Upload
buinhan
View
229
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
ẤN-ĐỘ PHỤC-HƯNG
RABINDRANATH - TAGORE
( 1861 - 1941 )
( 1940, Santiniketan. _ Le Mahâtmâ GANDHI
et RABINDRANATH TAGORE
Conversation dans le cabinet de travail du poète .)
Dịch Thuật :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
1
RABINDRANATH TAGORE
( 1861 - 1941 )
Gandhi và Tagore là linh-hồn và cha đẻ
của Ấn-Độ hiện-đại, một người đã tôn-giáo-
hóa chính-trị, một người làm sống lại hồn thơ
tôn-giáo Tiên-tri ( Rishi ) thời Vedas, đồng-
nhất-hóa thi-ca và tôn-giáo. Cả hai người đã
hoàn-thành công cuộc phục-hưng truyền-thống
văn-hóa Ấn và giải-phóng dân-tộc khỏi đế-
quốc thực-dân, không phải đổ máu .
Thi-hào Tagore, giải-thưởng quốc-tế
Nobel về văn-học, đã tự-thuật về mình :
" Tôi ra đời năm 1861 . Đấy không
phải một niên-hiệu lịch-sử, nhưng nó
thuộc về một thời-đại lớn của đất Bengal,
thời của ba trào-lưu vận-động gặp nhau
trong đời sống của nước tôi. Một thuộc về
ẤĐPH TAGORE
2
tôn-giáo, đã được Raja Rammohan Roy,
một đại-nhân rất thông-minh, đề-xướng.
Nó có tính-cách cách-mệnh vì ông đã thử
khai-phóng dòng sống tâm-linh bị bế-tắc
từ lâu bởi cát và rác của những tín-
ngưỡng hình-thức và duy-vật, đóng
khung trong tập-tục bề ngoài, thiếu hẳn ý-
nghĩa tâm-linh. Người cố bám vào quá-
khứ xa-xưa thì hãnh-diện về cổ-tích của
mình, về sự siêu-việt của bức tường cổ
vây bọc lấy chúng. Họ trở nên bực-tức và
giận-dữ khi nào có tinh-thần lỗi-lạc, có ai
yêu chân-lý, phá vỡ bức tường của họ và
tuôn vào luồng tư-tưởng sáng-chiếu và
hơi thở của sinh-lực. Ý-tưởng tạo nên
vận-động và tất cả vận-động tiến-bộ họ
đều coi như là đe-dọa cho sự an-toàn
kho-tàng của họ .
" Tôi đã sinh ra trong khi các việc
ấy diễn ra. Tôi lấy làm kiêu-hãnh mà nói
rằng cha tôi là một trong các người lãnh-
đạo chính của vận-động ấy, vận-động
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
3
khiến ông bị truất hết quyền-lợi và chịu-
đựng những bất công xã-hội. Tôi sinh vào
chính không-khí của những lý-tưởng mới
sẩy đến, lý-tưởng đống thời cổ xưa, xưa
hơn tất cả sự vật mà thời-đại tự kiêu .
" Còn một vận-động thứ hai cũng
chẳng kém quan-trọng. Bankim Chandar
Chatterjee, tuy già hơn tôi lại cũng đồng
thời với tôi và sống đủ lâu để cho tôi còn
được thấy, ông là một tiên-phong trong
cuộc cách-mệnh văn-học ở đất Bengal
thời bấy giờ. Trước ông, văn-học của
chúng tôi bị áp-bức bởi một lối văn hoa-
mỹ, bóp nghẹt sức sống và nặng vận-điệu
trói-buộc. Bankim Chandar đã đủ can-
đảm chống với chính-thống tin-tưởng vào
sự an-toàn bia-mộ và vào cứu-cánh của
thần-chết. Ông nâng cái trọng-lượng của
những hình-thức nặng-nề trong ngôn-ngữ
của chúng tôi và với chiếc gậy thần, ông
đã gọi dậy nền văn-học của chúng tôi ra
khỏi giấc ngủ triền-miên lâu đời. Một hứa
ẤĐPH TAGORE
4
hẹn lớn và một viễn-ảnh về cái đẹp nó
biểu-lộ cho chúng tôi khi nó tỉnh dậy đầy
đủ sức mạnh và duyên-dáng của nó .
" Lại một phong-trào nữa xuất-phát
đồng thời với hai phong-trào trên, là
phong-trào Dân-tộc. Nó không phải thuần
là chính-trị, nhưng nó bắt đầu là tiếng nói
tinh-thần của dân tối-cổ, khẳng-định bản-
ngã của chính mình. Nó là một tiếng bất-
bình đối với sự nhục-nhã luôn luôn
chồng-chất lên chúng tôi, do người không
phải Đông-phương đem đến, chúng đặc-
biệt, bấy giờ, có thói phân-biệt thế-giới
loài người thành tốt hay xấu, tùy theo
người ta thuộc về bán-cầu nào ."
_ ( Tôn-giáo của Một Nghệ-sĩ )
Rabindranath Tagore đã sinh-trưởng
trong hoàn-cảnh ấy ở xứ Bengal. Ông thuộc về
một dòng quí-tộc Ấn-Độ, ông nội là Quốc-
vương Dwarakanath Tagore và ông thân-sinh là
Debendranath Tagore, một nhà cải-cách tôn-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
5
giáo, đệ-tử của Ram Mohan Roy và đứng đầu
Hội tôn-giáo cải-cách Brahmo Samâj, được dân
Ấn tôn-trọng như bậc Thánh ( Maharshi ),
được Ramakrishna chứng-nghiệm có thị-hiện
thần-linh .
Gia-đình Tagore thuộc về thượng-lưu trí-
thức tiến-bộ, nơi đi lại của giới trí-thức tỉnh
Calcutta. R. Tagore sớm được tiếp-xúc với
văn-nghệ-sĩ, khoa-học-gia đương thời. Cha của
ông " dè dặt tránh sự can-thiệp vào ý-tưởng
của ông " như chính ông đã ghi trong tập nhật-
ký của mình. Đối với học-hiệu lối Tây-phương
như cha ông đề-cao, thì R. Tagore cũng như Sri
Ramakrishna và Ramana Maharshi tỏ ra lãnh-
đạm. Ông đã viết về cái học nhà-trường :
" Cảm-tưởng của tôi như là cái cây đáng lẽ
được để sinh-trưởng đầy đủ, lại bị đốn xuống
để làm thùng đóng đồ."_( L' Inde et son Âme ).
Ông ham đọc thi-nhân tâm-linh huyền-bí như
Vidyapathi và Chandidâs và tỏ ra có năng-
khiếu về thi văn. Năm 13 tuổi ông đã cho đăng
những bài thơ đầu trong nguyệt-san Iyânânkur.
ẤĐPH TAGORE
6
Năm 14 tuổi ông làm xong vở-kịch đầu tiên
" Le Génie de Valmiki " và ông đã là tác-giả
của hai tập thơ lãng-mạn " Điệu hát Chiều-tà "
( Sandhya Sangit ) và " Điệu hát Rạng-đông "
( Prarbat Sangit ). Năm 17 tuổi ông du-học ở
Anh-quốc khá lâu để tiếp-xúc với văn-minh
Tây-phương. Năm 23, ông trở về lập gia-thất,
và vợ chồng về ở đồn-điền lớn của cha, quản-lý
suốt 17 năm. Đây là thời-kỳ ông hưởng-thụ
nghệ-thuật đồng-quê, bên cạnh vợ con, sáng-
tác văn thơ, vui-thú điền-viên, thỏa-thích với
mộng đẹp thiên-nhiên huyền-diệu của Ấn-Độ
xanh, cho đến khi vợ trẻ từ-trần ( 1902 ) cùng
với hai con gái và một con trai, ông mới tỉnh-
ngộ cái tuồng Ảo-hóa ( Maya ) như trong thần-
thoại truyền-thống .
Nhưng ở đất Bengal, ông đã nổi tiếng từ
buổi tiệc cưới nhà sử-gia Dutt, được thi-sĩ trứ-
danh Bankim lấy vòng hoa của mình được tặng
mà quàng vào cổ Tagore nói : " Vòng hoa này
đáng để cho vị này ! " Rồi thi-sĩ Bankim lấy
tập thơ Sandhya Sangit của Tagore làm khi còn
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
7
niên-thiếu đọc cho quan-khách hiện-diện bấy
giờ nghe, ai nấy đều thưởng-thức khen-ngợi.
Ông hết sức cảm-động và bắt đầu tự-tin vào
chân-tài của mình. Sau này, khi được hội văn-
học Thụy-Điển trao tặng, năm 1913 giải-
thưởng quốc-tế Nobel, ông còn nhớ ơn sự
khích-lệ của người bạn vong-niên, thi-sĩ
Bankim vậy. Với giải-thưởng Nobel, R. Tagore
là người Á-châu đầu tiên nổi-tiếng thế-giới.
Tiếp theo năm 1915 Vua nước Anh trao-tặng
chức Huân-tước, nhưng rồi ông đã gửi trả khi
quân-đội Anh bắn-xả vào đám đông dân Ấn tay
không biểu-tình ở Amritsar ( 1919 ). Cùng năm
1915 được phong tước, Đại-học Calcutta tặng
ông bằng Văn-khoa danh-dự .
Ngoài sáng-tác văn thơ, Tagore còn để
tâm vào cách-mệnh giáo-dục với Hòa-bình
Học-viện Santiniketan, một Đại-học Quốc-tế
để thực-hiện lý-tưởng đại-đồng. _ Rồi ông đi
chu-du thế-giới, reo rắc tư-tưởng truyền-thống
Ấn-Độ .
ẤĐPH TAGORE
8
Tháng 8 năm 1941, Tagore từ-trần. Trước
đó mây tháng, ông nói lời cuối cùng :
" Có một thời tôi tin vào một cuộc
hồi-sinh sẽ xuất-phát từ con tim Âu-châu.
Nhưng ngày nay, khi tôi sắp từ-giã cõi
đời, cái tín-ngưỡng ấy đã tan vỡ hết cả.
Tôi nhìn quanh tôi, tôi thấy sự đổ-nát của
một nền văn-minh kiêu-hãnh rải-rác từ
một đống vô giá-trị lớn .
" Tuy vậy, nhưng tôi sẽ không
phạm tội nặng vì mất tín-tưởng vào nhân-
loại. Có lẽ tôi phải nhìn về tương lai của
sự mở chương lịch-sử, sau cuộc động đất
chấm-dứt thì không-khí trở nên sáng-sủa
với tinh-thần phụng-sự và hy-sinh. Có lẽ
buổi rạng-đông ấy sẽ từ phương trời
Đông đến, nơi mặt-trời mọc . "
_ ( Sự Khủng-hoảng của Văn-minh )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
9
Sử-gia Ấn-Độ-giáo D.S. Sarma viết trong
tác-phẩm " Hindouism Through the Ages " về
R. Tagore :
" Sự phong-phú của Tagore như một
văn-sĩ thì cũng lạ lùng như sự đa-dạng.
Ông sống 80 năm, trong ấy gần 70 năm
sáng-tác văn thơ, vì ông bắt đầu khi 8 tuổi
và ông còn đọc thơ lúc nhắm mắt cuối
cùng. Trong cuộc đời văn-học dài ấy,
không một năm nào ông nghỉ viết. Thơ,
Ca, Kịch, Truyện-ngắn, Tiêu-thuyết, Thư-
từ, Nhật-ký, Giảng đạo, Diễn-văn, Khái-
luận các loại và Luận-thuyết về tất cả đề-
tài _ chính-trị, tôn-giáo, giáo-dục, cải-
cách xã-hội, phê-bình văn-học, ngôn-ngữ,
âm-nhạc và khoa-học _ tất cả tuôn ra như
suối, liên-miên suốt hai thế-hệ, từ ngòi
bút của con người kỳ lạ ấy, hầu như đã
làm công-việc của nửa tá văn-sĩ ."
***
ẤĐPH TAGORE
10
R. Tagore Với Truyền-Thống Tâm-Linh
Ấn-Độ ._
Báo Time tán-thưởng, đã viết rất đúng :
" Có lẽ không có một thi-sĩ nào lại
sinh-hoạt tín-ngưỡng tôn-giáo hơn và
không có nhà tôn-giáo nào lại thi-sĩ hơn
là người vĩ-nhân Ấn ấy ! "
_ ( The Times Literary Supplement )
Thực vậy, R. Tagore giống với các vị
Thánh-thi ( Rishis ) Tiên-tri thời Vedas xưa,
ông cảm-thông trực-tiếp với Ý-thức Vũ-trụ
( – )=" Thiên Địa chi tâm " phát-
biểu ra Lời-thơ, và chính ông đã giới-thiệu :
" Chúng tôi đã có nhà đạo-đức, nhà
hiền-triết, người anh-hùng, nhà chính-trị
quốc-gia, vua chúa, đế-vương. Trong tất
cả những hạng người ấy, hạng nào Ấn-Độ
đã chọn để tôn kính ngưỡng-mộ và lấy
làm tiêu-biểu cho nhân-loại ? Ấy là các
bậc Rishis ( Thánh-thi, Thấu-thị ). Rishis
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
11
là ai ? Họ là những người đã đạt được
linh-hồn tối-cao trong tri-thức, đầy khôn-
ngoan, và một khi đã thấy hợp-nhất với
tâm-hồn mình thì hoàn-toàn hòa-điệu với
bản-ngã nội-tâm ; một khi đã thực-hiện
trong tâm, thì giải-thoát khỏi tất cả dục-
vọng vị-kỷ ; và đã thực-nghiệm trong tất
cả hoạt-động của thế-giới, đã đạt tới bình-
thản. Các vị Rishis là những người đã đạt
tới Thượng-Đế tuyệt-đối ở mọi mặt, và đã
tới cảnh an-bình, trở nên hợp-nhất với tất
cả hiện-hữu, đã tham-nhập vào Nguồn-
sống Vũ-trụ tuần-hoàn ."
_ ( Sàdhanà )
Cũng như Sri Ramakrishna, năm lên 6
tuổi, ngất đi trước cảnh tương-phản của đàn
hạc trắng bay ngang đám mây đen-kịt, thì tình-
cảm thiên-nhiên mãnh-liệt của Thi-hào Tagore
đã sớm dẫn tưởng-tượng của ông từ năm 7 tuổi
vào thế-giới thần-bí bên ngoài kỳ-diệu. Lần
đầu, theo người nhà đến bờ sông Hằng-Hà
( Gange ) ông đã sống những ngày hoàn-toàn
ẤĐPH TAGORE
12
thần-hóa trước giòng sông thiêng. Và tình-cảm
thiên-nhiên của ông không nhắm tìm cảm-giác
mới lạ, mà là phát-hiện cái Đồng-nhất-tính ẩn
bên trong cái Đa-thù-tính của hiện-tượng, cái
nhịp điệu cơ-bản và duy-nhất mà ông cảm thấy,
một hôm ông bừng giác-ngộ trong lúc ngắm
nhìn mặt-trời mọc trên nóc nhà tỉnh Calcutta .
Danh-từ Tagore phiên-âm chữ Bengali :
Thakkur có nghĩa là Thượng-Đế. " Rab Ravi
là Thượng-Đế Mặt-Trời, Chúa Trời phân-phát
ánh-sáng, sinh-lực, sự Sống cho tất cả chúng-
sinh, lạc-cảnh cho thế-giới. Indra là tên của
Chúa-Tể. Vậy không lạ gì mà Rabindranath
sớm có khuynh-hướng về tôn-giáo tâm-linh. Vả
lại trong suốt thi-ca của Tagore, chúng ta thấy
đầy cảm-hứng tôn-giáo của Upanisads và
Buddha, như chính ông viết :
" Đối với tôi, những vần thơ
Upanisads và giáo-lý Buddha đã luôn
luôn là thực-chất tâm-linh, cho nên chúng
ngụ sức sinh-thành vô-hạn. Và tôi đã
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
13
dùng chúng cho cả đời sống và giáo-lý
của tôi truyền-bá, như là bản-năng với ý-
nghĩa cá-nhân cho tôi và cho tha-nhân.
Và chúng chờ bằng-chứng riêng-biệt của
tôi để xác-định, bằng-chứng ấy phải có
giá-trị vì cá-tính của nó ."
Người ta đều đã biết là Ảo-nghĩa-thư
( Upanisads ) là nguồn triết-học tôn-giáo Ấn-
Độ, xuất-phát từ giáo-lý của Rishis (Thánh-thi)
sống trầm-tư mặc-tưởng trong tùng-lâm rừng
xanh, thân-mật với thiên-nhiên, cảm-thông
đồng-điệu với thời-tiết nhân-duyên, khác với
văn-minh đô-thị La-Hy phân-cách Người với
Thiên-nhiên .
Thi-hào Tagore kế-tiếp một lớp vĩ-nhân
Ấn hiện-đại là Ramakrishna, Vivekananda,
Gandhi, mỗi người một vẻ, phục-hưng truyền-
thống tôn-giáo tâm-linh Vedas - Upanisads,
thích-ứng đòi hỏi của văn-minh khoa-học vật-
chất Tây-phương đang chi-phối thế-giới, đe
dọa xô đẩy nhân-loại vào vực-thẳm phi-nhân.
ẤĐPH TAGORE
14
Như triết-gia Dr.S.Radhakrishnan viết về
Tagore :
" Triết-lý nhân-sinh của ông là hiền-
học của Ấn-Độ xưa, được thuật lại thích-
ứng với nhu-cầu của thời-đại mới. Thơ
văn của ông trước-tác là một bình-giải
hiện-đại-hóa giáo-lý Upanisads, và linh-
hồn Ấn-Độ cổ xưa đã phản-ảnh cả vào
đấy ."
Nhưng không phải chỉ " thuật lại sứ-
mệnh của rừng xanh " ( re-stating the forest
message ) mà là thực-hiện bản-thân sống động,
như tác-phẩm Sadhana đã cho thấy và Đại-học
Shantiniketan đã chứng-minh. Sadhana nghĩa
là thực-hiện đời sống, thực-hiện là hợp-nhất tri-
hành, cả một nhân-sinh-quan truyền-thống
Vedas - Upanisads mà lý-tưởng là Sat- Cid -
Ananda = Sinh-tồn vô-cùng -- Ý-thức vô-cùng
-- Lạc-thú vô-cùng. Đấy là danh-hiệu mà tất cả
Ấn-Độ xưa nay chỉ-định Thượng-Đế, Thực-tại
Tối-cao, để cho Thi-sĩ mê-say " ca hát từ bình-
minh đến sẩm-tối, chỉ tạm nghỉ vào bữa ăn,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
15
như thế tham-gia vào lạc-cảnh thiên-nhiên
thâm-thúy, đấy là một cách chính-xác hơn là
khoa-học để thấu-đáo bí-quyết thâm-trầm của
thiên-nhiên vậy . " _ ( Jean Herbert ). Đấy là
tôn-giáo thực-hiện của Thi-sĩ, như Dr. S.
Sarma viết :
" Tôn-giáo riêng của chính ông gọi
là tôn-giáo của một thi-sĩ. Ông đem hồn
thơ của mình để ấp-ủ câu Kinh Upanisads
và diễn-giải với ánh-sáng thực-nghiệm
tôn-giáo của chính mình. Người ta biết
rằng Kinh Upanisads đề-cập cả hai
phương-diện của Thượng-Đế, Hữu-ngã
và Vô-ngã, Hữu-vi và Vô-vi. Phương-
diện hữu-vi, sau này, đẻ ra tôn-giáo sùng-
bái thần-linh trong triết-lý Vedas Bất-nhị-
pháp ( Advaïta Vedanta ). Nó nhìn
Thượng-Đế như là một Nhân-cách, có
phẩm-tính như là tình-yêu, từ-bi, ân-huệ,
đấy là quan-điểm thi-sĩ về Thực-tại Tối-
cao, nhìn Thượng-Đế qua mắt kính nhân-
văn, trong quan-hệ với thế-gian, đối với
ẤĐPH TAGORE
16
nhu-yếu nhân-loại của chúng ta. Còn như
là nhìn Thượng-Đế như là Vô-ngã Tuyệt-
đối, bất-khả tư-nghị, đấy là quan-điểm
khoa-học về Thực-tại. Nó không phải
quan-điểm về Thượng-Đế đối với chúng
ta, mà là Thượng-Đế tự-thân, tự-như.
Quan-điểm tương-đối là của thi-nhân,
quan-điểm tuyệt-đối là của khoa-học.
Cũng ví như ta nhìn mặt-trời mọc ở
phương Đông và lặn ở phương Tây, kỳ
thực luôn luôn nó ở một chỗ. Thi-sĩ
Tagore dĩ-nhiên là quan-điểm của thi-ca,
nhưng trong " Tôn-giáo của Người _
Religion of Man " của mình, ông đã ghi-
nhận cả hai và chọn lấy quan-điểm của
chính ông, tuy không phủ-nhận quan-
điểm tuyệt-đối, nhưng ông cho rằng đối
với Tôn-giáo của Người thì quan-điểm
sùng-bái thần-linh là giá-trị hơn cả ."
_ ( D. S. Sarma )
Thi-hào nhìn vũ-trụ như một bài ca, khúc
hát, không một phút xa lià với ca-sĩ, người hát
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
17
vĩnh-cửu là Hóa-Công, hay là như điệu múa
không dời khỏi vũ-sĩ vĩnh-cửu Thần Çiva, như
Kinh Upanisads nói : " Từ trong hoan-lạc tạo-
hóa xuất ra, tồn-tại trong hoan-lạc, tiến-triển
trong hoan-lạc và nhập vào trong hoan-lạc... Ai
có thể thở hay vận-động, nếu bầu trời không
đầy hoan-lạc ? " _ ( Taitiriya Up. ) Đấy cũng
là luận-điệu của sách Lễ-Ký :
( _ )
"Đại nhạc dữ thiên địa đồng hòa_ Lễ-Ký"
( Bản nhạc hay nhất thì cùng hòa-điệu với
vũ-trụ )
Hay là ở Việt-Nam Nguyễn-Công-Trứ
hát :
" Ngã kim nhật tại tọa chi địa
Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi.
Ngàn muôn năm âu cũng thế ni,
Ai hay hát và ai hay nghe hát ? "
ẤĐPH TAGORE
18
Người hát và Người nghe hát chỉ là một :
( )
" Hóa nhi đa hý lộng "
( Hoá-Công hay đùa cợt như trẻ thơ trong
cuộc sáng-tạo thế-giới ).
" Trên bải biển các thế-giới vô-tận
lũ trẻ họp ;
" Cơn bão đe dọa trên trời mù mịt
tầu thuyền chìm đắm trong nước sâu
không dấu vết, sự chết đang lượn quanh
và lũ trẻ vẫn chơi đùa .
" Trên bải biển thế-giới vô-tận là
nơi hẹn hò của lũ trẻ ."
_ ( Trên Bãi-Biển Trăng-Non )_ R.Tagore
= ( La Jeune Lune _ Sur le Rivage )
Vì ý-thức vũ-trụ ( ) luôn
luôn sáng-tạo không tính toán, cũng không bao
giờ hết, như Nguyễn-Du đã thấy trong phút
mê-ly trước cảnh thiên-nhiên :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
19
" Bàn cổ sơ phân bất ký niên
Sơn trung sinh quật quật sinh tuyền
Vạn ban thủy thạch thiên đại xảo
Nhất lạp càn khôn khai tiểu thiên
Mãn cảnh giai không hà hữu tướng?
Thử tâm thường định bất ly thiền
Đại sư vô ý diệc vô tận
Phủ thán thành trung đa biến thiên !"
( Khởi thủy vũ-trụ mới phân, không biết
từ bao giờ, chưa có sử ,
Trong núi có hang động, trong hang động
sinh ra có suối ,
ẤĐPH TAGORE
20
Các loại hình-dạng nước đá bầy biện rất
khéo ,
Bầu trời đất trong hạt cải, mở ra một vũ-
trụ nhỏ ,
Cảnh đầy ngập mắt đều là hư-không, đâu
là hình thật ?
Tâm tôi luôn luôn tập-trung, không dời
thiền-định ,
Hóa-Công là kiến-trúc-sư vĩ-đại làm việc
tạo-tác không có dụng ý, vô tâm mà không bao
giờ hết ,
Tôi cúi nhìn vào trong thành Lạng mà
than có nhiều đổi thay thế ! )
_ ( Nguyễn-Du _ Vịnh Động Nhị-Thanh,
Lạng-Sơn )
Trên đây thi-hào Việt ngắm cảnh thiên-
nhiên đến mê-ly, xuất-thần nhập vào trong
trạng-thái thiền-định như ở khoa Yoga mà thi-
hào Tagore đã diễn-giải trong " Sadhana "=
( Thực-hiện Nhân-sinh ) .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
21
" Chúng tôi ở trong nước Ấn có cái
truyền-thống từng thế-kỷ là theo khoa
Yoga (Đạo-dẫn ) người ta có thể vượt
giới-hạn cùng tột của nhân-loại và có
được một ý-thức rõ-rệt về sự hoàn-toàn
hợp-nhất với Tuyệt-đối Thần-linh. Không
một ai có quyền phản-đối, phủ-nhận cái
tin-tưởng ấy, vì nó căn-cứ vào thực-
nghiệm trực-tiếp chứ không phải kết-luận
của một lý-luận. Người ta biết rằng ở Ấn-
Độ có những người có khả-năng nhất thời
đạt tới trạng-thái ý-thức Tam-muội
( Samadhi ), trong đó cái ngã cá-nhân
hoàn-toàn nhập vào vô-hạn, là trạng-thái
bất-khả tư-nghị ".
_ ( Sadhana )
***
*
ADPH TAGORE
22
Thực-Hiện Nhân-Sinh Vũ-Trụ-Hóa ._
Sách Trung-Dung của Nho-giáo viết :
" Duy thiên-hạ chí thành vi năng tận
kỳ tính, năng tận kỳ tính tắc năng tận
nhân chi tính, năng tận nhân chi tính tắc
năng tận vật chi tính, năng tận vật chi
tính tắc khả dĩ tán thiên địa chi hóa dục,
khả dĩ tán thiên địa chi hóa dục, tắc khả
dĩ dữ thiên địa tham hỹ ."
Nghĩa :
" Chỉ có sự thành-thật rất mực ở thế-
gian mới có thể phát-triển hết bản-tính cá-
nhân. Có thể phát-triển hết bản-tính cá-
nhân thì có thể phát-triển hết nhân-tính.
Có thể phát-triển hết nhân-tính thì có thể
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
23
phát-triển hết vật-tính thiên-nhiên. Phát-
triển hết vật-tính thiên-nhiên thì có thể
giúp vào sự biến-hóa sinh-thành nuôi-
dưỡng của trời đất vũ-trụ. Có thể giúp vào
sự hóa-dục của vũ-trụ thì có thể cùng với
Trời hợp thành đại hòa-điệu ba ngôi Trời,
Đất, Người vậy . "
Vậy trong thế-giới hiện-tượng này tất cả
đều quan-hệ với nhau mà có, từ cá-nhân đến
xã-hội nhân-loại đến thiên-nhiên, một bản-thể
sống lưu-hành liên-tục ( ) " Sinh
sinh chi vị Dịch " . Đấy là quan-niệm truyền-
thống Trung-Hoa .
Tagore trung-thành với truyền-thống tâm-
linh Ấn-Độ, cũng dẫn Kinh Upanisads để
chứng-minh cái quan-niệm đồng-nhất-thể
nhân-sinh vũ-trụ :
" Tất cả đều trong sự sống vĩnh-cửu
phát-xuất ra và đều rung động sinh sống,
vì sự sống thì vô-hạn."
ADPH TAGORE
24
Và ông giải-thích:
" Ở Ấn-Độ, vô-hạn hay vô-cực
không phải danh-từ tìm tòi khó-khăn,
mong manh và trống-rỗng. Các bậc Tiên-
tri của chúng tôi đã khẳng-định mạnh-mẽ:
“ Biết được nó ở đời này là thành-thật ;
không biết nó trong đời này là bi-đát của
sự chết.” Vậy làm thế nào để biết Vô-cực
ấy ? “ Bằng cách thực-hiện nó ở mỗi
chúng ta và ở tất cả.” Không những ở
thiên-nhiên mà còn ở trong gia-đình,
trong xã-hội và trong quốc-gia, chúng ta
càng thực-hiện được Ý-thức Vũ-trụ ở tất
cả, thì càng hay hơn cho chúng ta. Không
thực-hiện được cái Ý-thức ấy chúng ta đi
vào hủy-hoại ."
_ ( Sadhana )
" Chúng tôi đã được dạy phải nhìn
tất cả hiện-hữu trong thế-giới như là bao-
phủ bởi Thượng-Đế Thần-linh. Bài cầu-
nguyện hàng ngày của dân Ấn là : “ Con
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
25
còn và luôn luôn quỳ bái trước mặt Thần-
linh, ngự tại ngọn lửa và tại giòng nước,
thông-suốt thế-giới toàn-thể, ngự ở trong
mùa lúa hàng năm cũng như tại cây cổ-
thụ .”
" Và Đức Phật phát-triển mặt thực-
tiễn giáo-lý Áo-Nghĩa-Thư, truyền-bá
cùng cái sứ-mệnh ấy : “ Với tất cả sự-vật
dù ở bên trên hay bên dưới, dù gần hay
xa, hữu-hình hay vô-hình, con sẽ nuôi lấy
tinh-thần vô-hạn, không chút giận-hờn và
không ý muốn sát-sinh. Sống trong cái ý-
thức ấy trong khi đi, đứng, ngồi hay nằm,
cho cả đến khi ngủ, đấy là Brahmavihâra,
nói cách khác là sống vận-động và thấy
lạc-thú trong tinh-thần Phạn-Vương.” "
_ ( Anguttara Nikaya, IV - 19 - 190 )
Và Thi-sĩ Tagore theo kinh-nghiệm bản-
thân đã minh-giải :
ADPH TAGORE
26
" Trong Kinh Upanisads thái-độ đối
với thế-giới của người ý-thức Thần-linh
là một tình-cảm sùng-bái thành-tín,
thuần-túy. Upanisads nói cho ta rằng :
“ Thực-thể là bản-chất của ánh-sáng và sự
sống của tất cả, cái ý-thức vũ-trụ là
Pham-Thiên Brahman.” Cảm-thông tất
cả, ý-thức tất cả là Tinh-thần Brahman.
Chúng ta là thân-thể và linh-hồn trong Ý-
thức ấy. Nhờ Ý-thức ấy mà mặt-trời hấp-
dẫn trái đất, nhờ Ý-thức ấy mà ba-động
ánh-sáng đi từ hành-tinh này đến hành-
tinh kia .
" Không những trong không-gian :
“ Cái ánh-sáng ấy và sự sống ấy, cái thực-
thể toàn-thức ấy thì ở tại trong tâm-hồn
chúng ta .” "
_ ( Brhad - Aranya - Up. )
Vậy muốn đạt tới cái vũ-trụ của ta, ta phải
hợp-nhất tình-cảm của mình với cái tình-cảm
vô-cực nó thông-suốt tất cả. Sự thực, sự tiến-bộ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
27
chân-thật đồng-nhất với sự khai-phóng nền-
tảng tình-cảm của ta. Tất cả văn thơ, triết-học,
khoa-học, nghệ-thuật và tôn-giáo của chúng ta
có tác-dụng làm cho ý-thức khai mở sang các
cõi càng rộng lớn hơn, ấy là Ý-thức vũ-trụ
( ) " Thiên địa chi tâm " _ ( Dịch )
Cái Ý-thức khai-phóng ấy đòi phải thực-
hiện với toàn-thể tác-dụng, tình, ý, trí của tâm
nhân-loại, phải biến-hóa khí-chất, chứ không
phải chỉ hiểu-biết phiến-diện của lý-trí khoa-
học :
" Chỉ có thăm dò tin-tức về sự-kiện,
chỉ có phát-hiện quyền-năng là thuộc về
bề ngoài chứ không phải đi vào nội tâm
của sự-vật. Hoan-lạc mới là tiêu-chuẩn
của chân-lý, như chúng ta thấy, khi nào
chúng ta đụng chạm Chân-lý là qua âm-
nhạc nó đem lại, qua sự vui-vẻ nó đón
chào cái chân-lý ở nơi chúng ta. Đấy là
chân-lý cơ-sở của tất cả tôn-giáo, nó
không ở giáo-điều. Như tôi đã nói trước
đây, không phải như ta tiếp-nhận ánh
ADPH TAGORE
28
sáng ba-động tinh-khí ( ether ), sáng
bình-minh không đòi một số khoa-học-gia
giới-thiệu với chúng ta. Cũng thế mà
chúng ta cảm-xúc thực-tại vô-biên trực-
tiếp bên trong tâm-hồn, chỉ khi nào chúng
ta tri-giác chân-lý thuần-túy của tình-yêu
hay là điều từ-thiện, không phải qua giải-
thích của các nhà thần-học hay là qua
biện-luận bác-học của học-thuyết đạo-
đức .
" Tôi đã từng thú-nhận tôn-giáo của
tôi là tôn-giáo của một thi-sĩ ; tất cả điều
tôi cảm thấy đều do thực-nghiệm thị-hiện
chứ không phải do tri-thức suy-luận ."
_ ( The Religion of an Artist )
" Đấy là hương-hỏa cao-quý của tổ-
tiên chúng tôi để lại, và cái lý-tưởng của
ý-thức giải-thoát tối-cao đòi chúng ta
nhận là của mình. Nó không phải thuộc
về trí-thức hay tình-cảm ; nó có cơ-sở
đạo-đức nhân-sinh và phải được thực-
hành. Kinh Upanisads nói : “ Thực-thể
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
29
tối-cao thấm-nhuần tất cả, và do đấy mà
Nó là của báu bản-lai của tất cả .” Trở
nên hợp-nhất với tất cả trong tri-thức,
tình-yêu và phụng-sự, và như thế là thực-
hiện cái Ngã của mình trong Thượng-Đế
Vô-sở bất-tại, thực-chất của điều thiện.
Và đấy là cửa vào giáo-lý Ảo-nghĩa-thư
( Upanisads : Sinh Sống thì vô cùng " .
( Artharva - Veda )
_ ( Tagore _ Sadhana )
***
Tôn-Giáo Nhân-Văn Và Tôn-Giáo
Thiên-Nhiên ._
Đối với Thi-hào Tagore cũng như trong
tinh-thần Ấn-Độ, tất cả tạo-vật đều là hiện-diện
Thần-linh, cho nên thái-độ của thi-sĩ là thái-độ
tôn-giáo đối với thế-giới nhân-văn cũng như
thiên-nhiên, tất cả đều là nguồn thi-hứng
ADPH TAGORE
30
thiêng-liêng vì tất cả đều mật-thiết với nhau,
bởi một Nhất-Tính sinh-động :
" Từ khi nhân-loại thật trở nên ý-
thức về tự-tính của mình, nó cũng trở nên
ý-thức về tinh-thần bí-huyền của cái
đồng-nhất-tính tự biểu-hiện qua nó vào
xã-hội của nó. Nó là môi-giới của sự liên-
hệ các cá-thể, không vì mục-tiêu ích-lợi
mà là vì chân-thật của chính nó, không
phải một tổng-cộng số-học mà là một giá-
trị của đời sống. Bằng mọi cách, con
người cảm thấy tinh-thần thông hiểu cái
đồng-nhất có một tính-cách Thần-linh, nó
đòi hỏi sự hy-sinh tất cả những gì riêng-tư
của mình, rằng ở nó ngụ ý-nghĩa cao-cả
siêu-việt cái hữu-hạn của mình, tiêu-biểu
cho tự-do tốt đẹp nhất của nó ."
_ ( Tagore _ " The Religion of Man )
Và trong câu chuyện với A. Einstein, đại-
biểu cho khoa-học Tây-phương, R. Tagore
tiêu-biểu đạo-học Đông-phương, ngày 14 - 7 -
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
31
1930, Thi-hào đã xác-định lập-trường về Chân-
lý :
E : Ông có tin vào Thần-linh cô biệt với thế-
giới ?
T : Không cô-biệt. Nhân-cách vô-hạn của
nhân-loại bao-hàm cả vũ-trụ. Không có
cái chi không bị bao-hàm trong nhân-cách
được, và điều ấy chứng-tỏ rằng chân-lý
vũ-trụ là chân-lý nhân-bản. Hãy lấy một
thực-kiện khoa-học để chứng-minh _ Vật-
chất nguyên-tử và điện-tử hợp thành có
hố cách nhau, nhưng vật-chất có vẻ là
chất dắn. Cũng thế nhân-loại do những
cá-nhân hợp nên vậy mà chúng có tương-
quan với nhau của quan-hệ nhân-loại
khiến chúng thành đoàn-thể sống động
của một thế-giới loài người. Toàn-thể vũ-
trụ có liên-hệ với chúng ta theo cách
tương-tự ấy là một vũ-trụ nhân-bản. Tôi
đã theo đuổi tư-tưởng ấy trong nghệ-
thuật, văn-chương và ý-thức tôn-giáo của
Người .
ADPH TAGORE
32
E : Có hai quan-niệm khác nhau về tính-chất
vũ-trụ :
1 ) Thế-giới như một đơn-nhất-tính lệ-
thuộc vào nhân-loại .
2 ) Thế-giới là một thực-tại độc-lập đối
với yếu-tố nhân-loại .
T : Khi nào vũ-trụ của chúng ta hòa-hợp với
Người, con người vĩnh-cửu thì chúng ta
nhận-thức là chân-lý, chúng ta cảm thấy
nó đẹp .
E : Đấy là quan-niệm thuần-túy nhân-loại về
vũ-trụ .
T : Không thể có quan-niệm nào khác được.
Thế-giới này là một thế-giới nhân-loại _
quan-điểm khoa-học cũng là quan-điểm
của người khoa-học. Có một số tiêu-
chuẩn của lý-trí và lạc-thú đem cho nó
chân-lý, cái tiêu-chuẩn của Người Vĩnh-
cửu mà thực-nghiệm đều qua thực-
nghiệm của chúng ta .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
33
E : Đấy là thực-hiện của cá-thể nhân-loại
T : Phải, một cá-thể vĩnh-cửu. Chúng ta phải
thực-hiện nó qua tình-cảm và hoạt-động
của chúng ta. Chúng ta thực-hiện con
Người Siêu-việt không giới-hạn cá-nhân
qua giới-hạn của chúng ta. Khoa-học
chuyên về cái gì không giới-hạn vào cá-
nhân, cá-thể ; nó là thế-giới nhân-loại vô-
ngã, phi-nhân-cách. Tôn-giáo thực-hiện
những chân-lý ấy và liên-hệ với nhu-yếu
thấm-thiết của chúng ta ; ý-thức cá-nhân
của chúng ta về chân-lý đạt tới ý-nghĩa
đại-đồng. Tôn-giáo áp-dụng giá-trị vào
chân-lý, và chúng ta biết chân-lý là thiện
qua sự hòa-hợp của chính chúng ta với
nó .
E : Vậy chân-lý hay mỹ-lý không độc-lập với
Người ?
T : Không !
ADPH TAGORE
34
E : Tôi đồng tình với quan-niệm ấy về mỹ-lý
nhưng không đồng tình về quan-niệm chân-lý !
T : Tại sao không ? Chân-lý được thực-hiện
qua con người .
E : Tôi không thể chứng-minh được rằng quan-
niệm của tôi là đúng, nhưng nó là tôn-
giáo của tôi .
T : Mỹ-lý là ở trong lý-tưởng của hòa-điệu
hoàn-toàn, nó ở trong Tồn-tại đại-đồng ;
chân-lý là sự thông hiểu hoàn-toàn của
Tinh-thần Đại-đồng. Chúng ta là cá-nhân
tiếp-cận nó qua những sai lầm của chính
ta, qua những quan-niệm tích-lũy, qua ý-
thức giác-ngộ của chúng ta, không thế thì
chúng ta có thể biết Chân-lý thế nào
được ?
E : Tôi không thể chứng-minh khoa-học được
rằng chân-lý phải được quan-niệm như là
một chân-lý có giá-trị độc-lập với người,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
35
nhưng tôi tin vững chắc vào nó. Thí-dụ,
tôi tin vào cái định-lý của Pythagore ở kỳ-
hà-học xác-định một cái gì gần đúng độc-
lập với sự có người. Dù sao thì nếu có
một thực-tại độc-lập với nhân-loại, thì
cũng có một chân-lý tương-đối với thực-
tại ấy ; và cũng như thế mà phủ-nhận cái
trước kéo theo sự phủ-nhận cái sau .
T : Chân-lý đồng-nhất với Tồn-tại Đại-đồng
phải cốt yếu là nhân-bản, bằng không thì
bất cứ cái gì chúng ta, cá-nhân thực-hiện
là chân-thật, không thể gọi là chân-lý
được, _ ít nhất là cái chân-lý mô-tả như là
khoa-học và chỉ có thể đạt qua quá-trình
luận- lý. Nói cách khác là bằng tư-tưởng
nhân-loại. Theo triết-học Ấn có Brahman
là Chân-lý Tuyệt-đối, người ta không có
thể quan-niệm biệt-lập với tinh-thần cá-
nhân và mô-tả ra ngôn-ngữ nhân-văn, mà
chỉ có thể thực-hiện bằng cách hoàn-toàn
hòa-nhập cá-nhân vào Vô-cực. Nhưng
một Chân-lý như thế thì không có thể
ADPH TAGORE
36
thuộc về Khoa-học được. Cái tính-chất
của Chân-lý chúng ta đang bàn là ảo-ảnh
_ nghĩa là cái gì hiện ra là chân-thật cho
tinh-thần nhân-loại, và bởi vậy là nhân-
bản, và có thể gọi là Maya = tương-đối
ảo-ảnh .
E : Vậy theo quan-niệm của ông, nó có thể là
quan-niệm Ấn-Độ, thì không phải ảo-
tưởng cá-nhân mà là của nhân-loại, coi
như một toàn-thể .
T : Ở khoa-học chúng ta tuân theo kỷ-luật tiêu-
trừ, giới-hạn nhân-cách của tinh-thần cá-
nhân, và như thế đạt tới sự hiểu-biết chân-
lý, nó ở trong tinh-thần của con Người
Đại-đồng .
E : Vấn-đề bắt đầu hỏi xem Chân-lý có độc-lập
với ý-thức của chúng ta ?
T : Cái gì chúng ta gọi là chân-lý nằm ở trong
hòa-điệu hợp-lý giữa chủ-quan và khách-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
37
quan về thực-tại, cả hai đều thuộc về con
người siêu-ngã, siêu nhân-cách .
E : Cả trong đời sống hàng ngày của chúng ta,
bắt buộc chúng ta phải gán cho vật chúng
ta dùng một thực-tại độc-lập với người.
Làm thế nào để kết hợp thực-nghiệm
giác-quan của ta theo cách hợp-lý. Ví dụ,
nếu không một người nào trong nhà này,
vậy mà cái bàn vẫn còn tại đấy .
T : Phải, nó còn tại ở ngoài tinh-thần cá-nhân,
nhưng không ở ngoài tinh-thần đại-đồng.
Cái bàn tôi tri-giác thì đưọc tri-giác bởi
cái ý-thức cùng loại với cái ý-thức tôi sở-
hữu .
E : Quan-điểm phổ-thông của chúng ta về
chân-lý có ngoài nhân-loại thì không có
thể giải-thích hay chứng-minh được,
nhưng nó là một tín-ngưỡng mà không
một ai thiếu _ cả đến người sơ-khai.
Chúng ta gán Chân-lý cho một khách-
ADPH TAGORE
38
quan-tính siêu nhân-cách ; điều ấy tất yếu
đối với chúng ta, cái thực-tại ấy độc-lập
với đời sống và thực-nghiệm và tinh-thần
chúng ta _ tuy rằng chúng ta không có thể
nói nó có ý-nghĩa gì .
T : Khoa-học đã chứng-minh cái bàn, một vật
cứng dắn là ảo-ảnh, và bởi vậy cái gì tinh-
thần nhân-loại tri-giác là cái bàn sẽ không
có nữa nếu vắng tinh-thần (ý-thức). Đồng
thời người ta phải thừa-nhân cái thực-kiện
rằng thực-tại vật-lý cuối cùng của cái bàn
chỉ là vô số trung-tâm điện-lực cách biệt
xoay vần ; những trung-tâm điện-năng ấy
cũng thuộc về tinh-thần nhân-loại .
E : Vậy ra tôi tín-ngưỡng hơn ông !
T : Tôn-giáo của tôi ở tại sự điều-giải con
Người Siêu-ngã, tinh-thần nhân-loại đại-
đồng tại trong sinh-tồn cá-nhân của chính
tôi. Đấy là đề-tài của những bài thuyết-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
39
giải của tôi, và tôi mệnh-danh nó là
" Tôn-giáo của Người " .
_ ( R. Tagore _ " Religion of Man " )
Trích dịch cả cuộc nói chuyện trên là vì
nó cho chúng ta thấy vấn-đề quyết-định vận-
mệnh thế-giới ngày nay, lấy Einstein đại-biểu
cho tinh-thần khoa-học Tây-phương, chuyên
hướng ngoại, cầu tìm nguyên-lý cùng tột của
vũ-trụ ( ) " Cùng kỳ vạn vật chi
lý "_ ( Dịch ) ; Tagore đại-biểu cho đạo-học
Đông-phương quay vào trong nội-tâm để thực-
hiện cái đồng-nhất-tính của thế-giới hiện-tượng
( ) " Ngô tâm tiện thị vũ trụ " .
Einstein, nhà khoa-học nguyên-tử tin vào
thực-tại tuyệt-đối khách-quan ở ngoài ý-thức
nhân-loại theo tinh-thần văn-hóa truyền-thống
La-Hy .
Tagore, nhà đạo-học tâm-linh Ấn-Độ với
tôn-giáo nhân-bản của thi-sĩ thực-hiện nhân-
cách vũ-trụ, nên đã đối-lập với khoa-học,
ADPH TAGORE
40
không có người khoa-học, chứng-minh cái ý-
thức siêu-thức làm cơ-bản chung cho nhân-sinh
tôn-giáo, triết-học cũng như nghệ-thuật. Và
Thi-hào đòi dung-hòa Đông - Tây vào một đại
hòa-điệu đại-đồng, lấy làm mục-tiêu cho thế-
giới tương-lai .
" Những sự thực tạo ra thất-vọng và
u-ám chỉ là đám sương mù, và khi trong
sương mù lóe ra cái Đẹp như tia-sáng
nhất thời thì chúng ta thực-hiện thấy Hòa-
hài là thật chứ không phải xung-đột.
Tình-yêu là thật chứ không phải oán-hờn
và Chân-lý thì thuần-nhất chứ không phải
đa-thù rời-rạc .
" Chúng ta thực-hiện rằng tạo-hóa là
hòa-điệu thường-xuyên giữa lý-tưởng vô-
cùng của thành-tựu viên-mãn và sự thực-
hiện liên-tục vĩnh-cửu của nó ; rằng
chừng nào có sự ly-khai hoàn-toàn giữa
lý-tưởng tích-cực với chướng-ngại vật-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
41
chất của sự thành-tựu, thì chúng ta không
cần lo sợ về đau khổ và thất-bại ."
_ ( Créative Unité = Duy-nhất Sáng-tạo )
Đối với Thi-hào Tagore, Tuyệt-đối,
Thượng-Đế phi-nhân-cách thì ở ngoài, siêu lên
trên bình-diện tương-đối, tại trong cái Nhất-
tính. Đấy là Tồn-tại vô-hạn, vô-cực mà người
ta không bao giờ biết qua lý-trí đối-đãi của lý-
luận tri-thức lưỡng-nguyên, mà chỉ có thể tự
dung-hòa tham-nhập, vì là Tuyệt-đối, " Chủ-
thể năng-tri với đối-tượng sở-tri hoàn-toàn là
một ", như trong trạng-thái Tam-muội
( Samadhi ). Thực-nghiệm này, nhà khoa-học
cầu tìm Thực-tại tuyệt-đối hợp-lý ngoài ý-thức
thì không thể được. Riêng đạo-học tâm-linh
thực-hiện ( )" Vô cực nhi thái cực "
Cái ( Vô-hạn trong Hữu-hạn ) mới có được, vì
đạo-học tin :
" Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế-gian này cũng không ! "
ADPH TAGORE
42
_ ( )
" Tác hữu sa trần hữu ;
Vi không nhất thiết không ;
Hữu không như thủy nguyệt ;
Vật trứ hữu không không ."
_ (Đạo-Hạnh Thiền-sư )
Nghĩa là :
Nếu cho hiện-tượng biến-đổi là có thật thì
tất cả đều biến-đổi. Nếu bảo biến-đổi là không
thật thì tất cả đều không thật. Ví như mặt-trăng
có trên trời phản bóng xuống làn nước thành vô
số bóng trăng, các bóng trăng có là vì một mặt-
răng trên trời. Vậy bóng trăng trong nước có
thật chừng nào có một mặt-trăng trên không, có
tương-đối, nên chớ bảo hiện-tượng tương-đối
là không có. Vậy thế-giới này có tương-đối mà
không có thật tuyệt-đối .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
43
Đấy là quan-niệm thực-tại trong truyền-
thống đạo-học Đông-phương. Bởi vì bản-thể
vũ-trụ ở Kinh Dịch là nguồn Sống bất-tuyệt,
cũng như Kinh Upanisads : " Sống thì vô-hạn
đại-đồng " ( Life is immense ) ( ) cho
nên phương-tiện khách-quan và chủ-quan có
thể hợp-nhất ( ) " Hợp ngoại nội chi
đạo ". Bởi vì :
_ ( )
" Thiên Địa dữ ngã tịnh sinh, vạn vật dữ
ngã vi nhất "
( Trời Đất Vũ-trụ với cái ý-thức cá-nhân
cùng hiện ra một lúc, tất cả thế-giới hiện-
tượng với ta là một thể .)
_ ( Trang-Tử )
Cái nhất-thể ấy là ý-chí sống sống bất
tuyệt của Hóa-Công biệt hữu, như Trạng-Trình
đã khai bút ngày nguyên-đán :
" Thiên địa vô cùng đạo ngoại thân ;
Hóa Công biệt hữu sinh sinh ý ."
ADPH TAGORE
44
( Vũ-trụ không giới-hạn, đạo-lý vượt quá
cá-nhân,
Thượng-đế Tuyệt-đối riêng có ý-chí sống
sống bất-tuyệt .)
Vậy đạo-học Đông-phương thực-hiện
Nhân-cách Thần-linh vô-cùng làm bản-thể vũ-
trụ, như Tagore tuyên-bố với nhà khoa-học
Einstein, ông này ngạc-nhiên :
" La personnalité infini de l'homme
comprend l'univers " .
( Nhân-cách vô-hạn của người ta bao-hàm
cả vũ-trụ ).
Chính đấy cũng là " Linh khâm bảo hợp
thái hòa " ( ) của Nguyễn-
Công-Trứ ở Việt-Nam. Và Thi-hào Tagore đối-
lập với nhà khoa-học vô hồn của Tây-phương
bằng quan-niệm hợp lý, hợp tình về Chân-lý,
( ) " Hợp ngoại nội chi đạo " :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
45
" Cái gì chúng ta gọi là Chân-lý thì
thấy trong hòa-điệu hợp lý giữa phương-
diện chủ-quan và khách-quan của thực-
tại, cả hai mặt đều thuộc về con Người
Siêu-ngã. " Và Thi-hào viết :
" Thế-giới là trò chơi của nhân-cách
Tối-cao, ( ) " Hóa nhi đa hý
lộng " của Thượng-Đế tự tiêu-khiển mà
tạo ra thiên-hình vạn-tượng, bầy ra cái
tuồng Ảo-hóa ( Maya ). Tạo-hóa là nhạc-
tấu Thái-hòa ( ) thường xuyên bất-
tuyệt giữa lý-tưởng vô cùng hoàn-hảo, và
sự thực-hiện liên-tục vĩnh-viễn của nó
vậy. Con Người Thần-linh ( định-nghĩa
của Nhân-cách tối-cao ), tại đấy mà Vô-
hạn tìm hữu-hạn, chân-tri tìm tình-yêu, và
khi Hữu-hình với Vô-hình, Hữu-danh tìm
Vô-danh, cá-thể và đại-đồng hợp-nhất thì
Tình-yêu thành-tựu trong Sùng-bái
(Dévotion Bhakti). "
_ ( Tôn-giáo của Thi-sĩ )
ADPH TAGORE
46
" Trên bãi biển thế-giới vô cùng,
Trẻ tụ họp đám đông ;
Trời cao vô-hạn trên đầu yên lặng,
Nước biển cuồn cuộn hãi hùng ;
Trên bờ thế-giới vô cùng,
Lũ trẻ kêu gào nhảy múa lung tung .
" Chúng xây lâu đài cát, xếp vỏ sò chơi,
Lấy lá khô làm thuyền ;
Cười thả nổi trôi,
Trên mặt mênh mông sâu thẳm ;
Lũ trẻ đùa trên bãi biển thế-giới vô cùng .
" Chúng nào biết bơi,
Không biết thả lưới ;
Như các nhà câu lặn xuống tìm trai .
Mặc cho nhà buôn đi trên tầu,
Lũ trẻ lượm đá cuội ném chơi ;
Chúng chẳng tìm kho báu,
Không biết thả lưới ngoài khơi .
" Hải triều dâng vang tiếng cười,
Và ảm đạm, vuốt ve, bãi cát phơi ;
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
47
Làn sóng giết người,
Hát với lũ trẻ bài ca vô nghĩa ;
Như người mẹ ru con, ạ-ơi !
Biển đùa với lũ trẻ,
Và nhợt nhạt vuốt ve bãi cát mỉm cười .
" Trên bờ thế-giới vô cùng,
Lũ trẻ tụ đông ;
Bão tố trên trời mịt mùng,
Tầu bè đắm chìm trong biển khơi ;
Lũ trẻ chơi với thần chết,
Nơi hẹn hò của tuổi trẻ thơ vô tâm ."
_ ( Sur le Rivage = Trên Bờ Biễn )
Thái-độ của Thi-hào Tagore, thái-độ tôn-
giáo tình-yêu ( Bhakti - Yoga ), yêu thiên-
nhiên, yêu chúng-sinh, yêu nhân-loại ( religion
de l'homme ), yêu Thượng-Đế ở Người, yêu cái
Đẹp, cái Chân, cái Thiện. Ông thể-hiện Ấn-Độ
truyền-thống xa xưa qua hồn thơ, qua nghệ-
thuật tình-yêu vũ-trụ-hóa, như Vivekananda đã
giải-thích :
ADPH TAGORE
48
" Chính Tình-yêu đã xoay-vần các
thế-giới và làm cho những nguyên-tử nối
với nguyên-tử, các tinh-tú vận-hành
hướng vào nhau. Chính Tình-yêu là định-
luật hấp-dẫn giữa nam, nữ, giữa người với
người, động-vật với động-vật, trong vũ-
trụ toàn-thể thu-hút vào trung-tâm... Từ
nguyên-tử vi-thể đến Bản-thể tối-cao, vô-
sở bất-tại. Tình-yêu thông suốt tất cả...
Nó là cái Năng-lực duy-nhất, Động-cơ
của vũ-trụ đại-đồng. Do Tình-yêu, Cơ-
Đốc đã hy-sinh tính-mệnh cho nhân-loại,
và Phật làm mồi cho một con vật tầm-
thường, người mẹ tự hy-sinh cho con
mình, người chồng cho vợ... Do Tình-yêu
ấy người ta chết cho tổ-quốc mình... Và
cũng do Tình-yêu ấy ( nói có vẻ kỳ lạ ) _
kẻ trộm ăn-trộn, kẻ giết người ... Vì động-
cơ vẫn vậy. Kẻ-trộm yêu vàng, vẫn là một
Tình-yêu nhưng hướng sai đường... Như
vậy trong tất cả tội ác cũng như hành-vi
đạo-đức, cái Tình-yêu ấy đều có mặt bên
trong... Nó điều-động vũ-trụ. Không có
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
49
nó, vũ-trụ sẽ tan-tành thành mảnh vụn
trong nháy mắt... Và cái Tình-yêu ấy là
Thượng-Đế ."
_ ( Bhakti - Yoga )
Vậy Tình-yêu thiên-nhiên và nhân-loại
của Tagore không phải tình-cảm lãng-mạn, vị-
kỷ trong văn-học mà là đường dẫn đến
Thượng-Đế. Đối-tượng đầu tiên của Tình-yêu
là cái đẹp. " Đẹp là Chân, Chân là Đẹp ", như
ông đã tuyên-bố với Einstein : " Cái Đẹp là ở
trong lý-tưởng hòa-điệu hoàn-toàn tại trong
Bản-tính đại-đồng. Chân-lý là sự thông hiểu
hoàn-toàn của Tinh-thần đại-đồng ." Đấy là
quan-niệm của các truyền-thống tôn-giáo Ấn-
Độ " Sat - Chit - Ananda " ( Tồn-tại - Tri-thức -
Hoan-lạc ) cũng như Khổng-Tử tuyên-bố ở
Luận-Ngữ bên Trung-Hoa :
( )
_ ( )
" Tri chi bất như hảo chi hảo chi bất như
biến chi "
ADPH TAGORE
50
Nghĩa là : ( Trạng-thái tinh-thần toàn-
diện, hợp-nhất cả tác-dụng trí, tình, ý của tâm
cho nên tình và lý hợp-nhất trong trực-giác
nghệ-thuật, trong hồn thơ Siêu-Ngã. Kết-quả
của Tình-yêu .)
" Thế-giới sinh ra từ Tình-Yêu,
được nâng-đỡ bởi Tình-Yêu, nó đi về
Tình-Yêu và nó nhập vào Tình-Yêu ."
_ ( Taittiriya Up. III, 6 ; 1 )
Và Tagore đã bình-giải :
" Trong Tình-yêu tất cả mâu-thuẫn
của sinh-tồn tự dung-hòa và tan-biến. Chỉ
trong Tình-yêu mà nhất-tính với lưỡng-
tính không chống-đối. Phải là Tình-yêu
mới vừa một vừa hai ...
" Trong Tình-yêu, người ta thấy ở
một đầu là hữu-ngã và ở đầu kia là vô-
ngã. Ở một đầu ta khẳng-định " Tôi đây "
và ở đầu kia là phủ-định " Không có tôi ".
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
51
Không có cái tôi kia thì Tình-yêu là cái
gì ? Vậy mà làm sao có thể chỉ có một
cái tôi ?
" Trong Tình-yêu nô-lệ và giải-
phóng không mâu-thuẫn với nhau, vì
Tình-yêu vừa là tự-do nhất và trói buộc
nhất. Nếu Thượng-Đế ( Hóa-Công )
hoàn-toàn tự-do thì sẽ không có tạo-vật ;
Thể-Tính vô-cùng tự đảm-nhiệm lấy bí-
quyết giới-hạn-hóa. Và chính ở nó là
Tình-yêu, cái hữu-hạn và vô-hạn chỉ là
một ."
_ ( Thực-hiện tron Tình-Yêu _ Sadhana )
Và Thi-hào hát :
" Cùng một nguồn Sống chạy trong
mạch máu tôi suốt ngày đêm, chạy thông
suốt thế-giới và nhảy múa nhịp-nhàng
hòa-điệu ;
" Cùng nguồn Sống ấy hớn-hở nẩy
mầm trong bụi đất và trong vô số lá cỏ để
nở tung thành làn sóng hoa lá ."
_ ( Gitanjali )
ADPH TAGORE
52
Và ông giải-thích trong Sadhana :
" Cái đồng-nhất-tính cơ-bản của
Tạo-hóa không phải chỉ là suy-luận triết-
học đối với Ấn-Độ ; nó là đối-tượng sinh-
động để thực-hiện cái đại hòa-điệu trong
tình-cảm và hành-động."
Nhân-dân nước này được lệnh thực-hiện
trong thiền-định và hành-vi phụng-sự cái đồng-
nhất-tính của tất cả sự sống ở Thần-linh. Thực
vậy, chỉ có quan-điểm nhất-quán ấy về vũ-trụ
mới gọi là thật-tri ( Vidya = ), còn như quan-
điểm phân-biệt thì gọi là Ngủ-mê ( Avidya =
), ví như quan-điểm của Trần-Thái-Tông,
nhất-quán Tam-giáo ở Việt-Nam :
" Nhân vị minh vọng phân tam giáo, liễu
đắc đề đồng ngộ nhất tâm "
( Chưa sáng tỏ cái Tính sáng bản-lai, lầm
phân-biệt ra tam giáo : Nho, Đạo, Phật
khác nhau, hiểu thấu đến căn-bản thì chỉ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
53
là cùng giác-ngộ một ý-thức vũ-trụ Thiên,
Địa, Tâm ) .
Cái ở Kinh Dịch mà R.
Tagore gọi là Siêu-Ngã-Nhân (Super Personal
Man), Tinh-thần nhân-loại Đại-đồng ( Uni-
versal Human Spirit ) chính cũng là Mahâtmà.
" Cái nguyên-lý thống-nhất mà
nhân-loại có trong tâm-hồn mình thì luôn
luôn sinh-hoạt linh-động ; nó thiết-lập
những quan-hệ xa rộng bằng văn-chương,
nghệ-thuật, khoa-học, xã-hội, chính-trị,
tôn-giáo. Những vị Khải-thị lớn của
chúng tôi là những ai biểu-hiện ý-nghĩa
chân-thật của linh-hồn bằng từ bỏ cái tự-
ngã vì tình-yêu nhân-loại. Các Ngài chịu
sỉ-vả và hành-hạ, kham khổ và chết trong
sự phục-vụ cho Tình-yêu. Các Ngài sống
đời sống tinh-thần, không sống vị-kỷ, và
các Ngài như thế để chứng-minh cái
Chân-lý cùng-tột của nhân-loại. Chúng
tôi gọi các Ngài là Mahâtmàs, tức là bậc
người Đại-Ngã .
ADPH TAGORE
54
" Kinh Upanisads nói : “ Ngươi
không yêu con ngươi vì ngươi bị nó hấp-
dẫn, ngươi yêu con ngươi vì ngươi bị thu-
hút về chính tâm-hồn mình ” _ ( Brad -
Aranyaka Up. II - 4 - 5 ). Câu Kinh ấy có
nghĩa là khi chúng ta yêu bất cứ cái gì,
chúng ta thấy ở nó cái tâm-hồn cao hơn
hết của chúng ta. Và đấy là có chân-lý
cuối cùng của sinh-tồn _ Paramâtman,
tâm-hồn tối cao thì ở tại ta cũng như ở tại
con ta, và sự vui-vẻ mà ta thấy được ở
con ta là sự thực-hiện chân-lý ấy. Những
sự vui và buồn của những người ta yêu
đều là vui, buồn của ta và còn hơn nữa.
Tại sao ? Vì ở chúng, chúng ta thấy trở
nên rộng lớn hơn ; chúng ta đã đạt được
cái đại chân-lý bao-hàm cả vũ-trụ ."
_ ( Sadhana )
Tóm lại, Thi-hào R. Tagore kế-tiếp cuộc
vận-động phục-hưng Ấn-Độ hiện-đại qua nghệ-
thuật thi ca, cái hồn dân-tộc ngàn xưa biểu-thị
ở Vedas Upanisads, giáo-lý bất-hủ :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
55
1/_ Vũ-trụ trong đó ta sống là một phần biểu-
hiện của Tâm-linh vô-hạn ( )
" Linh khâm bảo hợp thái hòa " .
2/_ Không có biên-giới gián-cách giữa Thiên-
nhiên và nhân-văn, loài người và Thượng-Đế
( , ) " Càn
khôn tận thị mao đầu thượng , nhật nguyện bao
hàm giới tử trung " .
3/_ Thiện và ác, tội lỗi và đau khổ không có
thật tuyệt-đối, chỉ là phương-tiện nhất-thời vô-
thường của Tâm-linh tiến-hóa, ( existent mais
pas réels ) " có mà không thật " .
4/_ Tâm-linh Tuyệt-đối là cực-lạc và từ-bi,
bác-ái vô tả .
5/_ Chân-tri là tri-giác nhất-tính của đa-thù
vạn-vật trong Thượng-Đế .
6/_ Sự giải-thoát của nhân-loại ở tại sự tuyệt-
đối tự-chủ trong hành-động phục-vụ và tình-
ADPH TAGORE
56
yêu. Giải-thoát là tự-lực không phải nhờ sức
cứu-độ ở bên ngoài .
Và Thi-hào Tagore đã nỗ-lực đem giáo-lý
trên thi-hành vào chương-trình giáo-dục độc-
đáo của mình ở một " Đại-học Đông-phương "
tại Santiniketan, " Hoà-bình Viện ". Cho nên,
đáp-ứng lời mời của Gs. Gilbert Murray (1934)
vào vận-động hợp-tác quốc-tế của tư-tưởng-gia
các nước để hòa-giải xung-đột chính-trị ở Âu-
châu, ông viết về lý-tưởng hòa-bình " My
School " ở Santiniketan :
" Với thiện-chí, tôi tự gánh lấy
trách-nhiệm nặng-nề vào luống tuổi này
để tạo nên trong trại giáo-dục ở Santini-
ketan một tinh-thần hợp-tác quốc-tế chân-
thành, để theo đuổi một mục-tiêu nhất-
định về hiểu-biết, mục-tiêu thực-hiện
trong một không-khí sinh-hoạt thân-hữu
cộng-đồng, hòa-hài với Thiên-nhiên và
cá-nhân được tự-do tự biểu-thị ."
_ ( D;S; Sarma _ trích-dẫn )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
57
Trường ấy gọi là Đại-học Đông-phương,
vì nó có mục-đích thức tỉnh dân-tộc Đông-
phương về truyền-thống văn-hóa cổ-kính của
mình, ngõ hầu đóng góp với thế-giới văn-minh
hiện-đại. Sự đóng góp ấy là như Tagore viết :
" Thi-pháp của tinh-tú có thể giải-
thích trong lớp học bằng đồ-biểu, nhưng
thị-vị của tinh-tú là ở trong sự hội-ngộ
giữa tâm-hồn với tâm-hồn, tại điểm hợp
lưu của Sáng và Tối, Âm - Dương ( ),
nơi mà Vô-hạn in hồn trên trán của Hữu-
hạn, nơi mà ta có thể nghe thấy âm-nhạc
của cái Đại-Ngã Tồn-tại ( I Am ) vang lên
từ trong cơ-thể Tạo-hóa qua vô số ống
sáo trong hòa-điệu bất-tận ."
_ ( The World of Personality = Thế-giới
Nhân-cách )
Cái Ta ấy ở Upanisads là " Tat tvam asi
= Ngươi là cái Ấy ". Cũng là cái Ta của Nữ-sĩ
Thanh-Quan :
ADPH TAGORE
58
" Dừng chân đứng lại Trời Non Nước,
Một mảnh tình riêng Ta với Ta ."
_ ( Qua Đèo Ngang )
Hay là cái " Ta vẫn là Ta " của Nguyễn-
Công-Trứ :
" Tri ngã giả bất tri ngã giả
( )
Người có biết Ta hay thì chớ,
Chẳng biết Ta, Ta vẫn là Ta .
Linh khâm bảo hợp thái hòa,
( )
Sạch không trần-lụy ấy là Thần Tiên
Ngang tàng lạc ngã Tính Thiên .
( )
_ ( Thích chí ngao du )
Thi-hào Ấn-Độ qua hồn thơ đã đại-diện
Đông-phương đạo-học thực-hiện, nói với Tây-
phương duy-vật rằng toàn-thể thực-nghiệm
sinh-tồn không giới-hạn vào ý-thức lúc Thức
mà gồm cả ý-thức Mộng và Ngủ-say ( Thụy-
miên hay Muộn-tuyệt ) ; rằng cái ý-thức Tôi
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
59
chỉ có trên bình-diện " Tôi tư-duy vậy thì Tôi
tồn-tại " ( Cogito ergo sum _ Descartes ).
Nhưng ở bình-diện Ngủ-say không có ý-thức
Tôi, " Vật ngã câu vong " ( ) thì còn
ai để tư-duy ? Theo thực-nghiệm gần đây của
Sri Ramana Maharshi ( 1879 - 1950 ) .
" Đầu tiên và trước hết tất cả tư-
tưởng, tư-tưởng khởi-thủy trong tinh-thần
của mọi người là tư-tưởng Tôi. Chỉ sau
khi cái tư-tưởng ấy phát-sinh thì các tư-
tưởng khác mới có thể xuất-hiện ra được.
Chỉ sau khi nhân-cách đại-danh-từ “ Tôi ”
đã hiện lên trong tinh-thần, thì nhân-cách
đại-danh-từ thứ hai “ Anh ” mới có thể
biểu-hiện. Nếu ta có thể ngược giòng
tinh-thần đến cái “ Tôi ” cho đến lúc trở
về nguồn của nó, thì ta có thể phát-hiện
rằng nó đúng như là tư-tưởng hiện ra đầu
tiên thì nó cũng là tư-tưởng biến đi sau
cùng. Đấy là vấn-đề có thể thực-nghiệm
được ."
_ ( Ramana Maharshi _ A. Osborne )
ADPH TAGORE
60
Vậy, ngoài cái " ý-thức Tôi ", ngoài ý-
thức " Tôi tư-duy ", bên trong trạng-thái ngủ-
say không có Tôi, còn có gì tồn-tại ? Theo
thực-nghiệm sống của Ramana Maharshi thì
" He will attain that consciousness which is
immortal and he will become truly wise when
he has awakened to this true Self which is the
real nature of man." ( Người ta sẽ đạt được cái
ý-thức bất-tử và sẽ trở nên thật hiền-triết khi
người ta đã tỉnh giấc, đã minh ( ) cái Tự-Tính
thật của mình, là bản-tính chân-thật của loài
người .)
Đấy là cái " Ta vẫn là Ta ", cái " mảnh
tình riêng ", cái " Tính Thiên ", cái " Linh
khâm bảo hợp thái hòa ". Chỉ cái Ta ấy không
biến-đổi, trong những cái ta biến-đổi vô cùng
tận, Một mà Nhiều, ( )
_( ) " Vạn giả nhất chi tán, nhất giả vạn
chi tông "_ ( Pháp Bảo ).
Theo kinh-nghiệm phổ-thông ai cũng biết
sau một giấc ngủ-say tỉnh dậy, đều nhớ đã ngủ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
61
ngon, hết cả lo-lắng buồn phiền của ta lúc thức
trước khi ngủ, vậy thì trong trạng-thái ngủ-Say
không có ý-thức về thân-thể của mình và thế-
giới sự-vật bên ngoài, vẫn còn cái ký-ức nó
hoạt-động để tiếp-nối với cái Ta trước khi ngủ-
Say, vì cái " Sinh sinh ý " ( ) vẫn còn
" Sống-sống liên-tục ", ( ) "Tính tồn tồn"
Cái lý-tính bất-tử ấy làm cơ-sở cho đạo-lý vũ-
trụ và luân-lý nhân-sinh vậy, " Đạo Nghĩa chi
môn " ( ) .
R. Tagore dẫn giải câu Kinh cổ-kính :
" Kinh Upanisads nhấn mạnh :
“ Ngươi hãy biết cái Một, cái Linh-hồn.
Nó là cái cầu dẫn tới tồn-tại bất-tử . ”
( Know thou the One, the Soul. It is the
bridge leading to the immortal being .)
" Đấy là chung cục cứu-cánh của
con người để thấy cái Một ( Nhất-tính ) ở
tại bản-thân nó ; nó là sự thật của nó, nó
là linh-hồn của nó ; và chìa-khóa để mở
cửa vào đời sống tâm-linh, vào cõi thiên-
ADPH TAGORE
62
đường. Dục-vọng của nó nhiều, và chúng
điên cuồng đuổi theo các vật thế-gian, vì
trong đó chúng thấy sự sống và thỏa-mãn
của chúng. Nhưng cái gì là thuần-nhất ở
con người luôn luôn tìm đến nhất-tính,
nhất-lý trong tri-thức, nhất-lý trong tình-
yêu, nhất-lý trong mục-tiêu của ý-chí ; cái
lạc-thú tối-cao của nó là khi nó đạt tới cái
Một vô-hạn trong cái nhất-lý vĩnh-cửu
của nó. Do đấy mà Kinh Upanisads nói :
“ Chỉ những ai có tâm-hồn bình-tĩnh,
không ai khác, mới có thể đạt được lạc-
cảnh vĩnh-viễn bằng sự thực-hiện tại
trong tâm-hồn mình cái Bản-thể nó biểu-
hiện " Đồng qui nhi thù đồ ", một thể-
tính trong vô số hình-thức.” "
_ ( Upanisads )
Qua tất cả đa-thù của thế-giới, cái Một ở
ta chạy thông-suốt đến cái Một ở tất cả, đấy là
bản-tính nó và đấy là lạc-thú. Nhưng theo
đường bất-chính quanh-co, nó không bao giờ
có thể đạt tới đích của nó, nếu không có một tia
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
63
sáng của chính nó, nhờ đó nó có thể bắt được
chớp-nhoáng cảnh-tượng nó cầu tìm. Thị-hiện
của cái Một Tối-cao trong chính tâm-hồn ta là
một trực-giác tức-thì và trực-tiếp, không dựa
vào một suy-lý nào hay chứng-minh nào hết.
Tự nhiên mắt ta nhìn một vật như một toàn-thể
không phải bằng cách phân-tích ra thành phần
vụn, mà bằng cách thu các thành-phần hợp lại
vào một Nhất-tính với chính ta. Như vậy, với
trực-giác của ý-thức, Linh-hồn nó thực-hiện tự-
nhiên và toàn-thể cái Nhất-tính trong Thái-cực,
cái Một Tối-cao, Nhất-quán .
Kinh Upanisads nói : " Cái Linh-hồn ấy
tự biểu-hiện trong những hoạt-động của vũ-trụ
luôn luôn ngự ở trong tâm của người ta như là
Linh-hồn Tối-cao. Những ai thực-hiện được nó
trong trực-giác bột-nhiên của tâm-hồn thì đạt
tới tính bất-tử ." _ ( Sadhana )
***
ADPH TAGORE
64
Đối-Chiếu Văn-Hóa Đông - Tây _
Đạo-Học Với Khoa-Học ._
Đây là vần-đề trọng-tâm của thời-đại mà
Swami Vivekananda đã tiên-phong đem sứ-
mệnh tôn-giáo thực-hiện của Sư-phụ mình là
Thánh Ramakrishna ( 1836 - 86 ) chấn-động
thế-giới, nhất là Âu - Mỹ .
" Chớ bao giờ quên vinh-quang của
bản-tính nhân-loại ! Chúng ta là Thượng-
Đế Tối-cao... Những Cơ-Đốc và Chư Phật
chỉ là các làn sóng trên mặt Bể vô-biên là
Ta Tồn-tại ."
_ ( Vivekananda tại Mỹ-quốc 1896 ) .
Và ông đã sớm tiên-tri về văn-minh khoa-
học Tây-phương :
" Đời sống xã-hội Tây-phương ví
như một trận cười vang, nhưng ở bên
trong là một tiếng rên-rỉ. Trận cười vang
kết thúc vào tiếng nức-nở. Sự vui nhộn và
phù-phiếm chỉ là bề ngoài. Sự thực, tâm-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
65
hồn Tây-phương đầy bi-kịch đau đớn... Ở
Ấn-Độ này bề ngoài thì buồn thảm hay là
rầu-rĩ ; nhưng bên trong là cả một sự vô-
tâm và vui-vẻ ."
_ ( R. Rolland, trích-dẫn trong " La Vie
de Vivekananda " )
Chẳng bao lâu thế-chiến 14 - 18 đã bùng
nổ, dìm Âu-Tây trong xương máu và tiêu-hủy.
Và giữa năm 1916 R. Tagore đã tuyên-bố ở
Đại-học Nhật-hoàng Tokyo lời cảnh-giác :
" ... Nhật-Bản đã trở nên tiên-phong
của Á-châu, nó gọi Á-châu noi theo trên
những con đường mới... Nhưng, ôi Nhật
ơi ! Các ông không thể tiếp-nhận y-
nguyên cái văn-minh cận-đại này được ;
nhiệm-vụ của Nhật là biến-hóa nó như
thiên-tài Đông-phương đòi hỏi. Trách-
nhiệm của các ông lớn lắm. Hãy thổi khí
Sống vào chỗ chỉ là cơ-khí, lấy tình người
mà thay cho những bài tính lạnh-lẽo về
quyền-lợi, đem sự phát-triển hài-hòa,
ADPH TAGORE
66
sinh-động, chân-lý, mỹ-diệu, đến chỗ mà
thắng-lợi và sức mạnh ngự-trị. Cái văn-
minh từ Âu-Tây đến với chúng ta có tính-
cách phàm-tục và áp-chế ; nó tiêu-hủy các
dân-tộc, nó xâm-chiếm, nó tiêu-diệt các
chủng-tộc cản-trở nó trên đường chinh-
phục. Đấy là một văn-minh thuần chính-
trị, có khuynh-hướng tàn-nhẫn ; nó áp-
chế kẻ yếu và làm giầu trên lưng chúng.
Đấy là cái máy nghiến. Nó reo rắc khắp
nơi lòng ghen-ghét, sự xung-đột ; nó rút
hết sinh-khí đàng trước nó. Nó là một
văn-minh khoa-học và phi-nhân. Thế-lực
của nó do nó tập-trung tất cả năng-lực của
nó vào mục-đích duy-nhất là làm giầu,
như một nhà triệu-phú thu lượm tài-sản
bỏ mất tâm-hồn. Dưới danh-hiệu ái-quốc,
nó không thủ-tín, nó không ngừng bỏ lưói
dệt đầy dối-trá, nó dựng lên ngẫu-tượng
khổng-lồ kinh-khủng trong đền thờ Thần
Lợi mà nó phụng-thờ. Chúng ta tiên-đoán
không chút lưỡng-lự là tất cả điều ấy
không thể kéo dài, vì trong thế-giới có
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
67
định-luật đạo-đức luân-thường tối-cao áp-
dụng cho đoàn-thể cũng như cá-nhân. Các
ông không thể tiếp-tục làm trái với luật-
pháp luân-lý ấy, vì danh-nghĩa dân-tộc và
đồng thời hưởng lợi cá-nhân mà nó bảo-
đảm cho ai tôn-trọng. Phá-hủy như thế tất
cả lý-tưởng luân-thường đạo-lý, kết-cục
phản-ứng vào mỗi phần-tử xã-hội, dẫn
đến già yếu, hao tổn, ngấm-ngầm nẩy
sinh lòng ngờ-vực và vô-liêm-sỉ, hủy-hoại
và tiêu-diệt ở con người tất cả cái gì
thiêng-liêng... Đấy là phản-nghịch của
định-luật Tối-Cao, nó chỉ có thể dẫn đến
đại họa ."
_ ( Theo R. Rolland trong " Inde " _
Journal 1915 - 1943 )
Lời cảnh-giác của Tagore cho Nhật-Bản
là cảnh-giác về cái họa " cơ-khí " của Khoa-
học Tây-phương, như ông cũng gián-tiếp trả lời
câu tuyên-bố kiêu-căng của văn-sĩ Anh R.
Kipling :
ADPH TAGORE
68
_ " Est is Est, West is West, never the
twain can meet "
( Đông là Đông, Tây là Tây, hai
đàng không bao giờ gặp được nhau .)
_ " Man is man and machine is
machine, never the twain can meet ! "
( Cơ-khí là cơ-khí, người là người,
không bao giờ hai bên gặp được nhau ! )
Và R. Rolland cho đấy là đánh dấu bước
nghẹo của lịch-sử thế-giới vậy : Đạo-học tâm-
linh Đông-phương đối với Khoa-học vật-chất
Tây-phương .
Không chờ đến Tagore đại-biểu cho Ấn-
Độ, Phan-Thanh-Giản ở Việt-Nam đi sang Sứ
Pháp về đã có lời phán-đoán tiên-tri, ( 1863 ) :
" Bá ban xảo diệu tề thiên địa ,
Duy hữu tử sinh tạo hóa quyền ."
( Trăm môn khôn khéo ngang Tạo-hóa,
Chỉ còn sống chết chịu thua Trời .)
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
69
Đủ thấy ở Việt-Nam cũng đã sớm có
hiền-triết thẩm-định đối-chiếu văn-minh Khoa-
học và Đạo-học. Như qua cuộc nói chuyện giữa
Einstein và Tagore trên kia về Thực-tại và
Chân-lý, khoa-học quan-niệm chân-lý và thực-
tại khách-quan ngoài ý-thức nhân-loại, còn
đạo-học như Tagore kết-luận " Religion of
Man " ( Tôn-giáo của Người ), như Khổng -
Nho chủ-trương : " Nhân năng hoằng đạo, phi
đạo hoằng nhân " ( Người làm ra đạo không
phải đạo làm ra người ) :
" Trong văn-tự Sanskrit loài chim
được mô-tả " hai lần sinh ", một lần trong
cái vỏ giới-hạn và rồi đến sau cùng là
trong tự-do của bầu trời vô-hạn. Những
người trong đoàn-thể chúng ta tin vào sự
giải-thoát của tự-tính con người hữu-hạn
vào tự-do tâm-linh, cũng khoác cho mình
cái danh-hiệu ấy. Trong tất cả khu-vực
đời sống người ta tỏ ra cái tính-chất
lưỡng-nguyên ấy _ đời sống bên trong
giới thực-kiện cụ-thể và sự siêu-thoát lên
ADPH TAGORE
70
ý-nghĩa thâm sâu hơn. _ Theo giáo-lý
Vedas - Upanisads kết-thúc ( Vedanta )
thì Đại-ngã Brahman là Chân-lý tuyệt-
đối, cái Ấy phi-nhân-cách, khách-quan,
trong ấy không có thể phân-biệt thử và bỉ,
cái này cái kia, thiện và ác, đẹp và xấu,
không còn phẩm-tính gì khác là cực-lạc
vô-tả của nó trong sự an-tĩnh vĩnh-cửu
của ý-thức thuần-túy hoàn-toàn vắng lặng
tất cả tư-tưởng và sự-vật. Nhưng về mặt
tôn-giáo của nhân-loại chúng ta, thì tôn-
giáo chỉ có ý-gnhĩa ở trong thế-giới hiện-
tượng tương-đối mà tự-tính nhân-loại
bao-hàm, quan-niệm Brahman tuyệt-đối
kia thì ở ngoài đề-tài thảo-luận ....
" Chúng ta vốn có từ xưa ở nước ta
cái truyền-thống Đạo-dẫn Yoga mà qua
lịch-trình thực-nghiệm của nó người ta có
thể vượt khỏi biên-giới cuối cùng của
nhân-tính để tự thấy trong một trạng-thái
ý-thức thuần-túy đồng-nhất bất-phân với
Siêu-Ngã, ( Thiên Địa chi tâm ). Không
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
71
có một ai có quyền phản-đối cái tín-
ngưỡng ấy, vì nó không phải là một vấn-
đề suy-luận, mà là thực-nghiệm trực-tiếp
( trực-giác ). Phổ-thông, người ta ở Ấn
đều biết có những cá-nhân có khả-năng
đạt tới nhất thời trạng-thái Thiền-định
( Samadhi ), " Vật ngã câu vong ", trong
ấy tự-tính hoàn-toàn chìm vào Thái-hư
vô-hạn, bất khả tư nghị, không thể diễn tả
được " Vô danh thiên địa chi thủy ".
Đồng thời thừa-nhận bằng-chứng của họ
là xác-thực, chúng ta cũng tin bằng-chứng
của những người đã cảm thấy tình-yêu
thâm-trầm, nhiệt-thành, hợp-nhất-hóa với
một Đấng bao-hàm cả Tạo-vật, sự vật
nhân-văn của tri-thức, ý-chí và hành-
động. Ngài là Thượng-Đế, không phải chỉ
là tổng-cộng các sự-kiện, mà là cứu-cánh
siêu-việt, ngoài tất cả cái gì có ở quá-khứ
và hiện-tại ."
_ ( " The Religion of Man " _ R. Tagore )
ADPH TAGORE
72
Hai quan-điểm về Thực-tại trên đây của
truyền-thống Vedas tương-tự với quan-điểm
của Lão-Tử mở đầu " Đạo-Đức Kinh " :
" Đạo khả đạo phi thường đạo ,
Danh khả danh phi thường danh .
Vô danh thiên địa chi thủy ,
Hữu danh vạn vật chi mẫu....
Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị
danh, đồng vị chi huyền, huyền nhi hựu
huyền chúng diệu chi môn ."
_ (Đạo-Đức Kinh )
Nghĩa là :
( Chân-lý có thể diễn-tả được thì không
phải chân-lý vĩnh-cửu ;
Danh-hiệu có thể gọi tên được thì không
phải danh-hiệu còn mãi .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
73
Không tên gọi, là bước đầu nguyên-thủy
của vũ-trụ ,
Có tên gọi, là Mẹ đẻ ra tạo-vật khác nhau.
Hai mặt ấy cùng hiện ra mà mang tên
khác nhau, cùng gọi là huyền-bí, huyền-bí lại
còn huyền-bí, ấy là cửa mở của tất cả diệu
huyền, thế-giới thiên-hình vạn-trạng .)
Cái " đạo vô danh " của Lão-Tử tương
đương với cái Ấy ( It ) Brahman của R. Tagore
và là Thực-tại khách-quan ngoài ý-thức nhân-
loại của nhà khoa-học Einstein. Nhưng khác
với khao-học Tây-phương, cái Đạo-thể ấy, theo
đạo-học Đông-phương không hoàn-toàn biệt-
lập với thế-giới tạo-vật hiện-tượng, mà chính
Nó biểu-hiện ra thế-giới tạo-vật hữu-danh qua
tình-yêu mẫu-tử, tiêu-biểu cho cái tình-cảm vô-
tư nhất của nhân-loại, mà Thi-hào đồng-hóa
với cái năng-lực hấp-dẫn đại-đồng của vũ-trụ :
" Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu "
( – Dịch Kinh ), nghĩa là :
( Cùng ba-động thanh-âm đáp ứng với nhau,
cùng ba-động sinh-khí cầu tìm nhau .)
ADPH TAGORE
74
Khoa-học lưỡng-nguyên nhìn thực-tại vũ-
trụ theo quan-điểm lý-trí phân-biệt ra khách-
quan và chủ-quan, cho nên Einstein bảo chỉ
biết tin có thực-tại không người thì không thể
chứng-minh được. Đạo-học nhất-nguyên tâm-
linh nhìn vũ-trụ với quan-điểm nghệ-sĩ và thi-
sĩ, hợp tình hợp lý, cho nên Tagore thực-hiện
được thực-tại toàn-diện là vũ-trụ nhân-cách-
hóa, hợp-nhất chủ-quan và khách-quan, tương-
đối và tuyệt-đối đồng-nhất Tính :
" Qua tiến-bộ trong khoa-học, cái
toàn-thể vũ-trụ và sự đồng-nhất của
chúng ta với nó trở nên sáng-tỏ hơn trong
tinh-thần. Khi nào cái tri-giác về sự viên-
mãn của đồng-nhất-tính không phải chỉ là
trí-thức, khi nào nó khai-phóng hoàn-toàn
bản-thể của ta vào cái ý-thức sáng-tỏ của
tất cả, thì bấy giờ cái tri-giác ấy trở nên
một lạc-cảnh sáng ngời, một tình-yêu
bác-ái. Tinh-thần ta tìm thấy cái Ta mở
rộng trong toàn thế-giới và tràn đầy tin-
tưởng hoàn-toàn chắc-chắn về sự bất-tử
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
75
của nó. Nó chết hàng trăm lần trong giới-
hạn của Ngã cá-nhân, vì phân-biệt thì
phải chết không có thể vĩnh-cửu được.
Nhưng nó không có thể chết nếu nó hợp-
nhất với toàn-thể, vì đấy là thật-tại của
nó, lạc-thú của nó. Khi nào một người
cảm thấy nhịp điệu rung-động của nguồn
sống đại-đồng tại trong chính tâm-hồn
mình, thì bấy giờ nó tự-do. Bấy giờ nó
tham-gia vào cuộc ve-vãn giữa thế-giới,
như cô-dâu đẹp, che-phủ một mạng hữu-
hạn nhiều mầu sắc, và Đại-ngã, chú-rể
trong trắng thuần-túy. Bấy giờ nó biết nó
san-sẻ bữa tiệc cưới sa-hoa và chính nó là
người khách danh-dự của buổi lễ bất-tử.
Bấy giờ nó mới hiểu ý-nghĩa của nhà thơ
tiên-tri hát : “ Vũ-trụ do tình-yêu mà sinh
ra, được tình-yêu bảo-hợp, đi về tình-yêu
và nhập vào tình-yêu .”
" Trong tình-yêu tất cả sự mâu-
thuẫn sinh-tồn tự tan chìm và biến mất.
ADPH TAGORE
76
Chỉ trong tình-yêu nhất-tính và lưỡng-
tính mới hòa-hài. Tình-yêu phải vừa là
một, vừa là hai .
" Chỉ trong tình-yêu động và tĩnh
hợp làm một. Tâm ta luôn luôn biến-đổi
cho đến khi nó thấy tình-yêu, và bấy giờ
nó mới được bình-tĩnh. Nhưng sự bình-
tĩnh ấy tự nó là một hình-thức hết sức
hoạt-động ở một điểm, mà sự cực-tĩnh và
cực-động của năng-lực gặp nhau trong
tình-yêu ."
_ ( Sadhana )
Đấy là con đường sùng-bái của Tình-yêu
( Bhakti - Yoga ), mà Đạo-sĩ Rabindranath
Tagore, qua nghệ-thuật và thi-ca, giải-thưởng
quốc-tế Nobel, đã làm sống lại hồn thơ tôn-
giáo tâm-linh Vedas - Upanisads, để không
những đánh thức ý-thức truyền-thống Ấn-Độ
mà còn để kêu gọi khoa-học vật-chất cơ-khí trở
về với Nhân-cách Tối-cao, với Nhân-tính
Thần-linh của con người, với " Bản lai diện
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
77
mục ", như nhà vua Trần-Thái-Tông ở Việt-
Nam thế-kỷ XIII, từng kêu gọi :
" Chư nhân đẳng ! Thân vi khổ bản,
chất thị nghiệp nhân, nhược tự dĩ thử vi
chân, dã thị nhận tặc tác tử. Nhĩ thả tì tế
khán lai, chỉ giá sắc thân vị nhập bào thai
chi nhật, ná xứ đắc hữu ! Cái do niệm
khởi duyên hội, ngũ uẩn hợp thành hình
dung giả xuất, vong chân vong bản, hiện
ngụy hiện hư, hoặc nữ hoặc nam, hoặc
nghien hoặc xú. Tận thị túng tâm phóng
khứ, đô vô thoái bộ hồi quy, khu trì sinh
tử lộ đầu, thất khước “ Bản lai diện
mục ”! "
_ ( Khoá Hư Lục )
( Hỡi các người ! Thân-thể là gốc
khổ, vật-chất là nguyên-nhân của nghiệp-
báo, nếu tự lấy cái ấy làm thật, ấy là nhận
lầm thằng giặc làm con. Ngươi hãy nghĩ
kỹ lại, chỉ có cái thể xác này, khi chưa
nhập vào buồng trứng người mẹ thì có ở
ADPH TAGORE
78
đâu ? Chẳng qua do ý-niệm nổi hiện, năm
nguyên chất sắc, thanh, vị, xúc, hợp nên
hình-thể làm sinh ra, tướng mạo giả xuất
ra, quên mất sự thật, quên mất nguồn-gốc,
hiện ra giả-dối, hoặc con gái, con trai,
hoặc xấu hay đẹp, thẩy đều thả cái tâm
phóng đi hết, không hề quay đầu trở vào
trong, dong ruổi trên đường sống chết
luân-hồi, mà bỏ mất cái chân-tính là bộ
mặt bẩm-thụ vốn có của mình vậy .)
Và Thi-hào đứng trước thế-giới chiến-
tranh tương-tàn khốc-liệt, đã kêu gọi :
" Loài người cũng phải biết trực-tiếp
giao-thông giữa cá-nhân với Nhân-cách
Tối-cao, không phải qua thế-giới hình-
tướng biến-đổi, thế-giới khai-triển trong
thời-gian và không-gian, mà trong cái ý-
thức tịch-tĩnh thâm-sâu nội-tại, trong cõi
thâm-thúy và nhiệt-thành. Trong sự hội-
ngộ ấy nó tự cảm thấy sự sáng-tạo của
một thế-giới mới, một thế-giới của ánh-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
79
sáng tình-yêu, không có ngôn-ngữ mà là
nhạc-điệu của yên-lặng vô-ngôn ."
Về cảnh-giới ấy, Thi-sĩ hát :
" Có một thế-giới vô-cùng, ôi anh em
đồng-bào ơi !
Và có một Đấng Vô-danh không thể nói
gì về Ngài,
Chỉ ai biết khi nào đạt tới cõi ấy rồi ,
Nó khác hẳn với tất cả cái gì từng nghe và
nói tới,
Ở đấy không thấy hình-thể, rộng hay dài .
Làm sao ta có thể nói được lời gì với
người ?
Thi-sĩ Kabir nói :
“ Nó không có thể nói được bằng lời
của miệng người,
Không thể viết nó trên giấy,
Ví như người câm nếm vị ngọt _ sao
có thể giải-thích về nó ? ”
" Không, nó không có thể giải-thích, chỉ
phải thực-hiện ; và khi nào người ta đã
làm được thế, người ta hát lên :
ADPH TAGORE
80
“ Nội-giới và ngoại-giới đã trở
nên một bầu trời,
Vô-cực và thái-cực đều nối
liền không rời,
Ta say mê trước cảnh tất cả đất
trời .” "
Jean Herbert viết về Tagore :
" Sứ-mệnh của ông song-hành với
sứ-mệnh của tất cả vĩ-nhân đồng-bào của
ông và cũng đồng thời như Thánh
Ramakrishna, Swami Vivekananda,
Mahatma Gandhi, Thánh Aurobindo v.v.
Nhưng Tagore thể-hiện Ấn-Độ nhiều nhất
là vì ông thể-hiện tình-yêu, cái Tình-yêu
đi liền với Hy-sinh là lý-tưởng đạo-đức
cao-cả và thiêng-liêng của loài người, con
đường đẹp nhất và cao quý nhất để đạt tới
đời sống tâm-linh, để giải-thoát mà tất cả
người Ấn cầu tìm ."
_ ( Etudes et Portraits )
***
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
81
Thăng-Hoa Tình-Yêu Vào Thượng-Đế ._
Đối-tượng của Tình-Yêu là cái đẹp, thị-
hiện của hoàn-hảo đại-đồng, đồng-nhất với cái
Biết về chân-lý, nó biểu-thị ra qua hòa-điệu của
tạo-hóa :
" Đẹp là Chân, Chân là Mỹ ."
Sứ-mệnh của Tình-Yêu, sợi dây tế-nhị và
hấp-dẫn, cái Mỹ thiết-lập giữa nhân-loại và
Thượng-Đế, một sự tương-ứng tương-cầu
huyền-diệu tâm-linh, Thượng-Đế hay Hoá-
Công không xa cách nhau, như Thể và Dụng ;
Vô-cực và Thái-cực :
" Bản-thể vô cùng không toàn-vẹn,
nếu nó hoàn-toàn mãi mãi là vô-cùng. Nó
phải tự thực-hiện trong hữu-hạn, nghĩa là
trong tạo-hóa ."
( L'Etre infini n'est pas complet s'il
reste absolument infini. Il doit se réaliser
dans le fini c'est-à-dire dans la création _
Lettre à un ami, tr. L. S. )
ADPH TAGORE
82
" Thế-giới là trò chơi của Nhân-
cách-tính Tối-cao tự tiêu-khiển trong việc
tạo-tác những hình-tướng ."
( Le monde est le jeu de la Personne
Suprême se divertissant à créer des
imanges . )
_ ( L' Inde et son Âme )
" Tạo-hóa là hòa-điệu thường-xuyên
giữa lý-tưởng vô cùng toàn-thiện và sự
thực-hiện sinh-thành liên-tục vĩnh-cửu ."
( La Création est l'harmonie perpé-
tuelle entre l'idéal infini de perfection et
la continuité éternelle de sa réalisation .)
_ ( La Religion du Poète )
Đấy cũng là quan-niệm của Trạng-Trình
ở việt-Nam, trong bài khai bút đầu xuân, ca-
tụng Hóa-Công có nguồn Sống bất-tuyệt,
thông-suốt, lưu-hành, từ nội-giới đến ngoại-
giới, từ hữu-hạn đến vô-cùng :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
83
" Thiên địa vô cùng đạo ngoại thân
Hoá-Công biệt hữu sinh sinh ý ."
( Trời đất vũ-trụ không giới-hạn, vô cùng
tận mà đạo-lý vượt ra ngoài giới-hạn cá-
nhân,
Riêng Đấng Hoá-Công là có ý-thức sống-
sống không gián-đoạn .)
Upanisads do Tagore trích-dẫn, nói :
" The being who is in his essence
the light and life of all, who is world
conscious, is Brahman ."
( Cái thể-tính mà thực-thể là ánh-
sáng và sự sống của tất cả, là vũ-trụ ý-
thức, là Brahman Thực-tại tuyệt-đối .)
Nguyễn-Công-Trứ cũng đã nhìn tạo-hóa
với con mắt thi-sĩ sáng-tạo hồn-nhiên như đứa
trẻ trên bờ thế-giới vô-biên :
" Việc đời đã chắc chắn đâu,
Lỡm lờ con Tạo một mầu trêu ngươi
ADPH TAGORE
84
Hoá nhi đa hý lộng
( )
( Trẻ Tạo-hóa hay đùa cợt chơi .)
_ ( Người với Tạo-vật )
" Đức Phật đã phát-triển mặt thực-tiễn
của Upanisads, truyền-bá cùng sứ-mệnh, khi
Phật nói : “ Với tất cả chúng-sinh ở bên trên
hay bên dưới, xa hay gần, hữu-hình hay vô-
hình, ngươi sẽ nuôi-dưỡng một quan-hệ tình-
yêu vô-hạn không chút giận-hờn hay là không
ý muốn sát sinh. Sống trong cái ý-thức như thế,
khi đứng hay đi, ngồi hay nằm cho cả khi ngủ,
đấy là sống vận-động, vui vẻ trong tinh-thần
của Brahman ( Phạm-Thiên ) .” "
( Buddha who developed the practical
side of the teaching of the Upanisads, preached
the same message when he said : “ With
everything, whether it is above or below,
remote or near, visible or invisible, thou shall
preserve a relation of unlimited love without
any animosity or without a desire to kill. To
live in such a consciousness while standing or
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
85
walking, sitting or lying down till you are
sleep, is Brhaman Vishcra or in other words, is
living and moving and having your joy in the
spirit of Brahman .” )
_ ( Sadhana )
Đấy là thực-hiện trong Tình-Yêu của Thi-
hào R. Tagore :
" Cái đẹp của một bài thơ bị quy-
luật ràng buộc chặt-chẽ, vậy mà nó vượt
khỏi chúng. Quy-luật là cánh của nó,
chúng không đè nó xuống mà cất nó lên
tự-do. Hình-thức của nó ở tại quy-luật,
nhưng tinh-thần nó thì ở sự đẹp. Quy-luật
là bước đầu dẫn đến tự-do, và sự đẹp là
hoàn-toàn giải-phóng đứng trên bệ cửa
của định-luật. Cái đẹp đều hòa tự bản
thân cái hữu-hạn và ngoài giới-hạn, luật-
pháp và tự-do ."
_ ( Realisation in Love _ Sadhana )
Cái đẹp là sứ-thần của Tình-yêu. Qua cái
Đẹp thiên-nhiên và nhân-sinh, Tagore thực-
ADPH TAGORE
86
hiện Thượng-Đế, Đức Mẹ của tạo-vật, " Hữu
danh vạn vật chi mẫu ", tiêu-biểu cho tình
Mẫu-tử vô-tư nhất của nhân-loại .
" Qua ý-thức của ta về chân-lý ta
thực-hiện định-luật trong tạo-hóa, và qua
ý-thức thẩm-mỹ ta thực-hiện hòa-điệu
trong vũ-trụ. Khi nào chúng ta nhận-thức
định-luật ở thiên-nhiên, chúng ta mở rộng
chủ-quyền của chúng ta về năng-lực vật-
chất, và trở nên có thế-lực ; khi chúng ta
nhận-thức định-luật ở bản-tính đạo-đức,
chúng ta đạt tới sự tự-chủ và trở nên tự-
do. Cũng tương-tự cách ấy mà chúng ta
càng hiểu hòa-điệu trong thế-giới vật-lý
bao nhiêu thì đời sống vật-lý của ta càng
san-sẻ vui-thú với tạo-hóa, và sự biểu-thị
về cái đẹp trong nghệ-thuật càng trở nên
thật phổ-thông bấy nhiêu. Khi ta trở nên
ý-thức về hòa-điệu trong tâm-hồn thì sự
cảm-súc vui sướng tinh-thần về thế-giới
trở nên đại-đồng và sự biểu-thị về cái đẹp
trong đời sống của chúng ta hoạt-động
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
87
trong đường thiện và tình-yêu hướng về
vô cùng, vô tận. Đấy là cứu-cánh của
sinh-tồn, và chúng ta phải luôn luôn biết :
“ Mỹ là Chân, Chân là Mỹ ” ; chúng ta
phải thực-hiện toàn-thể thế-giới trong
thương yêu, vì tình-yêu sinh ra nó, bảo-vệ
nó và thu nó trở về lòng mình . "
_ ( Sadhana )
Thái-độ của Tagore đối với thiên-nhiên
cũng đối với nhân-văn là thái-độ của tín-đồ
sùng-bái của đạo-dẫn Tình-Yêu ( Bhakti -
Yoga ), không nhằm thu cái đẹp cho mình như
trong văn thơ lãng-mạn Tây-phương cận-đại,
mà cái đẹp thiên-nhiên là một biểu-tượng
tượng-trưng một hoán-chuyển của những vận-
động và trạng-thái sống nội-tâm. Ánh-sáng là
hiện-diện của Thần-linh biểu-thị cho tâm-hồn
cầu tìm .
" Ôi ! Ánh-sáng nhảy múa tại
trung-tâm đời sống của tôi ! Ánh-sáng,
người yêu của tôi, đập vào tơ lòng tình-
ADPH TAGORE
88
yêu của tôi ; trời quang mở, gió lồng-lộng
thổi, từng cơn cười vang mặt đất ."
_ ( Gitanjali )
Vũ-trụ thiên-nhiên tự tâm-linh-hóa và
thích-ứng với tất cả vận-động của đời sống nội-
tâm đi cầu tìm Đức Mẹ, Thượng-Đế. Cùng một
nhịp sống nối liền người với tạo-hóa " Kiền
khôn nhất sinh ý " ( )_ ( Cao-Bá-
Quát ) .
" Cùng một dòng sống chạy suốt
mạch máu tôi ngày đêm, cũng chạy qua
thế-giới và nhảy múa nhịp-nhàng .
Chính cùng dòng sống ấy nẩy mầm
vui tươi từ trong bụi đất thành vô số lá cỏ
xanh và tan hòa vào những làn sóng hoa
lý lung-linh .
Chính cũng sức sống ấy giao-động
trong cái nôi biển của sinh tử thành nước
triều lên xuống .
Tôi cảm thấy tứ chi được tôn vinh
với sự đụng chạm của nguồn sống vũ-trụ.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
89
Và tôi kiêu-hãnh với nhịp sống của các
thời-đại đang nhảy múa trong mạch máu
của tôi ."
_ ( Gitanjali )
Yêu thiên-nhiên ở Tagore là một thái-độ
sùng-bái của tín-đồ Bhakti - Yoga, Thi-sĩ sớm
thấy ở thiên-nhiên hiện-diện của Thần-linh, của
Thượng-Đế, của Đức Mẹ " Vạn vật chi mẫu ",
và thân-thể mình tham-gia vào nguồn sống
tuần-hoàn của vòng thời-tiết ( The Cycle of
Spring ), và trở nên đền thờ Thần-linh là sự
sống vũ-trụ vĩnh-cửu ( Sinh-sinh ). Và cái
Đẹp, đối-tượng của tình-yêu sùng-bái, bấy giờ
biểu-hiện nguyên-lý đồng-nhất-thể tiềm-tàng
bên trong các biểu-hiện thiên-hình vạn-trạng
của vũ-trụ. ( ) " Đồng quy nhi thù
đồ ". Từ cái quan-hệ ( )" Thiên nhân
nhất lý " , ( ) " Nhân thân nhất
tiểu thiên địa "_ ( Lê-Quý-Đôn ), mà nẩy ra tin-
tưởng vào đại-hòa-điệu huyền-bí giữa tinh-thần
nhân-loại và tinh-thần thế-giới :
ADPH TAGORE
90
( )
" Linh khâm bảo hợp thái hòa,
Sạch không trần-lụy ấy là thần tiên .
( )
Ngang tàng lạc ngã tính thiên .
_ ( Nguyễn-Công-Trứ )
Nhờ cái thiên-tính bên trong mà văn-
nghệ-sĩ cảm-thông cái hòa-điệu bên ngoài, tuy
đứng trong thế-giới đầy mâu-thuẫn. Tagore viết
cho bạn :
" Chúng ta thấy tất cả đầy mâu-
thuẫn, tuy nhiên ta vẫn cảm thấy hòa-điệu
quân-bình trong nội-tâm, tuy có tranh-đấu
xung-đột khắp nơi, mà cái Đẹp thì siêu-
việt ."
Nhờ cái Đẹp có giá-trị siêu-việt ấy mà nó
tham-gia ở bản-thể với Bản-thể Vô-cùng. Nó là
phản-ảnh của Vô-cùng xuống hữu-hạn. Và
những phản-ảnh ấy đã đem lại cho Tagore sứ-
mệnh trực-tiếp về thực-thể tâm-linh :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
91
" Khi tôi mười tám tuổi, một cơn gió
xuân thình-lình thức tỉnh thực-nghiệm
tôn-giáo lần đầu đến trong đời tôi và để
lại trong ký-ức tôi một sứ-mệnh trực-tiếp
thực-tại tâm-linh. Một hôm, tôi đang
đứng chờ buổi bình-minh, mặt-trời chiếu
tia sáng sau rạng cây, thình-lình tôi cảm
thấy như có một đám sương mù nhất thời
tan đi khỏi tầm mắt, và ánh-sáng ban mai
tràn mặt đất biểu-lộ một tia vui nội-tại
long-lanh. Cái màn tầm-thường vô-hình
đã được cất đi khỏi mọi vật và người, và
ý-gnhĩa cứu-cánh của chúng trở nên
thâm-thúy trong tinh-thần tôi ; và đấy là
ý-nghĩa của cái Đẹp. Điều đáng ghi nhớ
trong cái thực-nghiệm ấy là sứ-mệnh
nhân-bản của nó, sự khuếch-trương thình-
lình của ý-thức tôi về thế-giới siêu-ngã
của nhân-loại. Bài thơ tôi viết ngày đầu
về sự bất-ngờ của tôi được gọi là " Sự
Tỉnh-Ngộ Của Thác Nước ". Cái thác mà
tinh-thần của nó nằm ngủ trong sự cô-lập
băng-giá đã được ánh nắng chạm vào và
ADPH TAGORE
92
bùng tan thành thác lớn của tự-do, nó
thấy được cứu-cánh của nó trong hy-sinh
bất-tận để hợp-nhất liên-tục với biển-
khơi. Sau bốn hôm thị-hiện đi khỏi thì cái
nắp lại đậy lại tầm mắt nội-tâm của tôi.
Trong đêm tối thế-giới lại khoác lấy bộ
mặt giả, đen tối của sự-kiện ngày
thường . "
_ ( The Religion of Man )
Thi-hào còn nhớ lại một buổi thời niên-
thiếu ngồi trước quyển sách tập đọc buồn-tẻ :
" Thình-lình tôi đi đến một câu có
vần-điệu _ " Trời mưa cành lá rung đưa."
Tức thì tôi thấy một thế-giới trong đó tôi
lại phát-hiện ý-nghĩa đầy đủ của tôi.
Tinh-thần tôi chạm vào cõi sáng-tạo của
biểu-thị, và bấy giờ tôi không còn là đứa
học trò với tinh-thần đầy ắp những bài-
học đánh vần, giam-hãm trong lớp học.
Cái cảnh nhịp điệu rung động của lá cây
dưới hạt nước mưa mở ra trước tinh-thần
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
93
tôi cái thế-giới không chỉ đem lại tin-tức,
mà là một hòa-điệu với tâm-hồn tôi.
Những đoạn văn vô nghĩa mất sự cô-liêu
cá-biệt của chúng và tinh-thần tôi mê say
trong nhất-tính của một thị-hiện. Tương-
tự như thế, sáng nay trong làng những sự-
kiện của đời tôi chợt hiện ra cho tôi trong
một chân-lý thuần-nhất sáng-lạn. Tất cả
mọi vật như có lớp sóng lông-bông thì
hiện ra trong tinh-thần tôi có liên-hệ với
biển-cả vô-biên. Tôi cảm thấy chắc có
một Đấng nào bao-hàm tôi, và thế-giới
của tôi đang tìm sự biểu-diễn khéo nhất
của nó trong tất cả thực-nghiệm của tôi,
hợp-nhất chúng vào một cá-tính luôn luôn
khai-triển, ấy là một công-việc tinh-thần
của nghệ-thuật .
" Đối với Đấng ấy tôi có trách-
nhiệm, vì sự sáng-tác của Ngài cũng là
của tôi. Có thể rằng cùng một Tinh-thần
sáng-tạo đã khuôn vũ-trụ vào quan-niệm
vĩnh-cửu của Ngài ; nhưng ở nơi tôi như
ADPH TAGORE
94
là một nhân-cách đã có một trọng-tâm
đặc-biệt của một liên-hệ nhân-cách-hóa
trưởng-thành trong một ý-thức thâm sâu.
Tôi có nỗi buồn để trong ký-ức, vết bỏng
cháy suốt đời tôi, nhưng đồng thời tôi
cảm thấy ở chúng khả-năng sáng-tạo luôn
luôn vượt giới-hạn chính cá-nhân tôi, ví
như tinh-tú trong tia lửa sáng cá-biệt của
chúng, đang soi sáng lịch-sử vũ-trụ. Nó
đem lại cho tôi lạc-thú lớn để cảm thấy sự
huyền-diệu của Hai mà Một trong một
tình-yêu sáng-tạo. Tôi cảm thấy, rút cục,
cái tôn-giáo của tôi, tôn-giáo Nhân-loại,
trong ấy vô-cực trở nên giới-định vào
nhân-loại và gần-gũi với tôi để đáp-ứng
cho nhu-yếu tình-yêu và hợp-tác của tôi .
" Sau cùng, tư-tưởng của tôi biểu-
diễn ra một số bài thơ để dâng lên Đấng
tôi mệnh-danh là Jivan - Devata, Chúa
Đời Tôi .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
95
" Ngài là tinh-thần nội-tại nhất của tính-
mệnh tôi ;
Ngài có vui lòng không,
Hỡi Chúa-tể Đời Tôi ?
Tôi dâng lên Ngài chén rượu
đầy nỗi buồn vui,
mà buồng tim nghẹt nát của tôi đã khắc-
phục .
Với điệu hát và mầu sắc hòa-hài tôi dệt
nên chăn
cho giường Ngài,
và vàng dòng của dục-vọng,
Tôi tạo thành đồ để Ngài chơi .
Tôi không hiểu tại sao Ngài lấy tôi làm
bạn,
Hỡi Chúa-tể Đời Tôi !
Phải chăng Ngài tích-trữ ngày đêm của
tôi,
Hành-vi và mơ-mộng để, nghệ-thuật,
Ngài trau-dồi,
và xâu khúc hát mùa thu, mùa xuân của
tôi vào giây đàn bản nhạc của Ngài,
ADPH TAGORE
96
và hái những bông hoa, ngày thành-tựu
của tôi, tết vào vương-miện ?
Tôi thấy mắt Ngài chăm-chú vào chỗ đen
tối của tâm tôi,
Chúa-tể Đời Tôi !
Tôi ngạc nhiên nếu sự thất-bại và lỗi lầm
của tôi được quên đi,
Vì nhiều ngày của tôi không phụng-sự,
và nhiều đêm lú quên ;
Vô dụng là những bông hoa tàn úa trong
bóng râm không dâng lên Ngài .
Thường giây đàn của tôi mệt mỏi
không theo kịp âm điệu của Trời .
Và thường những giờ uổng tàn lụi
những buổi tối ảm-đạm của tôi tràn đầy lệ
rơi .
Nhưng rút cục những ngày của tôi có kết-
thúc ?
Chúa-tể của đời tôi ơi !
Khi cách tay tôi ôm Ngài trở nên mềm
yếu,
cái hôn của tôi mất thật ?
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
97
Bấy giờ ngày mòn mỏi cuộc gặp thân mật
Hãy tái tạo cái cũ nơi tôi trong hình-thức
tươi tốt
và tái diễn hôn lễ một lần chót,
trong buổi lễ mới của sự sống đời . "
Đấy là tôn-giáo của Thi-sĩ như Tagore
viết :
" Tôi đã thú-nhận rằng tôn-giáo của
tôi là một tôn-giáo thi-sĩ. Tất cả điều tôi
cảm thấy về nó là do thị-hiện ( vision )
mà ra chứ không phải là do tri-thức... Tôi
được dạy trong Kinh Upanisads của
chúng ta rằng tinh-thần ( mind ) ta là
ngôn-ngữ bỏ đi bối rối với Chân-lý Tối-
cao, nhưng ai biết Chân-lý qua lạc-thú
trực-tiếp của chính tâm-hồn mình thì
thoát hết nghi-hoặc và sợ-hãi ."
_ ( The Religion of Man )
Đấy cũng là lý-tưởng của Khổng-Tử :
( )_( )
ADPH TAGORE
98
" Tri chi bất như hiếu chi, hiếu chi bất
như lạc chi " _ ( Luận-Ngữ )
( Biết đạo không bằng yêu đạo, yêu đạo
không bằng vui đạo .)
Bởi vì Thực-tại vũ-trụ là một đại-hòa-
điệu đồng-nhất-hóa với bản-nhạc vĩ-đại :
( )_ ( )
" Đại nhạc dữ thiên địa đồng hòa "
_ ( Lễ-Ký )
Và khắp thế-giới hiện-tượng, Thi-hào
nhìn thấy hiện-diện của Thượng-Đế, của Đức
Mẹ vũ-trụ, của Nhất-thể trong Đa-thù, nó duy-
trì và bảo-vệ cái hòa-điệu đại-đồng bên trong
tất cả mâu-thuẫn giữa vô-cùng và hũu-hạn,
Tuyệt-đối và Tương-đối, tồn-tại và sinh-thành,
Thượng-Đế hữu-tướng và vô-tướng, hữu-Ngã
và vô-Ngã .
Những vần thơ biều-diễn những trạng-
thái hiện-thị ( vision ) Thi-sĩ đều dâng lên Tối-
cao, phản-ảnh trực-tiếp Tối-cao. Cho đến khi
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
99
rời bỏ cõi đời, cởi nó ra đi, Tagore còn tuyên-
bố, sau khi đã gieo cái Đẹp, cái Lạc, Tình-Yêu
trong 80 năm :
" Tôi tin vào một lý-tưởng bàng-bạc
trên mặt đất và thấm-nhuần tất cả ;
Tôi tin vào lý-tươỏng Thần-linh
không phải sản-phẩm của tưởng-tượng,
mà là thực-tại cùng-tột, trong đó vạn-vật
tồn-tại và vận-động .
Tôi tin sự hiện-thị Thượng-Đế thấy
trong ánh-sáng và xanh tươi của mặt đất,
trong vẻ đẹp của diện-mục nhân-loại,
và trong sự chiếu sáng của đời sống nhân-
sinh,
và cả trong những vật có vẻ vô nghĩa và
xấu-xa.
Tất cả dưới trần, tinh-thần Thượng-
Đế bảo-vệ và cho nghe tiếng nói của
Ngài;
Nó đi vào lỗ tai nội-tâm mà chúng
ta không biết,
ADPH TAGORE
100
Nó đem lại cho cây đàn sống của
chúng ta giai-điệu mà âm-nhạc nâng cao
dục-vọng của chúng ta khỏi hữu-hạn,
không những bằng cầu-nguyện và bằng
kỳ-vọng mà còn bằng điện-thờ và những
ngọn lửa đá,
bằng tranh vẽ là những mộng trường-sinh
bất-tử-hóa,
bằng vũ-điệu là thiền-định thần-hóa tại
trung-tâm bất-động trong vận-động ."
_ ( theo trích-dẫn của Jean Herbert )
***
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
101
KẾT - LUẬN
Nhà văn-sĩ Pháp, "đứng ngoài hàng-ngũ",
trứ-danh thế-giới R. Rolland viết về Tagore và
Gandhi, hai người bạn tri-kỷ của mình :
" Ôi Tagore, Gandhi, hai con sống
cái của Ấn-Độ ví như Ấn-Độ-hà ( Indus )
và Hằng-Hà ( Gange ) hãy ôm chặt lấy cả
Đông-phương và Tây-phương, _ bên thì
bi-kịch hành-động anh-hùng, bên là giấc
mộng ánh-sáng, _ cả hai đều ròng-ròng
Thượng-Đế xuống thế-giới bị bạo-động
bừa nát, hãy gieo rắc hạt thóc Thần-linh
đi ! "
_( Mahatma Gandhi, tr. 184 _ E.Stock _
Paris )
ADPH TAGORE
102
Thánh Gandhi theo con đường lý-trí thực-
tiễn, hành-động phụng-sự ( Karma - Yoga =
Đạo-dẫn Nghiệp ), Thi-hào Tagore với tâm-hồn
tình-cảm sùng-bái ( Bhakti - Yoga = Đạo-dẫn
Tình-Yêu ) cả hai đáp-ứng tiếng gọi Ấn-Độ
phục-sinh của Ramakrishna - Vivekananda :
" Awake, arise and dream no more !
... Be bold, and face
The Truth ! Be one with it ! Let visions
cease,
Or, if you cannot, dream but truer dreams,
Which are Eternal Love and Service
free ."
( Tình dậy, đứng lên, thôi hết mộng triền-
miên !
... Can-đảm và nhìn thẳng sự Thật !
Làm một với sự Thật ! Dứt ảo-giác diệu-
huyền,
Nếu không có khả-năng, hãy chỉ tưởng
chân mộng :
Tình-Yêu Vĩnh-cửu và Phụng-sự Vô-
biên .)
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
103
Trong năm (5) câu thơ trên Swami
Vivekananda đã khéo toát-yếu được tất cả con
đường Đạo-dẫn Yoga chính : Advaïta ( Bất-
nhị-pháp ) hay Thiền, Bhakti ( Tình-Yêu Sùng-
bái ) hay Tịnh và Karma ( Hành phụng-sự ) .
Đấy là tôn-giáo thực-hiện truyền-thống
Ấn-Độ mà đầu tiên Vivekananda đã đem sứ-
mệnh Ấn cho thế-giới Tây-phương tại Hội-nghị
Tôn-giáo Chicago ( 11-9-1993 ) là sứ-mệnh
tôn-giáo thực-hiện Thượng-Đế tại con Người :
" Tôi cầu sinh và còn tái-sinh để
chịu hàng ngàn thồng khổ miễn là có thể
thờ-phụng Thượng-Đế duy-nhất hiện-
thực, Tổng-thể tất cả tâm-hồn và trên hết,
Thượng-Đế những kẻ ác, Thượng-Đế
những kẻ nghèo-nàn, Thượng-Đế những
kẻ khốn-cùng của tất cả chủng-tộc ."
Và ông đã sớm thông-cảm tiềm-thức của
Tây-Âu :
ADPH TAGORE
104
"... Đời sống xã-hội ở Tây-phương
như là một trận cười ; nhưng bên trong là
một tiếng rên-rỉ. Trận cười kết-thúc vào
nức-nở. Sự vui-nhộn và bỡn-cợt chỉ là ở
mặt ngoài. Sự thực, tâm-hồn Tây-phương
đầy vẻ bi-kịch ... "
_ ( Vivekananda nói với Nivedita _ do R.
Rolland dẫn trong " La Vie de Viveka-
nanda " _ Stock, Paris )
R. Tagore, sau này chứng-kiến họa thế-
chiến ( 14 - 18 ) văn-minh khoa-học cơ-khí vô-
hồn đã tàn-phá sinh-mạng và tài-sản, núi xương
sông máu, tuyên-cáo :
" Tây-phương có tín-ngưỡng bất-di
bất-dịch vào sức mạnh và tài-sản vật-
chất : do đấy nó sẽ kêu gọi hoài hòa-bình
và tài giảm vũ-khí ; tính dữ-tợn của nó
luôn luôn còn thét lớn hơn. Khác nào con
cá bị sức ép của nước làm thương-tộn và
muốn bay lên : ý-tưởng sáng-lạn thay !
nhưng hoàn-toàn không thể thực-hiện
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
105
được đối với cá. Chúng tôi ở Ấn-Độ phải
chứng-minh cho thế-giới cái chân-lý,
không-những nó làm cho có thể trừ bỏ
vũ-khí mà còn biến-hóa thành sức mạnh.
Cái thực-kiện sức mạnh tinh-thần là một
khả-năng cao hơn là sức vũ-phu, sẽ được
dân-tộc tay không chứng-thực. Sự tiến-
hóa của sự Sống tỏ rằng nó bỏ dần gánh
nặng áo-giáp đồ-sộ và một lượng thịt
khổng-lồ cho đến ngày nhân-loại chinh-
phục được thế-giới của thú-tính hung-
bạo. Một ngày kia, con người tâm-tình
mảnh-khảnh hoàn-toàn lột hết binh giáp
sẽ chứng-tỏ rằng chỉ những kẻ hiền-lành
mới thừa-hưởng được mặt đất này. Vậy
điều hợp-lý là Thánh Gandhi, thân-thể
yếu-ớt và tuyệt-vô khả-năng vật-chất, gọi
lên năng-lực vô-hạn của sự hiền lành và
thấp hèn đang chờ ẩn trong lòng nhân-
loại Ấn-Độ bị lăng nhục và thất thế.
Định-mệnh Ấn-Độ đã chọn linh-hồn chứ
không phải thể-xác làm đồng-minh. Ấn-
Độ phải nâng cao lịch-sử nhân-loại, từ
ADPH TAGORE
106
bình-diện bùn-lầy của hỗn-độn vật-chất
lên đỉnh cao của chiến-đấu tinh-thần.
Cuộc tranh-đấu của chúng tôi, một cuộc
tranh-đấu tinh-thần, một cuộc tranh-đấu
cho Nhân-loại. Chúng tôi phải giải-phóng
loài Người khỏi những cái lưới nó dệt
quanh nó, những tổ-chức dân-tộc vị-kỷ.
Chúng tôi phải làm cho con bướm tin vào
tự-do ở ngoài trời còn hơn là sự che-chở
của cái kén... Chúng tôi không có danh-từ
Dân-tộc trong ngôn-ngữ của chúng tôi.
Khi chúng tôi mượn danh-từ ấy của dân-
tộc khác, nó không thích-hợp, vì chúng
tôi phải liên-minh với Narayana, Bản-thể
Tối-cao; và chiến-thắng của chúng tôi là
để có được Thiên-đường... Nếu chúng tôi
có thể thách cường-bạo, phú-ông, quân-
đội, mà biểu-lộ cho thế-giới sức mạnh của
tinh-thần bất-tử, thì tất cả lâu-đài xác-thịt
khổng-lồ sẽ đổ xụp xuống vực trống. Bấy
giờ loài Người sẽ thấy chân Tự-trị
( Swarâj ). Chúng tôi, những kẻ cùng khổ,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
107
đói rách của Đông-phương, chúng tôi
chinh-phục tự-do cho cả Nhân-loại ... "
_ ( R. Rolland dẫn lời Tagore trong
" Mahatma Gandhi " )
Và Gandhi cũng tuyên-bố :
" Cuộc tranh-đấu của chúng tôi có
cứu-cánh tình bằng hữu với toàn thế-
giới... Bất-bạo-động đã đi vào nhân-loại ;
nó sẽ còn mãi. Nó là tiên-phong Báo-tin
hoà-bình thê-giới... "
_ ( Sách dẫn trên )
Đấy là sứ-mệnh của Ấn-Độ ngàn xưa cho
thế-giới ngày nay, khoa-học đạo-học ( Science
Religion ) bổ-túc trong " Bất-nhị-pháp "
( Advaïta ), vì Tây-phương đã lôi-cuốn cả thế-
giới vào con đường khoa-học vật-chất, Vũ-lực,
là Luật-pháp mạnh được yếu thua, thiên hạ
giao tranh lợi. Đi xuống giốc quyền-năng vật-
chất dễ hơn là đi lên lý-tưởng tâm-linh treo-leo,
cho nên các nhà tu-luyện ham quyền-năng
thần-thông đã biết bao kẻ bị "tẩu hỏa nhập ma".
ADPH TAGORE
108
Vivekananda đã sớm cảnh-cáo Tây-phương
khoa-học vô-hồn :
" Sự giải-cứu của Âu-Tây trông-cậy
vào một tôn-giáo hợp-lý. Tôn-giáo ấy là
Advaïta ( Bất-nhị-pháp ) của Ấn-Độ ; cái
tôn-giáo tâm-linh thực-hiện ( )
" Bất hử hữu vô " của Thiền-sư Việt-
Nam, Cửu-Chỉ (1065 ) :
" Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch,
Thần thông biến hóa hiện chư tương
Hữu-vi vô-vi tòng thử xuất,
Hà sa thế-giới bất khả lượng,
Tuy nhiên biến mãn hư không giới,
Nhất nhất quan lai một hình trạng ;
Thiên-cổ vạn-cổ nan thử huống,
Giới giới xứ xứ thường lãng lãng ."
( Thật beiét vật tâm vốn hư-không,
Hình hài biến-hóa phép thần-thông ;
Có không, không có, trò tương-đối,
Bao nhiêu thế-giới tựa cát sông ;
Tràn đầy trời đất tuy nhiên có,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
109
Biến đổi luôn luôn, có mà không ;
Ảo-hóa cổ lai đau đớn cảnh,
Bên kia bến giác sáng vô cùng .)
_ ( Đại-Nam Thiền-Uyển Truyền
Đăng )
Đấy là Advaïta ( Bất-nhị-pháp ) đã giải-
thoát dân-tộc Việt-Nam khỏi ngàn năm ách đô-
hộ của đế-quốc Tầu .
Năm 1896 Vivekananda nói với thính-giả
London :
" Advaïta ( Non Dualism ) ( Bất-
nhị-pháp ) hai lần cứu Ấn-Độ khỏi chủ-
nghĩa Duy-vật. Trước khi Phật xuất-hiện
chủ-nghĩa duy-vật thô-thiển ngự-trị xã-
hội dạy : “ Hãy ăn uống và sung-sướng,
không có Thượng-Đế, linh-hồn hay thiên-
đường ; tôn-giáo là mưu-mô của giáo-sĩ
độc-ác. ”... Đức Phật đã đem triết-lý
Vedas - Upanisads soi sáng, ban cho dân
và cứu-vớt Ấn-Độ. Một ngàn năm sau khi
Ngài nhập-tịch, một trạng-thái xã-hội
ADPH TAGORE
110
tương-tự lại tái-diễn... Bấy giờ Sankara
đứng lên và một lần nữa làm sống lại
triết-học Vedanta ( chung-kết Vedas -
Upanisads ). Ông hệ-thống nên triết-học
hợp-lý. Ở Upanisads, giáo-lý thường tối
nghĩa. Nhờ Đức Phật, phương-diện luân-
lý được đề-cao và nhờ Sankara phương-
diện trí-thức được chú-trọng. Ông đã chú-
giải, hợp-lý-hóa và tạo ra cho người ta hệ-
thống chặt-chẽ lạ-lùng là Bất-nhị-pháp
( Advaïta ) .
" Ngày nay chủ-nghĩa duy-vật
thịnh-hành ở âu-Tây. Các ông có thể cầu-
nguyện để giải-cứu các người hoài-nghi
cận-đại, nhưng họ không nhượng-bộ đâu,
họ đòi hỏi lý-trí. Sự cứu-độ của Âu-châu
trông cậy vào một tôn-giáo duy-lý, và
Advaïta _ ( Bất-nhị-pháp, Duy-nhất vô
nhị, quan-niệm Thượng-Đế phi-ngã ) _ là
tôn-giáo độc-nhất có thể ảnh-hưởng được
giới trí-thức ."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
111
Đấy là sứ-mệnh của Ấn-Độ cho thế-giới
ngày nay qua sứ-giả Swami Vivekananda,
Mahatma Gandhi, Rabindranath Tagore : Tín-
ngưỡng tôn-giáo khoa-học Bất-nhị-pháp
( Advaïta - Vedanta ) ; Tôn-giáo chính-trị Bất-
bạo-động ( Ahimsa ) ; Tình-Yêu Sùng-Bái
( Bhakti ) với thi-hứng tâm-linh. Nhân-loại của
cả hai thế-giới Tư-bản và Cộng-sản đã hưởng-
ứng ; nào hô-hào tài-giảm binh-khí nguyên-tử
giết người, nào biểu-tình kêu gọi hòa-bình.
Nhưng còn đức tin tôn-giáo Thượng-Đế Người
thì sao ? Liệu có hòa-bình thế-giới chăng, hay
là như lời của Thi-hào tiên-tri : " Tựa như một
con cá bị sức ép của nước làm thương-tổn, và
nó muốn bay lên : ý-tưởng lanh lợi thay !
nhưng hoàn-toàn không khả-năng thực-hiện đối
với một con cá ."
Còn phải biến-hóa khí-chất, bỏ thú-tính
mà tin vào tính Thiên = tính Người ! " Phật
tức tâm " ( ) .
ADPH TAGORE
112
Nhà văn-sĩ quốc-tế R. Rolland nhắc lại
bước đường tiến-bộ của Tây-phương cận-đại
như sau :
" Thế-giới bị cơn gió bạo-động thổi
quét. Cơn bão ấy đốt cháy mùa gặt của
văn-minh chúng ta thì có gì là bất-ngờ.
Hàng thế-kỷ dân-tộc kiêu-ngạo, phũ-
phàng, ý-thức-hệ mê-say của cách-mệnh
thổi phồng thói mô-phỏng mú-quáng của
các nền dân-chủ truyền-bá _ và hoàn-
thành bằng một thế-kỷ kỹ-nghệ-hóa bất-
nhân và chính-thể tài-phú tham-lam, một
chủ-nghĩa cơ-khí nô-lệ-hóa, một chủ-
nghĩa duy-vật kinh-tế làm chết ngạt tâm-
hồn _ tất cả những điều ấy tất nhiên dẫn
đến những cuộc vật-lộn hỗn-độn trong đó
những khó-báu của Tây-phương bị tiêu-
tan. Nói rằng ở đấy có sự tất nhiên thì
không đủ. Đấy là một Định-mệnh dân-tộc
bóp cổ dân-tộc, nhân-danh cùng những
nguyên-lý chung che đậy những quyền-
lợi giống nhau, bản-năng huynh-đệ
tương-tàn của Caïns như nhau. Mỗi đàng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
113
_ dân-tộc, phát-xít, cộng-sản, nhân-dân và
giai-cấp bị áp-chế, nhân-dân và giai-cấp
áp-chế, mỗi bên đòi về mình mà từ-chối
kẻ khác quyền bạo-động có vẻ là quyền
của mình. Nửa thế-kỷ trước thì sức-mạnh
lấn Luật-pháp. Ngày nay còn tệ hơn :
Sức-mạnh là Luật-pháp, Vũ-lực đã ngốn
mất Luật-pháp . "
_ ( R. Rolland _ " Mahatma Gandhi " )
Mahatma Gandhi đã thực-hành triệt-để
thông-điệp Ahimsa của Đức Phật để giải-phóng
Ấn-ộ, bất-bạo-động, bất-cộng-tác, không hận-
thù, và ứng-dụng cho cả thế-giới đại-đồng cái
" sứ-mệnh dựa vào gương-mẫu " của chính
mình, Ngài viết :
" Bất-bạo-động đối với đồng-bào tôi
không có thể khác với bất-bạo-động của
tôi đối với vũ-trụ ."
Như vậy, luật-pháp Tình-Yêu tự mở rộng
khai-triển từ cá-nhân ra gia-tộc, từ gia-tộc ra
quốc-gia dân-tộc và có thể bành-trướng ra
ADPH TAGORE
114
toàn-thể vũ-trụ. Đấy là Định-luật của Ahimsa
( Bất-bạo-động ) đi đôi với Từ-bi Bác-ái và
Satyâ ( Chân-lý ) vậy .
Bất-bạo-động là phương-tiện, Chân-lý là
cứu-cánh, Dụng và Thể không dời nhau cũng
như Người với Đạo " Đạo bất viễn Nhân,
Nhân chi vi Đạo nhi viễn Nhân bất khả dĩ vi
Đạo " _ ( Trung-Dung )
%%%%%%%%%%%