức Mẹ ban ơn, chính
quyền các cấp cần kết hợp với linh mục chính xứ, cũng có khi là cả giám mục
giáo phận giải thích vận động quần chúng hiểu rõ tín lý, giáo lý Công giáo để
họ nhận rõ sự thật và tự giác trở về. Cần tránh những việc làm thái quá có thể
xúc phạm đến niềm tin tôn giáo của Giáo hội gây nên những phản ứng tiêu
cực. Thậm chí kẻ xấu có thể lợi dụng để kích động giáo dân tạo nên điểm
nóng tôn giáo.
Chính quyền đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc các cấp cần phối hợp với
Ủy ban đoàn kết Công giáo của giáo phận Bùi Chu thực hiện tốt phong
trào: Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, sống tốt đời
125
đẹp đạo do Ủy ban đoàn kết Công giáo Việt Nam phát động. Phong trào
đưa ra 10 tiêu chí (10 nội dung) trong đó có nội dung 5 và 6 rất sát thực với
việc thực hiện thờ cúng Tổ tiên, lễ hội Công giáo... Xin được trích nguyên
văn hai nội dung 5 và 6 như sau:
5- Thực hiện tốt nếp sống văn hóa trong các sinh hoạt đạo đời, đặc
biệt trong việc cưới việc tang và các lễ hội Công giáo. Xây dựng
nếp sống văn hóa thể hiện cụ thể bằng nếp sống văn minh, lành
mạnh, tiến bộ. Tổ chức tốt các điểm vui chơi giải trí công cộng, thu
hút thanh thiếu niên vào các hoạt động văn hóa, văn nghệ lành
mạnh, tiến bộ.
6- Xây dựng gia đình hòa thuận “ông bà mẫu mực”, “con cháu hiếu
thảo”, quan hệ tốt với những người xung quanh, nhất là người khác
tôn giáo. Cùng nhân dân địa phương tạo môi trường trong sạch,
đường làng ngõ xóm phong quang sạch sẽ; phấn đấu trong các xứ,
họ không còn nhà dột nát, có nhiều gia đình, xứ họ đạo được công
nhận là gia đình văn hóa, xứ đạo tiên tiến, gương mẫu [181, tr.3].
Tiếp tục thực hiện phong trào “Ba an toàn” về an ninh trật tự, phong trào
được Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định phát động và triển khai từ tháng 1 năm
2011 trong vùng đồng bào theo các tôn giáo. “Ba an toàn” gồm: (1) an toàn
về người; (2) an toàn về tài sản; (3) an toàn trong hoạt động tôn giáo [61].
Tỉnh Nam Định có hơn 2 triệu người, trong đó người Công giáo chiếm
25%. Với vùng đồng bào Công giáo sống tập trung, phong trào được cụ thể
bằng các nội dung: Vận động giáo sĩ, ban hành giáo, người Công giáo “Sống
tốt đời đẹp đạo, kính Chúa yêu nước”; hiểu rõ đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, thực hiện các nội dung quản lý Nhà nước về an toàn
trật tự, qui ước sinh hoạt tôn giáo; tăng cường khối đại đoàn kết; hòa giải mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân; giúp đỡ người lầm lỡ.
126
Trong những hoạt động nói trên, Ban hành giáo các giáo xứ phối hợp
chặt chẽ với hệ thống chính trị cơ sở ở địa phương thực hiện có hiệu quả. Qua
gặp gỡ, thăm hỏi, chúc mừng các ngày lễ trọng, các sự kiện của đất nước,
chính quyền và giáo sĩ trao đổi những vấn đề có liên quan đến an ninh trật tự,
phòng chống tội phạm, phòng ngừa tệ nạn xã hội.
Nếu như trước đây một số bộ phận không nhỏ giáo sĩ ngại tham gia các
phong trào xã hội, nay số lượng giáo sĩ tham gia ngày một đông. Từ năm
2000 đến 2013 có 25 lượt linh mục, 691 lượt người Công giáo tham gia Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc các cấp. Hiện ở Nam Định có 01 linh mục là Đại biểu
Quốc hội, 01 linh mục tham gia Hội đồng nhân dân tỉnh, 21 linh mục tham gia
Ủy ban đoàn kết Công giáo.
Bên cạnh việc phối hợp cùng chính quyền và lực lượng công an triển
khai các phong trào về an ninh – trật tự, các linh mục còn vận động người
Công giáo thực hiện Huấn từ của Giáo hoàng Bênêđíctô XVII “Người giáo
dân tốt cũng là người công dân tốt”.
Sau hai năm thực hiện phong trào “Ba an toàn” phong trào cách mạng
vùng Công giáo tập trung ở tỉnh Nam Định bước đầu có những chuyển biến
rõ rệt. Người Công giáo ý thức hơn trong việc củng cố hệ thống chính trị cơ
sở, an ninh trật tự trên địa bàn được giữ vững. Người Công giáo tích cực tham
gai quy chế dân chủ cơ sở, đóng góp ý kiến xây dựng Đảng, chính quyền
trong sạch, vững mạnh. Thông qua các buổi tiếp xúc cử tri, với Đoàn Đại biểu
Hội đồng nhân dân, Đoàn Đại biểu Quốc hội, người Công giáo thẳng thắn
đóng góp ý kiến, đồng thời đề xuất với Nhà nước những vấn đề chính sách
đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn và chính sách về an sinh xã hội.
4.2.3. Giải pháp về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách đối với tín ngưỡng truyền thống và lễ hội Công giáo
Từ lúc Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập cho đến
nay, Quốc hội và Chính phủ đã luôn nhất quán việc phải tiến hành quản lý
127
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo bằng pháp luật. Phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của Việt Nam, các hiến pháp của Nhà nước ta (Hiến pháp 1946,
Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992) đã thể chế hóa những
quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Hiến pháp năm 1992 quy
định “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ
tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm
phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm
trái pháp luật và chính sách của Nhà nước” [148, tr.36].
Trên tinh thần đổi mới và hội nhập quốc tế, Hiến pháp năm 2013, Điều
24 thay vì dùng cụm từ công dân bằng cụm từ mọi người. Bởi cụm từ mọi
người rộng hơn cụm từ công dân. Toàn văn điều 24 như sau:
Điều 24.
1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật [149, tr.17,18].
Để cụ thể hóa Hiến pháp, hỗ trợ cho công tác quản lý Nhà nước về
tín ngưỡng, Công giáo, Nhà nước đã ban hành một số văn bản dưới luật
nhằm hướng dẫn các ngành liên quan thực hiện những quy định của Hiến
pháp về tôn giáo, cũng đồng thời để từng bước đưa hoạt động này theo
đúng quy định của Nhà nước. Đó là các Sắc lệnh 234/SL ngày 14/6/1955
của Chính phủ về chính sách đối với tôn giáo, Chỉ thị 379/TTG ngày
23/7/1993 của Thủ tướng Chính phủ về các hoạt động tôn giáo, Nghị
quyết số 24 - NQ/TW ngày 16/10/1990 của BCT BCHTW ĐCSVN về
tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, Chỉ thị 37 - CT/TW
ngày 2/7/1998 của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo trong tình hình mới,
128
Nghị quyết Hội nghị trung ương 7 Ban chấp hành trung ương Khoá IX về
công tác tôn giáo ngày 12 tháng 3 năm 2003, Pháp lệnh số 21/2004/PL-
UBTVQH11, ngày 18 tháng 6 năm 2004 về tín ngưỡng, tôn giáo (Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo)… Đây là lần đầu tiên một văn bản pháp luật đề
cập đến loại hình tín ngưỡng. Trước đó, tín ngưỡng được hiểu như niềm
tin tôn giáo.
Sau khi Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được ban hành, Chính phủ
ban hành Nghị định: Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo số 22/2005/NĐ-CP, ngày 01 tháng 3 năm 2005. Nhằm bổ
sung Nghị định số 22/2005 cho sát hợp hơn với thực tiễn, ngày 08 tháng 11
năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị định số 92/2012/NĐ-CP: Qui định chi
tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Nghị định dành
riêng Điều 4. Qui định về lễ hội tín ngưỡng và việc tổ chức lễ hội. Khoản 1
Điều 4 viết: “Lễ hội tín ngưỡng là hình thức hoạt động tín ngưỡng có tổ
chức, thể hiện sự tôn thờ, tưởng niệm và tôn vinh những người có công với
nước, với cộng đồng, thờ cúng tổ tiên, biểu tượng có tính truyền thống và
các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp
về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội”.
Từ sau công cuộc đổi mới, đặc biệt là từ sau khi Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực, lễ hội, hoạt động tín ngưỡng truyền thống
của dân tộc được khôi phục thậm chí còn có sự bùng phát ở một số địa
phương. Tuy nhiên, cho đến nay, việc quản lý hoạt động tín ngưỡng và lễ
hội truyền thống vẫn còn nhiều kẽ hở. Điều này khiến cho không ít lễ hội
truyền thống vẫn còn nhiều điều bất cập. Nạn buôn thần bán thánh đâu đó
vẫn xảy ra ở các cơ sở tín ngưỡng. Chính vì thế, cần phải tiếp tục hoàn
thiện hệ thống pháp luật, chính sách đối với tín ngưỡng truyền thống và lễ
hội Công giáo.
129
Rõ ràng, chúng ta đều thấy được sự cấp thiết phải hoàn thiện hệ thống
pháp luật, chính sách đối với tín ngưỡng truyền thống và lễ hội Công giáo.
Làm sao để các tôn giáo hoạt động lành mạnh trên tinh thần tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, có thể phân biệt được những gì thuộc về mê tín dị đoan có hại cho
xã hội cần phải cấm, những tổ chức, cá nhân đội lốt tôn giáo phá hoại xã hội
cần được xử lý theo luật v.v… Đây là vấn đề cơ bản và cốt lõi hàng đầu bởi
nếu tín ngưỡng truyền thống giữ được vai trò, vị trí, bản chất vốn có của nó
tất sẽ làm qui chuẩn và có tác dụng tốt đến đời sống đạo của người Công giáo
ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định.
Để phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, bất
cập trong công tác triển khai, tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về
công tác tôn giáo trong thời gian tới, đề nghị:
Một là, tổ chức quán triệt, triển khai ngay các nội dung của Nghị định
92/2012/NĐ-CP, ngày 08/11/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và biện
pháp thi hành pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời tham mưu cho
UBND tỉnh Nam Định nghiên cứu sửa đổi, bổ sung ban hành quy định mới
thay thế Quyết định 3350/2005/QĐ-UBND, ngày 01/11/2005 của UBND tỉnh
Nam Định ban hành Quy định một số hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa
bàn tỉnh Nam Định phù hợp với Nghị định 92/CP.
Hai là, các cơ quan chức năng tiếp tục rà soát những nội dung chưa
được cụ thể hóa, còn thiếu hoặc không còn phù hợp trong các văn bản
luật để đưa ra những biện pháp, nội dung nhằm thực hiện tốt hơn chính
sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước cũng như nhằm thực hiện tốt hơn
công tác tôn giáo.
Về Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ
Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ đang xây dựng Tờ trình về việc sửa đổi để
báo cáo Bộ trưởng trình Chính phủ và Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII.
130
Do vậy, việc cụ thể hóa các văn bản pháp quy của Nhà nước trong lĩnh
vực tôn giáo và hoạt động tôn giáo là hết sức cấp thiết. Để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc ban hành các văn bản pháp quy này, các địa phương có đồng bào
giáo dân nên thành lập “Ban dự thảo quy chế” về hoạt động tôn giáo của địa
phương mình. Thành phần tham gia nên gồm: Đại diện Ban tôn giáo chính
quyền, Công an, Ban Dân vận, Mặt trận Tổ quốc, Tư pháp.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến chủ trương, đường
lối, chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo và liên quan đến tín ngưỡng,
tôn giáo đến tận người Công giáo, khi người dân thường hiểu được chính sách,
pháp luật, họ không những không vi phạm mà còn tham gia tích cực vào việc
đấu tranh chống những việc làm sai trái trên lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
4.2.4. Giải pháp về xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ làm công tác
tôn giáo
Củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức làm công tác tôn giáo trên địa bàn
thuộc giáo phận Bùi Chu cần phải được tiến hành thường xuyên và đi vào
chiều sâu chất lượng.
Công tác tôn giáo có quan hệ đến nhiều ngành, nhiều cấp, đòi hỏi phải
được tiến hành đồng bộ, phối hợp nhịp nhàng của cả hệ thống chính trị dưới
sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng.
Thực tế cho thấy, không chỉ có chính sách, pháp luật về tôn giáo của
Đảng và Nhà nước mới đảm bảo cho đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của giáo
dân Bùi Chu mà hàng loạt các chính sách khác về kinh tế, xã hội, văn hóa,
giáo dục, y tế… tác động hàng ngày, hàng giờ tới đời sống, hoạt động của
đồng bào giáo dân và tổ chức giáo hội.
Xây dựng đội ngũ làm công tác tôn giáo ở vùng Công giáo tập trung có
đủ trình độ, hiểu biết về tôn giáo, về văn hoá để thi hành đúng những chính
sách chủ trương của Đảng và Nhà nước về tôn giáo. Người làm công tác tôn
131
giáo không chỉ giỏi về chuyên môn, có bản lĩnh chính trị mà còn phải hết sức
linh hoạt, khéo léo trong việc xử lý, giải quyết từng vụ việc cụ thể, phù hợp
với tâm lý các tín đồ theo đạo, đi sâu đi sát vào trong quần chúng để có nhiều
kinh nghiệm gây cảm tình trong giáo dân. Cần hết sức tránh việc xúc phạm
đến niềm tin tôn giáo của giáo dân. Khi giải quyết vụ việc, không để cái sảy
nảy cái ung, bé xé ra to, làm phức tạp thêm tình hình. Người làm công tác tôn
giáo vùng giáo cần khắc phục định kiến, hoặc có sự đối xử không công bằng
với một số hoạt động tôn giáo của Công giáo, nhất là lễ hội Công giáo.
Tăng cường bồi dưỡng kiến thức về tôn giáo, tập huấn chuyên môn,
nghiệp vụ công tác quản lý nhà nước về tôn giáo cho đội ngũ cán bộ trực tiếp
làm công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo như cán bộ chủ
chốt của tỉnh, cán bộ lãnh đạo các Sở, ban, ngành, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể cấp tỉnh; lãnh đạo cấp ủy, chính quyền và các phòng, ban làm
công tác tôn giáo cấp huyện trong toàn tỉnh…
Kiện toàn bộ máy tổ chức, cán bộ làm công tác tôn giáo và tăng cường
đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ làm công tác tôn giáo các cấp.
Đồng thời, duy trì chế độ giao ban nghe báo cáo tình hình tôn giáo, trách
nhiệm thực hiện nhiệm vụ công tác tôn giáo của các đơn vị.
4.2.5. Giải pháp về tăng cường công tác tranh thủ các giáo sĩ, Ban
hành giáo trong Công giáo
Những giáo sĩ (giám mục, linh mục) đều có vị trí vai trò quan trọng
trong giáo hội Công giáo Việt Nam. Họ chính là người "cha" linh hồn của
người Công giáo, người Công giáo nghe theo sự chỉ dẫn của họ không chỉ
trên lĩnh vực đạo mà cả lĩnh vực đời. Do đó, cần hết sức coi trọng công tác
vận động, tranh thủ các giáo sĩ trong đạo Công giáo. Thực tế chứng minh rằng,
ở đâu làm tốt công tác vận động giáo sĩ, có được sự ủng hộ tích cực từ các
giáo sĩ, ở đó công tác tín ngưỡng, tôn giáo thực hiện rất có hiệu quả.
132
Ngoài việc tranh thủ các giáo sĩ là việc tranh thủ Ban hành giáo (hoặc
Hội đồng mục vụ giáo xứ) ở các xứ, họ đạo Công giáo.
Việc tranh thủ Ban hành giáo ở các xứ, họ đạo Công giáo trong vận
động quần chúng tín đồ được thể hiện qua các nội dung:
Thứ nhất, thông qua Ban hành giáo ở các xứ, họ đạo Công giáo để nắm
tình hình, thông tin liên quan đến hoạt động tôn giáo trái pháp luật xảy ra ở xứ,
họ đạo để từ đó chủ động có kế hoạch đấu tranh, giải quyết.
Thứ hai, thông qua Ban hành giáo ở các xứ, họ đạo để tuyên truyền
cho quần chúng hiểu, thấm nhuần đường lối, chủ trương, chính sách đúng
đắn của Đảng và Nhà nước, từ đó không tham gia các hoạt động tôn giáo
trái pháp luật.
Thứ ba, tranh thủ Ban hành giáo ở các xứ, họ đạo để họ lên tiếng phản
đối các hoạt động tôn giáo trái pháp luật ở xứ, họ đạo, đồng thời hướng họ
ủng hộ cách giải quyết, xử lý của chính quyền đối với những vụ việc tôn giáo,
đặc biệt là vụ việc tôn giáo phức tạp.
Để công tác vận động giáo sĩ, Ban hành giáo được thực hiện có hiệu
quả, cần chú ý một số biện pháp sau:
Cần phổ biến, tuyên truyền để các vị giáo sĩ, Ban hành giáo hiểu rõ về
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về tôn giáo, Pháp
lệnh về Tín ngưỡng, tôn giáo và thấm nhuần những nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, người dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy.
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Người dân có tín ngưỡng,
tôn giáo hoặc không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như người dân có tín
ngưỡng, tôn giáo khác nhau phải tôn trọng lẫn nhau.
133
Thứ hai, giáo sĩ, Ban hành giáo có trách nhiệm thường xuyên giáo dục
cho người Công giáo về lòng yêu nước, thực hiện quyền, nghĩa vụ công dân
và ý thức chấp hành pháp luật.
Hoạt động của Công giáo phải đi đúng với đường hướng “tốt đời, đẹp đạo”,
“sống phúc âm giữa lòng dân tộc”. Khuyến khích những hành động phù hợp với
đường hướng trên. Đồng thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm những biểu hiện
lợi dụng tự do tín ngưỡng tôn giáo cũng như những biểu hiện lợi dụng dân chủ để
vi phạm pháp luật, kích động tín đồ gây rối trật tự, ảnh hưởng đến ổn định xã hội;
tăng cường phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo góp
phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của quê hương, đất nước.
Và để phát huy vai trò của các giáo sĩ, Ban hành giáo trong công tác
tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà
nước tới các tín đồ, các ngành chức năng cần tăng cường công tác bồi dưỡng
nâng cao kiến thức pháp luật cho họ. Nội dung tuyên truyền tập trung phổ
biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
về tín ngưỡng, tôn giáo; các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, của
UBND tỉnh về tôn giáo và công tác quản lý Nhà nước đối với tôn giáo; Pháp
lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo; quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
quyền và trách nhiệm của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc trong hoạt động tôn
giáo; Luật Khiếu nại; Luật Tố cáo… Qua đó, giúp các giáo sĩ, Ban hành giáo
nắm bắt được các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về
hoạt động tôn giáo, từ đó thực hiện tốt các quy định về sinh hoạt tôn giáo,
đồng thời động viên các tín đồ tích cực tham gia lao động sản xuất, góp phần
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Những giáo sĩ tiến bộ, nhất là những người trong Ban hành giáo là
công dân tốt, các cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc nên vận động họ
tham gia vào Giáo hội (đối với giáo sĩ), hội đồng nhân dân các cấp (giáo
134
sĩ và Ban hành giáo). Khi tham gia vào các tổ chức công quyền một mặt
xua đi tư tưởng vẫn còn đọng lại trong không ít người Công giáo khi cho
rằng họ bị chính quyền đối xử là công dân hạng hai, mặt khác, tham gia
vào bộ máy công quyền họ sẽ có tiếng nói với tôn giáo của mình đề đạt
trực tiếp với chính quyền. Đồng thời, nếu là giáo sĩ, họ sẽ nêu cao trách
nhiệm công dân trong việc dẫn dắt người Công giáo dưới quyền thực hiện
“sống tốt đời, đẹp đạo”. Giáo sĩ, Ban hành giáo sẽ làm tốt công tác hòa giải
ở cơ sở. Khi được trang bị những kiến thức pháp luật và nghiệp vụ hoà giải,
kết hợp uy tín cá nhân, các giáo sĩ, Ban hành giáo sẽ đứng ra giải quyết
tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh trong cộng đồng dân cư. Thực tế đã chứng
minh nhiều phong trào, cuộc vận động như “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa ở khu dân cư”; “xây dựng giáo xứ, giáo họ không có ma
túy, tội phạm và tệ nạn xã hội”... được đồng bào giáo dân tích cực hưởng
ứng và thực hiện tốt có vai trò không nhỏ của giáo sĩ và Ban hành giáo.
Cần xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật về tôn giáo theo hướng
ngày càng quan tâm hơn tới đời sống giáo sĩ, Ban hành giáo và người Công
giáo cả về vật chất và tinh thần để quần chúng tín đồ, giáo sĩ và Ban hành
giáo yên tâm, phấn khởi thực hiện tốt “việc đạo, việc đời”, tin tưởng vào
chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, từ đó tích cực
tham gia các phong trào thi đua yêu nước, lao động sản xuất, phát triển kinh
tế xã hội, đấu tranh ngăn chặn những hành động lợi dụng tôn giáo, góp phần
bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nhằm đạt tới mục tiêu xây
dựng đất nước, quê hương “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” và đời sống văn hóa lành mạnh.
Những nhu cầu chính đáng, hợp pháp, phù hợp thực tế và phù hợp pháp
luật Việt Nam của Công giáo phải được xem xét và giải quyết kịp thời, đúng quy
định.Vấn đề tu sửa, xây mới các nhà thờ Công giáo, cơ sở phục vụ tôn giáo,
135
những nơi có nhu cầu; tách, lập các xứ, họ đạo; vấn đề đất đai, khuôn viên nhà
thờ Công giáo, nhà học giáo lý; đào tạo, thuyên chuyển, phong chức, bổ nhiệm,
nếu xét thấy có nhu cầu thì chính quyền các cấp phải xem xét giải quyết.
Các địa phương cần tạo điều kiện tốt nhất để giúp đỡ, phối hợp tổ chức,
đảm bảo cho các dịp lễ lớn, lễ trọng, những sự kiện lớn của Công giáo, ngày
tết cổ truyền của dân tộc tại giáo phận, giáo xứ, giáo họ diễn ra an toàn, trang
trọng, tạo phấn khởi và niềm tin cho người Công giáo. Các cơ quan, tổ chức
trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến xã nên thường xuyên thăm hỏi, động viên
các giáo sĩ, những người trong Ban hành giáo các xứ, họ đạo tiêu biểu để họ
thêm nhiệt tình tham gia các phong trào yêu nước ở địa phương và tạo không
khí gần gũi, hiểu biết nhau. Các giáo sĩ, những người trong Ban hành giáo khi
ốm đau, khó khăn, qua đời, các cấp, các ngành cần quan tâm, hỗ trợ, thăm
viếng, chia sẻ. Các đồng chí lãnh đạo Đảng, chính quyền của tỉnh cần tiếp xúc,
gặp gỡ với giáo hội địa phương để tiếp tục tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của
các giáo sĩ, nhất là giám mục giáo phận để tạo sự cảm thông, chia sẻ và giải
quyết kịp thời những nguyện vọng chính đáng mà họ đề xuất.
Những đề nghị chưa đúng theo quy định của pháp luật hoặc vượt thẩm
quyền cần phải được giải thích một cách thấu tình đạt lý để các chức sắc đạo
Công giáo thấy được sự đúng đắn, cởi mở, tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo
theo đúng đường lối, chủ trương của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước.
4.2.6. Giải pháp từ phía Giáo hội Công giáo
Đối với Giáo hội Công giáo Việt Nam
Công đồng Vatican II với nội dung Canh tân và thích nghi đã thổi một
luồng sinh khí mới vào Giáo hội Công giáo Việt Nam. Vào thời điểm Công
đồng nhóm họp và kết thúc, do đất nước tạm chia làm hai miền nên Công giáo
ở miền Nam có điều kiện tiếp xúc tinh thần của Công đồng sớm hơn Công
giáo ở miền Bắc. Trên tinh thần Canh tân và thích nghi của Công đồng, các
136
nhà thần học Công giáo ở miền Nam bàn đến việc hội nhập văn hóa Công
giáo với văn hóa truyền thống Việt Nam lúc đó gọi là “Việt hóa đạo”. Nội
dung bàn đến là biến đạo Tây thành đạo Ta, đạo Công giáo của người Việt,
mang sắc thái văn hóa Việt.
Một trong những khâu đột phá của Công giáo ở miền Nam là vấn đề
thờ cúng Tổ tiên. Cuối cùng, ngày 14-1-1974, các giám mục thuộc các giáo
phận miền Nam ra Thông báo 5 điểm quy định cho người Công giáo Việt
Nam được tổ chức và tham dự các nghi lễ tôn kính ông bà tổ tiên. Trên một số
tạp chí đương thời như: Nhà Chúa, Chọn, một số học giả Công giáo đi sâu
vào bàn luận giá trị của thờ cúng Tổ tiên và người Công giáo phải thực hiện ra
sao. Trong việc nghiên cứu về thờ cúng Tổ tiên, một nhóm có tên Thái Hòa
viết những bài nghiên cứu khá tỉ mỉ về thờ cúng tổ tiên, về lễ hội truyền thống
của dân tộc đăng trên tập san Đạo Nhập thế. Việc làm của họ được Tổng
Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình ủng hộ và viết lời giới thiệu khi Đạo
Nhập thế được đóng tập, xuất bản.
Sau ngày giải phóng miền Nam, từ khoảng những năm 1980, khi giáo
dân hai miền có sự giao lưu học hỏi, vấn đề thờ cúng Tổ tiên dần được người
Công giáo miền Bắc, trong đó có người Công giáo Bùi Chu tiếp thu và thực
hiện. Các cuộc điều tra xã hội học của giới nghiên cứu Công giáo và các nhà
nghiên cứu ngoài Công giáo những năm đầu 1990 cho thấy 100% người Công
giáo đều thực hành tôn kính tổ tiên với các hình thức khác nhau. Trong Hội
nghị Thượng Hội đồng Giám mục Á châu họp ở Vatican từ ngày 19 tháng 4
đến ngày 14 - 5- 1998, các giám mục Việt Nam tham dự, trong bài phát biểu
của họ đều đề cập đến giá trị của đạo hiếu, của tôn kính tổ tiên đối với người
Công giáo Việt Nam. Không chỉ vậy, tại Tòa Tổng Giám mục Huế, từ ngày
27-29/10/1999, Ủy ban Giáo dân thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ
chức cuộc hội thảo với tiêu đề: Vấn đề tôn kính Tổ tiên nơi người Công giáo.
137
Cuộc hội thảo xoay quanh chủ đề: Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người
Việt quá khứ và hiện tại; Thờ cúng Tổ tiên không chỉ là vấn đề tín ngưỡng mà
còn là vấn đề văn hóa tâm linh; Người Công giáo Việt Nam thực hành việc
tôn kính ông bà Tổ tiên như thế nào.
Nếu vấn đề thờ cúng Tổ tiên của người Công giáo về phương diện thần
học đã được ngã ngũ, thì về phương diện thực hành mặc dù Thông báo 1974
của các Giám mục miền Nam với 5 điểm quy định khá rõ nhưng trên thực tế
vẫn còn nhiều vấn đề cần thiết phải được quy chuẩn hóa từ phía Hội đồng
Giám mục Việt Nam. Chẳng hạn, vấn đề bài trí bàn thờ, vấn đề mộ chí, Vườn
thánh, làm phép xác, nghi thức tang lễ tại gia và tại nhà thờ, những bài kinh
cầu cho người qua đời...
Về lễ hội Công giáo cần thiết phải có những qui định cụ thể. Một mặt
bảo đảm được tính trang nghiêm trong Thánh lễ, mặt khác phải thể hiện sự
hội nhập văn hóa trong phần hội, tiếp thu những tinh hoa văn hóa truyền
thống dân tộc. Nhưng đồng thời cần có những qui định tránh những việc làm
thái quá, bày vẽ, gây rườm rà trong phần hội.
Với việc thờ phụng Đức Maria, Hội đồng Giám mục Việt Nam cần
thiết phải bày tỏ thái độ rõ ràng khi xuất hiện những tin đồn vô căn cứ về
việc Đức Mẹ hiện ra, về phép lạ để tránh việc lợi dụng và cũng là để giữ
nghiêm chính tín.
Đối với Giáo phận Công giáo Bùi Chu
Trong khi chờ những văn bản quan phương từ Hội đồng Giám mục
Việt Nam, người đứng đầu giáo phận, Hội đồng linh mục của giáo phận, các
linh mục quản xứ cần căn cứ vào tình hình thực tế, một mặt tiếp thu, ủng hộ
lòng đạo đức bình dân của người Công giáo trong thực hiện tín ngưỡng thờ
cúng Tổ tiên, lễ hội, thờ phụng Đức Maria, mặt khác phải bày tỏ thái độ trước
những việc làm lệch lạc với tín lý, giáo lý, giáo luật. Cũng như Hội đồng giám
138
mục Việt Nam, người đứng đầu giáo phận phải bày tỏ thái độ khi xuất iện
những tin đồn và việc làm thái quá của người Công giáo trong giáo phận về
việc Đức Mẹ hiện ra, về phép lạ...
Là giáo phận có truyền thống sinh hoạt cộng đồng, tổ chức nghi thức
rước rầm rộ, giáo phận cần có nội quy, quy chế sinh hoạt cộng đồng, đặc biệt
là vấn đề thực hiện lòng đạo đức bình dân.
Với giáo xứ, cần thiết phải nâng cao văn hóa của linh mục trong việc
duy trì văn hóa tâm linh và thuần phong mỹ tục của người Việt.
Nâng cao ý thức cho người Công giáo và người không theo Công giáo
trong việc thực hiện đời sống văn hóa cơ sở.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Trong thời gian tới, ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam
đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu – Nam Định vẫn
tiếp tục diễn ra với xu hướng tích cực như tăng cường bảo tồn những giá trị
của tín ngưỡng truyền thống; hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo; chịu ảnh hưởng từ tín ngưỡng truyền thống Việt Nam và đồng hành
cùng dân tộc. Bên cạnh đó quá trình ảnh hưởng đó còn diễn ra theo xu hướng
có những diễn biến phức tạp trong thực hành tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín
ngưỡng Thành Hoàng làng và tín ngưỡng thờ Mẫu.
Có thể thấy rằng, quá trình ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt
Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu – Nam
Định là một quá trình lâu dài, phức tạp. Nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực,
hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của quá trình này trong thời gian tới, cần
một hệ thống các giải pháp, mà trong khuôn khổ luận án này, nghiên cứu sinh
đã mạnh dạn đề xuất, đó là các giải pháp: Bảo tồn, phát huy các giá trị di sản
văn hóa Công giáo; Giải pháp về nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
đồng bào người Công giáo Bùi Chu; xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật,
139
chính sách đối với tín ngưỡng truyền thống và lễ hội Công giáo; xây dựng,
củng cố đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo; tăng cường công tác tranh
thủ các giáo sĩ, Ban hành giáo trong Công giáo và giải pháp từ phía Giáo
hội Công giáo Việt Nam. Nghiên cứu sinh thiết nghĩ, các giải pháp trên sẽ
giúp quá trình ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời
sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định càng sôi
động, phong phú và có nhiều giá trị hơn nữa, để vừa phát huy nét đẹp của
các tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, vừa giúp đời sống vật chất và tinh
thần của đồng bào người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu – Nam Định được
cải thiện và phát triển.
140
KẾT LUẬN
Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề phức tạp mang tính lịch sử của xã
hội loài người. Đất nước Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo.
Các tín ngưỡng truyền thống phản ánh đậm nét đặc điểm đời sống tinh thần
cộng đồng người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Các tôn giáo ngoại nhập
thường chung sống hoà bình với các tín ngưỡng bản địa mà chưa từng xảy ra
chiến tranh tôn giáo.
Giáo phận Bùi Chu - Nam Định là giáo phận nằm ở phía nam đồng
bằng Bắc Bộ. Với điều kiện tự nhiên đặc thù, thuận lợi cả về đường sông,
đường biển, đường bộ nên trở thành địa bàn du nhập Công giáo từ sớm và
phát triển qui mô hết sức nhanh chóng. Từ năm 1757, giáo phận Bùi Chu (lúc
đó được gọi với tên giáo phận Đông) được các giáo sĩ dòng Đa Minh cai quản,
cũng được gọi là giáo phận Dòng với nhiều nét đặc thù. Vì vậy, giáo phận này
nhận thánh Đa Minh - vị thánh sáng lập dòng - là quan thầy đệ nhị, ngày 8/8
hàng năm - Đại lễ Kính Thánh Đa Minh là dịp lễ trọng của người Bùi Chu.
Cũng do vị trí địa lý thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, khu vực giáo phận
Bùi Chu có nhiều loại hình tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, trong đó nổi
bật là tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng Thành Hoàng làng và tín
ngưỡng thờ Mẫu.
Đối với tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, về bản chất, có thể hiểu là một bộ
phận của văn hóa tâm linh, là một loại hình tín ngưỡng dân gian được hình thành
lâu đời với niềm tin thiêng liêng rằng, tổ tiên đã chết sẽ che chở, phù giúp cho
con cháu. Nó là sự phản ánh hoang đường quyền hành của người đứng đầu thị
tộc phụ hệ, gia đình phụ quyền được duy trì và phát triển trong xã hội có giai cấp
sau này, là sự biết ơn, tưởng nhớ và tôn thờ những người có công sinh thành, tạo
dựng, bảo vệ cuộc sống như kỵ, cụ, ông bà, cha mẹ… Tín ngưỡng này biểu hiện
quan điểm của người Việt truyền thống về cái chết, về linh hồn, về cội nguồn, tổ
141
tiên. Việc thực hành nghi lễ thờ cúng tổ tiên thể hiện trong mọi phong tục liên
quan đến những thời điểm quan trọng nhất trong chu kỳ đời sống của một con
người: sinh đẻ, hôn nhân, ma chay; cũng như sau khi đã khuất; săn sóc phần mộ,
lo lắng cho “cuộc sống” bên kia thế giới.
Tín ngưỡng Thành Hoàng làng tồn tại phổ biến ở vùng đồng bằng Bắc
bộ nói chung, vùng giáo phận Bùi Chu nói riêng, trở thành biểu tượng cho
tính cố kết cộng đồng, có vai trò then chốt trong đời sống tâm linh của cư dân
làng xã Việt Nam. Trên địa bàn thuộc giáo phận Bùi Chu, hệ thống đền, miếu
thờ Thành hoàng làng của cư dân không Công giáo được lập ở khắp nơi trong
vùng, tiêu biểu có đền Hưng Đạo Vương, đền thờ Triệu Quang Phục, Đền liệt
sỹ Hải Hậu, Phủ Thiên Tiên,...
Khi đã đề cập tới vùng đồng bằng, không thể không nói tới tín ngưỡng
thờ Mẫu, là tín ngưỡng gắn liền với đời sống nông nghiệp lúa nước. Việc thờ
Mẫu ở vùng thuộc giáo phận Bùi Chu của cư dân không Công giáo rất mạnh.
Tâm thức thờ Mẫu lan tỏa, đi sâu vào đời sống tinh thần của cư dân vùng này.
Tuy nhiên, cả tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng Thành Hoàng
làng, tín ngưỡng thờ Mẫu bên cạnh những giá trị, những nét đẹp làm nên bản
sắc văn hóa truyền thống, vẫn còn tồn tại những biểu hiện tiêu cực, những mặt
phản giá trị cần khắc phục.
Khi Công giáo du nhập vào Việt Nam, vào vùng giáo phận Bùi Chu,
quá trình truyền giáo, phát triển Công giáo chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các
loại hình tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, trong đó nổi bật là tín ngưỡng
thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng Thành Hoàng làng, tín ngưỡng thờ Mẫu. Quá
trình ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của
người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định là một quá trình lâu dài
với hai giai đoạn: giai đoạn trước và giai đoạn sau Công đồng Vatican II
(1962 – 1965). Thông qua hệ thống hương ước các làng Công giáo ở giáo
142
phận Bùi Chu, có thể khẳng định dù giáo hội ngăn cấm các tín đồ tin và thực
hành các tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, trong đời sống đạo của người
Công giáo Bùi Chu vẫn chịu ảnh hưởng từ các tín ngưỡng này. Tuy nhiên,
phải nói rằng, quá trình ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến
đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định mang
nhiều màu sắc và sôi động là từ sau Công đồng Vatican II, với chủ trương
Canh tân, thích nghi của Giáo hội Rôma.
Tín ngưỡng truyền thống Việt Nam không chỉ ảnh hưởng tích cực, làm
phong phú thêm đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu –
Nam Định mà bản thân nó cũng tạo nên một số biểu hiện tiêu cực trong đời
sống đạo của người Công giáo nơi đây.
Trong thời đại mới, nhằm hướng tới xây dựng nông thôn mới, xây dựng
nếp sống văn hóa tốt đẹp cho người Công giáo Bùi Chu, việc tiếp thu những
ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng truyền
thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu
là hết sức cần thiết. Thiết nghĩ để hoàn thành mục tiêu trên, cần thực hiện một
hệ thống các giải pháp từ phía Đảng, Nhà nước Việt Nam, Đảng và chính
quyền các cấp ở tỉnh Nam Định và từ phía Giáo hội Công giáo.
143
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Mai Diệu Anh (2010), “Giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo liên quan
đến an ninh, trật tự”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục an ninh, số 9.
2. Mai Diệu Anh (2011), “Một số vấn đề về hội nhập nghi lễ Công giáo với
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay”, Tạp chí Nghiên
cứu tôn giáo, số 12.
3. Mai Quang Hiện, Mai Diệu Anh (2012), “Về vấn đề bảo tồn những giá trị
văn hóa và bảo đảm an ninh trật tự trong các lễ hội tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Nhân quyền, số 5.
4. Mai Diệu Anh (2012), “Vài nét về Đại lễ Kính Thánh Đa Minh ở giáo phận
Bùi Chu”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 11.
5. Mai Quang Hiện, Mai Diệu Anh (2012), “Những giá trị văn hóa trong các
lễ hội tôn giáo ở Việt Nam và giải pháp đảm bảo an ninh trật tự trong lễ
hội tôn giáo hiện nay”, Tọa đàm khoa học Một số vấn đề về văn hóa tôn
giáo và tư vấn bảo tồn di sản văn hóa tôn giáo trong giai đoạn hiện nay,
Trung tâm bảo tồn di sản Văn hóa tôn giáo, Hà Nội.
6. Mai Diệu Anh (2012), “Đảm bảo quyền tự do tôn giáo của tín đồ Công giáo
Việt Nam - từ thực tiễn ở giáo phận Bùi Chu”, Tạp chí Mặt trận, số 12.
7. Mai Diệu Anh (2013), “Một lối sống đạo bình dân của giáo dân giáo phận
Bùi Chu (Nam Định) - lòng sùng kính Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội”,
Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 4.
144
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2010), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Thời đại, Hà Nội 2. Đỗ Thị Ngọc Anh (2008), Quan hệ hôn nhân gia đình của người Công giáo
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Tôn giáo học, trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn, Hà Nội.
3. Toan Ánh (2005), Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Toan Ánh (2005), Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam, quyển hạ, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
5. Toan Ánh (1996), Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
6. Ban Bí thư Trung ương Đảng (1981), Nghị quyết số 40/NQ-TW ngày 01/10/1981 về công tác đối với các tôn giáo trong tình hình mới.
7. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Xuân Trường (2004), Lịch sử Đảng bộ huyện Xuân Trường 1930 - 20000.
8. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Xuân Trường (2010), Báo cáo Chính trị, Đại hội đại biểu lần thứ XXII (nhiệm kỳ 2010 - 2015).
9. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2003), Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy 25-NQ/TW về công tác tôn giáo ngày 12 tháng 3 năm 2003.
10. Ban Đại diện người Công giáo huyện Xuân Trường (2012), Báo cáo tổng kết phong trào thi đua yêu nước người Công giáo huyện Xuân Trường tại Đại hội lần thứ IV nhiệm kỳ 2012 - 2017.
11. Ban Đoàn kết Công giáo huyện (2012), Báo cáo tổng kết phong trào thi đua yêu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của người Công giáo huyện Hải Hậu trong 5 năm (2007 - 2012) và phương hướng hoạt động trong 5 năm (2012 - 2017).
145
12. Ban Tôn giáo, Sở Nội Vụ tỉnh Nam Định (2012), Báo cáo chuyên đề Công
giáo tại tỉnh Nam Định gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, những khó khăn, thuận lợi. Kiến nghị chủ trương và giải pháp.
13. Ban Tư tưởng - văn hoá Trung ương (2002), Vấn đề về tôn giáo và chính
sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
14. Phan Kế Bính (1995), Việt Nam phong tục, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
thành phố Hồ Chí Minh.
15. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Tài liệu tham khảo (Dùng cho lớp tập
huấn giảng viên các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
các trường đại học, cao đẳng năm 2005).
16. Bộ Văn hoá - thông tin, Cục văn hoá - thông tin cơ sở (1999), Tín ngưỡng
mê tín, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
17. Các giám mục Việt Nam (2005), Các thư chung, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
18. Trương Bá Cần (1996), Công giáo Việt Nam sau quá trình năm mươi năm
(1945-1995), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
19. Công đồng Vatican II, Hiến chế - Tuyên ngôn - Sắc lệnh - Sứ điệp - Thông
điệp (1969), Nxb Senatus Sài Gòn, thành phố Hồ Chí Minh.
20. Lm. Nguyễn Công Danh, Lm. Dương Phú Oanh (chủ biên) (2013), Người
Công giáo tốt cũng là người công dân tốt, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
21. Nguyễn Văn Diệu (2003), “Tìm hiểu quá trình truyền bá Kitô giáo vào các
dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer ở đồng bằng
sông Cửu Long và Đông Nam Bộ”, tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 5.
22. Phan Đại Doãn (2001), Làng xã Việt Nam một số vấn đề kinh tế - văn hóa
- xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Nguyễn Thị Dung (2011), Công đồng Vatican II và sự tác động của nó tới Công
giáo ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
146
24. Jean - Baptiste Duroselle và Jean - Marie Mayeur (2004), Lịch sử đạo
Thiên Chúa, Nxb Thế giới, Hà Nội.
25. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam,
Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
26. Nguyễn Đăng Duy (1996), Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
27. Thành Duy (2004), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam dưới ánh
sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Nguyễn Hồng Dương (1999), “Bước đường hội nhập văn hóa dân tộc của
Công giáo Việt Nam”, tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 1.
29. Nguyễn Hồng Dương (2001), “Công đồng Vatican II ở Việt Nam (nhìn từ
góc độ lý luận về hội nhập văn hóa)”, tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 7.
30. Nguyễn Hồng Dương (2013), Công giáo trong văn hoá Việt Nam, Nxb
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
31. Nguyễn Hồng Dương (2014), Công giáo Việt Nam đối với phát triển bền
vững đất nước, đề tài cấp Bộ, Bộ Văn hóa - Thông tin.
32. Nguyễn Hồng Dương (2001), “Đời sống đạo của giáo dân dòng Đa Minh
(từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 6.
33. Nguyễn Hồng Dương (2012), “Hậu Công đồng Vatican II - Những vấn
đề Giáo hội Công giáo đang phải đối diện”, Tạp chí Nghiên cứu
Tôn giáo, số 3.
34. Nguyễn Hồng Dương (2009), “Hệ quả quá trình tiếp xúc giữa Công giáo
với tín ngưỡng bản địa của người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ”,
Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5.
35. Nguyễn Hồng Dương (2003), “Hội đoàn Công giáo - Lịch sử và hiện tại”,
Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 4.
36. Nguyễn Hồng Dương (1993), “Hội nhập văn hóa Kitô giáo với văn hóa
truyền thống Việt Nam trong lịch sử”, tạp chí Đông Nam Á, số 1.
147
37. Nguyễn Hồng Dương (1995), Làng Công giáo Lưu Phương (Ninh Bình)
từ năm 1929 đến năm 1945 (Quá trình hình thành và phát triển),
Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Khoa học xã hội, Việt Nam.
38. Nguyễn Hồng Dương (1993), “Làng Công giáo Phú Nhai thời cận đại”,
tạp chí Dân tộc học, số 3.
39. Nguyễn Hồng Dương (2011), Linh mục Phạm Bá Trực và đường hướng
Công giáo đồng hành cùng dân tộc trong thời kỳ chống thực dân
Pháp (1946 - 1954), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
40. Nguyễn Hồng Dương (2007), Mối quan hệ giữa Giáo hội Công giáo Việt
Nam với Giáo hội Công giáo Rôma, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 7.
41. PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương (2012), Một số vấn đề cơ bản của Công
giáo ở Việt Nam hiện nay, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
42. Nguyễn Hồng Dương (2001), Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn
hoá Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
43. Nguyễn Hồng Dương (2010), Nếp sống đạo của người Công giáo Việt
Nam, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
44. Nguyễn Hồng Dương (2011), “Quá trình nhận thức của Đảng về vấn đề tôn
giáo, công tác tôn giáo và chính sách tôn giáo qua cương lĩnh, văn kiện,
nghị quyết từ Đổi mới đến nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 1.
45. Nguyễn Hồng Dương (2012), Quan điểm đường lối của Đảng về tôn
gióa và Những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
46. Nguyễn Hồng Dương (2014), Tiếp tục đổi mới chính sách về tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận cơ bản, Nxb Văn hóa -
Thông tin & Viện Văn hóa, Hà Nội.
47. Nguyễn Hồng Dương (2002), “Tìm hiểu tổ chức xứ, họ đạo Công giáo
Nam Bộ (đến đầu thế kỷ XX)” , Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 3.
148
48. Nguyễn Hồng Dương (2004), Tôn giáo trong mối quan hệ văn hoá và
phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
49. Nguyễn Hồng Dương (2013), Tôn giáo trong văn hoá Việt Nam, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
50. Nguyễn Hồng Dương (2011), Tổ chức xứ, họ đạo Công giáo ở Việt Nam: Lịch
sử - hiện tại và những vấn đề đặt ra, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
51. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
53. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
54. Nguyễn Tất Đạt (2008), “Tang thức người Việt theo Công giáo, Phật giáo
và theo phong tục, tín ngưỡng truyền thống ở vùng đồng bằng Bắc
bộ”, tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 11.
55. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
56. Mạc Đường (2004), “Đặc điểm tín ngưỡng và tôn giáo ở Nam bộ theo
cách tiếp cận dân tộc học tôn giáo”, tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 4.
57. Bùi Thanh Hà (1999), Mối quan hệ giữa đạo Công giáo và dân tộc ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
58. Hoàng Quốc Hải (2001), Văn hóa phong tục, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
59. Mai Thanh Hải (2005), “40 năm Công đồng Vatican II - Mười việc còn
dang dở”, tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4.
60. Mai Thanh Hải (2006), Các tôn giáo trên thế giới và Việt Nam, tập II, Nxb
Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
61. Lê Phương Hiên (2014), Phong trào “Ba an toàn” về an ninh trật tự, tại
trang http://nhandan.com.vn [truy cập ngày 4/6/2014].
149
62. Đỗ Lan Hiền (2001), Sự thống nhất giữa “Kính Chúa và yêu nước” trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thời cận hiện đại, Luận án Tiến sĩ Ttriết học, trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn, Hà Nội.
63. Mai Quang Hiện, Ảnh hưởng của thế giới quan Công giáo đối với đời sống tinh thần tín đồ Công giáo Việt Nam - những vấn đề đặt ra đối với công tác an ninh hiện nay, Hà Nội 2002.
64. Mai Quang Hiện (1999), “Công tác giữ gìn an ninh trật tự trong dịp “Năm thánh ban ơn toàn xá 1998” tổ chức tại địa phận Bùi Chu, Nam Định”, tạp chí Công an nhân dân, số 6.
65. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.
66. Nguyễn Duy Hinh (2007), Một số bài viết về tôn giáo học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
67. Hồ Trọng Hoài, Nguyễn Thị Nga (2006), Quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin - Hồ Chí Minh về tôn giáo và sự vận dụng của Đảng Cộng sản, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
68. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2001), Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
69. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm khoa học về tín ngưỡng và tôn giáo (2004), Tập bài giảng lý luận về tôn giáo và chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta (Hệ cao cấp lý luận chính trị), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
70. Hội đồng Giám mục Việt Nam (2007), Bộ Giáo luật 1983, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
71. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Ủy ban giáo lý đức tin, tiểu ban từ vựng (2011), Từ điển Công giáo 500 mục từ, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
72. Hội đồng nhân dân xã Xuân Ngọc (2014), Nghị quyết về nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội năm 2014, số 02/2014/NQ- HĐND ngày 03
tháng 01 năm 2014.
150
73. Hội đồng nhân dân xã Xuân Phương (2014), Nghị quyết về nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội năm 2014, số /2013/NQ- HĐND ngày 03 tháng
01 năm 2014.
74. Hội khoa học lịch sử Việt Nam (2006), Những vấn đề nhân học tôn giáo,
Tạp chí Xưa và nay, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
75. Lm. Nguyễn Hồng (2009), Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, (các thừa sai
dòng Tên 1615 - 1663), quyển I, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
76. Lm. Nguyễn Hồng (2009), Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, quyển II, Nxb
Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
77. Trần Hữu Hợp (2012), Cộng đồng người Việt Công giáo đồng bằng sông
Cửu Long - Lịch sử hình thành và quá trình hội nhập văn hóa, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội.
78. Phan Phát Huồn (1958), Việt Nam giáo sử, Quyển I (1553-1933), Nxb
Cứu thế Tùng thư, thành phố Hồ Chí Minh.
79. Phan Phát Huồn (1962), Việt Nam giáo sử, Quyển II (1933-1960), Nxb
Cứu thế Tùng thư, thành phố Hồ Chí Minh.
80. Trương Sỹ Hùng (Chủ biên) (2003), Mấy tín ngưỡng, tôn giáo Đông Nam
Á, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
81. Huyện ủy - Uỷ ban nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định (2009), Địa
chí Hải Hậu.
82. Huyện ủy - Uỷ ban nhân dân huyện Xuân Trường (2002), Báo cáo tóm tắt
đề án Một số giải pháp tăng cường hệ thống chính trị vùng có đông
đồng bào theo đạo Công giáo nhằm đảm bảo ổn định chính trị - xã
hội trên địa bàn huyện Xuân Trường - tỉnh Nam Định trong giai đoạn
hiện nay.
83. Huyện ủy Xuân Trường (2012), Báo cáo tình hình tôn giáo và kết quả
thực hiện chính sách tôn giáo của huyện trong những năm qua.
151
84. Lm. Trần Đức Huynh (2000), Lịch sử địa phận Bùi Chu, Hội Ái Hữu Bùi
Chu tại Hoa Kỳ.
85. Đỗ Quang Hưng (chủ biên) (2003), Bước đầu tìm hiểu về mối quan hệ
giữa nhà nước và giáo hội, Nxb Tôn giáo.
86. Đỗ Quang Hưng (2001), “Công giáo thế kỷ XX: vài khía cạnh tiến triển
của thần học”, tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 3.
87. Đỗ Quang Hưng (1990), Một số vấn đề về lịch sử Thiên chúa giáo Việt
Nam, Nxb Đại học Tổng hợp Hà Nội.
88. Đỗ Quang Hưng (2010), Nghiên cứu tôn giáo - Nhân vật và sự kiện, Nxb
Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
89. Đỗ Quang Hưng (2005), “Những người Cộng sản Việt Nam với đường
hướng “Đồng hành cùng dân tộc” và Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt
Nam”, tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 1.
90. Đỗ Quang Hưng (2001), “Vấn đề Công giáo với số phận Lê Văn Duyệt”,
tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 2.
91. Đỗ Quang Hưng (2005), Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
92. Nguyễn Quang Hưng (2007), Công giáo Việt Nam thời kỳ triều Nguyễn
(1802 - 1883), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
93. Nguyễn Thị Quế Hương (2011), “Ảnh hưởng của Thư chung 1980 trong
việc xây dựng đời sống văn hóa làng Công giáo vùng đồng bằng sông
Hồng qua hương ước”, tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 1.
94. Nguyễn Thị Quế Hương (2012), Hương ước làng Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học xã hội,
Hà Nội.
95. Nguyễn Thị Quế Hương (2008), “Sinh hoạt tôn giáo của cộng đồng dân
cư làng Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng qua hương ước”, tạp
chí Nghiên cứu tôn giáo, số 6.
152
96. Hương ước Ấp Thủy Nhai, huyện Giao Thủy, Nam Định (1942), Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội.
97. Hương ước làng Báo Đáp, huyện Mỹ Lộc, Nam Định (1942), Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội.
98. Hương ước làng Du Hiếu, huyện Giao Thủy, Nam Định (1938), tài liệu cá nhân.
99. Hương ước làng Đại Đê, huyện Trực Ninh, Nam Định (1939), tài liệu cá nhân. 100. Hương ước làng Hạ Linh, huyện Xuân Trường, Nam Định (1940), Viện
Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội. 101. Hương ước làng Lạc Đạo, huyện Nghĩa Hưng, Nam Định (1933), Viện
thông tin khoa học xã hội, Hà Nội. 102. Hương ước làng Liễu Đề, huyện Trực Ninh, Nam Định (1942), Viện
thông tin khoa học xã hội, Hà Nội. 103. Hương ước làng Lục Thủy, huyện Xuân Trường, Nam Định, Viện Thông
tin khoa học xã hội, Hà Nội. 104. Hương ước làng Ngọc Cục, huyện Xuân Trường, Nam Định (1942), Viện
thông tin khoa học xã hội, Hà Nội. 105. Hương ước làng Ninh Cường, huyện Trực Ninh, Nam Định, Viện thông
tin khoa học xã hội, Hà Nội. 106. Hương ước làng Phú Nhai, huyện Xuân Trường, Nam Định (1940), Viện
Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội. 107. Hương ước làng Quần Liêu, huyện Nghĩa Hưng, Nam Định, Viện Thông
tin khoa học xã hội, Hà Nội. 108. Hương ước làng Quần Phương, huyện Nghĩa Hưng, Nam Định (1937),
Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội. 109. Hương ước Sa Châu ấp, huyện Giao Thủy, Nam Định (1943), Viện
Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội. 110. Hương ước làng Trung Lao, huyện Trực Ninh, Nam Định (1923), Tài liệu
cá nhân
153
111. Hương ước làng Trung Lĩnh, huyện Xuân Trường, Nam Định, Viện
Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội.
112. Hương ước làng Văn Giáo, huyện Nghĩa Hưng, Nam Định (1942), Viện
Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội.
113. Hương ước làng Vĩnh Trị, huyện Nghĩa Hưng, Nam Định (1942), Viện
Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội.
114. Hương ước làng Vụ Bản, huyện Mỹ Lộc, Nam Định, Viện thông tin khoa
học xã hội, Hà Nội.
115. Thiên Hựu, Nguyễn Thành Thống (2009), Đức Trinh nữ Maria, Nxb Tôn
giáo, Hà Nội.
116. Trần Khang, Lê Cự Lộc dịch (2001), C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin bàn
về tôn giáo và chủ nghĩa vô thần, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
117. Vũ Ngọc Khánh (2001), Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
118. Vũ Ngọc Khánh (1994), Tín ngưỡng làng xã, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội
119. Nguyễn Văn Kiệm (2001), “Những đóng góp của Công giáo vào nền
văn hóa Việt Nam (cho đến hết thế kỷ XIX)”, tạp chí Nghiên cứu
Tôn giáo, số 1.
120. Nguyễn Văn Kiệm (2001), Sự du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt
Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, Nxb Hội khoa học lịch sử Việt
Nam, Hà Nội
121. Nguyễn Văn Kiệm (2000), “Về một bức Thư chung - Chứng cứ của sự
hội nhập văn hóa”, tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 1.
122. Kinh Thánh (trọn 2 bộ Cựu ước và Tân Ước) (2002), Nxb Tôn giáo, Hà Nội
123. Lm. Hồng Lam (1944), Lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt Nam, Nxb Đại
Việt Thiện Bản, Huế
154
124. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 12, Nxb Tiến bộ, Matxcơva
125. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 17, Nxb Tiến bộ, Matxcơva
126. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ Matxcơva
127. Nguyễn Văn Long (1999), Vận dụng quan điểm khoa học về tôn giáo
trong công tác đối với Thiên Chúa giáo hiện nay ở Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
128. Nguyễn Phú Lợi (2007), “Hội đoàn Công giáo - Mấy vấn đề lý luận và
thực tiễn ở Việt Nam”, tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 7.
129. Nguyễn Phú Lợi (2012), “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng và công tác tôn giáo trong thời kỳ đổi
mới”, tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 3.
130. Nguyễn Phú Lợi (2009), Tổ chức xứ, họ đạo Công giáo ở đồng bằng Bắc
Bộ đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, Luận án Tiến sĩ Triết học,
Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
131. Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) (2004), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân
gian ở Việt Nam, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
132. Nguyễn Đức Lữ (2005), “Thư chung 1980 của Hội đồng Giám mục
Việt Nam - Một dấu mốc quan trọng trên con đường Công giáo đồng
hành cùng dân tộc”, tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5.
133. Nguyễn Đức Lữ (2009), Tôn giáo - Quan điểm, chính sách của Đảng và
Nhà nước Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
134. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995): Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
135. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995): Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
136. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995): Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
155
137. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994): Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
138. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995): Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
139. C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
140. Manuel Moreno (1916), Sử ký địa phận Trung, Phú Nhai Đường 1916.
141. Hà Văn Minh (2004), “Lòng đạo đức bình dân trong đời sống người giáo
dân Việt Nam”, Nguyệt san Công giáo và dân tộc, số 115.
142. Hồ Chí Minh (2002): Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
143. Hồ Chí Minh (1995): Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
144. Hồ Chí Minh (2002): Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
145. Hồ Chí Minh (2002): Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
146. Phùng Thị An Na (2007), Ảnh hưởng của văn hóa Công giáo đối với văn
hóa Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Triết học, trường Đại học Khoa học
xã hội & Nhân văn, Hà Nội.
147. Trần Thị Kim Oanh (1999), Vai trò Giáo hội Công giáo ở Việt Nam (thời
kỳ 1533 - 1954), Luận văn Thạc sĩ Triết học, trường Đại học Khoa
học xã hội & Nhân văn, Hà Nội.
148. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
149. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2013, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
150. Quốc sử quán triều Nguyễn (1999): Khâm định Việt sử Thông giám
Cương mục, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
156
151. Phạm Quyết (2005), “Ảnh hưởng của giáo lý, giáo luật và tổ chức giáo hội cơ sở của Công giáo đến hành vi sinh sản của giáo dân (qua nghiên cứu cộng đồng Công giáo xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định)”, tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 3.
152. Vũ Quỳnh (1992), Lĩnh Nam chích quái, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 153. Ngô Anh Sáng (2012), Đấu tranh với hoạt động tôn giáo trái pháp luật
trên địa bàn tỉnh Nam Định trong tình hình hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện An ninh nhân dân, Hà Nội.
154. Trần Đăng Sinh (2008), “Một số chính sách của các vị vua đầu triều Nguyễn đối với tín ngưỡng thờ thần ở làng xã Bắc bộ”, tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 8.
155. Trần Đăng Sinh (2002), Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156. Hoành Sơn, Hoàng Sỹ Quý, SJ (2009), Sống đạo với phương Đông, Nxb Antôn và Đuốc sáng, Hà Nội.
157. Thế Tâm, Nguyễn Khắc Dương (2007), “Hội nhập văn hoá, vấn đề hay mầu nhiệm”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4.
158. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
159. Lê Minh Thiện (2006), “Tính cộng đồng của người Công giáo trong các xứ họ đạo vùng đồng bằng Bắc Bộ”, tạp chí Công tác Tôn giáo, số 6.
160. Bùi Thiết (2000), Việt Nam thời cổ xưa, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 161. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2001), Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 162. Phạm Huy Thông (2011), “Lối sống của người Công giáo Việt Nam”,
tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 12. 163. Phạm Huy Thông (2012), Ảnh hưởng qua lại giữa đạo Công giáo và văn
hóa Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
157
164. Lê Văn Thơ (2008), “Về tổ chức ban hành giáo xứ, họ đạo ở giáo phận
Phát Diệm”, tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 6.
165. Nguyễn Hữu Thụ (2013), Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu
của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ, Luận án Tiến sĩ Triết học,
trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn, Hà Nội.
166. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và
tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
167. Lm. Trần Tam Tỉnh (1988), Thập giá và Lưỡi gươm, Nxb Trẻ, Thành phố
Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
168. Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân tỉnh Nam Định (2003),
Địa chí Nam Định, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
169. Tòa tổng giám mục Hà Nội (2002), Kinh cầu cho các linh hồn, Nxb Tôn
giáo, Hà Nội.
170. Tòa Tổng Giám mục thành phố Hồ Chí Minh (1997), Giáo lý Hội thánh
Công giáo, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
171. Tòa Tổng Giám mục thành phố Hồ Chí Minh (1998), Kinh thánh trọn bộ
Cựu ước và Tân ước, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ
Chí Minh.
172. Trần Văn Toàn (2012), Quản lý Nhà nước về an ninh trật tự đối với hoạt
động của đạo Thiên Chúa trên địa bàn huyện Xuân Trường, tỉnh Nam
Định, Luận văn Thạc sĩ, Học viện An ninh nhân dân, Hà Nội.
173. X.A. Tokarev (1994), Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển
của chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
174. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện nghiên cứu tôn
giáo (1994), Những vấn đề tôn giáo hiện nay, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội
158
175. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện nghiên cứu tôn
giáo (1994), Về tôn giáo, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
176. Chu Quang Trứ (1996), Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tôn
giáo ở Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế.
177. Hà Huy Tú (2002), Tìm hiểu nét đẹp văn hóa Thiên Chúa giáo, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
178. Nguyễn Quốc Tuấn, Nguyễn Ngọc Quỳnh (2007), “Mấy vấn đề về tín
ngưỡng, tôn giáo khu vực đồng bằng sông Hồng hiện nay”, Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, số 3.
179. Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở đồng bằng Bắc
bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
180. Nguyễn Minh Tường (2015), “Tín ngưỡng Thành Hoàng”, Tạp chí Xưa
và Nay, số 2.
181. Ủy ban đoàn kết Công giáo Việt Nam tỉnh Nam Định (2010), Người
Công giáo tỉnh Nam Định phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết
để là người Công giáo tốt cũng là người công dân tốt góp phần xây
dựng quê hương giầu đẹp, văn minh.
182. Ủy ban đoàn kết Công giáo Việt Nam (2005), “Từ Công đồng Vatican II đến
Thư Chung 1980”, Kỷ yếu Tọa đàm khoa học, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
183. Ủy ban giáo lý đức tin - Hội đồng Giám mục Việt Nam (2009), Giáo lý
Hội thánh Công giáo, Nxb Hà Nội.
184. Ủy ban nhân dân huyện Hải Hậu (2010), Uỷ ban nhân dân huyện phối
hợp Uỷ ban mặt trận Tổ quốc huyện trong phong trào thi đua xây
dựng khu dân cư tiên tiến, khu dân cư văn hóa; xây dựng xã, thị trấn
tiên tiến, văn hóa.
185. Ủy ban nhân dân huyện Xuân Trường (2012), Báo cáo tình hình tôn giáo
và hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện Xuân Trường.
159
186. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nam Định (2010), Báo cáo kết quả triển khai thực
hiện Chỉ thị 1940/2008/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ về nhà, đất
liên quan đến tôn giáo.
187. Ủy ban xã Hải Phương (2014), Báo cáo kết quả công tác Mặt trận năm
2013, chương trình hoạt động công tác Mặt trận năm 2014.
188. Ủy ban nhân dân xã Xuân Phương (2012), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm
vụ kinh tế - xã hội năm 2012, phương hướng nhiệm vụ năm 2013.
189. Ủy ban nhân dân xã Xuân Phương (2013), Báo cáo tình hình thực
hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2013, phương hướng nhiệm vụ
năm 2014.
190. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh số 21/2004/PL-
UBTVQH11 ngày 18 tháng 6 năm 2004 về tín ngưỡng, tôn giáo.
191. Nguyễn Ước (giới thiệu) (2005), Giáo lý mới, thời đại mới, đức tin Công
giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
192. Đặng Nghiêm Vạn (2005), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
193. Đặng Nghiêm Vạn (2007), “Tôn giáo hay tín ngưỡng”, Tạp chí Nghiên
cứu Tôn giáo, số 1.
194. Đặng Nghiêm Vạn (Chủ biên) (1995), Về tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam
hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
195. Văn phòng Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam (2004), Giáo hội
Công giáo Việt Nam, Niên giám 2004, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
196. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu tôn giáo (2004), Về
tôn giáo và tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
197. Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự (2005), Tôn giáo và tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam (Hỏi và đáp), Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội.
160
198. Viện Khoa học và xã hội Việt Nam, Viện nghiên cứu tôn giáo (2008), Công
giáo Việt Nam - Một số vấn đề nghiên cứu, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
199. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện nghiên cứu tôn giáo, Đại học
Trung Sơn Trung quốc (2011), Đời sống tôn giáo ở Việt Nam và
Trung Quốc, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
200. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, PGS.TS.
Nguyễn Hồng Dương (Chủ biên) (2011), Linh mục Phạm Bá Trực và
đường hướng Công giáo đồng hành cùng dân tộc trong thời kỳ chống
thực dân Pháp (1946-1954), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
201. Viện Nghiên cứu tôn giáo (1993), Những vấn đề tôn giáo hiện nay, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội.
202. Viện ngôn ngữ học (1992), Từ điển tiếng Việt, Nxb Trung tâm Từ điển
ngôn ngữ, Hà Nội.
203. Nguyễn Hữu Vui, Trương Hải Cường (2003), Tập bài giảng Tôn giáo
học chương trình đại cương (Dành cho sinh viên các ngành Khoa học
xã hội và nhân văn), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
204. Lê Trung Vũ, Nguyễn Hồng Dương, Lê Hồng Lý, Lưu Kiếm Thành
(1999), Nghi lễ vòng đời người, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
205. Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo.
206. Nguyễn Như Ý chủ biên (1999), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN
Kính thưa quý vị!
Theo lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, giáo phận Bùi Chu –
Nam Định là điểm đến đầu tiên của các giáo sĩ phương Tây nhằm truyền bá
tôn giáo này. Đây là vùng đất thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ với đời sống
tín ngưỡng dân gian vô cùng phong phú, vì vậy, Công giáo khi du nhập nơi
đây hẳn nhiên sẽ chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tín ngưỡng truyền thống Việt
Nam.
Với mục đích tìm hiểu ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt
Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu – Nam
Định, chúng tôi xin mời quí vị tham gia trả lời phiếu thăm dò ý kiến này. Các
thông tin thu được trong cuộc phỏng vấn sẽ được sử dụng với nguyên tắc
khuyết danh và chỉ nhằm phục vụ công tác nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn quí vị!
A. THÔNG TIN ĐỊNH DANH
A1. Tuổi của quí vị:
1. Dưới 18 tuổi: □ 2. 19 – 50 tuổi: □ 3. Từ 51 tuổi trở lên: □
A2. Giới tính
1. Nam □ 2. Nữ □
A3. Tình trạng hôn nhân
1. Đã kết hôn □ 2. Chưa kết hôn □
A4. Trình độ học vấn:
1. Tiểu học
2. Trung học cơ sở
3. Phổ thông trung học
162
4. Trung cấp/cao đẳng hoặc tương đương
5. Đại học
6. Khác (xin ghi rõ)
A5. Nơi cư trú hiện nay của quí vị (xin ghi rõ giáo xứ, thuộc xã, huyện
nào):....................................................................................................................
.............................................................................................................................
A6. Công việc hiện nay:
1. Học sinh, sinh viên
2. Nông dân
3. Cán bộ
4. Nghề tự do
5. Nghề khác
A7. Xin quí vị cho biết thông tin về tỷ lệ phần trăm (%) người theo Công
giáo ở địa phương của quí vị: (nếu không nắm chính xác, quí vị chỉ cần nêu
con số tương đối)
1. Số lượng dân cư của
làng/xóm nơi quí vị đang sống
2. Tỷ lệ người
theo Công giáo
3. Tỷ lệ người không
theo Công giáo
B. Tôn kính tổ tiên
Quí vị hãy đánh dấu tích vào cột bên cạnh các câu trả lời mà quí vị
cho là đúng cho những câu hỏi sau (một số câu hỏi có thể đánh dấu nhiều
hơn 01 lần)
B1. Quí vị quan niệm thế nào về cái chết?
1. Chết là hết
2. Sau khi chết sẽ sang “thế giới bên kia”, giống
với thế giới ta đang sống
3. Sau khi chết sẽ về với Thiên Chúa
4. Sau khi chết sẽ ở 1 trong 3 trạng thái: Thiên
đàng, địa ngục, luyện ngục
5. Khác
B2. Trong gia đình quí vị có đặt bàn thờ Tổ tiên không?
1. Có
2. Không
Nếu câu trả lời là Không, xin chuyển sang câu B3, nếu câu trả lời là
Có, xin chuyển tiếp sang câu B4
B3. Trong các dịp lễ, tết, gia đình quí vị có đặt bát hương không?
1. Có (xin ghi rõ đặt ở đâu)
2. Không
B4. Quí vị thờ cúng tổ tiên chủ yếu nhằm mục đích gì?
1. Bày tỏ lòng thành kính, hiếu thảo với
ông bà tổ tiên
2. Cầu mong tổ tiên “phù hộ độ trì”
3. Cầu cho tổ tiên được cứu rỗi linh hồn
4. Khác (xin ghi rõ)
B5. Quí vị đặt hương hoa, oản quả lên bàn thờ Tổ tiên như thế nào?
1. Vào dịp giỗ người thân
2. Vào dịp lễ trọng
3. Vào dịp gia đình có việc quan trọng
4. Khác (xin ghi rõ)
B6. Khi thắp hương ở bàn thờ Tổ tiên, quí vị thường cầu xin điều gì?
1. Tài lộc, sự giàu có
2. Bình yên
3. May mắn
4. Hạnh phúc
5. Khác (xin ghi rõ)
B7. Gia đình quí vị có tổ chức tưởng niệm người thân đã mất trong
những dịp sau đây không?
1. 3 ngày
2. 49 ngày
3. 100 ngày
4. Giỗ đầu
5. Giỗ những năm tiếp sau
B8. Quí vị có hay dùng vàng mã để đốt cho người thân đã mất không?
1. Thường xuyên dùng
2. Thỉnh thoảng dùng
3. Chưa bao giờ dùng
165
B9. Theo quí vị, việc tổ chức ăn uống trong lễ tang, ngày giỗ người đã
mất của gia đình quí vị được thực hiện như thế nào?
1. Làm cỗ to mời nhiều người
2. Làm cỗ mời người thân nhưng đơn giản
3. Ăn uống đơn giản như thường ngày
B10. Mộ người thân đã mất của gia đình quí vị được xây thế nào?
1. Xây đơn giản
2. Xây to, đẹp, có xem hướng
3. Xây to đẹp nhưng không xem hướng
C. LỄ KÍNH THÁNH ĐA MINH VÀ MỘT SỐ THÁNH THÔNG CÔNG
C1. Quí vị tham dự Thánh lễ thường ở nhà thờ như thế nào?
1. Hàng ngày
2. Tuần vài lần
3. Tuần 1 lần
4. Thỉnh thoảng
5. Hiếm khi
C2. Quí vị có tham dự đầy đủ các dịp lễ trọng không?
1. Đầy đủ
2. Thỉnh thoảng
3. Hiếm khi
4. Khác (xin ghi rõ)
C3. Quí vị có tham dự đầy đủ các cuộc đi kiệu trong dịp Đại lễ kính
thánh Đa Minh hàng năm không?
1. Thường xuyên
2. Thỉnh thoảng
3. Hiếm khi
4. Khác (xin ghi rõ)
C4. Theo quí vị, các cuộc đi kiệu trong dịp Đại lễ kính thánh Đa Minh
nên tổ chức như thế nào?
1. Nên giữ theo truyền thống
2. Nên giản tiện, ngắn gọn hơn
3. Không cần thiết phải tổ chức đi kiệu
4. Khác (xin ghi rõ)
Lí do: ...............................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
C5. Gia đình quí vị thờ phụng thánh quan thầy nào?
.............................................................................................................................
C6. Quí vị thường cầu xin thánh quan thầy điều gì?
1. Tài lộc, sự giàu có
2. Bình yên
3. May mắn
4. Hạnh phúc
5. Khác (xin ghi rõ)
Lí do: .............................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
D. LỄ KÍNH ĐỨC MẸ
D1. Quí vị cầu nguyện trước ảnh (tượng) Đức Mẹ như thế nào?
1. Hiếm khi
2. Thỉnh thoảng
3. Thường xuyên
D2. Quí vị thường cầu nguyện trước ảnh (tượng) Đức Mẹ vào những dịp nào?
1. Vào dịp lễ trọng
2. Vào dịp gia đình có việc quan trọng
3. Khác (xin ghi rõ)
D3. Đứng trước ảnh (tượng) Đức Mẹ, quí vị cầu xin điều gì?
1. Tài lộc, sự giàu có
2. Bình yên
3. May mắn
4. Hạnh phúc
5. Khác (xin ghi rõ)
E. MỘT SỐ NGHI LỄ KHÁC
E1. Vào đêm giao thừa, quí vị thường có hoạt động gì để chào đón thời
khắc quan trọng này?
1. Ở nhà đón khách
2. Đến nhà thờ
3. Ra đường hái lộc
4. Làm mâm cơm cúng giao thừa
5. Khác (xin ghi rõ)
E2. Vào ngày mồng 1 tết, quí vị thường có hoạt động gì?
1. Ở nhà đón khách
2. Đi chúc tết họ hàng, bạn bè
3. Đi nhà thờ chúc tết cha xứ
4. Làm mâm cơm cúng
5. Ra mộ thắp hương
6. Khác (xin ghi rõ)
E3. Vào ngày mồng 2 tết, quí vị thường có hoạt động gì?
1. Ở nhà đón khách
2. Đi chúc tết họ hàng, bạn bè
3. Ra mộ thắp hương
4. Khác (xin ghi rõ)
E4. Vào ngày mồng 3 tết, quí vị thường có hoạt động gì?
1. Ở nhà đón khách
2. Đi chúc tết họ hàng, bạn bè
3. Khác (xin ghi rõ)
E5. Theo quí vị, Tết nguyên đán có ý nghĩa gì?
1. Gặp gỡ họ hàng, bạn bè
2. Nghỉ ngơi
3. Theo phong tục truyền thống
4. Khác (xin ghi rõ)
XIN TRÂN TRỌNG CẢM ƠN QUÍ VỊ!
II. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA 1. Đối tượng điều tra - Tổng số phiếu điều tra: 310 - Địa điểm khảo sát: chủ yếu ở giáo xứ Giáp Nam (xã Hải Hậu), giáo xứ
Xuân Ngọc, giáo xứ Xuân Phương (Xuân Trường). II. Kết quả điều tra
Các phiếu điều tra xã hội học là do tác giả trực tiếp về địa bàn điều tra, số phiếu phát ra 310, số phiếu thu về 310. BẢNG 1. THÔNG TIN CHUNG
Số người trả lời Tỷ lệ % 1. Tuổi Dưới 18 tuổi 6 1,9%
Từ 19 - 50 tuổi 257 82,9% Từ 51 tuổi trở lên 47 15,2%
2. Giới tính Nam 196 63,2% Nữ 114 36,8
3. Tình trạng hôn nhân
Đã kết hôn 232 74,8% Chưa kết hôn 78 25,2%
4. Trình độ học vấn
Tiểu học 9 3% Trung học cơ sở 25 8% Phổ thông trung học 168 54,2% Trung cấp/ cao đẳng hoặc tương đương
84 27,1
Đại học 21 6,7% Khác 3 1%
5. Công việc hiện nay3
Học sinh, sinh viên 84 27% Nông dân 97 31,3% Cán bộ 33 10,6% Nghề tự do 91 29,4% Nghề khác 5 1,6%
BẢNG 2. QUAN NIỆM VỀ CÁI CHẾT Số người trả lời Tỷ lệ % 1. Chết là hết 25 8,1% 2. Sau khi chết sẽ sang “thế giới bên kia”, giống với thế giới ta đang sống
24 7,8%
3. Sau khi chết sẽ về với Thiên Chúa 175 56,5% 4. Sau khi chết sẽ ở 1 trong 3 trạng thái: Thiên đàng, địa ngục, luyện ngục
86 27,8%
5. Khác 0 0 BẢNG 3. VẤN ĐỀ THỜ CÚNG TỔ TIÊN
Số người trả lời
Tỷ lệ %
Đặt bàn thờ tổ tiên
1. Có 2. Không
Đặt bát hương 1. Có 2. Không
Mục đích thờ cúng tổ tiên
1. Bày tỏ lòng thành kính, hiếu thảo với ông bà tổ tiên
206 66,5%
2. Cầu mong tổ tiên “phù hộ độ trì”
86 27,8%
3. Cầu mong tổ tiên được cứu rỗi linh hồn
15 4,8%
4. Khác 3 1%
BẢNG 4. THẮP HƯƠNG CHO ÔNG BÀ TỔ TIÊN Số người trả lời Tỷ lệ % Đặt hương hoa lên bàn thờ tổ tiên
1. Vào dịp giỗ người thân
177 57,1%
2. Vào dịp lễ trọng 67 21,6% 3. Vào dịp gia đình có việc quan trọng
50 15,7%
4. Khác 16 5% Khi thắp hương thường cầu xin điều gì với ông bà tổ tiên
1. Tài lộc, sự giàu có 71 22,9% 2. Bình yên 158 51% 3. May mắn 24 7,7% 4. Hạnh phúc 26 8,3% 5. Khác 31 0,1%
BẢNG 5. TƯỞNG NIỆM NGƯỜI THÂN ĐÃ MẤT
Số người trả lời
Tỷ lệ %
Những dịp tưởng niệm người thân đã mất
1. 3 ngày 89 28,7% 2. 49 ngày 80 25,8% 3. 100 ngày 268 86,5% 4. Giỗ đầu 310 100%
5. Giỗ những năm tiếp sau
310 100%
Đốt vàng mã cho người thân đã mất
1. Thường xuyên dùng 0 0% 2. Thỉnh thoảng dùng 18 5,8% 3. Chưa bao giờ dùng 292 94,2%
Tổ chức ăn uống trong lễ tang, ngày giỗ người đã mất
1. Làm cỗ to mời nhiều người
51 16,5%
2. Làm cỗ mời người thân nhưng đơn giản
224 72,3%
3. Ăn uống đơn giản như thường ngày
35 11,2%
Xây mộ người thân đã mất
1. Xây đơn giản 117 37,7% 2. Xây to, đẹp, có xem hướng
30 9,7%
3. Xây to đẹp nhưng không xem hướng
163 52,6%
BẢNG 6. THAM DỰ LỄ KÍNH THÁNH ĐA MINH VÀ MỘT SỐ THÁNH QUAN THẦY Số người trả
lời Tỷ lệ %
Tham dự Thánh lễ thường ở nhà thờ
1.Hàng ngày 0 0% 2.Tuần vài lần 46 14,8% 3. Tuần 1 lần 180 58% 4. Thỉnh thoảng 67 21,6% 5. Hiếm khi 17 5,5%
Tham dự các dịp lễ trọng
1.Đầy đủ 158 51% 2.Thỉnh thoảng 120 38,7% 3.Hiếm khi 32 10,3% 4.Khác 0 0%
Tham dự các cuộc đi kiệu trong dịp Đại lễ kính thánh Đa Minh hàng năm
1.Thường xuyên 196 63,2%
2.Thỉnh thoảng 94 30,3% 3.Hiếm khi 20 6,5% 4.Khác 0 0 %
Nên tổ chức các cuộc đi kiệu trong dịp Đại lễ kính thánh Đa Minh
1. Nên giữ theo truyền thống
185 59,7%
2.Nên giản tiện, ngắn gọn hơn
119 38,4%
3.Không cần thiết phải tổ chức đi kiệu
6 1,9%
4.Khác 0 0% BẢNG 7. CẦU XIN THÁNH QUAN THẦY
Số người trả lời
Tỷ lệ %
1. Tài lộc, sự giàu có 51 16,5% 2. Bình yên 187 60,3% 3. May mắn 28 9% 4. Hạnh phúc 19 6,1% 5. Khác 25 8%
BẢNG 8. LỄ KÍNH ĐỨC MẸ Số người trả
lời Tỷ lệ %
Cầu nguyện trước ảnh (tượng) Đức Mẹ
1. Hiếm khi 17 5,5% 2. Thỉnh thoảng 32 10,3% 3. Thường xuyên 259 83,5%
Các dịp thường cầu nguyện trước ảnh (tượng) Đức Mẹ
1. Vào dịp lễ trọng
111 35,9%
2. Vào dịp gia đình có việc quan trọng
102 32,9%
3. Khác 97 31,3% Cầu xin trước ảnh (tượng) Đức Mẹ
1. Tài lộc, sự giàu có
52 16,8%
2. Bình yên 150 48,4% 3. May mắn 22 7,1% 4. Hạnh phúc 46 14,8% 5. Khác 40 12,9%
BẢNG 9. HOẠT ĐỘNG CHÀO ĐÓN THỜI KHẮC GIAO THỪA Số người trả
lời Tỷ lệ %
1. Ở nhà đón khách 128 41,3 2. Đến nhà thờ 153 49,4% 3. Ra đường hái lộc 18 5,8% 4. Làm mâm cơm cúng giao thừa 6 2% 5. Khác 5 1,6%
BẢNG 10. CÁC HOẠT ĐỘNG VÀO MỒNG 1 TẾT Số người trả
lời Tỷ lệ %
1. Ở nhà đón khách 167 53,9% 2. Đi chúc tết họ hàng, bạn bè 87 28,06% 3. Đi nhà thờ chúc tết cha xứ 49 15,8% 4. Làm mâm cơm cúng 3 0,96% 5. Ra mộ thắp hương 0 0 6. Khác 4 1,3%
BẢNG 11. CÁC HOẠT ĐỘNG VÀO MỒNG 2 TẾT Số người trả
lời Tỷ lệ %
1. Ở nhà đón khách 67 21,6% 2. Đi chúc tết họ hàng, bạn bè 87 28% 3. Ra mộ thắp hương 156 50,3% 4. Khác 0 0
BẢNG 12. CÁC HOẠT ĐỘNG VÀO MỒNG 3 TẾT Số người trả
lời Tỷ lệ %
1. Ở nhà đón khách 156 50,3% 2. Đi chúc tết họ hàng, bạn bè 120 38,7% 5. Khác 34 11%
BẢNG 13. Ý NGHĨA TẾT NGUYÊN ĐÁN
Số người trả lời
Tỷ lệ %
1. Gặp gỡ họ hàng, bạn bè 86 27,7% 2. Nghỉ ngơi 67 21,6% 3. Theo phong tục truyền thống 145 46,8% 4. Khác (xin ghi rõ) 12 3,9%