299
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Nguyễn Từ sưu tầm, giới thiệu. NỘI DUNG I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN Ở VIỆT NAM Theo PGS.TS Thành Huy, Tạp chí Lịch sử Đảng tháng 9/2005. Ngày 2/11/2005. Cập nhật lúc 11 h 9' Thấy rõ sức mạnh của cách mạng là ở nhân dân, Hồ Chí Minh đồng thời khẳng định nguồn tập trung sức mạnh của nhân dân phải có đảng lãnh đạo. Đó là hai mặt gắn bó hữu cơ với nhau, thiếu một mặt không thể tạo nên sức mạnh và cách mạng không thể thành công. Đó cũng là chân lý đã được cụ thể hoá và được Hồ Chí Minh vận dụng rất sáng tạo và thành công trong hoàn cảnh cách mạng nước ta. Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một dân tộc đại bộ phận là nông dân, chưa qua giai đoạn phát triển CNTB, lại phải tiến hành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi chủ nghĩa thực dân, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức sức mạnh tạo nên động lực cách mạng ở nước ta là ở nhân dân. Khái niệm nhân dân theo Hồ Chí Minh là “bốn giai cấp bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử yêu nước khác. Nhân dân phải giành lấy chính quyền là khẩu hiệu của Hồ Chí Minh. Người khẳng định rất sớm rằng: “cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ, phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu”, phải đoàn kết toàn dân, tuyệt đối tránh chia rẽ, bè phái làm cho sức dân chúng yếu đi như “đũa mỗi chiếc mỗi nơi”. Xuất phát từ yêu cầu phải có đảng lãnh đạo cách mạng mới thành công triệt để, đồng thời nói rõ lập trường cách mạng của mình đối với một đảng cách mạng chân chính, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên hệ với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi 1

Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

  • Upload
    others

  • View
    0

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINHNguyễn Từ sưu tầm, giới thiệu.

NỘI DUNG I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN Ở VIỆT NAM

Theo PGS.TS Thành Huy, Tạp chí Lịch sử Đảng tháng 9/2005.Ngày 2/11/2005. Cập nhật lúc 11h 9' Thấy rõ sức mạnh của cách mạng là ở nhân dân, Hồ Chí Minh đồng thời khẳng định nguồn tập trung sức mạnh của nhân dân phải có đảng lãnh đạo. Đó là hai mặt gắn bó hữu cơ với nhau, thiếu một mặt không thể tạo nên sức mạnh và cách mạng không thể thành công. Đó cũng là chân lý đã được cụ thể hoá và được Hồ Chí Minh vận dụng rất sáng tạo và thành công trong hoàn cảnh cách mạng nước ta.

Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một dân tộc đại bộ phận là nông dân, chưa qua giai đoạn phát triển CNTB, lại phải tiến hành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi chủ nghĩa thực dân, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức sức mạnh tạo nên động lực cách mạng ở nước ta là ở nhân dân. Khái niệm nhân dân theo Hồ Chí Minh là “bốn giai cấp bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử yêu nước khác. Nhân dân phải giành lấy chính quyền là khẩu hiệu của Hồ Chí Minh. Người khẳng định rất sớm rằng: “cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ, phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu”, phải đoàn kết toàn dân, tuyệt đối tránh chia rẽ, bè phái làm cho sức dân chúng yếu đi như “đũa mỗi chiếc mỗi nơi”.

Xuất phát từ yêu cầu phải có đảng lãnh đạo cách mạng mới thành công triệt để, đồng thời nói rõ lập trường cách mạng của mình đối với một đảng cách mạng chân chính, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên hệ với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam... Bây giờ, học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.

Như vậy là, một mặt, Hồ Chí Minh khẳng định vị trí của giai cấp công nhân và vai trò của nhân dân, coi nhân dân là nhân tố quyết định sự nghiệp cách mạng và đòi hỏi nhân dân phải giành lấy chính quyền, mặt khác, Người khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản (ĐCS), coi sự lãnh đạo của ĐCS là nhân tố quyết định đảm bảo thành công của sự nghiệp cách mạng.

Điều này có vẻ hơi khác với những ý kiến của Mác, Ăngghen khi các ông nói về vị trí của giai cấp vô sản (GCVS) mỗi nước phải giành lấy chính quyền, phải tự mình

1

Page 2: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

trở thành dân tộc. Nhưng, nói khác mà không trái, trái lại, chính ý kiến Hồ Chí Minh mới thực sự phù hợp với thực tế lịch sử xã hội Việt Nam, nơi ở đó hơn 90% dân số là nông dân, nơi đó nhân dân lao động nói chung phải chịu sự áp bức, bóc lột cùng cực của chủ nghĩa thực dân và chế độ phong kiến; ở đó động lực cách mạng không chỉ tập trung vào giai cấp công nhân (GCCN) mà chủ yếu là ở phong trào cách mạng của nông dân trên mọi miền của đất nước.

Chính những điều Hồ Chí Minh nói tuy có hơn khác với Mác, Ăngghen, Lênin, nhưng không trái ấy đã thể hiện tinh thần vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Người. Người đề cao vị trí, vai trò của nhân dân nhưng không hạ thấp vị trí, vai trò của GCVS, nhất là vai trò lãnh đạo của ĐCS. Trái lại, Hồ Chí Minh luôn khẳng định rằng chỉ có sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của đảng cách mạng chân chính của GCCN thì cách mạng mới thành công, cách mạng mới “đến nơi”, để nhân dân không phải làm một cuộc cách mạng khác nữa.

Cho nên, khi nói đến xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đã từng nói : “Nay tôi chỉ có một tin tưởng vào Dân tộc độc lập. Nếu cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài”, sau đó một lần nữa, Người tuyên bố trước Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ hai, rằng: “Tôi chỉ có một đảng, đảng Việt Nam”. Đến khi đổi tên ĐCS thành Đảng Lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh còn nói rõ hơn: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”.

Nói rằng ĐCS là đảng của dân tộc, đảng của nhân dân, mọi công dân Việt Nam đều có thể đứng trong hàng ngũ của Đảng, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài, thì hình như không đúng với điều nói về ĐCS của Mác, Ăngghen và Lênin, bởi lẽ, những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn nhấn mạnh tính GCCN của đội tiền phong của GCCN. Rõ ràng, Hồ Chí Minh không bao giờ không thừa nhận tính đúng đắn có ý nghĩa nguyên tắc trong việc xây dựng ĐCS. Chính Người vẫn thường nói Đảng ta là Đảng của GCCN hay đội tiền phong của GCCN. Nhưng, với một đảng ra đời trong hoàn cảnh một đất nước đại bộ phận là nông dân, một đất nước thuộc địa nửa phong kiến, nghèo nàn, lạc hậu như nước ta, Hồ Chí Minh không thể máy móc và giáo điều khi xây dựng ĐCS Việt Nam theo tiêu chí của một ĐCS ra đời trong xã hội công nghiệp phát triển như ở châu Âu. Tức là nếu theo tiêu chí đó thì ở nước ta sẽ không thể xây dựng được một ĐCS. Và, điều đó cũng đồng nghĩa với việc không thể hình thành một đường lối cách mạng theo lập trường GCVS lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, kim chỉ nam của hành động.

Chính vì vậy, Hồ Chí Minh chủ trương phải mở rộng những điều kiện vào Đảng, coi bản chất của ĐCS Việt Nam không nhất thiết chỉ ở thành phần xuất thân mà chủ yếu là mục tiêu lý tưởng và đường lối cách mạng trong từng giai đoạn cụ thể, mặc dù Người không hề coi nhẹ thành phần xuất thân là GCCN. Cho nên, Người coi

2

Page 3: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

ĐCS Việt Nam là đảng của GCCN và nhân dân lao động. Nói đến vai trò của Đảng khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh thấy rất sớm vấn đề xây dựng nhà nước kiểu mới. Quan niệm của Hồ Chí Minh về việc xây dựng nhà nước kiểu mới xuất hiện từ trong tác phẩm Đường cách mệnh, ra đời năm 1927, khi Người phê phán những nhà nước tư sản của Mỹ và Pháp đồng thời đề cao Nhà nước Nga sau Cách mạng tháng Mười năm 1917. Nhưng, phải đến sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh mới bắt tay vào việc xây dựng chính quyền của dân và hoàn thiện về quan niệm nhà nước kiểu mới, tức nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Nói rõ tính chất và quan niệm về nhà nước kiểu mới này tại cuộc họp Quốc hội đầu tiên năm 1946, Hồ Chí Minh khẳng định: Chính phủ sau đây là một Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái. Điều đó chứng tỏ Hồ Chí Minh luôn nghĩ đến việc xây dựng một nhà nước thực sự của dân, đó cũng là nhà nước của cả dân tộc. Điều này còn phản ánh rõ ý nguyện xây dựng một nhà nước kiểu mới “lấy dân làm gốc”, cũng có thể gọi là nhà nước của nhân dân, nhưng không quan niệm nhân dân theo kiểu vô chính phủ. Trái lại, nhân dân nói ở đây là lực lượng cách mạng đã giác ngộ, đã được tổ chức và nhất là có sự lãnh đạo đúng đắn của ĐCS hướng theo mục tiêu phấn đấu do Đảng đề ra.

Vậy, thực chất quan điểm Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền (ĐCQ) là thế nào, gồm những nội dung gì?

1. Trước hết, khái niệm ĐCQ là do Lênin đề ra đầu tiên sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Hồ Chí Minh không chỉ dùng khái niệm ĐCQ mà Người cũng rất có ý thức đến vai trò cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước cũng như đối với dân tộc. Điều đó có nghĩa là, Người đã thấy rõ trách nhiệm trước dân tộc của Đảng ta trong điều kiện đã giành được chính quyền. Cho nên, dù hoạt động công khai hay bán công khai thì Đảng ta vẫn phải có trách nhiệm lãnh đạo trực tiếp và toàn diện chính quyền nhân dân hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc và hướng đất nước theo mục tiêu xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam như Cương lĩnh đầu tiên do Đảng đề ra.

Với tư cách một lãnh tụ của Đảng, Hồ Chí Minh không bao giờ quên nhắc nhở cán bộ đảng viên phải nhớ đến trách nhiệm của một ĐCQ. Người luôn chú ý giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và toàn Đảng nói chung về trách nhiệm của Đảng đối với nhân dân, đối với Nhà nước của dân cũng như đối với toàn dân tộc. Cho đến cuối đời, trong Di chúc, Người vẫn không quên nhắc lại: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”. Trong bối cảnh đất nước tiến hành sự nghiệp đổi mới, vận hành đất nước theo cơ chế thị trường như hiện nay, điều căn dặn, nhắc nhở đó của Hồ Chí Minh càng trở nên rất cần thiết và thiêng liêng hơn bao giờ hết. Có thấy rõ Đảng ta là một ĐCQ thì mới thấy hết trách nhiệm của mình trước những khó khăn của nhân dân, mới không lơ là giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên ý thức trách nhiệm đối với nhân dân và dân tộc, mới mạnh dạn đấu tranh với những cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất trong đảng và trong bộ máy nhà nước để vượt qua những khó khăn, thách thức nhằm xây dựng đất nước trong bối cảnh và điểu kiện mới.

3

Page 4: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

2. Quan trọng hơn là phải hiểu quan niệm của Hồ Chí Minh về ĐCQ, về bản chất của nhà nước kiểu mới và về mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thấy rõ Đảng ta là một ĐCQ là cần thiết nhưng chưa đủ, mà phải hiểu rõ quan niệm của Hồ Chí Minh về ĐCQ phải như thế nào, để từ đó không chỉ chuẩn bị những cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc xây dựng Đảng nói chung cũng như việc xây dựng nhà nước kiểu mới thực sự của dân, do dân và vì dân như Người đòi hỏi.

Vấn đế đặt ra đối với Hồ Chí Minh là, chính quyền cách mạng đã thuộc về nhân dân, thì tất cả quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân. Để đạt mục tiêu ấy, Hồ Chí Minh luôn suy nghĩ và lo lắng rằng ĐCQ phải làm thế nào để nhân dân thực sự làm chủ, thực sự nắm quyền lực nhà nước, thực hiện lý tưởng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Người luôn có ý thức đề phòng ĐCQ sẽ làm biến chất đảng viên, nhất là đảng viên có chức có quyền, và do đó sẽ làm biến chất Đảng dẫn đến biến chất cả Nhà nước. Từ đó, Đảng sẽ không những không thực hiện được sứ mệnh lãnh đạo Nhà nước, mà ngược lại, còn có thể làm tha hoá Nhà nước, tha hoá Đảng khi đảng viên biến chất nắm được quyền lực trong tay. Cho nên, khi nói đến ĐCQ, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và vai trò của dân đối với Đảng và Nhà nước.

3. Nói về bản chất của ĐCQ, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: Những người cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho CNXH hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên thế giới. Đó là mục tiêu lý tưởng của Đảng đề ra khi mới thành lập mà bất cứ một đảng viên nào khi vào Đảng đều được nhắc đến lý tưởng cao cả đó như một điều kiện đứng trong hàng ngũ của Đảng. Nhưng khi Đảng đã trở thành một ĐCQ, không ít đảng viên dễ quên đi cái lý tưởng cao cả mà mình vẫn tâm niệm, tuyên thề.

Thấy rõ nguy cơ biến chất, tha hoá của một ĐCQ, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở đảng viên phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, không được chủ quan tự mãn khi đã nắm quyền trong tay, không được biến thành những “ông quan cách mạng”. Không phải là ngẫu nhiên Hồ Chí Minh lại luôn đề cao đạo đức cách mạng và chống chủ nghĩa cá nhân một cách quyết liệt như chúng ta đã thấy. Hơn thế nữa, Người còn nói rõ ĐCQ phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của dân. Có lẽ, trong các lãnh tụ của ĐCS, không một ai nói rõ, nói mạnh mẽ về vai trò của ĐCQ đối với nhân dân như Hồ Chí Minh.

Trong suốt 24 năm lãnh đạo Nhà nước, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Cho đến cuối đời, Người viết bài “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, đăng trên báo Nhân dân ngày 3/2/1969, trước lúc Người qua đời chỉ có 7 tháng. Trong bản Di chúc, Người vẫn không quên căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền... Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Với Hồ Chí Minh, đây là một nguyên tắc lớn không thể thay đổi, nếu thay đổi cũng

4

Page 5: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

có nghĩa là thay đổi bản chất của ĐCS, cũng có nghĩa là Đảng không còn là ĐCQ. Cầm quyền, không phải là đứng trên nhân dân, trái lại, theo Hồ Chí Minh, cái quyền mà Đảng có được, là do dân, nhờ dân và của dân, cho nên, cầm quyền không phải là đứng trên dân như cách hiểu của những người trong xã hội cũ mà là công bộc thực sự của nhân dân. Hơn nữa, Hồ Chí Minh còn đòi hỏi Đảng phải “là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Mới nghe qua quả là khó hiểu, và trong thực tế không dễ thực hiện điều đó, nếu không thật sự quán triệt và tu dưỡng mình như quan niệm của Hồ Chí Minh. Nhưng càng ngẫm nghĩ, càng thấy rõ ý thức sâu xa và thâm thuý khi thấy Hồ Chí Minh đề cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân đối với một ĐCQ như Đảng ta, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Đương nhiên, phải hiểu “đầy tớ” theo nghĩa là phục vụ hết mình cho nhân dân, cái gì có lợi cho dân thì hết sức làm, cái gì có hại cho dân thì hết sức tránh, và phấn đấu tu dưỡng theo mục tiêu thực sự là “đầy tớ” của nhân dân thì mới coi Nhà nước là công cụ của nhân dân để phục vụ dân, mới biến quyền lực nhà nước thành quyền lực của nhân dân.

Trong thực tế những năm gần đây, những điều Hồ Chí Minh nói về ĐCQ cũng như về cán bộ, đảng viên đã diễn ra đúng như Người dự báo. Trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, có sự giao lưu, hợp tác rộng rãi với các nước trên thế giới, đã có không ít cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất. Nếu mỗi đảng viên cũng như toàn Đảng không có ý thức nâng cao cảnh giác, không ra sức tu dưỡng đạo đức cách mạng và chống những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, như Hồ Chí Minh đề phòng, thì Đảng không chỉ mất vị trí lãnh đạo, mất vị trí cầm quyền mà Nhà nước cũng có thể biến chất, không còn là Nhà nước của dân, do dân và vì dân nữa. Đó là bài học đã diễn ra ở một số nước XHCN. Đương nhiên, Đảng ta không phải là ngoại lệ, nếu không thực hiện kiên quyết và nghiêm túc những giáo huấn của Hồ Chí Minh về xây dựng ĐCQ và Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

4. Để thấy rõ vai trò của ĐCQ theo quan điểm Hồ Chí Minh, còn cần phải làm rõ quan điểm của Người về nhà nước kiểu mới của dân, do dân và vì dân. Nói đến trách nhiệm của ĐCQ, Hồ Chí Minh cho rằng một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng là phải đảm bảo cho nhân dân thật sự quản lý công việc của Nhà nước. Đảng không chỉ chịu trách nhiệm lãnh đạo Nhà nước mà cần phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về mọi hoạt động của Nhà nước. Đảng mạnh thì Nhà nước mạnh. Nhà nước hoạt động tốt, không quan liêu, không tham nhũng thì không những nhân dân yêu mến, tín nhiệm Nhà nước mà nhân dân cũng tin tưởng, yêu mến Đảng. Cho nên, theo quan điểm Hồ Chí Minh, ĐCQ gắn liền với Nhà nước kiểu mới. Điều đó phản ánh bản chất của nhà nước kiểu mới và chỉ có Nhà nước ta, Nhà nước của dân, do dân và vì dân mới có hiện tượng dân thừa nhận một ĐCQ độc nhất. Bởi lẽ, Đảng đã vì dân thì tất nhiên dân cũng vì Đảng, bảo vệ Đảng và coi ĐCQ là của chính mình.

Tóm lại, Đảng và Nhà nước, dưới con mắt của nhân dân không phải là hai mà chỉ là một, là Đảng ta, Nhà nước ta. Nhưng, giữa Đảng và Nhà nước ta lại không thể lẫn lộn trách nhiệm. Hồ Chí Minh cũng đề phòng sự lẫn lộn này dẫn đến bao biện chức năng giữa Đảng và Nhà nước. Người cho rằng, ĐCQ phải phát huy được vai trò của

5

Page 6: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Nhà nước với tư cách bộ máy do nhân dân lập ra, dân giao phó những nhiệm vụ quản lý, điều hành đất nước. Nhà nước có mạnh thì dân mới mạnh. Còn Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng chủ trương, đường lối và phải tuân theo pháp luật chứ không thể đứng ngoài, đứng trên pháp luật. Đảng tôn trọng Nhà nước cũng có nghĩa là tôn trọng quyền làm chủ của nhân dàn, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Hồ Chí Minh phê phán nghiêm khắc hiện tượng lạm quyền, “cậy thế mình là người của Đảng, phớt cả kỷ luật và cả cấp trên trong các đoàn thể nhân dân hoặc cơ quan Chính phủ”. Người yêu cầu “đảng viên chẳng những phải giữ gìn kỷ luật sắt, kỷ luật tự giác của Đảng mà còn phải giữ gìn kỷ luật của chính quyền, của cơ quan đoàn thể cách mạng, của nhân dân”.

Rất tiếc là, những điều Hồ Chí Minh đề phòng vẫn có lúc xảy ra như chúng ta đã thấy trước đây cũng như gần đây. Điều đó càng chứng tỏ, những điều răn dạy của Hồ Chí Minh có tầm quan trọng và bức thiết như thế nào đối với một ĐCQ trong bối cảnh xây dựng đất nước hiện nay.

Đương nhiên, Đảng chỉ có thể thực hiện nhiệm vụ của mình thông qua Nhà nước và nhất là được nhân dân ủng hộ. Song, tất cả những điều kiện đó cũng phụ thuộc vào trách nhiệm xây dựng Đảng ta thực sự là một ĐCQ duy nhất của dân, do dân và vì dân như chính mục tiêu xây dựng một nhà nước kiểu mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, khi nói đến quan điểm Hồ Chí Minh về Đảng và ĐCQ, chúng ta không thể không nói đến nhà nước kiểu mới vốn gắn với một ĐCQ kiểu mới như Hồ Chí Minh quan tâm từ đầu và có sự nhất quán trong hệ thống tư tưởng của Người.

Theo PGS.TS Thành Huy, Tạp chí Lịch sử Đảng tháng 9/2005.

NỘI DUNG II. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI KHUYẾT ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHỮNG CÁN BỘ MẮC SAI LẦMNgày 25/10/2005. Cập nhật lúc 19h 32' Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng là người hết sức chú trọng chăm lo công tác xây dựng Đảng, sao cho Đảng ta thực sự là một đảng chân chính cách mạng, hoàn thành sứ mệnh lịch sử được dân tộc, nhân dân trao cho. Về công tác này, Người đề cập đến nhiều vấn đề thành một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, sâu sắc; trong đó có quan điểm về thái độ đối với khuyết điểm của Đảng và thái độ đối với những cán bộ, đảng viên mắc sai lầm.

Trước hết, theo Hồ Chí Minh, trong đấu tranh cách mạng, trong công tác hàng ngày, Đảng ta cũng như cán bộ, đảng viên của Đảng không tránh khỏi mắc khuyết điểm, sai lầm; điều quan trọng là thấy rõ khuyết điểm, sai lầm, không giấu giếm và quyết tâm sửa chữa, để Đảng ta, cán bộ ta tiến bộ mãi.

Người chỉ rõ: “Trên con đường phát triển cách mạng của mình, Đảng ta, quân đội ta

6

Page 7: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

cũng như mỗi đồng chí chúng ta luôn luôn có ưu điểm và không trách khỏi có khuyết điểm. Chỉ có không ngừng đấu tranh, phê bình và tự phê bình, nhận rõ đúng, sai, phát huy cái đúng, khắc phục cái sai, mới có thể làm cho mình, cho Đảng, cho cách mạng tiến bộ mãi”. Người còn nói: “Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm”; “có hoạt động thì khó mà hoàn toàn tránh khỏi sai lầm. Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa”3. Hồ Chí Minh còn khẳng định: “Đảng là người, Đảng là cán bộ, là đảng viên, tất nhiên là có sai lầm”4. Và theo Người, Đảng có khuyết điểm, cán bộ mắc sai lầm thì không nên giấu giếm. Người chỉ rõ: “Nói về Đảng, một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.

Quan điểm này của Hồ Chí Minh vừa thể hiện tính khách quan, khoa học, vừa tỏ rõ tính cách mạng của một người chân chính trong cách nhìn nhận khuyết điểm của Đảng, sai lầm của cán bộ, đảng viên của Đảng.

Đối với khuyết điểm của Đảng, Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng:

“Vì Đảng rất to, người rất đông; mỗi hạng người lại có thói quen, tính nết, trình độ, tư tưởng, nhận xét khác nhau. Nhất là khi phong trào cách mạng càng sôi nổi, hoàn cảnh càng khó khăn, thì sự khác nhau đó càng rõ rệt, càng trở nên gay go.” Rồi Người nêu câu hỏi: “Nên giải quyết những mối mâu thuẫn đó thế nào?”.

Hồ Chí Minh nhận định: “Có người thì cho rằng: trong Đảng việc gì cũng tốt, không có khuyết điểm gì đáng lo. Có người lại cho rằng: trong Đảng cái gì cũng kém, đầy khuyết điểm, vì vậy mà họ bi quan, thất vọng”. Theo Người: “Hai cách nhận xét đó đều không đúng”.

Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Sự thật là: Đảng ta rất tiên tiến, rất vẻ vang. Nhưng nội bộ vẫn còn những sai lầm và khuyết điểm. Đồng thời, chúng ta thấy cái nguồn gốc của những sai lầm khuyết điểm đó, và chắc tìm được cách sửa chữa…”

Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Thái độ mỗi người đối với những khuyết điểm của Đảng ta cũng khác nhau:

Bọn phản động thì lợi dụng những khuyết điểm đó và tô vẽ thêm để phá hoại Đảng ta.

Lợi dụng những sai lầm và khuyết điểm đó để đạt mục đích tự tư tự lợi của họ. Đó là thái độ của đảng viên và cán bộ đầu cơ.

Bọn thứ ba thì sao cũng mặc kệ, sao xong chuyện thì thôi. Không phê bình, không tự phê bình. Đó là thái độ của những đảng viên và cán bộ ươn hèn, yếu ớt.

7

Page 8: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Bọn thứ tư thì đối với những người có khuyết điểm và sai lầm đó, như đối với hổ mang, thuồng luồng. Họ đòi phải đuổi bọn kia ra khỏi Đảng ngay. Nếu Đảng không làm như thế thì họ cho rằng: Thôi, hỏng hết rồi! Do đó, họ đâm ra chán nản, thất vọng. Hoặc họ không làm gì nữa hết. Thậm chí họ bỏ Đảng. Đó là thái độ những người máy móc quá. Đó cũng là bệnh “chủ quan”.

Thái độ thứ năm, là thái độ đúng. Tức là:

a) Phân tích rõ ràng, cái gì đúng, cái gì sai.

b) Không chịu nổi ảnh hưởng của những chủ trương sai lầm, những phần tử không tốt. Ra sức học tập và nâng cao những kiểu mẫu tốt.

c) Không để mặc kệ. Mà ra sức tranh đấu sửa chữa những khuyết điểm, không để nó phát triển ra, không để nó có hại cho Đảng.

d) Không làm máy móc. Nhưng khéo dùng cách phê bình và tự phê bình để giúp đồng chí khác sửa đổi những sai lầm và khuyết điểm, giúp họ tiến bộ.

đ) Đoàn kết Đảng bằng sự tranh đấu nội bộ. Nâng cao kỷ luật và uy tín của Đảng.”

Hồ Chí Minh còn chỉ rõ rằng:

“Bọn phản động và bọn đầu cơ là địch nhân lọt vào trong Đảng để phá hoại. Vì vậy chúng ta phải ra sức đề phòng. Mỗi khi trong Đảng có khuyết điểm thì chúng ta phải tìm cách chớ để cho ai lợi dụng. Đó là phận sự của mỗi đảng viên chân chính”.

“Thái độ thứ ba, ai mặc kệ ai, cố nhiên cũng không đúng. Tuy vậy, trong Đảng còn có nhiều người giữ thái độ đó, nhất là khi cấp dưới đối với cấp trên. Thái độ đó thường sinh ra thói “không nói trước mặt, hục hặc sau lưng”. Nó gây nên sự uất ức và không đoàn kết trong Đảng. Nó để cho bọn vu vơ có thể chui vào hoạt động trong Đảng. Nó để cho khuyết điểm ngày càng chồng chất lại và phát triển ra.”

“Nếu theo thái độ thứ tư thì Đảng chỉ còn một nhóm cỏn con, vì số đông sẽ bị khai trừ hết. Mà chính những người có thái độ đó cũng bị khai trừ, vì họ đã phạm cái khuyết điểm hẹp hòi.”

Hồ Chí Minh kết luận rằng: “Trong công tác, trong đấu tranh, trong huấn luyện, các đảng viên, các cán bộ, cần phải luôn luôn tự hỏi mình, tự kiểm điểm mình và đồng chí mình. Luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi”.

Đối với những cán bộ mắc sai lầm, theo Hồ Chí Minh cũng phải có thái độ khoa học, cách mạng, rất độ lượng song cũng rất nghiêm khắc.

8

Page 9: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chúng ta không sợ có sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm. Và càng sợ những người lãnh đạo không biết tìm cách đúng để giúp cán bộ sửa chữa sai lầm, khuyết điểm”.

Theo Người: “Trừ những bọn cố ý phá hoại, ngoài ra không ai cố ý sai lầm, sai lầm vì không hiểu, không biết. Vì vậy, đối với cán bộ bị sai lầm, ta quyết không nên nhận rằng họ muốn như thế, mà công kích họ. Trái lại, ta phải dùng thái độ thân thiết, giúp họ tìm ra cái cớ vì sao mà sai lầm? Sai lầm như thế sẽ có hại đến công việc thế nào? Làm thế nào mà sửa chữa? Tóm lại, phải phê bình cho đúng.” Hồ Chí Minh còn chỉ rõ rằng: “Muốn họ thành tâm sửa chữa, phải giải thích rõ ràng, làm cho họ tự trông thấy, tự nhận rõ sai lầm đó, làm cho họ vui lòng sửa đổi, chứ không phải bị cưỡng bức mà sửa đổi”. “Sự sửa đổi khuyết điểm, một phần cố nhiên là trách nhiệm của cán bộ đó. Nhưng một phần cũng là trách nhiệm của người lãnh đạo”.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Sửa chữa sai lầm, cố nhiên cần dùng cách giải thích thuyết phục, cảm hoá, dạy bảo. Song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất luật không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không dùng xử phạt là không đúng. Mà chút gì cũng dùng đến xử phạt cũng không đúng. Vì vậy, cần phải phân tách rõ ràng cái cớ sai lầm, phải xét kỹ lưỡng việc nặng hay nhẹ, phải dùng xử phạt cho đúng”.

Đối với những cán bộ phạm sai lầm do “hám danh trục lợi”, “cố ý phá hoại”, lại “ngoan cố, không chịu ăn năn”, “phê bình, giáo dục mấy cũng cứ ỳ ra, không chịu sửa đổi”, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đối với hạng người này, chúng ta phải nghiêm khắc, phải mời họ ra khỏi Đảng, “phải có kỷ luật thích đáng”, để tránh “con sâu làm rầu nồi canh”.

Hồ Chí Minh dạy rằng: “Cách đối với cán bộ là một điều trọng yếu trong sự tổ chức công việc. Cách đối với cán bộ có khéo, có đúng thì mới thực hiện được nguyên tắc: “Vấn đề cán bộ quyết định mọi việc.” Người còn nhấn mạnh rằng: “Phê bình cho đúng, chẳng những không làm giảm thể diện và uy tín của cán bộ, của Đảng. Trái lại còn làm cho sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn, thiết thực hơn, do đó mà uy tín và thể diện càng tăng thêm”.

Như vậy, quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với khuyết điểm của Đảng và đối với cán bộ mắc sai lầm vừa khoa học vừa cách mạng, rất độ lượng và cũng rất nghiêm khắc. Người cho rằng, Đảng ta, cán bộ, đảng viên của Đảng trong đấu tranh cách mạng, trong công tác hàng ngày không thể tránh khỏi mắc khuyết điểm, bị sai lầm; chúng ta không sợ mắc khuyết điểm, không sợ bị sai lầm; điều quan trọng là không giấu giếm khuyết điểm, sai lầm của mình, tìm ra nguyên nhân dẫn tới khuyết điểm, sai lầm, rồi tìm mọi cách để sửa chữa và quyết tâm sửa chữa; mặt khác, tuỳ theo tội nặng hay tội nhẹ, Đảng phải xử phạt cán bộ bị sai lầm cho đúng. Đối với những cán bộ, đảng viên cố ý sai lầm, cố tình phá hoại mà ngoan cố, không chịu ăn

9

Page 10: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

năn, sửa chữa, Đảng phải có kỷ luật thích đáng, không để ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Có vậy, Đảng ta, cán bộ, đảng viên của Đảng mới tiến bộ không ngừng./.

Theo TS. Vũ Văn Châu, Tạp chí Thông tin Công tác tư tưởng lý luận tháng 10/2005

NỘI DUNG III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAYNgày 1/10/2005. Cập nhật lúc 14h 12' Bác Hồ lúc sinh thời rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, Người đã chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Người đã cho chúng ta nhiều chỉ dẫn có ý nghĩa phương pháp luận khoa học để xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh.

Điều quan trọng trước tiên, theo Bác là phải hiểu biết đúng cán bộ. Muốn vậy, phải chí công và vô tư trong việc xem xét cán bộ. Người nói: “Biết người cố nhiên là khó. Tự biết mình cũng không phải là dễ. Đã không tự biết mình thì khó mà biết người, vì vậy, muốn biết đúng sự phải trái ở người ta, thì trước phải biết đúng sự phải trái của mình. Nếu không biết sự phải trái ở mình, thì chắc không thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu”…

Bác thấy rằng, người lãnh đạo thường phạm bốn bệnh khi xem xét cán bộ: tự cao, tự đại, ưa nịnh hót và do yêu ghét mà xem xét con người, đem một khuôn cứng nhắc để đánh giá cán bộ. Người lãnh đạo nếu mắc một trong bốn bệnh ấy cũng như một người mang kính có màu, không bao giờ thấy được màu sắc thực sự của sự vật. Bác khuyên người lãnh đạo phải bỏ kính màu đó, sửa chữa những bệnh ấy mới có thể biết đúng cán bộ.

Người dạy: chúng ta phải có phương pháp khách quan, toàn diện trong việc xem xét, đánh giá cán bộ. Chống lối “duy ngã” siêu hình cứng nhắc, hời hợt. Khi xem xét cán bộ không nên chỉ nhìn bề ngoài, xem trong một lúc, một việc mà phải xem xét một cách toàn diện, cả quá trình phát triển của họ, những lúc gặp khó khăn cũng như lúc thuận lợi.

Người chỉ rõ, phải biết sử dụng cán bộ cũng như khi đánh giá cán bộ phải rất “vô tư”. Người phê phán gay gắt những bệnh ham dùng người bà con, anh em quen biết, ham dùng người nịnh hót, ghét người chính trực, ham dùng những người hợp tính với mình, tránh những người không hợp ý mình. Bác căn dặn: “Mình phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể đối với cán bộ một cách chí công vô tư, không có thành kiến, khiến cho cán bộ khỏi bị bỏ rơi”. “Phải có tính chịu khó dạy bảo, mới có thể nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp cho họ tiến bộ”. “Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần gũi mình”. Bác đã nêu rõ 4 tiêu chuẩn để lựa chọn cán bộ: “+ Những người đã tỏ ra rất trung thành, hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh.

10

Page 11: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

+ Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng, luôn luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế thì dân chúng mới tin cậy cán bộ và nhận cán bộ đó là người lãnh đạo của họ.

+ Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn cảnh khó khăn. Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không phải người lãnh đạo. Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi thất bại không hoang mang, khi thắng lại không kiêu ngạo. Khi thi hành nghị quyết thì kiên quyết, gan góc không sợ khó khăn.

+ Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật.

Đó là khuôn khổ để lựa chọn cán bộ. Chúng ta phải theo cho đúng”.

Trong công tác cán bộ, Người luôn luôn coi trọng cả đức và tài của người cán bộ. Người nói: “Có tài phải có đức. Có tài không có đức tham ô, hủ hoá, có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa không giúp ích gì được ai”. Trong công tác cán bộ, Bác chỉ rõ những khuyết điểm cần phải sửa: “Trong Đảng ta, có những nơi thường dùng những người văn hay nói khéo, nhưng không làm được việc, không ra tranh đấu. Mà những đồng chí viết không hay, nói không thạo nhưng rất trung thành, hăng hái, rất gần gũi quần chúng, thì bị dìm xuống. Chúng ta phải sửa chữa ngay những khuyết điểm đó”. Bác còn chỉ rõ: Khi giao trách nhiệm cho cán bộ phải làm cho họ yên tâm công tác, hứng thú trong công việc. Muốn thế, người lãnh đạo phải làm sao cho cán bộ “cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến, cả gan phụ trách, cả gan làm việc”. Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải có thái độ và cách làm việc thực sự dân chủ, để mọi người xung quanh mạnh dạn, thẳng thắn nói những ưu, khuyết điểm của mình. Người lãnh đạo thực sự dân chủ, ý kiến của cán bộ được thực sự tôn trọng, thì khối đoàn kết nội các được củng cố, những sáng kiến được nảy nở, công việc nhất định sẽ được hoàn thành tốt đẹp. Người nói: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái và những người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc thì những khuyết điểm lặt vặt cũng tự sửa chữa được nhiều”. Theo Người, điều mấu chốt trong cách lãnh đạo là làm sao cho cấp dưới có tinh thần chủ động sáng tạo trong công việc, có tinh thần trách nhiệm cao, dám tìm tòi suy nghĩ và dám quyết định. Bác chỉ rõ: “khi giao trách nhiệm cho cán bộ cần phải chỉ đạo rõ ràng, sắp đặt đầy đủ. Vạch rõ những khuyết điểm chính và những khó khăn có thể xảy ra. Những vấn đề đã được quyết định rồi thì giao cho họ làm, khuyên họ cứ cả gan mà làm. Cũng như trong quân đội, khi chiến lược, chiến thuật đã quyết định rồi, thì Tổng tư lệnh không cần nhúng tay vào những vấn đề lặt vặt. Phải để cho các cấp chỉ huy có quyền “tuỳ cơ ứng biến” mới có thể phát triển tài năng của họ. Việc gì cấp trên cũng nhúng vào, cán bộ cũng như một cái máy, việc gì cũng chờ mệnh lệnh, sinh ra ỷ lại, mất hết sáng kiến”.

Bác cũng chỉ rõ: “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, muốn biết các Nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai

11

Page 12: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

làm cho qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát, kiểm soát khéo bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”. Kiểm tra, kiểm soát có tác dụng không những đánh giá được sự đúng đắn các chủ trương, chính sách, quyết định đã đề ra mà còn đánh giá mức độ ưu điểm, khuyết điểm của cơ quan, đơn vị và của cán bộ, đảng viên trong tổ chức thực hiện.

Quán triệt những tư tưởng của Bác Hồ về công tác cán bộ trên đây, trong sinh hoạt Đảng, cần đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, đưa vào nội dung kiểm điểm, rút ra những ưu, khuyết điểm cần phải khắc phục để làm tốt hơn nữa công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vững mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ “đổi mới” theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Theo Trần Đình Quảng, Tạp chí Kiểm tra tháng 7/2005

NỘI DUNG IV. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

Ngày 8/8/2003. Cập nhật lúc 10h 25'

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống lý luận bao trùm nhiều lĩnh vực, một trong những nét đặc sắc nổi bật trong tư tưởng của Người là vấn đề đạo đức của người cách mạng nói chung và đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên nói riêng. Người không chỉ để lại cho chúng ta những giá trị lý luận về đạo đức cách mạng mà bản thân Người còn là một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, một biểu tượng của nền đạo đức tương lai.Hồ Chí Minh cho rằng, người cán bộ, đảng viên cần phải có đạo đức cách mạng, vì cán bộ, đảng viên có vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng. Đảng viên là tế bào của Đảng. Sức mạnh của Đảng là do sức mạnh của đội ngũ đảng viên tạo nên. Người nói: "Để lãnh đạo cách mạng Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do đảng viên đều tốt". Cán bộ đảng viên là người trực tiếp xây dựng và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, là cầu nối liền giữa Đảng với quần chúng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn xã hội, cán bộ, đảng viên nắm giữ những cương vị chủ chốt trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước rất dễ dẫn tới nguy cơ quan liêu, xa rời quần chúng, tham ô, tham nhũng, thoái hóa biến chất về đạo đức lối sống. Vì vậy, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên dù ở bất cứ cương vị nào cũng đều phải luôn tu dưỡng, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng. Người nghiêm khắc phê phán những thói hư tật xấu của một số cán bộ, đảng viên như bệnh công thần, kiêu ngạo, tham ô, cục bộ, bản vị, tự do vô kỷ luật. Nội dung bản chất của đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.Hồ Chí Minh cho rằng muốn có đạo đức cách mạng thì phải giáo dục, rèn luyện. Người nói: "Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống, nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". Theo Người, giáo dục, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp. Trước hết cần chú trọng giáo dục chủ nghĩa Mác-Lê-nin, mục tiêu lý

12

Page 13: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

tưởng cách mạng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Đây là điều kiện, là nền tảng để hình thành, phát triển và củng cố đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng giáo dục, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua đấu tranh cách mạng, thông qua phê bình, tự phê bình.Như vậy, theo Hồ Chí Minh, giáo dục, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên phải kết hợp chặt chẽ các biện pháp tư tưởng và tổ chức, lý luận và thực tiễn, giữa giáo dục nâng cao nhận thức lý luận, quan điểm tư tưởng với rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh cách mạng và phải được tiến hành trong một tổ chức chặt chẽ. Nếu xem nhẹ, buông lỏng một mặt nào đó hoặc tách rời các mặt đó với nhau thì công tác giáo dục, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên không thể có chất lượng, hiệu quả cao được.Trung thành với những nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới của Lê-nin, thực hiện lời dạy của Hồ Chí Minh, trong quá trình xây dựng và hoạt động của mình, Đảng ta rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, xem đó là yếu tố rất quan trọng, trực tiếp ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và uy tín của Đảng. Được Hồ Chí Minh và Đảng ta giáo dục, rèn luyện, được thử thách tôi luyện trong thực tiễn đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên đã phấn đấu quên mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Tổ quốc và nhân dân, xứng đáng là người chiến sĩ tiên phong có phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống trong sạch lành mạnh, mẫu mực về kỷ luật tác phong, được quần chúng tin yêu, mến phục. Những cán bộ, đảng viên đó đã đóng góp to lớn cho thắng lợi của cách mạng. Đáng tiếc rằng ngày nay vẫn có một bộ phận cán bộ đảng viên tham nhũng, thoái hóa biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống. Từ Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XIII) đến Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tình hình đó vẫn chưa giảm. Điều đáng lo ngại là một số cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật trong những vụ án gần đây đa số là những cán bộ, đảng viên có chức có quyền, công tác trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Thiệt hại về kinh tế, điều đó đã rõ, nhưng cái mất mát lớn hơn đó là niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Nhân dân tin Đảng, đi theo Đảng vì Đảng ta là đạo đức, là văn minh, Đảng đem lại lợi ích cho nhân dân. Đảng muốn lãnh đạo được nhân dân thì mỗi cán bộ đảng viên phải là đầy tớ trung thành của nhân dân. Nhưng một số cán bộ, đảng viên đã quên đi hoặc cố tình không thực hiện lời dạy của Hồ Chí Minh, lười tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng để cho chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội thực dụng trỗi dậy, lấn át phần tốt trong con người mình, hoặc đã bị gục ngã trước sức mạnh của đồng tiền, đặt cái riêng lên trên cái chung, đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể, dùng mọi thủ đoạn, mánh khóe hết sức tinh vi, liên kết chặt chẽ với nhau, thậm chí liên kết cả với những phần tử "xã hội đen" để đục khoét của công, làm giàu bất chính. Đó là những con sâu, con mọt làm suy yếu Đảng, làm phai nhạt hình ảnh người cộng sản trong lòng nhân dân, làm giảm niềm tin của quần chúng đối với Đảng.Trước khi vĩnh biệt chúng ta, Hồ Chí Minh đã viết bài báo: "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân". Đó là những điều tâm huyết nhất mà Người rút ra từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng ta nhất là từ khi Đảng cầm quyền. Trong đợt sinh hoạt chỉnh đốn Đảng lần này Đảng nhấn mạnh: Vấn đề cần chú ý là: "Giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân". Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi cơ sở Đảng có kế hoạch định kỳ kiểm điểm việc thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân,

13

Page 14: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

chống tư tưởng cơ hội, thực dụng; tiếp tục đưa việc tự phê bình và phê bình trong các tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở thành nền nếp thường xuyên, nghiêm túc, có kết quả thiết thực. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, làm trong sạch đội ngũ đảng viên, kiện toàn tổ chức và cán bộ ở những cơ quan, đơn vị để xảy ra biểu hiện tiêu cực. Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, từng bước cụ thể hóa, bổ sung phát triển đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đấu tranh với những tư tưởng sai trái.Một xã hội ổn định, phát triển bền vững là một xã hội được xây dựng trên nền tảng đạo đức. Một đảng muốn vững mạnh phải đứng vững trên nền tảng đạo đức. Cán bộ, đảng viên phải có đạo đức cách mạng, không có đạo đức cách mạng thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên là đạo đức Hồ Chí Minh. Những điều Hồ Chí Minh nói về đạo đức cách mạng được thể hiện rất nhiều trong các bài nói, bài viết của Người. Học tập làm theo tư tưởng của Người về giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên là hết sức cần thiết. Đẩy mạnh phong trào học tập đạo đức Hồ Chí Minh, phấn đấu thực hiện cho được những lời dạy của Người là nhiệm vụ cấp bách của cán bộ, đảng viên hiện nay. (nguồn: Báo QĐND)

NỘI DUNG V. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAYNgày 4/7/2005. Cập nhật lúc 14h 3' Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được Đại hội VII Đảng thông qua đã xác định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động... Điều đó cũng có nghĩa là, tư tướng Hồ Chí Minh là một bộ phận trong hệ tư tưởng của Đảng, vì thế sự nghiệp xây dựng CNXH của Đảng và nhân dân ta phải trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thành tựu mà Đảng giành được trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong 75 năm qua quả vô cùng lớn lao; Đảng luôn thể hiện vai trò tiên phong và tính cách mạng triệt để, luôn trung thành với lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Tuy vậy, trong bối cảnh và tình hình mới, trong Đảng đang nẩy sinh một số mặt yếu kém, bất cập, nếu điều đó không được khắc phục sẽ làm yếu sức chiến đấu của Đảng, suy giảm lòng tin của nhân dân.

Nhận thức sâu sắc mối nguy hại ấy, Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII đã ra Nghị quyết “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng” Từ đó cho đến nay, sự nghiệp lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội đã đạt được nhiều thành tựu vượt bậc bởi những phẩm chất và năng lực mới của Đảng, thế nhưng: “Kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (lần 2) chưa đạt được yêu cầu, chưa tạo được những chuyển biến cơ bản, chưa ngăn chặn và đẩy lùi được tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí”. Vì vậy, việc quán triệt sâu sắc những luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt tư tưởng của Người về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trở thành vấn đề tiên quyết, nhằm đẩy mạnh

14

Page 15: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

“cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh đốn Đảng

Trong toàn bộ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về Đảng Cộng sản là một trong những bộ phận quan trọng nhất. Tư tưởng ấy được thể hiện ở những luận điểm chủ yếu: Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”, là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam, là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam Đảng phải được xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.

Ngay từ năm 1925, trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, trình bày vai trò to lớn về sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng, thì tư tưởng về chỉnh đốn Đảng của Hồ Chí Minh cũng được hình thành; từ đó tư tưởng này tiếp tục được phát triển, trở thành một trong các luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam. Luận điểm ấy chính là sản phẩm được Người chắt lọc trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, được trải nghiệm trong thực tiễn hoạt động cách mạng sôi động, phong phú; đồng thời là những lời tâm huyết Người để lại cho toàn Đảng trước lúc đi xa: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉnh đốn Đảng là công việc thường xuyên. Điều đó xuất phát từ vị thế, vai trò của Đảng, bởi “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”. nghĩa là Đảng trực tiếp lãnh đạo chính quyền. lãnh đạo Nhà nước để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; Đảng cầm quyền, nhưng dân là chủ. Vì vậy, chỉnh đốn Đảng một mặt. khẳng định sức mạnh quyền lực to lớn của Đảng trong cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới đối với các lĩnh vực đời sống xã hội; mặt khác, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên lợi dụng quyền lực vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đi ngược lại lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, dẫn tới lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi.

Chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh không ngoài mục đích nào khác là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn, đường lối chính trị, bản lĩnh chính trị của Đảng luôn đúng đắn, vững vàng; là tư tưởng cách mạng triệt để, đấu tranh không khoan nhượng với các trào lưu cơ hội, xét lại, giáo điều; là tổ chức chính trị trong sạch, vững mạnh cùng với đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn tu dưỡng về phẩm chất, năng lực, mẫu mực về lối sống: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, luôn xứng đáng “vừa là người lãnh đạo, vưa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân”?

Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng ta “vừa là đạo đức, vừa là văn minh” là người khởi

15

Page 16: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

xướng và lãnh đạo mọi sự đổi thay của đất nước qua các giai đoạn lịch sử của cách mạng. Muốn vậy, trước hết Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn.

Tự đổi mới, tự chỉnh đốn là khẳng định sự vận động nội tại của Đảng cầm quyền trong quá trình lãnh đạo cách mạng; là sự nhận diện đúng quy luật vận động, phát triển của Đảng, đồng thời dự báo những “kẻ thù” nội sinh và ngoại sinh trong sự vận động, phát triển ấy. Với ý nghĩa ấy, tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng trở thành vấn đề tiên quyết để Đảng vượt qua mọi thử thách mới, với những “kẻ thù mới” như: “kiêu ngạo cộng sản”, “nạn mù chữ, “nạn hối lộ”. Tất cả điều đó trở thành nguy cơ, là lời cảnh báo cho những người cộng sản khi trở thành Đảng cầm quyền, mà điều đó nhờ có nhân dân nhưng lại xa rời nhân dân. Chỉ có tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng mới chiến thắng được các loại “kẻ thù” ấy, mới giữ trọn niềm tin tuyệt đối của nhân dân, mới loại bỏ được các nguy cơ huỷ hoại sự nghiệp của Đảng.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh đốn Đảng với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay

- Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng vào cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, trước hết mỗi cán bộ, đảng viên phải tăng cường học tập đạo đức Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.

Theo Hồ Chí Minh: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong suốt”. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn rèn giũa mình để trở thành người có đạo đức cách mạng. Theo đó, Người đã làm giàu truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam bằng sự kế thừa tư tưởng đạo đức phương Đông, những tinh hoa đạo đức nhân loại; tấm gương đạo đức của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã nêu cho Người như một mẫu mực về sự giản dị vĩ đại và sự khiêm tốn cao độ. Người đã học tập và hành động bởi các tấm gương ấy, với nếp sống giản dị, coi khinh mọi sự xa hoa, yêu lao động, đồng cảm sâu sắc với người cùng khổ, hưởng cuộc đấu tranh của mình, của dân tộc mình vào công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Học tập đạo đức Hồ Chí Minh cũng đồng nghĩa với việc làm giàu những phẩm chất chung. cơ bản nhất của đạo đức cách mạng: Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tinh thần quốc tế trong sáng. Trong đó, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là phẩm chất thường trực trong cuộc sống hàng ngày, phải trở thành giá trị bất biến trong mọi môi trường, mọi hoàn cảnh, mọi cơ chế kinh tế của người cộng sản. Điều đó cũng lý giải vì sao sự suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay có nguyên nhân chủ yếu từ sự suy thoái ở phẩm chất này. Do vậy, học tập đạo đức Hồ Chí Minh mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải không ngừng tu dưỡng đạo đức suốt đời; lời nói phải đi đôi với việc làm: phải nêu gương về đạo đức trở thành tấm gương sáng để quần chúng noi theo.

16

Page 17: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

- Quán triệt sâu sắc các nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản trong quá trình thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Trung thành với các nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh đã xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm minh và tự giác; đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng. Các nguyên tắc ấy đều hướng đến xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức, tăng cường sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao chất lượng và hiệu quả sinh hoạt Đảng.

Trong các nguyên tắc trên cần đặc biệt chú trọng nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng, nguyên tắc này là nguyên tắc tổ chức cơ bản làm cho “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”, nguyên tắc lãnh đạo của Đảng thông qua mối quan hệ giữa dân chủ và tập trung, bởi: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung”. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung nguyên tắc sinh hoạt của Đảng bằng tự phê bình và phê bình, vì: “Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. Tự phê bình và phê bình trở thành quy luật phát triển của Đảng. Khi các nguyên tắc này bị vi phạm thì uy tín và sức chiến đấu của Đảng sẽ giảm sút, Đảng không thể “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”, cũng không còn “vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Hoàn thiện nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản vừa là thành viên của hệ thống chính trị, vừa là lực lượng xã hội lãnh đạo hệ thống chính trị và các tổ chức chính trị-xã hội. Do vậy, đổi mới hệ thống chính trị nước ta hiện nay, về thực chất “là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”.

Nội dung và các giải pháp đổi mới hệ thống chính trị nước ta, hiện nay cần tập trung vào đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị; cải cách bộ máy Nhà nước, làm cho bộ máy này thật sự trong sạch, vững mạnh; đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Mọi sự đổi mới ấy phải hướng vào mục đích mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá tinh thần; nâng cao chất lượng dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, tự quản.

Với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, cần đặc biệt quan tâm đến quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc kiểm tra và giám sát các hoạt động của các cơ quan Đảng và Nhà nước; phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh chống tiêu cực, các tệ nạn xã hội, tệ quan liêu, tham nhũng ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, để định hướng đúng và nâng cao chất lượng, hiệu quả các quyền ấy của công dân cần phải tăng cường giáo dục, nâng cao trình độ văn hoá dân chủ cho nhân dân phù hợp với sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá của đất

17

Page 18: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

nước. Dân chủ không tách rời với kỷ luật, kỷ cương, pháp luật.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản là cơ sở lý luận để xây dựng Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh đủ sức hoàn thành sứ mệnh “bộ tham mưu của giai cấp vô sản và nhân dân lao động”? Trong từng luận điểm, từng nội dung của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chỉnh đốn Đảng đều có sức cảm hoá, lôi cuốn bởi chính đạo đức và trí tuệ của Người. Vì vậy, ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cần được soi sáng trong cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay ./.

Thiếu tướng Phương Minh Hòa Phó tư lệnh Quân chủng PK-KQ, Tạp chí Nghệ thuật quân sự Việt Nam tháng 5&6/2005

NỘI DUNG VI. “TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY”Ngày 30/6/2005. Cập nhật lúc 17h 14' Xây dựng đạo đức cách mạng là một trong những vấn đề căn bản mang tính quy luật của một chính đảng cách mạng, và là một nội dung quan trọng không thể thiếu ở mỗi người đảng viên, cán bộ của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: "Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". "Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang".

Trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp hiện nay, sứ mệnh lịch sử của Đảng ta hết sức to lớn, đòi hỏi Đảng phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, có đạo đức cách mạng và trí tuệ, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Điều này càng trở nên hết sức cấp bách và nặng nề, khi một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... Đảng ta đã cảnh báo rằng: "Trong công tác xây dựng Đảng... đang nổi lên một số mặt yếu kém và khuyết điểm, nhất là khuyết điểm về công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống".

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, để góp phần thực hiện nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng ngang tầm trọng trách lịch sử, chúng ta càng phải gìn giữ và phát triển cái "gốc", cái "nền tảng" của người cách mạng - điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời dày công vun đắp và không ngừng bảo vệ. Trong Di chúc, Người căn dặn: "Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân".

Chúng ta biết rằng những vấn đề đạo đức cách mạng được Hồ Chí Minh xem xét

18

Page 19: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

một cách toàn diện, cụ thể và sâu sắc với mọi đối tượng, trên mọi lĩnh vực hoạt động, mọi phạm vi, trong các mối quan hệ của con người... từ đó Người khái quát thành những chuẩn mực giá trị chung nhất, cơ bản nhất mang tính phổ quát của nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng Việt Nam. đạo đức của cán bộ, đảng viên không nằm ngoài nền đạo đức chung của dân tộc. Nhưng với tư cách vừa là người lãnh đạo, vừa là "công bộc" của nhân dân, người cán bộ, đảng viên có những chuẩn mực đạo đức mang ý nghĩa rất to lớn đối với yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng, của cách mạng. Những vấn đề đạo đức cách mạng mà Người đặt ra đối với cán bộ, đảng viên chính là nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời để ngăn chặn, khắc phục những hiện tượng tha hóa, tiêu cực như quan liêu, tham nhũng, cậy quyền, cậy thế, lợi dụng quyền lực, tham quyền cố vị, ở trong cả 3 mối quan hệ: đối với mình, đối với người và đối với công việc.

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng chúng ta thấy có những luận điểm cơ bản sau:

Một là, đạo đức là cái "gốc" của người cách mạng. Điều đó có nghĩa là để làm người cách mạng, trước hết phải có đạo đức cách mạng. Và đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là của người lãnh đạo, có vai trò cực kỳ quan trọng. Không có đạo đức cách mạng thì dù có tài giỏi mấy cũng không thể lãnh đạo được quần chúng nhân dân. Nói như đồng chí Phạm Văn Đồng: theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là tiền đề tiên quyết. Nó còn là giá trị thuộc về nhân cách của mỗi con người, là sức mạnh để người cách mạng thực hiện lý tưởng, mục tiêu của mình.

Hai là, đạo đức là sức mạnh tinh thần to lớn. Người có đạo đức cách mạng mới gánh được nặng và đi được xa. Vì vậy vấn đề rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của từng tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Có như vậy mới hoàn thành được công việc cách mạng khó khăn, mới đưa cách mạng đi đến thắng lợi.

Ba là, đạo đức cách mạng là nhân tố làm nên sức lôi cuốn của cán bộ, đảng viên, sức mạnh của Đảng, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nêu rõ: quần chúng nhân dân chỉ thực sự yêu mến, kính trọng những người có đạo đức cách mạng, vì lợi ích của Đảng, của giai cấp, của dân tộc. Người còn chỉ ra rằng: Một đảng, mỗi con người, hôm qua là vĩ đại, không phải hôm nay cũng được mọi người yêu mến, kính trọng, nếu như lòng dạ không trong sáng, sa vào chủ nghĩa cá nhân. Chính sức mạnh của Đảng ta, những thắng lợi của cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng suốt mấy chục năm qua, luôn gắn liền với đạo đức cách mạng của người đảng viên. Bởi thực sự họ đã nêu gương và phát huy được vai trò tiên phong, lãnh đạo đối với quần chúng. Và chính Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt vời, mẫu mực của đạo đức cách mạng, để mỗi người chúng ta học tập.

Bốn là, đạo đức cách mạng không phải tự nhiên mà có. Nó do rèn luyện, giáo dục hằng ngày của mỗi người, từng tổ chức mà hình thành, phát triển. Cũng như "ngọc

19

Page 20: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong".

Bởi vậy, để có đạo đức cách mạng, theo tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi người, trên cương vị công tác của mình phải thể hiện trong thực tiễn phong trào cách mạng bằng nhận thức và những việc làm cụ thể. Xa rời thực tiễn, tách mình khỏi phong trào đấu tranh cách mạng của đất nước, dân tộc thì không thể có đạo đức cách mạng.

Về những giá trị chuẩn mực của đạo đức cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải có và không ngừng rèn luyện là:

Thứ nhất, trung với nước, hiếu với dân.

Đây là mối quan hệ trước nhất, lớn nhất của người cách mạng. Xưa, trong hệ giá trị tinh thần truyến thống của dân tộc, "trung, hiếu" là thang bậc đầu tiên của đạo đức con người. Ngày nay, nước là của dân, do dân làm chủ, trung với nước không thể không hiếu với dân; và hiếu với dân là thước đo căn bản nhất, trước nhất để thẩm xét, đánh giá lòng trung với nước.

Thứ hai, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.

Đó là những giá trị chuẩn mực đạo đức truyền thống được Hồ Chí Minh kế thừa, tiếp biến và phát triển với nội dung mới mang ý nghĩa mới, trong điều kiện Đảng cầm quyền. Cán bộ, đảng viên, nhất là những người giữ cương vị lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị hơn ai hết càng phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện những phẩm chất đó.

Thứ ba, yêu thương con người, luôn tin tưởng ở quần chúng và sống có tình, có nghĩa.

Người cách mạng vốn là người giàu tình cảm. Phải có tình cảm cách mạng mới làm được sự nghiệp cách mạng. Vì yêu thương gia đình, yêu thương đồng bào mình, người cách mạng chấp nhận mọi hy sinh cho đồng bào, cho dân tộc. ở Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không chỉ có lòng nhân ái mà còn phải tin dân, kính trọng dân và luôn vì dân. Người nói:

"Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong". Nhân dân là lực lượng vô địch, không ai có thể chiến thắng được sức mạnh của quần chúng nhân dân.

Đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Cán bộ, đảng viên học và hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin là để "sống với nhau có tình có nghĩa", "nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin được".

Thứ tư, có tinh thần quốc tế trong sáng.

20

Page 21: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Tinh thần quốc tế trong sáng là sự đối lập với chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sô-vanh, hẹp hòi. Nó hướng vào mục tiêu hòa bình, hữu nghị, dân chủ và tiến bộ xã hội; làm cho con người sống cao thượng, sống đẹp đẽ. Đây là phẩm chất đạo đức không thể thiếu của con người trong thời đại ngày nay.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực thực hành đạo đức cách mạng. Về con đường, phương pháp xây dựng nền đạo đức mới và thực hành đạo đức trong thực tế, Người đòi hỏi từng tổ chức, mỗi cơ quan, đoàn thể, và mọi người, nhất là từng cán bộ, đảng viên phải không ngừng: 1 - Kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận với thực tiễn, giữa giáo dục đạo đức với thực hành đạo đức, giữa nói và làm; 2 - Coi trọng việc bồi dưỡng ý thức đạo đức gắn với tổ chức rèn luyện đạo đức trong thực tế, thông qua hành động thực tế; 3 - Xây dựng nền đạo đức mới phải đi đôi với chống những biểu hiện, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức và những gì làm tổn hại đến nền đạo đức mới; 4 - Kịp thời biểu dương những tấm gương tốt, tự mình nêu gương tốt; 5 - Hết sức coi trọng quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên.

Có thể nói, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới, một cống hiến đặc sắc vào sự phát triển của đạo đức học Mác - Lê-nin và nền đạo đức xã hội ta. Những giá trị tư tưởng đó của Người vẫn giữ nguyên tính thời sự, tiếp tục soi sáng con đường cho chúng ta giải quyết những vấn đề đạo đức xã hội nói chung, đạo đức đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng, trong tình hình hiện nay.

Theo Lê Hữu Nghĩa, Tạp chí Cộng sản số 73, tháng5/2005

NỘI DUNG VII. NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG QUA MỘT SỐ TƯ LIỆU GỐC TẠI BẢO TÀNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Ngày 26/5/2006. Cập nhật lúc 15h 22'

(ĐCSVN) - Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lãnh tụ vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc,Danh nhân văn hoá thế giới đã về với cõi vĩnh hằng được gần 36 năm. Người ra đi, nhưng đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một di sản vô cùng to lớn - đó là tư tưởng về đạo đức cách mạng.

Có thể nói rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, nền đạo đức đã được hình thành hàng ngàn năm suốt chiều dài lịch sử dân tộc và kế thừa tư tưởng đạo đức phương Đông cũng như tinh hoa đạo đức của nhân loại và dựa trên nền tảng tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Song, với tư duy độc lập và sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức của quá khứ, đề xuất những tư tưởng đạo đức mới, phù hợp với yêu

21

Page 22: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Thông qua các tác phẩm, các bút tích gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang được lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy trong lĩnh vực đạo đức cách mạng, Người thường sử dụng nhiều khái niệm, phạm trù của các tư tưởng đạo đức đã có từ trước như trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư đã có trong Nho giáo từ mấy trăm năm trước Công nguyên; Hoặc các khái niệm tự do, dân chủ, bình đẳng, bác ái… xuất hiện tại Tây Âu từ thời Hy-La cổ đại. Song Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “Việt Nam hoá” thành các khái niệm đơn giản dễ hiểu, dễ thực hiện và gần gũi hơn với cán bộ và nhân dân lao động.

Nhìn chung, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng có thể khái quát thành bốn nội dung cơ bản, là : Trung với nước, hiếu với dân ; Yêu thương con người; Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư và tinh thần quốc tế trong sáng. Trong hàng trăm trang tư liệu gốc – các bản thảo quí hiếm của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam đang có vinh dự được lưu giữ, thì hai nội dung được đề cập đến nhiều nhất, đó là Trung với nước, hiếu với dân và Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.

Phẩm chất trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống của người phương Đông, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng và đưa vào đó những nội dung mới. Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh không những kế thừa giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì trung với nước là trung thành với sự nghiệp cách mạng, với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nước ở đây là nước của dân, còn dân chính là chủ nhân đích thực của nước.

Như chúng ta đã biết, sau gần 30 năm bôn ba ở nước ngoài đi tìm đường cứu nước, tháng 1 năm 1941 trở về Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập báo Việt Nam Độc lập (số đầu tiên ra ngày 1/8/1941) để tuyên truyền giác ngộ cách mạng. Thông qua những mẩu chuyện, những tin, bài ngắn, súc tích, dễ hiểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biểu dương những tấm gương người tốt, việc tốt, qua đó để giáo dục tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc, tinh thần dám xả thân vì độc lập tự do của dân tộc. Trên báo Việt Nam độc lập, số 3 ra ngày 21/8/1941, ngay trên trang nhất, báo đã in trang trọng câu thơ: “Có Tổ quốc mới có ta; Nước là rất trọng ta là rất khinh ” (Khinh là xem nhẹ - TVH). Còn trong một tài liệu khác dưới tiêu đề Cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh, do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo ( bản gốc hiện lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam), Người kịch liệt phê phán những cán bộ miệng thì nói dân chủ, nhưng khi thực hiện công việc thì lại theo lối quân chủ và xa rời nhân dân. Người viết: Bệnh quan liêu mệnh lệnh từ đâu mà ra? Nguyên nhân bệnh ấy là:

Xa nhân dân: do đó mà không hiểu tâm lý của nhân dân, nguyện vọng của nhân dân.

Khinh nhân dân : cho là dân ngu khu đen, bảo sao làm vậy, không hiểu được chính trị cao xa như mình.

22

Page 23: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Sợ nhân dân: Khi có sai lầm khuyết điểm thì lại sợ nhân dân phê bình, sợ mất thể diện, sợ phải sửa chữa.

Không tin cậy nhân dân:họ quên rằng không có lực lượng nhân dân thì việc nhỏ mấy dễ mấy làm cũng không xong; có lực lượng nhân dân thì việc khó mấy to mấy cũng làm được.

Không hiểu biết nhân dân: họ quên rằng nhân dân cần trông thấy quyền lợi thiết thực, lợi ích gần và lợi ích xa, lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích bộ phận và lợi ích toàn cuộc, đối với dân không thể lý luận suông.

Không yêu thương nhân dân: do đó họ chỉ biết đòi hỏi nhân dân, không thiết thực giúp đỡ nhân dân tăng gia sản xuất, cải thiện sinh hoạt, để bồi dưỡng sức của sức người của nhân dân.

Cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra cách chữa bệnh quan liêu mệnh lệnh là phải theo đúng đường lối quần chúng và phải thực hiện tốt 6 điều:

Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết;

Liên hệ chặt chẽ với nhân dân;

Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ;

Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình.

Sẵn sàng học hỏi nhân dân;

Tự mình phải làm kiểu mẫu cần kiệm liêm chính, để nhân dân noi theo.

Thực ra tư tưởng Hồ Chí Minh về chống bệnh quan cách, ức hiếp nhân dân đã được Người cảnh báo từ trước cách mạng Tháng tám 1945. Khi hình thành khu giải phóng, có một số cán bộ hống hách, ức hiếp, ăn chặn của dân, xa rời dân, báo Việt Nam độc lập đã có một loạt bài lên án các ông quan cách mạng tha hoá ấy.

Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư là một phẩm chất đạo đức gắn liền với các hoạt động hàng ngày của mọi người. Nhưng đối với những người cách mạng, thì đây là một phẩm chất quan trọng nhất. Vì vậy, trong các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng phẩm chất này được đề cập đến nhiều nhất, thường xuyên nhất. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì cần kiệm liêm chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau. Có khi Người coi cần kiệm như hai chân của con người, phải đi đôi với nhau, có khi Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính quan trọng của mỗi con người, mà thiếu một đức tính thì không thành người. Đức tính cần kiệm được thể hiện ngay trong các việc làm nhỏ nhất và thường nhật của Người. Trong hơn 300 bài báo, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà Bảo tàng Cách mạng

23

Page 24: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Việt Nam đang lưu giữ bản gốc, thì có tới 90% bài viết Người sử dụng các mảnh giấy loại đã viết một mặt: như bản tin, giấy tiêu đề của Chủ tịch phủ in bằng tiếng Trung Quốc, thậm chí có những bản thảo bài báo ngắn khoảng gần 200 chữ, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng hai mảnh giấy nhỏ chắp lại. Trong một tài liệu dài 5 trang đánh máy do Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào năm 1949 dưới tiêu đề Kiểm điểm công việc của Đảng, Người đã chỉ ra một số khuyết điểm của các đảng viên, như: Trong cuộc đấu tranh to lớn, lâu dài, gay go, ít nhiều đảng viên, ít nhiều nơi không tránh khỏi những khuyết điểm: chủ quan, hẹp hòi, mạo hiểm, hủ hoá, xa quần chúng, chủ nghĩa địa phương, không giữ kỷ luật, làm việc luộm thuộm, tự kiêu, tự mãn v.v..

Dù đó là chứng bệnh thanh niên (có lẽ từ bệnh thanh niên ở đây nên hiểu là bệnh ấu trĩ - TVH), nhưng từ nay Đảng đòi hỏi các Đảng viên phải kiên quyết tẩy cho kỳ sạch những bệnh ấy, vì nếu không trị cho khỏi hết thì nó có thể lây ra mà trở nên rất nguy hiểm cho đảng. Sau đó Người viết tiếp: Mỗi một đảng viên phải kiên quyết thực hành những việc sau đây:

- Nghiên cứu chủ nghĩa (không hiểu chủ nghĩa thì như mò trong đêm tối)

- Gần gũi quần chúng (cách xa quần chúng, thì việc gì cũng không thành)

- Giữ nghiêm kỷ luật (kỷ luật không nghiêm thì lực lượng kém sút)

- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư (không làm được như thế, thì không xứng đáng là người cộng sản).

Trong một số tài liệu khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng, người cán bộ phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, vì trách nhiệm trước nhân dân chính là một trong những thước đo quan trọng về phẩm chất đạo đức của mỗi cán bộ đảng viên. Dưới tiêu đề Tinh thần trách nhiệm, một bài báo được viết trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và lấy bút danh là C.B. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lý giải về tinh thần trách nhiệm của người nấu bếp, của người cán bộ quân sự được thể hiện các công việc hàng ngày và cuối cùng Người kết luận: Bất kỳ ai, ở địa vị nào, làm công tác gì, gặp hoàn cảnh nào, đều phải có tinh thần trách nhiệm. Tinh thần trách nhiệm là: nắm vững chính sách, đi đúng đường lối quần chúng, làm tròn nhiệm vụ (gạch chân như trong bản gốc -TVH). Cũng nằm trong phông tư liệu gốc về Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà Bảo tàng Cách mạng Việt Nam đang lưu giữ có một tập Bản thảo chương trình lớp huấn luyện bổ túc cấp xã do Bộ Nội vụ chuyển giao ngày 14/8/1958. Tập bản thảo dài 27 trang đánh máy trên giấy dó đã ngả màu. Đây là tập giáo trình do Bộ Nội vụ soạn thảo từ năm 1949 dùng để tập huấn bổ túc kiến thức lãnh đạo cho cán bộ cấp xã trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Điều đặc biệt là tập bản thảo này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc và sửa chữa trực tiếp. Tại mục D- Công việc lãnh đạo từ nay về sau phải như thế nào? của phần thứ V giới thiệu về Phối hợp lãnh đạo, trong dự thảo có 5 tiểu mục là:Nhận thức cho rõ vai trò lãnh đạo; Học tập nghiên cứu; Phải có tinh thần trách nhiệm; Cùng nhau bàn bạc để thống nhất ý chí; Theo dõi đôn đốc điều tra. Sau khi xem Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thêm một số ý vào các tiểu mục và bổ sung thêm 2 tiểu mục mới. Cụ thể như sau: Tiểu mục Học tập nghiên

24

Page 25: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

cứu, Người sửa thành Học tập phương pháp lãnh đạo; tiểu mục Cùng nhau bàn bạc để thống nhất ý chí, Người sửa thành Cùng nhau bàn bạc thống nhất chủ trương hành động; Còn 2 tiểu mục Chủ tịch Hồ Chí Minh mới thêm là: 6/-Kiểm thảo; 7/- Học hỏi thêm. Sau đó Người viết thêm: Bất kỳ công việc gì, còn một người dân chưa hiểu rõ, chưa làm đúng tức là lãnh đạo còn kém (7). Cuối cùng, trong phần câu hỏi thảo luận, Người viết : Muốn lãnh đạo:1/- Người cán bộ hiểu thật rõ công việc;2/- Phải tìm cách giải thích cho mọi người hiểu việc đó; 3/- Cán bộ phải xung phong gương mẫu(8).

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, thì tự phê bình và phê bình là một nguyên tắc không thể thiếu được trong xây dựng nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng. Trong một bài báo dưới tiêu đề Phê bình (bản gốc lưu tại BTCMVN viết là Fê bình), được viết vào năm 1951 đã đăng trên báo Nhân dân, số 16 ra ngày 12/7/1951, sau khi giải thích thế nào là phê bình, cách thức phê bình, mục đích phê bình, nguyên tắc phê bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Phê bình là quyền lợi và nhiệm vụ của mọi người, là thực hành dân chủ. …Không phê bình tức là bỏ mất một quyền dân chủ của mình. Song phê bình phải đường hoàng, chính đáng, tuyệt không nên “thầm thì thầm thụt”, viết thư dấu tên như một vài cán bộ Thái Nguyên đã làm- (Chữ Thái Nguyên trong bản gốc, khi đưa đi đăng báo đã sửa lại thành ở T.N) (9). Phần cuối bài báo Người viết: Người ta luôn luôn cần lửa và nước cho đời sống. Người cách mệnh và đoàn thể cách mệnh cần phê bình và tự phê bình cũng thiết tha như người ta cần lửa và nước – (Theo như bản gốc thì 2 từ lửa và nước trước khi đăng báo sửa thành không khí ).

Tóm lại, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là một di sản tinh thần vô cùng quí báu của Đảng và dân tộc ta. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, vấn đề đặt ra không chỉ ở chỗ thừa nhận và khẳng định những giá trị thực tiễn to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh, mà một điều rất quan trọng là vận dụng và phát triển những giá trị tư tưởng đó vào sự nghiệp xây dựng đội ngũ cán bộ của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Những tư liệu gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam là những di sản vật chất quí báu để góp phần nghiên cứu tư tưởng của Người./.

Th.s Triệu Văn HiểnGiám đốc Bảo tàng Cách mạng Việt Nam

NỘI DUNG VIII. “NÓI ĐI ĐÔI VỚI LÀM, PHẢI NÊU GƯƠNG VỀ ĐẠO ĐỨC” - MỘT NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINHNgày 21/6/2005. Cập nhật lúc 10h 38' Đạo đức là một bộ phận của thế giới quan chi phối toàn bộ nhận thức và hành động của con người. Đạo đức cách mạng đòi hỏi sự thống nhất giữa động cơ và hiệu quả, giữa lời nói và việc làm, từ đời sống chung đến đời sống riêng . Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đòi hỏi sự thống nhất cao độ của đạo đức trong

25

Page 26: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

toàn bộ đời sống và hoạt động của con người: đạo đức với chính trị, đạo đức với pháp luật, đạo đức với tài năng, đạo đức cách mạng với đạo đức đời thường...

I. "Nói phải đi đôi với làm", một nguyên tắc cơ bản của đạo đức

1 Dân tộc ta có truyền thống trọng đạo đức. Trong khi đề cao các chuẩn mực đạo đức cần có, nhân dân ta cũng đòi hỏi nó phải được thể hiện trong hành vi hằng ngày, tức là trong thực hành đạo đức. Ca dao, tục ngữ khi đưa ra hình ảnh "nói như rồng leo, làm như mèo mửa" chính là để tỏ thái độ phê phán đối với thói đạo đức giả: nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, nói một đàng, làm một nẻo,...

Các học thuyết đạo đức và tôn giáo xưa nay đều coi trọng nguyên tắc "nói đi đôi với làm", song trong thực tế nó không thực hiện được bao nhiêu. Các học thuyết đạo đức này thường chỉ chú trọng trau dồi động cơ đạo đức, đi tới tách rời động cơ với hiệu quả, nên cũng không thực hiện được sự nhất quán giữa nói và làm. Ví như đạo đức Nho giáo cũng đưa ra những mệnh đề như: "kiến nghĩa bất vi, vô dũng dã" (thấy việc nghĩa mà không làm, không phải là dũng vậy). Nhưng đạo đức Nho giáo cơ bản cũng chỉ là đạo đức "tu thân", nên kết quả cũng như mọi đạo đức duy tâm khác, đều thể hiện "sự bất lực đưa ra hành động" như Mác đã từng phê phán.

Giai cấp tư sản phương Tây trong cuộc đấu tranh chống lại thứ đạo đức giả dối, hà khắc của phong kiến và nhà thờ trung cổ đã biết giương cao ngọn cờ nhân văn, nhân quyền, đề cao giá trị nhân đạo, dân chủ, tự do, các khát vọng trần thế của con người,... Nhưng thực trạng đầy rẫy áp bức bất công của xã hội tư bản tự nó đã vạch trần thứ đạo đức giả dối, chỉ nói mà không làm mà giai cấp tư sản vẫn rêu rao.

2 Đạo đức Hồ Chí Minh không phải là đạo đức tu thân mà là đạo đức dấn thân, tức là đạo đức gắn liền với hành động, nói để làm, nhất là nói về đạo đức phải đi đôi với thực hành đạo đức, mà phải làm có hiệu quả, nếu một người làm việc gì cũng không có hiệu quả thì theo Hồ Chí Minh không thể coi là một người có đạo đức. Người nói: "Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất.

Hồ Chí Minh nói nhiều đến vai trò, tác dụng của đạo đức, nêu ra những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức cho cán bộ và nhân dân: từ đời công đến đời tư. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh thực hành đạo đức còn nhiều hơn những điều Người nói, hoặc chỉ lặng lẽ, kiên trì nêu gương mà không nói. Người đã vận dụng phương thức của người xưa: "dĩ nhân nhi giáo, dĩ ngôn nhi giáo", tức là trước hết phải giáo dục bằng tấm gương sống của chính mình đã, sau đó mới giáo dục bằng lời nói.

Ở Hồ Chí Minh luôn luôn có sự nhất quán giữa nói và làm, giữa giáo dục đạo đức với thực hành đạo đức. Người nói: "Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho

26

Page 27: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Cho đến trước khi qua đời, Người còn viết trong Di chúc: "Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa".

Cả cuộc đời Người là bằng chứng cảm động cho sự nhất quán tuyệt vời giữa nói và làm đạo đức. Nhờ kiên trì thực hành đạo đức mà Người đã để lại cho dân tộc ta tấm gương "có một không hai" về đạo đức của một vị lãnh tụ thực sự của nhân dân.

3 - Ở Hồ Chí Minh, hoàn toàn không có sự khác biệt giữa đạo đức cách mạng với đạo đức đời thường. Đó cũng là một điểm đối lập giữa đạo đức cũ và đạo đức mới.

Sở dĩ Hồ Chí Minh trở thành một nhà đạo đức chân chính đã để lại cho chúng ta một tấm gương đạo đức sáng ngời là vì suốt đời Người đã không ngừng tự hoàn thiện mình theo lý tưởng chân, thiện, mỹ; gương mẫu từ việc lớn đến việc nhỏ, nên đã thực hiện được sự nhất quán giữa đời công và đời tư, giữa vĩ nhân và người bình thường, giữa đạo đức cách mạng với đạo đức hằng ngày.

4 - "Hành nan, ngôn dị" là một tổng kết sâu sắc của người xưa về cái khó trong việc đạt tới sự nhất quán giữa nói và làm, nhất là giữa nói đạo đức với thực hành đạo đức. Phải thừa nhận rằng đối với đa số người đời, không phải ai cũng có thể thực hiện trọn vẹn mọi nơi, mọi lúc cái điều mình đã nói. Xuất phát từ đạo lý, hảo tâm, thiện chí, có lúc ta muốn làm hoặc hứa làm một điều tốt đẹp gì đó, nhưng rồi do khó khăn khách quan hoặc do yếu đuối không vượt qua được, ta đã bỏ lỡ rồi cứ day dứt mãi, ân hận dài. Đáng tiếc là hiện nay có một số người đã bị "đứt dây thần kinh xấu hổ", không còn cái "tu ố chi tâm" như người xưa nói, nên cứ trượt dài trong sự tha hóa về đạo đức mà không biết hổ thẹn.

Hiện nay, khi mà hiện tượng thương mại hóa tình người và các quan hệ xã hội có chiều hướng gia tăng, ta cần phải hết sức cảnh giác với căn bệnh "nói không đi đôi với làm" này. Trên thương trường, đó là lối quảng cáo "một tấc đến trời", lạm phát ngôn từ đến mức chỉ nghe đã chóng mặt. Nơi công sở cũng có một số người luôn chơi trò "vũ hội hóa trang", sống với hai nhân cách, trong cuộc họp họ thường nói rất hay về nhân ái, đạo đức, liêm chính, lương tâm,... nhưng trong thực tế hành động lại làm ngược lại. Cũng còn một số vị "thủ trưởng", như Bác Hồ thường phê phán "Chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được; nghĩa là chỉ quen chỉ thị, quen đề xuất, nói rồi quên, nói cao giọng mà không tính đến các điều kiện thực tế, đến khả năng hành động, thực thi của chính mình. Hình như họ nói cốt để cho người khác làm, còn chính mình lại không quyết tâm theo đuổi, chỉ đạo thực hiện đến cùng một công việc nào đó. Thành ra, có nhiều chủ trương không đi vào cuộc sống, không đem lại chuyển biến đáng kể trong thực tế.

Cùng với hiện tượng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ có

27

Page 28: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

chức, có quyền, căn bệnh "nói nhiều làm ít, nói hay làm dở" đã góp phần làm giảm lòng tin của dân, làm tích tụ trong họ những bất mãn, hoài nghi không đáng có. Để khắc phục và hạn chế căn bệnh này, cần có một cuộc vận động, giáo dục rộng rãi, trong đó có việc học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí Minh: để nói đi đôi được với làm thì khi nói phải nghĩ đến làm, có làm được thì mới nói, thậm chí chỉ lặng lẽ làm mà không nói. Đó là phong cách Hồ Chí Minh, đặc biệt trong lĩnh vực đạo đức và lối sống.

II. Đạo đức cách mạng và vai trò nêu gương của người lãnh đạo

1. Từ xưa, ở phương Đông và Việt Nam, cả Nho, Phật, Lão đều coi trọng đạo đức, đều nêu cao lý tưởng "vua sáng, tôi hiền", nghĩa là nêu cao tấm gương đạo đức của người lãnh đạo, do đó sự nêu gương đạo đức ở người cán bộ, đảng viên, đặc biệt ở người lãnh đạo, giữ một vai trò cực kỳ quan trọng. Một khi quần chúng đã mất niềm tin vào đạo đức của người cầm quyền thì niềm tin chính trị đối với họ cũng không còn.

Trong lịch sử nước ta, những lãnh tụ dân tộc muốn tập hợp được nhân dân chống ngoại xâm hay chống lại chế độ phong kiến hà khắc đều phải là những người có uy tín đạo đức rất cao. Ngược lại, bọn vua chúa vô đạo sớm muộn cũng đều bị nhân dân lật đổ. Ta hiểu vì sao Hồ Chí Minh nói: đối với các dân tộc phương Đông, "một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền"(5).

Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, sau khi lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền, Đảng ta đã trở thành đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt lên hàng đầu việc giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Người đã kiên trì đấu tranh chống lại nguy cơ xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng, rơi vào thoái hóa biến chất của một đảng cầm quyền. Người nói: "Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. "Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”.

Với trí tuệ sáng suốt, tầm nhìn xa rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm tiên tri, tiên lượng về những căn bệnh của những người có chức, có quyền và đã sớm chỉ ra những biện pháp cần đề phòng, khắc phục, trong đó Người đặt lên hàng đầu việc thường xuyên giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Không lâu trước khi qua đời, Người đã từng cảnh báo: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân".

Nhận thức được vai trò và sức mạnh của sự nêu gương, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc đến tấm gương đạo đức của V.I.Lê-nin: "Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã

28

Page 29: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người không gì ngăn cản nổi".

Theo Người, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội không phải ở lý tưởng cao xa nào mà trước hết, cụ thể và trực tiếp, là ở những người cộng sản ưu tú bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó thành hiện thực. Củng cố hay làm suy giảm niềm tin của quần chúng vào tương lai của chủ nghĩa xã hội không phải ở những sai lầm và thất bại tạm thời khó tránh khỏi trên con đường mới khai phá mà chủ yếu lại là ở sự sa sút, thoái hóa của những người được mệnh danh là "những chiến sỹ tiên phong" trước thắng lợi hay khó khăn của cách mạng.

Không chỉ nhắc nhở mà bản thân Người đã suốt đời không ngừng tự tu dưỡng, tự rèn luyện mình về đạo đức để trở thành "tấm gương tuyệt vời về con người mới", thành hình ảnh mẫu mực về "người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân", chẳng những có sức lôi cuốn, cảm hóa mãnh liệt đối với toàn thể dân tộc mà còn có ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới. Nhiều lãnh tụ chính trị, học giả, nhà văn, nhà báo có tiếng đã viết về sức cổ vũ kỳ diệu của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đối với nhân dân nước mình và chứng minh rằng: do ngưỡng mộ một nhân cách vĩ đại như vậy, có biết bao lớp người trẻ tuổi đã đứng vào hàng ngũ cộng sản, tình nguyện hiến dâng đời mình cho cuộc đấu tranh vì tự do độc lập, vì tiến bộ xã hội và hạnh phúc của nhân dân.

2 Hiện nay, trong việc giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, trước hết là cho thế hệ trẻ, chúng ta đang thiếu cái gì? Sự lành mạnh của đời sống đạo đức xã hội phụ thuộc một phần rất quan trọng vào sự nêu gương của người lãnh đạo, nhất là những người đứng đầu các ngành, các địa phương, các đơn vị. Bác Hồ đã nhiều lần nhắc nhở: muốn thực sự làm người lãnh đạo, người chỉ huy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải hết sức giữ gìn và nêu gương về mặt đạo đức, nếu không thì rồi sẽ hỏng cả.

Ngày nay, Đảng ta, qua nhiều nghị quyết, đã yêu cầu các đồng chí lãnh đạo các cấp phải nêu gương về đạo đức, lối sống, phải là người chiến sỹ xung kích đi đầu trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, xa hoa, lãng phí; không những thế còn phải xem xét lại gia đình mình, con cái mình có lợi dụng chức vụ của bố mẹ làm điều sai trái không? Chỉ có thông qua những tấm gương cụ thể, trước hết là của những người có chức vụ cao, có cương vị lớn mới củng cố và nâng cao được niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, vào tính ưu việt của chế độ xã hội ta.

Thế hệ cán bộ, đảng viên, thanh niên lớp Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ có hạnh phúc là hằng ngày, hằng giờ được sống với những tấm gương lớn của Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo bên cạnh Người. Những tấm gương ấy đã là niềm tự hào, là nguồn cổ vũ, động viên lớn lao đối với toàn Đảng, toàn dân ta, góp phần tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn đánh thắng "thù trong, giặc ngoài" giành lại độc lập thống nhất, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

29

Page 30: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Ngày nay, nhân dân ta cũng chân thành mong mỏi các đồng chí lãnh đạo các cấp của Đảng và Nhà nước ta, theo gương Bác Hồ, đều sẽ là những tấm gương lớn về đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư cho toàn Đảng, toàn dân ta học tập và noi theo. Đó là nguyện vọng của nhân dân mà cũng là đòi hỏi bức thiết của đời sống đạo đức, của sự nêu gương. Bởi như Bác Hồ đã nói: "Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính mà muốn người khác chính là vô lý". Đó cũng là yêu cầu của thực tiễn đấu tranh dân tộc và giai cấp ở bối cảnh hiện nay. Mỗi một con người khi đã được cắt cử vào ngôi cao, chức lớn thì nhất cử, nhất động của họ đã vượt ra khỏi phạm vi cá nhân, mang ý nghĩa tiêu biểu, trở thành "phương diện quốc gia", mỗi hành vi tiêu cực của họ đều quan hệ đến niềm tin của nhân dân, đều được kẻ thù khai thác, lợi dụng để xuyên tạc, chống phá chế độ ta. Cũng đừng quên rằng các chiến dịch chống chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu trước đây thường bắt đầu từ việc phê phán đời riêng của một số nhà cầm quyền ở đó.

Chính vì vậy, cuộc đấu tranh chống tham nhũng, đẩy lùi sự tha hóa, biến chất về đạo đức - lối sống, giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, nêu cao tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên - nhất là những người có chức, có quyền, phải gương mẫu từ việc nhỏ đến việc lớn, từ lời nói đến việc làm, từ phong cách đến lối sống, như Đảng ta đã nói, có liên quan đến sự sống còn của chế độ, độc lập và an ninh của Tổ quốc.

Để thực hiện thắng lợi cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, cần phải có nhiều biện pháp đồng bộ, trong đó có việc cần kíp là xây dựng cho được những tấm gương sáng, từ trên xuống dưới, cho toàn Đảng, toàn dân noi theo. Đó cũng là một di huấn quan trọng của Bác Hồ: "Lấy gương người tốt việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới", trong đó có đạo đức mới.

TheoGS Song Thành, Tạp chí Cộng sản tháng 5/2005

NỘI DUNG IX. PHƯƠNG PHÁP, TÁC PHONG LÀM VIỆC CỦA NGƯỜI CÁN BỘ CÁCH MẠNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINHNGÀY 8/6/2005. CẬP NHẬT LÚC 9H 56' Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng về phương pháp, tác phong làm việc khoa học, hiệu quả. Người thường xuyên quan tâm đến việc bồi dưỡng rèn luyện phương pháp, tác phong làm việc của đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước và quân đội. Nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng của Người về phương pháp, tác phong làm việc của cán bộ, nổi bật một số vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, đó là:

Thứ nhất, người cán bộ cách mạng phải có phương pháp tác phong lám việc khoa học, thiết thực.

30

Page 31: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Từ kinh nghiệm hoạt động cách mạng phong phú của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ một trong những phẩm chất quan trọng của người cán bộ cách mạng là phải có phương pháp, tác phong làm việc khoa học, thiết thực. Người cán bộ có phương pháp, tác phong làm việc khoa học, thiết thực mới hoàn thành tốt được các nhiệm vụ được giao, mới được quần chúng nhân đần tín nhiệm. Bởi vì, nếu người cán bộ có tri thức khoa học kỹ thuật, có lý luận cách mạng, có năng lực công tác và luôn tâm huyết với nhiệm vụ, nhưng lại không có phương pháp, tác phong làm việc khoa học, xa rời thực tiễn, thậm chí chuyên quyền, quan liêu, độc đoán... thì làm việc gì cũng gặp nhiều khó khăn vướng mắc, hiệu quả thấp.

Trong nhiều bài viết, bài nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán thẳng thắn một số cán bộ thường xuyên mắc phải ''bệnh giáo điều'', chỉ ''thuộc sách láu làu. Cụ Mác nói thế này, Cụ Lê nin nói thế kia, rồi biến một số câu chữ trong nguyên tắc rồi áp đặt vào cuộc sống''. Người cũng vạch rõ căn nguyên của ''bệnh kinh nghiệm" là đó ''kém lý luận'', hoặc có thái độ ''khinh lý luận, mà Người đã ví một cách rất hình ảnh: ''Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ''. Chính những cán bộ mắc bệnh kinh nghiệm, giáo điều thương trong công tác lãnh đạo chỉ đạo có những biểu hiện "lý luận suông", phương pháp tác phong làm việc chủ quan, duy ý chí.

Để khắc phục triệt để các biểu hiện của phương pháp, tác phong thiếu tính khoa học, thiếu tính thực tiễn vẫn tồn tại trong không ít đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ cần phải có những biện pháp cụ thể, mà Người gọi là "cách lãnh đạo". Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích sâu sắc về cách lãnh đạo, đó chính là nghệ thuật công tác lãnh đạo quản 1ý của người cán bộ cách mạng được biểu hiện ra bảng phương pháp, tác phong làm việc một cách khoa học thiết thực. Vì vậy, người cán bộ cách mạng không những vừa phải có đức có tài, vừa "hồng'', vừa ''chuyên'', nhưng đồng thời phải có "Cách lãnh đạo''. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đặt ra yêu cầu rất cao đối với đội ngũ cán bộ các cấp phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện trong mọt hoàn cảnh để không ngừng hoàn thiện phương pháp, tác phong làm việc khoa học thiết thực, đáp ứng với nhiệm vụ được giao,

Thứ hai, người cán bộ cách mạng phải luôn rèn luyện phong cách tư duy khoa học.

Phong cách tư duy khoa học đối lập với phong cách tư duy kiểu kinh viện, giáo điều, duy ý chí. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ tác hại của những kiểu phong cách đó dẫn đến lề lối làm việc thụ động, máy móc rập khuôn, trông chờ, dựa dẫm vào cấp trên, hành chính mệnh lệnh. Người vạch rõ những biểu hiện của phong cách tư duy thiếu tính năng động sáng tạo đó là do ''cách làm việc thấy cái đúng nhưng không kiên quyết bảo vệ, thấy cái sai không dám đấu tranh phê bình; hoặc ''Không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng", cán bộ chỉ thích khen và không bằng lòng khi bị phê bình. Do đó, những cán bộ như vậy thường không ''cả gan nói, cả gan để xuất ý kiến'' và không có gan phụ trách, có gan làm việc. Dĩ nhiễn, các công việc được giao thường đạt chất lượng, hiệu quả đất thấp.

31

Page 32: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Vì vậy, từ thực tiễn của cách mạng khi Đảng ta đã nắm quyền lãnh đạo xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn mỗi cán bộ, đảng viên phải tích cực rèn luyện, nâng cao phong cách tư duy khoa học. Người cán bộ cách mạng có phong cách tư duy khoa học sẽ luôn phát huy được tính năng động, sáng tạo, tự chủ và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được phân công. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một trong những biện pháp chủ yếu để có tư duy khoa học đòi hỏi người cán bộ cách mạng phải không ngừng tự học tập, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt, đặc biệt là trình độ lý luận chính trị; phải gắn lý luận với thực tiễn cách mạng để nắm được bản chất khoa học và cách mạng của vấn đề, làm cơ sở cho nhận thức đúng đắn thực tiễn và có biện pháp giải quyết đạt hiệu quả. Đồng thời, phải rèn luyện phong cách làm việc có kế hoạch, có chuẩn bị, có quan điểm thực tiễn và phải học cách nói của quần chúng, học cách làm của quần chúng''.

Thứ ba, đối với cán bộ nghiên cứu khoa học phải luôn nêu cao tính đảng, để cao ý thức dân chủ, đoàn kết và giữ nghiêm luật.

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang diễn ra trong bối cảnh tình hình quốc tế rất phức tạp. Do vậy, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - lý luận nói chung và đấu tranh để bảo vệ những định hướng, nội dung quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặt ra nhiệm vụ rất nặng nề đối với các khoa học đặc biệt là khoa học xã hội và nhân văn. Cho nên, trong điều kiện mới của đất nước, việc quán triệt sâu sắc và vận dụng những quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm tiếp tục đổi mới phương pháp tác phong làm việc của cán bộ nói chung và nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu trên lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn có ý nghĩa rất quan trọng và cấp thiết, được biểu hiện trên mấy vấn đề sau:

Một là, không ngừng nâng cao tính đảng trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn.

Tính đảng trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn đặt ra yêu cầu rất cao phải đổi mới cả nhận thức và phương pháp, tác phong nghiên cứu. Về mặt nhận thức phải luôn đặt là ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết. Tức là, mọi nhiệm vụ nghiên cứu đều phải hướng vào phục vụ lợi ích của Đảng, của dân tộc, lấy quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng. Về phương pháp tác phong nghiên cứu, phải lấy tấm gương về phương pháp, tác phong làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh để vận dụng phù hợp với công việc được giao. Đó là ''lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau'', ''việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến chốn; công tác nghiên cứu phải luôn trung thực, nghiêm túc, tôn trọng thực tế khách quan; phải kiên quyết chống những tư tưởng vụ lợi, cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, giáo điều, ngại khó khăn và những biểu hiện kém tính đảng khác.

Hai là, không ngừng rèn luyện phong cách thực tiễn trong nghiên cứu khoa học xã

32

Page 33: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

hội và nhân văn.

Phong cách thực tiễn của cán bộ nghiên cứu nói chung và đối với lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn nói riêng, phải gắn hoạt động nghiên cứu lý luận với tình hình trong nước, thế giới và tình hình cụ thể của từng lĩnh vực, chuyên ngành, đơn vị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: ''Trong lúc học lý luận, phải nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế lúc học rồi, họ có thể tự mình làm ra phương hướng chính trị, có thể làm ra những công việc, có thể trở nên người tổ chức và lãnh đạo, thế là lý luận thiết thực, có ích". Do đó, trong công tác nghiên cứu, mỗi cán bộ nghiên cứu cần nỗ lực học tập để mở rộng và nâng cao trình độ tri thức, nhất là lĩnh vực chính trị, phải thực sự có phong cách trong nghiên cứu lý luận gắn với thực tiễn. Chống những biểu hiện coi thường lý luận, lý luận suông, bệnh kinh nghiệm, giáo điều, chủ quan, duy ý chí trong công tác nghiên cứu các vấn đề lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn.

Ba là, phát huy dân chủ, đoàn kết và kỷ luật trong hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn. Xây dựng và phát huy tốt dân chủ, đoàn kết và kỷ luật trong hoạt động nghiên cứu khoa học là biểu hiện của phương pháp, tác phong làm việc dân chủ của cán bộ nghiên cứu và của tập thể nghiên cứu khoa học. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những nguyên nhân làm hạn chế sự sáng tạo là vì ''Cách lãnh đạo của ta không được dân chủ, cách công tác của ta không được tích cực''. Vì vậy, cần đề cao dân chủ, đoàn kết và kỷ luật nhằm phát huy được cao nhất khả năng sáng tạo trong nghiên cứu khoa học. Trong xây dựng và phát huy dân chủ, cần phải tuyệt đối chấp hành đúng các nguyên tắc của tổ chức, có kỷ cương, kỷ luật. Kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện lợi dụng dân chủ trong nghiên cứu khoa học để có hành vi dân chủ vô hạn độ, dân chủ quá trớn, gây mất đoàn kết hoặc sơ hở, để cho các phần tử xấu, các thế lực thù địch lợi dụng nhằm chống đối, phá hoại chúng ta trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng.

Hiện nay, việc thực hiện đổi mới phương pháp, tác phong làm việc của cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ nghiên cứu trên lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn nói riêng, cần tiếp tục được tăng cường và hoàn thiện. Vì vậy, việc học tập và vận dụng phương pháp, tác phong làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm không ngừng nâng cao phương pháp, tác phong làm việc của cán bộ các cấp của Đảng, của Nhà nước và trong lực lượng vũ trang nhân dân vẫn mang nhiều ý nghĩa to lớn và thiết thực.

Theo ThS Nguyễn Đức Thắng, Tạp chí Khoa giáo tháng 5/2005

NỘI DUNG X. VẤN ĐỀ ĐẢNG CỦA AI TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINHNgày 4/6/2005. Cập nhật lúc 14h 31' (ĐCSVN)- Vấn đề Đảng, vấn đề hệ trọng nhất đối với giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam thu hút nhiều nhất công sức, trí tuệ của Hồ Chí Minh. Đảng

33

Page 34: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Cộng sản Việt Nam được thành lập cách đây 75 năm. Những thay đổi toàn diện, sâu sắc của đất nước và con người Việt Nam từ ngày có Đảng đã chứng minh vai trò lịch sử, sự vĩ đại của Đảng, tư tưởng đúng đắn, sáng tạo của Hồ Chí Minh về Đảng. Tuy nhiên, sự nghiệp đổi mới đang đòi hỏi chúng ta phải đào sâu suy nghĩ, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng. Trong điều kiện mới, câu hỏi về Đảng của ai vẫn được đặt ra. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Theo quan điểm Mác xít thì Đảng Cộng sản là tổ chức tiên tiến, cao nhất của giai cấp công nhân. Mác, Ăng ghen viết trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản: '' Vậy là về mặt thực tiễn những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản'''.Theo Lê nin Đảng Cộng sản là Đảng của giai cấp công nhân, không thể ''trở thành Đảng của quần chúng" .

Tuy nhiên Mác, Ăng ghen không chỉ khẳng định những người cộng sản ''tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản'' mà còn vạch rõ: ''Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay đều là do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số mưu lợi ích cho khối đại đa số''. Trong quan niệm của Mác, Ăngghen lợi ích của những người cộng sản, gắn bó chặt chẽ với lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích dân tộc chân chính. Hai ông đòi hỏi ''giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc''.

Đến Lênin sự gắn bó giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân, với dân tộc, toàn dân đã trở nên rõ nét, chặt chẽ hơn. Cách đây hơn 100 năm, năm 1901 , Lê nin đã chỉ rõ những người dân chủ - xã hội cách mạng phải dồn sức để giải thích không chỉ cho giai cấp công nhân mà cả nông dân, sinh viên, trí thức hiểu rõ họ có người đồng minh tin cậy. Lê nin nhấn mạnh: "Chúng ta chỉ có thể hoàn thành được vai trò người chiến sĩ tiên phong đấu tranh cho tự do khi nào giai cap công nhân được sự lãnh đạo của Đảng chiến đấu cách mạng, không phút nào lãng quên vai trò đặc biệt của họ trong xã hội hiện đại, không lãng quên những nhiệm vụ đặc biệt có tính chất lịch sử toàn thế giới của họ là giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ về kinh tế, đồng thời giương cao ngọn cờ của toàn dân đấu tranh cho tự do''. Nhấn mạnh đảng cộng sản tiêu biểu cho lợi ích của nhân dân, Lênin vạch rõ chỉ có nhân danh đảng của giai cấp công nhân mới có thể tập hợp được tất cả những người lao động, những người bị áp bức bóc lột, bị đè nén, đau khổ đấu tranh cho lợi ích của giai cấp công nhân, những người lao động và toàn dân tộc. Lê nin đòi hỏi ''Chúng ta phải thu hút quần chúng ngày càng rộng rãi tham gia vào tất cả những công việc của Đảng, thường xuyên đưa họ từ thái độ thờ ơ chính trị đi đến sự phản kháng và đấu tranh, từ tinh thần phản kháng chúng đi đến chấp nhận một cách có ý thức các quan điểm dân chủ xã hội, từ sự chấp nhận những quan điểm này đi đến việc ủng hộ phong trào, từ sự ủng hộ phong trào đi đến việc gia nhập vào tổ chức đảng. Trong tư tưởng

34

Page 35: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Lê nin Đảng cộng sản là Đảng của giai cấp công nhân, nhưng đảng viên của đảng không nhất thiết chỉ là những người xuất thân từ giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định lợi ích của những người cộng sản gắn bó với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đó là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của Đảng, nhà nước cách mạng. Cách đây đúng 100 năm, năm 1905 trong tác phẩm Quân đội cách mạng và chính phủ cách mạng, Lê nin viết: ''Chính phủ cách mạng cần phái ra sức dựa vào các tầng lớp dưới trong nhân dân, dựa vào quần chúng công nhân và nông dân, không làm được điều này thì chính phủ sẽ không thể tồn tại được. Không có sự chủ động cách mạng của toàn dân thì chính phủ sẽ chỉ là con số không, tệ hơn con số không''' .

Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị hợp nhất 3.2.1930 viết: '' Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp'', ''Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản''. Tư tưởng trên tiếp tục được Hồ Chí Minh thắt lại trong những năm 50, 60 của thế kỷ trước. Năm 1953 Hồ Chí Minh viết: '' Đảng lao động là tổ chức cao nhất của giai cấp cần lao''. Tháng 4/1960 trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân chuẩn bị hướng tới Đại hội lần thứ III của Đảng, trong bài Một cách thảo luận dự thảo Điều lệ Đảng, Hồ Chí Minh viết: '' Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân gồm những người giác ngộ, tiên tiến, gương mẫu, dũng cảm và hy sinh nhất''.

Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, ''Giai cấp vô sản'' ''Đạo quân vô sản'' ''Giai cấp cần' lao'' '' Giai cấp công nhân'' là những từ có cùng ý nghĩa.

Vì Đảng là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, nên vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam thuộc về giai cấp công nhân và Đảng của nó.

Hồ Chí Minh rất nhiều lần đề cập tới những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam nói chung, Cách mạng Tháng Tám nói riêng. Tư tưởng nhất quán của Người là: Cách mạng Tháng tám đã thành công vì có ba điều kiện không thể thiếu được đối với bất cứ cuộc cách mạng phản đế nào ở một nước thuộc địa: đó là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, sự thành lập mặt trận phản đế rộng rãi, khởi nghĩa vũ trang'''. Vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân, được Hồ Chí Minh nói tới không chỉ trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân mà suốt cả quá trình cách mạng Việt Nam.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh: ''Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiền phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam''. Khẳng định vai trò lãnh đạo cách mạng nước ta thuộc về giai cấp công nhân Việt Nam, ngay từ khi giai cấp này còn nhỏ bé, chưa tập trung cao là một đóng góp quan trọng của Hồ Chí Minh.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh giai cấp công nhân lãnh dạo cách mạng và sự lãnh

35

Page 36: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam không mâu thuẫn mà có mối liên hệ khăng khít với nhau. Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ giai cấp công nhân, giai cấp cần lao lãnh đạo cách mạng thông qua đảng của mình, đảng cộng sản là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, giai cấp cần lao.

Năm 1951, quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng có sự phát triển Báo cáo chính trị tại Đại hội II của Đảng, tháng 2-1951, do Hồ Chí Minh trình bày có đoạn: '' Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và toàn thể dân tộc là một. Chính vì vậy Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của cả dân tộc Việt Nam''.

Quan điểm nêu trên của Hồ Chí Minh cũng được thể hiện trong báo cáo về Luận cương cách mạng Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày. Báo cáo viết:: "Đảng Lao động Việt Nam không phải chỉ là đội tiên phong và bộ tham mưu của giai cấp công nhân mà thôi. Nó cũng là đội tiên phong, bộ tham mưu của nhân dân lao động, mà chính vì thế nó là đội tiên phong của cả dân tộc Việt Nam nữa''. Chắc chắn Đại hội II của Đảng đã thảo luận kỹ quan điểm đảng của nhân dân lao động, của cả dân tộc Việt Nam. Qua thảo luận Đại hội đã đi đến thống nhất và ghi vào điều lệ Đảng" Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam''.

Quan điểm tại Đại hội II, 1951 tiếp tục được Hồ Chí Minh bổ sung. Trong tác phẩm Thường thức chính trị, Người viết: '' Đảng ta có chục vạn đảng viên ở các cấp chính quyền, ở trong bộ đội, ở các xí nghiệp, các trường học, các nông thôn, đảng đều liên hệ chặt chẽ với quần chúng như chân tay, ruột thịt. Ở Trung ương thì có những đồng chí nhiều kinh nghiệm, giàu quyết tâm một lòng phục vụ giai cấp và nhân dân. Vì vậy Đảng ta là Đảng của giai cấp lao động mà cũng là Đảng của toàn dân''.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà còn là đội tiền phong của cả dân tộc. Tháng 10- 1957, Hồ Chí Minh nói: '' Đảng là đội tiền phong của nhân dân lao động mà trước hết là giai cấp công nhân'' hoặc ''Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc''. Tư tưởng hai ''tiền phong'' của Đảng được Hồ Chí Minh thể hiện đậm nét cách đây gần 50 năm. Tư tưởng đó tiếp tục được Người phát triển trong những năm 60. Nói chuyện tại hội nghị bồi dưỡng cán bộ do Trung ương tổ chức, tháng l. 1965 Hồ Chí Minh chỉ rõ: ''Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc''.

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng của ai chúng tôi thấy nổi lên mấy vấn đề:

Thứ nhất, quan điểm nhất quán của Người là Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng cộng sản Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam, Đảng ta, Đảng của chúng ta là Đảng của giai cấp công nhân, giai cấp cần lao, giai cấp lao động.

Thứ hai, trong những trường hợp khi Người đề cập đến Đảng của nhân dân, của dân

36

Page 37: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

tộc, của toàn dân thì trước đó phải là của giai cấp công nhân hoặc trước hết là giai cấp công nhân. Trừ trường hợp đặc biệt 1945, khi Đảng tuyên bố tự giải tán, còn lại không một lần nào Hồ Chí Minh chỉ nói Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của nhân dân, của dân tộc, của toàn dân. Trong khi đó nhiều lần Hồ Chí Minh chỉ nói Đảng là Đảng của giai cấp công nhân, giai cấp cần lao.

Thứ ba, theo suy nghĩ của chúng tôi sau khi nói Đảng của giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh thêm Đảng của nhân dân, của dân tộc, của toàn dân, Người muốn nhấn mạnh hai ý:

Một là, đảng đại diện, tiêu biểu cho lợi ích của dân tộc, của toàn dân. Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ ngoài lợi ích của giai cấp công nhân của nhân dân, dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III ( 1960) viết: ''Đảng ta không những là đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân Việt Nam mà đồng thời còn là đại biểu trung thành cho lợi ích chân chính của nhân dân lao động và của dân tộc. Điều đó cũng giải thích vì sao công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác ở nước ta thừa nhận Đảng ta là Đảng của họ, một lòng một dạ tin tưởng và ủng hộ Đảng ta''' .

Hai là, đảng viên của Đảng không chỉ là những người tiên tiến, ưu tú xuất thân từ giai cấp công nhân mà còn từ tất cả các giai cấp, tầng lớp khác trong dân tộc. Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất thông qua đã viết: Công nhân, thợ thủ công, dân cày, binh lính, học sinh và các giai cấp khác tin theo chủ nghĩa cộng sảng, chương trình Đảng và quốc tế cộng sản, hăng hái đấu tranh, phục tùng mệnh lệnh Đảng, đóng đảng phí và chịu phấn đấu trong một tổ chức Đảng thì được vào Đảng. Năm 1960 Hồ Chí Minh nói Đảng ta là con nòi.

Thứ tư, Hồ Chí Minh có những cách tiếp cận khác nhau trong khi trả lời câu hỏi Đảng của ai nhưng Đảng cộng sản Việt Nam thực chất là Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng mácxít lê nin nít cách mạng chân chính. Bởi vì, Hồ Chí Minh khẳng định, Đảng kết hợp phong trào cách mạng Việt Nam với chủ nghĩa Mác- Lê nin, Đảng giác ngộ giai cấp công nhân rành mạch, lập trường giai cấp công nhân dứt khoát, tác phong giai cấp công nhân đúng đắn, tư tưởng của Đảng là tư tưởng của giai cấp công nhân.

Mối quan hệ dân tộc - giai cấp đã được Hồ Chí linh kết hợp một cách hết sức nhuần nhuyễn cả trong việc xác định đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ mới cũng như trong việc trả lời câu hỏi Đảng của ai. Sự kết hợp đó là một trong những sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin của Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố hàng đầu tạo nên sức mạnh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Theo PGS. TS. Nguyễn Khánh BậtViện trưởng Viện Hồ Chí Minh

37

Page 38: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

NỘI DUNG XI. ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINHNgày 18/5/2005. Cập nhật lúc 14h 46' (ĐCSVN)- Chủ tịch Hồ Chí Minh, được mọi người Việt Nam gọi bằng cái tên gần gũi thân thương là Bác Hồ. Người sinh ngày 19-5-1890 trong một gia đình nhà Nho yêu nước ở Kim Liên, Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Lúc nhỏ Người có tên là Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành. Người sinh ra khi thực dân Pháp đã xâm lược và đặt ách thống trị trên toàn cõi Việt Nam.

Với truyền thống không bao giờ chấp nhận sự thống trị của kẻ xâm lược, nhân dân ta từ Nam đến Bắc, từ đồng bằng đến miền núi đã liên tục cầm vũ khí đứng dậy chống thực dân Pháp xâm lược. Cuối thế kỷ XIX, dưới sự lãnh đạo của các văn thân sĩ phu yêu nước, các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống thực dân Pháp đã diễn ra trên khắp cả nước. Nhưng thực dân Pháp đã tập trung đàn áp dìm các cuộc khởi nghĩa trong bể máu. Các cuộc khởi nghĩa chưa có đường lối đúng đắn, kết cục đều thất bại. Sang thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, các cựu sĩ phu chuyển hoá lập trường tư tưởng thực hiện các cuộc vận động cứu nước theo lập trường tư sản. Tiêu biểu như những phong trào Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục... đứng đầu là những chí sĩ yêu nước nổi tiếng như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can...

Nguyễn Tất Thành khi đó được mời thực hiện Đông Du, nhưng đã từ chối để rồi ba năm sau Người tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ (1908). Người đã phải chứng kiến phong trào bị đàn áp đẫm máu, bản thân Người cũng bị chính quyền thực dân phong kiến không cho tiếp tục học nữa. Chứng kiến và tham gia cuộc đấu tranh bi hùng của dân tộc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Người đã nhận xét: cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta đến đầu thế kỷ XX lâm vào ngõ cụt. Rõ ràng chỉ bằng sức mạnh yêu nước truyền thống không thôi thì không đủ sức chiến thắng kẻ thù mới là bọn đế quốc thực dân cấu kết chặt chẽ với bọn đại địa chủ phong kiến. Lịch sử dân tộc Việt Nam đến đầu thế kỷ XX đặt ra một đòi hỏi khách quan là cần có một con đường cứu nước mới, với khả năng tạo ra cho dân tộc một sức mạnh mới đủ sức đánh đuổi kẻ thù mới là thực dân phong kiến làm cho dân tộc được độc lập, đưa đất nước vào quỹ đạo phát triển, nhân dân được sống trong hoà bình, tự do mưu cầu hạnh phúc.

Với tấm lòng yêu nước nhiệt thành, thương dân thương nước phải sống trong cảnh nô lệ, bị đoạ đầy đau khổ, Nguyễn Tất Thành nuôi trí giúp dân tìm con đường giải phóng. Người tâm sự: Vào lúc 13 - 14 tuổi, lần đầu tiên Người tiếp xúc với khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái của cách mạng Pháp. Lý tưởng đẹp đẽ này đã có sức hấp dẫn Người muốn đi sang Pháp, sang các nước phương Tây để xem họ làm như thế nào, sau đó Người sẽ về giúp đồng bào mình. Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành lấy tên là Văn Ba quyết định xuống làm thuê trên chiếc tàu buôn của Pháp và Người tạm biệt Tổ quốc từ Sài Gòn đi Pháp. Ngày 6-7-1911, tàu buôn Đô đốc Latútsơ Tơrêvin đưa Nguyễn Tất Thành đến nước Pháp tại cảng Mác-xây, bắt đầu những năm tháng dài lao động, nghiên cứu, học hỏi của Người ở các nước phương

38

Page 39: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Tây.

Từ nước Pháp Nguyễn Tất Thành lại quyết định xuống tàu làm thuê của hãng vận tải hợp nhất Sác-giơ Rê-uy-ni và thực hiện cuộc hành trình xung quanh châu Phi, tới nhiều nước thuộc địa của Pháp. Rời châu Phi, vượt Đại Tây Dương đến nước Mỹ, Người ở đây suốt những năm 1912, 1913. Từ Mỹ, Người trở lại châu Âu và sống ở Anh liên tục từ 1913 đến cuối 1917 mới trở lại nước Pháp sống ở Pari. Tháng 6-1923, Người bí mật rời nước Pháp về làm việc tại Mátxcơva thủ đô nước Nga... Suốt 30 năm từ năm 1911 đến 1941, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện một cuộc khảo sát toàn diện ở các nước thuộc địa, các nước tư bản phát triển khắp thế giới. Quá trình đó Nguyễn Ái Quốc đã gắn mình với phong trào công nhân thế giới, với phong trào chính trị - xã hội của các nước. Người đã chứng kiến những trận roi da mà bọn thực dân dáng vào đầu những người nô lệ, chúng coi người dân như súc vật. Người nhận xét: Trên thế giới không có dân tộc chiến bại nào bị đàn áp và hành hạ như người dân thuộc địa. Sau này Người đã tổng kết nó trong tác phẩm viết bằng tiếng Pháp nổi tiếng của Người: "Bản án chế độ thực dân Pháp", xuất bản tại Pari năm 1925. ở Niu-oóc, đến khu Hác-lem của những người da đen, "giống người bị áp bức và bóc lột nặng nề nhất trong loài người", Nguyễn Tất Thành đã nhiều lần vét những đồng xu cuối cùng để giúp đỡ họ. ở Anh, Người hoà mình vào phong trào công nhân và công đoàn Anh, tham gia Hội những người lao động hải ngoại, tham dự những buổi diễn thuyết chính trị, lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân Ai-Len... Tại Pari, Nguyễn Tất Thành dần dần làm quen với nhiều nhà hoạt động công đoàn nổi tiếng và Người đã hăng hái tham gia các hoạt động của tổ chức công đoàn. Tháng 6-1919, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, Người đã gửi đến hội nghị của các nước đế quốc thắng trận trong chiến tranh lần thứ nhất bản Yêu sách của nhân dân An Nam đòi Chính phủ Pháp và các cường quốc đế quốc phải thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Tại Pari, Nguyễn Ái Quốc đã ra sức tổ chức lại Hội những người Việt Nam yêu nước, khơi gợi lòng yêu nước của bà con, hướng cho bà con đi vào hoạt động có tổ chức chặt chẽ. Người tham gia Đoàn thanh niên Xã hội Pháp và sau đó vào năm 1919 tham gia Đảng Xã hội Pháp. Thời gian này Nguyễn Ái Quốc có bước tiến lớn trong nhận thức chính trị và hoạt động thực tiễn.

Quá trình khảo cứu thế giới, Nguyễn Ái Quốc rất quan tâm nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều cuộc cách mạng của các nước, trong đó Người đặc biệt chú ý tới cách mạng Mỹ 1776, cách mạng Pháp 1789 và cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Tiêu chí Nguyễn Ái Quốc học tập kinh nghiệm ở các cuộc cách mạng trên thế giới là: cuộc cách mạng nào đem lại độc lập cho dân tộc và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đó cũng là đòi hỏi của dân tộc và khát vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc chủ trương cách mạng Việt Nam phải học tập những tư tưởng hay, những bài học tốt, rút kinh nghiệm không hay từ hai cuộc cách mạng này. Nhưng cách mạng Việt Nam không đi theo con đường của những cuộc "cách mạng không đến nơi" Mỹ và Pháp. Ngược lại nghiên cứu cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy: Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng đến nơi, nghĩa là cách mạng thắng lợi rồi, chẳng những đem lại tự do, bình đẳng thật cho những người lao động Nga mà còn muốn giúp đỡ các dân tộc

39

Page 40: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

thuộc địa đi tới giải phóng. Vì vậy, cách mạng Việt Nam muốn có độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân phải noi theo con đường cách mạng Tháng Mười Nga.

Hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc có bước trưởng thành vượt bậc diễn ra vào nửa cuối năm 1920. Tháng 7 năm 1920, lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc tiếp xúc với Lênin qua văn kiện: Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa mà Lênin sẽ đọc tại Đại hội lần thứ hai của Quốc tế Cộng sản vào cuối tháng 7 đầu tháng 8 năm 1920. Những điều bấy lâu nay trên lộ trình tìm đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc trăn trở, suy tư thì nay đọc Luận cương của Lênin như bừng sáng, bởi vậy Người rất cảm động, phấn khởi, tin tưởng. Người cho rằng "Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta" và từ đó Người hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Chính vì vậy, cuộc đấu tranh lý luận mà chốt lại là giữ nguyên Đảng Xã hội Pháp trong Quốc tế thứ hai hay thành lập Đảng Cộng sản Pháp thành phân bộ của Quốc tế thứ ba, diễn ra sôi nổi trong Đảng Xã hội Pháp suốt từ giữa năm 1920 đến cuối tháng 12-1920 tại Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp tại thành Tua. Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã dứt khoát đứng về lập trường tham gia Quốc tế thứ ba và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là bước ngoặt căn bản trên hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, bước ngoặt trong tiến trình hình thành tư tưởng của Người. Người khẳng định: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Bằng tư tưởng đó, mùa xuân 1930 khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã viết trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng rằng: ta chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Tư tưởng này của Người đã đáp ứng đòi hỏi của lịch sử dân tộc là phản đế phản phong, nó là bệ đỡ nâng dân tộc ta vươn mình lên làm cách mạng Tháng Tám thành công và kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Vì vậy đến năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Như vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh là người tìm đường cứu nước cho dân tộc, đồng thời cũng là người chỉ đường, vạch lối giải phóng cho dân tộc và cũng là người dẫn dắt dân tộc ta, nhân dân ta đi tới những thắng lợi, đưa dân tộc ta vào quỹ đạo phát triển.

Con đường giải phóng dân tộc, phát triển đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh dù diễn đạt từ ngữ có khác nhau ở mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể nhưng luôn luôn có hai yếu tố cơ bản: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hai yếu tố này tạo nên nội dung hoàn chỉnh của con đường cách mạng Việt Nam và nó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đó là con đường cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong đó độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc phải giành, giữ cho được độc lập dân tộc; độc lập dân tộc phải đi đến thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và phải đi tới quyền tự quyết dân tộc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; độc lập dân tộc phải gắn liền với hoà bình, chỉ có độc lập dân tộc trong hoà bình và chỉ có hoà bình mới thực sự có độc lập, còn chiến tranh, còn ngoại xâm không thể có độc lập dân tộc; độc lập dân tộc phải đi tới ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Do vậy, độc lập dân tộc bao giờ cũng là mục

40

Page 41: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

tiêu trực tiếp, trước hết của cách mạng Việt Nam, nó là hệ quả của việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của cách mạng giải phóng của dân tộc, mâu thuẫn giữa toàn dân tộc Việt Nam với đế quốc và tay sai của chúng là đại địa chủ phong kiến. Trong quá trình giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của sự nghiệp giải phóng dân tộc thực hiện độc lập dân tộc cũng là quá trình tạo các tiền đề trên tất cả các mặt về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội để đưa dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện bước phát triển toàn diện đất nước.

Nhưng thực hiện độc lập dân tộc chỉ là bước thứ nhất của cách mạng Việt Nam, thực sự chỉ mới thực hiện được bước giải phóng nhân dân về chính trị, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ lên địa vị làm chủ đất nước. Còn giải phóng về kinh tế, thoát khỏi đói nghèo, xây dựng và phát triển nền kinh tế hiện đại, giải phóng xã hội và triệt để giải phóng con người là bước tiếp sau giành được độc lập dân tộc. Đó là bước đi của dân tộc xây dựng phát triển chế độ mới - chế độ xã hội chủ nghĩa. Như vậy, chủ nghĩa xã hội là bước tất yếu của độc lập dân tộc, là thực hiện mục tiêu xa của con đường cách mạng Việt Nam. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam chỉ khi đạt được mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì lúc đó mới có thể ghi trên lá cờ cách mạng của mình là cách mạng Việt Nam đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Vì trong nhận thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa xã hội chung đúc tất cả thành quả của cách mạng - giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và triệt để giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân lao động làm chủ, nó được xây dựng trên nền tảng của nền kinh tế phát triển cao với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và phân phối theo lao động; quan hệ xã hội lành mạnh với nền văn hoá mới; chủ nghĩa xã hội là của dân và do nhân dân tự xây dựng lấy; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau; là đoàn kết hữu nghị với tất cả các dân tộc trên thế giới.

Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới là tiếp tục con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội do Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm thấy cho dân tộc từ đầu thế kỷ XX. Như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua ở đại hội VII năm 1991, đã khẳng định: Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ quang vinh mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau. Đảng ta cũng xác định: Kiên quyết thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược trong đổi mới là: Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa để đi tới dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh như mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc Việt Nam.

TS. Hoàng TrangPhó Viện trưởng Viện Hồ Chí MinhHọc viện CTQG Hồ Chí Minh

NỘI DUNG 12. QUÁN TRIỆT QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN TRONG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY

41

Page 42: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Ngày 18/4/2005. Cập nhật lúc 9h 8' Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác tư tưởng, lý luận của Đảng và thường xuyên nhấn mạnh công tác quan trọng này phải dựa trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và xuất phát từ thực tiễn cách mạng của Đảng, của dân tộc. Những luận điểm quan trọng của Người về vị trí, vai trò nội dung công tác tư tưởng, lý luận; nguyên tắc, phương châm công tác tư tưởng, lý luận là cơ sở để Đảng ta đề ra nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới, góp phần nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Về công tác tư tưởng, Hồ Chí Minh chú trọng chỉnh huấn tư tưởng trong cán bộ, đảng viên. Thực tế trong Đảng, bên cạnh đa số đảng viên gương mẫu, tận tâm, tận lực phục vụ cách mạng, vẫn còn một bộ phận không nhỏ mắc sai lầm, khuyết điểm như không làm đúng chủ trương, chính sách của Đảng, chủ nghĩa cá nhân, hữu khuynh, tả khuynh trong công tác... Mặc dù khuyết điểm nhiều, ít, to, nhỏ khác nhau, nhưng nguyên nhân chính dẫn đến khuyết điểm là “vì trình độ lý luận thấp, vì không thật thà nghiêm khắc tự phê bình”, đã gây ảnh hưởng không nhỏ trong công tác. Vì thế, cán bộ cần phải được chỉnh huấn, trong đó phải hết sức coi trọng chỉnh huấn tư tưởng. Người chỉ rõ: Đảng cần phải giáo dục và yêu cầu đảng viên ra sức học tập lý luận, mở rộng tự phê bình và phê bình, đấu tranh với những tư tưởng “phi vô sản” để nâng cao tư tưởng cách mạng, củng cố lập trường, rửa gột khuyết điểm, phát triển ưu điểm. Có hai thứ vũ khí sắc bén để giúp cán bộ, đảng viên cải tạo tư tưởng: cố gắng học tập lý luận gắn liền với thực hành; thật thà tự phê bình và phê bình. Trong phê bình và tự phê bình phải đảm bảo dân chủ. Với tinh thần đó, tất cả các đảng viên của Đảng “phải đào cho đến tận gốc rễ những sai lầm”.

Một trong những yêu cầu quan trọng của Đảng cách mạng chân chính là phải có những cán bộ Đảng hiểu biết lý luận cách mạng, gắn chặt lý luận với thực hành.

Hồ Chí Minh đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể về nội dung, phương pháp và nguyên tắc giáo dục lý luận Mác-Lênin. Nội dung giáo dục lý luận phải xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng từ trình độ và năng lực thực tiễn của cán bộ trong từng thời kỳ cách mạng. Người nêu rõ sự cần thiết phải học tập lý luận CNXH khoa học và đường lối xây dựng CNXH ở Việt Nam. “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi đảng viên và cán bộ phải có lập trường giai cấp vô sản thật vững chắc, giác ngộ về chủ nghĩa xã hội cao... rửa sạch ảnh hưởng của những tư tưởng của giai cấp bóc lột, rửa sạch chủ nghĩa cá nhân, rèn luyện chủ nghĩa tập thể... khắc phục các bệnh quan liêu và cô độc hẹp hòi để liên hệ chặt chẽ với quần chúng, do đó mà phát huy được đầy đủ tính sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn thế, phải nâng cao trình độ lý luận chung của Đảng, phải tổ chức học tập lý luận trong Đảng, trước hết là trong những cán bộ cốt cán của Đảng.

Về phương pháp học tập lý luận, Hồ Chí Minh chỉ rõ: nếu “...chỉ đem tý luận khô khan nhét cho đầy óc họ. Rồi bày cho họ viết những chương trình, những hiệu triệu rất kêu. Nhưng đối với việc thực tế, tuyên truyền, vận động, tổ chức, kinh nghiệm chỉ nói qua loa mà thôi. Thế là lý luận suông, vô ích”; do đó, “... trong lúc học lý

42

Page 43: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

luận, phải nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế. Lúc học rồi, họ có thể tự mình tìm ra phương hướng chính trị có thể làm những công việc thực tế, có thể trở nên người tổ chức và lãnh đạo. Thế là lý luận thiết thực, có ích”.

Việc giáo dục lý luận cho cán bộ, đảng viên phải đảm bảo tuân theo một số nguyên tắc cơ bản: thiết thực, chu đáo; giáo dục từ dưới lên trên; gắn lý luận với thực tiễn; nhằm đúng nhu cầu; chú trọng cải tạo tư tưởng. Một trong những nguyên tắc được Hồ Chí Minh nhấn mạnh là lý luận gắn với thực tiễn, học đi đôi với hành, nói đi đôi với làm. “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”. Hồ Chí Minh đề cao nguyên tắc “Phải biết tự động học tập”, ra sức học tập, học tập cái mới, tìm tòi cái mới và thực hiện cái mới với thái độ học tập lý luận đúng đắn, nghiêm túc. Thái độ học tập lý luận khiêm tốn thật thà, tránh kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn; tự nguyện, tự giác, coi học tập lý luận là nhiệm vụ cơ bản của cán bộ, đảng viên; nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng; bảo vệ chân lý; thật sự đoàn kết, thật thà tự phê bình và mạnh dạn phê bình, giúp nhau tiến bộ. Một điều Hồ Chí Minh lưu ý trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng là không nên chỉ chú trọng nội dung, phương pháp, nguyên tắc giáo dục tư tưởng, lý luận cho cán bộ, đảng viên mà còn phải chú ý đến đông đảo quần chúng nhân dân, củng cố nâng cao tư tưởng, tình cảm tốt đẹp của nhân dân với nhiệm vụ xây dựng đất nước, với chế độ XHCN.

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, công tác tư tưởng và công tác lý luận của Đảng có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng. Hai mặt tư tưởng và lý luận trong Đảng phải gắn liền thống nhất với nhau, không xem nhẹ hoặc quá coi trọng một mặt nào.

Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng, lý luận trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn xác định công tác tư tưởng, lý luận là một trong những hoạt động trọng yếu nhất nhằm xác lập, củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng mà cốt yếu là hệ tư tưởng XHCN. Đây là lĩnh vực tác động trực tiếp đến công tác xây dựng, củng cố và phát triển Đảng, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới. Cần nhấn mạnh một số điểm sau:

- Công tác tư tưởng, lý luận là bộ phận hữu cơ trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, đảm bảo cho Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, giữ vững vai trò tiên phong, nâng cao đạo đức, trí tuệ, có đủ năng lực hoạch định đường lối, chiến lược, sách lược đúng đắn, sáng tạo, đưa cách mạng Việt Nam vững bước tiến lên.

- Tiến hành công tác tư tưởng lý luận trong tình hình mới nhằm củng cố niềm tin, tạo sự thống nhất cao trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.

- Đẩy mạnh công tác tư tưởng, lý luận là không ngừng củng cố vững chắc nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thông qua việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân lao động

43

Page 44: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

để thống nhất nhận thức và quyết tâm đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội về chính trị, phản động, kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng, bảo vệ chế độ XHCN.

- Vai trò quan trọng và sụ phát triển của lý luận ngày nay đòi hỏi Đảng ta phải đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ lý luận có năng lực, có trình độ cao, có khả năng phát hiện và sáng tạo trong công tác. Cần đầu tư nghiên cứu và tổng kết thực tiễn để tìm ra nguyên nhân của việc chống suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, chống tham nhũng, lãng phí... còn kém hiệu quả.

Trong mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực hiện thành công đổi mới, chỉnh đốn Đảng, hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của Đảng trong giai đoạn hiện nay, thì việc đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận của Đảng có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng, mang ý nghĩa quyết định. Đảng tiến hành đổi mới về tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế, đổi mới về nội dung, phương thức tiến hành công tác tư tưởng, lý luận đổi mới gắn liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tu tưởng, lý luận đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn.

Theo Lý Thị Bích Hồng, Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 3/2005

NỘI DUNG 13. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “HỌC ĐỂ LÀM VIỆC” MỘT TRONG BỐN TRỤ CỘT CỦA GIÁO DỤC HIỆN ĐẠINgày 10/3/2005. Cập nhật lúc 10h 40' Bất cứ ở giai đoạn lịch sử nào, GD-ĐT luôn chiếm vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi cá nhân, tập thể, cộng đồng, dân tộc và cả nhân loại. Từ xa xưa, các học giả, nhà lãnh đạo, quản lí ở trong nườc và trên thế giới đã từng luận bàn rất nhiều xung quanh chủ đề này. Đặc biệt, trong bối cảnh thế giới hiện nay, nhiều quốc gia, dân tộc đang tích cực chuyển sang giai đoạn phát triển nền kinh tế mới - kinh tế tri thức, vấn đề GD-ĐT càng được coi trọng. Vai trò của GD - ĐT được nhận thức và hành động một cách sâu sắc và toàn diện hơn. Bởi vì, GD-ĐT chính là chìa khoá, động lực quan trọng để xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức của mỗi quốc gia, dân tộc.

Trong lĩnh vực giáo GD-ĐT, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người có quan điểm và hành động chiến lược vượt tầm thời đại. Một trong những quan điểm và hành động của Người có tính xuyên suốt từ buổi thiếu thời cho đến lúc đi xa là xác định rõ ràng, nhất quán mục đích của việc học tập. Mục đích quan trọng nhất và suy cho đến cùng là duy nhất của việc học tập trong quan niệm và hành động của Bác chính là: Học để giúp dân cứu nước,học để làm việc.

1. Mục đích của học tập là để giúp dân cứu nước

Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị nạn ngoại xâm, Người đã sớm xác định cho mình mục đích của việc học tập. Ngay từ tuổi thiếu niên Bác đã tiếp thu

44

Page 45: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

được tinh thần: học tốt để giúp dân cứu nước từ một số nhà nho yêu nước, nhất là từ chính người cha Nguyễn Sinh Sắc. Tư tưởng về mục đích học tập thật tốt, học tập thật nhiều để làm việc có ích cho dân tộc, quốc gia của người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã xuất hiện từ lúc đó.

Vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu của thế kỉ XX dân ta nô lệ lầm than dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Một bộ phận những người yêu nước, căm ghét giặc Pháp, muốn tìm cách đuổi Pháp đi. Biện pháp khá phổ biến lúc bấy giờ là quay lưng, bất hợp tác với thực dân Pháp, xa lánh với tất cả những gì là của nước Pháp, không tiếp thu cả những cái hay cái tiến bộ, cái mà chúng ta cần phải học từ nước Pháp lúc bấy giờ: khoa học kĩ nghệ, nền văn minh, văn hoá, ngôn ngữ, tư tưởng bình đẳng bác ái của nước Pháp. Biện pháp đó không đánh đuổi được thực dân Pháp, ngược lại càng bị áp bức, bóc lột nặng nề hơn.

Bên cạnh đó, một bộ phận quan lại, địa chủ, tư sản, tiểu tư sản lại ca ngợi, bợ đỡ kẻ thù, đàn áp những người yêu nước, đi học để làm tay sai cho Pháp; hoặc là bằng con đường du học và định cư ở nước ngoài để mưu sinh cuộc sống. Đây là con đường hợp tác với Pháp (trong đó có học văn minh, tiến bộ của nước Pháp), nhằm tìm kiếm lợi ích, mưu sinh cho hạnh phúc của cá nhân. Mục đích học của những con người này là để ''hưởng vinh hoa phú quý''.

Lúc bấy giờ, nhiều thanh niên có ''mục đích đi học là cốt được mảnh bằng để làm ông thông, ông phán, lĩnh lương nhiều, ăn ngon, mặc đẹp'', thì người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rất hăng say tích cực học cái hay cái tiến bộ của nền văn minh, văn hoá, ngôn ngữ Pháp; mục đích đi học của Người là để hiểu nước Pháp nhằm tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, chống lại sự đô hộ của thực dân Pháp, học để làm việc có ích cho quốc gia, dân tộc. Người muốn sang tận nước Pháp để hiểu rõ nguồn cơn của ''Tự do - Bình đẳng - Bác ái'' ngay tại nước Pháp. Trong 30 mươi năm bôn ba tìm đường cứu nước, dù trong hoàn cảnh nào, ở đâu, làm gì? Người luôn thể hiện mục đích học tập cao cả của mình: tích cực học tập tiếp thu kiến thức của nhân loại để giúp dân cứu nước. Bác học ngoại ngữ, học viết báo, làm thợ ảnh, học đánh máy chữ, học diễn thuyết, học chủ nghĩa Mác... đều hướng tới mục đích giúp dân cứu nước, tìm con đường cách mạng giải phóng dân tộc.

2. Mục đích của học tập là để làm việc

Khi đất nườc đã giành lại độc lập, dù ở đâu, làm gì Người cũng liên tục phát triển quan điểm: học để làm việc. Người mong muốn mọi cán bộ, đảng viên phải xác định cho rõ mục đích của việc học tập. Tháng 9/1949, đến thăm Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc tại Việt Bắc, Người ghi vào sổ vàng truyền thống của nhà trường: ''học để làm việc, làm người, làm cán bộ, học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại''. Như vậy, Người nhấn mạnh và yêu cầu cán bộ, đảng viên là học trước hết và quan trọng nhất là để làm việc. Mở trường Đảng để đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ, đảng viên là nhằm mục đích làm cho họ có thể hoàn thành tốt công việc mà thực tiễn cách mạng yêu cầu.

45

Page 46: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Trong buổi nói chuyện tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ 2 (7/5/1958), Người lại nhắc nhở các sinh viên phải xác định cho rõ mục đích của việc học tập. Bác yêu cầu các sinh viên phải trả lời cho được câu hỏi: ''Học để làm gì? Học để phụng sự ai?''. Và Người coi đó như là phương châm hành động, bản lĩnh chính trị của đội ngũ trí thức Việt Nam mới. Trong thư gửi các cháu học sinh Trường sư phạm miền núi TW nhân dịp trường khai giảng, Người lại tiếp tục nhắc nhở ''nhiệm vụ của các cháu là thi đua học tập để sau này góp phần mở mang quê hương của mình và việc xây dựng nước Việt Nam yêu quý của chúng ta''.

Bên cạnh đề cao mục đích học để làm việc, Người kiên quyết phê bình hiện tượng ''học để lấy bằng cấp, học để trang sức'' trong một số cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân lúc bấy giờ. Bác chỉ rõ và yêu cầu nền GD-ĐT của nước nhà thực hiện cho được mục đích: ''phải xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, học để vận dụng vào công việc của cách mạng, mục đích học là để làm kinh tế, chính trị, văn hoá đều tiến bộ, các dân tộc đều đoàn kết với nhau... học để xây dựng chủ nghĩa xã hội''.

Như vậy, theo Bác, chúng ta xây dựng một nền giáo dục của một nước Việt Nam mới - độc lập và chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải yêu cầu mọi người thấm nhuần trong nhận thức và hành động mục đích của học tập là học để làm việc.

Do xác định mục đích là học để làm việc cho nên Người yêu cầu mọi người phải thể hiện nhận thức và hành động học mọi lúc, mọi nơi, học ở mọi người và phải học suốt đời. Chính cuộc đời và sự nghiệp của Bác là một tấm gương sáng ngời minh chứng cho quan điểm này. Trong buổi nói chuyện với những cán bộ, đảng viên hoạt động lâu năm, Bác nói ''Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải học. Việc lớn, việc nhỏ, tôi phải tham gia. Không học thì không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình ra phía sau''.

3. Mục đích của học tập là học phải có phương pháp

Theo Hồ Chí Minh, nếu không học thì không thể làm việc tốt được. Mà đã học thì phải học cho tốt; muốn vậy phải có phương pháp học tập.

Phương pháp học tập là một nội dung không thể thiếu trong quan điểm của Bác khi bàn về mục đích học tập. Phương pháp học tập là một nội dung của mục đích học. Người xác định: Học phải gắn liền với thực hành; học tập suốt đời, học ở mọi nơi, mọi lúc, mọi người. Quan điểm này được Người nhấn mạnh: ''Học để hành: Học với hành phải đi đôi Học mà không hành thì vô ích. Hành mà không học thì không trôi chảy''. Đây không chỉ là mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn của việc học mà ở tầng ý nghĩa sâu hơn... Tiếp tục khẳng định quan điểm này, trong thư gửi giáo sư và sinh viên trường Dự bị đại học ở Thanh Hoá, Người khuyên các sinh viên: ''Các cháu học tập cần cố gắn liền với thực hành để mai sau thực hiện mục đích cao quý: thật thà phụng sự nhân dân''.

Theo Hồ Chí Minh, muốn cho mục đích cao cả của việc học được thành công thì

46

Page 47: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

đòi hỏi phải có phương pháp học tập đúng đắn. Phương pháp học tập là một nội dung của mục đích học tập, gắn liền với mục đích học tập. Chỉ người nào có tinh thần và hành động học tập gắn liền với thực hành, học tập suốt đời, học tập ở mọi lúc, mọi nơi thì mới có thể đáp ứng được mục đích cao cả của học tập là học để làm việc. Trong bối cảnh khoa học - công nghệ phát triển nhanh chóng hiện nay, chúng ta càng thấm thía quan điểm này.

4. Ý nghĩa mục đích học tập theo quan điểm của Bác

Hiện nay, trong bối cảnh cải cách và phát triển nền giáo dục để đáp ứng những yêu cầu mới của thực tiễn, việc học tập quan điểm và tấm gương ngời sáng của Hồ Chí Minh về mục đích học tập có ý nghĩa hết sức quan trọng. Thực tiễn nước ta có một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, quần chúng nhân dân, đặc biệt là trong thế hệ trẻ chưa thấy hết ý nghĩa thời đại trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: học để làm việc.

Có một bộ phận cán bộ, đảng viên xác định mục đích của việc học không phải là học để làm việc mà học chính là để mưu lợi ích cá nhân, học để thăng quan tiến chức, học để củng cố địa vị, học để lấy bằng cấp, học hàm học vị cho oai. Nhiều khi học lại chăng để làm gì cả, việc học của họ không gắn liền với mục đích làm việc được tốt hơn.

Chúng ta có thể nhận thấy: số lượng cán bộ, đảng viên đi học ngày một tăng nhanh, nhưng hiệu quả giải quyết công việc ở các cấp, các ngành, các đơn vị chưa rõ? Do đâu? Một nguyên nhân rất quan trọng là do mục đích học để làm việc, học để có thể đảm đương tốt công việc được phân công chưa được quan tâm đúng mức.

Không ít các bậc phụ huynh, GV, chưa làm tốt công tác truyền đạt cho thế hệ trẻ: lòng ham học, học giỏi để sau này có thể làm việc được tốt, mới chỉ dừng ở chỗ: học vì tinh thần thành tích thi đua chung, vì kết quả của bản thân học sinh, vì sự mong đợi của các bậc cha mẹ, họ hàng, thầy cô giáo và nhà trường. Thiết nghĩ, điều này là rất quan trọng, là động lực để nâng cao chất lượng trong giáo dục nhà trường phổ thông, phù hợp với tâm lí con người. Nhưng động lực, bệ phóng để các em mở rộng tầm nhìn, đi được xa hơn, phát triển về nhân cách, trí tuệ toàn diện bền vững hơn, có lẽ cần phải đề cao: học giỏi để có thể làm việc tốt trong tương lai.

Trong thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay, một bộ phận không nhỏ chỉ xác định mục đích duy nhất là học để có cơ hội kiếm được nhiều tiền. Đành rằng, đây là mục đích rất chính đáng, thiết thực đối với cuộc sống hôm nay, phù hợp với việc phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta. Song, nó bị đẩy lên thái quá, trở thành phương châm hành động của khá đông học sinh, sinh viên, thanh niên. Do mục đích học để làm việc chưa được đề cao thoả đáng trong xã hội và lấy hệ giá trị của trường lớp, địa vi xã hội, cơ hội kiếm được nhiều tiền trong lúc học và sau khi ra trường làm thước đo nên nhiều học sinh xác định nguyện vọng học bậc tiếp theo không phù hợp với năng lực của mình, không phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội hiện nay ở nước ta; một bộ phận HS đi du học nước ngoàt bị cuốn vào guồng xoáy của giá trị

47

Page 48: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

vật chất, không chuyên cần học tập. Vấn đề xác định giá trị, mục đích của việc học tập ở nước ngoài nhằm tiếp thu khoa học - công nghệ, quản lí tiên tiến, để từ đó có thể làm việc được tốt hơn, phục vụ cho đất nước được nhiều hơn chưa được coi trọng.

Phương châm ''đi tắt đón đầu'' trong học tập khoa học - công nghệ, phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn ở nước ta hiện nay về cơ bản là đúng đắn. Tuy nhiên, khi triển khai cụ thể, chúng ta chưa coi trọng một cách thoả đáng đến mục đích học để làm việc, ''đốt cháy, bỏ qua'' khá nhiều công đoạn trong học tập, đào tạo khoa học - công nghệ và làm kinh tế nên gặp không ít khó khăn, bất cập.

Tấm gương và hành động trong mục đích học tập của Hồ Chí Minh đã trở thành một di sản quý báu của đất nước. Trong quá trình đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay, việc xác định mục đích học để có khả năng tiếp cận và đáp ứng được công việc là hết sức cần thiết. Nó cần phải được coi là phương châm hành động trong xã hội, nhất là đối với thế hệ trẻ.

Những năm cuối của thế kỉ XX, UNESCO - Tổ chức văn hoá, khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc đã khẳng định: mục tiêu của giáo dục trên thế giới đang chuyển hướng, từ chỗ học để biết chuyển sang phương châm học để làm việc, học để cùng chung sống, học để làm người. Mục đích của giáo dục là nhằm xây dựng nguồn lực con người trở thành động lực cho sự phát triển bền vững. Phải chăng vấn đề này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức, hành động và giáo dục chúng ta trước đó từ rất lâu và đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Theo Đỗ Văn Quân - Đặng Ánh Tuyết, Tạo chí Giáo dục, tháng 1/2005

NỘI DUNG 14. “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC”: MỘT SỐ ĐIỀU BÁC DẠY VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNGNgày 18/2/2005. Cập nhật lúc 9h 28' (ĐCSVN)- Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc” vào tháng 10 – 1947, khi cuộc kháng chiến chống Pháp, quân và dân ta gặp muôn vàn khó khăn và thử thách: chúng ta bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ với ngân khố trống rỗng, chính quyền non trẻ, nạn đói còn chưa chấm dứt...

Ngay lúc đó, Bác Hồ đã khẳng định nhân tố hàng đầu của thắng lợi đó là sự lãnh đạo của Đảng: “Đảng ví như cái máy phát điện...máy phát mạnh thì đèn sáng''. Vì vậy Bác đã không ngừng chăm lo xây dựng Đảng trở thành một Đảng mácxít-lêninít vững mạnh để lãnh đạo cuộc kháng chiến của toàn dân đi đến thắng lợi hoàn toàn. Trong tác phẩm này, Hồ Chủ tịch đã phân tích nhiều quan điểm quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Ở đây xin đề cập tới một số quan điểm có ý nghĩa, tác dụng của nó còn nguyên giá trị cho giai đoạn cách mạng hiện nay.

48

Page 49: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

I/ Mọi đảng viên và cán bộ của Đảng phải xứng đáng là những chiến sĩ tiên phong.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời do nhu cầu của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam chống lại sự bóc lột, áp bức của giai cấp tư sản (Mà chủ yếu là giai cấp tư sản chính quốc Pháp). Chính thế cho nên ngay trong phong trào công nhân đã có yếu tố dân tộc độc lập, yếu tố yêu nước, từ đó mà mở rộng ra phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các giai cấp và tầng lớp khác nhau trong dân tộc Việt Nam và vì vậy mà Đảng cộng sản Việt Nam ra đời được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết bởi sự kết hợp giữa 3 yếu tố.

- Chủ nghĩa Mác - Lênin.

- Phong trào công nhân.

- Phong trào yêu nước của dân tộc Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam lại gắn bó chặt chẽ giữa lợi ích giai cấp với lợi ích của nhân dân 1ao động Việt Nam và toàn dân tộc Việt Nam. Bác Hồ đã khẳng định ''Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác'', ''Vì toàn dân được giải phóng thì Đảng được giải phóng''. Như vậy chúng ta thấy rõ rằng Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời không có mục đích tự thân, không, phải ''là một tổ chức để làm quan phát tài'' mà chỉ có mục đích duy nhất là lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ''làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng” tiến tới giải phóng giai cấp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam và trên toàn thế giới. Bác dạy mỗi đảng viên chúng ta phải hiểu rằng lợi ích cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng, lợi ích của mỗi bộ phận phải phục tùng lợi ích toàn thể, lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài''. ''Vì lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc”.

Hiện nay nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, vận hành trong cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đang coi lợi ích cá nhân người 1ao động là động lực trực tiếp cho sự phát triển. Nhưng một số người đã hiểu nhầm thành “lợi ích cá nhân'' là động lực cao nhất, thậm chí duy nhất. Họ suy nghĩ và hành động chỉ trên cơ sở lợi ích cá nhân của họ và gia đình họ. Họ vào Đảng và làm việc trong Đảng chỉ vì bản thân họ sẽ được cái gì, mất cái gì. Vì động cơ sai lạc như vậy nên trong tuyển dụng, đề bạt, bố trí sử dụng cán bộ, trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ lrong Đảng; trong việc xây dựng khối đoàn kết thống nhất; trong đấu tranh tự phê bình và phê bình... thường diễn ra kiểu êkíp, cánh hẩu, bè phái chứ không xuất phát từ lợi ích chung của Đảng mà làm. Đã đến lúc chúng ta cần giáo dục động cơ vào Đảng cho quần chúng, đảng viên hơn lúc nào hết - phải coi trọng chất lượng trong kết nạp Đảng - phải đình chỉ sự kết nạp ở những chi bộ và đảng bộ yếu kém, mất đoàn kết nghiêm trọng và kéo dài.

49

Page 50: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Bác nhấn mạnh đến ''đạo đức cách mạng'' ''cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân''. Đạo đức cách mạng đã được Bác tổng kết bằng năm điều là ''nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm''. Theo Bác Hồ phân tích thì đạo đức đó bao gồm cả phẩm chất và năng lực của người cán bộ, đảng viên. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, mỗi cán bộ cần rèn luyện theo ba tiêu chuẩn sau:

- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tuỵ phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước (đó là cái nhân, cái nghĩa, cái dũng lớn nhất của con người).

- Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng; có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm (đó 1à cái liêm, cái nghĩa, cái dũng lớn nhất của con người).

- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp 1uật của Nhà nước; có trình độ văn hoá, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao (đây là cái trí, cái nhân, cái 1iêm lớn nhất của mỗi người).

Như vậy, ba tiêu chuẩn chung của người cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay như Nghị quyết Trung ương ba, khoá VIII đã đề ra cũng chính là nội hàm cơ bản của ''đạo đức cách mạng'' mà Bác Hồ đã đề cập đến trong ''Sửa đổi lề lối làm việc'' từ tháng 10 năm 1947.

Bác còn nói: ''Không ai bắt buộc ai vào Đảng làm chiên sĩ xung phong, đó là do sự tự giác…Mỗi người đảng viên phải cố gắng cho xứng đáng là một ngư trong những người đại biểu của dân tộc''.

Mỗi đảng viên phải là chiến sĩ tiên phong, theo Bác, muốn vậy, mỗi đảng viên phải tránh được ba khuyết điểm: ''bệnh chủ quan'', ''bệnh hẹp hòi'', ''bệnh ích kỷ''. “Bệnh chủ quan'' Bác nói: ''Nguyên nhân của bệnh chủ quan là kém lý luận, hoặc khlnh lý luận, hoặc lý luận suông''. Do vậy, Bác đòi hỏi mỗi đảng viên phải ra sức học tập và rèn luyện để có một ''lý luận chân chính''. Bác nới: “Lý luận là đem thực tê” trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu để xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế đó là lý 1uận chân chính.

“Bệnh hẹp hòi'', một chứng bệnh mà ''trong thì ngăn trỏ Đảng thông nhất, đoàn kết. Ngoài thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân''. “chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hoá v.v.. đều do bệnh hẹp hòi mà ra''. Muốn chống bệnh hẹp hòi, Đảng phải ra sức thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ và các nguyên tắc tổ

50

Page 51: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

chức và sinh hoạt khác; phải kiên quyết với những hiện tượng bè phái, gây mất đoàn kết trong Đảng. Tiếc rằng hiện nay nhiều nơi mất đoàn kết nghiêm trọng và kéo dài, chúng ta còn chưa có những giải pháp kiên quyết để chấm dút sớm, còn để ảnh hưởng đến uy tín, tâm tư, tình cảm của cả một đơn vị, sau đó lại cho rút êm, chuyển đẹp'', gây hậu quả xấu đối với uy tín của Đảng trước nhân dân.

Bệnh ích kỷ'' chính là chủ nghĩa cá nhân. Bác nói: ''chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc do đó mà sinh ra căn bệnh nguy hiểm'' như bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh, bệnh thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ...

“Để chữa khỏi các bệnh kia ta phải tự phê bình ráo riết và phải lấy lòng thân ái, lấy lòng thành thật mà ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai việc đó phải đi đôi với nhau''.

“Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh, mà Đảng sẽ mạnh khoẻ vô cùng''.

II/Để Đảng mạnh chúng ta phải “phê bình và sửa chữa”.

Đảng cũng là một thực thể xã hội do vậy trong quá trình vận động và phát triển trong Đảng và mỗi cán bộ đảng viên không thể tránh khỏi những sai lầm khuyết điểm. Vả lại, cán bộ, đảng viên cũng là những con người, họ cũng có gia đình, quan hệ xã hội và sống trong những hoàn cảnh cụ thể. Vậy không thể tránh được những khuyết tật của những con người. Đặc biệt, trong hoàn cảnh hiện nay, mặt trái của nền kinh tế thị trường như: phân hoá giàu nghèo, buôn lậu, tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác không ngừng tác động từng ngày, từng giờ vào mỗi cán bộ, đảng viên. Chúng ta hoàn toàn không sợ những tật bệnh và khuyết điểm đó mà chỉ sợ mỗi tổ chức, mỗi đảng viên có kiên quyết “phê bình và sửa chữa'' như Bác dạy hay không? Hay còn nể nang, nề tránh thậm chí ''ô dù, ''bao che'', ''trốn tội''.

Nghị quyết 6 lần 2 của Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII đã đề ra chương trình của cuộc vận động và chỉnh đốn Đảng trong đó có biện pháp quan trọng là mọi đảng viên và mọi tổ chức Đảng phải nghiêm chỉnh thực hành cuộc đấu tranh ''tự phê bình và phê bình'' trong Đảng. Vậy ý nghĩa, nội dung và cách làm thế nàn cho có hiệu quả chúng ta hãy đọc lại “Sửa đổi lối làm việc'' của Bác. Bác nói ''mục đích của phê bình cột giúp nhau sủa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt để đoàn kết và thống nhất nội bộ''.

“Vì Vậy phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để thật thà không nể nang, thêm bớt.. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm chứ không phải phê bình người''.

Trong lúc phê bình khuyết điểm phải vạch ra rõ ràng, mà ưu điểm cũng phải nhắc

51

Page 52: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

đến, một mặt là để sửa chữa cho nhau, một mặt là để khuyến khích nhau bắt chước nhau”.

Ta phải biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu hiểu những khuyết điểm của mình để tự mình sửa chữa”.

“Nói về từng người nể nang không phê bình …khác nào bỏ thuốc độc cho mình”.

“Nói về Đảng, một đảng mà dâu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng''. ''Phê bình không phải để công kích, để nói xấu, để chửi rủa”.

Nếu ai cũng thiết thực phê bình'' và ''thiết thực sửa đổi'' thì Đảng sẽ vững mạnh.

Trong thực tế cuộc sống hiện nay, ''thiết thực phê bình'' càng không phải đơn giản. Sống trong cơ chế thị trường và con người phải chịu sự chi phối ràng buộc của hệ thống luật pháp Nhà nước - mà hệ thống luật pháp của ta - nhà nước pháp quyền của ta lại chưa hoàn thiện, đồng bộ, chưa đầy đủ. Mấy ai vi phạm pháp luật, vi phạm 1ợi ích chung như tham nhũng, buôn lậu, bè cánh, gia trưởng, mất dân chủ lại dám tự phê bình trước tổ chức, trước tập thể. Mấy ai dám phê bình thủ trưởng, phê bình người phụ trách những khuyết điểm kể trên. Thường thường trong tập thể, trong quần chúng, người ta chỉ tìm cách phê bình một cách ''khôn khéo, sáng suốt'' chứ không dám nói thẳng, nói thật, nói hết. Do vậy, người phụ trách càng phải hiểu mà ''tự sửa mình”. Mặt khác, tổ chức Đảng phải có vai trò: gợi ý, tổ chức cho cán bộ, đảng viên và tổ chức cấp dưới tiến hành tự phê bình và phê bình. Đặc biệt phải có vai trò chỉ đạo, hướng dẫn trong việc sửa chữa khuyết điểm một cách thiết thực với những thời hạn nhất định. Nơi nào, đảng viên nào, cán bộ nào chỉ coi tự phê bình và phê bình là một hình thức dân chủ, thậm chí chỉ là một biện pháp để phát hiện những người trung thực, thẳng thắng dám đấu tranh để trù dập và vô hiệu hoá họ, chúng ta cần có biện pháp trừng trị nghiêm khắc. Có thế phê bình mới thiết thực và mới thiết thực sửa chữa như Bác Hồ thường mong muốn.

III/Vấn đề cán bộ là cái gốc của mọi việc:

Lênin từng khẳng định: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào''.

Trong giai đoạn xây dựng đất nước, Lênin lại nói: ''Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh hiện nay đó là then chốt. Nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn''.

Vận dụng tư tưởng của Lênin, trong “Sửa đổi lối làm việc'', Bác Hồ chúng ta đã khẳng định: ''Cán bộ là cái gốc của mọi công việc'' và ''Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém''. Trong đó Bác nói chúng ta phải :

52

Page 53: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

1- Huấn luyện cán bộ'', ''huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng''. Cán bộ cần cái gì phải huấn luyện cái đó, học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn.

2- Dạy cán bộ và dùng cán bộ, phải ''trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc của chúng ta'', “Phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng cây cối qúi báu''.

Để làm tốt việc này, trong Chiến lược cán bộ Đảng ta đã chỉ rõ phải có quan điểm đánh giá chữ đúng (phải dựa vào tiêu chuẩn cán bộ, hiệu quả công tác, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể; phải có quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển trong đánh giá; phải công khai, dân chủ và tập thể trong đánh giá cán bộ...) tuyển chọn cho tốt để đảm bảo sự kế thừa và phát triển của đội ngũ cán bộ.

3- Đặc biệt Bác nói nhiều đến chính sách cán bộ: Bác nói, cán bộ cũng 1à những con người cụ thể - có cái chung nhưng lại rất riêng trong mỗi người cán bộ. Do vậy, để phát huy sức mạnh của từng người từ đó mà phát huy sức mạnh của cả đội ngũ cán bộ, chúng ta phải ''hiểu biết cán bộ, khéo dùng cán bó, cất nhắc cán bộ, yêu thương cán bó, phê bình cán bộ''.

Phải hiểu cán bộ một cách sâu sắc từ hoàn cảnh sống đến nỗi niềm, tâm tư, tình cảm, từ mặt mạnh đến mặt yếu của riêng từng cán bộ.

Phải dùng cán bộ theo kiểu đa dạng, đa năng, đa tài chứ không được dùng cán bộ theo kiểu êkíp, cánh hẩu, gia đình, địa phương chủ nghĩa.

IV/Cách lãnh đạo – phương thức lãnh đạo của Đảng:

Để lãnh đạo cách mạng thì nội dung lãnh đạo và các hình thức biểu hiện phải phù hợp nhau trong từng thời kỳ cách mạng. Khi nội dung đã thay đổi nhất thiết hình thức phải biến đổi theo. Lênin dạy chúng ta là: “Đấu tranh giữa nộl dung và hình thức, thay đổi nội dung, vứt bỏ hình thức''.

Chính vì vậy, Bác Hồ tổng kết ''lãnh đạo đúng nghĩa là:

1- Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng là người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.

2- Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong.

3- Phải tổ chức sự kiểm soát. Mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được''.

Nội dung là những yếu tố, những mặt, những mối liên hệ của sự vật tác động qua lại lẫn nhau làm cho sự vật phát triển. Vậy nội dung của sự Iãnh đạo chính là những

53

Page 54: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu trong từng giai đoạn cách mạng. Nếu ở thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc, nội dung đó là giải quyết mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc xâm lược, giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến thì trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, nội dung của sự lãnh đạo chính là giải quyết mâu thuẫn giữa sự nghèo nàn lạc hậu với sự tiến bộ, giàu có, mâu thuẫn giữa con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa mà lẽ dĩ nhiên những nội dung của những mâu thuẫn đó luôn luôn biến động và phát triển cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó những hình thức biểu hiện nó cũng phải luôn luôn biến đổi. Những của nội dung. Tuy nhiên, tư tưởng chỉ đạo trong cách lãnh đạo mà Bác Hồ đã chỉ cho chúng ta từ những năm 1947 để đổi mới cách lãnh đạo (phương thức lãnh đạo) chính là 'phát huy quyền làm chủ của dân''. Bác nói: ''Chẳng những phải lãnh đạo quần chúng mà lại phải học hỏi quần chúng, “phải dùng cách từ trong quần chúng ra và trở lại nới quần chúng'' vì “lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng''.

“Muốn dân chúng thành thật bày tỏ ý kiến, cán bộ phải thành tâm, phải chịu khó, phải khéo khêu gợi cho họ nói...như vậy, vừa nâng cao trình độ của dân chúng, mà cũng nâng cao kinh nghiệm của mình''.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, để đổi mới cách lãnh đạo, Đảng ta còn bổ sung và phát triển sâu hơn tư tưởng của Bác là phải xây dựng cơ chế ''Đảng cầm quyền'' và “xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân'' để phù hợp với cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

Ngoài ra, để bàn sâu vễ ''cách lãnh đạo'', trong “Sửa đổi lối làm việc” Bác Hồ còn đề cập đến một số hình thức và biện pháp cụ thể nhưng vẫn còn đúng mãi cho đến nay đó là “phương pháp kiểm tra''. Lãnh đạo phải kiểm tra, không kiểm tra coi như không lãnh đạo; phương pháp xây dựng điển hình, nhân điển hình và phương pháp tập trung dân chủ. Bác nói: Bất kỳ việc gì cũng phải dùng hai cách lãnh đạo sau đây: một là liên hợp chính sách chung vớl chỉ đạo riêng; hai là liên hợp người lãnh đạo với quần chúng''.

Bác còn công kích thói ba hoa, khuếch trương thành tích, rỗng tuyếch...

Bất luận phương pháp cách mạng nào cũng phải gắn với dân, sát cơ sở, không được quan liêu, mệnh lệnh, chủ quan.

Nguyễn Mạnh Lân-CTV

NỘI DUNG 15. CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN CẦN NGHIÊM TÚC RÈN ĐỨC, LUYỆN TÀI THEO SỰ RĂN DẠY CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINHNgày 4/2/2005. Cập nhật lúc 8h 24'

54

Page 55: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Để có được đạo đức cách mạng, người cán bộ, đảng viên phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện, không ngừng phấn đấu vươn lên, luôn luôn có chí tiến thủ. Bởi vì, theo Bác: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". Còn tài năng của cán bộ, đảng viên, theo Bác, phải được thể hiện ở chỗ: có trình độ tri thức khoa học được đúc rút, khái quát từ thực tiễn hoạt động cách mạng và kinh nghiệm thực tế của cán bộ, đảng viên, vừa là phương tiện, vừa là phương pháp luận khoa học, giúp người cán bộ, đảng viên vận dụng vào giải quyết thắng lợi các vấn đề được đặt ra trong thực tiễn cuộc sống.

Trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã, đang quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác bồi dưỡng, rèn luyện, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng một cách toàn diện, cả về phẩm chất và năng lực, đức và tài. Hội nghị Trung ướng sáu (lần 2) khoá VIII trong khi đề ra "Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay" đã khẳng định một trong những nhiệm vụ cơ bản, quan trọng và chủ yếu nhất hiện nay của công tác xây dựng Đảng là: "Tăng cường giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Các tổ chức đảng phải thường xuyên giáo dục, quản lý, kiểm tra cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống. Cán bộ, đảng viên phải tự giác rèn luyện đạo đức, lối sống cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; gương mẫu giữ gìn phẩm chất người chiến sĩ cộng sản, đề cao tinh thần đoàn kết, chống chủ nghĩa cá nhân: chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước, đồng thời chú ý giáo dục thuyết phục gia đình cùng thực hiện".

Nhìn vào thực trạng đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp của Đảng và Nhà nước ta, xét về mặt đức, tài của họ hiện nay cần thấy rằng, bên cạnh những mặt mạnh, tích cực là cơ bản và chủ yếu, đội ngũ cán bộ, đảng viên vẫn còn có những hạn chế, yếu kém nhất định. Điều đó được thể hiện ở một số khía cạnh điển hình chủ yếu như sau: kiến thức, trình độ hiểu biết về lý luận và thực tiễn của nhiều cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên trẻ chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ tình hình mới, trình độ, năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh tế, chuyên môn nghiệp vụ, khoa học kỹ thuật của một số không ít cán bộ, đảng viên chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ cách mạng hiện nay, chưa ngang tầm với sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do đó, chất lượng, hiệu quả lao động, học tập, công tác của họ còn thấp, chưa tương xứng với chức trách, nhiệm vụ được giao. Về mặt phẩm chất đạo đức, một số ít cán bộ, đảng viên đã sa sút, suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống. Họ lợi dụng chức quyền để tham nhũng, trục lợi, làm giàu phi pháp.

Đảng và Nhà nước ta. Mặt khác, hiện nay vẫn còn không ít cán bộ, đảng viên đã có những biểu hiện tiêu cực đáng lưu ý như: lãng phí, quan liêu, cửa quyền, hách dịch, bè phái, mất đoàn kết, cơ hội và thực dụng. Có cán bộ, đảng viên giảm sút niềm tin đối với Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, công cuộc đổi mới của đất nước… Không ít cán bộ, đảng viên đã xa rời quần chúng, không còn là công bộc của dân; thậm chí còn trù dập, ức hiếp và sách nhiễu nhân dân, đã để tiền tài, vật chất và chủ nghĩa cá

55

Page 56: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

nhân cám dỗ, không chịu tu dưỡng, rèn luyện, tự đánh rơi mất phẩm chất đạo đức, lối sống cách mạng trong sáng của người cán bộ, đảng viên. Đó là những con sâu mọt đang đục rỗng và làm tàn hại nền kinh tế - xã hội của đất nước; làm phai mờ vai trò, vị trí tiền phong, gương mẫu của Đảng, gây ra những trở lực không nhỏ làm ảnh hưởng xấu tới quá trình đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của Đảng và nhân dân ta.

Để tiếp tục quán triệt sâu sắc, thực hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn đức, luyện tài và đường lối, quan điểm của Đảng ta về công tác rèn luyện, nâng cao đức, tài của cán bộ, đảng viên; góp phần thiết thực vào việc thực hiện có hiệu quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trước mắt và chủ yếu nên tập trung thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau đây:

Một là, cấp ủy các cấp và thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải thường xuyên xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị mà có kế hoạch, rèn luyện, xây dựng, phát triển và đổi mới công tác giáo dục, rèn luyện đức, tài của cán bộ, đảng viên. Phải thông qua thực tiễn công tác của cơ quan, đơn vị để rèn luyện, tuyển chọn, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, đảng viên. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ trước tới nay đã chứng minh rằng, phẩm chất đạo đức cách mạng, kiến thức, tài năng của người cán bộ, đảng viên đều phải được kiểm nghiệm thông qua hoạt động, rèn luyện thực tiễn. Chất lượng, hiệu quả hoạt động thực tiễn là thước đo cơ bản và chủ yếu về thực đức, thực tài của người cán bộ, đảng viên. Không trải qua hoạt động, rèn luyện trong thực tiễn thì phẩm chất và năng lực, đức và tài của người cán bộ, đảng viên không thể phát triển được.

Hai là, cấp ủy các cấp và thủ trưởng các cơ quan, đơn vị thường xuyên chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức, lối sống cách mạng, kiến thức, năng lực công tác, bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Giúp họ có đủ phẩm chất, năng lực, đức - tài đáp ứng được những đòi hỏi, yêu cầu cơ bản của nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong đó, coi trọng bồi dưỡng, rèn luyện, phát triển phẩm chất trí tuệ, bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng, không hoang mang dao động, suy giảm niềm tin, vững vàng trong mọi tình huống giáo dục, xây dựng tinh thần đoàn kết nội bộ, nêu cao tự phê bình và phê bình, tập hợp rộng rãi cán bộ, đảng viên nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ và xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện. Chú trọng bồi dưỡng, rèn luyện đức, tài cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước ở các địa phương, các ngành, các cấp, các đoàn thể, lực lượng vũ trang, các cơ quan nghiên cứu khoa học và đơn vị sản xuất, kinh doanh, nhất là cán bộ, đảng viên trong các doanh nghiệp trọng yếu của Nhà nước ta; phát huy có hiệu quả nhất tài, đức của họ vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, phát triển văn hoá và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời Đảng, Nhà nước, quân đội cần có chính sách cán bộ đúng đắn, kịp thời và có hiệu quả thiết thực để thu hút, khuyến khích được nhiều cán bộ, đảng viên có thực đức, thực tài.

Ba là, thường xuyên nêu cao tính tích cực tự tu dưỡng, tự rèn luyện, phấn đấu về

56

Page 57: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

mọi mặt của mỗi cán bộ, đảng viên, khuyến khích họ nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; luôn luôn theo dõi, bám sát thực tiễn cuộc sống, quan hệ mật thiết và gắn bó chặt chẽ với quần chúng lao động; tích cực, năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động, công tác nhằm đạt được chất lượng, hiệu quả công việc cao nhất góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đẩy mạnh và thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước của nhân dân ta vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Bốn là, cấp ủy và thủ trưởng các cấp thường xuyên làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý quá trình rèn luyện đức, tài của cán bộ, đảng viên, giúp họ thường xuyên thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, chấp hành nghiêm kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, thường xuyên làm tốt công tác thi đua, khen thưởng, kịp thời nêu gương và nhân rộng điển hình gương người tốt, việc tốt, đơn vị tốt, kiên quyết xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật nghiêm trọng, hoặc có biểu hiện sa đoạ về đạo đức, lối sống, tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính. Xây dựng môi trường sống của cơ quan đơn vị trong sạch, lành mạnh và làm cho mọi cán bộ, đảng viên nếp sống lành mạnh; cấp trên làm gương cho cho cấp dưới. cán bộ, đảng viên nêu gương cho quần chúng, nói và làm đi đôi với nhau. Mặt khác, mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự gương mẫu, tích cực tuyên truyền, giáo dục, giúp đỡ quần chúng lao động thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, xây tạo môi trường xã hội cần thiết, góp phần rèn luyện và nâng cao đức, tài của cán bộ, đảng viên có chất lượng và hiệu quả cao theo sự răn dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đại tá, TS Nguyễn Văn Vinh

Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 1-2005NỘI DUNG 16. KHAI THÁC SÂU SẮC TÍNH NHÂN VĂN, ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG TRONG GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINHNgày 4/2/2005. Cập nhật lúc 8h 29' Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại". Để giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh sâu sắc, đem lại hiệu quả thiết thực, cần thực hiện đồng bộ về nội dung phương pháp để quán triệt và giáo dục sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, tính nhân văn và phương pháp giáo dục.

1. Thấm nhuần, vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh là nhân tố tinh thần to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn trí tuệ thiên tài của lý luận Mác - Lê-nin với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại được vận

57

Page 58: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

dụng và phát triển sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, để hoạch định đường lối và phương pháp cách mạng đúng đăn trong từng giai đoạn, từng thời kỳ và từng thời điểm cụ thể. Nhờ có dự báo thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ dẫn bước đi để dân tộc ta vượt qua mọi hiểm nguy, thử thách, giành thắng lợi từng bước và hướng tới tương lai. Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, quá trình trưởng thành, chiến thắng của Đảng đã khẳng định: khi tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thấm nhuần và vận dụng đúng đắn lúc đó chúng ta có đường lối đúng, cách mạng giành thắng lợi; còn lúc nào tư tưởng của Người không được quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo thì thời điểm đó bộ tham mưu, cán bộ, đảng viên có sai lầm, cách mạng gặp khó khăn. Đó là bài học lịch sử sâu sắc trong đấu tranh cách mạng ở Việt Nam. Khi Người còn sống, quân dân ta trọn niềm tin: "Bác bảo đi, là đi, Bác bảo thắng, là thắng". Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã tiến lên dưới là cờ QUYẾT CHIẾN QUYẾT THẮNG của Người, và đã lập nên những kỳ tích có tầm vóc thời đại: thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, chiến thắng Điện Biên Phủ, Chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng...

Quán triệt sâu sắc điều đó để trong giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, cần khơi dậy niềm tin và tình cảm sâu sắc của nhân dân ta, Đảng ta, các lực lượng vũ trang ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh; nguyện trung thành học tập và vận dụng tư tưởng của Người vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của cách mạng; tỉnh táo và kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với các quan điểm phản động sai trái, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của cách mạng; phát huy ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

2. Tư tưởng vì con người, đề cao vai trò con người cùng phẩm chất đạo đức con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần được khai thác có hiệu quả.

Tư tưởng Hồ Chí Minh có những điểm tương đồng với các tư tưởng phương Đông, ít bàn thế giới quan thuần tuý, rất coi trọng nhân sinh quan, giới tự nhiên cũng được tiếp cận trong sự gắn bó chặt chẽ với con người và trong các phẩm chất của con người, đạo đức thường được các nhà tư tưởng quan tâm, quan điểm coi con người là trung tâm của thiên hạ, đạo đức là nền gốc của con người, xã hội.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cuộc đấu tranh chống thiên tai, khai thác giới tự nhiên, cách mạng xã hội, khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược… cũng đều được lý giải với cuộc đấu tranh vì hạnh phúc của con người, vì sự nghiệp giải phóng con người và xã hội. Ra đi tìm đường cách mạng, chỉ với hai bàn tay trắng với một tấm lòng yêu nước, thương dân, Người chỉ mong sao cho đất nước được độc lập, thống nhất, nhân dân được ăn no, mặc ấm, được học hành và sống cuộc đời hạnh phúc. Trong hành trình đến Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, con người là nhân tố quyết định. Chủ tịch Hồ Chí Minh lý giải hết sức biện chứng các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà.

Trong bài nói chuyện tại Hội nghị quân sự tháng 8 - 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh

58

Page 59: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

lại phân tích: "Ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là: thiên thời, địa lợi và nhân hoà. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hoà.

Nhân hoà là thế nào ? Nhân hoà là tất cả mọi người đều nhất trí. Nhân hoà là quan trọng hơn hết".

Từ tư tưởng hướng về con người, coi con người có vai trò quyết định đối với sự phát triển xã hội, trong hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc gồm tất cả "con Lạc cháu Hồng", không phân biệt "già trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện", dân tộc đa số và dân tộc thiểu số, người có tôn giáo tín ngưỡng và người không theo tôn giáo tín ngưỡng, các đảng phái yêu nước… Bởi vì, càng đoàn kết thì cách mạng càng thành công:

Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công.

Người nhìn nhận con người đầy lòng nhân ái. Những người lầm đường lạc lối làm việc cho địch, Người vẫn khơi dậy phần thiện, dù là rất nhỏ nhưng trong họ, bằng tấm lòng khoan dung, độ lượng, chân thành, đoàn kết, để cảm hoá họ quay trở về với dân tộc. Người dạy: "Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ". Chính vì chủ trương đoàn kết là đoàn kết chân thành, đoàn kết thực sự, vì lòng nhân ái vị tha, tin ở con người, tôn trọng con người nên Chủ tịch Hồ Chí Minh có sức thu hút diệu kỳ với mọi người Việt Nam yêu nước, với bạn bè quốc tế; có sức cảm hoá cao với những người lạc lối lầm đường, cả những người đối lập với cách mạng.

Đối với con người, tư tưởng Hồ Chí Minh hết sức chú ý đến đạo đức, coi đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành một phần viết về đạo đức cách mạng. Theo Người, đạo đức cách mạng gồm có năm điều nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Đó là các giá trị đạo đức qua tổng kết của Nho giáo qua một thời kỳ lịch sử lãnh đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất nhiều lần đề cập đến các khái niệm nội dung của đạo đức Nho giáo. Nhưng với quan điểm cơ bản "đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều", Người đã chọn lọc những nội dung tốt đẹp của đạo đức truyền thống kết hợp những nội dung đạo đức mới để hình thành đạo đức cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: cán bộ, đảng viên biết rèn luyện đạo đức cách mạng sẽ trở thành cán bộ, đảng viên tốt của Đảng, được nhân dân tin yêu, người không chịu rèn luyện, phấn đấu không có đạo đức cách mạng thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân, sẽ mắc phải chứng chủ nghĩa cá nhân, sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên đề cao việc giáo

59

Page 60: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

dục đạo đức cách mạng cho đảng viên, cán bộ, bộ đội và nhân dân. Trong bản Di chúc, Người còn căn dặn: Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên thanh niên. Người không chỉ xác định các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức cách mạng, mà còn nêu gương mẫu mực. Những việc làm của một vị Chủ tịch nước như: tăng gia sản xuất, tiết kiệm 10 ngày nhịn ăn một bữa lấy gạo cứu đói, ăn một xuất cơm đạm bạc mang theo, từ chối bữa cơm khách của lãnh đạo địa phương khi về thăm đồng bào chống hạn, nằm nghỉ trên tấm vải nhựa dưới gốc cây như cán bộ, chiến sĩ khi đi công tác…, cả cuộc sống đơn sơ giản dị là một minh chứng sinh động về tư tưởng đạo đức và hành động đạo đức của Người là hình mẫu về đạo đức của quá khứ, hiện tại và tương lai.

Ngày nay, những biến động phức tạp của tình hình quốc tế, những ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường, sự tấn công của "diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc… đã có tác động xấu, làm thoái hoá biến chất một số cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, trong các đơn vị kinh tế… thiếu rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đánh giá một trong những nguy cơ thách thức của đất nước ta hiện nay là: "Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta". Trong tình hình như vậy, việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh tuy vẫn cần giáo dục toàn diện những quan điểm tư tưởng của Người, nhưng phải tập trung vào những vấn đề căn bản, cốt lõi nhất, mà một trong những vấn đề đó là hướng vào giáo dục xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền đạo đức Việt Nam mới, coi đó là nền tảng bền vững trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

3. Vận dụng có hiệu quả phương pháp giáo dục, học tập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào giáo dục tư tưởng của Người.

Với thiên tài trí tuệ, được tích luỹ qua nhiều năm học tập lý luận, hoạt động cách mạng, trên cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước và là một chiến sĩ cộng sản quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh có điều kiện tiếp cận, học tập các trào lưu lý luận, tư tưởng cổ kim, Đông Tây. Điều đặc biệt ở Người mà chúng ta cần nhận thức rõ và noi theo là tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo trong học tập và vận dụng lý luận. Thuở nhỏ, học Nho giáo, Người đề cao phần tốt đẹp trong tư tưởng Khổng Tử, nhưng chưa bao giờ hướng theo tư tưởng phong kiến. Dùng những khái niệm tư tưởng, đạo đức của Nho giáo nhưng Người lý giải khác và bổ sung những nội dung đạo đức mới, biến thành khái niệm đạo đức cách mạng. Bôn ba khắp bốn biển, năm châu, tiếp cận với tư tưởng dân chủ tư sản và xã hội tư bản, Người ca ngợi tư tưởng tiến bộ của cách mạng tư sản, nhưng không choáng ngợp và ca ngợi một chiều cái văn minh, hiện đại của xã hội tư bản, chưa bao giờ theo tư tưởng tư sản. Người phê phán giai cấp tư sản đã sử dụng những khẩu hiệu tiến bộ như là bánh vẽ, còn thực chất thì xã hội các nước tư bản, đế quốc đầy rẫy những xấu xa và tội ác.

60

Page 61: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vượt lên trước những người cùng thời để đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và coi đó là vũ khí tinh thần để giải phóng dân tộc Việt Nam. Người không máy móc, giáo điều theo từng câu chữ của C.Mác, của V.I. Lê-nin. Người nêu lên phương châm chung cho học tập lý luận Mác - Lê-nin: "Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lê-nin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lê-nin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta".

Điều chúng ta thấy rõ là Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc cái cốt lõi của lý luận, từ đó vận dụng sáng tạo trong thực tiễn. Người luôn nhắc nhở phải gắn lý luận với thực tiễn, nếu không gắn với thực tiễn, sẽ là lý luận suông. Chính nhờ quan điểm và phương pháp học tập đó mà Người đã phát triển, vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã nêu lên những nguyên lý lý luận và tổ chức thực tiễn, trở thành những đóng góp lớn cho lý luận cách mạng và phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa. Như thế mới làm cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin có sức sống lâu bền và càng có ý nghĩa trong điều kiện lịch sử mới. Mặt khác, trong giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, cần quán triệt quan điểm và phương pháp của Người: giáo dục không phải chỉ là trang bị lý luận mà quan trọng hơn là làm chuyển biến tư tưởng, hành động của người nghiên cứu, học tập, góp phần thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Có như thế, việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh mới mang lại hiệu quả thiết thực.

Đại tá, PGS, TS Vũ Như Khôi

Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 1-2005

NỘI DUNG 17. TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH (14-6-1955)Ngày 1/5/2003. Cập nhật lúc 6h 5' Tự phê bình và phê bình là thứ vũ khí sắc bén nhất, nó giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng thêm mạnh. Nhờ nó mà chúng ta sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, tiến bộ không ngừng.

Cho nên đảng viên và cán bộ cần phải nâng cao giác ngộ tư tưởng ngǎn ngừa tự đại tự cao, mạnh dạn công khai tự phê bình, vui vẻ tiếp thụ lời phê bình của người khác.

Đối với tự phê bình và phê bình, có 3 thái độ khác nhau:

61

Page 62: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

- Những đồng chí giác ngộ chính trị cao thì tự phê bình rất thật thà và kiên quyết sửa chữa khuyết điểm. Khi phê bình người khác, các đồng chí ấy thành khẩn, nhẫn nại, giúp đỡ họ sửa chữa. Đối với những kẻ sai lầm rất nặng mà lại không chịu sửa đổi, thì các đồng chí ấy đấu tranh không nể nang.

Chúng ta phải học tập tinh thần và tác phong của các đồng chí ấy.

- Có một số ít người thì phê bình, giáo dục mấy cũng cứ ỳ ra, không chịu sửa đổi.

Đối với hạng người này, chúng ta cần phải nghiêm khắc, phải mời họ ra khỏi Đảng, để tránh "con sâu làm rầu nồi canh".

- Thái độ của một số khá đông cán bộ là: Đối với người khác thì phê bình đúng đắn, nhưng tự phê bình thì quá "ôn hoà". Các đồng chí ấy không mạnh dạn công khai tự phê bình, không vui lòng tiếp thụ phê bình - nhất là phê bình từ dưới lên, không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của mình, thường tìm những "khó khǎn khách quan" để tự biện hộ. Nói tóm lại: Đối với người khác thì các đồng chí ấy rất "mác xít", nhưng đối với bản thân mình thì mắc vào chủ nghĩa tự do.

Nói chung, các đồng chí ấy rất trung thành với Đảng, với nhân dân; nhưng tư tưởng và tác phong chưa thuần, đang mang một ba lô chủ nghĩa cá nhân hoặc nặng hoặc nhẹ. Họ sợ mất "thể diện", mất "uy tín". Họ quên rằng không thực hiện tự phê bình và phê bình, thì nhiều khuyết điểm nhỏ sẽ cộng thành khuyết điểm to, nó sẽ rất tai hại cho công tác.

Chúng ta phải giúp đỡ các đồng chí này. Các tổ chức của Đảng thì cần mở rộng dân chủ nội bộ, thực hiện thường xuyên tự phê bình và phê bình - nhất là phê bình từ dưới lên. Toàn thể đảng viên - trước hết là các cán bộ phụ trách - phải làm gương mẫu tự phê bình và phê bình.

NỘI DUNG 18.ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG (6-6-1955)Ngày 1/5/2003. Cập nhật lúc 6h 11' Quyết tâm giúp đỡ loài người ngày càng tiến bộ và thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, luôn luôn giữ vững tinh thần chí công vô tư - đó là đạo đức cách mạng.

Tuy nǎng lực và công việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng.

Đại đa số chiến sĩ cách mạng là người có đạo đức: Cả đời hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, sinh hoạt ngày thường thì làm gương mẫu: gian khổ, chất phác, kính trọng của công... Đạo đức ấy có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành xã hội mới và xây dựng mỹ tục thuần phong.

62

Page 63: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Không phải chúng ta ham chuộng khổ hạnh và bần cùng. Trái lại, chúng ta phấn đấu hy sinh, vì chúng ta muốn xây dựng một xã hội ai cũng ấm no, sung sướng. Nhưng chúng ta biết rằng: Muốn cải thiện đời sống, thì trước phải ra sức thi đua phát triển sản xuất; và trước phải nâng cao mức sống của nhân dân, rồi mới nâng cao mức sống của cá nhân mình. Tức là: "Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ".

Nhưng chúng ta cũng phải nhận rằng: ảnh hưởng xấu của xã hội cũ làm cho một số đảng viên và cán bộ (trong Đảng và ngoài Đảng) hủ hoá. Họ tưởng rằng cách mạng là cốt để làm cho họ có địa vị, được hưởng thụ. Do đó mà họ mắc những sai lầm: Kiêu ngạo, chưng diện, hưởng lạc, lãng phí của công, tự tư tự lợi, không tiết kiệm đồng tiền bát gạo là mồ hôi nước mắt của nhân dân.

Họ quên mất tác phong gian khổ phấn đấu, lạt lẽo với công việc cách mạng, xa rời Đảng, xa rời quần chúng. Dần dần họ mất cả tư cách và đạo đức người cách mạng, sa vào tham ô, hủ bại và biến thành người có tội với Đảng, với Chính phủ, với nhân dân.

Để ngǎn ngừa cái xấu ấy, Đảng ta từ trên đến dưới phải chú trọng việc giáo dục đạo đức cách mạng, tǎng cường tinh thần cảnh giác, mở rộng tự phê bình và phê bình.

C.B.

NỘI DUNG 19.TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH BỎ QUA CHẾ ĐỘ TBCN Ở VIỆT NAM

Ngày 18/5/2006. Cập nhật lúc 17h 29'

(ĐCSVN)- Kế thừa và vận dụng sáng tạo những luận điểm cơbảncủa học thuyết Mác- Lênin về sự quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam là một trong những bộ phận chủ yếu hợp thành toàn bộ tư tưởng của Người về CNXH và cách mạng XHCN ở Việt Nam cũng như toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung. Nhân kỷ niệm 116 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890- 19/5/2006), bài viết này khái quát một số nét cơ bản nhất tư tưởng của Người về con đường phát triển “ rút ngắn “ đặc thù đó.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của Người qua nhiều thời kỳ khác nhau đã có những kiến giải thiết thực, dung dị mà sâu sắc về bản chất, mục tiêu và động lực của CNXH. Phương pháp tiếp cận CNXH của Người cũng đầy tính sáng tạo, đặc biệt là cách tiếp cận đạo đức học khi Người đặt CNXH đối lập với chủ nghĩa cá nhân, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân nhưng không bao giờ phủ nhận , xem thường cá nhân về mặt lợi ích và vai trò của nó. Nguời cũng nhấn mạnh tới hệ giá trị cơ bản của CNXH là Độc lập-Tự do và Hạnh phúc, coi mục đích cao nhất của CNXH là quyền sống, hạnh phúc của dân, quyền tự do dân chủ và làm chủ, sự phát triển mọi năng lực sáng tạo của nhân dân, từ mỗi người đến toàn thể cộng

63

Page 64: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

đồng.

Song vấn đề đặt ra là , nhận thức về con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN thì điều quan trọng không chỉ dừng lại ở nhận thức bản chất, mục tiêu, động lực của CNXH. Điều quan trọng là phải có cách làm, buớc đi cho thích hợp, biện pháp phải sáng tạo để CNXH từ một khả năng khách quan thành hiện thực sinh động trong đời sống của nhân dân, do nhân dân sáng tạo làm nên.

Theo Hồ Chí Minh, đặc điểm lớn nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nuớc nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển TBCN. Ở đây có hai điểm cần lưu ý:

Thứ nhất, cần phải bỏ qua chế độ TBCN vì đó là một chế độ áp bức bóc lột, nô dịch con người. CNTB đã ra đời như một kiểu chế độ xã hội tất yếu từ cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản với giai cấp phong kiến. Do đó, CNTB đương nhiên cũng sẽ bị CNXH phủ định về nguyên tắc trong cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Tiến lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN vì thế là phù hợp với xu thế vận động khách quan của lịch sử.

Thứ hai, “tiến thẳng” lên CNXH chỉ với nghĩa là bỏ qua tất cả những gì là mặt trái, là tiêu cực của chế độ TBCN. Giai cấp vô sản nhất thiết phải tận dụng, phát huy những ưu việt, tích cực đã có sẵn của CNTB. Với hoàn cảnh, điều kiện và trình độ phát triển của Việt Nam, “tiến thẳng” lên CNXH đòi hỏi phải tiến dần từng bước, từ từ từng bước một, không thể làm bừa, làm ẩu theo lối chủ quan, duy ý chí. Tại Đại hội II(1951) của Đảng, Người đã xác định: phải chuẩn bị những điều kiện để hoàn thành Cách mạng dân tộc dân chủ sau đó tiến dần lên CNXH.

Người hình dung tính chất phức tạp, lâu dài của sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta: xây dựng CNXH là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ, lâu dài. Một chế độ này biến đổi thành chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới.

Xây dựng CNXH do đó phải rất toàn diện, trên tất cả mọi lĩnh vực, riêng trong lĩnh vực kinh tế thì vấn đề mấu chốt là phát triển lực lượng sản xuất. Trong lĩnh vực chính trị là xây dựng chế độ, thể chế đảm bảo quyền làm chủ, dân chủ của dân, xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, đoàn kết; xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ của dân, do dân và vì dân.

Mấu chốt của vấn đề xã hội là đảm bảo công bằng xã hội hướng vào sự phát triển con người. Và, mấu chốt của văn hoá là xây dựng con người có đạo đức cách mạng, con người mới XHCN với đức-tài gắn bó hữu cơ với nhau, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, trung thành với sự nghiệp cách mạng, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH...

Theo Hồ Chí Minh, cách làm tốt nhất là dựa vào dân, đem tài dân, sức dân mà mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, làm lợi cho nhân dân, tránh cho dân những điều hại, những sai trái dù chỉ là một điều sai, một cái hại nhỏ.

64

Page 65: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Tiến nhanh, tiến mạnh nhưng phải đúng quy luật, không làm bừa, làm ẩu. Phải cụ thể, thiết thực và tỷ mỷ. Phải điều tra, nghiên cứu để vạch kế hoạch, chương trình cho sát, cho đúng, chớ đem chủ quan của mình thay thế cho điều kiện khách quan.

Kế hoạch mười phần, biện pháp phải cụ thể 20 phần, chỉ đạo sát sao phải 30 phần. Phải luôn nhìn xa, trông rộng, chú trọng thiên thời, địa lợi, nhân hoà mà nhân dân là gốc, là quyết định.

Nguyên tắc thì giữ vững, nhất quán, kiên định mà biện pháp phải uyển chuyển, linh hoạt, mềm dẻo. Phải chăm chú học hỏi kinh nghiệm các nước anh em nhưng không được chủ quan, máy móc, giáo điều. Phải có tinh thần độc lập, sáng tạo. Ta không thể giống Liên Xô vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử, địa lý khác. Ta có thể đi con đường khác để tiến lên CNXH. Con đường đi lên CNXH ở nước ta, tiến trình xây dựng CNXH ở nước ta luôn luôn phải gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giữ gìn bản sắc truyền thống và vươn tới hiện đại, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.

Nguời vạch ra một hệ thống những nhiệm vụ phải giải quyết trong công cuộc xây dựng CNXH phù hợp với đặc điểm nước ta như:

- Ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống quan liêu, lãng phí, tham ô.

- Đảng và Nhà nước phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hoá, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.

- Cán bộ là khâu quyết định. Đào tạo cán bộ là công việc gốc của Đảng.

- Thực hành dân chủ rộng rãi. Dân có quyền làm chủ thì cũng phải có nghĩa vụ của người làm chủ.

- Đảng cầm quyền phải trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu cho đạo đức, văn minh của dân tộc.

- Ra sức thực hành đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân...

Tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là con đường đi lên của nước ta, tuy khó khăn, phức tạp nhưng nếu có cách làm đúng đắn, sáng tạo “đúng quy luật, thuận lòng dân, hợp thời đại” thì sẽ thành công. Những kết quả, thành tựu phát triển khả quan của 20 năm đổi mới vừa qua cũng đã chứng minh tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang tiếp tục soi sáng con đường đổi mới đi lên CNXH của chúng ta./.

T S. Trần Anh Phương

(Thành viên Đề tài KHXH/01-04

65

Page 66: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

"Tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam")

NỘI DUNG 20.TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỤC TIÊU THIẾT THỰC CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Ngày 15/5/2006. Cập nhật lúc 16h 36'

(ĐCSVN)- Vĩ đại, thiên tài, kiệt xuất là những từ hay nhất để mô tả tầm vóc của lãnh tụ “vạch đường thời đại”, làm xoay chuyển chiều hướng phát triển của lịch sử dân tộc hay lịch sử nhân loại. Hồ Chí Minh là một trong số rất ít những con người lỗi lạc được Việt Nam và thế giới suy tôn bằng tất cả những danh hiệu cao cả, vinh quang nhất.

Những nhận định của Người về kết cục của chiến tranh thế giới lần thứ II, về các mốc lịch sử quan trọng của Việt Nam (Cách mạng Tháng Tám, kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ…) đó là những dự cảm thiên tài của con người “thông thiên, đạt địa, tri nhân”.

Với nhãn quan thấu suốt không gian và thời gian, Hồ Chí Minh đã hình dung khái quát diễn trình lịch sử nhân loại và lịch sử Việt Nam theo quy luật vận động tất yếu của nó. Nhìn lại khiViệt Nam còn trong chế độ thực dân, nửa phong kiến, việc đánh đổ thực dân Pháp, đánh đổ tập đoàn phong kiến tay sai giành độc lập cho dân tộc, giành ruộng đất cho dân cày là vấn đề bức thiết nhất. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã vùng lên giành chính quyền trong cả nước vào tháng 8 – 1945. Chính quyền đã về tay nhân dân nhưng đất nước vừa trải qua nạn đói khủng khiếp với hơn hai triệu người chết, nhân dân lao động đang sống trong cảnh cùng cực về vật chất và tinh thần; hơn 90% dân số mù chữ; ngân sách nhà nước trống rỗng; thù trong, giặc ngoài đe doạ… Trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Hồ Chí Minh đã phát động cả nước ra sức chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Chủ trương cực kỳ đúng đắn và sát hợp của Hồ Chí Minh đã được mọi tầng lớp nhân dân hưởng ứng và đã vượt qua một bước hiểm nghèo. Nhưng, khó khăn là quá lớn, thời gian là quá ngắn cho nên dù cố gắng rất cao cũng chỉ giải quyết được những yêu cầu hết sức cấp bách. Đời sống của nhân dân vẫn còn rất khó khăn. Bởi vậy, trong thư gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, tháng 10 – 1945, Hồ Chí Minh viết: “… Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.

Sau đó, Người chỉ thị: “Chúng ta phải thực hiện ngay:

- Làm cho dân có ăn

- Làm cho dân có mặc

- Làm cho dân có chỗ ở

66

Page 67: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

- Làm cho dân có học hành.

Cái mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng với tự do, độc lập và giúp sức được cho tự do, độc lập”.

Vào thời điểm những năm 40 – 50 của thế kỷ XX, những vấn đề ăn, mặc, ở, học hành cùng với kháng chiến chống Pháp là những bức bách lớn nhất.

Nói đến mục tiêu cách mạng, cùng với lý tưởng xây dựng thành công CNXH và CNCS với viễn cảnh của cải vật chất – tinh thần vô cùng phong phú, người lao động “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”… thì trước hết cần phải giải quyết những vấn đề thiết thực trong cuộc sống hiện tại của đất nước và của nhân dân. Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại cũng do Người đã thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân dân, hướng mọi cố gắng của Đảng, Chính phủ vào việc chăm lo lợi ích chính đáng, thiết thực của nhân dân. Vì vậy, Người xác định cán bộ là “đầy tớ của nhân dân”, nhân dân là gốc của mọi quốc gia trong mọi thời điểm lịch sử. Nếu cán bộ đảng viên không xác định rõ chân lý đơn giản đó thì không phải là cán bộ của dân dù có cố trưng ra rất nhiều biển hiệu “nhân dân”. “… Bất kỳ ở địa vị nào, làm công tác gì, chúng ta đều là đầy tớ của nhân dân. Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân. Muốn làm như vậy chúng ta phải cố gắng thực hiện cần, kiệm, liêm, chính…”. Chính vì vậy, “Cán bộ từ trên xuống phải chăm nom đến chỗ ăn, chỗ ở” của nhân dân. “… Nếu dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi…”.

Sau Hiệp định Giơnevơ (tháng 7-1954), đất nước chia làm hai miền với hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau.

Miền Bắc xây dựng, miền Nam chống Mỹ. Chống Mỹ để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc. Xây dựng miền Bắc để hàn gắn vết thương chiến tranh; khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội và góp phần giải phóng miền Nam. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở, động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân hai miền Nam Bắc tập trung cao độ cho mục tiêu xây dựng CNXH và đấu tranh thống nhất nước nhà. Nói chuyện tại hội nghị cán bộ Đảng ngành giáo dục ngày 03 – 06 - 1957, Người nhấn mạnh: “…Chủ nghĩa xã hội là cái gì? - Là mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng, tự do. Nhưng nếu muốn tách riêng một mình mà ngồi ăn no mặc ấm, người khác mặc kệ, thế là không tốt…”.

Như vậy là, mục tiêu chung của cách mạng không bao giờ tách rời mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Theo tư tưởng của V.I Lênin, giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân cần phải bắc những chiếc cầu nhỏ để tới bến bờ của CNXH. Nếu chỉ nhấn mạnh mục tiêu chung mà coi nhẹ mục tiêu trước mắt, không chú trọng giải quyết những vấn đề nóng bỏng của hiện tại thì đó là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm, duy ý chí hoặc đó là thái độ mượn lý tưởng cao cả để che đậy những động cơ vụ lợi của những phần tử cơ hội chủ nghĩa. Cả hai khuynh hướng này đều rất nguy hiểm

67

Page 68: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

vì nó trái với quy luật vận hành của đời sống xã hội và tất yếu sẽ làm mòn mỏi niềm tin và tạo ra sự bất bình của quần chúng nhân dân.

Thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đại hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định mục tiêu chung đã được đề ra từ trước. Mục tiêu đó là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đồng thời xác định phương hướng phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh CNH – HĐH để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Một trong những trọng điểm của công tác xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, thiếu dân chủ, lập lại trật tự kỷ cương xã hội. Ngay từ khi vụ tham nhũng lớn ở Ban quản lý dự án PMU 18 – Bộ Giao thông vận tải bước đầu được phanh phui, quần chúng nhân dân, nhất là những cán bộ, đảng viên lão thành càng thấy bức xúc, lo lắng và mong muốn Đảng, Nhà nước cần kiên quyết, triệt để hơn trong việc đấu tranh chống “giặc nội xâm” cực kỳ nguy hiểm này.

Nếu còn những con người như Bùi Tiến Dũng, Nguyễn Việt Tiến và không ít cán bộ, quan chức khác tiếp tục chiếm đoạt tài sản của Nhà nước và nhân dân để ăn chơi trác táng đến độ khó tưởng tượng thì sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam với những lý tưởng cao đẹp và những thành tựu trước đây được xây đắp bằng công sức, máu xương của nhân dân và chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc… sẽ bị bọn chúng phá hoại và chôn vùi. Đó là quy luật nhân quả. Đúng như nhà thơ dân tộc Ava của Daghetstan (thuộc Liên bang Nga) là Abutalip đã nói: “Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục, thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác”.

NỘI DUNG 21. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG

Ngày 1/12/2003. Cập nhật lúc 15h 52'

Thế kỷ XX, ở Việt Nam diễn ra nhiều sự kiện lớn lao và trọng đại. Trong đó có lẽ có 3 sự kiện gây dấu ấn lịch sử, tác động sâu sắc nhất đến đời sống xã hội nước ta, tạo sự chuyển xoay vận mệnh của dân tộc đưa nước ta thoát khỏi vòng nô lệ, trở thành nước độc lập tự đo, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Ba sự kiện ấy là: Sự xuất hiện lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh; sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam; cuộc chiến tranh nhân dân đánh thắng chủ nghĩa thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành lại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Ba sự kiện này có mối quan hệ biện chứng thống nhất và gắn bó chặt chẽ với nhau, trong đó, vấn đề nhân cốt vẫn là sự xuất hiện của lãnh tụ vĩ đại: Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người là tác giả, là linh hồn của việc tổ chức quá trình ra đời, hoạt động vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam; của đường lối chiến tranh nhân dân vĩ đại ở nước ta.

Đảng ta khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và

68

Page 69: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Chính tư tưởng Hồ Chí Minh đã soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, một vấn đề rất cốt lõi là Hồ Chí Minh xác định rõ vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Một là, nhân dân là chủ thể của lịch sử.

Điểm trung tâm của tư tưởng Hồ Chí Minh là con người, là nhân dân lao động trong nước và thế giới, là dân tộc Việt Nam và cả loài người. Hồ Chí Minh dành tất cả tình thương yêu cho con người; dành tất cả ước mơ, hoài bão cho sự nghiệp giải phóng con người khỏi ách áp bức giai cấp, áp bức dân tộc, khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, dốt nát; dành niềm khát vọng cho mọi người được ấm no, tự do, hạnh phúc.

Nhân dân, con người trong tư tưởng, tình cảm Hồ Chí Minh không chung chung, trừu tượng mà rất cụ thể. Đó là người nông dân, người công nhân, nhà trí thức, các chiến sĩ bộ đội, công an, các cháu thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi, học sinh, sinh viên, các bậc phụ lão, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, kiều bào ta ở nước ngoài... Hồ Chí Minh cho rằng, tất cả đều là nhân dân và dưới bầu trời này, không gì quý bằng nhân dân. Theo Người, nhân dân bao gồm mọi tầng lớp người trong xã hội cùng có chung một vận mệnh, một cuộc sống, một tương lai, tiền đồ, một truyền thống lịch sử, một nền văn minh, văn hóa. Cho nên khi đất nước có ngoại xâm, nhân dân có chung một kẻ thù, một nhiệm vụ là cùng đứng lên bảo vệ Tổ quốc. Khi hòa bình xây dựng đất nước, nhân dân có chung một nhiệm vụ kiến quốc bảo vệ xây dựng giang sơn gấm vóc ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.

Có thể nói, Hồ Chí Minh luôn luôn ở giữa nhân dân. Trong mọi hoàn cảnh, Người tìm mọi cách tiếp xúc thân mật, tự nhiên với các tầng lớp nhân dân. Cần gặp ai, Người chủ động đến trước với họ, mở rộng cánh tay và tấm lòng đón mừng bằng cử chỉ tự nhiên, khiến cho người được tiếp xúc hòa ngay vào không khí thân mật, cởi mở, bị cuốn hút bởi tình cảm tự nhiên, chân thật, chan hòa.

Chúng ta đều nhớ, khi đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 ở Quảng trường Ba Đình, Người thân mật hỏi: "Tôi nói đồng bào nghe rõ không? Trong khoảnh khắc lịch sử thiêng liêng ấy, Hồ Chí Minh đi ngay vào lòng người bởi những ấn tượng rất sâu. Hồ Chí Minh luôn luôn hướng về nhân dân và nhân dân luôn luôn ở trong tâm trí của Người. Chính vì thế, nhân dân luôn rất mực quý trọng Người và hình ảnh Hồ Chí Minh luôn sống mãi trong lòng các tầng lớp nhân dân Việt Nam.

Hai là, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân.

Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, qua thực tiễn suốt mấy chục năm bôn ba khắp thế

69

Page 70: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

giới, Hồ Chí Minh càng thấm sâu chân lý: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; và trong tư tưởng tình cảm và hành động, Người luôn thể hiện nhất quán chân lý ấy. Quần chúng cách mạng chính là các tầng lớp nhân dân nước ta mà Hồ Chí Minh đã tìm thấy sức mạnh to lớn ở họ. Cơ sở của quan điểm tư tưởng ấy là lòng tin vào con người của Hồ Chí Minh. Người cho rằng, nhân dân rất thông minh, sáng tạo; nhân dân là lực lượng đông đảo của toàn xã hội; nhân dân là người hiểu biết tất cả; nhân dân là nguồn sức mạnh vô tận ở mọi nơi, mọi lúc. Chính vì thế, Người cho rằng nhân, nghĩa là nhân dân và trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng của nhân dân.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân được hình thành trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Những thành công hay thất bại của các phong trào ấy đều được Người nghiên cứu rút ra những bài học cần thiết cho việc hình thành tư tưởng về sức mạnh của nhân dân.

Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, nhưng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân đông đảo. Người nhắc nhở, công tác dân vận của Đảng phải tìm mọi cách giải thích cho từng người dân hiểu rõ, việc mình làm là vì lợi ích của chính họ, nên họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Người cũng chỉ rõ làm bất cứ việc gì cũng phải bàn với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân thi hành. Đảng phải lãnh đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải phóng và xây dựng xã hội mới do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạnh của nhân dân. Nhân dân mới chính là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ thể của lịch sử, là người làm nên lịch sử. Người nhấn mạnh, cá nhân dù có tài giỏi mấy cũng không thay thế được nhân dân. Rõ ràng trong những cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, tư tưởng về sức mạnh của nhân dân là một cống hiến đặc sắc, có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn rất quan trọng, lâu dài.

Ba là, những việc cần phải làm để phát huy vai trò của nhân dân.

Không dừng ở việc xác định vai trò có tính quyết định của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ phải làm gì và làm như thế nào để nhân dân phát huy được vai trò của mình trong sự nghiệp cách mạng. Người đề cập tới nhiều khía cạnh, bước đầu có thể khái quát ở mấy điểm chính sau:

- Hồ Chí Minh yêu cầu xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân để phát huy sức mạnh của nhân dân. Người nhấn mạnh: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công. Người lập luận, chỉ có đoàn kết mới tập hợp được sức mạnh riêng rẽ của từng người tạo nên sức mạnh lớn lao của hàng trăm, hàng nghìn, hàng triệu, hàng chục triệu người. Việc có to mấy, nặng mấy, khó mấy nếu biết đồng lòng, hiệp lực thì nhất định sẽ làm được. Người ví công việc cách mạng như hòn đá to, hòn đá nặng, một người nhắc, nhắc không đặng. Ngược lại cũng hòn đá ấy nếu có nhiều người cùng nhắc thì sẽ được. Tương tự, Người cho rằng việc cứu nước, xây dựng quốc gia nếu nhiều người cùng nhau đồng lòng thì nhất định sẽ thành công.

70

Page 71: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thể hiện rất rõ ràng ở những quan điểm: Đoàn kết phải được coi là vấn đề chiến lược, nó bảo đảm cho mọi thành công của cách mạng nước ta. Đoàn kết phải là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng nước ta. Đoàn kết là đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo và đoàn kết quốc tế. Đoàn kết phải thực sự tạo thành sức mạnh vật chất và tinh thần. Đoàn kết phải thông qua các tổ chức chặt chẽ để tập hợp các tầng lớp nhân dân như Mặt trận, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội. Đoàn kết phải trên cơ sở lợi ích chung của Đảng và của dân tộc. Đoàn kết phải thực hiện dân chủ, công khai, công bằng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên... Nhất là đối với Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người phải tôn trọng, xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết như giữ gìn con ngươi của mắt mình, như giữ gìn một báu vật, nguồn tạo nên mọi sức mạnh của Đảng.

- Phải thục hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh: Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó có quan hệ rất chặt với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ, quần chúng đề ra sáng kiến. Vì thế Người luôn luôn nhắc nhở: Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, tuyệt đối không được lên mặt "quan cách mạng" ra lệnh, ra oai với nhân dân. Người nhận thức sâu sắc rằng: Nước ta phải đi đến dân chủ thật sự. Chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội để nâng cao đời sống của nhân dân, phải thực hiện dân chủ thực sự. Dân chủ phải là một thuộc tính cơ bản của chế độ ta.

Rõ ràng dân chủ là một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo Người, dân chủ là “chìa khóa” vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn. Mọi chủ trương, đường lối thuộc tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... đều được Người xem xét và giải quyết từ địa vị dân là người làm chủ và quyền làm chủ thuộc về nhân dân.

Để người dân được hưởng quyền dân chủ trong thực tế và thực hiện quyền làm chủ của mình, Hồ Chí Minh cho rằng không chỉ hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, mà còn nâng cao năng lực làm chủ về nâng cao trình độ dân trí, bồi dưỡng văn hóa chính trị, phát triển tính tích cực công dân, mở mang kinh tế, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, khuyến khích nhân dân giám sát công việc của các cơ quan nhà nước.

Phát huy dân chủ của nhân dân phải kết hợp chặt chẽ với tăng cường pháp chế, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhà nước phải tiếp tục thể chế hóa bằng pháp luật các quyền dân chủ của người dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Để làm được những điều nêu trên, Hồ Chí Minh cho rằng phải nhận thức đầy đủ vấn đề mấu chốt: Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do dân cử ra, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Cán bộ, đảng viên phải là công bộc của nhân

71

Page 72: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

dân. Người phê phán mọi biểu hiện cán bộ lợi dụng chức quyền đi đến quan liêu, tham nhũng, hống hách, xa rời dân. Điều đó làm cho dân oán giận, mất lòng tin với Đảng, với Nhà nước dẫn đến làm suy yếu Đảng, là nguy cơ tồn vong của chế độ.

- Phải phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Hồ Chí Minh quan tâm, quý trọng con người, trước hết là quan tâm đến quyền dân sinh. Đây là quyền sống của con người, quyền hàng đầu của mọi con người và con người phải được sống tương ứng với cống hiến của mình.

Để bảo đảm quyền sống, con người phải đấu tranh lật đổ ách ngoại xâm, xóa bỏ nạn áp bức giai ấp, áp bức dân tộc, giành lại quyền tự do sinh sống của người dân một nước độc lập có chủ quyền. Không chỉ có thế, để bảo đảm quyền sống, con người còn phải không ngừng vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mình.

Như vậy, theo Hồ Chí Minh, chúng ta phải xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế, bản thân mỗi người dân phải thực hành tiết kiệm về thời gian, tiền của để phát triển sản xuất ngày càng tạo ra nhiều của cải cho xã hội và cho bản thân cùng gia đình mình. Đảng lãnh đạo nhân dân bằng định ra đường lối phát triển kinh tế, tổ chức huy động nhân dân thực hiện sáng tạo đường lối ấy. Nhân dân tin theo Đảng, chủ động đưa đường lối phát triển kinh tế, phát huy nội lực, khai thác mọi nguồn sức mạnh để phát triển sản xuất. Tư tưởng ấy đã và đang được toàn Đảng, toàn dân ta phát huy trong sự nghiệp đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh một cách có hiệu quả.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng nước ta có nội dung rộng lớn, sâu sắc và luôn luôn mới, đầy sáng tạo. Tư tưởng ấy giúp chúng ta tìm thấy sức mạnh trong công việc của mình, dù ở bất cứ lĩnh vực nào, nếu biết dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thật sự tôn trọng và học hỏi dân thì nhất định sẽ thành công.

NỘI DUNG 22. CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH NÓI VỀ NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

Ngày 17/11/2003. Cập nhật lúc 17h 5'

Là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên chăm lo công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng hướng tới làm cho sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng không những được tăng cường mà còn có chất lượng và hiệu quả ngày càng cao.

Người chú trọng hai vấn đề chính yếu đối với Đảng: rèn luyện tư cách của Đảng chân chính cách mạng và cách lãnh đạo của Đảng.

72

Page 73: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Về tư cách của Đảng chân chính cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ 12 điều:

"1. Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng.

2. Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng, và lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau.

3. Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và kinh nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương.

4. Phải luôn luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng hay không.

5. Phải luôn luôn xem xét lại tất cả công tác của Đảng. Mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng. Phải đem tinh thần yêu nước và cần, kiệm, liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân.

6. Mỗi công việc của Đảng phải giữ nguyên tắc và phải liên hợp chặt chẽ với dân chúng. Nếu không vậy, thì chẳng những không lãnh đạo được dân chúng mà cũng không học được dân chúng.

Chẳng những không nâng cao được dân chúng, mà cũng không biết ý kiến của dân chúng.

7. Mỗi công việc của Đảng phải giữ tính cách mạng của nó, lại phải khéo dùng những cách thức thi hành cho hoạt bát.

Nếu không vậy thì không biết nắm vững các cách thức tranh đấu và các cách thức tổ chức, không biết liên hợp lợi ích ngày thường và lợi ích lâu dài của dân chúng.

8. Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ, và để dạy bảo cán bộ và đảng viên.

9. Đảng phải chọn lựa những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo.

10. Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần từ hủ hoá ra ngoài.

11. Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới.

Kỷ luật này là tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí. Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng.

73

Page 74: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

12. Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hoá ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng.

Muốn cho Đảng được vững bền

Mười hai điều đó chớ quên điều nào".

Những điều chỉ dẫn trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nay vẫn nguyên giá trị đối với nhiệm vụ xây dựng chỉnh đốn Đảng. Toàn Đảng, từng tổ chức Đảng, từng cấp uỷ và từng đảng viên luôn luôn đối chiếu, soi mình vào những lời dạy đó của Người sẽ làm cho Đảng không ngừng được nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo.

Có thể coi 12 điều Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra như những chuẩn mực về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đương nhiên, những điều đó cần được cụ thể hoá phù hợp với điều kiện lịch sử và nhiệm vụ chính trị hiện nay của công cuộc đổi mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng Cách lãnh đạo của Đảng. ở nhiều tác phẩm, nhiều bài viết, bài nói chuyện, Người đã đề cập sâu sắc và tỉ mỉ, cụ thể vấn đề này.

Trước hết Người nói về lãnh đạo và kiểm soát. Chẳng những phải lãnh đạo quần chúng mà lại phải học hỏi quần chúng. "Nghĩa là: người lãnh đạo không nên kiêu ngạo, mà nên hiểu thấu. Sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình cũng chưa đủ cho sự lãnh đạo đúng đắn. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm của mình, người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân chúng, để thêm cho kinh nghiệm của mình". Người nhấn mạnh đến việc lắng nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người "không quan trọng".

Hồ Chí Minh đặt vấn đề: Lãnh đạo đúng nghĩa là thế nào? Theo Người, cố nhiên, không phải cứ ngồi trong phòng giấy mà viết kế hoạch, ra mệnh lệnh. Lãnh đạo đúng nghĩa là:

"1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.

2. Phải tổ chức thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong.

3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được".

Người lãnh đạo phải thấu hiểu, phải nhìn từ trên xuống và cũng lắng nghe ý kiến từ dưới lên. Như vậy, sự lãnh đạo đúng đòi hỏi: Phải ra quyết định đúng đắn trên cơ sở nắm vững lý luận, quan điểm, trên cơ sở phân tích tình hình thực tiễn và lắng nghe ý

74

Page 75: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

kiến của nhân dân và với cách nhìn toàn diện, bao quát và cụ thể. Phải tổ chức thực hiện cho đúng đắn, tổ chức quần chúng nhân dân thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, những quyết định cụ thể của từng tổ chức Đảng và cấp uỷ Đảng. Phải kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện quyết định.

Hồ Chí Minh cũng bàn kỹ việc lãnh đạo thế nào? "Bất kỳ công việc gì, cũng phải dùng hai cách lãnh đạo sau đây: một là liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng. Hai là liên hợp người lãnh đạo với quần chúng".

Thế nào là liên hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng? Người cho rằng: bất kỳ việc gì, nếu không có chính sách chung, kêu gọi chung, không thể động viên khắp quần chúng. "Song, nếu người lãnh đạo chỉ làm chung, làm khắp cả một lúc, mà không trực tiếp nhằm một nơi nào đó, thực hành cho kỳ được, rồi lấy kinh nghiệm nơi đó mà chỉ đạo những nơi khác, thì không thể biết chính sách của mình đúng hay sai. Cũng không thể làm cho nội dung của chính sách đó đầy đủ, thiết thực". Việc lãnh đạo, chỉ đạo chung, bao quát phải đi liền với thực hiện có trọng điểm, từ kinh nghiệm của điểm mà phát triển chỉ đạo ra diện rộng. Đó là cách lãnh đạo chắc chắn và có hiệu quả. Điều đó cũng đòi hỏi người lãnh đạo cùng với nắm những vấn đề chung, chỉ đạo chung phải chú ý những vấn đề cụ thể, thiết thực. Hồ Chí Minh nhấn mạnh "Bất kỳ người lãnh đạo nào, nếu không học tập nổi những việc thiết thực, những người thiết thực và những bộ phận thiết thực của cấp dưới, để rút kinh nghiệm, thì nhất định không biết chỉ đạo chung cho tất cả các bộ phân" . Đó là một cách vừa lãnh đạo vừa học tập.

Thế nào là liên hợp lãnh đạo với quần chúng? Câu hỏi đó được Hồ Chí Minh đặt ra nhiều lần và được lý giải cặn kẽ đồng thời cũng khái quát thành một nguyên tắc trong sự lãnh đạo của Đảng. "Bắt kỳ việc gì (thí dụ việc chỉnh đốn Đảng), người lãnh đạo phải có một số người hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh đạo. Nhóm trung kiên này phải mật thiết liên hợp với quần chúng, công việc mới thành". Hồ Chí Minh chỉ rõ, nếu chỉ có sự hăng hái của nhóm trung kiên, mà không liên hợp với sự hăng hái của quần chúng, nhóm trung kiên sẽ phải chạy suốt ngày mà không kết quả mấy. Nếu chỉ có sự hăng hái của quần chúng mà không có sự hăng hái của nhóm trung kiên để tổ chức và dìu dắt, thì sự hăng hái của quần chúng sẽ không bền và không thể tiến tới.

Phân tích lực lượng quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng bất kỳ nơi nào quần chúng cũng có ba hạng người: hăng hái, vừa vừa và kém. Những người vừa vừa là nhiều hơn hết. Những người hăng hái và kém thì ít hơn. "Vì vậy, người lãnh đạo phải dùng hạng hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh đạo, do trung kiên đó mà nâng cao hạng vừa vừa và kéo hạng kém tiến nên". Người cũng cho rằng, nhóm trung kiên đó do công tác và tranh đấu trong quần chúng mà nảy nở ra chứ không phải tự ngoài quần chúng, xa cách quần chúng mà có được.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh: sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng "Nghĩa là gom góp mọi ý kiến rời rạc lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống. Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng, và làm cho nó

75

Page 76: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

thành ý kiến của quần chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó. Đồng thời nhân lúc quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến đó đúng hay không. Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích làm cho quần chúng giữ vững và thực hành". Cứ như thế, theo Hồ Chí Minh, lần sau chắc đúng mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn lần trước. "Đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt". Người cũng cho rằng, vì không biết gom góp ý kiến của quần chúng, kinh nghiệm của quần chúng, cho nên ý kiến của những người lãnh đạo thành ra lý luận suông, không hợp với thực tế. "Vì vậy, trong công việc chỉnh đốn Đảng, cũng như trong mọi công việc khác, quyết phải thực hành cách liên hợp sự lãnh đạo với quần chúng và liên hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng". Chính điều đó "phá tan cách lãnh đạo lờ mờ, quan liêu, chủ quan, bàn giấy".

Hồ Chí Minh cũng nêu rõ người lãnh đạo học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng. Người cho rằng, dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng. Vì vậy, chúng ta phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng. Mỗi một khẩu hiệu, mỗi một công tác, mỗi một chính sách của Đảng ta, phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân chúng, phải nghe theo nguyện vọng của dân chúng. Người nhấn mạnh:

"Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được

Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên".

Theo Hồ Chí Minh, làm việc với dân chúng có hai cách:

"1. Làm việc theo cách quan liêu. Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. ép dân chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo.

Có nhiều cán bộ làm theo cách đó. Họ còn tự đắc rằng: làm như thế, họ vẫn "làm tròn nhiệm vụ", làm được mau, lại không rầy rà.

Họ quên rằng: Đảng ta và Chính phủ ta làm việc là làm cho dân chúng. Việc gì, cũng vì lợi ích của dân mà làm. Làm theo cách quan liêu thì dân oán. Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị là thất bại.

2. Làm theo cách quần chúng. Việc gì cũng hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng bàn bạc. Giải thích cho dân chúng hiểu rõ. Được dân chúng đồng ý. Do dân chúng vui lòng ra sức làm.

Như thế hơi phiền một chút, phiền cho những người biếng học hỏi và giải thích. Nhưng việc gì cũng nhất định thành công".

Hồ Chí Minh phân tích một cách cặn kẽ để chỉ ra sự nhận thức không đúng trong cách lãnh đạo, làm việc của cán bộ, đảng viên. "Có người nói rằng: mọi việc họ đều

76

Page 77: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

phụ trách trước Đảng, trước Chính phủ. Thế là đúng, nhưng chỉ đúng một nửa. Họ phụ trách trước Đảng và Chính phủ, đồng thời họ phải phụ trách trước nhân dân. Mà phụ trách trước nhân dân nhiều hơn phụ trách trước Đảng và Chính phủ, vì Đảng và Chính phủ vì dân mà làm các việc và cũng phụ trách trước nhân dân. Vì vậy nếu cán bộ không phụ trách trước nhân dân, tức là không phụ trách trước Đảng và Chính phủ, tức là đưa nhân dân đối lập với Đảng và Chính phủ".

Lắng nghe ý kiến, bàn bạc với dân chúng, học hỏi dân chúng nhưng không theo đuôi dân chúng. Hồ Chí Minh nêu rõ: "Cố nhiên, không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo. Người cán bộ phải dùng cách so sánh của dân chúng mà tự mình so sánh... Chọn lấy ý kiến đúng, đưa ra cho dân chúng bàn bạc, lựa chọn lại, để nâng cao dần dần sự giác ngộ của dân chúng".

Nhấn mạnh quyết tâm "bỏ sạch lối quan liêu, lối chật hẹp, lối mệnh lệnh", Hồ Chí Minh đề ra những nguyên tắc trong thực hiện sự lãnh đạo của Đảng:

"1. Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng.

2. Tin vào dân chúng, đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta.

3. Chớ khư khư giữ theo "sáo cũ". Luôn luôn phải theo tình hình thiết thực của dân chúng nơi đó và lúc đó, theo trình độ giác ngộ của dân chúng mà tổ chức họ, tuỳ hoàn cảnh thiết thực trong nơi đó, và lúc đó, đưa ra tranh đấu.

4. Chúng ta tuyệt đối không theo đuôi quần chúng. Nhưng phải khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hoá nó thành đường lối để lãnh đạo quần chúng. Phải đem cách nhân dân so sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề, mà hoá nó thành cách chỉ đạo nhân dân.

5. "Phải đưa chính trị vào giữa dân gian". Trước kia, việc gì cũng từ "trên dội xuống". Từ nay việc gì cũng phải từ "dưới nhoi lên".

Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng là từ lực lượng của nhân dân, vì lợi ích, sự sung sướng và hạnh phúc của nhân dân. Sự nghiệp của Đảng và nhân dân là thống nhất. Đảng cũng không có lợi ích nào khác là lợi ích của giai cấp, dân tộc và nhân dân. Vì vậy, xử lý đúng đắn nhất mối quan hệ giữa Đảng và dân vừa là nội dung, phương pháp lãnh đạo của Đảng vừa và sự bảo đảm nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng trí tuệ và kinh nghiệm bản thân đã đưa ra những chỉ dẫn, những ý kiến rất giản dị nhưng vô cùng sâu sắc, toàn diện về nội dung lãnh đạo, cách lãnh đạo của Đảng. Những chỉ dẫn đó có ý nghĩa thiết thực đối với việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Những điều chỉ dẫn của Bác không những có giá trị đối với sự lãnh đạo của Trung ương mà còn rất cụ thể, thiết thực đối với từng tổ chức Đảng, từng cấp uỷ Đảng và đối với từng cán

77

Page 78: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

bộ, đảng viên.

Thước đo trình độ, hiệu quả lãnh đạo của Đảng là kinh tế của đất nước phát triển, chính trị-xã hội ổn định, lòng tin của nhân dân được nâng cao, đời sống vật chất và văn hoá, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện, hệ thống chính trị vững mạnh, quốc phòng an ninh được tăng cường, quan hệ đối ngoại được mở rộng và vị thế của đất nước không ngừng tăng lên trên trường quốc tế. Hãy nhìn nhận những kết quả đáng tự hào đó để thấy rõ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách một Đảng cầm quyền. Đại hội IX của Đảng (4-2001) và nhiều Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã có những bước đổi mới quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng từ phát huy dân chủ trong Đảng, trong xã hội để quyết định những vấn đề lớn của đất nước, đến cải tiến quy trình ra Nghị quyết chú ý đến tính cụ thể, thiết thực của các vấn đề đặt ra. Từ quá trình chỉ đạo thực tiễn đến việc chú trọng tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý luận để có những điều chỉnh trong nhận thức và hành động. Chú trọng tăng cường quan hệ giữa Đảng và dân và từng bước khắc phục bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy Đảng và Nhà nước các cấp. Cần có cách nhìn tổng thể để thấy những cái được lớn, đồng thời cũng thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo để không ngừng hoàn thiện nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng. ở các địa phương, nội dung và cách lãnh đạo của Đảng bộ, cấp uỷ lại càng phải cụ thể, thiết thực theo như chỉ dẫn của Bác Hồ. Làm sao cho mỗi xã, phường, huyện, quận, tỉnh, thành phố, thực hiện tốt đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, không để người dân còn đói nghèo, lam lũ, đẩy lùi tệ nạn xã hội và tiêu cực làm cho nhân dân sung sướng, hạnh phúc. Làm được như thế nghĩa là sự lãnh đạo đúng đắn và có hiệu quả./.

PGS-TS Nguyễn Trọng PhúcViện trưởng Viện Lịch sử Đảng

NỘI DUNG 23. THỰC HIỆN NHỮNG LỜI DẠY CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

Ngày 21/9/2003. Cập nhật lúc 8h 39'

Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn, người sáng lập, rèn luyện Đảng ta, luôn chăm lo xây dựng củng cố phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh.

Trước hết Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhân dân ta vốn có lòng yêu nước nồng nàn và đoàn kết chặt chẽ, đấu tranh anh dũng để bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc. Truyền thống ấy đã trở thành thuần phong mỹ tục của dân tộc.Trong bài nói chuyện với đại biểu nhân dân Thanh Hoá ngày 13-6-1957, Người nhấn mạnh: "Cần xây dựng và phát triển thuần phong, mỹ tục. Các đồng chí nước bạn sang ta nói nhân dân Việt Nam rất cần cù, giản dị. Thuần phong, mỹ tục là đoàn kết, thương yêu giúp đỡ nhau sản xuất tiết kiệm, vì vậy nên cần phát triển thuần phong mỹ tục".

Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy truyền thống "nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng" của dân tộc ta và những tinh

78

Page 79: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

hoa tư tưởng đoàn kết của nhân loại tiến bộ, nâng lên thành chân lý, thành chính sách, thành chiến lược cách mạng.

Về nội dung, tư tưởng "đoàn kết, đại đoàn kết" của Hồ Chí Minh rất phong phú, nhiều vẻ bao gồm tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc (đoàn kết cả nước, đoàn kết toàn dân không bỏ sót một người dân nào, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất...), đoàn kết quốc tế. Phát biểu tại phiên họp bế mạc kỳ họp thứ tư, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá I, ngày 26-3-1955, Người chỉ rõ: "Chính sách đối nội trước mắt của ta là: Đoàn kết toàn dân, thi đua sản xuất... Chính sách ngoại giao của ta là: đoàn kết chặt chẽ với nhân dân các nước bạn". Nói chuyện tại Lớp nghiên cứu chính trị khoá II, trường Đại học nhân dân Việt Nam, ngày 8-12-1956 Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Trong thư gửi đồng bào cả nước, ngày 6-7-1956, Người khẳng định: "Đường lối đấu tranh của chúng ta hiện nay là toàn dân từ Nam đến Bắc, đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam". Trong bài nói tại Đại hội liên hoan phụ nữ "Năm tốt" ngày 30-4-1964, khi giải thích khái niệm "gia đình", Người cũng nhắc đến đoàn kết: Theo nghĩa cũ thì gia đình chỉ giới hạn hẹp trong một cái nhà, cái sân... Theo nghĩa mới thì gia đình rộng rãi hơn, tốt đẹp hơn. Thí dụ những người cùng lao động trong nhà máy, trong một cơ quan, trong một hợp tác xã... đều phải đoàn kết thương yêu nhau như anh em trong một gia đình. Rộng ra nữa là đồng bào cả nước đều là anh em trong một gia đình. Ngay trong "Kính cáo đồng bào" viết ngày 6-6- 1941, khi đất nước ta còn chìm trong nô lệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến đoàn kết dân tộc: "Trong lúc quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ đế quốc và bọn việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng". Nói về đoàn kết trong Đảng, trong bản "Di chúc" viết ngày 10-5-1969, Người chỉ rõ: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Chủ tịch Hồ Chí Minh không những nêu rõ nội dung của tư tưởng đại đoàn kết mà còn chỉ ra tầm quan trọng, những nguyên tắc, yêu cầu, phương pháp, cách thức đoàn kết. Nói chuyện tại Lớp chỉnh huấn trung cao của Bộ Quốc phòng tháng 5 năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Bây giờ còn một điểm rất quan trọng cũng là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì con cháu đẻ ra đều tốt: Đó là đoàn kết". Mà "nền gốc của đoàn kết là: đoàn kết của đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác".

Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết là một chính sách lớn đối với toàn dân tộc, đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây đựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta phải đoàn kết với họ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu yêu cầu của đoàn kết là phải đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ. Đoàn kết giữa Chính phủ và nhân dân. Đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân với nhau. Đoàn kết giữa đồng bào toàn quốc từ Bắc tới Nam. Nói rộng hơn nữa: đoàn kết giữa nhân dân ta và nhân dân các nước bạn. Đoàn kết chặt chẽ lực lượng trong nước với ngoài nước... Nói chuyện với đại diện Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hà Tĩnh, ngày

79

Page 80: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

15/6/1957, Người khẳng định "Đoàn kết chặt chẽ thành một khối thống nhất. Phải đoàn kết giữa lương và giáo, giữa quân và dân, giữa Bắc và Nam"... Trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku, ngày 19-4-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chúng của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta". Đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi không những là yêu cầu tất yếu của cách mạng Việt Nam mà còn là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, một tầm nhìn về tương lai của dân tộc. Ngay từ năm 1946, trong thư gửi đồng bào Nam Bộ, Người có những lời khuyên rất thấm thía: "Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều hợp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận rằng con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ như thế mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang".

Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi một sự đoàn kết thật sự có chiều sâu, có hiệu quả, "không phải đoàn kết ngoài miệng, mà đoàn kết bằng việc làm, đoàn kết bằng tinh thần, đoàn kết thực sự". Trong bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Hà Tây ngày 10-2-1967, Người nhắc nhở cán bộ "từ tỉnh đến huyện, đến xã phải đoàn kết, đoàn kết thực sự, làm sao tự mình nêu gương và giáo dục cho đảng viên, đoàn viên, cán bộ giữ gìn, phát triển đạo đức cách mạng, làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm". Người giải thích: "Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân". Về mối quan hệ giữa phê bình, tự phê bình và đoàn kết, Người giải thích: Phê bình, tự phê bình tốt nghĩa là xuất phát từ đoàn kết mà phê bình và tự phê bình, phê bình và tự phê bình để đi đến đoàn kết hơn nữa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh ý nghĩa, tác đụng to lớn của đoàn kết. Người nhiều lần khẳng định "Đoàn kết là lực lượng mạnh nhất của chúng ta". "Đoàn kết là một lực lượng vô địch". "Đoàn kết là sức mạnh". Đoàn kết là sức mạnh vô địch của chúng ta". "Đoàn kết là lực lượng tất thắng". Thật là một chân lý giản dị và sáng tỏ.

Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết, đại đoàn kết là nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt Nam, giúp dân tộc ta "thành công, đại thành công" trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Trong lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm cách mạng tháng Tám và ngày Độc lập năm 1951, Người nhấn mạnh: "Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân ta là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta cách mạng thành công, giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn thiếu thốn, đói khổ quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước. Nhờ lực lượng ấy mà với gậy tầm vông và súng hoả mai lúc đầu, chúng ta liên tiếp thắng địch". Trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc

80

Page 81: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá I, ngày 18-12-1959, Người khẳng định: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một dân tộc bị áp bức đã đánh bại cuộc xâm lược của một đế quốc hùng mạnh, đã giành lại độc lập cho dân tộc, đem lại ruộng đất cho dân cày, đưa lại quyền dân chủ thực sự cho nhân dân. Thắng lợi đó là do lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần đấu tranh anh dũng của quân và dân ta, do toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ trong Mặt trận Dân tộc thống nhất và chính quyền nhân dân ta dựa trên nền tảng liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và Đảng...". Trong bài nói tại Hội những người Ấn nghiên cứu các vấn đề quốc tế, ngày 7-2-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Nhờ đại đoàn kết mà trong bao nhiêu thế kỷ, nhân dân Việt Nam đã bảo vệ được độc lập, tự đo của mình. Nhờ đại đoàn kết mà nhân dân Việt Nam đã đánh thắng chủ nghĩa thực dân, làm cách mạng Tháng Tám thành công và đã kháng chiến đến thắng lợi. Nhờ đại đoàn kết toàn dân mà nước Việt Nam chúng tôi nhất định sẽ thống nhất".

Nhờ có chiến lược đại đoàn kết đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng nước ta hơn 70 năm qua đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc đánh thắng được hai đế quốc to là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cả nước hoà bình, thống nhất đi lên CNXH, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Để tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục đưa Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng và Nghị quyết TW7 (khóa IX) về "phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh" vào cuộc sống, cần thực thi mạnh mẽ, có hiệu quả những chủ trương chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, xây dựng những định hướng chính sách nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ hai, phát huy mạnh mẽ vai trò của chính quyền Nhà nước trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ ba, mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ tư, tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước.

Thứ năm, xây đựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Nguyễn Thạc HânBan Dân vận Trung ương

81

Page 82: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

NỘI DUNG 24. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Ngày 13/9/2003. Cập nhật lúc 11h 20'

GS, VS. Nguyễn Duy Quý

Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, trong đó tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội là một bộ phận hết sức quan trọng. Nhất quán với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là một học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp vô sản nhằm xoá bỏ ách thống trị tư bản chủ nghĩa, thực hiện lý tưởng giải phóng giai cấp và giải phóng toàn thể xã hội loài người. Chủ nghĩa xã hội còn được hiểu với tư cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc xây dựng và hoàn thiện nó như một quá trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới mục tiêu. Cái mới và là sự sáng tạo của Hồ Chí Minh khi nói về bản chất của chủ nghĩa xã hội là ở chỗ Người phát hiện thấy lý tưởng xã hội chủ nghĩa đã chung đúc tất cả lý tưởng, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội. Hồ Chí Minh còn thấy một điểm rất quan trọng thuộc về bản chất của chủ nghĩa xã hội là muốn đạt tới lý tưởng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên chống lại chủ nghĩa cá nhân. Người nhìn nhận chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội bảo đảm sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội. Hồ Chí Minh làm phong phú thêm hướng tiếp cận chủ nghĩa xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm sáng tỏ bản chất chủ nghĩa xã hội từ những kiến giải về kinh tế, chính trị và xã hội. Ngoài những kiến giải ấy, Hồ Chí Minh còn nhìn nhận bản chất chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức, văn hoá. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội đối lập, xa lạ với chủ nghĩa cá nhân, nhưng không hề phủ nhận cá nhân, trái lại, tôn trọng con người, phát triển mọi năng lực cá nhân vì phát triển xã hội và hạnh phúc của con người. Đây là chiều sâu trong tư duy biện chứng, trong nhãn quan văn hoá, đạo đức của Hồ Chí Minh. Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới mong hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Để có đạo đức cách mạng thì phải loại trừ mặt trái của nó là chủ nghĩa cá nhân. Đó là một kẻ thù nguy hiểm ngăn cản chúng ta đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng, tự mình phá huỷ sự nghiệp của mình. Đây chính 1à nỗi lo toan thường trực của Người. Từ tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927) cho đến Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân (1969), Hồ Chí Minh không lúc nào xa rời điều quan tâm lớn lao đó. Qua các tác phẩm “Tư cách của người Kách mệnh”, “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” Người nhấn mạnh rằng: “Không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”1. Từ đó, Người đưa ra lời khẳng định: “tư tưởng xã hội chủ nghĩa là chống tư tưởng cá nhân chủ nghĩa”. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần phải chống chủ nghĩa cá nhân,

82

Page 83: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

thực hiện sự tôn trọng và đề cao nhân cách, bảo đảm cho mỗi cá nhân phát triển lành mạnh nhân cách của mình trong sự hài hoà giữa cá nhân và xã hội. Nhìn nhận mặt bản chất quan trọng này, Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm, chủ nghĩa xã hội là xã hội trong đó mình vì mọi người, mọi người vì mình. Do đó, một trong những nét nổi bật của con người xã hội chủ nghĩa là phải đạt tới trình độ phát triển cao về đạo đức, về nhân cách, đủ sức chiến thắng chủ nghĩa cá nhân. Xã hội xã hội chủ nghĩa vừa đòi hỏi, vừa tạo ra những con người như thế và chăm lo giáo dục, phát triển con người 1à chiến lược quan trọng bậc nhất của chủ nghĩa xã hội. Điều cần lưu ý là, mặc dù rất chú trọng nhân tố đạo đức trong sự phát triển của chủ nghĩa xã hội và coi đạo đức xã hội chủ nghĩa là thuộc về bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội, song Hồ Chí Minh không bao giờ xem đạo đức là hiện tượng nằm ngoài tác nhân khác, gây nên sự chia cắt, đối lập giữa kinh tế với đạo đức. Người đề cao sức mạnh tinh thần đạo đức, nhưng không rơi vào duy ý chí, chủ quan hoặc chủ nghĩa trừu tượng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội luôn luôn nhất quán tính thống nhất biện chứng giữa các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và đạo đức. Từ cách tiếp cận đó về chủ nghĩa xã hội, thông qua hoạt động lý luận và thực tiễn hết sức phong phú, Hồ Chí Minh đã rút ra những kết luận rất sâu sắc về bản chất của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội có khả năng thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Hồ Chí Minh đã nói về chủ nghĩa xã hội một cách sâu sắc và khoa học, nhưng lại giản dị có sức cảm hoá rất lớn đối với nhân dân. Với câu hỏi chủ nghĩa xã hội là gì ? Người trả lời rất sáng tỏ: “Xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”2. Luận đề tổng quát đó được Người cụ thể thêm “Chủ nghĩa xã hội nghĩa là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng”3. “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh “4. Bản chất của chủ nghĩa xã hội còn được làm sáng tỏ khi Người nói tới trọng trách của Đảng với nhân dân, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Hồ Chí Minh luôn luôn lấy cuộc sống hạnh phúc của nhân dân làm thước đo hiệu quả, làm căn cứ đánh giá công việc của Đảng và Nhà nước ta. Bản chất và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội có được bộc lộ ra không, có được phản ánh đúng đắn không là ở đó. Người viết: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”5. Qua đó, chúng ta thấy rằng, Hồ Chí Minh đòi hỏi cao như thế nào sự tận tụy, hy sinh, sự mẫu mực trong sáng của Đảng và Nhà nước, biểu hiện không những ở tổ chức và thể chế, mà còn ở từng người, từng cán bộ, đảng viên của Đảng, những công chức của bộ máy chính quyền, những công bộc của dân. Người thấu hiểu sâu sắc rằng, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi như vậy. Chính điều này làm sáng tỏ biết bao sự nhạy cảm và tinh tế của Hồ Chí Minh khi Người đặt lý luận về Đảng và Nhà nước của dân, do dân, vì dân vào vị trí cốt yếu của lý luận về chủ nghĩa xã hội và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cũng như vậy, Người xác định đạo đức và tư cách của Người cách mạng ở vị trí quan trọng hàng đầu quyết định thành bại của công cuộc kiến thiết chủ nghĩa xã hội.

83

Page 84: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Mục đích của chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là một trong những vấn đề quan trọng mà Người đặc biệt quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân; dân chủ là chìa khoá của mọi tiến bộ và phát triển. Quan niệm này đã đặt nền tảng và giữ vai trò chỉ đạo trong hoạt động của Đảng và Nhà nước ta. Cùng với chế độ mới, nền kinh tế mới, Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh tới nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa trong mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Bao quát mục tiêu đó, Người nhắc nhở chúng ta: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất... chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”6. Về động lực, nhất là động lực bên trong, nguồn nội lực thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã đưa ra những chỉ dẫn thiết thực và quý báu. Người khẳng định nhân tố, động lực quan trọng và quyết định nhất là con người “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”7. Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự cố kết cộng đồng, sức lao động sáng tạo của nhân dân là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội. Người luôn luôn xây đắp khối đoàn kết dân tộc và nhấn mạnh: đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân là nguồn sức mạnh vô địch. Cùng với động lực tinh thần, Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất vì ích nước, lợi nhà. Người còn chủ trương áp dụng “Tân kinh tế chính sách” của Lênin khi Người khởi thảo điều lệ “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội”. Dự cảm và trù tính về tương lai của Người là như vậy. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh văn hoá, giáo dục, khoa học là động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người quan tâm đến vai trò của văn hoá ngày càng tăng trong sự phát triển, văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi; phải xúc tiến công tác văn hoá để đào tạo con người mới và cán bộ mới. Đó là nguồn vốn, là của cải quý báu nhất của quốc gia. Ngoài các động lực bên trong, những nhân tố nội sinh là hết sức quan trọng, theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải kết hợp được với các nhân tố bên ngoài (ngoại sinh). Một trong những động lực bên ngoài là sức mạnh thời đại, chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đứng trước một thực tế là trở thành Đảng cầm quyền. Nỗi quan tâm lớn nhất của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là làm sao cho Đảng không trở thành Đảng quan liêu, xa dân, thoái hoá, biến chất làm mất lòng tin của dân. Đây là điều hệ trọng. Hồ Chí Minh đặc biệt lưu tâm tới cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên. Người coi đó là điểm mấu chốt. Chỉ như vậy, Đảng mới mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, mới xứng đáng với lòng tin của nhân dân. Hồ Chí Minh đã nêu lên những chỉ dẫn hết sức sâu sắc: “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”8 vì lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết, dân chúng là “nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”9.

84

Page 85: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Trong phương thức lãnh đạo của Đảng, Người nhắc nhở “phải khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hoá nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng, phải đem cách nhân dân so sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề mà hoá nó thành cái chỉ đạo nhân dân”10. “Những cán bộ có khuyết điểm thường sợ dân nói. Nhưng nếu thành thật với dân biết mình có lỗi, xin lỗi dân thì dân cũng rất vui lòng và sẽ tha thứ cho”11. Hồ Chí Minh quan niệm thống nhất lý luận với thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Lý luận hoá thực tiễn từ sự nghiên cứu, tổng kết thực tiễn một cách khoa học và thực tiễn hoá lý luận từ sự vận dụng và phát triển lý luận trong thực tiễn một cách sáng tạo - đó là nét nổi bật thuộc về nội dung, phương pháp tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung cũng như tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội nói riêng. Trong tình hình thế giới phức tạp hiện nay, các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội tiếp lục tìm mọi cách để bài bác, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin. Luận điệu họ thường nêu lên một cách sai lầm là họ đem đồng nhất sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông âu với sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác-Lênin, sự đổ vỡ của hệ tư tưởng mác xít. Điều cần lưu ý là có một số người vốn là mácxít, nay dao động do những động cơ sai lầm khác nhau, dẫn tới sự hoài nghi học thuyết Mác-Lênin, hoài nghi con đường đi tới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thậm chí chống lại đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đã lựa chọn. Những thành tựu quan trọng mà nhân dân đã đạt được trong thời gian qua, đặc biệt là trong hơn 17 năm đổi mới là một thực tế không ai có thể phủ nhận được. Con đường đi tới của cách mạng nước ta có nhiều thuận lợi, nhưng không ít khó khăn. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với sự lãnh đạo sáng tạo, đúng đắn của Đảng ta, nhân dân ta sẽ thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn cờ soi sáng con đường cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi./.

NỘI DUNG 25. NHỮNG SÁNG TẠO ĐỘC ĐÁO VÀ CỤ THỂ THIẾT THỰC TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỤC TIÊU, CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Ngày 26/5/2003. Cập nhật lúc 21h 39'

TS. Nguyễn Quốc PhẩmPhó viện trưởng Viện CNXHKH - Học viện CTQG Hồ Chí Minh

Trong những năm gần đây, đời sống chính trị - xã hội thế giới có nhiều biến động lớn. Việt Nam vẫn vững bước trên con đường CNXH mà Đảng và Cbủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Đúng là "thế giới đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh còn sống mãi"1. Thực tiễn đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh càng chứng minh tính chân thực, khách quan trong đánh giá của Giăng Lacutuya về những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Trên thế giới hiện nay không có lãnh tụ nào đối với nhân dân mình vừa là người phát sinh, vừa là người bảo vệ, vừa là nguồn gốc, vừa là phương hướng; vừa là tư tưởng, vừa là thực hành: vừa là dân tộc, vừa là cách mạng... Qua những lời dạy của Người... các chân lý lớn

85

Page 86: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

của thời đại được diễn đạt trong những lời giản dị và hàm súc"2. Cống hiến lịch sử to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ với tư cách một anh hùng giải phóng dân tộc - người khởi xướng và lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thành công mà còn ở những đóng góp đầy tính sáng tạo trong xác định mục tiêu cụ thể thiết thực và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Nhờ đó đã tạo cơ sở tiền đề vững chắc để nhân dân Việt Nam kiên trì định hướng đổi mới, dựng xây đất nước và còn giúp cho cả những dân tộc "chối từ con đường đau khổ của chủ nghĩa tư bản, có thể nghiên cứu để tìm thấy trong tư tưởng Hồ Chí Minh một hướng đi thích hợp cho sự lựa chọn của mình"3.

Biện chứng của tính sáng tạo, độc đáo và cụ thể, thiết thực trong xác định mục tiêu của CNXH.

Trong công trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người học trò gần gũi, tin cậy của Bác Hồ, từng nêu một nhận xét: "Hồ Chí Minh không có định nghĩa về chủ nghĩa xã hội với những tiêu chí đầy đủ, toàn diện, hoàn chỉnh của một mô hình lý tưởng được xây dựng sẵn trong tư tưởng, nhận thức để từ đó bắt thực tiễn phải khuôn vào" như Mác - Ăngghen đã từng phê phán"4. Nhận xét trên hoàn toàn chân thực, phản ánh đúng tính độc đáo và rất sống động trong phương pháp tư tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện rõ nét những quan niệm sáng tạo và rất cụ thể, thiết thực, để đi vào lòng người (nhất là nhân dân lao động cần lao) về CNXH và mục tiêu cần đạt tới. Tư tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh về CNXH là những khái quát lý luận và được diễn đạt bằng những quan niệm cụ thể những gì mà CNXH sẽ đưa lại thật sự cho nhân dân, cho dân tộc. Người từng nhiều lần đặt câu hỏi và tự trả lời: "Chủ nghĩa xã hội là gì? Là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do. Nhưng nếu muốn tách riêng một mình mà ngồi ăn no, mặc ấm, người khác mặc kệ, thế là không tốt. Mình muốn ăn no, mặc ấm cũng cần làm sao cho tất cả mọi người được ăn no, mặc ấm, như thế mới đúng"5. Quan niệm về CNXH thật giản dị, dễ hiểu, mà sâu sắc, đáp ứng nguyện vọng khao khát của toàn thể nhân dân lao động Việt Nam. Trong quan niệm ấy hàm chứa nội dung tốt đẹp của CNXH: vì dân sinh, dân trí, vì cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân và cả tính công bằng, dân chủ thật sự. Về mục đích của CNXH, Người cũng đặt câu hỏi và trả lời tương tự, trong một bối cảnh khác: "Mục đích của CNXH là gì? Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động"6. Mục tiêu cao nhất của CNXH là đáp ứng lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ rộng rãi và phát triển toàn diện, tự do cho cá nhân con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng vạch rõ: "Bọn tư bản thường bịa đặt rằng: "Chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta không tôn trọng quyền lợi cá nhân của người công dân. Nhưng thực tế thì chỉ có chế độ của chúng ta mới thật sự phục vụ lợi ích của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, bảo đảm mọi quyền lợi của nhân dân, mở rộng dân chủ để nhân dân thật sự tham gia quản lý nhà nước. Vì vậy cho nên nhân dân ta đưa hết khả năng làm tròn nhiệm vụ của người chủ nước nhà để xây dựng CNXH, làm cho nước ta mạnh, dân ta giàu"7.

Sự thống nhất biện chứng giữa tiếp thu sáng tạo, vận dụng sáng tạo và đưa ra mục tiêu cụ thể, thiết thực của CNXH trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là

86

Page 87: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường thực hiện nó. Đó cũng chính là sự thống nhất biện chứng giữa trung thành với nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH với luôn luôn xuất phát từ đặc điểm lịch sử cụ thể của đất nước Việt Nam, con người Việt Nam và cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh luôn luôn coi chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất và cách mạng nhất. Người cũng luôn thể hiện ý thức sáng tạo, phát hiện, bổ sung những điểm cụ thể và độc đáo vào chủ nghĩa đó. Khi nói về CNXH và con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam thì "không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán, có lịch sử, địa lý khác"8. Đấy là nhãn quan sáng suốt tài tình khi xem xét sự vật, quá trình trong tính lịch sử cụ thể giúp Đảng ta, Nhà nước ta khắc phục những hạn chế, giáo điều, máy móc, rập khuôn trong xác định mô hình của CNXH.

Những mục tiêu cụ thể, thiết thực cần đạt tới trong thực tiễn theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam chính là cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng và Nhà nước ta kế thừa, phát triển khi xác định mục tiêu, mô hình của xã hội Việt Nam trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH. Từ những bài nói, bài viết của Người ở nhiều bối cảnh khác nhau có thể thấy được việc xác định mục tiêu của công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam tập trung ở một số điểm nổi bật là: Nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân lao động để "ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành" và "ngày càng sung sướng, tự do". Xây dựng "dân giàu, nước mạnh"; "biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành nước có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học tiên tiến" và để "sánh vai cùng cường quốc năm châu"; phát triển nền "dân chủ mới", trong đó mọi quyền hành, mọi lực lượng đều ở dân. Tạo lập sự công bằng xã hội, "CNXH là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng: những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom"9. Thực hiện bình đẳng đoàn kết giữa các dân tộc: "CNXH là mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng"10, để "miền núi tiến kịp miền xuôi; đồng thời tăng cường đoàn kết quốc tế trên cơ sở của tình hữu ái giai cấp - dân tộc có lý có tình, mở rộng giao lưu hợp tác cùng "bè bạn khắp năm châu".

Con đường tiến lên CNXH hay cách mạng XHCN ở Việt Nam

Một thực tế là công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, hai cuộc kháng chiến chống hai cường quốc kéo dài đã thu hút phần lớn tâm trí của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy vậy Người đã xác định mục tiêu cơ bản và con đường tiến lên CNXII bằng việc tiến hành cuộc cách mạng XHCN - bước kế tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mà ngay từ Luận cương năm 1930 của Đảng, Người đã góp công khởi thảo đã nêu. Cống hiến sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh là lý luận về cách mạng XHCN trong khi còn tiến hành chiến tranh nhân dân (tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược) Giáo sư Shingo Shibata (Nhật Bản) viết: "Một trong những cống hiến quan trọng của Cụ Hồ Chí Minh và của Đảng lao động Vlệt Nam là đã đề ra lý luận về xây dựng CNXH trong khi vẫn tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân. Nói chung, người ta thường cho rằng chỉ có thể xây dựng CNXH trong những điều kiện hoà bình. ý kiến chung về CNXH cho tới nay vẫn còn thịnh hành trong chủ nghĩa Mác là chỉ có thể

87

Page 88: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

xây dựng CNXH sau khi chiến tranh đã chấm dứt. Họ phải thực hiện việc xây dựng CNXH trong khi vẫn có chiến tranh. Theo tôi được biết, Đảng lao động Việt Nam là đảng đầu tiên trong các đảng mác xít trên thế giới áp dụng lý luận này"11. Không dừng lại ở đấy, trong quá trình lãnh đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện hàng loạt những quan niệm rất rõ ràng, cụ thể và sống động về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Trước hết, Người xác định đó là con đường vô cùng gian khổ khó khăn, lâu dài và phải trải qua nhiều giai đoạn, thời kỳ vời những đặc điểm cụ thể, nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể chứ không thể dễ dàng, mau chóng mà có được.

Năm 1964, khi trả lời phỏng vấn một nhà báo nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định: "Chúng tôi xây dựng CNXH trong hoàn cảnh một nước vốn là thuộc địa, một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh xâm lược tàn phá. Hoàn cảnh ấy cố nhiên gây cho chúng tôi rất nhiều khó khăn"12. Người thường căn dặn cán bộ và nhân dân ta: "CNXH không thể làm mau được mà phải làm dần dần"13, hoặc: "Tiến lên CNXH không phải muốn là tức khắc có, mà phải làm thế nào cho nó tiến lên"14. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm tiến hành cách mạng XHCN, một cuộc cách mạng trường kỳ gian khổ nhưng nhất định thắng lợi: "Chúng ta đã đánh thắng thực dân phong kiến. Hiện nay, chúng ta đang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, một cuộc cách mạng tuy trường kỳ gian khổ, song nhất định thắng lợi, chỉ phải đổ mồ hôi mà không đổ máu, một cuộc cách mạng nhằm đánh thắng lạc hậu và bần cùng, để xây dựng hạnh phúc muôn đời cho nhân dân ta, con cháu ta"15.

Người đã xác định rõ đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH là: " Đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa... Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại: có văn hoá và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài"16.

Nhờ xác định đúng đặc điểm, nội dung nhiệm vụ của thời kỳ qúa độ, Chủ tịch Hồ Cbí Minh đã chỉ rõ những việc cần làm trong phát triển kinh tế, văn hoá, phát triển công nghiệp, nông nghiệp, gắn nhiệm vụ xây dựng CNXH với bảo vệ Tổ quốc XHCN, v.v. Trong nhiều nội dung, nhiệm vụ phải tiến hành trong cách mạng XHCN. Người luôn luôn đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và đặc biệt phải phát huy dân chủ, dựa vào dân, phát động nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ. Người viết: "Để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lưọng vĩ đại của toàn dân"17.

Người luôn luôn căn dặn Đảng, Nhà nước và người cán bộ ta phải xác định bước đi cách làm dựa trên tri thức khoa học, trên cơ sở nắm vững qui luật phát triển của cách mạng XHCN để tiến vững chắc lên CNXH: "Tiến nhanh, tiến mạnh không phải là phiêu lưu làm ẩu. Phải thiết thực đi từng bước, phải tiến vững chắc. Phải nắm vững

88

Page 89: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

qui luật phát triển của cách mạng, phải tính toán cẩn thận những điều kiện cụ thể, những biện pháp cụ thể. Kế hoạch phải chắc chắn, cân đối. Chớ đem chủ quan của mình thay cho điều kiện thực tế. Phải chống bệnh chủ quan, tác phong quan liêu đại khái. Phải xây dựng tác phong điều tra, nghiên cứu trong mọi công tác cũng như trong khi định ra mọi chính sách của Đảng và Nhà nước" 18. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: "Để đảm bảo thắng lợi của cách mạng, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải nâng cao hơn nữa sức chiến đấu của toàn Đảng ta, phát huy hơn nữa tác dụng lãnh đạo của Đảng ta trên mọi mặt công tác"19. Người đề cao yếu tố tư tưởng, rèn luyện và kiên định vững vàng tư tưởng XHCN: "Trước hết cán bộ phải có tư tưởng XHCN, lập trường phải rõ ràng, vững chắc đã. Rồi cán bộ làm cho nhân dân hiểu để nhân dân hăng hái tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Khi đó cả xã hội mới tiến lên chủ nghĩa xã hội được"20.

Xác định mục đích lâu dài và mục tiêu cụ thể, thiết thực và con đường, bước đi để đạt mục tiêu xây dựng CNXH ở Việt Nam là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác � Lênin, CNXH khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Khai thác, nghiên cứu và vận dụng những khía cạnh vừa nêu trong tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách hiện nay, khi Đảng ta đang tiếp tục công cuộc đổi mới, xác định mục tiêu, nhiệm vụ, bước đi của tbời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6-2000

89

Page 90: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

NỘI DUNG 26. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN Ở VIỆT NAM

Ngày 2/11/2005. Cập nhật lúc 11h 9' Thấy rõ sức mạnh của cách mạng là ở nhân dân, Hồ Chí Minh đồng thời khẳng định nguồn tập trung sức mạnh của nhân dân phải có đảng lãnh đạo. Đó là hai mặt gắn bó hữu cơ với nhau, thiếu một mặt không thể tạo nên sức mạnh và cách mạng không thể thành công. Đó cũng là chân lý đã được cụ thể hoá và được Hồ Chí Minh vận dụng rất sáng tạo và thành công trong hoàn cảnh cách mạng nước ta.

Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một dân tộc đại bộ phận là nông dân, chưa qua giai đoạn phát triển CNTB, lại phải tiến hành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi chủ nghĩa thực dân, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức sức mạnh tạo nên động lực cách mạng ở nước ta là ở nhân dân. Khái niệm nhân dân theo Hồ Chí Minh là “bốn giai cấp bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử yêu nước khác. Nhân dân phải giành lấy chính quyền là khẩu hiệu của Hồ Chí Minh. Người khẳng định rất sớm rằng: “cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ, phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu”, phải đoàn kết toàn dân, tuyệt đối tránh chia rẽ, bè phái làm cho sức dân chúng yếu đi như “đũa mỗi chiếc mỗi nơi”.

Xuất phát từ yêu cầu phải có đảng lãnh đạo cách mạng mới thành công triệt để, đồng thời nói rõ lập trường cách mạng của mình đối với một đảng cách mạng chân chính, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên hệ với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam... Bây giờ, học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.

Như vậy là, một mặt, Hồ Chí Minh khẳng định vị trí của giai cấp công nhân và vai trò của nhân dân, coi nhân dân là nhân tố quyết định sự nghiệp cách mạng và đòi hỏi nhân dân phải giành lấy chính quyền, mặt khác, Người khẳng định vai trò lãnh

90

Page 91: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

đạo của Đảng Cộng sản (ĐCS), coi sự lãnh đạo của ĐCS là nhân tố quyết định đảm bảo thành công của sự nghiệp cách mạng.

Điều này có vẻ hơi khác với những ý kiến của Mác, Ăngghen khi các ông nói về vị trí của giai cấp vô sản (GCVS) mỗi nước phải giành lấy chính quyền, phải tự mình trở thành dân tộc. Nhưng, nói khác mà không trái, trái lại, chính ý kiến Hồ Chí Minh mới thực sự phù hợp với thực tế lịch sử xã hội Việt Nam, nơi ở đó hơn 90% dân số là nông dân, nơi đó nhân dân lao động nói chung phải chịu sự áp bức, bóc lột cùng cực của chủ nghĩa thực dân và chế độ phong kiến; ở đó động lực cách mạng không chỉ tập trung vào giai cấp công nhân (GCCN) mà chủ yếu là ở phong trào cách mạng của nông dân trên mọi miền của đất nước.

Chính những điều Hồ Chí Minh nói tuy có hơn khác với Mác, Ăngghen, Lênin, nhưng không trái ấy đã thể hiện tinh thần vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Người. Người đề cao vị trí, vai trò của nhân dân nhưng không hạ thấp vị trí, vai trò của GCVS, nhất là vai trò lãnh đạo của ĐCS. Trái lại, Hồ Chí Minh luôn khẳng định rằng chỉ có sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của đảng cách mạng chân chính của GCCN thì cách mạng mới thành công, cách mạng mới “đến nơi”, để nhân dân không phải làm một cuộc cách mạng khác nữa.

Cho nên, khi nói đến xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đã từng nói : “Nay tôi chỉ có một tin tưởng vào Dân tộc độc lập. Nếu cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài”, sau đó một lần nữa, Người tuyên bố trước Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ hai, rằng: “Tôi chỉ có một đảng, đảng Việt Nam”. Đến khi đổi tên ĐCS thành Đảng Lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh còn nói rõ hơn: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”.

Nói rằng ĐCS là đảng của dân tộc, đảng của nhân dân, mọi công dân Việt Nam đều có thể đứng trong hàng ngũ của Đảng, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài, thì hình như không đúng với điều nói về ĐCS của Mác, Ăngghen và Lênin, bởi lẽ, những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn nhấn mạnh tính GCCN của đội tiền phong của GCCN. Rõ ràng, Hồ Chí Minh không bao giờ không thừa nhận tính đúng đắn có ý nghĩa nguyên tắc trong việc xây dựng ĐCS. Chính Người vẫn thường nói Đảng ta là Đảng của GCCN hay đội tiền phong của GCCN. Nhưng, với một đảng ra đời trong hoàn cảnh một đất nước đại bộ phận là nông dân, một đất nước thuộc địa nửa phong kiến, nghèo nàn, lạc hậu như nước ta, Hồ Chí Minh không thể máy móc và giáo điều khi xây dựng ĐCS Việt Nam theo tiêu chí của một ĐCS ra đời trong xã hội công nghiệp phát triển như ở châu Âu. Tức là nếu theo tiêu chí đó thì ở nước ta sẽ không thể xây dựng được một ĐCS. Và, điều đó cũng đồng nghĩa với việc không thể hình thành một đường lối cách mạng theo lập trường GCVS lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, kim chỉ nam của hành động.

91

Page 92: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Chính vì vậy, Hồ Chí Minh chủ trương phải mở rộng những điều kiện vào Đảng, coi bản chất của ĐCS Việt Nam không nhất thiết chỉ ở thành phần xuất thân mà chủ yếu là mục tiêu lý tưởng và đường lối cách mạng trong từng giai đoạn cụ thể, mặc dù Người không hề coi nhẹ thành phần xuất thân là GCCN. Cho nên, Người coi ĐCS Việt Nam là đảng của GCCN và nhân dân lao động. Nói đến vai trò của Đảng khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh thấy rất sớm vấn đề xây dựng nhà nước kiểu mới. Quan niệm của Hồ Chí Minh về việc xây dựng nhà nước kiểu mới xuất hiện từ trong tác phẩm Đường cách mệnh, ra đời năm 1927, khi Người phê phán những nhà nước tư sản của Mỹ và Pháp đồng thời đề cao Nhà nước Nga sau Cách mạng tháng Mười năm 1917. Nhưng, phải đến sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh mới bắt tay vào việc xây dựng chính quyền của dân và hoàn thiện về quan niệm nhà nước kiểu mới, tức nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Nói rõ tính chất và quan niệm về nhà nước kiểu mới này tại cuộc họp Quốc hội đầu tiên năm 1946, Hồ Chí Minh khẳng định: Chính phủ sau đây là một Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái. Điều đó chứng tỏ Hồ Chí Minh luôn nghĩ đến việc xây dựng một nhà nước thực sự của dân, đó cũng là nhà nước của cả dân tộc. Điều này còn phản ánh rõ ý nguyện xây dựng một nhà nước kiểu mới “lấy dân làm gốc”, cũng có thể gọi là nhà nước của nhân dân, nhưng không quan niệm nhân dân theo kiểu vô chính phủ. Trái lại, nhân dân nói ở đây là lực lượng cách mạng đã giác ngộ, đã được tổ chức và nhất là có sự lãnh đạo đúng đắn của ĐCS hướng theo mục tiêu phấn đấu do Đảng đề ra.

Vậy, thực chất quan điểm Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền (ĐCQ) là thế nào, gồm những nội dung gì?

1. Trước hết, khái niệm ĐCQ là do Lênin đề ra đầu tiên sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Hồ Chí Minh không chỉ dùng khái niệm ĐCQ mà Người cũng rất có ý thức đến vai trò cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước cũng như đối với dân tộc. Điều đó có nghĩa là, Người đã thấy rõ trách nhiệm trước dân tộc của Đảng ta trong điều kiện đã giành được chính quyền. Cho nên, dù hoạt động công khai hay bán công khai thì Đảng ta vẫn phải có trách nhiệm lãnh đạo trực tiếp và toàn diện chính quyền nhân dân hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc và hướng đất nước theo mục tiêu xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam như Cương lĩnh đầu tiên do Đảng đề ra.

Với tư cách một lãnh tụ của Đảng, Hồ Chí Minh không bao giờ quên nhắc nhở cán bộ đảng viên phải nhớ đến trách nhiệm của một ĐCQ. Người luôn chú ý giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và toàn Đảng nói chung về trách nhiệm của Đảng đối với nhân dân, đối với Nhà nước của dân cũng như đối với toàn dân tộc. Cho đến cuối đời, trong Di chúc, Người vẫn không quên nhắc lại: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”. Trong bối cảnh đất nước tiến hành sự nghiệp đổi mới, vận hành đất nước theo cơ chế thị trường như hiện nay, điều căn dặn, nhắc nhở đó của Hồ Chí Minh càng trở nên rất cần thiết và thiêng liêng hơn bao giờ hết. Có thấy rõ Đảng ta là một ĐCQ thì mới thấy hết trách nhiệm của mình trước những khó khăn của nhân dân,

92

Page 93: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

mới không lơ là giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên ý thức trách nhiệm đối với nhân dân và dân tộc, mới mạnh dạn đấu tranh với những cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất trong đảng và trong bộ máy nhà nước để vượt qua những khó khăn, thách thức nhằm xây dựng đất nước trong bối cảnh và điểu kiện mới.

2. Quan trọng hơn là phải hiểu quan niệm của Hồ Chí Minh về ĐCQ, về bản chất của nhà nước kiểu mới và về mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thấy rõ Đảng ta là một ĐCQ là cần thiết nhưng chưa đủ, mà phải hiểu rõ quan niệm của Hồ Chí Minh về ĐCQ phải như thế nào, để từ đó không chỉ chuẩn bị những cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc xây dựng Đảng nói chung cũng như việc xây dựng nhà nước kiểu mới thực sự của dân, do dân và vì dân như Người đòi hỏi.

Vấn đế đặt ra đối với Hồ Chí Minh là, chính quyền cách mạng đã thuộc về nhân dân, thì tất cả quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân. Để đạt mục tiêu ấy, Hồ Chí Minh luôn suy nghĩ và lo lắng rằng ĐCQ phải làm thế nào để nhân dân thực sự làm chủ, thực sự nắm quyền lực nhà nước, thực hiện lý tưởng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Người luôn có ý thức đề phòng ĐCQ sẽ làm biến chất đảng viên, nhất là đảng viên có chức có quyền, và do đó sẽ làm biến chất Đảng dẫn đến biến chất cả Nhà nước. Từ đó, Đảng sẽ không những không thực hiện được sứ mệnh lãnh đạo Nhà nước, mà ngược lại, còn có thể làm tha hoá Nhà nước, tha hoá Đảng khi đảng viên biến chất nắm được quyền lực trong tay. Cho nên, khi nói đến ĐCQ, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và vai trò của dân đối với Đảng và Nhà nước.

3. Nói về bản chất của ĐCQ, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: Những người cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho CNXH hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên thế giới. Đó là mục tiêu lý tưởng của Đảng đề ra khi mới thành lập mà bất cứ một đảng viên nào khi vào Đảng đều được nhắc đến lý tưởng cao cả đó như một điều kiện đứng trong hàng ngũ của Đảng. Nhưng khi Đảng đã trở thành một ĐCQ, không ít đảng viên dễ quên đi cái lý tưởng cao cả mà mình vẫn tâm niệm, tuyên thề.

Thấy rõ nguy cơ biến chất, tha hoá của một ĐCQ, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở đảng viên phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, không được chủ quan tự mãn khi đã nắm quyền trong tay, không được biến thành những “ông quan cách mạng”. Không phải là ngẫu nhiên Hồ Chí Minh lại luôn đề cao đạo đức cách mạng và chống chủ nghĩa cá nhân một cách quyết liệt như chúng ta đã thấy. Hơn thế nữa, Người còn nói rõ ĐCQ phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của dân. Có lẽ, trong các lãnh tụ của ĐCS, không một ai nói rõ, nói mạnh mẽ về vai trò của ĐCQ đối với nhân dân như Hồ Chí Minh.

Trong suốt 24 năm lãnh đạo Nhà nước, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Cho đến cuối đời, Người viết bài “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, đăng trên báo Nhân dân ngày 3/2/1969, trước lúc Người qua đời chỉ có 7 tháng. Trong

93

Page 94: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

bản Di chúc, Người vẫn không quên căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền... Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Với Hồ Chí Minh, đây là một nguyên tắc lớn không thể thay đổi, nếu thay đổi cũng có nghĩa là thay đổi bản chất của ĐCS, cũng có nghĩa là Đảng không còn là ĐCQ. Cầm quyền, không phải là đứng trên nhân dân, trái lại, theo Hồ Chí Minh, cái quyền mà Đảng có được, là do dân, nhờ dân và của dân, cho nên, cầm quyền không phải là đứng trên dân như cách hiểu của những người trong xã hội cũ mà là công bộc thực sự của nhân dân. Hơn nữa, Hồ Chí Minh còn đòi hỏi Đảng phải “là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Mới nghe qua quả là khó hiểu, và trong thực tế không dễ thực hiện điều đó, nếu không thật sự quán triệt và tu dưỡng mình như quan niệm của Hồ Chí Minh. Nhưng càng ngẫm nghĩ, càng thấy rõ ý thức sâu xa và thâm thuý khi thấy Hồ Chí Minh đề cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân đối với một ĐCQ như Đảng ta, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Đương nhiên, phải hiểu “đầy tớ” theo nghĩa là phục vụ hết mình cho nhân dân, cái gì có lợi cho dân thì hết sức làm, cái gì có hại cho dân thì hết sức tránh, và phấn đấu tu dưỡng theo mục tiêu thực sự là “đầy tớ” của nhân dân thì mới coi Nhà nước là công cụ của nhân dân để phục vụ dân, mới biến quyền lực nhà nước thành quyền lực của nhân dân.

Trong thực tế những năm gần đây, những điều Hồ Chí Minh nói về ĐCQ cũng như về cán bộ, đảng viên đã diễn ra đúng như Người dự báo. Trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, có sự giao lưu, hợp tác rộng rãi với các nước trên thế giới, đã có không ít cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất. Nếu mỗi đảng viên cũng như toàn Đảng không có ý thức nâng cao cảnh giác, không ra sức tu dưỡng đạo đức cách mạng và chống những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, như Hồ Chí Minh đề phòng, thì Đảng không chỉ mất vị trí lãnh đạo, mất vị trí cầm quyền mà Nhà nước cũng có thể biến chất, không còn là Nhà nước của dân, do dân và vì dân nữa. Đó là bài học đã diễn ra ở một số nước XHCN. Đương nhiên, Đảng ta không phải là ngoại lệ, nếu không thực hiện kiên quyết và nghiêm túc những giáo huấn của Hồ Chí Minh về xây dựng ĐCQ và Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

4. Để thấy rõ vai trò của ĐCQ theo quan điểm Hồ Chí Minh, còn cần phải làm rõ quan điểm của Người về nhà nước kiểu mới của dân, do dân và vì dân. Nói đến trách nhiệm của ĐCQ, Hồ Chí Minh cho rằng một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng là phải đảm bảo cho nhân dân thật sự quản lý công việc của Nhà nước. Đảng không chỉ chịu trách nhiệm lãnh đạo Nhà nước mà cần phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về mọi hoạt động của Nhà nước. Đảng mạnh thì Nhà nước mạnh. Nhà nước hoạt động tốt, không quan liêu, không tham nhũng thì không những nhân dân yêu mến, tín nhiệm Nhà nước mà nhân dân cũng tin tưởng, yêu mến Đảng. Cho nên, theo quan điểm Hồ Chí Minh, ĐCQ gắn liền với Nhà nước kiểu mới. Điều đó phản ánh bản chất của nhà nước kiểu mới và chỉ có Nhà nước ta, Nhà nước của dân, do dân và vì dân mới có hiện tượng dân thừa nhận một ĐCQ độc nhất. Bởi lẽ, Đảng đã vì dân thì tất nhiên dân cũng vì Đảng, bảo vệ Đảng và coi ĐCQ là của chính mình.

94

Page 95: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Tóm lại, Đảng và Nhà nước, dưới con mắt của nhân dân không phải là hai mà chỉ là một, là Đảng ta, Nhà nước ta. Nhưng, giữa Đảng và Nhà nước ta lại không thể lẫn lộn trách nhiệm. Hồ Chí Minh cũng đề phòng sự lẫn lộn này dẫn đến bao biện chức năng giữa Đảng và Nhà nước. Người cho rằng, ĐCQ phải phát huy được vai trò của Nhà nước với tư cách bộ máy do nhân dân lập ra, dân giao phó những nhiệm vụ quản lý, điều hành đất nước. Nhà nước có mạnh thì dân mới mạnh. Còn Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng chủ trương, đường lối và phải tuân theo pháp luật chứ không thể đứng ngoài, đứng trên pháp luật. Đảng tôn trọng Nhà nước cũng có nghĩa là tôn trọng quyền làm chủ của nhân dàn, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Hồ Chí Minh phê phán nghiêm khắc hiện tượng lạm quyền, “cậy thế mình là người của Đảng, phớt cả kỷ luật và cả cấp trên trong các đoàn thể nhân dân hoặc cơ quan Chính phủ”. Người yêu cầu “đảng viên chẳng những phải giữ gìn kỷ luật sắt, kỷ luật tự giác của Đảng mà còn phải giữ gìn kỷ luật của chính quyền, của cơ quan đoàn thể cách mạng, của nhân dân”.

Rất tiếc là, những điều Hồ Chí Minh đề phòng vẫn có lúc xảy ra như chúng ta đã thấy trước đây cũng như gần đây. Điều đó càng chứng tỏ, những điều răn dạy của Hồ Chí Minh có tầm quan trọng và bức thiết như thế nào đối với một ĐCQ trong bối cảnh xây dựng đất nước hiện nay.

Đương nhiên, Đảng chỉ có thể thực hiện nhiệm vụ của mình thông qua Nhà nước và nhất là được nhân dân ủng hộ. Song, tất cả những điều kiện đó cũng phụ thuộc vào trách nhiệm xây dựng Đảng ta thực sự là một ĐCQ duy nhất của dân, do dân và vì dân như chính mục tiêu xây dựng một nhà nước kiểu mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, khi nói đến quan điểm Hồ Chí Minh về Đảng và ĐCQ, chúng ta không thể không nói đến nhà nước kiểu mới vốn gắn với một ĐCQ kiểu mới như Hồ Chí Minh quan tâm từ đầu và có sự nhất quán trong hệ thống tư tưởng của Người.

Theo PGS.TS Thành Huy, Tạp chí Lịch sử Đảng tháng 9/2005.

NỘI DUNG 27. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ DÂN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINHNgày 26/5/2003. Cập nhật lúc 1h 6'

PTS. Đàm Vǎn Thọ, PTS. Vũ Hùng

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

95

Page 96: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Tư tưởng về dân, về Đảng và về mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với dân là một bộ phận quan trọng trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó rất độc đáo và đa dạng, rất cụ thể và sâu sắc, có tác dụng to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Đó là một điều kiện đảm bảo thắng lợi của đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, trong đó có công tác vận động quần chúng qua các thời kỳ cách mạng.

Với ý nghĩa đó, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia giới thiệu cuốn sách: Mối quan hệ giữa Đảng và dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh của PTS. Đàm Văn Thọ và PTS. Vũ Hùng.

Nội dung cuốn sách trình bày một cách khá hệ thống khái niệm dân và những quan điểm, thái độ khác nhau về dân trong lịch sử, quá trình hình thành và nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân, về Đảng cầm quyền và về mối quan hệ biện chứng giữa dân và Đảng. Từ đó, nêu lên thực trạng và giải pháp nhằm tǎng cường mối quan hệ giữa Đảng và dân trong thời kỳ mới.

Nhà xuất bản hy vọng rằng, việc ấn hành cuốn sách sẽ là một đóng góp kịp thời phục vụ việc triển khai thực hiện một trong những nội dung quan trọng của Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá VIII) về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh.

Mặc dù các tác giả đã có nhiều cố gắng nhưng khó tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong nhận được những góp ý phê bình sách.

Tháng 11 năm 1997 Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia

LỜI NÓI ĐẦU

Đánh giá về vai trò của dân và giải quyết mối quan hệ giữa những người cầm quyền với dân là một vấn đề luôn luôn được đặt ra và thể hiện những quan điểm rất khác nhau ở các chế độ, các thời đại.

"Dân là gốc của nước" là một quan điểm tiến bộ đã có từ hơn 2000 nǎm trước đây trong tư tưởng triết học phương Đông. "Lấy dân làm gốc" cũng là một bài học và là lời dặn dò quý báu của ông cha ta thể hiện ở các triều đại tiến bộ trong lịch sử dựng nước và giữ nước mấy nghìn nǎm của dân tộc.

Đảng ta, tại Đại hội VI (tháng 12-1986) khi tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đã nêu lên bốn bài học kinh nghiệm, trong đó có bài học kinh nghiệm hàng đầu là "Lấy dân làm gốc". Tiếp đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Tám (khoá VI) nǎm 1990 đã ra Nghị quyết "Đổi mới công tác quần chúng của

96

Page 97: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Đảng, tǎng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân". Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta được thông qua tại Đại hội VII (tháng 6-1991) khẳng định: "Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân". Tǎng cường mối quan hệ giữa Đảng và dân cũng là một nội dung quan trọng được nhấn mạnh trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) và trong Vǎn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII), tháng 1-1994. Trong công cuộc đổi mới đất nước, các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước ta, như các đồng chí Trường Chinh, Nguyễn Vǎn Linh, Đỗ Mười, ở nhiều bài nói và viết cũng thường nhắc nhở và nhấn mạnh vai trò của dân và củng cố, tǎng cường mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với dân.

Như vậy, tư tưởng "Dân là gốc của nước" và bài học kinh nghiệm "lấy dân làm gốc" cũng như mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với dân hiện nay vẫn là vấn đề có ý nghĩa rất to lớn, thiết thực và phức tạp cần phải được nghiên cứu, giải quyết cả về lý luận và thực tiễn.

Kinh nghiệm của toàn bộ lịch sử thế giới và từng quốc gia, dân tộc đã chỉ ra rằng: đối với những người cầm quyền, có dân là có tất cả, mất dân là mất tất cả. Đối với một Đảng cầm quyền, xa dân, không hiểu dân, mất dân là một trong những nguy cơ đáng sợ. Nguy cơ đó đã trở thành hiện thực, là một tai hoạ thật sự và chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của các Đảng Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô (cũ) trong thời gian vừa qua.

Đảng ta ngay từ khi mới thành lập, xuất phát từ lợi ích của dân, gắn bó chặt chẽ với dân, có cương lĩnh và sách lược đúng đắn, phù hợp với nhu cầu nguyện vọng của dân nên đã được xã hội và các tầng lớp nhân dân thừa nhận là người lãnh đạo. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã thật sự được nhân dân yêu mến, tin cậy và ủng hộ, do đó đã làm Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, trở thành Đảng cầm quyền, và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thắng lợi, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975). Tuy nhiên, từ sau khi trở thành Đảng cầm quyền, đặc biệt là trong giai đoạn lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước, nhiều cấp uỷ đảng và chính quyền, nhiều cán bộ, đảng viên có chức quyền đã quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng nhân dân, làm mất lòng dân, làm giảm sút uy tín của Đảng với dân. Những sai lầm khuyết điểm đó, nếu không kiên quyết sửa chữa, lại bị kẻ địch trong và ngoài nước lợi dụng phá hoại thì sẽ dẫn đến những hậu quả tai hại không lường được đối với sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, Đảng ta với hơn hai triệu đảng viên, cần sớm nhận rõ nguy cơ này, và phải sớm đổi mới, chỉnh đốn về mối quan hệ giữa Đảng và dân, giữ cho mối quan hệ giữa Đảng và dân được trong sáng và ngày càng vững chắc, tốt đẹp.

Đảng ta đã khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú và sâu sắc, trong đó những quan niệm của Người về dân, về Đảng, về việc giải quyết mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với dân có những nội dung rất cụ thể và đặc sắc,

97

Page 98: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

vừa có giá trị về lý luận, vừa có ý nghĩa như những bài học kinh nghiệm, những chỉ dẫn quý báu trong hoạt động thực tiễn. Do đó, trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu để hiểu biết, nắm vững và vận dụng đúng đắn những tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân và về mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với dân là một yêu cầu cấp bách và thiết thực đối với mỗi cán bộ đảng viên trong công cuộc đổi mới, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.

NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997

Chương I. KHÁI NIỆM DÂN VÀ NHỮNG QUAN ĐIỂM, THÁI ĐỘ KHÁC NHAU VỀ DÂN TRONG LỊCH SỬ

Trong bức thư gửi Conrad Schmidt ngày 27-10-1890, Ǎngghen đã nêu lên một luận điểm rất sâu sắc: "Triết học của mỗi thời đại phải có một số vật tư tư tưởng nào đó do các triết học trước đó truyền lại, làm xuất phát điểm".

Tư tưởng về dân của Hồ Chí Minh rất phong phú và độc đáo. Tuy nhiên, đó không phải là tư tưởng bẩm sinh, vốn có ở Người. Đó chính là kết quả của một quá trình lâu dài, Hồ Chí Minh nghiên cứu, học tập, suy nghĩ chọn lọc, kế thừa những tư tưởng về dân trong lịch sử được vận dụng phù hợp với những yêu cầu mới của thời đại trên cơ sở lòng yêu nước thương dân nồng nhiệt của Người. Vả lại, mỗi tư tưởng hoặc một trào lưu tư tưởng nào đó trong quá khứ đều có những giá trị và ý nghĩa nhất định, đáp ứng được phần nào yêu cầu của xã hội đương thời. Do đó khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân, thì cũng cần phải "ôn cố tri tân", nghĩa là trước hết phải nghiên cứu chính khái niệm dân, đồng thời với việc nghiên cứu những "vật tư tư tưởng trước đó truyền lại" - tức là những quan điểm thái độ khác nhau về dân trong lịch sử mà Hồ Chí Minh là người rất am hiểu, chọn lọc, kế thừa và phát triển sáng tạo.

1. Về khái niệm dân và một số khái niệm liên quan

Trước tiên cần phải bàn về khái niệm dân, vì đây là khái niệm rất cơ bản trong tư tưởng chính trị - xã hội phương Đông mà Hồ Chí Minh đã dùng rất nhiều. Khái niệm này đã xuất hiện từ xa xưa, được sử dụng rất phổ biến trong các thư tịch của Nho giáo Trung Hoa cũng như trong các di sản vǎn thơ của ông cha ta và trong vǎn học dân gian qua các thời kỳ lịch sử. Khái niệm này còn được dùng thường xuyên trong ngôn ngữ hiện đại đời thường, trong báo chí và cả trong các vǎn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.

Tuy nhiên, để làm rõ được một khái niệm cũng không đơn giản. Khái niệm thường được biểu hiện bằng một từ, mà một từ lại thường có nhiều nghĩa. Ví dụ như một từ rất thông dụng mà ai cũng dùng đến hằng ngày là từ ǎn , trong Từ điển tiếng Việt 1994 nêu ra đến 13 nghĩa. Dân là một khái niệm chính trị - xã hội vừa có nhiều nghĩa lại vừa có những khái niệm khác tương ứng có thể dùng thay thế được trong những trường hợp nhất định, nên càng phức tạp.

98

Page 99: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Chúng tôi nghĩ rằng, khi nghiên cứu một khái niệm cần tra cứu những sách công cụ là những cuốn từ điển có đề cập đến những từ, thuật ngữ, khái niệm liên quan. Những cuốn Từ điển triết học của Liên xô trước đây do Rodentan chủ biên đã được dịch ra tiếng Việt, và cả cuốn "Từ điển triết học giản yếu" của Việt Nam do Hữu Ngọc - Dương Phú Hiệp - Lê Hữu Tầng biên soạn, đều không có khái niệm dân mà chỉ nêu khái niệm nhân dân. Riêng những cuốn Từ điển tiếng Việt (do Vǎn Tân chủ biên in nǎm 1967 và do Hoàng Phê chủ biên in và tái bản mấy nǎm gần đây) đều trình bày cả hai khái niệm dân và nhân dân . Hai khái niệm này về cơ bản là giống nhau, có thể thay thế được cho nhau. Ví dụ: Nhà nước của dân, do dân, vì dân = Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tuy nhiên, hai khái niệm đó cũng không phải là tuyệt đối đồng nhất, có thể thay thế được cho nhau trong mọi trường hợp. Ví dụ: không thể thay "Vấn đề dân cày" bằng "Vấn đề nhân dân cày".

Qua nghiên cứu những định nghĩa của các từ điển về khái niệm Nhân dân có thể nêu lên mấy nhận xét:

Một là, nhân dân là một khái niệm có ý nghĩa chính trị, tức là một khái niệm nói về một xã hội đã phân chia thành giai cấp, thành các tập đoàn người có địa vị và lợi ích khác nhau.

Hai là, nhân dân không đồng nhất với dân cư. Nhân dân là khối người đông đảo trong dân cư, tức là phần lớn dân cư chứ không phải toàn bộ dân cư.

Ba là, nhân dân gồm những người thuộc các giai cấp và tầng lớp lao động không bóc lột, trực tiếp sản xuất ra của cải cho xã hội, có khả nǎng tham gia giải quyết những nhiệm vụ phát triển tiến bộ xã hội.

Quan niệm về nhân dân như trên là phù hợp với một quan niệm của Hồ Chí Minh khi Người khẳng định: "Nhân dân và quốc dân khác nhau. Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử yêu nước. Đó là nền tảng của quốc dân". Quan niệm đó cũng phù hợp với tư tưởng của chủ nghĩa Mác, như Lênin đã nói: "Khi dùng danh từ "nhân dân" , Mác không thông qua danh từ ấy xoá mờ mất sự khác biệt về giai cấp; Mác đã gộp vào danh từ ấy những thành phần nhất định, có khả nǎng làm cách mạng đến cùng".

Có một điều dễ nhận thấy là, cả hai cuốn: Từ điển triết học của Liên Xô và Từ điển triết học giản yếu của Việt Nam (tham khảo nhiều của Liên Xô và về cơ bản cũng giống Liên Xô trước đây) chỉ nêu khái niệm nhân dân mà không nêu khái niệm dân . Có tình trạng đó, theo chúng tôi có lẽ vì hai lý do sau đây:

Thứ nhất, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói: "Thời kỳ trước đây ở Liên Xô nếu nói đến chữ "dân" sẽ bị quy kết là phái "Dân tuý"

Thứ hai, Có thể là các tác giả quan niệm: dân có nghĩa là nhân dân, nên chỉ cần nêu khái niệm nhân dân là đủ.

99

Page 100: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Những cuốn Từ điển tiếng Việt của ta thì trình bày cả khái niệm nhân dân và khái niệm dân. Khái niệm nhân dân đã phân tích ở trên. Còn khái niệm dân thì cách nêu của mỗi cuốn từ điển ấy cũng có khác nhau.

Tuy nhiên, trong cả hai cuốn Từ điển tiếng Việt, nghĩa cơ bản của khái niệm dân và khái niệm nhân dân là giống nhau, nhiều trường hợp có nghĩa đồng nhất, có thể sử dụng thay thế cho nhau. Điều đó phù hợp với thực tế trong ngôn ngữ tiếng Việt.

Liên quan tới khái niệm dân, còn có khái niệm quần chúng, khái niệm đồng bào v.v..

Quần chúng có nhiều nghĩa. Thứ nhất, đó là đám đông, là số đông người - một tập hợp ngẫu nhiên, không phân biệt cụ thể trong đó có những ai, là người như thế nào. Thứ hai, đó là đối tượng nhằm khu biệt với đảng viên và tổ chức đảng, và cũng là đối tượng tác động của đảng viên và tổ chức đảng (tổ chức quần chúng của Đảng, quan hệ giữa đảng viên với quần chúng). Thứ ba, đó là những người dân bình thường trong xã hội và trong quan hệ với lực lượng lãnh đạo. Theo nghĩa thứ ba này thì quần chúng cũng đồng nghĩa với dân, với nhân dân.

Đồng bào, có nghĩa là "cùng một bọc"; là từ dùng để gọi những người cùng một giống nòi, một dân tộc, một Tổ quốc với mình nói chung, với hàm ý có quan hệ thân thiết như ruột thịt. Đó còn là từ dùng để gọi nhân dân nói chung nhằm phân biệt với bộ đội và cán bộ nhà nước.

Có nhà nghiên cứu còn nêu lên và phân biệt khái niệm nhân dân với khái niệm dân tộc và khái niệm Tổ quốc. Sự phân biệt này là cần thiết vì đó là những khái niệm rất liên quan với nhau và hay được nhắc tới. Trong cuốn "Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh", GS. Lê Sĩ Thắng khẳng định: "Tổ quốc và dân tộc là hai khái niệm hầu như ngang nhau, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Khái niệm thứ nhất có bao hàm những yếu tố không nằm trong khái niệm thứ hai; ví dụ: các yếu tố thuộc về thiên nhiên... Khái niệm nhân dân không đồng nhất với khái niệm dân tộc, tuy rằng mỗi thành viên trong nhân dân đều là thành viên của một dân tộc... Không đồng nhất với dân tộc, tất nhiên nhân dân cũng không đồng nhất với Tổ quốc. do đó, lòng yêu Tổ quốc có thể gắn bó, cũng có thể không gắn bó với lòng yêu nhân dân. Gắn bó hay không gắn bó, điều này tuỳ thuộc ở từng người, từng chính đảng, từng Nhà nước vào những thời điểm cụ thể trong quá trình lịch sử của họ".

Trong quá trình nghiên cứu về khái niệm dân, chúng tôi tìm thấy một sự chỉ dẫn quý báu. Đó là một luận điểm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: "Trong xã hội ta, từ xưa đến nay, người ta thường phân biệt "quan và dân".

Quả thật, quan và dân là hai mặt đối lập, vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau, trong một cơ cấu xã hội, một thể chế chính trị nhất định, là chế độ phong kiến. Quan gắn với chế độ quân chủ do vua đứng đầu. Vua được mệnh danh là "thiên tử" (con trời), thay trời trị dân, có bổn phận bảo vệ dân và giáo hoá dân, nhưng lại "chịu trách nhiệm với trời" chứ không phải với dân. Mọi thần dân và của cải trong nước đều thuộc về vua. Dân ta nói: "Sướng như vua", nghĩa là vua có quyền hưởng thụ mọi

100

Page 101: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

thứ, muốn gì được nấy, vô kể. Quyền uy của vua là tối cao, vô hạn. Vua Pháp Louis XIV nói: "L'Etat c'est moi" (Nhà nước là ta). Vua là chúa tể trong một nước thay trời cai trị muôn dân nên khắp cả trong nước từ quan đến dân, ai ai cũng là tôi tớ nhà vua. Vì vua là ngôi "chí tôn vô thượng", quyền uy bậc nhất, không ai hơn được, cho nên có hàng loạt tên gọi được đặt ra để nêu cao "vai trò số một" ấy như: Thánh thượng, thánh chúa, thánh quân, bệ hạ... Vua có vị trí đặc biệt trong chế độ phong kiến nên vợ con, họ hàng nhà vua dù không làm gì hết cũng được hưởng đặc quyền, đặc lợi, bổng lộc rất hậu, có khi hơn cả những quan đại thần. Ví dụ như dưới triều Nguyễn, lương của Hoàng thái hậu (mẹ vua): 10.000 quan tiền, 360 phương gạo, 60 tấm lụa; Thái tử: 1.000 quan tiền, 360 phương gạo; Hoàng tử: 500 quan tiền, 360 phương gạo; Công chúa: 360 quan tiền, 360 phương gạo. Người trong tôn thất cũng được cấp lương. Trong khi đó thì quan chánh nhất phẩm (bậc cao nhất) được 400 quan tiền, 300 phương gạo, còn tòng cửu phẩm (bậc cuối cùng) chỉ được 18 quan tiền, 4 phương gạo...

Quan là những người có quyền hành trong bộ máy nhà nước phong kiến, được vua lựa chọn để làm việc cho vua, thực hiện quyền vua và ý vua. Trong một nước chỉ có một vua, còn quan thì có nhiều người, nhiều tầng nấc tạo nên một hệ thống quan liêu. Có quan ở triều đình và quan ở địa phương, được sắp xếp thành thứ bậc trên dưới và tuỳ theo thứ bậc mà được hưởng bổng lộc với số lính hầu và mũ áo, cờ lọng khác nhau. Quan còn được phân thành hai loại: quan vǎn và quan võ với những khả nǎng, sở trường, công việc, sự hưởng thụ và tính cách khác nhau, thường hay đố kỵ với nhau, thậm chí thù ghét nhau: "Quan vǎn mất một đồng tiền, xem bằng quan võ mất quyền quận công"; "Trâu buộc thì ghét trâu ǎn, quan võ thì ghét quan vǎn dài quần". Quan được vua giao cho quyền hành: "làm cha mẹ dân", có nhiệm vụ "cầm cân nảy mực" giúp vua, an dân. Quan gắn với vua thành một từ ghép: "vua quan" để chỉ những người nắm quyền thống trị trong chế độ phong kiến.

Quan còn gắn với "lại" (sai nha). "Lại" là những người không đỗ đạt, không bao giờ được cất nhắc lên làm quan, nhưng sống lâu ở địa phương, am hiểm tình hình và công việc, lại thạo làm các thủ tục luật lệ giấy tờ, nên là chỗ dựa không thể thiếu được của quan. "Lại" thường dựa vào uy thế của quan để doạ nạt, bóp nặn dân, làm cho dân khổ sở. Dân có khi sợ "lại" hơn cả sợ quan vì "quan xa, nha gần". Để "trị dân" và bóc lột dân, quan lại còn phải dựa vào bọn cường hào lý dịch là những người có quyền thế ở các làng xã.

Đối lập với vua quan, với bộ máy nhà nước phong kiến chính là dân. ở nước ta, nơi Nho giáo có ảnh hưởng lâu đời, dân đặt trong quan hệ với vua quan, là đối tượng để dạy dỗ sai khiến của vua quan. Quan là một số ít người cầm quyền, còn dân là số đông người không có chức quyền. Quan và dân là hai mặt, hai lực lượng đối lập cơ bản trong xã hội phong kiến: đối lập về lợi ích, về điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần, về địa vị xã hội, về tâm lý, tư tưởng, nhu cầu và nguyện vọng trong cuộc sống. Quan khinh thường dân, coi những người lao động chân tay đông đảo trong xã hội là "dân ngu khu đen", ù ù cạc cạc không biết gì, rách rưới bẩn thỉu đáng ghê tởm; là những kẻ dễ sai khiến, bảo gì nghe nấy, "như cây gỗ tròn", muốn lǎn đi dâu cũng được. Trái lại, dân coi quan là những kẻ tham lam vô độ: "Của vào nhà quan như than

101

Page 102: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

vào lò"; quan là những kẻ vụ lợi, thích thú với những vụ kiện cáo để kiếm chác: "Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ"; quan là những kẻ có quyền thế, lời nói đầy uy lực: "miệng kẻ sang có gang có thép", nhưng cũng là những kẻ gian hiểm: "muốn nói gian làm quan mà nói", giọng lưỡi lật lọng hay thay đổi khó mà lường được: "miệng quan trôn trẻ"; quan là những kẻ có quyền chức câu kết với nhau bóp nặn dân và là những kẻ dâm ô đồi truỵ, kể cả những quan lớn ở triều đình: "Bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình; Ba bộ đồng tình bóp vú con tôi"; quan là những kẻ giả dối, bề ngoài có vẻ sang trọng, nhưng thực chất cũng chỉ là những kẻ nhỏ nhen, ti tiện: "Ra đường võng giá nghênh ngang, về nhà hỏi vợ: cám rang đâu mày?"; quan là những kẻ gian giảo, quay quắt, hay vu oan giá hoạ cho người, là tai hoạ giáng xuống đầu dân liên tiếp: "Quan phủ chưa đi, quan tri đã nhậm". Vì vậy, dân luôn luôn có tư tưởng và hành động phản kháng lại đối với quan: "quan cần nhưng dân trễ", "quan có cần nhưng dân không vội, quan có vội quan lội quan sang".

Như vậy, nhìn nhận từ nhiều góc độ, đánh giá qua nhiều hiện tượng trong cả một quá trình lâu dài, dân đã thấy được bản chất của quan là bóc lột, thống trị, giả dối, tham lam, vụ lợi, luôn luôn đối lập về mọi mặt với dân. Đương nhiên, không thể "vơ đũa cả nắm" coi quan là hư hỏng tất, ai cũng như ai. Thực tế lịch sử đã có nhiều ông quan ở các triều đại rất trung thực, thanh liêm, dám treo ấn từ quan, có lòng yêu nước thương dân, được dân kính trọng và biết ơn, lập đền thờ, trở thành những phúc thần. Học giả Phan Kế Bính có viết; "Quan nào có lòng thương dân, nhiều điều nhân đức dân được nhờ, thì khi phải đổi hoặc khi phải thǎng chức khác, dân tại địa phương ấy thường có đơn ái mộ kêu với quan trên để xin lưu lại cai trị hạt mình. Quan nào có công đức to với dân thì sau khi mất, dân có khi lập bia kỷ niệm nữa". Tuy vậy, nhìn tổng quát vẫn cần thấy rằng "quan niệm chính quyền và công việc chính quyền, quan hệ vua tôi điều kiện hoá ông quan, tạo ra những tính cách mà ít hay nhiều đã là quan thì đều mắc phải. Những cái đó cũng là điều kiện để ông quan phát triển theo hướng xấu nhất: hống hách, nịnh hót, tham nhũng, dùng quyền hành mưu lợi riêng, kéo bè kéo cánh. ..". Đặc biệt là dưới chế độ thực dân, bọn quan lại người ngoại quốc thống trị bóc lột dân bản xứ cực kỳ dã man, tàn bạo. Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã vạch mặt chỉ tên, tố cáo tội ác tày trời của bọn chúng trong tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" nổi tiếng và trong hàng trǎm bài báo khác viết vào những nǎm 20 của thế kỷ này.

Trong bài "Các quan cai trị", Người khẳng định: "Để bảo vệ cho một chế độ cướp bóc, phải có quân ǎn cướp. Hoạ hoằn có một viên quan cai trị nào lại thật thà và hiểu biết hơn, lập tức viên quan ấy bị đàn lang sói quan thầy hay bè bạn xua đuổi đi ngay. Thành thử ra 99% quan cai trị là quân trộm cắp, chỉ nghĩ đến bóc lột dân bản xứ để làm giàu, chẳng kiêng nể gì tài sản, quyền lợi, tự do, đời sống của những người bị cai trị cả". Chính vì thế mà Hồ Chí Minh khi dùng khái niệm "quan cách mạng" là để chỉ những cán bộ cách mạng thoái hoá, biến chất, nhiễm nặng thói hư tật xấu của những ông quan xưa.

Phân tích các mối quan hệ, các bình diện, các khía cạnh khác nhau về dân, có thể nói khái quát: Dân là một khái niệm xuất hiện và tồn tại trong xã hội đã có giai cấp, có Nhà nước; đó là khái niệm chỉ những người lao động bình thường, đông đảo, không

102

Page 103: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

có chức quyền và đối diện những người cầm quyền cai trị ở các địa bàn lãnh thổ, các nghề nghiệp khác nhau trong các lĩnh vực sản xuất vật chất và hoạt động tinh thần của một xã hội nhất định. Do đó, khái niệm dân mang màu sắc và ý nghĩa chính trị khá rõ rệt, phần nào phản ánh mối quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội.

2.Những quan điểm và thái độ khác nhau về dân trong lịch sử

Tư tưởng về dân ở Hồ Chí Minh không phải tự nhiên xuất hiện, cũng không phải hoàn toàn do Người sáng tạo ra, mà chính là do Người đã nghiên cứu, thấm nhuần, phê phán, chọn lọc, kế thừa những tư tưởng quan điểm về dân trong lịch sử dân tộc ta và nhân loại. Vì vậy, rất cần thiết phải điểm qua những tư tưởng chủ yếu về dân trong lịch sử để từ đó có cơ sở hiểu sâu thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về dân.

Trong các học thuyết lớn về xã hội, nhất là trong các giới cầm quyền và những người có chức, có quyền xưa nay đều nói về dân và về vai trò của dân với những quan điểm và thái độ rất khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Quan điểm và thái độ đối với dân, vì vậy, trở thành một tiêu chí rất cơ bản để đánh giá sự tiến bộ hay bảo thủ, phản động của một học thuyết, một giai cấp, một chính đảng, một nhà hoạt động chính trị xã hội nhất định.

a- Những quan điểm và thái độ sai lầm về dân

Thứ nhất, coi nhân dân lao động đông đảo không nằm trong thành phần dân cư, thậm chí không được coi là con người.

Tư tưởng này xuất hiện từ thời cổ đại ở phương Tây, cách đây hơn 2.000 nǎm. Giới chủ nô quý tộc Hy Lạp, đại diện là Platông, đã chia dân cư thành ba hạng người: 1. Những người cầm quyền, cai trị đất nước, gồm những nhà triết học (tức là những trí thức, những người có học vấn trong giai cấp chủ nô thời đó); 2. Những vệ binh có nhiệm vụ bảo vệ chính quyền và giai cấp chủ nô; 3. Những công dân tự do gồm nông dân và thợ thủ công, có nhiệm vụ sản xuất ra thức ǎn, đồ dùng để nuôi sống xã hội. Còn những người nô lệ rất đông đảo trong xã hội cổ đại thì không được giai cấp chủ nô coi là người, mà chỉ được coi là công cụ biết nói bên cạnh những công cụ câm (đồ vật) và những công cụ nửa câm (con vật) mà giai cấp chủ nô muốn mua bán, chém giết lúc nào cũng được.

Thứ hai: tư tưởng "khinh dân", "ức dân", coi những người lao động chân tay chiếm số đông trong dân cư là hạng tiểu nhân, hèn kém, ngu dốt, chỉ để sai khiến.

ở phương Đông, dưới chế độ quân chủ chuyên chế, quan điểm phổ biến chiếm ưu thế trong xã hội là chủ nghĩa tôn quân "trọng vua". Nội dung cơ bản của quan điểm này coi vua là "thiên tử" thay trời trị dân. Tiêu biểu cho quan điểm này là Nho giáo Trung Hoa, đặc biệt là Hán Nho với nhà triết học nổi tiếng Đổng Trọng Thư.

Nho giáo chia dân cư thành hai đẳng cấp, hai loại người, là quân tử và tiểu nhân. Quân tử và tiểu nhân đối lập với nhau về mọi phương diện: tư chất, tài nǎng, đức độ,

103

Page 104: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

phong cách, công việc làm ǎn, vị trí xã hội... Tiểu nhân là những người lao động chân tay hèn kém, chiếm số đông trong dân cư, bị bóc lột và bị thống trị, chỉ biết ǎn no vác nặng, bị người quân tử coi thường và dùng để sai khiến.

ở nước ta, cuối thời Trần, nô tì chiếm số lượng khá đông trong dân cư. Nhiều người đã từng có công lao, lập công xuất sắc trong các cuộc chiến tranh bảo vệ vương triều, nhưng vẫn bị bạc đãi. Vua Trần Hiến Tông đã nói: "Bọn gia nô dù có chiến công cũng không được dự vào hàng quan tước của triều đình". Hơn nữa, tầng lớp quý tộc quan lại sống xa hoa, tha hồ chà đạp nhũng nhiễu thường dân, coi việc hối lộ, tham ô, vơ vét tài sản của dân là những hành động tự nhiên và hợp pháp. Lịch sử đã ghi lại câu nói của Trần Khánh Dư, một vị tướng quý tộc đời Trần, có công trong cuộc kháng chiến giữ nước nhưng lại rất khinh thường dân chúng: "Tướng là chim ưng, quân dân là vịt; lấy vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ".

Thứ ba: coi quần chúng nhân dân chỉ là một đám đông vô nghĩa, là sức ỳ của lịch sử, hoặc chỉ là phương tiện để giai cấp thống trị sử dụng cho mục đích của chúng:

Thời cận đại, vẫn có không ít những nhà lý luận và chính khách thể hiện những quan điểm rất sai lầm và phản động về quần chúng nhân dân. Anh em Brunô Bauơ và đồng bọn (những kẻ đã bị Mác và Ǎngghen phê phán rất sâu cay trong tác phẩm "Gia đình thần thánh"), coi quần chúng chỉ là một dãy số không (O), một đám đông vô nghĩa, không có vai trò gì, không là cái gì hoặc nếu có thì chỉ là sức ỳ, ngu si đần độn và là đối tượng của "sự phê phán". Bọn họ đã trắng trợn phủ nhận vai trò quần chúng, thậm chí còn lên án quần chúng rằng sở dĩ tất cả những việc lớn của lịch sử từ trước đến nay đều ngay từ đầu đã không thành công và không có hiệu quả thực tế, chính là vì quần chúng quan tâm đến các việc đó, vì các việc đó khêu gợi nhiệt tình của quần chúng. Nítxơ coi quần chúng nhân dân không phải là mục đích mà là phương tiện để đi đến mục đích, có nghĩa là quần chúng nhân dân không phải là đối tượng phục vụ mà chỉ là đối tượng sử dụng. Hítle, tên trùm phát xít Đức, coi quần chúng chỉ là đám người đơn sơ, mơ hồ, yếu đuối và coi các dân tộc khác, ngoài dân tộc Đức, chỉ là lũ người hạ đẳng, chỉ xứng đáng là nô lệ và bị thống trị.

b. Quan điểm trọng dân, coi dân là gốc của nước trong tư tưởng triết học cổ đại Trung Hoa

Vai trò của dân trong quan hệ với nước, với vua, đã được một số nhà triết học tiêu biểu của Nho giáo nêu cao trong tư tưởng chính trị phương Đông cách đây hơn 2000 nǎm. ở đây, cần chú ý là quan niệm của Khổng Mạnh cũng như của Nho giáo nói chung về dân không bao gồm những người cùng khổ nhất trong dân cư (như nô lệ, nô tì, nông nô) mà chỉ gồm có giới quý tộc và các tầng lớp bình dân; Kinh Thi, một cuốn sách kinh điển của Nho giáo có nói: "Dân là gốc của nước, gốc vững thì nước yên". Sách Đại học và Trung dung nhắc lại lời của Kinh Thi: "Được dân chúng thời được nước; mất dân chúng thời mất nước".

Kinh Dịch, một tác phẩm "thiên cổ kỳ thư" đứng đầu trong sách Kinh chư gia của Nho giáo Trung Hoa, có nhiều "quẻ" khuyên giải về việc giải quyết mối quan hệ giữa

104

Page 105: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

người cầm quyền với dân, bảo nhà cầm quyền nên theo luật tiết chế của trời đất "bốn mùa nắng, mưa, nóng, lạnh đều có chừng mực", mà trị dân; hạn chế lòng ham muốn, tính xa xỉ của con người, bắt dân làm việc vừa sức thôi, như vậy vừa không tốn của cải, không hại dân.

Khổng Tử, nhà triết học lớn của Trung Quốc thời Xuân Thu, một người có học vấn uyên bác, được tôn sùng là bậc thánh nhân của Nho giáo, đã có tư tưởng đề cao vai trò của dân, đồng thời nêu rõ trách nhiệm của vua đối với dân. Ông coi điều kiện quan trọng nhất đối với nhà cầm quyền là phải được lòng dân. Sách Luận ngữ có chép: "Tử Cống hỏi về cách cai trị. Đức Khổng đáp rằng: Nhà cầm quyền cần phải có ba điều kiện này: lương thực cho đủ nuôi dân, binh lực cho đủ bảo vệ dân, lòng tin cậy của dân đối với mình. Tử Cống hỏi tiếp: Trong ba điều ấy, bất đắc dĩ mà phải bỏ bớt, thì bỏ ra điều nào trước? Đáp: Bỏ binh lực. Tử Cống hỏi nữa: Còn lại hai điều là lương thực và lòng tin, bất đắc dĩ mà phải bỏ bớt, thì bỏ ra điều nào trước? Đáp: Bỏ lương thực. Là vì từ xưa đến nay, trong nước nếu thiếu lương thực thì xảy ra nạn chết đói; chứ dân mà không tin nhà cầm quyền thì chính phủ phải đổ".

Khổng Tử cho rằng, muốn được lòng dân, nhà cầm quyền phải biết dưỡng dân, tức là chǎm lo cải thiện đời sống cho dân, và phải biết giáo dân. Dưỡng dân là phải biết "sử dân dĩ thì", tức là sai khiến dân làm việc gì phải hợp thời, phải tuỳ lúc; phải biết giảm thuế cho dân khi mất mùa; "phải chịu khó lo liệu giúp đỡ cho dân" và đặc biệt là phải biết "làm cho dân giàu". Khổng Tử khen Tử Sản, một quan đại phu nước Trịnh là người có công ơn đối với dân, thường đem ân huệ mà thi thố cho dân và sai khiến dân một cách phải lẽ. Khi dân đã giàu thì nhà cầm quyền phải chú trọng dạy dỗ, giáo hoá dân. Đức Khổng Tử đến nước Vệ, ông Nhiễm Hữu đánh xe hầu ngài. Đức Khổng khen rằng: "dân nước Vệ đông thay!". Ông Nhiễm Hữu hỏi: "Dân đã đông, nhà cầm quyền phải làm gì cho dân họ nhờ?". Đáp: "Phải giúp cho họ giàu có". Hỏi:"Họ đã giàu có rồi, nhà cầm quyền phải làm gì nữa cho họ nhờ?". Đáp: "Phải giáo hoá họ".

Đối với Khổng Tử, giáo dục, dạy dỗ dân là công việc cực kỳ quan trọng của người cầm quyền, có tác dụng hơn dùng pháp luật, vì nhờ giáo hoá mà dân hiểu biết lễ nghĩa, và khi làm sai khuôn phép thì biết hổ thẹn. "Nếu nhà cầm quyền chuyên dùng pháp chế, cấm lệnh mà dắt dẫn dân chúng, chuyên dùng hình phạt mà trị dân, thì dân sợ mà chẳng phạm phép đó thôi, chớ họ chẳng biết hổ người. Vậy muốn dắt dẫn dân chúng, nhà cầm quyền phải dùng đức hạnh; muốn trị dân, nhà cầm quyền phải dùng lễ tiết, thì chẳng những dân biết hổ ngươi, họ lại còn cảm hoá mà trở nên tốt lành". Ông cho rằng nhờ giáo hoá mà dân ít kiện tụng, sẽ tốt hơn cho xã hội rất nhiều: "Nếu biết dạy cho dân biết nghĩa vụ, biết nhường nhịn, biết luật pháp mà giữ gìn, đặng họ chẳng đem nhau đến tụng đình, như vậy chẳng hay hơn sao?". Trong việc giáo hoá dân, Khổng Tử đề cao việc người cầm quyền phải làm gương, biết sửa lỗi mình để sửa người. Khi Tử Lộ hỏi về cách cai trị, Khổng Tử đáp rằng: "Nhà cầm quyền tự mình nên làm lành, làm phải trước đặng làm gương cho dân". Ông cho rằng: "Cai trị tức là sǎn sóc cho dân trở nên ngay thẳng, chính đính. Nay đại phu là bực dẫn dầu trong dân chúng mà tự mình chính đính thì còn ai dám ǎn ở bất chính?".

Khổng Tử yêu cầu người cầm quyền trị dân vừa phải có tri thức vừa phải có lòng

105

Page 106: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

nhân: "Mình có đủ tri thức để hiểu đạo trị dân theo thánh hiền, nhưng mình chẳng có đủ lòng nhân để giữ gìn, dẫu mình có được đạo ấy, rồi cũng mất đi". Khổng Tử nhắc lại lời của người xưa với Nhiễm Hữu, một đệ tử của ông: "Ai có thể đem hết tài lực mình ra giúp dân, thì nên bước vào hàng các quan. Bằng không thì nên thôi".

Tuy nhiên, quan niệm về dân của Khổng Tử cũng không bao gồm tất cả những người cùng khổ trong dân chúng. Chữ nhân là nội dung quan trọng của học thuyết Khổng Tử. Việc đề cao chữ nhân đối với thời đại ông là có ý nghĩa tích cực, nhân bản, nhưng vẫn mang tính đẳng cấp, dựa theo quan hệ sang hèn, thân sơ, có giới hạn cụ thể chứ không phải là lòng yêu thương rộng lớn bao la. Khi Tử Cống, một môn đồ của Khổng Tử hỏi: "Ví như có người thi ân bố đức cho khắp dân gian, lại hay cứu tế cho đại chúng, thì nên nghĩ cho người ấy ra thế nào? Có thể gọi là người nhân chǎng?". Khổng Tử đáp: "Sao chỉ gọi là người nhân thôi? ắt gọi là bực Thánh mới xứng. Vua Nghiêu, vua Thuấn cũng khó mà làm xong những việc ấy".

Mạnh Tử, một đại biểu xuất sắc của Nho giáo thời Chiến quốc đã bàn luận rất nhiều về dân. Tất nhiên quan niệm của Mạnh Tử về dân cũng không bao gồm những người cùng khổ nhất trong dân cư, không phải là nông nô mà chủ yếu là chỉ hạng địa chủ, thương nhân và trí thức. Tuy quan niệm về dân hạn hẹp như vậy, nhưng cách đánh giá của Mạnh Tử về vai trò của dân cũng đáng lưu ý. Ông cho rằng mọi chế độ đều phải nhằm vào lợi ích của dân; vì lợi ích của dân cũng là lý do tồn tại của thiên tử, chư hầu. Mạnh Tử đã khẳng định vị trí hàng đầu của dân trong mối quan hệ giữa dân với xã tắc và vua: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" - nghĩa là: dân là quý hơn hết, xã tắc là thứ hai, vua là thường. Chính Mạnh Tử đã giải thích: vua là thường hơn xã tắc vì có thể thay đổi vua: "Vua chư hầu làm nguy đến xã tắc thì thay đổi vua ấy đi mà đặt vua khác"; rằng quan trọng nhất là được dân hay mất dân, mà sở dĩ được dân là vì được lòng dân và mất dân vì mất lòng dân. Ông so sánh và giải thích: "Được lòng dân thì làm đến ngôi thiên tử; được lòng thiên tử chẳng qua làm đến chư hầu; được lòng với vua chư hầu chẳng qua làm đến quan đại phu". "Vua Kiệt, vua Trụ sở dĩ mất thiên hạ là vì mất dân, sở dĩ mất dân là vì mất lòng dân".

Mạnh Tử rất chú trọng đến lòng thương yêu dân, thái độ chân thực đối với dân của những người cầm quyền. Ông yêu cầu những người cầm quyền phải biết vui sự vui của dân và lo sự lo của dân: "Vui sự vui của dân thì dân cũng vui sự vui của mình; lo sự lo của dân thì dân cũng lo sự lo của mình. Vui chung thiên hạ, lo chung thiên hạ, thế mà chẳng hưng vượng, chưa có lẽ thế bao giờ". Ông cho rằng thái độ của dân đối với vua như thế nào chính là do thái độ của vua quyết định: "Vua coi bầy tôi như tay chân, thì bầy tôi coi vua như tim ruột; vua coi bầy tôi như chó ngựa, thì bầy tôi coi vua như người ngoài đường; vua coi bầy tôi như đất cỏ, thì bầy tôi coi vua như giặc thù".

Mạnh Tử coi việc cải thiện đời sống của dân là "điều gốc", là trách nhiệm của người cầm quyền: "Đấng minh quân đặt ra những cách thường sản cho dân, phải khiến cho dân trông lên đủ để cung cha mẹ, cúi xuống đủ để nuôi vợ con; nǎm được mùa suốt đời ǎn no, nǎm mất mùa khỏi đến nỗi chết đói, rồi mới xua bảo dân đi làm điều thiện, thời dân theo về đường thiện đó dễ...

106

Page 107: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Vua muốn thực hành cái đạo bảo dân, thì sao chẳng trở lại mà cầu lấy điều gốc đó"

Mạnh Tử còn nói cụ thể hơn về việc cải thiện đời sống của dân, làm cho ai nấy đều đủ cơm ǎn áo mặc, bằng cách người cầm quyền phải chú trọng phát triển sản xuất: trồng dâu lấy lụa mà mặc, chǎn nuôi gia súc gia cầm lấy thịt mà ǎn, chǎm sóc đến mùa cấy gặt thì trong nhà dân nhiều miệng ǎn cũng không đến nỗi chết đói; dạy dỗ dân lấy nghĩa hiếu đễ, thì những người đầu đã hoa râm không đến nỗi phải vác đội vất vả ở đường sá; người trẻ không đến nỗi đói rét; như thế nước sẽ hưng thịnh.

Tuân Tử cũng có tư tưởng đề cao dân. Ông cho rằng: "Trời sinh dân, không phải vì vua, mà trời lập ra vua để vì dân". Ông đã từng ví" Vua là thuyền, thứ dân là nước; nước chở thuyền, nước cũng lật thuyền".

Mặc Tử với thuyết "Kiêm ái" (yêu thương tất cả mọi người, mọi người yêu thương nhau), cũng lấy vấn đề quyền lợi của dân chúng làm trọng. Ông cho rằng thực hành hình pháp, chính sự, phải nhìn đến cái lợi của nhân dân trǎm họ trong nước; nếu đi ngược lại ý chí của dân chúng và có những việc làm không hợp với lợi ích của dân chúng thì nhân dân phải giữ lấy quyền "người trên có sai lầm thì phải can ngǎn".

Đó là nói đến những quan niệm tiến bộ về dân trong tư tưởng cổ đại Trung Hoa có ảnh hưởng tới xã hội Việt Nam từ hàng ngàn nǎm nay mà Hồ Chí Minh là người am hiểu sâu sắc, kế thừa có chọn lọc và vận dụng rất sáng tạo trong cuộc đời hoạt động cách mạng lâu dài đầy gian khổ hy sinh vì dân, vì nước của Người.

c. Những tư tưởng nổi bật về vai trò và sức mạnh của dân trong lịch sử Việt Nam

Lịch sử Việt Nam có những tư tưởng truyền thống đặc sắc và tiến bộ về vai trò và sức mạnh của dân, coi dân là gốc của nước.

Dân gian Việt Nam từ xưa đã có câu: "Quan nhất thời, dân vạn đại" thể hiện một quan niệm triết lý, một tư tưởng triết học sâu sắc. "Dân vạn đại" nghĩa là dân gắn với xã hội loài người; có dân, còn dân thì mới có xã hội, còn xã hội. Còn "quan nhất thời" nghĩa là quan chỉ xuất hiện, chỉ trở thành một tầng lớp khi xã hội đã có giai cấp, có nhà nước, và trong tầng lớp quan lại thì mỗi một ông quan cũng chỉ tồn tại ở một thời hạn nhất định - có thể là một vài nǎm hoặc vài ba chục nǎm, nhưng dù sao sự tồn tại đó cũng chỉ là ngắn ngủi, nhất thời so với sự tồn tại "vạn đại" của dân, của xã hội. Xét về gốc tích thì quan lại cũng không phải từ trên trời rơi xuống mà đều gắn với dân, đều từ dân: "Quan sang cũng ở làng mà ra". Vì là "nhất thời" nên đối với bất kỳ một ông quan nào, dù quan nhỏ hay là quan to thì cũng đều là: "hết quan hoàn dân", nghĩa là khi thôi làm quan, nếu còn sống - dù là về hưu hay thất sủng hoặc bất mãn với thời cuộc - cũng đều về sống với dân, trở thành dân.

Nhân dân lao động cũng tự ý thức được vai trò và sức mạnh của mình. Truyền thuyết Thánh Gióng, nhờ được nhân dân nuôi dưỡng (bằng cơm với cà và nước lã) và cung cấp vũ khí (roi sắt, ngựa sắt) đã trở thành người khổng lồ có đủ sức mạnh đánh thắng

107

Page 108: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

giặc Ân. Còn truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng Thuỷ nêu lên một bài học phản diện về An Dương Vương chủ quan mất cảnh giác, chỉ dựa vào vũ khí, không dựa vào sức mạnh của dân để chống giặc ngoại xâm thì kết cục là mất nước và dòng họ cũng tuyệt diệt. Khi dân đã bất mãn, "nổi can qua" - nghĩa là đứng lên khởi nghĩa, làm cách mạng- thì có thể lật đổ một triều đại, một chế độ xã hội, không chỉ làm cho "con vua thất thế phải ra quét chùa" mà còn đưa chính nhà vua lên đoạn đầu đài, như trường hợp Cách mạng Anh thế kỷ XVII và Cách mạng Pháp thế kỷ XVIII. Sức mạnh của nhân dân không chỉ thể hiện ở lực lượng vật chất mà cả ở tinh thần, ở tư tưởng, ở dư luận. "Miệng dân sóng bể" nghĩa là dư luận của quần chúng lan truyền từ người này, chỗ này sang người khác, chỗ khác và tư tưởng của nhân dân thể hiện trong vǎn học dân gian (folklore) - như tục ngữ, ca dao, truyện tiếu lâm, truyện ngụ ngôn - truyền từ đời nọ sang đời kia, có sức mạnh như những đợt sóng bể có thể nâng đỡ hoặc nhấn chìm một viên quan, một ông vua hoặc một triều đại nào đó.

Mỗi triều đại phong kiến Việt Nam thời kỳ đang lên và hưng thịnh đều có quan điểm về dân và mối quan hệ với dân đúng đắn, tích cực nên đã được dân ủng hộ, tập trung được sức mạnh của dân, đánh thắng được giặc ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng được đất nước, đồng thời cũng củng cố được vương triều đó vững mạnh.

Nhà Trần thế kỷ XIII đã ba lần đại thắng quân xâm lược Nguyên - Mông hung hãn. Nguyên nhân cơ bản của thắng lợi đó, như Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã ghi rõ là do "Vua tôi đồng tâm, anh em hoà thuận, cả nước góp sức". "Cả nước góp sức" chính là sức mạnh của toàn dân đã được huy động. Trần Quốc Tuấn còn nêu lên một tư tưởng đặc sắc khi ông khuyến tấu vua Trần: "Khoan thư sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước".

Đầu thế kỷ XI, Hồ Quý Ly chuẩn bị kháng chiến chống quân Minh xâm lược, xây dựng lực lượng quân thường trực khá đông, có súng thần cơ, có nhiều chiến thuyền, nhưng không đoàn kết được toàn dân, lòng dân ly tán, nên đã thất bại, cha con Hồ Quý Ly đều bị giặc Minh bắt. Đúng như Hồ Nguyên Trừng đã nói: "Tôi không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi".

Nguyễn Trãi, một nhà vǎn hoá lớn, một anh hùng của dân tộc ta thế kỷ XV, đã nêu ra những tư tưởng sâu sắc về vai trò và sức mạnh của dân. Sau khi cùng Lê Lợi lãnh đạo cuộc kháng chiến 10 nǎm chống quân Minh thắng lợi, ông viết bài "Bình Ngô đại cáo" hùng tráng với hai câu mở đầu nói về tư tưởng an dân; Muốn an dân thì trước hết phải trừ bạo ngược:

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"

Và nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Minh đã được Nguyễn Trãi chỉ ra là do đoàn kết được tướng sĩ, tập hợp được lực lượng dân chúng khắp nơi:

"Nêu hiệu gậy làm cờ, tập hợp khắp bốn phương dân chúng

108

Page 109: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Thết quân rượu hoà nước, dưới trên đều một bụng cha con".

Nói về sức mạnh của dân, ông đã tiếp thụ và nêu lên tư tưởng tiến bộ, ví dân như nước, các triều đại phong kiến như những con thuyền; thuyền nổi được là nhờ nước. Nước có tác dụng chở thuyền nhưng cũng có sức mạnh lật thuyền: "Chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân".

Ông còn nêu lên tư tưởng ơn dân rất mới mẻ đối với thời đại bấy giờ: "ǎn lộc đền ơn kẻ cấy cày". "Kẻ cấy cày" chính là nhân dân lao động, là nông dân chiếm tuyệt đại đa số dân cư trong một nước nông nghiệp. Kế tục tư tưởng của Trần Quốc Tuấn, ông yêu cầu vua quan triều định phải biết "Thương yêu dân chúng, nghĩ làm những việc khoan dân". Ông khẳng định tư tưởng về thái bình thịnh trị: "Cái gốc của nhạc là ở nơi thôn cùng xóm vắng không có một tiếng hờn giận oán sầu". Ông chỉ rõ trách nhiệm của người cầm quyền: "Phàm người có chức vụ coi quan trị dân đều phải theo phép công bằng... đổi bỏ thói tham ô, sửa trừ tệ lười biếng, coi công việc của quốc gia là công việc của mình; lấy điều lo của sinh dân làm điều lo thiết kỷ".

Chịu ảnh hưởng sâu sắc của quan niệm "Thiên nhân tương cảm", nhiều triều đại phong kiến Việt Nam coi lòng dân là ý trời và rất quan tâm tới việc kết hợp lòng dân với ý trời. Họ quan niệm lòng dân tức là ý trời được thể hiện ở các điềm lành (mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt) hay điềm dữ (bệnh tật, mưa bão, lũ lụt, mất mùa...) Người cầm quyền cai trị có đức, làm việc tốt, hợp lòng dân thì trời xuống điềm lành; không có đức, ǎn chơi xa xỉ, hoang phí, hại dân, dân oán thì trời xuống điềm dữ để rǎn bảo.

Khi đã có điềm tai dị của trời tức là dân oán, thì các quan đại thần, những nhà trí thức của các triều đại, am hiểu về "thiên thời, địa lợi, nhân hoà" biết thương xót dân chúng thường dâng sớ khuyên nhủ vua chúa sửa lỗi để trời không giáng tai hoạ nữa.

Trạng nguyên Giáp Hải, quan đại thần đời Mạc Mậu Hợp, thấy chính sách của nhà Mạc ngày một kém, điềm tai biến

ngày một nhiều, gặp khi có bão lớn, ông dâng sớ lên vua Mạc, nói rằng: "Trời ra tai không phải vô cớ, chính ở người mà ra. Tai biến về gió bão là trời hiện điềm để rǎn bảo... Vậy xin bệ hạ lấy sự biến của trời là đáng sợ, coi nhân sự là cần phải sửa... thi hành mọi điều khoan tất cho dân; ban ra ân dụ để tha những dân vô tội bị ức hiếp; đặc biệt sai quan sở tại thǎm nom giúp đỡ luôn. Có thế, ơn của trên ban xuống mới thấm đến kẻ dưới. Lòng người đã vui, tai trời sẽ hết...Xin bệ hạ tôn trọng gốc nước, cố kết lòng dân, hậu đãi mà đừng làm khốn dân; giúp đỡ mà đừng làm hại dân, dè dặt chứ không dùng hết sức của dân, nhẹ bớt cho dân những việc phục dịch tức là chính sách của vương đạo đó".

Tiến sĩ Nguyễn Duy Thì thời Lê - Trịnh, khi đi sứ về, thường thấy tai dị, đã dâng khải tâu Chúa, nói về trách nhiệm của triều đình và tố cáo bọn quan lại tham nhũng ở các địa phương làm cho dân khốn khổ: "Dân là gốc của nước, đạo trị nước cốt phải yêu

109

Page 110: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

dân. Trời với dân đều một lẽ, lòng dân vui thì thuận ý trời. Nên người giỏi trị nước phải yêu dân như cha mẹ yêu con: nghe thấy dân đói rét phải lo, trông thấy dân vất vả phải thương, cấm chính thể hà khắc tàn bạo, cấm việc tự tiện thu thuế, để dân được sinh sống thoải mái, không có tiếng sầu giận thở than. Đó mới là biết đạo trị nước. Nay thánh thượng để ý đến dân, ra một chính sách gì là cốt để nuôi dân, thi hành một lệnh gì là cốt ngừa sự nhiễu dân; lòng yêu dân thật như độ lượng của trời đất cha mẹ.

Những người thừa hành chưa thể tất hết đức ý của nhà vua, chỉ chǎm bạo ngược, đua nhau xa xỉ: cai trị một huyện thì khốn khổ cho dân một huyện, cai trị một xã thì khốn khổ cho dân một xã, những việc nhũng nhiễu hà lạm việc gì cũng làm, khiến cho dân trong nước, trai không áo, gái không váy, tiệc hát xướng không có nữa, lễ cưới xin không đầy đủ, việc nuôi người sống, chôn người chết không biết nhờ vào đâu; việc ǎn uống thường dùng hàng ngày không biết lấy gì chu cấp; những kẻ nghèo yếu hèn hạ, những loài sâu bọ cỏ cây, đời sống không được toại.

Vì thế mà cảm động đến trời đất, nên lòng trời không thuận. Tai hạn nước lụt dâng lên lạ thường, phải chǎng là chính sự lúc này có thiếu sót. Có thể không sợ hãi tu tỉnh nghĩ đến cái lỗi gây nên điểm tai biến ấy được không?

Nếu làm được chính sách giúp dân, thì trên thuận lòng trời, dưới được ý dân, tự khắc đổi tai vạ làm điềm lành, hàng nǎm được mùa, mọi nhà mọi người no đủ, trong nước thái bình, cơ nghiệp nước nhà truyền ức muôn dặm từ nay trở đi được lâu dài mãi "

Đại thần Lưu Đình Chất tố cáo bọn quan lại các địa phương chỉ chǎm làm việc cay nghiệt, vét hết của cải của dân khiến dân sầu khổ, trời cảm động sinh ra điềm quái gở mưa đen như tro. Ông dâng bản điều trần: Xin bề trên kính cẩn những điểm rǎn bảo của trời, thương dân, nuôi dân, một mảy may nào tiện cho dân cũng nên làm; một mối tệ hại nào cho dân cũng nên bỏ. Lại càng nên ban nhân chính cho dân: Dân ở phường phố kinh thành phải nên thương xót, ra lệnh cho các tướng cấm ngặt những việc bóc lột. Dân từ chiếng Thanh Hoa nên thương xót, ra lệnh cho các tướng chớ làm phiền nhiễu. Như thế thì người gần đội ơn mà mừng, người xa nghe tiếng mà đến; ấy là được lòng dân đó! Dưới thì lòng người mừng, trên thì đạo trời ứng, sao dữ sẽ biến thành sao lành, mưa độc sẽ hoá mưa ngọt. Mọi phúc lành đều đến thì vương đạo mới hoàn toàn".

Đại thần Ngô Trí Hoà đã cùng đại thần Lê Tri Bật vào nǎm 1618 làm tờ khải dâng chúa Trịnh điều trần (kiến nghị) về chính sách trị dân của triều đình, gồm sáu việc có lợi cho dân:

"1. Xin sửa đức chính để cầu mệnh trời giúp.

2. Xin đè nén kẻ quyền hào để nuôi sức dân.

3. Xin cấm (phu dịch) phiền hà để đời sống của dân được đầy đủ.

4. Xin bớt xa xỉ để của dân được thừa thãi.

110

Page 111: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

5. Xin dẹp trộm cướp để dân được ở yên.

6. Xin sửa sang quân chính để bảo vệ tính mạng cho dân".

Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, trong khi vua quan nhà Nguyễn dâng đất và ký hiệp ước đầu hàng, thì những người "dân ấp, dân lân" đã anh dũng đứng lên chống giặc, bảo vệ quê hương đất nước. Tinh thần đó đã được ca ngợi trong bài "Vǎn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" của nhà thơ bình dân Nguyễn Đình Chiểu. Nguyễn Đình Chiểu quả là trường hợp điển hình của một con người nhờ yêu tin nhân dân sâu sắc mà đã chiến thắng được hạn chế khắc nghiệt của bản thân: mù loà, học vấn dở dang, sống nghèo khổ trong hoàn cảnh nước mất. Sự nghiệp vǎn học của ông vượt xa những người đương thời. Đó không phải nhờ học vấn cử nghiệp mà nhờ lòng tin vô hạn của ông vào nhân dân lao động.

Đầu thế kỷ XX khi thực dân Pháp đã đặt được ách thống trị lên đất nước ta phong trào yêu nước của nhân dân ta vẫn bùng lên mạnh mẽ, như phong trào Cần Vương, Đông Kinh Nghĩa Thục, khởi nghĩa Yên Thế, đặc biệt nổi bật là phong trào vận động cách mạng của hai nhà chí sĩ họ Phan. Phan Chu Trinh đã đưa ra bản "Thất điều trần" nổi tiếng, gồm bảy điều kết tội vua Khải Định, và nêu cao tư tưởng "trọng dân", đề xướng tư tưởng dân chủ, quy kết trách nhiệm đối với người cầm quyền: "Nói về học thuyết Tây Âu thì nước là nước của dân, đặt ra triều đình để chịu phần uỷ thác của quốc dân, còn ông vua hay ông tổng thống tức là người đại biểu trong một nước, cũng như trong một công ty nào có người "sếp" vậy,. Đã chú phần uỷ thác, đã được hưởng những quyền lợi thì phải làm cho đầy đủ cái bổn phận của mình. Nếu không thế thì người trong nước ai cũng được chiếu luật mà giết đi cũng như xử một tên phạm tội kia vậy". Cụ đã thẳng thắn vạch trần bọn quan lại nịnh hót, chỉ biết có vua mà không biết có dân, muốn giữ mãi địa vị của mình, túi tham được đầy mãi. Cụ khẳng định: "Ai coi nước nhà như một món của riêng mình thì ví như bọn trộm cướp, còn ai cậy quyền mà áp chế nhân dân thì ví như quân phản nghịch".

Phan Bội Châu, một chí sĩ yêu nước nồng nhiệt, đã từng sang Tầu sang Nhật tìm đường cứu nước cứu dân và viết những lá thư đầy tâm huyết gửi quốc dân đồng bào. Cụ đã có một quan niệm sâu sắc, chí lý về dân, về nước, thể hiện tư tưởng "khinh quân trọng dân", "ái quốc, ái quần" rất rõ rệt. Cụ thẳng thắn tỏ rõ thái độ của mình đối với vua, đối với quan và đối với dân:

"Kẻ làm vua kia, chẳng qua là người đứng đầu một làng, là viên quản lý một công ty mà thôi. Nếu nó chết đi thì làng và công ty vẫn còn đó. Nó cũng chỉ là một phần số người trong một nước, có hay không có một phần số người này, đối với nước có thêm bớt gì đáng kể. Vì vậy tôi không trách.

Kẻ làm bầy tôi kia lại chiếm số rất ít trong số người của một nước, há có thể lấy trách nhiệm mất còn của một nước để gửi gắm ở họ? Vả ta thương yêu đâu ở bọn này? Ta chỉ thầm trách dân ta mà thôi.

111

Page 112: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Ta thương yêu nhất là dân, nên những người mà ta thầm trách cũng là dân ta. Dân nước ta có chịu hối mà tự cường không".

Trong tác phẩm "Hải ngoại huyết thư" nổi tiếng, Phan Bội Châu đã bộc lộ tâm huyết của mình với dân với nước. Cụ đã chỉ rõ ba nguyên nhân mất nước:

"Một là vua sự dân chẳng biết

Hai là quan chẳng thiết gì dân

Ba là dân chỉ biết dân

Mặc quân với quốc, mặc thần với ai".

Cụ thẳng thừng lên án bọn vua quan tham lam, ích kỷ, chỉ lo ǎn chơi phè phỡn:

"Hai dân để lợi lấy mình

Coi dân hờ hững như hình chẳng can".

Đặc biệt là cụ thấy được vai trò to lớn của dân, không thể thiếu dân:

"Sông xứ Bắc, bể phương Đông

Nếu không dân cũng là không có gì"

Và cụ gắn dân với nước, dân có trách nhiệm với sự hưng thịnh của đất nước:

"Nghìn muôn ức triệu người chung góp

Xây dựng nên công nghiệp nước nhà

Người dân ta, của dân ta

Dân là dân nước, nước là nước dân"

Như vậy là Phan Bội Châu đã từ bỏ tư tưởng tôn quân của hệ tư tưởng phong kiến, đã coi dân là gốc của nước. Trong tác phẩm của Cụ, dân chúng đã xuất hiện như lực lượng có ý thức về trách nhiệm cao cả của mình: trách nhiệm của quốc dân đồng bào, trách nhiệm của hàng ức hàng triệu người.

d. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân kiệt xuất

Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân và quần chúng nhân dân là quan niệm đúng đắn nhất, khoa học nhất, phù hợp với thực tiễn lịch sử. Đây là một cuộc cách

112

Page 113: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

mạng về thế giới quan và nhân sinh quan trong lĩnh vực đời sống xã hội. Đồng chí Lê Duẩn đã từng phân tích và so sánh: "Các giai cấp bóc lột vì lợi ích giai cấp của mình đã xoá nhoà, làm lu mờ vai trò của quần chúng trong lịch sử. Chúng coi quần chúng chỉ là một bầy ngu dại. Cả những nhà hiền triết trước kia, với quan điểm giai cấp của bản thân họ và bị điều kiện lịch sử hạn chế, cũng không thấy được đúng vai trò của quần chúng. Theo họ, quần chúng chỉ là những người tiêu cực, bị động, chịu sự sai khiến của những nhân tài lỗi lạc. Do quan điểm sai lầm ấy, nên lịch sử cũ chỉ miêu tả hoạt động của cá nhân, anh hùng hào kiệt, hoặc vua quan danh tướng nào đó, còn vai trò của quần chúng thì bị bỏ quên, không nói tới.

Phải trải qua một thời gian mấy nghìn nǎm tới khi chủ nghĩa Mác ra đời thì chân lý "quần chúng sáng tạo ra lịch sử" mới được nêu lên. Phát hiện ấy là cống hiến quan trọng của Mác, nhưng cũng do toàn bộ quá trình phát triển lịch sử khách quan cho phép. Trong quá trình lịch sử ấy, vai trò của quần chúng ngày càng nổi bật lên".

Thật vậy, đánh giá vai trò quần chúng nhân dân chính là vấn đề đầu tiên mà Mác quan tâm trong quá trình nghiên cứu lý luận và hoạt động cách mạng. Đó cũng chính là vấn đề đánh dấu sự chuyển biến tư tưởng của Mác từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật trong lĩnh vực xã hội. Lênin đã đánh giá cao quan điểm duy vật lịch sử của Mác về vai trò của quần chúng nhân dân: "Những lý luận trước kia đã không nói đến chính ngay hành động của quần chúng nhân dân, còn chủ nghĩa duy vật lịch sử, lần đầu tiên, đã giúp ta nghiên cứu một cách chính xác, như khoa học tự nhiên, những điều kiện xã hội của đời sống quần chúng và những biến đổi của những điều kiện ấy".

Chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm quần chúng nhân dân bao gồm rộng rãi các tầng lớp nhân dân, chẳng những là đa số công nhân, mà là đa số tất cả những người bị bóc lột. Chủ nghĩa Mác - Lênin phê phán một cách mạnh mẽ, không khoan nhượng những quan điểm và thái độ sai lầm, hạ thấp hoặc phủ nhận vai trò quần chúng nhân dân. Trong tác phẩm "Gia đình thần thánh" (hay là "Phê phán sự phê phán có tính chất phê phán") viết vào thập kỷ 40 của thế kỷ XIX, Mác - Ǎngghen đã phê phán tỉ mỉ và bác bỏ lý luận sai trái của anh em Brunô Baue và đồng bọn, những kẻ rất kiêu ngạo, tự xưng là những "nhà phê phán" rất coi khinh quần chúng, và khẳng định vai trò vĩ đại của quần chúng trong sự phát triển lịch sử. Plêkhanốp, một người có công lớn trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác vào nước Nga, khi còn là người Mácxít cũng đã từng viết về vấn đề này.

Sau khi nhận xét triết học lịch sử của thế kỷ XVIII chỉ biết có cá nhân, tức những vĩ nhân, còn quần chúng, với tư cách là nhân dân, thì hầu như không có đối với nó, Plêkhanốp khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chính quần chúng nhân dân đã tạo nên lịch sử. Ông giải thích tư tưởng đó bằng một quan điểm duy vật: "Quần chúng hành động cho lợi ích của họ; lợi ích là nguồn gốc, động cơ của mọi sáng tạo xã hội. Rất dễ hiểu là khi một chế độ trở thành đối lập với lợi ích quần chúng, thì quần chúng bắt đầu đấu tranh chống lại chế độ ấy". Hành động đấu tranh chống lại chế độ trở thành đối lập với lợi ích quần chúng đó chính là những cuộc cách mạng. Những cuộc cách mạng thường được báo hiệu trước bằng những tư

113

Page 114: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

tưởng, lý luận cách mạng. Lý luận cách mạng có vai trò cực kỳ quan trọng, như Lênin nói: "Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng". Tuy nhiên lý luận cách mạng tự bản thân nó không thực hiện được sự cải tạo xã hội, không phải là thực tiễn cách mạng, vì nó không phải là lực lượng vật chất. "Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng". ở đây ta thấy quần chúng đóng vai trò đặc biệt quan trọng là đã chuyển hoá lý luận cách mạng thành hiện thực cách mạng. Những cuộc cách mạng có vai trò cực kỳ to lớn, như Mác đã từng nói, đó là "những đầu tàu của lịch sử". Do đó, quần chúng nhân dân không chỉ là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sáng tạo ra mọi của cải của xã hội, mà còn là người quyết định vận mệnh của lịch sử, quyết định sự vận động và phát triển của lịch sử, có sứ mạng phá cái cũ, dựng nên cái mới. Lịch sử xã hội phát triển có những bước quanh co, phức tạp nhiều khi như hỗn loạn, nhưng rồi lại ổn định, trở lại một trật tự nào đó. Đó cũng là nhờ hoạt động của quần chúng, như Ǎngghen nói: Quần chúng là những người đã đưa được mọi việc trở lại nền nếp.

Trong cách mạng vô sản, giai cấp công nhân là người có sứ mệnh thủ tiêu chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ mới xã hội chủ nghĩa. Nhưng cach mạng vô sản muốn thắng lợi, phải được sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là của quần chúng nông dân đông đảo. Mác coi sự ủng hộ của lực lượng nông dân đông đảo đối với phong trào vô sản là một bài đồng ca mà nếu không có được bài đồng ca đó thì cách mạng vô sản sẽ trở thành một bài ai điếu. Lênin coi sự đồng tình và ủng hộ của các tầng lớp nhân dân lao động là điều kiện và cũng là mục tiêu hoạt động của giai cấp vô sản: "Không có sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiên phong của mình tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được... Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản để giành lấy sự đồng tình, để giành lấy sự ủng hộ của đa số nhân dân lao động". Lênin đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng Cộng sản với quần chúng nhân dân. Người coi đó là một nguyên lý, một nguyên tắc bất di bất dịch đối với việc xây dựng một chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Người khẳng định rằng, Đảng Cộng sản chỉ làm tròn được sứ mệnh lịch sử của mình một khi biết gắn bó với quần chúng và thật sự dẫn dắt toàn thể quần chúng tiến lên. Theo Lênin sau khi giành được chính quyền, để bảo đảm cho cuộc cách mạng vô sản đi đến thắng lợi hoàn toàn, Đảng Cộng sản lãnh đạo không được tách khỏi quần chúng mà vẫn phải:

"Liên hệ với quần chúng

Sống trong lòng quần chúng

Biết tâm trạng quần chúng

Biết tất cả

Hiểu quần chúng

114

Page 115: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Biết đến với quần chúng

Giành được loàng tin tuyệt đối của quần chúng".

Lênin đã nhiều lần chỉ ra nguy cơ xa rời quần chúng đối với một đảng cầm quyền. Người cho rằng nếu Đảng quên mất và tự cắt đứt những mối liên hệ khǎng khít với quần chúng, thì đó chính là một trong những nguy hiểm lớn nhất, đáng sợ nhất và sẽ là một tai hoạ thật sự.

Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin càng chú ý đến vai trò quyết định của quần chúng nhân dân, coi chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân. Người nói: "Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được khi quần chúng đông đảo gấp 10, gấp 100 trước tự bắt tay vào việc xây dựng nhà nước và một đời sống kinh tế mới". Điều đó hoàn toàn phù hợp, nhất quán, và hơn nữa chính là sự vận dụng, cụ thể hoá một quan điểm tổng quát có tính quy luật về vai trò ngày càng tǎng của quần chúng nhân dân mà Mác và Ǎngghen đã nêu ra là: Hoạt động lịch sử càng lớn thì do đó, quần chúng, mà hoạt động lịch sử đó là sự nghiệp của mình, cũng sẽ lớn lên theo".

Tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò ngày càng tǎng của quần chúng nhân dân trong tiến trình lịch sử đã được thực tiễn của đất nước ta và của nhân loại chứng minh. Điều đó thể hiện ở chỗ ngày nay dân chủ được mở rộng, trình độ dân trí ngày càng nâng cao, các tầng lớp nhân dân ngày càng "trí thức hoá", các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng phổ cập. Với điều kiện đó, các tầng lớp nhân dân có thể tự do tiếp cận và tiếp nhận những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại, cùng với những thông tin vè các vấn đề chính trị, ngoại giao, kinh tế, vǎn hoá, quân sự trong nước và trên thế giới. Quần chúng nhân dân ngày nay, đặc biệt là tầng lớp trí thức, rất có nhu cầu, điều kiện và khả nǎng tham gia mọi công việc của đất nước, không chỉ ở những công việc chuyên môn cụ thể mà cả những công việc "quốc gia đại sự" thuộc về đường lối, chủ trương, chính sách ở tầm vĩ mô của đất nước. Đó cũng chính là một điều kiện không thể thiếu để một quốc gia trở nên hùng mạnh.

Mặc dù khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội, song chủ nghĩa Mác- Lênin không hề phủ nhận mà vẫn coi trọng và đánh giá đúng đắn vai trò của cá nhân - những vĩ nhân, những anh hùng hào kiệt, những thủ lĩnh của một phong trào, một tổ chức - trong đời sống xã hội và trong tiến trình vận động, phát triển của một đơn vị, một địa phương, một vùng, một khu vực, một quốc gia, một thời đại.

Những vĩ nhân, cá nhân kiệt xuất có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của xã hội, phản ánh được thực trạng, yêu cầu và xu hướng vận động, phát triển của xã hội, đề ra được đường lối và mục tiêu hoạt động đúng đắn, biết tập hợp, tổ chức và động viên lực lượng quần chúng thực hiện nhiệm vụ cách mạng.

Song cá nhân dù mạnh mẽ, tài ba lỗi lạc như thế nào cũng không thể tự mình làm ra lịch sử mà vẫn bị quy định bởi những quy luật và điều kiện lịch sử nhất định.

115

Page 116: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Plêkhanốp đã khẳng định một cách đúng đắn tác dụng của cá nhân đối với tiến trình lịch sử trong mối quan hệ với những lực lượng và cơ cấu xã hội nhất định. Ông cho rằng, những cá nhân vì những đặc điểm của tính cách của họ, có thể ảnh hưởng đến vận mệnh của xã hội, nhưng khả nǎng của một ảnh hưởng như vậy, cũng như phạm vi của nó, đều bị cơ cấu xã hội và tương quan của những lực lượng xã hội quyết định; tính cách cá nhân chỉ là một "nhân tố" của sự phát triển xã hội trong thời gian và theo mức độ mà những lực lượng xã hội cho phép.

Plêkhanốp còn nêu lên hai điều kiện để một cá nhân có thể vận dụng được tài nǎng của mình, gây được ảnh hưởng sâu sắc đối với tiến trình những sự biến. "Trước hết phải là, nhờ tài nǎng của mình, người ấy đáp ứng được những nhu cầu xã hội của thời đại hơn những người khác: hiển nhiên là Napoléon không thể trở thành hoàng đế, nếu ông không có tài quân sự mà lại có tài âm nhạc của một Betôven. Sau nữa, chế độ xã hội hiện hành không cản trở con đường của cá nhân có nǎng lực cần thiết và có ích cho thời cơ nhất định ấy. Nếu chế độ cũ kéo dài ở Pháp 75 nǎm nữa thì Napoléon cho đến chết cũng chỉ là viên tướng hay viên đại tá Bonaparte hàn vi thôi".

Plêkhanốp nêu lên ba loại nguyên nhân của sự vận động lịch sử của các dân tộc và nhân loại. Ông coi sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định những thay đổi những quan hệ xã hội là nguyên nhân phổ biến: hoàn cảnh lịch sử của một dân tộc mà trong đó lực lượng sản xuất phát triển là nguyên nhân đặc thù; tác dụng của những cá nhân với những đặc điểm ngẫu nhiên là nguyên nhân cá biệt. Ông kết luận: "Nhờ những nguyên nhân cá biệt ấy mà những sự biến, cuối cùng, đã có bộ mặt riêng của chúng. Những nguyên nhân cá biệt không thể thay đổi cǎn bản được tác dụng của những nguyên nhân phổ biến và những nguyên nhân đặc thù, mà một mặt khác những nguyên nhân đặc thù còn quyết định phương hướng và phạm vi ảnh hưởng của những nguyên nhân cá biệt. Song, rất chắc chắn là lịch sử sẽ có một bộ mặt khác, nếu những nguyên nhân cá biệt này được thay thế bằng những nguyên nhân cá biệt khác".

ở nước ta, Hồ Chí Minh không những thấy rõ vai trò và sức mạnh quyết định của quần chúng nhân dân mà còn nhận rõ vai trò và công lao to lớn của những cá nhân anh hùng hào kiệt, những con người xuất chúng trong lịch sử dân tộc. Người ca ngợi lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta và tự hào về những anh hùng dân tộc tiêu biểu cho các thời đại trong lịch sử dựng nước và giữ nước oanh liệt của dân tộc ta: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta... Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung v.v.. Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng". Người cũng nêu cao những tấm gương hy sinh quên mình vì dân vì nước của những anh hùng liệt sĩ và những cán bộ đảng viên của Đảng ta với những cương vị khác nhau ở các đơn vị, các cấp, các ngành trong quá trình hoạt động cách mạng để xây dựng và bảo vệ chế độ mới: "Trong Đảng ta đã có biết bao anh hùng liệt sĩ như các đồng chí Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Vǎn Cừ, Hoàng Vǎn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai và hàng vạn đảng viên gương

116

Page 117: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

mẫu "trung với nước, hiếu với dân", khí phách hiên ngang cho đến hơi thở cuối cùng như liệt sĩ Nguyễn Vǎn Trỗi.

Biết bao đảng viên cộng sản là anh hùng, chiến sĩ trên mặt trận sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và trong các ngành hoạt động khác. Họ không đòi danh đòi lợi. Họ một lòng một dạ phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Họ là những đảng viên bình thường nhưng phẩm chất cách mạng của họ thật cao quý. Đảng ta rất tự hào có những người con xứng đáng ấy của giai cấp và của dân tộc".

Nhưng chính Hồ Chí Minh là con người Việt Nam tiêu biểu nhất, đẹp nhất, là một lãnh tụ thiên tài và người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam. là "anh hùng giải phóng dân tộc, nhà vǎn hoá lớn", là "tinh hoa và khí phách của dân tộc, lương tâm của thời đại". Hồ Chí Minh đã đóng một vai trò cực kỳ to lớn, có ý nghĩa quyết định đối với lịch sử Việt Nam và cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. P.T.Pêrugia, nhà sử học Italia, đã nhận xét về Hồ Chí Minh: "Người là một trong những người hiếm có của thời đại chúng ta, mà người ta có thể nói rằng: không có Người, lịch sử có thể đã đi theo một con đường khác. Lịch sử đã đặt Người vào đúng chỗ của mình, trong quá trình đó, Người là nhân vật sáng tạo quyết định".

Lịch sử đòi hỏi và thiên tài Hồ Chí Minh đã xuất hiện đúng quy luật và đáp ứng đúng nhu cầu của lịch sử.

Như chúng ta đã biết, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nước Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược và thống trị. Tính chất của xã hội Việt Nam đã thay đổi, không còn là xã hội phong kiến như hàng ngàn nǎm trước đây, mà đã xuất hiện những giai cấp và tầng lớp mới với những quan hệ mới rất phức tạp. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nhân dân ta đã không ngừng vùng lên đấu tranh giành độc lập tự do. Phong trào đấu tranh yêu nước, giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có nhiều khuynh hướng với những người lãnh đạo đầy nhiệt huyết, nhưng kết cục đều thất bại vì không có tư tưởng, đường lối và tổ chức thích hợp. Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã xuất hiện trong hoàn cảnh đó và đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử. Cái mới, điểm khác biệt, hơn hẳn và cũng là điểm thành công của Hồ Chí Minh so với các sĩ phu yêu nước và các nhà cách mạng đương thời là ở chỗ Hồ Chí Minh đã không chỉ dừng lại ở chủ nghĩa yêu nước truyền thống, mà đã từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thụ và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, thành lập được chính đảng của giai cấp công nhân ở Việt Nam, gắn phong trào yêu nước với con đường cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

Có thể nói, Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam. Với trí tuệ trác việt và nghị lực vô biên, Hồ Chí Minh không ngừng học hỏi trở thành người có học vấn uyên thâm, thông kim, bác cổ, sử dụng thành thạo nhiều ngoại ngữ cùng với tiếng mẹ để để biểu đạt tư tưởng phong phú và đa dạng dưới nhiều hình thức và thể loại vǎn chương. Hồ Chí Minh đã kế thừa được tất cả những "hạt nhân hợp lý", những cái hay, cái đẹp, cái sâu sắc, cái nhân bản của tư tưởng truyền thống Việt Nam , đồng thời hiểu biết và tiếp nhận được những tinh hoa trí tuệ của nhân loại

117

Page 118: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

và của thời đại, cả phương Đông và phương Tây. Hồ Chí Minh là một nhà lý luận đích thực kiểu phương Đông. Tư tưởng của Người đã vượt lên trên tư tưởng của những nhà cách mạng đương thời, trở thành tư tưởng tiên tiến, giải đáp được những vấn đề cơ bản và cấp bách của dân tộc, của xã hội Việt Nam trong hoàn cảnh mới và thời đại mới. Chính vì vậy mà tư tưởng Hồ Chí Minh đã giữ vai trò quyết định đối với tiến trình cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Có thể khẳng định rằng, mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn với tư tưởng của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh từ lâu đã thâm nhập vào quần chúng nhân dân Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên mà trong quan niệm của các tầng lớp nhân dân, Hồ Chí Minh đã được ngưỡng mộ và suy tôn. Những lời nói, cử chỉ, việc làm của Người giản dị, gần gũi mà cao đẹp, rực rỡ, đã trở thành huyền thoại. Người với dân tộc, nhân dân, non sông đất nước gắn bó với nhau trong mối quan hệ biện chứng sâu sắc; đúng như Điếu vǎn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta đã khẳng định: "Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta".

NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997

Chương II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ DÂN NHỮNG LUẬN ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VÀ ĐẢNG

1. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng và Dân.

Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của một dân tộc kiên cường, bền bỉ trong công cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trong quá trình lịch sử oanh liệt của mình, nhân dân ta đã xây dựng nên truyền thống tốt đẹp mà tiêu biểu là chủ nghĩa yêu nước, lòng nhân ái, ý thức cộng đồng, tinh thần tự chủ, ý chí kiên cường bất khuất không chịu làm nô lệ, không chịu mất nước. Nhờ truyền thống đó mà mỗi khi chủ quyền của Tổ quốc bị xâm phạm, nhân dân ta đã anh dũng đứng lên đánh đuổi ngoại xâm. Từ cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chống nhà Hán đô hộ, đến chiến thắng Đường, Tống, Nguyên, Minh, đánh bại 200.000 quân xâm lược nhà Thanh cuối thế kỷ XVIII đã chứng minh hùng hồn tinh thần yêu nước, quật khởi của nhân dân ta. Những chiến công hiển hách ấy không chỉ nói lên tinh thần yêu nước, sự đồng tâm nhất trí giữ nước và dựng nước của ông cha ta mà còn khẳng định sức mạnh vô địch của nhân dân.

Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta vào giữa thế kỷ XIX, chế độ phong kiến nhà Nguyễn đã trở nên thối nát phản động, đầu hàng thực dân đế quốc, phản bội lại đất nước, nhưng với tinh thần yêu nước nồng nàn nhân dân ta đã anh dũng đứng lên chống bọn cướp nước và bọn bán nước.

Trong suốt 80 nǎm đô hộ của thực dân Pháp nhiều phong trào yêu nước của nhân dân ta do các sĩ phu phong kiến yêu nước khởi xướng đã liên tiếp nổ ra như: phong trào

118

Page 119: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Cần Vương, phong trào Đông Du, phong trào Đông Kinh nghĩa thục, khởi nghĩa Yên Thế v.v... Nhưng tất cả những phong trào yêu nước đó đều thất bại.

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của các phong trào yêu nước ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nhưng rõ nhất và tập trung nhất là do thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn nên không huy động tập hợp được sức mạnh nhân dân.

Phong trào Cần Vương tuy kéo dài 12 nǎm (từ 1885 đến 1896) nhưng vẫn loay hoay trong hệ tư tưởng phong kiến nên không có khả nǎng tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân, vì giai cấp phong kiến đã thối nát, phần lớn đã đầu hàng thực dân, làm tay sai cho đế quốc và đàn áp, bóc lột thậm tệ nông dân, nên bị nhân dân oán ghét.

Phan Chu Trinh, một chí sĩ yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu XX đã từ bỏ con đường cứu nước theo lập trường phong kiến hướng tới lập trường dân chủ tư sản. Nhưng cụ lại chủ trương cải lương, muốn dựa vào sự giúp đỡ của Pháp, sửa đổi chế độ vua quan phong kiến và thay vào đó chế độ đại nghị tư sản. Còn Phan Bội Châu, chủ trương bạo động đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp giành độc lập cho dân tộc, nhưng lại dựa vào Nhật để đánh đuổi Pháp. Đúng như Trần Dân Tiên đã nhận xét về con đường cứu nước của hai cụ Phan như sau:

"Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương... chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương" còn "Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau".

Cuộc khởi nghĩa nông dân ở núi rừng Yên Thế do cụ Hoàng Hoa Thám lãnh đạo cũng thất bại do không có đường lối rõ ràng, "còn nặng cốt cách phong kiến", không tập hợp được quần chúng đông đảo.

Giữa lúc phong trào yêu nước của Việt Nam đang bế tắc không biết đi về đâu thì xuất hiện Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh. Người đã ý thức một cách sâu sắc thân phận của người dân mất nước sống kiếp nô lệ dưới ách thống trị của thực dân phong kiến. Vì vậy, Người càng đồng cảm với nỗi khổ của nhân dân bao nhiêu, càng đánh giá cao tấm lòng yêu nước, thương dân của các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các vị cách mạng tiền bối khác bấy nhiêu. Mặc dầu rất khâm phục tinh thần yêu nước của các vị cách mạng đàn anh nhưng Người nhận thấy những khuyết tật trong đường lối cứu nước mà họ đã chọn. Với tinh thần phê phán cách mạng, Người nhận thấy cần phải có một lý luận mới, một đường lối cách mạng mới, soi sáng cho con đường cách mạng Việt Nam.

Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trong nhận thức của Hồ Chí Minh, ngoài chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, Người đã tiếp thu một cách có phê phán những giá trị vǎn hoá của phương Đông và phương Tây. Đó là Nho giáo mà Người đã tiếp nhận qua các nhà Nho yêu nước - thứ Nho giáo đã được Việt Nam hoá. Nổi bật là những tư tưởng tiến bộ đề cao "đạo làm người", đề cao vai trò của dân, cùng với tinh thần "Tứ hải giai huynh đệ"... Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng đã phê

119

Page 120: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

phán, lược bỏ những mặt hạn chế về thế giới quan, nhân sinh quan của Nho giáo - như quan niệm thứ bậc về con người chỉ bó hẹp trong quan hệ người - người bằng quan hệ "quân tử" - "tiểu nhân", sự coi khinh lao động chân tay, coi khinh phụ nữ... để xây dựng một quan điểm tư tưởng về một thế giới đoàn kết, nhân ái cho mọi người mà trước hết và trên hết là nhân dân bị áp bức đoạ đầy ở Tổ quốc mình và các nước khác. Điều này được thể hiện trong việc Hồ Chí Minh sử dụng những mệnh đề Nho giáo nhưng đã thay vào đó những nội dung cách mạng như: "Trung với nước", "Hiếu với dân", "bốn phương vô sản đều là anh em"... và tư tưởng của đạo Phật hy sinh tranh đấu diệt lũ ác ma, cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, xây dựng một xã hội bình đẳng, no ấm, hạnh phúc và an lạc cho mọi chúng sinh.

Với vǎn hoá phương Tây, ngay ở độ tuổi 13, khi được nghe những từ: tự do, bình đẳng, bác ái... Người đã muốn tìm xem những gì ẩn dấu đằng sau những từ ấy. Và khi bôn ba hải ngoại, Người đã chủ động tìm hiểu những tinh hoa vǎn hoá phương Tây qua sách báo, qua tiếp xúc, qua những tư tưởng tiến bộ.

Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân Hồ Chí Minh chưa hiểu biết gì về Đảng Cộng sản cũng như chưa có tư tưởng về mối quan hệ giữa Đảng và dân.

Chặng đường phát triển tư tưởng cách mạng đầu tiên của Hồ Chí Minh là những nǎm tháng lǎn lộn trong quần chúng lao động ở nhiều nước trên thế giới. Tại những nơi này, bằng những nghề đã làm, những phương thức sống và sự giao tiếp rộng rãi trong hoạt động xã hội, với ý thức sâu sắc về thân phận người dân nô lệ dưới ách thống trị của thực dân đế quốc, Người đã vô cùng xúc động trước đời sống khổ cực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước. Đây chính là cuộc khảo nghiệm đầu tiên giúp Người nhận thức được thực trạng thế giới và hình thành ý thức về giai cấp và dân tộc. Cũng từ đây hình thành con đường nhận thức của Hồ Chí Minh là từ thực tiễn cuộc sống khái quát thành lý luận. Bằng những điều mắt thấy tai nghe, Hồ Chí Minh bước đầu đã rút ra những kết luận quan trọng:

- ở đâu, thực dân và tư bản cũng đều tàn ác, vô nhân đạo; xã hội tư bản là áp bức, là bóc lột.

- ở đâu, giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bị bóc lột dã man, bị ngược đãi.

- Các dân tộc thuộc địa đều có kẻ thù không đội trời chung là thực dân, đế quốc.

Và Người đã khái quát: "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản"

Điều này chứng tỏ Hồ Chí Minh đã có bước chuyển cǎn bản về nhận thức: từ ý thức về thân phận người nô lệ, mất nước, Người đã ý thức về thân phận người nô lệ trong chế độ tư bản. Nói cách khác, từ giác ngộ dân tộc, sự giác ngộ giai cấp được hình thành.

120

Page 121: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Có thể xem đây là những tri thức đầu tiên mà Người tự đúc rút qua khảo nghiệm. Đó cũng chính là cơ sở khởi đầu của một quá trình trưởng thành về ý thức giai cấp, về sự liên minh giai cấp trong đấu tranh cách mạng- nền tảng của sự ra đời tư tưởng về mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ở Hồ Chí Minh.

Điều đáng nói ở đây là, chỉ trong một thời gian ngắn, từ nǎm 1911 đến đầu nǎm 1919, những tri thức trên đã được khẳng định. Đặc biệt là sau Hội nghị Véc xây, câu hỏi mà Người từng ấp ủ ở lứa tuổi 13 của mình là muốn biết sự thật những gì ẩn chứa đằng sau các từ "Tự do", "Bình đẳng", "Bác ái"... của phương Tây đã được giải đáp. Theo Người thì đằng sau những lời đường mật đó, bộ mặt thật của chủ nghĩa đế quốc thực dân và sự xảo trá của kẻ thủ đã được phơi bày một cách đầy đủ nhất.

Người nêu lên một kết luận có ý nghĩa rất lớn về mặt lý luận và thực tiễn soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta và nhân dân các nước thuộc địa khác. Đó là: "Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình". Kết luận này Người rút ra trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng lại trùng hợp với luận điểm của Mác. Đó là: Sự giải phóng con người phải do chính con người đảm nhiệm.

Sau này, vào nǎm 1921, khi thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa, trong bản Tuyên ngôn, do chính Hồ Chí Minh soạn thảo, đã viết: "Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực của bản thân anh em".

Như vậy, với Hồ Chí Minh, bên cạnh sự cần thiết phải đoàn kết các dân tộc thuộc địa và nhân dân lao động các nước, thì tư tưởng tự lực cánh sinh là chính. Kết luận đó của Người là kết quả hợp logich của quá trình nhận thức bản chất phản động của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, và lòng tin ở vai trò, sức mạnh to lớn ở sự đoàn kết của nhân dân lao động.

Nhờ có lòng tin về khả nǎng tiềm ẩn cách mạng của nhân dân các nước thuộc địa, mà ngay trong những tháng nǎm đen tối nhất của các dân tộc châu á, Người đã dự báo: "Ngày mà hàng trǎm triệu nhân dân châu á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây làm nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn".

Về sức mạnh tiềm tàng của người Đông Dương Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Người Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của bọn thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng" của họ. "Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sục sôi, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú (tức là Đảng Cộng sản - người trích nhấn mạnh) có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến.

121

Page 122: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi".

Vậy là niềm tin vào sức mạnh to lớn của nhân dân ở Hồ Chí Minh không chỉ bắt nguồn trong truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc ta, mà còn được đúc rút qua kinh nghiệm của các cuộc cách mạng điển hình của thế giới. Từ các cuộc Cách mạng Pháp (1789), Cách mạng Mỹ (1776) đến Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), Hồ Chí Minh kết luận về sức mạnh của nhân dân là: "Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại" nổi.

Muốn làm cách mạng thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ giai cấp áp bức mình. Muốn cách mạng thành công thì phải dựa vào lực lượng của quần chúng nhân dân, phải có công nông làm gốc, phải có đảng của giai cấp công nhân - đảng duy nhất có đủ khả nǎng tập hợp, tổ chức lãnh đạo nhân dân làm cuộc cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc.

ý thức được sự hình thành mối quan hệ giữa lực lượng cách mạng và vai trò lãnh đạo cách mạng nên ngay từ đầu nǎm 1923 trong một bức thư trả lời các đồng chí cộng sản ở Pháp, Hồ Chí Minh đã nói rõ ý định của mình: "Trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập". Muốn vậy phải hình thành sớm tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản và điều đó đã thành hiện thực: Hội An nam Thanh niên Cách mạng được tổ chức từ nǎm 1925. "Có thể nói rằng, nó là quả trứng, mà từ đó, nở ra con chim non cộng sản (Đảng Cộng sản".

Chẳng bao lâu sau, vào nǎm 1930, ở Việt Nam, lực lượng chính trị đó là Đảng Cộng sản đã ra đời.

Tóm lại, trong quá trình tìm đường cứu nước, tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của quần chúng nhân dân đã gặp gỡ những quan điểm phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Người khẳng định nếu có một đảng cách mạng chân chính để tập hợp tổ chức, lãnh đạo thì nhất định nhân dân ta có thể tự mình đứng lên đánh đổ ách thống trị của thực dân đế quốc, giành lại độc lập, tự do cho đất nước, mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Đó là quá trình nhận thức của Hồ Chí Minh từ thực tiễn cuộc sống đến với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, để từ lý luận đó mà áp dụng vào thực tiễn đấu tranh của dân tộc, tìm ra phương pháp mới đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi, mở ra quan hệ hiện thực giữa Đảng với nhân dân hơn sáu thập kỷ qua.

2. Những luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về dân

Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân rất nhất quán và sâu sắc trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa của nhân loại, mà đỉnh cao là học thuyết Mác-Lênin. Chính những quan điểm đó đã chỉ ra tính chất, đặc điểm và nội dung của mối quan hệ giữa Đảng với dân. Hơn nữa, những quan điểm đó đang trở

122

Page 123: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

thành những định hướng cơ bản, những yêu cầu bức thiết cho công cuộc đổi mới và chỉnh đốn Đảng ta hiện nay.

Cần khẳng định rằng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân là một phạm trù rất rộng nhưng vẫn bao hàm và thể hiện tính giai cấp rất rõ rệt. Hồ Chí Minh thường dùng khái niệm dân bên cạnh các khái niệm: nhân dân, quần chúng nhân dân, đồng bào... tuỳ lúc, tuỳ nơi, tuỳ từng quan hệ cho thích hợp. Đó là những khái niệm đồng nghĩa, có cùng nội hàm để chỉ mọi người Việt Nam yêu nước không phân biệt già, trẻ, gái trai, giàu nghèo, không phân biệt tôn giáo, tầng lớp - trong đó công nông chiếm tuyệt đại đa số. Khái niệm dân hay nhân dân, quần chúng, đồng bào mà Hồ Chí Minh sử dụng rất dung dị, mộc mạc, dễ hiểu nhưng cũng rất tinh tế, uyển chuyển trong chiều sâu tư tưởng của Người.

Chúng ta biết rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin khi bàn về phạm trù nhân dân thường giới hạn trong phạm vi của mối quan hệ giai cấp, giữa giai cấp vô sản với giai cấp nông dân, các tầng lớp bị áp bức bóc lột, mở rộng ra là các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.

Hồ Chí Minh đã kế thừa toàn bộ tư tưởng đúng đắn và cách mạng đó của học thuyết Mác-Lênin khi bàn về phạm trù dân. Hơn thế nữa trong điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến, muốn giành được độc lập cho Tổ quốc, ấm no hạnh phúc cho nhân dân cần phải có một quan niệm về nhân dân rộng rãi hơn phù hợp với đặc điểm, truyền thống yêu nước, sự gắn bó cộng đồng và tinh thần cách mạng của nhân dân Việt Nam. Thấu hiểu bài học lịch sử về sức mạnh của quần chúng nhân dân, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh đã phát triển, làm phong phú thêm nội hàm của khái niệm dân phù hợp với điều kiện thời đại và đặc điểm của dân tộc.

Sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh là:

Thứ nhất, Người quan niệm dân là người trong cùng một cộng đồng, một quốc gia, một lãnh thổ thống nhất. Người gọi nhân dân là "quốc dân", là "đồng bào" là "người trong một nước"...

Thứ hai, dân có chung một cội nguồn, "đều chung một tổ tiên", là con "cùng một bọc" là "con Lạc cháu Hồng", "đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt". Vì vậy, "chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau".

Thứ ba, dân còn là các tầng lớp, các thế hệ, các giới, các đoàn thể.

Thứ tư, theo tinh thần "Bốn phương vô sản đều là anh em", dân còn bao hàm cả nghĩa quốc tế, nhân loại. Đó là "đại gia đình giai cấp công nhân toàn thế giới", là bạn bè nǎm châu bốn biển, là nhân dân các châu lục đang đấu tranh chống lại sự nô dịch, bất công để giành độc lập, tự do, tiến bộ và hoà bình chung trên hành tinh chúng ta.

Thứ nǎm, dân còn dùng để chỉ những người yêu nước, xây dựng đất nước, là lực

123

Page 124: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

lượng cách mạng.

Sự mở rộng nhận thức về dân, làm tǎng nội hàm của khái niệm dân ở Hồ Chí Minh không có gì trái với quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, mà chỉ làm cho phạm trù đó trở nên phong phú, đa dạng, vừa mang tính cách mạng, tính giai cấp vừa mang tính dân tộc, càng làm nổi tính chỉnh thể của phạm trù dân.

Đây là nét nổi trội và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Khái niệm về dân mà Người dùng, một mặt thể hiện quan điểm giai cấp, quan điểm quần chúng của chủ nghĩa Mác-Lênin, mặt khác lại mang tính sáng tạo, tính thực tiễn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và bản sắc của dân tộc ta. Điều đó đã dẫn đến khả nǎng to lớn trong việc thuyết phục, thu phục mọi lực lượng, mọi khả nǎng của cả dân tộc vào khối đại đoàn kết toàn dân, nhằm hướng lực lượng toàn dân vào mục tiêu giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Chính vì vậy, tư tưởng về dân của Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất trong các thời kỳ cách mạng Việt Nam.

Trên thực tế, Mặt trận đã quy tụ được mọi giai cấp, đảng phái, tầng lớp, thành phần, tôn giáo... nghĩa là tất cả những ai có lòng yêu nước, tán thành độc lập dân tộc và cùng chung xây dựng một nước Việt Nam tự do và hạnh phúc. Nhưng Mặt trận vẫn luôn lấy công - nông- trí làm nòng cốt.

Như vậy, khái niệm dân của Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành cơ sở tư tưởng đại đoàn kết. Tư tưởng đó vượt khỏi khuôn khổ tư tưởng thuần tuý của một con người, trở thành một chiến lược cách mạng của Đảng ta.

Tư tưởng về dân của Hồ Chí Minh rất phong phú, nhưng ở đây có thể khái quát thành những luận điểm lớn chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, dân là gốc của nước, của cách mạng:

"Dân là gốc của nước", "nước lấy dân làm gốc" là tư tưởng vốn có trong Nho giáo, trong học thuyết của Khổng Mạnh. Hồ Chí Minh từng nói: Trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng, song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học". "Nước lấy dân làm gốc" là một trong "những điều hay", là một tư tưởng sâu sắc của Nho giáo mà ông cha ta đã kế thừa và vận dụng ở những thời kỳ hưng thịnh của các vương triều trong quá trình dựng nước và giữ nước suốt mấy nghìn nǎm lịch sử. Tư tưởng đó cũng đã dược Hồ Chí Minh trân trọng tiếp thu và thường xuyên vận dụng trong cả cuộc đời hoạt động của Người, đặc biệt là từ sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Người trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và cũng là Chủ tịch Đảng. Nho giáo mà Hồ Chí Minh sử dụng là thứ Nho giáo đã Việt Nam hoá. Vì ngôn ngữ Nho giáo đã quen thuộc với dân tộc ta nên Hồ Chí Minh thường dùng các mệnh đề Nho giáo nhưng đã chắt lọc cho phù hợp với yêu cầu mới của Cách mạng. Cũng là chữ trung hiếu, ở Khổng Tử là trung với vua và hiếu với bố mẹ, ở Hồ Chí Minh là "trung với nước hiếu với dân".

124

Page 125: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Dân với nước gắn bó với nhau. Trước hết phải có một địa bàn lãnh thổ {điều kiện tự nhiên} nhất định thì dân mới có thể làm ǎn, sinh sống, phát triển thành một cộng đồng xã hội được. Nhưng tự thân một vùng đất đai tự nhiên nào đó chưa thể gọi là "nước" được, mà phải có công lao khai phá xây dựng của dân có tổ chức xã hội thì mới thành Nước. Nước phải có dân và do dân lập nên. Không có dân thì không có nước, do đó dân là gốc của Nước. "Gốc" là cơ sở quan trọng nhất của một sự vật, như ta thường nói: tài liệu gốc, chứng từ gốc, kinh tế là gốc của chính trị và quân sự v.v... Thay đổi tận "gốc " là thay đổi sự vật một cách triệt để. Mất "gốc" là mất cái gì cǎn bản nhất, làm cho một sự vật biến chất, không còn là nó nữa.

Nước là một quốc gia, một vùng lãnh thổ có chủ quyền của những cộng đồng dân cư mà bao giờ cũng có những người cầm quyền (một triều đại, một chính phủ) mang danh đại diện. Dân là gốc, là nền của Nước nhưng không phải ai cũng nhận rõ vai trò đó của dân. Hồ Chí Minh đã từng thẳng thắn vạch ra sai lầm đó. Người nói: "Một pho tượng hay một lâu đài cũng phải có cái nền rất vững chắc mới đứng vững được. Nhưng người ta dễ nhìn thấy pho tượng và lâu đài mà không chú ý đến cái nền. Như thế là chỉ thấy cái ngọn mà quên mất cái gốc".

Hồ Chí Minh không những nhận thức sâu sắc mà còn phát triển những nội dung mới, làm phong phú thêm tư tưởng dân là gốc của nước, của cách mạng.

Người khẳng định vai trò của lao động, của nhân dân là những người lao động đã làm ra mọi của cải vật chất và giá trị vǎn hoá, nuôi sống bộ máy nhà nước và toàn thể xã hội, làm cho xã hội tồn tại và phát triển: "Xã họi có cơm ǎn, áo mặc nhà ở là nhờ người lao động. Xây nên giàu có, tự do dân chủ cũng là nhờ người lao động. Trí thức mở mang cũng là nhờ lao động (lao động trí óc). Vì vậy lao động là sức chính của sự tiến bộ loài người". Người nhắc nhở những người được hưởng thụ của cải tiêu dùng phải biết ơn, trả ơn những người đã làm ra những thứ đó là nhân dân: "Cơm chúng ta ǎn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân". Đó chính là tư tưởng ơn dân, "uống nước nhớ nguồn" - một đạo lý cao đẹp của dân tộc ta.

Hồ Chí Minh còn khẳng định dân là lực lượng chủ yếu, là gốc của các cuộc Cách mạng. Đồng chí Trường Chinh đã so sánh và nhận xét: "Trước Hồ Chủ tịch, các nhà cách mạng Việt Nam thường cho rằng cách mạng nước ta phải do những vị anh hùng xuất chúng, những người tài cao học rộng làm; những người đó chỉ cần hô một tiếng là quần chúng nhân dân nổi dậy rǎm rắp và thực hiện ý muốn chủ quan của họ. Hồ Chủ tịch, trái lại, đã nhận rõ sự nghiệp cách mạng là của quần chúng nhân dân đông đảo, trước hết là của những tầng lớp nghèo khổ nhất, bị áp bức bóc lột nhiều nhất, của công nhân và nông dân".

Do tính chất và nội dung của cách mạng là rất phức tạp, phải thay thế chế độ cũ bằng chế độ mới, nên Hồ Chí Minh đã thấy rõ và nhiều lần khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân: "Cách mạng là do nhân dân tự làm lấy, Đảng chỉ là người lãnh đạo"; "Sự nghiệp cách mạng rộng lớn và khó thực hiện; nó không thể do một người hay một nhà làm mà tốt được"; "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ

125

Page 126: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

không phải là của cá nhân anh hùng nào"; "Cá nhân anh hùng thì dù cho những cá nhân ấy anh dũng thế nào cũng không đi đến kết quả". Đương nhiên, Người cũng thấy rõ mối quan hệ giữa cá nhân, lãnh tụ với quần chúng nhân dân, nhưng vai trò quyết định vẫn là quần chúng nhân dân: "Cán bộ không đội viên, lãnh đạo không có quần chúng, thì không làm gì được". Qua nghiên cứu về các cuộc cách mạng ở các nước, đặc biệt là cách mạng Nga, Hồ Chí Minh rút ra một bài học kinh nghiệm quan trọng: "Cách mệnh thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức mình, chứ không phải chỉ nhờ 5,7 người giết 2,3 anh vua, 9,10 anh quan mà được. Hai đảng ấy (tức là đảng "Công nhân giải phóng" thành lập nǎm 1875 và "Công đảng" thành lập nǎm 1878 ở Nga - người trích nhấn mạnh); tuy hy sinh hết nhiều người,làm được nhiều sự ám sát oanh liệt, nhưng vì đi sai đường cách mệnh, không có sức dân chúng làm nền, cho nên bị Chính phủ trị mãi đến nỗi tan".

ở nước ta, trong những nǎm 20 của thế kỷ này cả dân tộc đang sống dưới ách thống trị của thực dân phong kiến, nhưng Hồ Chí Minh đã thấy được ý chí và sức mạnh của nhân dân. Trong thư gửi Khải Định vào tháng 8 nǎm 1922, Nguyễn ái Quốc đã thẳng thừng phê phán sự ươn hèn và lố lǎng của ông vua bù nhìn, đồng thời ca ngợi ý chí và sức mạnh của nhân dân: "Ngài sẽ thấy rằng ý chí của nhân dân - một ý chí đã được hun đúc trong nghèo đói và khổ cực - một ý chí còn mạnh hơn và dẻo dai hơn sóng cả, cuối cùng sẽ khoét hổng dần và đánh bật cái tảng đá bề ngoài có vẻ vững chắc là sự áp bức bóc lột kia đi". Nhận định ấy còn được Nguyễn ái Quốc nhắc lại trong tác phẩm Đường cách mệnh: "Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại được".

Vì áp bức mà sinh ra cách mệnh. Cách mệnh muốn thắng lợi phải dựa vào dân chúng, trong đó, phải lấy công nông làm gốc. Hồ Chí Minh đã lý giải vì sao lại như vậy:

"1. Là vì công nông bị áp bức nặng hơn

2. Là vì công nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết,

3. Là vì công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc. Vì những cớ ấy, nên công nông là gốc cách mệnh".

Dân là gốc của nước, của cách mạng vì dân có số lượng đông, vì mọi "lực lượng đều ở nơi dân", "lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng"; "Công an có nǎm, bảy vạn người, quân đội có mấy chục vạn người nhưng vẫn còn ít lắm bên cạnh lực lượng nhân dân". Chính vì vậy mà xưa nay những đội quân xâm lược nước ta của các nước thực dân, đế quốc, mặc dù được "trang bị đến tận rǎng" vẫn bị đánh bại bởi chiến tranh nhân dân, chiến tranh toàn dân của ta.

Dân không những có lực lượng đông mà còn rất cần cù, thông minh, khéo léo, có nhiều kinh nghiệm quí báu."Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra".

126

Page 127: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Dân có lực lượng đông đảo, có trí tuệ tập thể, có khả nǎng và kinh nghiệm để giải quyết mọi công việc lớn nhỏ, đúng như câu ca dao mới của nhân dân Quảng Bình đã khẳng định:

"Dễ mười lần không dân cũng chịu

Khó trǎm lần dân liệu cũng xong".

Vì vậy, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở: "Nếu biết dựa vào nhân dân thì việc gì cũng xong"; "Dân chúng đồng lòng, việc gì làm cũng được; dân chúng không ủng hộ việc gì làm cũng không nên"; "Nước lấy dân làm gốc... Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân".

Cũng như tổ tiên ta trước đây, Hồ Chí Minh thường nêu lên ba yếu tố quan trọng trong đời sống xã hội của con người - đó là thiên thời, địa lợi, nhân hoà - trong đó nhân hoà là quan trọng nhất. Người nói: ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là: thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Ba diều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hoà". Theo Người, nhân hoà là "tất cả mọi người đều nhất trí", nghĩa là đại đoàn kết, là lực lượng đoàn kết của toàn dân.

Chính vì "dân là gốc của nước" cho nên dân là quí nhất, là quan trọng hơn hết. Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Trong bầu trời không có gì quí bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn dân... Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân". Đây là một tư tưởng tổng quát, có tính triết lý sâu xa, thể hiện một thế giới quan khoa học, một quan niệm nhân sinh đúng đắn đầy ý nghĩa nhân vǎn cao cả.

"Dân là gốc của nước" nên phải chǎm sóc đến gốc vì "gốc có vững cây mới bền", dân có giàu nước mới mạnh.

Thứ hai, dân là chủ của đất nước, của xã hội, là chủ vận mệnh của chính mình

Tư tưởng dân chủ - dân là chủ của đất nước, của Nhà nước, của xã hội, chủ vận mệnh của chính mình là tư tưởng mới mẻ, chưa có trong tư tưởng truyền thống của dân tộc ta, càng chưa có trong tư tưởng Nho giáo. Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh xuất hiện và được khẳng định sau khi nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công.

"Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 nǎm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, độc lập, tự do, hạnh phúc.

Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử nước ta.

127

Page 128: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã làm cho chúng ta trở nên một bộ phận trong đại gia đình dân chủ thế giới".

Tư tưởng dân chủ chính là cái cốt lõi nhất, bản chất nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân. "Nước ta là nước dân chủ", "chế dộ ta là chế độ dân chủ", là những câu Hồ Chí Minh không chỉ nói một lần mà Người đã nhắc lại nhiều lần trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, ở những tác phẩm khác nhau. "Dân chủ", theo Hồ Chí Minh, nghĩa là "Dân là chủ", "nhân dân là người chủ". Điều đó, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói rõ: "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ". "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ".

Nước ta là nước dân chủ được lấy làm tiêu đề của một trong bốn phần của tác phẩm Dân vận - một tác phẩm rất ngắn, chỉ khoảng 600 chữ, nhưng hàm chứa nhiều khái niệm quan trọng, nhiều tư tưởng lớn về dân, trong đó có tư tưởng dân chủ. ở đây Hồ Chí Minh đã trình bày một cách rất cô đọng và sáng tỏ nội dung cơ bản tư tưởng dân chủ bằng bảy câu rất ngắn mà đặc sắc như những danh ngôn.

"Bao nhiêu lợi ích đều vì dân

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân

Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra

Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân".

Bảy câu mà câu nào cũng có chữ dân. Và dân không phải ở vị trí phụ thuộc mà ở địa vị cao nhất, địa vị làm chủ, chi phối mọi thứ khác, làm cho mọi thứ khác đều phải xuất phát từ đó và đều hướng vào đó. Bảy câu nói về dân và nói được rất nhiều vấn đề liên quan trực tiếp đên dân: Lợi ích, quyền hạn, trách nhiệm, công việc, chính quyền, đoàn thể, quyền hành và lực lượng. Bảy câu mà nói được vai trò quyết định của dân đối với tổ chức quan trọng nhất là chính quyền và đoàn thể (tức là Đảng trong thời gian rút vào hoạt động bí mật từ cuối nǎm 1945 đến đầu nǎm 1951) của cơ sở xã hội từ dưới lên {chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương và từ trên xuống (Đoàn thể từ Trung ương đến xã). Bảy câu mà nói đến cả kháng chiến, kiến quốc, xây dựng, liên quan đến những vấn đề đại sự của nhân loại là chiến tranh và hoà bình; đặc biệt là từ nǎm 1949 Hồ Chí Minh đã nói đến cả "công việc đổi mới" là vấn đề ngày nay đang trở thành thuật ngữ quen thuộc với mọi người.

Dân chủ nghĩa là dân là chủ. Dân là chủ vì dân có quyền hạn, có quyền hành - tức là có khả nǎng thực tế quyết định, định đoạt, điều hành những tổ chức, những công việc

128

Page 129: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

do mình làm chủ. Nhiều người lầm tưởng rằng quyền hành là ở các tổ chức nhà nước do những cán bộ có chức có quyền nắm giữ. Thực ra đó là quyền lực được nhân dân giao phó, uỷ thác. Khi những người đó thôi giữ chức vụ đại diện cho quyền lực của nhân dân thì họ cũng hết quyền. Chính vì quyền hành là của dân nên dân mới có thể cử ra chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương, và mới có thể tổ chức nên đoàn thể từ Trung ương đến xã. Và cũng vì thế mà Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: "Dân là chủ thì Chính phủ phải là đầy tớ... Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ."

Dân có quyền vì dân có lực lượng. Lực lượng của dân là vô cùng, vô tận, đã tạo ra mọi của cải vật chất và mọi giá trị tinh thần của xã hội trong mọi thời đại và mọi hoàn cảnh.

Như vậy, dân là chủ vì mọi "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Dân đã là chủ thì đương nhiên dân có lợi ích của người làm chủ, nghĩa là "bao nhiêu lợi ích đều vì dân". Quan tâm đến lợi ích, coi trọng lợi ích là thể hiện rõ quan điểm triết học duy vật lịch sử , rất đúng với lý luận và có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong công cuộc đổi mới hiện nay.

Dân là chủ, có quyền hành, lợi ích thì đương nhiên cũng có nghĩa vụ, trách nhiệm đối với mọi công việc, từ kháng chiến, kiến quốc đến xây dựng đổi mới đất nước. Hồ Chí Minh đã nhiều lần đề cập đến vấn đề này, kêu gọi các tầng lớp nhân dân làm tròn nghĩa vụ của người công dân, người chủ nước nhà. Người nói rằng dân là chủ thì dân phải có trách nhiệm của người làm chủ; dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân.

Bổn phận công dân và đạo đức công dân đó là sự thống nhất giữa trách nhiệm và nghĩa vụ của người dân. Theo Hồ Chí Minh, những phạm trù trên có nội dung và yêu cầu ở người dân rất cụ thể. Đó là ý thức chấp hành pháp luật, tuân theo kỷ cương lao động, đóng góp để xây dựng chế độ, mà cao nhất là tinh thần hy sinh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội mới. Đứng trước trách nhiệm và nghĩa vụ, Người kêu gọi mọi người phải bình đẳng: "Các tầng lớp nhân dân ta - công nhân, nông dân, lao động trí óc, các nhà công thương, đồng bào thiểu số - ai nấy hãy làm tròn nghĩa vụ của người công dân, người chủ nước nhà". Đó là một sự bình đẳng được dựa trên nền tảng của sự thống nhất về lợi ích. Người nói: "Lợi ích chung của nhà nước và lợi ích riêng của người dân là nhất trí; quyền lợi của công dân và nghĩa vụ công nhân là nhất trí; đã là người chủ của nước nhà thì phải phụ trách đối với Tổ quốc".

Theo Hồ Chí Minh, trách nhiệm và bổn phận công dân không chỉ là việc chấp hành đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mà nhân dân còn phải tham gia vào việc xây dựng các chủ trương chính sách, tham gia xây dựng Đảng, thẩm định sự đúng đắn của một đường lối, một chủ trương. Muốn làm được điều đó dân cũng cần phải tự nâng cao trình độ để xứng đáng với người làm chủ.

Với những quan điểm trên, Hồ Chí Minh đã hoàn thiện về mặt nhận thức vai trò, vị trí của nhân dân trong cách mạng. Những quan điểm đó chính là sự kế thừa, phát

129

Page 130: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

triển sáng tạo học thuyết Mác về vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử và tư tưởng "nước lấy dân làm gốc" của ông cha ta.

Theo Người, dân là gốc, là nền tảng của cách mạng thì dân phải có quyền làm chủ thực sự. Xưa nay, trong lịch sử, nhiều người đã đề cao vai trò, sức mạnh nhân dân. Nhưng quan niệm "bao nhiêu quyền hạn đều của dân", "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" thì chỉ có Hồ Chí Minh là người duy nhất.

Nét độc đáo trong quan niệm về quyền lực nhân dân của Hồ Chí Minh là ở chỗ nó tuân theo phép biện chứng một cách triệt để, vì: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng". Độc lập, tự do chính là kết quả của sự hy sinh xương máu của mọi tầng lớp nhân dân. "Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra". Muốn xây dựng được chế độ mới thành công cũng phải dựa vào công sức, tiền của của nhân dân. Do vậy mọi thành quả của cách mạng và quyền lực của chế độ xã hội ắt phải thuộc về dân, là của dân.

Sự khác thường, chính là ở chỗ, nhiều cá nhân, nhiều tập đoàn, giai cấp sau khi đã giành được chính quyền và củng cố được địa vị thống trị của mình, thì quên dân, thậm chí đi ngược lại quyền lợi của dân, phản dân. Chính vì vậy Hồ Chí Minh luôn luôn đòi hỏi phải tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, phải bảo vệ lợi ích của nhân dân, phải yêu dân, dựa vào dân, gần dân, lắng nghe, học hỏi, tin dân. Cán bộ Đảng cũng như cán bộ chính quyền đều là đầy tớ của dân, phải hết lòng hết sức phục vụ dân.

Như vậy, "dân chủ là của quí báu nhất của nhân dân", cũng là tư tưởng mới mẻ, độc đáo của Hồ Chí Minh. Tư tưởng của Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ Người khẳng định: dân là chủ, địa vị cao nhất là dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, tất cả lợi ích đều vì dân, dân có quyền lợi thì cũng phải làm tròn nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với đất nước và xã hội. Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh đã chứa đựng toàn bộ nguyên lý vì dân, do dân, của dân mà Đảng ta đã nhận thức rõ và đang lãnh đạo, triển khai trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.

Thứ ba, Dân có lực lượng to lớn, tiềm nǎng vô tận, nhưng không thuần nhất mà có nhiều tầng lớp khác nhau, cần phải được giác ngộ, tổ chức, lãnh đạo đúng đắn

Hồ Chí Minh quan niệm: "Dân chúng không nhất luật như nhau. Trong dân chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau". Quan niệm như vậy là rất phù hợp với thực tế và rất cần thiết để có phương pháp ứng xử thích hợp với từng đối tượng cụ thể trong dân chúng.

Thật vậy, xét về mặt xã hội, dân là một tập hợp người không đơn giản, không thuần nhất, mà được phân loại, xếp hạng theo những tiêu chí nhất định: giới tính, lứa tuổi, giai cấp, tầng lớp, nghề nghiệp... Trong xã hội phong kiến ở nước ta trước đây vua chúa gọi tất cả những người sống trong lãnh thổ mà họ cai trị là "thần dân", "muôn dân", "trǎm họ". Trong dân chúng lại xếp hạng và phân biệt đối xử theo mức độ

130

Page 131: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

"giàu, nghèo, quí, tiện". "Thứ dân", "bình dân", "thường dân" là những người dân bình thường, không có địa vị xã hội, không thuộc lớp "thượng lưu", không phải là những con người "cao quí". "Lê dân" là dân chúng đông đảo, là nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột. "Tiện dân" là loại dân nghèo nàn, cùng khổ, làm những nghề nghiệp hèn hạ, bị xã hội khinh rẻ.

Xã hội phong kiến còn phân chia dân làm bốn hạng, có tính chất nghề nghiệp, gọi là "tứ dân", và sắp xếp giá trị xã hội từ cao đến thấp là: sĩ, nông, công, thương. "Sĩ" là người có học, người tri thức, người lao động trí óc được coi là trí tuệ của xã hội, được xã hội kính trọng nhất trong tứ dân. "Nông" là nhà nông, những người làm ruộng chiếm đại đa số dân cư trong xã hội nông nghiệp "dĩ nông vi bản" sản xuất ra thóc gạo để nuôi xã hội, nên được xếp thứ hai trong tứ dân. Tuy nhiên, do quan niệm "dân dĩ thực vi thiên" và "có thực mới vực được đạo" nên vị trí nhất nhì giữa sĩ và nông cũng không phải thật ổn định, mà đôi khi đổi chỗ cho nhau: "Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ". "Công" bao gồm những người làm nghề thủ công, làm thợ sản xuất ra đồ dùng hay phục vụ những nhu cầu cần thiết khác cho xã hội, được xếp hạng thứ ba trong tứ dân. "Thương" là những người làm nghề buôn bán, bị coi thường nhất trong tứ dân với những từ ngữ đầy tính miệt thị: "con buôn", "lái buôn" và luôn luôn bị nghi ngờ về tính trung thực: thật thà cũng thể lái buôn.

Trong xã hội hiện đại, do sự phát triển của nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá, đã xuất hiện hai giai cấp mới đối lập nhau là giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Hai giai cấp này trở thành hai giai cấp cơ bản trong xã hội mới cùng với các giai cấp và các tầng lớp vốn có trong xã hội cũ, tiếp tục tồn tại, phát triển, phân hoá, chuyển hoá, làm cho dân chúng bị phân chia thành nhiều bộ phận rất đa dạng và phức tạp. Ngoài lợi ích chung của cộng đồng, các tầng lớp, các bộ phận trong nhân dân đều có khả nǎng, nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích riêng biệt, và do đó có vai trò khác nhau đối với sự phát triển của xã hội.

Hồ Chí Minh quan tâm nhiều đến thái độ chính trị và hành động cách mạng của các tầng lớp nhân dân. Người đã nhiều lần nói về phẩm chất cao đẹp của nhân dân ta: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, rất cần cù, thông minh và khéo léo, có nhiều kinh nghiệm quí báu. Người khẳng định: Chúng ta phải ghi tạc vào đầu chân lý này: Dân rất tốt. Tuy nhiên do dân chúng không thuần nhất mà có nhiều thành phần, nhiều tầng lớp, nhiều bộ phận, nhiều trình độ, nhiều ý kiến khác nhau, có những nhu cầu và lợi ích riêng khác nhau, lại thường bị giai cấp bóc lột thống trị lừa phỉnh, cưỡng ép, "chia để trị", cho nên "dân thường chia rẽ phái này bọn kia". Và nhìn tổng thể, trong dân bao giờ cũng có ba loại người: tiên tiến, trung bình, lạc hậu, mà trong đó loại trung bình, vừa vừa, ở giữa nhiều hơn hết. Chính vì đặc điểm của dân như vậy cho nên Hồ Chí Minh khẳng định rằng cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ, ... sức cách mệnh phải tập trung; muốn tập trung phải có đảng cách mệnh vận động và tổ chức dân chúng. Đó chính là cơ sở sâu xa của sự cần thiết phải có Đảng lãnh đạo, cơ sở sâu xa của tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh và cũng là cơ sở sâu xa của tư tưởng chiến lược đại đoàn kết nổi tiếng của Người:

" Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

131

Page 132: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Thành công, thành công, đại thành công".

3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng và Đảng cầm quyền trong mối quan hệ với dân.

a) Quan niệm về Đảng của Hồ Chí Minh

Quan niệm về Đảng của Hồ Chí Minh là một di sản tư tưởng phong phú, quí báu. Đó là cống hiến to lớn của Người đối với sự phát triển học thuyết Mác-Lênin về Đảng Cộng sản, đặc biệt là Đảng Cộng sản trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu là thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.

Di sản tư tưởng của Người có ý nghĩa quan trọng trong việc rèn luyện, xây dựng củng cố Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo xã hội có quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân.

Hồ Chí Minh đề cao dân. Người khẳng định cách mạng là sự nghiệp của nhân dân chứ không phải sự nghiệp của một cá nhân anh hùng nào. Nhưng cách mạng muốn bảo đảm thắng lợi phải tập hợp nhân dân thành một khối đoàn kết thống nhất. Nhân dân phải được tổ chức, lãnh đạo. Chỉ có đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân mới đủ khả nǎng để thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân làm cách mạng.

Như vậy sự ra đời của Đảng Cộng sản là điều kiện tiên quyết, đồng thời là đòi hỏi tự nhiên, là nhu cầu của cuộc sống nhằm thoả mãn khát vọng được giải phóng, tự do, mưu cầu hạnh phúc của nhân dân. Nhu cầu đó trùng hợp với mục tiêu của cách mạng và hoài bão cứu nước của Hồ Chí Minh. Vì vậy, Đảng ra đời trở thành tất yếu khách quan.

Tuy nhiên sự ra đời đó phải có những điều kiện nhất định. Theo Mác và Ǎngghen thì Đảng Cộng sản ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa cộng sản khoa học với phong trào công nhân. Lênin nhấn mạnh thêm về tính đặc thù của sự kết hợp đó:

"... Trong mỗi nước, sự kết hợp ấy lại là một sản phẩm của lịch sử, lại được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện không gian và thời gian"

Chính Hồ Chí Minh là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam thể hiện tư tưởng của Lênin về việc thực hiện bằng con đường đặc biệt của sự kết hợp để thành lập chính đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam . Người khẳng định: "Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu nǎm 1930"

Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến, công nghiệp chưa phát triển, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, nhưng lại có phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, rộng khắp thì phải làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin không

132

Page 133: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

chỉ thâm nhập vào giai cấp công nhân mà còn phải ǎn sâu vào phong trào yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân. Hơn nữa, tình hình lúc bấy giờ chưa cho phép thành lập ngay một đảng Cộng sản mà trước hết phải truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin để giác ngộ quần chúng, tập hợp lực lượng chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho cách mạng thành công.

Nhưng để Đảng hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó, Đảng phải thực sự trong sạch và vững mạnh.

Người luôn xem việc xây dựng củng cố Đảng trở thành một tổ chức chính trị trong sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt với nhân dân là yếu tố quyết định bảo đảm sự thành công của cách mạng. Để làm được điều đó, Người thường chỉ dẫn: Trong Đảng phải phát huy dân chủ nội bộ; phải thường xuyên tự phê bình và phê bình thẳng thắn và thật thà. Đặc biệt phải giữ gìn truyền thống đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Đồng thời Đảng phải luôn luôn sáng tạo, chỉnh đốn và tự đổi mới.

Đảng mạnh do có đội ngũ đảng viên có phẩm chất đạo đức cách mạng, trung thành với lý tưởng cách mạng, gắn bó với nhân dân, gương mẫu trong lời nói và việc làm, biết hy sinh quyền lợi cá nhân để bảo vệ quyền lợi Tổ quốc, quyền lợi nhân dân, sống trong sạch giản dị, thường xuyên chống chủ nghĩa cá nhân... đó là biểu hiện đạo đức cách mạng của người đảng viên.

Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng không phải do Đảng tự xác định mà do nhân dân thừa nhận và tôn vinh. Vị trí vai trò đó được hình thành, xác định và thể hiện trong mối quan hệ biện chứng giữa Đảng với dân.

b) Những luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền trong mối quan hệ với dân

Lý luận về Đảng cầm quyền của giai cấp vô sản là một vấn đề còn mới mẻ. Mác và Ǎngghen đã nói đến việc giai cấp vô sản mỗi nước muốn hành động với tư cách là một giai cấp, phải thành lập chính đảng độc lập của mình, tiến hành cách mạng bạo lực, "trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc". Nhưng giành được chính quyền rồi, Đảng của giai cấp công nhân cầm quyền như thế nào, lãnh đạo Nhà nước vô sản ra sao thì chưa thấy các ông nói đến. Sỡ dĩ như vậy có lẽ là vì trong thời kỳ Mác và Ǎngghen sống và hoạt động, Nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới - Công xã Pa ri 1871- chỉ tồn tại có 72 ngày, chưa đủ cung cấp những dữ kiện cần thiết để các ông tổng kết vấn đề đó về mặt lý luận. Lênin là người hoạt động lâu nǎm trong Đảng Công nhân Xã hội - Dân chủ Nga (Đảng Bônsêvích Nga), đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười nǎm 1917 thành công và là người đứng đầu Nhà nước Xôviết trong khoảng 6 nǎm; ông đã nêu ra những nguyên tắc thành lập và hoạt động của một Đảng Cộng sản kiểu mới, đã có những chủ trương mạnh dạn và đúng đắn (như thanh đảng) nhằm củng cố vai trò lãnh

133

Page 134: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

đạo của Đảng trong điều kiện đảng cầm quyền. Stalin là người kế tục Lênin, đứng đầu Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước Xô viết trong 30 nǎm, đã có nhiều ý kiến về Đảng Cộng sản, nhưng chủ yếu là giải thích và chứng minh để làm rõ hơn những nguyên tắc chung về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản của Lênin; hơn nữa "mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Stalin", "tệ sùng bái cá nhân Stalin" và những hành vi và hậu quả của sự độc đoán, chuyên quyền của Stalin vẫn đang là những vấn đề phải nghiên cứu và đánh giá; do đó, cũng không giúp ích được bao nhiêu cho việc nhận thức lý luận về Đảng cầm quyền.

Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, đã có nhiều công lao và đóng góp to lớn đối với Đảng và công tác xây dựng Đảng. Có thể nói rằng vấn đề Đảng và xây dựng Đảng có một vị trí cực kỳ quan trọng và nội dung vô cùng phong phú, được Người quan tâm nhiều nhất và có một sự chú ý đặc biệt. Những luận điểm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là những đóng góp cực kỳ quan trọng vào học thuyết về Đảng Cộng sản.

Có thể nêu lên mấy luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh

về Đảng cầm quyền trong mối quan hệ với Dân như sau:

Thứ nhất: Đảng cầm quyền là đảng đã giành được chính quyền và lãnh đạo chính quyền của dân, do dân, vì dân.

Đảng cầm quyền là một khái niệm của khoa học chính trị có nội dung xác định, chỉ rõ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ chính quyền, quản lý đất nước, điều hành mọi hoạt động của xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.

ở các nước tư bản chủ nghĩa , khái niệm "đảng cầm quyền" đã được sử dụng phổ biến từ lâu để chỉ một chính đảng nào đó có đại biểu giành được thắng lợi trong các cuộc bầu cử Quốc hội, tranh chức tổng thống (như ở Mỹ - Pháp) hoặc chức thủ tướng (như ở Anh, Nhật, ấn Độ, Italia...)

ở nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười 1917, Lênin đã nhiều lần dùng khái niệm "đảng cầm quyền" và đôi khi dùng cả khái niệm "đảng chấp chính" để khẳng định vai trò trách nhiệm của Đảng Bônsêvích đối với nhân dân Xôviết trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đầu tiên của loài người.

ở nước ta, Hồ Chí Minh đã dùng thuật ngữ "Đảng cầm quyền" lần duy nhất trong Di chúc của Người nǎm 1969. Nhưng thực ra từ rất lâu trước đó, Hồ Chí Minh đã nhiều lần dùng một thuật ngữ khác có nội hàm tương đương, hoàn toàn có thể thay thế cho thuật ngữ "Đảng cầm quyền", đó là thuật ngữ "Đảng nắm chính quyền". Theo Hồ Chí Minh, điều kiện và cũng là đặc trưng để một Đảng Cộng sản vốn hoạt động bất hợp pháp trở thành đảng cầm quyền là lãnh đạo cách mạng thành công, giành lấy chính quyền. Khi đã nắm chính quyền thì đương nhiên Đảng có trách nhiệm lãnh đạo chính quyền. Ngay cả trong tình trạng rối ren phức tạp của đất nước trong những nǎm 1945-1946, khi chính quyền cách mạng non trẻ bị thù trong giặc ngoài uy hiếp nguy hiểm

134

Page 135: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

như "ngàn cân treo sợi tóc", tuy phải tuyên bố tự giải tán nhưng thực chất là Đảng rút vào bí mật và vẫn cầm quyền, lãnh đạo chính quyền. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (1951) Đảng ta trở thành công khai hoạt động với tư cách là đảng cầm quyền, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, giải phóng miền Bắc và đưa miền Bắc tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa. Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang ở giai đoạn gay go ác liệt, giặc Mỹ leo thang chiến tranh rất tàn bạo với âm mưu thâm độc và lời tuyên bố huênh hoang "đưa miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá", Đảng ta không hề buông lơi vai trò trách nhiệm lãnh đạo "quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" và đã được nhân dân hết lòng tin cậy, ủng hộ. Như mọi người đều biết, trong Di chúc lịch sử, Hồ Chí Minh đã dặn dò và khẳng định lần cuối cùng, nhất quán trước sau như một: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền". Như vậy tư tưởng về Đảng cầm quyền đã được Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc đến với những thuật ngữ khác nhau, nhưng ý nghĩa và thực chất chỉ là một: Đảng đã giành được chính quyền, nắm giữ và lãnh đạo chính quyền Nhà nước. Mặc dù do những điều kiện lịch sử cụ thể tác động, đã mấy lần phải đổi tên (Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam, rồi lại Đảng Cộng sản Việt Nam), Đảng ta vẫn trước sau như một, giữ vững bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong cách mạng: Ngoài lời ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Đảng ta vẫn giữ vững những nguyên tắc tổ chức của một Đảng kiểu mới, đó là: tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình... Đặc biệt Đảng ta luôn luôn giữ vững mục đích tôn chỉ của mình là lãnh đạo nhân dân thực hiện lý tưởng cao cả không một phút nào được lãng quên là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới.

Giành được chính quyền, lãnh đạo chính quyền là đặc điểm chủ yếu nhất phân biệt sự khác nhau về chất hai thời kỳ hoạt động của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trước đây, khi chưa có chính quyền, ngay cả khi đã đấu tranh thắng lợi với các đảng phái khác, giành được quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhưng Đảng vẫn phải hoạt động bí mật, bị loại khỏi vòng pháp luật, là đối tượng khủng bố, trấn áp của chính quyền. Chỉ đến khi Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, giành được chính quyền, Đảng mới lãnh đạo chính quyền. Vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Do đó, giành được chính quyền có tầm quan trọng đặc biệt như Ǎngghen nói là đã mở được "cái cửa duy nhất dẫn vào xã hội mới". Trở thành đảng cầm quyền là cả một bước nhảy vọt lớn về vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng. Đã "cầm quyền" thì đương nhiên Đảng phải có quyền lực. Không có quyền lực Đảng không thể lãnh đạo nhà nước được. Tuy nhiên, quyền lực của Đảng không phải là quyền lực nhà nước. Nhà nước nói chung là bộ máy cai trị, nên đặc trưng của quyền lực nhà nước là dựa trên cơ sở pháp luật, có sức mạnh của bạo lực với phương thức chủ yếu là cưỡng chế (tất nhiên cũng có giáo dục, khuyến khích bằng lợi ích kinh tế...). Đảng cầm quyền là một tổ chức chính trị lãnh đạo nhà nước. "Lãnh đạo" chính là một quyền lực thực tế rất lớn. Nhà nước phải chịu sự lãnh đạo của Đảng, phục tùng sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước có quyền lực thì Đảng lãnh đạo nhà nước tất yếu cũng phải có quyền lực. Nhưng đây là quyền lực chính trị thể hiện bằng phương thức giáo dục, thuyết phục, chinh phục, đồng thời cũng thể hiện bằng quyền uy của tổ chức. Trên thực tế ở nước ta, quyền lực chính trị của Đảng được thể hiện rất

135

Page 136: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

rõ rệt và mọi người đều thừa nhận. Trong phạm vi toàn quốc cũng như ở từng đa phương, Đại hội Đảng là sự kiện quan trọng nhất, được mọi tầng lớp xã hội quan tâm nhất vì đó là nơi quyết định đường lối, chủ trương, chính sách và quyết định cả về tổ chức cán bộ. Với uy tín chính trị và quyền uy về tổ chức, Đảng cầm quyền có quyền lực thực tế rất lớn. Nếu trước đây, Nhà nước tách rời và đối lập với nhân dân, là lực lượng thống trị áp bức nhân dân, thì ngày nay Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã khác về bản chất, trở thành Nhà nước dân chủ nhân dân. Điều 1, Hiến pháp nǎm 1946 của nước ta đã thừa nhận: "Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". Chính Hồ Chí Minh đã từng khẳng định rằng: Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 nǎm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây dựng nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Độc lập Tự do Hạnh phúc. Chính quyền dân chủ nhân dân đó chính là chính quyền "của dân, do dân, vì dân" mà bản chất của nó đã được xác định trong tư tưởng Hồ Chí Minh: "Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật". ở đây, có một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn cần phải nhận rõ là: Quyền lực bao giờ cũng có hai mặt: Một mặt nó là công cụ mạnh mẽ để cải tạo con người, phát triển xã hội, thúc đẩy bước tiến của lịch sử. Nhưng mặt khác nó cũng có thể là sức mạnh để đàn áp nhân dân, kìm hãm xã hội, làm tha hoá con người, kể cả những kẻ nắm quyền lực. Khi quyền lực thuộc về đông đảo quần chúng nhân dân và những người đại biểu của nhân dân được giao cho nắm quyền lực không những là người lãnh đạo mà còn là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân thì quyền lực sẽ phát huy mặt tích cực của nó. Ngược lại, khi quyền lực chỉ phụ thuộc vào một số ít người, thậm chí chỉ thuộc về một người, trở thành độc tài chuyên chế thì tất cả những tiêu cực, xấu xa của quyền lực sẽ bộc lộ.

Cần nhắc lại rằng khi ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, Hồ Chí Minh đã đi qua nhiều đại dương, đặt chân trên nhiều châu lục, đã từng sống và hoạt động nhiều nǎm ở những nước tư bản phát triển như Anh, Pháp, Mỹ. Bôn ba hải ngoại, Người không chỉ thấy rõ:

"á - Âu đâu cũng lòng trong đục

Vàng máu chia hai cảnh khổ giàu", mà còn nghiên cứu tiếp thụ những tư tưởng tiến bộ so với tư tưởng truyền thống phương Đông về dân chủ, tự do, bình đẳng của những nền vǎn hoá phương Tây. Chắc hẳn là Người đã đọc và chịu ảnh hưởng của những nhà vǎn, nhà tư tưởng, nhà triết học lớn của thế kỷ ánh sáng Pháp - những người học thức như ông Montesquieu, Voltaire và Rousseau tuyên truyền chủ nghĩa tự do, bình đẳng. Hiển nhiên là Người đã kế thừa những tư tưởng nhân vǎn về quyền con người và quyền công dân trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776) và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp (1791) mà Người đã trích dẫn và phân tích ngay trong đoạn mở đầu của bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2 tháng 9 nǎm 1945.

136

Page 137: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Đặc biệt là tư tưởng quyền hành ở nơi dân, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đã hình thành ở Hồ Chí Minh rất sớm, từ trong những nǎm 20, khi Đảng Cộng sản Việt Nam chưa ra đời, và được phát triển cụ thể thêm sau Cách mạng Tháng Tám, khi Đảng đã có chính quyền nhà nước.

Những tư tưởng về nhân quyền và dân quyền, "quyền lực là của nhân dân", "Nhà nước là của dân, do dân, vì dân", "Chính phủ là do nhân dân lập nên và có thể bị nhân dân phế bỏ", đó là những tư tưởng dân chủ của giai cấp tư sản thời kỳ đang lên, mới từ "đẳng cấp thứ ba" tiến hành cách mạng tư sản thành công, trở thành giai cấp cầm quyền; tư tưởng dân chủ đó là sự tiến bộ vượt bậc so với tư tưởng quân chủ của chế độ phong kiến. Tuy nhiên, cách mạng tư sản kết thúc sau khi giai cấp tư sản giành được chính quyền, thiết lập được chế độ tư bản chủ nghĩa. Nhiều chính phủ tư sản đã vi phạm quyền con người và quyền công dân mà giai cấp tư sản đã từng khẳng định trong những lời tuyên bố và những bản Tuyên ngôn nổi tiếng. Sự vi phạm nhân quyền và dân quyền trắng trợn nhất của các chính phủ tư sản chính là đã xâm lược các nước chậm tiến, thống trị và bóc lột một cách dã man nhân dân các nước thuộc địa, mà Hồ Chí Minh đã tố cáo hết sức mạnh mẽ, sắc bén trong tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" từ nǎm 1925 và trong bản "Tuyên ngôn độc lập" nǎm 1945 của Người.

Về mặt lý luận, từ rất sớm trong tác phẩm "Đường Cách mệnh" Hồ Chí Minh đã nghiên cứu nhiều cuộc cách mạng, nhiều kiểu và hình thức Nhà nước của nhiều quốc gia trên thế giới và Người đã đi đến kết luận: "Cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi.

Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc". Cách mạng "làm cho đến nơi" chính là cách mạng vô sản - con đường duy nhất để cứu nước và giải phóng dân tộc, giành lấy chính quyền về tay "dân chúng số nhiều". ở nước ta, nhà nước của dân chúng số nhiều chính là Nhà nước thành lập sau Cách mạng Tháng Tám 1945- Nhà nước dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Đó là nhà nước mà các cơ quan và cán bộ từ Trung ương đến cơ sở đều do dân cử ra, "là đầy tớ của dân", "chỉ lo làm lợi cho dân", và nếu tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì "nhân dân có quyền bãi miễn"

Khi chưa có chính quyền Đảng đã lãnh đạo nhân dân và các tổ chức chính trị, xã hội hoạt động đấu tranh cách mạng, nhưng chỉ sau khi giành được chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền, Đảng mới lãnh đạo Nhà nước. ở đây, cái mới của hệ thống chính trị, chính là sự xuất hiện và hoạt động của bộ máy Nhà nước kiểu mới do Đảng lãnh đạo. Vì vậy mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là đặc biệt quan trọng. Nhà nước do Đảng thiết lập nên để xây dựng và bảo vệ chế độ mới. Không có Đảng Cộng sản thì cũng không có nhà nước kiểu mới, do đó, đương nhiên Nhà nước phải phục tùng sự lãnh đạo của Đảng. Phải có sự lãnh đạo của Đảng với một định hướng chính trị đúng đắn, Nhà nước mới có thể thật sự trở thành Nhà nước "của dân, do dân, vì dân". Đồng thời, là một bộ phận của hệ thống

137

Page 138: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

chính trị mới, Đảng không thể đứng trên Nhà nước, trở thành cơ quan" siêu quyền lực", "siêu nhà nước" mà phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, phải tôn trọng vai trò của Nhà nước.

Thứ hai: Đảng cầm quyền là người tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh.

Khi Đảng Cộng sản lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc hoặc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thành công, giành được chính quyền, thì không thể dừng lại ở đó. Bởi vì đứng về toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng thì giành chính quyền không phải là mục đích cuối cùng, không phải là cách mạng kết thúc mà mới chỉ là bắt đầu với ý nghĩa là mới qua "cái cửa duy nhất dẫn vào xã hội mới". Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, trong thư "Gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng", Hồ Chí Minh đã nói: "Ngày nay chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhưng nếu nước được lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Do đó, Đảng phải thực hiện "cách mạng không ngừng", tiếp tục tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, vai trò và trách nhiệm lãnh đạo không thuộc về ai khác ngoài Đảng Cộng sản. Cần phải thấy rõ sự khác biệt giữa nhiệm vụ mới với nhiệm vụ cũ. So với việc phá bỏ chế độ cũ thì việc tổ chức xây dựng chế độ mới - chế độ xã hội chủ nghĩa - là một nhiệm vụ rất lâu dài, khó khǎn, phức tạp; đặc biệt là trong điều kiện nước ta, điểm xuất phát đi lên chủ nghĩa xã hội rất thấp; vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chính Hồ Chí Minh đã nhìn thấu suốt và khẳng định: "Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khǎn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống thói quen, ý nghĩa và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn nǎm... Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước vǎn hoá cao và đời sống tươi vui hạnh phúc". Vì vậy, trách nhiệm lịch sử của Đảng cầm quyền không hề giảm nhẹ mà còn nặng nề hơn gấp bội, khó khǎn, phức tạp; đặc biệt là trong điều kiện nước ta, điểm xuất phát đi lên chủ nghĩa xã hội rất thấp; vì nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chính Hồ Chí Minh đã nhìn thấu suốt và khẳng định: "Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khǎn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩa và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn nǎm... Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước vǎn hoá cao và đời sống tươi vui hạnh phúc". Vì vậy, trách nhiệm lịch sử của Đảng cầm quyền không hề giảm nhẹ mà còn nặng nề hơn gấp bội.

Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chủ nghĩa xã hội là con đường đi lên, là mục tiêu phấn đấu mà Đảng và nhân dân ta, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đã dứt khoát lựa chọn.

138

Page 139: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

ở đây cần nói thêm rằng, chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn không phải là một cái gì trừu tượng, mà là một chế độ xã hội tốt đẹp, ai cũng có thể cảm nhận được: "Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ǎn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xoá bỏ... Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tǎng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội".

Thứ ba: Đảng cầm quyền phải liên hệ, gắn bó mật thiết với nhân dân, và trong mối quan hệ với nhân dân, Đảng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Liên hệ, gắn bó mật thiết với nhân dân là nguồn gốc chủ yếu tạo nên sức mạnh của Đảng ta, là một trong những điều kiện và nguyên nhân làm cho Đảng ta giữ vững được quyền lãnh đạo và giành được thắng lợi trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Vì vậy, liên hệ gắn bó mật thiết với dân là một yêu cầu khách quan, cũng là một biện pháp quan trọng nhằm tǎng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.

Đảng ta cũng ở trong xã hội, cũng từ dân mà ra, "là con nòi, xuất thân từ giai cấp lao động", "từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên". Do đó, giữa Đảng và dân vốn có một mối liên hệ gắn bó nhất định. Tuy vậy, Đảng và dân không đồng nhất, không phải là một mà vẫn có sự khác biệt, có vai trò vị trí khác nhau. Nói đến Đảng là nói đến vai trò lãnh đạo, như Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: "Đảng ta là một đảng cách mạng, một đảng lãnh đạo". Thực tế lịch sử cách mạng nước ta đã chứng minh rằng Đảng ta không những đã giành được quyền lãnh đạo cách mạng trong cả nước mà còn giữ được quyền lãnh đạo đó trên mọi lĩnh vực.

Trong mối quan hệ Đảng - dân, nếu Đảng là người lãnh đạo thì dân là đối tượng lãnh đạo, chịu sự lãnh đạo và trong mọi thời kỳ cách mạng đều cần có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng. Đảng lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo dân là vì dân. Vì dân chính là điểm xuất phát và cũng là nội dung là mục tiêu phấn đấu của Đảng ta. Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định rằng, Đảng ta không có lợi ích nào khác, ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc; rằng Đảng chỉ mưu giải phóng cho dân, nên mọi việc đều vì lợi ích của dân mà làm và chịu trách nhiệm trước dân. Đặc biệt là khi Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở cán bộ đảng viên và các tổ chức đảng phải luôn luôn nhớ rằng mình là đầy tớ của nhân dân chứ không là "quan" nhân dân. Trong Di chúc lịch sử của Người, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền.. phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Đây là một luận điểm mới mẻ, sáng tạo của Hồ Chí Minh, một đóng góp quan trọng vào lý luận xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Luận điểm này đã chỉ rõ cái bản chất nhất trong mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với dân.

Nói Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của dân thì dường như có cái gì "mâu thuẫn", phi lý, khó chấp nhận? Lãnh đạo và đầy tớ, về nhận thức là hai phạm trù khác nhau, và về thực tế có hai đối tượng khác nhau. Lãnh đạo nói khái quát là việc định hướng mục tiêu nhiệm vụ, đề ra đường lối, chủ trương, phương pháp tổ

139

Page 140: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

chức thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đó. Lãnh đạo chính là "bàn chỉ nam", là "người cầm lái" - một nhu cầu cần thiết khách quan - của mọi hoạt động xã hội. Đã có lãnh đạo thì phải có đối tượng lãnh đạo. Trong mối quan hệ Đảng - dân, thì đối tượng lãnh đạo của Đảng chính là dân, là quần chúng nhân dân, là con người với tất cả những nhu cầu và lợi ích mà Đảng cần nắm bắt và giải quyết thoả đáng.

"Đầy tớ" là thuật ngữ thường dùng trong xã hội cũ để chỉ vị trí và công việc của người đi ở, kẻ làm thuê trong quan hệ với chủ. Đó là những người phải biết và chỉ biết hết lòng hết sức tận tụy hầu hạ, phục dịch chủ. Hàng mấy chục lần ở nhiều trường hợp khác nhau trong những thời gian khác nhau, Hồ Chí Minh đã nói các cơ quan Đảng và Nhà nước là "đầy tớ" của dân, nhưng cũng có lần Người gọi các cơ quan đó là "công bộc" của dân. Công bộc cũng là đầy tớ, đầy tớ chung của mọi người, phục vụ chung cho nhân dân. Trong mối quan hệ Đảng- dân, dân là chủ cũng có nghĩa Đảng là đầy tớ của dân.

Dân là chủ, Đảng là đầy tớ nghĩa là Đảng phải trung thành và tận tuỵ phục vụ nhân dân. Trong vai trò của Đảng đối với dân, cái chung của người lãnh đạo và của người đầy tớ là vì dân, phục vụ nhân dân. Chính vì vậy mà Hồ Chí Minh đã đồng nhất vai trò Đảng là người lãnh đạo với Đảng là người đầy tớ của dân. Người không chỉ nói rằng Đảng "là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân", mà có những lần Người còn khẳng định: "Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào - đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân". "Lãnh đạo là làm đầy tớ nhân dân và phải làm cho tốt".

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cầm quyền là người lãnh đạo "sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân" thì chính sách của Đảng và Chính phủ, các cơ quan và cán bộ của Đảng và Chính phủ từ trên xuống dưới đều phải có trách nhiệm "hết sức chǎm nom đến đời sống của nhân dân". Dân đói, dân rét, dân ốm, dân dốt, Đảng và Chính phủ đều có lỗi. Dân không đủ muối, không có gạo đủ no, không có vải mặc đủ ấm, không có trường học cho các cháu, Đảng phải lo. Nghĩa là tất cả mọi việc Đảng phải lo, từ việc lớn đến việc nhỏ, từ đấu tranh thống nhất nước nhà, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội đến cả việc "tương cà mắm muối" của dân, Đảng đều phải lo. Với cương vị là người sáng lập và đứng đầu Đảng và Nhà nước, trong bản Di chúc lịch sử, Hồ Chí Minh đã nói về mối quan hệ giữa Đảng và dân, khẳng định bản chất tốt đẹp của nhân dân ta và nhắc nhở về trách nhiệm của Đảng cầm quyền đối với dân:

"Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hǎng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.

Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân".

Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh coi dân là người chủ của đất nước, của xã hội và coi những người lãnh đạo, những người cầm quyền là đầy tớ của nhân dân là tư tưởng

140

Page 141: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

hoàn toàn mới mẻ, không hề thấy trong tư tưởng Nho giáo và trong tư tưởng truyền thống của dân tộc ta. Tư tưởng đó thể hiện một chủ nghĩa nhân vǎn cao đẹp tuyệt vời ở Hồ Chí Minh.

NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997

Chương III. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ DÂN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Quan hệ giữa Đảng và dân là quan hệ xã hội đặc biệt, được hình thành và phát triển trong điều kiện cách mạng vô sản. Vì vậy, mối quan hệ giữa Đảng với dân là một phạm trù lịch sử. Trong mối quan hệ giữa Đảng và dân thì Đảng là một thực thể chính trị, dân là một thực thể xã hội, không đồng nhất. Giữa hai thực thể đó có mối quan biện chứng ràng buộc, phụ thuộc, tác động qua lại lẫn nhau, cái này lấy cái kia làm tiền đề tồn tại của mình. Để thoát khỏi thân phận nô lệ thành người chủ của đất nước, nhân dân ta chỉ có con đường duy nhất là đứng lên làm cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng chân chính theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Còn Đảng muốn tồn tại, muốn khẳng định vai trò trách nhiệm của mình đối với xã hội, muốn làm nên sự nghiệp vẻ vang lãnh đạo nhân dân đứng lên đánh đổ ách thống trị của thực dân phong kiến giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc ấm no cho nhân dân, xây dựng xã hội mới, thì Đảng phải dựa vào nhân dân. Có dựa vào nhân dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân thì Đảng mới có cơ sở xã hội, mới có sinh khí và sức mạnh. Vì vậy, giữa hai thực thể Đảng và dân, vừa có tính thống nhất, vừa có mâu thuẫn biện chứng. Tính thống nhất là ở chỗ:

- Đảng không có mục đích tự thân. Đảng ra đời là do đòi hỏi khách quan, đòi hỏi tự nhiên của cuộc sống, do nhu cầu được giải phóng của nhân dân.

- Sự gắn bó giữa Đảng và dân có cơ sở sâu xa ở sự thống nhất về những lợi ích cǎn bản. Mục tiêu lý tưởng của Đảng là phụng sự những lợi ích của giai cấp, của dân tộc như Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định.

- Theo Hồ Chí Minh, Đảng cũng ở trong xã hội, từ nhân dân mà ra, từ Trung ương đến xã đều do dân tổ chức nên. Vì vậy Đảng mạnh hay yếu là ở dân; Đảng anh hùng vì có nhân dân anh hùng.

- Nhân dân chính là cội nguồn sức mạnh của Đảng, là nguồn gốc tạo nên thắng lợi của cách mạng. "Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn". Vì vậy Đảng phải dựa vào dân, không được xa rời dân.

- Đảng chính là bộ phận ưu tú nhất của giai cấp công nhân, người đại diện cho trí tuệ của nhân dân. Sự gắn bó trong quan hệ giữa Đảng và dân là sự cộng lực của trí tuệ và lực lượng. Hồ Chí Minh ví quan hệ giữa Đảng và dân như quan hệ của "người chèo" và "người lái" trên con thuyền cách mạng. Nếu chỉ có người chèo mà không có người

141

Page 142: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

lái con thuyền không chạy được. Cho nên người chèo và người lái phải đoàn kết với nhau.

Bên cạnh tính thống nhất trên, giữa Đảng và dân có những khác biệt: Đảng là chủ thể lãnh đạo, dân là đối tượng lãnh đạo. Đảng bao gồm những phần tử ưu tú, giác ngộ có kỷ luật và có tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân. Đảng viên là những người tiêu biểu về phẩm chất đạo đức, trí tuệ và tinh thần trách nhiệm phục vụ trước dân. Còn dân là môt thực thể xã hội, không đồng nhất và thuần nhất. Trong nhân dân có nhiều tầng lớp, nhiều trình độ và sự giác ngộ khác nhau.

Vì vậy giữa Đảng và dân có sự quy định, ràng buộc, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Biểu hiện của mối quan hệ đó là:

1. Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân là một trong những nhân tố quan trọng nhất tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng

Trong tư duy về mối quan hệ biện chứng giữa Đảng và nhân dân, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tới tính toàn diện của công tác củng cố và nâng cao sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng mạnh để lãnh đạo nhân dân làm cách mạng. Mặt khác, Người luôn luôn coi trọng việc nâng cao sức mạnh của nhân dân. Đó là hai mặt của sự thống nhất biện chứng tạo nên sức mạnh chung của Đảng và nhân dân trong cách mạng.

Theo Hồ Chí Minh, Đảng có mạnh thì mới có đủ uy tín và khả nǎng thu hút, tập hợp nhân dân làm cách mạng.

Có nhiều yếu tố tạo nên sức mạnh của một đảng, nhưng trước hết là ở bản thân Đảng. Hồ Chí Minh cho rằng ngoài việc trang bị học thuyết Mác - Lênin - thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho giai cấp vô sản và các lực lượng cách mạng, trong Đảng phải bao gồm những phần tử ưu tú nhất, giác ngộ nhất, có kỷ luật nhất và có tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp. Những đảng viên của Đảng là những người tiêu biểu về phẩm chất đạo đức, trí tuệ của dân tộc, hết lòng phục vụ nhân dân, biết chịu trách nhiệm trước Đảng, trước Chính phủ và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đó là những con người luôn nêu cao đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tin tưởng vào nhân dân, biết tổ chức giáo dục nhân dân; đồng thời biết học hỏi nhân dân, thường xuyên lắng nghe ý kiến nguyện vọng nhân dân, đoàn kết nhân dân thành một khối trong mặt trận thống nhất toàn dân.

Trong nội bộ Đảng phải đoàn kết chặt chẽ trên nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên thực hiện phê bình và tự phê bình một cách chân thật nhất, chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, chủ quan, bệnh quan liêu xa rời quần chúng. Chỉ có như vậy thì Đảng mới có sức mạnh và chinh phục, thu phục được mọi người đi theo mục tiêu lý tưởng của mình.

Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định:

Sức mạnh của Đảng do nơi dân mà có. Sức mạnh đó thể hiện ở quyền lực chính trị

142

Page 143: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

của Đảng. Quyền lực đó chính là do nhân dân uỷ thác cho Đảng.

Tư tưởng về sức mạnh, quyền lực của người lãnh đạo, của Đảng là sự uỷ thác của nhân dân là một tư tưởng lớn, biện chứng và nhất quán ở Hồ Chí Minh. Đó chính là tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người một cách triệt để nhất, hoàn thiện nhất. Điều đó chứng tỏ Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra vấn đề cốt lõi, vấn đề bản chất của dân chủ cách mạng là quyền lực phải thuộc về nhân dân.

Nhiều cuộc cách mạng đã tuyên bố quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân có quyền thay chính phủ nếu chính phủ làm hại cho dân... Nhưng trên thực tế, khi đã có chính quyền, những lời tuyên bố trên đã không được thực hiện. Đó là trường hợp của các cuộc cách mạng tư sản điển hình như ở Mỹ (1776) và ở Pháp (1789 - 1793).

Thậm chí ở một số nước cách mạng xã hội chủ nghĩa đã thành công, nhưng do Đảng cầm quyền, trở thành một đảng cực quyền thâu tóm mọi quyền lực, đứng trên tất cả Nhà nước và nhân dân, thì kết cục Đảng cũng xa rời nhân dân, mất nguồn sức mạnh từ nhân dân và dẫn đến bi kịch lịch sử.

Như vậy là ở đâu, lúc nào mà một chế độ xã hội, một chính quyền, một lực lượng chính trị ra đời nhờ vào lực lượng của nhân dân mà quyền lực giành được lại không thuộc về nhân dân thì sớm muộn nhân dân cũng nổi dậy đấu tranh, làm một cuộc biến đổi cách mạng khác, dẫn tới một kết cục chính quyền đó phải sụp đổ, chế độ đó phải tan rã. Đó là bài học lịch sử.

Liên hệ với quần chúng, chǎm lo củng cố hoàn thiện mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là mối quan tâm thường xuyên và lớn nhất của Hồ Chí Minh.

Giữ vững và tǎng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là một quá trình liên tục, bền bỉ phấn đấu của Đảng, là sự tác động qua lại giữa Đảng và nhân dân. Song, trong mối quan hệ đó, Đảng có trách nhiệm chính, Đảng phải chủ động liên hệ mật thiết với quần chúng, kiên quyết giữ vững liên minh công nông trong các giai đoạn cách mạng, bảo đảm thực hiện Mặt trận dân tộc thống nhất chặt chẽ và rộng rãi, đoàn kết được tất cả mọi người yêu nước.

Chính vì những lẽ đó, Hồ Chí Minh rút ra kết luận "Đảng mạnh tức là dân mạnh, dân mạnh thì Đảng mạnh; dân, Đảng mạnh thì chúng ta nhất định thắng lợi".

Luận điểm trên đây vừa mang tính biện chứng sâu sắc, vừa liên quan tới một kết luận khác được rút ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh là: "Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân, đã lãnh đạo nhân dân phấn đấu dưới lá cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác-Lênin".

Trách nhiệm của Đảng là phải chǎm lo củng cố sức mạnh cho dân. Nhưng muốn có dân mạnh thì dân phải được giác ngộ, được tổ chức và lãnh đạo.

143

Page 144: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Hồ Chí Minh quan tâm tới nhân dân một cách toàn diện. Nhưng Người nói nhiều tới vấn đề giáo dục, nâng đỡ dân vì ngót một thế kỷ xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã dùng mọi thủ đoạn để "hủ hoá dân tộc ta bằng nhiều thói xấu khác nhau". Với âm mưu thâm độc "lấy tôn giáo và vǎn hoá làm cho dân ngu", "lấy sức mạnh làm cho dân sợ", lấy chính sách cai trị để chia rẽ nhân dân", thực dân Pháp đã để lại hậu quả nặng nề cho nhân dân ta. Do vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ ra nhiệm vụ cấp bách của chính quyền mới là phải giáo dục lại nhân dân, làm cho dân tộc ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập.

Trong giáo dục, điều quan trọng trước tiên là phải thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin cho nhân dân, để nhân dân giác ngộ lý tưởng của Đảng.

Có hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin mới có cơ sở nhận thức đúng đắn mục tiêu của cách mạng, vì chủ nghĩa Mác-Lênin soi phương hướng, đường lối cho chúng ta đi. Có phương hướng, đường lối đúng thì làm việc mới đúng, mới tích cực, tự giác, mới dũng cảm hy sinh vì lý tưởng cách mạng.

Giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, chính là cơ sở tạo nên sự nhất trí giữa Đảng với nhân dân, là cơ sở tạo nên sức mạnh vô địch của Đảng, của cách mạng và cũng là cơ sở để sống với nhau có tình có nghĩa.

Giác ngộ nhân dân, còn phải nâng cao trình độ vǎn hoá, trình độ dân trí cho nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, vì dốt nát cũng là giặc; đó là giặc "nội xâm" rất nguy hiểm, nó làm yếu dân tộc từ bên trong.

Theo Người, chính sự yếu kém về vǎn hoá là cản trở chủ yếu, khiến dân ta không hiểu cǎn nguyên nỗi khổ của mình, thậm chí không hiểu chính ngay sức mạnh của mình; không hiểu quyền hạn và bổn phận của mình trước Tổ quốc.

Chính vì lẽ đó, nâng cao dân trí là một quan điểm rất quan trọng của Hồ Chí Minh trong việc củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Đúng như Lênin đã nói: người không biết chữ thì đứng ngoài chính trị. Dân trí càng cao bao nhiêu thì càng có điều kiện để trí tuệ của Đảng càng ở tầm cao bấy nhiêu. Cố nhiên nhiều lúc trí tuệ của Đảng phải đi trước dân trí, vì Đảng là bộ phận tinh tuý nhất của dân.

Muốn nhân dân tham gia tích cực vào quá trình chính trị, Đảng phải nhanh chóng nâng cao trình độ vǎn hoá cho dân. Chính vì vậy, ngay sau khi nước nhà vừa được độc lập, Hồ Chí Minh kêu gọi dân chúng phải hǎng hái học tập để nhanh chóng xoá nạn mù chữ và nâng cao trình độ vǎn hoá. Ai chưa biết chữ thì phải học, người biết chữ ít phải học người biết chữ nhiều. Mọi người phải dạy nhau, vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ chưa biết thì con bảo... Mọi người phải học, mọi giới phải học.

Càng tiến bộ, càng thấy cần phải học thêm.

Muốn giáo dục dân, cán bộ đảng viên phải biết thương yêu, nâng đỡ dân, phải đoàn

144

Page 145: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

kết với dân.

Người bao giờ cũng quan niệm lấy khích lệ, động viên, phát huy mặt tốt của con người là chủ yếu: "biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân" thì giáo dục sẽ đạt kết quả tốt. Muốn xây dựng một xã hội mới, tốt đẹp, thì cần phải tiêu diệt những thói hư, tật xấu của xã hội cũ còn sót lại và phải bồi dưỡng những con người xã hội chủ nghĩa.

Cả cuộc đời, Hồ Chí Minh đã nói và nêu tấm gương sáng về rèn luyện những phẩm chất tốt đẹp của con người. Người đã có công lao lớn trong việc tập hợp sức mạnh nhân dân, nâng cao những truyền thống tốt đẹp của nhân dân Việt Nam và hạn chế những yếu kém của con người Việt Nam. Người đã có công trang bị thêm những phẩm chất mới của thời đại cho nhân dân Việt Nam. Vì vậy nhân dân ta không những giữ gìn và phát huy truyền thống dân tộc mà còn đạt tới những giá trị mới của thời đại.

Chính nhờ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những phẩm chất, giá trị mới của thời đại được bổ sung mà nhân dân ta có tầm trí tuệ mới, và trên cái nền trí tuệ của nhân dân, Đảng ta thực sự trở thành trí tuệ của cả dân tộc. Đó chính là kết quả của quá trình không ngừng củng cố và tǎng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

2. Đảng dựa vào dân, dân tin Đảng là nhân tố bảo đảm sự đúng đắn của đường lối và tạo nên cao trào cách mạng

Đảng ta lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, đánh đuổi thực dân, phong kiến, đi lên chủ nghĩa xã hội là nhằm thực hiện độc lập tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân.

Sự lãnh đạo của Đảng trước hết được thể hiện thông qua các chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng. Vì vậy nói đường lối của Đảng, sự lãnh đạo của Đảng cũng tức là nói tới dân, là thái độ của Đảng đối với dân.

ở đây giữa chủ thể lãnh đạo (Đảng) và đối tượng lãnh đạo (dân) là sự thống nhất về lợi ích, là sự gặp gỡ của ý Đảng lòng dân. Các chủ trương, chính sách của Đảng phải tác động đúng và trúng với tâm tư nguyện vọng, nhu cầu chính đáng của dân. Có như vậy dân mới tin Đảng, theo Đảng.

Đó là sự tác động qua lại một cách biện chứng. Đảng có dựa vào dân, đảng viên có tin tưởng quần chúng, gần gũi quần chúng, hoà mình vào quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, tìm hiểu những tâm tư nguyện vọng của quần chúng và quần chúng có tin yêu Đảng đóng góp xây dựng Đảng thì mới giúp cho Đảng định ra những chủ trương, chính sách, đường lối hợp với thực tế và yêu cầu nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định cách mạng thành công là do quần chúng tin theo

145

Page 146: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Đảng, mà quần chúng tin theo sự lãnh đạo của Đảng là vì Đảng dựa vào quần chúng. Vì vậy, Đảng phải dựa vào dân, không được xa rời dân, nếu không thế thì sẽ thất bại.

Dựa vào dân, không chỉ là nguyên tắc quan trọng của cách mạng, là yêu cầu rèn luyện đảng viên, cán bộ mà còn là cơ sở của chính sách đoàn kết toàn dân của Hồ Chí Minh. Dựa vào dân, trước hết là phải dựa vào công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, rồi còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác.

"Dựa vào dân" là quan điểm nhất quán ở Hồ Chí Minh trong mọi hoạt động cách mạng, để tập hợp lực lượng nhân dân làm cách mạng, tiến hành chiến tranh giữ nước và mọi công việc cải cách kinh tế và xã hội. Phải động viên, tổ chức, đoàn kết quần chúng, lấy sức quần chúng mà vượt qua khó khǎn; quần chúng tự giúp quần chúng. Đảng và Nhà nước ta dùng lực lượng của nhân dân để xây dựng cho nhân dân một đời sống ngày càng sung sướng.

Vậy là từ khi "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta" đến xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân dưới chủ nghĩa xã hội là sự nhất quán của quan điểm tự lập, tự cường; là lòng tin mãnh liệt của Hồ Chí Minh vào dân, là thể hiện thống nhất quan điểm dựa vào dân để lãnh đạo dân, làm cho nhân dân có độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.

Muốn dựa vững chắc vào dân, phải làm cho nhân dân tin chính ngay ở hiệu quả của đường lối, chính sách của Đảng; ở phẩm chất đạo đức, ở tác phong và lề lối làm việc của cán bộ đảng viên.

Để làm được điều đó, Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi cán bộ đảng và cán bộ chính quyền nhất nhất phải tuân thủ nguyên tắc mà Người coi là khuôn phép: "Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng". Quan điểm dựa vào quần chúng của Hồ Chí Minh đòi hỏi toàn bộ hoạt động của Đảng, phải hướng tới hoạt động của nhân dân, mà trước hết là hoạt động lao động sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần, ý muốn của quần chúng... Đó cũng chính là quan điểm thực tiễn của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Hồ Chí Minh từng cǎn dặn: "Bất cứ việc to việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và làm cho hợp với trình độ vǎn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó mà định cách làm việc, cách tổ chức. Có như thế, mới có thể kéo được quần chúng.

Nếu không vậy, cứ làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của mình rồi đem cột vào quần chúng, thì khác nào "khoét chân cho vừa giầy". Chân là quần chúng. Giầy là cách tổ chức và làm việc của ta. Ai cũng đóng giầy theo chân. Không ai đóng chân theo giầy".

Lời cǎn dặn của Người thật dung dị dễ hiểu, nhưng mang tầm cỡ một nguyên lý của nhận thức: phải từ thực tiễn cuộc sống để khái quát thành nguyên lý, phương pháp hành động sao cho phù hợp quy luật, phù hợp điều kiện hoàn cảnh, khả nǎng của

146

Page 147: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

nhân dân.

Mặt khác, với cán bộ, đảng viên, Người yêu cầu khi làm bất kỳ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, mà phải nghĩ đến đồng bào, đến toàn dân đã..., làm việc gì mình cũng nghĩ đến lợi ích chung trước, lợi ích riêng sau.

Phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng khách quan. Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải phát huy tính chủ động, gương mẫu của mình, phải sâu sát, gần dân, lắng nghe dân, phải gột bỏ chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu, xa rời quần chúng.

Để dựa vào dân, được dân tin, Hồ Chí Minh đề cao tự phê bình và phê bình. Người cho rằng uy tín của Đảng, uy tín của người lãnh đạo là ở chỗ mạnh dạn thực hiện tự phê bình và phê bình, biết học hỏi quần chúng, sửa chữa khuyết điểm để đưa công việc ngày một tiến bộ chứ không phải ở chỗ giấu giếm khuyết điểm và e sợ quần chúng phê bình.

Để dựa vững chắc vào dân, ngoài việc phát huy vai trò của Đảng và sự gương mẫu của đội ngũ đảng viên, Đảng còn phải thông qua vai trò của Nhà nước, các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng.

Nhà nước của chúng ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đó là nơi biểu hiện tập trung nhất và là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện quyền lực nhân dân. Nhà nước cũng là nơi thông qua đó để Đảng thực hiện các đường lối chính sách của mình. Nhà nước lại có phạm vi ảnh hưởng và sự tác động rộng khắp tới mọi mặt đời sống của nhân dân. Do vậy, để dựa vào dân, Đảng phải củng cố nhà nước dân chủ, vững mạnh, để nhân dân có thể thực hiện quyền lực của mình thông qua nhà nước và bằng nhà nước.

Như vậy mối quan hệ Đảng và nhân dân được đặt trong quan hệ hai chiều: Đảng và Nhà nước với nhân dân và ngược lại.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, địa vị và vai trò của các tổ chức và đoàn thể quần chúng ngày càng được củng cố, tǎng cường. Các tổ chức và đoàn thể quần chúng là một bộ phận quan trọng cấu thành hệ thống chính trị, là khâu quan trọng để củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, phát huy vai trò tích cực của quần chúng nhân dân vào việc quản lý Nhà nước và các quá trình xã hội khác. Vì vậy, Đảng phải coi trọng việc xây dựng các tổ chức đoàn thể và xây dựng Đảng trong các tổ chức đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội để tǎng cường củng cố mối quan hệ Đảng và nhân dân thông qua những tổ chức trên.

Tin dân, dựa vào dân là nguyên tắc nhất quán của Hồ Chí Minh. Nguyên tắc đó bắt nguồn từ quan điểm "lấy dân làm gốc"; từ truyền thống đoàn kết "một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao" của dân tộc ta; từ quan điểm: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng". Chính nhờ đi đúng đường lối quần chúng, biết dựa vào dân nên Đảng ta được dân tin yêu, chở che và đùm bọc. Quan hệ Đảng với dân cũng vì thế đã góp thêm vào truyền thống tốt đẹp của dân tộc - truyền thống gắn bó máu

147

Page 148: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

thịt giữa Đảng với nhân dân. Chính điều này đã cắt nghĩa tại sao ở nước ta nhân dân lao động cả nước vẫn thường gọi Đảng với các danh từ trìu mến "Đảng ta", "Đảng mình". Cũng vì vậy nhân dân đã không tiếc máu xương và của cải, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp của Đảng. Nhân dân luôn tự đứng về phía Đảng trong mọi thử thách và mọi cuộc chiến đấu để bảo vệ Đảng, coi đó là bảo vệ sự nghiệp chính nghĩa của mình. Do vậy Đảng ta đã phát động được các cao trào cách mạng, làm nên Cách mạng Tháng Tám thành công, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội; làm cho ý Đảng và lòng dân thống nhất với nhau.

Vì những lẽ đó, Đảng càng phải đặc biệt chǎm lo tới lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

3. Nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng để phát huy quyền làm chủ của dân

Trong mối quan hệ giữa Đảng với dân, sự tác động qua lại không chỉ là: Đảng gắn với dân, dựa vào dân thì mới có sức mạnh, mới làm nên thắng lợi trong cách mạng mà còn có một khía cạnh khác khá phong phú và sâu sắc. Đó là: có nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng thì mới phát huy được quyền làm chủ của nhân dân. Điều này mới nghe tưởng như mâu thuẫn. Nhưng trên thực tế việc nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng không hề đối lập với phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Sự thống nhất biện chứng giữa chủ thể lãnh đạo và đối tượng lãnh đạo được Hồ Chí Minh thể hiện ở các khía cạnh sau:

Thứ nhất, Hồ Chí Minh nêu quan điểm lãnh đạo là để phụng sự dân, là công bộc, là người đầy tớ trung thành của nhân dân.

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám vừa thành công, trong Thư gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Người đã chỉ rõ: "Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của nhân dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật".

Sau đó nhiều lần Người tiếp tục nhắc nhở rằng trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, từ người quét nhà, nấu ǎn cho đến Chủ tịch một nước đều là làm đầy tớ cho dân; rằng cán bộ Đảng, cán bộ chính quyền không phải làm quan cách mạng ǎn trên ngồi trốc, mà phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, phải cần, kiệm, liêm, chính; một lòng một dạ phục vụ nhân dân...

Như vậy là trước sau Hồ Chí Minh đều nhất quán với quan điểm - lãnh đạo là đầy tớ trung thành của nhân dân. Không những thế, Người còn làm rõ bản chất của chế độ ta, thông qua tính mục đích của sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là đem lại lợi ích cho nhân dân.

Hồ Chí Minh nêu một cách khá sâu sắc tính mục đích của sự lãnh đạo, mối quan hệ của bổn phận và trách nhiệm của lãnh đạo và bị lãnh đạo. Người viết: "Chế độ ta là

148

Page 149: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ, theo đúng kỷ luật của Chính phủ, và làm đúng chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm tròn bổn phận mà nhân dân đã giao phó cho". Ngoài ra, Người cũng chỉ rõ những nhiệm vụ cụ thể, đòi hỏi mỗi cán bộ đảng viên trong bộ máy Đảng và Nhà nước phải yêu kính, tôn trọng dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Quan điểm trên của Hồ Chí Minh chính là sự kế thừa, tổng kết kinh nghiệm của Mác, Ǎngghen sau Công xã Pari và sự phát triển của Lênin trong việc đề ra những biện pháp để khắc phục bệnh quan liêu của Nhà nước vô sản. Những quan điểm của Hồ Chí Minh về lãnh đạo có sức thuyết phục mạnh mẽ, mang lại hiệu quả lãnh đạo thiết thực vì nó nhất quán với bản chất của chế độ xã hội mới của ta. Đó là một chế độ dân chủ, mà địa vị cao nhất là dân, bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.

Quyền lãnh đạo của Đảng, chính là sự uỷ thác của nhân dân, do nhân dân trao cho mà có. Mọi người từ địa vị nhỏ nhất đến đa vị cao nhất trong bộ máy của Đảng và Nhà nước phải là người đầy tớ trung thành, vì lợi ích của nhân dân. Mặt khác, cơ sở xã hội của Đảng ta chủ yếu là nông dân. Bên cạnh những ưu điểm một lòng một dạ đi theo Đảng, cần cù, dũng cảm, yêu nước, nông dân còn nhiều hạn chế về trình độ vǎn hoá, phong cách tư duy... Hơn nữa, sau ngót một thế kỷ xâm lược, nô dịch, bọn thực dân đế quốc đã thi hành nhiều chính sách thâm độc làm cho nông dân ta bị hạn chế nhiều mặt. Do vậy cán bộ, đảng viên phải có thái độ tận tình phục vụ, nâng đỡ, động viên, ngay thẳng, khiêm tốn, không được chủ quan, kiêu ngạo mà phải thực sự cầu thị, học hỏi dân, đặc biệt là phải gương mẫu, mực thước trước dân. Muốn vậy phải thấm nhuần quan điểm phục vụ dân, phụng sự dân, đầy tớ trung thành của dân để dân có điều kiện phát huy cao nhất quyền làm chủ của mình.

Thứ hai, Tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên phải có phương pháp lãnh đạo đúng đắn. Theo Hồ Chí Minh, phương pháp đó là; lãnh đạo nhân dân bằng cách tuyên truyền giải thích, cổ động giáo dục, tổ chức nhân dân, để thực hiện nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Trong việc động viên giải thích bao giờ cũng phải có sức thuyết phục, sát thực tế, sát trình độ và đặc biệt phải gắn liền vấn đề lợi ích với nhiệm vụ để nhân dân tự giác tham gia "Phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi người dân hiểu rõ rằng: việc đó là ích lợi cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hǎng hái làm cho kỳ được". Lãnh đạo, theo Hồ Chí Minh còn phải áp dụng phương pháp làm gương, phải tự mình cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, phải dũng cảm, công bằng trước nhân dân. Đặc biệt là lời nói và hành động phải đi đôi với nhau, "óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói tay làm", chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh.

Vậy là, với Hồ Chí Minh, ngay trong khái niệm lãnh đạo đã hàm chứa cả nghĩa "đầy tớ" chứ không phải phân biệt lúc này là lãnh đạo, lúc khác mới là đầy tớ. "Đầy tớ" và "lãnh đạo" là thống nhất trong phẩm chất, nǎng lực và trách nhiệm của người đảng viên, cán bộ trước nhân dân.

Thứ ba, muốn nâng cao vai trò lãnh đạo, cán bộ đảng viên phải không ngừng học tập

149

Page 150: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

và rèn luyện. "Cách mạng cũng là một nghề"; "Làm nghề gì cũng phải học", do vậy làm cách mạng cũng phải học. Muốn làm cách mạng, muốn lãnh đạo được dân phải có kiến thức, trí tuệ, nǎng lực phẩm chất đạo đức.

Học theo Hồ Chí Minh không phải để làm quan mà "học để làm việc, học để làm người". Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ phải có phẩm chất đạo đức và có nǎng lực tương ứng. Người cán bộ có tài mà thiếu đức thường gây ra những hậu quả khôn lường. Nhưng có đức mà thiếu tài cũng chẳng khác gì ông bụt ngồi trong chùa. Vậy cán bộ phải học, phải rèn luyện, mà trước hết là học lý luận Mác - Lênin để củng cố đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao hiểu biết và nâng cao trình độ chính trị. Đảng viên, cán bộ còn phải học dân. Vì dân ta rất thông minh, có nhiều kinh nghiệm. "Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân mới làm được thầy học dân".

Người cũng đòi hỏi người cán bộ, đảng viên phải rèn luyện để nâng cao đạo đức cách mạng, phải biết đặt lợi ích tập thể, lợi ích của Đảng, lợi ích nhân dân lên trên hết. Phải tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, phải luôn luôn chǎm lo đến đời sống của nhân dân. Phải thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình một cách thành khẩn, thẳng thắn, phải giữ nghiêm kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước, phải làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. Điều đó chứng tỏ khi nào Đảng giữ vững và phát huy được quyền lãnh đạo của mình như Hồ Chí Minh đã dạy thì nhân dân mới có dân chủ, mới có quyền lực thực sự. Và khi nào quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, thì vai trò, uy tín của Đảng càng được đề cao, càng được củng cố. Đó là quan hệ gắn bó biện chứng với nhau.

4. Đưa đường lối của Đảng vào cuộc sống, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của dân.

Đường lối lãnh đạo của Đảng là khoa học và nghệ thuật. Nó xác định những mục tiêu, phương hướng và những giải pháp cơ bản của cách mạng trong những giai đoạn nhất định.

Đường lối chính là cơ sở chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng, là ngọn cờ tập hợp, đoàn kết nhân dân xung quanh Đảng.

Đường lối còn là cơ sở để định ra các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Vì vậy, đường lối liên quan mật thiết tới sinh mệnh của Đảng và của nhân dân. Do vậy, một mặt, đường lối phải đúng đắn, khoa học, phản ánh được quy luật phát triển khách quan của xã hội, hợp với lợi ích, nguyện vọng của nhân dân. Mặt khác phải được tổ chức thực hiện có hiệu quả nhất.

Việc tổ chức thực hiện đường lối của Đảng vừa thể hiện khả nǎng lãnh đạo, hiện thực hoá đường lối của Đảng và đội ngũ đảng viên vào cuộc sống, vừa phản ánh sự đồng tình ủng hộ của nhân dân.

Chính vì vậy việc đảng viên đưa đường lối vào cuộc sống của nhân dân và ý kiến,

150

Page 151: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

nguyện vọng, sáng kiến của nhân dân được đưa vào đường lối của Đảng là một tất yếu trong mối quan hệ biện chứng giữa Đảng và nhân dân. Bởi chính phong trào cách mạng của nhân dân là yếu tố quan trọng nhất biến đường lối của Đảng thành hiện thực, tạo nên những thắng lợi trong cách mạng.

Trong sự tác động qua lại trên, theo Hồ Chí Minh cán bộ, đảng viên giữ vai trò rất quan trọng. Chính đảng viên, cán bộ là dây chuyền của bộ máy, của tổ chức, nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì bộ máy cũng tê liệt. Đảng viên, cán bộ là những người mang đường lối, nghị quyết, chính sách của Đảng thực hiện trong nhân dân. Do vậy đảng viên, cán bộ phải tin quần chúng, đi sát quần chúng, hoà mình với quần chúng thành một khối. Do lời nói và việc làm, đảng viên, đoàn viên và cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, đoàn kết chặt chẽ chung quanh Đảng, tổ chức, tuyên truyền và động viên quần chúng hǎng hái thực hiện chính sách và nghị quyết của Đảng.

Để biến quyết tâm của Đảng thành quyết tâm của toàn dân, Hồ Chí Minh cǎn dặn cán bộ, đảng viên phải vì lợi ích của nhân dân mà phục vụ, và trước mỗi công việc muốn được dân đồng tình ủng hộ phải tìm cách giải thích cho dân hiểu.

Người dạy: "Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khǎn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ. Nhưng trước hết cần phải chịu khó tìm đủ cách giải thích cho họ hiểu rằng: những việc đó là vì ích cho họ mà phải làm". Từ đó mà sáng tạo những phương thức, cách thức hành động để đạt hiệu quả cao nhất trong việc đưa đường lối của Đảng vào quần chúng nhân dân. Tuy nhiên các ý thức vận động phải hợp với trình độ vǎn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ, kinh nghiệm, tình hình thực tế của quần chúng.

Vì vậy, theo Hồ Chí Minh cách tổ chức và cách làm việc nào không phù hợp với quần chúng thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại. Phải kiên quyết tẩy bỏ bệnh quan liêu xa rời nhân dân, xa rời thực tiễn. Đó là cǎn bệnh "không chịu khó hỏi quần chúng cần cái gì, muốn theo muốn biết cái gì, ham chuộng cái gì. Chỉ mấy cán bộ đóng cửa lại mà làm, ngồi ỳ trong phòng giấy mà viết, cứ tưởng những cái mình làm là đúng, mình viết là hay ho. Kết quả là "đem râu ông nọ chắp cằm bà kia", không ǎn thua, không thấm thía, không ích lợi gì cả.

Theo Hồ Chí Minh, nguyên tắc cao nhất trong chỉ đạo thực tiễn, trong triển khai đường lối chính sách của Đảng là phải luôn luôn do nơi quần chúng kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng hay không.

Mặt khác, khi đã có đường lối và chính sách đúng rồi thì thành công hay thất bại của chính sách còn do nơi tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Ba điều ấy sơ sài không đồng bộ, không chặt chẽ, thì đường lối, chính sách hay mấy cũng vô ích. Do vậy, "Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hoá ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng".

151

Page 152: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Trong quá trình triển khai việc thực hiện đường lối của Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu phải hết sức tôn trọng ý kiến đóng góp của quần chúng, không được có thái độ "bịt mồm quần chúng". Sự tôn trọng và tiếp thu một cách nghiêm chỉnh ý kiến xây dựng của quần chúng không chỉ là để Đảng với dân hiểu nhau, gần nhau, mà còn giúp cho các tổ chức Đảng, đảng viên nhận rõ được sai lầm thiếu sót của mình mà sửa chữa, làm cho Đảng với dân thêm gắn bó, và thể hiện sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.

Hồ Chí Minh nhắc lại câu tục ngữ "Dân dĩ thực vi tiên" và "Có thực mới vực được đạo" để nhắc nhở phải đặc biệt chǎm lo cải thiện, nâng cao không ngừng đời sống nhân dân.

Điều này chứng tỏ Đảng cần phải quan tâm tới hiệu quả thực tế của nghị quyết và chính sách của mình. Vì vậy, chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức quan tâm tới đời sống của dân. "Dân đủ ǎn đủ mặc thì chính sách của Đảng và Chính phủ đưa ra sẽ dễ đàng thực hiện"

Để đường lối của Đảng đi vào cuộc sống của nhân dân và cuộc sống của nhân dân đi vào đường lối của Đảng, ngoài những vấn đề cơ bản đã được đề cập ở trên, Hồ Chí Minh còn yêu cầu mỗi người dân phải phát huy quyền làm chủ và trách nhiệm công dân trong việc đóng góp, xây dựng phê bình và kiểm tra công việc và hành vi của các cán bộ, đảng viên. Có như vậy mới tránh được khuyết điểm, mới củng cố được mối quan hệ Đảng với nhân dân.

5. Đảng cùng dân kiên quyết chống tệ nạn tham ô, lãng phí, quan liêu và các tệ nạn khác trong bộ máy của Đảng và nhà nước

Mục tiêu cao cả của cuộc đời Hồ Chí Minh là giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Để thực hiện mục tiêu trên, Hồ Chí Minh khẳng định phải giành lấy chính quyền về tay nhân dân; phải tập hợp tổ chức nhân dân làm cách mạng. Nhưng muốn cách mạng thành công, muốn giành được chính quyền phải có đảng cách mạng lãnh đạo. Vì vậy, sau khi tìm được con đường giải phóng dân tộc theo quỹ đạo của cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh xúc tiến công việc tổ chức, xây dựng một Đảng cách mạng chân chính, tiên phong, lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam làm cách mạng.

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám 1995 thành công, Hồ Chí Minh đã khẳng định Đảng ta là Đảng cầm quyền: vì Đảng đã lãnh đạo cách mạng trong điều kiện có chính quyền và Đảng lãnh đạo chính quyền nhân dân một cách trực tiếp, toàn diện. Cũng từ đó vấn đề Đảng cầm quyền được Người đặc biệt chú ý quan tâm. Điều đáng lưu ý là Hồ Chí Minh nhận ra rất sớm những vấn đề của Đảng cầm quyền; vấn đề Đảng lãnh đạo Nhà nước để cho Nhà nước đó là của dân, do dân, vì dân. Đảng cầm quyền là điều kiện tiên quyết để thực hiện mục tiêu lý tưởng giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân, trả lại quyền làm chủ cho nhân dân. Vì vậy, khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền thì Đảng và nhân dân ta đã có điều kiện tiên quyết để thực hiện mục tiêu lý tưởng của mình. Nhưng trong hoàn cảnh mới, Đảng cầm quyền cũng đứng trước

152

Page 153: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

nguy cơ xa rời quần chúng nhân dân, xa rời mục tiêu lý tưởng cách mạng; do đó, khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, trên cương vị đứng đầu Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh thường nhắc nhở đảng viên, cán bộ rằng: "Những người cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới"1 .

Sự nhất quán trong quan điểm về Đảng cầm quyền của Hồ Chí Minh xuất phát từ tầm nhìn xa, thấy rộng của Người về những nguy cơ khi Đảng có chính quyền. Lúc đó người cán bộ, đảng viên dễ quên đi lý tưởng của mình bởi họ là những "quan chức" và cán bộ "chuyên nghiệp" trong bộ máy của Đảng và Nhà nước. Thực tế trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều thói hư, tật xấu đã nảy sinh trong cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người có chức, có quyền như: cậy quyền, cậy thế, hủ hoá, chia rẽ, kiêu ngạo... và Người gọi đó là những "lỗi lầm rất nặng nề". Những lỗi lầm đó rất nguy hiểm vì nó phá hoại ta từ bên trong. Do đó Đảng phải luôn luôn nhắc nhở, rèn luyện phẩm chất người đảng viên cộng sản, phải đấu tranh với kẻ địch nguy hiểm nhất là "chủ nghĩa cá nhân" - nguyên nhân chính của những thói hư tật xấu trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng; nâng cao tinh thần phục vụ dân, yêu kính dân, biết dựa vào quần chúng thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, khiêm tốn, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, thật thà ngay thẳng, đặc biệt là phải luôn luôn tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.

Theo Hồ Chí Minh, trách nhiệm của một đảng cầm quyền, một đảng cách mạng chân chính là phải lãnh đạo nhân dân tổ chức ra được một nhà nước của dân, do dân, vì đân. Nhà nước đó chính là nơi nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình đầy đủ nhất. Mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và nhân dân cũng vì vậy thông qua Nhà nước. Do đó, Hồ Chí Minh đã kiên định lập trường tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, mọi việc nước là việc chung của mọi người Việt Nam bất kể già, trẻ, gái trai, giầu nghèo, nòi giống, tôn giáo khác nhau đều có quyền và nghĩa vụ phải tham gia xây dựng Nhà nước.

Trong mỗi chủ trương, chính sách, Hồ Chí Minh luôn đề cao dân chủ, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, trước hết là dân chủ trong lĩnh vực chính trị, thể hiện trong việc Tổng tuyển cử để toàn dân bầu ra Quốc hội, để Quốc hội cử ra Chính phủ của toàn dân và quyền nhân dân được tham gia ứng cử theo luật định.

Khi đã có Nhà nước, vấn đề làm thế nào để "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân", nhân dân có thể làm chủ, mọi quyền hạn đều là của dân, mọi quyền hành đều thuộc về dân là vấn đề được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Bởi vì trên thực tế, nhân dân không thể thường xuyên trực tiếp thực hiện quyền làm chủ của mình và hơn nữa không phải bất kỳ một công việc gì trong đời sống xã hội cũng đều có thể đưa ra để bàn bạc.

Trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhân dân chỉ có thể làm chủ gián tiếp thông qua người đại diện của mình. Vì vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để những người đại

153

Page 154: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

diện quyền lực của nhân dân không chiếm đoạt quyền đó thành quyền lực cá nhân; làm thế nào để có một nhà nước vì dân, phục vụ dân mà không có đặc quyền, đặc lợi, không phải trên lời nói mà bằng hành động cụ thể trong cuộc sống hàng ngày; đó là điều trǎn trở, là sự quan tâm thường trực ở Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, Người đòi hỏi Nhà nước từ trung ương tới làng, xã phải thực sự gương mẫu, thật sự trong sạch; phải vì nhân dân mà phục vụ theo một nguyên tắc nhất quán là:

"Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm;

Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh.

Chúng ta phải yêu dân, kính dân, thì dân mới yêu ta, kính ta".

Hồ Chí Minh không những nhìn thấy sớm những vấn đề chung của một bộ máy quyền lực "tách khỏi dân, đứng trên dân" trong điều kiện Đảng cầm quyền, mà Người còn thấy trước cả những vấn đề phức tạp của một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, manh mún đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện như vậy không chỉ có vấn đề cán bộ, đảng viên dễ sa vào chủ nghĩa quan liêu, xa rời dân, đứng trên đầu dân, ức hiếp dân, mà còn đẻ ra hàng loạt những tệ nạn khác như tham ô, lãng phí, hủ hoá, bè phái địa phương, cục bộ... Tất cả những thứ đó gộp lại như một thứ "giặc nội xâm" làm ruỗng nát bộ máy của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, Người kêu gọi mọi cán bộ, đảng viên trong bộ máy Đảng và Nhà nước phải thực sự cùng nhân dân chống trả tích cực những cǎn bệnh trên, mà trước hết và chủ yếu là bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí.

Là Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam kiểu mới, người thầy của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh hiểu rõ những cǎn nguyên của các khuyết tật phát sinh trong quá trình Đảng cầm quyền, đặc biệt là bệnh quan liêu và chủ nghĩa cá nhân. Bệnh này nguy hiểm vì nó triệt tiêu quyền làm chủ của nhân dân. Hơn nữa nó lại thường bị trá hình và giả danh vì "miệng thì nói dân chủ, nhưng việc làm thì theo lối "quan" chủ. Miệng thì nói "phụng sự quần chúng" nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng".

Nguyên nhân của cǎn bênh trên, theo Hồ Chí Minh là do xa dân, không hiểu dân, khinh dân cho là "dân ngu khu đen", do sợ dân vì bản thân mình có khuyết điểm; không tin dân không hiểu biết nhân dân; không yêu thương nhân dân, chỉ biết đòi hỏi dân mà không biết nâng đỡ, giúp dân. Theo Người muốn chữa được bệnh đó, phải theo đúng nguyên tắc là đường lối nhân dân bao gồm mấy nội dung cơ bản sau:

"- Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết;

- Liên hệ chặt chẽ với nhân dân;

- Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích trước nhân dân hiểu rõ;

- Có khuyết điểm thì thật thà phê bình trước nhân dân, và hoan nghênh nhân dân phê

154

Page 155: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

bình mình.

- Sẵn sàng học hỏi nhân dân;

- Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm, liêm chính để nhân dân noi theo".

Đó là thang thuốc chữa bệnh quan liêu và bệnh cá nhân chủ nghĩa.

Thiết nghĩ, thang thuốc ấy đến nay đem dùng đúng, dùng đủ và thường xuyên chắc rằng đảng cầm quyền sẽ vững mạnh hơn, nhân dân sẽ gắn bó chặt chẽ với Đảng hơn.

NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997

Chương IV

THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN TỒN TẠI CỦA MỐI QUAN HỆ ĐẢNG VÀ DÂN HIỆN NAY

1-Thực trạng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân

Hơn sáu thập kỷ qua là một quãng thời gian ngǎn so với tiến trình mấy ngàn nǎm lịch sử của dân tộc. Nhưng trong thời gian đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta làm nên nhiều kỳ tích vĩ đại. Nhờ đó, mà bất cứ một người Việt Nam nào biết quý trọng độc lập, tự do của Tổ quốc, biết yêu quý, trân trọng phẩm giá và hạnh phúc được đổi bằng xương máu mới có, đều phải tự hào về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và công lao, đóng góp to lớn của nhân dân ta. Cũng nhờ vậy nhân dân ta đã gắn bó với Đảng, luôn đứng về phía Đảng, cùng chia sẻ mọi khó khǎn gian khổ và hy sinh để bảo vệ Đảng. Nhân dân ta đã xem việc bảo vệ Đảng là vinh dự, là nghĩa vụ thiêng liêng đối với Tổ quốc và dân tộc. Nhiều nơi nhân dân đã dũng cảm chịu mọi cực hình, thậm chí hy sinh cả tính mạng để bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ.

Vì vậy, trong lịch sử đấu tranh cách mạng, không một thắng lợi nào lại không có sự gắn bó của nhân dân với Đảng và hy sinh xương máu của nhân dân. Những thắng lợi to lớn của nhân dân ta bắt nguồn từ đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn của Đảng. Cán bộ, đảng viên gương mẫu chiến đấu hy sinh chỉ nhằm một mục đích là giành lại độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Những chiến công mà Đảng và nhân dân ta giành được trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và trong sự nghiệp giải phóng đất nước là kết tinh cao nhất, là biểu hiện sinh động nhất của mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân.

Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng, Đảng ta không phải chỉ có thắng lợi, mà còn có những vấp váp, thậm chí những sai lầm nghiêm trọng như: sai lầm về lãnh đạo trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức ở giai đoạn

155

Page 156: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

cách mạng dân tộc dân chủ; sai lầm về một số chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện trong giai đoạn từ 1975 - 1986. Thêm vào đó là tình trạng mất dân chủ trong Đảng và trong xã hội, một bộ phận cán bộ Đảng viên thoái hoá, biến chất, tham nhũng, ức hiếp, trù dập nhân dân, bòn rút, ǎn cắp của công làm giàu nhanh chóng và bất chính, đã làm cho uy tín của Đảng giảm sút một cách nghiêm trọng. Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân không còn được gắn bó như các giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trước đây; thậm chí Đảng đứng trước nguy cơ mất dân. Song, do có bản lĩnh cách mạng vững vàng, do biết đề cao tinh thần trách nhiệm trước vận mệnh của giai cấp và dân tộc, biết rút bài học "lấy dân làm gốc", Đảng đã dũng cảm thừa nhận những sai lầm khuyết điểm trước nhân dân và quyết tâm sửa chữa. Chính nhờ vào khả nǎng tự điều chỉnh để hoàn thiện sự lãnh đạo và hiệu quả kinh tế - xã hội do sự lãnh đạo của mình đưa lại, Đảng đã dần dần lấy lại được lòng tin trong nhân dân. Điều đó chứng tỏ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân không phải nhất thành bất biến. Quan hệ đó luôn luôn vận động, biến đổi thông qua sự tác động qua lại lẫn nhau giữa hai thực thể Đảng và nhân dân. Nhưng dù có biến đổi như thế nào thì hình thức biểu hiện của mối quan hệ đó rất dễ nhận thấy. Khi Đảng và dân gắn bó máu thịt với nhau thì dân tin Đảng, phục Đảng, hết lòng ủng hộ Đảng, ủng hộ cách mạng, thực hiện nghiêm chỉnh và có hiệu quả mọi chủ trương, chính sách do Đảng đề ra; đảng viên thì biết dựa vào dân, tin dân, hết lòng phục vụ lợi ích nhân dân, luôn thể hiện là người tiên phong gương mẫu, là tấm gương sáng cho nhân dân noi theo. Ngược lại, nơi nào và lúc nào dân giảm lòng tin ở Đảng, Đảng không tìm thấy sự ủng hộ của dân, không tìm thấy sức mạnh trong dân, đảng viên xa rời nhân dân thì lúc đó, nơi đó quan hệ giữa Đảng và nhân dân trở nên lỏng lẻo, rạn nứt.

Đảng cần có dân mới tồn tại và phát triển. Còn dân cần Đảng để được giải phóng, được tự do và có hạnh phúc thực sự. Vì vậy Đảng với nhân dân gắn bó tự nhiên với nhau. Sự gắn bó đó xuất phát từ sự thống nhất về lợi ích cơ bản giữa giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Như Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: ngoài lợi ích của giai cấp và dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức, lãnh đạo nhân dân để nâng cao đời sống kinh tế, vǎn hoá, chính trị cho nhân dân vì toàn dân được giải phóng thì Đảng được giải phóng. Do vậy, độ bền vững, chất lượng của mối quan hệ phụ thuộc vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào việc Đảng có đủ sức đảm đương được trọng trách của mình và mang lại lợi ích, quyền làm chủ cho nhân dân hay không. Một khi Đảng không giữ vững được vị trí của mình thì Đảng đứng trước nguy cơ tự đánh mất vai trò lãnh đạo, tự phá huỷ mối quan hệ đó. Do đó liên hệ mật thiết với nhân dân là quy luật tồn tại và phát triển của một đảng vô sản chân chính; là nguồn tạo nên sức mạnh lãnh đạo của Đảng và nhân lên sức mạnh của nhân dân.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng có nhiều điều kiện thuận lợi để mở rộng và tǎng cường mối liên hệ với nhân dân; song cũng thường xuyên xuất hiện nguy cơ lớn: Đảng cầm quyền quan liêu hoá, xa dân.

Khi nói tới sự thuận lợi để mở rộng và tǎng cường mối liên hệ với nhân dân là nói tới sự đa dạng hoá các hình thức liên hệ của Đảng với nhân dân: Đảng liên hệ với nhân

156

Page 157: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

dân thông qua đường lối, chủ trương và việc thực hiện đường lối, chủ trương đó của Đảng; thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng; thông qua các tổ chức, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội; thông qua chính sách, pháp luật của Nhà nước...

Do vậy, xem xét và đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân cũng phải dựa trên những hiệu quả đạt được thể hiện trên những hình thức biểu hiện đó.

Thực tiễn cách mạng nước ta và thế giới cũng chỉ ra là tuỳ từng giai đoạn cách mạng khác nhau mà các yếu tố trên có vai trò khác nhau. Nhưng tựu chung lại, cái bảo đảm cho mối quan hệ Đảng và dân được gắn bó là Đảng đưa ra được đường lối chính trị sáng suốt để giải phóng và xây dựng đất nước làm cho dân giàu, nước mạnh. Đảng biết dựa vào dân và phát huy đầy đủ sức mạnh của nhân dân để phục vụ quyền lợi nhân dân. Đảng phải bao gồm những đảng viên có nǎng lực, có phẩm chất, đạo đức cách mạng, yêu nước, gắn bó với dân, hết lòng hy sinh phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân từ khi Đảng cầm quyền trong cả nước tới nay còn bộc lộ nhiều hạn chế, thậm chí có lúc, có nơi lỏng lẻo và rạn nứt. Đảng ta đã nhiều lần tự phê bình.

Tháng 3 nǎm 1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã sớm chỉ ra những yếu kém trong Đảng. Đó là tình trạng mất dân chủ, thiếu tự phê bình từ trên xuống và phê bình từ dưới lên, thiếu thông tin đầy đủ và kịp thời cho cấp dưới, không xem trọng việc phân tích dư luận của quần chúng, những hiện tượng gia trưởng độc đoán, thành kiến và trù dập cán bộ, đảng viên và quần chúng tốt dám phê bình khuyết điểm... Tình trạng sa sút phẩm chất đạo đức cách mạng, giảm sút ý chí chiến đấu trong một bộ phận cán bộ phụ trách ở các cấp, các ngành từ trên xuống dưới và một bộ phận đảng viên đang gây tác hại lớn. Nhiều người đã biến chất trong lối sống, thoái hoá về chính trị, mang nặng chủ nghĩa cá nhân; tư tưởng phong kiến, đặc quyền đặc lợi, cơ hội kèn cựa, địa vị... đã gây nên tình trạng mất đoàn kết, kém hợp tác, thậm chí bè cánh trong một số cán bộ ở không ít địa phương, cơ quan, đơn vị.

Từ đó, Đảng ta đã rút ra kết luận: "Những khuyết điểm và nhược điểm về phẩm chất đạo đức của cán bộ đảng viên đã làm cản trở việc thực hiện đường lối của Đảng, gây tác hại lớn về kinh tế, chính trị và đang bị kẻ địch lợi dụng để kích động quần chúng, làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối với Đảng".

Tháng 12 nǎm 1986 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng nhận định "Trong xã hội ta đang có những hiện tượng không bình thường: Sự thiếu gắn bó chặt chẽ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, tình trạng quan liêu trong các cơ quan lãnh đạo, quản lý và các tổ chức chuyên trách về công tác quần chúng"... đã "làm giảm lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của các cơ quan nhà nước".

Không chỉ dừng ở đó, cuối tháng 3 nǎm 1990, Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành

157

Page 158: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Trung ương Đảng (Khoá VI), đã đánh giá khái quát và đầy đủ về thực trạng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ta hiện nay là:

"Từ khi Đảng lãnh đạo chính quyền trên phạm vi cả nước, mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân bị giảm sút, có lúc, có nơi khá nghiêm trọng. Bên cạnh số đông cán bộ, đảng viên vẫn giữ được phẩm chất cách mạng và gắn bó với nhân dân, một bộ phận cán bộ, đảng viên mang nặng bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, chuyên quyền độc đoán, ức hiếp nhân dân, tham ô, hối lộ, sống xa hoa, lãng phí. Các đoàn thể quần chúng cũng bị quan liêu hoá, hành chính hoá, không đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp tập hợp các tầng lớp nhân dân; không ít tổ chức cơ sở hoạt động thất thường hoặc không hoạt động, nhiều đoàn viên, hội viên không tha thiết gắn bó với đoàn thể mình". Đây là sự tự đánh giá khá chính xác về thực trạng của mối quan hệ Đảng và dân từ trước tới nay.

Sau Nghị quyết Trung ương Tám (Khoá VI), do những biến động lớn về tình hình chính trị thế giới và do chúng ta chưa có biện pháp tích cực để nâng cao sức chiến đấu của Đảng, nên nhìn chung mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trên thực tế vẫn chưa có gì chuyển biến đáng kể. Điều này được thể hiện trong các nhận định của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6-1991) và Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành Trung ương (Khoá VII) tháng 6 nǎm 1992.

Sau những biến động lớn của tình hình chính trị thế giới, đặc biệt là sự tan vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, một số cán bộ đã dao động về mục tiêu lý tưởng cách mạng, về niềm tin vào học thuyết Mác- Lênin, vào tư tưởng Hồ Chí Minh. Thậm chí có người đã không tin vào sự lãnh đạo của Đảng, đòi đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập; có người đã rời bỏ hàng ngũ, tiếp tay với địch để bôi xấu chế độ, phản bội lại Tổ quốc. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên giảm sút ý chí chiến đấu và phẩm chất đạo đức, chạy theo lối sống thực dụng, sống buông thả, chạy theo đồng tiền, lợi dung mọi sơ hở trong cơ chế, chính sách quản lý của Đảng và Nhà nước để tham ô, ǎn cắp của công, làm giàu bất chính. Một số cán bộ, đảng viên trước đây sống dựa vào dân, nhờ dân che chở, nay vì lợi ích cá nhân mà quên nhân dân, thậm chí quay lưng lại với dân. Họ sống ích kỷ, nịnh trên, nạt dưới, ức hiếp trù dập nhân dân, xa lánh dân làm cho nhân dân oán thán.

Những sai lầm, khuyết điểm kéo dài trong sự lãnh đạo của Đảng và những sa sút, thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, thanh danh của Đảng, đến lòng tin của nhân dân. Các thế lực thù địch với chế độ xã hội chủ nghĩa đã lợi dụng những sai sót, yếu kém và sa sút trên để chia rẽ nội bộ, chia rẽ Đảng với nhân dân.

Có thể nói, từ cuối thập kỷ 70 đến cuối thập kỷ 80 là giai đoạn đánh dấu sự rạn nứt sâu sắc trong mối quan hệ Đảng và dân từ sau khi Đảng cầm quyền đến nay. Điều đáng lưu ý là giai đoạn này cũng trùng khớp với thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta. Vấn đề này giúp ta hiểu thêm thực chất của mối quan hệ Đảng và dân trong thời kỳ hiện đại.

158

Page 159: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Những nǎm gần đây các cấp uỷ và tổ chức Đảng đã có quyết tâm trong thực hiện nhiệm vụ đổi mới, chỉnh đốn Đảng, gắn với việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,... cùng với việc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế, ngoại giao, ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng đã tạo nên những chuyển biến tích cực trong việc củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.

Tuy vậy, công tác quần chúng của Đảng ta vẫn còn những hạn chế. Một số cấp uỷ còn lúng túng trong đổi mới nội dung, phương thức hoạt động các đoàn thể, tổ chức quần chúng, chưa đáp ứng được những nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của các tầng lớp nhân dân; khả nǎng thu hút quần chúng của các đoàn thể còn rất yếu. Một số nơi còn vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Một số đảng viên chưa quan tâm tới phong trào quần chúng. Có nơi còn để các lực lượng thù địch tranh giành quần chúng với Đảng và chính quyền ta.

2. Nguyên nhân của tình trạng suy yếu mối quan hệ giữa Đảng và dân

Thực trạng suy yếu của mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân được nêu ở trên do nhiều nguyên nhân gây ra. Nhưng trước hết phải tìm nguyên nhân ở chính sự lãnh đạo của Đảng, ở đội ngũ cán bộ, đảng viên, chứ không phải ở phía quần chúng nhân dân. Vì Đảng ta là đảng cầm quyền, những thắng lợi và thành tựu, những thất bại và tổn thất của cách mạng đều gắn liền với trách nhiệm của Đảng. Với tinh thần ấy, có thể tìm những nguyên nhân của những tồn tại trong mối quan hệ giữa Đảng với dân ở những khía cạnh chính sau đây:

Thứ nhất, phải xem đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng có phù hợp với lợi ích, nguyện vọng của nhân dân hay không.

Như trên đã trình bày, đường lối không chỉ quyết định tới vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho cách mạng không bị chệnh hướng, mà còn là cơ sở để bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng, ý chí, hành động của toàn Đảng và toàn dân, là ngọn cờ tập hợp mọi lực lượng nhân dân để tạo nên phong trào cách mạng trong quần chúng. Do vậy, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng là nhân tố quyết định nhất tới mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.

Trong cách mạng dân tộc dân chủ, đường lối chính trị của Đảng ta đã phản ánh sự thống nhất về lợi ích cơ bản của Đảng và nhân dân. Đồng thời thể hiện đầy đủ sự kiên định mục tiêu chiến lược và phương hướng cách mạng đã được lựa chọn; Đảng lại biết vận dụng sách lược mềm dẻo, có sự sáng tạo và linh hoạt về phương pháp cách mạng, đội ngũ đảng viên gương mẫu, trong sáng, sống chết với dân nên đã tập hợp và phát huy được sức mạnh toàn dân tạo nên thắng lợi quyết định của cách mạng.

Đây là thời kỳ mối quan hệ giữa Đảng với dân rất tốt đẹp và có rất nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.

159

Page 160: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền. Trở thành Đảng cầm quyền là một bước phát triển mới về chất trong quá trình hoạt động của Đảng. Đó cũng là điều kiện làm thay đổi nội dung và hình thức mối quan hệ giữa Đảng với dân so với trước đây. Mặc dù trong giai đoạn ngắn 1945-1946, tình hình chính trị trong nước có nhiều đảng phái rất phức tạp, Đảng ta với lãnh tụ Hồ Chí Minh vẫn thực sự là người lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo nhân dân và được nhân dân ủng hộ. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, Đảng ta phải chịu trách nhiệm trước dân tốc, đứng ra lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống Pháp. Còn các đảng đối lập khác, vốn xa cách nhân dân, hoạt động không vì lợi ích của nhân dân, thoái thác trách nhiệm trước nhân dân.

Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và kháng chiến chống ngoại xâm, Đảng ta không chỉ có nhiệm vụ lãnh đạo "kháng chiến" mà còn có nhiệm vụ quan trọng là "kiến quốc", từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta nhờ có đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn phù hợp với nguyện vọng, nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp nhân dân và của cả dân tộc, đồng thời phù hợp với đặc điểm và xu thế của thời đại nên không những được nhân dân ta, mà còn được cả nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới đồng tình và ủng hộ; do đó cách mạng đã giành được thắng lợi to lớn và uy tín của Đảng ta trong nhân dân rất cao.

Tuy nhiên, như trên đã nói trong quá trình lãnh đạo cách mạng, bên cạnh những thành tựu, Đảng ta đã phạm một số sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, đặc biệt là giai đoạn 1975-1986 đã làm cho tình hình kinh tế xã hội không được cải thiện. Mọi động lực về lợi ích của người lao động bị triệt tiêu. Nǎng suất lao động tụt thấp. Quyền làm chủ của người lao động trở thành hình thức, gò bó, không có trên thực tế. Xã hội bắt đầu có xu hướng tự phát, lộn xộn, vô tổ chức, thiếu kỷ cương. Quản lý xã hội, quản lý kinh tế bị buông lỏng. Các chuẩn mực đạo đức, lối sống, niềm tin thay đổi. Nội bộ Đảng có nhiều biểu hiện mất đoàn kết kéo dài. Nhân dân mất lòng tin vào khả nǎng lãnh đạo kinh tế, xây dựng đất nước sau chiến tranh của Đảng. Tiếp đó, những sai lầm về cải cách giá - lương - tiền nǎm 1985 đã thực sự đẩy đất nước vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế - xã hội.

Với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", "Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) của Đảng ta đã tự kiểm điểm về sự lãnh đạo và chỉ ra nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan; nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam, giáo điều, bắt chước nước ngoài một cách máy móc; quan liêu thiếu dân chủ, không lắng nghe ý kiến của quần chúng và cấp dưới; ở một số cán bộ lãnh đạo cấp cao có phần say sưa với thắng lợi giải phóng miền Nam, nên thiếu sự tỉnh táo trong phân tích tình hình, không lường hết khó khǎn đi vào xây dựng kinh tế.

Từ thực tiễn cách mạng trong thời gian qua, Đảng ta đã rút ra cho mình bài học quý báu: Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc". Đó chính là quá trình tự nhận thức của Đảng, sự trở lại với lời dạy quý giá của Lênin và Hồ Chí Minh rằng Đảng phải thực sự chǎm lo củng cố mối liên hệ với nhân dân.

160

Page 161: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Đường lối đổi mới toàn diện đất nước ta do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra đã đánh dấu một bước phát triển mới về chất trong việc định ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong tư duy của Đảng ta về thời kỳ quá độ, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về vai trò của quần chúng nhân dân. Do vậy đường lối đó đã được nhân dân đồng tình ủng hộ.

Hơn mười nǎm qua, từ khi có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, hợp quy luật khách quan, phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng nhân dân, công cuộc đổi mới đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, đồng thời tạo đà cho cách mạng nước ta chuyển sang một thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Thứ hai: Tình trạng quan liêu hoá, xa dân và sự giảm sút vai trò lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và tổ chức Đảng.

Trước đây, khi chưa có chính quyền, đảng viên, cán bộ sống trong lòng dân, được nhân dân che chở đùm bọc, Đảng phải dựa vào dân để tồn tại và để lãnh đạo nhân dân làm cách mạng. Nhưng khi giành được chính quyền, Đảng trở thành đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên của Đảng nắm giữ các cương vị trong bộ máy của Đảng và Nhà nước. Những cán bộ đảng viên được Đảng và Nhà nước trả lương, được đãi ngộ theo chế độ bao cấp. Đảng viên, cán bộ của Đảng không còn phải dựa vào dân để sống theo đúng nghĩa đen của từ này như trước đây. Điều đáng lưu ý là trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện một khoảng cách lớn giữa một số cán bộ, đảng viên và quần chúng lao động, nhiều ông "quan cách mạng" sống xa dân, ở trên dân, không hiểu dân, không biết tâm trạng nhân dân.

Về tổ chức, sau khi giành được chính quyền, do yêu cầu quản lý và xây dựng đất nước, nhưng vẫn giữ nguyên phương thức lãnh đạo hành chính, mệnh lệnh, Đảng bao biện làm thay tất cả, nên bộ máy các cấp của Đảng đã nhanh chóng phình to, tạo nên nhiều tầng nấc trung gian cồng kềnh và trùng chéo với bộ máy của Nhà nước. Điều đó vừa dẫn đến sự cách bức giữa cơ quan lãnh đạo của Đảng với dân, vừa làm cho Nhà nước mất chức nǎng quản lý, vừa ỷ lại, quan liêu hoá xa dân. Kết quả là Đảng càng xa dân.

Trong kinh tế, ngoài những vấn đề đã nói ở trên thì sự lãnh đạo tập trung hoá cao độ, chạy theo kế hoạch chỉ tiêu pháp lệnh đã được định sẵn mà không xuất phát từ điều kiện khả nǎng thực tế, không quan tâm tới người lao động,... đã làm nảy sinh thái độ thờ ơ của người lao động đối với các chủ trương kinh tế của Đảng và Nhà nước. Từ đó tạo nên một khoảng cách lớn giữa ý Đảng và lòng dân. Đảng cứ ra nghị quyết, chỉ thị, còn dân nghĩ và làm khác. Kết quả là Đảng không hiểu tâm tư, nguyện vọng nhân dân. Còn nhân dân thì không thiết tha, gắn bó, không tin ở sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó tất yếu đã dẫn đến những chủ trương, chính sách xa thực tế, không hợp lòng dân, không được sự đồng tình ủng hộ của dân.

Điều đáng nói là không chỉ riêng có cơ quan lãnh đạo của Đảng xa dân, mà ngay tổ

161

Page 162: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

chức cơ sở Đảng là "gốc rễ của Đảng trong nhân dân" cũng xa cách nhân dân. Điều này vừa do cán bộ, đảng viên sau khi có chức, có quyền đã không quan tâm tới nhân dân, vừa do chức nǎng, nhiệm vụ, các mối quan hệ của tổ chức Đảng với các tổ chức chính quyền, các tổ chức quần chúng nhân dân trong điều kiện Đảng cầm quyền không được rõ ràng. Nội dung, phương thức lãnh đạo không được đổi mới đã dẫn đến vai trò của các tổ chức đảng không được phát huy, sức chiến đấu giảm sút, tổ chức Đảng không trở thành cầu nối giữa Đảng và dân. Mặt khác do thiếu tính pháp lý trong những quy định về chức nǎng, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng cho nên vai trò của tổ chức Đảng trở nên lu mờ. Chính điều này cũng góp thêm phần làm giảm vai trò của cấp uỷ và tổ chức Đảng trước nhân dân. Thêm vào đó, khuynh hướng phổ biến coi nhẹ vai trò và trách nhiệm của tổ chức Đảng so với các cơ quan Nhà nước và các tổ chức kinh tế,... đã đặt tổ chức Đảng vào vị thế thứ yếu trong đời sống kinh tế - xã hội. Vì thế, nhiều nơi, đảng viên không thích làm công tác đảng, công tác trong cấp uỷ. Bản thân đảng viên không thích thú với tổ chức, với cơ quan lãnh đạo của mình thì làm sao có tâm huyết và nhiệt tình để gần dân, vận động nhân dân làm theo nghị quyết của Đảng!

Ngoài ra tình trạng chậm thể chế hoá các vǎn bản hướng dẫn nội dung công tác Đảng cho đến nay vẫn chưa được khắc phục triệt để đã gây ra không ít khó khǎn, lúng túng cho công tác vận động quần chúng của Đảng, cho uy tín của Đảng và mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng đông đảo trong một số loại hình kinh tế - xã hội quan trọng.

Như vậy là giữa việc quy định chức nǎng, nhiệm vụ cho tổ chức Đảng và sự bảo đảm những điều kiện cho nó vận hành trong cuộc sống để tổ chức cơ sở đảng thực sự là cầu nối, là nơi triển khai đường lối của Đảng trong quần chúng nhân dân cần phải được cụ thể, đồng bộ với các quy định mang tính pháp lý của Nhà nước.

Ngoài ra, sự hạn chế về nǎng lực, trình độ và vai trò của bí thư và cấp uỷ cũng góp phần làm giảm sự gắn bó giữa Đảng và dân. Chừng nào mà đa số bí thư của các tổ chức đảng còn yếu về nǎng lực, hoặc chỉ giữ các cấp phó về chính quyền và điều kiện bảo đảm cho hoạt động của công tác đảng còn phụ thuộc vào chính quyền thì vai trò bí thư, cấp uỷ tổ chức Đảng vẫn còn bị hạn chế. Đây cũng là nguyên nhân làm giảm sức chiến đấu, uy tín và khả nǎng lôi cuốn, hấp dẫn của tổ chức đảng trong quần chúng nhân dân.

Việc một số tổ chức đảng chưa phát huy được vai trò lãnh đạo, sinh hoạt còn mang tính hình thức, thiếu khả nǎng thu hút những quần chúng ưu tú vào Đảng, đã dẫn đến hiện tượng "lão hoá" trong Đảng. Ngoài ra sự ảnh hưởng, tác động tiêu cực của đời sống chính trị thế giới, mặt trái của cơ chế thị trường, những tệ nạn trong Đảng như quan liêu, tham nhũng, các tệ nạn tiêu cực xã hội... đã ảnh hưởng rất lớn tới mục tiêu lý tưởng phấn đấu của thanh niên vào Đảng. Điều dó đã làm cho xu hướng "lão hoá" trong Đảng đang có chiều hướng phát triển, ảnh hưởng rất lớn tới vấn đề kế tiếp các thế hệ đảng viên của Đảng. Mặt khác sự "lão hoá" đội ngũ đảng viên sẽ để lại dấu ấn trong lực lượng lãnh đạo, làm mất đi khả nǎng trẻ hoá đội ngũ cấp uỷ của cơ sở Đảng, đặc biệt là những nơi tập hợp đông đảo nhân dân như xã, phường, các thành phố, nơi

162

Page 163: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

tập trung đông dân cư. Đây là một nguyên nhân góp phần tạo nên sự cách bức giữa Đảng và dân.

Vì sự cách biệt trong các thế hệ đảng viên, sự "lão hoá" tǎng nhanh trong Đảng đã làm hạn chế khả nǎng Đảng thâm nhập sâu vào các tầng lớp xã hội và các lĩnh vực của đời sống xã hội, mà trước hết là trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, kinh tế, vǎn học nghệ thuật và các ngành mũi nhọn khác đòi hỏi có trình độ chuyên môn, vǎn hoá, nghiệp vụ cao.

Để giữ vững vai trò lãnh đạo, nắm được các vị trí chủ chốt, tǎng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, thực hiện sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng phải khắc phục được tình trạng quan liệu hoá, xa dân và phải nhanh chóng nâng cao vai trò và sức chiến đấu của tổ chức đảng.

Thứ ba: một bộ phận đảng viên thoái hoá, biến chất làm giảm uy tín của Đảng, giảm lòng tin của nhân dân.

Đảng liên hệ với quần chúng nhân dân không chỉ bằng đường lối, chủ trương chính sách của Đảng mà còn thông qua tổ chức cơ sở Đảng, trực tiếp là đội ngũ đảng viên. Sau khi có đường lối, đảng viên là người trực tiếp đưa đường lối của Đảng vào quần chúng. Quan hệ Đảng và nhân dân được thiết lập qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Do vậy, nǎng lực tổ chức, sức chiến đấu, uy tín của Đảng phụ thuộc rất nhiều vào nǎng lực, phẩm chất, khả nǎng thu hút, tập hợp, vận động quần chúng của đảng viên. Mọi việc thành hay bại của cách mạng có liên quan chặt chẽ tới đảng viên, cán bộ của Đảng có tiền phong gương mẫu, có giữ vững đạo đức cách mạng hay không? Trong các giai đoạn cách mạng, Đảng ta đã chǎm lo rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng có uy tín cao trong nhân dân. Đội ngũ này đã giác ngộ, lôi kéo nhân dân, hướng dẫn nhân dân đi theo cách mạng. Do vậy, cách mạng nước ta đã vượt qua được thử thách, khó khǎn, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Phẩm chất, đạo đức của người cán bộ đảng viên đã gắn liền với lịch sử đấu tranh oanh liệt, vẻ vang của Đảng và nhân dân ta. Nhân dân ta đã quen và đã xem việc đảng viên có phẩm chất, đạo đức cách mạng là một lẽ thường tình, là một điều tất yếu, một truyền thống vốn có của Đảng, là mực thước đề nhân dân noi theo.

Đáng tiếc là, trong giai đoạn mới của cách mạng, bộ phận đảng viên thực sự tiên phong gương mẫu, có phẩm chất đạo đức, có nǎng lực, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới chiếm tỷ lệ chưa cao. Trong lúc đó, số đảng viên trung bình và đảng viên yếu kém còn nhiều. Số đảng viên vi phạm kỷ luật phải đưa ra khỏi Đảng còn có xu hướng tǎng.

Điều đáng lo ngại là trong Đảng có một bộ phận giảm sút lý tưởng và phẩm chất cách mạng. Một số cán bộ, kể cả cán bộ cao cấp, thiếu gương mẫu, thậm chí thoái hoá, biến chất, xa rời quần chúng. Một bộ phận cán bộ, đảng viên giảm sút ý chí chiến đấu, thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ý thức kỷ luật, bảo thủ, trì trệ, chia rẽ, bè phái.

163

Page 164: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Một số đảng viên lợi dụng chức quyền để tham nhũng, ǎn cắp tài sản của Nhà nước, tập thể. Tệ hối lộ, đầu cơ, buôn lậu, tìm kiếm và lợi dụng những kẽ hở trong chủ trương, chính sách, của Đảng pháp luật Nhà nước để làm giàu bất chính đang diễn ra khá phổ biến. Một số khác thì công thần, địa vị, "lên mặt quan cách mạng", hống hách, trù dập, ức hiếp nhân dân. Thậm chí có một số dao động, cơ hội, xét lại, tiếp tay cho lực lượng chống đối để phá hoại sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta. Đây là điều đáng lo ngại nhất. Đúng như Lênin đã cǎn dặn: "Nếu không tẩy sạch khỏi bản thân Đảng những đảng viên tuyên truyền quan điểm chống Đảng thì Đảng sẽ không thể tránh khỏi tan rã về tư tưởng và tổ chức.

Sự thoái hoá biến chất về phẩm chất, đạo đức của đội ngũ đảng viên không những làm hỏng đội ngũ đảng viên, mà qua đó còn làm hỏng bộ máy Đảng, bộ máy Nhà nước và các đoàn thể nhân dân; làm rối loạn trật tự kỷ cương, đạo đức xã hội mà còn gây tác hại đến uy tín, thanh danh của Đảng, làm cản trở việc tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, gây tổn hại trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước, làm mất lòng tin của nhân dân, mà nghiêm trọng hơn là tạo nên cơ hội để các lực lượng thù địch xuyên tạc, phá hoại, chia rẽ cô lập Đảng với nhân dân, phá vỡ mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân.

Do vậy, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng của đảng viên nói riêng và xây dựng Đảng ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới nói chung, là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định tới sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta.

Thứ tư, cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, hối lộ và các tệ nạn xã hội chưa đạt hiệu quả cao.

Trước đây, Hồ Chí Minh đã khẳng định bệnh quan liêu, tham ô, hối lộ, tham nhũng là những cǎn bệnh đặc biệt nguy hiểm, nó là kẻ thù của nhân dân. Nó nguy hiểm bởi "nó không mang gươm, mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta. Theo Người, những cǎn bệnh đó có tác hại vô cùng to lớn làm cho dân xa Đảng, làm suy yếu vai trò, khả nǎng lãnh đạo của Đảng. Vì vậy phải kiên quyết đấu tranh loại trừ những cǎn bệnh đó ra khỏi cơ thể sống của Đảng. Biện pháp hàng đầu để đấu tranh là phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình; tổ chức động viên quần chúng nhân dân đóng góp phê bình đảng viên; tǎng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho đảng viên; giữ nghiêm kỷ luật Đảng. Trước đây, nhờ thực hiện nghiêm chỉnh lời dạy của Người, đội ngũ đảng viên đã thể hiện được bản lĩnh chính trị, vững vàng kiên định mục tiêu lý tưởng, có tinh thần độc lập tự chủ, có lối sống lành mạnh, có ý thức chǎm lo tới sự nghiệp cách mạng của Đảng, gần gũi gắn bó với nhân dân.

Tuy nhiên, bước sang giai đoạn cách mạng mới, trước bối cảnh quốc tế phức tạp, trước sự chuyển đổi cơ chế, sự chưa hoàn thiện của luật pháp... một số đảng viên đã sa sút về phẩm chất, lối sống. Đáng tiếc là hầu hết ở các ngành, các địa phương trên đất nước ta đều xuất hiện tệ nạn tham nhũng, tham ô, hối lộ trong đội ngũ đảng viên với xu hướng ngày càng tǎng và mức độ ngày càng trầm trọng hơn. Đây thực sự là một quốc nạn.

164

Page 165: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Mấy nǎm gần đây ta đã xử hàng ngàn đảng viên có hành vi tham nhũng, nhiều vụ làm ǎn lớn liên quan tới đảng viên, trong đó có cả những người nguyên là uỷ viên Trung ương, Bộ trưởng, Thứ trưởng, tỉnh uỷ viên, tổng giám đốc, vụ trưởng... đã đưa ra khởi tố trước pháp luật. Nhưng công tác đấu tranh chống tham nhũng còn nhiều hạn chế. Phần lớn các vụ tiêu cực, tham nhũng trong đảng viên, cán bộ trong các tổ chức, bộ máy của Đảng và Nhà nước lại chính là do nhân dân phát hiện. Mặc dầu Đảng và Nhà nước ta đã liên tục có nhiều chỉ thị, vǎn bản đấu tranh chống tham nhũng. Chính phủ đặt công tác chống tham nhũng là một công việc trọng tâm hàng nǎm, đã thành lập Ban Thường trực chống tham nhũng, chống buôn lậu, nhưng tình hình tham nhũng, buôn lậu vẫn chưa giảm. Điều đó chứng tỏ sự đấu tranh trong nội bộ Đảng chưa cao, chưa quyết liệt, chưa thường xuyên và chưa có biện pháp hữu hiệu. Gần đây, Quốc hội đã xem xét và bổ sung các điều luật liên quan tới việc trừng trị các tội tham nhũng... ban hành các quy định mới nhằm tạo cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có trách nhiệm thi hành luật từ giai đoạn phát hiện tội phạm đến điều tra, thanh tra, truy tố, xét xử các tội phạm tham nhũng... nhưng tệ nạn tham nhũng vẫn tiếp tục làm thất thoát lớn ngân sách Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, trực tiếp cản trở, đe doạ sự phát triển của đất nước. Sự khắc phục tình trạng này vẫn chậm. Nhiều vụ án án xét xử không nghiêm do thiên vị hoặc sợ "rứt dây động rừng" do sự bao che của những cán bộ có chức có quyền... Đây là điều nhức nhối và làm giảm uy tín và lòng tin của nhân dân đối với Đảng lớn nhất.

Thứ nǎm: Tình hình mất đoàn kết trong nội bộ Đảng làm giảm lòng tin của nhân dân.

Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn quan tâm và chǎm lo xây dựng sự thống nhất, đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân. Đoàn kết thống nhất đã trở thành một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta, là nhân tố tạo nên sự gắn bó giữa Đảng và dân, tạo nên sức mạnh vô địch của dân tộc ta.

Nhưng từ khi cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, bên cạnh nhiều tổ chức Đảng trong cả nước vẫn giữ được truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng thì một số đơn vị, địa phương đã xảy ra mất đoàn kết nghiêm trọng, kéo dài; đáng tiếc là hiện tượng đó lại thường xảy ra ở những cán bộ lãnh đạo chủ chốt, giữa Đảng uỷ với thủ trưởng cơ quan, giữa đảng viên tại chỗ với đảng viên nơi khác đến, nhiều khi lại diễn ra do sự tách nhập đơn vị, cơ quan, địa phương hoặc trước các kỳ đại hội Đảng.

Sự mất đoàn kết những nǎm qua trong nội bộ Đảng phần lớn là do chủ nghĩa cá nhân, tham vọng về quyền lực, tranh công đổ lỗi, cục bộ địa phương, gia trưởng, độc đoán chuyên quyền xem thường tập thể, mất dân chủ, thiếu trung thực, xu nịnh,...

Bất luận nguyên nhân từ đâu, mất đoàn kết trong Đảng đã gây nên những hậu quả rất nặng nề. Nó làm giảm lòng tin của dân đối với Đảng, làm mất thanh danh và uy tín của Đảng. Mất đoàn kết trong nội bộ Đảng, đã làm hư hỏng cán bộ, mất cán bộ, trắng đen lẫn lộn. Người tốt chán nản. Kẻ cơ hội, xu nịnh được tin dùng. ở những nơi mất đoàn kết, đảng viên chỉ lo đấu đá nhau, tư tưởng phân tán, không tập trung thực hiện nghị quyết của Đảng, không quan tâm chǎm lo đời sống nhân dân làm nhân dân mất

165

Page 166: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

chỗ dựa, mất lòng tin, từ đó dẫn đến sự rạn nứt nghiêm trọng mối quan hệ giữa Đảng và dân.

Thứ sáu: Công tác quần chúng của Đảng còn nhiều yếu kém.

Trước đây, công tác quần chúng của Đảng được xem như một việc thường xuyên, hàng ngày trong sinh hoạt Đảng. Gần đây, sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII), nhiều nơi đã chú ý hơn tới công tác vận động quần chúng nhân dân, đã gắn công tác xây dựng Đảng với củng cố mặt trận và các đoàn thể nhân dân, đã làm tốt việc phân công đảng viên làm công tác quần chúng. Nhiều cấp uỷ và tổ chức Đảng đã biết dựa vào các cấp chính quyền và đoàn thể nhân dân để tổ chức, lãnh đạo nhân dân tham gia ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng pháp luật và các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, chỉ đạo việc tiến hành Đại hội các đoàn thể, cử nhiều cán bộ, đảng viên của Đảng tham gia các đoàn thể nhân dân; nhiều nơi, cấp uỷ đã lãnh đạo tốt các phong trào xoá đói giảm nghèo, hoạt động từ thiện, chǎm sóc gia đình có công với nước, hướng dẫn quần chúng làm tốt các cuộc vận động trật tự trị an, thực hiện kế hoạch hoá gia đình, hướng dẫn và giúp đỡ quần chúng phát triển sản xuất...

Tuy nhiên, công tác quần chúng của Đảng còn bộc lộ nhiều yếu kém, thể hiện rõ nhất là nhiều cấp uỷ còn lúng túng trong chỉ đạo việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức, đoàn thể quần chúng. Nhiều tổ chức quần chúng của Đảng trước đây làm tốt công tác vận động quần chúng như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ... thì nay đang tỏ ra bất cập về khả nǎng thu hút đoàn viên, hội viên của mình do các tổ chức đó đã không thoả mãn được nguyện vọng và đáp ứng nhu cầu lợi ích của quần chúng nhân dân. Đáng lo ngại là ở những địa bàn chủ yếu tập trung đông dân cư như làng, xã, phường các tổ chức Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ đang trở thành hình thức, không có nội dung để hoạt động.

Nhiều tổ chức Đảng trong nhiều địa phương không làm được chức nǎng cầu nối với nhân dân, không tạo được mối liên hệ với các tổ chức chính quyền và các đoàn thể nhân dân để làm công tác vận động quần chúng. Tình trạng đảng viên ở các khu dân cư không hoà chung vào cuộc sống của nhân dân, không nắm được tâm tư nguyện vọng nhân dân, không tổ chức được nhân dân để thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng và các chính sách của Nhà nước còn phổ biến. Nhiều đảng viên thiếu gương mẫu trong việc chấp hành các chủ trương chính sách, các quy định của Nhà nước và địa phương. Do vậy đảng viên ở các phường, xã tuy có số lượng đông, chiếm tỷ lệ cao trong dân cư nhưng ít tác dụng, chưa trở thành tấm gương sáng cho nhân dân học tập, noi theo, thậm chí còn nêu những gương xấu.

Công tác vận động quần chúng thực chất cũng là để xây dựng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.

NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997

Chương V

166

Page 167: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ DÂN TRONG THỜI KỲ MỚI TRÊN CƠ SỞ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1. Một số đặc điểm của thời kỳ mới tác động đến mối quan hệ giữa Đảng và dân

Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã được hơn mười nǎm. Đó là quãng thời gian phấn đấu gian khổ và quyết tâm của toàn Đảng và toàn dân ta vượt qua những thử thách to lớn, khắc phục nhiều khó khǎn, kiên trì phấn đấu để giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội bức bách; giữ vững ổn định chính trị, thực hiện đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố an ninh, quốc phòng, tǎng cường hoạt động đối ngoại, phá thế bao vây, cô lập, vừa đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng... Nhờ đó đã tạo ra được những thành tựu rất quan trọng góp phần đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, hoàn thành những nhiệm vụ đề ra cho giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, để bước sang giai đoạn cách mạng mới là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhưng thời kỳ này diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những đặc điểm rất phức tạp, vừa có những thời cơ để phát triển, lại vừa chứa đựng những nguy cơ đối với những thành quả cách mạng của nhân dân ta. Những thành tựu do công cuộc đổi mới đã tạo ra điều kiện thuận lợi để củng cố, tǎng cường mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với dân trong thời kỳ mới. Tuy vậy về phía quần chúng nhân dân, đối tượng tác động lãnh đạo của Đảng có mấy điểm đáng lưu ý:

Thứ nhất: Do sản xuất tǎng nhanh vượt mức kế hoạch, bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, nên đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện, số hộ giàu tǎng, số hộ nghèo giảm , nhiều địa phương thanh toán được nạn đói; mỗi nǎm có hơn một triệu lao động được giải quyết việc làm.

Thứ hai: ở nước ta ngày nay, đi đôi với việc mở rộng và phát huy dân chủ, trình độ dân trí và mức hưởng thụ vǎn hoá ngày càng được nâng cao cùng với việc phổ cập các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, đài, ti vi...), các tầng lớp nhân dân có thể tự do tiếp cận và tiếp nhận những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại cùng với những thông tin về các vấn đề chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, vǎn hoá ở trong nước và trên thế giới. Do đó, các tầng lớp nhân dân, nhất là giới trí thức, có điều kiện, trình độ, khả nǎng so sánh, phân biệt đúng sai và có thể tham gia đóng góp ý kiến về sự lãnh đạo của Đảng.

Thứ ba: Do kết quả của công cuộc đổi mới, người lao động được giải phóng khỏi sự ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp lý, phát huy được quyền làm chủ và tính nǎng động sáng tạo, chủ động hơn trong tìm việc làm, tǎng thu nhập, tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội.

Thứ tư: Các phong trào đền ơn đáp nghĩa, xoá đói giảm nghèo, các hoạt động từ thiện ngày càng mở rộng, trở thành nét đẹp mới trong xã hội ta.

167

Page 168: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Những thành tựu to lớn bước đầu đó đã từng bước thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh" mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta đã xác định. Đồng thời, với những kết quả đã giành được trong sự nghiệp đổi mới đã làm tǎng lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, con đường tiến lên của nhân dân ta đang diễn ra trong bối cảnh thế giới biến động nhanh chóng và hết sức phức tạp. Sự biến đổi của tình hình thế giới, một mặt, tạo ra những khả nǎng thuận lợi cho sự phát triển, hoà nhập và tiến bộ, mặt khác lại gây ra những khó khǎn, thử thách và cả những hậu quả rất nặng nề cho nhân dân ta.

Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu vẫn còn tác động mạnh vào tình cảm, tư tưởng, suy nghĩ, niềm tin gây nên những hoài nghi dao động ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhân cơ hội đó các thế lực thù địch đối với chủ nghĩa xã hội và Đảng Cộng sản đang ra sức lợi dụng để tiến công chống phá phong trào cách mạng, chống phá chủ nghĩa xã hội và chống Đảng Cộng sản bằng rất nhiều thủ đoạn khác nhau để hòng "chiến thắng mà không cần chiến tranh", trong đó đáng chú ý là chiến lược "diễn biến hoà bình". Với quyết tâm chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch đề ra những chiến lược cụ thể nhằm phân hoá Đảng Cộng sản Việt Nam, lôi kéo đội ngũ trí thức, các nhà khoa học để gây mất ổn định xã hội, thúc đẩy quá trình tư nhân hoá nhằm tạo ra một giai cấp tư sản mới để giai cấp này có thể nắm chủ đạo trong xã hội và tạo điều kiện cho họ tham gia vào hoạt động chính trị, dần dần chi phối đời sống chính trị; dùng kinh tế lôi kéo con em cán bộ cao cấp để phân hoá họ với gia đình khi có điều kiện thuận lợi thì đặt thẳng vấn đề để họ làm việc cho Mỹ; phát hiện những người bất mãn, ngả nghiêng trong tầng lớp lãnh đạo, lôi kéo họ, nhất là cán bộ cáo cấp để gây sức ép với Đảng; phát triển các tổ chức chống đối lại chính quyền...

Những chiến lược, âm mưu thủ đoạn trên nhằm mục đích duy nhất là làm tan rã chế độ ta từ bên trong bằng cách tách dân khỏi Đảng; phá vỡ mối quan hệ Đảng với Nhà nước; Đảng, Nhà nước với nhân dân; cô lập Đảng để đi đến thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng trong đời sống chính trị, buộc chúng ta từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa.

Cùng với nguy cơ "diễn biến hoà bình", nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát của ta thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu đang đè nặng lên chúng ta. Những nguy cơ và thách thức đó đòi hỏi Đảng ta phải đề ra quyết sách hợp lý, phù hợp với xu thế của thời đại, phù hợp với khả nǎng, yêu cầu phát triển của đất nước, tập hợp được sức mạnh của toàn dân để thực hiện các mục tiêu đề ra cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.

Công cuộc đổi mới hơn mười nǎm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và cơ bản nhưng cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm và yếu kém như nǎng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý và điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể nhân dân chưa đáp ứng kịp đòi hỏi của

168

Page 169: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

tình hình; tệ tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công và các tệ nạn xã hội khác chưa ngǎn chặn được. Những khuyết điểm và yếu kém đó có nguyên nhân sâu xa là sự tách rời giữa Đảng và dân. Điều đó càng khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về tǎng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân vẫn còn nguyên giá trị. Cách mạng nước ta đã bước vào một giai đoạn mới, tình hình đã khác nhiều so với giai đoạn cách mạng trước đây. Do vậy, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân là vận dụng phương pháp tư tưởng và những vấn đề có tính nguyên tắc về xây dựng Đảng, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân dân của Người vào điều kiện lịch sử mới nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và động viên cao nhất tài lực của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới.

Nếu như trước đây, tư tưởng về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là nhằm tập hợp lực lượng toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để giành và giữ độc lập, tự do cho Tổ quốc và hạnh phúc cho nhân dân thì nay, tǎng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là nhằm động viên mọi nguồn lực của đất nước, phát huy tính nǎng động, sáng tạo và mọi khả nǎng của quần chúng nhân dân cùng đồng tâm nhất trí để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh.

Trước đây, Đảng ta lấy mục tiêu giải phóng dân tộc, giành độc lập, thống nhất đất nước để tập hợp, động viên mọi tầng lớp nhân dân làm cách mạng. Mục tiêu đó phù hợp với nguyện vọng, lợi ích của nhân dân. Vì vậy đã tạo nên sức mạnh cổ vũ, lôi cuốn quần chúng nhân dân làm cách mạng. Đảng thực sự dựa vào dân, ở trong lòng dân, được nhân dân che chở đùm bọc, nuôi dưỡng. Cán bộ, đảng viên thường xuyên tiếp xúc với dân và xem làm công tác vận động nhân dân, gắn bó với dân là lẽ sống thường tình, là công việc chủ yếu. Có thể nói, lúc đó Đảng hoá thân vào quần chúng nhân dân để lãnh đạo nhân dân làm cách mạng. Vì vậy, Đảng được nhân dân tin yêu, tôn kính.

Ngày nay, tình hình mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội... đã có nhiều thay đổi. Trong đó nổi lên những nét rất cơ bản liên quan chặt chẽ đến mối quan hệ Đảng và nhân dân là:

Thứ nhất, nước ta đã chuyển từ nền kinh tế hiện vật, tự cấp tự túc, theo cơ chế quan liêu bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là sự chuyển đổi cǎn bản nhất, mới mẻ nhất. Ngày nay, cơ chế thị trường vừa có mặt tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển, nǎng động, có hiệu quả, gắn lợi ích mọi người với cộng đồng, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế trong nước và xu thế chung của thế giới. Song cơ chế thị trường cũng có những mặt trái: đẩy nhanh sự phân hoá giàu nghèo, ảnh hưởng lớn đến những giá trị truyền thống về đạo đức và lối sống, kích thích chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng xem đồng tiền là trên hết, sẵn sàng chà đạp lên lương tâm và nhân phẩm con người, làm tha hoá con người.

Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, một mặt đòi hỏi tổ chức của Đảng phải được đổi mới mạnh mẽ cả về nội dung và phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội

169

Page 170: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

trong hệ thống chính trị để Đảng vừa giữ được vai trò lãnh đạo xã hội, vừa bảo đảm cơ chế dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; mặt khác Đảng và Nhà nước phải quản lý được nền kinh tế hàng hoá. Có như vậy dân chủ xã hội mới được bảo đảm, mặt trái của kinh tế thị trường mới được hạn chế. Chính vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước phải khác trước. Đảng và Nhà nước phải có vai trò trách nhiệm và nǎng lực cao hơn trong lãnh đạo, quản lý, phải bảo đảm sự bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế trước pháp luật, phải chống trả một cách có hiệu quả bệnh quan liêu, tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác để đất nước phát triển nhanh, vững chắc, đúng hướng thì mới thu hút, tập hợp được mọi tầng lớp nhân dân.

Thứ hai là dân chủ hoá xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền của dân do dân, vì dân. Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đó xây dựng trên cơ sở mở rộng và tǎng cường khối đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng lãnh đạo. Đây vừa là một tất yếu khách quan của quá trình đổi mới, vừa là động lực bảo đảm cho tính triệt để và thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Quá trình dân chủ hoá, xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta, là để xác lập quyền dân chủ, để khẳng định trên thực tế quyền lực thuộc về nhân dân. Đồng thời, nó cũng nhằm khắc phục tệ quan liêu và dân chủ hình thức, để xây dựng những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa thật sự trong đời sống xã hội. Quá trình đó nhằm phát huy, động viên tính tích cực, sự sáng tạo của nhân dân, xây dựng và hoàn thiện quan hệ bình đẳng giữa con người và con người trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức và pháp lý xã hội chủ nghĩa, tạo ra những điều kiện thuận lợi để con người phát triển toàn diện, thực sự làm chủ xã hội. Muốn làm được điều đó, một mặt vừa phải mở rộng dân chủ, một mặt phải xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm cho Nhà nước đó thực sự mang bản chất của giai cấp công nhân. Có như vậy mới tạo ra sự thống nhất giữa sự lãnh đạo của Đảng và phát huy vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân.

Hiện nay, Đảng có nhiều điều kiện để tǎng cường và mở rộng mối quan hệ với nhân dân bằng việc thông qua sự lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và các cơ quan của Nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức nhân dân. Còn người dân, các tổ chức xã hội đều làm việc theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật. Điều đó cũng có nghĩa là mở rộng dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng đồng nghĩa với tǎng cường mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân. Trong quan hệ Nhà nước với nhân dân, luật pháp là cơ sở ràng buộc, là cơ sở liên hệ. Vì vậy quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong Nhà nước pháp quyền là phải làm rõ vai trò chức nǎng của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước. Đồng thời, phải có sự đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để bảo đảm mối liên hệ giữa Đảng - Nhà nước với nhân dân.

Thứ ba, là vấn đề lợi ích và bảo đảm công bằng xã hội. Trước đây, trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, Đảng ta đã giải quyết khá thành công các quan hệ lợi ích, giữa các giai cấp và các tầng lớp xã hội khác nhau. Ngày nay, sự tồn tại bình đẳng các thành phần kinh tế xã hội khác nhau tất yếu phải có sự tìm tòi để thoả mãn những nhu cầu lợi ích trong điều kiện mới một

170

Page 171: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

cách hết sức thực tế. Vì chính trong quá trình tìm kiếm các lợi ích nhằm thoả mãn nhu cầu mà con người liên kết với người như Mác đã từng nói: "Tất cả những gì con người đấu tranh để giành lấy đều dính liền với lợi ích của họ". Do vậy, Đảng đến với nhân dân và nhân dân gắn bó với Đảng cũng chính là ở nhu cầu lợi ích. Không có mục đích, nhu cầu lợi ích chung thì không có sự đoàn kết và nhất trí.

Nhu cầu, lợi ích bao giờ cũng có tính lịch sử và thường xuyên vận động, phát triển. Do vậy, trong điều kiện mới, Đảng phải tìm kiếm những tiếng nói chung giữa lợi ích giai cấp, dân tộc, con người và cộng đồng thì mới tập hợp được mọi tầng lớp nhân dân quanh Đảng.

Kinh nghiệm lịch sử cũng như thực tiễn cách mạng nước ta chỉ ra rằng nếu không giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, các thành phần xã hội, hoặc thiếu quan tâm thoả đáng tới lợi ích cộng đồng, cá nhân sẽ tạo nên sự thiếu nhất trí và tất yếu sẽ không có đoàn kết thực sự, không tập hợp được lực lượng toàn xã hội, không có sức mạnh.

Trước đây, trong các giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ quốc, vấn đề lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng không có sự khác biệt đáng kể, về cơ bản là thống nhất với nhau.

Ngày nay, sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường là một thực tế khách quan. Điều đó cũng có nghĩa là phải thừa nhận sự tồn tại khách quan của những nhu cầu và lợi ích của các thành phần kinh tế, xã hội khác nhau. Thực trạng đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có đường lối, chủ trương đúng đắn để bảo vệ lợi ích thiết thực của cả cộng đồng và cá nhân, để khuyến khích động viên mọi cá nhân, mọi tầng lớp tham gia vào sự nghiệp đổi mới của Đảng.

Do đặc điểm nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn, lạc hậu, dân chủ, pháp luật chưa được phát triển, hậu quả chiến tranh nặng nề cho nên việc giải quyết các quan hệ lợi ích phải đi đôi với tǎng cường dân chủ, thực hiện công bằng xã hội, làm tốt chính sách xã hội và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng và thực hiện pháp luật. Có như vậy, những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường mới được hạn chế, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của cách mạng, của mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân mới được giữ gìn và phát huy.

Trong điều kiện hiện nay, việc phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, kết hợp tǎng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; đáp ứng nhu cầu trước mắt và lợi ích lâu dài giữa cá nhân và cộng đồng là điều kiện bảo đảm tốt nhất vấn đề lợi ích, là cơ sở để bảo đảm sự gắn bó giữa Đảng và nhân dân để làm nền tảng cho việc mở rộng và phát triển khối đoàn kết toàn dân.

Thứ tư, nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường, quá trình dân chủ hoá xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại, giao lưu quốc tế... đang làm nảy sinh những vấn đề mới, trong đó có sự ra đời của nhiều tổ chức kinh tế, xã hội, đoàn thể nhân dân... Nhưng đồng thời với quá trình đó là tình trạng trong nhiều cơ quan, tổ chức kinh tế, xã hội,

171

Page 172: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

tổ chức quần chúng quan trọng không có tổ chức Đảng hoặc tỷ lệ đảng viên rất thấp.

Trong lĩnh vực kinh tế, nét nổi bật là từ khi có đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng ta đến nay, các thành phần kinh tế phát triển rất nhanh, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế hợp tác đầu tư với nước ngoài. Đây không chỉ là nơi thu hút nguồn vốn, tài lực, trình độ chuyên môn, tay nghề trình độ quản lý... mà còn là nơi sẽ diễn ra sự tranh chấp rất gay gắt lực lượng lao động xã hội mà trước hết là giai cấp công nhân, giữa Nhà nước và tư bản tư nhân. Hiện nay vai trò lãnh đạo và tập hợp quần chúng của Đảng trong khu vực kinh tế-xã hội này còn những khó khǎn hạn chế. Trên thực tế nhiều bất đồng mâu thuẫn về lợi ích giữa chủ, thợ đã nảy sinh, người lao động bị chèn ép, lương thấp, cường độ lao động cao, bảo hiểm lao động và bảo hiểm xã hội không được quan tâm đầy đủ, các chính sách, chế độ, quy định, pháp luật của Nhà nước không được chấp hành nghiêm chỉnh; nhiều chủ doanh nghiệp người nước ngoài đã có những hành động ngược đãi, đánh đập, xúc phạm người lao động Việt Nam. Nhiều cuộc đình công của công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã nổ ra đều cần đến vai trò lãnh đạo của Đảng và công đoàn; cần tǎng cường mối quan hệ giữa các tổ chức Đảng với các tầng lớp lao động trong khu vực này.

Từ thực tiễn trên cho ta thấy một điều đáng suy nghĩ là: ở tầm vĩ mô, dân chủ xã hội đang được mở rộng, nhiều tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đoàn thể nhân dân được phát triển nhanh, nhưng trong phạm vi của từng đơn vị cụ thể (đặc biệt là các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. ..) thì dân chủ đang bị vi phạm, bị hạn chế, bị thu hẹp, thậm chí thiếu cơ sở xã hội để bảo đảm dân chủ. Chúng ta đang phấn đấu cho mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh thì sự bất công và sự phân hoá giàu nghèo đang diễn ra ở nhiều nơi. Nếu Đảng không có những quyết sách, biện pháp và hình thức tổ chức quần chúng kịp thời thì trong một số lĩnh vực nhất định, Đảng sẽ mất dần cơ sở xã hội của mình. Điều đó cũng có nghĩa là phạm vi của mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân bị thu hẹp trong một không gian nhất định.

Thứ nǎm, bản thân Đảng đang trong quá trình tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên ngang tầm với nhiệm vụ lãnh đạo toàn xã hội, nhưng còn nhiều hạn chế, bất cập. Quá trình đó đang diễn ra trong điều kiện vừa có thuận lợi bởi thành quả của công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đang thu được thắng lợi, vừa có khó khǎn do những vấn đề mới phát sinh và do tình hình phức tạp của cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội đang diễn ra trên quy mô toàn cầu.

Những thành tựu đổi mới, tự nó đã khẳng định sự cố gắng vươn lên của Đảng ta để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình trong tiến trình đưa đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nhưng việc nhận thức các phương diện của học thuyết Mác - Lênin, đặc biệt là lý luận về chủ nghĩa xã hội còn chưa đầy đủ. Việc hiểu đúng và vận dụng thích hợp chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống còn nhiều vấn đề đặt ra. Tổ chức bộ máy của Đảng còn cồng kềnh, nặng nề, kém hiệu lực. Phương thức lãnh đạo còn chậm được đổi mới. Nguyên tắc tập trung dân chủ còn bị vi phạm. Nội bộ Đảng còn biểu hiện thiếu đoàn kết thống nhất. Đội ngũ đảng viên và

172

Page 173: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

tổ chức cơ sở Đảng còn nhiều yếu kém. Đặc biệt là thiếu kiến thức kinh tế, chưa qua kinh tế thị trường. Đội ngũ cán bộ, đảng viên còn hẫng hụt. Số cán bộ đảng viên có đủ nǎng lực, phẩm chất, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới chưa nhiều. Vấn đề làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước đã được chú ý nhưng kết quả chưa cao. Việc nâng cao nǎng lực trí tuệ của Đảng, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức để Đảng thực sự mang bản chất giai cấp công nhân đang là vấn đề bức xúc hiện nay.

Trong khi đó sự nghiệp đổi mới của Đảng ta lại đang diễn ra trong điều kiện và hoàn cảnh rất phức tạp và đầy thử thách. Sau sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, cục diện thế giới đã thay đổi rất lớn. Phong trào cộng sản và phong trào công nhân quốc tế đang ở thế bất lợi. Đối với chúng ta, sự nghiệp đổi mới lại rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, mẫu hình để tìm ra những cách thức vận dụng hợp lý. Cơ chế thị trường, mở cửa giao lưu với quốc tế vừa là nhu cầu để phát triển lực lượng sản xuất, chuyển giao công nghệ để công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, tạo ra điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới, vừa tạo ra những nguy cơ, thách thức đối với độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.

Vì những lẽ đó, mà vận mệnh của Đảng, và mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân phụ thuộc hoàn toàn vào việc Đảng có vượt lên để ngang tầm, có giải quyết tốt những vấn đề mới nẩy sinh và chiến thắng trong cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch với Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội hay không.

2. Phương hướng giải quyết nhằm tǎng cường mốii quan hệ giữa Đảng cầm quyền với dân hiện nay trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh

Củng cố và tǎng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với dân là một vấn đề vừa có ý nghĩa thiết thực cấp bách lại vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài, là điều kiện cơ bản bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trên cơ sở của những nguyên nhân tồn tại và những vấn đề đang đặt ra, hơn lúc nào hết, chúng ta càng thấm thía lời dạy của Hồ Chí Minh: Liên hệ chặt chế với quần chúng nhân dân là nguồn gốc tạo nên sức mạnh của Đảng và cách nạng. Đó cũng là bí quyết thành công của Đảng và cách mạng.

Do vậy Đảng cần phải có phương hướng giải quyết tích cực, đồng bộ, thiết thực để xây dựng khối đoàn kết toàn dân, củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Những phương hướng cơ bản đó là:

Một là; kiên trì sự lãnh đạo của Đảng - điều kiện tiên quyết bảo đảm thắng lợi của công cuộc đổi mới trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) Đảng ta chủ trương chuyển nền kinh tế nước ta từ nên kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường. Một số người cho rằng trong nền kinh tế thị trường không cần thiết sự

173

Page 174: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vì "sự phát triển kinh tế thị trường là cái mâu thuẫn như nước với lửa với học thuyết xây dựng xã hội cộng sản"?... Thực chất của cơ chế thị trường là thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần (quốc doanh, tập thể, cá thể, tư nhân, tư sản...). Nhưng, nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay không phải là nền kinh tế thị trường bất kỳ, càng không phải kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh thì nhất thiết phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đến cuối đời mình, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định: "Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân". Vấn đề là Đảng Cộng sản phải có đủ phẩm chất, trí thức, nǎng lực để lãnh đạo đất nước phát triển hoà nhập với dòng chảy của thời đại, của nhân loại tiến bộ.

Như vậy, so với trước đây, sự lãnh đạo của Đảng có khó khǎn và phức tạp hơn nhiều .Bởi vì nền kinh tế nhiều thành phần tất yếu dẫn đến sự biến đổi về cơ cấu xã hội giai cấp với nhiều tầng lớp dân cư phức tạp ở nước ta hiện nay và trong những nǎm tới. Đó là những thực thể mới có ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện và tình thế mới, đặt ra những yêu cầu mới mà Đảng phải tập trung lãnh đạo giải quyết, để khỏi trệch hướng trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Bài học kinh nghiệm ở Liên Xô (cũ), cũng như thực tế đấu tranh cách mạng ở nước ta mấy chục nǎm qua, nhất là trong mười nǎm đổi mới, đã khẳng định rằng: Cách mạng Việt Nam gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, không những trong cách mạng giải phóng dân tộc, mà cả trong công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định: "Phải kiên định sự lãnh đạo của Đảng, vì ở nước ta, không có sự lãnh đạo của Đảng thì không thể có độc lập dân tộc, không có quyền làm chủ thực sự của nhân dân, không có nhà nước của dân, do dân, vì dân, không thể thực hiện được công bằng xã hội, không thể có chủ nghĩa xã hội. Lúc bình thường, vai trò lãnh đạo của Đảng đã rất quan trọng; ở những bước chuyển giai đoạn, vai trò đó lại càng quan trọng".

Nhân dân ta vốn có truyền thống cách mạng, đã đi theo Đảng hơn 65 nǎm qua. Do vậy, tuyệt đại bộ phận nhân dân ta đã tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chí Minh. Nhân dân ta cũng nhận thấy rằng con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn - gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng đắn, có tính khả thi để đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc và công bằng cho nhân dân ta.

Ngày nay, trên con đường đã chọn, với truyền thống yêu nước nồng nàn, với tinh thần chủ động sáng tạo, ý chí tự lực tự cường, với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự giúp đỡ của bầu bạn trên thế giới, nhân dân ta đã chứng tỏ hoàn toàn có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Kinh nghiệm cũng đã chỉ ra rằng nếu Đảng mất vai trò lãnh đạo, thì cách mạng chệch hướng, nhân dân mất quyền làm chủ. ở đâu và lúc nào vai trò lãnh đạo của Đảng được khẳng định, dân chủ xã hội được bảo đảm thì quyền làm chủ của nhân dân càng được xác lập. Vì vậy, với định hướng xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng vǎn minh, hơn bao giờ

174

Page 175: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

hết, nhân dân ta rất cần một Đảng cách mạng chân chính, trung thành với chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc lãnh đạo để bảo đảm cho xã hội ổn định và phát triển theo định hướng và mục tiệu đã chọn.

Trong điều kiện hiện nay, để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội, Đảng phải đại diện cho trí tuệ, tinh hoa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đại diện trung thành cho lợi ích của giai cấp, nhân dân lao động và cả dân tộc. Đảng cần phải:

- Nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,truyền thống tinh hoa dân tộc, biết tiếp thu những thành tựu lý luận, những kinh nghiệm phong phú của các đảng anh em, những tri thức của thời đại vào điều kiện mới của đất nước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hoàn thành các mục tiêu đã định.

- Đề ra đường lối chính trị đúng đắn, hợp quy luật, phù hợp tâm tư, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân.

- Đội ngũ cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng nêu cao vai trò tiên phong gương mẫu, ngang tầm với nhiệm vụ, gắn bó chặt chẽ với nhân dân.

- Đảng tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo để vừa giữ vai trò Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn xã hội, vừa phát huy được vai trò, chức nǎng của Nhà nước, các tổ chức xã hội, các đoàn thể nhân dân. Đảng lãnh đạo để công cuộc đổi mới giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới nhưng không đổi màu, làm cho các mục tiêu xã hội chủ nghĩa được thể hiện có hiệu quả, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng vǎn minh.

Hai là: Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ nhu cầu nguyện vọng chính đáng của nhân dân, đem lại lợi ích thực tế cho các tầng lớp nhân dân.

Trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, đã có những biến đổi quan trọng về cơ cấu giai cấp- xã hội. Ngoài các giai cấp và tầng lớp cơ bản (công nhân, nông dân, trí thức), còn có tầng lớp chủ doanh nghiệp tư nhân, tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ và các loại lao động dịch vụ phát triển nhanh chóng. Theo Báo cáo tổng kết Nghị quyết 8B của Ban Dân vận Trung ương thì hiện nay:

- Giai cấp công nhân tiếp tục phát triển về số lượng, chiếm 13,4% lao động xã hội, nhưng giảm trong khu vực nhà nước (hiện còn 2,7 triệu người) tǎng nhanh trong khu vực tư nhân (có 3,7 triệu người) và liên doanh với nước ngoài (khoảng 100.000 người).Trình độ vǎn hoá, kỹ thuật và thu nhập giữa các ngành nghề và các bộ phận công nhân khá chênh lệch.

- Giai cấp nông dân chiếm 72,4% lao động xã hội; một bộ phận nông dân đã và đang chuyển sang sản xuất kinh doanh ngành nghề như làm kinh tế vườn, nuôi trồng cây

175

Page 176: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

con đặc sản, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, xây dựng, vận tải. Thu nhập bình quân của nông dân có tǎng lên, nhưng sự phân hoá giàu nghèo cũng đang diễn ra mạnh mẽ.

- Tầng lớp trí thức chiếm tỉ lệ thấp trong dân cư (1%); còn những bất hợp lý về cơ cấu, về bố trí sử dụng, về thu nhập; có một bộ phận chuyển sang làm việc ở khu vực ngoài quốc doanh, liên doanh, các vǎn phòng đại diện nước ngoài có thu nhập khá.

- Giới chủ doanh nghiệp tư nhân phát triển khá nhanh, so với nǎm 1991, số lượng tǎng 182,4 lần, vốn tǎng 119,6 lần, hoạt động trong 22,445 doanh nghiệp, công ty; số đông làm ǎn hợp pháp, nhưng cũng có không ít người lợi dụng làm ǎn phi pháp.

- Các dân tộc ít người ở miền núi chiếm 12,8% dân số, đời sống có nhiều khó khǎn, nhất là đối với 2,4 triệu người sống ở vùng cao.

Các thành phần dân cư đa dạng, phức tạp thì nhu cầu và lợi ích của họ cũng đa dạng, phức tạp. Đảng cầm quyền phải biết tìm kiếm những điểm tương đồng, thoả mãn những lợi ích chung của các tầng lớp dân cư, của cả cộng đồng và cũng phần nào đó giải quyết được lợi ích của mỗi tầng lớp riêng biệt. Muốn thực hiện được điều đó, với vai trò trách nhiệm của mình, Đảng phải biết "lãnh đạo đúng" theo tư tưởng Hồ Chí Minh - nghĩa là cần phải kết hợp với dân, dựa vào dân, học tập kinh nghiệm của dân ở tất cả các khâu trong quá trình lãnh đạo:

"1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.

2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong.

3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được.

Những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công việc, của sự thay đổi của mọi người: trông từ trên xuống. Vì vậy sự trông thấy có hạn.

Trái lại, dân chúng trông thấy công việc, sự thay đổi của mọi người, một mặt khác: họ trông thấy từ dưới lên. Nên sự trông thấy cũng có hạn.

Vì vậy muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ắt phải hợp kinh nghiệm cả hai bên lại.

Muốn như thế, người lãnh đạo ắt phải có mối liên hệ chặt chẽ giữa mình với các tầng lớp người, với dân chúng"

Dân gian thường nói: ý Đảng lòng dân. "ý Đảng" là đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, còn "lòng dân" tức là nguyện vọng, lợi ích của nhân dân. Đường lối, chủ

176

Page 177: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

trương, chính sách của Đảng hợp với nguyện vọng, lợi ích của nhân dân tức là ý Đảng phù hợp với lòng dân, ý Đảng với lòng dân là một. Cố vấn Phạm Vǎn Đồng đã phân tích về vấn đề này một cách sâu sắc: "ý Đảng phải tác động đến lòng dân, và lòng dân phải luôn luôn là đối tượng quan tâm của Đảng; sự qua lại này phải được thể hiện trong đường lối, chiến lược, chính sách, phương pháp và phong cách của Đảng, từ cơ quan lãnh đạo tối cao đến cơ sở. Từ Đảng đến dân và từ dân đến Đảng không phải là một sự qua lại đơn điệu mà là một quá trình biến hoá không ngừng, phát triển theo chiều rộng và chiều sâu, nâng cao tầm vóc của đôi bên"

ý Đảng có phù hợp với lòng dân thì mới có thể đem lại lợi ích thực tế cho nhân dân. Đây cũng là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thực hiện "dân giàu nước mạnh". Dân giàu tức là mọi người dân đều giàu có về của cải vật chất, không những đủ ǎn tiêu mà còn có tích luỹ, có "của ǎn của để" để tái sản xuất mở rộng, không ngừng phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, đồng thời cũng có đời sống vǎn hoá tinh thần phong phú, lành mạnh, đậm đà truyền thống và bản sắc dân tộc. Dân có giàu thì nước mới mạnh, không chỉ mạnh về kinh tế mà cả về các mặt khác, mạnh ở từng người và mạnh cả cộng đồng.

Trước đây, Hồ Chí Minh cho rằng "bao nhiêu lợi ích đều vì dân" thì ngày nay, tuân theo lời chỉ dẫn của Người, Đảng ta đã khẳng định: "Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân" trong đó "lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp". Vấn đề chủ yếu là ở đó.

Từ trước tới nay, đường lối chính trị đúng đắn không chỉ là yếu tố quyết định vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho cách mạng khỏi bị chệch hướng để đi tới đích mà còn là ngọn cờ tập hợp mọi tầng lớp nhân dân xung quanh Đảng.

Trong điều kiện hiện nay, khi nước ta đang bước vào thời kỳ mới, phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, mở cửa và giao lưu quốc tế; đứng trước thời cơ, vận hội và những thách thức lớn, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội luôn luôn tìm cách vô hiệu hoá vai trò lãnh đạo của Đảng thì việc Đảng định ra đường lối chính trị đúng đắn, phù hợp nguyện vọng và lợi ích của nhân dân, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và thế giới có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Mặt khác, sau khi đã có đường lối chính trị đã được hoạch định đúng đắn phải được cụ thể hoá, bảo đảm sự đồng bộ giữa đường lối và chủ trương chính sách cụ thể, giữa chỉ đạo đường lối và những hình thức, biện pháp, bước đi phù hợp sáng tạo để thực hiện đường lối đó. Trước mắt, cần xử lý thật tốt một số vấn đề như: Phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng không đi chệnh hướng; mở cửa đối mặt với "diễn biến hoà bình" nhưng vẫn giữ vững độc lập, chủ quyền đất nước; hội nhập, chấp nhận cạnh tranh nhưng vẫn phát huy được nguồn lực bên trong và bên ngoài mà không bị lệ thuộc; giữ vững bản chất giai cấp công nhân, phát huy truyền thống tốt dẹp của dân tộc trong nền kinh tế thị trường; xây dựng Đảng cầm quyền ngang tầm với tình hình nhiệm vụ mới. Đó là những vấn đề liên quan trực tiếp tới sự bảo đảm cho đường lối chính trị đúng đắn.

177

Page 178: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Muốn vậy, Đảng phải đại diện cho trí tuệ của dân tộc, phải trong sạch, vững mạnh, có khả nǎng thu hút tập hợp mọi lực lượng, tầng lớp nhân dân, huy động toàn bộ trí tuệ tập thể của toàn Đảng và toàn dân vào quá trình hình thành đường lối, chủ trương, chính sách.

Phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, nhận thức lại chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ một cách sâu sắc và chính xác hơn. Nhanh chóng tổng kết tình hình thực tiễn trong nước, tình hình xây dựng Đảng từ khi Đảng cầm quyền trong cả nước đến nay. Làm chuyển biến tình hình kinh tế - xã hội, đẩy mạnh phong trào nhân dân khai thác mọi tiềm nǎng, phát triển sản xuất, phát triển dịch vụ, phát huy tốt vai trò của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, xoá đói, giảm nghèo, có chính sách hợp lý và thích hợp đối với các dân tộc, đồng bào miền núi,... Đảng, Nhà nước phải cùng nhân dân tập trung mọi sức lực ngǎn chặn có hiệu quả các tệ nạn xã hội, đặc biệt là tệ quan liêu, tham nhũng, các tiêu cực trong bộ máy Đảng và Nhà nước, ngǎn chặn tình trạng xuống cấp của các cơ sở giáo dục, y tế, vǎn hoá; làm tốt các chính sách xã hội đối với những gia đình có công với cách mạng, thương binh, gia đình liệt sĩ, chǎm sóc người về hưu; khắc phục sự phân hoá giàu nghèo đang diễn ra nhanh chóng trong xã hội...

Có như vậy, đường lối, chủ trương, chính sách mới được mọi người dân đồng tình, ủng hộ và quan tâm thực hiện, mới nhanh chóng trở thành hiện thực. Đó cũng chính là cơ sở bảo đảm sự nhất trí giữa Đảng và nhân dân hiện nay.

Ba là, phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, xây dựng cơ chế đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân.

Hồ Chí Minh đã nói "Chế độ ta là chế độ dân chủ . Tức nhân dân làm chủ. Tức là cán bộ và nhân viên từ cấp trên đến cấp dưới là đầy tớ của nhân dân, đều phải một lòng một dạ phục vụ nhân dân "1 . Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng không ngoài mục đích cao cả là phục vụ nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng chính là để tập hợp nguyện vọng, ý chí, trí tuệ của dân để định ra chủ trương, đường lối và tổ chức nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Vì vậy, suy cho cùng sự lãnh đạo xã hội của Đảng là sự dân chủ với dân, là tạo điều kiện để nhân dân trở thành người chủ có khả nǎng làm chủ bản thân và xã hội của mình.

Bản thản vấn đề dân chủ có hai khía cạnh, đó là: Là chủ và Làm chủ . Hai cái đó có vai trò và ý nghĩa khác nhau. Là chủ nói về tư cách, về cái quyền của người chủ, còn Làm chủ nói về nǎng lực và điều kiện thực tế sử dụng cái quyền đó. Là chủ nhưng không có nǎng lực và điều kiện để sử dụng cái quyền đó thì trên thực tế cũng không làm chủ được.

Ngày nay, để phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân phải tạo ra những điều kiện dân chủ và phải xây dựng cho được những cơ chế, quy chế để thực hiện quyền dân chủ đó. Những điều kiện đó là:

- Phải nâng cao dân trí cho nhân dân, làm cho người dân có kiến thức và trình độ nhất

178

Page 179: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

định về vǎn hoá, giáo dục, nghiệp vụ, khoa học kỹ thuật, pháp luật, vǎn học nghệ thuật, lý luận... Có dân trí cao, nhân dân mới có điều kiện và khả nǎng chủ động đóng góp vào quá trình đề ra các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, mới ý thức đầy đủ về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách đó; mới có đủ khả nǎng trình độ để đấu tranh bảo vệ những quan điểm đúng đắn; mới giám sát được đảng viên, cán bộ, các tổ chức, cơ quan Đảng và Nhà nước thực hiện chức nǎng của mình. Do vậy dân trí gắn liền với phát huy quyền làm chủ của nhân dân và liên quan mật thiết tới mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.

- Dân chủ hoá phải gắn liền với pháp chế hoá. Pháp luật phải kiên quyết trừng trị những kẻ thù của dân, những kẻ hại dân, bảo đảm cho những người dân bình thường thực hiện quyền làm chủ một cách bình thường, dám tố cáo những cơ quan và những người người có chức có quyền tham nhũng, hối lộ và làm những điều sai trái khác mà vẫn được bảo vệ, không bị trả thù, trù dập. Đồng thời dân chủ, cũng phải đi liền với kỷ cương, nằm trong khuôn khổ pháp luật, không để dẫn tới một sự lệch lạc quá trớn với những mối nguy hại không lường về chính trị.

- Có cơ chế và qui trình thực hiện khẩu hiệu "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Nội dung chủ yếu của khẩu hiệu này là nhằm để cho dân biết, bàn, kiểm tra về việc đề ra và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước; về phẩm chất đạo đức, chất lượng, hiệu quả công việc của cán bộ đảng viên; về sự hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân; về việc đảm bảo thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ công dân.

- Khắc phục bệnh quan liêu mệnh lệnh với những biểu hiện mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra: xa dân, khinh dân, sợ dân, không tin cậy dân, không hiểu biết dân, không thương yêu dân. Quan liêu mệnh lệnh làm cho Đảng và Nhà nước xa dân, không hiểu dân, dẫn tới những chủ trương chính sách trái với lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, dễ làm cho đội ngũ cán bộ đảng viên trở thành những "quan cách mạng", làm mất lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ.

Hồ Chí Minh khẳng định rằng bệnh quan liêu mệnh lệnh chỉ đưa đến một kết quả là hỏng việc. Vì vậy, phải mau mau chữa bệnh nguy hiểm ấy là: Điều kiện và khả nǎng chủ động đóng góp vào quá trình đề ra các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, mới có ý thức đầy đủ về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách đó; mới có đủ khả nǎng, trình độ để đấu tranh bảo vệ những quan điểm đúng đắn; mới giám sát được đảng viên, cán bộ, các tổ chức, cơ quan Đảng và Nhà nước thực hiện chức nǎng nhiệm vụ của mình. Do vậy dân trí gắn liền với phát huy quyền làm chủ của nhân dân và liên quan mật thiết tới mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.

- Dân chủ hoá phải gắn liền với pháp chế hoá. Pháp luật phải kiên quyết trừng trị những kẻ thù của dân, những kẻ hại dân, bảo đảm cho những người dân bình thường thực hiện quyền làm chủ một cách bình thường, dám tố cáo những cơ quan và những người người có chức có quyền tham nhũng, hối lộ và làm những điều sai trái khác mà vẫn được bảo vệ, không bị trả thù, trù dập. Đồng thời dân chủ cũng phải đi liền với

179

Page 180: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

kỷ cương, nằm trong khuôn khổ pháp luật, không để dẫn tới một sự lệch lạc quá trớn với những mối nguy hại khôn lường về chính trị.

- Có cơ chế và qui trình thực hiện khẩu hiệu "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Nội dung chủ yếu của khẩu hiệu này là nhằm để cho dân biết, bàn, kiểm tra về việc đề ra và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước; về phẩm chất đạo đức, chất lượng, hiệu quả công việc của cán bộ, đảng viên; về sự hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân; về việc đảm bảo thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ công dân.

- Khắc phục bệnh quan liêu, mệnh lệnh với những biểu hiện mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra: xa dân, khinh dân, sợ dân, không tin cậy dân, không hiểu biết dân, không thương yêu dân. Quan liêu, mệnh lệnh làm cho Đảng và Nhà nước xa dân, không hiểu dân, dẫn tới những chủ trương, chính sách trái với lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, dễ làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trở thành những "quan cách mạng", làm mất lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ.

Hồ Chí Minh khẳng định rằng bệnh quan liêu mệnh lệnh chỉ đưa đến một kết quả là hỏng việc. Vì vậy, phải mau mau chữa bệnh nguy hiểm ấy là:

- Bảo đảm cho đảng viên, cán bộ thường xuyên tiếp xúc với dân để hiểu rõ đời sống, tâm tư nguyện vọng của dân. Phải xem đây là một đòi hỏi tự nhiên, tự nguyện và trách nhiệm của đảng viên mà trong các giai đoạn cách mạng trước chúng ta đã làm tốt. Ngày nay do điều kiện sống, sinh hoạt, tác động của cơ chế thị trường, do tác phong quan liêu... sự gắn bó của người đảng viên với nhân dân bị hạn chế, giảm sút. Do vậy Đảng phải có quy định cụ thể và quan tâm thực hiện bằng được quy chế đảng viên tham gia sinh hoạt với nhân dân, trước hết là nơi mình sinh hoạt, cư trú. Trước đây, Đảng ta đã có chủ trương này nhưng do không quyết tâm, không đưa vào tiêu chuẩn đánh giá xem xét tư cách đảng viên nên nhiều nơi buông lỏng và không thực hiện nghiêm chỉnh. Nay cần nghiên cứu để có biện pháp, hình thức thực hiện thích hợp với tình hình mới.

- Có cơ chế để nhân dân kiểm tra, giám sát đối với đảng viên, cán bộ, các cơ quan Đảng và Nhà nước, các tổ chức nhân dân trong việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Động viên nhân dân, cùng nhân dân làm tốt hơn nữa việc phát hiện, đấu tranh, ngǎn ngừa những tiêu cực trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.

- Cần có quy định cụ thể và tạo lập được bầu không khí dân chủ để động viên nhân dân tham gia xây dựng Đảng một cách thường xuyên, có hiệu quả, không hình thức. Nhưng muốn làm được điều này, Đảng phải xem trọng những ý kiến phê bình và kiến nghị của dân chúng bằng cách đến với dân, tiếp dân. Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương cụ thể và mẫu mực về vấn đề này. Ngay từ ngày 3-9-1945 Người đã nêu ra và thực hiện nghiêm túc quy định về việc Chủ tịch Chính phủ tiếp chuyện đại biểu các đoàn thể. Điều đó đã được dân chúng hoan nghênh và cảm phục.

180

Page 181: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Hồ Chí Minh có một quan niệm đúng đắn và sâu sắc về việc nhân dân mạnh dạn phê bình cán bộ, đảng viên, phê bình Đảng và Chính phủ. Người khẳng định: "Đó là một điều rất tốt. Thế là dân chủ thực sự... Đảng và Chính phủ ta rất sẵn sàng nhận những lời phê bình của nhân dân và có quyết tâm sửa chữa. Cho nên khi phê bình, chúng ta cần phê bình một cách thiết thực và đề nghị phương pháp sửa chữa hợp lý. Phê bình và giúp đỡ sửa chữa, đó là quyền lợi và nghĩa vụ dân chủ của nhân dân ta".

Người đã nhiều lần nhắc nhở, cảnh cáo những cán bộ, những cơ quan được nhân dân phê bình mà vẫn cứ như "nước đổ đầu vịt", "im hơi lặng tiếng", không tự kiểm điểm, không đǎng báo tự phê bình và hứa sửa chữa, thậm chí còn trù dập người phê bình.

Bốn là: Đẩy mạnh công tác dân vận, tǎng cường khối đại đoàn kết toàn dân trong thời kỳ mới.

"Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng" là một chân lý phổ biến. Đối với nước ta, chân lý đó đã được kiểm nghiệm trong Cách mạng Tháng Tám đập tan xiềng xích thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; trong các cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ và vẻ vang chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc; trong sự nghiệp hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, công cuộc đổi mới cũng bắt đầu từ nhân dân, trước hết từ đông đảo nông dân và công nhân. Chính trên cơ sở tổng kết thực tiễn sáng tạo của nhân dân, Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, tạo ra bước ngoặt cơ bản trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Rõ ràng là trong điều kiện trình độ dân trí được nâng cao, dân chủ được mở rộng, các phương tiện thông tin đại chúng được phổ cập, các tầng lớp nhân dân có điều kiện tiếp nhận những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới, tiếp nhận những thông tin nhiều chiều có hướng dẫn về các vấn đề chính trị, kinh tế, vǎn hoá, xã hội ở trong nước và quốc tế thì tính tích cực và sáng tạo của nhân dân càng tǎng lên gấp bội; nhân dân có điều kiện thực tế để tham gia đóng góp ý kiến vào đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước và thực hiện nó một cách chủ động, tự giác và sáng tạo.

Bài học không bao giờ cũ rút ra ở đây là: Mọi tổ chức đảng và cơ quan chính quyền, mọi cán bộ và đảng viên phải thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, về bài học "lấy dân làm gốc", "Dân là chủ, là gốc của nước, của cách mạng", "Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân. "Công việc đổi mới xây dựng là trách nhiệm của dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân".

Mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ mục tiêu cao nhất là phục vụ lợi ích của nhân dân, thể hiện được ý chí và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Phải mở rộng và phát huy dân chủ, xây dựng thành những quy định cụ thể để nhân dân tham gia thực tế vào công việc quản lý đất nước, quản lý xã hội.

Củng cố và mở rộng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân là nhiệm vụ quan trọng sống còn của Đảng Cộng sản và của mỗi đảng viên, trước đây đã như vậy, hiện nay và sau này cũng vẫn là như vậy. Phải dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây

181

Page 182: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

dựng chính quyền, mọi đảng viên đều phải làm công tác vận động nhân dân. Công tác vận động quần chúng thực chất là xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Do vậy Đảng cần giữ vững mối liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân, tiếp tục phát huy khả nǎng to lớn của các giai cấp, các tầng lớp, mọi tổ chức quần chúng trên nền tảng của giai cấp công nhân, nông dân và lao động trí óc dưới sự lãnh đạo của Đảng và tạo nên sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam cho sự nghiệp đổi mới.

Đoàn kết là tư tưởng lớn và nhất quán của Hồ Chí Minh, đoàn kết cũng là cốt lõi tạo nên mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân. Những sáng kiến, kinh nghiệm, những đề nghị của nhân dân là khởi nguồn cho sự đổi mới tư duy của Đảng để hình thành nên đường lối đổi mới đúng đắn ngày nay. Điều đó đã khẳng định dự báo gần nửa thế kỷ trước đây của Hồ Chí Minh: "Công việc đổi mới, xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân". Chính nhân dân là người thực hiện đường lối đổi mới, là người làm nên những thành tựu to lớn như ngày nay. Điều ấy càng khẳng định sức mạnh to lớn của nhân dân. Đúng như Hồ Chí Minh đã dạy: dân ủng hộ nhiều thì thành công nhiều, ủng hộ ít thì thành công ít. Một mình Đảng thì dù tài giỏi mấy cũng không làm được gì hết.

Vì vậy, công cuộc đổi mới càng phát triển sâu rộng càng đòi hỏi phải tǎng cường và mở rộng khối đoàn kết toàn dân. Muốn đẩy mạnh phong trào quần chúng hành động cách mạng phải đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và giải quyết hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Đồng thời phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ công dân trên cơ sở đảm bảo của hệ thống pháp luật, chế độ chính sách của Nhà nước.

Công cuộc đổi mới đã đem lại những thành tựu to lớn, làm thay đổi bộ mặt xã hội, tǎng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo ra bầu không khí xã hội dân chủ hơn, cấu trúc xã hội phát triển phong phú, và phức tạp hơn. Do vậy cần phải có những hình thức tập hợp nhân dân đa dạng để nhằm thoả mãn và đáp ứng những nhu cầu chính đáng của nhân dân.

Ngày nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò to lớn trong việc củng cố và tǎng cường khối đoàn kết toàn dân, góp phần quan trọng vào việc củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Do vậy các cấp uỷ Đảng từ Trung ương tới cơ sở phải vừa làm một thành viên tích cực của Mặt trận, vừa làm tốt chức nǎng lãnh đạo Mặt trận và động viên phong trào hành động cách mạng của quần chúng thì mới tạo được sự bám rễ của Đảng trong nhân dân. Củng cố mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, đổi mới tổ chức và hoạt động của các đoàn thể nhân dân để đoàn kết các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài" là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài và nhất quán của Đảng ta. Cần phải thấm nhuần hơn nữa tư tưởng "Đoàn kết" của Bác Hồ, phấn đấu mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân là các giai cấp và tầng lớp cơ bản, là liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Vì vậy, Đảng phải hết sức chǎm lo xây dựng lực lượng các giai cấp, tầng lớp cơ bản; hoàn thiện các chính sách bảo đảm lợi

182

Page 183: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

ích của công nhân, nông dân, trí thức, mở mang công nghiệp và phát triển khoa học, công nghệ, thực hiện luật lao động, thể chế hoá vai trò của công đoàn trong các cơ sở tư doanh, liên doanh; có chính sách trọng dụng nhân tài, tạo điều kiện cho trí thức phát huy tài nǎng sáng tạo và được đãi ngộ xứng đáng với cống hiến của họ, khắc phục tình trạng "chảy máu chất xám". Chǎm lo và phát huy lực lượng cách mạng sáng tạo của thanh niên. Bồi dưỡng và phát huy vai trò cách mạng to lớn, những đức tính tốt đẹp "giỏi việc nước, đảm việc nhà" của chị em phụ nữ, có chính sách chǎm lo sức khoẻ của các bà mẹ và trẻ em giúp đỡ chị em có điều kiện làm tròn nghĩa vụ công dân, tham gia quản lý nhà nước và thiên chức nuôi dạy con cái, xoá bỏ mọi tàn dư bất bình đẳng, triệt để giải phóng phụ nữ về mặt xã hội. Hoàn thiện và thi hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và luật pháp của Nhà nước đối với các dân tộc thiểu số, đối với đồng bào theo các tôn giáo, đối với các nhà công thương và cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Giải quyết kịp thời, đúng đắn những tranh chấp trong nội bộ nhân dân, ngǎn chặn phát sinh các "điểm nóng", giáo dục thuyết phục quần chúng bàn bạc có lý, có tình, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật chính sách của Nhà nước, không để kẻ địch và những phần tử xấu lợi dụng gây rối. Lời dạy cách đây gần nửa thế kỷ của Bác Hồ, đến nay vẫn giữ nguyên giá trị và có ý nghĩa thời sự nóng hổi: "Lực lượng của dân rất to, việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công".

Trong điều kiện hiện nay Nhà nước mà chúng ta đang xây dựng và hoàn thiện ngày càng có vai trò to lớn trong quản lý đất nước, càng có nhiều điều kiện để làm tốt công tác vận động quần chúng. Nhưng do tính chất Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, cho nên Nhà nước phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, các chế độ chính sách về quyền và nghĩa vụ công dân để làm cơ sở cho việc xây dựng và củng cố mối quan hệ với nhân dân. Mặt khác phải xây dựng cả những vǎn bản dưới luật để quy định, hướng dẫn nhân dân biết sử dụng quyền và nghĩa vụ của mình một cách tự giác. Trong các cơ quan Nhà nước, những ngành, đơn vị có quan hệ trực tiếp với nhân dân cần được củng cố hoàn thiện cả về bộ máy tổ chức, bố trí cán bộ, quy định cụ thể tiêu chuẩn và trách nhiệm để dân biết, dân bàn và dân kiểm tra hoạt động của các ngành, các đơn vị và các cá nhân đó.

Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình chủ yếu bằng hình thức gián tiếp, qua các đại biểu của mình bầu ra. Vì vậy những đại biểu của dân và những cơ quan dân cử phải tǎng cường tiếp xúc với dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của dân để phản ánh với các cơ quan Nhà nước và có trách nhiệm thúc đẩy các cơ quan Nhà nước giải quyết những nguyện vọng, yêu cầu chính đáng của nhân dân một cách nhanh chóng và đầy đủ nhất.

Như vậy là, trong hoàn cảnh mới, Đảng có nhiều điều kiện để củng cố mối quan hệ với dân bằng cách thông qua Nhà nước, Mặt trận, các tổ chức xã hội và các tổ chức quần chúng. Nhưng Đảng cũng dễ bị quan liêu hoá do quá nhiều tầng nấc trung gian. Vì vậy, Đảng cần tiếp tục đổi mới công tác quần chúng, tạo nên sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan và tổ chức để qua đó mà giữ vững mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.

183

Page 184: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Nǎm là: Phải có những biện pháp tích cực, kiên quyết ngǎn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, nhất là tệ tham nhũng đang trở thành "quốc nạn" hiện nay.

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, bên cạnh những thành tựu to lớn và toàn diện, vẫn còn có những khuyết điểm và yếu kém, trong đó rất đáng lo ngại là sự phát triển những tệ nạn xã hội như: tham ô, lãng phí, hối lộ, buôn lậu, trộm cắp, cướp của giết người, mại dâm, nghiện hút ma tuý, tàng trữ và tuyền bá những vǎn hoá phẩm đồi truỵ. Nhưng bao trùm nhất, nghiêm trọng nhất, là tệ tham nhũng phát triển tràn lan, hoành hành ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, trở thành một thứ giặc "nội phản", một "quốc nạn". Đây là một vấn đề , một chủ đề được nói đến nhiều và phê phán nhiều trên báo chí và trong các kỳ họp Quốc hội. Đại hội VIII của Đảng ta vừa qua đã nhận định: "Nạn tham nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống còn của hệ thống chính trị. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có những biện pháp khắc phục, song hiệu quả còn thấp".

Thực chất của tham nhũng là sự lợi dụng chức vụ, quyền hành của những cán bộ, đảng viên có chức quyền để nhũng nhiễu dân, để "chiếm công vi tư" , lấy công quỹ, tiền của của Nhà nước, của tập thể để làm giàu cho cá nhân và gia đình họ.

Tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công đang là hiện tượng phổ biến trong bộ máy Đảng, Nhà nước và các đoàn thể. Những tệ nạn đó không chỉ gây nguy hại lớn cho nền kinh tế và xã hội nước ta, làm suy yếu hiệu lực quản lý của Nhà nước, và là nhân tố gây ra mất ổn định về chính trị mà còn làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Vì vậy Đảng và Nhà nước phải có những biện pháp mang tính chiến lược để phát hiện, triệt phá nạn tham nhũng, buôn lậu. Trước mắt cần xem xét lại các vǎn bản pháp luật, chính sách, quy định để hạn chế những khe hở nhằm ngǎn chặn tham những, buôn lậu, tham ô lãng phí. Nên có chế độ quy định trách nhiệm cho thủ trưởng các ngành, các cơ quan, các đơn vị về liên đới trách nhiệm khi có cán bộ đảng viên trong phạm vi quản lý của mình có hành vi tham nhũng, buôn lậu, tham ô, lãng phí. Phải trừng trị thật nghiêm minh, theo pháp luật và theo điều lệ của Đảng những đảng viên tham nhũng, buôn lậu, tham ô, lãng phí, đặc biệt là những người gây ra hậu quả nghiêm trọng. Cần học kinh nghiệm của các nước đã thành công trong lĩnh vực này. Phải làm tốt hơn nữa công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức, nâng cao phẩm chất đạo đức cho đảng viên, cán bộ và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng; làm tốt công tác quần chúng xây dựng Đảng, đổi mới công tác kiểm tra, thanh tra, xét xử và tǎng cường kỷ luật đảng. Đảng cần xác định thật cụ thể tiêu chuẩn đảng viên trong thời kỳ mới và phải lấy đó làm cơ sở để mọi đảng viên phấn đấu, tu dưỡng và rèn luyện. Các tổ chức Đảng, tổ chức Nhà nước, tổ chức đoàn thể nhân dân phải xây dựng các quy chế chặt chẽ và cụ thể, có biện pháp thường xuyên để quản lý kiểm tra, giáo dục đảng viên, cán bộ, đoàn viên, hội viên của mình.

Cần động viên toàn dân tham gia chống tham nhũng, buôn lậu, tham ô, lãng phí và các tệ nạn xã hội khác. Cần có chính sách động viên khen thưởng lớn đối với người phát hiện ra các hành vi trên và đồng thời phải có chính sách bảo vệ những người, những tổ chức, cơ quan dám phát hiện, tố cáo những vụ tham nhũng trong bộ máy của Đảng và Nhà nước. Đúng như Hồ Chí Minh đã khẳng định "phong trào chống

184

Page 185: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng của quần chúng thì mới thành công".

Song song với cuộc đấu tranh chống tham nhũng, buôn lâu, tham ô, lãng phí, Đảng phải có chương trình, kế hoạch cụ thể phát triển kinh tế, giải quyết tốt các chính sách xã hội để giảm bớt sự phân hoá giàu nghèo trong Đảng và ngoài xã hội, giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư với nhau. Cần lưu ý là chừng nào mà giữa đảng viên với đảng viên còn khoảng cách quá lớn về thu nhập, cón sự phân biệt giàu nghèo, còn cảnh dảng viên này phải đi làm thuê cho đảng viên khác để kiếm sống thì đừng nói đến tình hữu ái giai cấp, càng không thể nói đến xoá phân cách giàu nghèo trong nhân dân. Chính vì vậy, Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định rõ rằng: Đảng viên không được bóc lột. Đảng phải thực sự chǎm lo cải thiện một bước đáng kể đời sống cán bộ, nhân dân ở những vùng cǎn cứ cách mạng và kháng chiến trước đây. Đó là việc làm có ý nghĩa thiết thực không chỉ cho quá khứ, hiện tại mà cho tương lai. Mặt khác, Đảng phải chǎm lo việc nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, đào tạo cho những vùng còn gặp nhiều khó khǎn. Phải kiên quyết ngǎn chặn các tệ nạn xã hội, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, cuộc sống bình yên cho nhân dân.

Sáu là: chỉnh đốn đội ngũ đảng viên và tổ chức Đảng, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự gương mẫu, xứng đáng với lòng tin của nhân dân.

Do quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ trong các giai đoạn cách mạng và trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước, đội ngũ đảng viên của Đảng đã trưởng thành, đông đảo. Hiện nay hầu hết đội ngũ đó có mặt và đảm nhiệm các chức vụ, trọng trách và hoạt động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Phần đông đảng viên là những người đã được rèn luyện, thử thách, có đức, có tài, biết hy sinh quyền lợi cá nhân để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Tuy nhiên, bước vào giai đoạn cách mạng mới, đội ngũ đảng viên còn nhiều biểu hiện bất cập. Một số có biểu hiện sa sút về phẩm chất, đạo đức, thậm chí có người còn dao động, hoài nghi về con đường cách mạng mà Đảng ta đã chọn. Một số đã phai nhạt lý tưởng... Do vậy để hoàn thành trách nhiệm lãnh đạo công cuộc đổi mới đi đến thắng lợi cần phải chỉnh đốn đội ngũ và tổ chức Đảng làm cho đảng viên thực sự trong sạch, tiền phong gương mẫu, xứng đáng với lòng tin của nhân dân.

Hướng đổi mới và chỉnh đốn Đảng cần tập trung vào những mặt mà đội ngũ đảng viên và tổ chức đảng còn yếu kém, hoặc chưa ngang tầm là:

- Cần giữ vững và tǎng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong của Đảng. Đây là vấn đề cực kỳ cần thiết vì đội ngũ đảng viên của Đảng ta trưởng thành trong điều kiện của một nước nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp chưa phát triển, tỷ lệ đảng viên xuất thân từ giai cấp công nhân rất thấp, nay lại hoạt động trong điều kiện của một đảng cầm quyền, trong môi trường của nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường; mở cửa giao lưu với quốc tế. Đảng viên phần lớn lại giữ các trọng trách , nếu không có bản lĩnh rất dễ bị cám dỗ, sa ngã, tha hoá và biến chất. Do vậy phải củng cố, tǎng cường rèn luyện bản chất giai cấp công nhân, mà trước hết

185

Page 186: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

là rèn luyện thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên định lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Phải có biện pháp làm cho tỷ lệ giai cấp công nhân trong Đảng cao hơn.

- Nâng cao trình độ trí tuệ, nǎng lực công tác và phẩm chất đạo đức cách mạng cho đảng viên. Chúng ta đang sống trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển như vũ bão. Hơn nữa, đây cũng là thời kỳ mà cuộc đấu tranh trên bình diện lý luận để bảo vệ những giá trị của chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh đang diễn ra một cách gay gắt trên từng vấn đề nền tảng, cốt tử của học thuyết và tư tưởng đó. Do vậy, đội ngũ đảng viên của Đảng phải được bồi dưỡng, phát triển toàn diện cả trí tuệ, nǎng lực, phẩm chất và trình độ lý luận. Có như vậy thì Đảng mới đủ sức chiến đấu và làm tròn chức nǎng lãnh đạo toàn xã hội, mới bảo vệ được những giá trị của học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng về mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.

Việc cần làm hiện nay đối với đội ngũ đảng viên của Đảng là nhanh chóng nâng cao trình độ lý luận, học vấn, ngoại ngữ, nǎng lực chuyên môn, trình độ quản lý; phải kịp thời uốn nắn mọi lệch lạc, khắc phục tình trạng sa sút phẩm chất và thoái hoá trong Đảng. Đấu tranh có hiệu quả chống bệnh quan liêu, tham nhũng, tham ô, lãng phí trong Đảng.

Cần rà soát lại chất lượng đội ngũ đảng viên theo những tiêu chuẩn mới, sát với yêu cầu của công cuộc đổi mới; tǎng cường công tác kiểm tra, thanh tra; có những quy chế thật chặt chẽ để quản lý, kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của đảng viên. Cần xử lý thật nghiêm minh những đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, những đảng viên tham nhũng, hối lộ, tham ô. Có kế hoạch đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không còn tác dụng và đẩy mạnh quá trình phát triển đảng viên, gắn với quá trình đó ngay từ đầu việc kết nạp những người có đủ nǎng lực, trình độ, phẩm chất theo yêu cầu mới. Có như vậy, thì mới khắc phục được xu hướng "lão hoá" trong Đảng và mới bảo đảm có đủ đội ngũ đảng viên kế cận cho Đảng.

- Tiến hành sàng lọc đội ngũ đảng viên phải được xem là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của Đảng bởi vì mỗi giai đoạn cách mạng có những yêu cầu, nhiệm vụ khác nhau. Có người giai đoạn trước phát huy được vai trò tiên phong gương mẫu, gắn bó với dân, nhưng nay trở nên thoái hoá biến chất xa rời nhân dân. Do vậy, Đảng muốn mạnh phải thường xuyên sàng lọc đảng viên.

Mấy nǎm qua chúng ta đã xử lý kỷ luật và đưa ra khỏi Đảng hàng chục vạn đảng viên. Nhưng hiệu quả của việc sàng lọc đội ngũ đảng viên còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do vậy, cần phải có những chủ trương giải pháp thích hợp đánh giá đúng mặt mạnh, mặt yếu của đội ngũ đảng viên, giải quyết tốt mối liên hệ giữa chất lượng và số lượng đảng viên.

- Cần nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, khắc phục và xoá bỏ yếu kém, phát triển cơ sở Đảng trong các

186

Page 187: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

tổ chức kinh tế xã hội, đặc biệt là những vùng trắng, vùng trống, vùng tranh chấp giữa ta và các thế lực khác. Sắp xếp các tổ chức cơ sở Đảng theo hướng gắn với đơn vị dân cư, đơn vị công tác, sản xuất, bảo đảm cho mọi đảng viên trong tổ chức cơ sở phải được phân công công tác, phải chịu trách nhiệm về tổ chức trước một số quần chúng nhất định.

Tổ chức Đảng phải có nội dung hoạt động thiết thực, cụ thể, tránh chung chung. Phải lấy hiệu quả trong lãnh đạo là biết đề ra chủ trương, giải pháp đúng và lãnh đạo tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của địa phương, của đơn vị đem lại kết quả cụ thể về phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân lao động, chống tham nhũng, tổ chức được phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân... làm thước đo đánh giá sức chiến đấu của một tổ chức cơ sở Đảng.

Tổ chức Đảng phải lãnh đạo làm tốt chính sách xã hội, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội, mà trước hết là trong Đảng. (Hiện nay vẫn còn 5-10% đảng viên thuộc diện nghèo đói).

Đảng ta tuy có số lượng đảng viên đông nhưng là tỷ lệ nhỏ trong dân cư. Phần lớn đảng viên là những người ưu tú. Nhiều người đã hy sinh cả cuộc đời cho cách mạng. Nhưng trong số họ nhiều người còn quá nghèo khổ, nhất là những đảng viên ở các vùng cǎn cứ cách mạng, chiến khu, vùng cao, nông thôn. Đảng cần có kế hoạch, chính sách thỏa đáng giúp đỡ số đảng viên này.

Ngoài ra tổ chức Đảng phải thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hành tự phê bình và phê bình thành khẩn, bảo đảm đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng. Phải thường xuyên tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân tham gia xây dựng Đảng thì Đảng mới trong sạch và mới gắn bó với nhân dân chặt chẽ.

Nhân dân ta vốn có truyền thống cách mạng, đã đi theo Đảng hơn 65 nǎm qua; do vậy tuyệt đại bộ phận nhân dân đã tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Nhân dân ta cũng nhận thấy rằng con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn - gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội - là con đường đúng đắn, có tính khả thi để đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc và công bằng.

Ngày nay, trên con đường đã chọn, với truyền thống yêu nước nồng nàn, với tinh thần chủ động sáng tạo, ý chí tự lực tự cường, với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự giúp đỡ của bầu bạn trên thế giới, nhân dân ta đã chứng tỏ khả nǎng thực hiện sự lựa chọn của mình. Kinh nghiệm cũng đã chỉ ra rằng nếu Đảng mất vai trò lãnh đạo, thì cách mạng chệch hướng, nhân dân mất quyền làm chủ. ở đâu và lúc nào vai trò lãnh đạo của Đảng được khẳng định, dân chủ xã hội được bảo đảm thì quyền làm chủ của nhân dân ta càng được xác lập. Vì vậy, với định hướng xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng vǎn minh, hơn bao giờ hết, nhân dân ta rất cần có một Đảng cách mạng chân chính, sáng suốt, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc lãnh đạo để bảo đảm cho xã hội ổn định và phát triển theo định hướng và mục tiêu đã chọn.

187

Page 188: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

Trong điều kiện hiện nay, đổi mới và chỉnh đốn Đảng, làm cho đội ngũ đảng viên thực sự gương mẫu, đủ phẩm chất và nǎng lực chính là để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội.

* * *

Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào giải phóng dân tộc; vị anh hùng dân tộc - nhà vǎn hoá lớn, nhà tư tưởng lớn của Việt Nam, Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới.

Người và Đảng mà Người sáng lập đã để lại cho đời sau những thành quả cách mạng to lớn một di sản tư tưởng vô giá trên nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó tư tưởng về mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là bí quyết để tạo nên sức mạnh của Đảng và thành công của cách mạng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân, về Đảng và về mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với dân là một bộ phận đặc sắc và phong phú trong kho tàng di sản tư tưởng vô giá của Người. Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ phong cách của một nhà hiền triết phương Đông trong thời đại mới, một nhà tư tưởng Việt Nam lỗi lạc, với những lời nói giản dị mà sâu sắc, đầy tính triết lý và chân lý, xứng đáng với vai trò và tầm vóc vĩ đại của một lãnh tụ chân chính suốt đời vì dân, rất gần dân, hiểu dân, tin dân và được dân tin cậy. Tư tưởng đó có nội dung rất độc đáo và đa dạng, rất cụ thể và sâu sắc, có ý nghĩa, tác dụng to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Đó là cơ sở lý luận, là kim chỉ nam của hành động cách mạng và cũng là một điều kiện bảo đảm thắng lợi cho quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, trong đó có công tác vận động quần chúng qua các thời kỳ cách mạng.

Nhờ những di sản đó, chúng ta nhận thức sâu sắc thêm chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh mà cốt lõi và động lực chi phối suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Người là tình thương yêu nhân dân sâu sắc và khát vọng cứu nước, cứu dân. Qua di sản tư tưởng của Người chúng ta hiểu thêm tính độc đáo, sáng tạo, một tư duy sắc sảo về nhân dân và sự nhất quán trong hành động vì nhân dân của Người. Hồ Chí Minh "đến" với Đảng cũng vì nhân dân. Người đã đem hết trí lực và nhiệt huyết của mình dồn vào việc xây dựng một Đảng cách mạng chân chính, luôn biết tôn trọng, yêu quý nhân dân, gắn bó với nhân dân, biết đề ra những chủ trương, chính sách thể hiện ý chí, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân, biết phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Vì thế Hồ Chí Minh đứng ở đỉnh cao tầm vóc của một nhà vǎn hoá, một nhà yêu nước, một nhà cách mạng, một nhà tư tưởng, một công trình sư tạo dựng nên mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân. Giá trị vĩnh hằng của tư tưởng Hồ Chí Minh là ở chỗ đó. Tǎng cường củng cố mối quan hệ giữa Đảng và dân là nhiệm vụ sống còn của Đảng, của cách mạng.

Ngày nay, trong điều kiện mới, hành động theo tư tưởng Hồ Chí Minh - tǎng cường

188

Page 189: Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với … · Web view2005/02/11  · Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải

mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân là bảo đảm cho Đảng luôn luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân, không bị thoái hoá biến chất, là làm cho toàn bộ hoạt động của Đảng hướng vào việc tập hợp quần chúng nhân dân trên cơ sở của những chủ trương, chính sách cụ thể đối với từng giai cấp, từng tầng lớp xã hội, từng dân tộc, tôn giáo, của mọi người Việt Nam ở trong nước và định cư ở nước ngoài; bảo đảm lợi ích và yêu cầu chính đáng của nhân dân; động viên mọi tiềm nǎng sáng tạo, tinh thần làm chủ của nhân dân để phát huy sức mạnh cộng đồng dân tộc, thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết ở tầm cao và chiều sâu mới, nhằm phát huy truyền thống yêu nước, cách mạng, lòng tự hào dân tộc để phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, vǎn minh.

"Phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân" để giành lấy thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới. Đó chính là sự vận dụng sáng tạo di sản tư tưởng của Người vào điều kiện hiện nay.

Sự thành công của công cuộc đổi mới hơn mười nǎm qua đã khẳng định sự đổi mới của Đảng ta để vượt qua khó khǎn thử thách, giữ vững sự lãnh đạo của mình, đồng thời cũng khẳng định vai trò to lớn của nhân dân. Quan hệ Đảng và nhân dân đã được củng cố. Song cách mạng nước ta đã chuyển sang giai đoạn mới, tình hình đã thay đổi nhiều so với trước đây. Nhiều vấn đề mới đang tiếp tục phát sinh, liên quan mật thiết tới mối quan hệ giữa Đảng và dân cần phải được tiếp tục nghiên cứu, cần được các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân vận dụng sáng tạo trong công cuộc đổi mới ở thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997

189