25
1 & DOANH NGHIP S13 (20/12/2009 - 31/12/2009 ) Chu trách nhim ni dung PHM HOÀNG NGÂN Chu trách nhim sn xut AN THU HNG Đơn vsn xut Trung tâm Thông tin Vin Chính sách và Chiến lược PTNNNT TIN TC & SKIN: Ba bên phi hp thu ngân sách Vit Nam sđầu tư mnh sang Campuchia Hà Ni: 12 doanh nghip được htrvn để bình n giá hàng hóa dp Tết Doanh nghip sn xut, kinh doanh sa phi đăng ký giá Nhiu doanh nghip cam kết không tăng giá go tnay đến Tết ĐỐI THOI CHÍNH SÁCH Quc hi có thra nghquyết vgiám sát tp đoàn Đất nông nghip xen kt được chuyn mc đích sdng Tin hóa đơn: Doanh nghip va mng va lo TRIN VNG THTRƯỜNG: DN Vit Nam đẩy mnh hp tác trong lĩnh vc xúc tiến đầu tư ti Campuchia Vinh danh doanh nghip hi nhp WTO 2010 Kinh tế Vit Nam tăng trưởng hơn 5% TÌM HIU CHÍNH SÁCH: Nghquyết ca Chính phs63/NQ-CP ngày 23/12/2009 vđảm bo an ninh lương thc quc gia ĐIM TIN HOT ĐỘNG ĐỐI THOI CHÍNH SÁCH AGROINFO: BN TIN ĐỐI THOI CHÍNH SÁCH

SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

1

& DOANH NGHIỆP

SỐ 13 (20/12/2009 - 31/12/2009)

Chịu trách nhiệm nội dung

PHẠM HOÀNG NGÂN

Chịu trách nhiệm sản xuất

AN THU HẰNG

Đơn vị sản xuất Trung tâm Thông tin

Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT

• TIN TỨC & SỰ KIỆN:

Ba bên phối hợp thu ngân sách

Việt Nam sẽ đầu tư mạnh sang Campuchia

Hà Nội: 12 doanh nghiệp được hỗ trợ vốn để bình ổn

giá hàng hóa dịp Tết

Doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sữa phải đăng ký

giá

Nhiều doanh nghiệp cam kết không tăng giá gạo từ nay

đến Tết

• ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Quốc hội có thể ra nghị quyết về giám sát tập đoàn

Đất nông nghiệp xen kẹt được chuyển mục đích sử dụng

Tự in hóa đơn: Doanh nghiệp vừa mừng vừa lo

• TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG:

DN Việt Nam đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực xúc tiến

đầu tư tại Campuchia

Vinh danh doanh nghiệp hội nhập WTO 2010

Kinh tế Việt Nam tăng trưởng hơn 5%

• TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH:

Nghị quyết của Chính phủ số 63/NQ-CP ngày

23/12/2009 về đảm bảo an ninh lương thực quốc gia

• ĐIỂM TIN HOẠT ĐỘNG ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH AGROINFO:

BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Page 2: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

2

Ba bên phối hợp thu ngân sách

Tổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank)

vừa ký thỏa thuận phối hợp thu ngân sách Nhà nước.

Theo thỏa thuận này, ba đơn vị sẽ phối hợp tổ chức thu ngân sách Nhà nước đối với hàng hóa xuất khẩu,

nhập khẩu, phối hợp thực hiện bảo lãnh thuế hàng hóa xuất nhập khẩu, quản lý rủi ro, chia sẻ thông tin

chung về doanh nghiệp.

Ba đơn vị cũng sẽ tổ chức xây dựng quy trình nghiệp vụ, kết nối và trao đổi thông tin, dữ liệu để phối

hợp triển khai thực hiện thu thuế hàng hóa xuất nhập khẩu, phí, lệ phí và các khoản thu khác của ngân

sách nhà nước liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu (kể cả bằng tiền mặt và chuyển khoản) thông qua

hệ thống các chi nhánh, điểm giao dịch hoặc hệ thống máy rút tiền tự động (ATM) của Agribank.

Ngoài ra, để bảo lãnh thuế hàng hóa xuất nhập khẩu qua Agribank, ngân hàng này và Tổng cục Hải quan

sẽ phối hợp xây dựng chi tiết quy trình, thủ tục và các nội dung liên quan đến bảo lãnh (từ phát hành đến

thanh toán) để làm cơ sở cho việc phối hợp triển khai thực hiện bảo lãnh thuế hàng hóa xuất nhập khẩu.

(AGROINFO tổng hợp)

Việt Nam sẽ đầu tư mạnh sang Campuchia

Nhiều tập đoàn, tổng công ty và doanh nghiệp Việt Nam đang xúc tiến một số dự án đầu tư với quy mô

lớn tại Campuchia.

Nhiều tập đoàn, tổng công ty và doanh nghiệp Việt Nam đang xúc tiến một số dự án đầu tư với quy mô

lớn tại Campuchia, mà nếu được triển khai hoạt động, sẽ có tổng giá trị đầu tư hàng tỉ đô Mỹ.

Tại Hội nghị Xúc tiến Đầu tư của Việt Nam vào Campuchia diễn ra tại TPHCM hôm nay 26-12 dưới sự

tham dự của Thủ tướng hai nước cùng lãnh đạo, đại diện các bộ ngành hai nước và khoảng 600 doanh

nghiệp Việt Nam, nhiều nhà đầu tư, các tập đoàn, tổng công ty Việt Nam đánh giá cao tiềm năng của đất

nước láng giềng còn nhiều lĩnh vực chưa được khai thác. Điều này được minh chứng bằng những cam

TIN TỨC & SỰ KIỆN

Page 3: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

3

kết đầu tư lớn của doanh nghiệp, tập đoàn Việt Nam vào Campuchia trình bày trong khuôn khổ hội nghị

này.

Những dự án lớn

Đáng kể nhất là Giấy phép khảo sát mỏ quặng Bô-xít (bauxite) tại tỉnh Moudoul Kiri - giáp ranh tỉnh

Đắc Nông của Việt Nam do Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam thực hiện. Dự án có vốn đầu tư giai

đoạn 1 khoảng 2,5 tỉ đô la Mỹ và giai đoạn 2 khoảng 3,5 tỉ đô la Mỹ, sẽ được đầu tư với hình thức hợp

tác liên doanh với một đối tác Campuchia hình thành công ty Alumina (Cambodia - Vietnam) Co. Ltd.,

để triển khai.

Tại Hội nghị Hội đồng Phát triển Campuchia cũng trao giấy chứng nhận cho bốn dự án đầu tư của các

doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vốn đầu tư lớn như dự án đầu tư 65 triệu đô la Mỹ thành lập Công ty

Phân bón Quốc tế Năm Sao Campuchia – một liên doanh giữa Tập đoàn Phân bón Năm Sao của Việt

Nam (góp 90% vốn) và phía đối tác Campuchia IDCC (góp 10%) để xây dựng nhà máy phân bón có

công suất 350 ngàn tấn/năm tại huyện Kean Svay, tỉnh Kandal; Công ty TNHH Liên doanh Kamadhenu

đầu tư 75 triệu đô la Mỹ cho dự án nhà máy sản xuất phức hợp gồm đường, ethanol và điện tại tỉnh

Kratie; Công ty TNHH C&V Group đầu tư 37,2 triệu đô la Mỹ cho dự án trồng 7.000 héc ta cao su tại

huyện Sampo, tỉnh Kraitie; và dự án đầu tư nâng cấp hệ thống kho chứa hiện có và hệ thống dây chuyền

chế biến gạo với tổng vốn đầu tư 5,7 triệu đô la Mỹ tại thủ đô Phnompenh do Công ty Lương thực

Campuchia – Việt Nam (Cavifoods) đầu tư.

Tại Hội nghị này, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, cho biết trong một thời gian ngắn, thực hiện

chỉ đạo của lãnh đạo hai nước, các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có Tổng Công ty Hàng không,

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, Tập đoàn Than

Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, VINAFOOD... đã

triển khai nhiều dự án lớn tại Campuchia.

Theo Thủ tướng, những dự án đầu tư này khi hoàn thành và đưa vào khai thác thì sẽ nâng vốn đầu tư của

doanh nghiệp Việt Nam vào Campuchia lên thành 6 tỉ đô la Mỹ vào năm 2015, gấp nhiều lần so với

khoảng 900 triệu đô la Mỹ hiện nay.

Ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam tại Campuchia, cho biết dưới sự chỉ đạo

của chính phủ, các tập đoàn kinh tế hàng đầu Việt Nam trong thời gian qua đã khẩn trương tìm kiếm cơ

hội đầu tư vào Campuchia.

Page 4: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

4

Đến nay, nhiều tập đoàn kinh tế lớn đã có hiện diện tại Campuchia, mở đầu là Tổng công ty Viễn thông

Quân đội (Viettel) thực hiện hợp tác đầu tư mạng di động tại Campuchia với giá trị đầu tư trên 200 triệu

đô la Mỹ và hiện là mạng viễn thông có vị trí quan trọng và thị phần dẫn đầu tại Campuchia.

Tổng công ty Hàng không Việt Nam (VNA) và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã

hợp tác đầu tư vào Campuchia trong các lĩnh vực hàng không, ngân hàng, tài chính và bảo hiểm với giá

trị đầu tư hàng trăm triệu đô la Mỹ.

Triển vọng hợp tác tốt đẹp

Tiếp theo thành công của các hoạt động nêu trên, các doanh nghiệp Việt Nam đã nghiên cứu, khảo sát,

đánh giá và đàm phán với đối tác Campuchia, đến nay, 7 doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp có

tiềm lực năng lực, kinh nghiệm và quyết tâm cao đầu tư vào 8 dự án nông nghiệp tại Campuchia với

tổng mức vốn đầu tư lên tới gần 500 triệu đô la Mỹ, ông Hà nói.

Trong đó đặc biệt phải kể đến dự án Liên doanh nhà máy sản xuất, chế biến gạo xuất khẩu, nhà máy sản

xuất phân bón tổng hợp NPK, trồng và phát triển cây công nghiệp, Tổ hợp nhà máy đường, ethanol,

điện...

Gần đây đã hình thành những cam kết về hợp tác khảo sát thăm dò dầu khí Lô 15 tại Biển Hồ giữa Tập

đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam với đối tác Campuchia để thăm dò, khai thác dầu khí trên diện tích

khoảng 6.900km2, thời hạn 30 năm đối với dầu và 35 năm đối với khí, giai đoạn thăm dò kéo dài 7 năm

đã hình thành; hay ký kết ghi nhớ hợp tác khảo sát, thăm dò dự án thủy điện Stung Treng - Campuchia

giữa Tổng cục tài nguyên khoáng sản Campuchia và Tổ hợp các nhà đầu tư Việt Nam do IDICO làm

chủ trì. Đây là dự án thủy điện lớn với công suất dự kiến là 980 MW...

Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn - năm 2009, các Tập đoàn, Tổng công ty lớn của Việt Nam đã

hợp lực tạo thành sức mạnh tổng hợp trong hoạt động đầu tư vào Campuchia trên nhiều lĩnh vực, từ

ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, hàng không đến viễn thông, nông nghiệp, năng lượng, khai khoáng...

Đây là những lĩnh vực kinh tế trọng yếu, then chốt của nền kinh tế Campuchia, ông Hà khẳng định.

Chỉ tính riêng trong 2 năm 2008-2009, tổng giá trị đầu tư đã đăng ký và được cấp phép của doanh

nghiệp Việt Nam tại Campuchia là 800 triệu đô la Mỹ. Trong 5 năm tới, với việc triển khai các dự án

thủy điện (Stung treng, công suất 980 MW, hạ Sêsan 2, công suất 420MWW) và đặc biệt là Liên doanh

khai thác Bô-xít - Alumin Việt Nam-Campuchia, giá trị đầu tư sẽ đạt tối thiểu 6 tỉ đô la Mỹ, khẳng định

vị trí, vai trò số 1 của Việt Nam trong số các nước ngoài có vốn đầu tư vào Campuchia, ông Hà nói.

Page 5: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

5

Ông Sok Chanda Sophea, Bộ trưởng kiêm Tổng Thư ký Hội đồng phát triển Campuchia (CDC), cho biết

Campuchia được xem là một trong những nước nghèo, do đó Mỹ và châu Âu có những ưu đãi đặc biệt

cho hàng may mặc nhập khẩu từ Campuchia với thuế suất nhập khẩu bằng 0. Do đó, ông Sophea kêu gọi

các doanh nghiệp may mặc Việt Nam nên đầu tư sản xuất tại Campuchia để tận dụng những ưu đãi này

nhằm hàng vào thị trường Mỹ và châu Âu...

Hỗ trợ lợi thế cho nhau

Có thể nói, hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam vào Campuchia trong thời gian qua đã có

bước đột phá mạnh mẽ và theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tiềm năng hợp tác giữa 2 nước Việt Nam -

Campuchia còn rất lớn và việc thúc đẩy quan hệ hợp tác về đầu tư, thương mại cũng đang có nhiều

thuận lợi.

Theo Thủ tướng hai nước có nhiều tiềm năng, lợi thế có thể bổ trợ cho nhau, hợp tác cùng phát triển;

chẳng hạn như Campuchia có tiềm năng và nhu cầu hợp tác về sản xuất và chế biến nông lâm sản, phát

triển nguồn và truyền tải điện, hàng không, tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, viễn thông, thăm dò khai

thác và chế biến khoáng sản, dầu khí, sản xuất phân bón, năng lượng sạch... trong khi, Việt Nam có

khoảng 460.000 doanh nghiệp, trong đó có trên 100 tập đoàn, tổng công ty lớn; nhiều doanh nghiệp có

tiềm lực mạnh về công nghệ, thị trường, tài chính, lao động có tay nghề, kinh nghiệm.

Việt Nam cũng có 457 dự án đầu tư đang thực hiện ở 50 nước và vùng lãnh thổ, với số vốn khoảng 7,2 tỉ

đô la Mỹ và phần lớn các dự án đều đang được triển khai thành công.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định, Việt Nam đã có nhiều quy định pháp luật và chính sách

khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nươc ngoài. Chính phủ Việt Nam cam kết tạo mọi

điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam sang đầu tư tại Campuchia.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đề nghị Thủ tướng Campuchia Samdech Hunden giao cho Hội đồng

Phát triển Campuchia (CDC) và Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam phối hợp chặt chẽ với nhau và

thường xuyên làm việc với Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam vào Campuchia để cập nhật tình hình triển

khai và cơ hội đầu tư, kịp thời phát hiện và giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển

khai đầu tư, kinh doanh giữa hai nước.

(AGROINFO tổng hợp)

Hà Nội: 12 doanh nghiệp được hỗ trợ vốn để bình ổn giá hàng hóa dịp Tết

Page 6: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

6

Hàng hóa dự trữ để phụ vụ Tết Canh Dần các doanh nghiệp này sẽ phải bán thấp hơn 5% so với giá thị

trường tại thời điểm Tết.

Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã có quyết định số 6322/QĐ- UBND về việc tạm ứng vốn cho 12

doanh nghiệp với số tiền 250 tỷ đồng, trong thời gian 5 tháng (lãi suất 0%) để dự trữ các mặt hàng thiết

yếu phục vụ người dân trước trong và sau Tết.

Theo đó, có 12 đơn vị được Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội hỗ trợ vốn để tham gia bình ổn giá hàng

hóa vào dịp Tết Canh Dần bao gồm: Tổng công ty Thương mại Hà Nội; Tổng công ty Lượng thực miền

Bắc; Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Đầu tư và Phát triển Nông nghiệp Hà Nội; Công ty Cổ

phần Nhất Nam; Trung tâm Thương mại Intimex; Công ty TNHH Công nghệ Thực phẩm Vinh Anh;

Công ty TNHH một thành viên Lan Chi Business; Công ty TNHH một thành viên Chăn nuôi Việt Hưng;

Công ty Cổ phần Thương mại Cầu Giấy; Công ty Cổ phần Phúc Thịnh; Công ty TNHH 2-9 Hà Tây;

Công ty TNHH Chế biến Lương thực Thực phẩm Thái Dương.

Hàng hóa dự trữ để phụ vụ Tết Canh Dần các doanh nghiệp này sẽ phải bán thấp hơn 5% so với giá thị

trường tại thời điểm Tết.

Được biết, trong dịp Tết Nguyên đán thị trường sẽ khá sôi động, nhu cầu đối với các loại hàng hóa được

dự báo sẽ tăng khoảng 20% so với các tháng khác của năm. Do đó, Hà Nội đã lên kế hoạch để dự trữ

hàng hóa cho dịp Tết sắp đến, dự kiến, lượng hàng hóa dự trữ bao gồm, gạo các loại 4.510 tấn, thịt gia

súc gia cầm 2.420 tấn, trứng gia cầm 6.500 quả, thủy hải sảng đông lạnh 940 tấn, thực phẩm chế biến

2.174 tấn, rau củ quả các loại 2.183 tấn, dầu ăn 3.200 lít, đường 118 tấn, bánh mứt kẹo 80 tấn...

Doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sữa phải đăng ký giá

Đây là đề xuất của Bộ Công thương nhằm dẹp tình trạng giá sữa liên tục tăng sau đợt liên Bộ Tài chính

– Y tế - Công Thương tiến hành thanh, kiểm tra các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sữa về chất

lượng, giá cả và thuế.

Qua thanh tra cho thấy, các doanh nghiệp sữa luôn tìm mọi cách để tăng giá, thậm chí cả khi giá thế giới

giảm. Cụ thể, ngay trong tháng 12, dù giá sữa bột gầy và nguyên kem tại thị trường châu ÚC vẫn tương

đối ổn định nhưng các hãng sữa trong nước vẫn đồng loạt tăng giá. Lấy lý do biến động tỷ giá ngoại tệ,

giá đường, giá xăng dầu tăng… một số hãng như Vinamilk, Hanco Food…đã tăng tới 10-15% giá bán.

Trước tình trạng trên, Bộ yêu cầu các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sữa phải đăng ký giá để tạo

thuận lợi cho việc kiểm soát giá cả, bình ổn thị trường.

Page 7: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

7

Được biết, đây không phải là lần đầu tiên việc kiểm soát được đặt ra. Mặc dù sữa thuộc nhóm hàng bình

ổn giá song giá bán thực tế lại luôn “mập mờ”, trong khi đó, các cơ quan chức năng vẫn chưa có biện

pháp kiểm soát hay chế tài nào hiệu quả để ngăn chặn.

(AGROINFO tổng hợp)

Nhiều doanh nghiệp cam kết không tăng giá gạo từ nay đến Tết

Ngày 7.12, TCty Lương thực Miền Nam cho biết, các DN thành viên của TCty đã cam kết không tăng

giá gạo bán ra thị trường nội địa từ nay đến sau Tết Nguyên đán.

TCty Lương thực Miền Nam cũng đã cam kết với UBND TP sẽ đáp ứng đủ lượng gạo TPHCM yêu cầu

với lượng gạo từ 100.000 – 300.000 tấn hoặc hơn và đã chuẩn bị sẵn sàng đội xe tải để vận chuyển đến

các khu vực có hiện tượng sốt giá giả.

Quốc hội có thể ra nghị quyết về giám sát tập đoàn

Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xin ý kiến các vị đại biểu Quốc hội về việc ra một nghị quyết về vấn đề

giám sát, sử dụng chính sách pháp luật trong việc quản lý vốn và tài sản Nhà nước trong các tập đoàn

và tổng công ty.

Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn

Đức Kiên đã phát biểu như trên

khi kết thúc phiên giám sát tối

cao của Quốc hội về tập đoàn,

tổng công ty ngày 9/11. Theo

Phó chủ tịch, ý kiến của đại

biểu sẽ là cơ sở để xây dựng

một dự thảo nghị quyết và trình

Quốc hội xem xét, thông qua

vào cuối kỳ họp này.

Phần thảo luận, một số đại biểu

cũng đã “tha thiết đề nghị”

Quốc hội thông qua nghị quyết

về vấn đề này, vì “đây là một

vấn đề rất quan trọng mà cử tri

và nhân dân cả nước rất quan

tâm”.

Kết thúc một ngày thảo luận về

kết quả giám sát tập đoàn, tổng

công ty đã có 34 đại biểu Quốc

hội, trong đó có 2 vị bộ trưởng,

phát biểu ý kiến. Vị đại biểu

cuối cùng đăng ký và cũng là

người duy nhất không được

phát biểu do hết thời gian là Bộ

trưởng Bộ Giao thông Vận tải

Hồ Nghĩa Dũng.

“Chúng tôi đề nghị đại biểu Hồ

Nghĩa Dũng cũng sẽ có tham

gia vào trong quá trình trả lời

chất vấn tại phiên họp chất vấn

và bằng các hình thức khác để

thông báo ý kiến đến các vị đại

biểu Quốc hội”, Phó chủ tịch

Nguyễn Đức Kiên nói.

Vốn Nhà nước: 30 hay 210 tỷ?

ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Page 8: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

8

Trong suốt một ngày thảo luận,

con số 30 tỷ Đô la tổng vốn

Nhà nước đầu tư vào các tập

đoàn, tổng công ty Nhà nước

đã khiến nhiều vị đại biểu đề

nghị cần có riêng một luật để

quản lý.

Tuy nhiên, phát biểu chiều qua,

Tiến sỹ Mai Xuân Hùng, Ủy

viên Thường trực Ủy ban Kinh

tế của Quốc hội đã đưa ra con

số gấp... 7 lần.

Theo phân tích của đại biểu

này, với cách tính hiện nay và

theo cơ chế thị trường, sau khi

thị trường chứng khoán ra đời

và các doanh nghiệp Nhà nước

đổi mới thông qua việc đấu giá

lên sàn chứng khoán thì thông

thường tăng gấp 2,7 đến 3,5 lần

về tổng tài sản Nhà nước.

“Như vậy ước tính thông qua

con đường vốn hóa mà xếp sắp

doanh nghiệp sớm, nhanh được

thì rõ ràng hiện nay vốn Nhà

nước, tài sản Nhà nước ở hơn

90 tập đoàn và tổng công ty

này phải trên 4 triệu tỷ, tôi

đang tính tương đương gấp 3

lần, tức là tương đương với 210

tỷ Đô la”, đại biểu Hùng quả

quyết.

Từ đó, đại biểu Hùng cho rằng,

phần hiệu quả của doanh

nghiệp Nhà nước đang đánh giá

trên vốn chủ sở hữu hiện nay là

tương đương với khoảng12%

bình quân. Nhưng nếu như tính

theo tổng tài sản mà chúng ta

đánh giá được thì lợi nhuận

không phải là 12% mà lợi

nhuận chỉ đạt được 0,5% cho

đến 1,5% trên tổng tài sản. Bởi

vì các doanh, nghiệp tư nhân,

các nhà đầu tư nước ngoài khi

vào doanh nghiệp Việt Nam

hay kinh doanh tại bất cứ thị

trường nào trên thế giới thì tất

cả lợi nhuận người ta được

đánh giá trên tổng tài sản người

ta đầu tư vào doanh nghiệp đó.

Cũng theo đại biểu Hùng, vấn

đề khó của đoàn giám sát của

Quốc hội là hiện nay chưa đánh

giá được tổng tài sản mà đã

giao cho các doanh nghiệp Nhà

nước nói chung. “Chúng tôi

cũng biết điều này mà chúng

tôi không thể làm được”, đại

biểu Hùng nói.

Ông Hùng cho rằng, phải làm

sao để toàn bộ tài sản của Nhà

nước phải thực sự trở thành

vốn của Nhà nước được đưa

vào tập đoàn, tổng công ty

giống như các nhà đầu tư,

giống như các doanh nghiệp tư

nhân.

Chấn chỉnh đầu tư ngoài

ngành

“Gói” lại nội dung giám sát,

Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn

Đức Kiên nhấn mạnh một số

nội dung được các đại biểu tập

trung thảo luận.

Theo đó, việc đánh giá hiệu

quả hoạt động của tập đoàn,

tổng công ty Nhà nước phải

được xem xét một cách toàn

diện, đó là hiệu quả kinh tế và

hiệu quả xã hội. Trong đó hiệu

quả góp phần vào ổn định vĩ

mô về kinh tế, xã hội là rất

quan trọng lúc bình thường

cũng như trong điều kiện

khủng hoảng kinh tế toàn cầu

hiện nay.

Tuy nhiên, xét về hiệu quả kinh

tế, ngoài chỉ tiêu lợi nhuận trên

vốn chủ sở hữu cần xem thêm

chỉ tiêu lợi nhuận trên tổng số

vốn đầu tư kinh doanh trong

điều kiện giá cả còn dừng ở

mức cao trong điều kiện vốn

chủ sở hữu Nhà nước ít, vốn

vay nhiều, trong quan hệ giữa

các khoản nợ phải thu và nợ

phải trả.

Về quan hệ và hệ số an toàn

Page 9: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

9

vốn phải có sự phân biệt trong

từng ngành, từng lĩnh vực. Việc

thực hiện một số nhiệm vụ

chính trị của Nhà nước để đáp

ứng yêu cầu phát triển kinh tế,

giải quyết việc làm, cải thiện

đời sống nhân dân ổn định vĩ

mô... Do đó phải có tiêu chí

đồng bộ, rõ ràng để đánh giá

kết quả hoạt động của các

doanh nghiệp Nhà nước trong

đó có các tập đoàn và tổng

công ty.

Cũng theo Phó chủ tịch, về mặt

pháp luật cũng như trong thực

tế cần xác định rõ ràng giữa

chức năng hành chính của Nhà

nước với chức năng đại diện

chủ sở hữu vốn Nhà nước tại

doanh nghiệp và trách nhiệm

của người trực tiếp đại diện chủ

sở hữu vốn của Nhà nước tại

doanh nghiệp để vừa quản lý

vốn và tài sản Nhà nước có

hiệu quả cao, vừa tôn trọng tính

năng động, quyền tự chủ, tự

chịu trách nhiệm trong hoạt

động sản xuất kinh doanh của

các doanh nghiệp.

Tập đoàn kinh tế, tổng công ty

Nhà nước hoạt động đa ngành

là cần thiết nhưng trong đó phải

xác định ngành chính, nhiệm

vụ chính, việc mở ra ngành

khác phải được lựa chọn kỹ

phù hợp với thực lực và khả

năng quản lý của mình trong đó

có sự định hướng của Nhà

nước với tư cách Nhà nước là

một nhà đầu tư vốn nói riêng

và nguồn lực của Nhà nước nói

chung.

"Từ thực tế vừa qua, cần sớm

chấn chỉnh theo hướng này để

tập đoàn tổng công ty Nhà

nước phát triển bền vững đầu

tư kinh doanh có hiệu quả, bảo

toàn và phát triển được vốn của

Nhà nước", Phó chủ tịch nói.

Đất nông nghiệp xen kẹt được chuyển mục đích sử dụng

Theo quy định mới, đất vườn ao trong thửa đất có nhà ở trong khu dân cư (chưa được công nhận đất ở),

đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư là đất nằm trong phạm vi khu dân cư đã được xác định ranh

giới theo quy hoạch, hoặc theo hiện trạng của thửa đất có nhà ở ngoài cùng của khu dân cư đó, thì được

chuyển mục đích sử dụng

Hôm qua (16/12), Giám đốc

TN&MT Hà Nội Vũ Văn Hậu

cho biết, lãnh đạo TP Hà Nội

vừa ký ban hành QĐ sửa đổi

QĐ số 46/2008 quy định về

Chuyển mục đích sử dụng đất

của hộ gia đình, cá nhân đang

sử dụng đất vườn ao trong cùng

thửa đất có nhà ở trong khu dân

cư nhưng chưa được công nhận

là đất ở và đất nông nghiệp

xem kẽ trong khu dân cư

(không thuộc đất công) sang

đất phi nông nghiệp (đất ở, đất

sản xuất kinh doanh) trên địa

bàn thành phố Hà Nội. QĐ mới

mở rộng phạm vi đối với toàn

bộ các quận, huyện của TP Hà

Nội mở rộng.

Theo quy định mới, đất vườn

ao trong thửa đất có nhà ở

trong khu dân cư (chưa được

công nhận đất ở), đất nông

nghiệp xen kẽ trong khu dân cư

là đất nằm trong phạm vi khu

dân cư đã được xác định ranh

giới theo quy hoạch, hoặc theo

hiện trạng của thửa đất có nhà

ở ngoài cùng của khu dân cư

Page 10: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

10

đó, thì được chuyển mục đích

sử dụng.

Về điều kiện, người xin chuyển

mục đích sử dụng đất phải là

người thực hiện tốt pháp luật về

đất đai ở địa phương, có văn

bản cam kết thực hiện tốt nghĩa

vụ nộp thuế, phí, tiền sử dụng

đất (nộp 50% tiền sử dụng đối

với đất vườn liền kề, 100% tiền

sử dụng đất đối với đất nông

nghiệp xen kẽ theo khung giá

đất ở khu vực liền kề Thành

phố ban hành).

Hồ sơ xin chuyển mục đích sử

dụng đất nộp tại Phòng

TN&MT cấp quận, huyện bao

gồm: đơn xin chuyển mục đích,

phương án sản xuất kinh doanh

(nếu chuyển sang đất kinh

doanh), bản sao Giấy chứng

nhận hoặc giấy tờ quyền sử

dụng thửa đất, hộ khẩu và văn

bản cam kết kể trên.

Trong thời hạn 13 ngày, UBND

Xã, phường làm trích lục thửa

đất, thẩm tra, xác minh hiện

trạng sử dụng đất, lập tờ trình

gửi UBND quận, huyện cho

phép chuyển mục đích sử dụng

đất. Trong thời gian 30 ngày,

hồ sơ được Phòng TN&MT,

Phòng Quản lý đô thị thẩm

định, nếu đủ điều kiện Chủ tịch

UBND cấp quận, huyện ra

quyết định chuyển mục đích và

cấp GCN mới.

Theo Giám đốc Sở TN&MT,

quy định này tạo điều kiện cho

hàng ngàn hộ dân đang sử dụng

đất nông nghiệp xen kẽ, đất

vườn liền kề trong khu dân cư

được chuyển mục đích đất đang

sử dụng thành đất ở hoặc đất

kinh doanh phi nông nghiệp,

giảm bớt phức tạp do tình trạng

mua bán trao tay, xây dựng trái

phép trên đất chưa được

chuyển đổi như trước đây.

Tự in hóa đơn: Doanh nghiệp vừa mừng vừa lo

Nằm trong chương trình cải cách thủ tục hành chính theo Đề án 30 của Chính phủ, Bộ Tài chính đã có

chủ trương cho phép các doanh nghiệp tự in hóa đơn thuế giá trị gia tăng (GTGT) để phục vụ cho hoạt

động kinh doanh.

Đây thực sự là một tin vui đối

với các doanh nghiệp. Bởi lẽ,

việc mua hóa đơn và quy trình

quản lý ấn chỉ của cơ quan

quản lý thuế hiện nay là khâu

làm mất rất nhiều thời gian cho

các doanh nghiệp và cũng là

nơi phát sinh không ít tiêu cực.

Hơn nữa, dù quy trình quản lý

hóa đơn hiện hành khá chặt chẽ

và phức tạp nhưng hiện tượng

mua, bán hóa đơn, gây thất thu

thuế vẫn xảy ra như một thách

thức đối với cơ quan quản lý.

Ông Phạm Đình Thi, Phó vụ

trưởng Vụ Chính sách thuế, Bộ

Tài chính, cho rằng trên thực

tế, việc quản lý hóa đơn vẫn

còn nhiều phức tạp, chẳng hạn

doanh nghiệp bán một giá, ghi

hóa đơn một giá hoặc thành lập

doanh nghiệp chỉ để mua, bán

hóa đơn... khiến Nhà nước thất

thu thuế không ít. Vì thế, khi

doanh nghiệp tự in hóa đơn, tự

in logo của mình trên hóa đơn

và khi hóa đơn được phát hành

thì trước hết, bản thân các cơ

sở kinh doanh phải tự bảo vệ

quyền lợi của mình. Điều này

sẽ giảm được tình trạng thành

lập doanh nghiệp “ma” để mua,

bán hóa đơn.Lợi ích của việc

Page 11: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

11

trao quyền tự in hóa đơn cho

các doanh nghiệp là điều không

cần phải bàn. Vấn đề quan

trọng là doanh nghiệp tự in hóa

đơn như thế nào?

Trước hết, cần phải thấy rằng,

theo quy định, hiện nay các

doanh nghiệp vẫn được “tự in”

hóa đơn nếu có nhu cầu. Song,

đó là việc chưa được cơ quan

quản lý thuế khuyến khích. Vì

vậy, việc “tự in” hóa đơn cũng

phải qua một quy trình rất phức

tạp: doanh nghiệp phải có công

văn gửi cơ quan quản lý thuế

(trước đây là Tổng cục Thuế,

hiện nay đã được phân cấp cho

các Cục Thuế) trình bày rõ lý

do xin tự in hóa đơn kèm theo

mẫu hóa đơn “tự in”.

Sau khi được cơ quan quản lý

thuế chấp thuận bằng văn bản,

doanh nghiệp phải liên hệ với

một trong số những nhà in

được phép in hóa đơn để ký

hợp đồng in hóa đơn. Hóa đơn

“tự in” của doanh nghiệp do

nhà in in những phần bắt buộc

như tên hóa đơn, tên, địa chỉ,

mã số thuế của doanh nghiệp,

ký hiệu quyển và sê-ri của từng

số hóa đơn. Doanh nghiệp cũng

có thể được in logo của mình

trên hóa đơn. Phần còn lại là

những thông tin về người mua

và hàng hóa, dịch vụ được cung

cấp do doanh nghiệp tự in trên

máy tính, máy in của mình.

Trên tất cả các số hóa đơn tự in

đều phải ghi rõ: Phát hành theo

công văn số... ngày... tháng...

năm của tổng cục (hoặc cục)

thuế... Sau khi hợp đồng in hóa

đơn được thực hiện xong,

doanh nghiệp và cơ sở in phải

làm biên bản thanh lý hợp

đồng, hủy bản kẽm và gửi báo

cáo cơ quan cho phép in hóa

đơn. Hóa đơn “tự in” theo quy

trình nêu trên thường được gọi

là “hóa đơn đặc thù”.

Theo quy định hiện hành, mỗi

số của hóa đơn chỉ được phát

hành cho một lần bán hàng và

cung ứng dịch vụ. Do đó, việc

quản lý chặt chẽ ký hiệu quyển

và sê-ri của hóa đơn là cần thiết

để quản lý doanh thu của doanh

nghiệp. Như vậy, trên thực tế,

doanh nghiệp mới chỉ được “tự

in” một phần của tờ hóa đơn.

Trong thời gian tới đây, các

doanh nghiệp sẽ tự in hóa đơn

như thế nào?

Nếu trao quyền tự in hóa đơn

cho các doanh nghiệp nhưng

vẫn giữ quy trình như việc tự in

“hóa đơn đặc thù” thì sẽ phát

sinh những vướng mắc sau đây:

Một là, cơ chế “xin - cho”

trong việc mua hóa đơn hiện

nay sẽ chuyển sang cơ chế “xin

- cho” trong việc “xin công

văn” chấp thuận cho tự in hóa

đơn. Liệu những tiêu cực trong

cơ chế này có giảm đi hay tăng

lên? Các doanh nghiệp sẽ thuận

lợi hơn hay lại bị “hành” nhiều

hơn?

Hai là, với các cơ sở in, số

lượng in càng lớn thì giá một

quyển hóa đơn sẽ càng thấp và

ngược lại. Với mức giá khoảng

30.000-50.000 đồng một quyển

hóa đơn, các doanh nghiệp có

đủ sức chịu đựng?

Trong điều kiện tiền mặt vẫn

được sử dụng chủ yếu trong

thanh toán như ở nước ta hiện

nay, quản lý việc phát hành hóa

đơn chính là quản lý nguồn thu

thuế. Vì vậy, khi quyết định trao

quyền tự in hóa đơn cho các

doanh nghiệp, cần cân nhắc một

cách toàn diện để tránh những

hậu quả nặng nề có thể xảy ra.

Page 12: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

12

Ba là, việc phải in cả địa chỉ

doanh nghiệp trên hóa đơn sẽ

dẫn đến tình trạng hàng loạt

hóa đơn đã in không sử dụng

được vì nhiều trường hợp

doanh nghiệp buộc phải chuyển

trụ sở chính do hết hạn hợp

đồng thuê hoặc do bị nâng giá

thuê văn phòng đến mức không

thể chịu đựng được.

Bốn là, liệu các cơ sở in có đủ

năng lực để đáp ứng nhu cầu in

hóa đơn của hàng trăm ngàn

doanh nghiệp đang hoạt động?

Chắc chắn sẽ xảy ra tình trạng

xếp hàng chờ in hóa đơn và

không ít doanh nghiệp không

có hóa đơn phục vụ kịp thời

cho hoạt động kinh doanh.

Trao cho doanh nghiệp toàn

quyền in hóa đơn, bao gồm cả

ký hiệu quyển, số sê-ri, là

phương án tạo điều kiện thuận

lợi tối đa cho doanh nghiệp.

Song, cũng cần có những biện

pháp ngăn chặn tình trạng gian

lận trong phát hành hóa đơn để

trốn, lậu thuế. Chẳng hạn, nếu

với cùng một sê-ri, doanh

nghiệp sử dụng phát hành cho

nhiều lần bán hàng nhưng chỉ

kê khai thuế cho một lần thì cơ

quan quản lý thuế có khả năng

kiểm tra, phát hiện được hay

không? Nếu kiểm tra, phát hiện

được thì chế tài xử phạt như thế

nào? Kiểm tra việc phát hành

hóa đơn của các doanh nghiệp

trong cả nước là công việc

không đơn giản. Mặc dù trong

những năm qua, ngành thuế đã

ứng dụng công nghệ thông tin

ở khá nhiều lĩnh vực, song liệu

đã có thể có một hệ thống

thống nhất trong toàn quốc để

kiểm tra việc phát hành hóa

đơn của các doanh nghiệp?

Trong điều kiện tiền mặt vẫn

được sử dụng chủ yếu trong

thanh toán như ở nước ta hiện

nay, quản lý việc phát hành hóa

đơn chính là quản lý nguồn thu

thuế. Vì vậy, khi quyết định

trao quyền tự in hóa đơn cho

các doanh nghiệp, cần cân nhắc

một cách toàn diện để tránh

những hậu quả nặng nề có thể

xảy ra ngay sau đó.

DN Việt Nam đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực xúc tiến đầu tư tại Campuchia

Ngày 26/12 vừa qua, hội nghị

"Xúc tiến đầu tư của Việt Nam

vào Campuchia" đã được tổ

chức tại thành phố Hồ Chí

Minh.

Hội nghị có quy mô cấp quốc

gia do Thủ tướng Chính phủ

Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng

và Thủ tướng Chính phủ

Hoàng gia Campuchia Hun Sen

đồng chủ trì.

Tại hội nghị này, lãnh đạo các

bộ, ngành liên quan của hai

nước đã trao đổi, thảo luận với

đại diện doanh nghiệp về chiến

lược thu hút đầu tư nước ngoài

của Campuchia như cơ chế,

chính sách mới nhất trong thu

hút và quản lý đầu tư nước

ngoài, các cơ chế ưu đãi và

khuyến khích đầu tư của Chính

phủ Hoàng gia Campuchia đối

với các nhà đầu tư nước ngoài,

TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG

Page 13: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

13

đặc biệt là các nhà đầu tư Việt

Nam.

Hội nghị cũng là dịp để các cơ

quan hữu quan, doanh nghiệp,

nhà đầu tư hai nước trao đổi

kinh nghiệm và đẩy mạnh hợp

tác trong lĩnh vực xúc tiến đầu

tư.

Trong khuôn khổ hội nghị còn

diễn ra một số hoạt động khác

như trao Giấy chứng nhận đầu

tư ra nước ngoài; ký kết các

thỏa thuận hợp tác đầu tư; ra

mắt Hiệp hội các nhà đầu tư

Việt Nam tại Campuchia và

khai trương chi nhánh của

doanh nghiệp Campuchia tại

Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo thống kê của Bộ Kế

hoạch và Đầu tư, hiện Việt

Nam có 63 dự án đầu tư tại

Campuchia, với tổng vốn đầu

tư đăng ký trên 900 triệu USD,

quy mô trung bình đạt 14,2

triệu USD/dự án. Đặc biệt,

trong năm 2009, tổng vốn đầu

tư của các doanh nghiệp Việt

Nam đạt trên 400 triệu USD.

Campuchia hiện là một trong 3

quốc gia dẫn đầu trong thu hút

vốn đầu tư ra nước ngoài của

Việt Nam trong tổng số 50

quốc gia và vùng lãnh thổ có

hoạt động đầu tư của các doanh

nghiệp Việt Nam.

Nhìn chung, các dự án đầu tư

của Việt Nam tại Campuchia

đã triển khai tốt, đặc biệt là

trong lĩnh vực lâm nghiệp,

nông nghiệp, khoáng sản, viễn

thông, ngân hàng, bảo hiểm.

Nhiều dự án trong lĩnh vực

khoáng sản lớn đang được các

nhà đầu tư Việt Nam triển khai

giai đoạn thăm dò, khảo sát.

Vinh danh doanh nghiệp hội nhập WTO 2010

Nhân kỷ niệm 3 năm Việt Nam

là thành viên của tổ chức

Thương mại thế giới (WTO),

chương trình Vinh danh doanh

nghiệp hội nhập WTO 2010 sẽ

được thực hiện với nhiều hoạt

động mang tính cộng đồng

như: Cuộc thi Tìm hiểu thành

tựu và thách thức của Việt

Nam sau 3 năm gia nhập WTO,

Hội thảo quốc tế Thành tựu và

thách thức của Việt Nam sau 3

năm gia nhập WTO và bình

chọn trao Cúp Long đầu linh

vật, Quả cầu vàng, Ngôi sao

Việt Nam, Tinh hoa Việt Nam

cho doanh nghiệp, doanh nhân

và sản phẩm.

Trong tuần kỷ niệm 3 năm Việt

Nam là thành viên thứ 150 của

WTO, ngày 5/1/2010, tại khách

sạn Bảo Sơn sẽ diễn ra hội thảo

quốc tế Thành tựu và thách

thức của Việt Nam sau 3 năm

gia nhập WTO với nội dung:

Tổng kết thành tựu Việt Nam

sau 3 năm gia nhập WTO, tình

hình đầu tư nước ngoài sau 3

năm Việt Nam gia nhập WTO

(phân tích cơ hội và thách

thức); Đánh giá sự phát triển

của các loại hình dịch vụ (tài

chính, bảo hiểm, bán lẻ,

logistic, dịch vụ thương mại,

thông tin…); Tình hình XNK

của Việt Nam 3 năm qua. Hội

thảo là cơ hội để các doanh

nghiệp thu nạp thông tin bổ ích

về nhiều vấn đề có liên quan

Page 14: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

14

tới tiến trình Việt Nam gia

nhập WTO trong bối cảnh

khủng hoảng tài chính thế giới

và suy thoái kinh tế toàn cầu.

Đã có hơn 40 tỉnh, thành và

một số bộ ngành tiến cử doanh

nghiệp, doanh nhân tham dự

các giải thưởng. Ban tổ chức sẽ

tiếp tục bầu chọn Top 10, 20

cho những doanh nghiệp có

thương hiệu mạnh của giải Quả

cầu vàng. Giải Quả cầu vàng

(vinh danh doanh nghiệp tiêu

biểu), Ngôi sao Việt Nam (vinh

danh doanh nhân xuất sắc),

Tinh hoa Việt Nam (vinh danh

sản phẩm và dịch vụ đặc sắc) là

hệ thống giải thưởng có uy tín

được thực hiện từ năm 2002 tới

nay và được cục Bản quyền

Tác giả Văn học nghệ thuật

(Bộ Văn hoá - Thông tin) và

Cục Sở hữu Trí tuệ (Bộ Khoa

học và Công nghệ) cấp Giấy

chứng nhận đăng ký nhãn hiệu

hàng hóa. Ngoài ra, ban Tuyên

giáo Thành ủy Hà Nội, Tiểu

ban Tuyên truyền Quảng bá

Giáo dục về Đại lễ 1000 năm

Thăng Long – Hà Nội và Văn

phòng Ban chỉ đạo Quốc gia kỷ

niệm 1000 năm Thăng Long –

Hà Nội cũng sẽ phối hợp với

Ban tổ chức Chương trình Vinh

danh doanh nghiệp hội nhập

WTO 2010 bình chọn và trao

10 giải thưởng đặc biệt có tên

gọi Cúp Long đầu Linh vật

(một biểu tượng của Hoàng

thành Thăng Long) cho 10

doanh nghiệp hàng đầu vì sự

phát triển của cộng đồng.

Đối tượng tham gia giải thưởng

là các doanh nghiệp, doanh

nhân, nghệ nhân từng đạt giải

thưởng cao trong các kỳ bình

chọn trong nước và quốc tế từ

năm 2005 tới nay ở mọi thành

phần kinh tế, kể cả doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài.

Dự kiến, ngày 25/1/2010 sẽ

diễn ra Lễ trao giải Cúp Long

đầu Linh vật, Quả cầu vàng,

Ngôi sao Việt Nam, Tinh hoa

Việt Nam tại Nhà hát lớn Hà

Nội và được truyền hình trực

tiếp.

Kinh tế Việt Nam tăng trưởng hơn 5%

Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm thì mức tăng GDP của Việt

Nam năm 2009 là 5,32% là một thành công lớn.

Tổng cục Thống kê đưa ra

đánh giá trên trong cuộc họp

báo về tình hình kinh tế xã hội

năm 2009, diễn ra sáng nay

(31/12) tại Hà Nội.

So với mức 6,18% của năm

2008, tốc độ tăng trưởng kinh

tế năm nay thấp hơn, nhưng đã

vượt mục tiêu.

Nếu như hai quí đầu, sức tăng

trưởng kinh tế vẫn bị chững lại,

chỉ dưới 5% do còn độ trễ của

đà suy giảm kinh tế những

tháng cuối năm 2008, thì hai

quí sau, tốc độ đã nâng dần

lên 6,04% và 6,9%.

Page 15: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

15

Quý I và II/2009, tốc độ tăng

GDP thấp hơn cùng kỳ 2008,

nhưng quý III và IV/2009 lại

tăng cao hơn tốc độ tăng so với

cùng kỳ năm trước.

Ông Nguyễn Đức Hòa, Thứ

trưởng Bộ KH-ĐT, Tổng cục

trưởng Tổng cục Thống kê

nhận định, Việt Nam là một

trong số ít các nước giữ được

tốc độ tăng trưởng dương

tương đối cao.

Nền kinh tế nước ta đã vượt

qua thời kỳ suy giảm tăng

trưởng, chứng tỏ các chính

sách, giải pháp ngăn chặn suy

giảm kinh tế triển khai trong

năm vừa qua đã phát huy hiệu

quả tích cực.

Tuy nhiên, Tổng cục Thống kê

cũng cho biết, tốc độ tăng

trưởng kinh tế vẫn chủ yếu dựa

vào phát triển theo chiều rộng.

Việc tăng vốn đầu tư chưa thực

sự dựa trên cơ sở tăng năng

suất lao động xã hội và nâng

cao hiệu quả nên tăng trưởng

chưa thật vững chắc.

Chất lượng và hiệu quả tăng

trưởng chưa cao. Tỷ lệ đầu tư

so với GDP năm 2009 là

42,8%, cao hơn 2008, nhưng,

tốc độ tăng GDP năm 2009 lại

thấp hơn.

Cơ cấu kinh tế vẫn chưa ra

khỏi cơ cấu ngành truyền thống

với tỷ trọng tương đối cao của

khu vực sản xuất vật chất nói

chung, khu vực nông, lâm

nghiệp và thủy sản nói riêng.

Năm 2009, cơ cấu tổng sản

phẩm 3 khu vực: Nông, lâm

nghiệp và thủy sản; công

nghiệp và xây dựng; dịch vụ

lần lượt là 20,66%; 40,24%;

39,10%; không khác mấy so

với 2008 và những năm gần

đây.

Các cân đối kinh tế vĩ mô chưa

thật vững chắc. Mức thâm hụt

ngân sách tuy đã được khống

chế, nhưng đã lên tới 7%

GDP. Nhập siêu hàng hoá năm

2009 tuy đã giảm 32,1% so với

2008, nhưng vẫn bằng 21,6%

tổng kim ngạch xuất khẩu hàng

hoá.

Lạm phát trong năm tuy được

khống chế ở mức hợp lý,

nhưng giá cả ngày càng tăng và

đang tiềm ẩn nhiều yếu tố có

thể gây tái lạm phát cao. Khả

năng cạnh tranh của nền kinh tế

và của nhiều ngành, nhiều sản

phẩm còn thấp.

Trong cơ cấu GDP, khu vực

nông, lâm nghiệp và thủy sản

tăng 1,83%, khu vực công

nghiệp và xây dựng tăng

5,52% và khu vực dịch vụ

tăng 6,63%.

Page 16: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

16

NGHỊ QUYẾT CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 63/NQ-CP NGÀY 23 THÁNG 12 NĂM 2009 VỀ ĐẢM

BẢO AN NINH LƯƠNG THỰC QUỐC GIA

Vấn đề an ninh lương thực (bao gồm lương thực, thực phẩm) được Đảng và Nhà nước luôn

đặc biệt quan tâm, chỉ đạo, nhằm bảo đảm an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài, đã

đạt được những thành tựu quan trọng, nổi bật là:

Sản lượng lương thực có hạt tăng bình quân 3,7%/năm trong giai đoạn 2001 – 2008, cao hơn

khoảng 3 lần tốc độ gia tăng dân số trong cùng thời kỳ. Sản xuất lúa gạo đã đảm bảo nhu cầu trong

nước và xuất khẩu bình quân khoảng 4 – 5 triệu tấn gạo/năm. Sản lượng thực phẩm từ rau màu, quả,

sản phẩm chăn nuôi và thủy sản cũng gia tăng đáng kể.

Hệ thống lưu thông lương thực đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người

dân tiếp cận lương thực. Thị trường nội địa chuyển dần sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của

Nhà nước. Tình trạng suy dinh dưỡng của người dân được cải thiện. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy

dinh dưỡng đã giảm từ 25% vào năm 2005 đến năm 2008 còn 20%, đạt trước mục tiêu kế hoạch của

năm 2010.

Tuy đạt được các thành tựu trên, an ninh lương thực nước ta vẫn còn hạn chế, yếu kém là:

sản xuất lương thực, thực phẩm chưa thực sự bền vững; tổ chức sản xuất nông nghiệp chậm được

đổi mới, cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ sản xuất còn nhiều yếu kém; quản lý sản xuất, kinh doanh,

xuất nhập khẩu còn bất cập; thu nhập của người sản xuất còn thấp.

An ninh lương thực là vấn đề trọng đại của đất nước trước mắt cũng như lâu dài, để khắc

phục hạn chế yếu kém trên đây, Chính phủ ban hành Nghị quyết về bảo đảm an ninh lương thực

quốc gia với nội dung sau:

I. QUAN ĐIỂM

1. Vấn đề an ninh lương thực quốc gia phải nằm trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế -

xã hội, gắn với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và giải quyết vấn đề nông nghiệp,

TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH

Page 17: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

17

nông dân, nông thôn, trong đó xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân là

quan trọng, góp phần bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia.

2. Phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, hiệu quả là cơ sở bảo đảm an ninh lương thực

quốc gia; gắn sản xuất với các hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu lương

thực thực phẩm trong mọi tình huống; nâng cao dinh dưỡng, cải thiện chất lượng bữa ăn của nhân

dân.

3. Phát huy lợi thế về cây lúa là chính và phát triển lương thực, thực phẩm thành các vùng

sản xuất hàng hóa có hiệu quả và sức cạnh tranh cao; đẩy mạnh cơ giới hóa, chế biến, bảo quản theo

hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bảo vệ môi trường bền vững.

4. Tổ chức tốt hệ thống mua, bán và dự trữ ở các vùng miền, tạo thuận lợi cho mọi người dân

tiếp cập dễ dàng về lương thực, thực phẩm với chất lượng, hiệu quả ngày càng cao. Giải quyết hài

hòa giữa tiêu dùng trong nước và xuất khẩu lương thực, thực phẩm.

5. Phát huy nguồn lực của nhân dân và các thành phần kinh tế là chính, nhà nước hỗ trợ tích

cực trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; bảo đảm thu nhập cho người sản xuất lương

thực và tạo điều kiện cho các địa phương thuần nông phát triển.

II. MỤC TIÊU

1. Mục tiêu chung

Đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 phải đảm bảo đủ nguồn cung cấp lương thực với sản

lượng cao hơn tốc độ tăng dân số; chấm dứt tình trạng thiếu đói lương thực, nâng cao chất lượng

bữa ăn; bảo đảm cho nông dân sản xuất lúa có lãi bình quân trên 30% so với giá thành sản xuất.

2. Mục tiêu cụ thể

a) Đảm bảo nguồn cung lương thực

Tiếp tục đẩy mạnh thâm canh sản xuất lúa, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng

sông Hồng, tạo nguồn cung vững chắc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài.

Đến năm 2020, bảo vệ quỹ đất lúa 3,8 triệu ha để có sản lượng 41 – 43 triệu tấn lúa đáp ứng

tổng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo/năm; tăng diện tích trồng

ngô lên 1,3 triệu ha, sản lượng 7,5 triệu tấn; diện tích trồng cây ăn quả 1,2 triệu ha, sản lượng 12

triệu tấn; rau các loại 1,2 triệu ha, sản lượng 20 triệu tấn; sản lượng các loại cây màu tăng trên 30%;

Page 18: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

18

chăn nuôi đạt sản lượng thịt hơi các loại 8 triệu tấn, sữa tươi 1 triệu tấn, trứng gia cầm 14 tỷ quả; sản

lượng khai thác thủy sản 2,4 triệu tấn, sản lượng nuôi trồng thủy sản 4 triệu tấn.

b) Đảm bảo nhu cầu về dinh dưỡng

Đến năm 2020, cải thiện tình trạng dinh dưỡng hướng tới cân đối dinh dưỡng và nâng cao

mức tiêu thụ calo bình quân hàng năm lên 2.600 – 2.700 Kcalo/người và giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng

trẻ em dưới 5 tuổi còn dưới 5%.

Cải thiện cơ cấu và chất lượng tiêu dùng lương thực, đạt mức tiêu thụ bình quân/người vào

năm 2020: gạo giảm xuống còn 100kg; thịt các loại 45 kg, cá các loại 30 kg, quả các loại 50 kg, rau

các loại 120 kg, tăng mức tiêu dùng trứng, sữa gấp 2 lần so với hiện nay. Toàn bộ nông sản, lương

thực tiêu thụ trên thị trường đạt chỉ tiêu an toàn vệ sinh thực phẩm.

c) Đảm bảo khả năng tiếp cận lương thực của người dân

Chấm dứt tình trạng thiếu đói lương thực vào năm 2012. Sau năm 2012 đảm bảo 100%

người dân ở mọi nơi, mọi lúc có đủ lương thực.

Đảm bảo thu nhập cho người sản xuất lương thực đến năm 2020 cao hơn 2,5 lần so với hiện

nay.

III. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

1. Về quy hoạch

a) Quy hoạch chung

Quy hoạch sản xuất lương thực cả nước trên cơ sở phát huy lợi thế của từng vùng, sử dụng

hiệu quả tài nguyên đất, nước; chú trọng quy hoạch các vùng sản xuất lương thực có sản lượng lớn

về lúa gạo, ngô, rau đậu, cây ăn quả, sản phẩm thủy sản và chăn nuôi để đảm bảo thực hiện các mục

tiêu về an ninh lương thực quốc gia.

Việc quy hoạch sản xuất lương thực phải đảm bảo cân đối các lĩnh vực để đảm bảo phát triển

bền vững và có hiệu quả kinh tế cao; không mâu thuẫn giữa quy hoạch sản xuất nhiên liệu sinh học

với quy hoạch sản xuất lương thực.

b) Quy hoạch đất lúa

Page 19: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

19

Quy hoạch đất lúa phải đảm bảo sự thống nhất và phù hợp về quy mô và địa bàn bố trí đất

lúa với quy hoạch sử dụng đất trên phạm vi toàn quốc.

Để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 diện tích

đất lúa cần phải giữ là: 3,8 triệu ha, trong đó: 3,2 triệu ha đất lúa sản xuất hai vụ trở lên, có thủy lợi

hoàn chỉnh.

Diện tích đất lúa cần giữ, bảo vệ nghiêm ngặt phải được xác định cụ thể đến từng địa phương

(cấp tỉnh, huyện, xã) và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất lúa đến hộ sử dụng.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban

nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo việc quy hoạch chi tiết quỹ đất trồng lúa

theo định hướng nêu trên, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào quý II năm 2010.

Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

thống nhất với các Bộ: Công thương, Xây dựng, Giao thông vận tải và Bộ ngành có liên quan xác

định nhu cầu sử dụng đất của các ngành, trong đó xác định rõ nhu cầu sử dụng đất từ chuyển đổi đất

lúa theo nguyên tắc sử dụng tiết kiệm đất lúa.

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên cơ sở quy hoạch đất lúa cả

nước được phê duyệt, xác định diện tích đất lúa cần giữ trên địa bàn, nhất là đất lúa hai vụ cần được

bảo vệ nghiêm ngặt, lập bản đồ sử dụng đất lúa đến cấp xã và hộ sử dụng. Thời gian hoàn thành

trong quý IV năm 2011.

2. Về phát triển cơ sở hạ tầng và khoa học công nghệ

a) Phát triển cơ sở hạ tầng

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Trung

ương phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan tập trung chỉ đạo, triển khai nhiệm vụ:

- Tiếp tục đầu tư, xây dựng mới và tu bổ hệ thống công trình thủy lợi đảm bảo tưới tiêu chủ

động cho 100% đất lúa hai vụ và tăng diện tích có tưới đối với rau, màu, cây ăn quả. Ưu tiên đầu tư

xây dựng công trình thủy lợi phục vụ cho nuôi trồng thủy sản; công trình thủy lợi nhỏ ở miền núi.

- Tiếp tục đầu tư nâng cấp và xây dựng mới hệ thống đê điều hiện có; sớm triển khai các dự

án đầu tư hệ thống đê biển, bảo vệ sản xuất, tài sản của Nhà nước và nhân dân; chuẩn bị đối phó với

tình trạng nước biển dâng.

Page 20: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

20

- Đối với những vùng sản xuất lương thực tập trung, hoàn thiện hệ thống thủy lợi kết hợp với

kiến thiết lại đồng ruộng và xây dựng giao thông nội đồng, tạo điều kiện thuận lợi áp dụng khoa học

kỹ thuật, cơ giới hóa và nâng cao hiệu quả sản xuất hàng hóa.

- Khẩn trương hoàn thành việc đầu tư, xây dựng hệ thống kho dự trữ, bảo quản lương thực ở

các vùng sản xuất; đối với lúa gạo đảm bảo năng lực tồn trữ đạt 4 triệu tấn; phát triển các cơ sở chế

biến lương thực sử dụng công nghệ hiện đại để nâng cao chất lượng nông sản.

b) Phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Ủy ban

nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ưu tiên phát triển và ứng dụng khoa học công

nghệ trong các lĩnh vực sau:

- Tăng cường năng lực cho nghiên cứu khoa học, khuyến nông, thông tin và hợp tác quốc tế

liên quan đến an ninh lương thực, ngân sách nhà nước hàng năm đầu tư cho lĩnh vực này tăng 10 –

15%.

- Chọn tạo và sản xuất đủ giống cây trồng, giống vật nuôi, giống thủy sản có năng suất, chất

lượng cao, đặc biệt các giống cây trồng có khả năng chống chịu với điều kiện không thuận lợi như

kháng mặn, hạn, chịu ngập, giống cây trồng biến đổi gen để phục vụ nhu cầu sản xuất.

- Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ từ sản xuất đến thu hoạch, bảo quản,

chế biến. Đối với cây lúa, thúc đẩy nhanh cơ giới hóa khâu thu hoạch để giảm thất thoát, đến năm

2020 thực hiện thu hoạch bằng máy đạt 50%, trong đó khu vực đồng bằng sông Cửu Long đạt 80%,

chủ yếu sử dụng máy gặt đập liên hợp có tính năng kỹ thuật cao.

- Xây dựng các vùng sản xuất an toàn dịch bệnh, các vùng sản xuất ứng dụng công nghệ cao,

các vùng sản xuất tập trung áp dụng quy trình thực hành sản xuất tốt (GAP), phát triển kinh tế vườn.

- Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến đối với các cơ sở bảo quản, chế biến.

- Tăng cường đầu tư trang bị phương tiện và công nghệ hiện đại, phát triển đồng bộ cơ sở hạ

tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá phục vụ đánh bắt có hiệu quả. Quy hoạch, xây dựng đồng bộ kết

cấu hạ tầng vùng nuôi, trước hết là thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản; áp dụng rộng rãi các quy

trình công nghệ sinh sản nhân tạo; xây dựng hệ thống thú y thủy sản; kiểm soát chặt chẽ chất lượng

giống, thức ăn, môi trường nuôi; hiện đại hóa các cơ sở chế biến, đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh an

toàn thực phẩm.

Page 21: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

21

- Khẩn trương triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng có ảnh

hưởng đến an ninh lương thực.

3. Đào tạo nguồn nhân lực

Các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Lao động – Thương binh và xã hội, Giáo dục

và Đào tạo phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai có hiệu

quả Chương trình đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn, cần tập trung:

- Đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ khuyến nông và

cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh lương thực các cấp; đưa nội dung an ninh lương thực quốc gia

vào các trường học.

- Tăng cường đào tạo nông dân về khoa học kỹ thuật và kiến thức quản lý theo phương thức

phù hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất lương thực và tăng thu nhập, đến năm 2020 đạt 50% người

sản xuất lương thực đã qua đào tạo.

4. Chính sách đối với nông dân, địa phương và doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh lúa gạo.

a) Khuyến khích nông dân giữ đất lúa

- Thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm chi phí sản xuất, tăng thu nhập cho người sản xuất

lúa gạo, đảm bảo người sản xuất lúa gạo có lãi trên 30% so với giá thành sản xuất.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì xây dựng nghị định về chính sách quản lý

đất lúa, trình Chính phủ trong quý II năm 2010.

- Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ nông dân xây dựng ruộng bậc thang ở miền núi.

b) Khuyến khích địa phương giữ đất lúa

Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan, Ủy ban nhân dân tỉnh thành

phố trực thuộc Trung ương nghiên cứu sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước theo hướng: tăng đầu tư

phát triển cho khu vực nông nghiệp, nông thôn; điều tiết phân bổ ngân sách nhà nước đảm bảo lợi

ích giữa các địa phương có điều kiện phát triển công nghiệp với các địa phương thuần nông, nhất là

chuyên trồng lúa.

c) Khuyến khích doanh nghiệp tiêu thụ lúa

Page 22: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

22

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan,

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các chủ đầu tư khẩn trương

triển khai dự án đầu tư xây dựng kho chứa lúa gạo, đến năm 2012 phải hoàn thành việc đầu tư xây

dựng kho chứa 4 triệu tấn đã được quy hoạch. Cơ chế chính sách hỗ trợ xây dựng kho thực hiện theo

quy định tại Nghị quyết số 48/NQ-CP ngày 23 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ về cơ chế, chính

sách giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản.

Bộ Tài chính nghiên cứu, xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện nhiệm

vụ tiêu thụ lúa, gạo do nhà nước giao trong trường hợp giá lúa xuống thấp dưới giá thành, trình Thủ

tướng Chính phủ trong quý I năm 2009.

d) Chính sách xã hội liên quan đến an ninh lương thực

Bộ Y tế, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai có hiệu quả

các biện pháp kiểm soát tốc độ gia tăng dân số theo Chiến lược dân số Việt Nam.

Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ gạo cho người dân vùng bị thiếu đói do ảnh hưởng thiên

tai, dịch bệnh.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan

kiểm tra, đánh giá kết quả triển khai và đề xuất sửa đổi, bổ sung chính sách trợ cấp gạo cho hộ đồng

bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở miền núi trồng rừng thay thế nương rẫy trình Thủ tướng Chính phủ

phê duyệt trong quý II năm 2010.

5. Hoàn thiện hệ thống lưu thông, xuất khẩu lương thực

Phát triển hệ thống lưu thông lương thực tạo điều kiện mọi người tiêu dùng có khả năng tiếp

cận thuận lợi lương thực trong mọi tình huống.

Bộ Tài chính nghiên cứu đề xuất mức hợp lý lượng lúa gạo dự trữ quốc gia và lượng lúa gạo

dự trữ lưu thông để đề phòng thiên tai và bình ổn thị trường; sớm hoàn thành đề án bảo hiểm nông

nghiệp, trước mắt bảo hiểm sản xuất lúa gạo, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong quý I năm

2010.

Bộ Công Thương chủ trì xây dựng cơ chế điều hành xuất khẩu lương thực, thực phẩm linh

hoạt, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu và tiêu thụ hết nông sản lương thực,

thực phẩm; kết hợp tốt giữa dự trữ lưu thông và dự trữ nhà nước để bảo đảm yêu cầu cứu trợ lương

thực, thực phẩm trong trường hợp khẩn cấp.

Page 23: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

23

Các Tổng công ty Nhà nước có vai trò chủ lực trong việc tiêu thụ sản phẩm cho nông dân,

điều hòa, bình ổn thị trường, cung ứng các mặt hàng thiết yếu cho nhân dân khi bị thiên tai.

6. Đổi mới tổ chức sản xuất

Tiếp tục hoàn thiện các loại hình tổ chức sản xuất lương thực theo hướng liên kết nông hộ để

hình thành các tổ chức hợp tác, hợp tác xã theo địa bàn hoặc sản phẩm; tạo điều kiện gắn sản xuất

với doanh nghiệp tiêu thụ; phát triển kinh tế trang trại, doanh nghiệp sản xuất lương thực, nông dân

góp cổ phần bằng giá trị quyền sử dụng đất để tham gia doanh nghiệp, phát triển mạng lưới cung

ứng dịch vụ nông nghiệp.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sớm hoàn thành trình Thủ tướng Chính phủ đề án

phát triển mô hình liên kết sản xuất giữa hộ nông dân với các thành phần kinh tế ở nông thôn (trang

trại, hợp tác xã, doanh nghiệp, khoa học, thương mại, hiệp hội ngành hàng), trước mắt thí điểm triển

khai trong sản xuất lúa gạo.

7. Phát triển hệ thống thông tin an ninh lương thực

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ương:

- Kiện toàn và tăng cường hệ thống giám sát, theo dõi diễn biến sản xuất, dự báo sản lượng

lương thực đối với cả nước và từng địa phương đến cấp huyện, cảnh báo diễn biến bất lợi thời tiết

tác động tới an ninh lương thực để có các giải pháp ứng phó kịp thời có hiệu quả;

- Hoàn thiện hệ thống thông tin và dự báo thị trường lương thực trong nước và quốc tế

- Xây dựng cơ sở dữ liệu về an ninh lương thực quốc gia.

8. Hợp tác quốc tế

- Tăng cường hợp tác quốc tế đặc biệt với các lĩnh vực mang tính khu vực và toàn cầu ảnh

hưởng đến an ninh lương thực quốc gia như sử dụng nguồn nước, biến đổi khí hậu, kiểm dịch và vệ

sinh động thực vật …; hợp tác về đào tạo nhân lực và phát triển khoa học công nghệ, thúc đẩy

thương mại.

- Việt Nam cam kết đóng góp tích cực cho mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực của thế

giới.

IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Page 24: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

24

1. Bộ Nội vụ nghiên cứu đề xuất việc thành lập Ủy ban an ninh lương thực quốc gia, trình

Chính phủ.

2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm phối hợp với các Bộ, ngành và Ủy

ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức các hoạt động cụ thể, hướng dẫn

lập kế hoạch thực hiện, hướng dẫn kiểm tra, giám sát và định kỳ tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính

phủ tình hình thực hiện an ninh lương thực quốc gia.

3. Các Bộ, ngành theo chức năng nhiệm vụ triển khai thực hiện các lĩnh vực phụ trách có liên

quan đến đảm bảo an ninh lương thực theo nội dung của Nghị quyết này.

4. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiến hành xây dựng và phê

duyệt quy hoạch phát triển sản xuất lương thực theo ngành trên địa bàn; quản lý chặt chẽ quỹ đất sản

xuất nông nghiệp, đặc biệt là đất lúa được quy hoạch; thực hiện tốt các cơ chế, chính sách của Nhà

nước về sản xuất, tiêu thụ lương thực, bổ sung cơ chế chính sách của địa phương cho phù hợp với

điều kiện thực tế; khuyến khích phát triển sản xuất góp phần đảm bảo an ninh lương thực trong

phạm vi cả nước trong mọi tình huống.

TM. CHÍNH PHỦ THỦ TƯỚNG

Nguyễn Tấn Dũng

Page 25: SỐ BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH & DOANH NGHIỆPagro.gov.vn/images/2010/03/BAN TIN DOI THOAI CHINH SACH DN SO 13.pdfTổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân

25

Danh mục phát hành Bản tin Đối thoại chính sách và DN

I. Nhóm hỗ trợ phát triển quốc tế (ISG) của bộ nông nghiệp 1. TS. Bùi Bá Bổng, Thứ trưởng Bộ NN và PTNT, Chủ tịch Ban điều hành ISG

2. TS. Lê Văn Minh, Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ NN và PTNT; Phó Chủ tịch Ban

điều hành

3. Ông Lã Văn Lý, Cục trưởng Cục Hợp tác xã và PTNT, Bộ NN và PTNT

4. Ông Trang Hiếu Dũng, Vụ trưởng Kế hoạch, Bộ NN và PTNT

5. Ông Nguyễn Trí Ngọc, Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ NN và PTNT

6. Ông Nguyễn Đăng Vang, Cục trưởng Cục Chăn nuôi, Bộ NN và PTNT

7. Ông Nguyễn Ngọc Bình, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp, Bộ NN và PTNT

8. Ông Phạm Xuân Sử, Cục trưởng Cục Thuỷ lợi, Bộ NN và PTNT

9. Ông Vũ Trọng Hà , Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ, Bộ NN và PTNT

10. Ông Nguyễn Thanh Tùng, Cán bộ xây dựng chính sách, Văn phòng liên lạc IFAD

11. Ông Nguyễn Văn Thân, Q.Vụ trưởng Vụ Tài chính, Bộ NN và PTNT

12. Ông Triệu Văn Hùng, Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ, Bộ NN và PTNT

13. Ông Đào Quang Thu, Vụ trưởng Vụ Kinh tế Nông nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

14. Bà Nguyễn Hồng Yến, Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính Đối ngoại, Bộ Tài chính

II. Viện Chính sách và Chiến lược NNPTNT (IPSARD) 1. TS. Đặng Kim Sơn, Viện trưởng IPSARD

2. TS. Nguyễn Đình Long, Viện phó IPSARD,

3. TS. Dương Ngọc Thí, Viện phó IPSARD

4. Các phòng ban/đơn vị trực thuộc IPSARD

III. Cơ quan hợp tác quốc tế Tây Ban Nha 1. Ban quản lý dự án Hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa SMEs- Tây Ban Nha

IV. Các hiệp hội 1. Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành nghề nông thôn Việt Nam (varisme)

2. Hiệp hội DN NVV Việt Nam (vinasme)

3. Hiệp hội ngành hàng (cà phê, hồ tiêu, thủy sản, chăn nuôi, lương thực,…)

4. Hiệp hội làng nghề

V. Doanh nghiệp (đối tác thông tin của AGROINFO và các Doanh nghiệp có quan tâm) VI. Các đối tác khác có liên quan trong nội dung bản tin