28
Trường ĐH Ngân Hàng TPHCM Lớp ĐH23NH13 Nhóm 7 Đề tài 7 : Phát hành tiền của NHTW và tác động đối với nền kinh tế I/ Lược sử phát hành tiền: 1.1 Giới thiệu sơ nét về NHTW và chức năng NHTW: 1.1.1 Định nghĩa NHTW: NHTW là cơ quan độc quyền phát hành tiền và thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm ổn định giá trị tiền tệ góp phần đảm bảo an tòan hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. 1.1.2 Chức năng của NHTW: Ngân hàng trung ương liên quan đến ba chức năng cơ bản, đó là phát hành tiền tệ, ngân hàng của các tố chức tín dụng, và ngân hàng của chính phủ. Tuy nhiên, không phải ngân hàng trung ương nào cũng mang đầy đủ ba chức năng này. + Phát hành tiền tệ: Ở phần lớn các nước, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền tệ. Ở một số nước khác, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất phát hành tiền giấy, còn tiền kim loại với tư cách là tiền bổ trợ thì do chính phủ phát hành. Ví dụ như: Cục Dự trữ Liên bang - ngân hàng trung ương của Mỹ- không có chức năng phát

phát hành tiền

  • Upload
    kyonua

  • View
    24.895

  • Download
    2

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: phát hành tiền

Trường ĐH Ngân Hàng TPHCM

Lớp ĐH23NH13

Nhóm 7

Đề tài 7:

Phát hành tiền của NHTW và tác động đối với nền kinh tế

I/ Lược sử phát hành tiền:

1.1 Giới thiệu sơ nét về NHTW và chức năng NHTW:

1.1.1 Định nghĩa NHTW:

NHTW là cơ quan độc quyền phát hành tiền và thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền

tệ và hoạt động ngân hàng nhằm ổn định giá trị tiền tệ góp phần đảm bảo an tòan hoạt động ngân hàng

và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.

1.1.2 Chức năng của NHTW:

Ngân hàng trung ương liên quan đến ba chức năng cơ bản, đó là phát hành tiền tệ, ngân hàng

của các tố chức tín dụng, và ngân hàng của chính phủ. Tuy nhiên, không phải ngân hàng trung ương

nào cũng mang đầy đủ ba chức năng này.

+ Phát hành tiền tệ:

Ở phần lớn các nước, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền tệ. Ở

một số nước khác, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất phát hành tiền giấy, còn tiền kim loại với

tư cách là tiền bổ trợ thì do chính phủ phát hành. Ví dụ như: Cục Dự trữ Liên bang - ngân hàng trung

ương của Mỹ- không có chức năng phát hành tiền, thay vào đó là Bộ Tài chính đảm nhiệm chức năng

này. Cũng có thông tin cho rằng Chính phủ Mỹ không có quyền phát hành đồng Đô-la, mà là do Cục

Dự Trữ Liên Bang.

+ Ngân hàng của các tổ chức tín dụng:

Ngân hàng trung ương thực hiện công việc tái chiết khấu các hối phiếu đối với các tổ chức tín

dụng , cấp vốn thông qua cho vay đối với các tổ chức này (đồng thời qua đây kiểm soát lãi suất).

Ngân hàng trung ương còn mua và bán các giấy tờ có giá , qua đó điều tiết lượng vốn trên thị

trường.

Ngân hàng trung ương có quyền yêu cầu các ngân hàng thương mại mở tài khoản tại Ngân

hàng Trung ương và các ngân hàng phải gửi vào tài khoản của họ một lượng tiền nhất định. Thông

Page 2: phát hành tiền

thường lượng tiền này được quy định tương đương với một tỷ lệ nào đó tiền gửi vào ngân hàng thương

mại, gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc

Trong trường hợp có tổ chức tín dụng gặp nguy cơ đổ vỡ làm ảnh hưởng đến cả hệ thống tài

chính của quốc gia, ngân hàng trung ương sẽ tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng đó để cứu nó. Vì thế,

ngân hàng trung ương được gọi là người cho vay cuối cùng (hay người cho vay cứu cánh).

+Ngân hàng của Chính phủ:

Ở nhiều nước, ngân hàng trung ương là người quản lý tiền nong cho chính phủ. Chính phủ sẽ

mở tài khoản giao dịch không lãi suất tại ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, ở một số nước, chẳng hạn

như ở Việt Nam, chức năng này do kho bạc đảm nhiệm.

Ngân hàng trung ương còn làm đại diện cho chính phủ khi can thiệp vào thị trường ngoại hối.

1.2 Các cơ quan phát hành tiền:

Khi nghiên cứu về sự hình thành hệ thống ngân hàng và hoạt động của hệ thống ngân hàng

ngày nay, chúng ta đã thấy việc phát hành tiền tê khi xưa không có tính chất tập trung. Trong bối cảnh

ấy các ngân hàng phát hành nhiều loại giấy bạc ngân hàng khác nhau và đã làm cản trở quá trinh phát

triển của nền kinh tế. Chính vì thế, đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của ngân hàng.

Các Nhà nước đã ban hành các đạo luật để hạn chế số lượng ngân hàng đựợc phép phát hành giấy bạc.

Lúc này, hệ thống ngân hàng được chia ra thành hai nhóm ngân hàng với các nghiệp vụ khác nhau:

+ Thứ nhất: nhóm các ngân hàng được phép phát hành tiền gọi là ngân hàng phát hành

+ Thứ hai: nhóm các ngân hàng không được phép phát hành tiền và chỉ thực hiện các nghiệp

vụ khác gọi là ngân hàng trung gian.

Sang đầu thế kỷ XX hầu hết các nước phát triển đều thực hiện cơ chế một ngân hàng độc quyền

phát hành. Song, ngân hàng phát hành vẫn còn thuộc sở hữu tư nhân rồi về sau bị quốc hữu hóa, đó là

trường hợp của Ngân Hàng Anh Quốc, Ngân Hàng Pháp Quốc; có khi là một ngân hàng tư được

Chính phủ trao cho nhiệm vụ phát hành tiền tệ dưới sự kiểm soát của Chính phủ, đó là trường hợp của

Ngân Hàng Đông Dương (Banque de l’Indochine) ở nước ta hồi thời Pháp thuộc; có khi là một cơ

quan công như Viện Phát Hành.

Sau cuộc khủng hỏang kinh tế 1929-1933 đã bắt buộc Nhà nước tăng cường hơn nữa việc can

thiệp của mình vào lĩnh vực kinh tế. Xuất phát từ yêu cầu đó, Nhà nước đã nhanh chóng nắm lấy Ngân

hàng phát hành để qua đó điều tiết các hoạt động kinh tế vĩ mô bằng cách quốc hữu hóa Ngân hàng

phát hành hoặc thiết lập Ngân hàng phát hành thuộc quyền sở hữu Nhà nước, điển hình như Ngân

Hàng Anh Quốc và Ngân Hàng Pháp Quốc đã nói ở trên. Tuy nhiên, trong giai đoạn này vẫn có một số

nước Ngân hàng phát hành không hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của Nhà nước nhưng hoạt động của

Page 3: phát hành tiền

nó vẫn mang tính chất sở hữu Nhà nước, bởi lẽ bộ phận điều hành cao nhất của Ngân hàng phát hành

do Nhà nước bổ nhiệm.

Đến gần giữa thế kỷ XX thì bắt đầu xuất hiện tiến trình cải tiến ngân hàng phát hành thành

ngân hàng Trung ương. Bằng việc các Nhà nước tiến hành quốc hữu hóa ngân hàng phát hành để biến

ngân hàng phát hành thuộc sở hữu tư nhân thành ngân hàng Trung ương (NHTW) thuộc sở hữu Nhà

nước. NHTW ra đời sau khi vai trò độc quyền phát hành đã được ấn định vào ngân hàng phát hành và

là cơ sở để ngân hàng Trung ương có thể thực hiện các chức năng khác. Độc quyền phát hành tiền có

nghĩa là NHTW là người duy nhất được phép phát hành tiền theo các quy định trong luật hoặc được

Chính phủ phê duyệt (mệnh giá tiền, lọai tiền, mức phát hành…) nhằm đảm bảo thống nhất và an tòan

cho hệ thống lưu thông tiền tệ của quốc gia. Giấy bạc và tiền kim loại là phương tiện thanh toán hợp

pháp duy nhất trong cả nước và được thanh toán không hạn chế. Vì đây là đồng tiền có quyền lực

mạnh và là cơ sở tạo tiền gửi của ngân hàng trung gian do đó mà mọi họat động cung ứng tiền của

NHTW sẽ ảnh hưởng đến tổng phương tiện thanh tóan trong xã hội và do đó ảnh hưởng đến tòan bộ

nền kinh tế. Cho nên vai trò độc quyền không chỉ đề cập đến quyền lực mà còn ngụ ý trách nhiệm của

NHTW trong việc xác định số lượng tiền cần phát hành và thời điểm phát hành cũng như phương thức

phát hành để đảm bảo sự ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế.

Vậy tại sao quyền lực phát hành giấy bạc lại tập trung vào ngân hàng trung ương, việc đó có

tác động như thế nào đối với nền kinh tế?

Sỡ dĩ việc phát hành tiền tập trung vào NHTW là vì các lí do sau:

+ Các Chính phủ các nước muốn kiểm soát sự biến động của lượng tiền trong lưu thông trong

phạm vi toàn quốc. Điều này cũng có thể thực hiện được nếu như Nhà nước là người phát hành tiền,

nhưng kinh nghiệm thực tế đã cho thấy rằng, khi Chính phủ phát hành tiền thì việc kiểm soát và hạn

chế khối lượng phát hành rất khó.

+ Lượng tiền trong lưu thông giờ đây bao gồm cả tiền mặt và tiền gửi ở ngân hàng. Sự mở rộng

các hoạt động tín dụng sẽ làm tăng nhu cầu tiêu tiền mặt. Vì thế, khi nắm vai trò độc quyền phát hành,

NHTW có cơ hội để kiểm soát khả năng mở rộng tín dụng và do đó điều chỉnh lượng tiền cần phát

hành.

+ Giấy bạc do NHTW phát hành- một ngân hàng nhận được sư ưu đãi tối ưu từ Chính phủ- sẽ

có uy tín cao trong lưu thông

+ Việc phát hành tiền mang lại lợi nhuận, vì thế tốt nhất nên được tập trung vào một ngân hàng

để tiện cho việc phân phối và sử dụng nguồn lợi đó một cách thích hợp.

1.3 Nguyên tắ c phát hành tiền:

1.3.1 Nguyên tắc trữ kim

Page 4: phát hành tiền

Nguyên tắc này được áp dụng trong thời kì lưu thông tiền vàng (thời kì bản vị vàng). Việc phát

hành tiền giấy ràng buộc chặt chẽ bởi quý kim. Việc tăng hay giảm số lượng tiền giấy tuỳ thuộc vào số

lượng quý kim dự trữ của ngân hàng. Việc phát hành tiền giấy chỉ được thực hiện khi nào có một

lượng quý kim được nhập vào kho. Tuy nhiên có thể chấp nhận một lượng nhất định vượt mức của

khối tiền phát hành đối đối với số quý kim dự trữ, phần vượt đó phải thật thấp và cố định.Việc đảm

bảo bằng vàng có thể được thực hiện bằng một trong các hình thức sau:

-Nhà nước qui định một hạn mức phát hành giấy bạc ngân hàng: nếu khối lượng giấy bạc ngân

hàng nằm trong hạn mức thì không cần phải có kim loại quí (vàng) làm đảm bảo, nhưng nếu vượt quá

hạn mức đó thì đòi hỏi cần phải có 100% vàng làm đảm bảo.

Thực tế trước năm 1893 Hoa Kì đã cho phép đổi đô la giấy ra vàng không hạn chế, điều đó

đã cho thấy dụ trữ vàng đảm bảo cho phát hành giấy bạc là vô cùng lớn. Ở Anh năm 1939 qui định chỉ

được phát hành tối đa giấy bạc bảng Anh là 58 triệu bảng.

-Nhà nước qui định mức dự trữ vàng tối thiểu cho khối lượng giấy bạc phát hành, phần còn lại

phải được đảm bảo bằng các chứng từ có giá như thương phiếu, chứng khoán chính phủ và các tài sản

Có khác của NHTW.

Năm 1913 Chính phủ Mỹ qui định tỷ lệ 40% dự trữ vàng cho khối lượng giấy bạc phát

hành. Năm 1915 khi thành lập ngân hàng quốc gia Sài Gòn chính phủ ngụy quyền đã qui định dự trữ

vàng cho khối lượng tiền phát hành vào lưu thông là 33%. Luật ngân hàng năm 1884 cho phép NHTW

Anh phát hành tiền tín dụng được đảm bảo bằng chứng khoán của chính phủ và tạo ra một lượng tiền

tín dụng là 14 triệu bảng Anh, nếu phát hành vượt con số đó thì phần vượt thêm phải được đảm bảo

bằng lượng vàng tương đương với lượng gửi tại quĩ đảm bảo của nhà nước.

Phát hành tiền có đảm bảo bằng vàng dược qui định cụ thể cho từng thời gian tùy thuộc vào

mục tiêu ổn định tiền tệ và khả năng dự trữ vàng.

Thực hiện theo nguyên tắc này có ưu điểm: một mặt khống chế mức phát hành giấy bạc tăng

giảm theo khối lượng dự trữ kim loại hiện có, tránh sự lạm dụng quyền phát hành tiền để phát hành

một lượng tiền vào lưu thông vượt quá nhu cầu của nền kinh tế, dễ gây ra lạm phát. Mặt khác, dự trữ

vàng làm đảm bảo còn làm cơ sở cho việc chuyển đổi giấy bạc ngân hàng ra vàng; thông qua chuyển

đổi mà điều tiết lượng giấy bạc trong lưu thông phù hợp với giá trị mà nó thay thế, đảm bảo giá trị

danh nghĩa (mệnh giá) của giấy bạc phù hợp với giá trị thực tế (vàng) mà nó đại diện.( Mỹ trước năm

1893 cho phép đổi giấy bạc đô la ra vàng không hạn chế, Ngân hàng Anh năm 1916 qui định 389 bảng

cho 1 ounce chuẩn với độ nguyên chất là 11/12)

Nguyên tắc này có nhược điểm là sự thiếu linh hoạt của khối lượng tiền phát hành và phần nào

tách rời khối lượng tiền phát hành khỏi nhu cầu lưu thông hàng hóa, đặt sự ổn định của lưu thông giấy

Page 5: phát hành tiền

bạc ngân hàng phụ thuộc vào dự trữ vàng. Nếu khối lượng hàng hóa lưu thông tăng khi số lượng vàng

dự trữ có hạn sẽ ảnh hưởng đến lưu thông tiền tệ. Mặc dù các quy định bổ sung của các nước làm cho

nguyên tắc dự trữ vàng trở nên linh hoạt hơn đối với hoạt động phát hành của NHTW, nhưng nhiều

quốc gia, có thể do áp lực của cuộc khủng hỏang kinh tế 1929-1933 hoặc do ảnh hưởng của các điều

kiện sau chiến tranh, cùng với sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng, đã giảm, ngừng hoặc hủy bỏ yêu cầu

dự trữ vàng cho lượng tiền phát hành. Việc này chính là bước khởi đầu của sự chuyển đổi cơ chế phát

hành tiền nhằm đảm bảo tính linh hoạt đang ngày càng tăng lên trong hoạt động phát hành tiền của

NHTW.

Như vậy trong thời kì vàng còn đóng vai trò là tiền tệ thì cơ sở đảm bảo cho phát hành tiền của

NHTW là một trọng lượng vàng dự trữ làm căn cứ cho việc phát hành tiền và khả năng dự trữ điều tiết

của tiền vàng đã dự trữ cho tiền tệ được ổn định.

1.3.2 Nguyên tắc hàng hoá:

Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa khối lượng hàng hóa sản xuất ngày càng gia tăng,

đòi hỏi phải đưa nhiều tiền vào lưu thông để đáp ứng cho nhu cầu trao đổi hàng hóa và dịch vụ, mặt

khác để đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu chính phủ ngày càng tăng, nguyên tắc phát hành tiền dựa vào dự

trữ kim loại quí gần như chấm dứt. Thay vào đó phát hành tiền được đảm bảo bằng hàng hóa. Quá

trình lưu thông tiền tệ đã làm xuất hiện nhận thức mới về tiền, thế giới đã phải tiền tệ hóa vai trò của

vàng, các loại tiền dấu hiệu ra đời thay thế cho tiền vàng trong lưu thông.

Theo nguyên tắc này giấy bạc ngân hàng được phát hành không còn bị cột chặt vào dự trữ vàng

hay bất kì một loại hàng hoá cố định nào khác mà hoàn toàn dựa vào nhu cầu của nền kinh tế. NHTW

chỉ phát hành phát hành thêm tiền vào lưu thông khi có sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tăng thêm trong

nền kinh tế. Ngược lại nếu số lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tạo ra ít hơn trước thì NHTW phải rút

bớt tiền về. Như vậy, theo cơ chế phát hành này NHTW có thể điều chỉnh linh hoạt khối lượng tiền

phát hành phù hợp với sự biến động của nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế trong từng thời kỳ và đảm bảo

lưu thông tiền tệ ổn định. Tuy nhiên, nếu dựa trên cớ chế phát hành này, nếu NHTW không căn cứ vào

tình hình kinh tế hay nhu cầu tiền tệ trên thị trường, phát hành ra một lượng tiền lớn hơn số lượng

hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế, gây mất cân bằng về tỷ lệ giữa hàng và tiền, sẽ rất dễ dàng gây ra

lạm phát.

Ngày nay hầu hết NHTW các quốc gia đều thực hiện phát hành tiền theo nguyên tắc này.

Lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng năm ở VN được chính phủ phê duyệt chủ yếu căn cứ

vào tốc độ tăng tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát dự kiến, tốc độ chu chuyển tiền tệ, tiền mặt tồn quỹ

và nghiệp vụ thanh toán…

1.4 Các lần phát hành tiền ở Việt Nam kể từ ngày thống nhất đất nước :

Page 6: phát hành tiền

Sau khi Hội nghị hiệp thương thống nhất hai miền, ngày 25.4.1978, chính phủ nước

CHXHCNVN quyết định thống nhất tiền tệ trên toàn quốc, cả nước thực hiện hệ thống ngân hàng một

cấp là NHNNVN. Ngày 3.5.1978 chính thức phát hành tiền mới gồm các loại giấy 5 hào, 1đ, 5 đ, 10 đ,

20 đ và 50 đ mặt trước có quốc huy và hàng chữ NHNNVN, mặt sau in hình các cơ sở kinh tế hai miền

và năm in là 1976.

Riêng tiền đúc bằng nhôm, mặt trước cũng luôn có hình quốc huy, còn mặt sau có ghi NHNNVN,

giá trị đồng tiền gồm 1 hào, 2 hào, 5 hào và 1 đồng cùng năm đúc là 1976. Hệ thống tiền mới này có

giá trị tương đương hệ thống cũ, nghĩa là: 1 đồng tiền miền Bắc hoặc 0, 8 đồng tiền miền Nam đổi lấy

1 đồng tiền mới!. Như vậy từ đây, trên toàn lãnh thổ Việt Nam chỉ có một hệ thống tiền duy nhất lưu

hành...

Dần đến năm 1980, ngân hàng lại phát hành thêm loại tiền giấy mới mặt trước có quốc huy và

quốc hiệu CHXHCNVN, mặt sau ghi hàng chữ NHNNVN năm in 1980 và phong cảnh hai miền: tờ 2đ

màu tím than, tờ 10 đ màu lục; và tờ 100 đ là tờ giấy tiền có giá trị lớn nhất thời ấy.

Đặc biệt năm 1981 cho phát hành tờ 30 đ màu hồng tím cũng có chân dung Bác và hình ảnh cảng

Nhà Rồng làm mọi người thắc mắc: - Nếu chỉ dùng loại tiền 30 đ thì làm sao làm tròn số tiền theo cơ

số thập phân (100, 1000...).

Sau đó, khối lượng tiền cung ứng và tổng phương tiện thanh toán tăng lên nhanh chóng, đến năm

1985 tăng gấp 35 lần so với năm 1980, trong đó khối lượng tiền lưu hành tăng gấp 20 lần làm lạm phát

trầm trọng, vật giá leo thang...

Để thi hành Nghị quyết về Giá - Lương - Tiền nhằm mục đích điều chỉnh và ổn định sức mua của

đồng tiền, từ ngày 14.9.1985, Nhà nước lại tiến hành đổi tiền: 1 đồng tiền mới bằng 10 đồng tiền cũ.

Đợt đầu từ tháng 9.1985 đến 1986 phát hành các loại tiền giấy 5 hào, 1 đ, 2đ, 5đ, 10đ, 20đ, 30đ, 50đ,

100đ và 500 đ.

Hệ thống tiền đúc 1 hào, 2 hào, 5 hào và 1 đồng năm 1976 vẫn cho lưu hành... Vì tỉ lệ đồng mới

bằng 10 đồng cũ nên tờ tiền mới lúc đó có giá trị rất cao. Đợt đổi tiền mới này vẫn làm người ta thắc

mắc: - Vì sao vẫn còn thiết kế loại tiền 30đ? - Tiền cũ lớn nhất chỉ là tờ 100đ, tương đương 10đ tiền

mới, thế mà đợt phát hành tiền mới này lại có đến 500 đ (tức bằng 5000 đ tiền cũ), đây có phải là dấu

hiệu ban đầu của sự lạm phát? Và có một điều lấy làm lạ nữa là ngay sau khi đổi tiền chưa được bao

lâu thì chính phủ quyết định nâng giá lên trở lại 10 lần!.

Cuộc cải cách Giá - Lương - Tiền xét trên tổng thể đã tiến hành thiếu đồng bộ, chỉ một năm sau,

tức năm 1986, lạm phát đến mức chóng mặt: 774%. Báo cáo Chính trị của BCHTW Đảng tại Đại hội

VI chỉ rõ: "- Việc giải quyết vấn đề Giá - Lương - Tiền đã phạm sai lầm".

Page 7: phát hành tiền

Với sự gợi ý của ông Lữ Minh Châu (Thống đốc Ngân hàng), một người hoạt động về lĩnh vực

ngân hàng nhiều kinh nghiệm từ trước 1975, để khắc phục tình hình này, báo cáo chính trị đã có

phương hướng: “Bên cạnh nhiệm quản lý lưu thông tiền tệ của NHNN, cần xây dựng hệ thống ngân

hàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng hoạt động theo chế độ hạch toán kinh

tế”.

Để thực hiện Nghị quyết VI, ngày 13.7.1987, Hội đồng Bộ trưởng (HĐBT) ban hành Chỉ thị

218.CT cho phép ngân hàng chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp thí điểm ở 4 thành phố lớn:

Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng. Sau khi thử nghiệm có kết quả, ngày

26.3.1988, Nghị định 53.HĐBT có nội dung cơ bản là xóa bỏ hệ thống ngân hàng một cấp, xây dựng

mô hình ngân hàng hai cấp theo nền kinh tế thị trường. Ngân hàng Nhà nước lúc này là ngân hàng của

các ngân hàng, là cơ quan phát hành tiền của nhà nước, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về điều

hòa lưu thông tiền tệ, giám sát và thanh tra hoạt động kinh doanh của các ngân hàng chuyên doanh

(như: Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp...). Từ

cuộc cải cách đó, năm 1988 nạn lạm phát 500% đến 1989 kéo xuống còn 34%.

Trong những năm 1987 - 1988, ngân hàng phát hành thêm các loại tiền mới luôn có chân dung Bác:

tờ 200đ; tờ 500đ, tờ 1000đ, tờ 2000đ, tờ 5000đ, cả 4 tờ đều có hình chìm chân dung Bác, hiện dần bị

thu hồi nay hầu như đã vắng bóng...

Sau đó, ngân hàng lại cho phát hành thêm các loại tiến giấy 100đ màu xanh lục .Tờ 1000đ màu

xanh in năm 1988 mang hình con voi kéo gỗ, tờ 2000đ màu tím in năm 1988 mang hình các nữ công

nhân trong nhà máy dệt, tờ 5000đ màu xanh nước biển in năm 1991 mang hình đập thủy điện và các

cột đường dây cao thế, cùng các tờ 10.000đ màu đỏ, 20.000đ màu xanh dương và 50.000đ màu xanh

lục (cả 3 tờ này đều có hình chìm chân dung Bác).

NHNN VN luôn áp dụng các kỹ thuật hiện đại và công nghệ mới trong việc sản xuất tiền giấy,

nhằm nâng cao chất lượng in ấn cũng như tính bảo an của đồng tiền Việt Nam. Do đó, có những thời

điểm, trong lưu thông có 2 đồng tiền cùng mệnh giá ( giá trị ngang nhau) nhưng khác nhau về mẫu

thiết kế ( hình thức ) cùng song song lưu hành .

Ngày 17 tháng 12 năm 2003, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành bổ sung vào lưu thông 2

đồng tiền mệnh giá 500.000đ và 50.000đ được in trên chất liệu giấy polymer. Ngày 01 tháng 9 năm

2004, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành bổ sung loại tiền giấy polymer mệnh giá 100.000đ.

Ngày 17 tháng 5 năm 2006, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục phát hành vào lưu thông đồng tiền

polymer mệnh giá 20.000đ. Và ngày 30 tháng 8 năm 2006, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đưa vào

lưu thông 2 đồng tiền mệnh giá 200.000đ và 10.000đ in trên giấy polymer. Như vậy, hiện nay trong

Page 8: phát hành tiền

lưu thông, mệnh giá 100.000đ, 50.000đ, 20.000đ và 10.000đ có 2 mẫu thiết kế, in trên chất liệu giấy

nền polymer và cotton cùng song song lưu hành

Ngày 17 tháng 12 năm 2003, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phát hành tiền kim loại vào lưu

thông với 3 mệnh giá: 5.000đ, 1.000đ và 200đ. Ngày 01 tháng 4 năm 2004 Ngân hàng Nhà nước Việt

Nam phát hành thêm 2 mệnh giá: 2.000đ và 500đ. Việc phát hành trở lại tiền kim loại không chỉ đánh

dấu sự ổn định về mặt giá trị của đồng tiền Việt Nam trong thời gian qua, mà còn là bước đi nhằm

hoàn thiện hệ thống tiền tệ Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế, tiết giảm chi phí phát hành đối với

đồng tiền có mệnh giá nhỏ.

II/ Phát hành tiền ngày nay:

2.1 Điểm khác biệt so với phát hành tiền ngày xưa:

Về căn bản, việc phát hành khi xưa bị ràng buộc quá nhiều bởi dự trữ vàng ở ngân hàng. Sự lệ

thuộc của khối lượng tiền tệ phát hành vào khối trữ kim đã làm cho nền kinh tế nhiều lúc thiếu tiền.

Chính nguyên do thiếu tiền này đã làm xuất hiện những cuộc khủng hỏang kinh tế nhiều nơi vào nửa

thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Lúc bấy giờ, nền kinh tế các nước Châu Âu phát triển quá mau nhưng khối

lượng tiền tệ bị ràng buộc bởi quý kim nên không tăng theo cùng một tỷ lệ. Đôi khi giữa lúc nền kinh

tế đáng lẽ cần phải có nhiều tiền hơn để tiếp tục yểm trợ các hoạt động sản xuất phát triển, thì ngân

hàng, do áp lực của nhu cầu chuyển đổi của dân từ tiền giấy sang vàng, đã buộc phải làm áp lực với

khách hàng thu hồi nợ, khiến cho nền kinh tế đang cần tiền, trở nên thiếu tiền trầm trọng, làm phát

sinh những cuộc khủng hoảng ở Hoa Kỳ năm 1907, và cuộc khủng hỏang kinh tế thế giới 1929.

Từ thập niên 1930 trở đi, các nước đã lần lượt cắt đứt mối liên hệ giữa tiền giấy và vàng theo

một tỷ giá cố định. NHTW đảm nhiệm vai trò phát hành tiền tệ trên một căn bản rộng rãi hơn là căn

bản vàng và điều này đã làm cho việc phát hành dựa vào nhu cầu thực tế của nền kinh tế.

Chúng ta đã biết là tiền tệ có một sức mua, một giá trị tiềm ẩn. Sức mua này bao gồm cả mọi

lọai hàng hóa và dịch vụ, kể cả vàng chứ không riêng gì vàng. Vậy giữa tiền tệ và hàng hóa, dịch vụ có

một tương quan nhất định. Vai trò của tiền tệ là làm thế nào để yểm trợ những hoạt động sản xuất hàng

hóa và dịch vụ hay những hoạt động đưa khối lượng hàng hóa và dịch vụ vào lưu thông phân phối.

Việc phát hành tiền tệ phải dựa vào nhu cầu làm xuất hiện một khối lượng hàng hóa dịch vụ đủ giữ

vững cho sức mua của tiền tệ, nghĩa là việc phát hành tiền tệ ngày nay căn bản là dựa vào nguyên tắc

hàng hóa. Đó là căn bản của việc phát hành tiền tệ ngày nay. Căn bản phát hành này rộng hơn căn bản

phát hành ngày xưa. Trước thập niên 30, như chúng ta đã thấy, theo nguyên tắc trữ kim, đại bộ phận

tiền giấy phát hành có đối phần là vàng, lúc ban đầu 100% là vàng, nhưng lần lần về sau, có thể có một

khối tiền giấy vượt đinh mức vàng ở một biên vực lúc đầu nhỏ hẹp về sau rộng dần. Tuy số tiền giấy

Page 9: phát hành tiền

ngoài định mức vàng đó cũng phải có đối phần là thương phiếu hay trái phiếu quốc gia, nhưng nó

chiếm một tỷ lệ tương đối ít hơn đối phần bằng vàng.

Ngày nay, tỷ lệ quan trọng của các đối phần của tiền tệ đảo ngược lại. Tiền tệ phát hành phần

lớn là để làm ra của cải vật chất, tức là hàng hóa dịch vụ, vì hàng hóa dịch vụ được tiêu dùng trong cả

nước khắp mọi tầng lớp. Nó được tượng trưng bởi khối thương phiếu làm đảm bảo cho việc ứng tiền

hay cấp phát tín dụng. Khối thương phiếu đó là đối phần quan trong nhất, kế đó là vàng và ngoại tệ,

rồi mới tới đối phần thứ ba là trái phiếu quốc gia.

2.2 Công cuộc chuẩn bị phát hành tiền:

Như đã biết, một trong các nghiệp vụ của NHTW là cung ứng một khối lượng tiền tệ cho nhu

cầu của nền kinh tế. Nhu cầu này nhiều khi rất lớn. Để đáp ứng nhu cầu này, NHTW lúc nào cũng phải

in và đúc sẵn một số lượng tiền tệ quan trọng, đủ để thay thế tòan bộ số lượng tiền đang lưu hành.

In là in tiền giấy, đúc là đúc tiền kim lọai, tiền kim lọai dành cho những giá trị nhỏ, tiền giấy

mang những ngạch số giá trị lớn hơn.

Những tiền giấy và tiền kim lọai, in và đúc sẵn để dự trữ như vậy chưa phải là tiền. Khối dự trữ

này được phân làm 2 lọai lớn. Một loại dự trữ gồm những loại tiền có hình dáng, khuông khổ, màu sắc

chữ in hay đúc… giống hoàn toàn những thứ tiền đang lưu hành, chỉ khác nhau về số thứ tự hay một

vài chi tiết nhỏ khác. Loại dự trữ nay dùng để thay thế những tiền đang lưu hành khi nó dơ, rách…

Loại dự trữ thứ hai, gồm những thứ có hình dáng khuôn khổ, có thể màu sắc khác những thứ tiền đang

lưu hành trên thị trường, loại này là để đề phòng những thứ tiền đang lưu hành có triệu chứng bị làm

giả, nhất là những tờ giấy bạc có ngạch số giá trị lớn. Trong trường hợp đó, NH sẽ thay nguyên cả một

loạt giấy bạc bị làm giả để thay thế bằng một thứ tiền mới có một giá trị bề mặt tương đương.

Tuy nhiên, việc thay thế tiền bằng cách này không nên làm thường xuyên, vì như chúng ta

thấy , một trong những yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến giá trị tiền tệ là yếu tố dân chúng chịu giữ

tiền, chấp nhận tiền trong dự trữ tài sản của mình. Nếu đổi tiền được tiến hành thường xuyên, chẳng

những gây tốn kém mà còn gây nên hậu quả nghiêm trọng là người dân không dám giữ tiền. Hoa Kỳ là

một ước được lợi thế có đồng Mỹ Kim được cả thế giới tí nhiệm, tích trữ tiêu dùng, đó là do tính ổn

định của đơn vị tiền tệ này.

NHTW có cơ sở in và đúc tiền của riêng mình để phục vụ nhu cầu phát hành, cũng có khi có

cơ sở in đúc tiền trực thuộc một cơ quan khác, nhưng đó là dấu vết còn sót lại của thời đại xa xưa của

sở đúc tiền của kho bạc hy sở đúc tiền của Nhà vua.

Về ngạch số giá trị tiền giấy, NHTW có nhiệm vụ phải cung ứng tiền đủ ngạch số, từ giá trị

nhỏ đến gía trị bề mặt lớn nhắm đáp ứng nhu cầu giao dịch của dân. Thiếu giấy bạc nhỏ cũng như

thiếu giấy bạc lớn đều gây trở ngại cho hoạt động kinh tế.

Page 10: phát hành tiền

2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng tiền phát hành trong lưu thông:

Lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng năm là khối lượng tiền do NHTW phát hành

cho lưu thông hàng năm. Lượng tiền này thường được gọi là tiền mạnh vì một đồng tiền dự trữ của

NHTW đưa vào lưu thông có thể tạo ra 2 hoặc 3 đồng tiền trong tổng phương tiện thanh toán.

Việc xác định lượng tiền bổ sung cung ứng cho lưu thông hàng năm là rất cần thiết trong

khuôn khổ chính sách tiền tệ điều tiết khối lượng tiền.

2.3.1Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng năm(MB):

* Mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trong bảng cân đối tiền tệ NHTW với MB:

MB= Tài sản có trong nước ròng + Tài sản có ngoại tệ ròng

MB= Tiền ngoài NHNN + Tiền gửi của các tổ chức tín dụng tại NHNN

Do đó sự thay đổi những chỉ tiêu đó sẽ tác động trực tiếp đến lượng tiền đưa ra lưu thông hàng năm.

a) Sự thay đổi tài sản có ngoại tệ ròng trên bảng cân đối tiền tệ của NHTW:

- NHTW mua hay bán ngoại tệ, vàng đều làm tăng hay giảm tài sản có ngoại tệ

- Các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách ngoại hối,

tỷ giá lãi suất…sẽ tác động đến các luồng chu chuyển ngoại tệ quốc gia.

- Sự thay đổi về dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ cũng sẽ làm thay đổi tài sản có ngoại tệ ròng.

Khi NHTW tăng dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ thì một lượng ngoại tệ của các NHTM sẽ do NHTW

nắm giữ, do đó sẽ làm tăng tài sản có ngoại tệ của NHTW và giảm tài sản có ngoại tệ của NHTM.

- Sự biến động tỷ giá và giá vàng cũng làm thay đổi tài sản có ngoại tệ ròng, do dự trữ vàng

cũng được hạch toán vào Tài sản có ngoài tệ.

b) Sự thay đổi tài sản có trong nước ròng trên bảng cân đối tiền tệ của NHTW:

- Thu chi ngân sách có tác động rất lớn đến lượng tiền cung ứng cho lưu thông hàng năm, và là

nhân tố ngoài tầm kiểm soát của NHTW. Bởi lẽ việc thu chi của NSNN có ảnh hưởng trực tiếp đến

khoản tiền NHTW cho chính phủ vay và tiền gửi của chính phủ ở NHTW.

- Việc NHTW cho vay các NHTM. Sự tăng giảm khoản mục này phụ thuộc nhiều vào mục tiêu

của chính sách tiền tệ. Nếu thực hiện chính sách mở rộng tiền tệ thì nhu cầu vay vốn của các NHTM

với NHTW tăng lên. Tuy nhiên nó còn phụ thuộc vào mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, nếu thị

trường tiền tệ thông suốt, NHTW là người cho vay cuối cùng trên thị trường lên ngân hàng, thì mức độ

tăng giảm của khoản mục này gắn chặt với mục tiêu của chính sách tiền tệ. Trong trường hợp thị

trường tiền tệ chưa phát triển, mức độ thông suốt của thị trường còn hạn chế thì khoản mục này gắn

kết chưa chặt chẽ với mục tiêu của chính sách tiền tệ, mà còn phụ thuộc vào mức độ huy động vốn của

các NHTM và điều tiết nguồn vốn giữa các NHTM với nhau.

- Các khoản ròng khác có mức độ tác động nhỏ, phụ thuộc vào mức độ chi tiêu của NHTW.

Page 11: phát hành tiền

2.3.2 Xác định lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng năm:

Hành động phát hành tiền của NHTW là hành động khởi đầu cho quá trình cung ứng tiền tệ

của nền kinh tế. Có 4 tác nhân tham gia quá trình cung ứng tiền tệ, gồm: NHTW, các tổ chức tín dụng,

người gửi tiền, người vay tiền từ các tổ chức tín dụng. Trong đó, NHTW là quan trọng nhất vì nó tạo

ra lượng tiền mạnh- lượng tiền làm thay đổi các điều kiện của thị trường tiền tệ (cung cầu vốn, lãi suất,

tỷ giá…), đến cách ứng xứ của các tác nhân còn lại, qua đó tác động đến lạm phát, sản lượng.

a) Quy trình xác định lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông:

Trên lý thuyết, lượng tiền phát hành bổ sung hàng năm cho lưu thông phải phù hợp với tốc độ

tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, trên thực tế, lượng tiền này có mối quan hệ trực tiếp

đến lạm phát và tổng sản lượng quốc gia, mà muốn tác động đến lạm phát và tổng sản lượng thì phải

thông qua tiêu chí tổng phương tiện thanh toán hay còn gọi là M2, hay mục tiêu trung gian.

b) Phương pháp tính toán:

*Bước 1: Tính mức tăng M2 hàng năm:

Tổng phương tiện thanh toán là toàn bộ khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế được chấp nhận chung

trong thanh toán để nhận hàng hóa, dịch vụ hoặc trong việc trả nợ. Theo đó, tổng phương tiện thanh

toán bao gồm:

-Tiền theo nghĩa hẹp: tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi không kỳ hạn

-Tiền theo nghĩa rộng: tiền theo nghĩa hẹp, tiền gửi có kỳ hạn tại các NHTM, tiền gửi ngoại tệ,

số dư tài khoản các chứng từ có giá do Ngân hàng phát hành.

M2V = PY

Trong đó:

-M2 là tổng phương tiện thanh toán

-V là vòng quay tiền tệ

-P là mức giá chung

-Y là tổng sản lượng quốc gia

*Bước 2: Xác định mức tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm, kí hiệu MB:

MB = MBc – MBđ

MBc = M2c / m

Trong đó:

-MBc là tiền dự trữ cuối kỳ

-MBđ là tiền dự trữ đầu kỳ

-M2c là tổng phương tiện thanh toán đến cuối kỳ

-m là hệ số tạo tiền dự kiến

Page 12: phát hành tiền

Các công thức trên biểu hiện mối quan hệ tất yếu giữa các biến số tiền tệ với tăng trưởng và

lạm phát, mối quan hệ tỷ lệ này tương đối chính xác trong nền kinh tế thị trường phát triển, những

nước có hệ thống thống kê hoàn chỉnh, chính xác.

Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là nước có nền kinh tế thị trường đang

phát triển như nước ta hiện nay thì mối quan hệ tỷ lệ này chưa thật phù hợp, do nền kinh tế đang quá

trình tiền tệ hóa, hệ thống các số liệu chưa thật sự đồng nhất, mức độ tác động giữa các biến số tiền tệ,

biến số kinh tế chưa thực sự mang tính thị trường.

Vì vậy, trong thực tế xác định khối lượng tiền cung ứng hàng năm của NHNN Việt Nam về cơ

bản dựa vào mối quan hệ của các biến số tiền tệ, kinh tế nêu trên, nhưng có sự điều chỉnh nhất định và

phải căn cứ vào nhiều biến số kinh tế khác như: cán cân thanh toán, khả năng mở rộng tín dụng, tình

hình thu chi ngân sách nhà nước…

2.4 Các kênh phát hành tiền :

NHTW có bốn đối tượng giao dịch chính. Trong bốn mối quan hệ đó, NHTW phát hành tiền tệ.

Đó là Chính phủ, các ngân hàng thương mại, thị trường mở và thị trường ngoại hối.

2.4.1 Kênh ngân sách nhà nước

Ngân sách nhà nước phải cân đối giữa tổng thu tài chính và tổng chi tài chính nhưng trong thực

tế ngân sách nhà nước thường rơi vào một trong 2 trạng thái: ngân sách bội thu nếu tổng thu lớn hơn

tổng chi. Khi ngân sách bội thu thì hoạt đông của ngân sách không ảnh hưởng đến hoạt động của

NHTW. Nhưng khi ngân sách bội chi sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của chính sách tiền tệ. Bởi lẽ chính

phủ với tư cách là chủ thể kinh tế như mọi chủ thể kinh tế khác khi thiếu tiền chi tiêu sẽ phải đi vay

tiền để bù đắp thiếu hụt, chính phủ sẽ xử lí bằng cách:

Vay của công chúng thông qua việc phát hành trái phiếu chính phủ dưới các hình thức: tính

phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, công trái nhà nước. Với cách này sẽ không ảnh hưởng đến mức

cung ứng tiền của NHTW. Bởi vì khi chính phủ phát hành các công cụ nợ, công chúng bỏ tiền ra mua

các công cụ đó tức là đã cho chính phủ vay. Khi đến kì hạn, chính phủ thu được thuế, có tiền để trả lại

cho công chúng, chính phủ lại thu các công cụ nợ về. Như vậy NHTW không phải phát hành thêm

tiền.

Vay của nước ngoài: lượng tiền vay được thông thường dưới hình thức hàng hóa, vàng hoặc

ngoại tệ các loại. Những loại tài sản này khi đem về nước thường phải kí quĩ ở NHTW để chuyển đổi

thành tiền mặt, có nghĩa là NHTW sẽ phải phát hành thêm tiền.

Vay của NHTW: khi Chính phủ vay của NHTW, lượng tiền mặt trong lưu thông sẽ tăng lên

thông qua chi tiêu của Chính phủ.

Page 13: phát hành tiền

Vay của NHTW và vay của nước ngòai (bằng ngoại tệ) sẽ làm tăng nhanh khối tiền tệ, gây áp

lực lạm phát tiềm tàng về sau. Vay của dân cư và của các NHTM trong nước, nguy cơ làm tăng khối

tiền tệ nhẹ hơn. Áp lực lạm phát ở các nước đang phát triển mạnh hơn so với các nước có thu nhập cao

là do các nước này chủ yếu sử dụng biện pháp vay NHTW bằng cách phát hành tiền trực tiếp và nợ

nước ngòai. Hành vi cung ứng tiền cho Ngân sách Nhà nước chi tiêu (dù có đảm bảo) sẽ làm yếu năng

lực kiểm soát tiền tệ của NHTW và chứa đựng nguy cơ lạm phát tiềm năng. Vì thế kênh phát hành này

ngày càng ít được sử dụng ở hầu hết các nước trên thế giới.

2.4.2 Kênh ngân hàng thương mại

Căn cứ vào nhu cầu tín dụng của nền kinh tế, và lượng tiền cung ứng thêm trong năm kế

hoạch, dựa vào mục tiêu của chính sách tiền tệ và nhu cầu vay vốn của các tổ chức tín dụng, NHTW

phát hành tiền bằng cách cho các tổ chức tín dụng vay ngắn hạng dưới hình thức tái cấp vốn như:

-Cho vay đảm bảo bằng các chứng từ có giá

-Chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá…

Tái cấp vốn là cách để NHTW đưa tiền ra lưu thông, đồng thời khống chế về số lượng và chất

lượng tín dụng của các NH trung gian, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được không chế để kiềm

chế lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế. Tái cấp vốn được coi là hình thức phát triển lành

mạnh, vì nó dựa trên thương phiếu là một loại giấy tờ có giá tượng trưng cho những món nợ về thương

mại và đằng sau nó có vật tư hàng hóa. Qua việc cấp tín dụng NHTW đã tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy

toàn bộ hệ thống NH trung gian tạo ra tiền, cũng như khai thông được năng lực thanh toán cho họ bởi

vì không phải lúc nào hoạt động của các NH trung gian cũng diễn ra trôi chảy thuận lợi, cũng có lúc,

nhu cầu rút tiền lớn, NH trung gian lâm vào tình trạng thiếu vốn. Đối với các NH trung gian, với tư

cách là người “ đi vay vốn để cho vay”, khi vốn khả dụng bị đe dọa, NHTW là chỗ dựa, là cứu tinh

của họ, vì họ có khả năng điều tiết được vốn khả dụng, phục hồi khả năng sẵn sàng thanh toán bằng

tiền trung ương vừa được cung ứng.

NHTW điều tiết hoạt động cho vay của các NH trung gian thông qua lãi suất tín dụng. Thông

thường lãi suất tiền gửi và tiền vay biến động cùng chiều: khi lãi suất tiền gửi được nâng lên thì lãi

suất cho vay cũng được nâng lên và ngược lại, làm sao dung hòa được 2 yêu cầu: nâng lãi suất huy

động để thu hút được nguồn vốn và kìm chế lạm phát. Hạ lãi suất tiền gửi để hạ lãi suất cho vay, nâng

đỡ sản xuất.Là cơ quan thực thi chính sách tiền tệ, NHTW tác động gián tiếp tới lãi suất tiền gửi và

tiền vay của NH trung gian bằng lãi suất tái chiết khấu của mình, nhằm điều tiết cung cầu tín dụng. Để

bành trướng hay thu hẹp khối tiền tệ, NHTW áp dụng một lãi suất tái chiết khấu khích lệ hay làm nản

lòng các NH trung gian trong việc đi vay vốn NHTW, khi cần mở rộng tín dụng, NHTW hạ thấp lãi

Page 14: phát hành tiền

suất tái chiết khấu, làm “rẻ” tín dụng để kích thích đầu tư. Ngược lại khi cần thắt chặt tín dụng,

NHTW sẽ nâng lãi suất tái chiết khấu lên, làm “đắt” tín dụng để hạn chế đầu tư.

Tóm lại khi NHTW cho các tổ chức tín dụng vay sẽ đẫn đến tăng tiền nghĩa là một khối lượng

tiền được đưa vào lưu thông và khoảng tín dụng mà các NHTM nhận được đã trở thành nguồn vốn

nhằm mở rộng cho hoạt động đầu tư, cho vay đối với nền kinh tế.

2.4.3 Kênh thị trường mở

Thị trường mở là một trong các cửa ngõ để NHTW phát hành tiền vào guồng máy kinh tế, hoặc

rút bớt khối tiền tệ lưu thông trong đó bằng cách mua hay bán các lọai giấy tờ có giá ngắn hạn thông

qua các nghiệp vụ của thị trường mở, tức là thông qua thị trường tiền tệ do NHTW tổ chức và chi phối.

Thực hiện nghiệp vụ thị trường mở NHTW mua các chứng từ có giá trên thị trường tiền tệ như:

tín phiếu kho bạc, chứng từ có giá ngắn hạn khác. Khi NHTW thực hiện nghiệp vụ mua là NHTW đã

đưa một lượng tiền vào lưu thông, các chứng từ có giá được NHTW nắm giữ trở thành tài sản Có của

NHTW, tương ứng với nó là sự tăng lên một lượng tiền dự trữ của các NHTM hoặc lượng tiền mặt,

làm tăng khối tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, bằng cách

bán các loại tín phiếu có giá ngắn hạn NHTW có thể thu hẹp tín dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý

muốn để ngăn chặn lạm phát. Phát hành tiền bằng việc mua các chứng khóan có giá ngắn hạn trên thị

trường mở cũng được xem là một nghiệp vụ phát hành có đảm bảo, bởi lẽ tiền tăng thêm trong lưu

thông đã được cân đối bởi một lượng chứng khoán.Nếu không có sự tham gia mua bán của NHTW

trên thị trường tiền tệ mà chỉ có việc mua bán tín phiếu giữa các NH trung gian với nhau, thì khối tiền

tệ nói chung sẽ không thay đổi. Bởi vì một NH thương mại này bán tín phiếu cho các NH thương mại

khác, thì trong tòan cục chỉ là sự chuyển dịch trái phiếu và sự di chuyển ngược lại của một phần dự trữ

đang thừa từ NHTM này qua NHTM khác đang thiếu mà thôi. Kênh phát hành thông qua nghiệp vụ thị

trường mở hiện nay đang được sử dụng phổ biến ở các nước có thị trường tiền tệ phát triển vì có hiệu

quả hơn rất nhiều so với các kênh khác.

2.4.4 Kênh thị trường ngoại hối

Mỗi quốc gia trên thế giới đều có dự trữ vàng và ngoại tệ nhất định. Dự trữ chính thức nằm

trong kho bạc của Chính phủ dưới dạng dự trữ quốc gia. Dự trữ này không phải để đáp ứng nhu cầu

chuyển đổi của công chúng cũng không phải để bảo đảm giá trị tiền tệ phát hành, mà chúng nhằm thực

hiện công dụng chính, đó là một công cụ để NHTW can thiệp vào thị trường vàng và ngoại tê.

Bên cạnh dư trữ chính thức là dự trữ không chính thức, dự trữ không chính thức hình thành

một thị trường mua bán diễn biến rất sôi động, giá cả trên thị trường này hết sức nhạy bén và có ảnh

hưởng sâu sắc đến giá cả thị trường hàng hóacũng như họat động chung của tòan bộ nền kinh tế.

Chính vì thế, NHTW với tư cách là định chế tài chính quản lý kinh tế vĩ mô của NN phải can thiệp vào

Page 15: phát hành tiền

thị trường này khi cần thiết, thực hiên các nghiệp vụ mua hoặc bán trên thị trường này bằng việc tung

ra một lượng tiền mặt nhất định vào thị trường để mua ngọai tệ và vàng, hoạt động này một mặt làm

tăng dự trữ quốc gia, mặt khác làm gia tăng lưu lượng tiền mặt trong nền kinh tế, và đây chính là

phương thức phát hành tiền qua kênh thị trường ngọai hối

Phát hành tiền thông qua kênh thị trường ngoại hối không chỉ không chỉ có ý nghĩa tăng tiền

mà còn giúp NHTW thực hiện chính sách tỷ giá và sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối có hiệu quả hơn.

Như vậy tùy theo từng điều kiện nhất định mà NHTW sử dụng các kênh phát hành tiền cho

phù hợp. Mặc dù tiền được phát hành theo kênh nào thì cũng nhằm thưc hiện các mục tiêu chính sách

tiền tệ.

III/ Tác động của việc phát hành tiền đối với nền kinh tế:

Một trong những chức năng cơ bản của NHTW là phát hành tiền.Về nguyên tắc, việc phát hành

tiền trong lưu thông được thực hiện thông qua nghiệp vụ cung ứng tiền trung ương cho nền kinh tế,

bản chất của việc phát hành tiền là đưa vào lưu thông giấy bạc ngân hàng mang nội dung tiền tín dụng,

tính chất tín dụng của giấy bạc Ngân hàng thể hiện tập trung ở nghiệp vụ tái cấp vốn dưới hình thức

chủ yếu là tái chiết khấu thương phiếu hoặc các khỏan tín dụng ngắn hạn của các NH thương mại cho

các khách hàng của mình. Lượng tiền mà NHTW phát hành ra lưu thông tùy vào số lượng ít hay nhiều

mà có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đối với nền kinh tế. Khi NHTW xác định đúng lượng tiền cần

thiết phát hành vào trong lưu thông sẽ làm kích thích tiêu dùng, đầu tư và sản xuất.

Thông qua kênh ngân sách Nhà nước, một lượng tìền mới phát hành sẽ được đưa vào lưu thông

qua con đường chi tiêu của Chính phù, góp phần giải quyết tình hình bội chi của Chính phủ, tuy nhiên

nếu lạm dụng cách phát hành này và nếu ngân sách Nhà nước cứ tiếp tục bội chi và NHTW cứ tiếp tục

phát hành tiền cho Chính phủ vay sẽ dẫn đến nguy cơ lạm phát tiềm tàng về sau. Từ 1992, NHNN Việt

Nam đã không phát hành tiền để bù dắp thâm hụt ngân sách, tuy nhiên theo luật NHNN thì NHNN sẽ

tạm ứng cho ngân sách để xử lý thiếu hụt tạm thời của ngân sách (hay nói cách khác là cho NN vay

tiền). Như vậy để xử lý bội chi NN có thể vay từ NHNN. Kết quả của việc NHTW cho nhà nước vay

tiền để bù dắp bội chi sẽ làm cho lượng tiền cơ bản đi vào lưu thông tăng lên đáp ứng cho nhu cầu chi

tiêu của Chính phủ vào đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển các ngành kinh tế trọng

điểm, thực hiện an sinh xã hội hay các nhu cầu chi tiêu cần thiết khi mà thu từ ngân sách không đủ bù

đấp kịp thời. Tuy nhiên giải pháp này cũng có hai mặt, nó có thể gây ra lạm phát nếu Nhà nước vay

quá nhiều tiền để chi tiêu, đặc biệt khi nguyên nhân gây thiếu hụt là do thiếu các nguồn vốn đối ứng để

đầu tư phát triển gây tăng trưởng nóng và không cân đối với khả năng tài chính quốc gia.

Thông qua kênh ngân hàng trung gian, việc phát hành tiền ra lưu thông qua con đường cấp tín

dụng cho các ngân hàng trung gian góp phần đáp ứng phương tiện thanh tóan cho nền kinh tế phù hợp

Page 16: phát hành tiền

với việc mở rộng hay thu hẹp thị trường hàng hóa, dịch vụ, đồng thời giúp cho hoạt động của ngân

hàng thương mại diễn ra một cách trôi chảy thuận lợi. Qua kênh ngân hàng trung gian, NHTW là

người cho vay sau cùng, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được khống chế để kiềm chế lạm phát

hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế suy thoái thì NHTW có thể tăng lượng tiền cung

ứng bằng cách giảm lãi suất tái chiết khấu và tăng hạn mức tín dụng từ đó sẽ làm tăng lượng tiền cung

ứng, thúc dẩy đầu tư phát triển sản xuất. Ngược lại khi nền kinh tế lạm phát, NHTW có thể tăng lãi

suất tái chiết khấu và giảm hạn mức tín dụng từ đó làm giảm lượng tiền cho vay của các NHTG dẫn

đến giảm lượng tiền trong lưu thông.

Việc đưa tiền ra lưu thông thông qua kênh thị trường ngọai hối, nếu không có sự điều tiết thích

hợp cũng dễ dàng dẫn đến nguy cơ lạm phát, như ta đã biết tình hình lạm phát hai con số của Việt

Nam năm 2007, do giá lương thực thực phẩm và giá dầu lửa thế giới biến động dẫn đến tình trạng lạm

phát ở Việt Nam, nhưng tại sao cũng cùng chịu sư ảnh hưởng của biến động giá đó mà 2 nước trong

khu vực như Thái Lan, và Trung Quốc chỉ chịu lạm phát ở mức một con số, đó là do khác biệt rõ rệt

nhất giữa Việt Nam và các quốc gia đó là tốc độ tăng cung tiền, cung tiền ở VN tăng mạnh trong năm

2007 là do vốn nước ngòai chảy vào tăng đột biến, từ đó buộc NHNN đóng vai trò là người mua ngọai

tệ cuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào lưu thông, tuy nhiên thông qua kênh này NHNN có thể góp

phần điều chỉnh bình ổn lại thị trường ngọai tê, bằng cách thực hiện các nghiệp vụ mua bán trên thị

trường nay, bằng việc tung ra một lượng tiền mặt nhất định vào thị trường để mua ngoại tệ và vàng, từ

đó làm tăng dự trữ quốc gia , mặt khác làm gia tăng lưu lượng tiền mặt trong nền kinh tế. Bên cạnh sự

ảnh hưởng từ các kênh dẫn tiền vào lưu thông, thì việc đổi tiền, một trong các nghiệp vụ phát hành

tiền, nếu thực hiện không đúng thời điểm và dựa vào tình hình phát triển kinh tế và nhu cầu về tiền tệ

để xác định đúng khối lượng tiền cần phát hành cũng sẽ dẫn đến hậu quả tiêu cực cho sự phát triển

kinh tế. Điển hình như lần đổi tiền thứ tư của Nhà nước vào 14/9/1985 theo tỉ lệ 10đ tiền NHNN cũ ăn

1đ tiền NHNN mới, tuy nhiên lẽ ra trước khi làm cuộc cách mạng về tiền thì Chính phủ phải làm cuộc

cách mạng về giá và lương, nhưng ta đã làm theo quy trình ngược: Tiền - Lương - Giá, hậu quả là cuộc

đổi tiền 1985 đã bị coi là không thành công nhất trong lịch sử lưu thông tiền tệ Việt Nam, ngay sau khi

đổi tiền tình hình lạm phát tiếp tục gia tăng hơn bao giờ hết- chỉ 3,5 tháng sau ngày đổi tiền, Nhà nước

đã cho phát hành thêm vào lưu thông một khối lượng lớn tiền tương đương 1,38 lần khối lượng tiền

mới đã phát hành trong đợt đổi tiền trước đó để phục vụ công cuộc cải cách lương và giá. Tiếp đó lại

là một quá trình diễn biến phức tạp về quan hệ tiền- hàng và kết quả là lạm phát đã không ngừng gia

tăng, như năm 1986 lạm phát lên đến 774% ngay đối với đồng tiền mệnh giá mới đã gấp 10 lần đồng

tiền mệnh giá cũ. Mặt khác sự can thiệp của NHTW vào thị trường vàng và ngoại tệ sẽ ảnh hưởng tới

tỷ giá hối đoái do đó sẽ có tác động đến các hoạt động xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế. Cụ thể

Page 17: phát hành tiền

khi tỷ giá hối đoái tăng sẽ làm cho đồng nội tệ giảm giá tương đối so với ngoại tệ từ đó hoạt động xuất

khẩu sẽ hưởng lợi. Khi tỷ giá hối đoái giảm thì xảy ra trường hợp ngược lại gây ảnh hưởng đến cán

cân thanh toán.

Thông qua thị trường mở, là một kênh phát hành tiền hiệu quả và linh hoạt của NHTW .Thông

qua nghiệp vụ thị trường mở NHTW có thể điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng

theo cả hai chiều bơm – hút từ đó điều tiết được lượng tiền trong lưu thông phù hợp với nhu cầu của

nền kinh tế

Tóm lại tùy vào sự phát triển của nền kinh tế, mà NHTW cần thận trọng khi ra quyết định sự

dụng kênh nào đề phát hành tiền và xác định lưu lượng tiền bổ sung vào lưu thông, nhằm tạo ra hiệu

quả tích cực cho nền kinh tế, kích thích đầu tư sản xuất phát triển, hạn chế được tình trạng lạm phát.

----------HẾT----------

Danh sách nhóm:

Hồ Trúc Quyên

Định Văn Tuấn Em

Nguyễn Trần Mộng Hân

Giã Thành Lộc

Nguyễn Hồ Thảo Ngân