1
& DOANH NGHIỆP
SỐ 13 (20/12/2009 - 31/12/2009)
Chịu trách nhiệm nội dung
PHẠM HOÀNG NGÂN
Chịu trách nhiệm sản xuất
AN THU HẰNG
Đơn vị sản xuất Trung tâm Thông tin
Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT
• TIN TỨC & SỰ KIỆN:
Ba bên phối hợp thu ngân sách
Việt Nam sẽ đầu tư mạnh sang Campuchia
Hà Nội: 12 doanh nghiệp được hỗ trợ vốn để bình ổn
giá hàng hóa dịp Tết
Doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sữa phải đăng ký
giá
Nhiều doanh nghiệp cam kết không tăng giá gạo từ nay
đến Tết
• ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH
Quốc hội có thể ra nghị quyết về giám sát tập đoàn
Đất nông nghiệp xen kẹt được chuyển mục đích sử dụng
Tự in hóa đơn: Doanh nghiệp vừa mừng vừa lo
• TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG:
DN Việt Nam đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực xúc tiến
đầu tư tại Campuchia
Vinh danh doanh nghiệp hội nhập WTO 2010
Kinh tế Việt Nam tăng trưởng hơn 5%
• TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH:
Nghị quyết của Chính phủ số 63/NQ-CP ngày
23/12/2009 về đảm bảo an ninh lương thực quốc gia
• ĐIỂM TIN HOẠT ĐỘNG ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH AGROINFO:
BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH
2
Ba bên phối hợp thu ngân sách
Tổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank)
vừa ký thỏa thuận phối hợp thu ngân sách Nhà nước.
Theo thỏa thuận này, ba đơn vị sẽ phối hợp tổ chức thu ngân sách Nhà nước đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu, phối hợp thực hiện bảo lãnh thuế hàng hóa xuất nhập khẩu, quản lý rủi ro, chia sẻ thông tin
chung về doanh nghiệp.
Ba đơn vị cũng sẽ tổ chức xây dựng quy trình nghiệp vụ, kết nối và trao đổi thông tin, dữ liệu để phối
hợp triển khai thực hiện thu thuế hàng hóa xuất nhập khẩu, phí, lệ phí và các khoản thu khác của ngân
sách nhà nước liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu (kể cả bằng tiền mặt và chuyển khoản) thông qua
hệ thống các chi nhánh, điểm giao dịch hoặc hệ thống máy rút tiền tự động (ATM) của Agribank.
Ngoài ra, để bảo lãnh thuế hàng hóa xuất nhập khẩu qua Agribank, ngân hàng này và Tổng cục Hải quan
sẽ phối hợp xây dựng chi tiết quy trình, thủ tục và các nội dung liên quan đến bảo lãnh (từ phát hành đến
thanh toán) để làm cơ sở cho việc phối hợp triển khai thực hiện bảo lãnh thuế hàng hóa xuất nhập khẩu.
(AGROINFO tổng hợp)
Việt Nam sẽ đầu tư mạnh sang Campuchia
Nhiều tập đoàn, tổng công ty và doanh nghiệp Việt Nam đang xúc tiến một số dự án đầu tư với quy mô
lớn tại Campuchia.
Nhiều tập đoàn, tổng công ty và doanh nghiệp Việt Nam đang xúc tiến một số dự án đầu tư với quy mô
lớn tại Campuchia, mà nếu được triển khai hoạt động, sẽ có tổng giá trị đầu tư hàng tỉ đô Mỹ.
Tại Hội nghị Xúc tiến Đầu tư của Việt Nam vào Campuchia diễn ra tại TPHCM hôm nay 26-12 dưới sự
tham dự của Thủ tướng hai nước cùng lãnh đạo, đại diện các bộ ngành hai nước và khoảng 600 doanh
nghiệp Việt Nam, nhiều nhà đầu tư, các tập đoàn, tổng công ty Việt Nam đánh giá cao tiềm năng của đất
nước láng giềng còn nhiều lĩnh vực chưa được khai thác. Điều này được minh chứng bằng những cam
TIN TỨC & SỰ KIỆN
3
kết đầu tư lớn của doanh nghiệp, tập đoàn Việt Nam vào Campuchia trình bày trong khuôn khổ hội nghị
này.
Những dự án lớn
Đáng kể nhất là Giấy phép khảo sát mỏ quặng Bô-xít (bauxite) tại tỉnh Moudoul Kiri - giáp ranh tỉnh
Đắc Nông của Việt Nam do Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam thực hiện. Dự án có vốn đầu tư giai
đoạn 1 khoảng 2,5 tỉ đô la Mỹ và giai đoạn 2 khoảng 3,5 tỉ đô la Mỹ, sẽ được đầu tư với hình thức hợp
tác liên doanh với một đối tác Campuchia hình thành công ty Alumina (Cambodia - Vietnam) Co. Ltd.,
để triển khai.
Tại Hội nghị Hội đồng Phát triển Campuchia cũng trao giấy chứng nhận cho bốn dự án đầu tư của các
doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vốn đầu tư lớn như dự án đầu tư 65 triệu đô la Mỹ thành lập Công ty
Phân bón Quốc tế Năm Sao Campuchia – một liên doanh giữa Tập đoàn Phân bón Năm Sao của Việt
Nam (góp 90% vốn) và phía đối tác Campuchia IDCC (góp 10%) để xây dựng nhà máy phân bón có
công suất 350 ngàn tấn/năm tại huyện Kean Svay, tỉnh Kandal; Công ty TNHH Liên doanh Kamadhenu
đầu tư 75 triệu đô la Mỹ cho dự án nhà máy sản xuất phức hợp gồm đường, ethanol và điện tại tỉnh
Kratie; Công ty TNHH C&V Group đầu tư 37,2 triệu đô la Mỹ cho dự án trồng 7.000 héc ta cao su tại
huyện Sampo, tỉnh Kraitie; và dự án đầu tư nâng cấp hệ thống kho chứa hiện có và hệ thống dây chuyền
chế biến gạo với tổng vốn đầu tư 5,7 triệu đô la Mỹ tại thủ đô Phnompenh do Công ty Lương thực
Campuchia – Việt Nam (Cavifoods) đầu tư.
Tại Hội nghị này, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, cho biết trong một thời gian ngắn, thực hiện
chỉ đạo của lãnh đạo hai nước, các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có Tổng Công ty Hàng không,
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, Tập đoàn Than
Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, VINAFOOD... đã
triển khai nhiều dự án lớn tại Campuchia.
Theo Thủ tướng, những dự án đầu tư này khi hoàn thành và đưa vào khai thác thì sẽ nâng vốn đầu tư của
doanh nghiệp Việt Nam vào Campuchia lên thành 6 tỉ đô la Mỹ vào năm 2015, gấp nhiều lần so với
khoảng 900 triệu đô la Mỹ hiện nay.
Ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam tại Campuchia, cho biết dưới sự chỉ đạo
của chính phủ, các tập đoàn kinh tế hàng đầu Việt Nam trong thời gian qua đã khẩn trương tìm kiếm cơ
hội đầu tư vào Campuchia.
4
Đến nay, nhiều tập đoàn kinh tế lớn đã có hiện diện tại Campuchia, mở đầu là Tổng công ty Viễn thông
Quân đội (Viettel) thực hiện hợp tác đầu tư mạng di động tại Campuchia với giá trị đầu tư trên 200 triệu
đô la Mỹ và hiện là mạng viễn thông có vị trí quan trọng và thị phần dẫn đầu tại Campuchia.
Tổng công ty Hàng không Việt Nam (VNA) và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã
hợp tác đầu tư vào Campuchia trong các lĩnh vực hàng không, ngân hàng, tài chính và bảo hiểm với giá
trị đầu tư hàng trăm triệu đô la Mỹ.
Triển vọng hợp tác tốt đẹp
Tiếp theo thành công của các hoạt động nêu trên, các doanh nghiệp Việt Nam đã nghiên cứu, khảo sát,
đánh giá và đàm phán với đối tác Campuchia, đến nay, 7 doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp có
tiềm lực năng lực, kinh nghiệm và quyết tâm cao đầu tư vào 8 dự án nông nghiệp tại Campuchia với
tổng mức vốn đầu tư lên tới gần 500 triệu đô la Mỹ, ông Hà nói.
Trong đó đặc biệt phải kể đến dự án Liên doanh nhà máy sản xuất, chế biến gạo xuất khẩu, nhà máy sản
xuất phân bón tổng hợp NPK, trồng và phát triển cây công nghiệp, Tổ hợp nhà máy đường, ethanol,
điện...
Gần đây đã hình thành những cam kết về hợp tác khảo sát thăm dò dầu khí Lô 15 tại Biển Hồ giữa Tập
đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam với đối tác Campuchia để thăm dò, khai thác dầu khí trên diện tích
khoảng 6.900km2, thời hạn 30 năm đối với dầu và 35 năm đối với khí, giai đoạn thăm dò kéo dài 7 năm
đã hình thành; hay ký kết ghi nhớ hợp tác khảo sát, thăm dò dự án thủy điện Stung Treng - Campuchia
giữa Tổng cục tài nguyên khoáng sản Campuchia và Tổ hợp các nhà đầu tư Việt Nam do IDICO làm
chủ trì. Đây là dự án thủy điện lớn với công suất dự kiến là 980 MW...
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn - năm 2009, các Tập đoàn, Tổng công ty lớn của Việt Nam đã
hợp lực tạo thành sức mạnh tổng hợp trong hoạt động đầu tư vào Campuchia trên nhiều lĩnh vực, từ
ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, hàng không đến viễn thông, nông nghiệp, năng lượng, khai khoáng...
Đây là những lĩnh vực kinh tế trọng yếu, then chốt của nền kinh tế Campuchia, ông Hà khẳng định.
Chỉ tính riêng trong 2 năm 2008-2009, tổng giá trị đầu tư đã đăng ký và được cấp phép của doanh
nghiệp Việt Nam tại Campuchia là 800 triệu đô la Mỹ. Trong 5 năm tới, với việc triển khai các dự án
thủy điện (Stung treng, công suất 980 MW, hạ Sêsan 2, công suất 420MWW) và đặc biệt là Liên doanh
khai thác Bô-xít - Alumin Việt Nam-Campuchia, giá trị đầu tư sẽ đạt tối thiểu 6 tỉ đô la Mỹ, khẳng định
vị trí, vai trò số 1 của Việt Nam trong số các nước ngoài có vốn đầu tư vào Campuchia, ông Hà nói.
5
Ông Sok Chanda Sophea, Bộ trưởng kiêm Tổng Thư ký Hội đồng phát triển Campuchia (CDC), cho biết
Campuchia được xem là một trong những nước nghèo, do đó Mỹ và châu Âu có những ưu đãi đặc biệt
cho hàng may mặc nhập khẩu từ Campuchia với thuế suất nhập khẩu bằng 0. Do đó, ông Sophea kêu gọi
các doanh nghiệp may mặc Việt Nam nên đầu tư sản xuất tại Campuchia để tận dụng những ưu đãi này
nhằm hàng vào thị trường Mỹ và châu Âu...
Hỗ trợ lợi thế cho nhau
Có thể nói, hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam vào Campuchia trong thời gian qua đã có
bước đột phá mạnh mẽ và theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tiềm năng hợp tác giữa 2 nước Việt Nam -
Campuchia còn rất lớn và việc thúc đẩy quan hệ hợp tác về đầu tư, thương mại cũng đang có nhiều
thuận lợi.
Theo Thủ tướng hai nước có nhiều tiềm năng, lợi thế có thể bổ trợ cho nhau, hợp tác cùng phát triển;
chẳng hạn như Campuchia có tiềm năng và nhu cầu hợp tác về sản xuất và chế biến nông lâm sản, phát
triển nguồn và truyền tải điện, hàng không, tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, viễn thông, thăm dò khai
thác và chế biến khoáng sản, dầu khí, sản xuất phân bón, năng lượng sạch... trong khi, Việt Nam có
khoảng 460.000 doanh nghiệp, trong đó có trên 100 tập đoàn, tổng công ty lớn; nhiều doanh nghiệp có
tiềm lực mạnh về công nghệ, thị trường, tài chính, lao động có tay nghề, kinh nghiệm.
Việt Nam cũng có 457 dự án đầu tư đang thực hiện ở 50 nước và vùng lãnh thổ, với số vốn khoảng 7,2 tỉ
đô la Mỹ và phần lớn các dự án đều đang được triển khai thành công.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định, Việt Nam đã có nhiều quy định pháp luật và chính sách
khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nươc ngoài. Chính phủ Việt Nam cam kết tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam sang đầu tư tại Campuchia.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đề nghị Thủ tướng Campuchia Samdech Hunden giao cho Hội đồng
Phát triển Campuchia (CDC) và Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam phối hợp chặt chẽ với nhau và
thường xuyên làm việc với Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam vào Campuchia để cập nhật tình hình triển
khai và cơ hội đầu tư, kịp thời phát hiện và giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển
khai đầu tư, kinh doanh giữa hai nước.
(AGROINFO tổng hợp)
Hà Nội: 12 doanh nghiệp được hỗ trợ vốn để bình ổn giá hàng hóa dịp Tết
6
Hàng hóa dự trữ để phụ vụ Tết Canh Dần các doanh nghiệp này sẽ phải bán thấp hơn 5% so với giá thị
trường tại thời điểm Tết.
Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã có quyết định số 6322/QĐ- UBND về việc tạm ứng vốn cho 12
doanh nghiệp với số tiền 250 tỷ đồng, trong thời gian 5 tháng (lãi suất 0%) để dự trữ các mặt hàng thiết
yếu phục vụ người dân trước trong và sau Tết.
Theo đó, có 12 đơn vị được Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội hỗ trợ vốn để tham gia bình ổn giá hàng
hóa vào dịp Tết Canh Dần bao gồm: Tổng công ty Thương mại Hà Nội; Tổng công ty Lượng thực miền
Bắc; Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Đầu tư và Phát triển Nông nghiệp Hà Nội; Công ty Cổ
phần Nhất Nam; Trung tâm Thương mại Intimex; Công ty TNHH Công nghệ Thực phẩm Vinh Anh;
Công ty TNHH một thành viên Lan Chi Business; Công ty TNHH một thành viên Chăn nuôi Việt Hưng;
Công ty Cổ phần Thương mại Cầu Giấy; Công ty Cổ phần Phúc Thịnh; Công ty TNHH 2-9 Hà Tây;
Công ty TNHH Chế biến Lương thực Thực phẩm Thái Dương.
Hàng hóa dự trữ để phụ vụ Tết Canh Dần các doanh nghiệp này sẽ phải bán thấp hơn 5% so với giá thị
trường tại thời điểm Tết.
Được biết, trong dịp Tết Nguyên đán thị trường sẽ khá sôi động, nhu cầu đối với các loại hàng hóa được
dự báo sẽ tăng khoảng 20% so với các tháng khác của năm. Do đó, Hà Nội đã lên kế hoạch để dự trữ
hàng hóa cho dịp Tết sắp đến, dự kiến, lượng hàng hóa dự trữ bao gồm, gạo các loại 4.510 tấn, thịt gia
súc gia cầm 2.420 tấn, trứng gia cầm 6.500 quả, thủy hải sảng đông lạnh 940 tấn, thực phẩm chế biến
2.174 tấn, rau củ quả các loại 2.183 tấn, dầu ăn 3.200 lít, đường 118 tấn, bánh mứt kẹo 80 tấn...
Doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sữa phải đăng ký giá
Đây là đề xuất của Bộ Công thương nhằm dẹp tình trạng giá sữa liên tục tăng sau đợt liên Bộ Tài chính
– Y tế - Công Thương tiến hành thanh, kiểm tra các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sữa về chất
lượng, giá cả và thuế.
Qua thanh tra cho thấy, các doanh nghiệp sữa luôn tìm mọi cách để tăng giá, thậm chí cả khi giá thế giới
giảm. Cụ thể, ngay trong tháng 12, dù giá sữa bột gầy và nguyên kem tại thị trường châu ÚC vẫn tương
đối ổn định nhưng các hãng sữa trong nước vẫn đồng loạt tăng giá. Lấy lý do biến động tỷ giá ngoại tệ,
giá đường, giá xăng dầu tăng… một số hãng như Vinamilk, Hanco Food…đã tăng tới 10-15% giá bán.
Trước tình trạng trên, Bộ yêu cầu các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sữa phải đăng ký giá để tạo
thuận lợi cho việc kiểm soát giá cả, bình ổn thị trường.
7
Được biết, đây không phải là lần đầu tiên việc kiểm soát được đặt ra. Mặc dù sữa thuộc nhóm hàng bình
ổn giá song giá bán thực tế lại luôn “mập mờ”, trong khi đó, các cơ quan chức năng vẫn chưa có biện
pháp kiểm soát hay chế tài nào hiệu quả để ngăn chặn.
(AGROINFO tổng hợp)
Nhiều doanh nghiệp cam kết không tăng giá gạo từ nay đến Tết
Ngày 7.12, TCty Lương thực Miền Nam cho biết, các DN thành viên của TCty đã cam kết không tăng
giá gạo bán ra thị trường nội địa từ nay đến sau Tết Nguyên đán.
TCty Lương thực Miền Nam cũng đã cam kết với UBND TP sẽ đáp ứng đủ lượng gạo TPHCM yêu cầu
với lượng gạo từ 100.000 – 300.000 tấn hoặc hơn và đã chuẩn bị sẵn sàng đội xe tải để vận chuyển đến
các khu vực có hiện tượng sốt giá giả.
Quốc hội có thể ra nghị quyết về giám sát tập đoàn
Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xin ý kiến các vị đại biểu Quốc hội về việc ra một nghị quyết về vấn đề
giám sát, sử dụng chính sách pháp luật trong việc quản lý vốn và tài sản Nhà nước trong các tập đoàn
và tổng công ty.
Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Đức Kiên đã phát biểu như trên
khi kết thúc phiên giám sát tối
cao của Quốc hội về tập đoàn,
tổng công ty ngày 9/11. Theo
Phó chủ tịch, ý kiến của đại
biểu sẽ là cơ sở để xây dựng
một dự thảo nghị quyết và trình
Quốc hội xem xét, thông qua
vào cuối kỳ họp này.
Phần thảo luận, một số đại biểu
cũng đã “tha thiết đề nghị”
Quốc hội thông qua nghị quyết
về vấn đề này, vì “đây là một
vấn đề rất quan trọng mà cử tri
và nhân dân cả nước rất quan
tâm”.
Kết thúc một ngày thảo luận về
kết quả giám sát tập đoàn, tổng
công ty đã có 34 đại biểu Quốc
hội, trong đó có 2 vị bộ trưởng,
phát biểu ý kiến. Vị đại biểu
cuối cùng đăng ký và cũng là
người duy nhất không được
phát biểu do hết thời gian là Bộ
trưởng Bộ Giao thông Vận tải
Hồ Nghĩa Dũng.
“Chúng tôi đề nghị đại biểu Hồ
Nghĩa Dũng cũng sẽ có tham
gia vào trong quá trình trả lời
chất vấn tại phiên họp chất vấn
và bằng các hình thức khác để
thông báo ý kiến đến các vị đại
biểu Quốc hội”, Phó chủ tịch
Nguyễn Đức Kiên nói.
Vốn Nhà nước: 30 hay 210 tỷ?
ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH
8
Trong suốt một ngày thảo luận,
con số 30 tỷ Đô la tổng vốn
Nhà nước đầu tư vào các tập
đoàn, tổng công ty Nhà nước
đã khiến nhiều vị đại biểu đề
nghị cần có riêng một luật để
quản lý.
Tuy nhiên, phát biểu chiều qua,
Tiến sỹ Mai Xuân Hùng, Ủy
viên Thường trực Ủy ban Kinh
tế của Quốc hội đã đưa ra con
số gấp... 7 lần.
Theo phân tích của đại biểu
này, với cách tính hiện nay và
theo cơ chế thị trường, sau khi
thị trường chứng khoán ra đời
và các doanh nghiệp Nhà nước
đổi mới thông qua việc đấu giá
lên sàn chứng khoán thì thông
thường tăng gấp 2,7 đến 3,5 lần
về tổng tài sản Nhà nước.
“Như vậy ước tính thông qua
con đường vốn hóa mà xếp sắp
doanh nghiệp sớm, nhanh được
thì rõ ràng hiện nay vốn Nhà
nước, tài sản Nhà nước ở hơn
90 tập đoàn và tổng công ty
này phải trên 4 triệu tỷ, tôi
đang tính tương đương gấp 3
lần, tức là tương đương với 210
tỷ Đô la”, đại biểu Hùng quả
quyết.
Từ đó, đại biểu Hùng cho rằng,
phần hiệu quả của doanh
nghiệp Nhà nước đang đánh giá
trên vốn chủ sở hữu hiện nay là
tương đương với khoảng12%
bình quân. Nhưng nếu như tính
theo tổng tài sản mà chúng ta
đánh giá được thì lợi nhuận
không phải là 12% mà lợi
nhuận chỉ đạt được 0,5% cho
đến 1,5% trên tổng tài sản. Bởi
vì các doanh, nghiệp tư nhân,
các nhà đầu tư nước ngoài khi
vào doanh nghiệp Việt Nam
hay kinh doanh tại bất cứ thị
trường nào trên thế giới thì tất
cả lợi nhuận người ta được
đánh giá trên tổng tài sản người
ta đầu tư vào doanh nghiệp đó.
Cũng theo đại biểu Hùng, vấn
đề khó của đoàn giám sát của
Quốc hội là hiện nay chưa đánh
giá được tổng tài sản mà đã
giao cho các doanh nghiệp Nhà
nước nói chung. “Chúng tôi
cũng biết điều này mà chúng
tôi không thể làm được”, đại
biểu Hùng nói.
Ông Hùng cho rằng, phải làm
sao để toàn bộ tài sản của Nhà
nước phải thực sự trở thành
vốn của Nhà nước được đưa
vào tập đoàn, tổng công ty
giống như các nhà đầu tư,
giống như các doanh nghiệp tư
nhân.
Chấn chỉnh đầu tư ngoài
ngành
“Gói” lại nội dung giám sát,
Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Đức Kiên nhấn mạnh một số
nội dung được các đại biểu tập
trung thảo luận.
Theo đó, việc đánh giá hiệu
quả hoạt động của tập đoàn,
tổng công ty Nhà nước phải
được xem xét một cách toàn
diện, đó là hiệu quả kinh tế và
hiệu quả xã hội. Trong đó hiệu
quả góp phần vào ổn định vĩ
mô về kinh tế, xã hội là rất
quan trọng lúc bình thường
cũng như trong điều kiện
khủng hoảng kinh tế toàn cầu
hiện nay.
Tuy nhiên, xét về hiệu quả kinh
tế, ngoài chỉ tiêu lợi nhuận trên
vốn chủ sở hữu cần xem thêm
chỉ tiêu lợi nhuận trên tổng số
vốn đầu tư kinh doanh trong
điều kiện giá cả còn dừng ở
mức cao trong điều kiện vốn
chủ sở hữu Nhà nước ít, vốn
vay nhiều, trong quan hệ giữa
các khoản nợ phải thu và nợ
phải trả.
Về quan hệ và hệ số an toàn
9
vốn phải có sự phân biệt trong
từng ngành, từng lĩnh vực. Việc
thực hiện một số nhiệm vụ
chính trị của Nhà nước để đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế,
giải quyết việc làm, cải thiện
đời sống nhân dân ổn định vĩ
mô... Do đó phải có tiêu chí
đồng bộ, rõ ràng để đánh giá
kết quả hoạt động của các
doanh nghiệp Nhà nước trong
đó có các tập đoàn và tổng
công ty.
Cũng theo Phó chủ tịch, về mặt
pháp luật cũng như trong thực
tế cần xác định rõ ràng giữa
chức năng hành chính của Nhà
nước với chức năng đại diện
chủ sở hữu vốn Nhà nước tại
doanh nghiệp và trách nhiệm
của người trực tiếp đại diện chủ
sở hữu vốn của Nhà nước tại
doanh nghiệp để vừa quản lý
vốn và tài sản Nhà nước có
hiệu quả cao, vừa tôn trọng tính
năng động, quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp.
Tập đoàn kinh tế, tổng công ty
Nhà nước hoạt động đa ngành
là cần thiết nhưng trong đó phải
xác định ngành chính, nhiệm
vụ chính, việc mở ra ngành
khác phải được lựa chọn kỹ
phù hợp với thực lực và khả
năng quản lý của mình trong đó
có sự định hướng của Nhà
nước với tư cách Nhà nước là
một nhà đầu tư vốn nói riêng
và nguồn lực của Nhà nước nói
chung.
"Từ thực tế vừa qua, cần sớm
chấn chỉnh theo hướng này để
tập đoàn tổng công ty Nhà
nước phát triển bền vững đầu
tư kinh doanh có hiệu quả, bảo
toàn và phát triển được vốn của
Nhà nước", Phó chủ tịch nói.
Đất nông nghiệp xen kẹt được chuyển mục đích sử dụng
Theo quy định mới, đất vườn ao trong thửa đất có nhà ở trong khu dân cư (chưa được công nhận đất ở),
đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư là đất nằm trong phạm vi khu dân cư đã được xác định ranh
giới theo quy hoạch, hoặc theo hiện trạng của thửa đất có nhà ở ngoài cùng của khu dân cư đó, thì được
chuyển mục đích sử dụng
Hôm qua (16/12), Giám đốc
TN&MT Hà Nội Vũ Văn Hậu
cho biết, lãnh đạo TP Hà Nội
vừa ký ban hành QĐ sửa đổi
QĐ số 46/2008 quy định về
Chuyển mục đích sử dụng đất
của hộ gia đình, cá nhân đang
sử dụng đất vườn ao trong cùng
thửa đất có nhà ở trong khu dân
cư nhưng chưa được công nhận
là đất ở và đất nông nghiệp
xem kẽ trong khu dân cư
(không thuộc đất công) sang
đất phi nông nghiệp (đất ở, đất
sản xuất kinh doanh) trên địa
bàn thành phố Hà Nội. QĐ mới
mở rộng phạm vi đối với toàn
bộ các quận, huyện của TP Hà
Nội mở rộng.
Theo quy định mới, đất vườn
ao trong thửa đất có nhà ở
trong khu dân cư (chưa được
công nhận đất ở), đất nông
nghiệp xen kẽ trong khu dân cư
là đất nằm trong phạm vi khu
dân cư đã được xác định ranh
giới theo quy hoạch, hoặc theo
hiện trạng của thửa đất có nhà
ở ngoài cùng của khu dân cư
10
đó, thì được chuyển mục đích
sử dụng.
Về điều kiện, người xin chuyển
mục đích sử dụng đất phải là
người thực hiện tốt pháp luật về
đất đai ở địa phương, có văn
bản cam kết thực hiện tốt nghĩa
vụ nộp thuế, phí, tiền sử dụng
đất (nộp 50% tiền sử dụng đối
với đất vườn liền kề, 100% tiền
sử dụng đất đối với đất nông
nghiệp xen kẽ theo khung giá
đất ở khu vực liền kề Thành
phố ban hành).
Hồ sơ xin chuyển mục đích sử
dụng đất nộp tại Phòng
TN&MT cấp quận, huyện bao
gồm: đơn xin chuyển mục đích,
phương án sản xuất kinh doanh
(nếu chuyển sang đất kinh
doanh), bản sao Giấy chứng
nhận hoặc giấy tờ quyền sử
dụng thửa đất, hộ khẩu và văn
bản cam kết kể trên.
Trong thời hạn 13 ngày, UBND
Xã, phường làm trích lục thửa
đất, thẩm tra, xác minh hiện
trạng sử dụng đất, lập tờ trình
gửi UBND quận, huyện cho
phép chuyển mục đích sử dụng
đất. Trong thời gian 30 ngày,
hồ sơ được Phòng TN&MT,
Phòng Quản lý đô thị thẩm
định, nếu đủ điều kiện Chủ tịch
UBND cấp quận, huyện ra
quyết định chuyển mục đích và
cấp GCN mới.
Theo Giám đốc Sở TN&MT,
quy định này tạo điều kiện cho
hàng ngàn hộ dân đang sử dụng
đất nông nghiệp xen kẽ, đất
vườn liền kề trong khu dân cư
được chuyển mục đích đất đang
sử dụng thành đất ở hoặc đất
kinh doanh phi nông nghiệp,
giảm bớt phức tạp do tình trạng
mua bán trao tay, xây dựng trái
phép trên đất chưa được
chuyển đổi như trước đây.
Tự in hóa đơn: Doanh nghiệp vừa mừng vừa lo
Nằm trong chương trình cải cách thủ tục hành chính theo Đề án 30 của Chính phủ, Bộ Tài chính đã có
chủ trương cho phép các doanh nghiệp tự in hóa đơn thuế giá trị gia tăng (GTGT) để phục vụ cho hoạt
động kinh doanh.
Đây thực sự là một tin vui đối
với các doanh nghiệp. Bởi lẽ,
việc mua hóa đơn và quy trình
quản lý ấn chỉ của cơ quan
quản lý thuế hiện nay là khâu
làm mất rất nhiều thời gian cho
các doanh nghiệp và cũng là
nơi phát sinh không ít tiêu cực.
Hơn nữa, dù quy trình quản lý
hóa đơn hiện hành khá chặt chẽ
và phức tạp nhưng hiện tượng
mua, bán hóa đơn, gây thất thu
thuế vẫn xảy ra như một thách
thức đối với cơ quan quản lý.
Ông Phạm Đình Thi, Phó vụ
trưởng Vụ Chính sách thuế, Bộ
Tài chính, cho rằng trên thực
tế, việc quản lý hóa đơn vẫn
còn nhiều phức tạp, chẳng hạn
doanh nghiệp bán một giá, ghi
hóa đơn một giá hoặc thành lập
doanh nghiệp chỉ để mua, bán
hóa đơn... khiến Nhà nước thất
thu thuế không ít. Vì thế, khi
doanh nghiệp tự in hóa đơn, tự
in logo của mình trên hóa đơn
và khi hóa đơn được phát hành
thì trước hết, bản thân các cơ
sở kinh doanh phải tự bảo vệ
quyền lợi của mình. Điều này
sẽ giảm được tình trạng thành
lập doanh nghiệp “ma” để mua,
bán hóa đơn.Lợi ích của việc
11
trao quyền tự in hóa đơn cho
các doanh nghiệp là điều không
cần phải bàn. Vấn đề quan
trọng là doanh nghiệp tự in hóa
đơn như thế nào?
Trước hết, cần phải thấy rằng,
theo quy định, hiện nay các
doanh nghiệp vẫn được “tự in”
hóa đơn nếu có nhu cầu. Song,
đó là việc chưa được cơ quan
quản lý thuế khuyến khích. Vì
vậy, việc “tự in” hóa đơn cũng
phải qua một quy trình rất phức
tạp: doanh nghiệp phải có công
văn gửi cơ quan quản lý thuế
(trước đây là Tổng cục Thuế,
hiện nay đã được phân cấp cho
các Cục Thuế) trình bày rõ lý
do xin tự in hóa đơn kèm theo
mẫu hóa đơn “tự in”.
Sau khi được cơ quan quản lý
thuế chấp thuận bằng văn bản,
doanh nghiệp phải liên hệ với
một trong số những nhà in
được phép in hóa đơn để ký
hợp đồng in hóa đơn. Hóa đơn
“tự in” của doanh nghiệp do
nhà in in những phần bắt buộc
như tên hóa đơn, tên, địa chỉ,
mã số thuế của doanh nghiệp,
ký hiệu quyển và sê-ri của từng
số hóa đơn. Doanh nghiệp cũng
có thể được in logo của mình
trên hóa đơn. Phần còn lại là
những thông tin về người mua
và hàng hóa, dịch vụ được cung
cấp do doanh nghiệp tự in trên
máy tính, máy in của mình.
Trên tất cả các số hóa đơn tự in
đều phải ghi rõ: Phát hành theo
công văn số... ngày... tháng...
năm của tổng cục (hoặc cục)
thuế... Sau khi hợp đồng in hóa
đơn được thực hiện xong,
doanh nghiệp và cơ sở in phải
làm biên bản thanh lý hợp
đồng, hủy bản kẽm và gửi báo
cáo cơ quan cho phép in hóa
đơn. Hóa đơn “tự in” theo quy
trình nêu trên thường được gọi
là “hóa đơn đặc thù”.
Theo quy định hiện hành, mỗi
số của hóa đơn chỉ được phát
hành cho một lần bán hàng và
cung ứng dịch vụ. Do đó, việc
quản lý chặt chẽ ký hiệu quyển
và sê-ri của hóa đơn là cần thiết
để quản lý doanh thu của doanh
nghiệp. Như vậy, trên thực tế,
doanh nghiệp mới chỉ được “tự
in” một phần của tờ hóa đơn.
Trong thời gian tới đây, các
doanh nghiệp sẽ tự in hóa đơn
như thế nào?
Nếu trao quyền tự in hóa đơn
cho các doanh nghiệp nhưng
vẫn giữ quy trình như việc tự in
“hóa đơn đặc thù” thì sẽ phát
sinh những vướng mắc sau đây:
Một là, cơ chế “xin - cho”
trong việc mua hóa đơn hiện
nay sẽ chuyển sang cơ chế “xin
- cho” trong việc “xin công
văn” chấp thuận cho tự in hóa
đơn. Liệu những tiêu cực trong
cơ chế này có giảm đi hay tăng
lên? Các doanh nghiệp sẽ thuận
lợi hơn hay lại bị “hành” nhiều
hơn?
Hai là, với các cơ sở in, số
lượng in càng lớn thì giá một
quyển hóa đơn sẽ càng thấp và
ngược lại. Với mức giá khoảng
30.000-50.000 đồng một quyển
hóa đơn, các doanh nghiệp có
đủ sức chịu đựng?
Trong điều kiện tiền mặt vẫn
được sử dụng chủ yếu trong
thanh toán như ở nước ta hiện
nay, quản lý việc phát hành hóa
đơn chính là quản lý nguồn thu
thuế. Vì vậy, khi quyết định trao
quyền tự in hóa đơn cho các
doanh nghiệp, cần cân nhắc một
cách toàn diện để tránh những
hậu quả nặng nề có thể xảy ra.
12
Ba là, việc phải in cả địa chỉ
doanh nghiệp trên hóa đơn sẽ
dẫn đến tình trạng hàng loạt
hóa đơn đã in không sử dụng
được vì nhiều trường hợp
doanh nghiệp buộc phải chuyển
trụ sở chính do hết hạn hợp
đồng thuê hoặc do bị nâng giá
thuê văn phòng đến mức không
thể chịu đựng được.
Bốn là, liệu các cơ sở in có đủ
năng lực để đáp ứng nhu cầu in
hóa đơn của hàng trăm ngàn
doanh nghiệp đang hoạt động?
Chắc chắn sẽ xảy ra tình trạng
xếp hàng chờ in hóa đơn và
không ít doanh nghiệp không
có hóa đơn phục vụ kịp thời
cho hoạt động kinh doanh.
Trao cho doanh nghiệp toàn
quyền in hóa đơn, bao gồm cả
ký hiệu quyển, số sê-ri, là
phương án tạo điều kiện thuận
lợi tối đa cho doanh nghiệp.
Song, cũng cần có những biện
pháp ngăn chặn tình trạng gian
lận trong phát hành hóa đơn để
trốn, lậu thuế. Chẳng hạn, nếu
với cùng một sê-ri, doanh
nghiệp sử dụng phát hành cho
nhiều lần bán hàng nhưng chỉ
kê khai thuế cho một lần thì cơ
quan quản lý thuế có khả năng
kiểm tra, phát hiện được hay
không? Nếu kiểm tra, phát hiện
được thì chế tài xử phạt như thế
nào? Kiểm tra việc phát hành
hóa đơn của các doanh nghiệp
trong cả nước là công việc
không đơn giản. Mặc dù trong
những năm qua, ngành thuế đã
ứng dụng công nghệ thông tin
ở khá nhiều lĩnh vực, song liệu
đã có thể có một hệ thống
thống nhất trong toàn quốc để
kiểm tra việc phát hành hóa
đơn của các doanh nghiệp?
Trong điều kiện tiền mặt vẫn
được sử dụng chủ yếu trong
thanh toán như ở nước ta hiện
nay, quản lý việc phát hành hóa
đơn chính là quản lý nguồn thu
thuế. Vì vậy, khi quyết định
trao quyền tự in hóa đơn cho
các doanh nghiệp, cần cân nhắc
một cách toàn diện để tránh
những hậu quả nặng nề có thể
xảy ra ngay sau đó.
DN Việt Nam đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực xúc tiến đầu tư tại Campuchia
Ngày 26/12 vừa qua, hội nghị
"Xúc tiến đầu tư của Việt Nam
vào Campuchia" đã được tổ
chức tại thành phố Hồ Chí
Minh.
Hội nghị có quy mô cấp quốc
gia do Thủ tướng Chính phủ
Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng
và Thủ tướng Chính phủ
Hoàng gia Campuchia Hun Sen
đồng chủ trì.
Tại hội nghị này, lãnh đạo các
bộ, ngành liên quan của hai
nước đã trao đổi, thảo luận với
đại diện doanh nghiệp về chiến
lược thu hút đầu tư nước ngoài
của Campuchia như cơ chế,
chính sách mới nhất trong thu
hút và quản lý đầu tư nước
ngoài, các cơ chế ưu đãi và
khuyến khích đầu tư của Chính
phủ Hoàng gia Campuchia đối
với các nhà đầu tư nước ngoài,
TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG
13
đặc biệt là các nhà đầu tư Việt
Nam.
Hội nghị cũng là dịp để các cơ
quan hữu quan, doanh nghiệp,
nhà đầu tư hai nước trao đổi
kinh nghiệm và đẩy mạnh hợp
tác trong lĩnh vực xúc tiến đầu
tư.
Trong khuôn khổ hội nghị còn
diễn ra một số hoạt động khác
như trao Giấy chứng nhận đầu
tư ra nước ngoài; ký kết các
thỏa thuận hợp tác đầu tư; ra
mắt Hiệp hội các nhà đầu tư
Việt Nam tại Campuchia và
khai trương chi nhánh của
doanh nghiệp Campuchia tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
Theo thống kê của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, hiện Việt
Nam có 63 dự án đầu tư tại
Campuchia, với tổng vốn đầu
tư đăng ký trên 900 triệu USD,
quy mô trung bình đạt 14,2
triệu USD/dự án. Đặc biệt,
trong năm 2009, tổng vốn đầu
tư của các doanh nghiệp Việt
Nam đạt trên 400 triệu USD.
Campuchia hiện là một trong 3
quốc gia dẫn đầu trong thu hút
vốn đầu tư ra nước ngoài của
Việt Nam trong tổng số 50
quốc gia và vùng lãnh thổ có
hoạt động đầu tư của các doanh
nghiệp Việt Nam.
Nhìn chung, các dự án đầu tư
của Việt Nam tại Campuchia
đã triển khai tốt, đặc biệt là
trong lĩnh vực lâm nghiệp,
nông nghiệp, khoáng sản, viễn
thông, ngân hàng, bảo hiểm.
Nhiều dự án trong lĩnh vực
khoáng sản lớn đang được các
nhà đầu tư Việt Nam triển khai
giai đoạn thăm dò, khảo sát.
Vinh danh doanh nghiệp hội nhập WTO 2010
Nhân kỷ niệm 3 năm Việt Nam
là thành viên của tổ chức
Thương mại thế giới (WTO),
chương trình Vinh danh doanh
nghiệp hội nhập WTO 2010 sẽ
được thực hiện với nhiều hoạt
động mang tính cộng đồng
như: Cuộc thi Tìm hiểu thành
tựu và thách thức của Việt
Nam sau 3 năm gia nhập WTO,
Hội thảo quốc tế Thành tựu và
thách thức của Việt Nam sau 3
năm gia nhập WTO và bình
chọn trao Cúp Long đầu linh
vật, Quả cầu vàng, Ngôi sao
Việt Nam, Tinh hoa Việt Nam
cho doanh nghiệp, doanh nhân
và sản phẩm.
Trong tuần kỷ niệm 3 năm Việt
Nam là thành viên thứ 150 của
WTO, ngày 5/1/2010, tại khách
sạn Bảo Sơn sẽ diễn ra hội thảo
quốc tế Thành tựu và thách
thức của Việt Nam sau 3 năm
gia nhập WTO với nội dung:
Tổng kết thành tựu Việt Nam
sau 3 năm gia nhập WTO, tình
hình đầu tư nước ngoài sau 3
năm Việt Nam gia nhập WTO
(phân tích cơ hội và thách
thức); Đánh giá sự phát triển
của các loại hình dịch vụ (tài
chính, bảo hiểm, bán lẻ,
logistic, dịch vụ thương mại,
thông tin…); Tình hình XNK
của Việt Nam 3 năm qua. Hội
thảo là cơ hội để các doanh
nghiệp thu nạp thông tin bổ ích
về nhiều vấn đề có liên quan
14
tới tiến trình Việt Nam gia
nhập WTO trong bối cảnh
khủng hoảng tài chính thế giới
và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Đã có hơn 40 tỉnh, thành và
một số bộ ngành tiến cử doanh
nghiệp, doanh nhân tham dự
các giải thưởng. Ban tổ chức sẽ
tiếp tục bầu chọn Top 10, 20
cho những doanh nghiệp có
thương hiệu mạnh của giải Quả
cầu vàng. Giải Quả cầu vàng
(vinh danh doanh nghiệp tiêu
biểu), Ngôi sao Việt Nam (vinh
danh doanh nhân xuất sắc),
Tinh hoa Việt Nam (vinh danh
sản phẩm và dịch vụ đặc sắc) là
hệ thống giải thưởng có uy tín
được thực hiện từ năm 2002 tới
nay và được cục Bản quyền
Tác giả Văn học nghệ thuật
(Bộ Văn hoá - Thông tin) và
Cục Sở hữu Trí tuệ (Bộ Khoa
học và Công nghệ) cấp Giấy
chứng nhận đăng ký nhãn hiệu
hàng hóa. Ngoài ra, ban Tuyên
giáo Thành ủy Hà Nội, Tiểu
ban Tuyên truyền Quảng bá
Giáo dục về Đại lễ 1000 năm
Thăng Long – Hà Nội và Văn
phòng Ban chỉ đạo Quốc gia kỷ
niệm 1000 năm Thăng Long –
Hà Nội cũng sẽ phối hợp với
Ban tổ chức Chương trình Vinh
danh doanh nghiệp hội nhập
WTO 2010 bình chọn và trao
10 giải thưởng đặc biệt có tên
gọi Cúp Long đầu Linh vật
(một biểu tượng của Hoàng
thành Thăng Long) cho 10
doanh nghiệp hàng đầu vì sự
phát triển của cộng đồng.
Đối tượng tham gia giải thưởng
là các doanh nghiệp, doanh
nhân, nghệ nhân từng đạt giải
thưởng cao trong các kỳ bình
chọn trong nước và quốc tế từ
năm 2005 tới nay ở mọi thành
phần kinh tế, kể cả doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài.
Dự kiến, ngày 25/1/2010 sẽ
diễn ra Lễ trao giải Cúp Long
đầu Linh vật, Quả cầu vàng,
Ngôi sao Việt Nam, Tinh hoa
Việt Nam tại Nhà hát lớn Hà
Nội và được truyền hình trực
tiếp.
Kinh tế Việt Nam tăng trưởng hơn 5%
Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm thì mức tăng GDP của Việt
Nam năm 2009 là 5,32% là một thành công lớn.
Tổng cục Thống kê đưa ra
đánh giá trên trong cuộc họp
báo về tình hình kinh tế xã hội
năm 2009, diễn ra sáng nay
(31/12) tại Hà Nội.
So với mức 6,18% của năm
2008, tốc độ tăng trưởng kinh
tế năm nay thấp hơn, nhưng đã
vượt mục tiêu.
Nếu như hai quí đầu, sức tăng
trưởng kinh tế vẫn bị chững lại,
chỉ dưới 5% do còn độ trễ của
đà suy giảm kinh tế những
tháng cuối năm 2008, thì hai
quí sau, tốc độ đã nâng dần
lên 6,04% và 6,9%.
15
Quý I và II/2009, tốc độ tăng
GDP thấp hơn cùng kỳ 2008,
nhưng quý III và IV/2009 lại
tăng cao hơn tốc độ tăng so với
cùng kỳ năm trước.
Ông Nguyễn Đức Hòa, Thứ
trưởng Bộ KH-ĐT, Tổng cục
trưởng Tổng cục Thống kê
nhận định, Việt Nam là một
trong số ít các nước giữ được
tốc độ tăng trưởng dương
tương đối cao.
Nền kinh tế nước ta đã vượt
qua thời kỳ suy giảm tăng
trưởng, chứng tỏ các chính
sách, giải pháp ngăn chặn suy
giảm kinh tế triển khai trong
năm vừa qua đã phát huy hiệu
quả tích cực.
Tuy nhiên, Tổng cục Thống kê
cũng cho biết, tốc độ tăng
trưởng kinh tế vẫn chủ yếu dựa
vào phát triển theo chiều rộng.
Việc tăng vốn đầu tư chưa thực
sự dựa trên cơ sở tăng năng
suất lao động xã hội và nâng
cao hiệu quả nên tăng trưởng
chưa thật vững chắc.
Chất lượng và hiệu quả tăng
trưởng chưa cao. Tỷ lệ đầu tư
so với GDP năm 2009 là
42,8%, cao hơn 2008, nhưng,
tốc độ tăng GDP năm 2009 lại
thấp hơn.
Cơ cấu kinh tế vẫn chưa ra
khỏi cơ cấu ngành truyền thống
với tỷ trọng tương đối cao của
khu vực sản xuất vật chất nói
chung, khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản nói riêng.
Năm 2009, cơ cấu tổng sản
phẩm 3 khu vực: Nông, lâm
nghiệp và thủy sản; công
nghiệp và xây dựng; dịch vụ
lần lượt là 20,66%; 40,24%;
39,10%; không khác mấy so
với 2008 và những năm gần
đây.
Các cân đối kinh tế vĩ mô chưa
thật vững chắc. Mức thâm hụt
ngân sách tuy đã được khống
chế, nhưng đã lên tới 7%
GDP. Nhập siêu hàng hoá năm
2009 tuy đã giảm 32,1% so với
2008, nhưng vẫn bằng 21,6%
tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
hoá.
Lạm phát trong năm tuy được
khống chế ở mức hợp lý,
nhưng giá cả ngày càng tăng và
đang tiềm ẩn nhiều yếu tố có
thể gây tái lạm phát cao. Khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế
và của nhiều ngành, nhiều sản
phẩm còn thấp.
Trong cơ cấu GDP, khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản
tăng 1,83%, khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng
5,52% và khu vực dịch vụ
tăng 6,63%.
16
NGHỊ QUYẾT CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 63/NQ-CP NGÀY 23 THÁNG 12 NĂM 2009 VỀ ĐẢM
BẢO AN NINH LƯƠNG THỰC QUỐC GIA
Vấn đề an ninh lương thực (bao gồm lương thực, thực phẩm) được Đảng và Nhà nước luôn
đặc biệt quan tâm, chỉ đạo, nhằm bảo đảm an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài, đã
đạt được những thành tựu quan trọng, nổi bật là:
Sản lượng lương thực có hạt tăng bình quân 3,7%/năm trong giai đoạn 2001 – 2008, cao hơn
khoảng 3 lần tốc độ gia tăng dân số trong cùng thời kỳ. Sản xuất lúa gạo đã đảm bảo nhu cầu trong
nước và xuất khẩu bình quân khoảng 4 – 5 triệu tấn gạo/năm. Sản lượng thực phẩm từ rau màu, quả,
sản phẩm chăn nuôi và thủy sản cũng gia tăng đáng kể.
Hệ thống lưu thông lương thực đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người
dân tiếp cận lương thực. Thị trường nội địa chuyển dần sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước. Tình trạng suy dinh dưỡng của người dân được cải thiện. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy
dinh dưỡng đã giảm từ 25% vào năm 2005 đến năm 2008 còn 20%, đạt trước mục tiêu kế hoạch của
năm 2010.
Tuy đạt được các thành tựu trên, an ninh lương thực nước ta vẫn còn hạn chế, yếu kém là:
sản xuất lương thực, thực phẩm chưa thực sự bền vững; tổ chức sản xuất nông nghiệp chậm được
đổi mới, cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ sản xuất còn nhiều yếu kém; quản lý sản xuất, kinh doanh,
xuất nhập khẩu còn bất cập; thu nhập của người sản xuất còn thấp.
An ninh lương thực là vấn đề trọng đại của đất nước trước mắt cũng như lâu dài, để khắc
phục hạn chế yếu kém trên đây, Chính phủ ban hành Nghị quyết về bảo đảm an ninh lương thực
quốc gia với nội dung sau:
I. QUAN ĐIỂM
1. Vấn đề an ninh lương thực quốc gia phải nằm trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế -
xã hội, gắn với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và giải quyết vấn đề nông nghiệp,
TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH
17
nông dân, nông thôn, trong đó xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân là
quan trọng, góp phần bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia.
2. Phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, hiệu quả là cơ sở bảo đảm an ninh lương thực
quốc gia; gắn sản xuất với các hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu lương
thực thực phẩm trong mọi tình huống; nâng cao dinh dưỡng, cải thiện chất lượng bữa ăn của nhân
dân.
3. Phát huy lợi thế về cây lúa là chính và phát triển lương thực, thực phẩm thành các vùng
sản xuất hàng hóa có hiệu quả và sức cạnh tranh cao; đẩy mạnh cơ giới hóa, chế biến, bảo quản theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bảo vệ môi trường bền vững.
4. Tổ chức tốt hệ thống mua, bán và dự trữ ở các vùng miền, tạo thuận lợi cho mọi người dân
tiếp cập dễ dàng về lương thực, thực phẩm với chất lượng, hiệu quả ngày càng cao. Giải quyết hài
hòa giữa tiêu dùng trong nước và xuất khẩu lương thực, thực phẩm.
5. Phát huy nguồn lực của nhân dân và các thành phần kinh tế là chính, nhà nước hỗ trợ tích
cực trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; bảo đảm thu nhập cho người sản xuất lương
thực và tạo điều kiện cho các địa phương thuần nông phát triển.
II. MỤC TIÊU
1. Mục tiêu chung
Đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 phải đảm bảo đủ nguồn cung cấp lương thực với sản
lượng cao hơn tốc độ tăng dân số; chấm dứt tình trạng thiếu đói lương thực, nâng cao chất lượng
bữa ăn; bảo đảm cho nông dân sản xuất lúa có lãi bình quân trên 30% so với giá thành sản xuất.
2. Mục tiêu cụ thể
a) Đảm bảo nguồn cung lương thực
Tiếp tục đẩy mạnh thâm canh sản xuất lúa, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng
sông Hồng, tạo nguồn cung vững chắc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài.
Đến năm 2020, bảo vệ quỹ đất lúa 3,8 triệu ha để có sản lượng 41 – 43 triệu tấn lúa đáp ứng
tổng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo/năm; tăng diện tích trồng
ngô lên 1,3 triệu ha, sản lượng 7,5 triệu tấn; diện tích trồng cây ăn quả 1,2 triệu ha, sản lượng 12
triệu tấn; rau các loại 1,2 triệu ha, sản lượng 20 triệu tấn; sản lượng các loại cây màu tăng trên 30%;
18
chăn nuôi đạt sản lượng thịt hơi các loại 8 triệu tấn, sữa tươi 1 triệu tấn, trứng gia cầm 14 tỷ quả; sản
lượng khai thác thủy sản 2,4 triệu tấn, sản lượng nuôi trồng thủy sản 4 triệu tấn.
b) Đảm bảo nhu cầu về dinh dưỡng
Đến năm 2020, cải thiện tình trạng dinh dưỡng hướng tới cân đối dinh dưỡng và nâng cao
mức tiêu thụ calo bình quân hàng năm lên 2.600 – 2.700 Kcalo/người và giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng
trẻ em dưới 5 tuổi còn dưới 5%.
Cải thiện cơ cấu và chất lượng tiêu dùng lương thực, đạt mức tiêu thụ bình quân/người vào
năm 2020: gạo giảm xuống còn 100kg; thịt các loại 45 kg, cá các loại 30 kg, quả các loại 50 kg, rau
các loại 120 kg, tăng mức tiêu dùng trứng, sữa gấp 2 lần so với hiện nay. Toàn bộ nông sản, lương
thực tiêu thụ trên thị trường đạt chỉ tiêu an toàn vệ sinh thực phẩm.
c) Đảm bảo khả năng tiếp cận lương thực của người dân
Chấm dứt tình trạng thiếu đói lương thực vào năm 2012. Sau năm 2012 đảm bảo 100%
người dân ở mọi nơi, mọi lúc có đủ lương thực.
Đảm bảo thu nhập cho người sản xuất lương thực đến năm 2020 cao hơn 2,5 lần so với hiện
nay.
III. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Về quy hoạch
a) Quy hoạch chung
Quy hoạch sản xuất lương thực cả nước trên cơ sở phát huy lợi thế của từng vùng, sử dụng
hiệu quả tài nguyên đất, nước; chú trọng quy hoạch các vùng sản xuất lương thực có sản lượng lớn
về lúa gạo, ngô, rau đậu, cây ăn quả, sản phẩm thủy sản và chăn nuôi để đảm bảo thực hiện các mục
tiêu về an ninh lương thực quốc gia.
Việc quy hoạch sản xuất lương thực phải đảm bảo cân đối các lĩnh vực để đảm bảo phát triển
bền vững và có hiệu quả kinh tế cao; không mâu thuẫn giữa quy hoạch sản xuất nhiên liệu sinh học
với quy hoạch sản xuất lương thực.
b) Quy hoạch đất lúa
19
Quy hoạch đất lúa phải đảm bảo sự thống nhất và phù hợp về quy mô và địa bàn bố trí đất
lúa với quy hoạch sử dụng đất trên phạm vi toàn quốc.
Để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 diện tích
đất lúa cần phải giữ là: 3,8 triệu ha, trong đó: 3,2 triệu ha đất lúa sản xuất hai vụ trở lên, có thủy lợi
hoàn chỉnh.
Diện tích đất lúa cần giữ, bảo vệ nghiêm ngặt phải được xác định cụ thể đến từng địa phương
(cấp tỉnh, huyện, xã) và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất lúa đến hộ sử dụng.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo việc quy hoạch chi tiết quỹ đất trồng lúa
theo định hướng nêu trên, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào quý II năm 2010.
Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
thống nhất với các Bộ: Công thương, Xây dựng, Giao thông vận tải và Bộ ngành có liên quan xác
định nhu cầu sử dụng đất của các ngành, trong đó xác định rõ nhu cầu sử dụng đất từ chuyển đổi đất
lúa theo nguyên tắc sử dụng tiết kiệm đất lúa.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên cơ sở quy hoạch đất lúa cả
nước được phê duyệt, xác định diện tích đất lúa cần giữ trên địa bàn, nhất là đất lúa hai vụ cần được
bảo vệ nghiêm ngặt, lập bản đồ sử dụng đất lúa đến cấp xã và hộ sử dụng. Thời gian hoàn thành
trong quý IV năm 2011.
2. Về phát triển cơ sở hạ tầng và khoa học công nghệ
a) Phát triển cơ sở hạ tầng
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Trung
ương phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan tập trung chỉ đạo, triển khai nhiệm vụ:
- Tiếp tục đầu tư, xây dựng mới và tu bổ hệ thống công trình thủy lợi đảm bảo tưới tiêu chủ
động cho 100% đất lúa hai vụ và tăng diện tích có tưới đối với rau, màu, cây ăn quả. Ưu tiên đầu tư
xây dựng công trình thủy lợi phục vụ cho nuôi trồng thủy sản; công trình thủy lợi nhỏ ở miền núi.
- Tiếp tục đầu tư nâng cấp và xây dựng mới hệ thống đê điều hiện có; sớm triển khai các dự
án đầu tư hệ thống đê biển, bảo vệ sản xuất, tài sản của Nhà nước và nhân dân; chuẩn bị đối phó với
tình trạng nước biển dâng.
20
- Đối với những vùng sản xuất lương thực tập trung, hoàn thiện hệ thống thủy lợi kết hợp với
kiến thiết lại đồng ruộng và xây dựng giao thông nội đồng, tạo điều kiện thuận lợi áp dụng khoa học
kỹ thuật, cơ giới hóa và nâng cao hiệu quả sản xuất hàng hóa.
- Khẩn trương hoàn thành việc đầu tư, xây dựng hệ thống kho dự trữ, bảo quản lương thực ở
các vùng sản xuất; đối với lúa gạo đảm bảo năng lực tồn trữ đạt 4 triệu tấn; phát triển các cơ sở chế
biến lương thực sử dụng công nghệ hiện đại để nâng cao chất lượng nông sản.
b) Phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ưu tiên phát triển và ứng dụng khoa học công
nghệ trong các lĩnh vực sau:
- Tăng cường năng lực cho nghiên cứu khoa học, khuyến nông, thông tin và hợp tác quốc tế
liên quan đến an ninh lương thực, ngân sách nhà nước hàng năm đầu tư cho lĩnh vực này tăng 10 –
15%.
- Chọn tạo và sản xuất đủ giống cây trồng, giống vật nuôi, giống thủy sản có năng suất, chất
lượng cao, đặc biệt các giống cây trồng có khả năng chống chịu với điều kiện không thuận lợi như
kháng mặn, hạn, chịu ngập, giống cây trồng biến đổi gen để phục vụ nhu cầu sản xuất.
- Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ từ sản xuất đến thu hoạch, bảo quản,
chế biến. Đối với cây lúa, thúc đẩy nhanh cơ giới hóa khâu thu hoạch để giảm thất thoát, đến năm
2020 thực hiện thu hoạch bằng máy đạt 50%, trong đó khu vực đồng bằng sông Cửu Long đạt 80%,
chủ yếu sử dụng máy gặt đập liên hợp có tính năng kỹ thuật cao.
- Xây dựng các vùng sản xuất an toàn dịch bệnh, các vùng sản xuất ứng dụng công nghệ cao,
các vùng sản xuất tập trung áp dụng quy trình thực hành sản xuất tốt (GAP), phát triển kinh tế vườn.
- Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến đối với các cơ sở bảo quản, chế biến.
- Tăng cường đầu tư trang bị phương tiện và công nghệ hiện đại, phát triển đồng bộ cơ sở hạ
tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá phục vụ đánh bắt có hiệu quả. Quy hoạch, xây dựng đồng bộ kết
cấu hạ tầng vùng nuôi, trước hết là thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản; áp dụng rộng rãi các quy
trình công nghệ sinh sản nhân tạo; xây dựng hệ thống thú y thủy sản; kiểm soát chặt chẽ chất lượng
giống, thức ăn, môi trường nuôi; hiện đại hóa các cơ sở chế biến, đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh an
toàn thực phẩm.
21
- Khẩn trương triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng có ảnh
hưởng đến an ninh lương thực.
3. Đào tạo nguồn nhân lực
Các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Lao động – Thương binh và xã hội, Giáo dục
và Đào tạo phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai có hiệu
quả Chương trình đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn, cần tập trung:
- Đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ khuyến nông và
cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh lương thực các cấp; đưa nội dung an ninh lương thực quốc gia
vào các trường học.
- Tăng cường đào tạo nông dân về khoa học kỹ thuật và kiến thức quản lý theo phương thức
phù hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất lương thực và tăng thu nhập, đến năm 2020 đạt 50% người
sản xuất lương thực đã qua đào tạo.
4. Chính sách đối với nông dân, địa phương và doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh lúa gạo.
a) Khuyến khích nông dân giữ đất lúa
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm chi phí sản xuất, tăng thu nhập cho người sản xuất
lúa gạo, đảm bảo người sản xuất lúa gạo có lãi trên 30% so với giá thành sản xuất.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì xây dựng nghị định về chính sách quản lý
đất lúa, trình Chính phủ trong quý II năm 2010.
- Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ nông dân xây dựng ruộng bậc thang ở miền núi.
b) Khuyến khích địa phương giữ đất lúa
Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan, Ủy ban nhân dân tỉnh thành
phố trực thuộc Trung ương nghiên cứu sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước theo hướng: tăng đầu tư
phát triển cho khu vực nông nghiệp, nông thôn; điều tiết phân bổ ngân sách nhà nước đảm bảo lợi
ích giữa các địa phương có điều kiện phát triển công nghiệp với các địa phương thuần nông, nhất là
chuyên trồng lúa.
c) Khuyến khích doanh nghiệp tiêu thụ lúa
22
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan,
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các chủ đầu tư khẩn trương
triển khai dự án đầu tư xây dựng kho chứa lúa gạo, đến năm 2012 phải hoàn thành việc đầu tư xây
dựng kho chứa 4 triệu tấn đã được quy hoạch. Cơ chế chính sách hỗ trợ xây dựng kho thực hiện theo
quy định tại Nghị quyết số 48/NQ-CP ngày 23 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ về cơ chế, chính
sách giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản.
Bộ Tài chính nghiên cứu, xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện nhiệm
vụ tiêu thụ lúa, gạo do nhà nước giao trong trường hợp giá lúa xuống thấp dưới giá thành, trình Thủ
tướng Chính phủ trong quý I năm 2009.
d) Chính sách xã hội liên quan đến an ninh lương thực
Bộ Y tế, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai có hiệu quả
các biện pháp kiểm soát tốc độ gia tăng dân số theo Chiến lược dân số Việt Nam.
Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ gạo cho người dân vùng bị thiếu đói do ảnh hưởng thiên
tai, dịch bệnh.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan
kiểm tra, đánh giá kết quả triển khai và đề xuất sửa đổi, bổ sung chính sách trợ cấp gạo cho hộ đồng
bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở miền núi trồng rừng thay thế nương rẫy trình Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt trong quý II năm 2010.
5. Hoàn thiện hệ thống lưu thông, xuất khẩu lương thực
Phát triển hệ thống lưu thông lương thực tạo điều kiện mọi người tiêu dùng có khả năng tiếp
cận thuận lợi lương thực trong mọi tình huống.
Bộ Tài chính nghiên cứu đề xuất mức hợp lý lượng lúa gạo dự trữ quốc gia và lượng lúa gạo
dự trữ lưu thông để đề phòng thiên tai và bình ổn thị trường; sớm hoàn thành đề án bảo hiểm nông
nghiệp, trước mắt bảo hiểm sản xuất lúa gạo, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong quý I năm
2010.
Bộ Công Thương chủ trì xây dựng cơ chế điều hành xuất khẩu lương thực, thực phẩm linh
hoạt, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu và tiêu thụ hết nông sản lương thực,
thực phẩm; kết hợp tốt giữa dự trữ lưu thông và dự trữ nhà nước để bảo đảm yêu cầu cứu trợ lương
thực, thực phẩm trong trường hợp khẩn cấp.
23
Các Tổng công ty Nhà nước có vai trò chủ lực trong việc tiêu thụ sản phẩm cho nông dân,
điều hòa, bình ổn thị trường, cung ứng các mặt hàng thiết yếu cho nhân dân khi bị thiên tai.
6. Đổi mới tổ chức sản xuất
Tiếp tục hoàn thiện các loại hình tổ chức sản xuất lương thực theo hướng liên kết nông hộ để
hình thành các tổ chức hợp tác, hợp tác xã theo địa bàn hoặc sản phẩm; tạo điều kiện gắn sản xuất
với doanh nghiệp tiêu thụ; phát triển kinh tế trang trại, doanh nghiệp sản xuất lương thực, nông dân
góp cổ phần bằng giá trị quyền sử dụng đất để tham gia doanh nghiệp, phát triển mạng lưới cung
ứng dịch vụ nông nghiệp.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sớm hoàn thành trình Thủ tướng Chính phủ đề án
phát triển mô hình liên kết sản xuất giữa hộ nông dân với các thành phần kinh tế ở nông thôn (trang
trại, hợp tác xã, doanh nghiệp, khoa học, thương mại, hiệp hội ngành hàng), trước mắt thí điểm triển
khai trong sản xuất lúa gạo.
7. Phát triển hệ thống thông tin an ninh lương thực
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương:
- Kiện toàn và tăng cường hệ thống giám sát, theo dõi diễn biến sản xuất, dự báo sản lượng
lương thực đối với cả nước và từng địa phương đến cấp huyện, cảnh báo diễn biến bất lợi thời tiết
tác động tới an ninh lương thực để có các giải pháp ứng phó kịp thời có hiệu quả;
- Hoàn thiện hệ thống thông tin và dự báo thị trường lương thực trong nước và quốc tế
- Xây dựng cơ sở dữ liệu về an ninh lương thực quốc gia.
8. Hợp tác quốc tế
- Tăng cường hợp tác quốc tế đặc biệt với các lĩnh vực mang tính khu vực và toàn cầu ảnh
hưởng đến an ninh lương thực quốc gia như sử dụng nguồn nước, biến đổi khí hậu, kiểm dịch và vệ
sinh động thực vật …; hợp tác về đào tạo nhân lực và phát triển khoa học công nghệ, thúc đẩy
thương mại.
- Việt Nam cam kết đóng góp tích cực cho mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực của thế
giới.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
24
1. Bộ Nội vụ nghiên cứu đề xuất việc thành lập Ủy ban an ninh lương thực quốc gia, trình
Chính phủ.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm phối hợp với các Bộ, ngành và Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức các hoạt động cụ thể, hướng dẫn
lập kế hoạch thực hiện, hướng dẫn kiểm tra, giám sát và định kỳ tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính
phủ tình hình thực hiện an ninh lương thực quốc gia.
3. Các Bộ, ngành theo chức năng nhiệm vụ triển khai thực hiện các lĩnh vực phụ trách có liên
quan đến đảm bảo an ninh lương thực theo nội dung của Nghị quyết này.
4. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiến hành xây dựng và phê
duyệt quy hoạch phát triển sản xuất lương thực theo ngành trên địa bàn; quản lý chặt chẽ quỹ đất sản
xuất nông nghiệp, đặc biệt là đất lúa được quy hoạch; thực hiện tốt các cơ chế, chính sách của Nhà
nước về sản xuất, tiêu thụ lương thực, bổ sung cơ chế chính sách của địa phương cho phù hợp với
điều kiện thực tế; khuyến khích phát triển sản xuất góp phần đảm bảo an ninh lương thực trong
phạm vi cả nước trong mọi tình huống.
TM. CHÍNH PHỦ THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng
25
Danh mục phát hành Bản tin Đối thoại chính sách và DN
I. Nhóm hỗ trợ phát triển quốc tế (ISG) của bộ nông nghiệp 1. TS. Bùi Bá Bổng, Thứ trưởng Bộ NN và PTNT, Chủ tịch Ban điều hành ISG
2. TS. Lê Văn Minh, Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ NN và PTNT; Phó Chủ tịch Ban
điều hành
3. Ông Lã Văn Lý, Cục trưởng Cục Hợp tác xã và PTNT, Bộ NN và PTNT
4. Ông Trang Hiếu Dũng, Vụ trưởng Kế hoạch, Bộ NN và PTNT
5. Ông Nguyễn Trí Ngọc, Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ NN và PTNT
6. Ông Nguyễn Đăng Vang, Cục trưởng Cục Chăn nuôi, Bộ NN và PTNT
7. Ông Nguyễn Ngọc Bình, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp, Bộ NN và PTNT
8. Ông Phạm Xuân Sử, Cục trưởng Cục Thuỷ lợi, Bộ NN và PTNT
9. Ông Vũ Trọng Hà , Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ, Bộ NN và PTNT
10. Ông Nguyễn Thanh Tùng, Cán bộ xây dựng chính sách, Văn phòng liên lạc IFAD
11. Ông Nguyễn Văn Thân, Q.Vụ trưởng Vụ Tài chính, Bộ NN và PTNT
12. Ông Triệu Văn Hùng, Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ, Bộ NN và PTNT
13. Ông Đào Quang Thu, Vụ trưởng Vụ Kinh tế Nông nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
14. Bà Nguyễn Hồng Yến, Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính Đối ngoại, Bộ Tài chính
II. Viện Chính sách và Chiến lược NNPTNT (IPSARD) 1. TS. Đặng Kim Sơn, Viện trưởng IPSARD
2. TS. Nguyễn Đình Long, Viện phó IPSARD,
3. TS. Dương Ngọc Thí, Viện phó IPSARD
4. Các phòng ban/đơn vị trực thuộc IPSARD
III. Cơ quan hợp tác quốc tế Tây Ban Nha 1. Ban quản lý dự án Hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa SMEs- Tây Ban Nha
IV. Các hiệp hội 1. Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành nghề nông thôn Việt Nam (varisme)
2. Hiệp hội DN NVV Việt Nam (vinasme)
3. Hiệp hội ngành hàng (cà phê, hồ tiêu, thủy sản, chăn nuôi, lương thực,…)
4. Hiệp hội làng nghề
V. Doanh nghiệp (đối tác thông tin của AGROINFO và các Doanh nghiệp có quan tâm) VI. Các đối tác khác có liên quan trong nội dung bản tin