Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
SỐ 8 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lưu
1
SỐ 8 TRONG ĐẠO HỌC
Viễn Lưu
Website: bachyhuynhde.org
Email: [email protected]
version 1.0
(Đây là tài liệu tu học nội bộ của Bạch-Y-Huynh-Đệ)
---oOo---
Trong bài viết này, chúng tôi xin được phiếm luận về con số 8 trong phạm vi Đạo học.
Nhắc về số 8 thì có nhiều bình diện khác nhau, tuy nhiên chúng tôi chỉ lạm bàn về những
khía cạnh sau: tám cõi luân hồi, số tam ngũ, bát quái, bát chánh đạo, và mật niệm bát
chánh.
I. Tám Cõi Luân Hồi:
Như đã được trình bày trong nhiều bài viết khác, trong tâm thức 13 tầng, 8 cõi luân hồi là
dành cho những chúng sanh nằm trong 8 tầng tâm thức đầu tiên D8-D1. Còn từ tầng 9 trở
lên là giải thoát. Vì thế những câu nói có liên quan tới số 9 hay số cửu như “đắc cửu
chuyển, đạt cửu chuyển, cửu thứ đệ định, v.v...” là để chỉ cho hàng đắc đạo giải thoát.
Ngược lại những danh từ, câu nói liên quan tới số 8 hay số bát là để chỉ tám cõi hay việc
làm trong 8 cõi luân hồi này. Ví dụ như “bát hồn vận chuyển, bát chánh đạo, bát thức
v.v…”
Tám cõi luân hồi có thể được sắp xếp theo trình độ tâm thức như sau:
D8 Thiên Tiên Vô Sắc Giới
D7 Thiên Tiên Vô Sắc Giới
D6 Địa Tiên (Thánh) Sắc Giới
D5 Địa Tiên (Thần) Sắc Giới
D4 Người Dục Giới
D3 Thú Vật Dục Giới
D2 Thảo Mộc Dục Giới
D1 Vật chất Dục Giới
II. Số Tam Ngũ (3+5=8):
Tư tưởng về Tam Giáo Đồng Nguyên (Thích, Lão, Nho) đã có từ lâu chứ không phải
mới xuất hiện gần đây trong Đạo Cao Đài qua câu “Tam Giáo Qui Nguyên, Ngũ Chi Hiệp
SỐ 8 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lưu
2
Nhất”. Theo tác giả Lê Anh Dũng, tư tưởng này đã xuất hiện ở nước ta, Giao Chỉ, từ thế
kỷ thứ hai. Trong bài viết “Số 0 Trong Đạo Học” của cùng tác giả, chúng tôi cũng đã trình
bày là các mối đạo tuy khác nhau vì căn cơ chúng sanh không đều nhưng cùng có chung
một gốc Đạo.
Xưa nay trong sự tu hành thì:
Nho Giáo thuộc Thánh Đạo chủ trương tồn tâm dưỡng tánh với phương châm Tam
Cương Ngũ Thường. Tam cương là 3 giềng mối giữa quân với thần, phụ với tử, phu với
thê. Ngũ thường là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Tiên Giáo thuộc Tiên Đạo chủ trương tu tâm luyện tánh với phương châm Tam Bửu Ngũ
Hành. Tam bửu là tinh, khí, thần. Ngũ hành là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
Phật Giáo thuộc Phật Đạo chủ trương minh tâm kiến tánh với phương châm Tam Qui
Ngũ Giới. Tam qui là qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng. Ngũ giới là không ăn cắp, vọng
ngữ, tà dâm, uống rượu và sát sanh.
Như đã trình bày trong bài “Số 0 Trong Đạo Học”, Tâm có thể chia làm 3 phần: lý tâm
(thượng, đầu), khí tâm (trung, ngực), tượng tâm (hạ, bụng) thứ tự từ tế tới thô. Muốn đạt lý
tâm phải dứt vô minh. Muốn đạt khí tâm phải tu luyện khử trược lưu thanh (vì khí có thanh
có trược). Muốn đạt tượng tâm phải biết duy trì sự quân bằng yên tĩnh trong đời sống. Do
đó ta có thể tóm tắt như sau:
Tâm Con Người Tam Giáo Qui Nguyên Thượng-trung-hạ hợp
Lý Tâm Phật Gia (Phật Đạo) Minh Tâm Kiến Tánh
Khí Tâm Tiên Gia (Thiên Đạo) Tu Tâm Luyện Tánh
Tượng Tâm Nho Gia (Nhân Đạo) Tồn Tâm Dưỡng Tánh
Note: Ki tô giáo, Hồi giáo hiện nay theo thiển ý thuộc về Thánh Đạo.
Phản bổn hoàn nguyên là hành trình đi ngược theo đúng thứ tự từ thô tới tế. Không thể tự
dưng nhảy vọt bước để chỉ tu học làm Tiên Phật mà được. Vì thế có câu “Nhân Đạo tròn
thì Thiên Đạo kề bên”. Còn muốn cãi đi ngược lại thì sẽ rất là khó khăn. Vì vậy ở bất kỳ
đạo nào, việc đầu tiên trong tu hành là sửa tâm sửa tánh rồi mới tới phần tu luyện hành
pháp.
III. Bát Quái: Hà Đồ Lạc Thơ
Nói tới số 8 mà không nói về Bát Quái thì thật là thiếu sót. Chúng tôi xin trình bày vài
điểm thô sơ lượm lặt được về Bát Quái có liên quan đến vấn đề tu hành.
Trong nền văn minh hiện tại của loài người nếu giới hạn cột mốc thời gian khoảng 5 ngàn
năm trước thì nền văn minh Trung Hoa có thể được xem là đại diện cho nền văn minh của
SỐ 8 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lưu
3
người da vàng gồm những dân tộc Đông Á như Nhật Bản, Mongol, Tây Tạng, Việt Nam
v.v.. Nền văn minh của những dân tộc này trong mấy ngàn năm qua đều dựa trên học
thuyết Kinh Dịch xuất phát từ Bát Quái (đúng hơn là Hậu Thiên Bát Quái), mà Bát Quái
lại có xuất xứ từ Hà Đồ Lạc Thư.
Tương truyền rằng vua Phục Hy trong thời Tam Hoàng Ngũ Đế tại sông Mạnh Hà gặp con
long mã, trên lưng nó có hình đồ những chấm đen, trắng (hình bên dưới) nên ông đặt tên là
Hà Đồ. Từ những chấm này, vua Phục Hy đặt ra 8 quẻ gọi là Tiên Thiên Bát Quái, mang
trị số từ 1 tới 8. Nếu để ý sẽ thấy chấm đen là số chẵn và chấm trắng là số lẻ. Trải qua hai
triều đại Hạ, Thương (từ thế kỷ 21 tới thế kỷ 11 trước công nguyên) tới nhà Chu (Châu),
được vua Châu Văn Vương lập ra quẻ Hậu Thiên Bát Quái, mang trị số từ 1 tới 9, còn
được gọi là Lạc Thư.
CÀN
KHÔN
LY
KH
ẢM
ĐOÀI
CẤN
CH
ẤN
TỐN
12
3
4
5
6
78
Phục Hy
Tiên Thiên Bát Quái
CẤN
CÀN
KH
ẢM L
Y
CHẤN
ĐOÀI
KHÔN
TỐN
KIM
MỘC
TH
ỦY H
ỎA
THỔ
THỔ
Châu Văn Vƣơng
Hậu Thiên Bát Quái
1
2
34
5
6
7
8
9
Ngày nay trong toán học, Lạc Thư được mô tả bằng ma-trận 3x3 như sau:
4 9 2
3 5 7
8 1 6
SỐ 8 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lưu
4
Theo lý thuyết, Hà Đồ dùng cho Tiên Thiên thuộc Bồng Lai Tiên Cảnh, Cực Lạc quốc,
quê xưa chốn cũ. Còn Lạc Thơ dùng cho Hậu Thiên thuộc chốn hồng trần, ta bà, luân hồi
đầy đau khổ. Nên mục đích của tu hành giải thoát là về lại được quê cũ, tức phản bổn hườn
nguyên, là đi ngược lại từ Hậu Thiên trở về Tiên Thiên. Bên Đạo Gia dùng cặp Khảm Ly
tức đi từ số 1 tới 9, nên còn có tên gọi là chiết khảm điền ly, để cặp khảm-ly trở thành càn-
khôn. Chủ trương luyện tam bửu ngũ hành tức là luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần,
luyện thần hoàn hư thông tam quan cửu khiếu về tới Bồng Lai Tiên Cảnh. Còn Phật Gia,
có thể nhận ra bằng cặp mộc-kim, từ đông độ đi về tây thổ tức đi từ số 3 đến số 7 (đi theo
chiều xoắn ốc qua 10 vạn cõi ức phật sẽ tới cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà – tham
khảo bài “Kinh A Di Đà Pháp Số”). Để ý sẽ thấy đường Tiên Gia, ly + khảm = 1+9 = 10
và đường Phật Gia, kim + mộc = 7+3 = 10, hai đường đều đi qua số 5 (thổ, thân xác). Nên
chi qủa vị Kim Tiên tương đương với A-la-hán Phật. Hơn nữa nếu không có thân này thì
không thể tu hành được!
Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát Quái ở đâu trong thân người?
Hình đồ bên dưới là một phần trong Thái Cực Đồ của bà Ngọc Liên Hoa (1950s), chia con
người làm 3 phần: hậu thiên (trước mặt), trung thiên (sau lưng) và tiên thiên (phần đầu).
CÀN
KHÔN
LY
KH
ẢM
ĐOÀI
CẤ
NC
HẤ
N
TỐN
ĐOÀI
CẤ
N
KH
ÔN
CÀN
KH
ẢM
LY
CHẤN
TỐ
N
CẤN
CÀ
N
KH
ẢM L
Y
CHẤN
ĐOÀI
KHÔN
TỐN
KIM
MỘC
TH
ỦY H
ỎA
THỔ
THỔ
NGỌTÝ
DẬU
MÃO
1
2
3
4
5
6
7
8
33
4
4
7
7
6
6
1
1
2
2
9
5
8
8
TIÊN THIÊN
ÂM DƢƠNG
TRUNG THIÊN
ÂM DƢƠNG
HẬU THIÊN
ÂM DƢƠNG
BÁT QUÁI
THUẦN TÚY
BÁT QUÁI
TƢƠNG HIỆP
BÁT QUÁI
HỖN HỢP
HÀ-ĐỒ
THỂ
THỂ
THỂ
LINH
VÍA
XÁC
YẾT HẦU
TÂM HỎA
ĐAN ĐIỀN
NGỌC CHẨM
GIÁP TÍCH
VĨ LƯ
NHƠN THÂN
NHƠN THÂN ĐỒ
NHƠN THÂN ĐỒ
ÓC GIÀ
ÓC NON
TẠNG HUỆCảnh Tiên Thiên Khí
Trƣờng Sanh Thanh Tịnh
Cảnh Hậu Thiên Khí
Giành Giựt Cạnh Tranh
Cảnh Trung Thiên Khí
Ôn Hòa
SỐ 8 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lưu
5
Con người ở Hậu Thiên thì phải chịu khí hậu thiên là giành giựt cạnh tranh, đầy đau khổ.
Khi chịu tu hành lìa bỏ tham sân si thì mới tiến vào Trung Thiên hưởng chút khí ôn hòa.
Chỉ khi nào về được tới Tiên Thiên thì mới được hưởng khí trường sanh thanh tịnh.
Về vị trí của quẻ Bát Quái trên cơ thể thì có table sau:
Càn Đầu
Khôn Bụng
Khảm Tai, Thận
Ly Mắt, Tim
Chấn Chân
Tốn Đùi
Cấn Tay
Đoài Miệng
Lục Âm Lục Dương:
Nền văn minh dựa trên Kinh Dịch được phát triển mạnh mẽ kể từ khi Hậu Thiên Bát
Quái của Chu Văn Vương ra đời. Ông sắp đặt lại 8 quẻ thành Lạc Thơ và khai triển thành
64 quẻ dịch, 384 hào để diễn tả những biến chuyển trong trời đất, chi phối mọi mặt trong
đời sống từ tư tưởng, y học, đạo học, lý học, khoa học, xã hội học, nghệ thuật v.v., giống
như văn minh của computers chi phối đời sống trong thế kỷ 20 vậy. Sau này Kinh Dịch
được Đức Khổng Tử san định lại và viết thành sách.
Ví dụ: Quẻ Càn, , chồng 2 quẻ Càn lên nhau thành quẻ Bát Thuần Càn . Vì quẻ Càn
có 3 hào dương, nên Bát Thuần Càn có 23 = 8 quẻ biến như sau:
1 Càn Vi Thiên 5 Phong Địa Quán
2 Thiên Phong Cấu 6 Sơn Địa Bác
3 Thiên Sơn Độn 7 Hỏa Địa Tấn
4 Thiên Địa Bỉ 8 Hỏa Thiên Đại Hữu
Tương tự, với 8 quẻ Bát Quái ta có tổng cộng 8x8 = 64 quẻ dịch.
Trong đạo học Tiên Gia chỉ dùng 12 quẻ trong 64 quẻ Dịch để chỉ Lục Âm Lục Dương
như sau:
Bát Quái Càn Số Hào Dương
Trong Quẻ
Bát Quái Khôn Số Hào Âm
Trong Quẻ
Càn Vi Thiên 6 Khôn Vi Địa 6
Thiên Phong Cấu 5 Địa Lôi Phục 5
Thiên Sơn Độn 4 Địa Trạch Lâm 4
SỐ 8 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lưu
6
Thiên Địa Bỉ 3 Địa Thiên Thái 3
Phong Địa Quán 2 Lôi Thiên Đại Tráng 2
Sơn Địa Bác 1 Trạch Thiên Quải 1
Hào Dương = Thanh. Hào Âm = Trược.
Nam thanh nữ tú lúc đúng 16 tuổi, 2x8, là lúc thần khí vừa tràn đầy, chưa bị nhiễm trần
nên toàn Thanh chẳng Trược, được ví với quẻ Bát Thuần Càn (6 dương). Lúc này nếu
quyết định chọn đường tu hành giải thoát một kiếp đắc đạo, những người này sẽ có cơ hội
tu hành thành tựu mau nhất vì tinh-khí-thần còn đầy đủ chưa bị hao tổn. Còn nếu chần chừ
chờ đợi thì theo qui ước số 8 của Bát Quái, cứ mỗi tám năm trôi qua, độ thanh (hào dương)
sẽ giảm một mà độ trược (hào âm) lại tăng lên một, khiến cho sự tu hành giải thoát bắt đầu
tại tuổi đó cũng thêm phần khó khăn vì độ nhiễm trần ngày càng tăng. Theo phép tính trên
ta có table sau:
16 tuổi, đào tiên loại 9000 năm 6 Dương, 0 Âm Tu giải thoát dễ, cũng dễ sa ngã
24 tuổi, đào tiên loại 6000 năm 5 Dương, 1 Âm Tu giải thoát dễ, cũng dễ sa ngã
32 tuổi, đào tiên loại 3000 năm 4 Dương, 2 Âm Tu giải thoát dễ, chính chắn (Đức Thích
Ca đi tu lúc 30 tuổi)
40 tuổi, tinh-khí-thần bắt đầu suy 3 Dương, 3 Âm Tu giải thoát bắt đầu khó
48 tuổi, tinh-khí-thần yếu 2 Dương, 4 Âm Tu giải thoát khó.
56 tuổi, tinh-khí-thần sắp cạn kiệt 1 Dương, 5 Âm Tu giải thoát rất khó. Tu vãng sanh thì
dễ hơn.
Nếu muốn tìm hiểu sâu về Quẻ Dịch trong Đạo Học, mời tham khảo thêm sách “Huyền
Pháp Bảo Ngươn Kinh” của Thái Thượng Đạo Tổ, có để bên trang Sách Hiếm.
Thiền Sư Vạn Hạnh đời nhà Lý là ai?
Thiền sư Vạn Hạnh (938 – 1025) là vị quốc sư có nhiều đóng góp trong việc mở ra triều
đại nhà Lý, một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam. Thiền sư vừa là
cố vấn cho vua Lê Đại Hành vừa là thầy của Lý Thái Tổ - Lý Công Uẩn- người sáng lập ra
nhà Lý. Ngoài ra Thiền sư còn là một nhà tiên tri đại tài. Trên đây là tiểu sử đơn sơ ngoài
đời của Thiền Sư. Còn trong tâm linh, theo tài liệu của bên Cao Đài, Ngọc Kinh Toàn Tập
I, II, III, từ 1930s – 1960s của Đức Diêu Trì Kim Mẫu, trong tập III, trang 70, có những
vần thơ như sau:
. . . .
Lý Thái Tổ đởm huyền pháp sách,
Nằm Phật gia rọi rạch cơ đồ,
Lý về đúng Lý nam mô
SỐ 8 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lưu
7
Thích Ca thành đạo Gia Tô cứu đời
Sư Vạn Hạnh trợ thời nhà Lý,
Rõ tiền căn xét kỹ Châu Công,
. . .
Qua những lời thơ trên, Đức Diêu Trì Kim Mẫu đã cho biết gốc gác Thiền Sư Vạn Hạnh
chánh là Chu Văn Vương năm xưa, người đã đặt ra Hậu Thiên Bát Quái, mở ra nền văn
minh dựa trên Kinh Dịch của dân tộc da vàng trong suốt 5,000 năm qua.
IV. Bát Chánh Đạo của Phật Thích Ca:
Tám con đường hay tám chân lý đưa đến sự giải thoát của Phật Thích Ca gồm có: chánh
kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh
niệm, chánh định.
Chúng sanh ở đời bị vùi dập bởi sóng tình, tiền, danh, lợi. Vì vô minh nên đã gây nhân tạo
nghiệp để thỏa mãn cái tham sân si của mình. Nhân đã lập tất quả phải có. Có vay thì phải
có trả. Nên nếu không biết tu hành giải thoát thì mãi mãi phải trôi lạc luân hồi trong tam
cõi, tứ sanh, lục đạo. Vô minh trong Phật Giáo Tiểu Thừa là khái niệm về có cái ngã, cái
tôi trong người.
Sự giải thoát là sự chấm dứt luân hồi. Muốn hết luân hồi thì phải trả hết nghiệp hay nợ đã
vay. Để có thể trả hết nghiệp thì không được tạo thêm nghiệp mới và đồng thời phải trả hết
nghiệp cũ. Muốn không tạo thêm nghiệp mới thì phải hết vô minh. Một trong những lý do
chính của vô minh là vì chấp thân này thật có, ngã chấp. Vì chấp vào cái ngã là thật nên
mới bị dính vào tham sân si khi có gió danh, lợi, sắc thổi tới. Vì thế đoạn được vô minh
cũng là đoạn được ngã chấp hay đạt vô ngã. Lúc vô minh diệt thì trí tuệ chánh kiến xuất
hiện để giúp không tạo nghiệp mới. Đây là logic để đoạn luân hồi. Quả thật ta có thể xếp
Bát Chánh Đạo thành 3 nhóm dựa theo logic trên.
Đừng Tạo Nghiệp Mới: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.
Trả Hết Nghiệp Cũ (khử trược lưu thanh): chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
Đoạn Diệt Vô Minh: chánh kiến, chánh tư duy.
Bát Chánh Đạo Trong Giới Định Tuệ: Ta có thể ghép Bát Chánh Đạo vào Giới Định
Tuệ theo table dưới đây:
Giới Ngăn ngừa nghiệp mới Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng
Định Tẩy trừ nghiệp cũ Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định
Tuệ Đoạn trừ vô minh Chánh kiến, chánh tư duy
SỐ 8 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lưu
8
Theo thứ tự, hành giả nhờ giữ Giới thực hành chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mệnh đem
đến sự yên ổn, an lạc cho bản thân, từ đó được yên tĩnh nên có Định. Hành giả nhờ tu
Định thực hành chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định nên dần dà Tuệ phát. Nhờ Tuệ
phát, hành giả thực hành chánh kiến, chánh tư duy đoạn được vô minh đưa đến quả giải
thoát. Đây là một sự tóm lược đơn giản về Bát Chánh Đạo trong Giới Định Tuệ, dễ hiểu
cho bậc đã thấm nhuần nhưng có thể khó hiểu cho những người sơ cơ.
Con đường tu giải thoát, phản bổn hoàn nguyên, từ khởi thủy đến chung cuộc là một con
đường rất dài, có thể là a tăng tì kiếp nếu không biết đường đi. Nhưng cũng có thể chỉ đôi
ba kiếp ngắn ngủi nếu biết đường về. Để dễ dàng giải thích, đường đạo có thể chia làm 3
đoạn: đầu, giữa, cuối hay hạ, trung, thượng. Tương tự, Bát Chánh Đạo cũng có thể chia
làm 3 bậc: hạ, trung, thượng. Dưới đây là tóm tắt lời của đức Diêu Trì Kim Mẫu dạy về
cách thực hành Bát Chánh Đạo cho nhóm BYHĐ trong năm 2012.
Lời Dạy của
Đức Diêu Trì
Hạ Trung Thượng
Chánh Kiến Theo cái Thấy, Biết của trực
giác.
Xa rời cái vẽ vời của óc trái
suy luận
Thấy biết là chơn
chánh tự tâm
Chánh Tư Duy Xa rời Tham, Sân, Si. Không Sân không Hận Bát phong bất động
Chánh Tinh Tấn Niệm Phật trừ vọng niệm Tiếp tục niệm Phật Trên đầu phát quang
Chánh Niệm Trừ bỏ Tham, Sân, Si Học chữ Không Vô ngã
Chánh Định Giữ tâm yên mà thiền PLTC tâm yên Xuất hồn đảnh lễ Phật
Chánh Ngữ Không nói dối Nói thật Thân khẩu ý nhất như
Chánh Nghiệp Không sát sanh Giữ ngũ giới Sạch thân nghiệp
Chánh Mạng Không làm tổn hại kẻ khác. Không làm tổn hại kẻ khác. Sạch thân nghiệp
Note: Bát Phong: Lợi, Suy, Hủy (chê), Dự (khen), Xưng (nịnh), Cơ (nói xấu), Khổ, Lạc.
Chánh Kiến: Trong bát chánh đạo, chánh kiến đứng đầu, là quan trọng nhất. Chỉ có chánh
kiến mới đẩy được Vô Minh không tạo nghiệp mới. Một khi có được chánh kiến thì tức
khắc có được 7 chánh kia. Vì thế Chánh Kiến là cái thấy, cái biết của một người giải
thoát, tức một người đã hết vô minh, hay một người đã đạt vô ngã. Ngược lại cái thấy, cái
biết của chúng sanh vô minh, đầy phàm ngã, tạm kêu là Tà Kiến.
Vậy làm sao để phân biệt Chánh Kiến và Tà Kiến? Xin cử ví dụ sau đây: Sáng sớm hôm
nay, mở cửa đi ra thăm vườn hoa, hoa hồng hôm nay nở rộ, ông chủ nhà tên Tâm nhìn một
đóa hoa hồng đỏ mới nở và thốt lên “Hoa nở đẹp quá!”. Câu nói “Hoa nở đẹp quá!” có
đầy đủ Chánh và Tà Kiến trong đó. Tại sao vậy?
SỐ 8 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lưu
9
Xét về Chánh Kiến: khi ông chủ Tâm hướng mắt nhìn đóa hoa hồng. Luồng điển, ánh
sáng, từ mắt đi ra tới hoa hồng, thâu lấy hình ảnh hoa hồng, rồi vòng trở về lại mắt. Đây là
giai đoạn trần (hoa hồng) tiếp xúc với căn (nhãn căn). Sau đó luồng điển này đi vào kho
chứa bên trong đầu để lục lọi so sánh với tỉ tỉ dữ kiện trong đó; cuối cùng nó kiếm được
một hình giống như đóa hoa được mới mang vào và trở ra báo cáo “đây là một đóa hoa
hồng màu đỏ”. Đồng thời vì có xúc nên phải có cảm thọ: khổ, lạc, hoặc không khổ không
lạc. Đây là giai đoạn nhãn thức được thành lập. Nếu chấm dứt được ngay tại đây thì cái
thấy biết này là cái thấy biết chơn chánh của tự tâm, của người đắc đạo. (Tạm thời không
xét những căn khác song song với nhãn căn để tạo nên một cái biết tổng thể). Một câu nói
nổi tiếng của vua Trần Nhân Tông để chỉ Chánh Kiến là “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”.
Xét về Tà Kiến: Nhưng cái thấy, cái biết của phàm phu thì không đơn giản như thế! Ngay
vừa khi đóa hoa hồng được xác định xong cùng với cảm thọ, kết quả này lại được cái Ngã
(thói quen, tập khí) đem vào kho chứa trong óc để so sánh với kinh nghiệm về những hoa
hồng khác đã có trong quá khứ. Dữ kiện mới thêm vào này đã biến cái biết chơn chánh tự
tâm thành cái biết của phàm phu, Tà Kiến. Và khi ông Tâm thốt ra “Hoa nở đẹp quá!”
chúng ta có thể dễ dàng kết luận cái biết trong câu nói của ông Tâm là Tà Kiến, bởi vì cái
thấy biết này đã có cảm tính cá nhân của ông Tâm xen lẫn vào rồi. Vì thế cái hoa này có
thể đẹp với ông Tâm này nhưng chưa chắc đẹp với bà Tâm khác! Cái Ngã đâu chỉ dừng ở
đó! Ngay sau khi ông Tâm thốt câu “Hoa nở đẹp quá” thì cái ngã nó đã chuẩn bị thêm cho
ông Tâm một lô những ý tưởng khác trong đầu, ví dụ như “hãy hái hoa vào cắm trong
bình”, “hãy ngửi xem hoa có thơm không?” v.v… cái ngã nó đã vươn lên và độc thoại liên
miên trong đầu trong bụng của ông Tâm. Đây là một cảnh tượng rất bình thường hầu như
có trong mọi người. Và chính thằng phàm ngã ưa lộn xộn này đã khiến ông chủ đi làm tùm
lum chuyện tạo nghiệp để rồi kết quả là phải luân hồi muôn kiếp.
Ví dụ trên thuộc phần “nhận vào” của hai mặt “nhận vào và phát ra” trong vấn đề phân
tách Chánh Kiến và Tà Kiến. Giờ hãy xét tới phần “phát ra”.
Chẳng hạn hành giả đang ngồi thiền yên lặng, bỗng dưng phát ra ý tưởng muốn làm con
toán 2*5 hoặc làm bài thơ về tánh không? Vậy đó là hiệu lệnh của bổn tâm hay của phàm
ngã?
Trên thực tế, thật là khó để có thể xác định được niệm nào là của chân tâm hay phàm ngã.
Xin mượn hình ảnh ly nước có bùn để diễn tả ý này. Nếu trong ly nước có bùn và đang ở
dạng khuấy động thì nước sẽ đục. Giờ muốn lấy nước trong ra thì phải làm sao? Chỉ còn
cách phải chờ nước dần dần lặng xuống hoàn toàn. Khi đó bùn đen sẽ ở dưới đáy ly, phần
SỐ 8 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lưu
10
còn lại là nước sạch ở trên. Đến lúc này mới có thể lấy được nước sạch vì bùn với nước
không còn lẫn lộn với nhau. Tương tự, một khi hành giả chưa đạt trạng thái vô niệm thì
khó có thể xác định được niệm nào là của chân ngã hay phàm ngã bởi Chánh Niệm và Tà
Niệm lẫn lộn với nhau. Càng quan sát càng thêm mù mịt!
Làm sao để biết đã đạt trạng thái vô niệm? câu trả lời đúng nhất, gọn nhất nhưng không
giúp gì được cho người hỏi là “chừng nào đắc đạo thì biết!”. Giờ chúng tôi xin trả lời với
một cách khác như sau:
Trên đoạn đường tu hành từ phàm nhân (D4) đến lúc giải thoát (A la hán, D9), sự thăng
hoa của tâm thức từ D4 tới D9 sẽ tạo ra những sự thay đổi về tâm sinh lý trong cơ thể như
kinh mạch Nhâm Đốc thông, khí điển chạy khắp thân, xuất dương thần (xuất hồn), có mâu
ni châu, v.v... Vì thế cho dù bạn nào có hiểu được những ví dụ trên, có thể thông biện thao
thao bất tuyệt nhưng nếu trong bản thể chưa có những ấn chứng này, xin hãy khoan vội
cho rằng cái thấy biết của mình là từ chơn tâm. Chúng tôi xin lặp lại câu nói sau:
Chỉ có Mâu Ni Châu, không thành Phật
Muốn thành Phật, phải có Mâu Ni Châu
Vì vậy, muốn tu hành giải thoát cần hiểu rõ đâu là Chánh Kiến và Tà Kiến, cần phân biệt
đâu là Ngã và bổn tâm tự tánh để mà dụng công tu tập Bát Chánh Đạo cho đúng đắn. Lời
của Đức Diêu Trì Kim Mẫu dạy thật là siêu diệu!
Tánh Mệnh Song Tu trong thời Thượng Ngươn:
Dưới đây là một đoạn thơ của Đức Diêu Trì Kim Mẫu cho trong bài “Tình Thương Nhân
Loại vào Rằm tháng Sáu năm Nhâm Thìn 2012”, chỉ rõ pháp Tánh Mệnh Song Tu trong
thời Thượng Ngươn sắp đến: Pháp Vô Vi của thầy Tám Lương Sĩ Hằng và Bát Chánh Đạo
của Đức Thích Ca
. . . .
Ráng lo tu cho hồn thanh nhẹ 93
Pháp Đại Thừa Mẹ đã cho ra
Vô Vi là pháp một nhà
Bạch Y Huynh Đệ Di Đà triển khai 96
Niệm sáu chữ để khai cửu khiếu
Mở bộ đầu báo hiếu Mẹ Cha
Lục Tự sáu chữ vậy mà
Càn khôn vũ trụ Di Đà ban ân 100
Pháp Vô Vi có Thần hộ trợ
Soi Hồn rồi được mở Thiên Môn
Điển năng giúp đỡ phần hồn
Ra vào tự tại mới khôn hơn người 104
Pháp Luân Chuyển giúp người nóng tánh
Dùng điển trời đánh đổ lục căn
SỐ 8 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lưu
11
Ăn năn lục tặc phản hồi
Nhâm Đốc khai mở thoát rồi khổ đau 108
Thương con trẻ lòng đau khó tả
Đợi từng giờ con đã tỉnh chưa
Chốn phàm con mến con ưa
Mong con thức tỉnh Mẹ đưa con về 112
Cảnh phồn hoa con thề ở mãi
Để Mẹ đây phải đợi phải chờ
Đừng như những kẻ thờ ơ
Trong con có Phật bao giờ con hay 116
Không có Thầy ở ngay cho phải
Đến lúc gặp con phải ra công
Công tu công quả con trồng
Gia tăng sức lực Mẫu mong đêm ngày 120
Lúc gặp Thầy chỉ bày Bát Chánh
Đó là lúc con gánh con gồng
Mẫu đây ngày đêm ngóng trông
Chánh đạo con rõ con trồng thiện căn 124
Mục chánh kiến con răn con giữ
Thấy biết là chơn chánh tự tâm
Đừng theo ác đạo lạc lầm
Xa rời Mẫu tử khó tầm đường chơn 128
Chánh tư duy còn hơn tiền bạc
Tham sân si con thật xa ra
Thế gian là cõi Ta Bà
Không sân không hận mới là người tu 132
Mục chánh ngữ người tu phải rõ
Không dối lời bày tỏ minh tâm
Chánh ngữ con chẳng lạc lầm
Có gì nói thật âm thầm chuyên tu 136
Mục chánh nghiệp cho dù hơi khó
Nhưng thành lòng chẳng khó đâu con
Sát sanh hại vật thân mòn
Ngũ giới con giữ chẳng còn nghiệp thân 140
Mục chánh mệnh nuôi thân dưỡng tánh
Tránh nghiệp thân xa lánh hại người
Thế gian bao kẻ hại người
Thầy tu nói dối của người đem thâu 144
Chánh tinh tấn con đâu có biết
Vọng tâm nhiều chẳng biết hồi đầu
Niệm Phật môn pháp nhiệm mầu
Tự tu tự tiến trên đầu phát quang 148
Mục chánh niệm chuyển sang tâm đạo
Tham sân si Mẹ bảo con trừ
Như không chẳng phải mòn hư
Vô thường vô ngã khổ như tù đầy 152
Mục chánh định Mẫu Thầy đã dạy
Để tâm yên như vậy mà thiền
Pháp Luân Thường Chuyển tâm yên
Xuất hồn đảnh lễ Phật liền ban ơn 156
Bát chánh đạo tâm thân phải rõ
Là con đường chơn chánh Phật Tiên
Ra công bỏ sức tham thiền
Đời là tạm bợ tham thiền thoát mê 160
Vì vô minh con về chẳng được
Vì dâm ô mà trược bao đầy
SỐ 8 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lưu
12
Gắng công gắng sức đêm ngày Thoát vòng lục đạo Mẫu Thầy gần bên 164
Vô Vi Pháp trong Bát Chánh Đạo:
Trong phần khử trược lưu thanh của Bát Chánh Đạo gồm chánh tinh tấn, chánh niệm và
chánh định, Đức Diêu Trì Kim Mẫu đã chỉ rõ cách áp dụng pháp Niệm Phật và Pháp Luân
Thường Chuyển trong Pháp Vô Vi vào Bát Chánh Đạo.
Chánh tinh tấn con đâu có biết
Vọng tâm nhiều chẳng biết hồi đầu
Niệm Phật môn pháp nhiệm mầu
Tự tu tự tiến trên đầu phát quang 148
. . .
Mục chánh định Mẫu Thầy đã dạy
Để tâm yên như vậy mà thiền
Pháp Luân Thường Chuyển tâm yên
Xuất hồn đảnh lễ Phật liền ban ơn 156
Vì thế nên Vô Vi Pháp không phải chỉ là thân pháp mà còn là một pháp môn đầy đủ cả về
thân và tâm pháp. Xin mời các bạn đọc bài bút điển sau đây của Đức Vĩ Kiên:
Apr/28/2016: Đức Vĩ Kiên cho thơ
Thưa các bạn,
Gần đây có bạn muốn hỏi tôi về PLVV. Pháp nào là thân pháp và pháp nào là tâm pháp?
Các bạn nghĩ sao?
Pháp Lý Vô Vi Khoa Học Huyền Bí (PLVVKHHB) là một bí pháp: “Khẩu khẩu tâm truyền
y bí pháp”, nhưng đến nay đã là cuối ngươn ba, hạ ngươn cho nên Thượng Đế đã cho phổ
truyền. Ai người có duyên thì có cơ may gặp pháp và hành pháp. Vô Vi là tâm pháp. Soi
hồn mở bộ đầu. Pháp Luân Thường Chuyển (PLTC) khử trược lưu thanh, huệ tâm khai
mở. Thiền định làm cho ổn định bộ đầu và tâm can, giúp cho hành giả khỏe mạnh cả tâm
lẫn thân. Niệm phật để làm gì? Giúp bạn mở lục tâm thông. Tuy nhiên Vô Vi là tâm pháp,
nhưng nó hỗ trợ thân pháp, nhờ đó các bạn có sức khỏe làm việc. Có một số bạn hành
chưa đúng mức, cho nên sức khỏe yếu ớt, không được tốt cho lắm. Tôi đề nghị các bạn đó
nên tập thêm các môn phụ như lạy kiếng Vô Vi, thể dục trợ luân và các môn Yoga như
Suối Nguồn Tươi Trẻ, v.v…
SỐ 8 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lưu
13
Vô Vi tâm pháp chuyển thân gầy
Thành thân bất hoại chẳng động lay
Soi hồn, niệm Phật tâm hướng thượng
Thành tâm thanh tịnh, niệm đêm ngày.
Quý thương: Vĩ Kiên
V. Mật Niệm Bát Chánh:
Trong Vô Vi Pháp của Thầy Tám có phần công phu có tên là “Mật Niệm Bát Chánh” rất
hay. Nhân dịp này chúng tôi xin được trình bày lại đây để bạn đọc tiện tham khảo và so
sánh.
SỐ 8 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lưu
16
VI. Kết Luận:
Bài viết này trình bày sơ lược lịch sử Hà Đồ Lạc Thư và ứng dụng của Hậu Thiên Bát
Quái trong Đạo học. Ngoài ra, phần Bát Chánh Đạo được phân tích cặn kẽ với lời chỉ dạy
cách thực hành của Đức Diêu Trì Kim Mẫu.
SỐ 8 TRONG ĐẠO HỌC Viễn Lưu
17
Chúng tôi hy vọng bài viết đem lại lợi ích cho các bạn.
Chúc các bạn may mắn,
Bát quái tiên thiên thuở Tam Hoàng
Hà Đồ Lạc Thư thị bát môn
Phục Hy mở lối Chu Vương tiếp
Bát quái hậu thiên khai mở đời
Giải thoát một đường Bát Chánh Đạo
Ngừng gây nghiệp mới, cũ trả thời
Vô minh Kiến đoạn, định ba nhóm
Phàm ngã dẹp xong sớm về Trời
KB: VL, 04/02/2017
Luân hồi tám cõi khổ lắm đa
Bát Chánh Thích Ca chỉ lối ra
Thêm được Kim Mẫu phân biện giải
Hữu duyên tỏ ngộ phước trời ban
Vô Vi tâm pháp khử thanh trược
Tánh mệnh song tu nghiệp mau tàn
Chánh kiến là tâm chơn thấy biết
Thoát vòng lục đạo thẳng về nhà
KB: VL, 04/02/2017
Kính bút,
Viễn Lưu, Apr/02/2017
--oOo--